OSPF_noimien
2 OSPF - Open Shortest Path First:
Giống như RIP thì OSPF cũng là thuật toán định tuyến nội miền. Chữ "Open" ở trong OSPF chỉ ra rằng đặc tả giao thức định tuyến được công bố công khai. Phiên bản gần đây của OSPF được đặc tả trong RFC 2718.
OSPF đượcc coi như là người kế thừa từ RIP, nó có nhiều tính năng nổi bật. Trái tim của nó lại là thuật toán link state, sử dụng thông tin toàn cục và thuật toán Dijkstra để tìm giá thành đường đi ngắn nhất. Với OSPF, thì 1 router sẽ chạy thuật toán tìm đường đi ngắn nhất Dijkstra để tìm cây đường đi ngắn nhất tới tất cả các mạng mà nó là 1 nút gốc. Bảng đinh tuyến của router sẽ được lấy từ cây đường đi ngắn nhất.
Về phần các quảng cáo của router thì: với OSPF thì 1 router cứ định kì gửi thông tin định tuyến cho tất cả các router trong hệ thống tự trị AS, không chỉ cho các hàng xóm của nó. Thông tin định tuyến này được gửi bởi router có 1 chỉ mục chứa thông tin cho mỗi router hàng xóm của router gửi. Chỉ mục này chứa khoảng cách từ router này tới các router hàng xóm.
Các ưu điểm của OSPF (RIP không có):
Bảo mật: tất cả các trao đổi giữa các OSPF phải được xác thực. Điều này có nghĩa là chỉ những router đáng tin cậy mới thể tham gia vào giao thức OSPF trong 1 domain để ngăn chặn những kẻ xâm nhập nguy hiểm muốn tiêm trích những thông tin không đúng vào bảng định tuyến.
Nhiều giá thành có cùng đường đi:khi có nhiều đường đi tới đích có cùng giá thành OSPF cho phéo sử dụng nhiều đường đí.
OSPF cho phép mỗi đường link có các giá thành khác nhau cho TOS khác nhau (loại dịch vụ).
Tích hợp hỗ trợ định tuyến unicast và multicast
Phân cấp OSPF ở trong 1 domain lớn
1 hệ thống tự trị OSPF có thể được chia làm các vùng, mỗi vùng chạy 1 thuật toán link state của riêng nó. Với mỗi khu vực, 1 hoặc nhiều area border router (bộ định tuyến biên vùng) chịu trách nhiệm định tuyến gói tin ra ngoài khu vực. Chính xác 1 khu vực OSPF ở trong AS được cấu hình thành khu vực backbone (hay khu vực xương sống). Vai trò chính của backbone là định tuyến lưu lượng giữa các khu vực khác ở trong AS. Backbone luôn chứa tất cả các area border router.định tuyến nội miền ở trong 1 AS yêu cầu đầu tiên là gói tin được định tuyến đến bộ định tuyến biên vùng, sau đó định tuyến qua backbone tới bộ định tuyến biên vùng ở khu vực đích, sau đó định tuyến tới đích.
Biểu đồ cấu trúc phân cấp của OSPF như hình trên: có 4 loại router OSPF như sau:
- internal router (router bên trong): là các router có màu đen, nằm trong khu vực không phải là backbone và chỉ thực hiện định tuyến nội miền.
- area border router (bộ định tuyến biên vùng): các router này có màu xanh thuộc về cả các area và backbone.
- Backbone router: các router này có màu nâu, thực hiện việc định tuyến trong backbone, nhưng bản thân chúng không phải các bộ định tuyến biên vùng.
- boundary router: 1 boundary router có màu xanh, để trao đổi thông tin định tuyến với các router thuốc các hệ thống tự trị khác.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro