Phiên ngoại 4: Đao Đăng
Đi qua đường nắng khí hậu vô cùng khô nóng. Thông thường trời lúc này sẽ sinh ra ảo giác, ngoài trong xanh ra còn có chút mây dày đặc, cũng cách xa mặt đất hơn.
Lúc ngủ trưa tôi nằm mơ, thấy mình ở một nơi rất gần trời, gió rất lớn, nhưng xung quanh lặng yên như mộ địa. Qua thật lâu tôi loáng thoáng nghe được tiếng chuông gió, tiếp theo là tiếng chim vỗ cánh. Âm thanh càng lúc càng gần, càng lúc càng khó nghe. Có người đang gấp gáp gì đó, lại có giọng ngâm vịnh nho nhỏ, cuối cùng đột ngột xuất hiện một gương mặt già nua trước mắt. Nó không có tóc, giống một mặt nạ quái vật bằng sáp, đau đớn kéo ngoạc mồm như đang gọi. Thứ kinh tởm đó rơi vào người tôi, sau đó tôi cảm thấy thân thể mình bị lay mạnh mẽ....
"An tử, An tử, dậy mau."
Tôi vuốt mặt, phía trước là gương mặt được phóng đại của Lục tử, vị trí của cậu trùng với gương mặt của ông lão trong mơ, khiến tôi có chút trì độn. Tôi ngơ ngác hỏi: "Mấy giờ rồi?"
Lục Tử đưa cho tôi một chén thức ăn nói: "Gần sáu giờ rưỡi rồi, ăn xong thì về đi. Hôm nay cứ như vậy thôi."
Bạch Dực hỏi: "Em nằm mơ à?"
Tôi xoa cằm nói: "Đúng vậy, kỳ quái lắm, nhưng tỉnh lại thì không nhớ rõ nữa. Cảm thấy rất gần trời, cứ như đang giữa không trung."
Bạch Dực cởi áo khoác, nói tiếp: "Chắc do mệt mỏi quá, tối nay ngủ sớm một chút."
Tôi thở dài một hơi, nói: "Lớn tuổi rồi, dạo này chơi game không còn hợp với một trạch nam già cả như em nữa."
Bạch Dực cười gằng nói: "Đêm qua em còn nói mình đang lúc cường tráng, chơi thể nào mà thành đờ đẫn thế."
Tôi không giận, tươi cười nói: "Đến khi nào anh mới thôi tạt nước lạnh vào em?"
Bạch Dực cầm đũa nói: "Em đừng cho anh cơ hội là được."
Tôi nghẹn lời, Lục Tử hắng giọng nói: "Được rồi, hỏi hai người một chuyện, các người biết lý giải phong tục Tây Tạng không?"
Tôi liếc nhìn Lục tử, trả lời lấy lệ: "Không rõ lắm."
Lục Tử thấy tôi và Bạch Dực không muốn nói chuyện, thì bắt đầu mồm miệng liếng thoắng. Tôi thật nghe chẳng lọt tai liền hỏi thẳng: "Rốt cuộc là cậu bày trò gì?"
Lục Tử cười phá lên, cậu ta cười như vậy thì chắc chắn không có chuyện gì tốt cả. Quả nhiên cậu ta như đặc vụ nhích mông đến gần tôi nói: "Là vầy, mình có một người bạn thân, cậu ta làm cho công ty du lịch Tây Tạng."
Lục Tử lấy từ trong đống tài liệu ra một quyển sách nhỏ và vài tờ giấy quảng cáo. Cậu ta nói: "Người anh em à, dạo này làm ăn ế ẩm, chẳng béo bở gì. Mình muốn làm dịch vụ, du lịch Tây Tạng gần đây rất phổ biến, có điều cũng không giống tour nội địa. Nó thích hợp với lượng du khách thích đong đo cân đếm. Đầu tư một chút, bọn họ đối với phong tục Tây Tạng đều rất có hứng thú. Tiền nhanh tới lắm."
Lục Tử đưa sách cho tôi, cậu do dự một chút, cuối cùng thì dày mặt nhét mấy tờ quảng cáo vào tay Bạch Dực. Anh lạnh lùng nhìn thoáng qua rồi đẩy trở lại. Cậu ta thấy vậy đành xấu hổ nhìn tôi nói: "Nhưng muốn đầu tư cũng cần phải khảo sát thực địa. Hợp tác cùng mình còn có ông chủ của người bạn hướng dẫn viên kia. Nên mình thấy chúng ta cũng cần đi công tác, khảo sát một chuyến."
Cuối cùng tôi cũng đã hiểu, kiểu du lịch này phiêu lưu quá lớn, nên phải cần người đích thân trải nghiệm. Tôi hỏi: "Thông thường đều do cậu lo liệu cho khách mà, lần này sao lại dính dáng đến mình?"
Lục Tử uống sạch chén canh nói: "Đâu chỉ mình cậu, không thấy còn 2 vé nữa sao, còn cho cả Bạch Dực nữa, ha ha"
Tôi vừa nghe nhắc đến Bạch Dực cũng muốn đi. Lại nghĩ việc này nhất định có ẩn tình. Chỉ nghe Bạch Dực lạnh lùng nói một cậu: "Tôi không rảnh."
Lục Tử lập tức lộ ra vẻ mặt đáng thương, nói: ""Bạn thân mến à, đừng như vậy, coi như lệ phí cùng nhau du lịch đi."
Bạch Dực nói: "Vậy chúc cậu đi chơi vui vẻ. An Tung, đã không còn sớm nữa, chúng ta về."
Lục Tử thấy thế, liền nhanh chóng kéo tay của tôi, quay sang Bạch Dực nói: "Anh Bạch! Anh nghe em nói.... Lần này có chút chuyện khó nói nho nhỏ ạ."
Bạch Dực cười ha hả vài tiếng, quay lại nhìn tôi, thấy tôi rất khó xử, đang phân vân không biết có đi không.
Lục Tử than vắn thở dài, nói: "Thật ra là thế này, mình có một người bạn lâu năm ở Tây Tạng tên là Daiwa. Cậu ấy làm du lịch, có dạo mình đi công tác gặp lại, nói với cậu ấy muốn giao dịch với du lịch Tây Tạng. Cậu ấy nói có quen một người, tên là SonamWangdui. Dân bản xứ đều gọi ông ta là Sowang, có thể giúp mình tìm tư liệu, hơn hết còn làm hướng dẫn viên. Đó là người Tạng, giờ đang ở Lhasa, chẳng biết làm gì nhưng nguồn vốn rất mạnh. Chúng ta không cần đầu tư nhiều cũng có thể hợp tác rất tốt."
Lục Tử lại lấy ra một xấp tài liệu nói: "Cậu biết rồi đấy, con người của mình khi làm việc luôn thích nghiên cứu tư liệu về giá trị của đối phương hơn. Vì thế mình đã nhờ người thân tính đặc biệt thăm dò người này. Ở gần Sana'a mình có rất nhiều bạn bè. Bọn họ xác nhận quả thật có người như vậy, hơn hết còn rất nổi tiếng, rất giàu có, cũng hơi đứng tuổi rồi nhưng chưa lập gia đình. Nói chung là một thân một mình như không muốn giao du với bất kỳ kẻ nào. Nghe đồn hắn rất nát rượu, thích nhất là uống rượu ngon, là một người rất đặc biệt."
Tôi nói: "Như thế không phải cũng rất bình thường sao?"
Lục Tử nói: "Nghe qua thì rất bình thường, nhưng người cạnh hắn thì không thường đâu. Sau này mình được biết hắn đã kết hôn với ba người phụ nữ, hai trong số đó đã chết, người thứ ba chạy trốn, có người nói chị ta cũng điên rồi. Sau đó thì con của hắn đã chết từ mấy năm trước. Tối kỳ quái là người dân nơi đó lời đồn rất cổ quái, nói người khác tuyệt không thể nào dùng tiền của hắn. Đến Lạt Ma cũng không muốn hắn bố thí, nếu không sẽ gặp chuyện không may. Có người còn kể hắn đã lập ra khế ước gì đó với ác quỷ. Tuy vậy nhưng hắn có rất nhiều tiền, hơn hết không ai dám chạm vào tiền của hắn...."
Tôi cười ha ha nói: "Thế cũng đâu có gì, hay do người kia tên là SonamWangdui sợ người khác ham tiền của mình nên đã tung tin đồn như thế. Người không may đương nhiên vận khí theo thời gian cũng không may. Họa phúc liền kề mà."
Lục Tử lắc đầu nói: "Mình cũng không biết, nhưng thiết nghĩ nếu hai người các cậu cùng đến, như vậy mình yên tâm rồi. Mình sợ khi ấy... gặp phải rắc rối gì đó."
Bạch Dực không nhịn được chen vào, anh vạch trần những toan tính của Lục tử: "Thằng ranh kia, cậu muốn lợi dụng hắn nhưng lại sợ phạm phải chuyện không may? Đúng không? An Tung, chúng ta đi, buổi tối anh còn có việc."
Nói xong liền đi thẳng ra ngoài. Tôi chỉ kịp cầm theo áo khoác rồi rời khỏi tiệm. Lục Tử thấy thế kêu lên: "An tử nói thêm vào chút đi, thì thầm bên gối, anh ấy nhất định sẽ nghe lời cậu. Vố hời đấy!"
Mặt tôi đen lại, giơ ngón giữa lên, đồng thời cũng vớ lấy mấy tờ quảng cáo trên bàn, đối mặt với chuyện được du lịch miễn phí chỉ có ba chữ hơi động lòng. Con người vốn là một sinh vật như vậy mà.
Về nhà, Bạch Dực quả đúng là có chuyện bận. Tôi cầm mấy tờ quảng cáo đi tới đi lui nhìn qua vài lượt. Phong cảnh của Tây Tạng trong đó thật đáng để đầu nhớ mãi.
Bạch Dực thấy tôi rất thích chuyến du lịch này, thì im lặng một lúc lâu mới hỏi: "Em thật sự muốn đi?"
Tôi ngượng ngùng nói: "Không đâu, vả lại em cũng không muốn dây vào phiền phức."
Mặt Bạch Dực lộ ra vẻ xem thường nói: "Cậu ta dây vào phiền phức còn ít sao?"
Tôi cười to nói: "Chiêu bài của Lục Tử đã bị đập bỏ rồi. Có điều lần này chính cậu ta cũng không chắc được, nên mới nói là đi khảo sát. Nếu thế, chúng ta cũng nhân dịp này mà đi một chuyến. Không phải anh có nghĩ phép năm sao, được đi chơi còn không hài lòng?"
Bạch Dực tàn nhẫn nói: "Cũng được, nhưng anh biết, Lục Tử lần nào tìm anh đều chẳng phải chuyện tốt gì. Đáng ghét nhất là thằng ranh kia cứ hay dùng em khống chế anh."
Tôi xấu hổ vờ hắng giọng nói: "Nói cũng không sai, nhưng khó có dịp nào như lần này. Anh thật không muốn đi?"
Bạch Dực ra vẻ không quan tâm nói: "Lúc anh bằng tuổi em đã đi qua rất nhiều nơi. Tây Tạng không phải là chưa đi. Tiểu đồng chí, em dùng thứ khác dụ dỗ anh còn có ít hơn đấy."
Nói xong liền nhích lại gần tôi. Tôi nghe miệng lưỡi của anh thật giống một lão sắc quỷ liền buồn nôn nói: "Vậy đại gia của tiểu đồng chí, sao anh không nói ngày trước đã tham gia Vạn Lý Trường Chinh. Đường Tăng đi thỉnh kinh anh cũng theo. Bỏ đi, nói một câu, cuối cùng là có đi hay không, em cũng không muốn rước lấy phiền phức, cùng lắm thì coi như lãng phí một cơ hội lừa đảo đi."
Bạch Dực suy nghĩ rất lâu nói: "Muốn đi cũng được, nhưng không được dây vào phiền phức, đừng làm anh lo lắng."
Tôi khua tay nói: "OK, anh yên tâm, em không làm chuyện ngốc nghếch đâu. Nếu vậy ngày mai em sẽ báo cho cậu ta biết. Anh cũng chuẩn bị đi."
Bạch Dực bất đắc dĩ nói: "Cứ như vậy, em bảo Lục tử báo thời gian đi cho anh sớm một chút, anh còn phải xin nghỉ."
Quả nhiên, khi tôi nói Bạch Dực đã đồng ý, cậu ta cực kỳ vui vẻ, vừa nói vừa cười, vừa gọi điện thoại đặt vé máy bay, cứ như sợ chúng tôi sẽ đổi ý.
—————
Sau này bé An sẽ hối hận vì quyết định này
-----------------
Hành trình đi Tây Tạng còn phải cò kè thêm bớt. Bất quá chúng tôi đã đoán sai một việc, đó là lúc đáp may bay tốc hành, ba chúng tôi đều say độ cao nghiêm trọng. Lục tử bị nặng nhất, cậu ta choáng váng dữ dội. Chúng tôi không còn cách nào khác, đành phải tìm khách sạn ở lại rồi nhanh chóng mua thuốc chống say độ cao cho cậu ta. Uống vào một lúc mới hồi phục đôi chút, sắc mặt vì thế cũng bớt đi vài phần xấu xí.
Chúng tôi chưa kịp sắp xếp ổn thỏa thì đã có người gõ cửa phòng. Bước vào là một người đàn ông cao lớn mặc áo khoác màu café, da đỏ thâm như khoai lang. Anh ta cầm một túi hồ sơ, nhìn thoáng qua như chủ của một xí nghiệp gia đình ở nông thôn.
Lục Tử thấy anh ta liền đứng lên nói: "Bạn thân, cuối cùng thì cậu cũng đến rồi."
Người đàn ông kia lập tức nhếch mép cười, lúc cười mặt nhăn lại như một bông hoa cúc. Anh ta nói tiếng phổ thông rất lưu loát: "Thương huynh đệ, đã lâu không gặp."
Lục Tử ôm túi dưỡng khí nói với chúng tôi: "Cậu ta là người bạn mình đã kể là muốn cùng nhau làm ăn. Daiwa bọn họ là cố vấn tôi dẫn theo."
Người thương nhân tên Daiwa kia nhìn thoáng qua tôi và Bạch Dực, nói: "À, chào các anh. Thương huynh đệ, tôi phải nói cho cậu một chuyện lớn. Sowang không muốn hợp tác cùng cậu. Lần này phiền phức đây."
Lục Tử a hết nửa ngày hỏi: "Đang làm trò gì thế?"
Daiwa muốn nói lại thôi, lại nhìn thoáng qua chúng tôi. Lục tử bảo: "Nói đi!"
Daiwa nói: "Chuyện có chút bất ngờ. Sowang không chịu gặp tôi, có người đồn hắn đang dần sống kiểu thiên táng. Hắn muốn làm một thiên tán sư."
Lục Tử ôm đầu nói: "Đó cũng không quan trọng, chỉ là việc làm thêm thôi."
Daiwa cười gượng nói: "Không, cậu không biết, chỗ chúng tôi gọi thiên táng sư là 'Đao Đăng' , tuy rất kính trọng bọn họ, nhưng dù sao cũng là giao du với người chết. Bọn tôi sẽ không chủ động tiếp cận những người như vậy. Để làm hướng dẫn viên du lịch thật vô cùng không thích hợp."
Tôi nghe liền hiểu ngay ý của anh ta, cũng giống như chúng tôi vẫn hay kiêng kỵ những người làm quan tài hay mai táng vậy thôi.
Lục Tử lặng yên hít một hơi dưỡng khí, cậu ta gõ bàn nói: "Hắn ta làm chuyện này cũng sống rất tốt mà! Chúng ta vẫn có thể hợp tác. Mình vốn định tìm người có văn hóa mới lạ như vậy. Như thế chắc chắn sẽ có sức hút rất lớn. Nghe một Thiên Tán sư làm hướng dẫn viên thật quá sức hấp dẫn."
Daiwa vội vã lắc đầu nói: "Không được đâu, Đao Đăng là một nghề công đức. Bọn mình không được phép. Mình không muốn sau khi chết đến đại bàng đầu trắng cũng không thèm rỉa một cái."
Tôi nhanh nhảu nói: "Vậy coi như xong rồi, mình thấy chúng ta nên tìm cách hướng dẫn khác thì hơn."
Lục Tử xụ mặt, nói: "Nếu vậy chúng ta cứ đến gặp Sowang kia trước, xem thử hắn chịu nghe đề xuất của mình không."
Daiwa ngờ vực hỏi: "Thương huynh đệ, tại sao anh bỗng muốn làm chuyện này thế?"
Lục Tử hắng giọng: "Tôi làm ăn không muốn bỏ ngang nửa chừng. Nếu không kiên nhẫn sẽ mất rất nhiều cơ hội."
Daiwa nghe xong thì gật đầu tán đồng nói: "Thương huynh đệ quả nhiên kiến thức bất phàm, tuổi còn trẻ mà đã có tinh thần như vậy. Được rồi, tôi hỏi thăm giúp cậu, các cậu chờ tin của tôi."
Lục Tử để túi dướng khí xuống, đưa Daiwa ra ngoài, khi trở vào vẻ mặt cậu ta không còn bình tĩnh như trước nữa. Cậu ta than thở nói: "Là gì thế, bỗng nhiên mặc kệ. Mình nghĩ hẳn phải có người giới thiệu. Tiền vốn không lưu thông được thì sao?"
Tôi cười khẩy nói: "Còn giả vờ, Daiwa còn cho cậu là thương nhân trẻ tuổi đầy hứa hẹn nữa kia."
Bạch Dực cũng nói: "Nếu vậy thôi cứ rút lui là được."
Lục Tử cắn môi nói: "Thám thính trước đã...."
Tôi và Bạch Dực không có suy nghĩ như Lục tử, chỉ đơn thuần là đi chơi. Vốn muốn dạo quanh Lhasa từ lâu, nên nghĩ thầm chờ khi Lục Tử hết hy vọng thì có thể thảnh thơi vui vẻ tìm mấy con đường, đi dạo một chút.
Đến chợ Pargor, uống trà bơ, ăn lưỡi bò hấp. Dọc đường Bạch Dực còn giới thiệu cho tôi nghe vài nét đặc sắc của dân tộc Tạng. Buổi chiều chúng tôi về lại khách sạn, Lục tử mặt đầy lo lắng nói: "Cuối cùng các cậu cũng đã về. Sao mình gọi điện mãi mà không nghe?"
Tôi bỗng nhớ đến là mình đã đưa điện thoại cho Bạch Dực, liền liếc nhìn anh một chút. Anh làm vẻ như mình chẳng biết gì nhìn chúng tôi. Tôi thành thật nói: "Chắc không gọi được. Sao thế?"
Lục tử nói: "Đi, Chúng ta đến gặp Sowang, hắn đã đồng ý tiếp rồi."
Tôi và Bạch Dực cùng nhìn nhau, Lục tử nói: "Dường như tâm trạng hắn không ổn định."
Nói xong ba người chúng tôi liền chuẩn bị lên đường. Lộ trình vô cùng xa, là ở huyện Biru của địa khu Nagqu, giữa núi Ghangla và Nyainqêntanglha thuộc phía bắc Tây Tạng, trong lòng cao nguyên Thanh Tạng. Xuất phát từ Lhasa vào buổi chiều, chúng tôi phải đi hết hai ngày rưỡi mới đến nơi. Daiwa dẫn đường cho chúng tôi, anh ta là người Tạng, rất quen thuộc với tuyến đường này. Cũng chỉ có anh ta và Bạch Dực là còn khỏe mạnh, dọc đường thỉnh thoảng trò chuyện vài câu. Nhìn lại tôi và Lục Tử thì chẳng còn chút sức lực nào nữa.
Daiwa nhìn các dãi núi xung quanh, anh ta nói: "Lúc trước tôi cũng là dân chăn nuôi, sau thì kinh doanh. Đôi lúc nghĩ lại luôn cảm thấy xấu hổ, không thể sống cả đời ở núi cao cũng là một cái tội."
Bạch Dực nói: "Rất nhiều người cũng rời khỏi đại sơn, nhưng sau cuối vẫn muốn quay về."
Daiwa nhìn Bạch Dực, đưa ra hàm răng trắng tươi nói: "Thương huynh đệ nói quả không sai, nhị vị đúng là nhân vật rất lợi hại. Ngày trước cũng có một vị Đạt Ma nói với tôi câu đó, không ngờ Bạch huynh đệ tuổi còn trẻ đã có thể nói được như như vậy."
Bạch Dực nhìn Lục Tử nói: "Thằng ranh kia nói gì về chúng tôi?"
Daiwa vừa mở miệng thì Lục tử đã vội vã chen vào: "Tôi nói hai người đấy, không mệt sao, còn sức thì giữ lại đi."
Bạch Dực lạnh lùng nhìn Lục tử khiến cậu ta rất khó chịu, nói: "Vậy thì, Daiwa, cậu nói về người tên Sowang này đi."
Mặt Daiwa thoáng trầm xuống, cậu không trả lời mà hỏi ngược lại: "Các người có tin vào quả báo không?"
Tôi và Bạch Dực cùng lúc mở miệng: "Tin"
Lục Tử nhìn chúng tôi, miễn cưỡng nói: "Tôi cũng... tin."
Daiwa hơi gật đầu nói: "Hắn không cho phép tôi kể với người khác. Hắn vốn đã đồng ý hợp tác với các người. Nhưng không biết vì sao lại làm Đao Đăng. Tôi không thể nói cho các người biết được, nếu không sẽ gặp quả báo."
Tôi thấy sắc mặt của Bạch Dực bắt đầu có chút biến đổi kỳ lạ. Tự tôi cũng bắt đầu cảm thấy hình như càng lúc càng phức tạp. Lục tử thấy chúng tôi đều trầm mặc liền có ý kéo câu chuyện sang hướng khác. Càng kéo càng tốn sức, cuối cùng cũng từ từ nhắm hai mắt lại, đắp áo khoác giả vờ ngủ.
------------
Cuối cùng chúng tôi cũng đi qua những dãi núi, đợi đến nơi cũng là lúc chạng vạng tối. Ánh dương vàng vỡ vụn chiếu vào vách đại sơn có vẻ trang nghiêm đặc biệt. Đó là cực hạn của tĩnh lặng, là sự yên tĩnh hư vô sâu thẳm trong tâm hồn.
Chúng tôi trọ tại một nhà khách do người địa phương mở. Nơi này rất đơn sơ, trong phòng vô cùng tối, chẳng hiểu sao họ lại không mở đèn. Chúng tôi sắp xếp ổn thỏa, uống một cốc trà bơ mới cảm thấy ấm áp đôi chút. Lục tử cầm cốc trà đưa lên mũi ngửi, nói: "Mẹ nó, xa kinh thật, gặp mặt quả chẳng dễ dàng gì."
Daiwa uống cạn cốc trà nói: "Chúng ta đợi một chút rồi gặp hắn ngay. Hắn đang đợi đấy."
Thế là chúng tôi ăn vài cái bánh dày[1] rồi đến chỗ của Sowang.
Hắn ở nơi rất hẻo lánh phải mất một lúc lâu mới tìm được. Nhà của Sowang nhìn vô cùng khác biệt, so với không gian quanh đó có vẽ vượt trội hơn hẳn. Rèm cửa bằng thảm lông cừu thượng hạng, còn có màn chắn gió bằng da dê dày. Nhưng xà nhà ở đây khiến tôi khó chịu. Tóm lại tôi không muốn làm trụ nhân[2] cho căn nhà này. Xung quanh không có hàng xóm, đó chỉ là một căn nhà lẻ loi, được vây lại bởi tường đất, phía sau là đại sơn màu xanh xám, cứ như bất cứ lúc nào cũng có thể nuốt chửng lấy ngôi nhà này vậy.
Ống khói phả ra khói đen, hòa lẫn trong đó là mùi của bánh bột nếp, nhưng khi ngửi kỹ còn có một mùi tanh khác lạ. Tôi phát hiện khung cửa đều là dầu, nơi nơi dường như đều được bôi một lớp dầu đặc.
Chúng tôi gõ cửa, tiếp theo là bước vào nhà theo nghi thức của dân tộc Tạng. Bên trong rất bừa bãi, trên tường còn đang treo một bức Tangka[3], đồ đạt được đặt tùy tiện gần đó, xung quanh tỏa ra mùi ẩm mốc khó chịu.
Khác với tưởng tượng của chúng tôi, Sowang là một người đàn ông rất gầy, da cũng rất đen. Hắn mặc Tạng bào màu lam, ngồi ở góc phòng, ánh mắt vô cùng u ám. Ánh nhìn khiến người khác cảm thấy không chỉ đơn giản đang nhìn mình mà là đang nhìn vào thứ gì đó ở phía sau. Hắn đưa rượu cho chúng tôi ý bảo uống đi. Không khăn Hada niềm nở, chẳng có trà bơ ngọt ngào, đến một cốc nước nóng cũng không chuẩn bị. Như vậy thật không giống với đạo đãi khách của Tây Tạng.
Daiwa ghé sát vào chúng tôi nói: "Hắn là thế đó, chưa bao giờ chuẩn bị thứ gì cho người khác, cho chúng ta vào nhà đã rất tốt rồi. Có vài người muốn gặp cũng chỉ có thể đến chùa chờ hắn thôi."
Daiwa ngồi xếp bằng lên giường đất trước, sau đó đến chúng tôi. Tiếng Trung của Sowang rất cứng nhắc, thỉnh thoảng lại xen vào tiếng địa phương nên cần Daiwa phiên dịch.
Lục Tử rất cẩn thận, nói rất hợp lý. Ý tứ đơn giản là mong muốn Sowang làm hướng dẫn du lịch cho chúng tôi, tốt nhất là có thể thuyết minh chi tiết về tục thiên táng, đương nhiên sẽ cho hắn một phần rất hời. Nhưng Sowang vừa nghe dính đến tiền thì sắc mặt vô cùng xấu xí. Tôi thầm nghĩ hỏng rồi, hẳn vị này chính là một tín đồ khổ hạnh, hắn đang cho rằng chúng tôi bàn chuyện tiền bạc dung tục với mình.
Sowang uống một ngụm rượu, lớn tiếng nói: "Tôi không muốn làm hướng dẫn viên du lịch gì đó, các người cũng đừng nói chuyện tiền bạc. Tôi không thiếu tiền, không cần các người đến trông."
Tôi nhìn người đàn ông trung niên gầy gò này rất lâu. Hắn mặc Tạng bào hảo hạng, cổ đeo vài dây trang sức bằng vàng cùng Phật châu quý giá. Lúc này Sowang chuyển động thân thể, đống châu bảo này liền phát ra âm thanh leng keng, nhưng trên người hắn lại phả ra một mùi rất khác thường. Tôi không khỏi kịt mũi, mùi này không chỉ là thối thông thường, nó khiến tôi liên tưởng đến mùi của tử vong. Hắn bỗng hớp một ngụm rượu, nói: "Nghe nói cậu vẫn luôn thăm dò tin tức của tôi."
Lục tử cũng không giấu giếm, thành thật nói: "Đúng vậy, tôi muốn...."
Sowang lạnh lùng cười một tiếng, cắt ngang lời Lục tử: "Đừng thăm dò nữa, chẳng ít gì." Nói xong hắn nhìn thoáng qua Daiwa, dường như những lời này là nói với anh ấy.
Lúc này, bên ngoài truyền đến tiếng chim. Sowang không nói chuyện với chúng tôi nữa mà lập tức đứng lên, lảo đảo đi ra cửa, tiếp theo lấy vài thứ từ bình sứ cạnh đó ném ra ngoài, sau mới về lại giường đất. Hắn xoa xoa tay vào y phục, tôi phát hiện tay hắn có vài vết máu. Nhưng hắn lại làm như chẳng có gì tiếp tục uống rượu, nhai đùi dê trong chậu, sau đó cứ lặng yên nhìn Bạch Dực và tôi nói: "Các người không giống cậu ta, là người đã chết rồi. Thân thể các người không có mùi của người sống."
Mặt Bạch Dực vẫn không biến sắc nhìn lại, thản nhiên nói: "Thân thể ngài cũng có mùi không thuộc về người."
Sowang hơi giật mình, hắn cười khùn khục, tiếp theo là mở rộng miệng cười đến gập cả lưng. Nói: "Thật có ý, đúng vậy. Tôi không phải là một người sống."
Nói xong hắn ghé sát vào chúng tôi, mở to miệng, nói gằng từng chữ một: "Ta là một ác quỷ!"
Thấy chúng tôi đều hoảng hốt, hắn lại bắt đầu cười, lại không ngừng uống rượu, mãi đến khi say mèm.
Tôi cảm thấy hắn quá mức khác thường, như một gã điên. Tôi nhìn Lục tử, ý hỏi hướng dẫn viên như vậy cậu cũng dám thuê? Mặt Lục tử quả nhiên xấu hổ, cậu ta thật không ngờ chuyện diễn biến như thế. Mắt Daiwa cũng hiện lên khó xử, nhưng Bạch Dực vẫn nhìn chằm chằm vào Sowang.
Sowang nói: "Các người không giúp được ta. Y giận lắm, giận đến độ ngày nào cũng thổi sáo ở đó. Y mang dáng vẻ già nua, ha ha, dáng vẻ già nua."
Nói xong hắn nhìn ra cửa huýt sáo. Chúng tôi cũng dõi theo, bên ngoài, trừ gió ra thì chẳng có gì cả, nhưng chúng tôi như đang nghe được tiếng người thì thầm trong mơ hồ.
Sowang chửi mắng một lúc lại thì thầm van xin sợ sệch. Hắn lẩm bẩm nên chúng tôi nghe lúc được lúc mất. Sau đó hắn đột ngột đứng lên như thấy được thứ gì sau lưng chúng tôi. Hắn ném lên vai tôi một khúc xương, tôi giật mình nhảy dựng lên, bỗng cảm thấy có thứ gì vừa rơi từ vai mình xuống, nhìn lại là một chiếc lông chim. Sowang lạnh lùng nói: "Các người đi được rồi, đừng dò hỏi chuyện của tôi. Tôi không cần các người giúp đỡ."
Nói xong liền xoay người lại, đưa thẳng lưng về phía chúng tôi. Tự hắn niệm kinh một mình, tay bắt đầu cầm Mani[4], cũng không nói với chúng tôi câu nào nữa. Lúc này Bạch Dực liền đứng lên, anh nói: "Chúng ta đi thôi."
Tôi kéo Lục tử, cậu ta lắc đầu bất đắc dĩ. Daiwa nói với Sowang vài câu tiếng Tạng. Rốt cuộc hắn cũng ngừng một chút, cuối cùng thì miễn cưỡng gật đầu, Daiwa thở dài rồi theo chúng rời khỏi.
Lục Tử nói: "Hết cách rồi, đành phải chuyển hướng du lịch thôi. Đầu óc người này không được bình thường. Daiwa, không phải cậu nói hắn rất ít khi giao du với người khác sao?"
Daiwa nói: "Đúng thế, rất ít, hơn hết người đến lại càng ít. Nếu không thì ai cũng có thể gặp được rồi."
Bạch Dực nhìn bóng lưng trong phòng nói: "Các cậu không phát hiện nơi này rất cổ quái à?"
Tôi hỏi: "Nói vậy là sao?"
Bạch Dực nói: "Căn nhà này không có cửa sổ, cứ như một cái hộp bằng đá."
Nghe anh nói xong tôi bắt đầu nhận ra, ngôi nhà này quả nhiên được xây bằng đá, phong tỏa như nhà tù. Thảo nào tôi cảm thấy nó không giống các ngôi nhà bình thường khác. Bạch Dực nói tiếp: "Hơn hết, hắn không chịu giao tiếp nhiều với chúng ta hay bất kể ai khác. Các cậu có chú ý không, hắn không hề nhìn đến mặt chúng ta, ngược lại cứ nhìn chằm chằm vào phía sau. Hắn như nhìn thấy gì sau lưng chúng ra, sau cùng dường như nhận ra được thứ gì đó ở sau An Tung...."
Bạch Dực vừa dứt lời, chúng tôi lại nghe được tiếng chim kêu rất thê lương như muốn ngăn cản. Trời Tây Tạng tối rất nhanh, xung quanh giờ đã tối đen, ngoài ánh sáng của đèn pin trên tay Daiwa thì không còn chút sáng nào nữa. Chúng tôi quay đầu nhìn lại ngôi nhà của Sowang, phát hiện người đàn ông kia đã đứng ngay cửa nhìn chúng tôi từ lúc nào. Thấy chúng tôi quay đầu, hắn liền trốn nhanh vào nhà, tiếp theo chúng tôi nghe được tiếng cười đầy quái dị vang ra từ đó. Âm thanh kia không giống của Sowang mà khàn như tiếng chim kêu.
Tôi lo lắng nhìn xung quanh, chỗ xương bị ném trúng ở vai lúc nãy bắt đầu đau nhức. Bạch Dực phát hiện tôi khác lạ thì nói: "Rời khỏi đây trước đã."
Lục tử nói: "Aiz, được, người này mà làm hướng dẫn viên chắc gặp chuyện xui xẻo, chúng tôi đi thôi."
Nói xong liền giục Daiwa dẫn đường nhanh một chút. Anh ta lo lắng nói: "Chúng ta nên đi nhanh lên. Buổi tối không nên ở chỗ này lâu."
Bạch Dực vỗ vai tôi, tôi cùng mọi người trở về. Nhưng lưng tôi có gì đó rất ngứa, tôi lại lôi từ cổ của mình ra một cái lông chim. Nó phả ra một mùi hôi thối thật khó ngửi.
Tôi linh cảm mãnh liệt, trong căn nhà trống đó đang có thứ gì, còn Sowang lại rất muốn kể với chúng tôi, nhưng lại không dám nói ra. Thứ đó đang giám sát hắn.
Và Daiwa nhất định biết gì đó....
Về lại nhà nghĩ, chúng tôi ăn uống qua loa rồi đi ngủ. Nửa đêm trời nổi gió, khí hậu phía bắc Tây Tạng rất ác nghiệt, cuồng phong rét buốt, giữa đêm rít gào như sói tru. Gió lớn đến nổi tôi không nghe được bất cứ âm thanh nào khác. Trong phòng rất lạnh, nhà nào giữa phòng cũng có một cái bếp. Nghe nói mấy chỗ rẽ mạc thì đến bếp cũng không có, sáng sớm rời giường liền cảm thấy cả người như phủ thêm một lớp sương móc.
Qua không biết bao lâu, tôi lại nghe được giữa tiếng gió nhàm chán là tiếng sáo. Tuy rất nhỏ, nhưng lại mơ hồ truyền đến, cứ như đang vẫy gọi thứ gì đó. Gió lớn trên cao nhiên lại xuất hiện tiếng sáo quỷ dị, tôi lắng tai, phát hiện âm thanh kia càng lúc càng gần, hơn nữa cũng càng rõ hơn. Nó cất lên nghe như tiếng chim kêu.
Tôi trở mình, chẳng thể ngủ lại được. Cảm thấy phía sau rất ngứa nên gãi vài cái, nghĩ thầm chắc do vài ngày chưa tắm, da có chút dị ứng. Tôi cố không nhớ đến chuyện xảy ra trong nhà của Sowang mà gắng sức phân biệt tiếng sáo trong gió, nhưng dù thế nào cũng không tài nào nắm bắt được. Nó là một tổ hợp âm thanh nhỏ khẽ hòa lẫn cùng gió.
Tiếp theo lại cảm thấy như có thứ gì đang gõ vào cửa sổ. Nhưng nơi chúng tôi ở là lầu ba. Tôi tự trấn an đó là tiếng gió thổi, ép mình ngủ tiếp, thật chẳng muốn vì ngủ không ngon mà dẫn đến mất sức đề kháng. Bị cảm ở Tây Tạng cũng có thể chết người.
Đột nhiên nghe rầm một tiếng, cửa sổ bị thứ gì đó đập vỡ. Thần kinh tôi vốn đã rất căng thẳng, liền nhanh chóng từ giường bật dậy. Từ cửa sổ bay vào một cái bóng thật lớn, nó bay quanh trần nhà, phát ra tiếng kêu kinh khủng. Bạch Dực đã ngồi cạnh tôi, chúng tôi nhìn chằm chằm lên trên, gió lớn thẳng thừng sộc thẳng vào phòng, nhiệt độ không khí thoáng chốc hạ xuống.
Bạch Dực khoác cho tôi cái áo choàng, nói: "Xảy ra chuyện gì?"
Tôi lắc đầu nói: "Không biết. Kính vỡ. Có thứ gì bay vọt vào."
Bạch Dực mở đèn, trên đất đều mảnh kính vỡ, nhưng tiếng đập vẫn còn. Cửa sổ đã như thế sao vẫn còn tiếng đập? Chẳng lẽ không phải chim? Chúng tôi cảm thấy đã có thứ gì vào phòng, nhưng bên trong chẳng có gì cả.
Mặt tôi bị gió lạnh thổi cho đau buốt. Tóc của Bạch Dực đã bị gió làm rối tung. Mắt anh điềm nhiên lạnh lùng thâu tóm động tĩnh trong bóng đêm. Ngoại trừ cuồng phong bên ngoài thì không hề có thứ gì xông vào phòng chúng tôi. Tiếp theo là sự bất an không ngừng dâng lên. Tôi khẽ hỏi: "Anh có nghe tiếng sáo không?"
Bạch Dực gật đầu. Anh không hề lơ là cảnh giác phút nào. Trong phòng có thứ gì đó vụt qua, nó có mùi như Sowang. Nhưng lúc này Lục tử lại chạy ào vào, nói: "Lão Bạch, An tử, các người mau đến đây. Daiwa điên rồi!"
——-
[1] Nguyên văn tiếng Trung là 糍粑 là loại bánh bên ngoài là bột bên trong là nhân mặn hoặc ngọt, thường được viên lại tròn tròn rồi hấp lên. Ở chỗ của bạn Hữu gọi là bánh ít trần, còn từ toàn dân là gì thì bạn Hữu không biết. Tra từ điển thì nói là bánh dày, nên để tạm, có ai biết nó gọi là gì thì chỉ bạn Hữu với
[2] Những căn nhà (hay lâu đài) lớn ngày xưa thường có hủ tục chôn người vào cột, hoặc dưới cột gọi là 'Trụ nhân' để làm linh hồn bảo trợ cho nơi đó.
[3] Là tranh vẽ (hay thêu) hình Phật có thể cuốn lại được thường được treo ở tu viện hay thờ ở gia đình
[4] Nguyên văn tiếng Trung 转经筒 là dụng cụ cầu nguyện của người Tây Tạng
---------------
Tôi nhanh chóng mặc thêm quần áo, theo Bạch Dực và Lục tử rời khỏi phòng. Phía trước đã thấy Daiwa đang chạy đến, đâm thẳng vào Lục tử, cả hai người đều bị bật ra. Mắt Daiwa đỏ hoe, miệng nhắc đến thứ gì đó, liều mạng chạy ra ngoài. Tôi và Bạch Dực vội túm lấy, anh ta vốn có sức vóc, giờ đang nổi điên cứ như bò rừng trên TV, má phải của tôi cũng bị tay anh ta hung hãn đấm một cái.
Bạch Dực nhanh chóng vọt ra sau, khóa cổ tay. Bỗng nghe rắc một tiếng, Daiwa oai oái kêu đau loạn cả lên. Ngay khoảnh khắc anh ta đang chững lại vì đau, Bạch Dực liền đấm mạnh vào bụng anh ta một cú. Chỉ thấy hai tròng mắt của Daiwa giãn ra, tiếp theo cả người bị Bạch Dực túm lấy lôi ngay vào phòng.
Chỉ thấy đám đông vây quanh đang trợn mắt há mồm, tôi nhanh chóng kéo Lục Tử vào trong, tiện tay khóa cửa lại.
Lục Tử bị đâm cũng không nhẹ, mũi đã chảy máu. Cậu ta vừa mắng vừa xoa mũi, nói: "Mẹ nó, điên rồi, lớn tướng như thế chẳng hiểu sao lại phát cơn."
Bạch Dực và tôi trói Daiwa vào ghế như cột bánh chưng. Anh ta giẫy giụa gào thét loạn cả lên, xem ra anh ta cứ như vậy mãi, không chừng sẽ kéo cảnh sát đến đây mất. Quả nhiên lập tức nghe được tiếng gõ cửa. Tôi nhanh chóng mở ra, chủ nhà trọ nói: "Các người làm gì mà cửa sổ trên tường đều vỡ nát."
Tôi móc từ trong túi ra hơn trăm đồng nói: "Không việc gì đâu, lần đầu đến Tạng Bắc, lòng quá xúc động nên bạn tôi quá chén, say không kiềm được. Tiền cửa sổ chúng tôi sẽ bồi thường, cũng sẽ vỗ về anh ta."
Ông chủ liếc Daiwa một cái, sau đó kéo tôi ra lén lút hỏi: "Các cậu đều đã gặp Sowang rồi?"
Tôi vừa nghe ông nhắc đến Sowang liền ý thức được bệnh điên của Daiwa có liên quan đến hắn vội vàng mời ông chủ vào phòng. Nhưng dù thế nào ông ta cũng không chịu vào, chỉ đứng ngay cửa nói: "Tiền đó tôi không lấy, cửa sổ các cậu cũng không cần đền. Mau nhanh đi, tìm một Lạt Ma có pháp lực cao, nếu chậm trễ sẽ không cứu được cậu ta đâu."
Tôi thấy ông không chịu vào phòng, đành xoa xoa tay hỏi: "Xảy ra chuyện gì?"
Ông chủ nói: "Vợ thứ ba của Sowang cũng bị điên giống như cậu ta, giờ không biết ở đâu, đến muốn cứu cũng không có cơ hội. Tiền của Sowang không thể nhận, các cậu không biết sao?"
Tôi lúng túng hỏi: "Tại sao? Còn Sowang tại sao bỗng nhiên lại muốn là Đao Đăng?"
Ông chủ là người tốt, thấy tôi run rẩy liền dẫn tôi vào phòng đưa còn cho tôi một chén rượu nói: "Không biết, cha và anh hắn đều là Đao Đăng, chỉ là trước đây hắn không muốn làm, rồi đến Lhasa buôn bán."
Tôi hỏi: "Đã thế sao còn trở về?"
Ông chủ muốn nói lại thôi, ông nói: "Việc này tôi cũng không rõ lắm. Nơi này không ai dám nghe chuyện về Sowang. Người có hứng thú với quá khứ của hắn đều đã mất, có chết, có trốn. Nghe nói thật ra hắn cũng đã điên, vài lần còn muốn tự tử nhưng Lạt Ma trong chùa nói nếu hắn tự tử sẽ xuống địa ngục. Có lần tôi thấy hắn cầm một con dao đâm vào người mình, nhưng lại không tổn thương những chỗ trọng yếu, cứ ôm vết thương kêu ầm ĩ. Lần đó là tôi gọi giúp người ở sở y tế đến, nếu không chắc giờ cũng đã chết. Các cậu hỏi thăm chuyện của hắn thật ra đã trở thành đồn đãi của thị trấn này. Chúng tôi đều đoán được các cậu sẽ gặp phải chuyện như vậy."
Tôi cảm thấy lưng mình lại ngứa lên, có vài phần khó xử gãi gãi cổ. Tuy ở chung với Daiwa không lâu, nhưng dù sao người trở nên như thế cũng là trách nhiệm của chúng tôi. Tôi hỏi: "Lạt Ma cao tay đang ở đâu?"
Ông chủ cho tôi một địa chỉ, sau đó nói: "Tìm vị Lạt Ma này. Ngài ấy là Lạt Ma giỏi nhất nơi này, pháp lực cũng rất cao cường."
Tôi trở lại phòng, Daiwa có đôi chút khôi phục, nhưng dáng vẻ vẫn vô cùng kinh khủng. Mắt anh ta không thể nào tập trung được, lúc thấy tôi cứ nhìn chằm chằm ra sau lưng, bắt đầu nổi điên rồi tự nói: "Không Hành Mẫu[1], Dakini,... con sai rồi, con có tội...."
Tôi quay đầu ra sau, nhưng chẳng thấy gì cả.
Bạch Dực hỏi Lục Tử: "Các cậu nhìn thấy gì? Có phải là đại bàng đầu trắng không?"
Lục tử bưng mũi nói: "Không, chẳng thấy gì hết. Tôi chỉ nghe được tiếng sáo, sau đó nghĩ rằng nên đi tìm các người. Vẫn chưa ra khỏi cửa thì tên này bắt đầu phát điên, miệng cứ nói gì đó, các người biết là gì không?"
Bạch Dực nói: "Anh ta gọi chính là một quỷ thần, có thể biết trước được cái chết của người khác. Giống như đại bàng trong thiên táng, đều là sứ giả của thần linh."
Lục tử lắc đầu nói: "Không thấy chim, đến cái lông còn không có."
Tôi đưa cho Bạch Dực tờ giấy nói: "Ông chủ nói chuyện này có liên quan đến chúng ta và Sowang. Sáng sớm nên đi tìm Lạt Ma này, đây cũng do chủ nhà trọ cho, trên đó viết đến tìm một người tên Damu Dorj. Bảo chúng ta nhờ ông ấy giúp."
Bạch Dực cầm lấy tờ giấy nói: "Ngày mai tôi và An Tung đi thử xem, Lục tử cậu ở lại trông chừng Daiwa."
Lục tử nói: "Lỡ anh ta giãy đứt dây thì sao? Các người đều đi hết, một mình tôi sao khống chế được, anh ta chạy mất thì sao?"
Tôi nghĩ một chút rồi nhìn Bạch Dực nói: "Như vậy đi, anh ở lại cùng Lục tử, em đi tìm Lạt Ma, thử xem có thể dẫn ông ấy đến nhà khách này không?"
Bạch Dực miễn cưỡng đồng ý, Lục tử cũng thở dài một hơi. Chúng tôi cố ngủ một chút. Hôm sau, tôi ăn vội vài thứ, uống ít thuốc phòng cảm sốt rồi lên đường.
Đi đường một mình khó nhọc hơn nhiều, địa chỉ ông chủ đưa cho, tôi cũng đã nghe qua. Chính là nơi khá nổi tiếng chùa Damu của Chaquxiang. Hiện nay, đây chính là chùa duy nhất còn lưu giữ bức tường xương khô. Đoạn đường này cũng có tiếng là không dễ đi, không ít người đã chết trên đó.
Tôi chuẩn bị lương khô, ông chủ rất hào phóng, tốt bụng cho tôi một cái bùa hộ mệnh, nói đem theo nó thì có thế đến ngọn núi đó an toàn. Tiếp theo tôi bắt ôtô nói tên ngôi chùa mình muốn đi.
Xe chạy rất chậm, tài xế là một người bản xứ tuổi trung niên, khi lái xe thì rất tập trung. Hành trình khá kinh dị, con đường nằm ngay sát sông Thanlwin, hơn hết chỉ có một lằn xe qua. Nếu không cẩn thận sẽ tan xương nát thịt. Vì thế đến chùa Damu thật sự rất liều mạng, sau này nếu được tôi sẽ không bao giờ mạo hiểm lần thứ hai nữa.
Mười mấy tiếng đồng hồ, ngay cả một ngụm nước tôi cũng không dám uống, thần kinh tập trung cao độ. Theo lý nếu xe cứ chòng chành như vậy tôi chắc chắn sẽ bị say xe, nhưng tinh thần đang căng thẳng tột độ thật không còn quan tâm đến nôn mửa. Vô cùng chăm chú nhìn thẳng vào cửa xe phía trước, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu ra ngoài tự mình cảm nhận vết tích của thời gian.
Cuối cùng xe cũng đến nơi, tài xế dừng lại, mọi người bắt đầu niệm kinh, cảm xúc vô cùng. Còn tôi ngay lúc này chỉ cảm thấy chân mỏi nhừ. Lúc xuống xe được người bạn tốt bụng xách giúp hành lý. Có vài đứa bé đang đùa giỡn trên con đường nhỏ thông đến chùa Damu chúng tùy tiện cầm lấy tảng đá có lẽ là một đầu lâu rắc bột phấn khắp nơi, hoàn toàn không e sợ gì cả. Tôi bị dọa không biết nói gì với bọn chúng, nên vội tìm người giúp. Cố hỏi một đứa bé không quá "dọa nạt", nhưng chẳng biết năng lực biểu đạt Hán ngữ của tôi có kém quá không, sau cả buổi khoa tay múa chân, nó cũng chỉ nhìn tôi cười. Nụ cười rất tươi nhưng tôi lại càng bất đắc dĩ. Hết cách, tôi đành phải tự thân vận động, chùa Damu không lớn lắm, muốn tìm một Lạt Ma chắc cũng không khó mấy.
Tiếp theo, tôi cuối cùng cũng thấy được bức tường xương khô nổi tiếng. Thật không thể tưởng tượng nổi, cảm giác đầu tiên đập vào mắt là quái đản và kinh khủng. Nhưng khi nhìn lâu, phát hiện những bộ xương đang chen chúc kia đang gợi nên cảm giác mạnh mẽ về cái chết và sự sống. Ranh giới giữa sinh và tử thật quá mong manh. Tôi cảm thấy đây là nơi thánh khiết, cũng là nơi gieo vào hồn mình rất nhiều suy ngẫm. Cảm giác này không thể dùng ngôn từ để diễn tả, càng không hề khủng khiếp mà là một loại trầm tư sâu lắng.
Rốt cuộc tôi cũng tìm được một Lạt Ma. Ngài là một ông lão tuổi rất cao, mặc độc nhất chiếc cà sa đã phai màu, lộ ra một cánh tay trần, nếp nhăn trên mặt như được khắc bằng dao nhỏ, không ngừng đong đưa Mani trong tay. Ngài đang niệm kinh, nên tôi không quấy rối, chỉ đợi ngài chầm chậm mở mắt nhìn đến mình, lúc này tôi mới tiến lên. Ngài nói: "Tashi Delek[2], chàng thanh niên của ta, ánh mắt của con rất đặc biệt, rất kỳ quái, đã khai thiên nhãn nhưng trong đó lại ẩn chứa quá nhiều điều. Rất ít người như con đến đây."
Tôi sửng sốt một chút, vô thức che mắt phải lại, nhìn ngài cười thân thiện, nói: "Không có gì đặc biệt. Xin hỏi có thể tìm đại sư Damu Dorj ở đâu?"
Ngài nhìn tôi mỉm cười nói: "Là ta."
Tôi nói cho ngài biết mục đích mình đến, đem toàn bộ chuyện kể qua một lần.
Ngài nghe xong thì không nói gì, mà đặt tay lên vai tôi. Tôi nhận ra vai mình không biết từ lúc nào bỗng bay lên một con đại bàng đầu trắng. Nhưng tại sao tôi chẳng hay biết gì cả. Đại bàng đầu trắng kia có vẻ mất hứng, kêu gào vài tiếng rồi bay đi.
Ngài nhìn tôi, ánh mắt vẫn vô cùng an tường như trước, hạ giọng nói: "Con dẫn đến ác quỷ của oán hận. Bất kể chuyện gì đều không thoát khỏi mắt và tâm của Bồ Tát, đất cát không thể che đậy tà niệm trong lòng, lưu giữ tội nghiệt sẽ dẫn đến khổ nạn. Sowang đã không tuân thủ ước định nên chuốc tội. Hắn đã nói cho người khác biết bí mật của mình. Hắn tìm các con, thế nên vận rủi của hắn cũng sẽ đến."
Tôi hỏi: "Ngài biết chuyện của Sowang?"
Ngài cầm một chiếc túi cạnh đó đưa cho tôi, nói: "Cầm đi con trai, có mấy thứ này là đủ rồi, sau đó dẫn bạn của con rời đi. Chuyện của Sowang đừng hỏi thêm gì nữa."
Tôi muốn nói gì đó, nhưng không thể nào tiếp tục được. Tôi thấy mắt của Damu Dorj đang lộ ra sự bi thương sầu khổ. Không biết ngài đang thương cảm đều gì, nhưng tôi có thể cảm nhận được đó là tâm tình bất đắc dĩ.
Tôi gật đầu nhận lấy thứ đó, ngài nói tiếp: "Đây là cầm điển, con có thể tìm đến đây, chứng tỏ Phật gia từ bi, không muốn các con tiếp tục chịu khổ. Con trai về đi."
Tôi thu dọn chào từ biệt ngài, dù sao cũng đã đạt được mục đích, cũng không nên dây vào phiền phức lớn hơn. Damu Dorj lại bắt đầu niệm kinh, âm thanh vô cùng trầm ấm hồn hậu, nghe như tiếng vọng của cao nguyên. Lúc này từ xa xa bay đến một mùi khói nồng đậm rất kỳ quái. Damu Dorj cho tôi biết có người đang tiến hành thiên táng, bọn họ đốt khói của gỗ dâu để mời sứ giả Đại Bàng đến hưởng dụng cống phẩm, đó là thịt của người vừa chết.
Quả nhiên có tiếng chim truyền từ xa đến, bầu trời chậm rãi tụ lại nhiều chấm đen. Ngay lúc tôi xoay người chuẩn bị đi, thì có một tiểu Lạt Ma từ ngoài chạy đến, cậu ta hở hổn hển, nhìn tôi rồi hét to bằng Tạng ngữ. Damu Dorj bỗng giật mình, thật không ngờ có thể thấy một Lạt Ma như thế lại giật mình, ngài bi thương nói: "Nguy rồi, Sowang nguy rồi!"
Tôi không hiểu ý ngài. Ngài bảo tôi cùng lên đài thiên táng. Nơi đây đều là rlung rta[3], gió lớn thổi bay các lá phướng như vũ điệu điên cuồng của thần linh. Càng đến gần tôi càng ngửi được mùi máu tanh nồng đậm hơn. Kia thật sự không dễ chịu chút nào, trên cỏ còn vương cả vết máu.
Damu Dorj cầm Vajra[4], miệng đọc chú. Tôi theo ngài bước nhanh lên, gần như là chạy trên sườn núi nhỏ. Chúng tôi thấy Sowang đang quỳ trên đá, hắn nhìn lên trời gào thét, khắp thung lũng đều vang vọng tiếng kêu đầy phẫn nộ và tuyệt vọng. Bụng hắn đều là máu, tuy không biết bị thương ra sao nhưng nhìn chỗ máu nhiều quá mức kia cũng đủ giật mình. Một tay hắn ôm bụng, tay kia giơ lên trời như muốn nắm lấy thứ gì. Đại bàng đầu trắng đều quây lấy hắn. Đại bàng đầu trắng không ăn thịt người sống, chỉ dõi theo Sowang dầy đặc, thật giống một đám sứ giả giả đang hành hình tội nhân. Sowang vẫn chưa chết, hắn nhìn lên trời không ngừng gào thét, cuối cùng thì kêu không nổi nữa, ngã nhào xuống tảng đá.
Tôi không biết tại sao Sowang đến đây. Lẽ nào hắn đã điên thật rồi? Tôi cho rằng ưu thương là triệu chứng cuối cùng của căn bệnh, chỉ là tại sao lại phải tìm đến cái chết? Nhưng sau đó tôi lại nghĩ Sowang hoàn toàn không muốn chết, ngược lại hắn có một mâu thuẫn nội sinh rất sâu sắc. Tự bản thân hắn có ý chí sinh tồn cực mạnh, nhưng hành động và tư duy lại vô cùng muốn chết, muốn giải thoát.
Damu Dorj vội vàng đánh đuổi đại bàng đầu trắng quanh đó. Ngài vọt lên, cả người Sowang co quắp lại. Tôi và Damu Dorj đỡ hắn lên vai, toàn thân hắn đều là máu. Tôi cõng hắn xuống núi, cảm thấy tay hắn càng lúc càng lạnh, cùng cái mùi quái dị kia cũng càng nồng đậm hơn. Nhưng thật không ngờ hắn rất giống với một xác chết, không hề có hơi thở gì cả. Tôi quay ra sau, nói: "Cố lên."
Tôi không biết tại sao hắn lại như vậy, tại sao lại nổi điên tự sát. Người Tây Tạng rất kiêng tự sát, cho rằng nếu làm như vậy kiếp sau mình sẽ đầu thai thành súc sinh. Tôi thật không thể hiểu nổi hành động của hắn. Lúc nãy như đang kìm nén phẫn nộ thật lâu, rồi bạo phát toàn bộ lửa giận trong lòng. Toàn bộ không hề giống với ông lão tôi đã gặp đêm nọ. Mà mà đó là sự phẫn nộ của dã thú.
Xung quanh đều là thần điểu có linh tính. Chúng như hiểu được tất cả, nên chỉ vây lấy, một tiếng cũng hề kêu. Tôi cõng Sowang cùng nhau xuống núi, bị một đám đại bàng đầu trắng bắt kịp, gần như đã không thể hiểu nổi chuyện gì, càng không biết nên làm gì.
"Khặc khặc."
Tôi mơ hồ nghe được tiếng cười từ phía sau truyền đến. Tiếng cười đó chính là âm thanh tôi nghe được ở nhà Sowang đêm đó. Một loại âm thanh đầy chết chóc khó nói nên lời. Tôi liếm môi, nghĩ thầm theo sau mình chính là Damu Dorj.
Lại một giọng cười ngoan độc. Đột nhiên tôi phát hiện ngoài tiếng thở dốc của mình thì không hề có âm thanh của người khác. Tôi nhìn lại, phát hiện phía sau chẳng có ai, bốn bên là đồi núi trống không, ngoài càng lúc càng có nhiều đại bàng đầu trắng ra thì tại sao chẳng có ai theo cùng cả?
Tôi dừng lại, gọi Damu Dorj, nhưng không ai đáp lại, lưng tôi cõng thêm một người nên đang thở hổn hển. Trên cao nguyên vốn không thể tiêu phí quá nhiều sức lực, tôi chỉ cảm thấy mình càng lúc càng thiếu dưỡng khí, trời xanh dường như nhỏ dần lại tựa giọt nước. Tôi có ảo giác, nơi này chính là ranh giới giữa sinh và tử. Các tảng đá xung quanh đều được chất đầy kinh văn, những cờ phướng nơi xa xa kia vẫn điên cuồng lay động theo gió.
Tiếng gió thổi, bốn bên đều là tiếng gió thổi, hòa lẫn vào gió còn có tiếng sáo cổ quái. Mãi thật lâu sau tôi mới phát hiện ra âm thanh kia rõ ràng là đang phát ra từ Sowang ở phía sau. Số lượng đại bàng đầu trắng làm da đầu tôi có chút tê dại. Ánh mắt của bọn chúng hoàn toàn bất thường, trong mắt chúng tôi không hề thấy được sự linh thiêng mà là một loại khát khao, chúng muốn ăn thịt tôi sao? Chúng đang nghĩ tôi là xác chết sao?
Không đúng! Tôi nhận ra ánh mắt chúng không hề hướng về tôi mà là phía sau lưng. Lý nào Sowang đã tắt thở, lý nào.... Tôi không tài nào nghĩ được nữa.
Tôi tất tả co chân chạy về phía trước, trong tay chẳng có thứ gì phòng thủ cả. Chim không tấn công trực tiếp, thậm chí còn không kêu, nhưng nếu xảy ra chuyện, tôi có thể chạy đến đâu được đây? Đến một chỗ tránh nạn còn không có. "Sowang" trên người tôi tỏa ra một mùi hôi không thể diễn tả. Tôi không biết đó là gì, đối với tôi tất cả đều quá xa lạ. Khắp người tôi đều là mùi đó, bọn chim kia có bị mùi này thu hút hay không?
Bỗng tôi nghe có người hét to: "Thả hắn xuống!"
Đầu tôi như bị giật mạnh một cái. Tuy rất thất đức, nhưng tôi đành chọn cách buông tay, sau đó chạy đi. Bỗng nghe bịch một tiếng, Sowang nặng nề ngã nhào xuống đất. Tôi nhìn lại, quả thật là Sowang, cả người vì quá đau đớn nên co quắp lại. Lòng tôi vô cùng xin lỗi, nghĩ thầm Sowang bị tôi quăng ngã như vậy chắc không chết đâu. Tôi lại vội vàng chạy đến muốn dìu hắn ta lên vai. Đột nhiên phát hiện hắn ấy thế lại mỉm cười. Hắn đang nhìn ra sau lưng tôi mỉm cười. Ánh mắt thật giống với đại bàng đầu trắng.
Hắn nói: "Anh đến giúp em, anh ơi. Em chịu không nổi nữa rồi, anh bỏ mặc thì em chết mất thôi."
Tôi đột nhiên phát hiện sau lưng mình vẫn còn thứ gì đang nằm sấp. Vai tôi lại bắt đầu đau, hình như có ai đang bấu lấy nó. Khắp lưng đều ngứa ngáy khó chịu. Sowang bị tôi xô ngã, nhưng phía sau vẫn còn thứ gì đó như trước.
Sowang nhìn ra sau tôi cười điên dại, tiếng cười vô cùng thê lương. Cột sống tôi bắt đầu đóng băng, tay run run phẩy phẩy phía sau, phát hiện tay mình đều là máu. Màu máu bầm đen đầy tanh tưởi.
Sowang bắt đầu cười to đầy điên dại, tôi vội hét lên: "Sau tôi là thứ gì thế?"
Sowang không trả lời tôi, chỉ cười to. Cười hết cả sức lực ngã nhào trên đất không ngừng co quắp. Tôi không thể chờ được liền cắn răng nắm lấy thứ đó ném mạnh ra. Khiến tôi hoảng sợ chính là thứ vừa văng ra là một bộ xương và cái đầu còn sót lại của xác chết. Cái đầu trắng hếu không có tóc, đưa ra gương mặt bị gió hong khô khốc, da như da trâu già. Cái miệng trên đầu không ngờ còn ngậm một cây sáo bằng xương. Âm thanh ma quỷ kia là từ cây sáo này truyền đến. Chỉ xương sống còn gắn với đầu, ở các khúc xương khác còn thấy được những mảnh thịt đỏ tươi.
Thi thể quỷ dị kia dường như còn sống. Nó chậm rãi đến gần Sowang, hắn ta đã không còn sức lực. Lúc này không trung đã tụ lại rất nhiều kền kền, che kín cả góc trời. Đầu lâu cứ lê về phía Sowang, xương sống dính theo sau nó. Sowang chỉ có thể giãy giụa vài cái, sau đó là chết ngất đi. Trên trời đại bàng đầu trọc liên tục vòng quanh phát ra tiếng như đang tập trung lại. Nó bắt đầu kêu to rối loạn, đập cánh liên tục.
Một mình tôi vốn chẳng thể cản nhiều chim như vậy. Dù làm cách nào chúng đều tụ lại quanh người tôi. Số lượng càng lúc càng nhiều, tôi gần như không nhìn thấy mặt đất, sức cùng lực kiệt càng không thể tìm đường chạy trốn.
Đột nhiên nghe được có người hét lên: "Đừng ăn, cậu ta chưa chết. Linh hồn của cậu ta vẫn còn đây, không được ăn."
Tôi thấy Bạch Dực cùng Damu Dorj chạy về phía mình. Không ngờ Bạch Dực lại đến đây, chẳng lẽ Lục tử đã xảy ra chuyện?
Damu Dorj một tay để trần cầm phục ma xử[5], tay kia kéo y phục của Sowang, lớn tiếng niệm chú.
——————————-
[1] Nguyên văn tiếng Trung 空行母 (Không Hành Mẫu) Theo Baidu thì: "Không Hành Mẫu, phiên âm tiếng Phạn là Đồ Cát Ni (荼吉尼 _Dakini) nghĩa là người đi lại giữa không trung. Không Hành Mẫu là một nữ thần, có sức mạnh lớn, có khả năng bay trên không trung nên có tên đó. Trong chuyện Phật giáo Mật Tông Tây Tạng, Không Hành Mẫu là nữ thần biểu thị cho trí tuệ và từ bi." Trong truyện nhân vật cho rối loạn nên vừa gọi tên cả bằng tiếng Trung lẫn tiếng Tạng.
[2] Là lời chào bằng tiếng Tây Tạng, có nghĩa là 'chào mừng', hoặc 'phúc lành cho bạn' , 'may mắn cho bạn'
[3] Cờ đón gió của người Tạng.
[4] Nguyên văn tiếng Trung金刚杵(kim cương xử) là
[5] Là
——————–
Chùa Damu, nguyên văn tiếng Trung là 达木寺 là ngôi chùa nổi tiếng nằm ở địa khu Nagqu, huyện Biru, Tây Tạng.
Đại bàng đầu trắng quanh đó đều kêu chói tai. Số lượng rất nhiều nên tiếng kêu gần như xé rách màng nhĩ của tôi. Nhưng dù ầm ỉ cỡ nào cũng không thể ngăn được giọng của Damu Dorj. Dường như tiếng của ngài ấy là thanh âm từ sâu thẳm trong đại sơn vọng đến.
Tiếng chim bắt đầu bình ổn, dần thưa hẳn lại nhưng tiếng sáo quỷ mị vẫn như cũ. Âm thanh không vì giọng của Damu Dorj mà ngưng lại. Nó như vọng ra từ tận sâu trong lòng đất chống lại Damu Dorj.
Bạch Dực chạy đến bên tôi, hỏi: "Em không sao chứ?"
Tôi gấp gáp hỏi: "Sao anh đến đây?"
Bạch Dực nói: "Daiwa nói điên hết nửa ngày, anh bỗng nhiên hiểu được ý của cậu ta là đại bàng đầu trắng muốn ăn thịt người còn sống. Ác quỷ đến báo thù. Vì thế anh nghĩ ngay đến chuyện em có thể gặp nguy hiểm nên lập tức đến đây."
Bạch Dực nhìn Damu Dorj, tôi nói ngài chính là Lạt Ma tôi cần tìm. Lúc này Damu Dorj đã lấy Phật châu từ thắt lưng ra, ngài ngồi xếp bằng trước mặt Sowang, bắt đầu niệm kinh. Sowang đang hôn mê, nhưng bộ xương hắn mang vẫn nghệch mặt cười nhạo. Nó liếc về phía chúng tôi, đầu vương dài dựa vào người Sowang. Thân thể hắn như bị điện giật run bắn lên, vết thương ở bụng càng thêm nghiêm trọng.
Giọng của Damu Dorj dần trở nên cao vút, nhịp điệu cũng nhanh hơn, càng lúc càng quyết liệt.
Gương mặt của bộ xương cũng bắt đầu dữ tợn. Bỗng cây sáo bằng xương trong miệng nó rơi xuống, lăn lóc trên mặt đất. Damu Dorj cũng không thể ngồi thẳng người được nữa.
Ngày yếu ớt nhìn chúng tôi nói: "Nhanh, thừa lúc này mang Sowang đi."
Bạch Dực cùng tôi nhanh chóng kè Sowang ở giữa. Tôi nhận thấy hắn đã tỉnh lại, mặt hắn đều là nước mắt, lại không ngừng hạ giọng nức nở.
Ngay khoảnh khắc chúng tôi kè Sowang đi, thì một đám đại bàng đầu trắng xông đến. Tôi và Bạch Dực đều ôm đầu, kéo Sowang ở sau. Nhưng bọn chim không mảy may quan tâm đến chúng tôi mà như ong vỡ tổ vây lấy bộ xương khô. Chúng điên cuồng cắn rỉa cái đầu và các khớp xương. Tay tôi đều là mồ hôi, nếu chậm một giây sợ bọn sứ giả thần linh này sẽ xé nát chúng tôi đến một thớ thịt cũng không còn.
Chúng tôi đặt Sowang ở nơi an toàn. Tôi xoay người bắt đầu tìm Damu Dorj. Có quá nhiều đại bàng đầu trắng che mất tầm nhìn nên tôi gần như không thể nhìn thấy ngài đâu. Cuối cùng trong một rừng bóng đen tôi cũng nhận ra một mảng đỏ, đó chính là cà sa của Damu Dorj. Tôi vội vàng tiến lên, may là lũ chim không tấn công ngài, chỉ có đầu ngài đang chảy rất nhiều máu, có lẽ bị lũ chim bay loạn cào trúng. Tôi thấy ngài đã mất ý thức, nếu không mang đi sợ rằng còn thảm hơn cả Sowang. Tôi nhanh chóng ôm đầu, cắm mặt chạy nhanh về phía trước kéo Damu Dorj. Tay ngài còn đang nắm chạy Phật châu, tôi chật vật cõng ngài trên vai, phát hiện nơi bọn chim tập trung nhiều nhất chính là chỗ có tiếng sáo quỷ dị kia.
Damu Dorj suy yếu nói: "Đi mau, đừng nghe âm thanh ma quỷ đó."
Tôi nhanh chóng cõng Damu Dorj chạy xuống chân núi, Bạch Dực cũng đang cõng Sowang, chẳng bao lâu thì đến chỗ có vài Lạt Ma và dân du mục. Bọn họ nhìn thấy chúng tôi liền nhanh chóng đến giúp. Tôi đặt Damu Dorj xuống quay lại nhìn Lạt Ma nhỏ tuổi nói bằng tiếng Hán: "Mau tìm xe, bọn họ cần chữa trị!"
Lạt Ma nhỏ tuổi chưa gặp chuyện này bao giờ, cậu ta dùng tiếng Tạng hét to với tôi. Ông đây làm sao hiểu được? Tôi nhìn cậu ta gào lên: "Tôi không biết tiếng Tạng!"
Bị tôi gào to, cuối cùng cũng tỉnh lại, cậu ta lo lắng nói: "Nơi này không có xe xuống núi. Phải đi rất xa."
Nghe câu đó, Sowang trên vai xém chút đã ngã xuống. Hắn bị nặng hơn Damu Dorj rất nhiều, nếu không cấp cứu nhất định sẽ mất mạng. Nếu thật không có xe xuống núi, chỉ cần qua vài giờ nữa thì tiến hành thiên tán cho hắn là vừa.
Bạch Dực nhìn Lạt Ma nhỏ nói: "Trước hết phải cấp cứu cho hắn. Vết thương rất nặng, không chịu nổi xóc nảy, trạm cấp cứu gần đây nhất ở đâu? Mau gọi bác sĩ đến!"
Lạt Ma nhỏ tuổi gật đầu. Thật ra lão Lạt Ma Damu Dorj cũng không xem nặng chuyện sống chết. Bọn tôi ở nơi này sứt đầu mẻ trán, lão ấy thế cứ run run mở miệng đọc kinh. Thật quá chấp nhặt đi mất, làm vậy có thể tĩnh tâm lại sao.
Chúng tôi đem hai người vào gian phòng gần nhất của chùa. Lạt Ma nhỏ cỡi ngựa đi tìm bác sĩ. Không ngờ vào chùa lại được người khác cho Vân Nam bạch dược cùng với băng gạc sạch sẽ, thật là cứu mạng. Thế là chúng tôi liền dùng thuốc đó bôi vào người của Sowang.
Nhưng sắc mặt của Sowang vẫn vô cùng đáng sợ như cũ. Hắn hôn mê, dù tỉnh lại cũng chỉ vô thức hừ hừ hai tiếng. Damu Dorj băng bó đầu mình xong cũng chạy đến. Ngài ngồi cạnh Sowang, vuốt tóc hắn rồi không ngừng niệm kinh.
Tôi có chút lo lắng, Bạch Dực cản lại, nói: "Đối với họ như thế là tốt nhất."
Tiếp theo, Sowang dần an tĩnh lại, không hề rên rỉ đau đớn. Hắn chầm chậm mở mắt ra. Chúng tôi nghĩ hắn đang đến giây phút hấp hối sau cùng. Hắn mở miệng hỏi Damu Dorj: "Con có xuống thiên niên địa ngục không? Con phạm tội rất nặng, nếu như giờ đây con đã chết, có phải do tự tử không? Kiếp sau con có trở thành chó không?"
Damu Dorj bình thản nhìn hắn nói: "Phật tổ tại thượng, mắt ngài là thái dương, xuyên qua muôn trùng mây nhìn xuống tuyết sơn. Chúng ta đều ở tâm của ngài, sau hết vẫn phải về tâm của ngài."
Sowang nói tiếp: "Sau khi con chết, con khát cầu được thanh thản lên trời, nhưng con đã làm sai rồi. Chắc chắn con sẽ xuống địa ngục. Con xuống địa ngục, Basang có thể sẽ tha thứ cho con, anh ấy sẽ buông bỏ. Nếu không như vậy, con biết anh ấy rất đau khổ."
Damu Dorj không nói gì, ngài chỉ tiếp tục niệm kinh. Sowang thanh thản nhắm mắt, không tỉnh lại nữa. Ngay khoảnh khắc hắn tắt thở, trên đỉnh núi truyền đến tiếng kêu gào điên cuồng. Âm thanh kia đầy tràn cuồn loạn và tuyệt vọng. Tiếng sáo quỷ dị lại một lần nữa vang vọng khắp nơi, hòa cùng nó là giọng rên rĩ khàn khàn đầy tăm tối và khác thường.
Damu Dorj ngồi xếp bằng cạnh thi thể của Sowang tụng niệm kinh văn. Bên ngoài tiếng rống giận khàn khàn kia dần tiêu tán theo gió. Cứ như linh hồn của con người, sau cùng hết vẫn phải tan biến theo gió mà thôi.
Lạt Ma trẻ tuổi vẫn không về kịp, Sowang không đợi bác sĩ đến đã tắt thở. Hắn không có thân nhân, thi thể được đặt tại một căn phòng rách nát trong chùa. Trong đó chỉ có một ngọn đèn bằng sáp, soi sáng cho đường đến kiếp sau của hắn. Lạt Ma nhỏ tuổi nói hắn tự tử không có tư cách thiên táng, phải thổ táng. Nhưng Damu Dorj lại nói với tiểu Lạt Ma, Sowang chết để chuộc tội, vẫn có thể thiên táng, bảo tiểu Lạt Ma tìm một thiên táng sư có lòng từ bi đến lo liệu cho hắn.
Trước khi thiên táng, thiên táng sư để lên người Sowang lúa mì Thanh Khoa[1], tiếp theo là Damu Dorj ngồi trước mặt hắn giảng đạo, chúng tôi ngồi bên cạnh. Damu Dorj và chúng tôi đều quây quanh hắn, cùng trông chừng người mất một đêm.
Damu Dorj bắt đầu chầm chậm kể lại chuyện xưa của Sowang....
Damu Dorj bình thản kể lại: "Năm đó, hắn đang lúc trai trẻ không muốn làm Đao Dăng, nên theo một người rời khỏi đây, đến Lhasa. Ở đấy, hắn cũng không được như ý. Nhưng hắn có một người anh rất tốt. Anh trai Basang của hắn sau đó kế thừa công việc của cha đảm nhiệm chức trách của một thiên táng sư. Y không giống Sowang, làm việc rất để tâm, y trân trọng người vừa mất như đối đãi với bản thân mình. Nghĩ rằng mỗi lần đều là chính mình bị đưa lên đài thiên táng vì thế cầu nguyện vô cùng thành kính, mong muốn họ có thể thăng thiên.
Basang cho Sowang tiền để hắn có thể buôn bán, còn bản thân mình lại không muốn dùng tiền. Vì y là thiên táng sư, không tìm được vợ, cuộc sống rất gian khổ, không ai chịu chăm sóc hắn. Thỉnh thoảng y còn phải dựa vào việc bố thí của những người hành hương để sống, tính ra cũng chỉ vài cái bánh dày và ít muối mà thôi.
Sau đó y nhận nuôi một đứa bé, nếu không đứa bé kia sẽ bị chết cóng. Y coi nó như con ruột của mình. Nhưng tim đứa bé kia không ổn, sắp phải chết, cần có một số tiền rất lớn để chữa bệnh. Basang nhớ đến em mình, giờ so với trước kia đã khá hơn nhiều lắm, chắc hắn có thể giúp y. Thế nhưng lúc ấy Sowang cần tiền để kết hôn. Người vợ thứ nhất của hắn rất đẹp, hắn rất thích. Hắn nghĩ thằng nhóc bị bệnh tim kia cũng đâu phải con ruột của Basang, càng không phải cháu ruột của hắn.
Sowang không trả tiền, Basang chỉ có thể bán mạng làm việc, đứa bé cuối cùng cũng chết. Y làm thiên táng cho nó, thổi sáo thật lâu. Rất lâu sau đó vẫn nghe được tiếng sáo của Basang, y thổi sáo để nhớ thương con mình.
Chẳng lâu sau, Basang bệnh nặng, Sowang cũng gấp gáp trở về, nhưng y không chịu gặp hắn. Cuối cùng thì Basang chết, lúc ấy là ta đến giảng đạo cho y. Thế nhưng ngày đó đại bàng đầu trắng dù thế nào cũng không chịu đến ăn, sau hết dù có cũng không ăn hết. Ta biết Basang hận em trai mình, y không thăng thiên.
Sau đó ta lại nghe đồn Sowang rất phát đạt, có rất nhiều tiền. Nhưng hắn cũng không buôn bán nữa, vợ hắn đã chết, con trai cũng chết. Có người kể lúc họ chết có nghe được tiếng sáo. Ta biết Basang đang trả thù em mình. Y không hại chết Sowang ngược lại cho hắn rất nhiều tiền, để hắn chỉ có thể sống cùng tiền. Người khác đều không xài được, nếu lấy sẽ phát điên, nặng hơn là chết. Sau cùng Sowang cũng điên, hắn chỉ có thể đến đây, làm một thiên táng sư, mỗi khi làm cát lễ cho người khác hắn mới tìm được bình an trong chốc lát. Hắn muốn chuộc tội, nên chưa bao giờ thu tiền của ai, càng không cho ai tiền. Hắn sợ người khác cầm phải số tiền đó, càng sợ số tiền đó hại mình."
Damu Dorj dừng lại thật lâu, thỉnh thoảng ngài trầm mặc rất lâu, đôi khi lại nói gì đó với Sowang. Dường như lúc đó hắn cũng đang lắng nghe, sắc mặt vô cùng bình an. Hắn bình an nghe Damu Dorj thì thầm, chỉ là tôi thấy khóe mắt hắn chảy ra một giọt huyết lệ. Damu Dorj lại tiếp tục niệm kinh.
Bạch Dực nhìn vào bếp, tôi hỏi: "Nếu Basang không muốn hại chết, tại sao lần này hắn lại muốn tự tử?"
Damu Dorj lắc đầu nói: "Không biết, nhưng con có thể đến hỏi người tên Daiwa, nếu cậu ta không nhận lấy vật gì từ Sowang thì có lẽ quỷ hồn của Basang đã không phát điên."
Chúng tôi ngờ vực, Bạch Dực nói: "Chuyện này chắc Daiwa đã lừa chúng ta. Có lẽ cậu ta đã quen với Sowang trước đó."
Tôi nói: "Lúc về chúng ta có thể hỏi Lục Tử."
Damu Dorj không nói gì với chúng tôi nữa, ngài chuyên chú niệm kinh, thỉnh thoảng lại uống một ngụm trà. Chẳng biết có phải ảo giác hay không, tôi lại nghe được tiếng sáo cổ quái, có điều lần này là âm thanh ly biệt đầy thê lương. Trong đó đã không còn chút oán hận nào.
Sau cùng Damu Dorj không niệm kinh nữa, chúng tôi canh chừng quanh thi thể của Sowang lắng nghe tiếng sáo kia, phát hiện nó thật ra là một khúc hát chăn cừu rất du dương. Mãi đến khi mặt trời soi rọi trên đỉnh núi, tiếng sáo mới dần tan biến giữa làn sương trắng.
Chờ mọi chuyện xong xuôi, tôi và Bạch Dực xuống núi, Damu Dorj cảm tạ sự giúp đỡ của chúng tôi. Ngài nói chúng tôi đều là người đã được khai thiên nhãn, có tuệ căn rất cao. Tuệ căn của tôi là Ngộ (~ thông hiểu), còn Bạch Dực là Tuệ (~ thông minh). Tôi và bạch Dực cùng đứng lên, đúng lúc tôi vừa nói từ "Ngộ hội", Bạch Dực ngạc nhiên một chút, sau đó ha ha cười lên. Damu Dorj cũng cười to cùng chúng tôi. Tôi gởi lại ít tiền, Damu Dorj không nhận, mà để tiểu Lạt Ma cầm lấy, cậu ta nói cảm ơn, bảo chỗ tiền này sẽ để lại đây cho người nào cần.
Tiểu Lạt Ma liếc nhìn chúng tôi đầy ẩn ý cao sâu. Cuối cùng nói: "Cám ơn các người, các người đã hoàn thành tâm nguyện nhiều năm của Damu Dorj. Ngài không hy vọng bất cứ ai chịu khổ não. Ngài đúng là một thượng sư từ bi."
Chúng tôi hướng về họ hành lễ, sau đó lên xe về huyện Biru. Tôi nhìn đại bàng đầu trắng trên đỉnh núi nghĩ thầm có lẽ chúng đã mang linh hồn của Sowang và Basang đi rồi. Chỉ là lúc ở trên xe, tôi vô thức quay lại, thấy tiểu Lạt Ma sau khi tiễn chúng tôi đã vào trong, còn Damu Dorj vẫn đang đứng tại chỗ. Nhưng cạnh ngài còn hai người nữa. Mặt họ tái nhợt như tượng sáp bị hong gió, cùng đứng kề bên Damu Dorj cuối đầu nhìn xuống chân. Trong nháy mắt, tôi phát hiện mặt của ngài cũng biến thành hình dạng khô khốc do hong gió, mắt không có con ngươi, còn lại mỗi gương mặt tái nhợt. Ba người họ đứng yên tại chỗ, càng lúc càng nhỏ, cuối cùng tan biến trên núi.
Tôi giật mình quay đầu, Bạch Dực ở cạnh bên cũng thấy như tôi. Tôi hỏi: "Anh thấy được gì?"
Anh điềm nhiên nói: "Ông chủ nhà khách gọi đến tìm em. Ông nói Damu Dorj đã qua đời hồi năm ngoái. Trên tờ giấy ông đưa cho em viết tên một Lạt Ma khác."
Tôi ngây người nhìn anh, cuối cùng cũng nuốt nghẹn nói một câu: "Sao anh không nói sớm, đã qua vài ngày rồi!"
Bạch Dực nói: "Sau cùng ngài đã cứu em, đúng không?"
Tôi hỏi: "Là ý gì?"
Bạch Dực nói: "Lúc em cõng Sowang xuống núi, anh không thấy Damu Dorj nhưng khi em quay đầu lại anh lại phát hiện ra ngài. Ngài đã chọn cách chuộc tội thay cho Sowang và cứu em, cứu một người vô tội."
Tôi nhớ đến giây phút quyết định khi đại bàng đầu trắng không chịu ăn thịt Sowang, thì ra là Damu Dorj đã dùng thân mình để thay khiến cho sứ giả thần linh cảm động. Nghĩ đến lúc đó thật không khỏi nắm chặt tay. Tôi nói: "Ngài là một thượng sư đầy từ bi."
Bạch Dực nói tiếp: "Cũng có thể ngài là một đại bàng đầu trắng, chẳng ai biết? Ngài vì cứu linh hồn của Basang và Sowang mà ở lại nhân gian. Chọn cứu người mà bỏ đi việc thăng thiên. Đó là đạo lý chân chính của đại bàng đầu trắng."
Tôi lặng yên theo câu chuyện.
Về lại huyện Biru, Lục tử thuê một vài người bản xứ cùng trông chừng Daiwa. Chỉ cần cậu ta nổi điên là một đám người cùng tiến lên, đè ngay người xuống. Kia dù có cánh cũng khó thoát.
Thấy chúng tôi trở về, đến ông chủ nhà khách cũng chạy ra, ông nói: "Làm tôi sợ gần chết, bọn họ nói cậu đi tìm Damu Dorj, tôi cứ tưởng cậu sẽ không bao giờ trở lại."
Tôi trả lời: "Gặp nhiều chuyện, Sowang đã chết. Nói chung có nhiều việc đã xảy ra, nhất thời không cách nào kể rõ. Được rồi, Lục tử đây là thuốc của Daiwa, cậu cho anh ấy thử."
Lục tử trông thấy thứ có thể cứu Daiwa thì rất nhiệt tình. Dưới sự giúp đỡ của chủ nhà khách, Daiwa cuối cùng cũng tỉnh lại, cậu ta nghiêng nghiêng nhìn chúng tôi, không nói câu nào mà bắt đầu gào khóc.
Daiwa vừa khóc vừa kể: "Tôi quen Sowang hơn mười năm, cũng biết chuyện anh trai của hắn. Tôi nói chỉ cần hắn giúp Thương huynh đệ, thì sẽ có người giúp hắn trừ đi quỷ hồn của Basang. Hắn rất phân vân, tôi nói nếu không còn quỷ hồn, Sowang cũng không cần phải chịu đau khổ, có thể bắt đầu cuộc sống lại lần nữa. Hắn liền động lòng."
Tôi nói: "Basang vốn chỉ muốn dùng tiền nghiêm phạt em mình. Nhưng em của y lại nghĩ cách dùng tiền tiêu diệt linh hồn y. Basang vốn không định giết hắn, nên cuối cùng mới phát điên. Y điên là do cảm nhận được sự tuyệt tình của Sowang, là anh hại hắn."
Daiwa bi thương kể tiếp: "Thật ra vì Thương huynh đệ từng nói với tôi, hai người có khả năng trừ ma, là người rất lợi hại. Nên tôi muốn giúp Sowang thoát khỏi quỷ hồn của Basang. Không ngờ...."
Tôi nhìn sang Lục tử nói: "Lần sau cậu còn đem mình và Bạch Dực ra khoe khang bán đứng, mình sẽ cắt đứt, mặc kệ luôn."
Lục Tử bất đắc dĩ nói: "Mình thật sự không biết Daiwa có ý định này. Khi ấy cũng chỉ nói đùa với anh ta. Bạn bè mà, mấy lúc như vậy có gì giấu giếm đâu chứ."
Daiwa thở dài lắc đầu: "Đều do số mạng, bao gồm việc cậu bỗng nhiên gặp được Damu Dorj. Ngài ấy chính là sư phụ của Basang. Basang làm thiên táng sư đều do damu Dorj đến giảng đạo. Nhờ họ, đã có rất nhiều người được thăng thiên. Aiz, tôi cũng có tội, quãng đời sau này sẽ xuất gia tu hành, chuộc lại lỗi lầm của mình."
Ba chúng tôi ở Tây Tạng không bao lâu thì vội vàng trở về. Lúc lên đường Daiwa thật sự đã làm theo lời mình đến một ngôi chùa xuống tóc. Lúc vào là Daiwa, khi trở ra chúng tôi chỉ thấy một Lạt Ma đầu trọc. Thế nhưng đối với anh ta như thế là tốt nhất. Chúng tôi cũng nghĩ như thế là tốt nhất.
Trở lại Thượng Hải, chúng tôi lại tiếp tục cuộc sống thường nhật. Nhìn vào bầu trời, phát hiện thì ra cách chúng tôi rất xa. Ít ra cũng khá giống với Tây tạng, trời thật rất xa xăm. Bạch Dực cũng không bàn luận gì thêm về chuyến đi lần này, chỉ hăng hái nói muốn đi tắm. Tôi biết anh vốn chuộng sạch sẽ, nhưng cũng đâu cần hai người cùng nhau chà rửa....
Không ngờ mấy tháng sau, chúng tôi bỗng nhận được thư của Daiwa. Anh ta nói mình hiện đang hành hương ở Bắc Tạng. Trên một đài thiên táng thấy được bóng người rất giống với Sowang. Anh gọi tên nhưng hắn không quay lại, làm như không quen biết. Bất quá anh ta khẳng định người đó chính là Sowang, chỉ là lưng người này đeo một cái túi, trong đó dường như có thêm một người nữa....
[1] Là giống lúa mì trồng ở Tây Tạng cũng là thức ăn chính của người Tạng
Phiên ngoại 4: Đao Đăng_Hết
———————–
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro