Những trận hải chiến nổi tiếng lịch sử - thời cổ đại
Put your story text here...Trận hải chiến Salamis
Thời gian trận đánh: khoảng tháng 9 năm 480 BC
Địa điểm: Eo biển Salamis thuộc Địa Trung Hải ngày nay
Kết quả: Chiến thắng quyết định của người Hylạp
Các bên tham chiến
Đồng minh các Thành đô Hylạp cổ dại
Chỉ huy: Eurybiades
Themistocles
Lực lương: Từ 366 -> 380 chiến thuyền
Thiệt hại: khoảng 40 chiến thuyền
Đế quốc Batư cổ đại - Persia
Chỉ huy: Xerxes I, Hoàng đế Batư
Artemisia I, vua Caria
Ariabignes, hoàng tử Batư
Lực lương: Từ 600 -> 1200 chiến thuyền
Thiệt hại: khoảng 200 chiến thuyền
Tóm tắt về trận đánh
Trận Salamis (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος), là một trận đánh hải quân quyết định giữa các quốc gia-thành phố Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 trước Công nguyên ở một eo biển giữa Piraeus và đảo Salamis, một hòn đảo ở vịnh Saron gần Athena. Chiến thắng của người Hy Lạp đã đánh dấu một bước ngoặt của chiến dịch, dẫn đến thất bại cuối chung cuộc của quân Ba Tư.Năm 490 TCN hoàng đế Ba Tư là Darius Đại đế mang quân sang đánh Hy Lạp. Trong trận Marathon, quân Ba Tư bị thua rút chạy về nước, sửa soạn phục thù trong mười năm. Đến năm 480 TCN, hoàng đế Ba Tư là Xerxes Đại đế đưa đại quân đến đánh Hy Lạp. Nước Hy Lạp lúc đó do Themistocles đứng đầu. Mùa xuân năm 480 TCN, quân Ba Tư tiến vào Địa Trung Hải và tấn công Hy Lạp. Mục đích ban đầu là đánh chiếm thành Athena. Người đứng đầu nhà nước Hy Lạp lệnh cho tất cả các thành phố cảng vùng biển phải dựng các chướng ngại vật dọc theo bờ biển để ngăn quân đối phương đổ bộ và cho tập trung tất cả quân đội và chiến thuyền tại eo biển Salamis.Đoàn chiến thuyền của Ba Tư gồm 1200 chiếc, chạy dọc theo bờ biển Thessali tiến xuống quần đảo ở phía Bắc mỏm Eubée, nơi có mặt những chiến thuyền tiên phong của Hy Lạp... Xerxes cho dàn thuyền chiến thành 8 hàng trong đêm tối nhưng khi bố trí xong thì gần đến sáng, bỗng có cơn giông ập tới, phá tan thuyền chiến Ba Tư, đánh giạt hàng trăm chiếc vào bờ và bị chìm một số. Khi tập hợp lại chỉ còn không đầy 800 chiếc. Xerxes liền cắt cử Nữ hoàng xứ Halicarnass Artemisia I - đồng thời cũng là nữ tướng chỉ huy 5 chiến thuyền bất ngờ tấn công vào phía Hy Lạp. Hạm đội Hy Lạp bị thua to khi trời gần sáng. Artemisia bắt được một viên tướng Hy Lạp, sai đem buộc vào mũi thuyền, cắt cổ cho máu chảy xuống biển để tạ ơn Thần Biển! Tiếp đó thừa thắng xông lên, Ba Tư kéo đại quân xuống phía Đông Eubée. Trong khi đó quân Hy Lạp nung nấu ý chí phục thù, rồi nhân một đêm tối trời, họ phản công lại quân Ba Tư. Quân Ba Tư chủ quan khinh địch không kịp trở tay, bị đắm ba chục chiếc thuyền phải tháo chạy ra biển và liền bị bão giông nổi lên làm đắm nhiều chiếc khác. Sau ba ngày, trời yên, bể lặng, quân Ba Tư kéo trở lại mỏm Eubée. Nhưng họ lại bị thua và phải rút lui về cảng Sêpia. Trong lúc Hy Lạp nhận được thêm viện binh liền truy kích quân Ba Tư. Trận cuối cùng nổ ra ở Salamine, quân Hy Lạp đã thắng, thuyền chiến Ba Tư đắm gần hết, một số bị bắt làm tù binh. Hoàng đế Xerxes hạ lệnh giết hết những người chỉ huy và thủy thủ bỏ chạy. Bên Hy Lạp cũng giết hết các tù binh, trong số đó có Đô đốc là Hoàng tử Ariabigne (Ariabinhơ) là em trai của chính Xerxes.Trận thắng của Hy Lạp đã làm tan vở mộng tưởng chinh phục Châu Âu của Ba Tư. Đây là trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử cổ đại và đã đưa Themistocles lên hàng danh tướng thế giới thời cổ đại.
Bối cảnh chung
Vào năm 499 -> 494 BC các thành đô Hylạp cổ đại như Athen và Eretria ủng hộ cuộc khởi nghĩa không thành công của người Ionian ( theo em được biết thì người Ionian sống ở bán đảo Tiểu Á, họ gần với chủng tộc người Hylạp nhưng lại là thuộc địa của Batư) Đế quốc Batư lúc đó mới được thành lập rất hung mạnh để dễ dàng dập tắt cuộc khởi nghĩa này. Hơn nữa vua Darius của Batư là kẻ lên ngai vàng bằng bạo lực nên ông ta càng thiên về dùng sức mạnh để dập tắt những kẻ chống đối lại luật lệ của mình. Khởi nghĩa của người Ionian đã đe dọa tính toàn vẹn để chế rộng lớn của ông ta, và Darius thề sẽ trừng phạt những kẻ tham gia ( Đặc biệt là những kẻ ở bên ngoài mà dám xía vào nội bộ Đế chế). Ông cũng thấy luôn đó là một cơ hội để mở rộng đế chế của ông ta tới cái thế giới cứng đầu của các Đô thành Hylạp Cổ đại. Một đợt chinh phạt trước đó của Mardonius, vào năm 492 BC đã mở một con đường tiến tới Hylạp, cuộc chinh phạt này dừng ở việc chiếm đóng đô thành Thrace và ép xứ Macedon phải chở thành chư hầu của Batư Vào năm 491 BC Darius gửi sứ giả đến tất cả các đô thành Hylạp, đòi hỏi các các đô thành phải lấy đất và nước làm lễ vật cống nạp cho ông ta. Tại Athen các sứ giả của Batư đã bị xử tử, tại Sparta họ đã bị ném xuống giếng. Điều đó có nghĩa là đô thành Sparta đã sẵn sàng cho 1 cuộc chiến với Batư Vào năm 490 BC, Darius đã gửi một đội quân tấn công thăm dò vào Hylạp, đội quân này dưới sự chỉ huy của Datis và Artaphernes đã tấn công Naxos trước khi họ nhận được các cống nạp thể hiện quy phục từ các đô thành Hylạp khác trên đảo Cycladic. Đội quân này sau đó tiến về phía Eretria bao vây và phá hủy đô thành này. Cuối cùng nó tiến về phía Athen, đổ bộ xuống vịnh Marathon, tại đó nó trạm trán với một đội quân lớn của Athen. Ở trận đánh kế tiếp, trận Marathon, Người Athen đã có một chiến thắng quyết định làm cho người Batư phải rút lui về nơi xuất phát.Darius bắt đầu xây dựng lại một đội quân vĩ đại mới, một đội quân mà ông ta cho là có thể khuất phục nổi Hylạp. Tuy nhiên vài năm 486 BC thuộc địa Aicập của ông ta nổi dậy chống lại đế chế, điều này làm cho ông ta phải trì hoãn cuộc chinh phục xứ Hylạp. Darius sau đó chết khi đang chuẩn bị tiến vào Aicập và quyền cai trị đế chế Batư lúc đó thuộc về Xerxes I con trai ông ta. Xerxes rất nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy của người Acập và tiếp tục khởi động lại sự chuẩn bị cho cuộc xâm lược Hylạp. Kể từ đó cuộc chinh phục Hylạp với đầy đủ quy mô bắt đầu, nó đòi hỏi phải có dự trữ lớn và các cuộc cưỡng bức tòng quân. Xerxes quyết định rằng Hellespont (eo biển Dardanelles ngày nay) sẽ là cây cầu cho quân đội của ông ta tiến vào châu Âu, và cho đào một chiếc kênh xuyên qua eo đất Mount Athos ( Ở gần múi đất này 1 hạm đội Batư đã từng bị tiêu diệt trong những trận đánh năm 492 BC) đây là hai kỳ công hiếm thấy của một tham vọng phi thường vượt quá khả năng của quốc gia ở thời đó. Vào khoảng đầu năm 480 BC sự chuẩn bị đã hoàn thành, đội quân mà hoàng đế Xerxes đã gây dựng từ at Sardis bắt đầu hành quân tiến về phía châu Âu, vượt qua Hellespont bằng hai cây cầu phao.Người Athen cũng đã bắt đầu ráo riết chuẩn bị chiến tranh với người Batư kể từ giữa năm 482 -> 480 BC, dưới sự lãnh đạo của nhà chính trị gia Themistocles, Athen đóng một hạm đội lớn tầu triremes ( Tầu chiến có nhiều mái chèo), hạm đội này rất cần thiết cho Athen trong cuộc chiến với Batư. Tuy nhiên Athen không đủ lực để chiến đấu với Batư cả trên bộ lẫn trên biển, điều này đòi hỏi phải có một Đồng minh đô thành Hylạp. Vào năm 481 Xerxes gửi sứ giả tới Hylạp để đòi cống nạp đất và nước, nhưng đã bị lờ đi bởi Athen và Sparta. Những người ủng hộ hai đô thành này bắt đầu kết hợp lại dưới sự lãnh đạo của Athen và Sparta. Một nghị viện của các đô thành đã được tổ chức tại Corinth vào cuối mùa thu năm 481BC và một Đồng minh các đô thành Hylạp đã được thành lập, Đồng minh này có quyền gửi phái viên đòi hỏi sự trợ giúp và đòi hỏi gửi binh lính của các thành viên của nó tới chiến trường. Đây là một điều rất có ý nghĩa với một thế giới Hylạp rời rạc, đặc biệt là thậm chí một số đô thành còn đang ở tình trạng chiến tranh với nhau nữa. Ban đầu nghị viện đồng ý bảo vệ vùng đất hẹp Vale of Tempe trong biên giới của đô thành Thessaly, từ đó chặn bước tiến của Xerxes. Tuy nhiên họ đã nhận được lời cảnh báo của Alexander I xứ Macedon rằng thung lũng này sẽ bị vượt qua khi quân địch vượt qua làng Sarantaporo, và quân của Xerxes sẽ tràn ngập người Hylạp khi họ đang rút lui. Ngay sau đó họ nhận được tin Xerxes đã vượt qua Hellespont, Một chiến lược thứ nhì đã được Đồng minh thông qua. Con đường tiến tới phía nam Hylạp (Boeotia, Attica và Peloponnesus) đòi hỏi quân đội của Xerxes phải vượt qua đèo Thermopylae. Dễ dàng có thể chặn đứng nó lại bằng giáo binh nặng Hylạp (hoplites) bất chấp số lượng đông vô vàn của quân Batư. Hơn nữa để chăn không cho quân Batư vượt qua đèo Thermopylae từ phía biển, thủy quân của Đồng minh và Athen đã khóa chặt mũi đất Artemisium. Chiến lược phòng thủ kép này đã được nghị viện thông qua. Tuy nhiên các đô thành thuộc vùng Peloponnesis muốn có một kế hoạch rút lui để bảo vệ vùng Isthmus thuộc Corinth, đồng thời đàn bà và trẻ con của Athen sẽ được sơ tán về đô thành Troezen thuộc vùng Peloponnesis. Một nhóm nhỏ quân Hylạp sẽ giữ đèo Thermopylae trong ba ngày trước khi bị đánh tạt sườn từ các đường mòn từ vách núi. Phần lớn quân Hylạp rút lui trước khi quân Sparta và Thesper phòng thủ núi bị tử thương hết. Trận đánh cùng lúc ở Artemisium đang lâm vào thế bí thì họ nhận tin trận đèo Thermopylae và rút quân. Kể từ đó việc đóng giữ Artemisium là một vấn đề để tranh cãi gay gắt. Hạm đội Đồng minh lúc bấy giờ khởi hành từ Artemisium đến Salamis để trợ giúp cho cuộc di tản cuối cùng của người Athen. Trên đường đi Themistocles gửi bức thư bằng chữ khắc đến các đội thuyền Ionian Hy Lạp trong hạm đội Ba Tư trên tất cả các điểm buộc dây thuyền dưới nước mà họ có thể dừng lại, yêu cầu họ đào ngũ về phe Đồng Minh. Sau khi vượt qua đèo Thermopylae, quân đội Ba Tư đốt phá các thành phố đã không đầu hàng như Boeotian, Plataea và Thespiae; trước khi tiến binh về Athen, thành phố bây giờ đã di tản hết cư dân của nó. Các lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Peloponnesian) chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ eo đất Corinth, họ đã phá huỷ con đường duy nhất dẫn tới đó và xây dựng một bức tường chắn ngang. chiến lược này tuy còn nhiều thiếu sót, và chỉ hữu hiệu khi hạm đội Đồng minh có thể ngăn chặn người Ba Tư vận chuyển quân bằng đường thuỷ qua Vịnh Saronic. Trong một cuộc họp của hội đồng chiến tranh sau khi di tản của Athens đã hoàn tất, chỉ huy hải quân Adeimantus của Corinthian lập luận rằng hạm đội nên tập hợp ngoài khơi bờ biển eo Isthmus để có thể phong tỏa không cho người Batư chuyển quân. Tuy nhiên, Themistocles lại không đồng ý như vậy, ông ta lập luận rằng mục tiêu chiến lược là công kích, phá hủy một cách hoàn toàn ưu thế của hải quân Ba Tư. Ông đã rút ra bài học từ Artemisium và chỉ ra rằng trận chiến " trận đánh trong khoảng chật hẹp như vậy sẽ tạo lợi thế cho chúng ta" Ý kiến của ông cuối cùng đã được thông qua, và hải quân Đồng minh ở lại ngoài khơi bờ biển Salamis.Rất khó khăn để lập lại một cách chắc chắn cho chuỗi thời gian xảy ra trận Salamis. Herodotus ( Nhà sử học đã viết lại trận này) cho rằng trận chiến có thể xảy ra sau khi quân Batư chiếm giữ Athens., Nhưng không một công bố nào đảm bảo điều đó là hoàn toàn chính xác. Nếu trận đèo Thermopylae / Artemisium xảy ra trong tháng Chín thì sau đó trận đánh hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng cũng có nhiều khả năng người Ba Tư đã mất hai hoặc ba tuần để chiếm Athens, sửa chữa hạm đội, và lấy thêm đồ tiếp tế. Tuy nhiên chắc chắn là, sau khi chiếm Athens, Xerxes đã tổ chức một hội đồng chiến tranh của Ba Tư; Herodotus nói sự kiện này đã xảy ra tại Phalerum. Artemisia nữ hoàng của Halicarnassus và là chỉ huy của hải đội của mình trong hạm đội của Xerxes, đã cố gắng thuyết phục ông ta rằng, hãy đợi cho đến khi quân Đồng Minh kiệt sức và đầu hàng, bà ta tin rằng cuộc chiến ở Eo biển Salamis là một rủi ro không cần thiết. Tuy nhiên, Mardonius, người đứng đầu những cố vấn của Xerxes lại hối thúc ông ta mở một cuộc tấn công..Cũng rất khó để giải thích một cách chính xác những gì đã xảy ra về trận đánh, giả định rằng không chỉ đơn giản là một bên bị tấn công mà không có kế hoạch phòng bị gì cả. Tuy nhiên, tại thời điểm trước trận đánh, có một số thông tin mới về rạn nứt trong nội bộ Đồng minh đã đến tai Xerxes; những người Hylạp đến từ Peloponnesis muốn di tản khỏi Salamis trong khi họ vẫn còn cơ hội. Chính điều này bị cáo buộc rạn nứt giữa Đồng Minh, nhưng có thể đây cũng chỉ là mưu kế để thu hút người Ba Tư vào chiến đấu.. Ngoài ra, sự thay đổi trong thái độ của Đồng Minh (đã kiên nhẫn chờ ngoài khơi bờ biển Salamis ít nhất một tuần trong khi Athens đã bị chiếm) có thể đã gây cho người Ba Tư sự ức chế. Có thể một đội quân Ba Tư đã được gửi đến tấn công Isthmus để thử phản ứng của của hạm đội Đồng minh Dù thế nào thì khi Xerxes nhận được tin tức này, ông cũng đã ra lệnh hạm đội của mình tiến về phía ngoài khơi bờ biển Salamis, chặn lối rút phía Nam của Đồng minh. Sau đó lúc chạng vạng ông ta ra lệnh cho quân của mình rút lui, có thể để đây là một mưu kế để nhử cho Đồng Minh vào một cuộc di tản khinh suất. Buổi tối hôm đó Themistocles đã gửi một viên chức, Sicinnus đến chỗ Xerxes, với một thông điệp tuyên bố rằng Themistocles sẽ " Đứng về phía nhà vua khi ngài đang thắng thế, chứ không phải là đứng về phía người Hylạp"Themistocles nói rằng Đồng Minh đang có xung đột, và những người Peloponnesians đã có kế hoạch di tản trong đêm đó, và rằng để giành chiến thắng thì tất cả người Ba Tư cần phải làm là chặn được eo biển này. Trong hoạt động tung hoả mù này, Themistocles dường như đã cố gắng cung cấp những thông tin có thật cho đối phương, để nhử hạm đội Ba Tư tiến vào eo biển. Đây là chính xác những gì Xerxes muốn có, đó là Athena sẵn sàng đầu hàng ông ta và rằng ông ta sẽ đễ dàng phá hủy phần còn lại của hạm đội Đồng Minh. Xerxes một cách chắc chắn là đã mắc câu, và hạm đội Ba Tư đã được gửi ra trong buổi tối hôm đó để khoá chặt đường rút về phía Nam của người Hylạp. Xerxes ra lệnh cho binh lính đặt một chiếc ngai vàng trên sườn núi Aigaleos (nhìn ra eo biển) để xem trận từ một điểm rõ ràng, thuận lợi và để ghi tên các chỉ huy đặc biệt là những người chiến đấu tốt.Theo nhà sử học Herodotus, Đồng Minh đã dành cả buổi tối để tranh cái về những hành động kế tiếp của họ. Các Đồng minh đến từ Peloponnesis đã ủng hộ việc di tản, đã có thông tin là vào thời điểm này Themistocles cố mưu mẹo Xerxes. Chỉ khi Aristides, vị tướng đang phải lĩnh án đi đày của Athens, đến trong đêm đó, tiếp theo là một số người bỏ chốn từ phía Ba Tư( chắc là người Ionian)đưa đến tin tức về sự triển khai của hạm đội Ba Tư để khoá chặt lối thoát thì các Đồng minh đến từ Peloponnesis mới chấp nhận là họ không thể thoát ra được nữa, và do đó họ phải chiến đấu. Tuy nhiên, cũng có giả thiết hợp lý rằng những xích mích mà nhóm Peloponnesis tạo ra cũng chỉ là mưu kế do Themistocles dàn dựng lên mà thôi Hải quân Đồng minh đã có nhiều nỗ lực để chuẩn bị cho trận đánh trong ngày sắp tới, trong khi người Ba Tư đã dành đêm vô ích trên biển để tìm kiếm dân Hy Lạp rút chạy. Sáng hôm sau người Ba Tư đi thuyền vào eo biển để tấn công hạm đội Hy Lạp. Không phải rõ ràng là khi nào, tại sao hoặc làm thế nào để người Batư ra quyết định này, nhưng rõ ràng là trong thực tế đã có xảy ra trận đánh của người Batư với phe Đồng Minh.
Tương quan lực lượng hai bên
Hạm đội Hy Lạp
Nhà sử học Hy Lạp Herodotus đã viết rằng hạm đội Đồng Minh có 378 tầu chiến kiểu triremes, được chia nhỏ sự đóng góp của từng thành bang (sẽ được nêu trong sao kê phía dưới). Tuy nhiên, trong con số ông ta nêu ra theo sự đóng góp của từng thành bang lại chỉ là 366. mặc dù vậy Herodotus không nói rõ ràng rằng tất cả 378 chiến hạm đều tham chiến tại Salamis ( "Tất cả các thành bang cung cấp triremes ... Tổng số tàu chiến... đã có là 378 chiếc") và ông cũng nói rằng người Aeginetans "có những đội tàu khác, nhưng họ bảo vệ đất riêng của họ với những đội tầu này và chỉ mang đến chiến đấu tại Salamis với ba mươi đội tầu chiến giỏi nhất" . Như vậy có một sự khác biệt trong số lượng tầu chiến của Đồng minh đồn trú tại Salamis, khoảng 12 chiếc tàu có thể đã được để lại để phòng thủ thành bang Aegina. Cũng theo Herodotus, có hai tàu rời bỏ đội ngũ của người Ba Tư để đến với người Hy Lạp, một chiếc trước khi xảy ra trận Artemisium và một còn lại trước trận Salamis, do đó, tổng số tầu chiến của hạm đội Đồng Minh Salamis là khoảng từ 368 ->380.Theo nhà viết kịch Aeschylus đồng thời là công dân Athen, một trong những người thực sự tham chiến tại Salamis, hạm đội Hy Lạp chỉ có 310 tàu triremes (sự khác biệt từ số lượng tàu Athen) Ctesias tuyên bố rằng hạm đội Athens chỉ có 110 chiếc triremes, con số này phù hợp với con số của Aeschylus đã đưa ra. Theo Hyperides thì hạm đội Hy Lạp có 220 tầu chiến, Hạm đội đã hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự chỉ huy của Themistocles, nhưng trên danh nghĩa do nhà quý tộc Eurybiades người Sparta chỉ huy , như đã được thoả thuận tại Đại hội năm 481 TCN. Mặc dầu Themistocles cố gắng yêu cầu quyền lãnh đạo của mình với hạm đội, nhưng các thành bang khác đã phản đối , và như là một sự thỏa hiệp thành bang Sparta (mặc dù không có truyền thống về hải quân) đã được đề cử ra để chỉ huy hạm đội.Tên các thành bang Hylạp/ Số lượng tầu đóng góp
Athens 180 Corinth 40 Aegina 30 Chalcis 20 Megara 20 Sparta 16 Sicyon 15 Epidaurus 10 Eretria 7 Ambracia 7 Troezen 5 Naxos 4 Leucas 3 Hermione 3 Styra 2 Cythnus 1 (1) Ceos 2 Melos (2) Siphnus (1) Serifos (1) Croton 1
Tổng số từ khoảng 366 -> 380 tầu chiến ( theo em hiểu thì số âm tức là có thể có, nhưng cũng có thể là không có)
Hạm đội Ba Tư
Tên vùng/ Số lượng tầu đóng góp
Phoenicia và Syria 300 Egypt 200 Cyprus 150 Cilicia 100 Ionia 100 Pontus 100 Caria 70 Aeolia 60 Lycia 50 Pamphylia 30 Người Hylạp ở Châu Á 30 Minor 30 Cyclades 17 Total 1.207 chiếc tầu chiến Theo Herodotus, hạm đội Ba Tư ban đầu có khoảng 1.207 triremes. Tuy nhiên, do họ bị mất khoảng một phần ba tổng số tàu thuyền trong một cơn bão ở ngoài khơi Magnesia, khoảng hơn 200 chiếc trong một cơn bão khác ở ngoài bờ biển Euboeaa , và ít nhất 50 tàu bị Đồng Minh tiêu diệt trong trận Artemisium. Herodotus nói rằng những thiệt hại đã được thay thế đầy đủ, nhưng ông cũng chỉ đề cập tới 120 tàu đến từ Thrace của Hylạp và các đảo lân cận. Aeschylus, người đã chiến đấu tại Salamis, cũng tuyên bố rằng ông và đồng đội phải đối mặt với khoảng 1.207 tàu chiến, trong đó có 207 "tàu chạy nhanh" Diodorus và Lysias tuyên bố một cách độc lập rằng có 1.200 tàu thuyền trong hạm đội Ba Tư được lắp ráp tại Doriskos vào mùa xuân năm 480 TCN. Số lượng 1.207 cũng được đưa ra bởi Ephorus trong khi Isocrates, nhà triết học vĩ đại và là thầy giá của Ephorus thì tuyên bố là có 1.300 chiếc ở Doriskos và 1.200 chiếc ở Salamis. Ctesias lại đưa ra một con số khác, khoảng 1.000 chiếc, trong khi Plato lại nói là có cơ sở để đưa ra con số khoảng 1.000 tàu chiến và nhiều nhiều hơn nữa.Con số 1.207 tầu chiến của người Batư xuất hiện rất sớm trong ghi chép lịch sử vào khoảng năm 472BC, và người Hy Lạp dường như đã thực sự tin rằng họ phải đối mặt với rất nhiều tàu chiến của Batư. Do sự thống nhất trong các nguồn cổ, một số nhà sử học hiện đại đang nghiêng về giả thuyết con số 1.207 tầu chiến được chấp nhận như là kích thước của hạm đội Ba Tư lúc ban đầu; những người khác lại phản đối con số này, theo họ thì con số 1.207 tầu chiến được coi là nhiều hơn cả hạm đội của Hy Lạp trong trường ca Iliad, và nói chung thì mọi người cho rằng người Ba Tư chỉ có thể đã tung ra không nhiều hơn khoảng 600 tàu chiến vào Aegean. Tuy nhiên, một vài người lại cho rằng phải có nhiều tàu chiến Batư tại Salamis: con số hợp lý nhất là trong khoảng 600-800 chiếc. Đây cũng là con số hợp lý sau khi đã cộng thêm số lượng gần đúng của tàu Ba Tư đến tiếp viện sau trận Artemisium, và điều này cũng được xác định bởi nhà sử học Herodotus
Cân nhắc về chiến lược và chiến thuật của đôi bên
Chiến lược tổng thể của người Ba Tư trong cuộc xâm lược năm 480 BC là áp đảo người Hy Lạp bằng một đội quân xâm lược lớn, và hoàn tất cuộc chinh phục Hy Lạp trong một chiến dịch duy nhất. Ngược lại, những người Hy Lạp lại tìm cách sử dụng tốt nhất quân số của họ bằng cách bảo vệ các địa điểm có giới hạn để giữ cho người Ba Tư ở ngoài các cánh đồng càng lâu càng tốt. Xerxes đã rõ ràng là không dự đoán được sự kháng cự này, hoặc ông đã có thể đến sớm hơn trong phần đầu chiến dịch (nếu không phải chờ đến 4 ngày tại Thermopylae, làm cho người Hy Lạp hoàn tất được cuộc sơ tán - Qua đây ta cũng thấy được ý nghĩa to lớn của sự hy sinh của 300 dũng sỹ Sparta).Thời gian bây giờ là cực kỳ quan trọng đối với người Ba Tư - đội quân xâm lược vĩ đại này không thể được cung cấp về hậu cần hợp lý một cách vô thời hạn, và cũng có lẽ Xerxes chẳng muốn phải ở bên ngoài của đế chế của mình trong một thời gian quá dài. Trận đèo Thermopylae đã chỉ ra rằng một cuộc tấn công chống lại một cuộc tấn công chính diện vào một vị trí được bảo vệ tốt của Hy Lạp là vô ích, và có rất ít cơ hội chinh phục phần còn lại của Hy Lạp trên bộ. Tuy nhiên trận Thermopylae cũng chỉ ra rằng, nếu người Hy Lạp bị tấn công từ bên sườn, thì quân đội nhỏ bé của họ có thể bị tiêu diệt . Như vậy cuộc tấn công thọc sườn từ eo đất Isthmus đồi hỏi phải sử dụng của hải quân Ba Tư, và phải tiêu diệt được hải quân của Đồng minh. Nói tóm lại, nếu Xerxes có thể tiêu diệt hải quân Đồng minh, ông sẽ ở một vị trí vững mạnh để buộc Hy Lạp đầu hàng, đây dường như hy vọng duy nhất để kết thúc chiến dịch ngay lập tức. Ngược lại bằng cách tránh cuộc tấn công hủy diệt của người Batư, hoặc như Themistocles hy vọng, bằng cách làm tê liệt hạm đội Ba Tư, Hy Lạp có thể ngăn chặn cuộc chinh phục của họ.Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho là không thực sự cần thiết đối với người Ba Tư để phải đánh trận Salamis.Theo Herodotus, Nữ hoàng Artemisia của xứ Caria đã chỉ ra cho Xerxes trong cuộc hành quân tới Salamis. Artemisia gợi ý rằng chiến đấu trên biển là một rủi ro không cần thiết, và đề xuất:" Bệ hạ không nên vội vã để tiếp chiến trên biển, hãy giữ tàu của bệ hạ ở đây và ở gần phía đất liền, hoặc thậm chí phía trước tiến vào vùng Peloponnesis, sau đó, thưa chúa tể của tôi, ngài sẽ dễ dàng thực hiện những gì ngài muốn có khi đến đây. Người Hylạp không thể chống chọi lại với ngài trong một thời gian dài, nhưng ngài sẽ đánh tan họ, và họ sẽ bỏ chạy tan tác, người nào về thành phố của người nấy."Hạm đội tàu Ba Tư vẫn đủ mạnh để đánh ngược từ dưới lên vào hải quân Đồng minh ở Eo biển Salamis, và đồng thời gửi tầu chiến đến hỗ trợ bộ binh đang đóng ở Peloponnesus. Tuy nhiên, trong trong các toan tính cuối cùng, cả hai bên đều chuẩn bị cho một trận hải chiến, với hy vọng nó sẽ thay đổi một cách quyết định cuộc chiến.Người Ba Tư có lợi những thế chiến thuật đáng kể, như là số lượng vượt trội so với Đồng Minh, và có cả các tàu buồm tốt hơn. Các tàu buồm tốt hơn Herodotus đã đề cập rất có thể do sự cực kỳ thạo nghề biển của các đội thủy thủ. Hầu hết các tàu của Athens (và đó cũng là phần lớn của hạm đội Đồng minh) đóng mới, nên các đội thủy thủ thiếu kinh nghiệm. Các chiến thuật phổ biến nhất của hải chiến tại vùng Địa Trung Hải vào thời điểm đó là đòn đâm, húc ( các tầu triremes được trang bị với một mũi nhọn ở phần đầu tầu), hoặc cho lên boong thật nhiều lính thủy đánh bộ (đây là điều quan trọng để chuyển một trận hải chiến thành một trận bộ chiến). Những người BaTư và người Hy Lạp tại châu Á thời gian này đã bắt đầu sử dụng một manoeuver được biết đến như diekplous. Bây giờ thì không ai biết được kỹ thuật đó là gì, nhưng có thể đó là cách chèo thuyền vào khoảng cách giữa các tàu địch và sau đó đâm, húc chúng các bên mạn tầu. Cáh cơ động này yêu cầu có các tay chèo có nghề, và do đó người Ba Tư sẽ có nhiều khả năng sử dụng nó, và tất nhiên quân Đồng Minh cũng phát triển các chiến thuật đặc biệt để để đánh trả. Hiện đang còn nhiều tranh luận về chất lượng của hạm đội đồng minh so với hạm đội Ba Tư. Nhiều gợi ý từ nhà sử học Herodotus, rằng các tàu Đồng Minh nặng hơn, và ngụ ý là chúng ít cơ động so với tầu của quân Batư. Nguồn nói rằng tầu của Đồng minh nặng hơn không có cơ sở chắc chắn; có thể là tàu của Đồng Minh đã được đóng đồ sộ hơn, hoặc các tàu này được đóng từ các súc gỗ mà chúng đã không được sấy khô trong mùa đông (mặc dù không có bằng chứng thực cho các gợi ý này). Một gợi ý khác là trọng lượng nặng hơn này của tầu Đồng minh là do chúng chuyên chở lính thủy xọc xiên ( marines hoplite) (20 lính hoplites vũ trang đầy đủ sẽ có cân nặng khoảng 2 tấn). Trọng lượng nặng nề này bất kể do nguyên nhân gì gây ra sẽ làm giảm khả năng của tầu chiến Đồng minh khi sử dụng các đòn diekplous. Cũng có thể là do Đồng Minh đã tăng thêm lính thủy xọc xiên trên boong tàu nên tàu của họ ít cơ động, kể từ khi lên boong thì họ lại dùng những chiến thuật quen thuộc của mình để tiêu diệt quân Batư. Hơn thế nữa, Herodotus chỉ ra rằng người Hy Lạp bắt giữ và tái sử dụng tàu của Batư sau trận Artemisium hơn là đánh chìm chúng. Cũng có đề xuất rằng trọng lượng nặng hơn của tàu Đồng minh cũng có thể làm cho họ ổn định hơn trong gió ngoài khơi bờ biển Salamis, và làm cho họ ít bị thiệt hại với các cú đâm bằng mũi tầu (hay đúng hơn, ít chịu thiệt hại hơn khi bị đâm). Về chiến thuật mà nói, một trận hải chiến trên biển lớn, nơi mà sự vượt trội về trình độ, kỹ thuật hàng hải và số lượng tầu chiến sẽ là những ưu thế của người Ba Tư. Đối với người Hy Lạp thực tế , hy vọng thực tế cho một chiến thắng quyết định là phải kéo được người Ba Tư vào một khu vực biển chật hẹp, nơi mà sự vượt trội về số lượng không quyết định được gì cả. Trận đánh tại Artemisium đã cho thấy những nỗ lực của Đồng minh cũng không thể phủ nhận được lợi thế Ba Tư về mặt số lượng, nhưng cuối cùng Đồng Minh đã nhận ra rằng họ cần một cái gì đó có thể như là kênh cạn để đánh bại người Ba Tư . Vì vậy, khi dong buồm vào eo biển Salamis để tấn công người Hy Lạp, người Ba Tư đã rơi vào bẫy của Đồng Minh. Có vẻ như có thể rằng người Ba Tư sẽ không cố gắng làm điều này, trừ phi họ đã tự tin của sự chia rẽ của hải quân Đồng minh, và vì thế những mưu mẹo của Themistocle dường như đã đóng một vai trò then chốt để làm nghiêng cán cân về phía có lợi cho người Hy Lạp. Salamis được người Ba Tư cho rằng là một trận chiến không cần thiết và một sai lầm chiến lược. Trận đánh Salamis không được mô tả bởi các sách lịch sử cổ xưa, và không chắc rằng bất cứ ai (khác hơn là chính bản thân vua Xerxes) tham gia trận đánh đã hiểu rõ ràng những gì đã xảy ra trên bề mặt của eo biển ( Tại vì cụ này vác ghế ra ngồi chiêm ngưỡng mà he he). Những điều gì xảy ra trong trận đánh vẫn còn là vấn đề để bàn cãi hơn là những kết luận chắc chắn.
Bố trí
Trong hạm đội Đồng Minh, các tầu của người Athen được bố trí ở bên trái và bên phải có lẽ là của Sparta (mặc dù Diodorus nói vị trí đó là của người Megareans và Aeginetians), các đội tầu khác đóng ở trung tâm. Hạm đội Đồng Minh có lẽ hình thành thành hai bán đội, vì eo biển được cho là quá hẹp cho một hàng tàu duy nhất. Nhà sử học Herodotus thì cho rằng hạm đội Đồng Minh tạo thành một đường dài Bắc-Nam, có lẽ với sườn phía bắc ở ngoài khơi bờ biển hiện đại ngày là đảo Saint George (Ayios Georgis), và sườn phía nam ở ngoài khơi bờ biển Mũi Vavari (một phần của Salamis). Diodorus (chắc cũng là một nhà sử học ) cho rằng hạm đội Đồng minh thì liên kết theo hướng Đông-Tây, bao gồm các eo biển giữa Salamis và Núi Aigaleos, tuy nhiên, dường như là Đồng minh đã có thể bỏ trống một trong những cánh của họ về phía lãnh thổ chiếm đóng bởi người Ba Tư.Có vẻ khá chắc chắn rằng hạm đội Ba Tư đã được tung ra để chặn lối ra từ eo biển buổi tối hôm trước khi trận đánh xảy ra. Herodotus rõ ràng đã tin rằng hạm đội Ba Tư thực sự tiến vào eo biển vào lúc sẩm tối, người Batư lập kế hoạch để đón bắt Đồng Minh khi họ chạy trốn . Tuy nhiên, các nhà sử học hiện đại lại có rất nhiều tranh luận điểm này, một số chỉ ra những khó khăn của vận động của hạm đội trong một không gian bởi hạn chế bởi bóng đêm, và những người khác lại chấp nhận giả thiết của Herodotus. Như vậy có hai khả năng rằng trong đêm trước đó người Ba Tư đơn giản chỉ chặn lối ra vào eo biển, và sau đó tiến vào eo biển trong ban ngày, hoặc là họ tiến vào eo biển và ở lại chính vị trí trong đêm cho đến khi trận đánh xảy ra. Bất kể. cố gắng nào của họ, thì cũng đều có khả năng người Ba Tư xoay hạm đội của họ về phía mũi Cape Vavari, để từ hứơng ban đầu là đông - tây( chặn để lối ra), họ quay chỉnh một vòng về hướng bắc-nam. Hạm đội Ba Tư có vẻ như đã được chia thành ba hải đội tàu chiến (theo Aeschylus), với hải đội Phoenicia ở bên phải cạnh sườn Núi Aigaleos, đội hải Ionia trên sườn trái và hải đội còn lại ở hướng trung tâm.Diodorus thì cho rằng hải đội của người Ai Cập đã được gửi đi vòng quanh Salamis, để chặn các lối ra phía Bắc từ eo biển. Nếu Xerxes muốn bẫy Đồng Minh một cách chọn vẹn, thì vận động này là hoàn toàn có ý nghĩa. (Đặc biệt là trong trường hợp ông ta hy vọng Đồng Minh sẽ không chống trả). Tuy nhiên, Herodotus không đề cập đến điều này (và có thể ám chỉ sự hiện diện của Ai Cập trong cuộc chiến chính), dẫn đến một số nhà sử học hiện đại đã bỏ qua điều nay, mặc dù vậy những người khác chấp nhận nó như một khả năng có thể xảy ra. Xerxes cũng cử khoảng 400 binh sĩ lên đóng tại đảo như là Psyttaleia, ở giữa lối ra từ eo biển, để giết hoặc bắt giữ bất kỳ người Hy Lạp bỏ chạy (những người mà tàu của họ đắm hoặc mắc cạn).
Giai đoạn mở đầu trận đánh
Bất kể ở thời gian nào khi họ tiến vào eo biển, người Ba Tư đã không di chuyển để tấn công ngay vào đội hình quân Đồng Minh, mà họ cho đến khi có ánh sáng ban ngày. Kể từ khi họ không còn dự định lẩn tránh, Đồng Minh đã có một đêm nghỉ ngơi để chuẩn bị cho trận đánh, và sau một bài phát biểu của Themistocles, các lính thủy đánh bộ lên tàu đã sẵn sàng để căng buồm. Theo Herodotus lúc đó bình minh đang lên, tầu Đồng Minh đã " bơi ra biển ngay lập tức họ bị quân rợ tấn công" Nếu người Ba Tư chỉ tiến vào eo biển lúc bình minh, thì khi đó Đồng Minh đã có thời gian để sửa soạn vị trí của họ một cách có trật tự hơn. Aeschylus lại cho rằng người Ba Tư tiến vào (có thể ngụ ý rằng họ đã không có mặt ở trong các eo biển lúc bình minh), họ nghe thấy người Hy Lạp ca hát thánh ca chiến đấu của họ ( hay có thể là đang cầu chúa Jêsu he he) trước khi họ thấy hạm đội Đồng Minh. Lời bài hát:παῖδες Ἑλλήνων ἴτε,
ἐλευθεροῦτε πατρίδ, ἐλευθεροῦτε δὲ
παῖδας, γυναῖκας, θεῶν τέ πατρῴων ἕδη,
θήκας τε προγόνων:
νῦν ὑπὲρ πάντων ἀγών.
Dịch sang tiếng Việt
Tiến lên, hỡi những con trai Hy Lạp,
Để giải phóng Tổ quốc,
Để giải phóng trẻ em, phụ nữ của bạn,
Để các vị thần trên các bàn thờ của ông bố của bạn
Và từ các ngôi mộ của các bậc tiền bối của bạn:
Bây giờ là thời gian để tranh đấu vì tất cả mọi thứ.
Herodotus kể lại rằng, theo những người Athen, thì dường như là khi trận đánh sắp bắt đầu thì những người Corinthians kéo buồm của họ và bắt đầu chèo thuyền ra khỏi trận đánh,họ đi phía các eo biển phía Bắc. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng người Hy Lạp khác không đồng ý là có chuyện này xảy ra. Nếu điều này đã xảy ra trong thực tế, người ta có thể giải thích là những tàu này được gửi đến thăm dò theo lối ra phía Bắc từ eo biển, để thăm dò xem liệu có sự xuất hiện của các đội Ai Cập bao quanh hay không? (thực sự là điều này rất có khả năng xảy ra). Một khả năng ( không một chiều như giả thiết rước đây) là sự ra đi của những người Corinthians đã kích thích những hành động tấn công của người Ba Tư vì dường nó cho họ thấy là hạm đội Đồng minh đang bị tan rã. Ở chừng mực nào, nếu thực sự người Corinthians đã rẽ trái thì họ cũng sớm quay trở lại tham gia trận chiến.Tiếp cận hạm đội Đồng minh ở eo biển chật chội, Hạm đội Ba Tư xuất hiện đã trở thành vô tổ chức và chật chội trong vùng biển hẹp Hơn nữa rõ ràng rằng sự tan rã của hạm đội của Hy Lạp đã kết thúc, họ đã dược sắp xếp lại để sẵn sàng để tấn công kẻ địch. Tuy nhiên thay vì tấn công ngay lập tức, các tầu của Đồng Minh lúc đầu lại quay ngược tàu của họ đi, làm như họ đang sợ hãi. Theo Plutarch, hành động này là để có được vị trí tốt hơn, và cũng để kéo dài thời gian cho đến khi có gió sớm. Herodotus kể lại rằng theo truyền thuyết, dường như lúc hạm đội đang quay trở lại, họ đã thấy một người phụ nữ xuất hiện và nói với họ " những thằng điên kia, có biết là bao xa để chúng mày quay trở lại tàu của mình không?" nguyên văn "Madmen, how far will ye yet back your ships?" Tuy nhiên, ông thêm vào một cách hợp lý là trong khi các tầu của Đồng minh quay trở lạ, có một chiếc tàu duy nhất lao như tên bắn về phía trước để đâm vào tàu lớn gần nhất của người Ba Tư. Người Athens thì tuyên bố rằng đây là con tàu của Ameinias Pallene của Athens, người Aeginetans thì tuyên bố rằng đó là một trong những tàu của họ.Rồi toàn bộ Hy Lạp lao vào đội hình đang rối loạn của quân Ba Tư.
Giữa trận đánh
Trên chiến trường, dường như là đợt tầu đầu tiên của hạm đội Ba Tư đã bị đẩy lùi bởi người Hy Lạp, họ đã trở thành chướng ngại vật cho các đợt tiến thứ hai và thứ ba của chính đồng đội của họ. Phía cánh trái của Hy Lạp, Ariabignes đô đốc Ba Tư (một người anh em của Xerxes ) đã bị giết lúc đầu trận, để lại một tình trạng vô tổ chức và không có người lãnh đạo, các hải đội Phoenicia dường như đã bị đẩy lùi về phía bờ biển, nhiều tàu của họ bị mắc cạn khi bỏ chạy. Ở trung tâm, một mũi dùi của tàu Hy Lạp đã chọc xuyên qua hàng tầu chiến Ba Tư, chia tách hạm đội của họ làm hai phần Herodotus kể lại rằng nữ hoàng của Halicarnassus, và chỉ huy của đội ngũ Carian, thấy rằng mình bị truy đuổi bởi tàu Ameinias của Pallene. Trong lúc bỏ chạy tầu của bà ta đã đâm phải một tàu Ba Tư khác, do đó làm cho các đội trưởng của Athens nghĩ rằng đây chiếc tàu của đồng minh; Ameinias đã thôi không đuổi theo nữa, Tuy nhiên, Xerxes nhìn thấy và nghĩ rằng nữ hoàng đã tấn công một cách thành công tầu của Đồng Minh, và ông ta cũng thấy khả năng kém của các đội trưởng khác của mình nên đã nhận xét "đàn ông của tôi đã trở thànhđàn bà và đàn bà của tôi lại chở thành đàn ông"Các chi tiết của phần còn lại của trận đánh nói chung là được mô tả rất thô sơ trong sách sử, và không có người nào đã từng tham gia trận đánh lại có một cái nhìn tổng thể về cuộc chiến cả. Các tầu triremes thường được trang bị một mũi nhọn lớn ở phía trước, và nó có thể chìm tầu của kẻ thù, hoặc ít nhất vô hiệu hóa nó bằng cách cắt sạch các mái chèo ở một bên mạn tầu. Nếu cú đâm đầu tiên không thành công, thì một trận đánh tay đôi giữa các tầu chiến của đôi bên sẽ nổ ra sau đó.. Cả hai bên đều có thủy quân lục chiến của họ ở trên tầu; người Hy Lạp có lính Hoplite với đầy đủ vũ trang, người Ba Tư có lẽ có bộ binh vũ trang người Iran trang bị nhẹ hơn ( trong trường hợp này thì ai cũng biết lợi thế thuộc về Đồng Minh).Hạm đội Ba Tư đã bắt đầu rút lui về phía Phalerum, nhưng theo Herodotus, các tầu của người Aeginetans phục kích họ, khi họ đang cố gắng để rời khỏi eo biển. Các tàu trở lại được bến cảng Phalerum và nơi đóng quân của quân đội Ba Tư đều bị thương. Tướng Aristides của Athens sau đó dùng một đội quân đổ bộ lên đảo Psyttaleia để giết sạch các toán đồn trú mà Xerxes bỏ lại. Thương vong của Ba Tư không được đề cập một cách chính xác theo ghi chép của Herodotus. Tuy nhiên, ông nói rằng vào năm sau, hạm đội Ba Tư chỉ còn lại 300 triremes. Số thiệt hại phụ thuộc vào số lượng tàu thuyền của Ba Tư bắt đầu cuộc chiến; dường như rất có khả năng là trong khoảng 200-300 chiếc, dựa trên trên ước tính cho số lượng của hạm đội Ba Tư. Theo Herodotus, người Ba Tư bị thương vong nhiều hơn vì hầu hết họ không biết bơi. Xerxes, ngồi trên núi Aigaleos trên ngai vàng của mình, đã chứng kiến sự tàn sát. Một số thuyền trưởng tầu đắm người Phoenicia đã cố gắng đổ lỗi cho người Ionians nhát trước khi kết thúc trận đánh. Xerxes, trong lúc tâm trạng tồi tệ đã chứng kiến một tàu Ionia bắt giữ một tàu Aeginetan, đã ra lệnh trặt đầu những người Phoenicia vì tội đã vu khống cho "những người có dòng máu quý tộc " hơn họ.
Sau trận đánh
Bất chấp những hậu quả trước mắt từ trận Salamis, Xerxes đã cố gắng xây dựng một cầu phao hoặc đường đắp cao vượt qua eo biển, mục đích sử dụng quân đội của mình để tấn công Athen, tuy nhiên hạm đội Hy Lạp bây giờ đang tuần tra một cách tự tin xung quanh eo biển, điều này chứng tỏ có cố gắng tiếp cũng vô ích. Herodotus cho chúng ta biết Xerxes đã tổ chức một hội đồng chiến tranh. Lúc đó Đô đốc của Ba Tư, tướng Mardonius cố gắng làm rõ ý nghĩa của thất bại ở trận Salamis:" Tâu bệ hạ, không ai không thể không đau khổ vì những gì đã xảy đến với chúng ta. Nhưng thưa ngài người và ngựa của chúng ta không phải là gỗ đá, ... Nếu bây giờ ngài muốn chúng tôi ngay lập tức tấn công Peloponnese, nhưng tốt hơn ngài nên kiên trì chờ đợi, và rồi thì chúng ta vẫn sẽ làm được điều ta muốn .. Tốt nhất thì ngài nên làm theo điều hạ thần đã nói, nhưng nếu ngài vẫn kiên quyết dẫn quân đội tiến lên thì hạ thần vẫn một kế hoạch tác chiến khác. Nhưng không nên thưa bệ hạ, dẫn quân đội Ba Tư vào tiếp tục cuộc chiến với người Hy Lạp, ngài sẽ phải chịu nhiều hiểm nguy, đó không phải là do lỗi của người Ba Tư. Ngài cũng không thể nói rằng những việc chúng tôi đã làm ở đây ít dũng cảm hơn bất cứ người nào khác, như Phoenicia, Ai Cập, Cyprians và Cilicians có thể làm được, không phải là người Ba Tư là nguyên nhân cho tất cả tai họa này, nhưng người Ba Tư không thể đổ lỗi cho ai cả, hãy trao quyềh chỉ huy cho thần, nếu bệ hạ cảm thấy không ở lại đây nữa, hãy quay về nhà với phần lớn của quân đội của ngài. Thần sẽ tiêu diệt người Hylạp và biến chúng thành nô lệ của ngài" Vì lo ngại rằng người Hy Lạp có thể tấn công các cầu phao tại Hellespont và nhốt chặt quân đội của mình ở tại Châu Âu, Xerxes đã chọn cách quay về Batư, với phần lớn quân đội của ông ta. Mardonius chỉ huy các toán quân tiếp tục đóng lại cùng với ông ta tại Hy Lạp, bao gồm các đơn vị bộ binh và kỵ binh, để hoàn tất cuộc chinh phục của Hy Lạp. Quân Ba Tư bỏ rơi Attica nhưng chỉ để trú đông tại Boeotia và Thessaly, người Athens đã quay trở lại thành phố bị đốt cháy của họ trong mùa đông. Năm sau, 479 TCN, Mardonius lại tái chiếm Athens (quân đội Đồng Minh vẫn tập trung để bảo vệ eo đất Isthmus). Tuy nhiên, quân Đồng Minh, dưới sự lãnh đạo của thành bang Sparta, cuối cùng đã nhất trí để ép Mardonius vào một trận đánh quyết định, và họ hành quân về Attica. Mardonius rút lui về Boeotia để thu hút người Hy Lạp vào một địa hình rộng rãi và hai bên cuối cùng đã gặp nhau tại gần thành phố Plataea ( vốn đã được san bằng vào năm trước) Ở đó, trận Plataea, quân đội Hy Lạp đã giành một chiến thắng quyết định, tiêu diệt nhiều đội quân Ba Tư và kết thúc cuộc xâm lược vào Hy Lạp; trong khi ở trận gần đồng thời Mycale, hạm đội Đồng minh tiêu diệt những gì còn lại của hạm đội Ba Tư.
Trận Actium
Ngày 02 tháng 9 năm 31 TCN
Kết quả : chiến thắng quyết định của Octavian
Mark Antony mất hạm đội của mình, quân đội của ông ta bỏ chạy với số lượng lớn
Octavian trở thành Tổng tài duy nhất , là "Augustus Caesar" và là "công dân đầu tiên " của Rome.
Vị trí trận đánh: biển Ionia, gần Actium - Hy Lạp, thuộc địa của Lamã
Các Bên tham chiến
Octavian và lực lượng ủng hộ ông ta
Chỉ huy chiến trường
Marcus Vipsanius Agrippa
Sức mạnh
400 tàu chiến, chủ yếu là tàu nhỏ Liburnian và Hexeres với 16.000 lính lê dương thủy quân lục chiến và 3.000 cung thủ.
Thương vong
Khoảng 2.500 chết
Triều đại Ptolemaic Egypt
Mark Antony và lực lượng ủng hộ ông ta
Chỉ huy
Mark Antony
Sức mạnh
230 tàu chiến, chủ yếu là tầu Quinqueremes với một số tầu Deceres lớn hơn, 30 -> 50 tầu vận tải và 60 tàu chiến Ai Cập. 2.000 cung thủ, 20.000 lính lê dương thủy quân lục chiến.
Thương vong và thiệt hại
200 tàu chìm và bị bắt giữ, hơn 5.000 người chết
Trận Actium là hải chiến cuối cùng của nền Cộng hòa La Mã. Nó diễn ra giữa các lực lượng của Octavian và các lực lượng kết hợp của Mark Antony và Cleopatra. Trận đánh diễn ra vào ngày 2 tháng 9 31 trước Công nguyên, trên Biển Ionia gần thuộc địa La Mã Actium tại Hy Lạp. Hạm đội Octavian đã chỉ huy của Marcus Vipsanius Agrippa, trong khi đội tàu của Antony đã được hỗ trợ bởi các con tàu của người yêu của mình, Cleopatra VII, Nữ hoàng Ai Cập thuộc dòng họ Ptolemy.Chiến thắng của Octavian cho phép ông ta củng cố quyền lực của mình ở Rome và thuộc địa của nó. Cuối cùng, ông đã được trao danh hiệu Princeps ( "công dân đầu tiên ") và đồng thời cũng là từ kết quả của chiến thắng này ông đã được trao tặng danh hiệu Augustus của Thượng viện La Mã. Là Augustus, ông cố giữ vẻ bề ngoài là một nhà lãnh đạo đang phục hồi chế độ Cộng hòa La Mã, tuy nhiên, theo các nhà sử học, ông ta đã đặt dấu chấm hết cho nền Cộng hòa La Mã và mở đầu cho một thể chế mới, Chuyên chế La Mã
Bối cảnh chung
Liên minh thường được biết đến như là Tam hùng chế lần thứ hai ( Đây là liên minh của mấy bác đầu gấu ở La Mã thường để chống lại Viện nguyên lão La Mã, tam hùng chế I có Caesar, Crassus, Pompeus. Tam hùng chế lần II có Octavian, Mark Anthony và Lepidus), được gia hạn cho mỗi năm năm một lần vào 38 TCN bị đổ vỡ khi Octavian nhận chức Caesarion thì con trai chính thức của Julius Caesar và Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra, trở thành một mối đe dọa lớn đến sức mạnh của ông ta (Octavian ). Điều đó đã xảy ra khi Mark Antony, một người có thế lực nhất trong Tam hùng chế đã bỏ vợ (chị của Octavian tên là Octavia Minor) và chuyển đến Ai Cập để bắt đầu một tình lãng mạn lâu dài với Nữ hoàng Cleopatra, do đó trở thành cha dượng chính thức của Caesarion. Cuộc tình này đã trở thành một vụ bê bối chính trị ở Ai Cập, Antony chắc chắn đóng vai trò của một nhà lãnh đạo của một phong trào ly khai, phá vỡ sự thống nhất của Đế quốc La Mã. Ít nhất, đây là những gì Octavian và phần lớn của thành viên Thượng viện La Mã nghĩ vậy.Uy tín của Octavian và quan trọng hơn nữa, sự trung thành của binh đoàn Lê dương của ông ta đã trở nên nổi tiếng hơn nhờ cái chết của Julius Caesar vào năm 44 TCN, lúc đó mới mười bảy tuổi, Octavian đã được chính thức công nhận như là con trai duy nhất của La Mã rộng lớn và cũng là người thừa kế hợp pháp duy nhất của cải to lớn của Caesar. Mark Antony trở thành sĩ quan chính và thành công nhất trong quân đội hàng đầu của Julius Caesar (Magister equitum) và, nhờ những chiến thắng quân sự của mình, ông ta có thể yêu cầu một phần đáng kể những hỗ trợ chính trị, quân sự từ các chiến binh và cựu binh của Caesar. Cả hai Octavian và Mark Antony đã cùng chiến đấu chống lại kẻ thù chung của họ ( phe bảo vệ chế độ Cộng hòa đứng đầu là Brutus - người đã đâm chết Caesar) trong cuộc nội chiến xảy ra sau vụ ám sát Julius Caesar.Sau nhiều năm hợp tác trung thành với Octavian, Mark Antony bắt đầu hành động một cách độc lập, cuối cùng nghi ngờ ngày càng cao rằng ông muốn ganh đua để trở thành chủ nhân duy nhất của Rome. Khi ông công khai ly dị chị gái của Octavian, Octavia Minor, và chuyển đến Alexandria và trở thành chồng chính thức của Nữ Hoàng Cleopatra, ông ta đã làm nhiều chính trị gia La Mã tin rằng ông ta đã cố gắng để trở thành người cai trị không thể kiểm soát được ở Ai Cập và các vương quốc khác ở phía đông, trong khi vẫn duy trì mệnh lệnh của mình lên nhiều binh đoàn Lê dương ở phía Đông. Như là một thách thức cá nhân đến uy tín của Octavian, Antony đã cố gắng để cho Caesarion được chấp nhận như là một người thừa kế thực sự của Julius Caesar, mặc dù bản di chúc đã không đề cập đến cậu bé. Trong thực tế, Antony và Cleopatra chính thức nâng lên nắm quyền lực, Caesarion lúc mười ba tuổi, vào năm 34 trước Công nguyên, trao cho Mark Antony danh hiệu mơ hồ, nhưng ầm ỹ " Vua của các nhà vua" ( hay là kẻ bảo trợ thành Alexandria). Là con trai của Julius Caesar, danh hiệu này rõ ràng được hiểu như là một mối đe dọa cho các truyền thống của nền cộng hòa La Mã. Trong thực tế, theo cách hiểu rộng rãi, Mark Antony đã có một lần dâng vương miện cho Julius Caesar. Sau đó, Octavian bắt đầu một cuộc chiến tranh tuyên truyền, lên án Antony như là một kẻ thù của Roma, khẳng định rằng ông ta đang tìm cách thiết lập một chế độ quân chủ độc tài lên trên toàn bộ Đế quốc La Mã bằng cách thay mặt cho Caesarion. Octavian hoàn toàn lừa bịp được Viện nguyên lão La Mã, và làm nó tin rằng Antony có ý định di chuyển thủ đô của đế quốc về Alexandria.Khi liên minh tam hùng chế lần thứ hai chính thức hết hạn vào ngày cuối cùng của năm 33 TCN, Antony đã viết cho Viện nguyên lão rằng ông ta không muốn được tái bổ nhiệm. Ông hy vọng rằng ông có thể được Viện nguyên lão xem như là người hùng của họ để chống lại những tham vọng của Octavian, người mà ông coi là sẽ không sẵn sàng từ bỏ vị trí của mình một cách tự nguyện như ông đã làm. Các nguyên nhân của sự bất mãn lẫn nhau giữa hai bên liên tục được tích tụ. Antony phàn nàn rằng Octavian đã vượt quá quyền hạn của mình trong việc hạ bệ Lepidus, và việc Octavian chiếm lấy quyền điều hành cùng binh lính tại các lãnh địa của Sextus Pompeius mà không chịu trao cho ông ta một nửa. Octavian thì lại phàn nàn rằng Anthony không có thẩm quyền để được kiểm soát Ai Cập, rằng Anthony đã tử hình Sextus Pompeius một cách bất hợp pháp; rằng sự tráo trở của Anthony với vua Armenia tạo ra sự lạnh nhạt của quốc gia này với La Mã; rằng ông ta đã không gửi một nửa số tiền chiến lợi phẩm thu được đến Rome theo thỏa thuận, và rằng sự liên kết của Mark Anthony với Cleopatra và việc thừa nhận Caesarion như một con trai hợp pháp của Julius Caesar tạo ra sự mất uy tín cũng như đe dọa sự tồn tại của đế chế.Trong suốt năm 32 TCN, một phần ba thành viên của Viện nguyên lão và cả hai vị quan chấp chính tối cao đều liên minh với Antony. Hai vị quan chấp chính tối cao này quyết định che giấu cho các tham vọng của Antony. Ahenobarbus dường như đã muốn yên lặng, nhưng G. Sosius ngày 01 tháng 01 có một bài phát biểu tạo thuận lợi cho Antony, và đề nghị xác nhận rằng hành động của ông ta sẽ không bị phủ quyết bởi các hộ dân quan La Mã. Octavian không có mặt ở đó, nhưng tại cuộc họp tiếp theo Octavian đưa ra câu trả lời một cách tự nhiên rằng, hai vị quan chấp chính quan này phải rời Rome để gia nhập với Antony. Còn Antony khi nghe tin này đã công khai ly hôn với Octavia, chuyển đến thành phố Ephesus để ở với Cleopatra, đây cũng là nơi một hạm đội lớn đã được tập hợp từ tất cả các phần của phương Đông, trong đó Cleopatra đã đóng góp một phần lớn. Sau khi tạm trú một thời gian ở đó cùng với các đồng minh của mình tại Samos, Antony bỏ đến Athens.. Lực lượng bộ binh của ông ta vốn đóng tại Armenia được đưa xuống vùng bờ biển của châu Á, và được chỉ huy bởi L. Canidius Crassus.Octavian cũng không chậm hơn trong việc chuẩn bị lực lượng. Thật vậy, các hoạt động quân sự đã bắt đầu vào năm 31 trước Công nguyên, khi tướng Agrippa của Octavian chiếm giữ Methone, một thị trấn Hy Lạp liên minh với Antony. Tuy nhiên, do việc kế hoach hành động của Antony đã bị rơi vào tay của một kẻ phản bội tên là Plancus, và nó được đọc một cách kỹ lưỡng ở Rome để biết những gì chuẩn bị xảy ra tại Samos, và làm thế nào Antony lại hành động vì lợi ích của Cleopatra. Octavian đã có những hành động để tạo ra cảm giác rằng ông dễ dàng có từ bỏ quyền lực từ chức vụ chấp chính quan của mình vào năm 31 TCN mà ông ta đã được chỉ định, và bỏ phiếu cho một lời tuyên chiến chống lại Nữ hoàng Cleopatra, cũng có nghĩa tuyên chiến với Anthony, mặc dù ông đã không chỉ đích danh. Trong khi Octavian thực hiện điều này, Viện nguyên lão đã đưa một lời tuyên chiến và tước đi của Antony mọi thể nhân pháp luật.
Trận đánh
Antony có dự định mở một cuộc tấn công về phía nước Ý vào cuối năm 32, và đã vượt xa khỏi đảo Corcyra. Tuy nhiên, ông ta thấy rằng biển đã được bảo vệ bởi một đội tàu chiến của Octavian, ông ta quyết định dừng lại và trú đông tại Patrae, trong khi hầu hết các phần hạm đội của mình trong vịnh Ambracian, và bộ binh của ông ta hạ trại ở gần doi đất thuộc Actium, ở phía đối diện hẹp eo biển gần Vịnh Ambracian và được bảo vệ bởi một tháp và phần chính của quân đội.Các đề xuất của Octavian cho một cuộc hội họp để hòa giải với Antony đều bị từ chối một cách khinh mệt, cả hai bên đều lao vào chuẩn bị cho một trận đánh cuối cùng vào năm sau. Những tháng đầu năm trôi qua mà không có sự kiện đáng chú ý, ngoài một số thành công của Agrippa trên bờ biển của Hy Lạp, nhằm mục đích chuyển hướng sự chú ý của Antony. Mãi cho đến cuối tháng tám khi quân đội của Octavian đã hành quân bằng đường bộ vào khu vực phía bắc của eo biển đối diện trại Antony. Antony vẫn không hề quan tâm đến các đợt chuyển quân này. Mất một vài tháng để ông ta ( chắc là Anthony) chuyển các đạo quân đầy đủ của mình đến từ những nơi khác nhau, mà quân đội hoặc tàu của các đồng minh của ông ta đang trú đông. Nhưng trong các tháng này không chỉ có Agrippa tấn công vào thành phố Hy Lạp từ bờ biển, mà còn có các trận giao tranh bằng kỵ binh khác, Caesar đã bước đầu đánh bại kẻ thù, và Antony đã bị buộc từ bỏ phía Bắc của eo biển và rút binh sĩ của ông về phía Nam. Cleopatra bấy giờ rất muốn khuyên rằng các tầu garrisons nên được đưa vào trú tại thành phố được bảo vệ tốt, và rằng hạm đội chính nên trở về Alexandria. Đội tầu chiến lớn của Ai Cập trong liên minh cũng như các ảnh hưởng cá nhân của Cleopatra đã làm cho lời khuyên của cô trở nên trọng lượng đối với Antony, và có vẻ rằng sự di chuyển này đã được tiến hành trong thực tế.Octavian đọc được ý định này và quyết định phải ngăn chặn nó. Vào ngày đầu tiên của tháng chín, ông ta ban hành một thông báo đển hạm đội của mình để chuẩn bị cho trận chiến. Ngày hôm sau thời tiết ẩm ướt, biển có sóng to . Khi hiệu kèn trumpet vang lên, hạm đội của Anthony bắt đầu xuất hành từ phía eo biển, các tàu di chuyển theo hàng và duy trì sự yên lặng. Octavian sau khi một do dự ngắn đã ra lệnh tàu của mình hướng về bên phải và tìm cách vượt qua tàu của đối phương. Sau đó vì sợ bị bao vây, Antony đã buộc phải đưa ra mệnh lệnh tấn công.
Trình tự của trận đánh
Hai hạm đội xáp mặt nhau ở ngoài vịnh Actium vào sáng ngày 02 Tháng chín 31 TCN. Hạm đội của Antony số lượng khoảng 500 chiếc, trong đó có 230 tầu chiến galley lớn tám hoặc mười hàng chèo, có tháp cao với nhiều binh lính được vũ trang đầy đủ. Ông ta ( Anthony) hướng hạm đội của mình bơi xuyên qua eo biển tiến về phía biển lớn. Octavian có khoảng 250 tàu chiến, hạm đội của Octavian chờ đợi rình rập để chặn con đường vượt ra ngoài eo biển. Đội hình hạm đội của Octavian dẫn đầu là đô đốc Agrippa dày dạn kinh nghiệm chỉ huy cánh trái của hạm đội, Lucius Arruntius chỉ huy cánh trung tâm và Marcus Lurius chỉ huy cánh phải.Titus Statilius Taurus chỉ huy bộ binh của Octavian, quan sát trận đánh từ bờ biển phía bắc của eo biển. Mark Antony và Gellius Publicola chỉ huy cánh phải của hạm đội phía Antony, trong khi đó Marcus Octavius và Marcus Insteius chỉ huy đội hình trung tâm, và đội tầu của Cleopatra ở vị trí phía sau họ.Gaius Sosius phát động cuộc tấn công đầu tiên từ cánh trái của hạm đội, trong khi trung úy trưởng (chief lieutenant) của Antony, Canidius Publius Crassus, chỉ huy các lực lượng bộ binh của ông ta.
Giữa trận hải chiến
Trận đánh dữ dội kéo dài suốt cả buổi chiều không dẫn đến một kết quả quyết định. Phần lớn các tàu chiến của Mark Antony là tầu quinquereme, galley với mũ tầu bịt sắt nhọn lớn (ram), có thể nặng tới ba trăm tấn. tàu của Antony thường được trang bị các móc bằng thép lớn, sẽ rất hiệu quả nếu chúng được quăng trúng tầu đối phương, nhưng nếu không trúng, thì các móc bằng thép sẽ có khả năng gây thiệt hại cho chính con tàu của mình, hoặc gây nhiều sự chậm trễ và làm cho binh lính trên tầu dễ trở thành mục tiêu cho các tàu nhỏ hơn. Mũi của tầu Galley được bọc giáp bằng các phiến đồng và gỗ cắt vuông, làm cho con tầu có thể triển khai đòn tấn công ramming một cách thành công vào đối phương được trang bị yếu hơn.Thật không may cho Antony, nhiều tàu của ông bị thiếu thủy thủ đoàn, đã có một trận dịch sốt rét hoành hành trong khi họ đậu trong eo biển và đợi hạm đội của Octavian đến. Để khắc phục tốt nhất tình trạng này, Antony cho đốt những tàu không có đủ thủy thủ đoàn, trong khi gộp các thủy thủ đoàn đang bị sứt mẻ khác lại với nhau. Với nhiều tay chèo đã chết sức mạnh của đòn ramming (dùng mũi nhọn bọc thép của tầu mình húc vào tầu đối phương), chiến thuật chính được thiết kế cho tầu quinqueremes đã không được sử dụng thành công. Kẻ thù làm suy yếu quân đội của Antony bằng cách cắt đứt đường cung cấp của họ ( Vậy tức là phong tỏa xung quanh để Mark Anthony không tuyển được tay chèo mới - em đoán vây).Hạm đội của Octavian phần lớn được lập thành từ tầu Liburnian nhỏ hơn nhưng có trang bị và đào tạo tốt hơn, thủy thủ đoàn lại sung sức. Tuy thường nhỏ hơn nhưng tầu của Octavian lại dễ điều khiển hơn trong khi lướt trên sóng, chúng có khả năng đảo mạn tầu quay lại để chiến đấu rất nhanh sau khi phóng một loạt mũi lao vào một đối phương lớn và rút lui để khỏi bị đánh trả với thời gian rất ngắn. Tầu Liburnian nhẹ hơn và có thể cơ động nhanh hơn các tầu Quinqueremes, khi mà các tầu này chỉ có đòn ram tầu địch, và đồng thời giết các thủy thủ đoàn của đối phương ở trên boong với một trận mưa tên và pháo bắn đá catapult với những quả đạn đủ mạnh để bắn bay đầu quân địch.Trước khi trận chiến, một trong những tướng của Mark Antony, Quintus Dellius, đã đến đầu hàng Octavian với các kế hoạch chiến đấu của Mark Antony. Antony hy vọng sử dụng những tàu lớn nhất của mình để đấy cánh quân của Agrippa về cuối phía bắc của hàng tầu chiến của mình, nhưng toàn bộ hạm đội của Octavian đã biết chiến lược này, và họ vận động ngoài tầm với của tầu chiến của Anthony. Ngay sau giữa trưa, Antony đã buộc phải kéo dài hàng tầu chiến của mình để tăng cường bảo vệ bờ biển và cuối cùng tham chiến với kẻ thù. Cleopatra ở phía sau, không thể chịu nổi tình trạng hồi hộp chờ đợi, hoảng loạn về tinh thần ( đúng là dây vào đàn bà thì đỏ tình, đen bạc), đã phát tín hiệu rút lui. Hạm đội của Cleopatra rút lui ra biển lớn mà không giao chiến. Một cơn gió nhẹ thổi đúng hướng, và thế là các con tàu của Ai Cập đã sớm thoát ly khỏi trận chiến.Antony đã không quan sát thấy tín hiệu rút lui này, và ông ta cho rằng đó một cơn hoảng loạn và rằng tất cả đã mất hết sau hành động bỏ chạy của đội tầu AiCập. Điều này lây lan rất nhanh, khắp mọi nơi buồm được căng lên, và tháp chiến đấu với các vũ khí khác bị hạ xuống boong. Tuy vậy vẫn còn một số tầu tiếp tục chiến đấu, nhưng cũng chẳng kéo dài được đến chiều tối, khi nhiều chiếc đã bị bắt lửa từ những cây đuốc đang cháy được ném vào họ. Cho rằng mọi việc đã kết thúc Mark Antony chuyển sang một tàu nhỏ hơn với cờ xí của mình và cố gắng để chạy thoát, cùng với một vài chiếc tàu hộ tống ông cố gắng chọc thủng hàng tầu của Octavian để chạy thoát. Những chiếc ở phía sau không chạy thoát được, tất nhiên đã bị bắt giữ hoặc đánh chìm bởi lực lượng của Octavian.Một kịch bản khác của trận hải chiến (không rõ nguồn gốc ) cho rằng khi Antony biết ông bị bao vây và không còn đường rút chạy. Nhằm mục đích để xoay vần trận chiến về phía có lợi cho mình, Antony đã tập hợp tàu của ông ta xung quanh mình thành một đội hình móng ngựa ở gần bờ cho an toàn. Sau đó, khi các tầu của Octavian tìm cách áp sát tàu của Antony thì biển sẽ đẩy chúng vào bờ. Antony thấy rằng ông không thể đánh bại lực lượng của Octavian, do đó, Cleopatra và ông ở lại ở phía sau đội tầu. Cuối cùng, Antony đã tung các tàu chiến ở cánh phía bắc của mình để cuộc tấn công. Ông đã ra lệnh cho họ tiến ra phía bắc, để làm giãn đội hình tàu của Octavian khi các tầu này đang cố gắng sắp xếp chặt chẽ. Ông tung một đội tầu do Gaius Sosius chỉ huy xuống phía nam để làm giãn ra đội hình tàu còn lại ở phía nam. Chiến thuật này tạo ra một lỗ ở giữa đội hình chiến đấu của Octavian. Antonius nắm lấy cơ hội này và cùng với Cleopatra trên các con tàu của mình, tăng tốc bơi xuyên qua các khe hở và chạy thoát, bỏ toàn bộ lực lượng của mình.Sau khi trận đánh kết thúc, Octavian cố gắng cứu các thủy thủ của các tàu bị cháy, và đã ở cả đêm trên tàu. Ngày hôm sau các chiến đoàn bộ binh của Antony bị chặn mất đường rút lui của họ đến Macedonia và bị buộc phải đầu hàng, và trại của Antony đã bị chiếm đóng. Và khi tất cả đã qua đi thì Đế chế La Mã chỉ còn có một người chủ duy nhất.
Sau trận đánh
Các hậu quả chính trị của trận chiến này đã kéo rất dài.Trong bóng đêm mịt mờ 19 chiến đoàn bộ binh và 12.000 kỵ binh của Antony đã bỏ chạy trước khi ông ta có thể tổ chức một trận đánh trên bộ với Octavian. Sau khi Mark Antony mất đi hạm đội của mình, lực lượng bộ binh của ông ta, vốn phải ngang bằng với của Octavian, đã bỏ chạy với số lượng lớn. Antony mặc dù không thiết lập đế chế riêng của mình, ông ta vẫn bị coi là một kẻ bỏ trốn và nổi loạn, mà không có một sự bảo vệ nào về mặt chính trị và pháp lý từ các thành viên Viện nguyên lão, hay từ các chấp chính quan tối cao như trong các năm trước. Tuy có một số chiếc tầu trong hạm đội thắng trận cố đuổi theo Antony, nhưng Caesar lại tự dành phần còn lại của năm đó tại Hy Lạp, châu Á và trú đông ở Samos; mặc dù ông bắt buộc phải đi trong một thời gian ngắn đển Brundisium giải quyết một số cuộc nổi loạn và sắp xếp việc cai trị cho phần lãnh thổ vừa chiếm được.Tại Samos, Octavian đã nhận được một bức thư từ Cleopatra cùng với một vương miện và ngai vàng, nhân danh con trai mình bà ta xin thoái vị. Nữ hoàng tin rằng bà ta sẽ được đối xử tốt, còn với Octavian thì ông ta lại băn khoăn về việc đảm bảo an toàn cho Nữ Hoàng chiến thắng của ông ta. Antony tự cảm thấy mình bị bỏ rơi, sau khi đã cố gắng để vớt vát được một số binh lực và đóng quân ở gần Paraetonium thuộc Pinarius, và gửi Antyllus con trai trưởng của ông ta cùng với tiền đến Octavian và xin được về sống tại Athens như là một công dân bình thường (không thấy nói đên strả lời - chắc là bị từ chối ). Vào mùa xuân Antony bị tấn công từ hai phía, cánh thứ nhất là từ. C. Cornelius Gallus tiến từ Paraetonium và cánh quân thứ hai là Octavian đổ bộ xuống Pelusium, với sự đồng lõa được tin là của Cleopatra. Antony bị đánh bại bởi Gallus, và chạy về phía Ai Cập, hướng về phía Pelusium.Mặc dù có một chiến thắng tại Alexandria, ngày 31 tháng 7 năm 30 TCN, nhiều chiến binh của Mark Antony đã bỏ chốn, làm ông ta không đủ lực lượng để chống lại Octavian. Thành công nhỏ trước Octavian đã làm cho binh lính của Antony cạn kiệt sức lực, điều này đã khuyến khích Octavian mở một cuộc tổng tấn công, trận đánh này đã hoàn hoàn toàn đánh bại Antony. Ông này sau đó chỉ còn cách bỏ chạy khỏi trận đánh, và do bị mất liên lạc nên tin rằng Cleopatra đã bị bắt, sau đó đã ông ta đã tự sát. Thất baị khi tìm cách trốn thoát từ boong tầu ông ta rút dao tự đâm mình, nhưng ông ta không chết ngay lập tức và ông này muốn được mang đến lăng mộ nơi Cleopatra đang bị giam giữ, và chết trong tay của bà ta. Nữ hoàng ngay sau đó được mang từ nơi này đến cung điện và cố gắng khêu gợi sự đam mê hoặc thương xót của Octavian.Khi Cleopatra nghe tin tức về cái chết của Mark Antony, bà ta đã cố gắng làm mất cảnh giác của lính canh và tự tử vào ngày 12 tháng 8 năm 30 TCN. Trong một khoảng thời gian ngắn bà ta đã tự chấm dứt cuộc sống của mình bằng cách được cho là do vết cắn của một con rắn chuyển đến Nữ hoàng trong một giỏ trái vả. Cái chết của bà đến từ các vết cắn từ một con rắn mào độc. Octavian đã ra lệnh giết chết Caesarion một năm sau đó, để bảo vệ danh hiệu của ông như là "người con trai duy nhất của Julius Caesar".Như vậy, chiến thắng của Octavian trong trận Actium làm cho ông ta trở thành bá chủ của La Mã Địa Trung Hải "Mare Nostrum" và ông trở thành "Augustus Caesar" và là công dân "đầu tiên" của Rome. Chiến thắng này, củng cố quyền lực của ông ta trên tất cả các thể chế của La Mã, đánh dấu sự chuyển tiếp của Roma từ chế độ Cộng hòa sang Chuyên chế. Sự đầu hàng cuối cùng của Ai Cập sau cái chết của Cleopatra cũng đánh dấu sự sụp đổ cuối cùng của cả hai nền văn minh Hy Lạp cổ và Vương quốc Ptolemy.Để kỷ niệm chiến thắng trước Antonius, Augustus tổ chức lễ hội Actia La Mã. Augustus cũng xây dựng một tượng đài nhìn ra phía trận đánh, tượng đài này được đúc từ các ram đồng lấy từ các tàu chiến bị đánh bại. Chiếc đế còn sót lại của phần tượng đài bằng đá là bằng chứng về kích thước đáng kể của các ram ( Mũi nhọn bọc đồng của tầu chiến La Mã)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro