Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Quà tặng cuộc sống( Dangtrungdpk54)

Quà Tặng Cuộc Sống

Bài Học Cho Cuộc Sống

Đôi khi có một số người lướt qua cuộc đời bạn và ngay tức khắc bạn nhận ra rằng sự có mặt của họ ý nghĩa như thế nào . Họ đã dạy bạn những bài học , đã giúp bạn nhận ra giá trị của chính mình hoặc trở thành con người mà bạn từng mơ ước . Có lẽ bạn sẽ không biết được những con người này từ đâu đến ( bạn cùng phòng,người hàng xóm,vị giáo sư,người bạn mất liên lạc từ lâu hay thậm chí là một người hoàn toàn xa lạ ). Nhưng khi bạn thờ ơ với họ ,hãy nhớ rằng trong từng khoảnh khắc họ sẽ ảnh hưởng rất sâu sắc đến cuộc đời bạn .

Ban đầu sự việc xãy ra trông có vẻ kinh khủng , đau khổ và bất công , nhưng khi lấy tấm gương của cuộc đời ra để đối chiếu, bạn sẽ hiểu được là nếu không có những giây phút ấy để bạn vượt qua mọi khó khăn thì bạn khó có thể thấy được tài năng , sức mạnh , ý chí và tấm lòng của bạn . Mọi việc đều diễn ra có chủ đích mà không có gì gọi là tình cờ hay may rủi cả . Bệnh tật , tổn thương trong tình yêu , giây phút tuyệt vời nhất của cuộc sống bị đánh cắp hoặc mọi thứ ngu ngốc khác đã xãy đến với bạn , hãy nhớ rằng đó là bài học quí giá . Nếu không có nó cuộc đời này chỉ là một lối đi thẳng tắp , một con đường mà không hề có đích đến cũng như bạn sồng từng ngày mà không hề ước mơ . Thật sự con đường đó rất an toàn và dễ chịu , nhưng sẽ rất nhàm chán và vô nghĩa .

Những người bạn gặp sẽ ảnh hưởng đến đến cuộc đời bạn . Thành công hay thất bại , thậm chí là những kinh nghiệm tồi tệ nhất cũng chính là bài học đáng giá nhất , sẽ giúp bạn nhận ra được giá trị của chính mình .Nếu có ai đó làm tổn thương bạn , phản bội bạn hay lợi dụng tấm lòng của bạn , hãy tha thứ cho họ bởi vì chính họ đã giúp bạn nhận ra được ý nghĩa của sự chân thật và hơn nữa , bạn biết rộng mở tấm lòng với ai đó . Nhưng nếu có ai thương yêu bạn chân thành , hãy yêu thương họ một cách vô điều kiện , không chỉ đơn thuần là họ đã yêu bạn mà họ đang dạy bạn cách để yêu .

Hãy trân trọng khoảnh khác và hãy ghi nhớ từng khoảnh khắc những cái mà sau này bạn không còn có cơ hội để trải qua nữa . Tiếp xúc với những người mà bạn chưa từng nói chuyện , và biết lắng nghe . Hãy để trái tim biết yêu thương người khác . Bầu trời cao vời vợi vì thế hãy ngẩng đầu nhìn lên , tự tin vào bản thân . Hãy lắng nghe nhịp đập của trái tim mình :" Bạn là một cá nhân tuyệt vời . Tự tin lên và trân trọng bản thân bạn , vì nếu bạn không tin bạn thì ai sẽ làm điều ấy?". Hãy sở hữu cuộc sống của bạn và đừng bao giờ hối tiếc về lối sống ấy . Nếu bạn thương yêu ai đó thì hãy nói cho họ biết , dù rằng sẽ bị từ chối nhưng nó có thể làm cho một trái tim tan nát có thể đập trở lại .

Ánh sáng cuối cùng

    Hồi sinh viên, vào các kì nghỉ, tôi thường xin dạy thêm ở các trường mẫu giáo. Lần đó, tôi xin được một chỗ làm ở thị trấn St Louis. Ngày mồng 2 của tháng, tôi mới biết được là ở đây người ta chỉ trả lương vào cuối tháng. Lúc đó tôi lặng người bởi trong túi tôi chỉ còn 4 đôla, tôi không thể trả được tiền trọ chứ đừng nói gì tới tiền xăng hay ăn tối. Tôi có một cây kèn trumpet và biết chơi Piano một chút nên ý nghĩ đầu tiên của tôi là dùng chúng để kiếm tiền. Nhưng ở đâu? Thế là tôi quyết định: Đem cái kèn của mình đi cầm đồ và được 15 Đôla. Đủ trả tiền phòng trọ cho ngày hôm đó và hôm sau nữa. Nhưng rồi sau đó sẽ ra sao?

    Có một quán café nghèo nàn ở cạnh tiệm cầm đồ. Tôi vào và gọi cốc bia 35 xu rồi ngồi bên cốc bia và thần mặt ra.

    - Trông cậu cứ như đánh mất đồng xu cuối cùng ấy con trai!- Người phục vụ già lại gần tôi và nói như vậy.

    Ông ấy tên là Charlie, 60 tuổi. Tôi kể cho ông ta nghe mọi chuyện, kể cả việc cầm cái kèn. Charlie nghe rồi hỏi:

    - Cũng biết chơi Piano à?

    - Cháu biết một chút thôi….

    Chrlie suy nghĩ vài phút rồi hỏi tiếp:

    - Cháu có biết chơi bài Stardust không?

    Thật may, đó là một trong số vài bài tôi biết chơi. Tôi thử chơi cho Charlie nhe, cố gắng hết sức. Không hay lắm nhưng Charlie có vẻ thích, ông cười vang và vỗ tay theo.

    - Cậu chơi không hay lắm nhưng không tệ đến nỗi đuổi hết khách đi đâu! Mỗi tối cậu hãy đến đây chơi bản nhạc này, tôi sẽ cố giúp cậu kiếm đủ tiền cho đến khi cậu được trả lương. Có bộ vest nào không?

    Tôi không có nên Charlie phải dẫn tôi đi mua ở một cửa hàng đồ cũ. Bộ vest màu nâu, có lẽ được dùng cho những người 40 tuổi, nhưng dù sao nó cũng vừa với tôi.

    Ngày hôm sau, khách đến quán café vào khoảng 6h tối. Trông ai cũng vất vả và lấm lem. Họ già hơn tôi nhiều. Có những người trông khắc khổ và lôi thôi. Họ nghe Stardust và những bài hát cũ mà tôi chơi một cách chăm chú, có người còn khóc. Mỗi tối vài lần, Charlie đặt lên quầy hàng một chiếc hộp và kêu lên:

    - Anh em, chúng ta cần giúp đỡ cậu bé này!- Và đôi khi ông còn kể lại tình trạng của tôi: Sống một mình và không có tiền.

         Đến buổi tối thứ 3, có một bà cụ bước lại gần tôi:

         - Con trai, ta không có tiền để giúp con đâu, nhưng ta có một căn phòng ở ngay bên cạnh mà không dùng tới. Con có thể ngủ đêm ở đó để khỏi phải trả tiền trọ.

    Và cứ thế, ban ngày thì tôi dạy trẻ con ở trường mẫu giáo, tối chơi nhạc cho những người già ở quán của Charlie. Sau một tháng, tôi được lĩnh lương. Tiền lương khá cao đủ để tôi có thể sống đầy đủ. Tôi quay lại quán của Charlie và chơi thêm một buổi nữa. Lần này tôi nói Charlie đừng đặt cái hộp lên quầy hàng vì tôi đã có tiền rồi.

    Nhưng, ở chỗ mà Charlie mọi hôm vẫn để cái hộp, hôm nay mọi người vẫn để tiền vào dù không có hộp. Có nhiều đồng xu và cả một tờ 20 Đôla.

    Tối hôm đó, tôi về sớm sau khi tạm biệt và cảm ơn mọi người. Một số người trong số họ đỏ hoe cả mắt và tôi cũng vậy.

    Tôi không biết điều gì đã làm cho những người nghèo khổ ấy lại muốn giúp một thằng bé mà họ không quen biết trong khi chính họ cũng sống vô cùng chật vật.

    Sau này, tôi chơi piano tốt hơn và làm thêm ở một khách sạn lớn. Tôi chơi piano cho những người khách giàu có và sang trọng. Nhưng chưa một lần nào và chưa một ai trong số họ chia sẻ với tôi chính những gì mà họ có như ở quán của Charlie.

    Có thể cuộc sống luôn biết sắp đặt con người vào đúng chỗ và tôi chỉ gặp những người tôi cần vào đúng lúc, đúng chỗ mà thôi.

Thư gửi con gái

....Con ơi,dù con sợ tình yêu nhưng tình yêu cứ đến.Nếu đây là niềm vui thì con hãy nâng niu như người mẹ ôm ấp đứa con thơ.Nếu đây là vết thương lòng cũng có thể tâm hồn con vương vấn.Con đừng bao giờ tự hỏi con rằng người con đang yêu có xứng đáng với con không? Cái thứ tình yêu mà mặc cả như món hàng ngoài chợ thì cái đó không còn là tình yêu nữa. Khi con yêu con đừng đắn đo tính toán.

Nếu người yêu con là người nghèo khổ thì con sẽ cùng người ấy lao động xây đắp tô thắm cho tình yêu.

Nếu người yêu con già hơn con thì con sẽ làm cho người ấy trẻ lại với con.

Nếu người yêu của con bị cụt chân thì con sẽ là cái nạng vững chắc của họ.

Tình yêu đẹp nhất sẽ đến với con nếu như con làm đúng theo lời cha dạy.Con phải luôn cảnh giác xem thử người đó yêu con vì cái gì?

Nếu người đó yêu con vì sắc đẹp thì con nên nhớ rằng:Sắc đẹp của con rồi sẽ tàn.

Nếu người đó yêu con vì con có chức cao thì con hãy khẳng định rằng: Người đó không yêu con. Con hãy tự bảo họ rằng :"Địa vị không bao giờ đem lại hạnh phúc cho con người, chỉ có tự túc chân chính mới thoả mãn lòng người chân chính". Con phải độ lượng và giàu lòng tha thứ nếu như họ hối hận thật sự.

Con hãy chung thuỷ với người yêu xây dựng cuộc đời riêng.Nếu con làm mất hai chữ quí báu đó thì con sẽ hổ thẹn và không được quyền tự hào với chính con ,với xã hội.Nếu con để cho một người nào khác chồng con đặt cái hôn ranh mãnh bẩn thỉu lên môi con thì trước khi hôn, họ sẽ khinh con và nhất là sau khi hôn họ sẽ càng khinh con hơn.

Ai sẽ vì con mà chăm sóc đời con. vui khi có tin mừng, buồn khi con gặp sự không may.Đó chính là chồng của con.

Ba lời nói có thể thay đổi cuộc đời bạn

Những thông điệp quan trọng nhất mà con người gửi cho nhau thường chỉ gói gọn trong 3 từ : " Anh yêu em " , " Không sao đâu " hay "Thế là hết" .

Một trong nững lời nói hữu ích nhất là : " Tôi đến ngay " .

" Tôi đến ngay " . Nếu có lần bạn gọi người thợ sửa ống nước vào 1 ngày cuối tuần , bạn sẽ cảm thấy câu trả lời này cần thiết biết bao . Nếu xe bạn bị hỏng trên đường và bạn chỉ còn 1 ít tiền lẻ để gọi điện thoại cho người thân thì bạn cũng thấy những câu trả lời này thật an lòng .

Những trường họp khác như :

" Bà ơi , cháu sẽ tốt nghiệp vào tháng " .

" Bà sẽ đến " .

" Anh yêu , em đang có cuộc họp khẩn và không thể đón em tại sân bay chiều nay được "

" Anh đến ngay " .

" Mẹ ơi , cháu bé khóc suốt đêm qua , con không chợp mắt được tí nào , con sẽ ngã quỵ mất . "

" Mẹ đến ngay " .

1 người đã thực hiện lời nói này là Nữ Hoàng Elizabeth Anh . trong suốt cuộc tấn công của Đức ở London năm 1940 , chính phủ xin ý kiến của bà để cho công chúa Elizabeth và công chúa Margaret Rose chuyển d0ến nơi khác vì lý do an toàn . Nữ hoàng đáp : " Các công chúc sẽ không đi đâu cả trừ khi tôi ra đi , tôi sẽ không đi đâu trừ khi chồng tôi ra đi . Và nhà vua sẽ không bao giờ rời khỏi đất nước dù bất kỳ hoàn cảnh nào .

" Tôi đến ngay "

Một câu nói chỉ có 3 từ mà thật khó thực hiện ít ra là đối với tôi .

" Bạn có lý ".

Nếu nhiều cặp vợ chồng chịu nói với nhau: " Anh có lý " hoặc " Em có lý " thì người cố vấn hôn nhân sẽ thất nghiệp ngay . Do khinh nghiệm mà tôi biết được 3 từ này sẽ đem đến kết quả tốt đẹp trong 1 cuộc tranh cãi . Khi bạn cứ tìm cách không thừa nhận ý kiến đúng của đối phương thì chính bạn đang gây ra hành động có hại cho chính mình .

" Trái tim biết " .

Khi còn bé , tôi nghe hàng ngàn lần câu nói này mỗi khi gặp chuyện khó xử . Tôi thường hỏi bà nên làm thế nào , nhưng câu trả lời luôn là " Trái tim biết " . " Tim tôi biết ??? " _ Tôi càu nhàu , " Thế nghĩa là gì chứ ? Cháu cần bà khuyên cháu nên làm gì cơ mà . "

Bà chỉ mỉm cười và đáp : " Trái tim biết , cưng ạ . Trái tim biết " . Nhưng tôi là 1 đứa trẻ bướng bỉnh . Tôi thắc mắc : " Nhưng trái tim cháu đâu có nói được ! " __ " Hãy biết lắng nghe cháu ạ ! "

Người ta có thể khuyên chúngta làm gì nhưng hầu hết họ không chịu trách nhiệm nếu có sai lầm , chúng ta phải tự quyết định . Và đó là lúc ta cần biết lắng nghe .

Trái tim mách bảo . Các nhà tâm lý gọi điều này là " biết lắng nghe chính mình " . Các nhà cố vấn tinh thần gọi là " Tìm đến 1 quyền năng cao cã " . Cho dù bạn gọi nó là gì , bạn có khả năng tìm ra câu trả lời đúng cho cuộc đời bạn . Đó là " một đặc ân mà thượng Đế dành cho mỗi người " .

Tôi phải mất 1 thời gian dài để nhận ra rằng cuộc đời không đi theo kế hoạch do mình đặt ra . Trong chừng mực nào đó , cuộc đời giống 1 trang giấy trắng . Bạn có thể làm ra 1 bản thảo vạch ra phương hướng của cuộc đời , nhưng bạn sẽ không đến đích nếu bạn không thảo ra những quyết định .

Để tìm ra lời giải đáp cho bài toán của cuộc đời ,bạn có thể tìm thấy những lời nói đơn giản nhưng thật sâu sắc và hữu ích này :

- Tôi đến ngay .

- Bạn có lý .

- Trái tim biết .

Ba viên bi đỏ

Trong suốt những năm khủng hoảng ở cái bang Idaho bé nhỏ nằm phía Đông Nam nước Mỹ này, tôi thường đến cửa hàng nhỏ của ông Miller để mua rau quả tươi. Thực phẩm và tiền bạc đều khan hiếm, nên đôi khi chúng tôi dùng hình thức đổi chác.

Một hôm, khi ông Miller đang bỏ một ít khoai tây vào túi cho tôi, thì tôi nhìn thấy một cậu bé gầy gò, ăn mặc rách rưới nhưng khá sạch sẽ, đang nhìn giỏ đựng quả đậu xanh với ánh mắt đói khát. Tôi trả tiền xong liền đứng lại nghe cuộc nói chuyện giữa ông Miller và cậu bé ăn mặc rưới kia.

- Chào Barry, cháu khỏe không? - Tiếng của ông Miller.

- Chào ông Miller, cháu khỏe ạ! Cháu nghĩ đang ngắm giỏ quả đậu này. Trông chúng ngon thật đấy!

- Chúng ngon lắm, Barry ạ ! Mẹ cháu khỏe không?

- Cũng bình thường ạ? Hình như mẹ cháu đang khỏe lên.

- Tốt! Ta có thể giúp gì cho cháu nào?

- Không ạ, thưa ông. Cháu chỉ ngắm giỏ quả đậu thôi?

- Cháu có muốn lấy một ít không?

- Không ạ, thưa ông. Cháu không có tiền trả đâu.

- Được, cháu có gì để đổi nào?

- Cháu? - Tiếng cậu bé ngập ngừng - Cháu chỉ có một viên bi cháu mới chơi thắng được thôi ạ !

- Thế à? Cho ta xem nào!

- Đây, viên đẹp nhất đấy ạ !

- Nó màu xanh à... Nhưng ta đang cần viên màu đỏ. Cháu có viên màu đỏ không?

- Cháu không nhớ, để cháu xem...

- Này, cháu đem giỏ đậu này về nhà đi và lần sau mang cho ta viên đỏ nhé!

- Chắc chắn rồi, cảm ơn ông?

***()***

Có hai cậu bé nữa như thế ở làng này. Chúng nghèo lắm. Ông Jim nhà tôi cứ thích đổi chác, cho chúng quả đậu, táo, cà chua và những thứ khác. Cứ khi chúng giơ viên bi màu xanh ra, ông ấy lại bảo chúng cầm một ít rau quả về nhà và lần sau mang viên bi màu đỏ cho ông ấy. Vừa để chúng chịu mang rau quả về nhà ngay, vừa để chúng cảm thấy chúng thực sự đã làm gì cho để trao đổi, chứ không phải được cho không. Tôi thấy rất cảm phục ông Miller. Không lâu sau, tôi chuyển nhà, nhưng câu chuyện về ông Miller, người nông dân nhân hậu ấy, thì tôi không bao giờ quên.

Nhiều năm sau, lại có lần tôi quay về làng quê ở Idaho và rất buồn vì trong thời gian ở đó thì nghe tin ông Miller mất. Khi cùng vài người bạn cũ đến nhà ông Miller, tôi thấy ở đó có ba chàng trai trẻ, trông rất thành đạt. Họ đến gần bà Miller, ôm lấy bà và nói những lời an ủi. Rồi từng người một, họ đến bên ông Miller đang nằm đó, chạm những bàn tay nóng ấm của mình vào bàn tay lạnh lẽo của ông Miller và lau nước mắt.

Rồi tôi cũng lại gần bà Miller và nói rằng tôi vẫn nhớ câu chuyện về những viên bi ve ngày nào. Bà Milìer nói:

- Ba chàng trai lúc nãy chính là những cậu bé ngày trước, tôi kể với cô. Họ vừa nói với tôi là họ đã biết ơn ông Jim và những gì ông đã "đổi chác" cho họ biết chừng nào. Và cuối cùng, bây giờ, khi ông Jim không còn đòi họ đổi những viên bi màu nào nữa, thì họ quay lại để tỏ lòng biết ơn ông ấy. Ông Jim luôn nghĩ mình là người giàu có nhất ở bang Idaho này với những viên bi ông có được.

Rất nhẹ nhàng, bà Miller nhấc bàn tay của ông Jim lên. Dưới bàn tay ông là ba viên bi đỏ, sáng bóng và trong veo.

Bài giáo án của tình yêu thương

    Hôm ấy là một ngày bình thường như mọi ngày, các học sinh đến trường bằng xe buýt; tiếng các em chào hỏi nói chuyện xôn xao náo nhiệt cả ngôi trường. Tôi nhìn lướt qua tập giáo án của mình một lần nữa và cảm thấy đã sẵn sàng cho một ngày mới. Tôi tin rằng đó sẽ là một ngày tuyệt vời và lớp của tôi sẽ học được thật nhiều điều. Chúng tôi ổn định chỗ ngồi quanh bàn đọc sách và chuẩn bị cho giờ học đọc. Bước đầu tiên tôi soạn trong giáo án là kiểm tra vở bài tập xem các em đã làm xong bài chưa.

    Khi tôi đến gần Troy, em cúi thấp đầu xuống và đẩy quyển bài tập còn dang dở ra trước mặt tôi. Vì ngồi phía bên phải, em cố lùi người lại để tránh ánh mắt của tôi. Theo phản xạ, tôi nhìn vào quyển vở và bảo: "Troy, em chưa làm xong bài tập".

     Em ngước lên nhìn tôi bằng ánh mắt van nài tha thiết nhất mà tôi từng thấy nơi một đứa bé và nói: "Tối qua em không thể làm được thưa cô, vì mẹ em đang hấp hối."

     Tiếng khóc nức nở tiếp theo sau câu giải thích của em khiến cho cả lớp giật mình. Tôi bỗng thấy mình may mắn biết bao được ngồi bên em trong giây phút ấy. Tôi ôm Troy vào lòng, để đầu em dựa vào ngực tôi. Ai cũng hiểu cậu bé đang rất đau buồn, nỗi buồn lớn đến nỗi tôi sợ rằng trái tim bé nhỏ của em sẽ vỡ ra mất. Tiếng nấc của cậu bé vang lên khắp lớp học và những giọt nước mắt cứ thi nhau tuôn xuống trên gương mặt em. Các học sinh khác mắt rơm rớm ngồi lặng đi bất động. Buổi sáng hôm ấy không khí im lặng thật nặng nề- không có âm thanh nào ngoài tiếng nức nở của Troy. Một học sinh vội đi tìm hộp khăn giấy, trong lúc đó tôi chỉ biết ghì chặt cậu bé vào lòng mình. Nước mắt em thấm ướt áo tôi. Không kìm được xúc động, tôi cũng khóc, nước mắt tôi rơi xuống đầu cậu bé.

     Tôi tự hỏi: "Mình phải làm gì đây cho một đứa trẻ sắp mất mẹ?" Và câu trả lời duy nhất đến với tôi vào lúc ấy là: "Hãy yêu thương cậu bé... cho em hiểu rằng em được quan tâm... và hãy khóc cùng em." Tôi không thể làm gì hơn để giúp em vì đây là một biến cố quá lớn lao đối với một đứa trẻ như Troy. Cố ngăn lại dòng nước mắt của chính mình, tôi nói với cả lớp: "Cô và các em hãy cùng cầu nguyện cho Troy và mẹ của bạn ấy." Chưa từng có một buổi cầu nguyện nào trang nghiêm và nhiệt thành như thế! Sau một lúc lâu, Troy ngẩng lên nhìn tôi và nói: "Thưa cô, em sẽ không sao đâu." Cậu bé đã khóc cạn nước mắt và đã trút được phần nào nỗi đau trong lòng. Buổi chiều hôm ấy, mẹ Troy qua đời.

     Khi tôi đến dự đám tang, Troy chạy ngay ra đón tôi. Dường như em đã chờ tôi từ trước, dường như em đã mong tôi đến. Em ngã vào lòng tôi và ôm tôi một lúc lâu. Sau đó, như lấy lại sức mạnh và đòng can đảm, em dẫn tôi đến bên quan tài. Lúc đó cậu bé có thể nhìn thấy gương mặt của mẹ và đối diện với cái chết dù em chưa thể hiểu được bí ẩn của nó.

     Tối hôm ấy trước khi đi ngủ tôi cảm ơn Chúa vì Người đã cho tôi sự sáng suốt để bỏ qua bài giáo án môn đọc và ôm một đứa trẻ đau khổ vào lòng bằng cả trái tim mình.

Bố cháu là ai?

    Tôi đi nghỉ với gia đình ở bang Tennessee và vào ăn sáng tại một tiệm ăn nhỏ. Trong khi chờ họ dọn thức ăn ra, tôi để ý thấy một người đàn ông có gương mặt thông thái đi từ bàn này sang bàn khác, hỏi thăm mọi người như thể họ quen biết đã lâu. Khi tới bàn chúng tôi, ông mỉm cười thân thiện:

    - Ông bà từ đâu tới vậy? Tôi chưa từng gặp ông bà ở đây!

    - Chúng tôi đến từ Oklahoma!- Tôi nhẹ nhàng.

    - Chào mừng ông bà đã đến Tennessee. Ông làm nghề gì vậy?

    - Tôi dạy môn Thần học.

    - A… Tức là ông phải dạy con người cả niềm tin nữa phải không? Tôi có câu chuyện này kể cho ông nghe- Người lạ mặt nhẹ nhàng kéo ghế ngồi xuống- Cách đây nhiều năm rồi, có một ngôi làng có một người phụ nữ không chồng mà lại có con. Thằng bé lớn lên, luôn bị bạn bè cùng lứa chế giễu. Và điều đó khiến nó vô cùng đau đớn. Nó thu mình lại, không bạn bè, không mỉm cười, và khi đến tuổi đi học, nó đã khóc rất nhiều khi mẹ nó bắt buộc nó phải tới trường.

    Năm thằng bé 12 tuổi, có một thầy giáo mới đến trường. Nó vẫn giữ thói quen đến trường thật muộn và về nhà thật sớm để tránh gặp gỡ bạn bè. Một lần, thầy giáo mới đã yêu cầu học sinh cùng ở lại muộn và lúc ra về, thầy giáo dẫn cả lớp đi chơi. Thế là cậu bé đành phải đi cùng cả lớp.

    Bỗng thầy giáo đặt tay lên vai cậu học trò ít nói nhất lớp và hỏi: “Con trai, bố của con là ai?”. Tất cả những đứa trẻ khác im lặng. Chúng đều biết câu trả lời cho câu hỏi đó.

    Người thầy hiểu ngay được tình huống mình vừa gây ra, liền xoa đầu cậu bé đang hoảng sợ và nói: “Ta biết con là con của ai rồi! Con là đứa trẻ đến từ Thiên Đường, là con của một thiên thần!”. Rồi thầy giáo vỗ lưng cậu bé: “Con trai, con thật là người có dòng dõi. Con phải tự hào về điều đó!”.

    Nghe thấy những lời ấy, lần đầu tiên sau khi nghe câu hỏi về người cha, cậu bé mỉm cười. Bằng nụ cười ấy, cậu bước ra khỏi vỏ ốc và không bao giờ trở lại nữa.

    Câu chuyện kết thúc, người đàn ông lạ mặt đứng dậy:

    - Ông bà biết không, nếu người thầy đó không nói rằng tôi là con của một thiên thần, có lẽ tôi không bao giờ đạt được cái gì trong cuộc sống!

    Vợ chồng tôi ngồi im lặng cho tới khi người lạ mặt đi khuất. Rồi tôi gọi người phục vụ tiệm ăn lại và hỏi:

    - Anh có biết người đàn ông tóc bạc vừa ngồi ở bàn chúng tôi là ai không?

    Người phục vụ mỉm cười:

    - Có chứ, thưa ông. Ở đây ai cũng biết ông ấy, một người có tài và luôn quan tâm tới tất cả mọi người xung quanh. Đó là Ben Hooper, cựu Thống đốc bang Tennessee!

Buổi học định mệnh

    Cách đây vài năm, một cô giáo được phân công đến giúp đỡ cho các em học sinh tại một bệnh viện lớn trong thành phố. Công việc của cô là dạy kèm cho các em học sinh đang phải nằm viện ở đây để giúp các em không bị tụt lại quá xa so với chương trình học khi các em hồi phục sức khỏe và có thể quay trở lại trường.

    Một ngày nọ, cô giáo nhận được cú điện thoại yêu cầu cô đến thăm một cậu bé bệnh nhân tại đây. Trong điện thoại, người thầy cho cô biết tên, số phòng của cậu bé mà cô sắp sửa gặp và bài học hôm nay đang được dạy ở lớp là về danh từ và trạng từ. "Tôi rất cảm ơn nếu cô có thể giúp đỡ em ấy làm bài tập về nhà để em có thể theo kịp bài vở với các bạn khác trong lớp", người thầy kia nói.

    Mãi cho đến khi cô đến bên ngoài phòng của cậu bé cô mới nhận ra căn phòng đó nằm trong khu dành cho bệnh nhân bị bỏng. Không ai báo trước cho cô biết cô sẽ phải đối diện với những gì bên kia cánh cửa căn phòng. Trước khi được phép bước vào trong, cô phải mặc áo choàng và mang mũ vô trùng của bệnh viện để tránh gây nhiễm trùng. Cô không được phép chạm vào người hoặc giường của cậu bé và chỉ có thể đứng gần nói chuyện với cậu thông qua lớp mặt nạ che mặt.

    Sau khi hoàn tất mọi khâu vệ sinh ban đầu và khoác vào những trang phục quy định, cô hít một hơi thật sâu và bước vào phòng. Cậu bé bị phỏng rất nặng và rõ ràng là rất đau đớn. Cô cảm thấy lúng túng và không biết phải nói gì, nhưng cô đã đi quá xa và không thể quay lưng lại và bước ra khỏi phòng. Sau cùng, cô cũng đã có thể mở lời nhưng bằng một giọng lắp bắp: "Cô là giáo viên chuyên trách việc dạy học cho bệnh nhân của bệnh viện. Thầy giáo của em cử cô đến đây để dạy em bài học về danh từ và trạng từ". Sau buổi học, cô rất áy náy vì thấy buổi dạy của mình không được thành công.

    Sáng hôm sau khi cô quay lại, một y tá thuộc khu dành cho bệnh nhân bỏng đã hỏi cô: "Cô đã làm gì với cậu bé?" Trong lúc cô đang cố gắng đưa ra một loạt những lời xin lỗi, người y tá đã vội cắt ngang: "Cô không hiểu ý tôi. Chúng tôi đã rất lo lắng cho tình trạng của cậu bé, nhưng kể từ khi cô đến đây ngày hôm qua, thái độ của cậu bé thay đổi hoàn toàn. Cậu bé đã chịu hưởng ứng lại các biện pháp điều trị của bệnh viện... cứ như thể cậu đã quyết định sống lại."

    Chính cậu bé sau này giải thích rằng trước đó cậu đã từ bỏ mọi hi vọng và cảm thấy mình sắp chết cho đến khi cậu gặp cô. làm giản đơn của cô giáo khiến cậu bất chợt nhận thức về cuộc sống, và điều này đã làm mọi thứ hoàn toàn thay đổi. Với gương mặt đẫm những giọt nước mắt hạnh phúc, cậu bé trước đó bị bỏng nặng đến nỗi đã có ý muốn từ bỏ cuộc sống, đã diễn đạt ý nghĩ của mình: "Chẳng ai cử một giáo viên chuyên trách đến dạy bài học về danh từ và trạng từ cho một thằng bé đang hấp hối, đúng không?"

Buổi khiêu vũ đầu tiên

    Sally hồi hộp trông chờ buổi khiêu vũ đầu tiên trong đời. Cô cẩn thận xem lại từng đường ren, từng chiếc nút cài xinh xắn trên chiếc váy đẹp nhất của mình và mất tới nửa giờ tìm cách trị mái tóc hung bù xù không chịu vào nếp. Khuôn mặt Sally trông tinh nghịch đễ thương, thế nhưng cô lấy làm đau khổ vì đám tàn nhang. Bình thường chúng trông không đến nỗi nào, nhưng hễ Sally bối rối đỏ mặt thì… Ôi thôi! Chúng nổi lên trông thật đáng ghét.

    Vừa bước chân tới buổi dạ hội, tim Sally đập thình thình, đôi gò má cô nóng bừng. “Anh chàng nào sẽ là người đầu tiên mời mình nhỉ?”, Sally đưa mắt nhìn quanh. Cô ngồi cứng đơ trên ghế kê dọc tường và chờ đợi. Thật không may cho Sally, đã qua điệu nhảy thứ 4 mà chưa thấy chàng trai nào tiến lại gần cô. “Cũng chỉ tại đám tàn nhang”, Sally buồn rầu nghĩ. Bất chợt cô phát hiện ở cuối phòng có một cậu trai hình như cũng đang nhìn về phía cô. Dáng cậu ta hơi lòng khòng, nhưng ăn mặc chỉnh tề, tóc rẽ ngôi ngay ngắn nên trông cũng dễ thương.

 Thêm 3 điệu nhảy nữa kết thúc, nhưng cậu trai vẫn ngồi tại chỗ, chĩa cặp mắt kiếng về phía Sally. Cô sốt ruột. Chỉ còn hai bản nữa là hết buổi khiêu vũ mà cô vẫn chưa đi được bước nào. Thôi được, đành ra tay vậy! Khi những nốt nhạc của những điệu nhảy tiếp theo vừa vang lên, Sally bật dậy. Cô bước nhanh đến bên cậu trai và nói: “Nếu không phiền, bạn cho phép tôi mời bạn được không?”. Cậu trai chậm chạp đứng lên. Cậu ta nói gì đó như phân trần và định ngồi xuống nhưng rồi lại thôi. Về phần Sally, cô đang nóng mặt nên cũng chẳng buồn nghe, vả lại tiếng nhạc và tiếng cười xung quanh khiến cô chẳng hiểu cậu trai định nói gì.

Chìa tay ra cho Sally vịn, cậu trai dìu cô vào sàn nhảy. “Hôm nay là ngày gì mà xui xẻo vậy?”, Sally vừa đi những bước ngảy đầu tiên vừa chán chường tự nhủ. Cậu trai chuyển động chậm chạp và cứng đơ, giống như một đứa trẻ đang tập đi. Những giọt mồ hôi bò từ chân tóc xuống trán cậu. Bực mình, Sally lôi mạnh cậu trai, nhưng ngay lập tức chân cô nhói đau. Sally chợt hiểu: Cái đồ vụng về này đạp lên chân mình chứ còn ai nữa! “Tôi xin lỗi, tôi đã nói…”, chàng trai thầm thì và tiếp tục dìu cô nhảy. Kiếm được bạn nhảy, Sally lấy lại được bình tĩnh và tính hiếu thắng trở lại với con người cô. Bất chợt, cô muốn đi những bước lả lướt hơn, muốn các cậu trai trong phòng phải chú ý tới cô. Rõ ràng cậu trai rất vất vả, nhưng rút cục cậu cũng cố gắng chiều ý Sally và cô đã thành công. Nhạc kết thúc, cậu trai đưa cô về chỗ. Sau lưng cô nhiều ánh mắt nhìn theo. Sally hơi tiếc: Buổi khiêu vũ sắp kết thúc, nếu không cô sẽ trở thành nữ hoàng của buổi tối hôm nay!

 Mải vui với thành công trong buổi khiêu vũ đầu tiên, Sally tần ngần không muốn về.Choàng lên người tấm áo khoác, Sally bước ra phòng ngoài vắng lặng. Nhìn vào kiếng, sửa lại tóc và trang điểm, cô chợt phát hiện người bạn nhảy bất đắc dĩ đã giúp cô thành công đêm nay. Cậu trai ngồi dựa lưng trên một chiếc ghế băng, mắt nhắm nghiền, hẳn cậu đang nghỉ mệt. Sally nhún vai nhưng không quên tò mò quan sát cậu trai. Một chân cậu duỗi dài, chân kia… Sally chợt thấy cay cay trong mũi. Cái chân thứ hai nằm dưới gầm ghế- một cái chân giả.

Cái đó có trong gen

    Một phụ nữ trẻ tên Mary sinh đứa con đầu lòng, và vì chồng cô đang thi hành nghĩa vụ quân sự, nên cô sang ở nhà cha mẹ ít tuần sau khi sanh con.

    Ngày nọ Mary nói với mẹ mình là cô rất ngạc nhiên khi thấy tóc con mình màu hung đỏ trong khi cả cô lẫn chồng cô đều có tóc màu vàng.

    Mẹ cô bèn bảo:

    - Mary à, con không nhớ là tóc bố con màu hung đỏ sao?

    Mary trả lời mẹ cô:

    - Nhưng mẹ ơi, chuyện đó đâu có ăn nhập gì vì con là con nuôi của bố mẹ mà.

    Mẹ mỉm cười, nói những lởi đẹp đẽ nhất mà cô con gái bà chưa từng nghe mẹ mình nói:

    - Mẹ cứ luôn quên con là con nuôi của mẹ.

Cái gương vùng Matsu-Yama

Truyện cổ Nhật Bản

Tại vùng núi Matsu-Yama hẻo lánh, tỉnh Echigo, có đôi vợ chồng trẻ sống với nhau. Họ sinh được một đứa con gái. Hai người rất mực thương con.

Một dạo, người bố lên kinh đô có việc. Khi trở về, anh tặng vợ một cái hộp bằng gỗ trắng rất nhẵn. Mở hộp ra, chị thấy có một mảnh kim khí tròn; một mặt thì trắng như bạc khảm, điểm những nét vẽ hình chim và lá; còn mặt kia thì sáng như thủy tinh. Chị vợ xem, lấy làm thích thú và lạ lùng vì thấy trong đáy gương có một khuôn mặt xinh đẹp với đôi môi hồng và đôi mắt sáng như đang mỉm cười với mình.

Anh chồng giải thích cho chị hiểu đó là cái gương. Khuôn mặt người phụ nữ trong ấy chính là khuôn mặt chị được phản ánh vào. Ở thành thị, mọi người đều có một cái như thế này, còn ở đây chưa ai trông thấy.

Chị vợ say mê với món quà. Lần đầu tiên được thấy cái gương và cũng là lần đầu tiên chị thấy khuôn mặt xinh đẹp của mình. Chị đem ra dùng xong lại cất ngay nó vào hộp cẩn thận cùng với những thứ quý giá khác.

Nhiều năm trôi qua, người con gái ngày càng lớn, giống mẹ như đúc. Cô bé rất dễ yêu, ngoan ngoãn, được mọi người thương mến. Nhớ lại mình đã có lúc kiêu hãnh vì tự biết có sắc đẹp, người mẹ bèn cất chiếc gương rất kỹ, sợ rằng con gái soi gương rồi sẽ có ý nghĩ tự kiêu.

Một hôm, người mẹ hiền dịu ấy lâm bệnh nặng. Biết không còn sống được bao lâu nữa, bà gọi con gái đến gần và dặn dò :

- Con gái yêu quý của mẹ, khi mẹ từ giã cõi trần này, con hãy hứa với mẹ, sớm sớm chiều chiều, soi gương này, con sẽ nhìn thấy mẹ và hiểu rằng mẹ sẽ ở mãi trong đó để phù hộ cho con.

Người mẹ lấy chiếc gương đưa cho con gái. Cô gái hứa vâng lời bà rồi khóc nức nở.

Từ đó, cô con gái ngoan ngoãn, không bao giờ quên lời trối trăn của mẹ. Niềm vui nhất của cô là ngắm hình ảnh của mẹ trong gương và nói rằng : "Mẹ ơi, hôm nay con đã làm được như mẹ mong muốn".

Cái hộp màu trắng

    - Bà Matthers cứ liên tục đòi cái gì thế nhỉ?- Tôi hỏi một chị y tá.

    - Chẳnghiểu được. Không ai hiểu được. Ga đình bà ấy cũng biết rằng bà ấy chỉ sống được khoảng một tháng nữa thôi. Nhưng bà ấy cứ liên tục đòi cái hộp nhựa màu trắng…

    - Cái hộp à?

    - Thôi kệ cái hộp!- Cô y tá phẩy tay- Tụi mình bận kinh khủng, còn hơi sức đâu

    Mỗi ngày, khi tôi đến chăm sóc, bà Matthers đều liên tục nói về cái hộp nhỏ màu trắng. Bà ấy nằm trên giường, hai tay ôm mặt và nói gần như cầu khẩn. Khi tôi kéo tay bà ra để lau mặt cho bà, tôi luôn thấy bà khóc và lẩm bẩm:

    - Trước khi tôi chết, lấy cho tôi cái hộp màu trắng…

    - Bà matthers, cháu xin lỗi, nhưng cháu không hiểu bà muốn nói gì- Tôi nói với bà như vậy.

    Nhưng dù tôi giải thích đến đâu và dù bà ấy nói bao nhiêu lần, tôi vẫn không thể hiểu được bà muốn gì.

    Tuần sau đó, các bác sĩ vào khám cho bà Matthers thường xuyên hơn. Tình trạng của bà có vẻ càng xấu đi, và mỗi lần tôi vào dọn phòng, bà Matthers đều van vỉ:

    - Cái hộp màu trắng… ở nhà tôi…

    Hôm đó, trước khi hết giờ làm, tôi soát lại danh sách bệnh nhân. “113 Whitmark” là địa chỉ của bà Matthers.

    Tôi lái xe 5 dặm, cho đến khi tìm được địa chỉ 113 Whitmark. Ở đó đang diễn ra cuộc bán đấu giá tài sản. Có rất nhiều người tụ tập. Một người nói to khi thấy tôi chen vào: “Muốn đấu giá thì phải ghi số!”.

    - Tôi không định đấu giá!- Tôi đáp.

    Tôi đi quanh nhà, nhìn ngó tất cả những thứ được dán mác giá. Khi vào phòng khách, tôi thấy một người đàn ông đang gói ghém đồ đạc bỏ vào những thùng carton. Trên bàn là một chiếc hộp nhựa nhỏ màu trắng.

    - Xin lỗi ông, ông mua cái hộp trắng này ạ?- Tôi hỏi người đó.

    - Tôi mua mọi thứ trong phòng này- Ông ta đáp.

    - Tôi có thể xem trong cái hộp này không?

    - Cô cứ xem, tôi đoán là không có gì đáng giá mấy.

    Tôi mở cái hộp và nhìn bên trong. Ôi trời ơi!

    - Tôi có thể mua lại chiêc hộp này không?- Tôi hỏi người đàn ông.

    - Cô lấy đi, tôi chẳng cần lắm!

    Tôi chạy ra khỏi ngôi nhà nhanh hết sức và quay trở lại bệnh viện.

    Vừa chạy vào phòng bà Matthers, tôi vừa kêu lên:

    - Bà Matthers, xem cháu mang gì tới này!

    Bà chầm chậm hé mắt nhìn. Tay bà run lên khi với lấy chiếc hộp từ tay tôi.

    - Lấy cho tôi cốc nước- Bà vẫn run lên khi cầm chiếc hộp.

    Cầm cốc nước, bà Matthers gật đầu cảm ơn tôi. Tôi nắm tay bà rồi đi ra.

    Ngày hôm sau khi đến bệnh viện, tôi nghe nói bà Matthers đã ra đi đêm qua.

    Trong những năm tháng làm y tá, việc bệnh nhân qua đời không phải là hiếm, nhưng tôi chỉ đến dự hai đám tang. Một trong hai là đám tang bà Matthers.

    Tôi nhìn ảnh bà lần cuối cùng, và khi mọi người đi qua, tôi có thể nghe thấy bạn bè của bà nói với nhau: “Bà Matthers trông đẹp hơn nhiều khi đeo răng giả của mình…”

Cái tách kỳ diệu

Khi sống ở New York,văn hào anh Som Kerset Maugham thường xuống khu Ritz Carlton.Một hôm tôi thổ lộ với ông ta là tôi rất tò mò về món đồ trông có vẻ hoàn toàn xa lạ ,không phù hợp với khung cảnh bài trí trong phòng của ông:một cái tách cũ kỹ có nứt một đường.Maugham mỉm cười đáp:

-Chính nó giúp tôi nhớ lại rằng những lợi ích những tiện nghi lớn nhất trên đời lại là những cái gì đơn giản nhất và cũng lại bị xem thường ,đánh giá thấp nhất chỉ vì chúng ta cho đó là điều quá tự nhiên.

Và ông kể tiếp cho tôi nghe câu chuyện về cái tách nứt ấy.Vào năm 1940,khi nước Pháp bị quân Đức quốc xã chiếm đóng,vài trăm công nhân Anh sống ở vùng Côte D'Azur được gửi trả về quê hương trên hai chiếc tàu chở hàng loại nhỏ.Tàu phải chạy quanh co ngoằn ngoèo để khỏi bị tàu ngầm địch phát hiện.

Hai chiếc tàu nhỏ chở quá nhiều người nhưng không mang theo đủ lương thực,vì vậy phải phân phối cho mỗi người một ít.Mắt mọi người đều đỏ ngầu,áo quần bẩn thỉu,nhất là ai cũng cảm thấy khát nước,phải xếp hàng nối đuôi lĩnh phần lương thực nghèo nàn của mình.

-Chính cái tách nứt đó -Maugham vừa trỏ ngón tay vừa nói-tôi đã dùng nó để đựng khẩu phần nước vô cùng ít ỏi của mình...Bây giờ mỗi lần mơ đến những món ăn cao lương mỹ vị,mỗi lần ước được trầm mình trong khung cảnh tràn ngập tiện nghi,hoặc những lúc thèm khát đóng vai một nhân vật tối quan trọng,tôi liền đem cái tách nước cũ kỹ đặt nó dưới vòi nước.Và từng hớp từng hớp một ,tôi uống một cách chậm rãi.Bỗng chốc các mộng ước viển vông biến mất,tôi liền trở về với thực tại.

Cậu bé chờ thư

Louise Baker

Hồi đó tôi làm giáo sư một trường trung học con trai . Một học sinh tên là Bob, trái hẳn với các bạn, không bao giờ nhận được một bức thư nào cả. Vậy mà buổi chiều nào em cũng mau chân nhất, chạy lại chỗ đặt các hộc riêng chăm chú ngó vào hộc của em cho tới khi thư phát hết rồi mới quay ra.

Không phải là gia đình em quên em đâu. Tiền ăn ở trong trường, tiền tiêu vặt của em vẫn gởi tới đều đều đúng hạn. Tháng sáu, ông Hiệu trưởng nhận được thư xin cho em đi nghỉ ở một trại hè. Thì ra viên thư ký của thân phụ em lãnh nhiệm vụ lo cho em tất cả những chi tiết dó.

Nhưng song thân em không ai viết cho em một bức thư nào cả. Khi em kể lể với tôi rằng ba má em đã ly thân nhau, tôi mới hiểu tất cả nguyên do. Và tội nghiệp em, em vẫn tiếp tục trông thư một cách tuyệt vọng. Tôi thường đem tình cảm sầu thảm của em ra nói với một ông bạn đồng nghiệp, ông Joe Hargrove. Ông ấy bảo:

- Nếu em đó ít lâu nữa mà không nhận được bức thư nào cả thì đáng ngại cho em lắm, có thể tai hại.

Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến. Laurent ở trong một gia đình hòa thuận, có hạnh phúc, tuần nào cũng nhận được nhiều bức thư của cha mẹ, cả của anh chị em nữa. Một hôm Bob rầu rĩ ngó xấp thư Laurent cấm trong tay. Laurent thấy vậy, bảo ngay:

- Bob, vô trong phòng tôi di, tôi đọc thư của má cho Bob nghe.

Một lát sau tôi thấy hai em ngồi sát nhau cùng bàn tán về bức thư đó. Chiều hôm sau tôi nhận thấy khi phát thư, Bob chẳng những ngó hộc của em mà còn ngó hộc của Laurent nữa. Bob hỏi bạn:

- Lại có thư của má anh nữa hả?

- Không, hôm nay là thư của chị tôi.

Rồi Bob hỏi một bạn khác:

- Anh có thư của má anh không?

- Có !

- Anh cho tôi đọc chung với nhé?

- Ừ! Để tôi đọc lớn tiếng lên nhé!

Từ hôm đó, Bob tha hồ đọc thư của bạn. Khắp tứ phía nhao nhao lên:

- Ê, Bob, hôm nay muốn đọc thư của má không?

Tụi con trai đôi khi có vẻ tàn nhẫn, không giữ ý gì cả nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy một em nào thốt một lời mỉa mai bóng gió hay chế giễu gì em Bob cả. Một hôm tôi kinh ngạc nghe em Bob tự do hỏi ngay Laurent:

- Hôm nay chúng mình có thư không?

Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự:

- Có, hôm nay chúng mình có một bức.

Chuyện đó làm cho ông Joe Hargrove quyết tâm hành động. Tôi thì tôi cho má em Bob là hạng người ra sao rồi. Nhưng ông Joe đã gặp bà ta nhiều lần, định làm liều xem sao. Một hôm ông ta lại kiếm tôi, tay cầm sáu bức thư đánh máy và sáu bao thư đề địa chỉ của Bob, dán cò sẵn sàng. Ông ta bảo:

- Coi này, tôi gởi cho bà Lennoux đây. Bà ta chỉ cần ký tên: "Má của con" rồi mỗi tuần bỏ một bức vào thùng thư.

Tôi đọc những bức thư đó. Viết được lắm, ít bữa sau, Bob cũng lại ngong ngóng đợi ở chỗ đặt các hộc riêng, nhưng chú hết ý vào cái hộc của Laurent. Bỗng học sinh lãnh việc phát thư, la lên:

- Ê, Bob, mày có thư này ! Có thư này!

Bob nhẹ nhàng đưa hai tay lên, cử chỉ y hệt một thiên thần đương cầu nguyện, để đỡ lấy bức thư. Em nói ,như thể vẫn chưa tin:

- Ờ có tên tôi ngoài bao thư nè!

Rồi em la lên:

- A ! Tôi cũng có thư! Tôi cũng có thư! Anh em ơi, có ai muốn đọc thư của tôi không?

Những đứa khác cũng vui mừng, đồng thanh la lớn:

- Có ! Có ! Bob, đọc thư của bồ lên, đọc lên?

Cuộc phát thư tức thì tạm ngưng lại. Chúng đưa Bob lên cho đứng trên một cái bàn rồi cả bọn vây chung quanh. Bob ngập ngừng đọc:

- Con cưng của má !

Rồi ngẩng lên nói:

- Tôi không đọc nhanh được !

Laurent bảo:

- Không sao, Bob! Cứ đọc chầm chậm, càng tốt. Đọc chậm mới hiểu rõ từng chữ chớ.

Và Bob chậm chạp đọc bức thư đó, lời lẽ âu yếm như bức thư của bất kỳ bà mẹ nào gởi cho con.

Tháng sáu, buổi phát phần thưởng, tôi thấy má em Bob lại dự. Tôi không ngạc nhiên về điều đó, vì sau khi gởi hết mấy bức thư ông Joe viết sẵn cho rồi, bà ta đích thân viết cho con , quả là một phép màu ! Bob đã cho tôi coi bức thư bà báo trước sẽ tới dự buổi lễ. Phát phần thưởng xong, bà ta kéo tôi ra một chỗ, hỏi tôi:

- Bà thấy thư tôi viết cho cháu được không?

- Được lắm!

Bà ta nói tiếp giọng hơi ngập ngừng:

- Tôi nhờ bà nói về tôi cho cháu Bob nghe...

- Vợ chồng tôi đã hòa thuận với nhau hơn trước, và chúng tôi tính với nhau nghỉ hè này cho cháu về nhà, và... chúng tôi sẽ tìm cách hiểu cháu hơn.

- Xin bà yên tâm, tôi sẽ hết sức giúp bà.

Tôi có cần gì nói thêm rằng không có công việc nào làm cho tôi vui bằng công việc đó không?

Câu nói đơn giản

    Những bông hoa tươi thật sự là những tặng vật đáng yêu. Thỉnh thoảng tôi hái một bó hoa hay một bông hồng thật đẹp để tặng cho người hàng xóm, bạn bè hay người thân.

    Một buổi sáng sớm nọ, tôi hái một bó hồng thật đẹp, thơm ngát cho chính mình. Trong khi đang nghĩ đến những cảm giác êm dịu mà bó hồng đem lại cho mình, một giọng nói nhẹ nhàng trầm tĩnh trong lòng tôi chợt vang lên: "Hãy tặng bó hoa cho một người bạn."

    Tôi đi vào nhà, rồi cắm hoa vào lọ. Sau đó tôi viết dòng chữ: "Dành cho người bạn của tôi" lên một mảnh giấy nhỏ xíu. Tôi sang bên đường, đến nhà người hàng xóm và cũng là một người bạn thân của tôi và đặt bó hoa trước cửa.

    Lát sau, bạn tôi gọi điện cảm ơn. Cô nói rằng bó hoa ấy thật sự đã đem lại niềm hạnh phúc lớn lao. Tối hôm qua, cô và con mình có tranh cãi với nhau. Trong khi nóng giận, con cuả cô, như thỉnh thoảng các cô cậu đang ở tuổi vị thành niên vẫn làm, thô lỗ nói với cô rằng: "Mẹ chẳng có ai là bạn cả."

     Thật đáng ngạc nhiên, khi rời nhà đi làm vào buổi sáng hôm sau, cô đã nhìn thấy, không chỉ một bó hoa tuyệt đẹp, mà cả mảnh giấy ghi dòng chữ đơn giản: "Dành cho người bạn của tôi."

Cây phiền muộn

Tôi thuê một người thợ đến chỉnh sửa lại hệ thống điện và một số vật dụng trong nhà. Sau khi kết thúc ngày làm việc đầu tiên đầy mệt nhọc với cả giờ đồng hồ loay hoay cùng bánh xe xì lốp, cái máy khoan bị hỏng và cái xe "cổ lổ sĩ " không chịu nổ máy, anh ấy cũng chịu để tôi chở về nhà. Khi về đến gần cửa nhà, anh dừng lại trước một cái cây nhỏ, lấy hai tay chạm vào phần ngọn của nhánh. Đến lúc mở cửa ra thì trông anh như thay đổi hoàn toàn. Cái gương mặt rám nắng ấy tươi hẳn lên. Anh ôm chầm lấy hai đứa con và ôm hôn vợ mình. Khi anh tiễn tôi về ngang qua cây nhỏ ấy, lòng tò mò trong tôi lại nổi lên. Tôi hỏi anh về những gì mà mình vừa thấy lúc nãy.

- Ồ, đó là cây phiền muộn của tôi đấy! - Anh trả lời - Tôi biết mình sẽ không tránh khỏi những rắc rối trong nghề nghiệp nhưng chúng không phải dành cho gia đình tôi, vợ và con tôi. Cho nên tôi để chúng lên cái cây ấy khi trở vào nhà và bảo Chúa hãy chăm nom chúng giùm. Sáng hôm sau tôi lại lấy chúng ra. Điều vui nhất là... - anh cười hóm hỉnh - lúc đó những thứ khó chịu ấy không bao giờ còn lại nhiều như lúc tôi treo chúng lên hôm trước nữa.

Cháu có thể làm được...

     Năm 20 tuổi, tôi là một nữ điều dưỡng đang thực tập tại một bệnh viện nhi. So với viện tim hoặc bệnh viện đa khoa, công việc ở bệnh viện nhi đối với tôi có vẻ dễ như trở bàn tay. Tôi vốn có khiếu kết bạn với trẻ con. Chắc chắn tôi sẽ vượt qua dễ dàng và chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp...

     Chris là một cậu bé 8 tuổi vô cùng hiếu động. Cậu lén bố mẹ vào thám thính công trường xây dựng cạnh nhà, và bị té gãy tay. Cánh tay gãy của cậu bị nhiễm trùng, buộc phải cưa bỏ. Tôi được chỉ định làm y tá hậu phẫu của cậu bé.

     Khi sức khỏe của cậu bé dần khá lên cũng là lúc cậu đau khổ nhận ra sự mất mát của mình... Cậu nằm một chỗ, chờ giúp đỡ, không chịu làm vệ sinh cá nhân. Tôi nhẹ nhàng khích lệ: "Cháu đâu có ở mãi trong bệnh viện. Cháu phải học cách tự phục vụ...". Cậu bé giận dữ la lên: "Cháu có thể làm gì được với một tay?". Tôi vắt óc tìm một câu trả lời thích hợp. Cuối cùng tôi bảo: "Dù sao cháu vẫn còn tay phải". "Nhưng cháu thuận tay trái" - cậu bé kêu lên đầy thất vọng...

      Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình vô dụng và vô tâm đến thế. Sao tôi lại tưởng rằng mọi người đều thuận tay phải...

      Sáng hôm sau, tôi trở lại với một cuộn băng dính. Vòng cuộn băng quanh cổ tay, tôi bảo cậu bé: "Cháu thuận tay trái, còn cô thuận tay phải. Cô sẽ dán tay phải của cô vào hàng nút áo sau lưng của cháu. Bây giờ mỗi khi cô làm việc gì bằng tay trái, cháu phải làm theo bằng tay phải. Nào, cháu muốn bắt đầu bằng việc gì?". Nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, cậu bé càu nhàu: "Cháu mới ngủ dậy, cháu cần đánh răng". Tôi xoay xở mở nắp ống kem, đặt bàn chải lên bàn, tìm cách nặn kem lên chiếc bàn chải đang ngả nghiêng... Sau gần 10 phút nỗ lực với kem vung vãi đầy trên bàn, tôi mới hoàn tất công việc. "Cháu có thể làm nhanh hơn..." - cậu bé tuyên bố. Và khi nhanh hơn thật, cậu mỉm cười chiến thắng...

      Hai tuần sau đó trôi qua nhanh chóng. Chúng tôi biến mọi công việc hàng ngày thành những cuộc đua tài hào hứng. Chúng tôi cài nút áo, phết bơ lên bánh mì, cột dây giày... Không còn phân biệt tuổi tác, chúng tôi là hai vận động viên đang ra sức đua tài...

      Lúc tôi hết thời gian thực tập cũng là lúc cậu bé rời bệnh viện, tự tin đối mặt với cuộc sống... Khi hôn tạm biệt cậu bé, tôi không cầm được nước mắt...

      Đã 30 năm trôi qua kể từ ngày ấy. Cuộc đời tôi đã bao phen chìm nổi. Mỗi lần phải đương đầu với thử thách, tôi lại nhớ đến cậu bé. Và mỗi khi cảm thấy mệt mỏi, nản lòng, tôi lại lẳng lặng vào phòng tắm, giấu tay phải ra sau, lấy kem và đánh răng bằng tay trái...

Chiếc băng gạc cho trái tim tan vỡ

    - Mẹ, mẹ đang làm gì thế? Cô bé Susie chỉ mới 6 tuổi hỏi mẹ.

    - Mẹ đang nấu món thịt hầm cho cô Smith hàng xóm.

    - Vì sao ạ?- Susie thắc mắc.

    - Vì cô Smith đang rất buồn con ạ. Con gái cô ấy vừa qua đời và trái tim cô ấy đang tan nát. Chúng ta sẽ chăm sóc cô ấy một thời gian- bà mẹ dịu dàng trả lời.

    - Tại sao lại thế hả mẹ?- Susie vẫn chưa hiểu.

    - Thế này nhé con yêu, khi một người rất buồn, họ sẽ không thể làm tốt ngay cả những việc rất nhỏ như nấu bữa tối hay một số việc vặt khác. Vì chúng ta cùng sống trong một khu phố và cô Smith là hàng xóm của gia đình mình, chúng ta cần phải giúp đỡ cô ấy. Cô Smith sẽ không bao giờ còn có thể nói chuyện, ôm hôn con gái cô ấy hoặc làm bất cứ điều gì thú vị mà mẹ và con có thể làm cùng nhau. Con là một cô bé thông minh, Susie. Có thể con sẽ nghĩ ra cách nào đó để giúp đỡ cô ấy.

    Susie suy nghĩ rất nghiêm túc về những điều mẹ nói và cố gắng tìm cách góp phần giúp đỡ cô Smith. Vài phút sau, Susie đã ở trước cửa nhà cô Smith, rụt rè bấm chuông. Mất một lúc lâu cô Smith mới ra mở cửa:

    - Chào Susie, cháu cần gì?- Susie cảm thấy giọng cô Smith rất nhỏ, khuôn mặt cô trông rất buồn rầu, như thể cô vừa khóc vì mắt cô hãy còn đỏ mọng nước.

    - Mẹ cháu nói con gái của cô vừa qua đời và cô đang rất buồn vì tim cô bị thương - Susie e dè xòe tay ra. Trong lòng bàn tay của cô bé là một chiếc băng gạc cá nhân- Cái này để băng cho trái tim của cô ạ! Như để chắc chắn Susie nói thêm: "Cháu đã dùng vài lần và nó rất tốt". Cô Smith há miệng kinh ngạc, cố gắng không bật khóc. Cô xúc động quì xuống ôm chặt Susie, nghẹn ngào qua làn nước mắt: "Cảm ơn, cháu yêu quí, nó sẽ giúp cô rất nhiều!".

    Chiếc băng gạc nhỏ bé nhưng kỳ diệu của Susie đã đem đến sự ấm áp cho trái tim tuyệt vọng của cô Smith. Kể từ đó cô gài chiếc băng gạc vào một xâu chìa khóa nhỏ và luôn mang theo bên mình như một sự nhắc nhở phải quên đi nỗi đau và mất mát. Khi phải chịu đựng một nỗi đau quá lớn thật không dễ để nhận ngay ra rằng vết thương ấy rồi cũng sẽ lành. Chiếc băng gạc nhỏ bé của Susie đã trở thành biểu tượng của sự hàn gắn nỗi đau và biến tất cả niềm vui, tình yêu, hạnh phúc cô đã có cùng con gái trở thành những kỷ niệm êm đềm dịu ngọt chứ không phải một gánh nặng đeo vào tâm hồn đến suốt cuộc đời.

Chiến thắng

    Tại Thế Vận Hội đặc biệt Seatte (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100m.

    Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi họ quay trở lại.

    Tất cả, không trừ một ai! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:

    - Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn.

    Cô gái nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.

    Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy. Tiếng vỗ tay hoan hô vang dội nhiều phút liền. Mãi về sau, những người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này.

    Tận trong sâu thẳm, chúng ta luôn ý thức chiến thắng không phải là tất cả, mà ý nghĩa thật sự của cuộc sống là ở chỗ ta giúp đỡ người khác cùng chiến thắng dù ta có phải chậm một bước.

Cho và nhận

    Một hôm, một sinh viên trẻ có dịp đi dạo với giáo sư của mình. Vị giáo sư này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên "người bạn của sinh viên" vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với học sinh.

    Trên đường đi, hai người bắt gặp một đôi giày cũ nằm giữa đường. Họ cho rằng đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở một cánh đồng gần bên, có lẽ ông ta đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình.

    Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư: "Chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu giày của ông ta rồi thầy và em cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi không tìm thấy đôi giày."

    Vị giáo sư ngăn lại: "Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra để trêu chọc mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãv đặt một đồng tiền vào mỗi chiếc giày của ông ta và chờ xem phản ứng ông ta ra sao."

    Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó.

    Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến nơi đặt giày và áo khoác của mình. Người nông dân vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày thì cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong, ông ta cúi xuống xem đó là vật gì và tìm thấy một đồng tiền. Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày còn lại. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một mòn quà đúng lúc cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn.

    Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo sư lên tiếng: "Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem ông ta ra làm trò đùa không?" Người thanh niên trả lời: "Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà trước đây em không hiểu: "Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về".

Chú mèo không có miệng

    Cuộc sống của người Nhật rất tất bật. Trong thời đại công nghiệp, máy tính và tên lửa, người lớn đi làm, trẻ em đi học, cứ thế hàng ngày, hàng tuần... Họ ít có thời gian để ý đến nhau. Cuộc sống tẻ nhạt, nhưng có lẽ họ không cảm thấy vậy, vì họ còn quá bận rộn với công việc hàng ngày.

    Một cô bé sống trong một gia đình điển hình như vậy. Bố mẹ đi làm thì cô bé đến trường, rất ít khi gặp nhau. Cô muốn nói chuyện nhưng không biết nói với ai. Chẳng ai có thì giờ ngồi nghe cô nói. Bạn bè cũng cuống quýt với những ca học, một số thì mải mê với trò chơi điện tử hiện đại với hình ảnh ảo ba chiều như thật. Cô bé cảm thấy cô đơn và thu mình vào vỏ ốc. Nhưng cô cũng không được yên, vì cô rất bé nhỏ và nhút nhát nên hay bị những đứa trẻ lớp trên trêu chọc, giật cặp sách, giật tóc, đôi khi cả đánh nữa.

    Một buổi chiều, khi bị nhóm bạn lớp trên lôi ra làm trò đùa, cô buồn bã đi ra công viên gần nhà, ngồi trên ghế đá và khóc. Khóc một lúc, cô ngẩng lên thì thấy một ông già đang ngồi cạnh mình. Ông già thấy cô ngẩng lên thì hỏi:

    - Cháu gái, tan học rồi sao không về nhà mà lại khóc?

    Cô bé lại òa lên tức tưởi:

    - Cháu không muốn về nhà. Ở nhà buồn lắm, không có ai hết. Không ai nghe cháu nói!

    - Vậy ông sẽ nghe cháu!

    Và cô bé vừa khóc vừa kể cho ông già nghe tất cả những uất ức, những buồn rầu trong lòng bấy lâu nay. Ông già cứ im lặng nghe, không một lời phán xét, không một lời nhận định. Ông chỉ nghe. Cuối cùng, khi cô bé kể xong, ông bảo cô đừng buồn và hãy đi về nhà.

    Từ đó trở đi, cứ tan học là cô bé vào công viên ngồi kể chuyện cho ông già nghe. Cô thay đổi hẳn, mạnh dạn lên, vui vẻ lên. Cô bé cảm thấy cuộc sống vẫn còn nhiều điều để sống.

    Cho đến một hôm, cô bé bị một bạn trong lớp đánh. Vốn yếu đuối không làm gì được, cô uất ức và nóng lòng chạy đến công viên để chia sẽ cho vơi bớt nỗi buồn tủi. Cô bé vội vã, chạy qua đèn đỏ...

    ***

    Ngày biết tin cô bé mất, vẫn trong công viên, vẫn trên chiếc ghế đã mà cô bé hay ngồi, có một ông lão lặng lẽ đốt một hình nộm bằng giấy. Đó là món quà mà ông muốn đưa cho cô bé ngày hôm trước, nhưng không thấy cô bé đến. Hình nộm là một con mèo rất đẹp, trắng trẻo, có đôi tai to, mắt tròn xoe hiền lành, nhưng không có miệng. Ông già muốn nó ở bên cạnh cô bé, mãi lắng nghe cô mà không bao giờ phán xét.

    Từ đó trở đi, trên bàn học của mỗi học sinh Nhật thường có một búp bê hình mèo không có miệng- Chú mèo hiện nay đã mang hiệu "Hello Kitty" (bạn đã bao giờ để ý mèo Hello Kitty không hề có miệng?)- chú mèo được làm ra với mục đích lắng nghe tất cả mọi người.

    Tôi không biết "sự tích" Hello Kitty này có thật hay không. Tôi cũng không phải nhà quảng cáo cho thương hiệu ấy. Tôi chỉ biết mỗi lần nhìn hình chú mèo Hello Kitty là một lần tôi được nhắc nhở phải biết lắng nghe người khác- thực sự lắng nghe.

Chút suy tư trong ngày

Một bác thợ mộc đến tuổi về hưu nói cho ông chủ thầu biết những dự tính của mình trong thời gian sắp tới. Bác sẽ xin nghỉ hưu để vui hưởng tuổi già với con cháu. Bác biết rằng nếu nghỉ việc thì tài chính của gia đình sẽ có phần nào thiếu hụt nhưng bác lại tin rồi đây gia đình sẽ có cách xoay xở được.

Ông chủ thầu tỏ ra tiếc khi thấy người thợ lành nghề xin thôi việc. Ông ta đề nghị bác cố xây giúp cho hãng thêm một ngôi nhà nữa rồi nghỉ coi như là vì ông. Bác thợ đồng ý làm nhưng ai cũng hiểu rằng bác miễn cưỡng nhận lời chứ không thực lòng muốn nhận công việc này.

Bác gọi đại một nhóm thợ có tay nghề kém và mua những loại vật tư chất lượng kém để xây dựng căn nhà ấy. Khi ngôi nhà được xây xong, ông chủ thầu đến tiếp nhận công trình và trao vào tay bác chiếc chìa khoá nhà. Ông nói với bác: "Đây là nhà của anh. Tôi biếu anh món quà này để cảm ơn anh đã làm việc cho công ty bấy lâu nay."

Chúng ta thì có khác gì bác thợ ấy. Chúng ta xây dựng cuộc đời mình một cách cẩu thả, tùy tiện với tâm lý đối phó thay vì tích cực và chủ động làm cho nó thật tốt đẹp. Ở một vài thời điểm quan trọng trong cuộc đời mình, chúng ta không hề dốc sức lực để thực hiện mọi việc cho thật tốt. Thế rồi khi trông thấy tình trạng tồi tệ và nhận ra rằng mình đang sống trong căn nhà do chính tay ta xây dựng nên thì chúng ta cảm thấy bị sốc. Giá như được biết trước, hẳn chúng ta đã hành động khác đi.

Hãy hình dung mình là bác thợ mộc, còn cuộc đời chúng ta chính là ngôi nhà. Mỗi ngày bạn đóng đinh, lát sàn hoặc xây tường, bạn hãy xây nhà mình một cách khôn ngoan. Bạn có có một cuộc đời mà thôi. Ngay cả trong trường hợp bạn chỉ còn sống một ngày, ngày sống đó cũng đáng để bạn sống sao cho tử tế và có tư cách.

Tấm bảng gắn trên tường ghi rằng: "Sống là thực hiện một số kế hoạch do chính mình vạch ra." Cuộc sống của bạn hôm nay là kết quả từ thái độ sống và những chọn lựa của bạn trong quá khứ. Cuộc sống của bạn ngày mai sẽ là kết quả từ thái độ sống và những lựa chọn của bạn ngày hôm nay.

Chuyến giao hàng đặc biệt

    "Chúng tôi cần một xe lăn", một giọng nói quen thuộc vang lên trong điện thoại. Đây không phải là một yêu cầu bất thường, bởi bác sĩ Charles Shellenberger, một bác sĩ về hưu mà tôi quen nhiều năm nay, đang thực hiện mơ ước được làm một tình nguyện viên giúp đỡ những người bệnh, những người tàn tật ở mọi lứa tuổi khắp nơi trên trái đất. Ông đã đặt hàng chỗ tôi nhiều lần lắm rồi. Ông giải thích thêm: "Chiếc xe lăn này dành cho một cụ già không tay và chân, tấm dựa sau lưng và chỗ ngồi cần phải rộng hơn bình thường".

    Là thành viên trong ban lãnh đạo của một tổ chức có hơn một trăm nhà thờ trong tay, tôi thường chuyển các đơn đặt hàng cho những người trực thuộc. Đối với đơn đặt hàng này, tôi gọi điện thoại cho chủ tịch hội người chuyên cung cấp các thiết bị y khoa. Ông chủ tịch có tên là E. J. Culp, ông cũng là một tình nguyện viên rất tích cực và xông xáo của chúng tôi. Ông luôn cảm thấy hài lòng và tự hào khi được làm việc vì "chính nghĩa". Chỉ trong vòng một tuần, E. J và nhân viên của ông đã làm xong chiếc xe lăn theo đúng yêu cầu của bác sĩ Shellenberger. Họ đã dùng các bộ phận trong hai chiếc xe lăn để làm ra chiếc này.

    Khi tôi giao chiếc xe cho ông Shellenherger, ông ấy đã cho tôi biết thêm : "Paul này, tôi sẽ mang chiếc xe này theo khi đoàn chúng tôi đến công tác ở Syberia". Do không muốn bị đánh giá là người không tin tưởng vào đồng nghiệp nên tôi không muốn hỏi tiếp, tôi chỉ nói: "Tuyệt! Chúng tôi sẽ cầu nguyện cho anh và toàn đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ ở Syberia". Nhưng tận thâm tâm tôi rất muốn biết: "Làm sao các anh có thể mang chiếc xe lăn này đến nơi xa xôi ấy kia chứ?". Do tôi đã đi đây đi đó rất nhiều, nên tôi hiểu rất rõ những trở ngại, rồi luật lệ, rồi thói cửa quyền của bộ phận hải quan. Khi họ trông thấy có một món đồ lạ.

    Tuy nhiên kế hoạch của họ được vạch ra, và họ có báo tôi biết. Quả tình kế hoạch họ soạn thảo thật tuyệt. Bác sĩ Shellenberger vốn nổi tiếng là một người rất thông minh và có nhiều kế hay. Ông đã đưa một thành viên đang mang thai theo cùng và sau đó viết một giấy giới thiệu, trông cứ y như là một toa thuốc bác sĩ. Giấy giới thiệu này gửi cho các sân bay và nhân viên hải quan, trong đó giải thích rõ tình trạng sức khỏe của sản phụ và yêu cầu các nhân viên cho phép bà được nghỉ ngơi trên xe lăn trong những chuyến chuyển máy bay và cả trong những lúc đi lại trên máy bay cũng như trong sân bay. Dĩ nhiên với lý do này, cô sản phụ phải mang xe lăn lên máy bay luôn.

    Tất cả các hãng hàng không đều tỏ ra rất hợp tác với đề nghị đặc biệt này. Chẳng ai nghi ngờ bà sản phụ có gương mặt sáng ngời ấy cả và bà qua các cổng hải quan dễ như chơi.

    Sau khi đến Syberia, đoàn công tác đến ngay một ngôi làng heo hút. Để chắc ăn, cô sản phụ tiếp tục ngồi trên xe lăn trong suốt chặng đường. Khi họ đến nơi ở của một cụ già đang ăn xin ngoài đường, cả đoàn bỗng dưng hồi hộp lạ thường. Bất thình lình bà sản phụ đứng bật dậy, bước những bước đi khỏe khoắn ra khỏi xe lăn. Vài người trong đoàn nhấc ông cụ cụt tay chân ấy lên và đặt ông lên xe lăn.

    Sau khi được chỉ dẫn sơ, ông cụ đã biết cách sử dụng và ông hồ hởi, tự hào lăn xe quanh làng. Bắt đầu từ đây cá tính độc lập và lòng tự trọng trong ông sẽ được tái thiết. Gương mặt ông lúc này cũng rạng rỡ chẳng kém gương mặt sản phụ lúc nãy. Khi có ai đó hỏi ông cụ làm sao ông nhận được chiếc xe lăn đặc biệt này, ông mỉm cười trả lời đơn giản: "Một chuyến giao hàng đặc biệt".

Cô con gái út

    Họ quả là một gia đình hạnh phúc: bốn cô con gái nhà Pogue học cùng trường, chỉ khác lớp. Bốn cô bé đều rất thông minh và thân thiện. Tuy nhiên, Janice- cô con gái út, cô bé học lớp do tôi chủ nhiệm- lại có vẻ gì đó rất kì lạ. Hình như cô bé cứ bám dính lấy mẹ. Ba cô chị luôn tự đi xe Bus tới trường mỗi sáng và tự chạy vào lớp rất sớm. Nhưng Janice thì luôn được mẹ lái ôtô đưa tới trường và đúng giờ vào học. Bà Pogue còn thường đứng ở cổng trường cho tới khi thấy Janice chạy vào lớp hoặc tham gia vào một hoạt động gì đó với các bạn trên sân trường. Và đúng giờ tan học, bà Pogue lại đến đón Janice về.

    Một ngày thứ sáu, bà Pogue gọi điện cho tôi, bà vào đề rất ngại ngùng và bối rối:

    - Tuần sau tôi phải đi công tác Châu Âu trong hai tuần…Tôi biết Janice cần tôi ở đây nhưng tôi có việc quan trọng phải đi. Tôi đã nhờ một người trông trẻ đưa Janice tới trường và trông cháu đến khi nó vào lớp. Tôi cũng giải thích kĩ càng cho người trông trẻ rằng phải đưa đón Janice vào giờ nào…nhưng tôi vẫn rất lo lắng. Cô có thể chú ý đặc biệt và giúp đỡ con bé trong hai tuần tôi đi vắng được không? Janice chưa bao giờ sống xa tôi cả…nó quá nhỏ và quá mong manh…tôi muốn chắc chắn mọi chuyện sẽ ổn cho nó…

    Bà Pogue ngừng lại một chút có vẻ cực kì lo ngại. Nhưng tôi đã an ủi rằng bé Janice sẽ vui và khoẻ. Thậm chí tôi còn hứa sẽ đón Janice ở tận cổng truờng.

    Sáng thứ hai, nghĩ tới hình ảnh một cô bé lo lắng khóc lóc nên tôi đã chuẩn bị một bài học nhộn nhịp và vui vẻ. Tôi đứng đợi Janice ở cổng trường từ rất sớm.

    Nhưng…ngay khi xe bus tới thì không phải là ba mà là bốn cô con gái bà Pogue đều xuống xe. Janice chạy lũn cũn theo sau, có vẻ rất hào hứng và quay ra hét “Good bye!” với hai cô chị khi gặp hai đứa bạn cùng lớp.

    Tôi đi theo Janice vào lớp, gọi cô bé ra một góc và hỏi về chuyến xe bus đầu tiên của cô bé và tại sao không để người trông trẻ đưa tới trường. Trái với những gì tôi, bà Pogue tưởng tượng, Janice cười toe toét:

    - Lúc nào em cũng muốn đi xe bus với các bạn khác nhưng mẹ cứ đòi đi với em! Mẹ sẽ không sinh em bé nữa đâu nên em phải làm “em bé” hơi lâu hơn bình thường một chút! Thế nên khi mẹ không có nhà thì ngày nào em cũng đi xe bus. Cô thấy đấy, em đã 6 tuổi rồi cơ mà!     Julie Firman

Công việc quan trọng

    Những hành khách cuối cùng bước lên máy bay đi chuyến Seattle- Dallas là một phụ nữ và ba đứa trẻ." Lạy trời cho họ đừng ngồi cạnh mình"- tôi nghĩ- "Còn biết bao nhiêu việc quan trọng phải làm đây này". Tuy nhiên, chỉ lát sau, một bé gái 11 tuổi và một bé trai chín tuổi đã trèo vào ngồi cạnh tôi, còn người phụ nữ và cậu nhóc bốn tuổi thì ngồi ở hàng ghế sau.

    Gần như ngay lập tức, hai đứa lớn bắt đầu chí chóe với nhau trong khi cậu em út cứ liên tục thúc vào ghế của tôi. Chốc chốc nó lại hỏi chị: "Mình bay tới chỗ nào rồi?". Cô bé nạt: "Im nào!", thế rồi bọn trẻ lại tiếp tục chí chóe.

    Tụi nhỏ chẳng có khái niệm gì về những việc quan trọng hết- tôi thầm nghĩ một cách cáu kỉnh và ngồi yên. Trong tâm trí tôi bỗngvăng vẳng một giọng nói trong trẻo: Hãy yêu mến chúng. Nhưng đám trẻ này quậy phá quá, và tôi còn công việc quan trọng để làm, đâu có rảnh để chơi với chúng", tôi tự tranh cãi. Giọng nói bên trong tôi lại cất lên: "Hãy yêu quý chúng như yêu quý các con của ngươi."

    Thế là, khi lại nghe câu hỏi: "Chúng ta bay tới đâu rồi?", tôi quay lại và mặc kệ công việc quan trọng của mình, lật bản đồ lộ trình trong tạp chí trên máy bay ra. Tôi giảng giải lộ trình bay, phân chia thành từng chặng khoảng 15 phút một, và ước lượng thời gian chúng tôi sẽ đáp xuống tại Dallas. Bọn trẻ nhanh chóng kể cho tôi nghe rằng chúng đã đến Seattle để thăm bố đang nằm bệnh viện. Chúng hỏi tôi về ngành hàng không, hàng hải, khoa học và quan điểm của người đã trưởng thành về cuộc đời.

    Nói chuyện như thế thời gian trôi rất nhanh và cái công việc "quan trọng" của tôi đã bị xếp xó. Khi chúng tôi chuẩn bị hạ cánh, tôi hỏi hiện nay bố chúng đang làm nghề gì; bọn trẻ chợt nín lặng, rồi cậu bé nói: "Bố cháu chết rồi".

    - Cô rất tiếc.

    - Vâng, cháu cũng thế. Cháu lo cho em cháu nhất đấy, em cháu khó mà chịu đựng được điều này.Tôi chợt nhận ra rằng những chuyện chúng tôi nói với nhau suốt chuyến bay chính là những công việc quan trọng nhất mà chúng ta phải đối mặt trong đời: vẫn phải sống, yêu thương và trưởng thành dần, bất chấp những khổ đau, mất mát.

    Khi chúng tôi chào tạm biệt nhau ở Dallas, cậu bé lắc tay tôi và cảm ơn "cô giáo trên máy bay", tôi cũng cảm ơn cậu bé, vì đã giúp tôi làm công việc quan trọng nhất".

Đánh nhau bằng gậy

Theo The Love and Life

Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha. Bức tranh mang tên Đánh nhau bằng gậy.

Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến. Người ta không đoán được trời sắp dông bão hay sáng rực nữa.

---

Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều lao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: “Đấu tranh bảo tồn sinh mạng”. Sinh viên khác: bức tranh diễn tả mục đích của con người là muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh. Sinh viên khác nữa lại phân tích: bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy.

---

Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ một lần nữa. Cả lớp im ăng ắng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: "Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: hai người nông dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay biết".

---

Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: "Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ: họ cắn xé nhau. Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến tranh… thì con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.

Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta với người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.

Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này".

Dạy vẽ tranh

    Bố tôi bị chẩn đoán có vấn đề về tim. Sức khoẻ của bố rất xấu và không làm được những công việc ổn định. Bố vẫn sống bình thường nhưng thỉnh thoảng lại bị đau tim đột ngột và phải đến bệnh viện ngay.

    Ra vào bệnh viện nhiều lần, bố nghĩ ra một cách để mình vẫn có thể làm việc: Bố tình nguyện làm ở khoa nhi của bệnh viện. Bố tôi rất yêu trẻ con và thật sự yêu thích công việc này. Bố chăm sóc những trẻ em bị bệnh nặng. Bố nói chuyện, chơi đùa và làm những đồ thủ công với chúng. Đôi khi một đứa trẻ qua đời, bố thường an ủi bố mẹ của đứa trẻ tội nghiệp rằng họ đừng buồn vì bố sẽ sớm lên thiên đàng và chăm sóc những đứa con của họ. Thậm chí bố còn hỏi họ có gửi một lời nhắn nào cho con của họ không.

    Trong số những đứa trẻ mà bố từng chăm sóc có một cô bé bị liệt từ trên vai trở xuống. Tôi không thể nhớ nổi tên căn bệnh mà cô bé phải chịu đựng, nhưng tôi có thể cảm thấy được một cô bé 8-9 tuổi mà phải nằm liệt giường như vậy thì buồn đến mức nào. Cô bé không làm được gì cả, rất tuyệt vọng và hay khóc.

    Bố tôi thường xuyên đến thăm cô bé, mang theo bút màu và giấy. Bố đính tờ giấy vào một cái bảng, ngậm bút màu vào miệng và vẽ, không hề dùng tay, chỉ đầu và cổ cử động. Bố đến tăhm cô bé hàng ngày và lần nào cũng vẽ cho cô bé xem. Bố luôn nói: “Cháu cũng có thể làm như bác nếu cháu thực sự muốn và cháu cũng có thể làm bất cứ điều gì nếu cháu quyết tâm làm điều đó!”.

    Đến một ngày, cô bé cũng ngậm bút vào miệng và vẽ. Bố và cô bé đó trở thành bạn thân.

    Một thời gian ngắn sau đó, cô bé được ra viện vì các bác sĩ không có cách nào chữa khỏi liệt cho cô. Bố cũng phải ngừng làm việc ở bệnh viện vì bố yếu quá. Nhưng thỉnh thoảng, nếu thấy khoẻ hơn một chút, bố lại vào thăm khoa nhi của bệnh viện…

    Có lần, khi đang đứng ở hành lang bệnh viện, bố thấy từ đằng xa có một cô bé đang lại gần. Đó chính là cô bé bị liệt ngày trước, có điều là lần này cô bé đi được dù hơi khó khăn. Cô bé cố đi thật nhanh đến chỗ bố tôi, ôm lấy bố và đưa cho bố tôi một bức tranh rất đẹp- bức tranh đầu tiên cô vẽ bằng tay. Dưới bức tranh là dòng chữ: “Cảm ơn ông vì đã giúp cháu đi được”.

    Bố tôi xúc động nhưng cũng ngạc nhiên: “Ông chỉ dạy cháu vẽ thôi mà!”. Cô bé lắc đầu: “Không phải chỉ vậy đâu, ông đã nói với cháu là cháu có thể làm bất cứ được điều gì nếu cháu quyết tâm, và ông làm cháu tin như vậy”.

    Sức mạnh của yêu thương là một cái gì đó ngoài sức tưởng tượng của chính những người trao tặng. Bạn chỉ dạy một đứa trẻ vẽ một bức tranh nhưng đã trao cho nó cả một niềm vui sống và làm cho cả một số phận thay đổi.

Đóa hoa đẹp nhất

    Tôi tìm một ghế trống trong công viên dưới những tán cây liễu khẳng khiu để gặm nhấm cái cảm giác ê chề về cuộc đời, về cái thế giới như đang vùi dập đời tôi và như thể tất cả những điều đó chưa đủ làm tôi khổ sở, một đứa bé lại chạy đến hổn hển, mệt nhoài vì chơi đùa, nghiêng đầu nói: "Chị nhìn xem, em tìm được cái gì". Trong tay nó, một bông hoa tơi tả đến tội nghiệp với những đài hoa nhăn nhúm vì không đủ nước và ánh sáng. Để thằng bé mang ngay cái hoa tàn đi và trở lại cuộc chơi của nó, tôi cười gượng và xua tay. Thay vì quay đi, thằng bé đến ngồi cạnh bên tôi, đưa hoa lên mũi và reo lên sung sướng: "Mùi thơm tuyệt quá, nó chắc là một bông hoa đẹp. Em hái cho chị đó". Bông hoa đang úa tàn và gần như khô héo trước mắt tôi chẳng còn màu sắc gì rõ ràng ngoài sự trộn lẫn giữa vàng, đỏ và cam. Nhưng tôi biết tôi phải nhận nó nếu không thằng bé sẽ chẳng để tôi yên. Tôi đưa tay nhận đóa hoa và làu bàu: "Hãy cho chị vậy".

    Nhưng thay vì đặt hoa vào tay tôi, nó để đóa hoa chơi vơi giữa khoảng không một cách vô thức. Chính lúc đó tôi mới chợt nhật ra rằng đứa bé không nhìn thấy được: nó bị mù.

    Tôi nghe giọng mình run rẩy khi thốt lời cảm ơn. Nó mỉm cười và trở lại cuộc chơi, không nhận ra nó đã làm xao động tâm hồn tôi.

    Tôi ngồi yên và tự hỏi: làm sao thằng bé thấy được một người phụ nữ tội nghiệp dưới tán cây, làm sao nó biết được hoàn cảnh bi đát mà tôi đang buông xuôi. Có lẽ từ trong tận trái tim đã cho nó ánh sáng thực sự. Bằng đôi mắt của một đứa trẻ mù, cuối cùng tôi đã có thể nhận ra rằng mọi khó khăn không phải ở thế giới này mà ở trong chính bản thân tôi. Và trong tất cả những khổ sở tự mình tạo ra đó, chính tôi mới là một kẻ mù lòa. Tôi nguyện phải nhìn thế giới bằng vẻ đẹp đích thực của nó và trân trọng mỗi phút giây trong đời. Khi đó, tôi đưa đóa hoa lên mũi và tận hưởng mùi hương ngọt ngào của một đóa hồng trinh nguyên

Đôi hoa tai hình giọt nước

    Hôm đó, tôi và cô bạn Lauri đưa bọn trẻ đến công viên chơi nhân ngày sinh nhật lần thứ 35 của tôi. Từ cái bàn pinic, chúng tôi ngắm bọn trẻ tung tăng nô đùa. Chúng tôi mừng tình bạn của nhau bằng các chai nước khoáng. Lúc ấy, tôi nhận ra đôi hoa tai mới của Lauri. Mười ba năm quen Lauri, tôi biết cô ấy rất thích hoa tai hình giọt nước. Hết đôi màu xanh lại đến đôi màu hồng. "Không phải tự nhiên mà mình thích hoa tai hình giọt nước đâu"- Laun bắt đầu kể, một câu chuyện thuở niên thiếu, đã làm thay đổi cô mãi mãi...

    Đó là một ngày xuân, Lauri đang học lớp 6. Lớp của cô hôm đó- dịp Yellow May Day- được trang hoàng rực rỡ. Cô Lake đứng trước lớp. Mái tóc nâu của cô buông dài xuống bờ vai và đôi mắt xanh long lanh trông thật đẹp. Nhưng vật khiến Lauri chú ý nhiều nhất là đôi hoa tai hình giọt nước của cô. Đó là đôi hoa tai vàng với hai hạt ngà. Lake nhắc cả lớp chuẩn bị chương trình họp phụ huynh vào dịp cuối năm học. Trên bảng, một thời khóa biểu theo thứ tự ABC tên từng gia đình, nêu rõ thời gian báo cáo cho từng gia đình là 20 phút. Tên của gia đình Lauri nằm cuối bảng. Nhưng với Lauri, chuyện ấy không có ý nghĩa gì. Vì tuy cô giáo đã gửi thư và thậm chí gọi điện gặp phụ huynh mình, Lauri biết bố mẹ cô sẽ chẳng đến.

    Bố Lauri nghiện rượu nặng. Nhiều đêm, Lauri phải nghe tiếng la hét của bố khi say và tiếng khóc của mẹ. Mùa Giáng sinh năm trước, Lauri và chị đã dành dụm tiền giữ trẻ để mua cho bố chiếc giày sứ. Hai chị em gói món quà bằng giấy xanh- đỏ, đính thêm dây lụa vàng vào cái nơ. Đêm Giáng sinh, hai chị em đưa món quà cho bố và tất cả những gì họ nhận được là khuôn mặt cau có cùng hành động quăng món quà khiến chiếc giày vỡ thành ba mành...

    Trong ngày lễ cuối, Lauri thấy bạn cùng lớp trong tay bố mẹ đi vào trường. Nét mặt các phụ huynh lộ rõ sự hãnh diện. Cuối cùng khi nghe cô Lake đọc đến tên mình, Lauri lủi thủi lên sảnh đường và ngồi xuống. Cùng dãy với nơi Lauri ngồi là cái bàn để hồ sơ học sinh. Lo lắng vi bố mẹ không có mặt, Lauri chắp tay và cúi đầu nhìn tấm vải sàn. Bỗng nhiên Lauri nhận thấy cô Lake đứng bên mình. Nâng cằm Lauri, cô giáo nói: "Trước hết, cô muốn em biết rằng cô rất yêu em". Lauri ngước mắt. Trrên khuôn mặt cô Lake, Lauri thấy những điều mà hiếm khi mình được thấy: tình yêu, sự cảm thông và tấm lòng trìu mến.

    "Em nên hiểu rằng- cô giáo nói tiếp- việc bố mẹ không đến không phải là lỗi của em". Một lần nữa, Lauri lại ngước nhìn cô giáo. Chưa ai nói chuyện với Lauri như thế trước giờ. Chưa ai. "Điều thứ ba, em xứng đáng nghe những thành tích học tập của mình, cho dù cha mẹ em có mặt ở đây hay không...".

    Trong những phút sau đó, cô Lake đọc kết quả học tập của Lauri, khen ngợi cố gắng và nghị lực của cô học trò. Không nhớ chính xác lúc nào nhưng vào giây phút nào đó trong buổi báo cáo kết quả học tập của mình mà cô Lake đang trình bày, Lauri bỗng nghe tiếng nói của hy vọng trong trái tim... Nước mắt làm nhòe mọi vật khi Lauri ngước nhìn lên. Khuôn mặt cô La ke cũng mờ đi, chỉ duy đôi hoa tai vẫn lấp lánh...

    Chúng tôi im lặng. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Lauri thích hoa tai hình giọt nước. Dường như cô ấy muốn truyền sự hy vọng cho tôi. Bản thân tôi cũng có người cha nghiện rượu và trong nhiều năm, tôi phải cố gắng chôn vùi những câu chuyện không hay về thuở niên thiếu của mình. Lauri và tôi có cùng cảnh ngộ và sự đồng cảm. Lauri đã cho tôi thấy viên ngọc chính là niềm thôi thúc bản thân dù là ở tuổi nào để có những khám phá mới về khả năng, nghị lực của chính mình.

   Ngay lúc đó, bọn trẻ lao đến để ăn uống. Buổi chiều,, chúng tôi dọn dẹp mọi thứ. Khi ấy Lauri đưa tôi món quà sinh nhật. Một cái hộp nhỏ gói bằng giấy hoa đỏ với chiếc nơ vàng. Tôi mở ra. Bên trong là đôi hoa tai hình giọt nước...

Đôi tai của tâm hồn

Một cô bé vừa gầy vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng chỉ tại cô bé ấy lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn, vừa cũ lại vừa rộng nữa.

Cô bé buồn tủi ngồi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ: Tại sao mình lại không được hát ? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao ? Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.

"Cháu hát hay quá!'. Một giọng nói vang lên: "Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ, cháu đã cho ta cả một buổi chiều thật vui vẻ". Cô bé ngẩn người. Người vừa khen cô bé là một ông cụ tóc bạc trắng. Ông cụ nói xong liền đứng dậy và chậm rãi bước đi.

Hôm sau, khi cô bé tới công viên đã thấy ông già ngồi ở chiếc ghế đá hôm trước, khuôn mặt hiền từ mỉm cười chào cô bé. Cô bé lại hát, cụ già vẫn chăm chú lắng nghe. Ông vỗ tay nói lớn: "Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ của ta, cháu hát hay quá!" Nói xong cụ già lại chậm rãi một mình bước đi.

Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, cô bé giờ đây đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Cô gái vẫn không quên cụ già ngồi tựa lưng vào thành ghế đá trong công viên nghe cô hát. Một buổi chiều mùa đông, cô đến công viên tìm cụ nhưng ở đó chỉ còn lại chiếc ghế đá trống không.

"Cụ già ấy đã qua đời rồi. Cụ ấy điếc đã hơn 20 năm nay" - một người trong công viên nói với cô. Cô gái sững người. Một cụ già ngày ngày vẫn chăm chú lắng nghe và khen cô hát lại là một người điếc?

Đứa bé của hoà bình

    Những người da đỏ miền Đông Bắc Hoa Kỳ thưởng truyền tụng một câu chuyện xa xưa, được kể lại ở ngôi thứ nhất theo thói quen của họ:

    "Khi ấy tôi còn là một thanh niên, thường có nhiệm vụ đi thám thính cho bộ lạc của mình. Hôm ấy là một ngày cuối mùa đông, tuyết phủ đầy, gió buốt lạnh khủng khiếp mà lương thực hầu như đã cạn sạch, mọi người đều đói lả. Chúng tôi lại còn phải đi truy lùng những kẻ thù của bộ lạc chúng tôi, và bản thân tôi hết sức hãnh diện được phái đi thi hành nhiệm vụ khó khăn ấy.

    Sau ba ngày ba đêm ròng rã, tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ gần bằng bàn tay trên vách lều. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi ấm bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy 2 tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần... Bất thần đứa bé lại quay sang nhìn đúng vào cái lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng vào lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi múc lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết...

    Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù để anh em của tôi có thể bất ngờ đến đánh úp giữa đêm tối và tiêu diệt họ y như họ đã từng làm như thế đối với bộ lạc chúng tôi cách đây vài năm.

    Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại, ngồi nghỉ trên một mỏm đá giữa rừng vắng và bắt đầu suy nghĩ về những gì vừa diễn ra. Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai? Tại sao nó lại can đảm múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đấy nó làm như thế?

    Cứ thế tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được sống sót trong trận càn quét sắp tới của bộ lạc chúng tôi. Tôi chợt nảy ra ý phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc chúng tôi. Thế nhưng thú thật tôi không thể làm như thế vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng.

    Nghĩ như vậy tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào ngồi bên bếp lửa hồng. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng nồi xúp ra để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, còn phùng miệng thổi phù phù cho bớt nóng rồi mới đưa vào tận miệng tôi.

    Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ: "Trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm hại gì đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau lánh nạn đi chỗ khác. Không sớm thì muộn bộ ạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra".

    Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa máy chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi.     Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp nóng thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi hôm nào. Tôi đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một "đứa bé hòa bình" như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta!

Duyên may và sự lựa chọn

Khi ta gặp được đúng người ta yêu Khi ta ở đúng vào một nơi nào đó vào đúng một thời điểm nào đó. Đó là duyên may.

Khi bạn gặp ai đó làm lòng bạn xao xuyến, Đó không phải là một sự lựa chọn.

Đó là duyên may.

Khi bạn gặp tiếng sét ái tình (và không ít những đôi lứa đến với nhau từ đây) thì chắc chắn không phải là một sự lựa chọn rồi.

Đó là duyên may.

Vấn đề là những gì xảy ra tiếp sau đó. Khi nào thì bạn vượt qua tình trạng bồng bềnh, choáng ngợp và chìm đắm của tình yêu để bước sang một tầm mức mới ?

Đó là khi lý trí trở về, khi bạn ngồi lại và suy nghĩ xem liệu bạn có thật sự muốn tiến tới một mối quan hệ bền vững hay để tất cả vào kỷ niệm.

Nếu bạn quyết định yêu một ai đó với tất cả những nhược điểm của người ấy. Đó không còn là duyên may nữa.

Đó là sự lựa chọn.

Cho dù bạn biết rất rõ rằng có rất nhiều người ở bên ngoài trái tim bạn duyên dáng hơn, thong minh hơn, giàu có hơn người bạn yêu, nhưng bạn vẫn quyết lòng yêu người đó không đổi thay.

Đó là sự lựa chọn.

Sự choáng ngợp, bồng bềnh và tiếng sét tình yêu đến với ta bằng cơ may. Nhưng tình yêu đích thực thì chính là sự chọn lựa của trái tim.

Sự chọn lựa của chính chúng ta.

Nói về bạn đời, có một câu trong bộ phim khá hay : “Định mệnh mang chúng ta đến với nhau nhưng chính chúng ta làm cho định mệnh thành sự thật”.

Chúng ta sống trên đời này không phải để tìm thấy một người hoàn mỹ để yêu mà chính là để học cách yêu thương một người không hoàn mỹ một cách trọn vẹn…

Em có thể làm bất kỳ việc gì

    Jack bị bại não. Cậu bị hệt tứ chi và chỉ có thể cử động hạn chế một bàn tay, dùng để đẩy cái cần xe lăn của mình.

    Mặc dầu không phải là học trò lớp tôi, nhưng cậu thường đến dự, lắng nghe những bài giảng của tôi và tham gia các nhóm thảo luận. Tôi mất một dạo rất khó khăn mới hiểu được lời cậu nói và phải dựa phần lớn vào những lời cắt nghĩa của các bạn trong lớp. Cậu chia sẻ với tôi những nỗi lo lắng và thất vọng của mình, việc này làm tôi xúc động ghê gớm. Cậu quá can đảm để mà có thể dễ bị tổn thương đến thế.

    Một ngày kia, sau khi tan lớp, Jack đến gặp tôi và nói rằng cậu muốn làm việc. Lúc đó tôi đang huấn luyện một nhóm người lớn khuyết tật nặng làm việc trong khu học xá Fresno. Tôi hỏi Jack: "Em muốn làm ở đâu?". Jack nói: "Làm với cô trong quán ăn". Sững sờ mất một lúc, tôi bắt đầu nghĩ về những kỹ năng cần thiết để thực hiện những công việc phục vụ bàn ăn, rửa chén dĩa, quét nhà, lau sàn, chất đồ. Làm sao một người liệt tứ chi có thể tham gia vào loại chương trình tập huấn này cơ chứ? Tôi không thể trả lời. Đầu óc tôi trống rỗng.

     "Em muốn làm gì nào, Jack?", tôi hỏi, hy vọng cậu có ý gì đó trong đầu.

     Câu trả lời của Jack chắc nịch: "Em có thể làm bất kỳ việc gì!", Jack nói và mỉm cười.

     Tôi thấy yêu mến tinh thần quyết đoán, sự tự tin đang ngời lên trong mắt Jack. Chúng tôi hẹn nhau lúc 10h sáng ngày hôm sau ở quán ăn. Tôi tự hỏi không biết Jack có đúng giờ không. Liệu cậu thậm chí có nhớ mấy giờ không?

     Ngày hôm sau, sớm 15 phút so với giờ hẹn, đã nghe tiếng xe lăn của Jack đến; tôi chỉ biết lặng lẽ cầu nguyện cho mọi việc được suôn sẻ và may mắn.

     Đúng 10h, chúng tôi gặp nhau. 10h01, Jack đã sẵn sàng bắt tay vào công việc.

     Sự hăng say của cậu làm cho cậu phát âm càng khó nghe hơn. Trong nỗ lực tìm một cách nào đó cho Jack tham gia thực sự vào chương trình tập huấn hướng hghiệp, tôi đã đi hết từ trở ngại này đến trở ngại khác. Chiếc xe lăn không cho phép Jack đến quá sát cạnh bàn. Cậu không thể dùng tay ngoại trừ động tác nắm. Tôi cố một vài cách để thích ứng mà không thành công. Nhìn thấy sự thất vọng của tôi, một khách hàng tốt bụng đề nghị giúp đỡ. Trong vòng nửa giờ, anh ta đã tìm ra giải pháp: anh cắt ngắn cán một cái cây lau sàn để Jack có thể kẹp vào nách và điều khiển bằng một bàn tay. Cái cây lau sàn vừa vặn với tới mặt bàn. Bằng một tay, Jack vừa đẩy xe lăn, vừa di chuyển quanh bàn vừa lau mặt bàn.

     Jack như được lên tiên! Cậu thật tự hào được là một người tham gia tích cực và không chỉ còn là người đứng ngoài nhìn nữa. Khi quan sát, tôi để ý thấy Jack có thể đẩy dẹp ghế khỏi đường đi bằng cách dùng xe lăn. Một công việc mới được chế ra cho Jack: dẹp ghế và dựng chúng vào sát tường, lấy lối đi. Jack thực hiện công việc với lòng ham thích và kiêu hãnh. Lòng tự hào của cậu như được thổi lên. Cuối cùng, cậu đã thấy mình là người có khả năng và có ích.

     Một hôm, Jack đến tìm tôi trong nước mắt. Khi tôi hỏi có chuyện gì không ổn sao, cậu giải thích cho tôi rằng người ta không để cậu làm công việc của mình. Thoạt tiên tôi không hiểu cậu nói gì. Rồi tôi quan sát cách cậu cố gắng dời mấy cái ghế: Jack đã dùng nhiều nỗ lực quá, đến nỗi mấy sinh viên tốt bụng nghĩ rằng cậu đang vật lộn để quẳng mấy cái ghế để lấy đường đi, và thế là họ vội đến dẹp ghế cho Jack. Cậu cố gắng giải thích, nhưng không ai chịu đứng lại nghe cậu nói...

     Vấn đề sau đó được tôi giải quyết, bằng cách viết những mẩu giấy sau cho Jack bỏ trên khay:

     "Chào bạn? Tên tôi là Jack. Tôi đang làm việc trong cửa hàng. Việc của tôi là quét dọn bàn, dồn mấy cái ghế vào sát tường. Nếu bạn muốn giúp đỡ tôi, Làm ơn cười với tôi và nói với tôi rằng việc tôi đang làm quả thực là một việc tốt."    

 Jack đưa những mẩu giấy này ra cho mọi người coi một cách tự hào. Sinh viên bắt đầu nghiêm túc hơn trong đối xử với Jack và công việc của cậu. Học kỳ đó, cậu đã trải qua kinh nghiệm rằng giá trị tự thân của mỗi người sẽ được chứng minh khi người ấy cảm thấy mình được hiểu và giúp đỡ. Sự quyết tâm của Jack mãi là một niềm cảm hứng cho tôi, khi tôi tìm kiếm những cách làm mới cho sinh viên của tôi và chính tôi để vượt qua những trở ngại trong cuộc sống, để trở thành người như chúng ta có thể trở thành, với tất cả năng lực mà thượng đế đã ban cho ta.

Hai cách diễn giảng

Ngày xưa, có một ông Hoàng Ả Rập nọ triệu một nhà tiên tri tới hỏi ông sẽ sống được bao nhiêu năm. Nhà tiên tri nói : “Bệ hạ sẽ sống lâu, sống lâu tới cỡ Ngài sẽ chứng kiến được các cái chết của các con Ngài“ . Ông Hoàng tức giận vì lời nói súc phạm, ra lệnh cho quân sĩ mang ra chém đầu.

Ông liền triệu một nhà tiên tri khác và cũng hỏi câu hỏi về tuổi thọ đó của ông. Nhà tiên tri này trả lời như sau : “Thưa Bệ Hạ, Ngài sẽ sống lâu, Ngài sẽ sống thọ hơn tất cả mọi người trong gia đình Ngài” ông Hoàng lên hoan hỷ và tặng rất nhiều tiền cho nhà tiên trị

Hai nhà tiên tri đều nói lên sự thật, nhưng một lời nói thì bộc trực, và một lời nói thì uyển chuyển hơn.

Hạnh phúc vô biên

    Có những hạnh phúc vô biên khi mang lại hạnh phúc cho người khác bất chấp hoàn cảnh của riêng mình. Nỗi khổ được sẻ chia sẽ vơi nửa, nhưng hạnh phúc được sẻ chia sẽ được nhân đôi.

    Hai người đàn ông đều bệnh nặng, được xếp chung một phòng tại bệnh viện. Một người được phép ngồi dậy mỗi ngày một tiếng vào buổi chiều để thông khí trong thổi. Giường ông ta nằm cạnh cửa sổ duy nhất trong phòng. Người kia phải nằm suốt ngày. Hai người đã nói với nhau rất nhiều. Họ nói về vợ con, gia đình, nhà cửa, công việc, những năm tháng trong quân đội và cả những kỳ nghỉ đã trải qua.

    Mỗi chiều, khi được ngồi dậy, người đàn ông cạnh cửa sổ dành hết thời gian để tả lại cho bạn cùng phòng những gì ông thấy được ngoài cửa sổ. Người kia, mỗi chiều lại chờ đợi được sống trong cái thời khắc một tiếng đó- cái thời gian mà thế giới của ông được mở ra sống động bởi những hoạt động và màu sắc bên ngoài.

    Cửa sổ nhìn ra một công viên với một cái hồ nhỏ xinh xắn. Vịt, ngỗng đùa giỡn trên mặt hồ trong khi bọn trẻ thả những chiếc thuyền giấy. Những cặp tình nhân tay trong tay đi dạo giữa ngàn hoa và ráng chiếu rực rỡ. Những cây cổ thụ sum sê tỏa bóng mát, và xa xa là đường chân trời cửa thành phố ẩn hiện.

    Khi người đàn ông bên cửa sổ mô tả bằng những chi tiết tinh tế, người kia có thể nhắm mắt và tưởng tượng ra cho riêng mình một bức tranh sống động. Một chiều, người đàn ông bên cửa sổ mô tả một đoàn diễu dành đi ngang qua. Dù không nghe được tiếng nhạc, người kia vẫn như nhìn thấy được trong tưởng tượng qua lời kể của người bạn cùng phòng.

    Ngày và đêm dần trôi...

    Một sáng, khi mang nước tắm đến phòng cho họ, cô y tá phát hiện người đàn ông bên cửa sổ đã qua đời êm ái trong giấc ngủ. Cô báo cho người nhà đến mang ông ta về. Một ngày kia, người đàn ông còn lại yêu cầu được chuyển đến cạnh cửa sổ. Cô y tá đồng ý để ông được yên tĩnh một mình. Chậm chạp gắng sức ông nhổm dậy bầng hai cùi chỏ và ngắm nhìn thế giới bên ngoài. Ông căng thằng nhìn ra cửa sổ. Đối diện với cửa sổ chỉ là một bức tường xám xịt. Ông hỏi cô y tá cái gì khiến cho người bạn khốn khổ cùng phòng của ông đã mô tả cho ông nghe những điều tuyệt diệu qua cửa sổ. Cô y tá cho biết rằng người đàn ông đó bị mù và thậm chí ông ta cũng không thấy được cả bức tường nữa. Cô nói: "Nhưng có lẽ ông ta muốn khuyến khích ông can đảm hơn lên".

Hãy giữ lấy ước mơ

Tôi có một người bạn tên Monty Robert, hiện là chủ nhân một trại nuôi ngựa ở San Ysidro. Anh đã cho phép tôi dùng nhà của anh để tổ chức những buổi gây quỹ nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư có tính rủi ro cao do thanh niên thực hiện.

Một hôm, anh đến ngồi cạnh tôi và nói:

- Tôi muốn kể cho bạn biết tại sao tôi để bạn sử dụng nhà của tôi để làm nơi tổ chức gây quỹ.

Chuyện xảy ra cách đây nhiều năm. Có một cậu bé sống cùng với cha của mình, một người làm nghề huấn luyện ngựa. Do công việc, người cha phải sống như một kẻ du mục. Ông đi từ trang trại này đến trang trại khác để huấn luyện các chú ngựa chưa được thuần hoá. Kết quả là việc học hành của cậu bé không được ổn định lắm. Một hôm, thầy giáo bảo cậu bé về viết một bài luận văn với đề tài "Lớn lên em muốn làm nghề gì?".

Đêm đó, cậu bé đã viết bẩy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm chủ một trang trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết. Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng 200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt làm đường chạy cho ngựa.

Viết xong, cậu bé đem bài nộp thầy giáo. Vài ngày sau, cậu bé nhận lại bài làm của mình với một điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của thầy "Đến gặp tôi sau giờ học".

Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp thầy và hỏi:

- Thưa thầy, tại sao em lại bị điểm 1?

- Em đã hoạch định một việc mà em không thể làm được. Ước mơ của em không có cơ sở thực tế. Em không có tiền thân lại xuất thân từ một gia đình không có chỗ ở ổn định. Nói chung, em không được một nguồn lực khả dĩ nào để thực hiện những dự tính của mình. Em có biết để làm chủ một trại nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm số của em. Rõ chưa?

Hôm đó, cậu bé về nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu gặp cha để hỏi ý kiến.

-Con yêu, chính con phải quyết định vì ba nghĩ đây là ước mơ của con.

Nghe cha đáp, cậu bẻ liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp thầy giáo của mình

- Thưa thầy, thầy có thể giữ điểm 1 của thầy, còn em xin được giữ ước mơ của mình.

Kể đến đây Monty dừng lại và hỏi tôi:

- Bạn có biết bạn đang ngồi trong một trại ngựa rộng 200 mẫu của cậu bé trong câu chuyện mà tôi vừa kể không? Cách đây hai năm, vị thầy giáo đó đã tình cờ dẫn 30 học trò của mình đến đây để cắm trại. Thế là thầy trò tôi nhận ra nhau. Cầm tay tôi, thầy nói :"Monty này, khi anh còn học với tôi, tôi đã đánh cắp ước mơ của anh, và suốt bao nhiêu năm qua tôi cũng đã làm thế với bao đứa trẻ khác, tôi rất ân hận về điều đó" .

Nghe thầy nói thế, tôi vội đáp "Không, thưa thầy, thầy không có lỗi gì cả, chẳng qua thầy chỉ muốn những gì tốt đẹp sẽ đến với học trò của mình mà thôi. Còn em chỉ muốn theo đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình"

Hãy nói với họ đi

Tác giả: MICHAEL POWERS

Tôi sẽ nói với gia đình và bạn bè tôi, cho họ biết họ đã có những ảnh hưởng lớn lao với tôi như thế nào.

 Bạn có yêu thương ai đó không? Hãy nói với họ đi !

 Có ai đã ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn? Hãy gọi điện cho họ. Có ai đã làm cuộc sống của bạn thay đổi? Hãy viết cho họ một lá thư, dù là thư điện tử.

Đừng để một ngày nữa trôi qua mà không cho mọi người biết. Rõ ràng là bạn sẽ cảm thấy rất vui khi viết một lá thư nói lên tình cảm của bạn đối với người khác cơ mà!

Tôi không biết bạn thế nào, nhưng tôi có những lá thư và thiếp từ nhiều bạn bè mà tôi đã giữ nhiều năm nay. Mỗi lần đọc lại chúng, chúng có thể làm cho một ngày của tôi vui vẻ hơn, cho tôi biết là tôi được quan tâm và yêu quý như thế nào.

Cuộc sống quá ngắn nếu như bạn bạn cứ giữ những lời nói ngọt ngào trong tâm trí mà không bao giờ nói ra.

Những lời bạn nói, những lá thư bạn viết, có thể làm nên rất nhiều sự thay đổi trên thế giới này.

Kho báu dưới lòng đất

Mẹ tôi là người thích lưu giữ mọi đồ vật cũng như niềm vui thú trồng trọt thừa hưởng từ ông ngoại .Sau khi cưới nhau , bố mẹ mua nhà ở California và chuyển đến sống ở đó nhưng thói quen tiết kiệm vẫn còn . Bằng xẻn và cuốc , khu vườn cằn cỗi dần dần xanh tốt với đầy đủ những cây lê , hạnh , ổi , hoa hồng , loa kèn ...

Trong nhiều năm làm việc trong vườn , mẹ đã đào một số món đồ chơi hỏng bị ai đó bỏ đi . Chú lính hựa cầm súng đã sứt hỏng , các chàng cao bồi cưỡi ngựa bị gãy chân , những viên bi rạn nứt . Phần lớn những người sẽ ném những món đồ chơi hỏng này vào sọt rác nhưng mẹ lại xem chúng như báu vật . Khi anh em chúng tôi trêu mẹ về việc này , mẹ chỉ nhẹ nhàng lắc đầu và mỉm cười .

" Các con hãy nghĩ đến ngôi nhà cũng có lịch sử riêng của chúng . Phải có con trẻ của ai đó đã từng sống và trưởng thành ở đây " - Mẹ thừơng bảo như thế.

Những món đồ chơi tìm được trong vườn được mẹ lau sạch bùn đất rồi nhẹ nhàng cất vào trong một hộp đựng giầy đặt trên kệ phía trên máy giặt . Năm này sang năm khác , chúng chiếm không gian và bám đầy bụi nhưng mẹ không chịu đem bỏ đi . Mẹ biết rằng có một đứa trẻ đã từng xem những chú lính nhựa , chàng cao bồi , và các viên bi này như là báu vật . Và chỉ riềng điều này cũng khiến chúng đủ tầm quan trọng để được lưu giữ .

Một ngày nọ , có một người lạ trạc tuổi trung tuần đến gõ cửa nhà chúng tôi . Ông tự giới thiệu về mình với chút bối rối

" Tôi lớn khôn từ ngôi nhà này , tôi ra thị trấn vì tang cha và cảm thấy nhớ về quá khứ của mình . Bà có phiền nếu tôi dạo quanh ngôi nhà?" - Ông giải thích.

Mẹ thở dài biểu hiện sự thương cảm và nói :" Tôi tin rằng mình đang giữ một ít đồ vật thuộc về ông ". Nói xong mẹ ra phía sau nhà , mang chiếc hộp và đưa cho người khách lạ . Lấy làm khó hiểu , ông mở nắp rồi thở hắt vì kinh ngạc khi những món đồ chơi thuở bé của mình vẫn còn được giữ gìn cẩn thận . Ngập tràn cảm xúc ùa về từ ký ức , ông lắp bắp cảm ơn trong đôi mắt nhòe lệ.

Mẹ mỉm cười . Mẹ luôn hiểu rằng sớm hay muộn , những kho báu trong khu vườn sẽ lại được cần đến . Như những hạt giống ngủ quên , ký ức nằm trong món đồ chơi chỉ chờ đúng lúc để đâm chồi.

Không bao giờ nói không thể

Thật khó mà có thể mà diễn tả được cái mốc trong cuộc đời tôi khi mà tôi khao khát được trở thành một giáo viên hơn bao giờ hết . Lúc còn nhỏ , tôi hay chơi trò dạy học với người em họ và những người bản của tôi với ước mơ sau này sẽ là một giáo viên. Nhưng tôi không nhận ra được rằng ước mơ của tôi hồi còn nhỏ muốn thực hiện được rất khó và phải tốn nhiều tiền . Tôi xuất thân từ tầng lớp trung lưu , và điều này chính là cái khó của tôi . Ước mơ được học trường đại học Coneticut trở nên xa vời , nhưng tôi đã không ngồi yên chờ đợi sự sắp đặt của số phận

Khi tôi bắt đầu học lớp 12 , tôi đã nộp đơn vào các trường đại học và cao đẳng , nhưng trong thâm tâm tôi thì trường đại học Coneticut vẫn là số một . Nhưng có một bức rào lớn giữa tôi và giấc mơ của tôi - đó là thiếu hụt về nguồn tài chính

Lúc đầu , tôi đã từ bỏ giấc mơ đó. Tôi nghĩ , ai sẽ cho tôi - một nữ sinh trung học - một số tiền lớn để học đại học ? Tôi không phải là người giỏi nhất trong lớp tôi ; nhưng con tim đã mách bảo rằng tôi đang đi đúng hướng và tôi phải cố gắng chứng minh điều đó . Tôi biết rằng học bổng chỉ dành cho những người thật sự thông minh ( đó là điều tôi nghĩ ) . Tôi đã nộp đơn xin hầu hết cá loại học bổng mà tôi có thể thi . Và rồi đồng thời người tư vấn hướng dẫn tôi nộp đơn xin trợ cấp từ hệ thống hỗ trọ tài chính của trường

Sau kì nghỉ lễ , các bạn tôi đều nhận được giấy chấp nhận (đơn xin nhập học mà chúng tôi nộp hồi đầu lớp 12) từ càc trường cao đẳng , đại học , tôi cũng háo hức chờ đợi thơ trả lời của mình . Cuối cùng thì cũng có một lá thơ từ trường đại học Coneticut gửi đến. Một cảm giác sợ hãi và một niềm vui tràn ngập trong tôi, nhưng tôi đã sẵn sàng. Tôi mở phong thư ra với bàn tay hoi run; TÔI ĐÃ LÀM ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ ! Tôi đã đuợc trường Conetticut chấp nhận đơn nhập học của mình! Tôi khóc một lúc, vừa cảm thấy vui vừa sợ. Tôi đã học rất chăm chỉ để có thể được chấp nhận; Nếu tôi bị từ chối chỉ vì vấn đề tài chánh của tôi thi...?

Tôi đang có một công việc để làm , nhưng rõ ràng nó không đủ để tôi trả tiền học phí. Tôi là người đầu tiên tron gia đình được một trường ĐH chấp nhận học; và tôi biết cha mẹ tôi tự hào về tôi như thế nào , nhưng điều đó là không thể đối vớii cha mẹ tôi về vấn đề học phí. Tuy nhiên, cha mẹ tôi là người có hoài bão , và họ đã dạy tôi đừng bao giờ từ bỏ ước mơ của mình , bất chấp những trở lực mà tôi gặp phải , và đừng bao giờ đánh mất những gì mà mình thật sự muốn có được trong cuộc sống. Cha mẹ tôi đã đúng, và tôi tiếp tục tin tưởng vào cả bản thân tôi và ước mơ của tôi

Vài tháng sau, tôi nghe có tin tức từ văn phòng hỗ trợ tài chính . Tôi cho là chắc mình không đủ tiêu chuẫn để đươc hỗ trợ, nhưng tôi vẫn chưa từ bỏ hy vọng. Cuối cùng có một lá thư đến . Tôi mở ra một cách vui mừng nhưng đó chỉ là một lá thư báo, trong thư yêu cầu gửi thêm một số thông tin của tôi để tiến hành việc xét đơn . Điều này cứ xãy ra lặp đi lặp lại , và hy vọng của tôi dường như đã khép lại. Cuối cùng, một phong thư to lớn được gửi cho tôi. Tôi biết, đây là thư xác định tôi có hay không được học ĐH. tôi mở bao thư ra và thật khó hiểu về những giấy tờ trong đó có nghĩa gì?

Vài ngày sau, tôi mang đống giấy tờ đó tới trường và hỏi người tư vấn xem qua nhưng giấy tờ đó. Ông ta nhìn tôi với một nụ cười thật to trên gương mặt ông ta và nói với tôi rằng tôi không những được hệ thống hỗ trợ tài chánh của trường giúp đỡ về các chi phí mà tôi còn đạt được 2 học bỗng mà tôi đã từng tham gia. Thoạt đầu, tôi thật sự là hơi bị sốc, và rồi tôi đã khóc. Tôi đã biến ước mơ thành sự thật.

Bây giờ tôi đã là sinh viên năm một trường ĐH Coneticut. Với sự bắt đầu của một thiên niên kỉ mới , ước mơ của tôi đã thành hiện thực.Tôi sẽ trở thành một giáo viên.

Tôi sống bởi câu nói :" Trên bầu trời có vô số những vì sao, nếu muốn là một trong những vì sao đó bạn cần có ước mơ và sự nỗ lực của bản thân " .

Luôn có mặt ở đó

    "Ngày 12 tháng 8"- Họ thông báo ngày cưới. Và Louis- với nụ cười đặc trưng và cái nháy mắt- nói thêm: "Ngày 12 của không bao giờ". Là một người bạn lâu năm của cô dâu chú rể tương lai, tôi hiểu cái ẩn ý trong câu nói của Louis. Với Louis, anh ta đã chờ đợi 7 năm nay, 7 năm mà tưởng như không bao giờ được cả!

    Giấc mơ của Louis bắt dầu vào mùa hè nóng nực của năm 1954. Khi đó gia đình Morris chuyển đến gắn nhà Louis. Ngay buổi chiều chủ nhật khi đến thành phố mới này, Melissa Morris đã được người bạn trai chở đi xem qua một vòng thành phố. Khi họ chạy xe ngang nhà Louis, cô Melissa đã vẫy tay chào anh, lúc đó anh đang làm việc trong sân nhà. Hìnhh ảnh cô gái trẻ, tươi tắn lướt nhanh trên đường đã để lại một ấn tượng không phai mờ trong ký ức anh Louis. Việc cô có bạn trai chẳng hề hấn gì cả! Đấy chính là tiếng sét ái tình"- dù từ một khoảng cách xa.

    "Chính nụ cười duyên dáng của cô ấy", Louis cho biết. Chính trong giây phút lướt nhanh đó, nụ cười rạng rỡ của Melissa đã hớp hồn anh. Theo lời anh kể thì sau đó anh đã chạy vào nhà và tuyên bố với mẹ: "Con không biết cô ta là ai; nhưng con biết đây là cô gái con sẽ cưới".

    Thật thế, từ hôm đó trở đi, Melissa là người duy nhất có thể làm Louis vui lên. Có điều, Melissa chẳng hề động lòng dù Louis đã hết sức dịu dàng, hết sức cố gắng. Tuy vậy, Louis vẫn kiên nhẫn có mặt "ở đó" trong suốt nhiều năm.

    "Ở đó", nghĩa là ngồi bên luống hoa dưới cửa sổ phòng ngủ của Melissa mỗi đêm khuya. Louis thường chỉ đến thăm cô bên luống hoa khi cô trở về nhà sau buổi đi chơi tối, dĩ nhiên cô đi với một trong hàng tá bạn trai đeo đuổi cô. Kiên trì và chai lì, Louis dần dần được mọi người biết đến như là một người bạn luôn có mặt bên cô trên từng cây số. Những cánh hồng đỏ thắm có cuống dài dần bị nhổ hết- mỗi lần một cánh hồng. Louis chọn hồng đỏ thắm có cuống dài để tặng cô Melissa, vì anh muốn nhờ cánh hồng nói thay tình yêu vô bờ anh dành cho cô. Anh là khách thường xuyên của tiệm hoa nên dần dần anh và cô bán hoa trong tiệm trở thành bạn thân lúc nào không biết. Ngày nào Louis cũng gửi hoa tặng cô và kèm theo là một bài thơ do chính anh sáng tác. Louis thích chọn cách này để ngắm báo cho cô biết rằng anh luôn "ở đó".

    Lúc ấy qui định của gia đình Morris khá nghiêm khắc nên ít nhiều cũng cản trở "bước tiến" của anh. Cha mẹ cô yêu cầu cô không được hẹn đi chơi liên tiếp hai ngày với cùng một người đeo đuổi. Do đó, Louis phải kiên nhẫn chờ đến lượt mình. Mặc dù ngày ngày chứng kiến cảnh Melissa đi chơi với những thanh niên khác, (số thanh niên này cũng là những người ngưỡng mộ cô) lòng anh rất đau khổ nhưng đau khổ hơn cả không phải chỉ có thế mà là một sự kiện xảy ra vào mùa xuân năm anh học năm thứ tư Đại học. Lần đó Melissa đã nhận lời đính hôn- nhưng không phải của anh mà là của một người khác! Melissa và Ernie yêu nhau và họ dự định đám cưới vào tháng 12 năm đó.

    Nhưng một tai nạn xảy ra vào tháng 10 đã làm đổi thay tất cả. May mắn thay Melissa sống sót sau vụ tai nạn với những vết rách da nghiêm trọng và các đốt xương bị gãy. Còn Ernie thì qua đời ba ngày sau đó, tất cả kế hoạch và giấc mơ tốt đẹp của họ đành tan thành mây khói.

    Louis có mặt "ở đó" để an ủi Melissa trong khi gia đình và bạn bè cô dự đám tang của Ernie ở San Antonio. Louis kịp thời có mặt để động viên cô cố gắng vượt qua những ca phẫu thuật lẫn điều trị kéo dài và đau đớn cả về thể xác lẫn tình cảm.

    Sau đó nhiều năm, một sự kiện khác đã làm hoãn giấc mơ cưới Melissa, một giấc mơ mà Louis ấp ủ từ bấy lâu nay. Nguyên do là vì chương trình học quá nặng nề ở trường Y đã buộc anh phải học tập chăm chỉ và làm việc cật lực hơn, hơn nữa anh còn phải viết thư gửi kèm hoa hồng tặng nàng kia mà!

    Vào một sáng thứ bảy mùa thu năm 1960, hai vợ chồng tôi rất ngạc nhiên khi người hàng xóm mới dọn đến gõ cửa nhà tôi. Chúng tôi ngỡ Melissa đến thăm và cùng đi coi bóng đá, nào có ngờ đâu đó là bức điện Louis gửi đến báo tin mừng, do bưu điện mang đến.

    Chờ Melissa đến, tôi đưa cô bức thư Louis vừa gửi và nhìn xem phản ứng cô thế nào. Trên gương mặt cô ánh lên một niềm vui và xúc động. Cuối cùng, chàng sinh viên khoa y có tài làm thơ đã chiến thắng. Sau bao năm kiên trì, cuối cùng Louis đã gặt hái được thành công. Giấc mơ mà Louis ngày đêm ấp ủ trong suốt bảy năm dài đằng đẵng đã trở thành hiện thực.

    Sau đám cưới, Louis và Melissa dời đến Rochester, thành phố Minnesota vì anh có một clinic tên Mayo chuyên về tâm lý. Trong suốt quá trình làm việc, Louis phát hiện ra rằng các mục sư, khi phải đối mặt với những vấn đề khó khăn mang tính cá nhân, đã không có một chỗ nào có thể giúp họ nghỉ ngơi, hồi phục và động viên họ tiếp bước. Mặt khác, anh còn quan sát và thấy rằng các con chiên ngoan đạo luôn tôn thờ các mục sư và gia đình họ, chính vì vậy các mục sư phải luôn tỏ ra cao siêu, không bệnh tật, không ưu phiền...

    Chính vì được sùng bái như thế mà gia đình các mục sư không thể thừa nhận với mọi người rằng họ đang gặp khó khăn. Nhạy cảm với điều này, Louis luôn cảm thấy rất xúc động khi chứng kiến những dằn vặt trong lòng các vị linh mục đáng kính. Lẽ ra, với tấm bằng bác sĩ trong tay, Louis có thể sống an nhàn với một phòng mạch riêng, nhưng cũng như tình yêu dành cho Melissa, Louis lại có thêm một giấc mơ, một ao ước mới luôn thúc giục anh thực hiện.

    Thế là hai vợ chồng Louis bắt đầu bàn với nhau về dự định mới và họ quyết định thành lập một trung tâm hồi phục sức khỏe cho tất cả các giáo phái, anh Louis hy vọng nơi đây sẽ cung cấp những phương pháp trị liệu tốt nhất và nhanh nhất cho các linh mục gặp khủng hoảng trong cuộc sống. Hai vợ chồng họ đã dám làm điều mà trước đây chưa ai từng dám mơ đến. Có điều, Louis đã học được bài học kiên nhẫn và kiên trì để đeo đuổi mơ ước của mình.

    Ngày nay, bên thung lũng sông Crystal xinh đẹp trong rặng núi Colorado, sừng sững một công trình lớn. Đó chính là nơi Louis biến ước mơ thành hiện thực. Năm 1971, hai vợ chồng Louis đã vượt qua được hết tất cả mọi trở ngại để rồi cuối cùng họ bắt tay xây dựng trung tâm phục hồi sức khỏe. Năm 1977, trung tâm hoàn thành, Marble- tên trung tâm- là trung tâm điều trị tâm lý chủ yếu dành cho các linh mục đã chính thức đi vào hoạt động.

    Hơn 25 năm nay, Louis và Melissa đã điều trị cho hơn 2000 linh mục và vợ các linh mục. Khi họ đến, họ luôn mang theo một trái tim nặng trĩu và những ước mơ đang lụi tàn, đôi khi đó là vì hạnh phúc lứa đôi gặp trục trặc hoặc vì những khó khăn trong cuộc sống khiến họ phải lo lắng, suy nghĩ. Tuy nhiên, khi họ xuất viện, trái tim họ như được hâm nóng lại, họ mang theo niềm hy vọng vào một khởi đầu mới tốt đẹp hơn, họ dám đối mặt và tràn trề hy vọng vào một cuộc sống lứa đôi sẽ được cải thiện theo chiều hướng tốt đẹp hơn và cả những thuận lợi trên đường đời.

    Bản thân Louis cũng đã ấp ủ một ước mơ rất lâu để rồi bây giờ ước mơ đó mới thành hiện thực. Giờ đây, dù đã trên 60 tuổi, nhưng trông Louis cứ như một thanh niên đang yêu, nghĩa là ông vô cùng nhiệt tình. Ông làm tất cả để đeo đuổi cho kỳ được ước mơ của mình dù rằng đôi khi ông chẳng thể làm được gì cả ngoại trừ đứng "ở đó". Và 36 năm nay, Louis và Melissa đã luôn có mặt "ở đó" vì người khác- họ truyền cảm hứng cho mọi người theo đuổi đến cùng ước mơ, nguyện vọng của họ.

Mảnh gương nhỏ

Vào cuối buổi diễn thuyết, nhà hiền triết hỏi trong số những người tham dự có ai muốn đặt câu hỏi gì với ông không. Fulghum lên tiếng hỏi nhà hiền triết ý nghĩa của cuộc đời là gì. Mọi người tham dự đều bàn tán xôn xao vì cho đó là câu hỏi lớn, khó có thể trả lời được. Nhà hiền triết ra hiệu cho mọi người yên lặng và đáp: “Ta sẽ trả lời câu hỏi thú vị đó”. Ông lấy trong người ra một cái túi nhỏ. Từ trong túi ông lấy ra một mảnh gương tròn nhỏ. Sau đó ông giải thích:

"Lúc tôi còn là một đứa trẻ, gia đình tôi rất nghèo khổ và sống trong một ngôi làng xa xôi hẻo lánh. Một ngày nọ tôi thấy nhiều mảnh vỡ của một cái gương lớn trên đường đi vào làng. Tôi cố tìm xung quanh tất cả những mảnh vỡ để ghép chúng lại với nhau. Nhưng tôi không thể tìm được đầy đủ những mảnh gương bởi nhiều mảnh đã vỡ nát. Vì vậy tôi chỉ giữ lại một mảnh gương lớn nhất. Chính là mảnh gương này đây. Tôi đã mài nó thành chiếc gương tròn nhỏ. chiếc gương đã trở thành một đồ chơi mà tôi ưa thích. Tôi dùng nó để phản chiếu ánh sáng mặt trời vào những nơi tối tăm, những nơi mà mặt trời không thể chiếu vào được. Tôi luôn giữ chiếc gương bên mình và lớn lên cùng trò chơi phản chiếu ánh sáng đó…Khi đã là một người đàn ông trưởng thành, tôi nhận ra rằng đây không chỉ là một trò chơi của trẻ con mà còn là một triết lý về những gì tôi có thể làm trong cuộc đời này. Tôi hiểu mình không phải là ánh sáng hoặc nguồn sáng. Nhưng ánh sáng thì thực tế tồn tại và nó sẽ soi sáng vào những nơi tăm tối nếu tôi phản chiếu nó. Tôi là một mảnh vỡ của chiếc gương lớn mà tôi không biết kiểu dáng của toàn bộ cái gương ra sao. Tuy nhiên, với những gì mà tôi có, tôi có thể chiếu ánh sáng vào những nơi tăm tối của cuộc đời này, vào những nơi tăm tối của trái tim con người và làm thay đổi một vài điều gì đó cho họ. mỗi người chúng ta là một chiếc gương nhỏ. Những gia đình nghèo khổ, những người lầm đường lạc lối, những số phận đáng thương…Đó là những nơi tăm tối trong cuộc sống. Có thể nhiều người nhận ra những gì đang xảy ra và sẽ làm những điều tương tự như tôi. Đây chính là ý nghĩa của cuộc đời mà tôi muốn chia sẻ với các bạn".

Món quà

Có một chàng trai bị bệnh ung thư. Chàng mới 19 tuổi, nhưng có thể chết bất kì lúc nào vì căn bệnh quái ác này. Suốt ngày, chàng trai phải nằm trong nhà, được sự chăm sóc cẩn thận đến nghiêm ngặt của bố mẹ. Do đó, chàng trai luôn mong ước được ra ngoài chơi, dù chỉ một lúc cũng được.

Sau rất nhiều lần năn nỉ, bố mẹ cậu cũng đồng ý. Chàng trai đi dọc theo con phố- con phố nhà mình mà vô cùng mới mẻ- từ cưả hàng này sang cửa hàng khác. Khi đi qua một cưả hàng bán CD nhạc, chàng trai nhìn qua cưả kính và thấy một cô gái. Cô gái rất xinh đẹp với một nụ cười hiền lành.- và chàng trai biết đó là "tình yêu từ ánh mắt đầu tiên". Chàng trai vào cưả hàng và lại gần bàn cô gái đang ngồiCô gái ngẩng lên hỏi :

- Tôi có thể giúp gì được cho anh ?

Cô gái mỉm cười, và đó là nụ cười đẹp nhất mà chàng trai từng thấy.

- Ơ...chàng trai lúng túng.

- Tôi muốn mua một CD...

Chàng chỉ bừa một cái CD trên giá rồi trả tiền.

- Anh có cần tôi gói lại không ? Cô gái hỏi, và lại mỉm cười.

Khi chàng gật đầu, cô gái đem chiếc CD vào trong.

Khi cô gái quay lại với chiếc CD đã được gói cẩn thận, chàng trai tần ngần cầm lấy và đi về.

Từ hôm đó, ngày nào chàng trai cũng tới cưả hàng, mua một chiếc CD và cô gái bán hàng lại gói cho anh.

Những chiếc Cd đó, cháng đem về nhà và cất ngay vào tủ. Anh rất ngại, không dám hỏi tên hay làm quen với cô gái.

Nhưng cuối cùng, mẹ anh cũng phát hiện ra việc này và khuyên anh cứ nên làm quen với cô gái xinh đẹp kia.

Ngày hôm sau, lấy hết can đảm, chàng trai lại đến cưả hàng bán CD, rồi khi cô gái đem chiếc CD vào trong để gói, anh đã để một mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của mình lên bàn.

Rồi anh cầm chiếc CD đã được gói- như tất cả mọi ngày- đem về.

Vài ngày sau...

Reeeeeeeeeeeeeeng !!!.

Mẹ chàng trai nhấc điện thoại :- " Alô ? "

- Cháu không biết sao ? Nó đã mất rồi...hôm qua...

Im lặng một lúc. Cô gái xin lỗi, chia buồn rồi đặt máy.

Chiều hôm ấy, bà mẹ vào phòng cậu con trai.

Bà muốn sắp xếp lại quần áo cuả cậu, nên đã mở cưả tủ.

Bà sững người khi nhìn thấy hàng chồng, hàng chồng CD được gói bọc cẩn thận, chưa hề được mở.

Bà mẹ rất ngạc nhiên, cầm một cái lên, mở ra xem.

Bên trong lớp giấy bọc là một chiếc CD cùng với một mảnh giấy ghi : " chào anh, anh dễ thương lắm-Jacelyn"

Bà mẹ mở thêm một cái nưã.

Lại thêm một mảnh giấy ghi : " chào anh, anh khoẻ không ? Mình làm bạn nhé ?- Jacelyn"

Một cái nữa, thêm nữa... trong mỗi cái CD là một mảnh giấy.....

Món quà cho chú Charlie.

    Một mùa hè cách đây đã 33 năm. Bọn chúng tôi là một nhóm bạn khắng khít thường tụ tập lại để đón chuyến xe buổi sáng (loại xe đi vé tháng). Với bộ mặt còn ngái ngủ, bọn tôi ra đón xe, ai cũng muốn thu mình lại trong mấy lớp áo. Một đám người ủ rũ, câm lặng, không ai nói với ai tiếng nào.

    Lẫn vào trong bọn tôi là một người đàn ông nhỏ thó, tóc đã hoa râm, vẫn theo xe mỗi ngày đến trung tâm điều dưỡng dành cho người lớn tuổi. Chậm chạp và buồn bã, khó khăn lắm ông mới leo lên được xe buýt, rồi ngồi một mình đằng sau bác tài xế. Chẳng ai buồn để ý đến ông.

    Thế rồi một buổi sáng thứ bảy, ông mở lời chào bác tài xế rồi quay về phía chúng tôi, nở nụ cười qua đôi kính cận trước khi trở về chỗ của mình. Bác tài xế thờ ơ gật đầu đáp lại. Còn cả bọn chúng tôi thì vẫn ngồi im lặng.

    Ngày hôm sau, ông bước lên xe bằng một cú nhảy như trời giáng. Ông lại cười và nói lớn: "Chúc các bạn một buổi sáng tốt lành". Giật mình vì câu nói của ông, vài người trong chúng tôi làu bàu trả lời: "Chào".

    Mấy tuần sau, lũ chúng tôi trông ai cũng tươi tỉnh hẳn lên. Ông bạn thân yêu của chúng tôi cũng bắt đầu mặc bộ đồ veste màu nho chín với một chiếc cà vạt to bản đã lỗi thời, đầu tóc vốn không dày lắm nay đã chải gọn gàng. Ngày lại ngày, ông vui vẻ chào hỏi chúng tôi và chúng tôi cũng bắt đầu chào hỏi và nói chuyện với nhau.

    Một buổi sáng, ông mang đến một bó hoa dại đã héo khô. Bác tài xế cười ghẹo: "Charlie, có bồ rồi hả?". Không biết Charlie có phải là tên của ông không, nhưng ông vẫn ngượng nghịu gật đầu và trả lời có.

    Một người đàn ông khác trên xe có phong cách nói chuyện khá thô lỗ, huýt gió và vỗ tay để trêu chọc ông. Charlie cuối đầu, sắp lại vài cành hoa và ngồi vào ghế của mình.

    Từ đó trở đi, cứ mỗi sáng, Charlie lại mang đến một cành hoa. Một vài người khách quen trên xe cũng bắt đầu mang hoa tươi theo để bỏ thêm vào giỏ hoa của ông. Họ trao cho ông, vừa trìu mến vừa thẹn thùng: "Hoa cho bác này". Mọi người hân hoan mỉm cười bắt chuyện với nhau, và kể cho nhau nghe những mẩu chuyện mà họ vừa đọc được trên báo.

    Mùa hè chuyển dần sang mùa đông. Rồi một sáng Charlie không đến bến xe buýt nữa. Đến ngày thứ hai rồi ngày thứ ba, ông vẫn không đến, chúng tôi bán tín bán nghi đoán rằng ông bị ốm, hoặc đang đi nghỉ hè. Thứ sáu khi chúng tôi đến trung tâm điều dưỡng của ông, một trong những người thường lui tới nơi đó bảo bác tài xế ngồi đợi. Tất cả chúng tôi đều nín thở khi bác tài xế vào phòng đợi.

    Đúng! Họ có biết người đàn ông mà bác tài xế muốn hỏi. Day chính là tên của ông, ông vẫn bình yên nhưng một tuần qua ông không đến trung tâm. Một người bạn thân của ông đã mất từ tuần trước. Tât cả mọi người ở trung tâm đều nghĩ là thứ hai tuần sau ông sẽ đi làm trở lại. Suốt chặng đường hôm ấy, tất cả mọi người đều im lặng.

    Ngày thứ hai, Charlie của chúng tôi lại đến đợi ở bến xe. hình như lưng của ông đã chùng xuống một ít, mái tóc đã có thêm vài sợi bạc, còn cổ áo không thắt cà vạt nữa. Dường như ông đã thu mình lại như một "Charlie buồn rầu" trước kia. Cả toa xe im lặng như một thánh đường. mặc dù chẳng ai hẹn ai, tất cả mọi người trong chúng tôi- những người mà tâm hồn sẽ mãi mãi bị lay động nởi người đàn ông ngồi buồn bã với đôi mắt đẫm lệ trong buổi chiều hè hôm ấy- đều mang theo một đóa hoa dại cho ông. Đó chính là món quà ý nghĩa nhất mà chúng tôi có để dành cho Charlie.

    Jean M. Hendrickson.

Một bài học

    Cô bé rất lấy làm ngạc nhiên vì người cha không chịu vứt bỏ chiếc xe cũ trong garage nhà mình. Nhà họ rất giàu, có 2, 3 chiếc xe hơi đời mới. Thế mà chiếc xe cũ vẫn nằm đó qua bao nhiêu năm. Chiếc xe có chỗ móp ngay cửa trước. Một hôm cô bé hỏi cha mình :

    - Ba ơi, tại sao ba không vứt chiếc xe cũ hay là bán nó đi hả ba?

    Người cha đáp :

    - Con ơi, đó là một vật kỷ niệm và là một bài học cho ta.

    - Một bài học? - cô bé thắc mắc.

    - Ðúng vậy, này ta kể cho con nghe nhé. Một hôm từ khi con chưa sinh ra đời, lúc đó ta vừa mua chiếc xe đời mới nhất này và làm một chuyến đi xa đầu tiên. Ta đang chạy trên đường thì bỗng nghe có vật gì đập mạnh vào cửa trước. Ta vội dừng xe và bước xuống kiểm tra. Ta thấy một móp ngay cửa trước và cách đó không xa có một cô bé trạc tuổi con bây giờ đang giơ tay vẫy bên đường. Cạnh cô có một chiếc xe lăn và một cô bé khác đang ngồi dưới đất. Ta giận vô cùng chạy về phía cô bé và thầm nghĩ: "Xem mày có chạy đằng trời". Thế nhưng cô bé không có gì là có vẻ muốn chạy trốn. Khi ta đến gần, cô bé nói :

-    Chú ơi! Xin chú tha lỗi cho cháu, xin chú đừng giận. Chính cháu đã ném viên sỏi vì có như thế chú mới dừng lại. Cháu buộc phải làm thế vì cháu ra dấu dừng xe đã 3 tiếng đồng hồ mà không ai dừng xe giúp cháu nâng em cháu lên xe lăn. Cháu yếu quá không nâng em nổi. Chúng cháu bị trượt té.Ta ngẩn người ra và vội giúp cô bé nâng em nó lên đặt vào xe lăn. Trên đường về ta cứ mải suy nghĩ. Sao không ai chịu dừng lại thế? Con có hiểu bài học không?

Một bài học quý giá hơn

    Dịu dàng, thân thiện, quyến rũ, thông minh. Đấy là tóm lượt những tính cách của Julie, cô là một trong những học sinh chính quy mà tôi rất thương ở lớp phát triển nhân cách thuộc trường Đại học Nebraska.

    Julie là một học sinh vui tính và chăm chỉ. Tôi nhớ vào một ngày của mùa thu 1976, Julie đã bước lên trước lớp sau giờ học để hỏi tôi những thắc mắc cho kỳ thi tuần sau, trong khi đó các bạn bè cô thì vội vã rời khỏi lớp học để đi dạo và hít thở khí trời mùa thu dịu êm. Rõ ràng cô bé đã học tập rất nghiêm túc. Một số sinh viên khác nghe cô đặt câu hỏi với tôi cũng đã ở lại và tham gia vào câu chuyện của chúng tôi. Cá tính vui vẻ và lối nói chuyện quyến rũ của cô bé đã dành được cảm tình của rất nhiều người. Nhưng, Julie chẳng bao giờ có mặt để tham gia dự kì thi được nữa. Ngay sau ngày cô hỏi bài tôi, Julie đã bị một xe tải chở bê tông đụng phải khi cô đạp xe qua ngã tư. Tôi sửng sốt khi hay tin Julie đã nằm bất tỉnh trong bệnh viện gần trường, vậy mà chỉ cách đây vài giờ đồng hồ, cô còn trò chuyện, cuời đùa và bàn về những kế hoạch trong tương lai với bạn bè kia đấy? Mấy phút trước khi xảy ra tai nạn, Julie đã gọi điện thoại cho mẹ. Đây là thói quen hằng ngày của cô. Mẹ cô kể lại cuộc nói chuyện cuối cùng đó: Julie đã kể cho tôi biết rằng nó đã thấy một bộ đồ rất dễ thương trong một tiệm gần trường. Tôi đã bảo nó nếu thích thì cứ mua đi. Và nó quyết định đạp xe đạp đến tiệm vì nó bảo nếu nó lái xe hơi đến thì lát nữa quay về nó sẽ không có chỗ đậu xe. Và tai nạn xảy ra gần khu ký túc xá nữ mà nó đang ở. Khi hay tin tai nạn xảy ra với cô học trò cưng, trong đầu tôi như có tiếng gào: "Em không thể chết được Julie! Em là niềm mơ ước và tự hào của biết bao thầy cô và các bậc cha mẹ. Em sẽ còn được ban tặng nhiều thứ".

    Các y tá lặng lẽ ra vô phòng Julie, cha mẹ cô đứng chết lặng phía ngoài phòng cấp cứu. Rồi một bác sĩ phụ trách chính ca cấp cứu của Julie bước đến bên cha mẹ Julie, ông hắng giọng và nói với gia đình em: "Julie của quý vị khó qua khỏi. Còn vài tiếng nữa thôi!" Rồi sau đó ông hỏi một cách nhẹ nhàng: "Liệu gia đình có muốn hiến một số cơ quan của Julie không ạ ?"

    Cũng vào lúc này ở một bang lân cận, cô Mary đang nhường người ra phía trước, cô cố đưa mắt nhìn vào bên trong căn phòng nhỏ hơi bừa bộn, cô dõi mắt theo dõi từng cử động nhỏ của đứa con lên hai tuổi. Cô đang cố ghi nhớ mọi thứ để sau này khi hoàn toàn bị mù rồi cô vẫn còn có cái để mà hồi tưởng. Đôi mắt cô Mary sắp hỏng hoàn toàn. Và cách đó không xa, anh John đã trải qua gắn 6 giờ đồng hồ bên máy lọc máu. Anh đang đọc truyện cho hai đứa con trai nghe trong khi cơ thể bất động của anh được nối với một quả thận nhân tạo có chức năng duy trì sự sống cho anh. Và các bác sĩ đưa ra lời tiên đoán không lấy gì làm khả quan rằng: "Anh chỉ còn có mấy tuần thôi". Lúc này niềm hy vọng duy nhất của gia đình anh là một cuộc cấy ghép thận.

    Trong khi đó tại bệnh viện Lincoln Nebraska, Cha mẹ Julie đang đau khổ vì sắp mất con nhưng họ vẫn suy nghĩ nghiêm túc về lời đề nghị của bác sĩ. Họ nhớ lại có lần đứa con gái có nước da ngăn đen và đôi mắt nâu của họ đã từng bộc lộ rằng nó muốn được hiến tặng cơ thể cho khoa học nữ nếu một ngày kia nó phải chết. Họ yên lặng trao ánh mắt cho nhau, trong mắt họ ánh lên nỗi đau đớn tột cùng. Và rồi họ quay sang bác sĩ và nói: "Vâng, Julie luôn giúp đỡ mọi người khi nó sống. Chắc chắn nó cũng muốn làm thế khi chết".

    Chỉ 24 tiếng động hồ sau, May được thông báo cô sẽ nhận được đôi mắt của Julie và anh John sẽ nhận quả thận của Julie. Còn những bộ phận khác sẽ mang lại cuộc sống và ánh sáng cho những bệnh nhân đang xếp hàng chờ. Julie qua đời ngay sau buổi tiệc sinh nhật lần thứ 20. Vậy mà đã 24 năm rồi. Con bé ra đi và để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong chúng tối. Mẹ Julie, giờ đã 70 tuổi, tâm sự với tôi: "Không có cái gì - quả thật chẳng có gì- đau đớn bằng khi con bạn ra đi. Trái tim của bậc làm cha làm mẹ cứ mãi nhói đau mỗi khi ngày sinh nhật của con đến, mỗi khi mùa hè đến. Và tim chúng tôi quặn thắt lên cả ở từng mốc thời gian quan trọng của con: năm con bé lẽ ra sẽ tốt nghiệp đại học, năm con bé lẽ ra sẽ kết hôn, lẽ ra con bé sẽ có con". Bà dừng lại, hít một hơi thở sâu và nói tiếp: "Mỗi lần nhớ lại rằng Julie đã đem lại ánh sáng và sự sống cho nhiều người khác, điều đó đã xoa dịu phần nào nỗi đau trong chúng tôi." Giọng bà lạc hẳn đi, nhưng bà vẫn tiếp: "Thầy và các bạn bè khác của Julie đều là những người rất quan trọng đối với nó. Những bài giảng của thầy đã tác động mạnh mẽ đến con bé và chính thầy cũng luôn nhắc nhở chúng tôi nhớ rằng tình cảm mình dành cho con và tình cảm Julie dành cho mọi người vẫn còn sống mãi”.

    Là một trong những giáo viên ở bậc đại học của Julie, tôi tin rằng mình cũng đã đóng góp một phần nhỏ trong việc dạy dỗ Julie nên người - từ cách cư xử đến cách sống. Nhưng ngược lại, cô bé và gia đình cô bé đã dạy tôi một bài học quý giá hơn: đón nhận cái chết như thế nào.

  Một câu chuyện đẹp

Đây là một câu chuyện mà mẹ Teresa kể lại trước khi mẹ đi vào thế giới vĩnh hằng.

    Khi tôi dám nhận một người từ hè phố, họ đói, tôi cho họ bánh mì. Nhưng một người đang cảm thấy chán nản, cô đơn, mặc cảm, lại là người muốn bước ra hè phố. Đó là một người thiếu nghị lực. Nghèo về tinh thần là điều khó khăn hơn để vượt qua những ngịch cảnh của cuộc đời.

    Có thể những người nghèo không của cải, nhưng họ lại thấy cuộc đời đầy thú vị và ấm áp biết bao.

    Một buổi tối nọ, tôi ra ngoài và đón nhận bốn người ăn xin, một trong số họ đang trong tình trạng nguy kịch. Tôi báo với người cùng đi là hãy chăm sóc ba người kia, còn tôi sẽ mang người đó về nhà, đặt lên giường, nhưng mắt người đó đã nhắm nghiền, tuy vậy nụ cười vẫn trên môi, nắm lấy bàn tay tôi và cô ta thốt lên “cảm ơn”, sau đó nhắm mắt và ra đi vĩnh viễn. Tôi không thể làm gì hơn nhưng tự hỏi lòng mình: “Tôi sẽ nói gì nếu như tôi trong tình trạng giống như cô ta?”. Và tôi cũng tự trả lời rất đơn giản: “Tôi sẽ phải cố gắng làm mọi cách để mọi người chú ý đến mình và cho tôi ăn, tôi sẽ nói tôi lạnh, đau đớn…”.

    Nhưng cô ta đã cho tôi thấy nhiều hơn nữa, đó là tình yêu, sự cảm kích của mình. Cô ta chết với một nụ cười sung sướng.

    Sau đó, có lần tôi đón nhận một người đàn ông từ một ống cống, nửa người của anh ta đã bị ruồi nhặng phá hoại. Sau khi mang anh ta về nhà, anh ta chỉ nói: “Tôi đã sống như một con thú và tôi sắp chết như một thiên thần, đã được yêu mến và chăm sóc”, sau đó anh chết vẫn với nụ cười trên môi.

    Điều đó quả thật tuyệt vời, anh ta đã không đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho bất cứ ai hay so sánh với điều gì. Như một thiên thần - giàu có về lòng thương, tình nhân ái ngay cả khi nghèo khổ về của cải.

Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.

Cuộc sống rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.

Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.

Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.

Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.

Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.

Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.

Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vượt qua nó.

Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.

Cuộc sống như một bí ẩn, hãy khám phá nó.

Cuộc sống như một cuộc tranh đấu, hãy chấp nhận nó.

Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.

Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.

Và cuộc sống vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá huỷ nó.

Một câu nói dịu dàng

    Đây là câu chuyện mà tôi được một nhà tỷ phú kể cho nghe.

     "Nhiều năm về trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là Jim luôn lẫn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẫn tránh, người ta càng nghi ngờ cậu.

    Tài sản duy nhất của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẫn tránh mọi người như chủ nó. Jim không đối xử thô lỗ với Tige nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì để trút đi mọi nỗi uất ức.

    Một hôm, Jim thấy cô gái phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.

    - Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt - Cô gái cười và xoa đầu Jim.

    Jim hoàn toàn sốc. Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.

    ... Jim huýt sáo gọi Tige, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng.. Jim ngồi xuống cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: "Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt !"... Jim cười một mình. Rồi cậu gọi: "Đến đây Tige !". Tige chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và nói: "Cảm ơn mày ! Mày thật là tốt !".

    Tige rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẩy lia lịa. "Đến con chó cũng thích nghe nói dịu dàng !". Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: cảm giác tự trọng.

    Từ khoảng khắc đó, cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để xứng đáng với những lời nói dịu dàng".

    Ngưng một lát, nhà tỷ phú tiếp tục nói: "Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị có thể thấy chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế".

Một đồng bạc

Hằng ngàyđi làm , anh đều đi ngang qua 1 khu chợ sầm uất . Một hôm trên đường đi làm , anh chợt nhớ dây đồng hồ của mình bị lỏng vì cái khóa hỏng chốt . Chiêc đồng hồ này vợ anh mua tặng anh lúc mới cưới . Nó đáng giá những 1000 nhân dân tệ , nên không thể để rơi mất chỉ vì cái khóa hỏng .

Hôm ấy , anh rời khỏi nhà sớm hơn thường lệ để tới quầy sửa đồng hồ ngoài chợ . Ngồi dưới mái hiên là 1 cụ già tóc đã bạc trắng , dường như là 1 thợ sửa đồng hồ đã nghỉ hưu . Bất kể mưa hay nắng , ông cụ đều ngồi ở đó . Khách hàng của cụ đa phần đều là những người đa lớn tuổi . Dấu vết thời gian đã để lại nhiều nếp nhăn trên khuôn mặt khắc khổ của ông cụ sửa đồng hồ .

Anh nói vắn tắt yêu cầu , ông thợ vừa nghe vừa cúi tìm cái chốt thích hợp . Cụ nói :

- Cái đồng hồ này rất tốt đây !

- Vâng , đúng đấy ạ ! Anh đáp lời.

Phải 1 lúc ông cụ mới tìm được cái khóa . Nó hơi dài hơn cái cũ 1 chút nhưng giũa đi 1 chút là được . Cụ già nhìn cái đồng hồ và mỉm cười . Chỉ 1 chút sau đã sửa xong , anh đưa tay lấy ví và hỏi :

- Hết bao nhiêu hả cụ ?

- Chỉ thay có cái khóa , hết 1 đồng thôi anh ạ .

Nói rồi ông lại quay sang nhận sửa đồng hồ cho 1 bà khách khác . Anh lấy tiền. Ngoài mấy tờ 100 ra , tờ nhỏ nhất cũng là 50 yên . Anh đưa tờ 50 ra .

- Ái chà , nếu không có tiền lẻ thì thôi vậy . Hôm khác anh lại trả tôi cũng được .

- Vâng , thế cũng được . Cháu làm ngay ở tòa nhà kia , ngày nào cũng đi ngang đây . Mai cháu sẽ trả vậy .

Ngày hôm sau , khi đi qua chỗ sửa đồng hồ , anh không nhìn thấy ông cụ sửa đồng hồ và cũng chẳng có đồng tiền lẻ nào . Anh tự nhủ " Thôi để mai mua báo buổi chiều xong có tiền lẻ rồi sẽ trả sau " . Ngày thứ ba khi đi ngang qua , anh có 1 đồng tiền lẻ song anh lại cần mua báo , vì vậy cũng chưa trả cho ông già . Sau đó , anh đi công tác xa cả nửa tháng . Lúc trở về thời tiết rất oi bức , khó chịu làm anh quên luôn chuyện cái đồng hồ .

Một ngày nọ , khi đi ngang qua khu chợ , anh không thấy ông cụ nữa ma thay thế vào đó la 1 anh thanh niên trẻ trông hao hao ông lão . Có lẽ đó là con trai ông cụ .Trong túi anh hiện đang có 1 đồng tiền lẻ nhưng do ông cụ không có ở đấy nên anh đi qua luôn . Từ đó anh bắt đầu để ý chỗ sửa đồng hồ nhưng liên tiếp trong 3 ngày , anh đều không thấy ông cụ đâu cả .

Vào ngày thứ ba , anh nhận ra là cậu thanh niên cũng chú ý đến anh . Mỗi lần anh đi ngang qua , cậu ta lại nhìn chẳm chằm vào đồng hồ của anh . Chắc là ông bố đã dặn con , dù sao thì anh cũng chưa trả tiền . Ngày thứ tư anh đi qua , cậu thanh niên vẫn chăm chú nhìn vào đồng hồ của anh .

Tới ngày thứ năm , anh dừng lại ở quầy sửa đồng hồ . cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt anh :

- Ông có nhờ cha tôi sửa dây đeo đồng hồ phải không . Anh sững người . Chẳng hiểu ma xui , quỷ khiến thế nào ma anh lại chối phắt .

- Không phải tôi , tôi chưa từng sửa đồng hồ ở đây

- Thế thì thôi vậy!

- Anh thanh niên tiếp tục làm việc

- Tại sao cha cậu không làm việc nữa vậy ? - Cha tôi bị đột quỵ . Ông bị liệt nửa người nên giờ phải nghỉ ở nhà ., không làm việc được nữa .

- Xin lỗi , tôi rất tiếc !

- Cha tôi dặn có 1 ông đeo kính lúc trước tới đây nhờ sửa chốt dây đồng hồ .Cha tôi đã thay cái mới nhưng chưa ưng ý vì sợ dễ tuột dây , làm mất đồng hồ .

- À , ra thế ! Chắc là 1 người khác , không phải tôi !

- Anh cũng không hiểu vì sao mình lại nói dối Buổi chiều khi về nhà , nhớ lại lời anh thanh niên nói , anh đưa tay lên xem đồng hồ thì mới nhận ra rằng nó đã rớt từ lúc nào không hay.

Anh tự nhủ " Ôi , thế này la quả báo đây ! " .

Anh nghĩ tới việc đi ra ngoài tìm chiếc đồng hồ nhưng anh cũng biết rằng : " có tìm chắc cũng không ra . Thôi thì số mất của đành chịu thôi ! "

Một lời khen

    Cách đây đúng 40 năm, tôi còn nhớ như in khi gia đình tôi chuyển từ vùng núi cao bang Chicago tới một khu phố nghèo ở New York để kiếm sống. New York tráng lệ và sôi động, cuộc sống và tất cả những gì được chứng kiến ở đây khiến một đứa trẻ chín tuổi như tôi cảm thấy sợ hãi. Ba tôi đã cố gắng xin cho tôi vào học tại một trường học nhỏ cách nhà không xa.

    Những ngày tháng đầu tiên ở trường mới, tôi hoàn toàn cô độc. Tất cả học sinh đều xa lánh thay vì giúp đỡ tôi hòa nhập. Thậm chí khi tôi chủ động làm quen, chúng bỏ đi, chẳng thèm nhếch mép sau khi đã ném về phía tôi những cái nhìn chế giễu, miệt thị. Vài đứa lớn còn tụ tập lại để bắt nạt tôi.Tôi lờ mờ hiểu rằng ở đây chẳng ai ưa một đứa trẻ da đen con nhà nghèo, gầy gò và quê mùa như tôi cả. Suốt ba tháng, tâm lý sợ hãi và bị bỏ rơi khiến tôi gần như đứng bét lớp, mặc dù chương trình học đối với tôi chẳng khó khăn gì.

    Thế nhưng, sau kỳ nghỉ đông mọi sự đã khác khi thầy Sean tới. Thầy được phân công chủ nhiệm lớp tôi thay cho thầy Paul bị nằm viện. Thầy rất nghiêm khắc, nhưng không nặng lời với bất kỳ ai. Dần dần lớp học trở nên có trật tự hơn, và những rắc rối của tôi cũng giảm đi nhiều. Có một điều tôi cảm thấy được an ủi, đó là thầy Sean cũng là người da đen.

    Một ngày, đó là ngày mà tôi chẳng thể nào quên, khi thầy Sean công bố kết quả thi giữa kỳ. Thầy nhìn khắp cả lớp, từng người một, và khi tới tôi, thầy dừng lại thật lâu làm tôi cảm thấy run sợ. Nhưng rồi thầy vui vẻ nói: “Bài thi này các em làm rất tốt, nhưng luôn có một người làm tốt nhất. Thầy hoan nghênh tất cả các em”. Khỏi phải nói lúc đó tôi vui như thế nào, vì tất cả các lần thấy Paul đọc điểm thi tôi đều bị than phiền.

    Cuối buổi học, thầy nói tôi ở lại. Tôi sợ, rụt rè đến bên thầy, ấp úng: “Thưa thầy…”. “Ồ, Joe, hôm nay em là người làm bài tốt nhất đấy, tuyệt lắm!”. Tôi òa khóc, cái điều mà tôi chưa từng làm từ khi tới đây. Thầy Sean ôm tôi vào lòng: “Đừng sợ, cố gắng lên, có thầy luôn bên em”.

    Những lời của thầy Sean đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Lúc nào trong đầu tôi cũng có hình ảnh của thầy đang cổ vũ cho tôi. Và tôi trở lại là tôi, học sinh xuất sắc nhất lớp vào cuối năm học đó, giống như khi tôi còn ở Chicago.

    Năm sau, thầy Sean lại ra đi khi thầy Paul khoẻ trở lại. Nhưng lúc nào tôi cũng thấy như có thầy ở bên, và năm đó, cũng như những năm về sau, tôi luôn là người đứng đầu lớp. Mãi sau này, khi tôi học đại học, khi tôi bảo vệ luận án tiến sĩ, và ngay giờ đây khi tôi đang đứng giảng bài trước hàng trăm sinh viên của một trường đại học danh tiếng, không khi nào tôi quên được hình bóng thầy.

    Hôm qua, tôi mừng đến phát khóc khi biết được địa chỉ của thầy sau 40 năm xa cách. Tôi đã lái xe một mạch 300km tới thăm người thầy mà tôi kính yêu nhất đời. Gặp lại thầy, tôi bật khóc, những kỷ niệm ngày đó bỗng sống lại như mới. “Ồ, Joe - thầy nói hệt như 40 năm trước– em vẫn yếu đuối như ngày nào”. Tôi lặng người khi nghe thầy kể: “Hôm đó, bài làm em chỉ được điểm B, nhưng em đã cố gắng. Nhìn vào em, thầy thấy lại mình nhiều năm trước. Khi đó, một lời động viên của cô giáo đã giúp thầy vượt qua tất cả. Thầy đã tin rằng em cũng vậy, đó là lý do mà thầy gọi em ở lại hôm ấy. Và thầy không lầm”.

    Một lời khen đúng lúc mới kỳ diệu làm sao.

    Tiến sĩ Joel Bawilley - Đại học bang Michigan, Hoa Kỳ

Một ly sữa

Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền học. Một ngày nọ nhận thấy mình chỉ còn mỗi một hào mà bụng đang đói , cậu định bụng sẽ sang nhà kế bên xin một bữa ăn. Một phụ nữ đẹp ra mở cửa. Bối rối trước cuộc gặp gỡ không hẹn trước này thay vì ăn cậu xin uống. Người phụ nữ đoán ra cậu đang đói và mang đến cho cậu một ly sữa lớn.

Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: “Cháu phải trả cho cô bao nhiêu ạ"

Người phụ nữ trả lời: "Cháu không nợ cô cái gì cả.Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt"

Cậu bé cảm kích đáp : “Cháu sẽ cám ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu”

Khi ra đi cậu cảm thấy khoẻ khoắn hơn và niểm tin của cậu vào con người cũng mãnh liệt hơn.Trước đó cậu gần như muốn đầu hàng trước số phận.

Nhiều năm sau đó người phụ nữ bị ốm nặng . Các bác sĩ địa phương đều bó tay . Họ chuyển bà đến một thành phố lớn và tiến sĩ Howard Kelly được mơi đến tham vấn. Khi ông nghe tên thị trấn nơi người phụ nữ ở , một tia sáng ánh lên trong mắt ông .Ngay lập tức ông khoác áo choàng và đi tới phòng bênh người phụ nữ ở.

Ông nhận ra được ngay ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hôi chuẩn , ông quyết định dốc hết sức để cứu bệnh nhân này.Và cuối cùng nỗ lực của ông đã được đền đáp.

Tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hoá đơn viện phí của ân nhân.Ông viết vài chữ bên lề của tờ hoá đơn và cho chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hoá đơn và biết rằng sẽ phải thanh toán nó hết đời mới xong . Bỗng nhiên có cái gì đó khiến bà chú ý và bà đọc những dòng chữ này:

"Trị giá hoá đơn bằng một ly sữa”

Ký tên :tiến sĩ Howard Kelly

Một vài dòng...

    Nhiều năm về trước, một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của Công ty Dầu lửa đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn 2 triệu đôla. John D. Rockefeller lúc đó là người đứng đầu tập đoàn này. Vào cái ngày đen tối mà tin tức khủng khiếp trên được lan truyền ra, hầu hết các nhân viên và ủy viên khác của công ty đều lo lắng và muốn tránh mặt Rockefeller, không ai muốn bị liên lụy gì.

    Chỉ trừ có một người, đó chính là ủy viên đưa ra quyết định sai lầm kia. Ông ta là Edward T. Bedford. Rockefeller ngay hôm ấy hẹn gặp Bedford và Bedford rất đúng giờ. Ông ta đã sẵn sàng nghe một "bài diễn thuyết" nghiệt ngã từ Rockefeller.

     Khi Bedford bước vào phòng Rockefeller, ông vua dầu lửa đang ngồi cạnh bàn, bân rộn viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rockefeller ngẩng lên.

     - A, anh đấy hả, Bedford?- Rockefeller nói rất bình tĩnh- Tôi nghĩ là anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ?

     Bedford đáp rằng ông đã biết rồi.

     - Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này- Rockefeller nói- Và trước khi tôi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng. Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rockefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã "viết vài dòng" là: "Những ưu điểm của Bedford". Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty đưa ra quyết định đúng đắn được 3 lần và giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.

     Tôi không bao giờ quên bài học ấy. Trong nhiều năm sau, bất kỳ khi nào toi định nổi cáu với người khác, tôi đều bắt mình phải ngồi xuống, nghĩ và viết ra một bảng liệt kê những ưu điểm của người đó, dài hết sức có thể. Khi tôi viết xong bản đó thì thường tôi cũng thấy bớt cáu rồi.

     Không biết là thói quen này đã giúp tôi bao nhiêu lần tránh được những sai phạm tôi có thể có: đó là nổi cáu một cách mù quáng với người khác.

     Tôi biết ơn ông chủ tôi vì thói quen này, và bây giờ tôi giới thiệu nó cho tất cả các bạn.

     Edward T. Bedford

Ngạc nhiên hơn một cơn bão cuối thu

    Ngạc nhiên là đến mùa thu rồi mà vẫn còn có bão. Cơn bão mùa thu bất chợt sầm sập đổ xuống khi Jesse và cô bạn gái Kristine vừa ra khỏi nhà thờ. Mưa ào ào. Cây cối nghiêng ngả. Jesse phải để bạn mình trú mưa dưới một mái hiên để tới khu đỗ xe cách đó mấy dãy phố. Anh lao ra trời mưa.

    Cô đứng dưới mái hiên rộng và khô ráo. Nhưng chỉ được vài phút, cảm giác thoải mái biến mất, Kristine cảm thấy mình như bị theo dõi. Lúc đầu đó chỉ là cảm giác, nhưng rồi cô bỗng thấy một ong lão đầu tóc bù xù, ông ngồi thu lu, quấn quanh mình một cái chăn rách rưới, vá chằng chịt và cũng đang ngồi dưới mái hiên. Ông ta cầm một cái biển đề: "Tôi nghèo lắm! Xin giúp đỡ". Ông ta nhìn Kristine chằm chằm, ánh mắt không sỗ sàng nhưng vẫn làm cô thấy sợ.

    Phản ứng đầu tiên của Kristine là định chạy đuổi thao Jesse, nhưng cô chẳng thấy bóng Jesse đâu nữa, và nếu cô chạy đi thì có thể Jesse sẽ quay lại đây và không thấy cô. Cô định tìm một mái hiên khác, nhưng không có.

    Kristine cố đứng tránh thật xa ông lão rách rưới kia, và nóng nảy chờ đợi. Cuối cùng thì cô cũng thấy xe Jesse xuất hiện ở phía xa. Cô nhích từng xen-ti met một ra ngoài mái hiên, chuẩn bị phóng thật nhanh để đến được chiếc xe an toàn. Nhưng dường như người đàn ông rách rưới cũng đang nhích từng xen-ti-mét lại phía cô, tay nắm chặt một cái gì đó cũng rách rưới như bản thân ông vậy.

    Quá hoảng sợ, chưa kịp đợi xe ô tô cua Jesse đến nơi, cô chạy lao ra ngoài mưa. Càng hoảng sợ hơn là người đàn ông rách rưới cũng chạy theo cô, hình như đang giơ một vật gì đó theo cô. Kristine chạy nhanh hơn, và bỗng phát hiện ra rằng trời vẫn mưa to, nhưng cô không hề bị ướt. Ông lão rách rưới đang chạy ngay sau cô, tay cầm cái chăn vá chằng chịt. Ông ta vừa chạy vừa giơ cái chăn lên che mưa cho Kristine và ông ta dừng lại khi Kristine dừng lại cạnh xe ô tô của Jesse.

    Ông ta đứng cạnh chiếc xe, ướt và run lên vì lạnh, tay vẫn che cái chăn cho Kristine khỏi ướt khi cô mở cửa xe và chui vào- khô ráo và ấm áp. Cô nhìn người đàn ông rách rưới, vừa biết ơn, vừa sợ hãi. Ông nhìn cô và nói một cách dịu dàng:

    - Cô rất giống con gái tôi, nó cũng bằng tuổi cô và ngày xưa hay mặc cái váy giống cái váy cô đang mặc- ông ta nói qua cửa sổ xe ô tô- Một chiếc váy đẹp như thế thì không thể để ướt được.

    Rồi ông ta quay đi, lầm lũi quay trở lại mái hiên.

    - Chuyện gì thế?- Jesse hỏi khi Kristine nhìn theo ông già rách rưới.

    - Em cũng không hiểu!- Kristine đáp- Nhưng em nghĩ em vừa mới biết được một điều gì đó. Một điều rất đáng ngạc nhiên.

Nghệ thuật tha thứ

    Một người cứ luôn luôn bị tỉnh dậy vào buổi đêm, vì một giấc mơ cứ lặp đi lặp lại. Anh ta thấy mình bơi trong một cái hồ, bơi giỏi như một vận động viên. Tuy nhiên, cái hồ rất rộng mà chân tay anh ta thì mỏi, anh ta khó lòng bơi tới được bờ. Bỗng nhiên, cha anh ta bơi thuyền đến gần, đưa tay ra, bảo anh ta bám lấy. Anh ta nhớ lại hồi nhỏ thường bị bố mắng mỏ, thậm chí đánh đòn, nên mỉm cười khô khan và nói : “Cảm ơn bố, cứ kệ con”.

    Anh ta bơi tiếp, cố hết sức hướng về phía bờ. Rồi anh ta nhìn thấy một người khác bơi thuyền lại gần. Ðó là cô em gái. Cô em gái quăng một chiếc phao về phía anh ta và bảo : “ Anh dùng phao đi !”. Nhưng nhớ lại rất nhiều lần cô em gái hỗn hào ương bướng cãi lời mình, anh ta lắc đầu và xua tay.

    Sau những nỗ lực lớn lao, cuối cùng anh ta cũng vào được đến bờ. Anh ta nằm vật ra trên bãi cát ướt, sự mệt mỏi làm đầu óc trở nên lơ mơ, còn chân tay thì không cử động nổi. Một đám đông người tụ tập quanh anh ta. Khuôn mặt nào anh ta cũng thấy quen. Ðó là gia đình, họ hàng, bè bạn của anh. Người thì muốn đưa anh vào bệnh viện, người thì muốn đốt lửa, người thì muốn lấy bộ quần áo khô và khăn cho anh lau… Nhưng cứ khi mỗi người định làm gì, anh ta lại nhớ lại những khi con người đó đối xử không tốt với mình. Và “Không, cảm ơn”- Anh ta lại nói – “Cứ kệ tôi”. Anh gượng đứng dậy, quần áo ướt sũng, dính đầy cát, chân tay rã rời, mệt mỏi đi xa đám đông.

    Sau khi liên tục nằm mơ thấy giấc mơ đó trong vòng vài đêm, anh ta liền đi hỏi bà, người duy nhất chưa bao giờ làm gì không tốt với anh, và người mà anh tin tưởng sẽ không bao giờ làm gì không tốt với anh cả.

    - Bà không phải là người biết ý nghĩa của những giấc mơ – bà anh nói – Nhưng bà nghĩ cháu đang giữ trong đầu quá nhiều bực bội và hằn học. - Bực bội ư? Hằn học ư? Không thể thế được!– Anh ta kêu lên- Nếu có thì cháu phải cảm thấy chứ!

    Bà của anh ngồi yên và bình tĩnh đáp :

    - Những cố gắng của cháu và hồ nước trong giấc mơ chính là những gì cháu đang phải cố gắng trong tâm trí cháu. Cháu cần sự giúp đỡ, cháu muốn được quan tâm, nhưng cháu thấy không ai đủ tốt cho cháu tin tưởng. Cháu đã bơi được tới bờ một lần, nhưng còn những lần khác thì sao ? Sự tha thứ không phải là những điều mà chúng ta làm cho người khác, mà chúng ta làm cho chính chúng ta đấy thôi. Vì khi chúng ta không tha thứ, có phải là chúng ta đã xây dựng trong tâm trí mình những bực bội và tức giận ngày càng lớn đó không?

    Có một câu nói: “Bạn không phải là người hoàn hảo, nên bạn cũng có những sai lầm. Nếu bạn tha thứ những sai lầm của người khác đối với bạn, bạn cũng sẽ được những người khác tha thứ những sai lầm của bạn”.

Người bạn tâm tình

Tác giả: Jennings Michael Burch

Ngay cả trước khi bấm nút số cuối cùng, tôi mơ hồ nhận ra rằng mình đã có nhầm lẫn. Bên kia đầu dây, tiếng chuông điện thoại đổ dài nhiều hồi trước khi có người nhấc máy.

“Gọi nhầm số rồi!” Một giọng đàn ông vang lên cộc lốc, rồi đường dây bị ngắt hẳn ngay sau đó. Ngạc nhiên, tôi goi lại số điện thoại ấy.

“Đã nói là nhầm số rồi!” Cũng chính là giọng nói ấy. Tôi hắng giọng định lên tiếng thì ông ta đã cúp máy.

Làm thế nào mà ông ta lại biết rằng tôi đã gọi nhầm số kia chứ? Bạn biết không, vào thời điểm xảy ra câu chuyện này, tôi đang phục vụ tại Phòng Cảnh Sát Thành Phố New York. Là một nhân viên cảnh sát chuyên nghiệp, tôi đã được rèn luyện thành người có thói quen chú ý và để tâm đến mọi tình huống xảy ra quang mình. Tôi quyết định gọi lại một lẫn nữa.

“Này, anh bạn,” người đàn ông bên kia đầu dây lên tiếng. “Lại là anh nữa phải không?”

“Vâng chính tôi.” Tôi đáp lời. “Tôi lấy làm lạ và muốn biết vì sao ông lại cho rằng tôi đã gọi nhầm số. Oâng thấy đấy, tôi chưa kịp nói gì cả.”

“Nếu thế, anh phải tự mình tìm hiểu lấy!” Ông ta cúp máy, ngắt ngang câu chuyện.

Tôi ngồi lặng một lúc, ống nghe vẫn con gác hờ bên tai. Tôi gọi lại số điện thoại của ông ta.

“Anh bạn đã hiểu được gì chưa?” Ôâng ta hỏi.

“Điều duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra là... từ lâu lắm rồi không có một ai gọi điện cho ông cả.”

“Anh đã có câu trả lời rồi đấy!” Lần thứ tư, đường dây lại bị ngắt. Tôi chắc lưỡi, gọi lại cho ông ta.

“Anh lại muốn gì nữa đây?” Ông ta sẵng giọng.

“Tôi chỉ muốn gọi lại để... chào làm quen với ông.”

“Làm quen? Để làm gì?”

“À, tôi nghĩ rằng tôi có thể gọi điện thăm hỏi ông, nếu như từ lâu rồi không có một ai làm chuyện đó.”

“Thế thì... cũng được thôi. Chào anh bạn! Thật ra, anh là ai nào?”

Cuối cùng tôi cũng đạt được một kết quả ban đầu khá khả quan. Oâng ta đã cảm thấy quan tâm và muốn tìm hiểu. Tôi nói vài lời tự giới thiệu về mình rồi bắt đầu đặt câu hỏi tìm hiểu về ông ta.

“Tên tôi là Adolf Meth, 88 tuổi. Phải nói thêm rằng, từ 20 năm nay chưa có lần nào tôi nhận được nhiều cú điện thoại nhầm số như thế này chỉ trong vòng một ngày.” Cả hai chúng tôi đều bật cười phá lên.

Chúng tôi nói chuyện với nhau hơn mười phút. Tôi biết được Adolf không có gia đình, không có bạn bè hay người thân nào cả. Chúng tôi cũng phát hiện ra rằng cả hai cùng có một điểm chung: ông ta đã tững là nhân viên trực thang máy tại Phòng Cảnh Sát Thành Phố New York gần 40 năm. Khi kể cho tôi nghe về những ngày làm việc của mình trong thời gian ấy, ông ta hứng thú hẳn lên và câu chuyện có vẻ thân tình hơn. Tôi đề nghị ông ta cho phép tôi được gọi điện cho ông ta trong những ngày sắp tới.

“Vì sao anh lại muốn làm một điều như thế?” Ông ta có vẻ ngạc nhiên.

“À, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể làm bạn với nhau, bạn tâm tình qua điện thoại ấy mà.”

Adolf ngập ngừng. “Tôi... tôi không ngại... được kết bạn một lần nữa.” Oâng ta có vẻ không tin chắc vào điều đó cho lắm.

Tôi đã gọi điện cho ông ta vào chiều ngày hôm sau và tiếp tục trong những ngày sau đó. Trong những lần trò chuyện thân tình sau này, ông ta kể cho tôi nghe về những kỷ niệm mà ông đã trải qua trong hai cuộc Thế Chiến, về thảm hoạ Hindenburg cũng như các sự kiện lịch sử khác. Adolf là một người kể chuyện rất thu hút. Sau đó, tôi đã cho ông ta số điện thoại văn phòng và nhà riêng của tôi để tiện việc liên lạc với nhau. Từ đó, hầu như ngày nào tôi cũng nhận được điện của ông ấy.

Với tôi, làm bạn tâm tình với bác Adolf không chỉ đơn thuần là một hành động biểu hiện sự quan tâm đối với một người già cả và cô độc. Những lần chuyện trò với bác Adolf nhanh chóng trở thành một hoạt động có ý nghĩa, một nhu cầu trong cuộc sống. Thực ra, tôi cũng là người gặp nhiều bất hạnh trong đời. Lớn lên trong trại mồ côi rồi được nhận làm con nuôi, tôi chưa bao giờ có được một người cha. Với bác, tôi có thể trao đổi về công việc, về bạn bè và về lớp hàm thụ ban đêm của tôi. Dần dần, tôi đã xem bác Adolf như một người cha tinh thần trong trái tim tôi.

Mà bác Adolf cũng rất xứng đáng với vị trí thiêng liêng ấy: bác là người thường cho tôi những lời khuyên chân tình và hữu ích. Có một lần, khi trao đổi với bác về mối bất đồng xảy ra giữa tôi và nhân viên cấp trên, tôi đã bày tỏ ý định của mình với người bạn tâm tình đáng quý ấy: “Cháu cho rằng đã đến lúc phải nói thẳng với tay sếp ấy để làm sáng tỏ mọi chuyện một lần cho xong.”

“Việc gì phải nóng vội như thế?” Bác Adolf dè dặt. “Hãy chờ cho mọi việc lắng dịu xuống. Khi nào cháu bằng tuổi bác, cháu sẽ biết rằng thời gian có thể giải quyết được mọi chuyện. Nếu như tình hình trở nên tồi tệ hơn, lúc ấy cháu đối mặt với hắn cũng không muộn mà.”

“Cháu biết không,” bác Adolf im lặng một lúc rồi dịu giọng lại. “Bác nói với cháu cũng như đang nói với chính con trai của chính mình vậy. Bác vẫn luôn ao ước có được một mái ấm gia đình, những đứa con của chính mình. Cháu vẫn còn quá trẻ để hiểu được điều đó có ý nghĩa như thế nào đâu.”

Không. Thực ra thì không phải như vậy. Tôi vẫn luôn khao khát một mái ấm gia đình, một người cha. Tuy thế, tôi đã không thố lộ với bác Adolf về điều đó. Tôi không chắc rằng tôi có thể đối mặt được với nỗi đau mà từ lâu nay tôi đã cố quên.

Một lần, bác Adolf có nói thoáng qua về ngày sinh nhật lần thứ 89 sắp tới của mình. Mua một mảnh ván ép, tôi làm một tấm thiếp mừng rộng hai bộ dài năm bộ, trang trí hình một chiếc bánh sinh nhật cắm 89 cây nến. Tôi đã đến gặp từng người trong văn phòng, ngay cả ông Cảnh Sát Trưởng, để xin họ ký tên trên tấm thiệp. Gần một trăm chữ ký đã được thu thập. Chắc chắc bác Adolf sẽ phải bất ngờ với món quà như vậy.

Cho đến thời điểm đó, chúng tôi đã quen biết nhau được bốn tháng và đây cũng là dịp tốt để đôi bên gặp mặt nhau. Tôi quyết định tự mình mang quà đến trao tận tay ông ấy.

Tôi đã không thông báo cho bác Adolf biết về ý định của mình. Sáng hôm đó, tôi lái xe tìm đến địa chỉ của ông ấy và đỗ xe cách khu nhà một quãng đường.

Tôi bước vào gian đại sảnh của khu nhà. Một anh chàng đưa thư khẽ gật đầu chào tôi khi tôi bước đến hòm thư của các căn hộ. Ơû đấy tôi tìm thấy tên Adolf, hộ 1H. Căn hộ chỉ cách nơi tôi đứng khoảng hai mươi bộ.

Tim tôi rộn lên vì phấn khích và hồi hộp. Liệu rằng sau lần gặp này chúng tôi sẽ còn giữ được cái nhìn tốt đẹp về nhau như những người bạn tâm tình qua đường điện thoại? Tôi bắt đầu cảm thấy bất an. Có thể ông ấy sẽ từ chối tôi, cũng giống như người cha ruột đã từng từ bỏ tôi, mãi mãi bước ra khỏi cuộc đời tôi. Tôi dừng bước trước cửa căn hộ, lưỡng lự rồi rụt rè gõ cửa. Cánh cửa vẫn im lìm. Cảm thấy bồn chồn, tôi gõ mạnh tay hơn.

Anh chàng đưa thư rời mắt khỏi xấp thư trên tay, ngước nhìn lên: “Không có ai trong ấy đâu!” Anh ta buột miệng nói.

“À, có lẽ phải chờ cửa cả ngày trời mới được gặp ông cụ.” Tôi đáp lời, bối rối và cảm thấy mình hơi ngơ ngẩn. “Ông ấy cũng trả lời điện thoại chậm như thế đấy!”

“Ông có quan hệ họ hàng với chủ nhà?”

“Ồ, không. Tôi chỉ là bạn của ông cụ.”

“Tôi rất lấy làm tiếc,” anh ta thấp giọng. “Cụ Meth đã mất vào ngày hôm kia.”

Đã mất? Bác Adolf đã chết rồi ư? Thật không thể tin nổi vào tai mình nữa. Tôi đứng lặng, hụt hẫng và tê dại trong nỗi bàng hoàng. Phải mất một lúc tôi mới lắp bắp nói được lời cám ơn rồi lê bước ra khỏi khu nhà. Nắng đã lên cao. Tôi bước trên đường đến chỗ đậu xe, mắt đẩm lệ.

Lần theo một góc phố, tôi nhìn thấy một ngôi thánh đường. Từ đâu đó trong ký ức xa xôi, một đoạn kinh Cựu Ước chợt hiện lên trong tâm trí tôi: “Thời gian không thể xoá nhoà tình bằng hữu.” Cái chết cũng thế_ tôi bỗng nhận thức được điều đó. Ngay trong khoảnh khắc ấy, tôi bất chợt cảm nhận ra cuộc sống thật kỳ diệu và thiêng liêng: không hiếm khi định mệnh mang đến cho chúng ta những sự kiện đau buồn để khơi dậy nhận thức về cái đẹp vốn tồn tại ngay trong sự hiện hữu huyền nhiệm của chúng ta trong đời. Lần đầu tiên tôi thực sự nhận ra rằng bác Adolf và tôi đẫ thân thiết và gắn bó với nhau đến nhường nào. Cuộc đời đã mang đến cho tôi một người bạn và dạy cho tôi biết một người bạn thực sự là như thế nào.

Tôi chậm bước, cảm thấy lòng mình ấm lại. Từ trong ký ức ngọt ngào, tôi lại nghe giọng nói cộc lốc của bác Adolf: “Gọi nhầm số rồi!” Kế đến là câu hỏi vì sao tôi xin được gọi lại cho bác...

“Bởi vì... bác đã dạy cho cháu biết rằng phải biết quan tâm.” Tôi bất giác nói to thành tiếng. “Bởi vì cháu muốn làm bạn với bác.”

Tôi nhẹ nhàng đặt món quà sinh nhật xuống hang ghế sau rồi vào tay lái. Với tay xoay chìa khoá khởi động máy, tôi ngoái đầu nhìn qua bờ vai: “Bác Adolf...” tôi thì thầm. “Rốt cuộc, không thể nói rằng cháu đã gọi nhầm số. Cháu đã gọi đúng người cháu cần tìm.”

Nhìn thấy

    Kế hoạch đi thăm bố mẹ vào cuối tuần của tôi như vậy là bị phá sản vì trời mưa như trút nước. Cuối tuần còn có nghĩa là các nhà trẻ để cho học sinh nghỉ. Tôi vừa phải lo cơm nước vừa phải trông John, con trai tôi, 6 tuổi và rất nghịch. Buổi chiều khi đi mua đồ trong siêu thị tôi quyết định phải đưa cả John đi cùng, nếu không khi tôi trở về, nhà cửa sẽ như vừa trải qua một vụ động đất.

    Mọi lần đi siêu thị thế này đều có chồng tôi đi cùng để “quản lý” John, còn tôi thì chỉ việc mua sắm. Còn hôm nay thì khác, chồng tôi đi công tác xa đã một tuần nay, tôi vừa làm tất cả việc nhà vừa phải để mắt đến John.

    Trong siêu thị đầu óc tôi như loạn lên giữa hàng đống hàng hóa, một danh sách dài những thứ cần mua và những câu hỏi lêin tục của John.

    - Mẹ ơi, sao cô kia mua nhiều đồ thế?

    - Vì cô ấy cần dùng cũng như nhà mình thôi mà!

    - Mẹ ơi sao bạn trai kia được ăn kem còn em nhỏ đằng xa kia lại không có kem ăn?

    - Có lẽ vì em bé hư nên chưa được thưởng kem.

    - Thế còn bác kia sao cứ đứng mãi ở chỗ ấy thế?

    - Vì bác ấy la nhân viên siêu thị…

    Mọi người xung quanh bắt đầu để ý đến hai mẹ con tôi vì những câu hỏi vô tận của John. Tôi chỉ mong buổi mua sắm mau chóng kết thúc. Đúng lúc ấy có một cô bé khoảng 6,7 tuổi bước vào siêu thị. Cô bé đi rất khó khăn trên đôi nạng gỗ, có lẽ vì bị dị tật từ bé. Tôi nhận ra rằng cô bé tội nghiệp còn thiểu năng ngôn ngữ vì khi mẹ cô bé muốn giúp đi nhanh hơn, cô đã từ chối bằng giọng nói ngọng nghịu. Mọi người đều nhìn thấy và tỏ ra ái ngại. Không khí trong siêu thị trở nên yên lặng.

    John cũng nhìn cô bé ấy, rất chăm chú. Tôi thót tim khi nghĩ đến tình huống John sẽ hỏi bằng cái giọng oang oang của nó những câu đại loại như: “Sao bạn ấy có cái cân buồn cười thế?”. Và ngay lập tức tôi băng băng kéo tuột John ra ngoài, mặc cho thằng bé phản đối ầm ĩ. Nhưng cũng may, phải đến khi yên vị trong ôtô rồi John mới nhắc đến cô bé ấy.

    - Con đang nhìn bạn ấy mà!

    - Đó là một cô bé đáng thương con biết không?

    John ngạc nhiên:

    - Đâu phải vậy, bạn ấy rất thông minh, bạn rất hay cười và còn vẫy tay chào con. À, mẹ có thấy không bạn ấy cũng có một cái túi gấu rất giống con!

    Tôi cũng như những người khác trong siêu thị chỉ nhìn thấy những dị tật của cô bé mà cảm thấy thương hại. Không ai nhìn thấy đôi mắt thông minh và nụ cười ấm áp của cô bé ấy, và cái túi rất xinh mà cô bé đeo bên hông, trừ John.

Như cánh chim bay

Bàn tay túa mồ hôi, ly nước lạnh đã làm dịu cơn khát nhưng không làm giảm được sự căng thẳng vốn có trong không khí ngày thi đấu hôm nay tại giải Olympic Trẻ Toàn Quốc.

Sào đang ở mức 17feet, cao hơn thành tích tốt nhất của anh 3 inch. Michael Stone đang đương đầu vớI một ngày gian nan nhất trong sự nghiệp nhảy sào của mình. Nhưng đây cũng chính là ngày Michael Stone thực hiện giấc mơ mình tìm kiếm bấy lâu nay…

Michael còn nhớ, ngày bé anh toàn mơ được bay. Mẹ Michael kể bao nhiêu là chuyện về bay lượn khi anh lớn dần. Những câu chuyện kể về một vùng đất được nhìn từ trên cao, đầy màu sắc và niềm đam mê. Nhưng cũng có một giấc mơ luôn lặp lại, Michael thấy mình đang chạy trên đường làng, cảm nhận được các viên đá dưới chân, chạy xuống dải lúa mì vàng óng, anh vượt lên chuyến xe lửa đang băng qua cánh đồng đầy gió. Hít một hơi thật sâu, Michael bay bổng lên khỏi mặt đất, tung cánh lên như chim đại bàng.

Cha anh, thì ngược lại, không phải là người mơ mộng. Bert Stone là người rất thực tế. Khẩu hiệu của ông là: Nếu mình mơ ước điều gì thì phải lao động để đạt được điều ấy! Và từ năm 14 tuổI, Michael đã nỗ lực luyện tập môn nhảy sào vì theo cậu đây là cách tốt nhất để thực hiện ước mơ bay.

Michael đang là một trong hai đấu thủ cuối cùng ở vòng chung kết cuộc thi nhảy sào tạI Olympic Trẻ Toàn Quốc. Anh vượt qua mức sào 17 feet 2 inch và 17 feet 4 inch, và giờ là lượt nhảy đợt cuối. Nếu thất bại, anh sẽ chỉ xếp thứ hai. Không có gì phải xấu hổ nhưng Michael không cho phép mình nghĩ đến việc không chiếm vị trí cao nhất.

Lăn một vòng rồi thực hiện động tác xuất phát, anh biết mình đang đi trên đường chạy quan trọng nhất trong cuộc đời. Lần này dường như đường chạy hơi khác. Anh thoáng giật mình và rồi có cảm giác như đang chạm vào đống cỏ khô ẩm ướt. Mức sào đã được nâng cao hơn 1inch. Chỉ 1 inch cao hơn kỷ lục quốc gia. Quá căng. Michael bắt đầu thấy hồi hộp, chính xác là sợ hãi. Và rồi từ đâu đó, từ sâu thẳm trong tâm hồn, anh mường tượng thấy mẹ trong giờ khắc này. Rất đơn giản. Ngày trước mẹ luôn dặn khi cảm thấy căng thẳng, lo lắng, hoặc khiếp sợ thì hãy hít thật sau vào.

Anh đã làm như thế, vừa thả lỏng, vừa nhẹ nhàng gác sào lên chân mình, bắt đầu. Im lặng đến ngạt thở. Khi nghe tiếng hót xa xăm của những chú chim cổ đỏ bay lượn trên cao, anh biết đã đến lúc mình bay.

Lúc bắt đầu chạy nước rút, anh cảm thấy như mình trở về những gì rất quen thuộc . Mặt đất dưới chân giống con đường làng, những viên đá những mảng bụi và dải đồng lúa mì vàng óng. Anh hít một hơi thật sâu, và bắt đầu bay, bay lên mà không cần gắng sức, bay lên như anh đã từng mơ trong giấc mơ ngày bé. Chỉ có điều anh biết lần này không phải là mơ. Đây là thật. Michael bay vút lên dũng mãnh như một chú đại bàng.

Anh biết cha mẹ cũng đang mỉm cười, có khi phá ra cười. Anh đâu biết rằng cha anh đang ôm chầm lấy mẹ anh mà khóc. Phải. Cái ông Bert Stone vẫn bảo : “Nếu mình mơ ước điều gì thì phải lao động để đạt được điều ấy! ” đang khóc rinh rích với những giọt nước mắt tuyệt vời: những giọt nước mắt tự hào. Michael vượt qua mức 17 feet 6.5 inch - đạt kỷ lục Olympic Trẻ quốc gia và thế giới.

Giờ đây, không chỉ nước Mỹ mà cả thế giới đều biết tới anh, cảm phục anh và nhiều người xem anh là thần tượng, là tấm gương để noi theo.Tại sao vậy?

Chắc chắn không phải vì anh là người vừa lập kỷ lục thế giới, cũng không phải anh là người tăng mức sào lên 9.5inch. Đơn giản lắm, anh là một người mù.

Những cậu bé ăn kem

    Tôi đã đến thị trấn nhỏ này nhiều lần và chặng còn lạ gì với cái cảnh những đứ bé ăn xin mặt mũi lấm lem chạy hết quán này đến quán khác xin tiền của khách du lịch. Tôi không phải lá khách du lịch, tôi đến đây để làm việc nhưng cũng không ít lần khó chịu vì một vài đứa bé cứ lẵng nhẵng đi theo xin một vài đồng bạc lẻ.

    Hôm nay, cũng như mọi khi, sau khi rời sân bay, tôi đến một quán giải khát nhâm nhi một vài cốc bia trước khi trở về khách sạn. Quán hôm nay khá đông nhưng không thấy bóng dáng của một đứa trẻ ăn xin nào. Tôi nghỉ chân được một lúc thì thấy hai thằng bé ăn mặc khá luôm thuộm bước vào quán. Đây chắc chắn là hai đứa trẻ ăn xin nhưng tôi không bận tâm lắm vì tôi biết rằng ông chủ quán sẽ đuổi bọn chúng ra ngoài ngay thôi. Nhưng tôi đã lầm! Ông chủ quán vẫy tay về phía bọn trẻ và gọi to:

    - Cần gì vậy hai chàng trai?

    - Ở đây có kem hoa quả không ạ?

    - Tất nhiên là có. Vậy hai cậu cần loại gì?

    - Dạ có những loại thế nào ạ?

    Tôi nghe ông chủ giới thiệu về từng loại kem, giá cả, mùi vị và thậm chí còn phân tích cho chúng thấy loại nào được người ta ưa chuộng hơn. Cuối cùng thì hai cậu bé chon hai cốc kem dứa, loại kem trung bình về giá cả trong tiệm. Chúng ăn có vẻ rất ngon lành. Thì như các bạn biết đấy, những đứa trẻ ăn xin như thế này hiếm khi được ăn những món mà mọi người cho là bình thường. Khi ăn xong, đứa trẻ lớn hơn rút trong túi ra những đồng tiền lẻ, vừa vặn tiền hai cốc kem đưa cho chủ quán. Người chủ vừa đếm tiền vừa nói:

    - Hai cậu đã chuẩn bị tiền rồi cơ đấy, thật sòng phẳng!

    Lũ trẻ tạm biệt ông chủ quán ra về. Chúng không còn vẻ sợ sệt như lúc mới bước vào quán nữa. Khi chúng chuẩn bị bước ra khỏi cửa, ông chủ tiệm còn cố với theo:

    - Cảm ơn hai cậu, lần sau lại đến nhé!

    Tôi tiến lại gần chỗ thanh toán tiền và nói:

    - Này anh bạn, tôi thích cái cách mà anh đối xử với những đứa trẻ.

    - Anh biết đấy, những đứa trẻ ở thị trấn này sống rất khó khăn. Chắc chắn ăn một cốc kem là một quyết định khá táo bạo, nhất là phải vào những nơi mà chúng thường bị xua đuổi. Chúng ăn và vẫn trả tiền cơ mà, tại sao chúng lại không được đối xử bình thường như những người khách khác? Nếu anh đối xử với chúng như những thằng ăn cắp, chắc chắn chúng sẽ thừa lúc sơ hở và “chôm” của anh thứ gì đó. Nhưng nếu được đối xử như những khách hàng tử tế, chúng sẽ cư xử như những khách hàng lịch thiệp khác.

    Người chủ cửa hàng không phải là người quen của tôi, tôi cũng không đến quán của anh ta thường xuyên nhưng qua cách hành xử của mình, anh ấy đã khiến tôi tâm phục khẩu phục. Cửa hàng của anh ấy tuy nhỏ nhưng luôn đông khách bởi vì anh ấy biết làm cho khách hàng cảm nhận được giá trị đích thực của mình.

    Tammy Reed

Những lời khuyên cho cuộc sống

Cho người khác nhiều hơn họ mong đợi và hãy làm điều đó một cách vui vẻ.

Hãy ghi nhớ bài thơ bạn yêu thích.

Khi bạn nói câu: "Anh (em) yêu em (anh)" thì điều đó có nghĩa là sự thật.

Khi bạn nói câu: "Tôi xin lỗi" với ai, hãy nhìn vào mắt người đó.

Hãy đính hôn ít nhất sáu tháng trước khi bạn kết hôn.

Hãy tin vào tình yêu sét đánh.

Đừng bao giờ cười nhạo giấc mơ của ai. Người không có mơ ước sẽ chẳng đạt được điều gì cả.

Hãy yêu tha thiết và nồng nàn. Bạn có thể bị tổn thương nhưng đó là cách duy nhất để sống một cách hoàn toàn.

Khi không đồng ý với người khác, hãy tranh luận một cách nhẹ nhàng. Đừng lôi tên họ người khác ra chửi rủa.

Đừng đánh giá người khác qua người thân hay hoàn cảnh của họ.

Tự luyện cách nói chậm rãi nhưng suy nghĩ thật nhanh.

Khi ai đó hỏi bạn một câu hỏi mà bạn không muốn trả lời, hãy mỉm cười và hỏi lại: "Tại sao bạn lại muốn biết điều đó?".

Nên biết rằng tình yêu đẹp và những thành công lớn luôn gắn với rất nhiều thử thách khó khăn.

Hãy nói: "Trời phù hộ bạn" (Bless you ) khi bạn nghe ai đó hắt xì hơi.

Khi bạn đánh mất gì đó, nhớ đừng đánh mất kinh nghiệm.

Tuân theo ba nguyên tắc sau: tự trọng, tôn trọng người khác, chịu trách nhiệm về những việc làm của bạn.

Đừng để một sự bất hòa nhỏ làm sứt mẻ một tình bạn lớn.

Khi bạn nhận ra rằng mình phạm sai lầm, hãy sửa chữa ngay lập tức.

Hãy mỉm cười khi nhấc điện thoại. Người nghe sẽ nghe thấy điều đó.

Đôi lúc hãy ở một mình.

Sẵn sàng thay đổi nhưng đừng đi chệch ra khỏi những giá trị của bạn.

Hãy nhớ rằng im lặng đôi khi là câu trả lời hay nhất.

Hãy đọc nhiều sách. Truyền hình không thể là vật thay thế cho sách được.

Một không khí tràn ngập tình yêu thương trong gia đình là nền tảng cho cuộc sống của bạn. Hãy làm tất cả những gì có thể để tạo nên một mái ấm yên bình.

Khi bất đồng với người yêu, hãy chỉ nói đến chuyện hiện tại, đừng bới móc quá khứ.

Không chỉ nghe những gì người ta nói. Hãy lắng nghe xem tại sao họ lại nói như vậy.

Hãy chia sẻ kiến thức của bạn. Đó cũng là một cách để thành đạt.

Hãy sống hòa đồng với thiên nhiên.

Hãy quan tâm đến công việc của mình.

Đừng tin tưởng người nào không nhắm mắt khi hôn.

Nếu bạn kiếm được nhiều tiền, hãy sử dụng chúng để giúp đỡ người khác khi bạn còn sống. Đó là sự hữu dụng nhất của tiền bạc.

Hãy nhớ rằng mối quan hệ tốt đẹp nhất là mối quan hệ mà tình yêu thương các bạn dành cho nhau làm tăng sự cần thiết đối với nhau.

Hãy đánh giá thành công của bạn bằng những gì bạn phải từ bỏ để đạt được nó.

Niềm tin

Ở làng quê nọ, trời đã hạn hán trong khoảng thời gian rất lâu. Các cánh đồng đều khô hạn, cỏ cây héo úa cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn.

Hàng tháng đã trôi qua và mọi người dường như đã mất hết kiên nhẫn. Nhiều gia đình đã rời khỏi làng, còn những gia đình khác chỉ còn biết chờ đợi trong tuyệt vọng. Cuối cùng ông trưởng làng quyết định tổ chức một buổi cầu nguyện tập thể trên ngọn đồi cao nhất vùng. Ông thuyết phục tất cả mọi người trong làng đến dự và mỗi người phải mang theo một vật thể hiện lòng tin của mình.

Chiều thứ bảy, những người dân làng với vẻ mặt mệt mỏi tập trung trên ngọn đồi và đều không quên mang theo những đồ vật thể hiện lòng tin. Có người mang theo một cái móng ngựa may mắn, có người mang theo chiếc mũ bảo vật của gia đình… Mặc dù chẳng ai tin chúng có thể thay đổi điều gì nhưng họ cũng đã mang theo rất nhiều thứ quý giá. Tất cả những người tham dự bắt đầu cầu nguyện và giơ cao những vật tượng trưng cho niềm tin. Như thể có phép màu, mây đen kéo tới và trời đổ mưa – những giọt mưa đầu tiên sau bao tháng trời khô hạn. Mọi người đề hân hoan vui sướng và ngay lập tức nổ ra một cuộc tranh cãi xem đồ vật nào đã mang lại may mắn cho ngôi làng. Ai cũng cho rằng đồ vật của mình là linh thiêng nhất. Bỗng người ta nghe thấy tiếng một em bé gái reo lên:

- Con đã biết thế nào trời cũng đổ mưa mà. Mẹ thấy không, con mang theo chiếc ô này, bây giờ thì mẹ con mình về nhà mà không bị ướt!

Em bé giơ cao chiếc ô và cùng mẹ đi về nhà trong niềm hân hoan. Những người còn lại nhìn theo và hiểu rằng chính em bé mới là người có niềm tin lớn nhất. Niềm tin ấy đã mang mưa đến.

Niềm vui phục vụ

Vào một buổi chiều tại cửa hàng trang trí nột thất, tôi đã học được cung cách bán hàng của cha. Lúc ấy tôi vừa tròn 12 tuổi. Khi tôi đang lau sàn nhà, một người phụ nữ bước vào cửa hàng.

"Cháu có thể giúp bà chứ?"

"Vâng, tôi đã mua một chiếc trường kỷ và chân của nó đã bị long ra. Tôi muốn biết khi nào cháu sẽ sửa nó?"

"Bà mua cái ghế này khi nào, thưa bà?"

"Cách đây khoảng 10 năm".

Tôi nói với cha rằng bà ấy nghĩ chúng ta sẽ sửa miễn phí cái ghế cũ của bà. Cha tôi bảo bà ấy chúng tôi sẽ đến sửa chiếc ghế ngay chiều hôm đó.

Sau khi bắt vít vào chân ghế, chúng tôi ra về. Trên đường trở về cha hỏi: "Con yêu, điều gì đã khiến con buồn?".

"Nếu chúng ta cứa sửa miễn phí những cái ghế thì có lẽ chúng ta sẽ bị phá sản".

"Con ạ, dù thế nào đi nữa con phải học cách sửa chữa. Đó là nghề. Ngoài ra con đã bỏ qua một chi tiết quan trọng nhất. Con đã không để ý đến nhãn hiệu cửa hàng trên ghế. bà ta đã mua nó ở tiệm đầu phố".

"Có phải cha muốn nói là chúng ta đã làm công việc đó không vì mục đích gì và ngay cả khi bà ta không phải là khách hàng của chúng ta?".

Cha nhìn sâu vào mắt tôi và nói: "Bây giờ bà ấy là khách hàng của chúng ta".

Hai ngày sau đó, bà ấy trở lại cửa hàng của chúng tôi và mua những món đồ mới giá trị cao.

Từ đó đến nay tôi hành nghề bán hàng được 30 năm. Tôi có doanh thu trung bình hàng năm cao nhất trong cơ quan. Tôi được cửa làm đại trưởng diện bán hàng bởi vì tôi đói xử với khách hàng bằng lòng tôn trọng.

Nói bởi trái tim.

Nó chưa thể quá 6 tuổi. Mặt mũi bẩn, đi chân đất, áo rách, tóc rối bù. Nó chẳng khác gì mấy so với hàng trăm nghìn hoặc hơn thế trẻ em mồ côi lang thang trên đường phố khắp thủ đô Ri-ô-đờ-Ja-nê-rô.

Tôi đang đi tới quán cà phê, suy nghĩ lung tung về những công việc ở cơ quan mình vừa làm xong và lớp học chuyên môn buổi chiều mà tôi giảng dạy, thì bông thấy có ai đó đạp nhẹ vào tay. Tôi dừng : không có ai cả. Tôi đi tiếp. Lại thấy có ai đập nhẹ vào tay. Lần này tôi quay hẳn người lại, và nhìn xuống. Thằng bé đứng ở đó. Mắt nó màu nhạt,cũng có thể đó là do tôi có cảm giác từ hai gò má nhem nhuốc và mái tóc đen rối của nó.

- Bánh mì, ông ơi??

Nếu sống ở Braxin, chúng ta có nhiều cơ hội để mua một thanh kẹo hay một cái bánh mì cho những đứa bé vô gia cư và mồ côi này. Tôi bảo nó đi theo tôi và chúng tôi cùng vào một tiệm giải khát:

- Cà phê cho tôi và cái gì đó ăn được cho cậu bạn nhỏ này ? - Tôi gọi.

Thằng bé chạy đến quầy hàng và lựa chọn. Bình thường, bọn nhỏ này sẽ cầm đồ ăn và bỏ đi luôn, quay trở lại đường phố.nơi chúng đang phải lang thang, mà không nói lời nào. Nhưng thằng bé này lại làm tôi ngạc nhiên.

Quầy giải khát khá dài, người ta đặt cốc cà phê ở một đầu và một cái bánh mì ở đầu kia. Thường người ta cũng biết là bọn trẻ đường phố xin được khách hàng mua cho cái bánh rồi sẽ bỏ đi ngay, mà người ta cũng không muốn cho chúng ở lại vì trông chúng rách rưới và bẩn thỉu.

Tôi bắt đầu uống cà phê của mình và khi tôi uống xong, trả tiền, tôi nhìn ra cửa mới phát hiện ra nó đứng ở ngoài (vì nó không được ở lâu trong cửa hàng), kiễng chân lên, tay cầm bánh mì, mắt gí vào cửa kính, quan sát.

"Nó làm cái quái gì thế ?!" - Tôi nghĩ.

Tôi đi ra, nó nhìn thấy tôi và chạy vụt theo. Thằng bé đứng trước mắt tôi, chỉ cao đến thắt lưng. Đứa bé mồ côi người Braxin ngước nhìn khách lạ người Mỹ cao lớn, là tôi, mỉm cười (một nụ cười có thể làm trái tim bạn phải ngừng vài giây), và nói: "Cảm ơn chú?! " Rồi, có vẻ lo lắng, nó gãi bàn chân và kiễng chân lên, nói to hơn: "Cảm ơn chú nhiều lắm ạ ! "

Lúc đó, nếu tôi có thể thì tôi đã mua cả tiệm ăn cho nó.Trước khi tôi nói được câu gì, nó đã quay người bỏ chạy đi mất Khi tôi viết bài này tôi vẫn đang ngồi bên ngoài quán giải khát, nơi tôi mua chiếc bánh mì cho thằng bé. Tôi đã muộn giờ lên lớp. Nhưng tôi vẫn còn cảm thấy xúc động và nghĩ về thằng bé. Và tôi tự hỏi: nếu tôi bị xúc động đến thế chỉ bởi một cậu bé đường phố nói lời cảm ơn tôi vì một mẩu bánh mì, thế thì mọi người sẽ xúc động đến đâu khi chúng ta nói những lời cảm ơn - thực sự cảm ơn - vì những gì họ làm cho chúng ta . Hãy dành thời gian để nói những lời cảm ơn, và đừng bao giờ tiết kiệm lời cảm ơn cả !

Nụ cười

    Trong một trại phong cùi nọ, các bệnh nhân hầu như đều bị bỏ rơi trong quên lãng, họ sống lầm lũi trong đau khổ cả thân xác lẫn tâm hồn. Những tháng ngày còn lại trên trần gian chỉ là những tháng ngày vô vọng, buồn tẻ và cô đơn. Duy chỉ có một người đàn ông luôn mỉm cười, vui tươi và hạnh phúc. Vị nữ tu chăm sóc bệnh nhân hết sức ngạc nhiên và cố tìm hiểu nguyên nhân từ đâu. Cuối cùng, bà cũng khám phá ra lý do, rằng mỗi ngày có một phụ nữ thập thò ngoài hàng rào, chờ người đàn ông kia đi ra để bà nở một nụ cười thân ái, trìu mến đầy yêu thương dành cho ông.

    Người đàn ông ngày ngày ra gần đó để đón nhận nụ cười ban sức mạnh và tạo niềm hy vọng như hoa xuân đón ánh mặt trời, như cây cỏ hứng giọt sương mai. Khi vị nữ tu đến gần, người đàn ông nói với bà:

-    Vợ tôi đấy

    Sau một lúc yên lặng, ông ta nói tiếp:

    - Trước khi vào đây, nàng đã cố chữa chạy cho tôi. Một Thầy lang đã cho tôi một loại dầu, và mỗi ngày nàng thoa nó lên mặt tôi. Nàng không quên chừa lại một khoảng nhỏ để đặt vào đó một nụ hôn. Nhưng tất cả đều vô hiệu, người ta đã bắt tôi vào đây. Phần nàng, nàng không bỏ tôi đơn độc, trái lại mỗi ngày nàng đến mỉm cười với tôi, mang lại cho tôi sinh lực để sống. Nhờ thấy nàng mỗi ngày mà tôi còn ham sống và sống vui tươi hạnh phúc.  Vài dòng chia sẻ cùng các bạn: "Cười là một liều thuốc bổ", là một thứ thuốc giảm đau, cười làm cho mạch tim giảm xuống, hơi thở điều hòa và các cơ bắp cũng thư giãn. Về mặt tâm lý, cười còn mang lại cho con người niềm vui sống, nhờ đó mới có thể vượt qua được nỗi đau của thể xác. Bác sĩ David Maye khoa trưởng khoa tâm lý tại đại học Michigan Hoa Kỳ đã viết trong tác phẩm"Đeo đuổi hạnh phúc" như sau: " Bạn muốn được hạnh phúc ư ? Hãy cười và cười luôn"

Nụ cười rạng rỡ.

    Ở quê tôi, ai nấy đều “ra trường” từ năm 14 tuổi vì chỉ có đến lớp 9. Khi tôi lên 14, tôi tạm biệt thầy giáo, đóng cái ngăn bàn thân quen, đi một vòng quanh trường rồi về nhà.

     Sau khi nghỉ xả láng trong hai ngày, đến ngày thứ ba tôi bắt đầu nhận thấy rằng mình đang gặp phải một vấn đề tương đối nghiêm trọng: Tôi vẫn chưa có việc làm.

    Chiều thứ sáu, Tom đến nhà tôi thông báo:

     - Mình đã nói với giám đốc, nhưng cậu vẫn phải tự đến xin ông ta.

     - Nhưng… - Tôi lúng túng vì quả thật, tôi chưa từng nói chuyện với một ông chủ.

     - Không sao, mình sẽ dạy- Tom quả quyết.

     Thế là Tom lôi tôi vào bếp và cả bố mẹ tôi cũng ngồi trên ghế xem Tom dạy tôi những gì.

     - Điều đầu tiên mà ngài Binwel (ông chủ ga xe lửa) không thích đó là các cậu con trai cho tay vào túi quần- Tom cao giọng.

     Tôi lập tức rút ngay tay ra khỏi túi quần và lấm lét nhìn sang bố mẹ. Bố tôi lại sắp sửa lặp lại câu quen thuộc: “Đã dặn nó hàng trăm lần…”

     Rồi Tom oang oang:

     - Còn nữa, ngài Binwell rất có cảm tình với các cậu con trai đứng thẳng và hiên ngang như những người lính.

     Tôi nhìn lại Tom. Hình như vì chính cái lưng hơi gù mà nó không được lòng ông chủ thì phải. Thế nên tôi càng phải cố.

     - Ngài Binwell rất ghét những ai ăn nói lắp bắp. Đừng nói: “Thưa… thưa… thưa ngài… ngài… có… có cần một thanh niên làm việc ở ga không?” mà hãy nói: “tôi muốn xin một việc làm, thưa ngài”.

     Tôi còn chưa biết mình có nhớ hết nổi không thì Tom tiếp tục:

     - Quan trọng nhất: ngài Binwell đặc biệt thích một nụ cười rạng rỡ. - Thế nào là một nụ cười rạng rỡ?- Tôi thắc mắc.

     - Nói chung thì ngài Binwell không thích những người lúc nào trông cũng buồn bã. Cậu hiểu không, những ông chủ không mấy khi cười nhưng luôn muốn trông thấy khuôn mặt tươi cười của người khác.

     Nói rồi Tom quay sang tôi:

     - Nhớ cả rồi chứ?

     - … Chắc vậy…

     Thế là suốt hai ngày cuối tuần tôi đánh vật với những quy tắc và cố luyện đến cả tá nụ cười. Cuối cùng thì buổi sáng thứ hai cũng đến. Tôi bước ra khỏi nhà, hiên ngang như một người lính, miệng cười thật rạng rỡ. Nhưng khi qua khỏi tầm mắt của bố, tôi lại cho tay vào túi quần va' đi chậm lại, tất nhiên tôi cũng chẳng còn lý do gì để cười nữa cả.

     Cuối cùng thì tôi cũng đến được ga xe lửa. Tôi bước thẳng vào văn phòng của ngài Binwell, lại hiên ngang như một người lính với nụ cười hết cỡ. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là ngài Binwell trông rất phúc hậu với khuôn mặt tròn trĩnh. Ngài có vẻ rất hài lòng với nụ cười của tôi. Tôi nói bằng giọng rành mạch nhất:

     - Thưa ngài, tôi muốn xin làm việc ở đây.

     Tôi hầu như đã chắc chắn đã được nhận vào vì ngài Binwell nở một nụ cười thân thiện. Nhưng rồi ý nghĩ đó tiêu biến ngay tức khắc vì người đa'n ông ấy nói:

     - Tôi không phải là ông chủ, ngài Binwell ở bên kia kìa!

     Tôi thật sự thất vọng vì đó chỉ là người lau chùi mà thôi. Tôi tắt ngóm nụ cười và thọc hai tay vào túi quần. Đúng lúc đó thì ngài Binwell bước vào phòng. Ông ta nhìn vào tôi và hỏi không được nhã nhặn lắm:

     - Cậu muốn gì?

     Tôi quên bẵng mọi thứ Tom đã dạy, tôi không rút tay ra khỏi túi quần, cũng chẳng đứng thẳng hay cười gì mà chỉ lắp bắp:

     - Ngài… Ngài… có… cần thêm người làm không ạ?

     Ngài Binwell gầm lên:

     - Tôi chẳng cần ai hết, nhất là những người như cậu.

     Đến lúc đó thì tôi cảm thấy rất bị xúc phạm. Tự nhiên tôi thấy cần phải nói cái gì đó với ông ta thay vì sửa lại tư thế của mình, tôi dõng dạc:

     - Tôi cũng không muốn có một ông chủ như ông!

     Tôi cảm thấy thực sự thoải mái và thanh thản đi về nhà.

     Tối hôm ấy Tom đến tìm tôi và nói ngài Binwell đã đồng ý nhận tôi vào làm.

     - Ông ấy đã rất ngạc nhiên trước sự thẳng thắn của cậu. Trước đây chưa ai nói với ông ta như thế. Mọi người trong nhà ga đều cười, nhưng ông ấy chỉ muốn một nụ cười rạng rỡ, thực sự từ đáy lòng.

     Và tôi bắt đầu đi làm. Tôi hiểu ra rằng tôi không thể gò ép mình để trở thành một con người khác- không cho tay vào túi quần, không lắp bắp, càng không thể biến nụ cười của mình theo ý ai đó được. Nhưng sáng hôm sau thì chẳng cần ai bảo, tôi đã có một nụ cười thực sự rạng rỡ từ tận đáy lòng.

Ông lão 'ham vui'

    Tiết trời đã sang thu. Sáng sáng đám sinh viên năm thứ nhất cả trai lẫn gái chúng tôi láo nháo như bầy vịt chen nhau lên xe buýt cho kịp giờ học. Tuy nhiên, cảnh ồn ào ngay lập tức lắng xuống khi ông lão bước lên xe. Ông ăn mặc cực kỳ chỉnh tề, đầu tóc ngay ngắn, tay cầm một đoá hoa hồng đỏ thắm. Bao giờ ông lão cũng là người cuối cùng bước lên xe.

    Ban đầu chẳng ai chú ý tới ông lão. Trên đời này thiếu gì chuyện để một buổi sáng nọ bạn cầm hoa ra phố! Ấy thế nhưng khi cảnh tượng đó diễn ra tới một tuần liền thì hẳn là sự lạ. Lũ con trai bắn về phía ông lão những ánh mắt tò mò và ghen tị, thậm chí hơi chút chế giễu. Có đứa to gan thì thào: “Chắc đang cưa em!”. Bọn con gái phản ứng theo nhiều cách khác nhau. Đứa thì tỏ ra thán phục: “Chứ lại như lũ con trai các cậu ấy! Chả biết galant là cái gì cả. Lên xe cũng không biết nhường phụ nữ, đừng nói tới tặng hoa”. Có đứa chép miệng lắc đầu: “Già mà còn ham vui!”.

    Trong lúc đó, ông lão vẫn ngày ngày lên xe với bó hoa trong tay, Tuy nhiên, khác với các bạn, trong ánh mắt của ông lão, tôi đọc thấy những tia say đắm, hạnh phúc. Hẳn vì thế mà ông lão dường như không thấy (hay là thấy nhưng bỏ qua) những ánh mắt xung quanh. Hành tung của ông lão trở thành đề tài cửa miệng của bọn tôi trong suốt 3 tháng trời. Lũ con trai đoán chắc người nhận những đoá hoa hồng đỏ thắm còn đẫm sương kia hẳn là một thiếu nữ rất đẹp. Bọn con gái thì bĩu môi.

    Thế rồi một sáng nọ, ông lão biến mất. Bọn con trai nhìn đám con gái đắc thắng: “Đằng ấy cứ khen nữa đi…”. Bẵng đi hơn tháng, khi câu chuyện đã lắng đi thì đùng một cái, ông lão lại xuất hiện. Nhìn dáng ông, vẻ mặt và ánh mắt ông, tôi tin là số phận đã giáng xuống ông một nỗi bất hạnh thật to lớn. “Tình yêu thêm hương vị khổ đau mới ngọt ngào làm sao!”, một thằng bạn học của tôi mơ màng. Lũ con gái im lặng tỏ vẻ thông cảm. Nếu bữa đó, vị giáo sư của chúng tôi không hăm đuổi cổ cả lớp, thì có lẽ nửa tiếng sau chuông rung chúng tôi vẫn con bàn tán về ông lão. Tuy nhiên từ bữa đó trở đi, ông lão không còn đều đặn ngày ngày lên xe buýt với chúng tôi. Hơn nữa, ông trở nên chậm chạp, mệt mỏi hơn. Nhiều khi tôi thấy ông ngồi trên xe thở dốc, mặt nhợt nhạt, bàn tay run rẩy cố giữ chặt bó hoa hông. Thời gian cuối– có lẽ là ba hay bốn tháng gì đó kể từ khi ông lão ít xuất hiện– chúng tôi cũng đã quen nên không để ý mấy nữa. Thế rồi, một ngày nọ, tất cả chúng các báo trong thành phố đều chạy tít về cái chết của một người anh hùng thế chiến thứ hai. Chúng tôi ngã ngửa: Ông lão “già mà ham vui” của chúng tôi từng là một phi công đã hạ vài chục máy bay của bọn phát xít.

    Chuyện lạ trên chuyến xe buýt của chúng tôi chưa hết. Một thằng bạn tôi phải thốt lên: “Thế giới sao lắm bí ẩn vậy?”. Số là ngay sau ngày ông lão ra đi. lúc chúng tôi vừa thò đầu vào xe buýt từ trường về lý túc xá, thì phát hiện trên ghế đầu là một bà lão mặc đồ tang đen. Một tay bà lão cầm một bó hồng đỏ thắm. Tay kia áp trước ngực một tấm hình đã ố vàng. Ánh mắt say đắm, hạnh phúc của bà lão rất quen thuộc đối với tôi. Ai đó khều nhẹ vai tôi. Tôi quay lại: Một cô bạn sinh viên mắt đỏ hoe thì thầm: “Tấm ảnh…”. Tôi sững người: Người trên ảnh không ai khác chính là ông lão “ham vui”.

Ông Noel không mặc đồ đỏ

    Hai bố con lái xe xuống khu thị tứ để mua sắm. Cô bé học lớp 4 hỏi bố:

    - Nhiều bạn trong trường nói không có ông Noel. Các bạn nói con là ngốc khi tin rằng ông có thật, nhưng con tin vào những gì bố bảo với con phải không bố?

    Xe ghé vào bên đường tắt máy. Cô con gái bé bỏng vẫn đang ngổn ngang bao suy nghĩ.

    - Các bạn ở trường đã sai, con yêu ạ! Ông Noel là có thật. Nhưng bố cần kể cho con nghe thêm về ông Noel. Bố nghĩ con đã đủ lớn để hiểu những gì bố sẽ chia sẻ với con- Người cha nhìn con trìu mến và tiếp- Ngày xưa có một người đàn ông đi đây đó khắp thế giới thưởng quà cho những đứa trẻ trên đường ông qua. Ông được biết đến ở nhiều nơi với nhiều tên gọi khác nhau nhưng tình thương trong tim ông đều như nhau dù ở bất cứ đâu. Ông là tâm hồn thương yêu tuyệt đối và mong muốn chia sẻ tình thương đó bằng cách tặng quà với cả con tim của mình. Khi con đến độ tuổi nào đó, con sẽ nhận ra ông Noel thật sự không hẳn phải là người vào nhà bằng ống khói trong đêm trước ngày lễ Giáng sinh. Tinh thần và cuộc sống thật sự của ông già thần thoại đáng yêu này mãi mãi nằm trong tim con, tim của bố, tim của mẹ cũng như trong tim của tất cả những người tin vào việc mang lại niềm vui cho người khác. Tinh thần thật sự của ông Noel là những gì con mang tặng thay vì những gì con nhận được. Khi con nhận thức được điều này và khi nó trở thành một phần trong con, Giáng sinh sẽ trở nên thú vị hơn và huyền ảo hơn vì con đã lĩnh hội được điều kỳ ảo về ông Noel khi ông tồn tại trong con. Con có hiểu những gì bố nói không?

    Cô bé nhìn ra ngoài cửa sổ vào hàng cây phía trước. Cô sợ nhìn vào bố, người từng bảo cô rằng ông Noel có thật. Cô muốn tin như cô đã tin hồi năm ngoái rằng ông Noel là một ông già vui tính, to béo, mặc đồ đỏ. CÔ không muốn phải trưởng thành và nhận thức bất kỳ điều gì khác.

    - Nhìn bố này- người bố chờ và cô bé quay sang nhìn ông.

    Người bố đang khóc, những giọt nước mắt sung sướng. Khuôn mặt ông ngời sáng bằng ánh sáng của cả ngàn dải Ngân hà và cô bé như thấy trong mắt ông đôi mắt của ông Noel, ông Noel thật sự, người đã bỏ nhiều thời gian chọn lựa những món quà đặc biệt mà cô mong ước trong những mùa Giáng sinh đã qua kể từ khi cô có mặt trên đời này. Ông Noel đã dùng món bánh mà cô bỏ công trang trí cũng như uống sữa nóng cô pha. Cô đã nhận ra niềm hạnh phúc, sự chia sẻ, tình thương. Người bố ôm ghì con trong vòng tay ấm áp của mình và cứ ôm như thế rất lâu. Cả hai đều khóc.

    - Giờ thì con đã thuộc về một nhóm người đặc biệt. Kể từ bây giờ con sẽ được chia sẻ niềm vui Giáng sinh mỗi ngày của năm chứ không còn chỉ trong một ngày đặc biệt nữa. Từ giờ, ông Noel sống trong tâm hồn con cũng như ông sống trong tâm hồn bố. Trách nhiệm của con là tuân theo tinh thần mang đến niềm vui cho người khác như con là một phần của ông Noel đang sống trong con. Đây là điều quan trọng nhất xảy ra với con trong cuộc đời mình, vì bây giờ con đã hiểu rằng ông Noel không thể nào tồn tại nếu không có những người như con và bố, những người khiến ông được sống mãi. Con có thể chu toàn việc này không?.

    Tim cô bé muốn vỡ ra vì hãnh diện và cô tin mắt mình đang tỏa ra niềm hạnh phúc. Cô đáp:

    - Thưa bố, con muốn ông mãi trong tim con như ông đã sống trong tim bố. Con yêu bố. Bố là ông Noel tuyệt vời nhất trên thế giới này. Ông Noel không mặc đồ đỏ của con. Ông Noel không mặc đồ đỏ của con.

Sống trọn vẹn từng ngày

    Trong một buổi diễn thuyết vào đầu năm học, Brian Dison - tổng giám đốc của Tập đoàn Coca Cola - đã nói chuyện với sinh viên về mối tương quan giữa nghề nghiệp với những trách nhiệm khác của con người.

     "Bạn hãy tưởng tượng cuộc đời như một trò chơi tung hứng. Trong tay bạn có năm quả bóng mang tên là : công việc, gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần. Bạn đang tung chúng lên không trung. Bạn sẽ hiểu ngay rằng công việc là một quả bóng cao su. Vì khi bạn làm rơi nó xuống đất, nó sẽ nảy lên lại. Nhưng bốn quả bóng còn lại - gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần - đều là những quả bóng bằng thủy tinh. Nếu bạn lỡ tay đánh rơi một quả, nó sẽ bị trầy sướt, có tì vết, bị nứt, bị hư hỏng hoặc thậm chí bị vỡ nát mà không thể sửa chữa được. Chúng không bao giờ trở lại như cũ. Bạn phải hiểu điều đó và cố gắng phấn đấu giữ cho được sự quân bình trong cuộc sống của bạn.

     Bạn làm thế nào đây?

     Bạn đừng hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh mình với những người khác. Đó là vì mỗi chúng ta là những con người hoàn toàn khác nhau. Chúng ta là những cá nhân đặc biệt. Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn vào những gì người khác cho là quan trọng. Chỉ có bạn mới biết rõ điều gì là tốt nhất cho chính mình.

     Bạn chớ nên thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim của bạn. Bạn hãy nắm chắc lấy như thể chúng là những phần trong cuộc sống của bạn. Bởi vì nếu không có chúng, cuộc sống của bạn sẽ mất đi ý nghĩa.

     Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.

     Bạn chớ bỏ cuộc khi bạn vẫn còn điều gì đó để cho đi. Không có gì là hoàn toàn bế tắc mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi bạn thôi không còn cố gắng nữa.

     Bạn chớ ngại mạo hiểm. Nhờ mạo hiểm với những vận hội của đời mình mà bạn học biết cách sống dũng cảm.

     Bạn chớ khóa kín lòng mình với tình yêu bằng cách nói bạn không có thời gian yêu ai. Cách nhanh nhất để nhận được tình yêu là hãy cho đi. Cách chóng nhất để đánh mất tình yêu là níu giữ thật chặt. Còn phương thế tốt nhất để giữ được tình yêu là bạn hãy chắp cho nó đôi cánh.

     Bạn chớ băng qua cuộc đời nhanh cho đến nỗi không những bạn quên mất nơi mình sống mà còn có khi quên cả bạn định đi về đâu.

     Bạn chớ quên nhu cầu tình cảm lớn nhất của con người là cảm thấy mình được đánh giá đúng.

     Bạn chớ ngại học. Kiến thức không có trọng lượng. Nó là kho báu mà bạn có thể luôn mang theo bên mình một cách dễ dàng.

     Bạn chớ phí phạm thời giờ hoặc lời nói một cách vô trách nhiệm. Cả hai điều đó một khi mất đi thì sẽ không khi nào bắt lại được. Cuộc đời không phải là một đường chạy mà nó là một lộ trình mà bạn hãy thưởng thức từng chặng đường mình đi qua.

     Quá khứ đã là lịch sử. Tương lai là một mầu nhiệm. Còn hiện tại là một món quà của cuộc sống, chính vì thế mà chúng ta gọi đó là tặng phẩm

Sự yêu thương dẫn đường

Khi còn trẻ, tôi thích hầu như tất cả mọi thứ: kem sôcôla, khiêu vũ, cái máy đánh chữ.

Tôi cũng yêu thương rất nhiều người: cha mẹ, người yêu - sau này là chồng, sau đó là con cái, các sinh vật mà chồng tôi nuôi trong nhà. "Tôi thích cái này!" - Tôi có thể dễ dàng nói câu đó. Và một phút sau, tôi lại có thể thích thêm mộ thứ khác. Không có biên giới cho sự yêu thương và thích thú.

Nhưng bây giờ tôi đã cẩn thận hơn về sự yêu thương của mình. Vì tôi đã biết cảm giác yêu thương một điều gì rồi bị đánh mất chính thứ đó. Lúc đó, tình yêu thương trở nên dằn vặt và đau đớn lắm, trở thành vết thương mãi mãi không hàn gắn được. Ấy là khi chồng tôi qua đời.

Tôi vừa phải phẫu thuật dạ dày. Tôi khó chịu về tất cả mọi thứ. Tiếng TV quá ồn ào. Chuông điện thoại thật phiền. Tôi không muốn nhìn ra cửa sổ và nhìn người ta đang tận hưởng một ngày tốt lành. Tôi cảm thấy mình già nua và vô dụng. Tôi khó chịu về cơ thể của mình, về tuổi tác, về sức khỏe... Cho đến ngày thứ ba kể từ khi phải nằm bẹp trên giường, tôi cảm thấy đỡ mệt hơn. Tôi ngồi dậy, nhìn quanh. Căn phòng trống rỗng. Tôi ngồi yên lặng, than thân trách phận.

Bỗng một chiếc máy bay giấy phi vèo vào phòng, đậu ngay ở chân giường tôi. Giở cái máy bay ra, tôi thấy một dòng chữ nguệch ngoạc. "Chúc bà mau khỏe. Cháu yêu bà. Ryan."

Tôi nghe có tiếng rậm rịch bên ngoài. Trời rất gió, hình như có tuyết, vì tôi nghe tiếng mọi người giậm lịch bịch những đôi ủng đi trời tuyết. Tôi đi ra phía cửa, cầm theo chiếc máy bay giấy.

Đã đến lúc bước vào thế giới một lần nữa. Với sự yêu thương dẫn đường.

Tha thứ mãi mãi

Lisa ngồi trên sàn với chiếc hộp trước mặt. Cái hộp cũ kĩ đựng một tờ giấy kẻ ô vuông. Và đây là câu chuyện đằng sau những ô vuông...

- Các con phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần? Cô giáo trường Chủ Nhật đọc to luôn câu trả lời cho cả lớp nghe:" 70 nhân 7 lần! "

Lisa kéo tay Brent - em trai cô:

- Thế là bao nhiêu lần?

Brent viết số 490 lên góc vở Lisa. Brent nhỏ bé, vai hẹp, tay ngắn, đeo cặp kính quá khổ và tóc rối bù. Nhưng năng khiếu âm nhạc của cậu làm bạn bè ai cũng phục. Cậu học pianô từ năm lên 4, kèn darinet năm lên 7 và giờ đây cậu đang chinh phục cây đèn Oboa. Lisa chỉ giỏi hơn em trai mình mỗi một thứ: bóng rổ, hai chị em thường chơi bóng rổ sau giờ học. Brent thấp bé lại yếu, nhưng nó không nỡ từ chối vì đó là thú vui duy nhất của Lisa giữa những bảng điểm chỉ toàn yếu với kém của cô.

Sau giờ học, hai chị em lại chạy ra sàn bóng rổ. Khi Lisa tấn công, Brent bị khuỷu tay Lisa huých vào cằm. Lisa dễ dàng ghi điểm. Cô hả hê với bàn thắng cho đến khi nhìn thấy Brent ôm cằm.

- Em ổn cả chứ? Chị lỡ tay thôi mà!

- Không sao, em tha lỗi cho chị - Cậu bé cười - Phải tha thứ 490 lần và lần này là 1, vậy chỉ còn 489 lần nữa thôi nhé!

Lisa cười. Nếu nhớ đến những gì Lisa đã làm với Brent thì hẳn 490 lần đã hết từ lâu lắm.

Hôm sau, 2 chị em chơi bắn tàu trên giấy. Sợ thua, Lisa nhìn trộm giấy của Brent và dễ dàng "chiến thắng".

- Chị ăn gian! - Brent nhìn Lisa nghi ngờ.

Lisa đỏ mặt:

- Chị xin lỗi!

Được rồi, em tha lỗi - Brent cười khẽ - Thế là chỉ còn 488 lần thôi, phải không?

Sự độ lượng của Brent làm Lisa cảm động. Tối đó, Lisa kẻ một biểu đồ với 490 hình vuông:

- Chúng ta dùng cái này để theo dõi những lần chị sai và em tha lỗi. Mỗi lần như vậy, chị sẽ gạch chéo 1 ô - Miệng nói, tay Lisa đánh dấu 2 ô. Rồi cô bé dán tờ biểu đồ lên tường.

Lisa có rất nhiều cơ hội đánh dấu vào biểu đồ. Mỗi khi nhận ra mình sai, Lisa xin lỗi rất chân thành. Và cứ thế... Ô thứ 211: Lisa giấu sách Tiếng Anh của Brent và cậu bé bị điểm 0. Ô thứ 394: Lisa làm mất chìa khoá phòng Brent... Ô thứ 417: Lisa dùng thuốc tẩy quá nhiều làm hỏng áo Brent... Ô thứ 489: Lisa mượn xe đạp của Brent và đâm vào gốc cây. Ô 490: Lisa làm vỡ chiếc cốc hình quả dưa mà Brent rất thích.

- Thế là hết - Lisa tuyên bố - Chị sẽ không có lỗi gì với em nữa đâu.

Brent chỉ cười :"Phải, phải"

Nhưng rồi vẫn có lần thứ 491. Lúc đó Brent là sinh viên trường nhạc và cậu được cử đi biểu diễn tại đại nhạc hội New York. Niềm mơ ước thành hiện thực.

Người ta gọi điện đến thông báo lịch biểu diễn nhưng Brent không có nhà, Lisa nghe điện :" 2h chiều ngày mùng 10 nhé!" Lisa nghĩ mình có thể nhớ được nên cô đã không ghi lại.

- Brent này, khi nào con biểu diễn? - Mẹ hỏi.

- Con không biết, họ chưa gọi điện báo ạ! Brent trả lời.

Lisa lặng người, mãi mới lắp bắp:

- Ôi! .... hôm nay ngày mấy rồi ạ?

- Mười hai, có chuyện gì thế?

Lisa, bưng mặt khóc nức lên:

- Biểu diễn... 2 giờ.... mùng 10.... người ta gọi điện.....tuần trước....

Brent ngồi yên, vẻ mặt nghi ngờ, không dám tin vào nhữnng gì Lisa nói.

- Có nghĩa là... buổi biểu diễn đã qua rồi??? - Brent hỏi.

Lisa gật đầu. Brent ra khỏi phòng, không nói thêm lời nào. Lisa về phòng, ngậm ngùi khóc. Cô đã huỷ hoại giấc mơ của em cô, làm cả gia đình thất vọng. Rồi cô thu xếp đồ đạc, lén bỏ nhà đi ngay đêm hôm đó, để lại một mảnh giấy dặn mọi người yên tâm.

Lisa đến Boston và thuê nhà sống ở ngay đó. Cha mẹ nhiều lần viết thư khuyên nhủ nhưng Lisa không trả lời: " Mình đã làm hại Brent, mình sẽ không bao giờ về nữa". Đó là ý nghĩ trẻ con của cô gái 19 tuổi.

Rất lâu sau, có lần gặp lại người láng giềng cũ: bà Nelson.

- Tôi rất tiếc về chuyện của Brent... - Bà ta mở lời.

Lisa ngạc nhiên:

- Sao ạ?

Bà Nelson nhanh chóng hiểu rằng Lisa không biết gì. Bà kể cho cô nghe tất cả: xe chạy với tốc độ quá cao, Brent đi cấp cứu, các bác sĩ tận tâm nhưng Brent không qua khỏi. Ngay trưa hôm đó, Lisa quay về nhà. Cô ngồi lặng yên trước chiếc hộp. Cô không thấy tờ biểu đồ ngày xưa kín đặc các gạch chéo mà lại có một tờ giấy lớn:

" Lisa yêu quý,

Em không muốn đếm những lần mình tha thứ, nhưng chị lại cứ muốn làm điều đó. Nếu chị muốn tiếp tục đếm, hãy dùng tấm bản đồ mới em làm cho chị.

Yêu chị,

Brent "

Mặt sau là 1 tờ biểu đồ giống như Lisa đã làm hồi bé, với rất nhiều ô vuông. Nhưng chỉ có 1 ô vuông đầu tiên có đánh dấu và bên cạnh là dòng chú thích bằng bút đỏ : " Lần thứ 491: Tha thứ, mãi mãi! "

Thanh âm diệu kỳ

    Ðó là câu chuyện của Jimmy Durante, một diễn viên hài được mời tham gia một buổi trình diễn phục vụ những cựu chiến binh trong thế chiến thứ hai. Ông báo với ban tổ chức rằng lịch diễn của mình rất khít nên chỉ có thể tham gia diễn trong vài phút. Nhưng nếu họ cho phép, ông sẽ độc diễn một đoạn rồi đi ngay. Dĩ nhiên là ban tổ chức đồng ý.

    Nhưng khi Jimmy lên sân khấu, điều thú vị đã xảy ra. Ðộc diễn xong ông vẫn đứng lại, tiếng hoan hô càng lúc càng lớn hơn và ông cứ đứng đấy trên sân khấu. 15, 20 phút rồi cả nửa tiếng. Cuối cùng ông cũng cúi đầu chào lần cuối và rời sân khấu.

    Tại hậu trường, một người hỏi ông :

    - Tôi ngỡ là ông sẽ đi sau vài phút, chuyện gì thế ?

    Jimmy trả lời :

    - Ðúng là tôi phải đi nhưng tôi sẽ chỉ cho anh thấy tại sao tôi lại ở lại. Hãy nhìn vào hàng ghế trước.

    Ðó là 2 người đàn ông đều bị cụt mất một cánh tay. Một người mất cánh tay mặt, người còn lại mất cánh tay trái. Cùng với nhau, họ mới có thể vỗ tay được và họ làm điều đó một cách hết sức nhiệt tình.

Thư viết cho ba

    Ai cũng viết thư cho người đang sống, còn con thì...

    Con trở lại trường sau năm ngày nghỉ học chịu tang cha. Buổi trở lại trường đầu tiên nghe tiếng trống bãi, con vội xếp tập vô cặp rồi như thường lệ đứng trước cổng trường để đợi. Tuổi thơ làm cho con mong vào những điều kỳ diệu, mong nỗi bất hạnh đó không phải là sự thật. Nhưng đến quá trưa nhìn lại sân trường vắng lặng và trước cổng trường chỉ còn mình con đứng đợi, con bàng hoàng nhận ra rằng ba đã mất thật rồi và từ đây không còn đến trường để đón con nữa. Hai hàng nước mắt chảy dài, nắng ban trưa rọi xuống đường hình cô gái nhỏ lủi thủi đi về mà lòng hụt hẫng xót xa.

    Ba chỉ đau trong một thời gian ngắn rồi bất ngờ bỏ chúng con mà đi. Lúc đó con chỉ mới 13 tuổi. Nỗi mất mát đó đối với con quá lớn và quá sớm. Một trăm ngày ba mất, má bảo thôi từ nay đừng cúng cơm ba nữa mà luôn thắp nhang cho ba, đừng để "hương tàn bình lạnh". Má cũng muốn nỗi đau lắng xuống để chúng con tập trung học hành. Nhưng rồi mỗi bữa cơm chúng con lại đặt một cái chén, một đôi đũa nơi ba vẫn ngồi trong bàn ăn, xới một liễn cơm nóng, dọn những thức ăn ba ưa thích. Nhiều năm sau này con vẫn thường ngậm ngùi nhớ lại hình ảnh những đứa con nhỏ của ba lên mâm cơm vẫn muốn lưu giữ kỷ niệm về người cha đã khuất. Biến cố ấy đã đem lại bao mất mát và càng khôn lớn con càng thấm thía đó là những thiếu thốn không gì bù đắp nổi.

    Cuộc sống mỗi lúc một bấp bênh. Đôi vai mỏng manh của má như oằn xuống trước gánh nặng của gia đình quá lớn. Giữa "ngày còn ba" và "ngày mất ba" dường như là hai thế giới. Miền Trung vào những ngày mùa đông trời lạnh như cắt thịt, những đứa con nhỏ của ba đi học về càng se thắt nhớ những ngày ba đội mưa đợi các con trước cổng trường. Một ngày mới của con được bắt đầu từ những hình ảnh, những âm thanh mà ba mang lại- một ngày tuổi thơ sung sướng. Những gì thuộc về ba trong hoài niệm của con đều đưa con quay về với quãng đời thơ ấu ấm áp tình phụ tử, nhưng con cũng không quên có buổi chiều đi đâu về con bước vào phòng ba, ba không bật đèn, phòng mờ tối và ba ngồi đó, câm lặng... Con nhìn thấy, rón rén quay ra và như bắt chước ba, con cũng ngồi ngoài hiên, một mình trong bóng tối... con thấy thương ba quá!... Tuổi thơ con cũng có những nỗi buồn của riêng mình nhưng tất cả nỗi niềm ấy đều được ba chia sẻ. Còn bây giờ, ba đang buồn và không thổ lộ nhưng con không biết làm sao an ủi. Ba đang nhớ các anh chị của con phải không ba? Con gái lớn lấy chồng xa, hai con trai bị bắt vào tù khi hoạt động trong phong trào tranh đấu của sinh viên. Con nhớ ngày theo ba má đến trại giam để thăm anh. Thấy anh con trong hình dáng ốm yếu, da dẻ xanh xao, má khóc ròng bước tới, còn ba thì lùi lại lén chùi nhanh những giọt nước mắt. Cơn bạo bệnh đột ngột nhanh chóng cướp ba đi hẳn, cũng có một phần của những nỗi nhớ thương bị dồn nén đó.

    Các anh, các chị con nhớ lại trong khoảng thời gian gia đình phải trải qua những thử thách nghiệt ngã, chưa bao giờ ba khuyên các con hãy chọn lựa cho riêng mình một cuộc sống bình yên. Nhưng ba vẫn nói đã chọn con đường cách mạng để đi thì phải đủ tâm, đủ lực đi cho trọn con đường, đừng để dang dở đời mình và lụy cả cho người.

    Năm 1976 con đúng 20 tuổi, cũng là năm thành lập Lực lượng thanh niên xung phong thành phố, con đã bước chân vào đội ngũ. Ngày lên đường con đã thắp nhang thưa với ba về chuyến đi xa nhà, chuyến đi thật xa, thật lâu với những khó khăn, thử thách mà lúc đó con không thể nào lường hết được. Bây giờ nhìn lại những quãng đởi đã đi cùng đồng đội, một nỗi mừng càng lúc càng thấm sâu, càng lan tỏa trong con. Vâng, con đã đi, đã được hỗ trợ bởi nhiều nguồn sức mạnh để gắn bó với sự chọn lựa của mình. Và luôn có ba trong con dù ở Đắk Nông, Bù Đốp hay những cánh rừng xanh thẳm phía Tây Nam. Những gì ba dạy chúng con đâu chỉ bằng lời mà bằng cả cuộc sống gay go khắc nghiệt. Thời thơ ấu vất vả ba phải vượt lên nỗi đau mồ côi để vừa làm, vừa học, sống có nhân cách, có lòng nhân ái.

    Ba vẫn ao ước các con của ba đều được vào đại học. Khi gia nhập Lực lượng TNXP con mới tốt nghiệp phố thông trung học. Chính đội ngũ ấy đã tạo điều kiện cho con được đến với giảng đường đại học. Ngày nhận tấm bằng đại học, con thầm cảm ơn đơn vị, cảm ơn đồng đội đã giúp con thực hiện được niềm mơ ước của ba hướng về con mà con đã canh cánh mang theo, ấp ủ trong lòng mình những năm dài.

    Ba đã xa chúng con ba mươi năm rồi mà chúng con cứ mãi ngậm ngùi tiếc thương khi nhớ về ba. Và vì thế khi thấy những trẻ thơ mất cha là lòng con đau xót, day dứt. Có những đứa trẻ mất cha là mất đi hình ảnh thiêng liêng, mất đi một người cha bằng da, bằng thịt. Nhưng cũng có những đứa trẻ mất dần cha do những đổ vỡ trong hạnh phúc gia đình. Mỗi khi chồng con đau, con đã chăm sóc tận tình, sợ bệnh tật sẽ cướp đi của con mình tình phụ tử. Khi giận hờn, căng thẳng với anh ấy con lại thường nhớ về cái buổi trưa đợi ba trước cổng trường mà ba không còn đến đón để thông cảm, bỏ qua những chuyện không bằng lòng trong cuộc sống lứa đôi. Con biết rằng ngày mai lúc tan học, con của con đứng đợi ở cổng trường sẽ có cha đến đón. Buổi cơm chiều trong một gia đình nhỏ sẽ ấm cúng đầy đủ cả ba người. Những đứa con có cha thật là một niềm hạnh phúc tuyệt vời. Nhưng sao viết ngang đây con nhớ đến một lần lại thăm nhà dưỡng lão. Nhiều cụ ông, cụ bà ngồi thầm lặng, buồn bã và khi có người hỏi: "Cụ ơi! Cụ còn con cái gì không?" thì các cụ run run không trả lời, những giọt lệ như sương mờ trên khóe mắt. Hình ảnh đó như nhắc nhở con phải thường xuyên về thăm má, không phải chỉ con trẻ cần đến cha mẹ mà ngay cả cha mẹ lúc tuổi già cũng rất cần đến tình thương của con cái.

    Bạn bè thường dặn con hãy nhớ về những điều vui để cho lòng mình thanh thản. Nhưng cũng chính trong nỗi bất hạnh nếu biết nhận ra một điều quan trọng cần nghĩ suy thì cũng không nên quên phải không ba?

    Thế Giới vật chất không cho phép con chuyển bức thư này đến với ba ở một cõi mênh mông, nhưng con nghĩ rằng trong tình phụ tử ba vẫn đọc được lòng con.

Tiếng lòng của Chitra

    Chitra Besbroda không dự định mình phải là anh hùng nhưng nó thật sự là anh hùng rồi. Và như thường lệ, những hành động anh hùng của Chitra bắt đầu bằng một cử chỉ tử tế nhỏ.

    Cách đây một vài năm, một thời gian ngắn sau khi từ quê nhà ở Sri Lanka sang Mỹ, Chitra đang từ chỗ làm trở về nhà. Cô là nhân viên xã hội của một bệnh viện. Cô đi ngang qua những dãy phố Harlem. Khi đi qua một trong nhưng tòa nhà đổ nát trong khu vực, cô đã nghe thấy một tiếng kêu lạ vọng ra. Cô dừng lại một lúc, sắp sửa bước tiếp thì nghe một tiếng khóc the thé. Rảo bước lại cánh cửa bạc phếch vì thời gian, Chitra liếc nhìn qua lỗ khóa nhỏ. Có một con chó có cặp mắt nâu buồn ở trong đó. Theo những gì cô có thể thấy thì đây là chú chó lai chó săn cừu của Đức. Cô đoán chắc nó được để lại để canh gác tòa nhà. Nhưng nếu như vậy thì chú chó đã không thực hiện nhiệm vụ của mình vì cô thấy nó đang vẫy đuôi khi cô nhẹ nhàng nói chuyện với nó.

    Là người theo đạo Phật từ lúc lọt lòng, Chitra được nuôi dạy rằng mọi sinh vật đều có quyền bình đẳng với nhau. Việc một chú chó thân thiện như thế bị nhốt một mình trong những cánh cửa khóa chặt cả ngày lẫn đêm theo cô là không được. Qua ổ khóa, Chitra nhìn sâu vào cập mắt buồn rầu của chú chó, cô hứa giúp nó được tự do.     Quyết định này đã đặt ra cho cô một con đường đầy cam go. Trong một vài tuần, cô đều đi thăm con chó cả lúc đi làm lẫn trở về nhà, cô gọi nó là Teddy, cô mang cho nó một túi đồ ăn. Cánh cửa lúc nào cũng khóa chặt, vì thế để cho con vật cô đơn ăn, cô phải ngồi sát cửa, nhét từng mẩu đồ ăn qua lỗ khóa. Chẳng bao lâu, con Teddy đã biết cách thè lưỡi ra dưới cái lỗ để đón lấy đồ ăn. Phần thưởng duy nhất cho những nỗ lực của cô là thỉnh thoảng con vật kêu to the thé. Như vậy cũng đủ rồi.

    Cuối cùng, sau khi hỏi thăm hàng xóm chung quanh, Chitra đã biết được tên người chủ của tòa nhà là Teddy. Cô thận trọng tới gặp ông này, cô tự giới thiệu mình, và cô rất cẩn thận không để ông ta giận dữ hay cảm thấy có tội với Teddy. Sau một vài tuần lễ, cô đã thuyết phục được người này cho cô đưa Teddy về nhà cô vào mỗi cuối tuần. Rốt cuộc cô đã nói với ông ta rằng cô có một chỗ rất tốt ở trung tâm thành phố, con Teddy sẽ được chăm sóc tử tế và điều này sẽ tiết kiệm cho ông ta một khoản đồ ăn không ít cho nó, ít nhất được một hai ngày mỗi tuần lễ. Người đàn ông đồng ý sau khi Chitra đã hứa sẽ mang con chó trả lại vào sớm ngày thứ hai. Do vậy, con Teddy đã bắt đầu có những chuyến tham quan cuối tuần ở trung tâm thành phố, ở đó Chitra đã nuông chiều nó như trẻ con vậy. Việc đưa con chó trở lại chỗ tan hoang của nó sau cánh cửa mòn vẹt mỗi ngày thứ hai đã trở thành việc ngày càng khó khan với Chitra. Một lần cuối tuần. Chitra đã mang con vật ra khỏi tòa nhà đã lưu đày nó quá lâu và không bao giờ quay lại nữa.

    Trong vài tuần lễ, Chitra đã bị người chủ của con chó dọa đánh và chửi rủa hết lời, nhưng cô vẫn từ chối không trả lại con chó, cô biết rằng nó sẽ bất hạnh khi bị giam cầm lại. Thay vào đó, cô đã van nài lòng trắc ẩn của người chủ để cho cô được giữ nó. Cuối cùng, ông ta đã mủi lòng. Chitra quá đỗi vui mừng nhưng nhanh chóng cô nhận ra rằng cô không thể nào giữ một con chó chăn cừu to lớn trong căn hộ ở trung tâm thành phố mãi được. Mặc dù biết rằng mình không thể sở hữu được con chó, cô cầu nguyện có ai đó xuất hiện để mang lại cho con Teddy một cuộc sống tốt. Một hôm, người ta bảo cho cô biết có một người Tây Ban Nha tử tế, có giọng nói nhẹ nhàng làm việc ở Liên Hiệp Quốc muốn nhận con chó. Chitra đã gọi điện cho ông ta, thấy cảm tình với ông ta, trong thâm tâm cô cảm nhận ông này sẽ là ông chủ tốt của Teddy. Nhưng dù nhu vậy, cô vẫn làm một cuộc điều tra tiểu sử ông ta kỹ càng, khăng khăng đòi gặp người đàn ông trước khi cô quyết định trao con Teddy cho ông ta. Sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng cũng đến ngày Chitra và Teddy gặp người đàn ông có giọng nói dễ nghe. Trong tâm trí cô tràn ngập những cảm xúc mâu thuẫn. Cô đã mong cho con Teddy tìm được một ngôi nhà tốt để nó sống cho tới cuối đời trong sự giàu sang, nhưng cùng lúc đó, tim cô như thắt lại với ý nghĩ mình mất nó. Cô cầu nguyện đơn sơ,hứa sẽ làm bất cứ việc gì đúng đắn, cô tin là mình sẽ định liệu khi trực diện với người đàn ông này.

    Ba bên đã gặp nhau trong một công viên không xa căn hộ của Chitra. Ban đầu, cuộc gặp gỡ không tốt đẹp lắm. Ông người Tây Ban Nhà trông có vẻ căng thẳng và bệnh tật. Có phải ông ta đang giấu giếm một điều gì đó mà ta phải biết không? Teddy cũng có vẻ biết chuyện, nó cứ núp sau chân của cô. Sau một vài phút nói chuyện linh tinh, Chitra cảm thấy không chắc về người đàn ông này, cô nhớ lại lời cầu mong, nghĩ rằng mình nên đình lại việc này thôi.

    Rồi người đàn ông chuyển hướng sang chú chó. Ông ta khuỵu người xuống, dụ ngọt nó. Từ từ, con vật tiến lại gần sát ông, nó sủa nhẹ nhàng. Ông ta lần vào túi áo khoác và lấy ra những mẩu đồ ăn nhỏ cho chó. Tận mắt thấy và ngửi được đồ ăn, con chó chạy lon ton lại gần ông ta hơn. Khi ông ta chìa cho con chó món đồ ăn ở trên tay, Teddy nhẹ nhàng thè lưỡi ra liếm lấy, hệt như trước đây nó làm qua lỗ khóa hàng trăm lần trước đó.

   Chitra nhìn vào khuôn mặt người Tây Ban Nha, cô thấy khuôn mặt đó đã dãn ra vẻ hài lòng trước việc con Teddy nhận thức ăn của ông. Chitra hiểu cái nhìn ấy. Đó là cái nhìn của một người thật sự yêu loài khuyển. Khi nhìn chăm chú người đàn ông tử tế và chú chó cao lớn, cô biết mình đã hoàn thành lời hứa. Cuối cùng, Teddy đã được tự do.

    Nhưng chẳng bao lâu cô đã nhận ra là ở đâu cũng có rất nhiều con Teddy. Xung quanh khu vực Harlem, cô nhận thấy những chú chó khác đang được người ta sử dụng như "máy báo động trộm sống". Cô cũng không thể nào xoay lưng lại với những con vật này.

    Trong hơn 25 năm, Chitra đã tiếp tục cuộc vận động của mình để cứu những chú chó, mèo ở những tòa nhà đổ nát của vùng Harlem. Cho đến bây giờ, cô đã giải cứu được trên 3000 con vật, trong đó có nhiều con đang chết đói và bị đánh đập. Cuối cùng, Chitra đã thành lập một Công ty những sinh vật có tri giác, một Công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là một Công ty từ thiện chuyên giúp người và vật cưng sống hòa đồng với nhau.

    Nhu cầu được chăm sóc của những con vật đã thúc giục cô quá mạnh. Chitra không thể không đáp lại Teddy, con vật đầu tiên được cô giải cứu, đã lưu mãi dấu chân của mình trong tâm hồn Chitra.

Trận đấu cuối cùng trong đời tôi

Trước khi trận đấu cuối cùng kết thúc cuộc đời tôi rất bình thường, với nhịp sống quen thuộc hàng ngày. Hồi đó. lúc thức dậy tôi đều liệt kê những nhiệm vụ phải hoàn thành trong ngày. Những nhiệm vụ này không quá phức tạp: lên lớp, đến sân tạp bóng đá, học và ngủ. Thường thường, sau nhiều giờ chơi thỏa thích ở sân bóng, tôi có thể về nhà ngồi học đến một hai giờ sáng.

Đã thích nghi với nhịp sống mỗi ngày như thế, tôi chưa bao giờ tưởng tượng mọi việc sẽ thay đổi. Tuy vậy cuộc đời tôi đã sang trang vào ngày thi đấu sau chót. Hôm đó là trận đấu cuối cùng của giải, đội thắng sẽ giành ngôi vị quán quân. Đội của tôi không chỉ luyện thể lực hết mức suốt bốn năm qua chỉ để chờ ngày này đây, mà chúng tôi còn sẵn sàng về tinh thần. Tôi đã sẵng sàng. Tôi bước vào trận đấu với thái độ quả quyết rằng ngôi vị vô định sẽ nằm trong tay đội tôi. Chúng tôi rất xứng đáng vì ước nguyện chiến đấu của chúng tôi quá lớn, và chúng tôi cũng rất sôi nổi !

Thủ quân hai đội ra đây- Tiếng người trọng tài kêu.

Tôi tiến đến giữa sân, tự tin nhìn thủ quân của đối phương, bắt tay cô này thật chặt chúc may mắn. Khi đã đứng vào vị trí trên sân, tôi biết là đã đến lúc trận đấu cuối cùng bắt đầu. Tôi hít một hơi thật sâu, tự nhủ sẽ đaem hết sức mình ra chơi, như thể đây là trận đấu cuối cùng của đời mình.

"Thủ môn sẵn sàng đi" Tiếng trọng tài la. Hai thủ môn đồng loạt giơ tay phải lên, ngụ ý họ đã sẵn sàng. Tiếng còi vang lên.Chẳng mấy chốc ôi tiếp banh và tạt nó về phía cách cầu môn 6m, kịp để đồng đội đón bóng sút thẳng vào cầu môn."Vào rồi!!!" mọi người la lên. Trận đấu khởi đầu khá tốt đẹp.

Nhưng rồi tình thế trên sân trờ nên khá căng thẳng khi đối phương san bằng tỉ số 1 đều. Diễn biến trận đấu cực kì quyết liệt trong hiệp 1. Tỉ số vẫn sát nút 1 đều mãi đến khi tôi nhận banh chỉ 1 phút trước khi hết trận. Tôi cần đưa banh vào lưới và đã làm được, nâng tỉ số chung cuộc lên 2-1. Nhưng mọi việc lại không chính xác như đã tính.

Để cản trở cú sút của tôi. một cầu thủ đội bạn đã tranh bóng với tôi trên không. Nhưng thay vì nhắm vào trái bóng, người của cô ta lại đầm sầm vào tôi, khiến tôi bất tỉnh giữa sân trong khi đồng đội reo hò chiến thắng vang dội.

Khi tỉnh lại tôi thấy mình nằm trên giường rong bệnh viện, chân phải bị bó bột. Gai đình bè bạn và đồng đội đứng chung quanh. Ở bên cạnh tôi còn có các bácsĩ, những người định đoạt tương tai của tôi. Trong phút chốc họ cho tôi biết tôi bị thương rất nặng.

Tôi mất hết can đảm, nghe nói mình bị rách gân và trải qua cuộc phẫu thuật hiếm thấy với tỉ lệ thành công là 50%. Sau nhiều giờ suy nghĩ, tôi quyết định phẫu thuật, lòng biết rằng dù cách nào đi nữa, thử thách đang chờ đợi trước mặt. Liệu tôi có học được hết học kì không? Căn bệnh này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống sau này, điểm số ở trường khả năng thi đấu? hàng loạt câu hỏi cứ nảy ra trong óc tôi. Và chỉ có thời gian mới đưa ra câu trả lời xác đáng nhất....

Sau cuộc phẫu thuật tôi không còn là một người độc lập như trước đây, vì phải phụ thuộc vào bạn trai-Jordan, giúp tôi cả những việc nhỏ nhặt nhất. Con đường dẫn đến sự bình phục phải lâu dài, đầy khó kăhn, tôi biết mình sẽ không vượt qua nếu không có thái độ tích cực. Chẳng cần nói, tôi đã tự rèn luyện tinh thần. Đều này khiến tôi có thái độ lạc quan để thích ứng với bước ngoặt của đời mình. Tôi bắt đầu nhận ra mình không phải từ bỏ cuộc sống cũ hoàn toàn. Tôi đã tập trung sức lực để viết văn như một thú tiêu khiển.

Dù rằng Jordan vẫn cần phải đi cùng đến mọi nơi tôi vẫn có thể tập tành sáng tác trong sự im lăng, niềm khuây khỏa củ atâm hồn và tinh thần. Dù không thể điều khiển được phần dưới của cơ thể, tôi vẫn có thể kiểm soát được tinh thần của mình.

bây giờ nhìn lại toàn bộ sự việc tôi lấy làm sung sướng khi trận đấu cuối cùng đó cũng là trận đấu cuối cùng của tôi. Tôi chẳng hối tiếc đều gì, tôi đã cống hiến cả 110% sức lực, và chơi thử thể đó là trận đấu cuối cùng. Tôi làm điều đó và cuối cùng đã trở thành người chiến thắng. Dù tai nạn đã cướp đi của tôi sức mạnh thể chất, nhưng nó lại mang đến cho tôi sức mạnh tinh thần, và thúc ép tôi khám phá ra năng lực bản thân. Hồi tưởng lại tôi thấy trận đấu đó chính là phần thưởng của tạo hóa. Không chỉ chúngtôi thắng cuộc, tôi có thể khám phá một sức mạnh nội tâm mới. Tôi cho rằng gnày hôm đó tôi đã giành đượv 2 chiến thắng.

Trẻ mãi.

    Tôi sống gần gũi ông nhất nên là người đầu tiên nhận được cú điện thoại gọi từ viện dưỡng lão. Ông đang hấp hối. Tôi đến ngay nhưng đã quá muộn, chỉ còn biết nắm lấy cánh tay xương xẩu của ông và lặng lẽ...

    Kỷ niệm... Những kỷ niệm chợt ùa về trong ký ức. Đó là hình ảnh một ông lão nông dân mặc chiếc quần yếm sờn rách và chiếc áo màu xanh cũ kỹ đang chăm sóc bầy gia súc mà ông rất yêu quí. Vào những ngày hè nóng nực, ông ôm những bó cỏ ra khỏi chiếc xe kéo, xới đất trồng bắp và đậu rồi thu hoạch chúng khi mùa thu đến. Cứ như thế, Ông làm việc suốt từ sáng sớm đến chạng vạng tối. Vào ngày Chủ Nhật. Sau khi làm xong những công việc lặt vặt trong buổi sáng, ông thay bộ vét màu xám. Còn bà thì diện chiếc áo đầm màu rượu vang và đeo xâu chuỗi bằng ngà rồi cả hai cùng đến nhà thờ. Đó là ông tôi ông đã như thế suốt 35 năm nay.

    Cô y tá yêu cầu tôi sớm dọn dẹp những vật dụng của ông ra khỏi phòng. Việc này không tốn nhiều thời gian. Đồ đạc của ông không nhiều. Bất chợt, tôi tìm thấy trong ngăn kéo của chiếc tủ nhỏ một tấm thiệp. Trông nó như một tấm thiệp rất xưa ai đó tự làm lấy. Có thể ngày trước nó màu đỏ, bây giờ thời gian đã làm phai màu và chuyển sang màu hồng cũ kỹ. Có một mẩu giấy được dán vào giữa trái tim. Ở đó có nét bút của bà tôi:

    Với tất cả tình yêu của em,

    Ngày 14- 2- 1895

    Anh khỏe chứ, anh yêu? Anh là một con người thực hay là giấc mơ đẹp đẽ nhất của em trong nhiều năm nay? Anh là thiên thần? Một hình ảnh đẹp trong trí tưởng tượng của em? Là một ai đó em tự tạo ra để lấp đầy nỗi cô đơn, để xoa dịu nỗi đau? Anh nghe được tiếng lòng em từ đâu? Sao anh hiểu được em nhiều đến vậy? Anh khiến em cười khi trái tim em thổn thức. Anh dìu em nhảy khi em không nhấc nổi bước chân. Anh giúp em đặt ra mục tiêu để theo đuổi khi em đang quyệt vọng Anh chỉ cho em những giọt sương khuya đọng trên lá, và với em chúng đã hóa thành kim cương. Anh mang đến cho em những bông hoa dại và em có nhũng cành lan quí. Anh hát cho em nghe và em nghe tiếng của các thiên thần. Anh nắm lấy tay em và em thấy mình được anh yêu trọn vẹn. Anh trao em nhẫn và em thuộc về anh. Em thuộc về anh và em đã có tất cả.

    Nước mắt tôi lăn dài trên má khi đọc những dòng chữ này. Tôi như hình dung ra một đôi vợ chồng già vốn đã quá quen thuộc đối với tôi. Thật khó mà hình dung ra ông bà của bạn ở một hình ảnh nào đẹp hơn thế. Những gì tôi đọc được rất đẹp và quá đỗi thiêng liêng. Ông tôi đã giừ nó trong chừng ấy năm trời. Bây giờ tôi lại giữ nó, như một phần tốt đẹp trong lịch sử gia đình mình.

Trên tuyết.

    Một bà cụ nặng nhọc lê bước trên phố. Bà cụ đi chân đất. Trên tuyết. Một đôi trẻ, tay xách lỉnh kỉnh những túi to- vừa nói chuyện vừa cười đến nỗi không để ý thấy bà cụ.

    Một người mẹ dẫn hai đứa con nhỏ tới nhà bà ngoại. Họ quá vội nên cũng không để ý.

    Một viên chức ôm một chồng sách đi qua. Mải suy nghĩ nên cũng không để ý.

    Bà cụ dùng cả hai tay để khép vạt áo đứt hết khuy. Dừng lại, nép vào một góc ở bến xe buýt. Một quý ông ăn mặc lịch lãm cũng đứng đợi xe buýt. Ông cố đứng tránh xa bà cụ một chút. Tất nhiên là bà già rồi, chẳng làm hại được ai, nhưng nhỡ bà ấy bị bệnh lây nhiễm thì sao…

    Một cô gái cũng đứng đợi xe buýt. Cô liên tục liếc xuống chân bà cụ, nhưng cũng không nói gì.

    Xe buýt tới và bà cụ nặng nhọc bước lên xe. Bà ngồi trên chiếc ghế ngay sau người lái xe. Quý ông và cô gái vội vã chạy xuống cuối xe ngồi. Người lái xe liếc nhìn bà cụ và nghĩ: “Mình không thích phải nhìn thấy cảnh nghèo khổ này chút nào!”.

    Một cậu bé chỉ vào bà cụ và kêu lên với mẹ:

    - Mẹ ơi, bà ấy đi chân đất! Mẹ bảo những ai hư mới đi chân đất, đúng không mẹ?

    Người mẹ hơi ngượng ngập kéo tay con xuống:

    - Andrew, không được chỉ vào người khác!- Rồi bà mẹ nhìn ra cửa sổ.

    - Bà cụ này chắc phải có con cái trưởng thành rồi chứ!- Một phụ nữ mặc áo choàng lông thì thầm- Con cái của bà ấy nên cảm thấy xấu hổ mới phải!

    Người phụ nữ này bỗng cảm thấy mình quả là người tốt, vì mình luôn quan tâm đầy đủ đến mẹ mình.

    - Đấy, ai cũng phải học cách tiết kiệm tiền- Một chàng trai ăn mặc bảnh bao thêm vào- Nếu bà ấy biết tiết kiệm từ khi còn trẻ thì bà ấy chẳng nghèo như bây giờ!

    Một doanh nhân hào phóng bỗng cảm thấy ái ngại. Ông lấy trong ví ra một tờ 10 đôla, ấn vào bàn tay nhăn nheo của bà cụ, nói giọng hãnh diện:

    - Đây, biếu bà! Bà nhớ mua đôi giày mà đi! Rồi ông ta quay về chỗ ngồi, cảm thấy hài lòng và tự hào về mình.

    Xe buýt dừng lại khi tới bến và một vài người khách bước lên. Trong số đó có một cậu bé khoảng 16-17 tuổi. Cậu ta mặc chiếc áo khoác to màu xanh và đeo balô cũng to, đang nghe headphone. Cậu trả tiền xe buýt và ngồi ngay vào ghế ngang hàng với bà cụ. Rồi cậu nhìn thấy bà cụ đi chân đất.

    Cậu tắt nhạc. Cảm thấy lạnh người. Cậu nhìn từ chân bà cụ sang chân mình. Cậu đang đi một đôi giày cổ lông dành cho trời tuyết. Đôi giày mới tinh và ấm sực. Cậu phải tiết kiệm tiền tiêu vặt khá lâu mới mua được. Bạn bè đứa nào cũng khen!

    Nhưng cậu cúi xuống và bắt đầu cởi giày, cởi tất, rồi ngồi xuống sàn xe, bên cạnh bà cụ.

    - Bà, cháu có giày đây này!- Cậu nói.

    Một cách cẩn thận, cậu ta nhấc bàn chân lạnh cóng, co quắp của bà cụ lên, đi tất và đi giày vào chân bà. Bà cụ sững người, chỉ khe khẽ gật đầu và nói lời cảm ơn rất nhỏ.

    Lúc đó, xe buýt dừng. Cậu thanh niên chào bà cụ và xuống xe. Đi chân đất trên tuyết.

    Những người khách trên xe thò đầu ra cửa sổ, nhìn đôi chân cậu thanh niên, xôn xao bình phẩm.

    - Cậu ta làm sao thế nhỉ?- Một người hỏi.

    - Một thiên thần chăng?

    - Hay là con trai của Chúa!

    Nhưng cậu bé, người ban nãy chỉ vào bà cụ, quay sang nói với mẹ:

    - Không phải đâu mẹ ạ! Con đã nhìn rõ rồi mà! Anh ấy là người bình thường thôi!

    Và việc làm đó, thật sự, cũng chỉ cần một người bình thường.

Truyền thuyết hoa hồng

Truyện do bạn Bùi Đức Quỳnh gửi tặng

Ngày xửa ngày xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi bên một khu rừng rộng lớn và rậm rạp. Vương quốc nầy sống thật hòa bình và yên vui sau một thời gian dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành quyền độc lập. Và vị anh hùng chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân chúng tôn lên làm vị vua đầu tiên.

Sau thời gian dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những quyền lợi của cá nhân mình. Vị hoàng đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai vàng và hào quang của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc cho dân và để mặc lũ bầy tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hoàng đế lảng quên với việc triều chính, bọn tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu . Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại, hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên năn nhà vua nên lo cho dân chúng và chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất ghét hoàng hậu, nhưng không làm gì được vì nhà vua quá thương yêu nàng.

Cho đến ngày kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật kháu khỉnh, dễ thương. Lạ lùng thay, thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt như pha lê, đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ hội đã đến, bọn tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù thủy trá hình và tuyên truyền tin này ra ngoài cho toàn dân.

Trước áp lực của bầy tôi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế hoàng hậu ra khỏi hoàng cung cùng với đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một thường dân, hoàng hậu đem con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân chúng chửi mắng và xua đuổi. Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hoàng hậu đã bị bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập mà chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để che chở cho đứa con thơ. Với bao vết thương trên mình, hoàng hậu bồng con đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức. Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết mình sắp chết, hoàng hậu không biết làm gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối cùng.

Đứa bé nằm bên mẹ không ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng khóc vang lên tận chín tầng trời làm Thượng Đế động lòng ngó xuống trần gian. Khi thấy hoàn cảnh thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lòng tàn ác của người dân vương quốc kia. Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng chăm sóc cho nó lớn lên trong tình thương của thiên nhiên và muôn cầm. Sau đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho toàn thân thể của từng người dân bị gai nhọn mọc đầy người, để suốt đời không ai được gần gủi ai cho đến khi mọi người biết thương yêu nhau. Từ đó người dân của quốc gia nầy đều mang trên mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên mình ngày một dài và cứng nhọn theo lòng tham ngày càng to lớn, họ cứ sống cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá cho lòng vị kỷ đó bằng sự cô đơn khủng khiếp dằn vật tâm linh.

Một ngày kia, nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia khác bèn đem quân sang xâm lấn lãnh thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi, toàn dân trong nước ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó đã lớn tuổi mà vẫn bị lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán quân ra chiến đấu. Sức mình thì yếu, sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà vua thật nhanh chóng. Dẫn tàn quân chạy về hoàng thành thì mới hay lũ tham quan đã đem dâng cho giặc tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem quân cố chiếm lại thành trì nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có tẩm thuốc độc. Nhà vua được một số quân trung thành cứu thoát và chạy trốn đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà vua lấy làm hối hận rằng mình đã không nghe lời hoàng hậu khuyên ngày trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa con thơ vô tội của mình ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ. Bên ngoài thì địch quân vây khốn, trong rừng thì binh sĩ liều mạng để tử thủ với quân thù. Nhà vua lập đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ.

Ngày qua ngày, dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của vương quốc đó càng nghe đồn thêm về một quốc gia trong khu rừng già huyền bí nọ. Dần dần, người dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía quân xâm lăng cũng điêu ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế hoạch không thi hành được vì không thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc trên thân thể của người dân bản xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho khuyết điểm trên thân thể mình thành ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một ngày kia, với binh hùng tướng mạnh, nhà vua bắt đầu công cuộc dành lại quê hương. Lần nầy, với đoàn quân thiện chiến và với lòng tin thống nhất, nhà vua đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân xâm lăng ra khỏi lãnh thổ.

Không may, trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức vì tuổi già, lại còn lao lực trong trận chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày càng thêm nặng. Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã phải mang nỗi buồn cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết mình sắp chết, nhà vua trong cơn sốt đã thốt lên rằng:

"Ta chết cũng đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con mà ta chưa hề biết mặt !..."

Bỗng nhiên có tin báo từ bên ngoài thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết bệnh cho nhà vua. Cửa hoàng thành rộng mở. Người thầy thuốc bước vào hoàng cung với tấm vải thô che kín thân thể mà không ai nhìn thấy mặt. Khi đến gần giường bệnh, người thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà không nói tiếng nào. Khi nghe nhà vua gọi con trong cơn sốt, người thầy thuốc rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người và nói rằng:

"Thưa phụ hoàng, con đây !".

Rồi người thầy thuốc hất tấm vải thô che mình xuống đất để lộ ra một thân thể trong suốt như pha lê. Để chữa bệnh cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và ôm người thật chặt vào lòng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật sâu. Và máu chàng đã chảy ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của nhà vua thì nhà vua cũng thấy mình khỏe lại . Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn trên thân thể nhà vua cũng tan biến dần theo từng giọt máu của vị hoàng tử đổ xuống.

Sau đó vị hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ đứng dậy và bước đến người đứng gần mình nhất, vị hoàng tử ôm lấy người đó và nói:

"Chúng ta hãy thương yêu nhau. Bất cứ hình phạt nặng nề nào của Thượng Đế cũng đều được giảm bớt nếu chúng ta biết chân thành yêu thương nhau".

Rồi cứ thế từ người này sang người khác, chàng đi khắp thành mà ôm từng người một, từ ông lão nghèo nàn đến người thương gia giàu sang, từ em bé tật nguyền đến chàng thanh niên khỏe mạnh. Và cứ thêm mỗi người được ôm thì vị hoàng tử càng yếu dần theo từng giọt máu ứa ra trên thân thể họ. Cho đến lúc kiệt sức, chàng quị xuống bên đường. Tuy vậy, chàng vẫn mở rộng vòng tay kêu gọi mọi người đến cùng chàng mà chia sự sống. Mọi người nức nở khóc trước tình thương bao la của chàng. Những người sau cùng chưa được thoát bệnh đồng quì xuống bên chàng mà nói:

"Chúng tôi xin hoàng tử đừng lao lực thêm nữa. Chúng tôi thành tâm nguyện mang lớp gai này trên mình để người còn được sống cùng chúng tôi".

Lạ thay, từ trên thinh không bỗng có tiếng nhạc thánh thót vang lên và có lời truyền của Thượng Đế phán rằng:

"Lành thay ! Các người hiểu được tình yêu thương chân thật và bỏ đi lòng tị hiềm, ích kỷ. Dám hy sinh bản thân mình cho đồng loại là định nghĩa của yêu thương vậy".

Rồi cùng với thinh âm tan dần vào không gian, các lớp gai trên thân hình của những người còn lại đều biến mất đi. Khi người ta nhìn lại thì vị hoàng tử đang khép mắt lại với lời nói thật hiền hòa thoát ra theo làn hơi thở sau cùng:

"Hạnh phúc là có nhau hôm nay để sống. Yêu thương là biết sống làm sao để ta có nhau ngày mai. Các bạn của tôi ơi, hãy nhớ rằng hạnh phúc không phải là của riêng ta để cho đi hay lấy lại. Hạnh phúc chỉ đến với ta khi ta biết yêu thương lẫn nhau và chia xẻ cho nhau tình thương đó..."

Rồi chàng lìa đời sau câu nói đó. Ngày hôm sau, dưới sự hướng dẫn của nhà vua, toàn dân trong thành đã đưa di thể của chàng xuống lòng đất muôn đời, bên cạnh khu rừng nọ. Lạ thay, khi xác của chàng vừa được chôn dưới lòng đất xong, người ta bỗng thấy có những chim muông, cầm thú kéo thành đoàn từ trong rừng ra nằm quanh ngôi mộ của chàng thật lặng yên và buồn bã. Một năm sau, người ta thấy trên ngôi mộ của chàng và chung quanh khu vực đó mọc lên những bông hoa đỏ tươi như máu với thật nhiều gai nhọn từ gốc đến ngọn. Người ta cho đó là sự kết tinh lại của tình thương của chàng hoàng tử để nhắc nhở cho người đời bài học cao cả nhất về yêu thương và hạnh phúc. Và người ta gọi loài hoa đó là hoa Hồng.

Và mãi mãi đến ngày nay, dù mang nhiều màu sắc khác nhau, loài hoa đó vẫn tượng trưng cho sự yêu thương

Ước mơ đẹp

    Cô bé vẫn mải mê gấp những ngôi sao bé nhỏ vì cô tin vào truyền thuyết cổ khi gấp đủ một trăm ngôi sao nhỏ đem tặng cho người mình yêu quý thì một điều ước của người đó thành sự thật.

    Cô bé muốn bạn trai của mình được vui vẻ, cô bé không muốn người bạn trai đó mãi mãi im lặng cô muốn thấy những nụ cười thật sự những niềm vui trong ánh mắt của bạn trai. Thời gian trôi đi cô bé vẫn luôn luôn là người đứng đầu lớp và nhóm bạn thân của cô về hầu hết mọi mặt. Túi sao nhỏ của cô càng ngày càng nhiều và cho đến một ngày kia cô là ngày cô sẽ phải xa rời các bạn xa rời quê hương để đến một nơi mà bố mẹ cô cho là tốt cho bản thân cô, cho tương lai rực rỡ, và cô gái quyết định mang những túi sao đủ màu sắc đến cho bạn cô với lý do món quà trước khi rời xa.

    Cô bé: “Tối nay nhiều sao quá". Mắt cô sáng ngời: “ấy hãy ước điều gì đó đi”, giọng nói thật nhẹ nhàng như chờ đợi. Cậu bạn trai khẽ mỉm cười mở gói quà và nói: "Chúc những điều hạnh phúc nhất sẽ đến với ấy, bạn thân”. Cô bé giật mình đôi mắt nhoà đi, giọng như bật khóc: “Tớ muốn nghe điều ước dành cho ấy”…

    Bỗng cô nhận ra trong ánh mắt kia đã lâu lẳm rồi như đang thật sự cười và phản chiếu một bầu trời sao đang dành cho cô những điều tốt đẹp nhất. Cô vội vàng thầm ước… đôi mắt đó, nụ cười đó mãi mãi theo cô.

    Những mong ước đôi khi không vĩ đại, nó thật nhỏ bé chân thành và nó thật giản dị, đôi khi niềm hạnh phúc của người khác là nụ cười của bao người, bất chợt đến và sẽ không phai...

Tình yêu

Bài học từ con ngọc trai

    Bạn có biết con ngọc trai không? Ngọc trai đã phải chịu đựng đau đớn biết bao nhiêu khi có những hạt cát rơi vào. Nhưng rồi mặc cho nỗi đau dày vò, ngọc trai vẫn can trường bọc lấy những hạt cát để từng ngày tạo nên những viên ngọc đẹp tuyệt vời.

    Ngọc trai là loài động vật có hai mảnh vỏ. Một đôi vợ chồng cũng như con ngọc trai vậy. Người vợ và người chồng như hai mảnh vỏ ngọc trai gắn kết với nhau để rồi một ngày tạo ra một viên ngọc trai quý.

    Khi có một vật lạ rơi vào bên trong, nếu hai mảnh vỏ trai chỉ làm điều đơn giản là đẩy nó ra ngoài, hoặc tách rời nhau và không phối hợp với nhau sẽ không bao giờ có những viên ngọc trai quý báu.

Bánh tình yêu.

- 1 cốc tình bạn

- 2 cốc chung thủy

- 4 cốc tình yêu

- 2 cốc hy sinh

- 3 cốc thành thật

- 3 cốc thương yêu

- 3 cốc tha thứ

- 2 cốc tôn trọng

- 5 muỗng hy vọng

- 3 muỗng âu yếm

- 3 muỗng chăm sóc

- 4 lít niềm tin

- 150 lít nụ cười

- 1 bó xa cách

- 1 túi thẻ gọi điện thoại

CÁCH LÀM:

Trộn tình yêu với thành thật một cách tỉ mỉ, rồi cho thêm vài câu chuyện phone. Nhồi một ít sự xa cách cho lanh tay, rồi ủ cho tới để thành thật thấm sâu vào tình yêu. Nhớ đừng lỡ tay cho xa cách quá nhiều, bánh sẽ bị chua. Còn nếu cho xa cách quá ít, bạn sẽ mau chán ăn bánh. Kế đó cho vào sự âu yếm, ân cần và hiểu biết, thêm một chút niềm tin và hy vọng. Cuối cùng, rắc nhiều nụ cười và trộn đều.

Lò nướng phải đặt ở chỗ sáng sủa, có ánh nắng mặt trời (Không được đặt lò trong bóng tối che khuất, vì như vậy, men thành thật sẽ bay đi hoặc có khi biến thành giả dối, bánh vẫn nướng và dùng được nhưng coi chừng bị bệnh trầm cảm sau này). Trước khi để vào lò thì phải nếm thử, nếu thấy không đủ ngọt là vì thiếu sự thương yêu, âu yếm, còn có vị đắng thì phải thêm vào thật nhiều tha thứ. Nếu bánh có bị rạn nứt thì phải nhớ tráng bánh bằng sự hy sinh. Thời gian nướng lâu hay mau thì không thành vấn đề, song cũng đừng đốt cháy giai đoạn. Giai đoạn châm lửa này là nghệ thuật của bạn, bạn nên biết lúc nào nên cho lửa non hay lửa già. Bánh có ngon hay không là còn tùy thuộc vào người nướng có giỏi và cho gia vị có hợp lý không! Còn dư vị của bánh thì tùy thuộc vào sự chín chắn và nghiêm túc của bạn trong việc nướng bánh.

Khi thấy bánh khác thường thì phải có mặt kịp thời để làm cho bánh tươi lại. Nhớ là mỗi ngày phải phone cộng thêm với nụ cười. Muốn giữ bánh được lâu thì phải giữ trong tình thương yêu và sự săn sóc. Trong khi nấu nhớ sắp đặt lòng tôn trọng xung quanh nếu không thì bánh rất dễ bị khét và như vậy thì phải đòi hỏi thêm nhiều tha thứ hơn nữa! Nấu xong nhớ tắt lửa, dọn dẹp gọn gàng.

Lưu ý, món này chỉ nấu cho 2 người ăn mà thôi và do hai người cùng nhau nấu (Nếu có người thứ ba thì coi như xong). Dùng món này hàng ngày với sự độ lượng.

Thực tế cho thấy, có người ghiền món này đến độ răng long đầu bạc vẫn còn ăn, có người chỉ một đôi lần là dẹp lò, đổ bột. Do đó, phải xác định cụ thể, rõ ràng, rằng bạn chỉ tính nếm thử cho vui hay nghiêm túc nấu bánh! Hãy cẩn thận vì bạn sẽ bị bỏng đấy!!!

    Đầu tiên, chúng phải biết chấp nhận những điều khó chịu như những hạt cát, và rồi tận dụng những hạt cát đó để tạo ra một cái gì đó tuyệt vời hơn. Cuộc sống hôn nhân cũng thế.

Bí quyết

Tôi lấy chồng đã gần 40 năm. Tuổi tác làm cho Scott đẫy đà hơn. Từng là vận động viên marathon, giờ anh ấy chỉ có thể chậm rãi đi trong hành lang bệnh viện. Mái tóc anh thưa dần, lưng đã hơi còng xuống vì những năm tháng lao động vất vả. Thế nhưng ánh mắt vừa dịu dàng vừa sôi nổi của Scott vẫn khiến tôi muốn kéo anh chạy ùa ra đồng cỏ, hệt như thủa chúng tôi còn trẻ.

Khi người xung quanh hỏi tôi: "Điều gì khiến cho tình yêu của bạn kéo dài mãi mãi?", tôi thầm điểm qua trong óc những lý do như sự ràng buộc, cùng chia sẻ những mối quan tâm, không ích kỷ... Còn gì nữa nhỉ? Vui nhộn, ngạc nhiên. Thỉnh thoảng chúng tôi quay lại cái thời trẻ trung nghịch ngợm. Mới hôm qua, trong siêu thị, khách mua hàng tròn mắt khi thấy hai ông bà già (chúng tôi tự cho mình là như vậy) hùng hổ mua hàng như ăn cướp. Chẳng là chúng tôi chia đôi danh sách những món cần mua và cá độ xem ai mua xong trước. Scott giành được giải thưởng là một cây kem. Nhưng mới ăn được mấy miếng thì bị bể mánh: "Ông già" láu cá đã đẩy xe tới chỗ khuất và nhờ mấy cô bán hàng trong siêu thị lựa hàng giùm.

Tôi yêu Scott vì lúc nào anh cũng tặng tôi những điều ngạc nhiên. Ngày sinh nhật tôi năm nọ, vừa bước chân về nhà tôi nhìn thấy mẩu giấy dán trên cửa ra vào. "Có tin nhắn quan trọng trong ngăn kéo bàn trang điểm của em. Hôn em". Mảnh giấy trong ngăn kéo viết: "Anh vội đi. Em nhớ mở tủ quần áo ngay kẻo hư hết đồ. Chìa khóa giấu dưới thảm chùi chân trong bếp". Lo lắng không hiểu đã xảy ra chuyện gì, tôi hớt hãi tra khóa mở tủ. Scott! Diện một bộ đồ mới cứng, mồ hôi đầm đìa như tắm, chồng tôi đứng trong tủ, một tay cầm bó hoa tay kia cầm một cái ấm đun nước điện làm quà!

Giữa chúng tôi có sự hiểu biết. Tôi chẳng phàn nàn nếu thỉnh thoảng sau những trận bóng rổ, đám đàn ông rủ nhau làm vài vại bia. Anh cũng hiểu tại sao mỗi năm một lần, tôi giao con cái nhà cửa cho anh cai quản vài ngày để vượt vài trăm cây số tới chỗ mấy bà chị gái... tán gẫu cho sướng miệng.

Ngoài việc cùng gánh vác những công việc gia đình, Scott cố chia sẻ với tôi cuộc sống tinh thần. Biết tôi thích tiểu thuyết tình cảm, Scott chịu khó tranh thủ những lúc ngồi trên máy bay giữa các chuyến công tác để đọc chúng. Tôi biết anh chỉ thích truyện trinh thám và rùng rợn thôi, nhưng anh đã ép mình đọc tiểu thuyết tình cảm để tôi có người giãi bày, để tôi không cảm thấy đơn độc.

Chúng tôi sẵn sàng tha thứ cho nhau. Anh không bao giờ cằn nhằn nếu tôi vì bực bội ở sở làm mà lỡ to tiếng ở nhà. Và khi anh thú thật là đã để thua lỗ trong khi dùng tiền tiết kiệm của chúng tôi để đầu tư chứng khoán, tôi ôm hôn anh và nói: "Kệ nó. Dù sao cũng chỉ là tiền thôi mà, anh yêu".

Làm nghề bác sĩ, cảnh chết chóc hàng ngày có thể làm cho con tim người ta chai đi, nhưng điều này không xảy ra với Scott. Tuần trước, anh đi làm về với ánh mắt buồn rầu. Sau bữa cơm tối, để anh chơi với các con một lát rồi tôi mới kéo anh xuống bếp. Sau một thoáng im lặng, Scott giải thích lý do. Hôm nay, anh đã chứng kiến một người chồng đứng cạnh vợ đang hấp hối trên giường bệnh. Nhìn người chồng đau khổ vì bất lực, không thể cứu được vợ sau 40 năm chung sống, Scott cảm thấy bị dằn vặt. Nghe anh kể, tôi không cầm được nước mắt. Tôi khóc vì thương người đàn ông bất hạnh kia, tôi cũng khóc vì mừng rằng trái tim của người mà tôi yêu chưa hề nguội lạnh.

Bốn người vợ của nhà vua

    Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua giàu có trị vì một vương quốc hùng mạnh. Ông có đến bốn người vợ, bà hoàng nào cũng xinh đẹp. Nhà vua yêu người vợ thứ tư nhất và luôn chiều theo mọi sở thích của bà, không bao giờ từ chối. Kế đến là người vợ thứ ba, nhà vua lúc nào cũng sợ mất bà, đi đâu cũng luôn muốn đưa bà đi theo. Bà vợ thứ hai là chỗ dựa tinh thần của nhà vua, bà rất tử tế, dịu dàng và kiên nhẫn. Mỗi khi nhà vua gặp chuyện khó khăn, ông thường tâm sự với bà và thường nhận được những lời khuyên quý giá.

    Người vợ thứ nhất của vua là người trung thành nhất, giúp vua trị vì và làm cho đất nước ngày càng giàu có nhưng nhà vua lại không dành nhiều tình cảm cho bà. Nhà vua luôn nghĩ rằng bà có thể tự chăm sóc lấy mình nên ít khi để ý đến bà.

    Không may, một ngày nọ vua lâm bệnh và biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông nghĩ: "Ta có đến bốn người vợ, nhưng khi ra đi, e rằng lại hoàn toàn cô đơn!".

    Nghĩ vậy, nhà vua gọi người vợ thứ tư đến bên cạnh và nói: "Ta yêu thương nàng nhất, luôn dành mọi thứ tốt đẹp cho nàng. Giờ đây ta sắp chết, nàng có theo ta để ta không cô đơn không?". Nhà vua nhận được câu trả lời: "Bệ hạ rất tốt với thiếp, nhưng yêu cầu đó quá khó, thiếp không thể làm được!". Nhà vua lặng đi một lúc rồi cho gọi người vợ thứ ba, bà trả lời: "Không, thưa đức vua, cuộc sống còn đẹp lắm, sẽ có một vị vua khác đến để tiếp tục che chở và chiều chuộng thiếp!". Trái tim vị vua cảm thấy lạnh buốt vì buồn bã và thất vọng. Ngài lại gọi người vợ thứ hai: "Ta luôn được nàng giúp đỡ và khuyên giải, nàng sẽ theo ta chứ?"- Nhà vua hỏi. "Lần này thiếp không thể giúp được gì hơn, thưa đức vua"- người vợ thứ hai đáp- "Nhưng thiếp hứa sẽ chăm sóc bệ hạ đến những giây cuối cùng, rồi sẽ đưa bệ hạ đến nơi yên nghỉ và sẽ luôn nhớ đến bệ hạ!". Nhà vua hoàn toàn tuyệt vọng.

    Nhà vua không hề nhớ ra người vợ thứ nhất, cho đến khi ngài nghe thấy một giọng nói cất lên bên cạnh: "Thiếp sẽ theo ngài đến bất cứ nơi đâu ngài đi tới, dù đó là cõi chết". Đó chính là người vợ thứ nhất của ông. Trông bà mệt mỏi và gầy yếu. Buồn bã và nuối tiếc vô hạn vì cách đối xử của mình, nhà vua thốt lên: "Lẽ ra ta đã phải chăm sóc và thương yêu nàng nhiều hơn mới phải!".

    Bạn vừa được đọc một câu chuyện cổ tích, trong đó có vua và các bà hoàng. Chúng ta không sống trong thế giới cổ tích, nhưng bạn biết không, nếu coi mỗi chúng ta cũng giống như nhà vua đó, thì bạn hãy để ý xem, mỗi chúng ta cũng có đến bốn “người vợ” đấy.

    “Người vợ” thứ tư của chúng ta là cơ thể. Hầu như ai cũng lo lắng, chăm sóc đến bản thân, đến cơ thể mình nhiều nhất, làm sao để trông thật đẹp đẽ. Nhưng khi chúng ta ra đi, cơ thể ấy cũng tan biến, không để lại gì trên đời.

    “Người vợ” thứ ba có tên là “địa vị và của cải” – đây chính là những thứ dễ mất nhất, vì dù sao chúng cũng chỉ là vật chất. Khi chúng ta không còn sống, “địc vị” không còn và “của cải” sẽ thuộc về người khác.

    “Người vợ” thứ hai là gia đình và bè bạn. Họ luôn quan tâm và giúp đỡ, luôn an ủi và khuyên giải, nhưng họ chỉ có thể chăm sóc ta đến những phút cuối cùng và nhớ thương ta.

    “Người vợ” thứ nhất chính là TÂM HỒN. Không phải ai cũng nhớ đến nó khi sống trong một thế giới mọi người đều phải chạy đua với của cải, địa vị để thỏa mãn cho cái “tôi” của mình. Thế nhưng TÂM HỒN là điều duy nhất luôn đi cùng với chúng ta đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, và chính là thứ để mọi người nhớ mãi đến ta dù ta có ở nơi nào.

Cà phê muối.

    Họ ngồi cạnh nhau trong một quán cà phê xinh xắn. Anh căng thẳng đến độ không biết bắt đầu câu chuyện như thế nào. Cô gái cảm thấy rất khó chịu: "Để mình về nhà còn hơn...", cô nghĩ thầm. Bỗng nhiên, chàng trai gọi người bồi bàn đến và nói: "Vui lòng cho tôi thêm một tí muối vào ly cà phê nhé!". Mọi người ngạc nhiên nhìn anh. Mặt đỏ bừng ngượng nghịu, nhưng rồi anh vẫn uống ly cà phê ấy. Cô gái tò mò hỏi:

    - Tại sao anh lại có sở thích lạ lùng thế?

    Anh trả lời:

    - Khi còn là một đứa trẻ, tôi sống gần biển. Lúc ấy do thường chơi đùa trước sóng biển nên tôi có thể nếm được mùi vị của biển, cảm giác nó mặn mà và có vị chát. Mùi vị ly cà phê này cũng thế. Nó gợi cho tôi nhớ về tuổi thơ của mình, về ngôi nhà nhỏ bên bờ biển và tôi nhớ cha mẹ tôi- người suốt đời sống ở đấy- biết bao nhiêu!

    Nói đến đấy, đôi mắt anh đẫm lệ. Cô gái vô cùng xúc động trước những cảm xúc chân thật tận đáy lòng chàng trai. Một người đàn ông như thế hắn là người sống rất tình nghĩa và yêu quí, có trách nhiệm với gia đình. Cô bất đầu kể về thời thơ ấu, gia đình, công việc... của mình. Buổi trò chuyện thật tuyệt vời và đó là sự khởi đầu tốt đẹp. Những lần hò hẹn sau, cô gái nhận ra chàng trai thật sự là người mà cô cần: anh có lòng khoan dung, trái tim nồng hậu, sự chân thành... Anh là người đàn ông tốt mà cô không thể để vuột mất. Rồi mọi chuyện diễn ra hệt như một câu chuyện cổ tích có hậu: hoàng tử cưới công chúa họ sống một cuộc đời hạnh phúc bên nhau. Và mỗi khi pha cà phê cho chồng, cô luôn thêm vào một tí muối theo cách mà anh thích.

    40 năm sau... người đàn ông qua đời, để lại cho người vợ lá thư:

    "Em yêu quí, hãy tha thứ cho anh, cả cuộc đời anh đã nói dối em. Nhưng chỉ một việc duy nhất: ly cà phê muối. Em còn nhớ lần hò hẹn đầu tiên của chúng mình? Lúc ấy anh đã quá lúng túng, thật ra anh muốn thêm tí đường vào ly cà phê nhưng anh đã nói nhầm thành muối. Thật khó để thay đổi lời nói nên anh đành phải uống ly cà phê ấy. Nhưng anh không thể ngờ điều đó đã bắt đầu cho mối quan hệ của chúng ta. Đã nhiều lần anh định nói sự thật ấy với em nhưng anh lại sợ mất em. Bây giờ anh không còn lo lắng điều gì nữa, anh muốn cho em biết sự thật: anh không thích uống cà phê muối, mùi vị của nó mới tệ làm sao... Nhưng nhờ nó mà anh đã có em, anh đã tự hứa rằng sẽ không bao giờ nói dối em bất cứ điều gì nữa và suốt cuộc đời anh đã không vi phạm lời hứa ấy. Có em trong đời, đó là hạnh phúc lớn nhất của anh. Nếu có thể được sống thêm một lần nữa, anh sẽ vẫn muốn được bên em và có em làm vợ, thậm chí anh có phải uống cà phê muối..."

    Đôi mắt cô nhòe đi và lá thư ướt đẫm... Một ngày, có người hỏi cô: "Mùi vị của cà phê muối thế nào?". "Rất ngọt ngào, bạn ạ!", cô trả lời.

Câu chuyện cho những ai đã là vợ chồng

    Chồng chị là một kỹ sư giỏi, chị yêu anh vì sự vững chãi, chín chắn của anh, chị yêu cái cảm giác ấm áp mà chị có mỗi khi chị tựa đầu vào vai anh. Và sau 3 năm tìm hiểu, anh chị đã đi đến hôn nhân.

    Nhưng đến hôm nay, sau hai năm là vợ chồng, chị bỗng thấy mệt mỏi với những cảm giác mà chị phải trải qua khi chung sống với anh.

    Những lý do khiến chị yêu anh trước đây, bỗng biến thành những lý do tạo nên sự đổi thay trong chị. Chị là một phụ nữ nhạy cảm, và rất dễ bị thương tổn trong tình yêu, chị luôn khao khát những khoảnh khắc lãng mạn, giống như là bé gái nhỏ thèm khát kẹo ngọt. Nhưng anh lại trái ngược với chị, anh không có sự nhạy cảm, và hoàn toàn không quan tâm đến những khoảnh khắc lãng mạn trong cuộc sống vợ chồng, điều này đã làm cho chị càng chán nản hơn.

    Và chuyện gì đến phải đến, một hôm chị quyết định cho anh biết rằng chị muốn ly dị, rằng chị không thể chung sống với anh thêm một giờ phút nào nữa. Rất bất ngờ khi nghe chị yêu cầu như thế, anh chỉ biết hỏi “Tại sao”?. “Em cảm thấy mệt mỏi, không có lý do nào cho mọi thứ trên thế gian này!”- chị trả lời. Anh không nói gì thêm nữa, nhưng suốt đêm đó, anh không ngủ, và chìm sâu vào những ưu tư, khắc khoải với ánh sáng lập lòe của điếu thuốc gắn trên môi. Sự im lặng của anh càng làm cho cái cảm giác thất vọng trong chị tăng lên, đấy là một người đàn ông không thể biểu lộ gì ngay cả đến lúc gặp tình huống khó khăn như lúc này, còn gì nữa để mà chị hy vọng ở anh?

    Cuối cùng rồi anh cũng lên tiếng, anh hỏi chị :“Anh có thể làm gì để thay đổi ý định của em?”. Ai đó đã nói đúng: “Rất khó khăn để thay đổi tính cánh của một con người”, và chị nghĩ rằng chị không thể nào thay đổi cách sống của anh. Nhìn sâu vào mắt anh, chị chậm rãi trả lời: “Đây chính là câu hỏi, nếu câu trả lời của anh có thể thuyết phục em, em sẽ thay đổi ý định ly dị. Nếu em nói, em muốn bông hoa ở phía bên kia vách núi, và cả hai chúng ta đều biết rằng khi anh cố hái bông hoa đó cho em thì anh sẽ chết, anh có vẫn cố làm cho em hài lòng chứ?”. Anh đáp “Ngày mai anh sẽ trả lời câu hỏi cho em…”. Những hy vọng của chị hoàn toàn bị chìm xuống khi nghe câu trả lời của anh.

    Sáng hôm sau, chị tỉnh giấc và nhận ra anh đã đi rồi. Chị nhìn thấy một mảnh giấy với dòng chữ ngoệch ngoạc của anh, được dằn dưới ly sữa, trên chiếc bàn ăn gần cửa…. Và chị bắt đầu đọc.

    “Em yêu, Anh sẽ không thể nào hái bông hoa đó cho em, nhưng hãy cho anh giải thích những lý do mà anh không thể”.

    Ngay những dòng đầu đã làm tan nát trái tim chị, chị tiếp tục đọc.

    “… Khi em sử dụng máy vi tính, anh luôn sắp xếp phần mềm cho em dễ sử dụng, và khi em kêu lên trước màn hình khi có sự cố, anh luôn chuẩn bị những ngón tay để có thể giúp em phục hồi lại những chương trình. Em thường bỏ quên chìa khóa cửa, nên anh luôn chuẩn bị đôi chân để sẵn sàng chạy về mở cửa cho em. Em rất thích đi du lịch, nhưng lại thường hay bị lạc đường trong những thành phố xa lạ, nên anh phải chuẩn bị đôi mắt của mình để chỉ đường về cho em. Em thường đau bụng trong mỗi lần gần đến tháng, nên anh luôn chuẩn bị lòng bàn tay mình để sẵn sàng xoa bụng cho em để em dịu cơn đau.

    Khi thấy em luôn thích ở nhà, anh lo rằng em sẽ có thể bị mắc bệnh tự kỷ, vì thế anh phải luôn pha trò và chuẩn bị những câu chuyện vui để em quên đi nỗi buồn chán. Khi em luôn chăm chú vào màn hình vi tính, anh sợ như vậy có hại cho đôi mắt của em, nên anh phải để dành đôi mắt của anh để khi chúng ta già, anh sẽ có thể giúp cắt móng tay, và nhổ những sợi tóc bạc cho em. Anh có thể nắm bàn tay em đi tản bộ trên bãi biển, để em thưởng thức cảnh mặt trời mọc và bãi cát xinh đẹp… và anh sẽ cho em biết rằng màu sắc của những bông hoa cũng rực rỡ như gương mặt tươi tắn của em… Vì vậy, em yêu, trừ phi em chắc chắn rằng có ai đó yêu em hơn anh đã yêu em… nên bây giờ anh không thể hái bông hoa đó cho em, và chết…”

    Nước mắt của chị không ngừng rơi trên trang giấy, làm nhạt nhòa những dòng chữ của anh… Chị đọc tiếp: “…Bây giờ, nếu em cảm thấy hài lòng thì hãy mở cửa ra, vì anh đang đứng đó với bánh mì và sữa tươi cho buổi sáng của em, những món ăn mà em thích…”.

    Chị lao đến cửa và mở bung nó ra, trông thấy anh với gương mặt lo lắng, chị nắm chặt tay anh, cùng với ổ bánh mì và chai sữa, bây giờ chị biết chắc rằng không ai yêu chị như anh đã yêu chị, và chị quyết định quên đi bông hoa ở bên kia vách núi… đó là cuộc sống và tình yêu.

    Khi được sống trong sự đầy đủ, dư thừa của tình yêu, thì cái cảm giác sôi nổi trong tình yêu thường bị khô héo đi, và người ta không còn có thể nhận thức được đâu là tình yêu chân thật và đâu là tình yêu giả dối, giữa cảm giác bình yên và buồn chán đó.

Câu chuyện tình yêu không bình thường

     “Cynthia và Alvin chơi với nhau từ nhỏ, và khi lớn lên một chút, tình bạn của họ chuyển thành tình yêu nhưng bố mẹ cả hai bên đều không ủng hộ.

    Rồi Alvin nhận được một học bổng du học. Sợ tình yêu sẽ ảnh hưởng đến việc học của Alvin, bố mẹ cậu đã tìm đến Cynthia và yêu cầu cô tránh mặt Alvin. Nghĩ tới sự nghiệp của Alvin nên nàng đã đồng ý.

    Alvin cực kì suy sụp. Vài ngày sau, Cynthia nghe chị gái của Alvin nói là cậu đã đến London.

    Nhiều tháng trôi qua, Cynthia không nhận được tin gì từ Alvin. Đôi khi, không chịu nổi nữa, cô gọi điện cho chị gái Alvin để hỏi thăm. Chị Alvin nói rằng cậu ấy vẫn khoẻ mạnh, học giỏi và đã có bạn gái mới.

    Cynthia cảm thấy mọi thứ như bị đảo lộn, dù cô biết rằng đó là điều tốt nhất của Alvin. Cô cố quên Alvin nhưng không thể. Cynthia trở nên tuyệt vọng và hay khóc. Một đêm, khi Cynthia đang khóc thì có tiếng chuông điện thoại. Đầu dây bên kia là tiếng của Alvin:

    - Cynthia, đừng khóc, mình sắp về nhà rồi, nhớ phải chờ mình đấy! Chỉ được có thế rồ Alvin vội vã gác điện thoại.

    Đêm đó, Cynthia nằm mơ thấy Alvin, họ gặp nhau ở công viên trước đây hai người thường đến chơi. Alvin nói rằng cậu rất vui được gặp lại Cynthia, rằng cậu không hề có bạn gái mới. Nhưng trước khi Cynthia kịp hỏi gì thì Alvin đã biến mất.

    Sáng hôm sau, Cynthia vội vã gọi điện cho chị gái Alvin, kể lại mọi chuyện và hỏi có phải Alvin sắp về không. Chị gái Alvin chợt oà khóc:

    - Cynthia, xin lỗi em, tất cả là chị nói dối đấy. Alvin đã mất cách đây 6 tháng. Nó bị tai nạn ôtô…Alvin đã từng nói là nó không chịu được khi nhìn thấy em buồn…Chị đã nghĩ có thể nói dối để em quên Alvin đi…

    Cho dù Cynthia khẳng định một ngàn lần rằng đêm hôm trước, Alvin đã thực sự gọi điện về cho cô thì chị gái Alvin vẫn khăng khăng rằng đó chỉ là do cô tưởng tượng và sự thật là Alvin đã không còn nữa.

    Nhưng Cynthia không tin, cô tin rằng Alvin sẽ gọi điện lần nữa. Và đúng như thế, khoảng bằng giờ đêm trước, điện thoại lại reo. Cynthia nhấc máy ngay lập tức. Lần này, Alvin nói nhiều hơn, rằng cậu chưa bao giờ quên Cynthia, rằng cậu không ở cạnh Cynthia được, nhưng họ vẫn có thể nó chuyện với nhau qua điện thoại như vậy. …………………

    - Anh đã sửa điện thoại rồi à?- Mẹ Cynthia hỏi bố cô như vậy khi ông vừa bước vào nhà- Em thấy Cynthia nói chuyện với ai đó suốt đêm hôm qua.

    -Em làm sao thế?- Bố Cynthia lắc đầu khó hiểu- Anh đã sửa điện thoại đâu? Máy vẫn hỏng mà!”. ………………….

    Câu chuyện này tôi nhận được từ một người bạn. Bên dưới câu chuyện còn kèm thêm một “lời nguyền”: “Bạn sẽ có hai sự lựa chọn: Một là gửi tiếp đi cho những người bạn khác. Hai là bỏ qua và tình yêu cua bạn có thể sẽ kết thúc như trong câu chuyện.”

    Tôi thì không tin vào lời nguyền mà chỉ thấy đây là một câu chuyện thật buồn. Nhưng nó nhắc chúng ta rằng nếu chúng ta yêu thương một người, hãy biết trân trọng khi bạn còn có thể. Bởi không ai nói trước được tương lai, đừng bao giờ để mình phải hối hận vì mìn không đủ quan tâm, không đủ yêu thương hoặc không đủ can đảm để vượt qua nhữn khó khăn, để giữ những gì mà mình yêu quý…Bạn có thể gửi câu chuyện này cho những người mà bạn quan tâm và nói với họ những gì bạn cảm thâấy và nói với họ rằng bạn yêu quý họ đến mức nào. Đừng sợ lời nguyền, đó là những gì tôi nghĩ, nên tôi mới gửi câu chuyện này đến cho các bạn ở đây.

    Violet

Cây sồi của tình yêu

Không biết đây là lần thứ mấy chục, tôi và David giận nhau.

Cũng như mọi lần khác, cũng chỉ vì những chuyện lặt vặt mà thôi. Nhưng dịp này tôi muốn xa anh một thời gian để tĩnh tâm suy nghĩ về tình yêu của chúng tôi. Tôi rất yêu David và không muốn mất anh, nhưng không hiểu tại sao tôi cứ muốn anh phải theo ý tôi. Hễ chúng tôi tranh cãi, tôi muốn mình luôn phải là người thắng. Nếu quả anh yêu tôi, anh phải chiều tôi chứ.

Tôi lái xe về trang trại của bà ngoại. Tuy ngoại đã bảy chục tuổi nhưng bà còn khỏe lắm. Chiều nào bà cũng dắt tôi đi dạo trên những cánh đồng cỏ. Không khí mát mẻ, trong lành, thảm cỏ xanh đầy hoa của mùa hè và tiếng vo ve của những bầy ong khiến lòng tôi dịu lại. Trong lúc đi dạo, thế nào chúng tôi cũng nghỉ chân một lát dưới gốc cây sồi to nằm trên ranh giới với trang trại bên cạnh. Giữa tiếng gió rì rào, bà ngoại tôi ngẩng đầu săm soi tán lá um tùm như muốn tìm kiếm một cái gì đó. Mấy ngày đầu, tôi không chú ý lắm tới cử chỉ này của bà. Nhưng một hôm, tôi nhìn theo ánh mắt của bà và phát hiện có cái gì đó như là những chữ cái được khắc trên vỏ cây, ở tít trên cao. Tôi quay lại nhìn bà. Như để trả lời câu hỏi thầm lặng của tôi, bà ngoại kể:

Thủa còn trẻ, bà ngoại và cậu trai duy nhất của ông chủ trang trại bên cạnh yêu nhau say đắm. Cây sồi là chốn hẹn hò lý tưởng cho đôi trẻ. Lúc ấy nó mới chỉ cao bằng hai người lớn. Bám vào thân cây như con ếch, Michael, tên cậu trai, hì hụi dùng dao nhọn khắc lên đó dòng chữ to tướng "A + M = Tình yêu". A là chữ viết tắt của Andy, tên bà ngoại tôi. Trớ trêu thay, một ngày kia, cây sồi trở thành chứng nhân cho một cuộc tranh chấp khoảnh cỏ nuôi cừu giữa hai trang trại giáp nhau, nơi có cây sồi mọc. Súc vật của hai gia đình không còn được thả ăn cỏ quanh cây sồi.

Dù bị cấm đoán, Michael và Andy vẫn bí mật gặp nhau dưới gốc sồi vào buổi tối. Ban đầu họ cố tránh đề cập tới cuộc cãi vả giữa hai nhà, nhưng cuối cùng bóng mây xám của cuộc tranh chấp bắt đầu che phủ lên tình yêu giữa Michael và bà ngoại tôi. Theo Michael, cứ mặc kệ người lớn tranh chấp. "Sau này chúng mình lấy nhau, cây sồi là của anh và em kia mà!", Michael bảo. Nhưng bà ngoại tôi muốn rằng, mọi việc phải rõ ràng là khoảnh cỏ ấy của nhà nào. Anh chàng Michael nọ bối rối im lặng khi bà ngoại tôi tuyên bố, nếu không được như ý sẽ cắt đứt quan hệ với cậu ta. Tội nghiệp Michael, trong suốt một thời gian dài, chiều nào cậu cũng ra chỗ cây sồi chờ đợi. Biết chuyện, ông cố tôi gởi bà ngoại tôi tới nhà một bà dì ở Ohio.

Năm tháng trôi qua, cây sồi đã lớn. Khoảnh cỏ tranh chấp thì vẫn bỏ đó, vì sau khi ông cố tôi mất, bà ngoại đã trở thành cư dân New York. Rồi bà lấy chồng. Cuộc hôn nhân sớm tan vỡ sau vài năm chung sống, để lại cho bà một cô con gái là mẹ tôi. Trang trại của gia đình bị bỏ hoang suốt mấy chục năm. Ngày bà ngoại tôi trở về quê, cũng là ngày ông Michael trút hơi thở cuối cùng. Trước mặt bà ngoại tôi, ông thều thào trăn trối lại rằng, chỉ xin được chôn cạnh gốc sồi có khắc tên ông và bà ngoại tôi: "Tôi muốn gốc sồi đó mãi mãi là của tôi và bà".

Hẳn David rất ngạc nhiên khi nhận được bức điện của tôi được đánh đi vào sáng hôm sau: "Chúng mình hòa nhé". Lần đầu tiên trong đời, tôi nói tới chữ "hòa". Con người ta không nhất thiết phải cố thắng cho bằng được, bằng mọi giá, ở mọi nơi, trong mọi trường hợp.

Chuyện Ba Người

    Có người nói, cuộc sống là một quá trình tìm kiếm tình yêu, mỗi một người đều phải tìm thấy 3 người. Người thứ nhất là người mình yêu nhất, người thứ hai là người yêu mình nhất và người thứ ba là bạn đồng hành trong suốt cuộc đời.

    Trước tiên mình sẽ gặp được người mình yêu nhất, sau đó hiểu được cảm giác yêu. Chỉ có hiểu được cảm giác bị yêu, mới có thể phát hiện ra người yêu mình nhất. Khi đã trải qua cảm giác yêu và bị yêu, mới có thể biết được mình cần điều gì, và cũng sẽ tìm thấy người bạn đời thích hợp nhất trong suốt cuộc đời còn lại.

    Thật đáng tiếc, trong cuộc sống thực tế hiện tại, cả ba người này thường không cùng một người, người bạn yêu nhất không chọn bạn, người yêu bạn nhất lại không phải người bạn yêu nhất, và người bạn đời luôn luôn không phải là người bạn yêu nhất, cũng không phải là người yêu bạn nhất, chỉ là người xuất hiện vào lúc thích hợp nhất.

    Bạn sẽ là người thứ mấy trong cuộc sống của người đó? Không ai muốn thay đổi tình yêu của mình. Khi anh ta yêu bạn, đó là lúc anh ta thật sự yêu bạn. Nhưng khi anh ta không yêu bạn thì cũng thật sự là không yêu bạn, anh ta không thể giả vờ không yêu khi anh ta đang yêu bạn, cũng như anh ta không thể giả vờ yêu khi không yêu bạn.

    Khi một người không còn yêu mình, muốn rời xa mình, mình cần hỏi lại bản thân có còn yêu anh (cô) ta nữa không. Nếu bạn không còn yêu người ấy nữa thì xin đừng bao giờ vì lòng tự trọng mà không chịu rời xa người ấy. Nếu như bạn vẫn còn yêu người ấy, lẽ đương nhiên bạn sẽ hy vọng người ấy có được một cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ, hy vọng người ấy được ở cùng người mình yêu, đừng bao giờ ngăn cản. Nếu bạn ngăn cản người ấy có được hạnh phúc thật sự của mình nghĩa là bạn không còn yêu anh (cô) ta nữa, và nếu như bạn không còn yêu thì bạn lấy tư cách gì chỉ trích anh ta bạc tình.

    Yêu không phải là chiếm hữu. Bạn thích mặt trăng, không thể đem mặt trăng cất vào trong hộp, nhưng ánh sáng của mặt trăng lại có thể chiếu sáng vào tận trong phòng bạn. Cũng như bạn yêu một người, bạn vẫn có thể có được người ấy mà không cần chiếm hữu và khiến người yêu trở thành một hồi ức vĩnh hằng trong cuộc sống.

    Nếu bạn thật sự yêu một người, phải yêu con người thực của anh ta, yêu mặt tốt cùng yêu cả mặt xấu, yêu cái ưu điểm lẫn khuyết điểm, tuyệt đối không nên vì yêu anh ta mà hy vọng anh ta trở thành con người mình mong muốn, nếu anh ta không được như ý bạn thì mình không còn yêu anh ta nữa.

    Yêu một người nào đó thật sự không nói ra được nguyên nhân vì sao yêu, bạn chỉ biết rằng, bất cứ lúc nào, tâm trạng tốt hay xấu thì bạn cũng đều mong muốn người ấy ở bên cạnh bạn, không một yêu cầu... Xa cách cũng là một thử nghiệm tình yêu. Tình yêu chân chính sẽ chẳng bao giờ trở thành tình yêu oán hận.

    Hai người yêu nhau, thích nhất là bắt bạn mình phải thề, phải hứa. Tại sao chúng ta lại bắt đối phương làm như vậy? Tất cả chỉ vì chúng ta không tin đối phương... Làm gì có chuyện biển cạn đá mòn, trời hoang đất lở, nếu có thì cũng không ai sống được đến ngày ấy...

    Trong tình yêu, nói là một lẽ, làm là một lẽ. Người nói không dám tin điều mình nói và người nghe thì không tin điều mình nghe.... Bạn đã tìm được người thứ mấy cho cuộc đời của bạn?

Cô gái đi xe buýt

Đã một năm kể từ khi Susan bị mù vì một chẩn đoán sai của bác sĩ, cô đột ngột bị ném vào thế giới của bóng tối, tức giận, tuyệt vọng và mặc cảm. Và tất cả những gì đủ để cô còn bám víu vào cuộc sống là vì bạn trai cô - Mark.

Mark là một sĩ quan quân đội. Anh rất yêu Susan, đã nhìn thấy cô tuyệt vọng đến mức nào, anh quyết định giúp Susan lấy lại được sức mạnh và tự lập. Đầu tiên, anh tìm cho cô một công việc dành cho người khiếm thị. Nhưng làm sao cô đến chỗ làm việc được đây? Mark đề nghị đưa cô đến chỗ làm hằng ngày, dù hai người ở hai đầu thành phố. Tuy nhiên sau đó, Mark nhận ra rằng đó không phải là giải pháp. Susan sẽ phải tự mình đi xe buýt, tự đến chỗ làm - đó mới là cách đúng. Nhưng Susan rất nhạy cảm, cô ấy sẽ phản ứng thế nào?

Đúng như với Mark nghĩ, Susan hết sức hốt hoảng khi nghe tới việc mình phải tự đi xe buýt. "Em bị mù" mà"- Cô phản ứng bằng giọng cay đắng - "Làm sao em biết em sẽ đi đến đâu? Anh bỏ rơi em phải không?"

Mark rất đau lòng khi nghe những lời đó, nhưng anh biết phải làm gì. Anh hứa sẽ cùng cô đi xe buýt mỗi sáng và mỗi chiều, bao lâu cũng được, cho đến bao giờ cô quen với việc đi xe buýt.

Trong hai tuần liền, Mark trong bộ đồng phục quân đội, đi theo Susan đến nơi làm việc. Anh dạy cô làm sao để sử dụng các giác quan khác, nhất là thính giác, để biết mình đang ở đâu và làm sao để quen với môi trường mới. Anh cũng giúp cô làm quen với những người lái xe buýt, nhờ họ để mắt đến cô, giữ cho cô một chỗ ngồi hằng ngày...

Cuối cùng, Susan nói cô có thể tự đi được.

Sáng thứ hai, lần đầu tiên, họ đi theo hai hướng khác nhau.

Thứ ba, thứ tư, thứ năm... Mỗi ngày Susan đều tự đi xe buýt đến chỗ làm và đón xe buýt đi về. Susan cảm thất rất vui vì cô vẫn tự mình làm được mọi việc.

Thứ hai của 5 tuần sau đó, Susan đón xe buýt đi làm như mọi khi. Khi cô đang đóng tiền mua vé tháng cho người lái xe, bỗng anh lái xe nói: "Tôi thật ghen tỵ với cô đấy nhé!".

Susan không biết có phải anh ta nói với mình không. Nhưng nói cho cùng, có ai mà lại đi ghen với một cô gái mù đang đấu tranh để mà sống chứ? Cô hỏi:

- Sao anh lại ghen với tôi được?

- Vì cô được quan tâm và bảo vệ. Cô quả là hạnh phúc!

- Tôi được bao vệ? Anh nói thế tức là sao?

- Suốt mấy tuần qua, sáng nào tôi cũng thấy một chàng trai mặc đồng phục quân đội lái xe theo, rồi đứng bên kia đường nhìn cô xuống xe. Anh ta nhìn theo đến khi cô đi qua đường an toàn, đi vào nơi cô làm việc và vẫy tay chào cô rồi mới lái xe đi. Cô quả là một người may mắn!

Susan khóc. Vì cô không nhìn thấy Mark nhưng cô cảm thấy Mark ở bên cạnh. Cô là người may mắn vì cô đã nhận được một món quà mà cô không cần phải nhìn thấy tận mắt để tin: món quà của tình yêu có thể mang ánh sáng đến những nơi nhiều bóng tối nhất.

Tình yêu đích thực không bao giờ gục ngã

Đôi thiên nga

    Cuối năm lớp mười, mẹ bảo tôi nên về trang trại sống với ông bà. Tôi không thích lắm, nhưng dù sao thì cũng chỉ một mùa hè thôi mà. Ông bà tôi sống trong một trang trại, cả hai đều đã khoảng 70 tuổi. Chỉ bới đống cỏ khô thôi cũng là việc nặng nhọc đối với ông rồi.

    Tôi tới trang trại lúc chiều muộn. Bà nấu vô khối thức ăn, còn ông thì “cập nhật” cho tôi đủ mọi chuyện ở trang trại.

    Sáng hôm sau, tôi cùng ông làm bữa sáng, bà bị mệt.

    Vài tuần trôi qua, tôi dần quen với công việc hàng ngày với ông. Buổi tối thì tôi ngồi kể chuyện cho bà nghe. Bà chẳng bao giờ chán những câu chuyện về trường học, hoặc bất kỳ cái gì mà tôi có “dính líu” tới. Tuy nhiên, bà hay bị mệt và thường phải nằm cả ngày.

    Một ngày cuối tháng sáu, ông rủ tôi đi câu cá. Cái hồ cũng gần nhà. Và chúng tôi nhìn thấy một cảnh rất buồn: một trong hai con thiên nga của ông bà đã chết. Ông đã tặng đôi thiên nga này cho bà vào lễ kỷ niệm ngày cưới của ông bà nhiều năm trước.

    - Hay ta đi mua một con khác cho nó ở với con còn sống?- tôi gợi ý, hy vọng sẽ làm ông vui hơn chút ít.

    Ông lắc đầu:

    - Không đơn giản vậy đâu… Thiên nga sống với nhau cả đời. Chúng ta không giúp được gì cho con thiên nga còn sống đâu. Nó sẽ phãi tự chịu đựng thôi.

    Rồi ông dặn tôi đừng nói cho bà biết.

    Vài ngày sau, chúng tôi lại ra hồ. Chúng tôi thấy con thiên nga còn lại nằm gần như đúng chỗ mà con thiên nga trước đã nằm. Và nó cũng đã chết. ===========

    Sáng hôm đó tôi dậy muộn, đến hơn 8h mới tỉnh dậy và cuống lên chạy vào bếp. Tôi thấy ông bác sĩ hàng xóm Morgan. Khi nhìn thấy ông, tôi biết ngay có việc không ổn.

    Bà tôi mất đột ngột vì một cơn đau tim. Đến chiều, bố mẹ tôi cũng tới, cùng rất nhiều họ hàng và bạn bè của ông bà. Căn nhà vắng vẻ trở nên đông đúc.

    Ngay sau lễ tang của bà, ông bảo mọi người: “Sống là phải làm việc. Ai cũng có việc của mình. Mọi người cần trở về cuộc sống của mình”. Họ hàng lần lượt ra về.

    Ông không phải là người hay bộc lộ nỗi buồn của mình, nên tôi rất lo cho ông. Bố mẹ tôi đề nghị ông bán trang trại để về sống với chúng tôi ở thành phố, nhưng ông không nghe. Tôi ở với ông đến hết mùa hè, dù cũng chẳng giúp gì được ông. Ông ít nói hẳn đi.

    Gần đến tháng 9, tôi sắp phải trở lại trường. Khi đến đây, tôi chỉ mong mùa hè chóng hết để rời khỏi trang trại, bây giờ tôi lại không muốn đi đâu cả. Tôi nói với ông tôi sẽ xin nghỉ học một tháng để chăm sóc ông. Nhưng ông kiên quyết nói rằng chỗ của tôi là ở trường học.

    Mẹ gọi điện đến trường cho tôi vào một ngày tháng 10 ảm đạm để nói rằng ông mới qua đời. Một người hàng xóm đi qua và thấy ông ngã trong bếp. Ông mất vì một cơn đau tim, cũng giống như bà. Lúc đó tôi mới hiểu tại sao ông nói rằng con thiên nga sẽ sống một mình trong hồ vào buổi sáng mà chúng tôi đi câu cá mấy tháng trước…

    Hal Torrance

Hãy buộc một dải ruy băng vàng lên cây sồi già

    Nước Mỹ, năm 1972. Tại một tỉnh vùng núi xa xôi, trong một thị trấn nhỏ vô danh có một chàng trai bị kết án tù. CẢnh sát đã chứng minh được rằng anh phạm tội và 3 năm là một thời gian vừa đủ để anh sửa chữa lại mọi chuyện. Nhưng Mary- người vợ sắp cưới của chàng trai thi không thể tin điều đó. Ngày mở phiên toà, mặc cho chàng trai không ngừng quay về phía sau tìm kiếm thì cô vẫn vắng mặt.

    Trước khi lên chiếc xe dành cho các tù nhân, chàng trai nhờ cuyển cho Mary một lá thư rồi bước đi ngay. Anh không kịp nhìn thấy cô đang đứng khuất phía sau, vừa khóc vừa nắm chặt tờ giấy với những dòng ngắn ngủi. "Anh biết rằng anh không xứng đáng với tình yêu của em. Anh cũng không dám hy vọng em sẽ còn yêu anh sau những chuyện này. Nhưng nếu em tha thứ cho anh thì hãy buộc một dải ruy băng vàng lên cây sồi già duy nhất ở quảng trường của thị trấn vào ngày anh trở về. Và nếu không nhìn thấy dải ruy băng, anh sẽ ra đi mãi mãi và không bao giờ quấy rầy em nữa."

    Trong suốt ba năm ngồi tù, dù chàng trai có mong mỏi tin tức của Mary đến đâu thì cô vẫn bặt tin. Năm đấu tiên, anh tự nhủ rằng có lẽ cô vẫn chưa thể quen được với việc chồng sắp cưới của mình là một người phạm tội. Năm thứ hai, chàng trai nhờ người hỏi han tin tức và chỉ nghe phong phanh rằng cô ấy đã đi xa, xa lắm và chẳng biết khi nảo mới quay trở về. Đến những tháng cuối trong tù, anh đã không còn nghĩ gì tới những dải ruy băng vàng nữa. Nhớ về cô gái anh yêu lại càng không. Đến ngày ra tù, chàng trai quyết đinh nhảy lên xe buýt đi thẳng ra thành phố chứ không ngang qua quảng trường như anh đã hẹn.

    Nhưng rồi một chuyến, hai chuyến xe đã dừng lại rồi chạy tiếp mà chàng trai vẫn chần chừ không leo lên. Mãi tới khi chuyến cuối cùng đã chạy qua, anh mới lầm lũi đi bộ tới quảng trường. Lý trí bảo anh hãy đi theo hướng ngược lại, nhưng tình yêu trong anh thì vẫn bắt anh hướng về phía trước. Rồi 30 phút sau, người trong thị trấn ngạc nhiên thấy một chàng trai khóc nức nở dưới tán sồi vàng rực bởi hàng trăm dải ruy băng...

Khi ta yêu

Khi người ấy đang có mặt ở đây mà bạn giả vờ thờ ơ rồi khi người ấy vắng mặt, bạn lại bắt đầu đi tìm kiếm.

Lúc đó,bạn đã yêu...

Mặc dù xung quanh bạn có nhiều người luôn khiến cho bạn cười nhưng ánh mắt và sự chú ý của bạn chỉ luôn hướng về người ấy.

Lúc đó, bạn đã yêu...

Mặc dù người ấy đã gọi điện về thông báo rằng máy bay hạ cánh an toàn nhưng không ai trả lời điện thoại. Bạn vẫn luôn chờ đợi cuộc gọi ấy.

Lúc đó, bạn đã yêu...

Bạn luôn thích thú với một email ngắn ngủn từ người ấy mà lờ đi những email thật dài của nhiều người khác.

Lúc đó, bạn đã yêu...

Khi bạn thấy mình không thể xóa đi tất cả những mẩu tin trong Inbox hay trong Send Items chỉ bởi vì một email từ người ấy.

Lúc đó, bạn đã yêu...

Khi bạn có một cặp vé đi xem phim. điều đầu tiên bạn nghĩ đến là sẽ cùng đi với người ấy.

Lúc đó, bạn đã yêu...

Bạn luôn tự nhủ rằng ‘người ấy chỉ là bạn thôi" nhưng bạn hận ra mình không tránh khỏi sự thu hút của người ấy.

Lúc đó, bạn đã yêu...

Khi bạn đọc những dòng chữ này, nếu ai có ai đó xuất hiện trong đầu bạn.

Lúc đó, bạn đã yêu... và đã yêu người ấy...

Lí do cho một tình yêu

    Một cô gái hỏi bạn trai của mình:

    - Tại sao anh yêu em?

    - Sao em lại hỏi như thế ,sao anh tìm được lí do chứ!- chàng trai trả lời

    - Ko có lí do gì tức là anh ko yêu em.

    - Em ko thể suy diễn như thế được.

    - Nhưng bạn trai của bạn em luôn cho cô ấy biết lí do anh ta yêu cô ấy.

    - Thôi được ,anh yêu em vì em xinh đẹp, giỏi giang, nhanh nhẹn. Anh yêu em vì nụ cười của em, vì em lạc quan. Anh yêu em vì em luôn quan tâm đến người khác.

    Cô gái cảm thấy rất hài lòng.

    Vài tuần sau cô gặp phải một tai nạn khủng khiếp, nhưng rất may cơ vẫn còn sống. Bỗng nhiên cô trở nên cáu kỉnh vì cô thấy mình vô dụng. Vài ngày sau khi bình phục cô nhận được lá thư từ bạn trai của mình

    "Chào em yêu

    Anh yêu em vì em xinh đẹp. Thế thì với vết sẹo trên măt em bây giờ anh ko thể yêu em được nữa.

    Anh yêu em vì em giỏi giang nhưng bây giờ có làm được gì đâu. Vậy thì anh ko thể yêu em.

    Anh yêu em vì em nhanh nhẹn nhưng thực tế là em đang ngồi trên xe lăn. Đây ko phải lí do giúp anh có thể yêu em.

    Anh yêu em vì nụ cười của em. Bây giờ anh ko thể yêu em nữa vì em lúc nào cũng nhăn nhó, than vãn.

    Anh yêu em vì em quan tâm đến người khác nhưng bây giờ mọi người lại phải quan tâm đến em quá nhiều. Anh ko nên yêu em nữa.

    Đấy em chẳng có gì khiến anh phải yêu em vậy mà anh vẫn yêu em. Em có cần lí do nào nữa ko em yêu”.

    Cô gái bật khóc và chắc chắn cô ko cần một lí do nào nữa. Còn các bạn có bao giờ hởi những người thân của mình vì sao họ yêu bạn ko? Tình yêu đôi khi ko nhất thiết phải cần lí do đâu bạn ạ.

Lời tỏ tình muộn

Bạn tôi tên John là một người đàn ông tốt bụng nhưng lầm lì, ít nói. Tháng trước, vợ John vừa qua đời. Chị đã vật lôn với căn bệnh ung thư suốt 8 năm. John nhờ tôi tới giúp anh dọn dẹp lại nhà cửa. Trong ngăn bàn, tôi nhặt được một cái ví da cũ rích trong nhét một lá thư. Tôi đưa cho John và anh mở ra xem. Đầu thư có vẽ một trái tim tô màu đỏ với hai chữ John và Janet được tô đậm nằm ở hai bên. Nét chữ nguệch ngoạc hẳn là của một cậu học trò.

Đây chính là bức thư tỏ tình của John gửi cô bé Janet, khi hai người học năm cuối trung học. John không hề ngờ là vợ anh còn giữ nó. Phía dưới hai trái tim là những dòng chữ do Janet viết: "Lúc đó, anh không hề nói là anh yêu em. Nhưng bây giờ, khi em biết mình không còn sống được bao lâu nữa, em muốn nghe thấy anh nói "Anh yêu em". Em biết anh là người đàn ông tuyệt vời của em. Anh luôn thầm lặng yêu em, chăm sóc và lo lắng cho em. Anh biết tha thứ, biết khuyến khích em trong những giây phút khó khăn và biết cách xoa dịu những cơn đau hành hạ em. Lúc nào anh cũng dịu dàng với em. Hệt như cái lúc anh rụt rè giúi vào tay em mẩu thư này và ù té bỏ chạy. Thế nhưng em vẫn chờ một lời nói: "Anh yêu em" của anh".

Cầm lá thư trên tay, John im lặng. Tám năm qua chúng tôi vừa ái ngại, vừa cảm phục John. Anh vừa phải làm việc, vừa phải chăm sóc vợ và 7 đứa con của họ. Có dạo, John trông rộc cả người. Có bữa đi làm về tới nhà thấy Janet đang bị những cơn đau hành hạ, không biết làm gì hơn, anh xốc chị lên xe lái chạy vòng vòng, cố tìm những nơi có thể giúp chị khuây khỏa. Tuy nhiên, chưa bao giờ chúng tôi thấy John tỏ ra bực tức.

Tôi đứng cạnh John, cố hình dung tình cảm của anh. Cái gì đã gắn bó John và Janet gần bốn thập niên, giúp họ đi qua những khó khăn nhất của cuộc đời? "Tôi không biết mình có thể chịu đựng nổi vợ mình hay không, nếu một ngày kia cô ấy bệnh nặng?", bất giác miệng tôi nói ra ý nghĩ đang quẩn quanh trong đầu. "Có thể. Cậu có thể làm được, nếu cậu yêu vợ mình như tôi yêu Janet - John đáp - Thế mà mình vẫn còn nợ cô ấy một lời tỏ tình: Anh yêu em, Janet!"

Mảnh đĩa vỡ

    Một ngày khi tôi khoảng chín tuổi, mẹ có chuyện phải vào thị trấn và giao tôi cho snh chị trông nom. Khi mẹ vừa đi, tôi chạy vào phòng ngủ của mẹ và mở tủ trang điểm. Trong ngăn trên cùng, dưới lớp vải mềm thơm, tôi thấy hộp nữ trang. Tôi thích thú như vừa khám phá một kho tàng: cái nhẫn hồng ngọc của cô tặng cho mẹ, đôi hoa tai ngọc trai một thời thuộc về bà, dải lụa của chiếc áo mẹ mặc vào ngày cưới... Tôi thích thú nghịch ngợm bằng cách mang thử tất cả thứ ấy vào tưởng tượng vô số hình ảnh thú vị đầy màu sắc vế những gì mà một phụ nữ xinh đẹp phải có...

    Bỗng nhiên tôi phát hiện một cái hộp nhỏ màu đỏ. Mở ra, tôi hết sức kinh ngạc khi nhận thấy bên trong chỉ có mỗi một mảnh sứ trắng- hẳn đã vỡ ra từ một cái đĩa. Tại sao mẹ tôi lại cất giữ một vật như thế này nhỉ? Lấp lánh dưới ánh sáng, mảnh đĩa vỡ chẳng nói lên được câu trả lời. Vài tháng sau, khi tôi đang chuẩn bị bàn ăn, cô láng giềng Marge đến chơi. Liếc qua chiếc bàn, cô Marge nói: "Ồ, hẳn gia đình đang chuẩn bị tiếp khách. Thôi, để tôi vào lúc khác vậy". "Không, cứ tự nhiên. Chúng tôi chẳng đón ai cả"- mẹ trả lời. Marge hỏi: "Nhưng trên bàn toàn đĩa đẹp... Tôi chẳng bao giờ dám cho bọn trẻ đụng đến những thứ như thế". Mẹ cười: "Tối nay, gia đình tôi được thưởng thức món thích nhất. Nếu dọn bàn thật đặc biệt để đãi khách thì sao không dọn thật đặc biệt cho chính gia đình mình?". "Nhưng những cái đĩa đẹp thế kia...". "Ồ, vài cái đĩa vỡ là cái giá không đáng kể phải trả để đổi lại niềm vui cho gia đình. Mỗi mảnh vỡ đều chứa một câu chuyện kỷ niệm...".

    Đi đến tủ chén, mẹ tôi lấy ra một cái đĩa cũ, kể: "Cái này vỡ vào ngày chúng tôi mang Mark từ nhà bảo sanh về. Hôm đó là một buổi chiều thật lạnh lẽo. Khi ấy, Judy chỉ mới sáu tuổi nhưng cứ nằng nặc đòi giúp tôi việc bếp núc. Nó làm vỡ cái đĩa này khi khệ nệ mang đến bồn rửa"... Mẹ kể tiếp: "Thoạt đầu, tôi bực mình ghê lắm nhưng rồi tự nhủ mình không thể vì chuyện cái đĩa vỡ lại làm mất đi không khí hạnh phúc khi vừa đón thằng bé mới sinh về. Hơn nữa, sau đó tất cả chúng tôi cùng ngồi hàn keo cho chiếc đĩa vỡ đó. Hóa ra, không khí càng vui hơn".

    Mẹ lại đến tủ chén, lấy ra một cái đĩa nữa. "Chị có thấy cạnh đĩa bị mẻ không?- Mẹ hỏi cô Marge- Chuyện xảy ra khi tôi 17". Giọng mẹ trở nên nhẹ hẳn: "Một ngày mùa thu các anh tôi cần người giúp dọn đống cỏ khô. Vì thế một thanh niên được thuê. Anh ta trông mảnh dẻ nhưng đôi tay rất khỏe và khá đẹp trai với mái tóc vàng. Mấy ông anh tôi bỗng thích anh ta và mời đến dự buổi ăn tối. Khi ông anh kế xếp anh ấy ngồi sát tôi, mặt tôi đỏ ửng vì mắc cỡ... Trong bữa ăn, anh ấy đưa tôi cái đĩa nhờ lấy hộ thức ăn nhưng lúc đó tim tôi đập mạnh và tôi run đến nỗi làm cái đĩa va vào một cái khác khiến cạnh bị mẻ... Khi ra về, anh ấy nắm tay tôi, đặt mảnh đĩa vỡ vào, không nói gì hết nhưng nở nụ cười. Chỉ cười... Một năm sau, tôi lập gia đình với anh ấy. Mãi cho đến nay, cứ khi nào nhìn cái đĩa này tôi lại thích thú nhớ đến chuyện xưa...".

    Tôi không thể nào quên được mảnh đĩa vỡ trong tủ trang điểm của mẹ. Đợi dịp thích hợp, tôi chạy ngay vào phòng mẹ, lấy mảnh vỡ đó xem cẩn thận, rồi lao xuống nhà bếp bắc ghế lấy cái đĩa mẻ ra. Đúng như tôi nghĩ, mảnh vỡ hoàn toàn khớp với chỗ mẻ trên đĩa.

    Đó chính là mảnh đĩa vỡ mà bố tôi đã đưa cho mẹ vào ngày đầu tiên hai người gặp nhau. Và bây giờ, câu chuyện tình bắt đầu từ mảnh vỡ đó đã trôi qua đến năm thứ 54 trong hạnh phúc... Mới đây, một cô chị của tôi đã ngỏ lời xin mẹ chiếc nhẫn hồng ngọc, một cô chị khác lại đòi đôi hoa tai của bà. Còn tôi, tôi chỉ thích kỷ vật quí nhất đời mẹ mà bà đã trân trọng giữ mãi suốt mấy chục năm qua: mảnh dĩa vỡ nhỏ xíu.

Mảnh thời gian

Hôm ấy, khi tôi đi cắt tóc, tôi đã nhặt được một chiếc nhẫn trên vỉa hè. Đó là một chiếc nhẫn nhỏ có mặt đá nhưng bị cắt ở đáy. Nghĩ rằng đó là đồ chơi trẻ con, tôi bỏ vào túi đem về cho bọn trẻ trong nhà.

Chiều hôm ấy, khi chuẩn bị giặt quần áo, tôi tình cờ nhớ ra chiếc nhẫn. Khi nhìn kĩ, tôi phát hiện ra đó là một chiếc nhẫn người lớn bằng bạch kim với một viên ruby lớn gắn chính giữa. Bên phải nó là một viên ruby nhỏ hơn, còn bên trái chỉ có vết lõm cho thấy viên ruby ở đó đã bị rơi mất. Bên trong chiếc nhẫn có khắc một dòng chữ nhỏ. Tôi quay lại hiệu cắt tóc nhắn lại nếu ai mất nhẫn thì hãy gọi điện cho tôi và mô tả đúng hình dáng là được.

10 giờ tối hôm ấy, chuông điện thoại nhà tôi kêu. Một giọng đàn ông đã đứng tuổi:

- Tôi nghĩ là cậu đã nhặt được một vật quý!

- Vâng, cháu cũng nghĩ như vậy - Tôi nói nhát gừng - Bác gọi để nhận lại nó ạ?

- Đúng, mảnh thời gian ấy rất có ý nghĩa...

- Xin lỗi bác - Tôi ngắt lời - Có lẽ bác nhầm rồi. Cháu chỉ nhặt một chiếc nhẫn chứ không phải là đồng hồ đâu ạ!

- Không, tôi không nhầm đâu. Nó là của tôi đấy. Nếu cậu không ngại muộn, xin hãy ghé lại nhà số 52, cách nhà cậu một đoạn thôi!

Nói xong, người đàn ông gác máy. Tôi vẫn nghĩ chắc rằng người đàn ông đó nhầm và ông ta mất một chiếc đồng hồ. Nhưng vì tò mò, tôi quyết định đến nhà ông ta. Đó là một căn nhà nhỏ, gọn gàng. Đèn bên trong vẫn sáng và cửa chỉ khép hờ. Tôi gõ cửa và nghe thấy tiếng trả lời:

- Xin chào, mời vào. Cậu có mang theo mảnh thời gian của tôi không?

- Cháu đã bảo là chiếc nhẫn mà...

- Tôi biết, nhẫn bách kim với một viên ruby lớn gắn ở giữa. Một viên ruby nhỏ bên cạnh bị rơi mất và đáy nhẫn bị cắt. Khi tôi phải điều trị bệnh viêm khớp, các bác sĩ đã phải cắt nó để lấy ra khỏi tay tôi. Tôi đeo chiếc nhẫn ấy nhiều năm rồi.

- Thế bên trong chiếc nhẫn khắc gì ạ? - Tôi vẫn khăng khăng.

- "1:00 MJW."

Người đàn ông nói đúng, nhưng tôi vẫn chưa hiểu hết.

- Vậy tại sao bác cứ gọi nó là "mảnh thời gian"?

- "1:00" là lúc mà tôi gặp được vận may của đời mình. Hôm đó, tôi vội chạy về phòng làm việc và vô ý va phải một cô gái, làm cô ấy ngã. Tôi đỡ cô ấy dậy, để lại danh thiếp trong trường hợp cần gửi hóa đơn nếu cô ấy phải đi khám bác sĩ hoặc sửa lại cái áo rách khi ngã.

- Cô ấy gửi hoá đơn cho bác chứ?

- Cô ấy đã gửi cho tôi một mảnh giấy ghi tên, số điện thoại và ký tên: " Cô gái lúc 1:00 giờ". Một năm sau, chúng tôi kết hôn.

- Bây giờ...bác gái đâu ạ? - Tôi do dự hỏi.

- Cô vẫn ở trong tim tôi, và đến tận bây giờ, cả trên ngón tay đeo nhẫn của tôi nữa - Người đàn ông tự hào đáp - Chính vì thế mà tôi gọi chiếc nhẫn cưới của chúng tôi là "mảnh thời gian". Thời gian quả là báu vật đối mỗi người chúng ta, phải không? Phải, thời gian luôn trôi không ai níu kéo được, thế nhưng đâu đó quanh ta vẫn có những người có thể giữ lại được "mảnh thời gian" - những thời điểm mãi đọng lại trong tim của con người.

Mối tình có một không hai

    Hoảng sợ, Kim mang theo cô em gái Petri và bắt nó ngồi ở băng ghế trước xe cùng David trong khi nàng ngồi ở băng sau, không chịu chuyện trò gì cả. Kim cũng im lặng suốt bữa ăn. Và, bất chấp tất cả, tình yêu nở hoa. Ngày 17-11-1989, Kim viết trong nhật ký: "Hôm nay, David và tôi hôn nhau lần đầu".

    Sáu tháng sau cuộc hẹn hò đầu tiên, Kim và David công bố cuộc đính hôn của họ- trước sự sững sốt của gia đình, bạn bè và các bác sĩ. "Cả hai con đều bị bệnh"- cha của David nói, van chàng hãy nghĩ lại. "Con có hình dung được rằng một trong hai con sắp chết trong vòng tay người kia không?"- Bà Dawn hỏi con gái trong nước mắt.

    Kim và David khăng khăng rằng họ có quyền sống với nhau. Ngày 27-10-1990, Kim Marshall 21 tuổi, tuyên bố tình yêu của mình với David Crenshaw, 23 tuổi.

    Cặp vợ chồng sống bằng những tấm "séc" khiêm tốn cấp cho những người bệnh hàng tháng ở một căn hộ một phòng ngủ. Nó giống như một phòng bệnh viện, chất đầy những bình oxy, thuốc men và một tủ lạnh đầy ứ những lọ thuốc tiêm tĩnh mạch.

    Tuy thế, họ hạnh phúc hơn cả họ có thể tưởng tượng được. Chàng đặt cho nàng biệt hiệu Tiger vì mái tóc đỏ của nàng, còn nàng gọi chàng là Bear vì cái tính thích âu yếm của chàng. Chàng luôn gửi thiếp, càng mùi mẫn càng tốt. Nàng viết cho chàng những lá thư tình dài. (Chúng ta sẽ chiến thắng cái không thể chiến thắng được).

    Để kiếm thêm thu nhập, David làm công việc phục hồi xe đua. Chàng cũng ghi danh vào một trường đại học đại cương để lấy bằng kế toán. Một trong những người bạn bị bệnh CF của chàng, Richard Johnson, cảnh cáo chàng rằng không thể nào làm việc với cường độ đó được. David chỉ nói: "Tôi phải làm thế này vì Kim. Cả cuộc đời tôi chẳng còn gì ngoài Kim".

    Năm 1992, tĩnh mạch của Kim bắt đầu teo lại, vì cơ thể nàng không thể hấp thụ thực phẩm qua hệ thống tiêu hóa bị tắc nghẽn, nàng sụt cân nhanh. "Tiger- David viết cho nàng- Em là người con gái đẹp nhất mà anh biết. Anh yêu em bằng cả trái tim và linh hồn mình! Bear".

    David không bao giờ rời xa Kim trong những lần nàng đến bệnh viện. Chàng ngủ trên một chiếc giường bố trong phòng nàng. Để giải khuây cho nàng, chàng đẩy xe lăn đưa nàng đến phòng phụ sản để nàng ngắm các em bé sơ sinh. Kỳ diệu thay, sức khỏe của Kim khá dần lên và nàng trở về nhà.

    Rồi, vào đầu năm 1993, tình trạng của David xấu đi. Cơn ho của chàng ngày càng lớn hơn và sâu hơn. Mặt chàng phù lên. Cuối cùng chàng thở bằng một bình oxy mang theo người.

    David trấn an Kim rằng chẳng có gì phải lo lắng. Chàng chỉ phải tập luyện để nâng cao sức khỏe. Chàng không bảo nàng điều bác sĩ Kramer đã nói sau một lần khám mới đây: hai lá phổi của David đang cứng dần và phế quản của chàng đang khép lại. Chàng đang bị ngạt thở từ từ cho đến chết.

    Đó là một cuộc chạy đua với thời gian và David không lãng phí một khoảnh khắc nào. Vào tháng bảy, để mừng sinh nhật lần thứ 26 của chàng và 24 của Kim, chàng đòi đi nghỉ một tuần ở Florida. "Cả hai đều mang bình oxy. Họ ngồi trên bãi biển nắm tay nhau"- Mandy, em gái Kim nói.

    David nhập viện ngày 21-10. Kim ngồi cạnh chàng. Năm ngày sau, môi và móng tay của David xanh lè. Không thể thốt nên lời, chàng thều thào: "Anh yêu em" và gửi cho nàng một nụ hôn gió. Lát sau chàng qua đời. Trong suốt 24 giờ đưa tang chồng, Kim bị sốc. Một tuần sau bà Dawn đưa nàng đến bệnh viện. Sau khi xem xét nàng, bác sĩ Kramer nói: "Cơ thể của cô ấy đang đầu hàng".

    Kim hôn mê hai ngày. Rồi, sáng sớm ngày 11-11 nàng tỉnh lại, mở mắt và bắt đầu nói rù rì, lặng lẽ mà không ai hiểu được. Một y tá nói nghe như nàng đang trò chuyện với David. Rồi nàng nhắm mắt và qua đời.

    Kim được mai táng trong bộ áo cưới cạnh chồng nàng.

    - Đối với tôi- Bác sĩ Kramer nói- đó là một cặp Romeo và Juliet tiêu biểu.

    Những tuần sau đó khi bà Dawn đang sắp đặt đồ đạc của cặp vợ chồng, bà bắt gặp tấm thiếp cuối cùng của David đã gửi cho Kim trước khỉ chàng mất: "Chúng ta bên nhau ngay cả khi chúng ta cách xa!". "Hãy nhìn lên. Cả hai chúng ta đang cùng ở dưới một bầu trời đầy sao".

Mối tình già

    Ai cũng có những khoảnh khắc bất chợt bắt gặp một hình ảnh nào đó để rồi xúc động và nhớ mãi... Riêng tôi không thể nào quên được hình bóng của đôi vợ chồng già in trên đại lộ thênh thang và đầy xe cộ...

    Lúc bấy giờ, bọn tôi đứng trên lan can nhà thiếu nhi để thưởng thức không khí mát mẻ của buồi sáng thị xã.

    7 giờ sáng- giờ cao điểm- các em học sinh như những đàn bướm trắng tung tăng đến trường. Xe cộ bắt đầu tấp nập, kẻ đi chợ người đi đến công sở, nhộn nhịp ồn ào...     Giữa cảnh hỗn loạn ấy, bên kia đường một ông lão áo phong phanh, quần ngắn, chân đất cõng một bà lão áo nâu, nhỏ nhắn, ốm yếu trên vai (sau này tôi mới biết ông cõng bà đi đi về về để châm cứu trị bệnh) như chẳng quan tâm đến mọi vật xung quanh. Ông đi chầm chậm, thỉnh thoảng lấy tay quẹt mồ hôi trán, ông nói nho nhỏ với bà một câu gì đó, môi bà liền nở một nụ cười móm mém... Nhìn ông cõng bà đi khuất sau công viên 1 tháng 5, mắt tôi bỗng thấy cay cay...

    Vài ngày kế tiếp, tôi cố ý đứng đón với hy vọng ghi được một vài tấm ảnh "Mối tình già" ấy nhưng không còn thấy ông bà đâu cả. Có thể là bà đã khỏi bệnh, cũng có thể là... !!!

    Hình ảnh ấy rất đời thường, và đôi vợ chồng già yếu, nghèo khó kia chẳng phải là vĩ nhân, cũng chẳng phải là thành phần nổi bật trong xã hội, nhưng đối với tôi họ tượng trưng cho tính nhân bản của con người Việt Nam: chung thủy, nghĩa tình trong bất kỳ hoàn cảnh nào, xã hội nào, thời đại nào...

Một bức thư tình

    Tôi nhặt được một chiếc ví ở hè phố. Khi tôi mở ví với hy vọng tìm được manh mối nào đó về người làm rơi thì chỉ thấy 3 đôla và một bức thư nhàu nát. Phong bì đựng thư đã rách và thứ duy nhất còn đọc được là địa chỉ người gửi. Lá thư được viết năm 1944, tức là đã 60 năm về trước.

    Bức thư được viết bằng nét chữ con gái, bắt đầu bằng: “Anh Michael thân yêu”. Đọc thư tôi biết cô gái rất đau khổ vì mẹ cô không cho cô gặp Michael nữa, nhưng cô vẫn rất yêu anh. Cô gái ký tên là Hannah.

    Tôi gọi tổng đài thử tìm số điện thoại ở địa chỉ trên bì thư. Cô tổng đài bảo tôi đọc địa chỉ rồi nói:

    - Có một số điện thoại ở địa chỉ đó, tôi sẽ gọi giúp anh xem họ có muốn liên lạc với anh hay không.

    Tôi hồi hộp chờ cô nối máy. Một người phụ nữ trả lời máy. Tôi hỏi bà có biết ai tên Hannah không.

    - Ôi- người phụ nữ ngạc nhiên- Chúng tôi mua lại ngôi nhà này của một gia đình, họ có con gái tên là Hannah… Nhưng đã 30 năm rồi…

    - Chị có biết họ chuyển đi đâu không?- Tôi vội hỏi.

    - Tôi chỉ nhớ là sau đó vài năm, cô Hannah phải đưa mẹ vào viện dưỡng lão…

    Và người phụ nữ cho tôi tên viện dưỡng lão. Khi tôi gọi điện, một cô y tá nói rằng bà cụ đã mất, nhưng cô lại cho tôi số điện thoại của con gái cụ- Hannah.

    Một lần nữa, tôi gọi điện. Nghe điện là một phụ nữ, cô ấy nói rằng bà Hannah đã vào viện dưỡng lão rồi. “Thật ngớ ngẩn”- Tôi nghĩ- “Tại sao mình lạ phải mất thời gian tìm chủ nhân cho một cái ví chỉ có 3 đôla và lá thư viết cách đây 60 năm cơ chứ?”. Nhưng cuối cùng tôi vẫn gọi điện đến viện dưỡng lão, và một người đàn ông nghe điện nói: “Đúng là ở đây có một bà cụ tên Hannah”.

    Lúc đó là 7h tối. Tôi hỏi liệu tôi có thể đến gặp bà cụ được không.

    - Cũng được. Có lẽ bà cụ đang ngồi ở phòng xem TV.

    Tôi lập tức lái xe đến viện dưỡng lão vào bắt đầu thấy tò mò. Một y sĩ dẫn tôi lên tầng 3 gặp bà Hannah. Đó là một bà cụ tóc bạc trắng và nụ cười hiền hậu.

    Tôi kể cho bà cụ nghe và đưa bức thư ra. Ngay khi nhìn thấy bức thư, bà lặng đi, rồi thở dài:

    - Con trai, lá thư này là lần cuối cùng tôi liên hệ với Michael.

    Bà cụ cắn môi, đôi mắt đỏ lên:

    - Chúng tôi đã rất yêu thương nhau. Nhưng lúc đó chúng tôi còn quá trẻ và mẹ tôi cấm tuyệt đối. Michael Goldstein là một người tuyệt vời. Tôi vẫn thường nhớ tời ông ấy. Tôi đã không kết hôn. Vì không ai làm cho tôi quên được Michael…

    Tôi tạm biệt bà Hannah. Khi tôi ra đến cổng, người bảo vệ hỏi:

    - Đó có đúng là bà cụ mà cậu cần tìm không?

    - Đúng, bây giờ tôi biết được cả họ tên của chủ nhân chiếc ví rồi!

    Tôi vừa nói vừa lấy cái ví cho người bảo vệ xem. Vừa nhìn thấy nó, người bảo vệ thốt lên:

    - Ôi, ví của ông Goldstein! Chỉ có mỗi ông ấy còn dùng cái ví cổ lỗ sĩ này thôi! Mà lúc nào cũng làm rơi! Tôi đã nhặt được hộ ông ấy đến 3 lần rồi đấy!

    - Ông Goldstein là ai?- Tôi hỏi, tay bắt đầu run lên vì hồi hộp.

    - Một ông cụ sống trên tầng 8. Tôi cam đoan ông ấy lại làm rơi ví khi đi dạo.

    Tôi nhanh chóng quay lại và nhờ cô y tá đưa lên tầng 8.

    Trong phòng đọc sách ở tầng 8, một ông cụ đang đọc sách. Cô y tá lại gần và hỏi có phải ông lại làm rơi ví không. Ông cụ sờ vào túi và thốt lên:

    - Ôi, lại rơi mất thật rồi!

    Tôi đưa cái ví cho ông Goldstein. Ông cụ thở phào:

    - Đúng nó rồi! Tôi phải trả ơn cậu mới được!

    - Không cần đâu ạ! Nhưng cháu xin lỗi là đã đọc bức thư trong đó… Cháu chỉ định tìm xem ai rơi ví thôi.

    Nụ cười của ông lập tức biến mất:

    - Cậu đọc thư của tôi?

    - Nhưng nhờ thế mà cháu tìm được bà Hannah- Tôi vội “lấy công chuộc tội”.

    Ông cụ mở to mắt:

    - Hannah? Cậu gặp bà ở đâu?- Tôi rất muốn gặp bà ấy. Kể từ khi không được gặp bà ấy nữa, cuộc sống của tôi như đã kết thúc vậy. Tôi thậm chí đã không kết hôn…

    Tôi đưa ông Goldstein xuống tầng 3- nơi bà Hannah ở.

    Phòng xem TV chỉ còn một cái đèn nhỏ. Bà Hannah đang ngồi một mình.

    - Bà Hannah- Cô y tá nhẹ nhàng- Bà có biết ông ấy không?

    Bà Hannah chỉnh lại kính, nhìn ông trong vài giây, im lặng.

    - Hannah- Ông Michael thì thầm- Michael đây mà!

    Cả hai người như lặng đi. Và họ nắm tay nhau.

    Ba tuần sau, tôi nhận được thiệp mời dự đám cưới của ông Michael và bà Hannah.

    Đó là một lễ cưới rất đẹp. Viện dưỡng lão dành cho họ một căn phòng riêng. Và nếu bạn muốn thấy một cô dâu 75 tuổi, một chú rể 79 tuổi mà vẫn yêu thương và chăm sóc nhau như “teenagers”, thì bạn rất nên gặp họ.

    Arnold Fine

Một câu chuyện tình yêu

    Khi còn là một học sinh trung học, tôi đã "để ý" một cậu bạn cùng trường. Nhưng tôi không đủ can đảm để nói chuyện với cậu ta. Cậu ấy là đội trưởng bóng chuyền của trường, tôi thì thường được làm... người dẫn chương trình trong các cuộc thi bóng chuyền. Tôi có thật nhiều cơ hội để nhìn cậu ấy. Tức là khi tôi đeo kính cơ! Bỏ kính ra thì mắt tôi chẳng khác gì mắt cú ban ngày. À, mà cậu ta tên là Terry.

    Trong một lần thi đấu, Terry ghi điểm. Và cái đứa dẫn chương trình cận thị, tức là tôi đây, đã nhìn nhầm người và bắt đầu tung hô một vận động viên khác. Cà đám đông cổ vũ vừa la ó vừa cười ồ lên. Mặt tôi chuyển từ đỏ sang xanh.

    Từ đó tôi tránh mặt Terry, dù cô bạn thân cứ muốn ghép tôi với cậu ta, thậm chí còn rủ tôi đi xem phim khi biết là Terry có đi. Nhưng bản tính nhút nhát luôn giữ tôi ngồi ở hàng ghế cuối cùng, dù tôi chẳng nhìn rõ cái gì trên màn ảnh cả.

    Thời gian trôi qua. Mùa đông đến và môn trượt băng lên ngôi. Nhà trường tổ chức cho học sinh trượt vào cuối tuần. Tất nhiên, trượt băng thì phải có đôi có cặp, như khiêu vũ vậy. Tôi ngồi một góc, mong muốn Terry sẽ mời mình. Nhưng cậu ta không mời. Sau khi mọi người đã ra sân trượt gần hết, tôi nghĩ mình đã nhầm khi hy vọng. Chắc chắn là cậu ta sẽ không mời.

    Nhưng tôi nhầm lẫn lần nữa. Terry lại gần tôi với vẻ mặt lúng túng hiếm thấy (ít nhất là hiếm thấy khi cậu ta tự tin trong vai trò một vận động viên bóng chuyền có năng khiếu)

    - Chắc chắn bạn đang tự hỏi tại sao tớ không mời bạn trượt cùng? Đó là câu đầu tiên cậu ta nói với tôi.

    Cố không nhìn vào đôi mắt nâu mở to(đôi mắt có thể làm tôi tan chảy), tôi chống chế một cách giả dối:

    - Không, không hẳn...

    Terry chẳng chú ý đến câu trả lời của tôi. Cậu ta nhìn xuống giày trượt rồi nói vẻ ngượng nghịu:

    - Tớ không mời vì tớ không biết trượt... nếu bạn không sợ tớ sẽ làm bạn ngã... thì bạn trượt với tớ được không?

    Và tôi trượt băng cùng Terry. Tay trong tay. Không chỉ bởi đôi mắt đẹp mà hơn cả là vì trái tim ấm áp của Terry.

    Sau này, khi tôi xem lại những bức ảnh ngày cưới, tôi vẫn nhớ cảm giác Terry và tôi nắm tay nhau đi vào nhà thờ làm lễ cưới, thường cô dâu khoác tay chú rể. Nhưng chúng tôi thì không. Chúng tôi nắm tay nhau, như một lời hứa luôn giúp nhau khỏi ngã...

Một chuyện tình

Câu chuyện xãy ra ở một bệnh viện nhỏ ở vùng quê hẻo lánh .

Ở khoa hóa trị có một phụ nữ trẻ đang ở giai đoạn cuối của căn bệnh ung thư . Tuy luôn bị những cơn đau hành hạ nhưng chưa bao giờ người phụ nữ ấy quên trao cho cho chúng tôi một nụ cười biết ơn sau những lần điều trị . Những khi chồng cô tới thăm , mắt cô rạng ngời hạnh phúc . Đó là một người đàn ông đẹp trai , lịch thiệp và cũng thân thiện như vợ mình . Tôi rất ngưỡng mộ chuyện tình của họ . Hằng ngày anh mang đến cho cô những bó hoa tươi thắm cùng nụ cười rạng rỡ , anh đến bên giường nắm lấy tay cô và trò chuyện cùng cô . Những lúc quá đau đớn , cô khóc và trở nên cáu ghắt , anh ôm chặt cô vào lòng , an ủi động viên cho vợ mình cho đến khi cơn đau dịu đi . Anh luôn bên cô mỗi khi cô cần , anh giúp cô uống từng ngụm nước và không quên vuốt nhẹ đôi chân mày của cô . Mỗi đêm , trước khi ra về anh luôn đóng cửa để hai người có những giây phút bên nhau . Khi anh đi , chúng tôi thấy cô ấy đã say ngủ mà trên môi vẫn phảng phất nét cười .

Nhưng đêm ấy mọi chuyện đã thay đổi . Khi nhìn vào bảng theo dõi , kết quả cho thấy người vợ trẻ ấy sẽ không qua khỏi đêm nay . Mặc dù rất buồn nhưng tôi biết đó là cách tốt nhất cho cô ấy , từ nay cô sẽ không chịu những cơn đau thêm nữa .

Để bảng theo dõi trên bàn , tôi muốn đến phòng bệnh . Khi tôi bước vào phòng , cô mở mắt nhìn tôi hé môi cười một cách yếu ớt , nhưng hơi thở của cô nghe thất khó nhọc . Chồng cô ngồi bên cô mỉm cười nói : " Cho đến bây giờ món quà tuyệt vời nhất tôi dành cho cô ấy chính là tình yêu của tôi " .

Và tôi đã khóc khi nghe điều đó , tôi nói nếu họ cần bất cứ điều gì thì đừng ngại .Đêm ấy cô đã ra đi trong vòng tay người chồng yêu dấu . Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc cố an ủi và chia sẻ nỗi đau này cùng chồng cô . Với khuôn mặt đẫm nước mắt , anh nghẹn ngào : " Xin hãy cho tôi ở bên cô ấy thêm một lúc " .

Bước ra khỏi phòng , đứng ở hành lang lau những giọt nước mắt , nhớ nụ cười , nhớ ánh mắt , nhớ những cái ôm ghì chặt mà cô ấy dành cho chúng tôi ...Tôi nhớ tất cả về cô ấy như một người bạn thân thiết , tôi cũng phần nào có thể cảm nhận được nỗi đau mà chồng cô đang chịu đựng . Bỗng nhiên từ trong phòng vọng ra một giọng hát trầm ấm mà tôi chưa từng được nghe . Không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đều bị cuốn hút bởi giọng hát của anh khi anh cất lời bài Beautiful brown eyes . Rồi giai điệu khúc ca nhỏ dần , anh mở cửa gọi tôi đến , anh nhìn sâu vào mắt tôi , ôm chầm lấy tôi rồi nói :" Tôi đã hát bài này mỗi đêm cho cô ấy nghe kể từ ngày chúng tôi quen nhau . Mọi ngày tôi vẫn thường cố giữ cho giọng mình thật nhỏ để khỏi làm phiền bệnh nhân khác . Và tôi chắc rằng đêm nay trên thiên đường cô ấy cũng vẫn nghe tôi hát . Tôi xin lỗi đã quấy rầy mọi người .Tôi chỉ không biết sống ra sao khi thiếu vắng cô ấy , nhưng mỗi đêm tôi vẫn tiếp tục hát cho cô ấy . Chị có nghĩ rằng cô ấy nghe thấy tiếng tôi không ?".

Tôi khẽ gật đầu mà nước mắt vẫn tuôn . Anh ôm tôi một lần nữa , hôn lên má tôi và cảm ơn tôi cùng tất cả mọi người . Đoạn anh quay bước , cúi đầu khẽ húyt sáo giai điệu thân quen .

Khi anh bước đi , tôi nhìn theo , thầm cầu nguyện cho cô ấy , cho anh và cho tôi một ngày nào đó cũng tìm được một tình yêu như thế .

Ngày hôm sau không đến

    Câu chuyện bắt đầu khi tôi 16 tuổi. Trong khi đang chơi bên ngoài trang trại của gia đình ở California, tôi gặp một nguời con trai. Ðó là một nguời bình thường như bao người khác, nguời trêu chọc bạn để rồi bạn đuổi theo và đấm cho anh ta một trận. Sau lần gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi tiếp tục gặp nhau và trêu chọc lẫn nhau. Nhưng việc trêu chọc chỉ diễn ra một lúc, rồi chúng tôi thuờng đứng nói chuyện ở hàng rào. Tôi có thể kể với anh mọi bí mật của mình. Anh chỉ yên lặng lắng nghe và tôi nhận thấy anh thật dễ gần

    Ở trường chúng tôi đều có những mối quan hệ riêng, nhưng khi về nhà chúng tôi thuờng kể cho nhau nghe mọi chuyện. Một hôm tôi kể với anh cái gã mà tôi thích đã làm cho trái tim tôi tan nát. Anh an ủi tôi và bảo rồi mọi chuyện sẽ qua. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì có một người bạn thực sự hiểu mình. Có điều gì đó ở anh khiến tôi rất thích, tôi lại cho rằng đây chỉ là cảm giác.

    Trong những năm trung học, chúng tôi luôn bên nhau với tình bạn đơn thuần. Vào buổi lễ tốt nghiệp, tuy chúng tôi nhận đuợc bằng vào hai ngày khác nhau nhưng tôi rất muốn ở cạnh anh. Tối hôm đó khi mọi nguời đã về hết tôi đến nhà anh, nói rằng tôi rất muốn gặp anh. Ðó quả là một cơ hội lớn, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ngồi bên cạnh anh ngắm sao trời và cùng bàn về những dự định của hai đứa. Anh nói anh muốn lấy vợ sớm để ổn định cuộc sống, rằng anh muốn trở thành người giàu có, thành đạt. Tôi về nhà với nỗi ân hận vì đã không thổ lộ cho anh biết tình cảm của mình. Tôi muốn ngỏ lời yêu anh nhưng lại quá nhút nhát và sợ sệt. Tôi để những cơ hội ấy qua đi và tự nhủ sẽ nói cho anh ấy vào một ngày nào đó.

    Trong những năm học đại học, tôi luôn muốn thổ lộ cùng anh nhưng luôn có nhiều nguời xung quanh anh. Sau khi ra truờng anh tìm việc làm ở New York. Tôi mừng cho anh nhưng cũng cảm thấy buồn vì chưa nói được gì với anh. Nhưng làm sao tôi có thể nói ra điều đó được, khi mà anh đang chuẩn bị ra đi. Tôi giữ kín điều đó cho riêng mình và nhìn anh bước lên máy bay. Tôi đã khóc rất nhiều và cảm thấy rất buồn khi không nói được những điều trong trái tim mình. Sau đó tôi được nhận vào làm thư ký, rồi làm cho một nhà phân tích máy tính. Tôi rất tự hào về những gì mình đạt đuợc. Cho đến một ngày tôi nhận được một bức thư có kèm thiệp mời mừng đám cuới. Ðó là của anh.

    Tôi đến dự đám cuới một tháng sau đó. Ðám cưới thật lớn được tổ chức ở một nhà thờ và chiêu đãi ở một khách sạn lớn. Tôi gặp cô dâu và cả anh nữa, và tôi nhận ra rằng mình vẫn rất yêu anh. Tôi đã tự kiềm chế để không làm hỏng ngày vui của anh. Tôi cố gắng tỏ ra vui vẻ khi nhìn thấy anh bên cô ấy để che giấu đi những giọt lệ đang tuôn rơi trong lòng tôi. Tôi rời New York và cho rằng mình đã hành động đúng. Khi tôi lên máy bay, anh đi tiễn và nói rằng anh rất vui khi gặp lại tôi. Tôi về nhà cố quên đi mọi chuyện đã xảy ra ở New York vì hiểu rằng mình không thể làm khác. Một năm qua, chúng tôi vẫn trao đổi thư từ cho nhau và kể cho nhau nghe mọi chuyện. Rồi một thời gian dài anh không viết thư cho tôi. Tôi bắt đầu lo lắng vì tôi đã viết đến 6 bức thư. Cho đến khi tôi mất hết hy vọng, tôi nhận đuợc lời nhắn: "Hãy gặp anh ở hàng rào nơi chúng ta vẫn trò chuyện truớc đây". Tôi đến và gặp lại anh. Anh nói rằng anh đã vui vẻ trở lại, quên đi mọi chuyện rắc rối từ cuộc ly dị. Tôi càng yêu anh hơn nhưng vẫn không thể nói ra mối tình ấp ủ bấy lâu. Khi anh quay lại New York, tôi đã khóc rất nhiều. Tôi không muốn nhìn thấy anh ra đi. Anh hứa sẽ đến thăm tôi ngay khi có thể.

    Rồi một ngày anh không đến thăm tôi như đã hẹn. Tôi đoán rằng có lẽ anh rất bận. Chuỗi ngày chờ dợi kéo dài cho đến khi tôi đã quên đi điều đó thì nhận được một cuộc điện thoại từ luật sư của anh ở New York. Ông ấy cho tôi biết anh đã mất trong một tai nạn trên đường ra sân bay. Trái tim tôi duờng như vỡ vụn và tôi thực sự bị sốc. Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao anh không đến như đã hẹn. Tôi đã khóc, những giọt nuớc mắt của sự mất mát và đau đớn đến khôn cùng.

    Tôi tự hỏi: "Tại sao điều đó lại xảy đến với một người tốt như anh?". Tôi thu dọn công việc đến New York để nghe đọc di chúc của anh. Mọi thứ đã được chuyển về cho gia đình và người vợ cũ của anh. Tôi gặp lại cô ấy. Cô kể cho tôi nghe về tình trạng của anh, rằng anh luôn buồn cho dù cô ấy đã làm mọi cách cũng không thể nào khiến cho anh hạnh phúc được như hôm gặp lại tôi ở đám cưới của họ. Người ta trao lại cho tôi quyển nhật ký của anh. Nó được bắt đầu từ ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Anh viết rằng anh rất yêu tôi nhưng vì quá nhút nhát mà không dám nói ra điều đó. Ðó là lý do tại sao anh im lặng và thích lắng nghe tôi. Anh luôn yêu tôi kể cả khi đến New York và kết hôn với người khác. Ðối với anh quãng thời gian hạnh phúc nhất là khi ở bên tôi và được nhảy với tôi trong đám cưới. Anh đã tưởng tượng rằng đó là đám cuới của chúng tôi và anh đã rất đau khổ khi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ly hôn. Anh viết rằng anh rất hạnh phúc khi nhận được thư của tôi. Và cuốn nhật ký kết với dòng chữ: "Hôm nay, nhất định tôi sẽ nói với cô ấy rằng tôi rất yêu cô ấy". Ðó chính là ngày mà anh bỏ tôi ra đi vĩnh viễn- ngày mà tôi sẽ biết được tình yêu từ sâu thẳm trái tim anh dành cho tôi.

    Ðây là một câu chuyện tôi đọc được trên mạng. Có thể các bạn đã từng đọc qua câu chuyện này. Ðiều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn: Nếu bạn yêu một nguời nào đó, đừng đợi đến ngày mai để nói với anh ấy/cô ấy biết điều đó. Bởi lẽ ngày hôm sau đó có thể sẽ không bao giờ đến nữa.

Ngôn ngữ tình yêu.

    Hai người yêu nhau nhưng gặp sự phản đối mạnh mẽ từ phía gia đình nhà cô gái. Họ cho rằng chàng trai không xứng với địa vị của gia đình cô và họ sẽ không tha thứ cho cô nếu tiếp tục với anh ta.     Mặc dù cô gái rất yêu chàng trai, nhưng khi hai người gặp nhau cô luôn hỏi: "Anh có yêu em nhiều không?". Cô hay bực bội do chàng trai không trả lời như ý cô mong muốn. Và áp lực của gia đình khiến hai bạn trẻ bất hoà. Cô thường trút giận lên chàng trai.

    Về phía mình, chàng trai luôn chịu đựng trong im lặng. Sau một năm tốt nghiệp, anh quyết định đi du học. Trước khi ra đi anh đã cầu hôn với cô gái: "Anh biểu lộ tình cảm của mình bằng lời nói không giỏi, nhưng tất cả những gì mà anh biết là anh yêu em. Về phía gia đình, anh sẽ cố gắng hết sức thuyết phục gia đình em đồng ý. Em thuận ý làm vợ anh chứ?".

    Cô gái ưng thuận và với sự quyết tâm của chàng trai, cuối cùng gia đình cô gái cũng nhượng bộ và đồng ý cho họ kết hôn với nhau. Trước khi chàng trai đi học, hai người làm lễ đính hôn. Cô gái tham gia công tác xã hội trong khi anh tiếp tục học ở nước ngoài. Họ bày tỏ tình cảm của mình qua những lá thư và điện thoại. Tuy có sự khó khăn nhưng họ vẫn luôn nghĩ về nhau.

    Một ngày nọ cô gái bị tai nạn giao thông trên đường đi làm. Khi tỉnh dậy cô thấy cha mẹ mình bên cạnh giường. Cô cảm nhận được tình trạng tồi tệ của mình. Nhìn thấy mẹ khóc, cô muốn làm cho mẹ yên lòng nhưng những gì cô có thể thốt ra chỉ là tiếng thở dài. Cô đã mất đi giọng nói. Bác sĩ bảo rằng tai nạn đã gây tổn thương não của cô và khiến cô không thể nói được nữa. Cô suy sụp mặc dù cha mẹ cô động viên rất nhiều. Trong suốt thời gian ở bệnh viện cô chỉ biết khóc trong thầm lặng.

    Xuất viện về nhà, tình trạng của cô cũng chẳng thay đổi gì. Mỗi khi có tiếng chuông điện thoại reo, cô có cảm giác như từng nhát dao đâm vào tim. Cô không muốn cho anh biết và càng không muốn trở thành gánh nặng của anh. Cô viết cho anh một lá thư nói rằng cô không còn đủ kiên nhẫn đợi chờ anh nữa. Cô gửi lại anh chiếc nhẫn đính hôn. Chàng trai gửi hàng ngàn lá thư và gọi biết bao cuộc điện thoại nhưng cô không trả lời và chỉ khóc. Cha mẹ cô quyết định chuyển nhà, hy vọng rằng cô sẽ thật sự quên những gì đã xảy ra để có thể sống yên ổn.

    Cô gái học ngôn ngữ cử chỉ và bắt đầu một cuộc sống mới. Mỗi ngày cô tự nhủ hãy quên anh ấy đi. Nhưng một hôm, bạn của cô đến cho hay anh trở về. Cô van xin người bạn đừng cho anh biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Từ đó cô không nhận được tin tức gì của anh.

    Một năm trôi qua, người bạn của cô đến thăm và trao cho cô thiệp mời dự lễ kết hôn của anh. Trái tim cô gái tan vỡ. Khi mở thiệp cưới cô thấy tên mình trong tấm thiệp. Ngước lên cô thấy anh đang đứng trước mặt.

    Chàng trai dùng cử chỉ nói với cô gái: "Một năm qua anh đã dành thời gian học ngôn ngữ này. Chỉ để em hiểu rằng anh không quên lời ước hẹn của chúng ta. Hãy cho anh có cơ hội nói với em rằng anh yêu em".

    Anh lồng chiếc nhẫn vào tay cô gái. Cuối cùng nụ cười đã trở lại trên môi cô.

Người anh hùng.

    Một mùa đông khắc nghiệt tại Chicago. Khi tất cả mọi ngôi nhà đều phủ đầy tuyết trắng và thú vui của mọi người là ngồi trong nhà, phả những hơi thở của mình làm mờ những ô cửa sổ thì cũng là lúc Robert cảm thấy mình vô dụng nhất. Thời tiết lạnh giá như thế này làm anh cảm thấy mệt mỏi, những cơn ho vắt kiệt sức lực anh.

    Sáu năm ròng làm việc ở nhà máy ướp hải sản, thường xuyên phải tiếp xúc với đá lạnh và hóa chất đã khiến Robert bị mắc chứng viêm phổi kinh niên. Không thể làm việc vào những ngày trời lạnh, Robert phải xin về nghỉ mất sức. Đã lâu rồi anh rất buồn vì không còn là chỗ dựa cho gia đình nữa.

    Hôm ấy, trời đổ tuyết càng lúc càng mạnh, gió lạnh thấu xương. Robert nhìn thấy vợ mình chạy ra nhà kho ở sân sau để lấy vài bó củi đốt lò. Mọi lần chỉ một loáng là Mary đã trở lại, hai vợ chồng lại tíu tít chuẩn bị bữa tối. Nhưng lần này, 15 phút, 30 phút, rồi một tiếng trôi qua vẫn chưa thấy Mary trở lại.

    Trong thời tiết lạnh giá thế này Mary có thể đi đâu được. Bất chợt anh nghe thấy tiếng vợ. Mary kêu cứu. Biết chắc chắn đã có chuyện không ổn, Robert xông về phía nhà kho. Đúng như vậy, gió giật quá mạnh đã khiến cánh cửa nhà kho đóng sập xuống và mắc kẹt trong đống tuyết dày. Mary- vợ anh chắc hẳn đã mắc kẹt trong đó. Nếu không hành động tức thời, Mary sẽ bị nhốt cả đêm trong kho cùng với sự sợ hãi và giá lạnh.

    Nửa giờ đánh vật với cánh cửa nhưng mọi nỗ lực của nah đều vô vọng! Cái bản lề rỉ sét đã hoàn toàn bị hỏng sau cơn bão tuyết vừa rồi. Robert vừa động viên vợ vừa cố hết sức xúc tuyết và lấy búa đập vào cánh cửa. Những giọt mồ hôi lăn dài trên má anh. Và cuối cùng thì nỗ lực của anh đã được đền đáp. Cánh cửa cũ gỉ bật tung và Robert nhìn thấy vợ mình đang khóc, những giọt nước mắt đầy tự hào. Robert cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Anh tự hào vì mình vẫn luôn là chỗ dựa cho Mary ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.

    Nhưng có một điều mà Robert không hề biết. Khi anh đang ra sức phá tung cánh cửa, tấm cửa sổ phía sau của nhà xe cũng đã bị gió thổi bật tung. Trong hoàn cảnh đó người vợ hoàn toàn có thể vượt qua để vào nhà một cách dễ dàng. Tuy nhiên khi Mary biết người chồng đang cố gắng như thế nào để cứu mình thì cô quyết định rất nhanh: Không thể để vị cứu tinh của mình thất vọng. Thế là cô nhẹ nhàng quay lại phía cửa nhà kho, tiếp tục cầu cứu. Cô đã biến Robert- một người luôn âu sầu vì cảm thấy mình vô dụng trở thành người anh hùng trong khoảnh khắc như thế.

Tản mạn về tình yêu!

    Sẽ rất đau đớn khi bạn yêu một người nào đó mà không được đáp lại. Nhưng còn đau đớn hơn khi bạn yêu một ai đó mà không đủ dũng cảm để nói cho người đó biết bạn đã yêu như thế nào.

    Có thể chúng ta phải gặp một vài người nào đó, nhầm một vài lần như vậy trước khi gặp đúng người mình yêu, và bạn phải trân trọng vì điều đó.

    Tình yêu là khi bạn lấy đi tất cả mọi đam mê, cuồng nhiệt, lãng mạn mà cuối cùng bạn vẫn biết rằng mình vẫn luôn nhớ về người đó.

    Sẽ rất buồn khi bạn gặp một ai đó mà bạn cho rằng vô cùng có ý nghĩa đối với bạn, chỉ để cuối cùng bạn nhận ra rằng tình cảm đó sẽ chẳng bao giờ được đáp lại và bạn là người phải ra đi. Nhưng khi một cánh cửa đóng lại, một cánh cửa khác lại mở ra. Ðiều bạn cần làm là thôi không chờ đợi nơi cánh cửa đã đóng, hãy tìm một cánh cửa khác đang mở ra cho mình.

    Người bạn tốt nhất là người mà bạn có thể ngồi cùng ở bất cứ đâu, cùng đung đưa mà không nói một lời, để khi bước đi, bạn lại cảm thấy như đã nói hết mọi điều.

    Có một sự thật là bạn sẽ không biết bạn có gì cho đến khi đánh mất nó, nhưng cũng có một sự thật khác là bạn cũng sẽ không biết bạn đang tìm kiếm cái gì cho đến khi có nó.

    Trao cho ai đó cả con tim mình không bao giờ là một sự đảm bảo rằng họ cũng yêu bạn, đừng chờ đợi điều ngược lại. Hãy để tình yêu lớn dần trong tim họ, nhưng nếu điều đó không xảy ra thì hãy hài lòng vì ít ra nó cũng đã lớn lên trong bạn.

    Có một vài thứ mà bạn rất thích nghe nhưng sẽ không bao giờ được nghe từ người mà bạn muốn nghe, nhưng nếu có cơ hội, hãy lắng nghe chúng từ người nói với bạn bằng cả trái tim.

    Ðừng bao giờ nói tạm biệt khi bạn vẫn còn muốn thử. Ðừng bỏ cuộc khi bạn cảm thấy vẫn còn có thể đạt được. Ðừng nói bạn không yêu ai đó nữa khi bạn không thể rời xa họ. Tình yêu sẽ đến với những người luôn hy vọng dù họ đã từng thất vong. Ðừng chạy theo vẻ bề ngoài hào nhoáng, nó có thể phai nhạt theo thời gian. Ðừng chạy theo tiền bạc, một ngày kia nó cũng sẽ mất đi. Hãy chạy theo người nào đó có thể làm bạn luôn mỉm cười bởi vì chỉ có nụ cười là tồn tại mãi. Hy vọng rằng bạn sẽ tìm ra người đó.

    Ðôi khi trong cuộc sống, có lúc bạn cảm thấy bạn nhớ ai đó đến nỗi muốn chạy đến và ôm chầm lấy họ. Mong rằng bạn sẽ luôn mơ thấy họ. Hãy mơ những gì bạn muốn, đi đến nơi nào mà bạn thích, hãy là những gì bạn thích vì bạn chỉ có một cuộc sống và một cơ hội để làm tất cả trong cuộc đời. Mong rằng bạn luôn có đủ hạnh phúc để vui vẻ, đủ thử thách để mạnh mẽ hơn, đủ nỗi buồn để bạn trưởng thành hơn và đủ tiền để mua quà cho bạn bè.

    Hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác, nếu điều đó làm tổn thương bạn thì nó cũng sẽ tổn thương người khác. Một lời nói vô ý là một xung đột hiểm họa, một lời nói nóng giận có thể làm hỏng cả một cuộc đời, một lời nói đúng lúc có thể làm giảm căng thẳng, còn lời nói yêu thương có thể chữa lành vết thương và mang đến sự bình yên.

    Tình yêu bắt đầu bằng cách yêu con người thật của họ, chứ không phải là yêu họ như yêu một bức tranh bạn vẽ ra, bằng không bạn chỉ yêu sự phản chiếu của chính bạn nơi họ.

    Người hạnh phúc nhất không cần phải có mọi thứ tốt nhất, họ chỉ là người làm cho mọi việc, mọi chuyện đều diễn ra theo ý họ. Hạnh phúc thường đánh lừa những ai khóc lóc, những ai bị tổn thương, những ai đã tìm kiếm và đã thử. Nhưng nhờ vậy, họ mới biết được giá trị của những người chung quanh họ.

    Tình yêu bắt đầu bằng nụ cười, lớn lên bằng nụ hôn và thường kết thúc bằng nước mắt.

    Tương lai tươi sáng thường dựa trên quá khứ đã quên lãng, bạn không thể sống thanh thản nếu bạn không vứt bỏ mọi nỗi buồn đã qua.

    Khi bạn sinh ra đời, bạn khóc còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn, bạn cười.

Tình yêu lớn

Ngày xưa trên một hoang đảo nọ, tất cả mọi cảm giác của con người cùng chung sống với nhau: Hạnh Phúc, Buồn Phiền, Kiến Thức, ... và trong số đó có cả Tình Yêu. Một hôm có tin cho hay rằng chẳng bao lâu nữa, hòn đảo sẽ chìm xuống biển, vì thế mọi dân cư trên đảo phải chuẩn bị thuyền bè để rời khỏi đảo nhằm tránh tai hoạ sắp giáng xuống. Tình Yêu là kẻ cuối cùng còn lại trên đảo. Bạn xem đấy, Tình Yêu luôn chờ đợi đến phút cuối cùng, cho tới khi nào chẳng thể cứu vãn được mới chịu bỏ đi.

Hòn đảo gần chìm hẳn dưới làn nước, Tình Yêu quyết định lên tiếng cầu cứu.

Sang Giàu lái một chiếc thuyền lớn đi qua. Tình Yêu gọi:" Bạn Sang Giàu ôi, bạn có thể cho tôi đi cùng không?"

Sang Giàu đáp: "Không, không được đâu. Thuyền của tôi chở đầy vàng bạc, đâu còn chỗ cho bạn".

Tình Yêu bèn nhờ anh Tự Cao cũng vừa lái một chiếc tàu lớn và rất đẹp đi qua: "Bạn Tự Cao ạ, bạn làm ơn giúp tôi nhé!".

"Tôi không giúp gì được cho bạn đâu, người bạn ướt sũng thế kia không khéo lại làm hỏng cả chiếc tàu xinh đẹp của tôi thì chết mất " Tự Cao trả lời Tình Yêu.

Lúc ấy Buồn Phiền vừa đi ngang qua, Tình Yêu cũng nhờ Buồn Phiền giúp đỡ: "Buồn Phiền ôi, bạn hãy chở tôi đi theo bạn nhé!". Thế nhưng Buồn Phiền từ chối: "Tình Yêu ạ, tôi buồn đến nỗi chỉ có thể ở được một mình mà thôi".

Hạnh Phúc lướt qua, nhưng Hạnh Phúc không nghe thấy tiếng khóc thầm xin mọi người giúp đỡ của Tình Yêu vì Hạnh Phúc đang yêu đời.

Thình lình, một giọng nói vang lên: "Đến đây Tình Yêu ơi, tôi sẽ mang bạn đi cùng tôi." Đó là một người lớn tuổi. Tình Yêu vui sướng đến nỗi quên hỏi tên ông cụ.

Khi thuyền cập vào nơi khô ráo, ông cụ lẳng lặng ra đi. Tình Yêu cảm thấy mình đã mang ơn và thiếu ông một món nợ lớn. Tình Yêu hỏi thăm bác Kiến Thức: " Bác ạ, người đã giúp cháu là ai thế ?"

Kiến Thức đáp: "Đó là Thời Gian".

"Thời Gian ư - Tình Yêu hỏi tiếp - Nhưng tại sao bác Thời Gian lại giúp cháu ?"

Kiến Thức cười một cách khôn ngoan rồi đáp " Bởi vì chỉ có Thời Gian mới có thể hiểu nổi Tình Yêu lớn đến đâu ".

Tình yêu và lý trí

    Ngày xửa ngày xưa, trước khi loài người xuất hiện, các tính cách sống lơ lửng xung quanh nhau và cuộc sống đối với chúng vô cùng chán nản khi chẳng tìm thấy việc gì đó để làm. Một ngày nọ, chúng tập trung lại và bàn về một trò chơi nào đó.

    Thông minh đề xuất: "Chúng ta cùng chơi trốn tìm nào!". Tất cả đều đồng ý và vui vẻ bắt đầu trò chơi. Lý trí la lớn "Này các bạn, tôi xung phong làm người tìm, các bạn trốn đi nhé

    Lý trí tựa vào một gốc cổ thụ và bắt đầu đếm :"Một, hai, ba...", Đức hạnh và Thói xấu cuống cuồng đi kiếm chỗ để nấp. Dịu dàng nấp sau mặt trăng. Phản bội nấp sau những vườn bắp cải. Yêu mến cuộn tròn giữa những đám mây. Nồng nàn trốn ngay giữa trung tâm trái đất. Nói dối giấu mình phía sau của tảng đá nằm bên dưới một hồ lớn. Tham lam trốn trong một bao tải... Và Lý trí đã đếm đến bảy mươi, tám mươi... chín mươi. Lúc này tất cả đều tìm được chỗ ẩn nấp cho mình, ngoại trừ Tình yêu. Tình Yêu không thể tìm cho mình một chỗ để trốn. Và đó cũng lý giải vì sao thật khó khăn để che giấu Tình yêu trong trái tim mình.

    Khi Lý trí đếm tới một trăm, Tình yêu nhảy đại vào một bụi hoa hồng gần đó và bị những gai nhọn đâm. Tình yêu cố nén đau mà không lên tiếng nhưng lại được tận hưởng hương thơm quyến rũ của từng đóa hoa hồng ...

    Lý trí bắt đầu tìm kiếm. Lười biếng được tìm thấy đầu tiên bởi vì Lười biếng không có đủ năng lượng để tìm cho mình một chỗ nấp tốt. Sau đó lần lượt Dịu dàng, Nói dối, Nồng nàn, Yêu mến... cũng được tìm thấy, chỉ trừ Tình yêu. Ghen ghét với Tình yêu, Ghen tỵ đã thì thầm vào tai Lý trí: "Tôi biết bụi hoa hồng đang ẩn giấu bạn Tình yêu đấy".

    Lý trí bước lại gần và bắt đầu tìm kiếm. Lý trí đã xới tung cả bụi hoa mà chẳng thấy bạn mình đâu bèn sử dụng một cành cây để tìm và dừng lại khi trái tim của Lý trí bị những gai hoa hồng làm cho rỉ máu. Tình yêu xuất hiện với hai tay ôm mặt và hai dòng máu chảy ra từ đôi mắt. Trong lúc tìm kiếm, Lý trí đã làm hỏng đôi mắt của Tình yêu. Lý trí khóc thét lên: "Tôi phải làm gì đây? Tôi phải làm gì đây? Tôi đã làm cho bạn mù. Làm cách nào khiến cho bạn thấy đường trở lại bây giờ?"

    Tình yêu nói: "Bạn chẳng có cách nào làm cho tôi thấy đường lại. Bây giờ nếu bạn muốn giúp tôi, hãy làm người dẫn đường cho tôi". Và đó là lý do vì sao Tình yêu là mù quáng và luôn đồng hành với Lý trí.

Trở lực đầu tiên

Hôn lễ của chúng tôi được tổ chức vào ngày 12/10, nhưng cuộc sống hôn nhân thực sự chỉ bắt đầu ba tuần sau đó. Tối hôm ấy chúng tôi khoác lên người những bộ cánh hợp thời trang nhất và ngồi vào xe hơi chạy tới một nhà hàng cũng sang trọng nhất trong thành phố. Mọi việc đều êm đẹp, duy chỉ có điều mùi dầu thơm của vợ làm tôi khó chịu. Không hiểu sao nàng lại ưa cái mùi quái quỷ ấy. Nó nửa giống mùi mù tạc, nửa giống mùi hồ tiêu trộn với mùi dầu gỗ thích.

Xe dừng lại trước thanh chắn đường ở một cổng xe lửa. Ngoài trời lạnh ngắt nên trước đó tôi đã quay kiếng lên và bật máy sưởi. Tình thực lỗ mũi của tôi bị tra tấn đến mức cùng cực, nhưng tôi không muốn làm nàng phật lòng chỉ vì một chuyện có thể nói là cỏn con. Trước khi cưới, tôi đã thề rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi phải là tuyệt hảo nhất, hoàn thiện nhất trên đời này: không cãi cọ, xích mích; không nặng lời với nhau; không xúc phạm lẫn nhau; không nước mắt... Nói chung là mọi thứ đều tuyệt vời. Vợ tôi cũng đồng ý như vậy.

Nhưng giờ... liệu tôi có dám vứt bỏ lời cam kết cũ để trung thực nói lên những ý nghĩ và cảm nhận của mình? Nếu ngày nào nàng cũng xức đẫm thứ dầu thơm quái ác ấy khiến tôi hết chịu nổi rồi! Cố lấy giọng ngọt ngào và nhẹ nhàng nhất tôi khẽ nói: "Em yêu, anh thấy mùi nước hoa này giống mùi thuốc trừ gián".

Một sự im lặng khủng khiếp, hệt như sự im lặng đã từng bao trùm lên toàn nước Mỹ sau khi Tổng thống Roosevelt thông báo người Nhật tấn công Trân Châu Cảng! Không đủ can đảm nhìn mặt nàng, tôi ngóng về phía trước, lắng tai nghe nhịp bánh xe lửa gõ đều đều trên đường sắt. Chúng tôi đi tiếp. Khẽ liếc mắt về phía nàng, tôi thấy môi trên của nàng cong lên, run rẩy. Sau một hồi im lặng, nàng lẩm bẩm: "Thôi được. Em sẽ không dùng nó nữa". Bất cứ người nào có vợ đều đoán được phần còn lại của câu chuyện. Dĩ nhiên, bữa ăn tối thịnh soạn mắc kẹt ở cổ họng. Hỉ nộ ái ố cả, nào là hờn dỗi, nào là nước mắt... Rồi như thường lệ, thế nào cũng phải có câu: "Lỗi tại anh mà, em yêu". Sau đó chúng tôi dàn hòa và hứa hẹn sẽ không làm nhau buồn.

Năm tháng trôi qua, câu chuyện tôi vừa kể đã trở thành một phần trong "kho tàng" của gia đình chúng tôi vốn đầy những chuyện, mà sau khi chúng đã đi qua ai cũng bảo là "ngốc nghếch và trẻ con". Thế nhưng, tôi lại cho rằng cuộc sống hôn nhân của chúng tôi bắt đầu từ đó. Nhờ nó, chúng tôi trưởng thành một bước. Nhờ nó, chúng tôi khám phá ra rằng hôn nhân là sự thống nhất giữa hai cuộc đời. Chúng tôi hiểu ra rằng phải từ bỏ ảo tưởng về một hạnh phúc trơn tru, phẳng lặng. Chúng tôi đã đi bước đầu tiên dẫn tới bài học quan trọng nhất, mà không ai trong chúng ta có thể bỏ qua: Hôn nhân là sự thoát xác tái sinh của mối quan hệ giữa hai người yêu nhau.

Còn thứ nước hoa kia? Tôi đã thử đem nó xịt lũ gián và kỳ lạ thay, kết quả rất... công hiệu! Có lẽ lúc vội vàng, nàng đã nhầm lẫn.

Tỷ lệ của tình yêu.

    15 tuổi, tôi được học về giới tính, tình yêu và kết hôn. Cô giáo dạy môn Kinh Tế Gia Đình còn cho chúng tôi làm bài tập bằng cacáh chuẩn bị đám cưới, từ viết thiếp mời đến đặt tiệc… Tôi đã có ý niệm rất rõ ràng về một đám cưới lý tưởng từ hồi đó. Đại loại là một chàng trai mạnh mẽ và một cô gái xinh đẹp dắt tay nhau lên chiếc xe lộng lẫy rồi hai người sống hạnh phúc mãi mãi…

    18 tuổi, tôi vào Đại học và quyết định trở thành một y tá. Bận rộn chuyên học hành và cuộc sống tôi hầu như quên mất ý nghĩ về đám cưới lý tưởng.

    Thật đáng ngạc nhiên, ngay khi tôi quên ý nghĩ ấy thì tôi gặp chàng trai mà tôi chắc chắn rằng mình sẽ lấy. Như người ta thường nói là “linh cảm” ấy.

    Anh ấy sống tại một làng ở vùng quê Idaho. Gia đình anh ấy là nông dân. Còn tôi sống ở thành phố, nơi rất đông đúc và nhộn nhịp. tôi đã luôn khẳng định rằng tôi không biết mình sẽ cưới ai, nhưng một điều chắc chắn: người đó không phải là nông dân hoặc là người đưa sữa!

    Thế mà tôi sai trong cả hai trường hợp: anh ấy không chỉ là nông dân, mà buổi sáng còn đi đưa sữa! Thật ra, chúng tôi gặp nhau trong thời gian tôi thực tập một năm ở vùng quê anh ấy.

    Trong suốt thời gian yêu nhau, tôi luôn e ngại rằng đến một lúc nào đó, tôi sẽ phát hiện ra những “chênh lệch” của người nông thôn và người thành thị…

    Chẳng hạn như… Người yêu tôi rất mê thể thao. Còn tôi thì thích nghệ thuật (tôi nnghĩ là cao cấp hơn). Các buổi khiêu vũ, kịch, các phìng tranh… mới là tình yêu sâu đậm của tôi.

    Sau khi chúng tôi yêu nhau được khoảng 7 tháng thì tôi nhận được tin khủng khiếp: Mẹ tôi bị ung thư và không còn sống được bao lâu nữa. Ngay khi đọc bức điện, người yêu tôi đã tự tay đi thu xếp đồ đạc cho tôi, và buồn bã nói: “Anh đã đặt vé tàu cho em rồi. bây giờ chỗ của em là bên cạnh cha mẹ mình”.

    Đối với anh ấy, dường như đó là sự lựa chọn duy nhất. Khi ở nhà với mẹ, hàng tuần tôi đều nhận được thư anh ấy thông báo tình hình trang trại và hỏi thăm gia đình tôi. Hầu như anh ấy không bao giờ nói vể nỗi buồn hay cô đơn, trừ câu “I love you” luôn được ghi ở cuối thư.

    Những giấc mơ hồi bé của tôi về thư tình là luôn phải đầy ắp những lời về tình yêu bất diệt và nhớ nhung đau khổ… Nhưng thư của anh ấy thì chỉ là những từ đơn giản của thực tế.

    3 tháng sau, mẹ tôi mất. Sau lễ tang và sắp xếp ổn thoả việc gia đình, tôi quay lại Idaho.

    Đúng như tôi dự đoán, anh ấy ra tận sân bay để đón tôi. Mắt anh ấy nói nhiều hơn bất kỳ lá thư trong mơ nào. Trên suốt con đường từ sân bay về nhà, tôi nói liên tiếp đủ thứ chuyện. Và đến khi anh ấy có cơ hội trả lời, anh ấy đưa cho tôi một phong bì, trên đó ghi tên tôi.

    - Anh muốn tặng em một điều đặt biệt để em niết là anh nhớ em đến mức nào.     Tôi mở phong bì. Trong đó là hai chiếc vé cả năm, xem mọi vở kịch tại nhà hát tôi yêu thích. Tôi rất xúc động, vì tôi cũng biết thu nhập của anh ấy không phải là cao.

    - Tại sao anh làm thế này?- Tôi ái ngại hỏi- Anh có thích xem kịch đâu…

    Anh ấy cười:

    - Nhưng em thích. Và anh sẽ học để thích.

    Trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra rằng tình yêu thực sự không phải là 50/50, mà đôi khi là 100/0. Tình yêu là khi ta đặt người khác lên trước cả bản thân mình.

    Dorothy Casper.

Nhân cách

11 bước để sống tốt với mọi người

    1. Trước khi bạn nói điều gì đó với ai đó, hãy tự hỏi mình 3 câu:

    - Điều đó có đúng đắn không?

    - Điều đó có tử tế không?

    - Điều đó có cần thiết không?

    2. Hãy tiết kiệm lời hứa, nhưng một khi đã hứa thì hãy chắc chắn giữ lời.

    3. Đừng để lỡ một cơ hội nào động viên người khác.

    4. Không nói xấu người khác, đừng ngồi lê đôi mách và đừng nghe những chuyện ngồi lê đôi mách.

    5. Biết tha thứ. Bạn hãy tin rằng hầu hết mọi người đã cố hết sức rồi.

    6. Giữ cho đầu óc "mở" và thật tỉnh. Thảo luận và bàn bạc nhưng đừng cãi cọ.

    7. Đừng đếm tới 10 mà hãy đếm tới 10.000 trước khi làm gì đó hoặc nói gì đó mà bạn nghĩ có thể làm vấn đề trở nên tồi tệ hơn.

    8. Không phải kể về những ưu điểm hay tính tốt của bạn, hãy để chúng tự thể hiện.

    9. Nếu ai đó phê phán bạn, hãy xem trong đó có gì là đúng, là sự thật không. Nếu có, hãy biết thay đổi cái sai của mình. Nếu không có gì là sự thật, hãy lờ đi và sống sao cho chẳng ai tin vào lời phê phán đó.

    10. Nuôi nấng và chăm sóc khả năng hài hước của bạn. Nụ cười là khoảng cách ngắn nhất giữa những con người.

    11. Đừng đòi hỏi phải được an ủi như là mình đã an ủi người khác, đừng đòi hỏi được hiểu như là mình đã hiểu người khác, và đừng đòi hỏi được yêu thương như là mình đã yêu thương người khác.

Amy Graham

Mark V. Hansen

Sau một đêm bay từ Washington D.C., tôi rất mệt mỏi và tôi tới nhà thờ Mile High ở Denver để chỉ đạo 3 dịch vụ và một phân xưởng sao cho phát triển tốt. Khi tôi bước vào, tiến sĩ Fred Vogt hỏi tôi, "Anh có biết về Tổ chức từ thiện Hãy-Có-Một-Ước-Mơ?"

"Có," tôi trả lời.

"Tốt, Amy Graham được chẩn đoán là bị bệnh bạch cầu giai đoạn cuối. Họ cho cô bé 3 ngày. Cô ấy khát khao được tham dự một buổi nói chuyện của anh."

Tôi choáng váng. Một cảm giác tự hào nhưng cả sự sợ hãi và nghi ngờ cùng có trong tôi. Tôi không thể tin nổi. Tôi nghĩ rằng những đứa trẻ sắp chết muốn đi chơi Disneyland, hoặc gặp các nhân vật nổi tiếng, những siêu sao. Chắc chắn rằng mấy đứa trẻ đó không muốn dành mấy ngày cuối cùng của cuộc đời để nghe Mark Victor Hansen. Tại sao một đứa trẻ chỉ còn sống vài ngày cuối cùng lại muốn tới nghe một nhà diễn thuyết về động lực tinh thần. Đột ngột, những suy nghĩ của tôi bị cắt đứt... "Đây là Amy," Vogt nói và đặt vào tay tôi bàn tay yếu đuối của cô bé. Trước mắt tôi là một cô bé 17 tuổi choàng một cái khăn màu đỏ và cam trên đầu, che đi toàn bộ mái đầu đã không còn tóc sau những cuộc trị liệu. Thân thể xanh xao của cô bé trông vô cùng yếu đuối. Cô bé nói, "Cháu có hai mục tiêu là tốt nghiệp phổ thông và tham dự buổi thuyết trình của bác. Các bác sĩ đã không tin rằng cháu có thể thực hiện được. Họ không nghĩ rằng cháu còn có đủ sức. Cháu đã được trả về cho gia đình... Đây là bố và mẹ của cháu."

Nước mắt trào lên; tôi dường như nghẹt thở. Tôi cảm thấy chao đảo, xúc động. Để lấy lại giọng nói của mình, tôi đằng hắng, mỉm cười và nói "Cháu và bố mẹ sẽ là khách mời của chúng tôi. Xin cảm ơn vì cháu đã tới tham dự." Chúng tôi ôm lấy nhau, lau nước mắt và chia tay.

Tôi đã tham gia rất nhiều hội thảo về chữa bệnh tại Hoa Kỳ, Canada, Malaysia, New Zealand và Australia. Tôi đã coi những nhà chữa bệnh giỏi nhất làm việc và tôi đã học, nghiên cứu, nghe, cân nhắc và hỏi điều gì đã hoạt động, tại sao và như thế nào. Vào buổi chiều Chủ nhật đó, tôi điều khiển một hội thảo mà Amy và bố mẹ em tham dự. Cả ngàn khán giả tràn ngập phòng họp, háo hức muốn học, phát triển những khả năng mà trước nay họ không biết đến.

Tôi nhẹ nhàng hỏi khán giả xem họ có muốn học một quy trình chữa bệnh mà có thể giúp họ trong cả cuộc đời không. Từ trên bục diễn thuyết tôi có thể thấy mọi người đều giơ cao tay lên trời. Tất cả đều đồng lòng muốn học. Tôi chỉ cho mọi người cách xoa mạnh hai bàn tay vào nhau rồi tách nó ra khoảng 5 cm và cảm nhận được nguồn năng lượng chữa bệnh phát ra từ nó. Tôi bắt cặp từng người lại với nhau để họ có thể cảm nhận được nguồn năng lượng từ người này đến người kia. Tôi nói "Nếu các bạn muốn chữa bệnh, hãy làm tại đây và ngay bây giờ." Khán giả liên kết lại với nhau và đó là một cảm giác ngây ngất tuyệt vời. Tôi giải thích rằng mỗi người đều có một năng lượng chữa bệnh và khả năng chữa bệnh. Năm phần trăm trong số chúng ta có được nó rõ ràng và mạnh mẽ đến mức có thể hành nghề. Tôi nói, "Sáng hôm nay, tôi vừa được giới thiệu với Amy Graham, một cô gái 17 tuổi, người có ước muốn cuối cùng trong đời là tham dự buổi thuyết trình này. Tôi muốn đưa cô lên trên đây và các bạn hãy gửi những năng lượng chữa bệnh tự nhiên của các bạn lên cho cô. Có lẽ chúng ta giúp được cho cô bé. Cô không yêu cầu điều đó. Tôi chỉ làm điều này một cách tự động vì cảm thấy nó đúng." Khán giả hô "Phải! Phải! Phải! Phải!"

Bố của Amy dắt cô lên trên bục. Cô nhìn thật yếu ớt sau tất cả những cuộc hóa trị liệu pháp, những ngày dài trên giường bệnh và sự thiếu vận động. (Các bác sĩ còn không cho cô đi lại hai tuần trước khi tới tham gia với chúng tôi.)

Tôi kêu mọi người làm nóng hai bàn tay, và gửi đến cho cô năng lượng chữa bệnh của họ. Sau đó mọi người đứng dậy vỗ tay hoan hô cô mà ai nấy đều nước mắt lưng tròng.

Hai tuần sau đó, cô gọi điện và báo rằng các bác sĩ sau khi kiểm tra sức khỏe cô đãø cho cô về và chính cô cũng cảm thấy có sự thuyên giảm đáng kể. Hai năm sau đó cô gọi điện báo tôi biết rằng cô lập gia đình.

Tôi rút ra được rằng, không nên coi thường sức mạnh mà tất cả chúng ta đều có. Nó luôn luôn sẵn sàng để dùng cho mục đích cao đẹp nhất. Chúng ta phải nhớ đến việc sử dụng nó.

Ân nhân

    Dậy mau! Dậy mau! Nhà cháy kìa!"

    Bị đánh thức dậy bằng một giọng nói lạ hoắc, tôi vùng dậy. Nhanh lên! Nhanh lên! Phải dậy thôi! Phải tỉnh dậy! Đây là những từ mà tôi động viên mình khi còn đang trong giấc nồng. Tôi lao qua các căn hộ, đánh thức các con và cháu tôi, lúc này chúng đang ngủ say.

    Câu thông báo cháy của người đa'n ông nọ vang lên rất đúng lúc và kịp cho cả nhà tôi lao ra ngoài an toàn. Vào buổi sáng của buổi lễ tạ ơn lạnh giá ấy chồng tôi - Bobby, hai trong số ba đứa con lớn của tôi, người anh sinh đôi của chồng tôi và hai đứa cháu của anh ấy đã kịp chạy thoát ra ngoài và ôm nhau nhìn ngọn lửa thiêu cháy rụi căn hộ và nhà hàng của chúng tôi. Trời hừng sáng, tất cả chỉ còn là đống gạch vụn đen nhẻm.

     Nhưng may sao, cả nhà chúng tôi vẫn còn sống. Ai đã đánh thức chúng tôi? Làm sao chúng tôi có thể nói tiếng cảm ơn người đó?

    Khách sạn có 124 phòng kế nhà hàng chúng tôi, và khách sạn này cũng có một phần hùn của vợ chồng tôi lại không bị tổn hại gì cả. Cô tiếp tân, cho biết: lúc đầu cô ta không phát hiện ngọn lửa, nhưng rồi chợt thấy một người đàn ông lái chiếc xe tải chở hàng dừng lại ngay giữa con đường cao tốc, rồi ông ta chạy vào phòng tiếp tân bảo cô gọi điện ngay đến PCCC. Nói xong ông ta lao đi từng phòng gõ cửa đánh thức mọi người dậy.

     Người đàn ông đó là ai nhỉ? Chúng tôi hỏi hết mọi người - các anh chữa cháy, các chú cảnh sát, và cả các khách trọ, nhưng chẳng ai biết mặt ông ta ngoại trừ cô tiếp tân. Chúng tôi đăng báo. Dĩ nhiên chúng tôi không tài nào trả ơn hết một ngời đã cứu hết mạng sống của cả gia đình chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn muốn được nói lời cám ơn. Các năm sau đó. cứ đến ngày lễ tạ ơn là chúng tôi lại đọc kinh cám ơn Chúa, cám ơn người đàn ông vô danh ấy và cầu nguyện sao cho chúng tôi gặp được ân nhân của mình.

     75 năm trôi qua. Trong từng ấy năm, chúng tôi đã xây lại căn hộ và nhà hàng, rồi sau đó bán chúng và bán cả khách sạn kế bên. Chúng tôi trở thành thành viên tình nguyện của một nhóm du lịch qua các bang, và các nước khác để xây nhà thờ, ký túc xá và lều trại.

     Vào Giáng sinh 1994, vợ chồng tôi, ba đứa con và vợ chồng chúng nó cùng với chín đứa cháu nội ngoại tập trung tại nhà đứa con trai lớn. Một lần nữa chúng tôi, cả đại gia đình chúng tôi, cầu nguyện để tỏ lòng biết ơn đối với người đã cứu chúng tôi năm xưa, quả thật nếu không có người đàn ông đó thì chín đứa cháu nội ngoại của tôi sẽ không sao có mặt trên đời này. Chúng tôi cầu nguyện cho ông ta được nhiều ân huệ và cầu mong có một ngày gặp được ân nhân.

     Vài ngày sau đêm Chúng sinh, hai vợ chồng tôi gặp Ray Horton, thợ mộc đồng thời là nhóm trưởng nhóm chúng tôi đang lái chiếc xe tải chở hàng. Ông Ray mời chúng tôi đến nhà uống cà phê và chúng tôi bắt đầu trao đổi cho nhau nghe về những kinh nghiệm sống và cho biết chỗ ở và công việc làm ăn ngày trước. ông Ray cũng cho biết về dãy nhà ở Portland, Texas những năm 1969 và 1970. Nghe thấy Portland, chúng tôi cũng cho ông biết ngày xưa chúng tôi có một nhà hàng và khách sạn. Nghe đến đấy, ông Ray quay qua vợ mình nói: “này em có nhớ trận cháy mà anh kể ở cái khách sạn đó không?” Cùng lúc đó, chẳng hẹn mà gặp, Bobby và Ray hiểu ra rằng: khách sạn mà Ray đề cập chính là khách sạn của chúng tôi. Hai người đàn ông đứng lên, nhìn nhau và bắt đầu khóc rồi họ ôm lấy nhau. Tất cả chúng tôi ôm nhau và khóc, chúng tôi biết rằng chúng tôi đã tìm được ân nhân cứu sống chúng tôi cuối cùng, sau 75 năm, chúng tôi cũng đã nói được lời cám ơn với vị ân nhân giấu tên.

Bài kiểm tra nhớ đời

    Khi tôi đang còn học năm thứ hai trường nữ hộ sinh, một ngày nọ, vị giáo sư già cho chúng tôi làm bài kiểm tra. Việc đầu tiên của tôi là lướt mắt qua toàn bộ các câu hỏi. Không có câu nào quá khó, vì tôi vốn là cô học trò thông minh! Duy chỉ có câu hỏi cuối cùng làm tôi bật ngửa người: Chị hãy cho biết tên của bà lao công trong trường ta?

    Trời đất ạ! Bà lao công thì có liên quan gì tới chuyện đỡ đẻ và chăm sóc sản phụ kia chứ? Ngày nào tôi chẳng gặp bà. Bà ấy già lắm rồi, chẳng biết là 60 hay đã 70 tuổi. Mặt nhăn nheo, dáng vẻ khắc khổ, bà hầu như không bao giờ nói tiếng nào, suốt ngày chỉ cắm cúi cầm giẻ, cầm chổi lau nhà. Nhiều khi cả bọn chúng tôi vừa bô bô tán chuyện vừa đi trên hành lang, không thèm tránh lối cho bà lão đang còng lưng lau sàn nhà. Trông bà lão vội vàng né sang một bên, có lúc lòng tôi cũng cảm thấy hơi nao nao. Một lần nọ, mải chạy, một cô bạn tôi vấp té đánh đổ bịch sữa đang uống dở ra sàn. Bà lão tội nghiệp vội lắp bắp: "Các cô để đấy cho già. Các cô vội, cứ làm việc của mình đi. Đây là việc của già mà!".

    Chỉ có thế thôi thì làm sao tôi biết họ và tên của bà? Mà có biết cũng chẳng để làm gì. Bà ấy chẳng qua chỉ như cái bóng âm thầm bên lề cuộc sống sôi động đang cuốn hút lũ sinh viên ồn ào chúng tôi. Tôi quyết định để trống câu trả lời. Cũng không có gì là quan trọng. Miễn tôi trả lời xuất sắc những câu hỏi liên quan tới chuyên môn là được.

     Vài ngày sau, vị giáo sư trả lại bài kiểm tra. Ông chậm rãi nói: "Đa số các em đều viết được. Nhưng tôi lo ngại rằng nếu cứ cái đà này khi tốt nghiệp lớp ta sẽ cho ra trường toàn là những... người máy. Đó sẽ là một thảm họa!". Phía dưới, lũ học trò chúng tôi lao xao, không hiểu thầy muốn nói gì. "Nghề của các em là chăm sóc, giúp đỡ những người phụ nữ trong những giờ phút đau đớn nhất và cũng là hạnh phúc nhất trong đời. Các em là thiên thần hộ mệnh cho những sinh linh mới. Nỗi đau của họ cũng phải là nỗi đau của chính các em. Nghề nghiệp của các em cần những con người nhạy cảm, biết quan tâm, nâng đỡ số phận của mọi người, dù họ là mệnh phụ phu nhân, một ngôi sao hay chỉ là một bà quét rác. Một bà lão cần mẫn phục vụ các em năm này qua năm khác mà các em cũng không thèm biết tên, không biết hoàn cảnh của bà ấy là một điều đáng để các em cần suy nghĩ. Vì thế, thầy cho rằng toàn bộ số bài kiểm tra của lớp ta đều không đạt yêu cầu".

     Một bài học nhớ đời đối với tôi! Sau này, tôi dò hỏi và biết được tên của bà lão là Dorothy. Bà đã làm việc ở đây gần nửa thế kỷ, từ lúc còn con gái. Hai người con trai của bà đã hy sinh trong chiến tranh. Bà ấy có quyền nghỉ hưu nhưng vẫn xin ở lại làm việc không lương.

Bạn cũng phải khóc trước khi bạn lau khô nước mắt của ngườ

    Xin đừng để tôi sống quá tự do. Vì nếu thế làm sao tôi có thể hàn gắn được những vết thương của người khác mà tôi không cảm thấy?

    Nếu mắt tôi khô và tôi không bao giờ khóc. Làm sao tôi biết được khi nào thì vết thương rất sâu?

    Nếu trái tim tôi lạnh và chưa bao giờ chảy máu. Làm sao tôi biết anh em của tôi cần gì?

    Khi chúng ta không nghe lời cầu xin của một người hành khất, và nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn, chúng ta luyện cứng trái tim và tâm trí, chúng ta coi sự nhân ái của mình là sự yếu đuối, khi đó chúng ta không còn đi theo con đường Đúng và cũng chẳng được sự hướng dẫn hằng ngày.

    Khi trái tim quá đau buồn, đó cũng là khi bạn mở cánh cửa cho một ngày mai tươi sáng hơn. Vì chỉ có qua nước mắt, chúng ta mới có thể nhìn thấy nỗi buồn trong mắt người khác mà thôi.

Brian

    Bé Brian đã lên bảy. Bé rất mơ mộng và thường làm cô giáo phát điên lên, mà cô giáo thì rất nghiêm khắc.

    Một ngày nọ, Brian đến trường trễ một giờ đồng hồ. Cô giáo lập tức rời lớp học xuống văn phòng và gọi điện cho mẹ của Brian. "Brian hôm nay đi học trễ một giờ đồng hồ"- cô nói- "Chỉ còn thiếu nước ấy nữa thôi!"

    Mẹ của Brian rất lo lắng suốt cả ngày hôm ấy. Cuối cùng thì Brian cũng về nhà.

    - Brian hôm nay ở trường có việc gì thế hở con?

    - Con đi trễ, cô giáo rất giận.

    - Mẹ biết, Brian, cô đã gọi cho mẹ. Nhưng sao?

    - Thế này, mẹ ạ.- Brian bắt đầu kể- Trời mưa, có rất nhiều sâu bò trên vỉa hè...

    Bé ngừng một lát rồi nói tiếp:

    - Con biết bọn trẻ thế nào cũng dẫm lên chúng, nên con cố nhặt hết mấy con sâu để bỏ lại vào rãnh.

    Bé ngẩng lên nhìn mẹ:

    - Việc này tốn rất nhiều thì giờ vì bọn chúng không muốn đi."

    Mẹ Brian ôm chầm lấy bé: "Mẹ yêu con, Brian."

Cách nhìn mới về cuộc sống.

    Kathy Higgins

    Khi tôi bắt đầu tập đạp xe đạp cách đây vài năm, tôi không bao giờ nghĩ rằng chuyện tôi luyện tập đạp xe sẽ trở thành một điều gì lớn hơn là một vài cuốc xe lòng vòng. Nhưng khi tôi khỏe lên, bạn bè tôi khuyến khích tôi nâng cao mức tập luyện và thử sức với vài cuộc đường dài. Cuộc thử sức đầu tiên là đoạn đường 150 dặm (hơn 200km), MS-150, một cuộc đua xe hàng năm quyên góp tiền cho việc nghiên cứu chống lại bệnh xơ cứng.

     Khi tôi mới đăng ký dự thi, ý tưởng này dường như rất tuyệt vời - ủng hộ quyên góp cho một việc từ thiện khi chạy xe đường dài - và tôi rất hăng hái luyện tập. Nhưng khi cuộc đua đến, sự thiếu tự tin đã chiến thắng trong tôi. Tôi vẫn muốn quyên góp cho việc từ thiện, nhưng tôi không còn muốn chạy một đoạn đường dài như vậy trong xuốt hai ngày liền.

     Cuộc đua bắt đầu vào sáng ngày Chủ nhật tại vùng quê Georgia yên bình, và trong vài giờ đầu tiên tôi cảm thấy thật tuyệt vời. Đây chính là điều mà tôi tưởng tượng, và tinh thần của tôi rất mạnh mẽ. Nhưng vào cuối ngày, tôi cảm thấy quá kiệt sức, nóng nảy.

     Nếu ai đó tin rằng thể xác được nối với linh hồn, tôi đây sẽ là một ví dụ cụ thể. Mỗi điều than thở mà não đưa ra dường như đi thẳng tới hai chân tôi. "Mình không thể chịu nổi nữa," thì chân bắt đầu một cơn chuột rút, và "những người khác đều giỏi hơn mình" được tiếp theo là cảm giác hụt hơi, thiếu dưỡng khí. Tôi muốn bỏ cuộc.

     Lên đến đỉnh đồi, cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp nơi chân trời xa đã giúp tôi đi tiếp được vài phút nữa. Khi đó tôi bỗng chú ý một vận động viên trước tôi một khoảng xa, đang đạp xe rất chậm trong bóng chiều đỏ rực. Tôi cảm thấy người này có điều gì đó khác lạ, nhưng tôi không rõ là điều gì. Vì thế tôi cố chạy đuổi theo. Cô ta đang chạy, đạp chậm nhưng đều đều vững vàng, với khuôn mặt mỉm cười nhẹ nhàng và cương quyết – và rồi tôi nhận thấy rằng cô ấy chỉ có một chân.

     Sự tập trung của tôi thay đổi ngay lập tức. Cả ngày tôi không tin tưởng vào thể xác của chính mình. Nhưng bây giờ tôi đã biết - không phải là thể xác mà chính là ý chí sẽ giúp tôi đạt được đích đến của mình.

     Cả ngày hôm sau mưa. Tôi không trông thấy người nữ vận động viên một chân nữa, nhưng tôi tiếp tục chạy mà không than thở, vì tôi biết rằng cô ấy đang cùng với tôi ở đâu đó trên đoạn đường. Và vào cuối ngày, vẫn cảm thấy mạnh mẽ, tôi đã hoàn tất được 150 dặm của mình.

Câu cá.

    Cậu bé 11 tuổi và rất thích câu cá. Cậu đi câu cá bất cứ lúc nào có thể và thường ngồi câu ở cái vũng nơi căn lều nhà cậu, nằm trên một đảo nhỏ giữa hồ.

    Một lần, cậu theo bố đi câu cá vào buổi chiều tối. Cậu mang theo ít giun làm mồi với hy vọng bắt được vài con cá. Cậu móc mồi rồi bắt đầu tập quăng mồi. Lưỡi câu đập thẳng vào mặt nước và tạo ra những gợn sóng nhiều màu sắc trong ráng chiều. Ngồi khá lâu, bỗng cậu cảm thấy cần câu rung lên, rõ ràng có cái gì đó rất nặng móc vào cần câu. Bố cậu quan sát đứa con khéo léo giật cần câu, nhấc lên một con cá đang vùng vẫy. Đó là con cá to nhất cậu bé từng nhìn thấy. Hai bố con nhìn con cá to bự đang quẫy. Người cha nhìn đồng hồ. Mới 8 giờ tối. Còn 4 tiếng nữa mới bắt đầu mùa câu. Ông bảo:

    - Con trai, con phải thả nó ra đi. Chưa đến mùa câu.

    - Kìa bố!- Cậu con trai kêu lên.

    - Sẽ có những con cá khác- Bố cậu bình tĩnh nói.

    - Nhưng không to như con này!- Cậu bé rên lên.

     Cậu nhìn quanh hồ. Không có ai, cũng chẳng có tàu thuyền tuần tra. Cậu lại ngước nhìn bố. Không ai nhìn thấy họ, tức là sẽ không ai biết họ câu được cá. Và dù có người biết, người đó cũng không thể biết cậu câu được cá lúc mấy giờ. Nhưng cậu bé, qua sự rõ ràng trong giọng nói của bố cậu, biết rằng quyết định của ông sẽ không thay đổi. Cậu chậm chạp gỡ con cá ra và thả nó xuống mặt hồ đen lóng lánh. Con vật quẫy thật mạnh và lao biến đi. Cậu bé biết rằng rồi cậu sẽ chẳng bao giờ bắt được con cá to như thế nữa.

    Đó là câu chuyện 34 năm về trước. Bây giờ, cậu bé đã là một kiến trúc sư thành đạt. Cái lều của gia đình anh vẫn ở trên hòn đảo nhỏ giữa hồ New Hampshire. Và anh cũng đưa con trai, con gái của mình đi câu. Anh đã đoán đúng. Anh không bao giờ bắt được một con cá to và đẹp như hồi nhỏ nữa. Nhưng anh luôn nhìn thấy con cá đó, từ lần này sang lần khác, mỗi khi anh đặt ra một câu hỏi về đạo đức. Vì, như cha anh đã dạy, đạo đức là những vấn đề đơn giản: đúng hay sai. Chỉ có điều: hành động đạo đức- ngay cả khi không có ai quan sát mình- mới là khó mà thôi.

Chiếc đàn piano màu gụ đỏ

    Khi tôi 20 tuổi, tôi bán hàng thuê cho một hiệu đàn piano ở St.Louis.

    Một lần, chúng tôi nhận được một "đơn đặt hàng" là một bưu thiếp từ vùng Đông Nam Missouri. Trên bưu thiếp đó có viết : " Xin hãy mang một chiếc đàn piano màu gụ đỏ tới cho cháu tôi. Tôi sẽ trả góp 10 đôla mỗi tháng bằng tiền bán trứng gà." Qua nét chữ có thể đoán đó được người viết là một bà cụ. Bà ấy viết câu đó lặp đi lặp lại kín mít tấm bưu thiếp, viết cả ra những diềm giấy còn thừa ở mặt trước cho đến khi chỉ còn ra một khung nhỏ ghi địa chỉ.

    Tất nhiên công ty chúng tôi không thể bán piano trả góp 10 đô mỗi tháng. Nên chúng tôi lờ tờ bưu thiếp đi.

    Tuy nhiên, đến một ngày, ở vùng Đông Nam Missouri đó có thêm vài người đặt mua đàn piano và chúng tôi phải chở đàn đến đó. Vì tò mò, tôi muốn đến địa chỉ của bà cụ xem sao. Gần như giống hệt những gì tôi tưởng tượng, bà cụ sống trong một túp lều lụp xụp cạnh cánh đồng.

    Sàn căn lều rất bẩn. Gà thì chạy lung tung, không xe, không điện thoại, không nghề nghiệp. Chẳng có gì cả trừ một mái nhà, và đó cũng không phải là một cái mái tốt. Cháu gái của bá cụ khoảng 10 tuổi, đi chân đất và mặc váy vá.

    Tôi giải thích cho bà cụ rằng chúng tôi rất buồn vì không giúp được bà cụ. Nhưng dường như những gì tôi giải thích chẳng có hiệu quả. Cứ 6 tuần một lần, chúng tôi lại nhận được một cái bưu thiếp y như nhau : Cần có một cái đàn piano màu gụ đỏ, và thề thốt rằng bà sẽ trả 10 đôla/tháng. Khoảng hai năm sau, tôi mở được một công ty giao bán piano của riêng mình, và đôi khi tôi đăng quảng cáo trên báo địa phương Missouri. Tôi bắt đầu nhận được những bưu thiếp như từng nhận ở công ty cũ. Trong hàng tháng trời, tôi cũng lờ những tờ bưu thiếp đó đi, vì tôi biết làm gì cơ chứ?

    Nhưng rồi, một hôm ở công ty tôi có nhập vể một số đàn piano kiểu mới, trong đó có một chiếc đàn màu gụ đỏ. Dù biết mình có thể gây thua thiệt cho công ty, tôi vẫn quyết định đưa chiếc đàn lên xe ô tô chở tới nhà bà cụ và nói rằng nếu bà trả 10đôla/ tháng thì bà sẽ phải trả 52 lần. Tôi đặt piano vào nơi ít có khả năng bị dột nhất. Tôi cũng dặn bà và cháu bé giữ cho bọn gà đừng nhảy lên đàn piano. Rồi tôi lên xe về công ty đinh ninh rằng thế là coi như mình đã cho không một cây đàn.

    Nhưng cứ 10 đôla được gửi đến cho tôi rất đều đặn mỗi tháng. Cả 52 tháng. Đôi khi không chỉ là tiền giấy mà là những đồng xu được dùng băng dính đính vào bưu thiếp.

    Nhận đủ tiền tôi không có liên lạc gì với bà cụ nữa trong suốt 20 năm.

    Cho đến một ngày khi đi công tác ở Memphis, tôi ghé vào một nhà hàng để dùng bữa. Ở đó, tôi được nghe thấy tiếng đàn piano hay nhất mà tôi từng được nghe. Và do một cô gái rất xinh đẹp đang chơi.

    Tôi lại gần cô ấy và đứng nghe nhạc. Khi chơi xong bản nhạc, chúng tôi nói chuyện với nhau, và thật như một điều kì diệu, đó chính là cô bé mặc váy vá trong căn lều nhỏ 20 năm trước.

    Cô gái kể từ khi được bà đã đặt mua cho chiếc đàn piano màu gụ đỏ, cô đã giành được nhiều giải thưởng âm nhạc ở trường và địa phương. Bây giờ cô đã có gia đình còn bà cô đã mất.

    Tôi hỏi cô có biết chiếc đàn piano màu gụ đỏ có ý nghĩa như thế nào không. Cô gái nói hồi đó cô còn quá nhỏ, chỉ biết có một chiếc đàn mà không hiểu gì nhiều. Nhưng tôi thì hiểu.

    Cuối cùng, tôi bảo cô:

- Tôi rất mừng được gặp lại cô, còn bây giờ tôi phải đi về.

    Và tôi thực sự phải đi về, vì bạn biết đấy, đàn ông không bao giờ muốn bị nhìn thấy mình khóc ở nơi công cộng.

Chiếc máy điện thoại

Khi tôi còn nhỏ, ba đã gắn một máy điện thoại để tiện việc làm ăn của ông. Đó là cái điện thoại đầu tiên trong xóm tôi.

Đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in cái ống nghe bóng loáng gác lên hộp điện thoại màu đen treo trên tường.

Hồi đó tôi còn thấp lắm nên không với tới. Tuy nhiên tôi vẫn bị mê hoặc khi ba tôi dùng nó nói chuyện với bạn bè của ông.

Cho đến một hôm, tôi khám phá ra rằng ở đâu đó trong cái máy tuyệt vời kia có một nhân vật kỳ diệu. Tôi gọi nhân vật ấy là "cô" . Cô biết tất cả mọi thứ trên đời, từ việc cung cấp số điện thoại của mọi người đến việc kể những câu chuyện cổ tích đầy sức cám dỗ. Hôm đó, mẹ tôi đi vắng. Tôi lấy đinh và búa để chơi trò thợ mộc. Thay vì đóng búa vào đinh, tôi lại đập vào ngón tay mình một phát đau điếng.Nhưng tôi vẫn cố không khóc vì nhìn quanh chẳng có ai để chia sẽ nỗi đau "trời giáng" ấy. Tôi chạy quanh nhà cũng chẳng biết để làm gì. Và kia rồi ! Cái điện thoại. Nhanh như cắt, tôi bắt ghế trèo lên và quay số. "Xin vui lòng cho cháu biết ... " - tôi nói lí nhí trong miệng. Một giọng nói rõ ràng và nhỏ nhẹ vang lên :

- Cháu cần gì?

- Ngón tay cháu bị đau - tôi bắt đầu rên rỉ. Những giọt nước mắt bị dồn nén khi nãy bây giờ mới có dịp trào tuôn

- Có mẹ cháu ở nhà không? - vẫn giọng nói êm đềm ấy.

- Không có ai ở nhà cả, chỉ một mình cháu thôi - tôi thổn thức.

- Cháu có bị chảy máu không?

- Dạ không - tôi trả lời- cháu bị cây búa đập vào ngón tay, đau quá.

- Cháu có thể tự lấy nước đá trong tủ lạnh được chứ? - cô hỏi và tôi nói được.

-Cháu đắp vài cục lên chỗ ngón tay đau - cô nói tiếp - một lúc sau sẽ khỏi ngay thôi.

Kể từ đó, tôi luôn gọi cô để nhờ cô giúp đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Nào là cô giúp tôi học địa lý, nào là hỏi cô cách giải bài tập toán, nào là ...

Một hôm, con chim hoàng yến của tôi bị chết, tôi buồn đến mất ăn mất ngủ. Tôi bèn gọi tới cô để chia sẽ nỗi buồn. Cô lắng nghe và an ủi tôi. Nhưng tôi vẫn buồn lung lắm. Tôi hỏi cô :

- Tại sao những con chim hót hay và mang lại niềm vui cho mọi gia đình lại phải chết cô đơn trong chiếc lồng chật hẹp vậy hở cô?

- Không, nó không chết đâu cháu. Nó chỉ bay sang một thế giới khác để ca hát làm vui lòng những gia đình bên đó.

Chẳng biết sao khi nghe thế, nỗi buồn trong tôi chợt vơi đi rất nhiều.

Một bữa khác, tôi gọi cho cô chỉ để hỏi 24 + 15 bằng mấy. Sau đó tôi nghĩ chắc cô bực mình tôi lắm vì cứ hỏi cô những chuyện không đâu.

Tuổi thơ tôi cứ êm đềm trôi đi. Cho đến khi lên chín tuổi, gia đình tôi chuyển về sống ở thành phố. Tôi nhớ cô lắm. Mỗi lần nhớ về ngôi nhà thuở nhỏ là hình ảnh cái máy điện thoại treo trên tường cứ hiện lên trong tâm trí tôi. Với tôi, đó là hình ảnh cô tiên hiền lành thường đến trò chuyện buổi ấu thơ. Sau này khi lớn lên, kỷ niệm về những cuộc chuyện trò ấy chưa một lần phai mờ trong ký ức. Tôi biết ơn sự nhẫn nại, niềm thông cảm và lòng tử tế mà cô đã dành cho một đứa trẻ như tôi thuở đó. Một hôm chợt nhớ đến cô, trên đường về nhà tôi ghé vào bưu điện và gọi cho cô. Tôi nhấc ống nghe lên và quay số. Lòng tôi bỗng rộn ràng khó tả. Và kỳ diệu thay, vẫn giọng nói ấy, nhỏ nhẹ và rõ ràng vang lên trong tai tôi.

- Cô vui lòng chỉ cho cháu 24 + 15 bằng mấy? - tôi hỏi.

Một thoáng im lặng phía đầu dây bên kia. Và rồi hơi ấm quen thuộc lại về với tôi:

- Bây giờ chắc ngón tay của cháu đã lành hẳn rồi phải không? Tôi cười sung sướng vì cô vẫn nhận ra tôi sau ngần ấy năm.

- Cô có biết rằng hồi đó cô có ý nghĩa với cháu biết bao không?

Ngập ngừng một lúc, cô thổ lộ:

- Thuở đó, tôi chờ điện thoại của cháu hằng ngày. Tôi không có con, vì thế cháu là cả nguồn vui.

Bỗng nhiên tôi bật khóc. Tôi thương cô quá.Tôi đâu có biết đó là lần cuối cùng tôi còn được nghe giọng nói của cô.

Ba tháng sau, tôi quay số và chờ đợi. Một giọng nói thật lạ trả lời tôi. Hốt nhiên, tôi linh cảm có điều chẳng lành. Tôi hỏi thăm tin tức về cô và được biết cô đã mất năm tuần trước đó. Người điện thoại viên nói trước khi ra đi cô có để lại cho tôi vài dòng tin nhắn. Rồi cô điện thoại viên đọc cho tôi nghe: "Cháu yêu, có lần tôi nói chim hoàng yến không chết. Nó chỉ bay sang một thế giới khác để ca hát làm vui lòng những gia đình bên đó. Bây giờ tôi cũng vậy".

Tôi bàng hoàng gác máy điện thoại xuống. Và như thuở nào, những giọt nước mắt cứ trào tuôn. Chỉ khác là lần này tôi không có cô bên cạnh để sẽ chia.

Chướng ngại vật

    Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem dân chúng ra sao, liền ăn mặc trang phục thường dân đi thật xa ra ngoài cung thành. Ông đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng ra sao với những chướng ngại vật mà họ bất ngờ gặp trên đường. Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó, làm người quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc rất diện đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vật đáng ghét, thậm chí còn xúc phạm đức vua đã không cho người giữ đường sá sạch sẽ. Nhưng rõ ràng ai cũng bỏ tảng đá ở đó. Họ thà đi vòng qua nó chứ không chịu đẩy nó ra khỏi đường đi.

    Rồi một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đẩy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là lăng xăng cơm nhà vác tù và hàng tổng. Không ai dừng lại giúp đỡ bác. Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi thì thấy có rất nhiều tiền vàng và một mảnh giấy ghi rằng số tiền đó dành cho người đẩy tảng đá khỏi đường đi.

    Bác nông dân xứng đáng có được túi tiền, vì bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Mỗi chướng ngại vật đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

Con bò vô chủ

    Theodore Roosevelt (1858-1919) là tổng thống của Mỹ trong những năm 1901-1909. Năm 1884, Theodore Roosevelt đồng thời phải chịu hai mất mát to lớn: mẹ và người vợ đầu của ông, bà Alice Lee Roosevelt, qua đời cùng một ngày. Nỗi khổ đau này giằng xé Theodore Roosevelt suốt hai năm sau đó. Ông ở lì trong nông trại Badlands nằm trong vùng Dakota. Thời gian này ông làm nghề chăn bò, kiêm nghề săn đuổi những kẻ ngoài vòng pháp luật bị truy nã. Chính trong thời gian này đã xuất hiện giai thoại sau:

    Bữa nọ, Theodore Roosevelt cùng một anh chàng chăn bò mà ông thuê cưỡi ngựa đi cùng, bắt gặp một chú bò đực non vô chủ. Hai người lập tức ra roi phóng ngựa rượt bắt. Sau một hồi quần thảo, họ quăng được dây tròng cổ chú bò bướng bỉnh. Theodore Roosevelt cùng anh chàng chăn bò cột con bò đực lại. Họ đốt một đống lửa chuẩn bị đóng dấu cho con bò. Mãi tới lúc này, Theodore Roosevelt mới chợt nhớ ra rằng do mải rượt bò, ông không biết hiện ông đang ở đâu.

    Ông vội lên ngựa thám thính một vòng và phát hiện phần đất mà ông bắt được con bò thuộc về trang trại của nhà hàng xóm, ngài Gregor Lang. Theo luật bất thành văn giữa các chủ trại, con bò đực non chưa đóng dấu kia phải thuộc về ông ta.

    “Khoan đã, ngươi biết vùng đất này của ai không?”, Theodore Roosevelt nói khi thấy chàng chăn bò đang vùi chiếc dấu sắt vào đống than đỏ rực. “Ông khỏi cần hỏi. Chúng ta ra khỏi vùng đất của ông lâu rồi. Chỗ này đất của nhà Gregor Lang”, người chăn bò nhanh nhẩu đáp.

    “Vậy theo luật con bò hoang này phải thuộc về ông ta”, Roosevelt nói. “Đúng thế, thưa ông”.

    “Nhưng con dấu mà ngươi định đóng lên con bò là của ta kia mà”. “Người bắt được bò là ông”, người chăn bò đáp.

    “Nhưng theo luật, con bò vô chủ trên đất của Gregor Lang vậy thì nó phải thuộc về ông ta. Chúng ta bắt con bò đó, chuyện này khác gì ăn trộm?”. “Ngài khéo lo. Ở đây chỉ có tôi với ngài biết chuyện. Vả lại, ngài lấy gì làm chắc là Gregor Lang không bắt bò hoang trên đất của ngài. Hơn nữa, việc tôi đóng dấu con bò cho ngài chỉ lợi cho ngài thôi chứ có được gì đâu”, gã chăn bò cười hềnh hệch. “Thôi, quăng con dấu ấy đi. Thả con bò ra. Chúng ta về nhà thôi”, Theodore Roosevelt ra lệnh.

    Về tới trang trại, ông kêu gã chăn bò vào phòng khách và bảo: “Tôi cho anh nghỉ việc. Đây là lương của anh”. “Tại sao, thưa ngài?”, gã chăn bò ngạc nhiên. “Ta không cần kẻ ăn cắp. Kẻ nào ăn cắp cho ta sẽ có ngày ăn cắp của ta”, vị tổng thống tương lai thứ 26 của Mỹ đáp.

Đi tìm hạnh phúc

    Bạn nhút nhát, bạn ngại giao tiếp với đám đông vì cho rằng mình không bằng mọi người. Bạn không xinh đẹp, không trắng trẻo như một số cô gái khác. Bạn cho rằng mình sinh ra dưới một ngôi sao xấu, rồi bạn tự thu mình vào trong cái vỏ ốc của sự cộc cằn, ích kỷ.

    Bạn buồn vì gia đình nghèo. Bạn thấy xấu hổ khi bạn bè trong lớp được đưa đón bằng các loại xe đời mới; còn bạn phải tự đến trường trên chiếc xe đạp cọt kẹt, cũ mèm. Rồi bạn chán nản, đâm ra thù ghét mọi người.

    Bạn cho rằng mình là người bất hạnh nhất trần gian vì bị cha bỏ rơi để bạn và mẹ bạn bị mọi người chê cười. Bạn hận với bản thân, với gia đình. Rồi bạn đổ lỗi, căm giận người cha và chê trách người mẹ đã sinh ra bạn.

    Một đêm nọ, bạn ra bờ sông, bạn muốn giảI thoát khỏi sự xấu hổ và nhấn chìm ngôi sao định mệnh của bạn xuống dòng sông lạnh. Nhưng chợt bạn nhận thấy có một “ngôi sao” với ánh sáng yếu ớt đang ngồi trên băng đá cạnh bạn. Ngôi sao ấy cũng đen đúa, xấu xí; ngôi sao ấy không được đến trường mà phải bươn chải kiếm sống bằng từng tờ vé số; ngôi sao ấy đang mơ ước có được đôi tay ấm áp của mẹ… Và bạn nhìn lại ngôi sao của bạn, nó vẫn tỏa sáng, một ánh sáng hiền hòa. Rồi bạn thấy hạnh phúc vì ngôi sao bạn còn may mắn hơn ngôi sao ấy, bạn còn được mặc áo dài đi học, được nuôi nấng trong vòng tay yêu thương của mẹ…

    Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta phải biết nhìn xuống để thông cảm, sẻ chia cùng mọi người và tìm nguồn vui, hạnh phúc cho bản thân. Không nên lúc nào cũng nhìn lên để rồi tự ti, oán ghét cuộc đời và thù hằn số phận.

Giá trị của nghịch cảnh

Những nông dân miền Nam Alabama đã quen trồng chỉ mỗi một thứ là cây bông (dùng để xe chỉ và dệt vải)

Một năm kia, những con sâu bọ đáng sợ đã tàn phá cả vùng. Năm sau, những người nông dân đem nhà cửa của họ đi cầm cố để có tiền và lại tiếp tục trồng cây bông, hi vọng vào một kỳ gặt hái tốt đẹp. Thế nhưng khi những cây bông bắt đầu mọc, những con sâu bọ đó lại đến và phá sạch hầu hết các cánh đồng.

Một số ít những người "sống sót" qua hai năm đó quyết định trồng thử một loại cây mà trước đây họ chưa bao giờ trồng - cây đậu phộng. Và kết quả là đậu phộng của họ đã nhanh chóng được thị trường ưa chuộng, đến nỗi lợi tức của năm đó đủ để họ trả nợ của hai năm trước đó. Kể từ đo họ trồng đậu phộng rất phát đạt.

Và rồi bạn biết những người nông dân đó đã làm gì không? Họ trích một phần trong tài sản to lớn của mình để dựng một đài kỷ niệm ngay giữa trung tâm thành phố để ghi công "những con sâu bọ". Bởi nếu không vì những con sâu đó, họ sẽ không bao giờ khám phá ra đậu phộng. Họ sẽ mãi mãi chỉ đủ ăn với nghề trồng cây bông từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Chúng ta thường than oán mỗi khi rơi vào nghịch cảnh. Thế nhưng nghịch cảnh đều có giá trị của nó. Và nếu chúng ta không bỏ cuộc, không đầu hàng, ngược lại nếu chúng ta coi đó như là những cơ hội để phấn đấu vươn lên, chắc chắn chúng ta sẽ khám phá được những giá trị quí báu.

Huyền thoại về những người mẹ

    Thuở trước, sau khi tạo ra các chàng Adam, Thượng đế đã lấy các xương sườn của họ để tạo ra những người phụ nữ là Eva. Từ đó Adam và Eva sống chung với nhau trong một ngôi nhà. Hằng ngày Adam đi làm. Eva ở nhà, dạo chơi và tán chuyện. Cuộc sống cứ thế trôi qua, các nàng Eva cảm thấy buồn tẻ vì họ không biết làm gì cho hết thời gian rảnh rỗi.

    Một hôm họ kéo đến gặp Thượng đế, xin người giúp cho cuộc sống của họ bớt tẻ nhạt. Thượng đế suy nghĩ rồi nói: “Ta sẽ cho các con những đứa con. Song muốn có con thì các con phải chấp nhận đánh đổi nhiều thứ: sắc đẹp, sức khỏe, thời gian và cả sự đau đớn nữa. Các con có chấp nhận không?”. Eva hỏi lại: “Thế thì chúng con được gì từ cái mà Ngài gọi là những đứa con ấy?”. Thượng đế trả lời: “Hạnh phúc! Hạnh phúc được làm mẹ! Đó là điều mà không ai có được nếu không phải là người mẹ!”.

    Eva gật đầu chấp nhận. Để có những đứa con, món quà quý giá mà Thượng đế ban tặng, họ phải chịu dị dạng, xấu xí, vất vả vì mang vác nặng và rất đau đớn khi những đứa trẻ ra đời. Song, đúng như Thượng đế nói, các bà mẹ rất hạnh phúc. Từ đấy, con người bắt đầu sinh sôi nảy nở…

    Một năm nọ có ba bà mẹ nhà ở cạnh nhau cùng sinh con trai. Họ cảm ơn Thượng đế và cầu xin Ngài ban cho con họ những điều tốt đẹp nhất.

    Bà mẹ thứ nhất xin cho con mình được toại nguyện tất cả những điều gì nó mong muốn. Thượng đế gật đầu: “Ta chấp nhận!”. Bà mẹ thứ hai xin ban cho con trí tuệ. Thượng đế mỉm cười: “Điều đó không khó!”. Còn bà mẹ thứ ba ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi.

    Thượng đế hỏi: “Còn con, con muốn điều gì tốt đẹp cho đứa con yêu quý của con?”. Bà ngập ngừng: “Con muốn con của con trở thành bất tử. Không biết điều ấy có khó quá không?”. Thượng đế nghĩ ngợi giây lát rồi gật đầu: “Được, ta sẽ cố gắng!”.

    Thời gian trôi qua. Con trai của các bà mẹ dần dần khôn lớn. Bà mẹ thứ nhất rất giàu có. Đứa con trai được cưng chiều từ nhỏ, muốn gì được nấy, càng lớn càng lười biếng và hư hỏng. Cậu bỏ học đàn đúm với một số kẻ xấu. Một ngày nọ, người mẹ đau đớn phát hiện xác con trai trong buồng riêng. Bác sĩ nói cậu ta đã dùng ma túy quá liều.

    Con trai của bà mẹ thứ hai rất thông minh, học giỏi và trở thành một doanh nhân giàu có. Một năm sau, cậu ra nước ngoài làm ăn rồi lấy vợ, ở luôn bên ấy, không trở về.

    Bà mẹ thứ ba, do chồng chết, nên bà phải một mình bươn chải nuôi con. Bù lại con trai bà rất có hiếu, hết lòng yêu quý, giúp đỡ mẹ. Khi đất nước có chiến tranh, chàng xin mẹ đầu quân. Bà mẹ không muốn xa con. Nhưng bà chợt nhớ lời hứa năm xưa của Thượng đế nên đành chấp nhận. Song, ngày chiến thắng đã qua mà con trai bà không trở về. Đồng đội báo tin anh đã nằm lại đâu đó trên chiến trường.

    Bà mẹ đến gặp Thượng đế kêu khóc: “Tại sao Ngài chấp nhận lời cầu xin của con mà con trai con vẫn bị chết?”.

    Thượng đế dịu dàng trả lời: “Con trai của con đã trở thành bất tử. Linh hồn nó đã hòa vào cỏ cây, sông núi quê hương. Con trai con luôn ở bên cạnh con, phù hộ, giúp đỡ con…”.

    Bà mẹ gật đầu, mắt long lanh: “Phải! Người nói đúng! Con luôn cảm thấy được sự hiện diện của con trai con. Xin cảm ơn người vì điều con mong ước đã trở thành hiện thực!”.

    Thượng đế lắc đầu: “Con không phải cảm ơn ta. Con trai con và cả những ai hy sinh cho Tổ quốc đều sẽ trở thành bất tử!”.

Khát vọng

    Tôi có một người bạn tên Monty Robert hiện là chủ nhân một trại nuôi ngựa ở SanYsidro. Anh đã cho phép tôi dùng nhà cửa anh để tổ chức những buổi gây quỹ nhằm tài trợ các dự án đầu tư có tính rủi ro cao do thanh niên thực hiện.

    Một hôm, anh đến ngồi cạnh tôi và nói:

    - Tôi muốn kể cho bạn biết tại sao tôi để bạn sử dụng nhà của tôi để làm nơi tổ chức gây quỹ. Chuyện xảy ra cách đây nhiều năm. Có một cậu bé sống cùng với cha của mình, một người làm nghề huấn luyện ngựa. Do công việc người cha phải sống như một kẻ du mục. Ông đi từ trang trại này đến trang trại khác để huấn luyện các chú ngựa chưa được thuần hóa. Kết quả là việc học hành của cậu bé không được ổn định lắm. Một hôm, thầy giáo bảo cậu bé về viết một bài luận văn với đề tài: "Lớn lên em muốn làm nghề gì?"

    Đêm đó cậu bé đã viết bảy trang giấy mô tả khát vọng ngày nào đó sẽ làm chủ một trại nuôi ngựa. Em diễn đạt ước mơ của mình thật chi tiết. Thậm chí em còn vẽ cả sơ đồ trại nuôi ngựa tương lai với diện tích khoảng 200 mẫu, trong đó em chỉ rõ chỗ nào xây nhà, chỗ nào đặt chuồng trại và chỗ nào làm đường chạy cho ngựa.

    Viết xong, cậu bé đem bài nộp thầy giáo. Vài ngày sau cậu bé nhận lại bài làm của mình với điểm 1 to tướng và một dòng bút phê đỏ chói của thầy: "Đến gặp tôi sau giờ học"!

    Thế là cuối giờ cậu bé đến gặp thầy và nói:

    - Thưa thầy tại sao em bị điểm 1?

    - Em đã hoạch định một việc mà em không thể làm được. Ước mơ của em không có cơ sở thực tế. Em không có tiền lại xuất thân từ một gia đình không có chỗ ở ổn định. Nói chung, em không có một nguồn lực khả dĩ nào để thực hiện những dự tính của mình. Em có biết để làm chủ một trại nuôi ngựa thì cần phải có rất nhiều tiền không? Bây giờ tôi cho em về làm lại bài văn. Nếu em sửa chữa cho nó thực tế hơn thì tôi sẽ cứu xét đến điểm sổ của em. Rõ chưa?

    Hôm đó cậu bé vế nhà và nghĩ ngợi mãi. Cuối cùng cậu gặp cha để hói ý kiến.

    - Con yêu, chính con phải quyết định vì ba nghĩ đây là ước mơ của con.

    Nghe cha đáp, cậu bé liền nhoẻn miệng cười và sau đó đến gặp thầy giáo của mình:

    - Thưa thầy thầy có thể giữ điểm 1 của thầy còn em xin được giữ ước mơ của mình.

    Kể đến đây, Monty dừng lại và hỏi tôi:

    - Bạn cố biết bạn đang ngồi trong một trại ngựa rộng 200 mẫu của cậu bé trong câu chuyện mà tôi vừa kể không? Cách đây hai năm vị thầy giáo đó đã tình cờ dẫn 30 đứa học trò của mình đến đây để cắm trại. Thế là thầy trò tôi nhận ra nhau. Cầm tay tôi, thầy nói: "Monty này, khi anh còn học với tôi tôi đã đánh cắp ước mơ của anh và suốt bao nhiêu nặm qua tôi cũng đã làm thế với bao đứa trẻ khác. Tôi rất ân hận vế điều đó". Nghe thầy nói thế, tôi vội đáp: "Không, thưa thầy, thầy không có lỗi gì cẳ, chẳng qua thầy chỉ muốn những gì tốt đẹp sẽ đến với học trò mình mà thôi. Còn em chỉ muốn theo đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình.

Làm chủ thế giới

Liz Alarie

Dần dần tôi đã hiểu người ta đang nói gì. Thay vì tống khứ được căn bệnh quái ác như mong ước, và được bảo phải uống hàng loạt các loại thuốc, tôi được cho biết là mình bị bệnh bạch cầu. Hôm đó là ngày 27-6-1997. Thời tiết thật dễ chịu, tôi rất bình tĩnh. Từ một bệnh viện nhỏ ở Kitcher, mẹ và tôi đã đi thẳng tới London, bắt đầu cái địa ngục cá nhân của tôi ở đây.

Khi mẹ, ba và tôi ngồi nghe sững sờ cái điều mà chúng tôi mong chờ được giải thích đơn giản và tử tế. Thông tin này được lặp đi lặp lại sau đó. Bạn vừa phải chịu cú sốc, vừa phải chấp nhận nhiều thay đổi lớn. Tuy nhiên tôi đã quyết định ngay: trường hợp của mình phải khác đi.Tôi không được để mất mái tóc của mình, không được tự hào vì đã được tiêm steroid, không được để miệng mình đau, hóa trị sẽ không quá khó đối với tôi như đối với các người khác. Tôi đã lầm.

Những ngày sau đó là những ngày khó khăn nhất mà tôi phải đương đầu trong đời. Trước lúc đó tôi chưa gặp rắc rối nào. Trước đó tôi có thể gạt bỏ tất cả những gì không ổn trong một vài ngày, chưa bao giờ phải đối đầu với những hậu quả nghiêm trọng, có thể làm thay đổi cuộc sống của mình. Nhưng bệnh bạch cầu thật là ghê gớm, tôi phải sống với nó trong một thời gian không xác định là bao nhiêu. Tôi quyết định đượng đầu với trở ngại tạm thời này, bằng thiện chí, sự chín chắn và hiểu có bao nhiêu người đang giúp đỡ, tôi phải biết ơn họ thật nhiều.

Trong lúc đó ở nhà, mọi người cũng nghe được tin xấu. Tôi bắt đầu nhận được nhiều thiệp và quà. Biết rằng những thứ này để giải khuây nhưng chúng lại làm tôi buồn. Tôi chẳng muốn mình là trung tâm chú ý không đáng, chẳng muốn mọi người biết tôi bị bệnh. Tôi muốn đi trị bệng bằng hóa trị, về nhà, sung sướng và không ai biết. Nhưng quà và thư tới tấp, mỗi thứ gửi đến lại thêm một lần nhắc nhở về nhiệm vụ khó khăn trước mắt tôi.

Khi đến lúc bệnh phát ra, tôi cắt ngắn đi mái tóc quăn đen, dài ngang vai.Tôi đã quá yếu sức do căn bệnh bạch cầu và do hóa trị quá nặng đô. Tuần sau đó tóc tôi rụng hết. Thời gian đầu tôi luôn đội tóc giả hay đội nón vì quá xấu hổ. Cuối cùng tôi chẳng còn bận tâm việc cha mẹ hay ý tá thấy tôi không còn tóc trên đầu. Một thời gian sau tôi mới chọn ra được một nhóm bạn tốt. Tôi đã giữ liên lạc với 2 trong các đứa bạn tốt nhất. Tôi chẳng có đủ năng lực hay sức mạnh, để mắt thấy tai nghe cam đoan chắc vào tình bạn.

Cả tháng 7, tôi ở trong bệnh viên, đợi lưu lựong máu ổn định lại để có thể về nhà. Tôi vẽ nhiều bức họa káhm phá ra việc vẽ tranh có thể nâng đỡ tinh thần, khiến tôi điềm tĩnh, tập trung. Đó là một liệu pháp đáng ngạc nhiên. Đầu tháng 8 tôi về nhà một tuần. Tôi cần sự nghỉ ngơi. Tôi cần tránh nắng, tôi chẳng còn nhiều sức chống chịu như thường lệ, phải đội tóc giả, nhưng hơn hết đó là thời gian tôi cảm thấy mình trở lại bình thường nhất.

Những đợt hoá trị sau đáng sợ hơn bao giờ hết. Tôi chẳng biết là người ta dành sẵn cho mình cái gì. Mãi cho đến lúc đó, tôi trải qua các đợt hoá tri mà mình hết sức tin tưởng. Cuối tháng 8 tôi lại trở vào bệnh viện. Đây là lần tôi chịu đau đớn nhất. Tôi không được uống thuốc giảm đau vì bác sĩ cần biết cơn đau trong người tôi có thay đổi chút nào không? hàng loạt câu hỏi có vẻ không quan trọng nhưng thực tế lại đầy ý nghĩa, liên tục tấn công tôi. Người ta đặt một ống dưới mũi tôi để lấy nước từ trong dạ dày ra. Tháng sau tôi chịu những cơn đau trong dạ dày và buồn nôn kinh khủng. Tôi về nhà, cảm thấy khỏe hơn. Việc cấy ghép tủy xương đã được lên lịch vào tháng 10, sớm hơn mong đợi. Tôi đi mua sắm, có bạn đến chơi, và thật vui vẻ. Đó là một kì nghỉ thật xứng đáng.

Rất may là tôi có 2 người đến hiến tủy cho lựa.Tủy của cả anh trai lẫn chị gái đều rất hợp với tôi. Các bác sĩ đã chọn tũy của anh tôi. Chúng tôi đến trung tâm cấp ghép tuy xương ở Toronto đầy tin tưởng và hi vọng rằng, việc này rồi cũng kết thúc. Vòng tua của hóa trị đủ mạnh để giết chết tôi nếu tôi không có tủy xương của anh trai tôi hỗ trợ. Cơ thể tôi đã phản ứng káh tốt với tủy của anh trai. Tôi đã bình phục trong tời gian cách li, ngoại trừ cơn buồn nôn không baogiờ rời bỏ tôi. Mọi thứ tôi ăn đều ói ra hết.Tôi về nhà, định bụng phải ăn uống thật nhiều, hay ít nhất phải uống 1.5l nước/ ngày. Điều này cực kì khó khăn.

Một vài ngày sau, tôi trở lại bệnh viên để làm thủy hợp, điều tri bệnh zona. Cơn buồn nôn vẫn không hết. Tôi đâm giận chính mình, vì đã khiế mọi người thất vọng. Mọi người đều chứa chan mong đợi sau khi tôi được cấp ghép tuỷ, nhưng tôi lại không đáp ứng được điều đó. Dù có cố gắng thế nào, tôi cũng không thể làm mình ăn uống được. Thêm vào đó tôi có thể uống một số lượng lớn thuốc, chỉ làm tôi thêm bệnh mà thôi.

Dù những cơn buồn nôn vẫn tiếp diễn, tôi lại về nhà. Đó là sự tra tấn. Tôi bị bệnh viêm phổi và viêm xoang. chẳng biết sao mọi việc lại có thể tệ hơn...Sau khi chụp CT và đến phòng mạch hàng ngày, tôi thấy mình đã mắclại căn bệnh. Những đợt hóa trị và cấp ghép tủy xương tỏ ra vô hiệu. Bệnh bạch cầu trở lại. Tất cả những cái tôi đã thử đều không mang lại lợi ích gì. Cái tin xấu này còn khó khăn gấp 10 cái tin xấu đầu tiên. Tôi đã trải qua tất cả, chịu d8ựng các kết quả, và sống qua những thử thách và sự sầu não.

Khi một bệnh nhân tái bệnh bạch cầu nghiêm trọng, cơ may để chữa được nó bằng các cơ may đềiu trị thông thường là khoảng 20%. Con số này ko bao giờ rời khỏi tâm trí tôi. Tuy nhiên tôi biết rằng mình được điều trị bằng những phương pháp mới nhất. Tôi là bệnh nhân trẻm em thứ 8 được thử cách điều trị mới ở bệnh viện Sick Kids và cho đến giờ cách điều trị này khá hữu hiệu với người lớn. Vì thế tôi đã tự nhủ mọi việc sẽ ổn, và bắt đầu một chương trình điều trị mới mà ba tôi đã nghe lời tôi.

Loại thuốc mà ba tôi nghe nói hãy còn đang được thử nghiệm, được tiêm vào các cụ u bạch huyết. Trong vòng 3 tháng, ngày nào tôi cũng phải tiêm thuốc. Cáhc điều trị này chấn dứt tùy thuộc vào tôi. Như thể tôi đã trút được gánh nạng ra khỏi vai mình, khi cuối cùng tôi đủ tự tin để chấm dứt nó.

Việc điều trị ở bệnh viện hoàn toàn khác hẳn. Tôi pải chịu đựng một đợt hóa trị, tiếp theo đó lạ imột đợt bơm tế bào bạch cầu của anh trai tôi, hi vọng chúng sẽ xác định được bệnh bạch cầu của tôi là "thứ tệ hại" đến từ bên ngoài và diệt nó đi. Lần hó trị đầu tiên và bệnh bạch cầu đã tỏ ra không tương xứng với cơ thể tôi. Khi bác sĩ kiển tra việc cấy ghép tủy xương, tôi vẫn con dấu hiệu của bệnh bạch cầu. Lại một lần nữa, tôi phải hóa trị, biết rằng lần này không có kết quả mình sẽ chết chắc. Người ta lại tiêm cho tôi một đợt tế bào máu còn lại, lần này rất nhiều. Tế bào máu của anh trai tương đồng với tôi, chưa tấ cọng đủ mạnh tế bào của tôi nên với lần tiêm thứ hai và cuối cùng, người ta đã tiêm cho tôi toàn bộ.

Tôi có thể tự hào mình không òn dấu hiệu của bệnh bạch cầu nữa.

Từ từ, ngày qua ngày tôi đã tới mùa hè, lấy lại sức mạnh, tự nhắc mình rằng, con người mới đáng quí và mỏng manh biết mấy. Đó là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn với những bài học bổ ích trong suốt mười tháng ròng rã. Tôi đã học sống can đảm. Tôi học cách sống mạnh mẽ. Và điều quan trọnghơn hết, tôi đã học được sự nhẫn nại.

Lòng nhân ái thật sự

Theo Generosity from the heart

Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó.Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn. Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi. Bào báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.

Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuối. Tôi bảo chúng: “Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có". Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói… Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói với con: "Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh”.

Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất. Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: "Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà".

Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: "Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia”.

Tôi nhìn sững con, chợt nhận ra rằng bất cứ ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất…

Mình biết cậu sẽ tới

    Trong Thế chiến thứ nhất, nỗi kinh hoàng đã bóp nghẹt trái tim người lính khi anh chứng kiến cảnh người đồng đội chí thiết của mình ngã xuống trong trận đánh. Lúc đó, anh đang nằm trong chiến hào và những viên đạn vẫn bay lướt qua đầu. Anh hỏi viên trung úy liệu rằng anh có thể ra khu vực phi quân sự giữa những chiến hào để mang bạn anh về không?

    - Anh có thể đi- viên trung úy nói, nhưng tôi nghĩ rằng không đáng phải làm như thế. Bạn anh có lẽ đã chết, còn anh thì phí phạm mạng sống của mình.

    Những lời nói ấy không gây tác động gì với người lính và anh bắt đầu bò đi.

    Thật kỳ diệu, anh đã đến được chỗ người bạn, vác anh ta lên vai và quay về chiến hào. Khi hai người cùng ngã lăn xuống đáy hào, người chỉ huy xem xét cho anh lính bị thương rồi dịu dàng nhìn sang người bạn: "Tôi đã nói là không đáng rồi mà. Bạn anh đã chết, còn anh thì bị thương nặng".

    - Mặc dù vậy, tôi vẫn thấy rất xứng đáng, thưa ông- người lính nói.

    - Anh nói "đáng" nghĩa là sao?- trung úy hỏi- bây giờ bạn anh chết rồi mà.

    Người lính lặng lẽ trả lời:

    - Đúng thế, thưa ông. Nhưng đó vẫn là một chuyện đáng làm vì khi tôi đến bên cạnh bạn tôi, anh ấy vẫn còn sống. Anh ấy nói với tôi: "Jim, mình biết là cậu sẽ tới". Đối với tôi, như thế đã là quá đủ rồi.

Món quà của cô tiên

Là một cô gái trẻ thành đạt tôi không quên rộng tay bố thí. Tuy nhiên, hình như tôi làm việc đó theo một quán tính, một việc phải làm vì thấy ai cũng làm. Tôi chỉ cười khẩy khi một người đàn bà lớn tuổi hơn nói với tôi rằng: "Dù cho bạc vạn cũng không phải là làm phước nếu người cho thiếu cái tâm".

Tôi luôn cảm thấy dường như người ta lợi dụng tôi và đâm ra khó chịu vì điều này. Có vẻ như là những người mà tôi bộc lộ lòng tốt của mình đều vượt quá những giới hạn đáng có.

Tôi đã chi nhiều thời gian và tiền bạc cho một vài đứa trẻ thiếu may mắn sống cùng bà ngoại của chúng trong cùng khu phố với tôi. Thế rồi khi ngày lễ Phục sinh một năm nọ gần tới, bà lão gọi điện cho tôi kể lể về một cô bé nào đó cần giúp đỡ. Theo bà ta, tôi nên mua cho cô bé một món quà nhỏ.

Cuộc nói chuyện làm tôi đâm ra bực bội. Lẽ nào tôi cứ phải chạy theo đuôi bà ta và lo sắm sửa cho một người mà tôi không hề biết mặt? Những gì tôi đã làm cho cháu bà ấy còn chưa đủ hay sao? Giờ tôi còn phải cưu mang thêm người nào nữa đây? Cứ làm như lúc nào ví tôi cũng căng phồng toàn những tờ bạc 100 đôla ấy!

Vài ngày sau, nhân ghé qua siêu thị, tôi chợt nhìn thấy một chiếc hộp bìa cứng trong đó đựng hai con búp bê. Một con tóc nâu, con kia tóc màu vàng nhạt, trông xinh xinh vui mắt. Mặc dù trong lòng hơi bực bội nhưng tôi vẫn móc túi lấy ra 15 đôla mua 2 con búp bê. Chả là món hàng quá rẻ. Miệng lầm bầm, tay tôi quẳng chiếc hộp vào xe hàng. Về nhà, tôi lấy giấy gói 2 con búp bê lại và đưa nó cho bà lão ngay trước ngày lễ. Tôi đoán chắc bà lão hoặc sẽ nhín mấy con búp bê lại hoặc giả bà ta có đưa cho cô bé nọ nhưng nói đó là quà của mình. Thời gian qua đi, chuyện về hai con búp bê mờ dần đi trong trí nhớ của tôi.

Một năm rưỡi sau, trong lúc dắt chó đi dạo gần nhà tôi bắt gặp một cô bé chừng 7 tuổi đang chơi trên hè phố. Khi tôi đi ngang qua, cô bé kêu lên: "Cháu đã nhìn thấy con chó này rồi". Nói rồi, nó chạy tới vuốt ve con chó. Chúng tôi bắt chuyện. Tôi ngạc nhiên vì cô bé lạ mặt này biết tên hầu hết bọn trẻ con mà tôi quen quanh đây. Vốn thường nghe bọn trẻ nhắc tới một đứa bạn của chúng tên là Joan, tôi liền hỏi có phải tên cô bé là Joan. Nó trả lời: "Đấy là tên bạn của cháu". Một tia chớp lóe trong đầu tôi. Tôi hỏi cô bé có biết Aron, Nick và Melanie - những đứa cháu của bà lão xin hộ quà năm nọ. Nó gật đầu. Máu tò mò đố kỵ trong tôi nổi lên. Chà! Phen này tôi phải cho bà lão kia một vố!

- Thế năm ngoái cháu có nhận được quà Phục sinh là 2 con búp bê không?, tôi cật vấn con nhỏ.

- Có ạ. Con Lucy tóc vàng còn con Debbie tóc nâu. Giờ này chúng nó đang ngủ, cô ạ, con bé hồn nhiên khoe.

- Thế ai tặng nó cho cháu?, tôi hỏi.

- Bà ngoại của Aron ạ, con bé trả lời, không hề ngờ tới cái bẫy tôi đang giăng ra.

- À ra vậy. Bà lão vơ lấy của người làm của mình, tôi đắc thắng nghĩ thầm.

Để xác nhận lại, tôi hỏi: "Thế bà có nói là ai cho cháu không?". Miệng tôi đắng ngắt khi nghe câu trả lời: "Bà bảo một cô tiên gởi tặng cháu".

Món quà vô giá

    Paul là một trong những học sinh tôi quý nhất, nhưng lại không phải là một trong những học trò giỏi của tôi. Một ngày nọ, Paul bước vào phòng tôi và hỏi:

    "Thưa thầy, câu nói mà thầy ghi trên bảng tin có đúng hay không ạ? Hay thầy viết ra chỉ vì nó nghe có vẻ bóng bẩy".

    "Câu nói nào?", tôi hỏi lại mà không rời mắt khỏi chiếc bàn giấy của mình.

    "Thưa thầy, đó là câu: Nếu chúng ta nhận thức được và tin tưởng vào một điều gì đó, chúng ta sẽ đạt được nó."

    Tôi ngẩng mặt lên nhìn Paul rồi trả lời: "Tác giả của câu danh ngôn này, ông Napoleon Hill, đã viết ra nó sau nhiều năm tìm hiểu cuộc sống của những bậc vĩ nhân và phát hiện ra rằng chính niềm tin vào câu châm ngôn trên là điểm chung của tất cả họ".

    "Ý của thầy là nếu như em có ý tưởng và tin vào nó thì em có thể thực hiện được ý tưởng đó?", Paul hỏi tôi với một xúc cảm mãnh liệt khiến tôi hoàn toàn bị cuốn hút.

    "Theo những gì mà thầy đã chứng kiến và đọc qua thì đó không phải là câu nói suông mà là một qui luật đã được lịch sử kiểm nghiệm".

    Paul đi chậm rãi quanh căn phòng. Đột nhiên em quay lại nhìn tôi với một quyết tâm mà trước đây tôi chưa từng thấy ở em và nói: "Thưa thầy Schaltter, trước đây em luôn là một học sinh kém và em biết là em sẽ phải trả giá cho điều này. Tuy nhiên nếu như em nghĩ mình là một học sinh giỏi và tin vào điều đó thì liệu em có thể trở thành một học sinh giỏi được không?"

    "Tất nhiên là được rồi, Paul. Tuy nhiên em nên biết điều này: nếu như em thật sự tin vào một điều gì đó, em phải nỗ lực hết mình để đạt được nó. Thầy tin là sức mạnh của ý chí sẽ giúp em rất nhiều một khi em có quyết tâm."

    Sau một lúc im lặng, Paul lên tiếng: "Vâng, thưa thầy, đến cuối học kỳ này em sẽ trở thành một học sinh giỏi."

    "Đó là một thử thách thật sự đấy Paul, nhưng thầy tin là em sẽ đạt được điều mà em vừa mới nhận thức ra."

    Những tuần sau đó, Paul đã tự hình thành cho mình một sự ham hiểu biết mãnh liệt khi luôn đưa ra những câu hỏi thông minh và thể hiện một ý thức kỷ luật cao qua cách ăn mặc và tác phong chỉnh tề của mình. Điểm học của em bắt đầu tăng dần lên và lần đầu tiên trong cuộc đời học sinh của mình, bạn bè em đã bắt đầu nhờ em giúp đỡ. Và kèm theo đó Paul cũng dần dần trở thành một học sinh thân thiện và hòa nhã với bạn bè.

    Thế rồi cuối cùng thành công cũng đến với em. Vào một buổi chiều ngày thứ sáu, tôi ngồi vào bàn và bắt đầu chấm điểm cho bài kiểm tra quan trọng về Hiến pháp nước Mỹ của lớp Paul. Tới bài của Paul tôi đã phải đọc kỹ nhiều lần bài làm của em trước khi quyết định cầm cây bút đỏ lên và ghi điểm A cộng vào bài. Đây là một bài làm xuất sắc và cũng là điểm A cộng đầu tiên của Paul. Sau đó tôi tính điểm trung bình của Paul và vui mừng nhận ra rằng em đã đạt được điểm giỏi như mong muốn. Sáng hôm sau, khi tôi vừa bước xuống xe, thì Kathy, một trong những người bạn thân nhất của Paul, nước mắt giàn giụa chạy đến và báo cho tôi biết về thảm kịch vừa mới xảy ra: trong khi đang tập kịch với các bạn, một học sinh nghịch ngợm đã chĩa một khẩu súng "không có đạn" vào đầu Paul và bóp cò. Paul đã ngã xuống vì bị một viên đạn xuyên qua não.

    Vài ngày sau, giám thị đưa cho tôi một thông báo về Paul. Ngay kế bên ô ghi điểm của Paul xuất hiện dòng chữ "không cần thiết". Dù vậy, tôi vẫn ghi điểm A cộng của Paul vào ô đó- điểm số mà em đã nỗ lực không ngừng để đạt được nó mà không sao cầm được nước mất. Đột nhiên tôi ngừng khóc và bắt đầu mỉm cười khi hình dung ra ở đâu đó Paul vẫn không ngừng nhận thức, tin tưởng và đạt được những gì em muốn, nhờ đó đã hình thành cho mình đức tính ham học hỏi, ý thức kỷ luật, và lòng tự trọng- những đức tính mà những người thầy phải vun trồng cho các học sinh của mình. Đó chính là món quà vô giá mà Paul đã mang đến cho cuộc đời làm giáo viên của tôi trước khi đi xa.

Một câu chuyện cảm động.

Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ. Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa".

Chẳng những thế, cô thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém). Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học tập của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều đọc được. Cô giáo chủ nhiệm lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp". Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn. Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xỉn mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa trong chai lên cổ tay. Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa". Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, cô đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học trò cưng nhất của cô.

Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em". Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em". Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời". Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F.Stoddard - giáo sư tiến sĩ.

Một người nổi tiếng và fan

    Cho chữ ký. Đối xử với các fan. Rất nhiều ngôi sao đã trở nên ghét các fan. Tôi thì chưa. Tôi luôn thích cảm giác được các fan yêu quý. Tôi thừa nhận rằng khi ra trước công chúng, tôi luôn phải “trưng” ra một khuôn mặt giống y như nhau, nụ cười giống nhau… Đã quá nhiều người hỏi rằng khi anh là một ngôi sao, anh càng tươi cười và thân thiện thì mọi người càng lạm dụng và cư xử thiếu hợp lý với anh. Nhưng tôi có rất nhiều kỷ niệm khi là một ngôi sao.

    Một lần, tôi bị đau bụng kinh khủng khi ở sân bay, nên chạy lao vào toilet. Tôi nghe thấy có ai gọi tên mình nhưng thật sự không thể dừng lại được. Người đó cũng không dừng lại, anh ta chạy lao theo tôi. Và ngay khi tôi chạm đến cửa toilet thì anh ta đứng chắn trước mặt, dí một tờ giấy lên tường (tức là ngay trước mắt tôi), và tươi cười: “Anh Lemon, tôi xin lỗi phải làm phiền anh vào lúc này, nhưng tôi sắp lên máy bay rồi và con trai tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi nếu tôi không lấy được chữ ký cùa anh về cho nó”. Tôi không còn cách nào khác ngoài việc cười phá lên và ký vào tờ giấy.

    Cũng có những khi việc tiếp xúc với mọi người làm tôi được an ủi rất nhiều vào những giờ phút khó khăn. Tôi vẫn còn nhớ lần cả đội chúng tôi bị thua tRobertbertng một trận đấu quan trọng. Đội chúng tôi toàn người da màu và đã thua một đội toàn người da trắng. Nhiều khán giả la ó về màu da của chúng tôi, còn chúng tôi buồn đến mức tất cả đều mặc đồ màu đen, lặng lẽ lên xe. Ngay khi tôi sắp bước lên xe buýt, một người đàn ông bế cô con gái tóc vàng khoảng 6 tuổi, lại gần tôi. Cô bé muốn gặp tôi. Cô bé chỉ ôm lấy tôi và nói: “Cháu yêu chú và cả đội của chúnữa, chú Meadowlark!”. Mắt cô bé sáng bừng lên và nụ cười lấp lánh. Cô bé ôm tôi rất chặt.

    Còn người đàn ông thì khóc. Ông nói nhỏ vào tai tôi: “Cảm ơn anh. Con tôi không sống được bao lâu nữa”. Cô bé sắp thua tRobertbertng một trận đấu còn quan trọng hơn trận đấu tôi vừa tham gia- một trận đấu với bệnh tật và phải trả giá bằng cả cuộc sống. Nhưng tất cả những gì tôi có thể làm cho cô bé là ôm cô bé thật chặt để cô bé không nhìn thấy tôi khóc.

    “Cảm ơn chú Meadowlark”- Cô bé nói- “Cháu thích xem chú thi đấu. Chú còn vui tính nữa. Giá như cháu có thể xem chú thi đấu hàng ngày nhỉ”.

    Cô bé còn quá nhỏ để phân biệt được màu sắc. Cô không biết chúng tôi là người da đen và không biết cả đội chúng tôi đang mặc đồ màu đen.

    Cũng có một lần, khi chúng tôi đang luyện tập thì tôi phát hiện thấy có một cậu bé đứng phía xa. Cậu bé hò reo, cười nói như thể cậu chưa bao giờ nhìn thấy chuyện gì vui hơn. Và cậu cứ gọi tên tôi: “Meadowlark Lemon! Chú Meadowlark Lemon”. Khi quả bóng lăn tới gần, người đàn ông đứng cạnh cậu bé nhặt lên và tung về phía tôi. Tôi liền tung quả bóng lại phía cậu bé. Quả bóng đập vào vai cậu bé và lăn lại chỗ tôi. Hơi ngạc nhiên, nhưng tôi lại nhặt quả bóng lên và tung lại cho cậu bé một lần nữa. Lại một lần nữa, quả bóng đập vào ngực cậu bé và lăn đi. Mọi người thì cười rộ, nhưng tôi thì rất ngạc nhiên. Đó không phải là phản ứng của một cậu bé bình thường. Người đàn ông đứng cạnh cậu bé chạy lại gần tôi: “Xin lỗi anh, cháu mới bị mù”.

    Tôi nhặt quả bóng và đem lại gần chỗ cãu bé, rồi giúp cậu bé cầm bóng và tung. Cậu bé ôm tôi, gọi tên tôi và nói sẽ luôn cổ vũ cho đội chúng tôi. Cậu bé này cũng không nhìn thấy màu da.

    Meadowlark Lemon.

Nếu có lòng...

    Mặt trời đỏ ối đang khuất dần sau rặng cây. Một chàng trai hối hả lái chiếc xe Pontiac cũ kỹ trên con đường rất hẹp. Sinh trưởng ở vùng này, con đường quen thuộc với chàng tới mức không cần nhìn chàng cũng biết từng gốc cây bên kia đường. Bóng đêm mịt mù phủ xuống, trời lất phất mưa, gió thổi lạnh ngắt.

     Chợt chàng thấy bên kia đường một bà lão đứng cạnh chiếc xe hơi Mercedes. Không cần hỏi cũng biết nó bị trục trặc. Dừng xe lại, chàng trai bước tới, chiếc Pontiac của chàng vẫn nổ máy hổn hển. Bà lão mỉm cười với chàng nhưng ánh mắt đầy lo lắng. Bà đã đứng đây cả giờ đồng hồ, biết bao nhiêu xe chạy qua nhưng chẳng ai chịu dừng lại giúp bà. Liệu gã trai này có định hại bà? Trong bộ đồ tầm tầm và vẻ mặt thất thểu, hẳn anh ta nghèo khó và đang bị cái đói hành hạ. Chàng trai lên tiếng trấn an: "Cháu tới để giúp bà. Sao bà không ngồi chờ trong xe cho ấm, ngoài trời lạnh lắm. À quên, cháu tên là Joe".

    Tuy xe chỉ bị xẹp bánh nhưng đối với một bà lão, chuyện đó chẳng khác một thảm họa. Joe trải áo chui vào gầm xe. Chỉ 10 phút sau, chàng đã thay xong bánh sơ cua. Người chàng lấm lem, tay trầy trụa. Trong lúc chàng làm việc bà lão quay kính xuống, thò đầu qua cửa xe nói chuyện với chàng. Té ra bà sống ở St. Louis và mới đi qua đây lần đầu. Joe bối rối ngượng ngùng khi bà lão cảm ơn chàng và hỏi chàng định lấy công bao nhiêu tiền. Bà lão nói Joe đừng ngại, đòi bao nhiêu bà cũng trả. Nếu không gặp được chàng, không biết chuyện gì sẽ xảy ra với bà giữa đêm tối đường vắng như thế này. Thực lòng Joe chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện nhận tiền của bà lão. Sửa xe đâu phải nghề của chàng. Quả là chàng đang thất nghiệp nhưng chàng giúp bà lão chỉ vì thấy tội nghiệp. Vả lại, trong quá khứ biết bao người đã chìa bàn tay hào hiệp cho chàng. Joe từ chối: "Cảm ơn bà. Nếu quả bà có lòng, xin hãy giúp người khác". Joe chờ xe bà lão đi khuất mới rẽ vào con đường về nhà.

     Xe chạy được vài dặm, gặp một quán ăn nhỏ bên đường, bà lão xuống xe. Cô hầu bàn vội chạy lấy khăn cho bà lau mái tóc ướt. Cô vẫn niềm nở và ân cần cho dù đôi chân muốn cứng đờ vì đứng và chạy từ sáng tới giờ. Bà lão tỏ ra ái ngại cho cái bụng bầu chắc cũng đã tới ngày sinh của cô. Bà chợt nhớ tới lời Joe. Ăn xong, bà lão kêu tính tiền và đặt vào đĩa tờ 100 đôla. Khi cô hầu bàn đem tiền thối trở ra, bà lão đã biến mất. Trên bàn chỉ còn lại một mẩu giấy nhỏ. Cô gái rưng rưng đọc:

     "Con đừng cảm ơn ta. Ta cũng đã từng được người khác giúp. Nếu con có lòng, xin hãy nhớ tới những người khác".

     Trên đường về nhà, cô hầu bàn nghĩ miên man. Làm sao bà lão biết được rằng vợ chồng cô đang gặp lúc khó khăn. Chồng cô thất nghiệp và tháng sau vợ chồng cô có con? Đi ngang qua công viên, cô gái thấy hai bóng người, một lớn một bé ôm nhau trên ghế đá. Tiếng ru khe khẽ nỉ non trong đêm. "Dù sao thì mình cũng có chỗ ngủ đêm, có việc làm", cô gái chạnh lòng. Nàng dấn chân, thò tay vào túi rút ra mớ giấy bạc của bà lão tặng cô, đặt xuống bên cạnh người mẹ không nhà đang ru con.

     "Đừng cảm ơn tôi. Nếu có lòng..."

     Khi cô gái bước vào căn phòng chật hẹp của mình, chồng cô đã ngủ say. Khẽ cởi giày, cô leo lên giường, nhẹ nhàng hôn chàng và nằm xuống. "Về rồi hả cưng. Có chuyện gì không em?", chồng cô tỉnh giấc khẽ hỏi.

     "Không, anh yêu. Mọi việc ổn cả, Joe ạ".

Ngọn đèn trong đêm

    Một đêm, khi tôi gần như không còn nghị lực và sức chịu đựng nữa trước những khó khăn trong cuộc sống thì một biến cố từ lâu bị lãng quên chợt hiện về trong ký ức. Lúc đó tôi lên mười, cũng là thời gian mẹ tôi đang trong cơn bệnh thập tử nhất sinh. Một đêm, lúc thức dậy uống nước, đi ngang qua phòng ba mẹ, tôi chợt thấy ở đó đèn vẫn còn sáng. Tôi nhìn vào. Ba đang ngồi trên ghế cạnh giường mẹ , chẳng làm gì cả, còn mẹ đang ngủ. Tôi hoảng hốt chạy vào:

    - Chuyện gì vậy ba? Sao ba không ngủ?.

    Ba chạm nhẹ vào người tôi:

    - Không sao hết. Ba chỉ xem chừng mẹ thôi.

    Tôi không thể nói chính xác là như thế nào, nhưng ký ức về biến cố xảy ra từ rất lâu đó đã cho tôi thêm sức mạnh tiếp tục gánh vác chuyện gia đình. Ngọn đèn đáng nhớ đó và sự ấm áp từ căn phòng ba mẹ đã là một sức mạnh thần kỳ; và lời nói của ba cứ theo tôi mãi: "Ba chỉ xem chừng mẹ thôi".

    Cái trọng trách mà tôi đang gánh vác bằng cách nào đó dường như dễ chịu hơn, như thể có một nguồn lực được vực dậy từ quá khứ hay từ trong chính bản thân tôi. Trong những khoảnh khắc tinh thần suy sụp những ký ức tuổi thơ thường trở thành nguồn lực vô cùng cho nhân cách, đó là những lăng kính chứa đựng những cảm nhận của ta về cuộc đời. Như James Barrie đã từng viết: "Thượng đế cho chúng ta ký ức để chúng ta có thể có được hoa hồng giữa tháng mười hai giá rét".

Ngọn nến thứ tư

    Bốn ngọn nến đang chậm rãi cháy trong một căn phòng. Bầu không gian trong phòng tĩnh lặng tới mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến.

    Cây nến thứ nhất than vãn: “Ngọn lửa của ta là biểu tượng của sự thái bình, hoà thuận. Thế nhưng đời nay những cái đó thật chông vênh. Thế giới hiếm khi im tiếng gươm súng, người với người, thậm chí vợ chồng anh em trong một nhà cũng chẳng mấy khi không cãi cọ”. Thế rồi ngọn nến leo lắt, ngọn lửa mờ dần cho tới khi ánh sáng lụi tắt hoàn toàn.

    Ngọn nến thứ hai vừa lắc lư vừa kể lể: “Ta là niềm tin. Thế nhưng trong thế giới này hình như ta đã trở nên kẻ thừa thãi, một món xa xỉ. Biết bao kẻ sống chạy theo thời không cần tới niềm tin”. Nói rồi ngọn nến từ từ tắt, tỏa ra một làn khói trắng luyến tiếc.

    “Ta là tình yêu- ngọn nến thứ ba nói– Nhưng ta không còn đủ sức để tỏa sáng nữa. Người ta gạt ta qua một bên và không thèm hiểu giá trị của ta. Cứ nhìn thế giới mà xem, không thiếu kẻ quên luôn cả tình yêu đối với những người ruột thịt nhất của mình”. Dứt lời phẫn nộ, ngọn lửa vụt tắt.  Căn phòng trở nên tối tăm hơn. Chỉ còn một ngọn nến nằm tận góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, nhấp nháy như ngôi sao độc nhất giữa bầu trời đêm âm u.  Bất chợt một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến bị tắt, cô bé thốt lên: “Tại sao các bạn không cháy nữa? Cuộc sống này luôn cần tới các bạn. Hoà bình, Niềm tin và Tình yêu phải luôn tỏa sáng tới cùng kia mà!”. Cây nên thứ tư nãy giờ vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng lên tiếng đáp lời cô bé: “Đừng lo. Tôi là Hy vọng. Nếu tôi còn cháy, dù ngọn lửa rất mỏng manh, chúng ta vẫn có thể thắp sáng lại Hoà bình, Niềm tin và Tình yêu”.   Mắt cô bé sáng lên. Cô bé dùng cây nến thứ tư– Hy vọng- thắp sáng trở lại các cây nến khác.

Người cưỡi ngựa

    Đó là một đêm lạnh cóng ở phía bắc bang Virginia rất nhiều năm về trước. Sương xuống lạnh khủng khiếp nhưng vẫn có một cụ già đứng bên kia đường chờ có người cho quá giang. Không biết cụ đã đợi từ bao giờ và sẽ phải đợi thêm bao lâu nữa, nhưng cụ vẫn run rẩy đứng đó, kiên nhẫn chờ đợi.

    Có rất nhiều người cưỡi ngựa đi qua nhưng ông cụ lặng im không vẫy họ. Thậm chí cụ cũng không làm gì để gây chú ý. Từng người, từng người qua chỗ cụ đứng nhưng ông cụ vẫn như một bức tượng đá.

    Đêm khuya dần, trời càng lạnh và người qua lại thưa thớt dần. Bỗng ông cụ đứng bật dậy khi có tiếng vó ngựa lại gần:

    - Con trai, liệu con có thể cho ta đi nhờ một đoạn đường không? Đoạn này nhiều tuyết quá, ta không đi nổi nữa…

    Người cưỡi ngựa ghìm cương, nhảy xuống đỡ ông cụ lên ngựa. Anh ta không chỉ cho ông cụ “đi nhờ một đoạn đường” mà còn đưa ông đến tận nhà.

    Trước khi ông cụ vào nhà, người cưỡi ngựa tò mò hỏi:

    - Ông ạ, con thấy ông đứng ở đó đã lâu rồi. Tại sao ông không đi nhờ sớm hơn? Đường này nhiều người qua lại lắm mà. Tại sao ông cứ đứng chờ trong khi trời tối và lạnh như vậy?

    Ông cụ nhìn vào mắt người cưỡi ngựa, và trả lời:

    - Con trai, ta ở vùng này đã lâu rồi. Ta có thể nhìn vào mắt một người và phán đoán được về người đó. Khi những người cưỡi ngựa trước đi qua, họ liếc nhìn thấy ta rồi quay đi ngay. Trong ánh mắt đó không hề có sự quan tâm hay tình cảm. Nên ta nghĩ dù ta có vẫy họ thì họ cũng chẳng để ý đâu. Nhưng khi con đi tới, từ đằng xa, con đã nhìn ta và không rời mắt khỏi ta. Trong ánh mắt đó, ta nhìn thấy sự cảm thương và lo lắng. Và ngay lúc ấy, ta biết con muốn giúp đỡ ta.

    Những lời đó thật sự làm cho người cưỡi ngựa cảm động:

    - Con rất cảm ơn ông đã nói những lời đó. Hy vọng rằng con sẽ không bao giờ quá bận rộn đến mức không nhìn thấy những người khác khi họ cần giúp đỡ…

    Và ngay lúc đó, Thomas Jefferson quay ngựa lại Nhà Trắng.

     (Thomas Jefferson là tổng thống thứ 3 của Mỹ, người đã viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776)

Những cuộc đời được đổi thay

Tim Kimmel

Vào năm 1921, Lewis Lawes trở thành trưởng trại tù Sing Sing. Vào thời điểm đó, không nhà tù nào qua mặt Sing Sing về sự khắc nghiệt. Nhưng 20 năm sau, khi Lewis Lawes nghỉ hưu, chính nơi đó đã trở thành một trại tù nổi tiếng vì nhân đạo. Những ai đã từng tìm hiểu cái hệ thống của Sing Sing đều nói rằng sự thay đổi đó có được là nhờ Lawes. Nhưng khi được hỏi về sự thay đổi này, thì đây chính là những gì ông phát biểu:"Tôi có được tất cả điều đó là nhờ người vợ tuyệt vời của tôi, Catherine, người nằm dưới lòng đất, bên ngoài bức tường ngục."

Khi chồng mình trở thành trưởng trại tù, Catherine mới là một người mẹ trẻ với ba đứa con nhỏ. Ngay từ đầu, ai ai cũng bảo cô chớ có bước chân vào bên trong những bức tường nhà ngục, nhưng điều đó không thể ngăn cản được Catherine! Khi trận đấu bóng rổ đầu tiên trong tù được tổ chức, cô đã bước vào trong phòng thi đấu cùng ba đứa con xinh đẹp của mình, ngồi xuống trên khán đài bên cạnh những người tù.

Cô quan niệm:" Chồng tôi và tôi sẽ chăm sóc những con người này, và tôi tin chính họ sẽ lại chăm sóc cho tôi! Tôi không có gì để lo lắng cả!"

Catherine quyết tâm làm thân với những phạm nhân cùng những người thân của họ. Cô phát hiện ra một người mù bị kết tội giết người, và cô đến thăm anh, cô hỏi:"Anh có biết đọc chữ nổi Braille không?"

"Braille là gì?" anh ta hỏi. Thế là cô dạy cho anh ta đọc.

Năm tháng qua đi cô đã giúp hết người này đến người khác. Thế rồi, cô bị chết trong một tai nạn xe hơi. Buổi sáng hôm sau Lewis Lawes không đi làm, và người phó ông phải thay thế. Ngay lập tức, tất cả tù nhân đoán được ngay rằng đã có việc gì đó không hay xảy ra.

Ngày tiếp theo thi thể Catherine vẫn còn được đặt trong quan tài, tại nhà, cách nhà tù khoảng 1 cây số. Sáng sớm khi phó trại tù đi tuần, ông đã thực sự bị sốc khi thấy một đám đông nghịt những tội nhân khắc khổ, dữ dằn, tụ tập như một bầy thú trước cổng chính. Ông đến gần hơn và nhận thấy trên những gương mặt buồn bã đó là nước mắt. Ông hiểu họ yêu quí Catherine biết bao nhiêu. Ông quay lại và đối diện với những tù nhân:"Thôi được, các bạn, các bạn có thể đi, chỉ cần tối nay các bạn về điểm danh đầy đủ". Rồi ông mở cổng cho đoàn phạm nhân bước đi, không cần lính gác, suốt 1 cây số, để đến ngỏ lòng yêu kính lần chót trước Catherine yêu quý của họ. Và tất cả đã trở về trại tối đó. Không thiếu một ai.

Những điều bạn cần biết

    Để đôi môi quyến rũ, bạn hãy nói những lời tử tế.

    Để đôi mắt đáng yêu, bạn hãy tìm ưu điểm trong mỗi con người

    Để hình thức mảnh mai, bạn hãy chia sẽ thức ăn của mình với những ai nghèo khó

    Để mái tóc mượt mà, hãy cho con trẻ vuốt tóc bạn mỗi ngày

    Để thăng bằng, hãy bước đi cùng với kiến thức và bạn sẽ không bao giờ cô đơn

    Chúng tôi để lại cho bạn truyền thống dẫn đến tương lai

    Sự yêu thương dịu dàng của con người là điều không bao giờ lỗi thời.

    Hơn những vật vô tri, con người có thể phục hồi, phục thiện, phục sinh. Vì thế đừng bao giờ từ bỏ bất cứ một ai.

    Hãy nhớ điều này, nếu bạn từng cần đến một bàn tay, bạn tìm thấy nó ngay cuối cánh tay mình.

    Rồi khi bạn lớn lên, bạn sẽ khám phá ra rằng bạn có hai bàn tay: một để tự giúp mình và một để nâng đỡ nhũng người xung quanh. Những ngày tuyệt vời đang chờ bạn phía trước. Và có lẽ sẽ có rất nhiều ngày tuyệt vời như thế.

Ô cửa kính vỡ

    Vào năm 1954, tôi mới lên 12 tuổi. Lúc đó, tôi thường dậy sớm đi bỏ báo xong rồi về học. Trong số khách hàng của tôi có một bà lão tóc bạc phơ sống một mình trong ngôi nhà nhỏ trên phố Chuồng Chim. Ít khi tôi nhìn thấy bà lão. Thường thì tôi bỏ báo vào thùng thư, nhấn chuông báo hiệu rồi vội đi ngay cho kịp bởi tuyến đường đưa báo của tôi còn dài.

    Chuyện xảy ra vào một ngày đông. Chiều hôm đó, trên đường từ trường về nhà, tôi và lũ bạn chợt chú ý tới bức tượng con gà trống cắm trên nóc nhà bà lão. Gió đổi chiều thì con gà trống quay theo hướng gió. Mỗi lần như vậy, cổ con gà trống gật gù trông ngồ ngộ. Lũ chúng tôi tấp xe đạp vào lề đường, túa ra kiếm sỏi. Ở vùng tôi sống, sỏi không thiếu nhưng vì đang mùa đông nên chúng tôi phải bươi lớp tuyết mới kiếm được chúng. Có sỏi, chúng tôi thách nhau chọi trúng con gà.

    Cuộc chơi thật náo nhiệt nhưng vì gặp khúc phố vắng nên chẳng ai la chúng tôi.

    Ðến lượt mình, tôi ném trượt hòn sỏi thứ nhất. Hòn thứ hai, thứ ba cũng vậy. Ðến hòn thứ tư, tôi vung tay và chỉ kịp nghe choảng một cái. Trời ơi, hòn sỏi không bay lên nóc nhà mà trượt qua các kẽ ngón tay tôi lao thẳng vào cửa sổ nhà bà lão. Có lẽ vì trời lạnh các ngón tay tôi tê cứng mà hòn sỏi lại quá trơn. Bỏ mặc cánh cửa kình vỡ toang, chúng tôi hoảng hốt nhảy phóc lên xe đạp hộc tốc chạy trốn.

    Sáng hôm sau, tôi đi giao báo mà như đi ăn trộm. Rón rén thả tờ báo vào khe thùng thư, tôi không dám bấm chuông, cứ thế lặng lẽ đạp xe đi tiếp bỏ lại sau lưng khung cửa kính vỡ toang hoác như đang nhìn xoáy vào gáy tôi. Ði học, tôi phải đi đường vòng qua mấy phố khác để tránh nhà bà lão. Ðược mấy ngày như vậy, tôi chợt thắc mắc: Trời lạnh như cắt da cắt thịt, tại sao bà lão không kêu làm lại kiếng? Ở tuổi bà ấy, phải cảm lạnh thì nguy ! Hay bà ấy không có tiền? Những câu hỏi đó giày vò tôi suốt một đêm và tôi quyết chuộc lại lỗi lầm.

    Suốt 3 tuần sau đó, tôi không dám chi tiêu dù chỉ một xu từ khoảng tiền công bỏ báo và cất lại được 7 đôla, mà tôi nghĩ là đủ để bà lão lắp một tấm kiếng mới. Tôi bỏ số tiền vào phong bì kèm một mẩu giấy nhỏ giải thích ngọn ngành và nhét nó vào thùng thư với mấy tờ báo. Ðồng thời tôi cũng phát hiện ra thùng thư còn khá nhiều báo. Qua ngày hôm sau, vẫn chưa có ai lấy báo. Tôi lo lắng. Do dự một hồi, tôi liều nhấn chuông. Chờ mãi không thấy người mở cửa, tôi đánh bạo gõ cửa một nhà hàng xóm: “Bà Elizabeth hả? Ði rồi, đi gần tháng nay. Có xe chở đi. Tôi không rõ, chắc bệnh nặng”. Tôi rùng mình. Rõ ràng, bà lão bị cảm lạnh từ hôm tôi làm bể kiếng.

    Rồi lại hai tuần nữa qua đi. Ngày nào tôi cũng ghé qua nhà bà lão ngóng xem trong đó đã có người hay chưa. Cho tới một ngày kia, khung cửa kính vỡ đã được thay, trên bậu cửa sổ xuất hiện một chậu hoa nhỏ, thùng thư trống hoác. Vui mừng khôn xiết, tôi bấm chuông cửa nhà bà lão. Tôi sững sờ: người mở cửa cho tôi là một phụ nữ trẻ. “Bà Elizabeth ? Bà ấy bán căn nhà này cho tôi rồi. Ði đâu à? tôi không biết. Cậu là cậu bé đưa báo à? Cậu đợt chút. Bà lão có thư cho cậu”.

    Tôi đứng trên hè phố mở thư: “Chào cậu bé. Vì sức khỏe ta phải xuống miền Nam ở với các con. Lỗi không phải do cậu. Ta đã rời nhà trước khi cửa kính vỡ. Tuy nhiên, ta rất thích cách xử sự của cậu. Ráng giữ như vậy trong đời. Ta có món quà nhỏ tặng cậu. Hy vọng chúng ta có dịp gặp lại”. Tôi mở gói giấy nhỏ và nhận ra 7 đôla mà tôi đã gởi cho bà lão.

Ông ấy cần tôi

Cô y tá nọ hướng dẫn một chàng thanh niên với vẻ mặt hốt hoảng âu sầu tới bên giường bệnh của ông già . Cô nói : ”ông ơi! Con trai ông đã tới đây này!” Cô phải nhắc lại nhiều bận thì ông già bệnh nhân mới mở mắt ra nhìn. ông bị ảnh hưởng thuốc mê và cơn đau nên chỉ nhìn thấy lờ mờ người thanh niên đứng bên bình dưỡng khí ở đầu giường.

ông giơ tay quờ quạng nắm lấy bàn tay người thanh niên, xiết chặt , không rời tay ra như cần một sự an ủi. Cô y tá lăng săng mang một chiếc ghế lại gần giường bệnh cho người thanh niên ngồi. Rồi suốt đêm đó, người thanh niên ngồi giữ bàn tay ông già và nói những lời an ủi đầy hứa hẹn. Người bệnh già thì chẳng nói đuợc câu gì , chỉ biết nắm chặt lấy bàn tay người thanh niên.

Sáng ngày ra, người bệnh nhân thở hắt ra và chết. Người thanh niên bùi ngùi đặt cái bàn tay bất động nọ xuống bên giường, và đi báo tin cho cô y tá. Trong khi cô ý tá làm thủ tục giấy tờ, người thanh niên tần ngần đứng bên cạnh. Khi cô làm xong thủ tục, cô ngỏ lời chia buồn với chàng thanh niên , thì chàng này hỏi cô rằng :” ông ấy là ai vậy? tên là gì?” Cô y tá ngạc nhiên :”Tôi tưởng ông ta là cha anh?” Chàng thanh niên trả lời:” Không , ông ta không phải là cha tôi, tôi chưa hề gặp ông ta bao giờ, tôi vào thăm người bạn có lẽ cùng họ, nên cô dẫn tôi nhầm tới đây.”

Cô y tá kêu lên: “Ổ, thế sao anh không cho tôi biết khi tôi dẫn anh tới đây!”

Chàng thanh niên nọ chậm rãi: “Khi tôi được biết ông ta bệnh nặng khó qua khỏi, mà ông ta lại đang mong mỏi sự có mặt người con trai chưa tới được. ông ta đã yếu quá cũng không nhận ra được ai cả, tôi cảm thấy ông ta rất cần tôi, nên tôi ở lại cũng có sao đâu!”

Phần thưởng

Khi nghệ sĩ lừng danh Burt Lancaster còn là một đứa bé nghèo ở thành phố New York, ông vẫn thường có những giấc mơ rất trẻ con về những que kem sôcôla quyến rũ. Lúc đó đồng 25 cent đối với ông là cả một gia tài.

Một ngày kia đi ngang qua một ngân hàng, cậu bé Burt bất chợt thấy một tờ 20 đôla nằm dưới đất chỗ bãi đậu xe. Đó là số tiền lớn nhất mà Burt từng thấy khiến tim cậu như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Cậu cúi xuống lượm bỏ vào túi quần và liên tưởng ngay đến những que kem cũng như những món đồ chơi mà cậu từng mơ ước. Nhưng ngay lúc đó, có một phụ nữ đứng tuổi với vẻ mặt hoảng hốt đi đi lại lại tìm kiếm dưới đất. Thấy cậu bé, bà liền hỏi: "Con có thấy tờ 20 đôla của bà đánh rơi không?". Bà giải thích đó là số tiền mà cả gia đình đông đúc của bà phải nhờ vào để sinh sống cho đến hết tháng này, vừa kể bà vừa khóc.

"Bà không biết sẽ phải làm gì nếu không tìm ra nó. Chắc có lẽ nó rớt đâu đây thôi...".

Những ngón tay của Burt siết chặt vào tờ giấy bạc. Trong đầu cậu bé những món đồ mà cậu có thể mua được với số tiền to lớn đó lần lượt hiện ra. Rất dễ để trả lời: "Con không thấy tờ giấy bạc nào hết!" và bước đi. Nhưng thay vào đó, cậu bé rút tờ giấy bạc ra, đưa bà lão và nói: "Con lượm được nó đây!".

Sự vui mừng lộ rõ trên khuôn mặt đầy lo âu của bà làm ấm lòng cậu bé. Bà lão cám ơn và bước đi. Ngôi sao điện ảnh Burt Lancaster nhớ lại, đó là giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời ông.

Thiên thần đẹp nhất

"Trái tim của người ngu xuẩn thì nằm trên miệng của anh ta, còn tiếng nói của người khôn ngoan thì nằm tận trong tim"

Có một người chuyên đóng vai những nhân vật lịch sử quá cố để diễn thuyết trước quần chúng. Một ngày nọ trong vai một nhà chính trị nổi tiếng, ông đến một lớp 5 của trừơng để trả lời những câu hỏi của học sinh. Một học sinh giơ tay và hỏi :

- Cháu ngỡ rằng ông đã chết rồi cơ mà !

Câu hỏi này thật không bình thường và ông đã trả lời :

- Đúng là tôi đã chết vào năm 1970, lúc 84 tuổi - nhưng tôi chẳng thích việc này chút nào và tôi sẽ không lặp lại nó nữa.

Ông hỏi xem các cậu bé khác có gì thắc mắc nữa không và gọi cậu bé cuối lớp học đang giơ tay. Cậu bé hỏi :

- Ông ơi , khi ông chết lên thiên đàng ông có nhìn thấy mẹ cháu không ?

Tim ông như ngừng đập, ông chỉ kịp nghĩ duy nhất một điều: đừng để nổi xúc động này tan biến. Một cậu bé 11 tuổi đứng trước lớp và hỏi về mẹ, hẳn sự kiện này vừa xảy ra với em hoặc đây là điều mà em quan tâm nhất trên đời. Cần phải nói một điều gì đó, diễn giả lại nghĩ, và nghe chính giọng nói của mình cất lên:

- Ông không chắc người mà ông gặp có phải là mẹ con không, nhưng nếu phải thì đích xác đó là một thiên thần đẹp nhất ở trên thiên đàng.

Nụ cười xuất hiện trên khuôn mặt em khiến ông hiểu rằng lời nói của mình đã làm em bé hài lòng. Mà câu trả lời đó đến từ cõi nào ông cũng không biết nữa ,nhưng ông tin là có sự giúp đỡ nào đó từ vị thiên thần đẹp nhất kia.

Trái tim đá

     Đang học năm thứ hai trường Y, tôi được gởi tới bệnh viện nhi thực tập. Ở đấy tôi gặp Jimmy.

      Đôi mắt tròn lóng lánh như hai giọt nước, mái tóc vàng loăn xoăn, má đỏ hồng như hai trái dâu tây, bé xinh đẹp như một thiên thần nhỏ trong các bức tranh thời trung cổ. Thế nhưng, Jimmy là một đứa trẻ mồ côi 15 tháng tuổi. Bị lên sởi và viêm phổi, Jimmy phải thở bằng ống cấp oxy. Hễ thức giấc, Jimmy lại khóc oe oe như một con mèo hen. Tôi thường tranh thủ đến bên Jimmy, đu đưa chiếc nôi, ầu ơ những bài hát ru và thì thào với bé: "Jimmy... cô hứa hễ tốt nghiệp là cô sẽ làm mẹ của cháu".

     Ở bệnh viện, tôi được giao đi tua theo dõi bệnh tình của các bệnh nhân tí hon. Công việc nhiều, có lúc mệt muốn đứt hơi nên tôi thường chỉ lướt qua các giường bệnh khác để dành thời gian cho Jimmy. Người hướng dẫn thực tập của tôi là một người phụ nữ đã gần 40 tuổi, dáng cao gầy, gương mặt khắc khổ. Tên thật của chị là Stickleby nhưng tôi đặt cho chị biệt hiệu "Tim đá". Cứ căn cứ theo lối xét nét và vẻ mặt không hài lòng của Stickleby mỗi khi thấy tôi xoắn xuýt bên Jimmy, có thể nghĩ rằng chị ta đang ghen với tôi. Mỗi lần tôi chạy vạy xin đổi ca trực để ở lại với Jimmy, đôi lông mày của chị ta nhíu lại và lắc đầu. Tình thực tôi không hiểu nổi người phụ nữ này. Việc tôi yêu Jimmy hơn các bé khác thì có gì là sai? Hẳn chị ta là loại người không yêu trẻ con và làm việc tại bệnh viện nhi này chỉ là một sự miễn cưỡng?

      Tôi phải về trường 2 tuần để nghe giảng. Nhân đi qua mấy cửa hàng đồ chơi, tôi tạt vào chọn cho Jimmy một vài thứ. Việc đầu tiên khi trở lại bệnh viện là tôi chạy ào vào phòng săn sóc đặc biệt. Chiếc nôi của Jimmy trống trơn.

     "Jimmy chuyển phòng đi đâu rồi?", tôi hỏi một cô y tá.

      "Cô chưa biết sao? Nó chết từ đêm hôm thứ bảy kìa".

      Tôi ngồi phịch xuống ghế, tay nắm chặt gói đồ chơi dành cho Jimmy, hai dòng lệ chảy dài trên má. Đúng lúc đó, chị Stickleby xuất hiện: "Lau nước mắt đi rồi còn đi làm nữa. Mau đi!". Nghe tới đây, tôi nổi cơn điên gào lên: "Tôi không đi đâu hết. Tôi khóc kệ tôi. Các người là những kẻ vô tình. Trái tim các người là đá. Jimmy không có mẹ, vậy mà các người không chăm sóc nó để nó chết...". Tôi ngồi gục mặt than khóc, bỏ làm, bỏ ăn trưa. Các cô y tá lặng lẽ choàng gánh công việc hộ tôi.

      Một đôi bàn tay đặt lên vai tôi. Một giọt nước rớt trúng giày của tôi. Tôi ngẩng đầu lên. Khuôn mặt chị Stickleby đầm đìa nước mắt đang nhìn tôi! Chị nói qua tiếng nấc: "Chị hiểu em. Nhưng em nên nhớ còn biết bao nhiêu sinh linh bé nhỏ đang chờ chúng ta. Chị và em không thể để trái tim làm tan nát nghị lực. Em nên biết rằng chị đã thức trắng đêm thứ bảy để cố giành giật Jimmy khỏi bàn tay tử thần. Nhưng, chị đã bất lực, bất lực như nhiều năm trước chị đã từng bất lực nhìn đứa con ruột của mình chết dần chết mòn. Cũng từ ngày đó, chị xin vào làm ở đây, vừa học vừa làm. Chị cố sức để những đứa trẻ không phải chịu số phận như con chị nhưng không phải bao giờ cũng thành công. Nếu trái tim đá giúp ích được cho lũ trẻ thì chị xin nhận biệt danh mà em tặng cho chị".

Trò đùa

    Trong cái xưởng gốm nhỏ nơi tôi làm việc có một anh chàng tên Mike. Hắn có thân hình cao to như lực sĩ, lạI sẵn sàng kể chuyện tiếu lâm và ưa bày đặt những trò đùa tinh nghịch. Làm việc cạnh Mike là Pete Lumas. Anh chàng rất ngưỡng mộ Mike và tất cả những vụ phá phách, bỡn cợt nho nhỏ trong xưởng đều do hai người chung sức bày đặt.

    Trong xưởng còn có một người thợ tên Jake. Trái với Mike và Pete, Jake nhỏ con, lùn, ít nói, chẳng làm hại ai nhưng cũng chẳng chơi với ai. Suốt ngày, Jake cắm đầu làm việc, đến trưa, anh ta ngồi ăn một mình dưới gốc cây, cách xa bọn tôi. Làm như hắm sợ chúng tôi xin đồ ăn của hắn! Jake chẳng bao giờ tham gia vào những cuộc tán gẫu, những cuộc sát phạt đỏ đen mà chúng tôi bày ra trong giờ nghỉ trưa. Tới kỳ lĩnh lương, bàn tay thô ráp, lấm lem của Jake nắm chặt tờ giấy báo phát lương, miệng anh ta lẩm bẩm những gì không rõ.

    Dĩ nhiên Jake trở thành cái bung xung cho những trò đúa tai quái của Mike và Pete. Một lần, Jake mở hộp cơm trưa, từ trong hộp này vọt ra một chú nhái. Một lần khác, Jake phát hiện ra con chuột chết nằm gọn lỏn trong chiếc mũ của anh. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là sự chịu đựng của Jake. Tôi có cảm tưởng phần xác của anh ta có mặt trong xưởng, còn phần hồn thì ở tận đâu đó. Cũng có thể, Jake sợ đụng chạm có thể khiến anh ta mất việc nên nhẫn nhục.

    Mùa thu năm đó, nhân hai ngày nghỉ cuối tuần, Mike và Pete rủ nhau đi săn. Họ hứa nếu gặp may sẽ chia phần cho mọi người trong xưởng. Sang ngày thứ hai, Mike và Pete tới xuởng với một con hoẵng đực khác lớn. Mike chia phần cho từng người và bao lại. Hắn vừa cười nhăn nhở vừa bỏ đôi tai lông lá, cặp móng và cái đuôi hoẵng vào một bao giấy riêng. Sau bữa trưa, Mike đưa phần thịt cho từng người. Hắn nhờ người đi kêu Jake tới. Người đàn ông vụng về ngồi xuống bên bàn, Mike đẩy gói giấy hắn để riêng lúc nãy tới trước mặt Jake. Mặt Pete căng thẳng, hắn cố nén để khỏi phá ra cười. Mike tỏ vẻ tự mãn. Jake im lặng. Trong 3 năm qua có lẽ anh ta nói chưa tới 100 từ.

    Chúng tôi im lặng tò mò chờ đợi. Jake nắm chặt cái gói. Anh ta mỉm cười nhìn Mike biết ơn. Ánh mắt lấp lánh ướt, yết hầu Jake chạy lên chạy xuống. “Tôi biết anh sẽ không quên tôi mà. Tuy anh hay giỡn nhưng các anh là những người tốt”. Nuốt nước bọt, Jake nói tiếp: “Tôi không thân thiết với các anh nhưng tôi không phải là người xấu. Tôi có 3 đứa con nhỏ, vợ tôi lại tàn tật nằm liệt giường đã 4 năm nay. Những lúc cô ấy trở bệnh, tôi phải thức trọn đêm. Lương của tôi không những không đủ nuôi con mà còn phải lo tiền thuốc cho vợ. Các cháu cũng cố gắng kiếm thêm đỡ vào. May lắm tôi mới xin được chỗ làm này. Các anh có biết vì sao tôi ngồi ăn riêng không? Nói ra thì ngượng nhưng thường thì chỉ có bánh mì và ít súp loãng. Như bữa trưa nay chỉ có củ cải trắng luộc mà thôi. Có chỗ thịt anh cho, chắc bữa tối nay các cháu mừng lắm”. Jake đưa tay gạt một giọt nước mắt to tướng lăn trên má. Anh đưa tay tháo sợi dây cột miệng túi giấy Mike và Pete đẩy tới.

    Chúng tôi mải nhìn Jake suýt quên Mike và Pete. Mặt mày tái mét, hai người luống cuống tìm cách lấy lại gói giấy. Nhưng đã quá muộn! Một sự im lặng nặng nề tới ngộp thở bao trùm tất cả mọi người và nó lên tới cùng cực khi Jake mâm mê những cái tai, những cái móng và cái đuôi hoẵng và ngước mắt lên cảm ơn, miệng cố mỉm cười… Cũng như mọi người có mặt, tôi chỉ muốn đất nứt ra nuốt chửng tôi đi!

Nhận thức

80 tầng !

    Bạn có bao nhiêu ước mơ chưa thực hiện? Bạn có bao nhiêu cơ hội, bao nhiêu thời gian, bao nhiêu sức lực để thực hiện chúng ?

    Có 2 anh em sống trên tầng 80 của 1 chung cư cao ngất. Một ngày kia về nhà sau giờ làm việc, họ choáng váng khi nhận ra thang máy của chung cư bị hư, họ buộc phải leo bộ lên căn nhà of mình.

    Sau khi vất vả leo đến tầng 20, thở hổn hển và mệt mỏi, họ quyết định để những túi xách của mình lại đó và sẽ quay lại lấy vào ngày hôm sau. Khi lên đến tầng 40, người em bắt đầu lầm bầm và sau đó 2 người bắt đầu cãi nhau. Họ vừa tiếp tục những bước nặng nề của mình, vừa cãi nhau cho đến tầng 60. Bỗng họ nhận ra rằng mình chỉ còn có 20 tầng nữa thôi. Họ quyết định ngừng cãi và tiếp tục leo lên trong sự bình an. Họ yên lặng leo lên và cuối cùng cũng đến được căn hộ của mình. Đến nơi, họ mới phát hiện đã để chìa khoá nhà trong những túi xách đã để lại tầng 20.

    Câu chuyện này cũng tựa như cuộc đời chúng ta...Nhiều người trong chúng ta sống trong sự kỳ vọng của cha mẹ, thầy cô và bạn bè khi còn bé. Chúng ta hiếm khi thực hiện những gì mình thật sự muốn, luôn ở dưới rất nhiều áp lực và sự căng thẳng đến nỗi đến năm 20 tuổi, chúng ta mệt mỏi và quyết định vứt bỏ gánh nặng này đi. Chúng ta sống một cánh năng nổ và có những ước mơ lớn. Nhưng đến khi 40 tuổi, chúng ta bắt đầu đánh mất tầm nhìn và những giấc mơ của mình, cảm thấy ko thoả mãn và bắt đầu phàn nàn, chỉ trích. Đến tuổi 60, chúng ta nhận ra mình ko còn nhiều thì giờ nữa để phàn nàn và chúng ta bước đi trong thanh thản, bình an. Chúng ta nghĩ ko còn gì làm cho mình thất vọng nữa. Và chợt nhận ra mình ko thể nào ngơi nghỉ trong sự bình an vì chúng ta còn những giấc mơ chưa thực hiện được- những giấc mơ mà chúng ta vứt bỏ cách đây 60 năm.

     Vậy, ước mơ của bạn là gì? Hãy đi theo những ước mơ của mình để ko phải sống trong sự nuối tiếc.

Bài học cho cuộc sống

    Đôi khi có một số người lướt qua cuộc đời bạn và ngay tức khắc bạn nhận ra rằng sự có mặt của họ ý nghĩa như thế nào. Họ đã dạy bạn những bài học, đã giúp bạn nhận ra giá trị của chính mình hoặc trở thành con người mà bạn từng mơ ước. Có lẽ bạn sẽ không biết được những con người này từ đâu đến (bạn cùng phòng, người hàng xóm, vị giáo sư, người bạn mất liên lạc từ lâu hay thậm chí là một người hoàn toàn xa lạ). Nhưng khi bạn thờ ơ với họ, hãy nhớ rằng trong từng khoảnh khắc họ sẽ ảnh hưởng rất sâu sắc đến cuộc đời bạn.

    Ban đầu sự việc xảy ra trông có vẻ kinh khủng, đau khổ và bất công, nhưng khi lấy tấm gương của cuộc đời ra để đối chiếu, bạn sẽ hiểu được là nếu không có những giây phút ấy để bạn vượt qua mọi khó khăn thì bạn khó có thể thấy được tài năng, sức mạnh, ý chí và tấm lòng của bạn. Mọi việc đều diễn ra có chủ đích mà không có gì gọi là tình cờ hay may rủi cả. Bệnh tật, tổn thương trong tình yêu, giây phút tuyệt vời nhất của cuộc sống bị đánh cắp hoặc mọi thứ ngu ngốc khác đã xảy đến với bạn, hãy nhớ rằng đó là bài học quý giá. Nếu không có nó cuộc đời này chỉ là một lối đi thẳng tắp, một con đường mà không hề có đích đến cũng như bạn sống từng ngày mà không hề ước mơ. Thật sự con đường đó rất an toàn và dễ chịu, nhưng sẽ rất nhàm chán và vô nghĩa.

    Những người bạn gặp sẽ ảnh hưởng đến đến cuộc đời bạn. Thành công hay thất bại, thậm chí là những kinh nghiệm tồi tệ nhất cũng chính là bài học đáng giá nhất, sẽ giúp bạn nhận ra được giá trị của chính mình. Nếu có ai đó làm tổn thương bạn, phản bội bạn hay lợi dụng tấm lòng của bạn, hãy tha thứ cho họ bởi vì chính họ đã giúp bạn nhận ra được ý nhĩa của sự chân thật và hơn nữa, bạn biết rộng mở tấm lòng với ai đó. Nhưng nếu có ai thương yêu bạn chân thành, hãy yêu thương họ một cách vô điều kiện, không chỉ đơn thuần là họ đã yêu bạn mà họ đang dạy bạn cách để yêu .

    Hãy trân trọng khoảnh khắc và hãy ghi nhớ từng khoảnh khắc những cái mà sau này bạn không còn có cơ hội để trải qua nữa. Tiếp xúc với những người mà bạn chưa từng nói chuyện, và biết lắng nghe. Hãy để trái tim biết yêu thương người khác. Bầu trời cao vời vợi vì thế hãy ngẩng đầu nhìn lên, tự tin vào bản thân. Hãy lắng nghe nhịp đập của trái tim mình :"Bạn là một cá nhân tuyệt vời. Tự tin lên và trân trọng bản thân bạn, vì nếu bạn không tin bạn thì ai sẽ làm điều ấy?"

    Hãy sở hữu cuộc sống của bạn và đừng bao giờ hối tiếc về lối sống ấy. Nếu bạn thương yêu ai đó thì hãy nói cho họ biết, dù rằng sẽ bị từ chối nhưng nó có thể làm cho một trái tim tan nát có thể đập trở lại.

Bài học từ Hươu cao cổ

Khi sinh con, hươu mẹ không nằm mà lại đứng; và như vậy hươu con chào đời bằng một cú rơi hơn 3m xuống đất và nằm ngay đơ. Rồi hươu mẹ làm một việc kỳ lạ: đá hươu con cho đến khi nào chú ta chịu đứng dậy mới thôi. Khi hươu con mỏi chân và nằm, hươu mẹ lại thúc chú đứng lên. Đến lúc hươu con đã thực sự đứng được, hươu mẹ lại đẩy chú ngã xuống để chú phải nỗ lực tự mình đứng dậy lần nữa.

Điều này nghe có vẻ lạ với chúng ta, nhưng lại thực sự cần thiết cho hươu con bởi vì hươu con cần phải tự đứng được để có thể tồn tại với bầy đàn, nếu không hươu con sẽ trơ trọi với cuộc đời và trở thành miếng mồi ngon cho thú dữ.

Chúng ta cũng thế, thật dễ nản chí khi mọi việc đều trở nên tồi tệ. Nhưng cho dù đang phải đối mặt với nhiều gian khổ thì ta vẫn phải giữ vững niềm tin. Hãy ghi nhớ rằng mỗi khi ta phải đối mặt với nghịch cảnh, trong ta luôn có một sức mạnh tiềm ẩn.

Đừng bao giờ để thất bại quật ngã mà hãy để nó trở thành thầy dạy của chúng ta. Đây chính là bí quyết để thành công. Người ta không thua khi bị đánh bại mà chỉ thua khi đầu hàng. Thomas Edison đã nói: “Tôi không bao giờ nản chí vì đối với tôi mỗi một nỗ lực không thành công là một bước tiến bộ”.

Bài học từ loài ngỗng

    Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương nam để tránh đông theo hình chữ V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng biết tiết kiệm được 71% sức lực so với khi chúng bay từng con một

    Khi là thành viên của một nhóm, người ta cùng chia sẻ những mục tiêu chung, người ta sẽ đi đến nơi họ muốn nhanh hơn và dễ dàng hơn vì họ đang đi dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau.

    Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.

    Nếu chúng ta cũng có sự cảm nhận tinh tế của loài ngỗng, chúng ta sẽ chia sẻ thông tin với những người cũng đang hướng đến cùng một mục tiêu như chúng ta. Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cánh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.

    Chia sẻ vị trí lãnh đạo sẽ đem lại lợi ích cho tất cả, và những công việc khó khăn nên được thay phiên nhau đảm nhận.

    Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đằng sau sẽ động viên những con đi đầu giữ được tốc độ của chúng.

    Những lời động viên sẽ tạo nên sức mạnh cho những người đang ở đầu con sóng, giúp họ giữ vững tốc độ, thay vì để họ mỗi ngày phải chịu đựng áp lực công việc và sự mệt mỏi triền miên.

    Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam.

    Nếu chúng ta có tinh thần của loài ngỗng, chúng ta sẽ sát cánh bên nhau khi khó khăn.

    Lần sau có cơ hội thấy một con ngỗng bay, bạn hãy nhớ... Bạn đang hưởng một đặc ân khi là thành viên của một nhóm.

Bài học từ Socrates

    Ngày ấy có một cậu học trò hăm hở muốn có được trí tuệ và sự sáng suốt. Cậu ta tìm đến Socrates, người thông thái nhất thành Athen để xin chỉ dẫn. Ngưỡng mộ Socrates là một người già dặn và uyên bác, cậu học trò cũng muốn biết làm cách nào ông đạt được sự tinh thông như thế.

    Vốn ít lời, Socrates quyết định không nói mà dùng hành động để minh họa. Ông đưa cậu học trò đến bãi biển rồi đi thẳng xuống nước với bộ áo quần còn nguyên trên người. Socrates vẫn thích làm những chuyện kỳ quặc như vậy, nhất là những khi ông muốn làm sáng tỏ một điều gì đó. Cậu học trò thận trọng bước theo Socrates đến khi nước biển lên đến cằm hai người.

    Đột nhiên Socrates đến nắm lấy hai vai cậu bé, nhìn thật sâu vào mắt cậu rồi dùng hết sức nhấn đầu cậu bé xuống nước. Cậu bé vùng vẫy dữ dội và khi chỉ còn một khắc nữa thôi tính mạng cậu bé sẽ nguy kịch, Socrates mới chịu buông tay.

    Sau khi cố hết sức ngoi nhanh khỏi mặt nước, hớp vội lấy không khí và sặc sụa vì nước biển, cậu bé tức tối nhìn quanh tìm Socrates, không ngờ lại thấy ông đang kiên nhẫn chờ sẵn trên bờ. Lên đến bãi cát, cậu bé giận dữ gào lên: "Tại sao ông muốn dìm chết tôi?"

    Socrates chậm rãi đáp lại bằng một câu hỏi: "Này cậu bé, thế trong lúc cậu suýt chết ngạt dưới biển, cậu đã mong muốn điều gì hơn bất kỳ mọi thứ trên thế gian này?"

    Cậu bé suy nghĩ một lúc rồi trả lời theo trực giác: "Tôi muốn thở".

    Ngay lúc bấy giờ gương mặt Socrates bừng sáng với một nụ cười rạng rỡ. Ông trìu mến nhìn cậu bé rồi ôn tồn nói: "Thế đấy, khi con muốn có được trí tuệ và sự sáng suốt mãnh liệt như khi con muốn được thở dưới mặt biển ban nãy, con sẽ có được chúng."

Bạn hãy nghĩ về điều đó !

Nếu thu nhân loại toàn thế giới xuống thành một làng nhỏ, ta sẽ có một cái làng như sau :

- 57 người châu Á

- 21 người châu Âu

- 14 người châu Mỹ (Nam Mỹ và Bắc Mỹ)

- 8 người châu Phi

- Sẽ có 52 phụ nữ

- 48 đàn ông

- 70 người da màu

- 30 người da trắng

- 80 người có giới tính bình thường

- 11 người lưỡng tính

- 6 người sẽ sở hữu 59% tổng tài sản của làng, và cả 6 người đều là người Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

- 80 người sẽ không có nhà ở tử tế

- 70 người mù chữ

- 50 người sẽ không được ăn no

- 1 người sẽ chết

- 2 người được sinh ra

- 1 người sẽ có máy tính

- 1 (chỉ có 1 người) có trình độ đại học

Nếu nhìn Thế giới dưới góc độ như thế này ta sẽ thấy rằng chúng ta, những con người, cần sự thông cảm, đoàn kết, sự nhân ái và trí thức đến mức nào !

Bạn hãy nghĩ về điều đó !

- Nếu sáng nay bạn thức dậy khoẻ mạnh, nghĩa là bạn hạnh phúc hơn 1 triệu người rồi đấy, những người không sống được đến tuần sau.

- Nếu bạn chưa bao giờ trải qua chiến tranh hay sự cô độc trong những phòng giam của nhà tù , nếu bạn chưa phải hấp hối vì đói và khát, bạn hạnh phúc hơn, may mắn hơn 500 triệu người trên Thế giới này.

- Nếu bạn đến nhà thờ, không sợ hãi về 1 ngày tận thế hay cái chết, bạn hạnh phúc hơn 3 tỷ người trên Thế giới.

- Nếu trong tủ lạnh nhà bạn có thức ăn, bạn được ăn mặc tử tế, bạn có 1 mái nhà và 1 cái giường êm ấm, bạn giàu có hơn 75% nhân loại.

- Nếu bạn có tài khoản trong nhà băng, tiền trong ví và 1 ít xu lẻ trong túi quần, bạn đã thuộc 8% no đủ của toàn Thế giới.

Nếu bạn đọc những dòng chữ này, bạn sẽ hạnh phúc gấp 2 lần vì :

- Có ai đó nghĩ đến bạn

- Bạn không nằm trong số 2 tỷ người mù chữ

- Bạn có máy tính

***()***

Có ai đó đã nói rằng :

- Hãy hát như chẳng có ai đang nghe

-Hãy nhảy múa như không có ai nhìn

-Hãy làm việc như thể bạn không cần tiền

-Hãy yêu như chưa từng có ai làm bạn đau đớn

... Và hãy sống như thể trái đất này chính là thiên đường của bạn !

Tuần sau là tuần lễ tình bạn thế giới. Bạn hãy gửi câu chuyện này đến những người bạn của mình.

Nếu bạn không gửi, sẽ chẳng có điều không may nào đến với bạn cả.

Nếu bạn gửi - sẽ có một ai đó mỉm cười !!!!!!!!!! :-)

Và đó mới là điều quan trọng nhất trong tình bạn .....

Bạn nhảy cao được bao nhiêu.

  Những người thích nuôi bọ chét đều chứng kiến một thoi quen kỳ cục của bọn bọ chét. Những con bọ được luyên tập bằng cách bỏ vào một cái hộp bằng bìa có nắp. Bọ bọ chét sẽ nhảy lên để chạm vào cái nắp, nhảy đi nhảy lại.

    Nếu bạn quan sát bọn bọ nhảy đập vào cái nắp, bạn sẽ thấy dần dần chúng sẽ không nhảy cao chạm vào cái nắp nữa. Rõ ràng, đập vào cái nắp hộp thì khá đau nên chúng giới hạn chiều cao chúng nhảy lên.

     Rồi bạn nhấc cái nắp ra. Bọn bọ vẫn tiếp tục nhảy, nhưng không hề nhảy ra ngoài cái hộp. Vì chúng không thể. Tại sao? Lý do rất đơn giản: chúng đã đặt cho mình giới hạn chỉ nhảy cao đến mức đó thôi.

    Khi con người giới hạn bản thân và không tận dụng hết khả năng của mình, họ không thể nhảy cao hơn. Họ nghĩ rằng họ đã làm tất cả những gì họ có thể rồi. Và đúng là như thế thật.

Bạn sẽ nghĩ đến ai đầu tiên?

Một anh có cảm tình cùng một lúc với hai cô gái nhưng anh ta không biết mình yêu cô nào hơn. Một người bạn của anh ta đã cho một lời chỉ dẫn. Hãy trả lời thành thật câu hỏi: “Khi hạnh phúc, bạn muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó với cô gái nảo”', cô gái bạn n hĩ đến lúc ấy chính là người bạn yêu. Và cũng hãy thành thật trả lời câu hỏi này: “Khi đau khổ, cô gái nào bạn muốn cùng san sẻ”?, cô gái bạn nghĩ đến lúc ấy chính là người bạn yêu. Thật tuyệt vời nếu trong niềm vui và nỗi buồn bạn đều muốn chia sẻ với cùng một cô gái. Nhưng nếu khi vui hoặc buồn bạn lại nghĩ đến hai cô gái khác nhau, tôi khuyên bạn hãy chọn cô gái mà bạn mong muốn được san sẻ nỗi buồn.

Trong cuộc sống có nhiều nỗi khổ đau hơn là niềm hạnh phúc. Sẽ có rất nhiều người bạn có thể chia sẻ niềm vui với họ, không cần thiết là bạn phải yêu họ. Nếu bạn có một cuộc sống hạnh phúc, bạn có thể tự mình hưởng thụ nó. Nhưng trong nỗi buồn sẽ không có nhiều người sẵn sàng san sẻ với bạn. Nếu bạn mong muốn nói về hạnh phúc của bạn với một người, tôi tin chắc rằng người ấy rất thân thiết và là người rất hiểu bạn. Nhưng mọi chuyện không chỉ dừng ở đó. Nếu người ấy chỉ nghĩ đến bạn khi người ấy vui, còn khi buồn người ấy lại san sẻ với người khác, tôi có thể nói với bạn rằng tình yêu đó không bền vững.

Điều dĩ nhiên, tôi sẽ rất hạnh phúc nếu là người đầu tiên được người ấy chia sẻ niềm hạnh phúc. Và khi người ấy buồn, tôi sẽ tự nguyện ở bên cạnh người ấy để xoa dịu nỗi lòng vì khi đó tôi tin rằng mình đã giữ một vị trí rất quan trọng trong trái tim người ấy.

Còn bạn, nếu bạn buồn ai sẽ là người bạn nghĩ đến đầu tiên?

Báu vật

    Để nhận thức được giá trị của một tháng, hãy hỏi bà mẹ vừa sinh con chưa đầy tháng tuổi.

    Để nhận thức được giá trị của một tuần, hãy hỏi biên tập viên tuần báo.

    Để nhận thức được giá trị của một giờ, hãy hỏi những người yêu nhau đang chờ cuộc hẹn.

    Để nhận thức được giá trị của một phút, hãy hỏi người vừa trễ một chuyến xe.

    Để nhận thức được giá trị của một giây, hãy hỏi người vừa trải qua một tai nạn trong gang tấc.

    Để nhận thức được giá trị của một tích tắc, hãy hỏi người vận động viên vừa đoạt huy chương vàng Olympic.

    Hãy trân trọng mỗi phút giây bạn có. Hôm qua là lịch sử. Ngày mai là bí ẩn còn đó     Hôm nay là món quà mà chúng ta có. Đó là lý do chúng ta gọi nó là "hiện tại".

Bí quyết 90/10

Bí quyết đó là gì?

10% cuộc đời là những gì xảy đến đối với bạn.

90% cuộc đời là do những phản ứng của bạn đối với những chuyện xảy đến đó.

Thế nghĩa là sao? Giờ hãy thử xét một ví dụ :

Bạn đang dùng điểm tâm cùng với gia đình. Con gái bạn làm đổ cà phê lên áo bạn. Chuyện đó xảy ra bất chợt, bạn không kiểm soát được. Điều xảy ra tiếp sau đó là phản ứng thuộc quyền quyết định của bạn. Bạn mắng cháu. Cháu phát khóc. Bạn trách cả vợ mình đã đặt tách cà phê quá gần rìa bàn. Hai người bắt đầu cãi nhau một hồi. Bạn đùng đùng bước lên lầu thay áo. Khi bạn trở xuống con bạn vẫn còn khóc, chưa ăn xong để đi học. Cháu bị lỡ chuyến xe đưa rước. Vợ bạn phải hối hả đi làm. Bạn đi nhanh ra, đưa con gái đến trường. Sợ trễ, bạn chạy xe vượt tốc độ cho phép. Sau khi chịu phạt nặng, bạn đưa con tới trường trễ hết 15 phút. Con bạn chạy nhanh vào lớp không kịp chào bạn. Bạn đến văn phòng trễ 20 phút, lại thấy mình bỏ quên chiếc cặp ở nhà. Ngày của bạn đã bắt đầu một cách thật khủng khiếp. Chuyện càng lúc càng tệ hại tiếp tục xảy ra.

Buổi chiều bạn buồn chán trở về nhà để thấy vợ con không vui vẻ đón mừng mình như ngày hôm trước.

Tại sao bạn có một ngày buồn chán như thế?

A. Tại tách cà phê chăng?

B. Tại con gái bạn chăng?

C. Tại người cảnh sát à?

D. Do bạn gây ra đấy chứ?

Câu trả lời đúng là D. Bạn đã không làm chủ cái 90% thuộc quyền phản ứng của mình. Cách phản ứng chỉ trong năm giây của bạn đã tạo nên một ngày bất hạnh.

Bạn cũng đã có thể phản ứng một cách khác. Khi tách cà phê đổ, cháu bé muốn khóc, bạn đã có thể nói: “Không sao đâu con, lần sau con nên cẩn thận hơn một chút”. Bạn nhẹ nhàng lên lầu thay áo và mang theo chiếc cặp. Bạn xuống nhà vừa kịp vẫy tay chào lại cháu bé lên xe đưa rước. Vợ chồng bạn hôn nhau rồi cùng đi làm. Bạn đến văn phòng sớm năm phút và vui vẻ chào các đồng nghiệp buổi sáng. Có lẽ sếp cũng khen bạn về một ngày làm việc có hiệu quả.

Hãy nhớ rằng phản ứng của bạn rất quan trọng. Chuyện bất ngờ xảy ra chỉ chiếm 10%, quyết định phản ứng của bạn chiếm tới những 90%. Hãy nhớ và áp dụng bí quyết 90/10 cho mọi việc xảy ra trong ngày, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn tốt hơn thật nhiều. Chúc bạn thành công!

Biết và không biết

    Chuyện kể rằng có một đứa học trò ngỗ nghịch đã hỏi thầy giáo đường đến thiên đàng dài bao xa.

    - Rất tiếc, tôi không biết- người thầy trả lời.

    Nghe thế, đứa học trò cất giọng hỗn xược:

-    Không biết ư? Thế tại sao người ta phải trả tiền cho thầy về điều thầy không biết?

-    Nếu tôi được trả tiền cho những gì tôi không biết thì có lẽ tôi đã giàu to rồi. Tuy nhiên, người ta chỉ trả tiền cho một số rất ít kiến thức mà tôi biết được!

Bơi

    Có hai chú ếch bị rơi vào một bát kem tươi rất lớn và rất sâu. Một trong hai chú ếch là kẻ lạc quan, còn chú ếch kia thì ngược lại.

    - Chúng ta chết đuối mất- Chú ếch bi quan rên rỉ, rồi kêu lên tuyệt vọng- Vĩnh biệt.     Chú buông xuôi và chìm dần xuống.

    Chú ếch còn lại nói kiên định: "Mình không thể nhảy ra nhưng mình cũng sẽ không bỏ cuộc. Mình sẽ bơi đến khi nào kiệt sức, rồi mình chết cũng hài lòng."

    Một cách can đảm, chú ếch bắt đầu bơi để thực hiện dự định của mình. Chú ếch càng bơi, chân càng quạt mạnh thì kem tươi càng bị khuấy nên đọng lại thành bơ. Cuối cùng, chú ếch nằm ngay trên mặt bơ. Chú dễ dàng nhảy ra. Nếu bạn không nhảy ra được, hãy tiếp tục bơi!

Bốn ngón tay

    Lúc mới sinh ra, George Campbell đã bị mù. Khi George lên 6, một việc xảy ra làm em không tự giải thích được. Buổi chiều nọ, George đang chơi đùa cùng các bạn, một cậu bé khác đã ném một quả banh về phía George. Chợt nhớ ra, cậu bé la lên: "Coi chừng! Quả banh sắp văng trúng đấy".

    Quả banh đã đập trúng người George- và cuộc sống của George không còn như trước đây nữa. George không bị đau, nhưng cậu bé thật sự băn khoăn. Cậu quyết định hỏi mẹ:

    - Làm sao Bill biết được điều sắp xảy ra cho con trước khi chính con nhận biết được điều đó?

    Mẹ George thở dài, bởi cái giây phút bà e ngại đã đến! Đã đến cái thời khắc đầu tiên mà bà cần phải nói cho con trai mình biết: "Con bị mù!".

    Rất dịu dàng, bà cầm bàn tay của con, vừa nắm lấy từng ngón tay vừa đếm:

    - Một - hai - ba - bốn - năm. Các ngón tay này cũng tựa như năm giác quan của con vậy. Ngón tay bé nhỏ này là nghe. Ngón tay xinh xắn này là sờ chạm. Ngón tay tí hon này là ngửi. Còn ngón bé tí này là nếm. Ngần ngừ một lúc, bà tiếp:

    - Còn ngón tay tí xíu này là nhìn. Mỗi giác quan như mỗi ngón tay, chúng chuyên chở các bức thông điệp lên bộ não của con.

    Rồi bà gập ngón tay mà bà đặt tên là "nhìn", khép chặt nó vào lòng bàn tay của con, bà nói:

     - Con ạ! Con là một đứa trẻ khác với những đứa trẻ khác, vì con chỉ có bốn giác quan, như là chỉ có bốn ngón tay vậy: một- nghe, hai- sờ, ba- ngửi, bốn- nếm. Con không thể sử dụng giác quan nhìn. Bây giờ mẹ muốn chỉ cho con điều này. Hãy đứng lên, con nhé!

     George đứng lên. Bà mẹ nhặt trái banh lên bảo: - Bây giờ con hãy để bàn tay của con trong tư thế bắt lấy trái banh.

     George mở lòng bàn tay và trong khoảnh khắc cậu cảm nhận được quả banh cứng chạm vào các ngón tay của mình. Cậu bấu chặt quả banh và giơ lên cao.

     - Giỏi, giỏi!- Bà mẹ nói- Mẹ muốn con không bao giờ quên điều con vừa làm. Con vẫn có thể giơ cao quả banh chỉ bằng bốn ngón tay thay vì năm ngón. Con cũng có thể có và giữ được một cuộc sống trọn vẹn và hạnh phúc với chỉ bốn giác quan thay vì năm nếu con bước vào cuộc sống bằng sự nỗ lực thường xuyên!

     George không bao giờ quên hình ảnh "bốn ngón tay thay vì năm". Đối với George, đó là biểu tượng của niềm hi vọng. Và cứ hễ mỗi khi bị nhụt chí vì sự khiếm khuyết của mình, George lại nhớ đến biểu tượng này để tự động viên mình. George hiểu ra rằng mẹ cậu đã rất đúng. George vẫn có thể tạo được một cuộc sống trọn vẹn và giữ lấy nó chỉ với bốn giác quan mà cậu có được.

Bỗng chốc...

Bỗng chốc bạn nhận ra rằng có một sự khác biệt tinh tế giữa việc giữ chặt một bàn tay với việc trói buộc một tâm hồn…

…rằng tình yêu không luôn là điểm tựa và chung sống không đồng nghĩa với sum vầy…

…rằng nụ hôn không phải là khế ước và những món quà không phải bao giờ cũng là những lời hứa chân thành…

…rằng có nhiều ngày nắng cũng mang đến những nổi buồn không kém những chiều mưa …

Và bạn học được cách ngẩng cao đầu chấp nhận thất bại, điềm tĩnh như một người lớn chứ không khóc lóc như một đứa bé…

Và bạn bắt tay vào việc ngay hôm nay chứ không trông chờ vào những dự án viễn vông của ngày mai…

Và bạn tự trồng hoa trong vườn nhà để tô đẹp cuộc sống, không trông chờ người khác mang hoa đến…

Và bạn nhận ra rằng bạn có thể chịu được… rằng bạn thật sự mạnh mẽ… rằng cuộc sống đáng yêu hơn bạn tưởng.

Bức tranh.

    Bạn đã bao giờ nghe câu chuyện về Antonio Rossini (1792-1868) chưa? Đó là một tác giả người Italia rất nổi tiếng, nhất là với vở opera “The Barbar of Seville” và “William Tell Overture”. Lúc đó, vị vua của nước Pháp rất ngưỡng mộ ông nên đã mời ông tới và tặng ông một chiếc đồng hồ.

    Ông Rossini rất quý chiếc đồng hồ đó, và thường đem khoe với mọi người. Ai cũng hào hứng chiêm ngưỡng chiếc đồng hồ quý, cho đến một lần, một người bạn của Rossini bảo ông:

     - Tôi chắc chắn rằng anh không biết giá trị thực của chiếc đồng hồ đâu!

     Rossini rất bực nội, phản đối rằng chiếc đồng hồ rất quý, đơn giản vì đó là chính một vị quốc vương đã tặng nó cho ông.

     Nhưng người bạn vẫn lắc đầu:

     - Không phải là lý do đó!

     Nói rồi người bạn cầm lấy chiếc đồng hồ, cẩn thận mở mặt sau của nó ra. Trước sự ngạc nhiên của Rossini: mặt bên trong phía sau của chiếc đồng hồ là bức tranh nhỏ xíu, rất đẹp, vẽ chân dung của Rossini.

     Như vậy là Rossini đã giữ chiếc đồng hồ hàng năm trời nhưng vẫn không biết giá trị thực sự của nó không nằm ở bên ngoài, mà chính là ở bên trong nó.

     Trong cuộc sống cũng vậy, bạn có biết điều gì đã làm cho bạn trở nên giá trị không? Không phải chỉ là những gì bạn thể hiện ra ngoài, mà còn là những gì ở bên trong tâm hồn bạn nữa. Đó mới là bức tranh rõ nhất, hoàn thiện nhất về bạn.

Bức tranh bị bôi bẩn

    Có một anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một ngày kia chàng bắt tay vào việc. Ðể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của chàng sống mãi với thời gian.

    Một buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ . Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình . Cứ thế, chàng từ từ lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép sân thượng. Trong số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét.Tuy nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.     Một sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến tới giá vẽ . Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy. Người họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay người đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy người hoạ sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế. Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: "Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh về tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề, thậm chí là ngay dưới chân mình".

    Vậy nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân bạn.

Bức tranh của bà Sophie

    Bức tranh vẽ cảnh biển của bà Sophie đẹp tuyệt vời những mảng màu với nhau sắc thái khác nhau hoà với những gam màu dịu mắt: xanh da trời, xanh lá, vàng nhạt và nhiều màu đặc sắc khác làm tôn thêm nét đẹp trên từng nét vẽ vốn dĩ tài hoa của bà.

    Cảnh mặt trời lặn sao ma' đẹp lạ lùng! Và nó thật đến mức ta như nghe được tiếng sóng vỗ lừng đợt từng đợt vào bờ. Bà đã cất công ngắm nhìn và nghiên cứu Biển, Mặt trời, Cát, Bờ biển, và bầu trời. Bà Sophie từng là một sinh viên xuất sắc và bà rất xứng đáng với sự nổi tiếng hiện nay. Giờ đây cũng là một thành viên của nhiều câu lạc bộ nghệ thuật trải từ New Mexico đến miền Nam Carolina. Tôi gặp bà Sophie vài năm sau khi tôi gia nhập đội tình nguyện trong các trại dưỡng lão, lúc đó bà đang trong giai đoạn cuối của căn bệnh nan y ung thư. Một ngày thứ bảy, bà gọi điện mời tôi đến nhà giúp "tắm rửa".

     Trên đường lái xe đến nhà bà Sophie, tôi nghĩ mãi về ý nghĩa của hai từ "tắm rửa". Bởi tóc bà đã rụng hết sau những đợt hoá trị liệu, vì vậy chắc chắn chẳng yêu cầu tôi gội đầu cho bà. Nhưng có lẽ bà bảo tôi tắm cho bà thật đấy, có điều trong khoá học, tôi nào được huấn luyện làm công việc tắm rửa đâu. Tôi thầm nghĩ sẽ tìm cách từ chối khéo bà, nếu bà nhất định làm thế.

     Khi bước vào phòng ngủ của bà Sophie, tôi trông thấy bà vẫn duyên dáng, tinh thần vẫn khoẻ khoắn mặc cho căn bệnh ung thư đang ngày đêm dày vò bà. Tôi hỏi bà, và rất lấy làm ngạc nhiên khi đặt câu hỏi như thế với bà: "Bà ơi, bà muốn con tắm cho bà phải không nào ?". Nghe có tiếng người, bà thở hắt ra như trút được gánh nặng trên vai, bà trả lời: "Đúng đấy con ạ"..

     Khi tôi tắm táp cho bà tôi có cảm giác một làn sóng yên bình và phẳng lặng đang toả xung quanh bà và tôi. Trước đây tôi đã vô phòng ngủ của bà Sophie nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi lưu ý đến bức tranh đẹp tuyệt như thế treo bên trên giường. Đó là cảnh biển đẹp lộng lẫy pha chút huyền bí, tôi buột miệng khen: "Bức tranh này đẹp quá!" Bà Sophiè cho biết: "Đấy là bức bà thích nhất đấy". Rồi bà kể tôi biết lý do.

    Vài năm trước, bà và chồng bà, ông Eđie, dọn nhà đến bờ biển Texas để được gần đứa con gái lớn. Bà nói: "Cảnh biển luôn là đề tài bà thích nhất trong hội hoạ- và cũng là một phần thưởng để bà được gần con gái. Thế là hai vợ chồng bà thuê một chiếc xe tải để chở đồ đạc, nhưng vì bà muốn được chính mắt bà "giám sát" mấy bức tranh nên chồng bà đã thuê thêm một chiếc xe tải nhỏ để chỉ chở những bức tranh quí giá về nhà mới.

     Ông Eđie cẩn thận bọc các bức tranh lại và đặt chúng nơi "an toàn" nhất, ở giữa xe tải con. Khi còn 100km nữa bất thình lình cần trục xe bị hỏng, chiếc xe lật nhào và làm đổ hết mọi thứ trên xe. May mắn là Sophie và Eđie chỉ bị trầy trụa nhẹ. Khi vừa đứng dậy được, bà liền kiểm tra lại hàng hoá đang nằm lăn lóc trên đường xa lộ và cánh đồng gần đó, bà vừa nhặt nhạnh mọi thứ vừa cầu mong bảo vệ được những bức tranh quí ấy. Năm phút sau, một viên cảnh sát trưởng đi ngang qua, ông thấy có tai nạn xảy ra nên liền điện về sở nhờ giúp đỡ, một chiếc xe tải to được điều đến để chở tranh và cả những mảnh rời của chiếc xe tải con. Hai vợ chồng bà được đưa về nhà mới ở Corpus Christi, họ ngã lưng ngủ ngay vì mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần sau chuyến đi dài và nguy hiểm này.

     Ngày hôm sau, họ mở các bức tranh ra và bà phát hiện bức "Cảnh biển" đã biến mất. Sau khi kiếm đi kiếm lại trong mớ đồ đạc lỉnh kỉnh, cuối cùng họ đa'nh phải chấp nhận sự thật rằng: bức tranh đã không còn nữa. Họ vội quay trở lại hiện trường để xem xét lần nữa. Nhưng quanh đấy chẳng có gì khác ngoài dấu bánh xe in trên đường, và cỏ bị dẫm nát cho biết một tai nạn đã xảy ra. Họ tìm viên cảnh sát trưởng, và ông báo họ biết: Khi đánh xe về, trên xe tải do cảnh sát điều tới không còn gì bên trong cả".

     Thất vọng, họ quay xe về. Đường về sao dài và ngột ngạt đến thế. Chồng bà lên tiếng xin lỗi: "Anh đã làm em buồn rồi". Bà cố làm ra vẻ không có gì để an ủi ông: "Em sẽ vẽ lại cái khác mà!" Eđie biết khi vẽ bà Sophie thường đặt hết niềm tin, tâm trạng vào từng bức vẽ, vì vậy rõ ràng mỗi bức vẽ đều rất quan trọng đối với bà, nó không dễ dàng như câu bà nói: "Em sẽ vẽ lại cái khác mà!" Không khí buồn bao trùm họ, và họ thừa biết rằng chẳng có bức vẽ nào thay thế được bức "Cảnh biển".

     Suốt tuần kế tiếp đó bà Sophie ở nhà soạn lại đồ đạc, còn ông Eđie thì quay về nhà cũ ở New Mexico để làm cho hết các công việc theo hợp đồng. Vài tuần nữa trôi đi, chợt một hôm ông Eđie nhận được cú điện thoại của vị linh mục ở nhà thờ Si. Pauls' Episcopal, nơi Eđie đi lễ hơn 20 năm qua: "Eđie này, con cần phải ghé qua nhà thờ một chút nhé: có ai gửi con một gói hàng đấy!"

     Khi ông Eđie bước vào nhà thờ và trông thấy gói hàng, ông nhìn sững vào đó. "Cái gì thế nhỉ? Có phải đó là bức tranh của Sophie không?" Đôi tay ông và tim ông run lên từng hồi khi lần mở lớp giấy bọc bên ngoài. Phải nhờ linh mục giúp một tay, Eđie mới bóc được. Vừa nhìn thấy món hàng bên trong lớp giấy, Eđie khóc sụt sùi. Đó là bức vẽ của Sophie. Khung hình bị nhiều vết xước nhưng tranh vẽ vẫn còn nguyên đấy, vẫn đẹp lộng lẫy và huyền bí như xưa. Bên trong có tấm giấy nhỏ: Tôi đang chạy trên giao lộ 37 thì dừng lại nghỉ xả hơi. Chợt tôi thấy một cái hộp trên cánh đồng, tôi mở ra và trông thấy bức tranh tuyệt đẹp này. Tôi nhận ra bức vẽ là của Sophie vì phía sau bức vẽ có ghi tên bà và hàng chữ Artesia, New Mexico. ông ấy còn cho biết: ông biết thành phố Artesia, vì trước đây ông đã sống vài năm ở Artesia. ông cũng nhớ tên Eđie vì Eđie đã hợp đồng với ông làm bảng hiệu cho nhà thờ Si Pauls' Episcipal mấy lần. Ông cho biết ông nhặt được bức vẽ khi trên đường dời nhà từ Tulsa đến Corpus Christi - đoạn đường dài khoảng 1000km. Ông Eđie mừng quýnh, không kìm lòng được, ông liền điện về cho vợ: "Em yêu chắc em không tin nổi đâu nhé? Em biết không bức tranh "Cảnh biển" của em được tìm thấy rồi. Ít lâu sau lần kể cho tôi nghe câu chuyện trên, bà Sophie từ trần. Ông Eđie tặng bức tranh "Cảnh biển" cho nhà thờ và mời tôi đến chọn một bức về cảnh biển khác, tôi là người đấu tiên được ưu tiên chọn trước đấy? Tôi nâng niu trân trọng bức tranh Cảnh biển treo trong nhà thờ và cả bức đang treo ở nhà tôi bởi mỗi bức tranh nhắc nhở tôi rằng Thượng đế đã sắp đặt sẵn cho cuộc đời mỗi chúng ta, càng chẳng vô tình khi sắp đặt phút dừng chân tuyệt vời của ông tài xế nọ để rồi chính ông đã tìm được bức tranh quí giá của Sophie.

    Barbara Jo Reams Russeu

Cái bẫy chuột

    Một con chuột nhìn qua cửa hang và thấy bác nông dân đang mở cái hộp to. Nó nghĩ ngợi rất lâu vì biết đâu trong đó lại có đầy thức ăn?

    Bỗng nó giật mình khi nhìn thấy bác nông dân lôi từ trong túi ra một cái bẫy chuột to tướng.

    Chạy ù qua sân sau, con chuột kêu ầm ĩ:

    - Trong nhà có cái bẫy chuột, trong nhà có cái bẫy chuột!

    Con gà kêu cục tác, chân không ngừng bới đất và đáp:

    - Bác chuột à, đó quả là nỗi lo lắng lớn của bác đấy. Nhưng cái bẫy chuột thì chẳng là gì đối với tôi cả. Tôi ít khi đi vào nhà chủ lắm.

    Con chuột chạy ra chỗ con lợn ỉn:

    - Có một cái bẫy chuột trong nhà kia kìa!

-Rất lấy làm tiếc, bạn chuột thân mến!- Con lợn tỏ vẻ thông cảm- Tôi nằm đây suốt ngày, cái bẫy chuột thì làm gì được tôi.

    Chán nản, chú chuột lại chạy đến chỗ con bò. Nhưng thậm chí nó còn chán nản hơn khi nghe con bò bảo:

    - Trời ơi, một cái bẫy chuột mới rất đáng lưu tâm đấy! Dù sao thì tôi cũng mong những điều tốt lành đến với bạn!

    Thế là con chuột lủi thủi đi vào hang.

    Đêm hôm đó có tiếng kêu vang khắp nhà- tiếng “sập” báo động ở cái bẫy chuột khi bắt được con mồi. Vợ bác nông dân vội vã chạy ra xem.

    Trong bóng tối, vợ bác nông dân không nhìn thấy là cái bẫy đã sập vào đuôi một con rắn.

    Con rắn trong cơn hoảng loạn đã cắn ngay vào chân vợ bác nông dân. Bác nông dân vội vã đưa vợ vào bệnh viện. Độc tố nọc rắn rất cao khiến vợ bác nông dân ốm nặng.

    Mà ai cũng biết người ốm cần phải ăn súp gà, thế là bác nông dân đành làm thịt con gà để nấu súp cho vợ.

    Nhưng vợ bác nông dân không khỏi ốm. Bạn bè, hàng xóm, họ hàng phải đến trông nom suốt ngày. Không thể để cho họ đến ngồi không, bác nông dân quyết định phải làm thịt con lợn.

    Nhưng rốt cuộc vợ bác nông dân vẫn không khỏi bệnh. Cuối cùng bà qua đời và rất nhiều người đến dự đám tang. Bác nông dân chợt nghĩ đến chú bò duy nhất còn lại. Ai sẽ chăm nuôi nó đây trong khi gia đình cũng rất cần một khoản tiền để trang trải nợ nần. Bác nông dân đành làm thịt nốt con bò.

    ==========

    Nếu có bao giờ bạn nghe thấy rằng một ai đó đang gặp vấn đề và nghĩ rằng điều đó chẳng liên quan đến bạn, hãy nghĩ đến câu chuyện này!

Cạm bẫy

"Người Eskimo đã săn chó sói như thế nào trong vùng băng giá và lạnh cóng của Bắc Cực?” là một câu hỏi đã làm nhiều người dày công suy nghĩ để tìm câu trả lời.

Những người Eskimo lấy các lưỡi dao thật bén đem nhúng vào máu động vật, sau đó họ mang ra ngoài trời cho đóng băng lại. Họ làm như vậy nhiều lần để càng lúc lớp băng càng dày thêm, đến một thời điểm mà lớp băng bằng máu bên ngoài hoàn toàn che dấu lưỡi dao bên trong. Tối đến họ găm cán dao xuống tuyết. Những con chó sói đánh hơi được mùi máu của thú rừng từ lưỡi dao và mon men đến. Chúng bắt đầu liếm những lớp băng bằng máu đó, càng lúc càng hăng say hơn với tất cả những sự thèm thuồng. Cho đến một lúc những lớp băng bên ngoài lưỡi dao đã tan chảy hết và chạm đến lưỡi dao. Khi liếm những lưỡi dao, lưỡi của những con chó sói bị đứt và máu chảy ra, nhưng chúng lại tưởng đó là máu của thú rừng nên càng liếm hăng say hơn. Càng chảy máu thì nó càng khát, và càng khát thì nó lại càng liếm … Sáng hôm sau, những ngưởi Eskimo chỉ việc đi thu lượm xác của những con chó sói nằm chết bên cạnh những lưỡi dao đó.

Cái bên ngoài cạm bẫy bao giờ cũng rất hấp dẫn và thật quyến rũ.

Cảm ơn cuộc sống

    Trong những cuộc tranh luận, có đôi khi sự nhân hậu quan trọng hơn là bạn đúng.     Cuộc sống thật khắc nghiệt nhưng chúng ta còn cứng cỏi hơn.

    Lớp học tốt nhất cho những đứa trẻ là theo chân những người lớn tuổi.

    Khi bạn yêu quý một ai đó, đừng ngần ngại nói cho họ biết.

    Lờ đi thực tế không thể thay đổi được thực tế.

    Ai cũng muốn sống trên đỉnh cao nhưng niềm vui và sự trưởng thành chỉ có được khi bạn đang nỗi lực trèo lên đó.

    Không ai hoàn thiện cho đến khi bạn yêu họ.

    Cơ hội không bao giờ bị mất đi. Nếu bạn bắt trượt nó, người khác sẽ giành được.     Tình yêu chứ không phải thời gian sẽ hàn gắn mọi vết thương.

    Little Who

Câu chuyện ba số 3.

Bob Proctor

Tôi vẫn thường điều khiển các buổi hội thảo vào cuối tuần tại Deerhurst Lodge, bắc Toronto. Vào một đêm, cơn bão đã quét ngang một thị trấn nhỏ ở phía bắc chúng tôi, Barrie, giết hại nhiều người và thiệt hại lên đến hàng triệu đô la. Vào đêm Chủ nhật, trên đường về nhà, tôi dừng xe khi chạy ngang qua Barrie. Tôi dừng lại bên đường cao tốc và nhìn quanh. Ngổn ngang. Khắp mọi nơi đều là những căn nhà đổ nát và những chiếc xe bị lật ngược.

Cũng vào đêm đó, Bob Templeton cũng chạy trên con đường cao tốc đó. Cũng như tôi, anh ấy cũng dừng lại để xem sự thiệt hại do thiên tai tạo ra, nhưng suy nghĩ của anh ấy hơn tôi nhiều. Bob là phó chủ tịch của Telemedia Communications, công ty sở hữu một loạt các đài phát thanh ở Ontario và Quebec. Anh ấy nghĩ rằng có thể giúp được những con người khốn khổ này với các đài phát thanh mà công ty anh có.

Đêm kế tiếp, tôi lại điều khiển một hội thảo khác ở Toronto. Bob Templeton và Bob Johnson, một phó chủ tịch khác của Telemedia, cùng đến và họp với nhau. Họ chia sẻ với nhau suy nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó mà họ có thể làm cho người dân Barrie. Sau hội thảo chúng tôi cùng đến văn phòng của Bob. Anh ấy được tất cả mọi người ủy nhiệm trong việc tìm ra phương pháp giúp đỡ mọi người bị thiệt hại sau cơn bão.

Vào tối thứ Sáu, anh ta gọi toàn bộ cấp lãnh đạo của Telemedia vào phòng của anh. Ở phía trên cùng tấm bảng anh viết ba số 3. Anh nói với các vị lãnh đạo "Bằng cách nào các anh có thể kêu gọi được 3 triệu đô trong 3 giờ và chuẩn bị việc này chỉ trong vòng 3 ngày là chuyển số tiền đó cho người dân Barrie vừa gặp thiên tai?" Cả phòng im phăng phắc. Cuối cùng một người lên tiếng "Templeton, anh điên rồi. Không có cách nào để làm được điều đó."

Bob nói "Chờ chút xíu, Tôi không hỏi các anh là chúng ta có thể hay chúng ta nên. Tôi chỉ hỏi là các anh có muốn không." Tất cả đều nói "Chắc chắn là chúng tôi muốn mà." Anh ấy liền gạch dọc chia đôi tấm bảng ra làm 2 phần. Một bên anh viết "Tại sao chúng ta không thể". Bên kia anh viết "Bằng cách nào chúng ta có thể".

- Tôi sẽ xóa phần "Tại sao chúng ta không thể." Chúng ta không phí thời gian cho việc suy nghĩ tại sao chúng ta không thể. Nó vô giá trị. Phía bên kia chúng ta sẽ ghi ra toàn bộ những ý kiến chúng ta nghĩ ra bằng cách nào chúng ta có thể làm được. Chúng ta sẽ không ra khỏi phòng cho đến khi chúng ta chưa tìm ra cách.

Cả phòng lại chìm vào im lặng.

Cuối cùng một người nói "Chúng ta có thể làm một buổi phát thanh trên khắp Canada."

Bob nói "Đó là ý kiến rất tuyệt," và ghi nó lên bảng.

Trước khi anh viết xong đã có người nói "Anh không thể làm buổi phát thanh trên toàn Canada được. Chúng ta không có các đài radio trên toàn Canada." Đó thật sự là một lời phản đối hợp lý. Họ chỉ có đài tại Ontario và Quebec.

Templeton nói "Đó là cái ta có thể làm. Ý kiến đó vẫn ở lại." Nhưng thật sự lời phản đối đó rất mạnh vì các đài radio cạnh tranh nhau dữ dội. Họ không chịu hợp tác với nhau và gần như là không thể làm được điều đó nếu chỉ theo cách suy nghĩ thông thường.

Bất ngờ một người đề nghị "Anh có thể mời Harvey Kirk và Lloyd Robertson, những tên tuổi lớn nhất trong ngành truyền thông ở Canada hướng dẫn chương trình." Từ thời điểm đó, biết bao nhiêu ý kiến sáng tạo đã được nghĩ ra nhanh chóng và mạnh mẽ đến kỳ diệu.

Đó là vào thứ Sáu. Vào thứ Ba họ có một chương trình phát thanh khổng lồ. Có 50 đài phát radio trên toàn quốc đồng ý phát tiếp sóng chương trình. Chẳng ai chú ý đến việc ai có lợi trong chuyện này ngoài chuyện làm sao người dân ở Barrie có được tiền. Harvey Kirk và Lloyd Robertson hướng dẫn chương trình và họ thành công trong việc kêu gọi được 3 triệu đô la cho những người dân gặp thiên tai trong 3 giờ và trong vòng 3 ngày.

Bạn thấy đó, bạn có thể làm được mọi điều nếu bạn tập trung vào việc bằng cách nào đạt được điều đó hơn là vào những điều tại sao bạn không làm được nó.

Câu chuyện cây bút chì

Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc rằng cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ nói chuyện với nhau. Bút chì băn khoăn mãi, anh em của nó cũng không biết gì hơn. Cuối cùng, trước hôm được mang đến các cửa hàng, bút chì hỏi người thợ làm bút rằng nó và anh em của nó sẽ ra sao ở bên ngòai cuộc sống rộng lớn kia.

Người thợ làm bút mỉm cười. Ông nói:

- Có 5 điều cháu và các anh em của cháu nên nhớ khi bắt đầu cuộc sống. Nếu cháu nhớ và làm được thì cháu sẽ trở thành cây bút chì tốt nhất.

Thứ nhất: cháu có thể làm được những điều kì diệu nhất nếu cháu nằm trong bàn tay 1 người nào đó và giúp họ làm việc.

Thứ hai: cháu sẽ cảm thấy đau đớn mỗi khi bị gọt, nhưnng phải như thế cháu mới tốt hơn và có thể tiếp tục cuộc sống của mình.

Thứ ba: nếu cháu viết sai 1 lỗi cháu hãy nhớ để sửa lại được.

Thứ tư: điều quan trọng nhất đối với cháu là những người dùng cháu không phải là nước sơn bên ngoài cháu mà là những gì bên trong cháu đấy.

Và cuối cùng, trong bất cứ trường hợp nào, cháu cũng phải tiếp tục viết. Đó là cuộc sống của cháu, cho dù cháu gặp tình huống khó khăn như thế nào cũng vẫn phải viết thật rõ ràng, để lại những dấu ấn của mình.

Câu thần chú

Có một nhà thông thái,lúc biết mình sắp ra đi theo tổ tiên,liền gọi các con lại bên giường ,chỉ vào kho sách mênh mông của mình và nói:

-Bây giờ cha tiết lộ cho các con một điều bí mật:kho sách vĩ đại của ta chính là một món quà do một vị Thánh đã ban tặng,khi Ngài thấy ta nhà nghèo mà học hành chăm chỉ.Cùng với món quà tặng vô giá đó,Ngài còn bảo:"Trong kho sách vô tận có một quyển sách quý nhất,trong quyển sách quý nhất ấy có một trang quý nhất,trong trang sách quý nhất ấy có ghi một câu thần chú.Ai đọc được câu thần chú ấy sẽ trở thành một nhà thông thái trong những nhà thông thái...

-Cuốn sách nào vậy cha?người con trai cả nhanh nhẩu hỏi

-Chính ta cũng muốn hỏi vị Thánh câu đó,nhưng chưa kịp thì Ngài đã biến mất.

Ngừng lại giây lát rồi người cha trút cạn sinh lực vào lời trăng trối cuối cùng:

-Cả đời ta đã cặm cụi đọc,nhưng vẫn chưa đọc được cuốn sách quý báu ấy.Đời các con còn dài ,các con hãy chăm chú vào việc đọc.Ta hy vọng rằng các con sẽ may mắn hơn ta là tìm được câu thần chú linh thiêng ấy!

Nghe lời căn dặn,những người con của nhà thông thái cần mẫn đọc hết ngày này qua ngày khác.Họ đọc mãi,nhưng vì kho sách dường như là vô tận nên vẫn chưa đọc đến cuốn sách quý báu ấy.Song nhờ những kiến thức thâu lượm được qua ngày tháng ,họ đã trở thành những bậc trí giả khả kính.

Cây xương rồng

    Điều quý nhất của thời gian là nó chỉ thuần tương đối. Theo sự nhất trí chung, phần lớn những hồi tưởng được dành cho người đang bị thì thụp rơi xuống nước và ta không nói quá là con người có thể duyệt lại toàn bộ cuộc tình chỉ trong thời gian ngắn ngủi khi họ cởi đôi găng tay.

    Đấy là việc Trysdale đang làm, khi anh đứng bên chiếc bàn trong căn phòng độc thân anh thuê. Trên mặt bàn là một cây xanh trồng trong một cái lọ bằng đất nung đỏ. Cây này là một loài xương rồng, với những chiếc lá dài thõng, liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như ra dấu hiệu gì đấy.

    Anh bạn của Trysdale, anh trai của cô dâu, đứng kế bên cái tủ bát đĩa, đang phàn nàn vì phải uống rượu một mình. Cả hai đang mặc bộ quần áo dự lễ.

    Trong khi Trysdale đang chậm rãi cởi những cúc găng tay, đầu óc anh nhanh chóng và đau xót hồi tưởng lại những giờ vừa trôi qua. Dường như khứu giác của anh vẫn còn đượm mùi hương từ những lẵng hoa xếp dầy đặc trong nhà thờ và trong tai anh vẫn còn vang tiếng rầm rì của hàng nghìn giọng hát, tiếng xào xạc của trang phục giòn cứng và dai dẳng một cách cố chấp nhất, những lời ê a của vị mục sư đang buộc đời cô vào người khác mà không ai gỡ ra được.

    Như thể do thói quen của đầu óc anh ta, từ khía nhìn chung cục vô vọng này, anh vẫn cố gắng hết mức để đi đến lời lý giải tại sao và làm thế nào anh đã mất cô. Bị một thực tế không thể dung hoà giáng cho anh một cú thô bạo, anh bất ngờ thấy mình đối diện với cái mà từ xưa đến giờ anh chưa bao giờ giáp mặt- cái bản ngã sâu thẳm, nguyên sơ và giản đơn của anh. Anh đã thấy mọi lớp nhung y của trò giả vờ và kiêu kỳ mà anh đã mặc giờ biến thành giẻ rách của tính ngông cuồng. Anh rùng mình với ý nghĩ rằng, từ trước đến giờ, trong con mắt của thiên hạ, trang phục của anh hẳn có vẻ nghèo nàn và tả tơi. Tính phù phiếm và tật hay dối gạt! Đây là những điểm yếu của anh. Và riêng cô thì không bao giờ như thế! Nhưng tại sao…

    Khi cô đi chậm rãi giữa hai hàng ghế dẫn đến bục làm lễ, anh cảm thấy một nỗi đắc thắng thấp hèn, chán ngán vốn vẫn thường nâng đỡ anh. Anh đã tự nhủ là vẻ nhợt nhạt của cô là do ý nghĩ cô dành cho một người nào khác chứ không phải cho người cô sẽ trao cuộc đời. Nhưng ngay điều an ủi tệ hại này cũng không giữ được lâu. Vì lẽ, khi anh thấy cô thoáng ngước lên nhìn, một tia nhìn trong sáng cô dành cho người đoạt được cô, tự anh biết rằng anh đã bị quên lãng. Có một lần, cô đã gửi lên anh cùng tia nhìn này. Thực ra, sự lừa dối của anh đã vỡ vụn, mọi chống đỡ đều không còn. Thế thì tại sao cuộc tình lại chấm dứt? Không có bất hoà giữa hai người, không có gì cả.

    Cả nghìn lần anh đã duyệt lại trong tâm trí anh sự việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi mọi chuyện đều bị đảo lộn.

    Cô luôn khăng khăng muốn tung anh lên mây xanh và anh đã chấp nhận việc này với vẻ huy hoàng. Hương hoa cô dâng lên thật ngọt ngào, thật khiêm tốn (anh tự nhủ như thế), đầy tính trẻ con và đầy vẻ tôn thờ và (có lần anh đoán chắc như thế) thật thành khẩn. Cô đã gán ghép cho anh, đến mức gần như siêu nhiên, mọi đức tính và mọi xuất chúng và mọi tài năng, rồi anh đã hấp thụ việc hiến dâng như thể cây cối sa mạc thu lấy những giọt mưa mà không chắc sẽ nở hoa hay kết trái.

    Trysdale hồi tưởng lại rõ ràng một kỷ niệm đỉnh cao về tính tự kiêu của anh- đầy ngu xuẩn nhưng hối tiếc thì đã muộn.

    Đấy là vào một buổi tối khi anh mời cô lên mây xanh và chia sẻ sự vĩ đại của mình. Giờ thì anh quá đau đớn nên không muốn nhớ lại nhiều về vẻ đẹp đầy thuyết phục của cô tối hôm ấy- mái tóc lượn sóng buông thả, mãnh lực lôi cuốn dịu dàng và trinh nguyên của những tia nhìn và lời nói của cô. Trong khi chuyện trò với nhau, cô nói:

-    Và Thuyền trưởng Carruthers đã cho em biết là anh nói tiếng Tây Ban Nha như người bản xứ. Tại sao anh giấu em một tài năng như thế? Có việc gì mà anh không biết không?     - Thực ra, Carruthers là một anh dốt. Chắc chắn là anh (Trysdale) đã mang tội (đôi lúc anh như thế) thốt lên trong câu lạc bộ của anh một câu châm ngôn nào đấy bằng tiếng Tây Ban Nha mà anh đã moi ra từ mấy thứ hổ lốn trên bìa sau các quyển từ điển. Carruthers, vốn là một trong những người ngưỡng mộ anh hết mình, chính là người đã phóng đại việc phô trương cho một óc thông thái đáng nghi ngờ.

-        Nhưng hỡi ôi! Hương hoa từ lòng ngưỡng mộ của cô đã trở nên quá ngọt và quá bốc! Anh để cho lời gán ghép lan truyền ra mà không đính chính. Không phản đối gì cả, anh đã cho phép cô choàng quanh vầng trán anh cái vòng miện giả hiệu về nền uyên bác Tây Ban Nha. Anh đã để cái vòng miện xoắn xít mềm dịu tô điểm cho cái đầu thích chinh phục của anh, mà không cảm thấy có những gai nhọn đang châm chích và sau này sẽ xuyên thủng cả anh.

-        Cô thật là vui tươi, thẹn thùng và dè dặt làm sao ấy! Cô đã vùng vẫy như con chim bị đánh bẫy khi anh đã đem mọi thứ trọng đại của anh ra đặt dưới chân cô! Anh đã có thể đoán chắc, và giờ anh vẫn đoán chắc mà không nhầm lẫn, là cô đã chấp nhận anh. Chỉ có điều cô không thể trả lời trực tiếp cho anh, vì cô còn e thẹn. Cô bảo: “Ngày mai em sẽ gửi anh câu trả lời” và anh, kẻ chiến thắng buông thả tự tin, đã mỉm cười ban cho cô quyền được trễ hạn.

    Ngày kế, anh nóng nảy trông chờ câu trả lời của cô. Đến trưa, anh nài ngựa của cô đến gõ cửa phòng anh, rồi để lại cây xương rồng lạ lùng trong cái bình đất nung đỏ. Không hề có tờ thư hay lời hay lời nhắn, chỉ có chiếc thẻ cột vào cây xương rồng mang một danh từ ngoại ngữ man di hoặc là một tên thực vật. Anh đã chờ cho đến tối, nhưng vẫn không nhận được câu trả lời của cô. Tự ái to phồng và tính phù phiếm bị thương tổn khiến anh không muốn đến tìm cô. Hai ngày sau, họ gặp lại nhau trong một bữa ăn tối. Họ chào hỏi nhau theo cách bình thường, nhưng cô nhìn anh, ngừng thở, băn khoăn, giận dữ. Anh lịch sự khăng khăng chờ nghe cô giải thích. Với tính nhạy cảm của phụ nữ, cô đoán ra ý anh, rồi trở nên lạnh lùng như băng tuyết. Từ ngày ấy, họ rời xa nhau dần. Anh đã có lỗi chỗ nào? Lỗi thuộc về ai? Giờ trở nên khiêm tốn, anh tìm kiếm câu trả lời giữa những hoang tàn của việc tự thổi phồng. Tiếng nói của người thanh niên kia tọc mạch chen vào luồng hồi tưởng:

    - Này, Trysdale, có chuyện gì vậy? Cậu có vẻ đau khổ cứ như chính cậu là chú rể thay vì chỉ đóng vai phù rể! Nhìn tớ đây này, một món phụ tùng khác, đã đi hai nghìn dặm suốt từ Nam Mỹ trên một chiếc tàu đầy tỏi và gián để nhắm mắt làm ngơ sự hy sinh- hãy nhìn xem tội lỗi tớ chất nhẹ như thế nào trên hai vai! Tớ chỉ có một đứa em gái và giờ nó đã đi. Này, uống tí gì đi để xoa dịu lương tâm của cậu.

    - Tớ không muốn uống gì trong lúc này, cảm ơn.

    Anh bạn đi đến gần anh, tiếp tục:

    - Rượu cô-nhắc của cậu tồi quá. Ngày nào đấy chạy xuống Punta Redonda để gặp tớ và thử mấy thứ ông già Garcia mang lậu vào. Chuyến đi đáng công lắm. A này! Gặp lại cố nhân ở đây! Cậu đào đâu ra cây xương rồng này thế, Trysdale?

    - Món quà từ một người bạn. Có biết loài cây này không?

    - Biết rõ lắm chứ! Nó thuộc miền nhiệt đới. Có hàng trăm cây mọc quanh Punta. Tên nó ghi trên cái thẻ đây này. Có biết một chữ Tây Ban Nha nào không, Trysdale?

    Trysdale đáp, với bóng ma cay đắng của một nụ cười:

    - Không. Đấy là tên Tây Ban Nha à?

-    Đúng thế. Dân bản xứ mường tưởng là những chiếc lá của nó vươn dài để ra hiệu cho ta. Họ gọi nó bởi tên này - Ventomarme. Tên có nghĩa là 'Hãy đến mang tôi đi'.

Chẳng bao giờ quá già cả

    Trong cuộc sống chúng ta, nhiều thành tựu được lập nên khi các nhà khoa học ấy đã bước qua cái tuổi 60. Họ, những người nổi tiếng nhất, đã chứng minh được rằng tuổi tác không phải là vật cản trở bước tiến.

    Ở cái tuổi tám mươi, bà Katherine Graham, vừa là chủ vừa là người xuất bản của tờ Washing Post, đã đoạt được giải thưởng cao quí Pulitzer cho cuốn tự truyện bán chạy nhất, đây là cuốn sách đầu tay và cũng là duy nhất của bà. Từ khi nắm quyền điều hành tờ Washing Post, năm 1963, bà đã đưa tờ báo này vào danh sách: "Thế giới nhân loại"- một tờ báo uy tín lúc đó. Ngoài ra bà còn được coi là thành viên đáng nể nhất trong giới xuất bản báo và bà cũng được chọn là mẫu người tiêu biểu cho mọi thời đại.

    Ông John Glenn, người đầu tiên bay xung quanh quĩ đạo trái đất vào những năm đầu 1960, đã lại tham gia tập huấn chuẩn bị cho chuyến bay 30 năm sau. Trong quá trình tập luyện, dù đã hơn bảy mươi tuổi ông vẫn tham gia đầy đủ mọi bài tập thể lực khắc nghiệt dành cho các du hành gia. Ông được đưa vào vũ trụ, lần này nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu tuổi tác của con người trong không gian cho NASA.

    Vào những năm bảy mươi tuổi, ông Lan Greenspan, khi đó là chủ tịch hội Dự Bị Quân Đội Liên Banh của Mỹ, ông từng làm cho tập đoàn doanh nhân ở Wall Street nháo nhào lên vì luận điểm kinh tế mới do ông đề ra. Ngoài việc chứng minh lý thuyết về duy trì một nền kinh tế vững mạnh của mình, ông còn chứng minh được rằng "lập gia đình ở cái tuổi 70 cũng là một luận điểm rất lý tưởng".

    Ông Bill Graham, khi đã trên tám mươi tuổi vẫn tiếp tục là người có sức ảnh hưởng lớn trên thế giới. Người ta nói ông đã thuyết giáo cho nhiều người nhất. Để theo kịp thời đại, ông vừa mở một trang chủ trên internet.

    Ngoài ra, chúng ta còn biết đến đầu bếp trứ danh Julia Child. Dù đã hơn tám mươi, bà vẫn xuất hiện đều đặn trên các chương trình dạy nấu ăn. Bà còn xuất bản sách dạy nấu ăn, thậm chí bà còn xuất bản hẳn một chương trình phần mềm về phương pháp nấu ăn và những lời khuyên quí báu trong quá trình nấu ăn.

    Hơn nữa, như tục ngữ có câu: "tiếng đàn hay là tiếng đàn được đánh bằng cây đàn cũ". Chúng ta biết có nhiều nghệ sĩ lừng danh thế giới đã đủ sức mạnh minh chứng câu nói này. Điển hình là ông Pallo Casals. Năm ông chín mươi lăm tuổi, một ký giả trẻ tuổi đã đặt cho ông một câu hỏi như sau: "Thưa ông Casals, hiện nay ông đã chín mươi lăm tuổivà được đánh giá là người đánh đàn Cello vĩ đại nhất từ trước đến nay, vậy ông cần gì phải bỏ ra sáu tiếng một ngày để tập đàn vậy?" Và đây là câu trả lời của ông Casals: "Vì tôi nghĩ tôi sẽ còn tiến bộ hơn nữa". Hẳn các bạn từng nghe đến cái tên Goethe, ông hoàn thành tác phẩm bất hủ Faust khi ông tám mươi ba tuổi. Rồi Verdi hoàn tất bản Opera nổi tiếng có tên là Falstaff khi ông cũng trên tám mươi.

    Đấy là lĩnh vực văn nghệ. Còn lịch sử thì sao?

    Trong lịch sử cũng đã chứng minh được rằng một số nhà lãnh đạo xuất chúng trên thế giới vẫn tiếp tục đạt được nhiều thành quả xuất sắc khi họ đã lớn tuổi. Cụ thể là ông Winston Churchill, mãi đến năm sáu mươi hai tuổi ông mới đắc cử chức Thủ Tướng Anh- sau gần cả cuộc đời đấu tranh, phấn đấu rồi thất bại, rồi lại phấn đấu. Quả vậy, thành công to lớn và những đóng góp lớn lao nhất mà ông lập được chính là khi ông lên chức "Lão".

    Mới lần đầu tiên được bầu vào chức thượng nghị sĩ và phải đến năm sáu mươi hai tuổi, ông mới trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Ông phục vụ nhân dân cho đến năm sáu mươi chín tuổi, nhưng sau này ông vẫn tiếp tục miệt mài viết. Ông đã hoàn tất hai tập truyện hồi ký.

    Ông Timmy Carter, tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ, đã trở thành một giáo sư nổi tiếng tại Đại học Emory và là người sáng lập nên Trung tâm Carter khi ông đã năm mươi tám tuổi. Ở tuổi sáu mươi bảy, ông bắt tay vào kế hoạch "dự án đầu tư Atlanta", đây là một dự án mang tính chất quốc gia nhằm tấn công vào những tệ nạn xã hội, vào cái nghèo đói đang bủa vây cuộc sống của dân nghèo. Hiện ông tham gia rất tích cực cho chương trình "Môi trường sống cho nhân loại", đây là một chương trình xây dựng nhà tình thương cho các hộ gia đình nghèo đói.

    Hẳn các bạn vẫn chưa quên vị tổng thống Ronald Reagan nhỉ? Ông sinh năm 1911, và phải đến gần lần mừng sinh nhật thứ bảy mươi ông mới lên được chức tổng thống. Ở cái tuổi bảy mươi bảy, ông kết thúc hai nhiệm kỳ tổng thống.

    Sandra Day O'connor, ở cái tuổi năm mươi mốt, trở thành người phụ nữ đầu tiên được chọn là trợ lý thẩm phán trong tòa án tối cao Mỹ. Hơn thế nữa, nếu các bạn biết được rằng bà đã phải ngày đêm vật lộn và đấu tranh để vượt qua căn bệnh ung thư hiểm nghèo thì mới thấy hết sự phi thường trong người phụ nữ tưởng như nhỏ bé ấy. Bà tiếp tục phục vụ trong tòa án đến gần bảy mươi tuổi mới thôi.

    Quả thật, còn nhiều cái "nhất" được lập nên bởi những người đã bước vào tuổi sáu mươi hoặc trên sáu mươi. Thêm một điển hình nữa, đó là: ông George Eastman, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, nhưng ông đã phấn đấu không mệt mỏi để rồi cuối cùng thành lập được công ty Eastman Kodak. Ông kiếm được rất nhiều tiền nhưng không vì thế mà ông đạp đổ hết mọi giá trị nhân đạo. Ông trân trọng đồng tiền và biết cách tiêu xài cho người khác, ông giữ lại rất ít cho bản thân. Còn nhớ lúc ông sáu mươi lăm tuổi, ông đã tặng 1/3 số cổ phần có trong công ty cho các công nhân, lúc đó trị giá 10 triệu đô la. Ông cũng là người đầu tiên trên thế giới hình thành nên chế độ "phụ cấp" cho công nhân trực thuộc, chẳng hạn như chế độ lương hưu, chế độ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tai nạn lao động.

    Ngoài ra, trong các lần trao giải Nobel- một giải uy tín trên thế giới, thì số người trên sáu mươi tuổi được nhận phần thưởng vinh dự này cũng không phải là hiếm. Trong số đó, nổi bật nhất hẳn phải kể đến Mẹ Teresa. Khi đã ở cái tuổi gần thất thập cổ lai hy, sáu mươi chín, Mẹ Teresa đã nhận được giải Nobel Hoà Bình cao quí do những đóng góp hết sức tích cực cho nhân dân nghèo ở Calcutta, Ấn Độ.

    Bên cạnh đó, một số tổ chức lâu đời và uy tín trên thế giới được thành lập và phát triển mạnh mẽ nhờ vào đội ngũ nhưng người trên sáu mươi tuổi. Trong số đó phải kể đến tiến sĩ Ethel Percy Andrus, người đã thành lập và sau đó nhận chức chủ tịch của hội Giáo Viên hưu trí toàn quốc ở cái tuổi sáu mươi lăm. Rồi đến năm bảy mươi tư tuổi, một lần nữa bà thành lập hội người hưu trí ở Mỹ. Sau đó bà còn đóng góp thêm trong các phong trào chăm lo sức khỏe và cả các dịch vụ du lịch cho người hưu trí (dĩ nhiên lúc đầu họ chi du lịch trong nước mà thôi). Ngoài ra, bà còn thành lập Viện nghiên cứu học tập trường kỳ; rồi các dịch vụ nghiên cứu các vấn đề hưu trí; các hội phúc lợi xã hội và hội quốc tế AARP.

    Cha "Abraham" cũng là một nhân vật nổi tiếng. Mãi đến năm bảy mươi lăm tuổi, ông mới được Chúa gõ cửa và báo cho biết ông sẽ là người sáng lập nên một quốc gia vĩ đại. Chẳng biết trời xui đất khiến thế nào mà ông Abraham quyết định dọn nhà khỏi nơi chôn nhau cắt rốn: Mesopotamia, đây là nơi mà gia đình ông được liệt vào tầng lớp quí tộc. Sau đó ông chuyển đến Palestine, một vùng đất xa lạ mà ông không hề mảy may biết trước đó. Vốn là tu sĩ của đạo Isaue và Ishmael, sau này ông được tôn lên làm ông tổ của ba giáo phái chính ở Palestine: Đạo Do Thái, đạo Hồi và đạo Cơ Đốc. Lúc đó, số người theo đạo của ông đã lên đến con số chóng mặt và được người đời so sánh: "Đông hơn cả cát trên bãi biển".

    Thế đấy! Thế còn các bạn thì sao? Các bạn đang già đi, đang thu hẹp không gian sống cũng như những nhân vật sáng chói trên đây, nghĩa là vẫn đang tiếp tục sống vui vẻ, sống có ích và tích cực cho xã hội? Nếu có thể, xin các bạn hãy ngẫm nghĩ câu nói của Jane Brody, người phụ trách chuyên mục sức khỏe của tờ báo New York Times: "Thà chết trẻ còn hơn là sống thọ mà vô dụng".

Chẳng bao giờ trễ cả

    Với dải tua của chiếc nón tốt nghiệp lủng lẳng trước mặt, tôi mới tin giấc mộng mình đã trở thành hiện thực: tốt nghiệp đại học ở cái tuổi 68. Đấy là một chiến công, dù thành quả mà tôi có được hôm nay phải đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt.

    Ngày xưa tôi từng có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, hai vợ chồng chúng tôi cùng nhau đi du lịch, vui đùa với con cái và họp mặt với bạn bè. Rồi sau đó chồng tôi qua đời. Trước giờ tôi chưa bao giờ làm bất cứ một việc gì mà không có ông ấy bên cạnh. Chưa bao giờ cả! Ông mất, tôi chới với giữa dòng đời. Thế rồi tôi chợt nhận ra rằng hoặc tôi ở nhà khóc than cho sự mất mát quá đỗi to lớn của mình hoặc tôi phải làm được điều mà tôi ấp ủ lừ bấy đến nay: học đại học.

    Đấy cũng là quyết định táo bạo nhất. Cho đến lúc đó, quyết định đi học là một chuyện, còn làm được hay không lại là chuyện khác. Ngày đầu tiên đến lớp, tôi lo lắm; nói đúng hơn là sợ hãi hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu. Liệu mình có tìm đúng lớp không? Liệu mình có trông giống quái vật giữa sân trường không? Các giáo sư có khi nào nghĩ là mình chỉ ham vui không? Liệu mình có làm nổi các bài tập không? Và lỡ mình dở hơn các bạn trẻ trong lớp thì sao? Rồi ngày học đầu tiên cũng trôi qua. Tôi thấm mệt. Nhưng tôi lại cảm thấy rất khoan khoái, phấn chấn trong lòng. Tôi biết tôi có thể học được. Dù căng thẳng lắm, nhưng những kiến thức mới mà tôi tiếp thu được hoàn toàn rất xứng đáng. Tôi thích nhất là môn văn học sử. Ngồi nghe các chuyên gia nói chuyện thật là thú vị. Tuy nhiên, niềm vui bất ngờ nhất vẫn là được học tập cùng với các bạn trẻ khác. Sự khác biệt về tuổi tác không phải là rào cản giữa chúng tôi, dù rằng lúc đầu tôi cũng hơi khó chịu khi bị các bạn trẻ gọi tôi trực tiếp bằng tên. Các bạn trẻ rất vui tính; chúng tôi thảo luận về lớp học, cùng nhau học tập và đi dạo. Thậm chí một cậu bé còn dạy tôi sử dụng vi tính. Và điều tuyệt vời hơn cả: chẳng ai đề cập đến cholesterol. Và tôi cũng được nhiều giáo sư quan tâm (họ đáng tuổi con cái tôi). Tôi nghĩ có lẽ họ chưa bao giờ thấy một học sinh nào lại chăm chú nghe giảng như tôi.

    Dần dần, các bạn trẻ xem tôi như là một nhân chứng lịch sử sống. Nhất là giờ học lịch sử, chẳng ai trong lớp tôi mường tượng được cuộc sống thời khủng hoảng là thế nào cả. Nhưng mà tôi biết và tôi được mời lên kể cho lớp nghe. Khi biết tin tôi đi học, bạn bè tôi đa số đều bảo là tôi điên, thậm chí đôi khi tôi cũng nghĩ mình như thế đấy? Nào là bài thi, những giờ vùi đầu làm báo cáo, những lúc phải chạy ngược xuôi để đổi lớp. Tuy nhiên những khó khăn đó không hề cản trở tôi tiến lên, kể cả những giờ giáo dục thể chất. Tôi đã quyết định phải làm tất cả để lấy được bằng đại học.

    Cũng may các con gái tôi luôn ủng hộ tôi, chúng luôn giúp đỡ tôi trong việc học. Nghĩ cũng lạ nhỉ! Bây giờ mẹ con chúng tôi đổi vai cho nhau. Các con tôi đã lên kế hoạch đến thăm trường tôi. Các con giúp tôi làm bài tập y như ngày bé tôi từng làm cho chúng. Chúng tỏ ra thông cảm cho tôi khi lắng nghe tôi kể về một giáo sư khó tính nào đó và khuyên tôi đừng lo lắng về thành tích học tập quá! (Chúng còn dám bảo rằng tôi đang trở về với thời của chúng, cái thời mà chúng cũng rất hay lo lắng vẩn vơ). Ngoài việc học trên lớp, tôi chợt nhận ra mình cũng có thể du học bằng nguồn tài trợ của trường trong những đợt nghỉ hè.

    Một lần tôi tham gia chuyến đi đến Đông Âu. Lần khác, chúng tôi được dịp tìm hiểu nhưng bí quyết về nghệ thuật Ý ngay tại nước Ý. Hồi xưa tôi thường chu du khắp thiên hạ cùng chồng nên chưa bao giờ đi một mình như thế cả. Dĩ nhiên ở chuyến đi một mình đầu tiên ấy tôi rất sợ. Có điều tôi luôn được nhiều người giúp đỡ chăm sóc. Và nhờ vậy mà tôi có thể đi lên bằng chính đôi chân của mình. Trước đây tôi cứ nghĩ đơn giản rằng cứ đọc nhiều sách vô thì có được nhiều kiến thức, ngày nay tôi mới nhận ra rằng có những kiến thức mà chỉ đọc sách thôi không đủ; ngược lại phải có trường học, giáo viên, bạn bè cung cấp nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý giá mà sách không có. Bây giờ nhìn lại quãng thời gian đã qua, tôi nhận ra rằng đi học làm tôi tươi trẻ. Tôi chưa bao giờ biết chán. Tôi sẵn sàng tiếp thu nhiều kinh nghiệm và quan điểm sống. Và điều quan trọng nhất đó là tôi dần lấy lại được sự tự tin. Và tin chắc rằng tôi sẽ tự làm được mọi thứ. Tôi còn nhớ cái ngày trước đêm nhà tôi qua đời, ông đã kêu tôi vào phòng và yêu cầu tôi hứa phải đi học Đại học lại. Ông khuyên tôi thẳng bước lên phía trước và bằng mọi giá hoàn thành ước nguyện của mình. Hôm nay, bốn năm sau ngày ông mất, tôi được gọi tên để lên nhận bằng. Tôi chợt có cảm giác như ông đứng lẩn khuất đâu đó và đang vỗ tay tán thưởng tôi.

Chỉ chừng trăm bước nữa ...

Frederick Van Ryn

Hồi đó tôi hai mươi lăm tuổi, thất nghiệp và đói. Đã nhiều lần rồi tôi ở trong tình cảnh như vậy , tại Constantinople, tại Paris,tại Rome. Nhưng tại New York mà ngay cái không khí người ta thở cũng có cái vị hạnh vận thành công, mà thất nghiệp thì thật là tui nhục quá.

Tôi hoàn toàn không biết xoay xở ra sao, điều đó chẳng có gì lạ. Tôi muốn kiếm ăn bằng ngòi bút nhưng không biết được tiếng Anh. Thành thử suốt ngày tôi lang thang ngoài phố, không phải vì thích thể thao đâu mà để bà chủ nhà khỏi bận mắt.

Một hôm, trên con đường 42, tôi đụng đầu với một người to lớn tóc hung hung. Tôi nhận ra liền: Féodor Chaliapine, kép hát Nga nổi tiếng. Hồi thiếu niên, tôi đã nhiều lần đứng nối đuôi mua giấy hạng bét để nghe ông ta hát ở rạp Đế quốc Hí viện Moscou. Hồi làm báo ở Paris, tôi có lần lại phỏng vấn ông ta. Tôi tưởng ông ta không nhận ra được, không ngờ nhận ra được.Ông ta hỏi tôi:

- Bận lắm không?

Tôi đáp lí nhí một câu mơ hồ. Có lẽ ông ta đoán được tình cảnh của tôi.

- Theo tôi về khách sạn tôi trọ ở góc đường Broadway và đường 103 nhé? Chúng mình cùng đi bộ. Lúc đó đã giữa trưa và tôi đã đi lang thang năm giờ rồi.

- Nhưng, ông Chaliapine ạ, từ đây tới đó năm sáu cây số lận.

Ông ta ngắt lời tôi:

- Điên nào. Chưa đầy trăm thước.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Trăm thước ?

- Thì vậy chứ sao? Tôi không nói là tới khách sạn, dĩ nhiên. Là tới gian bắn ở đại lộ 6 ấy.

Tôi chẳng hiểu gì cả. Nhưng cũng đi theo. Một lát chúng tôi tới trước gian hàng đó, đứng ngó hai chú lính thủy bắn vào một cái bia, đều đều, không biết bao nhiêu lần. Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi. Ông Chaliapine vui vẻ bảo tôi:

- Bây giờ còn hơn một cây số nữa.

Tôi gật đầu. Một lát sau tới Carnegie Hall, ông Chaliapine bảo tôi ông ta thích nhìn vẻ mặt những người lại mua giấy nghe hòa nhạc ở Viện âm nhạc. Chúng tôi ngừng lại vài phút rồi tiếp tục đi. Lần này ông nhanh nhầu bảo:

- Chỉ còn tám trăm thước là tới vườn thú của công viên trung ương. ở đó có một con tinh tinh (gorille) giống một kép hát có giọng cao mà tôi quen.

Chúng tôi lại thăm con tinh tinh. Cách đó một ngàn hai trăm thước, về tới đường Broadway, chúng tôi ngừng trước một tiệm tạp hóa. Trước cửa tiệm có bày một thùng dưa leo, Chaliapine trố mắt ra ngó dưa leo một lúc: bác sĩ cấm ông ta ăn dưa leo.

- Chà, coi ngon quá. Trông thấy mà nhớ tuổi trẻ của tôi

Còn tôi, tôi tự hỏi sao chưa ngất ngư chứ, mà lại thấy khỏe mạnh hơn bao giờ nữa. Chúng tôi ngừng một lần cuối cùng nữa ở đường 90 để ngắm những hàng trái cây tại một chợ, trước một trạm xe điện mới sơn lại, góc đường 96, và sau cùng nó tới khách sạn. Chaliapine cười, bảo tôi:

- Đường đâu có xa, phải không? Bây giờ tụi mình đi ăn.

Sau một bữa thịnh soạn, ông mới cho tôi hiểu tại sao bắt tôi đi bộ 6 cây số đó. Giọng ông nghiêm trang:

- Thầy sẽ không bao giờ quên lần đi bộ hôm nay đâu.Tôi đã cho thầy một bài học nhỏ đấy . Đừng bao giờ lo lắng, buồn rầu vì đích còn ở xa. Chỉ nghĩ tới cái gì ở cách ta một trăm thước thôi. Đừng lo ngại về một tương lai bấp bênh. Chỉ nghĩ tới những cái vui ngày hôm sau thôi, dù nó tầm thường tới mức nào đi nữa.

Nhiều năm đã trôi qua. ông Chaliapine đã qui tiên mà hầu hết những điểm làm mục tiêu trong lần đi bộ không sao quên được dó, hiện nay cũng không còn, cảnh vật đã biến thiên. Nhưng trong bao nhiêu năm đó, triết lý thực tế của ông đã giúp tôi dược nhiều.

Nó đã giúp tôi khi tôi quyết định học tiếng Anh.Không khi nào tôi tự hỏi: "Phải học bao năm nữa mới viết được thứ tiếng đó".

Trái lại tôi tự nhủ: "Hôm nay trên tờ Times có hai mươi tám tiếng mình chưa biết. Ngày mai sẽ còn không tới hai mươi tiếng".

Triết lý đó cũng giúp tôi giữ vững được tinh thần khi vì một sự lầm lỡ của các người hùn vốn, tôi buộc phải trả cho chủ nợ nửa số tiền mà tôi hy vọng kiếm được trong bốn năm sau. Nếu trong 208 tuần lễ đó, tôi cứ nghĩ bụng hoài rằng phải sống cực khổ thì chắc chắn tôi đã nản chí mà không kiếm được một đồng nào cả. Nhưng tôi chỉ tự nhủ; "Thứ hai, thứ tư và thứ sáu, mình sẽ làm cho mình" . Nghĩ vậy thì mọi sự thay đổi hết. Tôi trả được hết nợ mà kiếm được đủ sống, không đến nỗi thiếu thốn .

Qui tắc trăm bước của Chaliapine đó là một hoàng kim quy tắc. Ai cũng có thể theo mà thấy có lợi. Có thể rằng cái đích ta nhắm còn xa thăm thẳm đấy, nhưng không đầy trăm bước là "tới đại lộ 6". Như vậy cứ từng chặng từng chặng một, chúng ta chẳng những sẽ tới đích, mà trên đường còn được hưởng nhiều cái vui nữa.

Chiếc bao giận hờn

    Một hôm thầy giáo của chúng tôi bảo mỗi người mang theo một bao khoai tây vào lớp. Thầy dặn chúng tôi ghi tên những người mà cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa tha thứ được lên các củ khoai, mỗi người tương xứng với một củ. Khi cho khoai vào bao, chúng tôi nhận thấy một số bao rất nặng nề.

    Sau đó thầy yêu cầu chúng tôi mang bao này theo mình trong vòng một tuần. Khi thì đặt nó bên cạnh giường ngủ, trên ghế xe hơi lúc lái xe, khi thì đặt bên bàn làm việc. Sự phiền toái vì lúc nào cũng có một bao khoai kè kè bên mình đã giúp chúng tôi nhận thấy gánh nặng tinh thần to lớn mà mình đang phải mang theo. Hơn nữa, chúng tôi còn phải luôn để mắt đến nó để không bỏ quên và cứ phải đặt nó ở những nơi thật dễ thấy khiến cho chúng tôi bị bẽ mặt. Dĩ nhiên sau một thời gian những củ khoai tây trong bao dần dần bị hư thối hoàn toàn.

    Thấy đã muốn chỉ cho chúng tôi thấy cái giá mà chúng ta phải trả khi luôn cất giữ bên mình những nỗi giận hờn, phiền muộn và bi quan. Chúng ta thường nghĩ rằng sự tha thứ là một món quà ta dành cho người khác, nhưng thực chất đó chính là món quà dành cho bản thân chúng ta.

    Từ đó về sau, mỗi khi cương quyết không tha thứ cho một ai, chúng tôi luôn nhớ đến bài học này của thầy và tự hỏi liệu túi khoai tây thối của chúng tôi đã đủ nặng hay chưa.

Chiếc cầu

    Tại Học viện Quân sự West Point (Mỹ) trong một tiết học về môn kỹ thuật, khi giáo sư ra đề tài vẽ một chiếc cầu, dĩ nhiên sinh viên của trường phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế cho mục tiêu quân sự. Các sinh viên khác đều thiết kế một cái cầu theo tiêu chuẩn và kỹ thuật như đã học ở phần lý thuyết. Riêng Whister lại không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự. Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng, bắc qua một mỏm núi cao với một gam màu sáng của ánh mặt trời đang ló dần trên đỉnh. Dọc hai bờ sông là thảm cỏ xanh rì. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng câu cá trên chiếc cầu ấy.

     Vị giáo sư cầm bức tranh lên quan sát và tỏ vẻ không ưng ý chút nào. Ông yêu cầu anh phải xóa hình ảnh hai đứa bé. Whister ngẫm nghĩ một hồi bèn đặt cọ lông di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ bên bờ sông. Lần này vị giáo sư tỏ ra giận dữ, ông quát to và đập tay xuống bàn: "Tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh".

     Không thể vẽ thiên nhiên mà thiếu bóng dáng con người, Whister bèn vẽ hai ụ đất trên thảm cỏ dọc theo dòng sông như muốn vị giáo sư hiểu ngầm rằng anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.

     Người sinh viên ấy là họa sĩ tài ba James Mc.Neil Whister.

    Với anh, chiếc cầu bắc qua dòng sông là để nối liền đôi bờ và chiếc cầu nối liền đôi bờ là để con người ở hai bờ sông liên lạc với nhau. Không thể được gọi là cầu nếu chiếc cầu không dùng để đi lại, thông thương hay chiếc cầu sẽ trở thành vô nghĩa nếu thiếu vắng sự qua lại của con người.

     Hằng ngày, chúng ta cũng đang vẽ bức tranh của những chiếc cầu gặp gỡ, cảm thông, yêu thương để xóa đi những ngăn cách, những hận thù. Một cử chỉ hỏi thăm, một nụ cười, một cái bắt tay, một ánh mắt cảm thông của con người đang là những thanh gỗ được ghép lại thành chiếc cầu để nối kết nhân loại.

     Con người chỉ có thể sống hòa bình và an vui khi giữa chúng ta được nối kết bằng những chiếc cầu của gặp gỡ, yêu thương và tha thứ.

Chúng ta quyết định số phận của chính mình

Leonardo DaVinci vẽ bức tranh “Bữa tiệc ly” mất bảy năm liền. Ðó là bức tranh vẽ Chúa Jesus và 12 môn đệ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị môn đệ Judas phản bội.

Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện, một tính cách thanh khiết tuyệt đối làm người mẫu vẽ Chúa Jesus. Da Vinci làm việc không mệt mỏi suốt sáu tháng liền trước chàng trai và hình ảnh Chúa Jesus đã hiện ra trên bức vẽ.

Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 vị môn đệ, chỉ còn có Judas, người môn đệ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Hoạ sĩ muốn tìm một người đàn ông có khuôn mặt hằn lên sự hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả và cực kỳ tàn ác. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình… Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất, Vinci đều thấy vẫn chưa đủ để biểu lộ cái ác của Judas. Một hôm, Da Vinci được thông báo có một kẻ mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Roma, bị kết án tử hình vì giết người và nhiều tội ác tày trời khác…

Da Vinci lập tức lên đường đến Roma. Trước mặt ông là một gã đàn ông nước da đen sạm với mái tóc dài bẩn thỉu xoã xuống gương mặt, một khuôn mặt xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hoá. Ðúng, đây là Judas!

Ðược sự cho phép đặc biệt của đức vua, người tù được đưa tới Milan, nơi bức tranh đang vẽ dang dở. Mỗi ngày tên tù ngồi trước Da Vinci và người hoạ sĩ thiên tài cần mẫn với công việc truyền tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.

Khi nét vẽ cuối cùng hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Vinci quay sang bảo với lính gác: “Các ngươi đem hắn đi đi…”.

Lính canh túm lấy kẻ tử tù nhưng hắn đột nhiên vùng ra và lao đến quỳ xuống bên chân Da Vinci, khóc nức lên: “Ôi, ngài Da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không nhận ra con ư?”.

Da Vinci quan sát kẻ mà sáu tháng qua ông đã liên tục nhìn mặt. Cuối cùng ông đáp: “Không, ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được đưa đến từ hầm ngục Roma…”. Tên tử tù kêu lên: “Ngài Vinci… Hãy nhìn kỹ tôi! Tôi chính là người mà bảy năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Jesus…”

Câu chuyện này có thật, như bức tranh “Bữa tiệc ly” là có thật. Chàng trai từng được chọn làm hình mẫu của Chúa Jesus, chỉ sau hơn 2000 ngày đã tự biến mình thành hình tượng của kẻ phản bội ghê gớm nhất trong lịch sử.

Tương lai không hề được định trước. Chính chúng ta là người quyết định số phận của chính mình…

Chúng tôi chưa bao giờ cho anh ta biết anh ta không thể làm được

Tác giả:Kathy Lamancusa-Dịch giả:Steve.au

Khi con trai Joey của tôi sinh ra thì chân nó đã bị trẹo lên về phần dưới bụng của nó. Đây là lần làm mẹ đầu tiên của tôi , tôi nghĩ rằng hiện tượng của Joey sẽ không sao , tôi không biết chuyện gì xảy ra đến với Joey cho tới khi tôi được bác sĩ cho biết là Joey khi sinh ra đã bị vẹo chân. Các bác sĩ đảm bảo với vợ chồng chúng tôi rằng với sự điều trị của họ Joey có thể đi lại bình thường nhưng sẽ không bao giờ chạy được tốt như những người bình thường khác. Trong suốt 3 năm đầu , Joey phải thường xuyên sống trong bệnh viện và với một cái niềng bó vào chân. Chân của cậu ta được mát-xa , được tập luyện đi bộ, vận đông mỗi ngày và theo thời gian khi Joey được 7,8 tuổi , bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng Joey đã từng có vấn đề với đôi chân của mình khi nhìn anh ta đi bộ. Khi đi những đoạn đường dài ( như là đi lòng vòng trong công viên...) Joey thường cảm thấy chân mình rất mỏi và đau nên chúng tôi đã dừng lại ngồi nghĩ ngơi uống sôđa , ăn kem , cùng đứa con mình nói chuyện , ngắm cảnh. Chúng tôi không cho Joey biết tại sao chân nó lại dễ bị đau và yếu như vậy. Chúng tôi đã không nói cho nó biết , vì thế Joey đã không biết . Những đứa trẻ hàng xóm chạy nhảy chơi đùa với nhau vui vẻ, Joey nhìn chúng chơi và dĩ nhiên Joey cũng ra khỏi nhà cùng chơi với chúng. Chúng tôi không bao giờ cho Joey biết rằng nó không thể chạy tốt như những đứa trẻ khác được. Chúng tôi đã không cho Joey biết là nó có sự khác biệt với những đứa trẻ khác. Năm Joey học lớp 7, nó quyết định đi theo đội chạy việt dã tập luyện. Mỗi ngày nó đều tập với đội. Joey dường như chăm chỉ hơn và tập chạy nhiều hơn bất kì những người nào khác trong đội. Có lẽ, nó nhận ra rằng cái khả năng chạy của mình không được giống như nhiều người khác. Chúng tôi đã không nói cho Joey biết điều đó mặc dù nó vẫn có thể chạy, Joey luôn là người bị bỏ lại phía sau trong nhóm. Chúng tôi không nói với Joey rằng nó sẻ rất khó có thể được chọn vào đội của trường. Đội sẽ gồm bảy người có khả năng chạy tốt nhất trường và có khả năng mang về chiến thắng cho nhà trường. Joey cứ tiếp tục chạy 4 đến 5 dặm mỗi ngày. Tôi không bao giờ quên được cái khoảng thời gian mà Joey bị sốt tới 103 độ(F). nó không thể ở nhà vì nó còn có bài tập chạy ở trường. Tôi lo lắng cho Joey suốt cả ngày hôm đó. Tôi cứ ngồi ở nhà mà cầu cho nhà trường gọi điện về nhà yêu cầu tôi đưa Joey về ,nhưng lại không có cú gọi nào. Tôi quyết định ra khu tập chạy của trường nó và nghĩ rắng nếu tôi ở đó có lẽ Joey sẽ quyết định hoãn lại việc tập luyện của nó. Khi tôi tới , Joey đang chạy một mình dọc theo hàng cây bên đường. Tôi lái xe từ từ chạy song song với nó. Tối hỏi Joey nó cảm thấy thế nào. "OK"-Joey trả lời. Joey chỉ còn phải chạy hơn 2 dặm đuờng nữa là xong. Khi những giọt mồ hôi rơi xuống mặt Joey , mặt nó trở nên đờ đẫn cùng với cái sốt trong người nó, nhưng Joey vẫn tiếp tục chạy. Chúng tôi chưa bao giờ nói với Joey rằng nó không thể chạy suốt 4 dặm với cái sốt 103 độ. Chúng tôi không nói cho nó biết ,cho nên nó không biết. Hai tuần sau, ngày trước khi cuộc đua bắt đầu, tên của những động viên được chọn được công bố.Joey đứng thứ 6 trong danh sách. Joey đã được chọn khi học lớp 7, sáu thành viên còn lại tất cả đều là học sinh lớp 8. Chúng tôi chưa bao giờ nói với Joey rằng nó không thể được chọn vào " Đội " , chúng tôi chưa bao giờ nói rằng nó không thể làm được...cho nên nó không biết. Joey đã làm được điều mà tưởng như không thể.

Chuyện cây táo

    Ngày xửa ngày xưa có một cây táo to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo mỗi ngày. Nó leo lên ngọn cây hái táo ăn, ngủ trưa trong bong râm. Nó yêu cây táo và cây cũng rất yêu nó.Thời gian trôi qua, cậu bé đã lớn và không còn đến chơi với cây táo mỗi ngày. Một ngày nọ, cậu bé trở lại chỗ cây táo với vẻ mặt buồn rầu, cây táo reo to:

     - Hãy đến chơi với ta.

-    Cháu không còn là trẻ con, cháu chẳng thích chơi quanh gốc cây nữa. Cháu chỉ thích đồ chơi thôi và cháu đang cần tiền để mua chúng.

-    Ta rất tiếc là không có tiền, nhưng cậu có thể hái tất cả táo của ta và đem bán. Rồi cậu sẽ có tiền.

     Cậu bé rất mừng. Nó vặt tất cả táo trên cây và sung sướng bỏ đi, Cây táo lại buồn bã vì cậu bé chàng quay lại nữa. Một hôm, cậu bé- giờ đã là một chàng trai- trở lại và cây táo vui lắm:

-    Hãy đến chơi với ta.

-    Cháu không có thời gian để chơi. Cháu còn phải làm việc nuôi sống gia đình. Gia đình cháu đang cần một mái nhà để trú ngụ. Bác có giúp gì được cháu không?

-    Ta xin lỗi, ta không có nhà. Nhưng cậu có thể chặt cành của ta để dựng nhà.

     Và chàng trai chặt hết cành cây. Cây táo mừng lắm nhưng cậu bé vẫn chàng quay lại. Cây táo lại cảm thấy cô đơn và buồn bã.

     Một ngày hè nóng nực, chàng trai- bây giờ đã là người có tuổi- quay lại và cây táo vô cùng vui sướng.

     - Hãy đến chơi với ta.

-    Cháu đang buồn vì cảm thấy mình già đi. Cháu muốn đi chèo thuyền thư giãn một mình.

-    Bác có thể cho cháu một cái thuyền không?

-    Hãy dùng thân cây của ta để đóng thuyền. Rồi cậu chèo ra xa thật xa và sẽ thấy thanh thản.

     Chàng trai chặt thân cây làm thuyền. Cậu chèo thuyền đi. Nhiều năm sau, chàng trai quay lại.

-    Xin lỗi, con trai của ta. Nhưng ta chẳng còn gì cho cậu nữa. Không còn táo.

-    Cháu có còn răng nữa đâu mà ăn.

-    Ta cũng chẳng còn cành cho cậu leo trèo.

-    Cháu đã quá già rồi.

-    Ta thật sự chẳng giúp gì cho cậu được nữa. Cái duy nhất còn lại là bộ rễ đang chết dần mòn của ta- cây táo nói trong nước mắt.

-    Cháu chẳng cần gì nhiều, chỉ cần một chỗ ngồi nghỉ. Cháu đã quá mệt mỏi sau những năm đã qua.

-    Ôi thế thì cái gốc cây già cỗi này là một nơi rất tốt cho cậu ngồi dựa vào và nghỉ ngơi. Hãy đến đây với ta.

     Chàng trai ngồi xuống và cây táo mừng rơi nước mắt.

     Đây là câu chuyện của tất cả chúng ta. Cây táo là cha mẹ chúng ta. Khi chúng ta còn trẻ, ta thích chơi với cha mẹ. Khi lớn lên, chúng ta bỏ họ mà đi và chỉ quay trở về khi ta cần họ giúp đỡ. Bất kể khi nào cha mẹ vẫn luôn sẵn sàng nâng đỡ chúng ta để ta được hạnh phúc. Bạn có thể nghĩ cậu bé đã rất bạc bẽo với cây táo nhưng đó cũng là cách mà chúng ta đang đối xử với cha mẹ mình đấy.

Có ai ghen với kỷ niệm hay không ?

    Mọi người thường kháo rằng: Hãy rộng lượng với quá khứ để có những kỷ niệm đẹp. Khi chúng ta yêu một người là chấp nhận những gì người đó đang có va' đã có. Mọi chuyện đơn giản khi chúng ta gắn liền với hai tiếng kỷ niệm, nhưng dường như không đơn giản để có thể song song tồn tại.

    Tôi hỏi bạn nhé, nếu người yêu của bạn luôn mang bên mình một chiếc móc khoá mang dấu ấn của người yêu cũ, hay những lá thư tình ngày nào cũng được xếp một cách ngay ngắn trong cái ví bất khả xâm phạm (trong khi những lá thư của bạn thì nằm trên bàn với những giấy tờ đủ loại!!!). Rồi một màn hình background với gương mặt của người yêu cũ luôn hiện ra mỗi khi turn on...Các bạn có nghĩ đây là "chuyện bình thường ở huyện" không nhi? Và nếu như cảm thấy khó chịu trước những điều này, có phải con người đang trở nên ích kỷ?

    Lòng tin được củng cố khi bạn được khẳng định hiện tại đang diễn ra điều gì, và bạn đang là ai trong cuộc sống hiện tại. Những hình ảnh đan xen kia chỉ là kỷ niệm, là một phần cuộc đời mà người ấy đã đi qua...

    Có thể rộng lượng để nhìn tất cả đồng hành cùng với bạn trong cuộc sống mới mà bạn đang cố bắt đầu không?

    Đúng! Tất cả là kỷ niệm! Con người không thể sống mà không có kỷ niệm. Kỷ niệm không bao giờ nhắc tới con người nhưng con người thì hay nhắc đến kỷ niệm. Con người tạo nên kỷ niệm chứ kỷ niệm không bao giờ hiện hữu độc lập. Con người tạo nên kỷ niệm, nhưng sự yếu đuối của con người trước kỷ niệm là con người bị kỷ niệm chi phối.

    Và bạn biết không, một khi kỷ niệm ra đời thì khó mà chối bỏ sự có mặt của chúng. Vì đơn giản, kỷ niệm có một quyền năng. Đó là con người không giết được kỷ niệm, nhưng kỷ niệm có thể giết được con người...

    Và khi kỷ niệm đang trở thành hiện tại, đan xen và chi phối tình cảm của bạn, bạn có quyền được ghen không?

    Mikaly

Cô gái hát lạc điệu.

    Một đoàn hợp xướng nổi tiếng tổ chức cuộc biểu diễn báo cáo định kỳ thường niên. Khách mời có đủ các giáo sư âm nhạc, các nhà sáng tác, phê bình, các nghệ sĩ nổi tiếng và nhiều chính khách.

    Hết chương này nối tiếp chương khác, giọng ca của các ca sĩ cứ hoà quyện lấy nhau, dường như mỗi âm thanh, mỗi lời ca đều phát ra từ chiếc đũa chỉ huy của vị nhạc trưởng - nhịp nhàng - đúng chỗ - đúng lúc - đúng thanh điệu...; thể hiện kết quả của một quá trình luyện tập gian khổ và trình độ diễn xuất cao. Dòng thác âm thanh cùng lời ca kỳ diệu như đưa cả người hát và người nghe vào trạng thái thǎng hoa, ngây ngất như trong mơ trong mộng.

    Bỗng nhiên, một giọng nữ trong veo cất lên cao vút. Một giọng độc xướng kỳ lạ, nhưng lại xuất hiện ở vị trí không dành cho những người độc xướng! Vị nhạc trưởng ngỡ ngàng, ngẩng đầu; dàn hợp xướng dường như bắt đầu rối loạn... May thay, "sự cố" chỉ xảy ra trong một vài giây; ngay lập tức mọi thứ lại trở về ?quĩ đạo bình thường và buổi biểu diễn đã kết thúc hết sức mỹ mãn. Những tràng vỗ tay như sấm và nghi lễ tặng hoa vừa chấm dứt thì vị nhạc trưởng đã hầm hầm lao vào phía sau sân khấu: "Ai đã hát lạc giọng?". "Là tôi ạ...?", một cô gái mới nhập đoàn không lâu đang thút thít ngồi khóc trong sân khấu.

    Vừa đúng lúc đó có một vị thượng khách bước vào, ông nhạc trưởng đành phải tươi cười bước ra nghênh tiếp. "Tôi rất muốn gặp cô gái đã hát lạc giọng?", vị giáo sư âm nhạc nổi tiếng nói. "Đã lâu lắm rồi, tôi chưa được nghe một giọng nữ cao nào đẹp và mượt đến mức như vậy; biết cách huấn luyện, sẽ có được một ca sĩ lớn".

    Thế là cô gái hát lạc giọng bị cả đoàn chỉ trích đó đã trở thành học trò của vị giáo sư nổi tiếng. Quả nhiên, sau vài nǎm, "cô gái lọ lem" đó đã trở thành một ngôi sao lớn trong giới thanh nhạc. Một số người chỉ nhìn thấy cái sai của những người khác. Có người lại nhìn thấy được cả ưu điểm trong những sai lầm. Để có thể trở thành loại người thứ hai, cần phải vừa có lòng bao dung vừa có trí tuệ.

Cơ hội.

    Giáo sư Vật lý nổi tiếng George Gate muốn tìm một phụ tá cho mình khi nghiên cứu lĩnh vực truyền điện tín. Ông đăng báo tuyển phụ tá.

    Căn phòng đợi hôm ấy chật ních. Mọi người đều chọn cho mình những bộ quần áo sang trọng nhất, nghiên cứu hàng chục sách về morse trước khi đến đây. Họ đều phải chờ ở phòng ngoài cho tới khi được vị giáo sư mời vào phỏng vấn.

    Trong khi chờ đợi, họ tán gẫu và cố gắng thể hiện kiến thức của mình. Chỉ có một chàng trai trẻ ngồi yên lặng chú tâm quan sát phòng làm việc của George Gate. Anh đã theo dõi sát sao những công trình nghiên cứu trước đó của vị giáo sư này và rất muốn góp sức với ông.

    Nhiều giờ trôi qua, cửa phòng thí nghiệm vẫn đóng im ỉm. Nhà đợi vẫn ồn ã những tiếng bàn cãi sôi nổi. Bỗng chàng trai vẫn ngồi im lặng khi nãy khẽ mỉm cười, bật đứng dậy bước vào phòng thí nghiệm của giáo sư. Cánh cửa không hề khoá. Thoạt đầu họ nhìn chàng trai với ánh mắt thương hại vì cho rằng anh ta không đủ kiên nhẫn chờ và định xin bỏ cuộc. Nhưng không lâu sau, tất cả mọi người đều bất ngờ khi thấy giáo sư George từ phòng thí nghiệm bước ra cùng chàng trai trẻ.

    - Xin cảm ơn mọi người đã đến đây, nhưng tôi đã tìm được người trợ lý thực sự có năng lực cho mình rồi. Vị giáo sư chỉ vào chàng trai.

    Mọi người hết sức bất bình trước quyết định đột ngột của giáo sư. Họ đã phải chờ đợi rất lâu, vậy mà thậm chí không có cả một cơ hội để chứng tỏ khả năng của mình.

    Giáo sư chậm rãi giải thích:

    - Các bạn đã không để ý nhưng ngay từ khi mọi người bước vào đây, máy điện tín của tôi đã liên tục đánh một dòng thông báo bằng tín hiệu như thế này: “Nếu bạn giải mã được lời nhắn này, hãy bước vào gặp tôi.”. Tôi biết mọi người ở đây đều rất giỏi nhưng chỉ có một cơ hội và người biết tập trung vào mục tiêu chính khi đến đây đã giành được cơ hội đó.

    Và chàng phụ tá tre đó chính là Thomas Edison, người đã góp phần làm thay đổi thời đại của chúng ta. Cơ hội là cho tất cả mọi người. Nhưng chỉ những người có đủ tập trung và nhạy bén mới đọc được thông điệp của nó.

Cơ hội của sự chối từ.

Truyện do bạn Hồng Giang gửi tặng

    Bạn ao ước tham gia đội bóng, nhưng đội trưởng lại nghĩ khác . Cậu ta lựa chọn đầu tiên những người bạn thân nhất, sau đó là những người có khả năng ghi bàn. Và danh sách cuối cùng không có bạn. Bạn thấy mình hoàn toàn có khả năng tham gia đội văn nghệ. Cả lớp bầu chọn mãi, cũng tuyển đựơc những "nghệ sĩ" đại diện cho lớp. Nhưng cuối cùng bạn đành ngậm ngùi làm khán giả. Nếu bạn không có năng lực, chúng ta sẽ nói về sự công bằng. Còn ở đây, bạn có năng lực, nhưng người ta vẫn có thể từ chối bạn, viện dẫn hàng tá lý do : dáng vẻ bên ngoài, sự giàu nghèo, tôn giáo, đôi khi cả giới tính cũng bị đưa lên bàn cân. Cảm giác bị cô lập, lòng tự trọng bị tổn thương, tự dằn vặt mình có thể làm trái tim bạn tan nát, thế giới như sụp đổ. Và có rất nhiều, rất nhiều người quá yếu đuối đã không thể vượt qua được một lần bị bỏ rơi.

    Thế nhưng không phải sự chối từ nào cũng tệ hại. Một sự từ chối cũng có nghĩa là thêm một cơ hội mới cho bạn khám phá. Khi bạn lớn lên và đi xin việc, sự từ chối có thể giúp bạn tiếp cận với những cơ hội lớn hơn trong đoi mình. Một lời từ chối ở nơi này chính là con đường đưa bạn đến với một vị trí cao hơn ở một nơi khác tốt hơn. Bạn có bao giờ nghĩ thế không ?

    Sự chối từ còn cho phép bạn tự khám phá chính bản thân mình, cho phép mình nhận ra mình cứng cỏi và bản lĩnh hơn mình nghĩ khi bạn vượt qua được điều đó. Nó còn giúp bạn nhìn nhận ra bản chất của những con người xung quanh, đâu là những người "bạn", và những ai chỉ đơn giản là "bè".

    Cũng giống như những thứ khác trong cuộc đời, bị từ chối sẽ gây ra những vết thương nông sâu khác nhau . Tuy nhiên có một điều chắc chắn là tất cả mọi người đều từng bị từ chối, ít nhất một lần, hoặc vài lần, vào một lúc nào đó trong đời mình . Vì thế, nếu điều đó có đến với bạn thì hãy tin tôi, đây không phải là ngày tận thế.

    Vậy thì nếu có bao giờ bị từ chối bởi một ai đó, bị loại bỏ, bị cho ra rìa trong một tập thể, ở một nơi nào đó, thì bạn của tôi ơi, xin hãy nhớ một điều, khi một cánh cửa đóng lại trước mặt bạn, nghĩa là có những cánh cửa khác đang mở ra, và những cánh cửa mở luôn dẫn đến những điều tốt đẹp. Bạn hãy mỉm cười, bước lên và đi đến đó.

Có một chiếc vòng

     Có một chiếc vòng bị cắt đi một mảnh hình tam giác. Cái vòng muốn được trọn vẹn, không thiếu mẩu nhỏ nào nên lang thang tìm kiếm mảnh thất lạc nhưng vì nó không hoàn hảo nên chỉ có thể lăn đi rất chậm. Nó chiêm ngưỡng những bông hoa bên đường. Nó tán gẫu với những con sâu. Nó tận hưởng ánh nắng mặt trời. Nó đã thấy rất nhiều mảnh vỡ khác nhau nhưng không có cái nào là vừa với nó. Và nó để lại tất cả bên đường rồi tiếp tục cuộc tìm kiếm.

     Một ngày kia, chiếc vòng tìm thấy một mảnh rất vừa vặn. Thật là hạnh phúc! Giờ đây nó có thể toàn vẹn, không thiếu chút gì. Nó lắp lại cái mẩu đã mất và bắt đầu lăn. Bây giờ đã là một cái vòng thật hoàn hảo và nó có thể lăn rất nhanh, quá nhanh để có thể lưu ý tới những bông hoa và nói chuyện cùng lũ sâu. Và khi chiếc vòng nhận ra thế giới đổi khác như thế nào khi lăn nhanh quá, nó dừng lại, vứt mảnh vỡ vừa tìm được lại bên đường và tiếp tục lăn đi chậm rãi.

     Câu chuyện mang lại một bài học khá kỳ lạ: chúng ta càng trở nên toàn vẹn hơn khi mất đi hay bỏ lỡ một cái gì đó. Trên một phương diện nào đó, một người có tất cả mọi thứ là một người đáng thương. Anh ta sẽ không bao giờ có được niềm thích thú để khát khao, để hi vọng và nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng những mơ ước về một điều tốt đẹp hơn. Anh ta cũng sẽ không bao giờ có được cái cảm giác được một ai đó yêu thương, cho anh ta những cái anh ta luôn luôn muốn mà không bao giờ có. Một con người sống toàn vẹn là người biết rằng để vượt qua những thảm kịch và tồn tại, là người có thể thất bại mà vẫn cảm thấy bình an, mình đã thoát ra khỏi điều tồi tệ nhất mà vẫn nguyên vẹn.

     Cuộc sống thật sự giống như một mùa bóng, ở đó ngay cả đội bóng giỏi nhất cũng có thể thua 1/3 số trận nó tham dự và ngay cả đội bóng tệ hại nhất cũng có những giờ phút huy hoàng. Mục tiêu của chúng ta là có nhiều trận thắng hơn thất bại. Hãy tin tưởng rằng cái mà cuộc sống đòi hỏi ở chúng ta không phải là "hãy hoàn hảo", không phải là "đừng bao giờ mắc sai lầm" mà là "hãy toàn vẹn".

     Và cuối cùng nếu chúng ta đủ dũng cảm để yêu, đủ mạnh mẽ để tha thứ, đủ rộng lượng để vui mừng vì hạnh phúc của những người khác, và đủ khôn ngoan để hiểu rằng hạnh phúc có cho tất cả mọi người, chúng ta sẽ tận hưởng được cảm giác hoàn toàn sung sướng mà không có một sinh vật nào có được.

Con bướm

Một người nọ tìm thấy một cái kén của con bướm . Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò rạ Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết sức lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Rồi con sâu có vẻ ráng hết sức mà không lọt ra nổi và nằm im như chịu thuạ Động lòng thương, người nọ muốn giúp con sâu bướm, anh ta lấy mũi kéo nhỏ cắt vết rách của cái kén để sâu bướm ta vuợt ra ngoài dễ dàng. Sau khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì lại nhỏ. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không? mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đỉ

Than ôi! vô ích! con bướm đã bị trọn đời tàn tật, lê lết với chiếc cánh nhỏ bé không thể bay đi được.

Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời con bướm. Anh không biết là luật tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để vượt ra khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi chiếc kén, bướm ta mới có đủ sức vuơn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.

* * *

Sức phấn đấu cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta vậy.

Nếu cuộc đời không có những trở ngại thì chúng ta sẽ bị bại liệt như con bướm kiạ Chúng ta không có đủ sức để bay bổng. Trước những thăng trầm thế sự, chúng ta phải có đủ trí phấn đấu ngõ hầu vươn lên trong cuộc sống.

Chúng ta sẽ có sức dũng mãnh, vì cuộc đời có những trở ngại khiến chúng ta phải đấu tranh.

Chúng ta sẽ có trí tuệ, vì cuộc đời có những vấn đề nan giải khiến chúng ta phải giải quyết.

Chúng ta sẽ có can đảm, vì cuộc đời có những chông gai nguy hiểm khiến chúng ta phải vượt qua

Chúng ta sẽ có lòng từ bi, vì cuộc đời có những kẻ bất hạnh để cho chúng ta giúp đỡ.

Chúng ta sẽ có thịnh vượng, vì cuộc đời tạo ra những trí óc và bắp thịt khiến chúng ta phải vận dụng.

Các bạn có thấy đúng không ?

Con lừa

Một ngày nọ, con lừa của một ông chủ trang trại sảy chân rơi xuống một cái giếng. Con vật kêu la hàng giờ liền. Người chủ trang trại cố nghĩ xem nên làm gì. Cuối cùng ông quyết định: con lừa đã già, dù sao cái giếng cũng cần được lấp lại và không ích lợi gì trong việc cứu con lừa lên cả.

Ông nhờ vài nguời hàng xóm sang giúp mình. Họ xúc đất đổ vào giếng. Ngay từ đầu, lừa đã hiểu chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la thảm thiết. Nhưng sau đó lừa trở nên im lặng. Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống giếng và vô cùng sửng sốt. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất rơi xuống và bước chân lên trên. Cứ như vậy, đất đổ xuống, lừa lại bước lên cao hơn. Chỉ một lúc sau mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc chạy ra ngoài.

Cuộc sống sẽ đổ rất ngiều thứ khó chịu lên người bạn. Hãy xem mỗi vấn đề bạn gặp phải là một hòn đá để bạn bước lên cao hơn. Chúng ta có thể thoát khỏi cái giếng sâu nhất chỉ đơn giản bằng cách đừng bao giờ đầu hàng.

Con số định mệnh

    Trông bên ngoài chẳng ai dám nói cụ Zoltan Kramer sắp trở thành nhà triệu phú. Bộ áo khoác ngoài bằng vải len thô của cụ đã sờn rách lỗ chỗ. Tay chống chiếc gậy nhôm sứt sẹo trong khi chờ xe của cảnh sát tới đón, bộ ria mép của cụ ngọ ngoạy tỏ vẻ lo âu. Dẫu đã hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày thoát khỏi trại tập trung của phát xít, nhưng mỗi lần nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát rú, cụ Kramer lại bất giác khẽ rùng mình.

    Sau khi tự giới thiệu, viên hạ sĩ cảnh sát đỡ cụ ngồi vào ghế sau xe hơi. Vừa bật công tắc điện nổ máy, anh ta ngoái cổ lại nói với cụ Kramer: “Cụ là người thứ hai tôi có hân hạnh được chở đi nhận tiền thưởng trúng số bạc triệu đấy. Cụ cảm thấy gì khi bỗng chốc trở thành triệu phú?”. “Lão sẽ kể với anh sau khi lão cầm tiền trong tay cái đã”- cụ Kramer đáp.

    Trầm ngâm một thoáng, bất chợt cụ hỏi: “Anh thử nói xem: Điều gì sẽ xãy ra nếu lão không nhận 27 triệu đô la tiền trúng số?”. Viên hạ sĩ liếc nhìn về cụ một cái nhìn ngờ vực: “Ai mà chẳng muốn nhận 27 triệu đô la?”. “Thông thường trúng số là việc may mắn, nhưng đối với lão lần trúng số này lại là một trò đùa đau đớn của số phận- cụ Kramer nói– đơn giản là do lão đã lấy con số định mệnh của chính lão đem ra đánh cá. Để làm việc ấy không cần chút tài nghệ hay trí thông minh nào cả. Anh thấy đó, ta đâu có phải là người bỏ công sức, tiền tài và trí lực để tìm ra cách chữa bệnh ung thư cho mọi người. Đơn giản chỉ là nhờ một sự may mắn. Ta nay đã ngoài 90 tuổi. Thời gian còn lại chẳng là bao. Ta đâu cần mua nhà, lại chẳng muốn xe hơi. Vả lại vợ không còn, con không có, biết mua quà cho ai, để tiền làm gì?

    Hiện lão sống trong nhà dưỡng lão, nơi người ta nuôi lão ăn, cho lão uống thuốc, giặt giũ giùm lão. Còn lão, ngoài giờ ngủ chỉ có việc chơi bài và xem TV. Người khác làm quần quật vì lão, ấy thế mà lão được 27 triệu đô la còn họ thì không! Còn nhớ những năm tháng trong trại tập trung lão chỉ còn là một bộ xương. Lão còn nhớ một buổi sáng trong ngôi làng nhỏ quê lão ở Rumani, người ta đẩy cha mẹ lão lên một chiếc xe bò kéo để đưa tới lò thiêu. Lão còn nhớ cảnh một tên phát xít xả đạn bắn chết người em trai của lão trên một bãi đất trống đầu làng. Lão mất tất cả gia đình, nay đột nhiên có 27 triệu đô la, nhưng số tiền ấy, thậm chí gấp mười gấp trăm số đó cũng vẫn không thể trả lại cho lão những người thân yêu nhất trong đời lão.

    Chiến tranh kết thúc, lão may mắn còn sống và trôi dạt qua nước Mỹ này. Rồi lão gặp được Margaret. Nàng đã dạy lão học tiếng Anh, dạy lão biết cười trở lại. Lão cưới nàng năm 1950. Vợ chồng lão làm nghề thợ may. Năm 1975 nàng mất sớm. Margaret là tình yêu duy nhất trong đời lão, không thể nào lão quên được nàng”.

    Tới đây, giọng ông lão nghẹn lại. Một khoảng im lặng nặng nề kéo dài. Để thay đổi câu chuyện, viên cảnh sát nói: “Chỉ lát nữa thôi, cụ sẽ nhận được 27 triệu đô la. Với số tiền đó, cụ sẽ tìm lại những niềm vui và hạnh phúc khác”. “Hạnh phúc lớn nhất cuộc đời ta là Margaret”- cụ Kramer khẽ đáp. “Hẳn cụ vẫn còn thương nhớ bà ấy?”, viên hạ sĩ hỏi. “Quả thế- cụ Kramer thở dài– lão sẵn sàng đánh đổi 27 triệu đô la để đổi lấy chỉ một ngày được sống bên nàng”. “Lúc đó, cụ sẽ làm gì?”, viên cảnh sát tò mò. “Lão sẽ ôm hôn nàng, thoả thích ngắm nàng cười. Margaret có nụ cười ấm áp, rạng rỡ và đáng yêu làm sao! Rồi ta sẽ xin nàng tha thứ cho những điều không phải mà ta đã gây ra cho nàng…”. “Tất cả những điều đó cụ sẽ làm khi đã ở tuổi ngoài 90?”- người cảnh sát hỏi lại. “Chứ sao! Tình yêu đâu cần biết tới tuổi tác”.

    Cụ Kramer mỉm cười và hỏi lại: “Mà này anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của lão đấy?”. “Theo tôi, nếu cụ không nhận số tiền đó, người ta sẽ gọi xe cứu thương đưa cụ vào nhà thương điên mất. Lúc nãy, cụ bảo cụ trúng số nhờ cụ chọn con số định mệnh của mình. Nó là con số nào vậy?”. Cụ Kramer lặng lẽ chìa tay phải ra, vén tay áo lên thật cao. Viên cảnh sát liếc nhìn: Gần bả vai là một hàng chữ số đen xì, lên sẹo ghồ ghề. Đó chính là số hiệu của cụ Kramer trong trại tập trung phát xít. Nó được đóng lên đó từ nửa thế kỷ trước bởi một con dấu nung đỏ.

Cùng nhau bảo vệ môi trường

    lsrael và Palestine còn có nhiều dị biệt nhưng có chung một điểm là ngày càng ít chim cắt. Chim cắt là một loài chim nhỏ có lông màu đỏ, đen và xám, quê ở miền Địa Trung Hải, ăn côn trùng và làm tổ ở những đầu hồi và kèo những ngôi nhà cổ lợp ngói thường thấy trước đây ở vùng Trung Đông. Do các nhà cổ bị phá hủy và nhà hiện đại không có chỗ cho chim cắt làm tổ, nên số lượng chim trong mấy thập niên qua đã giảm từ 6000 xuống còn 600 con.

    Một nhóm học sinh người Israel và Ả Rập đã cùng tham gia một lớp học dã ngoại về chim cắt do hai nhà môi trường Dan Lon người Israel và Nader Ai Khateeb người Palestine hướng dẫn. Cả hai đã truyền cho bọn trẻ niềm say mê loài chim cắt và cùng chúng gầy dựng lại môi trường để bảo tồn đàn chim.

    Alon, 31 tuổi, là giám đốc Trung tâm Điểu học Israel và Al Khateeb 39 tuổi, là kỹ sư điều hành Tổ chức Phát triển môi trường và nước ở Bethlehem. Cách đây ba năm, Alon lập ra chương trình duy trì một vùng cư trú và sinh sản cho chim cắt. Anh thiết kế những cái nhà chim để chúng có chỗ làm tổ. Anh đã đặt được 40 nhà ở Jerusalem và 50 cái ở Haira. Đối với loài chim cắt, cả hai nơi đó đều là đất lành. Bằng đề tài gây tranh cãi nhất là chim cắt Alon và Al Khateeb tổ chức một cuộc xây nhà cho chim cắt với sự tham dự của học sinh cả hai dân tộc, 50 học sinh Palestine và 30 học sinh Israel đã tham dự chương trình này. Ban đầu thật không dễ dàng chút nào: Trẻ em Israel nói tiếng Israel, Alon dịch điều chúng nói sang tiếng Anh cho Al Khateeb và Al Khateeb thuật lại bằng tiếng Palestine cho các học sinh Palestine hiểu, và ngược lại. Nhưng chỉ lát sau là chúng có thể tự giao tiếp với nhau, dần dà thông cảm và hiểu biết nhau hơn. Alon không có tham vọng giải quyết mâu thuẫn Israel- Palestine, nhưng anh tin là bằng những sự hợp tác như vậy, sẽ tạo được cơ hội để hiểu biết nhau cho thế hệ trẻ của hai dân tộc. Anh nói với bọn trẻ: "Chúng ta phải cùng làm việc để bảo vệ môi trường một cách hiệu quả. Bằng cách này chúng ta xây dựng hòa bình".

    Nghe có vẻ lý tưởng, nhưng Alon, Al Khateeb và bọn trẻ đều tin rằng với thiện chí, bất cứ một nỗ lực nhỏ nào cũng có ý nghĩa.

Đám tang bông hồng của tôi

Derek Gamba

    Tôi bật hết cỡ đèn pha trên đường trở về nhà , sau buổi diễn tập tối. Làn gió bên ngoài êm ả vuốt ve má tôi qua cánh cửa sổ mở rộng. Bất chợt nghe được một bài hát hay, tôi vặn radio to hơn. Bài hát đưa tôi tới một nơi xa lạ. Tôi bắt đầu mơ màng về mối tình say đắm của tôi. Thấy một cửa hiệu bán thực phẩm bên tay mặt, tự nhiên tay lái tôi quẹo vào chỗ đậu xe. Đêm nay mới thật là đêm. Bước qua các cánh cửa tự động, tôi đi thẳng đến gian hàng bán hoa.

    Tôi chọn một bông hồng đỏ rất đẹp. Tôi gói nó trong tấm giấy màu xanh và quay trở lại xe. Tim tôi bắt đầu đập mạnh khi tôi nhẩm định kế hoạch. Dù vậy, tối nay dường như mọi việc khác hẳn. Kế hoạch đã được sắp đặt, giờ đây tôi đang có một động lực, ắt hẳn đó là một dấu hiệu.

    Sau khi chạy được một lúc, tôi quẹo xe vào một trong những khu dân cư cao cấp của vùng North Augusta. Tôi liếc nhìn đồng hồ: 9 giờ tối. Chắc giờ lành đây. Hai tay bắt đầu đổ mồ hôi nhưng tôi vẫn nắm chặt vôlăng. Tôi đậu xe ở lối đi cạnh một ngôi nhà trông khá bắt mắt. Tôi hít một hơi thật sâu và ra khỏi xe, để lại đóa hồng trên ghế sau xe hơi, tự nhủ rằng tôi sẽ quay trở lại lấy nó sau. Đôi chân tôi đã sẵn sàng rồi. Tôi nhanh chóng bước đến cửa trước. Hơi căng thẳng, tôi bấm chuông:"Reng...". Cửa xịch mở.

    - Chào Derek , một khuôn mặt quen thuộc chào tôi

    - Cháu chào bác Johson. Lauren có ở nhà không ạ ? - Tôi ngập ngừng hỏi.

    Đôi má tôi nóng ran lên khi bác Johnson xoay vô gọi con gái. Thời gian tưởng chừng vô tận, nhưng chẳng mấy chốc tôi nghe tiếng cửa mở. Lauren từ cầu thang bước xuống, bước chân thình thịch, và tim tôi đập muốn vỡ ra khỏi lồng ngực.

    Tôi nhìn vào cặp mắt nâu to của em, và quên mất cả tên mình. Tôi chưa bao giờ gặp rắc rối về chuyện giao tiếp, cho đến khi quen một cô tiên ấn hiện trong dáng hình em. Đôi môi em hé mở để lộ hàm răng trắng , nụ cười rạng rỡ của em làm căn phòng như sáng hẳn lên.

    - Chào anh Derek, có chuyện gì vậy? - Em hỏi ,hơi ghé đầu sang một bên, lúng túng. Đôi mắt em nhìn tôi như thể đang đặt một câu đố. Tôi cố mở miệng nhưng chẳng thốt ra được một lời nào.

    - Anh nói chuyện với em ở ngoài hiên được không?

    Cuối cùng thì tôi mới nói ra được . Tôi mở cửa và để em ra trước. Chúng tôi ngồi trên những bậc thềm trước cửa nhà và tôi xoay người lại phía em. Tôi cố chọn lọc từng từ trong câu nói.

    - Dạo này, em đang hẹn hò với Kevin hả?- Tôi buộc miệng, nhát gừng và chợt thấy hối tiếc.

    Ngạc nhiên, em xoắn xoắn một lọn tóc rồi từ từ trả lời:

    - ừ em nghĩ thế.

    Tôi đã mất nhiều thời gian để điều tra mối quan hệ của họ. Tôi chắc rằng Kevin cuối cùng cũng sẽ làm em tổn thương, và tôi biết mình phải làm gì.

    - Anh ta không xứng với em đâu , Lauren - Tôi bảo em bằng giọng quả quyết.

    - Sao anh lại nói như thế?- Em hỏi, lại lúng túng.

    - Vì xem nào . . . - Tôi cố diễn giải và cuối cùng quay trở lại vấn đễ

    - Vì anh thích em, Lauren. Anh thích em lắm.

    Tôi xoay đi. Tôi đã làm gì? Tại sao tôi đã nói điêu đó? Tôi lại nhìn vào mất em, bối rối hơn bao giờ hết. Đôi mắt em có vẻ bị tổn thương, và tôi rất muốn chạy đến, ôm em trong cánh tay và cùng em chia sẻ hạnh phúc.

    - Ồ, Kevin vui tính lắm, đáng yêu lắm . Anh ta không tệ như anh nói đâu.

    Tâm trí tôi quay cuồng. Cái gì vừa mới xảy ra vậy? Tôi thổ lộ chung tình yêu của tôi dành cho em.Tôi vừa mới bảo cô gái trong mơ rằng tôi thích cô ấy. Cô có nghe tôi nói gì không? Tôi lại nhìn vô mắt em , cặp mắt của cô gái tôi cảm mến. Đôi mắt đã khiến trái tim tôi đập rộn rã mỗi khi em đi ngang qua tôi ở hành lang. Chỉ là sự si mê đơn phương. Tôi biết rằng đã đến lúc phải ra đi, phải chạy khỏi nơi này. Tôi đã tiết lộ cái điều đã giày vò tôi nhiều hôm, giờ đây toàn thân tôi như co lại, nhăn nhúm trong sự bối rối cực độ. Tạm biệt em, tôi ngồi vào xe hơi và lái ra khỏi nhà em.

    Trên đường từ trường trở về nhà hôm sau, tôi chợt dừng xe lại, ngồi trong xe một lúc lâu, hồi tưởng những gì đã làm hồi hôm. Đột nhiên, tôi để ý đến bông hồng bỏ quên trên xe tối hôm qua. Đóa hồng xinh tươi, đỏ thắm giờ đây đã biến thành cành cây màu đen, khô cứng gai góc. Tôi nâng nó lên, ngắm nghía hồi lâu và một giọt nước mắt chảy dài xuống má. Đã đến lúc phải đi thôi. Tôi nhận ra rằng mình đã hành động đúng. Dù tôi đã không đạt được điều mà mình mong muốn, tôi đã học được một bài học vô giá : Bạn không thể bắt ai yêu mình được, bạn chỉ có thể làm cho mình đáng yêu hơn mà thôi.

Điều đó rồi cũng qua đi

    Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông:

     - Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng đó.

    Benaiah trả lời:

-    Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phái có gì đặc biệt?

-    Nhà vua đáp:

-    Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui.

     Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn lại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.

    Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế. Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi:

-    Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?

     Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.      Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội.

-     Nào, ông bạn của ta- vua Salomon hỏi- ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?. Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.

     Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói:

-    Nó đây, thưa đức vua.

     Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: "Điều đó rồi cũng qua đi". Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó ông cũng chỉ là cát bụi...

Điều giàu có nhất.

    Chúng ta được sinh ra với đôi mắt nằm phía trước để luôn nhìn sự việc đang diễn ra thay vì cứ ngoái nhìn lại những điều đã qua.

    Chúng ta được sinh ra với đôi tai- một bên trái và một bên phải- để có thể nghe cả hai phía, để nghe đủ những lời ca tụng cũng như những lời phê bình, để phân biệt đúng sai.     Chúng ta được sinh ra với một bộ óc nằm dưới hộp sọ, cho dù có nghèo đi chăng nữa chúng ta vẫn luôn giàu có vì chẳng ai có thể lấy cắp được bộ óc sản sinh ra nhiều suy nghĩ và ý tưởng độc đáo.

    Chúng ta được sinh ra với đôi vai nối liền đôi tay để gánh vác những nhiệm vụ trọng trách. Hơn nữa, một để giúp đỡ bản thân, một để giúp đỡ người khác.

    Chúng ta được sinh ra với một đôi chân dài và lớn để đi nhiều nơi, để mắt được quan sát, để não được mở rộng.

    Nhưng chúng ta chỉ sinh ra với một cái miệng- vì miệng là vũ khí sắc bén. Nó có thể làm tổn thương, đau lòng hay giết kẻ khác. Hãy ghi nhớ câu nói: "nói ít, nhìn thấy và lắng nghe nhiều".

    Chúng ta được sinh ra với chỉ một trái tim nằm sâu trong lồng ngực, nhắc nhở ta phải biết trân trọng và biết yêu vô điều kiện.

Điều quan trọng nhất trong cuộc đời bạn là gì ?

Một thầy giáo đang dạy môn kế hoạch quản trị cho một lớp sinh viên thương mại. Để nhấn mạnh một điểm quan trọng trong công tác quản trị, ông lấy ra một bình 5 lít miệng rộng đặt lên bàn rồi chậm rãi lấy từng viên đá nhỏ đặt vào bình. Khi bình đầy ông hỏi các sinh viên:

- Cái bình đã đầy chưa?

Cả lớp đồng thanh đáp: Rồi.

Ông hỏi lại:

- Thật chứ

Rồi ông lại cúi xuống bàn lấy ra một thùng đầy những hạt sỏi và bỏ từng hạt sỏi vào bình. Ông lắc nhẹ bình và hỏi cả lớp:

- Bình đã đầy rồi chứ?

Lần này hầu hết các sinh viên chỉ đáp:

- Có lẽ không

- Tốt - ông mỉm cười và lấy tiếp dưới bàn ra một thùng cát và đổ cát vào bình rồi lại hỏi.

- Bình đã đầy chưa?

- Chưa? - Cả lớp lại đáp. Lập tức ông giơ tay lên khen: Rất tốt.

Ông lại tiếp tục lấy nước đổ vào bình cho đến khi nước ngập tràn qua miệng bình. Lúc này ông mới hỏi: Sự minh họa này nói lên điều gì?

Một sinh viên nhanh nhẹn đáp: Khó khǎn sẽ không thành vấn đề gì cả nếu bạn thật sự cố gắng và cố gắng hơn nữa.

- Sai rồi. - Thầy giáo chầm chậm giải thích - Đó không phải là điều tôi muốn nói, cái chân giá trị ở đây đã dạy chúng ta rằng nếu bạn không đặt những nền tảng lớn lao ở những ngày đầu tiên, sau này bạn sẽ không bao giờ có được chúng. Thế điều gì quan trọng nhất trong cuộc đời các bạn?

Cả lớp nhao nhao: Con cái, vợ chồng, bạn đời, tình bạn, giáo dục, sức khỏe...

Một lý tưởng - Người thầy đáp - Hãy nhớ rằng phải đặt nền tảng vững chắc trước đã, nếu không mãi mãi bạn sẽ không thể có được điều gì. Nếu bạn phải đổ mồ hôi cho những điều quá nhỏ bé, những điều làm tâm hồn bạn nặng thêm, sau đó cứ mãi ôm lấy và sống với những điều ấy thì bạn sẽ không bao giờ có được thời gian để làm một điều khác tốt hơn, hay hơn cho cuộc đời mình.

Điều ước của 3 cây cổ thụ

        Ở một khu rừng nọ có ba cây cổ thụ đang bàn luận về tương lai. Cây thứ nhất nói: “Một ngày nào đó tôi muốn được trở thành chiếc hộp đựng châu báu với hình dáng lộng lẫy”. Cây thứ hai nói: “Tôi muốn trở thành con thuyền to lớn. Tôi sẽ chở đức vua và hoàng hậu đi khắp thế giới”. Và cây thứ ba: “Tôi muốn vươn dài để trở thành cây to lớn nhất trong khu rừng này. Mọi người nhìn lên đồi sẽ thấy tôi vươn xa, chạm đến bầu trời”.

        Một vài năm sau đó một nhóm người đặt chân đến khu rừng và cưa những thân cây. Cả ba đều mỉm cười hạnh phúc vì tin mong ước của mình sẽ thành hiện thực.

        Khi cây đầu tiên được bán cho một chủ trại mộc, nó được tạo thành máng đựng thức ăn gia súc và đặt trong kho thóc phủ lên bởi một lớp cỏ. Cây thứ hai được bán cho một thợ đóng thuyền đóng thành một chiếc thuyền nhỏ để câu cá. Cây thứ ba bị chặt thành từng khúc và quẳng lại trong bóng đêm. Đây chẳng phải là những điều chúng hằng mong đợi.

        Một ngày nọ, một cặp vợ chồng đến kho thóc. Người vợ đã đến kỳ sinh nở, người chồng hy vọng tìm được một chiếc nôi cho đứa bé và máng cỏ đã trở thành chỗ ở ấm áp cho em. Cây thứ nhất cảm nhận được sự quan trọng của nó và hiểu rằng mình đang che chở một sinh linh bé nhỏ.

        Vài năm sau, một nhóm người đi đánh cá trên chiếc thuyền của cây thứ hai gặp phải một trận bão lớn. Những người trên thuyền đã rất mệt mỏi, nhưng cây thứ hai biết rằng nó có đủ sự vững chãi để giữ an toàn và sự bình yên cho chủ nhân. Với cây thứ ba, một ngày, có ai đó đã đến và nhặt những khúc gỗ. Trên đỉnh đồi, nó được đóng thành một hàng rào ngăn chặn thú dữ. Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, cây thứ ba nhận ra rằng nó có đủ sức mạnh để đứng vững trên đỉnh đồi này.

        Khi sự việc xảy ra không theo như ý muốn, đừng tuyệt vọng vì mọi việc diễn ra đều có chủ đích. Cả ba cây cổ thụ đều thực hiện được những ước mơ của mình, dù cách thức để đạt đến đích cuối cùng không như mong đợi. Cuộc sống sẽ không phụ những kẻ có lòng.

Đừng sợ vấp ngã.

    Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ.

    Lần đầu tiên chập chững bước đi, bạn đã bị ngã.

    Lần đầu tiên tập bơi, bạn uống nước và suýt chết đuối phải không?

    Lần đầu tiên chơi bóng bàn, bạn có đánh trúng banh không?

    Không sao đâu, vì Walt Disney từng bị tòa báo sa thải vì thiếu ý tưởng. Ông cũng nếm mùi phá sản nhiều lần trước khi sáng tạo nên Disneyland.

    Lúc còn học phổ thông, Louis Pasteur chỉ là một học sinh trung bình. Về môn hóa, ông đứng hạng 15 trong số 22 học sinh của lớp.

    Lev Tolstoy, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng "Chiến tranh và hòa bình" bị đình chỉ học đại học vì vừa không có khả năng, vừa thiếu ý chí học tập.

    Henry Ford thất bại và cháy túi tới năm lần trước khi thành công.

    Ca sĩ opera nổi tiếng Enrico Caruso bị thầy giáo cho là thiếu chất giọng và không thể nào hát được.

    Vậy xin bạn chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội chỉ vì không cố gắng hết mình.

Đừng theo những lối mòn

    Tôi có thói quen thường ghi lại những ý tưởng hay, những sự kiện và những danh ngôn mà mình thích để rồi chiêm nghiệm như xem bản đồ trên chặng đường đời quanh co khúc khuỷu. Một trong những "bửu bối" ấy là câu chuyện về một trận cờ vua. Cách đây nhiều năm, trong giải cờ vua thế giới, đấu thủ tên là Frank Marshall gặp một cao thủ người Nga. Trong ván quyết định, Marshall thấy quân hậu của mình đang lâm nguy. Có vài nước để hậu tẩu thoát, và vì quân hậu có vai trò cực kỳ quan trọng nên khán giả đoán rằng Marshall sẽ "sơ tán" hậu.

    Trong thâm tâm, Marshall đã tận dụng mọi thời gian có thể có để quan sát cán cân lực lượng. Anh nhấc quân hậu lên, ngập ngừng, rồi đặt nó xuống một vị trí cực kỳ... vô lý, một vị trí mà nó có thể dễ dàng bị xơi tái bởi một trong ba quân đen. Marshall đã hy sinh quân hậu trong một nước bất ngờ, ở tình huống tuyệt vọng. Khán giả và đối thủ Marshall ngỡ ngàng.

    Thế rồi mọi người nhận ra rằng Marshall đã đi một nước cờ "tuyệt chiêu". Bây giờ, dù cho quân hậu có bị mất hay không, đối thủ của Marshall đã rơi vào thế bất lợi. Cuối cùng, thấy không thể lật ngược thế cờ, đấu thủ này đã xin hàng. Đối với tôi, vấn đề không phải ở chỗ là Marshall đã thắng, cũng không phải là anh đã có một nước đi thần kỳ, mà điều quan trọng là anh đã dám vượt qua khỏi đường mòn của lối chơi chính thống.

    Cách đây năm năm, khi còn là giáo viên môn nghệ thuật, tôi đã sử dụng Tinkertoys (một thứ đồ chơi lắp ráp) để trắc nghiệm khả năng sáng tạo của sinh viên. Một hôm, tôi đưa cho mỗi sinh viên một hộp Tinkertoys với lời hướng dẫn sơ sài: "Bạn hãy ghép một vật gì đó trong 45 phút mỗi ngày". Một vài sinh viên tỏ ra thụ động, họ chờ xem những người khác sẽ làm như thế nào, số khác lại làm theo những mẫu đã hướng dẫn sẵn, nhóm còn lại làm theo ý của chính họ. Thường thì có ít nhất một sinh viên chẳng làm theo ai cả và anh ta vơ những vật rải rác quanh mình để ghép luôn vào hình ghép: bút chì, dải băng, kẹp giấy vở... Thực tình, tôi rất khoái những sinh viên này, đây là những người hứa hẹn có nhiều sáng tạo trong công việc, anh ta sẽ là người trợ giảng không tuyên bố của tôi vì chính anh ta là người có khả năng gây hứng khởi sáng tạo cho những sinh viên khác. Khi tôi hỏi về sự sáng tạo các sinh viên này đã trả lời tỉnh queo: "Ơ! Em có sáng tạo gì đâu ạ!". Hình như đó là lối suy nghĩ bẩm sinh của họ.

    Vào một ngày hè oi bức, tại một bến cảng ở bờ biển Hy Lạp, tôi chui dưới chái một lều bạt để tránh cái nắng cháy da và luôn tiện kiếm thứ gì đó uống cho đỡ khát. Đám đông, trong đó có cả khách du lịch, cùng nhau làm cho bầu không khí như đặc quánh lại, sự bực bội như chực nổ tưng. Ngồi cạnh tôi là hai cô cậu trông khá xứng đôi. Cả hai ăn mặc đúng thời trang mùa hè, đồ lanh và sandal da. Trong khi chờ đợi thức uống, họ rủ rỉ vào tai nhau, cười khúc khích, cứ y như là đôi chim cu. Bỗng nhiên họ đứng dậy, bê luôn cái bàn nhảy qua kè cảng rồi đặt xuống chỗ nước cạn của bến cảng. Cậu con trai lội lên bờ xách thêm hai cái ghế. Họ ngồi xuống, ngâm mình trong nước trước sự vỗ tay tán thưởng, tiếng cười và lời chúc mừng của những người chứng kiến. Anh bồi với bộ mặt cáu kỉnh xuất hiện, nhướng mày ngạc nhiên giây lát rồi như chợt hiểu ra, anh ta vơ lấy chiếc khăn trải bàn, bộ đồ ăn rồi lội đến chỗ đôi nọ. Mấy phút sau, anh ta mang đến một cái khay, một xô đựng mấy chai champagne ướp lạnh và hai cái ly. Họ nâng cốc chúc mừng nhau, đám đông nhiệt liệt tán thưởng, ném tặng họ những bông hoa. Thêm ba chiếc bàn nữa được đặt thêm cạnh đó đã thực sự hâm nóng bầu không khí lên như một ngày hội.

    Tại sao chúng ta lại cứ cắm cúi đi theo lối mòn nhỉ?

Em không muốn làm hoàng tử

       Nhận được tin Michael tử nạn tại châu Phi, tôi đau đớn vô cùng. Ký ức xa xăm của 23 năm trước chợt hiện về như nhắc nhở tôi mục đích cuộc đời mà cậu em tôi hằng theo đuổi.

       Tôi hơn nó đến bảy tuổi, hồi đó gia đình chúng tôi sống tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Minnesota (Hoa Kỳ). Một lần Michael bị ốm, nó uống thuốc nhưng không chịu ăn, mẹ tôi lo lắm, bà khuyên nhủ: “Con phải ăn vào mới khỏi bệnh và chóng lớn để trở thành một hoàng tử tuấn tú như trong chuyện cổ tích”... Nó trả lời không suy nghĩ: “Con không thích làm hoàng tử, con muốn là hươu, nai, gấu hay bò rừng”...

       Mẹ tôi tròn mắt kinh ngạc, còn tôi cười phá lên và nói: “Thằng này điên thật, làm hoàng tử không muốn, lại muốn làm thú vật... Hoàng tử còn có thể làm vua, rồi cưới công chúa”... Nó đáp trả dứt khoát như thể ý nghĩ đó được nghiền ngẫm từ lâu: “Hoàng tử thì có gì hay, anh ta toàn đi săn với một bầy chó..."

       Những con vật đáng yêu biết bao, nó có làm hại ai đâu. Em muốn thành thú để bày cho chúng trí khôn con người giúp chúng tránh mọi cạm bẫy”... Hồi đó Michael mới 5 tuổi và có lần đã khóc thét lên khi bố cùng các bạn của ông đem từ rừng về một con nai lớn bị giết chết bằng những khẩu súng săn...

       Sau khi tốt nghiệp đại học, Michael làm việc trong một tổ chức bảo vệ động vật hoang dã. Cậu đi miệt mài hết châu Á đến châu Phi để giúp chính phủ các nước lập dự án bảo tồn các loài động vật quý hiếm đang mai một dần trên Trái đất.

       Lần này Michael ra đi mãi mãi. Nhưng tôi hiểu em đã sống trọn vẹn với hoài bão của mình. Cuộc đời của em ngắn ngủi nhưng thật nhiều ý nghĩa... Còn tôi, kẻ thích làm hoàng tử rồi làm vua... đến tận bây giờ vẫn ngụp lặn trong thương trường, có lần suýt trở thành ăn mày khi cổ phiếu sụt giá...

Gì là xa nhất?

    Trên đời khỏang cách xa nhất không phải là sống và chết mà là gần nhau mà không hiểu nhau.

    Trên đời khỏang cách xa nhất không phải là ở ngay trước mắt mà là mến nhau lại không giữ được.

    Khoảng cách xa nhất trên đời không phải mến thương lại không giữ được mà là tình thương không được đáp....

    Khoảng cách xa nhất trên đời này không phải là tình thương không được đáp mà là đem trái tim lạnh giá của mình để đối với người yêu thương mình.

    Người sống bên cạnh mình mà không thể hiểu mình, lại không thể yêu mến nhau và yêu mến nhau lại không thể nói ra được... đó mới là xa.

Giá của một ước mơ

    Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo với 6 người anh và 3 người chị. Mơ ước của tôi là thể thao. Đến năm 16 tuổi, tôi chơi bóng chày rất tốt và tôi rất mê môn này. Huấn luyện viên bóng chày ở trường tôi là thầy Ollie, thầy không những tin tưởng tôi mà còn dạy tôi tin tưởng ở chính mình.

    Vào mùa hè năm tôi lên lớp 12, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Tức là một cơ hội để tôi có tiền trong túi(thứ mà tôi rất hiếm khi có), có tiền mua một chiếc xe đạp và bắt đầu một khoản tiết kiệm để mua nhà cho mẹ. Tương lai của công việc làm thêm thật rực rỡ và tôi muốn bắt đầu ngay tức khắc.

    Nhưng sau một tuần tính toán, tôi nhận ra rằng, để bắt đầu làm thêm thì tôi phải ngưng hoàn toàn những buổi tập bóng chày ở trường vì lịch tập trùng với lịch làm thêm.

    Khi tôi nói với thầy Ollie về việc này, thầy nổi cáu, đúng với những gì tôi đoán trước:     - Em có cả cuộc đời để làm việc- thầy quát tôi- nhưng những ngày chơi bóng chày thì không có nhiều! Em không thể bỏ phí như thế được!

    Tôi đứng trước thầy, cúi gầm mặt, cố nghĩ ra cách giải thích cho thầy rằng tôi cần có tiền trong túi và tôi cần mua nhà cho mẹ, và thầy có thất vọng về tôi thì tôi cũng phải chịu.

Công việc đó được trả công thế nào hả con trai?- Cuối cùng thì thầy cũng dịu giọng.     - Ba đôla một giờ ạ! Tôi lúng túng.

    - Được- Thầy Ollie giọng kiên quyết– Có phải 3 đôla một giờ là cái giá của ước mơ không?

    Câu hỏi đó, chính sự đơn giản của nó– đã cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc muốn một thứ gì đó tức thời và việc có một mục đích lâu dài. Tôi đã quyết định không đi làm thêm mà bỏ toàn bộ mùa hè để chơi thể thao.

    Trong vòng một năm, tôi kí được một hợp đồng trị giá 20.000 đôla cho đội Pittsburgh Pirates, rồi còn đạt được học bổng thể thao của trường đại học Arizona. Năm 1984, tôi ký hợp đồng với Denver Broncos trị giá 1,7 triệu đôla và đã hoàn thành được cả ước mơ mua cho mẹ tôi một ngôi nhà.

    Rickey. C. Hunley

Giá trị của những câu hỏi

Anthony Robbins

    Bọn chúng chẳng cần lý do gì cả. Chúng đến nhà anh chỉ vì anh là người gốc Do thái . Quân Đức quốc xã xông vào nhà, lôi anh và cả gia đình anh đi. Ngay sau đó chúng lùa họ như bầy gia súc và tống lên xe lửa rồi chở thẳng đến trại tập trung...chúng đã giết chết họ và chỉ mình anh còn sống.

    Làm sao mà anh có thể sống nổi trước cảnh tượng hãi hùng phải nhìn thấy con mình nơi bộ quần áo của một đứa trẻ khác vì bây giờ con anh đã chết sau một cơn mưa đạn?

Thế nhưng anh vẫn phải sống.

    Một hôm anh nhìn cơn ác mộng chung quanh mình và phải đối diện với một sự thật hiển nhiên : nếu anh còn ở đây thêm một ngày, chắc chắn anh sẽ bị giết. Anh có một quyết định là phải thoát khỏi đây ngay lập tức! Anh không biết cách nào, anh chỉ biết mình phải trốn. Hàng tuần liền anh hỏi các bạn tù : "Làm sao chúng ta có thể thoát được nơi kinh hoàng này?" Anh hầu như luôn nhận được cùng một câu trả lời, "Đừng dại dột", họ trả lời "Không thể nào thoát nổi! Hỏi như vậy dằn vặt tâm trí anh mà thôi. Cứ chịu khó làm việc và cầu nguyện cho mình được sống sót" . Nhưng anh không chấp nhận điều này - anh nhất định sẽ không chấp nhận như thế. Anh bị ám ảnh vì chuyện trốn thoát và cho dù những câu hỏi của anh không có nghĩa gì, anh vẫn luôn luôn hỏi đi hỏi lại, "Làm sao tôi có thể trốn thoát? Phải có cách nào đó. Làm thế nào tôi có thể trốn thoát khỏi nơi này mà vẫn khoẻ, vẫn sống, ngay hôm nay?"

    Có lời nói rằng bạn cứ xin thì sẽ được . Và không hiểu vì sao hôm ấy anh đã nhận được câu trả lời. Có thể vì anh hỏi quá sức mãnh liệt, có thể là vì anh đã ý thức rõ "bây giờ chính là thời điểm". Cũng có thể là vì anh liên tục tập trung vào một tiêu điểm là câu trả lời cho câu hỏi của mình. Bất luận lý do gì, sức mạnh vĩ đại của tâm trí và tinh thần đã thức tỉnh nơi người đàn ông này.Câu trả lời đã đến với anh từ một nguồn gốc lạ thường: mùi lợm giọng của xác người đã thối rữa. Ở đó chỉ cách vài bước cách chỗ anh lao động, anh thấy một đống xác người đã bị xúc lên thùng xe tải - đàn ông , đàn bà , trẻ em, tất cả đã bị hít khí ngạt. Những chiếc răng vàng của họ đã bị gỡ ra, mọi đồ trang sức quí báu mà họ có, thậm trí quần áo họ mang trên người, đều bị lột sạch. Lúc đó thay vì hỏi, "Làm sao quân Đức quốc xã có thể ghê tởm, mất nhân tính đến thế? Làm sao Thượng đế có thể làm một điều tàn ác đến thế? Tại sao thượng đế lại để chuyện này xảy đến với tôi?" Stanislavsky Lech đã hỏi một câu hoàn toàn khác. Anh hỏi "Làm cách nào tôi có thể sử dụng điều này để trốn thoát?" Và ngay lập tức anh đã có câu trả lời.

    Hoàng hôn đang sửa soạn kết thúc một ngày lao động, Lech chạy lại nấp sau chiếc xe tải. Chỉ trong nháy mắt anh đã lột bỏ hết quần áo và lẻn mình trần truồng vào đống xác chết mà không ai để ý. Anh giả bộ như đã chết, không một chút cử động cựa quậy dù có lúc anh gần như ngộp thở vì một số xác chết khác tiếp tục được đè lên người anh.

    Mùi hôi thối của thịt người rữa, những cái xác chết cứng đơ bao bọc anh tứ phía. Anh chờ đợi và chờ đợi, hi vọng không một ai để ý đến một người vẫn còn sống giữa đám xác chết này và hi vọng sớm muộn chiếc xe tải cũng sẽ chạy đi.

    Cuối cùng, anh nghe tiếng động cơ xe tải nổ. Anh cảm thấy chiếc xe rung lên. Và đúng lúc ấy anh cảm nhận được mối hy vọng của mình khi đang nằm im giữa đống xác chết. Rốt cuộc anh thấy xe dừng lại và rồi nó trút toàn bộ những thây ma xuống một chiếc hố rộng mênh mông bên ngoài trại. Lech cứ ở yên đó hàng giờ cho tới khi màn đêm buông xuống. Sau cùng anh ta cảm thấy chắc chắn không có ai ở đó, anh rúc ra khỏi núi thây người và chạy trần truồng suốt 25 dặm cho tới khi tìm được tự do.

    Giữa Stanislavsky Lech và biết bao nhiêu người phải bỏ mạng ở trại tập trung, khác biệt ở chỗ nào? Tất nhiên có nhiều yếu tố nhưng một sự khác biệt quyết định chính là anh đã đặt một câu hỏi khác với những người kia. Anh đã hỏi một cách dai dẳng, hỏi và mong chờ có câu trả lời và trong tâm trí anh đã nảy sinh một giải pháp cứu sống anh. Những câu hỏi anh tự đặt ra hôm ấy ở Krakow đã khiến anh làm những quyết định chớp nhoáng ảnh hưởng trực tiếp tới số phận của anh. Nhưng trước khi anh nhận được câu trả lời, trước khi anh làm quyết định và trước khi có những hành động ấy, anh đã phải hỏi mình những câu hỏi đúng.

    Tôi muốn nói cho bạn điều này, người ta khác nhau là ở sự khác biệt trong những câu hỏi mà người ta nêu ra một cách nhất quán. Khi người ta chán nản, lý do thường là vì họ cứ lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi tiêu cực như, "Có ích gì? Cố gắng làm gì, rốt cuộc cũng chẳng thay đổi được gì. Trời, sao lại là tôi cơ chứ?". Nếu bạn hỏi một câu hỏi khủng khiếp, bạn sẽ nhận được câu trả lời khủng khiếp. Bộ não của bạn luôn sẵn sàng phục vụ bạn, nên bất kỳ bạn đưa ra một câu hỏi nào, nó chắc chắn sẽ có một câu trả lời.

    Vì thế nếu bạn hỏi, "Tại sao tôi không bao giờ thành công?" nó sẽ cho bạn câu trả lời đại khái như sau : "Vì bạn ngốc nghếch lắm", hay vì bạn không đáng để làm điều gì đến nơi đến chốn".

    Tôi cho bạn một ví dụ về những câu hỏi thông minh, đó là truyện về anh bạn W. Mitchell yêu quí của tôi. Bạn nghĩ làm sao anh ta có thể sống nổi với hai phần ba thân thể đã bị cháy mà vẫn còn cảm thấy yêu đời? ... Sau vụ tai nạn máy bay , khi nằm trong bệnh viện và bị liệt từ chân trở xuống, anh đã gặp một phụ nữ thật hấp dẫn, một y tá tên là Annie. Mặt anh đã cháy đen hoàn toàn, thân thể liệt từ hông trở xuống , thế mà anh đã có cam đảm hỏi : "Tôi có cách nào làm quen với cô ấy không"? Các bạn anh trả lời, "Mày điên rồi, mày đang tự lừa dối mình". Nhưng một năm rưỡi sau , anh và Annie đã thân quen nhau và nay hai người đã trở thành vợ chồng. Đó là kết quả của những câu hỏi mãnh liệt : chúng đem lại cho chúng ta một nguồn năng lực không gì có thể thay thế : những câu trả lời và những giải pháp !

Giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời.

    Một chàng trai sắp bước sang tuổi 30 nhưng luôn lo lắng về tương lai của mình. Anh tự hỏi không biết giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời mình đang ở phía trước hay là những năm tháng mà anh đã trải qua rồi. Thói quen hàng ngày của anh ta là đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm. Một buổi sáng, anh ta chú ý đến một ông lão đã lớn tuổi nhưng vẫn được vẻ cường tráng và lạc quan. Anh đến làm quen và hai người trò chuyện với nhau về những kinh nghiệm trong cuộc sống. Cuối cùng chàng trai hỏi: "Đâu là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời ông?". Không chút lưỡng lự, ông lão đáp:

    "Khi tôi còn là một đứa bé, tôi được chăm sóc, nuôi dưỡng bởi cha mẹ. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

     Khi đến trường học, tôi học được những kiến thức mới mẻ từ thầy cô, bạn bè. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

     Khi tôi nhận được việc làm đầu tiên, được gánh vác trách nhiệm và được trả lương bởi những nỗ lực của mình. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

     Khi tôi gặp vợ tôi, chúng tôi yêu nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

     Khi tôi là một người cha, nhìn những đứa con của mình lớn lên. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

     Và bây giờ, tôi đã 79 tuổi. Tôi có sức khỏe. Tôi cảm thấy hạnh phúc và tôi đang yêu vợ tôi như lần đầu chúng tôi mới gặp nhau. Đây là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi."

     Mỗi giai đoạn của cuộc đời đều là những giai đoạn đẹp nhất nếu chúng ta biết trân trọng và sống hết mình, đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích.

Giận dữ

    Người phụ nữ hào hứng mua thật nhiều trứng bơ và rau quả từ cửa hàng rau quả nổi tiếng trong thị trấn. Tuy ở cửa hàng này giá có đắt hơn nhưng cô không ngại, vì cô phải sắp sửa tiếp một vị khách quý. Phải đi mua thật sớm để có thể chuẩn bị các món ăn một cách cẩn thận.

    Các món ăn đều ngon nhờ có nguyên liệu tốt và một người phụ nữ khéo tay. Nhưng đến giờ hẹn mà vị khách cô đang chờ vẫn không tới. Gọi điện thoại thì không ai nghe. Một tiếng, hai tiếng..cô chờ đến khuya mà không có một tín hiệu gì từ người khách.     Ngày hôm sau, người khách mới gọi điện cho cô. Không để cho anh ta kịp nói hết câu, cô mắng xối xả và lên án sự vô trách nhiệm. Người khách lặng lẽ nghe. Và khi cô nói xong, anh ta nói với giọng buồn bã:

    - Tôi rất xin lỗi nếu tôi gây ra một điều gì bất tiện hoặc làm cô phiền lòng, nhưng hôm qua tôi rất không may. Tôi phải đi lo thủ tục tang lễ cho mẹ tôi. Mẹ tôi mới mất.     Người phụ nữ không nói được lời nào vì một lời chia buồn cũng trở nên không hợp lý vào khoảnh khắc ấy. Từ đó, cô không bao giờ lên án ai trước khi hiểu được tất cả.     Purnell Bailey

Hai sự lựa chọn.

    Jerry lúc nào cũng trong tâm trạng vui vẻ và luôn nói nhữg điều tích cực. Khi có ai hỏi cậu ta thế nào, cậu ta luôn đáp: "Nếu may mắn hơn, thì tôi hẳn phải là sinh đôi!".

    Kiểu cách của cậu ta luôn làm tôi tò mò, nên một ngày tôi hỏi Jerry:

     - Tớ không thể hiểu nổi. Làm sao cậu lúc nào cũng vui vẻ như vậy?

     - Mỗi buổi sáng tỉnh dậy, tớ tự nói với mình- Jerry kể- Tớ nói là tớ có hai lựa chọn: tâm trạng tốt hoặc xấu. Tớ luôn chọn tâm trạng tốt. Mỗi khi có chuyện không hay xảy ra, tớ lại có hai lựa chọn: là nạn nhân hoặc là người học được kinh nghiệm từ việc đó. Tớ chọn cách học hỏi. Mỗi khi có ai than thở, tớ có hai cách lựa chọn: chấp nhận nghe lời than thở hoặc chỉ ra những điểm tốt để người đó không than thở nữa, và tớ chọn cách thứ hai.

     Tôi cố gắng làm theo những gì Jerry nói, nhưng không dễ. Chúng tôi mất liên lạc sau khi ra trường.

     Vài năm sau, tôi nghe nói Jerry gặp chuyện. Cậu ấy trực ở tiệm ăn và quên không đóng cửa sau. Hai tên cướp đã bắn cậu ta. Jerry được đưa vào bệnh viện. Sau hàng tiếng đồng hồ phẫu thuật và hàng tuần nằm trên giường bệnh, cậu ra viện với một phần viên đạn vẫn còn trong cơ thể.

Tôi tìm thăm Jerry. Khi tôi hỏi cậu ta ra sao, cậu ta vẫn cười:

     - Nếu may mắn hơn, tớ đã là sinh đôi! Có muốn xem sẹo của tớ không?

     Tôi sợ không dám nhìn, nhưng muốn nghe kể về tai nạn của cậu ta. Jerry vui vẻ nhắc lại:

     - Việc đầu tiên tớ nghĩ đến là "Ô, lần sau mình không được quên khoá cửa sau". Rồi khi tớ nằm bị thương trên sàn nhà, tớ nghĩ "mình có hai lựa chọn sống hoặc chết", và tớ chọn sống. Các bác sĩ thật tốt. Họ cứ luôn miệng bảo tớ sẽ không sao. Nhưng khi họ đẩy tớ vào phòng mổ, tớ nhìn thấy trên mặt họ có vẻ như là "Chẳng sống được đâu". Tớ rất sợ nên nghĩ mình chắc chắn phải hành động.

     - Hành động gì?- Tôi hỏi.

     -Cậu biết không, có một cô y tá cứ quát tớ: "Có bị dị ứng với cái gì không?". Tớ cố hết sức đáp: "Có". Các bác sĩ và y tá có vẻ ngạc nhiên, dừng lại chờ tớ nói tiếp. Tớ lại nén đau kêu lên: "Dị ứng với đạn". Họ cười ồ. Rồi tớ bảo: "Tôi muốn sống. Hãyphẫu thuật cho tôi và coi tôi là người sống, đừng nghĩ là tôi sẽ chết".

     Jerry qua khỏi một cách dễ dàng, nhờ vào những bác sĩ tài năng nhưng cũng nhờ vào thái độ hết sức tích cực của cậu.

     Nói cho cùng, thái độ của con người với cuộc sống là điều hết sức quan trọng.

Hai thiên thần

Hai thiên thần đi chu du dưới hình dạng của những người nghèo khó, dừng chân ở một ngôi nhà khá giả. Hai thiên thần xin gia đình kia cho ở lại nhờ qua đêm nhưng gia đình đó rất khiếm nhã, tỏ vẻ khó chịu và bảo hai thiên thần vào nhà kho mà ở.

Khi hai thiên thần dọn dẹp chỗ ngủ trên sàn lạnh, thiên thần lớn tuổi hơn trông thấy một lỗ trên sàn nhà và ra tay sửa lại nó. Thiên thần nhỏ tuổi hỏi tại sao, thiên thần lớn trả lời: Mọi việc không phải luôn luôn như chúng ta thấy!

Đêm hôm sau, hai thiên thần lại dừng chân ở một gia đình nghèo và xin ở lại qua đêm. Hai vợ chồng bác nông dân túng thiếu về tài sản nhưng có thừa lòng hiếu khách nên đã mời hai thiên thần bữa ăn đạm bạc và mời họ ngủ trên giường.

Sáng sớm hôm sau, hai thiên thần thấy hai vợ chồng bác nông dân buồn rười rượi. Con bò duy nhất cung cấp sữa cho gia đình họ đã chết. Thiên thần nhỏ tuổi hết sức sửng sốt về việc đó và kết tội: "Gia đình thứ nhất rất giàu có thì người lại giúp họ. Gia đình này nghèo khó và hiếu khách thì ngài lại bắt con bò của họ phải chết".

"Mọi việc không phải luôn như chúng ta thấy" - Thiên thần lớn chỉ nói vậy.

Khi hai thiên thần lại tiếp tục lên đuờng, thiên thần lớn mới nói: "Khi chúng ta ở trong nhà kho của gia đình giàu có, ta để ý thấy có một kho vàng dưới cái lỗ ở nền nhà kho, nhưng chủ nhà lại thô lỗ và keo kiệt nên ta hàn cái lỗ đó lại, họ sẽ không bao giờ tìm được vàng. Còn tối qua, khi chúng ta đang ngủ trên giường nhà bác nông dân nghèo, thần chết đã tới và nói phải đem vợ bác nông dân đi. Ta đã đưa con bò của nhà bác nông dân ra thay thế, và may mắn là thần chết đã chấp nhận con bò. Mọi thứ không phải luôn như chúng ta thấy!"

Hai viên gạch xấu xí

Đến miền đất mới, các vị sư phải tự xây dựng mọi thứ. Họ mua đất, gạch, mua dụng cụ và bắt tay vào việc. Một chú tiểu được giao xây một bức tường gạch. Chú rất tập trung vào công việc, luôn kiểm tra xem viên gạch đã thẳng thớm chưa, hàng gạch có ngay ngắn không. Công việc tiến triển khá chậm vì chú làm rất kỹ lưỡng. Tuy nhiên, chú không lấy đó làm phiền lòng bởi vì chú biết mình sắp sửa xây một bức tường tuyệt đẹp đầu tiên trong đời. Cuối cùng, chú cũng hoàn thành công việc vào lúc hoàng hôn buông xuống.

Khi đứng lui ra xa để ngắm nhìn công trình lao động của mình, chú bỗng cảm thấy có gì đó đập vào mắt: mặc dù chú đã rất cẩn thận khi xây bức tường song vẫn có hai viên gạch bị đặt nghiêng. Và điều tồi tệ nhất là hai viên gạch đó nằm ngay chính giữa bức tường. Chúng như đôi mắt đang trừng trừng nhìn chú. Kể từ đó, mỗi khi du khách đến thăm ngôi đền, chú tiểu đều dẫn họ đi khắp nơi, trừ đến chỗ bức tường mà chú xây dựng.

Một hôm, có hai nhà sư già đến tham quan ngôi đền. Chú tiểu đã cố lái họ sang hướng khác nhưng hai người vẫn nằng nặc đòi đến khu vực có bức tường mà chú xây dựng. Một trong hai vị sư khi đứng trước công trình ấy đã thốt lên: "Ôi, bức tường gạch mới đẹp làm sao!".

"Hai vị nói thật chứ? Hai vị không thấy hai viên gạch xấu xí ngay giữa bức tường kia ư?" - chú tiểu kêu lên trong ngạc nhiên.

"Có chứ, nhưng tôi cũng thấy 998 viên gạch còn lại đã ghép thành một bức tường tuyệt vời ra sao" - vị sư già từ tốn.

Đôi khi chúng ta quá nghiêm khắc với bản thân mình khi cứ luôn nghiền ngẫm nhưng lỗi lầm mà ta đã mắc phải, cho rằng cả thế giới đều nhớ đến nó và quy trách nhiệm cho ta. Chúng ta đã hoàn toàn quên rằng đó chỉ là hai viên gạch xấu xí giữa 998 viên gạch hoàn hảo.

Và đôi khi chúng ta lại quá nhạy cảm với lỗi lầm của người khác. Khi bắt gặp ai mắc lỗi, ta nhớ kỹ từng chi tiết. Và hễ có ai nhắc đến tên người đó, ta lại liên hệ ngay đến lỗi lầm của h mà quên bẵng những điều tốt đẹp họ đã làm.

Cần phải học cách rộng lượng với người khác và với chính mình. Một thế giới nhân ái trước hết là một thế giới nơi lỗi lầm được tha thứ.

Hạnh phúc ở đâu?

    Ngày xưa, có lần “tập đoàn” yêu tinh họp nhau lại để lên kế hoạch làm hại con người.     Một yêu tinh nói: “Chúng ta nên giấu một thứ gì đó quý giá của con người đi, nhưng giấu cái gì bây giờ?”.   Sau khi suy nghĩ, một yêu tinh đáp: “Biết rồi, hãy lấy đi hạnh phúc của họ, họ sẽ ngày đem phải khổ sở u uất. Nhưng vấn đề là giấu nó ở đâu bây giờ? Phải giấu ở nơi nào mà họ không tìm được ấy!”.

    Một yêu tinh khác cho ý kiến: “Thử quẳng nó lên đỉnh ngọn núi cao nhất của thế giới xem”. Nhưng ý kiến đó bị phản đối ngay: “Không được. Con người rất khoẻ mạnh, chuyện leo núi có nhằm nhò gì đâu”.  Một yêu tinh khác lại có ý tưởng: “Vậy ta giấu nó xuống vực biển sâu nhất nhé?”. Nhưng các yêu tinh lại đồng loạt phản đối: “Không, con người rất tò mò. Họ sẽ tạo ra những chiếc tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người cũng sẽ biết”. Một yêu tinh nhỏ tuổi đứng lên: “Hay để nó ở một hành tinh khác đi!”. Tuy nhiên một yêu tinh lớn tuổi đáp: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh đấy thôi”.

  Bầy yêu tinh lại im lặng suy nghĩ. Chợt một yêu tinh già lụ khụ đứng lên đưa ra ý kiến: “Tôi biết ta nên giấu hạnh phúc ở đâu rồi! Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số mọi người đều luôn cố gắng lùng sục hạnh phúc ở khắp nơi khắp chốn và bao giờ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ họ quan tâm. Giấu ở đó thì con người chẳng bao giờ tìm thấy đâu!”.

    Tất cả yêu tinh đều nhất trí với giải pháp này và kể từ đó, rất nhiều người mải mê đi kiếm hạnh phúc mà không biết nó đã được giấu ngay trong tâm

Hãy là chính mình

Denis Waitley

        Lương tâm, sự trung thực, sự liêm khiết : đó là ba giá trị để đối diện với tương lai.

        Đối với ông bà nội của tôi, người ta hoặc là sống trung thực hoặc là không. Ông bà đã cho gắn lên tường phòng khách câu châm ngôn sau đây: “Cuộc đời như một cánh đồng phủ đầy tuyết mới; mỗi bước chân của ta sẽ lộ ra con đường ta đi”.

        Bằng vào bản năng của mình, họ đã hiểu rằng sống liêm khiết, đó là có một ý thức đạo đức và ý thức này không biến đổi theo lợi ích hay hoàn cảnh nào. Sự liêm khiết là một chuẩn mực cá nhân cho phép tự đánh giá cách ứng xử của mình. Tiếc thay, phẩm chất này mỗi ngày mỗi hiếm đi.

        Thế mà sự liêm khiết lại quan trọng cho mọi tầng lớp xã hội, và chúng ta cần phải tự đòi hỏi cho bản thân mình.

        Một phương cách tốt để đánh giá sự trung thực của mình là tuân giữ điều mà tôi gọi là “Tam giác liêm khiết”, dựa trên ba nguyên tắc sau đây: Bảo vệ các xác tín của mình bằng mọi giá. Lấy ví dụ về một nữ y tá bắt đầu ngày làm việc đầu tiên giữa một nhóm bác sĩ phẫu thuật của một bệnh viện nổi tiếng. Cô chịu trách nhiệm về các dụng cụ và thiết bị trong ca phẫu thuật vùng bụng. Cô nói với bác sĩ:

        - Bác sĩ chỉ lấy ra 11 miếng bông thấm, trong khi chúng ta đã dùng đến 12 miếng. Chúng ta cần phải tìm ra miếng còn lại.

        Bác sĩ đáp:

- Tôi đã lấy ra hết rồi. Giờ thì chúng ta bắt đầu may lại vết mổ.

- Bác sĩ không được làm như thế - cô y tá nghiêm giọng - Hãy nghĩ đến bệnh nhân.

    Với nụ cười trên môi, bác sĩ nhón chân lên và chỉ cho cô y tá miếng bông thứ 12. Rồi ông nói với cô:

    - Tôi tin rằng cô sẽ trở nên xuất sắc trong nghề này.

    Khi bạn biết chắc mình có lý, hãy giữ vững lập trường của mình. Luôn nhìn nhận giá trị đúng đắn của người khác.

    Bạn đừng sợ những người có ý tưởng hay hơn bạn hoặc những người xem ra thông minh hơn bạn. Đây là nguyên tắc mà David Ogilvy, người sáng lập công ty quảng cáo nổi tiếng Ogilvy and Mather, đã nhắc nhở các cán bộ lãnh đạo mới. Ông tặng mỗi người một con búp bê Nga, bên trong có năm hình nhân nhỏ dần. Trong hình nhân bé nhất ông đặt một tờ giấy có ghi mấy hàng chữ: “Nếu mỗi người trong chúng ta chọn những người cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành công ty của những người khổng lồ”.

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

    Hãy trung thực với chính mình và chấp nhận nhân cách của mình.

    Khi người ta thiếu các giá trị chính yếu, người ta có xu hướng dựa vào các yếu tố bên ngoài - dáng dấp - để tự trấn an. Người ta sẽ hành động vì dáng dấp bề ngoài ấy chứ không phải vì sự phát triển của phẩm chất cá nhân. Do đó hãy là chính mình. Đừng bao giờ che đậy các mặt yếu kém trong nhân cách của mình. Hãy nhìn thẳng vào thực tế và trước các thử thách hãy hành động như một người trưởng thành.

        Sự tự trọng và một lương tâm trong sáng: đó là các thành tố chủ yếu của sự liêm khiết. Đó cũng chính là những phẩm chất thiết yếu nếu như ta muốn cải thiện mối quan hệ với người khác.

        Một cuộc sống có nguyên tắc không hạ mình trước sức cám dỗ của thứ đạo đức dễ dãi, sẽ luôn giành phần thắng. Cuộc sống đó sẽ dẫn đường cho chúng ta mà không cần phải xem xét lại xem ta có đang đi đúng đường hay không.

Họ cũng từng bị coi là không có tương lai.

    Albert Einstein cho đến lúc 4 tuổi vẫn chưa biết nói và đến lúc 7 tuổi vẫn không biết đọc. Thầy giáo nhận xét rằng ông “kém trí, khó gần, luôn luôn sống trong trạng thái lơ lửng với những giấc mơ thiếu thực tế”. Ông bị đuổi khỏi trường Đại học Bách khoa Zurich.

    Giáo viên của Thomas Edison cho rằng Edison không học được vì quá tối dạ.

    Winston Churchill rớt lớp sáu. Cho đến năm 62 tuổi ông mới trở thành thủ tướng nước Anh.

    Isaac Newton học rất dở ở trường tiểu học.

    Cha mẹ của ca sĩ opera Enrico Caruso muốn ông trở thành một kỹ sư. Còn các giáo viên cho rằng ông không có chất giọng và chẳng thể nào hát được.

    Louis Pasteur luôn xếp hạng 15/22 ở môn Hoá trong trường.

    Charlie Darwin, cha đẻ của Thuyết tiến hoá, đã từ bỏ nghề bác sĩ và được cha ông nhận xét là: “Con chẳng quan tâm đến việc gì ngoài bắn súng, lũ chó và việc săn chuột”. Trong quyển tự truyện của mình, ông viết: “Tôi là một đứa trẻ bình thường thậm chí trí tuệ của tôi còn thua môt người bình thường”.

    Lev Tolstoy, tác giả quyển “Chiến tranh và hoà bình”, bị đuổi khỏi trường Đại học. Lúc đó ông được đánh giá “không thể và cũng không thích đi học”.

    Không phải người đương thời không nhìn thấy tài năng của những vĩ nhân tương lai, họ chỉ không biết một quy luật rằng: Nếu những đứa trẻ có- trí- thông- minh- tầm- thường sở hữu thêm một nỗ- lực- đặc- biệt- bền- bỉ vẫn có thể trở thành một người thành đạt, thậm chí cực kỳ thành đạt.

Hoa hồng tặng mẹ

    Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.

    - Cháu muốn mua một hoa hồng để tặng mẹ cháu- nó nức nở- nhưng cháu chỉ có 75 xu trong khi giá một hoa hồng đến 2 đô la.

    Anh mỉm cười và nói với nó:

    - Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.

    Anh bèn mua hoa cho cô bé và đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhin anh trả lời:

    - Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.

    Rồi nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói:

    - Đây là nhà của mẹ cháu.

    Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.

    Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa, hủy bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch 300km về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa.

Kathleen và cây đàn piano

    Một buổi sáng mùa Đông tháng 12 cách đây mấy năm, tôi và chồng tôi, anh Mark, đang lái xe đến sân bay, chúng tôi được mời đến West Coast để nói chuyện trong một hội nghị Y Khoa. Chúng tôi cùng trò chuyện trên xe, chúng tôi nói về West Coast, nơi hiện có thời tiết ấm áp và rất náo nhiệt so với tiết trời giá lạnh ở đây. Khi đi ngang qua một siêu thị, Mark dừng lại và chạy vào mua mấy thứ. Khi anh trở ra, trên tay anh cầm một túi nhỏ màu nâu và bên cạnh anh còn có cả một phụ nữ đứng tuổi đang run lẩy bẩy.

    Thoạt nhìn, hai người tương phản hẳn nhau - Này nhé: Mark thì tươm tất, sang trọng trong bộ com lê bằng len có sọc nhuyễn; còn người phụ nữ lạ mặt chỉ mặc độc chiếc áo khoác xanh lá bằng vải pôliexte - loại vải rất mỏng; ngoài ra chiếc áo còn mất cả hai nút áo và có một vết bẩn phía trước. Bà mang đôi giày sandal cũ mèm, để lộ những ngón chân lạnh cóng.

    Khi bà - một phụ nữ trông rất cương nghị - ngồi vào băng ghế sau, bà nhoẻn cười với tôi và giới thiệu ngắn gọn: "Tôi là Kathleen. Tôi biết hai ông bà đang đi về hướng Kentucky".

     Thì ra chồng bà là một bệnh nhân ở một bệnh xá gần đó, bệnh tình ông rất nặng và các bác sĩ tiên đoán rằng ông khó qua khỏi mùa Giáng Sinh sắp tới. Hai vợ chồng bà kết hôn rất muộn nên họ chẳng có con. Chồng bệnh, bản thân bà thất nghiệp cộng với tiền trợ cấp hàng tháng ngày càng ít ỏi, Kathleen không đủ tiền ngồi xe buýt nên bà thường phải quá giang đến bệnh xá. Giống hầu hết phụ nữ Appala- chiến, bà Kathleen có lối sống rất độc lập. Bà thường ở lại bệnh xá. Dù chồng bà hãy còn nằm mê man bất tỉnh, nhưng chí ít bà thích không khí ở bệnh xá: khung cảnh ấm cúng, thức ăn thì khỏi chê. Và đặc biệt là trong bệnh xá có một cây đàn piano, bà có thể chơi đàn để giết thời gian và cũng là cách để được sờ lên từng phím đàn - niềm đam mê từ thuở bé thơ của bà.

     Khi xe chúng tôi đến trung tâm hồi sức nhỏ và sơ sài ấy, tôi đưa bà tấm cạc - vi - zit bằng linen màu ngà voi và dặn: "Cứ gọi cho chúng tôi khi nào bà cần quá giang. Nếu tiện đường nhất định chúng tôi sẽ giúp bà". Bà Kathleen mỉm cười, rồi cảm ơn chúng tôi, bà bước đi, lại đối mặt với từng cơn gió lạnh buốt, chiếc áo khoác mỏng manh của bà bay phần phật đủ hướng.

     Sau khi dự hội nghị về, chúng tôi bận bù đầu để chuẩn bị cho Giáng Sinh, nào là nướng bánh, mua quà làm những việc vặt vãnh... Bà Kathleen cũng có gọi đến hai lần để trò chuyện, nhưng phải đến đúng ngày Giáng Sinh chúng tôi mới có dịp đi ngang nhà bà.

     "Em có mang theo thứ gì cho bà Kathleen không?" Chồng tôi hỏi vào khuya Giáng Sinh đó. Sao mà tôi lại quên được chứ nhỉ?

     Thế là hai vợ chồng tôi vội gom hết mọi thứ còn dư trong nhà mang cho bà Kathleen. Khi chúng tôi đến, đèn hành lang trước căn hộ chung cư nhỏ của bà vẫn còn sáng. Chúng tôi nhấn chuông và đợi. Bà Kathleen ra mở cửa và mời chúng tôi vào nhà, bà nói: "Bà vừa có linh cảm chúng tôi sẽ đến thăm bà". Bà Kathleen mặc chiếc đầm ngắn tay bằng vải cotton, trong phòng khách của bà có bộ salông rách và một chiếc ghế, xung quanh cửa sổ dán đầy những tấm thảm chùi chân để giữ ấm cho bà. Chiếc bóng đèn vàng duy nhất trong phòng được treo lủng lẳng trên sợi dây thép, nó tỏa thứ ánh sáng yếu ớt.

     Đây là Honey". Nó là con mèo hoang nhưng thuộc giống tốt đấy". Bà Kathleen vừa giới thiệu vừa đưa tay vuốt bộ lông mềm mại màu vàng của con mèo, rồi bà tiếp: "Tôi và Honey có món quà đặc biệt tặng ông bà". Nói đoạn bà cầm chiếc mộc cầm lên và đánh đàn, bà đàn bài "Chúc mừng Giáng Sinh" rất bài bản và điệu nghệ, dù rằng các phím đàn đã bị sét và bị gãy góc. "Tôi mua đợc cái này với giá 75 xu ở chợ xôn hè năm ngoái đấy". Bà khoe, giọng rất tự hào: "Và tôi đã giữ gìn nó rất cẩn thận để sử dụng đúng lúc thôi".

     "Bà có đàn piano không? "Bà Kathleen hỏi. Tôi gật đầu, cảm thấy áy náy khi nghĩ đến chiếc đàn Piano to được đặt trong phòng khách và số quần áo đẹp trong tủ áo ở nhà. Chỉ còn vài giờ nữa là Giáng Sinh sẽ qua, vậy mà tôi chưa dạo một bài hát Giáng Sinh nào cả. Chúng tôi cứ mãi bận rộn, vùi đầu và theo đuổi những thứ mà tiền có thể mua được; dường như chúng tôi đã bỏ qua những thứ mà tiền không thể mua được.

     Lát nữa khi về tới nhà bà có thể... có thể đánh bản "Silent Night không?" Và nếu có thể xin bà hãy để điện thoại sát cây đàn để tôi đợc ăn mừng Giáng Sinh một lần nữa nhé". Bà nói như nài nỉ tôi. Sau đó bà kể cho chúng tôi nghe về giấc mơ tìm mua một cây đàn piano, loại thẳng đứng mà bà vẫn hay dùng hồi còn bé. Bà còn một ít tiền, nhưng bà tin rằng Chúa sẽ gửi cho bà một chiếc.

     Sau lễ Giáng Sinh, tôi cố lục lọi trong các mẫu quảng cáo trên báo với hy vọng tìm mua được cây piano cũ cho bà Kathleen. Nhưng rõ ràng loại hàng này đã bị các tay buôn đàn thu mua cả. Thất vọng tôi đành nghĩ ra một món quà khác để đền cho bà - tôi mua một chiếc áo kiểu xinh xắn, màu tím và một hộp bột tan.

     Rồi Lễ Tình Nhân đến, tôi mua tặng bà sôcôla, nhưng bà dường như chẳng để ý đến món quà đó. Điều bà quan tâm là: "Cây đàn piano của tôi sẽ xuất hiện nay mai thôi". Bà quả quyết như thế. Và suốt mùa đông đó, niềm tin của bà càng mãnh liệt hơn. Tôi rất ngạc nhiên và đôi lúc buồn cười khi nhìn vào hình ảnh tương phản ở bà: một đằng là niềm tin mãnh liệt vào cây đàn, còn một đằng là cảnh đói nghèo thực tại.

     Cuối mùa xuân năm đó, quả thật một điều tuyệt diệu đã xảy ra, hai vợ chồng tôi liền ghé qua để báo bà hay tin vui đó. Số là có một số người ở khu nhà bên bán nhà dọn đi nơi khác, chủ mới dọn đến và yêu cầu chủ cũ dọn luôn cây đàn piano loại thẳng đứng vốn nặng trịch ở tầng hầm theo. Dĩ nhiên chủ cũ không thể mang cây đàn theo. Chủ nhà mới đã hỏi vợ chồng bà: "Anh chị có biết ai cần cây đàn cũ ấy không? Tôi cho không đấy!" ồ tuyệt quá! Bà Kathleen rất hồi hộp, bà đứng ngoài cửa đợi và khi thấy bóng chiếc xe hai vợ chồng tôi, bà lắp bắp: "ôi! Piano của tôi... đến rồi... Đêm qua tôi nằm mơ và được báo mộng rằng cây đàn sẽ đến từ một thị trấn nhỏ Point Pleasant, ở West Virgima. Tôi chưa hề biết đến tên thị trấn xa lạ này".

     Quả là trời có mắt". Chồng tôi lẩm bẩm, rõ ràng nhiên trước sự sắp xếp kỳ lạ này. Quả thật cây đàn này vốn ở một thị trấn nhỏ, rất nhỏ nằm cách Point Pleasant 48km.

     Hai vợ chồng tôi không nén được niềm vui dâng trào. Bà Kathleen tỏ ra bối rối - không phải vì sự xuất hiện của cây đàn mà vì vẻ ngạc nhiên hiện rõ trên mặt chúng tôi. Bà cho biết từ cái đêm Giáng Sinh năm ngoái bà đã biến niềm tin thành hành động. "Tôi đã đánh đàn bằng đầu óc từ hôm đó đến nay". Bà giải thích: "Không có niềm tin, sẽ không đạt được điều gì. Đúng không nào?”.

     Và từ khi đưa đàn về, tiếng đàn trong nhà bà dường như cứ ngân vang mãi. Dù lớn tuổi cộng thêm căn bệnh tăng nhãn áp, rồi đến cái chết của chồng, nhưng tất cả không thể cản trở mềm say mê âm nhạc trong bà. Âm nhạc - vốn cổ điển với những bài ca Phúc âm hồi bé bà hay đàn - đã kết nối bà với thế giới, với mọi người xung quanh. Bà gia nhập nhóm đạo ở nhà thờ gần nhà và tham gia vào ban nhạc người cao tuổi. Tuy không biết nốt nhạc nhưng bà vẫn có thể đàn rất hay và chính xác sau khi nghe qua bản nhạc đó một lần.

     Trước khi gặp bà Kathleen, tôi biết Niềm tin hiện diện trong đầu nhưng nay tôi hiểu ra rằng: Niềm tin hiện diện trong con tim. Điều kỳ diệu xảy ra trong hoàn cảnh bà Kathleen không phải ở phút giây bà nhận được đàn mà diễn ra ngay từ phút đầu tiên bà có niềm tin ấy.

Khả năng sáng tạo

    Khi sắp hoàn thành việc tạo lập loài người, Thượng đế họp mặt tất cả muôn loài và nói: “Ta còn một món quà tặng đặc biệt dành cho tất cả loài người nhưng ta muốn giấu họ, ta muốn ban cho họ chỉ khi họ đã sẵn sàng. Đó chính là khả năng sáng tạo”.

    Đại bàng nói: “Hãy trao nó cho ta, ta sẽ đem nó lên mặt trăng”. Thượng đế đáp: “Không được, sẽ có một ngày loài người cũng lên đến đó và tìm thấy nó thôi!”.

    Cá hồi nói: “Ta sẽ chôn nó ở đáy đại dương”. Ngài lắc đầu: “Không đâu, họ cũng sẽ tìm đến đó dễ dàng”.

    Trâu nói: “Ta sẽ chôn nó trong đồng bằng mênh mông”. Thượng đế vẫn chưa bằng lòng: “Họ sẽ khoan sâu vào lòng đất, dù là ở đâu họ cũng nhanh chóng tìm ra nó!”.

    Mẹ Đất lúc đó mới nhẹ nhàng chỉ ra một chỗ: “Hãy đem khả năng sáng tạo giấu vào bên trong mỗi con người, chỉ có kẻ tin tưởng vào bản thân mình mới nhận ra sự tồn tại của khả năng đó!”.

    Và Thượng đế đã đồng ý.

Khi ta trong sáng

Khi đứng trên mảnh đất sắp trồng tỉa, tôi nhìn thấy những hạt giống người ta sẽ gieo và trồng tỉa sau những vụ mùa. Còn các con của tôi, chúng nhìn thấy những bông hoa rực rỡ có cánh trắng muốt, mịn màng mà chúng sẽ hái để tặng mẹ.

Khi có một người say rượu cười với tôi trên đường, tôi thấy đó là một gã đàn ông bẩn thỉu, hôi hám có lẽ đang rất cần tiền và tôi vội nhìn đi chỗ khác. Các con tôi lại thấy một người đang cười với chúng và chúng đáp lại bằng một nụ cười.

Khi nghe bản nhạc tôi hằng yêu thích, tôi nhồi lặng lẽ và hưởng thụ một mình. Các con tôi rủ nhau nhảy theo điệu nhạc, chúng hát to thành lời và đôi khi còn tự đặt lời hát mới cho mình.

Khi gió đang thổi vào mặt tôi, tôi căng mặt về phía gió thổi và cảm thấy gió đang làm rối tóc và kéo tôi đi chậm lại. Các con tôi thì nhắm mắt, giang rộng hai tay, mơ bay theo gió, ngã lăn ra đất và cười vang.

Khi tôi cầu nguyện chúa ban cho tôi cái này cái nọ, các con tôi lại thì thầm :" Cám ơn người đã ban cho chúng con những người bạn tốt. Xin giúp trúng con tránh xa những cơn ác mộng đêm nay. Cảm ơn người đã thương yêu và bảo vệ chúng con."

Khi tôi bước qua vũng sình, tôi thấy đôi giày bê bết bùn và tấm thảm sẽ bị bôi bẩn. Các con tôi lại thấy những cây cầu mà chúng sẽ xây bằng bùn, bắc qua những dòng sông nhỏ và chúng say mê chơi với những con giun dễ thương đang sống trong vũng sình bùn ấy.

Tôi thường băn khoăn về những điều mà tôi dạy các con - những điều mà chúng tôi ít làm theo - những điều mà tôi hầu như không còn tin tưởng nữa. Nhiều lần soi bóng mình qua tấm gương, tôi thấy tâm hồn trong sáng cao thượng của các con; tôi thấy mình sao ích kỉ, nhỏ nhen và tầm thường. Sao tôi, sao bạn không giữ cho mình cái nhìn trong sáng, trái tim hồn nhiên đầy mớ ước của thời thơ trẻ? Và có như thế, cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn nhiều phải không bạn?

Khi trẻ con học...

    Khi trẻ con học được rằng hạnh phúc không đến từ những gì một người đang có, mà từ chỗ người ấy là ai.

     Khi trẻ con học được rằng cho đi và tha thứ thì cao quí hơn là chỉ biết nhận lấy và nuôi mãi oán thù.

    Khi trẻ con học được rằng nỗi thống khổ sẽ không dịu đi nếu chỉ ngồi than thân trách phận, mà phải vượt qua bằng ý chí kiên cường xuất phát từ sức mạnh nội tâm.

    Khi trẻ con học được rằng chúng không thể chế ngự được thế giới chung quanh, nhưng chúng hoàn toàn có thể làm chủ cuộc sống của chính mình.

    Khi trẻ con học được rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn nếu chúng biết đặt tình bạn lên trên cái tôi ích kỷ, biết khiêm tốn thay cho tự mãn, biết lắng nghe thay cho vì chỉ ban phát lời khuyên.

    Khi trẻ con học được rằng không nên ghét bỏ một người chỉ vì lo sợ khi thấy họ khác mình, trái lại phải biết sợ hãi chính lòng căm ghét ấy...

    Khi trẻ con học được rằng niềm vui nằm trong việc có được sức mạnh chân chính để nâng người khác dậy, chứ không phải ở sức mạnh giả tạo để hạ người khác xuống.

    Khi trẻ con học được rằng những lời khen tặng chỉ là những lời phỉnh nịnh vô nghĩa nếu không phản ánh đúng năng lực của mình.

    Khi trẻ con học được rằng giá trị cuộc sống không phải được đo bằng những năm tháng lo tích góp tài sản, mà bằng những giây phút quên đi hạnh phúc cá nhân để chia sẻ niềm tin, khơi nguồn hy vọng, lau khô nước mắt và xoa dịu những nỗi đau.

    Khi trẻ con học được rằng vẻ đẹp của một người không chỉ được nhận biết bằng mắt mà bằng cả trái tim, và dù thời gian cùng nỗi khổ có thể tàn phá hình hài thì chúng cũng đồng thời làm tăng nhân cách và giá trị của con người.

    Khi trẻ con học được rằng không nên xét nét người khác, rằng mọi người đều có quyền hưởng hạnh phúc dù họ tốt hay xấu chính là tuỳ thuộc vào việc họ được người chung quanh giúp đỡ hay chỉ gây cho họ những thương tổn.

    Khi trẻ con học được rằng mỗi con người đều được Thượng đế ban tặng một món quà riêng biệt, và cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mọi người biết chia sẻ món quà ấy với những người chung quanh.

    Khi trẻ con học được tất cả những điều trên và xem đó là nghệ thuật sống, chúng không còn là trẻ con nữa mà chúng trở thành niềm hạnh phúc cho tất cả mọi người và xứng đáng là mẫu mực cho toàn nhân loại...

Không bao giờ là quá trễ

Dan Clark

Ngày đầu tiên ở trường, sau khi giáo sư tự giới thiệu với bọn sinh viên lớp Hóa chúng tôi, ông đố chúng tôi xem trong lớp có gì lạ. Tôi đứng lên và nhìn xung quanh, đang như thế thì bỗng có một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên vai. Tôi quay lại và thấy một bà già nhỏ bé, nhăn nheo đang mỉm cười - một nụ cười bừng sáng.

Bà nói "Chào cậu trai. Tên tôi là Rose. Tôi tám mươi bảy tuổi. Tôi bắt tay cậu một cái được không?"

Tôi cười to và vui vẻ đáp lại:"Dĩ nhiên rồi!" và thế là bà cụ bắt tay tôi một cái rõ chặt.

"Sao bà lại đi học vào cái tuổi còn quá ngây thơ này?" tôi đùa.

Bà cũng đùa lại:"Tôi tới đây tìm một người chồng giàu có, làm đám cưới, có thêm vài đứa nhóc, rồi nghỉ hưu và đi du lịch".

"Ối bà hài hước thật!" Tôi thực sự tò mò muốn biết cái gì đã thúc đẩy bà cụ đi thử sức vào cái tuổi này.

"Tôi luôn mơ ước được đi học đại học, và bây giờ thì tôi được đi học đây!", bà cụ nói.

Sau buổi học chúng tôi đi về hội quán sinh viên để làm một ly socola nóng. Chúng tôi thành bạn ngay, và chỉ sau ba tháng sau là đã cùng nhau tan lớp, trên đường về nói chuyện với nhau không dứt. Tôi luôn luôn thích thú lắng nghe "cỗ máy thời gian" này, nghe bà chia sẻ những kinh nghiệm và những triết lý thâm thúy về cuộc đời.

Trong năm đó bà Rose đã trở thành biểu tượng của trường tôi. Bà kết bạn ở bất cứ nơi nào bà đến chơi. Bà thích ăn mặc lịch sự trước mọi người.

Cuối học kỳ, chúng tôi mời bà Rose đến nói chuyện trong một bữa tiệc của đội banh, và tôi không bao giờ quên được những gì bà đã nói với chúng tôi. Bà giới thiệu trang trọng và bước lên bục nói. Bà mỉm cười và nói:"Chúng ta không nên ngừng hoạt động. Có bốn bí quyết để được trẻ, được hạnh phúc, và đạt được thành công. Ðó là:

"Bạn phải cười và tìm thấy một chuyện vui, hài hước mỗi ngày."

" Bạn phải có một ước mơ cho mình. Khi không còn ước mơ nữa, ấy là bạn đã chết. Có bao nhiêu người quanh chúng ta, tuy đi đi lại lại đó mà không biết mình đã chết".

"Có một sự khác biệt khổng lồ giữa già đi và trưởng thành. Nếu bạn 19 tuổi và nằm trọn trên giường trọn 1 năm, không làm được một sản phẩm nào cho đời, bạn sẽ già đi thành người hai mươi tuổi. Ai thì cũng phải già đi cả. Không cần tài năng, không cần năng lực gì, bạn cũng già đi được. Trong khi đó, bạn không già đi, mà bạn chỉ trưởng thành, nếu biết tìm ra trong sự thay đổi những cơ hội để trải nghiệm."

" Cuối cùng, không hối tiếc. Bọn lớn tuổi chúng tôi thường không tiếc những gì mình đã làm, mà chúng tôi chỉ tiếc những gì mình chưa làm. Chỉ những người còn mang hối tiếc mới là người sợ chết."

Bà kết thúc bằng cách hát cho chúng tôi nghe bài "Ðoá hồng". Bà "thách" chúng tôi học thuộc lời ca và sống như lời bài hát đó.

Rồi một cuối năm, trước lễ tốt nghiệp chừng một tuần, bà Rose ra đi thanh thản sau một giấc ngủ dài. Hơn hai ngàn sinh viên của trường đã đến dự lễ tang của bà cụ - bạn đồng môn đã dạy cho chúng tôi bài học: "Không bao giờ là quá trễ để thực hiện điều mình ao ước".

Không còn một phút giây để đánh mất.

    Cách đây vài tuần, tôi đi cùng người bạn để chọn mua một số vật dụng để học vẽ. Đúng hơn là tôi ngạc nhiên vì xưa nay tôi lại không hề biết anh ấy có năng khiếu về hội họa.

-    Mình đã đăng ký học lớp vẽ màu nước- Anh ấy nói như để xin lỗi tôi. Và tuần tới lớp sẽ bắt đầu. Mình không thể nói là mình thật sự có thời gian theo học không nữa, nhưng chuyện ấy nằm trong số 50 việc mình phải làm trước khi chết, vì vậy mà mình bắt tay làm.

-        Điều anh nói khiến tôi chú ý.

    - Thế còn việc gì khác mà bạn phải làm nữa?- Tôi hỏi.

    - Đủ thứ chuyện. Lâu lâu mình xem lại bảng danh sách của mình và chọn một việc để tập trung làm. Trước kia, khi chưa ghi ra giấy trắng mực đen những dự định của mình, mình cứ luôn phải tự trách khi nghĩ đến những gì mình đã bỏ lỡ trong đời. Còn giờ thì mình làm được khối chuyện.

    - Cho mình xem bảng danh sách ấy được không?

    - Mình không nghĩ là được đâu. Bạn biết đấy, đó là một việc rất riêng tư. Bạn cứ thử làm bảng danh sách của bạn xem, và bạn sẽ hiểu điều mình vừa nói.

    Ngay tối hôm ấy, tôi đã làm. Và tôi hiểu đúng là bạn mình nói có lý. Tôi chợt nhận ra cái gì là chính yếu nhất trong cuộc sống của mình cũng như sự rã rời lâu nay của mình cho những gì mình thật sự quan tâm đến trong đời. Danh sách này buộc mình phải xác định những gì là ưu tiên đối với bản thân mình. Hai mươi việc đầu tiên được kê ra một cách dễ dàng. Những việc còn lại, tôi đã phải suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh. Và cuối cùng tôi ghi những việc thoáng qua trong đầu mình, từ những giấc mơ mà mình đã ôm ấp thời còn trẻ, hay từ những dự định vốn đã quyến rũ tôi ngay lần đầu khi nghe nói tới. Sau đó, khi đọc lại bản danh sách, tôi đã thật sự ngạc nhiên.

    Trước tiên, tôi muốn đi du lịch nhiều hơn, nhất là khi những đứa con mình đã lớn, chúng có thể đi khắp nơi cùng với tôi. Có đến 10 chuyến du lịch mà tôi dự định đi cùng các con trai của mình, từ chuyện đạp xe đi vòng quanh đất nước cho đến chuyến dã ngoại trên núi.

    Có nhiều việc, nhưng đó lại là chuyện tuổi tác. Chẳng hạn, nếu như tôi muốn trượt patin thì cái không nên nhất là đừng chờ đến tuổi 50.

    May thay, những dự định khác có thể chờ đến khi có tuổi. Tôi rất thích trồng hoa, nhưng bao giờ tôi còn phải đi làm và chăm sóc con cái thì chẳng có lấy một phút để trồng những cây hoa hồng.

    Có không ít dự định khiến tôi đâm sợ nếu như mình phải dành hết thời gian cho chúng. Trước khi chết, tôi muốn xuất bản một cuốn tiểu thuyết và lấy được bằng tiến sĩ về văn chương! Còn nữa, học hội họa, chơi piano. Nhưng để thực hiện cho được những dự định này, tôi sẽ phải viết miệt mài suốt ngày và học lại nhạc lý. Rõ ràng là tôi không thể thực hiện hết các mơ ước của mình. Một số dự đinh sẽ mãi mãi là ước mơ. Nhiều dự định sẽ không thích hợp với cuộc sống của tôi hiện nay, như mua một con ngựa chẳng hạn. Dù sao, những ước muốn này không hề là những gì xốc nổi, chóng qua. Nếu như tôi coi chúng là những mục tiêu có thể thực hiện được, thì không có gì có thể ngăn cản tôi đạt tới, ít ra là một phần.

    Cũng giống như bạn mình, tôi không còn thời gian để mà ngồi than thân trách phận nữa: khi cuộc sống trở nên nặng nề với tôi thì tôi lại đọc lại bản danh sách của mình. Sau đó thì tôi yêu cầu các cơ quan du lịch gửi cho tôi các giới thiệu tour, hay lấy cọ, bước ra vườn và ngồi hàng giờ để cố vẽ cho được những cái cây giống với cây. Một trong những người chị em họ của tôi đã làm được nhiều việc thú vị. Theo cô ta, điều quan trọng là phải luôn sẵn sàng bởi cuộc sống đôi khi dẫn đưa bạn đi trên những con đường bất ngờ. "Nếu bạn muốn leo tàu vào bến cảng, trước tiên bạn phải đóng một con tàu".

    Với sự giúp đỡ của bản danh sách, tôi đã tập trung hết sức lực của mình vào đó.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời

Carla OBrien

Cha nói tôi là Người Đẹp Tuyệt Vời. Tôi suy nghĩ xem tôi có phải như vậy không.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Sarah nói tôi cần phải có mái tóc dài mềm mại uốn cong như nhỏ đó. Tôi không có.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Justin nói tôi phải có hàm răng trắng và đều như ảnh. Tôi không có.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Jessica nói tôi không được có những nốt tàn nhang màu nâu trên mặt. Tôi có.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Mark nói tôi phải trở thành người giỏi nhất trong lớp 7. Tôi không phải.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Stephen nói tôi phải biết kể rất nhiều mẩu tiếu lâm trong trường. Tôi không biết.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Lauren nói tôi phải sống trong khu đẹp nhất của thành phố và có ngôi nhà đẹp nhất. Tôi không có.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Matthew nói tôi phải mặc những bộ đồ xịn nhất và đi những đôi giày mốt nhất. Tôi không mặc.

Là Người Đẹp Tuyệt Vời... Samantha nói tôi cần xuất thân từ một gia đình tuyệt vời. Tôi không phải.

Nhưng mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, cha tôi lại ôm tôi và nói, "Con Là Người Đẹp Tuyệt Vời, và cha yêu con lắm."

Dĩ nhiên cha tôi phải biết những điều mà bạn bè tôi không biết

Làm gương

    Nauy, một chiều đông, tuyết rơi nặng hạt. Một người đàn ông say rượu đang lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 14 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại. Những bước chân ngả nghiêng chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè :

    - Mày đi kiểu gì vậy ?

    Cậu bé trả lời:

-    Dạ con đi theo bước chân của cha!

    Sự gương mẫu đối với trẻ em là yếu tố quan trọng nhất trong giáo dục. Chúng ta có thể huyên thuyên giảng giải trong hàng giờ đồng hồ song chúng chẳng nhớ bao nhiêu, thế nhưng những gì chúng nhìn thấy sẽ để lại những ấn tượng rất sâu đậm. Rồi đến một ngày, chúng ta nhìn thấy con em chúng ta nói những lời giống hệt như ta, giận dữ hệt ta, hống hách hệt ta, lười biếng hệt ta … Và chúng sẽ trả lời với ta rằng :”Con đang bước theo bước chân của ba mẹ!”.

Lời khuyên của người cha

Tác giả: H.Giăcxon Brao

-Mỗi ngày con nhớ dành lời khen tặng vài ba người.

- Mỗi năm ít nhất một lần con hãy chờ xem mặt trời mọc.

- Nhìn thẳng vào mắt mỗi người

- Nói lời "cảm ơn" càng nhiều càng tốt, cũng vậy nói lời "làm ơn" càng nhiều càng tốt.

- Hãy sống dưới mức con kiếm được. Đối xử với mọi người như con muốn được họ đối xử như thế.

- Kết thêm những người bạn mới nhưng trân trọng những người bạn cũ.

- Hãy giữ kín những điều bí mật.

- Con đừng mất thời giờ học các "mánh khoé" doanh nghiệp. Hãy học cách làm doanh nghiệp chân chính.

- Dám chịu nhận những lầm lẫn của mình.

- Con hãy can đẩm. Nếu tự con không được can đảm lắm thì cũng phải tỏ ra can đảm.

- Con phải dành thì giờ và tiền bạc để làm việc thiện trong cộng đồng của con.

- Đừng bao giờ lường gạt một ai.

- Học cách lắng nghe, cơ hội trong đời nhiều khi gõ cửa nhà con rất khẽ.

- Đừng làm cho ai mất hy vọng, nhiều người chỉ sống nhờ hy vọng đấy con ạ!

Lời nhắn gửi từ một người bạn

Một tiếng gõ cửa lớn vang lên. Cậu bé ra mở cửa. Một người đàn ông lạ mặt xuất hiện trong một bộ quần áo nhàu nát. Anh ta cười và trên tay mang một chiếc giỏ đầy thức ăn cho ngày lễ Tạ Ơn.

Cả gia đình rất đỗi ngạc nhiên. Người đàn ông nói: "Món quà này từ một người biết các bạn đang cần và mong muốn các bạn hiểu rằng các bạn được quan tâm và yêu mến." Lúc đầu ông bố không muốn nhận, nhưng người đàn ông nói: "Tôi chỉ là người mang đến hộ." Và anh ta đặt chiếc giỏ vào tay cậu bé đang đứng gần cửa rồi quay đi.

Vào giây phút đó, cuộc đời của cậu bé đã thay đổi vĩnh viễn. Qua hành động đơn giản của lòng tốt đó cậu hiểu rằng có nhiều người kể cả 'những người không quen biết' - thật sự quan tâm. Cậu cảm thấy biết ơn vô hạn và hứa với lòng mình rằng một ngày nào đó cậu sẽ tặng cho những người khác bằng cách tương tự. Vào năm 18 tuổi, chàng trai trẻ bắt đầu thực hiện lời hứa. Với thu nhập ít ỏi của mình, anh chạy đi mua thức ăn, rau quả và bánh kẹo, không phải cho bản thân mà cho hai gia đình nghèo mà anh biết là họ rất cần. Anh lái xe đi tặng những giỏ thức ăn trong bộ quần áo cũ như thể anh là người đi giao hàng. Khi anh đến căn nhà dột nát đầu tiên, anh gặp một người phụ nữ nhìn anh đầy vẻ nghi ngờ. Cô ta có sáu đứa con.

Chàng trai trẻ nói: "Tôi mang hộ những thứ này đến cho bà." Anh mang ra những giỏ thức ăn và bánh kẹo. Người phụ nữ sửng sốt, còn lũ trẻ thì reo lên sung sướng!

Bà mẹ trẻ ôm chằng lấy chàng trai và hôn anh ta. Cô ta lắp bắp: "Anh đúng là món quà của Thượng đế. Thượng đế đã phái anh đến!"

"Không, không" - chàng trai nói - "tôi chỉ là người giao hàng. Đây là món quà từ một người bạn." Anh chìa cho người phụ nữ một mẫu giấy trên đó viết: "Đây là lời nhắn gửi từ một người bạn. Bạn và gia đình bạn xứng đáng có nó. Hãy biết rằng bạn được thương yêu. Và một ngày nào đó, nếu bạn có cơ hội, hãy làm điều tương tự đối với những người khác."

Chàng trai trẻ tiếp tục mang những giỏ thức ăn cho nhiều người khác. Anh cảm thấy vui sướng và tràn đầy lòng thương yêu. Mỗi lần anh quay ra từ một căn nhà, anh cảm thấy rất xúc động. Khi ngoáy đầu nhìn lại những gương mặt tươi cười của những người anh giúp đỡ, anh cảm thấy 'cái ngày khủng khiếp' trong quá khứ đã dẫn dắt anh đến một cuộc sống đầy ý nghĩa.

Chắc các bạn cũng muốn biết chàng trai trẻ trong câu chuyện trên là ai và hiện có đang tiếp tục thực hiện lời hứa của mình hay không. Chàng trai trẻ đó chính là Anthony Robbins, 39 tuổi, hiện là người sáng lập và chủ tịch của Anthony Bobbins Companies, một công ty nổi tiếng ở Mỹ trong lĩnh vực tư vấn, phát triển tài năng. Robbins đã tư vấn về phát triển tài năng cho rất nhiều lãnh đạo cấp cao ở các công ty như IBM, AT&T, American Express, Mc Ronnell-Douglas và US Army cũng như nhiều câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp như Los Angeles Dodgers, Los Angeles Kings và nhiều vận động viên đoạt huy chương vàng Olympic.

Với ước nguyện của mình, anh luôn luôn dành nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để giúp đỡ nhiều người vượt qua khó khăn và số phận khắc nghiệt. Năm 1991, anh thành lập Tổ chức từ thiện Anthony Robbins để giúp những trẻ em khuyết tật, những người vô gia cư, những người già. Cho đến nay, với thu nhập hàng năm lên đến hơn 1 triệu USD, Anthony Robbins vẫn cùng những người thân trong gia đình và cả một đội ngũ đông đảo những người tình nguyện đi tặng những món quà cho hơn 10.000 gia đình trong 400 công đồng khác nhau ở Mỹ và Canada.

Cuộc sống là một món quà, và tất cả chúng ta khi có khả năng phải nhớ rằng chúng ta có trách nhiệm cho lại những người khác. Hãy cùng nhau giúp những người kém may mắn hơn có được những gì tốt hơn trong cuộc sống. Đó chính là lời nhắn gửi từ một người bạn.

Lời nói yêu thương

    Tôi sẽ nói với gia đình và bạn bè tôi, cho họ biết họ đã có những ảnh hưởng lớn lao với tôi như thế nào.

    Bạn có yêu thương ai đó không? Hãy nói với họ đi!

    Có ai đã ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn? Hãy gọi điện cho họ.

    Có ai đã làm cuộc sống của bạn thay đổi? Hãy viết cho họ một lá thư, dù là thư điện tử.

    Đừng để một ngày nữa trôi qua mà không cho mọi người biết. Rõ ràng là bạn sẽ cảm thấy rất vui khi viết một lá thư nói lên tình cảm của bạn đối với người khác cơ mà!

    Tôi không biết bạn thế nào, nhưng tôi có những lá thư và thiếp từ nhiều bạn bè mà tôi đã giữ nhiều năm nay. Mỗi lần đọc lại chúng, chúng có thể làm cho một ngày của tôi vui vẻ hơn, cho tôi biết là tôi được quan tâm và yêu quý như thế nào.

    Cuộc sống quá ngắn nếu như bạn bạn cứ giữ những lời nói ngọt ngào trong tâm trí mà không bao giờ nói ra.

    Những lời bạn nói, những lá thư bạn viết, có thể làm nên rất nhiều sự thay đổi trên thế giới này

    Michael Powers

Mảnh gương

    "Thưa thầy Papaderos, em muốn biết ý nghĩa của cuộc sống là gì ạ?"

    Câu hỏi của tôi gây nên một tràng cười chế nhạo trong lớp. Dường như đó không phải là một đề tài thích hợp cho một cậu học trò 13 tuổi như tôi.

    Thầy Papaderos giơ tay ra hiệu cho cả lớp yên lặng. Sau khi quan sát tôi một hồi lâu với vẻ thăm dò, và đọc được từ trong ánh mắt tôi sự nghiêm túc hoàn toàn đối với câu hỏi của mình, thầy Papaderos quyết định: "Tôi sẽ trả lời câu hỏi của em".

    Đoạn thầy rút ra từ túi quần một chiếc bóp da. Từ trong chiếc bóp da ấy, thầy lấy ra một mảnh gương tròn bé xíu.

    Thầy giải thích: "Ngày ấy thầy còn nhỏ, đang thời chiến tranh, gia đình thầy rất nghèo túng, sống kham khổ tại một ngôi làng hẻo lánh. Một ngày nọ, thầy tìm thấy trên đường những mảnh vỡ của một tấm gương chiếu hậu từ chiếc xe máy của quân Đức đã bị phá hủy ngay tại đó.

    Thầy đã cố tìm cho đủ tất cả các mảnh vỡ và dán chúng lại với nhau. Nhưng làm mãi không được, thầy đành chỉ giữ lại mảnh gương to nhất. Rồi thầy mài tròn nó. Đây, chính mảnh gương này. Từ đó, thầy mải mê dùng nó để phản chiếu ánh sáng vào những nơi mặt trời chưa hề soi tới, những lỗ sâu, khe đứt, những góc tối. Cứ thế, đưa ánh sáng đến những nơi khó đến nhất đã trở thành một trò chơi đầy thú vị của thầy. Suốt thời niên thiếu, vào những lúc nhàn rỗi thầy thường lấy mảnh gương ra và tiếp tục trò chơi đầy thách thức. Nhưng khi thực sự trưởng thành, thầy nhận ra đó chẳng đơn thuần là một trò chơi trẻ con mà là cả một ẩn dụ về những gì thầy có thể làm với cuộc đời mình. Thầy dần hiểu ra bản thân thầy không phải là nguồn sáng, nhưng chỉ cần thầy sẵn lòng làm một mảnh gương phản chiếu, thì ánh sáng của chân lý, tri thức và sự hiểu biết sẽ soi rọi đến nhiều chốn tối tăm.

    Thầy là một mảnh nhỏ của một chiếc gương mà hình dạng trọn vẹn của nó ra sao bản thân thầy không hề rõ. Tuy nhiên, với những gì thầy có, thầy có thể phản chiếu ánh sáng vào những nơi tăm tối của thế gian, vào những nơi sâu thẳm của tâm hồn con người và làm thay đổi chút gì trong họ. Có lẽ người khác cũng hiểu và cũng đang làm điều tương tự. Đối với thầy, đó chính là ý nghĩa của cuộc sống và là những gì thầy đang làm."

Một cử chỉ đẹp

Bà Foreman dừng chiếc xe hơi của mình ngay một trạm thu phí giao thông trên xa lộ cao tốc. Liếc mắt qua kính chiếu hậu, bà thấy cả một dãy dài xe hơi ngay sau mình. Bà chợt nãy ra một ý vui vui, bà quay kính xe xuống, đưa ra cho người bán vé một tờ 50 USD và bảo: "Tôi mua một vé cho tôi, và còn lại tôi mua thêm năm vé nữa cho năm chiếc xe sau tôi, chỗ tiền dư tin xin biếu hết cho ông!"

Không kịp để cho người bán vé thắc mắc vì sửng sốt, bà Foreman quay kính xe, đạp ga và lái xe đi ngay. Bà hình dung ra trong đầu cùng sự ngạc nhiên đầy thú vị ấy nơi năm người lái xe theo sau mà bà không hề quen biết. Bà không cần những lời cảm ơn, chỉ là một 'cử chỉ đẹp' nho nhỏ thôi mà, có đáng gì đâu!

Về đến nhà, bà Foreman vừa làm bếp vừa tủm tỉm cười một mình vì nhớ lại chuyện sáng nay trên đường. Ông chồng để ý thấy làm lạ, đến bữa ăn trưa, ông lựa lời hỏi, bà mới kể lại đầu đuôi. Đến phiên ông chồng cũng cảm thấy vui lây niềm vui nho nhỏ ấy...

Buổi chiều đến trường dạy môn giáo dục công dân, ông Foreman quyết định làm một 'cử chỉ đẹp' bằng cách dùng chính câu chuyện về cử chỉ đẹp của bà vợ để dẫn nhập vào bài học. Các học sinh trung học của ông lặng đi một thoáng rồi đồng loạt vỗ tay hoan hô sau lời kết thúc của thầy giáo: "Các em hãy nhớ niềm vui sống khởi đi từ những câu chuyện bình thường nho nhỏ như thế, mỗi ngày ước gì mỗi người trong chúng ta đều làm được ít nhất một 'cử chỉ đẹp' tương tự các em nhé!"

Ở lớp hôm ấy, có cô bé Mary vốn là một học sinh cá biệt, luôn bướng bỉnh, lì lợm, cũng như một đứa bé lười biếng trong gia đình. Cô về nhà trong tâm trạng hết sức hân hoan phấn khởi và quyết định sẽ làm một 'cử chỉ đẹp' với cha mẹ. Cô lặng lẽ thu dọn, lau chùi, quét tước, nấu nướng và giặt giũ xong xuôi mọi việc trước khi mẹ cô ở xưởng và cha cô ở toà báo trở về. Sập tối, hai ông bà bước vào nhà và hiểu ra ngay đã có một sự thay đổi kỳ lạ nơi cô con gái đang tuổi dậy thì! Hỏi mãi cô bé mới kể lại câu chuyện về 'cử chỉ đẹp' cô đã nghe thầy giáo Foreman kể ở lớp. Cô hứa với bố mẹ mọi chuyện hôm nay cô đã làm ở nhà sẽ không phải là một cử chỉ đẹp duy nhất cô sẽ cố gắng thực hiện.

Sau buổi cơm chiều thật vui và đầm ấm, ông Alfonse, cha của Mary, vốn là phóng viên của một tờ báo địa phương, khoan khoái ngồi vào bàn làm việc. Ông quyết định phải viết ngay một bài báo về câu chuyện 'cử chỉ đẹp'... Chỉ đến chiều ngày hôm sau thôi, cả miền đều xôn xao rộn rã khi đọc được bài báo. Người ta bảo nhau ít nhất mỗi ngày hãy nhớ làm một 'cử chỉ đẹp' nho nhỏ cho nhau, cho cuộc sống...

Cha xứ đưa câu chuyện vào bài giảng ngày chủ nhật kế đó. Một diễn giả chọn câu chuyện làm chủ đề chính cho một buổi mạn đàm ở hội trường lớn của thị trấn. Một bà mẹ kể lại cho đứa con như một câu chuyện cổ tích để ru nó vào giấc ngủ ngon. Một đôi bạn trẻ đang yêu nhau cùng thoả thuận từ nay sẽ dành cho nhau những cử chỉ đẹp thay vì những trò giận dỗi vô bổ. Ngoài đường phố, người ta thôi không vứt những bã kẹo chewing gum bừa bãi. Những người lái xe cố gắng tránh không làm tạt những vũng nước trên đường lên khách bộ hành. Trong nhà giam, viên cai ngục bẳn tính quyết định sẽ có những cử chỉ đẹp đối với các tù nhân. Người đi mua hàng ở tiệm tạp hoá nói một lời cảm ơn lịch sự, còn cô bán hàng thường hay cau có thì đã biết mìm một nụ cười khả ái để đáp lại. Một cầu thủ bóng đá vốn nổi tiếng là chơi xấu, giờ đây trong trận đấu cuối tuần đã chạy lại đỡ một cầu thủ đội bạn bị ngã với một lời xin lỗi...

Một cử chỉ đẹp, vâng, một cử chỉ đẹp nho nhỏ mỗi ngày thôi cũng đủ để làm cho cuộc sống thêm ý nhị đậm đà, và niềm vui bởi sự quan tâm đến nhau trong yêu thương được nhen nhúm, rồi bừng cháy, lan toả đến tất cả mọi người.

Một đồng xu.

    Có hai bạn trẻ, một người Anh và một người Do Thái cùng đi xin việc làm. Một đồng xu của ai đó đánh rơi trên mặt đất. Anh bạn trẻ người xứ sương mù đi ngang qua trông thấy nhưng phớt lờ, còn anh bạn trẻ người Do Thái thì cúi xuống nhặt, nét mặt tỏ vẻ hân hoan.

    Nhìn thấy hành động của anh bạn Do Thái, anh bạn trẻ người Anh tỏ ra khinh thường, lẩm bẩm: "Một đồng xu cũng nhặt, thật chẳng ra làm sao cả". Chờ cho anh bạn trẻ người Anh đi qua, anh bạn trẻ người Do Thái nói: "Nhìn thấy tiền mà ngoảnh mặt làm ngơ, thật là lãng phí của Giời!".

    Hai người cùng đến xin việc ở một công ty. Doanh nghiệp rất nhỏ, công việc thì nặng nhọc mà tiền lương thì chẳng được là bao, anh bạn trẻ người Anh chẳng nói chẳng rằng vội vã bỏ đi, còn anh bạn trẻ người Do Thái thì tình nguyện xin vào làm việc.

    Hai nǎm sau, hai người tình cờ gặp nhau trên đường phố. Anh bạn trẻ người Do Thái đã trở thành Giám đốc công ty, còn anh bạn trẻ người Anh vẫn chưa xin được việc làm. Không hiểu được sự việc, anh ta bèn hỏi: "Anh là người chẳng xuất sắc gì lắm, sao lại phất nhanh như thế?". Anh bạn Do Thái đáp: "Tôi không bỏ qua từng đồng xu như anh. Một đồng xu cũng không quan tâm, làm sao anh có thể trở nên giàu có được?".

    Anh bạn trẻ xứ sương mù đâu phải là không cần tiền, nhưng trong con mắt của anh, anh chỉ muốn những khoản tiền lớn, song lại quên câu thành ngữ: "Tích tiểu thành đại", vì vậy ước mơ làm giàu của anh ta phải đợi đến ngày mai. Đó là lời giải đáp cho câu hỏi của anh bạn trẻ người Anh.

Một thời để sống, một thời để yêu.

    Khi tôi mười chín tuổi thì mẹ tôi bị ung thư buồng trứng và cuộc sống đối với mẹ chỉ có thể đếm được từng ngày. Tôi vừa mới học xong năm thứ nhất đại học nhưng là chị cả của năm đứa em nhỏ ở ngoại ô, tôi quyết định gác sách tập để thu xếp việc nhà và thuốc thang cho mẹ.

    Những gì ta học được trong một năm thật là kinh khủng . Tôi về nhà vào tháng chín. Mẹ tôi mất tháng một. Ba tháng sau, tôi đã nhận thức được một điều thiết yếu: tôi vẫn đang sống. Tôi khoan khoái tận hướng khí trời mà tôi đang hít thở, cũng như vẻ đẹp kiêu sa của loài thạch thảo hay thủy tiên. Trở lại trường đại học, bạn bè quanh tôi dường như ai cũng sầu não. Tôi hiểu là mình đã thay đổi đến mức nào: từ nay, cuộc sống đối với tôi như một món quà tặng. Dĩ nhiên đôi lúc cuộc đời cũng đen tối. Tôi đã từng trải qua những lúc "lên voi", những lúc "xuống chó".

    Thời buổi mà sự bi quan đang là thời thượng, những khả năng tàn bạo của con người bày biện ra mỗi ngày trên trang nhất các tờ báo. Tuy vậy, cuộc sống vẫn đẹp biết bao với những quan hệ bạn bè, những cuộc gặp gỡ, những phong cảnh tuyệt mỹ... Chính vì thế mỗi khi cuộc sống bị đe dọa thì ta lại càng gắn bó với nó nhiều hơn. Nếu ta chỉ còn sáu tháng để sống thì ta sẽ dồn hết sức mình để bám víu vào mỗi thời khắc đi qua. Thế mà ta đã quên nó. Ta có được những cái máy điện làm việc nhà, có xe cộ, nhà cửa rộng rãi, tất cả những thứ mà ông bà chúng ta xem như của dành riêng của những người giàu có. Thay vì hưởng thụ những thứ ấy, ta lại bi quan thấy cái ly đã vơi đi một nửa, ta lại than phiền công việc chiếm hết thời gian và gánh nặng con cái lại đè nặng lên đôi vai chúng ta.

    Hãy trung thực. Cuộc sống rất rộng lượng. Và trách nhiệm của chúng ta là phải làm cho nó đẹp thêm. Đến lượt ta, không để lại gì cho hậu duệ thì thật xấu hổ so với tất cả những tiện nghi chúng đã nhận được.

    Thật dễ dàng bào chữa: "Tôi không có thời gian". Tôi nghĩ đến cô bạn hàng xóm đã tự nguyện phục vụ quán cơm xã hội trong khu phố hai lần một tuần. Cô có chồng, rất bận bịu và luôn phải chăm lo cho hai con nhỏ. Một hôm tôi hỏi cô bạn: "Bạn xoay xở thế nào để có thời gian làm việc này?". Cô ta chỉ hàng người nối đuôi nhau chờ đợi bên ngoài và trả lời:

    - Làm sao mà tôi có thể làm ngơ được.

    Câu hỏi không phải là: "Ta sẽ làm điều đó chăng?", mà là chúng ta phải làm. Nhưng trước tiên hãy nhận thức những điều nhỏ nhoi đang làm cho cuộc sống đẹp hơn biết bao: cảm nhận được hơi ấm của bàn tay mẹ mình, nhìn ngắm ba đọc sách trong ánh chiều tà, thưởng thức một cuốn sách hay... Tất cả những khoảnh khắc ấy là những hạt vàng kỳ diệu trên lối đi toàn sỏi đá. Lý tưởng là ở chỗ chúng ta khám phá ra chúng mà không cần phải kiếm tìm. Và tập nhìn nhận những điều tốt đẹp quanh ta, chia sẻ nó cùng mọi người.     Nếu chúng ta đã đánh mất khả năng tạo những bất ngờ cho mình thì những sự việc buồn đau sẽ giúp chúng ta tìm lại chúng. Sau nỗi đau khi mẹ tôi qua đời, tôi nhận ra rằng cuộc đời là một điều kỳ diệu, và tôi không có quyền lãng phí.

Một việc nhỏ

Một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn đứa con nhỏ vào một dịp hè cùng đi nghỉ mát ở một bãi biển. Bọn trẻ rất thích tắm biển và xây những toà lâu đài trên cát. Bố mẹ chúng thuê một cái lều ngồi uống nước trên bờ, dõi nhìn các con vui đùa không quá xa ngoài kia phía trước mặt.

Thế rồi họ trông thấy một bà cụ già nhỏ nhắn, ăn mặc xuềnh xoàng, trên tay cầm một chiếc túi cũ đang tiến lại. Tóc bà đã bạc trắng, bị gió biển thổi tốc lên càng làm cho khuôn mặt vốn nhăn nheo của bà thêm khó coi. Bà cụ đang lẩm bẩm một điều gì đó, dáo dác nhìn rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt những thứ gì đó trên bãi biển và bỏ vào một cái túi.

Hai vợ chồng không hẹn mà cùng vội chạy ra gọi các con lại, căn dặn chúng phải tránh xa người đàn bà khả nghi kia. Dường như họ cố ý nói to cho bà ta nghe thấy để bà ta nên đi chỗ khác kiếm ăn.

Cụ già không biết có nghe thấy gì không giữa tiếng sóng biển ì ầm, chỉ thấy bà cứ từ từ tiến về phía họ. Thế rồi bà cụ dừng lại, nhìn mấy đứa trẻ dễ thương đang ngơ ngác nhìn mình. Bà mĩm cười với họ nhưng không ai đáp lại, chỉ giả vờ ngó lơ đi chỗ khác. Bà cụ lại lẳng lặng làm tiếp công việc khó hiểu của mình. Còn cả gia đình kia thì chẳng hứng thú tắm biển nữa, họ kéo nhau lên quán nước phía trên bãi biển.

Trong lúc trò chuyện với người phục vụ bàn ăn cùng những khách hàng trong quán, hai vợ chồng quyết định hỏi thăm xem bà cụ khả nghi kia là ai và họ... sững sờ: Bà cụ ấy là người dân ở đây, từng có một đứa cháu ngoại vì bán hàng rong trên bãi biển, vô tình đạp phải một mãnh chai rồi bị nhiễm trùng, sốt cao, đưa đi bệnh viện cấp cứu không kịp và đã chết vì bệnh uốn ván cách nay không lâu. Từ dạo ấy, thương cháu đến ngẩn ngơ, bà cứ lặng lẽ đi dọc bãi biển, tìm nhặt những mảnh chai, mãnh sắt hoặc hòn đá có cạnh sắc. Mọi người hỏi lý do thì bà đáp mà đôi mắt ướt nhòe: "Ồ, tôi chỉ làm một việc nhỏ thôi ấy mà, để các cháu bé có thể vui chơi trên bãi biển mà không bao giờ bị chết như đứa cháu đáng thương của tôi!"

Nghe xong câu chuyện, người chồng vội chạy ngay xuống bãi biển mong có thể nói một lời xin lỗi và một lời biết ơn chân thành, nhưng bà cụ đã đi rất xa rồi. Bóng bà chỉ còn là một chấm nhỏ trên bãi biển vắng người khi chiều đang xuống...

Nếu không có tình yêu

Ngày ấy, tôi dạy mẫu giáo tại một ngôi trường nhỏ nằm gọn trong khuôn viên của một tòa nhà ba tầng xinh đẹp.

Mỗi sáng, cứ đúng 9 giờ, tất cả học sinh lại tụ tập trong căn phòng lớn, bắt đầu một ngày mới bằng bài thể dục đầu giờ. Hơn 50 đứa trẻ, 3 đến 6 tuổi, ngồi san sát trên những chiếc ghế xinh xinh đủ màu đặt trên tấm thảm dày. Những gương mặt thơ ngây bừng sáng khi chúng háo hức hát vang những bài ca, cùng chia sẻ cho nhau về mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống...

Một buổi sáng, cô hiệu trưởng gặp toàn thể học sinh trong căn phòng lớn và thông báo:" Hôm nay chúng ta sẽ tiến hành một thí nghiệm mới".

Cô giơ cao hai cây thường xuân bé xíu đựng trong hai cái chậu con giống hệt nhau. "Chúng ta có hai cây con trông chúng giống hệt nhau đúng không?".

Tất cả bọn trẻ, tò mò nhìn vào hai chậu cây, đồng thanh đáp: "Dạ phải!".

"Chúng ta sẽ nuôi dưỡng hai cây con này với cùng chế độ ánh sáng, cùng chế độ tưới nước, nhưng... với sự chăm sóc khác nhau".

Cô nói tiếp: "Chúng ta sẽ theo dõi xem, điều gì sẽ xảy ra khi đặt một cây trong nhà bếp, cách xa chúng ta, một cây ngay tại đây, trong phòng này, trên lò sưởi".

Sau khi đặt một chậu trên mép lò sưởi, cô hiệu trưởng dắt bọn trẻ vào bếp, đặt chậu cây còn lại lên quầy. Sau đó cô dẫn những đứa trẻ với những đôi mắt mở to vì bỡ ngỡ trở lại căn phòng lớn.

"Chúng ta sẽ đối xử với cây như với một người bạn. Trong vài tháng tới, mỗi ngày chúng ta sẽ hát cho cây thường xuân nghe. Chúng ta sẽ nói cho bạn ấy biết bạn ấy xinh đẹp như thế nào và chúng ta yêu quí bạn ấy biết bao. Chúng ta luôn chúc bạn ấy mọi điều tốt đẹp..."

Một bé gái giơ tay: "Nhưng thưa cô, thế còn cái cây trong bếp thì sao?".

Cô hiệu trưởng mỉm cười thích thú "Chúng ta sẽ dùng cây ấy làm cây 'đối chứng' trong thí ngiệm tuyệt vời của chúng ta . Theo các em chúng ta phải làm gì?"

" Chúng ta sẽ không nói chuyện với nó?"

"Đúng, dù chỉ một lời thì thầm".

"Chúng ta sẽ không gởi cho nó lời chúc tồt đẹp nào".

"Đúng, và chúng ta xem chuyện gì sẽ xảy ra..."

Bốn tuần sau mắt của tôi cũng mở to ngạc nhiên như bọn trẻ. Cây thường xuân trong bếp yếu ớt , mảnh khảnh và chẳng lớn được tí nào. Còn chậu cây đặt trong phòng lớn, được bao bọc bởi những lời yêu thương êm dịu, được bọn trẻ hát cho nghe mỗi ngày, đã lớn gấp ba với những chiếc lá xanh biếc tràn đầy nhựa sống...

Để chứng minh kết quả của cuộc thí nghiệm và cũng để lau khô nước mắt của những đứa trẻ nhạy cảm, lo lắng cho số phận của cây thường xuân kia, cô hiệu trưởng giải thoát cho cảnh lẻ loi của chậu cây thứ hai trong bếp và mang đặt nó trong phòng lớn, bên cạnh chậu thứ nhất.

Ba tuần sau, chậu cây thứ hai đã bắt kịp chậu cây thứ nhất. Bốn tuần sau, chúng cùng lớn mạnh như nhau...

Tôi ghi nhớ mãi bài học này và tự đúc kết cho mình một câu kết luận: Không ai, không vật gì lớn lên được nếu không có tình yêu...

Nghề nghiệp

    Có một bạn trẻ tìm đến một công ty phần mềm máy tính xin một chân dọn dẹp vệ sinh. Sau khi qua phỏng vấn và thử việc (như lau dọn khu vệ sinh...), người quản lý nhân sự đồng ý nhận anh vào làm, đồng thời yêu cầu anh để lại địa chỉ email để tiện liên lạc. Anh nói: "Tôi không có máy tính". Người quản lý nói với anh rằng đối với công ty phần mềm, một người không có email đồng nghĩa với sự không tồn tại. Vì thế, ông ta lấy làm tiếc là không thể nhận anh được.

     Anh thất vọng rời khỏi công ty, trong túi chỉ còn 10 USD. Đi ngang một cửa hàng thực phẩm, anh chợt nghĩ ra việc mua 10kg khoai tây, lê la đến từng hộ gia đình bán lại. Hai giờ sau anh đã bán hết và có lời. Anh lại làm như vậy mấy lần nữa, số tiền vốn ban đầu đã tăng lên đáng kể. Anh phát hiện làm công việc này có thể nuôi sống bản thân.

     Từ đó anh chăm chỉ làm việc. Nỗ lực cộng với một chút may mắn, công việc của anh ngày càng thành công. Trong năm năm anh lập được một công ty lớn chuyên giao hàng tận nhà. Mọi người chỉ cần đứng ở cửa nhà mình cũng có thể mua được các loại thực phẩm tươi sống. Đến một hôm anh chợt nghĩ đến tương lai, đến gia đình và quyết định đi mua bảo hiểm.

     Lúc ký hợp đồng, nhân viên bảo hiểm hỏi địa chỉ email của anh. Anh lại nói: "Tôi không có máy vi tính!". Người nhân viên ngạc nhiên: "Ngài có một công ty lớn như thế nhưng lại không có máy vi tính và địa chỉ email sao? Ngài thử nghĩ xem nếu ngài có máy tính, ngài đã có thể làm được bao nhiêu thứ nữa!".

     Anh nói: "Khi đó tôi sẽ trở thành nhân viên vệ sinh của công ty phần mềm máy tính".

Người bạn

Dan Clark

Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán Chó Con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đo,ù có một cậu bé xuất hiện. "Chú bán mấy con chó này với giá bao nhiêu vậy?" cậu bé hỏi.

Ông chủ trả lời "Khoảng từ $30 cho tới $50." Cậu bé móc trong túi ra một ít tiền lẻ. "Cháu có $2.37," cậu nói, "cháu có thể coi chúng được không?"

Người chủ tiệm mỉm cười và huýt sáo. Từ trong cũi chạy ra chó mẹ Lady cùng với năm cái nắm lông be bé xinh xinh chạy theo. Một con chó con chạy cà nhắc lết theo sau. Ngay lập tức, cậu bé chỉ vào con chó nhỏ bị liệt chân đó "Con chó con này bị làm sao vậy?"

Người chủ giải thích rằng bác sĩ thú y đã coi và nói rằng con chó con bị tật ở phần hông. Nó sẽ bị đi khập khiễng mãi mãi. Nó sẽ bị què mãi mãi. Đứa bé rất xúc động. "Cháu muốn mua con chó con đó." Người chủ nói rằng "Chắc là cháu không muốn mua con chó đó đâu, còn nếu cháu muốn nó thì chú sẽ cho cháu luôn."

Cậu bé nổi giận. Cậu nhìn thẳng vào mắt của người chủ, và nói rằng "Cháu không muốn chú cho cháu con chó con đó. Nó xứng đáng như bất kỳ con nào khác và cháu sẽ trả cho chú đủ giá tiền cho nó. Thật ra, cháu sẽ đưa cho chú $2.37 bây giờ và 50cent mỗi tháng cho đến khi cháu trả đủ số tiền." Người chủ phản đối "Cháu đâu có muốn mua con chó đó. Nó sẽ chẳng bao giờ có thể chạy được và chơi với cháu như những con chó con khác."

Nghe vậy, cậu bé cúi xuống và kéo ống quần lên để lộ ra một chân bị vặn vẹo, teo quắt và phải có hệ thống thanh giằng chống đỡ. Cậu nhìn lên người chủ và nói rất khẽ "Vâng, cháu cũng không có chạy được, và con chó nhỏ đó cần một người có thể hiểu được nó!"

Người bạn và người quen.

    Có một sự khác biệt giữa làm một người bạn và làm một người quen.

    Một người quen là người mà bạn biết tên, là người bạn đang và sẽ gặp gỡ. Đó là người có thể có nhiều điểm chung với bạn và bạn thấy thoải mái khi ở bên cạnh. Đó là một người mà bạn có thể mời đến nhà và chia sẻ nhiều việc nhưng không phải là người bạn chia sẻ cuộc sống của mình. Hành động của người quen đôi lúc bạn không hiểu được vì bạn không biết đủ về họ.

    Người bạn là một ai đó mà bạn thương mến "không phải như người tình" nhưng bạn quan tâm và nghĩ đến họ khi họ không có mặt ở đó. Đó là người bạn nhớ đến khi nhìn thấy những điều có thể làm họ thích (bạn biết rõ điều này) vì bạn rất hiểu họ.

    Người bạn là người mà bạn có những tấm ảnh và gương mặt của họ hiển nhiên ở trong đầu bạn.

    Người bạn là người bạn cảm thấy an toàn khi ở bên cạnh vì bạn biết họ cũng quan tâm đến mình. Họ gọi chỉ để xem bạn ra sao bởi vì một người bạn không cần cái cớ. Họ kể với bạn sự thật trước tiên và bạn cũng thế, bạn biết nếu bạn gặp vấn đề họ sẽ ở bên cạnh lắng nghe.

    Người bạn là người sẽ không cười nhạo hoặc làm đau lòng bạn nếu họ buộc phải làm thế, họ sẽ cố hết sức để cho bạn tự quyết định. Bạn yêu mến những người bạn của mình bất kể bạn có nhận ra điều đó hay không.

    Người bạn là người bạn khóc cùng khi bị hắt hủi. Có thể là họ là người giữ nhẫn ở lễ cưới của bạn hoặc có thể là người mà bạn kết hôn! Bạn có thể khóc ở đám cưới của họ vì thấy họ hạnh phúc hay hãnh diện.

    Họ là người ngăn chặn bạn làm điều sai và bạn cũng thế. Họ gắn chặt với bạn và ở bên cạnh bạn. Người bạn luôn quan sát cách bạn mình sống và học hỏi lẫn nhau. Cuộc sống của bạn sẽ không là đầy đủ nếu thiếu bạn bè.

Người chào báo

    Tự quyết định đời mình là một việc rất khó nhưng không phải là không làm được.

    Năm lên 14, tôi kiếm được một chân làm thêm bán báo định kỳ cho tờ báo địa phương. Khi ấy tòa soạn đã gửi tôi đến các vùng lân cận kinh khủng nhất để chào báo tận nhà. Cho dù phải thường lăn lộn sau khi trời tối trong những khu ổ chuột để tìm kiếm các lô nhà, tôi vẫn rất biết ơn công việc này.

    Đây thật sự là một thách thức vì người ta thường không thích có một người lạ gõ cửa nhà họ, đặc biệt là một đứa bé cố nài nỉ họ mua một món gì đó. Có lần, một người đàn ông đã đóng sầm cửa trước mặt tôi và gắt rằng ông ta không cần tờ báo chết tiệt đó. Tôi tự buộc mình phải gõ cửa lần nữa để có thể nói với ông về lợi ích của tờ báo. Rốt cuộc, tôi đã bán được cho ông một đầu báo định kỳ. Ít lâu sau, tôi đã nằm trong nhóm những người bán được nhiều báo nhất và được trao trách nhiệm huấn luyện những thành viên mới.

    Cũng trong khoảng thời gian đó, tôi bắt đầu chơi harmonica và guitar. Một thời gian dài tôi đã chơi cho một ban nhạc và một số tụ điểm khác. Khi 18 tuổi, tôi tập trung vào học để trở thành một nhạc sĩ nhà nghề. Tôi không bao giờ quên được giấc mơ này của mình. Tôi chắc rằng ý chí bền bỉ mà mình có được bấy lâu chính từ những lần gõ cửa nhà người lạ .

    Kinh nghiệm đó giúp tôi rất nhiều trong cuộc sống. Khi mới bắt đầu sự nghiệp âm nhạc, tôi đã bị kẹt vào một vụ cãi vã với người quản lý cũ. Ông ta buộc tôi phải bỏ cuộc nhưng tôi từ chối. Nhờ thế mà tôi mới có được thành công hôm nay.

    Tôi biết rằng chính cảm giác bị các cánh cửa đóng sập ngay vào mặt khi còn bé đã cho tôi sức mạnh để đứng vững trước những gì đe dọa tôi hôm nay.

    Đôi lúc cái mà người ta có được từ công việc của mình không phải là tiền bạc mà là những bài học quí báu.

Người mù

Một người kia đã bị mù từ thuở vừa sinh ra đời. Mãi sống trong cuộc đời tối tăm nên anh ta không tin gì cả ngoài bóng đêm thăm thẳm.

Có nhiều người thuật cho anh những câu chuyện nhưng anh ta vẫn quả quyết:

- Tôi không tin gì cả vì tôi không thấy.

Một vị lương y thấy vậy động lòng thương hại bèn cố gắng đi tìm một linh dược tận Hy Mã Lạp Sơn về để chữa bệnh mù mắt cho anh ta. Thoát khỏi bệnh mù mắt, anh ta rất sung sướng và trở nên tự phụ luôn lớn tiến nói cùng mọi người rằng:

- Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi.

Có người biết chuyện khuyên anh ta và cho biết rằng những gì anh ta trông thấy cũng chưa phải là tất cả. Anh ta chỉ mới thấy được những gì trong phòng của anh thôi. Thế giới nầy còn có rất nhiều điều khác mà anh chưa biết được như mặt trời, mặt trăng v.v... Anh ta bèn lớn tiếng:

- Làm gì có những điều ấy. Tôi không tin. Những gì thấy được thì tôi đã thấy tất cả rồi!

Mọi người đều thương hại cho anh ta, vì đôi mắt của anh ta đã thấy nhưng anh ta vẫn còn bệnh mù.

Người vẽ tiền giả.

    Có một hoạ sĩ trẻ tuổi tên là Emmanual Ninger sống trong một khu phố tồi tàn ở New Oakland. Mọi người chẳng ai biết gì về anh ngoài việc anh rất yêu thích vẻ tranh và sáng sáng anh thường qua cửa hàng của ông fred, một ông già tốt bụng để mua những món hàng cần cho cuộc sống hàng ngày. Điều ngạc ngiên là bao giờ Ninger cũng trả cho người bán hàng bằng những tờ 20 đôla mới cáu cạnh, và lúc nào cũng chỉ là những đồng 20 đôla chứ không phải bất cứ đồng tiền nào khác.

    - Chắc hẳn người mua tranh của anh có rất nhiều tờ 20 đôla như thế này.

    Thỉnh thoảng người chủ cửa hàng vẫn đùa Ninger cho tới một hôm khi cầm tiền cất vào ngăn kéo, ông thấy tay mình dính đầy mực vẽ. Ngay lập tức, người chủ cửa hàng Fred báo cho cảnh sát vàcăn nhà của Ninger bị khám xét. Người ta tìm thấy những cây bút còn ướt mực và những tờ 20 đôla như thế nằm rải rác khắp nhà.

    Thực ra Ninger là hoạ sĩ rất giỏi, anh có thể vẽ tấm chân dung trên tờ 20 đôla giống đến nỗi không ai có thể phát hiện ra nếu như lần đó Ninger không quá vội vàng và đem tiêu tờ 20 đôla mới vẽ chưa khô mực. Ninger bị bắt vì tội làm tiền giả còn những bức tranh khác do anh vẽ được đem ra đấu giá.

    Ninger đã không thể nghĩ rằng các bức tranh của anh được đánh giá cao như vậy. Người ta tranh nhau và thậm chí sẵn sàng trả tới 5000 đôla cho mỗi bức. Nhưng điều ngạc mhiên hơn đó là để vẽ một tờ tiền trị giá có 20 đôla, Ninger cũng phải bỏ ra thời gian và công sức giống như khi anh tập trung vẽ các bức tranh được đánh giá tới 5000 đôla của mình.

    Mỗi người đều có những khả năng riêng, nhưng đôi khi sự thiếu tự tin đã khiến chúng ta thường tìm cách đạt được sự thành công bằng việc thiếu trung thực hơn là lao động và cố gắng. Đã bao giờ bạn tìm đủ cách xoay sở, gian lận trong giờ kiểm tra và để cuối cùng phát hiện ra rằng nếu ngồi tập trung suy nghĩ, chính bạn cũng có thể tìm ra lời giải chưa? Hãy nhớ, trung thực là cách tốt nhất để đạt đến thành công và nó sẽ không quá lâu và quá khó như bạn tưởng.

Những cái bóng.

    - Bố ơi, nó cứ đi theo con!- Cậu bé gào lên- Nó không chịu bỏ đi!

    - Làm sao nó bỏ đi được- Ông bố nói như phải cố nhịn cười- Nó là cái bóng của con mà!

    Nhưng điều này lại rất quan trọng đối với cậu bé. Có thể cậu bé đã nhìn thấy cái bóng hàng trăm lần, nhưng hôm nay không hiểu sao cậu lại không thích nó.

    Tôi ngồi trên cái ghế dài gần đó và nhìn cậu bé chạy vòng quanh, cố thoát khỏi cái bóng. Chạy một lúc, cậu bé đứng lại dưới một gốc cây to, và cậu đủ nhỏ để chiếc bóng to của cái cây “nuốt chửng” bóng của cậu.

    - Nó biến mất rồi bố ơi- Cậu bé lại gào lên phấn khích- Cái cây ăn mất nó rồi!

    Khi cậu bé bước ra khỏi bóng của cái cây cũng là lúc mặt trời khuất sau đám mây. Cái bóng biến mất hẳn.

    Cậu bé vui vẻ chạy lại phía bố, cười vang vì đã chiến thắng một điều bí ẩn cứ đi theo cậu cả ngày.

    -Thế là xong, bố ạ!- Cậu bé tự hào.

    Đối với chúng ta, quá khứ cũng là một cái bóng và có nhiều người khi lớn lên lại e ngại chính cái bóng của mình. Bởi cái bóng là hình ảnh tối, là đường- viền của con người chúng ta mà thiếu hẳn những chi tiết thật. Nhưng những gì mà mọi người nhìn thấy ở chúng ta là phần hướng ra ánh sáng, là con người mà chúng ta trở thành. Chứ không phải là hình ảnh phản chiếu trên mặt đất- những gì của ngày hôm qua.

    Nếu bạn luôn nhìn thấy cái bóng của mình nghĩa là bạn đang đi sai đường. Hãy hướng về phía tương lai và để lại cái bóng quá khứ ở phía sau bạn. Và đó là con đường đúng.

    Bob Perks.

Những cậu bé nuôi dưỡng ước mơ

    Bài học quan trọng nhất mà chúng ta được học khi ngồi trên ghế nhà trường không phải chỉ là trả lời đúng những câu hỏi trong bài kiểm tra, mà chính là những bài học làm thay đổi nhân sinh quan của chúng ta, giúp chúng ta nhận ra năng lực thật sự của mình. Nếu có thể sử dụng nhạc cụ, chúng ta sẽ tạo ra được những giai điệu tuyệt vời. Nếu có thể sử dụng cọ và giá vẽ, chúng ta sẽ diễn đạt được hình ảnh thế giới trong mắt ta để mọi người cùng chiêm ngưỡng. Nếu có sự nỗ lực của tập thể, chúng ta có thể san bằng mọi khó khăn để giành lấy chiến thắng. Thế nhưng, sẽ không có bài kiểm tra trắc nghiệm nào có thể dạy chúng ta bài học quý giá nhất: chính chúng ta là người quyết định sự thành bại của cuộc đời mình.

    Còn nhớ lúc ấy lớp tôi được thầy cho xem bộ phim kể về nhà leo núi vĩ đại Jeremiah Johnson do Robert Redford thủ diễn. Kết thúc phim, trong khi bọn tôi mải tranh luận về nhân vật chính tốt bụng, hòa nhã, tràn đầy tình yêu thiên nhiên thì thật bất ngờ, thầy Robinson lại đưa ra một câu hỏi lạ lùng: "Các con có biết Jeremiah Johnson hiện được chôn ở đâu không?". Chúng tôi thật sự bị sốc khi biết được nơi an nghỉ cuối cùng của nhân vật huyền thoại này chỉ cách xa lộ San Diego(miền nam California) khoảng 100 mét.

    Thầy lại hỏi tiếp: "Có phải các con thấy kỳ lạ không?"

    "Vâng ạ!"

    "Vậy theo các con, chúng ta có nên làm điều gì đó để hoàn thành ước nguyện cuối cùng của ông ta không?"

    "Thưa thầy có", chúng tôi đồng thanh trả lời bằng tất cả nhiệt huyết của một thời tuổi trẻ.

    Sau vài giây im lặng, thầy lại đưa ra một câu hỏi làm thay đổi nhân sinh quan của chúng tôi mãi mãi: "Các con có tin rằng mình làm được điều đó không?". Cả bọn nhìn nhau thắc mắc. Thầy đang nói gì thế nhỉ? Chúng tôi chỉ là một lũ trẻ con. Vậy thì có thể làm được gì! Như đọc được suy nghĩ ấy, thầy nói tiếp: "Nhất định sẽ có cách, dù con đường chúng ta đi có thể nhiều khó khăn và thất vọng, nhưng các con phải hứa với thầy không bao giờ bỏ cuộc".

    Dù hứa với thầy nhưng chính bản thân chúng tôi cũng không thể ngờ rằng mình đang dấn thân vào cuộc hành trình mạo hiểm nhất trong đời. Chúng tôi bắt đầu viết thư cho các nhà chức trách, chủ nhân các nghĩa trang, và thậm chí cho diễn viên Robert Redford- những người mà chúng tôi nghĩ rằng có thể giúp được mình. Thế nhưng, không ai đoái hoài đến những lá thư ấy. Thú thật, không vì lời hứa với thầy Robinson, có lẽ chúng tôi đã bỏ cuộc.

    Sau cùng cũng có một anh phóng viên thuộc tờ Thời báo Los Angeles đến xin phỏng vấn chúng tôi. Với chút hy vọng mong manh, chúng tôi đã san sẻ với anh hành trình gian khổ của mình, cả những giây phút thất vọng vì không được ai quan tâm, giúp đỡ. Hai ngày sau, câu chuyện về những cậu học trò trung học hết mình đòi lại công bằng cho một huyền thoại của nước Mỹ đã được đưa lên trang nhất của tờ báo. Cùng ngày hôm ấy, trong khi đang dạy học, thầy Robinson được gọi lên văn phòng nghe điện thoại.

    Quay vào lớp với gương mặt rạng rỡ nhất mà chúng tôi chưa từng được thấy, thầy Robinson nói: "Hãy đoán xem ai đã gọi cho thầy!". Chắc hẳn bạn cũng như chúng tôi lúc ấy đều rất bất ngờ khi biết được người đó chính là nam diễn viên Robert Redford. Ông cho biết rằng đã nhận hàng trăm lá thư mỗi ngày nhưng hình như chưa từng nhận được thư của chúng tôi, rằng ông sẽ rất vui nếu có thể giúp chúng tôi hoàn thành ước nguyện. Thế là, trong phút chốc, "tổ chức" của chúng tôi bỗng trở nên lớn mạnh hơn bao giờ hết.     Chỉ trong vài tháng, sau khi hoàn tất một số thủ tục, thầy trò chúng tôi đã có thể tham dự buổi lễ tưởng niệm Jeremiah Johnson được tổ chức trọng thể ở Wyoming và chứng kiến thi thể của nhà leo núi vĩ đại này được đưa đi an táng tại một vùng đất hoang vu mà ông từng yêu mến.

    Kể từ dạo ấy, chúng tôi trở nên nổi tiếng toàn trường với biệt danh "những kẻ đào huyệt", nhưng chúng tôi lại thích nghĩ về mình như "những cậu bé nuôi dưỡng ước mơ" hơn. Những gì chúng tôi đã học được lúc bấy giờ không chỉ là cách viết thư sao cho hiệu quả hay biết được quy trình làm việc của chính phủ mà chính là không có gì là không thể đạt được nếu có đủ sự kiên trì.

    Vâng, chính chúng ta là người quyết định sự thành bại của cuộc đời mình.

Những chú chó săn

        Tại Florida nhiều năm trước có một cuộc đua chó rất lớn. Cuộc đua có vẻ rất hấp dẫn bởi những chú chó to lớn, nhanh nhẹn và đẹp mắt. Chúng không cần đến những chú nài như đua ngựa vì chó săn đã được huấn luyện để đuổi theo một mục tiêu.

       Trong lần thi này, mục tiêu của chúng là một thiết bị điện tử được điều khiển từ xa với lớp vỏ lông thỏ bọc ngoài. “Con thỏ” sẽ chạy trước để đàn chó chạy đúng hướng. Người điều khiển phải giữ được tốc độ của con thỏ sao cho nó luôn có một khoảng cách thay đổi nhất định để các chú chó không bao giờ bắt kịp.

        Cuộc đua bắt đầu. Đúng lúc có tiếng súng khai cuộc, người điều khiển nhấn nút để con mồi giả lao đi và các chú chó được thả ra, chúng chạy điên cuồng theo chú thỏ. Sau hai vòng đầu tiên con mồi điện tử tự nhiên phát nổ và bốc cháy. “Con thỏ” giờ đây chỉ còn lại là một nhúm kim loại và dây điện dúm dó.

       Cả đàn chó lúng túng không biết làm thế nào. Có vài con dừng lại và nằm dài xuống đường đua thở hổn hển. Có con vì quá cuồng nhiệt nay đột nhiên mất mục tiêu săn đuổi và phương hướng, đã chạy đâm sầm vào thành chắn, gãy xương. Có con quay lại đuổi chính cái đuôi của mình. Một số con khác thì ngước mặt lên tru inh ỏi. Trong cuộc chạy này chẳng có con nào hoàn tất cuộc đua.

       Mỗi người trong chúng ta đều có một con thỏ làm mục tiêu trong thế gian này. Bạn có biết rõ những đích nhắm mà bạn hướng tới? Bạn có biết tại sao mình phải đạt tới mục tiêu đó? Và, điều gì sẽ xảy ra nếu những mục tiêu tương lai của bạn đột nhiên tan biến? Hãy tự hỏi mình những điều này, cuộc sống của bạn có thể tránh rơi vào vô nghĩa như những chú chó săn trong câu chuyện trên.

       HANK SEAMAN

Những lâu đài trên cát.

    Mặt trời rực rỡ. Trên bờ biển, một cậu bé cắm cúi xúc cát đổ vào chiếc xô nhỏ đặt bên cạnh. Khi chiếc xô đầy cát, cậu bé úp ngược nó xuống mặt cát. Nhấc chiếc xô ra và cậu bé đã có một toà nhà tròn xoay bằng cát. Tuy nhiên, trí tưởng tượng của một cậu bé không chỉ dừng lại ở một ngôi nhà hình tròn. Cậu bé đào những rãnh nhỏ xung quanh ngôi nhà làm hào bảo vệ. Những chiếc nắp chai và vỏ ốc trở thành những người lính gác còn những que kem trở thành cây cầu nối những tòa nhà với nhau. Một tòa lâu đài thực sự của một chàng hoàng tử khôi ngô trong truyện cổ tích.

    Cách đó rất xa, thành phố đông đúc, không khí ồn ào, xe cộ như mắc cửi. Một người đàn ông đang làm việc trong văn phòng. Ông xếp lại các chồng giấy tờ trên bàn làm việc, trao đổi vài câu qua điện thoại, rồi lại gõ máy tính. Khuôn mặt ông sáng lên vì đạt được kết quả tốt đẹp: hợp đồng được ký kết và thu nhiều lợi nhuận. Hàng ngày ông đều đến nơi làm việc, lập những kế hoạch, dự đoán tình hình thị trường. Có những người lính gác, có tiền lương, có lợi nhuận, và công ty cũng là một toà lâu đài mơ ước trong đó ông ấy là một vị vua điều hành tất cả.

    Hai người cùng đang xây dựng những lâu đài của mình. Họ có rất nhiều điểm giống nhau: đạt được những kết quả mà đối với họ là tốt đẹp từ những cố gắng rât nhỏ. Họ đều say mê và kiên trì. Đối với mỗi người, tòa lâu đài mình đang xây dựng đều có ý nghĩa thật đặc biệt và rất quan trọng.

    Tuy nhiên, khi thủy triều lên, cậu bé không hề ngạc nhiên hay lo sợ gì cả. Cậu nhảy lên trên những ngọn sóng, vỗ tay reo mừng và cười toe toét khi thấy những con sóng cuốn toà lâu đài vào biển cả. Cậu bé hoàn toàn bình thản. Cậu cầm xẻng và xô ra về vì biết rằng thủy triều đã cuốn cát ra biển, và rằng sáng mai cậu sẽ lại xây được một ngôi nhà mới đẹp hơn.

    Nhưng những người lớn thường không như vậy. Khi những khó khăn đến, họ coi đó là một điều thật tệ hại chứ không bình thường như thủy triều những lúc hoàng hôn. Họ thường chán nản đến mức không nghĩ rằng vào sáng hôm sau thủy triều sẽ rút và chúng ta lại có thể bắt đầu xây một cái gì đó khác đẹp hơn, tốt hơn.

    Có lẽ đó là một trong những điều mà chính người lớn lại phải học từ trẻ em.

Những trái tim nhỏ

    Cậu bé nằm vùi trên giường. Nó buồn bã nghĩ đến căn bệnh của mình. Hơn một năm rồi nó chưa rời khỏi chiếc giường. Cuộc sống như ngưng đọng lại giữc bốn bức tường. Nó nhìn lên trần nhà, vẫn một màu vôi vô tri. Nó ước ao được chạy nhảy như bao đứa trẻ khác và suy nghĩ về những ước mơ của mình trước đây… Nó sẽ là một thủy thủ giỏi và được tới mọi miền trên thế giới để khám phá những điều kỳ diệu của cuộc sống… Nhưng không dược nữa rồi, đôi chân nó không còn cử động bình thường. Tháng ngày trôi qua, niềm hy vọng, mơ ước cứ nhỏ dần và nước mắt lăn dài trên gò má nó…

    Cho đến một sáng kia, nó ngạc nhiên khi nghe tiếng lích chích của bầy sẻ nâu trên mái nhà. Qua khe cửa, nó nhìn thấy những đốm trắng nhảy múa lung linh. Nó nhích dần ra mép giường một cách khó nhọc và mở toang cửa sổ. Chao ôi! Thật kỳ diệu, cả một khu vườn hoa rực rỡ và ánh nắng ấm áp của mùa xuân ùa vào phòng. Những con sẻ nâu đang say sưa với bầy đàn bằng tiếng ríu ran, ríu rít đến kỳ lạ. Thì ra cuộc sống bên ngoài tươi đẹp ở ngay đây chứ đâu cần phải băng qua các đại dương xa xôi, thế mà nó chưa được khám phá. Nó cất tiếng hát hòa cùng đàn sẻ nâu và đôi mắt rạng ngời những tia hy vọng.     Nhiều năm sau, khi đã trở thành một giọng ca tài danh và dẫu phải ngồi trên xe lăn, cậu vẫn nhớ đến điều kỳ diệu của ngày xưa và không bao giờ quên nhắc đến tiếng lích chích của loài chim sẻ nâu.

    Đôi khi, những giấc mơ của chúng ta vì một lý do nào đó không thể thực hiện được. Bạn đừng vội buồn nản. Vì cuộc sống quanh bạn vẫn còn nhiều điều thú vị khác. Khi nhận ra điều này, bạn sẽ khám phá ra khả năng tiềm tàng mới của mình. Mỗi con người có thể làm tốt không phải duy nhất một việc. Điều quan trọng là nhận ra cuộc sống trong hoàn cảnh nào cũng có ý nghĩa.

Những viên sỏi kỳ diệu

    "Tại sao chúng em lại phải học tất cả những điều chán ngấy này?"

    Đây là lời phàn nàn của học trò mà tôi thường xuyên phải nghe nhất trong suốt cuộc đời đứng lớp giảng dạy của mình. Và tôi vẫn thường trả lời các em bằng câu chuyện huyền thoại sau.

    "Một đêm nọ khi một nhóm những người du mục đang chuẩn bị đi ngủ, bất thình lình họ nhìn thấy một vầng sáng lớn xuất hiện. Ngay lập tức họ nhận ra rằng họ đang đứng trước mặt một vị thiên sứ. Trong lòng vô cùng hăm hở, họ chờ đợi sẽ được truyền đạt một thông điệp thiêng liêng và vô cùng quan trọng mà họ tin rằng chỉ dành riêng cho họ.     Cuối cùng giọng nói uy nghiêm của vị thiên sứ vang lên: "Hãy nhặt những hòn đá sỏi, càng nhiều càng tốt và cất chúng vào trong túi đeo trên yên ngựa của các ngươi. Vào sáng mai các ngươi sẽ phải khởi hành đi suốt ngày. Tối mai sẽ đem đến cho các ngươi sự vui mừng và sự buồn bã."

     Sáng hôm sau, sau khi đã khởi hành, họ bắt đầu chia sẻ với nhau nỗi thất vọng và bực tức. Họ đã trông chờ vị thiên sứ sẽ truyền đạt một chân lý vĩ đại giúp họ tìm thấy sự giàu có, sức khỏe và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng thay vào đó họ chỉ nhận được một công việc tầm thường chẳng có chút ý nghĩa nào. Tuy nhiên hình ảnh về vầng hào quang của vị thiên sứ vẫn còn in đậm trong tâm trí những người du mục khiến họ làm theo đúng lời dặn. Mỗi người lượm một vài viên sỏi và cất chúng vào trong yên ngựa trong khi miệng vẫn không ngớt đưa ra những lời ta thán.

     Họ đi ròng rã một ngày đường và khi đêm đến họ dừng lại và hạ trại. Họ thò tay vào trong túi yên ngựa của mình và khám phá ra rằng mỗi một hòn sỏi họ nhặt được đã biến thành một viên kim cương. Họ cảm thấy vui mừng khôn xiết vì có được những viên kim cương ấy, tuy nhiên lòng không khỏi buồn bã vì đã không nhặt thêm nhiều hòn sỏi hơn."

     Đó cũng chính là kinh nghiệm mà tôi đã trải qua với một học trò của mình tên Alan trong những năm tháng khi tôi mới bắt đầu đi dạy. Câu chuyện của Alan đã chứng minh cho chân lý của câu chuyện huyền thoại trên.

     Khi Alan lên lớp 8, cậu bé là một học sinh quậy phá, gây rắc rối và thường xuyên bị nhà trường đình chỉ học. Những kiến thức "chuyên ngành" mà cậu bé học được là làm cách nào để bắt nạt và lấy trộm đồ đạc của bạn bè. Hàng ngày trong lớp học của mình tôi vẫn bắt học trò học thuộc những câu danh ngôn của những bậc vĩ nhân. Trong lúc điểm danh, tôi thường mở đầu bằng một nửa câu danh ngôn. Để được đánh dấu có mặt, học trò của tôi phải đọc nốt phần còn lại.

     "Alice Adams- Không bao giờ có sự thất bại trừ khi..." "'Chúng ta không còn cố gắng nữa. Em có mặt thưa thầy Schlatter."

     Bằng cách này, vào cuối năm học, những học trò của tôi đã thuộc lòng được 150 câu danh ngôn của những nhà tư tưởng lớn. Những câu như:

     "Nếu bạn nghi rằng mình sẽ thành công, điều đó sẽ trở thành hiện thực. Nếu bạn nghĩ mình sẽ thất bại, điều đó cũng sẽ trở thành hiện thực?"

     "Những người thất bại được chia làm hai loại: Những người suy nghĩ mà không bao giờ làm, và những người làm mà chẳng hề suy nghĩ."

     "Người yếm thế là người biết được cái giá của mọi thứ nhưng lại không biết được giá trị bất cứ thứ gì." Và dĩ nhiên cả câu nổi tiếng của Napoleon Hill: "Nếu bạn có thể thai nghén được một ý tưởng, và tin tưởng vào ý tưởng đó, bạn sẽ có thể biến nó thành hiện thực."

     Không một học sinh nào phàn nàn về việc học thuộc lòng những câu danh ngôn này nhiều hơn Alan, cho tới tận ngày Alan bị đuổi học.

     Sau đó tôi mất liên lạc với cậu bé trong 5 năm.

     Rồi một ngày nọ, cậu bé gọi diện cho tôi và cho tôi hay cậu đang theo học một chương trình đặc biệt tại một trường đại học ở một bang lân cận và vừa mới hết thời gian bị quản thúc.

     Alan kể lại cho tôi hay rằng sau khi bị đưa đến trường dành cho trẻ em vị thành niên phạm pháp vì những trò quậy phá của mình, cậu bé đã trở nên căm ghét bản thân đến mức quyết định tự sát bằng một lưỡi dao lam cắt vào động mạch cổ tay.

     Alan nói: "Thầy biết không, thầy Schlatter, trong khi em nằm đó và sự sống đang trôi dần ra khỏi em, em bỗng thình lình nhớ lại câu danh ngôn ngớ ngẩn mà có lần thầy đã bắt em viết phạt 20 lần. "Không bao giờ có sự thất bại trừ khi chúng ta không còn cố gắng nữa". Ngay lúc đó em bỗng hiểu được ý nghĩa của nó. Chừng nào còn sống, em vẫn không phải là một kẻ thất bại, nếu em để cho mình chết đi, chắn chắn em sẽ chết như một kẻ thất bại. Vì vậy với chút sức lực còn lại, em cố gắng kêu cứu. Từ sau lần đó em quyết chí bắt đầu một cuộc đời mới.

     Vào thời điểm Alan được nghe câu danh ngôn trong lớp tôi, nó chỉ là một viên sỏi. Nhưng vào giây phút nghiêm trọng nhất trong đời của cậu bé cần có sự hướng dẫn, nó đã trở thành một viên kim cương.

     Vì vậy đây là lời khuyên của tôi đối với tất cả các em học sinh: hãy nhặt tất cả những viên sỏi mà các em có thể nhặt, và các em có thể tin tưởng rằng tương lai của mình sẽ đầy những viên kim cương.

Những vòng tròn

    Nhớ hồi tôi chừng 7 tuổi, ông nội dẫn tôi đến bên hồ cá trong trang trại rồi bảo tôi thử ném một viên đá xuống nước. Sau đó ông bảo tôi quan sát những vòng tròn trên mặt nước bởi chính viên đá vừa ném. Rồi ông bảo tôi : "Cháu hãy thử hình dung mình như viên đá kia. Trong đời, cháu cũng có thể tạo ra rất nhiều vòng tròn xao động và chúng sẽ ảnh hưởng đến sự an bình của tất cả những người xung quanh."

    Và rồi ông tiếp tục: "Hãy luôn nhớ rằng cháu là người chịu trách nhiệm về những gì cháu đã đặt vào trong vòng tròn của chính mình và vòng tròn đó cũng sẽ lan toả và chạm vào rất nhiều vòng tròn khác. Vì vậy hãy sống sao cho những điều tốt đẹp mà vòng tròn của cháu tạo nên được gửi đi như những thông điệp của hoà bình và nhân ái đến khắp mọi người. Ngược lại, những xao động sinh ra từ sự giận dữ hoặc ganh tị chắc chắn sẽ lan toả và ảnh hưởng đến những vòng tròn khác. Do đó, cháu cần phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với tất cả những điều trên".

    Đó là lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra rằng sự an bình nội tại hay sự bất an trong mỗi con người đều chảy ra thế giới này. Vì thế sẽ không thể tạo lập một thế giới hòa bình khi chúng ta đang còn bị vướng bận bởi những xung đột nội tại, hận thù, hồ nghi hay giận dữ bên trong dẫu cho những xúc cảm hay ý nghĩ đó có được nói ra hay không.

    Mọi khuấy động xung quanh những vòng tròn diễn ra trong mỗi chúng ta đều tràn ra thế giới rộng lớn này, hoặc để tô vẽ thêm vẻ đẹp cho cuộc sống, hoặc cản trở, phá vỡ những vòng tròn khác.

Nụ cười

       Một nụ cười không làm mất mát gì cả, nhưng lại ban tặng rất nhiều. Nó làm giàu có những ai đón nhận nó mà không làm nghèo đi người sinh ra nó. Nụ cười chỉ nở trên môi trong khoảnh khắc phù du, nhưng ký ức về nó đôi khi tồn tại cả một đời.

       Người dù giàu sang đến đâu đi nữa cũng cần đến nụ cười, và người dù nghèo hèn cùng tột cũng sẽ được nụ cười làm cho trở nên giàu có.

       Nụ cười nuôi dưỡng hạnh phúc trong gia đình, gầy dựng thiện ý trong làm ăn, và làm lớn mạnh mối tương giao trong tình bạn, mang đến sự thư giãn những khi ta mỏi mệt, niềm hi vọng những khi tuyệt vọng và ánh sáng những khi ta tăm tối trong muộn phiền.        Nụ cười, cũng như tình yêu, là cái không thể mua bán vay mượn, hay thậm chí đánh cắp từ người khác. Bởi vì, khi đó, nó chỉ là cái gì đó khiên cưỡng và vô nghĩa.

       Có những người không bao giờ nở một nụ cười với bạn. Không hề gì, bạn cứ trải lòng mình ra và tặng họ nụ cười của bạn. Họ là những người không còn nụ cười để cho, vì lẽ đó, họ chính là những người cần nụ cười của bạn hơn ai hết.

       Hãy tươi cười với mọi người. Chúng ta chẳng những không mất gì cả, mà trái lại, sẽ nhận được rất nhiều.

Phần quan trọng nhất trên cơ thể

Mẹ tôi thường đố tôi: phần nào là quan trọng nhất trên cơ thể?

Ngày nhỏ, tôi cho rằng âm thanh là quan trọng đối với con người nên tai là bộ phận quan trọng nhất. Mẹ lắc đầu: "Không phải thế. Có rất nhiều người bị điếc trên thế giới này, con ạ. Nhưng con cứ tiếp tục suy nghĩ về câu đố, sau này mẹ sẽ hỏi lại con".

Vài nǎm sau, tôi lại cho rằng h́nh ảnh là quan trọng nhất, v́ thế mắt chính là bộ phận mà mẹ muốn đố tôi. Mẹ lại nh́n tôi âu yếm nói: "Con đă học được nhiều đấy, nhưng câu trả lời của con chưa đúng bởi v́ vẫn c̣n rất nhiều người bị mù".

Đă bao lần và lần nào cũng vậy, mẹ đều trả lời tôi: "Không đúng. Nhưng con đang tiến bộ rất nhanh, con yêu của mẹ".

Rồi nǎm ngoái, ông nội tôi mất. Mọi người đều khóc v́ thương tiếc ông. Ba tôi cũng khóc. Đây là lần thứ hai tôi thấy ba khóc. Khi đến lượt tôi và mẹ đến cạnh ông để nói lời vĩnh biệt, mẹ nh́n tôi th́ thầm: "Con đă t́m ra câu trả lời chưa?". Tôi như bị sốc khi mẹ đem chuyện đó ra hỏi tôi lúc này. Tôi luôn nghĩ đó chỉ đơn giản là một tṛ chơi giữa hai mẹ con. Nh́n vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, mẹ nói: "Con trai ạ, phần quan trọng nhất trên cơ thể con chính là cái vai". Tôi hỏi: "Có phải v́ nó đỡ cái đầu con không hả mẹ?". Mẹ lắc đầu: "Không phải thế, bởi v́ đó là nơi người thân của con có thể dựa vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một cái vai để nương tựa trong cuộc sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều t́nh thương để mỗi khi con khóc lại có một cái vai cho con có thể ngả đầu vào".

Từ đó, tôi hiểu rằng phần quan trọng nhất của con người không phải là phần "ích kỷ", mà là phần biết cảm thông với nỗi đau của người khác.

Phần thưởng dành cho sự cởi mở

    Craig là bạn thân của tôi ở trường đại học, mỗi khi anh bước vào đâu thì y như là anh sẽ mang đến đó một luồng gió mới. Bạn nói ư? Anh ta sẽ tập trung nghe. Thế là tự dưng bạn sẽ cảm thấy mình có thua chi "anh Ba, chú Bảy" trên cơ quan. Thử hỏi ai mà chẳng quý mến một người như vậy.

    Vào một ngày mùa thu chan hòa ánh nắng, tôi và Craig đang ngồi nơi góc học tập như thường lệ. Tôi lơ đễnh đưa mắt nhìn qua cửa sổ và thấy vị giáo sư của tôi đang băng qua bãi đậu xe.

    "Tôi chẳng muốn gặp ông ta chút nào". Tôi ngao ngán nói.

    "Sao vậy?", Craig ôn tồn hỏi.

    Tôi bèn giải thích rằng vào học kỳ trước, tôi và vị giáo sư ấy đã "đụng độ"- Tôi không thích những ý kiến của ông và ngược lại, ông cũng chẳng ưa gì tôi.

    Craig nhìn qua cửa sổ, dõi theo vị giáo sư đang bước nhanh dưới kia, phán: "Có thể anh đã suy đoán sai. Có thể chính anh là người đã quay lưng với ông ta và anh hành động vậy chỉ vì tính cả sợ của anh. Rất có khả năng là vị giáo sư ấy nghĩ rằng anh không thích ông ta nên ông đã không tỏ thái độ nào thích anh. Nếu anh tỏ ra quan tâm đến ông ta, ông ta sẽ quan tâm đến anh. Bây giờ anh thử đi nói chuyện với ông ta xem nào!".

    Những lời của Craig làm tôi bừng tỉnh. Tôi chạy vội xuống những bậc thang, lao vào bãi đậu xe. Tôi cung kính chào vị giáo sư và thăm hỏi ông về mùa hè vừa qua. Ông nhìn tôi lộ vẻ ngạc nhiên. Chúng tôi cùng nhau sánh bước ra khỏi bãi đậu xe, vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ và chắc hẳn trên kia Craig cũng đang nhìn tôi cười thầm.

    Craig đã dạy cho tôi một triết lý sống đơn giản, hết sức đơn giản đến nỗi tôi chẳng bao giờ có thể tin rằng trước kia tôi chưa hề biết đến nó. Như hầu hết các bạn trẻ khác, tôi cảm thấy thiếu tự tin và khi xuất hiện nơi đông người tôi luôn e dè bị người khác xét nét. Trong khi thật ra họ cũng đang cuống cuồng lên vì sợ bị xét nét. Từ đó trở đi, thay vì dò tìm sự xét đoán trong đôi mắt người đời, tôi đã nhận ra nhu cầu giao thiệp của con người, nhu cầu được chia sẻ.

    Chẳng hạn, một lần nọ trên con tàu xuyên Canada, tôi đã bắt chuyện với một người mà mọi người đều lẩn tránh vì ông ta ăn nói như một gã say. Thế nhưng hóa ra ông vừa thoát khỏi một chứng bệnh ngặt nghèo. Trước đây ông là người lái tàu trên chính tuyến đường này. Chúng tôi đã chuyện trò thâu đêm và ông đã kể cho tôi nghe những khúc bi sử chôn chặt dưới mỗi nhịp đường ray: đây là thung lũng Cốt Đôi, sở dĩ nó mang tên ấy vì người ta đã tìm thấy dưới đó hàng nghìn bộ xương trâu do các thợ săn da đỏ để lại. Rồi đến huyền thoại về Big Jack, một công nhân đặt đường ray gốc người Thụy Điển có khả năng nhấc bổng những thanh tà vẹt nặng đến 200 kg; và câu chuyện về người soát vé tên McDonald lúc nào cũng mang theo chú thỏ tinh nghịch làm bạn đồng hành. Khi những tia nắng đầu tiên trong ngày xuất hiện nơi chân trời, ông nắm lấy tay tôi nói: "Cám ơn con đã lắng nghe. Người ta chẳng bao giờ chịu nghe kẻ già này". Ông ta chẳng cần phải cảm ơn, tôi cũng đã hạnh phúc lắm rồi.

    Trên một góc phố sầm uất ở Oakland, Caliíornia, một gia đình đến từ vùng bờ biển hoang vu phía tây bắc châu lục đã chặn tôi lại hỏi đường. Tôi thăm hỏi về cuộc sống của họ ở quê nhà. Thế là bên ly cà phê họ đã "thết đãi" tôi bằng những câu chuyện kỳ thú về giống cá sấu nước mặn, sống gần nhà họ, có tấm lưng to bè như mui xe hơi.

    Mỗi cuộc gặp gỡ là cả một cuộc phiêu lưu đầy hấp dẫn, mỗi con người là một bài học bổ ích trong cuộc sống. Những kẻ giàu có, những người cùng khổ, những kẻ quyền thế và những người cô độc, tất cả đều chất chứa trong mình những ước mơ và nghi kỵ như ta.

    Chúng ta đã bỏ qua nhiều cơ hội như thế rồi: một cô nàng mà mọi người đều cho là quê mùa, một anh chàng ăn vận xệch xạc- họ cũng có những câu chuyện cần phải kể. Và cũng như bạn, họ ước ao có ai đó chịu lắng nghe họ.

    Đây chính là điều Craig luôn nhắc nhở tôi: trước tiên hãy tỏ ra mình thích người đó, rồi ân cần hỏi han. Rồi bạn xem, cái ánh sáng bạn soi tỏa lên người khác sẽ phản chiếu lên người bạn trăm lần rực rỡ hơn.

    Kent Nerburn

Quan sát và lắng nghe

    Một người thì thầm: "Cuộc sống ơi, sao không nói gì với tôi?". Và một chú sáo cất tiếng hót. Đó chẳng phải là tiếng nói của cuộc sống sao? Nhưng anh ta không nghe thấy.

    Một người thì thầm: "Cuộc sống ơi, hãy nói gì với tôi đi chứ!". Và một tiếng sấm nổ vang trời. Đó chẳng phải là tiếng nói của cuộc sống sao? Nhưng anh ta không nghe thấy.     Một người nhìn quanh và nói: "Cuộc sống ơi, sao tôi không bao giờ nhìn thấy cuộc sống?". Và một vì sao sáng hơn. Đó chẳng phải là ánh sáng của cuộc sống hay sao? Nhưng anh ta không để ý thấy.

    Một người kêu lên: "Cuộc sống ơi, tôi muốn có một điều kì diệu!". Và một đứa trẻ được sinh ra đời. Đó chẳng phải là một điều kì diệu sao? Nhưng anh ta không hay biết.     Một người kêu lên trong thất vọng: "Cuộc sống, hãy chạm vào tôi. Hãy cho tôi biết là người vẫn ở đâu đây và có thể bảo vệ tôi". Một giọt nước trên lá cây rơi xuống vai anh ta. Đó chẳng phải là cuộc sống đã nhẹ nhàng chạm vào anh ta đó sao? Nhưng anh ta lau giọt nước và bỏ đi.

    Hạnh phúc không được đóng gói gửi cho mọi người. Nó đến từ cuộc sống, từ thiên nhiên, từ những gì tưởng như vô tình. Hạnh phúc đến, nhưng nó thường không đến theo cách mà bạn muốn.

Sai lầm vô ý

    Đó là một lỗi lầm do-không-biết. Nhưng đôi khi sự không biết lại gây ra những sai lầm kinh khủng. Khi đó tôi 17 tuổi và là năm đầu tiên tôi về thăm ông bà ở một trang trại vùng quê.

    Tôi nhìn thấy một con chim cút mẹ kéo theo một sợi dây, đi xuyên qua đồng cỏ dày đặc. Nhìn đầu nó thật ngộ nghĩnh, cứ nhấp nhô vẻ rất vội vã khi nó chạy.

    Tôi đứng nhìn con chim cút từ cửa bếp. Không biết sợi dây đó bị ai buộc vào chân nó, hay nó tự vướng vào đâu? Thỉnh thoảng sợi dây như căng ra. Tôi phải đi tìm hiểu xem có chuyện gì mới được.

    Tôi chạy ra ngoài, nhẹ nhàng lại gần, lại gần hơn nữa để nhìn cho rõ. Có một lúc, chim cút mẹ rõ ràng nhìn thấy tôi, nhưng nó vẫn cắm cúi đi tiếp, đầu gật gật. Lẽ ra lúc đó tôi phải biết mà đứng yên. Nhưng sự tò mò quả là khộng thể chịu đựng nổi!

    Tôi tiến lại gần hơn nữa, đến sát con chim cút mẹ. Tôi nhìn theo hướng sợi dây, và đó là những ánh mắt sợ hãi của một đàn chim cút con, đang bám theo sợi dây mà mẹ chúng kéo theo.

    Tôi cũng giật mình nên nhảy lui lại, tức là càng gây nhiều tiếng động. Bọn chim cút con bắt đầu kêu ầm ĩ. Chúng hoảng hốt chạy tứ tung vào những bụi cỏ, bụi cây quanh đó.     Chim cút mẹ cuống lên. Nó tưởng tôi sắp bắt lũ con của nó. Nó lao thẳng đến chỗ tôi, kêu lên hối hả, như thể bảo tôi bắt nó chứ đừng bắt con nó.

-    Không, có phải tớ cố ý đâu!- Tôi nhảy ngược lại thêm một bước nữa, miệng gào ầm lên với con chim cút, và... bỏ chạy. Khi tôi ngoái lại, tôi thấy chim cút mẹ đang hoảng hốt lao vào các bụi cỏ tìm con. Nó vẫn kêu hối hả và đập cánh liên tiếp, đầy lo lắng và hoảng sợ. Tôi chững lại, tự hỏi rằng liệu chim cút mẹ có tìm được hết tất cả đàn con hay không. Tôi không bao giờ biết.

    Tôi cảm thấy thật kinh khủng. Chỉ vì vô ý ma tôi gây ra một “thảm hoạ” đối với những chú chim bé bỏng. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt đến tận bây giờ.

    Khi lớn lên, tôi cũng nhận ra rằng có rất nhiều “sai lầm vô ý” xung quanh mình. Một người chạy đến cạnh người bạn chỉ để nói rằng sao kiểu tóc mới của người bạn trông tệ đến thế. Cái cảm giác không thể ngừng kể về “cô Sadie đã mất vì bệnh ho lao thế nào” cho một người bạn đang bị ho. Một đồng nghiệp mới, chúng ta có vượt qua sự e ngại để bắt chuyện và giúp cô ấy bớt cảm thấy lúng túng? Hay chúng ta chỉ dính với những người mà chúng ta đã quen, mà không bao giờ nghĩ đến việc một người rơi vào môi trường mới thì cảm thấy lạ lẫm đến đâu? Chúng ta nói và làm những điều chúng ta không chắc chắn, đôi khi chỉ để... giống như một người bình thường! Cách mà chúng ta cư xử với mọi người, dù không cố ý, nói rất nhiều điều về bản thân chúng ta.

    Những điều mà chúng ta nói về mọi người, thực ra nói về chúng ta nhiều hơn là nói về họ, bạn có tin như thế không?

    Jaye Lewis

Sự bình yên

Một vị vua treo giải thưởng cho họa sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công . Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một .

Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả . Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh .Bên trên là bầu trới xanh với những đám mây trắng mịn màng . Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo .

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi , nhưng ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá . Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp . Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa . Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào .

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn , ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá . Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ . Ở đó , giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ , con chim mẹ an nhiên đậu trên tổ của mình ...Bình yên thật sự.

" Ta chấm bức tranh này ! - Nhà vua công bố - Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào , không khó khăn , không cực nhọc .Bình yên có nghĩa ngay chính khi ta đang trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim . Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên " .

Suy nghĩ

    Có một bác sĩ tâm lý rất giỏi thay đổi những ý nghĩa của sự kiện, kể cả những dự kiện tồi tệ nhất mà bệnh nhân của mình gặp phải, và điều đó thậm chí có thể thay đổi cuộc sống của các bệnh nhân. Nhiều người nói ông có khả năng ngoại cảm nhưng ông luôn bác bỏ điều đó.

    Một lần, có một ông cụ trong tình trạng cực kỳ thất vọng và buồn khổ đến gặp vị bác sĩ tâm lý này. Ông cụ lê bước chậm chạp đến phòng làm việc của bác sĩ, trông ông cụ có vẻ phải chịu một sự hành hạ to lớn. Ông cụ kể rằng vợ ông mới mất, mà vợ ông có ý nghĩa với ông hơn bất kỳ điều gì trên thế giớ này.

    Vị bác sĩ tâm lý suy nghĩ một chút rồi hỏi ông cụ:

-    Điều gì sẽ xảy ra nếu ông mất đi trước và vợ ông còn sống?

   Ông cụ nói là nếu vậy, vợ ông sẽ thực sự bị đau khổ và có lẽ sẽ không thể chịu đựng được.

    Vị bác sĩ liền nói:

-    Ông thấy không, rõ ràng là bây giờ, bà nhà ông không phải chịu đựng chừng ấy thứ. Bởi vì chính ông là người chịu đựng những điều đó- thay cho bà ấy.

    Ông cụ mắt đẫm lệ, bắt tay và cảm ơn vị bác sĩ rồi đi về.

    Vị bác sĩ tâm lý ấy đã từng viết: "Sự chịu đựng không còn là sự chịu đựng về một số khía cạnh khi nó đã tìm ra một ý nghĩa, chẳng hạn như ý nghĩa của sự hy sinh".

    Mỗi chúng ta cũng có thể điều chỉnh và tự "phiên dịch" những sự kiện trong cuộc sống của mình. Ý nghĩa của mỗi sự kiện không phải luôn luôn là cố định và chắc chắn. Bạn có thể tìm ra những ý nghĩa tích cực cho mình. Tất cả những gì cần thiết chỉ là một suy nghĩ nhỏ thôi.

Suy nghĩ, tự tin, mơ ước và dám làm

Đứa bé trai 8 tuổi bước đến gần một ông già có vẻ ngoài rất thông thái rồi ngước nhìn ông nói: "Cháu biết ông là một người rất sáng suốt, uyên thâm. Ông hãy cho cháu biết về bí ẩn của cuộc sống".

Ông già nhìn đứa bé đáp: "Suốt đời mình ông đã suy ngẫm rất nhiều về điều này và có thể nói gọn chỉ trong bốn chữ.

Đầu tiên là suy nghĩ. Hãy nghĩ về những giá trị mà con sống vì chúng.

Thứ hai là tự tin. Hãy tin tưởng bản thân bằng cách dựa vào những giá trị con nghĩ rằng vì chúng mà con sẽ sống.

Thứ ba là mơ ước. Mơ ước những gì có thể thành hiện thực dựa vào sự tự tin và những giá trị mà ta sẽ theo đuổi trong cuộc sống.

Và cuối cùng là dám làm. Hãy dám thực hiện để biến ước mơ thành sự thật bằng chính niềm tin và giá trị của chúng ta".

Và ông già đó chính là họa sĩ Walter

Tại sao phụ nữ khóc?

Một cậu bé hỏi mẹ:

- Tại sao mẹ lại khóc?

Người mẹ đáp:

- Vì mẹ là một phụ nữ.

- Con không hiểu- cậu bé thốt lên.

Người mẹ ôm chặt con và âu yếm:

- Con không bao giờ hiểu được, nhưng nó là như thế đấy…

Thời gian trôi đi, cậu bé lại hỏi cha:

- Sao mẹ lại khóc hở cha?

- Tất cả phụ nữ đều như thế, con yêu ạ – người cha mỉm cười đáp.

Cậu bé lớn dần lên và khi cậu trở thành một người đàn ông nhưng vẫn thường tự hỏi: "Tại sao phụ nữ lại khóc?"

Cuối cùng anh tìm đến một nhà hiền triết. Nghe hỏi, nhà hiền triết ôn tồn nói:

"Khi Thượng đế tạo ra phụ nữ, người phải làm cho họ thật đặc sắc. Người làm cho đôi vai họ cứng cáp để che chở được cả thế giới, đôi tay họ mát lành để che chở sự yêu thương, và người cho họ một sức mạnh tiềm ẩn để mang nặng đẻ đau.

Người cho họ một sự dũng cảm để nuôi dưỡng và chăm sóc gia đình, người thân, bè bạn ngay cả những lúc mọi người dường như buông trôi, và dù có nhọc nhằn đến mấy đi nữa họ không bao giờ than thở… Người cho họ tình cảm để họ yêu thương con cái ở mọi nghĩa trên đời, ngay cả những lúc con cái họ gây cho họ đau khổ.

Người cho họ sức mạnh để chăm sóc người chồng của họ, tránh vấp ngã vì người tạo dựng họ từ những xương sườn của người đàn ông để bảo vệ trái tim anh ta… Người cho họ sự khôn ngoan để biết rằng một ngươi chồng tốt sẽ không bao giờ làm tổn thương vợ mình, hiểu rõ sự chịu đựng của người phụ nữ và cô ta luôn thấp thoáng sau mỗi thành công của người chồng.

Để làm được những việc nhọc nhằn đó, người cũng đã cho họ giọt nước mắt để rơi, để họ sử dụng bất cứ lúc nào và đấy là điểm yếu duy nhất của họ. Khi con thấy họ khóc, hãy nói với họ con yêu họ biết bao và nếu họ vẫn khóc con hãy làm trái tim họ được bình yên".

Tạm thời

Một vị thầy tâm linh nổi tiếng đến trước cửa lâu đài của vị vua nọ. Vì Thầy nổi tiếng rồi, nên các người lính canh không ai chặn ông lại khi ông đi vào và tiến thẳng đến trước mặt nhà vua đang ngồi trên ngai vàng.

- ông muốn gì? nhà vua hỏi.

- Tôi muốn có một chỗ để ngủ trong cái quán trọ này. ông ta đáp.

- Nhưng đây không phải là quán trọ, đây là tòa lâu đài của tạ Vua trả lời.

- Xin hỏi bệ hạ rằng ai là sở hữu tòa lâu đài này trước bệ hạ?

- Vua cha ta, Ngài đã chết rồi.

- Và ai là sở hữu trước cha của bệ hạ?

- ông nội của ta, Ngài cũng đã chết.

- Và cái chỗ này, nơi mà người ta sống một thời gian ngắn rồi dọn đi, như vậy thì nó không phải là quán trọ như bệ hạ nói hay sao?

Lời bàn:

1. Vị thầy muốn cho nhà vua biết tòa lâu đài không phải của ông ấy. Nếu tòa lâu đài tiêu biểu cho sự sống của nó, thì nó thuộc về ai? Sự sống có thuộc về người nào hay không?

2. Sớm hay muộn gì tất cả chúng ta đều phải dọn đi, kể cả đời này và nhiều đời sau nữa!

3. Chuyện này biểu lộ rằng người quyền thế nghĩ là quyền lực của họ thường hằng. Nhưng không có gì trong cuộc đời này là thường hằng. Người như vậy cần được đặt vào vị trí của họ.

4. Chúng ta sống và chết và không bao giờ thực sự sở hữu bất cứ thứ gì. Có mấy người nghĩ sâu xa về điều này.

5. Vật chất và của cải làm cho bạn nghĩ rằng mọi thứ tồn tại vĩnh viễn. Điều đó ngược lại sự nhận biết rằng mọi thứ trên đời này đều vô thường.

Tiếng nói của cuộc sống

Xin chào! Tôi là cuộc sống đây. Hôm nay tôi sẽ cố giải quyết mọi vấn đề bạn đang gặp phải để bạn đừng than trách tôi nữa…

Nếu bạn bị tắc đường và kẹt xe, đừng thất vọng. Còn rất nhiều người trên thế giới này, mà đối với họ, lái xe là một niềm mơ ước không thể thực hiện .

Nếu bạn cảm thấy học hành thật chán ngán. Hãy nghĩ đến người đã hàng năm trời rồi không được đi học.

Nếu bạn thất vọng vì một chuyện tình cảm đang đến hồi tan vỡ. Hãy nghĩ đến người chưa bao giờ biết yêu thương và được yêu thương là như thế nào. Nếu bạn buồn vì một cuối tuần nữa lại sắp trôi qua. Hãy nghĩ đến những người phụ nữ ở môi trường làm việc khắc nghiệt, phải làm việc 12 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần để nuôi con.

Nếu bạn cảm thấy mất mát và tự hỏi mình cuộc sống là gì và có mục đích gì. Hãy nghĩ đến những người bệnh tật, biết trước mình không còn sống được bao lâu nữa, và không còn cơ hội để tự hỏi mình nữa.

Nếu bạn cảm thấy khủng khiếp khi là nạn nhân của những trò đùa, những sự nhỏ mọn… của người khác. Hãy nhớ: Thế nhưng vẫn chưa là gì đâu, vì tồi tệ hơn nữa là khi: bạn có thể là chính những người đó!

Tiếng vọng rừng sâu

Có một cậu bé ngỗ nghịch thường bị mẹ khiển trách. Ngày nọ giận mẹ, cậu chạy đến một thung lũng cạnh khu rừng rậm. Lấy hết sức mình, cậu hét lớn: 'Tôi ghét người'. Từ khu rừng có tiếng vọng lại: 'Tôi ghét người'. Cậu hoảng hốt quay về sà vào lòng mẹ khóc nức nở. Cậu bé không sao hiểu được từ trong rừng lại có người ghét cậu.

Người mẹ nắm tay con, đưa cậu trở lại khu rừng. Bà nói: 'Giờ thì con hãy hét thật to: 'Tôi yêu người'. Lạ lùng thay, cậu vừa dứt tiếng thì có tiếng vọng lại: 'Tôi yêu người'. Lúc đó người mẹ mới giải thích cho con hiểu: 'Con ơi, đó là định luật trong cuộc sống của chúng ta. Con cho điều gì, con sẽ nhận điều đó. Ai gieo gió thì gặt bão. Nếu con thù ghét người thì người cũng thù ghét con. Nếu con yêu thương người thì người cũng yêu thương con.

Tình yêu, giàu sang và sự thành công.

Một người phụ nữ ra khỏi nhà và nhìn thấy ba người đàn ông râu dài bạc trắng đang ngồi trên băng ghế đá ở sân trước. Bà không hề quen ai trong số họ. Tuy nhiên, vốn là người tốt bụng, bà nói:

"Tôi không biết các ông nhưng chắc là các ông đang rất đói, xin mời các ông vào nhà ăn một chút gì đó".

- Ông chủ có ở nhà không? - họ hỏi

- Không, chồng tôi đi làm rồi - bà trả lời.

- Thế thì chúng tôi không thể vào được.

Buổi chiều, khi chồng trở về, bà kể lại câu chuyện cho chồng nghe. Chồng bà muốn biết họ là ai nên bà ra mời ba người đàn ông - vẫn chờ từ sáng - vào nhà.

- Ba chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được - họ trả lời.

- Sao lại thế? - người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.

Một người giải thích: "Tên tôi là Tình Yêu, ông này là Giàu Sang, còn ông kia là Thành Công. Bây giờ hai vợ chồng bà hãy quyết định xem ai trong chúng tôi sẽ là người được mời vào nhà".

Người phụ nữ đi vào và kể lại toàn bộ câu chuyện. "Tuyệt thật - người chồng vui mừng - đây đúng là một cơ hội tốt. Chúng ta hãy mời ngài Giàu Sang. Ngài sẽ ban cho chúng ta thật nhiều tiền bạc và của cải". Nhưng người vợ không đồng ý. "Tại sao chúng ta lại không mời ngài Thành Công nhỉ? Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể". Hai vợ chồng tranh cãi một lúc lâu mà vẫn chưa quyết định được. Cô con gái nãy giờ yên lặng đứng nghe trong góc phòng bỗng lên tiếng đề nghị: "Chúng ta nên mời ngài Tình Yêu là tốt hơn cả. Nhà mình sẽ tràn ngập tình thương yêu ấm áp và ngài sẽ cho chúng ta thật nhiều hạnh phúc". "Có lẽ chúng ta nên nghe lời khuyên của con gái - người chồng suy nghĩ rồi nói với vợ - Em hãy ra ngoài và mời ngài Tình Yêu, đây chính là người khách chúng ta mong muốn".

Người phụ nữ ra ngoài và hỏi: "Ai trong ba vị là Tình Yêu xin mời vào và trở thành khách của chúng tôi". Thần Tình Yêu đứng dậy và đi vào ngôi nhà. Hai vị thần còn lại cũng đứng dậy và đi theo thần Tình Yêu. Vô cùng ngạc hiên, người phụ nữ hỏi: "Tôi chỉ mời ngài Tình Yêu. Tại sao các ông cũng vào? Các ông đã nói không thể vào cùng một lúc kia mà". Hai người cùng nhau trả lời: "Nếu bà mời Giầu sang hoặc Thành Công thì sẽ chỉ một mình người khách được mời đi vào. Nhưng vì bà mời Tình Yêu nên cả ba chúng tôi sẽ cùng vào. Bởi ở đâu có Tình Yêu thì ở đó sẽ có Thành Công và Giàu Sang".

Truyện ngụ ngôn Rùa và Thỏ

Đây là một câu chuyện có vẻ quen thuộc với chúng ta nhưng được mở rộng bởi CEO (Chief Executives Officer) của Coca Cola như sau:

Ngày xửa ngày xưa, có một con rùa và một con thỏ cãi nhau xem ai nhanh hơn. Chúng quyết định giải quyết việc tranh luận bằng một cuộc thi chạy đua. Chúng đồng ý lộ trình và bắt đầu cuộc đua.

Thỏ xuất phát nhanh như như bắn và chạy thụt mạng một hồi, và sau khi thấy rằng đã bỏ khá xa bạn rùa, thỏ nghĩ nó nên nghỉ mệt dưới một tán cây bên đường và thư giãn trước khi tiếp tục cuộc đua. Thỏ ngồi dưới bóng cây và nhanh chóng ngủ thiếp đi. Rùa từ từ vượt qua thỏ và sớm kết thúc đường đua, dành chiến thắng. Thỏ giựt mình tỉnh giấc và nhận ra rằng nó đã bị thua.

Bài học của câu chuyện trên là: chậm và ổn định đã chiến thắng cuộc đua.

Nhưng cuộc sống không quá đơn giản như thế, câu chuyện được tiếp tục phát triển thêm:

Thỏ vô cùng thất vọng vì để thua và nó cố suy nghĩ. Nó nhận ra rằng nó đã thua chỉ vì quá tự tin, bất cẩn và thiếu kỷ luật. Nếu nó không xem mọi thứ quá dễ dàng và chắc thắng, thì rùa không thể nào có cửa hạ được nó. Vì thế, nó quyết định thách thức một cuộc đua mới. Rùa đồng ý.

Lần này, thỏ chạy với tất cả sức lực của nó và chạy suốt một mạch về đích. Nó bỏ xa rùa đến mấy dặm đường.

Thế, bài học của câu chuyện này?: nhanh và vững chắc sẽ chiến thắng cái chậm và ổn định.

Nếu có 2 người trong công ty của bạn: một người chậm, nguyên tắc và đáng tin cậy; một người khác nhanh và vẫn đáng tin cậy ở những việc anh ta làm. Người nhanh và đáng tin cậy chắc chắn sẽ được thăng chức nhanh hơn.

Chậm và chắc là điều tốt, nhưng nhanh và tin cậy là điều tốt hơn. Nhưng câu chuyện cũng không dừng lại ớ đây. Rùa đã suy ngẫm kết quả và nhận ra rằng: nó không có cách nào thắng được thỏ trên đường đua vừa rồi. Nó suy nghĩ thêm một tí nữa và rồi thách thỏ một cuộc đua khác, nhưng có một chút thay đổi về đường đua.

Thỏ đồng ý. Họ bắt đầu cuộc đua. Như đã tự hứa với lòng mình là phải luôn nhanh, thỏ bắt đầu chạy và chạy với tốc độ cao nhất cho đến bên bờ sông. Vạch đích đến lại còn đến 2 Km nữa ở bên kia sông!

Thỏ dành ngồi xuống và tự hỏi không biết làm sao đây. Trong lúc đó, rùa đã đến nơi, lội xuống sông và bơi qua bờ bên kia, tiếp tục chạy và kết thúc đường đua.

Ý nghĩa từ câu chuyện này?. Trước tiên, cần phải xác định ưu thế của mình, và sau đó là biết chọn sân chơi phù hợp.

Câu chuyện vẫn chưa dừng lại.

Đến đây, thỏ và rùa đã trở thành đôi bạn thân thiết và họ cùng nhau suy ngẫm. Cả hai nhận ra rằng cuộc đua sau cùng có lẽ sẽ có kết quả tốt hơn. Vì thế, chúng quyết định tổ chức một cuộc đua cuối cùng, nhưng chúng sẽ cùng chạy chung một đội.

Cuộc đua bắt đầu, thỏ cõng rùa chạy đến bên bờ sông, rùa lội xuống sông và cõng thỏ bơi qua bên kia bờ sông. Lên đến bờ, thỏ lại cõng rùa đưa cả hai cùng về đích. Và chúng cùng nhận ra rằng đã về đích sớm hơn rất nhiều so với các lần đua trước.

Bài học của câu chuyện này là gì?. Thật tuyệt vời nếu mỗi người đều thông minh và đều có ưu điểm riêng, nhưng trừ khi các bạn cùng làm việc với nhau trong một đội và cùng chia xẻ, cống hiến ưu thế của từng người, bạn sẽ không bao giờ thực hiện công việc được hoàn hảo bởi vì luôn luôn có những trường hợp bạn không thể làm tốt hơn người khác.

Điều quan trọng của làm việc theo nhóm là phải chọn được người trưởng nhóm trong từng trường hợp cụ thể. Phải chọn được người có ưu thế về lĩnh vực mà họ làm trưởng nhóm.

Còn nhiều bài học nữa từ câu chuyện này. Lưu ý rằng cả thỏ và rùa đều không hề đầu hàng hay nản chí sau thất bại. Thỏ quyết tâm làm việc hăng hơn và cố gắng nhiều hơn sau khi phải thất bại cay đắng. Rùa phải thay đổi chiến lược vì nó đã cố gắng làm việc hết sức. Trong cuộc sống, khi phải chịu đựng, đối mặt với thất bại, có thể đó cũng là thời điểm thích hợp để cố gắng hơn và nỗ lực nhiều hơn nữa, nhưng đôi khi cũng cần phải thay đổi chiến lược và thử tìm kiếm giải pháp khác. Và đôi khi phải làm cả hai.

Thỏ và rùa cũng đã học thêm một bài học để đời khác: thay vì chúng chống đối (hay cạnh tranh) với nhau, chúng bắt đầu tìm cách giải quyết tình huống, và chúng đã cùng nhau làm tốt hơn rất nhiều.

Khi Roberto Goizueta đảm nhận vị trí CEO của Coca Cola vào những năm 1980, ông đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với Pepsi. Nhân viên của ông ta đang tập trung vào cạnh tranh với Pepsi và cố gắng tăng thị phần từng 0.1%. Goizueta quyết định không cạnh tranh với Pepsi mà thay vào đó là tìm cách chiếm thị phần. Ông ta hỏi các nhân viên và biết rằng trung bình mỗi ngày, mỗi người Mỹ uống các loại nước là 14 ounces (đơn vị đo lường của Mỹ), trong đó thì Coke chỉ có 2 ounces/ngày/người. Rõ ràng việc cạnh tranh không chỉ là Pepsi mà còn là nước, trà, cà phê, sữa và các loại nước trái cây.

Mọi người sẽ dễ dàng tìm thấy Coke bất kể khi nào họ cần uống. Coke quyết định đầu tư các máy bán coca cola tự động ở khắp các góc đường. Doanh thu tăng nhảy vọt và cho đến nay thì Pepsi vẫn không thể nào theo kịp.

Kết luận: câu chuyện ngụ ngôn thỏ và rùa đã dạy cho chúng ta khá nhiều bài học lý thú. Ý tưởng quan trọng nhất là “nhanh và vững chắc” sẽ luôn đánh bại “chậm và ổn định”; làm việc với những ưu điểm của bạn, đầu tư nhiều tài nguyên và làm việc theo nhóm sẽ luôn chiến thắng bất cứ một cá nhân nào; không bao giờ đầu hàng hay nản chí sau thất bại. Và cuối cùng, phải tìm giải pháp cho mọi tình huống, không chống lại cuộc chiến.

Vĩnh biệt ngài 'Tôi không thể'

    Lớp bốn mà cô Donna đang dạy cũng giống như bao lớp học khác mà tôi đã gặp qua. Học sinh ngồi thành năm dãy, mỗi dãy gồm sáu bàn. Bàn giáo viên được đặt ở vị trí đối diện. Có một bảng thông báo để dán các bài làm của các em học sinh. Xét về mọi mặt thì đây đúng là một lớp tiểu học tiêu biểu. Duy chỉ có một điểm khác biệt mà tôi bắt gặp ngay từ khi vừa mới bước chân vào lớp là đường như các em học sinh đang làm một công việc gì đó rất hào hứng.

    Cô Donna là giáo viên có nhiều kinh nghiệm ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Michigan, và chỉ còn hai năm nữa là cô về hưu. Hơn nữa cô còn là thành viên tự nguyện trong dự án phái triển nhân sự cấp quốc gia do tôi tổ chức và phát triển. Buổi học hôm nay của lớp cô tập trung vào những ý tưởng nghệ thuật và ngôn ngữ để giúp học sinh cảm thấy mạnh mẽ hơn, tự hào hơn và có trách nhiệm hơn với bản thân. Công việc của cô Donna là có mặt ở các lớp để thực hành những khái niệm đã được trình bày từ trước. Còn công việc của tôi là dự giờ các lớp học và khuyến khích áp dụng những khái niệm mới đó.

    Tôi chọn một chỗ trống ở cuối lớp và quan sát. Tất cả học sinh đang loay hoay viết vào một tờ giấy. Cô bé mười tuổi ngồi kế tôi cũng đang viết vào giấy những câu được bắt đầu bằng cụm từ "Tôi không thể". "Tôi không thể đá bóng qua khỏi tầng lầu hai", "Tôi không thể làm phép chia từ ba số trở lên", "Tôi không thể khiến cho Debbie thích tôi".

    Cô bé đã viết tới nửa trang giấy rồi mà vẫn không có ý định dừng tay. Cô bé tiếp tục ghi với tất cả sự quyết tâm và kiên nhẫn. Tôi đi ngược lên, liếc nhìn vào giấy của những học sinh khác. Tất cả đều đang viết, mô tả những gì chúng không thể làm được.

    "Tôi không thể hít đất được mười cái." "Tôi không thể chỉ ăn mỗi một cái bánh kẹp."

    Tới lúc này thì tính tò mò của tôi bắt đầu trỗi dậy. Tôi định sẽ tới trao đổi với cô giáo để biết chuyện gì đang xảy ra. Khi tiến đến gần, tôi mới để ý thấy cô cũng đang cẩm cúi viết. Tôi nghĩ tốt hơn hết là không nên làm gián đoạn.

    "Tôi không thể thuyết phục mẹ của John đến dự buổi họp phụ huynh học sinh", "Tôi không thể thuyết phục Alan dùng lời lẽ thay vì những nắm đấm."

    Không thể biết được tại sao cả thầy lẫn trò đều cứ nghĩ tới một câu phủ định thay vì phải viết những câu tích cực hơn như "Tôi có thể". Tôi đành quay lại chỗ của mình và tiếp tục quan sát. Học sinh viết thêm mười phút nữa. Đa số viết kín hết tờ giấy. Có em còn viết lan sang cả tờ khác.

    "Hãy viết cho xong câu các em đang viết, đừng viết sang câu mới". Đó là lời hướng dẫn mà cô Donna dùng để báo hiệu kết thúc thời gian làm bài. Sau đó, cô hướng dẫn học sinh gấp đôi tờ giấy lại và đem lên nộp. Khi các em tiến tới bàn giáo viên, chúng cho bài làm của mình vào một thùng gỗ rỗng. Khi tất cả bài viết của học sinh được gom lại, cô Donna cũng cho vào thùng tờ giấy của chính mình.

    Xong xuôi, cô đậy nắp lại, ôm hộp rồi dẫn cả lớp đi ra khỏi phòng học. Học sinh theo sau cô giáo, còn tôi thì đi theo sau chúng. Đi được nửa hành lang, cả đoàn dừng lại. Cô Donna bước vào phòng bảo vệ, tìm kiếm khắp nơi và cuối cùng trở ra với một cái xẻng. Một tay cầm xẻng, một tay giữ lấy cái thùng, cô giáo dẫn đám học trò đi ra khỏi dãy lớp học để đến góc cuối sân trường. Ở đó, họ bắt đầu đào.

    Công việc đào xới diễn ra trong mười phút vì các em thay phiên nhau đào. Khi đào được một cái lỗ sâu khoảng ba bộ, chúng dừng tay. Cái thùng được đặt xuống đáy và nhanh chóng được lấp lại.

    Ba mươi mốt cô cậu khoảng mười, mười một tuổi này đứng xung quanh ngôi mộ vừa mới đắp. Mỗi em đều có ít nhất một trang giấy viết lên những câu "Tôi không thể" trong cái "hòm" đang nằm sâu dưới ba tấc đất này. Và cô giáo cũng vậy. Tới lúc này, cô Donna tuyên bố. "Các em hãy nắm tay nhau và cúi đầu xuống".

    Đám học trò nhỏ làm theo. Chúng nhanh chóng đứng thành một vòng tròn quanh ngôi mộ, tay trong tay như một sợi dây liên kết. Chúng cúi đầu xuống và chờ đợi. Cô Donna đọc một điếu văn. "Hôm nay chúng ta có mặt nơi đây là để tưởng niệm Ngài "Tôi không thể". Ngày nào mà "Tôi không thể" còn sống trên cõi đời này thì ngày đó Ngài còn tác động đến cuộc sống cũng như con người chúng ta. Không may là ở đâu người ta cũng gọi tên Ngài, trong các trường công lập, tòa thị chính, tòa nhà Quốc hội, và thậm chí trong cả oà Bạch ốc."

    "Hôm nay chúng ta đã đưa Ngài "Tôi không thể" đến nơi an nghỉ cuối cùng và dâng tặng cho Ngài một mộ bia ghi rõ tên tuổi của Ngài. Những gì Ngài đang làm dở dang sẽ được các anh chị Ngài như là "Tôi có thể", "Tôi sẽ", "Tôi sẽ làm ngay tức thì" tiếp nối, dù rằng họ không được nổi tiếng và chắc chắn cũng không mạnh mẽ và quyền thế như Ngài. Nhưng có lẽ một ngày nào đó, các anh chị Ngài sẽ để lại một dấu ấn to lớn hơn cho thế giới.

    "Cầu cho Ngài "Tôi không thể" được yên nghỉ và cũng cầu cho tất cả những người đang có mặt tại đây sẽ có một cuộc sống tốt đẹp hơn và sẽ vững tiến khi vắng mặt Ngài. Amen."

    Khi nghe bài điếu văn, tôi nhận ra rằng các em học sinh sẽ không bao giờ quên được ngày hôm ấy. Sự kiện này là một biểu tượng và hàm ý cho cuộc sống của chúng. Đó là một kinh nghiệm trí tuệ khắc sâu mãi mãi trong tiềm thức cũng như trong nhận thức của các em. Viết lên những từ "Tôi không thể", mang chúng đi chôn và lắng nghe bài điếu văn. Đó là một nỗ lực sáng tạo lớn về phương diện của người giáo viên. Và như thế vẫn chưa đủ. Kết thúc bài điếu văn, cô dẫn đám trò nhỏ về lớp và làm lễ tưởng niệm người đã khuất. Họ tổ chức ăn mừng sự ra đi của Ngài "Tôi không thể" bằng bánh ngọt và trái cây.     Trong buổi lễ ấy, cô Donna cắt một miếng giấy cứng làm thành một mộ bia lớn. Cô viết chữ "Tôi không thể" ở trên cùng, đặt cụm từ "Chúc Ngài được yên nghỉ" ở giữa và ngày tháng ở dưới chót. Miếng mộ bia này được treo trong lớp như là sự nhấc nhở trong suất cả năm học. Lâu lâu, em nào lỡ quên mà nói "Em không thể" thì cô Donna chỉ việc trỏ tay vào cụm từ "Chúc Ngài được yên nghỉ". Lập tức, học trò ấy sẽ nhớ ra rằng "Tôi không thể" đã chết và nói lại một câu khác như "Tôi có thể", "Tôi sẽ làm được ..."

    Tôi không phải là học sinh của cô Donna, mà trái lại cô còn là học viên của tôi. Tuy nhiên, sau ngày ấy tôi đã học được từ cô một bài học đáng ghi nhớ.

    Giờ đây, những năm sau đó, khi nghe được cụm từ "Tôi không thể", tôi lại liên tưởng tới cái đám tang ở lớp bốn ấy. Và giống như các em học sinh, tôi cũng nhớ rằng "Tôi không thể" đã chết.

Xin hãy cầm cẩn thận!

    Jim ngó xuống đồng hồ đo tốc độ trong xe trước khi dừng lại: 73 km/h trên con đường giới hạn 55 km/h. Lần thứ tư trong tháng này. Làm sao một người có thể bị cảnh sát phạt nhiều đến thế cơ chứ?!

    Một viên cảnh sát đỗ xe môtô và lại gần xe Jim, tay cầm quyển sổ phạt.

    ”Bob? Bob mà mình hay gặp ở phòng tập thể hình đây mà!”- Jim nhận ra người quen. Nhưng điều này còn tệ hơn là một cái vé phạt. Vì trước mặt Bob, Jim luôn tỏ ra là một người gương mẫu. Bây giờ bị người quen phạt thì còn ra gì…

    - Chào Bob, gặp cậu ở đây thật là…- Jim nhún vai.

    - Chào Jim- Bob không mỉm cười như mọi khi.

    - Anh lại phạt tôi vì tôi đang vội về với vợ con ư?

    - Chắc phải thế thôi…- Bob ngập ngừng.

    ”Anh ta có vẻ không quả quyết! Tốt!”- Jim nghĩ rồi tiếp:

    - Tôi vừa qua một ngày vất vả ở cơ quan. Tôi chỉ vội về với gia đình một chút thôi mà, lần này thôi!- Jim nhịp chân trên vỉa hè, nói giọng khẩn thiết nhất có thể- Anh đo được tôi chạy tốc độ bao nhiêu?

    -70km/h. Anh cứ ngồi vào xe đi!

    - Không phải, ngay lúc tôi nhìn thấy anh thì tôi đã nhìn đồng hồ rồi, chỉ 65km/h thôi!- Jim cãi. Lời nói dối đến dễ hơn khi vé phạt sắp được xé.

    - Jim,anh cứ vào xe đi!

    Jim thất vọng vào xe và đóng sập cửa. Bob bắt đầu viết vào quyển sổ.

    ”Sao hắn không hỏi bằng lái của mình nhỉ? Đồ đáng ghét, dù lý do gì mình cũng không bao giờ thèm ngồi cạnh hắn trong phòng tập thể hình nữa”- Jim nghĩ thầm. Có tiếng gõ nhẹ vào kính cửa sổ. Bob cầm một tờ giấy gấp đôi trong tay. Jim vặn cửa sổ xuống chỉ khoảng vài cm, đủ để giật lấy tờ giấy.

    - Cảm ơn!- Jim không giấu được vẻ khó chịu trong câu nói.

    Bob chào Jim rồi lên chiếc xe môtô của cảnh sát phóng đi mất.

    Jim bực bội mở mảnh giấy ra. Không biết lần này bị phạt bao nhiêu tiền đây. Nhưng… Cái gì thế này? Đây không phải là phiếu phạt. Trong mảnh giấy trắng chỉ có viết: “Jim thân mến! Trước đây tôi có một đứa con gái. Nó được 6 tuổi thì mất trong một tai nạn ôtô. Anh biết đấy- một tài xế lái xe quá tốc độ… Một phiếu phạt và 3 tháng vào tù, rồi anh ta được tự do. Tự do ôm ba đứa con gái của anh ta. Tôi chỉ có một đứa con gái, và tôi sẽ phải đợi đến khi nào tôi được lên Thiên Đàng thì mới có thể gặp lại nó và ôm nó lần nữa. Đã một nghìn lần tôi cố tha thứ cho người đàn ông đó. Một nghìn lần tôi nghĩ rằng tôi đã có thể. Cũng có thể như vậy, nhưng rồi tôi lại phải cố bắt mình tha thứ thêm lần nữa. Cả bây giờ cũng vậy. Hãy nghĩ đến tôi! Và Jim, hãy lái xe cẩn thận. Con trai tôi bây giờ là tất cả những gì tôi còn lại. Thương yêu, Bob”.

    Jim quay đầu lại nhìn, nhưng xe của Bob đã đi khuất từ lâu lắm. 15 phút sau, Jim mới có thể khởi động xe và lái về nhà. Lái từ từ, mong được tha thứ, và mong hơn cả là được ôm những đứa con vào lòng khi anh về tới nhà.

    Cuộc sống là một món quà quý giá mà không phải ai cũng nhìn thấy cái nhãn “Xin hãy cầm cẩn thận!”

Yêu và mến

    Trước mặt người mình yêu tim bạn đập rộn rã, nhưng trước mặt người bạn mến, bạn cảm thấy vui vẻ.

    Trước mặt người bạn yêu mùa đông giống như là một mùa xuân; nhưng trước mặt người bạn mến, mùa đông chỉ là một mùa đông đẹp. Nếu bạn nhìn vào người bạn yêu, bạn trở nên e thẹn; nhưng nếu bạn nhìn vào người bạn mến, bạn tươi cười vui vẻ. Trước mặt người bạn yêu, bạn ko thể thổ lộ những điều bạn dự định trong đầu; nhưng trước mặt người bạn mến, bạn nói chuyện một cách vô tư.

    Trước mặt người bạn yêu, bạn có khuynh hướng trở nên nhút nhát, nhưng trước mặt người bạn mến , bạn rất tự tin. Người bạn yêu xuất hiện trong tâm trí bạn từng hai phut một. Ban ko thể nhìn thẳng vào mặt của người mình yêu, nhưng bạn có thể luôn luôn cười đùa với người bạn mến .Khi người bạn yêu đang khóc bạn khóc theo, nhưng khi người bạn mến đang khóc bạn cố gắng an ủi họ.

    Cảm giác của tình yêu bắt đầu từ ánh mắt , cảm giác của sự mến bắt đầu từ tai nghe. Nếu bạn thôi ko mến người bạn đã từng mến , bạn chỉ cần bịt tai lại, nhưng nếu bạn cố gắng để nhắm mắt lại để quên người mình yêu , tình yêu sẽ đến bằng những giọt nước mắt và sau đó sẽ vĩnh viễn nằm trong tim bạn.

    THẾ ĐẤY, CÓ NHỮNG CHUYỆN ĐƠN GIẢN MÀ KHÔNG ĐƠN GIẢN...

    CHÚC BẠN TÌM ĐƯỢC NGƯỜI YÊU, VÀ CÓ THẬT NHIỀU NGƯỜI MẾN BẠN

Tình bạn

5 cách giữ gìn tình bạn đẹp

    Tình bạn cũng như bông hoa, như cây non. Hoa chỉ nở rộ, cây non chỉ lớn lên khi có bàn tay vun xới. Tình bạn cũng chỉ đẹp và bền vững khi mỗi người bạn biết vun xới, chăm chút cho nó mà thôi.

    1- Cùng nhau làm một vài việc

    Tình bạn trước hết là một sự trao đổi. Hãy rủ bạn bè cùng làm, cùng thực hiện với bạn một dự định dù nhỏ nào đó, chia sẻ với nhau. Như thế sẽ làm cho người bạn thấy mình được tin tưởng, bạn ấy sẽ hài lòng. Còn bạn cũng thấy vui suớng vì bạn có được tình cảm thân thiết của bạn bè.

    2- Đừng luôn kể những điều phiền muộn, bực mình

    Kể cho bạn nghe những gì xảy ra với mình là một việc làm tốt, nó giúp giải tỏa những ức chế trong lòng bạn. Bạn bè có thể là một chỗ dựa cho bạn lắm chứ. Nhưng bạn đừng luôn luôn đem chuyện không vui của mình làm phiền bạn bè, vì bạn sẽ ép người ta nghe, đôi khi vì để tìm một sự động viên, thương cảm mà bạn chẳng còn gì hấp dẫn người ta nữa bởi bạn bộc lộ khả năng thiếu kiềm chế, thiếu tự tin của mình.

    3. Luôn bên bạn bè những khi cần thiết

    Ai cũng có những lúc khó khăn cần đến sự giúp đỡ của người khác, có khi chỉ là một lời thăm hỏi, một ánh mắt khích lệ, một lời nhận xét tế nhị. Hãy luôn thăm hỏi, giữ mối liên lạc với bạn bè, kịp thời nhận ra tình thế của bạn mình để tìm cách giúp đỡ hữu hiệu nhất. "Một miếng khi đói bằng một gói khi no"; nhất là khi bạn cô đơn, bạn cần ta lắm đấy.

    4. Rút lui đúng lúc

    Ai cũng cần có những khoảng trời tự do của mình. Khi bạn mình mệt, khi ta đã giúp bạn hoàn thành công việc xong, hoặc đơn giản thấy bạn không cần đến mình nữa, bạn hãy "rút lui có trật tự". Bạn của ta sẽ vô cùng biết ơn một người bạn ý tứ như ta. Hãy lịch sự cáo lui và nói với bạn bè rằng "nếu cần đến mình, bạn đừng ngại ngần, mình thu xếp được mà".

    5. Thông cảm cho nhau cả khi vắng mặt

    Có những lúc bạn phải dành thời gian cho gia đình, cho người yêu hoặc một công việc gấp rút nào đấy. Và bạn bè của bạn cũng vậy. Việc này làm cho quan hệ bạn bè có những lúc bị lãng quên. Hãy báo trước cho bạn sự vắng mặt của mình, đừng để họ có cảm giác bị phản bội, mất lòng tin; thông cảm cho bạn mình nếu họ quên không thông báo họ vắng mặt.

Đồng đội

    Một trong những điều mà các cậu con trai của các đội thể thao trong trường trung học không nhận ra rằng: Đồng đội chính là những người bạn tốt nhất sau này.

    Tôi vẫn còn chơi thân với và đồng đội của tôi ở đội bóng đá trường trung học Macon (Missouri). Một trong những người đó là Greg Hyatt.

    Greg là hậu vệ. Nếu cậu ta không tiếp cận được người đang dẫn bóng thì có kẻ sẽ phải ngã để cậu ta thực hiện được điều đó nên tôi không mấy ưa Greg.

    Nhưng tôi vẫn còn nhớ vào năm lớp 12, trong một trận cầu quan trọng. Suốt trận đấu, một cầu thủ của đội bạn cứ bám riết lấy tôi, thậm chí còn chơi xấu. Cậu ta đập cả cánh tay vào mặt tôi, lúc đó tôi cũng hơi hoa mắt nhưng không quên ném cho cậu ta một ánh mắt thù địch.

    15 phút sau, cơ hội đã đến, khi trọng tài không chú ý, tôi đã chơi lại một cú y như vậy. Cậu ta ngã oạch xuống sân còn tôi thì rất hả hê.

    Chỉ có điều ngay sau trận đấu, tôi không chỉ đối đầu với cậu ta mà còn với vài đồng đội của cậu ta nữa. Họ đều thấy hành vi chơi xấu của tôi. Tuy nhiên, khoảnh khắc đáng sợ đó không kéo dài, vì ngay lập tức, Greg xuất hiện ngay bên cạnh tôi, hòa giải, tất nhiên.

    Vài năm sau, tôi đối mặt với một thử thách khó khăn hơn: Mẹ tôi mất vì bệnh tim.

    Tôi vẫn còn nhớ rằng mình đứng trong phòng đợi của bệnh viện, nhìn ra cửa sổ. Mọi người trong gia đình đều đứng xung quanh, nhưng có những lúc bạn chỉ muốn nói chuyện với một người bạn chứ không phải một người thân. Chỉ vừa nghĩ đến đó, tôi nghe có tiếng bước chân lại gần. Khi tôi quay ra, tôi nhìn thấy Greg. Cậu ấy mặc đồ màu đen và mắt cậu ấy ướt.

    Khi nhìn thấy Greg, một cảm giác gần gũi và được an ủi xuất hiện trong tôi. Trong một khoảnh khắc, tôi như quay lại sân bóng trường Macon, đối mặt với thử thách nhưng luôn cố gắng và tiếp tục.

    Sự có mặt của Greg có ý nghĩa rất lớn đối với tôi vào ngày hôm đó và cả hôm nay. Đó là những gì tôi hay kể với những học sinh trung học trong đội bóng rằng người đồng đội mà bạn không ưa vẫn có thể là người bạn tốt nhất của bạn sau này.

    Có nhiều thay đổi trong cuộc sống của tôi kể từ ngày đó. Nhưng một trong những điều bền vững nhất của tôi là tình bạn với Greg.

    Sau tất cả, chúng tôi vẫn là đồng đội. Và đồng đội luôn ở cạnh nhau ngay cả khi những người khác đã rời sân.     Jim Brown

Gửi cô bạn của tôi

    Cô bạn thân mến của tôi,

    Đã đến lúc tôi cần phải có bạn gái. Tôi biết rằng bạn đang ở đâu đó. Đừng lo gì cả, tôi sẽ tìm ra bạn thôi. Và khi tìm ra bạn, tôi hy vọng rằng bạn sẽ yêu tôi vì tôi là Derek chứ không phải là em trai của Mike. Tôi hy vọng là bạn sẽ không bối rối khi tôi mặc quần áo không hợp thời trang, hay bực bội khi tôi bỏ qua chương trình phim truyền hình được nhiều bạn trẻ yêu thích.

    Tôi mong rằng bạn sẽ nhớ tôi chơi đá banh chứ không phải là bóng bầu dục, tôi ở vị trí trung vệ chứ không phải hậu vệ. Và mỗi cuối tuần, tôi đều ở chơi với ba tôi. Tôi nguyện rằng bạn sẽ yêu tôi, dù cho tôi thường quên mất ngày sinh của mình, và nếu cha mẹ bạn mời tôi ăn tối, bạn hãy viết tên của họ thật nhỏ trên bàn tay tôi, để tôi nhìn mỗi khi lỡ quên.

    Xin bạn biết rằng tôi thường hành động mạnh mẽ và tỏ ra tự chủ, nhưng trong thâm tâm, tôi thật sự bối rối và mất phương hướng (xin đừng nói điều này cho các bạn tôi biết nhé). Xin bạn đừng lo nếu tôi lướt ván bị thương. Thay vào đó, bạn hãy ở bên cạnh để xoa dịu vết thương bằng các nụ hôn.

    Bạn hãy hiểu rằng yêu thương nhau là được ở bên cạnh nhau, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chúng ta không bao giờ nên canh giữ bạn bè chúng ta. Bạn cũng cần hiểu rằng đôi khi tôi cũng ganh tỵ, nhưng bởi chỉ vì tôi cảm thấy bất an chứ không bởi vì bạn đang làm gì đó sai quấy.

    Và nếu chúng ta không còn yêu thương nhau nữa, xin bạn đừng ghét tôi. Nếu tôi khóc trước mặt bạn, xin đừng cười nhạo tôi. Tôi vốn rất nhạy cảm và vụng về như nhiều thằng con trai khác.   

    Bạn hãy chân thành với tôi. Rốt cuộc, tôi chỉ là một cậu con trai. Tôi hứa sẽ luôn luôn thành thật với bạn bởi bạn đáng được như vậy. Tôi hứa là sẽ luôn mở cửa cho bạn, mời bạn đi xem hát. Ồ không, bạn không mập đâu, vậy nên đừng hỏi tôi những câu như vậy. Bạn cũng không cần dùng son phấn. Bạn đừng bối rối mỗi khi để một kiểu đầu mới mà tôi không chú ý. Tôi luôn yêu quí bạn, ngay cả lúc bạn mặt quần jean áo thun.

    Tôi hy vọng bạn không cho là tôi đang đòi hỏi bạn quá nhiều. Tôi chỉ vui khi nhìn thấy bạn sung sướng. Tôi đang đi tìm bạn đây, vậy nên bạn đừng đi đâu cả. Bạn hãy ở tại chỗ, dù mình có là ai. Và bạn cũng đừng quên rằng, tên tôi là Derek.

    Chân thành

Hình phạt thích đáng

    Trong dịp di dự trại hè ở trường, cậu bé Billy đã được mẹ gởi cho một hộp bánh bích qui lớn. Cậu bé ăn một ít rồi đặt phần còn lại dưới giường. Ngày hôm sau, sau khi ăn trưa xong, Billy trở về lều để lấy bánh thì phát hiện chiếc hộp đã biến mất.

    Buổi trưa hôm đó, sau khi được cậu bé mách về vụ mất cắp, thầy giáo của Billy nhìn thấy một cậu bé khác đang ngồi ăn những chiếc bánh bích qui lấy cắp được sau một gốc cây. Thầy giáo tự nhủ rằng: "Cậu bé đó phải được dạy một bài học để đừng lấy cắp nữa."

    Người thầy giáo trở về nhóm học sinh tìm Billy Và nói: "Billy, thầy biết ai đã lấy bánh của em rồi. Em có muốn giúp thầy dạy bạn ấy một bài học không?"

    Billy bối rối trả lời: "Vâng, thưa thầy. Nhưng thầy không định phạt bạn ấy sao!"

    "Không đâu, điều đó chỉ làm cho bạn ấy bực tức và trở nên căm ghét em mà thôi. Thầy muốn em gọi điện cho mẹ và nhờ mẹ gởi cho em một hộp bánh bích qui khác nhé."     Cậu bé làm đúng như lời thầy dặn và vài ngày sau cậu nhận được một hộp bánh khác của mẹ gởi. Thầy giáo bảo Billy: "Bạn đã lấy cắp bánh của em bây giờ đang ngồi bên hồ đấy. Em hãy đi tới chỗ bạn ấy và mời bạn ấy cùng ăn bánh với em nhé." Billy nhăn nhó phản đối: "Nhưng nó là kẻ cắp mà thầy."

    "Thầy biết. Em hãy cứ làm như lời thầy bảo rồi sẽ thấy".

    Nửa giờ đồng hồ sau, thầy giáo thấy hai đứa bé cùng nắm tay nhau rất thân thiết đi lên ngọn đồi. Đứa bé đã lấy cắp bánh cố nài nỉ người bạn mình nhận con dao xếp để đền bù cho những cái bánh đã lấy trộm. Còn đứa bé kia thì một mực từ chối món quà của người bạn mới và nói rằng mấy cái bánh chẳng đáng gì.

    Billy đã được nhận một bài học quý giá về sự tha thứ và lòng yêu thương. Nếu kẻ thù của ta đói, hãy cho kẻ đó ăn, nếu khát, hãy cho kẻ đó uống. Bởi vì sự tha thứ và lòng yêu thương luôn có thể cảm hóa được người khác và đó cũng chính là phương cách trả thù hữu hiệu nhất của mỗi chúng ta.

Người bạn

    Jack quẳng xấp hồ sơ xuống bàn ngay trước mặt tôi. Đôi lông mày của anh ta nhíu lại thành một đường thẳng dữ dội, mắt nhìn tôi trừng trừng. “Có gì sai chăng?’, tôi hỏi. Jack dí ngón tay vào mấy tờ giấy: “Lần sau, nếu cô muốn thay đổi bất cứ điều gì đều phải hỏi tôi trước”. Dứt lời, Jack quay gót bỏ mặc tôi lặng người trong cơn giận dữ.

    Anh ta dám đối xử với tôi như vậy sao? Tôi thầm nghĩ. Tôi chỉ sửa lại một câu anh ta viết quá dài và sai ngữ pháp- một việc mà tôi cho là bổn phận của nữ thư ký. Mà không phải tôi không được cảnh báo về tính khí của Jack. Các nữ đồng nghiệp của tôi đặt cho anh ta những biệt danh khó nghe tới nỗi tôi không tiện nói lại. Ngay ngày đầu tôi nhận việc, một cô còn lôi tôi ra góc mách nhỏ rằng, chính Jack là thủ phạm khiến hai cô thư ký xin thôi việc. Với thời gian, sự khinh miệt của tôi đối với Jack tăng dần. Mặc dù rất cố gắng nhưng hễ nghe những lời nói thô lỗ của anh ta, tôi chỉ muốn nổi xung cho anh ta một trận.

    Bữa nọ, sau một vụ đụng độ với Jack, nước mắt tôi trào ra, tôi xông thẳng vào phòng làm việc của anh ta. Tôi sẵn sàng chấp nhận mất việc, nhưng phải cho anh ta biết tôi nghĩ gì. Jack ngẩng đầu lên nhìn tôi và hỏi: “Cái gì vậy?”. Lúc này, tôi mới hiểu mình sẽ nói gì với Jack. Tôi ngồi vào chiếc ghế đối diện với Jack và nhìn thẳng và mặt anh ta: “Jack, anh đối xử với tôi như vậy là không đúng. Tôi không cho phép anh tiếp tục như vậy”. Jack khụt khịt mũi một cách bối rối. Anh ta ngả người vào lưng ghế. Suy nghĩ một chút, tôi nói tiếp: “Tôi hứa với anh một điều: Tôi sẽ là bạn của anh. Tôi sẽ đối xử với anh một cách xứng đáng, kính trọng và thân thiện”. Vừa nói xong, tôi tụt xuống khỏi chiếc ghế bành to tướng và bước ra phía cửa.

    Jack tránh mặt tôi tới cả tuần lễ. Mọi thư từ, công văn, hồ sơ xuất hiện trên bàn làm việc của tôi trong lúc tôi đi ăn trưa. Phần tôi, tôi giữ lời hứa. Có hôm, tôi mua một gói bánh đặt lên bàn Jack, bữa khác tôi để lại mảnh giấy: “Chúc một ngày tốt lành!”. Vài tuần sau, Jack giáp mặt tôi. Anh ta dè dặt hơn. Các bạn đồng nghiệp thì thào với tôi: “Xem kìa, cậu nói gì với hắn vậy? Cẩn thận đấy”. Tôi lắc đầu: “Không, Jack với tôi đang trở thành bạn của nhau”. Tuy vậy, tôi vẫn không bắt chuyện với anh ta. Mỗi lần gặp Jack tôi mỉm cười- bạn bè gặp nhau là như vậy đó.

    Một năm sau, tôi phát hiện mình bị ung thư vú. Đã ở vào tuổi 32, là mẹ của 3 đứa con, nên tôi rất lo sợ. Mặc dù quyết định mổ cho tôi nhưng các bác sĩ tin rằng thời gian còn lại của tôi không dài. Sau cuộc phẫu thuật, người thân, bạn bè, đồng nghiệp lần lượt tới thăm. Nhiều người không biết nói gì, nhiều người cố nói thì lại buột miệng những lời không hay. Không ít người bật khóc và tôi lại phải… dỗ dành họ. Tôi đành tự bấu víu.

    Một hôm, Jack ghé thăm tôi trong căn phòng bệnh nhỏ và tối tăm trong bệnh viện. Vừa nhác thấy anh ở cửa, tôi nhoẻn miệng cười và vẫy tay gọi. Anh bước tới bên giường tôi, ngồi xuống, im lặng không nói một lời. Tay anh cầm một bó cây rễ dính đất. “Tuy-lip đấy”, đáp lại ánh mắt của tôi, Jack đáp gọn lỏn. “Khỏi bệnh, cô về nhà trồng nó trong vườn, sang xuân nó lại nở hoa”. Một giọt lệ ấm áp bò trên má tôi. “Cảm ơn anh”, tôi đáp. Jack nắm tay tôi: “Rồi cô sẽ qua khỏi. Hôm nay cô chưa thấy hoa nhưng sang xuân sẽ có. Tôi chắc cô sẽ rất thích thứ hoa này”. Nói rồi Jack đột ngột đứng dậy bỏ đi, không lời tạm biệt.

    Suốt 10 năm qua, cứ dịp xuân về là tôi lại ngắm những bông hoa tuy-lip đỏ trồng trước hiên nhà. Nhìn hoa tôi lại nhớ tới Jack, người đã từng thô bạo với tôi nhưng cũng chính là người đem lại hy vọng chô tôi trong lúc tuyệt vọng. Đó chính là những gì mà chúng ta cần ở một người bạn.

Nguời bạn thực sự

    1- Người bạn bình thường chưa bo giờ thấy bạn khóc.

    Người bạn thật sự sẽ luôn là đôi vai cho bạn tựa vào mỗi khi bạn buồn và cần sự an ủi.     2- Người bạn bình thường tỏ ra khó chịu khi bạn gọi điện trễ.

    Người bạn thật sự hỏi xem bạn mắc kẹt chuyện gì mà không thể gọi sớm hơn.

    3- Người bạn bình thường lắng nghe những vướng mắc của bạn.

    Người bạn thật sự giúp bạn giải quyết những vướng mắc đó.

    4- Người bạn bình thường cư xử như một vị khách và đợi bạn phục vụ mỗi khi họ đến thăm.

    Người bạn thật sự luôn thoải mái và tự phục vụ mình. 

   5- Người bạn bình thường cho rằng tình bạn sẽ chấm dứt sau một vụ cãi cọ.

    Người bạn thật sự tin rằng tình bạn sẽ càng thân thiết hơn sau những cuộc tranh cãi.     6- Người bạn bình thường luôn mong muốn bạn sẽ đến giúp đỡ họ.

    Người bạn thật sự luôn có mặt khi bạn cần giúp đỡ.

    Một người bạn thật sự?

    Đó là người vẫn gắn bó với bạn ngay cả khi tất cả người khác xa lánh bạn.

Sắc màu của tình bạn

Có một ngày sắc màu của thế giới này bắt đầu tranh luận với nhau xem ai có gam màu đẹp nhất, quan trọng nhất, hữu dụng nhất và được yêu thích nhất.

Xanh lá cây nói: "Tôi quan trọng nhất. Tôi là dấu hiệu của sự sống và hy vọng. Tôi được chọn màu cho cỏ cây, hoa lá. Không có tôi, tất cả mọi loài trên thế gian này sẽ không thể tồn tại. Cứ hãy nhìn về cánh đồng kia, bạn sẽ thấy một màu xanh bạt ngàn của tôi".

Xanh dương chen vào: "Bạn có nghĩ về trái đất. Vậy bạn hãy nghĩ về bầu trời và đại dương xem sao. Nước chính là nguồn sống cơ bản nhất, được tạo ra bởi những đám mây hình thành bởi những vùng biển rộng lớn này. Hơn nữa, bầu trời sẽ cho khoảng không rộng lớn, hòa bình và sự êm ả".

Màu vàng cười lớn:" Ôi các bạn cứ quan trọng hóa. Tôi thì thực tế hơn, tôi đem lạ tiếng cười, hạnh phúc và sự ấm áp cho thế giới này. Này nhé, mặt trời màu vàng, mặt trăng màu vàng và các vì sao cũng màu vàng. Mỗi khi bạn nhìn vào một đóa hướng dương, bạn sẽ cảm thấy cả thế giới này đang mỉm cười. Không có tôi cả thế giới này sẽ không có niềm vui".

Màu cam lên tiếng: "Tôi là gam màu của sự mạnh khoẻ và sức mạnh. Mặc dù lượng màu của tôi không nhiều bằng các bạn, nhưng tôi mới đáng giá nhất vì tôi là nhu cầu của sự sống. Tôi mang đến hầu hết các vitamin tối quan trọng như cà rốt, cam, xoài, bí ngô, đu đủ... Tôi không ở bên ngoài nhiều nhưng khi bình minh hay hoàng hôn xuất hiện là màu sắc của tôi. Ở đây có bạn nào sánh kịp được với vẻ đẹp ấy không?".

Màu đỏ không thể nhịn được cũng nhảy vào cuộc: "Tôi là máu, cuộc sống này là máu. Tôi là màu sắc của sự đe dọa nhưng cũng là biểu tượng của lòng dũng cảm. Tôi mang lửa đến cho con người. Tôi sẵn sàng chiến đấu vì mục đích cao cả. Không có tôi, trái đất này sẽ trống rỗng như mặt trăng. Tôi là sắc màu của tình yêu và đam mê, của hoa hồng đỏ, của hoa anh túc".

Màu tím bắt đầu vươn lên góp tiếng: "Tôi tượng trưng cho quyền lực và lòng trung thành. Vua chúa thường chọn tôi vì tôi là dấu hiệu của quyền lực và sự xuất chúng. Không ai dám chất vấn tôi. Họ chỉ nghe lệnh và thi hành!".

Cuối cùng, màu chàm lên tiếng, không ồn ào nhưng đầy quyết đoán: "Hãy nghĩ đến tôi. Tôi là sắc màu im lặng và hầu như không ai chú ý đến tôi. Nhưng nếu không có tôi thì các bạn cũng chỉ là vẻ đẹp bên ngoài. Tôi tượng trưng cho suy nghĩ và sự tương phản, bình minh và đáy sâu cả biển cả. Các bạn phải cần đến tôi để cân bằng cho bề ngoài của các bạn. Tôi chính là vẻ đẹp bên trong".

Và cứ thế các sắc màu cứ tiếp tục tranh luận, thuyết phục màu khác về sự trội hơn của mình. Bỗng một ánh chớp sáng lóe trên nền trời, âm thanh dữ dội của sấm sét và mưa bắt đầu nặng hạt. Các sắc màu sợ hãy đứng nép sát vào nhau để tìm sự ấm áp.

Mưa nghiêm nghị nói: "Các bạn thật là ngớ ngẩn khi chỉ cố gắng vật lộn với chính các bạn. Các bạn không biết các bạn được tạo ra từ một mục đính thật đặc biệt, đồng nhất nhưng cũng khác nhau? các bạn là những màu sắc thật tuyệt vời. Thế giới này sẽ trở nên nhàm chán nếu thiếu một trong các bạn. Nào, bây giờ hãy nắm lấy tay nhau và bước nhanh đến tôi".

Các màu sắc cùng nắm lấy tay nhau và tạo thành những màu sắc đa dạng.

Mưa tiếp tục: "Và từ bây giờ, mỗi khi trời mưa tất cả các bạn sẽ vươn ra bầu trời bằng chính màu sắc của mình và phải hợp lại thành vòng để nhắc nhở rằng các bạn phải luôn sống trong hòa thuận, và ta gọi đó là cầu vồng. Cầu vồng tượng trưng cho niềm hy vọng của ngày mai".

Và cứ như thế mỗi khi trời mưa, để gội rửa thế giới này, trên nền trời sẽ ánh lên những sắc cầu vồng làm đẹp thêm cho cuộc sống, để nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn tôn trọng lẫn nhau.

Tình bạn.

    Hai người đi trên con đường vắng vẻ. Đến một đoạn, họ có cuộc tranh luận khá gay gắt và một người đã không kiềm chế được giơ tay tát vào mặt bạn mình. Người kia bị đau nhưng không hề nói một lời. Anh viết trên cát: "Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt tôi".

     Họ tiếp tục đi, đến một con sông họ dừng lại và tắm ở đấy. Anh bạn kia không may bị vọp bẻ và suýt chết đuối, may mà được người bạn cứu. Khi hết hoảng sợ, anh viết lên đá: "Hôm nay, người bạn thân nhất đã cứu sống tôi".

     Anh bạn kia ngạc nhiên hỏi : "Tại sao khi tôi đánh anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại viết trên đá?".

    Mỉm cười, anh trả lời: "Khi một người bạn làm chúng ta đau, chúng tay hãy viết điều gì đó trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng sự tha thứ... Và khi có điều gì đó to lớn xảy ra, chúng ta nên khắc nó trên đá như khắc sâu vào ký ức của trái tim, nơi không ngọn gió nào có thể xóa nhòa được..."

     Hãy học cách viết trên cát và đá...

Gia đình

Anh trai

Biết mình có thai. Karen bắt tay chuẩn bị cho đứa con trai 03 tuổi Michael đón nhận 01 đứa em. Karen dạy con những bài hát ru êm ái, tha thiết mà chị từng được nghe từ bà chị, mẹ chị. Thế là kể từ khi còn nằm trong bụng mẹ, cô em gái sắp ra đời của Michael đã được nghe tiếng hát ru vụng về nhưng thật cảm động của anh nó.

Tuy nhiên, đứa em gái của Michael sinh ra không được may mắn, do người mẹ trở dạ khó. Rủi thay, hôm đó chồng chị có việc ra thị trấn, đường tới bệnh viện lại xa. Michael phải một mình chạy vượt qua cánh đồng tới trang trại bên cạnh, nhờ người đưa mẹ tới nhà thương.

Tím tái và bất động do bị ngạt nên khi chào đời nên đứa trẻ rất yếu, các bác sỹ cho gia đình biết có rất ít hy vọng qua khỏi. Đứa bé được nuôi trong một chiếc lồng trong phòng săn sóc đặc biệt. Vì chồng chị phải đi làm, không có người trông con hộ nên Karen yêu cầu đưa Michael vào bệnh viện cùng với mình. Ban đầu các y tá không chịu cho Michael vào phòng săn sóc đặc biệt. Karen năn nỉ : Biết đâu đây là lần duy nhất để con trai chị biết mặt em gái nó. Cuối cùng các nhân viên y tế đâm ra mủi lòng và cho phép Michael vào thăm em.

Thoạt tiên, Michael nhìn đứa em nó tóc bị hớt trụi lủi nằm trong lồng kính bằng ánh mắt tò mò. Dần quen hơn, nó muốn vuốt ve em nhưng bị lớp kính ngăn cản. Thế rồi Michael đứng bên em và cất tiếng hát ru. Bằng giọng non nớt, hơi the thé của trẻ con, Michael hát “Em là măt trời của anh. Mặt trời xua đi mây mù. Mặt trời mang tới ngày hạnh phúc….””. Michael hát say sưa.

Kỳ lạ thay, trong lồng kính, nhịp thở của đứa trẻ chưa đầy 02 tuần tuổi đỏ hỏn da nhăn nheo, đang vật lộn giữa sự sống và cái chết, duờng như nhẹ hơn, nhịp nhàng hơn. Nó không vật vã nữa và nằm yên như một chú mèo con rúc vào lông mẹ. Michael không chú ý đến điều đó, nó vẫn tiếp tục hát , tay xoa nhẹ trên mặt kính như thể đang vuốt ve làn da mịn của đứa trẻ. Karen sửng sốt nhìn thấy cảnh ấy. Hai dòng lệ tuôn dài trên má chị. Karen ôm lấy Michael. Còn cậu bé vẫn khe khẽ hát :” Em là mặt trời của anh. Xin đừng biến đi, hỡi mặt trời của anh…..”.

Những ngày sau đó, Michel cùng mẹ ở bên em. Michael hát , trò chuyện với em nó. Michael hứa sẽ chia đồ chơi cho em, sẽ dạy em biết đạp xe ba bánh, và cùng dắt con chó Gấu ra cổng chờ đón cha về……Đôi khi, Michael không chịu lên giường, nó ngủ gục ngay trên chiếc ghế kê cạnh chiếc lồng kiếng của em. Nhận thấy tình trạng sức khỏe của đứa trẻ diễn biến tốt, các bác sỹ đồng ý để Michael mỗi ngày “ chơi “ với em vài tiếng đồng hồ, vào những lúc đứa trẻ thức. Tuy nhiên, phải gần 02 tháng sau đó Michael mới được vuốt mái tóc vàng mềm mại của em gái. Đó là lúc các bác sĩ cho phép Karen đưa con bévề nhà.

Giờ đây, cô bé Jane đã lớn. Thỉnh thoảng nó vẫn đòi anh Michael hát vài câu. Michael chiều em, nhưng bây giờ nó hay đỏ mặt lắm, vì giọng nó đã ồ ồ ….

Ba chị em

    Khi mẹ mất, bố bỏ căn nhà vẫn dùng để nghỉ hè. Bố bảo chúng tôi:

-    Này các con, cứ việc đến lấy những gì mà các con thích.

    Thế là chúng tôi đến lấy.

    Tôi chọn bàn viết cao cao mà mẹ vẫn ngồi vào để viết thư bên cạnh cửa sổ rực nắng. Beth chọn bức tranh vẽ về căn nhà nghỉ hè. Ellen chọn bức tượng bầy ngựa bởi vì cả mẹ lẫn Ellen đều cùng chia xẻ sở thích cưỡi ngựa. Rồi chúng tôi bỏ toàn bộ những thư từ cũ, những bức ảnh đã phai màu- tất cả những kỷ niệm tập thể của một gia đình- trong các ngăn kéo vào mười hai cái hộp rồi chia nhau mỗi người giữ bốn hộp.     Sau đó tôi ngồi nơi bậc cao nhất của bậu cửa nhà tôi và mở hộp đánh dấu "album". Này đây là hình bố oai hùng trong bộ đồ hải quân, và một tấm chụp mẹ đang đứng cạnh xe hơi đầu tiên bố mẹ mua được. Lật dần những trang sau tôi có thể thấy sự lớn lên dần của một gia đình- căn nhà đầu tiên được mua, xe càng ngày càng to hơn. Rồi ở trang cuối là bức tranh chị em chúng tôi trong "áo ba chị em" giống y như nhau. Tôi gần như còn cảm nhận được tiếng sột soạt của vải và những váy lót để giữ cho váy ngoài phồng lên. Tôi còn nhớ sự thích thú của mẹ khi tìm ra áo cho chúng tôi ở tiệm bán quần áo trẻ em trong làng. Có một cái cho tôi, một cho Ellen, nhưng không có cái nào vừa cho Beth. Chúng tôi đã hồ hởi biết bao khi người chủ tiệm bảo họ có thể may cho Beth kịp có áo vào ngày lễ Phục sinh.

    Khi cái áo được gửi tới, chúng tôi xúm xít quanh mẹ xem mẹ mở hộp lấy áo ra giơ lên. Tôi còn nhớ áo may bằng lụa Thụy Sĩ màu trắng có điểm từng chùrn đốm màu xanh dương. Váy và cổ được viền bởi những đường chỉ xanh dương thật mảnh. Mẹ bảo:

Màu xanh trong cho tiệp với màu mắt xanh của các con.

    Chúng tôi được phép mặc thử một lẳn thôi để diễn tập buổi "trình diễn thời trang" cho bố xem vào tối hôm ấy. Bố vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt khi ba chị em sắm bộ đồ mới xoay vòng trong phòng ăn. Đáp lại, tụi tôi điệu đàng cúi chào, tay hơi kéo váy lên.     Nhìn vào bức hình cũ tôi nhớ lại nắng ấm của trời xuân chiếu vào mặt ba chị em trong ngày chủ nhật Phục sinh. Chúng tôi đã không chịu mặt áo khoác để đi nhà thờ. Mặc áo khoác sẽ làm nhăn áo đẹp và nhất là làm sao mọi người thấy áo ba chị em tiệp với nhau đẹp đến chừng nào?

    Sau đó khi tôi đã cao lên mặc áo không vừa thì áo tôi được chuyển qua Ellen rồi lại tới Beth. Và những chiếc áo lụa điểm đốm xanh ấy đã mở đầu cho những chiếc áo tiệp nhau về sau này của ba chị em. Tôi nhớ lại những năm áo bông màu xanh, áo vàng. Bố cũng tham gia vào tinh thần ấy nên một lần sau khi đi công tác ở bang Azizona, bố đã mua về áo váy kiểu Mễ Tây Cơ cho các cô gái của bố- tức ba chị em tôi- và cả mẹ nữa.

    Đó là những váy áo tuyệt vời màu trắng với vô số hàng đăng-ten bóng, cổ và gấu váy nền trắng, váy xòe rộng cả một vòng tròn. Bố cho chạy dĩa bản "bolero" của Ravel và chúng tôi nắm tay nhau xoay vòng như điên trong phòng sinh hoạt, áo váy đăng-ten phất phới như cánh bướm. Cuối cùng chúng tôi ngã dụi vào nhau cười như nắc nẻ. Bố ngồi trong chiếc ghế bành, ngắm chúng tôi, môi nở nụ cười như bảo "đây là các cô gái của tôi".

    Tôi nhớ những bộ váy áo liệp nhau từ những lần đầu chúng tôi có, nhưng tôi lại không nhớ những bộ sau cùng. Có lẽ vì về sau khi ba chị em lớn lên, mẹ đã thấy mỗi người có cá tính riêng, việc mặc tiệp với nhau không còn thích hợp, nên bà đã thôi không sắm đồ giống nhau nữa.

    Đến khi chúng tôi trưởng thành, cuộc sống ba chị em đã mỗi người theo một con đường khác nhau rõ rệt, mẹ cứ lắc đầu bảo bố:

    - Không hiểu tại sao mình lại có ba đứa con gái khác hẳn nhau thế nhỉ?

    Bố chỉ lặng lẽ mỉm cười. .

    Năm đầu tiên vắng mẹ vào lễ Giáng sinh, chúng tôi biết trước là sẽ rất buồn. Tôi vẫn luôn nhớ cứ mỗi Giáng sinh bố lại tặng mẹ một chiếc áo ngủ tuyệt đẹp- dài và bóng mượt. Giáng sinh năm mẹ mất cây Noel vẫn được trang hoàng rực rỡ nhưng không còn hộp "Mộng Đẹp" để ở gốc cây. Vì các con chúng tôi cố ra vẻ vui vẻ nhưng những món điểm tô nho nhỏ mà mẹ- bà ngoại các con chúng tôi- vẫn thêm vào thì nay đã thiếu vắng.

    Thình lình Ellen lôi từ sau cây Noel ra ba hộp quà màu trắng giống y hệt nhau. Trên nắp hộp có dòng chữ rắn rỏi do tay bố viết:

    - Quà do chú lùn đêm Giáng sinh tặng.     Chúng tôi mở hộp quà ra. Đó là ba áo ngủ bằng lụa flannel đỏ tiệp với nhau.

    Nhảy lên vì sung sướng, chúng tôi lôi áo ra khỏi lớp giấy bao trong hộp, chạy đi thay áo. Khi chúng tôi quay trở lại thì bố đã cho chạy đĩa bản "bolero" quen thuộc và thế là ba chị em lại nắm tay nhau nhảy quay cuồng. Nhạc càng cuồng nhiệt chúng tôi càng quay nhanh không hề để ý đến những đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên của các ông chồng và những cái miệng há hốc của lũ con.

    Nhớ lại, tôi vẫn còn thấy tức cười về cảnh ba bà mặc áo đỏ nhảy như điên giữa đống hộp mở la liệt. Và khi tiếng chập choạng ồ lên chấm dứt bản nhạc thì cũng là lúc ba chị em ngã dụi vào nhau, cười phá lên như nắc nẻ; trong khi các ông chồng thì lắc đầu không thể tin vào mắt mình, lũ con thì gập bò ra cười, còn bố thì lại mỉm cười, nụ cười "đây là các cô gái của tôi".

    Mẹ đã không bao giờ có thể ngờ là mẹ đã tạo ra một truyền thống gia đình.

    Faith Andrews Bedfnd

Bà chủ gia đình

Bao nhiêu năm nay, lúc nào tôi cũng ngạc nhiên vì vợ mình. Vừa đặt chân vào căn hộ tôi mới thuê sau ngày cưới, nàng xộc ngay vào bếp, mở tung hết các cánh cửa tủ treo tường.

- "Chết thật! Anh phải mua ngay giấy lót để em còn xếp chén đĩa vào", nàng hối.

- "Tại sao lại cứ phải có giấy lót?", tôi ngây thơ hỏi lại.

- "Để cho chén đĩa sạch", nàng giải thích tỉnh bơ.

- Tôi im lặng làm theo ý nàng, nhưng tình thực tôi không hiểu làm cách nào những mảnh giấy lót dưới đống chén đĩa lại có thể ngăn được bụi.

Trong những ngày đầu chung sống, nàng còn giáo huấn tôi vô số những bài học khác. Ví dụ như làm cách nào nặn cho hết kem đánh răng trong ống, sau khi tắm xong lau mình bằng khăn nào, dùng khăn nào để rửa mặt, khi dọn bàn ăn thì xếp muỗng ở đâu cho đúng chỗ... Lấy vợ rồi tôi mới ngã ngửa ra rằng, một người có tới hai bằng kỹ sư như tôi té ra lại là kẻ ít được giáo dục về nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống. Nàng dẫn tôi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên kia. Nàng dán lên thành các hũ đựng muối, đường, và các loại gia vị khác những mảnh giấy ghi chữ để phân biệt. Trước khi bỏ đồ vào máy giặt, nàng cẩn thận phân loại chúng. Và kỳ lạ hơn, nàng rửa chén đĩa bằng tay trước khi nhét chúng vào... máy rửa chén.

Vợ tôi thường mặc một chiếc áo khoác cổ lổ sĩ tới nổi nhác trông qua người ta tưởng đó là áo khoác của... Sherlock Holmes.

- "Anh đủ tiền để mua cho em áo khoác mới kia mà", tôi cự nự.

- "Nhưng áo này còn tốt chán, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Vả lại đây là áo của bà ngoại em để lại cho em", nàng nói với giọng cương quyết, không cho phép tranh cãi.

Vài năm trôi qua, một sáng nọ, khi tôi thức dậy, cạo râu tắm rửa chuẩn bị đi làm thì nàng vẫn nằm trên giường mỉm cười.

- "Có chuyện gì lạ không, em?", tôi băn khoăn hỏi.

- "Ồ, không. Mọi thứ đều tốt đẹp cả. Đêm qua em không phải dậy dỗ lũ trẻ, mà chúng cũng không mò sang giường chúng mình", nàng hớn hở đáp.

- "Ừ", tôi lúng búng vì chưa hiểu nàng định nói gì.

- "Anh biết không? Bảy năm qua, đây là lần đầu tiên em được ngủ thẳng giấc đấy".

Thật thế sao? Bảy năm! Một quãng thời gian dài đấy chứ. Thế nhưng sao chưa bao giờ tôi nghe thấy nàng phàn nàn về chuyện này nhỉ?

Một lần nọ, trong lúc điền vào phiếu đăng ký bảo hành một món đồ điện gia dụng mới mua, tôi đánh dấu vào chỗ ghi "nội trợ" ở mục nghề nghiệp của vợ. Một sai lầm chết người! Liếc qua tờ phiếu, nàng nghiêm mặt bảo:

"Em không phải là người giúp việc nhà cho anh. Em là một người mẹ, là bà chủ gia đình".

"Nhưng làm gì có cái mục như em nói", tôi cãi lại.

"Thì anh cứ việc viết thêm vào. Ai cấm anh?", nàng phán. Tôi đành làm theo.

Bàn tay nguyện cầu

    Vào thế kỷ thứ 15, tại một ngôi làng nhỏ gần Nuremberg có một gia đình rất đông con. 18 đứa! Để kiếm đủ thức ăn đem về hằng ngày cho lũ trẻ, ông bố- một người thợ kim hoàn– đã phải làm việc vất vả gần 18 tiếng mỗi ngày và chẳng từ một bất kỳ công việc gì mà người trong làng thuê ông.

    Mặc dù sống trong cảnh cùng quẫn, hai người con lớn Albrecht và Albert vẫn ấp ủ một ước mơ đẹp đẽ: cả hai đều muốn theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật, nhưng thật đáng buồn vì người cha sẽ chẳng bao giờ kiếm đủ tiền để gửi họ đến học viện ở Nuremberg. Sau nhiều đêm dài cùng bàn bạc trên chiếc giường chật chội, hai anh em nghĩ ra được một cách: họ sẽ gieo đồng xu, người thua sẽ xuống làm việc trong hầm mỏ gần nhà kiếm tiền nuôi người kia suốt thời gian ở học viện, và sau 4 năm người được học trước sẽ phải lo tiền học cho người còn lại, cho dù đó là tiền lời bán tranh, hay nếu cần là tiền lương của công nhân hầm mỏ.

    Họ cùng nhau gieo đồng xu. Albrecht thắng và lên đường đến Nuremberg. Albert bắt đầu chuỗi ngày làm việc vất vả nhọc nhằn trong hầm mỏ và suốt bốn năm đều đặn gửi cho anh khoản tiền lương ít ỏi. Tại học viện, tranh của Albrecht được đánh giá như một bước đột phá. Những bức khắc, gỗ chạm, sơn dầu của anh vượt xa các giáo sư lâu năm. Đến lúc tốt nghiệp, Albrecht đã có thể kiếm được những món tiền lớn nhờ bán tranh.     Khi Albrecht trở về làng, gia đình Durer tổ chức một bữa tiệc lớn ăn mừng sự thành công của chàng họa sĩ trẻ. Sau bữa ăn dài thịnh soạn đầy tiếng cười và tiếng nhạc, Albrecht đứng lên nâng cốc về phía người em trai ở cuối bàn bày tỏ lòng biết ơn những năm tháng hy sinh thầm lặng để anh vun đắp cho hoài bão nghệ thuật: “Và bây giờ, Albert, em trai yêu quý của anh– Albrecht trìu mến nói– đã đến lúc em biến ước mơ của mình thành hiện thực. Hãy đến Nuremberg, anh sẽ lo tiền học cho em”.

    Tất cả mọi người đều quay về phía cuối bàn nơi góc phòng. Albert ngồi đó, nước mắt ràn rụa trên gương mặt gầy gò xanh xao, chỉ có thể nghẹn ngào: “Không… không… không…”.

    Cuối cùng Albert lau nước mắt đứng dậy, nhìn khắp lượt những người anh yêu thương rồi đưa tay ôm mặt khẽ nói:

Ôi không anh ơi, đã muộn mất rồi. Em không thể đến Nuremberg được nữa. Hãy nhìn xem, những tháng năm dưới hầm mỏ đã tàn phá đôi tay em. Mỗi ngón tay đều đã dập nát không dưới một lần, và gần đây tay phải em lại bị chứng thấp khớp hành hạ, đến nỗi không thể cầm ly chúc mừng anh thì làm sao có thể cầm cọ vẽ những đường nét tinh tế trên khung vải trắng. Anh ơi, đã quá muộn rồi…

    Lịch sử đã lùi vào quá khứ hơn 450 năm. Giờ đây, hàng trăm tác phẩm của Albrecht Durer được trưng bày trong nhiều viện bảo tàng lớn trên thế giới, nhưng điều lạ lùng là phần lớn người ta biết đến tranh ông, thậm chí treo trong nhà bản sao của chỉ một tác phẩm duy nhất.

    Người ta kể lại rằng vào một ngày nọ, để tỏ lòng biết ơn đức hy sinh cao cả của người em trai, Albrecht đã kiên trì tái hiện từng đường nét của đôi bàn tay không còn lành lặn áp vào nhau, với những ngón tay xương gầy hướng lên trời. Ông gọi bức tranh của mình đơn giản chỉ là “Hands”, nhưng cả thế giới ngay lập tức đón nhận kiệt tác nghệ thuật này và đặt tên cho món quà tình yêu ấy là “The praying hands”.

    Nếu có dịp bạn được thấy bản sao của tác phẩm xúc động này, hãy dành ít phút lắng hồn mình để tự nhủ rằng: tác phẩm nghệ thuật ấy được kết tinh từ bàn tay không phải chỉ của một người họa sĩ.

Bức tranh tuyệt vời

Một hoạ sĩ suốt đời ước mơ về một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ để biết được điều gì đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời: "Tôi nghĩ điều đẹp nhất trần gian là niềm tin vì niềm tin nâng cao giá trị con người.

Hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với cô gái và được trả lời: "Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho kẻ khóc than, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng, cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao nếu không có tình yêu."

Cuối cùng hoạ sĩ gặp một người lính mới trở về từ trận mạc. Được hỏi, người lính trả lời: "Hoà bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hoà bình là ở đó có cái đẹp." Và hoạ sĩ đã tự hỏi mình: "Làm sao tôi có thể vẽ cùng lúc niềm tin, hoà bình và tình yêu ?..."

Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông ngập tràn hạnh phúc và bình an. Hoạ sĩ đã hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: "Gia đình".

Thật vậy, gia đình là nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và sức mạnh của người cha. Nơi đó có hơi ấm của những con tim biết yêu, là ánh sáng của đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, là lòng chung thủy.

Gia đình là ngôi thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học những điều hay lẽ phải, niềm tin và lý tưởng sống.

Đó là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ.

Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng thành mỹ vị.

Đó là nơi tiền bạc không quí bằng tình yêu.

Đó là nơi ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm vui hạnh phúc.

Cánh cửa không bao giờ khoá

    Ở nước Scotland, tại tỉnh Glasgow, có một cô gái trẻ như số ít các thanh thiếu niên ngày nay thường làm: Chán sống chung trong một gia đình nền nếp.

    Cô gái chán lối sống khuôn phép của gia đình và bảo:

    - Con không muốn tin ông trời của ba mẹ. Con mặc kệ. Con đi đây!

    Thế là cô bỏ nhà ra đi quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình. Tuy nhiên chẳng bao lâu thì cô bị ruồng bỏ và vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác hình hài mình ra làm thứ để mua bán đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi, và cô con gái ấy càng ngày càng sa đọa trong lối sống của mình. Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy. Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

     - Làm ơn cho tôi chưng ở đây tấm hình này.

  Đó là tấm hình một bà mẹ tóc đã muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: "Mẹ vẫn yêu con... Hãy về nhà đi con".

    Vài tháng lại trôi qua, vẫn không có gì xảy ra. Rồi một ngày nọ cô gái đến một toán cứu trợ nhận bữa ăn cứu đói. Cô chẳng buồn chú ý đến những lời giáo huấn, mắt lơ đễnh nhìn nhưng thông báo. Chợt cô thấy tấm hình và tự hỏi: "Có phải mẹ mình không nhỉ?" Cô không còn lòng dạ nào chờ cho hết buổi lễ. Cô đứng lên, ra xem kỹ bức ảnh. Đúng rồi, đúng là mẹ cô và cả những lời bà viết nữa: "Mẹ vẫn yêu con... Hãy về nhà đi con!". Đứng trước tấm hình, cô bật khóc. Lúc đó trời đã tối nhưng bức hình đã làm cô gái xúc động đến mức cô quyết định phải đi bộ về nhà. Về đến nhà trời đã sáng tỏ. Cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khóa. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội đến buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn còn đang ngủ yên. Cô lay đánh thức mẹ mình dậy và thưa: "Mẹ ơi! Con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!" Bà mẹ không tin vào đôi mắt mình. Bà lau nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau. Cô con gái nói với mẹ:

-    Mẹ à, con lo quá! Cửa mở không khóa nên con tưởng nhà có trộm.

    Bà mẹ dịu dàng trả lời:

    - Không phải vậy đâu con à. Từ ngày con bỏ đi, cửa nhà mình chưa hề khóa.

Chiếc túi màu nâu

Sáng nào, trước khi cha đi làm, bé Molly cũng có "nhiệm vụ" đưa cho cha chiếc túi đựng bữa trưa. Nhưng một buổi sáng, ngoài chiếc túi thức ăn, Molly còn đưa thêm cho cha một chiếc túi giấy màu nâu. Cái túi đã rách, và được chắp vá bởi băng dính cùng những chiếc ghim.

- Cái gì trong cái túi này thế? - Cha của Molly hỏi.

- Bố cứ cầm đi - Molly cười hớn hở.

Không muốn mất thời gian, ông Fulghum - cha của Molly đem theo cả hai cái túi đến cơ quan. Sau mấy tiếng đồng hồ làm việc, ông ăn trưa và mở chiếc túi của Molly. Trong đó có ba viên sỏi, một con khủng long gãy đuôi và hai cái giấy gói kẹo.

Ăn trưa xong, ông Fulghum bỏ nhũng đồ ăn thừa và cả những thứ lặt vặt của Molly vào thùng rác. "Con bé toàn giữ những thứ bỏ đi" - Ông lắc đầu lẩm bẩm.

Tối hôm đó, Molly chạy lẽo đẽo theo cha và hỏi:

- Túi của con đâu, cha?

- Túi nào?

- Túi con đưa cha sáng nay ấy!

- Cha để ở cơ quan rồi!

- Con quên không bỏ thiệp vào - Molly ríu rít - Trong túi là những thứ con thích nhất đấy, con nghĩ cha cũng thích chơi với chúng khi cha làm việc mệt quá! Cha không làm mất cái túi đấy chứ, cha?

- Tất nhiên là không - Ông Fulghum cố nói dối - Cha chỉ quên không mang nó về thôi. Mai cha sẽ lấy về!

Molly mừng rỡ đưa "tấm thiệp" cho cha - đó chỉ là một mảnh giấy gập làm tư, và trong mảnh giấy có ghi" I love you, Daddy".

Chờ lúc Molly đi ngủ, ông Fulghum vội vã quay trở lại cơ quan. Ông sợ người lao công dọn những thùng rác, và ông sẽ không lấy lại được kho báu của Molly.

Ông Fulghum dốc cả thùng rác ra sàn. Ông nhặt con khủng long gãy đuôi lên, đem rửa sạch khỏi chỗ thức ăn thừa. Cả ba viên sỏi, hai cái giấy gói kẹo, ông cẩn thận bỏ vào chiếc túi giấy màu nâu, dù túi đã bị rách thêm một ít.

Sáng hôm sau, ông Fulghum bảo Molly kể cho ông nghe về những thứ trong chiếc túi. Mất khá nhiều thời gian, vì mỗi thứ đều có những câu chuyện riêng, giống như những bạn của Molly vậy. Như hai cái giấy gói kẹo chính là từ những chiếc gói kẹo sôcôla mà ông mua cho Molly, hay con khủng long gãy đuôi là quà của cậu bạn hàng xóm tặng Molly hôm sinh nhật..

Tối hôm đó, Molly lại ôm con khủng long găy đuôi đi ngủ, cùng một với nụ cười.

Chướng ngại vật

    Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem dân chúng ra sao, liền ăn mặc trang phục thường dân đi thật xa ra ngoài cung thành. Ông đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng ra sao với những chướng ngại vật mà họ bất ngờ gặp trên đường. Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó, làm người quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc rất diện đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vật đáng ghét, thậm chí còn xúc phạm đức vua đã không cho người giữ đường sá sạch sẽ. Nhưng rõ ràng ai cũng bỏ tảng đá ở đó. Họ thà đi vòng qua nó chứ không chịu đẩy nó ra khỏi đường đi.

    Rồi một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đẩy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là lăng xăng cơm nhà vác tù và hàng tổng. Không ai dừng lại giúp đỡ bác. Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi thì thấy có rất nhiều tiền vàng và một mảnh giấy ghi rằng số tiền đó dành cho người đẩy tảng đá khỏi đường đi.

    Bác nông dân xứng đáng có được túi tiền, vì bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Mỗi chướng ngại vật đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

Con gái tôi - Người thầy của tôi

Mỗi ngày con trẻ dạy chúng ta điều gì đó. Là cha mẹ tôi đã học được điều mong đợi ấy. Vậy mà tầm rộng của những điều con gái tôi chỉ cho tôi vẫn không ngớt làm tôi ngạc nhiên.

Khi được 6 tháng tuổi, cháu dường như luôn ngẩng nhìn lên. Và tôi cũng ngẩng nhìn lên với cháu, nhờ vậy tôi đã học được sự kỳ diệu của những cành lá nhảy múa trên cây và kích thước đáng nể của đuôi một chiếc phản lực.

Vào lúc được 8 tháng tuổi, cháu luôn mải nhìn xuống. Tôi cũng làm theo và nhờ vậy, tôi đã học được mỗi hòn đá khác nhau, những vết nứt của gạch lát đường tạo một hình kỷ hà riêng biệt và mỗi mảng cỏ có màu xanh khác nhau.

Khi cháu bước sang 11, cháu bắt đầu nói được chữ "Wow!". Cháu thốt lời kỳ diệu ấy khi thấy cái gì mới, tuyệt vời và ấn tượng đối với cháu như bộ đồ chơi cháu thấy nơi phòng khám của ông bác sĩ nhi, một làn gió se lạnh lướt qua mặt cháu hay một đàn ngỗng nơi nhà của một người bạn tôi.

Tiếp theo, khi tiếng "Wow!" đã lên đến tột đỉnh, không còn thốt thành lời nữa mà chỉ còn có thể diễn tả bằng cái miệng chu tròn, được dành cho những sự kiện thật sự thần kỳ. Chúng bao gồm mặt trời lặn chiếu trên mặt hồ sau một ngày tuyệt đẹp và pháo hoa xoè nở trên bầu trời xuân.

Cháu đã dạy tôi biết bao cách để diễn đạt từ "yêu thương". Cháu nói điều ấy rất hay vào một buổi sáng lúc cháu 24 tháng tuổi. Hai vợ chồng chúng tôi đang đùa thì cháu chen vào giữa hai chúng tôi, dụi đầu vào vai tôi, thở dài khoan khoái và bảo "Yêu ba mẹ". Ngày khác, cháu chỉ vào hình một cô người mẫu thật đẹp trên bìa báo và hỏi :" Phải mẹ không mẹ?".

Gần đây nhất cháu đã thành đứa con lên ba của chúng tôi. Một hôm, cháu vào bếp trong khi tôi đang soạn bữa ăn chiều và bảo:" Con giúp mẹ được không?" và giây lát sau đó cháu đặt bàn tay lên cánh tay tôi và bảo: "Mẹ ơi, phải chi mẹ là em bé thì mẹ con mình là bạn rồi".

Những khoảnh khắc như vậy, tất cả những điều tôi có thể nói đó là "Wow!".

Con trai đã tìm ra cha

    Chúng ta cứ tạm gọi ông ấy là Joseph. Con trai ông ta- ta tạm gọi là Marc. Thì từ năm lên 12 tuổi, mang trên mặt hai vết sẹo bao quanh mắt trái của chú bé như hai dấu khoanh tròn, ấy vậy tai nạn gây ra hai dấu khoanh ấy lại đã mở ra chứ không khoanh lại đởi sống của chú bé. Đúng ra đó là dấu chấm bởi vì từ đó đời sống của chú bé đã thay đổi hẳn. Tuy Joseph có cái vẻ mạnh mẽ của một tảng đá nhưng thật ra ông không hễ cứng như đá; ông thuộc loại người có bề ngoài nom thật dễ nể nhưng tâm tính thì hiền khô. Thế thì giữa ông và con trai có điều gì không mấy thoải mái. Dĩ nhiên là nếu chiều chủ nhật nào đó ở chơi nhà bạn bè, thì Marc luôn đứng gần ông nhưng em không bao giờ ngồi lên đùi cha mình như những đứa trẻ khác vẫn làm. Và Joseph thì đối xử với con cũng khác người như vậy; ông không hề âu yếm trêu con, và cũng chẳng hề làm cho con những đồ chơi nho nhỏ như bò kéo xe, xe chở củi... như các ông bố chủ trại vẫn làm cho các con mình chơi.

    Mà nói đúng ra thì ông cũng không biết cách làm cho tốt một công việc tỉ mỉ như làm đồ chơi. Dụng cụ ông quen cầm là cái cày mà.

    Ngày đẹp trời nọ, ông thấy Marc đang vùi một số hạt bên luống trồng khoai tây ông hỏi con:

    - Con trồng gì đấy?

    Chú bé có khả năng nói lảng với bất kỳ ai nhưng với cha thì chú luôn nói thật. Chú giải thích với cha:

    - Con trồng hạt cam.

    Chú đã giữ hạt cam lại để uơm suốt từ giáng sinh đến giờ. Nơi họ ở rất hiếm khi có cam nên khi trồng chú có cảm giác phấn khích như đang ươm một giống cây kỳ bí. Nhưng cha chú lại bảo:

    - Nó không mọc nổi ở đất này đâu.

    Thế là Marc cảm thấy quê, y như mỗi lần cha bắt gặp chú đang làm chuyện gì có vẻ không giống ai, mà đáng tiếc là cảm giác ấy lại thường xảy ra. Mỗi lần như vậy chú lại cố gắng để suy nghĩ giống người thường. Thế là chú moi các hột cam lên và len lén đem trồng sau chuồng bò cho cha khỏi biết.

    Tai nạn đã xảy ra vào một trong những buổi chiều lành lạnh có sương mù đầu mùa hè khi trâu bò trong đồng đứng sát vào nhau như những cái bóng khổ sở. Vào những lúc như thế những con bò cái luôn không chịu về chuồng.

    Vào ngày hôm ấy thì Marc cũng bắt đầu nghỉ hè. Chú bé có vẻ rất phấn khích và không ngớt kể cho mẹ nghe về những ông hoàng bà chúa mà chú sẽ học trong giờ sử khi nhập học trở lại. Chú đang có cảm giác mình đã lớn, không còn là chú bé con của ngày hôm qua nữa. Mẹ thì đang rửa chén còn cha thì đang chờ bò về để vắt sữa. Cuối cùng ông bảo Marc:

    - Hình như đã tới giờ con lùa bò về.

    Ông không hề ra lệnh cho Marc bao giờ cả.

    Bò! Marc giật nảy mình, bò ư? Lùa bò vào lúc chú đang tưởng tượng mình là một hoàng tử trong bộ xiêm áo rực rỡ.

    - Chúng sẽ tự biết về chuồng mà. Trả lời cha như vậy nhưng Marc cũng biết là bò không tự về đâu.

    Joseph trả lời con:

    - Trời kiểu này chúng không chịu về đâu. Chắc chúng đứng trú mưa dưới rặng thông rỗi.

    Marc đi ra nhưng Joseph cũng thấy con mình có vẻ miễn cưỡng. Đến bên hàng rào cánh đồng cỏ, Marc cất tiếng gọi nhưng chẳng nghe thấy tiếng chuông cột nơi cổ bò kêu leng keng. Chú cẩn thận leo xuống con đường mòn dẫn từ cánh đồng cỏ đến khu rừng thông. Vẫn chẳng có bóng dáng con bò nào cả. Chỉ có mỗi mình Pedro, con ngựa đang đứng cúi đầu buồn bã trong mưa phùn. Marc không nỡ lòng thấy nó buồn như vậy và cố an ủi nó. Chú lại gần Pedro đưa tay vuốt lông nó. Pedro vội né. Vào lúc thời tiết như thế này thì chỉ cần chạm nhẹ cũng đủ để ngựa ta lạnh buốt. Lý ra Marc phải hiểu là ngựa đang muốn được để yên nhưng em lại đưa tay ra vuốt ngựa, Pedro lại lảng ra vài bước. Marc lại đi theo vuốt, Pedro cụp tai. Và sự việc xảy ra nhanh như chớp, cái móng của Pedro tung ra và móng ngựa đá vào mắt Marc. May là móng ngựa không bị bịt sắt, nếu không chú bé sẽ bị bể sọ chết ngay. Chú bé té ngồi xuống đất, choáng váng, rồi vội vàng đứng dậy đưa tay ôm lấy mắt. Khi nhìn thấy tay đầy máu, Marc hét lên và chạy vội về nhà.

    Trước khi thấy con mình thì Joseph đã nghe tiếng con và ông chạy ra xem chuyện gì. Khi thấy Marc hiện ra nơi bụi cây sau chuồng bò thì Joseph nhận ra con mình đang ôm lấy mặt, ông chạy vội lên và trước khi kịp ra tới bờ rào thì ông đã thấy máu chảy đỏ cả mặt Marc. Không cần mất thì giờ mở cửa rào Joseph nhảy vội qua rào. Chưa bao giờ Marc thấy cha mình di chuyển nhanh đến thế. Joseph bồng vội lấy con rồi chạy vào nhà, chỉ trong chốc lát, trang trại đã đầy những người hàng xóm. Marc rất hãnh diện khi thấy mọi người lo lắng cho mình như vậy. Chú bé nói với cha bồng mình lên để coi con mắt mình ra sao trong chiếc gương trên bồn rửa chén. Mẹ chú nằn nì:

    - Đừng! Anh Joseph đừng!

    Nhưng cha đã bồng Marc lên. Mặt chú như một vết thương lớn. Marc có cảm giác như mình đang là một ông hoàng bị thương đang được người ta đưa ra khỏi bãi chiến trường. Chú không nhớ là sau đó cha chú có còn lời lẽ hay hành động nào bất thường nữa không, ông chỉ bình thản đặt thêm ván cho bàn ăn dài ra để ông bác sĩ đặt chú nằm lên đó và khâu vết thương lại. Cũng chính là cha chú vững vàng giữ các mặt nạ phun cloroíorme gây mê Marc trong lúc khâu. Chú bé phải nằm nghỉ suốt 15 ngày. Mỗi ngày Joseph đều đặn đến bên giường thăm con hai lần: một trong ngày và một trước khi con ngủ. Con mắt bị thương của Marc không mở được vì mặt bị sưng đã làm mí mắt đỏ bầm như mặt trời lúc đang giông bão. Khi Marc nghe tiếng chân cha sắp vào phòng lúc chú đang ngắm mình trong gương là chú vội giấu gương xuống dưới gối. Cha và con trai trao đổi với nhau những lời ngượng ngập. Dù sao chỗ quen của Joseph không phải là nghỉ tại buồng ngủ mà là làm việc ngoài đồng. Thậm chí ông cũng không hề ngồi xuống bên con mình. Cuối cùng cũng đến ngày Marc được phép ra khỏi giường, chú bé định đi vài bước ngoài nhà. Nhưng chú chưa kịp bước xuống giường chì cha đã lặng lẽ bồng chú lên.

    Lần này, không có sự chôn rộn của người khác chung quanh nên Marc đã cảm nhận kỹ đôi cánh tay cha đang ôm lấy mình. Cả thân mình chú cảm nhận sâu sắc sự bất thường ấy, nó như khiến chú nhận thức được từng đường gân thớ thịt của cơ thể mình. Đó chỉ là một buổi sáng mùa hè, không có gì đặc biệt về thời tiết, vậy mà Marc như thấy sáng hôm đó đẹp hơn, xanh hơn, cảnh vật rực rỡ hơn bao giờ hết. Họ chưa kịp ra ngoài thì Marc đã chợt hiểu ra cha bồng mình đi đâu.

    Joseph bồng con đi băng qua cánh đồng bao quanh nhà, xuống con dốc nối tiếp cánh đồng, và đến chỗ những hạt cam đã từng có lúc được Marc ươm xuống. Joseph đặt con đứng xuống bên một thửa vườn xinh xinh. Đúng là khu vườn xinh tí tẹo nhưng các luống đều ngay hàng thẳng lối, y như những chú lính đang dàn chào. Khu vườn không phải được vun vén bằng cày bừa, mà đó là kết quả của sự kiên nhẫn, tỉ mỉ và khéo léo từ những nhát xẻng và chĩa ba, và đôi lúc còn được vun xới bằng chính bàn tay của Joseph. Hẳn là ông đã bắt đầu ngay sau khi Marc bị tai nạn bời vì các hạt cam đã nảy mầm. Vậy mà ông không hề hé tiếng nào với ai cả, ông bảo con trai mình: "Nếu con muốn thì nó là của con đấy".

    Marc ấp úng:

    - Ba! Ba... ba đã...

    Làm thế nào mà Marc diễn tả cho cha mình hiểu được cảm xúc của chú vào lúc này. Chú chỉ còn biết cúi xuống vuốt ve những mầm con, chú vừa đưa tay chạm nhẹ những cây lạ ở hàng ngoài vừa hỏi:

    - Ba trồng gì vậy, ba?

    Joseph vừa chỉ vừa giải thích với con:

    - Đây là cây dưa hấu, kia là cây ớt và kia nữa là cây chanh.

    Tuyệt không kém những hạt cam! Marc không thốt nên lời. Vẻ mặt chú hẳn là lộ ra vẻ hân hoan rạng rỡ, nếu không cha chú không thể nói tiếp hết nhtmg gì ông nghĩ: Dù sao con cũng không nghĩ là ba sẽ để con đi lùa bò về nếu ba biết là con sẽ xảy ra lai nạn chứ? Ông nói tiếp vẻ bực bội:

    - Dù cho bò không cho sữa nữa thì ba cũng chẳng cần!

    Marc trả lời một câu nghe như chẳng ăn nhập gì nhưng hai cha con lại không nghĩ như vậy, bởi vì bỗng dưng giữa hai người như đã có được mối dây cảm thông lấp đầy mọi khoảng trống do ngôn ngữ không đủ lời diễn tả.

    - Ba đã nhảy qua hàng rào khi ba thấy con bị thương, đúng không nào? Ba còn chẳng hề mở chốt hàng rào nữa.

    Ông bố quay đi và cậu con trai thấy qua đôi vai đang vươn lên của ông là ông vừa mới thở một hơi dài. Khi hai cha con quay về nhà bếp, chị Marc hỏi họ đã đi đâu.

    Tuy không giải thích được tại sao nhưng một lần nữa chú bé Marc lại thấy tự trong tâm hồn mình sự đồng cảm với cha và thấy là chuyện này phải giữ bí mật của riêng hai cha con. Chú bảo chị:

    - Dạ, vừa mới ra ngoài thôi.

    Ông bố Joseph cũng lặp lại:

    - Ừ vừa mới ra ngoài thôi.

    Khi đó cậu bé thấy chắc chắn là từ giờ trở đi, cậu không cần phải đối phó khi nghe tiếng bước chân cha đến bên chú nữa.

    Ernest Buckler

Để đọc khi con một mình.

    Năm tôi lên mười ba thì gia đình tôi đã dọn từ Bắc California đến Nam California được một năm. Tôi đến tuổi dậy thì trong một tâm trạng nổi loạn phục thù. Tôi luôn tỏ vẻ hung hăng và chống đối, tôi không mấy để ý đến ý nào của cha mẹ, nhất là khi những lời ấy lại liên quan đến tôi. Như mọi đứa trẻ mới lớn khác, tôi luôn tranh đấu để thoát khỏi tất cả những gì không phù hợp với suy nghĩ của tôi. Tự coi mình là một thanh niên "sáng chói không cần đến sự dẫn dắt của ai cả", tôi đã từ chối mọi tình thương yêu mà theo tôi là quá độ. Thật ra, chỉ nghe đến từ thương yêu là tôi nổi giận rồi.

    Một tối nọ, sau một ngày thật sự là tồi tệ, tôi lao ào vào phòng mình, đóng cửa lại và leo lên giường. Nằm xuống khoảng không gian riêng tư của mình tôi đưa tay gối đầu thì đụng phải một phong bì, trên đó có hàng chữ: "Để con đọc khi có một mình".

     Bởi vì tôi đang có một mình, không có ai đang nhìn tôi đọc lá thư như lời dặn, nên tôi đã mở lá thư ra đọc. Trong thư viết:

     "Mike con, mẹ biết là vào lúc này con thấy cuộc sống thật khó khăn, mẹ biết là con rất bất mãn và mẹ cũng biết là con cho ba mẹ đã không đúng. Nhưng mẹ cũng biết là mẹ luôn luôn yêu thương con nên bất kỳ điều gì con nói hay làm cũng không bao giờ thay đổi tình thương yêu mà mẹ dành cho con. Mẹ sẵn sàng có mặt ở đây bất kỳ lúc nào con cảm thấy cần nói chuyện, còn nếu con không thấy cần thì cũng chả sao. Con chỉ cần biết là con đi tới đâu hoặc làm gì thì mẹ vẫn luôn yêu con và hãnh diện có con là con trai mẹ. Mẹ luôn có mặt vì con và mẹ yêu con- điều này không bao giờ thay đổi.     Yêu con. Mẹ."

     Đó là lá thư đầu tiên trong một loạt thư với tiêu đề "Để con đọc khi có một mình". Không một lời nào đã được nói về những lá thư đó cho đến khi tôi trưởng thành.

     Ngày nay tôi đi khắp thế giới, giúp đỡ mọi người. Một hôm tôi đang dạy một semina ở Saratosa, bang Florida, thì một bà nọ đến gặp tôi vào cuối buổi dạy và trình bày với tôi sự khó khăn khi có một đứa con trai đang tuổi dậy thì. Chúng tôi đi bộ dọc theo bãi biển và tôi kể cho bà ta nghe về tình yêu không tàn lụi của mẹ đã dành cho tôi cũng như những lá thư "Để con dọc khi có một mình" bà viết gửi tôi. Nhiều tuần sau tôi nhận tấm thiệp bà mẹ có con trai đang tuổi dậy thì gửi báo cho tôi biết bà đang bắt chước làm giống như mẹ tôi đã từng làm cho tôi: bà đang gửi cho con trai bà những lá thư "Để con đọc khi có một mình".

     Tối hôm nhận được tấm thiệp, theo như thói quen tôi lại đưa tay gối đầu. Đặt tay lên gối, tôi nhớ lại nỗi nhẹ nhõm ngày nào tôi đã có được mỗi lần nhận một lá "Để con đọc khi có một mình" của mẹ tôi. Trong những năm tháng cuồng dại của tuổi trăng tròn của tôi thì những lá thư đó là biểu hiện của lời cam kết tâm linh rằng tôi được yêu thương bất kể con người tôi thế nào chứ không phải vì con người tôi. Ngay trước khi rơi vào giấc ngủ tôi thẳm tạ ơn trời đã ban cho tôi một bà mẹ biết hiểu những gì mà tôi- một đứa con trai đang ở tuổi dậy thì dậy nổi loạn- cần. Ngày nay, mỗi khi những cơn sóng bão táp nổi dậy trong đời thì tôi lại biết là ngay cạnh tôi là sự cam đoan bình lặng, là tình yêu- bền bỉ, rộng lượng, vô điều kiện- sẽ thay đổi cuộc sống của tôi.

Điều không bình thường...

Larry và Jo Ann là một đôi vợ chồng bình thường. Họ sống trong một ngôi nhà bình thường trên một con phố bình thường. Giống như bao đôi vợ chồng bình thường khác, họ phải vật lộn với cuộc sống để lo cho con cái ăn học nên người.Ngoài ra, họ còn bình thường về một phương diện khác: họ luôn có những cuộc cãi vặt. Đề tài là những bất đồng trong cuộc sống, và... ai là người có lỗi.

Cho đến một hôm, một sự kiện ngoại lệ đã xảy ra.

- Bà biết đấy, Jo Ann, tôi có những ngăn tủ kì diệu. Mỗi lần tôi mở chúng, chúng luôn có sẵn vớ và quần áo lót - Larry nói - Tôi muốn cảm ơn bà vì đã để mắt đến chúng suốt những năm qua.

Jo Ann nhìn chồng qua đôi kính:

- Ông muốn gì, Larry?

- Chẳng gì cả. Tôi chỉ muốn nói tôi đánh giá cao việc bà đã chăm sóc cho tôi.

Đây chẳng phải lần đầu Larry có hành động kỳ lạ nên Jo Ann bỏ ngoài tai, cho đến vài hôm sau...

- Jo Ann, cám ơn bà đã ghi những con số chi phiếu rất đúng tháng này. Trong 16 con số thì bà đã ghi đúng hết 15 con. Quả là một kỷ lục.

Không tin vào những gì đang nghe, Jo Ann ngừng may:

- Larry, ông luôn cằn nhằn tôi về những con số sai, sao bây giờ lại thế?

- Vô lý. Tôi lúc nào cũng muốn bà biết tôi luôn ghi nhận những cố gắng của bà.

Jo Ann lắc đầu và tiếp tục may. "Ông ta làm sao ấy nhỉ?...", bà tự hỏi.

Dù vậy, ngày hôm sau, khi Jo Ann ghi vào sổ tại cửa hàng tạp hóa của gia đình, bà cẩn thận để viết đúng số chi phiếu. Bà cố không nghĩ đến những điều không bình thường này nhưng thái độ kỳ lạ của Larry cứ tiếp tục.

- Jo Ann, thật là một bữa ăn ngon - ông ta nói trong một bữa tối - Tôi rất biết ơn bà. Trong 15 năm qua bà đã nấu hơn 14.000 bữa ăn cho tôi và lũ trẻ.

Rồi: "Ôi! Jo Ann, ngôi nhà mới ngăn nắp làm sao. Bà hẳn rất vất vả để giữ chúng luôn như thế...".

Thậm chí: "Cảm ơn Jo Ann vì bà đã luôn bên cạnh tôi".

Jo Ann trở nên lo lắng: "Đâu rồi những lời chê bai, chỉ trích?".

Nỗi lo có điều gì không ổn xảy ra với chồng càng mạnh mẽ hơn khi Shelly, cô con gái 16 tuổi của bà, cằn nhằn:

- Bố lẩm cẩm rồi mẹ ạ! Bố bảo con trông xinh lắm với bộ quần áo cũ mèm này! Thật không phải là bố. Có gì xảy ra với bố rồi ấy!

Nhiều tuần trôi qua, Jo Ann trở nên quen thuộc với thái độ kỳ lạ của người bạn đời, và thỉnh thoảng bà cũng đáp lại "cảm ơn...". Bà cảm thấy tự hào về bản thân như đã vượt qua được một chướng ngại vật. Nhưng đến khi một việc quá bất thường xảy ra thì bà hoàn toàn lúng túng.

- Tôi muốn bà nghỉ tay một chút - Larry nói - Tôi sẽ rửa chén. Nào, hãy bỏ cái chảo đó xuống và lên phòng khách xem tivi !

- (Sau một lúc lâu im lặng) Cảm ơn Larry, cảm ơn...

Bước chân của Jo Ann đột nhiên trở nên nhẹ tênh. Bà cảm thấy tự tin hơn và lần đầu tiên bà nghe mình khe khẽ hát. Câu chuyện sẽ dừng ở đây nếu không có một sự kiện đặc biệt nhất xảy ra. Lần này tác giả là Jo Ann. Một hôm, bà nói:

- Larry, tôi muốn cảm ơn ông vì đã làm việc nuôi sống gia đình suốt những năm qua. Tôi chưa từng nói cho ông biết, nhưng tôi rất biết ơn ông...

Larry đã không bao giờ hé mở lý do khiến ông thay đổi cách cư xử một cách tuyệt vời như thế, dù Jo Ann lục vấn đến đâu. Và điều này đã thành một trong những bí ẩn của cuộc sống, một điều bí ẩn mà tôi rất thích - vì tôi chính là... Jo Ann.

Đoá hoa yên thảo dễ thương

    Lại xuất hiện nữa? Mẫu quảng cáo cứ xuất hiện liên tục trên báo, khiến bà cứ phải rạo rực mãi. Bà không thể nhịn được nữa. Bà phải đăng ký thôi! Quyết định bà đưa ra đã làm ngạc nhiên hết thảy mọi người trong nhà và bạn bà. Bà- một phụ nữ bảy mươi tuổi vốn rất nghiêm nghị lại đăng ký theo học lớp "chú hề".

    Lẽ dĩ nhiên, bà là người lớn tuổi nhất lớp. Trong quá trình học, bà đã phải hết sức cố gắng, nào là vẽ mặt, rồi lại còn phải tự tay chế tạo ra những chiếc bong bóng mang hình thú. Dù mọi việc đối với bà rất khó khăn, nhưng với quyết tâm cao, cuối cùng bà cũng tốt nghiệp loại giỏi, lại còn được xếp hạng nhất nữa cơ đấy! Thế là từ đó cái tên hề: "Yên Thảo dễ thương" ra đời.

    Nhiều người không khỏi trố mắt ngạc nhiên khi thấy bà ở cái tuổi này, cộng thêm tính nhút nhát, mắc cỡ cố hữu lại khao khát được làm chú hề. Mặc mọi người thắc mắc, đàm tiếu, bà coi đây là cơ hội ngàn năm một thuở để thực hiện tính khôi hài thuộc bản chất mà bà phải cất công dồn nên bấy lâu nay, và chỉ có làm chú hề bà mới thỏa mãn được ước mơ của mình mà không bị người ngoài xét nét.

    Cuộc chơi bắt đầu. Bà dùng phấn trắng tô mặt, rồi kẻ chân mày xanh thật rậm và cong, rồi đến chiếc mũi màu đỏ anh dào, và cuối cùng là cái miệng đỏ chót luôn nở nụ cười tươi. Rồi bà chọn một chiếc áo sơ mi rộng thùng thình và một chiếc quần tây cũng rộng lụng thụng, kế đến là đôi giày vải mềm. Sau cùng bà búi tóc thành một chùm rồi đội chiếc mũ trắng patêgan lên. Trên chiếc mũ đặc biệt này, bà gắn ký hiệu riêng cho mình: Z, đóa hoa yên thảo màu tím. "Trang điểm" xong, bà bắt đầu cuộc hành trình. Bà xung phong đến phục vụ ở các bệnh viện, hội chợ, các nơi khai trương và còn nhiều, nhiều nữa... Nói chung bà đến bất cứ nơi nào cần một chú hề giỏi. "Bộ em không thấy làm thế là dở hơi à?". Một lần chị bà hỏi thế trên đường lái xe đến dự tiệc sinh nhật của một đứa cháu. Câu nói này chẳng mảy may làm bà nhụt chí, trái lại càng làm bà hăng say theo đuổi "sự nghiệp mới" hơn. "Sao cơ, chị thấy buồn cười à? Em thì không! Nào chị hãy nhìn nhé? Nhìn vào mặt các chú hề nhé! Tự nhiên chị sẽ thấy vui, và bật cười, cười giòn nữa là khác. Chị biết đấy mọi người ai cũng thích chú hề kia mà".

    Một chiều nọ, khi "Yên thảo dễ thương" bước đi trong hành lang một bệnh viện nọ. Đến cua quẹo trên hành lang, bất chợt bà nghe một tràng tiếng chửi thề, rồi sau đó là tiếng kim loại va loảng xoảng vào nhau. Bà chần chừ giây lát và định bỏ đi, chợt đúng lúc đó, một cô y tá trẻ phóng từ căn phòng ngay góc hành lang ra, mặt cô toàn nước mắt.

    Cô y tá suýt đâm sầm vào bà, cô khựng lại, có vẻ hơi bất ngờ khi thấy một chú hề xuất hiện trong bệnh viện, nhưng rồi cô cũng ngã vào lòng "chú hề", cô y tá khóc nức lên và thốt ra điều ấm ức trong lòng, "Ông ta ghê sợ quá! Ông ta là bệnh nhân hèn hạ nhất mà con chưa bao giờ gặp qua! Ông ta bệnh, bệnh nặng nữa là khác, nhưng nào có phải là lỗi tại con đâu?"

    Cô y tá bấu lấy bà chặt đến nỗi bà cảm thấy rất khó thở. Để ta vào thăm ông ta tí nhé!", bà đề nghị.

    Cả hai bước chậm rãi qua ngưỡng cửa. Một người đàn ông gương mặt nhợt nhạt nhìn trừng trừng họ. Đến lúc thức tỉnh hơn tí, người bệnh này há hốc mồm khi thấy một chú hề xuất hiện tại phòng bệnh, ông ta thu hết can đảm hỏi: "Cái gì? Cái gì vậy? Ngươi trông nực cười quá đấy!"

    "Yên thảo dễ thương" nở nụ cười tươi nhất. "Tôi trông nực cười à? Ông mới trông và thậm chí nghe có vẻ nực cười đấy".

    "Cút! Tôi sắp chết và tôi chẳng muốn gặp ai cả!"

    Cô y tá sợ run và định bỏ ra ngoài, nhưng "Yên thảo dễ thương" đã nắm tay cô lại và dắt cô tới gần giường bệnh hơn. "Nếu ông sắp chết, thì có phải ông muốn được đem hình ảnh này theo không?"

    Bà chỉ chiếc bô dành cho bệnh nhân bị ông ném trên sàn. Bà tiếp: "Hình ảnh này đáng giá đấy!"

    Đấy là lần đầu tiên bà đến thăm phòng 226. "Người đàn ông không may mắn này sẽ là người ta quan tâm nhất đây!". Bà quyết định như thế. Liên tiếp mấy tháng sau đó, cứ một tuần bà ghé qua ít nhất một lần. Bà chẳng bao giờ sợ những cơn giận vô cớ của ông bệnh nhân nọ. Bà quyết định bằng mọi giá phải đánh thức được phần yếu mềm trong con tim của ông. Bà tin dù một người có vẻ ngoài dữ tợn đến đâu cũng có những lúc rất yếu mềm.     Đôi khi bà xuất hiện trong bệnh viện với tư cách là một chú hề "Yên thảo dễ thương", đôi khi bà đến với tư cách là một người bạn. Dù đến với tư cách một người bạn thì cái chất hài của một chú hề vẫn còn đó. Bà luôn mang theo thật nhiều vật liệu làm bong bóng và dần dần bệnh nhân phòng 226 là người làm rất khéo các bong bóng mang hình hơn cao cổ tím và chó xù xanh lá cây. Mặc dù cái chết đang cận kề, nhưng cuộc sống trong những tuần cuối cùng của ông lại được thắp sáng và làm phấn khích lên bởi những trò đùa của chú hề. Còn cô y tá trẻ nọ thì nhận xét: "Yên thảo dễ thương" đã dạy tôi một bài học rất quí báu về cách giúp đỡ các bệnh nhân". "Yên thảo dễ thương" không chỉ thay đổi cuộc sống của "người bệnh nhân hèn hạ nhất" và cô y tá trẻ mà bà cũng đã làm thay đổi nhiều mảnh đời khác. Nhưng một trong những thay đổi nổi bật đáng được ghi nhận là sự thay đổi trong chính bản thân bà. Trước đây, bà vốn là một phụ nữ dè dặt, khép kín, mắc cỡ, luôn rút vào phía sau mà nay bà đã trở nên vui vẻ hơn và can đảm hơn. Điều đó thể hiện rõ rệt nhất ở việc bà dám đứng ngay giữa phòng trong bộ đồ đặc biệt để thu hút mọi sự chú ý. Chính những thay đổi này đã góp phần giúp bà nếm trải nhiều hơn. Khi có 5 đứa cháu nội ngoại, cá tính bà mới bộc lộ rõ ràng nhất. Bà luôn là nguồn vui cho các cháu: Kevin, Victoria, Drew, Gabrielle và Gavin. Chính từ những trò hề bà bày ra cho các cháu, mà bọn nhóc đã đặt cho bà một cái tên trìu mến: "bà Còi". Vì mỗi lần đến thăm các cháu, bà đều đeo theo một chiếc còi quanh cổ, và khi gặp các cháu bà đều thổi còi để chọc chúng.

    "Yên thảo dễ thương" còn là một nhân vật rất đặc biệt với bản thân tôi, nhưng có lẽ lần "chạm trán" bất ngờ nhất nhưng cũng đặc biệt đáng nhớ nhất xảy ra cách đây nhiều năm. Lúc đó công ty tôi đang làm ăn thua lỗ. Ngân sách thì eo hẹp, các hợp đồng thì bay hơi mất tiêu, rồi kỳ hạn thanh toán nợ lại sắp đến. Mọi chuyện cứ rối bời cả lên. Hôm đó, cô thư ký nhắc tôi biết khách hẹn lúc 4 giờ 30 đã đến. Lúc ấy quả thật tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để nhớ các cuộc hẹn nữa, nhìn lại lịch hẹn, tôi hỏi: "Cô có chắc là người này có hẹn với tôi không?". Cô thư ký trả lời: "Dạ thưa ông, tôi nghĩ ông nên gặp người này đấy ạ!". Trông thấy cô thư ký mỉm cười một cách bí mật, tôi tò mò nên bước ra phòng khách. Và các bạn biết không, "Yên thảo dễ thương" xuất hiện trên hành lang công ty chúng tôi.

    Phải thú nhận với bạn rằng, chính lúc này tôi mới cảm thấy tức cười và có cảm giác được yêu thương nhất. Bà cười với tôi và ôm tôi vào lòng, bà đã thấu hiểu nỗi khổ tâm bấy lâu của tôi. Lần đầu tiên sau bao tháng tôi bật cười!

    Khi mọi người trong công ty thấy tôi cười, họ mới dám cười theo và một nhân viên hỏi: "Ông chủ, người này là ai thế?". Tôi trả lời bằng một giọng ngưỡng mộ và chứa chan yêu thương: "Đây là "Yên thảo dễ thương". Cháu của bà gọi bà là "Bà Còi", còn tôi gọi bà là "Mẹ".

Đôi lúc cha quên

Con ơi, cha nói cho con nghe lúc con đang ngủ, tay kề dưới má, những lọn tóc vàng xoắn dính vào vầng trán ẩm mồ hôi. Cha vừa lẻn vào phòng con đây. Mới cách đây chỉ vài phút thôi, cha đang đọc báo bỗng dưng cảm thấy ân hận tràn trề.

Sáng nay cha đã giận dữ với con, lúc con mặc quần áo chuẩn bị đi học. Cha đã la con vì con rửa mặt chưa sạch, cha lại mắng con vì con chưa đánh bóng đôi giày, rồi cha nghiêm khắc chỉnh con khi con làm rơi bút viết.

Lúc đang ăn sáng, cha lại bắt con phải nghe những lời phê bình khác như: con làm rơi vãi thức ăn, con ăn tham quá, con đặt cánh chỏ lên mặt bàn, con phết quá nhiều bơ lên bánh mì!… Khi cha bước đi làm, con reo lên “Hẹn gặp ba chiều nay nhé!”, thế mà cha đã chau mày và đáp lại “Đi đứng ngay thẳng nào!”.

Đến chiều, cảnh này lại tái diễn.

Khi đi làm về, cha thấy con đang quỳ gối bắn bi ở vỉa hè, vớ con bị thủng. Cha đã làm nhục con trước mặt bạn bè bằng cách, từ đó về đến nhà, cha bắt con đi trước, cha đi sau canh chừng.

- Giày vớ mắc tiền lắm, nếu chính con bỏ tiền ra mua, con sẽ biết cẩn thận hơn! Con ơi!… Làm cha mà nỡ lòng nói lên những lời như thế đấy! .

Con có nhớ không, lúc tối, khi cha đang xem báo trong phòng đọc sách, con đã e dè bước vào, lưỡng lự ngay ngưỡng cửa, cặp mắt đầy lo âu? Lúc ấy cảm thấy bực dọc vì bị quấy, cha nhướng mắt khỏi tờ báo và hỏi cộc lốc “Cái gì nữa đây?”.

Con không trả lời chi cả, chỉ chạy bay đến dang tay ôm cổ cha, xiết chặt bằng thứ tình yêu mà Thượng đế đã làm nở hoa trong tim con, mà không có sự thờ ơ nào của cha có thể làm héo úa.

Con vụt chạy đi và cha nghe tiếng con leo lên cầu thang.

Con ơi, vài phút sau tờ báo đã tuột khỏi tay cha và một cơn sơ hãi buốt thắt tim cha khiến cha vô cùng bất an.

Thói quen, thói quen đã biến đổi cha đến mức nào rồi?

Thói quen la mắng, thói quen lúc nào cũng tìm được điều để chỉnh con. Đấy có phải là cách duy nhất để cha cảm nhận tuổi thơ của con? Cha thương con biết bao, nhưng lại vụng về đối xử như thể con là người lớn.

Trong khi đó, biết bao nét đẹp, điều ngay và ý tốt đã hình thành cá tính của con!

Trái tim con bao la như bình minh phía sau ngọn đồi. Cha đã thấy rõ điều này lúc con bộc trực chạy đến ôm hôn cha trước khi đi ngủ.

Tối nay, với cha, không còn điều gì quan trọng nữa, con ơi!

Cha đến bên con, và trong bóng tối, cha đã tủi hổ quỳ xuống.

Sự tạ tội này hãy còn nhẹ nhàng quá.

Cha biết rằng con sẽ không hiểu được những lời cha nói cho con nghe, ngày mai khi con vừa thức giấc. Nhưng ngày mai, cha sẽ là một người cha thực sự! Cha sẽ cưng con, cha sẽ buồn khi con buồn. Cha sẽ vui khi con vui. Khi cha cảm thấy bực mình, cha sẽ cắn môi mình lại.

Cha sẽ nói mãi như một câu kinh:”Con chỉ là một đứa trẻ… Con thật bé bỏng biết dường nào!…”.

Cha đã quên khi quá khắt khe với con như đối với một ngưới lớn. Nhưng giờ đây con ơi, khi nhìn thấy con ngủ mê mệt co tròn trong giường, cha mới nhận ra con chỉ là đứa bé thơ.

Mới hôm nào đây thôi, con hãy còn trong lòng mẹ, rúc đầu vào ngực mẹ.

Cha đã đòi hỏi nơi con quá nhiều… quá nhiều!

Giáng sinh ấm

Andy ngồi trên tuyết, cậu bé thấy lạnh hơn từng giây một. Andy không đi ủng - thứ mà người ta vẫn thường đi trên tuyết vào mùa đông. Cậu bé không thích ủng và dù sao cậu bé vẫn không có ủng cơ mà. Đôi giày vải, mỏng dính, mòn vẹt mà Andy đang mang đã có vài lỗ thủng và chúng không thể làm được việc là giữ ấm cho đôi chân cậu bé.

Andy đã ngồi trên tuyết thật là lâu rồi. Và dù cố đến mấy, cậu bé vẫn không thể nghĩ ra được món quà Giáng sinh cho Mẹ. Cậu bé buồn bã lắc đầu " Vô ích thôi, dù rằng mình có nghĩ ra món quà gì, mình cũng không có tiền mà ."

Từ khi bố Andy mất 3 năm về trước, gia đình cậu bé suy sụp nặng nề. Ban đêm Mẹ cậu làm việc ở bệnh viện, nhưng với đồng lương ít ỏi chỉ đủ mấy mẹ con sống tạm qua ngày. Chúng còn nhỏ lắm, chẳng biết có nghĩ ra món quà gì để tặng Mẹ hay không. Thật không công bằng, bây giờ đã là chiều tối đêm Giáng sinh mà cậu bé vẫn ngồi đây, chẳng thể nghĩ được điều gì cả.

Chú chùi những giọt nước mắt, Andy đứng dậy đi xuống phố - nơi có rất nhiều cửa hàng. Cuộc sống thật khó khăn khi mà cậu bé mới 6 tuổi và không có bố, đặc biệt là khi mà người ta cần một người đàn ông để tâm sự. Andy đi từng cửa hàng này sang cửa hàng khác, nhìn vào từng cửa sổ rực rỡ một. Mọi thứ đều đẹp và ngoài khả năng của cậu. Trời đã bắt đầu tối, Andy buồn bã định quay về nhà thì bỗng nhiên cậu bé nhìn thấy một vật gì đó ánh lên trong tuyết. Andy cúi xuống: 1 đồng xu nhỏ bóng loáng dưới đất. Hẳn chưa ai có cảm giác được giàu có như là Andy cảm thấy vào lúc ấy.

Khi Andy nắm chặt " kho tàng mới nhặt được " của mình, cậu bé cảm thấy như có hơi ấm chạy qua cơ thể,và cậu mạnh dạn bước vào cửa hàng đầu tiên, niềm hân hoan của Andy ngay lập tức bị đóng băng lại khi từng nhân viên bán hàng bảo với cậu rằng chẳng thể làm gi với đồng xu nhỏ xíu đó. Cậu bé đi ra, nhìn thấy một của hàng hoa, Andy liều đứng lại xếp hàng

Khi người chủ cửa hàng hỏi Andy cần gì, cậu bé đưa một đồng u và e dè hỏi liệu mình có thể mua được 1 bông hoa tặng Mẹ trong đêm Giáng sinh với đồng xu nhỏ xíu này không, người chủ cửa hàng nhìn Andy, đặt tay lên vai cậu bé và nói :" Đợi một chút, con trai, để ta xem có thể làm gì cho con."

Khi đứng chờ, Andy ngắm những bông hoa tuyệt đẹp và cậu đã hiểu vì sao Mẹ cậu cũng như bao người phụ nữ khác lại thích hoa đến thế.

Tiếng đóng cửa sớm khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng đã đưa cậu quay về với hiện thực. Còn lại một mình trong cửa hàng, Andy bắt đầu cảm thấy cô đơn và hoảng sợ. Bỗng người chủ cửa hàng lại đi ra.

Trước mắt cậu bé là 12 bông hổng đỏ thắm, cuống dài, lá xanh cùng với những bông hoa gì đó trắng, nhỏ li ti, được bọc thành một bó có dây nơ màu bạc. Tim Andy ngừng một nhịp khi ông chủ cửa hàng đặt bó hoa vào một chiếc hộp trắng và bảo: " Tất cả là một đồng xu, con trai."

Andy chậm chạp đặt đồng xu vào tay ông chủ cửa hàng. Không thể là thật được! Không ai bán cho cậu cái gì với một đồng xu đâu ! Nhận thấy sự băn khoăn trên mặt cậu bé, ông chủ cửa hàng giải thích: " May mắn là ta có mấy bông hoa bán với giá một đồng xu một bó. Con trai có thích không ? "

Lần này thì Andy không ngần ngại nữa. Ra khỏi cửa hàng, Andy nghe thấy tiếng ông chủ nói với theo :" Giáng sinh vui vẻ, con trai ."

Khi ông chủ cửa hàng quay về trong nhà, vợ ông hỏi :" ông vừa nói chuyện và đem hoa cho ai thế ?" Nhìn qua cửa sổ và chớp chớp mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra, ông chủ cửa hàng khẽ nói :" Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Sáng nay, khi tôi chuẩn bị mở cửa hàng, tôi có cảm giác như ai đang mách bảo mình để sang bên cạnh 12 bông hoa hồng thật đẹp vì đó sẽ là món quà đặc biệt. Tôi đã nghĩ là mình đã tưởng tượng ra, thế nhưng tôi vẫn cứ để 12 bông hồng ra một chỗ. Và ngay lúc nãy, một cậu bé vào cửa hàng và muốn mua hoa để chúc Giáng sinh cho Mẹ chỉ với 1 đồng xu. Nhìn vào cậu bé, tôi thấy tôi của nhiều năm về trước. Tôi đã là một đứa trẻ nghèo khổ không biết mua gì cho Mẹ vào đêm Giáng sinh. Một người qua đường đã cho tôi 10 dolla không vì lý do gì. Khi tôi nhìn thấy cậu bé tối hôm nay, tôi biết người đã mách bảo tôi là ai....

Tối Giáng sinh ấy, cả gia đình người chủ cửa hàng hoa và cả gia đình Andy nữa, không ai cảm thấy lạnh chút nào....

Giáng sinh đẹp nhất

Buổi tiệc Giáng sinh đã mãn. Mọi người vẫn còn nán lại bên bàn hồi tưởng về những ngày Giáng sinh thuở nhỏ. Câu chuyện chẳng mấy chốc xoay quanh đề tài là Giáng sinh đẹp nhất của mỗi người. Chuyện tiếp chuyện, nhưng vẫn có một chàng trai ngồi lặng thinh không nói gì. Mọi người bảo: "Này Frank, thế Giáng sinh đẹp nhất của cậu là vào lúc nào?". Frank bấy giờ mới lên tiếng: "Giáng sinh đẹp nhất của tôi là mùa Giáng sinh mà tôi chẳng nhận được món quà nào cả". Mọi người ngạc nhiên, họ nóng lòng muốn nghe câu chuyện. Và Frank bắt đầu kể:

"Tôi lớn lên ở New York. Đó là một tuổi thơ khá ảm đạm vì gia đình chúng tôi rất nghèo. Tôi mồ côi mẹ từ khi mới 8 tuổi. Cha tôi cũng có việc làm, nhưng ông chỉ được làm hai hoặc ba ngày một tuần. Thế là cũng tốt lắm rồi. Chúng tôi sống kiểu lưu động, rày đây mai đó, chật vật lắm mới đủ ăn, đủ mặc. Lúc ấy tôi còn nhỏ và không chú ý gì.

Cha tôi là một người đàn ông giàu lòng tự trọng. Ông ấy chỉ có độc nhất một bộ áo quần và chỉ mặc nó để đi làm việc. Khi về nhà ông cởi áo vét ra, còn thì ngồi vào ghế với sơmi, cà vạt và cả áo ghilê. Cha có một chiếc đồng hồ bỏ túi cũ kỹ và khá lớn. Đó là quà của mẹ tặng cha. Mỗi khi cha ngồi, dây đeo đồng hồ ở chỗ túi đựng thường tòi ra ngoài. Chiếc đồng hồ đó là tài sản quí nhất của cha. Nhiều lần tôi thấy cha chỉ ngồi yên ngắm nhìn chiếc đồng hồ quí của mình. Tôi đoan chắc cha đang nghĩ về mẹ tôi.

Năm ấy, khi tôi tròn 12 tuổi, bộ đồ chơi thí nghiệm là một cái gì đó rất lớn lao. Trị giá của một bộ như thế là 2 USD. Một số tiền quá lớn đối với bọn trẻ yêu thích bộ đồ chơi này, trong đó có tôi. Tôi nì nèo với cha cả tháng trời trước Giáng sinh để mong có được nó. Các bạn biết đấy, tôi cũng hứa hẹn đủ điều như những đứa trẻ khác: "Con sẽ ngoan, con sẽ làm việc, con sẽ không vòi vĩnh gì thêm". Cha tôi chỉ đáp: "Để xem xem".

Ba ngày trước Giáng sinh, ông dẫn tôi đến chợ lưu động. Ở đó, người ta bán hàng trên những chiếc xe ngựa. Họ bán hàng hạ giá và bạn có thể mua được một món hàng tốt. Cha dẫn tôi đến một quầy hàng, chọn cho tôi một ít đồ chơi nhỏ rồi hỏi:

"Này con, con có thích những thứ như vậy không?".

Tôi dĩ nhiên chỉ trả lời: "Không, con chỉ muốn một bộ đồ thí nghiệm cơ!".

Chúng tôi đi hết mọi quầy hàng, Cha đưa cho tôi xem hết những món đồ chơi như xe hơi, súng... nhưng tôi đều từ chối. Tôi nào có nghĩ rằng cha không đủ tiền để mua một bộ đồ thí nghiệm cho tôi. Sau cùng cha bảo: "Thôi, bây giờ tốt nhất là cứ về nhà đã và hôm sau hẵng quay lại!".

Trên đường về nhà, tôi cứ nói mãi về bộ đồ thí nghiệm đó. Tôi chỉ muốn một bộ đồ thí nghiệm thôi. Đến bây giờ tôi mới hiểu ra lúc ấy cha tôi đã đau khổ đến chừng nào khi không cho tôi được nhiều hơn. Cha hẳn đã nghĩ mình không xứng đáng là một người cha, và cả tự nguyền rủa mình vì cái chết của mẹ tôi. Khi lên bậc cấp vào nhà, cha hứa sẽ tìm cách mua cho tôi bộ đồ thí nghiệm đó. Đêm ấy tôi gần như không ngủ. Tôi tưởng tượng mình sẽ tự sáng chế thứ này thứ kia.

Ngày hôm sau, sau khi xong công việc, cha dẫn tôi trở lại chợ. Trên đường đi, tôi còn nhớ cha đã mua một ổ bánh mì và kẹp vào nách mang theo. Ở quầy hàng đầu tiên, cha bảo tôi hãy chọn lấy bộ đồ thí nghiệm mà tôi yêu thích. Chúng giống nhau cả, nhưng tôi vẫn xem xét, lục lọi như thể đãi cát tìm vàng. Tôi tìm được bộ đồ thí nghiệm tôi yêu thích và nói gần như reo lên: "Cái này nè cha!".

Tôi còn nhớ hình ảnh cha tôi thọc tay vào túi lấy tiền. Khi ông lấy 2 USD ra, một tờ đã rơi xuống đất. Ông cúi người xuống lượm tiền, và vì thế sợi dây đồng hồ trong túi áo rớt ra, xoay vòng trên nền đất. Không có chiếc đồng hồ. Trong tích tắc, tôi hiểu cha đã bán nó rồi. Cha đã bán chiếc đồng hồ, tài sản quí nhất của mình để mua cho tôi một bộ đồ chơi thí nghiệm. Ông bán chiếc đồng hồ, món quà cuối cùng mà mẹ tôi tặng cha...

Tôi chụp vội lấy tay cha và hét lên: "Không!". Chưa bao giờ tôi chụp lấy tay cha như thế, chưa bao giờ tôi hét lên với cha như thế. Tôi nhớ cha đã nhìn tôi, một cái nhìn đầy cả sự ngơ ngác, lạ lẫm. "Không, cha không phải mua cho con bất cứ thứ gì - Tôi ứa nước mắt - Cha, con biết cha rất yêu con".

Chúng tôi rời khu bán hàng và tôi nhớ cha nắm tay tôi suốt dọc đường về".

Frank nhìn mọi người:

"Bạn biết không, chẳng có tiền bạc nào có thể đủ để mua những giây phút đó. Giây phút mà tôi hiểu ra rằng cha yêu tôi hơn bất cứ điều gì trên thế gian này".

Giới hạn của tình yêu

Sau cuộc ly hôn của cha mẹ, đứa con gái đang tuổi vị thành niên của chị ngày càng trở nên bất trị. Chuyện lên đến cực điểm khi một đêm khuya, cảnh sát gọi chị đến sở cảnh sát để bảo lãnh con gái vừa bị giam vì tội lái xe khi say.

Hai mẹ con không trò chuyện câu nào cho đến trưa hôm sau. Chị phá vỡ sự căng thẳng bằng việc đưa cho con một chiếc hộp nhỏ, gói giấy cẩn thận. Nó hờ hững mở ra và tìm thấy bên trong một mẫu đá nhỏ. Nó đảo mắt nhìn lên rồi hỏi: "Cái này để làm gì vậy mẹ?". Chị không trả lời ngay mà chỉ đưa thêm một phong bì: "Đây là một tấm thiệp".

Nó mở tấm thiệp bên trong phong bì và đọc. Trên gương mặt của cô gái trẻ, nước mắt bắt đầu tuôn rơi. Rồi nó đứng bật dậy và chòang tay ôm vai mẹ thật chặt, thả rơi tấm thiệp trên sàn nhà.

Trên tấm thiệp mở ra là dòng chữ: "Viên đá này 200 triệu năm tuổi. Sẽ mất bấy nhiêu thời gian để mẹ không quan tâm đến con nữa!"

Hãy bóp chặt tay người và ta nói ta yêu người

    Các bạn có nhớ lúc các bạn còn nhỏ thường hay ngã và bị đau không? Các bạn có nhớ mẹ các bạn làm sao cho bạn đỡ đau không? Với mẹ tôi, thì bà sẽ ôm tôi lên, bế tôi về giường, hôn lên chỗ "ui-da đau quá" của tôi. Bà sẽ ngồi cạnh tôi, cầm lấy tay tôi và bảo:     - Khi nào thấy đau, con cứ việc bóp chặt tay mẹ, mẹ sẽ bảo con là mẹ yêu con.

    Và cứ như vậy tôi không ngừng bóp chặt tay mẹ, và lần nào cũng thế, mẹ luôn bảo tôi:     - Mary, mẹ yêu con.    

Đôi khi tôi nhận ra mình đang giả bộ đau chỉ vì muốn được nghe mẹ nói những lời thương yêu đó. Khi lớn lên thì cách của mẹ có đổi, nhưng mẹ luôn tìm cách cho tôi bớt đau và cho tôi tăng thêm niềm vui trong mọi lãnh vực. Những ngày học hành đầy vất vả khó khăn của bậc trung học mẹ luôn để sẵn thanh kẹo sô-cô-la có hạnh nhân Hershey khi tôi về đến nhà. Khi tôi hai mươi tuổi, học đại học xa nhà, mẹ thường gọi điện thoại rủ tôi đi dã ngoại ăn bữa trưa ở công viên Estabrook, chỉ để tận hưởng tiết trời ấm nắng của Wisconsin. Khi tôi lập gia đình, sau mỗi lần tôi về thăm bố mẹ thì mẹ lại gửi thiệp cám ơn khi tôi về đến nhà. Mẹ luôn tỏ cho tôi thấy tôi có vị trí đặc biệt đến chừng nào trong tim bà. Nhưng điếu mà tôi nhớ nhất vẫn là: "Hãy bóp tay mẹ, mẹ sẽ nói với con mẹ yêu con".

    Năm tôi ba mươi, một sáng nọ, sau khi mới từ nhà tôi về, ba tôi điện thoại ra sở làm cho tôi. Bình thường giọng ba rất quả quyết vì ông luôn dứt khoát, quyết định, nhưng lần này giọng ba đầy bối rối và lo lắng:   

 - Mary à, mẹ con có gì không ổn và bố không biết phải làm sao. Con có thể đến ngay không?  

  Trong 10 phút cần thiết để lái xe về đến nhà bố mẹ, lòng tôi tràn ngập sợ hãi không biết mẹ đã xảy ra chuyện gì. Khi về đến nhà tôi thấy bố đang đi lại trong bếp, mẹ thì nằm trên giường. Mắt mẹ nhắm lại, tay mẹ ôm bụng. Tôi gọi mẹ, cố giữ giọng mình không lộ vẻ lo sợ:

    - Mẹ à, con đây.

   - Mary đấy hả con.

-    Vâng con đây. Mẹ!

    Tôi không hề chuẩn bị tinh thần để nghe câu nói kế tiếp của mẹ nên khi nghe thấy, tôi lạnh cứng người, không biết nói sao nữa.

    - Mary này, mẹ có sắp chết không con?

    Mắt tôi nhòa lệ khi nhìn mẹ thân yêu của tôi nằm đấy bất lực. Tâm trí tôi vội suy nghĩ, cho tới khi tôi chợt nghĩ ra: "Nếu là mẹ, mẹ sẽ nói sao?". Tôi lặng im một khoảnh khắc dường như dài cả triệu triệu năm, mong cho có thể thốt nên lời: "Mẹ à, con không biết mẹ có sắp chết không, nhưng nếu mẹ phải chết, thì không sao đâu mẹ à, con luôn yêu mẹ."     Mẹ kêu lên:

    - Mẹ đau quá, Mary ạ.

    Một lần nữa tôi tự hỏi phải nói với mẹ sao đây? Tôi ngồi xuống giường cạnh mẹ. cằm tay mẹ và nghe thấy mình đang nói với mẹ:

    - Mẹ ơi, khi nào mẹ đau. mẹ hãy bóp chặt tay con, khi ấy con sẽ nói với mẹ là con yêu mẹ.

    Mẹ bóp tay tôi.

    - Mẹ ơi, con yêu mẹ.

    Rất nhiều lần bóp tay và "con yêu mẹ" đã lặp đi lặp lại giữa tôi và mẹ tôi trong suốt hai năm trước khi mẹ tôi mất vì ung thư buồng trứng. Tôi không biết khi nào sẽ đến phiên tôi hoặc những người thân khác nhưng tôi biết là đến lúc ấy, dù là ai thì tôi cũng sẽ tiếp thói quen ngọt ngào đầy thương yêu mà mẹ vẫn từng làm: "Khi nào đau hãy bóp chặt tay ta và ta sẽ nói ta yêu người."

    Mary Marcdante

Hoa cho mẹ

     Một ngày nọ, một ngôi mộ đơn sơ gần mộ cha mẹ tôi đã làm cho tôi chú ý đến. Ngôi mộ phủ nhiều hoa thường xuân. Vật trang trí đáng kể chỉ là một thánh giá gỗ đẽo bằng tay, trên đó khắc tên người và số tuổi: hai mươi hai tuổi. Mỗi lần đến đây, tôi đều nhận thấy ngôi mộ được chăm sóc cẩn thận. Trí tưởng tượng của tôi thêu dệt đủ chuyện về con người yểu mệnh nằm dưới lòng đất kia.

     Lần kia, tôi nhìn thấy một người đàn ông đang bước đi xa dần ngôi mộ. Từ xa trông Ông ấy có vẻ già . Tôi đoán chắc ông vừa đến thăm mộ của vợ mình. Cách đây hai năm, trong khi tôi dọn sạch mộ của cha mẹ mình, tôi đã nhìn thấy ông cúi gập người xuống mộ của vợ ông. Chúng tôi chào nhau rồi tiếp tục việc ai nấy làm. Thỉnh thoảng tôi lại nhìn trộm ông. Thấy ông không có dụng cụ gì để làm, tôi đề nghị cho ông mượn. Ông nhận lời với lòng biết ơn. Sau đó, chúng tôi chuyện trò với nhau thoải mái và tôi hỏi đó là mộ ai vậy. Ông trả lời:

     - Đây là mộ mẹ tôi. Mẹ chết trẻ năm 1912 do bị sưng phổi. Lúc ấy tôi mới một tuổi rưỡi và thật sự chưa biết mẹ mình. Chính tôi đã làm cây thánh giá này cho mẹ. Tôi là người duy nhất đến thăm mẹ vì mẹ không còn con cái nào khác. Cha tôi lấy vợ khác, và bà mẹ kế chỉ quan tâm đến các em cùng cha khác mẹ của tôi. Do đó tôi có thói quen đến đây để chuyện trò với mẹ, cả chuyện vui lẫn chuyện buồn. Sau đó, cuộc sống đưa tôi xa nơi đây nhưng tôi không hề quên mộ mẹ. Với tôi ngôi mộ chính là ngôi nhà thân thương như của những người khác. Khi tôi đến đây, tôi nghĩ như mình trở về nhà mình. Giờ đây tôi càng lúc càng khó đi lại hơn. Nhưng bao lâu chân tôi còn đi được, tôi vẫn đến thăm mẹ ít là hai lần mỗi năm. Tôi đã 80 tuổi, ai biết tôi còn đến đây được mấy lần nữa...      Tôi im lặng lắng nghe, sửng sốt. Nước mắt tôi tự nhiên chảy tràn: lần đầu tiên tôi gặp một tình yêu vô tư đến thế. Tôi đã may mắn hơn vì còn nhớ bao kỷ niệm vui buồn về cha mẹ mình. Nhưng ông già dễ thương này có giữ kỷ niệm nào về mẹ đâu? Có chăng là một ảnh chụp đã ố vàng của người mà người ta bảo đó là mẹ ông. Thế thôi, ông đã gắn bó sâu xa biết bao suốt cuộc đời khi thường xuyên đến thăm mộ một phụ nữ trẻ, mà ông chưa biết được tình mẫu tử.

     Chúng tôi chào nhau. Tôi thật sự xúc động vì tôi biết cuộc đời vừa trao cho tôi một món quà tuyệt vời. Nó cho tôi nhận biết tình cảm chân thành của một con người bình thường và cao thượng đối với mẹ mình. Trên đường về tôi không ngừng suy nghĩ về chuyện này. Tôi quyết định nếu như thấy cỏ dại mọc lên bên mộ này, tôi sẽ dọn sạch ngay và chăm sóc ngôi mộ này như mộ của cha mẹ mình- thay cho người con già hiếu thảo ấy, một ngày nào đó...

Mẹ không sao chứ mẹ?

    Tôi đang mải suy nghĩ về cách viết bản báo cáo thì điện thoại reo. Gì nữa đây? Tôi bực bội nghĩ vậy. Hóa ra cô bảo mẫu gọi báo về con trai tôi, Jordan. Cháu mới hai tuổi và có vẻ không khỏe. Cô bảo mẫu bảo:

    - Cháu không giống bình thường. Cháu không sốt nhưng có vẻ lừ đừ.

    Trên đường về nhà, tôi cố lấy lại bình tĩnh và nghĩ về Jordan. Tôi nhớ tôi đã ngạc nhiên chừng nào khi tôi hay tin có mang Jordan. Khi đang tuổi mới lớn, tôi không hề nghĩ tôi muốn có con. Nhưng lúc ấy tôi đâu biết sau này mình sẽ yêu rồi lấy một ông bố của hai cô bé gái.

    Sau năm năm lập gia đình tôi đã dần ưa thích được làm mẹ kế. Vai trò ấy phù hợp cho cả tôi lẫn hai cô con gái riêng của chồng tôi. Nhưng khi có mang Jordan thì tôi lo lắng không biết hai cháu sẽ đón nhận tin sắp có em bé ra sao, vì lúc ấy hai cháu đang cảm thấy yên tâm về vị trí của mình trong gia đình, trong tình yêu thương của cha mẹ. Bây giờ nhớ lại phản ứng của hai đứa tôi vẫn còn buồn cười. Hai đứa dẫn tôi vào buồng tắm để hỏi riêng tôi không cho cha chúng nghe. Chúng chỉ nói đến nỗi lo lắng duy nhất.

     - Em bé có nghĩa là mẹ ngủ chung với ba hả?

     Bảy tháng sau, sau 22 giờ đồng hồ chuyển dạ khó khăn, cuối cùng chúng tôi đã thấy Jordan lần đầu tiên. Với cái họ Derez thì chúng tôi đã không tưởng sẽ thấy một cái đầu tóc đỏ, ấy thế mà tóc cháu lại hung đỏ. Jordan là một bé trai thật xinh đẹp, khỏe mạnh, với đôi mắt đen láy.

     Val, cô chị cả nhìn âu yếm cậu em nhỏ và phán:

     - Em là một phần của tất cả chúng ta. Em khiến chúng ta xích lại gần nhau hơn nữa.

     Luồng suy nghĩ của tôi chấm dứt khi xe tôi về đến nhà, và tôi chạy vội vào. Jordan đang ngủ, nhưng hơi thở cháu khó nhọc và người cháu uớt đẫm mồ hôi. Tôi bế cháu ra xe đặt vào ghế và thắt dây an toàn, rồi đưa cháu đến khám bác sĩ.

     Trong lúc lái xe mắt tôi vừa nhìn đường vừa liếc sang Jordan. Cô bảo mẫu nói đúng, cháu không như bình thường. Bây giờ cháu đã tỉnh giấc nhưng mắt thì nhìn buồn bã, mệt mỏi.

     Còn cách phòng mạch nhiều khu phố, quay sang nhìn cháu thì tôi thấy môi Jordan bắt đầu giật, ban đầu chầm chậm, sau đó nhanh hơn, rồi bọt mép trào ra. Tôi khiếp hãi nhìn cơ thể bé nhỏ của con trai mình co giật liên hồi một cách không tự chủ, mắt trợn ngược lên. Rồi cũng đột ngột y như lúc bắt đầu, cơ thể cháu sụm xuống trên ghế.

     Trong tâm trạng hốt hoảng tôi phóng xe vượt đèn đỏ. Khi đến nơi đỡ cháu lên tay thì người cháu đang mềm nhũn ra. Đôi mắt cháu vô hồn. Chỉ lúc ấy tôi mới nhận ra là cháu không còn thở nữa. Tôi rên lên:

     - Ôi, có gì không ổn rồi!

     Bác sĩ nghe tiếng rên của tôi chạy ra và bồng lấy Jordan. Ông bắt mạch cổ của Jordan rồi bắt đầu cấp cứu. Một cô ý tá coi chừng tôi trong khi con tôi đang được cấp cứu ở phòng trong. Tôi bất lực nghe mọi người đang tìm cách cứu sống con tôi. Có tiếng ai đó động viên:

     - Nào cháu bé, hãy sống lại với chúng tôi.

     Giọng khác hốt hoảng:

     - Tôi không tìm thấy đường ven nào cả.

     Tôi không thể ngờ được một việc khủng khiếp như thế này lại xảy đến với mình. Tôi hoảng loạn với ý nghĩ mình sẽ mất đứa con trai bé bỏng. Tôi muốn ở bên cạnh Jordan. Tôi muốn được cầm lấy bàn tay bé nhỏ của con, hôn lên đôi má nó và thì thầm bảo nó mọi chuyện sẽ ổn thôi. Tôi hoảng sợ, mất hết cả bình tĩnh và tự chủ.

     Mọi người tiếp tục cấp cứu cháu. Cuối cùng họ vội vã đẩy cháu trên cáng. Họ bảo tôi:

     - Chúng tôi phải cho cháu thở máy và trợ tim. Cháu không thể tự thở được.

     Chồng tôi gặp tôi nơi phòng đợi. Anh quỳ xuống ôm tôi khóc. Tôi chưa hề thấy anh ấy khóc bao giờ cả. Một cô điều dưỡng bước vào và nhẹ nhàng hỏi chúng tôi có muốn mời ông cha đến ban phúc không. Chồng tôi đau đớn la lên:

     - Không. Con tôi sẽ khỏe thôi mà !

     Một giờ sau chúng tôi được phép vào thăm Jordan.

     Đứa con trai thường ngày rất hiếu động của tôi đang nằm đó. Cháu trông thật bé nhỏ và yếu ớt, người đầy các ống, và vẫn không ngừng co giật. Ngay sau khi cháu được hồi sức thì cháu lại lên cơn co giật. Ông bác sĩ phụ trách hồi sức cấp cứu lộ rõ vẻ bất mãn vì không ổn định được cháu:

     - Tôi đã cho mấy ống thuốc an thần mà cháu vẫn chưa hết co giật.

     Một giờ nữa nặng nề trôi qua. Jordan đã được ổn định và đã có thể chuyển đến bệnh viện nhi. Cơn co giật đã chấm dứt nhưng cháu vẫn phải được giúp thở.

     Làm scanner não thì không thấy có gì bất thường cả. Nước chọc dò tủy sống cũng vậy. Không tìm ra nguyên nhân nào giải thích chứng co giật của Jordan, cũng như tình trạng thiếu dưỡng khí liệu có làm tổn thương não bộ của Jordan.

     Chồng tôi và tôi được phép ở lại phòng săn sóc đặc biệt với Jordan. Tôi nắm tay cháu, hôn lên má cháu và bảo cháu lọi chuyện sẽ ổn thôi. Đến tối cháu vẫn ho và bắt đầu tự thở, không cần máy.

     Sáng hôm sau cháu đã có thể mở mắt, nhà tôi và tôi không còn biết phải mong chờ gì nữa... Có khả năng não bộ cháu sẽ bị tổn thương nhưng chúng tôi tin là chúng tôi có thể chấp nhận chuyện ấy. Chúng tôi không thể chịu nổi nếu mất cháu.

     Vẫn còn bị thuốc làm lừ đừ, Jordan cố gắng nhìn. Tôi biết nếu cháu nhận ra chúng tôi, cha mẹ nó, thì mọi chuyện sẽ ổn. Từ từ cháu nhìn chúng tôi. Khi cháu đưa tay ra và gọi:

     - Ba, mẹ.

     Thì tôi òa khóc. Thấy tôi khóc Jordan lừ đừ hỏi:

     - Không sao chứ, mẹ?

     Tôi tràn ngập xúc động vì sự lo lắng của con trai tôi Vừa mới trải qua 24 giờ chiến đấu giữ mạng sống của mình vậy mà khi tỉnh dậy, cậu con trai bé bỏng vô củng yêu quý đã quan tâm đến tôi Tôi vuốt nhẹ má con trả lời:

     - Con yêu! Mẹ không sao con à!

     Sáu tháng đã trôi qua kể từ ngày đó, và Jordan đã hoàn toàn bình phục. Tôi đã thôi không còn ngủ chung phòng với cháu và không còn dõi mắt trông chừng mỗi cử động của cháu. Chúng tôi không hiểu nguyên nhân nào khiến cháu lên cơn động kinh. Có thể cháu bị nhiễm siêu vi hoặc bị cảm lạnh. Vì không rõ nguyên nhân nên Jordan phải tiếp tục uống thuốc phòng ngừa trong suốt hai năm.

     Tối qua tôi nhìn Jordan chơi đá banh với cha và hai chị trong vườn nhà, tôi chợt nghĩ đến chuyện chúng tôi đã suýt mất cháu. Trái banh lăn đến gần tôi và Jordan chạy lại. Khi tôi đưa trái banh cho cháu cháu thấy mắt tôi long lanh nước mắt. Cháu đặt bàn tay bé nhỏ lên gối tôi và hỏi:

     - Mẹ không sao chứ mẹ?

     Tôi trả lời, mỉm cười và ôm cháu vào lòng:

-    Mẹ không sao. Mẹ khỏe Jordan à.

Món quà của cha

Một chàng trai sắp tốt nghiệp DH. Ðã từ lâu anh mơ ước một chiếc xe thể thao tuyệt đẹp được trưng bày ở cửa hiệu. Và anh đã nói với cha điều ước muốn đó. Ngày tốt nghiệp đến, anh nao nức chờ đợi...Buổi sáng, người cha gọi anh vào phòng riêng: "Con trai, ta rất tự hào về con!" - ánh mắt ông nhìn anh trìu mến. Rồi ông trao cho anh một hộp quà được gói rất trang trọng. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và thấy một quyển sách được bọc bằng vải da, có tên chàng trai được mạ vàng. Tức giận, anh ta nói lớn tiếng: "Với tất cả tiền bạc mà cha có sao lại chỉ có thể tặng con một quyển sách này thôi!?". Rồi anh chạy vụt ra khỏi nhà, vứt quyển sách vào góc phòng...

...Nhiều năm trôi qua, chàng trai giờ đã là một nhà kinh doanh thành đạt. Anh có một ngôi nhà khang trang và một gia đình hạnh phúc. Nhưng người cha đã già và một hôm anh nghĩ mình cần phải đi gặp cha. Anh đã không gặp ông kể từ ngày tốt nghiệp. Trước lúc lên đường, anh nhận được một bức điện tính báo rằng người cha đã qua đời và ông trao toàn bộ quyền sở hữu cho con trai. Anh cần phải trở về ngay lập tức để chuẩn bị mọi việc.

Khi bước vào ngôi nhà của cha, bỗng nhiên anh cảm thấy một nỗi buồn và ân hận khó tả xâm chiếm tâm hồn anh. Ðứng trong căn phòng ngày xưa, những ký ức trong anh ùa về...Và bất chợt, anh nhìn thấy quyển sách khi xưa nằm lẫn trong những tập giấy tờ quan trọng của cha ở trên bàn, nó vẫn còn mới nguyên như lần đầu anh nhìn thấy cách đây nhiều năm. Nước mắt lăn dài trên má, anh lần giở từng trang, bỗng có vật gì đó rơi ra...Một chiếc chìa khóa! Kèm theo đó là một tấm danh thiếp ghi tên người chủ cửa hiệu, nơi có bán chiếc xe thể thao mà anh từng mơ ước. Trên tấm danh thiếp còn ghi ngày tốt nghiệp của anh và dòng chữ "Ðã trả đủ"......

Muốn trở thành người anh như thế

Nhân dịp lễ Giánh sinh, Paul được anh trai tặng một món quà tuyệt vời - một chiếc ô tô. Một ngày trước lễ Giánh sinh, Paul vừa ra khỏi văn phòng thì thấy một cậu bé đang đi vòng quanh chiếc xe với vẻ mặt rất ngưỡng mộ. "Ðây là xe của anh à?", cậu bé hỏi. Paul gật đầu: "Anh trai tớ tặng nhân dịp Giánh sinh đấy!". Cậu bé lấy làm kinh ngạc: "Thế có nghĩa là anh trai anh cho chiếc xe này và anh không phải trả một đồng nào? Ôi, giá mà em...", cậu bé ngập ngừng, "..giá mà em được là người anh như vậy". Paul nhìn cậu bé một cách đầy ngạc nhiên, và trong phút bốc đồng, anh nói: "Cậu có muốn đi chơi một chuyến trên chiếc xe của anh không?". "Ồ vâng, em rất sẵn sàng".

Sau một lúc đi lòng vòng, cậu bé quay sang với đôi mắt ngời sáng: "Anh ơi, anh có thể lái xe tới thẳng nhà em được không?". Paul mỉm cười. Anh nghĩ cậu bé muốn cho những người hàng xóm thấy cậu về nhà trên một chiếc xe ô tô sang trọng. Nhưng một lần nữa Paul lại nhầm. "Anh đỗ lại ở chỗ hai bậc thang này nhé" - cậu bé đề nghị. Cậu chạy lên các bậc cầu thang. Một lúc sau Paul nghe thấy tiếng cậu quay trở lại, nhưng không vội vã như lúc trước. Cậu bé bế theo một đứa em tàn tật, đặt em ngồi xuống trên những bậc cầu thang, quàng tay âu yếm qua vai chú bé và chỉ vào chiếc xe: "Ðấy, nó đấy, giống như những gì anh đã nói với em lúc trước. Anh trai anh ấy tặng nhân dịp Giáng sinh và anh ấy không phải trả một đồng nào. Một ngày nào đó anh cũng sẽ tặng em một chiếc xe như thế này, và em sẽ thấy được mọi thứ trong dịp Giáng sinh thật tuyệt vời như những gì anh vẫn kể với em".

Paul bước ra khỏi xe và bế cậu bé tàn tật lên xe. Người anh với đôi mắt ngời sáng cũng leo lên xe và cả ba bắt đầu một chuyến đi chơi Giáng sinh thật đáng nhớ.

Noel năm đó Paul mới thật sự hiểu: "Khi đem hạnh phúc đến cho người khác, ta sẽ là người hạnh phúc hơn cả".

Người mẹ mù của tôi

Nhận thức đầu tiên của tôi về mẹ là đôi tay của bà ấy. Nhận thức ấy đến với tôi từ bao giờ, tôi chẳng nhớ được, nhưng cả đời tôi không sao quên được đôi tay ấy – đôi tay của mẹ tôi, một người mẹ mù loà.

Tôi vẫn còn nhớ lúc tôi ngồi tô màu một bức tranh bên bàn ăn. “Mẹ nhìn bức tranh của con đi,” tôi quay sang mẹ. “Con vừa mới vẽ xong.”

“Ồ, nó đẹp lắm!” Mẹ trả lời, tiếp tục công việc của mình.

“Không, mẹ phải nhìn bức tranh của con bằng chính tay mẹ cơ!” Tôi nài nỉ. Mẹ đến bên tôi, tôi nắm lấy tay mẹ, cho những ngón tay của mẹ lướt chậm trên bức tranh. Tôi luôn cảm thấy vui thích khi thấy mẹ cảm nhận được bức tranh của tôi đẹp đến nhường nào.Tôi chưa bao giờ lấy làm ngạc nhiên về cái cách mẹ cảm nhận mọi vật xung quanh bằng đôi tay ấy, khi mẹ đưa chúng vuốt ve khuôn mặt tôi hoặc những đồ vật mà tôi mang đến. Tôi cũng biết rằng bố sẽ nhận biết sự có mặt của tôi và mọi vật xung quanh bằng đôi mắt của bố; bà nội và những người khách đến nhà tôi cũng vậy. Dẫu thế, tôi chưa bao giờ cảm thấy kỳ lạ khi biết rằng mẹ không sử dụng đến đôi mắt như những người khác.

Tôi vẫn còn nhớ cái cách mẹ chải tóc cho tôi. Độ ấy, mái tóc tôi rất dày. Mẹ đặt ngón cái bàn tay trái ngay giữa đôi chân mày của tôi, lần ngón trỏ của bà đến giữa đỉnh đầu của tôi. Sau đó, mẹ kéo chiếc lược từ ngón trỏ đến gặp ngón cái, như thể mẹ đang kéo một đoạn thẳng từ hai điểm chuẩn ấy; mẹ muốn chia đôi mái tóc tôi để chải thành hai mái. Tôi chưa bao giờ phải thắc mắc gì về công việc của mẹ.

Nhiều bận, tôi té ngãkhi chơi đùa, trở về nhà rên khóc rồi báo với mẹ rằng vết thương chảy máu. Cũng với đôi bàn tay ấy, mẹ dịu dàng rửa sạch vết thương rồi khéo léo băng bó cho tôi cẩn thận.

Thật chẳng may, tôi tình cờ phát hiện ra rằng cũng có một số vật mà đôi tay mẹ không nhận biết được. Tôi tìm thấy xác một con chim nhỏ nằm chết bên vệ đường trước cửa nhà. Tôi nhặt nó lên và mang vào nhà khoe với mẹ. “Mẹ xem con nhặt được cái gì nào.” Tôi cầm tay cho mẹ chạm vào xác chim trong lòng bàn tay tôi. “Cái gì thế con?” Lướt nhẹ ngón tay trên xác con vật tội nghiệp, mẹ chợt run giọng hỏi lại một lần nữa. “Cái gì thế này?”

“Một con chim nhỏ đã chết.” Tôi trả lời thật vô tư. Mẹ chợt giật bắn mình, thét lên và rụt nhanh tay lại. Mẹ quát bảo tôi lập tức mang xác con chim ra ngoài, và cấm tôi từ đó trở về sau không được để cho mẹ chạm vào một vật như thế nữa.

Chưa bao giờ tôi có thể lường hết năng lực cảm nhận từ đôi tay, mũi và bàn tay của mẹ. Có lần, tôi ghé mắt vào bếp, thấy mẹ đặt một đĩa bánh bích quy lên bàn. Tôi lẻn vào, nhón tay lấy một cái bánh, liếc mắt dò xét phản ứng của mẹ. Mẹ không có phản ứng nào cả. Dĩ nhiên, chỉ cần không để mẹ chạm tay vào, chẳng có cách nào mẹ biết được tôi đang làm gì, tôi hí hửng nghĩ thầm trong bụng. Tôi đã không lường được thính giác nhạy bén của mẹ. Ngay khi tôi lách qua người mẹ, mồm ngập đầy bánh, mẹ chụp chúng tay tôi: “Karrey, lần sau nếu con muốn ăn bánh, hãy hỏi xin mẹ trước.” Mẹ nghiêm giọng. “Con sẽ có được những gì con muốn, chỉ cần xin phép mẹ trước.”

Tôi có một người anh, một người chị và một đứa em trai, không ai trong chúng tôi có thể lý giải được bằng cách nào mẹ lại biết đích xác, vào một thời điểm xác định, đứa con nào của mẹ đang làm một điều gì đó trong ngôi nhà. Có lần, anh tôi mang một con chó vô chủ về nhà, anh ấy lén lút đưa chó lên phòng mình. Chỉ một vài phút sau, mẹ đã lần bước lên lầu, mở cửa phòng anh ấy và yêu cầu mang chú chó ra khỏi nhà. Chúng tôi hết sức kinh ngạc, không hiểu vì sao mẹ lại biết được sự hiện diện của chú chó ấy trong nhà.

Khi đã lớn hơn, tôi nhận ra rằng mẹ đã quan tâm chăm sóc chúng tôi với tất cả khẳ năng mẫn cảm đặc biệt của mình. Không sử dụng đôi mắt, các giác quan còn lại của mẹ đã phát triển cực kỳ tinh nhạy giúp mẹ cảm nhận được các sự vật quanh mình. Sau đó là tiến trình phân tích và tổng hợp các sự kiện đã được cảm nhận để định hình nên một kết luận về bức tranh toàn cảnh của vấn đề. Thường thì những kết luận của mẹ đều chính xác. Để phát hiện được chú chó trong nhà, hẳn là mẹ đã nghe được tiếng vuốt của nó gõ trên nền phòng của anh tôi rồi đoán ngay ra được vấn đề.

Hãy nói về năng lực khứu giác của mẹ. Mũi của mẹ cực kỳ thính nhạy! Có lần, tôi mời bạn mình đến nhà cùng chơi, tôi lẻn vào phòng mẹ lấy nước hoa xức cho búp bê. Tôi đã phạm phải một sai lầm là vô ý xuống bếp tìm hỏi mẹ về một chuyện gì đấy. Ngay lập tức, mẹ nghiêm giọng bảo tôi không được vào phòng mẹ và sử dụng nước hoa của mẹ mà không xin phép trước.

Còn đôi tai của mẹ. Chúng phát hiện những hoạt động của bọn trẻ chúng tôi một cách tài tình. Có một tối, khi làm bài tập ngoài phòng khách, tôi chỉnh nhỏ âm thanh ti vi để đón xem chương trình thể thao. Mẹ bước vào phòng khách đã hỏi ngay: “Karrey, con định làm bài tập hay xem ti vi đấy?” Thế là tôi phải quay trở lại với bài học của mình. Sau này, tôi có hỏi mẹ nguyên nhân nào khiến mẹ biết đích xác chính là tôi đang có mặt trong phòng khách vào lúc ấy. “Dĩ nhiên là mẹ biết, cưng của mẹ!” Mẹ xoa đầu tôi. “Dù con đã được nạo V.A, con vẫn không thôi thở bằng miệng. Mẹ ‘nghe được’ con đấy, con gái của mẹ!”

Mẹ cũng có được khả năng định hướng rất tuyệt vời. Bố tôi có mua cho mẹ một chiếc xe đạp hai yên, anh em chúng tôi thay phiên nhau lấy xe đưa mẹ đi chơi. Tôi ngồi ở yên ghế trước, giữ tay lái và đạp xe, mẹ ngồi ở yên ghế sau. Hầu như mẹ luôn biết được xe chúng tôi đang đi đến đâu và chỉ ra phương hướng một cách tự tin. Mẹ cũng không bao giờ nhầm lẫn khi xe chúng tôi đang tiến tới một giao lộ, và luôn nhắc nhở tôi cẩn thận khi nghe tiếng xe ô tô từ xa.

Và làm thế nào mà mẹ có thể biết được đứa con gái chín tuổi của mẹ không chịu kỳ cọ cẩn thận trong lúc tắm rửa? Tối hôm ấy, tôi mang đồ chơi vào phòng tắm, đùa nghịch với sân chơi dưới nước. “Karrey, con không quên cọ mặt, tai hay cổ gì đó chứ?” Mẹ nói vọng vào. Lần ấy, tôi đã quên thật; nhưng làm sao mà mẹ có thể biết được nhỉ? Dĩ nhiên, một cô bé đùa vui với đồ chơi trong bể tắm sẽ không buồn nhớ đến việc kỳ cọ thân thể. Về sau, tôi hiểu rằng mẹ sử dụng cả “con mắt trí tuệ” để có thể chăm sóc chúng tôi.

Tuy vậy, vấn đề bọn trẻ chúng tôi vẫn luôn bận lòng là mẹ chẳng bao giờ được nhìn thấy hình dạng của chúng tôi. Một hôm, lúc ấy tôi vào khoảng 17 tuổi, đang đứng chảy đầu trước gương, tôi xoay đầu hỏi mẹ: “Mẹ thực sự không biết con của mẹ trông như thế nào, phải không mẹ?”

“Dĩ nhiên làmẹ biết chứ!” Mẹ tiếp tục vuốt ve mái tóc buông dài sau lưng tôi. “Mẹ biết con trông ra sao ngay từ lúc người ta đặt cái hình hài nhỏ bé của con vào tay mẹ. Mẹ cảm nhận từng phân từng ly trên cơ thể con, cảm nhận cái mạch sống đang phập phồng trên tay mẹ khi mẹ chạm vào đỉnh đầu con. Mẹ biết tóc con vàng vì bố con bảo với mẹ như thế. Mẹ biết mắt con xanh biếc vì họ đã nói với mẹ như thế. Giờ đây, mẹ biết con gái mẹ rất xinh đẹp bởi vì người ta khen con trước mặt mẹ. Nhưng mẹ thực sự biết rõ con gái mẹ là người như thế nào – mẹ muốn nói đến con người thật sự bên trong con.” Tôi cúi đầu, mắt nhoà lệ.

“Mẹ biết con mạnh mẽ và dẻo dai vì con thích đến sân quần vợt. Mẹ biết bản chất con nhân hậu vì mẹ nghe con trò chuyện với con mèo và lũ trẻ con. Mẹ biết con gái mẹ có một trái tim dịu dàng. Mẹ biết rằng con có cá tính mạnh vì con có đủ nghị lực để tự đứng ra bảo vệ lấy ý kiến của mình. Mẹ biết con gái của mẹ giàu lòng nhân ái vì mẹ quan sát cái cách con đối xử với mẹ. Mẹ biết con là người có trí tuệ vì con biết tự rèn luyện mình một cách chín chắn và khôn ngoan so với một cô gái ở độ tuổi của con. Mẹ cũng biết rằng con có khát vọng của riêng mình vì mẹ cảm nhận được tính khí của con, và mẹ biết rằng sẽ không ai có thể ngăn cản con làm những gì con cho là đúng. Mẹ biết con lo cho gia đình vì mẹ đã từng nghe con lên tiếng bảo vệ anh chị em trong nhà. Mẹ biết con giàu lòng yêu thương vì con không ngại biểu lộ tình yêu của con đối với bố mẹ. Con chưa bao giờ ra vẻ một người con gái kém may mắn vì có một bà mẹ mù loà. Thế đấy, cưng của mẹ,” mẹ kéo tôi vào vòng tay. “Mẹ nhìn thấy con và mẹ biết đích xác con là người như thế nào. Với mẹ, con là một cô con gái rất xinh đẹp.”

Mười năm đã trôi qua, và giờ đây tôi đã là một người mẹ trẻ. Khi người ta đặt đứa con trai bé bỏng vào tay tôi, tôi nhìn ngắm nó và chợt hiểu rõ hơn những lời mẹ nói ngày xưa, tôi nhận ra con trai tôi đẹp đến nhường nào. Chỉ khác với mẹ tôi, tôi có thể nhìn ngắm con tôi bằng mắt. Nhưng đôi khi tôi vẫn muốn được ôm con trong bóng tối, vuốt ve làn da mịn màng của nó, để âm thầm cảm nhận những gì mẹ tôi đã nói.

Karrey Janvrin Lindenberg

Những lá thư thương yêu

    Từ lúc mỗi con tôi bắt đầu đi học là tôi bắt đầu sửa soạn bữa ăn trưa cho các cháu mang theo. Kèm theo bữa ăn trưa là một mẩu thư nhỏ thường là viết trên khăn giấy. Nào là cám ơn con về một khoảnh khắc đặc biệt nào đó, nào là nhắc lại một điều gì đó mà cả hai mẹ con đều đang hồ hởi mong đợi, nào là lời động viên cho một kỳ thi hoặc thi đấu thể thao sắp tới. Những năm ở tiểu học thì các cháu rất thích những lá thư nhỏ ấy- sau khi ở trường về là các cháu nói ngay với tôi về những lá thư cháu đã nhận. Thậm chí khi tôi đi dạy trở lại thì chính các cháu để những lá thư nhỏ vào bữa ăn trưa mang theo của tôi.

    Nhưng khi các cháu lớn lên thì chúng trở nên ngượng ngùng khi bày tỏ tình cảm, vì vậy khi Marc, con trai đầu lòng của tôi, vào bậc trung học thì cháu không còn cần đến những lá thư nhỏ hàng ngày của tôi nữa. Nhưng tôi bảo cháu những lá thư ấy được viết không phải chỉ cho cháu mà cả cho tôi nữa, và dù cháu không cần đọc chúng nhưng tôi vẫn viết chúng, thế là tôi vẫn tiếp tục cái nếp ấy cho đến khi cháu tốt nghiệp trung học.     Sáu năm sau khi tốt nghiệp bậc trung học, Marc gọi điện về nhà hỏi cháu có thể về nhà nghỉ ngơi một vài tháng không.

    Cháu vừa tốt nghiệp đại học hạng tối ưu, hoàn tất xuất sắc hai hội nghị ở Washington D.C. đạt học bổng Jesse Marvin Unruh vào học trường luật của bang Caliíornia và rồi trở thành phụ tá văn phòng luật sư ở Sacramento. Cháu vẫn thường sống xa nhà ngoại trừ những lần về nghỉ thật ngắn. Em gái cháu lại sắp vào đại học xa nhà nên tôi rất mừng và mong Marc về nghỉ ở nhà. Sau vài tuần nghỉ ngơi lấy lại sức, viết lách chút ít Marc lại tiếp tục đi làm lại- cháu được nhận vào làm một trong những người tổ chức chiến dịch vận động tranh cử. Do mỗi ngày tôi đều soạn bữa trưa mang theo cho em trai cháu học ở trung học nên tôi cũng soạn luôn cho Marc. Các bạn không thể tưởng tôi đã ngạc nhiên đến chừng nào khi cậu con trai lớn 24 tuổi của tôi gọi điện về phàn nàn về bữa ăn trưa tôi soạn:

    - Mẹ ơi, con có lắm lỗi gì không vậy? Con không còn là con mẹ nữa sao? Mẹ không còn thương con nữa sao mẹ?

    Đó là những câu hỏi cháu tuôn ra với tôi trong khi tôi vừa cười vừa hỏi thăm lý do tại sao cháu lại nói vậy, có chuyện gì đã xảy ra? Cháu bèn trả lời:

Thư của con đâu mẹ? Những lá thư mẹ vẫn kèm theo bữa ăn trưa đâu mẹ?

   Năm nay con trai thứ của tôi- em Marc, cũng sẽ học lớp cuối bậc trung học. Cũng như các anh chị, cháu bảo là cháu đã lớn không cần đến nhưng lá thư nữa. Nhưng cũng giống như các anh chị cháu trước đây, cháu sẽ nhận những lá thư tôi viết kèm theo bữa ăn trưa cho đến khi cháu tốt nghiệp bậc trung học- cũng như bất kỳ bữa ăn trưa nào do tôi soạn cho cháu.     Antoinette Kuritz

Thương yêu là hành động

     “Nếu mình không bao giờ có nó nữa, mình cũng chằng tiếc!”- Tôi nghĩ và thấy mắt mình nhòe đi khi đứng trong tiệm giặt là. Tôi đang chờ nhận lại quần Jeans và áo sơmi của Brett- đứa em con của mẹ kế của tôi. Nó 16 tuổi, nghịch phá hết thứ này đến thứ khác. Và bộ quần áo mới này của nó đã thủng lỗ chỗ và đầy vết thức ăn.

    Mệt. Chán. Tôi ngồi bệt xuống sàn, chờ người ta là lại quần áo một lần nữa. Mà quần áo đâu đã là gì. Brett đã phá hỏng hết giấy dán tường. Ga giường của nó chỉ thọ được một tuần từ ngày tôi bỏ cả một buổi chiều để đi mua. Cửa sổ đã phải sửa vài lần vì nó… phá cửa trốn đi bụi! Nhưng không có gì có thể sánh được sự mệtmỏi về tinh thần mà Brett gây ra cho cuộc sống bình lặng của tôi.

    Tôi biết Brett cần được quan tâm. Bố mẹ Brett cũng ly dị và mẹ Brett lấy bố tôi khi nó mới 12 tuổi. Nhưng hoàn cảnh tôi nào có khác gì? Mà tôi cũng thường xuyên cầu nguyện cho nó được hạnh phúc đấy chứ! Tôi vẫn nhớ câu: “Hãy yêu thương cả người hàng xóm của bạn”. Tôi thấy hoàn toàn có thể yêu thương hàng xóm của tôi, nhưng sao thấy khó yêu thương đứa em “ngoại tộc” này quá.

    Nhưng trong suốt bốn năm vừa rồi, tôi đã cố ý đối xử với Brett kiên nhẫn hết sức có thể. Nhưng Brett chưa bao giờ thay đổi cách sống quái quỷ của nó. Và trong lòng, lúc nào tôi cũng mong ước: “Giá như mình không phải gặp nó trong nhà mình nữa. Mình không chịu nổi nó nữa rồi!”.

    Khi Brett 18 tuổi, nó quậy phá trong một party rồi bị cảnh sát bắt. Sau đó thì bị gửi tới một trường dạy nghề đặc biệt dành cho học sinh “có vấn đề về tâm lý”.

    Chế độ của trường này rất khắt khe. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, trong số hơn 30 học sinh của lớp, Brett là một trong 5 người đủ điểm tốt nghiệp.

    Vào buổi lễ tốt nghiệp, Brett được biểu dương và lên phát biểu trước toàn trường. Nó còn được đưa cho một bông hoa hồng để tặng cho người nào mà nó coi là có ý nghĩ với nó nhiều nhất.

    Brett cảm ơn các thầy cô giáo, rồi cảm ơn bố mẹ, cuối cùng là hướng về phía… tôi: “Tôi cũng muốn cảm ơn người chị, con của bố dượng tôi. Chị ấy luôn ở cạnh tôi, dù có chuyện gì xảy ra. Đối với bố mẹ tôi thì tôi là con của họ, và họ có trách nhiệm với tôi. Nhưng chị ấy thì bị “gắn” với tôi mà không mong đợi. Vậy mà chị ấy vẫn luôn cho tôi thấy chị ấy thương yêu tôi đến mức nào. Và tôi cũng yêu thương chị ấy y như thế!”.

    Tôi đứng lặng đi khi Brett tiến về phía tôi, đặt bông hoa hồng vào tay tôi và ôm tôi rất chặt. Tôi nhận ra rằng dù tôi luôn đấu tranh thầm lặng với sự “oán hận” của mình đối với Brett, nhưng nó chỉ nhìn thấy những gì tôi đã làm cho nó. Yêu thương là hành động. Có thể chúng ta không hoàn toàn có những suy nghĩ tốt đẹp về một số người nhất định. Nhưng chúng ta vẫn có thể yêu thương họ.

Và tôi đã bật khóc...

Meg Hill

Tôi đã không bật khóc khi được biết con tôi là một đứa trẻ bị bệnh tâm thần. Tôi vẫn ngồi im và không nói gì khi vợ chồng tôi được thông báo rằng Kristi đứa con hai tuổi của chúng tôi - đúng như chúng tôi đã nghi ngờ – thật sự bị chậm phát triển trí não.

"Cứ khóc đi," bác sỹ khuyên tôi thân ái. "Nó giúp tránh được các khủng hoảng về tâm lý." Những khủng hoảng tâm lý không xảy ra, tôi không thể khóc trong những ngày tháng tiếp theo. Chúng tôi đăng ký cho con vào trường mẫu giáo khi cháu được bẩy tuổi.

Thật dễ bật khóc khi tôi để con mình ở lại trong căn phòng toàn những đứa trẻ năm tuổi đầy tự tin, háo hức, nhanh nhẹn. Kristi đã chơi một mình ở nhà rất nhiều giờ, nhưng vào bữa đó, khi cháu là đứa khác biệt hẳn giữa hai mươi đứa trẻ khác, có lẽ lúc đó là lúc cháu nó cảm thấy cô đơn nhất. Mặc dù vậy, những điều tốt đẹp hơn cũng dần dần tới với Kristi và những bạn cùng lớp của cháu. Khi khoe về mình, những đứa bạn của Kristi cũng cố gắng khen thêm: "Hôm nay Kristi đã đọc tất cả các chữ chính xác." Không đứa trẻ nào nói thêm rằng những chữ mà Kristi phải đọc dễ hơn nhiều so với các bạn khác.

Trong năm thứ hai ở trường, cháu nó gặp một trường hợp rất khó khăn. Một cuộc thi lớn cho học sinh về năng khiếu âm nhạc và thể thao. Kristi lại rất kém về âm nhạc và khả năng vận động. Vợ chồng chúng tôi cũng rất sợ khi nghĩ đến ngày đó.

Hôm đó, Kristi tính giả bộ bệnh. Tôi cũng muốn liều để cho cháu ở nhà. Tại sao phải để cho Kristi thua trong một phòng thể thao ngập những phụ huynh, học sinh và thầy cô giáo? Cách giải quyết đơn giản nhất là để cháu ở nhà. Chắc chắn rằng vắng mặt trong một chương trình như vậy cũng không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng lương tâm tôi không cho phép tôi đầu hàng dễ dàng như vậy. Và cuối cùng thì tôi phải đẩy Kristi - lúc đó đã tái nhợt và rất miễn cưỡng - lên xe học sinh và chính tôi lại giả bộ bệnh.

Nhưng một khi tôi đã ép con gái mình tới trường, thì tôi cũng phải ép mình tới tham gia chương trình. Dường như thời gian kéo dài tới vô tận khi chưa tới nhóm của Kristi trình diễn. Cuối cùng thì chúng cũng tới lượt, khi đó tôi biết Kristi rất lo sợ. Lớp của cháu được chia thành từng nhóm. Với những động tác ì ạch, chậm và lóng ngóng, chắc chắn cháu sẽ làm đội kém điểm.

Cuộc thi đấu lại diễn ra rất suôn sẻ một cách đáng ngạc nhiên, cho đến khi cuộc thi chạy trong bao tải. Mỗi đứa trẻ phải nhảy vào trong bao từ tư thế đứng, ôm bao nhảy đến đích, quay vòng lại nơi xuất phát và nhảy ra khỏi bao.

Tôi thấy Kristi đứng gần cuối hàng và trông có vẻ hoảng loạn.

Nhưng khi gần tới lượt Kristi, có một thay đổi trong đội của cháu. Cậu con trai cao nhất trong đội đứng ra sau Kristi và đặt hai tay lên eo của cháu. Hai đứa con trai khác đứng lệch ra phía trước của cháu. Khi đứa trẻ trước Kristi nhảy ra khỏi bao, hai đứa con trai đằng trước giữ bao trong khi đứa con trai đằng sau nhấc Kristi lên và đặt cháu chính xác vào trong bao. Đứa con gái đứng đằng trước Kristi giữ tay cháu và giúp cháu giữ thằng bằng. Cuối cùng cháu cũng bắt đầu nhảy, mỉm cười và tự hào.

Giữa tiếng hoan hô cổ vũ của các giáo viên, học sinh và phụ huynh, tôi đã cảm ơn trời vì những con người tốt bụng kia có mặt trong cuộc đời đã giúp cho đứa con gái khuyết tật của tôi có thể cảm thấy mình như là một con người thật sự.

Và tôi đã bật khóc.

Vòng tay hoàn hảo

Nhóm giáo viên và nhân viên hành chánh lần lượt bước vào hội trường. Đó là một căn phòng lớn, khá dài được bao quanh bởi những bức tường nhạt màu trần trụi mà ta thường t ấy tại trường học, nhà thờ và các tổ chức phi kinh tế.

Bức tường đối diện với cử toạ có treo một là cờ bên trên một tấm bảng đá. Căn phòng lớn ấy được phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau: làm phòng học, phòng hội họp, phòng tổ chức lễ lạc,tiệc tùng cho ngôi trường cao đẳng nhỏ bé và cổ xưa này.

Tôi được mời đến để giới thiệu và tổ chức thực tập về phương pháp dạy học mới cho một số giáo viên tại địa phương. Vào thời điểm ấy, tôi là một ông bố độc thân đảm nhận toàn bộ trách nhiệm nuôi dạy hai đứa con nhỏ: Shayne, đứa con gái bảy tuổi và Ethan, một thằng bé mới lên năm. Hôm ấy là ngày nghỉ học, tôi đã thu xếp để người trông trẻ coi sóc hai đứa nhỏ trong thời gian tôi đi thuyết giảng. Thật không may, vào phút cuối tôi nhận được điện báo rằng người trông trẻ bận việc đột xuất. Vì thế, tôi quyết định mang hai đứa trẻ cùng đi với tôi. Dù sao đi nữa, bọn trẻ cũng đã từng là thính giả bất đắc dĩ trong nhiều buổi thuyết giảng của tôi, chúng biết phải ngồi yên và chơi trong yên lặng.

Shayna mang theo sách vở, dụng cụ vẽ, bộ búp bê Barbie và vô số phụ tùng đi kèm; Ethan mang theo bộ lắp ráp hình, những chú lính đồ chơi cùng với toàn bộ vũ khí và trang thiết bị của chúng. Bọn trẻ ôm đồ chơi xuống bàn cuối phòng, quay lưng về phía cử toạ, im lặng ngồi chơi một cách say mê.

Buổi học diễn ra rất sôi nổi, đa số giáo viên tham dự đều hưởng ứng bài giảng rất tích cực và nhiệt tình. Tôi bắt đầu trình bày phương pháp giảng dạy rồi tổ chức chia nhóm để tiến hành thảo luận.

Tại thời điểm thảo luận, một cô giáo giơ tay phát biểu: “Tôi vẫn chưa nắm rõ ý kiến của thầy về cách ôm ấp và vỗ về trẻ?”

“Xin cô cho biết rõ hơn về khía cạnh mà cô đang quan tâm.” Tôi đề nghị.

“Thế này, tôi đang dạy lớp 4 và cả lớp 5 tại một trường tiểu học. Đôi khi tôi cũng muốn ôm trẻ vào lòng, đặc biệt đối với những em có hoàn cảnh đặc biệt đáng được quan tâm. Theo thầy, một hành động như thế có thích hợp hay không?”

“Thực tế, chúng ta đang sống trong một thế giới kỳ lạ,” tôi cố gắng diễn đạt ý của mình. “Ôm ấp là một tình cảm rất tự nhiên, nó mang tính tự phát. Đặc biệt, đó cũng là một hoạt động hết sức cần thiết mà ta có thể làm cho trẻ khi chúng đang đau đớn, sợ hãi hay tuyệt vọng. Tuy nhiên, con người chúng ta luôn phải lo ngại về hoạt động tiếp xúc cơ thể quá gần gũi này. Đáng buồn là đã có không ít trường hợp, theo nhiều nguồn tin từ các cơ quan thông tin đại chúng, người lớn đã tiếp xúc cơ thể trẻ em một cách bất cẩn, thậm chí xúc phạm và phương hại đến sức khoẻ, tâm lý và mạng sống của trẻ. Vì thế, việc đưa ra những hướng dẫn hữu ích cũng như làm rõ những giới hạn cần có trong quan hệ giao tiếp với trẻ là một điều hết sức cần thiết. Vâng, để trả lời câu hỏi vừa rồi của cô, tôi có thể nói rằng ôm ấp trẻ để vỗ về và an ủi chúng là một việc làm đáng được hoan nghênh.”

Tôi bình luận thêm. “Các bạn cũng biết đấy, khi người lớn ôm nhau, họ luôn có ý thức về bản thân khi tiến hành hoạt động ấy. Họ dành một phần tâm trí để quan tâm đến sự kiện tiếp xúc ấy, đồng thời họ dành phần còn lại để nghĩ về chuyện khác, chẳng hạn như tự hỏi rằng: ‘Không biết người trong vòng tay mình có hiểu vì sao mình lại ôm họ hay không?’, hay có thể là ‘Không biết họ đang nghĩ gì khi ôm mình trong vòng tay như thế này?’. Hoặc ‘Không biết người ngoài sẽ nghĩ gì khi thấy hai người chúng tôi ôm nhau như vậy?’, và thậm chí là (tôi thêm vào một ý để tạo không khí thoải mái) ‘Không biết mình có trả nổi món nợ cho họ hay không?’” Cả hội trường bật cười lên.

“Bởi vì người lớn chúng ta đã trải qua đủ loại kinh nghiệm sống, chúng ta ôm nhau, mang theo toàn bộ kiến thức tích luỹ trong đời, cùng với nhưng tình cảm đang phát sinh trong lòng chúng ta vào thời điểm ấy. Hơn thế nữa, chúng ta còn có thói quen lo lắng, suy tính, dự trù, mong đợi về cái kết quả mà hoạt động tình cảm ấy mang đến. Có rất nhiều, quá nhiều rào cản tâm lý ngăn chúng ta thực hiện một vòng tay ôm trọn vẹn và chân tình. Tôi rút ra một nhận thức như vậy từ những kinh nghiệm mà tôi có được với hai đứa trẻ đang ngồi chơi ở cuối phòng kia.”

Cả hội trường xoay đầy nhìn xuống cuối phòng, hai đứa con tôi vẫn còn ngồi đó, say mê với công việc riêng của chúng. Thính giả quay lại với lời bình luận của tôi.

“Các bạn biết không, mỗi khi tôi trở về nhà, mệt mỏi sau một ngày làm việc, một trong những điều tôi mong đợi hơn cả là vòng tay đón mừng của bọn trẻ. Chúng còn rất thơ dại, ít kinh nghiệm về cuộc đời, và hoàn toàn không cần phải thanh toán bất kỳ một tờ hoá đơn nào cả. Mỗi khi tôi bước vào nhà, cả hai đứa trẻ lao vào lòng tôi và ôm hôn tôi. Đặc biệt là thằng bé út, nó ôm dính lấy tôi, giúi mặt vào cổ tôi, nhũn người ra như sắp tan chảy vào cơ thể tôi vậy. Tôi tin rằng lúc ấy thằng bé chẳng nghĩ gì khác ngoài việc ôm lấy tôi, một vòng tay trọn vẹn, dâng hiến, chân tình và vô tư. Đó là những giây phút tuyệt vời trong đời tôi.”

Tôi nhìn xuống bên dưới cử toạ, có khá nhiều nụ cười, ánh mắt và thái độ đồng tình với cách nhìn vấn đề của tôi. Các nhóm nhỏ bắt đầu trao đổi và tranh luận với nhau cho đến khi chúng tôi tiến hành buổi thực tập.

Hơn một tháng sau, một buổi chiều tôi trở về nhà sau một ngày làm việc cật lực tại trường đại học nơi tôi giảng dạy bộ môn tâm lý giáo dục. Tôi cho xe vào nhà chứa xe, cắp cặp vào nhà qua lối cửa bếp. Cả hai đứa trẻ chạy như bay xuống cầu thang, miệng reo mừng: “Bố! Bố về! Bố về!” Shayna nhào vào lòng tôi, tíu tít cười nói. “Bố ơi! Con mong bố lắm. Bố có biết hôm nay con làm được gì không?”

Dĩ nhiên làtôi rất muốn biết cô con gái cưng của mình đã làm được những gì trong ngày. Bà giúp việc đứng bên cạnh tủm tỉm cười, dừng tay nghe con bé láu táu kể chuyện. Khi dứt câu chuyện, con bé tươi tỉnh đón nhận nụ hôn của tôi rồi chạy biến ra khỏi bếp, trở lại với công trình còn đang dang dở.

Suốt thời gian đó, Ethan chẳng có vẻ gì vội vã. Thằng bé rút vào ngực tôi, ghì chặt lấy tôi, giúi đầu vào cổ tôi. Hơi thở của nó cứ chậm dần, người cứ nhũn ra như bột nhão; cơ thể nhỏ bé của nó như chực tan chảy và hoà lẫn vào cơ thể của tôi. Một lúc sau, thằng bé nhẹ nhàng nhích đầu ra khỏi cổ tôi, tinh nghịch rót những lời thì thầm vào tai tôi:

“Không biết mình có trả nổi món nợ cho họ hay không?”

 Hanoch McCarty

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: