Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 10-Chương 12

Chương 10.1- Vụ án thứ 10- Giáng sinh tĩnh lặng 

Nháy mắt đã tới Giáng Sinh, đây là mùa Giáng Sinh đầu tiên kể từ khi tôi bắt đầu làm việc ở đây. Khắp nơi tràn ngập những cây thông Noel lấp lánh ánh đèn trông rất thích mắt, chuyện vui nhất đó chính là tôi đã đón được Linh Đang – bạn gái tôi đến thành phố này.

Linh Đang là một cô gái cứng cỏi, cũng tốt nghiệp ngành Pháp y giống tôi. Tôi phải khuyên can mãi cô ấy mới chịu chuyển sang làm bác sĩ bình thường, không làm pháp y nữa. Dĩ nhiên chuyện đó cũng có chút toan tính của tôi, bản thân tôi cả ngày bôn ba vất vả ở hiện trường là đủ rồi, thật lòng không nỡ để Linh Đang phải chịu khổ.

Tối Giáng Sinh, tôi vui vẻ dẫn Linh Đang đi ăn đồ nướng, nào ngờ vừa nướng được mấy miếng thì chuông di động bỗng vang lên. Tôi nhíu mày, thầm nghĩ lạy trời đứng có án mạng, lo lắng rút điện thoại ra. Thật là ghét của nào trời trao của đó, màn hình điện thoại hiển thị rõ hai chữ "Sư phụ".

"Đang ở đâu đấy?" Vừa nghe thấy câu nói mở đầu quen thuộc của sư phụ, tôi cảm thấy bữa tối lãng mạn này coi như tiêu rồi.

"Sư... sư phụ, em đang ăn tối."

"Cho anh thời gian hai mươi phút, mau đến tập trung trước cửa đại sảnh."

"Lại có án mạng ạ?"

"Ở huyện Thanh Hạ có ba mạng người chết cháy."

"Hỏa hoạn ạ? Tử vong không bình thường mà chúng ta vẫn phải đi à?" Nửa năm chuyên làm án mạng, những vụ tử vong không bình thường đối với tôi đã dễ như ăn cháo, tôi vẫn còn hi vọng mình không nhất thiết phải đi.

"Chết đến ba người, chúng ta bắt buộc phải tới đó, không cần quan tâm tính chất. Còn nữa, anh có dám đảm bảo đó không phải giết người trước, đốt xác sau không?" Sư phụ nói, "Không nhiều lời, phải đến đúng giờ đấy."

Trước đây cứ nghe có án là tôi sẽ sung sướng đi ngay, nhưng lần này cúp máy xong, trong lòng vô cùng áy náy.

"Đi đi, lát nữa em tự bắt xe về." Chị bé Linh Đang của tôi cười hì hì nói, nhưng mắt lại hoe đỏ. Chúng tôi yêu được mấy ngày, gần nhau thì ít, xa nhau thì nhiều. Chung quy lại, cô ấy cũng tốt nghiệp ngành Pháp y ra, tố chất rất cao, hiểu công việc là thế nào, vì vậy Linh Đang lau nước mắt, cười ranh mãnh an ủi tôi, "Anh đi đi, lần sau em sẽ đòi nợ anh một bữa ra trò!"

Hai mươi phút sau, tôi đã cùng sư phụ lên xe, đi đến huyện Thanh Hạ cách thành phố hơn 200km. Đường về vùng nông thôn nhỏ hẹp, đêm đen buông xuống đặc quánh, trừ những thứ nằm trong tầm đèn xe chiếu được, còn lại không thể nhìn thấy gì hết. Bốn phía im ắng, không khí Giáng Sinh chốn thành thị náo nhiệt đã bị đẩy xa hàng trăm dặm.

Bỗng nhiên xe phanh gấp, anh Nguyễn lái xe vội nói: "A, xin lỗi!" Tôi hoảng sợ nhìn ra ngoài cửa sổ tối om, hỏi: "Sao thế?"

"Một con mèo nhỏ chạy ngang qua đường, tôi không kịp phanh, hình như chẹt chết nó rồi." Anh Nguyễn nói.

Trong lòng tôi hơi thắt lại, lặng thầm thương thay cho chú mèo xui xẻo, trong phút chốc đã mất đi một sinh mệnh nhỏ bé. Không biết đêm nay, tại hiện trường chúng tôi đang đến sẽ là thảm trạng gì đây?

"Thật là một Giáng Sinh không an lành!" Sư phụ nãy giờ vẫn trầm mặc bỗng thở dài.

10 giờ đêm, cuối cùng chúng tôi cũng tới nơi hiện trường thảm khốc.

Đây là một tòa nhà nhỏ có một cổng, trong phạm vi mấy dặm xung quanh đều không có người nào khác sinh sống. Bên trong có hai gian nhà gạch, hiện giờ đã mất cả nóc nhà, một gian còn sụp quá nửa. Khắp nơi trong nhà toàn là những vũng nước đọng, dường như phải dùng hai chiếc xe cứu hỏa chạy hết công suất mới có thể dập tắt trận hỏa hoạn này. Lúc này cả khu nhà vẫn còn bốc khói đen nóng hầm hập.

Ngoài cửa đã chăng giải phân cách, đèn lớn trên nóc xe khám nghiệm chiếu sáng rực cả hiện trường. Vài cảnh sát hình sự mặc thường phục đang tản ra hỏi thăm những người trong đội cứu hỏa và dân làng gần đó.

"Trước hết tìm hiểu sơ bộ về tình huống vụ việc đi." Sư phụ cau mày nhìn hiện trường hỗn loạn nói, "Hiện trường thế này tương đối khó khám nghiệm, cả một đống lộn xộn, đám cháy cũng phá hủy một phần dấu vết rồi."

Thầy dạo một vòng quanh khu vực bên ngoài dải phân cách, chắp tay sau lưng, vừa cạ chân cho rơi hết bùn đất, vừa hỏi han người báo án về tình huống xảy ra vụ việc.

"Nhà tôi cách đây 3 dặm." Người đó rất nhiệt tình chỉ về phía xa xa, nói, "Khoảng 5 giờ chiều trời bắt đầu xẩm tối, tôi thấy bên này có khói bốc lên, còn có cả ánh lửa. Ban đầu tôi tưởng họ đốt thứ gì, sau lại thấy không ổn vì lửa bốc lên cao quá, tôi liền nhanh chóng gọi 119. Gọi điện báo xong tôi chạy đến đây ngay, nhà cửa cháy hết cả, tôi cũng không vào được, bèn gọi 'lão Hạ, lão Hạ', nhưng không thấy động tĩnh gì. Sau nghe đội cứu hỏa nói lão Hạ chết cháy rồi." Người báo án là một người đàn ông trung niên khoảng hơn năm mươi tuổi, hai mắt sưng đỏ, dường như đã khóc rất nhiều.

Xem ra lão Hạ là chủ của tòa nhà này, hơn nữa người báo án cũng có quan hệ khá tốt với ông ấy.

"Nhà lão Hạ có mấy người?" Sư phụ thuận miệng hỏi.

"Con trai và con dâu lão Hạ đều đi làm ăn xa, vợ ông ấy đã qua đời, ông ấy một mình chăm sóc hai đứa cháu nhỏ, một đứa sáu tuổi, một đứa bốn tuổi, nghe nói đều chết cháy cả."

"Có vẻ nhà ông ấy cũng có điều kiện nhỉ?"

"Cũng tạm, nhưng ông ấy sống rất tiết kiệm."

"Chào sếp." Lúc này đội trưởng đội hình sự địa phương đã có mặt tại hiện trường, "Các vị đến nhanh thật. Nhìn qua thì hiện trường có một già hai trẻ, ba mạng người. Đội phòng cháy chữa cháy còn đang xác định nguyên nhân phát sinh vụ hỏa hoạn. Vẫn chưa rõ những người này là bị chết cháy hay chết rồi mới bị đốt xác. Thi thể bị cháy nghiêm trọng. Kỹ thuật viên đang xem xét hiện trường, trước mắt chưa phát hiện được manh mối có giá trị."

"Ai phát hiện ra thi thể?" Sư phụ bắt tay với đội trưởng đội hình sự, hỏi.

"Sau khi dập tắt lửa, một chiến sĩ phòng cháy chữa cháy vào dọn dẹp hiện trường, thì phát hiện ba người đang nằm trên giường của mình, đều bị đốt đến không ra hình người. Anh ta liền liên lạc với chúng tôi, chúng tôi cũng thông báo ngay lên Sở. Chỉ là không ngờ mọi người đến nhanh như vậy."

"Họ đều nằm trên giường?" Sư phụ sờ cằm, "Mới 5 giờ đã ngủ? Hơn nữa ngủ say đến độ nhà cháy không ai biết?"

"Ừm, chúng tôi cũng thấy khả nghi, nhưng vẫn muốn kiểm tra thi thể để xác định chính xác tính chất vụ cháy."

Sư phụ không trả lời, nhấc dải cách ly lên, tiến vào hiện trường.

Tôi đi theo sư phụ, cả tòa nhà đã bị cháy đến mức hoàn toàn thay đổi, đập vào mặt là một mùi khét lẹt nồng nặc, không phân biệt được đâu là mùi gỗ cháy, đâu là mùi thịt người.

"Sư phụ cẩn thận đấy." Gian nhà đổ sụp quá nửa thoạt nhìn trống trải, nhưng đất cát thỉnh thoảng vẫn rơi xuống, tôi vừa đi vừa run sợ, "Gian nhà này có thể sập bất cứ lúc nào."

"Khi chúng ta xem xét hiện trường có thể gặp nhiều loại nguy hiểm, có khi là hiện trường toàn khí độc, lại có hiện trường sẵn sàng nổ tung, đương nhiên cũng có khả năng nhà cửa bị sập." Sư phụ gật đầu nói, "Anh có ý thức bảo vệ bản thân rất tốt, nhưng chẳng thể chỉ vì thấy hiện trường nguy hiểm mà bỏ đó không khám nghiệm, đó là chức trách của chúng ta, không thể thoái thác được." Sư phụ đội chiếc mũ do kỹ thuật viên cung cấp, đi vào hiện trường.

Chúng tôi tiến tới gian nhà thứ nhất chưa bị sập nhưng mái nhà đã không còn, phát hiện đây là gian bếp và nhà kho. Trên bệ bếp có bốn cái bát trống không và một nồi mì. Vách tường bị khói hun đen nhánh ướt đẫm nước, trên mặt đất toàn là nước đọng. Không còn gì để khám tra, chúng tôi đi sang gian nhà đã bị sụp quá nửa.

Tôi day day mũi theo bản năng. Làm bác sĩ pháp y đã lâu, tôi dần hình thành một thói quen, khi gặp những hiện trường và những thi thể có mùi lạ, tôi đều day mạnh lên mũi vài lần. Không biết có phải do tác dụng tâm lý hay không, nhưng thực sự có hiệu quả, day mũi như thế sẽ không còn cảm thấy mùi lạ khó chịu nữa.

Dĩ nhiên sư phụ biết thói quen này của tôi, cười hỏi: "Không phải chứ, thi thể thối rữa có thế có mùi khó ngửi, nhưng thi thể bị cháy cũng chẳng khó ngửi lắm, đều là mùi thịt chín cả mà."

Không hiểu sao những lời này của sư phụ lại có tác dụng ngược, chỉ khiến tôi muốn nôn. Tôi đột nhiên nhớ đến bữa thịt nướng ăn như hổ đói hôm nay.

"Thi thể ở tư thế đấu quyền." Tôi nói, "Trong sách có viết, tư thế đấu quyền chứng tỏ người này bị thiêu chết khi vẫn còn sống."

"Tin vào sách không bằng chẳng sách vở gì." Sư phụ nói, "Thi thể bị đốt sau khi chết cũng có những thời điểm bị biến thành tư thế đấu quyền. Khi lửa quá mạnh, mô mềm nhanh chóng bị hơi nóng làm co rút cũng sẽ tạo ra tư thế đấu quyền."

Tôi gật đầu, đeo găng tay, miết nhẹ lên cánh tay thi thể của ông lão. Trên tay vang lên một tiếng "rắc", sau đó rơi ra một mảnh da bị cháy thành than.

"Cháy nghiêm trọng thật." Tôi nói.

"Cháy đến sụp cả nóc nhà, dĩ nhiên là khủng khiếp rồi." Sư phụ vừa quan sát mặt đất, vừa dùng mũi giày cọ cọ lên chất đất rắn chắc, nói "Nơi này than hóa nghiêm trọng nhất, hẳn điểm châm lửa là ở đây, hơn nữa lại có vật mang chất dẫn cháy, mau đem mẫu gửi đến Cục kiểm nghiệm lý hóa, xem chất dẫn cháy là gì."

Sư phụ không chỉ là chuyên gia hình sự, mà còn là chuyên gia giám định hiện trường sự cố hỏa hoạn, đối với việc khám nghiệm hiện trường hỏa hoạn cũng vô cùng có kinh nghiệm.

Kĩ thuật viên dựa vào sự chỉ thị của sư phụ, bắt đầu cạo lấy tro tàn dưới mặt đất. Sư phụ nhìn xung quanh, nhìn tới vách tường ướt đẫm, nói: "Mang thi thể về nhà xác để khám nghiệm tử thi."

"Cũng 12 giờ đêm rồi, huyết áp của ngài hơi cao, hay là cứ về nhà khách nghỉ ngơi đi, ngày mai tới khám nghiệm thi thể sau?" Đội trưởng đội hình sự đầy quan tâm nói với sư phụ.

"Phá án có thể đợi sao?" Sư phụ tháo mũ bảo hộ xuống, đi thẳng vào trong xe, "Đến nhà xác đi."

Chương 10.2

Đến nhà xác, chúng tôi đều choáng váng. Năm đó huyện Thanh Hạ còn chưa xây xong phòng giải phẫu thi thể, khắp nhà xác tối om, im ắng. Mãi tới khi chúng tôi vào phòng giữ xác mới nghe được chút âm thanh phát ra từ tủ đông giữ xác. Trong phòng giữ xác cũng không có đèn, ánh trăng chiếu xuyên qua cửa sổ, không hề là ánh trăng lãng mạn mà chỉ mang thêm chút cảm giác âm u trầm mặc.

"Có thể tìm ra biện pháp chiếu sáng nào không?" Sư phụ hỏi. Nói chung điều kiện thiết yếu nhất khi giải phẫu thi thế chính là có đủ ánh sáng.

"Có hai biện pháp, một là dùng đèn lớn trên nóc xe khám nghiệm, rất sáng nhưng một thùng dầu chỉ có thể chiếu trong bảy tiếng đồng hồ, hiện giờ chỉ còn nửa thùng dầu thôi." Bác sĩ Thiệu của phòng pháp y huyện Thanh Hạ nói, "Ngoài ra có thể ra ngoài giải phẫu, nối dây điện để bật một bóng đèn, nhưng độ sáng có hạn."

"Ba tiếng đồng hồ chắc chắn không lo xong việc, nối dây điện đi, tốt nhất là tìm bóng có số Watt lớn, sau đó dùng đèn khám nghiệm cầm tay phụ trợ việc chiếu sáng." Sư phụ vừa nói, vừa ra bãi đất trống sau phòng giữ xác để tìm nơi có thể đặt một chiếc giường lớn đủ cho ba thi thể.

"Ba tiếng chắc chắn không xong." Bác sĩ Thiệu nuốt nước miếng. Ý sư phụ là: Đêm nay đừng mong được ngủ.

Rất nhanh sau đó, một chiếc đèn đơn giản được bác sĩ pháp y địa phương cùng nhân viên thu thập chứng cứ dựng lên, dùng đèn trên công trường để chiếu sáng, rất sáng nhưng cũng rất nóng. Vừa lúc đó, thi thể cũng được lái xe của nhà xác đưa đến.

"Không còn việc gì nữa đúng không? Không còn thì tôi đi đây." Người quản lý nhà xác ngáp dài nói.

"Tìm cho tôi một chiếc giường đặt vừa ba thi thể đi, như vậy thì không cần ngồi xổm giải phẫu." Sư phụ nói.

"À, chờ chút." Quản lý nhà xác tỏ vẻ nôn nóng, "Ngày mai giải phẫu không được ư? Sao phải cần gấp như vậy, cũng đã 12 giờ rồi."

"Thân nhân của người chết nhất định sẽ không chờ được." Sư phụ trầm giọng nói.

Ba thi thể nhanh chóng được đặt ngay ngắn lên giường. Vừa kéo miệng túi đựng thi thể ra đã thấy mùi khét của thịt cháy tràn ngập khắp không gian bãi đất trống. Tuy rằng dạ dày tôi đã trống rỗng từ lâu, nhưng cứ nghĩ đến bữa thịt nướng ăn lúc tối là dịch vị lại trào lên.

"Trước hết cần xác định những người này bị chết cháy hay chết rồi mới bị đốt xác, việc này là mấu chốt để xác định tính chất vụ việc." Sư phụ hẳn là muốn khảo sát kiến thức của tôi, hỏi "Chết cháy và bị đốt cháy sau khi chết có gì khác nhau?"

"Xem độ bỏng trên da, xem phản ứng sinh hoạt, xem có nốt hồng, mụn nước hay không." Tôi nghĩ chuyện nhỏ này sao có thể làm khó được tôi. Tuy rằng tôi phản ứng rất nhanh, nhưng bị mắng cũng nhanh không kém.

"Dốt! Than hóa rồi còn nhìn phản ứng sinh hoạt gì nữa?" Sư phụ nói.

"Em còn chưa nói xong mà." Tôi không phục lắm, "Quan trọng là phải xem đường hô hấp của người chết có dấu vết khói bụi không."

"Ừm, còn phải xem đường hô hấp và phổi có bị tổn thương do nhiệt hay không. Đồng thời phải xem có triệu chứng trúng độc oxit carbon không." Sư phụ nhấn mạnh, "Rất nhiều người chưa kịp hít phải khói bụi trong đám cháy đã bị trúng độc oxit carbon dẫn đến tử vong, như vậy cũng có thể bị nhầm lẫn thành bị đốt xác sau khi chết."

Tôi gật đầu, đưa tay chạm vào một thi thể. "Rắc". Lại một mảnh da bị đốt cháy rơi xuống, để lộ ra mô thịt đỏ tươi, dưới ánh đèn sáng rực trông vô cùng kinh khủng.

"Xem thi thể mấy đứa trẻ trước đi, dễ trước khó sau." Sư phụ nói, đi đến bên thi thể hai đứa trẻ, bắt đầu khám nghiệm sơ bộ ngoài da. Tuy rằng da bề ngoài đã bị than hóa toàn bộ, nhưng bước khám nghiệm này vẫn không thể thiếu. Khám nghiệm bên ngoài cũng như giải phẫu thi thể đều không phát hiện ra dấu vết bị ngoại thương. Tôi dùng kẹp kẹp lấy khí quản, đồng thời dùng dao giải phẫu đã được làm sạch nhẹ nhàng cắt khí quản trẻ con non nớt ra. Vách khí quản rất mỏng, không ngờ bên trong toàn là khói bụi, tổn thương do nhiệt cũng rất rõ ràng.

"Rõ là bị thiêu cháy khi còn sống!" Tôi kinh ngạc nói.

Sư phụ đứng bên cạnh cau mày không nói lời nào. Bỗng thầy đột nhiên nghĩ tới điều gì đó, dùng dao phẫu thuật nhanh nhẹn cắt da đầu của đứa trẻ ra. Da đầu của đứa bé đã bị cháy đến không còn nguyên vẹn, lại còn rất giòn. Hiện tại đã không thể phân biệt dưới da đầu có bị sưng hay không, nhưng sau khi cắt da đầu ra chúng tôi phát hiện xương sọ của đứa trẻ này đã vỡ vụn, vài mảnh xương sọ dính chặt lên da đầu, chúng rơi ra khi sư phụ bóc tách da đầu, lộ ra tổ chức não trắng đỏ lẫn lộn.

"Đầu có ngoại thương!" Bác sĩ Thiệu nói.

"Không phải đâu." Tuy rằng tôi chưa từng gặp dạng thi thể bị cháy như thế này, nhưng kiến thức căn bản vẫn không thể sai, "Trong sách nói, thi thể bị đốt cháy thường xuất hiện hiện tượng xương sọ vỡ nát, là do sau khi bị đốt xương sọ bị giòn hóa, não phình lên mà tạo thành."

"Đúng vậy, đối với loại thi thể bị thiêu cháy tới mức này, nhất là thi thể trẻ nhỏ, thường sẽ có hiện tượng xương sọ nứt vỡ, thậm chí là vỡ nát." Sư phụ cũng đồng ý với quan điểm của tôi, "Nhưng từ màu sắc của tổ chức não thì hẳn là có ngoại thương."

Sư phụ đối chiếu phần não hơi đỏ, cẩn thận quan sát dấu vết nứt vỡ của xương sọ. Đột nhiên mắt thầy sáng lên: "Tôi đã nói rồi, đây căn bản không phải là hỏa hoạn ngoài ý muốn."

Nghe sư phụ nói vậy, chúng tôi đều chụm đầu vào nhìn.

Sư phụ dùng kẹp chỉ vào một trong rất nhiều đường gãy trong mảng xương sọ vỡ nát, nói: "Các anh xem, đường gãy xương này hướng vào bên trong. Chúng ta đều biết, với các thi thể bị thiêu cháy, hiện tượng xương sọ vỡ hình thành do giòn hóa, phình trướng, đường gãy xương đều hướng ra ngoài, tuyệt đối không thể lõm vào trong, đúng không?"

Chúng tôi đều gật đầu. Sư phụ nói tiếp: "Đường gãy này hướng vào trong, trong tổ chức não lại xuất huyết, không có tổn thương đối xứng do va đập, như vậy chỉ có thể là vết thương do tác động lực trực tiếp từ bên ngoài tạo ra."

"Ý ngài là đứa trẻ này bị đánh ngất, sau đó mới bị thiêu sống?" Bác sĩ Thiệu hỏi.

"Đúng vậy, nếu tôi đoán không sai, đứa bé kia cũng có tình trạng giống như vậy." Sư phụ bảo.

Chúng tôi nhanh nhẹn tiến hành giải phẫu thi thể đứa trẻ còn lại, đúng như sư phụ suy đoán, trong khí quản toàn là khói bụi, toàn thân không có ngoại thương, nhưng trên xương sọ cũng có những đường gãy xương lõm vào trong.

"Xem ra hung thủ rất tự tin." Sư phụ nói, "Trước tiên hắn khiến lũ trẻ mất khả năng chống cự, sau đó thiêu chết chúng, cũng không hề lo lũ trẻ có thể sống lại. Vậy nên tôi cho rằng chất dẫn cháy là xăng dầu gì đó, hắn trực tiếp tưới xăng lên trên người bọn trẻ."

"Chẳng phải lúc trước ngài nói nơi châm lửa là ở giữa phòng sao?" Bác sĩ Thiệu hỏi.

"Đúng vậy, chỗ đó hẳn là đặt thùng chứa chất dẫn cháy, cũng là điểm châm lửa, lửa sẽ lan đến thi thể trong nháy mắt." Sư phụ nói, "Chúng ta cần quay lại hiện trường xem xét đống tro tàn đó."

Sư phụ ngẩng đầu nhìn tôi, tôi đang ngẩn người trầm tư. Sư phụ lập tức hiểu được suy nghĩ của tôi: "Sao hả, còn chưa tin đây là án giết người? Vậy chúng ta khám nghiệm thi thể của người lớn, có lẽ sẽ có thu hoạch bất ngờ."

Với thi thể lão Hạ, chúng tôi lại càng khám nghiệm cẩn thận. Sau khi mở lồng ngực ông ấy ra, tôi lờ mờ phát hiện phổi của ông ấy không giống phổi hai đứa trẻ, không hề có hiện tượng nội thương do bỏng. Tôi cầm dao giải phẫu chuẩn bị cắt khí quản ra. Sư phụ ngăn tôi lại, nói: "Thận trọng một chút, móc lưỡi đi."

Móc lưỡi là tên gọi tắt chúng tôi thường dùng, chính là từ cổ cắt lấy phần lưỡi trong khoang miệng ra, sau đó có thể tách toàn bộ nội tạng ra khỏi thân thể. Biện pháp này thường vận dụng khi tiến hành khám nghiệm bệnh lý học pháp y1], cần cắt lấy nội tạng, mang chẩn đoán dưới kính hiển vi.

Tôi hiểu ý sư phụ, thấy ấy muốn quan sát cẩn thận tình trạng trong cổ họng lão Hạ. Tôi cầm dao phẫu thuật cắt dọc theo cằm của thi thể, sau đó từ cổ họng đưa vài ngón tay vào khoang miệng, móc lưỡi ra, rồi cắt đứt phần vách mềm sau họng, thuận lợi lấy lưỡi ra ngoài.

Sư phụ mỉm cười gật đầu, tỏ vẻ hài lòng với thủ pháp thuần thục của tôi.

Tôi tách đường hô hấp trên và phổi ra khỏi lồng ngực, kinh ngạc phát hiện ra trong cổ họng lão Hạ không hề có chút khói bụi hay vết bỏng.

"Nhìn đi, đây là chết rồi bị đốt xác. Trong khí quản có thể sẽ rất sạch sẽ." Sư phụ nói.

Dù sao sư phụ cũng đã có kinh nghiệm phong phú. Khi mở khí quản ra, quả nhiên toàn bộ vách khí quản đều sạch sẽ, không có gì khác thường.

Tôi nâng tay lên, dùng đầu vai quệt mồ hôi trên trán, thở phào nhẹ nhõm, nói: "Sư phụ nói chuẩn quá, đúng là án giết người."

Tuy da đầu lão Hạ cũng bị thiêu trụi, nhưng xương sọ không bị đốt cháy nghiêm trọng, cũng không bị vỡ nát. Sau khi cắt da đầu ra, chúng tôi phát hiện trên xương sau đầu phía trái và đỉnh chóp bên trái có vài nơi lõm vào, bên trong càng tổn thương nặng hơn.

"Giống với kiểu tổn thương của bọn trẻ." Sư phụ nói, "Là dùng vật tày đập vào đầu."

Để phát hiện thêm nhiều dấu vết, tôi dùng gạc cẩn thận lau xương sọ lão Hạ, muốn lau sạch màng xương, mong dễ dàng quan sát hình thái gãy của những vết lõm đó, biết đâu có thể suy đoán ra công cụ gây thương tích.

Sư phụ cũng đã tính toán trước, thầy trầm tư trong chốc lát, nói với bác sĩ pháp y đứng bên cạnh: "Tổn thương não dẫn đến tử vong cần một thời gian nhất định. Nhìn tình hình, hẳn là đầu tiên hung thủ đột nhiên tấn công lão Hạ, khiến ông ấy ngã xuống hôn mê, sau đó kéo ông ấy vào hiện trường vụ cháy, đặt lên trên giường. Trong quá trình này, lão Hạ vì tổn thương não nghiêm trọng mà tử vong, nhưng lũ trẻ chỉ ngất đi thôi. Bởi vậy khi lửa bốc lên, lão Hạ đã chết cùng lũ trẻ còn sống như hôn mê đều bị thiêu cháy."

Mọi người gật đầu. Như vậy có thể giái thích tại sao trong cùng hiện trường vụ cháy lại vừa có chết cháy, vừa có chết rồi mới đốt xác.

Khi sư phụ tiến hành phân tích vụ án, dường như tôi có phát hiện mới. Tôi nhận lấy đèn cầm tay từ nhân viên thu thập chứng cứ, dùng đèn pin chiếu thẳng vào vết gãy lõm trên xương sọ lão Hạ. Lúc này màng xương đã được tôi lau sạch sẽ, lộ ra mảnh xương trắng ởn và đường gãy lõm rõ ràng.

Đột nhiên mắt tôi sáng lên, nói: "Sư phụ, thầy xem đây là cái gì!"

(1) Bệnh lý học pháp y là một nhánh của bệnh lý học, chủ yếu vận dụng trong chẩn đoán các vụ tử vong bất ngờ, phân tích sự liên quan giữa vết thương và bệnh tật, Giải phẫu pháp y cắt lấy mô nội tạng, qua các thao tác cố định, tách nước, cắt nhỏ, nhuộm màu, chiết xuất, quan sát tế bào và tổ chức kết cấu dưới kính hiển vi, từ đó chẩn đoán tình trạng bệnh tật của người chết.

Chương 10.3

Sư phụ quay qua nhìn. Đèn pin sáng rực chiếu rõ màng xương sọ, đồng thời làm một vết nhỏ màu lam hiện lên ngay giữa đường gãy lõm trên xương sọ.

"Đây là cái gì ạ?" Tôi dùng kẹp chỉ vào vào dấu vết màu xanh lam kia, "Tại sao lại xuất hiện vết xanh này? Quần áo đều bị cháy hết, không thể là phần tàn cặn của quần áo được."

"Có phải bị dính vào khi anh bóc màng xương ra không? " Sư phụ đỡ lấy xương đỉnh đầu, cẩn thận nhìn kỹ, rồi lại xem người chết có mặc quần áo màu xanh lam hay không.

"Không phải." Tôi lấy kẹp chỉ vào những chỗ gãy lõm khác, "Tổng cộng có bảy vết gãy lõm vào trong, năm trong số đó đều có dấu vết màu xanh lam."

Sư phụ lại nhìn kỹ những vết gãy này, nhíu mày.

"Hơn nữa, vừa rồi em đã thử qua." Tôi dùng đầu kẹp nhẹ nhàng cọ lên điểm màu xanh trên vết gãy xương, "Cọ nhẹ không bị bong ra. Hẳn là đã dính chặt vào xương."

"Ừm." Sư phụ gật đầu, nói, "Chỗ này xuất hiện dấu vết màu xanh quả thực là tương đối kì lạ, anh có ý kiến gì không?"

"Chất màu xanh lam, mỏng, bám chắc, em cho rằng đây là vết sơn." Tôi nhìn kỹ thêm lần nữa, tiếp tục nói, "Có thể dính chặt lên chất xương, hẳn là do bị vật tày ép vào xương sọ. Kết hợp với việc những người này đều bị vật tày đập vào đầu dẫn đến tử vong, cho nên dựa vào chất màu xanh lam này, em nghĩ khả năng lớn nhất là hung khí được sơn màu xanh lam, khi hung thủ đập lên xương sọ sẽ khiến lớp sơn ép chặt lên xương sọ."

Sư phụ trầm ngâm trong chốc lát, gật đầu: "Phát hiện này của anh có lẽ là thu hoạch lớn nhất của chúng ta trong đêm nay." Nhìn ánh mắt tràn ngập vui sướng của sư phụ, tôi biết đây là những lời khen tặng lớn nhất dành cho những việc tôi làm được trong đêm.

Hơn một tiếng sau, sau khi hoàn thiện việc khâu thi thể lại, chúng tôi mới cởi áo giải phẫu ra, rửa tay, kết thúc một đêm làm việc. Tôi giơ tay nhìn đồng hồ, đã là 5 giờ sáng, đứng ngoài trời trong gió lạnh khiến chân chúng tôi như đông cứng. Tôi xoa tay, liên tục giậm chân, hi vọng có thể khiến máu tuần hoàn khắp tay chân.

Nhân viên thu thập chứng cứ đứng bên cạnh nhanh nhẹn cất máy quay phim, hiển nhiên có chút bất mãn với những việc làm cẩn thận, tốn thời gian của chúng chúng tôi. Anh ta nhún vai, giậm chân, ngáp dài nói: "Cán bộ tỉnh chuyên nghiệp thật đấy, thi thể đã cháy đến thế này mà các vị còn nghiêm túc khâu lại, để làm gì chứ? Dù sao cũng không phải mở lễ truy điệu."

Những lời này khiến trong lòng tôi vô cùng phản cảm, tôi nhíu mày nói: "Người chết cũng cần tôn trọng." Đây là tôi mượn những lời sư phụ vẫn nói trước đây.

Sư phụ mỉm cười gật đâu, coi như hài lòng với những lời này cũng như với một đêm thể hiện xuất sắc của tôi.

"Vậy bây giờ phải làm gì?" Nhân viên thu thập chứng cứ gãi đầu hỏi. Rõ ràng anh ta đã bị một câu nói của tôi làm cho xấu hổ.

"Còn làm gì nữa? Đi ngủ đi." Sư phụ ngáp một cái, cười nói: "Bác sĩ pháp y không phải là thần, cũng cần ngủ. Các anh về nghỉ ngơi đi, 9 giờ đến họp ban chuyên án."

Bác sĩ pháp y không phải là thần, nhưng lại làm những việc chỉ có thần mới làm, trong tôi hơi chán nản nghĩ. Ngủ có ba, bốn tiếng, thà rằng là không ngủ. Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng tôi biết tính của sư phụ tôi, đối với các vụ án thầy luôn cẩn thận tỉ mỉ. Họp ban chuyên án với sự có mặt của bác sĩ pháp y là rất quan trọng, chỉ có thông qua việc trao đổi cùng ban chuyên án mới có thể giúp bác sĩ pháp y lý giải các tình huống mà cảnh sát hình sự điều tra được, hỗ trợ điều tra viên hiểu được suy đoán của bên pháp y, khi có đủ thông tin mới có thể phá án nhanh chóng và chuẩn xác. Vậy nên tôi cũng không nói gì, ngồi yên lặng trên xe. Vừa lên xe đã thấy không khí mệt mỏi ngập tràn, sư phụ ngồi phía trước tôi bắt đầu ngáy khẽ. Tôi về nhà khách tắm rửa qua loa rồi nặng nề chìm vào giấc ngủ.

Giấc ngủ ngắn ngủi sau công việc mệt nhọc chỉ khiến người ta khó chịu thêm, nhất là vào lúc chuông cửa vang lên đánh thức tôi dậy, tôi cảm thấy như có trăm nghìn bàn tay nhấn tôi xuống giường. Tôi không ngủ say, bởi trong mơ chỉ toàn hình ảnh vật tày màu lam kia loang loáng bay qua. Đáng tiếc rằng giấc mơ chỉ là giấc mơ, tỉnh rồi ngẫm lại, tôi vẫn không biết hung khí gây án trông ra sao, vừa có thể dùng lực vung lên, vừa có thể ra một đòn lấy mạng, mà rất ít thứ dạng như thế được sơn màu xanh lam.

"Đi thôi, đi họp ban chuyên án." Sư phụ thấy tôi rửa mặt xong, thúc giục gọi.

Trong phòng họp khói thuốc lượn lờ, đội cảnh sát hình sự hẳn là trong bốn giờ qua cũng không được ngủ, cả đám người mắt thâm quầng, sưng húp. Đội hình sự chính là như thế, biết hút thuốc là không tốt, nhưng phải thường xuyên thức đêm, chỉ có thể dùng thuốc lá chống đỡ tinh thần. Bọn họ đều giống nhau, đốt hết tuổi thanh xuân cùng sức khỏe để truy bắt tội phạm, bảo vệ nhân dân, vậy mà nhiều khi vẫn bị chỉ trích không ngừng.

Tuy rằng chưa thể khẳng định đây là một vụ án mạng, nhưng dù sao cũng mất ba mạng người, suốt cả đêm qua, các điều tra viên đều điều tra theo hướng án mạng. Vì nhà lão Hạ chỉ có mấy ông cháu, mọi người trong nhà đều chết hết, nên điều tra cả đêm cũng không phát hiện ra manh mối có giá trị nào. Người chứng kiến cũng chỉ biết lửa bốc lên vào lúc 5 giờ chiều. Điều tra mâu thuẫn trong các mối quan hệ của lão Hạ cũng gặp nhiều khó khăn. Dân làng đều nói lão Hạ là người trung hậu, con cái đi làm thuê ở xa, không thể tra được rõ ràng những mối quan hệ có vấn đề. Bởi vậy công tác điều tra tạm rơi vào bế tắc.

Khi sư phụ thông báo: qua khám nghiệm tử thi đã xác định đây là một vụ án mạng, các điều tra viên không quá kinh ngạc, hiển nhiên là họ đã chuẩn bị sẵn tâm lý.

"Ba người đều bị vật tày đập vào đầu. Lão Hạ là bị đánh vào đầu dẫn đến tử vong, hai đứa trẻ bị đánh ngất sau đó bị thiêu chết. Chất dẫn cháy là xăng." Sư phụ nói, chắc chắn sáng sớm nay thầy đã nhận được điện thoại từ phòng thí nghiệm lý hóa. Qua kiểm nghiệm xác định hung thủ dùng xăng làm chất dẫn cháy, "Thế nên, hung thủ hẳn phải là người có thể dễ dàng trữ xăng."

Những phân tích này không gợi được hứng thú cho tổ chuyên án. Cục trưởng cục công an huyện nói: "Có đường hướng nào khác không?"

Sư phụ lắc đầu. Tôi rất kinh ngạc, tại sao sư phụ không công bố phát hiện quan trọng của chúng tôi?

Trong ánh mắt Cục trưởng tràn đầy thất vọng, xem ra ông ta ôm rất nhiều kỳ vọng với chuyên gia hình sự của tỉnh: "Vậy... bước tiếp theo chúng tôi nên làm gì bây giờ?" Ông ta vẫn hi vọng sư phụ có thể cung cấp cho tổ chuyên án một lối đi đúng đắn.

"Bước tiếp theo, hãy cho lính của anh nghỉ ngơi đi." Sư phụ cười nói, "Cho mọi người nghỉ đi đã, nhìn cả tổ mệt nhọc thế kia, thân thể vốn là của mình, phải lấy người làm gốc chứ."

Người cuồng làm việc như sư phụ còn có thể nói ra những lời như thế, đến cả tôi cũng không thể tin nổi. Sư phụ nói tiếp: "Nghỉ ngơi một lát, buổi chiều lại họp tiếp, tôi vẫn chưa nghĩ kỹ, phải đến hiện trường xem xét đã."

Còn muốn đến xem hiện trường sao? Tôi nhấc chén uống một ngụm trà, lúc này tôi mệt lắm rồi, chỉ nhớ thương cái gối của tôi thôi.

Họp ban chuyên án kết thúc, các điều tra viên đều về đi ngủ. Tôi theo sư phụ ra hiện trường mà lòng không hề tình nguyện. Hiện trường vẫn bị dải phân cách bao quanh, để phòng ngừa có chuyện, Cục công an huyện còn cho cảnh sát khu vực đứng trông coi bên ngoài. Nhìn anh cảnh sát lạnh run như bị đóng băng, chúng tôi đều cảm thấy khó chịu, nghĩ thầm nhất định phải sớm phá án, cho người dân một lời giải thích, cũng giúp cảnh sát bớt vất vả hơn.

"Anh ở bên ngoài xem xét, tôi vào kiểm tra nơi châm lửa." Sư phụ dụi đôi mắt đỏ hoe, quay lại nói với nhân viên thu thập chứng cứ, "Chuẩn bị cho tôi một cái sàng."

Tôi hiểu ngay ý sư phụ, thấy muốn tôi đi tìm một vật tày có màu xanh lam, còn thầy đi lọc thử tro tàn ở nơi châm lửa, xem có tiến triển thêm phát hiện nào không.

Dựa theo sự sắp xếp của sư phụ, một mình tôi ra ngoài hiện trường tìm kiếm, trong đầu chỉ toàn là vật tày màu xanh lam. Đi một lúc, đột nhiên tôi bị một vật nằm sâu trong bụi cỏ phản chiếu ánh sáng làm cho loa mắt, nhìn thoáng qua hình như có chút ánh xanh. Tim tôi như vọt lên cổ, lập tức điên cuồng chạy về phía có ánh sáng xanh đó, vừa chạy vừa vội vã đeo găng tay.

Khi tôi hồng hộc chạy đến nơi có vật đó, đội nhiên có cảm giác vỡ ra nhiều điều: Thì ra đó làm một cái bơm cầm tay màu xanh lam.

Bụi cỏ này cách hiện trường khoảng 2 km, bên cạnh một con đường làng, đường tương đối hẹp, xe ô tô không thể tiến vào được, nhưng xe đạp hoặc xe máy thì không có vấn đề gì. Cái bơm nhìn qua có vẻ khá mới, chưa đến mức bị hỏng. Ở nơi đặc thù như vậy lại tìm được một cái bơm như thế, tôi thầm cao hứng, vật này rất có khả năng là hung khí.

Tôi cẩn thận cầm cái bơm lên xem xét, cái bơm này hơi to hơn loại thông thường một chút, tức là chuyên dùng để bơm xe máy, bên ngoài bơm đã bị sương sớm làm cho ướt nhẹp, cái đế sơn màu xanh lam đã có mấy chỗ bị tróc sơn, lộ ra màu nền xám đen. Xung quanh đế có mấy chỗ bám màu đỏ thâm, tôi biết đó chắc chắn là vết máu.

Tuy rằng ngày từ đầu tôi đã chuẩn bị tâm lý tìm được hung khí, nhưng không ngờ nó lại là một cái bơm lớn như vậy. Túi đựng vật chứng tôi mang theo không đủ để chứa cái bơm, tôi đành dùng hai túi đựng vật chứng nhỏ bọc lại từ hai đầu cái bơm đó, nhằm bảo vệ vật chứng ban đầu. Vì một đầu là điểm va chạm lực, có thể xác định đây có phải hung khí hay không, còn một đầu là chỗ tay cầm, có thể sẽ tìm được chứng cứ nhận định hung thủ. Tôi liền mang cái bơm chạy về hiện trường, trong lòng ngập tràn vui sướng: Tôi thật sự tìm thấy hung khí!

Vừa chạy đến gần hiện trường, tôi đã lớn tiếng gọi sư phụ. Sư phụ nhanh chóng bỏ khăn trùm đầu và khẩu trang ra, mặt tươi cười: "Để tôi đoán, anh tìm ra hung khí rồi nhỉ!"

Tôi gật đầu lia lịa, mặt đầy hưng phấn.

Sư phụ thần thần bí bí giơ bàn tay phải có đeo găng tay lên, nói: "Thầy trò một lòng. Xem này, tôi cũng có phát hiện mới."

Sư phụ đang nắm trong tay vài mảnh nhựa, thoạt nhìn thấy đã cháy không còn hình dạng hoàn chỉnh.

"Đây là cái gì ạ?" Tôi đến gần nhìn những mảnh nhựa này không chớp mắt, "Phát hiện của sư phụ chẳng bằng của em, ha ha."

Sư phụ nhìn vẻ dương dương tự đắc của tôi, nói: "Đừng quá tự phụ, anh nhìn kỹ những mảnh nhựa này xem, tôi thu gom được lúc lọc tro tàn ở chỗ châm lửa đấy." Hóa ra sư phụ thật sự đã dành gần hết một buổi sáng, chậm rãi tìm trong hiện trường trung tâm, việc tìm thấy những mảnh nhựa này khiến thầy rất vui sướng.

Đó là những mảnh nhựa cứng màu đỏ, tôi lật qua lật lại một lúc lâu cũng chẳng phát hiện ra manh mối có ích nào, đành ngẩng đầu nhìn sư phụ. Sư phụ mỉm cười với tôi: "Sao rồi? Không thấy điều gì ẩn bên trong sao?" Tôi lại cúi đầu nhìn, hoang mang lắc đầu.

"Ha ha, trước đây chưa chơi ghép hình bao giờ à?" Sư phụ nói.

Chương 10.4

Tôi vẫn cảm thấy khó hiểu, nghĩ thầm những mảnh nhỏ này ghép lại có thể giải thích điều gì chứ? Tuy rằng trong lòng nghĩ vậy, nhưng ngoài miệng vẫn không chịu thua: "Em là cao thủ ghép hình đấy."

Trong nháy mắt, tôi bày những mảnh nhựa này gom lại, xếp vương vãi trên mặt đất. Lúc này sư phụ đưa cho tôi một cái kính lúp, tôi nhận lấy rồi cẩn thận quan sát những mảnh nhựa dưới đất, thấy lờ mờ hiện ra mấy chữ, nhưng đã bị thiêu hủy phần lớn, rất khó nhìn rõ. Tôi ngẩng đầu nhìn sư phụ, nói: "Em chẳng thấy có manh mối gì cả."

Sư phụ ngồi xuống, dùng kính lúp soi vào mấy mảnh nhựa nhỏ đã được ghép lại, nói: "Chữ khác khó nhìn ra, nhưng hai chữ này chắc là nhìn rõ chứ?"

Tôi cúi đầu nhìn vào giữa chỗ sư phụ đang soi, quả nhiên thấy hai chữ nhỏ hình như là: Chậu nhựa.

"Ừm, là chậu thau gì đó thôi." Tôi gãi đầu nói, "Em đã nghĩ đến rồi, nếu đây là nơi châm lửa, vậy có khả năng cái chậu này đựng xăng, có phải phát hiện gì lớn đâu ạ?"

"Tôi cũng biết đó là tro tàn của vật chứa xăng." Sư phụ cười bí hiểm, "Nhưng anh đã thấy ai đi đốt xác mà đựng xăng trong chậu chưa?"

Thì ra một vật chứa xăng bất thường mới là phát hiện của sư phụ. Tôi trầm tư suy nghĩ: Điều này có thể giải thích cái gì đây?

Sư phụ biết tôi chưa tìm ra đầu mối, chỉ cái bơm trên tay tôi, nhắc nhở: "Anh có suy nghĩ gì về hung khí mà anh vừa phát hiện được?"

Lời của sư phụ kéo tôi ra khỏi dòng suy nghĩ, tôi nói: "À, em nghĩ thế này. Loại bơm hơi này khác với bơm thông thường, có lẽ đây là bơm chuyên dùng cho xe máy. Hơn nữa nơi em phát hiện ra là một con đường nhỏ, gần đường mòn dẫn lên núi, đi xe đạp hơi khó, chỉ có thể đi bộ hoặc đi xe máy."

"Đúng, rất tốt. Vậy chẳng lẽ hung thủ vừa đi bộ vừa bưng chậu xăng đến đốt xác?" Sư phụ dùng giọng trêu chọc nói.

"Hay là lấy xăng trong nhà nạn nhân?" Tôi hỏi.

"Khả năng này tôi cũng đã tính qua. Tôi xem kỹ rồi, trong nhà nạn nhân không có đồ đạc gì cần dùng đến xăng, nên chẳng cần trữ xăng làm gì cả."

"Em hiểu rồi, ý thầy là hung thủ tự đi xe máy đến hiện trường."

"Đúng, đó là điều thứ nhất, thứ hai đây hẳn là một vụ giết người do mất không chế." Sư phụ nói, "Ngẫm lại đi, nếu như có âm mưu giết người từ trước thì có thể đựng xăng vào can, dễ mang theo lại dễ làm sạch. Nhưng trong vụ này hung thủ lại đựng xăng bằng chậu, như vậy khả năng lớn nhất là sau khi giết người, hắn vào kho lấy cái chậu ra, hứng xăng từ bình xăng xe máy rồi đem vào đốt xác."

Tôi gật đầu, cảm thấy phân tích của sư phụ rất có lý. Thầy nói tiếp: "Đầu lũ trẻ bị tổn thương, nhưng chỉ gây hôn mê chứ không dẫn đến tử vong, càng khẳng định chuyện hung thủ vội vàng giết người đốt xác."

Tôi quay đầu nghĩ ngợi, đột nhiên khó hiểu rõ ý sư phụ: "Mất công điều tra một hồi, cuối cùng cũng chỉ biết hung thủ giết người do mất khống chế sao?"

Sư phụ cười nói: "Đúng vậy. Nhưng tôi cảm thấy phát hiện này rất quan trọng. Giết người do mất khống chế ngay trong nhà nạn nhân, chứng tỏ điều gì?"

Tôi đột nhiên hiểu ra: "Là người quen gây án!"

Sư phụ gật đầu: "Đúng rồi, đây chính là điều tôi muốn nói. Mất khống chế dẫn đến giết người không nhất định là người quen gây án, nhưng giết người do mất khống chế ngay trong nhà nạn nhân thì hung thủ thường là người quen."

"Nhưng chỉ căn cứ vào một cái chậu mà phán đoán là người quen gây án thì có vẻ không đủ chứng cứ xác thực." Tuy rằng trong công tác pháp y nhiều khi cần suy đoán, đôi khi chúng tôi tự gọi đùa công việc của mình là "Cho rằng đoán ra như vậy", nhưng mỗi suy đoán của chúng tôi đều cần căn cứ nhất định, nếu đoán mò không cần căn cứ thì đương nhiên tỉ lệ thất bại sẽ rất cao. Bởi thế suy đoán này của sư phụ khiến tôi không khỏi băn khoăn.

"Dĩ nhiên không chỉ dựa vào manh mối này." Sư phụ vừa nói, vừa dẫn tôi tiến vào hiện trường, "Tôi còn hai căn cứ khác."

Đi tới hiện trường phòng bếp, sư phụ chỉ lên bệ bếp: "Ở đó có một nồi mì, trên bàn có bốn cái bát, đây là điểm bất thường. Trong nhà có ba người, theo lý mà nói chỉ cần ba cái bát là đủ dùng rồi, thế nên chiếc bát còn lại chắc chắn là dành để mời người quen."

"Nếu chỉ là người mới quen thì sao? Quan hệ không quen thân lắm, hoặc khách vãng lai chẳng hạn?" Tôi hỏi.

"Qua điều tra tình huống, lão Hạ là người rất chú ý khoản mời khách, nếu không quen thân thì bữa tối sẽ không đơn giản như vậy. Vậy nên tôi cho rằng hung thủ là người thường xuyên đến nhà lão Hạ ăn cơm." Sư phụ nói.

Tôi gật đầu tỏ vẻ tán thành, hỏi: "Còn căn cứ thứ hai đâu ạ?"

Sư phụ nói tiếp: "Mặt khác, anh còn nhớ không, trên cả ba thi thể đều không có dấu hiệu chống cự. Nhất là tổn thương trên người bọn trẻ, là bị người ta đập vào phía trước, nếu không phải người quen thì đứa trẻ lớn như vậy sẽ biết che chắn, chống cự. Cũng bởi là người quen nên lũ trẻ cũng không đề phòng khi thấy hung thủ cầm bơm vào phòng ngủ".

Đến chiều họp ban chuyên án, trong phòng họp nhỏ chật ních người, đội hình sự đều đã tỉnh táo tinh thần, trong ánh mắt tràn ngập chờ mong. Lúc công tác điều tra rơi vào bế tắc, tổ chuyên án rất trông chờ kết quả của đội kỹ thuật hình sự, đặc biệt là những thu hoạch của các bác sĩ pháp y.

"Qua một buổi sáng khám nghiệm hiện trường, kết hợp với công tác khám nghiệm tử thi đêm qua, chúng tôi có phát hiện mới." Sư phụ đi thẳng vào vấn đề. Vừa dứt lời, toàn bộ tổ chuyên án đều hào hứng.

"Trước mắt, chúng tôi có căn cứ suy đoán đây là một vụ mất khống chế dẫn đến giết người, rất có thể do người quen gây án." Sư phụ nói tiếp, "Hung thủ hẳn là thường xuyên ở lại nhà nạn nhân, hơn nữa còn thường điều khiển xe máy." Giữa ánh mắt sáng bừng của các điều tra viên, sư phụ giới thiệu ngắn gọn căn cứ suy đoán của chúng tôi, mọi người trong phòng nghe xong đều gật đầu.

"Phạm vi điều tra rất nhỏ, chúng tôi tự tin sẽ bắt được hung thủ." Cục trưởng nó, "Thế nhưng làm sao để khoanh vùng kẻ bị tình nghi?"

"Lần này tiểu Tần thể hiện rất xuất sắc." Sư phụ lấy ở dưới bàn ra hung khí tôi tìm được, "Hiện tại chúng tôi có chứng cứ chứng minh cái bơm này chính là hung khí gây án, ngoài ra chúng tôi cũng tìm thấy dấu tay khả nghi trên đó."

Phòng họp bắt đầu xôn xao, mọi người phấn khích rì rầm bàn luận với nhau.

"Vậy ngài nghĩ động cơ gây án là gì?" Cục trưởng vẫn nhất định không chịu dừng lại, hi vọng có thể thu hẹp phạm vi điều tra hết sức có thể.

"Nếu là giết người do mất không chế thì có rất nhiều động cơ gây án." Sư phụ nhíu mày, "Nhưng bằng cảm giác, tôi nghĩ đằng sau vụ án là mâu thuẫn tiền bạc."

"Hả? Có căn cứ không?" Cục trưởng nhất thời trở nên hứng thú.

"Có." Sư phụ nói, "Khi lọc tro tàn tại hiện trường, tôi phát hiện ngoài những mảnh chậu nhựa còn có rất nhiều mảnh quần áo khác nhau."

Sư phụ chiếu lên hình ảnh tại hiện trường, nói: "Mọi người xem đây, tại hiện trường phòng ngủ tuy rằng đã sụp đổ phần lớn, nhưng tủ quần áo không hề bị sập. Mặc dù tủ quần áo cũng cháy gần hết, quần áo bên trong cháy sạch, nhưng mảnh quần áo không thể phân tán khắp hiện trường như thế được. Vậy nên, chỉ có hai khả năng, một là hung thủ dùng quần áo làm vật dẫn cháy, hai là hung thủ lục tung hiện trường để tìm tiền bạc.

Sư phụ nhấp một ngụm trà, nói tiếp: "Nếu hung thủ đã tốn công lấy xăng từ bình xăng xe máy, thì có lẽ không cần rải quần áo ra làm vật dẫn cháy, trên hiện trường có nhiều đồ gỗ, chăn đệm, việc gì phải tốn thời gian đi lấy quần áo làm mồi lửa. Nếu là lục tìm tiền bạc thì lại có khả năng đem quần áo ném đầy hiện trường".

Cục trưởng gật đầu, hỏi: "Nếu ngài đã nói là mất khống chế giết người, vậy tại sao lại là giết người cướp của?"

Sư phụ nói: "Tôi gọi đó là giết người do mất khống chế, là muốn nói tới việc bất ngờ nảy ra ý định giết người. Có thể trong khi trò chuyện, hung thủ biết lão Hạ có tiền nên đột nhiên muốn giết người."

"Tôi biết nên làm thế nào rồi, giao cho tôi đi." Cục trưởng đầy tự tin, quay lại nói với các điều tra viên, "Không cần nói nhiều, hành động đi!"

Cục trưởng, sư phụ và tôi cùng ở lại ban chỉ huy chuyên án. Sư phụ và cục trưởng thoải mái nói chuyện gia đình, chờ đợi tin tức từ điều tra viên. Tôi thì mệt quá rồi, nằm tựa vào ghế, thiếp đi tự bao giờ.

Không biết tôi ngủ bao lâu, đột nhiên nghe thấy tiếng chuông điện thoại vang lên dồn dập. Tôi xoa cái cổ cứng ngắc, thấy sư phụ cũng đang ngủ gục trên bàn. Cục trưởng cầm lấy điện thoại hỏi: "Thế nào?"

Không rõ phía đầu dây bên kia nói gì, chỉ thấy khuôn mặt Cục trường ngập tràn vui sướng. Lát sau Cục trưởng cúp máy, nói: "Có suy đoán của các vị, chúng tôi làm việc nhẹ nhàng hẳn."

Sư phụ hỏi: "Có manh mối sao?"

Cục trưởng nói: "Không chỉ là có manh mối, phá án xong rồi." Chúng tôi vô cùng hào hứng, Cục trưởng mới nói tiếp, "Qua điều tra, quả thực trước khi vụ án phát sinh hai ngày, lão Hạ đã đến ngân hàng rút ba vạn tệ tiền tiết kiệm. Ông ấy muốn giao số tiền này cho con trai. Anh con trai có chút mối làm ăn, cần mấy vạn đồng làm vốn nên hỏi vay lão Hạ, hẹn đến Tết sẽ về lấy. Hai hôm trước lão Hạ vào thị trấn để mua đồ, tiện thể rút tiền ra, giấu trong tủ quần áo."

Sư phụ hỏi: "Đã bắt được hung thủ rồi à?"

Cục trưởng nói: "Đúng vậy. Sau khi nghe phân tích của ngài, mục tiêu liền được thu hẹp lại, hung thủ là cháu ruột của lão Hạ. Người này suốt ngày chơi bời lêu lổng, không chịu làm việc đàng hoàng, thường xuyên đến nhà lão Hạ ăn chực. Các vị nói có thể hung thủ hay tới nhà lão Hạ ăn cơm, lại còn đi xe máy, chúng tôi lập tức nghĩ đến hắn. May nhờ cái bơm cùng dấu vân tay trên đó, vụ án đã có chứng cứ vô cùng xác thực. Thật sự cảm ơn các vị!"

Sư phụ hỏi tiếp: "Hắn khai báo ra sao?" Mỗi lần phá án xong, sư phụ đều hỏi cặn kẽ quá trình gây án, sau đó đối chiếu với suy luận trước đó, không ngừng tổng kết, không ngừng tích lũy kinh nghiệm.

"Lời khai không khác mấy. Do lão Hạ vô ý lỡ miệng, nói mình mới rút ba vạn tệ, sau đó thằng nhãi kia liền nảy ý giết người. Hắn dùng cái bơm đập vào đầu nạn nhận, rồi lấy xăng của xe máy đem ra đốt xác." Lại phá được một vụ án mạng, Cục trưởng tỏ ra rất hưng phấn.

"Đồng tiền là đồng bạc." Sư phụ ngậm ngùi nói, "Lúc nào cũng cần phải biết đề phòng. Đến cả cháu ruột còn có thể giết cả người thân!"

Vụ sau: Vụ án thứ mười một – Tiếng gọi cửa lúc nửa đêm.

Chương 11.1- Vụ án thứ 11 - Tiếng gọi cửa lúc nửa đêm 

Sau khi giải quyết thành công vụ án đêm Giáng Sinh, ba ngày sau chúng tôi chuẩn bị dọn dẹp quay về Sở. Trước đó tôi đã kịp ngủ một giấc kéo dài tới mười bốn tiếng đồng hồ, cuối cùng cũng bù được cơn thiếu ngủ. Trên đường trở về, tinh thần của tôi phấn chấn lạ thường, dọc đường hai thầy trò trao đổi về chi tiết vụ án, coi như tổng kết nâng cao kinh nghiệm.

Xe vừa đi vào đường cao tốc, chuông điện thoại di động của sư phụ vang lên.

"Chẳng lẽ lại phải đi làm vụ khác luôn?" Sư phụ nhăn mặt đùa với tôi. Trong lòng tôi hiểu rõ, nếu thật sự có vụ án khác thì dĩ nhiên chúng tôi phải đi ngay, bởi vì một năm nay trong phòng pháp y tỉnh chỉ có hai chúng tôi mà thôi.

"Đầu tiên chúc mừng các anh lại có chiến công mới, lúc nào về sẽ thưởng cho mỗi người một bao thuốc lá ngon nhé." Từ di động vọng ra giọng nói quen thuộc của Trung đoàn trưởng trung đoàn hình sự, "Các anh đang ở đâu đấy?"

"Chúng tôi không cần thuốc lá ngon, chỉ cần nghỉ ngơi thôi." Có vẻ như sư phụ đã có dự cảm bất thường, "Mới vừa vào đường cao tốc, tôi đây chạy đi chạy lại nhiều cũng không chịu nổi đâu."

"Vậy..." Trung đoàn trưởng hơi ngập ngừng, "Tôi cũng muốn để các anh nghỉ hai ngày cho thoải mái một chút, thế nhưng..."

"Được rồi, ở đâu?" Sư phụ biết đã chọn nghề này tức là chọn một cuộc sống không có tự do. Sư phụ thường nói đùa rằng chúng tôi bị bọn tội phạm dắt mũi, chúng gây án lúc nào thì lúc đó chúng tôi phải làm việc, chúng phạm tội ở đâu thì chúng tôi phải tới chỗ đó.

"Khụ khụ." Trung đoàn trưởng cũng hơi áy náy, ho khan hai tiếng, nói: "Ừm, mọi người đành chịu vất vả vậy. Vụ án này không hề nhỏ, vẫn cần các anh ra tay."

"Không phải chứ, giờ là dịp Giáng Sinh chứ có phải mùa giết người đâu, ở đây vừa chết ba mạng người đấy." Sư phụ nhíu mày nói. Chúng tôi đều hiểu, nếu trung đoàn trưởng đã gọi là vụ án lớn thì phải chết hơn ba người.

"Đúng vậy, bên này cũng chết ba." Trung đoàn trưởng nói tiếp, khẳng định suy đoán của chúng tôi, "Ở vùng nội thành Thanh Châu, một nhà ba người chết, vụ án đang khiến dân tình xôn xao."

Thành phố Thanh Châu cách huyện Thanh Hạ chưa đến 100 km, "Án mạng xảy ra vào lúc nào?" Sư phụ hỏi.

"Có lẽ là đêm qua. Tám giờ sáng nay người chồng về đến nhà thì phát hiện ra, cảnh sát địa phương đã tiến hành bảo vệ hiện trường, họ vừa báo thông tin lên Sở." Trung đoàn trưởng nói, "Nếu bây giờ các anh đến đó thì chắc công tác khám nghiệm hiện trường cũng mới bắt đầu."

"Đã rõ." Sư phụ cúp máy, sự mệt mỏi trong ánh mắt dường như biến mất, giờ đây chỉ toàn là cảm giác khí thế trước khi chiến đấu, thầy rướn người nói với anh lái xe, "Tiểu Nguyễn phải vất vả rồi, đi sang Thanh Châu nhé."

Mười giờ sáng, chúng tôi tới tiểu khu Nguyên Đạt ở thành phố Thanh Châu, đội trưởng đội hình sự địa phương đang chờ chúng tôi trước cổng. Sau khi nói sơ qua tình huống, chúng tôi đi bộ vào hiện trường trung tâm. Tiểu khu Nguyên Đạt là khu biệt thự của những kẻ lắm tiền nhiều của. Hiện trường trung tâm của vụ án là một căn biệt thự nhỏ ở gẩn cổng tiểu khu. Biệt thự này thuộc tài sản của giám đốc công ty Công nghệ thông tin thành phố Thanh Châu, Từ Thanh Lượng. Anh ta sống ở đây cùng vợ, con gái và mẹ vợ.

Bên ngoài dải phân cách có một đám đông đứng hóng chuyện. Tuy rằng trước đây nơi này vốn ở ngoại thành Thanh Châu, nhưng thành thị mở rộng, khu vực tiểu khu Nguyên Đạt trở thành một khu dân cư tương đối lớn. Một vụ án giết người lớn như vậy xảy ra ngay giữa khu dân cư đông đúc, chắc hẳn đã gây ảnh hưởng lớn đến cộng đồng nơi đây.

Tôi cùng sư phụ xách theo hộp dụng cụ, chen lấn qua đám người nhốn nháo, bước qua dải phân cách, tiến đến cửa hiện trường. Ở góc tường cạnh cửa ra vào có một người đàn ông mặc Âu phục, hai tay đang vò đầu bứt tai, mặt đầy đau đớn xót xa. Có hai công an đang hỏi anh ta tình huống vụ án.

"Chúng tôi chuyển đến đây được ba năm, thấy nơi này được bảo vệ cẩn thận, an toàn, không ngờ lại xảy ra chuyện như thế." Người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, hai mắt đỏ hoe, nói: "Năm năm trước tôi kết hôn với Triệu Hân, tôi hơn cô ấy mười tuổi, rất yêu thương cô ấy. Vợ tôi không đi làm, sau khi sinh con chỉ tập trung chăm sóc con bé. Tình cảm của chúng tôi vẫn rất tốt đẹp."

Tôi và sư phụ đứng bên cạnh nghe chuyện, người đàn ông ấy bỗng trở nên trầm mặc. Tôi xen miệng hỏi: "Anh phát hiện ra từ lúc nào?" Người nọ mệt mỏi chỉ vào mấy anh công an, nói: "Tôi đã nói với bọn họ, đừng hỏi lại nữa."

Điều tra viên tiếp lời: "À, là thế này. Năm ngoái giám đốc Từ mở thêm một chi nhánh tại huyện Thanh Lâm ở thành phố bên cạnh. Từ tháng Tám năm ngoái đến bây giờ, cứ mỗi tuần từ chủ nhật đến thứ Ba anh ấy lại đến làm việc tại chi nhánh Thanh Lâm, thứ Tư lại quay về Thanh Châu. Hôm nay là thứ Tư, giám đốc Từ trở về khá sớm, khoảng tám giờ đã về đến nhà. Khi anh ấy mở cửa ra thì phát hiện thấy vợ đang nằm ngửa mặt ở phòng khách, thi thể đã cứng lại. Anh ấy chạy lên lầu liền thấy đứa con gái ba tuổi và mẹ vợ đã bị giết chết trong phòng ngủ.

Sư phụ gật đầu, chúng tôi đội khăn trùm đầu, đeo khẩu trang, găng tay, đi giày bảo bộ, sau đó cùng đi vào hiện trường.

Hiện trường là một căn biệt thự hai tầng. Tầng một có phòng khách, phòng bếp, nhà vệ sinh và một phòng ngủ lớn, tầng hai là phòng cho khách và phòng sách. Từ Thanh Lượng và Triệu Hân ở phòng ngủ tầng dưới, con gái và mẹ Triệu Hân ở một phòng ngủ khác trên tầng hai.

Đã có vài bác sĩ pháp y và nhân viên thu thập chứng cứ đang cẩn thận tìm dấu vết ở khu vực thi thể của Triệu Hân. Thầy trò chúng tôi lên tầng trên, khám nghiệm hiện trường trên lầu. Phòng dành cho khách đều đóng lại, có vẻ vô cùng im ắng. Dọc theo hành lang, chúng tôi lần lượt mở cửa từng phòng, trong phòng đều sạch sẽ gọn gàng, không phát hiện được điều gì bất thường. Mãi đến khi chúng tôi mở một căn phòng khá lớn ở cuối hành lang, mùi máu tươi tanh nồng ập vào mặt, tôi lại day mũi theo bản năng.

Dưới đất có thi thể của một phụ nữ lớn tuổi, trên giường là thi thể một bé gái, cả hai đều mặc áo ngủ mùa đông. Áo ngủ, ga giường, chăn đệm đều nhuốm màu máu đỏ. Ngoại trừ vết máu, chúng tôi cũng không tìm ra dấu vết rõ ràng nào. Xem ra hung thủ không hề có một động tác dư thừa, giết người xong liền đi ngay.

Thi thể bà lão còn đi dép lê, nằm sấp trên sàn nhà, ngay gần giường ngủ, mái tóc thấm đẫm máu, toàn bộ xương sọ đã biến dạng, não trắng nhầy nhẫy lẫn lộn trong đám tóc, dưới đầu là vũng máu lớn. Tôi nhẹ nhàng lật đầu thi thể ra, thấy cơ thịt trên mặt người chết đã cứng đờ, mặt đầy máu, không thể nhận rõ mắt mũi.

Thi thể bé gái trên giường lại càng thê thảm. Cô bé nằm trên giường, hai mắt mở trừng trừng, trong ánh mắt ngập tràn nỗi hoảng sợ. Phần trán có một chỗ lõm vào, có lẽ bị vật tày đập xuống. Cổ họng cô bé bị cắt bởi một vật sắc nhọn, cái đầu nhỏ chỉ gắn với thân thể bởi đoạn xương cổ, phần mềm gần như bị cắt rời hẳn ra. Một vết máu lớn tràn tung tóe dọc theo động mạch cổ, chứng tỏ khi bị cắt cổ cô bé còn chưa chết. Trên người cô bé không có thi ban, bởi vì máu của nó gần như đã chảy hết rồi.

Thứ tôi không muốn thấy nhất chính là trẻ em bị sát hại, trong tim dường như đau thắt lại. Tôi cắn chặt răng, thầm thề nhất định phải đòi lại công bằng cho cô bé. Sau khi xem qua hiện trường, hai chúng tôi không nói gì, chậm rãi đi xuống lầu. Công tác khám nghiệm quanh thi thể Triệu Hân cũng đã kết thúc, nhìn mặt các kỹ thuật viên cũng hiểu được rằng họ không phát hiện ra vật chứng nào có giá trị.

Chúng tôi đến gần thi thể của Triệu Hân, cái xác vẫn chưa bị di chuyển. Đây là một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi, nằm trên sàn nhà mở trừng hai mắt, dưới đầu cũng có một vũng máu lớn giống như thi thể bà lão. Rõ ràng cô ấy cũng bị một vật tày đập vào đầu dẫn đến tử vong. Người phụ nữ này mặt một chiếc áo vải bông, quần dài dày dặn và quần lót bị cởi xuống, che đậy sơ sài lên bộ phận sinh dục.

"Nửa thân bị lột trần, thân dưới còn cắm dao găm. Chẳng lẽ là vụ án cưỡng hiếp do một kẻ biến thái thực hiện?"

"Không, có thể có gian tình." Sư phụ nhíu mày nói.

Sau khi khám nghiệm hiện trường xong, bác sỹ pháp y thường tự hình thành những phán đoán ban đầu về vụ án. Phán đoán ban đầu này không nhất thiết phải có căn cứ đầy đủ, là suy đoán mà không phải suy đoán. Loại phán đoán ấy quá nửa là xuất phát từ trực giác, điểm gốc để phát sinh trực giác là kinh nghiệm được xây dựng sau vô số lần khám nghiệm hiện trường. Từ phán đoán ban đầu, bác sỹ pháp y sẽ kiểm chứng hoặc phủ định phán đoán thông qua khám nghiệm thi thể, tái hiện hiện trường..., cuối cùng mới rút ra kết luận.

Tôi biết sư phụ đang dùng trực giác để đưa ra phán đoán, thầy muốn trong thời gian ngắn có thể tìm kiếm đầy đủ chứng cứ còn thiếu. Vậy nên tôi không hỏi thêm sư phụ, rằng vì sao thầy lại cho rằng vụ này là từ gian tình dẫn đến giết người, chứ không phải án cưỡng hiếp do kẻ biến thái thực hiện.

Nhưng có thể khẳng định một điều, việc nửa thân thể Triệu Hân bị lột trần, lại còn cắm một con dao găm ở thân dưới, nhất định có liên quan đến "tình dục".

Chúng tôi chia nhau ra kiểm tra nhiệt độ hậu môn của thi thể, ghi chép lại để tiến hành suy đoán thời gian tử vong.

"Mang thi thể đến nhà xác đi." Sư phụ nói. Mặc dù từ hôm Giáng sinh đến giờ chúng tôi vẫn phải làm việc liên tục, nhưng đêm qua đã được ngủ đủ giấc, cộng thêm cảm giác sung sướng do phá án thành công, nên chúng tôi lập tức lao vào làm việc, để có thể phá án trong thời gian sớm nhất.

Tôi cùng sư phụ ngồi trên xe, chúng tôi đều không nói chuyện, trong đầu loang loáng những hình ảnh tại hiện trường, hi vọng có thể xâu chuỗi chúng lại với nhau. Lúc này chúng tôi phải chịu áp lực rất lớn, hung thủ thực hiện tội ác quá dễ dàng, qua khám nghiệm hiện trường bước đầu, chúng tôi vẫn chưa tìm được vật chứng nào có giá trị.

Dường như sư phụ cảm nhận được không khí nặng nề trong xe, bèn cố nói đùa: "Có người nói bác sĩ pháp y trên tỉnh như chúng là 'Cán bộ ba nhà (1), biết tại sao không?"

Tôi không đáp lại, trong lòng tôi hiện giờ chưa thể thoát khỏi bóng ma của bé gái chết thảm kia.

"Vì chúng ta mỗi ngày đi làm, ngụ ở nhà khách, ăn ở nhà hàng, làm ở nhà xác, cho nên chúng ta là 'Cán bộ ba nhà', ha ha ha ha." Câu nói đùa của sư phụ thật sự nhạt không chịu nổi, cả xe chỉ có mình thầy cười.

Chúng tôi đợi trong phòng giải phẫu của nhà xác, lát sau ba thi thể được đưa vào. "Quy tắc cũ, từ dễ đến khó." Sư phụ nói, "Bắt đầu từ đứa bé ấy đi."

Vì phần mềm trên cổ cô bé đều bị cắt rời, nên khi đưa thi thể bé ra khỏi túi chứa xác, đầu bé ngửa oặt ra sau, cái đầu nhỏ như muốn rời khỏi thân thể, lúc đó trái tim tôi như khẽ run rẩy.

Nguyên nhân tử vong của cô bé được xác thực, là mất máu đến chết. Xương sọ trước trán có một vết lõm, hiển nhiên là khi còn sống bị một vật tày đập vào đầu, nhưng dấu hiệu xuất huyết não lại không quá rõ ràng, chấn thương sọ não dạng này khó có thể gây tử vong. Thi ban trên thi thể cô bé chưa xuất hiện, động mạch, tĩnh mạch cổ đều bị cắt lìa, trái tim ở trạng thái co rút, vậy hẳn là cô bé bị vật tày đánh vào đầu làm cho mất khả năng chống cự, sau đó bị hung thủ dùng dao cắt cổ, dẫn đến tình trạng chảy máu đến chết. Đây quả thực là hành vi quá sức tàn nhẫn.

Nguyên nhân tử vong của bà lão cũng có thể dễ dàng xác nhận. Sau gáy bà có một vết đánh lớn, xương sọ sau đầu hoàn toàn dập vỡ, não bị đánh nát, bà chết do chấn thương sọ não trầm trọng. Công cụ gây án cũng là một vật tày.

Việc khám nghiệm thi thể Triệu Hân cũng kết thúc nhanh chóng, tổn thương trước trán của cô đều là do vật tày gây ra. Âm hộ, tử cung bị dao găm đâm rách. Ngoài ra không còn vết thương nào khác.

"Cả ba thi thể đều không có vết thương do chống cự, hay nói rõ hơn là người quen tấn công khi nạn nhân không đề phòng, đúng không ạ?" Tôi hỏi.

"Vết thương của Triệu Hân hẳn là do bị tấn công bất ngờ, căn cứ vào vị trí thi thể của cô ấy, có lẽ bị đánh ngay khi vừa mở cửa. Nhưng những thi thể còn lại thì không thể nói là bị tấn công lúc không đề phòng. Anh hãy kết hợp với hiện trường, suy nghĩ thử xem", sư phụ nói, "Bà lão đi dép lê, mặc áo ngủ, chứng tỏ điều gì?"

"Khi đang ngủ thì tỉnh dậy, sau đó bị tấn công."

"Đúng. Hơn nữa vết thương đều nằm ở vùng sau đầu và tay, phía trước lại không có thương tổn. Tức là bị tấn công khi đang bỏ chạy." Sư phụ nói tiếp, "Mà bà lão chết ngay cạnh giường, có thể nói rằng mục đích của bà ấy rất rõ ràng, là muốn bảo vệ cô bé."

(1)Ở đây nguyên gốc là "Tam quán cán bộ" – "Cán bộ ba quán": ở tân quán (ở nhà khách), ăn phạn quán (ăn cơm hàng), công tác ở tấn nghi quán (làm việc ở nhà xác). Mình mạn phép đổi thành "Cán bộ ba nhà": ở nhà khách, ăn nhà hàng, làm nhà xác. Nếu có gì sai sót mong mọi người đóng góp ý kiến.

Chương 11.2

"Vậy quá trình phạm tội là thế nào ạ?" Tôi hỏi.

"Chúng ta chưa xem xét thi thể Triệu Hân, nhưng quá trình phạm tội đã tương đối rõ ràng rồi. Giờ đang là mùa đông, cửa sổ tại hiện trường đều khóa chặt, cho nên chỉ có thể ra vào bằng cửa chính." Sư phụ nói, "Mà khóa cửa chính không hỏng hóc gì, chứng tỏ hung thủ không cạy phá khóa để vào nhà, hẳn là hắn đã gọi cửa."

"Thi thể Triệu Hân nằm ngay gần cửa, chắc là Triệu Hân mở cửa, đúng không ạ?" Tôi hỏi.

"Ở hiện trường không có dấu hiệu di chuyển thi thể, thay đổi hiện trường. Tức là có thể hung thủ vừa gặp Triệu Hân liền đánh chết cô ấy, sau đó đi lên tầng trên. Việc đó khiến bà lão thức giấc, khi bà mở cửa đã thấy hung thủ nên vội chạy đi bảo vệ bé gái, hung thủ đánh ngã bà lão rồi ra tay sát hại cô bé con. Sau khi giết cô bé, hung thủ đi xuống tầng dưới, cởi quần Triệu Hân rồi cắm dao găm vào bộ phận sinh dục của cô ấy." Sư phụ phác thảo vài nét cơ bản về quá trình gây án.

Suy đoán của thầy rất hợp lý, chúng tôi đều gật đầu tỏ vẻ tán thành.

"A!" Tôi phá vỡ sự im lặng, "Còn một vấn đề nữa." Tôi chỉ vào giấy thử tinh dịch1 (1) kết quả dương tính rất rõ ràng.

Tôi nói tiếp: "Dương tính với tinh dịch, vạch báo hiện lên rất rõ ràng, chứng tỏ vừa mới quan hệ tình dục."

"Hiện trường không có dấu vết xô xát, trên thi thể không có vết trói, quần áo cũng không rách." Sư phụ nói, "Tôi cho rằng vụ này không phải cưỡng hiếp."

"Cũng có thể là sau khi giết cô bé, hung thủ quay lại tầng một, quan hệ tình dục với xác chết rồi cắm dao găm." Tôi thắc mắc.

"Không loại trừ khả năng anh vừa nói." Sư phụ nhíu mày, chìm vào trầm tư.

"Đúng vậy, nếu không thể loại trừ khả năng quan hệ tình dục với thi thể, thì cũng chẳng thể loại bỏ khả năng kẻ phạm tội ngẫu nhiên chọn nạn nhân để tấn công xâm hại tình dục." Tôi nói.

Sư phụ ngẫm nghĩ, "Tôi có cảm giác là người quen gây án."

"Có căn cứ không ạ?"

"Có." Sư phụ nói, "Anh tính toán thời điểm tử vong của họ chưa?"

Thì ra sư phụ muốn phân tích dựa vào thời điểm tử vong. Tôi nói: "Em đã tính qua rồi. Trong khoảng mười tiếng đồng hồ sau khi chết, cứ mỗi giờ lại giảm 1℃, tính theo trị số mùa đông thì phải nhân với 0,8. Chúng ta lấy số liệu vào lúc 10 giờ sáng, nhiệt độ trên thi thể lúc đó là khoảng 26℃, tức là đã giảm 11℃, nhân với 0,8 suy ra họ đã chết được khoảng chín tiếng đồng hồ." Tuy rằng tôi học toán không giỏi, nhưng vẫn tính nhiệt độ thi thể rất nhanh.

"Cả ba người đều chết vào lúc khoảng 1 giờ sáng." Sư phụ làm một phép cộng trừ đơn giản.

"Đó là thời điểm mà bọn tội phạm vãng lai thường hành động." Tôi vẫn kiên trì với quan điểm của mình.

"Tôi vẫn cho rằng không phải ngẫu nhiên mà là người quen gây án." Sư phụ nói, "Thứ nhất, tiểu khu này bảo vệ rất cẩn thận, hơn nữa nếu mục đích phạm tội không phải tiền tài thì vì sao hung thủ lại mạo hiểm chọn khu dân cư lớn thế này? Thứ hai, nếu hung thủ ngẫu nhiên đến căn nhà này, thì hắn sẽ không chọn cách gọi cửa, người bị hại cũng sẽ chẳng mở cửa cho người lạ vào lúc nửa đêm như thế."

Tôi gật đầu, nhưng vẫn đeo bám: "Nếu như hung thủ giả làm thợ sửa chữa hoặc công an để lừa người ta mở cửa thì sao?"

"Đây chính là điểm thứ ba tôi muốn nói." Sư phụ tiếp, "Nếu hung thủ không thể vào nhà bằng đường khác, chỉ có thể lừa người trong nhà mở cửa, thì Triệu Hân sẽ không mặc quần áo như thế này."

Sư phụ nói rất có lý. Nếu nửa đêm có đàn ông lạ gõ cửa, dù đáng tin đến mấy thì một phụ nữ trẻ cũng sẽ không mặc áo ngủ ra mở cửa.

"Đúng. Phải là người quen, sau khi tiến vào hiện trường liền đánh chết Triệu Hân, rồi lên tầng trên giết hai người, cuối cùng quay lại quan hệ tình dục với thi thể Triệu Hân." Tôi phân tích, "Hiện giờ cần làm rõ giết người vì hận thù, hay sát nhân biến thái gây án."

"Việc đó không quan trọng," Sư phụ cầm một túi đựng vật chứng lên, bên trong là mẫu vật lấy từ âm đ*o Triệu Hân, "Chúng ta có chứng cứ mấu chốt, chủ nhân của tinh dịch rất có thể là hung thủ. Mang đi xét nghiệm đi."

Sau khi giao vật chứng cho nhân viên xét nghiệm DNA của Cục công an Thanh Châu, sư phụ quay lại nói với điều tra viên: "Người quen của Triệu Hân, có quan hệ bất chính, tìm đi."

"Không cần tìm." Một giọng nói sang sảng vang lên, là bạn thân của sư phụ, Cục phó Cục công an Thanh Châu – Hình Siêu đi vào phòng giải phẫu, "Nghe nói các ông đến đây, tôi chạy tới ngày. Điều tra cả buổi sáng đã có kết quả."

Sư phụ cởi găng tay, bắt tay với Cục trưởng Hình, vội hỏi: "Kết quả gì?"

"Triệu Hân ngoại tình."

"Thật sao? Có kết quả nhanh như vậy à?" Sư phụ cười nói, "Đúng là rất biết làm lãnh đạo nhỉ! Nhưng tôi vẫn phải hỏi ông một câu, tin được không đấy?"

"Thế mà cũng nói được." Cục trưởng Hình huých nhẹ vào ngực sư phụ tôi.

"Cẩn thận, có máu đấy." Sư phụ chỉ vào ngực áo giải phẫu, nói đùa.

"Manh mối này rất quan trọng." Cục trưởng Hình nói, "Điều tra viên của chúng tôi điều tra được Triệu Hân rất thân thiết với một người đàn ông tên Trương Lâm. Đặc biệt là hồi đi học Trương Lâm một lòng theo đuổi Triệu Hân, điều này ai cũng biết."

"Đây mà là manh mối?" Mặt sư phụ đầy thất vọng, "Tin tức kiểu này mà cũng dám gọi là manh mối? Quá khó tin còn gì?"

"Dĩ nhiên là không chỉ có vậy." Cục trưởng Hình ra vẻ bí ẩn nói, "Chúng tôi đã xem qua camera theo dõi, tuy rằng xung quanh nhà Triệu Hân không quay chụp được gì, nhưng chúng tôi phát hiện ra thứ hai, thứ ba hàng tuần Trương Lâm đều đi qua cổng tiểu khu Nguyên Đạt. Hắn dám nói không liên quan hả, ai mà tin chứ?"

"Ừm." Biểu cảm thất vọng của sư phụ tạm thời biến mất, "Tối hôm qua là thứ ba, hắn lại tới nữa sao?"

"Đúng vậy, 9 giờ tối qua hắn xuất hiện ở cổng tiểu khu." Cục trưởng Hình nói.

"Vô cùng khả nghi. Vậy Trương Lâm đâu?" Sư phụ hỏi, "Ngang nhiên ngoại tình như vậy mà mẹ và con gái Triệu Hân không biết ư?"

"Không biết cũng là bình thường, tầng trên tầng dưới, tiếng động không lớn thì không thể nghe thấy được." Cục trường Hình nói, "Khả nghi nhất là sáng nay Trương Lâm đã đi công tác."

"Đi công tác?" Sư phụ hào hứng, "Sớm không đi, muộn không đi lại đi đúng lúc này, hung thủ có lẽ là hắn."

"Khà khà." Cục trưởng Hình gãi đầu, tự hào nói: "Lính của tôi hơi bị giỏi đấy, đi bắt người rồi, chắc là chờ ăn cơm trưa xong, ngủ một giấc là có tin tốt ngay. Nhưng điều tra dù sao cũng vẫn cần chứng cứ, các ông có tìm thấy vật chứng nào có giá trị nhận định hành vi phạm tội không?"

Hóa ra điều Cục trưởng Hình quan tâm nhất không phải là cán bộ pháp y tỉnh đích thân đến phá án, mà là cán bộ tỉnh có tìm được chứng cứ mấu chốt không. Sư phụ cũng lộ vẻ tự hào, nhại theo lời Cục trưởng Hình: "Lính của tôi hơi bị giỏi đấy, mang tinh dịch đi xét nghiệm DNA rồi, chắc là chờ bắt được người, lấy mẫu máu là có tin tốt ngay."

Hai lãnh đạo tràn đầy tự tin cười ha ha.

Ăn cơm trưa xong, khoảng 3 giờ chiều hai thầy trò tôi quay về nhà khách. Sư phụ nói: "Vụ án có đầu mối, chiều này có thể ngủ ngon một giấc. Người bắt về còn phải thẩm vấn, xét nghiệm DNA mất một ít thời gian, hôm nay chắc không còn việc gì nữa, sáng mai chờ nghe tin tốt thôi."

Nghỉ ngơi sung sướng hết chiều hết tối, sớm hôm sau tôi và sư phụ ngẩng đầu ưỡn ngực đi vào phòng họp ban chuyên án.

Phòng họp ban chuyên án ở đâu cũng như nhau, đều lập lờ khói thuốc. Điều khiến tôi không ngờ, đó là khi bước vào phòng, thứ tôi thấy không phải những khuôn mặt vui sướng mà là một phòng toàn những bất an thấp thỏm. Lòng tôi nháy lên cảm giác không ổn.

"Mặt mũi làm sao thế?" Sư phụ nghi hoặc hỏi Cục trưởng Hình, "DNA không khớp à?"

"Một tin tốt, một tin xấu, nghe tin nào trước?" Cục trưởng Hình nói.

"Nói tin tốt trước đi."

"Tin tốt là mẫu DNA lấy trong âm đ*o Triệu Hân và DNA của Trương Lâm trùng khớp với nhau."

"Tin tốt như vậy sao mọi người còn không vui? DNA khớp không phải đã phá được án rồi sao? Còn tin xấu gì nữa ạ?" Tôi chen vào nói leo.

"Tin xấu là đến bây giờ Trương Lâm vẫn không nhận tội. Hắn vẫn kêu oan," Cục trưởng Hình nói, "Hơn nữa qua điều tra, chúng tôi thấy có lẽ không phải hắn làm."

Trực giác của điều tra viên cũng giống như trực giác của kỹ thuật viên hình sự, đều được hình thành qua nhiều năm kinh nghiệm. Đôi khi nhiều người ngạc nhiên về sự chuẩn xác của trực giác, kỳ thật đó đều là do kinh nghiệm phong phú mà thôi.

"Không nhận tội thì không kết tội được sao?" Tôi nói, "Cũng chẳng phải chưa từng có phá án không cần khẩu cung."

"Quan trọng là hắn có thể tự bào chữa, chứng cớ của chúng ta không chặt chẽ." Cục trưởng Hình nói, "Trương Lâm khai rằng hắn gian díu với Triệu Hân từ năm ngoái. Mỗi tuần vào lúc Từ Thanh Lượng không ở nhà, Trương Lâm đều đến nhà hẹn hò với Triệu Hân, nhưng để đề phòng người nhà Triệu Hân phát hiện, hắn xong việc liền về nhà ngay. Tối hôm trước hắn đến nhà Triệu Hân, vụng trộm xong quả thật đã về nhà ngay."

"Hôm đó Triệu Hân ăn cơm tối vào lúc mấy giờ?" Sư phụ đột nhiên hỏi một vấn đề tưởng như không liên quan.

"Khoảng 5 giờ chiều đến 7 giờ tối, Triệu Hân cùng em gái ăn cơm ở một khách sạn gần đó." Một trinh sát trả lời.

"Vậy các cậu có xem camera theo dõi không? Trương Lâm rời khỏi tiểu khu Nguyên Đạt lúc mấy giờ?" Sư phụ hỏi.

"Có. Trương Lâm rời khỏi đó vào lúc khoảng 12 giờ đêm."

"Thả người đi, bắt nhầm người rồi." Sư phụ cau mày, chậm rãi nói.

Tôi biết sư phụ chủ yếu dựa vào thời điểm tử vong, chúng tôi suy đoán Triệu Hân chết vào khoảng 1 giờ đêm, nhưng 12 giờ Trương Lâm đã rời khỏi đó, hẳn là không phải hắn gây án.

"Nhưng là tử vong thời gian bình thường khác biệt là 1 giờ a, hắn giết người lại đi, cũng không ngoài ý muốn." Ta nói.

"Nhưng thời điểm tử vong có thể chênh lệch một tiếng đồng hồ, cũng có khả năng hắn giết người xong rồi rời khỏi đó." Tôi nói,

Sư phụ nói, "Thứ nhất, thời điểm tử vong. Căn cứ vào nhiệt độ thi thể, Triệu Hân chết vào khoảng 1 giờ đêm. Dựa vào mức độ tiêu hóa thức ăn trong dạ dày, lần cuối Triệu Hân ăn là khoảng sáu tiếng đồng hồ trước khi chết. Cô ấy ăn xong lúc khoảng 7 giờ tối, cho nên thời điểm tử vong cũng là khoảng 1 giờ đêm. Kết hợp hai thời điểm này lại, hẳn sẽ không chênh lệch đến một tiếng đồng hồ. Cho nên Trương Lâm không có khả năng gây án."

"Em cảm thấy không thể chỉ dựa vào thời điểm tử vong được." Tôi cố biện luận, "Hắn cũng có thể ra khỏi tiểu khu, sau đó trở lại mà?"

"Qua theo dõi thì chắc là hắn không quay lại đâu." Điều tra viên nói.

"Nhỡ hắn ta treo tường vào thì sao?" Tôi nói.

Điều tra viên im lặng.

"Còn điều này nữa, trên thi thể Triệu Hân không có vết trói hay chống cự, cô ấy bất ngờ bị tấn công dẫn đến tử vong." Sư phụ không để ý đến ý kiến trái ngược của tôi, nói tiếp, "Hơn nữa bộ phận sinh dục của cô ấy ngoại trừ cắm một con dao găm thì không có tổn thương nào khác. Quần áo không rách, người ở trên tầng cũng không bị kinh động, chứng tỏ Triệu Hân không bị Trương Lâm cưỡng hiếp, mà là tự nguyện. Nếu vừa có quan hệ bất chính với nhau, có lẽ Trương Lâm không có động cơ gây án."

"Biết đâu là giết người khi mất bình tĩnh thì sao?" Tôi hỏi.

"Nếu là giết người do mất khống chế thì trước đó có thể đã xảy ra xô xát, nhiều khả năng xuất hiện dấu vết chống cự." Sư phụ nói, "Hơn nữa vụ này là giết người có chuẩn bị trước, không phải giết người do mất khống chế."

(1)Giấy thử tinh dịch: Nguyên lý hoạt động tương tự như que thử thai, dựa vào phản ứng hóa học để kiểm tra sự tồn tại của tinh dịch. Đây là phương pháp nhanh nhất để xác định xem trước đó người được thử có quan hệ tình dục hay không.

Chương 11.3

"Sao lại thế ạ?"

"Căn cứ vào những chứng cứ chúng ta thu thập được, hung thủ chỉ có một người, mà tại hiện trường có hai loại công cụ gây án, vật tày và vật sắc nhọn." Sư phụ nói, "Nếu không có dự tính từ trước thì rất khó để tìm đủ cả hai loại công cụ trong khoảng thời gian ngắn. Bởi thế tôi cho rằng đây là giết người có chuẩn bị trước."

Tôi không nói gì. Thấy tôi không có ý kiến phản đối, sư phụ nói tiếp: "Thứ ba, nếu Trương Lâm có ý định giết người từ trước, sau khi quan hệ liền ra tay sát hại Triệu Hân, vậy thì thi thể Triệu Hân không nên nằm ở sát cửa ngoài phòng khách. Chẳng phải giết người trong phòng ngủ sẽ an toàn hơn sao? Lại giảm khả năng gây tiếng động. Căn cứ vào dạng tổn thương của Triệu Hân, hẳn là bị tấn công ngay khi gặp mặt ngoài cửa. Hơn nữa là bị tấn công sau khi quan hệ tình dục."

"Vì sao là quan hệ trước khi bị giết, mà không phải là chết rồi bị cưỡng hiếp?" Lần này câu hỏi của tôi không phải vì muốn phản bác, mà xuất phát từ sự hiếu kì.

Sư phụ chiếu lên một tấm ảnh khác, nói: "Xem ở đũng quần lót của Triệu Hân, có tinh dịch khô."

Đây quả là chứng cứ trọng yếu. Quần lót Triệu Hân có dính tinh dịch, chứng tỏ sau khi quan hệ cô ấy liền mặc quần lót lại, chứ không phải sau khi chết mới bị cởi quần áo cưỡng hiếp. Thi thể Triệu Hân tại hiện trường bị cởi quần ra, có lẽ chỉ vì hung thủ muốn cắm dao vào thân dưới của cô ấy mà thôi. Vậy xem ra hung thủ vô cùng thù hận Triệu Hân, hơn nữa mối hận này là vì tình.

"Triệu Hân phát sinh quan hệ tình dục trước, rồi mới mở cửa và bị tấn công, như vậy chỉ có hai loại khả năng." Sư phụ nuốt nước miếng, "Thứ nhất, là Triệu Hân tiễn Trương Lâm ra cửa, hắn liền bất ngờ quay lại tấn công cô ấy. Thứ hai, là có người khác gọi cửa sau khi Trương Lâm rời khỏi đó khoảng một tiếng đồng hồ."

Mọi người đều gật đầu.

"Nếu Trương Lâm đột ngột quay lại tấn công, vậy hắn giấu vật tày kia ở đâu? Làm thế nào mà Triệu Hân không phát hiện ra?" Sư phụ nói, "Trên người giấu hai loại hung khí, còn cùng người bị hại quan hệ tình dục, sẽ rất khó để nạn nhân không phát hiện ra. Cho nên có khả năng rất cao là người khác gọi cửa."

Tôi tâm phục khẩu phục. Cục trưởng Hình nói: "Chuyên gia phân tích phải có căn cứ. Dựa vào tình huống tại hiện trường, có lẽ không phải do Trương Lâm làm. Hơn nữa hắn cũng không có động cơ gây án rõ ràng."

"Vậy... Tiếp theo sẽ ra sao ạ?" Tôi không biết nên làm gì.

Sư phụ cười nhìn tôi, nói: "Đi, chúng ta quay lại hiện trường xem."

Tuy rằng ban đầu bắt sai người, nhưng điều tra viên vẫn không mất niềm tin. Người quen gây án, lại còn có gian tình với Triệu Hân, là đàn ông cơ thể cường tráng. Từ những suy luận của sư phụ, điều tra viên đã thu hẹp phạm vi điều tra đến mức nhỏ nhất. Mọi người đều biết chúng tôi sẽ sớm tìm thấy đầu mối mới. Trước sau gì kẻ bị tình nghi cũng sẽ lộ diện. Sau khi họp xong, điều tra viên chia nhau đi làm việc, tôi cùng sư phụ lên xe quay lại hiện trường.

Chúng tôi tỉ mỉ khám tra hiện trường tới tận trưa, nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì mới. Xem ra quá trình gây án của hung thủ rất nhanh gọn, giết người một cách tàn nhẫn độc ác, rồi lập tức rời khỏi hiện trường. Hai chúng tôi đều vô cùng chán nản.

Trở lại nhà khách, chúng tôi mỗi người ôm một cái laptop, cẩn thận xem lại ảnh chụp hiện trường cũng như thi thể. Tư liệu hiện trường vô cùng có ích, bác sĩ pháp y có thể phân tích cảnh chụp hiện trường và thi thể, để tìm ra một số dấu vết không thể thấy khi khám nghiệm hiện trường. Bởi vì ánh sáng, góc độ chụp không giống nhau, đôi khi có thể khiến nhiều manh mối khó thấy có thể xuất hiện rõ ràng.

Sáng ngày thứ ba sau khi vụ án phát sinh, sư phụ đột nhiên gõ cửa phòng tôi. Thầy nói: "Chúng ta quay lại hiện trường, hôm qua tôi xem ảnh chụp phát hiện một dấu chân máu nhàn nhạt."

Quả nhiên có phát hiện mới, tôi cùng sư phụ nhanh chóng có mặt tại hiện trường, tìm đến nơi phát hiện ra dấu chân kia. Đây là một nửa dấu chân máu rất mờ, dùng mắt thường rất khó phát hiện ra, nhưng dùng đèn pin chiếu chếch một chút có thể nhìn thấy loáng thoáng. Chúng tôi cùng nhân viên thu thập chứng cứ và kỹ thuật viên chụp ảnh hiện trường tiến hành chụp kỹ dấu chân máu đó, đem ra kiểm tra cẩn thận. Qua quan sát của nhân viên thu thập chứng cứ, chúng tôi khẳng định dấu chân này tương đối đặc thù, có thể mang đi so sánh vật chứng. Nhưng giày của kẻ bị tình nghi lấy ở đâu ra? Dù có phát hiện mới cũng không thể đẩy nhanh quá trình phá án.

Tôi và sư phụ lại kiểm tra cả buổi sáng, nhưng ngoài non nửa dấu chân máu, hoàn toàn không có phát hiện gì thêm. Chúng tôi bực bội tìm đến phòng bảo vệ ngoài cổng tiểu khu, muốn nhìn thử camera đêm đó, thử chút vận may xem sao. Nhìn đoạn băng ghi hình trong khoảng thời gian vụ án diễn ra, chỉ thấy nhiều xe qua lại, nhưng không phát hiện ra kẻ khả nghi, điều này làm chúng tôi rất thất vọng.

Sư phụ đứng lên uể oải duỗi eo, châm điếu thuốc, chậm rãi đi đi lại lại ngoài phòng bảo vệ.

Đột nhiên, tôi nghe sư phụ đứng ngoài cửa gọi: "Lại đây, xem thử đây là cái gì?"

Tôi thích nhất giọng điệu vừa ngạc nhiên vừa vui sướng của sư phụ, khi thầy nói bằng giọng đó tức là thầy đã có phát hiện bất ngờ. Thế nhưng khi tôi vội chạy tới bên sư phụ thì lại không tránh nổi chút thất vọng. Sư phụ đứng ở một gian phòng nhỏ bên cạnh, đang nhìn một nắp hố. Cái này thì có gì kì lạ chứ, cũng lắm cũng chỉ là một hố thông đến đường ống nước ngầm bình thường thôi, trong lòng tôi thầm nghĩ.

Nhìn kỹ nắp hố, thấy nó lớn hơn so với nắp hố thông đến hai lần, có vẻ hơi phai màu, hai bên có tay nắm, còn có một cái then cài ở trên đó.

"Chỗ này à? Là phòng điện máy." Một anh bảo vệ chạy tới nói.

"Phòng điện máy lại đặt dưới lòng đất?" Tôi hỏi, "Không cần tản nhiệt sao?"

"À, anh nói cái nắp hầm này hả?" Thì ra anh bảo vệ cho rằng chúng tôi có hứng thú với phòng nhỏ này, chứ không phải nắp hố, "Dưới nắp này là một cái hầm. Khi tiểu khu di dời mở rộng thì vẫn có những gia đình xây hầm. Nhưng vì tiểu khu không cho xây dựng hầm để xe, vì vậy hầm vẫn để đó".

"Thế hầm này giờ để làm gì?" Sư phụ hỏi thêm.

"Không làm gì cả, không thoát được nước, lúc nào cũng có nước đọng, còn chẳng dùng làm nhà kho được."

"Vậy có ai đi xuống đó không?" Sư phụ hỏi.

"Ai mò xuống đấy làm gì? Không thể có."

"Không thể? Vậy cái kia giải thích thế nào?" Sư phụ chỉ vào then cài trên nắp hầm. Chúng tôi nhìn theo hướng tay thầy chỉ. Hóa ra then cài này đã bị mở ra, hơn nữa trên đó còn có dấu vết cạy phá, chứng tỏ nắp hầm này mới được mở chưa lâu. Hơn nữa tôi chú ý thấy đất xung quanh hầm cũng bị xới lên, càng khẳng định rằng nắp hầm mới được mở ra.

"Hay là do lũ trộm cắp vặt tưởng ở dưới có đồ đáng tiền?" Anh bảo vệ nói.

"Gần phòng bảo vệ của các anh như vậy, trộm cắp nào to gan thế?" Sư phụ hỏi, anh bảo vệ chỉ biết nghẹn lời.

"Chúng ta mở ra xem một chút nhé?" Trong ánh mắt sư phụ ngập tràn hào hứng.

Nắp hầm rất nặng, tôi phải dùng hết sức mới mở ra được, phía dưới tối om, có một bậc thang dốc xuống che khuất tầm nhìn, không thể thấy rõ quang cảnh trong hầm. Tuy rằng chẳng thấy gì, nhưng tôi lại cảm thấy có điều khác thường. Trong khoảnh khắc mở nắp hầm ra, có một luồng khí nóng mang sự thối nát tanh tưởi hỗn loạn xông vào mũi, tôi day mũi theo bản năng. Sư phụ đứng bên cạnh hiểu rõ tôi nhất, thầy nói: "Có mùi gì à?"

Tôi gật đầu: "Thối lắm ạ".

Hai chúng tôi quay lại xe lấy mặt nạ phòng độc. Trong lòng tôi thấp thỏm không yên, trong hầm tăm tối ấy không biết sẽ có thứ gì, tôi mang một cảm giác như sắp đi thám hiểm, vừa phấn khích lại vừa bồn chồn.

Để đề phòng trong hầm có tồn tại khí độc, chúng tôi đeo mặt nạ phòng độc, đi ủng cao su và mặc trang phục giải phẫu, từ từ đi xuống hầm. Hầm không rộng lắm, cả hầm có thể chứa năm, sáu người gì đó. Khi tôi dùng đèn pin cường độ lớn chiếu đến một góc phòng, thấy xuất hiện một bóng đen.

Tim tôi như vọt lên cổ, nhìn kỹ lại thì thấy hình như có một người nằm trong góc phòng đọng nước, không hề động đậy. Sư phụ thấy tôi giật mình chết trân thì nói: "Qua xem đi, nhanh cái chân lên, trong này nóng quá, dễ bị thiếu dưỡng khí."

Bên trên hầm chính là phòng điện máy, máy móc công suất lớn hoạt động sinh ra hơi nóng, một nửa phát tán ra không khí, một nửa dồn cả xuống cái hầm ngầm này. Chúng tôi mặc quần áo mùa đông, mới vào hầm chừng hai phút đã thấy cả người ướt sũng mồ hôi.

Tôi to gan đi theo sư phụ đến gần người kia, dùng đèn chuyên dụng soi chiếu cẩn thận, thấy người này tựa cổ vào tường, từ cổ trở xuống chìm trong nước đọng.

Chúng tôi không cần thử mạch đập và hô hấp, vì người này đã bị phân hủy mạnh, tỏa ra mùi tanh thối nhức mũi.

Sau khi nhìn sơ qua tình trạng xung quanh, sư phụ nói: "Trước tiên cứ đưa xác lên đã, trong này không đủ dưỡng khí."

Thi thể đã bị phân hủy mạnh, da trơn trượt, rất dễ bị bong tróc, cho nên chúng tôi phải di chuyển thi thể rất cẩn thận. Khi đưa thi thể lên mặt đất, tôi hỏi: "Sư phụ, người này hẳn không liên quan đến vụ án Triệu Hân đúng không ạ? Người ở Cục Công an Thanh Châu chắc hận chúng ta muốn chết. Vụ này chưa ra đầu mối đã lôi vụ khác đến."

"Tại sao lại khẳng định là không liên quan?" Sư phụ hỏi.

"Thì... Thì xác đã phân hủy đến thế." Tôi nói.

"Trong môi trường rất nóng và ẩm như ở đây, chừng hai đến ba ngày là đã phân hủy mạnh lắm rồi. Vụ án Triệu Hân tính đến hôm nay cũng xảy ra được ba ngày." Sư phụ nói.

Trong lòng tôi chợt nháy lên hi vọng, chẳng lẽ là hung thủ sợ tội nên tự sát?

Tôi và sư phụ phải dùng sức chín trâu hai hổ mới có thể đưa cái xác lên trên mặt đất, đặt dưới ánh mặt trời. Bỗng nhiên xuất hiện một thi thể, lại còn là loại biến dạng thế này, anh bảo vệ đang đứng chờ bên trên liền hoảng sợ, lảo đảo chực ngã, che mắt ngồi xổm xuống. Thi thể quả thực trông rất đáng sợ, vì bị phân hủy mạnh nên chướng khí làm thi thể trương phềnh, biến dạng nghiêm trọng, tròng mắt lồi ra khỏi hốc mắt, lưỡi cũng bị đẩy ra ngoài miệng, da xanh tái, loang loáng nước.

Nhìn thi thể, trong lòng chúng tôi khơi dậy chút hứng thú. Bởi vì trang phục mà thi thể đang mặc giống hệt với đồng phục của anh bảo vệ.

"Người anh em, sợ lắm à?" Sư phụ cởi găng tay, vỗ vỗ lên bả vai anh bảo vệ đang run cầm cập, "Hỏi cậu mấy vấn đề được không?"

Anh bảo vệ gật gật đầu, vụng trộm liếc mắt nhìn thi thể thối rữa.

"Tối hôm Triệu Hân bị giết, ai là người trực ở phòng bảo vệ?"

"Tề lão đại." Anh bảo vệ cúi đầu nói, "Là đội trưởng đội bảo vệ, hôm đó là ca trực của anh ấy."

"Mấy giờ anh ta bắt đầu ca trực?"

"Hôm đó anh ấy nhận ca từ 5 giờ chiều, đến 7 giờ sáng hôm sau thì giao ca."

"Vậy hôm sau ai nhận bàn giao ca trực?"

"Là tôi." Anh bảo vệ nói rồi suy nghĩ một chút, sau đó sửa lại, "Không phải, chính xác là khi tôi đến nhận ca thì không thấy đội trưởng đâu. Anh ấy để chìa khóa trên bàn."

"Khi cậu đến nhận ca không gặp Tề lão đại?" Sư phụ sửng sốt nói, "Phát sinh vụ án lớn như vậy, Tề lão đại lại mất tích một cách bí ẩn, tại sao cậu không báo cho công an?"

"Chuyện này có gì đáng nói đâu? Đến nhận ca mà không gặp ai là chuyện thường, ai có việc đều có thể đi trước. Hơn nữa cũng chẳng phải mất tích bí hiểm gì, mọi người đều biết sáng thứ tư lão đại muốn về quê nên đã xin về sớm."

"Ý anh là Tề lão đại muốn xin nghỉ về quê, nhưng trùng hợp là đúng vào hôm anh ta trực lại phát sinh vụ án này?" Tôi hỏi.

Anh bảo vệ gật đầu: "Không tin anh về quê anh ấy hỏi xem."

Sư phụ nhíu mày: "Không cần hỏi, không có bất ngờ gì xảy ra cả, thi thể này chính là của Tề lão đại nhà các cậu."

Anh bảo vệ lắc đầu như đánh trống bỏi: "Không đâu, người này béo như thế cơ mà. Tề lão đại nhà chúng tôi đẹp trai lắm."

"Đây là vì bị phân hủy nên mới trương lên, người này vốn không béo." Sư phụ nói, "Trên người Tề lão đại có điểm gì đặc biệt không?"

"Không có gì đặc biệt. A! Có! Trên tai trái có một mẩu tai thừa."

Tôi vừa ngồi xổm bên thi thể vừa nghe họ trao đổi, tôi liền lật đầu thi thể, thấy trên tai trái quả nhiên có một mẩu tai thừa.

Chương 11.4

Nhà xác thành phố Thanh Châu.

Sau gần bốn tiếng đồng hồ cẩn thận khám nghiệm thi thể Tề lão đại, bước đầu chúng tôi loại trừ khả năng tử vong do tổn thương trí mạng và tử vong do ngạt thở, cũng đã loại bỏ các khả năng thiếu dưỡng khí, đuối nước dẫn đến ngạt thở. Chúng tôi hết đường tìm ra nguyên nhân dẫn đến tử vong. Lại càng không thu hoạch thêm vật chứng hay dấu vết gì.

Vụ án ba mạng người nhà Triệu Hân phát hiện dấu chân máu, nhưng Tề lão đại lại không đi giày. Cô bé trong vụ án nhà Triệu Hân chết do động mạch bị cắt đứt, theo phân tích của chúng tôi thì hẳn trên người hung thủ phải dính nhiều máu, nhưng thi thể Tề lão đại đã bị ngâm vài ngày trong nước bùn, không thể phát hiện ra vết máu. "Rốt cuộc có phải anh ta gây án không?" Tôi hết sức băn khoăn trăn trở.

"Có khả năng rất lớn." Sư phụ nói.

Tôi cho rằng đây lại là trực giác của sư phụ, nhưng sư phụ nói tiếp, "Nghĩ lại mà xem, chúng ta đã theo dõi rất kĩ tình huống trước và sau khi án phát sinh, nếu có gì khả nghi thì phải phát hiện ra chứ, nhưng cuối cùng vẫn không tìm được gì cả. Tưởng tượng một chút, nếu hung thủ vẫn ở trong tiểu khu, camera lại không quay khu vực xung quanh phòng bảo vệ, như vậy hung thủ chỉ cần ở trong khu vực phòng bảo vệ là sẽ không bị camera quay lại, đúng không?

Tôi gật đầu, sư phụ nói rất có lý, nhưng không thể coi đó là căn cứ xác định hung thủ. "Sư phụ, chúng ta vẫn không có bất kỳ chứng cứ nào." Tôi nói.

Sư phụ gật đầu, "Vụ án tự sản tự tiêu đúng là đau đầu, chết không đối chứng, cho nên yêu cầu với chứng cứ lại càng cao, nếu không sẽ chẳng thể cho thân nhân của người chết cũng như mọi người trong đơn vị phá án một câu trả lời rõ ràng." Tự sản tự tiêu là từ ngữ chúng tôi thường sử dụng, ý là hung thủ giết người xong liền tự sát.

Đối với bác sĩ pháp y, vụ án tự sản tự tiêu là loại án có độ khó cao nhất. Bởi vì không có lời khai của người bị hại, nhân chứng hay đối tượng bị tình nghi, căn cứ phá án đều hoàn toàn dựa vào kỹ thuật hình sự, yêu cầu với chứng cứ lúc nào cũng là cao nhất. Nhưng ghét của nào trời trao của ấy, theo như suy đoán của sư phụ, khả năng Tề lão đại gây án là rất lớn.

"Bây giờ phải làm gì ạ?" Tôi hỏi, "Đi họp ban chuyên án sao?"

"Nghỉ ngơi đi. Hôm nay mệt mỏi quá rồi." Sư phụ lau mồ hôi, nói: "Tôi vừa thông báo cho tổ chuyên án, họ đã bắt đầu khoanh vùng điều tra Tề lão đại. Mà hôm nay cũng chưa có thu hoạch gì."

Nghe ngữ điệu đầy bất đắc dĩ của sư phụ, tôi quả thật chẳng còn sức làm gì thêm nữa. Hai chúng tôi lên xe về nhà khách, nằm xuống liền ngủ ngay.

Sáng sớm hôm sau, tôi lại bị tiếng đập cửa dồn dập của sư phụ đánh thức. Mở cửa ra, sư phụ lập tức đi vào phòng tôi, vội nói: "Không ngoài dự liệu, Tề lão đại trúng độc mà chết."

Đây đúng là một tin tốt. Thi thể đã bị phân hủy nghiêm trọng khiến chúng tôi không thể tiến hành kiểm nghiệm bệnh lý học, nếu như ngay cả khả năng trúng độc cũng bị loại trừ, thì chúng tôi chẳng thể làm rõ nguyên nhân Tề lão đại tử vong. Có thể nói, không tìm ra nguyên nhân tử vong chính là nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với bác sĩ pháp y.

"Phòng thí nghiệm lý hóa vất vả suốt đêm qua." Sư phụ nói, "Rạng sáng nay có kết quả, là chết vì ngộ độc thuốc chuột loại mạnh."

"Thuốc diệt chuột loại mạnh?" Tôi vô cùng kinh ngạc, "Đó là vật phẩm bị cấm, người bình thường không thể có được."

"Bên điều tra sẽ giải quyết vấn đề ấy." Sư phụ nói, "Ở đây hồi trước có thể dễ dàng mua được thuốc chuột, cũng mất nhiều công sức rà soát truy tìm mới hạn chế được bọn họ, thế nhưng vẫn còn những kẻ giấu hàng không chịu giao nộp. Tiểu khu này đã từng sử dụng thuốc diệt chuột, cho nên phòng bảo vệ cũng có thể có thứ chất đó."

Tôi gật đầu: "Nguyên nhân tử vong đã tìm được, nhưng vẫn không có căn cứ nói Tề lão đại giết ba người nhà Triệu Hân."

"Tôi cảm thấy rất có hi vọng." Sư phụ đáp, "Anh thử đọc thuộc lòng lý thuyết cho tôi nghe xem, biểu hiện lâm sàng của ngộ độc thuốc chuột là thế nào?"

"Thuốc diệt chuột loại mạnh là một loại độc tấn công vào hệ thần kinh, nó có tác dụng gây kích thích cực mạnh lên não, dẫn đến hôn mê sâu. Khi độc ngấm vào cơ thể, chủ yếu tác động lên hệ thần kinh, hệ tiêu hóa và hệ tuần hoàn. Biểu hiện lâm sàng là cơ bắp cứng lại, run rẩy từng cơn, mất khả năng kiểm soát, miệng sùi bọt mép, toàn thân bầm tím (1) liên tục lên cơn động kinh, có thể kèm theo biểu hiện bệnh tâm thần, ngộ độc mạnh có thể khiến cơ thể run rẩy liên tục, thậm chí dẫn đến co giật." Gì chứ tôi vẫn là một người học tốt.

"Nếu như vậy, có lẽ Tề lão đại chui xuống hầm nước đọng, sau đó uống thuốc chuột, rồi co giật mạnh ngã xuống, do cơ thể co giật kết hợp với lực cản trong nước nên có khả năng giày đã bị tuột ra." Sư phụ nói.

Tôi giật nảy mình, không phải vì suy đoán thuyết phục của sư phụ, mà bởi vì tôi biết câu nói tiếp theo của sư phụ rất có thể là: "Chúng ta xuống hầm kia xem thử." Thật lòng tôi không muốn quay lại cái hầm kinh khủng đó.

"Chúng ta xuống hầm xem lại một chút." Sư phụ nói.

Một giờ sau, hai chúng tôi mặc đồ bảo hộ, đeo găng tay và tay áo cao su, men theo cầu thang tăm tối, đi xuống cái hầm vừa oi bức vừa tanh tưởi. Nước bùn dưới hầm ngập đến cẳng chân, đen đục, soi đèn cũng không thấy được gì. Tôi và sư phụ mò mẫm trong nước bùn, y như bắt cá chạch.

Rất may là diện tích hầm nhỏ hẹp, sau mười phút, đúng lúc chúng tôi sắp ngạt thở thì tìm thấy một đôi giày da cổ cao.

Sư phụ khá vui mừng trước phát hiện đó. Tuy rằng chúng tôi không phải chuyên gia thu thập chứng cứ, nhưng có thể thấy đế đôi giày da đen này tương đối trùng khớp với dấu chân máu tại hiện trường, đây có thể sẽ là chứng cứ quan trọng có tính xác định.

Chúng tôi cầm giày trở lên phía trên. Sư phụ nói, "Tôi lập tức mang đến phòng pháp chứng để so sánh."

Những lời này dường như có ẩn ý, tôi theo bản năng hỏi: "Còn em thì sao?"

"Anh nghỉ một lúc rồi xuống mò tiếp." Sư phụ nói.

"Em? Một mình ấy ạ? Lại xuống nữa ạ?"

"Sợ quá thì thôi, chờ tôi quay lại." Sư phụ lại dùng chiêu khích tướng.

"Sợ? Có gì mà sợ? Xuống thì xuống, nhưng thuốc diệt chuột là dạng bột, không cần đựng trong chai lọ, xuống đấy có thể mò được cái gì chứ?" Lúc này sĩ diện cứ là to nhất.

"Tôi biết chắc là không có chai lọ gì, nhưng tôi bảo anh đi mò hung khí."

Tôi liền hiểu ra. Trong vụ án giết ba người nhà Triệu Hân có hai loại tổn thương, con dao găm cắm trên người Triệu Hân hẳn là thứ gây ra vết cắt sắc nhọn, còn hung khí dạng tày thì chưa được tìm thấy. Nếu là Tề lão đại gây án, hung khí lại không có trong phòng bảo vệ, thì có thể hung khí đang ở dưới hầm. Tuy tôi biết phân tích của sư phụ rất có căn cứ, nhưng cột sống vẫn lạnh toát khi nghĩ đến chuyện một mình tôi phải lần mò trong cái hầm tối như mực vừa có người chết,

Biết làm sao được, đã mạnh miệng như thế rồi, tôi đành chui xuống hầm. Không biết trong nước bùn có cái gì, chỉ biết cách một lớp găng tay cao su dày cộp vẫn thấy lắm thứ đủ loại cứng mềm. Chỉ sợ mò ra cái gì còn sống thì đúng là vừa ghê tởm vừa nguy hiểm.

Không lâu sau, đầu ngón tay của tôi chạm vào vật gì đó rất cứng, cầm lên thì thấy là một cây búa.

Tôi mừng rỡ chạy khỏi hầm, mang cái búa cho vào túi đựng vật chứng, cởi đồ bảo hộ xong liền gọi điện cho sư phụ. Đầu máy bên kia sư phụ cũng rất hào hứng: "Cơ bản có thể kết án rồi, dấu giày cũng trùng khớp."

Tại hiện trường có dấu chân của Tề lão đại, tìm thấy hung khí khớp với tổn thương trong vụ Triệu Hân ở nơi Tề lão đại tử vong, thời điểm anh ta chết cũng thống nhất với thời điểm phát sinh vụ án kia, camera theo dõi giúp loại trừ những người khác ra khỏi diện tình nghi, nhưng không thể loại trừ người bảo vệ luôn có mặt trong tiểu khu như Tề lão đại, hơn nữa anh ta đã tự sát ngay sau khi vụ án nhà Triệu Hân phát sinh. Có quá nhiều chứng cứ chứng minh hung thủ chính là Tề lão đại.

Nhưng điều đó không khiến sư phụ thỏa mãn: "Trên áo Tề lão đại có một vết rách còn mới, tuy khá nhỏ nhưng tôi cảm thấy nó có liên quan đến vụ án."

Vì muốn cùng sư phụ tỉ mỉ xây dựng lại quá trình gây án, chiều hôm đó tôi lê tấm thân mệt mỏi quay lại nhà Triệu Hân.

Trong phòng ngủ của Triệu Hân vẫn yên tĩnh như lần đầu chúng tôi đến. Chăn bị lật lên, có lẽ khi vụ án phát sinh, cô ấy nghe tiếng đập cửa nên chạy xuống mở cửa. Tưởng như bình thường, nhưng sư phụ vẫn tìm ra điểm khác lạ.

"Anh lại đây xem."

Tôi đến bên sư phụ đang đứng cạnh cửa sổ. Rèm bị kéo lại, nhưng không kéo kín mà hở ra một góc cửa sổ, ánh mặt trời chiếu xuyên qua khe hở đó.

"Đi, chúng ta ra ngoài xem."

Tôi cùng sư phụ ra bên ngoài, quả nhiên tìm thấy trên đất bồn hoa bên cửa sổ có dấu giày tương tự như dấu chân máu trong nhà. Nhân viên thu thập chứng cứ đi cùng chúng tôi ngồi xổm xuống nhìn, sau đó nói: "Đặc điểm cơ bản giống nhau, đây là dấu giày của Tề lão đại!"

"Thì ra là rình trộm?"

Sư phụ lắc đầu cười, nói: "Nhìn kỹ xem, trên cái đinh đóng ở cửa sổ có sợi vải, điều này giải thích tại sao trên áo Tề lão đại lại có vết rách mới, cần lấy mẫu mang đi kiểm nghiệm vật chứng vi lượng. Ngoài ra chúng ta còn phải đi gặp tổ chuyên án."

Khi chúng tôi tới tổ chuyên án cũng thấy họ đã thu được kết quả tốt. Một người hàng xóm của Triệu Hân phản ánh, rằng tháng trước người đó từng có hai lần trông thấy tổ trưởng bảo vệ Tề lão đại ra vào nhà Triệu Hân trong đêm trực ban.

"Đúng như chuyên gia phân tích." Cục trưởng Hình nói, "Xem ra Tề lão đại gian díu với Triệu Hân. Hơn nữa quan hệ này còn mới bắt đầu chưa lâu."

"Đúng vậy." Mấy ngày qua trên mặt sư phụ ít khi xuất hiện nét cười thoải mái như thế, "Căn cứ vào camera theo dõi và vật chứng tìm được tại hiện trường, chúng ta có thể xác định hung thủ là Tề lão đại. Dựa trên phát hiện mới của chúng tôi, tôi cho rằng vào đêm xảy ra vụ án, Tề lão đại muốn tìm gặp Triệu Hân. Hắn vừa xin nghỉ hai tháng để về quê thăm người thân, vậy nên trước khi đi muốn tìm cô tình nhân mới Triệu Hân tâm sự một chút. Nhưng thật không khéo, đêm đó lại là lúc Trương Lâm đến nhà Triệu Hân. Có thể Tề lão đại không liên lạc được với Triệu Hân, liền vòng ra sau nhà nhìn qua cửa sổ phòng ngủ của cô ấy, không ngờ phát hiện Triệu Hân đang quan hệ với Trương Lâm. Hắn ta giận giữ quay về phòng bảo vệ để lấy búa và dao găm, chờ đến khi Trương Lâm rời khỏi tiểu khu liền mang hung khí đến nhà Triệu Hân, gọi điện hoặc gọi cửa để vào hiện trường. Hành động của anh ta rất nhanh gọn, Triệu Hân vừa mở cửa lập tức bị Tề lão đại đánh vào đầu. Có lẽ khi cô ấy ngã xuống đã khiến bà lão trên gác thức giấc, bà bèn đi xuống xem xét tình hình, không may nhìn thấy Tề lão đại đang cầm hung khí trong tay. Vì muốn diệt khẩu, cũng vì bị ghen tuông thù hận thôi thúc, hắn ta lên gác giết cả hai bà cháu. Giết người xong, hắn cởi quần của Triệu Hân, cắm con dao găm vào thân dưới của cô ấy."

Sư phụ uống một ngụm nước khoáng rồi nói tiếp, "Rõ ràng hắn đã chọn cách tự sát sau khi giết người, nhưng không muốn người khác phát hiện, lại nghĩ sẽ không ai chú ý đến cái hầm kia nên hắn định một mình lẳng lặng chết, hóa thành xương trắng cũng chẳng ai biết."

"Nếu không phải ông phát hiện ra chỗ đó thì chắc vụ án này đã chẳng phá được." Cục trưởng Hình có chút rùng mình.

"Một vụ báo thù vì ngoại tình điển hình." Sư phụ thở dài, "Tự làm bậy, không thể sống."

(1) Khi cơ thể thiếu dưỡng khí, trong máu tăng lượng huyết sắc tố khiến cho da và niêm mạc đổi xuất hiện màu xanh tím, còn gọi là bầm tím.

Chương 12.1- Vụ án thứ 12- Mảnh xác chốn núi hoang 

Tết Âm lịch sắp đến, tiết trời đông buốt giá cũng sắp rời đi. Hàng năm đúng vào thời điểm trời lạnh nhất, cảnh sát tỉnh phải gánh một nhiệm vụ rất nặng nề, đó là giám sát án mạng. Vì muốn đạt chỉ tiêu phá án mỗi năm, mà cứ trước khi đến Tết âm là trên tỉnh lại tổ chức một cuộc công tác, các kỹ thuật viên sẽ được chia tổ, chạy đến khắp nơi trong tỉnh để tiến hành giám sát án mạng. Công việc chính là đẩy mạnh công tác phá án, cố gắng hết sức giải quyết chỗ án mạng còn tồn đọng.

Thành tích phá án hàng năm của tỉnh tôi lúc nào cũng đứng đầu cả nước, số lượng án tồn động còn rất ít, vì ít nên lúc giám sát án mạng cũng làm cẩn thận, lẽ dĩ nhiên thành tích lại càng cao hơn.

Năm đầu tiên làm việc tại đây, tôi không thể một mình giải quyết vụ án, cho nên chỉ được bám càng sư phụ, lập thành một tổ với Trung đoàn trưởng trung đoàn hình sự, cùng nhau đến Cục công an thành phố Thu Lĩnh để tiến hành giám sát án mạng. Xem qua hồ sơ thấy công tác điều tra phá án và truy bắt tội phạm ở thành phố Thu Lĩnh cũng rất khá. Cả năm qua tổng cộng cả thành phố và ba huyện trực thuộc có hai vụ án mạng chưa phá, trong đó có một vụ đã xác định kẻ bị tình nghi, nhưng kẻ này lại bỏ trốn. Nói cách khác, công việc của chúng tôi chỉ là vụ án mạng còn lại.

Sau khi tới Thu Lĩnh, chúng tôi lập tức chuẩn bị triển khai làm việc, nhưng lại phát hiện thấy dường như không có nội dung công việc cụ thể. Chúng tôi truyền tay nhau đọc tập hồ sơ mỏng dính, cuối cùng cũng chẳng thu được nhiều thông tin.

"Chỉ đi hỏi han rồi ghi chép ra mấy đoạn thế này?" Trung đoàn trưởng ném mạnh hồ sơ xuống bàn, giận dữ nói, "Vốn định khen thành tích phá án của các cậu, nhưng các cậu tự nhìn tập hồ sơ này xem, có ra cái thể thống gì không?"

Lãnh đạo Cục công an Thu Lĩnh và đội trưởng đội hình sự cúi đầu xấu hổ.

"Vụ án này thật sự rất khó." Đội trưởng đội hình sự cảm thấy rất oan ức, "Vị trí xa xôi, điều tra lại chẳng có kết quả, bên kỹ thuật cũng không giúp gì được."

"Lại còn dám trốn tránh trách nhiệm? Phá án không được ai cũng phải chịu trách nhiệm, đổ hết lỗi cho kỹ thuật là được à? Bình thường cậu coi trọng bên kỹ thuật lắm hả?" Anh đội trưởng càng giải thích, Trung đoàn trưởng càng giận dữ. Tất nhiên tôi thấy sư phụ cũng đang nổi giận. Ở một số nơi đúng là có hiện tượng như vậy, phá được án là công của đội điều tra, phá không được thì là lỗi của kỹ thuật hình sự. Một vài bác sĩ pháp y còn tự tếu táo bảo mình là cái bô, lúc người ta cần đi tiểu mới dùng đến mình, dùng xong rồi thì ném dưới gầm giường không thèm hỏi han. May mà ở trên tỉnh, lãnh đạo bên hình sự cũng rất coi trọng dân kỹ thuật, bởi vậy chúng tôi mới có động lực làm việc.

"Thủ trưởng đừng nóng giận." Cục trưởng địa phương vội hòa giải, "Trong vụ án này chỉ có người báo án nói rằng đã phát hiện ra người chết, ngoài ra không điều tra được gì thêm. Còn về mặt kỹ thuật, nguyên nhân cái chết chưa xác định được, lại càng không tìm được nguồn gốc thi thể, nên..."

Trung đoàn trưởng khoát tay, cắt lời Cục trưởng: "Án không phá được thì tổ giám sát chúng tôi không nghỉ Tết, các cậu cũng không được nghỉ."

Vừa nghe thấy Tết không được về nhà, tôi liền cảm thấy vô cùng chán nản. Năm đầu tiên đi làm, vốn định mặc cảnh phục mới tinh về khoe với người yêu, không ngờ lại bị dính vào vụ án này.

Sống trên đời bao nhiêu năm, chỉ có một năm tôi thực tập ở trung tâm pháp y của Cục cảnh sát thành phố Nam Giang là không được về ăn Tết. Năm đó tôi nhận lệnh trực ban tại trung tâm, cứ tưởng yên ổn trôi qua đêm giao thừa, không ngờ 11 giờ đêm nhận được điện thoại, nói là trên sông Tần Hoài có một nhà đi thuê thuyền, ngờ đâu đèn lồng trên thuyền bốc cháy lan ra cả con thuyền, cả nhà đều thoát được nhưng có một ông cụ bị thiêu cháy rồi ngã xuống sông. Trong ký ức của tôi, năm ấy vào lúc chuông giao thừa kêu vang, là lúc tôi ngồi trên một cái thuyền nhỏ tồi tàn, trôi trên sông Tần Hoài tìm thi thể ông cụ kia.

Giờ nghe Trung đoàn trưởng bình tĩnh nói ra như thế, tôi coi như được mở mang tầm mắt. Xem ra tính chất công việc của cảnh sát chẳng phải chuyện khoác lác, một câu không về ăn Tết mà có thể nói ra một cách bình thản, có lẽ họ đã quá quen rồi.

Vị Cục trưởng địa phương ngượng ngùng nói: "Thế... hay là để chúng tôi gọi người trước đây điều tra vụ án này, báo cáo một vài điều đã điều tra được?"

"Không cần!" Có vẻ như Trung đoàn trưởng đã bị bộ hồ sơ sơ sài này làm cho nổi trận lôi đình, ông chỉ tay về phía sư phụ, nói: "Anh phụ trách, tiểu Tần và tiểu Phan hỗ trợ, chúng ta sẽ tự mình điều tra. Còn nếu như cần gọi người, gọi xe cộ, thiết bị thì chỉ cần Cục các cậu phối hợp hết sức là được."

Những lời này rất đanh thép, khiến cho Cục công an địa phương không trốn tránh được. Nhưng sư phụ vừa nghe lại hết giận ngay, thầy lập tức cúi đầu nhặt lấy giấy bút, chuẩn bị xuất phát. Ý định của Trung đoàn trưởng rất rõ ràng, ông ấy muốn chứng minh rằng những người làm kỹ thuật hình sự cũng có thể trở thành nhân tố nòng cốt trong điều tra phá án. Tiểu Phan chính là anh Phan, một điều tra viên trực thuộc đội trọng án của trung đoàn hình sự, anh cũng là một cán bộ trẻ vừa đẹp trai vừa cơ trí, Trung đoàn trưởng sắp xếp như vậy là đã cho chúng tôi sự hỗ trợ điều tra của cảnh sát.

Hiện trường nằm ở một huyện trực thuộc thành phố Thu Lĩnh. Đây là một huyện nhỏ vùng núi, trừ thị trấn nằm dưới đồng bằng, còn thôn làng xung quanh cơ bản đều ở trên núi, cư dân kiếm sống bằng nghề trồng trà. Quãng đường từ nội thành đến đó vào khoảng 30km, chúng tôi chạy xe dã chiến trên đường núi quanh co, mất gần một tiếng mới tới một thôn nhỏ tên Thu Cảnh, xung quanh núi non trùng điệp hùng vĩ.

Người báo án là một ông lão hơn bảy mươi tuổi. Tuy rằng từ lúc phát hiện ra cái xác đến nay đã hơn một tháng, nhưng khi nghe chúng tôi có ý muốn hỏi thêm về tình huống vụ án thì ông cụ vẫn mang một khuôn mặt hoảng sợ. Sợ mấy thì sợ, người dân thôn quê vẫn luôn chất phác thân thiện, ông cụ dừng việc đang làm, mời chúng tôi vào nhà rồi ngồi ngăn ngắn kể chuyện cho chúng tôi nghe.

Vườn trà và nhà ông cụ cách nhau một bãi tha ma, ở đó có hơn hai mươi nấm mồ. Cụ nói bản thân nhớ rõ số lượng mồ mả trong đó, bởi nhà cụ rất gần bãi tha ma. Trong thôn chỉ có hơn trăm người, mọi người đều quen biết nhau, nên cứ mỗi khi có thêm một nấm mồ là cụ lại đến trước mộ đốt ít vàng mã, dập đầu vài cái, coi như nghĩa tử là nghĩa tận, biểu đạt nỗi tiếc thương trong lòng.

Con cháu cụ đều làm thuê ở xa, ông cụ hơn bảy mươi rồi nhưng vì miếng cơm manh áo nên vẫn một mình chăm sóc vài mẫu trà. Hơn một tháng trước, vì làm việc quá sức nên cụ bị cảm, phải nằm liệt giường mấy ngày. Đến một buổi sáng thấy đêm hôm trước trời đổ gió to tuyết lớn, cụ nóng lòng nghĩ đến những cây trà mà cụ vất vả nuôi trồng, bèn mang thân già bệnh tật ra vườn trà xem xét.

Khi đi qua bãi tha ma, ông cụ vẫn có thói quen quan tâm nhìn đến những bà con đang chìm trong giấc ngủ dài, không ngờ lại phát hiện nơi góc bãi tha ma bỗng nhiên có thêm một nầm mồ mới. Nấm mồ ấy cũng bị tuyết phủ kín nhưng nhỏ hơn nhiều so với những ngôi mộ khác, nếu không quan sát kỹ sẽ chẳng phát hiện ra. Nhưng ông cụ đã quá quen thuộc với bãi tha ma, ông liếc mắt liền nhìn ra nấm mộ mới kì lạ ấy.

Trong lòng cụ bắt đầu dồn dập bồn chồn, cụ nằm trong nhà mấy ngày có nghe tin ai mất đâu, người thôn khác càng không thể trèo đèo lội suối mang người chết đến tận thôn này mà chôn. Ông cụ ôm nỗi nghi ngờ suốt một ngày trời, nghĩ lại vẫn thấy không yên lòng, đến chiều chạy vào trong thôn hỏi xem có chuyện gì, kết quả là chẳng ai biết, cũng chẳng có ai trong thôn qua đời, càng không hiểu ai lại đến bãi tha ma của thôn mà đào mộ đắp mồ.

Buổi tối về nhà, ông cụ càng nghĩ càng sợ, chắc chắn không thể là người chết tự chôn. Sau một đêm mất ngủ, sáng hôm sau cụ gọi điện báo công an. Công an địa phương có mặt rất nhanh chóng, cùng ông cụ đến nấm mồ kia. Lúc đến nơi, ông cụ càng không tin vào chuyện kỳ quái trước mắt: Cụ phát hiện nấm mồ kia đã không còn ở đó nữa. Nhưng công an biết cụ không báo tin giả, bởi nơi ông cụ dẫn đến vẫn còn hình dạng một nấm mồ, đất bị đào xới lung tung, nhưng chẳng thấy thi thể nào.

Công an chẳng tìm được gì ở một nấm mồ tự nhiên xuất hiện rồi đột nhiên biến mất. Chỉ thấy một chiếc giày vải của phụ nữ màu vàng.

"Không có mộ thì làm sao có giày? Chẳng lẽ có người đào mộ?" Nghe ông cụ tả lại khiến tôi sởn tóc gáy, "Ai đã chôn người xuống còn đi đào lên?"

"Rừng núi hoang vu, sao cụ biết không phải thú hoang đào thi thể ra?" Sư phụ thấy tôi cắt lời ông cụ liền trừng mắt lườm tôi. Tôi ngoái đầu nhìn mảnh rừng tăm tối, nghĩ đến cảnh thú dữ tha lôi thi thể mà trong lòng nổi gió lạnh.

Ông cụ nhìn sư phụ tôi bằng ánh mắt kính nể, nói: "Ngài nói đúng, sau này nghĩ kỹ lại tôi cũng đoán như vậy."

Cùng ngày vụ án phát sinh, công an cùng ông cụ xem xét thật kỹ nấm mồ vừa biến mất kia. Thì ra nấm mồ này không đào sâu như mồ mả bình thường, chỉ đắp đất xung quanh lên thành một nấm đất nhỏ. Nếu như trong đống đất cát không xuất hiện chiếc giày vàng kia thì đã chẳng có gì lạ, chỉ là do mấy đứa trẻ to gan chạy vào đây chơi thôi. Nhưng sự có mặt của chiếc giày không rõ nguồn gốc này lại khiến vụ việc trở nên ma quái đáng sợ.

Tuy rất kỳ quái, nhưng công an cũng không thể dựa vào một chiếc giày mà đưa ra kết luận hay lập án điều tra. Công an địa phương chỉ kiểm tra qua loa khu vực xung quanh nấm mồ nhỏ, sau đó chẳng tìm được manh mối gì đáng kể, vì thế họ chỉ ghi chép đơn giản vài điều, chụp vài tấm ảnh hiện trường rồi cả đội rút khỏi hiện trường.

Ngày tiếp theo dường như trôi qua rất yên bình, tuyết ngừng rơi, vài ngày sau đó trời nắng, thời tiết cũng ấm dần lên. Một tuần sau, có hai thanh niên trong thôn cầm nỏ tự chế vào rừng, định bắt một ít thú rừng đem bán lấy tiền mua đồ dùng. Khi họ đến cánh rừng cách bãi tha ma khoảng một dặm thì thoảng ngửi thấy một thứ mùi lạ, giống mùi rác thối. Đi theo mùi thối đó, họ đến bên một con mương cạn, trong mương cây mọc thành bụi, che khuất đáy mương. Nhưng dưới đáy mương có gì đó phản chiếu ánh nắng, sáng lấp lóe.

"Có khi giữa ban ngày ban mặt lại nhặt được vàng ấy nhỉ?" Người to gan hơn nhảy xuống mương, tìm hiểu xem rốt cuộc là cái gì. Cậu ta gạt bụi cây ra, nhìn sâu vào bên trong, rồi kêu lên một tiếng. Thì ra thứ lóe sáng kia là một chiếc vòng bạc tinh xảo.

Vòng tay bằng bạc chẳng có gì lạ, có điều, chiếc vòng này được đeo trên một cổ tay màu xanh đen, đang tỏa ra mùi tanh thối.

Sau khi nhận tin báo, công an địa phương cùng đội cảnh sát hình sự kéo tới hiện trường.

Hai thanh niên này không nhìn lầm, đây quả thật là một thi thể, một thi thể không toàn vẹn. Lùm cây che khuất phần lớn thi thể, chỉ thấy được một cánh tay đang phân hủy mạnh. Một anh công an lớn mật nắm lấy cánh tay mà kéo mạnh, một thi thể chỉ có một nửa hiện ra.

"Nửa thi thể ấy ạ?" Tôi hiếu kỳ hỏi ông cụ, "Là thi thể bị phân tách ra phải không ạ?"

"Tôi không nhìn thấy, cũng không dám nhìn, chỉ nghe công an bảo thi thể không đủ, còn dẫn cả chó nghiệp vụ đến tìm, nhưng không tìm được gì cả." Ông cụ nói.

"Không cần vội, ngày mai chúng ta đi khám nghiệm sẽ biết thôi." Sư phụ nói, "Không còn sớm nữa, hay là... cụ dẫn chúng tôi đi xem thử được không?"

Nghe sư phụ nói vậy, ông cụ tỏ vẻ khó xử: "Vốn dĩ cứ trời tối đã phải kiêng kị mồ mả, giờ lại còn một xác chết oan, tôi... tôi thực sự không dám đi đâu."

"Thời gian đã qua lâu như vậy, giờ ra hiện trường chắc cũng chẳng phát hiện được gì." Sư phụ cười nói, "Chúng tôi chỉ muốn xem vị trí hiện trường, xem hiện trạng cơ bản, cái chính vẫn là muốn so sánh với ảnh chụp hiện trường lúc đầu. Vậy nên chúng tôi sẽ nhanh chóng xem xét, đảm bảo về nhà trước khi trời tối, hơn nữa nhiều người cùng đi sẽ không có việc gì đâu."

Ông cụ rất nhiệt tình, nghe chúng tôi nói thế liền không hề chậm trễ, dẫn đoàn chúng tôi đi vào núi sâu. Sắc trời dần tối, đi trên đường mòn còn nghe loáng thoáng tiếng sói tru.

Đi khoảng hai mươi phút, chúng tôi đến nơi ông cụ phát hiện nấm mồ kia. Bãi tha ma tĩnh lặng, ánh hoàng hôn lấp loáng chiếu lên những bia mộ u ám. Ông cụ chỉ vào bên cạnh một ngôi mộ, nói: "Lúc ấy tôi phát hiện ra nấm mồ ở chỗ này." Rồi cụ đưa tay chỉ ra xa, nói tiếp, "Thấy rừng cây bên kia không? Tìm thấy thi thể ở đó."

"Tôi biết vị trí thi thể." Một công an địa phương đi cùng chúng tôi thấy ông cụ không dám đến chỗ tìm ra thi thể, bèn chủ động xin đi, "Để tôi dẫn mọi người đi."

Đi thêm một dặm, chúng tôi đến hiện trường phát hiện thi thể, xem qua con mương cạn, sau đó đi quanh mương một vòng, tiếc rằng không tìm thấy manh mối có giá trị.

Khi quay lại xe, sư phụ hỏi một cảnh sát hình sự: "Thi thể không mặc quần áo sao?"

"Hẳn là có, nhưng về sau phân tích là thú hoang xé rách, quần áo đều đã rách tả tơi." Anh công an địa phương nói, "Chắc không có ích gì đâu."

"Có ích hay không là do người tìm ra, không phải bày sẵn cho người ta phát hiện." Sư phụ nói, "Nhiệm vụ đêm nay chính là nghiên cứu quần áo của người chết."

Sau khi ăn cơm tối, chúng tôi đến phòng lưu giữ vật chứng của Cục công an huyện. Kỹ thuật viên ở đây rõ ràng đã tốn nhiều công sức với quần áo của người chết. Họ cầm ra hai túi nhựa, bên trong toàn là những mảnh quần áo nhỏ. Trên thi thể không thể bám nhiều mảnh nhỏ như vậy, những mảnh này đều do kỹ thuật viên cẩn thận thu thập trên quãng đường từ bãi tha ma đến tận nơi tìm thấy thi thể.

Sư phụ và tôi lại chơi trò ghép hình. Chúng tôi ngồi xổm dưới đất, cố gắng hết sức ghép từng mảnh quần áo lại với nhau. Quần áo của người chết nhanh chóng dẫn ra đầu mối.

Xem xét quần áo của nạn nhân, tính từ trên trở xuống, phần ngực bụng bị rách nhiều nhất, những vị trí này không thể chắp nối hoàn chỉnh do không thể tìm được hết mảnh rách. Chỉ có hai cánh tay và sau lưng là còn hoàn chỉnh, không bị xé nát. Theo những gì chúng tôi chắp nối được, cơ bản có thể kết luận rằng: Vào thời điểm người này tử vong có mặc quần lót viền ren màu đen, áo lót màu vàng, bên trong mặc quần bông và áo bông dày màu xanh lam, quần ngoài màu đen, thân trên mặc áo len mỏng màu xanh lá thêu hoa đen, chân đi tất trắng và đi giày vải màu vàng.

"Các cậu cho rằng những thứ quần áo này không có giá trị phá án phải không?" Trong phòng mở điều hòa rất ấm, khiến sư phụ phải vừa lau mồ hôi trên trán vừa hỏi.

Mấy anh kỹ thuật viên mù mờ lắc đầu.

"Tôi cảm thấy chúng rất có giá trị." Sư phụ cẩn thận nhìn từng thứ áo quần, nói: "Thứ nhất, từ quần áo có thể thấy đây là một cô gái trẻ."

"Chuyện này chúng tôi đã suy đoán từ liên hợp xương mu, người đó là một cô gái khoảng 27 tuổi." Bác sĩ Lý tỏ ra rất thất vọng với suy đoán của sư phụ, bèn vội vã cắt lời thầy.

Sư phụ không quan tâm chuyện bị bác sĩ Lý ngắt lời, nói tiếp: "Thứ hai, hãy nhìn chỗ này."

Chúng tôi chụm đầu vào xem, thấy sư phụ ghép hai mảnh nhỏ lại, hiện rõ nhãn hiệu "OLAER". Mảnh này có thể nằm ở đoạn chốt mở áo lót, nói cách khác, đây là mác áo lót. Giờ các anh đi tìm hiểu thử xem loại áo ngực này hay được tiêu thụ ở khu vực nào."

Đây là một cách tìm kiếm nguồn gốc thi thể, chính là xác định phạm vi tiêu dùng từ đó khoanh vùng nơi người chết sinh sống. Điều tra viên đứng bên cạnh liền gật đầu.

"Thứ ba, người chết hẳn là sống tại nông thôn. Tuy rằng kiểu dáng quần áo tương đối mốt, nhưng mặc cùng với nhau lại không hợp."

Tôi bội phục sư phụ sát đất, đàn ông trung niên hơn bốn mươi tuổi còn am hiểu thời trang như vậy, còn biết hợp hay không nữa.

Sư phụ nói tiếp: "Quan trọng là quần áo của người chết đều là nhãn hiệu tạp nham, chất lượng kém, chứng tỏ cô ấy cũng không có điều kiện tài chính. Đặc biệt cần chú ý đến đôi giày vải, chúng không phù hợp với độ tuổi của nạn nhân. Nhưng nếu cô ấy sống ở nông thôn thì việc đi giày vải lại rất bình thường, vì so với các loại giày khác, giày vải là loại tiện đi đường mòn trên núi hơn cả.

"Thứ tư," sư phụ nói, "Hung thủ đã lưu giữ xác một thời gian."

"Giữ xác?" Suy đoán này khiến chúng tôi cảm thấy hơi bất ngờ.

"Đúng vậy. Khi nghe nói thi thể đã phân hủy mạnh, tôi liền thấy rất kỳ quái. Bây giờ nhiệt độ thấp nhất trong núi có thể đạt dưới 10ºC, nấm mồ này được phát hiện vào ngày 10 tháng 12, thi thể được tìm thấy vào ngày 18 tháng 12. Chỉ trong tám ngày ngắn ngủi, với nhiệt độ như vậy thì không thể xuất hiện hiện tượng phân hủy mạnh." Sư phụ nói, "Thế nên người này hẳn là chết được khoảng một tháng rưỡi mới bị di dời thi thể, hung thủ vốn định chôn xác cô ấy, nhưng lại bị thú hoang lôi ra từ nấm mồ đào đắp qua loa."

"Chết được một tháng rưỡi ấy ạ? Có thể dựa vào độ phân hủy của thi thể mà suy đoán thời gian tử vong chính xác đến thế sao?" Tôi đưa ra nghi vấn.

"Căn cứ vào trạng thái quần áo của cô ấy, tôi càng thêm khẳng định rằng hung thủ đã lưu giữ thi thể trong một khoảng thời gian." Sư phụ nói, "Mặc quần áo như vậy căn bản không thể chịu đựng được mùa đông lạnh giá. Mùa đông ở vùng núi này bắt đầu từ cuối tháng 10, cho nên vào tháng 10 hẳn là sẽ mặc kiểu quần áo đó. Tính ra từ lúc chết đến lúc được phát hiện là khoảng một tháng rưỡi."

"Hung thủ đặt thi thể trong nhà hắn sao?" Tôi kinh ngạc nói, "Có biến thái quá không?"

"Có lẽ không phải đặt trong nhà." Sư phụ nói, "Sở dĩ vùng này lạnh là vì có gió lớn, dù trong phòng không có hệ thống sưởi thì nhiệt độ cũng cao hơn bên ngoài rất nhiều. Thi thể sẽ phân hủy mạnh hơn nữa nếu đặt trong phòng với khoảng thời gian lâu như vậy. Tức là rất có thể hung thủ giấu thi thể ở bên ngoài, như vườn nhà chẳng hạn. Bởi vì qua thời gian dài, thi thể thối rữa, mùi thối dần trở nên nồng nặc, hung thủ biết không thể giấu ở nhà mình nên mới mang ra chỗ khác chôn."

"Nhưng suy đoán này có tác dụng gì với việc điều tra?" Tôi nghĩ việc hung thủ có giấu xác hay không cũng chẳng giúp chúng tôi khắc họa được kẻ bị tình nghi.

"Việc đó có tác dụng với điều tra phá án hay không thì phải tổng hợp với kết quả khám nghiệm tử thi ngày mai." Sư phụ nói, "Quan trọng là tìm ra nguyên nhân tử vong, cộng thêm quá trình giữ xác, có khả năng trợ giúp được công tác phá án."

"Nguyên nhân tử vong kết hợp với quá trình giữ xác? Phải suy đoán thế nào đây?" Tôi nghĩ nát óc vẫn chẳng ra.

Sư phụ cười, không trả lời câu hỏi của tôi. Thầy cầm chiếc áo len màu xanh lá của nạn nhân lên nhìn kỹ. Phần áo phía trước hoàn toàn bị xé nát, cơ bản không thu thập được mảnh rời nào, bề mặt xung quanh nhuốm đầy máu, nhưng sau lưng áo lại vô cùng nguyên vẹn, khiến cho chiếc áo trông như kiểu áo cài cúc đằng trước.

Sư phụ chỉ một lỗ thủng đằng sau lưng, nói: "Giờ tôi nói đến điều thứ năm. Thứ năm, các anh thấy lỗ thủng này thế nào?"

Tôi nhìn lại gần, nói: "Cái này chắc không có giá trị gì, nửa cái áo đã bị xé nát, sau lưng có lỗ thủng thì nói lên điều gì chứ?"

Sư phụ lắc đầu, "Thứ nhất, quanh chỗ quần áo bị xé nát đều nhuốm máu, hẳn là máu chảy ra khi thú hoang cắn xé thi thể. Nhưng lỗ thủng sau lưng này không có máu, hơn nữa vị trí rất riêng biệt, có lẽ không phải do thú hoang cắn. Thứ hai, nhìn phần rìa của lỗ thủng đi."

Sư phụ đưa kính lúp của thầy cho tôi. Tôi dùng nó nhìn thật kỹ lỗ thủng, nói: "Bề mặt vết rách không phẳng, còn... a, là rỉ sắt!" Hóa ra xung quanh lỗ thủng bám đầy rỉ sắt.

"Đúng vậy, một lỗ thủng còn mới, xung quanh dính toàn rỉ sắt, chắc là lỗ thủng này bị đinh móc phải, hơn nữa còn là mới móc vào chưa quá lâu."

"Điều đó có ý nghĩa gì ạ?" Tôi hỏi.

"Hiện giờ vẫn chưa có ý nghĩa. Nhưng phải nhớ kỹ vấn đề này, có khi về sau lại cần dùng."

Một hai ba bốn năm, lên núi nắm con hổ[1]. Sư phụ chỉ cần xem xét quần áo đã đưa ra được năm điểm suy đoán. Dù không thể liên kết năm suy đoán này lại với nhau, cũng chẳng thể tạo nên suy đoán nào có giá trị, nhưng lại củng cố thêm niềm tin phá được án rồi về quê ăn Tết.

Ngủ một giấc ngon lành, ngày hôm sau chúng tôi chạy xe đến nhà xác Thu Lĩnh, bắt đầu tiến hành khám nghiệm từ thi.

Từ đêm qua thi thể đã được bỏ ra khỏi tủ để rã đông. Nhà xác Thu Lĩnh có phòng giải phẫu pháp y đạt chuẩn, trong phòng được trang bị quạt thông gió và điều hòa tân tiến, có tác dụng làm tan đá, khử mùi hôi thối rất hiệu quả. Nhưng khi bác sĩ Lý lấy chìa khóa mở cửa phòng giải phẫu ra, chúng tôi vẫn bị một luồng mùi tanh thối xông cho gần chết.

Tôi day day mũi theo bản năng, đưa mắt nhìn bàn giải phẫu.

Trên bàn giải phẫu là một đống gì đó đen thùi lùi, đứng ở cửa không thể nhìn ra được. Sư phụ lôi tôi đến gần mới nhìn rõ.

Vừa trông thấy, toàn thân tôi đã nổi da gà.

Kì thật nếu đó là một bộ xương khô hoặc một thi thể thối rữa mạnh thì tôi lại chẳng sợ lắm. Điều đáng sợ đó là loại nửa xương trắng nửa thịt thối như thế này. Cỗ thi thể khiến người ta không đành lòng nhìn.

Quần áo bám trên thi thể đã bị cắt xuống, chỉ còn lại một cái xác trần trụi, nửa thịt nửa xương. Phần mềm ở nửa người dưới mất gần hết, xương đùi trắng hếu được đèn mổ chiếu vào trông thật u ám đáng sợ, một ít cơ thịt vẫn bám ở bắp đùi nhìn cực kỳ nhức mắt. Phần đầu cũng đã thành xương trắng, trong hốc mắt đen ngòm có thể thấy tròng mắt khô quắt. Hàm răng trên dưới trơ không khốc, vì chẳng còn cơ thịt níu giữ mà ngoác ra như đang thét gào vì một sinh mệnh đã chết.

Đỉnh chóp sọ có một lỗ hổng lớn, cái đầu có vẻ thiếu mất một phần ba. Xung quanh lỗ hổng có những đường gãy xương tỏa ra như tia nắng mặt trời, từ lỗ hổng có thể thấy bên trong hoàn toàn không còn não, quanh lỗ hổng dính những mảnh màng não cứng vỡ nát.

Phần mềm ở cánh tay còn nguyên vẹn, nhưng phân hủy trương phình to đến gấp đôi cánh tay người thường, dưới ánh đèn chỉ thấy đen đúa lại ánh lên màu xanh, tĩnh mạch hiện rõ dưới da, trông như mạng nhện thô to chằng chịt màu xanh đen. Phần mềm sau lưng cũng còn nguyên, nhưng toàn bộ phần mềm trước ngực bụng gần như mất hết, có vẻ là do thú hoang cắn xé tạo thành tổn thương sau khi chết, nhìn rõ được thành bụng bên trong. Thi thể từng được giải phẫu, xương ngực đã bị tháo rời, che lên lồng ngực như một cái nắp đậy. Ngực bên phải còn nửa bầu vú, máu me nhầy nhụa rũ trên lồng ngực. Khoang bụng thiếu phần mềm thành bụng và màng bao nội tạng, phần còn lại nằm ngổn ngang trong khoang bụng. Một đoạn ruột còn vắt hẳn ra bên ngoài thi thể.

"Lúc đầu ở hiện trường trông nội tạng cũng thế này à?" Sư phụ hỏi.

"Đúng vậy." Bác sĩ Lý nói, "Nhìn hiện trường chỉ muốn lộn mửa, lúc chúng tôi lôi từ lùm cây ra, thi thể bị lật úp người xuống, ruột gan bên trong văng hết ra ngoài như hất bát cơm, mất đến nửa ngày mới gom được hết nội tạng vào khoang bụng, sau đó đặt vào túi đựng thi thể mang về."

"Các anh giải phẫu thi thể rồi à?"

"Có cần mổ xẻ gì đâu." Bác sĩ Lý đáp, "Trừ mở lồng ngực, còn lại khoang bụng cũng chẳng cần mổ, nội tạng bày hết ra đấy rồi. Chúng tôi cũng đã nhìn phần sọ não, hẳn là bị thú hoang cắn xé, não không còn, cũng chẳng cần mở sọ làm gì."

"Còn lưng?" Sư phụ hỏi, "Phần mềm trên lưng vẫn còn nguyên đó thôi."

"Lưng à?" Bác sỹ Lý lắc đầu, "Phương pháp giải phẫu thông thường đâu có giải phẫu phần lưng. Mà xem xét phần lưng cũng chẳng thấy gì."

"Sao anh biết là không có gì?" Sư phụ nói, "Phương pháp thông thường đúng là không có phần lưng, nhưng thi thể này đã chẳng còn gì để khám nghiệm, vậy tại sao không giải phẫu lưng? Biết đâu lại có phát hiện mới thì sao?"

Bác sỹ Lý không nói gì, nhưng có thể thấy anh ta không phục lắm.

"Chúng ta xem phần lưng trước đi đã." Sư phụ nói xong, liền dùng màng bọc nilon bọc lấy phần bụng khuyết thiếu, phòng ngừa nội tạng lại rơi lòng thòng ra bên ngoài. Sau đó chúng tôi hợp lực lật thi thể lại, để nó nằm sấp xuống.

Do đã bị phân hủy mạnh, lại qua quá trình đông lạnh và rã đông, hiện giờ phần lưng nhìn ướt rượt, có thể thấy rõ những bọc khí thối rữa. Chúng tôi cẩn thận cắt mảng da lưng, tách cơ thang và cơ lưng rộng. Đột nhiên chúng tôi phát hiện được một vệt đỏ rất rõ ràng vắt từ vai trái sang vai phải.

Sư phụ nhìn kỹ dấu vết khắc sâu vào cơ thịt trên lưng này, quay đầu ra sau nói với bác sĩ Lý: "Chẳng phải anh khẳng định rằng không tìm được gì sao?"

"Đây là cái gì ạ?" Tôi hỏi.

"Đây là xuất huyết sâu vào cơ thịt, chứng tỏ người này khi còn sống bị đè một lực mạnh vào đằng trước, đằng sau tì vào một vật gì đó, dẫn đến hình thành hiện tượng xuất huyết như vậy."

"Cũng chẳng nói lên điều gì đúng không?" Bác sỹ Lý nói.

"Các anh nhìn kỹ, vết xuất huyết này rất thẳng, không gấp khúc, không có sự thay đổi màu sắc, chứng tỏ vật bị tì lên là một vật không gồ ghề." Sư phụ nói, "Tức là chứng minh dấu vết này xuất hiện khi người chết bị đè lên một vật có mép thẳng."

"Là cưỡng hiếp ư?" Bác sỹ Lý hỏi.

"Tại sao cứ phải là cưỡng hiếp?" Sư phụ nhíu mày, "Quần áo của người này vẫn hoàn chỉnh, không có dấu hiệu cũng như căn cứ để cho rằng đó là cưỡng hiếp. Nếu chặn, bóp, khống chế từ phía trước mặt thì vẫn có thể đè lực xuống đúng chứ?"

"Nhưng người này không có triệu chứng ngạt thở." Bác sĩ Lý nói.

"Không có triệu chứng ngạt thở chứng tỏ nạn nhân không bị bóp chết, nhưng không chứng minh rằng cô ấy không bị chặn giữ." Sư phụ sửa lại lỗi logic của bác sĩ Lý.

Bác sĩ Lý nhún vai, "Được thôi, cứ cho là bị chặn, vậy có thể giải thích điều gì?"

"Vật có mép thẳng ví dụ như tủ, giường, bàn." Sư phụ nói tiếp, "Đây đều là vật dụng trong nhà. Nếu ở trong rừng sâu núi cả thì chỉ có đá tảng gồ ghề. Chứng tỏ người này bị tấn công trong nhà, chứ không phải bị cướp hại trên đường."

Tôi cảm thấy phân tích này của sư phụ rất quan trọng, nạn nhân bị làm hại ở trong nhà, cũng có nghĩa là cô ấy và hung thủ có quan hệ. Nhưng bác sỹ Lý không cho là đúng, anh ta lắc đầu, tỏ vẻ chẳng hứng thú với phân tích này.

Giải phẫu lưng xong, chúng tôi lật thi thể lại, dùng gạc lau đi máu dính trên thi thể.

"Vẫn chưa làm rõ được nguyên nhân tử vong hả?" Sư phụ vừa nói vừa lấy gạc lau khu vực xung quanh lỗ hổng trên xương sọ.

"Vẫn chưa, nội tạng không bị tổn thương, có thể thấy phần mềm cũng vậy. Xương móng trong họng không gãy, triệu chứng ngạt thở không quá rõ ràng. Cho nên chúng tôi không có cách nào suy đoán được nguyên nhân tử vong." Bác sỹ Lý nói, "Nhưng không rõ nguyên nhân tử vong cũng không phải vấn đề. Với điều kiện thi thể như thế, không tìm ra cũng là bình thường."

Sư phụ nhíu chặt mày, rõ ràng rất khó chịu với lời lấp liếm của bác sỹ Lý. Thầy lau màng xương một lúc rồi nói, "Tại sao không phải là chấn thương sọ não dẫn đến tử vong?"

"Da đầu không còn, não cũng mất, màng não cứng chỉ còn mảnh nhỏ, nhìn qua những mảnh đó thấy không có máu đọng. Chúng tôi không khẳng định là không phải chấn thương sọ não, nhưng cũng không có căn cứ phán đoán là chấn thương sọ não." Bác sỹ Lý đáp.

"Sao lại không có căn cứ?" Sư phụ chỉ vào lỗ hổng trên xương sọ, "Trên xương sọ có vết gãy vỡ lớn như vậy, chẳng lẽ không thể dẫn đến cái chết?"

"Vết gãy này không chứng minh được gì mới phải chứ?" Bác sỹ Lý nói, "Chúng tôi cho rằng đó là do thú hoang cắn vỡ xương sọ."

"Thú dữ đúng là có khả năng cắn vỡ xương sọ cứng rắn." Sư phụ đáp, "Nhưng trung tâm những vết nứt vỡ này nằm ở đỉnh chóp. Tức là điểm lực nằm ở đỉnh đầu, đối xứng với đỉnh đầu là cổ, anh nói xem thú hoang cắn như thế nào? Trong trường hợp cắn vỡ sọ thường thấy nhất, hàm trên của thú dữ đặt ở một bên như phần trán, phần sau đầu, phần thái dương... còn hàm dưới đặt ở bên đối xứng, như vậy mới có thế cắn xuống được. Nhưng nếu một hàm đã đặt trên đỉnh đầu, vậy hàm còn lại đặt ở đâu? Cắn như thế nào?"

Lý thuyết này nghe quá phức tạp, không dễ giải thích rõ ràng, nên sư phụ nắm tay trái lại làm xương sọ, tay phải giả làm miệng thú dữ mà diễn tả.

Nhìn khuôn mặt mờ mịt của bác sỹ Lý, tôi biết anh ta nghe cũng không hiểu.

Sư phụ lại chỉ tiếp vào những đường gãy xương tỏa ra xung quanh lỗ hổng trên xương sọ, "Ngoài ra, ở chỗ xương sọ bị thiếu này hẳn là xương đã bị dập nát, sau đó da đầu mất hết khiến cho những mảnh xương này rơi ra. Nếu như bị răng cắn thì làm sao có đường nứt vỡ tỏa ra như vậy? Loại nứt vỡ này chỉ thường thấy khi bị vậy tày đánh trực tiếp, lực truyền ra xung quanh dẫn đến nứt vỡ kiểu đó."

Bác sỹ Lý hiểu được những lý thuyết này, tỏ ra rất xấu hổ. Nghe sư phụ nói vậy, tôi thấy suy đoán bị thú hoang cắn của bọn họ thật nực cười.

[1] "Một hai ba bốn năm, lên núi nắm con hổ" là lời một ca khúc thiếu nhi tên là "Bài ca năm ngón tay". Ở đây cũng có nghĩa chơi chữ vì đội pháp y đi vào vùng núi tìm bắt hung thủ.

Chương 12.3

"Cưa xương sọ đi." Sư phụ ra lệnh, tôi nhanh chóng lấy cưa điện ra, tránh phần lỗ hổng, cưa một đường vòng quanh xương sọ, tách rời toàn bộ phần xương đỉnh đầu.

Sư phụ dùng kính lúp soi mặt cắt trên xương sọ, nói: "Khoảng xương xốp ở nơi vừa cưa rất sạch, đều là màu trắng." Sau đó sư phụ cầm phần xương đỉnh đầu có lỗ hổng, soi xung quanh bề mặt xung quanh vết gãy xương, nói tiếp, "Đường gãy xương này có phản ứng sinh hoạt rất rõ. Tức là khi nạn nhân còn sống bị tấn công vào đầu dẫn đến việc hình thành lỗ hổng này, sau đó da đầu mất đi khiến cho các mảnh xương vỡ rơi ra."

"Ý ngài là chấn thương sọ não đúng không?" Giọng bác sĩ Lý đầy sự ngưỡng mộ.

"Suy đoán này hẳn là không sai." Sư phụ nói xong, bác sỹ Lý liền vội vàng ghi chép vào biên bản khám nghiệm tử thi.

"Thi thể phân hủy rất mạnh, chúng ta cần tiết kiệm thời gian mới được, anh kiểm tra vùng ngực, tôi xem khoang bụng", sư phụ nói với tôi. Những người xung quanh thấy sư phụ sắp xếp như thế, có lẽ nghĩ rằng thầy không đặt nhiều hi vọng vào việc tìm ra manh mối ở bước khám nghiệm tiếp theo. Nhưng tôi lại nghĩ thầy đang mượn cơ hội để thử thách tôi. Bởi tôi biết rõ, nếu hung thủ đã từng gây đè ép lên phía trước của nạn nhân, thì rất có thể sẽ để lại manh mối trên cổ hoặc nội tạng vùng ngực.

Tôi gật đầu, lấy mảng xương trên lồng ngực xuống, cẩn thận xem xét các bộ phận trong lồng ngực.

Nội tạng vùng ngực không có bất cứ tổn thương nào, sắp xếp chỉnh tề trong lồng ngực. Tôi ngẩng đầu nhìn bên sư phụ, thấy thầy đang tự tay xếp lại mớ nội tạng tanh tưởi ngổn ngang cho ngay ngắn. Chỉ cần liếc mắt liền thấy ngay, các bác sỹ pháp y địa thương đã không quan sát kỹ nội tạng vùng bụng trong lần giải phẫu đầu tiên, bởi khi sư phụ lật mớ ruột ra còn thấy trên ruột dính cả lá cây. Hiển nhiên chiếc lá này bám vào ruột khi phần nội tạng bị lôi ra ngoài mương cạn. Rõ là trong lần giải phẫu đầu tiên, nội tạng đã không được thu xếp cẩn thận, càng không được làm sạch.

Khi lấy khí quản của nạn nhân ra, tôi phát hiện xương móng không gãy, nhưng phần mềm giữa họng lại có dấu hiệu xuất huyết. Tôi cẩn trọng tách sụn giáp ra, phát hiện ở góc trên sụn giáp có vết gãy rõ ràng.

"Góc trên sụn giáp gãy." Tôi bình thản nói ra những gì mình thấy, bác sỹ Lý ghi chép lại trong nỗi xấu hổ.

"Đúng vậy, có thể hung thủ đã dùng một tay bóp chặt cổ nạn nhân, để đè giữ cô ấy lên một vật có mép thẳng, tay còn lại dùng vật tày đánh lên đầu nạn nhân." Sư phụ bắt đầu dựng lại tình huống theo thói quen, "Tại sao các anh không phát hiện ra điều này?"

"Cũng chẳng phải chết vì bị bóp cổ, có tác dụng gì chứ?" Bác sỹ Lý vẫn lầm bầm lấp liếm.

"Sao lại không có tác dụng?" Sư phụ nói, "Chỉ cần dùng một tay để giữ chặt một người trưởng thành, một bàn tay còn có thể làm gãy sụn giáp, điều đó chứng tỏ cái gì?" Sư phụ tiếp, "Chứng tỏ hung thủ có sức hơn nạn nhân rất nhiều, có thể là đàn ông khỏe mạnh, đúng không?"

Bác sỹ Lý không nói gì.

"Bên cạnh đó, trong khoang bụng cũng có manh mối quan trọng." Sư phụ nói, "Xem nửa bầu ngực còn lại này, là nửa dưới bầu ngực phải. Trên bề mặt da dưới ngực có dấu vết rõ ràng như thế mà các anh không thấy sao?"

Chúng tôi cùng nhìn qua, thấy phần mềm dưới ngực có một vết gì đó có vẻ giống sẹo.

"Là sẹo đúng không?" Tôi mừng rỡ hỏi. Bởi vì việc tìm thấy sẹo hoặc bớt trên thi thể rất có lợi cho công tác tìm kiếm nguồn gốc thi thể.

"Hình như không phải sẹo, trông không giống lắm." Bác sỹ Lý nói, "Gan ruột đều bị thú hoang gặm cắn, không còn gì mấy, nội tạng nào còn hay mất, nội tạng nào từng qua phẫu thuật đều khó có thể nhận ra. Phần mềm lại thối rữa như vậy, không thể kết luận những vết đậm màu là sẹo được, cũng có khả năng là dấu vết hình thành do mức độ phân hủy khác nhau."

"Nếu kết hợp với thứ này thì sao?" Sư phụ mỉm cười giơ tay phải đang cầm kẹp lên.

Chúng tôi thấy rõ chiếc kẹp trên tay sư phụ đang kẹp một đoạn chỉ khâu ngắn màu đen. Có thể tìm thấy thứ này giữa đoạn ruột dính đầy nước bùn, cỏ dại, cành cây... thật không dễ dàng. Tôi biết đoạn chỉ khâu ấy có ý nghĩa gì đó, nhưng vấn đề là nó phải có quan hệ với nạn nhân.

"Có chắc rằng đoạn chỉ khâu này nằm trong cơ thể không ạ?" Tôi nói, "Nội tạng đều bị cắn phá nghiêm trọng, vì sao đoạn chỉ này lại xuất hiện một cách trùng hợp như vậy?"

Sư phụ cười ha ha nói: "Giữa núi hoang lấy đâu ra chỉ khâu chuyên nghiệp thế này? Tôi khẳng định nạn nhân khi còn sống đã từng phẫu thuật, đoạn chỉ này lưu lại trong cơ thể từ lúc đó. Còn tại sao chúng ta trùng hợp tìm được nó, thì tôi chỉ có thể nói là do Thượng đế sắp xếp."

"Thầy có biết cô ấy từng làm phẫu thuật gì không?" Tôi hỏi tiếp.

Sư phụ dùng kẹp chỉ vào khoảng dưới lá gan đã bị thú hoang gặm gần hết, nói, "Ống dẫn mật có vết thắt, hẳn là đã từng phẫu thuật mật."

"Nhưng dù biết cô ấy đã từng mổ mật cũng chẳng dễ điều tra hơn." Bác sỹ Lý nói, "Các trạm xá xã ở đây không đủ khả năng làm phẫu thuật, nhưng hàng năm trên bệnh viện huyện vẫn có rất nhiều ca phẫu thuật mật. Chúng ta không thể kiểm tra tất cả những người phẫu thuật mật trong nhiều năm qua đúng không? Nếu làm thì số lượng công việc phải lớn đến thế nào chứ?"

"Có thể tiến thêm một bước thu nhỏ phạm vi điều tra." Sư phụ bắt đầu cảm thấy bác sỹ Lý thật phiền phức, "Dù chúng ta không thể thu nhỏ phạm vi thì cũng phải kiểm tra, mạng người là quan trọng, làm thêm chút việc có đáng gì đâu."

Trong khi sư phụ phê bình bác sĩ Lý không có đủ cả tư tưởng lẫn tố chất làm pháp y, thì tôi lại hứng thú với vấn đề khác. Tôi hỏi sư phụ: "Làm thế nào để thu hẹp phạm vi ạ?"

Sư phụ lại trở về với nét mặt vừa hào hứng vừa thần bí, nói: "Có ba căn cứ. Thứ nhất, bệnh về mật thường xuất hiện ở độ tuổi trên dưới bốn mươi, mà thông qua liên hợp xương mu, chúng ta đã chắc chắn rằng nạn nhân khoảng 27 tuổi, vậy bác sĩ phẫu thuật hẳn sẽ có ấn tượng với bệnh nhân trẻ tuổi này."

Tôi thấy bác sỹ Lý lại lắc đầu. Tuy rằng tôi rất khó chịu với thái độ của anh ta, nhưng tôi cũng hiểu rằng suy đoán này của sư phụ vẫn hơi đại khái, có lẽ chẳng đưa ra kết quả gì.

"Thứ hai," Sư phụ biết chúng tôi không chịu phục, liền nói tiếp, "Hãy nhìn loại chỉ khâu này. Đây là loại chỉ tự hấp thụ chuyên dụng trong giải phẫu ngoại khoa. Loại chỉ khâu này sẽ dần được cơ thể hấp thụ trong khoảng hơn một tháng sau khi phẫu thuật. Nói cách khác, sau khi phẫu thuật hơn một tháng thì chỉ khâu này sẽ tự tiêu vào cơ thể, không thể nhìn thấy. Hiện giờ chúng ta tìm ra đoạn chỉ khâu còn khá nguyên vẹn, bắt đầu thấy rõ hiện tượng được hấp thụ, chứng tỏ thời điểm người này chết nằm trong khoảng một tháng sau khi mổ mật. Kết hợp với phỏng đoán thời gian lưu giữ thi thể là khoảng một tháng rưỡi, suy ra cần kiểm tra danh sách những người phẫu thuật mật trước thời điểm tìm thấy thi thể khoảng ba tháng, có khả năng sẽ tìm ra nguồn gốc thi thể."

Nghe sư phụ nói vậy, trong lòng tôi lập tức tràn đầy niềm tin.

"Nhưng có thể khẳng định người này là dân ở đây không?" Bác sỹ Lý hỏi.

"Vấn đề này rất quan trọng, theo như suy đoán lúc trước của tôi, người này là dân vùng núi. Những bệnh viện huyện gần vùng núi đều phải điều tra." Sư phụ nói.

"Năm huyện quanh đây đều là vùng núi." Bác sỹ Lý nói, "Năm huyện, thời gian ba tháng, có bao nhiêu ca phẫu thuật mật chứ!"

"Không nhất thiết cứ ai rạch mật ra là phải điều tra." Sư phụ tiếp, "Đây chính là điều thứ ba tôi muốn nói, lấy dấu vết dưới ngực nạn nhân, kết hợp với đoạn chỉ chúng ta vừa tìm thấy, cơ bản có thể kết luận đây là sẹo còn lại sau khi phẫu thuật mật."

Chúng tôi hoang mang gật đâu, không biết điều thứ ba này có gì đặc biệt.

Sư phụ nói, "Phẫu thuật mật có phải rạch rộng đến tận chỗ này không?"

"Ý ngài là sự cố phẫu thuật? Rạch nhầm à?" Bác sỹ Lý giật mình nói.

Sư phụ lắc đầu, tôi cũng lắc theo, ra vẻ coi thường khả năng suy đoán chẳng có logic của bác sỹ Lý.

"Bác sỹ ở bệnh viện huyện mổ mật còn có thể mổ nhầm sao?" Sư phụ nói.

"Em cảm thấy là do túi mật nằm ở vị trí khác thường." Tôi đưa ra một phỏng đoán táo bạo.

"Giỏi lắm." Sư phụ thấy tôi nói chính xác đáp án liền tỏ ra rất vui vẻ. "Rất nhiều người có túi mật nằm ở vị trí khác thường, kiểm tra trước khi phẫu thuật chưa chắc đã phát hiện ra. Trong khi phẫu thuật, nếu phát hiện sự sai biệt này thì chỉ có thể mở rộng miệng vết mổ. Dựa vào vị trí ống mật mà lúc này chúng ta nhìn thấy, cơ bản có thể kết luận, túi mật của nạn nhân nằm ở vị trí cao hơn bình thường, cho nên bác sỹ phẫu thuật phải kéo dài vết mổ ra."

"Tức là chúng ta chỉ cần tìm trong các bệnh viện huyện quanh đây một người tầm 27 tuổi, phẫu thuật mật cách đây khoảng ba tháng, túi mật có vị trí khác thường là được. Em nghĩ sẽ nhanh có kết quả thôi." Tôi cướp lời sư phụ, xâu chuỗi những manh mối vừa được phát hiện lại với nhau. Sư phụ nhìn tôi, gật đầu khen ngợi.

Chiều hôm đó, tôi cùng sư phụ tràn đầy tự tin, oai hùng dũng mãnh hiên ngang tiến vào phòng họp ban chuyên án.

Do không nhận được manh mối hỗ trợ từ phía chúng tôi, việc điều tra gặp phải nhiều khó khăn. Dưới sự chỉ huy tận tay của Trung đoàn trưởng, các điều tra viên được phái đi điều tra không ai dám cẩu thả, cho nên khi chúng tôi đến phòng họp, phần lớn điều tra viên còn chưa kịp chạy về.

"6 giờ họp, hiện giờ chắc các điều tra viên còn đang ăn cơm." Trung đoàn trưởng nói, "Thế nào? Có phát hiện gì không?"

Sư phụ gật đầu cười, nói: "Có phát hiện. Chờ điều tra viên đến chúng tôi sẽ nói chi tiết."

Những đồng chí đã đến phòng họp đều đang cặm cụi xem hồ sơ và tài liệu điều tra. Nhìn khuôn mặt họ, hẳn là vẫn chưa có tiến triển đáng kể.

Sư phụ ngồi một mình ở góc phòng họp, ôm laptop, chậm rãi xem từng bức ảnh chụp hiện trường. Đột nhiên thầy gọi: "Tần, lại đây xem này. Cái gì đây?"

Tôi vội chạy lại nhìn, sư phụ phóng to một bức ảnh chụp. Trong ảnh là đường núi tuyết phủ trắng mênh mông, chỉ thấy một mảng tuyết trắng, chẳng có gì khác.

"Tuyết đấy ạ." Tôi trêu chọc sư phụ.

Sư phụ trừng mắt lườm tôi, nói: "Trong tuyết có dấu vết loáng thoáng, nhìn kỹ đi."

Tôi lại nhìn chằm chằm vào màn hình. Không phải chứ, phóng to ra, nhìn kỹ vào, đúng là có thấy cái gì đó thật.

Trong ảnh chụp, giữa mặt đất phủ đầy tuyết, lờ mờ có thể thấy một đường thẳng lõm xuống, in vào bề mặt gập ghềnh.

"Cái này... là gì nhỉ?" Đầu óc tôi nhanh chóng hoạt động, "Hay là vết bánh xe?"

"Đúng!" Sư phụ thấy ý kiến của tôi giống với thầy, lập tức tỏ vẻ hứng thú, "Tôi cũng biết đó là vết bánh xe. Bánh xe đi trên đường tuyết sẽ để lại dấu vết, sau đó tuyết rơi xuống sẽ không thể nhìn rõ nữa. Nhưng mắt thường không thấy rõ, không có nghĩa là phóng to ảnh chụp sẽ không thấy gì!"

Tôi cũng hào hứng theo, gật đầu nói: "Chứng tỏ máy ảnh được cấp trên trang bị cho quá xịn."

Sư phụ không để ý tới suy nghĩ lạc đề của tôi, thầy nói tiếp: "Nhìn kỹ xem, vết bánh xe này là hai đường song song, nếu là một đường lúc đi, một đường lúc về thì rất khó song song với nhau, vậy nên..."

"Nên đó là xe đẩy tay!" Tôi cướp lời. Sư phụ nói: "Đúng, dùng xe đẩy tay để chuyển xác!"

Trung đoàn trưởng nghe nói chúng tôi tìm ra manh mối khi xem ảnh chụp cũng chạy lại góp vui: "Chuyển xác bằng xe đẩy tay, việc đó có giúp gì cho điều tra không?"

"Tức là trong nhà hung thủ có xe đẩy tay." Tôi nói.

Cả phòng chìm trong im lặng. Suy đoán này có vẻ không giúp ích gì cho vụ án, bởi nhà dân ở đây đến quá nửa là có xe đẩy.

Sư phụ cười nói: "Đừng nóng vội, trước mắt coi như nó không có giá trị với vụ án, nhưng chưa biết chừng lại có lúc cần, hoặc có khả năng dẫn đến phát hiện bất ngờ."

Sau đó tổ chuyên án nhanh chóng có mặt đông đủ, Trung đoàn trưởng vội yêu cầu chúng tôi mau đưa ra những phát hiện của mình.

Sư phụ nhấp một ngụm nước, đều đều nói: "Qua khám nghiệm tử thi, trước tiên chúng tôi xác định nguyên nhân cái chết là chấn thương sọ não nghiêm trọng dẫn đến tử vong. Đồng thời chúng tôi cũng suy đoán, hung thủ giữ chặt cổ nạn nhân, đè cô ấy xuống một vật dụng trong nhà, sau đó dùng vật tày đánh vào đầu, gây ra cái chết cho nạn nhân. Sau khi nạn nhân tử vong, hung thủ giấu xác trong sân vườn. Khoảng hơn một tháng trước, thi thể bắt đầu phân hủy bốc mùi, hung thủ không thể tiếp tục che giấu, vì vậy nhân một đêm tuyết lớn, dùng xe đẩy tay đưa thi thể ra bãi tha ma vùi lấp qua loa. Khi tuyết ngừng rơi, thú hoang trong núi liền coi thi thể là thức ăn mà lôi ra."

Nghe sư phụ nói thế, tôi đột nhiên nhớ đến lời sư phụ nói lúc trước, rằng phải đem nguyên nhân tử vong kết hợp với quá trình giấu xác. Bây giờ đã tìm ra nguyên nhân dẫn đến cái chết, làm rõ được quá trình giữ xác, vậy có thể suy đoán ra điều gì?

Quả nhiên sư phụ bắt đầu nói đến vấn đề này: "Nạn nhân bị vật tày đập vào đầu, xương đầu bị vỡ nát, da đầu cũng bị đánh rách, nếu như giấu một thi thể bị thương trên đầu thì..."

"Nơi giấu xác hẳn sẽ có vết máu của nạn nhân!" Tôi không nén được sự vui sướng, bỗng nhiên cướp lời sư phụ định nói.

Các điều tra viên đều giật mình với câu tôi vừa thốt ra, mọi người đều quay đầu nhìn tôi.

Sư phụ cười nói, "Đúng. Căn cứ vào các điều kiện khác, chúng tôi cho rằng hung thủ là một người đàn ông trẻ, khỏe mạnh, quen biết với nạn nhân, trong nhà có xe đẩy tay, trong sân nhà hẳn là có chỗ giấu xác, nơi đó có lẽ có vết máu của nạn nhân."

Chương 12.4

Sau khi nắm rõ thông tin, các điều tra viên đã sẵn sàng lao đi. Trung đoàn trưởng nói, "Làm tốt lắm! Bây giờ chúng tôi lập tức phái công an khu vực đến từng nhà điều tra."

Sư phụ lắc đầu, nói: "Lần trước tôi đến xem hiện trường, trừ thôn Thu Cảnh vẫn còn thôn Phong Lương bên cạnh cũng có đường mòn dẫn đến bãi tha ma. Tiếc rằng ảnh chụp quá hạn chế, không thể suy đoán tuyến đường mà chiếc xe đẩy đi qua, nên trước mắt vẫn chưa thể khẳng định hung thủ là người thôn nào. Hơn nữa việc điều tra sẽ gây ảnh hưởng lớn, tôi nghĩ không nên đánh động đến hung thủ."

Trung đoàn trưởng gật đầu tỏ vẻ tán thành: "Nhưng nếu không điều tra thì phải làm thế nào?"

Sư phụ đáp: "Đừng vội, chúng ta còn cách làm khác, thậm chí còn nhanh gọn hơn cả tiến hành điều tra."

Nghe sư phụ nói thế, các điều tra viên đều cầm bút lên, bắt đầu ghi chép.

Sư phụ nói: "Thông qua kiểm tra thi thể một cách kỹ càng, chúng tôi phát hiện ra một manh mối rất quan trọng, có thể sẽ giúp tìm ra nguồn gốc thi thể trong thời gian rất ngắn."

Trung đoàn trưởng mắt sáng rực lên.

Sư phụ nói tiếp: "Trước mắt đã xác định nạn nhân là một cô gái khoảng 27 tuổi, nhà gần vùng núi, tức là khu vực năm huyện quanh đây. Khoảng từ tháng tám đến tháng mười một năm nay, nạn nhân đã từng được phẫu thuật mật tại bệnh viện của một trong năm huyện này. Ngoài ra cuộc phẫu thuật không quá thuận lợi, vì trong khi mổ mới phát hiện ra túi mật của cô ấy nằm ở vị trí khác thường, vậy nên phải mở rộng vết mổ."

Các điều tra viên cắm cúi ghi lại, Trung đoàn trưởng không nén nổi tò mò, hỏi: "Làm thế nào mà các anh có thể suy đoán thông tin chuẩn xác như vậy?"

"Chúng tôi sẽ diễn giải điều này trong biên bản giám định, hiện giờ không cần nói quá chi tiết." Sư phụ nói, "Bước tiếp theo, chúng ta nên chia thành năm hướng, đến các bệnh viện huyện điều tra bệnh án, tôi nghĩ sẽ nhanh tìm thấy nguồn gốc thi thể thôi."

"Được!" Đội trưởng đội hình sự thành phố Thu Lĩnh ra chỉ thị: "Chúng ta chia làm năm tổ công tác, mỗi tổ phụ trách một huyện, lập tức xuất phát, trong đêm nay phải liên hệ với công an địa phương để xin phối hợp, đồng thời tìm lãnh đạo ở các bệnh viện. Yêu cầu trước giờ đi ngủ phải biết được nạn nhân tên họ là gì!"

Các điều tra viên vội vã thu thập giấy tờ, chuẩn bị xuất phát ngay trong đêm. Đội trưởng hình sự quay lại hỏi bác sỹ Lý: "Tôi muốn hỏi anh, vì sao nhiều manh mối như vậy mà anh không phát hiện ra được?"

Câu hỏi này khiến mặt bác sỹ Lý đỏ gay, chỉ biết cúi đầu không dám nhìn thẳng vào ánh mắt lạnh lùng của anh đội trưởng.

Trung đoàn trưởng thấy anh đội trưởng sắp chửi bới đến nơi, sợ anh ta phá hỏng không khí ngập tràn hi vọng trong phòng, liền nhanh chóng hòa giải: "Không có việc gì làm thì về đi ngủ đi, chưa biết chừng mai lại vất vả hơn đấy."

Lúc quay về nhà khách, tôi mang sổ tay ra ghi lại tất cả những gì hôm nay đã làm được, tôi cảm thấy một ngày làm việc này giúp bản thân tiến bộ không ít.

12 giờ đêm, di động vang lên tiếng tin nhắn. Tôi cần điện thoại lên xem, thấy sư phụ nhắn: "Thuận lợi lắm, tìm thấy nguồn gốc thi thể rồi, tổ công tác đang trên đường đến nhà nạn nhân, mau đi ngủ đi, mai chúng ta còn phải phá án."

Nhờ suy đoán chính xác của sư phụ, chỉ trong vỏn vẹn sáu tiếng đồng hồ, từ một thi thể tưởng chừng như không thể tìm thấy nguồn gốc, chúng tôi đã biết được cô ấy là ai. Tôi nằm trên giường trằn trọc, không thể ngủ được. Cuối cùng chúng tôi cũng được về ăn Tết rồi.

8 giờ sáng hôm sau, tôi cùng sư phụ đúng giờ đến ngồi vào bàn tròn trong phòng họp chờ đợi.

Đứng lên báo cáo là một tổ gồm ba điều tra viên, từ đôi mắt thâm quầng có thể thấy họ đã thức trắng đêm không ngủ.

"Điều tra rất thuận lợi." Người phụ trách tổ nói, "Dựa vào suy đoán của chuyên gia trên tỉnh, 11 giờ 30 phút đêm qua, chúng tôi tìm thấy tại bệnh viện huyện Thu Bồng một bệnh nhân bị sỏi mật rất phù hợp với mô tả, tên là Tôn Lệ Mai. 2 giờ sáng chúng tôi tới được nhà cô ấy. Tôn Lệ Mai, 28 tuổi, là người thôn Phong Thu thuộc huyện Thu Bồng. Trong nhà có con gái hai tuổi, chồng đi làm xa, con gửi cho bà của Tôn Lệ Mai trông nom. Theo lời bà cụ, vì chồng không ở nhà nên khoảng hai năm nay Tôn Lệ Mai có quan hệ mật thiết với một người đàn ông ở thôn bên cạnh. Hắn ta vừa khéo lại là người ở thôn Phong Lương.

Vừa nghe tin này, nhiệt huyết trong lòng tôi lại sục sôi, án sắp phá được rồi.

Anh phụ trách tiếp tục báo cáo: "Ngày 17 tháng 10, Tôn Lệ Mai đến bệnh viện huyện Thu Bồng để phẫu thuật mật. Vì bà của Tôn Lệ Mai muốn trông đứa bé, nên Tôn Lệ Mai nhờ "anh họ" là người ở thôn Phong Lương đến chăm sóc. Sau khi xuất viện thì không biết Tôn Lệ Mai đã đi đâu."

"Người đàn ông này có quan hệ thế nào?" Sư phụ hỏi thêm.

"Người này tên là Quách Tam. Hắn ta có một vườn trà lớn. Bởi vì vườn trà này ở vị trí tốt, lá trà cho sản lượng cao, chất lượng cũng cao, nên điều kiện kinh tế của hắn không tệ. Vợ hắn tên là Lâm Ngọc Lan. Chúng tôi không dám đánh động đến Quách Tam, chỉ điều tra xung quanh, thấy mấy tháng nay trừ vài ngày đi chăm sóc Tôn Lệ Mai thì hắn và vợ không rời khỏi nhà. Nên tôi cảm thấy Quách Tam không có nhiều khả năng gây án."

"Sao lại không có nhiều khả năng?"

"Quách Tam đối xử với Tôn Lệ Mai rất hào phóng, nghe nói tiền thuốc men đều do Quách Tam trả, cho nên sẽ không vì thù hận, nợ nần mà giết người. Khả năng giết người vì tình lại càng nhỏ, theo như chuyên gia đã phân tích, nạn nhân chết sau khi phẫu thuật khoảng một tháng, tức là khoảng giữa tháng mười một. Từ tháng 10 đến tháng 11 Lâm Ngọc Lan vẫn ở nhà, nếu ngày 30 tháng 10 Quách Tam dẫn Tôn Lệ Mai vừa xuất viện về nhà mình ở nửa tháng, thì chẳng lẽ Lâm Ngọc Lan lại không nói gì?"

"Vì sao chị ta nhất định phải có ý kiến?" Sư phụ nói, "Chúng ta không thể nghĩ như vậy, loại người gì cũng có, dĩ nhiên sẽ có người phụ nữ chịu nhịn nhục."

Điều tra viên gật đầu.

"Dù thế nào chăng nữa, Quách Tam hiện là người bị tình nghi nhiều nhất." Sư phụ nói,"Cứ bắt người về trước đã, ngoài ra tôi sẽ cùng tiểu Tần sẽ đến nhà hắn xem sao."

Lần đầu tiên đi bắt kẻ bị tình nghi, có vẻ như tôi vẫn chưa kịp thích ứng. Khi thấy ba điều tra viên ấn chặt Quách Tam đang ngồi trong nhà sao trà xuống đất rồi còng tay, tôi vẫn có chút thương hại kẻ bị đè ra như gà chịu trói. Lâm Ngọc Lan thì khóc gào, nghe không ra câu nào với câu nào. Một nữ cảnh sát đi lên giữ lấy Lâm Ngọc Lan, nói: "Cùng lên Cục công an, chúng tôi cần chị nói vài chuyện."

Ngay khi vợ chồng Quách Tam bị điều tra viên nhét vào trong xe, đưa về điều tra, sư phụ dẫn tôi vào sân nhà họ Quách.

Trong góc sân có một cái xe đẩy, chiếc xe đẩy này lập tức khiến tôi cực kỳ hứng thú. Tôi mau chóng đội mũ, đeo khẩu trang và găng tay, đến gần chiếc xe quan sát. Sư phụ thì bị đống củi được chất ở một góc khác hấp dẫn, thầy chậm rãi đi lại quanh đống củi ấy.

Chiếc xe đẩy này hết sức bình thường, thoạt nhìn thấy nó cũng đã qua nhiều năm sử dụng. Tôi vuốt nhẹ lên mặt trên của chiếc xe, đột nhiên, dường như có một vật cứng móc vào găng tay của tôi. Tôi từ từ nhấc tay ra khỏi đó, nhìn thật kỹ, thì ra ở đoạn giữa bề mặt xe có một cái đinh sắt nhô ra. Có lẽ vì sợ nó sẽ làm người ta bị thương nên mũi nhọn đã bị đập cho cong xuống, hình thành trên mặt xe một cái móc sắt hơi gồ lên.

Tôi lấy đèn pin chiếu chếch xuống, rồi dùng kính lúp soi kỹ, liền phát hiện ra vật chứng quan trọng – là mấy sợi len màu xanh lá.

Trong đầu tôi lập tức hiện ra hình ảnh lúc chúng tôi kiểm tra quần áo của nạn nhân. Lúc ấy chúng tôi phát hiện nạn nhân mặc một chiếc áo len màu xanh lá, sau lưng có một chỗ bị thủng, quanh lỗ thủng dính đầy rỉ sắt. Giờ đã quá rõ ràng, chiếc xe đẩy này chính là xe được dùng để chuyển thi thể.

"Sư phụ!" Tôi hào hứng gọi sư phụ như thể Tôn Ngộ Không, "Ở đây có vài sợi tương tự như chất liệu trên quần áo của nạn nhân, có thể đối chiếu với vết thủng sau lưng áo!"

Tôi ngẩng đầu nhìn quanh, không thấy sư phụ đâu, chỉ nghe thấy tiếng thầy từ sau đống củi vọng ra: "Tốt! Cẩn thận lấy ra, mang về tiến hành kiểm nghiệm vật chứng vi lượng, tôi cũng cho rằng đó là chứng cứ có tính quyết định."

Tôi thấy rất kỳ lạ, khi tôi phát hiện ra căn cứ quan trọng như vậy mà sư phụ vẫn không đi ra từ sau đống củi, hay là thầy tìm thấy thứ gì tốt hơn?

Tôi chụp ảnh, lấy mẫu vật chứng xong, liền đi đến sau đống củi tìm sư phụ.

Sư phụ đang ngồi xổm, bên cạnh là hòm dụng cụ đã mở. Trên tay thầy cầm một tấm giấy thử, từ từ cọ xát lên mặt đất phía sau đống củi.

Lúc tôi đến gần mới thấy, hóa ra trên mặt đất ở đó dường như có một mảng đen đặc, cả khoảng đất như bị chất lỏng màu thẫm ngấm vào.

Tôi nhớ lại suy đoán của sư phụ khi họp ban chuyên án: Thi thể bị giấu đi, nơi giấu xác không ở trong nhà, đặc biệt là nơi ấy hẳn là có vết máu của nạn nhân.

Không ngờ sư phụ lại đoán đúng, giọng nói của tôi cũng vì phấn khích mà run lên: "Đây... đây là máu phải không?"

Sư phụ không đáp, thầy cầm phần giấy thử bị chà đen kịt, lấy thuốc thử trong hòm ra nhỏ hai giọt lên giấy thử, rồi quay lại giơ miếng giấy lên mà cười: "Haha, benzidine, dương tính!"

Nếu đã xác định mảng dấu vết này là máu thì niềm tin của chúng tôi càng được củng cố, sư phụ hồ hởi nói: "Lấy về đi, chắc chắn là trùng khớp DNA, thêm chứng cứ anh vừa phát hiện nữa, vậy là ăn chắc rồi!"

Chúng tôi ngâm nga quay về ban chuyên án, báo cáo lại những phát hiện quan trọng này với Trung đoàn trưởng, ông ấy thở dài một tiếng, lười biếng duỗi eo, nói: "Ngày mai về nhà ăn Tết thôi!"

Vừa dứt lời, thấy điều tra viên phụ trách thẩm vấn đẩy cửa chạy vào: "Báo cáo thủ trưởng, đã khai nhận."

Có chứng cớ mấu chốt của chúng tôi, việc hung thủ thú nhận chỉ là chuyện thời gian, nên sau khi nghe tin vui này Trung đoàn trưởng bình tĩnh cười: "Đừng vội, ngồi xuống đây, uống cốc nước rồi từ từ nói."

"Từ lúc bắt đầu, chúng tôi đã biết bọn họ là hung thủ." Điều tra viên nuốt nước miếng, nói: "Biểu cảm của họ lúc ở trên xe cho chúng tôi biết, vụ án này do họ gây ra. Khi đến phòng thẩm vấn, chưa quá năm phút, Lâm Ngọc Lan đã quỳ trên đất nói chị ta sát hại Tôn Lệ Mai. Theo ý kiến chỉ đạo của chuyên gia, hung thủ là một người đàn ông trẻ khỏe, nên chúng tôi vẫn tiếp tục kiên trì. Sau khi thẩm vấn một tiếng đồng hồ, hai người liền khai báo sự thật. Lời khai cũng trùng khớp."

Thì ra Quách Tam dan díu với Tôn Lệ Mai từ đầu năm ngoái, nhưng hai người khéo giấu diếm nên không ai biết. Thời điểm đó, việc buôn bán trà của Quách Tam ngày càng phát triển, điều kiện sinh hoạt tốt hơn, hắn cũng ngày càng đổ đốn. Đầu tiên hắn lật mặt với Lâm Ngọc Lan, nói cho chị ta biết quan hệ của hai người, ép Lâm Ngọc Lan chấp nhận cuộc ngoại tình này. Nói cách khác, Quách Tam ỷ vào tiền tài, hòng sống cuộc sống trong mơ một chồng hai vợ. Thật không ngờ yêu cầu vô liêm sỉ ấy lại được Lâm Ngọc Lan yếu đuối chấp nhận. Sau khi Tôn Lệ Mai phẫu thuật xong, Quách Tam đưa cô ta về nhà chăm sóc, còn Lâm Ngọc Lan phải hầu hạ Tôn Lệ Mai như trâu như ngựa. Khoảng giữa tháng 11, Tôn Lệ Mai đã hồi phục sức khỏe, cô ta liền ăn cháo đá bát, đòi Quách Tam ly hôn với Lâm Ngọc Lan. Nhưng Quách Tam không đồng ý, cô ta lại đòi hắn chia cho một phần tài sản, nếu không sẽ đi rêu rao chuyện họ ngoại tình.

Đến một hôm, Quách Tam và Tôn Lệ Mai lại cãi nhau về việc này. Lâm Ngọc Lan khuyên can thì bị Tôn Lệ Mai đẩy ngã. Quách Tam nghĩ tới lúc Lâm Ngọc Lan ân cần chăm sóc Tôn Lệ Mai, đột nhiên nổi giận, đè Tôn Lệ Mai xuống giường, thuận tay cầm một cái chày sắt dưới gầm giường lên, đánh chết cô ta. Sau khi giết người, hai vợ chồng tính toán rất nhiều cách, cuối cùng nghĩ mùa đông thi thể sẽ không thối rữa nên đem thi thể Tôn Lệ Mai giấu ở sau đống củi. Đến tận khi thi thể bốc mùi mới đành mạo hiểm mang ra bãi tha ma chôn cất.

Vụ án được giải quyết suôn sẻ. Dọc đường chúng tôi vui vẻ cười đùa, mang tâm trạng tốt đẹp quay về tỉnh.

Ở nhà sớm đã chuẩn bị một mâm cơm nóng sốt, đón chúng tôi chiến thắng trở về.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #trinhthám