Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân – mùa của cây lá đua nhau khoe sắc, đâm chồi ,nảy lộc, vạn vật tràn trề sức sống , cũng là thời khắc mang đến cho con người biết bao nỗi niềm. Có lẽ vì thế mà mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng vô tận của thi ca để từ đó trước bao sắc xuân rực rỡ, khí xuân ấm áp bao thi phẩm ra đời. Và nhà thơ Thanh Hải cũng không ngoại lệ mà góp vào kho tàng văn học một Mùa xuân nho nhỏ chất chứa niềm yêu thiết tha với cuộc sống, đất nước, quê hương và ước nguyện cao đẹp .
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, ngay trên giường bệnh và chỉ ít lâu sau tháng 12 năm 1980, nhà thơ mãi mãi ra đi. Ở giữa mùa đông giá rét của xứ Huế, đối mặt với biên giới giữa sự sống và cái chết nhưng không làm trái tim nhà thơ nguội lạnh. Ngược lại, tâm hồn thi nhân càng nảy nở, bừng sức sống để cảm nhận sâu sắc về một mùa xuân nồng ấm tình người, khiến ngòi bút nở hoa để một “Mùa xuân nho nhỏ” ấm áp tâm tinh của thi nhân trước thiên nhiên, con người, cuộc sống.
Nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ” thể hiện mong muốn của tác giả muốn hiến dâng Mùa xuân nho nhỏ cho mùa xuân chung, cuộc sống chung của dân tộc, đất nước. Mong ước chân thành đó vừa nhỏ bé vừa lớn lao. Nhỏ là vì Thanh Hải đã thành đạt trong triệu kiếp người đang ngày đêm cống hiến sức mình xây dựng đất nước.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên của mùa xuân, những âm thanh quen thuộc, giản dị từ đồng quê đã được tác giả vẽ nên một cách có chọn lọc và gợi hình, gợi cảm, giống như những tiếng hát reo hò khi đón chào một mùa xuân mới đã đến:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời”
Bức tranh xuân xứ Huế mở ra với những dấu hiệu đặc trưng: dòng sông xanh, bông hoa tím, tiếng chim chiền chiện hót Tác giả đặt từ “ mọc” lên trước giúp cho cảnh vật trở nên sinh động có hồn. Bông hoa tím phải chăng là bông hoa súng hay bông hoa lục bình đang từ từ xoè nở trên mặt nước sông Hương. Sự phối sắc hài hoà giữa hai gam màu tím và xanh tạo nên một bức tranh xuân mang vẻ đẹp đằm thắm nhẹ nhàng. Bức tranh ấy không chỉ có hoạ mà còn có nhạc. Âm thanh tiếng chim chiền chiền ngân vang ngân cao, ngân xa giúp cho không khí trở nên vui tươi rộn ràng. Tiếng gọi “ơi” thân thương kết hợp phép nhân hóa: cảm xúc yêu mến, thiết tha cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.Câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời?”lam sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt; làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với bệnh tật. Dòng sông êm trôi, bông hoa lững lờ, tiếng chim rộn rã… bức tranh mùa xuân xứ Huế bao giờ cũng đẹp, nhẹ nhàng, và mơ mộng như thế!
Tiếp đến,Nhà thơ đón nhận sự sống của thiên nhiên, đất trời bằng tình yêu dâng trào, bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, giọt mưa xuân đang rơi… Nhưng theo mạch cảm xúc của bài thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.
Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác. Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, rạo rực, ngây ngất; tâm hồn nhạy cảm, tình yêu quê hương đất nước tha thiết gắn bó với cuộc đời.
Trước thiên nhiên đất trời thơ mộng, Thanh Hải mở rộng lòng mình cảm nhận hình ảnh mùa xuân đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Điệp từ “mùa xuân” gắn với hai hình ảnh người cầm súng, người ra đồng – biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta trong những thập niên tám mươi của thế kỉ hai mươi là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động sản xuất xây dựng đất nước.“Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, như nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệc . Còn với người nông dân “một nắng hai sương” thì đây là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu.Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.
Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
Tất cả như hồi hả
Tất cả như xôn xao
Điệp ngữ “tất cả”, các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao”, nhịp thơ nhanh cho thấy nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước
. “Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Thanh Hải lắng lại lòng mình để nghĩ về đất nước trong lịch sử hiện tại và tương lai. Nhân dân ta đã trải qua bao thời kì lúc hưng thịnh, lúc suy vong của các thời đại phong kiến và gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Đất nước lấp lánh những chiến công trong lịch sử đẹp như những vì sao tinh tú trên bầu trời. Đất nước đang thẳng tiến tới tương lai bằng sức mạnh bằng bề dày lịch sử bốn nghìn năm. Cụm từ “cứ đi lên” như một mệnh đề thẳng tiến mà không một thế lực nào có thể ngăn cản.
Tận sâu nơi cõi lòng của nhà thơ dâng trào một nỗi khao khát, một nguyện vọng hiến dâng cho đời tựa như một tia sáng vụt lên khỏi vực thẳm tâm tối nhuốm bệnh hiểm nghèo, như một dòng suối ấm nóng len lỗi đến mọi ngõ ngách của trái tim người thi nhân và người thưởng văn:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Thanh Hải đã đặt bàn tay xám ngắt của mình lên chiếc vĩ cầm “thơ ca” để tấu lên giai điệu ngọt ngào, du dương, êm ái rót vào tâm hồn, nhẹ nhàng xoa dịu trái tim. Giai điệu ấy hiện lên trong những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp ngữ “ta làm...ta làm...ta nhập”. Tiếng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện của nhà thơ. Thi nhân muốn hoá thân đến tốt độ, hóa thân đến trọn vẹn hồn cốt – một sự hoá thân diệu kì. Đó hẳn là nguyên do mà ông sử dụng các động từ “làm”, “nhập”. Cái “ta” ở đây không phải là của riêng tác giả hay một cá thể đơn thân nào khác.”Ta” giờ đây là là một quần thể, một dân tộc. “Ta” đã đồng thanh, đồng điệu với mọi người, chân trời riêng đã hoà quyện với chân trời chung.Những hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm” dẫu nhỏ bé, đơn sơ nhưng lạ phúng dụ lẽ sống cao đẹp của Thanh Hải. Ông muốn làm một “con chim” trong muôn vàn loài chim, góp vào đời tiếng hót tươi vui, tha thiết làm đắm say lòng người. Ông chỉ xin được làm một cành hoa” trong xứ sở hoa với đủ đầy những gam màu từ rạng rỡ đến âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ ước mong được làm “một nốt trầm” lặng lẽ, âm thầm cứ mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến trong lòng người. Bản giao hưởng cuộc đời không thể thiếu những nốt trầm ấy. Thanh Hải – “nốt trầm” trong bản hoà ca muôn điệu của đất nước đã để lại trong lòng người đọc hình ảnh một thi sĩ sống với điều tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Khát vọng được cống hiến của tác giả cũng gặp được nét đồng điệu với nhạc sĩ Trương Quốc Khánh:
“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
Khát vọng cống hiến sức nhỏ, cống hiến những gì tinh túy nhất của đời người cho đất nước đã làm sáng lên hồn thơ, làm ngân lên âm hưởng của một lẽ sống khiêm tốn, cao cả:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”
Cách sử dụng ngôn từ của nhà thơ Thanh Hải rất chính xác, tinh tế và gợi cảm. Làm cành hoa, làm con chim, làm nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng hiến cho cuộc đời.“Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Mùa xuân là thước đo của thời gian, hạn định của không gian. Song, Thanh Hải đã sử dụng từ láy Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành, khiêm nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến đem tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Ông tự nguyện cả cuộc đời cho đi một cách lặng lẽ mà không hề đòi hỏi người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách. Ví như người lao công lặng lẽ giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh mệnh đang hấp hối. Lặng lẽ thôi mà sao ý nghĩa, đẹp đẽ biết bao. Lặng lẽ thôi mà sao như dòng suối mát lành, như ngọn lửa ấm áp.
Sau những buồn vui, thành bại, quê hương vẫn là nơi đón nhận, là “phòng triển lãm” lưu giữ những gì còn lại của đời người. Khúc ca cuối cùng của Thanh Hải vẫn hướng về vẻ đẹp quê hương, vẫn là khúc ca giành cho Huế:
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Khúc Nam ai là khúc nhạc buồn thương, da diết gợi nên thước phim quá khứ đầy hy sinh, khổ đau mà đất nước đã trải qua. Và trong tiết xuân hiền hoà, ấm áp của hiện tại ta thấy ngân vang khúc Nam Bình – khúc nhạc êm ái, trìu mến. Những âm điệu đặc trưng của Huế đã hoà vào dòng máu của nhà thơ, đã trở thành một phần của linh hồn và luôn thường trực trong “ốc đảo” trái tim. Bằng điệp ngữ “nước non ngàn dặm” kết hợp gieo vần bằng “bình, mình, tình” làm cho âm hưởng bài thơ ngọt ngào, dịu nhẹ như làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế. Bài thơ khép lại với “nhịp phách tiền” rộn ràng, xao động. Đó là điệu nhạc của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc. Con đò xứ Huế trên dòng sông Hương chở theo những câu hò xao xuyến, bay bổng, điệu hò chậm rãi, miên man, tiếng hò bâng khuâng, da diết rót vào hồn người
Có thể nói rằng “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một bài thơ độc đáo. Tác phẩm ấy và nhất là 3 khổ thơ cuối đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của Thanh Hải, càng thêm yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước mình. Từ hình ảnh của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước và ước nguyện của nhà thơ, Thanh hải đã đem đến cho người đọc những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về lẽ sống cống hiến hi sinh của mỗi người. Chúng ta nhận ra “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro