Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

c4

Lý luận MácXít về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Bài học lấy dân làm gốc và vận dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta : “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn sáng tạo” (Văn kiện ĐH IX, trang 81)

Trả lời

Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, trong đó hoạt động của quần chúng nhân dân có vai trò quyết định rất lớn đến sự phát triển của lịch sử xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lên nin về vai trò của quần chúng nhân dân vào công cuộc đổi mới trong xây dựng đất nước, Đảng ta luôn thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” và khẳng định “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn sáng tạo” (Văn kiện ĐH IX, trang 81).

Theo quan điểm triết học Mác - LêNin, quần chúng nhân dân là một khối người đông đảo trong xã hội - bao hàm những lực lượng, tầng lớp nhân dân trong xã hội - mà qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ biến đổi tuỳ từng điều kiện lịch sử , sự kiện lịch sử. Nói chung, quần chúng nhân dân là tất cả nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong xã hội mà qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ phát triển. Trong xã hội có giai cấp, quần chúng nhân dân không bao gồm giai cấp áp bức bóc lột và các thế lực thi hành chính sách chống nhân dân.

Triết học Mác khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử.

Vai trò được thể hiện trước nhất qua vai trò quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội. Nếu sản xuất vật chất là nền tảng quyết định sự phát triển của xã hội thì quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội bởi vì họ là những người trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội. Mặt khác quần chúng nhân dân là người cải tiến, chế tạo ra công cụ lao động, đồng thời trong quá trình sản xuất, họ không ngừng tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng lao động, điều đó làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Hơn nữa lực lượng sản xuất của quần chúng nhân dân là động lực cho sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Nhu cầu sản xuất của quần chúng đã thúc đẩy sự phát triển của KHKT và hình thành các môn khoa học mới. Như vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã hội.

Bên cạnh đó,  quần chúng nhân dân  còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Xã hội vận động và phát triển theo quy luật nội tại của nó mà trước hết là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của  lực lượng sản xuất. Mâu thuẩn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong đấu tranh có giai cấp được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẩn đối kháng giữa các giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp mà đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Nếu không có hoạt động của hàng triệu quần chúng thì cũng không có các cuộc cách mạng lớn lao trong lịch sử. Đặc biệt trong thời kỳ bão táp cách mạng thì tinh thần cách mạng, ý chí sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy đến cao độ. Như vậy, có thể nói cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

Ngoài vai trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã hội và là lực lượng cơ bản trong cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân có vai trò to lớn trong sản xuất tinh thần. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Tục ngữ, ca dao, hò vè, điệu múa, lời hát cũng đều là những giá trị tinh thần trực tiếp do nhân dân sáng tạo ra. Những giá trị đó là cơ sở để phát triển nền văn hoá nghệ thuật lớn. Mặt khác, thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ chuyên nghiệp sáng tác. Tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân làm cơ sở cho sự phát triển của văn hoá -nghệ thuật. Như vậy, quần chúng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong sản xuất tinh thần.

Tóm lại, trên tất cả các mặt sản xuất vật chất, đấu tranh cách mạng và sản xuất tinh thần đã chứng tỏ chân lý quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của xã hội.

Triết học Mácxít khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân nhưng cũng đề cao vai trò của cá nhân, lãnh tụ - người quyết định quy mô, tốc độ, nhịp độ của các tiến trình khách quan trong lịch sử. Cá nhân lãnh tụ là lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng suy tôn, tín nhiệm làm lãnh tục của họ. Ý chí của nguời lãnh tụ là sự thể hiện ý chí nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Ngược lại quần chúng nhân dân và phong trào của quần chúng lại cần đến người tổ chức, lôi kéo, tập họp và hướng dẫn phong trào mới, bảo đảm phong trào của quần chúng đạt hiệu quả cao. Tuy lãnh tụ có vai trò quan trọng nhưng triết học Mácxít cũng cương quyết chống lại tệ “sùng bái cá nhân”. Chỉ khi nào mà những tư tưởng những định hướng về đường lối trên tất cả các mặt đời sống xã hội do các vĩ nhân, lãnh tụ vạch ra đều được sự đồng tình hưởng ứng của các tầng lớp tổ chức quần chúng nhân dân thì khi đó vai trò của lãnh tụ vĩ nhân mới phát huy tác dụng. Ngược lại cho dù những tư tưởng, định hướng, đường lối của các vĩ nhân có tiến bộ tích cực đến mấy khi chưa đồng tình của nhân dân thì cũng không có giá trị. Chúng ta cần chống tư tưởng sùng bái cá nhân, tuyệt đối hóa vai trò của lãnh tụ vĩ nhân đi đến chổ quần chúng không tin vào chính bản thân mình nhưng ngược lại cũng phải biết trân trọng tôn kính những anh hùng vĩ nhân kiệt xuất của dân tộc của lịch sử.

Phát huy truyền thống coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, trong lịch sử dân tộc, đồng thời lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và tự thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra bài học lấy lấy dân làm gốc. Từ thực tế khó khăn của thời kỳ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, nhân dân Quảng Bình đã đưa một tổng kết  quý giá :”Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh hết sức tâm đắc với sự tổng kết đó, và đã không ít lần sử dụng lại trong các bài viết, bài nói của mình. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị.

Tuy vậy, những năm qua, đặc biệt là thời kỳ trước đổi mới (năm 1986) bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng ở một số cán bộ Đảng viên là người lãnh đạo đã làm xói mòn mối liên hệ mật thiết vốn có giữa Đảng và quần chúng. Hậu quả của tình trạng đó không những làm tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân bị hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng thiếu tin tưởng vào lực lượng của bản thân mình, làm cho họ có thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, thiếu suy nghĩ phán đoán, thiếu độc lập tự chủ, không phát huy được tính tích cực sáng tạo của đông đảo quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, mà còn làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ thực tiễn nước ta trước 1986, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI đã rút ra một trong những bài học kinh nghiệm là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH cũng khẳng định “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh đất nước”

Quán triệt bài học này, trong quá trình đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Vì vậy, Đại hội IX của Đảng đã tổng kết 15 năm đổi mới và rút ra bài học “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn sáng tạo”.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đổi mới cũng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi, phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân. Đổi mới là một sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện cần có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa vào dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân tiến hành tổng kết, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên, đó là chìa khóa của thành công.

Từ khi bắt đầu khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước năm 1986 đến nay, cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện phương châm “ dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, Đảng thực sự dựa vào dân, huy động sức mạnh của nhân dân trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra. tại Đại hội Đảng lần VII, Đảng đã khẳng định “Tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, động viên được lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giữ vững đoàn kết trong Đảng và thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân”.  Bên cạnh đó, trong công cuộc đổi mới Đảng đã chú trọng đến việc phát huy phong trào quần chúng và việc tăng cường công tác dân vận giữ vai trò quan trọng. Đó là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị. Trong công tác dân vận, Đảng ta đã khẳng định 5 quan điểm xuyên suốt trong quá trình hoạt động. Một là mọi đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp chính sách của Nhà nước phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phù hợp với khả năng của quần chúng. Hai là phải biến quan điểm, đường lối của Đảng thành phong trào cách mạng của quần chúng.  Ba là phải chăm lo lợi ích thiết thân của quần chúng và thực hiện các chính sách xã hội để đảm bảo công bằng xã hội. Bốn là các hình thức tập họp quần chúng phải đa dạng và phù hợp với trình độ của từng đối tượng.  Năm là phải phát huy cả hệ thống chính trị trong công tác dân vận. Mỗi cán bộ, Đảng viên công chức nhà nước đều liên hệ tốt đều liên hê tốt với nhân dân và làm tốt công tác dân vận, lấy các tổ chức chính trị xã hội làm nòng cốt trong công tác dân vận. Tất cả những nội dung trên nhằm tạo ra những phong trào mạnh mẽ của quần chúng và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là động lực chủ yếu để phát triển xã hội.

Mặt khác, quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển khai thực hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng dực vào dân, lấy dân làm gốc, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết những điển hình tiên tiến và những kinh nhiệm hay của nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng để không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách. Sự ra đời của Chỉ thị  100 của Ban Bí thư (1-1981) về khoán trong nông nghiệp, Quyết định 25 của Chính phủ (1981) về quyền chủ động sản xuất và tự chủ về tài chính trong xí nghiệp quốc doanh, chủ trương phát triển kinh tế hộ  theo mô hình VAC (vườn – ao - chuồng), Nghị quyết của Bộ Chính trị khoá VIII về kinh tế trang trại, Nghị quyết 09/NQ-CP của Chính phủ (6-2000) về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp… là những minh chứng sinh động về bài học dựa vào nhân dân, vì nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với thực tiễn. Tổng kết thực tiễn trên cơ sở đổi mới tư duy, Đảng ta đã tìm ra cái mới, từ đó thể chế hóa trong chủ trương, chính sách, nhân rộng nhân tố mới thành phong trào quần chúng sâu rộng, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, tích cục thực hiện.

Rõ ràng việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, việc ban hành những chủ trương chính sách dựa vào dân và trên cơ sở tổng kết thực tiễn ... đã góp phần rất lớn tạo nên những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới đất nước do đã tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, khơi dậy nguồn lực vô tận của sức mạnh nhân dân cả nước.

Cách mạng phải sáng tạo. Song, để tự sáng tạo không dẫn tới tình trạng vô nguyên tắc, một mặt, như trên đã đề cập, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại và những kinh nghiệm của các nước phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Mặt khác, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm ra nhân tố mới để nhân rộng và phát triển những điểm không phù hợp trong chủ trương, chính sách cụ thể, từ đó có sự điều điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp, cách làm mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ hoặc rập khuôn máy móc, làm chuyển biến tình hình. Vì vậy phải động viên được các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư cách người làm chủ công việc của đất nước.

Tóm lại, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn trong việc quyết định sự phát triển của lịch sử, vận mệnh của đất nước, điều đó đã được khẳng định trong triết học MácXít và lịch sử cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới để xây dựng một đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, người cán bộ công chức, đảng viên  phải nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của quần chúng nhân dân để định hướng đúng đắn trong nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của nhân dân đồng thời gần gũi với nhân dân nhằm vận động, tập họp sức mạnh của nhân dân vào trong sự nghiệp xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.  Đó là một những điều kiện để đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: