Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

phát triển nguồn nhân lực 3

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng KH&CN, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong quá trình đó, cần đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Chú ý đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề; thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Đồng thời, thực hiện tốt các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển KTTT. Theo đó, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách đồng bộ trong thực hiện Nghị quyết số 27, ngày 06-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7, khoá X về xây dựng đội ngũ tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nướ

Vấn đề con người trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trước đây tỏng sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người tập thể" "con người giai cấp" con người xã hội.
Ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung chú ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những phẩm chất cần cù, trung thành, nhiệt tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm như vậy đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách làm này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà họ còn làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận thức được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa là nâng nhận thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội" khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không chỉ có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách thức, nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con người luôn có những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo, thiện ác, … trong điều keịen này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân".
Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ, mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói cách khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như sau:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng chỉ có tác dụng và có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là ngùn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên trình độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hoá hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là thực hiện xã hội hoá nhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất và đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ văn hoá xã hội v.v..


II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Mục tiêu "Xây dựng nước ta thành thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Đó trước hết là cuộc cách mạng con người vì con người và do con người. Bởi khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không do ai đưa đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát triển cả về trí lực về cả khả năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội và đạo đức tình cảm trong sáng.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-1930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tinh tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.
Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì mục tiêu phát triển con người toàn diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư cách là người lao động sản xuất mà còn với tư cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng dân tộc, một con người trí tuệ trước vận mệnh quốc gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất cao những nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó còn là hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì sự nghiệp chung.
Qua sự phân tích trên có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự nghiệp phát triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối cao.


III. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong đó nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải hiểu rõ thực trạng và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc phúc và phát triển nguồn nhân lực được.
Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những băn khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng người lao động, sự bất hợp lý về phân công lao động được đào tạo trong các lĩnh vực sản xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ. Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm 10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% có trình độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng kể lo ngại và đau đầu nhất của nhà nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta 8% dân số mù chữ, chưa phổ cập được giáo dục tiểu học. Mặt khác người lao động Việt Nam còn hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư 56,4. Cấp viện trưởng là 55 (số liệu này cho tới nay đã thay đổi). Như vậy đến năm 2001 hơn 80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên sự hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận.
Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên phải chăng chúng ta đã quá thừa những người có học vấn chắc chắn là không. Sự thừa đó chính là tác động của mặt trái của kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và nội dung đào tạo không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất hạn chế về chất lượng nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp. Thêm vào đó việc sử dụng và khai thác số lao động, đã được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Nếu chúng ta không có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực lao động thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể thực hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về con người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao động mỗi bước tiến của "cách mạng con người" sẽ đem lại những thành tựu to lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, như chúng ta đã biết "cách mạng con người" với công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai mặt của một quá trình phát triển thống nhất, giữa chúng có một quan hệ biện chứng lần nhau.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm phát triển tốt yếu tố của con người trong sự nghiệp đi lên của đất nước.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế" tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra bước ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển toàn diện mỗi "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người, từng nhà cộng đồng, giai cấp và cả dân tộc.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo là phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con người. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi như báo cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp xứng đangs vào phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải hoàn thiện đó là. Cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con người.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát động một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người. 
(giangvien

Suy nghĩ về phát triển nguồn nhân lực

ở nước ta

Nguyễn Trung

(Bản chỉnh sửa để đăng trong kỷ yếu)

          I. Đặt vấn đề:

          Hiện nay cả nước đang quan tâm đến vấn đề giáo dục, với mong muốn nước ta sớm có được một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước. Hơn nữa, phát triển nguồn nhân lực đang trở thành đòi hỏi bức thiết hàng đầu trên chặng đường công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay của đất nước, chặng đường nước rút – vì thời gian từ nay đến năm 2020 không phải là dài.  Bài viết này cố gắng nêu lên một số suy nghĩ ban đầu với cách nhìn như vậy§.

Sự thật là chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay, bởi hai lẽ:

1.    Đất nước giành được nhiều thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, nay bước vào một thời kỳ phát triển mới sau khi đã hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu hóa, cơ hội và thách thức chưa từng có, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực thích ứng.

2.    Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất cơ hội đang đến với đất nước. Không mau chóng khắc phục được yếu kém này, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức mới, sẽ kéo dài sự tụt hậu của đất nước với nhiều hệ lụy nan giải. 

II. Điểm lại  nhận thức và việc làm thực tế

Trong hầu hết các Đại hội Đảng và trong nhiều văn kiện quan trọng khác nhau của Đảng đã khẳng định:

Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa…Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam…*

Tuy nhiên, từ ý tưởng trên đi tới đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện là cả một cuộc trường chinh gian khổ.

Sau 22 năm đổi mới, nước ta đứng trước thực tế:

Kinh tế tăng trưởng và phát triển liên tục, 10 năm qua tăng trưởng trung bình 7%; 5 năm qua tăng trưởng trung bình 7,5%. Năm 2007 – năm đầu tiên là thành viên của WTO, chỉ số tăng trưởng GDP là 8,5%, của xuất khẩu 20,5%, thu hút FDI tăng 17% (TBKTVN ngày 15-10-2007). Năm 2007, Việt Nam được UNDP đánh giá là nước thứ 6 trong “top ten” của thế giới về thu hút FDI cho các năm 2008-2009 (sau Trung Quốc, Mỹ, Ấn độ, Nga, Brazil), xếp hạng môi trường kinh doanh  được nâng cấp lên 13 bậc¨…. Nhờ GDP tính theo đầu người tăng gấp 4 lần so với trước đổi mới, nên đời sống của nhân dân nhìn chung được nâng cao rõ rệt. Việc Việt Nam ngày 16-10-2007 được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc khóa 2008-2009 cho thấy vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Song chính những thành tựu đạt được này đối chiếu với công sức bỏ ra, với những điều kiện và cơ hội cho phép, phải chăng Việt Nam đang phát triển dưới mức tiềm năng của mình?

Trong phát biểu của mình tại những cuộc hội đàm chính thức hai năm qua với người đứng đầu chính phủ các nước phát triển, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá quan hệ song phương phát triển chưa đúng tầm; điều này cũng hàm ý tự khẳng định sự phát triển chưa đúng tầm về phía nước ta. Nếu  so sánh với các NICs ở châu Á sau 30 năm phát triển đầu tiên, nước ta phát triển như hiện nay là chậm, mặc dù điều kiện ngày nay của nước ta thuận lợi hơn nhiều về mọi mặt so với họ thời đó. Có không ít ý kiến các học giả trong và ngoài nước cho rằng chưa bao giờ Việt Nam hội đủ được thiên thời, địa lợi, nhân hòa như ngày nay, mức độ đạt được sau 32 năm phát triển – trong đó có 22 năm đổi mới – như thế là thấp. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, từ năm 2000 đến nay, đầu tư toàn xã hội ước chừng chiếm khoảng 30 – 40% GDP/năm, so với chỉ số tăng trưởng của những năm này ta có chỉ số ICOR hàng năm là xấp xỉ 5 hoặc <5, nghĩa là quá cao; lẽ ra chỉ số này chỉ nên là 3 – 3,5 so với mức tăng trưởng. Nói cách khác, với tổng đầu tư hàng năm như thế cho thấy tốc độ tăng trưởng và hiệu quả chung của nền kinh tế như thế là dưới khả năng cho phép, kết cấu hạ tầng vẫn phát triển rất chậm; thực trạng này có nguyên nhân quan trọng liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực nước ta…

Giáo dục, đào tạo, và khoa học 22 năm qua phát triển mạnh, góp phần quan trọng vào những thành tựu của đất nước đã nêu trên. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng xuất lao động của toàn xã hội đã thay đổi hẳn cục diện phát triển kinh tế nước ta kể từ khi tiến hành đổi mới, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ nhì thế giới trong những năm gần đây, trình độ giáo dục phổ cập và số lượng học sinh, lực lượng lao động có đào tạo, số người tốt nghiệp các bậc học tăng nhanh so với nhiều nước, đặc biệt trong vòng 10 năm 1993 -2002 tỷ lệ đói nghèo giảm còn một nửa (từ 57% xuống còn 28%). 

Những thành thành tựu nêu trên được thế giới đánh giá là “star performer”© trong đổi mới, trong gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội của nền kinh tế đang chuyển đổi (WB).

Trên đây là so sánh ta hôm nay với ta cách đây 22 năm. Tuy nhiên mặt trái của tấm huy chương: Trung tuần tháng 10-2007 cuộc họp đoàn đại biểu quốc hội Hà Nội và cuộc họp của đoàn đại biểu quốc hội TPHCM đều nêu ý kiến: Đã đến lúc cần phải xem xét chất lượng cuộc sống so với tăng trưởng kinh tế đạt được. Tại kỳ họp thứ 2 hiện nay của Quốc hội khóa XII nhiều đại biểu quốc hội các tỉnh khác cũng nêu ý kiến này.

Đấy là chuyện ta so với ta.

Nếu so kết quả đạt được với công sức bỏ ra, có lẽ phải nói lãng phí phạm phải trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo và phát triển con người là tổn thất lớn nhất so với bất kỳ lãng phí nào khác đã phạm phải trong 22 năm đổi mới, với nhiều hệ quả lâu dài nhất.

Đứng chân trong thế giới này, nước ta còn phải làm hai so sánh nữa:

Một là, chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động so với các nước chung quanh, khoảng cách phát triển không thu hẹp được bao nhiêu; nếu lấy chỉ số thu nhập tính theo đầu người làm thước đo chung nhất, khoảng cách này có xu hướng đang rộng thêm.

Sau 20 năm đổi mới GDP danh nghĩa tính theo đầu người năm 2006 tăng gấp 4 lần năm 1986. Số liệu này khẳng định tất cả những gì đã làm được.

 

Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của IMF năm 2006:

 

GDP danh nghĩa toàn thế giới tính theo đầu người năm 2005 là 7263 USD, của Việt Nam là 650 USD*, nghĩa là gần bằng 9% mức của thế giới – nghĩa là khoảng cách của nước ta so với thế giới bên ngoài là rất lớn.

               So sánh với các nước láng giềng chung quanh, cùng nguồn thống kê nêu trên cho thấy: Mặc dù gần một thập kỷ liên tiếp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc, nhưng GDP danh nghĩa tính theo đầu người của Việt Nam năm 2005 bằng 33% của Trung Quốc (1940 USD); 2,1% Singapore (29765 USD), 3,6% Hàn Quốc (17865 USD); 4,2% Đài Loan (15387 USD); 12% Malaysia (5376 USD); 21% Thái Lan (2993 USD); 43% Indonesia (1500 USD); và 50% Philippines (1278 USD).

 

Năm 1986 – năm bắt đầu công cuộc đổi mới – thu nhập theo đầu người của ta kém Trung Quốc 200USD, kém Thái Lan 997 USD, kém Malaysia 1950 USD, kém Indonesia 550 USD, kém Philippines  440 USD, kém Hàn Quốc 6940 USD… Cũng so sánh như vậy, năm 2006 thu nhập của ta kém Trung Quốc 1100 USD, Thái lan 2140 USD, Malaysia 4520 USD, Indonesia 750 USD, Philippines 420 USD, Hàn Quốc 17.000 USD…  Nghĩa là khoảng cách thu nhập của ta so với những nước này đang ngày càng rộng ra!

(Tham khảo thêm thống kê của IMF 2007).

Hai là, khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, nước ta đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ, nhờ cậy vào tài nguyên và môi trường sang tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người. Ngay trước mắt, thời cơ đang đem lại cho đất nước khả năng đột phá sang một giai đoạn phát triển mới, có thể khắc phục tình trạng tụt hậu. Song nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về nguồn nhân lực, sự bất cập lớn của kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuât, thể chế và năng lực quản lý hẫng hụt nhiều mặt.  

Trong các chuyến đi thăm chính thức các nước phát triển của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong năm 2007, Việt Nam được các nước chủ nhà coi là đối tác đầy triển vọng, những công trình hợp tác kinh tế được ghi nhớ lên tới nhiều chục tỷ USD, nhiều công trình đầu tư lớn, dự án lớn được được cam kết ở mức sâu hơn trên những lĩnh vực quan trọng – nghĩa là chỉ còn chờ phía ta bật đèn xanh để đi vào đàm phán cụ thể: phát triển hệ thống đường xá toàn quốc, phát triển ngành hàng không, mở rộng khả năng sản xuất nhiệt điện, (vấn đề điện năng lượng hạt nhân đang được đề cập), phát triển toàn diện ngành dầu khí, phát triển những khu công nghệ cao, phát triển thị trường tài chính, phát triển thị trường địa ốc, mở rộng ngành công nghiệp du lịch..; ngay trong nước thị trường tài chính có triển vọng thu hút những nguồn vốn lớn… Lần đầu tiên nước ta đứng trước tình hình không thiếu vốn và cơ hội, có nhiều dự án lớn, nhưng lại thiếu trầm trọng năng lực quy hoạch và quản lý, thiếu trầm trọng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng những dự án lớn này. Tiến độ nhiều dự án lớn đã triển khai thường chậm một, hai năm so với kế hoạch hoặc hơn nữa. Trên hết cả, khoảng 2/3 GDP của nước ta dành cho xuất khẩu, cạnh tranh hàng giá rẻ với chất lượng thấp và dịch vụ thấp ngày càng không còn đất sống trước những làn sóng hàng hóa rẻ Trung Quốc khắp thế giới, chỉ còn một con đường cạnh tranh bằng hàng hóa chất lượng cao và dịch vụ cao. Trong khi đó cơ hội không biết chờ đợi. Nói riêng về điện: năm 2006 ta thiếu 1,1tỷ kwh; năm 2007 thiếu 6,6 tỷ kwh, năm 2008 Tập đoàn Điện (EVN) dự báo thiếu 8,6 tỷ kwh, mọi kế hoach sản xuất điện EVN đã cam kết với Chính phủ đều chậm vài năm, thế nhưng từ nhiều năm nay không một dự án đầu tư nhiệt điện nào của nước ngoài dù khả thi về mọi mặt, kể cả dự án BOT, có thể vào VN; một ví dụ này nói lên nhiều điều.

 

Phải chăng đất nước đứng trước một nghịch cảnh: Kinh tế phát triển mạnh và cơ hội đang đến với đất nước rất lớn, nhưng trong khi đó giáo dục – đào tạo – khoa học và vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung sau  thời kỳ giành được những một số thành tựu ban đầu theo xu hướng phát triển đại trà, ngày nay đang đi tới một điểm nóng, với nhiều hệ quả trầm trọng. Trong phát triển con người và nguồn nhân lực, nhiều yếu kém và tiêu cực tích tụ lâu năm đang dồn nén lại thành nguy cơ có thể làm cho đất nước bó tay trước cơ hội lớn. Bản thân ngành giáo dục - đào tạo – khoa học, và nhìn chung là toàn hệ thống phát triển nguồn nhân lực đang có nguy cơ rơi vào khủng hoảng: đào tạo nhiều mà dùng được ít, số người được đào tạo thất nghiệp cao, chi phí của toàn xã hội quá lớn so với những gì gặt hái được, có nhiều hậu quả lớn  phải xử lý tiếp (ví dụ vấn đề đào tạo lại, việc bố trí người không đúng việc, không chuẩn bị kịp cho các bước phát triển tiếp theo của đất nước, phát sinh bộ máy cồng kềnh khiến cho quan liêu tham nhũng không thể tránh được…). Đất nước đứng trước tình hình:  không đẩy nhanh phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học thì bất cập, đảy nhanh thì thiếu nhiều nguồn lực, đảy nhanh theo hướng đang làm sẽ có thể đi tới đổ vỡ lớn hơn, hướng đúng là gì chưa rõ, ý kiến đang rất khác nhau.

Có đúng như vậy không?

Đây là vấn đề cần tìm hiểu và kết luận dứt khoát. Chưa lúc nào trong xã hội tỏ ra lo lắng bức xúc về tình hình giáo dục – đào tạo – khoa học với nhiều lý lẽ rất xác đáng như ngày nay*.

Trước hết nói về công sức bỏ ra rất lớn.

Trên thực tế, tính theo thu nhập trên đầu người, Việt Nam có lẽ là nước có tỷ lệ chi cho giáo dục cao nhất thế giới: trung bình khoảng 8% GDP/năm, ở Mỹ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%..; nếu tính theo thu nhập của hộ gia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa©. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20% (nguồn TCTK và BKHĐT), nhiều quốc gia mơ tưởng chỉ số này dành cho giáo dục của họ. Gần đây còn có nhiều quyết sách khác về tài chính – kể cả việc cho sinh viên vay tiền ngân hàng để chi cho học tập – hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Nghĩa là cả nước nỗ lực rất lớn cho phát triển giáo dục nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói chung.

Thực trạng hiện nay:

Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP – Hà Nội xuất bản tháng 9-2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a)họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc – học nghề, đại học, sau đại học -  mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình, (b)họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu của trong nước, vì chất lượng giảng dạy thấp; nội dung thấp và lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp…

Tình  hình chung nguồn nhân lực của nước ta hiện nay là: Sau 30 năm công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực nông nghiệp; tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ số trường đại học trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có nhiều vấn đề. Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi, vân vân…

Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế.

Nền tảng khoa học để phát triển các đội ngũ nguồn nhân lực nước nhà  được giáo sư  Phạm Duy Hiển đánh giá khái quát: “Với năng lực KHCN như hiện nay, làm sao Việt Nam có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020?”*

Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối nghiêm trọng:

-        Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10;

-        Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung Quốc khoảng gấp đôi của nước ta, vân vân§… Vân… vân…

Tác động sâu xa và lâu dài về mặt văn hóa của những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục là nhiều giá trị cao quý bị mai một, với nhiều di chứng khó sửa: suy nghĩ lệch lạc về cái học trở thành hiện tượng xã hội phổ biến; tư tưởng bằng cấp, tình trạng chạy trường chạy điểm, bằng thật học giả, gian lận, nói dối... tràn lan; bệnh hình thức và thành tích chủ nghĩa để lại nhiều hậu quả trầm trọng; giác ngộ ý thức làm chủ bản thân và vai trò chủ nhân ông của đất nước bị hạn chế; tình trạng dạy và học nhồi sọ cản trở đáng kể sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như của của đất nước, chẳng những không khuyến khích tự do tư duy sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến khả năng đề kháng sự nô dịch sùng ngoại; trong xã hội không hiếm tư tưởng “ăn đong” và tư tưởng làm thuê, không hiếm hiện tượng vùi dập và bỏ phí người tài... Tất cả những yếu kém này vừa đang cản trở khả năng phấn đấu của từng cá nhân, vừa tiếp tục khoét sâu các mặt suy yếu của xã hội, của đất nước. Đã thế, lại có khuynh hướng đổ hết mọi tội lỗi lên cơ chế thị trường! Trong dân gian đã thốt lên sự than vãn: “Bao giờ cho đến ngày xưa!..” Tiến sâu vào thời kỳ phát triển hiện đại và hội nhập, nhưng nhìn chung trong cả nước ý thức luật pháp đối với nhà nước pháp quyền, cũng như ý thức tự chủ đối với xã hội dân sự của những người trong hệ thống bộ máy nhà nước cũng như của người dân còn nhiều mặt hạn chế.

Kết quả chung là: Con người Việt Nam có nhiều tố chất và ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng, chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, năng suất lao động cũng thấp hơn. Có phải như thế không? – mong được đánh giá khách quan.

Những nguyên nhân chính của tình trạng nêu trên có thể như sau:

1.         Không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục của nước ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế giới, không khai thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều hoang tưởng, duy ý chí hoặc nhân  danh phát huy sáng tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực tế là lạc lõng*.

2.       Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã làm sai lệch những ý tưởng, những mong muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực – điển hình là sự ra đời của khái niệm “xã hội hóa” với nội dung bị bóp méo theo khuynh hướng đẩy việc phát triển con người và nguồn nhân lực ngày càng đi vào con đường thương mại hóa, nhiều công việc thuộc giáo dục và đào tạo trở thành hàng hóa và dịch vụ kiếm lợi nhuận, đã xẩy ra siêu lợi nhuận.

3.       Không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là khả năng rất giới hạn của nguồn lực và một bên là đòi hỏi lớn của phát triển – (cụ thể ở đây là phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực – của một nước nghèo, đông dân, đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi nhanh như nước ta); không lường đúng những mặt phức tạp và những khó khăn rất đa dạng, sâu xa của lĩnh vực thiết yếu bậc nhất và rất nhạy cảm nhất này trong đời sống quốc gia, không nhận thức đúng những yếu kém lớn về năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy nhà nước. Duy ý chí và bệnh thành tích đầu độc trầm trọng thêm tình trạng này.

4.       Tri thức, tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp của nhiều chuyên gia,   nhà khoa học được giao nhiệm vụ trực tiếp làm chính sách quốc gia về giáo dục – đào tạo – khoa học, của những người được trực tiếp giao nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục và nguồn lực con người, và nhìn chung là trình độ của đội ngũ này dưới tầm so với đòi hỏi của nhiệm vụ. Xét theo lương tâm nhà giáo, theo bản lĩnh người trí thức thì còn phải nêu ra nhiều yếu kém nghiêm trọng khác nữa của đội ngũ này.

5.       Bao chùm lên tất cả là tác động của những yếu kém nằm trong những nguyên nhân tổng hợp của thực trạng kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa của đất nước.

                 

III Nhìn nhận lại vấn đề phát triển nguồn nhân lực

 

Xây dựng được con người như thế nào thì sẽ hình thành một quốc gia và xã tắc như thế. Mặt khác, con người tự giác thường là yếu tố quyết định nhất thay đổi xã hội và quốc gia nó đang sống. Sự hưng vong, thịnh suy của một quốc gia gắn liền với những điều mang tính nguyên lý này. Văn minh nhân loại ở nấc thang toàn cầu hóa ngày nay khiến cho việc làm chủ những điều mang tính nguyên lý này càng trở thành đòi hỏi sống còn của mỗi quốc gia và mỗi công dân của nó.

Vì lẽ vừa trình bày, phát triển nguồn nhân lực về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải phóng con người. Đòi hỏi này cùng một lúc đặt ra hai yêu cầu: Phải tập trung trí tuệ và nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời thường xuyên cải thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gìn giữ môi trường tự nhiên của quốc gia.

Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, suy nghĩ như vậy sẽ không tìm được lối ra. Vấn đề lớn nhất là những thiếu sót trong cách nhìn về giáo dục và đào tạo, là sự phấn đầu chưa đúng tầm của các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm; do đó chưa phát huy được tất cả trí tuệ và nguồn lực đất nước có trong tay cho phát triển nguồn nhân lực như một ưu tiên quốc gia hàng đầu – điều này bao gồm cả ý chí xây dựng một thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào phát huy những giá trị chân chính của con người, trước hết là phát huy tự do và nghị lực sáng tạo của nó. Vấn đề còn là thiếu ý thức kế thừa, phát huy những thành tựu đất nước đã giành được, là chưa khai thác được một cách sáng tạo những thành tựu của văn minh nhân loại (vấn đề tận dụng lợi thế nước đi sau).

Vì thế phải đặt vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trong một cách nhìn toàn diện.

Ngày nay không thể quan niệm đơn thuần nguồn nhân lực là lực lượng lao động với nghĩa đơn giản là những người làm công ăn lương, những người nông dân ít có điều kiện học hành...

Cuộc sống ngày nay đòi hỏi phải nhìn nhận nguồn nhân lực bao gồm tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội và nghề nghiệp khác nhau, mọi địa vị xã hội từ thấp nhất đến cao nhất -  kể từ người làm nghề lao động đơn giản nhất, nông dân, công nhân, người làm công việc chuyên môn, người làm khoa học, người làm nhiệm vụ quản lý, nhà kinh doanh, người chủ doanh nghiệp, giới nghệ sỹ, người hoạch định chính sách, quản lý đất nước... Tất cả đều nằm trong tổng thể của cộng đồng xã hội, từng người đều phải được đào tạo, phát triển và có điều kiện để tự phát triển. Phải làm tất cả mọi việc để từng người tìm được chỗ đứng và đứng đúng chỗ của mình, chịu sự sàng lọc tất yếu của cuộc sống.

Thử hình dung, bất kể một bộ phận, một tầng lớp hay một giới nào đó, thậm chí một cá nhân riêng lẻ nào đó có ảnh hưởng trong nguồn nhân lực này yếu kém hay bệnh hoạn, sẽ có hệ quả gì? Ví dụ: Nguồn nhân lực cả nước ta làm sao phát huy hết mức trong tình hình một bộ phận của nó, cụ thể ở đây là đội ngũ trong bộ máy quản lý đất nước – một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực - để cho năm 2005 nước ta xếp hạng thứ 107 về nạn tham nhũng, năm 2006 thứ 111 và năm 2007 thứ 123 (tham khảo báo cáo hàng năm của Transparency International), nhiều doanh nghiệp hàng năm phải dùng tới khoảng 900 giờ làm việc năm riêng cho một việc nộp thuế cho nhà nước, vv... Trình độ kỹ trị của đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền còn thấp, nên công việc ùn tắc nhiều và gây nhiều lãng phí; chỗ này chỗ kia còn những Bùi Tiến Dũng đủ các loại... Trong tình hình như thế, giả thử có được một đề án 112 tối tân hiện đại nhất thế giới cũng không thay đổi được bao nhiêu. Vân… vân…

Thực ra phải nói: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong bộ máy công quyền hiện nay phải đặt thành một ưu tiên nếu không cao hơn thì ít nhất cũng không kém gì những ưu tiên khác dành cho những bộ phận khác trong lực lượng lao động của cả nước. Đã có không ít tiếng nói trên báo chí và trong dư luận xã hội đòi hỏi phải nâng cao “quan trí”, nâng cao năng lực kỹ trị, nâng cao ý thức công bộc của đội ngũ cán bộ viên chức ăn lương nhà nước. Người ta hay nói nhiều đến ý thức thấp kém của người nông dân, người công nhân – ví dụ tình trạng ăn cắp vật liệu ở công trình nhà máy lọc dầu Dung Quất… Song hiện tượng đáng lo lắng hơn lại là cuộc sống có không biết bao nhiêu ví dụ về tác trách, về vận dụng hay thi hành sai luật pháp và những chính sách đúng đắn·. Rõ ràng có làm tốt được việc đổi mới đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền, nhiều việc khác mới hy vọng làm tốt được, mọi người khác mới có điều kiện phát huy được mình. Đấy là chưa nói đến những chủ trương, những chính sách không đúng hoặc bất cập – do con người và cơ chế bất cập làm ra.

Có thể nói thế này: Cầu Văn Thánh ở Thành phố Hồ Chí Minh là một sản phẩm tiêu biểu, (a)phản ánh tổng hợp được thực chất trình độ của nguồn nhân lực nước ta – từ người công nhân bình thường đến người thiết kế, người làm kỹ thuật, nhà thầu, người quản lý, người quyết định chính sách – nghĩa là trình độ nguồn nhân lực nào sản phẩm nấy; (b)đồng thời cũng phản ánh  sinh động môi trường pháp lý và đời sống kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội của nguồn nhân lực đã làm nên cây cầu này, nghĩa là môi trường nào thì tạo ra nguồn nhân lực nấy!

Nhìn nhận như vậy, quốc sách về phát triển nguồn nhân lực, về phát huy và sử dụng con người và người tài đòi hỏi phải gắn liền với việc đảy mạnh đổi mới trên nhiều phương diện – về lâu dài là đổi mới toàn diện cả thể chế và xã hội trên cái nền tảng dân tộc vững chắc đã tạo dựng nên tổ quốc Việt Nam của chúng ta.

Với những điều trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực ngày nay không thể chỉ đơn thuần một chiều hiểu theo nghĩa phát triển lực lượng lao động như lâu nay thường làm: mở thêm các trường, các cơ sở đào tạo nghề, cải tiến nội dung dạy, đổi mới chính sách lao động tiền lương, cải tiến công tác công đoàn, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp cho nông dân, vân vân… Đây chỉ là một khía cạnh nhất định của nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực đối với những bộ phận nhất định người lao động trong cộng đồng dân cư của đất nước.

Đặt vấn đề với cách nhìn toàn diện, có nghĩa phải đồng thời và từng bước làm rất nhiều việc khác – ví dụ những việc đã liệt kê ra được như cải cách hành chính, xóa bỏ chủ quản, xóa bỏ bao cấp.., giảm biên chế, bổ túc và đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức các cấp, mở rộng và nâng cao đội ngũ cán bộ kỹ trị, cán bộ quản lý, người làm chính sách, đổi mới chính sách  để phát huy con người và dùng người…; còn biết bao nhiêu việc chưa liệt kê ra được như trong phát huy dân chủ, vận dụng tri thức tiên tiến trong đổi mới thể chế quốc gia, trong hội nhập sân chơi toàn cầu...

Phát triển nguồn nhân lực hiển nhiên đòi hỏi phải đồng thời đổi mới triệt để toàn xã hội hướng thiện - theo những giá trị chân chính – ví dụ, để có một môi trường xã hội trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức; pháp luật được coi làm chuẩn mực; xã hội trở thành xã hội học tập..; tất cả theo nghĩa muốn có nguồn nhân lực nào thì cũng phải đồng thời tạo ra môi trường nấy, văn hóa phải trở thành linh hồn dẫn dắt sự phát triển.

Lẽ đương nhiên không thể tạo ra mọi thứ như thế trong một đêm, nhưng cần có cái nhìn toàn diện để xác định cho đúng cái đích cần lựa chọn rồi mới hoạch định những bước đi, những việc làm.  

 Như vậy không thể có vấn đề phát triển nguồn nhân lực riêng lẻ tách rời khỏi đời sống chung quanh - như trong một xã hội chân không, mà phải nhìn thẳng vào thực tế: Xã hội nào thì nguồn nhân lực nấy, muốn có cái này tốt, cái kia cũng phải làm cùng tốt theo, tất cả phải trên cái nền văn hóa – dân tộc – dân chủ, tất cả phải hội nhập vào bước đi chung của toàn cầu.

 

Nói ngắn gọn: Tất cả hướng vào cái đích là có được một nguồn nhân lực phát triển trong một môi trường thân thiện với phát triển. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đúng khi đã nói tới ý nghĩa đổi mới giáo dục thực chất là một cuộc cách mạng chấn hưng đất nước.

IV. Bình tĩnh, tranh thủ thời gian tìm ra giải pháp thuyết phục

 

Trước khi bàn tiếp, xin kiến nghị:

(1)   Bất luận lựa chọn và quyết định giải pháp gì và trong bất cứ hoàn cảnh nào, ý chí muốn học, tinh thần ham học, quyết tâm chịu đựng mọi hy sinh khốn khó để học và học cho đến cùng của người dân nước ta, trước hết là của lớp trẻ, là cái vốn vô giá của quốc gia. Tinh thần này, ý chí này cần được gìn giữ, nâng niu, cổ vũ.  

(2)   Sự phát triển ồ ạt theo số lượng về giáo dục ở nước ta đặt ra vấn đề: Đã chót đẻ ra thì phải nuôi. Đất nước đứng trước tình thế có quá nhiều trường đại học, học viện, các loại trường khác.., trong khi đó chất lượng của những loại trường này nhìn chung thấp, nguồn lực có thể huy động được lại cực kỳ eo hẹp. Giải pháp nào cũng phải hạn chế xuống mức thấp nhất gánh nặng dồn lên vai học sinh.

(3)   Bình đẳng về cơ hội cho mọi người là một trong những tiêu chí quan trọng nhất của xã hội văn minh, trong đó bình đẳng về cơ hội trong giáo dục là quan trọng bực nhất. Song lực và trí nước ta có hạn, nên tôi nghĩ nước ta cũng phải đi từng bước, điều kiện cho phép đến đâu thì làm đến đấy, nỗ lực hết mức làm đến đấy.*!

Chỉ ba điều nêu trên đủ cho thấy phải bình tâm suy nghĩ, xem xét lại tất cả, phải mất công động não cân nhắc mọi điều trước sau mới hy vọng tìm ra giải pháp đúng.

Trong 22 năm đổi mới vừa qua, xin hãy kiểm kê lại xem Nhà nước ta đã bao nhiêu lần cải cách, cải tiến giáo dục – từng phần hoặc toàn phần, thế nhưng kết cục là có tình hình giáo dục – đào tạo – khoa học như hôm nay. Chẳng lẽ cứ tiếp tục cải cách thêm kiểu như thế này để kéo dài, để mở rộng mãi tình trạng hôm nay? Đã đến lúc nên tổng kết một cách triệt để.

Cả nước đều biết, ngay từ khi nhận trọng trách mới, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân đã dành nhiều công sức trực tiếp lao vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng trong ngành giáo dục. Đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng quan tâm chỉ đạo Bộ này và các ngành có liên quan làm tất cả những gì có thể để cải thiện tình hình và đẩy mạnh phát triển giáo dục, coi đấy là một trong những ưu tiên lớn của quốc gia. Việc làm gần đây nhất là Thủ tướng chỉ thị đẩy mạnh vấn đề cho các sinh viên nghèo vay tiền ngân hàng để đi học…

Song như đã trình bày, những khó khăn yếu kém trong lĩnh vực giáo dục nói riêng và trong phát triển nguôn nhân lực nói chung tích tụ từ hai mươi năm nay thành nhiều vấn đề lớn, nan giải, có nhiều vấn đề đã trở thành những nếp khó sửa, không thể một sớm một chiều nhìn được hết, càng không thể tìm ngay được lối ra. Đấy là chưa nói đên đòi hỏi của cạnh tranh kinh tế toàn cầu nà nước ta nhất thiết phải đương đầu: Trong lĩnh vực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đổi mới, cách gì đi nữa, vẫn cần tiếp tục duy trì sự phát triển năng động, ổn định và có chất lượng ngày càng tốt hơn của toàn bộ nền kinh tế.

Xin nêu ra một số vấn đề dưới đây để thấy rằng tình hình dù bức xúc thế nào, cũng không thể nôn nóng, vì cuộc sống không có liều thuốc tiên.

IV.1 Vấn đề tăng học phí

Đây đang là vấn đề thời sự nóng hổi nhất.

Phó thủ tướng Bộ trưởng Nguyễn thiện Nhân giải thích:

 

          “… không tăng học phí đại học thì không thể có chất lượng như mong muốn.  Nếu tính học phí đại học cũng dựa vào thu nhập của người dân thì sẽ rơi vào vòng bế tắc, luẩn quẩn: nước nghèo nên ngân sách cho giáo dục ít, người dân thu nhập thấp nên khả năng đóng học phí thấp, do đó chi cho đào tạo ít. Hệ quả là thiếu kinh phí xây dựng trường lớp, mua sắm thiết bị, trả lương giáo viên kém nên chất lượng đại học thấp, quy mô nhỏ. Nếu cứ thế thì những người ra trường với chất lượng đào tạo thấp làm việc hiệu quả không cao, nền kinh tế lại chậm phát triển, đất nước tiếp tục nghèo.


         …Tăng học phí là một đột phá trong tài chính cho giáo dục đại học...)
§  

          Phó thủ tướng Bộ trưởng nhiều lần nhấn mạnh tăng học phí gắn với nói “không” với dạy học không có chất lượng, với dạy những điều thị trường không có yếu cầu.

Lô-gích là như thế, song có nhiều ý kiến cho rằng thu – chi cho giáo dục còn nhiều vấn đề phải xem xét lại, thực hiện điều nói “không” đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều biện pháp đồng bộ, không thể ngày một ngày hai có ngay được.

Ví dụ:

Ý kiến của giáo sư Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá Giáo dục Quốc hội :

 “... Để tăng học phí, một điều quan trọng hơn nữa là phải thay đổi quan niệm về công tác giáo dục đào tạo, đặc biệt là cấp đại học. ...Tăng học phí chất lượng dạy có tăng?”. Trên thực tế, nếu tăng học phí đồng loạt thì toàn bộ chất lượng cũng tăng đồng loạt? Tôi tin là không có. ...trước khi tăng nên kiểm tra học phí được sử dụng như thế nào? Cần có đánh giá tổng kết... Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cũng có nói, việc sử dụng học phí ở một số trường đại học chưa đúng với quy định của ngành, chẳng hạn một số trường dùng học phí để chi cho cán bộ công nhân viên, giáo viên mà không chi cho giáo dục đào tạo. ...Báo cáo đó rõ ràng đặt ra vấn đề, học phí chưa được sử dụng đúng, vậy tăng học phí có phải khó thuyết phục dư luận?”

(Tin tức Onlne, 09-10-2007)

Ý kiến của giáo sư Hoàng Tụy:

“...Kiểm toán Nhà nước vừa phanh phui bao chuyện thất thoát công quỹ, hơn nữa, đời sống người dân đang rộn lên bao chuyện bất an (tai nạn giao thông, an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường, vật giá leo thang...), thì đặt vấn đề tăng học phí chưa ổn. Còn về lâu dài, muốn chấn hưng giáo dục thật sự đạt kết quả, Chính phủ và Quốc hội cần quyết liệt hơn nữa trong chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, và riêng trong ngành giáo dục cần chấn chỉnh quản lý trong nội bộ ngành, rà soát lại mọi chế độ, quy định, tổ chức, để sử dụng đầu tư của Nhà nước và nhân dân có hiệu quả hơn. Tôi tin rằng ngân sách ngành giáo dục và đào tạo được cấp, cộng thêm phần đóng góp trực tiếp của dân (bằng hai phần ba ngân sách) hoàn toàn đủ cho nhu cầu giáo dục phổ thông mà không cần tăng học phí.  

...Có một số vấn đề nguyên tắc phải tôn trọng nếu thật sự ta muốn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ. Thứ nhất, cấp phổ cập phải tuyệt đối miễn phí, hơn nữa phải tiến đến chỗ sách giáo khoa cũng được cấp hoặc cho mượn. Thứ hai, trên cấp phổ cập (từ cấp 3 phổ thông trở lên) thì trong giai đoạn nào đó trường công lập có thể thu học phí nhưng học phí phải khác nhau tùy vùng giàu, nghèo, và phải đi đôi với chính sách học bổng thực sự hữu hiệu, đồng thời về lâu dài vẫn cần tiến đến chỗ miễn phí, hoặc thu phí rất thấp chỉ để nhắc nhở trách nhiệm cho người học, hoặc Nhà nước cho vay tiền để đi học như Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa có chủ trương rất đúng đắn.”

(Thời báo kinh tế Sài Gòn, 04-10-2007)

Trong giải quyết vấn đề có nhiều mối hệ lụy phức tạp, chọn khâu đột phá thường là cách tiếp cận cần thiết; song chính biện pháp “đột phá” lại đòi hỏi phải cân nhắc và chuẩn vị kỹ lưỡng nhiều mặt, nếu không biện pháp đột phá có nguy cơ: phá mà không đột. Ví dụ có những ý kiến nói: Chương trình đào tạo 20.000 tiến sỹ và 1 tỷ USD cho dạy nghề cho thấy thiếu tiền chưa phải là vấn đề nóng bỏng nhất đối với giáo dục, như vậy tăng học phí chưa hẳn đã là khâu đột phá... Vấn đề nóng bỏng hơn là sự phân bổ và sử dụng đúng, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực Nhà nước đang có trong tay¨…

 Ngoài ra còn có một số người nêu câu hỏi: Hiến pháp quy định bậc tiểu học hoàn toàn miễn phí, tại sao vẫn có tình trạng đóng góp dưới dạng thu một lọai phí hay học phí…

Còn rất nhiều ý kiến khác nữa.

Còn nhiều câu hỏi khác nữa, tập trung vào nỗi bức xúc: Làm gì với mọi nguồn lực sẵn có trong tay sớm xây dựng nên một nền giáo dục đáng mong muốn? Không thể khoanh tay ngồi nhìn trong lúc đất nước còn nghèo.

Vì vậy, trước mắt vấn đề tăng học phí chỉ nên thực thi với tính chất là khâu đột phá sau khi đã có kế hoạch đầy đủ trên cơ sở rà soát và phân bố lại toàn bộ thu - chi cho giáo dục từ ngân sách nhà nước cũng như từ phần đóng góp của dân; chống thất thoát và tham nhũng trong ngành giáo dục; xóa bỏ những thu - chi không hợp lý trong ngành, để dồn cho nâng cao chất lượng giáo dục.

Rất đáng cả nước thắt lưng buộc bụng để mà học. Điều này có nghĩa là huy động đóng góp phải đúng và gắn liền với cắt bỏ những lãng phí. Xin nhấn mạnh: xóa bỏ những lãng phí – ví dụ những khoản chi cho những công trình nghiên cứu vô bổ, những chi tiêu sai (như báo cáo Kiểm toán Nhà nước 2007 đã nêu ra) hay những khoản đầu tư sai từ ngân sách nhà nước, cắt bỏ những chi tiêu vì chạy theo thành tích hình thức, kể cả những việc học hình thức… Làm được như vậy chắc chắn nước ta không đến nỗi quá ít tiền để phát triển giáo dục.

Tựu trung lại, tăng học phí với tinh thần cả nước thắt lưng buộc bụng để mà học là rất nên. Cả nước cần quyết tâm làm như thế để sớm ra khỏi dốt và nghèo. Nhưng phải làm đúng với tinh thần thắt lưng buộc bụng – với nghĩa thu, chi từng đồng phải tính toán chi li: lấy từ đâu, chi vào việc gì, hiệu quả thế nào. Thắt lưng buộc bụng như thế không dính dáng gì đến tính keo kiệt.

Đang còn nghèo như nước ta, chẳng lẽ không đáng bắt đầu từ trong Đảng, rộng ra đến toàn bộ hệ thống chính trị, hệ thống xã hội – từ đó dấy lên trong cả nước một phẩm chất, một ý chí phấn đấu: Thắt lưng buộc bụng cho cái học! Dẹp bỏ  mọi phô trương hình thức để có tiền và thời gian cho cái học có thực chất! Cả nước học, toàn xã hội là xã hội học tập. Mọi nơi mọi cấp trong cả nước nói rất  nhiều đến “truyền thống hiếu học của Việt Nam”, mong rằng lời nói sẽ trở thành hành động thắt lưng buộc bụng như thế cho cái học. Điều này đáng khao khát lắm, vì học như thế chẳng những sẽ được trí tuệ mà còn nên người, đất nước sẽ ngửng mặt được với thiên hạ. Nhưng cũng thiết tha xin đừng làm việc này như một “phong trào”!

IV. 2.  Vấn đề chất lượng giảng dạy

            Ít nhất có hai vấn đề lớn: Chương trình giảng dạy và người dạy.

          IV. 2. 1. Về chương trình giảng dạy: Hầu như có sự đồng tình rộng rãi phải cải tiến mạnh mẽ chương trình giảng dạy của các loại trường ở tất cả các cấp, nhưng cải tiến như thế nào để không đi vào vết xe của những đợt cải cách, cải tiến đã thực hiện trong 22 năm qua, thì chưa được bàn tới một cách triệt để, thực tế là đang còn có nhiều ý kiến khác nhau. Trên báo chí, nhiều học giả Việt Nam sống trong nước và ở ngoài nước đã giới thiệu nhiều mô hình khác nhau của các nước có nền giáo dục tiên tiến (Phần Lan, Anh, Đan Mạch, Bỉ, New Zealand, Úc…). Đáng chú ý là trong những kiến nghị này đều toát lên một ý chung:

         

Cải cách giáo dục đang trở thành vấn đề thời sự ở nhiều nước, chứ không riêng gì nước ta, đương nhiên mỗi nước có những vấn đề riêng của mình. Điểm giống nhau là không nước nào dám khoanh tay ngồi yên.

Trong khi ở Mỹ cải cách này nhằm mục đích chính là cơ cấu lại nguồn nhân lực nước Mỹ đứng trước tình hình: xu thế “outsourcing”§ ngày càng mạnh của nền kinh tế Mỹ; hàng tiêu dùng rẻ đổ vào Mỹ ngày  càng nhiều nên đòi hỏi kinh tế Mỹ phải tiếp tục loại bỏ nhiều sản phẩm; lao động rẻ nhâp cư tăng mạnh… Hướng cải cách giáo dục của mỹ chủ yếu nhằm bảo vệ khoảng cách đi trước của kinh tế Mỹ so với kinh tế của các nước đối thủ và so với cả thế giới·©. Ở nhiều nước Tây Âu mục đích chính của những nỗ lực này là đẩy mạnh kinh tế tri thức và thích ứng với đòi hỏi mới của nền kinh tế toàn cầu hóa. Trung Quốc và Ấn Độ nhằm nâng cao chất lượng đại học và đảy nhanh tiến độ tiếp cận, ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới. Nhật chú trọng hơn nữa đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước đáp ứng yêu cầu nước Nhật sớm trở thành một cường quốc hoàn chỉnh cả kinh tế và chính trị. Singapore – vì mục đích kinh doanh và vì muốn tiếp tục giữ vị thế quốc tế của mình -  chú trọng làm mọi việc để trở thành “cái lò” đào tạo trí thức cho các nước (nhất là các nước trong khu vực), bao gồm cả việc mời những trường đại học quốc tế có tên tuổi sang mở trường trực tiếp ở Singapore, song ý đồ này không dễ gì thực hiện*… Nghĩa là nhiều quốc gia đã có nền giáo dục tiên tiến mà cũng không dám vô lo trước sự phát triển năng động của nền kinh tế toàn cầu hóa và của khoa học và công nghệ. Riêng ở Pháp, thư của tổng thống Sarkozy gửi các nhà giáo Pháp§ đặt vấn đề một cách toàn diện, bắt đầu từ đổi mới quan điểm dạy học – kể từ dạy các lớp học sinh nhỏ tuổi, sao cho nhân bản hơn, phát huy tốt hơn năng lực riêng của mỗi cá tính, tránh tình trạng dao động lúc quá nhấn mạnh cái này, khi quá nhấn mạnh cái kia; cần tuân thủ “mỗi thời kỳ lịch sử gợi ra những ước vọng riêng”… Cũng có nghĩa giáo dục phải nhằm giúp đạt được ước vọng của mỗi con người ở thời nay…

Điểm qua như vậy, chúng ta sẽ được những gợi ý gì về nội dung và chất lượng giảng dạy? Đây là điều rất đáng suy ngẫm.

 

IV. 2. 2. Về người dạy ở nước ta

Gần đây có nhiều tiếng nói trên báo chí thẳng thắn phê phán tình trạng chất lượng thày dạy nhìn chung trong cả nước là thấp; không hiếm trường hợp thày, cô giáo đứng nhầm bục dạy; dạy theo giáo án tủ, giáo án mượn; dạy theo theo lối mài chữ, chép chữ; tình trạng các trường thiếu thày…©

Nguyên nhân có nhiều và cũng được nêu lên khá đày đủ trên báo chí.

Một trong những giải pháp được Bộ Giáo dục và đào tạo đưa ra giải quyết vấn đề thiếu thầy nêu trên là đề án đào tạo 20.000 tiến sỹ*, căn cứ vào Nghị quyết số14/2005NQ-CP  ngày 02-11-2005 của Chính phủ về “đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”.

Giáo sư Bùi Trọng Liễu nhận xét: “Đề án đào tạo 2 vạn tiến sĩ cho mươi năm tới lại không đủ sức thuyết phục. …Ông bộ trưởng có lý khi phát biểu muốn nâng một cách đáng kể tỉ số tiến sĩ [này]. Nhưng nếu số trường đại học có hạn thì dễ thực hiện hơn, còn nếu mở vung vãi quá nhiều đại học thì đề án trở thành bất khả thi. Bởi vì đào tạo tiến sĩ không dễ : đào tạo trong nước đã khó ; gửi ra ngoài đào tạo cũng khó, vì các trường đại học nghiêm chỉnh nước ngoài cũng tuyển một cách chặt chẽ ; không phải nghiên cứu sinh Việt Nam nào được phép đi du học cũng có thể ghi tên soạn luận án được, và ghi tên soạn luận án tiến sĩ rồi không có nghĩa là sẽ hoàn thành nổi một luận án. Đã có những trường hợp phải bỏ cuộc »¨.

Còn không ít những ý kiến khác chung quanh vấn đề người dạy và các giải pháp. Thực tế này cho thấy thiếu thày và thiếu nhiều tiến sỹ lắm, phải đào tạo thêm, nhưng đòi hỏi phải có giải pháp đúng, với những nỗ lực rất lớn và đúng hướng, phải mất nhiều thời gian mới giải quyết được*. Thế nào là giải pháp đúng? Đang ngổn ngang quá nhiều câu trả lời cho sự lựa chọn, hình như không thể nóng vội làm theo kiểu kế hoạch chỉ tiêu được·.

 

IV. 2. 3. Chất lượng nhà trường nước ta

 

Nhiều trường, nhiều trường lớn và đông, chất lượng nhìn chung thấp, nhiều nơi rất thấp.

          Đó là đặc điểm chung nhất cho các loại trường từ tiểu học cho đến đại học, các học viện, viện nghiên cứu. Nguyên nhân phổ cập vẫn được coi là nghèo! Cách nghĩ này không ổn. Giả thiết rằng chúng ta giàu có hơn song nếu cứ chạy theo xu hướng phát triển đại trà như những năm vừa qua chắc gì chúng ta có được các trường viện tốt hơn?  

         Xin lưu ý, đã có một thời nước ta còn nghèo hơn hiện nay, trong nước còn chiến tranh, thế nhưng nền giáo dục nước ta thời đó đã đóng góp không nhỏ vào cuộc kháng chiến và mọi nhiệm vụ khác nó phải cáng đáng đối với đất nước, đã trở thành niềm tự hào lớn của đất nước, một vết son sáng ngời của chế độ chính trị nước ta thời đó với những tên tuổi bất hủ như Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Đặng Thái Mai, Đặng Văn Ngữ.., với không ít những mái trường từ trung học phổ thông đến đại học, từ trường dạy nghề đến trường cao đẳng… đã một thời làm dạng danh nền giáo dục Việt Nam. Chính quá khứ đáng ghi nhớ này thôi thúc chúng ta phải kiên tâm đi tìm đâu là những nguyên nhân đích thực của những yếu kém hôm nay trong nhà trường của nước ta.

          Bàn riêng về nhà trường, những yếu kém chính là chương trình giảng dạy, điều kiện vật chất kỹ thuật và trường sở, thư viện, sách tham khảo… Nếu so với nền giáo dục ở thời đại tin học thì còn phải nêu nhiều yếu kém khác nữa.

          Kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông với tinh thần chống bệnh thành tích của năm 2006 và 2007 đưa ra nhiều con số, sự việc làm choáng váng cả nước, phản ánh toàn diện thực trạng nhà trường cấp trung học phổ thông của nước ta.

          Dưới đây xin tập hợp một số nhận xét rất đáng suy ngẫm về cấp đại học.

           Theo số liêu thống kê, cả nước hiện nay có 322 trường đại học và cao đẳng, trong đó khoảng 1/10 là dân lập (nghĩa là trường tư). Tiến sỹ Vũ Quang Việt cho rằng như thế là số trường quá nhiều so với tỷ lệ dân số và mức thu nhập quốc dân thu nhập – cao hơn Trung Quốc 15% mà mức thu nhập của nước ta chỉ bằng ½ của Trung Quốc. Quy mô một số trường của nước ta quá lớn: “…Đại học Quốc gia TPHCM 81 ngàn, Đại học kinh tế TPHCM 34 ngàn, Đại học Huế 81 ngàn, Đại học Đà Nẵng 52 ngàn, Đại học mở Hà Nội 46 ngàn, Đại học Thái Nguyên 34 ngàn, v.v. Đây là những đại học vào hàng khổng lồ nhất thế giới. Ở Mỹ, đại học lớn nhất là Arizona State cũng chỉ có khoảng 52 ngàn sinh viên. Các đại học hàng đầu của Mỹ chỉ khoảng 15 ngàn. Tôi không hiểu trong mỗi đại học Việt Nam có bao nhiêu sinh viên là chính khoá, còn bao nhiêu là tại chức, chuyên tu, v.v.”ª

          Bài “Chất lượng các trường đại học mới: S.O.S!” đăng trên báo Lao Động số 228 Ngày 02/10/2007 cho chúng ta bức tranh sau đây:

          “Nhiều trường ĐH ngoài công lập thành lập cuối những năm 1990 đều  phải vận dụng cách lấy GV thỉnh giảng bù đắp cho khoảng trống về đội ngũ GV. Thay vào việc đầu tư đổi mới cách dạy học, nghiên cứu khoa học, GV nhiều trường trở thành "thợ giảng".   Trong số 25 trường ĐH mới thành lập có trường hiện nay chưa hề có một GV nào là GS, PGS  hay có trình độ TS  ...Tình trạng trường "ĐH giống trường THPT"  là phổ biến, nhất là khi có hàng loạt trường mới được thành lập. Nhiều trường ĐH mới hiện nay chưa có  các phòng thí nghiệm chuyên ngành. SV chủ yếu học chay, chưa có giáo trình, tài liệu tham khảo, trang thiết bị hỗ trợ dạy học...Lịch học thay đổi do lệ thuộc vào GV thỉnh giảng...”

          Thực tế nêu trên cho thấy đại học mang tính đại trà kéo dài nhiều năm như vậy trong một nước nghèo, và trình độ tổ chức và trình độ quản lý đều rất hạn chế, tất yếu để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đây là vấn đề rất khó tháo gỡ, càng khó tháo gỡ nhanh, nhưng trước sau không thể tránh né được.

Ngoại ngữ đang là một trong những vấn đề bức thiết nhất và cũng là một trong những bất cập lớn nhất của nhà trường nước ta. Không thể hình dung sống trong thế giới ngày nay không có ngoại ngữ. Con đường tiếp cận mọi thành tựu văn hóa, tiến bộ khoa học và kỹ thuật của thế giới, con đường hội nhập vào kinh tế và cộng đồng thế giới đều phải đi qua cái cầu ngoại ngữ. Con đường khai thác lợi thế nước đi sau và làm giàu trí tuệ của chính mình phải có ngoại ngữ hỗ trợ. Sự thật là nền giáo dục nước nhà không quan tâm đúng mức vấn đề ngoại ngữ, lại quen lối tư duy đổ tội cho cái nghèo một cách không thể biện bạch được. Đã đến lúc phải đưa chương trình dạy ngoại ngữ trở thành một phần bắt buộc trong chương trình giảng dạy từ cấp phổ thông – khả năng cho phép đến đâu thì thực hiện tới đấy rồi mở rộng dần ra – ví dụ bắt đầu từ các vùng đô thị và kinh tế phát triển. Vì yêu cầu hội nhập và vì ở sát nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc, học tiếng Anh và tiếng Hoa ngày càng trở nên cấp thiết*.

Riêng về mặt văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ, phát huy truyền thống và bản sắc dân tộc, vấn đề duy dưỡng và khai thác vốn Hán nôm của quốc gia ngày càng trở nên quan trọng. Vấn đề này bị sao lãng hời hợt đến mức có nguy cơ đi tới một nền văn hóa mất gốc. Còn rất nhiều việc phải làm để văn hóa Việt trở thành tâm hồn dẫn dắt con đường đi lên của đất nước, là yếu tố gìn giữ bản sắc và sự trường tồn của dân tộc ta. Để đứng được trong cạnh tranh của toàn cầu hóa, Việt Nam chẳng những cần hiển diện trước thế giới là một nền kinh tế mà còn là một hình ảnh văn hóa của chính mình.

Trong nhà trường còn có vấn đề sách và thư viện không thể bỏ qua được.

Nếu nói tỷ lệ số lượng sách in ra so với dân số, có lẽ phải xếp hạng bậc cao hay rất cao cho nước ta, có lần báo chí nước ta đã tự xếp hạng ta là nước Đông Nam Á có cố lượng đầu sách hàng năm cao nhất trong vùng, không rõ chính xác đến mức nào. Nhưng xin hãy đến thăm bất kỳ cửa hàng sách hay vào bất kỳ thư viện nào của các trường, viện, nhìn chung sách của tác giả nước ta chất lượng thấp, không ít nội dung sao chép một cách chắp vá của bên ngoài, lạc hậu xa so với trình độ chung trên thế giới, nhiều sách rất khó tin cạy cho việc nghiên cứu nghiêm túc của người dậy cũng như người học ở tất cả các bậc học. Trong khi sách dịch cũng rất nhiều chuyện để nói. Điều khổ sở nữa là giá sách đắt quá so với số đông trong xã hội. Dạy mà không có sách tốt cho tham khảo, nghiên cứu, cập nhật thì chỉ còn cách mài giáo án – dù là giáo án vay mượn -  ra mà dạy. Học mà không có sách cho tự học thì chỉ còn cách học nhồi sọ và học thuộc lòng. Tình hình thư viện nói chung của các trường, viện cũng đáng buồn như vậy. Rất nên có một chuyên đề riêng bàn tính việc tháo gỡ vấn đề sách và thư viện.

Một vấn đề nóng bỏng thường trực: Mỗi năm chỉ có khoảng 20% thí sinh thi đại học trúng tuyển, con số này là hợp lý trong điều kiện của nước ta hiện nay. Nhưng 80% không trúng tuyển sẽ đi đâu? Các trường loại khác và các trường nghề cần cho số 80% còn lại này hiện nay thế nào, bàn tay của nhà nước và bàn tay của xã hội giúp được gì cho số 80% không đỗ còn lại này?

Vân… vân…

          Phần IV của bài này mới chỉ xới lên được một số vấn đề bức xúc chứ không phải là tất cả. Mong rằng cả nước sẵn sàng chấp nhận mọi đau đớn để chấn chỉnh lại nền giáo dục nước nhà, có không ít việc phải làm lại từ đầu, có nhiều vấn đề đòi hỏi phải có những giải pháp quyết liệt, nhưng không thể nôn nóng được. Làm gì cũng phải tính đến kế thừa và khai thác lợi thế nước đi sau.

Trước mắt nên vận dụng tối ưu mọi nguồn lực có trong tay, có thể phải chấp nhận một số biện pháp “tình thế” để chữa cháy tức thì vấn đề nào nào đó. Tất cả nhằm tranh thủ thời gian huy động trí tuệ của toàn thể cộng đồng dân tộc, trước hết là của các nhà khoa học, các nhà giáo dày dạn, cùng nhau thảo luận cho vỡ vấn đề. Rất cần bàn thảo rộng rãi, công khai và dân chủ trong cả nước, sao cho trong trong một hai năm tới đất nước có một kế hoạch chấn chỉnh nền giáo dục được cả nước hậu thuẫn mạnh mẽ, xây dựng được một chiến lược phát triển con người và nguồn nhân lực của nước ta theo tinh thần  thắt lưng buộc bụng cho cái học để sớm thoát khỏi nghèo  hèn. Đất nước ta chỉ có thể đi lên công nghiệp hóa hiện đại hóa, chỉ có thể đạt được giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình từ cái học. Càng ngày càng cấp thiết: Vạn sự tốt đẹp bắt đầu từ cái học.

Nên tổ chức trưng cầu dân ý về những vấn đề lớn, sửa những điều trong Hiến pháp có liên quan về những vấn đề hệ trọng của lĩnh vực giáo dục nước nhà.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh sự cần thiết và nêu lên nội dung phải đổi mới, kiện toàn Hội đồng giáo dục quốc gia, coi đấy là bước đi đầu tiên. Kinh nghiệm các nước về cơ quan chuyên trách cấp cao như  vậy rất phong phú, làm việc có kết quả thực chất, rất đáng để nước ta tham khảo.

Chẳng lẽ cả bài viết này hơn hai chục trang giấy mà chỉ làm được mỗi cái việc điểm ra một số vấn đề bức xúc và nhắc lại đề nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp?  

Xin thưa: Vâng, không thể khác được.

Bởi vì trước hết nên khởi đầu từ công khai đặt lên bàn mọi vấn đề cho sự thảo luận rộng rãi, dân chủ trong cả nước. Hội đồng giáo dục quốc gia được chấn chỉnh cần bắt tay ngay vào bàn thảo mọi vấn đề đã được đặt lên bàn. Xin làm ngay. Vì mỗi ngày bây giờ được đếm bằng vàng! Nhìn ra cả thế giới còn phải nói: Vàng cũng không sánh được!

 

Thay cho phần kết luận

          Nếu được phép nêu ra một đề nghị với nhà nước, xin nói: Yêu cầu trung tâm của nhiệm vụ phát triển con người và nguồn nhân lực nước ta nên là:

          Nâng cao quyền năng con người.

          Bởi vì không thể cầm tay chỉ bảo từng người trồng cây gì con gì, làm sản phẩm nào để thoát được nghèo hèn. Nhưng con người được nâng cao quyền năng về trí tuệ, về ý chí sẽ tự thắp đuốc cho mình đi lên. Con người như thế trong đời sống và lập nghiệp sẽ khó bị ai lừa gạt hay bắt nạt. Con người như thế dễ tiếp thu cái mới và không dung tha cái lạc hậu, sẽ biết cách thực hiện và bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích cộng đồng, làm được nhiều việc lớn. Đấy là con đường hứa hẹn nhất khắc phục sự tụt hậu của đất nước. Quốc gia có những công dân đầy quyền năng như thế, quốc gia này sẽ tiến lên văn minh hiện đại. Đề nghị này khó, nhưng rất nên.

          Nếu được phép nêu ra một đề nghị như thế với người dân, với thanh thiếu niên, xin nói:

          Yêu tổ quốc mình với tất cả bản lĩnh người Việt Nam, với tinh thần thắt lưng buộc bụng để mà học, với tất cả sự khiêm tốn đến nhẫn nhục, với lòng kiên nhẫn như đào núi lấp biển, xây dựng ý thức hiệp đồng, gìn giữ bằng được chữ tín, tất cả để làm chủ bản thân mình và làm chủ thực sự đất nước của mình, gìn giữ và không dung tha sự vi phạm quyền làm chủ này. Có lẽ đấy là con đường mỗi công dân và cả nước ta có thể trở thành đối tác tin cạy của cả thế giới trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay.

          Giáo dục, đào tạo như thế nào để nước ta có những công dân giàu quyền năng như thế? Để Việt Nam xứng đáng với lịch sử của mình và vị thế quốc tế mới!

Hà Nội, ngày 13-10-2007


 

§ Trong bài này tôi chưa dám bàn đến lĩnh vực y tế.

* Tham khảo các Văn kiện các Đại hội Đảng toàn quốc VI, VII, VIII, IX và X và nhiều Hội nghị Trung ương có liên quan.

¨ Tuy nhiên cũng nên thận trọng với đánh giá này, năm 2007 Thái Lan trong tình hình có đảo chính mà  đánh giá môi trường kinh doanh vẫn được nâng cấp lên 5 bậc (do có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh). WB cho rằng tuy chỉ lên 5 bậc nhưng chất lượng cạnh tranh của Thái Lan cao hơn Việt Nam nhiều.

© Tạm dịch: Người thực hiện xuất sắc công cuộc đổi mới.

* Tham khảo các bài báo, bài viết sau đây: (1) Võ Nguyên Giáp, “Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của nước nhà”, Tuổi trẻ, 10-09-2007; (2) Hoàng Tụy, bài  “Xã hội hóa hay là đẩy gánh nặng cho dân?” đăng trên Người Lao Động số ra ngày 14.8.2007 và Tia Sáng ngày 24/8/2007, bài “Học phí và đổi mới giáo dục” đăng trên TBKTSG 04-10-2007; (3)Phạm Duy Hiển, “Thử đi tìm một mô hình khác phát triển khoa học” – Tia Sáng số 19 ngày 05-10-2007; (4) Bùi Trong Liễu - Trả lời phỏng vấnngày 06-08-2007 – toàn văn, đề nghị tìm đọc trên http://www.diendan.org/viet-nam/;  Hà Nội 04-010-2007; (5) Nguyên Ngọc, “Lại xôn xao chuyện Triết lý giáo dục” – bản toàn văn bài 20-09-2007; (6) Tọa đàm tháng 9-2007 của tuần báo Doanh nhân Sài Gòn cuối tuầnvề giáo dục, đăng trên Tuổi trẻ ngày 29-09-2007; (7) Vũ Quang Việt, “Xin được đối thoại với Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân” ngày 17-09-2007, toàn văn trên Viet-Studies.info (8) Phạm Xuân Yêm, “Xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế ở Việt Nam”, Vietsciences 11-09-2007: (9)Mai Đình, “Chất lượng, hiệu quả trong giáo dục”; (10) Lê Việt Hưng (NCS tại Nottingham, UK) Đề án 20.000 tiến sỹ không thực thi và quá mạo hiểm”, Dân Trí ngày 03-10-2007; (11) “Chất lượng các trường đại học mới: SOS!”, bài ghi lại của Kỳ Thanh, báo Lao Động ngầy 02-10-2007; (12) Nguyễn Trung, “Đề án 112 và 20.000 tiến sỹ…, Tuổi trẻ cuối tuần số 21-09-2007 và bài phản biện của Đá Chông: “Phê phán phải dựa trên  Biết và Hiểu” đăng trên CAND ngày 25-09-2007; (13)  “Về triết lý giáo dục Việt Nam”, Tạp chí Cộng Sản 26-09-2007; (14) Nguyễn Xuân Hãn, Đại học Quốc gia Hà nội, Bài “Nhưng quan trọng hơn vẫn là đứng trên lập trường nào, vì lợi ích của ai?”, Hà nội 01-10-2007;  (15) Tham khảo thêm thư của Tổng thống Pháp N. Sarkozy ngày 04-09-2007 gửi những người làm công tác giáo dục ở Pháp (bản do anh Phạm toàn dịch)… vân vân…

© Tham khảo bài “Xin được đối thoại với Phó Thủ tưởng Nguyễn Thiện Nhân về vấn đề giáo dục” của tiến sỹ Vũ Quang Việt, Diễn đàn online, 17-09-2007.

* Tìm xem: Phạm Duy Hiển, “Thử đi tìm một mô hình khác phát triển khoa học” Tia Sáng số 19 ngày 05-10-2007.

§ (tham khảo thêm bài “Xin được đối thoại…” của Vũ Quang Việt đã dẫn, và bài “Chất lượng nguồn nhân lực quá yếu”, của Nguyễn Xuân Hãn, báo Lao Động ngày 06-10-2007).

* (ví dụ: định thay bản chữ cái ABC, abc bằng bảng E,e; tình trạng bất cập của chương trình chuẩn, giáo án chuẩn; kế hoạch đào tạo 20.000 tiến sỹ; một số chương trình nghiên cứu Kx;  sáng tác ra học vị phó giáo sư; việc ồ ạt xây dựng  trường đại học tại nhiều tỉnh - trong khi đó bằng đại học của nước ta không được quốc tế công nhận, cả nước chưa có một trường đại học nào so sánh được với đại học Thái Lan Chulalongkorn, nếu so với đẳng cấp quốc tế khoảng cách này còn xa nữa., vân vân…).

· Vụ xử án tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn là một bê bối điển hình. Huyện Hải Lăng, Quảng Trị, giao đất tái định cư cho dân xã Hải Lâm chạy lũ ngay trên khu vực còn bom đạn thời chiến tranh nằm trong lòng đất chưa được rà xoát bốc đi và hàng năm vẫn xảy ra tai nạn sát thương – Tuổi Trể ngày 11-10-2007! Vân vân…

* Xin lưu ý: Các nước tư bản phát triển, bên cạnh phát triển hệ thống trường công các cấp với nguồn chi lớn từ ngân sách nhà nước, không hạn chế phát triên hệ thống tường tư,  nhưng toàn bộ vấn đề giáo dục phải tuân thủ những quy định chung của nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, nguyên tắc phi lợi nhuận, không thể mạnh ai nấy làm; tuy vậy vấn đê mất bình đẳng về cơ hội đối với học sinh và thanh niên ở những nước này vẫn là vấn đề nan giải.

§Toàn văn giải thích xem: Sài Gòn Giải Phóng 10-09-2007

¨ Tìm đọc thêm trên “Dân trí” ngày 11-10-2007, http://www1.dantri.com.vn/giaoduc-khuyenhoc/2007/10/200997.

§ Tạm dịch: Đưa nguồn lực ra khai thác, phát triển sản xuất và dịch vụ cho mình  ở bên ngoài lãnh thổ quốc gia (sâu rộng hơn so với ý nghĩa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài).

· © Nên tìm đọc diễn văn nhậm chức của bà hiệu trưởng Đại học Harvard, Drew G. Faust, ngày 12-10-2007 để hiểu thêm những vấn đề đặt ra cho giáo dục ở Mỹ, cảnh báo tính lỗi thời của nền đại học Mỹ... VSI – 15 Oct 2007. 

* Xem bài “Singapore’s Failing Bid for Brainpower” của Simon Montlake,  Far Eastern Economic Review October 2007. Đại ý: Singapore muốn vời đại học Harvard sang cùng với thương hiệu của trường này nhưng chưa thành.

§ Toàn văn xem: http://media.education.gouv.fr/file/41/3/6413.pdf

© Xem:  “Lên bục giảng bằng giáo án... vay mượn!” Vietnamnet, 00:06' 08/10/2007 (GMT+7); bài

 “Thiếu giảng viên là giáo sư, phó giáo sư ở trường ĐH mới”, Người Lao động ngày 02-10-2007…

* Tham khảo bài của tác giả Đá Chông đăng trên báo CAND 25-09-2007 giải thích vì sao cần đào tạo 20.000 tiến sỹ.

¨Tham khảo bài « Không cung  với  cầu rởm », đăng ngày 30/1/2007 trên Vietnanmnet.http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2007/01/659380/ và Hà Nội Mới đăng lại ngày 31/1/2007 :http://www.hanoimoi.com.vn/vn/47/118003/ .  

* Nền giáo dục Ấn độ có nhiều thành tựu quan trọng, song cũng có nhiều vấn đề rất giống tình hình ở nước ta, nhưng cách tiếp cận khác ta; tham khảo bài: In India, Economic Success Leaves Universities Desperate for Professors,  Đăng tài trên Viet-studies. Info ngày 10-10-2007.

· Nhân đây xin nhắc lại chuyện cũ của Trung Quốc: Một thời hàng vạn học sinh Trung Quốc ra nước ngoài học, song số trở về rất ít, Đặng Tiểu Bình đã phải tuyên bố: Ai học xong về là giúp nước, ai học xong ở lại cũng là vì nước! Nhiều năm qua đi mãi cho tới gần đây kinh tế Trung Quốc lên,  cơ hội làm ăn trong nước lớn và thông thoáng, số du học trở về nước ngày một đông dần, họ làm những việc họ lựa chọn chứ không phải theo kế hoạch nhà nước phân công. Thực tế này của Trung Quốc cho ta nhiều điều để suy nghĩ.

ª Vũ Quang Việt:  “Xin được đối thoại với Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân”, toàn văn trên Viet-Studies.info ngày 17-09-2007.

* Đai học Quốc gia TPHCM là trường lớn, song chỉ có 11,6% giảng viên môn tiếng Anh có chứng chỉ TOEFL, 2 năm học gần đây điểm thi môn tiếng Anh của sinh viên của trường nhìn chung đạt 4/10 nghĩa là dưới trung bình (Tuổi trẻ ngày 17-10-2007). Còn các trường tầm cỡ thấp hơn thì sao?

Trong xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, thì vai trò của nguồn nhân lực càng quan trọng. Trong ngành vi điện tử, trong tổng giá trị của sản phẩm, nguyên liệu chỉ chiếm 1-3%, lao động cơ bắp chiếm 12%, còn lại 85% là giá trị của tri thức, bí quyết công nghệ và chế thử. Điều đó nói lên vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực.
1. Xây dựng, phát triển con người, nguồn nhân lực là quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Bởi, nguồn nhân lực là nguồn lực nội tại, cơ bản, có khả năng tái sinh, tự sản sinh và đổi mới phát triển nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Do đó, nguồn nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên; vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu giữ vị trí trung tâm trong các nguồn lực giữ vai trò quyết định thành công của sự nghiệp Đổi mới.

Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu thế về lực lượng lao động dồi dào, con người cần cù, thông minh, sáng tạo… vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập về cơ cấu, trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động, thể lực… làm cho năng suất lao động xã hội nước ta thấp hơn các nước trong khu vực từ 2 đến 15 lần. Sức cạnh tranh của lao động Việt Nam thấp. Tại Nhà máy Xi măng Nghi Sơn (Thanh Hóa), tổng quỹ lương của 20 người Nhật làm việc ở đây bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam trong nhà máy. Trong các ngành dịch vụ như Ngân hàng, Y tế,... có tới 40% người có thu nhập từ 14.000USD/năm trở lên thuộc về người nước ngoài.

Trong xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, thì vai trò của nguồn nhân lực càng quan trọng. Trong ngành vi điện tử, trong tổng giá trị của sản phẩm, nguyên liệu chỉ chiếm 1-3%, lao động cơ bắp chiếm 12%, còn lại 85% là giá trị của tri thức, bí quyết công nghệ và chế thử. Điều đó nói lên vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực.


Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục xác định con người, nhân tố con người là một trong năm quan điểm phát triển: “...phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; là một trong ba khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược…”; đồng thời cũng là 1 trong 12 định hướng phát triển kinh tế - xã hội: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo”.

2. Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tất cả các cấp, các ngành, của toàn xã hội; diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội; thông qua thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu nhất.

Thực trạng của giáo dục và đào tạo còn không ít hạn chế, bất cập. “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo còn bất cập. Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”. Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.

Để giáo dục và đào tạo góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực, Đại hội XI đề ra quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục... Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học”.

Triển khai quan điểm chỉ đạo đó, cần thực hiện tốt mấy vấn đề cơ bản sau đây:

Tiếp tục nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực. Nếu nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của quốc gia, thì giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là con đường cơ bản để phát triển nguồn nhân lực. Mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội sẽ không thành công nếu không thực hiện tốt chiến lược giáo dục và đào tạo. Do đó, phải làm cho các cấp, các ngành, mọi nhà, mọi người thấu triệt quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai”; giáo dục, đào tạo phải đi trước một bước... và triển khai bằng các kế hoạch cụ thể để biến tư tưởng đó thành hành động sinh động trong thực tế cuộc sống.

Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

- Xác định, quán triệt sâu sắc mục tiêu của giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực là phải hướng đến thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020. Đó là phát triển nguồn nhân lực toàn diện: Cả thể lực, trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức; có năng lực tự học, tự đào tạo, năng động, chủ động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng nhanh, chủ động trong môi trường sống và làm việc. Có cơ cấu hợp lý, đồng bộ cả nhân lực quản lý hành chính nhà nước, đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhóm chuyên gia đầu ngành, đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp; có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý. Phấn đấu đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế, nâng trình độ, năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới. Giáo dục, đào tạo phải thực hiện mục tiêu: Học để làm người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập; học để có nghề, có việc làm hiệu quả; học để làm cho mình và người khác hạnh phúc; học để góp phần phát triển đất nước và nhân loại. Như vậy, mục tiêu và cách thức sử dụng nguồn lao động của xã hội quyết định mục tiêu và cách thức đào tạo. Nguồn nhân lực xã hội cần gì thì giáo dục đào tạo phải hướng đến đáp ứng mục tiêu đó. Khắc phục việc đào tạo không phù hợp với nhu cầu xã hội, cơ cấu không hợp lý, “thừa thầy, thiếu thợ”...

- Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo. Nội dung giáo dục phải toàn diện cả dạy chữ, dạy nghề, dạy người. Cần quan tâm hơn đến giáo dục phẩm chất đạo đức làm người, giáo dục lòng yêu nước và ý thức làm chủ của người lao động, tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp; tinh thần đồng đội, hợp tác trong công việc, chí tiến thủ và độc lập sáng tạo và tính trung thực của người lao động. Do đó, phải chuẩn hóa chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội. Tăng việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực độc lập sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn và khả năng tự đào tạo, bồi dưỡng và tự hoàn thiện của mỗi cá nhân người lao động để thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của hiện thực xã hội. Đưa công nghệ thông tin mới vào trong mọi bậc học, khắc phục tệ nạn nhồi nhét kiến thức, giáo điều, xa rời thực tiễn.

- Đổi mới công tác quản lý giáo dục một cách cơ bản và toàn diện cả về tư duy lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Tập trung vào quản lý nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nhà nước cần giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học và cao đẳng để các trường có điều kiện chủ động cao hơn, năng động hơn. Tăng sự liên thông giữa nhà nước - cơ sở đào tạo, giáo dục - đơn vị sử dụng nguồn nhân lực cả trong đóng góp nguồn lực, xây dựng chương trình, nội dung, hợp lực đào tạo và sử dụng hiệu quả sản phẩm giáo dục đào tạo.

- Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên toàn quốc, chú trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng quy mô giáo dục trung học phổ thông và phát triển mạnh mẽ dạy nghề, nhất là các tỉnh đồng bằng và miền núi. Tăng nhanh tốc độ đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao, đội ngũ những nhà quản lý, các chủ doanh nghiệp... Xây dựng được hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ, đa cấp, năng động, liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo trong nước và quốc tế, phân bố rộng khắp trên cả nước. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo, huy động toàn xã hội làm giáo dục cả trong huy động nguồn lực, trong xây dựng chương trình, nội dung, sử dụng sản phẩm của giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu xây dựng được xã hội học tập, đảm bảo cho tất cả các công dân Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo. Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo.

- Xây dựng, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên cả về số lượng và chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục… Đòi hỏi Đảng, Nhà nước, xã hội quan tâm, nâng cao mức sống và điều kiện làm việc của giáo viên, trả lương để họ đủ sống và làm việc tận tâm; xác lập tôn vinh vị trí cao quý của người thầy; có chính sách thu hút được nhiều người giỏi vào ngành giáo dục, đào tạo; nâng cao chất lượng đào tạo và bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ giáo viên; tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các nước có nền giáo dục phát triển.

- Đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, cả nhân lực, vật lực và tài lực, để đưa ngành giáo dục đào tạo khỏi tình trạng chậm phát triển so với khu vực và thế giới, thực hiện đúng tinh thần “giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu” góp phần phấn đấu đưa tỷ trọng lao động đã qua đào tạo từ 35 đến 40% như hiện nay đến trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% trong tổng lao động xã hội vào năm 2020. Đầu tư thỏa đáng cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường cao đẳng và đại học. Tiếp tục xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo.

Sự thành công của công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phụ thuộc có tính quyết định vào việc phát triển nguồn nhân lực mà trong đó phương tiện chủ yếu quyết định nhất là thực hiện tốt quan điểm đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo như Đại hội XI đề ra./.

Đại tá,TS Lê Đại Nghĩa/QĐND

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Để thực hiện nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương quyết định định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến nǎm 2000. 


Phần I: Thực trạng giáo dục - đào tạo 


1- Thành tựu 


Từ sau Cách mạng Tháng 8-1945, mặc dù đất nước còn nghèo và có chiến tranh liên tiếp, sự nghiệp giáo dục - đào tạo nước ta đã đạt những thành tựu quan trọng. 


Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, VII và Nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, trong những nǎm gần đây, giáo dục- đào tạo có những mặt tiến bộ: 


- Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp. Hầu hết các xã trong cả nước, kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã có trường, lớp tiểu học. Phần lớn các xã ở vùng đồng bằng có trường trung học cơ sở. Hầu hết các huyện có trường trung học phổ thông, các tỉnh và nhiều huyện đông đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú. 


- Đã ngǎn chặn được sự giảm sút quy mô và bước tǎng trưởng khá. Nǎm học 1996 - 1997 cả nước có hơn 20 triệu học sinh, Giáo dục mầm non, nhất là mẫu giáo 5 tuổi, đang phát triển. Công cuộc chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được triển khai trong cả nước. Hiện đã có 16 tỉnh, thành phố, trong đó có 3 tỉnh miền núi, 57% số huyện, 76% số xã được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. So với nǎm học 1991 - 1992, trong nǎm học 1995 - 1996 số học sinh phổ thông tǎng 1,25 lần, sinh viên đại học tǎng 2,7 lần. Tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học đã giảm nhiều. Giáo dục sau đại học đã đào tạo được số lượng đáng kể cán bộ có trình độ cao mà trước đây chủ yêú phải dựa vào nước ngoài. Giáo dục - đào tạo đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học, trung học và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Tronh nông nghiệp, công nghiệp và một số ngành khác, đội ngũ cán bộ và công nhân nước ta có khả nǎng nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng một số công nghệ mới. 


- Chất lượng giáo dục - đào tạo có tiến bộ bước đầu trên một số mặt về các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật, ở bậc phổ thông và bậc đại học hệ tập trung. Số học sinh khá giỏi, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế ngày càng tǎng. 


- Trong giáo dục - đào tạo đã xuất hiện một số nhân tố mới. ở nhiều nơi hình thành phong trào học tập sôi nổi của cán bộ và nhân dân, nhất là thanh niên. Các loại hình trường lớp, từ phổ thông đến đại học, đa dạng hơn, tạo nên cơ hội học y cho nhân dân. Đã huy động được thêm các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để phát triển giáo dục - đào tạo. Các gia đình, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đã chǎm lo giáo dục nhiều hơn trước. Các phương tiện thông tin đại chúng đã xây dựng các chuyên mục phục vụ giáo dục - đào tạo. Hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo bước đầu được mở rộng... 


Nguyên nhân của các thành tựu nói trên là: 


- Do đường lối giáo dục - đào tạo đúng đắn của đảng và Nhà nước ta , chính sách đổi mới, trực tiếp là chính sách đổi mới trong giáo dục - đào tạo, thể hiện tập trung ở Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII). 


- Truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát huy, nhu cầu học tập của dân không ngừng tǎng lên. Nhân dân đóng góp rất nhiều công, của xây dựng trường lớp và chǎm lo sự nghiệp giáo dục. 


- Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và số đông học sinh, sinh viên có những cố gắng rất lớn; đại bộ phận thầy, cô giáo có tâm huyết, gắn bó với nghề. Các giáo viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh. 


- Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhân thức rõ hơn về vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc phục nhiều khó khǎn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục. 


- Những thành tựu phát triển kinh tế, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân qua 10 nǎm đổi mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục. 


2- Yếu kém 


Giáo dục - đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô, cơ cấu, và nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 


- Hiện nay nước ta còn 9% dân số mù chữ; chưa phổ cập được giáo dục tiểu học; tỷ lệ sinh viên trên dân số còn thấp; tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 10% nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao. 


Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội và cơ cấu vùng của đội ngũ sinh viên, học sinh các trường đại học và chuyên nghiệp chưa hợp lý. 


Mấy nǎm gần đây ở một số nghành rất cần thiết cho sự phát triển đất nước lại qua ít học sinh đǎng ký theo học. Giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm mạnh, mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ đội ngũ lao động ở nhiều nghành sản xuất. Quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn quá nhỏ bé, trình độ, thiết bị đào tạo lạc hậu, khônh đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 


- Đáng quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo còn thấp. Trình độ kiến thức, kỹ thuật thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số học sinh còn yếu. ở nhiều học sinh ra trường khả nǎng vận dụng kiền thức vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Số đông sinh viên tốt nghiệp chưa có khả nǎng thích ứng với những biến đổi nhanh chóng trong nghành nghề và công nghệ. Đặc biệt đáng lo ngại trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Đào tạo chưa gắn với sử dụng. 


Một số sinh viên tốt nghiệp không chịu đi làm việc ở những vùng khó khǎn, trong khi ở các thành phố còn nhiều sinh viên tốt nghiệp không có việc làm không đúng nghề đã được đào tạo. 


- Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục đang có chiều hướng gia tǎng: dạy thêm và học thêm tràn lan, tốn nhiều thời gian và tiền bạc của học sinh, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của học sinh và quan hệ thầy trò. ở một số trường có hiện tượng mua bán điểm và mua bán bằng, nhiều trường đã tǎng quy mô tuyển sinh vượt quá khả nǎng đào tạo, mở quá nhiều lớp tại chức ở các địa phương mà không thực hiện đúng quy chế, đúng chương trình, không bảo đảm chất lượng đào tạo. Tệ nạn xã hội kể cả nạn nghiện hút, tiêm chích ma tuý, đang thâm nhập một số trường học. 


- Chưa thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục. Con em gia đính nghèo gặp khó khǎn khi muốn học lên cao. ở các trường đại học tỉ lệ sinh viên là con em nhà nghèo, con em xuất thân công nông, nhất là nông dân ở vùng cao. ở các trường đại học tỷ lệ sinh viên là con em nhà nghèo, con em xuất thân công nông, nhất là nông dân ở vùng cao, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số giảm dần. 


- Đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa yếu. Nǎm học 1995 - 1996 cả nước còn thiếu gần 120.000 giáo viên phổ thông. Nhìn chung, chất lượng của đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục - đào tạo trong giai đoạn mới. ở bậc đại học tỷ lệ giáo viên có trình độ sau đại học còn quá thấp và trong những nǎm trước mắt sẽ có tình trạng hẫng hụt, thiếu người thay thế cho các cán bộ có trình độ cao sắp nghỉ hưu. Một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý trong giáo dục thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống. 


Nguyên nhân của những yếu kém là: 


- Công tác quản lý giáo dục - đào tạo có những mặt yếu kém , bất cập. Mấy nǎm gần đây, có chủ trương đổi mới về giáo dục, nhưng một số chủ trương chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp dụng, tổ chức thực hiện loại có nhiều thiếu sót. Mở rộng quy mô giáo dục - đào tạo phát triển nhiều loại hình giáo dục - đào tạo nhưng có nhiều thiếu sót trong việc quản lý trương trình, nội dung và chất lượng. Công tác thanh tra giáo dục còn quá yếu, thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối với hình thức trường "mở" , bán công, dân lập, tư thục và không tập trung. Chậm phát hiện và thiếu nghiêm túc trong xử lý và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong nghành giáo dục - đào tạo. 


Cơ chế quản lý của nghành giáo dục - đào tạo chưa hợp lý, có tình trạng vừa ôm đồm sự vụ, vừa buông lỏng chức nǎng quản lý nhà nước; chưa thực hiện tốt sự quản lý thống nhất, giữ vững kỷ cương trong công tác giáo dục, đồng thời chưa phát huy quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương và nhà trường. 


Nội dung giáo dục - đào tạo vừa thừa vừa thiếu, nhiều phần chưa gắn bó với cuộc sống. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức và nhân cách cũng như việc giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân vǎn, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ. Hiệu quả giảng dạy các môn khoa học Mac - lênin bị hạn chế. Công tác giáo dục hướng nghiệp ở các bậc phổ thông chưa được chú ý đúng mức. 


Phương pháp giáo dục - đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. 


- Giáo dục - đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn với gia đình và xã hội. Hoạt động giáo dục - đào tạo chưa gắn mật thiết với các hoạt động sản xuất và nghiên cứu khoa học. Gia đình và các tập thể, công đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị, đạo đức, đấu tranh ngǎn chặn các tệ nạn xã hội và vǎn hoá phẩm đồ truỵ cùng ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với trường học. 


- Chính phủ và các cơ quan nhà nước chưa có những quyết định đủ mạnh về chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện, để thể hiện đầy đủ quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. 


Các chính sách đã ban hành chưa đủ khuyến khích nghề dạy học và những giáo viên đến dạy ở vùng khó khǎn, chưa động viên được những giáo viên dạy giỏi và giảng viên có trình độ cao. Tiền lương giáo viên chưa thoả đáng, Hệ thống các trường sư phạm tuy đã được quan tâm đầu tư hơn trước, nhưng vẫn chưa đủ sức làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Thiếu chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào học sư phạm. Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp; cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học của các trường nhìn chung chậm được cải thiện. 


- Bộ Chính trị, Ban Bí thư (trước đây) chưa thường xuyên chỉ đạo và kiểm tra sâu sát việc thực hiện những mục tiêu, phương hướng, chủ trương về giáo dục - đào tạo trong chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến nǎm 2000 và nghị quyết trung ương 4 (khoá VII). Chưa có chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. 


Không ít cấp uỷ đảng và cấp chính quyền nhận thức về vai trò của giáo dục đối với tương lai đất nước chưa đủ sâu sắc, chưa thấy hết trách nhiệm của mình đối với tương lai đất nước , chưa thấy hết trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp đối với giáo dục, tuy đã chú ý đầu tư xây dựng trường sở, tǎng cường trang bị phương tiện dạy và học cho các trường, thu nhập cho các giáo viên .... nhưng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo nội dung giáo dục, công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong giáo viên và học sinh, công tác xây dựng đảng trong nhà trường; chưa động viên được nhân dân tham gia sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Thậm chí một số nơi còn cắt xén kinh phí của giáo dục - đào tạo. 


Bên cạnh những nhân dân chủ quan cũng cần thấy những nguyên nhân khách quan như tác động cuả khủng hoảng kinh tế - xã hội những nǎm trước, tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thi trường. 


Hiện nay sự nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh quy mô giáo dục - đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, trong khi khả nǎng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế, đó là mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Những thiếu sót chủ quan, nhất là những yếu kém về quản lý đã làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm gay gắt. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt là những chủ trương , giải pháp từ nay đến nǎm 2000 phải được thực hiện với tinh thần cách mạng sâu sắc để giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn nói trên. 


Phần II: Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 


A- những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: 


1- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời dặn của Bác Hồ. 


Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội , phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thi trường đối với giáo dục - đào tạo. Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo. Không truyền bá tôn giáo trong trường học. 


2- Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục. 


3- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên , học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người chǎm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp chí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng công đồng, từng tập thể. 


4- Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. 


5- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài nǎng. 


6- Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hoá các loại hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở nhà nước thống nhất quản lý, từ nội dung chương trình, quy chế học, thi cử, vǎn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non , phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục. 


B- từ nay đến nǎm 2020 giáo dục - đào tạo nhằm các mục tiêu sau đây: 


Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu hết các trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi, dạy trẻ cho các gia đình. 


Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào nǎm 2010 và trung học phổ thông vào nǎm 2020. Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và các vùng khó khǎn, phấn đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ. 


Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề, bảo đảm có được nhiều nhân tài cho đất nước vào thế kỷ 21. 


Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số giáo viên cho toàn hệ thống giáo dục. Tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá các điều kiện dạy và học. Phấn đấu sớm có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế. 


Phần III: Nhiệm vụ và mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo từ nay đến nǎm 2000 


1- Nhiệm vụ: 


- Phát huy những thành tựu đã đạt được, phát huy các mặt yếu kém theo hướng: chấn chỉnh công tác quản lý, khẩn trương lập lại trật tự, kỷ cương, kiên quyết đẩy lùi tiêu cực; sắp xếp và củng cố hệ thống giáo dục - đào tạo và mạng lưới trường lớp; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo; phát triển quy mô giáo dục - đào tạo, chuẩn bị tiền đề cho những bước phát triển mạnh vào đầu thế kỷ 21. 


- Trên cơ sở định hướng chiến lược trình bày ở trên, tiến hành xây dựng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo cho thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Ban hành Luật giáo dục. 


Trong nǎm nǎm này, Đảng, Nhà nước, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội và toàn dân phải tập trung sức thực hiện bằng các nhiệm vụ trên, giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm, tạo nên sự phát triển ổn định với một chất lượng được cải thiện, phát triển nguồn nhân lực yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, điều kiện giải quyết việc làm cho nhân dân, nhất là thanh niên. 


2- Mục tiêu cụ thể nǎm 2000 


Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục toàn diện đức dục trí dục, thẩm dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả nǎng tư duy sáng tạo và nǎng lực thực hành. Cụ thể là: 


- Phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi. Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1. 


- Phổ cập giáo dục bậc tiểu học được học đủ 9 môn theo trương trình quy định. Thực hiện tốt 5 điều dạy của Bác Hồ. Phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện. 


- Tính chung cả nước có khoảng 60% trẻ em độ tuổi 11 - 15 học phổ thông trung học cơ sở. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học. Nâng cao nǎng lực tự học và thực hành cho học sinh. 


- Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15 - 35, thu hẹp diện mù chữ ở độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khǎn, để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học trước khi bước sang thế kỷ 21. 


- Tǎng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22% - 25% đội ngũ lao động được qua đào tạo vào nǎm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình kinh tế - xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi lao động, cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn và nông nghiệp. Tǎng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng trường trọng điểm. Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động. 


- Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng lên 1,5 lần so với nǎm 1995 với cơ cấu đào tạo hợp lý , theo sát nhu cầu phát triển. Tiếp tục sắp xếp lại các trường đại học. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm. Xây dựng một số trường cao đẳng công đồng ở các địa phương để đào tạo nhân lực tại chỗ. Tǎng nhanh một số người đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài. 


- Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa. Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân các doanh nghiệp. Kiện toàn hệ thống trường chính trị và hành chính. Tǎng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các nghành. 


- Có hình thức trường, lớp thích hợp nhằm đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt xuất thân từ công nông và lao động ưu tú, con em các gia đình thuộc diện chính sách. 


- Đối với miền núi, vùng sâu vùng khó khǎn, xoá "điểm trắng" về giáo dục ở bản, ấp. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và bán trú cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ lãnh đạo và quản lý. 


Phần IV: Những giải pháp chủ yếu 


1- Tǎng cường các nguồn lực cho giáo dục - đào tạo 


- Đầu tư cho giáo dục - đào tạo lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục - đào taọ và được sử dụng tập trung, ưu tiên cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng nhân tài, trợ giúp cho giáo dục ở những vùng khó khǎn và diện chính sách. Tǎng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo để đạt được 15% tổng chi ngân sách vào nǎm 2000. 


- Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách như học phí, nghiên cứu ban hành chính sách đóng góp phí đào tạo từ các cơ sở sử dụng lao động, huy động một phần lao động công ích để xây dựng trường sở. Khuyến khích các đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội xây dựng quỹ khuyến học, lập quỹ giáo dục quốc gia. Phát hành xổ số kiến thiết để xây dựng trường học. 


- Cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và các viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với nghành nghề đào tạo. 


- Xây dựng và công bố công khai quy định về học phí và các khoản đóng góp theo nguyên tắc không thu bình quân, miễn giảm cho người nghèo và người thuộc diện chính sách. Cǎn cứ vào nhu cầu phát triển giáo dục, tình hình kinh tế và khả nǎng đóng góp của các tầng lớp nhân dân địa phương, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định mức học phí cụ thể trong khung học phí do chính phủ quy định cho từng khu vực và các khoản đóng góp ổn định khác. Không thu học phí ở bậc tiểu học trong các trường công lập. 


- Có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các việc xuất bản sách giáo khoa, tài liệu dạy học, sản xuất và cung ứng máy móc, đồ dùng dạy học, nhập khẩu sách, báo, tài liệu, thiết bị dạy học mà trong nước chưa sản xuất được để phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của nhà trường. 


- Các ngân hàng lập quỹ tín dụng đào tạo cho con em các gia đình có thu nhập thấp, trước hết ở nông thôn và các vùng khó khǎn, cho vay với lãi xuất ưu đãi, để có điều kiện học tập ở các trường đạo học chuyên nghiệp dạy nghề. 


- Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác đào tạo và đào tạo lại. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước giúp đỡ phát triển giáo dục - đào tạo Việt Nam. Phần tài trợ cho giáo dục - đào tạo mọi hình thức sẽ được khấu trừ trước khi tính thuế lợi tức, thuế thu nhập. 


- Dành ngân sách nhà nước thoả đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển. 


Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những nghành mà đất nước đang cần, theo quy định của nhà nước. 


- Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài có khả nǎng về nước tham gia giảng dạy và đào tạo, mở trường học, hoặc hợp tác với các cơ sở đào tạo trong nước; các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể vào Việt Nam mở các trung tâm đào tạo quốc tế, tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ tài chính theo quy định của Nhà nước. 


- Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo. 


- Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tích cực góp sức phát triển giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục xã hội, giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Hệ thống phát thanh, truyền hình thời lượng thích đáng phát các trương trình giáo dục. Các ngành vǎn hoá, nghệ thuật, thông tấn, báo chí có trách nhiệm cung cấp những sản phẩm tinh thần có nội dung tốt cho việc giáo dục thế hệ trẻ. Không để các sản phẩm vǎn hoá tư tưởng độc hại, các tệ nạn xã hội thâm nhập vào trường học. Định kỳ tổ chức hội nghị giáo dục các cấp để kiểm điểm, rút kinh nghiệm, bàn biện pháp giáo dục, khen thưởng cá nhân và đơn vị có thành tích.Thể chế hoá chủ trương xã hội hoá giáo dục đã ghi trong nghị quyết đại hội VIII. 


Tiếp tục phát triển các trường dân lập ở tất cả các bậc học. Từng bước phát triển vững chắc các trường lớp tư thục ở giáo dục mầm non, phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý thống nhất chương trình, nội dung chất lượng giảng dạy và học tập ở các trường dân lập và tư thục. Hiệu trưởng và giáo viên của các trường này đều do nhà nước đào tạo, cấp bằng. ở các trường dân lập, tư thục lập các tổ chức đảng và đoàn thể như trường dân lập, tư thục do nhà nước quy định. 


2- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, học. 


Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức tài. Do đó phải: 


- Củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp các trường sư phạm. Xây dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm để vừa đào tạo giáo viên có chất lượng cao vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến. 


- Không thu học phí và thực hiện chế độ học bổng ưu đãi đối với học sinh, sinh viên nghành sư phạm. Có chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào nghành sư phạm. Tǎng chỉ tiêu đào tạo của các trường sư phạm, đồng thời giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên một số môn học phù hợp cho các trường đại học và cao đẳng khác. 


Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý để khắc phục nhanh chóng tình trạng thiếu giáo viên hiện nay. 


- Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hoá, nâng cao phẩm chất và nǎng lực cho đội ngũ giáo viên để đến nǎm 2000 có ít nhất 50% giáo viên phổ thông và 30% giáo viên đại học đạt tiêu chuẩn quy định. ở đại học cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng trong và ngoài nước các cán bộ phụ trách các bộ môn khoa học và giảng viên trẻ kế cận, để khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ. Không bố trí người kém phẩm chất, đạo đức làm giáo viên, kể cả giáo viên hợp đồng. 


- Lương giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm chế độ độ phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng do Chính phủ quy định. Có chế độ ưu đãi và quy định hợp lý tuổi nghỉ hưu đối với giáo viên cũng như các trí thức khác có trình độ cao. 


- Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo. Trọng dụng người tài. Khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say mê học tập và tu dưỡng vì tiền đồ bản thân và tương lai đất nước. 


3- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo và tǎng cường cơ sở vật chất các trường học 


- Rà soát lại và đổi mới một bước sách giáo khoa, loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ xung những nội dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ của khoa học cong nghệ, tǎng nội dung khoa học, công nghệ ứng dụng, tǎng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và nǎng lực thực hành ở bậc học phổ thông, kỹ nǎng hành nghề ở khối đào tạo. Trên cơ sở một bước đổi mới và cải tiến ấy, bảo đảm sự ổn định tương đối về nội dung, chương trình, sách giáo khoa ở các cấp học cho đến nǎm 2000. 


- Tǎng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng - đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và với từng bậc học. Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân vǎn, nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và vǎn hoá Việt Nam. Soát xét lại nội dung sách giáo khoa các môn khoa học xã hội và nhân vǎn, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài một cách có chọn lọc, xây dựng các môn khoa học kinh tế, quản lý, luật pháp phù hợp với điều kiện nước ta và quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. 


Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, vǎn hoá - thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện. 


- Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tu duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên. 


- Chấm dứt tình trạng lớp học ca ba. Bảo đảm diện tích đất đai và sân chơi, bãi tập cho các trường theo đúng quy định của nhà nước. Tất cả các trường phải có công trình vệ sinh hợp quy cách. trong quy hoạch khu dân cư mới, khu công nghiệp tập trung phải có đại điểm trường học, nơi sinh hoạt vǎn hoá, thể dục thể thao cho thanh niên, thiếu niên. Ban hành chuẩn quốc gia về trường học. Tất cả các trường phổ thông đều có tủ sách, thư viện và các trang bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình. Sớm chấm dứt tình trạng "dạy chay". 


- Thay thế, bổ xung cơ sở vật chất và các thiết bị cho các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học. Xây dựng thêm và quản lý tốt các ký túc xá của học sinh, sinh viên. Xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm và trạm sản xuất thử ở trình độ hiện đại phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển gia công nghệ, tham gia sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Bổ xung thường xuyên sách và tạp chí chuyên nghành để các trường đại học có điều kiện tiếp cận những thành tựu mới của khoa học và công nghệ. 


- Tổ chức các hội đồng bộ môn gồm các nhà giáo dục và khoa học đầu nghành có uy tín nhằm nghiên cứu, biên soạn, thử nghiệm nội dung, chương trình, sách giáo khoa, tài liệu, phương pháp giảng dạy, cùng danh mục thiết bị đồ dùng dạy học các môn học, các mặt hoạt động trong nhà trường của tất cả các bậc học sẽ áp dụng sau nǎm 2000. 


4- Đổi mới công tác quản lý giáo dục 


- Tǎng cường công tác dự báo và kế hoạch hoá sự nghiệp giáo dục. Đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cấu phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay, gắn đào tạo với sử dụng. Đối với miền núi và các vừng khó khǎn, các lĩnh vực và nghành nghề cần thiết tiếp tục thực hiện chính sách cử tuyển để đào tạo theo địa chỉ. Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm. Khuyến khích thành lập các tổ chức thông tin tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh chọn nghành nghề và tìm việc làm sau khi tốt nghiệp. Ban hành chế độ nghĩa vụ công tác sau khi tốt nghiệp các trường. 


- Quy định lại chức nǎng, nhiệm vụ các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo theo hướng tập trung làm tốt chức nǎng quản lý nhà nước, xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế về giáo dục đào tạo, kiểm soáy chặt chẽ việc thực hiện các chương trình và chất lượng. Sớm ban hành các luật giáo dục và các vǎn bản dưới luật (điều lệ các loại trường, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý giáo dục - đào tạo, quy định hệ thống chuẩn kiến thức...). Nhanh chóng cải tiến các hình thức thi và đánh giá. Sớm có kết luận về một số chủ trương như phân ban ở bậc phổ thông trung học, đạo tạo 2 giai đoạn ở bậc đại học... Trong lúc chưa có kết luận, không mở rộng các chủ trương đó. Không tổ chức lớp chọn ở các cấp học. Không tổ chức trường chuyên ở tiểu học và trung học cơ sở, trừ các trường nǎng khiếu về nghệ thuật và thể thao. 


- Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong nghành giáo dục. Trong nǎm 1997 tập trung giải quyết dứt điểm tình trang tiêu cực thi, tuyển sinh, bảo vệ luận án, cấp bằng. Có biện pháp sớm chấm dứt tình trang thu tiền của học sinh không chính thức, không công khai và tình trạng dạy thêm tràn lan. 


- Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao nǎng lực của bộ máy quản lý giáo dục - đào tạo. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tǎng cường cán bộ thanh tra, tập trung vào thanh tra chuyên môn. 


- Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, tận dụng tối ưu nǎng lực của đội ngũ và cơ sở vật chất hiện có. Rút kinh nhgiệm việc tổ chức các đại học quốc gia và đại học khu vực, làm tốt việc xây dựng một số trường đại học quốc gia lớn, một số trung tâm đào tạo kỹ thuật có chất lượng và uy tín cao. Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống. Hết sức quan tâm quản lý tốt nội dung và chất lượng đào tạo của các đại học mở, đại học dân lập và các loại hình không chính quy. 


- Coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học giáo dục, nhằm giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục và phổ biến các tri thức khoa học giáo dục thường thức đến các gia đình. Các chủ trương về chính sách giáo dục, những đổi mới về nội dung, quy trình phương pháp giáo dục, đấnh giá, thi... đều phải dựa trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng và trải qua thực nghiệm, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đưa vào nhà trường theo đúng quy định. 


- Thành lập hội đồng quốc gia giáo dục với nhiệm vụ cấp bách trước mắt là giúp Chính phủ tổng kết công cuộc đổi mới về giáo dục và soạn thảo chiến lược giáo dục - đào tạo. 


- Phân cấp cho uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý toàn diện giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, có thể cả một số trường cao đẳng. Phát triển các trường lớp đào tạo cán bộ và công nhân chuyên nghành ở các tổng công ty, các doanh nghiệp. Tổ chức thí điểm mô hình gắn đào tạo với nghiên cứu triển khai trong một số doanh nghiệp lớn. Định rõ trách nhiệm, tǎng thêm quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học. 


- Tiếp tục đổi mới và mở rộng quan hệ trao đổi và hợp tác giáo dục - đào tạo với nước ngoài. 


Phần V: Tǎng cường sự lãnh đạo của đảng đối với giáo dục - đào tạo 


- Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị triển khai thực hiện Nghị quyết này. 


- Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo kịp thời thể chế hoá và thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo từ nay đến nǎm 2000; chỉ đạo tổng kết đổi mới giáo dục - đào tạo và xây dựng chiến lược giáo dục - đào tạo trình Bộ Chính trị. 


- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo sớm hoàn thiện dự án Luật Giáo dục trình Quốc hội. 


- Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt Trận tổ chức phong trào toàn dân học tập, tham gia làm giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh ở từng địa phương, trước hết trong đoàn thể mình. 


- Ban Cán sự đảng Bộ Giáo dục - đào tạo cần kiểm điểm làm rõ phần trách nhiệm của mình về những yếu kém cuả giáo dục - đào tạo, sớm chấn chỉnh công tác quản lý nghành, có chương trình hành động cụ thể tổ chức thực hiện nghị quyết. Các cấp uỷ đảng, ban cán sự đảng các bộ, nghành, đảng đoàn các đoàn thể có liên quan nhiều đế giáo dục - đào tạo cũng phải làm như vậy. 


- Các cấp uỷ đảng từ tỉnh, thành phố, đến cơ sở tổ chức cho đảng viên, nhân dân quán triệt Nghị quyết này, cùng với xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết; kiện toàn bộ máy tham mưu và bộ máy quản lý giáo dục - đào tạo, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các chủ trương về giáo dục - đào tạo, đặc biệt là kiểm tra công tác chính trị, tư tưởng và việc xây dựng nền nếp kỷ cương trong các trường học, phát hiện và giải quyết dứt điểm các biểu hiện tiêu cực trong giáo dục - đào tạo. Từng thời gian nhất định cấp uỷ nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo để phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở địa phương. Từ nay, khi xét công nhận đảng bộ trong sạch vững mạnh phải coi việc quan tâm phát triển giáo dục - đào tạo, tổ chức học tập bồi dưỡng cho cán bộ là một tiêu chuẩn không thể thiếu. 


- Tǎng cường xây dựng và củng cố tổ chức đảng để thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo trong các trường học. Tích cực phát triển Đảng trong trường học, trước hết trong độ ngũ giáo viên, bảo đảm trường phổ thông nào cũng có đảng viên, có chi bộ. Trường đại học nào cũng có đảng bộ. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân, viên chức và học sinh, phát huy vai trò Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên tiền phong, Hội thanh niên học sinh - sinh viên, Hội phụ huynh học sinh, Hội khuyến học và nhân dân địa phương để xây dựng nhà trường. 


- Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị làm đầu mối thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, định kỳ sơ kết, báo cáo tình hình và đề xuất ý kiến bổ xung, uốn nắn, điều chỉnh các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết. 


 

Thay mặt ban chấp hành trung ương Đảng
Tổng bí thư
ĐỖ MƯỜI
(Đã ký)


 

Giáo dục và đào tạo với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Tác giả : Th.s Nguyễn Thị Kim Oanh - Gv khoa Triết - CNXHKH

File đính kèm: Không có

Hiện nay, công cuộc CNH, HĐH đất nước đang là một tất yếu của sự phát triển triển, nó trở thành làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các nước trên thế giới cũng như mọi mặt của đời sống xã hội. Kinh nghiệm cũng như thực tiễn đã chỉ ra rằng CNH, HĐH có mối quan hệ chặt chẽ với sự nghiệp GD & ĐT.
Có thể nói rằng GD& ĐT là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ cũng như sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bởi vì:
CNH, HĐH là một quá trình mà trong đó sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội văn minh và hiện đại. Chính vì vậy mà CNH, HĐH đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có chất lượng cao.
Kinh nghiệm một số nước cho thấy rằng phát triển nguồn lực chính là chìa khóa cho sự phát triển bền vững, Nhật Bản là một ví dụ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu gạo(ăn khoai, sắn...). Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản lại phục hồi nhanh chóng (1945 –1654) và phát triển với tốc độ thần kỳ (1954 –1973), trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (sau Mỹ). Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự phát triển đất nước.
Sự phát triển nguồn nhân lực do tích hợp nhiều nhân tố: giáo dục và đào tạo; sức khỏe và dinh dưỡng; môi trường; việc làm và cả sự giải phóng con người. Trong đó, giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục đào tạo là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH đã chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục. Trong đó, giáo dục phổ thông là nền tảng và giáo dục bậc cao là hết sức cần thiết,  vì đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp văn hóa với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động. Nó tạo nên đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cũng như những phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp CNH, HĐH. Có thể nói rằng, nếu sự nghiệp GD & ĐT chậm đổi mới, chậm đẩy mạnh và  phát triển thì nguy cơ tụt hậu càng cao; CNH, HĐH sẽ bị bó hẹp về quy mô, chậm về tốc độ và kém về hiệu quả. Thế nên đầu tư cho giáo dục không chỉ nên đi trước một bước mà là cần đi trước nhiều bước.
Giáo dục – đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với sự thành công của CNH, HĐH và CNH, HĐH với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa GD & ĐT (như các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho việc dạy học giúp cho GD &ĐT  tạo ra những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng chính yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH).
Hiện nay ở nước ta việc vận dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho việc mở rộng, phát triển giáo dục và đào tạo đang là yêu cầu rất bức xúc.Với sự nỗ lực, tích cực của các phương tiện thông tin hiện đại, quá trình giáo dục được thực hiện một cách có hiệu quả hơn làm cho lực lượng lao động có thể tự nâng cao trình độ và tay nghề thông qua việc cập nhật các nguồn thông tin đa dạng và phong phú. Các công nghệ hiện đại có thể tạo ra khả năng mới cho con người thực hiện sự đa dạng hóa kiến thức và nghề nghiệp. Nhờ vậy có thể đáp ứng được những yêu cầu của xã hội về sự thích ứng, năng động của nguồn nhân lực.
CNH, HĐH là quá trình làm thay đổi một cách căn bản sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Nó không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của sự nghiệp GD & ĐT theo hướng hiện đại mà còn đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đòi hỏi con người phải luôn luôn học tâp và rèn luyện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì lẽ đó, GD & ĐT cũng đòi hỏi sự bổ sung, đổi mới thường xuyên về nội dung, chương trình, phương pháp và đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Bên cạnh đó, vì CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ làm thay đổi ít nhiều về giá trị, thang giá trị kéo theo sự biến động trong nhân cách con người nên GD&ĐT phải có sự tác động vào việc định hướng giá trị xã hội, đến với thang giá trị lành mạnh để phát huy được tính tích cực, sự sáng tạo của mỗi cá nhân nhằm tạo ra những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. 
Tóm lại, phát triển GD&ĐT là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và CNH, HĐH tạo điều kiện cho GD&ĐT phát triển theo hướng hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. CNH, HĐH và GD – ĐT là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, chúng vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau.

Đại hội XI của Đảng» Văn kiện đại hội Đảng

09:33:00 Thứ Tư, 18/05/2011

Đại hội XI với vấn đề phát triển nguồn nhân lực

·         Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới

·         Chăm lo phát triển văn hóa

 -

1. Điểm mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng về phát triển nguồn nhân lực tại Đại hội XI 

Nghiên cứu tư duy lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược con người có thể khẳng định: từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của con người đối với cách mạng Việt Nam và tiến trình phát triển của lịch sử. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, nhận thức của Đảng về vấn đề này cũng có những khác biệt và được điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới. Đại hội XI (2011) một mặt là sự tiếp nối tư tưởng đó, mặt khác cụ thể hóa, bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở những điểm sau: 

Một là, điều chỉnh đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng; đồng thời chỉ ra cơ chế để phát huy tối đa nhân tố con người 

So với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991” *( 1) và “Văn kiện Đại hội X (2006)” *(2), đặc trưng về con người nêu trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 được diễn đạt gọn hơn song vẫn đảm bảo đúng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Đó là: “ con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” *(3). 

Để phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và thực hiện được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh bổ sung và phát triển đề ra, Đảng ta nêu ra quan điểm: “ Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” *(4). Quan điểm này thực chất là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng coi: con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người. 

Song điểm mới trong tư duy của Đảng là một mặt khẳng định vai trò chủ thể của con người, mặt khác chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy tối đa quyền làm chủ của mình. Bởi lẽ dân chủ là một trong những điều kiện căn bản nhất để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Đồng thời một khi dân chủ được đảm bảo đầy đủ sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố không thể thiếu để tạo động lực phát triển đất nước. 

Hai là, Đảng ta lựa chọn phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020 

Mặc dù Đại hội X (2006) đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của nguồn nhân lực. Song Đại hội X cũng như các kỳ Đại hội trước chưa xác định đó là khâu đột phá. 

Tại Đại hội XI, Đảng ta đã đề ra mục tiêu tổng quát: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” *(5) . 

Để đạt được mục tiêu đó, phải xác định đúng những khâu đột phá - tức là những khâu trọng yếu của sự phát triển, nhưng những khâu này hiện lại là những điểm nghẽn đang cản trở, kìm hãm tốc độ và hiệu quả của phát triển, thậm chí, nếu không được khai thông, giải toả nó sẽ triệt tiêu mọi động lực của phát triển. Do vậy, lựa chọn đúng khâu đột phá sẽ tạo ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Khi đã xác định trúng những khâu đột phá, cần phải ưu tiên đầu tư thỏa đáng để tạo ra một sự thay đổi mạnh mẽ, căn bản, tạo động lực to lớn và là cú hích quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển và tạo khả năng giành thắng lợi cao. Một trong ba khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”*(6) được xem là khâu đột phá thứ hai . 

Vấn đề đặt ra là vì sao, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao lại được coi là khâu đột phá ? Điều này xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay và từ yêu cầu của thời đại mới với những đổi thay to lớn. 

Trước hết , xem xét thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam cho thấy, mặc dù sau 25 năm đổi mới với nhiều nỗ lực, nguồn nhân lực nước ta đã đạt những thành tựu đáng kể. Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thể lực của con người Việt Nam đã từng bước được nâng lên. Nhưng so với nhiều nước trong khu vực và so với yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn rất thấp kém và đang ở mức báo động đáng lo ngại. Vài con số dưới đây cho chúng ta thấy rõ bức tranh thực trạng này. 

Hiện nay, “ở Việt Nam, lực lượng lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật mới chỉ đạt 13,3%, trong khi dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 86,7%” *(7). Riêng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lao động qua đào tạo nghề mới chỉ đạt khoảng 7 - 8%. Trong lĩnh vực công nghiệp, lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm 16,1%; trung cấp: 14,6%; công nhân kỹ thuật: 28,1%; không được đào tạo: 41,2%. Hiện nay, “ở các khu công nghiệp, khu chế xuất đang thiếu nghiêm trọng công nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao; chỉ có 75,85% công nhân đang làm những công việc phù hợp với ngành nghề được đào tạo” *(8). Song không phải tất cả số này đã có thể đáp ứng nổi yêu cầu của công nghệ mới, của thị trường lao động. Vậy mà hiện đang diễn ra cuộc giành giật gay gắt về nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như giữa các quốc gia. 

Mặt khác, mặc dù trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của nước ta đạt 7,2%, song chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp và thiếu tính bền vững, bởi vì cấu trúc đầu vào của tăng trưởng kinh tế chủ yếu là dựa vào nguồn vốn đầu tư, vào khai thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng thấp. 

Do vậy, tốc độ tăng năng suất lao động trong giai đoạn 2001 - 2010 của nước ta trung bình là 5,13%. Tốc độ tăng này thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực. Trung Quốc gấp trên 2 lần so với Việt Nam; Thái Lan gấp 4,5 lần; Malaysia gấp 12 lần và Hàn Quốc gấp 23,5 lần. Xét về năng lực cạnh tranh giữa các nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam rất thấp và hầu như không được cải thiện từ năm 2001 đến nay. Năm 2009, “Việt Nam bị tụt 5 hạng so với năm 2008, trong khi các nước trong khu vực lại cải thiện được vị thế cạnh tranh của mình trong bảng xếp hạng”*(9). Với mô hình phát triển này chứa đựng rất nhiều bất ổn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trên thực tế, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; an sinh xã hội chưa bền vững, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn. 

Hơn nữa, bối cảnh thế giới hiện nay đang có những thay đổi rất nhanh, hết sức phức tạp, khó lường, cộng với thảm họa thiên tai và xung đột quân sự đang diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn cầu như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, dịch bệnh....đòi hỏi phải giải quyết. Khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải có nguồn nhân lực tương xứng với chất lượng cao. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có chiến lược khai thác tốt nhất mọi nguồn lực sẵn có, trong đó nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao chính là sức mạnh nội sinh và là nguồn lực quyết định nhất. 

Vậy mà hiện nay Việt Nam lại đang rất thiếu hụt nguồn nhân lực này, vì vậy nguy cơ “tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là vô cùng to lớn. Đây chính là một trong những “nút thắt”, điểm nghẽn kìm hãm sự phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam . Đó là lý do căn bản để Đảng ta lựa chọn “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá ”. 

Ba là, đặt ra yêu cầu phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”*(10). 

Trong điều kiện khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng như hiện nay, những nước có trình độ phát triển thấp vẫn có thể tận dụng thời cơ, ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Song điều đó chỉ trở thành hiện thực nếu có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh chóng chất lượng nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ mới, tiên tiến. 

Đối với Việt Nam, một nước có xuất phát điểm thấp thì sự gắn kết này là yêu cầu nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng, thậm chí là vấn đề sống còn của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Do vậy, “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” là một nội dung mới thể hiện tính hướng đích của Đảng ta trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững. 

2. Đại hội XI và giải pháp phát triển nguồn nhân lực 

Để phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Đại hội XI cũng nêu ra một số giải pháp căn bản. 

Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới 

Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội X (2006) về sự cần thiết phải “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam” *(11) thời kỳ mới, tại Đại hội XI, Đảng ta đã nêu ra những tiêu chí, những chuẩn mực của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải chăm lo xây dựng để có nguồn nhân lực chất lượng cao. Những chuẩn mực đó là: “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”*(12), có khả năng sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình lao động sản xuất và quản lý. 

Yêu nước là truyền thống quí báu của dân tộc ta từ ngàn xưa và đã được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong thời đại mới hiện nay, truyền thống yêu nước của dân tộc càng phải được giữ gìn, phát huy và bổ sung thêm những nội dung mới - đó là không cam chịu đói nghèo, là phải xây dựng đất nước phồn vinh, là “sánh vai với các cường quốc năm châu” và phải có tinh thần quốc tế chân chính. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng yêu nước chính là sức mạnh to lớn, là điểm tương đồng tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó khơi dậy và phát huy sức mạnh của người Việt Nam ở trong nước, cũng như ở nước ngoài cùng chung sức, chung lòng, phát huy tài năng và trí tuệ xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. 

Trong thời đại hiện nay, những hoạt động lao động sản xuất nếu không được đào tạo mà chỉ bằng kinh nghiệm, bằng vốn sống thì năng suất lao động sẽ rất hạn chế, kém hiệu quả. Vì vậy, con người Việt Nam trong thời đại mới phải nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân để không ngừng học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, nhất là phải có khả năng làm chủ khoa học - công nghệ, vận dụng đúng đắn, thành thạo các kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại, các tri thức khoa học để lao động sản xuất giỏi. Hơn nữa, để đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao đó, với cường độ lao động lớn, đòi hỏi mỗi người phải có ý thức rèn luyện sức khoẻ, nâng cao thể lực để đủ sức lao động trong môi trường cạnh tranh gay gắt. 
Con người Việt Nam hiện nay ngoài lao động giỏi, trình độ cao..., còn phải coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đó là những giá trị truyền thống của dân tộc còn nguyên giá trị và cần phải được tiếp tục phát huy, nhất là đối với thế hệ trẻ Việt Nam, bởi vì tương lai của đất nước đặt lên vai thế hệ trẻ. 

Hai là, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân 

Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, Đại hội XI chỉ rõ: “phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” *(13). 

Việc khẳng định đổi mới cơ chế quản lý giáo dục là khâu then chốt xuất phát từ thực trạng giáo dục - đào tạo của Việt Nam và yêu cầu mới của thời đại đối với giáo dục - đào tạo. Trong nhiều năm qua mặc dù giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, song nhìn chung, giáo dục Việt Nam chưa theo kịp trình độ phát triển của giáo dục thế giới, thậm chí nhiều tiêu cực nảy sinh và phát triển mạnh trong hệ thống giáo dục. Việc thành lập hệ thống các trường cao đẳng, đại học dưới nhiều hình thức mọc ra như nấm nhưng chương trình và chất lượng đạo tạo dường như khó kiểm soát, dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, “học giả”, bằng thật diễn ra khá phổ biến... gây bức xúc trong dư luận xã hội. Do vậy, đây là điểm nút cần phải được tháo gỡ một cách nhanh chóng và chỉ khi nào giải quyết tốt điểm nút này thì giáo dục Việt Nam mới có điều kiện và môi trường pháp lý để phát triển lành mạnh. 

Đội ngũ giáo viên các cấp và cán bộ quản lý giáo dục là những chiếc “máy cái” trong hệ thống giáo dục. Chất lượng, nhân cách, phẩm chất đạo đức và lý tưởng của đội ngũ này như thế nào ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sản phẩm mà họ đào tạo ra - đó chính là những con người, những công dân xây dựng xã hội. Do vậy, phát triển đội ngũ này một cách toàn diện thực sự là một trong những khâu then chốt hàng đầu. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. 

Ba là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội 

Chất lượng của nguồn nhân lực phải được đánh giá một cách toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất... của con người. Nhận thức rõ điều đó, tiếp tục quan điểm của Đại hội X, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam ”. Trong đó, lĩnh vực y tế đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Do vậy, tại kỳ Đại hội này, Đảng ta đã tập trung chỉ đạo sát sao và cụ thể hóa hơn những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và cường độ lao động cao. 

Trong xã hội tất yếu còn một bộ phận quần chúng nhân dân đời sống còn rất nhiều khó khăn vì những nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. Với truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa tương thân tương ái của người Việt Nam, Đảng ta khẳng định “tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”*(14). Trên vấn đề này, tại Đại hội XI, Đảng ta đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách khá đồng bộ và toàn diện nhằm tạo hành lang pháp lý và điều kiện kinh tế, xã hội cần thiết cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả và bền vững. 

Tóm lại , những điểm mới trong tư duy của Đảng về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam được nêu trong Đại hội XI một mặt là sự tiếp nối những quan điểm, tư tưởng nhất quán của Đảng về vấn đề này tại các kỳ Đại hội trước, mặt khác là sự bổ, sung, phát triển, cụ thể hóa hơn để triển khai có hiệu quả trong thực tế nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội đề ra. 

Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, Chiến lược lần này đã đề cập một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn diện làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững. 

Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. 

Phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Vì mục tiêu cuối cùng là vì con người) 

Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn gắn với phát triển kinh tế tri thức; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường ... 

PGS.TS. Bùi Thị Ngọc Lan
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

2. Thứ hai là nguồn nhân lực. 
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp cách mạng của quần chúng mà trong đó lực lượng cán bộ khoa học công nghệ và các công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Do đó, trong quá trình phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao. 
Chính vì vậy, phải coi trọng việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng đi chính cho đầu tư phát triển; giáo dục, đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực, đồng thời phải sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo. Phải phát huy tiềm lực của mỗi người để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 

Bộ Tài nguyên và Môi trường Website  Cục Môi Trường Tổng cục du lịch WebSite VNN Bộ Nông nghiệp và PTNT Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Bộ Ngoại Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ Thuỷ sản UNDP Việt Nam Bộ Khoa học và Công nghệ

 

Đào tạo nhân lực cho công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên tri thức

                 ĐÀO TẠO NHÂN LỰC CHO SỰ NGHIỆP

CÔNG NGHIỆP HOÁ RÚT NGẮN DỰA TRÊN TRI THỨC

                                                                                 Đặng Hữu

I. GIÁO DỤC TRƯỚC ĐÒI HỎI CỦA KINH TẾ TRI THỨC.

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại với đặc trưng là cách mạng tri thức, cách mạng thông tin phát triển như vũ bão, đang gây ra những thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong mọi hoạt động của xã hội loài người, từ cách sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý, đến  quan hệ xã hội, văn hoá, lối sống..., và làm thay đổi cả những khái niệm, phương pháp tư duy. Xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức đang hình thành và phát triển, loài người đang bước vào nền văn minh trí tuệ. Con người phải có đủ năng lực để thích nghi và thúc đẩy xu thế phát triển đó. Nước nào không có nguồn nhân lực tài năng thì sẽ bị gạt ra ngoài lề. Trên phạm vi toàn thế giới đang diễn ra một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng để thích ứng với sự phát triển mới đó.

Kinh tế tri thức là cơ hội để nước ta phát triển nhanh lực lượng sản xuất, để sớm xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển kinh tế tri thức là xu thế phát triển tất yếu khách quan của lịch sử phát triển lực lượng sản xuất xã hội, đúng như K. Marx đã tiên đoán. Đại Hội IX của Đảng đã khẳng định nước ta cần thiết và có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoátừng bước phát triển kinh tế tri thức. Theo tinh thần đó, công nghiệp hoá nước ta phải là công nghiệp hoá dựa trên tri thức, phải tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức, (đối với các nước đi trước thì đó là hai quá trình kế tiếp nhau). Để có thể thực hiện được nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có sự chuyển đổi cơ bản về tư duy kinh tế, chính sách kinh tế, cách sản xuất kinh doanh, cách tổ chức quản lý, phương thức làm việc..., thích ứng được với sự chuyển biến nhanh chóng của kinh tế thế giới ngày nay từ chỗ dựa chủ yếu vào các nguồn lực vật chất sang dựa chủ yếu vào các nguồn lực trí tuệ.  

Nhân tố cơ bản nhất để phát triển KTTT là nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên nền giáo dục tiên tiến. KTTT có nhiều khác biệt cơ bản so với kinh tế công nghiệp, do đó đòi hỏi phải đổi mới, cải cách nền giáo dục.

Trước hết trong nền KTTT vốn tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên; và cũng do đó giáo dục đào tạo với chức năng tạo ra và nhân lên vốn tri thức trở thành ngành sản xuất cơ bản nhất của nền KTTT. Vị trí vai trò của giáo dục thay đổi cơ bản.

Thứ hai là sáng tạo đã trở thành động lực quan trọng nhất: nếu như trong nền kinh tế công nghiệp hiện nay năng lực cạnh tranh và việc tạo ra giá trị mới chủ yếu là do hoàn thiện, tối ưu hoá cái đã có; thì trong KTTT việc nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là do sáng tạo ra cái mới. Cái có giá trị nhất là cái chưa biết, cái đã biết thì giá trị sẽ dần dần mất đi. Đổi mới, phát triển chủ yếu là dựa vào sự sáng tạo ra cái mới, chứ không chỉ là hoàn thiện cái đã có. Con người không có năng lực sáng tạo thì không có chỗ đứng trong KTTT.

Thứ ba là tốc độ đổi mới rất nhanh. Trong nền kinh tế công nghiệp chu kỳ công nghệ, sản phẩm có thể tính bằng thập kỷ, còn trong KTTT chu kỳ tính bằng năm, thậm chí bằng tháng. Sản phảm mới tăng lên không ngừng, vòng đời công nghệ và sản phẩm rút ngắn rất nhanh, do đó tốc độ đổi mới ngày càng tăng nhanh trong tất cả các ngành, các doanh nghiệp. Tốc độ trở thành cái trên hết; người ta “làm việc theo tốc độ của tư duy”[1]. Các doanh nghiệp buộc phải đổi mới nhanh, doanh nghiệp nào không kịp thời đổi mới thì sẽ bị tiêu vong. Luôn luôn xuất hiện các doanh nghiệp mới; cứ mỗi sáng chế ra đời là xuất hiện một doanh nghiệp mới, đó là những doanh nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp khoa học. Xã hội phát triển không phải từ sự mở rộng và hoàn thiện cái hiện có mà chủ yếu là thay thế cái cũ đã lỗi thời bằng những cái mới chất lượng hợn, hiệu quả hơn. Đó là sự phá hoại có tính xây dựng. Xây dựng cái mới đã khó mà phá vỡ cái cũ còn khó hơn; có nhiều nước vì luyến tiếc cơ sở hạ tầng hiện có, nên đã chậm trễ trong chuyển sang công nghệ mới, kết quả là năng lực cạnh tranh kém đi. Con người phải biết tự đào tạo, luôn tiếp thu tri thức mới, có năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm thì mới có thể thích nghi và làm chủ được kinh tế tri thức.

 Vốn tri thức có các đặc điểm khác với các vốn khác ở chỗ vốn tri thức khi chuyển giao cho người khác thì người sở hữu tri thức không bị mất tri thức, như thế tri thức được nhân lên gấp đôi; khi truyền bá tri thức cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội, mà việc nhân lên vốn tri thức đòi hỏi ít chi phí. Tri thức không những không bị hao mòn trong quá trình sử dụng, mà còn được nâng cao lên. Thêm nữa, tri thức - với tư cách là một nguồn vốn, một tư liệu sản xuất chủ yếu– luôn luôn nằm trong từng người lao động, không tách khỏi người lao động. Điều nay đòi hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối phù hợp.

Hoạt động chính trong nền KTTT là tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức. Tạo ra tri thức là mục đích của các hoạt động nghiên cứu sáng tạo, do những người được đào tạo tốt tiến hành. Truyền bá tri thức tức là nhân lên vốn tri thức, làm cho vốn tri thức xã hội tăng lên nhanh chóng, đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức đồng thời góp phần quảng bá tri thức. Vì vậy người ta coi giáo dục là ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền KTTT. Sử dụng tri thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành giá trị, đưa tri thức vào trong các hoạt động xã hội của con người. Đó cũng là nhiệm vụ của giáo dục, nhất là giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời, học kết hợp với hành, giáo dục kết hợp hoạt động thực tiễn...

Trong thời đại cách mạng thông tin, cách mạng tri thức quá trình tạo ra tri thức, truyền bá tri thức và sử dụng tri thức không còn là quá trình kế tiếp nhau mà trở thành đan xen nhau, tương tác nhau; và cái quan trọng nhất là sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Giáo dục phải đào tạo ra con người có tri thức và biết sử dụng tri thức trong hoạt động thực tiễn để tạo ra nhiều giá trị mới.

Quá trình biến tri thức thành giá trị chính là quá trình đổi mới; sử dụng tri thức là để đổi mới; chỉ có thông qua quá trình đổi mới, tri thức mới có thể biến thành giá trị. Để phát triển nhanh KTTT các nước đều rất coi trọng xây dựng hệ thống đổi mới quốc gia; đó là một hệ thống chính sách, thể chế và tổ chức để gắn kết chặt chẽ khoa học với sản xuất, tức là gắn chặt việc tạo ra tri thức với sử dụng tri thức, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng tri thức để đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích các cơ quan khoa học nhanh chóng thương mại hoá các sản phẩm nghiên cứu của mình, thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới....

Ngày nay tri thức trở nên lạc hậu rất nhanh chóng, người sinh viên học xong đại học ra trường thì tri thức của những năm đầu đã có phần lạc hậu rồi; nếu sau 1-2 năm không cập nhật tri thức thì sẽ khó đảm đương công việc. Cho nên người lao động buộc phải luôn nâng cao tri thức, nâng cao kỹ năng, không ngừng bồi dưỡng, đào tạo. Việc làm của họ lại dễ dàng thay đổi, không ổn định lâu dài như hiện nay; có thể nay làm việc này, nhưng mai kia lại chuyển sang việc khác, cái cũ mất đi được thay thế bằng cái mới; quá trình đổi mới diễn ra rất nhanh chóng.

Trên thế giới mô hình giáo dục đang thay đổi, đang chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống, coi đào tạo và làm việc là hai giai đoạn tách biệt nhau, sang mô hình đào tạo (học tập) suốt đời. Trong mô hình giáo dục truyền thống, nhà trường đào tạo rèn luyện để người học có được một vốn tri thức, một kỹ năng nhất định để có thể ra làm việc suốt đời. Trong mô hình học tập suốt đời, nhà trường trang bị cho người học một vốn tri thức và kỹ năng cơ bản để người đó ra đời có thể sớm ra làm việc, và tiếp tục giúp đỡ người lao động vừa làm vừa tiếp tục học tập, học tập suốt đời, phát triển kỹ năng liên tục. Như vậy việc đào tạo gắn rất chặt với việc sử dụng, giáo dục luôn luôn gắn với việc làm, gắn với thị trường lao động.

II. CẢI CÁCH GIÁO DỤC ĐỂ ĐẨY NHANH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC

Đảng ta từ rất sớm đã quan tâm sự nghiệp giáo dục đào tạo, coi giáo dục-đào tạo cùng với khoa học –công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đến nay đã có hơn 20% số người lao động qua đào tạo, trong đó có khoảng 1,5 triệu người tốt nghiệp đại học và cao đẳng, hơn 12 nghìn tiến sĩ và hơn 11 nghìn thạc sĩ. Trình độ học vấn của đội ngũ công nhân kỹ thuật được nâng cao khá nhanh. Nguồn nhân lực ấy đã có đóng góp lớn cho sự đổi mới và phát triển đát nước ta trong những năm qua. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá, yêu cầu đi tắt đón đầu, đẩy nhanh và rút ngắn quá trình CNH, HĐH, nguồn nhân lực hiện có của nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập. So với các nước trong khu vực, nguồn nhân lực nước ta thua kém về số lượng, cơ cấu, cũng như về trình độ, năng lực.

Nền giáo dục nước ta đã phát triển nhanh, đóng góp lớn vào nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực trong thời gian qua, nhưng chậm đổi mới, bất cập trước yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

Chương trình giáo dục ở các cấp học, bậc học vừa chưa bắt kịp những tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, vừa ít gắn liền với thực tiễn. Phương pháp dạy và học chậm đổi mới, vẫn nặng về trang bị kiến thức, nhẹ về bồi dưỡng năng lực tư duy độc lập, năng lực giải quyết vấn đề, tính năng động và sáng tạo, khả năng thích nghi với sự phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là trang bị thí nghiệm, thực hành của nhà trường đã thiếu, lại lạc hậu với thực tiễn sản xuất. Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục. Tình trạng tách rời giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo với cơ quan nghiên cứu triển khai và các doanh nghiệp còn khá phổ biến. Nhiều nghị quyết của Đảng về giáo dục, nhất là NQTW 2 (khoá 8) và Kết luận của Hôi nghị TW6 (khoá 9) chậm được thể chế hoá về mặt nhà nước, chậm đi vào cuộc sống.

Tâm lý khoa cử còn rất nặng nề trong xã hội; hiện tượng chạy theo bằng cấp, coi bằng cấp là mục tiêu mà không coi trọng việc bồi dưỡng nhân cách, kỹ năng còn khá phổ biến; chưa thiết lập được hệ thống đánh giá nghiêm túc, còn nặng về thắt chặt đầu vào, buông lỏng đầu ra, buông lỏng quản lý quá trình học tập, chạy theo thành tích, tỷ lệ ra trường, tỷ lệ đạt bằng cấp.... Trong việc dạy và học còn tồn tại dai dẳng nhiều tượng tiêu cực đã bị xã hội lên án mà chưa khắc phục được.

Nguồn gốc sâu xa của những yếu kém trong giáo dục có liên quan đến môi trường xã hội, thể chế, và trực tiếp là công tác tổ chức cán bộ, cách dùng người. Đánh giá không đúng, sử dụng không đúng, đãi ngộ không thoã đáng, không phân biệt người giỏi người tốt với người kém thì sẽ không khuyến khích được người học ra sức học tập để có đủ năng lực làm việc. Nhiều tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp chặt chẽ trong việc tuyển người, nhưng sau khi tuyển thì thiếu chế độ kiểm tra, đánh giá, sàng lọc, cũng như đãi ngộ theo năng lực, cống hiến. Có nhiều qui định hiện hành trói buộc thủ trưởng cơ quan không cho loại người kém ra khỏi cơ quan, cũng không cho trả lương xứng đáng cho người giỏi. Chừng nào mà trong xã hội còn không đánh giá đùng và sử dụng người tài, thì chưa tạo được động lực cho người học.

Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, thì trước hết nhà nước phải có chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi "hiền tài là nguyên khí quốc gia", tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi, đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, quản lý kinh doanh, văn học-nghệ thuật, các nghệ nhân "bàn tay vàng".... Thực hiện việc đánh giá đúng và thù lao xứng đáng với kết quả lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức;không để lẫn lộn người tài và kẻ bất tài; có chính sách tích cực để khuyến khích cán bộ khoa học tiến thân bằng những cống hiến do năng lực chuyên môn của mình. Xây dựng và thực hiện cơ chế đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, sàng lọc hợp lý; thường xuyên giáo dục chính trị, đạo đức, không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ trí thức. Cần thiết lập hệ thống kiểm tra đánh giá trình độ và năng lực trong quá trình sử dụng, có chế độ đãi ngộ tương xứng sự cống hiến. Có sử dụng tốt thì mới có giáo dục tốt. Có trọng dụng người tài thì mới có nhiều người tài.

Để khích lệ sự nghiệp giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục, cần phải cải cách hành chính, cải cách về tổ chức chính sách đối với cán bộ, cần tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch trong một xã hội mà ai có năng lực nhiều phải được hưởng nhiều hơn, ai không có năng lực thì phải chịu thiệt hơn. Không dành chỗ đứng cho những người không có năng lực mà giỏi chạy chọt, đối phó. Nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường là nhằm khơi dậy, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi khả năng sáng tạo; nhưng đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý của nhà nước rất quan trọng, nhà nước phải can thiệp để hạn chế tối đa tác động của những mặt trái của kinh tế thị trường đến sự phát triển xã hội, nhất là giáo dục. 

Nền giáo dục nước ta phải thực sự đổi mới để bảo đảm đào tạo được một thế hệ trẻ có đủ năng lực làm chủ một đất nước CNH, HĐH định hướng xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, đấu tranh quyết liệt giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá đang hình thành và phát triển, đang đặt ra những cơ hội và thách thức rất to lớn đối với các nước đi sau. Không có nền giáo dục tốt thì không tạo dựng đươc năng lực nội sinh về khoa học công nghệ để trụ vững trong toàn cầu hoá và phát triển nhanh đất nước. Ai đó còn nghĩ rằng, nếu có nhiều vốn thì có thể mua tri thức, mua công nghệ của nước ngoài để phát triển, thì hãy nhìn lại những bài học không thành công của một số nước giàu tài nguyên mà không có năng lực nội sinh về khoa học - công nghệ. Truy cập vào kho tri thức toàn cầu, mua công nghệ là việc nhất thiêt phải làm đối với cac nước đi sau, nhưng nếu không có đủ năng lực tri thức nội sinh thì chỉ có được sự tăng trưởng nhất thời, sau đó là sự tụt hậu, sự lệ thuộc.

Nền giáo dục phải thực hiện được ba nhiệm vụ cơ bản sau đây: Một là nâng cao mặt bằng dân trí, mỗi người dân đều có khả năng nắm bắt và vận dụng những tri thức mới nhất cần thiết cho công việc của mình. Mặt bằng dân trí đó phải theo kịp mức các nước tiên tiến trong khu vực. Thứ hai là phải đào tạo ra được một nguồn nhân lực có chất lượng cao thích nghi với sự đổi mới và phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu rút ngắn quá trình CNH, HĐH dựa vào tri thức. Thứ ba, là phải lo chăm lo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ nhân tài. Nếu đến năm 2010 nước ta không có ít nhất khoảng một vạn các chuyên gia giỏi, đầu đàn trong tất cả các lĩnh vực: những nhà quản lý giỏi, những nhà khoa học giỏi, những doanh gia tài ba thì khó tạo được bước chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế theo hướng dựa vào tri thức.

Đi đôi với nâng cao chất lượng giáo dục, cần phát triển nhanh qui mô giáo dục. Đẩy nhanh phổ cập giáo dụctrung học cơ sở vào trước năm 2010, phổ cập giáo dục trung học vào khoảng năm 2015, nâng số năm đi học bình quân của người trong độ tuổi lao động lên 9 năm vào năm 2010, lên 12 năm vào năm 2020. Nâng tỷ lệ sinh viên đại học, cao đẳng trên một vạn dân ngang với các nước xung quanh.

Tuy số người đi học hiện nay so với số dân khá cao, số người học đại học, cao đẳng, chuyên nghiệp tăng khá nhanh, nhưng so với yêu cầu của hiện đại hoá dựa vào tri thức cũng như so với yêu cầu của các nước dang phát triển nhanh xung quanh ta thì còn là rất thấp. Xét về tỷ lệ đi học trong độ tuổi ở bậc trung học, số sinh viên đại học, cao đẳng trên một vạn dân, nước ta kém xa Thái lan, Philippin, Malaysia[2]. Hiện nay có hiện tượng học xong ra trường không có việc làm, đó là tạm thời, do sản xuất kinh doanh chưa bùng phát, và cũng do chất lượng đào tạo thấp; nhiều người không tìm được việc làm nhưng nhiều nơi lại rất thiếu người làm. Nếu đào tạo tốt, người học ra trường có nhiều khả năng sáng tạo, biết tổ chức tạo ra việc làm mới, thì các doanh nghiệp mới sẽ phát triển rất nhiều và sẽ thu hút rất nhiều việc làm. Các doanh nghiệp nếu biết đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm nhanh thì cũng sẽ thu hút rất nhiều lao động có tay nghề. Một trong những mục tiêu của giáo dục ở nhà trường là đào tạo cho các học sinh, sinh viên khả năng tự tạo việc làm. Như vậy chúng ta phải phát triển mạnh giáo dục phổ thông và giáo dục cho mọi người. Cần hết sức quan tâm giáo dục trẻ thơ (nhà trẻ, mẫu gíao), đó là nền tảng cho phát triển nền giáo dục sau này. Đầu tư nhiều vào đây thì sau này sẽ bớt được chi phí cho sự khắc phục những khiếm khuyết trong chất lượng giáo dục sau này.

Phát triển hệ thống học tập suốt đời và xây dựng xã học tập là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để bồi dưỡng nhân lực cho CNH, HĐH rút ngắn dựa trên tri thức. Trong một nền kinh tế dựa vào tri thức thì mọi người đều phải học tập thường xuyên, học tập suốt đời để có thể thích nghi với sư phát triển và đổi mới nhanh của khoa học công nghệ, sản xuất kinh doanh. Xã hội học tập và xã hội thông tin là tiền đề cho nền kinh tế tri thức. Hệ thống giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện cho mọi người ở bất cứ đâu, lúc nào cũng có thể tham gia vào học tập nâng cao trình độ để theo kịp sự phát triển của thời đại.

Thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục. Huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển giáo dục; đồng thời phát huy vai trò chủ đạo của nhà nước trong việc hình thành xã hội học tập và chế độ học tập suốt đời. Triển khai mạnh chủ trương đa dạng hoá các loại hình trường, lớp, các hình thức đào tạo. Có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân và nhân dân tham gia phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập; khuyến khích các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài đầu tư phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta. Đa dạng hoá phải đi đôi với chuẩn hoá. Coi trọng cả giáo dục cơ bản và giáo dục đại học; cả giáo dục cho mọi người và giáo dục tinh hoa.  

Nhiệm vụ cấp bách là tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện trong giáo dục: cải cách triệt để,sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống giáo dục, phương thức tổ chức quản lý giáo dục - đào tạo. 

Mục tiêu giáo dục là đào tạo ra những con người có đủ khả năng, bản lĩnh thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện: dạy người, dạy chữ, dạy nghề. Học là để xây dựng nhân cách, xây dựng năng lực cho con người; học để có thể làm việc trong cộng đồng, cống hiến cho xã hội, để có thể tự khẳng định mình trong cuộc sống. Kiên quyết khắc phục nạn đi học chỉ cốt để lấy bằng cấp, mà không quan tâm đến xây dựng năng lực. 

Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi d­ưỡng rèn luyện phư­ơng pháp t­ư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển.

Kiên quyết khắc phục phương pháp giảng dậy cũ kỹ lạc hậu, thầy giảng trò ghi, thụ động, một chiều. Nội dung chương trình phải hiện đại nhưng tinh giản. Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nhất, dĩ nhất biến ứng vạn biến, và giúp người học biết nhân lên vốn tri thức cho mình, hướng dẫn người học phương pháp tiếp thu tri thức mới, bồi dưỡng cho họ những kỹ năng cần thiết, phương pháp tư duy, trí sáng tạo, phương pháp tự đào tạo..., thông qua các trường hợp điển hình để bồi dưỡng phương pháp và năng lực giải quyết vấn đề. Tăng cường sự tương tác giữa thầy giáo và sinh viên, sử dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin trong giảng dạy. Tăng cường dạy công nghệ thông tin trong tất cả các bậc học.

 Giáo dục đại học đi theo xu thế đào tạo theo diện rộng; đào tạo chuyên ngành hẹp là không phù hợp với sự thay đổi ngành nghề, thay đổi việc làm đang diễn ra ngày càng nhanh. 

Chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống - đào tạo kỹ năng để ra làm việc cho đến nghỉ hưu, sang mô hình giáo dục mới: hệ thống học tập suốt đời, phát triển nghề nghiệp liên tục, theo đó nhà trường đào tạo những kỹ năng cơ bản để người học ra trường vừa lao động vừa học tập (đào tạo) suốt đời. Theo mô hình này, khi kết thúc mỗi bậc học, người học có hai khả năng lựa chọn: hoặc là học tiếp, hoặc ra trường vừa lao động vừa tiếp tục học tập; người lao động bất cứ lúc nào, ở trình độ nào cũng có thể về trường (hoặc qua mạng) học tiếp. Phát triển hình thức học tập qua mạng (e-learning). Hệ thống giáo dục trở nên linh hoạt hơn, đa dạng hơn, mở cửa hơn cho mọi người, nó cũng gắn bó hơn với cuộc sống, với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.   

Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường thanh tra kiểm tra, thay đổi cách tổ chức thi cử, tuyển sinh (hiện nay chỉ nặng về kiến thức sách vở!), khắc phục tình trạng nặng về quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra; kiên quyết chống bệnh thành tích đang ngăn cản con đường đi tới chất lượng. Tăng quyền chủ động cho các trường công lập cũng như các trường ngoài công lập. Bộ và các sở giáo dục đào tạo tăng cường chức năng quản lý nhà nước, nhất là thanh tra chất lượng giáo dục đối với tất cả các trường, không làm thay các công việc của trường, xoá bỏ cơ chế xin cho. Hãy để cho các trường chủ động tổ chức thực hiện quá trình đào tạo và chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Trong nền kinh tế thị trường, có thị trường lao động, thì sản phẩm của giáo dục cũng là một thứ hàng hoá (phi vật thể), là hàng hoá đặc biệt- là dịch vụ công, phải được thị trường đánh giá, lựa chọn, chấp nhận. Không cho phép thương mại hoá giáo dục, biến trường thành chợ, vì lợi nhuận tối đa; nhưng cần vận dụng cơ chế thị trường để huy động các nguồn lực và tạo thêm động lực cho phát triển giáo dục. Trong một xã hội có hệ thống đánh giá, sử dụng, đãi ngộ đúng đắn thì sự cạnh tranh giữa các trường sẽ thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo. Nhà nước vừa chăm lo xây dựng một số trường trọng điểm chất lượng cao, ngang tầm quốc tế; vừa thực hiện chính sách công bằng xã hội, tạo điều kiện để cho  người nghèo, những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, đều có cơ hội đi học để phát huy hết khả năng của mình.   

Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo với nước ngoài. Cần mở rộng giao lưu về giáo dục với các nước, tiếp cận với những mô hình giáo dục tiên tiên nhất, để vận dụng sáng tạo vào nước ta. Có chính sách tuyển cử đông đảo giáo viên, sinh viên đi học tập nghiên cứu và làm việc ở các nước phát triển và thu hút nhiều giáo sư, chuyên gia nước ngoài vào nước ta giảng dạy nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm. Mở rộng các hình thức hợp tác liên kết các đại học của ta với các đại học nước ngoài để đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các đại học quốc tế ở nước ta nhằm đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế, được các trường có uy tín trên thế giới cấp bằng.

Cải cách giáo dục là một cuộc cách mạng sâu sắc không chỉ trong ngành giáo dục mà là trong xã hội; nó bắt nguôn từ sự đổi mới tư duy về giáo dục. Ngành giáo dục đã cố gắng xử lý rất nhiều vấn đề, nhưng hầu như chỉ là những vấn đề "ngọn", cắt gọt được cái này thì phát sinh cái khác, đối phó, giải quyết từng vụ việc, chưa thay đổi tận gốc, có thể do còn vướng mắc trong tư duy. Nếu không có quyết tâm cao trong cải cách giáo dục, không có bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục, thì sẽ không tránh khỏi sự tụt hậu ngày càng xa so với các nước, trước hết là các nước ASEAN xung quanh ta.

Muốn chấn hưng đất nước cần phải cải cách giáo dục, nhanh chóng đưa nền giáo dục nước ta lên ngang mức tiên tiến trong khu vực. 


  


TIÊU ĐIỂM

• Tư liệu tham khảo mới

• Tham gia bàn về cải cách hành chính - lựa chọn, đào tạo, xử dụng và tôn vinh cán bộ hành chính nhà nước

• Cùng tìm kiếm một con đường mới- Phần II

• Đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức

• Đào tạo nhân lực cho công nghiệp hóa rút ngắn dựa trên tri thức

Tôn chỉ, mục đích 
1. Nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực phát triển
2. Tiến hành tư vấn, phản biện, thẩm định và các dịch vụ KH&CN liên quan đến những vấn đề phát triển
3. Tổ chức bồi dưỡng kiến thức về khoa học phát triển
4. Tổ chức diễn đàn về vấn đề phát triển
5. Cung cấp thông tin, xuất bản ấn phẩm về những vấn đề phát triển
6. Hợp tác trong mạng lưới các tổ chức nghiên cứu phát triển

Chi tiết...

Địa chỉ: 14 Lê Phụng Hiểu - à Nội. 
Điện thoại: 04-9350984 ,  Fax: 04-9350984

Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức

20/11/2007

Trong sự nghiệp đổi mới, khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta thấy cần và có thể rút ngắn thời gian bằng những bước nhảy vọt xen lẫn những bước tuần tự. Đảng ta đã đề ra chủ trương: tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.

Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy "từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, in-tơ-nét, điện thoại di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức".

Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu

Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa của kinh tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.

Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.

Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu.

Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những chức năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.

Những quan điểm, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức bắt đầu xuất hiện vào những năm 60 - 70 của thế kỷ trước tại các nước công nghiệp phát triển cao. Lúc đó tại những nước này công nghiệp hiện đại công nghệ cao đã chiếm tỷ trọng với số lao động tri thức đã vượt trên 50% tổng số lao động.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy chưa có công nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức.

Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành máy, có thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, in-tơ-nét, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là phát triển một số bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa, ở trình độ cao, nhiều lĩnh vực của công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ. Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới.

Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để xây dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây:

Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh tế năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh nghiệp mới làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền hà, tham nhũng. Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần tăng sức cạnh tranh.

Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.

Thứ ba, xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những mục tiêu đã xác định. Họ phải thường trực tiếp cận các kho thông tin, tri thức của thế giới được liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu hóa" chúng và thích nghi hóa cho các nhu cầu của mình và từ đó sáng tạo ra công nghệ cao mới.

Thứ tư, tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức.

Bốn hướng trên đây thường được xem như bốn trụ cột xây dựng kinh tế tri thức mà lãnh đạo nhà nước phải chỉ đạo mới có thể thành công.

Căn cứ vào các chỉ số đánh giá về mức phát triển kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới, nếu so sánh nước ta với nhóm các nước công nghiệp phát triển cao (OECD) thì nước ta có một số ít chỉ số đạt khá như tăng trưởng GDP hằng năm, chỉ số phát triển con người (HDI), vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI)... Nhưng nhìn chung vẫn còn thấp kém so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, nhất là chỉ số phát triển nguồn nhân lực, phát triển và đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, tăng sức cạnh tranh, phát triển công nghệ thông tin và truyền thông... Bảng dưới đây trình bày một số chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông trong một số năm qua.

Những số liệu trên đây cho thấy, tuy còn ở trình độ thấp, kinh tế tri thức ở nước ta đã phát triển tương đối khá. Từ cuối 2006 sang 2007 bắt đầu thực hiện đường lối "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức", các thành phần của kinh tế tri thức đã phát triển khá. Theo kết quả đánh giá chỉ số kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới năm 2006 nước ta đạt mức 2.69/10, sang năm 2007 tăng thêm 15% và đạt 3.10/10, nghĩa là nền kinh tế nước ta đã hòa quyện các yếu tố của kinh tế tri thức tới 31%. Với đà phát triển như hiện nay và cao hơn, tới năm 2020 kinh tế tri thức với công nghiệp công nghệ cao hiện đại sẽ trở thành chủ yếu.

Thực hiện thành công đường lối nêu trên của Đại hội X, chúng ta nhanh chóng vượt qua kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiếp cận ngay với công nghiệp có trình độ hiện đại cao của kinh tế tri thức. Như vậy, đã rút ngắn đáng kể được thời gian và bắt kịp nhịp của thời đại.

Các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới toàn cầu hóa.

Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế tri thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc gửi đi nâng cao trình độ ở nước ngoài, các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trình độ cao. Nhiều ví dụ trong công nghiệp điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông quốc gia, trong công nghiệp chế biến nông sản phẩm, trong chế tạo trang thiết bị cơ - điện tử... đã cho thấy kết quả tốt và đạt bước tiến nhanh rõ rệt.

Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nông nghiệp phải gắn kết với phát triển ứng dụng tri sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công nghệ sinh học, tri thức về giống cây, con chất lượng và năng suất cao, về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung cấp tri thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa nông nghiệp.

Trong công nghiệp và xây dựng thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gắn kết thuận lợi với phát triển kinh tế tri thức vì công nghiệp trong kinh tế thị trường là rất hiện đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế dùng máy tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng, tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy thông minh có "nhúng" máy điện toán tự động hóa hoàn toàn hoặc robot, hoặc các dây chuyền máy tự động hóa toàn phần.

Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này. Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trong hiện đại hóa nền công nghiệp và xây dựng kết cầu hạ tầng. Nhưng nhìn chung vẫn còn tụt hậu về công nghiệp công nghệ cao. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), số dự án công nghệ cao đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn hứa hẹn triển vọng tốt.

Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến trên 70% GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận lợi đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục, pháp luật... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin, mạng in-tơ-nét, viễn thông toàn cầu... Thời gian qua một số ngành dịch vụ nước ta đã có tiến bộ đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng nhìn chung chưa khai thác hết tiềm năng, đáng lý còn có thể đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nhiều hơn nữa.

Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo hướng kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như nước ta, có định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cần tập trung vào dịch vụ hành chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử). Đây là một cuộc cách mạng thực sự hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nó, nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ, sẽ khách quan bảo đảm được công khai, minh bạch, không tham nhũng, công bằng, dân chủ, văn minh. Đáng tiếc là thời gian qua có quyết tâm cao, nhưng dùng người chưa đúng nên kết quả yếu kém, cần rút kinh nghiệm để sắp tới làm tốt hơn. Khi đó sẽ có một nền hành chính điện tử được hiện đại hóa nhanh dẫn tới rút ngắn được thời kỳ quá độ.

Thời đại chúng ta là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX (1917). Cũng không phải ngẫu nhiên mà cách mạng khoa học công nghệ bùng lên từ khoảng giữa thế kỷ XX dẫn đến sự khởi đầu kinh tế tri thức và trở thành đặc trưng của thời đại. Phải chăng đây là phản ánh mối quan hệ biện chứng tất yếu giữa khoa học và cách mạng, cơ bản tương tự như những lần biến động thay đổi hình thái kinh tế - xã hội trước đây, nhưng phức tạp và dữ dội hơn nhiề

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: