Hoa Sen Xanh I - Chương Xuân Di
HOA SEN XANH
(Đức Phật Và Nàng)
– Chương Xuân Di –
Biên tập: Lương Hiền
Số trang: 554
Nhà xuất bản: NXB Văn Học
Đức Phật Và Nàng – Hoa Sen Xanh ngồn ngộn những tri thức quý báu và hiếm có về lịch sử triều đại nhà Nguyên, Mông Cổ, về lịch sử phật giáo Tây Tạng và những biến động to lớn của thời cuộc.
Tiểu thuyết này không dành tặng những ai muốn nhanh chóng tìm kiếm một chuyện tình bay bổng, lãng mạn. Chúng ta buộc phải nhẩn nha thưởng thức chầm chậm những dòng tri thức văn hóa, lịch sử, tôn giáo rất dày, rất sâu chảy cuồn cuộn trong cuốn sách, buộc phải có một cái nhìn thật sự nghiêm túc về tình thân, tình yêu, tình người trong sự hỗn mang của thời cuộc, để từ đó thêm thấu hiểu, thêm yêu thương và trân trọng những gì ta có.
Tiểu hồ ly với bộ lông màu xanh lam tuyệt đẹp mắc bẫy người thợ săn, được một tiểu hòa thượng Tây Tạng cứu giúp trên đường đến Trung Nguyên. Từ đây số phận của hồ ly xinh đẹp gắn liền với cuộc đời của vị đại sư tuổi trẻ tài cao, lừng danh trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền – Bát Tư Ba, người đã khiến cho Lạt ma giáo trở thành quốc giáo của các triều đại nhà Nguyên – Mông Cổ và bản thân Bát Tư Ba cũng là vị quốc sư được sùng bái rất mực vào triều đại Hốt Tất Liệt.
Nàng hồ ly Tiểu Lam sau 300 năm tu luyện đã nghe hiểu được tiếng người, nàng trở thành bạn tâm giao của hai anh em Bát Tư Ba và Kháp Na thuở thiếu thời. Tiểu Lam đã chứng kiến số phận "phi thường" của hai anh em Bát Tư Ba trong chuỗi những biến động lớn lao của thời cuộc, của lịch sử, của gia tộc và tôn giáo.
Một ngày nọ, nàng hồ ly hóa thành một cô gái xinh đẹp lạ thường với mái tóc và đôi mắt màu xanh lam kỳ ảo. Kháp Na chôn chặt tình yêu trong lòng, cúi đầu trước vận mệnh trở thành vật hy sinh của hai cuộc hôn nhân sắp đặt, vì lợi ích của gia tộc. Bát Tư Ba thông minh trác tuyệt, gánh vác trên vai trọng trách nặng nề của người đứng đầu giáo phái Sakya trong cuộc xung đột tôn giáo khốc liệt trên vùng đất tuyết Tây Tạng bao la. Tiểu Lam trải đời và thấu hiểu, luôn lặng lẽ đi bên cạnh Bát Tư Ba và Kháp Na, ra sức giúp họ, hy sinh vì họ. Tình yêu sâu đậm dành cho vị đại sư tài ba như ngọn lửa ấm cứ len lỏi và âm thầm lớn dần trong tim nàng. Thế rồi, Kháp Na kiên quyết chối bỏ trách nhiệm nối dõi tông đường sau hai cuộc hôn nhân thất bại thảm hại. Trách nhiệm đó, giờ đây sẽ thuộc về Bát Tư Ba.
Mở đầu.
Mùa đông năm 2020, tại một hẻm núi sâu, ít người qua lại trên dãy Côn Luân.
- Cậu tỉnh rồi à?
Hàng mi khẽ rung động, chàng trai từ từ mở mắt. Cậu ta nheo cặp mắt sưng tấy, cố gắng xoay đầu nhìn xung quanh, kinh ngạc quan sát căn nhà gỗ nhỏ bé, đơn sơ của tôi.
- Nơi này là... là thiên đường ư? Cô là tiên nữ à?
Giọng nói khản đặc, bờ môi nứt nẻ, khóe môi vẫn còn vệt máu khô. Chàng trai khẽ cử động, vết nứt toác rộng thêm, những tia máu xối ra, nhuộm đỏ đôi môi tái nhợt, nhưng nhờ vậy, trông cậu ta có sinh khí hơn lúc trước.
- Thiên đường mà đơn giản thế này thôi sao? Và làm gì có cô tiên nào mang dị tật như tôi.
Tôi nhấc ấm trà khỏi lò than, rót cho chàng trai một ly trà bơ rồi tập tễnh về lại chỗ ngồi cạnh chiếc giường.
- Đừng lo lắng, cậu vẫn còn sống. Tôi thấy cậu nằm bất động trên tuyết nên đưa cậu về đây.
Củi than trong lò cháy bùng bùng, chiếu rọi phân nửa gương mặt tôi. Ánh mắt chàng trai bỗng rực sáng, không biết sức mạnh nào kéo cậu ta ngồi dậy, quên cả đón lấy ly trà, cứ nhìn tôi chăm chăm rồi ấp úng:
- Cô... cô... đẹp quá, thật sự là... rất... rất đẹp!
- Cậu không thấy có điều gì kỳ quái sao? – Tôi đã quá quen với những biểu cảm khác nhau của cánh đàn ông khi lần đầu họ thấy tôi nên chỉ mỉm cười. – Mắt xanh, tóc xanh, áo xanh, da trắng, trên trán còn có một vết sẹo nữa. Trông tôi đâu có giống người bình thường.
Anh chàng vẫn ngẩn ngơ nhìn tôi không chớp mắt:
- Có gì lạ đâu. Các cô gái trẻ thời nay còn trang điểm kỳ dị hơn cô nhiều. Cô mới chỉ nhuộm tóc, đeo kính áp tròng và dán hình xăm bông hoa lên trán thôi, ăn thua gì! Mà mắt xanh, tóc xanh càng tôn thêm làn da trắng bóc của cô. Lối phục trang cổ điển với tay áo dài màu xanh lam này càng làm nổi bật khí chất quý phái, tao nhã của cô. – Cậu ta hào hứng bình phẩm, hết lời khen ngợi. – Cô hệt như tiên nữ, chẳng giống người trần mắt thịt chút nào, cô không theo nghiệp diễn viên thì quả là uổng phí.
- Tôi không phải tiên nữ mà là yêu quái. Yêu quái thì mới kỳ dị thế này chứ! – Thấy cậu ta vẫn còn ngẩn ngơ, tôi khẽ nghiêng người sáp đến, nheo mắt, cố giả giọng lạnh lùng, ma mị. – Ngươi không sợ sao?
- Sợ gì? Sợ cô ư? – Cậu ta bật cười ha hả, dường như đã hoàn toàn bình phục. Cậu ta dạn dĩ nhìn vào mắt tôi, không mảy may sợ hãi, còn nháy mắt tinh nghịch. – Dù cô có là yêu quái thì cũng là một yêu quái tốt bụng. Nếu không, cô đã chẳng vất vả cứu tôi, cứ mặc cho tôi chết cóng trên tuyết ấy.
Tôi chăm chú nhìn vào mắt cậu ta vài giây nhưng không tìm được dù chỉ một tia sợ hãi. Giới trẻ ngày nay quả rất dạn dĩ, chẳng hề hoang mang khi nghe về yêu ma, quỷ quái. Tôi mỉm cười, trở lại tư thế cũ, đưa ly trà cho chàng trai:
- Cậu uống đi cho nóng. Nhiệt lượng của loại trà bơ này rất cao, có thể giúp cậu giữ ấm.
Cậu ta đón lấy, chậm rãi thưởng thức, sảng khoái xuýt xoa. Tôi ngồi xuống bên cạnh cậu ta, ngước nhìn bầu trời tối đen như mực qua khung cửa sổ. Gió rít dữ dội, những bông tuyết lớn cuộn tròn trong gió sắc, điên cuồng tìm kiếm những khe hở của căn nhà tồi tàn, ào ào trút giận. Chiếc chuông gió treo ngoài cửa bị lốc cuốn tứ phía, leng keng inh ỏi, hòa với tiếng gió, cùng tấu lên bản nhạc thời tiết ồn ã.
- Khuya rồi đấy, nếu cậu không thấy sợ thì hãy nghỉ lại đây đêm nay. Ngày mai, sau khi xuống núi, cậu phải nhanh chóng tìm bệnh viện gần nhất để khám chữa. Nơi đây là vùng cao nguyên băng giá, cậu vùi mình trong tuyết lạnh lâu như vậy, rất dễ mắc bệnh... – Tôi ngắc ngứ, phải mất một lúc mới tìm ra được từ ngữ diễn đạt chính xác, liền hớn hở vỗ tay. – Đúng rồi, bệnh phù phổi khi leo núi cao.
Chàng trai đặt ly trà xuống, phì cười:
- Cô nói chuyện rất thú vị, có chút hơi hướng cổ điển.
Tôi lấy làm mừng khi gương mặt chàng trai đã hồng hào trở lại. Thanh niên có khác, chỉ một ly trà bơ đã có thể khôi phục thể lực. Đón lấy chiếc chén không, tôi mỉm cười:
- Vậy ư? Tôi đã cố gắng bắt chước cách nói năng của con người thế kỷ 21, nhưng tiếc là tuổi tác đã cao, tôi muốn sửa mà không sửa được, thành ra chẳng giống ai.
Chàng trai trỏ ngón tay vào mình, cười nhạo người đối diện bằng vẻ hách dịch của kẻ bề trên:
- Cô năm nay bao nhiêu tuổi? Có đến mười tám, mười chín không? Cô biết tôi bao nhiêu tuổi rồi không? Tôi hai mươi sáu đó!
Chàng trai sở hữu nước da bánh mật khỏe khoắn, màu da đang rất được ưa chuộng hiện nay, đôi mắt sáng cuốn hút, gương mặt điển trai, chỉ có điều, vài ba nếp nhăn nơi đuôi mắt cộng với gò má sạm đỏ vì thời tiết giá buốt trên núi cao đã bồi tụ lên gương mặt của cậu ta vẻ từng trải và già dặn. Lần đầu gặp mặt, có lẽ ai cũng đoán cậu ta đã ngoài ba mươi.
Tôi bật cười vẻ thích thú:
- Cậu không biết yêu quái có phép thuật giúp giữ gìn nhan sắc à? Các bộ phim điện ảnh, phim truyền hình mà cậu thường xem vẫn có cảnh yêu quái ăn thịt người, uống máu người để duy trì sự trẻ trung và dung nhan đấy thôi.
Cậu ta vỗ ngực bôm bốp, cười sảng khoái:
- Hay lắm, rất thú vị! Không ngờ cô giàu trí tưởng tượng đến thế! Được thôi, nếu cô muốn ăn thịt tôi, tôi sẵn sàng. Dù sao thì chính cô đã cứu tôi. Được chết trong tay người đẹp, còn gì hạnh phúc bằng!
Tôi lắc đầu:
- Tất cả đều do con người tưởng tượng, bịa đặt. Loài hồ ly tu hành thành tinh, không cần phải ăn thịt người.
- Hóa ra cô là tiên nữ hồ ly cơ đấy! – Cậu ta tiếp tục cuộc chuyện trò với vẻ cợt nhả, đùa bỡn. – Xin hỏi cô tiên, năm nay cô mấy tuổi?
Tôi thở dài, ngửa lòng bàn tay phải lên, đếm các đường kẻ tay:
- Hơn một nghìn tuổi. Chính xác là bao nhiêu, tôi không nhớ nổi. Giờ đây đối với tôi, mỗi năm qua đi chỉ là một con số cộng vào tuổi tác, chẳng còn nghĩa lý gì nữa.
Gió lớn ào tới, không khí lạnh tràn vào phòng. Chàng trai quấn chặt tấm chăn lông thú, đột nhiên đưa tay lên nhìn đồng hồ, sau đó cởi chiếc áo khoác có màu sắc và hình thù rất đỗi kỳ dị, đưa cho tôi:
- Chỗ này ở độ cao khoảng hơn bốn nghìn mét so với mực nước biển, băng tuyết quanh năm, các trận bão tuyết liên miên, cô ăn mặc phong phanh như thế, rất dễ cảm lạnh. Cô khoác chiếc áo gió này đi. Đây là loại áo khoác giữ ấm và chống thấm tốt nhất hiện nay. Trong suốt thời gian leo núi Côn Luân, tôi nhờ cậy vào khả năng chống chịu gió tuyết của nó cả đấy.
Tôi lắc đầu, nhấc ly trà chàng trai đặt ở đầu giường, lại tập tễnh đến bên lò sưởi, rót cho cậu ta chén khác.
- Nếu nó hữu dụng đến thế thì vì sao cậu vẫn suýt mất mạng? Mà tôi là yêu quái, tôi có phép thuật, tôi đâu có sợ lạnh.
Cậu ta sực nhớ ra, vỗ tay cười:
- Tôi đoán ra rồi nhé, cô là một nhà văn, một mình lẳng lặng đến vùng núi Côn Luân hẻo lánh này ở ẩn để tìm cảm hứng sáng tác. Cô muốn nhập hồn vào câu chuyện nên phục trang giống như nhân vật. Rất thú vị, tôi đồng ý làm thính giả của cô tối nay, hãy kể cho tôi nghe câu chuyện của cô. Nàng hồ ly thân thế ra sao, nàng từ đâu tới?
Tôi mỉm cười, đưa ly trà cho chàng trai, kể vắn tắt:
- Người thân của tôi chỉ là những hồ ly bình thường, không ai tu luyện đắc đạo nên người thì bị thợ săn bắt sống, cạo lông, lột da, người thì qua đời vì tuổi cao sức yếu. Chỉ có mình tôi vừa ra đời đã là một hồ ly với bộ lông màu lam. Nếu diễn giải bằng ngôn ngữ hiện đại của các cậu thì có thể gọi trường hợp của tôi là hiện tượng đột biến gen, phải mấy trăm năm mới xuất hiện một lần trong dòng tộc hồ ly. Tôi đã may mắn được nằm trong con số ít ỏi đó. Loài hồ ly với bộ lông màu lam ngay từ khi sinh ra đã hấp thụ khí thiêng của trời đất, học được đôi ba thứ phép thuật. Ngoài ra, nhờ cơ duyên tôi lại may mắn có được tu vi của đồng loại nên mới sống lâu như vậy.
- Ha ha, trường sinh bất lão, giấc mơ của bao người.
Giọng điệu đùa cợt ấy cho thấy, đến lúc này cậu ta vẫn không tin những gì tôi nói. Tôi đành thở dài, lòng buồn man mác:
- Nếu cậu là tôi, phải chứng kiến cảnh người thân lần lượt ra đi, chỉ còn lại một mình vò võ trên đời, khi ấy, cậu cũng sẽ như tôi bây giờ, ước gì mình chỉ sống thọ như hồ ly bình thường.
Cậu ta chăm chú quan sát tôi, tiếp tục cười đùa:
- Vậy thì chắc hẳn cô rất cô đơn.
- Cũng không đến nỗi. – Tôi ngước nhìn chiếc chuông gió đang rung lắc dữ dội ngoài kia, mỉm cười. – Mỗi ngày tôi đều nhớ lại quãng thời gian bốn mươi năm quan trọng nhất trong suốt hàng nghìn năm cuộc đời mình. Tôi cứ nhẩn nha, mê mải tận hưởng dư vị của những kỷ niệm đó cho đến khi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Họ ở trên trời, biết tôi sợ cô độc nên đêm nào cũng hiện về trong giấc mơ của tôi, quây quần bên tôi. Nhờ vậy, hơn bảy trăm năm của đời tôi trôi đi cũng khá nhanh.
Dường như đã bắt đầu bị cuốn hút bởi câu chuyện của tôi, chàng trai im lặng hồi lâu, bàn tay nâng ly trà sững lại, ánh mắt mơ màng, nhìn tôi đăm đắm. Tôi đọc thấy trong đó nét buồn thương chân thành. Tôi tập tễnh bước lại gần, nhấc ly trà đã cạn trong tay cậu ta. Chàng trai thoáng giật mình, khẽ hắng giọng, ánh mắt lướt trên chân trái của tôi, vẻ quan tâm:
- Chân của cô... bị sao vậy?
- Tôi bị kẹp vào bẫy của thợ săn.
Vẻ nghiêm túc chỉ tồn tại trong thoáng chốc, câu nói vốn không có gì hài hước của tôi đã khiến cậu ta bật cười, lắc đầu:
- Cô không những là một giai nhân tuyệt sắc mà còn có đầu óc tưởng tượng hết sức phong phú. Tôi đã gần tin câu chuyện cô kể là thật và cô chính là nàng hồ ly sống ẩn dật nơi vùng núi hoang vắng này rồi đó.
Tôi đến bên lò sưởi, tiếp thêm củi, nhấc thanh sắt cời than hồng:
- Cậu không tin cũng không sao. Cứ xem như tôi là một bà già độc thân đã lâu không có người trò chuyện, muốn kể lể với một người qua đường là cậu đây những kỷ niệm đáng nhớ nhất của cuộc đời mình. Ngày mai, sau khi xuống núi, cậu muốn gặp tôi cũng chẳng thể tìm được.
Chàng trai trỏ tay về phía tôi, cười vang:
- Cô mà là bà già ư?
Vì cười quá nhiều, cơn ho khan dữ dội ập đến, mất một lúc lâu chàng trai mới ổn định trở lại:
- Được thôi, còn rất nhiều thời gian, ở đây không có ti vi, không có máy vi tính, nghe cô kể chuyện để giết thời gian cũng vui.
- Cậu muốn nghe thật ư?
Tôi ngắm nhìn những đốm lửa bập bùng trong lò than, thần trí mơ màng.
- Thật chứ!
Chàng trai trẻ ngồi xếp bằng trên giường, hệt như nhà sư ngồi thiền. Cậu ta quấn chặt chăn vào người, ánh mắt nhìn tôi hân hoan.
- Một nàng hồ ly đẹp mê hồn thế này, có kẻ phàm phu tục tử nào không xiêu lòng? Tôi xin được rửa tai lắng nghe câu chuyện tình yêu ly kỳ của cô.
- Vậy hãy bắt đầu từ cái chân của tôi nhé! Đó là một ngày mùa đông năm Ngọ, Âm Hỏa, theo lịch của người Tạng, tức niên hiệu Thuần Hựu thứ sáu, nhà Nam Tống. Để tôi thử nhớ lại xem, nếu đổi sang lịch dương mà các cậu vẫn thường dùng thì sẽ là năm bao nhiêu... – Tôi trầm ngâm, xòe những đốt tay ra nhẩm tính. – Phải rồi, đó là năm 1246. Khi ấy tôi còn rất nhỏ, mới tròn ba trăm tuổi, năng lực có hạn, chưa thể hóa phép thành người. Tôi ngây ngô, dại dột nên bị mắc bẫy của thợ săn, thiếu chút nữa thì bị cạo lông làm áo khoác rồi.
- Nàng hồ ly xinh đẹp gặp nạn, chàng học trò nho nhã xuất hiện, diễn vở anh hùng cứu mỹ nhân, sau đó giữa hai người nảy sinh câu chuyện tình yêu sướt mướt, tôi đoán có chuẩn không?
Tôi lắc đầu:
- Đúng là tôi đã được cứu, nếu không, hôm nay tôi đâu thể đứng trước mặt cậu thế này. Nhưng câu chuyện không lãng mạn như cậu tưởng tượng. Tôi tình cờ gặp được một cậu bé mười hai tuổi, xuất thân của cậu bé này hết sức đặc biệt. Anh hùng cứu mỹ nhân ư? Làm gì có chuyện đó! Khi ấy tôi không có pháp lực, chẳng thể biến thành người. Tình yêu, đối với tôi, là thứ quá ư xa vời.
- Ồ!
Chàng trai tỏ ra rất đỗi hứng thú, kéo chăn trùm kín người hơn, nghiêng đầu ngó tôi:
- Cậu bé này đã gắn bó với cô suốt bốn mươi năm ư?
- Chính cậu bé đã đưa tôi đến với gia tộc đặc biệt của cậu ấy. Tôi đã gắn bó với gia tộc đó suốt bốn mươi năm.
Tôi ngước nhìn hư không, đôi mắt tinh anh, trong suốt tựa pha lê, nụ cười mùa xuân ấm áp ấy vẫn đăm đắm hướng về tôi, như hằng đêm trong từng cơn mộng mị. Hơn bảy trăm năm rồi, Bát Tư Ba, vật đổi sao dời, bãi bể nương dâu, còi xe lửa nay đã hú vang trên núi Côn Luân nhưng đôi mắt chàng, chỉ có đôi mắt chàng vẫn vẹn nguyên nét thuần khiết như khoảnh khắc đầu tiên ta gặp nhau, năm chàng mười hai tuổi.
Phần I - Thời niên thiếu.
Chương 1: Lần đầu gặp gỡ.
"Người sáng suốt, dù vấp phải bất kể trở ngại gì cũng không hành động dại dột;
Loài chim tước, dù khát đến cháy cổ cũng không chịu uống nước đục trên mặt đất."
(Cách ngôn Sakya)
Mùa đông năm 1246 – tức năm Ngọ, Âm Hỏa, lịch Tạng – tức niên hiệu Thuần Hựu thứ sáu, nhà Nam Tống – tức niên hiệu Quý Do Hãn thứ nhất, Mông Cổ.
- Thí chủ định bán tiểu hồ ly này bao nhiêu?
Giọng nói khàn khàn của cậu thiếu niên đang trong giai đoạn vỡ tiếng đã giúp tôi thoát khỏi nỗi buồn tủi và tuyệt vọng đang đè nặng, giật mình ngẩng lên.
Chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm, rộng rãi ôm lấy thân hình gầy guộc của cậu bé chừng mười hai, mười ba tuổi. Nước da tuy sạm đen nhưng không sần sùi, thô ráp mà bóng mịn, khỏe khoắn. Hai má đỏ au, gò má hiện rõ hai vệt rám nắng, gương mặt cân đối, khôi ngô, hàng lông mày đậm, dày, phần đuôi hất lên như lưỡi kiếm, sống mũi cao, thẳng... từng đường nét trên khuôn mặt đều sống động như được tạc khắc.
Cậu ấy không để đầu trọc lốc như các nhà sư Trung Nguyên nhưng tóc cũng được cắt ngắn hết mức có thể. So với những người cùng độ tuổi, cậu ấy cao lớn hơn rất nhiều, ống chân và cánh tay thuôn dài, lưng vươn thẳng, chẳng khác nào những cây bạch dương mọc tăm tắp khắp nơi trên đất Lương Châu[1] này, phong thái ấy toát lên sức mạnh của sự rắn rỏi, kiên định, bền bỉ vô chừng. Tuy vẫn còn nhỏ tuổi nhưng không khó để nhận thấy khí khái phi phàm và tài hoa trác tuyệt tiềm ẩn ở cậu bé này.
Áo tăng ni màu đỏ sẫm, vóc dáng cao lớn, làn da ngăm đen, tất cả những đặc điểm đó đều khác biệt so với người Lương Châu bản địa. Dựa vào kinh nghiệm sống ba trăm năm của mình, tôi biết cậu bé đến từ Tufan[2] (Thổ Phồn), là tăng nhân của một trong những giáo phái Phật giáo Tufan. Tuy vương quốc Tufan đã suy vong từ lâu, nơi đây sớm đã được đổi tên thành Wusi[3] (Ô Tư Tạng) nhưng vì vương quốc này từng có một lịch sử huy hoàng nên ngày nay, người ta vẫn gọi những vị khách đến từ vùng núi cao, quanh năm tuyết phủ là người Tufan.
Cậu bé ngồi xuống, ngắm nghía nàng hồ ly tội nghiệp bị nhốt trong lồng, đôi mắt trong veo, tinh khiết như nước suối trên đại ngàn. Sóng mắt long lanh, sống động khiến một tiểu hồ ly phép thuật còn non kém như tôi cũng có thể nhận thấy vầng hào quang rực rỡ bao bọc xung quanh cậu ấy. Tôi giật mình thầm nghĩ, cậu bé này có nội lực siêu phàm, chắc chắn không phải người bình thường.
Tôi ra sức kêu thương, lách bộ vuốt qua khe hở của chiếc lồng sắt, chới với cầu cứu. Cậu bé chìa tay, nhẹ nhàng đón lấy hai chân trước của tôi, hơi ấm tỏa ra từ lòng bàn tay cậu khiến tôi vững tâm hơn. Tôi cảm thấy được an ủi rất nhiều, bèn nũng nịu kêu cầu khẩn thiết.
- Tôi không bán đâu. Mắt và lông của con hồ ly này đều có màu xanh lam tuyệt đẹp, chắc chắn là loài hồ ly quý hiếm, phải mấy trăm năm mới có một con.
Lão thợ săn nhấc chiếc lồng lên, dùng đầu ngón tay chọc mạnh vào bàn chân trước đang cố vươn ra để cầu cứu của tôi. Thấy tôi ấm ức rụt chân lại, lão ta khoái chí cười ha hả:
- Con hồ ly này trông nhỏ thế thôi nhưng nó còn hơn cả tuổi tôi đấy. Trong cả tộc hồ ly, chỉ những con có linh khí đặc biệt mới có thể tu luyện thành tinh. Con hồ ly này là một tuyệt phẩm, ngay từ khi ra đời đã mang trong mình linh khí, rồi đây, qua nhiều năm khổ công tu luyện, mắt và lông của nó sẽ ngày càng xanh hơn.
- Vậy vì sao thí chủ lại bắt được nó?
Tiểu Lạt Ma đứng lên, chắp tay vái lạy. Cậu ấy không thạo tiếng Mông Cổ nên phát âm rất lạ.
- Vì nó tu luyện chưa sâu nên mới mắc bẫy của tôi đó. -
Lão thợ săn lắc lư chiếc lồng sắt, cười đắc ý. – Tuy vậy, loài hồ ly vốn rất khôn ngoan, tôi phải mất rất nhiều công sức mới bắt được nó đấy. Tôi đã thức trắng nhiều đêm trên núi Côn Luân, nhẫn nại theo dõi suốt ba tháng trời, giăng không biết bao nhiêu bẫy mới bắt được con hồ ly này.
Tôi bị lão thợ săn lắc lư đến chóng hết cả mặt, đứng không vững, lảo đảo, ngã xuống, chân sau va vào thanh sắt đau điếng, tôi kêu gào thảm thương. Tiểu Lạt Ma thương xót tôi, vội giữ bàn tay đang đung đưa chiếc lồng của lão thợ săn lại, cất giọng lễ phép:
- Xin hỏi, thí chủ chuẩn bị đi đâu? Đường xa vất vả, chi bằng để bần tăng xách chiếc lồng này giúp ông.
Lão thợ săn khoát tay kiên quyết:
- Không cần đâu, tôi sắp đến nơi rồi. Thầy có nhìn thấy phủ Vương gia Khoát Đoan[4] ở phía trước kia không? Tôi sẽ tới đó.
- Thí chủ định làm gì với tiểu hồ ly này?
Lão thợ săn hồ hởi:
- Cậu cả Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi nhà Vương gia Khoát Đoan sắp bước sang tuổi hai mươi, tôi là thứ dân sinh sống trên đất phong của ngài ấy, tôi muốn dành con hồ ly này làm quà tặng dâng lên công tử Khởi Tất. Con hồ ly hàng trăm tuổi này rất quý hiếm, nước bọt của nó có thể chống sưng tấy, máu của nó có thể chữa lở loét, da của nó có thể làm thành loại áo khoác mà gươm đao không thể chọc thủng, dầm mưa không bị thấm ướt.
Cậu bé giật mình thảng thốt, gương mặt nhuốm vẻ thương cảm:
- Tiểu hồ ly này quý hiếm nhường vậy, thí chủ nỡ lòng nào lấy mạng nó?
- Tôi chẳng thể làm khác. Công tử Khởi Tất biết nó có nhiều tác dụng thần kỳ như vậy, từ lâu đã trông ngóng được mặc áo da hồ ly. Con trai tôi vừa báo tin tôi bắt được loài hồ ly quý hiếm, công tử đã lập tức cho mời thợ may đến, chỉ chờ tôi mang hồ ly về thôi.
Lão thợ săn vừa nói vừa bước đi. Mặc cho vết thương ở chân sau sưng tấy, nhức buốt, tôi ra sức tìm lối thoát, kêu la thảm thiết, cầu cứu tiểu Lạt Ma, lòng như lửa đốt.
- Thí chủ, xin mở lòng từ bi mà tha cho tiểu hồ ly này. Nó còn nhỏ như vậy, lại bị thương ở chân.
Tiểu Lạt Ma can đảm bước lên phía trước, dang rộng hai tay chặn lão thợ săn lại. Tuy thấp bé hơn lão thợ săn kia rất nhiều nhưng khí khái mạnh mẽ toát ra từ thần thái của cậu ấy khiến người đối diện không thể không cảm phục. Giọng cậu trầm ấm mà kiên định:
- Nếu công tử Khởi Tất trách phạt, tôi xin chịu mọi hình phạt!
- Tiểu sư phụ ơi, tôi vốn là người Tangut[5] (Đảng Hạng), từ nhỏ đã tín Phật. Nếu đây chỉ là một con hồ ly bình thường, tôi sẽ tặng cho thầy ngay, xem như làm từ thiện. Nhưng xin thầy hiểu cho, tôi có cái khó của mình.
Lão thợ săn khẽ thở dài, quay đầu ngó nghiêng xung quanh rồi mới hạ thấp giọng, thì thào:
- Hai mươi năm trước, nước Đại Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt. Người Mông Cổ vô cùng căm hận vì chúng tôi đã chống trả ngoan cường, khiến cho Thiên Khả hãn[6] Thành Cát Tư Hãn của họ mắc bệnh rồi qua đời trên đường chinh phạt Đại Hạ. Mặc dù sau đó, Đại Hạ đã đầu hàng, nhưng họ không buông tha cho chúng tôi, họ đã tàn sát người Tangut[7]. Các con trai của tôi đã bị chết oan uổng như thế đó. Tôi chỉ còn cậu con út, nó mới mười bốn tuổi nhưng đã phải nhận lệnh theo đoàn quân ra trận, đi đánh nước Tống ở phía nam. Tôi không thể để giọt máu cuối cùng của mình đi nộp mạng, nên đã không quản nhọc nhằn lên núi Côn Luân đặt bẫy, chờ bắt cho được con hồ ly màu lam quý hiếm này. Ngài Khởi Tất đã hứa sẽ miễn cho con trai tôi không phải đi lính. Thầy thấy đấy, tôi không thể thả con hồ ly này được.
[1] Lương Châu: nay là huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.
[2] Tên dân tộc thiểu số ở vùng cao nguyên Thanh Tạng, Trung Quốc. Vương quốc Thổ Phồn từng thống trị Tây Tạng vào thời nhà Đường ở Trung Nguyên. (Chú thích của dịch giả – DG)
[3] Người Tây Tạng phát âm hai chữ "Ô Tư" là "Veä" (Usu) nghĩa là "vệ", do đó còn có tên là Vệ Tạng. "Ô Tư" nghĩa là "trung tâm", "Tạng" nghĩa là "thanh tịnh". Ô Tư Tạng có nghĩa là "trung tâm thanh tịnh", cõi Phật thanh tịnh. Ô Tư Tạng là tên gọi mà nhà Nguyên đặt cho vùng đất Tây Tạng sau khi vương triều Thổ Phồn bị diệt vong. Trước thời nhà Thanh, vùng đất này được gọi là Vệ Tạng, sau mới đổi thành Tây Tạng.
[4] Khoát Đoan là con trai thứ hai của Oa Khoát Đài, tức là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn (Oa Khoát Đài là con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn).
[5] Tangut: tên dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Trung Quốc. Nhà Tống gọi quốc gia của tộc người này là Tây Hạ, tuy nhiên quốc hiệu chính thức của quốc gia này là Đại Hạ. (DG)
[6] Khả hãn trong tiếng Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là người đứng đầu đế quốc. (DG)
[7] Mông Cổ tiêu diệt Tây Hạ vào năm 1227, khi ấy, Lương Châu thuộc lãnh thổ Tây Hạ.
Tiểu Lạt Ma sững sờ, hai hàng lông mày thanh tú nhíu lại. Cậu ngồi xuống, đưa tay vuốt ve chiếc mũi nhọn của tôi, trầm ngâm một lát rồi cất tiếng:
- Vậy bần tăng sẽ cùng thí chủ đến gặp ngài Khởi Tất.
Vừa bước vào Vương phủ, tôi đã thấy rất đông người đang tụ tập ở đó, mấy người đứng ở giữa cất giọng oang oang:
- Công tử, nay phụ thân ngài không có mặt ở Lương Châu, mọi chuyện lớn bé đều do ngài quyết định, xin ngài hãy xử lý thật công minh việc này.
Ngồi ở vị trí trang trọng nhất là một thanh niên vạm vỡ, lông mày rậm, dày, mắt to, khuôn mặt vuông vức. Anh ta mặc áo khoác da dài tay, cao cổ. Phần vạt áo, cổ tay, cổ áo đều được thêu viền lụa hình sóng mây cuồn cuộn. Chiếc áo được quấn một lớp da chồn xung quanh. Chàng thanh niên cất giọng sang sảng:
- Ai có oan uổng gì, hãy trình báo tao nghe!
Ai đó chen lên nói:
- Tối hôm qua, ba anh em chúng tôi đến thuê phòng tại một quán trọ. Tay phục vụ ở đó bảo rằng, phòng hạng sang giá ba mươi quan tiền một đêm. Thế là ba chúng tôi bỏ ra mỗi người mười quan tiền để đặt cọc. Hôm đó đúng ngày ông chủ nhà trọ vừa có thêm quý tử nên ông ta đã vui mừng giảm giá tiền phòng hạng sang xuống còn hai mươi lăm quan tiền một đêm. Ông chủ nhà trọ đưa cho tay phục vụ năm quan tiền, bảo hắn trả lại chúng tôi. Nhưng vì tham lam, hắn trả chúng tôi thiếu ba quan tiền. Sáng nay, tình cờ gặp chủ quán trọ, chúng tôi mới biết việc này. Ngay sau đó, chúng tôi đã đi tìm tay phục vụ, đòi hắn trả lại tiền.
Một người khác cũng chen lên, chỉ tay vào người đàn ông nhỏ thó đang quỳ khóc trên sân mà rằng:
- Nhưng tên tiểu nhị này lại bảo hắn chỉ đút túi có hai đồng. Sao lại như thế được?
Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi chau mày:
- Có gì không đúng?
- Ba chúng tôi mỗi người bỏ ra mười quan tiền, tổng cộng là ba mươi quan tiền. Tiểu nhị trả cho chúng tôi mỗi người một đồng. Vậy có thể xem như chúng tôi đã trả hai mươi bảy đồng. Nhưng tiểu nhị lại bảo rằng hắn chỉ đút túi hai quan tiền. Hai mươi bảy cộng với hai bằng hai mươi chín. Vậy còn một quan tiền nữa đâu?
Đám đông cùng xòe tay ra nhẩm tính rồi gật gù phụ họa. Người trẻ nhất trong số ba anh em khách trọ kia cất giọng oang oang:
- Chắc chắn tên tiểu nhị tham lam này đã giấu nhẹm đi một quan tiền. Hắn cả gan giở trò xỏ lá với chúng tôi nên chúng tôi buộc phải đưa hắn đến đây để công tử giải quyết.
- Dạ thưa, oan uổng quá! Đúng là tiểu nhân không nên nảy lòng tham, bỏ vào túi mình tiền của ba vị, tiểu nhân xin được trả lại. Nhưng quả thật tiểu nhân chỉ lấy hai quan tiền, không phải ba.
Tên tiểu nhị nãy giờ quỳ mọp dưới đất, vừa ngẩng đầu kêu oan, lập tức bị ba người đàn ông kia đá túi bụi.
- Vậy ngươi nói đi, bọn ta bỏ ra hai mươi bảy quan tiền, cộng với hai quan tiền ngươi lén bỏ túi, có phải là hai mươi chín quan tiền không hả?
Đám đông đồng loạt phụ họa:
- Đúng rồi, thiếu mất một quan tiền.
Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi nghiêm mặt, nói:
- Này tiểu nhị, người Mông Cổ chúng ta rất ghét sự dối trá, ngươi hãy ngoan ngoãn nhận tội, nếu không, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc đấy.
- Tiểu nhị không nói dối.
Giọng nói khàn khàn của cậu thiếu niên đang trong giai đoạn vỡ tiếng vang lên, tiểu Lạt Ma lách người qua đám đông, vẻ mặt điềm tĩnh, thần thái an nhiên. Sự tự tin, bình thản toát ra từ dáng vóc và bước đi khoan thai, khí khái bất phàm cộng với vẻ già dặn không tương xứng với tuổi tác phản chiếu từ gương mặt khôi ngô, tuấn tú khiến đám đông bỗng nín lặng, ai nấy đều sững sờ, sau đó chăm chú quan sát.
- Số tiền không hề thiếu, chỉ tại cách tính của ba vị thí chủ này không đúng.
Tiểu Lạt Ma vái chào Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi, sau đó quay lại hỏi ba người khách trọ:
- Ba vị đặt cọc tổng cộng ba mươi quan tiền, chủ quán trả lại năm quan tiền, tức là tiền phòng chỉ còn hai mươi lăm quan tiền, đúng không?
Ba người kia gật đầu.
Tiểu Lạt Ma bình tĩnh nói tiếp:
- Trong số năm quan tiền đó, tiểu nhị giữ lại hai quan tiền, vậy còn ba quan tiền, đúng không?
Ba người kia lại gật đầu.
- Ba quan tiền này, tiểu nhị đã trả lại cho ba thí chủ, đúng không?
Ba người khách tiếp tục gật đầu.
Tiểu Lạt Ma dõng dạc kết luận:
- Vậy thì hai mươi lăm quan tiền ba vị đã trả, cộng với hai quan tiền tiểu nhị bỏ túi riêng và ba quan tiền tiểu nhị đã trả cho các vị, có phải tổng bằng ba mươi quan tiền không?
Ba người đàn ông gật đầu lia lịa theo quán tính. Tiểu Lạt Ma mỉm cười hồn hậu rồi quay lại, chắp tay vái Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi:
- Tiểu nhị chỉ cần trả lại ba vị kia hai quan tiền và nói lời xin lỗi thì việc này coi như đã giải quyết xong. Công tử thấy sao?
Khởi Tất vỗ tay tán thưởng, bật cười ha hả:
- Tuyệt vời! Chuyện có gì to tát đâu mà phải làm ầm ĩ chứ!
Ba người kia vẫn ngẩn ngơ không hiểu, vò đầu bứt tai, thắc mắc:
- Rõ ràng là hai mươi bảy cộng với hai kia mà, sao tiểu Lạt Ma này lại lôi ra được một quan tiền nữa nhỉ?
Tiểu Lạt Ma khiêm cung vái ba người đàn ông:
- Nếu giải thích theo thuyết Nhân minh học[1] trong Phật giáo thì cách tính của ba vị là cộng chi phí mà mình bỏ ra chứ không phải cộng phần mình được trả và người khác được trả. Nhân minh học gọi đây là thủ thuật "thay xà đổi cột".
Ba người đàn ông lắng nghe giải thích mà đầu óc mụ mị, choáng váng, ngước nhìn tiểu Lạt Ma bằng ánh mắt thán phục. Tiếng vỗ tay tán thưởng rộ khắp Vương phủ, tiểu Lạt Ma bỗng đỏ mặt, nước da ngăm đen chuyển màu sẫm đỏ, đôi mắt to, đen láy và trong suốt như thủy tinh như có ma lực kỳ lạ cuốn hút người khác. Thật không ngờ, một người điềm tĩnh như tiểu Lạt Ma cũng có lúc bẽn lẽn đáng yêu nhường vậy.
Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi rời khỏi ghế ngồi, bước đến trước mặt tiểu Lạt Ma, ngắm nhìn một hồi:
- Tiểu sư phụ là...
Tiểu Lạt Ma điềm tĩnh chắp hai tay vái Khởi Tất, tiếng Mông Cổ tuy không được lưu loát nhưng từng câu từng từ rất mạch lạc:
- Bần tăng là Sa di thuộc giáo phái Sakya ở Tufan, tên gọi Lạc Truy Kiên Tán, theo người bác ruột là đại sư Ban Trí Đạt lặn lội đường xa từ Wusi, ròng rã hai năm trời mới đến được Lương Châu. Bác bần tăng hiện ở nhà trọ chờ cha của công tử, Vương gia Khoát Đoan, về Lương Châu để gặp mặt.
Khởi Tất ôm chầm lấy vai tiểu Lạt Ma, bật cười hoan hỉ:
- Thì ra tiểu sư phụ chính là thần đồng Bát Tư Ba! Chẳng trách tuổi nhỏ mà thông minh trác tuyệt như vậy. Người dân Lương Châu không ai không biết đến danh tiếng của thầy. Nghe nói, ba tuổi thầy đã thuộc lòng phép tu của cuốn kinh Diệu pháp liên hoa, tám tuổi thuộc kinh Phật bản sinh. Ít người biết tên thật của thầy, nhưng không ai ở đất Wusi là không biết tiểu Lạt Ma Bát Tư Ba. Trong tiếng Tây Tạng, Bát Tư Ba có nghĩa là "vị thánh", đúng vậy không?
Tôi ngỡ ngàng đến nỗi quên cả đau, ngẩn ngơ ngắm nhìn tiểu Lạt Ma khôi ngô, tuấn tú trước mặt. Cậu ấy là Bát Tư Ba ư? Cậu ấy là cậu bé mà tôi đã gặp ba năm về trước?
Chàng trai trẻ vỗ tay kinh ngạc:
- Tiểu Lạt Ma đó là Bát Tư Ba?
Tôi cũng ngạc nhiên không kém:
- Cậu biết người đó ư?
- Tôi từng đến huyện Sakya ở Shigatse và đến thăm ngôi đền Sakya nên có biết sơ sơ. – Chàng trai gật đầu, rồi quay sang nhìn tôi bằng ánh mắt tiếc nuối. – Nhưng Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều chi phái, quá ư phức tạp, tôi chẳng thể biết hết. Tôi chỉ biết Bát Tư Ba là quốc sư của triều đại Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, là người đã phát minh ra văn tự Mông Cổ mà người ta đặt tên là chữ Bát Tư Ba. Giáo phái Sakya trở thành một trong những giáo phái Phật giáo lớn mạnh nhất Tây Tạng đều nhờ công lao gây dựng của vị đại sư ấy. Bởi vậy, giáo phái này tôn sùng Bát Tư Ba như là một trong năm vị sư tổ.
Tôi ngước nhìn bầu trời đêm, tưởng như lại được nhìn thấy bóng dáng chiếc áo tăng ni sẫm đỏ thấp thoáng đâu đây, mắt bỗng ướt nhòe, miệng thì thầm:
- Đúng vậy, Bát Tư Ba là một người vĩ đại, một bông tuyết liên thánh khiết mọc trên cao nguyên Thanh Tạng...
Tôi quay lại, mỉm cười với chàng trai trẻ, thở than:
- Những hiểu biết của cậu về vị đại sư này khá nhiều đó. Ngài là người Tạng, lại trở thành triều thần của nhà Nguyên, Mông Cổ, ngài hầu như không có mối quan hệ nào với người Hán. Bởi vậy, người Hán thời nay ít người biết đến ngài và thời đại của ngài.
Chàng trai bật cười, chìa tay về phía lò lửa để sưởi ấm:
- Câu chuyện mới bắt đầu đã thấy hấp dẫn rồi. Không ngờ một tiểu hồ ly lại có thể tham gia vào các sự kiện lịch sử. Tôi cảm thấy rất thích thú, vậy là tôi sắp được bổ túc vốn kiến thức về thời kỳ lịch sử xa lạ đó rồi.
Tôi gật đầu, tiếp tục câu chuyện.
[1] Học thuyết Nhân minh hay còn gọi là logic học Phật giáo. Phật giáo Tây Tạng đặc biệt coi trọng học thuyết này, cũng chính là coi trọng khả năng biện luận.
Chương 2: Bậc thánh giả trên vùng núi tuyết.
"Những kẻ kém hiểu biết thường tỏ ra kiêu ngạo,
Người học thức uyên thâm thường khiêm tốn, chừng mực;
Suối nhỏ trong rừng sâu cứ róc rách đêm ngày,
Biển lớn trải muôn trùng vẫn hiền hòa bao thuở."
(Cách ngôn Sakya)
Trong thời gian tu luyện ở núi Côn Luân, tôi đã kết thân với lão gấu xám kém tôi cả trăm tuổi. Linh khí của gấu xám không mấy dồi dào nên tu luyện đến chừng một trăm tuổi thì lão chẳng thể tiếp tục. Lão thành ra già nua, yếu ớt, mắt hoa, chân chậm, tai kém, những dấu hiệu đó cho thấy lão không sống được bao lâu nữa. Thế nhưng lão đã thọ thêm ngót nghét mười năm nhờ chăm chỉ lén theo bậc trí giả[1] của đất Wusi, đại sư Ban Trí Đạt, thuộc giáo phái Sakya, để nghe ngài biện kinh, giảng pháp, từ đó giác ngộ và tăng thêm tuổi thọ.
Trong năm năm cuối đời, không biết ma xui quỷ khiến thế nào mà lão gấu xám lại tình cờ lọt vào sơn động của tôi. Đuổi lão đi thì dễ thôi, nhưng tôi quyết định giữ lão ở lại. Lý do rất đơn giản: suốt một trăm năm ròng tôi không có ai để trò chuyện.
Lão gấu xám bị nặng tai nên tôi cứ phải ghé sát tai lão mà gào lên thì lão mới nghe thấu. Tuy giao tiếp khá vất vả nhưng chúng tôi đã sống rất vui vẻ. Lão kể với tôi rất nhiều câu chuyện về Ban Trí Đạt mà lão nghe được hoặc được tận mắt chứng kiến. Tôi có cảm giác lão sùng bái ngài Ban Trí Đạt hơn cả Phật Tổ.
Ba năm trước, ngài Ban Trí Đạt tổ chức một pháp hội rất lớn, lão gấu xám đã dẫn tôi đi nghe lén. Chẳng ngờ hôm đó, ngài Ban Trí Đạt không đăng đàn giảng pháp mà để một cậu bé chín tuổi lên thuyết giảng kinh Phật. Còn nhớ lúc đó, hàng nghìn nhà sư cùng đến nghe giảng pháp, khi nhìn thấy đứa trẻ vắt mũi chưa sạch ấy, họ chỉ trỏ bàn luận, vẻ khinh miệt phơi bày không giấu giếm. Nhưng cậu bé mới chín tuổi ấy đã bước lên pháp đài với vẻ đĩnh đạc, điềm tĩnh, pháp tướng trang nghiêm, cất giọng rành rọt, thuyết giảng cuốn Kỷ kim cương tục đệ nhị phẩm.
Cậu bé có giọng nói trong trẻo, thanh thoát ấy đã nêu ra nhiều dẫn chứng nhằm tăng thêm sức thuyết phục cho các luận điểm của mình. Những tăng nhân mới đầu tỏ ra xem thường thì giờ đây cũng đang lắng nghe mê mải, gật đầu lia lịa. Tôi cũng vậy, tôi vốn rất buồn vì không được nghe ngài Ban Trí Đạt thuyết pháp, nhưng sau đó, tôi nhận thấy mình đã "thu hoạch" được rất nhiều từ bài giảng của cậu ấy, và cũng giống những người khác, tôi thực sự thấy khâm phục cậu bé. Câu nói: "tuổi trẻ tài cao" hoàn toàn đúng với trường hợp của cậu bé này.
Lão gấu xám không nghe lọt câu nào, còn tôi, nhờ vào thính giác nhạy bén siêu phàm của loài hồ ly, dù đứng cách rất xa, tôi vẫn nghe rõ từng lời. Tôi vừa nghe vừa ghé sát tai, giảng lại một lượt cho lão gấu xám. Lão cho tôi hay, cậu bé này là cháu trai của ngài Ban Trí Đạt, chính là thần đồng Bát Tư Ba mà người đời xưng tụng là bậc "thánh giả".
Không lâu sau buổi pháp hội ấy, lão gấu xám qua đời, tôi tiếp tục cuộc sống cô độc. Tôi chôn lão cạnh sơn động, nơi mà trước đó tôi đã lần lượt an táng từng người thân của mình. Những lúc muốn trò chuyện, tôi lại ra đó, lẩm bẩm độc thoại một hồi. Tôi rất muốn được đến nghe giảng kinh một lần nữa, nhưng người ta bảo ngài Ban Trí Đạt đã dẫn Bát Tư Ba đi xa, không biết khi nào trở lại Sakya. Sau đó, tôi bị mắc bẫy của thợ săn. Không thể tin rằng tôi đã gặp lại cậu ấy ở đất Lương Châu xa xôi, cách Sakya cả ngàn dặm này.
Nhưng tôi chẳng còn nhớ rõ hình dáng của cậu bé ấy nữa. Ngày đó đi nghe giảng pháp, chúng tôi biết thân biết phận nên nào dám đến gần chỗ đông người. Đứng từ xa, tôi chỉ thấy bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm thấp thoáng trên pháp đài. Các cậu bé thường lớn rất nhanh, chỉ ba năm thôi cũng có thể khiến dung mạo và hình dáng của họ thay đổi rất nhiều. Lấy ví dụ, giọng nói trong veo ngày ấy giờ đây đã chuyển sang giọng khàn khàn của giai đoạn vỡ tiếng, làm sao nhận ra nổi?
Không hiểu sao, khi biết cậu bé này chính là Bát Tư Ba năm xưa, tôi cảm thấy mừng vui khôn xiết. Tuy rằng cậu ấy không hề biết ba năm trước có một tiểu hồ ly từng đến nghe mình giảng pháp nhưng tôi thì khác, tôi có cảm giác thân thiết như người ta gặp lại người thân của mình nơi đất khách vậy. Trong tôi dấy lên một niềm tin gần như tuyệt đối rằng, Phật Tổ đoái thương, cho tôi gặp được bậc thánh giả Bát Tư Ba, tôi được cứu mạng rồi!
- Đó chỉ là những lời đồn thổi vu vơ, công tử chớ cho là thật, xin cứ gọi bần tăng là Lâu Cát.
Mặt đỏ như gấc chín, cậu ấy bối rối phủ nhận, nhưng còn chưa kịp nói đôi lời khách sáo thì Khởi Tất đã kéo cậu ấy vào phòng khách. Đoán định được tình thế, lão thợ săn vội vã xách chiếc lồng, lặng lẽ bám theo.
- Ồ, Lâu Cát ư? Cái tên này có nghĩa là gì? – Không kìm nổi sự tò mò, Khởi Tất vừa đi vừa hỏi.
- Thưa công tử, từ này có nghĩa là sinh vào năm Mùi. Bần tăng sinh năm Mùi nên người bác và người mẹ quá cố đều gọi bần tăng như vậy.
Khởi Tất trầm ngâm một lát rồi hỉ hả tán thưởng:
- Sinh năm Mùi, tức là năm nay thầy mới mười hai tuổi, quả là tuổi trẻ tài cao!
Vào đến phòng khách, Khởi Tất mời Bát Tư Ba ngồi xếp bằng trên thảm, sau đó khoát tay ra lệnh cho người hầu dâng trà:
- Sáu năm trước, cha ta từng cử bộ tướng tấn công Wusi. Nhưng ngay sau đó, ông nhận thấy sự cần thiết phải mời một vị cao tăng đại đức giữ vai trò là lãnh tụ tinh thần của cả vùng núi cao băng tuyết quanh năm ấy. Đại sư Ban Trí Đạt của giáo phái Sakya là người đức cao vọng trọng, danh tiếng của ngài lan khắp bốn phương. Cha ta đã đích thân viết thư mời ngài đến Lương Châu để bàn bạc về việc thu phục Wusi. Đại sư Ban Trí Đạt là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù, không quản tuổi cao sức yếu, không nề hà đường xa vạn dặm, lặn lội từ Sakya, ròng rã suốt hai năm trời để đến Lương Châu. Hẳn là các vị đã phải vượt qua muôn vàn gian nan, khổ ải trong suốt chuyến đi này.
Bát Tư Ba nhấp một ngụm trà, khẽ thở dài, vẻ mặt đầy trăn trở, âu lo, không tương xứng với tuổi tác chút nào:
- Cảm tạ sự quan tâm của công tử, bần tăng thì không sao, chỉ tội cho cậu em trai Kháp Na Đa Cát của bần tăng, lúc rời khỏi Sakya nó mới có sáu tuổi. Suốt quãng đường đi, dù phải chịu bao nhọc nhằn nó cũng đã gắng gượng chịu đựng, không hề khóc lóc, than vãn khiến kẻ làm anh như bần tăng đây cũng lấy làm khâm phục. Bác của bần tăng khi ấy đã sáu mươi ba tuổi, tuổi cao sức yếu, trên đường đi thường hay hắt hơi, sổ mũi, mình mẩy đau nhức...
Khởi Tất gật đầu cảm thông, cất lời động viên:
- Lát nữa ta sẽ cho thầy thuốc đến coi bệnh cho ngài. Các vị vừa đến thì cha ta cũng lên đường tham dự hội nghị Kurultai[2]. Trong thời gian lưu lại Lương Châu, nếu các vị cần gì, xin cứ nói với ta.
Bát Tư Ba lịch sự cảm ơn, mới mười hai tuổi nhưng phong thái đĩnh đạc, ứng xử nho nhã, biểu cảm chân thành của cậu ấy đã rất được lòng Khởi Tất. Cuộc chuyện trò ngày càng trở nên thân mật:
- Cũng mừng là ta đã nhận được thư của cha, báo rằng đại hội Kurultai đã kết thúc, người bác Quý Do của ta sẽ kế thừa ngôi vị Đại hãn của ông nội Oa Khoát Đài của ta[3] nên cha ta đã lên đường trở về Lương Châu. Chắc khoảng một tháng nữa, cha ta và đại sư Ban Trí Đạt có thể gặp nhau.
Khởi Tất nhấp một ngụm trà rồi nhón một viên kẹo sữa chua bỏ vào miệng.
- Các vị có thiếu thốn gì không? Hôm nay được gặp thầy ở đây, ta lấy làm vui mừng khôn xiết, ta nhất định phải tặng thầy món quà gì đó để tỏ lòng hiếu khách truyền thống của người Mông Cổ chúng ta.
Bát Tư Ba liếc nhìn lão thợ săn lúc này đang sợ hãi thu mình trong góc nhỏ. Tôi bám vào thanh sắt, lách chiếc mũi nhọn ra khỏi lồng, van lơn khẩn thiết.
Cậu ấy khẽ gật đầu với tôi, ánh mắt ấm áp mà tự tin, sau đó quay lại chắp tay cung kính thưa với Khởi Tất:
- Công tử có thể tặng bần tăng bất cứ thứ gì bần tăng muốn ư?
- Tất nhiên rồi, ha ha, chỉ cần có thể tìm được thứ đó, ta nhất định sẽ tặng cho thầy. – Khởi Tất hào phóng đập tay xuống chiếc bàn trà thấp. – Người anh em nói ta nghe, thầy muốn có thứ gì?
- Bần tăng muốn có tiểu hồ ly này. – Bát Tư Ba trỏ ngón tay về phía chiếc lồng giam cầm tôi, ánh mắt giàu lòng nhân từ ấy thanh tịnh như một đài hoa sen. Sau đó, cậu quay lại chăm chú quan sát biểu cảm của Khởi Tất. – Loài hồ ly mắt xanh, lông xanh vốn là kết tinh khí thiêng của cả trời và đất, được Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Nếu ai đó định sát hại nó, chắc chắn sẽ bị Phật Tổ giáng tội. Cúi xin công tử mở lòng từ bi mà tha cho nó, xem như tích chút công đức cho mình.
[1] Chỉ những người tài trí hơn người, kiến thức uyên bác, sâu rộng. (DG)
[2] Còn gọi là hội nghị Hốt Lý Đài hay Hốt Lý Lạc Đài, đại hội lựa chọn ra Đại hãn (vua) của quý tộc Mông Cổ. Ngôi vị Đại hãn của người Mông Cổ không phải "con nối nghiệp cha" theo truyền thống của người Hán, mà do các quý tộc bầu chọn.
[3] Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, người con thứ ba của ông là Oa Khoát Đài đã được chọn làm Đại hãn. Oa Khoát Đài mất năm 1241. Quý Do là con trai cả của Oa Khoát Đài, ông được chọn làm Đại hãn năm 1246.
Tôi nhìn nét mặt rất đỗi nghiêm trang của Bát Tư Ba mà không khỏi áy náy. Thực ra tôi chỉ là một yêu tinh nhỏ bé, làm gì có được vinh hạnh được Phật Tổ che chở kia chứ! Khởi Tất sững sờ, đưa mắt về phía lão thợ săn. Lão ta cũng bị bất ngờ mà ngây ra như phỗng, bàn tay xách chiếc lồng bỗng run run. Khởi Tất khẽ hắng giọng:
- Da của con hồ ly này có rất nhiều tác dụng...
Giọng nói của Khởi Tất cho thấy anh ta rất luyến tiếc. Bát Tư Ba đứng lên, bước tới trước mặt Khởi Tất, quỳ gối, chắp tay lại, cầu xin khẩn thiết:
- Nếu công tử bằng lòng tha cho tiểu hồ ly này, Lạc Truy Tán Đức xin kết bằng hữu với công tử, suốt đời tụng đọc kinh Phật cầu phúc cho công tử. Và nếu công tử có yêu cầu gì, bần tăng nguyện hết lòng vì ngài.
Khởi Tất không giấu nổi xúc động, vội đỡ Bát Tư Ba đứng lên, xúc động mà rằng:
- Hay lắm, ta xin được kết huynh đệ với thầy, ngày sau hai ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Chẳng qua chỉ là một con hồ ly thôi mà, thầy thích thì ta tặng thầy.
Khởi Tất khoát tay ra hiệu cho lão thợ săn giao tôi cho Bát Tư Ba. Lão thợ săn mặt ủ mày chau bước lên phía trước, trao chiếc lồng cho Bát Tư Ba nhưng bàn tay vẫn cố bám lấy chiếc lồng không chịu buông, miệng lắp bắp không thành tiếng, ánh mắt hướng về phía Bát Tư Ba đầy vẻ cầu khẩn.
Bát Tư Ba thấu hiểu tâm can của lão ta, bèn buông chiếc lồng ra, quay đầu lại gọi:
- Thưa công tử...
Khởi Tất ngắt lời cậu:
- Hãy gọi ta là người anh em[1]!
Bát Tư Ba mỉm cười bẽn lẽn, khẽ gọi "người anh em":
- Người anh em từng hứa với ông lão này rằng sẽ miễn nghĩa vụ cho con trai ông ấy. Huynh vốn là người trọng chữ tín, liệu có thể xác nhận lại một lần nữa để ông lão được yên tâm không?
Khởi Tất vỗ vai Bát Tư Ba, bật cười sảng khoái:
- Người anh em Bát Tư Ba, đệ thật khéo ăn nói. Được, ta đã hứa thì quyết không nuốt lời.
Bát Tư Ba mở cửa lồng, nhẹ nhàng nhấc tôi ra, vuốt ve, an ủi:
- Đừng sợ, ngươi được an toàn rồi, lát nữa ta sẽ đưa ngươi về chữa trị vết thương. Sau đó, nếu ngươi bằng lòng thì ở lại với chúng ta, Kháp Na chắc chắn sẽ rất cưng ngươi. Còn nếu ngươi muốn trở về với núi rừng, ta hứa sẽ không ngăn cản.
Được cậu ấy ôm trong lòng, nụ cười ấm áp và đôi mắt trong veo, thần thánh ấy khiến tôi tìm lại được cảm giác bình yên sau bao sợ hãi. Tôi gối đầu vào ngực cậu ấy, hơi ấm từ cơ thể cậu ấy truyền qua lớp áo tăng ni, bao bọc lấy tôi, tôi thấy mắt mình nhòe ướt.
Nước mắt thấm vào áo Bát Tư Ba, chính khoảnh khắc ấy, tôi đã đưa ra một quyết định làm thay đổi cuộc đời mình: tôi sẽ đi theo cậu ấy!
Cố nhiên là tôi muốn trả ơn cậu ấy, và tất nhiên tôi cũng phải toan tính cho riêng mình. Đi theo cậu ấy đồng nghĩa với việc tôi có thể nghe giảng pháp thường xuyên, thậm chí sẽ được nghe đích thân người bác của cậu ấy – đại sư Ban Trí Đạt – thuyết pháp cũng nên. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tu hành của tôi. Đâu phải yêu tinh nào cũng may mắn như vậy. Bàn tay ai đó khẽ đặt lên khóe mắt tôi, lau đi những giọt lệ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, bắt gặp nụ cười thuần khiết, rạng rỡ tựa ánh nắng ấm áp giữa ngày đông giá lạnh, đôi đồng tử đen láy hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh, dịu dàng chất ngất. Tôi dụi đầu vào ngực cậu ấy, diễn vẻ ngoan ngoãn, dễ thương hết mức. Tôi biết mình rất có khả năng về khoản này, mỗi khi tôi tỏ ra đáng yêu, ai nấy đều say như điếu đổ. Bát Tư Ba cũng không phải ngoại lệ, nụ cười của cậu ấy ngày càng tươi tắn, chói sáng. Cậu ấy ôm tôi lên ngang tầm mắt, bật cười hoan hỉ:
- Chúng ta về nhà nào!
Tôi ríu rít cất tiếng đáp lại, gật đầu đồng ý. Khi ấy tôi không hề biết rằng, kể từ khoảnh khắc tôi gật đầu đi theo Bát Tư Ba, suốt bốn mươi năm sau đó, tôi không hề trở lại núi Côn Luân. Suốt bốn mươi năm, tôi đã gắn chặt đời mình với cậu ấy và gia tộc của cậu ấy...
- Sau đó, Bát Tư Ba đã thực hiện lời hứa, trở thành người bạn thân suốt đời của Khởi Tất. Bát Tư Ba luôn tận tâm tận lực thực hiện mọi yêu cầu của Khởi Tất.
Tôi bỏ thêm vài thanh củi vào lò, căn phòng trở nên ấm cúng hơn, chúng tôi dường như đã quên hẳn trận cuồng phong dữ dội vẫn đang quần đảo ngoài kia.
- Tôi đã đi du lịch Tây Tạng nhiều lần nên có biết đôi chút về giai đoạn lịch sử này. – Chàng trai trẻ gật gù, dáng vẻ tư lự. – Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn chịu sự cai quản của nhà Nam Tống. Sở dĩ người Mông Cổ muốn chiếm Tây Tạng là để bảo đảm sự an toàn cho cánh bên khi quân đội của họ tấn công Nam Tống. Nhưng cục diện Tây Tạng lúc đó vô cùng rối ren. Vương triều Tufan sụp đổ từ lâu, các giáo phái đua nhau mọc lên như nấm sau mưa, cát cứ phân tranh liên miên. Tây Tạng lại có địa hình núi cao hiểm trở, dân cư thưa thớt. Dù Khoát Đoan đã dùng vũ lực để trấn áp và thu phục, dù đã hao tổn rất nhiều thời gian và binh lực, nhưng không có gì đảm bảo cả vùng Tây Tạng bao la ấy sẽ nghe theo hiệu lệnh của người Mông Cổ. Bởi vậy, kế sách tốt nhất là tìm kiếm lãnh tụ của một trong những giáo phái Phật giáo Tây Tạng, ra sức phát triển thế lực của giáo phái này để toàn bộ khu vực Tây Tạng phải quy thuận theo giáo phái ấy. Trong bối cảnh chính trị hết sức phức tạp, giáo phái Sakya đã đáp ứng được yêu cầu của thời đại, chuyển mình trở thành một giáo phái hùng mạnh ở Tây Tạng.
Tôi gật đầu tán đồng:
- Cậu nói rất đúng. Khi ấy, giáo phái lớn nhất đất Tạng là Kagyu đã bị chia nhỏ thành các hệ phái như: Drikung Kagyu, Baram Kagyu, Drukpa Kagyu, Karma Kagyu. Những hệ phái này đều chần chừ, e ngại, họ luôn tìm cách né tránh quân đội Mông Cổ, nhiều lần cự tuyệt giao thiệp. Chỉ có đại sư Ban Trí Đạt của phái Sakya ở vùng đất phía sau của Tây Tạng (thường gọi là vùng Hậu Tạng) là người nhìn xa trông rộng, ngài đã lập tức lên đường sau khi nhận được thư mời của Khoát Đoan. Chuyến đi tới Lương Châu của ngài đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ tiến trình lịch sử Tây Tạng nói riêng và lịch sử Trung Quốc nói chung.
Chàng trai nhìn tôi chăm chú:
- Suy nghĩ của cô rất hiện đại.
Tôi phì cười:
- Tuy tôi náu thân nơi núi cao, rừng sâu nhưng không có nghĩa tôi thờ ơ với mọi sự. Tận mắt chứng kiến những đổi thay bãi bể nương dâu hơn bảy trăm năm qua, nhất là những biến động to lớn mấy chục năm gần đây, lẽ nào tôi không chịu ảnh hưởng? Tôi vẫn thường xuyên hóa phép thành người, đi ngao du khắp nơi để trải nghiệm cuộc sống của con người. Các thiết bị điện tử như máy vi tính mà các cậu thường xuyên sử dụng, tôi cũng biết dùng. Các cậu lên mạng tìm tài liệu, tôi cũng làm như vậy. Tôi còn sưu tầm rất nhiều sách vở, tài liệu thuộc đủ các ngôn ngữ khác nhau nữa đó. Tôi không hề bị thời đại này đào thải.
Cậu ta ngẩn ngơ giây lát rồi bật cười ha hả:
- Xem ra yêu tinh cũng phải theo kịp thời đại mới được. Chả trách trò chuyện với cô, tôi có cảm giác rất thân thiện, gần gũi.
Sau một hồi chuyện trò rôm rả, chàng trai vừa chìa tay về phía lò sưởi vừa hào hứng hỏi tôi:
- Sau đó thì sao, cô đã gặp em trai Bát Tư Ba phải không?
Tôi gật đầu, mỉm cười khi thấy vẻ mặt háo hức chờ đợi của chàng trai trẻ. Xem ra, cậu ta đã hoàn toàn bị cuốn hút vào câu chuyện này, không còn tỏ vẻ đùa cợt như lúc đầu nữa.
[1] Nguyên tác là "an – đáp", trong tiếng Mông Cổ, an – đáp có nghĩa là người anh em kết nghĩa.
Chương 3: Hoa lan trắng.
"Đối với những kẻ ngu muội,
Sách hay cũng chỉ là giấy lộn;
Ngọc ngà châu báu dẫu đẹp đẽ nhường nào,
Trâu đất cũng chẳng buồn ngó đến."
(Cách ngôn Sakya)
- Kháp Na, Kháp Na ơi! – Trước mặt công tử Khởi Tất thì điềm đạm, chững chạc là thế, vậy mà vừa bước vào nhà trọ, Bát Tư Ba liền ôm tôi thật chặt, vừa lao đi như bay vừa gọi vang bằng tiếng Tạng. – Mau đến xem ta mang gì về cho đệ này.
Tìm khắp nơi vẫn không thấy ai. Giữa mùa đông giá buốt mà vầng trán nhẵn bóng của Bát Tư Ba lại lấm tấm mồ hôi.
- Kháp Na ơi, không chịu ra đây, ta sẽ không cho đệ chạm vào...
Bỗng từ phía sau cánh cửa, một chú bé loắt choắt chui ra, ngón tay kéo xệ mắt xuống, tạo thành hình thù quái dị, rất buồn cười rồi gầm gừ dọa nạt. Chú nhóc này không mặc áo nhà tu như Bát Tư Ba mà vận đồ dân thường, tóc dài ngang vai, đeo bông tai mã não, áo khoác lụa với những đường may cầu kỳ, thêu hoa văn rực rỡ càng tôn thêm đôi môi đỏ mọng và hàm răng trắng tinh của chú nhóc, đáng yêu vô chừng!
Bát Tư Ba phì cười, vỗ nhẹ đầu em trai:
- Trò này của đệ ta còn lạ gì nữa, không dọa nổi ta đâu, nhưng đừng làm tiểu hồ ly này sợ hãi, nếu không, đệ sẽ ân hận đấy.
Bát Tư Ba thận trọng mở rộng vòng tay, tôi khẽ thò đầu ra ngoài. Ánh nắng rực rỡ giữa ngày đông tràn qua khung cửa sổ, chiếu vào tôi. Chói quá nên tôi vội nhắm mắt, dụi đầu vào áo của Bát Tư Ba.
- Ôi, đáng yêu quá, lông và mắt nó màu xanh này, trên trán còn có cả vết bớt hình bông hoa nữa, đẹp ơi là đẹp! Đệ chưa bao giờ nhìn thấy con vật nào tuyệt vời thế này!
Chú nhóc reo lên sung sướng, chìa tay ra định đón tôi. Nhưng tôi cảnh giác, dựng đứng hai tai, nhe nanh dọa nạt.
- Đệ làm nó sợ rồi đấy.
Bát Tư Ba mỉm cười, nhẹ nhàng đặt tôi vào tay Kháp Na rồi dịu dàng căn dặn:
- Cẩn thận, chân nó đang bị thương đấy. Đệ ôm nó nhé, để ta đi lấy thuốc.
- Vâng.
Giọng nói lanh lảnh của Kháp Na rất giống giọng của Bát Tư Ba ba năm về trước. Chú nhóc bắt chước anh trai, thận trọng nâng tôi lên, trịnh trọng giới thiệu:
- Chào em, ta là Kháp Na Đa Cát, em cứ gọi ta là Kháp Na như anh trai ta cũng được. Hết năm nay là ta tròn chín tuổi.
Tôi sững sờ, đứa bé này trò chuyện với tôi như với con người vậy. Chú nhóc nhỏ xíu, gương mặt trẻ thơ non nớt, mũm mĩm. Đôi mắt trong veo, sáng long lanh như sao Khuê. Hai má cũng sạm nắng giống hệt anh trai, hẳn là họ đã rất vất vả trong chuyến đi vừa qua. Nhưng nước da của chú nhóc trắng trẻo, mịn màng hơn Bát Tư Ba rất nhiều. Và điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa hai anh em họ là, khi Kháp Na cười, xuất hiện hai má lúm đồng tiền rất sâu, nó khiến nụ cười của chú nhóc càng thêm rạng rỡ.
Khoảnh khắc tôi say sưa ngắm nhìn nụ cười thuần khiết như ban mai tỏa rạng trên gương mặt thiên thần của Kháp Na, trái tim vốn đã ngủ yên hơn hai trăm năm của tôi bỗng rạo rực, trong tôi bỗng dâng trào thứ cảm xúc mà người ta gọi là "xúc động". Khi ấy, tôi chưa hiểu hết về tình cảm của con người nên không biết rằng, cậu bé mới lần đầu gặp đã chào hỏi tôi trịnh trọng như với con người ấy ngày sau sẽ đi vào trái tim tôi và vĩnh viễn ở lại nơi đó. Hơn bảy trăm năm đã trôi qua nhưng nụ cười của Kháp Na chưa bao giờ phai nhòa trong tâm trí tôi. Những đêm trường cô quạnh, khi gió bão trên dãy Côn Luân cứ rít gào mãi không thôi ngoài cửa sổ, chỉ cần nhớ đến nụ cười ấm áp của Kháp Na, tôi lại có thể bình yên gối đầu lên ký ức, để nụ cười êm ái ru mình vào giấc ngủ an lành.
- Đại ca, mình gọi nó là gì nhỉ?
- Ta cũng đang nghĩ xem nên đặt cho nó tên gì đây.
Bát Tư Ba nhìn tôi, mỉm cười hồn hậu, ngón tay âu yếm vuốt ve chiếc tai thuôn nhọn của tôi.
- Đôi mắt và bộ lông của nó đều màu xanh, loài vật quý hiếm này có lẽ chỉ có ở trên trời, chi bằng hãy đặt tên cho nó là Lam Kha Mai Đóa[1].
Gương mặt búp bê của Kháp Na bỗng trở nên nghiêm trang, "ông cụ non" lắc đầu cảm khái:
- Lam Kha Mai Đóa, hoa trên trời cao, đại ca quả không hổ danh là thần đồng, cái tên hay quá!
Lam Kha Mai Đóa trong tiếng Tạng có nghĩa là "hoa trên trời". Kháp Na thường gọi tôi một cách thân mật là Tiểu Lam, còn Bát Tư Ba thì thích gọi tôi là Lam Kha hơn. Trước kia, khi tiếp xúc với con người, tôi biết rằng họ dùng tên để gọi. Giờ đây, sau ba trăm năm, tiểu hồ ly tôi cũng đã có tên gọi, điều này mang lại cho tôi niềm hoan hỉ không sao tả xiết.
Về sau, khi đã gắn bó với hai anh em họ đã lâu, khi hơi thở của con người đã bén vào mạch sống của tôi, tôi ngày càng thích tên gọi này. Và dù hơn bảy trăm năm mươi năm sau, mỗi khi nhẩm gọi Lam Kha Mai Đóa, bên tai tôi lại như văng vẳng giọng nói ấm áp của hai anh em họ, giật mình ngoảnh lại, dưới tàn lửa lung linh, tôi dõi mắt kiếm tìm, nhưng những dáng hình thân quen thuở trước chỉ trở về trong những giấc mơ đêm.
Hai anh em chụm đầu lại, để toàn bộ tâm trí vào việc chữa trị vết thương cho tôi. Một tay Kháp Na ôm lấy tôi, tay kia giữ chân sau bên trái bị thương của tôi, vẻ mặt căng thẳng:
- Tiểu Lam à, lát nữa sẽ đau lắm đấy, ráng chịu đựng nhé!
Bát Tư Ba nhấp một ngụm rượu, phun phì phì vào chân sau của tôi. Hai tiếng kêu thảm thiết bật lên cùng lúc, một của tôi, một của Kháp Na.
- Kháp Na, sao đệ lại kêu lên như thế?
Bát Tư Ba thở phào, chùi bàn tay đẫm mồ hôi vào áo, khẽ cốc đầu, lừ mắt với em trai.
Kháp Na cúi đầu, chiếc môi hình đài sen dẩu lên, phụng phịu:
- Đệ... đệ nghĩ rằng chắc là Tiểu Lam rất đau đớn.
Bát Tư Ba sững sờ, ánh mắt ngập tràn yêu thương, lắc đầu:
- Ôi, cái thằng nhóc này...
Tôi nhận thấy cậu bé mười hai tuổi ấy không trò chuyện với em trai với tư cách một người anh mà giống hệt một người cha. Bất luận Kháp Na có tinh nghịch chừng nào, bất luận Kháp Na có làm việc gì sai trái, Bát Tư Ba vẫn luôn ở bên, chở che, bao bọc em trai, giống như vị thần hộ mệnh của chú nhóc.
Sau khi băng bó cẩn thận, hai chú bé bắt đầu công cuộc rửa ráy cho tôi. Tôi cảm thấy mình như mắc cỡ, tuy họ còn rất nhỏ, nhưng dù sao cũng là giống đực, con người gọi là gì nhỉ? À, "đàn ông". Tôi muốn bảo họ ra ngoài, nhưng lại e ngại lúc này mà mở miệng lên tiếng sẽ khiến họ khiếp sợ. Tôi định chạy trốn nhưng không sao thoát khỏi vòng tay siết chặt của Kháp Na. Và điều khiến tôi xấu hổ nhất là, hai anh em họ cùng xúm xít lại nghiên cứu xem tôi là giống đực hay giống cái. Họ cười rộ lên sau khi biết kết quả, còn "bà lão" ba trăm tuổi là tôi đây thì ngượng chín mặt, không biết giấu mặt vào đâu.
[1] Nguyên tác là "Lam Già Mai Đóa" nhưng chúng tôi đã đổi thành Lam Kha Mai Đóa cho phù hợp với cách gọi tên của người Việt Nam. (DG)
- Đại ca ơi, hình như Tiểu Lam hiểu những gì chúng ta nói. Huynh xem, mỗi lần chúng ta nói nó đều có phản ứng.
Kháp Na hào hứng nhìn anh trai bằng cặp mắt cong cong tựa vành trăng lưỡi liềm, luồn tay xuống dưới phần bụng của tôi, gãi nhẹ:
- Huynh thấy không, nó đỏ mặt rồi này. Có phải vì chúng ta làm vậy nên nó xấu hổ không?
Bát Tư Ba xoay tôi lại, bàn tay thoăn thoắt tiếp tục công việc tắm rửa cho tôi:
- Lam Kha là loài hồ ly quý hiếm, rất có thể nó không những nghe hiểu tiếng người mà còn trò chuyện được nữa đó.
Kháp Na chớp chớp đôi mắt to tròn, linh động, thích chí "a" lên:
- Biết trò chuyện ư? Nó sẽ nói chuyện bằng tiếng Tạng chứ?
- Tất nhiên rồi. Nó là thú thiêng kia mà, tiếng Tây Tạng, tiếng Mông Cổ, tiếng Hán, tiếng Tangut, nếu muốn, nó đều có thể nói được.
Tôi lừ mắt với Bát Tư Ba, cậu ta vẫn luôn chân luôn tay. Cậu ta thật đáng nể, ngay cả điều này cũng đoán ra được.
- Tuyệt quá! Tiểu Lam ơi, gọi tên ta đi, rồi ta cho ăn kẹo.
Kháp Na khoa chân múa tay, hơi nóng bốc lên từ chậu nước khiến gương mặt vốn đang hào hứng tột độ của chú nhóc càng hồng hào.
Thật nản quá chừng! Tôi ngần này tuổi đầu mà vẫn "bị" một thằng nhóc tám tuổi nựng như nựng trẻ con, oan uổng quá đi mất, tuổi tác ơi là tuổi tác ơi! Tôi trợn mắt với chú nhóc, ta đây đâu dễ mắc lừa. Nếu ta mở lời nói chuyện, sẽ bị các người quy chụp là yêu ma, quỷ quái, các người sẽ rước thầy mo về xua tà đuổi ma, rồi ta sẽ bị cả đám người xúm lại hô hoán, đuổi đánh. Bị kịch đó ta gặp nhiều lần rồi. Ta quyết không ấu trĩ, ngây thơ như trước kia, cho rằng con người đáng tin cậy nữa.
Cuối cùng cũng tắm táp xong xuôi. Tôi rầu rĩ nghĩ rằng, chỉ vì muốn nghe giảng pháp mà mình phải diễn vai thú cưng ở chốn này, thật là khốn khổ. Bỗng đâu một cơn gió nhẹ lọt qua ô cửa sổ dán giấy hồ, len lỏi vào phòng, tôi chợt nảy ra ý định bỏ trốn. Kháp Na phủ một mảnh khăn lên người tôi, chà đi chà lại. Bát Tư Ba kéo tay chú nhóc:
- Nhẹ thôi, đệ làm nó đau đấy.
Bát Tư Ba nhẹ nhàng lau người cho tôi, cảm giác dễ chịu như được mát xa vậy. Tôi nhắm nghiền mắt lại tận hưởng, thầm nghĩ Bát Tư Ba thật dịu dàng và chu đáo, chả bù cho cái tên nhóc tay chân vụng về kia. Lúc tắm rửa cho tôi, tên nhóc đã không ít lần giựt lông tôi, lại còn suýt nữa thì để nước ngấm vào vết thương nữa chứ. Từ nay về sau, phải tránh xa tên nhóc ấy mới được.
Mất khá nhiều thời gian mà bộ lông của tôi vẫn chưa khô hẳn. Bát Tư Ba thay một mảnh khăn bông khô khác, quấn chặt lấy tôi rồi đặt tôi lên giường. Bên ngoài có tiếng gõ cửa:
- Thưa ngài Bát Tư Ba, thưa cậu chủ Kháp Na, đại sư Ban Trí Đạt cho gọi hai vị đến nghe giảng pháp.
Bát Tư Ba đáp lời rồi chuẩn bị bước ra khỏi cửa thì Kháp Na kéo áo cậu lại:
- Đại ca ơi, chúng ta mang Tiểu Lam đi theo nhé?
- Nhưng... – Bát Tư Ba do dự. – Bác rất nghiêm khắc với việc học hành của chúng ta, nếu để bác nhìn thấy, bác sẽ rất buồn.
- Nhưng đệ không yên tâm để Tiểu Lam ở đây một mình. – Kháp Na dẩu môi nũng nịu, đu đưa vạt áo của anh trai, nài nỉ. – Đi mà huynh, chúng mình giấu Tiểu Lam trong áo, bác không phát hiện ra đâu.
Giọng nói lanh lảnh, vẻ nũng nịu dễ thương ấy có lẽ là tuyệt chiêu mà Kháp Na thường dùng với anh trai và hẳn là lần nào cũng hiệu quả. Bát Tư Ba ngoảnh đầu nhìn tôi, tất nhiên là tôi phải nắm bắt cơ hội quý giá này rồi. Tôi vội vàng tốc chiếc khăn phủ trên người ra, thò đầu diễn vẻ mặt đáng thương, cất giọng ư ử khẩn thiết.
- Thôi được. – Rốt cuộc thì Bát Tư Ba không thể nào từ chối, cậu bước đến bên tôi, kéo chiếc khăn bông ra, nhấc bổng tôi lên. – Lam Kha, nhớ là phải ngoan, không được làm ồn nhé!
Tôi gật đầu nhất trí, Kháp Na sung sướng reo hò:
- Đại ca tuyệt vời!
Toàn thân tôi vẫn chưa khô hẳn, nhưng nếu cuộn cả khăn bông sẽ rất khó đặt vào trong áo. Bát Tư Ba suy nghĩ một lát, nới rộng cổ áo, nhẹ nhàng đặt tôi vào trong. Vừa chui vào áo cậu ấy, tôi bỗng sững sờ. Đây... đây... chính là da thịt của con người ư? Không có bộ lông che phủ, thì ra nó trơn mượt, láng bóng và ấm áp như vậy. Cơ thể cậu ấy tỏa ra một mùi thơm rất khó diễn tả, mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương. Tôi không ghét mùi hương này, nhưng không hiểu sao mùi cơ thể của cậu ấy khiến tôi hoang mang.
Tôi khẽ giãy giụa, tìm cách chạy trốn cảm giác hoang mang này. Bát Tư Ba đưa tay lên chạm vào người tôi qua lần áo tăng ni, điều chỉnh lại vị trí để tôi được thoải mái hơn. Phía trước đột nhiên xuất hiện luồng ánh sáng chói chang, không khí trong lành ào đến, tôi há miệng hít lấy hít để, rồi vẩn vơ kết luận, cảm giác lạ lùng khi nãy chắc là do trong này ngột ngạt quá.
Họ đang bước đi, những tiếng thình thịch, thình thịch nối tiếp nhau vang lên rõ mồn một bên tai tôi. Có phải tiếng đập của trái tim cậu ấy? Hay là tim tôi đang gõ nhịp? Xung quanh có tiếng bước chân lạo xạo, có lẽ là của đám người hầu. Bát Tư Ba vừa bước đi vừa trò chuyện với Kháp Na, nhưng tôi chẳng còn tâm trí đâu mà lắng nghe cuộc trò chuyện của họ nữa, vì bên tai tôi lúc này chỉ toàn là âm thanh thình thịch, thình thịch phát ra từ khuôn ngực của cậu ấy. Đây là lần đầu tiên tôi xiếp xúc với con người ở khoảng cách gần đến vậy, tôi không quen chút nào, rất... rất không quen.
Tôi nghe thấy họ bước chân vào một căn phòng rồi đứng lại, cung kính cúi đầu, đồng thanh chào:
- Thưa bác!
Chàng trai trẻ đang thưởng thức ly trà bơ thứ ba, cậu ta nhấp từng ngụm nhỏ:
- Bát Tư Ba còn anh chị em khác không?
- Còn chứ. Gia đình cậu ấy rất phức tạp. Cha cậu ấy cưới những năm người vợ, nhưng mãi năm năm mươi hai tuổi, ông mới có được người con trai đầu tiên là Bát Tư Ba. Đến năm năm mươi sáu tuổi, khi ông qua đời, trong vòng bốn năm, năm người vợ của ông đã sinh cho ông thêm ba người con trai và bốn người con gái. Kháp Na là con út, Kháp Na và Bát Tư Ba đều là con của người vợ cả.
Chàng trai trẻ gật đầu tổng kết:
- Bởi vậy, trong số chừng ấy anh chị em, tình cảm của Bát Tư Ba và Kháp Na là khăng khít nhất, vì chỉ có Kháp Na là em trai cùng một mẹ sinh ra với cậu ấy. Vả lại, từ thuở ấu thơ, hai người đã cùng nhau rời quê hương, lưu lạc nơi đất khách. Tình anh em ruột thịt keo sơn ấy không gì có thể thay thế.
Mỗi khi nhớ đến Kháp Na, nụ cười rạng rỡ, lúm đồng tiền hút hồn của cậu ấy lại hiện lên sống động trước mắt tôi. Trái tim tôi quặn thắt, tôi không dám nghĩ thêm nữa, gắng bình tĩnh lại, thở dài:
- Bát Tư Ba thương yêu và chiều chuộng em trai vì Kháp Na rất tội nghiệp. Cậu ấy vừa chào đời thì cha mất, năm lên bốn tuổi thì mẹ cũng qua đời. Sáu tuổi rời xa quê hương, lênh đênh trên chặng đường dài gian nan, khổ ải. Và chỉ vài tháng nữa thôi, cậu ấy sẽ phải kết thúc tuổi thơ hồn nhiên, vô lo vô nghĩ của mình...
Chàng trai trẻ thoáng ngẩn ngơ, sau đó lắc đầu, thở dài:
- Tội nghiệp cậu bé...
Chương 4: Trí giả Ban Trí Đạt.
"Sự cao quý được gìn giữ bởi lời nói và hành động,
Hành vi sai trái sẽ hủy hoại tất thảy;
Ai nấy đều yêu thích gỗ đàn hương,
Nhưng đã đốt thành tro thì còn chi để luyến tiếc."
(Cách ngôn Sakya)
Tôi rất muốn ghếch đầu lên để được tận mắt chiêm ngưỡng dung mạo nhân vật huyền thoại của Phật giáo Tây Tạng ấy, bởi vì trong buổi pháp hội năm xưa, ngài không đăng đàn giảng pháp mà chỉ lặng lẽ ngồi bên cạnh. Tôi đứng nhìn từ xa, chẳng thể tỏ tường dung mạo, chỉ có cảm giác ở con người ấy toát lên thần khí của rồng thiêng, ánh sáng của trí tuệ. Tôi và lão gấu xám vừa hết lời ca tụng vừa than thở nuối tiếc vì không được nghe ngài thuyết pháp.
Nhưng trong tâm trí tôi, ngài không hề xa lạ. Bởi vì suốt năm năm gắn bó với lão gấu xám, hầu như ngày nào tôi cũng được nghe những câu chuyện, sự tích, huyền thoại về bậc trí giả Ban Trí Đạt ở Sakya, nghe đến thuộc làu, nghe đến rát cả tai.
Theo lời lão gấu xám thì tên thật của ngài Ban Trí Đạt là Cống Cát Kiên Tán. Ngài đi chu du tứ phương, ngay từ khi còn rất trẻ, ngài đã tới rất nhiều ngôi chùa danh tiếng viếng thăm các vị cao tăng. Ngài có học vấn sâu rộng, tinh thông ngũ minh[1], danh tiếng của ngài lan khắp vùng Wusi, người dân nơi đây tôn ngài là bậc trí giả "Ban Trí Đạt[2]".
Truyện kể rằng, năm đó có một nhóm người Thiên Trúc sùng bái đấng Phạm Thiên[3], phản đối Phật giáo, mới tìm đến ngài Ban Trí Đạt đòi thách đấu tranh biện. Ngài Ban Trí Đạt giành chiến thắng và nhóm người kia đã quy y trở thành tín đồ của giáo phái Sakya. Người ta còn nói, các giáo phái khác cũng tỏ ra bất mãn với vị trí giả, họ đã cử nhà tu hành có học vấn sâu rộng nhất lúc bấy giờ là ngài Ngũ Do Ba đến tranh biện. Kết quả, ngài Ngũ Do Ba cũng phải chịu thua tâm phục khẩu phục, bằng lòng quy y làm tín đồ của phái Sakya. Sau đó, Ngũ Do Ba trở thành đệ tử đắc lực nhất của Ban Trí Đạt.
Học giả Ban Trí Đạt viết rất nhiều sách, trong số đó, cuốn sách mà lão gấu xám thuộc lòng và ngày ngày đọc vanh vách là Cách ngôn Sakya. Lão gấu xám thường vỗ ngực tự khen chất giọng bò rống của mình là du dương, trầm bổng, nhưng thực tế thì giọng đọc inh tai nhức óc của lão khiến cho cuốn cách ngôn vốn đậm chất trí tuệ trở nên khá hài hước, thú vị. Và đến bây giờ tôi vẫn có thể đọc thuộc một số bài.
Ví như:
"Kẻ nhỏ nhen trút giận lên người rộng lượng,
Người rộng lượng chẳng buồn bực bội;
Loài sói tru lên những tràng dài ngạo mạn,
Sư tử lim dim, cười nhạo đám vô tri."
Khi ngâm nga bài cách ngôn này, lão gấu xám thường than thở vì sao ngài Ban Trí Đạt không thay "sư tử" bằng "gấu xám".
Hay một bài khác:
"Phẩm cách của người chính trực không thay đổi,
Ngay cả khi người đó vấp phải nguy nạn trong đời;
Như vàng kia không thể bị biến màu,
Ngay cả khi đem nung trong lửa đỏ."
Lão gấm xám vốn chậm hiểu và trí nhớ kém, vậy mà cũng có thể đọc thuộc Cách ngôn Sakya, điều đó chứng tỏ sức hấp dẫn và tính đại chúng của các tác phẩm của ngài Ban Trí Đạt lớn mức nào.
Hôm nay, đại sư đang ở cách tôi chỉ vài bước chân, trong lòng tôi bỗng ngập tràn niềm vui và xúc động. Nhưng Bát Tư Ba căn dặn tôi không được thò đầu ra ngoài, nên lúc này, tôi cứ bứt rứt không yên.
- Bốn phép quy y của đạo quả pháp[4] mà hôm qua ta truyền dạy, các con còn nhớ cả chứ?
Giọng nói trầm ấm, nhuốm màu tuổi tác nhưng rất mực uy nghiêm vang lên.
- Dạ nhớ!
Hai anh em ngồi xếp bằng trên thảm, lễ phép thưa.
Có tiếng vải áo sột soạt, tôi cảm nhận rất rõ Bát Tư Ba chắp tay lại, dẫn dắt Kháp Na cùng lầm rầm tụng niệm:
- Nam mô[5] Cách – nhật – bối, nam mô Bố – đạt – nhã, nam mô Đạt – ma – nhã, nam mô Tang – già – nhã.
Giọng nói của đại sư cất lên:
- Bốn câu niệm chú này, theo thứ tự biểu thị sự thành tâm quy y[6] Thượng sư Kim Cương[7], quy y Phật, quy y pháp và quy y tăng. Hãy ghi nhớ, không được đảo lộn trật tự. Mỗi lần tụng niệm ba lượt, sau đó quán tưởng[8] Thượng sư Kim Cương, quán tưởng Tam bảo: Phật, pháp, tăng hiển hiện trong không trung.
Tiếng bước chân chậm rãi tiến về phía tôi, rồi dừng lại bên cạnh Bát Tư Ba.
- Tam bảo hội hợp, hóa thành quầng sáng ngũ sắc, chiếu rọi những góc tối trong tâm linh của người tu tập rồi lan truyền khắp cơ thể của người đó. Mọi nghiệp chướng, mọi thứ nhơ bẩn sẽ biến thành khí đen, được đào thải ra bên ngoài cơ thể qua các lỗ chân lông. Người tu tập sẽ trở nên thông suốt, sáng láng, trong lòng nhẹ nhõm, yên bình, cảm giác hạnh phúc ngập tràn.
Giọng ngài tuy yếu ớt, già cả nhưng thể hiện sự thông thái, trí độ tuyệt vời. Lắng nghe những lời dạy bảo đầy trí tuệ của ngài, tôi chợt hiểu ra vì sao năm xưa, mỗi khi nhắc đến đại sư Ban Trí Đạt, cặp mắt của lão gấu xám lại rạng ngời đến vậy.
- Sau khi tụng niệm đủ một trăm linh tám lần bốn câu chú trên, kết quả là phát bồ đề tâm, lòng thành hướng về Phật Tổ, phát nguyện quyết tâm tu tập, và sau khi công pháp viên mãn, nhất định phải hướng về chúng sinh, cứu giúp chúng sinh. Nào, hai con hãy cùng ta tụng niệm một lần nữa.
Nghe những âm thanh truyền đến tai mình, tôi biết rằng ngài Ban Trí Đạt đã ngồi xếp bằng trên tấm thảm, hai anh em Bát Tư Ba cùng nhau tụng niệm bốn câu chú quy y. Tôi cũng học theo họ, tuần tự quán tưởng Tam bảo. Một trăm linh tám lượt tụng niệm kết thúc sau một canh giờ, lúc mở mắt, tôi thấy tinh thần hết sức sảng khoái, đầu óc minh mẫn, khí huyết lưu thông. Pháp môn tu tập của Phật giáo rất có ích cho việc tu luyện của loài yêu chúng tôi. Trong lòng mừng thầm, nếu còn sống và biết tôi có được mối duyên kỳ ngộ này, hẳn lão gấu xám phải ghen tị đỏ mắt.
Ngài Ban Trí Đạt tiếp tục thuyết giảng:
- Đạo quả pháp là phép tu truyền thống của phái Sakya, phép tu này chỉ dựa vào khẩu truyền, không có văn tự, tức là phép tu chỉ có thể lĩnh hội, không thể diễn đạt bằng lời. Bốn phép quy y ta truyền dạy cho các con chỉ là một trong những tri thức nền tảng thuộc giai đoạn đầu của đạo quả pháp. Các con phải tu tập bền bỉ, sau khi kết thúc phép tu thứ nhất mới được tiếp tục tu tập phép tu thứ hai, tuyệt đối không được tham lam, nóng vội.
Hai anh em cất tiếng thưa vâng.
- Thưa bác, chúng ta còn phải ở lại đây bao lâu nữa? Con muốn về Sakya. – Đó là giọng nói non nớt, trong veo của Kháp Na. Hẳn là chú nhóc mỏi chân quá, muốn đứng lên rồi đây. – Nơi này rất kỳ quặc, con cứ chạy nhảy một lúc là lại thấy buồn ngủ, đầu đau như búa bổ ạ!
- Kháp Na, ta biết khí hậu nơi đây khác với Sakya. Chúng ta đến từ vùng núi cao quanh năm băng tuyết nên sức khỏe không thích ứng được với thời tiết ở Lương Châu. Con và Lâu Cát đều còn rất nhỏ, hai năm rong ruổi đường xa vạn dặm, tội cho anh em con quá! – Trong giọng nói hiền từ của ngài Ban Trí Đạt có vương chút áy náy, nhưng giọng điệu kiên định. – Nhưng chúng ta chưa thể rời đi được. Và có lẽ chúng ta sẽ phải ở lại đây thêm vài năm nữa. Kháp Na, con hãy cố gắng thích nghi.
- Thưa bác, không sao ạ, bác đừng lo cho chúng con. – Đó là giọng nói khàn khàn của Bát Tư Ba. – Bác đến Lương Châu với trách nhiệm nặng nề, chúng con hứa sẽ không trở thành gánh nặng của bác.
[1] Ngũ minh là năm kiến thức mà người hoằng pháp cần phải trang bị và am hiểu sâu sắc, bao gồm: nội minh (những tri thức về Phật học), nhân minh (phương pháp luận lý hay logic học), thanh minh (các môn học về văn tự, âm thanh và văn học), công xảo minh (các môn học về công nghệ và kỹ thuật), y phương minh (các môn học về các phương pháp chữa bệnh). Ngoài ra, còn có cách chia ngũ minh thành "đại ngũ minh" (gồm: nội minh, nhân minh, thanh minh, công xảo minh và y phương minh) và "tiểu ngũ minh" (gồm: tu từ học, từ vựng học, vận luật học, hí kịch học và thiên văn hình tướng học).
[2] Ban Trí Đạt là tôn xưng dành cho những học giả Phật giáo tinh thông ngũ minh ở Ấn Độ khi xưa. (DG)
[3] Hay Brahma, một trong ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo. Brahma còn có nghĩa là đấng sáng tạo. (DG)
[4] Đạo quả pháp là những luận lý Phật học và pháp môn tu tập để ngộ đạo và chứng quả của giáo phái Sakya. (DG)
[5]Nam mô: lời tỏ lòng thành kính. (DG)
[6] Quy y trong Phật giáo chỉ quy y Tam bảo (Phật, pháp và tăng), có nghĩa là nương nhờ Tam bảo để thoát khỏi mọi khổ não, tâm thức được yên ổn vĩnh viễn. (DG)
[7] Thượng sư hay Thượng sư Kim Cương là tôn xưng để chỉ những bậc đại đức trong Phật giáo Tây Tạng. Người Tạng thường gọi họ là Lạt Ma (chính là phiên âm tiếng Hán của từ Brahma). (DG)
[8] "Quán tưởng" là chữ dùng trong Phật giáo, chỉ sự tập trung ý niệm và tinh thần vào việc quan sát và suy tưởng về một đối tượng nào đó nhằm loại bỏ vọng niệm hoặc tĩnh tâm thiền định. (DG)
Hơn bảy trăm năm sau, khi tìm đọc các tài liệu của thời hiện đại tôi mới biết, sở dĩ anh em họ không thích nghi được với điều kiện khí hậu ở Lương Châu là do họ bị "sốc oxy". Vùng Sakya nằm ở độ cao bốn nghìn ba trăm mét so với mực nước biển, trong khi Lương Châu chỉ cao khoảng một nghìn mét. Từ vùng đồng bằng lên miền núi cao, người ta sẽ dễ bị phản ứng độ cao vì thiếu oxy, còn từ miền núi cao đi xuống đồng bằng, người ta sẽ bị "sốc oxy" vì phải tiếp nhận quá nhiều dưỡng khí một cách đột ngột. Chứng bệnh phản ứng độ cao và sốc oxy xảy ra ở mức độ nặng nhẹ khác nhau tùy vào thể chất của từng người. Nghiêm trọng nhất có thể khiến người ta sưng phổi mà chết. Con người hơn bảy trăm năm trước không thể biết được những tri thức này, cũng không có thuốc thang hỗ trợ, họ chỉ quy kết một cách đơn giản nguyên nhân của hiện tượng trên là không hợp thủy thổ.
Nhưng hai năm qua, ba bác cháu họ, một người già cả và hai đứa trẻ đâu chỉ trải qua và chịu đựng những thách thức về sức khỏe?
- Lâu Cát, Kháp Na, hai con có biết vì sao tuổi đã cao, sức đã yếu, vậy mà ta vẫn phải lặn lội ngàn dặm, vượt qua bao gian nan, thử thách để đến được đất Lương Châu này không? – Giọng nói trầm ấm của ngài ngừng lại một lát, rồi tiếp tục cất lên, nhưng ngài đã chuyển hướng câu chuyện sang một đề tài khác. – Sáu trăm năm trước, người anh hùng Songtsan Gampo (Tùng Tán Cán Bố) của chúng ta đã thống nhất các bộ lạc, dời đô về La-ta[1], lập nên vương triều Tufan. Sau đó, các đời tán phổ[2] kế tiếp nhau mở mang bờ cõi thông qua các cuộc chinh phạt.
Tôi không hiểu vì sao ngài Ban Trí Đạt đột nhiên nhắc đến lịch sử Tufan, nhưng tôi linh cảm điều này có liên quan đến việc ngài đến Lương Châu. Tôi rất hào hứng khi được nghe kể về lịch sử vương triều Tufan. Đang chuyên tâm lắng nghe, bỗng tôi cảm thấy một luồng sáng chiếu rọi. Bát Tư Ba khẽ ấn vào người tôi. Tôi chần chừ một lát mới thận trọng ghếch chiếc mũi ra bên ngoài. Bộ lông của tôi đã được hong khô nhờ nhiệt độ cơ thể của Bát Tư Ba, không khí trong lành ào đến, tôi không cảm thấy lạnh mà thấy thoải mái hơn vì không khí đã giúp tôi xua đi mùi vị khiến tôi cảm thấy bồn chồn, hoang mang khi nãy.
Tôi lấy hết can đảm, ngóc đầu lên, rón rén quan sát, cuối cùng tôi cũng đã được nhìn thấy bậc trí giả nổi tiếng nhất vùng Wusi – ngài Ban Trí Đạt của giáo phái Sakya.
Mái đầu trắng xóa, tóc cắt ngắn, lún phún mọc sát da đầu, dáng người cao lớn, lưng hơi còng, đốm đồi mồi mọc chi chít trên gương mặt và bàn tay ngài. So với ba năm trước, ngài già hơn và gầy đi rất nhiều. Nhưng đôi mắt của ngài vẫn rực sáng, vẻ thông tuệ, trác việt vẫn hiển hiện trong thần thái của ngài. Nhìn vào đôi mắt như kết tụ bởi ngàn vì tinh tú ấy, ta có cảm giác như ngài thấu tỏ mọi sự.
Người hầu bước đến, rót thêm trà bơ cho ngài, căn phòng bỗng ngập tràn hương thơm nồng nồng của vị trà bơ. Ngài nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói tiếp:
- Vì sao vương triều Tufan lớn mạnh là thế lại sụp đổ chỉ sau đó vài trăm năm?
Kháp Na chớp chớp đôi mắt to tròn, long lanh, tay bóp cằm, ra chiều nghĩ ngợi, vẻ mặt nghiêm túc, trông rất đáng yêu.
Ngài Ban Trí Đạt thở dài buồn bã:
- Vương quốc Tufan ban đầu không theo tín ngưỡng đạo Phật mà sùng bái đạo Bon[3]. Quốc vương Songtsan Gampo kết hôn với Công chúa Văn Thành người Hán và Công chúa Bhrikuti Devi của Nepal. Sau khi đến đất Tạng, hai vị công chúa đã xây dựng đền Jokhang (Đại Chiêu Tự) và đền Ramoche (Tiểu Chiêu Tự), đem tín ngưỡng Phật giáo đến với mảnh đất này, cuộc chiến giữa Bon giáo và Phật giáo cũng bắt đầu từ đó.
Ngài đưa mắt nhìn hai anh em, giọng nói trầm buồn:
- Vị vua cuối cùng là Tán phổ Langdarma đã ra lệnh đàn áp Phật giáo, tăng sĩ bị ép buộc phải hoàn tục, kinh Phật bị thiêu hủy, đền đài, miếu mạo biến thành nơi hành quyết. Kết cục là Langdarma đã bị những người ủng hộ Phật giáo giết chết. Sau khi Nhà vua qua đời, Hoàng hậu và Vương phi câu kết với thế lực hoàng thân quốc thích, vương tôn quý tộc tàn sát lẫn nhau để tranh đoạt vương vị, cuộc nội chiến diễn ra suốt hai mươi năm mà không bên nào giành chiến thắng. Thêm vào đó, hạn hán, mất mùa xảy ra liên miên, ôn dịch hoành hành khắp nơi, nhân dân đói khổ, lầm than, nô lệ vùng lên khởi nghĩa. Cuộc chiến tranh tàn khốc đã xảy ra, mạng người bị xem như cỏ rác, trong vòng năm nghìn dặm, đâu cũng là miền đất chết, máu chảy thành sông. Thế lực của hai bên dần suy yếu và tan rã, từ đó, đất Tạng bị chia năm xẻ bảy, các bộ lạc liên kết với các giáo phái Phật giáo địa phương lập nên chính quyền riêng rẽ, không chịu sự quản thúc của ai, cục diện phân ly này đến nay đã trải qua bốn trăm năm.
Vị trí giả lắc đầu, thở dài ảo não, khẽ khép đôi mắt mẫn tiệp lại, gương mặt đầy nỗi bi ai. Bát Tư Ba đứng lên, lại gần, đấm lưng, bóp vai cho ngài.
- Bác ơi, con biết, bác đến Lương Châu lần này với mong muốn chấm dứt tình trạng hỗn loạn ở Wusi, thống nhất người Tạng về một mối.
Vị trí giả đứng dậy, chầm chậm cất bước, tay chắp sau lưng, dáng vẻ khắc khổ, chiếc cổ dài vằn vện những vết nhăn của tuổi tác. Ngài quay về phía hai anh em Bát Tư Ba, ánh mắt u hoài, giọng thở than:
- Đó là ước nguyện lớn nhất của đời ta. Nhưng nay ta tuổi đã cao, sức đã yếu, chỉ e chẳng thể thực hiện ước nguyện đó. Ta trông cậy cả vào hai anh em con.
Khuôn ngực phập phồng, Bát Tư Ba dường như rất xúc động, cậu cố gắng giữ bình tĩnh, thưa rằng:
- Xin bác đừng lo, Vương gia Khoát Đoan sẽ nhanh chóng quay về Lương Châu. Sau khi gặp ngài, ước nguyện của bác chắc chắn sẽ thành hiện thực.
Kháp Na chớp chớp cặp mắt tròn to, ngước nhìn bác và anh trai ra chiều rất hiểu chuyện. Vị trí giả gật đầu, bàn tay da mồi vuốt ve cái đầu nhỏ xinh của Kháp Na. Sau đó, hai anh em đứng lên chào ngài để về phòng. Vị trí giả bình thản nói với Bát Tư Ba:
- Cho nó ra ngoài đi, đừng làm nó ngạt thở.
Chàng trai trẻ thở dài:
- Vào thời kỳ cực thịnh, vương triều Tufan đã tiêu diệt quốc gia Tuyuhun ở Thanh Hải, ra mặt đối kháng với nhà Đường, vương triều này đã tranh giành được không ít đất đai của Đại Đường. Khi xảy ra loạn An Sử, quân đội của Tufan đã thừa dịp tấn công Trường An và ra sức cướp bóc. Tiếc thay, kể từ vị vua đầu tiên là Songtsan Gampo đến vị vua cuối cùng là Langdarma, vương triều Tufan chỉ kéo dài chừng hai trăm năm rồi sụp đổ hoàn toàn. Cuộc chiến nhằm tranh giành vương vị trong nội bộ hoàng tộc, cùng với cuộc bạo động dữ dội khi tầng lớp nô lệ vùng lên đã tàn sát gần như toàn bộ giới quý tộc Tufan. Cuộc khởi nghĩa nô lệ cũng không giúp tìm ra được người anh hùng có khả năng lãnh đạo, bởi vậy, kể từ đó, Tây Tạng bị chia rẽ, phân ly và cho đến nay vẫn chưa có một vương triều thống nhất.
Tôi buồn rầu, dõi mắt qua khung cửa sổ:
- Sau này tìm đọc nhiều tài liệu liên quan tôi mới biết, cuộc tranh chấp giữa Bon giáo và Phật giáo khi đó chỉ là biểu hiện bên ngoài. Hầu hết các vị vua Tufan đều lên ngôi lúc còn rất nhỏ nên trong khoảng thời gian ấy, hoàng thân quốc thích của nhà vua sẽ tạm thời nắm quyền điều hành đất nước. Đến khi trưởng thành, nhà vua phải ra sức gây dựng và phát triển thế lực thân cận. Thêm vào đó, về đối ngoại, vương triều Tufan ưa dùng vũ lực để mở mang bờ cõi, trong khi đối nội vẫn duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ lỗi thời, lạc hậu khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Thực chất của cuộc xung đột giữa Phật giáo và Bon giáo, phần nhiều là phe phái này lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để đè bẹp thế lực của phe phái kia.
Chàng trai trẻ búng tay điệu nghệ tỏ vẻ tán thưởng:
- Phải công nhận là cô đã đọc rất nhiều sách lịch sử hiện đại. Có điều, sau khi triều đại Tufan sụp đổ, Phật giáo không hề bị tiêu diệt, mà ngược lại, họ đã liên kết với chính quyền địa phương khiến cho sức ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng lan rộng. Các giáo phái lớn của Phật giáo Tây Tạng như: Hồng giáo Nyingma, Bạch giáo Kagyu, giáo phái Kadampa (về sau sáp nhập vào Hoàng giáo Gelug) và Hoa giáo Sakya đều xuất hiện trong khoảng thời gian bốn trăm năm này.
Tôi gật đầu:
- Học giả Ban Trí Đạt của phái Sakya nuôi hoài bão lớn, ngài lại là người nhìn xa trông rộng, tiếc rằng khi ấy, thế lực của các giáo phái khác rất mạnh, nhất là giáo phái Kagyu. Trong khi đó, phái Sakya chỉ có sức ảnh hưởng trong phạm vi vùng Hậu Tạng, thực lực của giáo phái này không đủ để thực hiện việc thống nhất Tây Tạng.
Chàng trai mỉm cười:
- Chắc rằng học giả Ban Trí Đạt đã suy nghĩ rất nhiều về chuyến đi Lương Châu, bởi vì ngài không thể chắc chắn người Mông Cổ với quân đội đã và đang quần đảo khắp thiên hạ của họ sẽ lựa chọn phương cách nào để ứng xử với Tây Tạng.
[1] Tức Lhasa ngày nay.
[2] Tức quốc vương. (DG)
[3] Đạo Bon là tôn giáo nguyên thủy nhất của Tây Tạng, đạo này tin rằng vạn vật đều có linh hồn của nó. (DG)
Chương 5 - Ký Ức Tuổi Thơ.
"Học giả uyên bác có sức hút mãnh liệt với những người xung quanh;
Hương hoa nồng nàn có sức hút mãnh liệt với bầy ong chăm chỉ."
(Cách ngôn Sakya)
Bát Tư Ba đỏ mặt, từ từ quỳ xuống, luồn tay vào áo, nhấc tôi ra ngoài nhưng không giao tôi cho ngài Ban Trí Đạt mà ôm chặt trong lòng. Kháp Na cũng sợ xanh mắt, cuống quýt giải thích:
– Thưa... thưa bác, đó là... là... tại con ạ! Con đã nài nỉ đại ca mang Tiểu Lam theo...
Bát Tư Ba bình tĩnh ngắt lời Kháp Na, cúi đầu thưa:
– Tất cả là do Lâu Cát ham chơi, không chịu nghe lời bác, con xin nhận sự trừng phạt.
Ánh mắt sắc bén của ngài Ban Trí Đạt dồn cả vào tôi, ngài trầm ngâm một lúc rồi chậm rãi nói:
– Một con hồ ly ư...
Tôi cảm thấy giọng nói của ngài không mang giọng điệu trách móc nhưng rất sâu xa, khó đoán. Một tiểu yêu như tôi làm sao đoán biết được tâm tư sâu xa của bậc trí giả kia chứ! Dường như ngài biết rõ ý đồ của tôi, tôi sợ hãi, cảm giác như có bàn tay vô hình đang túm chặt lấy mình, vội vàng học theo Bát Tư Ba, chúi đầu xuống, không dám nhìn vào mắt ngài nữa.
– Thưa bác, Lam Kha Mai Đóa chỉ là một con hồ ly, nó rất đáng yêu, lại thông minh, biết nghe lời, hai anh em con rất thích nó... – Kháp Na rón rén giải thích, chốc chốc lại nghếch lên nhìn trộm ngài Ban Trí Đạt.
Biểu cảm trên gương mặt vị trí giả không hề thay đổi, ngài lặng lẽ xắn tay áo:
– Các con thích thì cứ nuôi, nhưng lúc tu tập nhất định phải chuyên tâm, sau này không được phép đưa nó đến nghe giảng pháp.
Ngừng một lát, ngài quay sang Bát Tư Ba:
– Lâu Cát, ta phạt con quỳ trước tượng Bồ Tát Văn Thù sám hối hai canh giờ.
Bát Tư Ba thưa vâng, Kháp Na đang đứng bên anh trai, đột nhiên quỳ mọp xuống, ngước gương mặt dễ thương lên, bật khóc thảm thiết:
– Thưa bác, lỗi tại con mà...
– Kháp Na, con đưa tiểu hồ ly về phòng trước đi.
Giọng nói của ngài vẫn hiền hòa, điềm đạm nhưng như mệnh lệnh nghiêm khắc, không được phép chống lại. Kháp Na nước mắt lưng tròng nhìn anh trai đang quỳ dưới đất. Bát Tư Ba mỉm cười động viên em rồi trao tôi cho chú nhóc.
– Nhớ cho Lam Kha ăn uống nhé! – Lúc trao tôi cho Kháp Na, Bát Tư Ba kề sát vào tai em trai thì thào căn dặn.
Kháp Na nín khóc, vừa bước đi vừa quay đầu lại nhìn, ngài Ban Trí Đạt cất giọng điềm tĩnh:
– Trong vòng hai canh giờ, không được phép đến thăm anh con.
Màn đêm vừa buông xuống, một trận gió lớn nổi lên, tuyết trắng ào ào trút xuống sau một ngày trời u ám. Những bông tuyết va vào cửa sổ, ù ù, rào rào.
Lò lửa bập bùng khiến căn phòng trở nên ấm cúng hơn. Kháp Na đứng ngồi không yên, ôm tôi đi đi lại lại chán lại ngồi lên giường, thở vắn than dài. Tôi cảm thấy rất áy náy nên khi Kháp Na trò chuyện với tôi bằng giọng cằn nhằn, than thở, tôi cũng tỏ ra rất mực lo lắng, phiền muộn. Biểu cảm chân thành đó càng khiến chú nhóc cưng tôi hơn.
Mãi tới khi tiếng mõ báo sang canh vang lên, Bát Tư Ba mới bước vào phòng. Cậu bỏ vạt áo thầy tu che trên đầu xuống, vai cậu phủ một lớp tuyết mỏng, lúc này tôi mới biết, ngoài trời tuyết rơi mù mịt.
– Sao còn chưa ngủ? – Cậu ấy giậm chân giũ tuyết bám trên áo, chìa tay về phía lò than sưởi ấm, cất giọng dịu dàng hỏi em trai.
– Đệ xin lỗi... – Kháp Na nhảy phịch xuống đất, chân trần, lao vào lòng anh trai, giọng nghẹn ngào.
– Không phải tại đệ đâu, tất cả là lỗi của ta. – Bát Tư Ba vỗ nhẹ vào mái tóc dài, đen mượt, thả ngang vai của Kháp Na, ngẩng lên nhìn tôi. – Đệ cho Lam Kha ăn gì chưa?
– Rồi ạ, đệ cho nó ăn bánh. – Kháp Na quên cả buồn phiền, hãnh diện khoe với anh trai.
Tôi tủi thân, rên rỉ mách với Bát Tư Ba, miếng bánh bột mì nhúng sữa bò ấy tôi nuốt không trôi, nó có mùi rất lạ, tôi không ngửi nổi. Tôi chỉ uống làm phép một chút sữa thôi và kiên quyết không ăn miếng bánh nào. Thế mà cái tên quỷ nhỏ kia cứ cố tình ấn đầu tôi xuống đĩa, nước mắt tôi ứa ra, nhưng cậu ấy vô tâm chẳng hề hay biết tôi bực mình thế nào.
Bát Tư Ba giật mình, sau đó lắc đầu cười:
– Đệ không biết loài hồ ly thích ăn gì sao?
Cậu ấy không kịp thay chiếc áo thầy tu đã ướt, vội vã mở cửa, ra ngoài. Nửa canh giờ sau, cậu ấy quay lại với đĩa thịt nóng hổi trên tay. Vừa thoáng ngửi thấy mùi thơm, nước miếng tôi đã nhỏ tong tong, tôi không chờ được nữa, vội vàng vùng thoát khỏi vòng tay của Kháp Na, phi như bay về phía Bát Tư Ba.
Trời ơi, thịt gà, lâu lắm rồi tôi mới lại được ăn món này! Kể từ khi bị lão thợ săn bắt nhốt đến nay, tôi chưa được nếm vị thịt gà lần nào. Đói ăn, thiếu chất, tôi gầy đến mức chỉ còn da bọc xương. Tôi nhai nuốt nhồm nhoàm, chỉ vài miếng đã hết sạch đĩa thức ăn, sau đó tôi liếm sạch mép đĩa, không bỏ sót dù chỉ một giọt mỡ. Bát Tư Ba ôm tôi lên, cánh tay thuôn dài, gầy guộc đưa bát sữa kề sát miệng tôi. Mùi thơm ngào ngạt của sữa bò phả vào mũi tôi khiến tôi thèm thuồng, nuốt nước bọt ừng ực.
Trong thời gian tu luyện ở núi Côn Luân, tôi thường xuống núi, vào nhà dân bắt trộm gà, nhân tiện... uống trộm sữa bò. Nhưng lúc này tôi lại không cảm thấy thoải mái với cái cách Bát Tư Ba chăm sóc tôi, vì cậu ấy làm như thể đang chăm một đứa bé ăn uống vậy.
Tôi muốn phản đối nhưng không cưỡng nổi sức hấp dẫn của sữa bò. Thôi vậy, bà lão này không thèm chấp với bọn trẻ con các người, ta phải uống cho đã đời cái đã. Tôi cứ thế tận hưởng bát sữa bò trên tay Bát Tư Ba, không quên liếm sạch mép bát, sau đó dụi đầu vào áo của cậu ấy bày tỏ sự mãn nguyện.
– Đại ca ơi, điệu bộ lúc uống sữa của Tiểu Lam trông thật buồn cười. – Kháp Na nãy giờ ngồi xổm bên cạnh xem tôi ăn uống, lúc này mới chớp chớp đôi mắt to tròn đen láy, cười tít mắt. – Huynh nhìn kìa, miệng nó dính đầy sữa.
Chú nhóc xòe tay định lau miệng cho tôi nhưng tôi nhe nanh dọa dẫm, sau đó quay đầu đi, không thèm để ý. Tên quỷ này hôm nay đày ải mình, nếu không có Bát Tư Ba, chắc mình chết đói rồi.
Một mảnh khăn nhẹ nhàng đậu trên miệng tôi. Tôi giật mình ngước lên, dưới ánh đèn dầu, tôi bắt gặp đôi đồng tử trong suốt, tinh khôi, từ đó phát ra ánh màu kỳ ảo tựa như hổ phách, khóe môi treo một nụ cười tươi tắn. Cậu ấy nhẹ nhàng lau miệng cho tôi, giọng nói khàn khàn, trầm ấm vẳng bên tai:
– No chưa? Đi ngủ nhé!
Cậu ấy đặt một tấm thảm xuống dưới chân giường, Kháp Na vội kêu lên:
– Đại ca ơi, cho Tiểu Lam ngủ trên giường cùng chúng ta đi. Trời lạnh thế này, một mình nó nằm dưới đất sẽ chết cóng mất.
– Ừ.
Bát Tư Ba ôm tôi lên giường, hai anh em họ cởi áo khoác ngoài, tắt đèn, chui vào trong chăn ấm. Tôi nằm giữa, hơi thở của họ thổi qua mặt tôi. Ngoài kia gió rít ầm ầm, giữa đêm khuya tịch mịch, tiếng ào ào của những trận tuyết lớn nghe càng rõ. Người tôi nóng ran, không biết là do hơi ấm tỏa ra từ chiếc giường kiểu giường lò sưởi hay bởi tim tôi đang đập loạn vì cảm giác khác thường lúc này.
Tôi cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được. Chưa bao giờ ở gần con người đến thế nên tôi cảm thấy không tự nhiên. Bản năng cảnh giác của loài hồ ly khiến tôi hình thành thói quen ngủ ngày thức đêm. Có lẽ tôi sẽ phải thay đổi thói quen này để thích nghi với tập tính của con người.
Trong đêm đen, thị lực của tôi vẫn rất tốt, vì thế tôi có thể nhìn thấy rõ cái đầu nhỏ xíu của Kháp Na đang hướng về phía mình, mái tóc dài, đen như mun rủ xuống che khuất nửa khuôn mặt, hai má lúm đồng tiền đáng yêu ẩn hiện, cái miệng xinh xắn thi thoảng lại bật lên vài câu nói mơ. Bát Tư Ba nằm nghiêng, gương mặt an nhiên, tĩnh tại, hai tay đặt ngay ngắn hai bên hông. Tôi tủm tỉm cười, cậu bé già dặn, quy củ này, ngay cả tư thế nằm ngủ cũng chỉnh tề như vậy.
Kháp Na trở mình, một cánh tay đổ xuống, đè lên chiếc đuôi dài của tôi. Tôi gắng gượng chịu đau, ra sức đẩy cánh tay của cậu nhóc ra. Nhưng rồi tôi nhận ra, so với con người, sức lực của loài hồ ly chỉ như kiến càng lay cổ thụ, châu chấu đá xe mà thôi. Tôi định kêu lên vì không chịu nổi thì bỗng thấy tiếng áo xống sột soạt. Đó là Bát Tư Ba. Không ngờ cậu ấy lại dễ thức giấc như vậy, tiếng kêu khe khẽ của tôi khi gắng sức đẩy cánh tay của Kháp Na đã khiến cậu ấy tỉnh giấc.
Bát Tư Ba rón rén ngồi dậy, nhấc cánh tay vô ý của Kháp Na ra khỏi người tôi, sau đó đặt cánh tay đang thò ra bên ngoài của chú nhóc vào trong chăn, kéo cao chăn đắp cho em trai. Xong xuôi, cậu ấy mới nằm xuống, nghiêng người về phía tôi, kéo tôi nằm sát vào người cậu ấy, cánh tay vòng qua người tôi tạo thành một hình vòng cung bao bọc, che chắn cho tôi.
Mùi cơ thể quen thuộc của cậu ấy ùa đến, trái tim lại đập dồn dập vô cớ khiến tôi trằn trọc không sao ngủ được, mãi đến khi những tia nắng đầu tiên của ngày mới lấp ló sau những đám mây xa tít nơi đường chân trời. Tôi thầm nghĩ, giá như khứu giác của loài hồ ly không quá nhạy bén thì tốt biết bao.
Trời sắp sáng, tôi mới mơ màng ngáp ngủ. Giấc ngủ chập chờn bị đánh thức bởi tiếng ho khan khe khẽ của ai đó. Vành tai cảnh giác của tôi dựng đứng, nghe ngóng, không phải Kháp Na mà là Bát Tư Ba. Tôi nghe rõ cậu ấy đang cố kìm giữ cơn ho, những lúc không thể kìm nổi, cậu ấy kéo chăn lên bịt miệng. Tôi thò đầu ra ngoài, ngước nhìn. Vẫn đôi mắt thuần khiết, lấp lánh trước bình minh ngày mới, ngón tay cậu ấy đặt trên môi, khẽ "suỵt" một tiếng, rồi mỉm cười hồn hậu vỗ nhẹ vào đầu tôi.
Sáng hôm sau, mặt mũi và cổ cậu ấy đỏ rần rần, cậu ấy ho khan dữ dội, chắc chắn cậu ấy đã bị cảm lạnh.
Cậu ấy giữ ấm cho tôi bằng cơ thể mình, vì không muốn tôi bị ngạt thở, cậu ấy đã không quấn chặt quần áo, chắc chắn gió lạnh đã thấm vào người, nửa đêm lại phải tỉnh giấc nhiều lần để đắp lại chăn cho em trai, như thế không bị cảm lạnh mới lạ.
Cậu bé này, vì sao không giống bất cứ người nào tôi gặp trước đây?
Tôi vốn rất kỵ mùi thuốc nhưng quyết tâm phá lệ, những ngày Bát Tư Ba dưỡng bệnh, tôi không rời cậu ấy nửa bước. Tôi lặng lẽ ở bên cậu ấy, cùng cậu ấy đọc sách. Mùi thuốc đắng chát lan tỏa khắp căn phòng, thi thoảng cậu ấy lại vuốt ve bộ lông của tôi, mỉm cười với tôi. Ngoài kia gió tuyết vần vũ, nhưng trong căn phòng này, hay ở bất cứ đâu có cậu ấy, nụ cười tỏa rạng từ gương mặt đôn hậu, dịu dàng, an nhiên của cậu ấy tựa như gió xuân hiền hòa, thanh khiết, xua tan cái giá lạnh thấu xương của mùa đông ảm đạm.
Trải qua hơn hai trăm năm tu luyện đơn độc, từ lâu tôi đã quên mất cảm giác có người thân ở bên cạnh là như thế nào, nhưng cậu bé này đã khiến miền ký ức êm đềm đó trong tôi sống lại. Đột nhiên, tôi cảm thấy rất thích được ai đó vỗ vỗ vào đầu và trò chuyện cùng... như thế này.
Mùa đông ở Lương Châu dằng dặc trôi, tôi đi theo hai anh em họ, luôn cố gắng tỏ ra rất mực dễ thương, rất mực đáng yêu để đổi lấy sự cưng chiều ngày càng gia tăng của họ. Giờ đây, mỗi ngày trôi qua tôi đều cảm thấy mãn nguyện, không còn những ngày mùa đông giá lạnh lo ăn từng bữa nữa. Tôi bắt đầu hiểu ra, vì sao loài chó và mèo lại bằng lòng trở thành thú cưng của con người. Còn tôi, tôi bằng lòng làm thú cưng là để được nghe ngài Ban Trí Đạt giảng pháp, thế mà kế hoạch ấy đã bị "phá sản" từ lâu. Tôi lại chẳng dám đi nghe trộm vì sợ rằng, vị trí giả nhạy bén đó sẽ dễ dàng phát hiện ra mục đích của tôi, biết được tôi là một yêu tinh, chứ không phải loài hồ ly bình thường.
Năm mới theo lịch của người Tạng tới gần. Tôi chuẩn bị đón năm mới đầu tiên ở Lương Châu trong vai trò là thú cưng của Bát Tư Ba và Kháp Na.
Vào thời kỳ hoàng kim của vương triều Tufan, các chiến binh Tufan dũng mãnh, thiện chiến đã tiêu diệt quân đội Tuyuhun ở Thanh Hải, chiếm được vùng đất trọng yếu Lương Châu nằm trên hành lang Hà Tây[1], vốn thuộc quyền cai quản của nhà Đường. Khi đó, nhiều người Tufan đã di cư đến Lương Châu, bởi vậy người Tạng ở Lương Châu rất đông, không khí Tết theo lịch Tạng ở đây diễn ra vô cùng náo nhiệt.
Một vài ngày trước thềm năm mới, những người theo hầu ngài Ban Trí Đạt hết sức bận rộn. Họ trộn bơ và bột mì, chiên thành những quả bơ với đủ mọi hình dạng khác nhau. Họ còn xếp những chiếc bánh nướng làm từ lúa mạch trộn với dầu bơ vào những chiếc hộp gỗ có họa tiết phong phú, rồi cắm những bông hoa sặc sỡ được làm từ các hạt ngũ cốc và bơ lên trên. Ngày Hai mươi chín Tết, mọi người cùng nhau quét dọn sạch sẽ khuôn viên khu nhà trọ ở Lương Châu. Dù chỉ là nơi cư trú tạm thời nhưng họ xem nơi đây như nhà mình, trang trí, bày biện rất đẹp mắt.
Đêm Hai mươi chín, mọi người tập trung lại, cùng nhau ăn món bánh canh. Chốc chốc lại có người kêu la om sòm vì cắn phải viên sỏi nhỏ, hay lông cừu hoặc que củi lẫn trong bánh canh khiến mọi người bật cười ha hả. Người đen đủi nhất là Kháp Na, chú nhóc cắn phải miếng ớt, cay đến nỗi nước mắt ngắn nước mắt dài, chạy bổ đi khắp nơi tìm nước uống. Chứng kiến cảnh tượng thê thảm ấy, tôi kiên quyết không động đến bát bánh canh trước mặt.
Sau khi ăn xong, Kháp Na mang theo một đĩa sứ, Bát Tư Ba ôm tôi, hai anh em dắt tay nhau, dung dăng dung dẻ ra đầu phố xem lễ đuổi ma. Lầu trống là nơi huyên náo, tấp nập nhất Lương Châu, tập trung rất đông bà con người Tạng. Người ta đốt một đống lửa lớn ở khu vực trung tâm, thanh niên trai tráng cầm đĩa thức ăn, vừa hò reo vừa chạy vòng quanh, những người khác nô nức chạy đuổi theo, miệng hô vang: "Ô dô, ô dô!" Khi đám người phía sau đuổi đến nơi, các chàng trai sẽ ném đĩa thức ăn vào đống lửa, hô vang những lời chúc tốt đẹp.
Kháp Na cười giòn tan, đòi anh trai đuổi theo mình. Hôm nay, chú nhóc được diện quần áo mới. Bộ áo khoác lông cừu nạm viền lụa bóng dày cộp quấn lấy người chú nhóc, trông cậu giống hệt quả bóng đang lăn. Tiếng cười lanh lảnh, trong veo như chuông bạc ngân vang. Niềm hân hoan vô tư lự ấy đã lan sang tôi. Nếu không bị thương ở chân, chắc chắn tôi sẽ nô đùa tới bến với Kháp Na. Khi đã thấm mệt, chú nhóc mới dừng lại, thở hổn hển, tay giơ cao chiếc đĩa sứ, quẳng mạnh vào đống lửa, sau đó quay sang Bát Tư Ba hô lớn:
– Zhaxidele[2]!
Mái tóc dài của Kháp Na tung bay trong gió. Dưới ánh lửa, đôi mắt đen láy của chú nhóc giống hệt viên thủy tinh đã được mài bóng, trong veo, lấp lánh, nụ cười hồn nhiên, má lúm đồng tiền chúm chím, đáng yêu. Bát Tư Ba ôm tôi trên tay, bước đến bên em trai, nắm lấy bàn tay cậu bé, ánh mắt ấm áp:
– Zhaxidele!
Kháp Na gõ ngón tay vào chiếc mũi nhọn của tôi, miệng cười tươi tắn:
– Zhaxidele!
Khi ấy, tôi đã rất muốn đáp lại: "Zhaxidele", nhưng tôi kịp kiềm chế.
Lò than rực hồng, tôi chăm chú ngắm nhìn ngọn lửa bập bùng, bất giác lòng chùng xuống. Hình ảnh Kháp Na với nụ cười trong sáng và ánh mắt lấp lánh cứ ẩn hiện trước mắt tôi.
– Kỷ niệm xưa chợt ùa về, phải không?
Chàng trai trẻ lại gần, chăm chú quan sát tôi.
– Đúng vậy, người có tuổi thường hoài niệm. Dù hôm nay không trò chuyện với cậu thì ngày ngày tôi vẫn hồi tưởng những kỷ niệm của quá khứ. – Tôi hít một hơi thật sâu, ngẩng lên mỉm cười với chàng trai. – Năm Mùi, Âm Hỏa, theo lịch Tạng, tức năm 1247 theo công lịch đã đến với những lời chúc tốt lành của hai anh em họ.
Năm đó, Bát Tư Ba mười ba tuổi, Kháp Na chín tuổi.
Năm đó là niên hiệu Thuần Hựu thứ bảy, đời vua Tống Lý Tông, nhà Nam Tống ở phương Nam xa xôi. Ba mươi hai năm sau, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế tám tuổi nhảy xuống biển, nhà Nam Tống sụp đổ hoàn toàn.
Năm đó, trí giả Ban Trí Đạt của phái Sakya đã được toại nguyện, vì cuối cùng ngài cũng gặp được Vương gia Khoát Đoan...
[1] Hành lang Hà Tây: hay còn gọi là hành lang Cam Túc, dài khoảng 900km, là con đường huyết mạch nối giữa Trung Quốc lục địa và vùng Tân Cương. Cung đường này nằm ở phía bờ tây sông Hoàng Hà nên có tên gọi là hành lang Hà Tây. (DG)
[2] Tiếng Tạng, có nghĩa là chúc may mắn, vạn sự như ý.
Chương 6 - Cuộc Hội Ngộ Ở Lương Châu.
"Kẻ nông nổi treo tri thức trên cánh môi,
Người học rộng nuôi hiểu biết trong tâm khảm;
Cỏ nước trôi nổi trên mặt ao,
Đá quý chìm sâu dưới lòng biển."
(Cách ngôn Sakya)
Kháp Na vừa thở hổn hển vừa ra sức đẩy những quả cầu tuyết mỗi lúc một lớn thêm, lăn qua lăn lại, kéo thành những vệt dài trên sân. Chú nhóc quay đầu lại, mặt đỏ phừng phừng, làn hơi trắng phả ra phì phò từ cái miệng nhỏ xinh, cậu nhảy cẫng lên, hò hét:
– Đại ca mau lại đây đắp người tuyết nào!
Bát Tư Ba đáp lại nhưng ánh mắt không rời cánh cổng khu nhà trọ, dáng vẻ bồn chồn, lo lắng, đứng ngồi không yên. Hôm nay là ngày ngài Ban Trí Đạt đến gặp Vương gia Khoát Đoan. Mới tinh mơ, một đoàn người đã hộ tống ngài rời khỏi nhà trọ, ba canh giờ trôi qua vẫn chưa thấy họ quay về.
Chân tôi chưa lành hẳn nên không chơi cùng Kháp Na được, đành ngoan ngoãn cuộn mình trong lòng Bát Tư Ba. Bỗng tôi phát hiện ra điều gì đó, bèn nhổm dậy, dỏng tai nghe ngóng.
– Lam Kha ơi, có phải bác ta đã về không? – Bát Tư Ba vỗ nhẹ vào đầu tôi, sốt ruột hỏi.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của khoảng hơn chục người nên gật đầu xác nhận với cậu ấy. Bát Tư Ba bật dậy, trao tôi cho Kháp Na rồi phi như bay ra cổng. Kháp Na gọi với theo: "Chờ em", rồi ôm tôi lon ton chạy theo anh trai.
Chúng tôi vừa ra đến cổng thì gặp lúc đoàn người trở về. Trí giả Ban Trí Đạt hiền từ nhìn hai anh em, mỉm cười nói:
– Lâu Cát, Kháp Na, hãy theo ta vào phòng, ta có chuyện muốn nói với hai con.
Ngài Ban Trí Đạt cho người hầu lui cả ra ngoài, Bát Tư Ba bước đến, rót một chén trà bơ nóng mời bác, rồi thận trọng hỏi:
– Bác ơi, buổi gặp mặt hôm nay diễn ra thế nào ạ?
Ngài Ban Trí Đạt nhấp một ngụm trà, mỉm cười hồn hậu nhìn hai anh em:
– Ta được Vương gia Khoát Đoan đón tiếp rất trọng thị. Trong lúc thương thảo, ta đã đề đạt nhiều kiến nghị và phần lớn đều được ngài chấp thuận. Ta và Vương gia đã trao đổi và thống nhất rằng, toàn bộ vùng Wusi sẽ quy thuộc Mông Cổ, trở thành thuộc địa của Mông Cổ và hằng năm sẽ thực hiện việc cống nạp. Thủ lĩnh của các địa phương chấp nhận quy thuận sẽ được giữ nguyên chức vị nhưng phải do người Mông Cổ ủy nhiệm, đồng thời phải trình báo các thông tin về hộ tịch, nhân khẩu, phải nộp thuế và tuân thủ pháp luật của Mông Cổ.
Bát Tư Ba sững sờ, ngập ngừng hỏi:
– Thưa bác, nếu buộc cả vùng Wusi quy thuận Mông Cổ như thế, liệu các quý tộc và các giáo phái Phật giáo trong vùng có phản đối không?
Ngài Ban Trí Đạt gật đầu, thở dài.
– Tất sẽ có người phản đối. Nhưng Wusi giờ đây không còn là vương triều Tufan hùng mạnh thuở xưa nữa, nếu chúng ta tuyên chiến, chỉ e sự đấu đá, tranh giành trong nội bộ các giáo phái, phe phái ở Wusi sẽ gây ra sự hỗn loạn nghiêm trọng hơn sự cả tấn công của ngoại bang. Chỉ một cánh quân của Vương gia Khoát Đoan mà chúng ta còn không đối phó nổi, nói chi đến việc chống lại cả một đội quân lớn? Đội quân Mông Cổ có lệ rằng, trước cuộc chiến, nếu dân địa phương không chịu hàng thì sau khi chiếm cứ được vùng đó, họ sẽ tàn sát không thương tiếc. Con xem các nước: Đại Hạ, Đại Kim, Khwarezm[1], Nga, có quốc gia nào không từng bị tàn sát? Chỉ có nước Uyghur ngoan ngoãn quy hàng mới thoát cảnh đầu rơi máu chảy, người dân bảo toàn được tính mạng và của cải... Wusi ly loạn suốt bốn trăm năm rồi, không thể tiếp tục tình trạng này nữa. – Vị trí giả vươn thẳng tấm lưng còng, giọng nói tuy yếu ớt nhưng chứa đựng sức mạnh của sự kiên tâm. – Ta muốn hàng triệu người Tạng thoát khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc, ta muốn Wusi chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bảy, ta sẵn sàng chấp nhận sự chỉ trích từ phía các giáo phái khác...
Cả hai anh em cùng ngước nhìn người bác với ánh mắt kính phục, đồng thanh gọi:
– Bác ơi...
Gương mặt hom hem, vầng trán nhăn nheo già cả nhưng đôi mắt của bậc trí giả vẫn rực sáng như quầng lửa đỏ. Ngài chậm rãi nói tiếp:
– Vương gia Khoát Đoan đã quyết định ủy nhiệm người của phái Sakya giữ chức Darughachi[2], ban cho lệnh bài vàng và lệnh bài bạc. Thủ lĩnh các địa phương ở Wusi đều phải tuân thủ mệnh lệnh của các sứ giả mang theo những lệnh bài này. Quan lại địa phương phải trình báo hộ tịch, không được phép làm theo ý mình. Quan lại Mông Cổ sẽ tới Wusi để cùng người Sakya bàn bạc về vấn đề thuế má.
Cách trò chuyện của ngài Ban Trí Đạt với hai anh em không giống trò chuyện với những đứa trẻ mà như đang đàm đạo chính sự với người lớn. Có lẽ biết mình không còn nhiều thời gian nên ngài muốn giao phó lại mọi việc cho hai anh em. Bát Tư Ba lắng nghe chăm chú, gật đầu tán đồng. Kháp Na vẫn ôm tôi trên tay, cặp mắt như hai hòn bi ve, đảo liên tục, hết nhìn người bác lại nhìn anh trai, lặng lẽ lắng nghe câu chuyện, như thể rất hiểu.
Ngài Ban Trí Đạt đặt chén trà vào khay, ngẩng nhìn hai anh em Bát Tư Ba, ánh mắt dạt dào tình thương. Ngài kêu Kháp Na đến ngồi cạnh mình, dịu dàng vuốt ve mái tóc dài mềm mại của chú nhóc:
– Trong cuộc gặp lần này còn một chuyện nữa liên quan đến hai con.
Hai anh em cùng ngẩng lên nhìn người bác. Ngài Ban Trí Đạt ngừng rất lâu rồi mới cất tiếng:
– Dòng họ Khon của chúng ta ở Sakya cũng có thể xem là danh gia vọng tộc. Hơn một trăm bảy mươi năm trước, cụ nội Konchog Gyalpo[3] của ta đã xây dựng tu viện Sakya, lập ra giáo phái Sakya nhưng người không hề xuất gia.
Hai anh em Bát Tư Ba không hiểu vì sao người bác bỗng nhiên nhắc đến tổ tiên của họ nhưng vẫn chăm chú lắng nghe, không dám cất tiếng hỏi.
– Đến năm năm mươi tám tuổi, cụ nội ta vẫn không có con trai. Một ngày nọ, người tình cờ gặp và nảy sinh tình cảm với cô gái múc nước bên sông. Về sau, cô gái ấy đã sinh cho người một cậu con trai kháu khỉnh, đặt tên là Kunga Nyingpo, chính là ông nội ta. Cụ nội qua đời khi ông nội ta mới mười một tuổi, ông nội phải kế tục việc cai quản giáo phái Sakya và kế thừa toàn bộ trang viên của gia tộc. Người cai quản giáo phái Sakya suốt bốn mươi tám năm, thu nhận vô số đệ tử, khiến giáo phái của chúng ta không ngừng lớn mạnh. – Giọng nói của vị học giả trầm ấm, chốc chốc ngài lại trầm tư ngẫm ngợi như đang ôn lại kỷ niệm. –
Ông nội của ta cũng không xuất gia. Người cưới hai chị em gái xứ Chamo, sinh được bốn người con trai. Tiếc thay, người con cả qua đời ở Ấn Độ khi mới hai mươi hai tuổi. Người con trai thứ hai – Sonam Tsemo – ra đời khi ông nội ta đã bước sang tuổi năm mươi mốt. Sonam Tsemo là bác hai của ta, bác ấy là người kế nghiệp ông nội, miệt mài tu tập, cần mẫn viết sách, bác mất năm bốn mươi mốt tuổi. Sau khi bác hai qua đời, phái Sakya được giao cho người bác thứ ba của ta là Dragpa Gyaltsen... Các con còn nhớ mái vòm vĩ đại của tu viện Sakya mà các con được chiêm ngưỡng hồi nhỏ không?
Ngài Ban Trí Đạt ôm vai Kháp Na hỏi, chú nhóc ngoan ngoãn gật đầu. Vị trí giả mỉm cười đôn hậu, tiếp tục
câu chuyện:
– Công trình kiến trúc nguy nga đó do người bác thứ ba của ta xây dựng khi người tiếp quản giáo phái. Dưới sự lãnh đạo của ngài, phái Sakya không ngừng mở rộng và lớn mạnh, tầm ảnh hưởng của chúng ta đã vượt ra khỏi phạm vi vùng Hậu Tạng. Ta là con trưởng nên từ nhỏ đã được bác ấy bồi dưỡng để trở thành người kế nghiệp giáo phái theo truyền thống của gia tộc.
Ngài Ban Trí Đạt ngừng lại, nhấp một ngụm trà bơ.
– Bác hai và bác ba của ta tuy là người kế nghiệp giáo phái nhưng không chính thức xuất gia. Ông nội của ta và họ được tôn làm "ba vị thủy tổ" của giáo phái Sakya.
– Bác ơi, con nhớ ra rồi. – Kháp Na hí hửng reo lên. – Tượng của họ được đặt trong đại điện, ngày nào chúng con cũng phải đến đó quỳ lạy.
Người bác gật đầu.
[1] Ngày nay là quốc gia Uzbekistan. (DG)
[2] Chức quan lớn nhất cai quản địa phương, quân đội và quan nha ở Mông Cổ thời xưa và triều Nguyên.
[3] Ngài Konchog Gyalpo xây dựng tu viện Sakya vào năm 1073.
– Cha ta, ông Palchen Opochey là con út, cha chào đời khi ông nội ta đã năm mươi chín tuổi. Trong số bốn người con của ông nội, chỉ có cha ta là người gánh trách nhiệm nối dõi tông đường. Ông có hai người con trai, là ta và cha của các con, Sangtsa. – Ngài ngước nhìn không trung, ký ức như trôi về từ miền xa thẳm. – Năm hai mươi bảy tuổi ta đã chịu giới Tỷ khâu, là người đầu tiên xuất gia và trở thành Tỷ khâu của giáo phái Sakya. Còn cha của các con, là con út nên phải gánh vác trách nhiệm duy trì huyết thống của gia tộc, cưới vợ, sinh con, cai quản dòng tộc, vì vậy mới có các con.
– Bác và ngài Khoát Đoan đã bàn bạc và quyết định chuyện gì đó có liên quan đến việc kế nghiệp của giáo phái Sakya, đúng không ạ? – Bát Tư Ba nãy giờ vẫn trầm ngâm không nói, đột nhiên ngước cặp mắt thuần khiết lên nhìn người bác và đặt câu hỏi.
Vị trí giả ngạc nhiên nhìn cậu bé, rồi gật đầu:
– Lâu Cát, con thông minh lắm, ta rất mừng.
Giọng ngài Ban Trí Đạt bỗng trở nên trầm buồn:
– Kể từ khi sáng lập cho đến nay, giáo phái Sakya đều do dòng họ Khon của chúng ta đời đời kế nghiệp, cai quản. Trước đây, thực lực của giáo phái còn non yếu, mà dòng họ ta lại hiếm con muộn cháu nên có thể tạm chấp nhận để một người không chính thức xuất gia kế tục sự nghiệp. Nhưng kể từ thời đại của ta trở đi, chúng ta buộc phải tuân thủ giáo luật của nhà Phật để phát triển giáo phái lớn mạnh vượt ra khỏi phạm vi vùng Sakya nhỏ bé. Thế nên con trưởng sẽ xuất gia làm sư, cai quản giáo phái; con út cưới vợ, sinh con, nối dõi tông đường. Lâu Cát, con là con trưởng, được ta nuôi dưỡng từ nhỏ, mười tuổi ta cho con thọ giới Sa di, mục đích là để ngày sau con sẽ kế tục sự nghiệp của ta.
Hai anh em Bát Tư Ba đưa mắt nhìn nhau, Kháp Na có vẻ chưa hiểu câu chuyện, đôi mắt to đen láy nhấp nháy, cái đầu nghiêng nghiêng ra chiều nghĩ ngợi. Bát Tư Ba cắn môi, lấy hết can đảm, hỏi bác:
– Kết quả cuộc thương thảo của bác và ngài Khoát Đoan liên quan đến con hay Kháp Na?
– Kháp Na. – Ngài Ban Trí Đạt cúi xuống nhìn chú nhóc bên cạnh, mỉm cười. – Ta đã quyết định chuyện hôn nhân của Kháp Na. Mùa hạ năm nay con sẽ thành thân với Công chúa Mukaton, con gái Vương gia Khoát Đoan.
– Sao?
Kháp Na đang mải mê vuốt ve chiếc đuôi dài của tôi, giật mình khi nghe người bác thông báo, ngón tay do không kiểm soát đã ấn quá mạnh vào đuôi của tôi. Chú nhóc sợ hãi nhìn ngài Ban Trí Đạt. Tôi bị chú nhóc làm cho đau điếng, kêu oai oái mấy tiếng chú nhóc mới nhận ra, vội vàng buông tay.
– Bác ơi! – Bát Tư Ba kêu lên. – Kháp Na mới chín tuổi!
– Ta biết. – Ngài Ban Trí Đạt, hai mắt nhắm hờ, thở dài não nề. – Vương gia muốn gả Công chúa cho con, nhưng vì con đã xuất gia, năm hai mươi tuổi con sẽ thọ giới Tỷ khâu, suốt đời không thể kết hôn nên ta và Vương gia đã thống nhất để Kháp Na cưới Công chúa.
– Bác ơi, con... con... con...
Kháp Na nhảy xuống đất, chú nhóc dường như rất hoảng hốt, lo sợ.
– Vương gia là người chủ động đề xuất hôn sự này. Hoàng thất Mông Cổ xưa nay đều muốn gắn kết các vùng thuộc địa bằng các cuộc hôn nhân. – Ngài Ban Trí Đạt kéo Kháp Na vào lòng. – Kháp Na à, kết hôn với Công chúa là mối duyên trời cho, cuộc hôn nhân này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của phái Sakya ngày sau.
– Công chúa bằng tuổi con hả bác? – Kháp Na cất giọng rụt rè.
– Công chúa Mukaton năm nay mười bảy tuổi, hơn con tám tuổi. – Nhận thấy nét mặt kinh ngạc của Kháp Na, ngài Ban Trí Đạt vội vàng an ủi. – Ta nghe nói, Công chúa là một cô gái tài ba, cưỡi ngựa, bắn cung đều rất xuất sắc. Con hãy xem cô ấy như chị gái mình. Chỉ một thời gian nữa thôi, con sẽ trưởng thành.
– Bác ơi... – Kháp Na dẩu đôi môi chín mọng, tỏ ý không bằng lòng.
– Sở dĩ ta sắp xếp chuyện kết hôn của con gấp gáp như vậy cũng có nguyên nhân của nó. – Ngài Ban Trí Đạt ngẩng lên, gương mặt già nua, vằn vện những dấu vết của thời gian, vẻ lo âu trĩu nặng. – Phái Sakya từ xưa đến nay đều hiếm muộn đường con cháu. Ông nội ta chào đời khi cụ nội đã năm mươi chín tuổi, cha ta cũng vậy. Lâu Cát, con ra đời khi cha con đã năm mươi hai tuổi. Kháp Na còn tội nghiệp hơn, vừa chào đời đã không còn cha. Phái Sakya được kế thừa bởi huyết thống của dòng họ Khon, nếu như dòng họ không có người nối dõi, việc kế thừa giáo phái sẽ không thể tiếp tục. Tuổi cao sinh con sẽ dẫn đến nguy cơ con trẻ phải kế nghiệp, mà như vậy, quyền hành buộc phải tạm trao cho đệ tử của giáo phái. Nếu không may trao quyền hành vào tay kẻ có dã tâm thì gia tộc họ Khon chúng ta sẽ gặp nguy hiểm... Bởi vậy, ta quyết định cho con kết hôn sớm vì hy vọng con sớm sinh con đẻ cái để kế tục huyết thống của dòng họ. Trọng trách này chỉ có thể giao phó cho con mà thôi.
Ngừng một lát, ngài Ban Trí Đạt nâng chiếc cằm nhỏ xíu của Kháp Na lên, cất giọng hiền từ:
– Kháp Na, bây giờ con vẫn còn nhỏ, nhưng vài năm nữa thôi, con sẽ hiểu nỗi khổ tâm của ta.
Bát Tư Ba nãy giờ vẫn cúi đầu, cắn chặt môi, lúc này bỗng ngẩng lên, ánh mắt vương nỗi u buồn:
– Nhưng thưa bác, cha con vẫn còn những người con trai khác ngoài hai anh em con kia mà. Em trai thứ hai Rinchen Gyaltsen, em trai thứ ba Yeshe Bernas đều có thể kế thừa gia nghiệp, vì sao nhất định phải bắt Kháp Na cưới vợ khi em con còn bé như vậy?
– Lâu Cát! – Ngài Ban Trí Đạt nghiêm khắc ngắt lời Bát Tư Ba. Tôi chưa thấy ngài nặng lời với anh em họ như thế bao giờ. – Mẹ đẻ của các con, bà Machig Kunchid là vợ cả, lại xuất thân dòng dõi trâm anh thế phiệt, huyết thống cao quý, không người vợ lẽ nào của cha các con có thể sánh bằng. Các con hãy ghi nhớ, phái Sakya nhất định phải do hai anh em con kế thừa!
Kháp Na sợ hãi, mắt đỏ hoe, ngước nhìn người bác và anh trai với vẻ tội nghiệp, đáng thương.
Dường như nhận ra mình khá nặng lời, ngài Ban Trí Đạt ôm Kháp Na, đặt chú nhóc ngồi lên đùi mình, dịu giọng:
– Kháp Na à, sau khi thành thân, con sẽ sống trong phủ của Vương gia Khoát Đoan, từ nay phải mặc trang phục và học nói ngôn ngữ của người Mông Cổ.
– Bác ơi, vậy còn anh con thì sao, huynh ấy có sống trong phủ Vương gia không?
Ngài Ban Trí Đạt lặng lẽ lắc đầu.
Kháp Na chăm chú quan sát biểu cảm nặng nề trên gương mặt người bác, quay sang nhìn anh trai từ nãy đến giờ vẫn cúi đầu im lặng, nước mắt vòng quanh, nhưng chú nhóc cố kìm nén để không bật khóc trước mặt họ. Hôm đó, Kháp Na đã trở thành một cậu bé hiểu chuyện.
Đêm đó, Kháp Na ôm tôi ngủ, Bát Tư Ba ôm em trai. Chú nhóc áp sát cơ thể nhỏ bé của mình vào lưng tôi, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi, thấm vào da thịt tôi, từng giọt, từng giọt len vào tim tôi. Đứa bé mới chín tuổi đã phải đối diện với biến cố to lớn trong cuộc đời, phải rời xa những người thân đã gắn bó khăng khít từ thuở lọt lòng để đến sống ở một nơi xa lạ, với vị hôn thê xa lạ. Nỗi hoang mang, sợ hãi khi ấy, có lẽ cả đời cậu chẳng thể quên.
Bát Tư Ba không lên tiếng, chỉ nhẹ nhàng vỗ về cậu em bé bỏng. Không bao giờ tôi quên tuổi thơ của Kháp Na đã kết thúc chóng vánh năm cậu ấy mới chín tuổi.
Vài ngày sau, những lá thư từ nhà trọ ở Lương Châu được gửi đi khắp các địa phương thuộc vùng Wusi. "Bức thư của ngài Ban Trí Đạt, phái Sakya gửi các bậc đại trí đại đức và tín đồ toàn cõi Wusi" thuyết phục các giáo phái và thủ lĩnh các địa phương ở Tây Tạng khi đó quy hàng người Mông Cổ ấy đã liệt kê chi tiết tên gọi các địa phương. Bức thư được lập thành ba bản, một bản gửi Vương gia Khoát Đoan, một bản gửi về Sakya, một bản ngài Ban Trí Đạt lưu giữ.
Cho đến thế kỷ 21, bức thư quý hiếm ấy vẫn được bảo tồn trong tu viện Sakya ở Tây Tạng
Chàng trai trẻ vỗ nhẹ vào đầu mình.
– Trời ơi, mới có chín tuổi... – Cậu ta lắc đầu, thở dài. –
Khoát Đoan bắt Kháp Na sống trong Vương phủ, mặc trang phục và nói tiếng Mông Cổ chẳng qua là muốn giữ cậu bé làm con tin. Cuộc hôn nhân của hai con người khác xa nhau về cả thói quen sinh hoạt, ngôn ngữ, tuổi tác sao có thể có được hạnh phúc kia chứ?
Tôi cười buồn:
– Thực ra ngài Ban Trí Đạt hiểu rõ điều này, nhưng vì lợi ích chung, ngài không thể từ chối lời đề nghị của Khoát Đoan.
Chàng trai trẻ tỏ ra ngẫm ngợi:
– Tuy nhiên, việc làm này của ngài Ban Trí Đạt có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Trung Quốc. Tây Tạng quy thuận Mông Cổ tức là quy thuận triều Nguyên, mặc dù vào thời điểm này, triều Nguyên vẫn chưa xuất hiện. Có thể xem đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Tây Tạng trở thành một địa phương, chịu sự quản lý của chính quyền trung ương.
Tôi gật đầu:
– Nếu phân tích và đánh giá theo cách nhìn của lịch sử hiện đại thì cuộc hội kiến giữa Ban Trí Đạt và Khoát Đoan đã thúc đẩy việc thống nhất Trung Quốc, bởi vậy, các nhà sử học đặc biệt xem trọng và đánh giá cao cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, Ban Trí Đạt chỉ là người đặt nền móng, Tây Tạng thực sự trở thành một phần của Trung Quốc là nhờ công lao của Bát Tư Ba.
Chương 7 - Chú Rể Trẻ Con.
"Không ai muốn gần gũi kẻ xấu, dù hắn thông minh chừng nào đi nữa;
Không ai dám ôm ấp rắn độc, dù bảo bối trên đầu nó quý giá chừng nào đi nữa."
(Cách ngôn Sakya)
– Tân lang tới!
Người ta dựng rất nhiều lán trại màu trắng trên một bãi cỏ rộng, người qua người lại nô nức, cười nói rộn ràng, tiếng nhạc phát ra từ cây đàn đầu ngựa[1] ngân nga, trầm bổng. Mùa hạ ở Lương Châu thoáng đãng, mát mẻ, trời xanh mây trắng, những bông hoa dại màu vàng, màu đỏ rực rỡ, đua nhau khoe sắc trên đồng cỏ, rung rinh trong gió. Không gian thoang thoảng mùi thơm của thịt bò, thịt dê nướng xen lẫn hương cỏ đồng nội ngai ngái, thanh thanh. Một đoàn người ngựa chầm chậm tiến vào giữa tiếng hoan hô dậy sóng. Những cỗ xe ngựa được chăng kết dây hoa rực rỡ, trong xe chất đầy những thùng đồ cao ngất, đó là sính lễ của nhà trai. Kháp Na cưỡi một con ngựa nhỏ đi ở giữa đoàn đón dâu. Hôm nay, chú nhóc mặc bộ áo dài quý phái của người Mông Cổ, thắt lưng bắt mắt, đội chiếc mũ đính tua rua màu đỏ, chóp tròn, đi ủng cao, sau lưng giắt cung tên cỡ nhỏ. Chỉ mới chín tuổi nên mặc dù là nhân vật chính của buổi lễ, chú nhóc vẫn bị chìm nghỉm giữa đám đông thanh niên trai tráng to khỏe, vạm vỡ. Kháp Na mặt buồn thiu, may có Bát Tư Ba luôn ở bên, nở nụ cười hồn hậu động viên em trai.
Tôi giấu mình trong chiếc áo khoác dài của Kháp Na, quan sát mọi thứ xung quanh bằng sự hiếu kỳ. Đoàn rước dâu đến trước một chiếc lều của người Mông Cổ, Kháp Na cưỡi ngựa đi quanh lều một vòng. Đám hầu cận của ngài Ban Trí Đạt xếp thành hàng, trao cho nhà gái một con dê và những lễ vật khác. Sau khi nhà gái nhận lễ, Kháp Na xuống ngựa, trên tay chú nhóc là chiến khăn Ha đa[2]. Đoàn hầu cận dâng rượu cho người ngồi chính giữa là Vương gia Khoát Đoan, sau đó lần lượt mời rượu các vị khách quý.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp ngài Khoát Đoan, tính tò mò đã thôi thúc tôi thò đầu ra ngoài, quan sát người cháu của nhân vật lừng danh thiên hạ: Thành Cát Tư Hãn. Vương gia Khoát Đoan chừng ngoài bốn mươi, cao lớn, bụng phệ, gương mặt vuông vức, kiểu mặt điển hình của người Mông Cổ, để râu quai nón. Con trai cả Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi của ngài ngồi phía sau, gương mặt khôi ngô, tuấn tú hơn hẳn người cha.
Một đám phụ nữ tập trung ở phía cuối lán trại, người ngồi ở giữa, khoác áo cô dâu màu đỏ thắm, trên mái tóc lúc lắc những chuỗi ngọc ngà châu báu chính là Công chúa Mukaton. Trông cô rất giống cha mình: mắt nhỏ, mũi tẹt, gương mặt tròn trịa, thân hình đẫy đà. Tập tục cưới xin của người Mông Cổ khác với người Hán, cô dâu không cần trùm khăn che mặt, cũng không cần một mình ngồi trong phòng tân hôn chờ chú rể. Kháp Na vừa bước vào lều, Mukaton đã nhìn chú nhóc chằm chằm, ánh mắt lộ vẻ chán nản, tấm tức. Bà mối vội vã ghé vào tai Công chúa thầm thì đôi câu, chừng như để an ủi.
Sau khi đã kính rượu hết lượt khách quý, Kháp Na quỳ xuống trước mặt Khoát Đoan, dập đầu lạy ba lạy, rụt rè gọi:
– Nhạc phụ đại nhân!
Khoát Đoan bật cười, người rung lên, vừa cất giọng đã áp đảo mọi thanh âm xung quanh:
– Tốt lắm! Con rể, hãy đứng lên!
Kháp Na đã tập đi tập lại rất nhiều lần những nghi lễ của người Mông Cổ nhưng giọng nói như sấm dội bên tai của bố vợ khiến cậu bé khiếp vía, đến nỗi lúc đứng lên giẫm cả vào vạt áo, lảo đảo rồi ngã bổ nhào về phía trước. Sự cố xảy ra quá đột ngột nên không ai kịp đỡ chú nhóc. Thế là Kháp Na tội nghiệp ngã sóng soài ra đất.
Lúc sau mới có người chạy đến đỡ chú bé dậy, hỏi han rối rít xem chú bé có bị đau ở đâu không, nhưng Kháp Na chẳng buồn đáp lại vì còn bận cuống quýt nhấc tôi ra khỏi chiếc áo khoác, kiểm tra tỉ mỉ:
– Tiểu Lam, em có sao không?
Tôi không sao cả, vì trước lúc ngã, chú nhóc đã kịp giữ chặt tôi. Tôi kêu lên vài tiếng, nhắc nhở Kháp Na rằng người bị thương chính là chú nhóc đó.
– Cậu chủ Kháp Na, khuỷu tay cậu bị thương rồi.
Lúc này, chú nhóc mới để ý đến vệt máu sẫm đỏ nơi khuỷu tay, những giọt máu đỏ tươi nhỏ xuống áo khoác, chú bé sợ hãi òa khóc. Người hầu vội vã băng bó vết thương, hết lời an ủi:
– Cậu chủ ơi, hôm nay là ngày vui của cậu, không nên khóc.
Những người có mặt khi đó thấy chú nhóc quá yêu chiều, bao bọc tiểu hồ ly thì tỏ ra khinh thường. Kháp Na mặc kệ, vẫn gào khóc thảm thiết, đưa tay áo lên quệt mũi, lau nước mắt, trang phục của chú rể nhàu nhĩ đến thảm hại, chiếc mũ trên đầu cũng lệch sang bên. Vương gia Khoát Đoan thì khó xử, Công chúa Mukaton thì lửa giận bốc ngùn ngụt, cô muốn bật dậy nhưng các bà mối đã ra sức kìm giữ. Chừng như chẳng thể muối mặt thêm nữa, ngài Ban Trí Đạt lẳng lặng ra hiệu cho Bát Tư Ba. Bát Tư Ba đón tôi từ tay Kháp Na, hết lời động viên em trai, cuối cùng Kháp Na cũng nín.
Kháp Na hoàn tất những nghi lễ tiếp theo với đôi mắt đỏ hoe. Lúc khởi hành, Mukaton được một người đức cao vọng trọng trong gia tộc bế lên xe hoa. Theo tục lệ, chú rể phải cưỡi ngựa đi ba vòng quanh xe hoa của cô dâu, nhưng Kháp Na đã quên sạch, thế là Mukaton lại được dịp ném ánh mắt khinh bỉ về phía chú nhóc.
Thực chất của cuộc hôn nhân này là sau hôn lễ, Kháp Na sẽ phải đi ở rể nên người ta sắp xếp các nghi thức rước dâu theo tập tục của người Mông Cổ trên một bãi cỏ rộng ở ngoại thành, sau đó cô dâu, chú rể sẽ vào sống trong khu nhà nhỏ thuộc phủ đệ của Vương gia Khoát Đoan.
Vừa bước vào Vương phủ đã thấy một đống lửa lớn ở sân. Người ta chuẩn bị sẵn rượu sữa ngựa để cô dâu và chú rể tưới vào đống lửa rồi khấu đầu lễ bái. Người chủ lễ đứng bên cạnh tụng đọc văn tế:
– Thánh chủ Thành Cát Tư Hãn đã phát hiện ra đá lửa, phu nhân Ha Ngạch Luân[3] là người bảo vệ và gìn giữ ngọn lửa thiêng bằng việc cúng dâng khăn lụa Ha đa và rượu sữa ngựa. Xin mời cô dâu, chú rể quỳ lạy và cầu nguyện! Thần lửa sẽ chứng giám cho hai người. Xin mời cô dâu, chú rể quỳ lạy và khấn nguyện! Cúi xin Phật Tổ phù hộ hai vị sớm sinh quý tử!
Nghe tới chuyện "sớm sinh quý tử", những tràng cười chế giễu lại được dịp rộ lên. Mukaton ném nỗi bực tức về phía đám đông bằng ánh nhìn sắc nhọn, tiếng cười đùa lập tức im bặt.
Tiệc cưới được tổ chức vào buổi tối, Vương phủ trở nên náo nhiệt lạ thường. Những con dê béo ngậy, vàng ruộm trên bếp nướng, mùi thơm ngào ngạt. Người Mông Cổ múa hát say sưa, nam nữ nắm tay nhau nhảy điệu Guozhuang[4] quanh đống lửa. Thanh niên trai tráng để mình trần thi đấu vật, bắn tên, tiếng hoan hô dậy trời. Kháp Na không biết uống rượu, chú nhóc chỉ lẳng lặng quan sát khung cảnh lạ lẫm xung quanh bằng vẻ dè dặt, thận trọng. Hễ có ai đến chúc mừng, chú nhóc sẽ uống trà thay rượu và gật đầu như lật đật.
– Người anh em, đệ không uống được rượu thì uống trà thay vậy. Huynh đệ ta chúc mừng nhau nào! – Khởi Tất cầm bát rượu, hoan hỉ chạm cốc với Bát Tư Ba rồi một hơi uống cạn, kêu người hầu rót tiếp. – Người anh em, thế là chúng ta đã thành người một nhà, chúng ta là anh em thật rồi! Em gái ta được chiều chuộng từ nhỏ, tính tình ngang ngạnh, nếu nó có chỗ nào không phải, gia đình đệ bỏ quá nhé!
Bát Tư Ba khách sáo đáp lễ, Khởi Tất choàng vai Bát Tư Ba, cười ha hả:
– Ông bác của đệ quả là Bồ Tát Văn Thù tái thế, ngài đã chữa khỏi dị tật đeo đẳng trên chân cha ta suốt bao nhiêu năm đó! Các giáo sĩ Kitô, các thầy mo Saman[5] trong cung, không ai có thể sánh với trí tuệ và sự thông thái của ngài. Vậy nên hôm qua, cha ta đã sắc phong đại sư Ban Trí Đạt làm "Tế thiên trưởng lão". Sau này, mọi hoạt động cầu nguyện trong cung sẽ do đại sư chủ trì, giáo sĩ của các giáo phái khác đều phải nghe theo sự chỉ đạo của đại sư.
Bát Tư Ba chắp tay, cúi đầu tạ ơn:
– Vương gia Khoát Đoan hậu đãi bác cháu bần tăng, lại xây đền và giao cho bác bần tăng coi sóc. Bác cháu bần tăng vô cùng cảm kích.
– Thế có là gì! Kêu gọi Wusi quy thuận Mông Cổ, tránh cho lê dân kiếp nạn binh đao, đầu rơi máu chảy, đại sư Ban Trí Đạt mới là người trí cao đức rộng. Một tháng nữa đền Hoán Hóa sẽ được xây cất xong, đến lúc đó, đại sư và đệ có thể dọn tới đó, Kháp Na thì ở lại phủ của cha ta. Hai vị có thể đến thăm cậu ấy bất cứ lúc nào.
Nghe vậy, Kháp Na lại chực mếu, mắt đỏ hoe. Bát Tư Ba lặng lẽ nắm chặt tay em trai, mỉm cười an ủi chú nhóc.
Màn đêm buông xuống, tiệc tàn người tan. Bát Tư Ba tiễn em trai đến cổng khu nhà tân hôn, chỉnh lại trang phục của Kháp Na.
– Đệ phải ngủ cùng cái chị đó thật sao? Đệ muốn ngủ cùng huynh cơ. – Kháp Na mếu máo nắm chặt tay Bát Tư Ba không chịu buông, vẻ mặt sợ hãi. – Chị ta dữ dằn lắm, đệ sợ...
– Kháp Na, ta không ngủ cùng đệ được. Bát Tư Ba buồn bã nhìn em trai, dịu dàng vuốt ve khuôn mặt bầu bĩnh của Kháp Na. – Công chúa là vợ của đệ, hãy sống hòa thuận với cô ấy. Ta hứa sẽ năng đến thăm đệ.
Kháp Na ngước đôi mắt ngấn nước, nghẹn ngào:
– Vậy... huynh để Tiểu Lam ở lại với đệ, được không?
[1] Đàn đầu ngựa là loại nhạc cụ hai dây của dân tộc Mông Cổ, trên đầu cần đàn có chạm hình đầu ngựa nên gọi là đàn đầu ngựa. (DG)
[2] Khăn dệt bằng tơ lụa của người Tạng và người Mông Cổ, dùng để tặng nhau khi gặp mặt, tỏ ý kính trọng và chúc mừng. (DG)
[3] Mẹ của Thành Cát Tư Hãn. (DG)
[4] Điệu múa dân gian của người Tạng, Trung Quốc. (DG)
[5] Saman giáo là hoạt động tín ngưỡng dân gian được phát triển trên nền tảng tín ngưỡng nguyên thủy, xuất hiện từ rất sớm, rất có thể là tôn giáo đầu tiên trên thế giới.
Bát Tư Ba gật đầu, trao tôi cho Kháp Na:
– Khuya rồi, đệ vào nhà đi.
Kháp Na vuốt ve lưng tôi, gắng gượng nở nụ cười với anh trai. Dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, nụ cười của chú nhóc trong trẻo, tinh khôi thấm vào từng tấc gan tấc ruột của tôi. Những năm tháng sau đó, khi Kháp Na ngày một trưởng thành, tôi không được thấy lại nụ cười vô tư lự thuở ấu thơ ấy nữa.
– Xéo ra ngoài! – Chiếc cốc bay thẳng về phía Kháp Na cùng với tiếng gào thét, quát nạt. – Tên nhãi ranh như ngươi mà đòi ngủ cùng ta ư?
Kháp Na né được chiếc cốc, sợ sệt thu mình sau cánh cửa, cất giọng rụt rè bằng thứ tiếng Mông Cổ lơ lớ:
– Sao chị lại giận dữ như vậy?
Mukaton gầm gừ bật dậy, thẳng tay bứt những chuỗi trân châu gắn trên tóc, vừa giựt vừa ném:
– Sao ta lại giận dữ như vậy? Sao ta lại phải lấy tên nhóc kém cỏi, chỉ biết ôm khư khư con hồ ly đáng ghét? Trong lúc cử hành hôn lễ, ngươi đã gây ra bao trò lố, rồi đây, mỗi lần bước ra khỏi cửa, ta sẽ bị thiên hạ chỉ trỏ, chê cười.
Bà mối muốn giữ Mukaton lại nhưng sức bà không nhằm nhò gì so với Mukaton cao lớn, bà dễ dàng bị gạt sang bên:
– Ta muốn trở thành vợ của một chàng trai dũng mãnh, chứ không phải một thằng nhóc miệng còn hơi sữa
như ngươi!
Kháp Na nước mắt ngắn nước mắt dài, run rẩy, lập bập:
– Nhưng... tôi sẽ lớn kia mà.
– Chờ ngươi thành người lớn thì ta đã già mất rồi, già rồi! Ta có được mấy năm tuổi xuân chứ hả?
Mukaton càng lúc càng nổi trận lôi đình, vung tay giậm chân, vò đầu bứt tóc, ngọc ngà châu báu, đồ trang sức trút xuống theo các động tác cuồng nộ của cô, vung vãi khắp nền nhà.
Kháp Na bật khóc, nước mắt tuôn trào, gào lên nghẹn ngào:
– Tôi có muốn đâu cơ chứ...
– Ngươi còn dám nói à? Ai thèm lấy một tên người Tạng vô danh tiểu tốt như ngươi! Ta đã cầu mong có người đến cướp dâu! Nhưng ai dám cướp cháu gái của Thành Cát Tư Hãn[1]? – Khi nỗi phẫn uất lên đến cực độ, Mukaton bắt đầu chuyển từ gào thét sang gào khóc. – Ôm lấy con hồ ly chết tiệt đó và xéo ra khỏi phòng ta! Sau này, nếu không được ta cho phép, ngươi không được bước chân vào đây nửa bước!
Kháp Na quay lưng chực bước đi nhưng Mukaton đột nhiên chân trần lao ra, lưng tựa vào cửa, nhìn chú nhóc bằng ánh mắt gườm gườm, nghi hoặc:
– Đứng lại! Ngươi định đi đâu?
Kháp Na khựng lại, lấy tay áo quệt nước mắt:
– Tôi đi tìm anh tôi...
– Không được đi! – Mukaton trừng mắt đe nẹt. – Ngươi tưởng ta ngu lắm sao? Ngươi định đi tố tội ta chứ gì?
Kháp Na khóc nấc lên, vẻ mặt khổ sở:
– Nhưng chị bảo tôi ra ngoài kia mà.
Mukaton nghĩ ngợi một lát, lại mở cửa, hung hăng lôi xềnh xệch Kháp Na sang phòng bên cạnh:
– Từ nay ngươi sẽ ngủ ở thư phòng, không được bén mảng đến phòng của ta. Còn nữa, cấm khóc nghe chưa, ngươi mà khóc lóc, ta sẽ đánh đó!
Qua kẽ hở của những ngón tay, Kháp Na trông thấy một bộ mặt dữ tợn, hung hãn, vì quá sợ hãi, chú bé khóc nấc lên. Bỗng bên tai tôi vang lên một tiếng "bốp" chát chúa, Kháp Na sững sờ, gương mặt non nớt của chú bé lập tức in dấu năm ngón tay. Tôi chồm lên, cắn vào cánh tay đang chực giơ lên của Mukaton. Cô ta đau đớn, ra sức vùng vẫy. Tôi không giữ được thăng bằng, bị hất rơi xuống đất, sau khi lăn vài vòng, tôi tiếp tục xông tới, nhưng Kháp Na đã ôm tôi lên, bao bọc tôi trong vòng tay của cậu bé. Mukaton chỉ mặt tôi, nghiến răng chì chiết:
– Ngươi dám trái lời ta, ta sẽ giết chết con hồ ly xấu xa này!
Kháp Na gắng gượng kìm những tiếng nấc nghẹn trong cổ, cúi đầu, thu mình vào một góc, ôm chặt lấy tôi. Mukaton đảo mắt răn đe bà mối và các cô hầu đang run như cầy sấy:
– Còn cả các ngươi nữa, kẻ nào dám tâu với cha và anh trai ta, ta sẽ đánh gãy chân, gãy tay kẻ đó!
Đám người hầu run bắn, cúi đầu không dám ho he.
Nằm trong lòng Kháp Na, tôi ngước nhìn chú nhóc, gương mặt hồng hồng non nớt đã bầm tím bởi cái bạt tai quái ác, lòng quặn thắt. Tôi bực bội với chính mình, thú linh, thú hiếm mà làm gì, trường sinh bất lão, trường sinh bất tử mà làm gì, sống trên đời ngần ấy năm cũng chỉ học được vài thứ tiếng, ba trăm tuổi mà chẳng được cao nhân chỉ đường soi lối nên chẳng học được bất cứ thứ phép thuật gì, chẳng trị nổi đứa con gái nanh ác.
Kháp Na ôm tôi vào lòng và trải qua đêm tân hôn trong thư phòng. Chú nhóc nằm co ro trên giường, nước mắt lưng tròng, khẽ gọi tên những người thân. Tôi nhẹ nhàng liếm gò má sưng đỏ của chú nhóc, nước bọt của tôi có tác dụng chữa sưng tấy rất tốt. Chú nhóc dần hết đau, ôm gọn tôi trong vòng tay, chìm vào giấc ngủ.
Tôi miệt mài liếm khô những vệt nước mắt trên cằm của chú nhóc, khẽ cất tiếng hát bài hát ru đầu tiên mà tôi học được từ con người, bài Nhịp võng đưa.
Năm đó, người cháu nhỏ nhất trong dòng họ của tôi cũng già cả và qua đời, cả gia tộc chỉ còn lại mình tôi. Tôi ngồi cạnh nó, liếm khô giọt nước mắt cuối cùng của nó. Nó chẳng còn đủ sức để cất lên thứ tiếng của loài hồ ly nữa, nhưng tôi có thể đọc thấy trong ánh mắt buồn thảm của nó điều này, rằng giọt nước mắt ấy, nó khóc cho tôi. Hẳn là nó thấy xót cho tôi vì những ngày tháng dằng dặc sau này tôi sẽ phải sống đời cô độc.
Sau khi nó ra đi, tôi cô đơn đến phát điên. Lần đầu tiên tôi xuống núi, vào nhà dân không để trộm gà mà trốn trong một góc khuất, nghe họ trò chuyện. Tuy chưa hiểu tiếng người nhưng với tôi khi ấy, được nghe bất cứ tiếng nói nào cũng là điều tuyệt diệu. Và tôi đã nghe thấy người phụ nữ đu đưa cánh võng, khe khẽ cất lời ru con trẻ, khúc hát ru ấy chính là bài Nhịp võng đưa.
Tôi ghé sát tai Kháp Na, khe khẽ ầu ơ, hệt như người mẹ hiền từ ru con bên cánh võng năm xưa.
"Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru
Ngủ ngoan con yêu, tay mẹ đưa
Mai sau khôn lớn con hãy nhớ
Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ."
Chú nhóc khẽ xoay người, chiếc lưỡi hồng hồng liếm láp làn môi đỏ như son, khóe miệng uốn lên thành vành cong đáng yêu.
Hôm sau, lúc tỉnh dậy, việc đầu tiên chú nhóc làm là ôm tôi vào lòng, hoan hỉ kể:
– Tiểu Lam à, đêm qua ta được gặp mẹ trong mơ đấy. Mẹ đã hát cho ta nghe, giọng hát ngọt ngào như cô tiên vậy. Mẹ còn thơm vào má ta nữa...
Tôi liếm chiếc má bầu bĩnh của Kháp Na, khẽ kêu để chia sẻ niềm vui với chú nhóc.
Chàng trai trẻ lắc đầu:
– Hôn lễ này chẳng khác nào một vở bi hài kịch. Kháp Na kết hôn với người con gái ghê gớm đó, sau này chắc rất khốn khổ.
– Khi ấy tôi cũng nghĩ rằng Mukaton là kẻ kiêu căng, ngạo mạn, hung hãn, tàn bạo, nhưng nhiều năm sau, tôi bắt đầu hiểu cô ấy. Thực ra, cô ấy cũng rất đáng thương, giống như Kháp Na, cô ấy chỉ là vật hy sinh trong cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị này. – Tôi thở dài, tiếp thêm củi vào lò than. – Nhiều năm sau đó, Kháp Na vẫn tiếp tục ngủ trong thư phòng. Sống trong hoàn cảnh xa lạ, chú nhóc dần trưởng thành, chín chắn hơn, cũng đáng thương hơn. Tuy rất sợ Mukaton nhưng chú nhóc vẫn làm ra vẻ thuận hòa, vui vẻ, không bao giờ than thở với bác và anh trai. Thời gian đầu, chú nhóc không thích mặc chiếc áo dài thùng thình của người Mông Cổ, không quen đồ ăn Mông Cổ, chật vật khi học tiếng Mông Cổ, nhưng dần dà, chú nhóc đã học cách thích nghi.
Chàng trai trẻ quay đầu lại, nhìn tôi:
– Tôi cứ băn khoăn mãi về điều này, vì sao đại sư Ban Trí Đạt quyết tâm đưa anh em Bát Tư Ba đi cùng trên chặng đường dài đầy gian nan ấy? Bát Tư Ba khi đó mới mười tuổi và Kháp Na mới sáu tuổi. Dắt díu theo hai chú nhóc trải nghìn dặm đường, vượt qua cao nguyên Thanh Tạng quanh năm tuyết phủ, dù là ở thời hiện đại cũng cực kỳ gian khổ, chứ đừng nói vào thời đó, điều kiện đường sá và ăn ở vô cùng thiếu thốn.
Tôi thở dài:
– Thực ra, khi đó trong nội bộ phái Sakya, không ít người lên tiếng phản đối việc đại sư Ban Trí Đạt đưa hai chú bé đi cùng, họ lo ngại trên đường gặp bất trắc. Nhưng đại sư Ban Trí Đạt làm vậy là có lý do. Nếu để hai anh em Bát Tư Ba ở lại Sakya, e rằng tính mạng của họ khó được bảo toàn.
Chàng trai trẻ tròn mắt:
– Sao... sao lại như vậy? Lẽ nào...
[1] Trong tiếng Mông Cổ thì Thành Cát Tư Hãn có nghĩa là vua của cả thế giới. (DG)
Chương 8 - Nói Tiếng Người.
"Biển cả chẳng phiền khi đầy nước,
Kho báu chẳng chật lúc nhiều vàng;
Người phàm ai than thừa hạnh phúc,
Học giả ai hiềm tri thức dày."
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1251, tức năm Hợi, Âm Thiết, theo lịch Tạng, tức niên hiệu Thuần Hựu thứ mười một nhà Nam Tống, tức niên hiệu Mông Kha Hãn thứ nhất, Mông Cổ.
Ban Trí Đạt bảy mươi tuổi, Bát Tư Ba mười bảy tuổi, Kháp Na mười ba tuổi.
Mùa đông, cây cỏ đìu hiu, hơi thở đóng băng, dãy Lục Bàn Sơn như mình rồng uốn lượn, giờ cũng hiền lành náu mình trong chiếc áo tuyết dày cộm, trắng muốt. Dưới chân núi lô nhô lán trại của người Mông Cổ, trong lán trại lớn nhất có rất nhiều người mặc áo giáp trụ. Ngồi ở vị trí cao nhất là một người đàn ông trung niên tráng kiện, gương mặt tròn vành vạnh tựa trăng rằm. Bên cạnh ông là một phụ nữ kiều diễm, đài các. Người đàn ông trung niên uy nghi, đạo mạo, giọng nói trầm hùng:
– Tufan có những vĩ nhân tiêu biểu nào?
Người ngồi ở vị trí gần nhất phía dưới là nhà sư trẻ tuổi mặc áo màu đỏ, dáng vẻ tự tin, cử chỉ khiêm nhường, nhã nhặn. Nhà sư khẽ cúi người khiêm cung, dõng dạc trả lời:
– Thưa Đại vương Hốt Tất Liệt, tổ tiên của người Tufan có ba vị pháp vương đều là hóa thân của các vị Bồ Tát: Pháp vương Songtsan Gampo là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, Pháp vương Trisong Detsen là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát, Pháp vương Tri Ralpacan là hóa thân của Kim Cương Thủ Bồ Tát.
Động tác, cử chỉ của nhà sư khiêm tốn mà không gò bó, lời nói đường hoàng, dõng dạc mà không kiêu căng, ngạo mạn, lưng vươn thẳng như ngọn thông, dáng người cao lớn. Giọng nói đã không còn dấu vết của tuổi dậy thì mà trầm ấm, êm mượt như nhung lụa, cứ thế tuôn chảy vào lòng người. Vầng trán nhẵn bóng ngày nào giờ đã lốm đốm mụn thanh xuân nhưng không hề làm mất đi vẻ tuấn tú, khôi ngô. Vẻ bẽn lẽn thuở thiếu thời đã biến mất nhờ sự dày công bồi dưỡng của người bác, thay vào đó là dáng vẻ tự tin, cởi mở, điềm tĩnh. Con người ấy có sức hút kỳ lạ đối với những người xung quanh.
Đôi đồng tử đen láy đảo quanh một lượt các vị khách có mặt, rồi mới tiếp tục cất giọng ngợi ca:
– Vị vua vĩ đại Songtsan Gampo là người đã góp ba công đức lớn lao đối với đất Tạng. Một là, hơn sáu trăm năm trước, ngài đã thống nhất toàn vùng Wusi. Hai là, ngài ra lệnh xây dựng hệ thống văn tự Tạng. Ba là, ngài đã cưới Công chúa Văn Thành của đất Hán và Công chúa Bhrikuti Devi của Nepal và ra sức phát triển đạo Phật... Cháu đời thứ năm của Vua Songtsan Gampo – Vua Trisong Detsen – là người đã mời vị cao tăng Thiên Trúc – đại sư Liên Hoa Sinh – tới Tufan truyền pháp và xây dựng ngôi đền đầu tiên ở Tufan – đền Samye. Vua Trisong Detsen đã lựa chọn bảy người trong số các con em quý tộc đến Samye để xuống tóc đi tu. Họ chính là những tu sĩ đầu tiên của Tufan, sử sách gọi họ là "bảy tu sĩ Samye". Dòng họ Khon của bần tăng có địa vị đặc biệt cao quý vào thời kỳ vương triều Tufan. Cụ nội của bần tăng vốn là đại thần trong triều đình Songtsan Gampo, được Nhà vua rất mực nể trọng. Người con cả của cụ chính là một trong "bảy tu sĩ Samye" thời đó.
Tất cả những người có mặt trong lán trại khi ấy đều như bị mê hoặc bởi giọng nói trầm ấm, lay động, ai nấy đều chăm chú hướng mắt về phía thầy tu trẻ. Người phụ nữ xinh đẹp với đôi mắt như biết nói chốc chốc lại ghé tai Hốt Tất Liệt thì thầm nhỏ to.
– Cháu trai của Vua Trisong Detsen – Vua Tri Ralpaca – là người rất sùng đạo Phật, ngài đề cao việc tu tâm dưỡng tính. Ngài đã kết tình hòa hảo với đế quốc Đại Đường ở Trung Nguyên, giao ước không bao giờ xâm phạm lẫn nhau. Bởi vì nhà Đường từng gả Công chúa Văn Thành và Công chúa Kim Thành cho Vua Tufan nên hai nước có mối giao tình đặc biệt. Và bởi vậy, tấm bia kỷ niệm ngày hai nước thiết lập quan hệ đồng minh thân thiết còn gọi là bia "Liên minh cậu cháu", được đặt trước cổng đền Jokhang ở La-ta. – Bát Tư Ba say sưa thuyết giảng, đến nỗi cậu ấy dường như đang ở tư thế hơi đổ người về phía trước. – Bởi vậy, tuy vương triều Tufan sụp đổ nhưng công đức của ba vị vua là vô cùng to lớn. Họ được người đời sau tôn làm "Tam pháp vương", tượng của họ được thờ cúng trong tất cả các ngôi đền ở Wusi.
Hốt Tất Liệt vỗ tay cười lớn, vẻ tự tin, cởi mở toát ra từ ngài rất đặc biệt. Ngài gật đầu với người phụ nữ xinh đẹp, sau đó đặt tay lên bàn, tấm tắc khen:
– Các vị tướng lĩnh, hãy xem, Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi mà học rộng biết nhiều, tài hoa uyên bác như vậy đấy. Những kẻ làm võ tướng ít học các ngươi có thấy xấu hổ không hả?
Ai nấy vội vàng gật đầu thưa vâng, những tiếng tán thưởng râm ran khắp lều trại. Bát Tư Ba, mặt đỏ như gấc chín, cúi đầu, lí nhí cảm ơn.
Hốt Tất Liệt nhìn quanh khắp lượt, xúc động nói:
– Hẳn các vị đều biết, sau khi Quý Do Hãn qua đời, tháng Sáu vừa qua, anh trai Mông Kha của ta đã được chọn làm Khả hãn[1]. Đại hãn Mông Kha ủy thác cho ta thống lĩnh quân đội miền Nam Mông Cổ, đóng quân trên Lục Bàn Sơn này. Trước đó, ta nghe nói, trí giả Ban Trí Đạt của phái Sakya ở Tufan là người có trí tuệ phi thường, nay đang trú ở Lương Châu, nên đã cử sứ giả đi mời ngài. Chẳng ngờ, đại sư tuổi cao sức yếu, không thể đi xa, vì vậy Khởi Tất đã đưa cháu trai của ngài Ban Trí Đạt là Bát Tư Ba đến đây.
Hốt Tất Liệt đứng dậy, chầm chậm bước tới trước mặt Bát Tư Ba, ánh mắt ngưỡng mộ và thán phục không giấu giếm của ngài hướng về nhà sư trẻ:
– Lần đầu gặp Bát Tư Ba, ta đã rất tâm đắc. Vì vậy, ta phải "hối lộ" đứa cháu họ nhỏ mọn một trăm con tuấn mã, nó mới chịu để Bát Tư Ba ở lại. Hơn một tháng qua, mỗi khi nghe Bát Tư Ba giảng pháp, ta đều bội phần khâm phục. Bởi vậy hôm nay, ta mới cho vời các ngươi đến đây, để cùng lắng nghe những lời khuôn vàng thước ngọc của bậc thánh giả, mong sẽ giúp đầu óc u tối của các ngươi được mở mang đôi chút.
Đám tướng lĩnh lập tức phụ họa. Người phụ nữ xinh đẹp rúc rích cười, rồi nàng cất giọng nhỏ nhẹ, mềm mại như lụa:
– Vương gia, nghe nói Bát Tư Ba rất giỏi trong việc chủ trì nghi lễ quán đỉnh Hevajra[2]. Chi bằng, nhân dịp này, hãy mời ngài giảng giải cho chúng ta nghe về nghi lễ này, chúng ta phải chịu lễ ra sao, sẽ kết thành thí chủ và phúc điền[3] thế nào để mọi người được mở rộng tầm nhìn.
===============
[1] Mông Kha được chọn làm Khả Hãn năm 1251.
[2] Hevajra là Phật giáo Kim Cương thừa. Quán đỉnh nghĩa là xối nước lên đầu, đây là một nghi thức quan trọng của dòng truyền thừa, thường diễn ra trong các buổi lễ tiếp nhận đệ tử hoặc lễ kế vị của các bậc cao tăng. (DG)
[3] Phúc điền là chữ dùng của đạo Phật. Giáo lý Phật giáo giảng rằng, phàm những người thờ Phật, kính tăng, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương người khốn khổ đều được ban hưởng phúc đức, giống như người nông dân được thu hoạch hoa màu sau những tháng ngày trồng cấy vất vả. Bởi vậy, "phúc điền" là từ dùng để chỉ Phật, tăng, cha mẹ và những người khốn khổ trong xã hội.
– Vương phi Khabi nói phải lắm.
Tôi trốn trong khóc khuất, hé mắt nhìn trộm, lòng rối như tơ vò. Sau khi nghe cuộc đối thoại giữa Hốt Tất Liệt và Vương phi, tôi lại càng sốt ruột. Lần đầu sử dụng phép thuật chạy nhanh thần tốc, năm trăm dặm mà chỉ mất sáu canh giờ. Nhưng lúc tới nơi, tôi bị hoa mắt chóng mặt, đau đầu buồn nôn. Tôi cố kiềm chế cảm giác nôn nao, khó chịu đó để đi tìm Bát Tư Ba, mãi mới tìm thấy cậu ấy ở đây, trong bối cảnh long trọng này.
Trong lán trại có rất nhiều người nên tôi không dám hiện thân, đành cắn răng chịu đựng cơn chóng mặt vô cùng khó chịu, chờ dịp Bát Tư Ba chỉ có một mình sẽ ra gặp cậu ấy. Nhưng nếu đề nghị của Vương phi được chấp thuận, tôi sẽ phải chờ đợi nhiều canh giờ nữa. Cảm giác chóng mặt ngày càng dữ dội, nếu để mất kiểm soát, tôi sẽ lập tức bị hôn mê bất tỉnh.
Không chần chừ thêm được nữa, tôi lấy hết can đảm, lao đến trước mặt Bát Tư Ba, dùng miệng kéo vạt áo cậu ấy.
– Lam Kha, sao em lại đến đây? Em đang ở Lương Châu với Kháp Na kia mà?
Bát Tư Ba phải ngừng buổi thuyết giảng vì sự xuất hiện đột ngột của tôi. Cậu ấy kinh ngạc ôm tôi lên. Những tiếng xuýt xoa, trầm trồ lao xao xung quanh:
– Ôi! Một con hồ ly tuyệt đẹp, toàn thân nó màu xanh kìa!
Đầu nặng như búa bổ nhưng tôi vẫn cố gắng lắc lắc đầu để vớt vát chút tỉnh táo cuối cùng, nhân lúc mọi người đang ồn ào bàn tán, tôi ghé sát vào tai cậu ấy thì thào mấy câu tiếng Tạng, giọng nhẹ như gió thoảng:
– Bệnh tình của đại sư vô cùng nguy cấp, cậu phải về Lương Châu ngay!
Gương mặt điển trai ngẩn ngơ vì kinh ngạc của cậu ấy cứ mờ dần, mờ dần trước mắt tôi. Tôi không chịu nổi nữa, ngả đầu vào bờ vai gầy guộc của cậu ấy và thiếp đi.
– Tỉnh rồi hả Lam Kha?
Tôi ngẩng lên, bắt gặp cặp mắt long lanh đung đưa trước mắt, đôi đồng tử trong suốt tựa pha lê ấy in sâu vào mắt tôi, khiến trái tim tôi đập nhanh một cách kỳ quặc.
– Em thiếp đi suốt ba ngày ba đêm rồi đó. – Cậu ấy gõ nhẹ vào mũi tôi. – Đói không? Ta đã sai người chuẩn bị sữa bò và thịt gà, em muốn ăn ngay hay để lát nữa?
Vì sao vẫn còn cảm giác quay cuồng vậy nhỉ? Tôi đưa mắt nhìn xung quanh, thì ra mình đang ở trên xe ngựa. Tôi lắc đầu cười, cảm giác quay cuồng là do xe ngựa, vậy mà tôi cứ tưởng mình chưa hết chóng mặt.
– Chúng ta đang trên đường về Lương Châu, xe ngựa chạy ngày đêm không nghỉ, nhưng cũng phải hai ngày nữa mới đến nơi, sẽ vất vả lắm đó. Nếu em thấy mệt thì nói với ta nhé!
Trong xe chỉ có mình cậu ấy, cậu ấy đang nói chuyện với tôi như với bao người khác. Tôi chống hai chân trước lên đùi cậu ấy, nhổm người dậy, cắn môi do dự một lúc mới cất tiếng hỏi:
– Cậu không sợ ư?
– Sợ ư? Vì em biết nói tiếng người? – Cậu ấy mỉm cười, vuốt ve sống lưng tôi. – Ta biết chuyện đó lâu rồi.
Đến lượt tôi bị bất ngờ, suýt nữa ngã nhào:
– Cậu... cậu... cậu biết từ khi nào?
– Lần nào ta tu tập, em cũng lén đến xem. Lúc ta xếp bằng ngồi thiền tụng niệm, em cũng làm theo.
Cậu ấy bóp nhẹ đầu mũi tôi, tinh nghịch nháy mắt với tôi:
– Thế là một lần nọ, ta đã cố ý nói rằng, với câu kệ này, chúng ta phải nhắm mắt lại và tập trung suy tưởng, tụng niệm ba trăm lần mới hiệu quả. Em đã mắc mưu, tuy cố gắng không phát ra tiếng lớn nhưng em đã lẩm nhẩm tụng theo. Lúc em nhắm mắt tụng niệm, ta rón rén lại gần, nhìn trộm em, khẩu hình của em khi ấy rất giống người thường nên ta biết chắc em có thể nói được tiếng người.
Tôi há hốc miệng kinh ngạc. Khi ấy tôi thậm chí đã tin tưởng tuyệt đối rằng, phương pháp tu tập đó rất hiệu quả, vì sau khi tụng niệm, một luồng khí lạ lưu thông toàn thân, khiến bước đi của tôi nhẹ nhàng và nhanh như gió, ngay cả thương tật ở chân sau cũng không hề gây ra trở ngại. Không ngờ, tôi tập trung đến mức cậu ấy ngồi bên cạnh quan sát mà tôi không hay biết.
Tôi trợn mắt lườm cậu ấy:
– Sao cậu không nói gì cả?
– Người ta bảo loài hồ ly là chúa đa nghi, quả nhiên là vậy. Vì em chưa chịu tin tưởng ta và Kháp Na tuyệt đối nên ta đành kiên trì chờ đợi cho đến khi em chủ động lên tiếng. Chờ suốt bốn năm, cuối cùng cũng chờ được đến ngày này.
Cậu ấy nhấc bổng tôi lên ngang mặt. Ngựa phi nước đại, đường sá gập ghềnh. Những đốm sáng hắt vào từ cửa xe, lướt qua gương mặt cậu ấy, nụ cười rạng rỡ, ánh mắt trìu mến, vẻ ân cần, chân thành mà ấm áp.
– Lam Kha, cảm ơn em đã vượt đường xa đến báo tin cho ta.
Tôi làm sao vậy nhỉ? Vì sao tim tôi lại đập nhanh vô cớ? Tôi lắc lư cái đầu, cố thoát khỏi cảm giác khó hiểu này, thở dài:
– Quan ngự y bảo rằng, đại sư tuổi tác đã cao, sức khỏe giảm sút nên nhiều nhất cũng chỉ có thể gắng gượng thêm năm, sáu ngày nữa. Kháp Na đã lập tức cử người đi đón cậu, nhưng từ Lương Châu đến Lục Bàn Sơn, cả đi cả về cũng phải mất ít nhất chục ngày. Đại sư thì kiên trì chờ cậu trở về, còn Kháp Na thì buồn phiền lo lắng, cơm chẳng buồn ăn, nước chẳng buồn uống nên tôi quyết định lẻn ra ngoài và chạy đến đây bằng tốc độ nhanh nhất có thể. Mấy năm nay theo cậu học lỏm phương pháp tu tập, phép thuật của tôi đã tiến bộ rất nhiều, năm trăm dặm mà tôi chỉ chạy trong vòng sáu canh giờ. Bây giờ về gấp, có lẽ cậu vẫn kịp gặp mặt đại sư lần cuối.
Cậu ấy ngỡ ngàng.
– Em quả là loài linh thú, phép tu của nhà Phật đã được em vận dụng và phát huy hiệu quả kỳ diệu như vậy! – Cậu ấy trầm tư một lát, lông mày khẽ nhíu lại. – Kháp Na có biết em tới tìm ta không? Em không nói với đệ ấy rằng em biết nói tiếng người ư?
Tôi lắc đầu, tủi hổ:
– Tiểu Lam trong tâm tưởng của chú nhóc ấy quá hoàn mỹ, tôi không muốn phá hỏng hình ảnh đó... – Tôi ngừng lại, thở dài ảo não rồi lặng lẽ quay đầu. – Tôi đã đưa tin cho cậu, cũng xem như báo đáp ơn cứu mạng của cậu, tôi không theo cậu về đó nữa...
– Em muốn ra đi ư? – Vòng tay cậu ấy siết tôi chặt hơn, giọng nói bất giác mất kiểm soát, vút cao. – Vì sao?
– Vì tôi là yêu tinh, loài người các cậu sợ yêu tinh nhất còn gì!
Nhớ lại năm xưa, từng nhiều lần bị người ta dùng bùa chú nguyền rủa, rải phân và máu chó để xua đuổi, tôi cũng bất giác cao giọng, cười mỉa mai:
– Đám thầy mo, thầy tu các người xem việc xua tà đuổi ma là trách nhiệm của mình đấy thôi.
– Lam Kha!
Cái miệng nhỏ của tôi bị chặn lại, lòng bàn tay của cậu ấy nồng nồng, ẩm ướt. Cậu ấy nhấc tôi lên, cọ đầu vào trán tôi, dịu dàng hỏi:
– Trước đây, em đã chịu rất nhiều tổn thương, đúng không?
Tôi như bị ném vào lò nướng, mọi tế bào sống trên cơ thể như bị thiêu đốt. Tôi dùng móng vuốt, chỉ vào vết sẹo trên trán, cất giọng chua chát:
– Vết sẹo hình hoa sen này đẹp lắm phải không? Ai nhìn thấy cũng xuýt xoa, trầm trồ nhưng chẳng ai biết rằng, đó không phải là vết bớt bẩm sinh... Hai trăm năm trước, khi người thân cuối cùng của tôi ra đi vì tuổi già, sức yếu, cả sơn động chỉ còn lại mình tôi, cảm giác cô đơn vì không còn ai bầu bạn ấy hệt như có hàng vạn con kiến lửa đang cắn xé ruột gan tôi. Tôi quyết định xuống núi, lẻn vào nhà người dân, chỉ để được nghe họ trò chuyện. Hằng ngày nghe bà mẹ trẻ dạy con thơ bi bô tập nói, tôi bắt chước học theo. Lâu dần, tôi nói được tiếng người lúc nào không hay.
Ánh nắng dần nhạt nhòa, bóng chiều thăm thẳm, tâm trạng của tôi cũng trĩu xuống theo hoàng hôn cuối ngày.
– Đứa bé tên gọi Zhaxi ấy, tôi đã lặng lẽ ở bên nó cho đến năm nó mười tuổi, tôi thuộc lòng mọi cử chỉ, hành động của nó, tôi xem nó như người thân của mình. Sau khi suy nghĩ rất kỹ càng, tôi đã lấy hết can đảm, bước đến bên nó khi nó lùa đàn cừu trên thảo nguyên và nói với nó một câu tiếng Tạng: "Chào em!"
Bát Tư Ba vuốt ve vành tai nhọn hoắt của tôi, khẽ hỏi:
– Chú bé đó phản ứng ra sao?
Tôi bật cười ha hả.
– Khi đó tôi đã ngây thơ biết bao, tôi đâu biết, một con hồ ly biết nói tiếng người sẽ khiến con người sợ hãi nhường nào. – Tiếng cười đứt đoạn, ký ức đè nặng tâm can, tôi như vẫn còn cảm nhận được rõ ràng nỗi bàng hoàng và đau đớn tột độ khi ấy. – Nó nhặt một hòn đá, ném về phía tôi, vì không có sự phòng bị, tôi bị ném trúng giữa trán, máu chảy như suối.
Cậu ấy nhíu mày, gương mặt nhân từ, thương xót, bàn tay dịu dàng xoa lên trán tôi:
– Nó đã để lại vết sẹo hình hoa sen này sao?
Tôi gật đầu, hậm hực, nheo mắt nhìn ra khoảng trời mịt mù ngoài cửa sổ:
– Sau đó, gia đình thằng bé vội vã chuyển đi nơi khác. Tôi còn ngốc tới mức, không hiểu vì sao họ chuyển nhà... Sau lần đó, tôi phiêu bạt đến rất nhiều nơi, học được rất nhiều ngôn ngữ, nào là tiếng Mông Cổ, tiếng Hán, tiếng Tangut. Mỗi khi tôi có ý định kết bạn với con người, mỗi khi mở miệng cất lời, tôi đều nhận được những ánh mắt khiếp sợ. Ngay sau đó, các thầy mo, nhà sư, đạo sĩ sẽ đến làm phép, họ đốt những tờ giấy kỳ quái, nhảy những điệu nhảy kỳ quái. Cuối cùng thì tôi cũng hiểu, tất cả những điều đó là vì họ sợ tôi. Con người gọi những sinh linh biết phép thuật như tôi là yêu ma...
Tim tôi đau nhói, phải ngừng lại hồi lâu, tôi mới có thể tiếp tục câu chuyện, hai mắt đẫm nước:
– Sau khi trải qua tất cả những điều này, tôi quyết định trở về núi Côn Luân, sống một mình trong sơn động, nơi mà cha mẹ tôi từng sinh sống, và suốt một trăm năm sau đó, tôi không hề mở miệng nói với ai dù chỉ một tiếng.
Cậu ấy nhẹ nhàng vuốt ve lớp lông mịn màng trên lưng tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu ấy thấm vào da thịt, cho tôi cảm giác tin cậy, ánh mắt long lanh, giọng nói của cậu ấy trầm ấm:
– Lam Kha, em đừng đi. Dù người đời có đối xử tàn tệ với em thế nào, ta và Kháp Na tuyệt đối không giống họ. Em cũng biết đó, thời gian đầu khi mới đến Lương Châu, cả bác và hai anh em ta đều rất khó thích nghi, sức khỏe không ổn định, lại không biết tiếng Mông Cổ nên ngoài bác ra, anh em ta không còn người thân và bạn bè nào khác. Em đã đến với ta và Kháp Na giữa lúc chúng ta cô đơn nhất. Chỉ cần em bằng lòng, ta và Kháp Na sẽ là người thân của em. Chúng ta sẽ không cho phép bất cứ ai làm em bị tổn thương.
Vì sao sống mũi tôi lại cay sè thế này? Tôi hít một hơi thật sâu, nghiêng đầu về hướng khác:
– Sở dĩ tôi đi theo cậu ngần ấy năm là vì tôi muốn đạt được mục đích nghe giảng pháp.
– Vậy thì em cứ nghe đi. – Cậu ấy nở nụ cười tươi tắn, khóe môi uốn thành một đường cong tuyệt đẹp. – Nếu phép tu tập của ta mà hữu ích cho việc tu luyện của em thì còn gì bằng! Phật pháp sinh ra vốn là để thuyết giảng cho người có duyên với đạo Phật. Phật Tổ công bằng lắm, ngài độ hóa cho mọi sinh linh. Lam Kha, em là thú linh, kết tụ khí thiêng của cả trời và đất, em xứng đáng để tu tập hơn cả những người tu hành như ta đó.
Tôi ngước nhìn cậu ấy, bắt gặp cặp mắt thuần khiết vô ngần, ánh mắt long lanh, rạng rỡ chiếu sáng cả những góc u tối, ẩn sâu trong tim tôi. Khoảnh khắc ấy, tôi như đắm chìm giữa một vực nước trong veo, hun hút. Đáng ghét quá, có thế mà khóe mắt tôi cũng ướt nhòe.
– Mà không lẽ em đành lòng rời xa Kháp Na ư? Mấy năm qua sống trong Vương phủ, tuy đệ ấy không nói nhưng ta biết cuộc sống của đệ ấy không vui vẻ chút nào. Công chúa... – Cậu ấy thở dài, lắc đầu, hai hàng lông mày xô lại, vẻ mặt xót thương. – Mới mười ba tuổi mà đệ ấy đã phải đối diện và chịu đựng những khốn khổ mà chỉ những người trưởng thành mới phải chịu đựng. Ta không thể ở bên bao bọc, che chở cho đệ ấy, nhưng may mà có em, em đã mang lại niềm vui cho đệ ấy nên ta cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều.
Nhắc đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, nỗi xót thương dâng trào. Chú nhóc đáng thương ấy suốt bốn năm qua đã nếm đủ mùi cay đắng trong phủ Vương gia. Thái độ khinh miệt, lạnh nhạt của Mukaton chỉ là chuyện nhỏ, hễ bực mình là cô ta quăng đồ, đáng ghét hơn là cô ta thường ra tay đánh đập Kháp Na. Thời gian đầu, mỗi lần bị chửi mắng, đánh đập, chú nhóc chỉ biết thu mình vào góc giường, ôm chặt lấy tôi, lặng lẽ khóc. Về sau, bất luận Mukaton có nói gì, làm gì, chú nhóc cũng không hề đáp trả, dù chỉ một tiếng. Hằng ngày, chú nhóc tránh không phải chạm mặt Mukaton như tránh tà, mỗi lần nhìn thấy cô ta là khiếp sợ bỏ chạy như thỏ con đụng phải hổ dữ. Mukaton thường ra ngoài cưỡi ngựa, bắn cung hoặc đi thăm bạn bè, những lúc cô ta không có nhà, Kháp Na mới âm thầm thở phào nhẹ nhõm, tinh thần cũng thoải mái hơn nhiều.
Mỗi ngày, Kháp Na phải học tiếng Mông Cổ một canh giờ, luyện tập cưỡi ngựa, bắn cung, đấu vật một canh giờ, sau đó đến đền Hoán Hóa theo học Phật pháp với bác và anh trai một canh giờ nữa. Ngoài ra, với thân phận là con rể của Vương gia Khoát Đoan, chú nhóc còn phải tham dự các buổi tiệc trong Vương phủ hoặc đi thăm hỏi các quý tộc Mông Cổ trong dòng tộc. Chú bé loắt choắt ấy buộc phải nói những lời khách sáo, lễ nghi của người lớn, phải khoác trên mình đủ mọi thứ mặt nạ của người lớn, phải ép mình đóng vai một người lớn. Tôi cảm thấy xót xa khi nhận thấy nụ cười trên gương mặt chú nhóc ngày càng vắng bóng, mỗi lúc chỉ có hai chúng tôi, tôi ra sức chọc cho chú nhóc cười, cùng chú nhóc chơi những trò chơi con trẻ mà chú nhóc thích. Chỉ những lúc như thế, tôi mới thấy được nụ cười hồn nhiên, tươi tắn nhất mà tôi hằng yêu thích.
Nhiều lần tôi muốn cất lời an ủi chú nhóc nhưng lại không dám. Vết sẹo trên trán cứ mãi ám ảnh và luôn nhắc nhở tôi về những ký ức hãi hùng với vẻ mặt kinh hoàng của con người khi họ nghe tôi nói tiếng nói của họ. Trong lòng tôi, Kháp Na quá ư thuần khiết, đáng yêu nên tôi sợ, nếu biết tôi là yêu tinh, những kỷ niệm đẹp đẽ về chú bé sẽ tan biến trong tôi...
– Nếu biết em nói được tiếng người, chắc chắn Kháp Na sẽ rất vui. – Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, Bát Tư Ba mỉm cười, xoa đầu tôi. – Chắc chắn đệ ấy luôn hy vọng em có thể trò chuyện được với đệ ấy...
r
Tôi nhớ lại lịch sử triều Nguyên, trầm ngâm:
– Quý Do Hãn lên ngôi Đại hãn được một năm thì đột tử, sau khoảng thời gian dài chọn lựa, vị trí Khả hãn được trao cho Mông Kha. Mông Kha là con trai của Đà Lôi (con trai út của Thành Cát Tư Hãn), anh ruột của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Sau khi Mông Kha lên ngôi, chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi.
Chàng trai trẻ trầm tư một lát mới cất lời:
– Tôi nhớ, sách sử chép rằng, để đạt được mục tiêu thống trị, mỗi khi công phá thành công một vùng đất, người Mông Cổ sẵn sàng tiếp nhận tất cả các tôn giáo tồn tại ở vùng đất đó. Bởi vậy, ngoài Saman giáo, hoàng thất Mông Cổ còn tin theo các tín ngưỡng Phật giáo, Kitô giáo, Đạo giáo.
Chàng trai trẻ nhíu mày nhìn tôi, vẻ băn khoăn:
– Hốt Tất Liệt gặp Bát Tư Ba lẽ nào chỉ vì muốn nghe giảng pháp?
Tôi giật mình, chàng trai này thông minh quá! Tôi gật đầu tán thưởng:
– Sau khi chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi, vì là em cùng một mẹ của đương kim Khả hãn nên Hốt Tất Liệt trở thành người có quyền cao chức trọng, được Mông Kha giao nhiệm vụ thống lĩnh quân đội miền Nam. Ông ấy đóng quân ở Lục Bàn Sơn là để chờ dịp chiếm lấy Đại Lý ở Vân Nam. Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn thuộc quyền cai trị của nhà Nam Tống, nếu muốn đến được đất Đại Lý, Hốt Tất Liệt buộc phải vượt qua vùng đất của người Tạng ở Cam Túc và Thanh Hải. Hốt Tất Liệt triệu kiến Ban Trí Đạt là để tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của người Tạng, đảm bảo cuộc hành quân đến đất Tạng được thuận lợi. Không ngờ, Ban Trí Đạt lại cử nhà sư trẻ Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi đi thay mình. Đó là lần gặp gỡ đầu tiên của Bát Tư Ba với Hốt Tất Liệt. Khi ấy, Bát Tư Ba không hề biết rằng, cuộc gặp gỡ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của cậu...
Chương 9 - Gia Tộc "Hận Thù"
"Người đạo đức giấu mình nơi kín đáo,
Tiếng thơm vẫn truyền khắp thế gian;
Hoa quế nép sâu dưới đáy rương,
Hương thơm vẫn lan khắp bốn phương."
(Cách ngôn Sakya)
Chưa vào trong đền, chúng tôi đã nghe thấy có tiếng loảng xoảng trên hành lang, hình như vật gì đó bị ném vỡ. Giọng nói khàn khàn của ai đó đang trong giai đoạn vỡ tiếng cất lên, nộ khí đằng đằng:
– Tiếp tục tìm kiếm! Không được bỏ sót bất cứ cánh rừng nào ở Lương Châu này! Nếu không tìm thấy, các ngươi đừng hòng về đây gặp ta!
Bát Tư Ba vội vã bước lên hành lang, la lớn:
– Kháp Na, đệ làm gì thế?
Cậu thiếu niên mười ba tuổi giật mình ngoảnh lại. Cậu ấy mặc áo choàng dài màu xanh của người Mông Cổ, nửa ống tay áo được xắn gọn và thít vào phần hông, chuỗi hạt to bè lúc lắc trên cổ, giống hệt những người Mông Cổ khác. Nét bầu bĩnh của gương mặt trẻ thơ không còn nữa, thay vào đó là vẻ đẹp hút hồn của cậu bé mới lớn. So với Bát Tư Ba của bốn năm về trước, Kháp Na trông gầy hơn nhiều, dù cậu ấy chẳng mấy khi tươi cười nhưng má lúm đồng tiền vẫn rõ mồn một.
Kháp Na tròn mắt, đôi đồng tử đen láy như dính chặt vào Bát Tư Ba, miệng lập bập:
– Đại ca, huynh... Năm ngày trước đệ mới cử người đến báo tin cho huynh kia mà. Nếu cho xe ngựa chạy cả ngày lẫn đêm thì cũng phải mất sáu ngày, sao huynh có thể trở về đây nhanh như vậy?
Bát Tư Ba không đáp, sải bước đến bên Kháp Na, lập tức chuyển đề tài:
– Đệ bực bội chuyện gì vậy? Bác đang ở đâu?
– Bác nằm trong phòng. Quan ngự y bảo rằng bác không thể gắng gượng thêm nữa... May mà huynh về sớm, vẫn còn kịp... – Kháp Na nói chưa dứt câu, Bát Tư Ba đã lao về phía phòng ngủ của đại sư Ban Trí Đạt. Kháp Na cũng bám theo sau, giọng lo lắng. – Đại ca ơi, Tiểu Lam mất tích rồi, đệ tìm khắp nơi mà không thấy...
– Tiểu Lam... Tiểu Lam... – Tiếng bước chân chậm dần. Kháp Na cúi đầu, sụt sịt, giọng run rẩy. – Đệ không thể sống thiếu Tiểu Lam...
Bát Tư Ba dừng lại, khẽ thở dài, đưa tay vuốt ve mái tóc mềm mượt của em trai, hệt như ngày trước:
– Đệ vẫn luôn giàu tình cảm như thế...
Nói đoạn, cậu ấy nhấc tôi ra khỏi ngực áo, nói với tôi:
– Em tự mình giải thích với đệ ấy đi!
– Tiểu Lam!
Kháp Na mừng rỡ la lên, đón lấy tôi, siết chặt. Cậu ấy khiến tôi suýt ngộp thở. Cậu ấy cọ má vào sống lưng tôi, phụng phịu trách yêu:
– Em đi đâu suốt sáu ngày liền, em có biết là ta lo lắng lắm không? Sao em lại đi cùng đại ca thế?
Bát Tư Ba đang rảo bước về phía căn phòng của ngài Ban Trí Đạt nhưng không quên quay lại nháy mắt với tôi. Tôi lấy hết can đảm, ghé sát tai Kháp Na, thì thào:
– Này cậu nhóc, hãy tìm một căn phòng trống, tôi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho cậu nghe.
Đôi mắt đẹp của Kháp Na trợn tròn, miệng há hốc thành hình chữ O, lúm đồng tiền hiện rõ. Tôi gãi đầu, lè lưỡi, cười trừ với cậu ấy.
Khi chỉ có hai chúng tôi, tôi đem chuyện đã kể với Bát Tư Ba thuật lại cho Kháp Na nghe. Phản ứng của Kháp Na đúng như dự đoán của anh trai cậu ấy, không hề sợ hãi mà ngược lại, vô cùng mừng rỡ. Cậu ấy cứ trách tôi mãi vì không chịu nói sớm.
Niềm hân hoan rạng ngời trên gương mặt Kháp Na, cậu ấy bóp nhẹ cái mũi nhọn hoắt của tôi, hỏi:
– Tiểu Lam à, những hôm buồn bã, đêm ngủ ta thường mơ thấy mẹ ta hiện về hát ru, bài hát ru đó là em hát
phải không?
Giọng của Kháp Na khản đặc, phần vì cậu ấy đang ở vào giai đoạn dậy thì, phần vì quá lao lực. Cậu ấy đã thức mấy đêm liền bên giường bệnh của người bác, vậy mà lúc này, vẻ mệt mỏi dường như đã tan biến hết, đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi không chớp. Tôi gật đầu thừa nhận:
– Đêm nào cậu đạp tung chăn, tôi cũng đắp lại cho cậu.
Kháp Na dẩu môi phụng phịu:
– Em thật là, sao lại giấu chúng tôi chuyện đó? Bốn năm qua, ta và đại ca đối xử với em thế nào, chẳng lẽ em không cảm nhận được ư?
Tôi thở dài:
– Kháp Na ơi, tôi chỉ là loài động vật...
– Tiểu Lam, ta chưa bao giờ coi em là thú cưng, em nghe này... – Kháp Na ngắt lời tôi, vẻ mặt nghiêm túc, nói với tôi bằng ngữ điệu nghiêm trang tôi chưa từng thấy. – Cha mẹ ta đều đã qua đời, tuy rằng ta còn có mấy anh chị em cùng cha khác mẹ nữa, nhưng vì từ nhỏ không sống cùng nhau nên ta thậm chí không biết trông họ thế nào. Trước đây, ta luôn cho rằng bác và anh trai là những người thân thiết nhất của ta, nhưng giờ đây, ta có thêm em nữa. Em nghe này, ta và đại ca chính là người thân của em!
Sống mũi tôi cay sè, tim thắt lại, mắt ướt mèm. Người thân! Đã bao lâu rồi tôi không được nghe hai tiếng thân thương ấy? Tôi khóc ư? Tôi cứ ngỡ mình không còn biết rơi lệ nữa.
Bỗng một tiếng "rầm" xé toang bầu không khí yên ắng, hình như là tiếng cánh cửa bị xô mạnh. Tiếp đó là tiếng la lớn của đám người hầu:
– Ngài Bát Tư Ba...
Kháp Na và tôi đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc, rồi vội vã đẩy cửa lao ra ngoài sân. Bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm lao như bay ra ngoài cổng, Kháp Na đuổi theo, gọi lớn:
– Đại ca!
Bát Tư Ba không buồn ngoảnh lại, tiếp tục lao đi như bay, thoáng chốc đã khuất dạng.
Kháp Na níu một người hầu lại để hỏi:
– Đại ca ta sao vậy?
Người hầu cũng tỏ ra ngạc nhiên không kém:
– Chúng tôi cũng không rõ. Đại sư chỉ cho phép một mình ngài Bát Tư Ba vào phòng, chúng tôi đứng chờ bên ngoài. Họ trò chuyện một lúc thì ngài Bát Tư Ba đẩy cửa lao ra.
Kháp Na chạy ra ngoài cổng, ngó nghiêng xung quanh nhưng không thấy bóng dáng Bát Tư Ba đâu. Tôi rời khỏi vòng tay Kháp Na, lần theo dấu vết của Bát Tư Ba rồi kêu lên ra hiệu. Kháp Na định chạy theo tôi thì một người hầu chạy đến, giữ cậu ấy lại:
– Cậu Kháp Na ơi, nguy mất, đại sư lại bất tỉnh rồi.
Kháp Na cuống quýt căn dặn:
– Tiểu Lam, em đi tìm đại ca đi!
Sau đó, cậu ấy vội vã theo người hầu đi về phòng ngài Ban Trí Đạt. Tôi tiếp tục lần theo mùi hương của Bát Tư Ba để đi tìm cậu ấy.
Bóng chiều nhuộm chiếc áo tăng ni của cậu ấy thành một màu đỏ u uẩn, gió ào ạt thổi tà áo phần phật bay. Cậu ấy đứng trên đỉnh núi, dõi mắt về phía xa xăm, hệt như bức tượng đồng tạc giữa hoàng hôn.
Tôi khẽ gọi:
– Lâu Cát...
Cậu ấy quay đầu lại, gương mặt đẫm lệ. Tôi hốt hoảng, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Chuyện gì đã khiến một người điềm tĩnh, vững vàng như cậu ấy trở nên sầu thảm nhường vậy?
Cậu ấy chìa cánh tay về phía tôi, cất giọng nghẹn ngào:
– Lam Kha, lại đây với ta.
Tôi nhảy vào lòng cậu ấy, ngước lên hỏi:
– Đã xảy ra chuyện gì vậy? Kháp Na rất lo cho cậu.
Cậu ấy vẫn chưa hết kích động, khóe môi run run, một lúc lâu sau mới cất giọng mệt mỏi:
– Bác cho ta hay vì sao năm xưa người buộc phải đưa ta và Kháp Na rời khỏi Sakya.
Cậu ấy ôm tôi, tìm một phiến đá bên sườn núi rồi ngồi xuống, ánh mắt vẫn trôi về phía những dãy núi xa tít tắp, mờ ảo trong ráng chiều ảm đạm, khá lâu sau cậu ấy mới bình tĩnh lại và bắt đầu trải lòng:
– Mẹ ta vốn thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, là người phụ nữ đoan trang, hiền thục, bà được gả cho cha ta năm mười sáu tuổi, khi ấy cha ta đã ba mươi lăm tuổi. Tuy tuổi tác không tương xứng nhưng cha mẹ tâm đầu ý hợp, chung sống rất hạnh phúc. Tiếc thay, nỗi day dứt chẳng thể nguôi ngoai trong lòng cha ta khi mà mười năm trôi qua người chưa có lấy một mụn con. Người là con út trong gia đình, bởi vậy trách nhiệm lớn nhất của người là sinh con nối dõi tông đường và kế nghiệp tổ tông. Cha ta chịu áp lực nặng nề từ phía họ tộc nhưng người kiên quyết không nạp thiếp vì không muốn mẹ ta buồn.
Ánh mắt trĩu buồn, cậu ấy thở dài ảo não, hơi thở phả vào không gian những sợi bàng bạc:
– Năm cha ta năm mươi tuổi, mẹ kiên quyết ép cha cưới một lúc bốn người thiếp trẻ. Những người thiếp kia tưởng rằng khi đã ngoài ba mươi tuổi thì mẹ ta chẳng thể sinh nở được nữa, họ tìm mọi cách để sinh được con trai, giành quyền thừa kế gia sản. Nhưng kỳ tích đã xuất hiện, mẹ đã sinh hạ ta và ta lại là con trưởng. Năm ta được sinh ra, các em trai, em gái cùng cha khác mẹ của ta cũng lần lượt chào đời, họ chỉ kém ta vài tháng tuổi.
Khi đó, tuy đã có vài năm kinh nghiệm chung sống với loài người nhưng tôi vẫn chẳng thể hiểu hết mối quan hệ ruột thịt phức tạp của họ. Bởi vậy, tôi chỉ biết chăm chú ngước nhìn và lắng nghe câu chuyện của cậu ấy. Bạn đời của loài hồ ly rất cố định, hồ ly đực và hồ ly cái chung sống với nhau trọn đời. Tuy sinh ra với thể chất khác thường, chưa từng cảm nhận được sự rung động của con tim nhưng tôi không sao lý giải và cảm thông nổi việc cha cậu ấy yêu mẹ cậu ấy sâu sắc là thế, vậy mà vẫn có thể sinh con với những người phụ nữ khác.
– Khi ta vừa chào đời, cha ta đã lập tức tuyên bố pháp thống dòng họ Khon sẽ do ta cai quản. Quyết định này đã làm dấy lên sự ghen tuông, đố kỵ của các bà vợ lẽ. Để bảo vệ ta, cha đưa bốn người thiếp cùng con cái của họ đến sống ở bốn trang viên khác nhau của gia đình. Bởi vậy, một năm, nhiều nhất, ta và các anh chị em cũng chỉ được gặp nhau một lần. Xa mặt thì cách lòng, tuy là anh chị em cùng cha khác mẹ nhưng tình cảm ruột thịt giữa chúng ta rất nhạt nhòa. Năm ta lên bốn, mẹ ta lại bất ngờ sinh hạ Kháp Na. Kháp Na là con út nên cha ta tuyên bố toàn bộ sản nghiệp của gia đình sẽ do Kháp Na thừa kế, Kháp Na cũng chịu trách nhiệm nối dõi tông đường, bởi vì cha quyết định sẽ không cưới thêm người thiếp nào nữa. – Bát Tư Ba cười buồn, thần sắc u ám. – Như vậy có nghĩa là, các em trai thứ hai và thứ ba của ta không những không được kế thừa pháp thống dòng tộc mà ngay cả gia sản cũng không được hưởng.
Linh tính mách bảo với tôi rằng có điều gì không ổn.
– Kháp Na chào đời chưa được mười ngày thì cha ta qua đời. Trước kia, ta cứ đinh ninh rằng cha ta mất vì bệnh tật và tuổi già, nhưng khi nãy bác nói với ta rằng, cha ta đã bị hạ độc.
Nỗi kích động khiến toàn thân cậu ấy run lên, từng nắm đấm lạnh lùng nện xuống khối đá bên cạnh.
– Hôm đó, dì hai cho người đưa bánh đến chúc mừng mẹ ta, vì đói bụng, cha ta đã ăn một miếng, và rồi ngay tối hôm đó, người đã...
Tôi hoảng hốt, "á" lên một tiếng rồi cuống cuồng giữ chặt nắm tay của cậu ấy. Bàn tay va vào đá rách toạc, máu chảy ròng ròng, tôi liếm láp vết thương, giúp cậu ấy cầm máu, lòng quặn thắt. Lâu Cát siết chặt tôi vào lòng, dường như cậu ấy không hề thấy đau, giọng nói đã lạc đi:
– Dì hai mưu đồ hãm hại mẹ ta, không ngờ người trúng độc lại là cha ta. Chứng cứ rõ ràng, dòng họ định tội, dì hai bị bỏ vào bao tải thả trôi sông, từ đó không rõ sống chết ra sao. Em trai thứ hai Rinchen Gyaltsen của ta được giao cho dì ba nuôi dưỡng.
Bóng chiều dần khuất sau dãy núi phủ tuyết trắng xóa, tia nắng cuối cùng hắt lên không gian dáng núi sẫm tối. Nền trời ảm đạm, gió lạnh ào ạt xâm chiếm, giá rét mùa đông thấu buốt tim gan. Tôi sợ khí lạnh từ phiến đá ngấm vào cơ thể sẽ khiến cậu ấy ốm nên khẽ gọi một tiếng: "Lâu Cát" nhắc nhở cậu ấy về thôi.
Nhưng Bát Tư Ba không hề bận tâm vì cậu ấy vẫn đang đắm chìm trong những hồi ức bi thương:
– Năm ta lên tám, một tai nạn khủng khiếp đã xảy ra, mẹ ta và Kháp Na bị ngã từ lầu cao xuống. Khi mọi người phát hiện ra thì mẹ ta đã hôn mê bất tỉnh trên bậc cầu thang. Kháp Na khi ấy mới bốn tuổi, may mắn và kỳ diệu thay, đệ ấy không hề bị thương, nhưng đệ ấy không nhìn rõ kẻ nào đã đẩy ngã mình. Mẹ ta bị thương ở đầu, mê man suốt mấy tháng trời, miệng không ngừng gọi tên ta và Kháp Na. Trước lúc lâm chung, mẹ đột nhiên trở nên tỉnh táo lạ thường, mẹ giơ tay chỉ thẳng vào dì năm đang đứng bên giường chăm sóc mẹ, mắt mẹ ngập tràn nỗi phẫn uất. Nhưng mẹ không đủ sức để thốt lên dù chỉ một lời...
Cậu ấy không thể nói tiếp được nữa, gục đầu trên lưng tôi. Những giọt nước mắt ấm nóng thấm vào da thịt tôi, cậu ấy đang khóc.
– Mẹ ta qua đời khi chưa đầy bốn mươi tuổi.
Tôi nhẹ nhàng liếm khô những giọt nước mắt long lanh của cậu ấy, khẽ hỏi:
– Là dì năm ư?
Quả thực là tôi không sao hiểu nổi, lẽ nào vì lợi ích của bản thân, họ sẵn sàng nhẫn tâm như vậy?
Cậu ấy gật đầu, vẻ mặt đau đớn, nghẹn ngào không thốt nên lời, một lúc lâu sau tâm trạng mới ổn định trở lại, cậu ấy cất giọng run run:
– Dì năm từ nhỏ bị cha mẹ bán cho nhà ông bà ngoại ta làm nô lệ. Mẹ ta thương dì ấy nên cho làm người hầu gái thân thiết, sau này còn mai mối để dì ấy trở thành thê thiếp của cha ta, để rồi sau đó sinh hạ em trai thứ ba của ta, Yeshe Bernas. Ta vốn nghi ngờ chính dì năm gây ra chuyện này, nhưng khi đó ở hiện trường chỉ có mẹ ta và Kháp Na, không có chứng cứ, ta không thể buộc người đàn bà ấy phải chịu tội.
Tôi thở dài ảo não.
– Sau khi mẹ qua đời, ta và Kháp Na trở thành trẻ mồ côi, không có ai nương tựa, bởi vậy bác ta mới đưa hai anh em đến tu viện. Buổi tối, hai anh em ta ngủ cùng bác. Ban ngày, lúc chúng ta chơi đùa, luôn có đệ tử thân tín của bác theo sát canh chừng. Chúng ta ăn bất cứ món gì, bác và các đệ tử cũng phải đích thân kiểm tra trước. Dù đã hết sức cẩn trọng nhưng bác vẫn không yên tâm. Năm ấy bác ta đã sáu mươi tuổi, người lo lắng rằng nếu người qua đời, hai anh em ta sẽ gặp nguy hiểm. Thế nên, khi nhận lời mời đến Lương Châu, người đã quyết định bằng mọi giá phải đưa hai anh em ta đi cùng, rời khỏi Sakya, rời xa những người đàn bà độc ác và thế lực của các gia tộc đằng sau họ, như thế mới có thể đảm bảo an toàn cho chúng ta.
Sakya đầy rẫy những mối nguy hiểm rình rập hai đứa trẻ mồ côi nên đưa họ đi xa là cách tốt nhất để bảo vệ họ. Thế là năm ấy, Bát Tư Ba mười tuổi dắt díu Kháp Na sáu tuổi cùng người bác đầu bạc bước vào cuộc hành trình gian nan dằng dặc, từ đó rời xa quê hương hai mươi năm.
– Hồi nhỏ, ta không hiểu tường tận những chuyện này, khi nghe bác ta kể lại ta mới biết vì sao ta và Kháp Na sớm mồ côi cha mẹ, phải rời bỏ quê hương.
Tôi nghe trong giọng nói của cậu ấy chất chứa nỗi cô đơn, ánh mắt lạnh băng, bàn tay nắm chặt tiếp tục nện xuống nền đá không thương tiếc, máu đỏ tiếp tục trào ra.
– Lam Kha, ta giận lắm, giận cha mẹ sớm bỏ anh em ta mà đi, chỉ để lại trong ta những ký ức mơ hồ về họ. Ta hận những người đàn bà đầy dã tâm, tìm mọi cách trừ khử anh em ta. Ta hận bản thân mình không đủ sức để bảo vệ em trai.
Những giọt máu đỏ tươi nhỏ xuống trảng cỏ khô héo, nhanh chóng kết lại thành những vệt màu ảm đạm. Tôi hốt hoảng kêu lên:
– Lâu Cát, tay của cậu...
Cậu ấy cười buồn, ngắt lời tôi:
– Hận! Đúng, ta hận! Thật không ngờ, sau bao năm tu tập thiền định, lồng ngực ta vẫn có thể ắp đầy nỗi căm hận như thế này.
Mặc cho dòng máu tiếp tục đổ, cậu ấy bật dậy, ánh mắt hút sâu vào khoảng không u tối mênh mang, vô tận, khuôn ngực phập phồng:
– Em có biết dòng họ Khon nhà ta có nghĩa là gì không? Trong tiếng Tạng, Khon có nghĩa là "thù hận". Dòng họ của ta được sinh ra bởi sự thù hận.
Hơn ba trăm năm trước, trong buổi gặp gỡ đầu tiên, ngài Yapang Kye đã say đắm dung nhan mỹ miều và cốt cách đoan trang hiền thục của nàng Yadruk Silima, vợ Rakshas. Yapang Kye tuyên chiến với Rakshas để giành lấy Yadruk Silima. Sau trận chiến quyết liệt, Yapang Kye đã giết chết Rakshas, sau đó cưới Simila làm vợ. Simila sinh được một người con trai, Yapang Kye đặt tên đứa bé là Khon Bar Kye, có nghĩa là "sinh ra trong sự thù hận", ám chỉ mối hận thù truyền kiếp với dòng họ Rakshas. Khon Bar Kye chính là vị thủy tổ của dòng họ Khon. Từ đó, hai chữ "thù hận" trở thành biểu trưng của họ Khon.
Nghe đến đây, tôi thở dài, nhảy lên vai cậu ấy, ghé sát tai thì thầm:
– Lâu Cát, tôi hiểu cảm giác của cậu, vì tôi cũng từng hận bản thân mình yếu đuối, kém cỏi.
Tôi nheo mắt dõi nhìn khoảng không xa tắp, nơi dãy núi điệp trùng mải miết chạy dài, chạm đường chân trời trong hoàng hôn tím tái, những hồi ức đau buồn dội về như thác lũ khiến tim tôi nhói buốt.
Ba trăm năm trước, cha tôi bị sa vào bẫy của thợ săn, mẹ tôi vắt kiệt sức cũng không sao giúp cha tôi thoát ra được. Mẹ đưa anh chị em chúng tôi về hang động, dặn dò không được ra ngoài. Những ngày sau đó, mẹ thường xuyên tha thức ăn đến cho cha, mẹ còn chạy ra tận hồ nước, trữ nước trong miệng, mang về mớm cho cha. Ba ngày sau, gã thợ săn đến tháo bẫy, mẹ đi theo gã về tận nhà và tận mắt chứng kiến gã lột da, róc thịt cha, cắt thành từng miếng nhỏ, bỏ vào lò nướng. Trốn trong góc tối mà mẹ như hóa điên, người dùng miệng bứt liên hồi những sợi lông trên chân trước của mình, máu chảy lênh láng. Sau này, vết thương trên chân của mẹ mãi mãi không lành lại.
Sau khi mẹ qua đời, tôi đã gặp gã thợ săn ấy, gã quàng trên cổ bộ lông mềm mịn, bóng mượt của cha tôi. Nửa phần mặt của cha vẫn còn đó, mắt người khép chặt, những sợi lông mi rủ xuống như nước mắt. Tôi nghiến răng kèn kẹt, ước gì có thể nhảy bổ tới, sống chết với gã đó một phen cho hả căm hờn. Khoảnh khắc ấy, nỗi hận thù trào dâng trong tôi chắc chắn không thua Lâu Cát.
– Lâu Cát, loài hồ ly chúng tôi là những con vật nhỏ bé, yếu ớt, chúng tôi phải chống lại vô số động vật to khỏe, hung tợn hơn mình trong rừng và cả loài người luôn thèm muốn bộ lông của chúng tôi. Nhưng dù căm hận bao nhiêu đi nữa, tôi cũng chẳng thể làm được gì ngoài việc lẩn trốn. Bởi vậy, tôi đã nỗ lực sống sót và tu luyện phép thuật để bảo vệ bản thân và trả thù cho cha. – Tôi ngừng lại, hồi tưởng chuyện quá khứ, một lúc sau mới tiếp tục. – Nực cười thay, khi tôi học được chút ít phép thuật thì gã thợ săn đó đã chết được mấy trăm năm rồi.
Tôi thở dài ảo não, đứng trên vai Bát Tư Ba, ngước nhìn bầu trời về đêm mịn như nhung:
– Bởi vậy, Lâu Cát à, thời gian chính là liều thuốc hữu hiệu giúp người ta hóa giải hận thù. Không gì có thể địch nổi thời gian.
Trải qua ba trăm năm, chứng kiến biết bao cuộc sinh tử, từ lâu tôi đã biết cần phải rộng lượng, sống đơn giản và xem nhẹ mọi sự.
Cậu ấy không nói, chỉ dõi nhìn không trung. Gió đêm ào ạt thổi vạt áo thầy tu của cậu ấy tung bay phần phật. Cả con người cậu ấy như quyện trong bóng đêm mịt mù vô định.
Chàng trai trẻ đăm chiêu giây lát rồi quay sang hỏi tôi:
– Vì sao phái Sakya không áp dụng chế độ "Phật sống chuyển thế" mà kiên trì phương thức trao quyền kế thừa cho các thế hệ của chỉ một dòng họ?
– Vào thời gian đó, chế độ "Phật sống chuyển thế" mới xuất hiện ở đất Tạng. Khi ấy, các giáo phái lớn vẫn áp dụng phương thức kế tục: sư phụ truyền lại cho đệ tử. Nhược điểm của phương thức này là khi số lượng đệ tử của một giáo phái tăng lên, sẽ nảy sinh cuộc tranh giành giữa các hệ phái. Giáo phái Kagyu chính là một ví dụ điển hình. Giáo phái này bị phân tán thành rất nhiều chi phái nhỏ, bởi vậy sức mạnh của giáo phải cũng mỏng dần.
Tôi chợt nhớ đến vị Phật sống đầu tiên của giáo phái Karma Kagyu, ngài Karmapa, người sau này có mối quan hệ nhất định với Bát Tư Ba, trong lòng bỗng chộn rộn niềm vui nho nhỏ, tôi mỉm cười:
– Từ buổi đầu được sáng lập, giáo phái Sakya đã gắn kết với dòng họ Khon thành một thể thống nhất, không thể tách rời, và quy luật sau đã được định hình từ lâu: lãnh tụ của giáo phái nhất định phải được lựa chọn từ các thành viên của dòng họ Khon, thế nên không cần thiết phải lựa chọn "Phật sống chuyển thế" để kế tục.
– Vì vậy, đối với dòng họ Khon càng ngày càng neo người, việc bảo đảm dòng họ luôn có đủ người kế tục sự nghiệp lãnh đạo giáo phái trở thành trách nhiệm nặng nề của toàn gia tộc.
Chàng trai trẻ nhắm mắt lại, như để hồi sức, rồi lại thở dài:
– Thế nhưng chế độ kế tục này cũng gây ra những tranh chấp quyền lợi khốc liệt không kém. Cha mẹ của Bát Tư Ba là những nạn nhân của chế độ này.
– Bánh xe số phận cuốn người ta theo, không cho ai quyền lựa chọn, Kháp Na sau này cũng vậy...
Nhớ đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, tưởng như không thở nổi. Tôi mệt mỏi đổ người bên lò sưởi, nhắm nghiền mắt lại, chờ đợi cơn đau dần nguôi ngoai.
– Một dòng họ được sinh ra từ sự thù hận, điều này quả là rất đặc biệt. – Chàng trai trẻ không hay biết về những xúc cảm bất thường đang xâm chiếm tim tôi, cứ mải mê than thở. – Nhưng sẽ là quá nặng nề khi đặt toàn bộ tương lai của dòng họ lên vai hai đứa trẻ mới chục tuổi đầu...
Chương 10 - Đại Sư Viên Tịch.
"Không tỏ ra hào hứng khi có người tung hô,
Không tỏ ra phẫn uất khi có kẻ chê trách,
Kiên tâm vững chí theo đuổi học thuật,
Ấy mới là phong thái của bậc trí giả chân chính."
(Cách ngôn Sakya)
– Tiểu Lam, từ lâu ta đã biết ngươi là một linh thú, biết nói tiếng người, có chút phép lực và ngươi đi theo hai anh em chúng để tu luyện phép thuật.
Tôi nghe mà tim đập chân run, hồn bay phách lạc, ước sao có thể phi thân thoát khỏi chốn này.
Trên giường bệnh, ngài Ban Trí Đạt gầy gò, ốm yếu tưởng chừng chỉ còn da bọc xương, trông ngài chẳng khác nào chiếc lá vàng khô héo, cơn gió nhẹ cũng có thể thổi bay. Khuôn mặt già nua nhăn nheo, chằng chịt những nếp nhăn sâu trũng và những đốm đồi mồi. Ngài đang gắng gượng giữ nhịp thở, chừng như muôn phần vất vả, chỉ có đôi mắt sáng lấp lánh trí tuệ là hiển hiện sức sống.
Có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng nổi, trước lúc lâm chung, ngài Ban Trí Đạt lại cho gọi tôi, còn yêu cầu gặp riêng. Khi Kháp Na nhẹ nhàng đặt tôi bên cạnh giường của đại sư rồi nhẹ nhàng bước ra ngoài, tim tôi đập thình thịch, lòng hoang mang vô hạn. Chẳng ngờ, tôi chưa kịp mở lời, ngài đã nhìn thấu tâm can tôi, thế nên tứ chi tôi mềm nhũn, tôi ấp úng, lập cập giải thích:
– Tôi... nhưng tôi... Thưa đại sư, tôi chưa bao giờ có ý định hãm hại họ...
Đôi mắt khép hờ của ngài bỗng mở to, ngài khẽ nghiêng người về phía tôi, ánh nhìn sắc lẹm:
– Nếu ngươi có ý định hãm hại chúng, lẽ nào ta lại để cho ngươi sống đến tận bây giờ?
Dường như câu nói ấy đã khiến ngài hao tổn rất nhiều sức lực, ngài mệt nhọc đổ người xuống chiếc gối, thở dốc, lúc sau mới nhắm mắt lại, lắc đầu:
– Ngươi đừng lo, ta không có ý trách mắng gì ngươi cả. Mấy năm qua, ta vẫn âm thầm quan sát và nhận thấy ngươi không có ý đồ gì xấu với Lâu Cát và Kháp Na. Ngược lại, ngươi đã giúp đỡ chúng rất nhiều.
Khối đá đè nặng trong lòng tôi nãy giờ đã nhẹ bớt chút đỉnh, tôi thầm thở phào, nhưng vẫn có cảm giác sống lưng lạnh toát.
Đại sư tiếp tục câu chuyện, nhưng ngài đã rất vất vả:
– Sau này ngươi không cần lén lút học cách tu tập nữa. Ngay bây giờ, ta sẽ truyền cho ngươi một bộ phép tu gồm những câu chú tinh diệu, thâm thúy nhất. Người thường học phép tu này chỉ có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng loài yêu tinh tu luyện theo phép tu này có thể biến hóa vô cùng, chạy nhanh ngàn dặm.
Nỗi lo lắng trong tôi hoàn toàn tan biến, tôi vui mừng đến mức chỉ muốn nhảy cẫng lên. Tôi vội vàng tập trung tinh thần, chăm chú ngước nhìn đại sư, vẻ mặt khẩn cầu. Đại sư thở gấp một hồi mới lấy lại được hơi sức, ngài nói:
– Nhưng ta có một điều kiện.
Tôi cảm thấy có chút hụt hẫng. Kết giao với loài người nhiều năm, tôi hiểu rằng, không có thứ gì bỗng dưng từ trên trời rơi xuống cả.
Đại sư nhìn tôi bằng ánh mắt sắc nhọn và nghiêm khắc:
– Ngươi phải lập lời thề, sẽ đi theo hai anh em chúng, dốc sức bảo vệ chúng bằng mọi phép thuật mà ngươi có, cho đến khi chúng rời bỏ cõi đời này.
Tôi sững sờ, tôi nghĩ ngài sẽ buộc tôi phải tránh xa anh em họ, nào ngờ... Tôi gật đầu quả quyết, cắn rách ngón chân trước, để máu tươi nhỏ xuống lòng bàn tay đại sư, kết lại thành một vệt sẫm đỏ.
Đó là cách mà loài thú chúng tôi lập lời thề. Loài thú không tùy tiện thề nguyền bởi vì chúng tôi không được phép bội ước, nếu không, sẽ bị trời trừng phạt. Tôi sống thọ hơn loài người rất nhiều, mấy mươi năm ngắn ngủi của đời người có là bao, dùng khoảng thời gian đó để đổi lấy những đạo pháp quý báu, mối giao dịch hời thế này, làm gì có con thú nào từ chối kia chứ! Nhưng lần đầu tiên trong đời lập lời thề, tôi không hề nghĩ tới những điều này, từ tận đáy lòng mình, tôi thật sự mong muốn được ở bên anh em họ.
Tôi quỳ xuống bên giường đại sư, từng câu từng chữ rành rọt cất lên:
– Thưa đại sư, Lam Kha Mai Đóa xin lập lời thề trước Phật Tổ, cả đời sẽ đi theo Lâu Cát và Kháp Na, dốc hết sức mình bảo vệ họ cho đến khi họ lìa xa cõi đời này.
Khi ấy tôi không hề biết rằng, lời thề đó đã theo tôi gần bốn mươi năm. Tôi đã nhìn thấu mọi diện mạo của đời sống con người, nếm trải đủ mùi vị của sự hợp tan, chứng kiến biết bao cuộc sinh ly tử biệt. Kể từ đó, cuộc đời dằng dặc của tôi đã có thêm những chương đoạn hấp dẫn nhất, tuyệt vời nhất, khó quên nhất.
Sau khi tôi lập lời thề, đại sư đổ người xuống chiếc gối dài, thở phào, chừng như thỏa nguyện, yên lòng.
Ngày trận tuyết lớn nhất mùa đông xuất hiện ở Lương Châu cũng là ngày đại sư Ban Trí Đạt trút hơi thở cuối cùng. Hôm đó, đại sư khoác lên mình chiếc áo cà sa rực rỡ, trang trọng, ngồi xếp bằng trên đài sen, sau lưng ngài là tượng Bồ Tát Văn Thù, vị Bồ Tát mà giáo phái Sakya sùng bái, toàn bộ tu sĩ trong đền Hoán Hóa và tín đồ quỳ gối trước ngài. Bát Tư Ba và Kháp Na đứng hai bên, đỡ lấy cơ thể chỉ còn lại chút sự sống yếu ớt của đại sư.
Khi ấy, đại sư Ban Trí Đạt chủ trì nghi lễ sau cùng, cũng là nghi lễ quan trọng nhất cuộc đời ngài: nghi lễ trao quyền lãnh đạo giáo phái.
Ngoài kia, nền trời ảm đạm, những bông tuyết trắng ào ạt tuôn rơi, lớp tuyết phủ trên mặt đất đã cao đến tận đầu gối. Ở đây, giữa đại điện, bầu không khí trầm buồn, yên ắng, chỉ có duy nhất tiếng củi cháy lép bép trên bếp than. Sau khi trao tù và[1] và y bát[2] cho Bát Tư Ba, đại sư Ban Trí Đạt yêu cầu các môn đồ và tín đồ làm lễ bái lạy vị pháp vương mới. Nghi lễ kết thúc, ánh mắt đại sư dồn về phía Bát Tư Ba:
– Lâu Cát, bây giờ con hãy quỳ xuống trước mặt ta, nhắc lại toàn bộ lời thề mà hôm qua con đã thề với ta trước sự chứng giám của Phật Tổ và các đệ tử, tín đồ phái Sakya có mặt ở đây.
Giọng đại sư tuy yếu ớt nhưng chứa đựng sự uy nghiêm không thể kháng cự. Bát Tư Ba quỳ xuống tấm thảm, thành khẩn vái lạy:
– Xin Phật Tổ chứng giám, xin bác làm chứng cho con: Lạc Truy Kiên Tán xin thề trọn đời náu thân nơi cửa Phật, phụng thờ Phật Tổ, vinh danh giáo phái Sakya, giáo hóa chúng sinh, bảo vệ và thống nhất đất Tạng.
Dưới ánh sáng lung linh của dãy đèn dài, gương mặt cương nghị của Bát Tư Ba toát lên khí khái kiên định, vững vàng, đó là thứ ánh sáng rực rỡ, huyền hoặc của sao Mai đang dần trỗi lên giữa nền trời nhung gấm.
[1] Loại nhạc cụ được làm từ sừng trâu, sừng bò hoặc vỏ ốc, âm thanh phát ra từ loại nhạc cụ này vang rất xa. Tù và trong tiếng Phạn có tên gọi Dharma Sankha, là khí cụ thường được sử dụng trong các buổi lễ cúng bái của Phật giáo Tây Tạng. Trong các cuốn kinh văn, âm thanh trầm bổng, vang vọng của loại khí cụ này thường được ví với thanh âm kỳ diệu ngân vang khi Phật Tổ thuyết pháp. (DG)
[2] Chỉ áo cà sa và cái bát của người tu hành, đây là những vật dụng mà các các nhà sư truyền lại cho môn đồ sau khi viên tịch, việc truyền lại y bát cũng tượng trưng cho việc trao lại quyền năng cho người kế tục. (DG)
Đại sư Ban Trí Đạt gật đầu hài lòng, nhắm mắt lại nghỉ ngơi lấy sức, một lúc sau mới tiếp tục căn dặn:
– Năm hai mươi tuổi con sẽ thọ giới Cụ túc để trở thành một tăng nhân thực sự. Ta những mong sẽ đích thân thọ giới cho con nhưng xem ra, ta chẳng thể chờ đến ngày ấy. Nhưng ta đã gửi thư về Sakya, sau khi ta qua đời, con hãy lập tức lên đường trở về Sakya, đại đệ tử Ngũ Do Ba sẽ chủ trì buổi lễ thọ giới Cụ túc cho con. – Nhắc đến cố hương, vị đại sư ngước nhìn phía trước, ánh mắt ngập tràn nỗi nhớ thương, lưu luyến. – Ta đã xa quê năm năm, tiếc rằng chẳng còn cơ hội quay lại. Lâu Cát, giờ đây con đã là lãnh tụ của giáo phái Sakya, con nhất định phải trở về chỉnh đốn lại giáo phái.
Bát Tư Ba đáp lời trong tiếng nức nở thống thiết.
Căn dặn Bát Tư Ba xong xuôi, gương mặt mệt mỏi của đại sư quay sang Kháp Na:
– Kháp Na, vì là con út nên trách nhiệm của con là phải sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, kế tục huyết mạch của dòng họ Khon. Ta biết con và Công chúa chung sống không hòa hợp, bởi vì tuổi tác cách biệt quá lớn, quả thật rất khó cho các con. Nếu Công chúa không thể sinh hạ huyết mạch của nhà họ Khon, ngày sau con hãy cưới người con gái có thân phận cao quý khác làm vợ.
Kháp Na sững sờ, sau đó cúi đầu yên lặng hồi lâu, hẳn là cậu ấy phải quyết tâm lắm mới cất được những tiếng dè dặt:
– Thưa bác, con mới mười ba tuổi, con... con không muốn kết hôn nữa...
– Kháp Na! – Không biết sức mạnh nào đã giúp ngài Ban Trí Đạt lớn tiếng nghiêm khắc như vậy. – Con phải nhớ rằng, trách nhiệm với gia tộc vĩnh viễn quan trọng hơn tình cảm cá nhân!
Vì quá xúc động, đại sư đổ nhào xuống. Bát Tư Ba và Kháp Na vội vã chạy lại đỡ ngài, vuốt ngực cho ngài. Khi đã lấy lại nhịp thở đều đặn, đại sư nghiêm mắt nhìn Kháp Na, cánh tay chực đưa lên lại đổ xuống vì mất sức.
– Trước khi ta qua đời, con hãy thề độc đi.
Bát Tư Ba kéo áo em trai, ra hiệu bằng ánh mắt. Kháp Na quỳ sụp dưới đất, dập đầu trên tấm thảm, cắn răng thốt ra từng tiếng nặng nhọc:
– Phật Tổ trên cao chứng giám, Kháp Na Đa Cát xin thề sẽ nghe theo lời chỉ dạy của bác, nhất định sẽ sinh hạ huyết mạch của dòng họ Khon, nối dõi tông đường.
Khi Kháp Na ngẩng lên, những giọt nước mắt dồn tụ nãy giờ đã tràn khỏi khóe mắt, nhỏ xuống tấm đệm, tựa hồ những hạt trân châu tuôn rơi khi sợi dây gắn kết bị đứt.
Sau khi nghe Kháp Na thề nguyện, gương mặt đại sư Ban Trí Đạt phảng phất nụ cười mãn nguyện trước lúc lâm chung:
– Lâu Cát, Kháp Na, các con phải ghi nhớ những lời thề này suốt cuộc đời...
Ngày Mười bốn tháng Mười một năm 1251, đại sư Ban Trí Đạt của phái Sakya đã viên tịch tại ngôi đền Hoán Hóa, hưởng thọ bảy mươi tuổi. Bát Tư Ba trở thành vị pháp vương thứ năm của giáo phái Sakya khi mới mười bảy tuổi.
Trong buổi đại lễ ra mắt tân pháp vương ngay sau đó, Bát Tư Ba khoác áo cà sa rực rỡ, trang trọng mà trước đó người bác của cậu từng mặc, đầu đội mũ ngũ sắc, tọa trên đài sen tráng lệ, thần thái trang nghiêm khi tiếp nhận nghi thức vái lạy của tín đồ và tăng chúng. Bát Tư Ba ở trên đài cao, lưng vươn thẳng như cây bạch dương, dung mạo thanh tú, thần thái thoát tục, mọi cử chỉ, hành động đều rất mực chỉn chu, khoan thai, đĩnh đạc. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy ở cậu phong thái của một bậc cao tăng tương lai.
Dù biết sớm muộn gì cũng sẽ đến ngày này, sớm muộn cậu ấy cũng sẽ trở thành người nhà Phật, nhưng vào khoảnh khắc Bát Tư Ba khoác lên mình chiếc áo cà sa trang trọng ấy, lòng tôi bất giác buồn vô hạn.
Một tháng sau ngày đại sư Ban Trí Đạt viên tịch, Vương gia Khoát Đoan cũng qua đời vì bệnh tật. Sau khi Khoát Đoan qua đời, con cháu của ngài không còn được sống những ngày tháng huy hoàng như trước nữa.
r
Nghe đến đây, chàng trai trẻ đưa ra bình luận sắc sảo:
– Khoát Đoan là con trai của Oa Khoát Đài, em trai của Quý Do. Sau khi quyền lực được chuyển từ chi hệ Oa Khoát Đài sang chi hệ Đà Lôi, chắc chắn con cháu của Oa Khoát Đài sẽ thất thế, gia đình Khoát Đoan cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Tôi bổ sung:
– Sau khi lên ngôi, Mông Kha đã ra tay trừng trị tất cả đám con cháu của Oa Khoát Đài – những kẻ năm xưa phản đối ông ta kế vị Khả hãn. Tuy gia đình Khoát Đoan không bị liên lụy vì quan hệ của Khoát Đoan và Mông Kha xưa nay vẫn rất tốt đẹp, nhưng không vì thế mà nhiều vùng đất thuộc quyền cai quản của Khoát Đoan không bị tước đi, trong đó có cả vùng Tây Tạng. Khi bệnh trạng đã ở vào giai đoạn nguy kịch, Khoát Đoan vẫn lệnh cho con trai Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi hộ tống Bát Tư Ba đến gặp Hốt Tất Liệt, thực ra, mục đích chính của Khoát Đoan là muốn gây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con trai với vị tướng soái khi đó đang nắm giữ quân quyền trong tay.
Chàng trai trẻ chau mày:
– Mông Kha tước bỏ quyền cai trị Tây Tạng của Khoát Đoan, điều này đồng nghĩa với việc vị thế mà Khoát Đoan xây dựng cho phái Sakya ở Wusi cũng tan biến. Thêm vào đó, sau khi Khoát Đoan qua đời, không người nào trong số con cháu của ông ta có thế lực lớn trong vương triều Mông Kha, vậy thì giáo phái Sakya hẳn sẽ lâm vào tình cảnh khốn đốn...
Tôi gật đầu đồng tình:
– Đúng là như vậy! Tuy lúc này ở Lương Châu, Bát Tư Ba và Kháp Na vẫn nhận được sự hậu đãi của gia tộc Khoát Đoan, nhưng ở Tây Tạng, địa vị của giáo phái Sakya đã bắt đầu có dấu hiệu lung lay.
Tôi ngước nhìn màn đêm mịt mù ngoài cửa sổ, buột miệng thở dài:
– Đại sư Ban Trí Đạt ra đi, để lại cho Bát Tư Ba cả một núi nguy cơ chất chồng...
Phần II - Vị đế sư trẻ tuổi.
Chương 11 - Đi Theo Hốt Tất Liệt.
"Người uyên bác, trí tuệ và đa mưu túc trí,
Sẽ dễ dàng thuyết phục kẻ nắm uy quyền;
Đại bàng tuy thống trị bầu trời,
Nhưng bằng lòng làm vật cưỡi của tiên ông."
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1253, tức năm Quý Sửu, Âm Hỏa theo lịch Tạng, tức niên hiệu Bảo Hựu thứ nhất, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Mông Kha Hãn thứ ba, Mông Cổ.
Bát Tư Ba mười chín tuổi, Kháp Na mười lăm tuổi, Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi.
– Em tỉnh rồi à?
Tôi uể oải hé mắt, bắt gặp nụ cười tươi rói, rạng rỡ hơn cả ánh mặt trời đang ghé sát bên mình. Đưa mắt nhìn xung quanh, thấy màn đêm bao phủ, đoàn người dựng trại trên một khu đất trống, bằng phẳng. Tôi thiếp đi trên chiếc chiếu trải trong lán trại của cậu ấy, sợ đêm trên núi khiến tôi bị lạnh, cậu ấy chu đáo đắp cho tôi một mảnh chăn. Bát Tư Ba bóp nhẹ đầu mũi tôi, nở nụ cười ấm áp:
– Lần này tiến bộ nhiều lắm, em chỉ thiếp đi có ba ngày, tám canh giờ, ít hơn lần trước hai canh giờ.
Tôi ngượng ngùng không biết nói sao.
Mười bảy tuổi đã trở thành lãnh tụ của một giáo phái, tháng Tám, năm thứ hai sau khi trở thành tân pháp vương Sakya, Bát Tư Ba tổ chức nghi lễ khai quang[1] tòa tháp thờ linh vị đại sư Ban Trí Đạt tại Lương Châu. Sau đó, cậu lên đường trở về Sakya từ hướng Dogans[2] theo di nguyện của người bác. Cậu phải trở về Sakya trước sinh nhật lần thứ hai mươi để chịu lễ thọ giới Cụ túc do đại đệ tử Ngũ Do Ba của đại sư Ban Trí Đạt chủ trì. Chuyến đi này kéo dài một năm, Bát Tư Ba đã trải qua sinh nhật tuổi mười chín của mình trong cỗ xe ngựa tròng trành trên những cung đường quanh co, hiểm trở.
Tôi vọt lên lòng cậu ấy, ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, báo tin khẩn:
– Kháp Na nhờ tôi nói với cậu, cậu ấy nhận được thư từ Sakya gửi đến, báo tin đại sư Ngũ Do Ba đã viên tịch từ hai năm trước, ngài mất sau đại sư Ban Trí Đạt khoảng ba ngày.
Kể từ lúc Bát Tư Ba lên đường, tôi gánh trọng trách đưa tin cho hai anh em họ. Sau khi được đại sư Ban Trí Đạt truyền cho phương pháp tu luyện quý báu, phép thuật của tôi ngày càng tiến bộ, cơ thể nhẹ như chim én, tốc độ nhanh như bay, chỉ bốn hoặc năm canh giờ là tôi có thể chạy cả ngàn dặm đường. Nhưng điều đáng xấu hổ là, cứ chạy đến nơi là tôi ngã vật ra, ngủ li bì mấy ngày liền. Nản quá, rõ ràng là tôi học hành không đến nơi đến chốn đây mà!
Xa quê hương gần mười năm, Bát Tư Ba không còn nhớ rõ dung mạo của đại sư Ngũ Do Ba nữa, chỉ nhớ mang máng rằng, đó là một ông lão hiền từ, nhân hậu. Nghe tin đại sư qua đời, Bát Tư Ba trở nên trầm buồn, cậu chắp tay, nhắm mắt tụng niệm một đoạn kinh văn. Tôi ở bên bầu bạn với cậu, cùng chia sẻ nỗi buồn. Tôi hỏi:
– Bây giờ cậu tính thế nào? Có trở về Sakya nữa không?
Sau một năm trời vượt núi cao, sông sâu, lúc này chúng tôi đang tiến vào địa phận của vùng Đức Khâm, thuộc Vân Nam, cách La-ta, cố đô của vương triều Tufan không còn bao xa nữa. Tuy nhiên, từ La-ta đến Sakya còn phải vượt qua mấy ngọn núi tuyết sừng sững, hiểm trở, hành trình này cũng mất chừng nửa năm. Năm mười tuổi, Bát Tư Ba đã rời xa đất Tạng nên giờ đây, cậu ấy rất khó thích nghi với khí hậu vùng cao nguyên băng giá này, trên đường đi, thường hay bị nhức đầu, khó thở, nhưng cậu ấy luôn kiên cường chịu đựng. Mùa đông sắp tới gần, trên các đỉnh núi, tuyết trắng đã bao phủ, đường đi càng gian nan. Bởi vậy, tôi luôn cầu mong, với lý do này, cậu ấy sẽ không đi tiếp nữa.
Bờ môi của cậu ấy nứt nẻ, tím tái vì thiếu dưỡng khí nhưng vẻ mặt nghiêm nghị, kiên định, từng lời thốt ra chắc như đinh đóng cột:
– Chắc chắn sẽ về! Ta sẽ viết thư mời các vị cao tăng đại đức khác chủ trì buổi lễ thọ giới Cụ túc cho ta. Ta rời đất Tạng khi tuổi còn quá nhỏ nên mối quan hệ giao hảo với các giáo phái khác ở quê hương không mấy khăng khít. Ta muốn nhân dịp này, mời tôn sư của các giáo phái lớn đến chủ trì lễ thọ giới Cụ túc cho ta, để khỏa lấp những cách ngăn giữa ta với họ bấy lâu nay.
Cậu ấy vuốt ve sống lưng tôi, trầm ngâm hồi lâu, giọng nói bỗng chất chứa nỗi xót xa:
– Tuy bác ta lập ta làm pháp vương, nhưng chỉ e các thế lực khác trong giáo phái Sakya sẽ không chịu phục tùng. Nếu đại sư Ngũ Do Ba còn sống, với danh tiếng của một danh sư đức cao vọng trọng, chắc chắn ngài sẽ thuyết phục được mọi người. Nhưng ngài đã viên tịch, ta lo rằng nội bộ phái Sakya sẽ xảy ra tranh chấp. Bởi vậy, ta nhất định phải trở về.
Trong lòng tôi cũng canh cánh nỗi bất an. Em trai thứ hai và thứ ba của Bát Tư Ba năm nay cũng đã mười chín tuổi, và họ không có chút quyền thừa kế chỉ vì luật lệ đặc biệt của giáo phái này. Bây giờ, khi đại sư Ngũ Do Ba đã viên tịch, rất có thể hai người em trai và các thế lực của gia tộc họ ngoại của họ sẽ sinh lòng đố kỵ, muốn tranh đoạt quyền lực. Thêm vào đó, họ lại sinh ra và trưởng thành ở Sakya, có lợi thế của cư dân bản địa.
– Lâu Cát à, Kháp Na còn một thông tin nữa muốn báo cho cậu. – Tôi gõ gõ bộ vuốt lên đầu, ra sức nhớ lại mớ thông tin khô khan, phức tạp đó. – Mông Kha Hãn ban bố chiếu thư, chia đất Tạng cho các em trai của ngài là Hốt Tất Liệt, Húc Liệt Ngột và A Lý Bất Ca làm đất phong vương.
Mặt mày biến sắc, đôi môi của Bát Tư Ba càng tím tái:
– Vậy... còn phái Sakya thì sao?
– Được cắt cho công tử Khởi Tất. Nhưng công tử Khởi Tất cũng chỉ được cai quản vùng Sakya, vùng đất đai khác thuộc Wusi đều bị tước.
Tôi thở dài ảo não. Sakya thuộc vùng Hậu Tạng nghèo nàn, hẻo lánh, dân không quá vài nghìn, đất canh tác không quá nghìn mẫu. Xem ra, Mông Kha Hãn muốn tống khứ triệt để cháu con nhà Khoát Đoan ra khỏi trung tâm quyền lực của đất Tạng rồi!
Bát Tư Ba đặt tôi xuống chiếu rồi đứng lên, đi đi lại lại trong lán, dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu chiều muộn, gương mặt cương nghị với những đường nét như tạc tượng của cậu toát lên vẻ suy tư, đăm chiêu, già dặn không tương xứng với lứa tuổi của cậu. Cậu ấy trầm tư rất lâu mới quay lại nhìn tôi:
– Lam Kha, ta nhờ em một việc: hãy về đất Tạng trước và nghe ngóng xem phản ứng của các giáo phái lớn đối với chiếu thư của Mông Kha Hãn ra sao.
[1] Một nghi thức của Phật giáo. Sau khi hoàn tất một tòa tháp, một bức điêu khắc tượng Phật,... tín đồ Phật giáo chọn ngày lành tháng tốt, tổ chức nghi lễ kéo tấm vải niệm đỏ phủ trên công trình kiến trúc xuống, đánh dấu việc bắt đầu thờ cúng tượng Phật, tháp thiêng đó. (DG)
[2] Dogans: tiếng Trung Quốc cận đại gọi tắt là vùng Khang, chỉ phía đông bắc Xương Đô, Tây Tạng ngày nay, là một bộ phận của khu tự trị tộc người Tạng, huyện Ganzi và huyện Aba, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. (DG)
Vừa mới gặp lại cậu ấy, còn chưa kịp hỏi han câu nào đã phải lên đường, tôi thực sự không muốn chút nào nhưng chẳng dám nói ra, chỉ lặng lẽ thở dài, ai bảo tôi đã thề độc trước mặt đại sư Ban Trí Đạt rằng sẽ đi theo hai anh em họ kia chứ!
Đêm đó, tôi nằm cạnh chiếu ngủ của cậu ấy như mọi khi. Sống chung với con người đã lâu nhưng tôi vẫn không thể thích nghi hoàn toàn với thói quen thức giấc khi mặt trời mọc và nghỉ ngơi khi mặt trời lặn của họ. Ban đêm, tôi ngủ rất ít và vẫn rất cảnh giác như trước đây. Ngoài kia, gió lớn ào ào thổi những bông tuyết trắng tuôn rơi ràn rạt. Trong đêm khuya, tôi nằm nghe tiếng ngáy lúc dài lúc ngắn của tên lính gác, tiếng tru của loài sói từ xa vọng lại. Lò than vẫn hồng rực, xua đi cái giá lạnh thấu xương, sưởi ấm giấc ngủ cho người trong lán. Tôi quay lại ngắm nhìn cậu ấy. Dưới ánh sáng lung linh của tàn lửa, khuôn ngực cậu ấy phập phồng, nhịp thở đều đều, những sợi râu lún phún trên chiếc cằm thanh tú, chiếc cổ dài khẽ rung động. Cậu ấy trưởng thành thật rồi. Tôi lẳng lặng liếm những vết nứt nẻ vì giá rét trên bờ môi tím tái của cậu ấy. Làn môi của cậu ấy vẫn mềm mượt, ngọt ngào như hương vị mà tôi quen thuộc suốt mấy năm qua. Sợ cậu ấy giật mình tỉnh giấc, tôi vội vã úp mặt xuống giả vờ ngủ, trong lồng ngực, trái tim tôi loạn nhịp.
Sáng sớm hôm sau, khi cậu ấy còn chưa tỉnh giấc, tôi đã lên đường.
Vài ngày sau, trong cỗ xe ngựa tròng trành, tôi trở về báo cáo tình hình với Bát Tư Ba:
– Các giáo phái lớn đều nhân cơ hội này tạo dựng mối quan hệ với các vương gia. Mông Kha Hãn đã triệu mời đại sư Dorje của phái Pagmodru và đại sư Karmapa của phái Karma Kagyu vào cung điện của ông ta để thuyết giảng Phật pháp.
Bát Tư Ba thoáng sững sờ, xe ngựa rung lắc dữ dội, cậu bị cộc đầu vào khung cửa nhưng chẳng bận tâm đến vết thương, cất giọng khẽ khàng mà chất chứa phiền muộn:
– Phái Sakya không được mời ư?
Phái Sakya không được mời đến hoàng cung, có nghĩa là không được Mông Kha Hãn xem trọng. Tôi thở dài, lẳng lặng liếm vết thương đang sưng tấy trên trán cậu ấy, chần chừ hồi lâu mới thông báo tin tức còn tệ hơn nữa:
– Tôi nghe nói, chỉ vì tranh chấp giáo dân ở vùng Gyantse[1] mà hai giáo phái Sakya và Pagmodru đã xảy ra xung đột. Đại sư Shakya Zangpo, người hiện giữ chức bản khâm[2] của Sakya thay đại sư Ngũ Do Ba đang trên đường đến La-ta để tranh luận với giáo phái Pagmodru về cuộc xung đột này.
– Quả nhiên là vậy! – Vẻ mặt Bát Tư Ba càng lộ rõ nét ưu tư. – Ta e rằng năm xưa, khi phái Sakya dựa vào thế lực của Vương gia Khoát Đoan để hiệu triệu toàn đất Tạng đã gây nên sự bất mãn trong các giáo phái lớn khác. Giờ đây, Mông Kha Hãn...
Chưa kịp nói hết câu, cỗ xe bỗng nhiên nghiêng ngả dữ dội rồi đột ngột dừng lại.
Tiếng hô hoán ồn ã phía trước xen lẫn tiếng ngựa hí chát chúa. Chúng tôi chưa hết ngạc nhiên thì có người bẩm báo:
– Bẩm ngài, phía trước có một đoàn quân Mông Cổ, khoảng vài trăm nghìn người. Khe núi này quá hẹp, chúng ta phải nhường đường cho họ, e là đêm nay phải dựng trại ở đây.
Bát Tư Ba ôm tôi vào lòng, vén tấm rèm cửa nặng trịch:
– Ai là người dẫn đầu đoàn quân đó?
– Bẩm, là Vương gia Hốt Tất Liệt, người thống lĩnh quân đội phía nam ạ!
Chính là người đó, con trai của con trai út của Thành Cát Tư Hãn, em trai của đương kim Đại hãn Mông Cổ, vị vương gia quyền thế lẫy lừng! Hai năm trước, tại Lục Bàn Sơn, Hốt Tất Liệt từng gặp nhà sư trẻ mười bảy tuổi Bát Tư Ba và hết lời khen ngợi cậu ấy. Nghe nói Mông Kha Hãn cử Hốt Tất Liệt dẫn quân đánh chiếm Vân Nam, chẳng trách lại gặp ngài ở chốn này. Bát Tư Ba lệnh cho đám tùy tùng hạ trại ven đường, sau đó khoác lên mình tấm áo tăng ni sạch sẽ, chuẩn bị đi gặp cố nhân. Tôi mới học được phép ẩn thân, rất muốn biết hiệu quả ra sao nên đã niệm thần chú, lặng lẽ đi theo Bát Tư Ba đến doanh trại của Hốt Tất Liệt.
Vương gia Hốt Tất Liệt khoác áo lông cừu, thân hình cao lớn, tráng kiện, hàm én mày ngài, khuôn mặt vuông vức, dáng vẻ bệ vệ, uy nghi, ở ngài toát lên khí chất của bậc đế vương tương lai. Bụng ngài phệ hơn so với hai năm trước, nếp nhăn nơi khóe mắt sâu hơn nhưng hào khí lẫm liệt như chim ưng sải cánh trên thảo nguyên, vốn là nét đặc trưng của các đấng nam tử Mông Cổ thì vẫn còn nguyên vẹn.
Gặp lại Bát Tư Ba giữa vùng núi non hiểm trở, heo hút của dải đất Vân Nam mênh mông này, ngài mừng lắm. Sau màn chào hỏi xã giao, Vương gia Hốt Tất Liệt mời Bát Tư Ba vào lán trại, hai người chuyện trò, đàm đạo rôm rả. Vương gia nói, sau khi trận chiến Vân Nam kết thúc, ngài sẽ đến Ngũ Hành Sơn bái Phật và trân trọng mời Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại để cùng ngài tới đó. Nghĩ đến lễ thọ giới Cụ túc sắp tới, Bát Tư Ba có phần do dự.
Hốt Tất Liệt nhiệt thành đề nghị Bát Tư Ba đi cùng, ngài vuốt bộ râu quai nón rậm và dày, cười bảo:
– Ta định cử người đến Wusi trưng thu quân lương, mừng thay lại gặp được pháp sư ở đây. Liệu ngài có thể thay ta làm việc đó khi đại quân của ta tiến đánh Vân Nam hay không? Được vậy, đại quân của ta sẽ không phải lo lắng về vấn đề lương thực nữa.
Bát Tư Ba biến sắc mặt, cuống quýt cúi thưa:
– Tufan là vùng xa xôi, hẻo lánh, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, làm sao cáng đáng nổi nhiệm vụ cung cấp lương thực cho cả đại quân Mông Cổ? Xin Vương gia niệm tình lê dân Tufan khốn khổ, nghèo đói mà xá miễn nhiệm vụ này.
Một người ở ngôi cao như Hốt Tất Liệt làm sao chấp nhận được sự cự tuyệt thẳng thắn như thế? Sau câu nói của Bát Tư Ba, ngài sa sầm nét mặt. Nhưng Bát Tư Ba là người rất có nguyên tắc, cậu ấy không bao giờ chịu cúi đầu trước uy quyền. Vị pháp sư trẻ tuổi vẫn hiên ngang đón ánh mắt giận dữ của Vương gia, không hề sợ hãi. Chỉ trong khoảnh khắc, bầu không khí hân hoan lúc đầu đã tan biến. Hốt Tất Liệt hầm hừ nạt nộ:
– Việc quân cơ phải được xếp ở vị trí số một, không thể chỉ vì lòng nhân từ yếu đuối mà lơ là quân dịch được. Nếu muốn thương xót lê dân bá tính thì chờ ngày đại quân giành thắng lợi, ta ban bố lệnh xá miễn quân dịch cũng chưa muộn. Ngài không bằng lòng giúp ta, ta không ép ngài, ta sẽ cử người khác đi vậy.
Tuy già dặn trước tuổi nhưng dù sao Bát Tư Ba cũng chỉ là một thanh niên mười chín tuổi, nghe vậy, cậu liền chắp tay, khảng khái trả lời:
– Nếu đã vậy, tăng nhân của đất Tufan không còn lý do gì để lưu lại đây thêm nữa, xin Vương gia hãy cho phép bần tăng trở về Sakya.
Mất hết thể diện, Hốt Tất Liệt nổi giận đùng đùng, ngài hất tay áo, gằn giọng:
– Được thôi, ngài về đi!
– Kìa Đại vương!
Giọng nói ngọt như mật của ai đó rót vào tai, lập tức xua tan cơn nộ khí đang dần bốc cao của Hốt Tất Liệt. Mỹ nhân kiều diễm ngồi bên cạnh Vương gia nhẹ khàng vén gọn lớp lông chồn gắn ở cổ tay áo, để lộ những ngón tay ngọc ngà, ý nhị ấn khẽ lên mu bàn tay gân guốc của Hốt Tất Liệt:
– Xin Đại vương bớt giận! Hai năm trước gặp đại sư Bát Tư Ba, ngài đã hết lời khen ngợi kia mà, cớ gì hôm nay lại nổi giận vì chút chuyện cỏn con ấy?
Tôi đã từng thấy người phụ nữ tuyệt sắc này trong doanh trại của Hốt Tất Liệt hai năm trước. Cô ấy là Vương phi Khabi, được Hốt Tất Liệt rất mực sủng ái. Thông thường, phụ nữ không được đi theo đoàn quân, nhưng cả hai lần tôi đều được chứng kiến người phụ nữ này đường hoàng ở bên cạnh Vương gia Hốt Tất Liệt, còn tham dự các hội nghị, các buổi yến tiệc cùng tướng sĩ. Hẳn là cô ấy phải có điều gì đó đặc biệt ngoài nhan sắc thì mới khiến Hốt Tất Liệt say mê đến vậy.
[1] Huyện Gyantse nằm phía nam khu tự trị Tây Tạng, phía đông Shigatse, nằm trên vùng thượng du sông Nyangqu. (DG)
[2] Bản khâm tương đương với trụ trì, là người cai quản giáo xứ Sakya.
Vương phi Khabi ghé sát tai Hốt Tất Liệt thì thào, thính giác nhạy bén giúp tôi nghe được trọn vẹn những lời cô ấy nói:
– Khi chia khu vực Wusi cho các anh em cai quản, Mông Kha Hãn đã chia cho Đại vương vùng đất nghèo nàn nhất, khiến ngài rất bất mãn, ngài còn nhớ chứ? Nghe nói, các anh em của ngài đều đang ra sức gây dựng mối quan hệ khăng khít với các giáo phái lớn ở Wusi, trừ giáo phái Sakya. Sakya từng được Khoát Đoan tôn làm giáo phái thủ lĩnh của vùng Wusi nên có sức ảnh hưởng sâu rộng đến vùng đất bao la ấy. Nếu Đại vương muốn khống chế Wusi thì giáo phái Sakya đang bị ghẻ lạnh hiện nay chính là món quà hậu hĩnh mà Phật Tổ tặng cho ngài. Xin Đại vương đừng bỏ lỡ cô hội ngàn năm có một này!
Tôi giật mình sửng sốt, người phụ này quả không đơn giản, cô ấy suy nghĩ rất thấu đáo và sáng suốt, phản ứng nhanh nhạy, phân tích sắc bén, chả trách Hốt Tất Liệt cầm quân đánh trận cũng đưa cô ấy đi theo. Hốt Tất Liệt như vừa tỉnh cơn mơ, hạ thấp giọng, gật gù:
– Vương phi nói chí phải.
Khabi nháy mắt với Hốt Tất Liệt rồi làm bộ cười nói đon đả, cất cao giọng để những người có mặt đều có thể nghe rõ:
– Đại vương, tuy bên cạnh ngài vẫn có các đại sư phái Shangpa Kagyu nhưng luận về học vấn và công đức, pháp sư Bát Tư Ba tuổi trẻ tài cao của chúng ta đây thì hơn hẳn. Ngài nên giữ pháp sư ở lại với chúng ta. Những chuyện quân cơ quân vụ đó để sau hãy tính, có được không?
Quay sang Bát Tư Ba, Khabi cất giọng hết sức tự nhiên, cởi mở:
– Thần thiếp đang nóng lòng muốn được pháp sư truyền giảng về nghi lễ quán đỉnh Hevajra vô cùng đặc sắc của phái Sakya. Hai năm trước, lúc còn ở Lục Bàn Sơn, thiếp đã có ý này rồi, tiếc thay đại sư Ban Trí Đạt bệnh nặng qua đời, pháp sư phải lập tức trở về Lương Châu nên nguyện vọng của thiếp đành tạm gác lại cho đến hôm nay. Liệu pháp sư có thể giúp thần thiếp được thỏa nguyện hay không?
Bát Tư Ba hiểu rằng Vương phi làm vậy là để xoa dịu bầu không khi căng thẳng khi nãy. Cậu ấy là người thông minh, nhạy bén, biết thời biết thế, ứng xử khéo léo nên lập tức chắp tay thưa rằng:
– Vương phi có lòng thành tâm hướng Phật như vậy, bần tăng đâu thể khước từ.
Khabi cười tươi như hoa, mỗi lời nói thốt ra như nhả ngọc phun châu, mưa xuân phơi phới, đám nam nhi trong lán ai nấy đều gật gù tán đồng. Bằng tài ăn nói khéo léo của mình, Khabi đã giúp cho buổi tiệc trở lại bầu không khí hân hoan lúc đầu.
Tối hôm đó, Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại của Hốt Tất Liệt. Chờ khi chỉ còn một mình cậu ấy trong lán, tôi hóa phép trở lại nguyên hình. Mỗi lần sử dụng phép thuật như vậy, tôi đều rất mệt mỏi, chỉ một lát là chìm vào giấc ngủ mê mệt. Tinh mơ hôm sau, tôi tỉnh lại và hoảng hốt khi bắt gặp hai quầng mắt thâm đen của cậu ấy.
Nhưng Bát Tư Ba chẳng hề bận tâm, cậu ấy bước ra khỏi lán trại, vốc tuyết lên rửa mặt, xong xuôi, cậu ấy phủi sạch tàn tuyết trên tay, hít một hơi thật sâu rồi quay đầu lại nhìn tôi:
– Lam Kha, chúng ta không về Sakya nữa. Nếu như cơ duyên đã cho ta gặp lại Đại vương Hốt Tất Liệt, vậy đây chính là chỉ ý của Phật Tổ. Chúng ta hãy cùng ngài hành hương về Ngũ Đài Sơn.
– Vậy... – Tôi chưa hiểu hết chuyện này. – Vậy còn lễ thọ giới Cụ túc của cậu?
– Ta đành tìm một ngôi chùa nào đó và mời người khác chủ trì buổi lễ vậy. Tình thế cấp bách, ta buộc phải đưa ra quyết định.
Hơi thở của cậu ấy phả vào không gian những sợi trắng bồng bềnh, Bát Tư Ba ngước nhìn dãy núi tuyết trắng xóa uốn lượn trùng điệp, vẻ ưu tư hiển hiện giữa hai hàng lông mày thanh tú:
– Thời điểm này mà trở về Sakya cũng không thể giải quyết được vấn đề gì. Ta phải ở lại bên cạnh Đại vương Hốt Tất Liệt, chờ đợi thời cơ để thay đổi cục diện bất lợi hiện nay của phái Sakya.
– Buồn ngủ chưa? – Tôi mỉm cười hỏi chàng trai trẻ. – Khuya rồi đó.
Ánh mắt nhìn tôi thoáng mơ màng nhưng cậu ta tỉnh lại rất nhanh, lắc đầu quầy quậy:
– Không sao, không sao, trò chuyện cả đêm cũng không hề gì. Cô bảo rằng, khi nào trời sáng, tôi phải rời khỏi đây và sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa nên tôi phải tận dụng thời gian lắng nghe câu chuyện của cô.
Tôi lắc đầu cười, lôi trong tủ ra chiếc chăn lông cừu dày bịch, đưa cho chàng trai đắp lên người, tiếp tục câu chuyện:
– Mông Kha Hãn chia đất Tạng cho các anh em làm đất phong, các giáo phái ở Tây Tạng buộc phải suy xét đến sự tồn vong và phát triển của giáo phái mình bằng cách bợ đỡ, dựa dẫm vào hoàng thất Mông Cổ. Kể từ thời điểm này cho đến đời nhà Thanh, nếu một giáo phái muốn chiếm ưu thế tuyệt đối so với các thế lực khác, muốn nắm giữ quyền cai trị Tây Tạng trong tay, đều phải giành sự ủng hộ của triều đình trung ương. Đổi lại, triều đình trung ương cũng cần phò trợ các giáo phái này vì họ chính là người đại diện cho triều đình tại địa phương để đảm bảo an ninh vùng biên cương.
Chàng trai trẻ nhấp một ngụm trà bơ cho dịu giọng, kéo cao tấm chăn, quấn kín người:
– Đúng vậy. Ví như phái Gelug, giáo phái này vốn không phải một giáo phái lớn, nhưng sau khi vị Đạt Lai Lạt Ma thứ năm của họ đến Bắc Kinh diện kiến Hoàng đế Thuận Trị, giáo phái này đã chiếm được ưu thế tuyệt đối và có quyền thống trị đất Tạng.
– Năm 1253, Bát Tư Ba mười chín tuổi, cậu tình cờ gặp lại Hốt Tất Liệt ở Vân Nam. Khi ấy, cảm quan chính trị nhạy bén đã thôi thúc Bát Tư Ba đưa ra quyết định quan trọng là đi theo Hốt Tất Liệt.
Tôi ngước nhìn màn đêm đen như mực ngoài cửa sổ, đêm khuya thanh vắng, chỉ có tiếng chuông gió lanh canh vẫn rộn ràng ngoài hiên.
– Phái Sakya đang lâm vào tình cảnh khốn đốn, họ buộc phải tìm kiếm một cây đại thụ khác. Đúng lúc ấy, một người đầy dã tâm và có thực lực là Hốt Tất Liệt xuất hiện. Kể từ đó, Bát Tư Ba đã đi theo ngài, cho đến khi qua đời.
Chương 12 - Lễ Bái Sư.
"Muốn lưu tiếng thơm cho mình,
Trước hết hãy làm việc thiện;
Muốn sửa dung nhan, hình vóc
Trước hết phải lau gương soi."
(Cách ngôn Sakya)
Những tháng cuối năm 1253, thời tiết giá buốt bất thường, đến nỗi hơi thở cũng bị đóng băng. Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại của Hốt Tất Liệt, giữa vùng núi non hiểm trở, heo hút ở Vân Nam, chờ mệnh lệnh tiếp theo của Mông Kha Hãn. Những lúc rảnh rỗi, Hốt Tất Liệt thường cho vời Bát Tư Ba đến để đàm đạo về Phật pháp. Nhà sư tuổi trẻ tài cao, kiến thức uyên thâm, tư duy sắc sảo lại khiêm tốn, nho nhã, lịch duyệt ngày càng được Hốt Tất Liệt yêu mến, nể trọng. Vương phi Khabi nhân dịp này lại đề nghị Bát Tư Ba truyền giảng nghi lễ quán đỉnh Hevajra độc đáo của phái Sakya.
Hốt Tất Liệt không những không phản đối mà còn rất đỗi háo hức muốn tiếp nhận nghi lễ này. Ngài lệnh cho thuộc hạ bày trí lại lán trại thật trang hoàng để chuẩn bị cho nghi lễ quán đỉnh. Các dòng cờ phướn được chăng khắp nơi. Người ta dựng một đài cao giữa lán trại, xung quanh xếp những cành thông và những bó hoa. Giữa mùa đông giá lạnh không kiếm được hoa tươi, Khabi cùng đám tỳ nữ đã miệt mài suốt ba ngày để tết những dải hoa lụa tuyệt đẹp, khó mà phân biệt được là hoa giả hay hoa thật. Sau khi bày biện tinh tươm, trang trí cầu kỳ và đặt thêm bếp lửa, cả lán trại trở nên rực rỡ, rạng ngời như trong ngày xuân nắng ấm.
Bát Tư Ba khoác áo cà sa trang trọng, đầu đội mũ ngũ sắc, vầng hào quang thánh khiết, chói lọi tỏa rạng từ người cậu. Cậu ấy đứng trước bục cao, phong thái đường hoàng, đĩnh đạc, lưng vươn thẳng như cây thông ngạo nghễ giữa mùa đông băng giá, nụ cười rạng rỡ tựa nắng mai ngày xuân. Cậu ấy khiêm cung vái Hốt Tất Liệt và Khabi một vái, cất giọng trầm ấm, giọng nói ấy có sức thu hút thật mãnh liệt:
– Nghi lễ quán đỉnh bắt nguồn từ Thiên Trúc. Vào ngày kế vị của tân quốc vương, thượng sư sẽ tưới lên đầu vị vua mới thứ nước biển được lấy về từ bốn phương, cầu chúc quốc vương an khang, hạnh phúc, quốc thái dân an, quốc gia phồn thịnh. Về sau, nghi lễ này được truyền vào đất Tạng, chia thành lễ quán đỉnh truyền pháp và lễ quán đỉnh kết duyên. Lễ quán đỉnh truyền pháp được tổ chức cho riêng những tín đồ đạo Phật, còn lễ quán đỉnh kết duyên được tổ chức cho những ai muốn tiếp nhận lễ quán đỉnh để từ đó phụng thờ thần Hevajra và tu tập theo phép tu của bản giáo.
Khabi gật đầu nhiệt thành, hôm nay cô ấy vận xiêm y lấp lánh ngọc ngà, châu báu, đài các, quý phái bội phần. Thị nữ thận trọng dâng lên một chiếc hộp bằng gấm, Khabi từ tốn mở nắp hộp, bên trong là một viên minh châu cực lớn, ánh sáng phát ra chói lòa, kỳ ảo.
– Pháp sư, khi ta đi lấy chồng, của hồi môn quý giá nhất mà cha mẹ tặng cho ta chính là viên dạ minh châu được vớt lên dưới lòng biển sâu ở tận Tây phương xa xôi. Viên minh châu này ban đêm phát quang rực rỡ, mang theo bên mình có thể tránh tà. Hôm nay, ta xin dâng tặng món quà này cho pháp sư để tỏ lòng tôn kính của đệ tử với sư phụ.
Hốt Tất Liệt ngồi trên tấm thảm Ba Tư quý hiếm, bật cười ha hả:
– Viên minh châu này là báu vật vô cùng quý hiếm, đáng giá hàng trăm nén vàng, hàng nghìn nén bạc, nó tượng trưng cho lòng thành hướng Phật của Vương phi, thế nên pháp sư hãy giúp nàng thỏa nguyện.
Bát Tư Ba nghiêm cẩn chắp tay lại, khiêm cung cúi đầu nhận lấy hộp lễ vật:
– Tạ ơn Vương phi... Xin mời Vương phi theo bần tăng lên quán đỉnh đàn dâng hoa, kết Phật duyên.
Bát Tư Ba chỉ dẫn Khabi bước đến quán đỉnh đàn dựng giữa lán trại, hướng dẫn Vương phi dâng hoa lụa và quả ngọt lên tượng Bồ Tát Văn Thù được đặt ở giữa quán đỉnh đàn. Sau đó, cậu ấy nhấc chiếc bình pha lê trong suốt ở phía trước tượng Phật lên, dõng dạc tuyên bố:
– Nước được dùng trong lễ quán đỉnh hôm nay vốn là tuyết trắng tinh khiết trên đỉnh núi tuyết, nơi không có dấu chân người. Tuyết trắng tan ra thành nước được đặt trước tượng Bồ Tát Văn Thù đã trải qua bảy bảy bốn mươi chín lần cúng tế. Tuy không phải là thứ nước được lấy về từ biển lớn bốn phương nhưng là thứ nước tinh khiết tuyệt đối, tan chảy từ băng tuyết vĩnh cửu. Dòng nước thánh khiết này sẽ mang lại phúc lộc dồi dào cho người chịu lễ.
Tôi niệm thần chú, trốn ở một góc khuất để quan sát, nghe đến đây, không khỏi vênh vang tự đắc. Tôi đã phải trèo lên ngọn núi cao nhất để lấy thứ tuyết tinh khiết về, không dễ dàng chút nào!
Khabi quỳ trước tượng Bồ Tát Văn Thù, chắp tay vái lạy thành khẩn. Bát Tư Ba vừa tụng kinh vừa tưới những giọt nước trong chiếc bình pha lê lên đầu Khabi, chỉ là tượng trưng vài giọt, rồi thôi. Sau đó, cậu ấy đặt vào tay Khabi một khay gỗ, bên trong đựng ấn vàng khắc bốn chữ "Bồ Tát Văn Thù" và một cuốn kinh bằng tiếng Mông Cổ do chính Bát Tư Ba biên soạn:
– Vương phi, bần tăng đã truyền kim ấn và chân ngôn mật chú[1] cho người, kể từ bây giờ, người có thể phụng thờ thần Hevajra và tu tập giáo lý của bản giáo. Ngày mai, bần tăng sẽ truyền giảng đạo quả pháp của phái Sakya cho người.
Khabi đón lấy khay gỗ, mặt mày rạng rỡ. Hốt Tất Liệt đứng bên quan sát, lấy làm thích thú, bèn ngồi xuống, đề nghị Bát Tư Ba làm lễ quán đỉnh cho cả mình nữa. Sau khi lặp lại tuần tự các bước của nghi lễ quán đỉnh cho Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba tuyên bố nghi lễ kết thúc. Cậu ấy tuyên đọc một số giới luật mà đệ tử tu hành tại gia cần tuân theo, rồi gương mặt cậu ấy bỗng nghiêm trang lạ lùng, cậu ấy chậm rãi nói:
– Tuy Đại vương và Vương phi có thân phận cao quý nhưng trước Phật Tổ, mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau, bởi vậy còn một quy định nữa, mong Đại vương và Vương phi tuân thủ.
Hốt Tất Liệt và Khabi tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên, Bát Tư Ba dõng dạc nói tiếp:
– Sau khi tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh, người chịu lễ phải tuân thủ lời thề trước Phật Tổ, lễ tạ bậc thượng sư của mình.
Khabi gật đầu:
– Đã tiếp nhận quán đỉnh, đệ tử tất phải tuân thủ pháp độ của giáo phái. Có điều, không biết nghi thức bái tạ thượng sư phải thực hiện ra sao?
Bát Tư Ba lặng lẽ liếc sang Hốt Tất Liệt, vẻ mặt bình thản, cất giọng trầm ấm:
– Thượng sư tọa trên đài cao, đệ tử vái lạy và lắng nghe thượng sư răn dạy, không được trái ý thượng sư.
Quả nhiên mặt Hốt Tất Liệt biến sắc:
– Sao có thể thế được! Ta đường đường là một vương gia, thống lĩnh đại quân phía nam, xưa nay chỉ bái lạy tổ tông và vị huynh trưởng hiện là Đại hãn, quyết không bái lạy người ngoài.
[1] Chân ngôn mật chú là lời nói huyền nhiệm chứa đựng năng lực đưa đến một kết quả siêu nhiên nào đó. Vốn xuất phát từ đạo Bà-la-môn Ấn Độ, chân ngôn mật chú có thể là một âm tiết, một chữ, hoặc một câu kệ. Trong Phật giáo, người tu hành cho rằng, chân ngôn chứa đựng sức mạnh đặc biệt của vũ trụ hoặc biểu hiện một khía cạnh nào đó của Phật tính. Trong nhiều trường phái, chân ngôn mật chú được lặp lại trong các buổi tu tập, đặc biệt trong Kim cương thừa ở Tây Tạng, chân ngôn mật chú trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức hành giả. Hành giả luôn luôn vừa đọc chân ngôn vừa quán tưởng một đối tượng và tay giữ kim ấn theo chỉ dẫn. Câu chân ngôn quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng là: Úm ma ni bát ni hồng. (DG)
[2] Dogans: tiếng Trung Quốc cận đại gọi tắt là vùng Khang, chỉ phía đông bắc Xương Đô, Tây Tạng ngày nay, là một bộ phận của khu tự trị tộc người Tạng, huyện Ganzi và huyện Aba, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. (DG)
Khi ấy Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi, là một vương gia quyền cao chức trọng, một lời nói ra, vạn người phải tuân theo, vốn dĩ chỉ có kẻ khác phải vái lạy ngài, giờ đây buộc ngài phải vái lạy và nhận một người tuổi đời chỉ bằng nửa tuổi ngài làm sư phụ, e rằng ngài khó lòng chấp thuận.
Lúc này, Bát Tư Ba mới chắp tay, khẽ cúi người mà rằng:
– Từ xưa đến nay, các đệ tử đều hành lễ với sư phụ như vậy. Đại vương là người có thân phận tôn quý, không bằng lòng vái lạy cũng không sao, nhưng thượng sư nhất định phải được tọa trên ngai cao. Nếu như chút chuyện nhỏ này Đại vương cũng kiên quyết không chấp thuận, vậy xin chớ tôn bần tăng làm thượng sư của ngài và cũng không cần phải tiếp nhận chân ngôn mật chú của phái Sakya làm gì.
Hốt Tất Liệt chừng như tức nghẹn cổ, vì đây không phải lần đầu tiên Bát Tư Ba chống lại ý nguyện của ngài. Thái độ kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của Bát Tư Ba khiến người ta vừa bực bội vừa buồn cười. Nhận thấy bầu không khí sắp có chiều hướng xấu đi, Khabi vội vàng bước đến, yêu kiều vái lạy Hốt Tất Liệt, thưa rằng:
– Bẩm Đại vương, thần thiếp có ý thế này.
Nàng đưa mắt quan sát thần sắc của hai người, dịu dàng cất tiếng:
– Lúc nghe giảng pháp và ở những nơi vắng người, thượng sư có thể tọa trên ngai cao. Khi các bậc vương tử, phò mã, quan viên và thần dân tụ họp, Đại vương cần thiết phải thể hiện sự tôn nghiêm, ngài sẽ ngự trên ngai cao. Pháp sư và Đại vương thấy sao?
Hốt Tất Liệt thở phào nhẹ nhõm, giọng nói cũng khoan hòa hơn nhiều:
– Vương phi nói phải lắm, cứ làm theo ý nàng!
Hốt Tất Liệt đã nhượng bộ như vậy, Bát Tư Ba cũng không có lý do gì từ chối. Cậu ấy suy nghĩ một lát, lại bước lên phía trước, tâu rằng:
– Bẩm Đại vương, bần tăng vẫn còn một thỉnh cầu.
Khabi sợ cậu ấy lại nêu ra "yêu sách" gì đó khiến Hốt Tất Liệt bực dọc, vội vàng nháy mắt ra hiệu, nhưng Bát Tư Ba vẫn vờ như không nhìn thấy, cúi gập người, cung kính thưa rằng:
– Những việc liên quan đến Tufan, cúi xin Đại vương thuận theo ý của bần tăng.
Hốt Tất Liệt nhìn chăm chăm vào Bát Tư Ba rất lâu, sau đó khẽ thở dài:
– Những ngày qua cùng thượng sư đàm đạo, ta rất mực nể phục phẩm cách thanh cao và kiến thức sâu rộng của thượng sư. Nay thượng sư đã mở lời thỉnh cầu, vậy ta quyết định thế này, phàm những việc liên quan đến Tufan, ta sẽ nghe theo sự chỉ dạy của thượng sư, nếu thượng sư không đồng ý, ta quyết không ban chiếu chỉ. Còn những việc lớn nhỏ khác, xin thượng sư chớ vì thiện tâm mà cầu xin cho kẻ khác, làm khó cho ta, vì như vậy sẽ khiến ta khó lòng thu phục kẻ dưới.
Bát Tư Ba khẽ giật mình, cậu hiểu một người tôn quý như Hốt Tất Liệt lại hứa hẹn với mình như vậy quả không dễ dàng gì. Bởi vậy, Bát Tư Ba ngước đôi mắt sáng rạng rỡ lên, gật đầu bày tỏ sự đồng ý tuyệt đối.
Khi các vấn đề "gai góc" đều đã được giải quyết ổn thỏa, tâm trạng của Hốt Tất Liệt trở nên hân hoan hơn nhiều, ngài khoát tay ra lệnh cho đám tùy tùng dâng rất nhiều lễ vật quý báu: ngọc ấn mỡ cừu, áo cà sa đính trân châu, ngoài ra, còn có những bộ y phục của tăng sĩ được cắt may rất kỳ công, những tấm đệm dát vàng, v.v... chất đầy cả lán trại.
Hốt Tất Liệt đắc ý nhìn núi lễ vật chất ngất, cười sảng khoái:
– Thượng sư, ta định ban bố một sắc lệnh, chỉ cho phép vùng Wusi được tu tập giáo pháp của giáo phái Sakya, ngài thấy sao?
– Đại vương, tuyệt đối không thể được! – Bát Tư Ba biến sắc mặt, vội bước lên phía trước can gián. – Đất Tạng có rất nhiều giáo phái, các giáo phái lớn đều đã trải qua hàng trăm năm lịch sử với số lượng tín đồ đông đảo, thực lực tương đương nhau. Nếu Đại vương ép buộc họ tin theo giáo phái Sakya, chỉ e sẽ phản tác dụng, khiến cho đất Tạng rối loạn. Sau khi vương triều Tufan sụp đổ, vùng Wusi đã ly loạn suốt mấy trăm năm, không thể để tình trạng này ngày càng trầm trọng. Các giáo phái lớn tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đều phụng thờ Phật Tổ, mỗi giáo phái đều có nét đặc sắc, độc đáo của riêng mình. Sakya đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích từ các giáo phái đó.
Hốt Tất Liệt chừng như rất cảm động, lòng tôn kính đối với Bát Tư Ba lại được dịp tăng thêm:
– Thượng sư không vì lợi ích của giáo phái mình mà suy tính cho đại cục, quả là người có tấm lòng quảng đại.
Sau khi bái Bát Tư Ba làm thượng thư, Hốt Tất Liệt lập tức trao cho Bát Tư Ba một chiếu thư với thân phận vương gia. Chiếu thư mô tả quá trình Hốt Tất Liệt và Khabi quy y cửa Phật và tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh. Vương gia Mông Cổ ban chiếu thư vốn là sự kiện hết sức bình thường vào thời điểm đó, hơn nữa Hốt Tất Liệt còn tuyên bố trong chiếu thư rằng, chiếu thư được ban bố là nhờ phúc đức của Thành Cát Tư Hãn và Mông Kha Hãn. Điều đáng nói là, đối với giáo phái Sakya đang trong tình thế khốn đốn, chiếu thư này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó tuyên bố với mọi tăng nhân ở đất Tạng rằng, Hốt Tất Liệt và Bát Tư Ba đã kết thành quan hệ thượng sư và đệ tử, và giáo phái Sakya chính thức nằm dưới sự bảo hộ của Hốt Tất Liệt.
Đây là chiếu thư chính thức đầu tiên mà Hốt Tất Liệt ban tặng cho Bát Tư Ba nên cậu ấy xem nó như một món quà quý giá, luôn mang theo bên mình. Về sau, khi cậu ấy trùng tu đền Sakya, bức chiếu thư này đã được cất giữ trong đại điện của ngôi đền, đến tận ngày nay.
Ngày thứ ba sau khi Bát Tư Ba được thụ phong làm thượng sư cũng là ngày người Hán đón năm mới. Tuy là người Mông Cổ nhưng Hốt Tất Liệt đón nhận văn hóa truyền thống của người Hán hết sức cởi mở. Từ khi tiếp nhận trọng trách thống lĩnh quân đội miền Nam, ngài đã chiêu nạp hàng loạt nho sĩ người Hán, thực thi luật pháp của người Hán tại các khu vực mình cai quản. Các quý tộc Mông Cổ khác thường chê trách ngài về điều này nhưng Hốt Tất Liệt bỏ ngoài tai hết thảy.
Vào ngày cuối cùng của năm cũ, Hốt Tất Liệt ban phát rượu thịt cho toàn quân, Khabi cùng với những người hầu gái nô nức dán câu đối và chữ "phúc" khắp các lán trại theo phong tục của người Hán. Đêm Giao thừa, tuyết rơi ào ạt nhưng tiếng cười nói vẫn rộn ràng khắp doanh trại. Vì là đoàn quân viễn chinh nên mọi thứ đều khá đơn sơ, mộc mạc, nhưng không khí ngày Tết không vì thế mà kém phần náo nhiệt. Sau khi yến tiệc kết thúc, Bát Tư Ba trở về lán trại của mình, lập tức ngồi vào bàn viết. Tôi sáp lại, dò hỏi:
– Cậu viết gì thế?
Cậu ấy tặng cho tôi nụ cười rạng rỡ tựa gió xuân, cọ cọ cán bút vào chiếc mũi nhọn hoắt của tôi:
– Viết lời chúc mừng năm mới Đại vương.
Viết xong, cậu ấy nhẩm đọc một lượt, rồi mới thận trọng gập lại, bỏ vào túi gấm, quay lại nhìn tôi, mắt sáng long lanh như sao mai, vành môi uốn cong quyến rũ:
– Lam Kha, zhaxidele, chúc mừng năm mới!
Lòng tôi phơi phới, tôi ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, khẽ nói:
– Chúc mừng năm mới!
Không hiểu sao tôi chẳng thể hân hoan nổi. Mỗi khi nghĩ đến việc sang năm mới cậu ấy sẽ hai mươi tuổi, nghĩ đến số phận không thể khác đi được của cậu ấy, nghĩ đến những thanh quy giới luật mà cậu ấy phải tuân thủ suốt kiếp là lòng tôi lại phiền muộn, không yên.
Trong cung điện nhỏ bé của Hốt Tất Liệt từ lâu đã hình thành thông lệ: vào ngày đầu năm mới theo lịch của người Hán, Hốt Tất Liệt sẽ tiếp nhận lời chúc mừng của triều thần. Bát Tư Ba là người Tạng, vốn chỉ ăn Tết của người Tạng, nhưng sau khi náu thân nơi phủ đệ của Hốt Tất Liệt, cũng nhập gia tùy tục.
Tết năm 1254, Bát Tư Ba dâng lên Hốt Tất Liệt một áng thơ dài, cung chúc đại gia đình Hốt Tất Liệt an khang, hạnh phúc, trường thọ.
Về sau, viết lời chúc Tết trở thành thông lệ, hằng năm, vào ngày đầu tiên của năm mới, dù đang ở nơi nào, Bát Tư Ba cũng đều gửi thư chúc Tết cho Hốt Tất Liệt và việc này đã được duy trì cho đến năm cuối cùng trước khi Bát Tư Ba viên tịch.
Tết của người Hán qua không lâu, sau nhiều tháng trời đóng quân chờ đợi giữa vùng núi non Vân Nam hiểm trở, cuối cùng Hốt Tất Liệt cũng nhận được mệnh lệnh của Mông Kha Hãn: rút quân. Lý do rất nực cười: Hốt Tất Liệt đánh trận nhiều năm, vết thương ở chân chưa lành, bởi vậy Mông Kha Hãn lệnh cho Hốt Tất Liệt dẫn quân lên phía bắc, đến Cam Túc nghỉ ngơi, dưỡng thương. Sau khi mệnh lệnh được chuyển đến doanh trại, Hốt Tất Liệt đã ở lại trong lán một mình rất lâu, ngày hôm sau, ngài ra lệnh nhổ trại, rút quân.
Sau này tôi mới biết, đã có rất nhiều quý tộc Mông Cổ dựng chuyện kể tội Hốt Tất Liệt trước mặt Mông Kha Hãn. Họ nói với Đại hãn rằng, Vương gia đã chiêu nạp rất nhiều mưu sĩ người Hán, ngài đi khắp nơi học hỏi phương cách trị quốc, ngài dùng lịch của người Hán, học tiếng Hán, áp dụng luật pháp của người Hán, ngài tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực, hẳn là ngài đã nuôi dã tâm sau khi chiếm đất Hán sẽ lên ngôi vua từ lâu. Mông Kha Hãn vốn rất kiêng nể và đề phòng người em trai tài ba, nắm giữ binh quyền trong tay này nên khi nghe những lời sàm tấu kia, lại càng không muốn Hốt Tất Liệt tiếp tục lập công trạng nữa, hạ lệnh cho Vương gia rút quân về Nội Mông Cổ. Mông Kha Hãn thậm chí đã sắp xếp ổn thỏa đất phong của Hốt Tất Liệt ở Nội Mông Cổ.
Giã từ những ngọn núi tuyết trắng bao phủ, đoàn quân lập tức lên đường hướng về phía bắc. Khi tới Nội Mông Cổ thì đã là mùa xuân ấm áp, cây cỏ tốt tươi, chim chóc bay lượn, vạn vật hồi sinh. Sau khi đại quân đến đất phong, Hốt Tất Liệt lúc ấy mới hay mình đã được ban cho thứ gì. Đó là mảnh đất xa xôi gồm hai thành trì là Hoàn Châu và Phủ Châu. Nhà cửa lụp xụp, tường thành đổ nát, chẳng có nổi một cung điện tươm tất cho Hốt Tất Liệt náu thân. Thuộc hạ của Hốt Tất Liệt, ai nấy đều bất bình, cho rằng Mông Kha Hãn làm vậy thật quá đáng, nhưng Hốt Tất Liệt không hề tỏ ra bất mãn, ngài là người con của thảo nguyên mênh mông, ngài thích được ngắm nhìn những thảm cỏ hoa rực rỡ màu sắc hơn là chui rúc trong những ngôi nhà thấp lè tè ở thành Phủ Châu, vì vậy ngài đã quyết định dựng trại giữa thảo nguyên bao la.
– Hốt Tất Liệt đã bái Bát Tư Ba làm thượng sư, giữ nghi lễ sư phụ và đệ tử. Sau khi ngài xưng đế, phương thức mà Vương phi Khabi nêu ra về sự xuất hiện và vai vế của hai người luân phiên trong các bối cảnh khác nhau vẫn tiếp tục được duy trì. Về sau, triều Nguyên tôn Lạt Ma giáo làm quốc giáo, thiết lập chế độ đế sư. Quy định mà Hốt Tất Liệt đặt ra đã được các triều đại nhà Nguyên tuân thủ nghiêm ngặt.
– Tôi thật lòng khâm phục Bát Tư Ba! Sau vài lần khiến Hốt Tất Liệt phải tức giận, có thể nhận thấy tính cách cương trực, thái độ cương quyết và tính nguyên tắc vững vàng ở cậu ấy rất rõ. Tôi đoán rằng, Hốt Tất Liệt cũng nhận thấy hiếm có người nào dám cự lại ông ta như thế.
Chàng trai trẻ hơ tay bên lò sưởi, quay đầu mỉm cười với tôi:
– Vậy thì bằng cách nào cậu ấy có thể chiếm được lòng tin của Hốt Tất Liệt và được ông ta yêu mến như thế?
– Dựa vào nhân cách của chính cậu ấy. – Tôi thấy khóe mắt mình ươn ướt, dường như bóng dáng khiêm nhường, nho nhã, cụ cười rạng rỡ, ấm áp tựa đóa tuyết liên thánh khiết trên miền đất tuyết của người đó lại thấp thoáng đâu đây. – Cậu ấy thông minh, mẫn tiệp, cần cù, hiếu học, kiến thức uyên thâm, lại rất mực khiêm tốn, hòa nhã, không quá câu nệ các nghi lễ giáo điều của nhà Phật. Tuy là bậc thượng thư của Hốt Tất Liệt nhưng cậu ấy không khi nào tỏ ra kiêu ngạo, luôn giữ thái độ điềm đạm, khoan hòa, nho nhã trước mặt nhà vua. Mỗi khi Hốt Tất Liệt phạm phải sai lầm, Bát Tư Ba sẽ tìm cách can gián thật khéo léo, không khiến ngài mất thể diện.
– Bởi vậy, tôi cũng hết sức thán phục Hốt Tất Liệt. Vì ông ta chịu lắng nghe những lời can gián của bậc trung thần nên ông ta trở thành bậc đế vương cũng là lẽ đương nhiên. Đâu là lời a dua nịnh hót, những kẻ bề tôi kia hay dở ra sao, hẳn trong lòng ông ta đều hiểu rõ.
Tôi khẽ gật đầu:
– Mối quan hệ giữa Bát Tư Ba và Hốt Tất Liệt ngày càng khăng khít. Đối với một bậc đế vương, mối quan hệ bằng hữu thân tình không có bất cứ sự xung đột nào về lợi ích này là điều rất đáng quý. Bát Tư Ba rất được lòng Hốt Tất Liệt nên cậu được ban thưởng rất nhiều của cải. Ngoài nhu cầu tối thiểu hằng ngày của bản thân và tùy tùng, Bát Tư Ba không bao giờ lãng phí quân lương. Những lễ vật mà Hốt Tất Liệt ban tặng, Bát Tư Ba đều cất giữ cẩn trọng, sau này, số của cải đó đã được cậu dùng vào việc trùng tu ngôi đền Sakya.
Chàng trai trẻ nghiêng đầu nhìn tôi, mỉm cười:
– Vậy còn những việc liên quan đến Tufan thì sao, Hốt Tất Liệt có giữ đúng lời hứa, trước khi đưa ra quyết định phải xin ý kiến của thượng sư không?
– Lúc này Hốt Tất Liệt vẫn chỉ là một vương gia có thế lực, Đại hãn Mông Cổ là Mông Kha, Hốt Tất Liệt không có quyền phán quyết những việc liên quan đến Tây Tạng. Nhưng Hốt Tất Liệt hứa hẹn như vậy cũng cho thấy rằng ông ấy không hề bằng lòng với việc phân chia đất phong ở Tây Tạng cho các anh em của Mông Kha Hãn. Và dã tâm của ông ấy còn lớn hơn thế rất nhiều. Sau này, khi Hốt Tất Liệt trở thành hoàng đế, ông ấy mới có cơ hội thực hiện lời hứa với Bát Tư Ba.
Chương 13 - Bí Mật Của Vương Phi.
"Làm việc thiện không cầu trả ơn,
Bị đặt điều không màng trả đũa;
Luôn khắc cốt ghi tâm lòng tốt của người khác,
Đó là phẩm cách của con người cao thượng."
(Cách ngôn Sakya)
Tuy sinh ra nơi thảo nguyên mênh mông nhưng sau nhiều năm tháng chung sống với người Hán, Hốt Tất Liệt đã dần chịu ảnh hưởng bởi văn hóa và truyền thống xây dựng thành trì, cung điện của người Hán. Bởi vậy, trong thời gian cư trú tạm thời trên thảo nguyên Phủ Châu, Hốt Tất Liệt đã thăm thú khắp chốn, tìm kiếm vị trí phù hợp để xây dựng cung điện. Mùa xuân năm đó, Hốt Tất Liệt đã tìm thấy và rất ưng ý một nơi có tên gọi là Long Cương, nằm ở phía đông Hoàn Châu, phía bắc Loan Thủy. Khu vực này đất đai rộng rãi, phòng thủ dễ, tấn công khó, Hốt Tất Liệt đã hạ lệnh xây dựng thành trì ở đây.
Bị tước mất quyền thống lĩnh quân đội, đang chán ngán những tháng ngày an nhàn, tẻ nhạt trên thảo nguyên, giờ đây, Hốt Tất Liệt đã tìm ra cách thức để vận động và giải khuây. Ngài chìm đắm trong kế hoạch xây dựng thành quách, cung điện suốt cả ngày, lúc nào cũng dẫn theo Bát Tư Ba bên mình nên cậu ấy cũng bận rộn liên miên. Tôi được tự do vui chơi, thời gian thoải mái, ngoài những lúc tu luyện, tôi thường lẻn vào trong núi bắt vài con thú hoang để thay đổi khẩu vị.
Một ngày kia, sau khi đã xơi tái một chú thỏ non, sợ bị Bát Tư Ba quở trách vì tội lẻn đi ăn vụng, tôi quyết định "xóa dấu vết" trước khi trở về. Tôi đứng bên ngoài lán trại của Bát Tư Ba, chùi sạch mép, định đi vào thì bỗng nghe thấy tiếng trò chuyện từ bên trong vẳng ra. Thính giác nhạy bén cho tôi biết đó là giọng nói ngọt như mật, êm như nhung và trong như nước suối:
– Thượng sư, thiếp chưa hiểu hết đoạn kinh văn này, ngài hãy giảng lại một lần nữa cho thiếp nghe, được không?
– Xin Vương phi hãy tự trọng!
Đó là giọng nói của Bát Tư Ba. Cậu ấy xưa nay vẫn luôn hiền hòa, nhã nhặn và rất ít khi nổi nóng.
– Bần tăng là người nhà Phật, xin Vương phi chớ làm vậy!
Tôi thót tim, vội lao vào lán. Mỹ nhân với làn da trắng nõn nà, mềm mại, đôi mắt hớp hồn đang phô bày những đường cong quyến rũ của cơ thể trên chiếu khách. Đó chính là Vương phi Khabi – vợ yêu của Vương gia Hốt Tất Liệt. Sao hôm nay cô ta lại ăn mặc diêm dúa, điệu bộ lả lơi như vậy? Tôi nổi giận, xù lông, nhe nanh, gầm gừ đe dọa cô ta.
Khabi lướt đôi mắt lúng liếng về phía tôi, lườm khẽ một cái rồi yểu điệu đứng lên:
– "Trong bụng là rượu thịt, trong tâm là Phật Tổ." Tình cảm nam nữ vốn là thiên tính của con người, chắc rằng pháp sư đã có người con gái xinh đẹp nhất thế gian ở bên cạnh nên người phụ nữ đã nếm đủ mùi tục lụy như thiếp mới chẳng thể lọt vào mắt xanh của ngài.
Lúc này, Bát Tư Ba đã đứng cách xa ba trượng, xoay lưng về phía Khabi, nghe thấy vậy, cậu chau mày, quay đầu lại, nghiêm giọng:
– Vương phi thật biết nói đùa, bần tăng một lòng thờ Phật, những người theo hầu đều là đàn ông, làm gì có người con gái nào như lời Vương phi nói?
– Pháp sư, người khác không nhận ra không có nghĩa ta không nhận ra. – Khabi ranh mãnh nháy mắt với tôi, đủng đỉnh vén gọn những sợi tóc mai lòa xòa ra sau vành tai, nở nụ cười đong đưa. – Tiểu hồ ly bên cạnh ngài là loài thú linh hiếm có trong trời đất, nếu tu luyện thành người, ắt sẽ là tuyệt sắc giai nhân.
Vốn định xông lên cắn cho cô ta một cái nhưng lời nói của Khabi như tiếng sấm dội bên tai, tôi trợn tròn hai mắt, đầu óc choáng váng, quên sạch mọi thứ đang diễn ra. Tôi... tôi... tôi có thể hóa thành người ư? Và còn là một giai nhân tuyệt sắc ư?
Bát Tư Ba quá đỗi kinh ngạc:
– Vương phi...
Lạ lùng thay, chỉ trong khoảnh khắc, vẻ đong đưa, lơi lả của Khabi đã hoàn toàn biến mất, cô ấy thong thả cúi đầu vái Bát Tư Ba một vái, ngắt lời cậu:
– Xin thượng sư chớ lo lắng, thần thiếp chỉ muốn thử xem ngài có như những gã đàn ông bình thường khác, dễ dàng bị mê hoặc bởi nữ sắc hay không mà thôi.
Khabi lúc này đã trở lại với dáng vẻ đoan trang, hiền thục, cử chỉ nho nhã, lịch duyệt thường thấy. Chỉ trong chớp mắt, thái độ của cô ấy đã xoay chuyển một trăm tám mươi độ, giờ đây, cô ấy lại là Vương phi đài các, quý phái mà chúng tôi quen biết. Cả tôi và Bát Tư Ba đều không hiểu dụng ý của cô ấy, lẳng lặng lắng nghe, không khỏi ngạc nhiên.
Khabi mỉm cười như thể chưa từng xảy ra chuyện khi nãy, cô ấy nhấc gót chuẩn bị bước ra ngoài:
– Thượng sư quả là người kiên định, vững vàng, thần thiếp sẽ trở về bẩm báo với Đại vương, chắc chắn ngài sẽ rất vui mừng.
Cả hai chúng tôi đều há hốc miệng ngạc nhiên. Lẽ nào những cử chỉ, hành động và lời nói đưa đẩy của cô ấy khi nãy chỉ là vì muốn thử lòng Bát Tư Ba? Khi bóng dáng tha thướt, yêu kiều của cô ấy khuất dạng, chúng tôi nhìn nhau rất lâu nhưng không biết phải mở lời ra sao. Đầu óc tôi lúc này chỉ quanh quẩn với câu nói của Khabi: "Tiểu hồ ly bên cạnh ngài là loài thú linh hiếm có trong trời đất, nếu tu luyện thành người, ắt sẽ là tuyệt sắc giai nhân."
Không biết tôi đã chìm vào suy tư bao lâu, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, tôi quay đi, lao ra khỏi lán trại.
Lán trại của Khabi nằm kế bên lán trại của Hốt Tất Liệt, được trang trí rất mực cầu kỳ nên không khó để nhận ra. Tôi thấy thị nữ bưng những khay đồ ăn nóng hổi ra vào nườm nượp, phục vụ bữa tối. Tôi hơi do dự, nằm phủ phục bên ngoài lán chờ đợi. Đang mải mê tính toán xem phải tranh thủ lúc không có người, lẻn vào trong lán như thế nào thì đột nhiên tôi thấy mình bị xách cổ, nhấc bổng lên rồi bị tung lên không trung.
Tôi hốt hoảng, chuyện gì thế này? Dù đã gắng sức quẫy đạp nhưng không ăn thua, tôi vẫn chẳng thể thoát khỏi gọng kìm. Chưa biết phải đối phó ra sao, bỗng trước mặt tôi xuất hiện một gương mặt tròn trịa, bầu bĩnh, đó là một chú nhóc bụ bẫm chừng mười tuổi, lông mày dài và đậm, trông rất kháu khỉnh. Chú bé khoác trên mình chiếc áo khoác kiểu Mông Cổ hoa văn sặc sỡ, đường chỉ tinh tế, cầu kỳ, nửa ống tay được thít lại bên hông, hai má phừng phừng, khuôn ngực phập phồng, nhịp thở gấp, có vẻ như chú nhóc vừa chơi đùa hết mình.
– Chà, một con hồ ly! Lông màu xanh này, cả mắt cũng màu xanh nữa, đẹp quá!
Tóc tết đuôi sam thả trước ngực, đính những hạt mã não cỡ bự. Chú bé cười tít mắt, để lộ hai chiếc răng thỏ rất dễ thương, lát sau, chú bé quay đầu về phía lán trại, hét lên đầy phấn khích:
– Mẹ ơi, con bắt được một con hồ ly màu xanh này!
Bàn tay với những ngón ngọc ngà nhẹ nhàng vén rèm cửa, người phụ nữ xinh đẹp trong bộ xiêm y lụa là thả bước yêu kiều tiến về phía chú nhóc. Tôi sững sờ, người đó là Khabi. Tôi vội vàng lên tiếng kêu cứu, cô ấy thấy tôi thì tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên:
– Chân Kim, con đi cưỡi ngựa kia mà? Con bắt được con hồ ly này ở đâu vậy?
Chú nhóc tên là Chân Kim ấy lắc lư cái đầu tỏ vẻ đắc ý, dưới bóng hoàng hôn, đôi má ửng đỏ của chú nhóc hắt lên thứ ánh sáng của sự khỏe khoắn, rắn rỏi.
– Con tóm được nó trên trảng cỏ phía trước lán trại của mẹ. Chắc là nó ngửi thấy mùi thức ăn nên định tới đây ăn vụng.
Thằng bé đắc chí cười hỉ hả, giơ tay thụi một cái vào mũi tôi. Tôi định cắn nó nhưng nó đã nhanh nhẹn né được. Nó nhảy chân sáo, tung tăng chạy đến trước mặt Khabi, ngước lên, hớn hở nhìn mẹ:
– Mẹ ơi, con muốn nuôi nó. Con chó lông vàng của con chết năm ngoái rồi, con muốn có một con thú cưng khác. Tiểu hồ ly này rất đáng yêu, chắc chắn nó sẽ thú vị hơn con chó lông vàng kia rất nhiều.
Khabi mỉm cười duyên dáng, rút khăn tay lau mồ hôi cho con trai, cất giọng âu yếm:
– Nhưng mẹ được biết là con hồ ly này đã có chủ. Con muốn nuôi nó thì phải xin phép chủ nhân của nó trước.
Mùi mồ hôi trên người Chân Kim tỏa lan tứ phía, bàn tay đang túm cổ tôi của thằng nhóc cũng ướt đầm khiến tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Thằng nhóc cào cào lớp lông trên lưng tôi, cao giọng:
– Ai là chủ nhân của nó vậy ạ? Để con đi nói với người đó nhường nó lại cho con, họ muốn đổi lấy thứ gì cũng được.
– Hoàng tử Chân Kim!
Chân Kim quay đầu lại, đã thấy Bát Tư Ba mỉm cười hồn hậu đứng sau lưng. Chân Kim chớp chớp đôi mắt nhỏ xíu, rồi như chợt nhớ ra:
– Ngài chính là vị Lạt Ma mà cha mẹ ta rất mực nể trọng? Là người mà cha mẹ muốn ta gọi là thượng sư, còn muốn ta theo ngài học Phật pháp?
Bát Tư Ba khiêm nhường hành lễ:
– Trí nhớ của Hoàng tử thật đáng nể, hôm qua ngài mới đến đây, chỉ gặp ta có một lát, chẳng ngờ hôm nay ngài vẫn nhớ rõ, ta rất vui.
– Con hồ ly này là của ngài ư?
Chân Kim tươi cười, không đợi Bát Tư Ba trả lời, đôi mắt hình hai hòn bi ve đảo một vòng chừng như suy nghĩ lung lắm rồi nhấc tôi đưa ra trước mặt:
– Nếu ngài đã là thượng sư của ta, vậy sư phụ có thể tặng cho đệ tử con hồ ly này, xem như quà gặp mặt, được không?
– Bẩm Hoàng tử, thực ra ta không phải chủ nhân của nó. Tiểu hồ ly này đã sống cùng ta và em trai ta gần mười năm qua, chúng ta chưa bao giờ xem nó là thú cưng. Nó muốn trở về với rừng xanh hoặc đi theo chúng ta đều do nó tự quyết định.
Thấy tôi bị chú nhóc túm cổ nhấc bổng lên, Bát Tư Ba chừng như thương xót, bèn ra hiệu cho Chân Kim thả tôi xuống.
– Tiểu hồ ly này là thú thiêng hiếm có, nó rất thông minh, lanh lợi, tốt bụng và hiểu chuyện, ngài nên thử kết bạn với nó, không nên giam hãm và biến nó thành thú cưng.
Chân Kim "xì" một tiếng đầy mỉa mai, tỏ vẻ bất mãn:
– Kết bạn với một con hồ ly ư?
Bát Tư Ba mỉm cười nhân hậu, "bẻ" lại:
– Vì sao không thể? Vạn vật giữa núi rừng, sông suối, từ nhành cây, ngọn cỏ, hết thảy đều có tình cảm, huống hồ tiểu hồ ly này lại là kết tinh linh khí của cả đất trời. Dám hỏi Hoàng tử, ngài yêu thích tiểu hồ ly này ở điểm gì?
– Nó rất thú vị, đáng yêu, tinh nghịch, lại rất đẹp nữa.
Thằng nhóc túm chặt phần da thịt phía sau cổ tôi, lúc lắc khiến tôi chóng hết cả mặt, tôi khẽ gầm gừ biểu thị vẻ không hài lòng. Tên tiểu quỷ không biết trời cao đất dày, ngươi tưởng bắt nạt ta mà dễ à? Chẳng qua có nhiều người ở đây nên ta không thể thi triển phép thuật thôi nhé! Thằng nhóc lắc tôi mạnh quá khiến tôi phát bực, bèn tung một cú đá trừng phạt. Cú đá nện xuống ngực nó, chẳng khác nào châu chấu đá xe. Thằng nhóc khoái chí bật cười ha hả, khoa chân múa tay chạy nhảy tung tăng:
– Vui quá! Vui quá! Thầy xem, cứ như thể nó hiểu ta vừa nói gì ấy.
Bát Tư Ba đưa tay giữ Chân Kim lại, nghiêm nét mặt, nói:
– Nếu nhốt nó vào lồng, tước bỏ tự do của nó thì dù bộ lông của nó có đẹp chừng nào rồi cũng mất màu, tính cách hoạt bát, lanh lợi của nó rồi cũng không còn, và nó cũng sẽ không nảy sinh thiện cảm với con người. Đến lúc đó, Hoàng tử sẽ chẳng còn thấy nó thú vị nữa.
Khabi nãy giờ đứng quan sát mọi chuyện, lúc này mới hắng giọng, nghiêm nét mặt, giọng nói tuy mềm mại nhưng có sự uy nghiêm của mệnh lệnh:
– Đủ rồi, Chân Kim, đừng đùa nữa, trả lại thượng sư đi con!
Dù không bằng lòng nhưng Chân Kim không dám trái ý mẹ. Xem ra Khabi đã giáo dục con cái rất nghiêm khắc, không hề nuông chiều. Chân Kim trả tôi lại cho Bát Tư Ba nhưng vẻ mặt tiếc nuối vô chừng, ngước bộ mặt phụng phịu lên hỏi:
– Thầy ơi, ta có thể đến chơi với nó thường xuyên không?
– Tất nhiên là được.
Bát Tư Ba vuốt ve đầu tôi, nghĩ một lát, lại bổ sung:
– Nhưng Hoàng tử không được ép buộc nó làm những việc mà nó không thích.
Đừng hòng nhé, việc gì tôi phải chơi cùng với tên nhóc kiêu ngạo đó chứ! Tôi nằm gọn trong lòng Bát Tư Ba, nhe nanh, diễn vẻ mặt hung tợn dọa nạt. Tên nhóc hơi sững sờ, ngay sau đó liền cười tươi rạng rỡ, đầy vẻ lưu luyến. Đúng như dự đoán của tôi, Khabi nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt đẹp của cô ấy chứa đầy ẩn ý.
Đêm đó, tôi trằn trọc không yên. Bên cạnh tôi, Bát Tư Ba dường như cũng không ngủ được. Tôi biết thế, nhưng do dự mãi mới khẽ hỏi:
– Lâu Cát... cậu... nếu như... nếu như tôi có thể biến thành người, cậu có đuổi tôi đi không?
– Đừng nói những lời ngốc nghếch.
Cậu ấy vòng tay tạo thành một nơi nương náu an toàn cho tôi, như mọi đêm khi tôi nằm bên cậu ấy. Bóng đêm trùm lên đôi mắt sâu hun hút của cậu ấy. Bát Tư Ba trở mình, xoay lưng về phía tôi, giọng nói nhè nhẹ vẳng bên tai tôi:
– Ngủ đi!
Đêm tịch mịch, vắng lặng, vầng trăng biếng nhác giấu mình trong đám mây lững lờ trôi, những vì sao thôi nhấp nháy, dường như đang chìm dần vào giấc ngủ. Trong lán trại hoa lệ, Khabi nằm nghiêng, thân hình thon thả, tuyệt mỹ ẩn hiện dưới lớp chăn hoa gấm, hương thơm thoang thoảng tỏa lan, gương mặt tuyệt sắc, hơi thở đều đều. Người đẹp, đến cả dáng ngủ cũng đẹp.
Đôi mắt cô ấy đột nhiên mở trừng trừng, những tia sáng màu xanh lam lấp lánh ẩn hiện, ánh nhìn chiếu thẳng vào tôi. Trong bóng đêm, cô ấy ngồi dậy, bật cười khe khẽ, tỏ ra không hề kinh ngạc:
– Đến rồi hả?
Khabi nhẩn nha kéo những lọn tóc rối từ sau lưng thả ra ngước ngực, khuôn ngực khẽ rướn lên, gợi cảm không sao tả xiết:
– Ta đoán chắc cô đã nhận ra từ lâu, nhưng vì sao bây giờ mới đến tìm ta?
Tôi ngồi xuống trước mặt cô ấy, gật gật đầu, rất mực hồi hộp, căng thẳng khi nhìn vào đôi mắt màu lam nhạt của cô ấy, khẽ nói:
– Cô... cô là vương phi, tôi đâu dám tự tiện đến gặp cô. Đây hẳn là bí mật lớn nhất của cô. Nếu như cô không thừa nhận thì việc tôi đến tìm cô chẳng khác nào ôm rơm rặm bụng.
Khóe môi cô ấy treo một nụ cười khó hiểu, không thừa nhận cũng không phủ nhận. Cô ấy thong thả dựng thẳng chiếc gối lên rồi ngả người, bật cười khúc khích:
– Vậy vì sao hôm nay cô lại đến? Không lẽ lại muốn ôm rơm rặm bụng?
– Tôi để ý hôm nay cô không đến lán trại của Hốt Tất Liệt, và chắc chắn rằng buổi tối cô sẽ không cần đến sự hầu hạ của đám tỳ nữ nên tôi mới quyết định đến đây. – Tôi lấy hết can đảm, rốt cuộc cũng lắp bắp được vài câu. – Tôi... tôi đến tìm cô... là để... là vì... muốn học hỏi phép biến hình.
– Phép biến hình? Cô đang đùa đấy à?
Cô ấy phì cười, vươn vai một cái, chiếc váy lụa bó sát người xô lên cao, để lộ làn da trắng muốt, nõn nà, ngay cả tôi nhìn thấy cũng phải nuốt nước bọt. Khabi xua tay biếng nhác:
– Tu luyện đến một trình độ nhất định, phép biến hình tự khắc sẽ đến với cô dễ dàng như việc ăn cơm, uống nước hằng ngày vậy, đâu cần phải học.
Tôi rối trí, cúi đầu xấu hổ:
– Nhưng tôi, nhưng tôi... quả thật không biết...
Cô ấy nhấc bổng tôi lên, đưa ra trước mặt, quan sát tỉ mỉ, vẻ mặt hoài nghi, ngạc nhiên hỏi:
– Không phải chứ, lẽ nào đến bây giờ mà cô vẫn chưa biết biến hình?
Tôi thành thực gật đầu.
.
Hàng lông mày cong cong như mảnh trăng lưỡi liềm của cô ấy chau lại, ánh mắt lấp lánh, cô ấy hỏi khẽ:
– Cô chắc cũng phải ba trăm tuổi rồi nhỉ?
Tôi thật thà gật đầu.
Cô ấy xoay tôi sang trái rồi sang phải, lắc lư một hồi khiến tôi chóng cả mặt, rồi lại cào cào bộ lông của tôi ra quan sát kỹ lưỡng khiến tôi thấy nhói buốt. Sau một hồi kiểm tra soi xét, cô ấy lắc đầu:
– Sao lại thế nhỉ? Cô là hồ ly xanh kia mà, loài hồ ly kết tinh linh khí của trời đất. Hơn nữa, cô đi theo Bát Tư Ba chừng ấy năm, chắc hẳn đã học lỏm được không ít đạo pháp, lẽ ra cô phải biến hình được từ lâu rồi chứ? Vì sao ba trăm tuổi rồi mà vẫn giữ hình hài của một tiểu hồ ly?
Lòng dạ rối bời, tôi gãi gãi đầu, chừng như sắp khóc:
– Tôi... tôi cũng không biết nữa, có ai chỉ dạy tôi đâu...
Ngón trỏ trái của cô ấy chạm vào vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú:
– Để ta xem nào.
Một lát sau, như thể vấp phải trở lực nào đó, ngón trỏ của cô ấy đột ngột bắn ra khỏi trán tôi. Cô ấy mở mắt, khẽ hít thở:
– Lạ quá, ai đó đã yểm một đạo bùa lên người cô. Đạo bùa này tuy có thể giúp ích cho việc tu luyện nhưng lại trói buộc linh hồn và thể xác cô.
– Đạo bùa ư? – Tôi băn khoăn ngước nhìn gương mặt kiều diễm của cô ấy. – Nhưng... sao tôi không hề hay biết?
– Người yểm bùa có lẽ không định hãm hại cô, bởi vì đạo bùa này chỉ trói buộc thân thể cô, không khiến cô bị tổn thương nguyên khí.
Như sấm dội bên tai, tôi chao đảo, ngã dúi dụi, đầu va vào chân giường, trong đêm thanh tĩnh, tiếng va đập nghe rất rõ. Khabi vội lao đến kéo tôi lại:
– Khẽ chứ, cô muốn đánh thức đám người hầu ngoài kia à?
Tôi cắn môi, buồn bã nói:
– Chính ngài Ban Trí Đạt. Trước lúc lâm chung, ông ấy đã truyền dạy cho tôi một đoạn kệ, nói rằng sẽ giúp ích cho việc tu luyện của tôi. Mấy năm qua, ngày nào tôi cũng tụng niệm đoạn kệ đó.
– Vị cao tăng danh tiếng lẫy lừng Ban Trí Đạt ư?
Khabi nhấc tôi lên ngang mặt, khẽ chau mày suy ngẫm, sau đó, chừng như hiểu ra mọi chuyện, cô ấy nói:
– Cũng phải thôi, ông ấy có thừa năng lực để làm việc này.
Đột nhiên, tôi thấy buồn vô hạn. Tôi đã giữ đúng lời hứa với ông ấy, ở bên bảo vệ anh em Bát Tư Ba kia mà. Tôi tức giận gào lên:
– Vì sao ông ấy lại làm vậy? Vì sao lại lừa dối tôi?
Khabi vội vàng bịt miệng tôi lại, hầm hừ:
– Vì sao ư? Vì không muốn cô hóa phép thành người.
Tôi sững sờ, chưa kịp hỏi lại thì Khabi đã lên tiếng:
– Cô cũng biết rất rõ rằng, hồ ly xanh là loài đẹp nhất, cao quý nhất trong tộc hồ ly đúng không? Huống hồ cô lại còn là hồ ly xanh thuần chủng. Một khi cô biến hình thành người, chắc chắn trên thế gian này sẽ không cô gái nào có thể so bì nhan sắc với cô. Ngay cả hồ ly tạp chủng là ta đây cũng chỉ có thể ngưỡng mộ và ghen tị mà thôi. Tuy Bát Tư Ba là người tu hành nhưng cậu ấy cũng là một người đàn ông, làm sao không động lòng cho được? Ngài Ban Trí Đạt làm vậy vì không muốn cô mê hoặc cậu ấy.
Tôi như phát sốt, nghiến răng uất ức:
– Tôi... tôi chỉ muốn có hình hài của con người thôi, không bao giờ tôi có ý định mê hoặc người khác...
– Không bao giờ ư? – Khabi ngắt lời tôi, đôi mắt sắc sảo của cô ấy nhìn xoáy vào tôi. – Vậy thì cô cần đến hình hài của con người để làm gì? Cô có dám thề rằng cô không hề có chút tình cảm nào với Bát Tư Ba? Ta thường bắt gặp cô nhìn cậu ấy đắm đuối.
Tôi suýt ngất, đầu lưỡi như cứng lại, ngắc ngứ:
– Tôi... tôi... đó là vì...
Cô ấy lại ngắt lời tôi, nụ cười nhẹ nhàng nở trên môi, chừng như thấu hiểu tất cả:
– Không cần giải thích. Ta là người từng trải, nhiều kinh nghiệm, lẽ nào ta không nhận ra trái tim tiểu hồ ly của cô đang rung động và khao khát! Cô đã ba trăm tuổi, đến lúc rồi đó!
Tôi... tôi rung động, khao khát ư? Lẽ nào những khoảnh khắc tim đập loạn nhịp, những xúc cảm khó hiểu, tâm trạng buồn vui thất thường ấy đều vì nguyên nhân này? Khabi không nói thêm gì nữa, thảnh thơi ngả người xuống gối, hai tay bắt tréo trước ngực. Trong màn đêm mù mịt, đôi mắt màu lam nhạt của cô ấy nhấp nháy, vẻ mặt hả hê như đang được xem kịch vui khiến tôi càng rối bời.
Tôi không biết phải đối đáp ra sao, bèn chuyển đề tài, gặng hỏi:
– Vậy tôi... phải làm sao để gỡ bỏ bùa chú của ngài Ban Trí Đạt?
Khabi bật cười, chỉ dẫn qua quýt:
– Không tu luyện theo đạo pháp mà ông ấy truyền dạy cho cô nữa. Hãy khổ luyện, rất nhanh thôi cô sẽ có được hình hài mà cô mơ ước bấy lâu.
– Chúng tôi đã sống trên vùng thảo nguyên ở ngoại thành Phủ Châu suốt ba năm. Với Hốt Tất Liệt, đây là những ngày tháng dằng dặc buồn chán. Tuy sống trong cảnh lụa là, gấm vóc, nhàn hạ, vô ưu nhưng ông ấy đã bị tước mất binh quyền, niềm vui duy nhất của Hốt Tất Liệt lúc này là xây dựng thành quách. Hốt Tất Liệt "bị" cho nghỉ dưỡng ba năm thì công cuộc xây dựng tòa thành cũng kéo dài ba năm, bởi vậy nó rất kiên cố.
Tôi tập tễnh đến bên tủ sách, lật mở cuốn sách giới thiệu về di tích Thượng Đô, nhà Nguyên, chỉ cho chàng trai trẻ bức hình chụp khung cảnh hoang phế của tường thành:
– Sau khi công trình hoàn tất, Hốt Tất Liệt đặt tên cho nó là phủ Khai Bình, nơi đây chính là kinh đô Thượng Đô của nhà Nguyên.
Chàng trai trẻ đón lấy cuốn sách, lật xem:
– Kinh đô của triều Nguyên không phải là Yên Kinh, mà hiện giờ là Bắc Kinh sao? Ngày nay, ở Bắc Kinh vẫn còn di tích tường thành Yên Kinh của nhà Nguyên kia mà.
– Đúng vậy. Nhưng Hốt Tất Liệt làm Đại hãn, mà theo cách nói của người Hán thì tức là lên ngôi ở phủ Khai Bình cũng chính là kinh đô Thượng Đô. Bốn năm sau ông ấy mới xây dựng Yên Kinh.
Tôi ngắm nghía tòa thành đổ nát hoang tàn, chợt bồi hồi nhớ lại những năm tháng phồn hoa rực rỡ đã qua. Mới hơn bảy trăm năm mà tất cả đã thành hoang phế, chỉ còn lại chút tàn tích.
– Đối với Hốt Tất Liệt, Thượng Đô có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vì nó đã chứng kiến những năm tháng sa cơ lỡ vận của ông ấy, cũng là nhân chứng cho những năm tháng huy hoàng khi ông ấy lên ngôi hoàng đế. Sau khi dời đô đến Yên Kinh, tình cảm mà Hốt Tất Liệt dành cho Thượng Đô vẫn rất sâu nặng. Bởi vậy ông ấy đã biến Thượng Đô thành "cung điện mùa hè" của mình, và nơi đây cũng được xem là kinh đô thứ hai của nhà Nguyên. Về sau, hoàng thất nhà Nguyên hình thành thông lệ: tháng Tư hằng năm đến Thượng Đô, tháng Chín mùa thu mới trở lại Đại Đô. Thời gian cư trú tại Thượng Đô của các hoàng đế nhà Nguyên kéo dài nửa năm.
Chàng trai trẻ bông đùa:
– Ồ, thì ra truyền thống mùa hè đến sống ở sơn trang Thừa Đức để tránh nắng của các hoàng đế nhà Thanh là học theo người Mông Cổ ư?
Chương 14 - Biện Luận Ở Ngũ Đài Sơn.
"Học giả thường mờ nhạt trên chính quê hương mình;
Giống như châu báu bị thờ ơ giữa miền hải đảo."
(Cách ngôn Sakya)
Theo di nguyện của đại sư Ban Trí Đạt thì năm hai mươi tuổi, Bát Tư Ba phải thọ giới Cụ túc để trở thành một nhà sư đúng nghĩa. Nếu không gặp biến cố, giờ này cậu ấy đã thọ giới ở Sakya. Sau khi quyết định đi theo Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba đã lưu lại trong doanh trại quân binh, sau đó rong ruổi cùng đoàn quân trên đất Vân Nam, vì thế việc thọ giới của cậu ấy đành phải lùi lại. Sau khi đến thảo nguyên Phủ Châu và ổn định cuộc sống, Bát Tư Ba tiếp tục trù bị kế hoạch thọ giới của mình. Đường về Sakya xa xôi vạn dặm, phải nửa năm mới đến nơi, lập tức khởi hành cũng không kịp nữa. Vậy nên, Bát Tư Ba dự định sẽ thọ giới tại một ngôi chùa nào đó trên đất Hán.
Khi Bát Tư Ba vẫn đang cân nhắc xem nên mời vị cao tăng nào chủ trì buổi lễ thọ giới thì một sự kiện bất ngờ đã xảy ra khiến cậu phải bỏ dở kế hoạch.
Trong lúc miệt mài với công việc xây dựng thành trì thì Hốt Tất Liệt đột ngột nhận được mệnh lệnh từ Mông Kha Hãn. Không phải lệnh dẫn quân đi đánh trận, cũng không phải chiếu chỉ tiếp tục tước bỏ quyền lực của ông mà là một nhiệm vụ kỳ quặc: chủ trì cuộc tranh biện giữa Phật giáo và Đạo giáo về thực hư của cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ[1].
Vậy căn nguyên của sự việc này ra sao?
Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ là cuốn sách mỏng, được lưu truyền từ đời Tấn. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên thì sau khi Lão Tử ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, không ai biết ông đã đi đâu. Bởi vậy, cuốn sách này đã viết tiếp cuộc hành trình bí ẩn đó của Lão Tử. Sách viết rằng, Lão Tử đi về hướng tây, qua Tây vực, đến Thiên Trúc và truyền đạo cho Phật Thích Ca. Từ đó, cuốn sách khẳng định Phật giáo có nguồn gốc từ Đạo giáo và Đạo giáo uyên thâm hơn Phật giáo. Tuy nhiên, điều khiến các tín đồ Phật giáo phẫn nộ hơn cả là việc cuốn sách đã dựng lên câu chuyện: tinh trùng của Lão Tử được truyền vào miệng người mẹ của Phật Thích Ca, sau đó bà đã mang bầu Đức Phật. Câu chuyện bịa đặt này đã khiến các đệ tử nhà Phật không khỏi nổi giận, bất bình.
Khi đó, hai phái Phật giáo và Đạo giáo như nước với lửa, cuộc xung đột kịch liệt giữa hai phái tập trung vào việc tranh luận thực hư của cuốn sách này.
Vì đây là mệnh lệnh của Mông Kha Hãn nên Hốt Tất Liệt không dám chậm trễ. Phủ Châu cách thánh địa Phật giáo Ngũ Đài Sơn không xa nên Hốt Tất Liệt quyết định tổ chức cuộc tranh biện đặc biệt quan trọng này tại vùng núi nổi tiếng Ngũ Đài Sơn.
Năm 1254, mùa thu năm Bát Tư Ba hai mươi tuổi, cậu đã bỏ dở kế hoạch thọ giới Tỷ Khâu để theo Hốt Tất Liệt đến Ngũ Đài Sơn. Phật giáo và Đạo giáo đều cử những vị cao tăng, đạo sĩ đức cao vọng trọng nhất của mình tham dự cuộc tranh biện quan trọng này. Về phía Phật giáo, Mông Kha Hãn đã cử đại sư Namo, người Kashmir mà ngài tôn làm quốc sư đến tham dự. Hốt Tất Liệt, dĩ nhiên là cử Bát Tư Ba làm người đại diện. Ngoài ra còn có quốc sư Tây Phồn[2], quốc sư Hà Tây, các nhà sư đến từ Uyghur, quốc sư nước Đại Lý, đất Hán thì có đại diện là các vị trưởng lão các chùa Viên Phúc, Phụng Tiên ở Yên Kinh, tổng cộng ba trăm người. Phía Đạo giáo cũng không thua kém, họ cử ra hơn hai trăm người tham dự, dẫn đầu đoàn là Trương chân nhân. Chưa hết, Hốt Tất Liệt còn lệnh cho thuộc hạ của mình là các danh sĩ người Hán: Diêu Khu, Đậu Hán Khanh... giữ vai trò "chứng nghĩa", tức là người làm chứng cho cuộc tranh biện.
Thư mời bay đi khắp nơi như bông tuyết. Hành cung[3] của Hốt Tất Liệt ở Ngũ Đài Sơn lúc nào cũng nườm nượp người ra vào làm nhiệm vụ liên lạc, đưa tin. Chỉ trong vòng một tháng ngắn ngủi, hơn năm trăm khách mời đến từ hai phía đã hội tụ đông đủ về Ngũ Đài Sơn, khiến thánh địa Phật giáo này trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết. Là người đại diện cho phía Phật giáo bên cạnh "chủ nhà" Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba bận rộn với công việc tiếp đón các vị đại sư, cả ngày không lúc nào ngơi nghỉ.
Tuy mỗi bên cử mấy trăm người đến tham dự nhưng không phải tất cả đều được đăng đàn. Kết quả cuối cùng sau khi bàn bạc và thống nhất, mỗi bên chỉ cử ra mười bảy người tham gia cuộc tranh biện, đó đều là những người giỏi nhất, uyên bác nhất. Về phía Phật giáo, Bát Tư Ba hai mươi tuổi là người trẻ nhất. Tuy đứng giữa các vị cao tăng râu tóc bạc phơ nhưng Bát Tư Ba tỏ ra rất mực điềm tĩnh, chững chạc, đối đáp trôi chảy, lưu loát. Trước khi diễn ra buổi tranh biện chính thức, các thành viên của đội tranh biện đã tập trung lại, cả ngày bàn bạc, phân tích, xem xét, đánh giá, họ miệt mài đến mức ăn ngủ cùng nhau. Sau vài ngày trao đổi, thảo luận, các nhà sư đều bày tỏ sự nể phục tư duy sắc bén và tầm kiến thức sâu rộng,
uyên bác của Bát Tư Ba. Ngay cả vị quốc sư Namo lúc đầu tỏ ra hết sức kiêu ngạo cũng có cái nhìn khác đối với Bát Tư Ba.
Một ngày trước khi diễn ra cuộc tranh biện, lễ đài đã được bố trí xong xuôi tại hành cung của Hốt Tất Liệt. Vẻ mặt của những người tham gia tranh biện đều căng như dây đàn, không khí căng thẳng, hồi hộp và lo lắng bao trùm Ngũ Đài Sơn.
Ngay cả một kẻ chẳng liên quan gì như tôi cũng toát mồ hôi, hơi thở gấp gáp lạ thường.
Trong phòng mình, Bát Tư Ba cho tôi uống sữa bò, rút khăn tay lau miệng cho tôi, mỉm cười nhìn tôi trìu mến:
– Lam Kha, chúng ta đi leo núi nào!
Tôi uống no căng bụng, nghe thấy vậy, giật mình, nấc lên từng hồi:
– Cậu... cậu... Ngày mai diễn ra cuộc tranh biện chính thức rồi. Người ta... người ta ai nấy đều gấp rút chuẩn bị, sao cậu vẫn còn tâm trạng thảnh thơi để leo núi?
Thấy tôi vừa nấc vừa nói, cậu ấy không kìm được bật cười, vuốt nhẹ sống lưng tôi.
– Chính vì ngày mai ta tham gia cuộc tranh biện nên hôm nay càng phải ra ngoài đi dạo cho tinh thần thoải mái.
Vẻ mặt bình thản, vô ưu của cậu ấy khiến người ta có cảm giác cuộc chiến sinh tử diễn ra ngày mai dường như không hề tồn tại. Giọng nói trầm ấm vang lên:
– Đạo tràng ở Ngũ Đài Sơn là nơi năm xưa Bồ Tát Văn Thù hiển linh thuyết pháp. Từ thời Bắc Ngụy, người ta đã dựng chùa ở đây để thờ cúng. Đến thời nhà Đường, thánh địa Phật giáo này phát triển rất rực rỡ. Phái Sakya tôn thờ Bồ Tát Văn Thù, bởi vậy ngay khi đặt chân đến đây, ta đã có ý định thăm thú, chiêm bái và làm lễ nhưng bận rộn nên chưa thực hiện được. Hôm nay, ta không muốn bỏ lỡ cơ hội này.
[1] Lão Tử: nhà triết học nổi tiếng thời xưa ở Trung Quốc. Ông là người khai sáng ra Đạo giáo, một môn học về vũ trụ, thiên nhiên, vật chất. Người Hồ: theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các dân tộc bên ngoài Trung Quốc, thuộc vùng Trung và Tây Á. Trong trường hợp này, "người Hồ" dùng để chỉ người Ấn Độ (Thiên Trúc). Sách Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ, nguyên tác là Lão Tử hóa Hồ kinh là tác phẩm của Đạo giáo Trung Quốc nhằm tự đề cao tôn giáo của mình, cho rằng sau khi Lão Tử truyền lại bộ Đạo đức kinh cho viên quan Doãn Hỉ trấn giữ Hàm Cốc Quan thì ngài đã cưỡi trâu đi về hướng tây để hóa độ, giáo hóa người Hồ (tức người Ấn Độ) và đã truyền đạo cho Phật Thích Ca và hai mươi tám thiền tổ Ấn Độ. Cuốn sách này từ lâu đã bị xem là ngụy thư (viết về những điều không có thật) và bị đốt bỏ từ đời Đường, Trung Quốc. (DG)
[2] Tây Phồn: tên gọi chung chỉ vùng Tây vực và khu vực biên giới phía tây của Trung Quốc vào thời cổ đại. (DG)
[3] Hành cung là nơi ở tạm thời của vua chúa thời xưa khi đi công cán ở địa phương. (DG)
Không cần người theo hầu, Bát Tư Ba ôm tôi trên tay, chầm chậm leo lên ngọn núi mỹ lệ nhất Ngũ Đài Sơn – núi Thúy Nham ở Trung Đài[1]. Tôi đã nhiều lần bảo với cậu rằng hãy thả tôi xuống để tôi tự đi, nhưng cậu không muốn tôi bị mệt vì thương tật ở chân sau nên cứ ôm tôi và leo lên cao như thế.
Ở trong vòng tay cậu ấy, nghe rõ nhịp tim gấp gáp của cậu ấy, toàn thân tôi nóng bừng. Đây không phải là lần đầu tiên tôi ở sát bên cậu ấy như vậy, nhưng vì sao tôi lại có cảm giác kỳ lạ này? Khabi từng nói trái tim tôi đang thổn thức, giờ đây tôi chợt nhận ra, tôi chẳng thể viện cớ để phản bác được nữa.
Ngày hôm đó, trời thu trong xanh, thoáng đãng, tùng bách vươn cao hai bên lối đi, tre trúc xanh um, rì rào trong gió nhẹ. Những đền đài, lầu các, đình viện ẩn hiện giữa trập trùng núi non, cảnh sắc nên thơ. Trên đường đi, cậu ấy tươi cười trò chuyện với tôi, nụ cười rạng rỡ không lúc nào tắt trên môi. Nếu như không có mối bận tâm về cuộc tranh biện của ngày hôm sau thì chuyến đi Ngũ Đài Sơn lần này của tôi có thể coi là chuyến du ngoạn tuyệt vời nhất trong đời.
Buổi tối, Bát Tư Ba miệt mài bên bàn giấy, tôi cứ ngỡ cậu ấy đang phác thảo những nội dung quan trọng của buổi tranh biện ngày mai nên chỉ lặng lẽ cuộn tròn trên bàn, không dám làm phiền. Lúc viết xong, cậu ấy nhẩm đọc một lượt rồi mỉm cười đẩy trang giấy về phía tôi. Khi ấy tôi mới ngỡ ngàng, thì ra đó là một bài thơ vịnh cảnh Ngũ Đài Sơn. Trời ơi, cậu ấy vẫn còn tâm trạng để làm thơ ư! Ngắm nhìn gương mặt thảnh thơi, thư thái, vẻ an nhiên tự tại của cậu ấy mà tôi vừa bực mình vừa buồn cười. Đêm đó, cậu ấy ngủ say đến lúc trời sáng, còn tôi, lòng cứ bồn chồn không yên, mồ hôi vã ra như tắm.
Người đời sau đã dịch bài thơ bằng tiếng Tạng của Bát Tư Ba sang tiếng Hán, với tiêu đề Lên Ngũ Đài Sơn chiêm bái Bồ Tát Văn Thù:
"Ngũ Đài phảng phất chốn Tu Di,
Kiên cố hoàng kim khó sánh bì,
Năm ngọn núi cao khoe dáng đẹp;
Bàn tay tạo hóa khéo tinh vi,
Trung Đài – Sư tử giận oai phong,
Vách núi nguyên sơ, sen trắng trong;
Đông Đài – Voi chúa vươn ngà quý,
Cỏ cây xanh thẳm mấy từng không;
Nam Đài – Tuấn mã giữa đồng xanh,
Hoa vàng khoe sắc thắm long lanh;
Tây Đài – Khổng tước xòe đuôi múa,
Hào quang chiếu rọi khắp xung quanh;
Bắc Đài – Đại bàng dang cánh lượn,
Cây cao ngọc lục ngạo thiên thanh."[2]
Ngày diễn ra cuộc tranh biện, trời xanh, nắng vàng rực rỡ. Dưới ánh mai lấp lánh, năm đỉnh núi có một không hai ở Ngũ Đài Sơn hiện lên xanh ngắt, nguy nga. Nơi diễn ra cuộc biện luận là thiền viện Văn Thù nằm giữa trấn Đài Hoài. Hơn năm trăm vị khách đến từ hai phái Phật giáo và Đạo giáo, cùng rất nhiều quan lại do Hốt Tất Liệt cử đến đã ngồi kín đại điện rộng lớn trong thiền viện. Tôi niệm chú, náu thân trên Phật đài phía trước đại điện, hồi hộp quan sát cuộc tranh luận.
Đại diện của Phật giáo và Đạo giáo ngồi ở hai bên, trên chiếc đệm nổi bật ở vị trí trung tâm là người giữ vai trò chủ tọa của buổi biện luận hôm nay – Vương gia Hốt Tất Liệt. Ngài tuyên bố "khai mạc": Theo tập tục tranh biện của các giáo phái Thiên Trúc, bên thua cuộc sẽ phải dâng hoa cho bên thắng cuộc và phải theo học giáo lý của đối phương.
Hai bên đồng thanh bày tỏ sự chấp thuận.
Mở đầu cuộc biện luận là nội dung của các kinh văn kinh điển bằng tiếng Hán, vì không thông thạo ngôn ngữ này nên Bát Tư Ba chỉ yên lặng lắng nghe.
Cuộc tranh luận đến hồi cam go, quyết liệt, các đạo sĩ lập luận rằng cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên là bằng chứng chứng minh tính xác thực của cuốn kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ. Bát Tư Ba tỏ ra ngạc nhiên như thể đây là lần đầu tiên nghe nhắc đến cuốn sách này. Cậu đứng lên, khiêm tốn đặt câu hỏi:
– Bần tăng là người Tạng, xin thứ lỗi cho bần tăng không thông thạo điển tịch chữ Hán, dám hỏi đạo huynh đây, Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ là sách gì vậy?
Người biện luận chính bên phía Đạo giáo là Trương chân nhân. Ngài vân vê bộ râu dê một hồi, lỗ mũi hướng thiên, vênh mặt ngó tên nhãi kém mình hơn ba chục tuổi ở bên kia chiến tuyến, ánh mắt khinh khỉnh:
– Danh tiếng của Phật sống Bát Tư Ba, người Tufan vang dội khắp đất Hán, ta những tưởng đó phải là một Lạt Ma học vấn sâu rộng, uyên thâm, trác việt, chẳng ngờ chỉ là hư danh mà thôi. Ngay cả cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ tiếng tăm lẫy lừng mà cũng không biết ư? Đây là cuốn sách gối đầu giường của các bậc đế vương đời trước đó!
"Trọng tài" Hốt Tất Liệt chừng cũng rất bức xúc vì câu nói đầy mỉa mai, khinh miệt đối với Bát Tư Ba, bèn đằng hắng một tiếng, cất giọng bực bội:
– Nội dung chính của cuộc tranh luận hôm nay là những giáo pháp trong cuốn sách này. Trương chân nhân đâu cần phải mượn uy danh của các đời vua trước để tô điểm cho giáo phái mình.
Trương chân nhân giật mình sợ hãi khi nghe Hốt Tất Liệt quở trách, vội vã cúi đầu nhận lỗi. Bát Tư Ba vẫn tỏ ra rất mực khiêm nhường, tiếp tục chất vấn đối phương:
– Đạo trưởng đưa ra bằng chứng là cuốn Sử ký do người Hán viết, vậy xin hỏi đạo trưởng, cuốn Sử ký có ghi chép về việc Lão Tử giáo hóa người Hồ ra sao không?
Trương chân nhân lúc này đã nhã nhặn hơn, ông ta trả lời Bát Tư Ba bằng ngữ điệu răn dạy của bề trên đối với kẻ dưới:
– Tất nhiên là có.
– Xin các vị nhìn xem đây có phải là cuốn Sử ký không? Các vị là người Hán, chắc chắn thông thuộc cuốn sách này hơn người Tufan chúng tôi.
Bát Tư Ba lấy ra một cuốn sách từ trong áo, đưa đến trước mặt các vị đạo sĩ ở phía đối diện. Sau khi ai nấy đều gật đầu xác nhận, cậu từ tốn lật mở một trang của cuốn sách:
– Đây là chương "Truyện kể về Lão Tử" trong cuốn Sử ký. Xin thứ lỗi bần tăng mắt kém, các vị vui lòng cho biết, trang nào trong chương sách này kể chuyện Lão Tử giáo hóa người Hồ?
Một vị đạo sĩ đứng phía sau Trương chân nhân nhanh nhảu lên tiếng:
– Ngươi đã đọc ghi chép về hành tung sau cùng của Lão Tử trong Sử ký chưa?
Bát Tư Ba lật đến trang sách đó, cất giọng sang sảng:
– Đạo trưởng muốn nói đến câu cuối cùng này: "Lão Tử ra đi và không rõ đi đâu" phải không?
Vị đạo sĩ đó gật đầu.
Bát Tư Ba mỉm cười, khẽ cúi đầu thưa rằng:
– "Ra đi và không rõ đi đâu" đồng nghĩa với việc "Lão Tử rời khỏi đất Hán, đi về hướng tây để giáo hóa người Hồ" ư? Xin thứ lỗi cho bần tăng kiến thức nông cạn, nhưng thứ logic này bần tăng chưa từng nghe bao giờ.
Trương chân nhân bị một đòn đau, như gà mắc tóc, mặt mày khó coi. Bát Tư Ba không chờ cho đối phương kịp phản ứng, thừa cơ xông tới:
– Nếu như Sử ký không có những ghi chép chi tiết, chính xác, vậy xin hỏi các vị đạo trưởng, cuốn sách để đời của Lão Tử là cuốn nào?
Trương chân nhân lúc này mới bình tĩnh trở lại, đáp:
– Tất nhiên là cuốn Đạo đức kinh.
– Ngoài cuốn này ra, Lão Tử còn viết cuốn nào khác nữa không?
– Không.
[1] Một ngọn núi thuộc Ngũ Đài Sơn. Ngũ Đài Sơn là quần thể gồm năm ngọn núi, chia thành bắc, nam, đông, tây và trung, hay còn có tên gọi tương ứng là Diệp Đấu Phong, Cẩm Tú Phong, Vọng Hải Phong, Quải Nguyệt Phong và Thúy Nham Phong. (DG)
[2] Các hình tượng: Sư tử, Voi chúa, Tuấn mã, Khổng tước, Đại bàng vốn là vật cưỡi của các vị Bồ Tát. Bản dịch thơ của Nguyễn Vĩnh Chi. (DG)
[2] Tây Phồn: tên gọi chung chỉ vùng Tây vực và khu vực biên giới phía tây của Trung Quốc vào thời cổ đại. (DG)
[3] Hành cung là nơi ở tạm thời của vua chúa thời xưa khi đi công cán ở địa phương. (DG)
Bát Tư Ba lại lấy ra một cuốn sách khác, cung kính trình lên:
– May sao bần tăng cũng có một cuốn Đạo đức kinh ở đây, xin mời trưởng lão kiểm chứng.
Các đạo sĩ chuyền tay nhau đọc một lượt, rồi tất cả đều gật đầu xác nhận, nhưng không ai biết Bát Tư Ba định làm gì. Cậu mỉm cười:
– Xin hỏi các vị, trong cuốn Đạo đức kinh này, có câu nào Lão Tử thuật lại việc ngài đến Thiên Trúc giáo hóa người Hồ không?
Bị giáng tiếp một đòn nữa, các đạo sĩ mặt mày đều tái xám. Những kiểu câu hỏi chỉ cho phép trả lời đúng hoặc không này khiến các vị không thể xảo biện, đành phải hậm hực trả lời:
– Không có.
Đôi mắt thông thái của Bát Tư Ba lướt quanh một lượt quan khách, nụ cười hồn hậu vẫn nở trên môi, cậu ấy dõng dạc nói tiếp:
– Lão Tử sống vào thời Xuân Thu, Tư Mã Thiên sống vào đầu thời Hán, cách ngài vài trăm năm. Trong cuốn Sử ký mà đạo trưởng dùng làm căn cứ không hề có ghi chép nào về việc Lão Tử giáo hóa người Hồ. Cuốn Đạo đức kinh do chính Lão Tử viết cũng không có. Vậy xin hỏi, cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ trên tay đạo trưởng từ đâu mà có, và nó ra đời vào triều đại nào?
Trương chân nhân tái mặt. Các đạo sĩ đứng sau ông ta vẫn chưa chịu nhận thua, ra sức vớt vát:
– Đó là... đó là do người đời sau...
Bát Tư Ba nghiêm nghị ngắt lời đạo sĩ:
– Vậy tức là, đạo trưởng đã thừa nhận cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ này là do người đời sau sáng tạo ra?
Cậu ấy ngừng lại một lát, người hơi ngả về phía trước, giọng nói nghiêm nghị, ánh mắt sắc lạnh:
– Bởi vậy, những điều trong cuốn sách này là nhảm nhí, vô căn cứ. Người viết ra cuốn sách đã cố tình bịa đặt, dựng chuyện, hòng bôi nhọ thanh danh của Phật giáo, hạ thấp Phật pháp!
Trương chân nhân run rẩy, đứng không vững, ông ta chao đảo rồi ngã ngửa về phía sau. Các đệ tử của ông ta vội đỡ lấy sư phụ nhưng Trương chân nhân đã ngất xỉu. Chỉ trong chốc lát, phía Đạo giáo, người khóc người gào, rối như canh hẹ. Hốt Tất Liệt khoát tay ra hiệu cho mọi người trật tự, sau đó gật đầu với viên quan Thượng thư Diêu Khu đang làm nhiệm vụ ghi chép ở bên cạnh. Diêu Khu lĩnh ý, dõng dạc tuyên bố:
– Đạo giáo thua cuộc!
Lời tuyên bố là kết quả cuối cùng, cuộc tranh biện kết thúc. Phía Phật giáo hò reo vang dội. Tôi hưng phấn đến độ suýt nữa thì hiện hình. Phật giáo Tạng truyền đặc biệt coi trọng logic học Nhân minh, các cao tăng của Phật giáo Tạng truyền đều là những nhà hùng biện xuất chúng, huống hồ Bát Tư Ba lại người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc. Nếu như cậu ấy không đưa ra những luận chứng sắc sảo thì cũng khó nói trước phần thắng sẽ thuộc về bên nào.
Bát Tư Ba vẫn rất mực điềm đạm, khiêm nhường. Cậu ấy chắp tay vái lạy Bồ Tát Văn Thù, lầm rầm đọc kệ, ngữ điệu rất mực thành kính:
– Trên trời dưới đất không gì bằng,
Mười phương thế giới cũng không sánh;
Toàn thể thế gian con thấy hết,
Tất cả không ai bằng Phật được.
Hốt Tất Liệt ra lệnh cho các đạo sĩ tuân thủ hình phạt như giao ước, mười bảy vị đạo sĩ tham gia tranh biện sẽ phải xuống tóc làm sư. Hốt Tất Liệt buộc họ lưu lại trong các ngôi chùa ở Ngũ Đài Sơn để tu hành.
Tôi ẩn mình sau lễ đài, ngẩn ngơ ngắm nhìn vẻ an nhiên, tự tại của cậu ấy. Sự tự tin ấy, gương mặt thánh khiết ấy, đôi mắt trong suốt ấy khiến trái tim tôi ngày một chìm sâu vào bể trầm luân. Tôi ước mình mau chóng có được hình hài của con người. Khát khao thầm kín ấy cứ lớn dần và đè nặng lên trái tim nhỏ bé của tôi.
Kể từ hôm đó, ban đêm tôi ngủ rất ít, dành hết thời gian cho việc tu luyện. Những lúc mệt mỏi, hình ảnh thiếu nữ với gương mặt mơ hồ và nụ cười ngọt ngào cứ thấp thoáng trong đầu, giúp tôi hồi sức rất nhanh.
Khi ấy, khát vọng duy nhất của tôi, suy nghĩ duy nhất lấp đầy tâm trí tôi là: tôi phải hóa thành người trước khi cậu ấy thọ giới Cụ túc.
– Tuy danh tiếng của Bát Tư Ba lừng lẫy khắp đất Tạng nhưng không nhiều người trong giới Phật giáo Trung Nguyên biết đến cậu. Sau cuộc biện luận này, tiếng tăm của vị Lạt Ma mới hai mươi tuổi đã vang xa khắp chốn. Tuy chỉ là một trong số mười bảy người của phía Phật giáo tham gia biện luận nhưng phần biện luận của Bát Tư Ba lại giữ vai trò then chốt trong việc quyết định thắng thua. Kể từ đó, giới Phật giáo Trung Nguyên không thể không nể trọng Bát Tư Ba.
Sau khi lắng nghe tôi mô tả lại một cách chi tiết và sinh động cuộc biện luận đầy kịch tính, chàng trai trẻ đưa ra một nhận xét sắc bén:
– Phật giáo vốn là tôn giáo ngoại lai, tôn giáo này bắt đầu du nhập vào Trung Quốc từ giữa thời Đông Hán. Thời gian đầu khi mới đến Trung Nguyên, Phật giáo và tôn giáo bản địa không thể tránh khỏi xung đột.
Tôi đồng tình:
– Đúng vậy. Sau khi cuốn sách ra đời, cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo lại càng khốc liệt, thậm chí nhiều đời hoàng đế đã can dự vào cuộc tranh chấp này. Sự can thiệp bằng vũ trang của chính quyền thường khiến cho cục diện giữa Phật giáo và Đạo giáo diễn ra như sau: một bên được sùng bái, một bên bị đồ sát. Lịch sử đã ghi lại những cuộc thảm sát tôn giáo tàn khốc, đẫm máu.
Lúc này cũng là giai đoạn mà lịch sử Trung Quốc xảy ra những biến động lớn. Người Khiết Đan, người Nữ Chân, người Đảng Hạng, người Mông Cổ luân phiên thống trị miền Bắc Trung Quốc. Xã hội rối ren, mâu thuẫn dân tộc và biết bao áp lực khác đã đè nặng lên vai những con người khốn khổ. Không làm gì để thay đổi được số phận bi thảm, họ chỉ còn cách tìm đến với tôn giáo như một nơi nương tựa về tinh thần. Nhưng của cải thì có hạn, số lượng tín đồ cũng có hạn, cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo tưởng chừng đã lắng xuống vào thời nhà Tống lại được dịp bùng lên dữ dội.
Tôi ngồi bó gối trên đệm trải:
– Khi đó, quý tộc Mông Cổ là những người có thế lực chính trị mạnh nhất. Tín ngưỡng truyền thống của người Mông Cổ là Saman giáo nguyên thủy, nhưng kể từ thời Thành Cát Tư Hãn, hoàng thất Mông Cổ thực hiện chính sách cởi mở, tiếp nhận tất cả các tôn giáo ngoại lai, thu nạp các nhân sĩ của tất cả các giáo phái làm người giúp việc cho mình. Bởi vậy, cả Phật giáo và Đạo giáo đều ra sức giành giật sự ưu ái của người Mông Cổ, ra sức hạ bệ, phỉ báng những tôn giáo khác, quyết không nhân nhượng.
Chàng trai trẻ diễn vẻ mặt già dặn, rành rẽ sự đời, kết luận:
– Đúng vậy. Thế nên cuộc tranh biện này là khó tránh khỏi.
Chương 15 - Kháp Na Phẫn Nộ.
"Nơi thánh nhân xuất hiện, học giả trở nên lu mờ;
Khi mặt trời chiếu sáng, sao đêm lùi vào bóng tối."
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1255, tức năm Mão, Âm Mộc theo lịch Tạng (Ất Mão), tức năm thứ ba niên hiệu Bảo Hựu, nhà Nam Tống, tức năm thứ năm niên hiệu Mông Kha Hãn, Mông Cổ.
Bát Tư Ba hai mươi mốt tuổi, Kháp Na mười bảy tuổi, Hốt Tất Liệt bốn mươi tuổi.
Tôi cuộn tròn trong chiếc chăn nhỏ trên góc giường của Kháp Na, ngủ mê mệt không biết trời đất gì. Những tiếng cãi vã ồn ào đã đánh thức tôi.
– A hoàn cô bắt về từ phủ của anh trai cô đã phạm tội tày đình gì mà cô nỡ ra lệnh cho đám hầu cận chặt tay người ta?
Giọng nói của người con trai đang trong cơn phẫn nộ ngút trời, đó là Kháp Na. Trong chốc lát, cơn say ngủ hoàn toàn tiêu tan, tôi thò đầu ra khỏi chăn, dõi mắt nhìn. Kháp Na đang đứng giữa thư phòng nói chuyện với vợ cậu ấy, Công chúa Mukaton. Cậu ấy khoác áo choàng màu xanh thẫm kiểu Mông Cổ, mái tóc dài, đen bóng thả xuống ngang vai, vẻ điển trai xuất chúng ấy khiến người ta mê muội. Mấy năm gần đây, Kháp Na lớn như thổi, mới mười bảy tuổi mà cậu ấy đã cao 1m80, nhưng cậu ấy vẫn gầy gò, mảnh khảnh như trước. Bởi vậy, khi đứng cạnh Mukaton lừng lững, đẫy đà, chiều cao của cậu ấy dường như bị át đi vài phần.
Năm đó, Mukaton hai mươi lăm tuổi. Con gái của vương gia người Hán được gọi là quận chúa, nhưng người Mông Cổ không gọi như vậy, họ gọi chung là công chúa. Tuy là công chúa nhưng hành vi, cử chỉ của Mukaton khác hẳn các cô công chúa người Hán được rèn giũa nghiêm khắc về phương cách ứng xử, giao tiếp và nghi lễ cung đình. So với các thiếu nữ người Hán, cử chỉ, hành động và lời nói của các cô gái Mông Cổ lớn lên giữa đại mạc mênh mông, cưỡi ngựa, ăn thịt dê, thịt cừu có phần bỗ bã hơn, làn da thô ráp hơn và gương mặt có vẻ già nua hơn. Những năm gần đây, Mukaton càng ngày ăn càng nhiều, thân hình vốn cao lớn, đẫy đà của cô ấy cứ như quả bóng hơi ngày một phình ra, dần biến thành một tòa tháp kim loại vững chắc.
– Sao kia, ngươi không biết thật à? Ngươi cho rằng vì ta thích được con a hoàn đó hầu hạ nên mới đòi anh trai ta cho nó về đây?
Xưa nay Mukaton vẫn luôn vênh mặt, hất hàm khi nói chuyện với Kháp Na. Cô nàng ngồi phịch xuống ghế, chiếc ghế khốn khổ kêu răng rắc. Bàn tay với những ngón múp míp, mỡ màng của cô nàng vờn nghịch chuỗi hạt cườm đính trên đuôi tóc, thả trước ngực. Cô ta lườm Kháp Na một cái:
– Ngươi thừa hiểu vì sao. Trong bữa tiệc tối qua ở nhà anh trai ta, lúc nó dâng thịt cừu cho ngươi, ngươi cứ nhìn chằm chằm vào cánh tay nó, đến mức con ngươi như sắp lồi ra, rơi xuống đất! Có phải ngươi đã thích mê bàn tay trắng muốt, nõn nà của nó rồi không? Con ranh ấy cứ liếc mắt đưa tình với ngươi, ngươi lại còn tươi cười đáp lại nữa chứ. Các người dám hỗn xược, bày trò mèo mả gà đồng trước mặt ta, coi ta như kẻ mù lòa à?
Kháp Na tức giận, bàn tay nện mạnh xuống mặt bàn khiến Mukaton giật mình. Không chờ Kháp Na lên tiếng, Mukaton chỉ tay vào mặt cậu, xỉa xói:
– Ngươi đập gì mà đập! Tức giận vì ta phá hỏng trò vui của ngươi chứ gì? Vì ngươi thương xót bàn tay của con hầu đó chứ gì?
Kháp Na gạt cánh tay đang chĩa thẳng vào mặt mình sang bên, cậu ấy mạnh tay quá khiến Mukaton gào thét ăn vạ. Kháp Na lùi lại vài bước, nhìn gương mặt nung núc thịt của Mukaton vẻ khiếp hãi.
– Cô thật quá đáng! Tôi đâu có nhìn chằm chằm vào cánh tay nào trong buổi tiệc tối qua! – Rồi như chợt nhớ ra điều gì, Kháp Na nói tiếp. – Tôi nhớ ra rồi, có thể đó là lúc chuỗi tràng hạt của tôi bị mắc vào khe bàn... Tôi có nhìn tay của a hoàn đó đâu! Con dao cắt thịt bị rơi, tôi cúi xuống nhặt lên, không may chuỗi hạt trên cổ mắc vào khe bàn. Tôi phải cúi người một lúc lâu để gỡ chuỗi hạt. Đúng lúc đó, một a hoàn dâng khay đồ ăn, vì không thể ngồi thẳng dậy, tôi cảm thấy khó xử nên mới cười với người ta. Cô ngồi phía sau tôi nên không nhìn thấy chuỗi tràng hạt, chỉ thấy tôi cúi người mà cho rằng tôi chúi mắt vào bàn tay của a hoàn kia.
Giải thích rõ ràng xong, Kháp Na lùi lại phía sau mấy bước, nhìn Mukaton vẻ khiếp đảm như nhìn quái vật. Giọng nói như lạc đi vì nỗi bi phẫn chất ngất:
– Tôi còn chẳng nhớ hình dáng của a hoàn đó nữa là...! Chỉ vì tôi vô tình nhìn vào tay người ta một lát mà cô làm cho người ta bị tàn phế. Cô thật đáng sợ!
– Chỉ cần hôm nay ngươi liếc nó một cái là ngày mai con yêu tinh xấc láo ấy sẽ mò lên giường ngươi ngay, biết không hả?
Biết mình đuối lý nhưng xưa nay Mukaton chưa bao giờ chịu xuống nước trước mặt Kháp Na. Lúc này, gương mặt to bè, ngồn ngộn của cô ta trở nên cau có, dữ tợn. Cô ta tiến đến trước mặt Kháp Na, hai tay chống nạnh, vẻ hùng hổ:
– Đàn ông các người là đám háo sắc. Hễ thấy đứa con gái nào thân hình nuột nà, gương mặt xinh đẹp là bu lại như ruồi ấy. Anh trai ta đấy, trong nhà có bao nhiêu mỹ nữ yêu kiều nhưng thấy ả nào vừa mắt cũng không buông tha.
Kháp Na sợ hãi lùi lại, đưa tay bóp trán, lắc đầu ngán ngẩm, bật cười chua chát:
– Công chúa, tôi làm sao so được với anh trai cô! Cô nhìn xem, trong phủ Phò mã này, người hầu, kẻ hạ đều là đàn ông, tôi làm gì có cơ hội tiếp xúc với phụ nữ? Ngay cả trong căn phòng này, chưa chắc một con ruồi đực đã lọt được vào.
Mukaton giậm chân bình bịch. Động tác dỗi hờn đáng yêu thường thấy của các thiếu nữ ở cô ta trở nên quá đà, mặt đất như cũng rung lên bần bật:
– Nhưng dù là như thế, ngươi cũng không thèm nhìn ta lấy một cái. Chúng ta kết hôn ngần ấy năm, ngươi chưa bao giờ bước vào phòng ta nửa bước. Ngươi tưởng ta không biết ngươi nghĩ gì ư? Ngươi mong muốn một đứa con gái có thân hình thon thả hơn ta, gương mặt xinh xẻo, đáng yêu và giọng nói ngọt như mật chứ gì?
– Cô...
Kháp Na dở khóc dở cười, tay úp mặt, tay xua đuổi, giọng nói mệt mỏi, chán nản cực độ:
– Công chúa, mời cô đi cho, hôm nay tôi không muốn nhìn thấy cô thêm nữa!
Mukaton đã quen thói ngang ngược trước mặt Kháp Na, đâu dễ dàng chấp nhận thái độ xua đuổi cứng rắn của cậu ấy. Cô ả tức tối lao đến, định xoắn một bên tai của Kháp Na:
– Tên ranh, bây giờ ngươi lớn rồi, cứng cáp rồi nên không sợ ta nữa chứ gì?
Chàng trai mười bảy tuổi không còn là chú bé yếu đuối, nhịn nhục năm xưa nữa. Trước khi Mukaton ra tay, cậu đã lanh lẹ xoay người ra sau, tránh né. Không muốn tiếp tục đôi co với cô ả, Kháp Na quay đầu bước ra ngoài, Mukaton nhảy lên, định kéo cổ áo Kháp Na lại. Kháp Na xoay người, nhanh như cắt, giữ chặt hai cánh tay của Mukaton, ánh mắt sôi sục như bốc hỏa, một cánh tay của cậu đã vung lên.
Mukaton thừa hiểu Kháp Na không dám làm gì vì cô ta là công chúa, càng được thể lấn tới:
– Ngươi tức giận gì chứ! Nó chỉ là con nô lệ người Đảng Hạng hạ đẳng thôi. Mạng sống của nó chẳng khác nào loài ruồi muỗi, chết cũng không đáng tiếc... Á...
Mukaton bàng hoàng ôm mặt, cặp mắt ti hí nhìn Kháp Na trừng trừng. Kháp Na cũng sững sờ không kém, cậu ấy thu cánh tay đang lơ lửng trên không trung lại, nhìn vào lòng bàn tay để chắc chắn rằng mình không hề động thủ. Gương mặt Mukaton chẳng khác chiếc bánh bao thiu, nở ra nhanh chóng. Đôi má vốn to tròn, giờ càng tròn to hơn, như sắp nứt vỡ. Cô ả gào thét thảm thiết, lao ra ngoài, cơ thể nặng nề thiếu chút nữa thì va vào cửa. Kháp Na nhìn theo bóng Mukaton khuất dần sau cánh cổng phủ, thở dài thườn thượt, quay đầu bước về phía chiếc giường, kéo tấm chăn trùm đầu tôi ra:
– Tiểu Lam, em bày trò phải không?
Tôi lè lưỡi:
– Tôi không nhịn được nên mới dạy cho cô ả một bài học. Cô ta hơi một tí là chửi người ta, đánh người ta, trừng phạt thế vẫn còn nhẹ nhàng chán. Với gương mặt sưng vù ấy, trong vòng vài tháng, cô ả sẽ không thể ra ngoài hãm hại người khác.
Tôi hể hả kể tội Mukaton, nhưng nhác thấy vẻ mặt mệt mỏi vô hạn của Kháp Na, bèn rụt rè kéo áo cậu ấy:
– Kháp Na, cậu bực mình à?
Cậu ấy lặng lẽ ngồi xuống, kéo tôi vào lòng. Tôi cuống cuồng xin lỗi:
– Xin lỗi Kháp Na, tôi giận quá hóa hồ đồ, quên mất thân phận của cô ta. Rồi cô ta sẽ đổ mọi tội lỗi lên đầu cậu và cậu sẽ không được yên.
Kháp Na cười buồn, lắc đầu, áp má lên sống lưng tôi.
– Ta không trách em đâu. Em làm vậy là giúp ta giải tỏa nỗi bất bình. – Cậu ấy vuốt ve cái đầu nhỏ của tôi, dịu dàng bảo. – Cảm ơn em, Tiểu Lam!
Tôi vừa cảm động vừa buồn bã. Cậu ấy mới mười bảy tuổi, cái tuổi bắt đầu biết yêu đương, rung động, biết tương tư những thiếu nữ tuổi trăng tròn như hoa như ngọc. Vậy mà cậu ấy lại phải trói buộc cuộc đời mình bên cạnh một người phụ nữ ghê gớm, nanh ác, sống những ngày buồn chán, ảm đạm. Lòng đầy thương xót, tôi liếm liếm đôi gò má gầy guộc của cậu ấy. Kháp Na lặng lẽ ôm tôi vào lòng, một lát sau mới cất tiếng hỏi:
– Em về đến đây thì ngủ mê mệt suốt mấy ngày, ta chưa kịp hỏi em, có tin tức gì về đại ca của ta không?
Lúc này tôi mới chợt nhớ ra mục đích của chuyến đi, lòng chợt buồn vô hạn:
– Lâu Cát nhờ tôi nhắn với cậu, tháng Năm năm nay, cậu ấy sẽ thọ giới Tỷ khâu ở chùa Sùng Thánh, Hà Châu (nay là Lâm Hạ, Cam Túc). Cậu ấy đã gửi thư cho các vị cao tăng ở đất Tạng, mời họ đến Hà Châu thọ giới cho cậu ấy.
Hai mắt Kháp Na bỗng sáng lên, cậu ấy phấn chấn, bật dậy:
– Tuyệt quá, ta sẽ lập tức lên đường đến Hà Châu tham dự lễ thọ giới của đại ca. Tiểu Lam, chúng ta cùng đi nhé!
Không chờ tôi trả lời, cậu ấy lại lao ra ngoài cửa, gào to:
– Người đâu, mau chuẩn bị đồ đạc cho ta, ta phải lập tức đi Hà Châu.
Tôi tròn xoe mắt nhìn Kháp Na tất bật thu dọn đồ đạc:
– Kháp Na, không cần gấp vậy đâu. Từ Lương Châu đến Hà Châu chỉ mất mười ngày đường, bây giờ mới là đầu tháng Tư, chúng ta còn những một tháng nữa kia mà!
Cậu ấy thoáng giật mình, quay lại nhìn tôi, đôi đồng tử màu mây ấm tuyệt đẹp thấm đẫm nét u buồn khiến người nói chuyện cùng không khỏi tan nát cõi lòng:
– Tiểu Lam ơi, ta không muốn ở lại cái nhà lao băng giá này thêm một khắc nào nữa.
Lòng tôi chùng xuống.
Hôm đó, chúng tôi nhanh chóng rời Lương Châu. Tôi đã hỏi Kháp Na có cần thông báo với Mukaton không, cậu ấy ngồi trên xe ngựa và lắc đầu:
– Ta tin rằng chúng ta chưa ra khỏi phủ Phò mã thì Mukaton đã biết chuyện rồi. May mà em khiến cô ta không thể ra khỏi nhà, bằng không, giờ này cô ta đã đuổi theo làm loạn rồi. Theo suy đoán của ta, chắc chắn cô ta đã cử người theo dõi, nhất cử nhất động của ta ở Hà Châu sẽ không lọt khỏi tầm kiểm soát của cô ta.
Tôi im lặng. Thế thì khác nào bị giam lỏng? Những ngày tháng lao tù thế này đến bao giờ mới kết thúc?
Trên đường đi, Kháp Na không hề cưỡi ngựa, cậu ấy ngoan ngoãn ngồi trong xe ngựa, trò chuyện nhỏ to với tôi. Cậu ấy cũng hạn chế xuất hiện ở chốn đông người, chỉ trừ những lúc phải dùng bữa và nghỉ trọ. Nhưng dù đã tiết chế tối đa việc lộ diện nơi phố phường, chàng thanh niên khôi ngô, tuấn tú, phong độ ngời ngời Kháp Na vẫn thu hút ánh nhìn của vô số cô gái ở bất cứ nơi đâu cậu có mặt. Những thiếu nữ dạn dĩ, thậm chí còn tung hoa, tung khăn về phía cậu. Nhưng Kháp Na xem họ như không khí, lúc nào cũng nghiêm nghị, chừng mực, không trao cho bất cứ cô gái nào dù chỉ là một ánh nhìn vô cớ.
Tôi ngồi bên cửa sổ, cùng cậu ấy ngắm nhìn vầng trăng tròn vành vạnh trên cao. Ngàn vạn vì sao lấp lánh điểm xuyết trên nền trời đêm nhung huyền, mùi ngai ngái của không khí buổi đêm lan trong gió nhẹ, làn hơi nồng ẩm lướt qua mặt tôi. Kháp Na tựa lưng vào thành cửa, vóc dáng dong dỏng, gương mặt dịu dàng, thuần khiết như pha lê.
Tôi ngắm nghía gương mặt điển trai của cậu ấy, tủm tỉm cười, nhớ lại cảnh tượng khi nãy:
– Kháp Na, cậu có biết, trên đường đi có rất nhiều thiếu nữ nhìn trộm cậu không? Lúc chúng ta ăn cơm, cô chủ quán thậm chí đã đích thân bưng đồ ăn cho cậu. Cô ấy cứ mải mê phục vụ cậu, quên hết những người xung quanh. Thái độ đó khiến bọn Wangtso rất tức giận.
Cậu ấy không cười mà sáp lại gần tôi, cọ mũi vào mũi tôi:
– Tiểu Lam, em thấy ta có đẹp trai không?
Tôi ngắm nhìn đôi mắt như suối nước trong veo, gương mặt thanh tú với lúm đồng tiền hút hồn ấy ở khoảng cách rất gần, gật đầu quả quyết:
– Đẹp trai! Xét về ngũ quan và nước da, cậu ăn đứt anh trai cậu. Tôi sống ba trăm năm, từng gặp vô số người thuộc mọi dân tộc, người Tạng, người Đảng Hạng, người Mông Cổ, người Hán, nhưng cậu là người điển trai nhất trong số họ.
Nhưng tôi thầm tiếc, trên gương mặt điển trai có một không hai của cậu ấy lại thiếu nụ cười rạng rỡ của tuổi thanh xuân.
Được tôi khen hết lời như vậy nhưng cậu ấy không có vẻ gì là vui thích, chỉ cười buồn:
– Tiểu Lam, em biết không, ta rất sợ nếu có cô gái nào đó yêu thích dung mạo của ta. Đôi lúc, ta thậm chí còn căm ghét cả gương mặt mình, chỉ muốn dùng dao rạch những đường chằng chịt không bao giờ lành lên gương mặt này.
Tôi giật mình kinh hãi:
– Kháp Na, vì sao vậy?
– Vì nếu các cô gái ở Lương Châu không mải mê ngắm nhìn ta thì họ sẽ không phải chịu tai họa.
Cậu ấy ngồi thẳng dậy, dõi mắt ngắm vầng trăng chênh chếch phía trời xa, bờ vai gầy guộc khẽ rung động:
– Họ sẽ bị vu oan, bị tống vào nhà lao, chịu cảnh tù đày. Có người đang đi trên phố thì bị bủa vây, bị đấm đá tới tấp, bị hành hạ thảm thương.
Cậu ấy nghẹn ngào, hai mắt đỏ hoe.
– Thê thảm nhất là cô gái người Đảng Hạng nọ, cha làm nghề mổ lợn. Cô ấy thường lẻn đến cổng phủ Phò mã nhìn trộm ta. Không lâu sau, người của phủ Phò mã đến nhà cô ấy hỏi cưới, cha cô ấy vì hám vinh hoa phú quý đã đồng ý gả con gái. Sau khi kết hôn, ngày nào cô ấy cũng bị chồng đánh đập, chửi bới, cô ấy bị hành hạ tới mức không còn ra hình người nữa, nhưng không dám bỏ đi. Cô ấy liều mạng tìm đến gặp ta, nói với ta rằng, tất cả đều do một tay công chúa sắp đặt. Lúc đó ta mới biết được nỗi oan ức của cô ấy. –
Cậu ấy nuốt nghẹn vào lòng, khóe môi run run.
– Sau khi gặp ta, đêm đó cô ấy đã thắt cổ tự vẫn.
Tôi bịt miệng, thốt lên kinh hoàng:
– Vì sao Công chúa lại tàn độc như vậy?
Khi ấy, tôi chưa hiểu hết những tình cảm phức tạp của con người nên không sao lý giải nổi tâm trạng cực đoan của Mukaton khi bị cự tuyệt tình yêu.
– Ta hiểu tâm tư của cô ta. Cô ta muốn có được trái tim ta. Nếu như cô ta không bạo ngược, không gây tổn thương cho người khác, ta bằng lòng trọn đời trọn kiếp chung sống với cô ta. Nhưng ta tuyệt đối không thể trao trái tim mình cho cô ta.
Vẻ u buồn nhuộm sẫm đôi mắt Kháp Na, cậu ấy nắm chặt tay, nện một cú đấm lên thành cửa sổ, giọng đầy phẫn uất:
– Tiểu Lam, người hiểu rõ nhất ta đã phải trải qua tuổi thơ thế nào ở nơi đây chính là em. Hồi đó, ta đã phải chịu đựng quá nhiều lời nhục mạ, chửi bới, dọa dẫm, đến nỗi hễ nghe thấy tiếng của cô ta là ta muốn bỏ chạy. Dù mấy năm gần đây, cô ta không đánh đập, chửi bới ta nữa, thậm chí đã đối xử với ta mềm mỏng hơn rất nhiều, nhưng ta vẫn rất sợ cô ta. Vả lại, cô ta tỏ ra hiền thục, nhu mì chẳng được bao lâu, sau đó mọi việc thế nào thì em biết cả rồi đấy. Cô ta đáng sợ đến mức ta không thể chịu nổi!
Tôi thở dài, liếm khô những ngấn nước bên khóe mắt cậu ấy:
– Kháp Na, trước lúc viên tịch, đại sư Ban Trí Đạt từng nhắc nhở cậu, nếu không thể chung sống hòa thuận với Công chúa, cậu có thể chọn cho mình một người vợ có xuất thân cao quý khác.
– Ta còn có thể ư? Giờ đây, ngay cả ra phố ta còn không dám. Ta chỉ sợ ta đi đến đâu cũng sẽ có những cô gái vì ta mà phải chịu tai họa.
Cậu ấy ôm tôi sát ngực, đăm đắm nhìn bầu trời đêm xa mù, ánh mắt cô đơn, lạc lõng, buồn u uẩn:
– Tiểu Lam ơi, ta không còn cơ hội gặp được người ta yêu thương nữa! Chỉ e đời này, ta chẳng thể yêu như những người bình thường khác.
Tôi mãi mãi không bao giờ quên ánh mắt tuyệt vọng của Kháp Na hôm đó. Bóng dáng gầy guộc của cậu ấy hắt lên vẻ cô liêu, đơn độc, giống như một thân cây lẻ loi bị lãng quên, lặng lẽ phơi mình dưới ánh trăng đêm quạnh quẽ, giá lạnh.
.
– Đúng là số phận! – Chàng trai trẻ xúc động thốt lên. – Đại sư Ban Trí Đạt ở trên trời có linh, hẳn sẽ rất ân hận vì đã tước bỏ hạnh phúc của cháu trai mình.
– Xưa nay các cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị đều không mấy hạnh phúc, đồng thời cũng mặc định rằng hai bên không được phép ly hôn. Nhưng nếu họ có thể tôn trọng nhau, không can thiệp vào đời sống của nhau, cố gắng giữ gìn mối quan hệ hình thức thì có lẽ cũng không đến nỗi không thể chung sống. Có điều, Mukaton đã rơi vào bi kịch này. Cô ấy đã đem lòng yêu người đàn ông không bao giờ có thể trao trái tim cho cô ấy.
Nhớ đến ánh mắt u buồn, vẻ mặt thẫn thờ của Kháp Na, lòng tôi lại bị vò xé, tôi cố kìm nén nỗi nghẹn ngào để tiếp tục câu chuyện:
– Kháp Na càng trưởng thành càng khôi ngô, tuấn tú và Mukaton càng say mê cậu hơn. Nhưng vì tình yêu không được đáp lại, Mukaton càng ngày càng trở nên cực đoan. Cô ấy cho rằng dung mạo của mình và những cám dỗ bên ngoài khiến Kháp Na không chịu yêu cô ấy.
Chàng trai trẻ chau mày.
– Không người đàn ông nào có thể yêu thương người phụ nữ bạo ngược, độc ác. Điều này chẳng liên quan gì đến dung mạo, vóc dáng cả. – Cậu ta thở dài, nhìn tôi. – Kháp Na quả thực rất đáng thương. Tôi thành tâm cầu mong cậu ấy sẽ được hạnh phúc.
Tôi lắc đầu chua xót:
– Khi ấy tôi không biết rằng, những bi kịch, đau đớn của cuộc đời Kháp Na còn chưa bắt đầu...
Chương 16 - Đấu Pháp.
"Bậc trí giả thường gặp lúc chông gai lại càng thêm bền chí;
Sư tử lâm vào cảnh đói khát sẵn sàng sát thương cả loài voi khổng lồ."
(Cách ngôn Sakya)
– Về rồi đấy à?
Tôi và Kháp Na vừa đặt chân đến Phủ Châu thì nhận được tín hiệu mà Khabi phát ra bằng thứ mùi đặc biệt của loài hồ ly chúng tôi. Tôi lần theo mùi hương đến chỗ Khabi, hai chúng tôi giả bộ lên đồi đi dạo. Cô ấy lệnh cho người hầu giữ khoảng cách và không được làm phiền chúng tôi. Nhác thấy gương mặt đầy lo âu của Khabi, đột nhiên tôi cảm thấy sốt ruột lạ lùng, bèn hỏi ngay:
– Đã xảy ra chuyện gì?
Đôi mày thanh tú của cô ấy chau lại:
– Trong thời gian cô đi vắng, pháp vương của phái Karma Kagyu, ngài Karmapa đã đến đây.
Cứ tưởng xảy ra chuyện gì nghiêm trọng, tôi thở phào một cái, nhìn Khabi vẻ đầy thắc mắc.
– Phủ đệ của Hốt Tất Liệt vẫn ngày ngày tiếp đón người của các giáo phái khác nhau đến xin được phục vụ cho Vương gia đấy thôi! Ngài Karmapa này là người thế nào mà khiến Vương phi Khabi được sủng ái rất mực phải lo lắng dường vậy?
– Cô chẳng biết gì cả!
Một cái cốc giáng xuống đầu, tôi nhăn mặt kêu đau. Khabi lạnh lùng nói bằng giọng mũi:
– Người này không giống mấy tên thầy mo quèn, chuyên bày trò ma quỷ lừa gạt người khác đâu. Ông ta cũng xuất thân từ dòng dõi cao quý, còn nhỏ đã nổi tiếng thông minh, trác việt. Ông ta được chọn là linh đồng chuyển thế của người khai sáng ra giáo phái Karma Kagyu, tiếng tăm lan khắp vùng Wusi suốt bốn mươi năm qua. Nếu không có cuộc tranh biện vừa qua, Bát Tư Ba sẽ chỉ là một tiểu Lạt Ma nổi danh ở vùng Hậu Tạng xa xôi, hẻo lánh và nghèo nàn. Còn pháp vương Karmapa là người mà ở khu vực phồn vinh nhất của đất Tạng ai nấy đều hay, nhà nhà biết tiếng.
Nghe Khabi nói vậy, tôi chợt nhớ ra, bốn mươi năm trước, giáo phái Karma Kagyu đã tìm ra hướng đi riêng, không lựa chọn trong số các đệ tử hoặc con cháu của người đứng đầu giáo phái một người xứng đáng để kế thừa pháp thống mà tìm kiếm một đứa trẻ được cho là linh đồng chuyển thế của vị pháp vương tiền nhiệm. Đó là điều chưa từng có trong lịch sử tôn giáo ở đất Tạng, bởi vậy sự kiện này đã gây chấn động một thời, ngay cả một hồ ly suốt ngày giam mình trong sơn động trên núi Côn Luân như tôi cũng biết. Vậy ra, chính là người này đã đến phủ Vương gia Hốt Tất Liệt.
Tôi vừa xoa đầu vừa hỏi:
– Việc ông ta đến đây có đe dọa địa vị của Bát Tư Ba không?
– Có đấy! Sau khi tới đây, ông ta đã nhiều lần phô bày năng lực thần kỳ của mình, giúp Đại Vương được chiêm ngưỡng ảo ảnh về những cung điện trên mặt biển và trên trời cao. Tất cả các đại thần và phi tử sau khi xem xong màn ảo thuật của ông ta đều choáng ngợp và hết lời khen ngợi. Bọn họ đang kháo ầm lên rằng, vị Lạt Ma lão luyện này tài ba hơn, thần thông quảng đại hơn thượng sư trẻ tuổi, người xưa nói đâu có sai, "gừng càng già càng cay"!
Tôi bực mình:
– Bát Tư Ba rất ác cảm với mấy trò phù phép, ma quỷ nhằm mê hoặc người khác. Chắc chắn cậu ấy sẽ không bận tâm đến những lời bàn tán kia.
Khabi buồn tay ngắt một chiếc lá, vần vò trong tay, hàng lông mày lá liễu xô lại, cô ấy thở dài não nề:
– Đúng là như vậy! Ta có đến thuyết phục Bát Tư Ba, cậu ấy chỉ mỉm cười không nói. Tuy Đại vương rất mực tín nhiệm Bát Tư Ba nhưng nghe nhiều những lời bàn ra tán vào vô thưởng vô phạt ấy, ta chỉ lo Đại vương sẽ dao động, nếu vậy, địa vị của Bát Tư Ba sẽ bị ảnh hưởng.
Tôi hiểu cậu ấy chẳng để tâm những chuyện điều tiếng ấy, lắc đầu, nói:
– Dù địa vị có bị lung lay chăng nữa, Bát Tư Ba cũng chẳng bận tâm đâu. Cậu ấy chẳng mang những vinh nhục, được mất của cá nhân.
Khabi ném chiếc lá đã nhàu nát xuống đất, hai tay chống nạnh, giọng cứng như đá:
– Vấn đề đáng lo là Bát Tư Ba có muốn không quan tâm cũng không được.
Tôi giật mình sửng sốt, ngẩng đầu lên nhìn Khabi. Cô ấy gật đầu xác nhận:
– Karmapa đã đề nghị được thách đấu với Bát Tư Ba. Hai hổ không thể chung một núi, muốn giữ yên địa vị của bậc thượng sư như hiện nay, Bát Tư Ba buộc phải chấp nhận lời thách đấu. Nếu không, Đại vương sẽ không hài lòng, thậm chí có thể xem xét việc tôn Karmapa lên làm thượng sư. Nếu vậy, bao công sức và tâm sức mà Bát Tư Ba dồn vào việc phục hưng giáo phái Sakya sẽ đổ xuống song xuống biển!
Khabi ngồi xuống, nhìn tôi chăm chú, tôi nhận thấy vẻ nghiêm túc chưa từng thấy trong ánh mắt của cô ấy.
– Bát Tư Ba có thể không màng đến lợi ích cá nhân, nhưng lẽ nào có thể bỏ mặc cả giáo phái? Từ bỏ cơ hội trở về Sakya thọ giới để đi theo phò trợ Đại vương, lẽ nào cậu ấy quên mục đích của mình rồi ư?
Tôi sững sờ, cô ấy nói không sai! Giáo phái Sakya là mối quan tâm lớn nhất của Bát Tư Ba, vì lợi ích của giáo phái, cậu ấy buộc phải nhận lời thách đầu! Tôi thở dài, nhìn Khabi chăm chú:
– Khabi, vì sao cô phải ra sức bảo vệ Bát Tư Ba như vậy?
– Lúc trước, ta giúp Bát Tư Ba là vì muốn mê hoặc cậu ấy.
Nhận thấy gương mặt tôi lập tức đổi sắc, Khabi vội vàng xoa đầu tôi:
– Một bậc cao tăng như thế, không hồ ly nào không muốn hút lấy linh khí của cậu ta.
Tôi trừng mắt nhìn, nhưng chưa kịp mở miệng, cô ấy đã cướp lời, giải thích:
– Sau đó, ta nhận thấy ý chí của cậu ấy vô cùng kiên định, dù có làm gì cũng không thể dụ dỗ được nên ta đã từ bỏ ý định.
Khabi rút khăn tay ra che miệng, nhìn tôi cười thích thú:
– Cô yêu người đàn ông như thế sẽ khổ lắm đấy!
Tôi nghiến răng kèn kẹt, chỉ muốn ngoạm cho cô ta một miếng. Đó là bí mật sâu kín mà bấy lâu nay tôi chôn chặt trong lòng, việc gì cô ấy phải nói oang oang như thế! Dường như chẳng thèm quan tâm đến biểu cảm của tôi, Khabi tiếp tục:
– Từ lâu Bát Tư Ba đã biết ta không phải người phàm. Những người tu hành có tuệ căn từ rất sớm như cậu ấy đặc biệt tinh nhạy, mẫn tiệp. Nhưng Bát Tư Ba là người thuần khiết, nhân hậu, biết ta không có ý hãm hại Đại vương nên cũng không bắt ta chịu tội. Ta thật lòng cảm kích vì điều đó.
Tôi chẳng thấy tâm trạng khá hơn nên rất muốn chọc giận cô ả:
– Còn ngài Karmapa này thì sao? Ông ta có phát hiện ra hình hài thật của cô không?
Khabi lộ vẻ lo lắng, khẽ lắc đầu:
– Hiện tại thì chưa, nhưng ta rất lo. Ông ta tỏ ra là một người biết nhiều phép thần thông, thêm nữa, vì muốn đấu tranh đoạt địa vị thượng sư, đã không ngán đưa ra lời thách đấu với Bát Tư Ba. Ta thậm chí không dám thở mạnh trước mặt ông ta vì sợ bị phát hiện. Nhưng nếu như ông ta cư trú lâu dài trong Vương phủ thì sớm muộn cũng có ngày ông ta phát giác ra căn cốt thật sự của ta. Đến lúc đó, ta tin rằng ông ta sẽ không bỏ qua cơ hội trời cho để phô diễn tài phép trước mặt Đại vương. Thế nên ta giúp Bát Tư Ba cũng là giúp chính mình.
– Nhưng phải giúp cậu ấy thế nào đây? – Nghĩ tới tình cảnh hiện nay của Bát Tư Ba, tôi không khỏi phấp phỏng, lo âu. – Tuy kiến thức của Bát Tư Ba rất sâu rộng, uyên bác nhưng cậu ấy chưa bao giờ dành thời gian nghiên cứu và luyện tập những trò phù thủy đó.
Khabi nhìn tôi chăm chú:
– Bây giờ chỉ có cô mới giúp được cậu ấy. Trong buổi thi đấu ngày mai, cô hãy biến hóa tạo ra ảo giác khiến cho mọi người tin vào năng lực thần thông của Bát Tư Ba.
– Được. – tôi gật đầu không suy nghĩ, nhưng sau đó suy xét, lại thấy có chút băn khoăn. – Nhưng tôi chỉ mới luyện phép biến hóa một thời gian ngắn, nếu phải che mắt hết thảy mọi người trong đó có cả Karmapa thì e rằng không kéo dài được lâu.
– Cô cứ gắng hết sức mình là được.
Tôi gật đầu. Mặt trời đã xuống lưng chừng núi, không muốn lãng phí thời gian, tôi vội vã quay về tìm Bát Tư Ba bàn bạc. Chưa kịp cất bước, tôi đã bị túm cổ, nhấc bổng lên, Khabi ghé sát khuôn mặt xinh đẹp vào người tôi, diễn vẻ bí hiểm:
– Tiểu Lam, ta định không nói với cô chuyện này, nhưng thấy cô xả thân giúp Bát Tư Ba như vậy, nếu tiếp tục giấu cô, ta sẽ không thoải mái.
Tôi giãy giụa đòi Khabi thả xuống, vừa tiếp đất đã nghe thấy những lời này:
– Cô nói đúng, thi triển phép thuật trước mặt chừng ấy người, chắc chắn sẽ tổn hao rất nhiều linh khí.
Toàn thân tôi run rẩy, cả giọng nói cũng lạc đi:
– Sẽ có phản ứng ngược, đúng không?
– Phép biến hóa không phải tà thuật nên không đến mức gây ra phản ứng ngược. Nhưng cô sẽ phải mất thêm rất nhiều thời gian mới có thể gỡ bỏ bùa chú của đại sư Ban Trí Đạt và tu luyện thành người.
Tôi sửng sốt:
– Nhiều là bao nhiêu năm?
– Ai mà biết được! Còn phải xem trong cuộc đấu pháp với Karmapa, cô bị tiêu hao bao nhiêu linh khí. Có thể chi cần dăm ba năm, cũng có thể phải mất dăm ba chục năm.
Khabi nháy mắt với tôi, nở nụ cười nham hiểm, vẻ mặt đắc chí:
– Đến lúc đó, có lẽ Bát Tư Ba đã là một ông lão tóc bạc da mồi mất rồi!
Trong lúc tôi vẫn còn ngẩn ngơ thì Khabi đã ngúng nguẩy thân hình yêu kiều của cô ấy đi xuống núi:
– Tôi biết thời gian qua cô đã dốc sức tu luyện, mong sớm có được hình dáng của con người nên cô hãy nghĩ cho kỹ.
Khabi đi rồi, tôi ngồi thẫn thờ rất lâu trên sườn đổi, đến tận khi vệt nắng cuối cùng khuất lấp nơi chân trời mới thất thểu trở về lán trại của Bát Tư Ba và Kháp Na.
Hôm sau, trong lán trại của Hốt Tất Liệt, tôi được diện kiến đối thủ của Bát Tư Ba – linh đồng chuyển thế đầu tiên của giáo phái Karma Kagyu – ngài Karmapa. Ông ta mới năm mươi tuổi nhưng gương mặt già nua như thế đã năm mươi lăm, năm mươi sáu. Các nét trên gương mặt ông ta tựa một khối kiến trúc đã được gọt đẽo kỳ công, tỉ mỉ, đó là một gương mặt góc cạnh, xương gò má cao. Ông ta cao lênh khênh, cao hơn Bát Tư Ba nửa cái đầu, vì vậy mà lưng hơi còng xuống khiến chiếc áo cà sa ông ta khoác trên mình trông như một mảnh vãi vắt thờ ơ trên vách núi vậy.
Tôi hóa phép ẩn mình đứng một bên, chợt hiểu vì sao Khabi lại lo lắng nhường vậy. Con người này rất uy nghiêm, giữa vòm mắt sâu hun hút là đôi mắt sắc như mắt chim ưng, lạnh lùng quan sát và kiếm soát người đối diện, khiến người ta giật mình hoảng sợ vì có cảm giác như thế bị nhìn thấy tim gan.
Karmapa ngồi đối diện với Bát Tư Ba, ánh mắt lạnh lùng, thù địch. Hốt Tất Liệt quan sát hai người, thử bài khuyên can:
– Đại sư Karmapa, ngài và Bát Tư Ba đều là bậc danh sư nức tiếng đất Tạng về Phật pháp, ta rất mực nể trọng các vị, các vị đâu cần phải thách đấu, phân chia thắng thua!
– Bần tăng chỉ muốn xem xem nhà sư trẻ tuổi này có gì ghê gớm mà khiến một người thần dũng như Đại vương phải bái làm thượng sư.
Thứ tiếng Mông Cổ không lưu loát, khó nghe và rời rạc khiến người ta bức bối.
Bát Tư Ba lặng lẽ thở dài, gắng sức kiềm chế để giữ phép lịch sự:
– Thưa đại sư, Lạc Truy Kiên Tán tuổi còn trẻ, đạo học còn mỏng, không dám so bì với đại sư. Sở dĩ bần tăng và Đại vương có duyên với nhau là do ân điển của Phật Tổ. Đại vương là bậc minh chủ, xem trọng hiền tài, chi bằng hai chúng ta hãy cùng chung sức chung lòng phò trợ Đại vương tu tập Phật pháp, như thế chẳng phải tốt hơn sao?
Karmapa nghếch chiếc cằm nhọn về phía Bát Tư Ba, ngạo mạn hầm hừ:
– Kể cả là như vậy thì cũng phải phân thức bậc! "Bát Tư Ba" vốn mang nghĩa bậc thánh giả, nhưng ngươi còn chưa cả thọ giới Cụ túc, hai mươi mốt tuổi vẫn chỉ là một Sa di, ngươi dựa vào đâu mà nhận danh xưng này, dựa vào cái gì mà đòi làm thượng sư của Đại vương Hốt Tất Liệt?
Nói đoạn, ông ta quay đầu lại, cung kính vái Hốt Tất Liệt một vái, lời lẽ khắc nghiệt:
– Nếu bần tăng ở lại, cúi xin Đại vương xem xét lại vị trí thượng sư!
Khi nghe ông ta chê cười mình vẫn còn là một Sa di, Bát Tư Ba cố gắng nhẫn nhịn, nhưng khi ông ta cầu xin Hốt Tất Liệt thay vị trí thượng sư thì mặt cậu ấy đã biến sắc. Kháp Na đứng bên cạnh chừng như không chịu nổi, định bước ra cãi lý, nhưng Bát Tư Ba đã ra hiệu cho cậu dừng lại. Hốt Tất Liệt cũng chẳng vui vẻ gì, ngài khoát tay, bực dọc nói:
– Được thôi, nếu đại sư cho rằng ta đã chọn sai người thì xin mời hai vị trổ tài thần thông trước mặt đông đảo quan khách ở đây. Ta muốn xem ai mới là người xứng đáng làm thượng sư của ta!
Vương gia đã hạ lệnh, cuộc thi đấu này không thể tránh khỏi. Mọi người có mặt trong lán trại khi ấy đều nghển cổ, nín thở quan sát hai "đấu sĩ" chuẩn bị bước vào trận đấu. Bát Tư Ba sa sầm mặt mày, khuôn ngực phập phồng chừng như rất xúc động, cậu hít thở sâu vài lần để lấy lại bình tĩnh, sau đó cung kính thưa rằng:
– Nếu vậy, xin mời pháp sư trổ tài trước!
Karmapa nhắm mắt, lầm rầm niệm chú, một luồng hơi từ lòng bàn tay khép lại của đại sư từ từ bay lên, tụ lại thành một quầng mây rực rỡ, phía trên quầng mây ấy, ánh sánh muôn màu lấp lánh ẩn hiện, ở chính giữa là hình ảnh vị Phật Đại Nhật Như Lai ngự trên một ngai cao hình tròn. Tôi thảng thốt, đây chính là Mandala[1], hay còn gọi là đàn tràng, vốn là hình ảnh tượng trưng cho Đại Thiên Thế Giới trong Phật giáo Tạng truyền.
[1] Mandala (Mạn-đà-la) là một hình vẽ biểu thị vũ trụ trong cái nhìn của bậc giác ngộ. Theo ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là đàn tràng để hành giả các lễ vật hay pháp khí cho nghi thức hành lễ, cầu nguyện, tu luyện... (DG)
Tiếng vỗ tay rào rào và những lời trầm trồ thán phục râm ran khắp nơi. Phép thuật của Karmapa phải cao minh nhường nào mới có thể tạo ra hình ảnh Mandala rực rỡ, kỳ ảo như vậy. Thứ phép thuật này làm tiêu hao rất nhiều tinh lực của người phàm, bởi vậy ảo ảnh chỉ xuất hiện trong chốc lát rồi lập tức biến mất. Karmapa bị mất sức, thở hổn hển sau khi màn trình diễn kết thúc. Sau một hồi tĩnh dưỡng, Karmapa gắng gượng hé mắt, ném về phía Bát Tư Ba ánh nhìn đầy khiêu khích.
Bát Tư Ba chắp tay, điềm đạm cúi đầu bày tỏ sự thán phục:
– Pháp lực của pháp sư quả là cao cường, thiên hạ khó ai sánh bằng.
Karmapa tuy đã mệt lả, bàn tay nổi gân xanh run rẩy nhưng khẩu khí vẫn rất mực cay nghiệt:
– Thiên hạ không ai sánh bằng nhưng tiểu Sa di mang hư danh bậc thánh giả là người thì sánh được chứ gì? Hay là ngươi định nhận thua?
Những người có mặt khi đó đã bị kích động bởi lời nói khiêu khích của Karmapa, mọi ánh nhìn háo hức đổ dồn về phía Bát Tư Ba kèm theo những lời khích bác:
– Pháp sư Bát Tư Ba, hãy trổ tài đi!
Bát Tư Ba trầm ngâm một lát, rồi thở dài:
– Xin pháp sư đưa ra yêu cầu, Bát Tư Ba sẽ làm theo.
Karmapa lôi từ thắt lưng ra một con dao khoắm, kiểu dao người Tạng hay giắt bên mình, chầm chậm bước tới trước mặt Bát Tư Ba, vẻ dương dương thách thức:
– Nếu là bậc đại đức, ắt sẽ được ngũ bộ thần Phật [1] phù hộ độ trì, thân thể không bị tổn thương. Đây là con dao ta thường giắt bên mình, đã chịu lễ gia trì[2]. Liệu pháp sư Bát Tư Ba có thể đâm dao này vào ngũ bộ trên cơ thể ngài, gồm: tim, hai vai, hai cánh tay để chứng minh ngài là sứ giả được Phật Tổ phái xuống nhân gian để hoằng dương Phật pháp hay không?
Ai nấy đều lấy tay che miệng, thốt lên sửng sốt. Hốt Tất Liệt mặt mày biến sắc:
– Pháp sư Karmapa, phép biến hóa khi nãy ngài thi triển nếu không thành thì bất quá cũng chỉ khiến ngài mất thể diện một chút thôi. Nhưng với yêu cầu mà ngài đặt ra cho thượng sư của ta, nếu sơ suất sẽ không tránh khỏi thương vong.
– Xin Đại vương chớ lo lắng.
Bát Tư Ba mỉm cười hồn hậu với Hốt Tất Liệt, sau đó quay lại, bình thản đón lấy con dao từ tay Karmapa, gương mặt điềm nhiên, không gợn chút sợ hãi, khẽ gật đầu:
– Bát Tư Ba sẽ làm theo yêu cầu.
Karmapa lùi lại vài bước, nhìn xoáy vào Bát Tư Ba:
– Tốt lắm, nếu pháp sư có thể vượt qua cửa ải này, ta sẽ chịu thua, lập tức rời khỏi đây.
Ai nấy đều nín thở, chăm chú nhìn Bát Tư Ba, lòng không khỏi bồn chồn, lo lắng cho thượng sư. Bát Tư Ba rút dao khỏi vỏ, lưỡi dao sắc nhọn, sáng lấp lóa. Cậu ấy nín thở, nhắm mắt, đâm con dao vào vùng tim mình. Giữa tiếng kêu gào thảng thốt, cậu ấy thản nhiên rút dao ra, rồi lại điềm nhiên đâm vào bả vai mình. Cứ thế, cậu ấy hoàn tất năm lần đâm vào ngực, hai bên vai và hai cánh tay.
Hốt Tất Liệt lao đến trước mặt Bát Tư Ba, lo lắng kiểm chứng, hoàn toàn không có vết thương nào, cũng không hề chảy máu. Hốt Tất Liệt vui mừng khôn xiết, quay lại tuyên bố với Karmapa lúc đó đã tái mặt vì khiếp sợ:
-Thắng thua đã rõ, pháp sư còn gì để nói nữa không?
Lúc này, gương mặt của Karmapa đã trắng bệch, ông ta chỉ kịp thốt lên ba tiếng: "Ta thua rồi", rồi ngã vật ra vì không chịu nổi cơn chấn động dữ dội này.
Tiếng hoan hô như sấm dậy, mọi người hân hoan bủa vây Bát Tư Ba để chúc mừng. Cậu ấy chỉ mỉm cười đáp lễ, ánh mắt lo lắng chốc chốc lại lướt qua các góc nhỏ lẩn khuất trên đỉnh lán trại như kiếm tìm điều gì.
.
– Khi ấy, thủ lĩnh các giáo phái vì muốn giành được sự ủng hộ của nhà cầm quyền nên nghĩ ra đủ mọi cách phô bày năng lực siêu phàm của mình. Ví như việc họ dự báo thời tiết, dự đoán tương lại, sử dụng phép ảo thuật biến hóa ra những thứ kỳ lạ không có trên đời, hay bằng những nghi thức tôn giáo phức tạp, phô bày phép thuật thần thông quảng đại, v.v... Trong doanh trại của Hốt Tất Liệt, những kẻ buôn thần bán thánh như vậy không thiếu. – Tôi tựa người vào mép lò sưởi, chăm chú ngắm nhìn những đốm lửa bập bùng, trầm ngâm tưởng nhở. – Nhưng Bát Tư Ba xưa nay không hề xem trọng những trò ma quỷ kỳ dị đó. Cậu ấy không thích dựa vào phép thuật, cũng không muốn tổ chức những nghi lễ tôn giáo hao tiền tốn của và ghét cay ghét đắng nói những lời bốc giời hòng xu nịnh, bợ đỡ.
Chàng trai trẻ đưa ra lời nhận xét khách quan:
– Nhưng vị pháp sư Karmapa này thực sự là một người tài giỏi, ông ta không giống như những thầy tu buôn thần bán thánh khác.
Tôi khá ngạc nhiên vì chàng trai này không hề có cái nhìn phiến diện và định kiến, tôi bày tỏ sự tán đồng:
– Con người thời hiện đại biết rất ít về Karmapa, nhưng ông ấy là một nhân vật rất quan trọng. Ông ấy là linh đồng chuyển thế đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền. Các thế hệ tiếp theo của phái Karma Kagyu đã kế tục truyền thống của thế hệ Karmapa, tiếp tục duy trì phương thức chọn linh đồng chuyển thế làm người kế thừa pháp thống của giáo phái. Tính đến nay, cách thức đó đã kéo dài mười bảy đời.
Chàng trai trẻ ngạc nhiên:
– Vậy ra các giáo phái khác ở Tây Tạng đều học theo phái Karma Kagyu.
Cậu ta nghĩ ngợi một lát rồi nghiên đầu hỏi tôi:
– Sau cuộc đấu pháp này, chắc chắn địa vị của Bát Tư Ba trong lòng Hốt Tất Liệt không gì có thể suy suyển được. Vậy còn Karmapa thì sao? Kết cục của ông ta thế nào?
Tôi nhấp một ngụm trà bơ ấm nóng, thở dài:
– Thua một Sa di kém mình những ba chục tuổi, đối với một vị danh sư nức tiếng đất Tạng suốt bốn mươi năm mà nói, chẳng khác nào một cái tát nảy lửa. Ngay hôm đó, Karmapa đã rời khỏi doanh trại của Hốt Tất Liệt để đến nương náu dưới trướng của Mông Kha Hãn. Vài năm sau, Mông Kha Hãn lâm bệnh rồi qua đời. Hốt Tất Liệt phát động cuộc nội chiến quyết liệt với người em út là A Lý Bất Ca nhằm tranh giành ngôi vị Khả hãn, Karmapa đã sai lầm khi đứng về phía A Lý Bất Ca. mấy năm sau, cùng với sự thất thế của A Lý Bất Ca, đại sư Karmapa – vị linh đồng chuyển thế đầu tiên của lịch sử Phật giáo Tây Tạng – cũng nhanh chóng biến mất khỏi vũ đài lịch sử.
[2] Ngũ bộ gồm: Bảo bộ, Liên hoa bộ, Kim cương bộ, Nghiệp bộ, Phật bộ. Năm bộ Phật tượng trưng cho tính giác ngộ viên mãn. Trong Phật giáo Mật tông, ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức vi diệu và là sự phối hợp giữa ngũ phương, ngũ trí, ngũ Phật, ngũ bộ và ngũ hành. (DG)
[3] Gia trì là một nghi thức của Phật giáo. Ý nghĩa của nghi thức này là nương vào tấm lòng đại bi của Bồ tát Quan Thế Âm để cầu ngài xuất nước cam lộ, rẩy lên và làm cho vật hoặc người chịu lễ được thanh tịnh, mát mẻ. Trước khi hành lễ, người ta cần chuẩn bị một bát nước và một nhành liễu. Nước trong tượng trưng cho định lực, nhành liễu linh động tượng trưng cho trí tuệ. (DG)
Chương 17 - Thọ Giới.
"Dù kiến thức sâu rộng đến đâu,
cũng cần học hỏi cái hay của người khác;
Nếu kiên trì học hỏi không ngừng nghỉ,
sẽ thông hiểu và thấu suốt mọi sự."
(Cách ngôn Sakya)
– Tiểu Lam ơi Tiểu Lam, em ở đâu?
Trong cơn mê man chập chờn, tôi nhận ra giọng nói đầy lo lắng của Kháp Na. Tôi lắc lắc đầu, trời ơi, đầu tôi nặng như búa bổ, tôi lại đổ vật xuống. Tiếng gọi như sắp khóc của Kháp Na hòa với tiếng bước chân cuống cuồng tìm kiếm.
– Tiểu Lam ơi, đừng làm ta sợ, em mau ra đây đi!
Tôi gắng gượng nhổm người dậy, nhưng tứ chi mềm nhũn chẳng thể đỡ nổi thân thể nặng như chì, đành cất giọng yếu ớt đáp lại:
– Tôi ở đây.
Tiếng bước chân dồn dập tiến lại gần, tấm bạt căng lán trại được kéo sang bên, Kháp Na sục sạo vào từng khe nhỏ tìm kiếm, cuối cùng cũng phát hiện ra tôi đang treo mình trên xà ngang. Cậu ấy vội vã leo lên, ôm tôi xuống, gương mặt điển trai nhuốm vẻ âu lo:
– Tiểu Lam ơi, ta và đại ca tìm em cả ngày trời. Em làm ta lo muốn chết!
Tôi đã thiếp đi cả ngày ư? Tôi nheo mắt, giọng nói nhẹ như gió thoảng:
– Tôi mệt quá, không chịu nổi nên đã thiếp đi.
– Lam Kha, cảm ơn em! – Dáng vẻ thong dong của ai đó xuất hiện sau lưng Kháp Na, đôi mắt trong ngần, thấu suốt ấy chiếu đến tôi ánh nhìn trìu mến, ấm áp. – Nếu không có em, ta thật sự không biết phải vượt qua cửa ải này ra sao.
Đón lấy ánh mắt ấm áp, chân thành ấy, tôi thấy những việc mình làm là hoàn toàn xứng đáng. Đột nhiên hai má tôi nóng bừng, bóng dáng thân thuộc trước mắt cứ mờ dần, tôi gắng gượng đáp lại:
– Tôi đã hứa với đại sư Ban Trí Đạt sẽ bảo vệ hai... anh em... cậu...
Trước lúc chìm vào cơn mê man, tôi chỉ kịp nghe thấy giọng nói hốt hoảng của Kháp Na:
– Tiểu Lam nóng quá, em ấy ốm rồi!
Lúc tôi tỉnh lại lần thứ hai thì nhận ra mình đang nằm trên giường, trên người là mảnh chăn thường ngày tôi vẫn đắp. Kháp Na bưng chiếc bát vào phòng, thấy tôi thò đầu ra khỏi chăn thì mừng vui khôn tả, vội vàng chạy lại:
– Tiểu Lam, em tỉnh rồi à? Có đói bụng không? Uống chút sữa đi!
Kháp Na kề bát sữa sát miệng tôi, tôi đưa mắt quan sát xung quanh, đó là một căn phòng thiền tịnh kiểu Hán được trang hoàng sạch sẽ, trên bàn làm việc, nhang thơm tỏa hương thoang thoảng. Tôi ngạc nhiên:
– Chúng ta đang ở đâu? Anh trai cậu đâu?
Kháp Na dịu dàng vuốt ve đầu tôi:
– Chúng ta đã đến chùa Sùng Thánh ở Hà Châu, em hôn mê suốt mấy ngày liền nên không hay biết gì. Đại ca vẫn ngày ngày ở bên chăm sóc em, nhưng hôm nay là ngày huynh ấy thọ giới Tỷ khâu, không thể vắng mặt.
Tôi sửng sốt, bật dậy, mảnh chăn rơi xuống:
– Hôm nay ư?
Kháp Na gật đầu:
– Ta cũng muốn được đến đó xem đại ca thọ giới, nhưng huynh ấy không yên tâm, bảo ta ở nhà chăm sóc em. Em đừng sốt ruột, buổi lễ kết thúc là huynh ấy về ngay thôi.
Tôi muốn chạy đến đó ngay lập tức, nhưng mới bước một bước đã hoa mắt, chóng mặt rồi ngã nhào. Tôi đành dùng miệng cắn vào vạt áo Kháp Na:
– Đưa tôi đến đó! Đưa tôi đến chỗ cậu ấy làm lễ thọ giới.
Kháp Na ôm tôi vào lòng, nhẹ nhàng động viên:
– Tiểu Lam à, em còn yếu lắm, phải nghỉ ngơi cho khỏe. Đại ca thọ giới Tỷ khâu đâu phải việc gì nghiêm trọng, em không đến cũng được mà!
Tôi lắc đầu quầy quậy:
– Kháp Na, làm ơn, đưa tôi đến đó!
Không thuyết phục được tôi, cậu ấy đành cho tôi uống sữa rồi ôm tôi chạy đến giới đàn. Lúc chúng tôi tới nơi, Bát Tư Ba đang đứng trước lối đi dẫn vào một hành lang rất dài, bên cạnh là các đệ tử đã theo cậu ấy nhiều năm qua: Drakpa Odzer và Besangbo. Y phục của cậu ấy rất giản dị, không phải áo cà sa sặc sỡ và mũ ngũ sắc trang trọng, chỉ là chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm bình thường, cổ đeo chuỗi tràng hạt làm từ gỗ đàn hương mà bác cậu từng đeo. Đang chuẩn bị bước vào dãy hành lang, Bát Tư Ba chợt trông thấy Kháp Na hớt hải chạy đến, trên tay là tiểu hồ ly với vẻ mệt mỏi tột độ, ánh mắt cậu ấy bỗng sáng lên.
Kháp Na vuốt ve đầu tôi và gật đầu với Bát Tư Ba, cậu ấy nở nụ cười toại nguyện, ánh mắt trong veo, long lanh như hồ nước. Rồi cậu ấy quay đầu lại, hướng về dãy hành lang hun hút, chầm chậm cất bước.
Đó là một dãy hành lang rất dài và hẹp, hai bên phủ kín vải đen, âm u, tối tăm, tưởng như không thể chạm đến tận cùng, cách một đoạn lại có một vị cao tăng đất Tạng đứng đón. Kháp Na cất tiếng khe khẽ, giải thích cho tôi hiểu:
– Ở Trung Nguyên có rất ít ngôi chùa đủ tiêu chuẩn để thọ giới Cụ túc, vì theo quy định đó phải là ngôi chùa có quy mô lớn. Đi hết dãy hành lang này sẽ đến nơi đại ca làm lễ thọ giới.
Tỷ khâu giới hay còn gọi là Cụ túc giới có thể nói một cách dễ hiểu là tấm bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành Phật giáo của các đệ tử nhà chùa. Muốn trở thành một nhà sư chuẩn mực, người tu hành phải thọ giới Cụ túc và tuân thủ hai trăm năm mươi điều giới luật. Một số giới luật hết sức nghiêm khắc, đòi hỏi người tu hành phải có sự quyết tâm và nỗ lực phi thường.
Bát Tư Ba nổi danh ngay khi còn rất nhỏ, thành tựu mà cậu ấy đạt được trong lĩnh vực Phật học khó ai sánh bằng. Nhưng dù đạt tới cảnh giới nào về mặt học thuật, cậu ấy vẫn phải tuân thủ các yêu cầu của hoat động tu hành trong các tu viện và đền chùa Phật giáo. Vậy nên, dù am hiểu sâu sắc các giáo lý Mật Tông Sakya từ lâu nhưng Bát Tư Ba vẫn phải thọ giới Cụ túc năm hai mươi tuổi như những Sa di bình thường khác.
Bát Tư Ba chầm chậm bước đi, lưng thẳng, vầng trán cao rộng, vẻ mặt an nhiên, phong thái thoát tục. Bước đi trên hành lang âm u, mù mịt ấy, không biết cậu ấy đang nghĩ gì?
Đến chỗ đại sư của phái Nyingma, gương mặt ngài hiền từ, đôn hậu nhưng giọng nói cất lên vang vọng, đầy uy nghiêm:
– Sa di Lạc Truy Kiên Tán, kiếp này ngươi nguyện sẽ phụng sự Phật Tổ suốt đời chứ?
Bát Tư Ba ngẩng đầu, khẳng khái đáp:
– Thưa vâng!
Đến chỗ vị đại sư của phái Pagmodru Kagyu, giọng nói nghiêm nghị lại vang lên trầm bổng:
– Sa di Lạc Truy Kiên Tán, ngươi có sẵn sàng gánh vác trách nhiệm hoằng dương Phật pháp suốt đời không?
Bát Tư Ba tự tin đáp:
– Thưa có.
Đến chỗ trưởng lão của phái Drikung Kagyu, ngài nhìn Bát Tư Ba vẻ đầy nghiêm nghị:
– Sa di Lạc Truy Kiên Tán, kiếp này người bằng lòng buông bỏ mọi yêu ghét, hận thù, mọi chấp niệm chứ?
Bát Tư Ba ngừng lại chốc lát, giọng nói kiên định cất lên:
– Thưa vâng.
Bát Tư Ba vừa bước đi vừa lần lượt trả lời câu hỏi của các vị đại sư tham gia lễ thọ giới cho cậu cho đến khi đi tới giới đàn làm lễ.
Ba vị pháp sư tọa trên đài cao, bên cạnh họ là bảy vị chứng nhân xếp thành hàng ngang thẳng tắp. Chủ trì lễ thọ giới hôm nay là đại sư Shakya Zangpo, đương nhiệm bản khâm của phái Sakya. Vị đại sư lấy ra từ khay gỗ một con dao cạo đầu sáng loáng, Bát Tư Ba thành kính cúi đầu. Trong tiếng tụng niệm lầm rầm vang vọng của bảy vị chứng nhân, ngài Shakya Zangpo bắt đầu xuống tóc cho Bát Tư Ba:
– Từ đây, thoát khỏi sự sống chết, xa lìa nỗi ghét thương, tách biệt khỏi thế tục, con có làm được không?
Bát Tư Ba thôi khép mắt, ngước lên, hít một hơi thật sâu, nói dõng dạc:
– Con làm được!
Đại sư Shakya Zangpo gật đầu khen ngợi:
– Kể từ hôm nay, Lạc Truy Kiên Tán sẽ là một Tỷ khâu chân chính đã thọ giới Cụ túc.
Bát Tư Ba rời khỏi đệm trải, đứng lên, chắp tay vái lạy các vị đại sư và các vị chứng nhân. Ánh ban mai vừa ló dạng chiếu qua ô cửa sổ, những chùm sáng lấp lánh ánh vàng loang khắp đại điện, hắt lên không gian bóng dáng cao lớn, chững chạc của Bát Tư Ba. Vị danh sư trẻ tuổi hiên ngang trong nắng mai tỏa rạng, hệt như đại bàng tung cánh lên trời xanh.
– Tiểu Lam, sao em lại khóc?
Tôi khóc ư? Tôi đưa móng vuốt lên dụi mắt, quay sang hướng khác, không để Kháp Na trông thấy vẻ tuyệt vọng của mình.
Buổi lễ sắp kết thúc, Kháp Na ôm tôi rời khỏi giới đàn. Cậu ấy đưa tôi trở lại phòng ngủ, thận trọng đặt tôi lên giường. Giọng nói trầm ấm cất lên:
– Tiểu Lam, đừng giấu ta, vì sao chứng kiến lễ thọ giới của đại ca, em lại buồn vậy?
Tôi cúi đầu, sụt sịt:
– Lẽ ra tôi đã có thể tu luyện thành người nhưng vì Bát Tư Ba, tôi đã tiêu hao quá nhiều tinh lực khi làm phép biến hóa. – Tôi ngừng lại một lát, nỗi niềm cay đắng trào dâng nghẹn ngào. – E rằng còn lâu lắm tôi mới có thể làm được điều đó.
Như bị giội nước sôi, Kháp Na bật dậy, giọng run run:
– Em bảo sao? Em... em có thể tu luyện thành người ư?
Tôi gật đầu buồn tủi.
Kháp Na chừng như bối rối, câu nói ngắt quãng, cậu ấy nhìn tôi chăm chăm từ đầu đến chân:
– Em... Tiểu Lam... em... em sẽ hóa thành một cô gái chứ?
Tôi nhìn cậu ấy vẻ khó hiểu:
– Tôi là hồ ly cái, tu luyện thành người đương nhiên phải hóa thành con gái rồi.
Kháp Na há hốc miệng như không thể tin nổi điều vừa nghe được. Sau đó, cậu ấy vỗ mạnh vào đầu mình, nhấc bổng tôi lên, quay một vòng:
– Tuyệt quá, Tiểu Lam ơi, tuyệt quá!
Tôi bị xoay đến chóng cả mặt, ngước đôi mắt khó hiểu lên nhìn vẻ vui mừng điên cuồng của cậu ấy:
– Kháp Na, sao cậu lại vui mừng như vậy?
– Sao lại không?! Em đáng yêu thế này, nếu tu luyện thành người, chắc chắn em sẽ là cô gái vô cùng xinh đẹp. Nhưng vì sao em lại buồn rầu khi đại ca thọ giới? Đại ca là Sa di, sớm muộn cũng phải thọ giới Tỷ khâu để trở thành nhà sư kia mà.
Tôi còn chưa kịp trả lời, cậu ấy chừng như đã đoán ra. Miệng cậu ấy uốn lại thành hình chữ O, kinh ngạc thốt lên:
– Không lẽ, không lẽ em...
Tôi lắc đầu ảo não:
– Không thể nào! Tôi đã mất đi quá nhiều linh khí, không biết phải bao lâu nữa mới có thể phục hồi. Đến lúc tôi tu luyện được thành người, e rằng cậu ấy đã là một ông lão già cả mất rồi.
Tôi ngước nhìn bầu trời xanh ngoài cửa sổ, cắn môi:
– Huống hồ, giữa chúng tôi có quá nhiều cách ngăn, đó là khoảng cách giữa con người và hồ ly, và còn cả thân phận không thể thay đổi của cậu ấy nữa.
Kháp Na sững sờ, ánh mắt nhìn tôi bỗng chốc trở nên phức tạp và khó hiểu.
Sau lễ thọ giới, Kháp Na không chịu rời nơi ở của Bát Tư Ba. Mukaton đã phải nhiều lần phái người đến thúc giục, cộng với lời động viên, khuyên nhủ của Bát Tư Ba, cậu ấy mới buồn bã lên đường trở về Lương Châu. Ngày tháng lặng lẽ trôi. Hốt Tất Liệt ngày càng tín nhiệm Bát Tư Ba, lúc nào cũng muốn cậu ấy ở bên mình. Tôi tiếp tục miệt mài tu luyện, chờ đợi một ngày xa xôi.
Các mưu sĩ người Hán là Lưu Bình Trung và Diêu Khu phân tích để Hốt Tất Liệt hiểu rằng, vì sao các tiểu quốc hùng mạnh như nước Kim và nước Tây Hạ đều bị Mông Cổ chinh phục, trong khi đó, quốc gia tưởng chừng rất yếu thế là Nam Tống thì Mông Cổ vẫn chưa công phá được. Nguyên nhân nằm ở chỗ: lúc bắt đầu cuộc chiến, nếu đối phương không chịu đầu hàng thì sau khi công phá thành trì, quân đội Mông Cổ sẽ ra sức tàn sát, cướp phá, vậy nên con dân Nam Tống thà chết cũng quyết chiến đấu chống lại quân Mông Cổ đến cùng. Do đó, khi người Mông Cổ chiếm được thành trì thì chỉ còn lại cảnh tượng hoang tàn, vườn không nhà trống. Chiến lược mổ gà lấy trứng, chỉ mưu lợi trước mắt ấy sẽ không giúp người Mông Cổ có được lương thực và nhất là khoản cống nạp thuế má lâu dài sau này.
Hốt Tất Liệt không giống những gã Mông Cổ nóng nảy, thô kệch khác, ngài hiểu rằng các vị mưu sĩ nói rất có lý. Theo lời cố vấn cũa các vị, ngài đã cho thiết lập hệ thống quan lại tại những địa phương thuộc lãnh thổ cai quản của mình, thảo quy chế, thưởng phạt phân minh, quân bình thuế má. Những chính sách mới này đã gặt hái được nhiều thành quả và được lòng dân chúng Trung Nguyên, nhưng lại không tránh khỏi gây ra xung đột về mặt lợi ích đối với đám quý tộc Mông Cổ xưa nay vẫn quen thói hạch sách, sách nhiễu, vơ vét của cải của dân đen một cách xấc xược. Những kẻ ghét cay ghét đắng Hốt Tất Liệt không tiếc lời phỉ bang và đặt điều về Hốt Tất Liệt trước mặt Mông Kha Hãn.
Thế là Mông Kha Hãn lệnh cho sứ giả đến điều tra từng viên quan đã được Hốt Tất Liệt sắc phong và vẽ ra hàng loạt tội danh của họ, thực chất là đánh vào thế lực của Hốt Tất Liệt. Thậm chí, có kẻ đã khuyên can Mong Kha Hãn "trước hết chặt đứt vây cánh, sau đó diệt kẻ cầm đầu". Vây cánh ở đây ám chỉ người rất được lòng quân đội và dân chúng Trung Nguyên – Vương gia Hốt Tất Liệt, còn "kẻ cầm đầu" ở đây chỉ quốc gia quyết tử kháng cự quân đội Mông Cổ đến cùng – nhà Nam Tống. Không thể tin nổi, Hốt Tất Liệt và nhà Nam Tống đã trở thành mối bận tâm hàng đầu, những hòn đã tảng khổng lồ trong lòng Mông Kha Hãn, điều này khiến Hốt Tất Liệt không khỏi run sợ, đứng ngồi không yên.
Mùa đông năm 1257, nghe theo lời đề nghị của Diêu Khu, Hốt Tất Liệt ra lệnh bãi bỏ toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính trên vùng đất do ngài cai quản, bàn giao lại quyền hành cho Mông Kha Hãn. Sau đó, ngài đưa toàn bộ gia quyến về Hà Tây bái kiến Mông Kha Hãn, nước mắt ngắn dài, tâm tình thủ thỉ, kể lể chuyện cốt nhục tình thâm, mong muốn hàn gắn tình huynh đệ ruột thịt, làm vậy để xóa tan những nghi kỵ trong lòng Mông Kha hãn. Bởi vậy, chúng tôi đã ăn cái Tết của năm 1258 trong lán trại lớn của Mông Kha Hãn.
– Khabi, vì sao cô đồng ý làm vợ Hốt Tất Liệt?
Lựa một buổi tối Hốt Tất Liệt không lưu lại trong lán trại của khách, tôi lẻn vào tẩm cung của cô ấy với mong muốn giải tỏa những khúc mắc bấy lâu nay cứ quẩn quanh trong tâm trí.
Khabi tủm tỉm cười, gương mặt phong tình khiến người ta mê mẩn:
– Hốt Tất Liệt là người đầy tham vọng và ý chí, chàng sẽ chẳng chịu làm bề tôi của người khác mãi. Đi theo một người có thế lực và tài giỏi như chàng, ta sẽ được hưởng thụ cuộc sống dư dả, vinh hoa phú quý mấy mươi năm, còn được nếm trải cảm giác được là người phụ nữ vinh hạnh nhất thiên hạ nữa chứ! Ta muốn được tận hưởng, được trải nghiệm cho bõ công bao năm tu luyện vất vả mới có được hình hài mỹ miều này.
– Thế cô có yêu ông ấy không?
Cô ấy gạt lọn tóc óng ả như tơ ra sau lưng, cúi xuống, nhìn vào mắt tôi, nụ cười gượng gạo treo trên môi:
– Em gái ơi, loài người khác loài hồ ly chúng ta nhiều lắm. Đám đàn ông gặp ai cũng yêu, thấy ai cũng muốn, huống hồ sự sủng ái của bậc đế vương vô vùng ngắn ngủi. Vì họ được quyền lựa chọn, họ có quá nhiều thứ để lựa chọn, và họ lại tham lam, họ muốn chiếm hữu tất cả. Đôi khi, phụ nữ còn là công cụ để họ mua chuộc các thế lực khác. Cho dù có yêu chiều ta bao nhiêu đi nữa, Hốt Tất Liệt cũng chẳng đời nào chịu từ bỏ "của ngon vật lạ". Ví như đêm nay, mỹ nhân hầu hạ chàng chính là người mà hôm qua, em trai út A Lý Bất Ca của chàng dâng tặng. Có mới nới cũ là bản tính cố hữu của đàn ông.
Tôi sửng sốt:
– Vậy cô có ghen không?
– Nếu ghen, ta đã chẳng chọn chàng. – Khabi thở dài não nề, lắc đầu. – Chung sống với một người đàn ông quyền lực, ta sẽ có được vinh hoa phú quý, nhưng buộc lòng ta phải chấp nhận chia sẻ người đàn ông đó với những phụ nữ khác.
– Nhưng cô đã sinh con cho ông ấy kia mà!
Khabi cười tít mắt:
– Đó là vì ta buộc phải sinh và phải sinh con trai. Nếu không, dù cho được sủng ái bao nhiêu đi nữa, ta cũng không giữ nổi địa vị của mình.
Tôi lấy làm khó hiểu:
– Cô lấy ông ấy vì vinh hoa phú quý. Cô sinh con cho ông ấy vì giữ vững địa vị. Vậy còn tình yêu thì sao?
Khabi giật mình, tôi đọc thấy nỗi buồn miên man trong đáy mắt cô ấy, cô ấy khẽ thở dài:
– Em gái ơi, em còn trẻ nên tình yêu với em là quan trọng nhất. Nhưng em hãy nhở, chúng ta không được phép dành tình cảm quý báu của mình cho bất cứ người nào. Bởi vì tuổi thọ của chúng ta cao hơn họ rất nhiều. Nếu em để trái tim mình rung động trước một ai đó và yêu thương họ say đắm thì hạnh phúc ấy cũng chỉ kéo dài được mấy chục năm mà thôi. Vậy mấy trăm năm còn lại của cuộc đời mình, em định sống ra sao? Em có thể chịu đựng nỗi cô đơn gặm nhấm tim gan mình suốt chừng ấy năm tháng không?
Tôi giật mình thảng thốt, ngẩn ngơ nhìn Khabi. Trước giờ tôi chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để nhanh chóng tu luyện thành người, đó là mối bận tâm lớn nhất của tôi, thế nên tôi chưa bao giờ suy nghĩ về vấn đề tuổi tác. Nhưng hôm nay, những lời của Khabi đã thức tỉnh tôi, tôi chợt nhận ra rằng, còn một cửa ải gian nan nữa đang chờ đợi mình. Tạm thời chưa bàn đến việc sau khi tôi tu luyện thành người, liệu Bát Tư Ba có nảy sinh tình cảm với tôi hay không? Bản thân tôi thì sao, liệu tôi đã sẵn sàng đánh đổi mấy trăm năm cô độc lấy mấy mươi năm ân ái hay chưa?
Đêm đó, sau khi thẫn thờ rời khỏi tẩm cung của Khabi, tôi trở về lán trại của Bát Tư Ba, đến ngồi cạnh giường và ngắm nghía gương mặt đang say giấc nồng của cậu ấy đến khi những tia sáng ban mai đầu tiên của ngày mới ló rạng.
Ăn Tết xong, Hốt Tất Liệt lên đường trở về phủ Khai Bình như kế hoạch đã định. Khabi đề nghị để cô ấy và Chân Kim ở lại. Bề ngoài thì cô ấy muốn ở lại hầu hạ Hoàng hậu của Mông Kha Hãn và để Chân Kim có cơ hội học tập cùng các anh em họ, nhưng thực chất là ở lại làm con tin.
Hốt Tất Liệt sao có thể để vợ yêu và con yêu của mình ở lại chứ? Nhưng Khabi đã ra sức thuyết phụ ngài, nói lấy đại sự làm trọng. Ai cũng biết Khabi và Chân Kim có ý nghĩa quan trọng nhường nào đối với Hốt Tất Liệt, thế nên để mẹ con cô ấy ở lại, Mông Kha Hãn mới tin tưởng Hốt Tất Liệt triệt để.
Ngày lên đường, Hốt Tất Liệt cứ đi một bước lại ngoảnh đầu nhìn lại, ánh mắt lưu luyến không rời vợ và con trai. Người đàn ông bốn mươi ba tuổi ấy hai mắt đỏ hoe, lần đầu tiên trong đời ngài đã rơi lệ, những giọt lệ tủi nhục. Trải qua thử thách lần này, tình cảm Hốt Tất Liệt dành cho Khabi sâu đậm bội phần. Ngày sau, khi trở thành hoàng đế chí tôn, Hốt Tất Liệt đã không do dự trao cho người vợ đã cùng ngài trải qua những năm tháng hoạn nạn có nhau ấy địa vị cao quý nhất mà mọi phụ nữ trong thiên hạ đều tôn sùng.
– Tiểu Lam, lần này em đến chỉ hôn mê có một ngày thôi, nhưng vì sao lại bị chảy máu mũi?
Thấy tôi tỉnh lại, Kháp Na nhấc tôi ra trước mặt, quan sát tỉ mỉ. Tôi ngạc nhiên, lấy móng vuốt cọ vào mũi, đúng là có vệt máu dính trên lông. Tôi giật mình sợ hãi, nhưng ngay lập tức đã tìm ra cách tự an ủi, tôi xua tay:
– Không sao, không sao! Chắc tại bếp than trong phòng cậu nóng quá thôi.
Nhưng Kháp Na vẫn chưa thôi lo lắng, tôi bèn chuyển đề tài:
– Kháp Na à, sắp tới sinh nhật lần thứ hai mươi của cậu rồi đó. Lâu Cát định tới Lương Châu chúc mừng cậu, nhưng Hốt Tất Liệt đột ngột phái cậu ấy đến Ngũ Đài Sơn. Hốt Tất Liệt không nguôi lo sợ Mông Kha Hãn sẽ ra tay với mình nên thời gian gần đây ông ấy đặc biệt mê tín, ngày ngày cầu thần khấn Phật phù hộ, còn thường xuyên yêu cầu Lâu Cát cử hành pháp hội cầu phúc cho ông ấy, và bây giờ lại cử cậu ấy hành hương về Ngũ Đài Sơn làm lễ cầu an. Lâu Cát không thể trái lệnh nên nhờ tôi đến hỏi cậu xem cậu thích quà gì.
Kháp Na gõ gõ vào đầu mũi tôi, cưng nựng:
– Ta không cần gì cả, chỉ cần hôm đó em đến chung vui với ta là đủ.
– Không thể thế được. Sinh nhật tròn hai mươi tuổi là dấu mốc rất quan trọng của một người đàn ông. Các gia đình quyền quý thường bày cỗ, có thể là vài chục mâm đến hàng trăm mâm mời mọi người đến chúc mừng.
Rồi sực nhớ ra, tôi vùng thoát khỏi bàn tay cậu ấy, lao đi:
– Kháp Na, tôi biết phải tặng cậu món quà gì rồi, chờ tôi nhé!
Kháp Na cuống cuồng gọi với theo:
– Tiểu Lam, em đi đâu vậy?
Tôi quay đầu lại căn dặn:
– Đừng lo, nhất định tôi sẽ quay về đúng dịp sinh nhật cậu.
.
Trong lò sưởi, than đã tàn quá nửa, tôi tập tễnh ra ngoài lấy thêm than, chàng trai trẻ đi theo phụ giúp. Ngoài trời gió vẫn ù ù thổi, những bông tuyết lớn cuốn trong gió, trút ràn rạt xuống người chúng tôi, chỉ một lát, trên vai đã phủ một màu trắng xóa. Chúng tôi khiêng bao than vào nhà, giậm chân giũ sạch tuyết trên vai. Chàng trai trẻ gặp vài viên bỏ vào lò:
– Tôi cứ băn khoăn mãi, vì sao Phật giáo Tây Tạng lại lựa chọn phương thức tìm kiếm linh đồng chuyển thế để kế thừa pháp thống?
Tôi hơ tay sưởi ấm:
– Phương thức lựa chọn linh đồng chuyển thế làm người kế thừa xuất hiện khi rất nhiều giáo phái của Phật giáo Tây Tạng đã trải qua hàng trăm năm lịch sử. Trước đó, hầu hết các giáo phái đều phải áp dụng phương thức cha truyền con nối hoặc sư phụ truyền cho đệ tử. Nhưng phương thức truyền thừa kiểu huyết thống và thầy trò đều tồn tại những hạn chế nhất định.
Than cháy càng đượm, căn phòng càng trở nên ấm cúng, hệt như thời tiết lúc sang xuân. Tôi cởi áo khoác ngoài, tiếp tục câu chuyện:
– Phái Sakya chính là ví dụ điển hình của phương thức kế thừa kiểu huyết thống. Và vấn đề khiến giáo phái này đau đầu nhất từ xưa đến nay là: không có con trai nối dõi. Nếu nguy cơ này xảy ra thì việc kế thừa giáo phái sẽ không có cách nào giải quyết.
Chàng trai trẻ gật đầu:
– Vậy nên rất ít giáo phái Phật giáo Tây Tạng lựa chọn phương thức kế thừa này. Nhưng vì sao không áp dụng phương thức sư phụ truyền lại cho đệ tử?
Tôi đáp:
– Trước khi phương thức tìm kiếm linh đồng chuyển thế xuất hiện, đại đa số các giáo phái đều áp dụng phương thức đệ tử kế nghiệp sư phụ. Nhưng hạn chế của phương thức này là ở chỗ: sư phụ không thể chỉ thu nạp một đệ tử. Đệ tử càng đông, sự tranh chấp lợi ích càng quyết liệt, nó sẽ làm nảy sinh hệ lụy là, các đệ tử chia vây tạo cánh, khi thấy đủ mạnh thì tách ra khỏi hệ phái ban đầu, tạo lập chi phái mới, từ đó khiến sức mạnh của toàn bộ giáo phái bị xé lẻ, chia rẽ, dẫn đến suy yếu. Ví dụ điển hình là phái Kagyu. Giáo phái này ban đầu là một giáo phái có thực lực mạnh nhất Tây Tạng, nhưng nội bộ không thống nhất về vấn đề kế thừa nên các đệ tử lũ lượt tách ra, lập chi phái mới khiến giáo phái Kagyu vốn lớn mạnh là thế bỗng chốc bị chia năm xẻ bảy, sau cùng phân chia thành hơn mười chi phái lớn nhỏ, thậm chí trong một chi phái cũng phân chia thành các nhánh nhỏ hơn. Sức mạnh phân tán, không tập trung khiến giáo phái Kagyu mất đi vai trò quyết định trong hệ thống giáo phái Phật giáo Tây Tạng về sau.
Chàng trai trẻ vỗ tay, bật cười ha hả:
– Thế nên họ mới quyết định chọn phương thức tìm kiếm linh đồng chuyển thế để kế thừa pháp thống, thế là các đệ tử khỏi nhọc công tranh giành!
Tôi mỉm cười gật đầu.
Chương 18 - Hoá Phép Thành Người.
"Muốn nắm bắt kho tàng tri thức, tìm tòi và thâu thập những cách ngôn trân quý;
Muốn có vựa nước vô tận, đại dương phải hướng mọi dòng sông, con suối đổ về mình."
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1258 – tức năm Ngọ, Âm Thổ theo lịch Tạng (Mậu Ngọ) – tức năm thứ sáu niên hiệu Bảo Hựu, nhà Nam Tống – tức năm thứ tám niên hiệu Mông Kha Hãn, Mông Cổ.
Bát Tư Ba hai mươi tư tuổi, Kháp Na hai mươi tuổi, Hốt Tất Liệt bốn mươi ba tuổi, Chân Kim mười lăm tuổi.
Lúc tỉnh lại, trước mắt tôi là đôi đồng tử màu đen lấp lánh hệt sao mai trên bầu trời đêm, nụ cười rạng rỡ và lúm đồng tiền hút hồn của Kháp Na, thật khiến người ta chẳng thể rời mắt khỏi cậu ấy.
– Em tỉnh rồi à? – Cậu ấy bóp nhẹ đầu tôi, chìa ra cho tôi xem một bình hoa. – Chuyến này em ngậm về một đóa hoa màu trắng rất bự. Thấy em ngủ mê mệt, không tiện đánh thức để hỏi em đây là hoa gì nên ta cứ cắm vào bình. Nhưng lạ quá, hoa này càng lúc càng tươi, còn có hương thơm dìu dịu thanh thanh, rất dễ chịu.
Tôi tươi cười, đặt hai chân trước lên đầu gối cậu ấy:
– Kháp Na, đây là đóa tuyết liên ngàn năm tuổi tôi hái ở nơi thâm sâu nhất trên núi Côn Luân về tặng cho cậu.
Cậu ấy sửng sốt, suýt nữa thì đánh rơi bình hoa:
– Tuyết liên ngàn năm là thứ vô cùng quý hiếm, ngàn vạn lạng cũng chưa chắc mua được, sao em lại tặng cho ta?
– Cậu quên rồi ư? Hôm nay là sinh nhật cậu, đây là quà sinh nhật tôi tặng cậu. – Tôi gãi gãi bàn tay cậu ấy. – Từ nhỏ cậu vốn yếu ớt, mỗi lúc đông sang thường ho khan không dứt. Đóa tuyết liên ngàn năm này có thể giúp tăng tuổi thọ. Tôi đã mất hơn một tháng tìm kiếm khắp vùng núi tuyết giá buốt xương mới hái được nó đấy.
Cậu ấy ngỡ ngàng, sau đó rưng rưng cảm động, cứ lẩm bẩm mãi rằng món quà này quý giá quá chừng, rồi nhấc bổng tôi lên, thơm một cái thật kêu vào mũi tôi, nở nụ cười rạng rỡ:
– Cảm ơn em, Tiểu Lam. Đây là món quà sinh nhật tuyệt nhất trên đời.
Suy nghĩ một lúc, cậu ấy nhấc đóa tuyết liên ra khỏi bình, tay kia ôm tôi lên:
– Bây giờ ta sẽ đem đóa tuyết liên này đi hầm canh, hai chúng ta cùng thưởng thức để cùng kéo dài tuổi thọ nhé!
Tôi vội ngăn cậu ấy lại:
– Tôi là hồ ly già cả đã ba trăm tuổi, tôi đâu cần phải ăn thứ này.
– Cần chứ! – Cậu ấy ngừng lại một lát, ánh mắt nhìn tôi tha thiết. – Sau lần giúp đại ca ấy, em đã tiêu hao rất nhiều linh khí, còn chưa phục hồi kia mà!
Cậu ấy gợi lại chuyện đó khiến tôi bỗng thấy buồn ảo não.
Kháp Na vừa bước đi vừa nói:
– Nếu em không chịu ăn cùng, ta sẽ không nhận món quà này.
Kháp Na dặn dò nhà bếp nổi lửa, sau đó kêu họ ra ngoài, tự mình chế biến. Sau một loạt các thao tác thì món canh hầm tuyết liên cuối cùng cũng xong. Cậu ấy hớn hở bưng về phòng, ép tôi ăn, nếu tôi không chịu, cậu ấy cũng không buồn ăn. Một đóa tuyết liên thôi mà hai chúng tôi nhường nhau mãi mới hết. Tôi ăn không ít hơn cậu ấy, nhưng loại đồ ăn cực bổ này có tác dụng đối với tôi hơn với cậu ấy rất nhiều.
Ăn xong, tôi đưa chân lên lau miệng, khắp người nóng ran, cảm giác hết sức dễ chịu, ngửa cổ hỏi:
– Sinh nhật tuổi hai mươi rất quan trọng, lẽ nào người trong phủ Phò mã không tổ chức tiệc mừng cho cậu sao?
Cậu ấy ỉu xìu, hàng lông mày thanh tú xô lại:
– Chính ta ra lệnh nghiêm cấm tổ chức tiệc mừng, vì ta không muốn tạo ra bất cứ cơ hội nào cho Công chúa thể hiện sự ân cần hoặc cái cớ để phá phách. Ta sống trong phủ Phò mã này được năm nào biết năm đấy, sinh nhật đối với ta chẳng có ý nghĩa gì cả.
Cậu ấy đứng lên, đi đến tủ đồ, lấy ra một cái bình nhỏ và hai chiếc chén rồi đẩy một chiếc về phía tôi:
– Có em ở bên là ta vui rồi. Nào, Tiểu Lam, uống rượu với ta nhé!
Tôi cúi xuống khịt khịt mũi, hơi rượu nồng nặc bốc lên. Những năm gần đây cậu ấy thường tìm đến men rượu để giải sầu, nhưng tửu lượng không cao, lần nào cũng say bí tỉ. Tôi lúng túng:
– Nhưng mà... tôi... tôi không biết uống.
Cậu ấy dốc cạn một chén rồi mân mê cái chén, lẩm bẩm:
– Tuy nó không tốt cho sức khỏe nhưng rượu có thể giúp người ta tạm quên ưu phiền. Khi bị ai đó đeo bám làm phiền, ta còn có thể mượn rượu để giả điên, giả say hoặc nằm vật ra giả vờ ngủ.
Cậu ấy đẩy ly rượu sát miệng tôi, cười ha hả:
– Tiểu Lam à, em thử một chút đi, nói không chừng, nó sẽ giúp em nhận ra những khát khao thầm kín mà bình thường em không thể bộc bạch đó.
– Thật không?
Tôi nhớ người đó, nhớ nụ cười ấm áp như gió xuân của cậu ấy, lòng dạ xốn xang. Tôi liếm thử, vị cay sè xộc lên mũi, tôi vội phun phì phì, ôm đầu chạy tá hỏa. Kháp Na cười vang, nhấc tôi đặt vào lòng mình. Tôi gần như mếu:
– Khó uống quá!
Cậu ấy cười ngất, lúm đồng tiền càng lúc càng rõ, cậu ấy dễ thương như một đứa trẻ tinh nghịch, láu lỉnh. Tôi cứ mê mải ngắm nhìn khuôn mặt rạng ngời, điển trai ấy, đã bao lâu rồi tôi không được thấy cậu ấy vui cười thoải mái như vậy? Kháp Na cúi xuống thơm khẽ vào mũi tôi.
– Tiểu Lam, em đáng yêu quá chừng! – Rồi lại đẩy ly rượu về phía tôi, cười nham hiểm. – Nếu em chịu uống hết rượu này, ta hứa sẽ thực hiện mọi nguyện vọng của em.
Tôi nhìn ly rượu, nơm nớp lo sợ:
– Hôm nay là sinh nhật cậu kia mà, lẽ ra phải là cậu có nguyện vọng gì, hãy cho tôi biết, tôi sẽ nghĩ cách thực hiện chứ!
Cậu ấy lại ngửa cổ dốc cạn chén tiếp theo rồi nằm bò trên bàn, đôi đồng tử đen láy hơi khép lại, dường như cậu ấy đã ngà ngà say, miệng lẩm bẩm:
– Nguyện vọng của ta ư? Ha ha, là được thấy em trong hình dáng con người.
Cậu ấy cười với tôi, hai má lúm đồng tiền thoắt ẩn thoắt hiện trên gương mặt tuấn tú, đôi mắt như hồ nước trong veo, hiền hòa:
– Chắc chắn em sẽ là cô gái xinh đẹp, thuần khiết nhất thế gian!
Tôi bỗng thấy tủi thân, cúi đầu, nhấp một ngụm lớn, cay quá trời! Cảnh tượng trước mắt dần nhòa đi, gương mặt của Kháp Na cũng trở nên mơ hồ. Lần đầu uống rượu, không ngờ rượu ngấm nhanh đến thế. Tôi đứng không vững nữa, dang rộng tứ chi nằm bò lên Kháp Na, bật cười vô thức:
– Đầu tôi nặng quá, nhưng mà hình như trong lòng rất nhẹ nhõm. Kháp Na à, ba năm qua tôi đã cố gắng hết mình để có thể tu luyện thành người trước khi cậu ấy trở nên già nua. Nhưng tôi sợ lắm, tôi không biết sau khi biến thành người, trông tôi sẽ như thế nào. Biết đâu lại là một kẻ xấu xí, biết đâu gương mặt tôi vẫn là của một hồ ly...
Cậu ấy bịt miệng tôi lại, ánh mắt lấp lánh tựa vì sao sáng nhất trên bầu trời:
– Tiểu Lam, không đâu. Dù không xinh đẹp thì em vẫn là người thân thiết nhất của ta... của ta và anh trai ta.
Giọng nói dịu dàng của cậu ấy êm êm bên tai, đầu tôi dần trĩu nặng. Bóng dáng chiếc áo cà sa màu đỏ sẫm thân thuộc chập chờn trước mắt, nụ cười ấm áp của người đó bồng bềnh trong tim tôi, gợn lên lớp lớp xúc cảm dịu ngọt. Bàn chân trước đưa lên trong vô thức, chới với, tôi muốn chạm vào chiếc áo cà sa ấy, nhưng rốt cuộc chỉ là hư không. Trước lúc mê đi, bên tai tôi vẫn thoảng đến một tiếng thở dài đứt quãng:
– Không mang hình hài con người có lẽ tốt hơn...
Không kịp nghe hết câu, tôi đã chìm vào giấc ngủ mê man.
Lúc tỉnh lại, trước mắt tôi, ở khoảng cách vô cùng gần là một gương mặt điển trai, hai mắt khép chặt, đang say ngủ. Sống mũi cao, làn môi gợi cảm, hàng lông mày thanh tú, mái tóc đen óng ả. Gương mặt hoàn mỹ nhường ấy, nếu tôi là một cô gái bình thường, hẳn sẽ không cưỡng lại nổi nỗi khát khao. Điều đáng tiếc duy nhất là, trên gương mặt ấy luôn vương vất nỗi u hoài, sầu muộn khiến người ta nao lòng. Hơi thở đều đều của cậu ấy phả vào cổ tôi, cảm giác gai gai. Những sợi tơ màu lam quấn vào cánh tay cậu ấy, những sợi tơ óng ả, đẹp như nền trời dưới ánh nắng chói chang. Tôi định giơ móng vuốt kiểm tra xem những sợi tơ ở đâu ra thì chợt nhìn thấy một cánh tay trắng muốt. Những sợi tơ bị cánh tay đó giật mạnh, kéo căng, cảm giác đau nhói ập đến, tôi nhăn mặt, kêu lên:
– Đau quá!
Kháp Na bị đánh thức, cậu ấy nheo mắt để nhận định mọi thứ, sau đó đôi mắt cứ mở lớn dần, lớn dần thành cặp chuông gió khổng lồ chiếu ánh sáng chằm chặp vào tôi, cậu ấy thấy tôi mà như thể thấy ma vậy! Tôi định giơ móng vuốt ra cào cào vào y phục của cậu ấy thì cậu ấy bỗng giật mình, bật dậy, lùi lại phía sau. Vì không để ý nên cậu ấy đã va vào cột nhà. Cú va đập không hề nhẹ, cậu ấy ôm đầu, vật vã. Tình trạng của tôi cũng không khá hơn. Lúc trước tôi nằm gọn trong vòng tay cậu ấy, chẳng ngờ cậu ấy bất ngờ lùi lại, hất mạnh tôi xuống đất.
Thường thì cú ngã ấy với tôi chẳng hề hấn gì, tôi sẽ cuộn tròn lại, lăn một vòng rồi nhẹ nhàng tiếp đất. Nhưng lần này lạ quá, tôi ngã phịch một cái xuống nền nhà, khả năng phòng bị tiêu tan. Toàn thân đau nhức và tôi nhận ra điều lạ lùng: sao nền gạch lại lạnh buốt như vậy? Còn nữa, vì sao chùm tơ màu lam kia lại rơi theo tôi, những sợi tơ óng ả, lóng lánh và mềm mại như rong biển, dập dờn xõa trên mặt đất.
Tôi kinh ngạc giơ móng vuốt, lần này thì chính xác tuyệt đối, cánh tay ngọc ngà của một thiếu nữ đang túm lấy những sợi tơ! Tôi thử kéo, cơn đau buốt trỗi dậy nơi đỉnh đầu. Tôi run rẩy chìa móng vuốt ra trước mặt, suýt ngất. Vì sao móng vuốt của tôi lại biến thành tay người thế này?
– Cô... cô là ai? Sao cô vào được căn phòng này? – Kháp Na ôm đầu, quay mặt đi hướng khác, giọng nói nghiêm trang, lạnh lùng. – Còn nữa, cô thật không biết ngượng, đây là phủ Phò mã...
– Kháp Na, là tôi mà! – Tôi hốt hoảng, sợ hãi, người đau nhức, tôi thút thít. – Tôi cũng không biết vì sao nữa, lúc tỉnh lại đã thành ra thế này.
Nghe ra giọng nói của tôi, Kháp Na thôi ôm đầu, kinh ngạc nhìn tôi:
– Tiểu Lam ư?
– Là tôi chứ ai!
Nền gạch lạnh buốt, tôi định chạy đến bên cậu ấy, chợt phát hiện chân sau của mình cũng đã biến thành chân người. Chân tay của con người khó điều khiển quá, không nhanh nhẹn bằng tứ chi của tôi khi xưa, lại còn đám sợi tơ màu lam này nữa chứ, cứ lòa xào trước mặt tôi. Tôi ra sức bò lê, chợt nhận thấy cậu ấy đang vội vã trốn ra sau cột nhà. Tôi lại càng hoảng sợ, nghẹn ngào giơ móng vuốt, à không, giơ tay ra với cậu ấy, tiếng khóc ngày một to hơn:
– Kháp Na, cậu không cần tôi nữa ư?
– Tiểu Lam, đừng nói bậy, sao ta có thể không cần em được! Nhưng mà...
Cậu ấy thò đầu ra, liếc tôi một cái rồi lại thu người về, có tiếng sột soạt, sau đó cậu ấy tung chiếc áo khoác về phía tôi, giọng nói run rẩy:
– Em mặc áo vào đi đã.
Tôi băn khoăn nhìn lại mình, chợt hiểu ra, tôi thấy mặt đất lạnh buốt là vì lớp lông màu lam của tôi không còn nữa, lúc này, trên người tôi chỉ có lớp da nhẵn nhụi. Tôi bò đến chiếc áo khoác của cậu ấy, tìm cách mặc vào. Tôi dùng miệng trải chiếc áo ra, rồi nằm giạng ra để đút móng vuốt, à quên, đút tay vào áo.
Chật vật một hồi vẫn không kéo được áo lên người, Kháp Na chừng như sốt ruột, lại thò đầu ra, tròn xoe mắt nhìn tôi đánh vật với chiếc áo:
– Tiểu Lam, em...
Ánh ban mai tràn vào phòng, chiếu rọi gương mặt đỏ như gấc chín của Kháp Na. Cậu ấy chỉ nhìn tôi chút xíu rồi lại quay đi, giọng nói líu ríu:
– Sao em lại mặc như thế, em phải dùng tay chứ?
Bàn tay này khác hẳn móng vuốt của tôi, lại rất to, tôi không biết phải sử dụng ra sao. Tôi bối rối đến phát khóc:
– Tôi... tôi... không biết...
Kháp Na lắc đầu chịu thua, cắn môi do dự:
– Vậy để... để... ta giúp em.
Cậu ấy chỉ nhìn tôi một lát rồi vội quay đầu đi hướng khác:
– Ta sẽ nhắm mắt lại, em đừng lo.
Lạ thật, vì sao phải nhắm mắt? Cậu ấy trở nên khách khí như thế từ khi nào?
Cậu ấy vừa nhắm mắt vừa lần mò đến trước mặt tôi rồi ngồi xuống. Tôi vẫn đang trong tư thế tứ chi chạm đất, chiếc áo khoác nằm vắt véo, xộc xệch trên cơ thể đột ngột phình to của tôi. Cậu ấy định rờ chiếc áo, chẳng ngờ lại chạm vào sống lưng tôi. Cậu ấy vội rụt tay lại như thế vừa chạm phải thanh sắt nung, hai mắt không kiểm soát được lại mở trừng trừng. Cậu ấy đột ngột ngã ngửa ra sau, không may lại đập đầu vào chân bàn kêu đánh rắc một cái, chiếc bàn chao đảo dưới sức nặng của cơ thể cậu ấy, phát ra những tiếng lộc cộc ầm ĩ.
Tôi hốt hoảng, bò đến kiểm tra vết thương của cậu ấy. Chưa kịp sáp lại gần, ánh mắt cậu ấy đổ dồn vào người tôi chừng vài giây, rồi cánh tay đột ngột giơ lên chặn tôi lại, đẩy tôi ra. Cậu ấy đẩy mạnh khiến tôi ngã nhoài ra đất, chiếc áo rộng thùng thình trùm lên đầu, tôi giãy giụa trong chiếc áo, dùng răng không ăn thua, bèn lấy tay cào cào để mặt chui ra ngoài, tôi gào lên:
– Kháp Na, vì sao phải né tránh tôi?
– Em... em không biết ư...
Kháp Na lén nhìn tôi một cái rồi lại quay mặt đi. Gương mặt cậu ấy đỏ rần, nghiêm trọng hơn cả khi quá chén, khuôn ngực không thôi phập phồng, ánh mắt lấp lánh, ngập ngừng mãi mới thốt được một câu:
– Em đúng là tiêu hồ ly ngây thơ!
Cậu ấy ngừng lại, đầu cúi thấp, thì thào như gió thoảng:
– Nhưng bây giờ ta không thể chỉ coi em là hồ ly!
Tôi sững sờ, giơ móng vuốt, à, giơ tay ra trước mặt kiểm tra lại lần nữa. Đó là cánh tay nuột nà, không còn dấu vết của lông lá, những ngón tay búp măng thuôn gọn, làn da trắng mịn, khác hẳn cảm giác về một bộ móng vuốt. Những dòng tơ óng ả rủ xuống mặt đất này là mái tóc phải không? Tôi vén lên, một màu xanh lam óng ả khiến tôi chói mắt. Tôi cúi thấp xuống quan sát sự biến đổi của cơ thể mình và... thót tim. Vì sao trên ngực tôi lại có... có... có... có cái mà các cô gái thường không muốn để các chàng trai nhìn thấy? Chả trách Kháp Na không dám nhìn tôi.
Tôi vội vàng kéo áo che kín ngực. Khi nãy, mọi thứ hỗn loạn quá khiến tôi không có thời gian suy xét, bây giờ tôi mới nhận ra điều này: Tôi... tôi... đã thực sự biến thành con người!
Tiếng bước chân dồn dập vang lên bên ngoài cửa. Tôi có thể nhận ra đó là Mukaton. Kháp Na mặt mày biến sắc, lồm chồm bò dậy, xông ra chặn cửa, nhưng không kịp nữa rồi, cánh cửa đã bật tung. Kháp Na chao đảo nhưng đã nhanh chóng đứng vững, chắn trước mặt Mukaton:
– Công chúa, mới sáng sớm cô đã tới đây làm gì?
Mukaton kiễng chân ngó nghiêng vào trong phòng:
– Ngươi vừa thức dậy à?
Kháp Na gật đầu lia lịa, vươn vai, giả vờ ngáp:
– Tôi vẫn còn buồn ngủ, Công chúa có gì sai bảo, chờ chút nữa tôi tỉnh hẳn sẽ ngoan ngoãn nghe lời, được không?
Gương mặt phì nhiêu của Mukaton lạnh như băng, cô ta dữ dằn lườm Kháp Na:
– Phòng ngủ của ngươi mới sáng ra đã rất náo nhiệt, tiếng bàn ghế lộc cộc, inh ỏi, còn có cả tiếng khóc của con gái nữa nên ta đến xem thử.
Kháp Na trở nên căng thẳng, một mực phủ định. Nhưng Mukaton đâu dễ dàng tin lời cậu, cô ta khoát tay ra hiệu cho đám thuộc hạ giữ chặt Kháp Na, sau đó xắn tay áo, lao vào bên trong:
– Con đàn bà đê tiện nào đang trốn ở trong này, ta mà tìm được sẽ chặt đứt chân! Ta biết sẽ có ngày xảy ra chuyện này mà, ngươi đang ở độ tuổi thanh tân hừng hực, chịu sao nổi!
Bất chấp tiếng kêu gào đầy phẫn nộ của Kháp Na, Mukaton sục sạo mọi ngóc ngách, lục tung mọi thứ để kiểm tra, gầm giường, gầm tủ cũng không bỏ qua, nhưng cô ta không tìm thấy gì cả. Chợt thấy dưới chiếc áo khoác rơi trên nền nhà của Kháp Na có gì đó đang động đậy, cô ta lật mở, tôi lao ra ngoài, chạy đến bên Kháp Na khẽ kêu. Kháp Na trông thấy tôi, thở phào nhẹ nhõm, lấy lại bình tĩnh, nghiêm giọng nói với Mukaton:
– Công chúa xem thường bản thân quá đấy! cô cho người canh chừng cẩn mật căn phòng của tôi suốt ngày đêm, những kẻ hầu hạ bên cạnh tôi toàn là tai mắt của cô. Ở thành Lương Châu này, ngay cả các bà già cũng không dám hé mắt nhìn tôi, cô còn định bán tin bán nghi đến bao giờ nữa?
Biết mình đuối lý, Mukaton hậm hừ vài tiếng rồi quay mặt đi. Hai tên gia nhân vội vã buông tay. Kháp Na ôm tôi vào lòng, nhặt chiếc áo khoác dưới nền nhà, lao ra khỏi phòng. Mukaton gọi với theo:
– Ngươi đi đâu?
– Hóng gió. – Kháp Na không buồn quay đầu lại, giọng nói lạnh băng. – Công chúa, hôm nay cô gây sự thế là đủ rồi. Tôi muốn ra ngoài đi dạo, nếu cô thấy không yên tâm thì cứ việc cho người theo dõi.
.
– Năm Kháp Na tròn hai mươi tuổi, cục diện Trung Nguyên có những biến động to lớn. – Tôi ôm gối, tựa lưng vào chiếc giường cạnh lò sưởi, để tâm tư chìm vào ký ức xa xôi. – Sau nhiều năm chuẩn bị, tháng Tám năm đó, Mông Kha Hãn quyết định tấn công Nam Tống. Quân đội hùng mạnh của Mông Cổ khi ấy đã đánh bại các quốc gia lân cận như nước Kim, Tây Hạ, Đại Lý, duy chỉ có Nam Tống là chưa chịu khuất phục. Người Mông Cổ thèm muốn Trung Nguyên đã lâu, tin tưởng rằng chiếm Trung Nguyên chỉ là chuyện nay mai, nhưng kết quả cuối cùng đã khiến Mông Kha Hãn hoàn toàn bất ngờ.
Chàng trai trẻ trầm ngâm:
– Tôi nhớ là Nam Tống bị Hốt Tất Liệt tiêu diệt, điều đó có nghĩa là cuộc tấn công của Mông Kha Hãn đã thất bại, đúng không?
Tôi gật đầu:
– Vài năm sau Nam Tống mới bị tiêu diệt. Mông Kha Hãn đích thân xuất binh nhưng không làm cho triều đình Nam Tống tưởng chừng suy yếu bị tan rã. Người được lợi lớn nhất trong thất bại lần này lại chính là người mà Mông Kha Hãn kiêng sợ nhất – Hốt Tất Liệt.
– Hốt Tất Liệt đã nhân cơ hội này khôi phục vai trò quyền chỉ huy quân đội?
Thấy tôi gật đầu, chàng trai trẻ sốt sắng hỏi tiếp:
– Vậy ông ấy làm thế nào để xóa tan sự nghi kỵ của Mông Kha Hãn?
– Mông Kha Hãn chia quân đội làm ba đường, đích thân thống lĩnh cánh quân chủ lực xuyên qua Thiểm Tây để thâm nhập Tứ Xuyên, nhưng cánh quân này đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình tác chiến. Địa hình sông ngòi chằng chịt, núi non hiểm trở của Tứ Xuyên gây bất lợi cho kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của kỵ binh Mông Cổ. Thêm vào đó, quân và dân Tứ Xuyên quyết tâm chống cự đến cùng khiến Mông Kha Hãn lúng túng. Chính vào thời điểm đó, Hốt Tất Liệt đã đề nghị Mông Kha Hãn cho ông được cầm quân.
Chàng trai trẻ vỗ đùi đen đét, hào hứng reo lên:
– Tôi biết rồi! Cô có kể, ngày trước Hốt Tất Liệt từng chinh chiến nhiều năm ở Vân Nam. Địa hình của Vân Nam và Tứ Xuyên rất giống nhau, Hốt Tất Liệt là người thông thạo kỹ thuật tác chiến trên địa hình núi non hiểm trở hơn ai hết, bởi vậy Mông Kha Hãn không có lựa chọn nào khác, đành phải khôi phục quyền hành cho Hốt Tất Liệt, đúng không?
Tôi thầm thán phục tư duy nhanh nhạy, sắc sảo của chàng trai này. Tôi bị nhiễm sự hưng phấn của cậu ta, câu chuyện cũng trở nên sôi nổi hơn:
– Sau ba năm dông dài, nhàn hạ, cuối cùng Hốt Tất Liệt đã có cơ hội để lập công. Và tất nhiên, ông ấy không muốn bỏ lỡ.
Chương 19 - Học Cách Làm Người.
"Bản lĩnh, can đảm mà thiếu trí tuệ thì khó thành công;
Nhiều tiền, lắm của mà kém phần phước thì khó bền lâu."
(Cách ngôn Sakya)
Bàn tay run rẩy, gương mặt đỏ gay, hơi thở gấp gáp, Kháp Na vẫn nhắm chặt mắt, vẻ mặt ngượng ngùng, ngón tay nhẹ nhàng lần tìm, cài nốt chiếc khuy áo cuối cùng cho tôi. Rồi cậu ấy thở phào một cái, mở mắt ra, gật đầu bảo tôi:
– Xong rồi.
Sau khi ra khỏi phủ Phò mã, tôi đã làm phép che mắt đám gia nhân được sai phái theo dõi phía sau, dụ bọn họ đuổi theo một bóng người không có thật. Một khi ảo ảnh tan biến, đám người đó chắc chắn sẽ cuống cuồng tìm kiếm trên phố và lúc trở về, e sẽ phải chịu những trận đòn roi của Mukaton.
Thoát khỏi đám tai mắt của Mukaton, Kháp Na bỏ ra một khoản tiền lớn mua y phục và trang sức rồi ôm tôi (khi ấy vẫn trong hình hài một tiểu hồ ly) lên ngựa, phi đến núi Bậc Thang ở ngoại thành Lương Châu. Nơi đây có ngôi chùa hang đá nức tiếng gần xa, được vị vua nhà Bắc Lương, tên gọi Thư Cừ Mông Tốn xây dựng vào thời Thập lục quốc [1]. Trải qua gần chín trăm năm lịch sử, thạch động huy hoàng năm xưa nay chỉ còn là phế tích, những thanh xà ngang bằng đá trên đỉnh thạch động phủ đầy cát bụi và mạng nhện, bầy chim yến tước bay lượn làm tổ. Kháp Na tìm đến đây vì nơi này thâm u, vắng vẻ, hầu như không có dấu chân người. Trong hang động thờ Phật Lô Xá Na[2], tôi đã thử hóa phép thành người, sau vài lần hóa phép không thành công, tôi đã nghiệm ra điều này: chỉ cần tập trung suy tưởng, trong đầu xuất hiện nụ cười ấm áp của Bát Tư Ba là thân thể lập tức biến đổi dần dần, sau cùng sẽ hóa thành hình dáng con người.
Kháp Na nhắm mắt lại giúp tôi mặc quần áo, vì là lần đầu nên tôi cảm thấy rất gượng gạo. Đứng giữa thạch động rộng lớn, tôi ngậm sợi dây buộc tóc rất dài, đung đưa trước ngực mình, lắc qua lắc lại, cúi đầu quan sát. Kháp Na chọn cho tôi chiếc váy màu xanh nước biển, viền thêu những bông hoa mai trắng, phần eo gắn một sợi dây đai bằng lụa trắng thêu kim tuyến lấp lánh, ngay cả chiếc hài tôi đi dưới chân cũng được thêu những bông hoa nhỏ màu trắng trên nền xanh thẫm. Sự kết hợp hài hòa giữa hai sắc xanh lam và trắng khiến trang phục của tôi càng thêm nổi bật, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy hạnh phúc khi được mặc quần áo.
Bộ trang phục đó tôi đã cất giữ suốt mấy trăm năm, cho đến khi nó trở nên cũ kỹ và tan vào tháng năm dằng dặc. Kể từ đó về sau, tất cả quần áo tôi mặc đều có màu lam.
Một bàn tay nhè nhẹ vén mái tóc tôi, Kháp Na cài lên tóc tôi một chiếc trâm bạc khảm hình hoa cúc xanh. Gương mặt cậu ấy đỏ như gấc chín, nụ cười bẽn lẽn, lúm đồng tiền đáng yêu:
– Tiểu Lam à, em phải học cách mặc quần áo mới được, ta không thể giúp em mãi.
Tôi ngoan ngoãn gật đầu. Con người thật phiền phức, chẳng như loài hồ ly, chỉ cần bộ lông che phủ thân mình là được, đằng này họ mất khá nhiều thời gian để mặc và cởi y phục, bởi vì con người quan niệm rằng để thân thể lõa lồ rất đáng xấu hổ. Nhưng bù lại, người ta có thể thay đổi đủ loại màu sắc và kiểu dáng để mình xinh đẹp hơn, đó cũng là niềm yêu thích không bao giờ cạn của phụ nữ. Tuy mới chỉ làm người có một ngày nhưng tôi cũng giống như các cô gái khác, rất chú trọng đến vẻ ngoài của mình. Tôi nói với Kháp Na:
– Tôi muốn ngắm xem dung nhan của mình ra sao.
Nãy giờ cậu ấy nhìn tôi không chớp mắt, đôi đồng tử màu đen long lanh, thăm thẳm:
– Bên ngoài có một dòng suối, chúng ta đến đó nhé!
Đứng bằng hai chân hồi lâu khiến tôi cảm thấy rất mỏi, tôi cúi thấp, thả hai tay cuống, vừa chạm phải những viên đá dăm dưới đất, tôi lập tức nhăn mặt vì đau, tay vụng loạn xạ. Không còn bàn chân dày dặn, lòng bàn tay găm phải đá dăm đau quá! Kháp Na vội đỡ tôi lên, ân cần xem xét bàn tay của tôi, rút khăn tay lau hết những vụn đá nhỏ, giọng vừa thương vừa trách móc:
– Tiểu Lam, không được bò bằng tứ chi như thế, em phải học cách đi bằng hai chân như con người.
Tôi nhìn lại đôi chân thon dài của mình, dẩu môi oán thán:
– Đi bằng hai chân rất mệt mà chạy cũng không được nhanh.
– Bây giờ em đã mang hình hài con người, phải học cách sống của con người chứ!
Kháp Na đỡ lấy cánh tay tôi, nụ cười rạng rỡ với lúm đồng tiền duyên dáng, niềm hạnh phúc chất ngất, giọng nói dịu ngọt:
– Ta sẽ hướng dẫn em. Khi nào quen, em sẽ thấy làm người thích hơn làm hồ ly cho xem.
Tôi không bao giờ quên buổi chiều đầu hạ rực rỡ, trong một hang đá đổ nát, tiêu điều, không dấu chân người ấy, Kháp Na đã tận tâm dạy tôi bước đi ra sao. Tôi như đứa trẻ còn hơi sữa đang gắng học cách mặc quần áo, học cách ăn bằng tay. Thời gian đầu tập làm người, Kháp Na đã giúp tôi làm quen dần với những điều lạ lẫm. Sự dịu dàng của cậu ấy, nụ cười tươi tắn, nhẹ nhõm của cậu ấy, hơn bảy trăm năm sau vẫn vẹn nguyên, sống động trong tâm trí tôi.
Bầu trời cao trong xanh, mây trắng bồng bềnh trôi, những cụm rừng bát ngát vây bọc lấy những ngọn núi hùng vĩ. Khắp mặt đất, những bông hoa cánh bướm [3] đủ mọi màu sắc sặc sỡ, rung rinh khoe mình trong gió, phả vào không gian mùi hương dìu dịu, thanh thanh. Thảng hoặc những chú chim rừng lại cất lên tiếng hót líu lo trong veo, nước suối chảy róc rách, đôi bóng in trên mặt nước.
Một người là thiếu nữ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, gương mặt nhỏ nhắn, xinh tươi, các nét trên gương mặt cân đối và hoàn hảo như được bàn tay diệu kỳ của tạo hóa tạo tác nên, vóc dáng yêu kiều, thon gọn, làn da trắng ngần như bạch ngọc. Tôi mỉm cười, thiếu nữ trên mặt nước cũng mỉm cười theo. Lúm đồng tiền đáng yêu lấp ló ẩn hiện, khóe môi khẽ uốn lên, tạo một độ cong tuyệt mỹ.
Hình ảnh tươi tắn trên gương mặt đó nên hình dung thế nào nhỉ?
Thuần khiết! Đúng rồi, thuần khiết như nền trời xanh thẳm, như mây trắng bồng bềnh, như nước suối, như trăng non, như minh châu ngọc bích, như bất cứ sự vật gì là tự nhiên nhất, đẹp đẽ nhất trên thế gian này, từ sự vật đó phát ra thứ ánh sáng tinh diệu, cuốn hút. Đôi mắt như làn thu thủy, trong ngần không gợn đục. Đồng tử lấp lánh ánh sáng màu lam diệu ảo, dưới nền trời thăm thẳm, ánh sáng tỏa ra từ đôi mắt ấy càng trở nên ngọt ngào, êm dịu vô chừng.
[1] Thời Thập lục quốc: chỉ giai đoạn lịch sử diễn ra từ năm 304 đến năm 439 ở Trung Quốc. (DG)
[2] Theo Phật giáo Đại Thừa thì Phật có ba hiện thân, trong đó: Pháp thân Phật là vị Phật Tỳ Lô Giá Na, Báo thân Phật là vị Phật Lô Xá Na và Ứng thân Phật là Phật Thích Ca Mâu Ni. (DG)
[3] Nguyên tác là hoa Gesang (Kelsang), loài hoa này mọc trên núi cao năm nghìn mét so với mực nước biển, chủ yếu phân bố trên các thảo nguyên ở Tây Tạng, Thanh Hải, Tứ Xuyên của Trung Quốc. Gesang trong tiếng Tạng có nghĩa là hạnh phúc, người Tạng xem loài hoa này là tượng trưng của sự thanh khiết, hạnh phúc và tình yêu. Tên Việt Nam của loài hoa này là hoa cánh bướm, cúc sao nháy hay hoa chuồn chuồn. (DG)
Trên mặt nước trong tựa mặt gương ấy còn xuất hiện bóng dáng của một thiếu niên. Kháp Na đứng ngay phía sau tôi, nhìn tôi đăm đắm, tôi cảm nhận được niềm hân hoan ngập tràn trong đôi mắt ấy. Ánh mặt trời nhảy múa trên mặt nước làm nổi bật khung cảnh đẹp như thơ; chàng trai khôi ngô, tuấn tú và cô gái xinh đẹp tuyệt trần, dưới bầu trời xanh trong, họ như những bông hoa cánh bướm khoe sắc rực rỡ, phô bày vẻ đẹp diệu kỳ giữa chốn nhân gian!
Tôi ngồi xuống, chạm vào bóng dáng yêu kiều tuyệt đẹp dưới mặt nước, từng lớp sóng lăn tăn, dập dờn êm ái. Tôi kinh ngạc quay lại nhìn Kháp Na, ấp úng:
– Đây... đây là tôi ư?
Nụ cười rạng rỡ nở trên môi Kháp Na:
– Đúng vậy, em là tiên nữ giáng trần.
Đúng là rất đẹp, nhưng tôi vẫn cúi đầu buồn bã:
– Vì sao tôi lại kỳ quái thế này?
Kháp Na ngạc nhiên:
– Sao lại kỳ quái?
– Loài người các cậu đều có đôi mắt và mái tóc màu đen kia mà, vì sao mắt và tóc tôi lại màu lam thế này? Còn nữa... – Tôi bước đi vài bước, rồi chỉ vào chân trái của mình, nức nở. – Chân của tôi...
Vết thương do bị sập bẫy thợ săn năm xưa khiến tôi không thể đi lại bình thường được. Nào ngờ, sau khi biến thành người, thương tật ấy vẫn không chịu buông tha tôi.
– Tiểu Lam à, mái tóc và đôi mắt màu lam của em đẹp mê hồn, tóc đen, mắt đen sao có thể bì được! Và em đừng bận tâm về thương tật ấy, đó chỉ là chút dị tật nhỏ thôi.
Gương mặt Kháp Na vẫn đỏ như mặt trời về chiều, cậu ấy nuốt nước bọt, "quả táo" liên tục trồi lên trồi xuống trên chiếc cổ dài tuyệt đẹp, giọng nói run run:
– Em là cô gái xinh đẹp nhất mà ta từng gặp.
Tôi quay đầu lại, nhìn vào đôi mắt như vực nước sâu hun hút của cậu ấy, những gợn sống lăn tăn trong đôi mắt ấy khiến người khác say lòng. Ánh dương lấp lánh chiếu rọi muôn nơi, phủ lên gương mặt hao gầy của cậu ấy những vệt sáng đẫm ánh vàng.
Khoảnh khắc ấy, trái tim tôi bỗng đập rất mạnh. Tôi lờ mờ nhận thấy ánh mắt ấy không giống ánh mắt cậu ấy nhìn tôi khi tôi còn là hồ ly, nhưng vì mới làm người được một ngày nên tôi ngốc nghếch đến mức chỉ cảm thấy lạ lùng và ngại ngùng. Phải nhiều năm sau, tôi mới hiểu ánh mắt ấy chứa đựng điều gì.
Khi ấy, trong đầu tôi chỉ quẩn quanh duy nhất một ý nghĩ, và tôi đã chia sẻ nó với Kháp Na bằng sự lúng túng khi đặt câu hỏi:
– Theo cậu, nếu Lâu Cát nhìn thấy tôi thế này, liệu cậu ấy... cậu ấy... có... có...
Ánh mắt của Kháp Na bỗng sẫm lại, tay nắm chặt. Lúc sau, cậu ấy mới ngẩng lên nhìn tôi đăm đắm, giọng nói như nghẹn lại:
– Có chứ! Em xinh đẹp nhường này, người đàn ông nào trên đời không động lòng cho được? Huống hồ đại ca và em đã ở bên nhau ngần ấy năm, huynh ấy đâu phải người lòng dạ sắt đá, huynh ấy chắc chắn sẽ...
Cậu ấy bỗng ngừng lại, quay mặt đi, kìm lại hơi thở gấp gáp, sau đó nở nụ cười thật tươi, chìa tay về phía tôi:
– Bây giờ ta sẽ dạy em cưỡi ngựa.
Hương hoa ngào ngạt tỏa lan trong không gian, cảm giác vô cùng dễ chịu. Dưới ánh hoàng hôn, chàng trai cao lớn dắt ngựa đi trước, tôi ngồi vắt vẻo trên yên ngựa, hoa cánh bướm dập dờn trong gió, dòng suối róc rách giữa đại ngàn, ánh nắng lấp lánh dát vàng trên mặt nước, cảnh sắc như thơ như họa, như chốn tiên cảnh. Tôi đã lưu giữ trong tim mình hình ảnh mỹ lệ ấy như người ta cất giữ một bức tranh thủy mặc tuyệt tác trong ống quyển. Đêm khuya thanh vắng, tôi lại nhẹ nhàng mở nắp ống quyền, trải rộng bức họa, mê mải thưởng lãm, nụ cười phơi phới của Kháp Na sống động đến ngây ngất.
– Khabi!
Tôi thấy Khabi không đem theo bất cứ người hầu nào bên mình, đang độc bộ trên con đường mòn dẫn đến nơi hẹn gặp bí mật của chúng tôi. Xem ra cô ấy đã nhận được tín hiệu của tôi nên mới đến đây.
Vì chiến cuộc với Nam Tống không thuận lợi nên Mông Kha Hãn buộc phải khôi phục binh quyền cho Hốt Tất Liệt, đồng thời trao trả "con tin" Khabi và Chân Kim. Hốt Tất Liệt đoán định cuộc chiến lần này sẽ gặp nhiều khó khăn nên lúc xuất chinh đã không đưa Khabi và Bát Tư Ba đi theo mà để họ ở lại phủ Khai Bình.
Tôi ra khỏi chỗ nấp, chầm chậm cất bước đi về phía cô ấy. Khabi nhìn thấy tôi trong hình dáng con người, không khỏi kinh ngạc, sững sờ. Tôi ngượng ngùng cất tiếng gọi:
– Khabi, là tôi, Tiểu Lam đây.
Cuối cùng Khabi cũng tỉnh táo trở lại, thốt lên:
– Là cô thật ư? Tiểu Lam, cô hóa thành người rồi? Chỉ trong vòng ba năm ngắn ngủi ư?
Tôi sung sướng, hãnh diện, nhe răng cười khoái chí.
Nhưng Khabi lại làm vẻ mặt nghiêm trọng, quan sát tôi từ trên xuống dưới, rất tỉ mỉ:
– Hãy nói thật đi, có phải cô đã sử dụng tà thuật để khôi phục linh khí không?
Tôi sợ hết hồn, lắc đầu quầy quậy, biện bạch:
– Không đâu, ngày nào tôi cũng ra sức tu luyện, quên ăn quên ngủ, cô biết mà!
Nhưng cô ấy chừng như vẫn không tin, tôi nói thêm:
– Còn nữa, tôi tìm thấy một đóa tuyết liên ngàn năm tuổi rất quý hiếm trên núi cao, sau khi ăn thì tinh lực của tôi đã tăng lên rất nhiều.
– Chả trách.
Cuối cùng thì cô ấy cũng chịu gật đầu, giơ tay ra chạm khẽ vào má tôi, nụ cười khiên cưỡng, không thôi xuýt xoa:
– Ôi, làn da này, vóc dáng này, còn cả ngũ quan tuyệt mỹ này nữa. Quả không hổ là hồ ly thuần chủng, làm sao loài hồ ly tạp chủng là ta đây có thể so sánh được! Vốn biết rằng cô sẽ là một tuyệt sắc giai nhân, không ngờ cô xinh đẹp đến mức khiến ta cũng phải sinh lòng đố kỵ.
Trong mắt tôi, Khabi là người phụ nữ xinh đẹp nhất mà tôi từng gặp, nên được cô ấy tán dương như vậy, dù có hơi ngượng ngùng, tôi cũng không sao che giấu nổi sự đắc ý. Thế nhưng bản tính cay nghiệt của Khabi không bao giờ cho phép tôi được vui lâu:
– Tóc xanh, mắt xanh tuy rất đẹp, rất độc đáo nhưng người bình thường khó mà chấp nhận được. Tốt nhất là đừng bao giờ để người lạ thấy được bộ dạng này của cô. Bằng không, rất có thể họ sẽ gán cho cô tội danh yêu quái và đánh chết cô đấy.
Tôi thở dài não nề, sao cô ấy lúc nào cũng biết cách làm cho tôi mất hứng nhỉ? Tôi mân mê mái tóc dài màu lam của mình, than thở:
– Tôi không biết cách hóa phép để che giấu mái tóc và đôi mắt màu xanh.
Lạ quá, cô ấy không tiếp tục xát muối vào tim gan tôi nữa mà quay ra an ủi:
– Đừng nóng vội, có câu "dục tốc bất đạt"[4]. Việc gỡ bỏ bùa chú mà ngài Ban Trí Đạt yểm trên người cô đã khiến cô mất rất nhiều sức lực, cô lại hao tốn không ít linh khí khi giúp Bát Tư Ba. Cô vừa mới hóa thành người, đừng tiêu tốn sức lực nữa, nếu không sẽ bị phản ứng ngược đấy.
[4] Nghĩa là: nóng vội sẽ hỏng chuyện. (DG)
Khabi nhìn tôi chăm chú, vẻ nghiêm trọng đáng sợ:
– Đừng trách ta không cảnh báo trước, phản ứng ngược không tốt đẹp gì đâu!
Tôi lạnh người. Đối với loài yêu tinh, phản ứng ngược là tai họa vô cùng đáng sợ, nhẹ thì bị tiêu tán phép lực, trở lại nguyên hình, nặng thì bị đày xuống tầng địa ngục sâu nhất, vĩnh viễn không thể hồi sinh.
Đang mãi suy nghĩ, bỗng Khabi sáp lại gần tôi, ghé vào tai tôi gào lên:
– Còn nữa, tránh xa con trai ta ra!
Cái giọng chua ngoa của cô ấy khiến tôi khiếp hãi, phải lùi lại vài bước. Chân Kim ư? Tên nhóc không biết trời cao đất dày là gì đấy ư? Tôi vừa xoa tai, vừa cau mày:
– Ai thèm động vào cậu ta, tôi tránh còn chẳng kịp nữa là!
Có câu "phúc đức tại mẫu", nhờ có mẹ mà Chân Kim được Hốt Tất Liệt rất mực cưng chiều. Những năm gần đây, Hốt Tất Liệt giao Chân Kim cho mưu sĩ người Hán mà ông rất mực trọng dụng và tín nhiệm là Diêu Khu để ông truyền dạy cho cậu nhóc kho tri thức Nho học của người Hán. Ngoài ra, Hốt Tất Liệt còn gửi Chân Kim đến chỗ Bát Tư Ba để cậu truyền giảng Phật pháp. Mỗi lần đến học, cậu ta rất thích được chơi đùa với tôi. Tên ranh này không biết đã tốn bao nhiêu nước bọt để thuyết phục Khabi và Bát Tư Ba tặng tôi cho cậu ta. Tất nhiên Bát Tư Ba không đồng ý, Khabi cũng vậy. Mỗi lần gặp cậu ta là tôi lại lẩn như trạch, những lúc không thể né tránh thì tôi giả đò thờ ơ, mặc kệ cậu ta. Không hiểu cậu ta thích thú gì ở tôi kia chứ, với thân phận tôn quý như thế, cậu ta muốn nuôi con thú cưng nào chẳng được?
Khabi cốc tôi một cái đau điếng, rồi hầm hừ:
– Năm nay nó mười lăm tuổi rồi, đang trong thời kỳ tò mò về chuyện nam nữ. Cô lại xinh đẹp như tiên giáng trần thế này, nó mà trông thấy, không bị hớp hồn mới lạ.
Tôi vừa xoa đầu vừa trừng mắt oán thán:
– Cô đã tặng cho cậu ta hai tỳ nữ rồi kia mà.
Khabi chớp chớp hàng mi dài thanh tú, cười chế nhạo:
– Cô chẳng hiểu gì về đàn ông cả. Với họ, tình dục và tình yêu là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Chân Kim mới chỉ được nếm trải tình dục, nào nó đã biết tình yêu là gì.
Tôi không hiểu:
– Sao có thể tách biệt tình yêu và tình dục ra được? Loài hồ ly chúng ta chỉ sinh con đẻ cái với người bạn đời của mình thôi mà.
Khabi thở dài thường thượt, nhíu mày:
– Cô đã hóa thân thành người thì cũng nên làm quen với tập tính của loài người. Phụ nữ lúc nào cũng khao khát "mong gặp người thật lòng, bạc đầu không xa cách"[5]. Nhưng kết thúc như mơ của "trai anh hùng, gái thuyền quyên" chỉ có trong các vở kịch mà thôi. Vì sao loài người say mê những vở kịch đó? Bởi vì thứ tình yêu son sắt, thủy chung ấy không bao giờ tồn tại ngoài đời thực nên nó trở thành niềm khát khao của họ.
Tôi cúi đầu sầu tủi. Cứ mỗi lần trong tôi dấy lên niềm hy vọng tràn đầy là lại bị Khabi giội một gáo nước lạnh. Nếu đàn ông bạc bẽo đến vậy thì tôi còn hóa thân thành người làm gì nữa?
– Nhưng vị Lạt Ma của cô lại là ngoại lệ.
Thái độ quay ngoắt một trăm tám mươi độ, Khabi bỗng nhắc đến người đàn ông mà tôi ngày đêm tưởng nhớ:
– Muốn chiếm được cảm tình của người đàn ông trí tuệ, ý chí kiên cường ấy không hề dễ. Nhưng một khi cậu ấy đã động lòng trần thì đó sẽ là tình cảm sắt son bền chặt, suốt đời không thay đổi.
Cô ấy cúi người, ghé sát gương mặt tôi, mắt phượng mày ngài nhìn tôi chăm chú, đáy mắt lấp lánh vẻ tinh quái:
– Cậu ấy đã nhìn thấy hình dạng này của cô chưa?
– Vẫn... vẫn chưa. – Tôi ấp úng, lòng bàn tay đẫm mồ hôi. – Tôi... tôi sợ...
– Sợ cậu ấy nhìn thấy dung nhan tuyệt sắc của cô mà vẫn không chịu động lòng chứ gì?
Tôi gật đầu hồi hộp.
Khabi vuốt ve an ủi tôi rồi thở dài:
– Cậu ấy đã dâng trọn cuộc đời cho Phật Tổ, liệu còn có thể dành cho cô được mấy phần? Tranh giành trái tim một con người với Phật Tổ, khó hơn gấp ngàn lần so với việc phải tranh giành với những người phụ nữ khác.
Trái tim tôi như bị đẩy tuột xuống vực thẳm. Đúng vậy, tôi có gì nào? Ngoài một gương mặt đáng yêu và nhiều năm chung sống cùng cậu ấy, tôi có tư cách gì để tranh giành trái tim cậu ấy với Phật Tổ?
Tôi dõi mắt ngắm nhìn những dãy núi trải dài vô tận trong bóng chiều tím nhạt. Mặt trời xuống núi, những tia nắng cuối ngày dần khuất lấp nơi chân mây. Mặc cho gió lạnh thổi bay suối tóc màu lam mềm mại như nhung lụa, tôi cứ đứng đó, thẫn thờ nhìn hoàng hôn dần tắt.
.
– Cuộc chiến với Nam Tống của Mông Kha Hãn không hề thuận lợi, chớp mắt đã sang năm 1259, nhưng Mông Kha Hãn vẫn chưa công phá được Hợp Châu, Tứ Xuyên. Và rồi trong một đợt tấn công, Mông Kha Hãn bị trúng pháo đá của quân địch, lâm bệnh rồi qua đời trên chiến trường vào tháng Bảy năm đó.
Chàng trai trẻ vỗ tay:
– Cơ hội của Hốt Tất Liệt đã đến!
– Đúng vậy! – Tôi mỉm cười gật đầu. – Khi ấy, Hốt Tất Liệt đang ra sức đánh chiếm Ngạc Châu, Hồ Bắc. Được tin Khả hãn qua đời, Hốt Tất Liệt vội vã nghị hòa với Nam Tống để dẫn quân ngược lên phía bắc bởi vì người em trai út A Lý Bất Ca hiện đang trấn giữ miền Bắc của ông đã đi trước ông một bước, chuẩn bị triệu tập hội nghị Kurultai để tranh đoạt ngôi vị Hãn vương.
Chàng trai trẻ bắt chước tôi ngồi ôm gối, thu mình ở đầu bên kia của lò sưởi:
– Theo tôi được biết thì A Lý Bất Ca là một nhân vật không dễ đối phó.
Tôi gật đầu. Thanh niên trẻ thời nay rất ít người ham đọc sách lịch sử, họ dành phần nhiều thời gian để lên mạng trò chuyện hoặc chơi điện tử. Chàng trai này quả là một người hiếm có. Tôi nói tiếp:
– Thế lực của A Lý Bất Ca cũng rất mạnh, nhất là vào giai đoạn Mông Kha Hãn ra sức kìm hãm Hốt Tất Liệt, A Lý Bất Ca đã được Mông Kha Hãn trọng dụng. Bởi vậy, rất đông quý tộc Mông Cổ đã ủng hộ và đứng về phía A Lý Bất Ca. Nhưng Hốt Tất Liệt đã nhiều năm cư trú trên đất Hán, nhân lực, vật lực của Trung Nguyên dồi dào hơn miền Bắc của A Lý Bất Ca rất nhiều. Bởi vậy, khi tranh đoạt ngôi vị Khả hãn, Hốt Tất Liệt đã nhanh chóng nắm quyền chủ động.
[5] Câu thơ trong bài Khúc ngâm bạc đầu của Trác Văn Quân. (DG)
Chương 20 - Thương Yêu Sát Lại.
"Người có học thức biết phân định phải trái, đúng sai;
Nam châm có thể hút vụn sắt lẫn trong bụi cát."
(Cách ngôn Sakya)
Tôi ngồi nấp sau một gốc cây ven con đường mòn lên núi, hồi hộp ngóng trông.
Đây là nơi cao nhất ở phủ Khai Bình. Hốt Tất Liệt đã biến toàn bộ cụm núi rừng bao quanh Vương phủ thành "vườn sau" nhà mình. Hằng ngày, sau giờ tụng kinh buổi chiều, Bát Tư Ba thường đưa tôi tới đây leo núi, rèn luyện sức khỏe. Vì không muốn người khác biết tôi nói được tiếng người, cậu ấy thường đi một mình. Hôm nay không tìm thấy tôi nhưng cậu ấy vẫn giữ thói quen cũ. Thế nên, tôi đứng chờ cậu ấy trên con đường quen thuộc này, lòng dạ rối bời.
Ánh nắng cuối ngày trùm lên phủ đệ được xây dựng kiểu nửa Mông Cổ nửa Hán khá thô kệch, những làn khói mờ ảo lan trong hoàng hôn chiều muộn. Mặt trời càng xuống thấp, nỗi bồn chồn trong tôi càng lớn dần, tim đập loạn nhịp không sao kiểm soát nổi. Tôi chỉnh lại y phục và đồ trang sức không biết bao nhiêu lần, vì tôi không muốn có bất cứ sơ sót nào. Hôm nay, tôi đã hạ quyết tâm xuất hiện trước mặt cậu ấy.
Bóng chiếc áo thầy tu sắp đến gần, Bát Tư Ba chậm rãi cất bước, ánh chiều như dát vàng cả không gian, tôn lên phong thái ung dung, thư thái, thoát tục của cậu ấy. Lòng bỗng rạo rực, tôi nuốt nước bọt lấy giọng. Mồ hôi túa ra nơi lòng bàn tay, muốn chà vào y phục mặc trên người nhưng chợt nhớ ra, thục nữ không nên hành xử như vậy, tôi vội tuốt vài chiếc lá lau tạm.
Cậu ấy đến gần hơn, không có bóng dáng của tùy tùng, tay nhấc cao vạt áo, tay lần tràng hạt, đầu hơi cúi thấp để có thể nhìn rõ các bậc đá trên lối đi, cổ thiên nga thon dài, quyến rũ. Tôi hít thở sâu, tự cổ vũ bản thân, tự đạo điễn một nụ cười đoan trang nhất, sau đó lập cập nhấc gót chân bước ra khỏi gốc cây.
Chẳng ngờ, mới bước được một bước, cơ thể đột ngột biến đổi, tôi chưa kịp ý thức việc gì đã xảy ra, đã thấy có thứ gì đó bao trùm kín mặt, trước mắt chỉ là bóng đêm mù mịt. Hình như tôi bị quấn chặt trong một mảnh vải, tay chân giãy giụa cuống quýt, càng cố thoát ra càng bị quấn chặt, tôi bất lực kêu ư ử.
Phải rất lâu sau tôi mới thấy được ánh sáng, đôi mắt trong suốt đang nhìn tôi đầy lo lắng.
– Lam Kha, sau giờ tụng kinh buổi chiều ta tìm em khắp nơi, không ngờ em trốn đến đây leo núi một mình.
Cậu ấy tươi cười rạng rỡ, gỡ tấm vải phủ trên mình tôi ra, nhấc tôi lên:
– Em nghịch quá, sao lại trốn trong y phục của nữ giới thế này?
Tôi sững sờ, vội quay lại nhìn. Bộ y phục màu lam nhạt mềm mại này chính là tôi đã mặc kia mà. Vì sao lại... tôi cúi xuống, vẫn là đôi móng vuốt sắc nhọn, lông lá rậm rạp, thân hình hồ ly nhỏ bé. Lúc ấy, tôi chỉ muốn bật khóc thật to. Vì sao tôi lại trở về nguyên hình thế này?
– Em ở đây chờ ta nãy giờ, có biết y phục này của ai không? Vì sao lại bỏ ở đây?
Nhìn thấy chiếc váy rơi dưới đất, cậu ấy định nhặt lên nhưng còn e ngại.
Tôi nào dám thừa nhận, đành lắc đầu quầy quậy. cậu ấy nhìn xung quanh, không thấy có bóng người. Chờ một lúc vẫn không thấy ai đến nhận, cậu ấy do dự một lát rồi cởi ruột tượng, lấy cuốn kinh văn và chiếc túi đựng nước bằng da bò ra, đút chiếc áo vào.
Tôi kinh ngạc hỏi:
– Lâu Cát, cậu định mang về ư?
Cậu ấy vội vã lắc đầu, mặt đỏ lừ:
– Đâu làm thế được! Một nhà sư mang bên mình y phục của phụ nữ, người ta sẽ cười nhạo ta đó. Nhưng bỏ mặc bộ y phục này ở đây cũng không ổn.
Cậu ấy nhặt chiếc trâm hình hoa cúc mà tôi vừa cài trên tóc suy ngẫm:
– Bộ y phục và đồ trang sức này tuy không phải thứ đắt tiền nhưng là đồ thủ công tinh tế, có lẽ không phải vật dụng của thường dân. Nhưng ta chưa từng thấy trong Vương phủ có ai vận trang phục thế này. Không biết là của ai nhỉ?
May mà trời đã sẫm tối, cậu ấy không nhận ra vẻ lúng túng, xấu hổ của tôi. Cậu ấy đứng đó chờ cho tới khi màn đêm buông xuống mà vẫn không có người đến nhận, đành giấu ruột tượng cũng bộ y phục đằng sau gốc cây:
– Đặt ở chỗ này, người mất đồ nếu đến tìm, chỉ cần để ý một chút sẽ nhìn thấy, lại không lo bị người khác nhặt mất.
Đêm đó, tôi đã lẻn vào tẩm cung hoa lệ của Khabi. Vì cần che giấu thân phận thực sự nên cô ấy viện cớ muốn được yên tĩnh, ban đêm không cho bất cứ người hầu nào ở cạnh mình. Hốt Tất Liệt tấn công Nam Tống đã nhiều tháng nay, đêm nào cô ấy cũng ngủ một mình nên tôi thản nhiên xuất hiện trước mặt cô ấy mà không hề lo ngại.
– Khabi, vì sao tôi không thể duy trì hình dáng con người trước mặt Bát Tư Ba?
Khabi biếng nhác thả người trên chiếc giường hoa lệ, những ngón tay yêu kiều đùa nghịch suốt tóc nhung huyền:
– Việc duy trì hình dạng con người tiêu tốn rất nhiều linh khí. Mà trước đó, linh khí tích lũy từ mấy trăm năm đã bị cô tiêu tốn quá nửa, phần còn lại không đủ, tự khắc cô sẽ hiện nguyên hình.
Tôi lấy làm khó hiểu:
– Nhưng vì sao trước mặt cô và Kháp Na, tôi vẫn có thể duy trì hình dạng con người mà trước mặt Bát Tư Ba thì không?
Khabi nhìn tôi bằng nửa con mắt, hỉ mũi chế giễu:
– Ta là đồng loại của cô, còn Kháp Na chỉ là một người bình thường không mảy may tuệ căn, vì thế trước mặt chúng tôi, cô không cần phải tiêu hao nhiều linh khí. Nhưng Bát Tư Ba là bậc đại trí thông tuệ, mẫn tiệp, người bình thường không thể sánh được, bởi vậy, sẽ rất khó duy trì hình dạng con người trước mặt cậu ấy.
Tôi buồn bã nằm bò trên chiếc giường êm ái của cô ấy, mặt mày sầu não:
– Tôi chỉ muốn cậu ấy biết rằng tôi có thể hóa thành người. Bao năm qua tôi đã không ngừng nỗ lực, vậy mà sao khó khăn thế này!
Khabi xách cổ tôi lên, lúc lắc thân hình hồ ly của tôi trước mặt cô ấy:
– Ta khuyên cô trong một vài năm tới hạn chế tối đa việc sử dụng phép thuật, hãy chăm chỉ tu luyện để khôi phục lại linh khí đã mất. Vả lại, cậu ấy luôn ở bên cô đó thôi. Với thân phận đặc biệt của cậu ấy, sẽ chẳng có cô gái nào đến tranh giành với cô đâu, yên tâm đi.
Tôi ra sức giãy giụa đòi được thả xuống. Trêu chọc tôi chán chê, Khabi mới chịu nương tay. Biết tôi sắp nổi đóa, cô ấy vội thu lại vẻ cười cượt:
– Gắng gượng hóa phép thành người sẽ gây nên phản ứng ngược, đến lúc đó, đừng trách tôi không cảnh báo trước!
Tôi sững sờ, cơ thể bỗng mềm nhũn.
Mùa hạ năm 1259. Mông Kha qua đời sau chín năm giữ ngôi vị Khả hãn. Khi ấy, Hốt Tất Liệt đã đưa quân đến bờ bắc sông Trường Giang. Sau khi nhận được hung tin, Hốt Tất Liệt vẫn quyết định tiếp tục bao vậy vùng đất trọng yếu Ngạc Châu. Thừa tướng của Nam Tống khi ấy là Giả Tự Đạo đích thân chỉ huy quân đội. Hai bên giao chiến suốt hơn hai tháng trời không phân thắng bại.
Khabi nhận được tin báo, em trai út của Mông Kha Hãn là A Lý Bất Ca đang tích cực chuẩn bị cho kế hoạch tước đoạt ngai vị Đại hãn Mông Cổ, đã cử sứ giả đi khuyên Hốt Tất Liệt lập tức trở về. Lúc này, Hốt Tất Liệt mới giật mình, vội vã nghị hòa với Giả Tự Đạo, cầm quân trở về phương Bắc. Cuộc chiến công phá Nam Tống của Mông Cổ đến đây tạm dừng.
Một cuộc tranh giành quyền lục quyết liệt đã diễn ra trong nội bộ quốc gia Mông Cổ, các quý tộc và quan lại nhanh chóng chia thành hai phe, một bên ủng hộ Hốt Tất Liệt, bên kia ủng hộ A Lý Bất Ca.
Cuối năm đó, Hốt Tất Liệt trở về phủ Khai Bình, thư mời như bông tuyết bay đến khắp các bộ lạc Mông Cổ. Hốt Tất Liệt ra sức lôi kéo các vương công quý tộc Mông Cổ đến phủ Khai Bình, ông ấy dự định tổ chức hội nghị Kurultai tại đây.
Bầu không khí trong Vương phủ trở nên căng thẳng lạ thường, người ra người vào tấp nập cả ngày trời. Vào những thời điểm mẫn cảm thế này, Hốt Tất Liệt lại càng tin dùng Bát Tư Ba. Cách vài ngày, ông ấy lại ra lệnh tế lễ, cúng bái theo truyền thống Phật giáo Mật Tông để cầu phúc, cầu may. Phủ Vương gia ngào ngạt mùi hương của gỗ hoàng bá, bơ, bánh bột mì thanh khoa [1] và các loại hoa quả.
Nhưng tôi đâu bận tâm đến những chuyện quốc gia đại sự của đám đàn ông ấy.
– Một trăm linh tám, một trăm linh chín, một trăm mười,...
Tôi chăm chú dõi theo đôi giày vải đang thong thả nhích từng bậc một trên con đường núi quen thuộc. Tuyết phủ trắng lưng đồi, đường đi khá trơn nên cậu ấy rất thận trọng.
– Một trăm hai mươi, một trăm hai mươi mốt.
Cơ thể vụt biến đổi, thu nhỏ lại, trước mắt tôi lại là một màu tăm tối. Tôi bình tĩnh chui ra khỏi đám y phuc bùng nhùng, cởi ruột tượng, nhét váy áo và đồ trang sức vào bên trong, niệm thần chú giấu gói đồ đi, sau đó mới nhảy ra ngoài, đứng chờ cậu ấy trên lối đi.
– Lam Kha! – Ngước lên và trông thấy tôi, cậu ấy tươi cười bước tới. – Ta biết em sẽ chờ ta ở đây mà!
Tôi sung sướng nhìn cậu ấy:
– Một trăm hai mươi mốt bước rồi!
Cậu ấy nhìn tôi băn khoăn:
– Em bảo sao?
– Không có gì.
Tôi quay lưng, nhảy tung tăng trên con đường núi, chốc chốc lại quay đầu, hô hào:
– Nhanh lên nào, đố cậu đuổi kịp tôi đấy!
Cậu ấy lắc đầu, khóe môi nở nụ cười âu yếm:
– Em thật là, ba trăm tuổi đầu mà vẫn nghịch ngợm như vậy!
Hốt Tất Liệt quyết định sẽ tổ chức hội nghị Kurultai vào đầu năm mới. Ông ấy đang dốc sức lôi kéo thủ lĩnh các bộ lạc Mông Cổ nên giao cho Khabi toàn quyền quyết định việc bài trí, tổ chức mừng Tết năm 1260. Khabi đã tiêu tốn không biết bao nhiêu ngân lượng để mua sắm và chăng kết khắp nơi đủ mọi loại đèn rực rỡ và những dải lụa óng ả, cả Vương phủ trở nên lộng lẫy khác thường. Tiệc tùng, bắn pháo hoa, múa đèn rồng, chơi đèn hoa, rộn ràng náo nhiệt suốt từ mồng Một đến rằm tháng Giêng.
Đối với đa số thủ lĩnh của các bộ lạc Mông Cổ tề tựu về Vương phủ của Hốt Tất Liệt để chuẩn bị tham gia hội nghị Kurultai thì đây là lần đầu tiên họ ăn Tết theo lịch của người Hán, bởi vậy ai nấy đều vô cùng háo hức. Trên những thảo nguyên mênh mông ở phương Bắc xa xôi, bói đâu ra những cảnh tượng diễm lệ, những thiếu nữ yêu kiều và nơi ở thoải mái, dễ chịu thế này? Đám quý tộc ưa hưởng thụ này, sau khi được nếm trải đời sống trường giả sung túc nơi đây, càng quyết tâm ủng hô Hốt Tất Liệt. A Lý Bất Ca là kẻ thô kệch, lạc hậu, chỉ quen sống trong những lều bạt sơ sài của Mông Cổ, đâu biết thế nào gọi là giường êm nệm ấm. Nghe nói vùng Giang Nam của Nam Tống là nơi giàu có, phồn vinh, lại nhiều gái đẹp, đám vương công, quý tộc Mông Cổ này chỉ muốn Hốt Tất Liệt lập tức đánh đến Giang Nam.
Tháng Ba năm 1260, sau một thời gian chuẩn bị đầy đủ, Hốt Tất Liệt triệu tập các quý tộc Mông Cổ ủng hộ mình, tổ chức hội nghị Kurultai tại phủ Khai Bình, chọn ông làm Đại hãn. Vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán, Hốt Tất Liệt đã học theo truyền thống của người Hán, sử dụng niên hiệu Trung Thống và ông trở thành người Mông Cổ đầu tiên sử dụng niên hiệu cho vương triều của mình. Khabi là vợ cả nên được phong làm hoàng hậu.
Hay tin Hốt Tất Liệt tự chọn mình làm Khả hãn, A Lý Bất Ca giận sôi máu, lập tức triệu tập đám vương công, quý tộc Mông Cổ ủng hộ mình ở miền Bắc, tổ chức hội nghị Kurultai, tuyên bố kế thừa ngội vị Đại hãn. Hai anh em họ đều là những nhân vật quyền lực, đã có kinh nghiệm cầm quân chinh chiến nhiều năm, và đều là cháu của Thành Cát Tư Hãn, lực lượng hai bên tương đương, bởi vậy, cuộc chiến trong nội bộ Mông Cổ đã diễn ra hết sức ác liệt.
– Kháp Na, tôi lại tiến bộ rồi! Lần trước, cậu ấy bước một trăm hai mươi mốt bước thì tôi bị đẩy trở lại nguyên hình, lần này là một trăm hai mươi chín bước nhé! Cậu ấy đến gần tôi thêm tám bước rồi!
Hai mắt sáng long lanh, vẻ mặt phơi phới, đôi má ửng đỏ, tôi thao thao bất tuyệt khoe thành tích mới với Kháp Na. Sau khi tỉnh lại trong phòng riêng của Kháp Na, việc đầu tiên tôi muốn nói với cậu ấy chính là chuyện này.
Kháp Na vừa xoa đầu tôi, thở dài:
– Tiểu Lam, thật không ngờ em lại nặng lòng với đại ca như vậy. Nhưng huynh ấy đâu có biết những nỗ lực và tấm chân tình của em. Em lại không cho ta nói với huynh ấy.
– Sẽ nhanh thôi, tôi và cậu ấy đã đến rất gần nhau rồi, có lẽ chỉ cần hai năm nữa.
Hai mắt tôi sáng rực khi tưởng tượng viễn cảnh tươi đẹp, tôi nhảy lên lòng Kháp Na, ngẩng đầu bảo:
– Cậu phải thề sẽ không nói cho cậu ấy biết.
– Ta không nói, nhưng em biết rõ huynh ấy có thân phận thế nào mà.
Cậu ấy khẽ chau mày, nét mặt đầy ưu tư:
– Trước kia, pháp vương của phái Sakya được phép kế thừa pháp thống và lấy vợ sinh con. Nhưng kẻ từ thế hệ bác ta, bác ấy đã đặt ra gia quy, người thừa kế pháp thống của giáo phái buộc phải xuất gia, vậy nên đại ca của ta không thể kết hôn giống như cha chú.
Lòng tôi bỗng chùng xuống, nhưng ngay lập tức tìm ra cái cớ để an ủi bản thân:
– Từ lâu tôi đã biết cậu ấy không thể thay đổi thân phận, cũng chưa bao giờ dám mơ tưởng một ngày nào đó cậu ấy sẽ cưới tôi. Tôi chỉ... tôi chỉ mong ước cậu ấy nhìn thấy tôi trong hình hài một con người, chỉ thế thôi.
– Sau đó thì sao? – Kháp Na xoay xoay ly rượu trong tay, ánh mắt nhìn tôi sắc lẻm. – Em định sẽ thế nào?
Tôi bối rối, gãi gãi đầu, quả thật tôi chưa từng nghĩ về vấn đề này, đành đáp lấy lệ:
– Sẽ vẫn như lúc trước thôi, đi theo cậu ấy, ở bên cậu ấy, bầu bạn với cậu ấy.
Kháp Na rót cho mình một ly rượu làm từ bột mì thanh khoa rồi ngửa cổ dốc cạn, sau đó lẳng lặng đến bên tủ sách, mở một ngăn kéo kín đáo, chật hẹp. Cậu ấy thận trọng lấy ra bộ váy áo màu lam, đưa đến trước mặt tôi. Đó là chiếc váy dài màu xanh thêu hoa mai trắng, một chiếc đai màu trắng thêu kim tuyến, một đôi giày thêu những bông hoa li ti trên nền xanh sẫm, một chiếc trâm bạc hình hoa cúc tráng men màu lam. Đây là trang phục cậu ấy đã mua cho tôi khi lần đầu tiên tôi hóa thành người mà! Cậu ấy vẫn luôn cất giữ chúng ư?
[1] Bánh bột mì thanh khoa (thức ăn chính thay cơm của dân tộc Tạng, Trung Quốc) được làm từ lúa mì thanh khoa, một giống lúa trồng ở vùng Tây Tạng, Thanh Hải, Trung Quốc. (DG)
– Tiểu Lam, cho ta ngắm em được không? – Đôi mắt sáng long lanh như pha lê của cậu ấy nhìn tôi nài nỉ. – Em chẳng mấy khi chịu hóa thân thành người trước mặt ta.
Tôi lắc đầu:
– Không được đâu. Tôi không thể lãng phí linh khí. Chưa biết chừng, lần tiếp theo cậu ấy sẽ tiến gần tôi hơn nữa!
Ánh mắt Kháp Na thoáng vẻ thất vọng, cậu ấy định mở lời, chợt bên ngoài có tiếng ồn ào, huyên náo. Giọng Mukaton cất lên oang oang:
– Phòng của chồng ta mà ta không được vào là sao?
Kháp Na, mặt mày biến sắc, cuống quýt đem trang phục giấu kỹ vào ngăn tủ:
– Chắc cô ta say xỉn rồi, lại muốn đến gây sự nữa đây!
Tiếng bước chân thình thịch càng lúc càng gần, bên ngoài vang lên giọng nói can ngăn của Besangbo:
– Thưa Công chúa, Phò mã đã ngủ say rồi, cậu ấy căn dặn bất cứ ai cũng không được phép vào phòng quấy rầy.
– Ta cứ vào đấy, hắn làm gì được ta!
Đi liền với lời đáp trả ngang ngược của Mukaton là tiếng bật mở đánh "rầm" một cái. Mukaton xuất hiện trước cửa phòng Kháp Na, vẻ mặt hung hăng, hai tay chống nạnh, vênh vang trợn mắt nhìn Kháp Na:
– Quần áo vẫn còn nguyên trên người kia kìa, ngủ đâu mà ngủ!
Kháp Na tức tím mặt:
– Lần nào đến đây cũng làm ầm ĩ, cô không thấy mệt mỏi à?
Đoán biết vợ chồng họ lại sắp sửa cãi vả, Besangbo vội lặng lẽ rút lui.
– Đêm nay ta sẽ không đi đâu hết.
Mukaton hùng dũng bước vào phòng, ngồi phịch xuống ghế, chiếc ghế tội nghiệp lại phát ra những tiếng kêu răng rắc não nề. Cô ta nhìn Kháp Na khinh khỉnh:
– Nếu chàng đồng ý cho ta một đứa con thì ta sẽ không ngày ngày tới đây gây sự nữa.
– Công chúa, chỉ cần cô đừng gây chuyện thì cô muốn gì tôi cũng đồng ý cho cô, ngoại trừ chuyện này. Câu trả lời của tôi vẫn như mọi khi... – Cậu ấy nhìn Mukaton bằng vẻ lạnh lùng thường ngày, nhấn nhá tròn vành rõ chữ từng tiếng một. – Quyết – không – đồng – ý!
Mukaton bật dậy, kéo theo cả khối thịt lặc lè, hơi men nồng nặc phả vào Kháp Na:
– Chàng đã hai mươi hai tuổi rồi, giáo phái Sakya đang trông chờ chàng sinh con kế nghiệp đấy thôi!
Kháp Na tỏ ra ghê sợ, lùi lại vài bước, hơi thở gấp gáp:
– Vậy thì cũng không mượn cô sinh.
– Ta trông chừng chàng nghiêm ngặt như vậy, mấy năm qua dẫu là một con ruồi cái cũng chẳng thể lọt được vào phòng chàng, thế mà chàng vẫn không chịu nhìn ta dù chỉ một cái. Không lẽ chàng đã vụng trộm nếm mùi đàn bà ở đâu rồi?
Mukaton xông tới túm cổ áo Kháp Na, gương mặt những thịt là thịt rung lên bần bật, vè hùng hổ đáng sợ:
– Nói mau, nó là con hồ ly tinh nào? Ta mà bắt được, sẽ khiến nó sống không bằng chết!
– Đừng ăn nói quàng xiên! Ta... ta... vẫn chưa... – Kháp Na đỏ bừng mặt, bỗng ngừng bặt, hất cánh tay của Mukaton ra. – Ta thà tuyệt tự chứ quyết không chung giường với cô!
Cũng giống như những lần trước đó, cuộc cãi vả kết thúc bằng việc Mukaton đột ngột bị thương nhẹ hoặc lăn ra ốm. Mukaton vừa ôm chân vừa chửi bới ầm ĩ, sau khi đám hầu gái đưa cô ta ra khỏi phòng Kháp Na, tôi nhìn vẻ âu sầu, chán chường của cậu ấy mà xót xa, chỉ biết thở dài:
– Kháp Na, vì sao kết hôn ngần ấy năm mà cậu với cô ấy vẫn chưa giao...
Tôi im bặt, nuốt trọn nửa sau của từ "giao phối" vào bụng. Sống với con người lâu dần, tôi biết rằng họ thường giấu giấu giếm giếm, e ngại khi nói về vấn đề này. Suy nghĩ một lát, tôi chọn được một cách nói tế nhị hơn:
– Đó là... động phòng.
Quả nhiên không ngoài dự đoán của tôi, gương mặt Kháp Na đỏ như gấc chín, ánh mắt chạy trốn không dám nhìn thẳng vào tôi:
– Ta không thể cùng cô ấy... Cứ nghĩ đến thân hình phương phi, giọng nói oang oang của cô ấy là ta... ta...
Nhìn điệu bộ ấp a ấp úng, lúng túng không biết phải mở lời ra sao của cậu ấy, tôi chợt tới nhớ câu nói của Khabi:
– Một người bạn nói với tôi rằng, đàn ông không cần tình yêu vẫn có thể làm chuyện đó. Mà sinh con thì chỉ cần làm chuyện đó là đủ. Kháp Na, nếu cậu không muốn... động phòng với cô ấy thì cậu có thể chọn người khác, trên đời này, có biết bao cô gái thầm thương trộm nhớ cậu, cậu...
Cậu ấy đột nhiên gắt lên:
– Đừng nói nữa, ta không thích nghe.
Tôi sững sờ. Từ lúc quen biết cậu ấy đến nay, chưa bao giờ cậu ấy cáu với tôi như thế. Tôi đã làm gì có lỗi?
– Tiểu Lam, ta biết ta rất ngốc, nhưng...
Cậu ấy kéo rèm cửa sổ, hướng ánh nhìn về phía bầu trời đêm tịch mịch, thăm thẳm, nỗi buồn ngập tràn trong đôi mắt như hồ nước mùa thu ấy:
– Ta không muốn quan hệ với người con gái mà ta không yêu, dù đó chỉ là ham muốn nhất thời đi nữa.
Tôi ngỡ ngàng. Thì ra không phải người đàn ông nào cũng phong lưu và tham lam như Khabi nói. Kháp Na muốn dành trọn tình yêu cho người con gái mà cậu ấy yêu thương. Nhưng biết đến khi nào cậu ấy mới gặp được tình yêu đích thực của đời mình?
.
– Có thể dễ dàng nhận thấy, trong cuộc tranh chấp nội bộ này, phần thắng chắc chắn thuộc về Hốt Tất Liệt.
Hai mắt phát sáng đầy hưng phấn, vẻ mặt suy nhược của chàng trai trẻ lúc được tôi cứu về dường như đã tan biến hoàn toàn. Tôi bấm bụng cười, lạ thật, cứ hễ bàn đến chuyện chiến tranh, mưu lược là đàn ông trở nên hết sức hào hứng.
Tôi gật đầu:
– Nhưng A Lý Bất Ca không dễ dàng chịu thua như vậy. Hốt Tất Liệt phải mất bốn năm mới có thể triệt tiêu hoàn toàn thế lực của A Lý Bất Ca.
Tôi nheo mắt nhớ lại:
– Năm 1260, Hốt Tất Liệt xưng đế năm bốn mươi lăm tuổi. A Lý Bất Ca lập tức dẫn quân từ niềm Bắc xuống đánh Hốt Tất Liệt hòng tranh quyền đoạt vị. Địa thế của phủ Khai Bình không thuận lợi cho việc phòng thủ hay tấn công, thế nên Hốt Tất Liệt đã dời trung tâm chỉ huy đến đô thành mà người Kim trước đó xây dựng: Yên Kinh.
Sau khi dời đến Yên Kinh, Hốt Tất Liệt phong Bát Tư Ba làm quốc sư, ban cho ngọc ấn, Bát Tư Ba phụng mệnh thống lĩnh Phật giáo toàn thiên hạ. Năm đó, Bát Tư Ba trở thành lãnh tụ của Phật giáo toàn quốc khi mới hai mươi sáu tuổi. Từ năm mười chín tuổi đến thời điểm này, Bát Tư Ba đã đi theo Hốt Tất Liệt được bảy năm, bảy năm làm thượng sư của cả gia đình Hốt Tất Liệt, chức vị này cũng chỉ tương đương với vai trò của một phụ tá. Chỉ sau khi tới Yên Kinh, Bát Tư Ba mới có được địa vị chính thức. Trong thoáng chốc, cậu ấy trở thành một nhân vật hiển hách, nắm giữ quyền hành to lớn.
Nhớ tới những chuyện tiếp theo, tôi bật cười:
– Đúng lúc này, các anh em ở vùng Sakya xa xôi của cậu ấy cũng đến Yên Kinh nương nhờ cậu ấy.
Chàng trai trẻ đăm chiêu:
– Anh em ư?
Chương 21 - Anh Em Sum Họp.
"Sự học là con đường gian nan bất tận,
Kẻ an phận chẳng thể thành bậc học giả;
Say sưa với niềm hoan lạc trước mắt,
Sẽ không có được hạnh phúc bền lâu."
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1260 – tức năm Thìn, Dương Thiết theo lịch Tạng (Canh Thìn) – tức năm đầu tiên niên hiệu Cảnh Định nhà Nam Tống – tức năm đầu tiên niên hiệu Trung Thống, Hốt Tất Liệt, Mông Cổ
Bát Tư Ba hai mươi sáu tuổi, Kháp Na hai mươi hai tuổi.
Lương Châu cách Yên Kinh hơn ba nghìn dặm, ngồi xe ngựa phải hai tháng mới tới nơi.
Suốt hai tháng trời, tôi chuyện trò giết thời gian với Kháp Na trên xe ngựa. Và lúc này, vẫn còn khoảng ba ngày nữa chúng tôi mới tới Yên Kinh.
– Cậu không biết hiện giờ ở Yên Kinh, quyền lực của Lâu Cát lớn đến mức nào đâu. Hốt Tất Liệt ban cho cậu ấy phủ Quốc sư, rộng gấp mười lần phủ đệ của các hộ dân thường. Cậu ấy mới hai mươi sáu tuổi nhưng các tăng nhân đáng tuổi cha chú cũng lũ lượt kéo đến Yên Kinh bái cậu ấy làm sư phụ. Phủ Quốc sư ngày nào cũng tấp nập, huyên náo. Tôi cứ băn khoăn, sao đột nhiên cậu ấy lại có nhiều bạn bè ở Yên Kinh đến thế?
Tôi chu mỏ bày tỏ nỗi bức xúc. Kể từ khi được phong làm quốc sư, Bát Tư Ba bận rộn tối tăm mặt mũi, ngày nào cũng mệt rã rời vì phải tiếp đón đám người thấy người sang bắt quàng làm họ, không có nhiều thời gian trò chuyện với tôi. Điều đó khiến tôi không vui chút nào.
Kháp Na tươi cười phấn chấn, gương mặt sáng bừng, thư thái khác lạ:
– Đại ca được Đại hãn nể trọng, bọn họ xúm lại lấy lòng huynh ấy cũng dễ hiểu mà. Nhưng em yên tâm, quyền lực và của cải chưa bao giờ là điều huynh ấy mong muốn, huynh ấy sẽ không bị lung lạc.
– Không chỉ đám người xa lạ đó, hai anh trai của cậu cũng từ Sakya đến nương náu trong phủ Quốc sư đấy. – Tôi giơ ngón chân lên nhẩm tính. – Mùa hè năm ngoái, anh hai Rinchen Gyaltsen và anh ba Yeshe Bernas của cậu đã khởi hành từ Sakya. Theo thư họ gửi cho Lâu Cát thì có thể họ sẽ đến Yên Kinh cùng thời gian với cậu. Lâu Cát muốn cậu về Yên Kinh là để gặp lại họ, anh em sum họp.
Bát Tư Ba có tất cả tám anh chị em, cậu ấy là con bà cả, cậu hai Rinchen Gyaltsen là con dì hai, cậu ba Yeshe Bernas là con dì năm, ba người sinh cùng năm, khác tháng. Dì tư chỉ sinh được ba cô con gái, không có con trai. Một năm trước khi Kháp Na chào đời, dì năm đã sinh thêm một cô con gái nữa. Sau khi Kháp Na ra đời, cha cậu bị dì hai hạ độc rồi qua đời.
Dì hai bị thả trôi sông vì tội sát hại chồng. Lên bốn tuổi, Rinchen Gyaltsen được giao cho dì ba nuôi dưỡng, năm mười hai tuổi, xuống tóc đi tu, hiện là cao tăng chủ trì luật pháp của phái Sakya. Các bậc đại đức của Sakya gửi thư cho Bát Tư Ba đều nhận xét rằng, những năm qua, Rinchen Gyaltsen đã trưởng thành và chín chắn trong mọi sự. Đại sư Shakya Zangpo hiện giữ chức bản khâm của giáo phái dành nhiều lời khen ngợi và quả quyết cậu ấy là một nhân tài, với đầy đủ các tố chất để đảm nhiệm trọng trách lớn. So với cậu ba Yeshe thì cậu hai Rinchen thân thiết với Bát Tư Ba hơn. Những năm gần đây, thư từ qua lại giữa hai người ngày càng nhiều. Tuy không còn nhớ rõ hình dáng của người em này nhưng Bát Tư Ba ngày càng có cảm tình với cậu ấy.
Cậu ba Yeshe không xuất gia mà trở thành trợ thủ đắc lực của viên tổng quản Chongnari trong việc cai quản các điền trang lớn của giáo phái Sakya. Nghe nói cậu ta cũng rất tài ba, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung, tinh thông thơ phú, có thể đọc thuộc bộ sử thi Đức vua Gelsall [1]. Ở nơi mà chín mươi chín phần trăm dân số mù chữ thì trình độ học vấn như của cậu ba Yeshe là rất đáng nể. Tuy không xuất gia nhưng vì sinh ra trong bối cảnh đặc biệt với sự gắn kết khăng khít giữa giáo phái và dòng họ nên những kiến thức về Phật giáo Hiển Tông, Mật Tông mà giáo phái Sakya được truyền bá rộng rãi, Yeshe đều thông tỏ, cậu được người dân xứ Sakya ngợi ca là "Phật sống".
– Anh em sum họp ư? – Kháp Na cười buồn, cậu tựa lưng vào tấm đệm lông cừu mềm mại, vẻ mặt âu sầu. – Ta vừa chào đời đã không còn cha, lên bốn tuổi thì mất mẹ, sáu tuổi rời quê hương, mười ba tuổi bác ruột qua đời. Những người thân thiết nhất của ta giờ đây chỉ còn anh trai và em. Trong trí nhớ của ta, Sakya chỉ là những hồi ức hết sức mơ hồ. Thực lòng mà nói, ta không còn nhớ bất cứ điều gì về người anh thứ hai, thứ ba và bốn người chị gái đã lấy chồng, hiện đang sống ở Sakya. Nếu như gần đây không thường xuyên thư từ qua lại với họ, có lẽ ta chẳng nhớ nổi tên họ nữa.
Trước đây, tôi từng nghe Bát Tư Ba kể về gia đình phức tạp của cậu, về phương thức thừa kế đặc biệt của giáo phái Sakya, về việc cha cậu đã sắp xếp để những người vợ lẽ sống ở những nơi khác nhau, tránh mâu thuẫn, xung đột. Anh chị em cậu mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần nên tình thân không khăng khít như những gia đình khác. Bát Tư Ba và Kháp Na lại xa quê từ nhỏ. Nếu Bát Tư Ba không trở thành người quyền quý, có lẽ những người anh em kia sẽ chẳng tốn công tốn sức, lặn lội đường sá xa xôi đến nương nhờ làm gì.
Chúng tôi đang trò chuyện thì nghe thấy tiếng vó ngựa áp sát xe ngựa. Ai đó chào hỏi người hầu cận của Kháp Na bằng tiếng Tạng:
– Anh bạn cho hỏi, ta thấy các vị ăn mặc rất giống người Tạng, có phải cũng là người Tạng không?
Kunga Zangpo trả lời:
– Dạ đúng, đây là xe ngựa của Phò mã Kháp Na Đa Cát, em trai quốc sư Bát Tư Ba. Các vị đến từ đất Tạng phải không?
Giọng nói của người kia bỗng trở nên hào sảng, hân hoan lạ thường:
– Ha ha, thật đúng là, người nhà ra ngõ tưởng người dưng, chẳng ngờ lại gặp nhau ở đây thế này!
Kháp Na băn khoăn vén rèm cửa ngó ra ngoài, thấy một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, vừa cười lớn vừa thúc ngựa tiến lên. Anh ta đội mũ lông cừu, mặc áo khoác lông cừu dệt thủ công, nước da sạm đen, thô ráp, gò má cao với hai đốm tròn đỏ nổi bật, vốn là nét đặc trưng của cư dân vùng núi tuyết, lông mày rậm, nếp nhăn chồng chéo nơi đuôi mắt, tuổi chừng ba mươi.
Người đàn ông cưỡi ngựa cất giọng gọi vang:
– Kháp Na!
Kháp Na vô cùng ngỡ ngàng:
– Huynh là...
Người đàn ông bật cười lớn hơn:
– Năm sáu tuổi đệ đã xa quê, chả trách không nhớ ta. Ta là anh ba Yeshe của đệ đây.
Không chờ Kháp Na đáp lời, người đó thúc ngựa quay lại thông báo với đoàn xe phía sau:
– Anh hai ơi, đoán xem chúng ta gặp ai nào, mau xuống ngựa đón em út!
Hai đoàn ngựa xe cùng dừng lại, tôi nhìn thấy người anh thứ hai của Kháp Na. Rinchen khoác áo khoác màu đỏ sẫm của tăng ni, trông cậu ấy thấp bé hơn những người anh em của mình rất nhiều và có vẻ yếu ớt. Có lẽ bởi cậu ấy xuất gia đã nhiều năm. Gương mặt cậu ấy hiền từ, thái độ hòa nhã, kiệm lời. Cũng giống như Yeshe, gò má cậu ấy hằn lên đốm cháy nắng sẫm đỏ, nước da đen sạm, thô ráp. Hai người đó hơn Kháp Na bốn tuổi nhưng nhìn họ, ai cũng cho rằng họ hơn Kháp Na chục tuổi.
Yeshe kéo Kháp Na tới cỗ xe ngựa ở phía sau, một người đàn ông trung niên bụng phệ, chừng hơn bốn mươi tuổi bước xuống, theo sau ông ta là một cô gái trẻ. Cô gái đội chiếc mũ lông cừu ngũ sắc, tóc tết thành nhiều lọn nhỏ. Trên mũ khoét một khe hở để những sợi tua rua theo đó rủ xuống. Cô gái khoác áo lông cừu mới tinh, màu đỏ chói, cổ đeo một chuỗi xen kẽ các hạt ngọc lam và hạt cườm đỏ cỡ lớn, chân xỏ giày cao cổ đỏ đen. Tuy dung mạo không xuất chúng nhưng cách ăn mặc màu mè, sặc sỡ khiến cô gái trở nên trẻ trung, hoạt bát, sinh động, khác thường.
Yeshe nhiệt tình giới thiệu:
– Em út à, đây là ngài Tsirenja, quan thiên hộ hầu [2] của vùng Lhatse. Còn đây là cô Dankhag, con gái ngài ấy. Biết bọn ta đến Yên Kinh, ngài ngỏ ý muốn đi cùng để được bái kiến Đại hãn Hốt Tất Liệt.
Nghe Yeshe giới thiệu về thân phận của Kháp Na, biết rằng cậu ấy mới là người em cùng một mẹ đẻ ra của Bát Tư Ba, còn là phò mã Mông Cổ, Tsirenja lập tức đổi thái độ, tỏ ra rất mực thân tình. Cô gái đứng sau lưng Tsirenja chốc chốc lại liếc trộm Kháp Na, hai má ửng đỏ.
– Anh cũng là người Tạng?
Kháp Na đặt một tay lên ngực, lịch sự cúi chào:
– Đúng vậy.
Dankhag đung đưa con mắt quan sát Kháp Na, niềm thích thú biểu lộ không giấu giếm:
– Anh rất đẹp trai, làn da trắng, gương mặt tuấn tú, tôi chưa từng gặp ai điển trai như anh. Nhưng mà người Tạng đâu thể trắng như anh được?
Kháp Na hết sức ngỡ ngàng, làn mi dài cụp xuống, né tránh ánh mắt rực lửa của Dankhag:
– Lên sáu tuổi tôi đã rời đất Tạng, cư trú ở Lương Châu đã lâu, nơi không bị ánh mặt trời thiêu đốt như quê mình, vì thế nước da có trắng hơn những người khác đôi chút.
Dankhag vỗ tay cười ha hả:
– Cũng phải. Chả trách xe ngựa của anh cầu kỳ hơn của chúng tôi, trang phục cũng tinh xảo hơn, anh lại ăn nói nho nhã, lịch duyệt, khác hẳn những người Tạng khác.
Tsirenja vắt tréo hai tay trước bụng, cười tít mắt với con gái:
– Dankhag à, không được vô lễ. Cậu Kháp Na đây là người có thân phận cao quý, nhóc con không được ứng xử bất nhã với cậu ấy như thế.
Rồi ông ta quay sang Kháp Na, cung kính cúi đầu:
– Xin Phò mã thông cảm.Ta chỉ có duy nhất đứa con gái này nên nó được nuông chiều, thành ra ngỗ ngược như thế đó.
Kháp Na vội đỡ ông ta, lễ phép thưa:
– Xin đại nhân chớ khách sáo, tiểu thư của ngài tính tình thẳng thắn, bộc trực, rất dễ thương.
Được Kháp Na khen ngợi, cặp mắt Dankhag vụt sáng, nhan sắc không mấy nổi bật của cô nàng bỗng trở nên rạng rỡ:
– Đừng gọi tôi là tiểu thư, cứ gọi là Dankhag được rồi.
Kháp Na miễn cưỡng cười đáp lễ. Tôi náu mình trong xe ngựa, quan sát biểu cảm của mấy người ngoài kia. Gương mặt hớn hở của Yeshe ngày một chùng xuống, nụ cười tắt dần. Dankhag càng thân mật với Kháp Na, cậu ta càng trầm lặng, rầu rĩ.
Còn ba ngày nữa mới đến Yên Kinh nên dĩ nhiên, Kháp Na sẽ đồng hành cùng những người này trên chặng đường còn lại. Xuất phát chưa được bao lâu, Dankhag kêu gào bị hỏng xe và đòi đi chung với Kháp Na, nhưng cậu đã từ chối vì lẽ nam nữ thụ thụ bất thân. Buổi tối tá túc trong nhà trọ, lúc ăn cơm, Dankhag nằng nặc đòi ngồi bên cạnh Kháp Na, bám riết lấy cậu hỏi đủ thứ trên trời dưới bể. Lúc đầu, vì giữ phép lịch sự, Kháp Na còn miễn cưỡng đáp lời, nhưng sau không chịu nổi, phải viện cớ đau đầu, xin phép về phòng nghỉ sớm.
Ngày hôm sau, Dankhag tấn công dữ dội hơn. Cứ có cơ hội là đôi mắt cô ả lại dán chặt vào Kháp Na, ánh mắt như muốn nuốt chửng cậu ấy lộ liễu đến mức không ai trong đoàn người không biết Dankhag đang say Kháp Na như điếu đổ. Tối hôm đó, Kháp Na phải kiếm cớ để không ăn tối cùng mọi người.
Núi đồi tịch lặng, trăng lạnh tỏa rạng, tôi và Kháp Na ngồi nhẩn nha trên bãi cỏ đã héo úa, cậu ấy nhọc nhằn gặm chiếc bánh bột mì thanh khoa thay cho buổi tối.
– Dankhag mê cậu rồi đó. – Tôi ngước nhìn những vì tinh tú dần xuất hiện trên bầu trời đêm bao la, quay sang trêu chọc Kháp Na. – Bao nhiêu cô gái thầm thương trộm nhớ cậu, nhưng chưa ai dám bộc bạch thẳng thắn như Dankhag.
Đêm đầu đông khá lạnh, chiếc bánh trong tay Kháp Na đã nguội ngắt tự khi nào, cậu ấy chau mày, buông tay:
– Đừng trêu chọc nữa, ta đang rầu rĩ vì chuyện này đây. Em không để ý thấy ánh mắt của anh ba như thể muốn ăn tươi nuốt sống ta à?
Mấy ngày gần đây, thái độ của Yeshe thay đổi chóng mặt, với Kháp Na thì nhăn nhó, khó chịu, còn với Dankhag thì rất mực ân cần, dịu dàng. Tôi phì cười:
– Anh ba của cậu cũng rất thẳng thắn, ai cũng thấy rõ cậu ấy muốn theo đuổi Dankhag.
Kháp Na dõi mắt trông lên bầu trời thăm thẳm:
– Anh hai nói với ta rằng, anh ba là người khá kén chọn, huynh ấy quyết tâm cưới một cô vợ con nhà quyền quý. Dankhag là con gái quan thiên hộ hầu, vùng Lhatse lại trù phú, giàu có hơn Sakya. Mấy năm nay, huynh ấy kiên trì chờ đợi đến ngày Dankhag đủ tuổi lấy chồng. Nhưng năm lần bảy lượt tới trang viên Lhatse xin cầu hôn, huynh ấy đều bị Tsirenja từ chối.
– Ông ta không ưng cậu ấy?
– E là vậy. Huynh ấy là con thứ, mẹ đẻ lại là người hầu, huynh ấy không được quyền kế nghiệp gia sản nên không được các gia đình quyền quý xem trọng. Nhưng huynh ấy chẳng cam lòng, thế nên tuy đã hai mươi sáu tuổi mà huynh ấy chưa chịu kết hôn.
Kháp Na quấn chặt chiếc áo da dê, hai tay đan vào nhau kê sau gáy, ngả người trên gò đồi, bàn tay hờ hững ngắt một gọng cỏ hiếm hoi trên bãi đất trống, bỏ vào miệng. Chúng tôi cùng nhau ngắm nhìn bầu trời ngàn sao lấp lánh.
– Anh ba đã ra sức thuyết phục Tsirenja cùng đi Yên Kinh đợt này. Có lẽ huynh ấy muốn ông ta chứng kiến địa vị cao quý của đại ca trong vương triều Hốt Tất Liệt. Nếu gia tộc của Tsirenja và giáo phái Sakya trở thành thông gia, ông ta có thể gây dựng mối quan hệ với thế lực của người Mông Cổ. Ông ta muốn nhân chuyến đi này, kiểm chứng xem Yeshe có xứng đáng làm con rể ông ta hay không.
[2] Thiên hộ hầu là một tước phong của thời cổ đại, có nghĩa là viên quan này được quyền trưng thu thuế của một nghìn hộ dân trên vùng đất do ông ta cai quản. (DG)
– Ông ta đúng là cáo già, ngoài mặt thì tươi cười với tất cả mọi người, nhưng trong lòng đã tính toán đâu ra đấy. Dankhag đeo bám cậu, ông ta chỉ mắng mỏ vài câu lấy lệ, còn để mặc cô ả tự do thể hiện. Xem ra, sau khi gặp cậu, ông ta đã quyết định bỏ rơi Yeshe, cậu mới là chàng rể lý tưởng của ông ta.
Tôi cào cào móng vuốt vào ngực áo cậu ấy, cố nhịn cười, hỏi:
– Hay cậu thử suy nghĩ xem.
– Tiểu Lam, ta không hề có ý nghĩ đó! – Kháp Na bật dậy, giọng nói đột ngột vút cao. Có lẽ nhận ra mình hơi thất lễ, cậu ấy vội lấy lại bình tĩnh. – Vả lại, không đời nào ta gây bất hòa với anh ba chỉ vì một cô gái xa lạ.
Định mở lời thì chợt nghe thấy tiếng bước chân đang đến gần, tôi vội vàng nhảy tót vào lòng Kháp Na, thì thào:
– Có người đến!
Dưới ánh trăng sáng như dát bạc, một thiếu nữ nhẹ nhàng bước tới. Đêm nay hình như Dankhag đã trang điểm rất kỹ. Đầu đội mũ lông cừu hình tròn, viền mũ màu tím nhạt, bông tai san hô và trân châu xâu thành chuỗi dài thả xuống hai vai, cô khoác áo da dê ngũ sắc, đeo thắt lưng bằng lụa đỏ. Trông cô giống hệt chú chim công đang xòe cánh trên sân khấu, rực rỡ đến chói mắt.
– Kháp Na, em đi tìm chàng khắp nơi, thị vệ của chàng bảo rằng, chàng đi dạo cùng với một con hồ ly. – Cô ấy bật cười khúc khích, nụ cười điệu đà, kiểu cách. – Thị vệ của chàng bảo rằng, chàng không thích bị quấy rầy khi đi dạo.
Kháp Na đứng lên chào hỏi, giọng nói lạnh lùng, khách sáo:
– Tiểu thư tìm ta có chuyện gì?
– Có chứ!
Cô ả bước lại gần Kháp Na, ánh mắt như lửa cháy chà xát trên người cậu ấy, hai tay đưa lên cao quá đầu, tạo hình những vũ điệu quyến rũ, sau đó vừa xoay như chong chóng vừa cất cao giọng hát:
"Miệt mài hát ca chờ trăng lên
Lòng hân hoan theo câu hát miên man
Này đây thắt lưng em buộc chặt
Không để vầng trăng bỏ cuộc chơi
Lời yêu còn chưa ngỏ cùng chàng."
Không xinh đẹp nhưng Dankhag lại có giọng hát trời phú, bài tình ca quả thực rất lay động lòng người, lúc vút cao thanh thoát, khi lắng đọng, ngọt ngào. Vũ điệu tuy không mềm mại, uyển chuyển, lả lướt như các thiếu nữ người Hán, nhưng lại phóng khoáng, gợi cảm, quyến rũ. Vầng trăng vằng vặc treo trên cao, sức hấp dẫn tỏa ra từ các động tác vũ đạo của Dankhag khiến cho một người đã thưởng thức ca múa nhiều đến mức nhàm chán như Kháp Na cũng bị lôi cuốn đến ngây người.
Khi âm vang sau cùng của lời hát kết thúc, Dankhag xoay người điêu luyện, tạo dáng quỳ yểu điệu trước mặt Kháp Na. Cậu ấy vẫn còn đang chìm đắm trong lời ca, không nói năng chi, gương mặt lạnh lùng lúc trước đã ấm áp và thân thiện hơn rất nhiều. Dankhag cởi thắt lưng, hai tay trịnh trọng dâng đến trước mặt Kháp Na, nét mặt tràn đầy hy vọng:
– Kháp Na, chàng ơi, em và chàng trao đổi thắt lưng để tình ta bền chặt mãi mãi không xa rời nhé!
Kháp Na hoảng hốt, mặt mày biến sắc. Người Tạng vốn khá thoải mái trong chuyện tình cảm nam nữ, khác với người Hán, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Trai gái người Tạng chỉ cần vừa mắt, ưng bụng là trao đổi thắt lưng cho nhau và có thể quan hệ yêu đương mà không chịu sự ràng buộc của hôn ước. Kháp Na giật mình lùi lại vài bước, lắc đầu quầy quậy:
– Tiểu thư, không thể được, ta đã có vợ.
– Em đã tìm hiểu và biết rằng người vợ Mông Cổ của chàng hơn chàng những tám tuổi, hai người không hợp nhau.
Khóe môi treo một nụ cười đầy ẩn ý, Dankhag từ từ đứng dậy, chiếc áo khoác buông xuống ngang eo, ánh trăng mơn man trên bộ ngực căng tràn sức sống của cô. Kháp Na đỏ mặt, hấp tấp quay người đi. Dankhag lao tới siết chặt eo Kháp Na, áp người vào lưng cậu ấy, kiễng chân ghì môi vào cổ cậu ấy, hôn nồng nhiệt, giọng nói như mê đi:
– Chàng ơi, chàng hãy yêu em đi!
Kháp Na giận tái mặt, ra sức vùng thoát, trốn tránh như tránh tà:
– Xin tiểu thư hãy tự trọng! Đừng ép ta phải coi thường cô!
Bất chấp giá rét của đêm mùa đông, Dankhag vẫn để mình trần lao vào Kháp Na. Sau khi bị từ chối lần thứ hai, cô ả bực tức túm lấy cánh tay Kháp Na:
– Chàng lớn lên ở Trung Nguyên nên nhiễm tính hủ hậu của người Hán mất rồi! Người Tạng chúng ta chỉ cần ưng ai là có thể vào rừng cùng người đó, chuyện đó có gì ghê gớm đâu. Chàng có còn là người Tạng nữa không?
Gương mặt đỏ như gấc chín vì xấu hổ của Kháp Na dần chuyển sáng màu tía của cơn thịnh nộ đang dâng lên ngùn ngụt, cậu hất tay Dankhag ra khỏi người mình:
– Đối với cô chuyện đó không có gì ghê gớm, nhưng đối với ta lại hết sức thiêng liêng, điều này chẳng liên quan gì đến việc ta có là người Tạng hay không!
Không muốn nấn ná, đôi co thêm, Kháp Na sải bước rời khỏi đó. Dankhag đuổi theo nhưng không theo kịp, tức tối gào lên ở phía sau:
– Dankhag này xin thề với Phật Tổ, dù phải chịu đày đọa nơi lục đạo luân hồi [3], ta cũng quyết lấy bằng được chàng!
Ánh trăng mờ dần, khí lạnh thấu xương, tiếng thét của Dankhag vang vọng giữa sơn cốc, tựa như âm thanh của loài quỷ ám đeo bám Kháp Na. Những năm tháng sau này tôi vẫn lạnh tim mỗi khi nhớ lại tiếng kêu như yểm vào số phận của Kháp Na thứ bùa chú đáng sợ trong đêm đó. Nó là khơi nguồn của một bi kịch thê thảm khác của cuộc đời cậu ấy.
.
– Ân sủng mà Hốt Tất Liệt dành cho Bát Tư Ba khó ai sánh bằng. Ông ban cho Bát Tư Ba vô số ngọc ngà, châu báu, ngay cả những người thân cận cũng nhờ có cậu ấy mà một bước lên mây. – Tôi xòe tay nhẩm tính. – Lấy ví dụ nhé, người hầu cận thân thiết nhất của Bát Tư Ba là Besangbo, vốn thuộc tộc người Nạp Tây, cư trú ở vùng Hoàng Trung, giới Cụ túc, sau đó tiếp tục đi theo chăm sóc khi cậu ấy đến Đại Đô. Hốt Tất Liệt vì trọng dụng Bát Tư Ba nên cũng yêu mến Besangbo, phong tước vạn hộ hầu cho cậu ta và ban cho gia tộc Nạp Tây của cậu ta toàn bộ đất đai thuộc vùng Hoàng Trung, Thanh Hải.
Chàng trai trẻ tươi cười:
– Một người làm quan, cả họ được nhờ! Thế nên những người anh em cùng cha khác mẹ của Bát Tư Ba lặn lội đến nương nhờ cậu ấy cũng là phải thôi.
Tôi lặng ngắm chiếc chuông gió leng kenh giữa cơn bão ào ạt ngoài cửa sổ, tâm tư chìm đắm trong những kỷ niệm xưa cũ, lúc ngẩng lên thì bắt gặp ánh mắt đợi chờ của chàng trai trẻ. Tôi thở dài, cất giọng não nề:
– Năm 1260 là một năm hết sức đặc biệt đối với cả Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba và Kháp Na.
Chàng trai trẻ gật gù:
– Theo tôi được biết thì vào năm này, Hốt Tất Liệt đã xưng đế, Bát Tư Ba được phong làm quốc sư, nhưng còn Kháp Na thì vì sao lại là năm đặc biệt?
Cơn đau ùa đến vò xé tâm can, tưởng như có thể giã nát tim tôi. Tôi cắn môi im lặng hồi lâu, một lúc sau mới ngẩng đầu, từng tiếng một thoát ra đầy khó khăn:
– Cuộc hôn nhân chính trị thứ hai.
[3] Lục đạo luân hồi: là sáu đường luân hồi (đầu thai chuyển kiếp) lên xuống liên tiếp của chúng sinh. Theo Phật giáo, chúng sinh tùy theo căn quả thiện ác mà được chuyển vào những kiếp sau: 1. Trời (tiên); 2. A-tu-la (thần); 3. Người; 4. Địa ngục; 5. Quỷ (ma đói); 6. Súc sinh (thú vật). (DG)
Chương 22 - Bạch Lan Vương.
"Bậc học giả nghiên cứu kho tri thức,
tạo thành quả cho đời;
Kẻ tầm thường vận dụng vốn hiểu biết,
giúp bản thân lóe sáng."
Hốt Tất Liệt quay lại hỏi Khabi:
– Mukaton năm nay bao nhiêu tuổi? Hình như cũng không còn trẻ nữa thì phải?
Khabi ý nhị lấy khăn tay che miệng, ghé vào tai Hốt Tất Liệt thì thào:
– Thần thiếp nhớ là qua Tết, công chúa Mukaton sẽ bước sang tuổi ba mươi mốt.
– Ba mươi tuổi vẫn chưa sinh con ư? – Hốt Tất Liệt cau mày, vẻ mặt đầy lo âu. – Quốc sư từng nói với ta về truyền thống của giáo phái Sakya, rằng người kế nhiệm ngôi vị pháp vương của đời tiếp theo phải là con trai của người em út. Mà người em út đó phải sinh được hai người con trai, một người thừa kế pháp thống, một người nối dõi tông đường, Bạch Lan Vương mới hai mươi ba tuổi, trong khi phu nhân của cậu ấy đã ba mươi mốt tuổi mà vẫn chưa sinh con, nếu cứ như vậy, chuyện con cái phải làm sao đây?
Bát Tư Ba lén nhìn Kháp Na, ánh mắt đầu âu lo. Kháp Na chỉ cúi đầu thinh lặng. Khabi tủm tỉm cười, thẽ thọt bên tai Hốt Tất Liệt:
– Thiếp nghe nói cô cháu họ của người giữ Kháp Na chặt lắm, không cho cậu ấy đến gần bất cứ người phụ nữ nào ngoài cô ấy.
Hốt Tất Liệt tươi cười nhìn Kháp Na:
– Thế này vậy, ta sẽ ban cho cậu một mối duyên tốt đẹp khác.
Đại hãn gọi tên Tsirenja:
– Kể từ khi ta kế ngôi Đại hãn đến nay, ngươi là quý tộc Tạng đầu tiên đến chúc mừng, khiến ta rất vui. Ta quyết định thăng chức cho ngươi từ thiên hộ hầu lên vạn hộ hầu và sẽ chọn ngày tốt để sáp nhập vùng Tingri và Ngamring vào khu vực quản lý của ngươi.
Tsirenja vui mừng khôn tả, vái lạy tạ ơn. Những vùng đất này vốn là đất phong mà Mông Kha Hãn ban cho A Lý Bất Ca, Hốt Tất Liệt làm vậy là muốn đoạt lại đất đai của A Lý Bất Ca về tay mình. Hốt Tất Liệt đưa mắt nhìn sang Dankhag vẫn đang cúi đầu quỳ lạy, cười hỏi:
– Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi? Đã hứa gả cho ai chưa?
Tsirenja vội thưa:
– Bẩm, con gái Dankhag của thần năm nay trong mười sáu tuổi, vẫn chưa đính ước với ai.
– Tốt lắm, vậy ta sẽ ban hôn ước cho hai gia đình các khanh.
Yeshe đứng trong hàng ngũ quần thần, lòng như lửa đốt, liên tục đưa mắt ra hiệu cho Bát Tư Ba. Nhưng vì cậu ta đứng khuất xa nên tín hiệu hầu như không đến được với người nhận. Yeshe sốt ruột, lẳng lặng dịch chuyển lên phía trước, để có thể đến gần Bát Tư Ba. Nhưng vừa nhích lên một chút, đã nghe giọng nói sang sảng của Hốt Tất Liệt trên ngai cao vang lên:
– Ta tuyên bố ban hôn ước cho Kháp Na Đa Cát và Dankhag!
Náu mình trên xà ngang của đại điện, tôi giật mình thảng thốt, vội vàng đưa mắt quan sát biểu cảm của từng người đang có mặt khi đó. Yeshe như bị sét đánh trúng, quên sạch mọi lễ nghi, trơ mắt nhìn Hốt Tất Liệt. Kháp Na đờ đẫn hồi lâu, mới miễn cưỡng quỳ xuống lĩnh chỉ, bên cạnh là tiếng dập đầu tạ ơn vang dội của cha con Tsirenja. Bát Tư Ba vẫn điềm nhiên, bình thản như thường ngày, cậu chắp tay vái lạy Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt cười vang:
– Ta biết tình cảm huynh đệ của hai khanh rất mực khăng khít. Những năm Kháp Na sống ở Lương Châu, quốc sư ngày đêm thương nhớ. Thế này đi, Kháp Na không cần về Lương Châu nữa. Ta sẽ ban cho cậu phủ Bạch Lan Vương kế bên phủ Quốc sư, như vậy, hai huynh đệ có thể gặp nhau hằng ngày, quốc sư cũng được vững tâm hơn.
Rồi ngài quay sang Khabi, cười rung cả râu:
– Hoàng hậu xem nên tổ chức hôn lễ vào ngày nào?
Khabi mỉm cười e lệ, dịu dàng thưa:
– Theo thiếp, hôn lễ cử hành càng sớm càng tốt, nếu không, Mukaton hay chuyện sẽ tới đây phá bĩnh đó.
Hốt Tất Liệt nổi hứng, nháy mắt với Khabi:
– Ha ha, phải lắm!
Rồi ngài hắng giọng, tuyên bố:
– Ăn Tết Nguyên tiêu xong, Mười sáu tháng Giêng là ngày lành tháng tốt, ta sẽ cùng hoàng hậu và các hoàng tử đến dự đám cưới của hai khanh.
Quần thần quỳ lạy tung hô vạn tuế. Giữa đám đông chen chân trên đại điện ấy, tôi thấy một người lén lút nhìn lên, ánh mắt chất chứa uất hận chiếu thẳng vào Bát Tư Ba.
Phủ Bạch Lan Vương nằm đối diện phủ quốc sư, đây vốn là phủ đệ của tể tướng nước Kim năm xưa. Trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá, kiến trúc vẫn còn nguyên. Mấy ngày qua, đội thợ được lệnh trùng tu cả ngày lẫn đêm để kịp hoàn tất ba gian nhà phía trước Vương phủ, chuẩn bị cho lễ cưới. Đội thợ bao gồm cả người Kim, người Hán và người Tạng, kiến trúc của phủ Bạch Lan Vương mang đậm đặc trưng kiến trúc của người Tạng.
Điểm nổi bật nhất là màu sắc trên tường nhà, đó là sự kết hợp đan xen của ba màu: đỏ, trắng và xanh. Màu đỏ tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù, màu trắng tượng trưng cho Bồ Tát Quan Âm, màu xanh tượng trưng cho Bồ Tát Kim Cương Thủ. Sự kết hợp của ba màu sắc là nét đặc sắc riêng có của giáo phái Sakya. Ở đất Tạng, phái Sakya còn được gọi là "Hoa giáo" cũng bởi nguyên nhân này. Sự phối hợp của những gam màu đậm, rực rỡ, bắt mắt khiến phủ Bạch Lan Vương trở nên rất nổi bật ở Yên Kinh, từ xa cũng có thể dễ dàng nhận ra.
Khi tấm biển "Phủ Bạch Lan Vương" được treo lên, rất đông người dân Yên Kinh đã nô nức kéo về đây chiêm ngưỡng, chỉ trong chốc lát, con ngõ nhỏ phía trước cổng phủ đã chật như nêm, người ta chỉ trỏ, bình luận rồi xuýt xoa ca ngợi, tán thưởng. Tấm biển do chính tay Đại hãn đề bút ngự ban, tìm khắp thành Yên Kinh cũng chẳng mấy ai có được vinh dự này.
Thế nhưng chủ nhân của Vương phủ nổi tiếng ấy lại chẳng ỏ ê gì đến công cuộc tu sửa nơi ở của mình, giao phó mọi thứ cho người hầu cận đáng tin cậy nhất của Bát Tư Ba là Besangbo. Cậu ấy không chịu gặp bất cứ ai ngoài Bát Tư Ba. Dankhag nhiều lần đến tìm đều phải ra về trong tức tối, ngay cả bố vợ tương lại, cậu ấy cũng chẳng buồn tiếp đón. Cậu ấy giam mình trong phủ Quốc sư, bầu bạn với rượu, uống say bí tỉ lại lăn ra ngủ, đám thợ may phải nhân lúc cậu ấy ngủ say mới dám lại gần đo đạc để may trang phục cho chú rể.
– Kháp Na, chỉ còn mấy ngày nữa là đến hôn lễ, đệ định say khướt thế này đến bao giờ hả?
Bát Tư Ba giằng lấy bình rượu trong lòng Kháp Na, tức giận ném xuống đất. Tiếng vỡ "choang" của bình rượu khiến Kháp Na tỉnh táo đôi chút.
– Đại ca đó à! – Kháp Na mắt nhắm mắt mở, đồng tử vằn vện những tia màu đỏ. – Huynh đừng lo, hôm đó đệ sẽ tề chỉnh, không để huynh mất mặt đâu. Nhưng còn vài ngày nữa, huynh hãy để cho đệ được tự do, thoải mái. Đây vốn dĩ là cuộc hôn nhân chính trị, ai bảo đệ là con trai út của giáo phái Sakya kia chứ? Đệ không thể thoát khỏi định mệnh này, chỉ có thể thuận theo. Đệ uống rượu chẳng qua vì muốn thời gian trôi nhanh hơn mà thôi.
Hơi rượu nồng nặc phả ra từ thân thể Kháp Na khiến Bát Tư Ba chau mày. Cậu ấy nhẹ nhàng phủi những hạt bụi bám trên y phục của em trai, dịu dàng động viên:
– Kháp Na, ta biết đệ chưa có nhiều tình cảm với Dankhag, đó là vì hai người mới quen biết nhau, chưa nhận ra ưu điểm của nhau thôi. Cô ấy là người Tạng, giống chúng ta, đệ chung sống với cô ấy sẽ thoải mái hơn với Mukaton. Hơn nữa, cô ấy lại trẻ trung, khỏe mạnh...
– Lại là chuyện con cái phải không? – Gương mặt Kháp Na đột nhiên trắng bệch đến đáng sợ, cậu ấy bật cười, ngắt lời anh trai. – Đệ có thích cô ấy hay không không quan trọng, quan trọng là cô ấy sẽ sinh ra người kế thừa pháp thống của giáo phái.
Hốt Tất Liệt quay lại hỏi Khabi:
– Mukaton năm nay bao nhiêu tuổi? Hình như cũng không còn trẻ nữa thì phải?
Khabi ý nhị lấy khăn tay che miệng, ghé vào tai Hốt Tất Liệt thì thào:
– Thần thiếp nhớ là qua Tết, công chúa Mukaton sẽ bước sang tuổi ba mươi mốt.
– Ba mươi tuổi vẫn chưa sinh con ư? – Hốt Tất Liệt cau mày, vẻ mặt đầy lo âu. – Quốc sư từng nói với ta về truyền thống của giáo phái Sakya, rằng người kế nhiệm ngôi vị pháp vương của đời tiếp theo phải là con trai của người em út. Mà người em út đó phải sinh được hai người con trai, một người thừa kế pháp thống, một người nối dõi tông đường, Bạch Lan Vương mới hai mươi ba tuổi, trong khi phu nhân của cậu ấy đã ba mươi mốt tuổi mà vẫn chưa sinh con, nếu cứ như vậy, chuyện con cái phải làm sao đây?
Bát Tư Ba lén nhìn Kháp Na, ánh mắt đầu âu lo. Kháp Na chỉ cúi đầu thinh lặng. Khabi tủm tỉm cười, thẽ thọt bên tai Hốt Tất Liệt:
– Thiếp nghe nói cô cháu họ của người giữ Kháp Na chặt lắm, không cho cậu ấy đến gần bất cứ người phụ nữ nào ngoài cô ấy.
Hốt Tất Liệt tươi cười nhìn Kháp Na:
– Thế này vậy, ta sẽ ban cho cậu một mối duyên tốt đẹp khác.
Đại hãn gọi tên Tsirenja:
– Kể từ khi ta kế ngôi Đại hãn đến nay, ngươi là quý tộc Tạng đầu tiên đến chúc mừng, khiến ta rất vui. Ta quyết định thăng chức cho ngươi từ thiên hộ hầu lên vạn hộ hầu và sẽ chọn ngày tốt để sáp nhập vùng Tingri và Ngamring vào khu vực quản lý của ngươi.
Tsirenja vui mừng khôn tả, vái lạy tạ ơn. Những vùng đất này vốn là đất phong mà Mông Kha Hãn ban cho A Lý Bất Ca, Hốt Tất Liệt làm vậy là muốn đoạt lại đất đai của A Lý Bất Ca về tay mình. Hốt Tất Liệt đưa mắt nhìn sang Dankhag vẫn đang cúi đầu quỳ lạy, cười hỏi:
– Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi? Đã hứa gả cho ai chưa?
Tsirenja vội thưa:
– Bẩm, con gái Dankhag của thần năm nay trong mười sáu tuổi, vẫn chưa đính ước với ai.
– Tốt lắm, vậy ta sẽ ban hôn ước cho hai gia đình các khanh.
Yeshe đứng trong hàng ngũ quần thần, lòng như lửa đốt, liên tục đưa mắt ra hiệu cho Bát Tư Ba. Nhưng vì cậu ta đứng khuất xa nên tín hiệu hầu như không đến được với người nhận. Yeshe sốt ruột, lẳng lặng dịch chuyển lên phía trước, để có thể đến gần Bát Tư Ba. Nhưng vừa nhích lên một chút, đã nghe giọng nói sang sảng của Hốt Tất Liệt trên ngai cao vang lên:
– Ta tuyên bố ban hôn ước cho Kháp Na Đa Cát và Dankhag!
Náu mình trên xà ngang của đại điện, tôi giật mình thảng thốt, vội vàng đưa mắt quan sát biểu cảm của từng người đang có mặt khi đó. Yeshe như bị sét đánh trúng, quên sạch mọi lễ nghi, trơ mắt nhìn Hốt Tất Liệt. Kháp Na đờ đẫn hồi lâu, mới miễn cưỡng quỳ xuống lĩnh chỉ, bên cạnh là tiếng dập đầu tạ ơn vang dội của cha con Tsirenja. Bát Tư Ba vẫn điềm nhiên, bình thản như thường ngày, cậu chắp tay vái lạy Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt cười vang:
– Ta biết tình cảm huynh đệ của hai khanh rất mực khăng khít. Những năm Kháp Na sống ở Lương Châu, quốc sư ngày đêm thương nhớ. Thế này đi, Kháp Na không cần về Lương Châu nữa. Ta sẽ ban cho cậu phủ Bạch Lan Vương kế bên phủ Quốc sư, như vậy, hai huynh đệ có thể gặp nhau hằng ngày, quốc sư cũng được vững tâm hơn.
Rồi ngài quay sang Khabi, cười rung cả râu:
– Hoàng hậu xem nên tổ chức hôn lễ vào ngày nào?
Khabi mỉm cười e lệ, dịu dàng thưa:
– Theo thiếp, hôn lễ cử hành càng sớm càng tốt, nếu không, Mukaton hay chuyện sẽ tới đây phá bĩnh đó.
Hốt Tất Liệt nổi hứng, nháy mắt với Khabi:
– Ha ha, phải lắm!
Rồi ngài hắng giọng, tuyên bố:
– Ăn Tết Nguyên tiêu xong, Mười sáu tháng Giêng là ngày lành tháng tốt, ta sẽ cùng hoàng hậu và các hoàng tử đến dự đám cưới của hai khanh.
Quần thần quỳ lạy tung hô vạn tuế. Giữa đám đông chen chân trên đại điện ấy, tôi thấy một người lén lút nhìn lên, ánh mắt chất chứa uất hận chiếu thẳng vào Bát Tư Ba.
Phủ Bạch Lan Vương nằm đối diện phủ quốc sư, đây vốn là phủ đệ của tể tướng nước Kim năm xưa. Trải qua nhiều năm chiến tranh tàn phá, kiến trúc vẫn còn nguyên. Mấy ngày qua, đội thợ được lệnh trùng tu cả ngày lẫn đêm để kịp hoàn tất ba gian nhà phía trước Vương phủ, chuẩn bị cho lễ cưới. Đội thợ bao gồm cả người Kim, người Hán và người Tạng, kiến trúc của phủ Bạch Lan Vương mang đậm đặc trưng kiến trúc của người Tạng.
Điểm nổi bật nhất là màu sắc trên tường nhà, đó là sự kết hợp đan xen của ba màu: đỏ, trắng và xanh. Màu đỏ tượng trưng cho Bồ Tát Văn Thù, màu trắng tượng trưng cho Bồ Tát Quan Âm, màu xanh tượng trưng cho Bồ Tát Kim Cương Thủ. Sự kết hợp của ba màu sắc là nét đặc sắc riêng có của giáo phái Sakya. Ở đất Tạng, phái Sakya còn được gọi là "Hoa giáo" cũng bởi nguyên nhân này. Sự phối hợp của những gam màu đậm, rực rỡ, bắt mắt khiến phủ Bạch Lan Vương trở nên rất nổi bật ở Yên Kinh, từ xa cũng có thể dễ dàng nhận ra.
Khi tấm biển "Phủ Bạch Lan Vương" được treo lên, rất đông người dân Yên Kinh đã nô nức kéo về đây chiêm ngưỡng, chỉ trong chốc lát, con ngõ nhỏ phía trước cổng phủ đã chật như nêm, người ta chỉ trỏ, bình luận rồi xuýt xoa ca ngợi, tán thưởng. Tấm biển do chính tay Đại hãn đề bút ngự ban, tìm khắp thành Yên Kinh cũng chẳng mấy ai có được vinh dự này.
Thế nhưng chủ nhân của Vương phủ nổi tiếng ấy lại chẳng ỏ ê gì đến công cuộc tu sửa nơi ở của mình, giao phó mọi thứ cho người hầu cận đáng tin cậy nhất của Bát Tư Ba là Besangbo. Cậu ấy không chịu gặp bất cứ ai ngoài Bát Tư Ba. Dankhag nhiều lần đến tìm đều phải ra về trong tức tối, ngay cả bố vợ tương lại, cậu ấy cũng chẳng buồn tiếp đón. Cậu ấy giam mình trong phủ Quốc sư, bầu bạn với rượu, uống say bí tỉ lại lăn ra ngủ, đám thợ may phải nhân lúc cậu ấy ngủ say mới dám lại gần đo đạc để may trang phục cho chú rể.
– Kháp Na, chỉ còn mấy ngày nữa là đến hôn lễ, đệ định say khướt thế này đến bao giờ hả?
Bát Tư Ba giằng lấy bình rượu trong lòng Kháp Na, tức giận ném xuống đất. Tiếng vỡ "choang" của bình rượu khiến Kháp Na tỉnh táo đôi chút.
– Đại ca đó à! – Kháp Na mắt nhắm mắt mở, đồng tử vằn vện những tia màu đỏ. – Huynh đừng lo, hôm đó đệ sẽ tề chỉnh, không để huynh mất mặt đâu. Nhưng còn vài ngày nữa, huynh hãy để cho đệ được tự do, thoải mái. Đây vốn dĩ là cuộc hôn nhân chính trị, ai bảo đệ là con trai út của giáo phái Sakya kia chứ? Đệ không thể thoát khỏi định mệnh này, chỉ có thể thuận theo. Đệ uống rượu chẳng qua vì muốn thời gian trôi nhanh hơn mà thôi.
Hơi rượu nồng nặc phả ra từ thân thể Kháp Na khiến Bát Tư Ba chau mày. Cậu ấy nhẹ nhàng phủi những hạt bụi bám trên y phục của em trai, dịu dàng động viên:
– Kháp Na, ta biết đệ chưa có nhiều tình cảm với Dankhag, đó là vì hai người mới quen biết nhau, chưa nhận ra ưu điểm của nhau thôi. Cô ấy là người Tạng, giống chúng ta, đệ chung sống với cô ấy sẽ thoải mái hơn với Mukaton. Hơn nữa, cô ấy lại trẻ trung, khỏe mạnh...
– Lại là chuyện con cái phải không? – Gương mặt Kháp Na đột nhiên trắng bệch đến đáng sợ, cậu ấy bật cười, ngắt lời anh trai. – Đệ có thích cô ấy hay không không quan trọng, quan trọng là cô ấy sẽ sinh ra người kế thừa pháp thống của giáo phái.
Bát Tư Ba thở dài buồn bã:
– Những năm qua đệ sống trong sự kìm kẹp của Công chúa, ta biết đệ rất khổ sở. Ta luôn hy vọng bên cạnh đệ có một người phụ nữ hiền thục, dịu dàng, nhân hậu. Nhưng nếu không phải hôn ước do Đại hãn ban cho, chỉ e Công chúa Mukaton sẽ không chịu cho đệ nạp thêm thê thiếp khác. Nếu vậy, phái Sakya sẽ chẳng còn hy vọng gì nữa.
Kháp Na lảo đảo đứng lên, kinh ngạc nhìn Bát Tư Ba:
– Người muốn cưới Dankhag là anh ba, không phải đệ, vì sao Đại hãn lại đột nhiên ban hôn ước cho đệ? Có phải do huynh sắp đặt không?
Tôi thất kinh, quay sang Bát Tư Ba:
– Lâu Cát, vì sao cậu làm vậy? Tối hôm đó, khi Yeshe đến cầu xin cậu, cậu đã nhận lời kia mà?
– Ta chưa từng hứa với đệ ấy điều gì, ta chỉ nói rằng sẽ lo liệu.
Hàng lông mày xô lại, Bát Tư Ba quay sang nhìn người em trai chưa hết bàng hoàng:
– Nhiều ngày trước, Đại hãn nói với ta rằng ngài muốn lôi kéo Tsirenja, thăng chức cho ông ta làm vạn hộ hầu, cắt đất phong ở Tufan của A Lý Bất Ca giao cho ông ta cai quản. Khi ấy, ta đã mở lời xin Đại hãn ban hôn ước cho đệ.
Tôi sửng sốt:
– Thì ra trước khi Yeshe đến nhờ cậy, cậu đã sắp đặt xong xuôi hôn sự này rồi?
Bát Tư Ba bước đến, đỡ lấy cơ thể ngả nghiêng, xiêu vẹo của Kháp Na:
– Em ba là người có dã tâm lớn, từ lâu đã rất bất mãn với xuất thân thấp kém của mình, chắc chắn ngày sau sẽ chẳng chịu an phận. Sau khi được phong làm vạn hộ hầu, đất đai của Tsirenja sẽ tăng gấp mười lần. Nếu để đệ ấy cai quản vùng đất lớn như thế, chỉ e sẽ sinh lòng phản trắc, khi ấy, phái Sakya nguy mất.
– Nếu đệ cưới Dankhag thì huynh chẳng còn phải bận tâm gì nữa. Thanh thế và thực lực của giáo phái sẽ ngày càng mạnh hơn. Ngoài ra, huynh có thể mượn danh nghĩa của Đại hãn buộc Mukaton phải chấp nhận việc đệ nạp thêm thê thiếp, như vậy, giáo phái sẽ không phải lo việc không có người kế nghiệp nữa. Ha ha, đại ca thật khéo tính toán!
Kháp Na gạt tay Bát Tư Ba ra khỏi người mình, tiếng cười chất chứa nỗi chua cay, giận dỗi:
– Thế nên huynh chẳng thèm hỏi xem đệ có bằng lòng hay không, đã vội sắp xếp tất cả!
– Kháp Na, ta làm thế là vì đệ!
Bát Tư Ba vốn định bước đến khuyên giải nhưng cậu ấy sững lại khi nhận ra nỗi bi thương chất chứa trong đôi mắt em trai. Cậu ấy buồn bã, cắn chặt răng, quay đầu bước đi:
– Nhưng nếu đệ không muốn, ta không ép đệ. Bây giờ ta sẽ đi cầu xin Đại hãn hủy bỏ hôn ước này.
Kháp Na chặn Bát Tư Ba lại, cậu nhìn anh trai chằm chằm, nỗi bi ai như mây đen vần vũ trong mắt. Cậu hé môi cười, nụ cười đẹp đến thê lương:
– Đại ca không cần đâu. Đệ cưới ai cũng thế cả thôi, chỉ cần việc đó có ích cho huynh là được.
Bát Tư Ba lắc đầu chua xót:
– Kháp Na, ta không muốn thấy đệ như vậy.
Rồi chừng như chợt nghĩ ra điều gì, cậu ấy nắm chặt tay Kháp Na, sốt sắng hỏi:
– Kháp Na, người mà đệ thương là ai? Hãy cho ta biết, dù cô ấy là ai, dù cô ấy có thân phận ra sao, dù cô ấy thuộc tộc người nào, ta xin thề với Phật Tổ, nhất định sẽ hỏi cưới cô ấy cho đệ bằng mọi giá!
Kháp Na đờ đẫn rút tay mình ra khỏi bàn tay của anh trai:
– Đệ không có ai cả.
Không muốn cho Bát Tư Ba cơ hội tiếp tục gặng hỏi, Kháp Na tỏ ra bực bội, xoay lưng về phía anh trai:
– Đệ mệt rồi, đệ muốn nghỉ ngơi.
Bát Tư Ba còn muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng cậu ấy chỉ thở dài nhìn theo Kháp Na, không nói thêm gì nữa. Cậu ấy lẳng lặng bước đến trước mặt tôi, cúi xuống, xoa đầu tôi, dặn dò:
– Lam Kha, hãy giúp ta trông chừng Kháp Na, đừng để đệ ấy uống nhiều quá, sẽ tổn hại đến sức khỏe, đệ ấy vốn rất yếu.
Tối hôm đó, sau khi Bát Tư Ba đi khỏi, Kháp Na không uống thêm nữa, cậu ấy nằm trên giường rất lâu, mắt mở to nhìn trân trân lên trần nhà. Cậu ấy đâu thể thấy gì trong đêm tối, vậy mà cái dáng vẻ ấy dường như đã thấu suốt mọi sự và chán chường mọi sự.
Tôi hếch hếch chiếc mũi nhọn của mình vào cánh tay cậu ấy:
– Kháp Na à, cậu bảo muốn đi ngủ vì mệt rồi kia mà!
Cậu ấy quay mặt về phía tôi, ôm tôi vào lòng:
– Tiểu Lam ơi, ngày mai là Tết Nguyên tiêu, thành Yên Kinh sẽ tổ chức hội hoa đăng đó, em đi ngắm hoa đăng với ta nhé!
– Đồng ý!
Cậu ấy giam mình trong phủ Quốc sư đã nhiều ngày nay, chẳng chịu đi đâu, bây giờ lại muốn ra ngoài đi dạo, tất nhiên là tôi đồng ý vô điều kiện.
– Tiểu Lam ơi, ý ta là... – Cậu ấy ngập ngừng, chừng như khó nói. – Em hãy hóa phép thành người đi chơi cùng ta.
Ánh mắt cậu ấy long lanh trong đêm.
– Đây là nguyện vọng duy nhất của ta trước lễ cưới.
Tôi mê man đắm chìm trong đôi mắt như hồ nước sâu hun hút ấy, chỉ biết khe khẽ đáp lại:
– Được.
Kháp Na nở nụ cười rạng rỡ, lúm đồng tiền hút hồn đã lâu tôi không được chiêm ngưỡng. Trong bóng đêm mịt mùng, những giọt nước mắt trong veo như pha lê của Kháp Na khiến tim tôi đột nhiên nhói đau.
.
– Sau khi vương triều Tufan bị diệt vọng, các giáo phái Phật giáo ở Tây Tạng đua nhau mọc lên như nấm sau mưa, đến nay hầu hết đã trải qua bốn trăm năm lịch sử.
Ấm nước trên bếp lò lục bục sôi, hơi nước bốc lên nghi ngút, tôi ra khỏi giường, rót cho mình và chàng trai trẻ hai chén trà nóng.
– Tâm nguyện lớn nhất của đại sư Ban Trí Đạt là thống nhất đất Tạng, nhưng cho đến cuối đời, tâm nguyện đó vẫn chưa được thực hiện nên ngài đã trao lại cho Bát Tư Ba.
Chàng trai trẻ áp hai tay vào cốc trà nóng, trầm ngâm giây lát:
– Tôi còn nhớ, sách sử ghi lại rằng, Tây Tạng trở thành một tỉnh và gia nhập vào bản đồ Trung Quốc vào triều Nguyên. Hẳn là nhờ công lao của Bát Tư Ba.
Tôi gật đầu:
– Khi còn là một vương gia, Hốt Tất Liệt đã không đồng tình với Mông Kha Hãn về việc cắt Tây Tạng thành những mảnh nhỏ chia cho các anh em của mình làm đất phong. Trong số những người từng là lãnh chúa Tây Tạng hồi đó, Mông Kha và Khoát Đoan đã qua đời, Húc Liệt Ngột cầm quân tiến đánh các quốc gia ở vùng Tây Á chưa trở về, còn A Lý Bất Ca từ lâu là đối thủ đáng gờm nhất của Hốt Tất Liệt. Bát Tư Ba đã nhân dịp này đề nghị với Hốt Tất Liệt quy đất Tạng thành một đơn vị hành chính thống nhất để quản lý.
Hốt Tất Liệt là người có tầm nhìn sâu rộng nên đề nghị của Bát Tư Ba rất hợp ý ngài. Vừa lên ngôi Đại hãn, Hốt Tất Liệt đã lập tức thu hồi đất phong ở Tây Tạng của Mông Kha, Khoát Đoan và A Lý Bất Ca, chỉ giữ lại đất phong của Húc Liệt Ngột thuộc phái Pagmodru. Quan hệ giữa Húc Liệt Ngột và anh em Hốt Tất Liệt xưa nay rất tốt, vì muốn lôi kéo Húc Liệt Ngột về phía mình, Hốt Tất Liệt đã quyết định không thu hồi đất phong của ông ta ở Tây Tạng.
Tôi nhấp một ngụm trà nóng:
– Mấy năm sau đó, được sự bảo trợ và ủng hộ của Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba đã tham dự ngày càng sâu vào đời sống chính trị của Tây Tạng, giúp cho vùng đất này thoát khỏi cục diện chia năm xẻ bảy, quyền cai trị dần được tập trung và thống nhất.
Chương 23 - Rằm Tháng Giêng.
"Thông tỏ tri thức uyên thâm, mới xứng danh học giả;
Chỉ biết phân biệt trâu già nghé non, đâu gọi là học vấn."
(Cách ngôn Sakya)
Tôi khoác áo choàng có mũ trùm đầu thật rộng, kiễng chân ngó nghiêng trước con ngõ nhỏ. Đèn lồng lung linh, rực rỡ trước cổng phủ Quốc sư bên kia đường và cổng phủ Bạch Lan Vương bên này đường, dòng người qua lại tấp nập như mắc cửi. Đi tiếp một đoạn không xa là tới hoàng cung. Hốt Tất Liệt cho dựng một tòa hoa đăng lộng lẫy, tráng lệ trước cửa cung điện, đứng ở góc xa mà tôi vẫn có thể nhìn rõ mọi thứ.
Tiếng bước chân ai đó rón rén phía sau, tôi quay lại, bắt gặp nụ cười phơi phới của Kháp Na. Cậu ấy bước ra, giận dỗi:
– Thính giác của em sao mà nhạy bén quá vậy, muốn gây bất ngờ cho em cũng không được.
Cậu ấy mặc áo lụa dài chấm gót màu xanh da trời, viền thêu diềm mây tinh xảo. Cổ đeo chiếc hộp cổ tạc hình Phật, mạ vàng kiểu người Tạng ưa thích, đây vốn là kỷ vật người bác để lại, bên trong là những kinh văn đã được người bác làm lễ gia trì. Cậu ấy thắt dây đai bản rộng màu xanh ngọc bích đính phỉ thúy, giắt một thanh gươm cong nạm đã quý bên hông, đi ủng Mông Cổ, loại ủng với những họa tiết được trang trí rất tinh xảo, méo ủng thêu hình bát bảo đồ [1]. Quả không hổ danh là công tử con nhà, khôi ngô tuấn tú, phong nhã, hào hoa.
Không khỏi ngạc nhiên về sự xuất hiện của bộ ria mép vút cong trên gương mặt cậu, tôi thắc mắc:
– Kiểu hóa trang này...
Cậu ấy vội vã đưa ngón tay lên miệng, làm điệu "suỵt" khẽ rồi vuốt lại ria mép để chắc chắn chúng không bị suy suyễn:
– Đại ca muốn ta theo huynh ấy vào cung ngắm hoa đăng cùng Đại hãn vì đêm nay Đại hãn sẽ lên lầu hoa đăng chung vui với dân chúng nhưng ta cáo bệnh, trốn ra đây.
Cậu ấy ngắm nghía tôi một hồi, hai mắt sáng rỡ:
– Em cũng hóa trang rất độc đáo đấy thôi.
Tôi kéo sụp chiếc mũ trùm xuống che nửa mặt:
– Vì tôi không thể để người ta thấy mái tóc và đôi mắt màu lam của mình.
Kháp Na tỏ vẻ tiếc nuối:
– Em hiếm khi hóa thành người, vậy mà ta lại chẳng được chiêm ngưỡng đôi mắt và mái tóc tuyệt đẹp của em.
Tôi thít chặt áo khoác, nắm tay Kháp Na:
– Ta đi nào, hôm nay sẽ có rất nhiều màn biểu diễn vui nhộn đấy.
Dọc con phố phía trước hoàng cung, người ta chồng hàng vạn chiếc đèn màu lên thành những núi đèn khổng lồ. Quán trà, quán rượu khắp kinh thành sáng rực, đèn hoa giăng kết, lung linh huyền ảo, đan xem giữa biển màu lấp lánh ấy là những màn biểu diễn ca múa sôi động. Tiếng kèn, trống vang dội không ngớt, tiếng pháo râm ran tưng bừng, đèn hoa rực rỡ tỏa chiếu suốt trăm dặm. Cuối con đường này là cổng phía nam của hoàng cung, lầu hoa đăng tráng lệ nguy nga, rực rỡ ánh sáng và màu sắc huyền hoặc tựa thiên cung của Hốt Tất Liệt được dựng tại đây.
Người đi chơi hội đông như mắc cửi, vai chen vai, chân theo chân, đủ mọi tộc người. Từ phục trang, khẩu âm, nước da và hình dáng của họ, tôi nhận ra người Hán, người Khiết Đan, người Kim, người Mông Cổ, người Tạng, người Ba Tư và còn có cả người Tây phương mắt xanh, tóc vàng nữa. Dù không quen biết, dù không cùng sắc tộc, họ vẫn niềm nở chào hỏi, chúc tụng nhau.
Toàn thành Yên Kinh đêm nay không ngủ.
– Đại hãn tới rồi!
Hốt Tất Liệt vận áo khoác dài kiểu Mông Cổ màu đỏ sang trọng, oai vệ bước lên lầu hoa đăng, theo sau là Hoàng hậu Khabi, các hoàng tử và đại thần thân cận. Nhiều người dân Yên Kinh lần đầu được chiêm ngưỡng dung mạo của Nhà vua, háo hức truyền tai nhau. Biển người lập tức đổ về lầu hoa đăng nhưng cấm quân chỉ cho phép họ đứng cách xa mười trượng. Hốt Tất Liệt vẫy tay chào, mỉm cười thân thiện với con dân đang rất mực phấn chấn, ra sức kiễng chân, nghển cổ để được chiêm ngưỡng đấng quân vương. Khabi đài các, trang trọng, Chân Kim khí độ phi phàm, hình ảnh thân thiện của gia đình Hốt Tất Liệt đã để lại trong lòng cư dân thành Yên Kinh những ấn tượng tốt đẹp.
Cậu ấy nổi bật giữa đám đông phía sau Hốt Tất Liệt với áo cà sa màu vàng lấp lánh, càng tôn thêm vóc dáng mảnh khảnh, gầy guộc, mọi cử chỉ, động tác đều rất mực nho nhã, điềm đạm, phong thái bất phàm. Sóng mắt dạt dào, đôi mắt rực ánh hào quang trí tuệ và nỗi niềm thấu suốt cõi nhân sinh. Con người ấy toát ra vẻ tự tin, thư thái, tự tại và sức hấp dẫn trác truyệt khiến người ta chẳng dám nhìn thẳng.
Có tiếng bình luận bên cạnh tôi:
– Vị đại sư đó chính là quốc sư của chúng ta đấy, nghe nói ngài là người Tufan, Đại hãn rất nể trọng ngài.
Các cô gái đỏ hồng đôi má, nghển cổ ngó nghiêng, xì xào bàn tán:
– Không ngờ quốc sư lại trẻ như vậy!
– Và còn rất đẹp trai nữa!
Nghe họ nói về Bát Tư Ba như vậy, tôi lại càng không thể rời mắt khỏi cậu ấy. Tôi những muốn được ở bên cạnh cậu ấy, cùng thưởng lãm lễ hội hoa đăng tưng bừng, náo nhiệt này, nhưng tôi biết là tôi không thể, bởi vì những lúc thế này, cậu ấy nhất định phải tháp tùng Hốt Tất Liệt.
Sau khi Hốt Tất Liệt bước lên đài cao, trên quảng trường trước cổng hậu cung, mấy chục chiếc trống đồng loạt rền vang, khí thế hào hùng. Đội sư tử ngũ sắc, đủ các màu xanh, đỏ, vàng, trắng và đen từ năm hướng khác nhau tiến vào trung tâm vũ hội. Tiếng trống ngày càng dồn dập, sư tử nhào lộn ngày càng cao, những cú xoay mình nhào lộn trên không cực kỳ điêu luyện, đẹp mắt được kết thúc bằng cú phi thiên giành lấy quả cầu vải nhiều màu trên dài cao. Múa sư tử luôn là tiết mục gây hưng phấn nhất đối với đám đông, những tiếng hoan hô tán thưởng như sóng dậy. Từ đài cao, theo lệnh của Hốt Tất Liệt, tiền xu được tung ràn rạt xuống quảng trường, thưởng cho đội sư tử, hệt như ngàn vàn cánh hoa trút xuống từ trời cao.
Tôi ra sức khắc chế bản thân để ánh mắt rời khỏi Bát Tư Ba, chuyển hướng sang đội sư tử, vừa thưởng thức vừa giải thích với Kháp Na:
– Cậu biết không, ở vùng Tây vực có một quốc gia cổ đại tên gọi Khâu Từ. Hoàng tộc Khâu Từ vô cùng sùng bái sư tử, bởi vậy múa sư tử là điệu múa được khởi nguồn từ quốc gia này. Tám trăm năm trước, viên tướng của Trung Nguyên là Lữ Quang cầm quân tấn công Khâu Từ, sau đó đưa về đất Lương Châu vị cao tăng nổi danh thiên cổ, Kumarajiva và rất nhiều nghệ nhân Khâu Từ. Từ đó, múa sư tử thâm nhập vào văn hóa của người Hán, được cải biên thành múa sư tử của Trung Nguyên và lưu truyền đến ngày nay.
Kháp Na không khỏi ngạc nhiên:
– Vậy ư? Sao em biết được chuyện đó?
Tôi dương dương tự đắc, lè lưỡi tinh nghịch:
– Dù gì tôi cũng hơn cậu ba trăm tuổi!
Tiếp theo là đội múa rồng, mấy chục lực sĩ người Hán để mình trần, nâng trên tay thân rồng khổng lồ, len lỏi qua những dải hoa đăng bồng bềnh, rực rỡ, động tác uyển chuyển, lên xuống nhịp nhàng, chạy đuổi theo quả cầu vải nhiều màu phía trước, diễn trò vờn bắt. Pháo hoa nổ vang trời, trống nện thình thình, thân rồng uốn lượn bay bổng giữa không trung, cảnh tượng rất hùng tráng, không khí sôi động lạ thường.
Lễ hội trở nên tưng bừng hơn bao giờ, đám đông vỗ tay không ngớt, ngay cả Đại hãn Hốt Tất Liệt cũng được truyền cảm hứng bởi bầu không khí náo nức ấy, ngài tươi cười sảng khoái trên đài cao. Ánh mắt tôi như bị thôi miên, lại gắn chặt vào bóng dáng ăn nhiên, thoát tục phía sau Hốt Tất Liệt. Cậu ấy nở nụ cười hồn hậu, gương mặt thư thái, tĩnh tại như nước hồ, đôi mắt sâu hun hút, đồng tử long lanh, thuần khiết.
[1] Bát bảo hay bát bảo cát tường là tám vật may mắn, bao gồm: pháp luân (bánh xe), vỏ ốc (pháp hoa), tán (chiếc dù), lọng trắng, hoa sen, bảo bình, cá vàng và nút thắt may mắn. Theo quan niệm của nhà Phật, sự hiện hữu của bát bảo cát tường mang đến cho người ta sự may mắn, an lành về đời sống vật chất và tinh thần. (DG)
Đang mê mải ngắm nhìn, bỗng cánh tay ai đó kéo tôi giật lùi về phía sau. Tôi quay lại, bắt gặp gương mặt âu lo của Kháp Na, vội hỏi:
– Đi đâu vậy? Ở đây đang vui mà!
Kháp Na không dừng bước, che chắn cho tôi, lách ra khỏi đám đông vây khốn, lí nhí giải thích:
– Đại ca đang ở trên đó, ta sợ huynh ấy sẽ nhìn thấy.
Giọng nói ngập ngừng chốc lát, nhưng rất nhanh đã lấy lại hứng khởi:
– Chúng ta đến khu chợ phía đông nhé, nghe nói ở đó có hội đố chữ, cũng đông vui không kém.
Cậu ấy nắm chặt tay tôi suốt đường đi như sợ tôi lạc mất. Giữa đêm lạnh mà bàn tay cậu ấy nóng rát, lòng bàn tay đẫm mồ hôi. Giữa dòng người nô nức, tôi nhận thấy rất nhiều cặp nam thanh nữ tú điệu bộ thân mật, ngượng ngùng đang vai kề vai thưởng lãm hoa đăng.
Tôi bỗng thấy nao nao khi ngắm nhìn cảnh tượng này. Nếu như... nếu như tôi và người đó có thể tay trong tay cùng nhau ngắm hoa đăng thì sẽ thế nào nhỉ? Hẳn sẽ rất ngọt ngào. Tôi cứ mải mê nhìn từng đôi uyên ương rồi thở dài:
– Tôi còn nhớ, có nhà thơ người Hán từng viết rằng: "Năm ngoái đêm nguyên tiêu – Chợ hoa đèn rực rỡ – Ngọn liễu mảnh trăng treo – Hoàng hôn người hẹn ước" [2]
Kháp Na siết chặt tay tôi, lắc đầu:
– Bài thơ này không hay.
Tôi ngỡ ngàng, tuy tôi biết cậu ấy từng nghiên cứu tiếng Hán nhưng phần nhiều là sách kinh điển của Nho gia và sách sử, tôi đâu ngờ cậu ấy đọc cả thơ ca của người Hán, bèn hỏi:
– Vì sao không hay?
– Em không biết bốn câu cuối sao? "Năm nay đêm nguyên tiêu – Trăng với đèn như trước – Chẳng gặp người năm qua – Tay áo đầm lẹ ướt."
Cậu ấy dừng bước, quay đầu nhìn tôi:
– Rằm tháng Giêng sang năm, ta vẫn muốn được cùng em đi ngắm hoa đăng.
Chuỗi đèn lồng trên cửa quán rượu ven đường hắt ánh sáng màu đỏ rực rỡ lên gương mặt cậu ấy. Gương mặt hao gầy với chiếc cằm đẹp như tạc, đôi mắt sáng, dịu dàng, đăm đăm nhìn tôi, chờ đợi.
Ánh mắt ấy khiến tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội. Tôi cúi đầu, đá viên cuội nhỏ dưới chân:
– Được chứ, tôi hứa với cậu!
Đoán được cậu ấy định nói điều gì, tôi vội ngắt lời:
– Tôi sẽ hóa thành người.
Cậu ấy tươi cười, khuôn mặt bừng sáng, đôi mắt long lanh như vì sao đêm lạnh, má lúm đồng tiền tinh nghịch thoáng ẩn thoáng hiện. Nhiều năm sau, tôi vẫn nhớ như in đêm rằm tháng Giêng lung linh, huyền ảo đó và nụ cười mãn nguyện giữa hàng lông mày thanh thoát, sưởi ấm cả không gian xung quanh của Kháp Na.
Cậu ấy kéo tôi vào sát lề đường, hân hoan nói:
-Chúng ta đi giải câu đố nào!
Người ta chăng kết vô số những chiếc đèn lồng với đủ hình dáng và màu sắc. Dưới mỗi lồng đèn đều treo một mảnh giấy, câu đố được ghi trên đó. Người xem cứ thoải mái kéo mảnh giấy xuống và mang câu trả lời đến cho ban tổ chức, nếu đáp án chính xác, sẽ được nhận những phần thưởng nho nhỏ như hộp phấn, chiếc quạt giấy, hoa giấy, túi thơm. Nếu đáp án sai, phải bỏ vào chiếc hộp đặt ở bên cạnh ban tổ chức năm quan tiền. Tiền phạt không cao, vui là chính. Bởi vậy, trò chơi này thu hút rất đông bà con tới tham dự, bàn làm việc của ban tổ chức chốc chốc lại rộ lên những tràng cười giòn tan.
– Tiểu Lam à, ta đã nhắm một phần thưởng, nhất định sẽ giành lấy để tặng em.
Kháp Na tự tin, hăm hở bước vào trận đồ của vô vàn đèn hoa và câu đối, bắt đầu lật mở từng trang giấy đang bay bay trong gió khuya. Kháp Na lúc đăm chiêu suy ngẫm vẫn đẹp trai lạ thường. Dòng người ào tới, trong nháy mắt cậu ấy bỗng khuất dạng. Không cảm nhận được hơi thở và bước chân cậu ấy nữa, tôi giật mình sợ hãi, quên cả lời căn dặn, cứ thế lao vào biển người tìm kiếm.
Đèn hoa rực rỡ, cảnh tượng như mơ, những làn khói nến nhè nhẹ tỏa trong không trung, bóng người chập chờn, như mơ như thực, tôi mải miết kiếm tìm bóng dáng cao gầy, mảnh khảnh ấy giữa đèn hoa lung linh, huyền hoặc. Không biết đã ngẩn ngơ trước khung cảnh hư ảo ấy bao lâu, tôi mới chợt nghe thấy giọng nói trong như nước suối giữa đại ngàn của cậu ấy:
– Tiểu Lam, ta ở đây!
Ngoảnh lại, thấy cậu ấy đứng cách tôi không xa, gió lạnh thổi làm vạt áo khoác màu lam của cậu ấy tung bay phần phật, đôi mắt long lanh nhìn tôi đăm đăm. Khoảnh khắc ấy, tôi chợt thấy mắt mình nhòe ướt. Cảm giác: "Tìm chàng giữa biển người chìm nổi – Đột nhiên ngoảnh lại – Thấy chàng ngay trước mắt – Dưới tàn lửa lung linh." [3] là như thế sao?
Cậu ấy cầm trên tay một mảnh giấy, tôi sợ cậu ấy nhận ra vẻ buồn thương vô cớ trên gương mặt mình nên vội chạy đến, cùng cậu ấy đọc câu đố. Lạ lùng quá, đó chỉ là một tờ giấy trắng tinh, không có chữ. Ở một góc nhỏ của mặt giấy bên kia có viết: Đây là tên một loại thảo dược.
Kháp Na bước tới bàn giải câu đố, chìa tờ giấy ra, mỉm cười đọc to đáp án bằng thứ tiếng Hán rõ ràng, mạch lạc:
– Bạch chi.[4]
Ban tổ chức đồng loạt vỗ tay tán thưởng. Vì đây là một câu đố hóc búa nên ban tổ chức quyết định dành cho Kháp Na quyền tự chọn phần thưởng. Không hề do dự, cậu ấy đã lựa một sợi dây buộc tóc màu lam nhạt.
– Tiểu Lam, tặng em. – Cậu ấy nở nụ cười rạng rỡ, ánh mắt lộ vẻ háo hức. – Sợi dây này cùng màu với mái tóc của em, chắc chắn sẽ rất hợp.
Tôi đón lấy món quà, niềm vui ngập tràn. Dưới ánh nến lung linh, sợi dây càng trở nên rực rỡ. Tôi đã dùng sợ dây đó để buộc tóc suốt những năm tháng dằng dặc sau này. Đó là sợi dây kết nối kỷ niệm, nó gợi nhớ về nụ cười trong trẻo, thuần khiết của Kháp Na buổi tối hôm đó. Từ đó về sau, bất kể tôi có món đồ trang sức quý giá nhường nào cũng không thể thay thế sợi dây buộc tóc màu lam bình dị này.
Kháp Na hân hoan lạ thường, kéo tôi vào một quán rượu sang trọng:
– Ta mời em vài món ngon nhé!
– Thưa quý khách, xin hãy gọi một tô chè viên, đây là món đặc sản của quán chúng tôi. Nom các vị không giống người Hán, chắc chắn chưa từng thưởng thức món chè tuyệt hảo này. – Chủ quán thấy Kháp Na ăn vận sang trọng, bèn đưa chúng tôi vào một phòng dành cho khách quý có cửa sổ trông ra phố lớn trên lầu hai, niềm nở chào mời. – Đây là món ăn mà người nước Tống ở miền Nam không thể không ăn vào ngày rằm tháng Giêng. Sau khi ăn món này, gia đình của quý khách sẽ đầm ấm, náo nhiệt, an lành suốt cả năm.
Kháp Na bật cười vì sự hài hước của ông chủ quán:
– Được, vậy cho chúng tôi hai tô thử xem sao. Bao nhiêu tiền một tô?
– Nửa xâu tiền.
Tôi kinh ngạc, kêu lên:
– Sao đắt vậy?
Chủ quán quay sang giải thích với tôi:
– Này cô vợ trẻ ơi, đắt rẻ đều có nguyên do của nó. Món chè viên ở tiệm chúng tôi được làm từ gạo nếp xay nhuyễn, bên trong là nhân óc chó, đường trắng, hoa hồng, mỗi viên đều bự bằng hạt óc chó đấy.
Kháp Na hào phóng rút tiền, cắt ngang thi hứng của ông chủ quán:
– Thôi thôi, cho hai chúng tôi hai tô.
Khi hai bát chè viên thơm nức được đặt chễm chệ trước mặt chúng tôi, nước miếng tứa ra ròng ròng. Chao ôi là thơm ngon, mềm dẻo! Chẳng trách lại đắt đỏ đến vậy. Món chè giản dị là thế những không phải người dân nào trong thời đại đầy biến động này cũng có đủ điều kiện để thưởng thức.
Ngày sau, người ta gọi món chè này là canh bánh trôi, vào dịp Tết Nguyên tiêu, nhà nhà, người người đều hoan hỷ tận hưởng. Và khi đời sống ngày một khấm khá thì món bánh trôi này không còn là cao lương mỹ vị như vào thời nhà Tống nữa.
Không cưỡng nổi lời chào mời ngọt ngào, khéo léo của ông chủ quán, tối hôm đó, chúng tôi đã thưởng thức không biết bao nhiêu món đặc sản của thành Yên Kinh. Nào là bánh đậu, bánh nhân táo, bánh cuốn, quẩy nhúng sữa đậu nành, tất cả đều ngọt ngọt, thơm thơm, ngậy ngậy khiến một kẻ "phải lòng" các món ăn vặt như tôi đây không sao đừng được. Kháp Na ngồi phía đối diện, chốc chốc lại liếc nhìn tôi, tủm tỉm cười. Hôm nay cậu ấy phá lệ không uống rượu, động viên tôi ăn cho thật đã, nhưng cậu ấy lại chẳng động đũa mấy. Mãi cho tới khi tôi nhăn nhó ôm bụng "đầu hàng", cậu ấy mới tươi cười đứng lên, đi xuống lầu xin cho tôi một chén trà dễ tiêu.
[2] Bài thơ Đêm nguyên tiêu của Âu Dương Tu (Trung Quốc), bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo. (DG)
[3] Bài từ Thanh ngọc án của nhà thơ Trung Quốc Tân Khí Tật. (DG)
[4] Tên một loại thảo dược Đông y, trong tiếng Trung Quốc, từ "bạch chỉ" đồng âm với từ "giấy trắng". (DG)
Tôi ngồi trong phòng dành cho thượng khách, thò đầu ra ngoài cửa sổ ngắm nghía phố xá. Lúc này đã là giờ Hợi, chuẩn bị sang canh ba. Ngày thường vào giờ này, đường phố sẽ vắng tanh vắng ngắt, nhưng hôm nay thì khác, cảnh tượng đông vui, tấp nập vẫn đang diễn ra trước mắt, các quán trà, quán rượu đông khách hơn ngày thường gấp bội.
Bỗng có tiếng bước chân quen thuộc, nhưng không phải của Kháp Na. Cửa phòng đột nhiên bật mở, một thanh niên cao to, vạm vỡ xuất hiện, mắt to, mày rậm, gương mặt vuông vức, chiếc áo khoác kiểu Mông Cổ giản dị không che nổi khí chất quý tộc toát ra từ cậu ta.
Tôi kinh ngạc thốt lên:
– Chân...
Tôi vội vàng bịt miệng. Tuy tôi chẳng lạ gì cậu ta nhưng chắc chắn lúc này cậu ta không biết tôi là ai.
Chân Kim há hốc miệng, nhìn tôi không chớp mắt như thể bị hóa đá. Ông chủ quán đứng phía sau cậu ấy, ngọt nhạt dạ thưa:
– Thưa công tử, xin lỗi, cậu vào nhầm phòng rồi. Phòng đặt của công tử Khắc Liệt ở bên cạnh.
Những lời của chủ quán dường như chẳng lọt tai Chân Kim, cậu ta cứ đứng ngây ra nhìn tôi chăm chăm. Tôi bàng hoàng nhận ra, có lẽ bộ dạng của tôi đã khiến cậu ta khiếp hãi. Vì chúng tôi chọn phòng thượng khách, ngoài Kháp Na, sẽ chẳng còn ai khác nên tôi đã cởi áo khoác. Lúc này, dưới ánh nến rực sáng, Chân Kim có thể thấy rõ mồn một mái tóc và đôi mắt màu lam kỳ quái của tôi.
Tôi cuống cuồng chụp lấy chiếc áo khoác đặt trên ghế, khoác lên người, cắm đầu định chạy trốn.
– Khoan đã!
Chân Kim sải bước đến chắn trước cửa phòng. Cậu ta cúi xuống nhìn tôi, giọng nói run rẩy:
– Xin lỗi, cảm phiền cô nương cho biết quý danh, quý tính và nơi ở, có được không?
Không phải chứ, tuy thường ngày tôi hay gây sự với cậu ta nhưng chí ít chúng tôi từng là bạn bè thời thơ ấu, lẽ nào cậu ta muốn bắt tôi thật ư? Tôi hoảng sợ không dám ngẩng đầu, cất giọng thê thiết van xin:
– Tôi mắc một căn bệnh kỳ quái mới thành ra bộ dạng thế này, tôi không phải yêu quái.
– Ta có bảo cô nương là yêu quái đâu. – Cậu ta bật cười, thân hình cao lớn mà giọng nói nhẹ nhàng. – Ta... ta thấy cô nương rất xinh đẹp và đáng yêu, nhất là mái tóc và đôi mắt màu xanh vô cùng độc đáo này. Ta muốn... ta muốn...
Cậu ta đan tay vào nhau, không biết phải diễn đạt ra sao, trên gương mặt vuông vức vô cớ xuất hiện vẻ ửng đỏ rất khả nghi:
– Ta... ta ... gia cảnh không tồi, học thức, văn võ ổn cả, ta thích đọc sách, nhất là sách Nho học của người Hán. À, phải rồi, ta còn được danh sư dạy võ, cưỡi ngựa, bắn cung khá điêu luyện.
Tôi chớp chớp mắt, cậu ta nói vậy là ý gì? Tôi cảnh giác lùi lại, dự tính nếu tình hình không ổn sẽ nhảy qua cửa sổ:
– Những điều này hình như không liên quan đến tôi thì phải.
Cậu ta sững sờ, gương mặt càng ửng đỏ, khẽ cúi đầu lẩm bẩm:
– Và... và... đến nay... đến nay, ta vẫn chưa cưới vợ...
Tôi bàng hoàng, lẽ nào cậu ta vừa trúng tiếng sét ái tình? Phủ Yên Vương của cậu ta thiếu gì mỹ nữ, chỉ cần Hoàng tử Chân Kim hô một tiếng, các thiếu nữ chưa chồng toàn thành Yên Kinh sẽ xếp hàng sẵn sàng chờ được cậu ta lựa chọn. Không biết vì lý do gì mà cậu ta lại yêu thích một cô gái tật nguyền, có mái tóc và đôi mắt kỳ quặc như tôi đây? Và điều đáng lo nhất của tôi là: nếu vướng vào Chân Kim, Khabi sẽ không tha cho tôi.
Nhẩm tính thời gian, tôi biết Kháp Na sắp quay trở lại, không thể để cậu ấy và Chân Kim chạm mặt ở đây, ngày mai Kháp Na sẽ làm chú rể, không nên vì tôi mà mang tiếng xấu. Tôi kéo thấp chiếc mũ trùm kín đầu, nói khẽ:
– Làm ơn hãy tránh đường, tôi phải về.
– Cô nương cho ta biết tên đi, được không? – Cậu ta vẫn giữ chặt cửa, không chịu nhường lối, giọng nói khẩn khoản. – Ta không phải loại người thô lỗ, có điều... có điều ta rất thích...
Vẳng nghe tiếng bước chân Kháp Na gõ nhịp trên cầu thang, tôi hết sức bối rối, liếc thấy nơi góc tường có dựng chiếc ô đi mưa, tôi lao đến chộp lấy, rồi phi ra ngoài cửa sổ, mở ô, nhảy xuống. Chân Kim hốt hoảng kêu to, lao đến. Lầu hai của quán rượu không quá cao, tôi tiếp đất nhẹ nhàng. Đám đông gần đó xôn xao, tôi nghe rõ tiếng bước chân hối hả chạy xuống lầu của Chân Kim. Không thể để có thể đuổi kịp, tôi lao đi như bay, trốn vào một ngõ nhỏ không người qua lai, biến phép trở lại nguyên hình, niệm chú giấu đi toàn bộ trang phục, rồi mới cấp tốc chạy về quán rượu nọ.
Phía trước cửa quán, Chân Kim đang lách qua đám đông, hối hả kiếm tìm, hễ thấy cô gái nào khoác áo trùm đầu là bước đến, kéo mũ người ta xuống, và thế là phải nhận hàng tràng những tiếng quát mắng gay gắt. Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà lo cho cậu ta nữa, phi vào quán rượu, Kháp Na đang bưng trà lên cầu thang, tôi lao đến, kéo ống quần cậu ấy rồi nhảy lên lòng cậu ấy, thì thào đầu đuôi sự việc. Kháp Na biến sắc mặt, vội vã giữ một tiểu nhị của quán lại, nhét cho cậu ta một ít tiền để cậu ta đưa chúng tôi ra ngoài theo lối cửa sau. May mà tôi về kịp nên Kháp Na và Chân Kim đã không chạm mặt.
Tối hôm đó, sau khi về phủ, Kháp Na nằm dài trên giường, khóe môi treo mãi nụ cười mãn nguyện, dịu dàng vuốt ve tôi:
– Tiểu Lam à, hôm nay ta vui lắm, đã lâu ta không được vui thế này, cảm ơn em!
Sau khi cậu ấy thiếp đi, tôi cứ nghĩ mãi về chuyện này, vì sao trong đêm hội hoa đăng, trong tôi lại nảy sinh thứ xúc cảm bi thương lạ lùng đó với Kháp Na? Một chút đau lòng, một chút tiếc nuối, một chút không đành, hay còn thứ cảm xúc nào khác mà tôi chưa rõ? Trằn trọc mãi cho đến khi trời sáng, tôi mới đưa ra được kết luận: Đó là vì tôi cảm thấy tội nghiệp cho cậu ấy.
Khi tia sáng đầu tiên ló rạng sau tầng mây tím nơi đường chân trời, chợt nhớ đến cuộc hôn nhân ép buộc thứ hai đang chờ đợi Kháp Na, lòng tôi bỗng chùng xuống, nỗi sầu muộn dâng ngập lòng.
.
– Mông Cổ diệt nước Kim, Yên Kinh rơi vào tay người Mông Cổ, khi ấy thành trì tan hoang, đời sống kinh tế xã hội điêu linh, kinh đô phồn hoa ngày nào bỗng chốc trở nên hoang tàn. Thảm cảnh đó kéo dài cho đến khi Hốt Tất Liệt dời đô từ phủ Khai Bình về đây.
Tôi tìm trên giá sách một cuốn giới thiệu về lịch sử Bắc Kinh rồi đưa cho chàng trai trẻ:
– Chỉ trong một thời gian ngắn, Hốt Tất Liệt liền nhận ra, thành phố này là nơi lý tưởng để xây dựng kinh đô. Yên Kinh nằm trên ranh giới giữa cao nguyên Mông Cổ và vùng đất Trung Nguyên, phía bắc cách thảo nguyên rộng lớn của Mông Cổ không xa, phía nam là vùng đồng bằng Hà Bắc, Sơn Đông phì nhiêu màu mỡ, sản vật phong phú. Khí hậu ôn hòa nơi đây cũng thích hợp với những người Mông Cổ vốn đã quen với đời sống du mục.
– Đến nay, thành Bắc Kinh vẫn lưu giữ các di tích từ triều Nguyên để lại, đó là di chỉ tường thành triều Nguyên, và còn...
Chàng trai trẻ lật mở rồi chỉ vào một trong những bức hình minh họa, tươi cười:
– Đúng rồi, di tích nổi tiếng nhất phải kể đến tháp trắng Bắc Hải.
– Tòa tháp này có liên quan đến Bát Tư Ba, tôi sẽ kể sau.
Tôi mỉm cười tiếp tục câu chuyện:
– Hốt Tất Liệt giao cho viên đại thần người Hán – Lưu Bỉnh Trung – trọng trách trùng tu Yên Kinh với quy mô kinh đô, thiết lập cơ quan hành chính lục bộ, trung thư lệnh [5]. Từ đó, thành phố này trở thành thủ đô của Trung Quốc, trải qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh, cho đến tận ngày nay.
[5] Lục bộ: chỉ sáu cơ quan chức năng cao cấp trong tổ chức triều đình quân chủ Á Đông, bao gồm: bộ Lại, bộ Lễ, bộ Hộ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công. Trung thu lệnh: chức quan đứng đầu trung thư tỉnh. Vào thời Nguyên, trung thư tỉnh là cơ quan hành chính cao nhất. (DG)
Chương 24 - Hôn Lễ Thứ Hai.
"Khảo nghiệm để biết kiến thức nông sâu;
Đánh trống để đo âm sắc hay dở."
(Cách ngôn Sakya)
– Nhà trai đến!
Trên gò đất trống ở ngoại thành Yên Kinh, người ta dựng một chiếc lều trắng. Đang là mùa đông nên cỏ hoa khô héo, nhưng những lá cờ màu sắc sặc sỡ, chăng kết rợp trời đã mang lại chút không khí vui tươi, ấm cúng giữa khung trời ảm đạm. Vì hôn lễ được tổ chức ở Yên Kinh nên Tsirenja cho dựng lều trại này để làm nơi đón dâu.
Đoàn đón dâu chầm chầm tiến vào, nổi bật nhất tất nhiên là chàng trai dắt ngựa cái đang mang thai, đi ở giữa hàng – chú rể Kháp Na. Cậu ấy khoác chiếc áo kiểu Mông Cổ màu đỏ rực rỡ, thêu kim tuyến lấp lánh, trước ngực là chiếc hộp hình tượng Phật, vốn là báu vật "bất ly thân", giắt bảo đao bên hông, chân mang ủng thêu hoa văn tinh xảo. Ngày thường, dung mạo cậu ấy đã rất quyến rũ, hôm nay được trang điểm, lại càng khiến các cô gái tan nát cõi lòng. Cậu ấy đeo bông tai màu xanh kiểu Thổ Nhĩ Kỳ rất dài bên tai trái, mái tóc đen bóng được tết thành những lọn nhỏ, vắt trước ngực, trên tóc điểm xuyết những chuỗi hổ phách và san hô lóng lánh. Tất cả những trang sức quý phái đó kết hợp với thân hình cao lớn, dáng vẻ đạo mạo, gương mặt tuấn tú, càng tôn thêm vẻ điển trai, quyến rũ chết người của cậu ấy.
Nhưng Kháp Na cứ đờ đẫn như khúc gỗ, nét mặt lộ vẻ u buồn, cậu ấy chẳng bận tâm đến ánh mắt mê mệt của các thiếu nữ bám theo mình dọc đường đi.
Khi đoàn nhà trai đến trước cửa lều thì nhà gái đang làm lễ khấn vái thần Phật. Dankhag mặc áo cưới rực rỡ, ngọc ngà châu báu đính khắp người, đầu đội "ba châu" nặng trịch, được thị nữ đỡ ra bên ngoài. "Ba châu" vốn là kiểu tóc giả được bện thành một chiếc chạc hình tam giác, gắn lên đỉnh đầu, bên trên đính trang sức vàng bạc, châu báu, san hô, đá quý đủ loại. Phục sức ấy khiến Dankhag đi lại khó khăn, vì phải đèo bòng cả một cơ thể trĩu nặng của nả, leng keng leng keng, thương tháy chiếc cổ chừng như cũng bị đám trang sức làm cho ngắn lại của cô ấy.
Gương mặt của Dankhag được trát phấn và tô son quá đậm, Kháp Na chỉ liếc cô ấy một cái rồi lập tức quay đi. Dankhag thì ngược lại, ngây ra ngắm nhìn chú rể đẹp trai của mình, quên hết mọi lễ nghi, phép tắc khiến những người xung quanh cứ tủm tỉm cười mãi. Bà mối hướng dẫn Kháp Na gài một mũi tên làm bằng vải màu sặc sỡ, với ý nghĩa tượng trưng rằng từ nay cô dâu sẽ thuộc về nhà trai. Tiếp theo, bà mối đặt vào tay Kháp Na một viên đá ngọc, cậu ấy tỏ ra do dự. Bà mối phải thúc giục nhiều lần và Bát Tư Ba phải đưa mắt ra hiệu, Kháp Na mới miễn cưỡng đặt viên ngọc đó lên đỉnh đầu cô dâu.
Về sau tôi mới biết, trong tục lệ cưới hỏi của người Tạng, viên đá ngọc ấy được gọi là viên ngọc linh hồn, đặt lên đỉnh đầu cô dâu, tượng trưng cho việc từ nay, linh hồn của chú rể sẽ được gửi gắm cho cô dâu.
Thị vệ thân cận của Tsirenja đóng giả làm anh trai Dankhag, cõng cô dâu ra khỏi lều trại, đặt lên lưng con ngựa cái đang mang thai mà Kháp Na dắt đến. Lúc này, tiếng khèn, tiếng kèn Xô na mới đồng loạt vang lên rộn rã, cô dâu cùng các thị nữ bật khóc thảm thiết. Chỉ là nghi thức khóc giả, Dankhag chẳng nhỏ một giọt nước mắt nào vì cô ấy còn mải liếc nhìn Kháp Na qua khẽ tay.
Đoàn rước dâu khởi hành về nội thành Yên Kinh. Cứ cách một đoạn lại có đại diện của họ nhà trai đứng đón để dâng rượu và tặng khăn Ha đa cho đoàn rước. Theo tập tục truyền thống của người Tạng, số chặng đón trên đường của nhà trai càng nhiều, càng tỏ rõ sự trọng vọng đối với nhà gái. Bát Tư Ba đã bố trí tổng cộng tám chặng đón, đó là vinh dự lớn lao xưa nay chưa từng có dành cho nhà gái. Gương mặt bự phấn son của Dankhag không che giấu nổi vẻ dương dương tự đắc.
Phủ Bạch Lan Vương được trang hoàng lộng lẫy, cờ quạt đủ màu sắc giăng mắc rợp trời. Người ta dùng vôi trắng vẻ tranh bát bảo cát tường trước cổng chính của Vương phủ. Cô dâu được đỡ xuống ngựa, Rinchen khoác áo tăng ni, vừa tụng kinh vừa cầm một cành hoàng bách đã tẩm rượu, vẩy vài hạt lên đầu cô dâu. Cô dâu giẫm chân lên lớp hạt lúa mì thanh khoa và lá trà rắc đều trên mặt đất rồi được nhà trai long trọng đón vào phủ.
Kháp Na và Dankhag ngồi xếp bằng trên một chiếc giường lớn đặt giữa phòng khách, Tsirenja và Bát Tư Ba đứng hai bên. Viên đại thần người Hán – Diêu Khu – được mời làm chứng nhân, bắt đầu tuyên đọc hôn ước. Phần đầu là những lời răn vợ chồng phải yêu thương, kính trọng lẫn nhau và hiếu kính với bề trên, v.v... Phần sau là chuyện kế thừa sản nghiệp, đây mới là nội dung quan trọng nhất của hôn ước.
Theo bản hôn ước này thì sau khi cha mẹ qua đời, cô dâu sẽ là người thừa kế toàn bộ ruộng đất, điền trang, sai ba [1], đôi cùng [2]. Đổi lại, nhà trai phải cam kết rằng nếu cô dâu sinh con trai thì người con này sẽ được hưởng quyền thừa kế.
Đó là cuộc trao đổi lợi ích giữa hai gia tộc lớn.
Sau khi đọc xong, Diêu Khu đóng ngọc ấn của hai dòng tộc lên hôn ước, trịnh trọng trao cho cha cô dâu là Tsirenja và người đại diện cho họ nhà trai là Bát Tư Ba. Tsirenja và Bát Tư Ba cùng trải khăn Ha đa để cảm tạ người làm chứng Diêu Khu. Tiệc cưới chính thức bắt đầu khi Hốt Tất Liệt cùng các thành viên hoàng tộc xuất hiện tại Vương phủ.
Màn đêm buông xuống, phủ Bạch Lan Vương đèn hoa rực rỡ, không khí vô cùng náo nhiệt. Những con dê quay vàng bóng trên đống lửa giữa sân phủ, hương rượu thơm nồng lan tỏa trong không gian, âm nhạc rộn ràng không dứt. Sự có mặt của Hốt Tất Liệt mang lại vinh dự lớn lao không sao kể siết cho hôn lễ này nhưng ít nhiều cũng khiến bầu không khí trở nên nghiêm trang, gò bó. Mấy người con trai của Nhà vua đã chủ động đứng lên khuấy động, làm cho bầu không khí trở nên vui vẻ, thoải mái hơn. Họ cùng những người giỏi ca múa khác vừa nhảy điệu Gouzhuang vừa hát hò sôi động. Xen giữa yến tiệc linh đình là tiếng cười hân hoan không ngớt.
Biết tin đại gia đình Hốt Tất Liệt cùng đến dự tiệc cưới, rất nhiều vương công, quý tộc đã đưa các thiên kim tiểu thư tới ra mắt với hy vọng lá ngọc cành vàng của nhà mình sẽ lọt vào mắt xanh của các hoàng tử. Trong số đó, người được mong chờ nhất tất nhiên là Chân Kim.
Tuy không điển trai bằng Kháp Na, nhưng Chân Kim lại cao lớn, lực lưỡng, oai phong, lẫm liệt, khí phách ngời ngời. Thêm vào đó, cậu ta lại là con cưng của Hốt Tất Liệt, có mẹ là người vợ được sủng ái rất mực của Đại hãn. Tuy người Mông Cổ không có truyền thống lập thái tử, và vị vua tiếp theo sẽ được bầu chọn từ hội nghị Kurultai nhưng Hốt Tất Liệt là người đam mê văn hóa Hán, biết đâu một ngày nào đó, nhà vua lại chẳng học theo tục lệ của người Hán. Khi ấy, vị trí thái tử chắc chắn sẽ là của Chân Kim. Bởi vậy, những người muốn leo lên cây đại thụ Chân Kim nhiều không kể xiết.
Nhưng viện cớ bị cảm lạnh, Chân Kim chỉ lặng lẽ ngồi bên cạnh Hốt Tất Liệt, vẻ mặt thẫn thờ, đáp lễ chiếu lệ với những người đến chúc rượu, hoàn toàn không để tâm đến những oanh yến lả lướt vây quanh mình, gương mặt của cậu ta vẽ lên những chữ rõ ràng: "Ta đang buồn, đừng làm phiền ta!"
Tôi chẳng hơi sức đâu mà để ý Chân Kim vì người khiến tôi lo lắng nhất lúc này là Kháp Na. Cậu ấy uống cạn rượu mời của tất cả mọi người. Chỉ trong chốc lát, hai má đã đỏ bừng, bước đi loạng choạng. Hơi men khiến cậu ấy hoạt bát hơn, khóe môi dần hé mở, nụ cười nhạt nhòa, chén nọ tiếp chén kia, uống cạn.
Tôi sốt ruột, muốn can ngăn cậu ấy nhưng khổ một nỗi, chẳng có lúc nào chỉ có mình cậu ấy cả. Đang lúc phiền não thì tôi nhận được tín hiệu của Khabi.
– Khabi, cô tìm tôi phải không?
[1] Sai ba: một kiểu nông nô, nhận hạt giống và ruộng đất từ chủ nô và phải thực hiện nghĩa vụ lao dịch. Họ chỉ có đất thuê chứ không có đất sở hữu. (DG)
[2] Đôi cùng (hay Dugong): Nghĩa là hộ nhỏ, chủ yếu là giai cấp được hình thành sau khi sai ba phá sản. Địa vị xã hội của họ còn thấp hơn cả sai ba và phải chịu khổ cực hơn sai ba. (DG)
Tôi lẻn vào căn phòng được chuẩn bị sẵn cho Hoàng hậu nghỉ ngơi, thấy xung quanh không có ai, biết rằng Khabi có điều gì muốn nói với tôi. Chẳng ngờ, nhanh như chớp, cô ấy túm cổ tôi nhấc bổng lên.
– Ta đã nhắc nhở cô bao nhiêu lần là không được động đến Chân Kim rồi kia mà! – Cô ấy cau mày, trừng mắt nhìn tôi. – Tối qua nó như hóa điên, ra lệnh cho tất cả người hầu trong phủ đến từng nhà dân tìm kiếm một mỹ nữ tuyệt sắc, tóc xanh, mắt xanh và có tật ở chân. Nếu như ta không ngăn cản sớm, chắc nó đã lật tung cả cái thành Yên Kinh này lên rồi. Nó vốn là đứa ham vui, nhưng cô nhìn xem, lúc này nó như thể biến thành người khác vậy, chẳng thèm để ý đến ai. Trên đời này chỉ mình ta biết, người nó muốn tìm là cô, nhưng nếu cô không biến thành người thì nó sẽ mãi mãi không bao giờ tìm thấy.
Cổ bị siết chặt tưởng chừng không thở nổi, tôi gắng giãy giụa:
– Tôi có động vào cậu ấy đâu, tại cậu ấy đi nhầm phòng ở quán rượu nên chạm mặt tôi đấy chứ. Cô cứ bỏ tôi xuống đã, tôi sắp không thở nổi rồi!
– Tuy cô không cố ý nhưng thằng nhóc ấy đã phải lòng cô! Hôm nay nó đã giấu ta, lén cho người tìm kiếm cả ngày trời trong thành Yên Kinh, còn trói tay chủ quán rượu đó lại, giải đi khắp nơi tìm một chàng trai trẻ tuổi khôi ngô, tuấn tú.
Khabi hung hăng ném tôi xuống đất, hai tay chống nạnh, hằn học hỏi tội tôi:
– Đêm Nguyên tiêu, Bát Tư Ba tháp tùng Đại hãn và ta trên lầu hoa đăng, vậy thì chàng trai khôi ngô, tuấn tú đó là Kháp Na phải không?
Tôi gật đầu, lo lắng:
– Cô tuyệt đối không được để tay chủ quán đó gặp Kháp Na.
Tuy tối đó Kháp Na đã hóa trang với bộ râu giả nhưng tốt hơn hết vẫn không nên để hai người đó gặp nhau.
Khabi hầm hè:
– Ta thừa hiểu điều đó nên đã mắng cho Chân Kim một trận và buộc nó phải thả tay chủ quán kia ra. Ngày mai ta sẽ sai người đưa cho hắn ít tiền rồi kêu hắn rời khỏi thành Yên Kinh.
Tôi hiểu tấm lòng thương yêu và lo lắng cho con của Khabi nên lựa lời động viên:
– Cô đừng quá lo, cùng lắm cũng chỉ vài bữa, không tìm thấy tôi, chắc chắn cậu ấy sẽ từ bỏ ý định.
– Nếu cô có tình cảm với nó thì ra cũng chẳng nề hà gì việc cô trở thành con dâu ta. Nhưng ta biết rõ trong lòng cô chỉ có vị Lạt Ma áo đỏ kia, và dù thế nào đi nữa, con tim si tình mê muội của cô cũng không bao giờ thay đổi.
Khabi trở nên khó chịu, giọng nói ngày một lạnh lùng và sắc như lưỡi dao:
– Ta đã nói rồi mà, Chân Kim chẳng thể cưỡng lại sức hấp dẫn chết người của nàng hồ ly là cô đâu. Cô khiến con tim nó rung động, và bây giờ cô bỏ mặc nó, cô bảo người làm mẹ như ta phải xử trí sao đây?
Lời nói châm chọc của Khabi khiến tôi tức tối, tôi quay đầu bỏ đi:
– Tôi có quyến rũ cậu ấy đâu. Tôi không ngờ lại đụng phải cậu ấy, và càng không thể tin nổi chỉ nói với nhau có vài câu mà cậu ấy đã động lòng như vậy. Tôi hứa không bao giờ để cậu ấy thấy hình dáng con người của mình, cô còn muốn gì nữa?
Lại một lần nữa bị túm cổ nhấc lên, tôi bị Khabi kéo giật lại khi đã bước ra đến cửa:
– Tiểu Lam à, ta biết chuyện này không thể trách cô được, chỉ vì ta quá bực tức nên mới như vậy.
Cô ấy điềm đạm hơn và lấy lại phong thái lịch lãm, quý phái thường thấy:
– Hốt Tất Liệt đã chọn Công chúa Khoát Khoát Chân của bộ tộc Hoằng Cát Thích làm vợ của Chân Kim. Hoằng Cát Thích là một trong những bộ lạc Mông Cổ lớn nhất ở miền Bắc, Hốt Tất Liệt muốn liên minh với bộ lạc này để chống lại A Lý Bất Ca. Nếu kết hôn với công chúa của Hoằng Cát Thích, tiền đồ của Chân Kim sẽ ngày càng rộng mở. Hốt Tất Liệt còn dự định, sau lễ cưới sẽ đưa nó đến trung thư tỉnh để học hỏi và rèn luyện. Trung thư tỉnh là trung khu hành chính Hốt Tất Liệt mới lập ra, điều này cho thấy Đại hãn đã chuẩn bị để trao trọng trách cho Chân Kim. Vào thời điểm hết sức quan trọng này, ta không muốn Chân Kim vì cô mà từ chối cuộc hôn nhân rất có lợi cho nó.
Dường như Khabi đang rất xúc động, nhìn xa xăm, khóe môi uốn cong tuyệt đẹp, vẻ mặt hiền hậu, dịu dàng:
– Cô biết không, điều mong ước lớn nhất của ta là ngày nào đó được thấy Chân Kim khoác hoàng bào, ngự trên ngai cao.
Tôi thở dài, cào móng vào cánh tay nuột nà, ngọc ngà của cô ấy:
– Cô đừng lo, những năm qua sống chung với con người, tôi đã học hỏi được rất nhiều điều. Chính vì Chân Kim là hoàng tử được Đại hãn yêu thương nhất nên cuộc hôn nhân của cậu ấy chắc chắn không thể do cậu ấy tự quyết định. Và ngày sau, để có thể lôi kéo các thế lực khác ủng hộ mình, cậu ấy còn phải tiếp tục kết hôn với nhiều người phụ nữ nữa.
Tôi ngừng lại một lát, buồn bã ngước nhìn gương mặt uy quyền tôn quý của bậc mẫu nghi thiên hạ, khẽ thở dài:
– Khabi, vì muốn có quyền lực và vinh hoa phú quý, cô sẵn sàng chấp nhận việc Hốt Tất Liệt có những người phụ nữ khác, nhưng tôi vừa mới được làm người, tôi không thể giương mắt nhìn người mình yêu đầu gối tay ấp với người phụ nữ khác. Vậy nên tôi tuyệt đối không chọn Chân Kim.
Khabi khẽ rướn đôi mày lá răm, vẻ mặt buồn buồn:
– Tiểu Lam à, về điểm này thì cô kiên định hơn ta rất nhiều. Ta không biết cô làm vậy là tốt hay không. Ta chỉ có thể nói rằng, Chân Kim thật sự không hợp với cô.
Sau khi rời khỏi căn phòng của Khabi, tôi định bụng đi tìm Bát Tư Ba, chỉ có cậu ấy mới khuyên can được Kháp Na. Mới bước được vài bước về phía phòng khách, chợt tôi nghe tiếng Bát Tư Ba vọng ra từ căn phòng bên chái nhà.
– Tam đệ, mượn rượu phát ngôn bừa bãi trước mặt mọi người như thế, đệ không sợ sẽ làm mất mặt giáo phái hay sao?
Giọng nói đầy giận dữ, tôi giật mình, phi đến trước cửa phòng và niệm chú lẻn vào trong.
Đầu tóc rối bù, hơi men nồng nặc, ngực áo vẫn còn dính đầy dấu vết của trận nôn mửa, Yeshe chỉ tay vào Bát Tư Ba, đay nghiến:
– Tôi nói sai à? Nếu huynh không phá đám thì người khoác áo chú rể hôm nay là tôi! Kháp Na cưới công chúa Mông Cổ còn chưa đủ à, cái gì huynh cũng muốn nó được hưởng. Tôi thì sao? Không quyền lực, không tài sản, tôi chẳng khác gì một con chó vô tích sự ở Sakya!
Rinchen kéo tay Yeshe, lựa lời khuyên nhủ:
– Tam đệ, không được ăn nói hàm hồ! Đệ say rồi, để ta đưa đệ về nghỉ!
Yeshe quay đầu, trừng mắt nhìn Rinchen:
– Tất cả các người đều muốn lấy lòng anh ta! Anh ta được làm pháp vương phái Sakya chẳng qua vì anh ta là con trưởng do người vợ cả sinh ra. Anh hai, kiến thức Phật pháp của huynh chẳng kém gì anh ta, nhưng chỉ vì sinh sau anh ta ba tháng nên huynh chẳng được gì cả. Đến nay, huynh vẫn phải sống dựa vào anh ta, huynh không thấy bất bình hay sao?
Rinchen nhìn Bát Tư Ba bối rối:
– Đại ca, đây là những lời nói hàm hồ của tam đệ lúc say rượu, đệ chưa bao giờ nghĩ như vậy.
Bát Tư Ba gật đầu:
– Ta biết đệ là người hiền lành, chất phác. Mau gọi thêm vài người đưa đệ ấy về phủ Quốc sư đi. Đại hãn vẫn còn ở đây, đừng để ngài ấy chê cười chúng ta.
Rinchen muốn kéo Yeshe đi nhưng Yeshe vốn lực lưỡng hơn cậu rất nhiều nên Rinchen không sao khiến cậu ta nhúc nhích được. Yeshe kéo áo Rinchen, bật cười ha ha:
– Nếu năm xưa mẹ huynh hạ độc giết chết mẹ anh ta thì Kháp Na sẽ không ra đời, và tôi sẽ là con trai út của phái Sakya. Nếu thế, người cưới công chúa Mông Cổ và con gái của vạn hộ hầu sẽ là tôi đây. Ha ha!
Bát Tư Ba bị kích động nghiêm trọng. Trước khi Kháp Na ra đời, mẹ Rinchen nuôi dã tâm hãm hại mẹ Bát Tư Ba nhưng do nhầm lẫn, người bị đầu độc lại là cha cậu ấy. Đây là bí mật của gia tộc, không ai được phép nhắc đến, vậy mà Yeshe dám ngang nhiên gào lên như vậy. Bát Tư Ba bước đến, giáng cho Yeshe một bạt tai:
– Còn mẹ của cậu thì sao? Có phải năm xưa cũng ủ mưu thâm độc, muốn xô Kháp Na lúc ấy còn chưa đầy bốn tuổi xuống cầu thang, để cậu trở thành con út của phái Sakya? Nếu mẹ ta không dùng mạng sống của mình để đổi lấy tính mạng của Kháp Na thì gian kế của mẹ cậu và cậu đã được thực hiện rồi phải không?
Tôi bàng hoàng, chưa bao giờ tôi thấy cậu ấy mất bình tĩnh đến thế. Khuôn ngực phập phồng dữ dội, những đường gân dữ dằn nổi rần rật trên nắm đấm chắc nịch, tia mắt vằn đỏ. Một người vốn điềm đạm, chừng mực, khoan hòa là thế, vậy mà giờ đây đang bị kích động, nổi trận lôi đình, sự uy nghiêm bất khả xâm phạm toát ra từ cậu ấy khiến người khác nghẹt thở.
Trên mặt của Yeshe in rõ hình năm ngón tay, nửa mặt sưng vù, cậu ta bị tát cho tỉnh táo, ánh mắt căm phẫn, bất mãn. Cậu ta nắm chặt tay, ôm mặt, hầm hè phản bác:
– Chuyện này chẳng có chứng cứ gì hết, huynh đừng hòng vu khống mẹ tôi!
Bát Tư Ba nhìn cậu ta bằng vẻ lạnh lùng, khinh bỉ:
– Ta có vu khống hay không, trong lòng dì năm rõ nhất. Phật Tổ trên cao thấu tỏ mọi sự, gieo nhân nào gặt quả đấy, ác giả ác báo. Cho dù bà ấy thoát được sự trừng phạt ở kiếp này nhưng địa ngục Vô gián sẽ chờ đợi bà ấy ở kiếp sau.
Bỗng có tiếng kẹt cửa, Kháp Na hốt hoảng bước vào:
– Đại ca, đệ tìm huynh khắp nơi. Đại hãn chuẩn bị hồi cung, huynh mau đến tiễn ngài đi.
Bát Tư Ba gật đầu với Kháp Na rồi quay sang lạnh lùng nhìn Yeshe, giọng nói phẳng lặng như mặt hồ lúc lặng gió nhưng chất chứa sự quyết đoán không thể kháng cự:
– Ngày mai đệ hãy về Sakya.
Yeshe khẽ lắc đầu quầy quậy, ánh mắt lộ vẻ hoang mang, gào lên như điên dại:
– Tôi không về! Vì sao tôi phải coi mình như miếng giẻ rách, các người thích ném đi đâu thì ném?
Bát Tư Ba chẳng buồn để tâm đến cậu ta, cất bước rời khỏi đó. Kháp Na cũng đi theo, nhưng vừa bước qua bậc cửa, cậu ấy chợt ngừng lại, buồn bã nhìn Yeshe:
– Anh ba, nếu như có thể, đệ mong được hoán đổi vị trí với huynh, để huynh được cưới Mukaton và Dankhag. Nếu không gánh trên vai trọng trách của người con út, đệ sẽ được sống những ngày tháng tự do tự tại mà đệ hằng khao khát, chứ không phải giam mình trong chiếc lồng son, no cơm ấm cật, sống ngày nào biết ngày đó như thế này!
.
– Sau khi Hốt Tất Liệt lên ngôi hoàng đế, Bát Tư Ba đã tận dụng sức ảnh hưởng của cậu ấy với Hốt Tất Liệt để tham dự chuyện chính sự. Và thế cậu ấy trở nên năng nổ hơn trên vũ đài chính trị. – Tôi trầm ngâm nhớ lại. – Năm 1261, mặc dù lúc đó Hốt Tất Liệt vẫn đang trong cuộc chiến với A Lý Bất Ca, Bát Tư Ba vẫn mượn uy danh của Hốt Tất Liệt để thực hiện một kế hoạch mà đối với Tây Tạng là vô cùng quan trọng: khôi phục chế độ trạm nghỉ từ thời vương triều Tufan.
– Không biết tôi nói thế này cô có phật ý không. – Chàng trai trẻ chần chừ giây lát, gắng lựa chọn từ ngữ. – Không thể phủ nhận Bát Tư Ba là một lãnh tụ tôn giáo vĩ đại nhưng trong cảm nhận của tôi, đôi lúc ngài ấy giống như một chính khách hơn là một đại sư.
Tôi mỉm cười:
– Đúng vậy! Bát Tư Ba xem xét nhiều vấn đề ở khía cạnh chính trị, chứ không đơn thuần chỉ là mục đích tôn giáo. Ví như việc khôi phục chế độ trạm nghỉ chẳng hạn, đó là nhằm mục đích thống nhất Tây Tạng.
Cao nguyên Thanh Tạng đất rộng, người thưa, khí hậu khắc nghiệt, giao thông trắc trở. Bất luận là vương triều của người Tạng hay các vương triều phong kiến Trung Nguyên, nếu muốn kiểm soát đất Tạng, nhất thiết phải thiết lập hệ thống trạm nghỉ quy củ, nghiêm ngặt và hiệu quả để đảm bảo việc truyền đạt thông tin, duy trì giao thông, tiếp đón người đưa tin và đảm bảo công tác hậu cần, cung cấp lương thực, vật dụng cho quân đội. Vương triều Tufan khi xưa đã xây dựng một hệ thống trạm nghỉ quy củ như thế, phía đông bắc tiếp nối với trạm nghỉ của nhà Đường, phía tây bắc kéo dài đến Đôn Hoàng và An Tây tứ trấn. Tiếc thay, sau khi vương triều này sụp đổ thì hệ thống trạm nghỉ cũng theo đó trở nên hoang phế.
Chàng trai trẻ vỗ tay tán thưởng:
– Bát Tư Ba quả là người có tầm nhìn xa trông rộng, ngài đã nhìn nhận ra vấn đề này: muốn thống nhất Tây Tạng, phải thiết lập kênh trao đổi thông tin hiệu quả.
Trong năm đó, viên quan tên gọi Đạt Môn đã mang theo chiếu thư của Hốt Tất Liệt và pháp chỉ của Bát Tư Ba đến đất Tạng, bắt đầu công cuộc xây dựng hệ thống trạm nghỉ. Trên đường đi, viên quan này đã triệu tập dân chúng, phân phát quà tặng, tuyên đọc chiếu thư và pháp chỉ, lập ra bảy trạm nghỉ lớn trên trục đường Thanh Hải – Cam Túc – Tây Tạng, chín trạm nghỉ trên cung đường Tứ Xuyên và Xương Đô căn cứ vào điều kiện đường sá và sản vật của từng địa phương. Riêng ở Tây Tạng đã có đến mười một trạm nghỉ nhỏ. Các trạm nghỉ được phân bố đều đến tận vùng Sakya xa xôi.
Tôi hoan hỷ kết luận:
– Sau khi hệ thống trạm nghi được thiết lập, chính quyền trung ương đã kiểm soát được Tây Tạng chặt chẽ hơn. Có một số trạm nghỉ vẫn phát huy tác dụng cho đến tận cuối thời nhà Thanh.
Chương 25 - Đánh Ghen.
"Học giả thảo luận cùng học giả sẽ cho ra chính kiến hữu hiệu;
Bột nghệ trộn với hàn the sẽ cho ra màu sắc tuyệt đẹp."
(Cách ngôn Sakya)
Đêm tịch mịch, giá lạnh, vầng trăng cô liêu treo chênh chếch giữa bầu trời cao rộng, tiệc cưới tan từ lâu, khách khứa đều đã ra về. Bát Tư Ba đưa Kháp Na đến trước cửa gian nhà chính trong phủ Bạch Lan Vương, chỉnh trang y phục cho em trai, nhẹ nhàng phủi những hại bụi vương trên áo Kháp Na.
Kháp Na hít một hơi thật sâu, gắng sức cười thật tươi:
– Đại ca, còn nhớ lần kết hôn trước, huynh cũng đưa đệ đến cửa thế này.
Bát Tư Ba âu sầu:
– Ừ. Năm đó đệ mới chín tuổi, mới đó mà đã mười bốn năm.
Kháp Na ngước đôi mắt trong veo lên nhìn anh trai, khẩn khoản:
– Huynh để Tiểu Lam ở lại với đệ nhé!
Bát Tư Ba do dự:
– Đêm nay là đêm tân hôn của đệ, đệ đã trưởng thành rồi, phải gánh vác trọng trách của gia tộc chứ!
Kháp Na ủ dột, quay mặt đi:
– Đại ca, xin đừng o ép đệ...
Không đành lòng từ chối em trai, Bát Tư Ba gọi tôi ra, căn dặn tôi chăm sóc Kháp Na chu đáo. Sau khi Bát Tư Ba đi khỏi, Kháp Na vẫn không chịu vào phòng tân hôn, cậu ấy đưa tôi ra khu vườn thênh thang phía sau hậu viện. Đình đài, lầu các trong khu vườn đã hoang phế từ lâu, sau khi tiếp quản Vương phủ, Kháp Na chưa kịp trùng tu lại. Trước mắt chúng tôi là những mảnh tường nứt gáy, cỏ dại mọc um tùm, cảnh tượng hoang tàn đó càng trở nên thê lương hơn trong đêm tịch mịch.
Cậu ấy chọn một phiến đá rồi ngồi xuống, tay chống cằm, mắt ngước nhìn vầng trăng lưỡi liềm, làn môi khép hờ, khóe môi uốn thành một đường cong tuyệt mỹ:
– Tiểu Lam à, em hát ta nghe bài hát ru ngày xưa đi, đã lâu rồi ta không được nghe lại.
– "Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru
Ngủ ngon con yêu, tay mẹ đưa
Mai sau khôn lớn con hãy nhớ
Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ."
Tôi vừa ngân nga khúc ru Nhịp võng đưa vừa hồi tưởng tình cảnh đau lòng của đêm tân hôn mười bốn năm trước, khi Kháp Na bị Mukaton dữ đòn đánh cho bầm dập, tím tái, tôi đã hát ru cậu ấy như hôm nay. Nỗi buồn thương cứ thế dâng trào nghẹn lòng.
Kháp Na tủm tỉm, má lúm đồng tiền nhấp nhô, tinh nghịch:
– Tiểu Lam à, khi ấy ta thường bị Mukaton mắng chửi, đánh đập, hằng đêm em vẫn hát cho ta nghe khúc ru này, khiến ta cứ nghĩ mẹ ta hiện về trong mơ. Bởi vậy, hồi đó, ta thích nhất lúc đi ngủ, vì như thế sẽ không phải thấy Mukaton, sẽ được găp mẹ và nghe mẹ hát.
Tôi thở dài, ngắm nhìn nụ cười của cậu ấy:
– Kháp Na ơi, cậu có biết lúc cười trông cậu tuyệt thế nào không? Cậu hồi này ít cười hơn khi xưa nhiều lắm. Lúc cậu cười, sẽ có má lúm đồng tiền rất đáng yêu.
Kháp Na hớn hở, lúm đồng tiền lại được dịp khoe mình:
– Vậy ư? Em thích chứ?
– Thích.
Tôi ngắm nhìn Kháp Na, dưới bóng trăng huyền hoặc, cậu ấy chơ vơ như một thân cây cô lẻ, vầng trăng chênh chếch, chiếu rọi những đường nét lung linh như tạc trên gương mặt cậu ấy. Lòng tôi bỗng đượm buồn, tôi lắc đầu thương cảm:
– Nhưng mà càng ngày cậu càng ít khi cười.
Cậu ấy ôm tôi vào lòng, gõ ngón tay vào chiếc mũi nhọn của tôi, âu yếm:
– Được rồi, ta hứa với em, ta sẽ cười với em nhiều hơn.
Tôi do dự một lát, quyết định mở lời:
– Đã quá nửa đêm rồi, cậu vào động phòng đi. Cô dâu chờ lâu sẽ thiếp đi mất.
Nụ cười của cậu ấy bỗng tắt lịm, cậu ấy ngước nhìn vầng trăng đêm lạnh, giọng nói chợt trở nên cô liêu:
– Tiểu Lam ơi, ta rất sợ. Có lẽ bởi ký ức của mười bốn năm về trước quá sâu đậm. Ta không biết phải đối diện với cô dâu mới như thế nào. Cứ nghĩ đến việc vì trách nhiệm nối dõi tông đường mà phải vào căn phòng đó là ta lại không sao nhấc nổi bước chân.
– Nhưng mà...
Thính giác nhạy bén khiến tôi đột ngột im bặt, chăm chú lắng nghe. Đó là tiếng vó ngựa rền vang từ phía tây thành dội lại, đang phi như bay về phía chúng tôi. Đêm khuya thanh tĩnh, âm thanh hiếm hoi ấy lại càng trở nên rõ rệt, chỉ một lát sau. Cả Kháp Na cũng nghe rõ mồn một.
Kháp Na băn khoăn:
– Muộn thế này, ai đến vậy nhỉ?
Tôi nghe thấy tiếng cổng thành mở ra rồi đóng lại, nên đoán định đoàn người ngựa vừa vào thành:
– Chắc chắn không phải dân thường. Nửa đêm mà vẫn có thể yêu cầu người giữ thành mở cổng thì có thể là ai?
Tiếng vó ngựa gấp gáp, náo động đột ngột dừng lại trên con phố nhỏ trước cổng phủ. Ngay sau đó là tiếng đập cửa dồn dập, chó canh cổng sủa vang, đánh thức tất cả mọi người đang say giấc nồng. Tiếng bước chân rầm rầm tiến vào dãy nhà trong, Kháp Na tái mặt, đột ngột bật dậy, giọng nói run run:
– Ta biết là ai rồi. Nửa đêm nửa hôm vẫn dẫn theo cả đoàn người gây náo động như vậy chỉ có cô ấy thôi. Nhưng sao từ Lương Châu đến Yên Kinh phải mất vài tháng, sao cô ấy có thể đến nhanh như vậy được?
Người phụ nữ với thân hình nặng nề như tòa tháp sắt ấy đang ra sức đấm cửa, cánh cửa yếu ớt oằn oại kêu la, từng lớp mùn cưa tuôn rơi lả tả. Mukaton gào thét, giọng nói như sấm dội bên tai, nghe mà muốn thủng màng nhĩ.
– Đồ gian phu dâm phụ, đồ mèo mả gà đồng, các người ra đây cho ta!
Cửa phòng bật mở, Dankhag đã tẩy trang từ lâu, khoác áo khoác, mắt nhắm mắt mở đứng trước cửa phòng, cất giọng oán trách bằng thứ tiếng Mông Cổ lơ lớ:
– Ai thế? Bây giờ là mấy giờ mà dám lớn tiếng gây náo loạn Vương phủ hả?
Nhìn thấy Dankhag đang vận lễ phục cô dâu màu đỏ chói, Mukaton nổi trận lôi đình, xông tới, túm cổ áo Dankhag, giáng cho tình địch một tát như trời giáng:
– Đồ đê tiện nhà ngươi chẳng được cái mẽ gì mà cũng đòi leo lên giường của chồng ta ư? Ngươi tưởng rằng được Đại hãn ban hôn ước thì ta không dám phá ư?
Dankhag bị tấn công bất ngờ, hoa mắt chóng mặt, một lúc lâu mới tỉnh lại. Mukaton tuôn ra một tràng rào rào, Dankhag không hiểu gì, vội thúc thị nữ bên cạnh phiên dịch. Sau khi hiểu ra cớ sự, cô ta nổi đóa, nhảy bổ lên túm tóc Mukaton, chửi rửa bằng tiếng Tạng:
– Còn ngươi thì sao, đồ đàn bà xấu xa! Cậy mình là công chúa mà tùy tiện đánh người à? Ta là con gái của quan vạn hộ hầu, hôn lễ của ta do chính Đại hãn ban, ta chẳng kém ngươi bao nhiêu. Ngươi ngó lại cái thân hình voi hùm của ngươi mà xem. Vừa già vừa xấu như ngươi, Kháp Na có bị đui mù đâu mà yêu thích ngươi!
Thị nữ của Mukaton vừa lùi ra phía sau, tránh né cuộc chiến tranh đang diễn ra trước mắt, vừa run rẩy sợ hãi phiên dịch lời nói của Dankhag sang tiếng Mông Cổ. Cơ thể nặng nề, ục ịch khiến Mukaton không nhanh nhẹn bằng Dankhag nên đã bị cô ta túm tóc, đồ trang sức bung rơi, Mukaton tóc tai rũ rượi, vừa bóp đầu vừa gào lên:
– Đồ đàn bà đê tiện, hôm nay ta sẽ tẩn cho ngươi nát như tương, để xem ngươi lấy gì mà câu nhử đàn ông!
Hai người lao vào nhau cấu xé, ai chửi bằng thứ tiếng của người ấy, không cần phiên dịch. Các thị vệ thị nữ đứng bên không dám can thiệp, trận ẩu đả đã đánh thức toàn bộ người hầu trong phủ, bọn họ khoác áo, ra khỏi phòng, đứng nhìn từ xa. Khi trận đánh ghen lên đỉnh điểm thì một tiếng hô lớn: "Dừng lại!" vang lên, Kháp Na vừa chạy tới.
Hai người phụ nữ ngó thấy Kháp Na mặt mày biến sắc, hớt hải chạy đến thì vội ngừng tay. Mukaton vén mái tóc bù xù sang bên, nhìn Kháp Na thăm dò, rồi đột nhiên gào lên hả lòng hả dạ:
– Tốt rồi! Trang phục chú rể vẫn còn nguyên trên người chàng, và chàng lại vừa từ bên ngoài trở về, vậy thì chắc là vẫn chưa động phòng với thứ đàn bà đê tiện này. Xem như ta đã đến kịp!
Người hầu đứng vây quanh không nín được, tủm tỉm cười. Kháp Na ngó người đàn bà thô thiển ấy bằng ánh mắt ghê sợ:
– Đủ rồi đấy! Cô còn định làm trò cười cho thiên hạ đến bao giờ nữa?
Mukaton lia cặp mắt cú vọ ra xung quanh:
– Kẻ nào dám cười ta, ta sẽ móc mắt kẻ đó!
Đầu tóc rối tung như tổ quạ, hai mắt thâm quầng như mắt gấu trúc, gương mặt nung núc thịt của Mukaton nay đã có thêm vài vết xước, kết quả của cuộc cào cấu khi nãy. Áo quần xộc xệch, vẻ mặt hung tợn chẳng khác nào tượng quỷ dạ xoa mặt xanh nanh vàng trên bàn thờ trong Phật đường. Đám người hầu vốn biết rõ sự đáng sợ của Mukaton thì nhanh nhẹn cúi gằm mặt, lùi lại phía sau. Đám nô bộc ở phía xa lần đầu được chứng kiến vẻ hung hăng, dữ dằn của bà chủ cũng vội vã rút lui vào trong.
Kháp Na khoát tay ra hiệu ra tất cả mọi người về phòng, rồi chau mày hỏi Mukaton:
– Sao cô tới được đây nhanh như vậy?
Thường từ Lương Châu tới Yên Kinh phải mất hơn hai tháng, từ lúc Hốt Tất Liệt ban hôn ước đến khi chính thức thành thân chỉ có nửa tháng, dù Mukaton có nhận được tin ngay lúc đó và phi ngựa cả ngày lẫn đêm cũng không thể đến kịp.
Mukaton chống tay vào bờ eo bè bè như thùng nước gạo, cất giọng hách dịch:
– Thành thân chỉ trong vòng nửa tháng, rõ ràng là chàng không muốn ta tới kịp để ngày vui của các người được viên mãn chứ gì? Nhưng đời nào ta chịu để các người được như ý!
Toàn thân Mukaton bụi đất lấm lem, vẻ mặt mệt mỏi rã rời, nếp nhăn đua nhau xô lại, trông cô ta càng già hơn. Cô ta giậm chân bành bạch, cả căn phòng như rung lên:
– Chàng có biết ta đến đây bằng cách nào không? Ở Lương Châu, ta nhận được mật báo, một đứa con gái mặt dày người Tạng cứ bám chặt lấy chàng. Vậy nên, một tháng trước Tết ta đã xuất phát, chàng có biết là ta phải ăn Tết trên đường đi không? Khi ta chuẩn bị đến Yên Kinh thì lại nhận được mật báo, Đại hãn ban hôn ước và chàng sắp sửa thành thân! Nghe tin đó, tim gan phèo phổi của ta như muốn nổ tung, ta đã thúc ngựa chạy cả ngày lẫn đêm không ngừng nghỉ, dù trên đường đi, ngựa của ta vì mệt mà lăn ra chết rất nhiều, ta dứt khoát phải đến đây trước lúc hôn lễ của chàng được cử hành!
Từ lâu, Mukaton vẫn luôn gài người theo dõi Kháp Na, hễ có động tĩnh gì, người của cô ta sẽ lập tức báo về cho chủ nhân. Có lẽ ngay từ khoảnh khắc Dankhag nhìn trộm Kháp Na thì tin tức đã được truyền về Lương Châu. Vì muốn ngăn chặn từ trong trứng nước, Mukaton phải tức tốc khởi hành, nào ngờ cô ta đã đến vào đúng ngày cưới của Kháp Na.
Kháp Na mệt mỏi xua tay:
– Ngày lành thánh tốt là do Đại hãn lựa chọn, Dankhag cô cũng thấy rồi, đường xa vất vả, cô nên nghỉ sớm đi!
Mukaton xoay người, dang tay chặn cửa, thân thể cao lớn, đẫy đà của cô ta che kín cửa phòng:
– Xua ta đi để các người được vui vẻ với nhau chứ gì? Còn lâu nhé! Đêm nay ta sẽ ngồi đây, các người đừng hòng vào phòng.
Dankhag không hiểu nội dung cuộc trò chuyện bằng tiếng Mông Cổ giữa Mukaton và Kháp Na nên nãy giờ đứng một bên quan sát biểu cảm của hai người. Nhưng đến lúc này, khi nhìn thấy hành động của Mukaton, không cần phiên dịch cũng có thể biết được tình địch định làm gì. Dankhag nổi đóa, quát tháo bằng tiếng Tạng:
– Cô làm trò gì vậy? Đêm nay là đêm tân hôn của ta, ai cho cô chặn cửa phòng như thế?
Kháp Na lạnh lùng quay đầu bước đi:
– Công chúa, cô muốn ngồi đây cả đêm thì tùy, ta mệt lắm rồi, không còn hơi sức đâu mà tranh cãi với hai người.
Dankhag lao đến giữ chặt tay Kháp Na, cuống quýt:
– Kháp Na, chàng đi đâu vậy?
Kháp Na gỡ tay cô ta ra:
– Ta sẽ ngủ ở thư phòng.
Dankhag dứt khoát không chịu buông:
– Em sẽ đi cùng chàng.
Kháp Na ra sức tránh né:
– Nếu cô đi theo ta thì đêm nay ta sẽ chẳng thể yên giấc. Ta rất mệt, làm ơn để ta ngủ yên đi. Nếu hai chúng ta không ở cùng nhau thì cô ấy sẽ không gây sự nữa.
Dankhag nhìn theo bóng dáng Kháp Na, giậm chân gào khóc:
– Nhưng đêm nay là đêm tân hôn của em kia mà!
Kháp Na dừng bước nhưng không quay đầu lại:
– Dankhag, cô đã chứng kiến tình cảnh của ta rồi đó, cô nhất quyết lấy ta thì cô phải chấp nhận và thích ứng với tất cả chuyện này.
Đêm đó, Kháp Na một mình trải qua đêm tân hôn lần thứ hai trong thư phòng, với một tiểu hồ ly làm bầu bạn, hệt như tình cảnh của mười bốn năm về trước. Tôi hát khúc Nhịp võng đưa an ủi cậu ấy, ngắm nhìn cậu ấy ngủ ngon lành, nhẹ nhàng xoa dịu gương mặt căng thẳng của cậu ấy. Chỉ khi chìm vào giấc ngủ, cậu ấy mới có được cảm giác bình yên và hạnh phúc.
Theo quyết định của Bát Tư Ba thì lẽ ra ngày hôm sau Yeshe phải trở về Sakya, nhưng hôm đó Yeshe đã bặt vô âm tín. Tuy rằng hai huynh đệ đã cãi vã nảy lửa trong ngày diễn ra hôn lễ của Kháp Na nhưng Bát Tư Ba không muốn Yeshe xảy ra chuyện gì ở Yên Kinh nên đã sai người tìm kiếm khắp nơi. Đến chiều tối hôm đó, khi ai nấy đều sốt ruột, lòng như lửa đốt thì Yeshe đột ngột xuất hiện ở phủ Quốc sư.
Cậu ta về thu dọn hành lý. Nhưng không phải để trở về Sakya mà dọn đến nương náu trong phủ đệ của Hoàng tử Hốt Ca Xích, con trai cả của Hốt Tất Liệt.
Thì ra, ngay khi đến Yên Kinh, Yeshe đã mượn danh Bát Tư Ba để kết thân với các quan lại và hoàng thân quốc thích Mông Cổ. Sau khi gặp Hốt Ca Xích, hai người trở nên thân thiết như tri kỷ. Hốt Ca Xích xưa nay vẫn ganh ghét, đố kỵ với Chân Kim, vì mẹ ruột cậu ta chỉ là thứ phi còn mẹ ruột của Chân Kim là hoàng hậu, mặc dù cậu ta là con cả nhưng người được phong vương trước lại là Chân Kim. Hốt Ca Xích đã nỗ lực không ngừng, mong nhận được sự sủng ái của Hốt Tất Liệt nhưng Đại hãn vẫn dành mối lương duyên với công chúa của bộ lạc Hoằng Cát Thích cho Chân Kim.
Cảnh ngộ của Hốt Ca Xích giống hệt Yeshe nên hai người họ có rất nhiều chuyện để chia sẻ với nhau. Nghe nói Yeshe và anh cả xảy ra xung đột, Hốt Ca Xích động lòng, bèn ngỏ lời mời Yeshe về phủ của mình và tôn làm thượng sư. Dù tình cảm anh em có nhiều rạn nứt nhưng đối với bên ngoài, họ vẫn là người của phái Sakya, vì thế Bát Tư Ba cũng không nhiều lời, chỉ lặng lẽ nhìn theo bóng Yeshe khuất dần nơi cổng phủ Quốc sư.
Phủ Bạch Lan Vương của Kháp Na mới thật gay go! Ngọn lửa chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng bùng lên giữa hai cô vợ có thân thế và địa vị xã hội tương đương nhau, và số lượng đầy tớ, người hầu biết đánh biết chửi cũng ngang ngửa nhau. Bọn họ không thể dùng quyền lực để áp chế đối phương nên chỉ có thể dựa vào "năng lực" mắng chửi và đánh lộn của mình, chỉ cần chạm mặt là có thể lập tức cãi nhau. Mukaton và Dankhag không cần đến phiên dịch, ai dùng ngôn ngữ của người nấy, họ mạt sát nhau bằng thứ tiếng dữ dằn, hằn học. Cũng may phủ Bạch Lan Vương rất rộng nên những cuộc cãi vã chói tai không truyền ra ngoài phố.
Vợ chồng son lại mặt nhà gái ba ngày sau hôn lễ. Mukaton cương quyết xen vào, cô ta ngồi chễm chệ trên kiệu, đi theo đoàn người ra khi lều trại ở ngoại thành mà Tsirenja dựng lên để đón thông gia. Mukaton giành lấy vai trò chủ nhà, thay mặt Kháp Na đến chào hỏi, mời rượu và trao lì xì cho từng người, cô ta còn diễn vẻ niềm nở, hiếu kính với Tsirenja. Dù có tức tối nhường nào đi nữa, Dankhag cũng phải nể mặt người vợ cả của Kháp Na vì cô ta là công chúa. Ngày lại mặt trở nên khôi hài với các màn trình diễn thú vị của Mukaton và nỗi bực tức đến mức có thể hộc máu của Dankhag. Một tháng sau, Tsirenja lên đường trở về đất Tạng, trước khi đi ông ta đã căn dặn con gái phải nhẫn nhịn và nhanh chóng sinh hạ con trưởng cho giáo phái Sakya.
Mỗi ngày Dankhag đều trang điểm rất đỗi cầu kỳ, tận dụng mọi cơ hội để có thể tiếp cận Kháp Na, nhưng kế hoạch của cô ta đều bị "bóng ma" Mukaton theo dõi và phá hủy. Vì khi Kháp Na vừa trưởng thành, Mukaton đã tìm đủ mọi cách để giám sát cậu ấy nên kinh nghiệm đấu tranh của cô ta quá ư phong phú, đừng nói là một ngọn lửa, ngay cả một tia lửa vừa mới nhen nhóm cũng sẽ bị cô ta dập tắt ngay lập tức. Dankhag sinh ra và lớn lên ở đất Tạng tự do, phóng khoáng, làm sao có thể trở thành đối thủ của Mukaton được, nhất cử nhất động của Dankhag đều không thoát khỏi tầm mắt của Mukaton.
Và cứ thế, cuộc đấu đá diễn ra ngày một đều đặn, biến thành các vụ ẩu đả, bạo lực: bỏ thuốc độc, gian trá, yểm bùa, bắt cóc, mua chuộc kẻ hầu người hạ,...Từ tờ mờ sáng, hai người đã dồn toàn bộ tâm trí vào đối phương, cho đến lúc tắt đèn đi ngủ vẫn còn lẩm bẩm gọi tên người kia, thân yêu hơn cả người tình. Cuộc đấu đá kịch liệt ấy mang lại cho hai người lợi ích sau: Tiếng Mông Cổ và tiếng Tạng của cả hai đều tiến bộ vượt bậc, đặc biệt là những từ ngữ dùng để chửi bới, thóa mạ người khác.
Người đáng thương nhất là Kháp Na, cậu ấy sống trong cảnh phấp phỏng, lo sợ ngay trong bữa ăn, giấc ngủ. Kể từ lần Dankhag bỏ xuân dược và thức ăn của Kháp Na và bị Mukaton phát giác, Kháp Na không dám uống nước trong Vương phủ của mình. Một lần khác, khi cậu ấy đang ngon giấc thì bỗng nghe tiếng cãi vã ngoài cửa. Thì ra cả Mukaton và Dankhag cùng cho người giám sát cửa chính và cửa sổ phòng ngủ của Kháp Na hằng đêm, để có thể tóm gọn đối phương nếu người nào định lẻn vào phòng của cậu ấy.
– Tiểu Lam ơi, những ngày tháng đáng sợ thế này sẽ kéo dài bao lâu nữa?
Kháp Na quá đỗi mệt mỏi, ánh mắt đờ đẫn, thần sắc tiều tụy, gương mặt hom hem, gầy rộc đi trông thấy. Cậu ấy đã mất ngủ nhiều đêm rồi.
– Không dám ăn, không dám ngủ, thế này còn đáng sợ hơn đời sống lao tù.
Không muốn bị hai cô vợ đeo bám, giày vò, ngày ngày Kháp Na theo Bát Tư Ba vào cung. Bát Tư Ba đang lập kế hoạch khôi phục hệ thống trạm nghỉ từ thời vương triều Tufan, xây dựng một hệ thống trạm nghỉ hoàn thiện hơn trước nên Kháp Na đi theo trợ giúp cậu ấy. Kháp Na vốn thông minh, lanh lợi, cậu nắm bắt rất nhanh những vấn đề thuộc về quan hệ và lợi ích chính trị. Vì vậy, Bát Tư Ba đặc biệt tin tưởng và tín nhiệm em trai, xem cậu ấy như trợ thủ đắc lực.
Ban ngày, Kháp Na được yên ổn theo Bát Tư Ba vào cung làm việc, nhưng cứ đến tối, hai cô vợ lại trang điểm kỹ càng đến phủ Quốc sư "đòi người". Kháp Na không về, họ cũng không về, sau cùng thì người phải đầu hàng luôn là Kháp Na. Bát Tư Ba tuy không tiện xem vào chuyện vợ chồng của họ nhưng cũng không khỏi phiền lòng. Vì vậy, cậu ấy đành phải viết thư cho anh trai Thiếp Mộc Nhi của Mukaton, mời cậu ta đến Yên Kinh ngay.
Hai người phụ nữ đó khiến tôi không thể không ghét họ, vậy nên tôi đi theo Kháp Na cả ngày để bảo vệ cậu ấy. Khứu giác nhạy bén của tôi có thể nhận biết mọi loại độc dược, thảo dược nên trước khi Kháp Na ăn bất cứ thứ gì, tôi đều làm nhiệm vụ kiểm tra. Buổi tối, lúc cậu ấy ngủ, tôi sẽ đặt kết giới [1] quanh cậu ấy, dù cho hai người phụ nữ có cãi vã long trời lở đất ở bên ngoài thì cậu ấy cũng không bị làm phiền. Nếu họ có hành vi gì quá đáng, tôi sẽ hóa phép khiến họ đột ngột sinh bệnh hoặc bị thương nhẹ.
Mùa xuân năm đó, Hốt Tất Liệt lại một lần nữa cầm quân lên phía bắc, tiếp tục cuộc chiến với A Lý Bất Ca. Đến đầu mùa hạ, quân của A Lý Bất Ca đại bại ở Ximutu, Hốt Tất Liệt chiếm được kinh đô Hòa Lâm của A Lý Bất Ca. A Lý Bất Ca tháo chạy về Gigli Gi, vốn là vùng đất thuộc quyền cai trị của Đà Lôi, người cha của A Lý Bất Ca. Hốt Tất Liệt sốt ruột chuyện kết hôn của Chân Kim nên đã không truy đuổi A Lý Bất Ca mà đưa quân về Yên Kinh.
.
– Trong năm này, ngoài việc thiết lập hệ thống trạm nghỉ, Hốt Tất Liệt còn giao cho Bát Tư Ba một nhiệm vụ không kém phần quan trọng và khó khăn: sáng tạo chữ viết cho người Mông Cổ.
Chàng trai trẻ hứng khởi kêu lên:
– Tôi nhớ rồi, chữ viết đó về sau được đặt tên là chữ viết Bát Tư Ba. Ngày nay, trong một số thư tịch xuất bản của chúng ta, chữ viết Bát Tư Ba vẫn được sử dụng để trang trí bìa và gáy sách.
Tôi rút ra một cuốn sách lịch sử trên giá, lật đến trang có hình chữ viết Bát Tư Ba, đưa cho chàng trai trẻ:
– Chữ Bát Tư Ba là loại chữ cổ, vuông vắn, trang nghiêm, khoáng đạt, bởi vậy, cho đến tận thời nhà Thanh, người Tạng và người Mông Cổ vẫn sử dụng chữ Bát Tư Ba khi thảo công văn và làm ấn chương.
Trước khi Thành Cát Tư Hãn lập ra nhà nước Mông Cổ, người Mông Cổ không hề có chữ viết. Trong khoảng thời gian hợp nhất các bộ lạc Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn bắt được một người Uyghur chuyên coi giữ các con dấu và công văn, thư từ tên là Tatatonga, lúc đó ông mới biết đến tầm quan trọng của chữ viết. Thế là, ông ra lệnh cho Tatatonga ghi lại tiếng Mông Cổ bằng văn tự Uyghur rồi dạy cho các hoàng tử.
Chàng trai trẻ đưa ra nhận định sắc sảo:
– Nhưng dù sao đó cũng chỉ là chữ viết của dân tộc khác, giống như việc chúng ta dùng tiếng Anh để ghi lại âm đọc tiếng Trung vậy. Nhưng hai hệ thống ngôn ngữ này hoàn toàn khác nhau, sao có thể ăn khớp được?
– Đúng thế. Bởi vậy sau này, vào thời đại của Oa Khoát Đài, Quý Do và Mông Kha, hệ thống chữ viết của người Mông Cổ vô cùng hỗn độn. Họ giao lưu với các quốc gia Tây Á bằng chữ Ba Tư, với nước Kim và nước Tống bằng chữ Hán. Ngoài ra, họ còn sử dụng cả chữ Uyghur, chữ Tây Hạ, v.v... Người Mông Cổ phải học rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, ngôn ngữ trở thành gánh nặng đối với họ.
– Khi ấy, lãnh thổ của đế quốc Mông Cổ thì rộng lớn, trong khi các sắc lệnh ban ra sử dụng ngôn ngữ quá ư hỗn độn nên yêu cầu cấp thiết với họ lúc này là phải sáng tạo ra chữ viết của riêng mình.
Tôi gật đầu:
– Đúng vậy. Và Hốt Tất Liệt tin tưởng rằng, với trí tuệ mẫn tiệp, uyên bác của mình, Bát Tư Ba nhất định sẽ hoàn thành được trách nhiệm nặng nề này.
[1] Thuật kết giới là loại phép thuật tạo ra vòng tròn hoặc hộp bảo vệ để tránh sự tác động từ bên ngoài đến người nằm trong vòng hoặc hộp kết giới. (DG)
Chương 26 - Lễ Cưới Linh Đình Của Hoàng Tử.
"Học giả sẵn sàng sửa sai,
Kẻ ngu khó lòng là vậy;
Đại bàng mổ chết rắn độc,
Quạ con sao dám liều thân."
(Cách ngôn Sakya)
– Tiểu Lam à, ta mang sữa bò và thịt gà cho em này, mau lại đây ăn đi. – Chân Kim ngồi xổm, một tay cầm bát sữa, tay kia cầm con gà quay thơm phức dụ dỗ tôi. – Em nhìn này, thịt gà thơm phức, nóng hôi hổi nhé! Đây là món gà quay của quán Đức Thắng nức tiếng thành Yên Kinh này đấy.
Hứ, ngươi cho rằng dùng món gà quay mà ta thích ăn nhất thì có thể sai bảo được ta ư? Lại còn xưng hô thân mật "ta" với "em" nữa chứ. Nếu xét tuổi tác thì ta có thể là tổ tiên của ngươi được đấy. Tôi nuốt nước bọt, quay đầu kênh kiệu, tỏ vẻ không thèm. Nhưng thực lòng mà nói, mùi thơm ấy quả rất hấp dẫn. Bụng dạ kêu ọc ọc, tôi dịch từng bước lại gần Chân Kim, mặt vẫn vênh váo, kiêu kỳ nhưng ánh mắt thì dán chặt vào con gà quay béo ngậy.
Chân Kim phì cười, ôm tôi vào lòng, cho tôi thưởng thức món gà mà tôi thích ăn nhất. Tôi thong thả nhấm nháp, chốc chốc lại quay sang giải khát bằng món sữa bò nóng hổi, ngon hết sẩy! Thôi được, tôi thừa nhận là mấy năm qua Chân Kim đã đối xử với tôi rất ân cần, tử tế. Nếu cậu ta không lăm le muốn độc chiếm tôi, khiến tôi nảy sinh ác cảm thì cũng có thể coi là chỗ bạn bè.
Đang sung sướng thưởng thức, bỗng tôi nghe thấy tiếng thở dài ảo não lướt trên đầu mình:
– Màu tóc của cô ấy giống hệt màu lông của em, đôi mắt cũng đẹp như mắt em vậy.
Tôi hốt hoảng, sặc sữa bò, ho khụ khụ. Cậu ta rút chiếc khăn bằng lụa mềm ra lau miệng cho tôi, rồi lại thở dài:
– Nhưng ta không sao tìm được cô ấy, như thể cô ấy đã biến mất khỏi thế gian vậy! Có lẽ cô ấy là tiên nữ trên trời, vì người phàm sao có thể có được mái tóc và đôi mắt màu lam như thế!
Không phải chứ, trí tưởng tượng của cậu ta thật phong phú! Tôi ngước nhìn, thấy Chân Kim đang ngắm nghía bộ lông của tôi không chớp mắt, bàn tay đặt lên ngực:
– Cho đến tận bây giờ, trái tim ta vẫn đập thình thịch mỗi khi nhớ lại dung nhanh tuyệt mỹ của cô ấy. Xưa nay chưa từng có người con gái nào khiến ta xúc động sâu sắc đến vậy.
Tôi há hốc miệng, chúng tôi gặp nhau có được lâu đâu, sao cậu ta lại nảy sinh tình cảm sâu đậm như thế chứ? Con người quả đúng là loài động vật kỳ lạ!
Hàng lông mày dày rậm của cậu ta xô lại, vẻ mặt ủ dột, cậu ta tiếp tục đắm chìm trong tưởng tượng:
– Tối hôm đó, lúc cô ấy lao ra ngoài cửa sổ, tim gan ta như vỡ tan, vì ta cứ ngỡ cô ấy muốn quyên sinh. Nhưng sau đó, ta lại thấy cô ấy mở ô, nhẹ nhàng bay xuống. Động tác mềm mại, thanh thoát ấy không thể là của người phàm.
Tôi lè lưỡi xấu hổ, thật không ngờ cuộc tháo chạy cuống quýt của tôi trong mắt cậu ta lại trở nên thi vị đến vậy. Có lẽ cậu ta chưa bao giờ nhìn thấy người phụ nữ nào nhảy xuống từ lầu cao hoặc chạy như bay trên đường nên mới càng nghĩ càng thấy kỳ lạ chăng?
Cậu ta cứ rủ rỉ tâm tình với tôi như thế, hai mắt như phát sáng:
– Cô ấy là tiên nữ ham chơi, đã lẻn xuống trần gian, chẳng may để ta bắt gặp. Nếu như Phật Tổ thương tình cho ta được gặp lại cô ấy, ta nguyện cả đời mình cúng dường dầu đốt đèn cho nhà chùa, à không, ta tình nguyện cúng dường bất cứ thứ gì.
Tôi cảm thấy bức bối, khó chịu, cố giãy giụa đòi cậu ta thả tôi xuống. Chỉ còn vài ngày nữa cậu ta sẽ kết hôn, có rất nhiều việc cần đến sự có mặt của chú rể, vậy mà cậu ta lại trốn trong phủ Quốc sư, chơi đùa với một tiểu hồ ly, còn lảm nhảm những lời có cánh ấy nữa chứ, lỡ Khabi biết được, thể nào cũng bị mắng cho một trận, và tôi cũng không tránh khỏi bị vạ lây.
Nhưng cậu ta cứ giữ chặt, không cho tôi thoát ra, o ép tôi phải nghe cho bằng hết tâm sự của cậu ta. Khi mối tương tư đã được giải bày, cậu ta mới chịu quay trở về hiện thực, vẻ mặt buồn rầu, lắc đầu:
– Nhưng nếu gặp lại cô ấy thì sao? Chuyện hôn nhân của ta không do ta quyết định, ta buộc phải cưới người con gái chưa từng gặp mặt làm vợ bởi vì cô ấy có thể mang lại cho ta quyền lực.
Tôi bực mình kêu ư ử, cuối cùng cậu ta cũng chịu thả tôi xuống. Tôi cuống cuồng nhảy ra xa, giữ khoảng cách với cậu ta. Cậu ta nheo mắt nhìn tôi, rồi lại thở dài thườn thượt:
– Ta ghen tị với em quá, được tự do tự tại, không chịu sự trói buộc của thân phận, địa vị.
Cậu ta chừng như rất đỗi nuối tiếc, rầu rĩ. Ngọn gió oi nồng ngày cuối hạ thổi bay vạt áo dài dệt từ lụa tơ tằm sang trọng, quý phái của cậu ta, bóng dáng cao lớn đổ dài trong nắng, hắt lên không gian vẻ cô liêu, đơn độc.
Cuối hạ, đầu thu năm đó, Hoàng tử Chân Kim mười tám tuổi lấy vợ đầu tiên là Công chúa Khoát Khoát Chân của bộ lạc Hoằng Cát Thích. Hoàng tử Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi cũng đến Yên Kinh để chúc mừng hôn lễ của Chân Kim và tất nhiên, Bát Tư Ba đã bố trí để Thiếp Mộc Nhi lưu lại trong phủ Bạch Lan Vương.
Sau cuộc hàn huyên kéo dài với anh em Bát Tư Ba, Thiếp Mộc Nhi kéo em gái ra một chỗ để trò chuyện, vì tò mò, tôi đã hóa phép ẩn mình, lẻn vào phòng nghe trộm. Thiếp Mộc Nhi nhỏ nhẹ khuyên bảo em gái, nào ngờ vừa nhắc đến tên Dankhag, Mukaton đã nhảy dựng lên.
– Cô ta chỉ là vợ lẽ mà đòi ngang hàng với muội ư?
Mukaton hùng hổ nện một cú đấm xuống mặt bàn, chén trà rung bần bật, bắn lên rồi rơi xuống nền nhà, vỡ vụn:
Thiếp Mộc Nhi ôm đầu, vẻ khổ sở:
– Em gái ơi, đừng ngang ngược như vậy nữa! Hôn ước là do Đại hãn ban cho, muội phải học cách chấp nhận. Bằng không, Đại hãn mà nổi giận thì cả nhà ta sẽ phải gánh tai ương đó.
Mukaton bật dậy, lao ra ngoài:
– Vậy muội sẽ đi gặp Đại hãn để nói rằng...
– Nói gì? – Thiếp Mộc Nhi chặn cô em lại, nghiêm khắc ngắt lời. – Nói với ngài rằng, nửa năm qua muội đã ngăn cản không cho Kháp Na động vào người vợ mà cậu ta đường đường chính chính cưới về ư? Hay nói rằng, dù đã ba mươi mốt tuổi muội vẫn chẳng thể làm nên trò trống gì?
Mukaton đấm thùm thụp vào vai anh trai, gào khóc:
– Không làm nên trò trống gì là lỗi của muội à? Anh ta không thèm chạm vào người muội thì muội sinh con làm sao được?
Thiếp Mộc Nhi nhẫn nhịn những cú đấm không hề nhẹ của em gái, lắc đầu ngán ngẩm:
– Muội à, cũng không trách được Kháp Na. Hồi còn ở Lương Châu, muội ngang ngược, lộng hành, gây ra bao chuyện tàn nhẫn. Muốn trách, có lẽ nên trách cha và ta đã quá nuông chiều muội, khiến muội không coi ai ra gì!
Mukaton không chịu nhận sai, vênh mặt, cãi lại:
– Muội có làm gì xấu đâu! Muội chỉ muốn anh ta không gặp gỡ mấy con yêu tinh đó thôi! Ai bảo anh ta chẳng bao giờ chịu nhìn muội.
Thiếp Mộc Nhi xoay vai em gái lại, dịu giọng khuyên nhủ:
– Em gái à, nơi đây là Yên Kinh, không phải Lương Châu. Lương Châu là đất phong của ta, muội muốn làm gì tùy ý. Nhưng giờ đây, Hốt Tất Liệt đã lên ngôi Đại hãn, ông ấy chỉ là ông chú họ xa, cách chúng ta những hai thế hệ. Đất đai thuộc quyền cai quản của cha chúng ta đều đã bị lấy sạch, chỉ còn lại Lương Châu. Trước đây, khi quyền hành nằm trong tay chúng ta, phái Sakya phải dựa dẫm vào chúng ta nên Kháp Na không dám trái ý muội. Nhưng bây giờ thì khác, muội hãy mở to mắt ra mà xem, tình thế nay đã khác xưa rồi!
Mukaton khịt mũi coi thường:
– Tuy Đại hãn phong vương cho Kháp Na nhưng chỉ là hữu danh vô thực, anh ta không có đất đai, không có quyền hành gì. Nếu đòi so với cháu gái của Thành Cát Tư Hãn là muội đây, thân phận của anh ta còn kém xa!
– Đồ đàn bà ngu muội! Muội nghĩ chúng ta vẫn đang sống ở thời kỳ mà Đại hãn Quý Do còn tại vị chắc? – Thiếp Mộc Nhi hết kiên nhẫn, cốc một cái thật đau vào trán cô em gái. – Quý Do là bác ruột chúng ta, những năm tháng ông ấy còn làm Đại hãn, chúng ta mới oai phong làm sao. Nhưng từ sau khi Mông Kha Hãn kế vị, đã trừ bỏ hết những người ở phe đối lập, ông ta đã giết hại hơn ba trăm người vốn là những người hầu cận thân thiết, con cháu, phi tần của bác chúng ta. Nếu không nhờ mối quan hệ thân thiết giữa cha chúng ta và Mông Kha Hãn, rất có thể chúng ta đã mất mạng từ lâu rồi. Giờ đây, Hốt Tất Liệt lên ngôi, ông ấy lại không có mối quan hệ giao hảo nào với chúng ta, đất phong ở Lương Châu có thể bị tước đi bất cứ lúc nào. Bởi vậy, nếu xét đến thân phận thì hiện nay Kháp Na là Bạch Lan Vương, anh trai cậu ấy là quốc sư được nhà vua rất mực sủng ái, địa vị của họ cao hơn muội rất nhiều, cô em công chúa hết thời của ta ạ!
Mukaton nhăn mặt xoa đầu kêu đau, Thiếp Mộc Nhi phớt lờ cô em đang nổi cơn tam bành, tiếp tục:
– Bát Tư Ba bây giờ là nhân vật quan trọng bậc nhất bên cạnh Đại hãn, ngay cả anh trai muội cũng phải bợ đỡ cậu ấy để gây dựng quan hệ với Đại hãn Hốt Tất Liệt. May mắn thay, tình bằng hữu tốt đẹp giữa ta và anh em họ vẫn được duy trì từ bấy lâu đến nay, nếu không, chỉ cần cậu ta mở lời cầu xin Đại hãn thì Kháp Na chắc chắn sẽ bỏ muội dễ dàng!
Mukaton lồng lên:
– Anh ta dám...
Nhưng vừa chạm phải ánh mắt sắc lạnh, nghiêm nghị của anh trai, ngọn lửa điên loạn của Mukaton lập tức xẹp xuống:
– Đủ rồi đấy, em gái à. Ta nói nhiều như vậy, chỉ vì muốn muội hiểu rằng, trước đây Kháp Na cưới được muội là phước của cậu ta, còn bây giờ, muội phải dựa vào cậu ta để có được vinh hoa phú quý. Lúc này cậu ta chưa thèm phản kháng là do thói quen đã hình thành từ hơn mưởi năm qua. Rồi một ngày nào đó cậu ta hiểu ra và muốn trả hận thì muội có hối hận cũng không kịp nữa đâu.
Ngó thấy những nếp nhăn hiển hiện nơi khóe mắt và trên trán của cô em, Thiếp Mộc Nhi cất giọng trầm buồn, lo lắng:
– Nếu muội bị Kháp Na bỏ, thử nghĩ xem, với tuổi tác của muội bây giờ, kiếm đâu ra người đàn ông danh giá hơn Kháp Na cho muội lấy làm chồng đây?
Câu nói ấy khiến Mukaton hoảng sợ, mồ hôi lấm tấm trên trán, ánh mắt khiếp hãi:
– Anh ta... anh ta... sẽ làm vậy thật ư? Anh ta sẽ xin với Đại hãn bỏ muội ư?
Thấy cô em gái đã bị dọa cho khiếp sợ, Thiếp Mộc Nhi không muốn em gái bị kích động thêm nữa, bèn ôn tồn động viên:
– Kháp Na và Bát Tư Ba đều là những người nặng tình, chỉ cần muội đừng cư xử quá đáng, cậu ấy sẽ không làm vậy. Nhưng muội đừng tiếp tục ngăn trở cậu ấy đến với những người phụ nữ khác nữa. Đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, muội càng ngăn cản, người ta càng chán ghét muội. Muội bao dung, độ lượng hơn, biết đâu Kháp Na lại thích muôi. Hãy nhớ rằng, sinh con mới là thiên chức quan trọng nhất của người phụ nữ.
Mukaton buồn thiu, ôm mặt nức nở:
– Anh ta không chịu đâu. Anh ta từng nói cả đời sẽ không ở chung phòng với muội. Muội đã ba mươi mốt tuổi rồi, muội chờ sao đặng...
Thiếp Mộc Nhi sững sờ, rồi khoát tay:
– Vậy thì nghĩ cách để chia đều với người phụ nữ kia!
Mukaton giậm chân bình bịch, nền nhà rung lên theo cơ thể đồ sộ của cô ta:
– Không thể thế được! Muội yêu anh ta, muội yêu anh ta mà! Bao nhiêu năm qua muội vẫn luôn yêu anh ta nên muội trông chừng anh ta rất cẩn thận. Làm sao muội có thể chia sẻ anh ta với người phụ nữ khác được?
Thiếp Mộc Nhi chán nản xua tay:
– Dù sao cũng còn hơn là muội chẳng có được gì.
Mukaton bỗng ngây ra như phỗng rồi nước mắt trào ra như nước vỡ bờ, lăn dài trên gương mặt tròn trùng trục và trát bự phấn của cô ta.
Sau khi rời khỏi phòng Mukaton, tôi mang theo nỗi niềm chất chồng, lững thững trở về phòng Kháp Na. Tôi cảm thấy lòng đầy muộn phiền khi nhớ lại cuộc chuyện trò của hai anh em Mukaton. Thiếp Mộc Nhi nói không sai, giờ đây, Kháp Na có thừa quyền lực để có thể chống lại Mukaton. Chưa nói đến chuyện cô ta ngang ngược, hống hách, chi riêng việc không sinh con cũng đủ để Kháp Na xin với Hốt Tất Liệt ban thánh chỉ cho cậu được bỏ vợ, và khi ấy Mukaton cũng chỉ còn nước ngoan ngoãn chấp nhận.
Nhưng Thiếp Mộc Nhi cũng nắm bắt được điều này, rằng Bát Tư Ba và Kháp Na sẽ không bao giờ làm vậy.
Cháu con của Khoát Đoan ngày nay đã sa sút nhưng những năm tháng khi Quý Do còn tại vị, nắm trong tay quyền lực ngút trời thì cả vùng đất Tạng đã được ban cho Khoát Đoan cai trị. Phái Sakya thời kỳ đầu chỉ là một giáo phái nhỏ bé, thực lực yếu ớt, sau nhờ đại sư Ban Trí Đạt nhìn xa trông rộng, tìm đến nương tựa vào Khoát Đoan nên giáo phái này mới trở nên lớn mạnh ở đất Tạng. Khi ấy, Kháp Na cưới được công chúa Mông Cổ đã khiến không biết bao nhiêu thế lực lớn nhỏ ở đất Tạng phải ngưỡng mộ và ghen tị. Giờ đây, sau hơn mười năm, giáo phái Sakya đã có chỗ dựa lớn hơn, đó là Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt nên rất nhiều người muốn kết thân với Bát Tư Ba. Có câu "uống nước nhớ nguồn", phái Sakya chắc chắn sẽ không bao giờ bỏ rơi gia đình Khoát Đoan. Nếu Kháp Na bỏ Mukaton, người không hiểu rõ nội tình sẽ chỉ trích anh em Bát Tư Ba là vong ân bội nghĩa. Bát Tư Ba chắc chắn không cho phép điều này xảy ra.
Thế nên, không phải Kháp Na đã quen với việc không thèm phản kháng, mà là cậu thấu hiểu tâm tư của anh trai.
Tôi chỉ biết thở dài, ngước nhìn nền trời chiều cuối hạ. Ráng chiều rực rỡ phía trời tây, giữa những tầng mây đỏ gắt và tím ngắt ấy, nền trời hồng hào đan cài trong khối sương khói mông lung, tạo ra cảnh tượng lung linh, huyền ảo tựa đèn trời ngũ sắc lộng lẫy, tráng lệ. Mặt trời lặn dần rồi khuất hẳn sau tầng mây trùng điệp. Những tia nắng cuối cùng hắt lên dãy núi phía xa xa, chiếu ra những dáng núi hùng vĩ nhuốm sắc xanh sẫm.
Có tiếng bước chân tới gần, không cần ngoảnh đầu lại tôi cũng có thể nhận ra Kháp Na. Giọng nói hân hoan vẳng bên tai, thân thể tôi bỗng nhẹ bẫng trong vòng tay cậu ấy:
– Tiểu Lam à, ta đi tìm em khắp nơi, thì ra em ở đây ngắm hoàng hôn.
Cậu ấy mặc chiếc áo mỏng vải bông, mùi thơm thoang thoảng trên cơ thể vừa được tắm gội thơm tho. Trong bóng chiều ảm đạm, đôi mắt cậu ấy sáng như vì sao đêm, sóng mắt long lanh, ngọt ngào, nụ cười với lúm đồng tiền tỏa rạng trên gương mặt điển trai:
– Sau nhiều ngày nghiên cứu bản đồ và các tấu chương trước kia để lại, hôm nay đại ca và ta đã chọn xong tất cả các địa điểm để xây dựng trạm nghỉ, tổng cộng hơn hai mươi trạm nghỉ. Sắp tới sẽ bẩm báo với Đại hãn, để người cử sứ giả đến đất Tạng. Sau khi hệ thống trạm nghỉ được hoàn tất, việc đi lại từ Yên Kinh đến Sakya sẽ thuận tiện hơn rất nhiều.
Kháp Na dồn toàn bộ tâm trí vào việc hỗ trợ Bát Tư Ba và coi đó là niềm vui duy nhất, hằng ngày cậu ấy đều kể cho tôi nghe chi tiếc công việc mà cậu ấy làm. Chúng tôi cùng nhau ngắm hoàng hôn dần buông, mãi đến khi màn đêm xâm chiếm toàn bộ không gian mới uể oải về phòng trong niềm tiếc nuối.
Tôi nói với Kháp Na:
– Thiếp Mộc Nhi đã nói chuyện với Mukaton và khuyên răn cô ấy. Tôi nghĩ sắp tới, Mukaton sẽ đến gặp cậu để làm lành.
– Đừng nhắc đến cô ấy, ta không muốn nghe. – Kháp Na khẽ sững lại, rồi nhanh chóng chuyển đề tài. – Ngày mai là đám cưới của Hoàng tử Chân Kim, em đi cùng ta nhé!
Hôn lễ của Chân Kim rất linh đình. Tôi được ngắm cô dâu Khoát Khoát Chân mười lăm tuổi của Chân Kim. Nằm ngoài dự đoán của tôi, Khoát Khoát Chân không to cao, lực lưỡng, nước da thô ráp như hầu hết các thiếu nữ Mông Cổ. Cơ thể cô ấy gọn gàng, thanh thoát, dáng vẻ yêu kiều, tha thướt, làn da trắng trẻo, mịn màng, gương mặt xinh đẹp, đáng yêu. Tuy cô ấy thường hay đỏ mặt nhưng ứng xử rất tự nhiên, nho nhã. Người thân, bạn bè đồng loạt hô vang, đòi cô ấy uống rượu, cô ấy nâng chén uống cạn, rất thoải mái, phóng khoáng. Buổi tối, cô ấy còn nắm tay các chị em phụ nữ nhảy điệu Gouzhuang quanh đống lửa. Động tác mềm mại, điêu luyện và giọng ca cao vút, trong veo của cô ấy khiến Chân Kim chẳng thể rời mắt.
Tính cách hoạt bát, năng động, vẻ hồn nhiên, ngây thơ, không cầu kỳ, kiểu cách của cô ấy rất được lòng bố mẹ chồng, Khabi cười không khép nổi miệng.
Kháp Na thì đang mải mê chạm chén với viên quan Ahama, người rất được Hốt Tất Liệt sủng ái. Ông ta là người Hồi, xuất thân nghèo khó, vốn là người hầu của cha Khabi, được cử theo hầu Khabi khi cô đi lấy chồng. Ông ta thông minh, nhanh trí, lại giỏi ăn nói nên chỉ một thời gian ngắn đã giành được sự tín nhiệm của Hốt Tất Liệt. Trong suốt khoảng thời gian giao tranh ác liệt với A Lý Bất Ca đồng thời phải xây dựng đô thành, Hốt Tất Liệt cần rất nhiều tiền bạc. Ahama đã ra sức phát huy năng lực sở trường của mình giúp Hốt Tất Liệt thu gom tài sản. Con người này vô cùng nhạy bén và tinh nhanh, trong thời kỳ đầu Hốt Tất Liệt xây dựng đế quốc, cần đến một khối lượng tiền bạc khổng lồ, tài năng đặc biệt của Ahama đã phát huy tác dụng, và quan lộ của ông ta lên như diều gặp gió.
Lúc này, Ahama đang cầm bình rượu, rót hết chén này đến chén khác mời Kháp Na, nói lời bợ đỡ, nịnh hót. Kháp Na không từ chối ly rượu mời nào, cậu ấy cứ thản nhiên ngửa cổ dốc cạn. Chân Kim bước đến, kéo Kháp Na (lúc này đã lảo đảo) về bàn mình uống tiếp, cậu ta chỉ lạnh lùng liếc Ahama một cái rồi đi thẳng. Chân Kim xưa nay vốn cương trực, thẳng thắn nên không hợp với kiểu người ưa dùng thủ đoạn và hay nịnh hót như Ahama. Và thế là, viên đại thần được Hốt Tất Liệt trọng dụng lại bị Hoàng từ Chân Kim tỏ ra lạnh nhạt, thờ ơ. Ahama không biết giấu mặt vào đâu, đành ngượng ngùng kiếm cớ xin phép về trước.
Tiệc cưới kéo dài đến tận nửa đêm, khi đã cơm no rượu say và vui chơi hết cỡ, đoàn khách khứa lục đục chào tạm biệt chủ nhà. Hai cô vợ đến tìm Kháp Na, cậu ấy say bí tỉ nhưng kiên quyết không chịu về, vẫn ôm khư khư bình rượu, tiếp tục ngửa cổ tu.
Mukaton bước đến, giằng lấy bình rượu, xốc Kháp Na lên, nghiêm mặt:
– Kháp Na, đi về, say khướt thế này còn ra thể thống gì nữa!
Dankhag không chịu lép vế, cũng xong đến, túm chặt lấy cánh tay Kháp Na:
– Kháp Na chàng ơi, về thôi, để em dìu chàng.
Mỗi người kéo giật Kháp Na về một bên, bốn mắt mang hình lưỡi dao, bầu không khí nồng nặc mùi thuốc nổ. Những người chứng kiến cảnh tượng này đều che miệng cười thầm. May mà vừa lúc ấy Khabi tình cờ đi qua, khẽ chau mày.
Cuộc chiến giữa hai người phụ nữ chưa kịp lên đến cao trào đã bị đè bẹp, Hoàng hậu cho gọi cả hai người vào phòng. Hốt Tất Liệt nghiêm nghị ngồi trên ngai cao, Khabi đứng bên cạnh Nhà vua. Nhận ra bầu không khí nghiêm trọng, hai người vợ vội quỳ xuống, dập đầu.
Hốt Tất Liệt đập tay vào thành ghế, nạt nộ:
– Những ngày qua, hai ngươi gây ra bao tai tiếng, khiến ta không thể nhắm mắt làm ngơ. Phụ nữ phải hiểu lẽ tam tòng tức đức, hai ngươi đều là con nhà danh gia vọng tộc, lẽ ra phải làm gương cho kẻ dưới, vậy mà giờ đây cả kinh thành đều biết chuyện cãi vã, tranh chấp của hai ngươi, còn ra thể thống gì nữa hả?
Nộ khí xung thiên của bậc thiên tử khiến hai người sợ hãi nằm rạp dưới đất, run lẩy bẩy không thốt được thành lời.
– Lẽ nào các ngươi không biết ghen tuông là một trong "bảy tội của người vợ"[1]! Phạt hai ngươi chép một trăm lần cuốn Nữ giới[2], một tháng sau nộp cho Hoàng hậu.
Hốt Tất Liệt hầm hừ giận dữ, giọng đầy uy hiếp:
– Nếu ta còn phải nghe những tin tức không mấy tốt đẹp về hai ngươi thì đừng trách ta can thiệp vào chuyện nhà của Bạch Lan Vương!
Hai người phụ nữ dập đầu tới tấp, run lập cập, ra về. Hốt Tất Liệt mỉm cười với Khabi:
– Hoàng hậu thấy ta xử trí như vậy có ổn không?
Khabi ngó lên xà nhà, điềm nhiên liếc mắt với tôi rồi dịu dàng bóp vai cho Hốt Tất Liệt, tươi cười duyên dáng:
– Rất ổn! Đại hãn chỉ muốn dọa cho họ một trận, đâu có ý can thiệp sâu vào việc nhà người ta. Đại hãn gọi riêng họ tới để răn dạy, không làm mất đi thể diện của quốc sư mà chỉ rung cây dọa khỉ.
Đêm đó, Kháp Na say mềm, đám hầu cận phải khiêng cậu ấy về phủ. Cả hai anh em họ đều không biết rằng Hốt Tất Liệt đã can dự vào chuyện nhà của Kháp Na theo lời đề nghị của Khabi. Và tôi chính là người đã thỉnh cầu Hoàng hậu.
~.~.~.~.~.~
Chàng trai trẻ tấm tắc khen ngợi:
– Sáng tạo hệ thống chữ viết hoàn toàn mới, vừa có thể ghi lại tiếng nói của người Mông Cổ lại có thể dịch các ngôn ngữ khác, đây quả là một việc không hề dễ dàng. Điều đó chứng tỏ Bát Tư Ba là người có tầm tri thức uyên bác đến nhường nào!
Tôi tán đồng:
– Cậu có biết nguồn gốc của chữ Tạng không? Trước thế kỷ thứ bảy, người Tạng chỉ có lời nói, không có chữ viết. Chính vị vua vĩ đại nhất của Tufan khi đó, Tùng Tán Cán Bố, đã cho người sáng tạo ra chữ Tạng dựa trên chữ Phạn của Ấn Độ. Bởi vậy, người sử dụng có thể dễ dàng chuyển ngữ giữa chữ Tạng và chữ Phạn.
– Điều này có liên quan đến việc Bát Tư Ba sáng tạo ra chữ Mông Cổ ư?
– Có chứ. Ở Ấn Độ, kinh Phật được ghi chép hoàn toàn bằng chữ Phạn. Các giáo phái Phật giáo Tây Tạng đông đảo, đa dạng là thế, chỉ trong vòng vài trăm năm đã phiên dịch được một khối lượng kinh văn khổng lồ, bởi vậy họ đã tích lũy được vốn kinh nghiệm dịch thuật vô cùng phong phú. Phật giáo Tạng truyền còn giảng dạy môn "Thanh minh học", tức là môn học chuyên nghiên cứu, luận bàn về cách hành văn và văn tự học. Tổ tiên nhiều đời của Bát Tư Ba đều là các bậc thầy về Thanh minh học, nhất là người bác Ban Trí Đạt của cậu ấy.
Nhớ tới ông cụ thông tuệ, uyên bác ấy, tôi bất giác thở dài:
– Hồi sống ở Lương Châu, đại sư Ban Trí Đạt từng than phiền rằng người Mông Cổ không có chữ viết của riêng mình, họ cai trị bao nhiêu dân tộc khác nhau, ngôn ngữ, chữ viết lại phức tạp như thế, rất bất lợi cho việc ban bố sách lệnh. Bởi vậy, đại sư đã tiến hành cải tiến văn tự Uyghur mà người Mông Cổ sử dụng phổ biến lúc bấy giờ.
Chàng trai trẻ gật đầu:
– Tôi hiểu được rồi. Được sự truyền dạy chu đáo của người bác, Bát Tư Ba chắc chắn sẽ là hậu bối tài năng. Công cuộc tìm tòi, khảo cứu và cải tiến thử nghiệm của người bác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự sáng tạo của Bát Tư Ba sau này.
– Đúng vậy. Bát Tư Ba đã suy nghĩ về vấn đề này: chữ Tạng có thể chuyển dịch sang chữ Phạn, vậy thì vì sao không thể áp dụng đúng nguyên tắc đó để chuyển dịch sang chữ Mông Cổ?
Chàng trai trẻ bật cười vì đã hiểu ra vấn đề:
– Kỳ diệu! Chỉ có bộ óc siêu phàm như ngài mới nghĩ ra được điều này.
– Đâu có dễ dàng như vậy. Dù Bát Tư Ba tinh thông cả chữ Phạn, chữ Tạng, chữ Uyghur và tiếng Mông Cổ, thậm chí cậu ấy còn nghiên cứu cả chữ Hán nữa, nhưng để có thể sáng tạo ra một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh, không thể hoàn tất trong một thời gian ngắn.
Bát Tư Ba đã suy nghĩ về vấn đề này rất nhiều, thậm chí mất ăn mất ngủ. Tôi thở dài xót xa:
– Bát Tư Ba đã mất tám năm ròng không ngừng nỗ lực nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm, cuối cùng mới phát minh ra loại chữ viết mà người đời sau thường gọi là chữ Bát Tư Ba.
[1] Nguyên tác là "thất xuất", hay còn gọi là "thất xuất chi điều" nghĩa là bảy tội trạng của người làm vợ vào thời phong kiến, mà theo đó, chỉ cần người vợ phạm phải một trong bảy tội này thì người chồng có quyền bỏ vợ. Bảy tội đó là: Không con, dâm đãng, không thờ cha mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông, mắc bệnh khó chữa. (DG)
[2] Nữ giới hay Những điều răn dạy phụ nữ là cuốn sách của tác giả Ban Chiêu, thời Đông Hán, cuốn sách răn dạy phụ nữ đạo lý làm người. (DG)
Chương 27 - Đau Thương.
"Bậc thánh hiền dù không phô bày học vấn,
Tiếng thơm vẫn truyền khắp nhân gian;
Hoa lan tuy chỉ cắm trong bình nhỏ,
Hương thơm vẫn lan xa khắp chốn."
(Cách ngôn Sakya)
– Kháp Na, là thiếp.
Quả không ngoài dự đoán của tôi, ngày hôm sau, Mukaton đã tới tìm Kháp Na.
Kháp Na một tay ôm đầu vẫn còn nặng trịch vì say rượu, một tay nâng bát canh giã rượu lên uống, mặt nhăn như cái bị.
– Có chuyện gì thế, Công chúa?
– Chàng cứ mở cửa đi, tôi có chuyện muốn nói.
Hiếm khi Mukaton ôn hòa như vậy, thậm chí giọng nói còn vương vất chút buồn thương.
Tôi biết Mukaton đến để làm hòa với Kháp Na nên hích hích chiếc mũi nhọn vào người cậu ấy, đồng thời nhẹ nhàng khuyên nhủ:
– Cậu cứ để cô ấy vào đi.
Kháp Na uể oải mở cửa. Mukaton bước vài, đưa mắt ngó quanh căn phòng đơn sơ của chồng. Bốn phía đều là giá gỗ xếp đủ loại thư tịch tiếng Tạng và tiếng Hán. Trên giường chỉ có một tấm chăn mỏng và một chiếc gối. Nơi ăn chốn ở của Kháp Na luôn như vậy, gọn gàng, sạch sẽ như lai như li nhưng đơn sơ, đạm bạc đến mức không có dù chỉ một món đồ trang trí. Mukaton nhìn đăm đắm gương mặt điển trai của Kháp Na, ánh mắt hoang mang, sợ hãi, vẻ dữ dằn, hung hăng thường ngày biến đâu mất.
Kháp Na khách sáo hỏi:
– Công chúa có việc gì thế?
Mukaton sực tỉnh, bất giác khom lưng, cất giọng cay đắng:
– Kháp Na, anh trai tôi và Đại hãn... – Cô ấy nghẹn ngào ngưng bặt, quay mặt đi, hít thở sâu nhiều lần mới khổ sở nới tiếp. – Tóm lại, tôi đã nghĩ kỹ rồi. Bắt đầu từ hôm nay, chàng cứ vào phòng người phụ nữ đó nếu chàng muốn, tôi không ngăn cản nữa.
Kháp Na tròn mắt nhìn Mukaton rồi cảnh giác lùi lại phía sau:
– Cô không thể nào đột nhiên phát tâm bồ đề như vậy, cô nói đi, điều kiện của cô là gì?
Mukaton cắn chặt môi, máu đỏ rỉ ra mà cô không hề hay biết. Cô ấy nắm tay chặt đến nỗi tưởng như có thể tan ra thành nước, trợn mắt nhìn Kháp Na, lấy hơi nhả ra từng tiếng một, nặng nề:
– Chàng đến với cô ta một đêm thì cũng phải ở lại chỗ tôi một đêm. Nếu cô ta có con, chàng cũng phải cho tôi một đứa.
Kháp Na sững sỡ, không tin nổi những điều vừa nghe thấy, vẫn ngước đôi mắt cảnh giác nhìn Mukaton. Cô ấy nghiến răng, xông đến, túm lấy cánh tay Kháp Na, khẩn thiết:
– Tôi bằng lòng chia sẻ chàng với cô ta, chỉ cần chàng cho tôi một đứa con!
Kháp Na khẽ chau mày, chậm rãi rút cánh tay ra khỏi bàn tay siết chặt của Mukaton. Ngó nhìn ánh mắt háo hức chờ đợi của Mukaton, cậu ấy đột nhiên cười phá lên khiến cô vợ không khỏi bất ngờ và cảm thấy khó hiểu.
– Chàng cười gì thế?
Khóe môi vẫn vương nét cười lạnh lùng, Kháp Na đáp:
– Công chúa à, bất kể là cô hay cô ấy, ta sẽ không đến với ai dù chỉ một đêm.
– Kháp Na, chàng... chàng chán ghét tôi đến mức ấy ư?
Như thể bị vật nặng đâm trúng, Mukaton lảo đảo rồi ngồi phịch xuống ghế, chiếc ghế khốn khổ răng rắc kêu. Cô ấy vừa nhìn Kháp Na vừa cất giọng run run:
– Chàng thà không đến chỗ cô ấy còn hơn phải ở chung phòng với tôi ư?
Cửa phòng đột nhiên bật mở, Dankhag từ đâu lao vào, đứng chắn trước mặt Kháp Na và Mukaton:
– Kháp Na chàng ơi, hôm nay chàng sao vậy, sao tự nhiên lại cho phép người đàn bà vừa xấu vừa già này vào phòng? Có phải cô ta đã dùng thủ đoạn bỉ ổi để dụ dỗ chàng không?
Ánh mắt thất thần, tuyệt vọng khi nãy của Mukaton đã lập tức thay đổi khi nhìn thấy tình địch. Cô ta bật dậy, cao giọng quát:
– Hỗn xược! Ta và Vương gia đang trao đổi, ai cho phép ngươi tự ý xông vào!
Tiếng Mông Cổ của Dankhag đã rất lưu loát. Cô ta liếc xéo Mukaton, đáp trả bằng giọng nói khinh khỉnh:
– Cô cũng phá đám chúng tôi nhiều lần đó thôi!
Cả hai người đều bố trí tai mắt theo dõi phòng ngủ của Kháp Na, chỉ cần đối phương xuất hiện là người kia sẽ lập tức lao tới. Lúc này, cả hai đều đã quên sạch những lời hứa trước mặt Hốt Tất Liệt tối hôm trước, gườm gườm nhìn nhau. Kháp Na bình thản, lạnh lùng, xua tay ra vẻ không quan tâm, kéo chiếc ghế ra, ngồi xuống:
– Dankhag, cô đến đúng lúc lắm, cả hai người hãy nghe ta nói.
Ánh mắt căm hận dành cho đối phương đã lập tức chuyển thành vẻ ân cần, dịu dàng khi nhìn về Kháp Na. Giọng nói của Kháp Na lạnh lùng, mông lung, tựa như thanh âm từ xa xa vẳng lại:
– Ta chưa từng yêu bất cứ ai trong hai người.
Mukaton rùng mình, mặt mày tái xám. Dankhag định mở miệng, bỗng im bặt khi chạm phải ánh mắt sắc lạnh của Kháp Na.
– Nếu hai người không khiến nhà cửa chẳng được một ngày yên ổn thì ta còn bằng lòng chung sống hòa thuận với hai người. Còn về con cái... – Cậu ấy cười buồn, thở hắt ra. – Phái Sakya không thể không có người kế thừa, đây là trách nhiệm của gia tộc trao cho ta và ta không thể thoái thác. Ta từng nghĩ rằng, dù yêu hay không yêu, các cô đã là những người vợ được ta cưới hỏi đàng hoàng, các cô sẽ là những người mẹ của các con ta.
Mukaton cuống quýt xen vào:
– Tối nay tôi đến bàn bạc với chàng về chuyện này đấy thôi. Tôi nói rồi, tôi sẽ không so đo...
– Nhưng sau nửa năm, ta đã hoàn toàn thất vọng về hai người. – Cậu ấy quay sang nhìn Dankhag, ánh nhìn lạnh như băng. – Nhất là cô, Dankhag.
Dankhag vội vàng biện bạch:
– Kháp Na, thiếp...
– Con trai ta sẽ là pháp vương của phái Sakya. Nó phải giúp giáo phái ngày một lớn mạnh, hoàn thành nguyện vọng thống nhất đất Tạng của bác và anh trai ta. Nó phải truyền bá rộng rãi giáo lý Phật pháp đến đông đảo quần chúng. Thậm chí, nó còn phải kế tục vai trò là quốc sư của hoàng đế Mông Cổ, mưu cầu hạnh phúc cho muôn người trong thiên hạ. – Kháp Na đau đớn nắm chặt tay lại, gương mặt nhợt nhạt, băng giá. – Ta muốn đó phải là người kế thừa có phẩm cách cao thượng, công chính vô tư, hoài bão lớn lao. Nhưng với sự nuôi dạy của những người mẹ tàn độc, thâm hiểm như các cô thì con cái ta làm sao mà lớn lên lành mạnh và trở thành những người gánh vác được trách nhiệm lớn lao đây?
Mukaton lúc này nước mắt giàn giụa, khóc nấc lên, ôm lấy tay Kháp Na:
– Kháp Na, tôi biết tôi đã gây ra nhiều chuyện xấu xa. Tôi sẽ sửa, tôi hứa mà, tôi sẽ thay đổi.
– Công chúa, ta không yêu cô vì ta không yêu nổi nhân cách của cô chứ không phải vì dung mạo hay tuổi tác của cô. Chính cô đã đặt nặng chuyện đó quá mức nên mới gây hại cho bao nhiêu người. – Cậu ấy chầm chậm đẩy cánh tay của Mukaton ra, giọng nói lạnh thấu tim gan. – Chúng ta đã làm vợ chồng hữu danh vô thực hơn mười năm, cô là người thế nào, ta còn không hiểu hay sao? Cô sẽ không bao giờ thay đổi.
Mukaton như thể bị đóng đinh tại chỗ. Dankhag thừa dịp, lao vào lòng Kháp Na, nũng nịu:
– Kháp Na chàng ơi, chàng còn có em kia mà. Cha thường dạy em, phải biết kính trên nhường dưới, thương xót người nghèo khổ, hồi còn ở quê hương, em vẫn thường làm việc thiện. À, đúng rồi, em tín Phật từ nhỏ, hay lên chùa cúng dường hương hỏa. Em...
Kháp Na đẩy cô ta ra không hề khách khí:
– Dankhag, cô thị nữ thân thiết Dunqu của cô vì sao lại mất tích nhiều ngày như vậy?
Ánh mắt Dankhag chợt thoáng qua một nét hoảng hốt:
– Cô ấy... cô ấy nhớ nhà nên thiếp cho phép cô ấy về đất Tạng rồi.
– Vậy ư? Cô ấy hầu hạ cô từ nhỏ, luôn một lòng trung thành với cô. Sao cô lại nhỏ nhen đến mức chỉ tặng cho cô ấy một mảnh khăn làm kỷ niệm?
Kháp Na lôi trong ngăn tủ ra một mảnh khăn loang lổ vết máu đã khô, ném vào người Dankhag. Dankhag hốt hoảng kêu lên một tiếng, nhảy về phía sau như gặp ma. Mảnh khăn rơi xuống bên cạnh cô ta, vệt máu khô còn lưu lại rõ mồn một, đập vào mắt mọi người.
– Cô ấy bị người ta vứt bỏ ở khu đồi hoang phía bắc kinh thành, trên người chi chít những vết thương và bên cạnh chỉ thấy có mảnh khăn này.
Kháp Na khẽ nhướng mày, ánh mắt sắc lạnh thêm vài phần:
– Cô ấy đã bị đánh cho đến chết!
Dankhag không thể chối cãi được nữa, cô ta nghiến răng, vẻ mặt dữ tợn:
– Đáng đời nó! Ai bảo nó dám dụ dỗ chàng!
Kháp Na đưa mắt nhìn chiếc khăn nhuốm máu rơi trên nền đất, vẻ mặt đau thương:
– Đúng là cô ấy muốn dụ dỗ ta, và chiếc khăn này là do cô ấy lén bỏ vào phòng ta. Nhưng vì ta không có ý gì với cô ấy cả nên đã sai người mang trả lại khăn, để cô ấy từ bỏ suy nghĩ đó đi. Ta đã cự tuyệt cô ấy rồi, vì sao cô vẫn không chịu tha cho người ta?
Dankhag vênh vang, chùm trang sức ngọc ngà châu báu lúc lắc trên đầu và bộ trang phục cầu kỳ khiến cô nàng trở nên sắc sỡ, chói mắt.
– Bọn chúng, đứa nào cũng đáng chết cả! Thiếp làm vậy chủ yếu là để dằn mặt những đứa còn lại, đừng thấy chàng khôi ngô, tuấn tú, hòa nhã, thân thiện lại có thân phận tôn quý mà sinh lòng đũa mốc đòi chòi mâm son!
Kháp Na nổi giận đập tay xuống bàn, nộ khí trào lên trong mắt:
– Như thế cũng đáng tội chết sao? Cô tưởng rằng cô ra sức dọa nạt hòng bịt miệng tay chân của cô thì ta không biết sao? Người hầu của cô kẻ nào dám nhìn ta một cái là bị đánh mắng, còn Dunqu, chính cô đã hành hạ cô ấy đến chết!
Dankhag gân cổ cãi lại:
– Nó là nô lệ của nhà thiếp, giấy bán thân vẫn trong tay thiếp, có nghĩa là tính mạng của nó là của thiếp!
Kháp Na tức giận đến nỗi người run lên bần bật:
– Tính mạng con người là thứ gì mà cô có thể tùy tiện hủy hoại như vậy?
Dankhag gào lên như điên dại:
– Nó chỉ là con hầu đê tiện...
Bốp! Cái tát giáng xuống khiến cho bầu không khí trong căn phòng đột nhiên như đóng băng.
Tiếng bấc bén lửa cháy lép bép, căn phòng im ắng đến nỗi có thể nghe rõ tiếng lá rơi bên ngoài.
Dankhag ôm mặt bàng hoàng, Mukaton há hốc miệng, tôi sững sờ nhìn Kháp Na. Cánh tay cậu ấy vẫn còn lơ lửng trên không, đang run lên vì giận dữ. Cậu ấy chưa bao giờ dùng vũ lực với phụ nữ, kể cả những khi Mukaton khiến cậu ấy không thể chịu nổi, cậu ấy cũng chưa từng ra tay. Vậy mà giờ đây, cậu ấy đã dang thẳng tay tát Dankhag!
– Dankhag, cô khiến ta quá thất vọng! – Kháp Na ôm ngực, người chao đảo, trên gương mặt trắng bệch hiển hiện nỗi đau khổ tột cùng. – Ta lấy cô vì giáo phái Sakya. Nhưng một khi đã nên vợ nên chồng, ta cũng muốn thử yêu thương cô. Nửa năm qua, ta vẫn luôn để mắt đến cô, ta muốn thuyết phục bản thân rằng, dù sao thì cô cũng có những phẩm chất tốt đẹp. Ta đã cố tìm kiếm và gạn lọc ở cô, dù chỉ một chút thiện lương thôi, đủ để ta có thể yêu cô. Nhưng hết lần này đến lần khác, cô đã khiến ta phải thất vọng. Nửa năm cũng đủ để nhận chân một con người.
Kháp Na trỏ tay về phía Mukaton khi ấy đang cúi mặt nức nở:
– Mukaton tàn nhẫn, nhưng cùng lắm cũng chỉ khiến cho người ta bị thương tật, chứ không tàn độc như cô.
Ngón tay của Kháp Na chuyển hướng sang Dankhag lúc này đang run lên vì sợ hãi, ánh mắt cậu ấy nhìn cô ta đầy chán ghét và ghê sợ.
– Còn cô thì sao? Dunqu không phải bị cô ngộ sát mà chính cô đã ra lệnh cho đám đầy tớ đánh đập cô ấy đến chết! Cô đã hành hạ, giày vò người ta chán chê rồi mới lấy mạng người ta. Cô còn độc địa, dã man hơn cả Mukaton!
Cậu ấy nhắm nghiền mắt lại, hít thở sâu nhiều lần như cố gắng vượt qua cơn đau dữ dội. Lúc mở mắt ra nhìn Dankhag, tôi thấy trong ánh mắt cậu vẻ kiên định không gì có thể lay chuyển được:
– Cô không xứng làm mẹ của con ta!
Ánh mắt cậu ấy dịch chuyển sang phía Mukaton lúc này đang nấc lên như đứt từng khúc ruột, vẻ lạnh lùng khiến người ta khiếp sợ.
– Hai người đều không xứng. Ta thà tuyệt tự tuyệt tôn còn hơn để con cái mình có những mẹ xấu xa, ác tâm như hai người!
Hai người phụ nữ khóc lóc van nài Kháp Na tha thứ, nhưng cậu ấy chỉ lạnh lùng lùi lại, mở cửa phòng, tiễn khách:
– Từ nay, hai người không cần đến phòng ta nữa, không cần tranh giành, đố kỵ, càng không cần bày mưu tính kế gì nữa. Ta xin thề với Phật Tổ, ta sẽ không đụng đến phụ nữ ở bất cứ nơi nào hai người có mặt. Bởi vậy, hai người đừng sát hại bất cứ cô gái vô tội nào nữa!
Đêm đó, Kháp Na gần như thức trắng. Cậu ấy nằm yên trên giường, mắt chong chong nhìn trần nhà trong bóng đêm mịt mùng. Tôi xót xa, hích mũi vào người cậu ấy:
– Kháp Na, đừng buồn nữa!
Nhưng cậu ấy chẳng có phản ứng gì cả, như thế cậu ấy chỉ còn là một khối trống rỗng biết thở. Tôi lại càng xót xa hơn, không biết phải an ủi cậu ấy ra sao, tôi đành thở dài, ghé sát vào tai cậu ấy, khe khẽ hát:
– "Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru
Ngủ ngon con yêu, tay mẹ đưa
Mai sau khôn lớn con hãy nhớ
Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ."
Cuối cùng cậu ấy cũng chịu cử động, xoay người lại nhìn tôi, những giọt nước mắt trong veo, lung linh trong màn đêm tịch mịch. Cậu ấy kéo tôi vào lòng, để lưng tôi áp sát vào cơ thể cậu ấy, nước mắt lả chả rơi, thấm vào lông, vào da tôi, ngấm vào tim tôi.
– Tiểu Lam ơi, may mà còn có em ở bên ta. – Cậu ấy siết chặt tôi vào lòng như người chết đuối ôm chặt lấy thanh gỗ mục giữa biển khơi. – Hãy hứa với ta, sẽ không rời xa ta. Cả đời này sẽ ở bên ta!
Tôi nhẹ nhàng liếm khô nước mắt của cậu ấy, dịu dàng nói:
– Đừng lo, tôi sẽ ở bên cạnh cậu. Tôi đã hứa với đại sư Ban Trí Đạt sẽ luôn ở bên anh em cậu, cho đến khi hai người trút hơi thở cuối cùng.
Cậu ấy dường như không nghe rõ tôi nói gì, cứ ôm chặt tôi, và trong lúc mê đi, vẫn còn nhắc đi nhắc lại đừng rời xa cậu ấy. Tôi thở dài, để mặc cậu ấy ôm mình trong lòng, cứ thế cho đến khi những tia nắng ban mai tràn ngập căn phòng.
Sau khi nó rõ với hai người vợ về quyết định của mình, Kháp Na đã thực hiện đúng như vậy. Cậu ấy không đả động đến bất cứ sự vụ gì diễn ra trong phủ, Vương phủ rộng lớn là thế mà giờ đây chỉ là nơi cậu ấy trở về để nghỉ ngơi vào buổi tối. Mukaton cư xử chừng mực hơn rất nhiều, không tác oai tác quái như hồi ở Lương Châu nữa. Vì là vợ cả, cô ấy chịu trách nhiệm cai quản mọi việc lớn bé trong phủ. Tuy chưa hẳn đâu ra đấy, nhưng chí ít, cách quản lý nghiêm khắc của cô ấy đã trấn áp được kẻ hầu người hạ trong nhà, không để xảy ra chuyện trộm cắp, cãi vã.
Trước đây, hai người phụ nữ đấu đá nhau chẳng qua là vì muốn giành được tình cảm của Kháp Na và đề phòng mọi nguy cơ gây bất lợi cho mình. Nhưng giờ đây, họ nhận ra rằng, việc tranh chấp ấy chẳng còn ý nghĩa gì nữa và cuộc sống bỗng trở nên nhạt nhẽo. Mukaton là quý tộc Mông Cổ nên có thể giết thời gian bằng việc đi lại thăm hỏi người thân, họ hàng ở Yên Kinh. Ngoài ra cô ấy còn phải quản lý cả Vương phủ rộng lớn. Còn Dankhag thì ngoài mấy thị nữ sợ cô ta như sợ cọp, cô ta chẳng có ai là người thân ở Yên Kinh. Đang ở vào độ tuổi thanh xuân phơi phới như thế, làm sao cô ta chịu nổi cảnh sống nhàm chán, vô vị trong Vương phủ? Thế là ngày nào cô ta cũng cưỡi ngựa ra ngoại thành giải sầu. Kháp Na để mặc Dankhag, chẳng bao giờ hỏi han.
Cuối năm đó, sau khi đã phần nào khôi phục sức mạnh, A Lý Bất Ca tiếp tục dẫn quân tấn công sang phía đông. Ông ta đột kích và giành được Hòa Lâm, đoạt lại những thành trì bị Hốt Tất Liệt chiếm lúc trước. Hốt Tất Liệt nổi trận lôi đình, đích thân cầm quân lên phía bắc chinh phạt A Lý Bất Ca, không về Yên Kinh ăn Tết. Thành Yên Kinh tạm thời do Chân Kim cai quản.
Đại hãn chinh chiến ngoài biên ải chưa biết sống chết ra sao nên việc xây dựng thành Yên Kinh tạm thời bị hoãn lại, ngày hội hoa đăng rằm Nguyên tiêu cũng bị hủy bỏ. Lệnh giới nghiêm được ban bố trong toàn thành, sau canh hai, không ai được phép ra phố. Kháp Na muốn mua hai bát canh bánh trôi nhưng ông chủ quán rượu dạo nọ đã bị Khabi ép phải rời khỏi kinh thành nên dù đã đi khắp Yên Kinh, Kháp Na vẫn phải chịu trở về tay không.
Tối hôm đó, lẽ ra tôi sẽ giữ lời hứa, biến thành người, đi chơi hội với Kháp Na nhưng Bát Tư Ba đột nhiên bị cảm phong hàn, nằm liệt giường. Đêm Nguyên tiêu năm 1262, tôi và Kháp Na túc trực bên giường Bát Tư Ba, lo lắng, chăm sóc cho cậu ấy. Hết tháng Giêng năm ấy, bệnh tình của Bát Tư Ba mới dần thuyên giảm.
Mùa xuân năm 1262, khi cuộc tranh chấp nội bộ giữa hai anh em Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca đang tiến triển theo chiều hướng có lợi cho Hốt Tất Liệt thì người anh hùng tài trí thao lược Hốt Tất Liệt lại phải đối diện với sự phản bội nghiêm trọng nhất trong cuộc đời. Viên tướng người Hán quy hàng Hốt Tất Liệt nhiều năm, nay đột nhiên dấy binh làm phản ở Sơn Đông. Hốt Tất Liệt không thể không quay về, thế là ông phải tiến hành song song hai cuộc chiến.
.
– Trời ơi, cuộc hôn nhân như thế thì làm sao chịu nổi? Vậy mà lại không thể ly hôn. – Chàng trai trẻ lắc đầu thương cảm. – Kháp Na thật đáng thương. Cuộc hôn nhân đầu tiên do người bác sắp xếp, cuộc hôn nhân thứ hai do người anh định liệu. Cậu ấy như thể một quân cờ, mặc cho người ta sắp đặt, không được là mình.
Tôi lại gần cửa sổ, ngó ra bên ngoài. Tuyết rơi một lúc một dày, những tiếng ù ù ào ào vần vũ ngoài cửa sổ, chỉ một lát đã không thấy gì ngoài mịt mù, giá buốt.
– Người bác và anh trai đều hết lòng thương yêu cậu ấy, cho rằng làm vậy sẽ tốt cho cậu ấy. Con người của thời đại đó chưa có khái niệm về tình yêu tự do, hôn nhân tự do như con người hiện đại nên việc cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, cưới đại, lấy đại là chuyện hết sức bình thường, huống hồ họ sinh ra là con cái của danh gia vọng tộc.
Chàng trai trẻ thở dài:
– Nhưng những ngày tháng mệt mỏi cùng cực ấy sẽ kéo dài đến bao giờ? Cả ba người đều không có hạnh phúc. Tình trạng đó cứ kéo dài như thế ắt sẽ sinh chuyện.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Chuyện cũ như sóng cuộn, trào dâng trong lòng tôi, khiến tôi nghẹt ngào chua xót:
– Vậy nên sau này Bát Tư Ba mới vô cùng ân hận.
Chàng trai trẻ sững sờ, gương mặt lộ vẻ u buồn.
Chương 28 - Thân Mật.
"Cách ngôn là kết tinh tri thức của học giả,
Kẻ ngu khó lòng lý giải;
Khi vừng dương chiếu sáng mặt đất,
Loài cú mèo trở nên mù lòa."
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1262 – tức năm Nhâm Tuất, Dương Thủy theo lịch Tạng – tức niên hiệu Cảnh Định thứ ba, nhà Nam Tống – tức niên hiệu Trung Thống thứ ba, Hốt Tất Liệt, Mông Cổ.
Bát Tư Ba hai mươi tám tuổi, Kháp Na hai mươi tư tuổi, Chân Kim mười chín tuổi.
Ý xuân dạt dào, hoa cỏ ngát hương, chim chóc ríu ran, tôi đứng trên đỉnh Thanh Sơn, dõi mắt trông ra đình Diên Xuân. Nhà Kim khai thông hồ Bắc Hải, bùn đất chất cao, biến thành ngọn núi nho nhỏ, xanh tươi nằm trên trục cắt ngang kinh thành này. Hoàng đế nhà Kim từng cho xây dựng vườn thượng uyển tại đây, tiếc thay đã bị chiến tranh tàn phá toàn bộ. Khi tái thiết Yên Kinh, Hốt Tất Liệt đã rất yêu thích ngọn núi nhỏ xinh, khoáng đạt này nên cho xây dựng thành vườn sau của hoàng cung, là nơi hoàng thất vui chơi, thưởng lãm, và gọi là Thanh Sơn. Nơi đây chính là khu du lịch núi Cảnh Sơn vô cùng nổi tiếng ở Bắc Kinh ngày nay.
Đứng trên đỉnh núi, toàn cảnh thành Yên Kinh đang trong giai đoạn trùng tu được thu gọn vào tầm mắt, này là tường thành, này là đền chùa, này là nha phủ, này là phố chợ... Non xanh nước biếc, hoa đào khoe sắc, tỏa hương ngào ngạt, hồ Bắc Hải lấp lánh như dát vàng dưới ánh mặt trời rực rỡ, cung điện nguy nga tráng lệ sừng sững trước mắt.
Đang mê mẩn đắm chìm trong cảnh sắc tuyệt mỹ, bỗng tôi nghe thấy bước chân ai vẳng lên từ chân núi, tôi vội vàng ẩn mình vào đám cỏ non bên đình Diên Xuân. Lắng nghe một lát thì nhận ra đó là tiếng bước chân của Kháp Na, không phải Bát Tư Ba nên có chút thất vọng. Chỉ chưa đầy một tuần nhang, Kháp Na đã xuất hiện trên đỉnh núi. Chỉ một mình cậu ấy, đang gọi tên tôi trong đình Diên Xuân.
Tôi ra khỏi đám cỏ, bước vào đình:
– Sao hôm nay cậu lại đến đây?
Kháp Na khẽ thở dốc, cánh mũi lấm tấm mồ hôi. Thấy tôi xuất hiện trong hình hài con người, cậu ấy cứ ngẩn ngơ nhìn, đồng tử trong veo, hai má ửng đỏ màu hoa đào thắm hồng, càng tôn thêm vẻ điển trai hút hồn của cậu ấy.
Tôi đưa cho cậu ấy mảnh khăn lụa:
– Kháp Na, cậu nóng lắm sao?
Cậu ấy bừng tỉnh, đón lấy mảnh khăn nhưng không dùng, lấy tay áo thấm mồ hôi, ánh mắt đảo qua sợi dây buộc tóc màu lam trên mái tóc dài của tôi.
– Ta leo nhanh quá, toát cả mồ hôi.
Cậu ấy gấp gọn mảnh khăn lại, đút vào trong áo, rồi đằng hắng một tiếng, nghiêm trang nói:
– Đại hãn sắp cử sứ giả mang theo kim bài đến đất Tạng, trước là cúng dường đền chùa của các giáo phái, sau là tổ chức Pháp hội. Đại ca đang viết thư gửi thủ lĩnh các giáo phái của Wusi, đề nghị họ trợ giúp sứ giả, tuân theo ý chỉ của Đại hãn.
Vừa mân mê sợi dây buộc tóc, tôi vừa nghiên đầu nhìn Kháp Na:
– Hốt Tất Liệt đang bận rộn dẹp yên bọn phản loạn Lý Thản ở Sơn Đông kia mà, vì sao vẫn còn có thời giờ lưu tâm đến việc cử sứ giả đến đất Tạng?
Lúc ánh mắt cậu ấy chạm phải mắt tôi, dường như cậu ấy lại ngẩn ngơ một hồi, mồ hôi tuôn ra nhiều hơn nơi đầu mũi. Tôi ngước mặt nhìn trời, trời trong gió mát, không khí thoáng đãng, dễ chịu vô cùng, ngọn đồi cũng chẳng cao, đường lên núi cũng không dốc lắm, vậy sao cậu ấy lại toát mồ hôi được nhỉ?
Chừng như nhận ra điều gì, cậu ấy quay sang nhìn ngắm khóm đào đang độ ra hoa, cất giọng điềm tĩnh:
– Đại hãn nghe nói A Lý Bất Ca có ý lôi kéo các giáo phái này về phía mình nên mới cử sứ giả đến đất Tạng để thông cáo rằng, chỉ có Đại hãn Hốt Tất Liệt, vị vua mới của Mông Cổ mới có quyền kiểm soát đất Tạng.
Lòng tôi bỗng trống trải, tôi cúi đầu giựt giựt sợi dây buộc tóc:
– Kháp Na này, hôm nay Lâu Cát không đi leo núi sao?
Kháp Na giữ bàn tay đang giày vò sợi dây buộc tóc lại:
– Tiểu Lam à, sợi dây này dùng để buộc tóc, không phải để co kéo như thế.
Ánh mắt cậu ấy nhìn tôi rất mực dịu dàng, nụ cười, hai má lúm đồng tiền rạng rỡ trên gương mặt. Cậu ấy khéo léo chỉnh lại sợi dây buộc tóc thật ngay ngắn:
– Em xem, sợi dây bị em kéo gần tuột rồi này, lúc đó, tóc em sẽ rối tung, mà em lại không biết buộc.
Tôi ậm ừ đáp lại:
– Thế thì sẽ dùng cách đơn giản nhất.
Kháp Na tròn mắt nhìn sợ dây buộc tóc buông dài trên bàn tay mình, tôi chui ra từ đám trang phục màu lam. Cậu ấy bực mình, ngồi xuống, cốc vào đầu tôi:
– Tiểu Lam, em... em... Sao em lại trở về nguyên hình thế?
Tôi còn đang bận rộn kéo đám y phục vào ruột tượng:
– Thì để không bị tiêu tốn nhiều linh khí. Lâu Cát không đến nên tôi cũng chẳng cần phải biến thành người làm gì cho chân tay vướng víu, thân thể hồ ly gọn nhẹ, tiện lợi hơn nhiều.
Kháp Na sững sờ, cậu ấy quay mặt đi như thể đang giận dỗi. Sau khi y phục đã nằm gọn trong túi, tôi định niệm chú thì nhác thấy Kháp Na vẫn đang nắm chặt sợ dây buộc tóc, tôi bèn cào cào vào tay cậu ấy:
– Cậu đã tặng cho tôi sợi dây này, cậu thích thì cứ giữ đi. Nhưng nhớ trả lại cho tôi.
Tôi bắt quyết, niệm chú giấu xiêm y rồi nhảy vào lòng Kháp Na:
– Về thôi!
Kháp Na không hề nhúc nhích, ánh mắt long lanh nhìn tôi chăm chăm:
– Tiểu Lam, em chỉ muốn biến thành người trước mặt đại ca thôi ư?
Lòng tôi bỗng chùng xuống:
– Cậu cũng biết đó là nguyện vọng lớn nhất của tôi rồi mà!
Gió mát thổi qua đầu ngọn cây, những cánh hoa phớt hồng la đà bay trong gió, nhẹ nhàng đậu trên bờ vai gầy guộc của Kháp Na. Cậu ấy trầm ngâm giữa không gian ngập tràn hương sắc ấy:
– Tiểu Lam, đại ca còn cách em bao xa nữa?
Hai mắt tôi sáng lên, niềm hứng khởi tỏa lan không giấu giếm:
– Bõ công tôi ngày đêm tu luyện, gần lắm rồi, chỉ còn chừng một thước nữa thôi.
Kháp Na xoa vuốt sống lưng tôi, vẻ mặt áy náy:
– Kể từ khi ta đến Yên Kinh, em dành nhiều thời gian ở bên ta. Em đã hao tốn không ít linh khí khi giúp ta đối phó với Mukaton và Dankhag. Nếu không phải vậy thì đại ca đã có thể đứng trước mặt em từ lâu rồi.
Tôi hích hích cánh tay cậu ấy:
– Không sao đâu, tuổi thọ của tôi cao hơn loài người rất nhiều, tôi có thừa thời gian để chờ đợi.
Kháp Na ôm tôi trên tay, chầm chậm xuống núi. Hoàng hôn dần buông, núi đồi bát ngát xa xăm, chim chóc í ới gọi nhau về tổ. Ráng chiều rực rỡ loang trên dáng vẻ cao lớn, thư thái, an nhiên của cậu ấy khiến cho khung cảnh càng trở nên dịu dàng, nên thơ. Tôi ngửa cổ hỏi:
– Kháp Na, sắp đến sinh nhật cậu rồi, cậu muốn có quà gì nào?
– Ta không cần gì cả, em đến chung vui với ta là đủ rồi.
Cậu ấy bỗng dừng bước, ngập ngừng:
– Em hóa thành người, mặc bộ xiêm y ta tặng đến chúc mừng sinh nhật ta, được không?
Tôi phì cười:
– Ngày nào tôi chẳng ở bên cạnh cậu, thế đâu gọi là quà mừng.
– Được ngắm nhìn em trong hình dáng con người, đó là món quà quý giá nhất với ta.
Cậu ấy nhìn tôi đăm đắm, ánh mắt như chờ đợi.
– Ta rất thích được thấy em hóa thành người, đẹp lắm và đáng yêu nữa. Nhưng mỗi năm, nhiều nhất ta cũng chỉ được nhìn một lần.
Vì không muốn hao tổn linh khí, tôi chỉ biến thành người khi đứng chờ Bát Tư Ba trên đỉnh núi. Sau ba trăm năm sống kiếp hồ ly, tôi rất khó để bắt nhịp làm quen với hình hài con người và đời sống của con người. Vả lại, dù là ở phủ Quốc sư của Bát Tư Ba hay phủ Bạch Lan Vương của Kháp Na, tôi đều không thể xuất hiện trong vóc dáng của một con người. Vì với mái tóc và đôi mắt màu lam, rất có thể người ta sẽ cho rằng tôi là yêu quái. Hơn nữa, việc một cô gái như tôi có mặt trong Vương phủ, chắc chắn sẽ gây rắc rối cho hai anh em họ.
Nền trời xanh thẫm đã được tô điểm bởi quầng mây rực rỡ nơi đường chân trời, hơi thở ấm nồng của non nước hữu tình theo gió nhẹ lan tới, những con ngựa sắt treo trên mái đình lanh canh, rộn rã, tôi gật đầu với cậu ấy trong bóng nắng hiền hòa cuối ngày. Cậu ấy cười rạng rỡ, lúm đồng tiền lấp ló trên gương mặt tuấn tú. Tôi không thể từ chối cậu ấy bất cứ điều gì, vì tôi hiểu, cậu ấy đã rất khổ sở, hiếm có điều gì mang lại niềm vui cho cậu ấy, tôi đâu nỡ nói "không" với cậu ấy.
Thế nên, buổi tối hôm sinh nhật Kháp Na, khi chỉ có hai chúng tôi trong phòng, tôi đã vận y phục màu lam thêu hoa mai trắng, đeo thắt lưng lụa màu trắng viền kim tuyến, chân đi giày thêu hoa trên nền vải xanh nước biển, yểu điệu thục nữ đứng trước mặt cậu ấy.
Niềm vui ngập tràn trong mắt Kháp Na, đôi mắt long lanh, rạng rỡ, cậu ấy bất giác nắm lấy tay tôi:
– Tiểu Lam, em đẹp lắm!
Rồi như bất chợt nhớ ra điều gì, cậu ấy lôi trong áo ra một túi vải nhỏ, bên trong là sợi dây buộc tóc cậu ấy đã dành được trong dịp Tết Nguyên tiêu và tặng cho tôi. Cậu ấy nở nụ cười như gió xuân ấm ap, vẻ mặt rạng ngời niềm vui:
– Em bảo ta giữ gìn nó. Nào, em buộc lên đi.
Tôi cầm lấy sợ dây, tay vụng về không biết phải xử lý ra sao, cậu ấy thở dài, khiển trách:
– Em hóa thành người đã lâu vậy rồi mà vẫn không thạo mấy việc của phụ nữ. Thôi, để ta giúp em.
Cậu ấy lấy ra trong ngăn tủ một chiếc lược sừng, bảo tôi ngồi xuống rồi đứng ra phía sau, chải tóc cho tôi. Động tác nhẹ nhàng, từ tốn, ánh mắt chăm chú như thể đang làm một việc hết sức trọng đại trong đời. Cậu ấy chải từ chân tóc xuống đến tận đuôi tóc, nhẹ nhàng, mềm mượt. Mái tóc màu lam của tôi sau khi được chỉnh trang tươm tất trở nên óng mượt, lóng lánh lạ thường. Sợi dây được kết thành hình bươm bướm, cài gọn gàng trên tóc, xinh xắn mà ngộ nghĩnh.
Đuôi sam của cậu ấy thả xuống bên ngực trái, ngực phải lơ thơ mấy lọn tóc dài, đen bóng. Lúc cậu ấy cúi thấp xuống, tóc cậu ấy xòa trước mặt tôi, cảm giác gai gai, mềm mại. Một ý nghĩ kỳ quặc chợt lóe lên trong đầu tôi, không biết chạm vào mái tóc đen như mun ấy sẽ có cảm giác thế nào nhỉ? Hẳn là rất mềm mại. Rồi không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, tôi đưa tay chạm vào đuôi sam của cậu ấy. Cảm giác khi chạm vào tóc cậu ấy rất tuyệt, êm ái vô chừng.
Cánh tay cầm chiếc lược của cậu ấy bỗng nhiên sững lại, lơ lửng giữa không trung, cậu ấy cụp mắt xuống, hàng mi dài rung động.
Tôi cười:
– Kháp Na à, tóc cậu mềm lắm!
Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, sóng mắt chứa chan, dìu dặt, hai má bỗng đổ ửng, giọng nói trở nên run rẩy:
– Tiểu Lam...
Tôi hân hoan tưởng tượng:
– Tiếc là Lâu Cát xuất gia mất rồi, không biết nếu để tóc dài, tóc của cậu ấy có mượt mà như thế này không?
Kháp Na sững lại, ánh mắt thoáng nét buồn. Cậu ấy quay mặt đi, hít một hơi thật sâu, rồi lại gần chiếc tủ, lấy ra một bình rượu với hai cái chén:
– Hôm nay sinh nhật ta, em uống với ta nhé!
Tôi lè lưỡi:
– Không được đâu. Cậu quên rồi sao, hồi sinh nhật cậu hai mươi tuổi, tôi uống rượu với cậu rồi say khướt, sau đó còn làm chuyện đáng xấu hổ đó nữa.
Hôm đó là ngày đầu tiên tôi biến thành người. Lúc ấy tôi đã xuất hiện trước măt cậu ấy mà trên người không có một mảnh vải che thân, bây giờ nghĩ lại vẫn còn thấy xấu hổ. Cậu ấy dường như cũng nhớ tới điều gì, hai má đỏ ửng, nhưng lại tủm tỉm cười.
Cậu ấy rót đầy hai chén, đặt một chén trước mặt tôi, chén còn lại, cậu ấy ngửa cổ dốc cạn:
– Hôm nay ta rất vui, em chịu khó uống với ta một chút thôi cũng được.
Tôi đang nghĩ cách để từ chối thì bỗng nghe thấy có tiếng gõ cửa khe khẽ, sau đó là giọng nói dè dặt của Mukaton:
– Kháp Na, là thiếp, chàng mở cửa được không?
Kháp Na biến sắc mặt, nghiêm giọng từ chối:
– Công chúa, ta đi nghỉ rồi.
Mukaton đã thôi hung hăng từ lâu nên giọng nói lấy lòng vừa như van nài:
– Kháp Na à, hôm nay là sinh nhật lần thứ hai mươi tư của chàng, thiếp chỉ muốn nói lời chúc mừng sinh nhật chàng thôi mà.
Kháp Na lịch sự cảm ơn, Mukaton tiếp tục gõ cửa:
– Chàng mở cửa cho thiếp được không? Thiếp... thiếp muốn tặng quà cho chàng.
Kháp Na vẫn không chịu mở cửa:
– Quà mừng của Công chúa hẳn là rất quý giá, xin cứ giao cho người hầu cận của ta là được. Hôm khác ta sẽ đến cảm tạ Công chúa.
Mukaton im lặng hồi lâu mới khẻ buông tiếng thở dài:
– Thiếp đã nghĩ rất lâu, biết rằng chàng không cần tiền, ngoài sách ra chàng không yêu thích thứ gì cả, dù món quà có quý giá đến chàng cũng không coi trọng. Nên thiếp đã tự tay làm món quà này. Đây là lần đầu tiên trong đời thiếp khâu vá, đường kim mũi chỉ không được nuột nà, thẳng thớm, chắc là chàng sẽ không thích đâu. Nhưng hãy xem đây là chút tâm ý của thiếp.
Tiếng bước chân Mukaton xa dần, Kháp Na khi ấy mới ra mở cửa. Trên nền đất là đôi giày nam mới tinh.
Dưới ánh nến, Kháp Na dốc cạn hết ly rượu này đến ly rượu khác, ánh mắt không rời khỏi đôi giày vải trên bàn. Quả thật không đẹp, tuy được may bằng loại vải cao cấp và mũi giày được gắn viên ngọc thúy thượng hạng nhưng đường may cẩu thả, mũi chỉ lộ cả ra ngoài, thậm chí hai chiếc không đều nhau, chiếc ngắn chiếc dài. Mặt trong của đế giày lốm đốm những vệt màu đỏ sẫm, là vết máu khô. Có thể thấy, Mukaton đã rất khổ công khi gắn đế giày.
Kháp Na nhấc chiếc giày lên, lật qua lật lại, lắc đầu, cười buồn:
– Không ngờ cô ấy cũng biết khâu giày.
Tôi thở dài:
– Những ngày qua cô ấy đã thay đổi rất nhiều, không đánh mắng người khác tùy tiện như trước đây nữa.
– Ta biết. – Kháp Na lẳng lặng uống tiếp vài ly rượu nữa, mặt đỏ gay. – Nhưng lòng ta đã nguội lạnh từ lâu, dù thế nào ta cũng không sao đối diện được với cô ấy.
Tôi đứng lên, định bụng giằng lấy ly rượu trong tay cậu ấy:
– Đừng uống nữa, cậu say rồi.
Đôi tay của Kháp Na bỗng nắm chặt lấy cổ tay tôi, cậu ấy ngước đôi mắt mông lung nhìn tôi. Ngọn nến lung linh bập bùng, chiếu rọi làn da căng bóng của cậu ấy, đôi đồng tử long lanh gắn chặt vào tôi:
– Tiểu Lam, hãy để ta say một lần này thôi. Chỉ khi say, ta mới dám thổ lộ lòng mình.
Ánh mắt cậu ấy như thiêu đốt khiến cho nhiệt độ trong căn phòng dường như tăng lên rất nhiều. Tim tôi bỗng đập cuồng loạn, tôi ấp úng:
– Có điều gì muốn thổ lộ cùng tôi ư?
– Tiểu Lam, ta từng thề với hai người đó rằng, bất cứ nơi đâu có sự tồn tại của họ, ta sẽ không đụng vào bất cứ người phụ nữ nào.
Ánh mắt cậu ấy như ngọn lửa, mặt đỏ tưng bừng, đôi mắt long lanh khiến người ta điên đảo:
– Nhưng ta... ta thật sự rất muốn... cả trong mơ cũng muốn...
Cậu ấy mím môi, yết hầu khẽ phập phồng và khi tôi chưa kịp phản ứng, cậu ấy đã trùm cả thân mình lên người tôi. Đôi môi tôi bị bao phủ bởi một xúc cảm mềm ướt, khoảnh khắc đó, trái tim tôi bỗng trào lên một thứ cảm giác lạ kỳ. Vì sao hai má tôi nóng ran lên như thể mọi mạch máu trong cơ thể đang sục sôi, bốc hơi và không ngừng trỗi dậy?
Cậu ấy dìu dặt đưa đẩy trên bờ môi tôi, khẽ khàng dịch chuyển từng chút một, tôi cảm nhận được hơi rượu nồng nồng và hơi thở gấp gáp, bừng bừng như lửa của cậu ấy. Khó khăn lắm tôi mới tìm được một khoảng trống để cất lời:
– Kháp Na, cậu... cậu đang làm gì vậy?
Làn môi êm ái của cậu ấy vẫn còn lưu luyến những đụng chạm khẽ khàng, ngừng một lát, lại tiếp tục di chuyên xuống dưới. Yết hầu lên xuống dập dờn trên chiếc cổ cao, thanh tú, cậu ấy thì thào, run rẩy bên tai tôi:
– Tiểu Lam, Tiểu Lam, ta rất muốn...
Khi bàn tay cậu ấy chạm đến vùng eo của tôi, tôi mới chợt hiểu ra. Cậu ấy... cậu ấy muốn "giao phối" với tôi ư? Loài hồ ly chúng tôi không quen với những cử động thân mật này. Tôi hốt hoảng và phản ứng đầu tiên là hóa phép trở lại nguyên hình.
Kháp Na tròn xoe mắt ôm trong tay đám xiêm y lộn xộn. Lúc thấy tôi chui ra từ đám y phục, cậu ấy bực bội, không kiềm chế nỗi, túm cổ tôi, gắt gỏng:
– Tiểu Lam, em... Có phải em giận ta không?
– Kháp Na, cậu đã có hai người vợ... – Tôi ấp úng đáp lời, quên cả cảm giác nghẹt thở vì bị siết chặt. – Còn tôi... tôi thì... cậu biết rõ tâm nguyện của tôi rồi đó.
Cậu ấy sững sờ, thả tôi xuống rồi quay mặt đi, hít thở sâu đế lấy lại bình tĩnh. Một lúc lâu sau, cậu ấy mới chịu quay lại nhìn tôi, gương mặt đỏ như gấc chín, ánh mắt bối rối khó xử:
– Xin lỗi em, ta không nên làm vậy...
Tôi không biết phải đáp lại ra sao. Tôi ừng theo anh em họ ra vào cung điện của Hốt Tất Liệt để xem những vở kịch trai tài gái sắc mà đám cung nữ rất thích xem. Trên sân khấu, các cô gái thường đỏ mặt, e thẹn mỗi khi được các chàng trai để ý đến, việc cầm tay, gần gũi nhau là điều cấm kỵ. Hình như họ rất coi trọng việc nam nữ đụng chạm, và nếu chưa phải mối quan hệ khăng khít thì cử động đó không bao giờ xảy ra. Nhưng khi tôi là hồ ly, ngày nào anh em họ cũng ôm tôi trong lòng đấy thôi, còn cả Chân Kim nữa, cậu ta cũng rất thích được ôm ấp tôi, chỉ có tôi là không thích bị cậu ta ôm thôi. Lẽ ra tôi không nên để tâm đến chuyện đó mới phải chứ. Nhưng không hiểu sao, trong lòng tôi cứ có cảm giác bất an, không thoải mái.
Kháp Na đứng lên, xoay lưng về phía tôi:
– Tiểu Lam, đêm nay không cần ở lại đây, em hãy về chỗ đại ca đi.
Tôi đáp lời, nhưng lúc chuẩn bị ra về thì cậu ấy lại gọi lại:
– Tiểu Lam, ta biết em mong đợi điều gì, em đừng lo, ta nhất định sẽ giúp em toại nguyện.
Ánh mắt cậu ấy lộ rõ vẻ luyến tiếc nhưng vẫn kiên quyết để tôi ra đi. Tôi không rõ cậu ấy sẽ giúp tôi bằng cách nào, chỉ cảm thấy ánh mắt buồn thương của cậu ấy nhìn tôi khi đó khiến tôi bỗng cảm thấy chạnh lòng.
Đêm đó, tôi cứ nghĩ mãi về khoảnh khắc Kháp Na hôn tôi. Tôi giơ móng vuốt ra, chạm khẽ vào cái miệng nhỏ của mình, hình như không có cảm giác gì cả. Nhưng vì sao khi Kháp Na chạm vào tôi, cơ thể tôi lại nóng bừng như thiêu như đốt? Tôi quay sang nhìn Bát Tư Ba lúc này đang say giấc, ánh trăng chênh chếch ngoài song cửa, chiếu rọi gương mặt an nhiên, bình yên của cậu ta. Khóe môi khé uốn cong, không biết bờ môi ấy sẽ cho cảm giác như thế nào khi hôn nhỉ?
Bất giác tôi liếm môi, nuốt nước bọt rồi vội vã quay đi. Hình như trong tôi đã xuất hiện thứ ý nghĩa mà loài hồ ly không nên có.
Dankhag không hề xuất hiện cũng không đến tặng quà vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi tư của Kháp Na.
Cuối mùa hạ năm 1262, tướng làm phản Lý Thản bị bắt và bị chém đầu. Sau nửa năm trời dẹp loạn, Hốt Tất Liệt đưa quân về kinh đô. Hậu quả lớn nhất mà sự kiện này mang lại đó là, kể từ đó, Hốt Tất Liệt không còn tin tưởng người Hán nữa. Sau khi hồi kinh, trong buổi luận công ban thưởng, Hốt Tất Liệt chỉ ban tước phong mà không bạn thực quyền cho các tướng lĩnh người Hán có công lớn. Người được lợi nhất sau cuộc dẹp loạn này là các tướng lĩnh Mông Cổ lâu nay vẫn khinh ghét người Hán.
.
Nhằm tăng cường quyền thống trị đối với Tây Tạng, tháng Hai năm đó, Hốt Tất Liệt đã cử sứ giả mang theo kim bài đến đất Tạng. Bát Tư Ba cũng gửi thư cho thủ lĩnh các giáo phái, yêu cầu họ phối hợp với sứ giả của Hốt Tất Liệt.
Trong thư viết rằng: "Pháp vương Ban Trí Đạt là người thông tuệ tột đỉnh và giàu lòng từ bi, ngài không màng đến cuộc sống an nhàn của bản thân mà vì muốn hoằng dương Phật pháp và lo cho lợi ích của chúng sinh, nên đã đến nương nhờ Vương gia Khoát Đoan. Những cống hiến của ngài vì lợi ích của muôn người, ai nấy đều hay. Kế tục sự nghiệp của ngài, ta đã cống hiến không mệt mỏi cho sự nghiệp phụng sự Phật pháp, mưu lợi cho chúng sinh. Ta nương náu nơi đương kim Hoàng đế không phải vì lợi ích cá nhân mà mong muốn truyền bá giáo lý Phật giáo và lời răn của Phật Tổ đến ngài, để Nhà vua thấu hiểu lẽ đúng sai, thiện ác. Ta đã nhiều lần dâng tấu chương đề nghị Nhà vua ban bố những chiếu thư có lợi cho Phật pháp và muôn người, ta tin rằng trong lòng dân chúng đều hiểu cả. Lần này Hoàng đế đề cử sứ giả mang theo vật phẩm đến đất Tạng để tổ chức pháp hội, ta mong các bậc đại đức, các vị tăng nhân cùng hợp tác cầu nguyện, hoằng dương Phật pháp để Phật giáo ngày càng hưng thịnh, muôn dân được bình an, hạnh phúc... Ta nguyện dốc sức tạo điều kiện tốt để chúng tăng được yên tâm nghe kinh giảng pháp, hoàn thành Pháp sự."
Đó là bức thư thông báo quan trọng do một thủ lĩnh của giáo phái Sakya gửi đến các giáo phái khác ở Tây Tạng. Có thể nhận thấy, ngôn từ của Bát Tư Ba trong bức thư rất mực ôn hòa, chừng mực, hàm súc, nhưng cũng thể hiện rõ quyền lực thống lĩnh của cậu ấy đối với tất cả các giáo phái trên đất Tạng.
Chương 29 - Ước Nguyện Của Tôi.
"Loài vật cần roi vọt và sự huấn luyện mới chịu nghe lời;
Người thông minh không cần thúc giục mà tự ngộ ra chân lý."
(Cách ngôn Sakya)
Tháng 6 năm 1262, Hốt Tất Liệt phong người con cả là Hốt Ca Xích làm Vân Nam Vương và lệnh cho cậu ta đi trấn thủ Côn Minh. Trước đó, Vân Nam vốn là vùng đất thuộc quyền cai trị của nước Đại Lý của họ Đoàn và đã trải qua năm trăm năm lịch sử. Việc cử các vương gia đến trấn giữ những vùng biên cương trọng yếu vốn là truyền thống của người Mông Cổ.
Một ngày trước khi Hốt Ca Xích lên đường đi Vân Nam, Yeshe đột ngột xuất hiện ở phủ Quốc sư. Hắn đến để từ biệt, vì Hốt Ca Xích sẽ đưa hắn đi cùng đến Côn Minh. Một năm qua, Yeshe đã được đối xử rất mực trọng vọng trong phủ đệ của Hốt Ca Xích. Hồi đầu năm, Hốt Ca Xích còn sắp đặt cả hôn sự cho hắn. Nhà gái tuy không phải hoàng thân quốc thích nhưng cũng là quý tộc Mông Cổ. Nếu xét về thân phận thì rõ ràng là Yeshe thấp kém hơn vợ.
Nói là đến từ biệt nhưng thái độ của Yeshe vô cùng ngạo mạn. Hắn lạnh lùng nhìn Bát Tư Ba và Kháp Na, cười nham hiểm, miệng lưỡi như thể muốn tuyên chiến:
– Sớm muộn cũng có ngày ta trở lại, giành lấy mọi thứ lẽ ra phải thuộc về ta ở Sakya.
Bát Tư Ba sa sầm mặt mày, nghiêm khắc nhìn Yeshe:
– Tam đệ, Sakya nuôi dưỡng đệ, chưa từng làm điều gì không phải với đệ. Đệ có dám phủ nhận rằng, nếu đệ không phải là hậu thế của giáo phái Sakya thì giờ ddaaay đệ khó mà trở thành thượng sư của vương gia Mông Cổ, càng không thể cưới con gái của quý tộc Mông Cổ làm vợ.
– Các người chèn ép ta, tước đoạt quyền thừa kế của ta, ta không có gì để nói. Ai bảo thân phận của mẹ con ta không bằng các người. Nhưng nếu Kháp Na không thể sinh con thì con cái của ta sau này sẽ là người thừa kế của Sakya.
Yeshe bật cười ác độc rồi ghé sát tai Bát Tư Ba thì thầm:
– Nó sẽ giành lại tất cả cho ta.
Nỗi căm phẫn dâng lên trong mắt Bát Tư Ba, cậu chau mày nhìn Yeshe đầy khinh ghét.
Sau khi Yeshe rời khỏi đó, Bát Tư Ba đứng ngồi không yên, cậu đi đi lại lại trong phòng:
– Kháp Na, đệ có nghe Yeshe nói không? Vợ cậu ta mang thai rồi đó.
Ngừng một lát, rồi chừng như không kiềm chế nổi, cậu ấy trách móc:
– Kháp Na, đệ có hai người vợ mà đến nay vẫn chưa sinh được một mụn con, chuyện gì đang xảy ra vậy? Nếu đệ không có con, con trai của Yeshe sẽ trở thành người thừa kế của Sakya đó.
Kháp Na ngồi trên chiếc giường đệm, vẻ mặt thờ ơ, tự rót cho mình một ly rượu thanh khoa rồi chậm rãi nhấp từng ngụm:
– Đại ca đừng quá lo lắng. Con trai của tam ca cũng là con cháu của giáo phái Sakya, để nó kế thừa giáo phái có sao đâu.
– Đệ nói nhảm gì vậy?
Bát Tư Ba bực bội, hàng lông mày dài xô lại, cậu bước tới trước mặt Kháp Na, giằng lấy ly rượu trong tay em trai:
– Bác và ta đã vất vả bao năm mới gây dựng được giáo phái lớn mạnh như ngày nay, không bao lâu nữa đất Tạng sẽ chấm dứt cục diện chia cắt, và ta có thể hoàn thành tâm nguyện thống nhất đất Tạng của bác chúng ta. Sao ta có thể để một kẻ ích kỷ, vụ lợi như Yeshe hủy hoại mọi thứ?
Kháp Na uể oải tựa lưng vào gối, ngước nhìn gương mặt âu lo của Bát Tư Ba, trầm ngâm một lát rồi cất giọng buồn bã:
– Đại ca, đệ không thể có con.
– Đệ nói sao? – Bát Tư Ba chăm chú nhìn em trai, khó khăn lắm mới thốt ra được câu hỏi. – Lẽ nào... lẽ nào... đệ... mắc bệnh gì?
Không chờ Kháp Na trả lời, cậu lập tức an ủi em trai:
– Không sao, ta sẽ mời thầy thuốc giỏi nhất...
Kháp Na nhếch môi cười chua chát, ngắt lời anh trai:
– Đại ca, đệ chưa bao giờ chung phòng với hai người vợ thì làm sao có con được.
Bát Tư Ba quá kinh ngạc, gạn hỏi:
– Kháp Na, đệ thành thân bao năm rồi, chẳng lẽ... chẳng lẽ... vẫn chưa...
Cậu ấy đỏ bừng mặt, chủ để này với cậu ấy quá khó để mở lời.
Kháp Na trả lời dứt khoát:
– Chưa hề, chưa một lần nào cả.
Bát Tư Ba lắc đầu buồn bã:
– Sao lại như vậy?
Kháp Na bật cười lạnh lùng, gương mặt gầy gò nhuốm vẻ u ẩn, bi thương:
– Lẽ nào huynh không biết hai cô em dâu là người thế nào sao? Bọn họ gây ra biết bao chuyện động trời, cả thành Yên Kinh này không ai không cười nhạo đệ. Huynh nghĩ đệ có thể sinh con với những người phụ nữ như vậy ư?
Nụ cười tắt dần, Kháp Na ngồi thẳng dậy, nghiêm nghị:
– Đệ cảm thấy khiếp sợ họ nên nếu bắt đệ phải thân mật với họ, chi bằng giết quách đệ đi còn hơn.
Bát Tư Ba im lặng không nói, ánh mắt dồn về phía em trai rất lâu:
– Thôi được, nếu đệ không thích họ, ta sẽ sắp xếp một cuộc hôn nhân khác cho đệ...
– Đại ca đừng làm vậy nữa! – Kháp Na chừng như nổi giận, mặt mày tái xanh. Cậu ấy bật dậy, đập thình thịch vào ngực mình, giọng nói chất chứa nỗi phẫn uất đã kìm nén bấy lâu. – Huynh coi đệ là gì vậy hả? Đệ là em trai thân thiết nhất của huynh, không phải loài bò giống!
– Kháp Na!
Tôi lao ngay đến cắn vào ống quần của Kháp Na, ngăn cậu ấy thôi bật ra những lời khiến Bát Tư Ba đau lòng. Có lẽ đã kìm nén quá lâu nên hôm nay cậu ấy muốn trút tất cả. Cậu ấy giật chuỗi tràng hạt trên cổ rơi tung tóe xuống đất, một số hạt rơi trúng đầu tôi khiến tôi đau điếng.
Kháp Na gào lên thê thiết:
– Đệ không muốn kết hôn, không muốn cưới bất cứ người phụ nữ nào, càng không muốn trở thành công cụ sinh đẻ của huynh!
– Sao ta lại coi đệ là công cụ? Ta luôn cầu mong đệ được hạnh phúc kia mà!
Bát Tư Ba vội bước đến, giữ chặt cơ thể đang vật vã dữ dội của Kháp Na, mắt cậu ấy đỏ lên, giọng nói nghẹn ngào:
– Kháp Na, đệ chưa từng thích cô gái nào sao? Đại ca không ép đệ lấy người đệ không muốn lấy nữa. Hãy cho ta biết, đệ muốn lấy ai?
Kháp Na nhìn anh trai, con bão táp cuồn cuộn dâng trong mắt khi nãy bỗng chốc biến mất. Tôi ngập ngừng lên tiếng:
– Kháp Na, đừng đối xử với Lâu Cát như vậy, cậu ấy là người thân thiết nhất trên đời của cậu kia mà.
Kháp Na khẽ rùng mình, đầu cúi thấp, gắng hít thở nhiều lần, cuối cùng cũng lấy lại được bình tĩnh, nhìn Bát Tư Ba bằng ánh mắt lạnh nhạt:
– Đại ca, đừng khuyên đệ nữa, chi bằng huynh kết hôn đi.
Bát Tư Ba đỏ bừng mặt, lắc đầu quầy quậy:
– Kháp Na, đệ nói bậy gì thế, đệ quên rằng ta đã thề trước mặt bác rồi ư? Ta đã là người nhà Phật, cả đời này không thể thành thân.
– Vì sao không thể? Các giáo phái Phật giáo khác không cho phép kết hôn, nhưng giáo phái của chúng ta thì khác. Tổ tiên ba đời của giáo phái Sakya vẫn vừa kết hôn, sinh con đẻ cái vừa làm pháp vương đó thôi. Họ đã sáng lập ra giáo phái và được chúng sinh sùng bái. Vì sao đến đời huynh thì không thể? Cưới vợ đâu có gây ra trở ngại khiến huynh không thể hoàn thành tâm nguyện hoằng dương Phật pháp và thống nhất đất Tạng của huynh!
Bát Tư Ba tỏ ra khó xử:
– Nhưng ta đã chịu giới Cụ túc, và bác...
– Trong số các pháo vương các đời trước của phái Sakya mới chỉ có bác của chúng ta là người duy nhất thọ giới Cụ túc, trở thành Tỷ khâu. Tuy huynh đã thọ giới nhưng phàm việc gì cũng phải tùy cơ hành sự, cân nhắc nặng nhẹ. Mừng là giáo phái của chúng ta vẫn có tiền lệ đó nên huynh không cần phải hoàn tục vẫn có thể kết hôn.
Kháp Na tiến lên phía trước, nhìn sâu vào ánh mắt đang tìm cách lẩn tránh của anh trai:
– Di ngôn của bác quan trọng hơn hay việc kế thừa của giáo phái quan trọng hơn? Nếu bác còn sống mà biết đệ không thể sinh con, theo huynh, liệu bác ấy có kiên quyết buộc huynh giữ nghiêm giới luật hay không?
Kháp Na lập luân đâu ra đấy, hợp tình hợp lý khiến cho người xưa nay vẫn giỏi biện luận là Bát Tư Ba cũng phải chịu thua. Cách diễn giải và thuyết phục của cậu ấy rất đỗi đĩnh đạc, sắc sảo:
– Với trí tuệ mẫn tiệp của huynh, con cái của huynh chắc chắn sẽ lập nên nghiệp lớn, xứng đáng trở thành người kế thừa của giáo phái. Chỉ cần huynh đồng ý, Đại hãn nhất định sẽ chấp thuận để huynh kết hôn, chưa biết chừng ngài còn...
Chừng như bị dồn ép quá mức, Bát Tư Ba trở nên bối rối, cậu nghiêm khắc ngắt lời cậu em đang thao thao bất tuyệt:
– Đệ đừng nói những lời vô nghĩa ấy nữa! Ta chưa từng có ý định thành thân, càng không màng đến chuyện tình cảm nam nữ. Đệ không muốn lấy vợ chỉ để sinh con thì ta cũng không thể vì mục đích đó mà làm lỡ dở hạnh phúc của người ta.
Kháp Na cúi xuống ôm tôi lên, chăm chú nhìn Bát Tư Ba, khóe môi nở nụ cười nhạt nhòa:
– Đại ca, đệ không nói lời vô nghĩa. Đệ đã giúp huynh tìm được người phụ nữ tuyệt vời nhất trên đời. chiều mai, huynh hãy lên đình Diên Xuân trên Thanh Sơn nhé!
Cả Bát Tư Ba và tôi cùng ngẩng lên. Kháp Na vẫn điềm nhiên vuốt ve tôi, đôi đồng tử màu đen thoát vẻ u hoài:
– Đại ca, nhất định huynh sẽ yêu cô ấy.
Cuối cùng tôi đã hiểu, Kháp Na nói giúp tôi chính là việc này đây.
Dãy núi trùng điệp phía xa nối liền với những dải mây lững lờ trôi trên nền trời xanh sẫm. Hải đường đua nhau nở rộ, không khí oi nồng đầu hạ len lỏi giữa những sắc màu tươi thắm. Vừng dương xuyên qua những đám mây màu vàng chuyển thành sắc đỏ, đình Diên Xuân trên đỉnh Thanh Sơn tắm mình trong ráng chiều rực rỡ, mái ngói lưu ly lấp lánh dưới ánh hoàng hôn.
– Tiểu Lam à, chờ khi đại ca tới nơi, em đừng trốn vào lùm cây nhé, cũng đừng biến phép trở lại nguyên hình nữa đấy.
Kháp Na chỉnh lại sợi dây buộc tóc, vén gọn gàng những sợi tóc rối của tôi. Cậu ấy chăm chú nhìn tôi một lúc thật lâu, ánh mắt chứa chan lưu luyến:
– Huynh ấy còn cách em bao xa?
– Chỉ còn chưa đầy năm thước.
Tôi bồn chồn lo lắng, ngón tay bất giác lại đưa lên định giật sợ dây buộc tóc nhưng ánh mắt trừng trừng hăm dọa của Kháp Na đã khiến tôi phải rụt tay về. Tôi ấp úng:
– Nhưng... nhưng mà... tôi rất sợ...
Kháp Na phì cười, má lúm đồng tiền lấp ló:
– Sợ gì chứ? Em còn lạ gì tính cách của đại ca, trường hợp xấu nhất là huynh ấy không có cảm xúc đặc biệt gì với em. Nếu vậy, em chỉ việc tiếp tục cuộc sống trước đây của mình, có mất gì đâu.
Có lý. Tôi gật đầu, gượng cười, tự nhủ, không sao cả.
Kháp Na chạm đầu ngón tay vào vết sẹo hình hoa sen trên trán tôi, trách móc:
– Em lúc nào cũng sợ hãi không đâu nên đến tận bây giờ vẫn không dám xuất hiện trước mặt đại ca.
Tuy nói vậy nhưng khi nghe thấy tiếng bước chân của Bát Tư Ba trên lối đi, tôi vẫn hồi hộp đến mức lòng bàn tay ướt nhẹp. Chỉ một lát sau, Kháp Na cũng nghe thấy tiếng bước chân của Bát Tư Ba. Cậu ấy ghé mắt nhìn tôi, siết chặt tay tôi, dịu dàng bảo:
– Đừng sợ, nếu em không biết phải nói thế nào thì ta sẽ giúp em.
Bóng áo tăng ni màu đỏ sẫm cuối cùng cũng đã xuất hiện nơi chân núi. Vẫn là nếp áo nhà sư thanh đạm, thoát tục ấy, vẫn là dáng vẻ điềm tĩnh, lưng vuong thẳng như dáng thông ấy, vẫn là đôi mắt sáng, thông tuệ, từ bi, nhân hậu ấy, vẫn là gương mặt an nhiên, hiền hòa ấy.
Tim tôi đập nhanh dữ dội, như sắp bắn ra khỏi lồng ngực, tôi chỉ muốn nấp vào bụi cây ngay lập tức nhưng Kháp Na đã nắm chặt tay, không cho tôi thoát thân và nháy mắt với tôi, ra hiệu cho tôi hãy bình tĩnh. Tôi gắng sức hít thở sâu vài lần, cuối cùng cũng đẩy lui được mong muốn trở lại nguyên hình nhưng bàn chân vẫn không thôi run rẩy.
Nhận ra Kháp Na từ xa, Bát Tư Ba bước nhanh hơn, ánh mắt cậu ấy nhanh chóng dịch chuyển từ Kháp Na sang tôi. Cậu ấy ngỡ ngàng, lập tức dừng bước, hai tay chắp lại, cung kính vái chào tôi.
Kháp Na dắt tôi ra khỏi đình Diên Xuân, đứng lại ở nơi cách Bát Tư Ba chừng một thước:
– Đại ca có nhận ra cô ấy không?
Bát Tư Ba nhìn tôi chăm chú một lát, gương mặt điềm nhiên thường ngày bỗng ửng đỏ:
– Đệ biết là ta rất ít quen phụ nữ mà.
Rồi ánh mắt cậu ấy chạm đến bàn tay Kháp Na đang nắm chặt tay tôi, ngập ngừng hỏi:
– Người hôm qua đệ nhắc tới chính là cô ấy?
Kháp Na bước về phía anh trai, đứng cạnh cậu ấy, thở dài ảo não:
– Cô ấy ngưỡng mộ huynh đã nhiều năm, lặng lẽ đi theo huynh nhiều năm và chưa bao giờ hối hận về điều đó. Thế nhưng vì quá yêu huynh và lo sợ huynh không chịu đón nhận tình cảm của mình nên cô ấy chưa bao giờ xuất hiện trước mặt huynh với dung mạo xinh đẹp thế này.
Bát Tư Ba giật mình ngẩng lên, nhìn tôi đăm đắm, ngỡ ngàng:
– Mắt xanh, tóc xanh, lẽ nào... lẽ nào là...
Cậu ấy run rẩy, bước vội về phía tôi hai, ba bước rồi đột nhiên dừng lại, ánh mắt dò xét:
– Lam Kha, là em ư?
Tôi đưa tay lên giật giật sợi dây buộc tóc, bối rối gật đầu, ước rằng có lỗ hổng nào dưới đất cho tôi chui xuống thì tốt quá.
Bát Tư Ba tròn mắt nhìn tôi, ánh mắt dâng trào những đợt sóng dữ dội:
– Em... em...Quả nhiên là em có thể hóa thành người!
Kháp Na ngó tôi, ánh mắt dịu dàng, chất chứa lòng ái mộ:
– Đại ca thấy Tiểu Lam của chúng ta có xinh đẹp không? Đệ chưa từng gặp cô gái nào xinh đẹp như cô ấy. Và điều quan trọng là, cô ấy nhân hậu, đáng yêu, lại có tâm hồn trong sáng, thuần khiết vô ngần.
Cậu ấy lại gần Bát Tư Ba, đặt tay lên vai anh trai, thở than:
– Đại ca, huynh có thể không có tình cảm với những người con gái khác, nhưng Tiểu Lam không giống họ. Cô ấy ở bên chúng ta tử nhỏ đến lớn, từ lâu đã là người thân của chúng ta. Lúc chúng ta buồn chán, cô ấy chọc cho chúng ta cười. Lúc chúng ta đau lòng, cô ấy an ủi, động viên chúng ta. Lúc chúng ta gặp nạn, cô ấy dốc sức giúp đỡ chúng ta, bất chấp mạng sống của mình. Người con gái tuyệt vời như thế, lẽ nào đại ca không muốn đón nhận?
Những lời nói nặng tình nặng nghĩa của Kháp Na đã khiến ánh mắt của Bát Tư Ba gắn chặt trên gương mặt tôi, ánh mắt như sóng nước dạt dào, long lanh bát ngát, màu gấc chín từ hai gò má đã nhanh chóng lan cả khuôn mặt.
– Kháp Na, đừng nói nữa.
Bát Tư Ba quay mặt đi, chăm chú nhìn cây hải đường đang khoe sắc rực rỡ bên cạnh, đôi đồng tử dậy lên một sắc đen huyền hoặc, mông lung tựa sương khói trên đỉnh núi phía xa.
– Hãy để ta suy nghĩ một lát.
Ánh mắt của Kháp Na đột nhiên sẫm lại, cậu ấy cắn môi, gượng cười:
– Vậy đệ về trước đây.
Để tôi ở lại một mình với Bát Tư Ba ư? Tôi hốt hoảng, gọi khẽ:
– Kháp Na...
Nhưng cậu ấy dường như chẳng thèm bận tâm đến ánh mắt van nài của tôi, vẫy tay chào rồi cứ thế xuống núi:
– Tiểu Lam à, tối nay hãy ở lại chỗ đại ca, không cần đến chỗ ta đâu.
Kháp Na rời đi rất nhanh, khi bóng dáng của cậu ấy đã khuất hẳn, cả tôi và Bát Tư Ba đều im lặng rất lâu. Chúng ta nhìn nhau nhưng không biết phải nói điều gì. Tôi cúi đầu, kéo sợi dây buộc tóc, chần chừ hồi lâu mới rụt rè mở lời:
– Chúng ta...
– Chúng ta...
Sự đồng điệu ấy khiến tôi giật mình sợ hãi. Tôi vội lên tiếng:
– Cậu nói trước đi.
– Em nói trước đi.
Lại một lần nữa đồng thanh. Tôi im bặt, cúi đầu đá mấy viên sỏi dưới chân. Dưới bóng chiều êm dịu, gương mặt tuấn tú của cậu ấy càng trở nên rõ nét, những đường nét sống động như tạc khắc, đôi mắt trong suốt như hai hồ nước, gương mặt vẫn đỏ như gấc chín.
Cậu ấy cụp mắt, hắng giọng:
– Ta muốn nói là... muộn rồi, chúng ta về thôi.
Tôi gật đầu bối rối:
– Tôi... tôi... thực ra tôi cũng có ý đó.
Cậu ấy định rảo bước, chợt quay lại nhìn tôi, dường như có điều gì khó nói, ấp úng mãi mới mở miệng:
– Nhưng em... hình dáng này...
Tôi cúi xuống nhìn, hiểu ra điều lo lắng của cậu ấy. Tôi không thể đi bên cạnh cậu ấy trong hình hài một cô gái được. Nếu để người ta nhìn thấy, thanh danh của cậu ấy sẽ tiêu tan. Tôi bèn trở lại nguyên hình. Thấy tôi biến thành tiểu hồ ly, cậu ấy thở phào, chìa tay ra định ôm tôi vào lòng nhưng đột nhiên lại rụt tay về.
Tôi ngượng ngùng, tự mình chạy xuống núi:
– Tôi tự đi được.
Cậu ấy chỉ ậm ừ rồi cắm cúi bước đi.
Chúng tôi kẻ trước người sau, lặng lẽ xuống núi, gió nhẹ đưa tới, thổi bay tà áo của cậu ấy. Trong ráng chiều rực rỡ, màu áo thầy tu của cậu ấy nhuộm thành sắc vàng huyền ảo.
Hôm sau tôi đến phủ Bạch Lan Vương thăm Kháp Na:
– Kháp Na, tôi nghe Kunga Zangpo nói với Wangtso ngoài cửa rằng hôm qua cậu đã ở ngoài sân cả đêm nên bị cảm lạnh.
Tôi sốt ruột, trách cứ:
– Cậu có tráng kiện gì cho cam, sao không chịu giữ sức khỏe thế?
Một mảnh khăn ướt được đặt trên trán Kháp Na, cậu ấy nghiên đầu ho một tràng dài:
– Tối qua, em và đại ca sao rồi?
– Chẳng sao cả. Sau khi cậu đi khỏi, tôi trở lại nguyên hình rồi cùng cậu ấy xuống núi.
Cậu ấy tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên:
– Chỉ có thế thôi ư?
Tôi gật đâu.
– Buổi tối thì sao?
Cậu ấy chui ra khỏi chăn, câu hỏi gấp gáp kéo theo một trận ho dữ dội.
– Tối qua em ngủ trong phòng của huynh ấy kia mà, vì sao không nhân cơ hội đó mà biến thành người?
Tôi giơ tay lên minh họa, thật thà khai báo:
– Tôi có biến thành người. Cậu ấy ngồi bên này nghiên cứu, sáng tạo chữ Mông Cổ, tôi ngồi bên kia xem cậu ấy viết chữ. Cậu cũng biết đầy, tôi không dám lại gần cậu ấy vì tôi sẽ lập tức bị đẩy trở lại nguyên hình.
– Huynh ấy có... – Cậu ấy ngừng lại một lát, rồi thận trọng hỏi. – Có phản ứng gì không?
– Không, cậu ấy chỉ chăm chú viết chữ, thi thoảng mới ngẩng lên nhìn tôi.
Thực ra, lúc nào ngẩng lên nhìn tôi, Bát Tư Ba cũng đỏ mặt. Cứ viết được một đoạn, cậu ấy lại kín đáo đưa mắt nhìn xem tôi đang ở chỗ nào. Đến giờ đi ngủ thì cậu ấy không chịu thay bộ quần áo rộng rãi như mọi khi. Dù tôi đã hóa phép trở lại hình dạng tiểu hồ ly, cậu ấy vẫn ngượng ngùng bảo tôi sang phòng kế bên ngủ.
Kháp Na sững sờ, ánh mắt thoáng thất vọng:
– Xem ra huynh ấy thật sự muốn...
Rồi đột nhiên có tiếng gõ cửa, đó là Mukaton.
– Kháp Na, là thiếp đây, chàng có thể mở cửa cho thiếp không? Thiếp nghe nói chàng bị ốm.
Kháp Na nghiêng đầu ho khụ khụ rồi gắt với người ngoài cửa:
– Ta không sao, chỉ bị cảm nhẹ thôi.
Mukaton ôn tồn:
– Thiếp đã mời thầy thuốc chuyện trị bệnh cảm phong hàn giỏi nhất kinh thành đến để...
Kháp Na kéo mảnh trăn ướt trên trán xuống, lạnh lùng ngắt lời Mukaton:
– Quan thái y xem bệnh cho ta rồi. Lẽ nào mấy tay lang băm trên phố có thể giỏi hơn ngự y trong cung?
Mukaton ngượng ngập:
– Thiếp chỉ nghĩ rằng, thêm một thầy thuốc chẩn đoán thì biết đâu...
Kháp Na thô bạo ngắt lời cô ấy:
– Công chúa rắc rối quá đấy, người hầu của ta đã đi bốc thuốc theo đơn của quan thái y rồi.
– Thế... thế thì tốt rồi.
Nhưng Mukaton vẫn chưa chịu buồn xuôi, tiếp tục gõ cửa:
– Nhưng thiếp vẫn còn việc quan trọng khác...
Kháp Na xua tay ra vẻ khó chịu, vừa che miệng nén tiếng ho vừa nói:
– Công chúa, mọi việc trong phủ đều do cô cai quản, có chuyện gì cô cứ quyết định, không cần nói với ta. Ta rất mệt, mời công chúa về cho.
Mukaton không nói thêm lời nào nữa, cô ấy đứng ngoài cửa một lúc lâu rồi mới nhấc bước chân nặng nề của mình ra về.
~.~.~.~.~.~
Tôi chậm rãi nói:
– Cuộc phản loạn của Lý Thản đã giáng một đòn tâm lý lên Hốt Tất Liệt. Trước đó, Hốt Tất Liệt đã rất mực trọng dụng Lý Thản, còn trao binh quyền cho ông ta. Khi nghe tin Lý Thản làm phản, Hốt Tất Liệt không tin đó là sự thật. Trước lúc khởi binh, Lý Thản đã liên lạc với các gia tộc người Hán lớn khác, thuyết phục họ rằng người Hán không thể chịu sự khống chế của người Mông Cổ, kêu gọi những người đã theo Hốt Tất Liệt nhiều năm cùng hợp lực làm phản nhưng không mấy người hưởng ứng.
Chàng trai trẻ nhúng vai:
– Hốt Tất Liệt muốn đứng vững trên đất Hán thì phải dựa vào những người Hán có sức ảnh hưởng lớn ở địa phương. Những người này một khi đã được hưởng lợi từ Hốt Tất Liệt chắc chắn sẽ không phản bội ông ấy.
Tôi gật đầu:
– Đúng vậy. Khác với các Đại hãn Mông Cổ tàn bạo trước kia, Hốt Tất Liệt rất được lòng dân chúng Trung Nguyên, vì vậy, các dòng họ người Hán lớn ở miền Bắc không muốn phản bội ông ấy, thế nên Lý Thản lại tìm cách liên lạc với Nam Tống. Quân Tống cho rằng có thể thừa dịp tấn công, họ đã đánh úp quân Mông Cổ bằng đường biển nhưng đã bị người Mông Cổ đẩy lui. Cuộc phản loạn của Lý Thản chỉ diễn ra trong vòng nửa năm đã tan tành, nhưng nó đã làm nảy sinh mối mâu thuẫn giữa Hốt Tất Liệt và người Hán sau này.
– Hốt Tất Liệt không còn tin tưởng người Hán nữa? – Chàng trai trẻ sắc sảo lập luận. – Ông ấy đã bắt đầu tin rằng "khác máu thì tanh lòng"?
– Trước đây, Hốt Tất Liệt rất rộng lượng với người Hán, ông thu nạp rất nhiều mưu sĩ người Hán, lúc chiếm được Yên Kinh, ông không tàn sát người Hán như các Đại hãn Mông Cổ trước kia. Ông tin rằng làm vậy thì người Hán sẽ đón nhận mình, nào ngờ lại bị làm phản. Sự biến Lý Thản khiến Hốt Tất Liệt đi đến kết luận rằng, ông đã quá dung túng cho người Hán, đã trao cho họ quá nhiều quyền lực. Bởi vậy, từ đó về sau, ông bắt đầu nghi kỵ người Hán và không còn trọng dụng họ như trước kia nữa.
Chương 30 - Cái Chết Của Công Chúa.
"Người chính trực dù nghèo khó vẫn giữ cốt cách cao thượng;
Ngọn đuốc hồng dù dốc ngược vẫn cháy bùng lên sao."
(Cách ngôn Sakya)
Kháp Na ngồi tựa lưng vào thành giường, ánh mắt vô hồn, gương mặt tiều tụy, những mạch máu rần rật đỏ hai bên má. Tôi thở dài lặng lẽ, bưng bát thuốc đặt trên bàn, lại gần cậu ấy:
– Kháp Na, uống thuốc đi. Kunga Zangpo và Wangtso động viên thế nào cậy cũng không chịu uống, lại còn đuổi họ ra ngoài. Bát thuốc sắp nguội rồi.
Cậu ấy quay lại nhìn tôi, ánh mắt chộn rộn niềm vui bất ngờ:
– Sao em lại biến thành người thế?
Tôi ngồi xuống ném giường, hóa phép làm nóng bát thuốc rồi kề sát miệng cậu ấy:
– Hồ ly thì phục vụ cậu uống thuốc thế nào được? Bát thuốc này lẽ ra phải uống từ sáng nhưng đến giờ cậu vẫn chưa chịu uống. Chỉ lát nữa họ sẽ sắc xong thuốc buổi chiều đấy.
Niềm vui bất chợt dâng trong mắt cậu ấy bỗng tan biến, hàng lông mày chau lại buồn bực, cậu ấy nghiêng đầu sang bên, vừa ho vừa nói:
– Sau này em đừng hóa thành người trước mặt ta nữa.
Tôi ngó lại mình, tôi đang mặc bộ y phục cậu ấy tặng tôi kia mà, có gì khiếm nhã đâu. Tôi kéo tay áo cậu ấy gặng hỏi:
– Kháp Na, cậu sao thế? Trước đây cậu rất thích được thấy tôi hóa thành người kia mà!
Ánh mắt lạnh lùng của cậu ấy lướt trên gương mặt tôi rồi cậu ấy đột ngột lắc mạnh tay, vùng thoát khỏi bàn tay tôi, giọng nói bực dọc vô cớ:
– Bây giờ ta không thích nữa!
Bao năm qua cậu ấy chưa một lần nặng lời với tôi, vậy mà không hiểu vì sao hôm nay cậu ấy lại bực mình đến thế. Chừng như biết mình quá lời, cậu ấy tỏ ra bối rối, nhắm chặt mắt, mệt mỏi ngả lưng lên gối tựa, giọng nói lạnh lùng:
– Tóm lại là, từ nay về sau, em đừng hóa thành người khi đến gặp ta nữa.
Loài người thường chê trách hồ ly là giống xảo trá nhưng bụng dạ hồ ly có phức tạp như con người đâu. Tôi không đoán được suy nghĩ của cậu ấy, cũng không muốn đôi co với người ốm nên tôi kề bát thuốc gần miệng cậu ấy:
– Cậu uống hết bát thuốc này thì tôi sẽ hóa phép trở lại nguyên hình.
Cậu ấy nổi nóng, kéo chăn trùm kín mặt:
– Ta không uống, em đi đi!
Chưa kịp khuyên nhủ thì chợt nghe có tiếng gõ cửa, giọng nói của Mukaton vọng vào:
– Kháp Na, là thiếp đây. Thiếp bưng thuốc tới cho chàng.
Kháp Na thả chăn xuống, định mở miệng thì cơn ho ập đến. Tôi vội vã vỗ nhẹ vào lưng giúp cậu ấy bớt ho. Cậu ấy khẽ rùng mình, giữ chặt cổ tay tôi, không cho chạm vào người cậu ấy rồi gào lên với người ngoài cửa:
– Công chúa cứ để ngoài đó cho ta!
Giọng nói đầy lo lắng của Mukaton lại vẳng lên:
– Kháp Na, chàng mở cửa cho thiếp được không? Thiếp có chuyện quan trọng cần nói với chàng.
Chợt nhớ ra bàn tay đang nắm chặt cổ tay tôi, Kháp Na đột ngột buông tay, như thể chạm phải thanh sắt nóng vậy. Nỗi bực tức đã tăng thêm nhiều khi đáp lời Mukaton:
– Công chúa không thể chờ tới khi ta hết bệnh được sao?
– Chuyện liên quan đến Dankhag...
Kháp Na lạnh lùng ngắt lời cô ấy:
– Ta không có hứng thú với những chuyện về cô ấy. Công chúa không cần nhọc lòng kể tội cô ấy trước mặt ta làm gì.
Mukaton bị chặn họng, không thốt được lời nào nữa. Hôm nay, Kháp Na như thể bị ma ám, lời nói cộc cằn, khó chịu. Trước đây, tuy lạnh nhạt với Mukaton nhưng cậu ấy vẫn rất mực kiêng nể, không để Mukaton phải muối mặt. Mà hôm nay Mukaton cũng rất lạ, cô ấy chẳng buồn nổi trận lôi đình, thậm chí tôi còn nghe thấy tiếng khóc thút thít và giọng nói nài nỉ đầy tuyệt vọng của cô ấy:
– Kháp Na, nếu thiếp chết đi, liệu chàng có chịu gặp thiếp không?
Kháp Na hùng hổ tung chăn, nhảy xuống giường, chân trần lao đến bên cửa, cười lạnh lùng, nói vọng ra:
– Công chúa, mười lăm năm làm vợ chồng ta còn lạ gì thủ đoạn của cô nữa. Cô muốn gặp ta có gì khó đâu, chỉ cần đạp cửa xông vào là được mà. Không vừa ý cô, cô thậm chí có thể dỡ tung cái phòng ngủ này của ta ấy chứ.
Tuy lúc này đang là giữa mùa hạ nhưng để chân trần như thế rất dễ bị cảm lạnh, huống hồ cậu ấy lại đang ốm. Tôi vội vã xách đôi giày vải và nhấc chiếc áo khoác, chạy đến bên, khoác áo lên người cậu ấy rồi ngồi xuống xỏ giày cho cậu ấy. Kháp Na cúi xuống nhìn tôi, cắn môi lùi lại. Mukaton đứng ngay bên ngoài nên tôi không dám mở miệng, đành ngẩng đầu, dùng ánh mắt khẩn cầu van nài cậu ấy.
Có tiếng tu nước ừng ực từ bên ngoài vẳng vào, sau đó là tiếng đồ sứ vỡ tan tành trên nền đất, tiếp đến là tiếng rên rỉ đau đớn của Mukaton:
– Kháp Na, thiếp không nói dối, thiếp sắp chết thật đó!
Kháp Na nhìn tôi bằng ánh mắt đầy phức tạp, vung tay kéo chiếc áo khoác mà tôi trùm lên vai cậu xuống, vừa ho khụ khụ vừa bật cười ha hả:
– Công chúa xưa nay vẫn khỏe mạnh hơn người, đây là lần đầu tiên thấy cô sử dụng chiêu thức lấy cái chết để uy hiếp người khác. Có điều Công chúa đâu phải hạng người yếu ớt, chiêu bài này không hợp với cô chút nào.
Bỗng "rầm" một tiếng, dường như vật thể nặng nề nào đó đã đổ nhào xuống đất. Chúng tôi nhìn nhau rồi bỗng nhận ra: Mukaton nguy rồi!
Tôi trở lại nguyên hình, nhanh chóng cất giấu y phục. Kháp Na mở cửa thì thấy một thân hình vĩ đại nằm chắn phía trước, đang trong cơn co giật dữ dội, bên cạnh là những mảnh vỡ, thứ chất lỏng màu đen vung vãi tung tóe.
– Công chúa! Công chúa!
Kháp Na lao ra ngoài, nâng đầu Mukaton lên, hoảng hốt khi thấy vệt máu màu đên nơi khóe môi Mukaton, bèn gào lên:
– Người đâu! Mau mời quan thái y!
Đám người hầu túa ra từ hai dãy hành lang. Kháp Na luồn một tay xuống dưới hõm khớp gối của Mukaton, tay kia vòng xuống ôm lấy lưng cô ấy, định bế mu lên. Nhưng Mukaton quá nặng nên cậu ấy loạng choạng. Kháp Na nâng sao nổi Mukaton. Đám người hầu phải hợp sức giúp đỡ mới kiêng được Mukaton vào phòng, đặt lên giường Kháp Na.
Kháp Na túm lấy một người hầu, sốt ruột hỏi:
– Đi mời quan thái y chưa?
Người hầu gật đầu như bổ củi:
– Thưa, Kunga Zangpo đã đích thân cưỡi ngựa đi mời!
Nhưng vẫn chưa thấy yên tâm, Kháp Na vừa ho sù sụ vừa căn dặn:
– Mau lên, cử thêm vài người nữa, phải mời bằng được quan thái y giỏi nhất về đây.
Mukaton lăn lộn, quằn quại trên giường vì đau đớn. Đám thị nữ muốn lại gần chăm sóc nhưng bị cô ấy gạt bắn ra ngoài. Đầu tóc rối bù, cô ấy gào quát:
– Các người ra ngoài hết đi, ta có chuyện riêng muốn nói với Vương gia!
Kháp Na khoát tay ra hiệu cho người hầu lui hết ra ngoài, rồi chau mày nhìn Mukaton không ngừng vật lộn trên giường:
– Sao đang yên đang lành lại như vậy?
Mukaton ôm bụng, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn, mồi hoi đầm đìa trên trán. Cô ấy nhìn Kháp Na, mỉm cười thê lương:
– Đúng là thiếp phải chết thì chàng mới chịu gặp thiếp.
Vừa dứt lời cô ấy đã phun ra rất nhiều máu. Vị tanh nồng lan trong không khí, tôi đã ngửi ra đó là thứ gì, vội nhảy lên lòng Kháp Na, dừng móng vuốt kín đáo vẽ vào lòng tay cậu ấy một chữ: Độc!
Kháp Na thất kinh:
– Công chúa! Sao nàng lại phải uống thuốc độc?
Mukaton ôm bụng quằn quại, khó khăn lắm mới thốt lên vài tiếng:
– Thiếp uống thuốc của chàng.
– Thuốc của ta?
Kháp Na thoáng nghi hoặc rồi chợt hiểu ra, gương mặt đột nhiên trắng bệch:
– Trong thuốc có độc? Kẻ nào đã bỏ vào?
Mukaton thở dốc, lời nói đứt quãng:
– Thiếp cầu xin chàng mở cửa... nhưng chàng không chịu... Thiếp biết chàng vô cùng khinh ghét thiếp... Nếu thiếp... nếu thiếp không uống bát thuốc đó... chàng sẽ không bao giờ chịu nghe thiếp nói và càng không tin thiếp.
Không biết sức mạnh nào đã giúp Mukaton ngồi dậy, Kháp Na vội lao đến, đỡ cô ấy tựa vào vai mình. Mukaton thở dốc một hồi rồi mới tiếp:
– Chính Dankhag đã bỏ thuốc độc.
Kháp Na kinh hãi, hai mắt trợn tròn:
– Vì sao cô ta lại làm vậy? Cô ta muốn ta chết ư?
Mukaton bật cười, hàm răng nhuộm máu đen, gắng gượng nói:
– Vì chàng không thèm ỏ ê đến cô ta. Chàng có biết cô ta có thai rồi không? – Cô ấy nắm chặt cánh tay của Kháp Na, gào lên thảm thiết. – Chàng có biết cô ta hằng ngày cưỡi ngựa ra ngoại thành làm gì không? Để lén lút gặp mặt tam ca của chàng, Yeshe đó.
Kháp Na há hốc miệng, sau một cơn ho dữ dội, cậu ấy mới run rẩy hỏi Mukaton:
– Đứa bé là con của tam ca ư?
– Chuyện này hoàn toàn chính xác. Thiếp cho người theo dõi cô ta và tận mắt nhìn thấy bọn họ làm những việc đồi bại. Thiếp muốn báo với chàng đi bắt cặp gian phu dâm phụ đó nhưng không ngờ hôm sau, tam ca của chàng đã lên đường đi Vân Nam!
Cô ấy bật cười hả hê vẻ đắc ý, giọng nói nhanh và gấp, hai mắt như phát sáng:
– Tuy không bắt được quả tang nhưng thiếp đã mua chuộc được người hầu thân thiết của cô ta nên biết rằng, cô ta chậm kinh đã hơn ba tháng.
Tôi đứng bên, thấy bờ môi của Mukaton đã bắt đầu tím ngắt, tử khí bao phủ gương mặt cô ấy, bây giờ có lẽ là thời khắc tỉnh táo cuối cùng.
Mukaton vẫn nỗ lực cất tiếng, có lẽ vì biết mình không còn nhiều thời gian. Và rồi bàn tay ôm chặt bụng lúc trước buông thõng như thể cô ấy không còn đau đớn nữa.
– Bụng bầu của cô ta sẽ ngày một lộ rõ, không thể tiếp tục che giấu. Thế nên cô ta muốn hãm hại chàng. Tên hầu Wangtso của chàng đã bị cô ta và Yeshe mua chuộc, bát thuốc hôm nay là do hắn sắc. Thiếp đã cho người trói Wangtso lại, chàng có thể tra khảo hắn.
Kháp Na không nén nổi sự phẫn nộ, đường gân xanh nổi rần rật trên cổ, gương mặt khôi ngô, tuấn tú đỏ bừng bừng vì tức giận:
– Nếu ta chết, tam ca sẽ là người con út của phái Sakya, con của cô ta sẽ được kế thừa giáo phái một cách danh chính ngôn thuận. Nhưng nếu ta không chết, cô ta sẽ bị thả trôi sông vì tội hư thông, và đứa con đó cũng chẳng thể sống sót. Thế nên cô ta mới ra tay với ta. Thật là độc ác!
Lúc đến chào từ biệt, Yeshe từng nói với Bát Tư Ba rằng, con trai của hắn sẽ giúp hắn giành lại mọi thứ. Chúng tôi đều nghĩ rằng người vợ Mông Cổ mà Yeshe cưới về đã mang bầu, nào ngờ, không phải vậy. Nếu căn cứ theo thời gian thì Dankhag đã có thai được hơn ba tháng, Yeshe rời khỏi Yên Kinh một tháng trước, vậy tức là, trước khi đi, hắn biết Dankhag mang thai nên rất có thể chính hắn đã xúi giục Dankhag hạ độc Kháp Na!
Kháp Na bật dậy, trên người chỉ rặt một manh áo mỏng, chân trần lao ra ngoài, đẩy cửa, ra lệnh:
– Người đâu, mau bắt trói Dankhag lại cho ta!
Lúc quay lại bên giường, cậu ấy vẫn không thôi run bần bật vì giận dữ. Ánh mắt Mukaton dần khép lại, cô ấy run rẩy chìa tay về phía Kháp Na, Kháp Na vội nắm chặt tay vợ:
– Công chúa, sao nàng không nói cho ta hay? Vì sao lại dại dột như vậy? Vì sao phải uống thuốc độc?
– Kháp Na, lúc đến tìm chàng, thiếp đã hạ quyết tâm. – Viền mắt sưng to, hơi thở khó khăn, cô ấy ráng sức nhìn Kháp Na. – Nếu chàng chịu gặp thiếp, thiếp sẽ không uống. Nhưng nếu chàng vẫn lạnh lùng với thiếp như mọi khi, thiếp sẽ liều mình!
Kháp Na đau đớn lắc đầu:
– Vì sao nàng phải khổ sở như vậy?
– Kháp Na... chàng nghĩ xem, thiếp có khác gì một cái xác không hồn, sống hoài như vậy có ý nghĩa gì chứ?
Nước mắt cô ấy trào ra, rơi xuống vai Kháp Na, cô ấy nghẹn ngào:
– Thiếp biết rằng... ngoài thân phận, địa vị, thiếp không có điểm nào xứng đôi vừa lứa với chàng... Chàng không yêu thiếp cũng phải. Nếu chàng chịu cho thiếp... một đứa con thì cuộc đời thiếp... còn có chút hy vọng. Nhưng... thiếp đã ba mươi hai rồi... thiếp... không chờ được nữa, chi bằng chết đi... và chấm dứt chuỗi ngày... có chồng mà như quả phụ này!
Kháp Na nhói buốt tâm can, ôm chặt Mukaton, gào khóc:
– Công chúa ơi, ta xin lỗi, ta xin lỗi! Nàng không nên lấy ta!
– Kháp Na, thiếp không hối hận vì đã lấy chàng... Thiếp chỉ ân hận vì đã đối xử không phải với chàng khi chàng còn nhỏ.
Cô ấy run rẩy chìa tay ra, muốn chạm vào gương mặt của Kháp Na. cậu ấy vội nắm lấy bàn tay cô ấy, đặt lên má mình. Mukaton mỉm cười như chìm đắm trong hồi ức, miệng lẩm bẩm:
– Lúc thiếp cưới chàng... chàng vẫn còn là một chú bé... ai nấy đều cười nhạo thiếp. Thiếp đánh mắng chàng bởi vì... thiếp không cam lòng. Nhưng chàng ngày một trưởng thành... ngày một khôi ngô, tuấn tú. Không biết từ khi nào, mỗi lần thấy chàng... tim thiếp lại đập thình thịch. Nếu chàng chịu... mỉm cười với thiếp, thiếp... sẽ hân hoan cả ngày trời. Thiếp vui lắm... Người đàn ông điển trai nhất thành Lương Châu là... chồng thiếp. Nhưng thiếp rất sợ... Thiếp không xinh đẹp, không dịu dàng, không thích đọc sách, và thiếp... đã nhiều tuổi. Hễ có cô gái nào... liếc mắt với chàng là thiếp lại nổi cơn ghen. Bởi vậy... thiếp đã gây ra bao điều xấu xa.
Kháp Na đã không còn sức để khóc ra tiếng nữa, quay đầu ra ngoài cửa, gào thét điên dại:
– Thái y! Thái y đâu rồi?
Mukaton đổ người vào lòng Kháp Na, bàn tay lần theo từng đường nét thanh tú trên gương mặt như tạc khắc của cậu ấy. Từ đôi mắt đẫm lệ đến gò mà nhô cao, từ sống mũi thanh tú đến bờ môi dày dặn, thắm đỏ. Cô ấy thở dài mãn nguyện:
– Sau này thiếp mới hiểu... chàng lạnh nhạt với thiếp... là tại thiếp. Từ sau lần thiếp và cô ta bị chàng mắng mỏ, thiếp... đã thật lòng hối cãi... Thiếp muốn xứng với chàng. Nhưng... hơn một năm trôi qua và chàng không hề nhận ra...
Kháp Na thổn thức, nỗi đau đớn đã tước đi vẻ long lanh, rạng ngời vẫn thường toát ra từ đôi mắt tuyệt đẹp của cậu ấy:
– Ta biết, ta biết nàng đã thay đổi. Tất cả là tại ta, ta đã cố tình thờ ơ với nàng. Công chúa...
Mukaton đặt ngón tay lên môi Kháp Na, ánh mắt vô hồn:
– Chàng chưa bao giờ gọi tên thiếp...
– Mukaton...
Cậu ấy lập tức đổi cách gọi, siết chặt tay cô ấy. Cậu ấy cố gắng gọ tên cô ấy thật nhiều lần để duy trì sự tỉnh táo cho cô ấy:
– Mukaton, nàng là vợ của Kháp Na Đa Cát, suốt đời này sẽ là như vậy!
– Cuối cùng... chàng đã chịu thừa nhận... thiếp là vợ chàng.
Mukaton khẽ thở dài, gương mặt hắt lên tia sáng yếu ớt sau cùng:
– Hãy đưa thiếp về Lương Châu...
Cửa phòng bật mở, Kunga Zangpo cùng cả đám người theo sau thái y ào vào trong. Kháp Na như người sắp chết đuối vớ được cọc, vội đứng lên nhường chỗ cho thái y:
– Thái y, cầu xin ngài hãy cứu vợ ta! Phủ Bạch Lan Vương nhất định sẽ hậu ta ngài.
Quan thái y nhấc cổ tay Mukaton lên, bắt mạch. Kháp Na ghé sát tai cô ấy kêu gọi:
– Mukaton, tỉnh lại đi. Nàng sẽ không sao, quan thái y sẽ chữa khỏi cho nàng. Nàng còn phải sinh con cho ta nữa đó!
Mukaton mấp máy môi như muốn nói điều gì nhưng giọng nói của cô ấy quá yếu ớt. Kháp Na vội vã cúi xuống, kề tai sát miệng cô ấy:
– Nàng muốn nói gì, nói lại một lần nữa đi.
Mukaton không còn đủ sức để mở mắt ra nữa, cổ họng cô ấy đã xuất hiện một vệt dài những bọc máu, cô ấy vét cạn sức tàn mới có thể thốt ra mấy tiếng:
– Đôi... giày...
Kháp Na hớt hải nhìn ra xung quanh:
– Giày ư? Giày nào vậy?
Quan thái y kéo rộng miền Mukaton và kiểm tra, máu trong miệng cô ấy đã chuyển thành màu đen, vô cùng đáng sợ. Thái y dùng kim bạc khêu thử chút cặn thuốc trong miệng thì chiếc kim lập tức biến thành màu đen. Thái y tái mặt:
– Đây là cỏ đoạn trường. Nếu vừa mới uống thì có thể dùng muội than và phèn chua để giải độc, may ra có thể cứu nguy. Nhưng Vương phu đã uống quá nhiều và thời gian trúng độc kéo dài quá lâu nên không còn kịp nữa.
Kháp Na chợt nhớ ra điều gì, chẳng màng đến những lời thái y vừa nói, cậu ấy lảo đảo lao về phía chiếc tủ gỗ ở góc giường. Cậu ấy lục tung đồ trong tủ ra, vứt la liệt trên nền nhà, động tác như hóa điên hóa dại. Mọi người không hiểu cậu ấy đang làm gì, ai nấy đều tròn xoe mắt nhìn. Lục đến góc trong cùng, cậu ấy mới tìm thấy. Kháp Na giơ đôi giày vải còn mới nguyên lên cao, lao về phía Mukaton:
– Đôi giày! Mukaton, nàng nhìn xem, đây chính là đôi giày nàng tự tay khâu.
Cậu ấy cúi xuống và nhận ra mình đang để chân trần, gót chân giẫm phải một mảnh sành. Cậu ấy cắn răng rút mảnh sành ra, máu đỏ phun trào. Kunga Zangpo muốn băng bó vết thương cho cậu ấy nhưng Kháp Na đã đẩy anh ta sang bên. Cậu ấy không muốn làm bẩn đôi giày nên lại lục tung góc chăn để tìm bằng được đôi tất bằng vải để xỏ vào rồi mới đi giày. Chân bên trái dễ dàng xỏ vừa, nhưng chiếc giày bên phải quá chật. Kháp Na cố ép để bàn chân phải lọt vào chiếc giày rồi đứng lên để Mukaton có thể nhìn thấy:
– Nàng nhìn xem, rất vừa. Sau này nàng hãy khâu cho ta thêm vài đôi nữa, ta sẽ chỉ đi giày nàng khâu, được không?
Thái y vén mắt Mukaton lên để kiểm tra, rồi lắc đầu thở dài, vuốt mắt cho Mukaton. Ngài khom người trước Kháp Na, cất giọng nặng nề:
– Xin Vương gia bớt đau buồn! Vương phi đã... tạ thế!
Kháp Na như bị đóng đinh trên đất, quên hết mọi thứ xung quanh. Một lúc lâu sau, cậu ấy mới chầm chậm bước về phía Mukaton, chân phải hơi tập tễnh, có lẽ vì chiếc giày quá chật. Cậu ấy ngồi xuống bên cạnh Mukaton, cẩn trọng lau khô vệt máu trên má và khóe môi cô ấy bằng tay áo mình, vén gọn mái tóc rối bời của cô ấy, kéo lại cho thẳng chuỗi hạ trên cổ cô ấy.
Xong xuôi, cậu ấy bần thần ngắm nhìn Mukaton rồi cúi xuống hôn lên bờ môi đã lạnh giá của cô ấy, ghé sát tai cô ấy, thì thào:
– Mukaton, ta nợ nàng. Nếu có kiếp sau, xin đừng vướng vào ta, hãy tìm đến với người có thể mang lại hạnh phúc cho nàng.
Kunga Zangpo nhỏ nhẹ căn dặn người đứng bên cạnh:
– Mau đi thông báo với quốc sư. – Sau đó quay ra khuyên nhủ Kháp Na. – Vương gia, ngài vẫn chưa khỏi ốm, xin hãy nằm xuống nghỉ ngơi, chúng tôi sẽ lo liệu hậu sự của Vương phi.
– Dankhag đâu? – Gương mặt Kháp Na bỗng trở nên lạnh lùng cực độ, giọng nói băng giá. – Bắt được cô ta chưa?
Kunga Zangpo cúi đầu bẩm báo:
– Chúng tôi đã cho người tìm kiếm khắp nơi nhưng bà hai đã bỏ trốn từ lâu. Lính gác ở cổng thành phía nam nói rằng, sáng sớm hôm nay đã thấy xe ngựa của bà hai đi qua đó, chừng như rất gấp gáp.
– Chắc chắn ả đã bỏ trốn đến Vân Nam. Ta chưa bao giờ phải huy động lực lượng của đại ca, nhưng lần này ta phải bắt được cô ta bằng bất cứ giá nào.
Kháp Na bóp chặt tay thành nấm đấm, những tia lửa đỏ vằn lên trong mắt, cậu ấy nhìn thi thể của Mukaton, nghiến răng giận dữ:
– Dù cô ta có trốn đến cùng trời cuối đất, ta cũng phải bắt cô ta về đây đền mạng cho Công chúa!
.
Chàng trai trẻ trầm ngâm rất lâu. Bốn bề yên ắng, chỉ nghe thấy tiếng củi lửa cháy lép bép trong bếp lò, tiếng gió gào rú ngoài trời và tiếng những bông tuyết đập ràn rạt vào cửa sổ. chàng trai thở dài, lắc đầu vẻ thương cảm:
– Trước đây, tôi cũng rất ghét Mukaton, như Kháp Na vậy. Nhưng cái chết thê thảm của cô ấy sẽ khiến Kháp Na không thể quên được. Dù không yêu nhưng từ nay về sau, cậu ấy sẽ không thể thoát khỏi nỗi ám ảnh về Mukaton.
Tôi nhớ lại khoảng thời gian Kháp Na bị hành hạ bởi những cơn ác mộng triền miên mà xót xa:
– Đúng vậy. Cái chết của Mukaton giống như một tảng đá đề nặng trong lòng Kháp Na suốt thời gian dài sau đó
– So với một kẻ có dã tâ và thâm độc như Dankhag, Mukaton chẳng qua chỉ là một đứa trẻ được nuông chiều quá thành hư mà thôi. Đứa bé đó muốn một món đồ mà bố mẹ nhất định không chịu nên đập phá mọi thứ xung quanh hòng gây sự chú ý của bố mẹ và bắt họ phải chiều theo ý nó.
Chàng trai trẻ xuýt xoa, cảm khái, rồi lại lắc đầu, thở dài:
– Cô ấy cũng giống Kháp Na, đều là vật hy sinh của cuộc hôn nhân chính trị. Lúc trước, tôi thương cho Kháp Na, nhưng giờ đây nghĩ lại, nếu đứng trên lập trường của Mukaton mà suy xét, lẽ nào cô ấy không đáng thương hay sao?
Tôi hít một hơi thật sâu, cố che giấu nỗi bi ai trong lòng mình:
– Thiếp Mộc Nhi rất thương em gái nên cái chết của Mukaton đã khiến cậu ta vô cùng đau đớn. Bởi vậy, sau khi Mukaton qua đời, Bát Tư Ba luôn cảm thấy day dứt khôn nguôi. Sau này, cậu ấy đã đền bù cho Thiếp Mộc Nhi bằng cách thức khác.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro