Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Những phát hiện về vạn vật và con người 2

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 1

http://ebooks.vdcmedia.com

MỤC LỤC

Chương 25 Người Trung Hoa đi ra ......................................................6

Chương 26 Một đế quốc không có nhu cầu ........................................10

PHẦN VII - BẤT NGỜ CỦA CHÂU MỸ..........................................................13

Chương 27 Dân Viking phiêu bạt ......................................................14

Chương 28 Dừng lại ở Vinland...........................................................18

Chương 29 Sức mạnh của gió.............................................................21

Chương 30 "Công trình thám hiểm Indies" .......................................25

Chương 31 Thuận gió, thuận tình, và may mắn ...............................30

Chương 32 Thiên đường tìm được và đánh mất ................................34

Chương 33 Đặt tên cho miền đất lạ...................................................40

PHẦN VIII NHỮNG ĐƯỜNG BIỂN ĐI ĐẾN KHẮP NƠI .............................49

Chương 34 Thế giới của các đại dương...............................................50

Chương 35 Chính sách bảo mật .........................................................59

Chương 36 Kiến thức trở thành hàng hóa.........................................62

Chương 37 Hăng say đi tìm những khám phá phủ định ..................66

PHẦN IX THẤY NHỮNG CÁI MẮT THƯỜNG KHÔNG THỂ THẤY...........74

Chương 38 Đi vào "màn sương nghịch lý" .........................................75

Chương 39 Những gì mắt thường có thể thấy ...................................85

Chương 40 Một cái nhìn gây bối rối và ngạc nhiên ...........................92

Chương 41 Vụ Galileo.......................................................................100

Chương 42 Những thế giới mới bên trong........................................104

Chương 43 Một Galileo bên Trung Quốc .........................................110

PHẦN X BÊN TRONG CHÚNG TA...............................................................114

Chương 44 Một nhà tiên tri ngông cuồng mở đường.......................115

Daniel J. Boorstin 2

http://ebooks.vdcmedia.com

Chương 45 Sự thống trị của Galen...................................................118

Chương 46 Từ động vật tới con người ..............................................121

Chương 47 Những luồng khí bên trong chúng ta............................124

Chương 48 Từ phẩm đến lượng........................................................128

Chương 49 "Kính hiển vi của thiên nhiên"......................................135

PHẦN XI KHOA HỌC TRỞ THÀNH PHỔ CẬP ..........................................140

Chương 50 Nghị trường các nhà khoa học.......................................141

Chương 51 Từ kinh nghiệm tới thí nghiệm.....................................144

Chương 52 "Thượng đế phán hãy có Newton" .................................149

Chương 53 Quyền ưu tiên trở thành giải thưởng............................157

PHẦN XII PHÂN LOẠI VẠN VẬT.................................................................161

Chương 54 Học quan sát ..................................................................162

Chương 55 Phát minh các "loài".......................................................170

Chương 56 Săn lùng các mẫu động vật và thực vật ........................177

Chương 57 Kéo dài quá khứ.............................................................182

Chương 58 Đi tìm mắt xích còn thiếu..............................................188

Chương 59 Những con đường đi tới tiến hóa ...................................195

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 3

http://ebooks.vdcmedia.com

Ngoại trừ một ít đảo như Síp, Crêta và Sicily, người Ả Rập

không cần phải vượt biển để đi từ nơi này đến nơi khác trong đế

quốc của họ. Nếu những người Ả Rập ở miền bắc quen đi biển

giống như những người Rôma, chắc hẳn lịch sử sau này của châu

Âu đã phải khác đi rất nhiều.

Tuy nhiên, sống ở Địa Trung Hải, người Ả Rập bó buộc phải

đi biển. Sau khi một hạm đội của Byzantin tái chiếm Alexandria

(645 C.N.), Đế Quốc Hồi Giáo nhận thấy rõ ràng họ phải có một lực

lượng hải quân. Alexandira trở thành trung tâm hải quân của họ,

một căn cứ đào tạo hải quân và đóng tàu bằng gỗ đưa từ Syria về.

Vào năm 655, hải quân Ả Rập ở Dhat al-Sawanri đánh bại một lực

lượng năm trăm chiến thuyền của Byzantin.

Đế Quốc Hồi Giáo Ả Rập bành trướng trên đất liền xung

quanh Địa Trung Hải. Bán đảo Iberia, điểm giao nhau giữa đất

của châu Âu và đất của châu Phi, đã là một phần phía tây châu

Âu thuộc quyền thống trị của Hồi giáo. Các sử gia vẫn còn tranh

luận xem có thể gọi Địa Trung Hải là một cái hồ lớn của Hồi giáo

hay không. Chính sức mạnh của người Ả Rập dựa trên các căn cứ

địa trên đất liền của họ trên khắp Địa Trung Hải là cái đã hình

thành tương lai của ngành hàng hải trên đất châu Âu và từ châu

Âu đến các nơi khác.

Ngoại trừ một ít đảo như Síp, Crêta và Sicily, người Ả Rập

không cần phải vượt biển để đi từ nơi này đến nơi khác trong đế

quốc của họ. Nếu những người Ả Rập ở miền bắc quen đi biển

giống như những người Rôma, chắc hẳn lịch sử sau này của châu

Âu đã phải khác đi rất nhiều. Alexandria có thể đã trở thành một

Venice của Hồi giáo. Nhưng ngược lại, cái thành phố to lớn đã có

thời hoàng kim của mình với con số dân cư trên 600.000 người, đến

cuối thế kỷ 9 chỉ còn 100.000 ngàn người. Các giáo chủ của thế kỷ

9 và 10 đã để cho thành phố suy tàn. Ngọn hải đăng Pharos nổi

Daniel J. Boorstin 4

http://ebooks.vdcmedia.com

tiếng ở Alexandria, từng là một trong Bảy Kỳ Quan Thế giới của

thời cổ, nay đã trở thành một phế tích. Và ngay cả những phế tích

của nó cũng đã bị hủy diệt bởi một trận động đất ở thế kỷ 14. Tư

tưởng và văn học Ả Rập hướng về đất liền.

Nhưng ở Địa Trung Hải, các đế quốc luân phiên được chinh

phục và bị mất trên biển. Tàu bè là vũ khí của những nhà xây

dựng các đế quốc. Trong những thế kỷ mà đế quốc Hồi giáo đang

thua dần ở phương Tây, thì ở Ấn Độ Dương, nó vẫn tiếp tục yên ổn

một cách kỳ lạ. Chính tại đây sức mạnh hải quân Ả Rập phát triển

tự do. Sức mạnh đó được thể hiện nhờ Ibn Majid, hậu duệ của

những nhà hàng hải nổi tiếng Ả Rập. Ông tự gọi mình là "Sư Tử

của Biển Thịnh Nộ", nổi tiếng vì được coi là người hiểu biết nhiều

nhất về ngành hàng hải trên Biển Đỏ đáng sợ và Ấn Độ Dương.

Ông đã trở thành vị thánh bổn mạng của những người đi biển Hồi

giáo. Là tác giả của ba mươi tám tác phẩm bằng văn vần và văn

xuôi, ông viết về mọi đề tài hàng hải của thời mình. Tác phẩm hữu

dụng nhất cho các nhà hàng hải Ả Rập là cuốn Kitab al-Fawa'id,

hay Cẩm Nang Hàng Hải (1490) của ông, một tổng luận về mọi

kiến thức của thời đó về ngành hàng hải, gồm những thông tin để

hướng dẫn các người đi biển trên Biển Đỏ và Ấn Độ Dương. Cho tới

hôm nay, trong một số lãnh vực, tác phẩm này của ông được coi là

không có ai qua mặt được.

Vasco da Gama đã có một sự may mắn to lớn trong chuyến

hành trình đầu tiên của mình. Một cách tình cờ kỳ lạ, khi ông đến

Malindi, ông đã nhờ được một người hoa tiêu Ả Rập tài giỏi và

đáng tin lái tàu của ông qua được Ấn Độ Dương, viên hoa tiêu đó

chính là Ibn Majid. Vị thuyền trưởng Bồ Đào Nha đã không ngờ

mình lại may mắn đến thế. Ngay cả Ibn Majid cũng không ngờ

được rằng, khi họ đưa tàu cập bến Calicut, họ đã làm một hành vi

vô cùng trớ trêu trong lịch sử. Vô tình bậc thầy hàng hải Ả Rập

này đã dẫn người thuyền trưởng vĩ đại của châu Âu tới thành công

mà sự thành công này lại có nghĩa là việc đánh bại nền hàng hải Ả

Rập trên Ấn Độ Dương. Các sử gia Ả Rập sau này đã phải giải

thích khác đi vai trò của Ibn Majid trong vụ này, bằng cách nói

rằng ông chắc hẳn đã ở trong tình trạng say rượu khi tiết lộ cho

Vasco da Gama những thông tin giúp ông này đến được Ấn Độ an

toàn.

Thế nhưng khoa địa lý của Ả Rập rất phát triển. Trong khi

những nhà trắc địa của châu Âu thời Trung cổ mê ngủ trong giáo

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 5

http://ebooks.vdcmedia.com

điều, thì những nhà địa lý Ả Rập rất tự tin với những công trình

của Ptolêmê, mà phương Tây đã chôn vùi cả ngàn năm. Thậm chí

người Ả Rập còn hiệu đính công trình của Ptolêmê, bằng cách cho

thấy rằng Ấn Độ Dương không phải một biển đóng kín mà là một

đại dương mở ra Đại Tây Dương. Một trong những nhà địa lý Ả

Rập tiên phong có ảnh hưởng lớn nhất là nhà bác học Al-Biruni

(973-1050?), một trong những nhà khoa học vĩ đại của Hồi giáo

thời Trung cổ. Ông vừa có sự quan sát sắc bén vừa có óc tò mò vô

cùng và ngay trước khi lên 17 tuổi, ông đã chế ra một dụng cụ cải

tiến để đo vĩ độ. Ông đã diễn tả một số những suy tư tiến bộ của Ả

Rập về hình thù của châu Phi.

"Biển Đông bắt đầu ở Trung Hoa và đổ dọc theo bờ biển Ấn

Độ xuống phía đất nước của người Zendj [Zanzibar]... Các nhà

hàng hải chưa từng vượt qua ranh giới này, lý do là vì biển ở phía

đông bắc đi vào đất liền... trong khi ở phía tây nam, như thể để bù

trừ, đất liền lại trải ra biển... Bên kia điểm này, điểm luân phiên

đi vào giữa các núi đồi rồi qua các thung lũng. Nước luôn luôn bị

khuấy động vì mức lên xuống của thủy triều, các đợt sóng không

ngừng tràn tới và lui, khiến cho các tàu bè bị đánh vỡ tan tành. Đó

là lý do tại sao biển này không qua lại được. Nhưng điều này

không ngăn cản Biển Đông ăn thông với Đại Dương qua một

khoảng trống giữa các rặng núi dọc bờ biển phía nam [của châu

Phi]. Chúng ta có những bằng chứng chắc chắn về sự ăn thông này

mặc dầu không thể xác minh được nó bằng mắt nhìn. Chính vì sự

thông thương này mà phần đất có người ở của trái đất đã được đặt

vào chính giữa trung tâm của một vùng bao quanh tứ phía là

biển".

Chính Ibn Majid đã hài lòng nêu lên rằng những ý tưởng của

Al-Biruni và của chính mình bây giờ đã được "những người Bồ Đào

Nha giàu kinh nghiệm" chứng minh.

Daniel J. Boorstin 6

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 25

NGƯỜI TRUNG HOA ĐI RA

Vào thời hoàng tử Henry Nhà Hàng Hải phái các tàu thám

hiểm của mình đi dọc xuống bờ biển phía tây châu Phi, thì ở phía

bên kia hành tinh, những nhà hàng hải Trung Hoa đã có một lực

lượng hải quân vô địch về quân số, về tài năng và về kỹ thuật.

Những tàu chiến của họ đã ngang dọc khắp Biển Đông và quanh

Ấn Độ Dương, tới tận bờ biển tây châu Phi, cho tới mũi cùng của

Lục Địa Đen. Nhưng trong khi những thành tích của hoàng tử

Henry là tiền đề cho những cuộc hải hành dẫn đến việc khám phá

cả một Tân Thế Giới và đi vòng quanh trái đất, thì những chuyến

hành trình lớn hơn của Trung Hoa vào cùng thời kỳ ấy lại đi vào

ngõ cụt.

Ngành đi biển của Trung Hoa đã phát triển một cách ngoạn

mục. Người hùng của sự phát triển này là Trình Hạo, nhà thiết kế

và chỉ huy những chuyến du hành rộng lớn và xuất sắc nhất.

Trình Hạo là một thái giám và điều này giúp cắt nghĩa ông đã làm

cách nào tổ chức được những cuộc mạo hiểm to lớn ấy và cũng cắt

nghĩa tại sao chúng đã kết thúc một cách quá đường đột như vậy.

Các cơ chế ở hoàng cung Trung Hoa rất thuận lợi để các quan

thái giám phát triển quyền lực. Ngay từ thời nhà Hán, vua thường

chỉ ở trong hoàng cung và trong vườn thượng uyển và các quan cận

thần cũng chỉ được tiếp xúc suốt ngày đêm ở trong hoàng cung và

có thể trò chuyện với vua. Ngay quan tể tướng cũng chỉ có thể tiếp

xúc với vua bằng các sớ biểu, trong khi quan thái giám có thể thì

thầm sát tai vua.

Nếu vua đã sống từ nhỏ ngoài hoàng cung và lên ngôi khi đã

trưởng thành, thì ảnh hưởng quyền lực của thái giám cũng không

đến nỗi to lớn bao nhiêu. Nhưng liên tục trong thời kỳ sau này của

lịch sử Trung Hoa, các vua kế vị đều đã sinh ra và lớn lên trong

hoàng cung, dưới sự trông coi từ bé tới lớn của thái giám. Khi một

hoàng đế nhỏ tuổi lên kế vị vua cha, quan thái giám của hoàng

cung là người kiểm soát mọi quyết định của vị vua nhỏ tuổi và của

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 7

http://ebooks.vdcmedia.com

hoàng thái hậu nhiếp chính. Những thái giám này trong thời kỳ

đầu của triều Hán thường xuất thân từ những hạng bần cùng

trong xã hội. Biết rằng mình chẳng có tương lai nào bên ngoài đời

sống hoàng cung, nên những thái giám này đã trở nên nổi tiếng vì

tính tham lam và quen nhận của đút lót.

Nhưng dần dần một tầng lớp nho học mới, đồ đệ của Khổng

Tử, cũng được thu nhận từ những giai cấp nghèo khổ và đã được tổ

chức thành một bộ phận công chức của triều đình. Từ đây đã có

hai phe rõ rệt, một phe bênh vực các thái giám, một phe chống lại

các thái giám. Những học sĩ thư lại thì sợ, ghen tị và khinh bỉ

những thái giám có quyền hơn họ, dù những thái giám này chẳng

biết một câu kinh của Khổng Tử. Tầng lớp quân đội do các tướng

quân cầm đầu có lý do để miệt thị những tên thái giám bồi phòng

chưa hề biết đánh trận là gì. Giới học sĩ thư lại và giới quân nhân

hầu như không bao giờ thành công trong việc liên minh với nhau

để chống lại những thái giám, vì những người này sống trong cung

cấm mà không địch thủ nào có thể thâm nhập.

Chúng ta biết rất ít về thái giám Trình Hạo. Chúng ta chỉ

biết ông là người Hồi giáo, xuất thân từ dòng dõi nghèo hèn ở tỉnh

Vân Nam của miền nam Trung Hoa.

Những phát hiện về vạn vật và con người (phần 53)

Vào thời của Trình Hạo, hoàng đế Trung Hoa luôn muốn

chứng tỏ Trung Hoa không cần gì ở những nước khác và không có

gì phải học từ các nước khác.

Ông vua Dung Lộ (1359-1424) là một con người hoang tưởng

tự đại, muốn biến Trung Hoa thành một đế quốc lớn như đế quốc

Mông Cổ ở phương Bắc. Năm 1409, vua Dung Lộ rời kinh đô từ

Nam Kinh lên Bắc Kinh, sát biên giới của Mông Cổ, gần ngay Vạn

Lý Trường Thành. Sau đó ông quyết định phái các đoàn hàng hải

đi khắp khu vực Biển Trung Hoa để trương uy thanh thế của

mình. Ông đã chọn Trình Hạo làm người chỉ huy. Trình Hạo đã tổ

chức những đoàn tàu lớn nhất trên hành tinh từ trước tới nay

(1405-1433), gồm 370 chiến thuyền với 37 ngàn người. Các chiến

thuyền gồm đủ loại, từ những chiếc to nhất có chiều dài 150 mét,

ngang 60 mét, chín cột buồm, xuống tới những chiếc nhỏ nhất có

năm cột buồm, dài 60 mét và ngang 22 mét. Cả Ibn Battuta, người

sống trước đó một thế kỷ, lẫn Nicole de Conti, người vào khoảng

thời đó từng là hành khách trên một con tàu Trung Hoa, đều kinh

Daniel J. Boorstin 8

http://ebooks.vdcmedia.com

ngạc trước những con tàu mà họ thấy lớn hơn rất nhiều so với

những tàu lớn nhất họ từng thấy ở phương Tây.

Trình Hạo đưa các đoàn tàu hải quân của mình đi khắp các

vùng biển giáp giới Biển Trung Hoa và Ấn Độ Dương.

Trình Hạo đã thực hiện cả thảy 7 chuyến hành trình xa dần

về phương tây. Chuyến đầu tiên khởi hành năm 1405 đã đi đến

Java và Sumatra, rồi đến Ceylon và Calicut. Các chuyến tiếp theo

đi đến Xiêm La, biến Malacca làm căn cứ dừng chân để đi tiếp tới

vùng Tây Indies, rồi tới Bengal, tới quân đảo Maldive và xa mãi về

phương tây tới tận lãnh địa Ba Tư của Ormuz ở cửa Vịnh Ba Tư.

Chuyến thám hiểm thứ sáu (1421-1422) chỉ trong vòng hai năm đã

ghé qua 36 nước trải hết chiều ngang của Ấn Độ Dương từ Borneo

đến Zanzibar. Năm 1424, là một điềm xấu cho kế hoạch to lớn của

ông này. Ông vua kế vị là người theo phe chống hải quân quyết

định hủy bỏ kế hoạch hàng hải được dự trù cho năm đó.

Thế là các cuộc hải hành trở thành quân cờ thí cho sự tranh

chấp ngôi vua. Sau thời gian trị vì ngắn ngủi của vị vua chống hải

quân, ông vua kế vị là một người rất hăng hái với chương trình

hàng hải, đã cho tiến hành chuyến thám hiểm thứ 7 và cũng là

chuyến có quy mô to lớn nhất. Các con tàu chờ 27.500 sĩ quan và

thủy thủ, khi trở về vào năm 1433 đã thiết lập được những quan

hệ ngoại giao hay chư hầu với hai mươi vương quốc từ Java ở phía

đông ngang qua quần đảo Nicobar tới Mecca ở phía tây bắc và đi

xa tới tận bờ phía đông của châu Phi.

Sự hiện diện của sức mạnh hàng hải vô cùng to lớn của

Trung Hoa ở khắp nơi khiến người phương Tây e ngại những mưu

đồ chiến tranh của người Trung Hoa.

Lực lượng hàng hải của Trình Hạo với những chuyến hành

trình xa rộng và vô cùng tốn kém chắc hẳn không phải để thu vào

của cải hay thiết lập những đường thương mại hay thu thập thông

tin khoa học. Các sử gia Trung Hoa luôn luôn lặp đi lặp lại rằng sứ

mạng đầu tiên của Trình Hạo là truy tìm tung tích người cháu họ

của Dung Lộ, người đã bị Dung Lộ tiếm ngôi và đã phải bỏ Nam

King để lưu vong ở nước ngoài. Nhưng theo đà tiến của các cuộc

thám hiểm, những động cơ khác đã phát sinh.

Các cuộc thám hiểm trở thành một cơ chế để trương uy

thanh thế cho triều đại nhà Minh mới được thiết lập. Và các

chuyến thám hiểm chứng tỏ rằng những phương thức thuyết phục

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 9

http://ebooks.vdcmedia.com

bằng lễ giáo và hòa bình có thể nhận được sự nhìn nhận của các

nước chư hầu ở phương xa. Người Trung Hoa không thiết lập

những căn cứ vĩnh viễn tại những lãnh thổ chư hầu, nhưng họ hy

vọng làm cho "khắp thiên hạ" phải tự nguyện thần phục và ca ngợi

Trung Hoa như một trung tâm văn minh duy nhất.

Với ý tưởng đó, lực lượng hàng hải Trung Hoa không dám

cướp phá những lãnh thổ mà họ đặt chân tới. Trình Hạo không

muốn chiếm nô lệ vàng bạc, hay gia vị, như các đoàn thám hiểm

phương tây. Trung Hoa chỉ muốn được các nước chư hầu thừa

nhận quyền bá chủ của Trung Hoa và coi Trung Hoa như là nước

văn minh duy nhất trong thiên hạ. Vào thời của Trình Hạo, hoàng

đế Trung Hoa luôn muốn chứng tỏ Trung Hoa không cần gì ở

những nước khác và không có gì phải học từ các nước khác.

Những phát hiện về vạn vật và con người (phần 54)

Các lực lượng hàng hải của phương Tây không bao giờ chỉ

bằng lòng với sự thừa nhận của những nước khác bằng lễ nghi

suông mà thôi. Ngay từ thời kỳ đầu, họ luôn đi tìm kiếm những gì

họ thiếu. Nhưng vào thời Trình Hạo đầu đời nhà Minh, người

Trung Hoa không có những nhu cầu như thế.

Daniel J. Boorstin 10

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 26

MỘT ĐẾ QUỐC KHÔNG CÓ NHU CẦU

Các lực lượng hàng hải của phương Tây không bao giờ chỉ

bằng lòng với sự thừa nhận của những nước khác bằng lễ nghi

suông mà thôi. Ngay từ thời kỳ đầu, họ luôn đi tìm kiếm những gì

họ thiếu. Để tìm kiếm các loại dầu thơm của Ả Rập, tơ lụa của

Trung Hoa và gia vị của Ấn Độ, những nhà hàng hải của Đế Quốc

Rôma cổ đại đã lùng sục khắp Ấn Độ Dương. Các đồng tiền kẽm

của Rôma rải rắc khắp châu Á và những kho báu của triều đại nhà

Hán được trở về Rôma.

Vào đầu thế kỷ 19, khi bạc của đế quốc Anh chảy vào phương

Đông để đổi lấy tơ lụa, trà, sơn mài, thì công ty Anh British East

India Company đã khôn khéo đưa vào món hàng mới là thuốc

phiện mà họ có thể đưa từ Ấn Độ vào Trung Hoa để làm một

phương tiện trao đổi mới. Tuy giải quyết được vấn đề ngoại thương

của mình, nhưng họ đã dọn đường cho cuộc Chiến tranh Nha

Phiến (1839-42) dẫn tới cuộc xâm lăng Trung Hoa. Nhưng vào thời

Trình Hạo đầu đời nhà Minh, người Trung Hoa không có những

nhu cầu như thế. Các đặc sản châu Âu như vải len và rượu cũng ít

hấp dẫn đối với người Trung Hoa. Những lời tuyên bố của Trình

Hạo tự phụ rằng các nước khác không có gì để cho Trung Hoa

ngoài sự thần phục và tình hữu nghị.

Công cuộc thám hiểm của Trung Hoa đã trở nên lố bịch

không phải vì thái độ đạo đức mà là vì thái độ tự mãn của họ. Họ

coi sự tham lam tìm kiếm những sản phẩm ngoại lai là một trọng

tội và họ tuyệt đối tin tưởng ở bản tính vô cầu của mình.

Suốt nhiều thế kỷ, người Trung Hoa luôn kiên trì chống lại

những sự thèm muốn ngoại lai, một thứ bệnh truyền nhiễm của

phương tây. Khi đại diện ngoại giao đầu tiên của nước Anh, Ngài

Macartney, đến Bắc Kinh để mở nền thương mại với Trung Hoa,

câu trả lời của hoàng đế Mãn Châu đã gây thất vọng. "Chúng tôi

không thiếu gì cả", hoàng đế nhận định năm 1793, "như phái đoàn

của các ông và mọi người đều thấy rõ. Chúng tôi không bao giờ lưu

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 11

http://ebooks.vdcmedia.com

trữ nhiều hàng hóa ngoại bang và chúng tôi cũng không cần có

thêm những sản phẩm của quý tộc".

Công trình hàng hải của Trình Hạo đã phát triển nhanh một

cách kỳ lạ bao nhiêu, thì cũng đã chấm dứt một cách đột ngột bấy

nhiêu. Giá như Trình Hạo có được một đoàn người kế tục như

Colômbô đã có những Vespucci, Balboa, Magellan, Cabot, Cortese

và Pizarro, thì chắc hẳn lịch sử thế giới đã khác đi rất nhiều.

Nhưng Trình Hạo không có người tiếp nối và hoạt động hàng hải

của Trung Hoa cũng suy tàn đột ngột. Và tinh thần thám hiểm

luôn luôn là một cái gì xa lạ đối với Trung Hoa.

Tinh thần bế quan tỏa cảng của Trung Hoa đã có từ lâu đời.

Bức Vạn Lý Trường Thành được xây dựng vào thế kỷ 3 trước C.N.,

đã được tôn tạo vào thời nhà Minh, thời của Trình Hạo. Đây là một

công trình độc nhất vô nhị trên thế giới cả về kích thước lẫn thời

gian. Nó có vô vàn cách cắt nghĩa khác nhau. Một trong các cách

cắt nghĩa đó là bức tường ngăn cấm không cho người dân được

vượt ra ngoài lãnh thổ. Người Trung Hoa nào bị phát hiện có mặt ở

nước ngoài đều là bất hợp pháp và những khách du lịch liều lĩnh

đi ra nước ngoài sẽ phải xử trảm. Chuyến du hành thứ bảy của

Trình Hạo là chuyến du hành cuối cùng của Trung Hoa. Khi ông

trở về nước năm 1433 cũng là lúc chấm dứt những cuộc thám hiểm

đường biển có tổ chức của Trung Hoa. Một chiếu chỉ của vua ban

hành năm ấy và các năm tiếp theo (1449, 1452) đã gia tăng những

hình phạt tàn bạo đối với những người Trung Hoa dám đi ra nước

ngoài.

Người Trung Hoa từ xa xưa đã phát triển ý niệm về thế giới

đại đồng đặt họ vào trung tâm của thiên hạ. Vì các hoàng đế nhà

Minh là những Thiên Tử, nên tất nhiên họ là những hoàng thượng

và chủ tể tối cao của mọi dân tộc khác trên thế giới. Thế nên hiển

nhiên là tất cả những dân tộc khác đều phải thần phục Trung

Hoa. Và hiển nhiên người Trung Hoa chẳng có gì phải đón nhận từ

người nước ngoài!

Trong khi người châu Âu vượt biển đi ra bên ngoài với niềm

say mê và hoài bão to lớn, thì người Trung Hoa bị bó chặt trong

đất nước của mình. Tự giam hãm trong bức Vạn Lý Trường Thành

vừa theo nghĩa đen vừa theo nghĩa bóng, Trung Hoa tránh gặp

điều bất ngờ. Lý thuyết chính thống của Khổng giáo từ thế kỷ 2 đã

xác định thái độ hướng nội của người Trung Hoa. Họ không cảm

thấy có động cơ vượt biển để đi tìm những miền đất xa lạ. Tuy

Daniel J. Boorstin 12

http://ebooks.vdcmedia.com

được trang bị đầy đủ những kỹ thuật, đầu óc và tài nguyên của đất

nước để trở thành những nhà khám phá, thế mà người Trung Hoa

lại để người khác khám phá ra mình.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 13

http://ebooks.vdcmedia.com

Phần VII - Bất ngờ của châu Mỹ

Người Thiên tài không phạm lỗi

lầm. Những sai lầm của họ đều có chủ

tâm và là cửa dẫn tới khám phá.

- James Joyce. Ulysses (1922) -

Daniel J. Boorstin 14

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 27

DÂN VIKING PHIÊU BẠT

Chúng ta đã thấy người Trung Hoa đã đột ngột và tự ý rút

lui khỏi ngưỡng cửa đi ra thế giới và đóng kín mình như thế nào.

Họ có đủ đầu óc và phương tiện để mở rộng ra thế giới bên ngoài,

nhưng họ đã chọn chính sách thu mình lại. Ngược lại, những dân

tộc không được tổ chức hay trang bị để khám phá thế giới trên

biển cả thì không phải đối diện với một lựa chọn như thế. Đó là

hoàn cảnh của hầu hết châu Âu thời Trung Cổ. Trong kỷ nguyên

của những cuộc thám hiểm lớn trên biển của những người Viking

(khoảng 780-1070), phần còn lại của châu Âu thuộc khối Kitô giáo

đi biển rất ít. Đế quốc Hồi giáo đã bung ra khỏi giới hạn của Địa

Trung Hải để đến những biên giới xa xôi nhất, từ dãy Pyrênê

ngang qua Gibralta quanh khắp vùng Maghreb ở tây bắc châu Phi

và xuyên qua Trung Đông tới những bờ sông Indus. Tại phần tây

châu Âu, các phong trào lái buôn, hành hương, xâm lăng và cướp

bóc chủ yếu là ở trên đường bộ.

Đùng một cái vào cuối thế kỷ 8, những đoàn người phương

bắc tung hoành trên biển Baltic và Biển Bắc đã làm người ta kinh

hoàng. Nhiều thế kỷ trước đó, những người phương bắc thuộc

nhóm ngôn ngữ Germanic đã tới định cư ở bán đảo lớn phía bắc

châu Âu và những đảo nhỏ xung quanh và nay đang dần dần tách

thành những dân Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy. Trong một

ngàn năm, đã từng có những đợt người Scanđinavi kéo tới châu

Âu. Giờ đây, các phong trào của những dân tộc này trở thành một

nạn dịch hoành hành với những cảnh giết người, cướp của và

cưỡng hiếp.

Những dân tộc trên đây được gọi chung bằng cái tên

"Viking", một cái tên có nguồn gốc khá mơ hồ. Trong thổ ngữ

Norse và Icelandic, viking có nghĩa là một cuộc cướp bóc và viking

có nghĩa là quân cướp bóc hay cướp biển. Nó cũng có thể có nguồn

gốc từ tiếng Anh cổ wic hay wicing, có nghĩa là trại hay nơi tạm

trú, vì người Viking thường sống trong những trại tạm bợ trong

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 15

http://ebooks.vdcmedia.com

khi họ đi lo công việc của mình. Viking cũng có nghĩa là người

chiến binh. Và có lẽ "Viking" cũng liên quan tới từ Latinh vicus,

người thành phố và sau này mang theo nghĩa người đi biển hay lái

buôn. Sau cùng, "viking" cũng có liên quan tới động từ Norse cổ

vikja, "di chuyển mau lẹ", để mô tả họ như những con người di

chuyển rất nhanh, những người rút nhanh, hay đi xa nhà rất lâu.

Không may, những mục tiêu cướp phá của những đoàn người

Viking đầu tiên lại nhắm vào những kho báu ít được bảo vệ nhất,

đó là những nhà thờ và tu viện ở Tây Âu. Trong khối Kitô giáo

châu Âu, các kho báu được thu gom và cất giữ tại những nhà thờ

và tu viện không cần thiết bảo vệ, vì đối với họ, cướp của nhà thờ

là một trọng tội đáng ghê tởm.

Khi người Viking khám phá ra cơ hội trước mắt này, họ

không do dự chớp lấy. Những tu viện ở lẻ tẻ là những nạn nhân

thuận tiện nhất của họ. Những hòn đảo hẻo lánh ở Đại Tây Dương

phía bờ biển Ai Len là những nơi các tu sĩ thấy thanh thoát và

không bị vướng mắc những cám dỗ phàm tục, lại chính là những

con mồi dễ bắt nhất của người Viking. Các Biên Niên Sử Anglo-

Saxon ghi lại rằng đầu năm 793, xuất hiện những điềm gở với sấm

sét, rồng bay và nạn đói dữ dội, rồi vào tháng 6 thình lình xuất

hiện một làn sóng quân ngoại đạo tràn tới trên mặt biển. Những

người Viking Na Uy này cướp phá các nhà thờ và tu viện, tàn sát

các tu sĩ, rồi cướp và đốt các nhà cửa.

Thế kỷ tiếp đã chứng kiến một nạn dịch cướp của người

Viking dọc theo biển Baltic và Biển Bắc, xuống tới Tô Cách Lan,

miền bắc nước Anh, Ai Len và Đảo Con Người, thậm chí tới tận

những đảo xa xôi như Orkneys, Shetlands và Hebrides. Những

quân cướp phá Viking là nỗi ám ảnh cho Tây Âu suốt ba thế kỷ.

Ngay cả vua Charlemagne hùng dũng cũng cảm thấy bị đe dọa.

Lịch sử kể lại, có lần vua đang ăn tối ở một thành ven bờ biển,

những quân cướp phương Bắc đến cướp cảng, "và bọn chúng cướp

rồi rút nhanh đến nỗi chúng không chỉ thoát khỏi lưỡi kiếm, mà

còn thoát khỏi những cặp mắt muốn truy tìm chúng". Vua

Charlemagne ôm mặt khóc, ông nhìn lâu ra cửa sổ về phía đông là

nơi quân cướp đã kéo đến và ông vô cùng sầu não vì lo sợ cho con

cháu ông sẽ phải chịu sự đau khổ do những người phương Bắc này

gây nên.

Để thực hiện những chiến dịch đánh nhanh rút gọn, đường

biển là đại lộ thích hợp nhất. Trên biển, họ có thể bất chợp đánh

Daniel J. Boorstin 16

http://ebooks.vdcmedia.com

úp nạn nhanh, rồi rút lui với của cướp được mà không sợ bị đuổi

theo. Khi quân cướp đi cướp trên bộ, người ta thường biết trước và

vì thế có thời giờ để giấu của và chạy trốn. Nhưng trên biển rộng,

nạn nhân làm sao biết được quân cướp từ đâu tới và rút đi đường

nào?

Phải đến giữa thế kỷ 8 người Viking mới hoàn thiện các tàu

thuyền của mình cho các cuộc cướp bóc. Tại quê hương của họ,

người Viking từ lâu đã có kinh nghiệm đường biển quanh các vịnh

ở bờ biển Na Uy, những bờ biển của bán đảo Đan Mạch và lên tới

những con sông của Thụy Điển. Kỹ thuật đóng tàu cướp biển phát

sinh từ những kinh nghiệm này. Một thủ lĩnh Viking chỉ huy một

tàu dài khoảng 20 mét, rộng khoảng 6 mét, cao khoảng 2 mét.

Sống tàu dài khoảng 17 mét, làm bằng nguyên một cây gỗ sồi nên

rất dẻo dai. Vỏ tàu ghép bằng 16 tấm ván mỏng dày khác nhau,

được trám bằng nhựa đường trộn với lông thú vật hay lông cừu.

Tàu có thể sử dụng mái chèo để thêm lực, nhưng chủ yếu là một

tàu buồm, có thể căng thành lều ngủ qua đêm cho 35 người.

Nhưng với một trọng tải tối đa 10 tấn, phần chìm của nó chỉ cao

không đầy 1 mét.

Tàu có phần chìm cạn rất thích hợp cho những quân cướp

biển Viking. Nó giúp họ rút nhanh vào những bờ biển cát. Mạn

phải tàu được gắn một bánh lái giúp dễ điều khiển. Khi William of

Normandy xâm lăng nước Anh năm 1066, những chiếc tàu kiểu

Viking cổ điển này có khả năng mau chóng hạ cột buồm và đưa

ngựa chiến của ông mau chóng lên bờ. Không có những loại tàu có

khả năng đến và đi một cách chớp nhoáng như thế, chắc hẳn

những vụ cướp bóc Viking đã phải ít hơn nhiều.

Dần dần những kẻ cướp bóc này chuyển sang nếp sống định

cư. Thay vì trở về quê mỗi mùa thu để nghỉ đông ở vùng giá lạnh

Scandinavi, họ thấy tiện lợi hơn nên biến những trại đóng quân

dọc theo bờ biển của họ thành những ngôi làng từ đó họ có thể tiếp

tục mở những đợt tấn công vào mùa xuân tiếp theo. Những người

Norse và người Phương Bắc trở thành những người "Normans" và

họ đặt tên cho vùng bờ biển họ trú đóng là Normandy.

Ở châu Âu, người Normans đi đến đây cũng chứng tỏ họ có

tài thích nghi. Ở Pháp và Đức, họ biết thích nghi với chế độ phong

kiến. Ở Anh, họ là chất xúc tác cho một quốc gia thống nhất. Và họ

đã giúp củng cố nền thương mại của nước Nga trên đường thủy. Ở

Sicily, họ đóng nhiều vai trò khác nhau. Sống giữa một cộng đồng

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 17

http://ebooks.vdcmedia.com

đa ngôn ngữ và đa tôn giáo - Hồi giáo, Kitô giáo, Do thái giáo, nói

tiếng ả Rập, Hi Lạp, hay Ý - họ trở thành những người trung gian.

Dưới thời vua Roger II, một vị vua người Norman bao dung, cung

điện sang trọng ở Palermo trở thành một nơi qua lại sầm uất phía

nam châu Âu, là nơi hội tụ những tư tưởng và nghệ thuật đủ mọi

màu sắc.

Tuy rất giỏi di cư, cũng như có tài thích nghi và đoàn kết các

quốc gia, người Norman không có tài hay niềm say mê thám hiểm.

Các tàu thuyền Viking không thích hợp cho những chuyến du

hành đường dài, hay cho việc đi kiếm thuộc địa ở những vùng đất

xa xôi phía đại dương. Sức chứa hàng của tàu không đủ để nuôi

một lượng hành khách và thủy thủ đông đảo trong nhiều tuần lễ

lênh đênh trên biển. Tàu Gokstand của thế kỷ 9 chỉ chở được

khoảng 35 người, với một lượng bằng khoảng 10 tấn, chứ không

được như tàu Santa María của Colômbô (khoảng 40 người, trọng

tải hàng khoảng 100 tấn) hay tàu Mayflower của Pilgrim (khoảng

100 người, trọng tải khoảng 180 tấn).

Trong bảy thế kỷ, từ thời hoàng đế Constantin tới thời Thập

tự chinh, người Scandinavi là những tác nhân chính trong việc

châu Âu bành trướng xuống phía nam, sang đông và sang tây.

Daniel J. Boorstin 18

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 28

DỪNG LẠI Ở VINLAND

Những người Viking tiến sang phía tây là những người di

chuyển không ngừng từ đảo này qua đảo khác. Nhìn vào bản đồ

khu vực những vĩ độ viễn bắc ngay dưới Vòng Bắc Cực có thể giúp

chúng ta hiểu rõ con đường tiến về phía tây của người Norse. Giữa

vùng biển Bắc Cực và vĩ độ 60 ngang suốt Đại dương từ Bergen tới

bờ biển châu Mỹ, cứ cách khoảng 500 dặm là chúng ta có thể gặp

thấy đất liền. Khác biết bao với vùng đại dương mênh mông ở

những vĩ độ phía nam chỗ nào cũng chỉ thấy nước, là lãnh địa của

Colômbô và Vespucci! Khoảng năm 700, họ đã đi đến tận quần đảo

Faeroe cách phía bắc Tô Cách Lan chừng 200 dặm và rồi đến năm

770 họ lại đi tiếp và bắt đầu định cư ở Aixơlen. Từ quần đảo

Hebrides ngoài khơi bờ biển tây bắc Tô Cách Lan, người Norse đi

đến Ai Len, tại đây họ lập thành phố Dublin năm 841.

Chúng ta liên tiếp chứng kiến cảnh tượng quen thuộc của

người Viking đi lang thang trên biển và cố tìm ra những chỗ có đất

để đi vào. Ngẫu nhiên tìm được một chỗ nào, họ sẽ định cư luôn tại

đó. Người Viking đã khám phá ra Aixơlen khi một người Thụy

Điển tên là Gardar Svavarsson, bị mẹ của mình là một thầy bói ép

buộc anh rời đất Scandinavi đi về phía đảo Hebrides để tìm di sản

của vợ mình và đã bị trôi giạt trên biển. Tình cờ anh đến được phía

đông Aixơlen. Về sau, còn có chuyện một thủy thủ bị gió đánh trôi

giạt vào một vùng đất ở phía tây nam Aixơlen và khi Eric Mặt Đỏ

đi tìm những câu chuyện ấy, anh đã đến Greenland, chuyện người

Viking khám phá ra Vinland cũng là một dạng chuyện như thế.

Câu chuyện về người Viking bất ngờ khám phá ra châu Mỹ

và định cư ở đó bắt nguồn với Bjarni Herjolfsson; ông này có một

chiếc tàu buôn qua lại giữa Na Uy và Aixơlen. Mùa hè 986, ông

chở một chuyến tàu đầy hàng đến Aixơlen với ý định qua mùa

đông tại đây theo thường lệ với ông Heriulf, cha của ông. Lần này,

thất vọng vì Heriufl đã bán đất ở Aixơlen và đã đi Greenland, ông

quyết định đi theo cha đến đó. Chắc hẳn họ đã biết đường đi tới đó

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 19

http://ebooks.vdcmedia.com

rất nguy hiểm. Họ chưa từng đi con đường này và họ lại không có

bản đồ hay la bàn. Vì thế không lạ gì họ bị sương mù làm cho

không biết phương hướng. Cuối cùng khi họ thấy được một vùng

đất "bằng phẳng và phủ đầy rừng", Bjarni biết rằng đó không thể

là Greenland. Đi dọc theo bờ biển, trước tiên họ thấy nhiều "vùng

đất bằng phẳng và phủ đầy rừng" hơn và xa hơn lên phía bắc, họ

thấy những núi phủ đầy băng. Là con người thực tế và không thích

tò mò, chỉ muốn làm sao tìm được cha, nên Bjarni cảm thấy áy náy

lo lắng. Ông không cho đoàn người của mình lên bờ, nhưng quay

thuyền ra biển trở lại và sau 4 ngày ông đã đến Jerijolfsnes, đúng

chỗ ông đã muốn đi tìm ở phía mỏm tây nam của Greenland.

Những truyền thuyết của người Greenland còn giữ lại sự

kiện Bjarni đã thoáng thấy miền đất lạ ở phía tây, có thể là châu

Mỹ.

Cũng theo truyền thuyết này, Leif Ericsson, người đã đến

Greenland với cha mình là Eric Mặt Đỏ, đã mua con tàu của

Bjarni. Năm 1001, ông cùng một đoàn 35 người ra biển để đi tìm

vùng đất mà Bjarni đã thoáng thấy nhưng không có can đảm đi

thám hiểm.

Leif chỉ huy đoàn thám hiểm của mình nhắm thẳng hướng

tây, "phát hiện ngay ra vùng đất mà Bjarmi đã phát hiện lần

trước. Khung cảnh phủ đầy băng giá và từ biển trông thẳng lên coi

giống như một tảng đá nguyên khối. Cảnh tượng này làm họ nghĩ

vùng đất cằn cỗi và vô dụng". Đó là Đảo Baffin, nằm ngay phía bắc

Eo Hudson và họ đặt tên cho nó là Helluland, hay Đất Đá Bằng.

Đi xa hơn dọc theo bờ biển đông nam, họ thấy một chỗ nghỉ đông

hấp dẫn và gọi nó là Vinland hay Wineland, Đất Rượu, vì ở đó có

rất nhiều nho.

Tìm thấy vùng đất hấp dẫn thật bất ngờ, đoàn người của Leif

quyết định lên bờ và dựng một ngôi nhà lớn ở đó để trú đông. Mùa

hè sau đó, họ lại quay trở về Greenland.

Khi Eric Mặt Đỏ, cha của Leif chết, trách nhiệm gia đình đè

nặng trên Leif, nên ông phải về ở gần gia đình. Ông cho em của

mình là Thorvald mượn tàu, vì Thovald muốn đến thăm đất

Vinland mà Leif đã khen ngợi không tiếc lời. Thvald và đoàn người

của mình đến được đó khá dễ dàng. Họ qua mùa hè thám hiểm bờ

biển, rồi nghỉ đông tại Leifsbudir (Lều của Leif). Mùa hè năm sau,

khi họ gặp lần đầu tiên những người bản địa, sáu người bản địa bị

Daniel J. Boorstin 20

http://ebooks.vdcmedia.com

giết, riêng Thorvald bị một mũi tên trọng thương, nên ông phải

quay về Greenland cùng đoàn người của mình.

Trước cuối thế kỷ 14, những cuộc định cư của người Viking ở

Greenland cũng như ở Vinland chỉ còn là chuyện của quá khứ.

Người Viking có lẽ là những người châu Âu đầu tiên định cư

ở châu Mỹ, nhưng hoàn toàn không có nghĩa họ là những người đã

"khám phá" châu Mỹ. Họ chỉ sống ở đó mà không có sự dũng cảm

khai phá. Những gì họ làm ở đó không thay đổi gì quan niệm của

họ hay của một ai khác về thế giới. Điều đáng nói ở đây không

phải là chuyện người Viking đã thực sự đến được châu Mỹ, nhưng

là chuyện họ đã đến định cư ở châu Mỹ một thời gian mà không

khám phá ra châu Mỹ.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 21

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 29

SỨC MẠNH CỦA GIÓ

Không kể những hướng của mặt trời mọc và lặn, thay đổi

từng nơi và từng mùa, thì phải kể đến hướng của gió là yếu tố có

thể giúp ích rất nhiều cho người đi biển. Ngay từ thế kỷ 1 trước

C.N., người Trung Hoa đã viết về những "mùa gió" của họ. Họ khai

triển một hệ thống phân loại chi tiết thành 24 loại gió mùa và

dùng những con diều để thử hướng gió. Không lạ gì người Trung

Hoa đã từ lâu chế tạo những chong chóng gió và có thể họ là

những người tiên phong làm ra những dụng cụ chỉ hướng cho khoa

học tự nhiên sau này. Người Hi Lạp thời cổ rất quen sử dụng tên

của các loại gió để chỉ hướng đi của họ, đến độ "gió" cũng đồng

nghĩa với hướng. Các thủy thủ của Colômbô hình dung phương

hướng không bằng những độ của la bàn mà bằng gió, los vientos.

Các thủy thủ Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục gọi mặt la bàn của họ là

rosa dos ventos, hoa hồng gió.

Gió, sức mạnh đưa con người vượt biển, là một đề tài rất hấp

dẫn, giàu hình ảnh lãng mạn huyền thoại và kích thích suy tư

khoa học.

Các lý thuyết tinh vi về gió, giống như lý thuyết của William

of Conches ở thế kỷ 12, gán cho gió vai trò chính trong việc tạo khí

hậu, làm đại dương chuyển động và tạo những trận động đất. Một

trong những bộ bách khoa ảnh hưởng nhất thời trung cổ, được

xuất bản vào năm du hành đầu tiên của Colômbô, do Bartholomew

người Anh soạn, đã phổ biến ảnh hưởng của gió đối với nhân

chủng học. "Gió bắc làm khô và làm lạnh đất, nhưng vì nó trong

lành và êm dịu", nên cái lạnh của nó đóng kín các lỗ chân lông,

nhờ đó thân thể giữ được sức nóng. Hậu quả là "người phương bắc

có thân thể cao lớn và đẹp". Gió nam nóng và ẩm nên có hiệu quả

ngược lại. "Vì vậy người phương nam khác với người phương bắc về

tầm cỡ và hình dáng. Họ không mạnh bạo cũng không nóng nảy

như người phương bắc".

Daniel J. Boorstin 22

http://ebooks.vdcmedia.com

Người châu Âu vẽ bản đồ và họa đồ đi biển thời Trung Cổ đã

giữ lại những tên cổ điển để chỉ các loại gió. Người đi biển Hi Lạp

thời cổ đã đặt tên cho bốn hướng gió chính và đánh dấu bốn điểm

khác giữa bốn hướng ấy. Tháp Gió tám góc rất đẹp ở Athen (thế kỷ

2 trước C.N.,) cho du khách ngày nay thấy một biểu tượng sống

động gắn vào mỗi một trong tám hướng gió.

Người Ả Rập có một lợi thế đặc biệt trong công việc tìm kiếm

hướng gió tuyệt đối, vì Hồi giáo đòi hỏi các đền thờ của họ phải

hướng mặt về Mecca. Họ chỉ có thể hướng đúng tới một địa điểm

nào đó nếu họ biết những tọa độ địa lý. Ngay từ thời Trung Cổ, các

nhà khoa học kiêm toán học Hồi giáo đã sử dụng khoa chiêm tinh

như một tiền thân của khoa thiên văn để cải tiến việc tính vĩ độ và

kinh độ của Ptolêmê.

Về sau, châu Âu đã dùng la bàn nam châm để mở ra một thế

giới mới cho công việc đặt tên phương hướng và tìm phương hướng.

Từ nay các phương hướng không còn chỉ mang tính cách địa

phương và tương đối, mà nó được xác định theo gió tại một địa

điểm nhất định. Bất ngờ la bàn nam châm giúp cho người đi biển

tìm ra được phương hướng tuyệt đối ở bất kỳ nơi nào trên quả đất

mà không cần dùng đến những tính toán phức tạp. Nhờ dùng la

bàn nam châm, Colômbô đã có thể xác định vị trí của mình để đi

thẳng đến Capangu và vẫn ở trên cùng một vĩ độ, mà không cần

dùng đến các dụng cụ thiên văn hàng hải.

Hiển nhiên la bàn trở thành chất xúc tác cho việc thám

hiểm, một sự kích thích đi vào thế giới xa lạ. Những người đi biển

không còn dùng những bản phác họa thô sơ các địa điểm quen

thuộc nữa, mà đã có thể dùng những bản đồ thực sự, để cho họ biết

phương hướng trên khắp trái đất. Các cực từ trường của trái đất là

một đặc tính riêng của trái đất, không phải là một với các cực địa

lý mà trái đất xoay quanh. Lý do để xác định vị trí của các cực từ

trường vẫn còn là điều bí ẩn và từ trường của trái đất đã thay đổi

cực tính của nó nhiều lần trong lịch sử địa chất quá khứ.

Dù vậy, trong thực tế, la bàn cung cấp phương hướng tuyệt

đối cho không gian trên khắp trái đất, tương tự những gì mà đồng

hồ cơ khí và giờ đồng đều cung cấp cho thời gian. Cả hai khám phá

này đều đã xảy ra ở châu âu trong cùng thời kỳ. Do chính bản chất

hành tinh chúng ta quay theo đường cầu, việc tính thời gian và

không gian không thể tách rời nhau. Khi bạn rời đất liền để ra

thật xa ngoài đại dương bao la chưa được biết đến, bạn chỉ có thể

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 23

http://ebooks.vdcmedia.com

biết chính xác mình đang ở đâu nếu bạn có cách để biến chính xác

mình ở đó khi nào.

Việc ứng dụng kim nam châm cho việc đi biển đã có ở Trung

Hoa từ khoảng năm 1000 C.N. Nhưng các tài liệu của châu Âu chỉ

bắt đầu nói đến la bàn hai thế kỷ sau đó, trong các tác phẩm của

Alexander Neckam (1157-1257), một tu sĩ người Anh dạy ở Đại học

Paris. Chúng ta không biết la bàn đã đến châu Âu như thế nào,

cũng không biết nó được phát minh khi nào, thế nào và bởi ai. Cho

tới thế kỷ 17, các la bàn từ tính của những nhà thiên văn châu Âu

luôn "chỉ" hướng nam. Các kim nam chân của Trung Hoa từng chỉ

hướng nam như thế từ nhiều thế kỷ trước rồi. Có lẽ, như Joseph

Needham gợi ý, đây là một chìa khóa để cho rằng la bàn nam

châm đã được du nhập sang phương Tây từ Trung Hoa và về sau

được những người đi biển cải tiến để nó "chỉ" hướng bắc.

Giống như đồng hồ đã giúp cho con người hằng ngày khỏi cần

tính thời giờ theo mặt trời và các ngôi sao, la bàn cũng định hướng

cho con người biết vị trí trong không gian và như thế nó mở rộng

các thời gian và các mùa đi biển. Alexander đã viết khoảng năm

1180, "Khi các người đi biển không thể nhìn thấy rõ mặt trời trong

những thời tiết mịt mù và không biết thuyền của mình đang đi

hướng nào, họ đặt một cây kim để nó quay trên một nam châm cho

tới khi đầu kim chỉ hướng bắc và dừng lại". Như thế là bạn bắt

đầu trở thành một dụng cụ dẫn đường trên biển, giúp đỡ rất nhiều

cho người đi biển khi gặp thời tiết xấu hay khi họ không thể xác

định phương hướng nhờ mặt trời.

Vào thế kỷ 14, la bàn đã được du nhập vào vùng Địa Trung

Hải và công việc thương mại đường biển trở nên tấp nập. Một tàu

Venice khi gặp thời tiết xấu không còn phải thả neo tại cảng nữa,

mà có thể đi vòng hai chuyến về phía Đông mỗi năm.

Lợi dụng sức gió tại Địa Trung Hải có cái lợi là có thể cho

thuyền chạy thuận chiều gió trong những tháng có mây mù. Trong

những tháng trời quang đãng, từ tháng năm tới tháng mười, các

tàu thuyền từ Ai Cập trở về Venice gặp gió bắc và tây bắc ngược

chiều với mình, nên phải đi đường vòng để đến Síp rồi quay về

hướng tây. Nhưng trong những tháng "thời tiết xấu", gió thuận

chiều giúp họ dễ dàng đi theo con đường thẳng. La bàn đã phá vỡ

những truyền thống cả ngàn năm bằng cách mở ra đường lưu

thông trên Địa Trung Hải trong mùa đông. Một lần nữa, việc làm

chủ thời gian và không gian đi đôi với nhau.

Daniel J. Boorstin 24

http://ebooks.vdcmedia.com

Ngược lại, ở Ấn Độ Dương, các gió mùa rất đều đặn vì thay

đổi theo mùa, nên người ta sử dụng gió mùa như la bàn. Các hoa

tiêu cứ việc đi theo hướng gió. Họ cũng không gặp vấn đề trời xấu

vì bầu trời vùng nhiệt đới luôn luôn trong sáng. Các thủy thủ có

gió làm la bàn nên không cảm thấy cần một la bàn nào khác.

Với những lý do khác hẳn, các thủy thủ đi trên Biển Bắc và

Baltic cũng chưa cảm thấy cần dùng đến la bàn. Hầu hết các hành

trình của họ đều qua những vùng biển nông và họ đã quen tìm ra

đường đi của mình dựa vào đường dưới đáy biển. Ở những vùng

biển cạn này, thủy triều rất mạnh và thay đổi, nên việc biết được

độ sâu là yếu tố sống chết của người thủy thủ. Trên bản đồ cổ điển

của Fra Mauro (1495), ông đã cắt nghĩa như sau, "Trên biển này,

người ta không dùng la bàn hay bản vẽ, nhưng dùng đồ thăm dò

độ sâu". Dụng cụ thăm dò này là một "sợi dây và cục chì", giúp

người thủy thủ biết được hình thù và tính chất của đáy biển. Một

cục chì có trét mỡ được thả xuống đáy biển để đo độ sâu và khi kéo

lên cũng cho một màu cát hay bùn ở dưới đó. Vì thế những thủy

thủ có kinh nghiệm ở phương Bắc rất quen thuộc với đáy biển của

họ.

Hiển nhiên, những thủy thủ Địa Trung Hải là những người

hoan nghênh chiếc la bàn nam châm hơn ai hết. Ngay từ thế kỷ

16, những họa đồ đường biển Địa Trung Hải đã được cải tiến và

đơn giản hóa khá nhiều. Các họa đồ xưa kia rất phức tạp với vô số

các con đường chằng chịt nay vẽ ra đường đi chỉ bằng một vị trí

của la bàn. La bàn đã tăng thêm sự chính xác cho những kỹ thuật

xác định vị trí cổ xưa, nay trở thành dụng cụ hàng đầu và thậm

chí là dụng cụ cần thiết duy nhất cho việc đi biển.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 25

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 30

"CÔNG TRÌNH THÁM HIỂM INDIES"

Genoa, "thành phố xinh đẹp và hùng mạnh trên bờ biển", là

nơi Colômbô đã trải qua 22 năm đầu đời, từ lâu đã luôn luôn tranh

giành quyền bá chủ đường biển ở phía đông Địa Trung Hải với

Venice. Từ một nhà tù ở Genoa, nhà thám hiểm Marco Polo người

Venice đã đọc cho người ta viết lại những cuộc hành trình của ông.

Vào thời trẻ của Colômbô, Genoa là một trung tâm đóng tàu và

hàng hải phồn thịnh với những nhà trắc địa chiếm lĩnh thị trường

các họa đồ đường biển ở phía tây Địa Trung Hải. Họ cũng đã vẽ

những bản đồ các phần của bờ biển châu Phi vừa mới được người

Bồ Đào Nha khám phá. Rất có thể Colômbô đã bắt đầu học nghệ

thuật vẽ bản đồ tại Genoa, rồi đem áp dụng ở Lisbon cùng với em

của ông. Hiển nhiên Genoa luôn luôn là quê hương và cái nôi của

những nhà thám hiểm như Colômbô (1451-1506) và John Cabot

(1450-1498), nhưng những công trình thám hiểm đường biển lớn

đòi hỏi nhiều nguồn lực to lớn hơn, một hậu cứ rộng hơn và một

hướng đi xa hơn về phương tây vào thời kỳ mà người Hồi nắm giữ

phần lớn đất phía đông Địa Trung Hải.

Năm 1476, khi Colômbô đang phục vụ trên một tàu lớn trong

một toán lính hộ tống một chuyến hàng qua eo Gibraltar và đi lên

phía bắc châu Âu, tàu của ông bị một hạm đội của Pháp tấn công

và đánh chìm. May thay sự kiện này xảy ra gần Lagos, chỉ cách xa

bờ biển Bồ Đào Nha một ít dặm, là nơi hoàng tử Henry đặt căn cứ

của mình. Colômbô lúc đó là một thanh niên hai mươi lăm tuổi đã

dùng những mái chèo dài kết thành phao và đã vào được bờ thoát

nạn.

Hóa ra đây lại là nơi dừng chân may mắn và tuyệt vời do trời

định cho chàng trai đi biển đầy tham vọng này. Những người ở

Lagos hết sức thân thiện đã cho Colômbô thay quần áo và ăn

uống, rồi đưa anh tới Lisbon gặp em trai mình là Bartolomeo.

Khi Colômbô cùng em trai mình mở một cửa tiệm ở Lisbon,

những con tàu của Bồ Đào Nha vẫn đang lần mò dọc xuống bờ biển

Daniel J. Boorstin 26

http://ebooks.vdcmedia.com

phía tây châu Phi và mới chỉ đến được Vịnh Guinea. Nhưng toàn

thể châu Phi theo như Ptolêmê đã hình dung ra vẫn chưa được các

nhà hàng hải thám hiểm hết. Cuối năm 1484, khi Colômbô trình

lên vua Joan II của Bồ Đào Nha "Công trình thám hiểm Indies", có

vẻ như con đường biển phía tây không những có thể ngắn hơn

nhưng có lẽ là con đường duy nhất để đến Indies.

Trước đó cả một thập niên, vị vua tiền nhiệm của vua Joan là

Alfonso V đã từng nghĩ tới khả năng có một con đường biển phía

tây dẫn tới Indies. Ông đã tham khảo ý kiến của một số chuyên

gia người Florentin là Paolo dal Pozzo Toscanelli (1397-1482), vừa

là bác sĩ, nhà thiên văn và nhà trắc địa. Ông này đã viết một lá

thư vào ngày 25 tháng 6, 1474, gợi ý "có một con đường biển dẫn

tới đất Gia Vị, ngắn hơn con đường đi qua Guinea". Và Toscanelli

đã tin tưởng thuyết phục vua cho thử con đường phía tây này.

Trong thực tế, chính Toscanelli đã vẽ ra một bản đồ hàng hải của

Đại Tây Dương và ông đã gởi bản đồ này kèm theo lá thư tới

Lisbon.

Cuối năm 1481 hay đầu năm 1482, khi Colômbô nghe biết về

lá thư này, ông đã phấn khởi viết thư cho Toscanelli và xin thêm

thông tin. Toscanelli hồi âm bằng một lá thư khích lệ kèm theo

một bản đồ khác. Colômbô đã mang theo bản đồ này trong hành

trình của mình để chứng minh Toscanelli đã nói đúng.

Sau khi đã cảm thấy chắc chắn, Colômbô giờ đây cảm thấy

say mê muốn thử thời vận to lớn này. Chuyện khó là phải làm sao

thuyết phục các nhà tài trợ. Để thuyết phục những nhà đầu tư bỏ

vốn vào một dự án mới mẻ như thế, Colômbô phải nghiên cứu kỹ

lưỡng những tài liệu của các người đi biển, các nhà trắc địa, các

nhà thần học và triết học.

Năm 1484, Colômbô chính thức đệ trình Công Trình Thám

Hiểm Indies lên vua Joan II. Lúc đầu vua Joan rất phấn khởi về

kế hoạch của chàng trai năng nổ người Genoa này. Nhưng khi

Colômbô xin vua cấp cho nhân viên và trang bị ba chiếc tàu

caravel, nhà vua "đã không mấy tin tưởng" và cho rằng Colômbô

chỉ là "một tay khoác lác và đầy tưởng tượng viển vông".

Tuy nhiên vua cũng thấy khá thuyết phục vì tài ăn nói của

Colômbô và đã giao kế hoạch này cho một tổ chuyên gia xem xét.

Tổ chuyên gia này đã bác bỏ kế hoạch. Họ bác bỏ kế hoạch này

không phải dựa trên bất đồng quan điểm của họ về hình cầu của

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 27

http://ebooks.vdcmedia.com

trái đất, vì thời đó, những học giả châu Âu không còn nghi ngờ gì

điều này. Nhưng tiểu ban này có vẻ thắc mắc vì Colômbô đã tính

toán quá thấp đường dài trên biển dẫn tới châu Á. Và trong thực

tế, những thắc mắc của họ chứng tỏ có cơ sở hơn những hy vọng

của Colômbô.

Tiểu ban chuyên môn của vua Joan II không để mình bị

thuyết phục bởi những hi vọng của Colômbô. Trong thực tế, họ có

lý hơn những hi vọng hão huyền của chàng trai Colômbô năng nổ.

Đường chim bay từ Canaries tới Nhật Bản là mười ngàn sáu trăm

hải lý và những ước tính của họ có lẽ gần đúng với con số này. Vì

thế họ không cổ vũ vua đầu tư vào một kế hoạch quá mơ hồ trên lý

thuyết của Colômbô.

Năm 1485 là một năm xui xẻo cho Colômbô về nhiều phương

diện. Năm đó vợ ông chết và ông cùng con trai 5 tuổi là Diego rời

đất nước mà ông đã sinh sống phần lớn tuổi trưởng thành của

mình. Ông sang Tây Ban Nha với hi vọng gặp nhiều may mắn hơn

cho dự án luôn ám ảnh ông.

Tại đây ông đã thành công lớn cả về buôn bán lẫn ngành

hàng hải. Được em ông là Bartôlômêo trợ giúp, trong bảy năm tiếp

theo, ông đi đến các triều định của Tây Âu để trình bày Công

Trình Thám Hiểm Indies của mình. Tại Tây Ban Nha, lúc đầu ông

đã gợi được sự quan tâm của Bá tước Medina Celi, một chủ tàu

giàu có ở Cadiz. Lẽ ra Celi đã có thể tài trợ cho ông ba chiếc tàu

caravel nếu hoàng hậu của Tây Ban Nha không từ chối. Nếu thực

hiện được, kế hoạch thám hiểm này chắc chắn phải là một kế

hoạch hoàng gia. Phải một năm sau hoàng hậu mới cho Colômbô

triều kiến. Và rồi, bà cũng đã cho một tiểu ban nghiên cứu, đứng

đầu là Hernando de Talavera, cha giải tội của bà, để nghe

Colômbô trình bày chi tiết những đề nghị của mình và cho lời

nhận xét.

Lúc này Colômbô phải trải qua những năm đen tối vì thái độ

thư lại của hoàng hậu Isabella và các cận thần của bà. Tiểu ban đã

cho những kết luận đánh giá lý thuyết của họ, nhưng không chấp

nhận cũng không bác bỏ kế hoạch. Các chuyên gia trong tiểu ban

tiếp tục mổ xẻ kế hoạch và bắt Colômbô phải chờ đợi với một món

lương ít ỏi của triều đình.

Trong thời gian chờ đợi cuộc thương lượng kéo dài này, ông

sực nhớ vua Joan II đã tỏ ra rất thân thiện với ông vào những năm

Daniel J. Boorstin 28

http://ebooks.vdcmedia.com

1484-85, thế là ông quyết định quay trở lại Lisbon để thử một lần

nữa. Từ Seville, Colômbô viết một lá thư gửi vua Bồ Đào Nha,

trình bày những hi vọng của mình. Nhưng lần trước, khi rời Bồ

Đào Nha, Colômbô đã ở trong một tình trạng tài chánh khốn quẫn

và còn nhiều món nợ chưa thanh toán. Vì thế ông không dám quay

trở lại Lisbon trước khi được vua bảo đảm không bị bắt vì nợ nần.

Vua đồng ý, khen ngợi tài năng của Colômbô và truyền cho ông cứ

đến. Vua cảm thấy phấn khởi trở lại và chắc chắn là vì hai chuyến

hành trình của Dulmo và Estreito tới Antilla đã thất bại. Ngoài ra,

vua cũng không được tin gì về cuộc hành trình 7 tháng trước của

Brrtolomeo Dias", người đã đi tìm con đường biển phía đông tới Ấn

Độ trong chuyến thám hiểm thứ hai mươi của Bồ Đào Nha.

Rốt cuộc Colômbô đã chọn phải thời điểm tồi tệ nhất. Đúng

lúc Colômbô và em mình là Bartolomeo đến đó vào năm 1488, thì

Bartolomeo Dias cũng đã thành công trở về, mang theo tin tốt

lành là họ đã đi vòng qua Mũi Ảo Vọng và đã phát hiện ra quả

thực có một đường biển phía đông tới Ấn Độ. Thành công và triển

vọng của Dias đã làm cho vua không còn hú tới Colômbô nữa. Nếu

đã có con đường dễ dàng ở phía đông, thì còn cần gì nghĩ tới một

con đường theo hướng khác?

Hai anh em Colômbô lúc này chỉ còn hi vọng mong manh là

sự thành công của Bồ Đào Nha về phía đông có thể khích động sự

cạnh tranh của các nước khác về các kế hoạch theo một hướng

khác. Có vẻ như Btolomeo đã đến nước Anh nhưng không thuyết

phục được vua Henry VII. Ông đi sang Pháp, cố gắng thuyết phục

vua Charles VIII. Lúc đầu vua không quan tâm, nhưng bà chị của

vua đã giúp đỡ cho Bartolomeo ở lại Pháp và làm công việc vẽ bản

đồ.

Trong lúc đó Colômbô ở Lisbon quay trở lại Seville và ông

thấy vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella vẫn còn đang do dự.

Thất vọng, ông lên tàu đi Pháp để giúp Bartôlômêo thuyết phục

vua Charles VIII. Bất ngờ, khi ông đang trên đường đi, hoàng hậu

Isabella đột ngột quyết định giữ Colômbô ở lại Tây Ban Nha. Có

thể hoàng hậu hiểu rằng Colômbô đang định đi đề nghị hợp đồng

của ông cho nước láng giềng. Bà đã quyết tâm đánh đổi bất cứ điều

gì để tài trợ cho kế hoạch của Colômbô.

Trong quyết định vào phút chót của mình, hoàng hậu đã

phái sứ giả tới gặp Colômbô trước khi ông cập bến nước Pháp. Cuối

cùng, tháng 4, 1492, tám năm sau khi Colômbô đề nghị kế hoạch

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 29

http://ebooks.vdcmedia.com

của mình lần đầu tiên với vua Bồ Đào Nha, ông đã ký kết những

hợp đồng với triều đình Tây Ban Nha, kết thúc những năm đi

thuyết phục và thương lượng. Giờ đây, tiêu điểm duy nhất của

Colômbô là biển.

Daniel J. Boorstin 30

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 31

THUẬN GIÓ, THUẬN TÌNH, VÀ MAY MẮN

Sự quyết tâm cho Công Trình Thám Hiểm Indies của

Colômbô và tất cả kho báu của Ferdinand và hoàng hậu Isabella

sẽ là vô ích nếu Colômbô không có gió thuận và không biết trang

bị để điều khiển sức gió giúp ông có thể ra đi và trở về. Thời đại

thuyền buồm đã qua đi khiến chúng ta không còn cảm thấy thán

phục tài điều khiển sức gió của Colômbô như thế nào. Hiển nhiên,

Colômbô đã hiểu biết sai lạc về các đại lục. Ông thực sự không

hiểu biết đất liền, nhưng ông lại rất rành về biển, mà vào thời đó,

hiểu rành về biển có nghĩa là hiểu rành về gió.

Ở tuổi 41, khi Colômbô giành được cơ hội thi thố công trình

to lớn của mình, ông đã có sẵn dồi dào kinh nghiệm đi biển. Dưới

cờ Bồ Đào Nha, ông đã vượt biển từ Vòng Bắc Cực xuống gần tới

xích đạo và từ biển Aegê tới quần đảo Azores. Ông cũng đã đi một

chuyến buôn len, cá khô và rượu vang tới các vùng viễn bắc của

Aixơlen và Ailen, quần đảo Azoes và Lisbon. Rồi có lúc Colômbô đã

sống ở Porto Santo, ở quần đảo Madeira. Từ đó, ông đã lại ra biển

và chỉ huy các cuộc hành trình tới Sao Jorge da Mina, một trung

tâm thương mại phồn thịnh của Bồ Đào Nha trên Bờ Biển Vàng ở

Vịnh Guinea. Những kinh nghiệm phong phú của ông khi đi qua

những vĩ độ phía bắc và gặp những hiểm nguy ở biển giờ đây bắt

đầu phục vụ cho mục đích to lớn duy nhất của ông.

Thế là sáng sớm ngày 3 tháng 8, năm 1492, đoàn tàu thám

hiểm của Colômbô gồm 3 tàu lớn đã rời cảng Palos de la Frontera

gần cửa biển Rio Tinto để tiến tới một cuộc khám phá tình cờ.

Thay vì bắt đầu lộ trình theo hướng tây từ Tây Ban Nha,

Colômbô lúc đầu đi theo hướng nam tới quần đảo Canary và rồi

thận trọng tránh những đợt gió tây rất mạnh ở Bắc Đại Tây

Dương. Từ Canary, ông nhắm thẳng phía tây để lợi dụng hướng

gió đông bắc thuận vào mùa đó, để có thể đi thẳng tới đích. Một lợi

điểm tình cờ của lộ trình này theo quan điểm của Colômbô là quần

đảo Canary lại nằm trên cùng vĩ tuyến với Cipangu (Nhật Bản), là

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 31

http://ebooks.vdcmedia.com

đích mà Colômbô đã chọn đặc biệt theo tài liệu của Marco Polo.

Ông có thể đi thẳng về phía tây, dọc theo vĩ tuyến của mình, cho

tới khi tới đích mong muốn ở vùng Indies. Người ta cho rằng vĩ

tuyến này của quần đảo Canary là chỗ mà Đông và Tây gần nhau

nhất, vì theo Marco Polo, trên vĩ tuyến này, các đảo của Nhật Bản

trải dài một ngàn năm trăm mươi dặm ngoài khơi bờ biển Trung

Hoa.

Sau khi đã vạch ra lộ trình này, Colômbô đi thẳng theo

hướng gió. Gió to, thuận và đều khiến đoàn người của Colômbô e

sợ rằng khi tới những vùng đó, họ sẽ không gặp gió tây để trở về.

Thực ra, họ bớt lo sợ khi Colômbô vào ngày 19 tháng 9 đã đo độ

sâu của vùng biển này và thấy rằng ở độ sâu 200 sải vẫn chưa gặp

đáy biển và họ đang tạm thời đi vào một vùng có gió thay đổi.

Ngày 5 tháng 10, đoàn thám hiểm vui mừng khi thấy những đàn

chim trời bay ngang qua. Và rồi, sau 33 ngày, lúc 2 giờ sáng ngày

12 tháng 10, một người đứng canh trên tàu Phinta tuyên bố mình

được phần thưởng 5 ngàn quan, vì anh ta là người đầu tiên đã reo

lên "Đất! Đất!".

Trong cuộc hành trình quay về, Colômbô chọn hướng bắc,

phía trên "vĩ độ ngựa", ở gần vĩ độ 35, nơi ông có thể gặp những

nhóm người đi buôn châu Âu. Tuy Colômbô tính đúng theo chiều

gió, nhưng đường về của ông gặp nhiều cơn bão lớn.

Phải chăng Colômbô đã thành công nhờ hiểu biết vững chắc

về sức gió, hay nhờ bản năng của một người đi biển tuyệt vời?

Trước cả khi ông khởi hành, ông đã có kinh nghiệm bản thân về

tính chất của các loại gió ở những vĩ độ khác nhau mà ông phải

trải qua trên lộ trình tới Indies và ông đã được trang bị đầy đủ

phương tiện để chọn lộ trình đi và về tốt nhất.

Việc "khám phá" châu Mỹ đã làm lu mờ những khám phá

khác của Colômbô, vì thời đại thuyền buồm đã qua đi làm chúng

ta không còn đánh giá cao những khám phá ấy nữa. Ngay trong

chuyến hành trình đầu tiên, Colômbô thực sự đã có ba khám phá

quan trọng. Ngoài việc tìm thấy những vùng đất mà người châu

Âu không khám phá ra trước đó, ông còn khám phá đường biển

theo hướng tây tốt nhất từ châu Âu đến Bắc Mỹ và đường biển

theo hướng đông tốt nhất lúc trở về. Colômbô đã khám phá ra

những lộ trình cần thiết cho những tàu bè sử dụng sức gió. Mặc dù

có thể ông không thực sự biết mình đang đi về đâu hay mình mới

Daniel J. Boorstin 32

http://ebooks.vdcmedia.com

tới đâu, nhưng ông thực sự là bậc thầy về sức gió, giúp cho những

người khác có thể tiếp nối công trình của ông.

Hiển nhiên, ông cũng còn phải biết cách chỉ huy đoàn người

của mình và việc củng cố tinh thần của đoàn thủy thủ trên một

hành trình dài tới vùng lạ không phải chuyện dễ dàng. Trong cuộc

hành trình 33 ngày này, cuộc nổi loạn của đoàn thủy thủ không

chỉ xảy ra một lần. Cần phải hoàn tất cuộc hành trình đến vùng

Indies trước khi đoàn thủy thủ mất hết kiên nhẫn. Ngay từ đầu

Colômbô đã hứa với họ là họ sẽ tới đất liền sau khi đi được 750 hải

lý cách xa phía tây quần đảo Canaries. Cần phải bảo đảm với họ

rằng họ sẽ không đi đến chỗ không thể quay trở về.

Colômbô đã không ngần ngại sử dụng những mánh khóe

thậm chí có tính đánh lừa để giữ cho đoàn thủy thủ của mình

không mất tinh thần và tập trung sức lực cho mục đích chung.

Ông không quên mối quan tâm của thủy thủ là trở về nhà và về

đúng thời hạn. Để chắc chắn không làm thủy thủ nản lòng, ông đã

cố tính ghi sai nhật ký hành trình hằng ngày. Khi ghi lại khoảng

đường đã đi được, "ông đã quyết định ghi lại con số thấp hơn tính

toán của mình, để nếu cuộc hành trình có lâu cũng sẽ không làm

cho thủy thủ sợ hãi và nản lòng". Ví dụ, ngày 25 tháng 9, tự mình

Colômbô tin rằng họ đã đi được 21 hải lý, "nhưng ông lại thông báo

cho thủy thủ là mới đi được 13 hải lý; bởi vì ông luôn luôn giả vờ

nói rằng quãng đường đi ngắn hơn, nên cuộc hành trình không có

vẻ kéo dài quá lâu". Trong thực tế, Colômbô đã đánh là họ ít hơn là

ông dự định. Ông không nhận ra là thói quen của mình đã khiến

mình tính toán khoảng cách bằng một con số cao hơn thực tế. Kết

quả là những con số "giả" mà ông thông báo cho thủy thủ lại gần

đúng với sự thật hơn là nhật ký "thật" của ông.

Cả khi thời tiết êm ả, không mưa và biển lặng, các thủy thủ

cũng kêu ca lẩm bẩm. Nếu trời không mưa, lấy nước ngọt đâu ra ở

trên biển mặn này? Nếu Colômbô phải đưa họ về hướng tây không

hạn định, như một số thủy thủ e sợ, thì hi vọng duy nhất để họ trở

về với gia đình chỉ có thể là ném ông xuống biển. Colômbô đã dùng

những lời lẽ "ngọt ngào" để gạt bỏ những lời phàn nàn của họ và

cho họ thấy những viễn tượng rực rỡ với những kho báu của miền

đất Indies mà mọi người sẽ cùng được chia phần. Nhưng ông cũng

cảnh báo họ về hậu quả thảm khốc sẽ xảy ra nếu họ trở về Tây

Ban Nha mà không có ông. Trong chuyến ra biển đầu tiên,

Colômbô còn có một yếu tố quý báu khác nữa, đó là may mắn. Thời

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 33

http://ebooks.vdcmedia.com

tiết đẹp quá sự mong ước của ông, đến chỗ, theo lời ông, "hương vị

của những buổi sáng quả là một niềm khoái lạc". "Thời tiết giống

như tháng tư ở Andalusia, chỉ thiếu điều là không được nghe tiếng

sơn ca".

Một thành tựu của Colômbô cũng đáng được ghi nhận, đó là

ông có khả năng ở những chuyến đi sau trở lại được những miền

đất mà ông đã tình cờ khám phá ra trong chuyến đi trước. Điều

này còn đáng kể hơn nếu ta nhớ rằng các dụng cụ đi biển ông dùng

rất thô sơ. Vào thời Colômbô, việc đi biển dựa vào quan sát bầu

trời còn rất kém phát triển. Ông chỉ sử dụng chiếc thước đo độ đơn

giản của mình nhưng có thể quan sát được tất cả những điểm mốc

cần thiết trong suốt một năm cho tới khi ông đã vào gần bờ ở

Jamaica. Phải nhiều năm sau khi Colômbô mất, việc đi biển bằng

quan sát bầu trời mới có được những dụng cụ bình thường cho

người hoa tiêu chuyên nghiệp châu Âu.

Để định hướng đi và vị trí của mình trên biển, Colômbô chỉ

dựa vào những điểm mốc cố định để tính toán. Đây là một kỹ năng

thực tiễn hơn là một kỹ thuật khoa học. Ông dùng la bàn nam

châm để định hướng, rồi ước tính đường dài bằng cách đoán chừng

tốc độ mà tàu đang chạy, bằng cách quan sát những bọt nước, rong

biển ở các vịnh, hay một vật nào đó nổi gần đấy. Các ước tính của

ông chỉ phỏng chừng, vì mãi tới thế kỷ 16 người ta mới phát minh

ra dụng cụ đo tốc độ của tàu trên biển.

Định hướng dựa vào những điểm mốc cố định có thể giúp tìm

ra vị trí của mình từ một điểm đã biết tới một điểm khác, tại

những vùng mà phòng cảnh, các vùng biển nông và các dòng nước

đã quen thuộc. Nhưng nó không cho bạn biết vị trí ở những vùng

biển lạ. Chúng ta nên nhớ rằng Colômbô nghĩa mình đang đi tới

một vùng đất đã biết trước.

Daniel J. Boorstin 34

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 32

THIÊN ĐƯỜNG TÌM ĐƯỢC VÀ ĐÁNH MẤT

Vì nghĩ mình sẽ tỏ ra bất kính nếu viết thẳng cho vua

Ferdinand và hoàng hậu Isabella, nên ông đã viết tường trình này

qua một "lá thư" gửi cho Santangel, vị cận thần của triều đình và

cũng là người vào giây phút chót đã thuyết phục được hoàng hậu

Isabella tài trợ Công trình thám hiểm Indies. Lá thư của Colômbô

được viết bằng tiếng Tây Ban Nha và in ở Barcelona khoảng ngày

1 tháng 4, 1439, rồi được dịch sang tiếng Latinh ngày 29 tháng 4,

rồi lại được in ở Rôma vào tháng 5 thành một tập nhỏ dày 8 trang,

với tựa đề De Insulis Inuentis. Được in đi in lại nhiều lần, tập

tường trình này trở thành sách bán chạy nhất vào thời bấy giờ. Ở

Rôma còn có thêm ba lần xuất bản nữa vào năm 1493 và sáu lần

xuất bản khác in ở Paris, Basel và Antwerp vào các năm 1493-94.

Khoảng giữa tháng 6 năm 1493, bản văn Latinh được dịch thành

một tập thi ca 68 khác bằng tiếng Tuscan, thổ ngữ của Florence.

Phía Bắc châu Âu được tin về thành tích của Colômbô rất

muộn sau này. Biên Niên Sử Nuremberg nổi tiếng, một tài liệu

lịch sử bằng tranh từ cuộc tạo dựng trời đất tới thời hiện tại (in

ngày 12 tháng 7, 1493) không thấy nhắc gì đến cuộc hành trình

của Colômbô. Mãi tới tháng 3, 1496 chúng ta mới thấy nhắc đến

Colômbô ở Anh và lần đầu tiên bản dịch tiếng Đức lá thư của

Colômbô được in ở Strasbourg vào năm 1498.

Colômbô đã đem đến những tin tức gì? Ấn bản minh họa đầu

tiên của tài liệu Colômbô bằng tiếng Latinh (Basel 1493) có những

hình khắc gỗ thô sơ đã từng được sử dụng trước kia trong những

sách ở Thụy Sĩ và không liên quan gì tới Colômbô, vùng Indies,

hay Tân Thế Giới. Một bức khắc gỗ minh họa cảnh Colômbô đặt

chân lên đất Indies, trên một tàu lớn Địa Trung Hải với 40 mái

chèo, một bức khác có lẽ muốn minh họa quần đảo Bahama, có thể

đã vẽ một làng ven biển châu Âu nào đó.

Colômbô tin chắc rằng nếu đi ngang Biển Tây ông sẽ đến

được Indies, nên giờ đây ông bắt đầu tìm cách thuyết phục đông

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 35

http://ebooks.vdcmedia.com

đảo thính giả hơn nữa. Ông đã dốc hết tâm lực cho việc đi đến

Indies. Trong lần đầu tiên loan báo về chuyến hành trình ngoạn

mục của mình, Colômbô đã thận trọng không nhắc gì đến những

tai họa mình đã hay suýt gặp - mất tàu chỉ huy Santa Maria, sự

bất phục của Martin Alonso Pinzon, viên chỉ huy tàu Pinta, hay

tinh thần nổi loạn của thủy thủ đoàn. Theo những quy định về an

ninh quốc gia của thời đó, ông đã loại bỏ những thông tin về các

tuyến đường hay khoảng đường chính xác để tránh sự cạnh tranh

của các đối thủ đi theo con đường ông đã đi. Tuy Colômbô nhìn

nhận mình chưa thực sự nhìn thấy Thành Cát Tư Hãn hay cung

điện Cipangu đầy vàng, nhưng ông đã cho nhiều chi tiết gợi ý rằng

ông tin mình đã đến được bờ biển Trung Hoa. Ông tin chắc Thành

Cát Tư Hãn ở không xa đó bao nhiêu, chắc chắn chuyến đi tới ông

sẽ đến được.

Colômbô chuyên chú tìm hiểu những dấu hiệu để củng cố cho

công trình thám hiểm Indies của mình. Chuyến thám hiểm đầu

tiên của ông vào đất Cuba là điển hình cho khung suy tư và kỹ

thuật thám hiểm của ông. Ngày 28 tháng 10, 1492, đoàn tàu của

Colômbô vào được Bahía Bariay, một cảng đẹp ở một tỉnh phía

đông Cuba. Tại đây những người bản xứ ở San Salvador mà ông đã

bắt và mang theo làm thông ngôn đã phỏng vấn những người bản

xứ Indies và họ nói cho Colômbô biết có vàng ở Cubanacan (nghĩa

là trung - Cuba), một dẻo đất nhỏ. Colômbô phấn khởi nghĩ rằng

họ muốn nói đến "El Gran Can", Thành Cát Tư Hãn của Trung

Hoa và ông lập tức phái một phái đoàn sứ giả đến gặp vị quốc

vương phương Đông đó. Kết quả là họ chỉ gặp được chừng 50 chiếc

lều lá cọ. Tù trưởng địa phương thết tiệc họ như những sứ giả từ

trên trời phái đến và người dân hôn chân họ. Nhưng họ không

nghe nói gì đến Thành Cát Tư Hãn.

Trên đường trở về cảng, hai sứ giả của Colômbô cũng đã gặp

một sự kiện độc đáo. Họ gặp một đoàn người Indies thuộc bộ lạc

Taino đang đi bộ - "nhiều người đang trở về làng, một tay cầm quê

củi đang cháy và họ uống khói từ những lá cây, vì đó là thói quen

của họ". Điếu xì gà dài họ mang theo sẽ được đốt lại mỗi khi họ

dừng chân bởi những chú bé cầm que củi cháy, rồi họ chuyền cho

những người khác trong đoàn mỗi người kéo vài hơi qua lỗ mũi của

họ. Những người Tainos cứ nghỉ chân một lát rồi lại đi tiếp. Đây là

tài liệu đầu tiên của châu Âu về thuốc lá. Trong khi bị ám ảnh bởi

vàng của Trung Hoa, đoàn sứ giả của Colômbô chỉ thấy một tập

Daniel J. Boorstin 36

http://ebooks.vdcmedia.com

tục của người sơ khai. Ít năm sau, khi người Tây Ban Nha đã

chiếm Tân Thế Giới làm thuộc địa và tự mình biết thưởng thức

thuốc lá, họ đưa thuốc lá vào châu Âu, châu Á và châu Phi, ở đó

thuốc lá đã trở thành nguồn phát sinh của cải, thú vui và sự chán

chường.

Trong thời gian đó, Colômbô ở lại bến cảng nghiên cứu các

điểm mốc để xác nhận niềm tin của mình rằng Cuba chính là tỉnh

Mangi mà Marco Polo đã nói tới. Những thời giờ rảnh rỗi, ông thu

thập những mẫu thực vật mà ông tin chắc chỉ có thể có ở châu Á.

Nổi tiếng là con người sùng đạo, Colômbô đã lấy các tên

trong đạo để đặt tên cho những nơi ông đặt chân tới lần đầu - San

Salvador, Navidad, Santa Maria de Guadalupe, S. M. de

Monserate, S. M. la Antigua, S. M. la Redonda, San Martin, San

Jorge, Santa Anastasia, San Cristobal, Santa Cruz, Santa Ursula

y las xi mil Virgeness, San Juan Bautista. Ông tin mình là sứ giả

của Thiên Chúa có sứ mạng đem đức tin đến cho hàng triệu tâm

hồn ngoại đạo. Niềm tin đó đã cho ông sức mạnh để chịu đựng

những năm bị nhạo báng, sẵn sàng mất mạng trước những cuộc

nổi loạn của thủy thủ và niềm tin đó sẽ tiếp tục mở rộng nhãn

quan của ông về địa lý thế giới.

Trong 12 năm tiếp theo. Colômbô còn thực hiện thêm ba cuộc

hành trình nữa tới "Indies". Chúng được gọi là những hành trình

khám phá, nhưng chính xác phải gọi là những hành trình xác

nhận. Với những con người ít quyết tâm, những cuộc hành trình

này có thể làm tăng dần mối nghi ngờ và thắc mắc. Khi những

cuộc hành trình liên tiếp thất bại trong việc dẫn tới Thành Cát Tư

Hãn hay khám phá ra sự huy hoàng của phương Đông, thật khó

thuyết phục những người khác đang ở nhà. Tuy Colômbô rất khéo

léo tìm ra những chiến lược cắt nghĩa mới, nhưng vì những lối cắt

nghĩa này càng ngày càng gượng gạo hơn, nên một lần nữa ông lại

trở thành mục tiêu của sự chê cười, một sự rủi ro của niềm tin của

chính mình.

Chỉ sáu tháng sau chuyến hành trình đầu tiên, Colômbô lại

tiếp tục lên đường. Lần này cuộc thám hiểm của ông có quy mô lớn

hơn nhiều. Thay vì chỉ có ba thuyền buồm nhỏ, ông có một đoàn 17

tàu lớn với số người ít là 1200 người (vẫn không có phụ nữ). Trong

khi cuộc hành trình đầu tiên chỉ là thám hiểm, cuộc hành trình

thứ hai có mục đích tìm của cải. Lần này Colômbô có nhiệm vụ

thiết lập một cơ sở thương mại ở Hispaniola. Hơn bao giờ, lần này

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 37

http://ebooks.vdcmedia.com

ông bị thúc ép phải chứng minh là đã tìm được kho báu huyền

thoại ở Indies. Thành tích đi biển của Colômbô lần này còn ngoạn

mục hơn nhiều. Khi đi băng qua đại dương, Colômbô đã thành

công trong việc giữ cho cả 17 con tàu đi chung với nhau và như

Samuel Eliot Morison khoác lác, "Colômbô đã cập bến quần đảo

Antilles Nhỏ ở đúng địa điểm theo khuyến cáo của ngành hàng hải

cho 4 thế kỷ sau!". Những khám phá của ông cũng quan trọng, vì

ông đã khám phá ra quần đảo Antilles Nhỏ, Jamaica và Puerto

Rico, tìm hiểu bờ biển nam Cuba và thiết lập khu định cư châu Âu

đầu tiên ở phía này của Đại Tây Dương. Nhưng thực thế vẫn chưa

đủ đối với Colômbô. Ông đòi phải đến được bờ biển châu á.

Trong chuyến đi thứ hai này, khi Colômbô tuần tự đi qua vô

số những đảo nhỏ của quần đảo Antilles Nhỏ, ông được khích lệ

nhờ việc nhớ lại nhận xét của Sir John Mandeville rằng ở Indies có

năm ngàn hòn đảo. Khi ông chạm vào mỏm phía nam của Cuba,

ông tin chắc mình đã chạm vào đại lục châu Á. Khi ông đi dọc bờ

biển tây Cuba từ Vịnh Guacanayabo, ông tin chắc mình đang đi

dọc bờ biển thành phố Mangi của Marco Polo miền nam Trung

Hoa. Khi đến Bahía Cortés, ông biết mình đã bắt đầu ở bờ biển

phía tây bán đảo Chersonese Vàng (Bán Đảo Mã Lai). Tuy ông

chưa tìm ra đường biển đến Ấn Độ Dương theo như Marco Polo đã

nói, nhưng ông đã tìm ra bán đảo mà ở đó ông có thể tìm thấy con

đường đó. Nhưng lúc này các thuyền buồm của ông bị rò, các cánh

buồm bị rách tơi tả, lương thực đang cạn dần và đoàn thủy thủ bắt

đầu có dấu hiệu nổi loạn. Colômbô quyết định quay về. Thật đáng

tiếc. Nếu ông chỉ đi thêm 50 dặm nữa, ông có thể đã khám phá ra

rằng Cuba là một hải đảo.

Đoàn tàu của Colômbô trở về Tây Ban Nha vào tháng 3,

1496 hoàn toàn không phải là một sự khải hoàn. Ông được tiếp

đón nồng nhiệt ở triều đình, nhưng những khám phá các đảo

Indies ở Biển Tây không còn gây ấn tượng nào. Ngoại trừ trong

giới trí thức ít ỏi, người ta đón nhận tin tức về cuộc hành trình thứ

hai này rất thờ ơ. Một lý do chắc chắn là vì giá trị thương mại của

cuộc hành trình quá nhỏ nhoi sánh với vốn đầu tư quá lớn. Một ít

cộng sự viên thân cận nhất của Colômbô cũng bắt đầu nghi ngờ

chuyện vùng "Indies" của Colômbô có thật là châu Á hay không.

Joan de la Cosa, người đã chỉ huy chiếc tàu Santa Maria trong

chuyến hành trình đầu tiên của Colômbô và cũng có mặt trong

chuyến hành trình thứ hai đã từng ký tên vào lời tuyên thệ "Cuba

Daniel J. Boorstin 38

http://ebooks.vdcmedia.com

không phải một hải đảo" theo như Colômbô đòi hỏi. Nhưng khi La

Cosa làm bản đồ thế giới nổi tiếng của mình năm 1500, ông lại

chứng minh Cuba là một hải đảo. Các nhà trắc địa châu Âu không

chắc chắn nên trong nhiều năm vẫn vẽ hai Cuba - một là đảo, còn

một là đất liền theo như hình thể đất Mangi của Marco Polo và

thuộc miền nam Trung Hoa.

Sau hai năm vất vả vận động, ông đã thu thập được 6 tàu lớn

để khởi hành chuyến thám hiểm thứ ba của mình vào ngày 30

tháng 5, 1498. Có những tin đồn và báo cáo nói rằng một đại lục có

thể không phải là châu Á nằm ở một chỗ nào đó ở phía tây những

đảo mà Colômbô đã khám phá. Nhưng Colômbô không chú tâm

vào đó. Ngược lại, hơn bao giờ hết, ông nóng lòng đẩy nhanh cuộc

hành trình của mình để tìm ra con đường biển đi vòng quanh quần

đảo Chersonese Vàng để tới Ấn Độ Dương và như thế có thể thanh

minh cho những niềm hi vọng của mình.

Trong cuộc hành trình này, khám phá đầu tiên là hòn đảo

được ông gọi là Trinidad, Thiên Chúa Ba Ngôi. Rồi ông khám phá

ra Vịnh Paria, một vịnh do châu thổ sông Orinoco hợp thành. Tất

nhiên cho tới thời bấy giờ, đức tin của ông dạy rằng trên con đường

này không thể có đất liền. Nhưng làm sao cắt nghĩa vùng biển

nước ngọt rộng lớn này và những con sông nước ngọt lớn đổ vào

đây? Đây có thể là một vùng đất mà Ptolêmê không biết, thu gom

tất cả lượng nước ngọt? "Tôi tin đây là một lục địa rất lớn chưa

từng biết đến từ trước đến giờ", Colômbô đã ghi lại trong hồi ký

như thế.

Thế nhưng Colômbô vẫn chưa đạt được mục tiêu của mình là

tìm ra con đường biển quanh quần đảo Chersonese Vàng của

Marco Polo. Vì thế ông đã bắt đầu chuyến thám hiểm thứ tư cũng

là cuối cùng của ông. Với 4 thuyền buồm caravel, ông rời cảng

Seville ngày 3 tháng 4, 1502. Lần này ông mang theo một lá thư

của vua và hoàng hậu Tây Ban Nha gửi cho Vasco da Gama, mà

ông hi vọng sẽ gặp tại ấn Độ. Tất nhiên không ai nghĩ đến Thái

Bình Dương, vì vào thời ấy nó vẫn chưa được châu Âu biết đến.

Gió nhẹ đưa 4 tàu buồm của ông qua Đại Tây Dương, từ

quần đảo Canary tới Mảtinique, chỉ trong vòng 21 ngày. Ngày

khởi hành, Colômbô được 51 tuổi và ông đặt tên cho cuộc hành

trình thứ tư này của mình là El Alto Viaje, Cuộc Hành Trình Cao.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 39

http://ebooks.vdcmedia.com

Vẫn chưa khám phá ra Cuba là một hải đảo, ông đi từ Cuba

dọc xuống phía tây nam cho tới khi ông chạm vào lãnh hải Đại Tây

Dương của miền đất ngày nay là Cộng Hòa Honduras. Rồi ông đi

ven bờ biển về hướng đông và nam, luôn luôn tìm kiếm một cửa

ngõ quanh quần đảo tưởng tượng Chersonese Vàng để vào Ấn Độ

Dương. Ông vẫn còn tin tưởng vì nó có những dấu hiệu chứng

minh đặc tính châu Á của những mẫu thực vật và những lời đồn

đại về những mỏ vàng giống như được Marco Polo mô tả. Sau

nhiều lần vỡ mộng - ví dụ, khi ông khám phả ra Bahia Almỉante

gần biên giới Panama và Costa Rica - ông đã kết luận là không có

đường biển trong khu vực này.

Thay vì từ bỏ giả thuyết châu Á của mình, có vẻ như

Colômbô đã kết luận rằng thực ra có hai bán đảo châu Á của vùng

Chersonese Vàng, một bán dảo dài hơn là người ta tưởng. Ông vẫn

cố chấp cho rằng, chỉ cần đi thật xa xuống phía nam theo bờ biển,

ông có thể tìm ra con đường vào ấn Độ Dương. Dầu sao, có thể

Vịnh Paria không phải là một phần tách rời của trái đất, mà chỉ là

phần mở rộng của châu Á. Cho tới lúc chết, Colômbô vẫn tin rằng

trong khi ông tình cờ khám phá ra một số đảo và bán đảo châu Á

chưa từng có trên bản đồ, ông vẫn luôn luôn đi theo bờ biển phía

đông của châu Á.

Daniel J. Boorstin 40

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 33

ĐẶT TÊN CHO MIỀN ĐẤT LẠ

Trong khi tên tuổi của Christopher Colômbô được ca tụng

khắp nơi trên châu Mỹ và ngày sinh của ông trở thành một ngày lễ

nghỉ, thì Amerigo Vespucci chỉ được ít người biết đến và chắc chắn

không phải một anh hùng dân tộc. Một sử gia châu Mỹ Latinh lỗi

lạc đã phàn nàn, "Trên khắp bán cầu này, từ Alaska tới Tierra del

Puego, không có một tượng đài nào được dựng lên cho ông". Con

người tiên phong này của Thời Đại Hàng Hải, con người có công

mở mang đầu óc loài người, đã bị kiềm tỏa trong thái độ gò bó của

những kẻ sô vanh, những tay mô phạm rởi và những nhà trí thức

cuồng nhiệt nhưng ngu dốt. Nhà học giả người Mỹ Ralph Waldo

Emerson đã dõng dọc hét lên mà không màng gì tới sự kiện, "Thật

lạ... cả một châu Mỹ to lớn lại phải mang cái tên của một tên trộm,

Amergo Vespucci, tay buôn dưa chua ở Sevelle... mà chức vụ cao

nhất trên biển chỉ là bạn của người quản lý neo buồm trong một

chuyến thám hiểm không bao giờ xuất phát, thế mà đã xoay sở để

đánh lừa thế giới thay thế tên của Colômbô và đặt tên cho cả nửa

trái đất bằng cái tên bất lương của mình". Không hề có một chút

sự thật trong những lời lẽ ba hoa ấy. Những lời sau đây do những

người đồng hương của Vespucci ghi khắc trên nhà ở của gia đình

ông thì chính xác hơn: "Một người Florence quý tộc, nhờ cuộc

khám phá châu Mỹ đã làm rạng danh mình và xứ sở của mình;

người Mở Rộng Thế Giới".

Amerigo Vespucci sinh ra trong một gia đình thế gia ở

Florence năm 1454 vào lúc mà Thời Đại Phục Hưng của Ý đang

manh nha. Ông sống 38 năm đầu đời tại đó, phát triển óc tò mò

không giới hạn và những tham vọng tri thức sẽ chi phối cuộc đời

ông. Khi nhà danh họa Vasari đi học với Michelangelo ở Florence,

ông ở nhà một người chú của Amerigo, cũng là người cho thi sĩ

Ludovico Ariosto đi Cosimo. Leonardo da Vinci cũng rất ái mộ

khuôn mặt ông nội của Amerigo nên thường đi theo ông trên các

đường phố để chuẩn bị những nét vẽ mà sau này ông sẽ vẽ lên một

bức chân dung độc đáo bằng chì màu. Ghirlandaio đã vẽ chân

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 41

http://ebooks.vdcmedia.com

dung của gia đình Vespucci, trong đó có Amerigo, trên một bức họa

của ông ở Thánh Đường Các Thánh. Hồi còn là một thanh niên,

Amerigo giúp việc cho gia đình Medici để trông coi những công

việc có tầm mức lớn của họ. Giống như chủ của mình là Lorenzo,

Amerigo đọc sách rất nhiều, sưu tầm sách và bản đồ và phát triển

sở thích đặc biệt về khoa trắc địa và thiên văn. Amerigo được sử

sang Tây Ban Nha năm 1492 để trông coi công việc buôn bán của

gia đình medici. Tại Seville ông trở thành một chủ cung cấp tàu

thuyền và càng ngày càng quan sát và học hỏi nhiều về việc mạo

hiểm trên biển, nên các hoạt động của ông đã đổi từ lãnh vực buôn

bán hàng hóa sang thám hiểm.

Vào năm 1499, những sở thích thương mại và địa lý nơi

Vespucci đã kết hợp lại để lôi kéo ông cương quyết đi theo tiếng gọi

mới này. Vào thời đó, người ta đã thấy rõ tương lai nền thương mại

của Tây Ban Nha tới phương Đông sẽ phải nằm trên đường Biển

Tây. Người Bồ Đào Nha đã chiếm cứ con đường quanh châu Phi,

nhưng Colômbô đã chứng minh rằng có thể đến đất liền bằng

đường biển phía tây. Vespucci muốn thử hoàn thành những hi

vọng của Colômbô trong việc đặt chân tới châu á. Cuộc hành trình

thứ ba của Colômbô vẫn chưa hé mở con đường tới ấn Độ. Vespucci

giải thích, "Tôi có ý định thử xem mình có thể cày xới mảnh đất

mà Ptolêmê gọi là Mũi Catigara, là mũi đất nối liền với Sinus

Magnus không". Catagara được các bản đồ của Ptolêmê vẽ trên

mũi đất phía đông nam của lục địa châu Á, được Marco mô tả như

là điểm mà chung quay có đầy những kho báu người Trung Hoa

rải xuống trên đường tới Sinus Magnus và Sinus Gangeticus, hai

vịnh lớn của Ấn Độ dương. Vì Ptolêmê đã xác định Catigara ở 8,5o

nam xích đạo, nên Vespucci muốn thử tìm con đường từ chỗ này

mà Colômbô đã không để ý tới.

Chỉ huy hai tàu lớn Vespucci kết hợp với đoàn thám hiểm do

Alonso de Ojeda dẫn đầu và khởi hành từ Cádiz ngày 18 tháng 5,

1499. Chuyến thám hiểm này đã trông thấy miền đất phía nam

của nơi mà Colômbô đã đến trong chuyến hành trình thứ ba.

Trong khi các tàu khác của Ojeda đi về hướng bắc để tìm kiếm

những kho báu của "Bờ Biển Ngọc" thì Vespucci đi về hướng nam,

mò mẫm tìm đường quay Catigara. "Sau khi chúng tôi đã đi được

khoảng 400 hải lý liên tục dọc theo một bờ biển, chúng tôi kết luận

đây là đất liền; vùng đất này ở phần ranh giới cuối cùng của châu

á về phía đông và ở phần đầu của nó về phía tây". Vespucci vẫn

Daniel J. Boorstin 42

http://ebooks.vdcmedia.com

còn sẵn sàng tìm kiếm tiếp, nhưng những con mọt tàu đã ăn thủng

vỏ tàu và lương thực đã cạn, gió và dòng nước lại ngược chiều. Ông

miễn cưỡng phải quay về Tây Ban Nha.

Vừa khi trở về Seville, ông đã quyết định tiếp tục khám phá

trở lại. Ông viết cho Lorenzo de' Medici, "Không lâu nữa, tôi hi

vọng sẽ đem về những tin tức vĩ đại và khám phá ra đảo

Tabrobana (Tích Lan), nằm giữa Ấn Độ dương và Vịnh Ganges".

Bản tường trình chuyến hành trình đầu tiên của ông bộc lộ những

thế giới mới về tư tưởng và cảm xúc. Giống như Colômbô, khi

Vespucci vượt qua Đại Dương, ông cũng suýt theo thế giới của

Ptolêmê. Nhưng giờ đây ông đã đổi sang một giọng điệu mới.

"Thưa ngài Lorenzo đáng kính; tôi nghĩ rằng chuyến hành

trình này của tôi đã bác bỏ ý tưởng của đa số nhà triết học khi họ

cho rằng không ai có thể sống được tại Vùng Nhiệt Đới vì sức

nóng. Qua chuyến hành trình này, tôi lại thấy sự thật trái hẳn.

Không khí tại vùng này mát mẻ và ôn hòa hơn và số người sống tại

đây nhiều hơn số người sống tại những nơi khác. Nói theo lý trí, tôi

nói thầm thôi nhé, chắc chắn kinh nghiệm giá trị hơn lý thuyết".

Vespucci đã từ lâu phải đâu đầu với việc xác định kinh độ, vì

đây là chuyện có tính quyết định trong các cuộc vượt biển theo

hướng tây. Áp dụng một lối mới để giải quyết vấn đề này, ông đã

mang theo những bảng thiên văn về mặt trăng và các hành tinh.

Trong 20 ngày nhàn rỗi bắt buộc, từ 17 tháng 8 tới 5 tháng 9,

1499, ông trở lại tìm hiểu vấn đề này.

"Về vấn đề kinh độ, tôi tuyên bố mình gặp quá nhiều khó

khăn để xác định nó khiến tôi rất vất vả để xác định khoảng

đường đông - tây mà tôi đã đi được. Kết quả cuối cùng của những

vất vả của tôi là chẳng khám phá ra điều gì tốt hơn là ngồi chờ và

quan sát về đêm sự giao hội giữa một hành tinh với một hành tinh

khác và đặc biệt sự giao hội giữa mặt trăng với các hành tinh

khác, vì mặt trăng nhanh hơn mọi hành tinh khác...

Sau khi đã thử nghiệm nhiều đêm, thì một đêm kia, ngày 23

tháng 8, 1499, có sự kiện giao hội giữa mặt trăng và sao Hỏa, mà

theo niên lịch [của thành phố Ferrara] thì phải xảy ra lúc nửa đêm

hay nửa giờ trước. Tôi đã thấy rằng khi mặt trăng lên một giờ rưỡi

sau khi mặt trời lặn, hành tinh đã đi qua vị trí đó ở phía đông".

Vespucci đã sử dụng dữ liệu này để tính toán mình đã đi xa

về phía tây bao nhiêu. Phương pháp thiên văn của ông rốt cuộc đã

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 43

http://ebooks.vdcmedia.com

mang lại những kết quả chính xác hơn nhiều so với lối xác định vị

trí bằng các mốc cố định của Colômbô và những người đồng thời,

nhưng vì thiếu những dụng cụ chính xác, nên chưa được áp dụng

nhiều. Dù vậy, trong khi tính toán độ dài của một độ, ông đã cải

tiến con số đương thời và tạo ra một phép tính chu vi trái đất ở

xích đạo chính xác nhất từ trước tới giờ - chỉ ít hơn kích thước thực

sự là 50 dặm.

Khi Vespucci khởi sự chuyến thám hiểm tiếp theo, ông đã đi

dưới một lá cờ khác. Bây giờ ông không đi cho vua Ferdinand và

hoàng hậu Sevilla nữa, mà cho vua Manuel I của Bồ Đào Nha.

Chuyến đi này sẽ tạo cơ hội để ông tuyên bố sự hoài nghi về lý

thuyết của Ptolêmê, cắt đứt những truyền thống vũ trụ học huyền

bí và khẳng định một thế giới mới.

Trong chuyến thám hiểm thứ nhất của Vespucci dưới lá cờ

Tây Ban Nha, ông đã nhận ra rằng đã tìm được con đường tới

Indies vòng quanh "Eo Catigara" của Ptolêmê, ông phải theo

đường bờ biển phía đông rồi đi theo hướng nam xuống những vùng

thuộc lãnh thổ Bồ Đào Nha. Vì thế không ngạc nhiên khi trong

chuyến thám hiểm tiếp theo này tới Indies, Vespucci đã đi dưới sự

bảo trợ của Bồ Đào Nha chứ không phải của Tây Ban Nha.

Ngày 13 tháng 5, 1501, gần ba thập niên sau cuộc vượt biển

lần đầu tiên của Colômbô, Amerigo Vespucci đã chỉ huy ba tàu

buồm caravel rời cảng Lisbon để khởi đầu một cuộc hành trình 16

tháng mang tính quyết định để gặt hái những thành quả mà

Colômbô đã chuẩn bị. Vì biển lặng gió, chuyến vượt biển tìm đất

mới của Vespucci đã phải kéo dài thêm 64 ngày. "Chúng tôi tới

được một miền đất mới, mà vì nhiều lý do được nêu sau đây, chúng

tôi nhận định đó là một lục địa".

Vespucci đã đi theo đường bờ biển Nam Mỹ khoảng 800 hải

lý, tức khoảng 2,400 dặm Anh, "luôn luôn theo hướng tây nam một

phần tư tây", dẫn ông đi thẳng xuống Patagonia, gần San Julián

bây giờ, chỉ cách mũi nam của Tierra del Fuego khoảng 400 dặm

về phía bắc. Khi Vespucci trở về Lisbon vào tháng 9, 1502, ông lại

viết cho Lorenzo de' Medici, người bạn và nhà bảo trợ của ông.

"Chúng tôi đã đi rất xa ngoài những biển ấy đến nỗi đã vào

trong Vùng Nhiệt Đới và vượt qua đường phân (equinoctial line)

và đường đồng chí tuyến (Tropic of Capricorn), cho tới khi Nam

Cực nằm ở 50o trên đường chân trời, là vĩ độ của tôi từ xích đạo.

Daniel J. Boorstin 44

http://ebooks.vdcmedia.com

Chúng tôi giong buồm trên Nam bán Cầu trong chín thàng hai

mươi bảy ngày [từ khoảng 1 tháng 8 tới khoảng 27 tháng 5], không

bao giờ thấy Bắc Cực hay chòm sao Đại Hùng và Tiểu Hùng.

Nhưng đối diện với chúng tôi có thể thấy được những chòm sao rất

sáng và đẹp mà ở Bắc Bán Cầu này không bao giờ trông thấy... ở

đó tôi đã ghi lại trật tự kỳ diệu của các chuyển động và độ lớn của

những ngôi sao ấy, bằng cách đo đường kính vòng tròn của chúng

và vẽ ra những vị trí tương quan của chúng bằng những hình vẽ

hình học... Tôi đã ở bên phía nam bán cầu, cuộc vượt biển của tôi

đã đi được một phần tư vòng trái đất.

Các cư dân ở đó rất đông, nhưng vô số các giống cây, hoa cỏ

và trái cây thơm ngon, những giống chim với những sắc lông rực rỡ

cho ta cảm tưởng đang sống ở vườn địa đàng. "Làm sao tôi kể hết

được vô số những động vật hoang dã, vô số những con sư tử, báo,

mèo rừng, không giống những con thấy ở Tây Ban Nha; biết bao

nhiêu là sói, nai đỏ, khỉ, cáo, khỉ đuôi sóc và rất nhiều loại rắn rất

to".

Với óc tò mò vô hạn và trí thức thanh tao của một người

Florence thời Phục Hưng, Vespucci mô tả những khuôn mặt và

điều bộ của dân bản xứ, các tập tục cưới hỏi, sinh con, tôn giáo, ăn

uống và xây cất nhà cửa của họ. Vì những dân này chỉ sử dụng

cung tên, nỏ và đá, nên tất cả vũ khí của họ "đều dựa vào sức gió",

theo kiểu nói của Petrarch.

Tuy rất bị ấn tượng bởi những điều mới lạ và kỳ diệu này,

Vespucci vẫn bị nung nấu bởi ý muốn tìm ra con đường biển phía

tây đưa tới ấn Độ. Một tháng sau khi trở về Lisbon từ chuyến

hành trình quan trọng này, Vespucci lại đổi cờ một lần nữa. Ông

lại trở về Seville. Các chuyến hành trình của Vespucci và công việc

duyệt lại bản đồ Đại Tây Dương của ông, đã làm ông tin rằng Eo

Catigara của Ptolêmê không thể tìm thấy ở Lục Địa Thứ Tư bất

ngờ này. Ông đã đi suốt bờ biển thuộc lãnh thổ Bồ Đào Nha mà

không tìm thấy con đường nào mở ra đại dương, vì thế ông biết

rằng nếu có một con đường đi tới ấn Độ, nó phải ở thật xa phía tây,

trên đường ranh giới đã phân định cho Tây Ban Nha. Vào thời đó,

khi Bồ Đào Nha đã bắt đầu thu vén những châu báu từ nền

thương mại độc quyền đường biển phía đông với ấn Độ, thì vua và

hoàng hậu Tây Ban Nha cũng đang thực hiện một cố gắng có tổ

chức để cải thiện khả năng hàng hải của Tây Ban Nha nhằm tìm

một con đường biển tốt hơn ở phía tây. Các nhà bác học nước ngoài

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 45

http://ebooks.vdcmedia.com

được mời gọi, Đại học Salamanca được tài trợ lại và hoàng hậu

Isabella đích thân lo việc thu thập các sách đã phát hành, một

nguồn tri thức mới.

Vua và hoàng hậu Tây Ban Nha hoan nghênh đón nhận

Vespucci và lập tức giao cho ông nhiệm vụ trang bị các tàu buồm

caravel để thực hiện một cuộc thám hiểm trên biển "về hướng tây,

phía bắc của xích đạo, để tìm cách khám phá ra một eo biển mà

Colômbô đã không tìm thấy". Sự lỗi lạc của Vespucci được nhìn

nhận vào năm 1508, khi hoàng hậu Joanna của Castile, người đã

lên ngai kế vị Isabella, bổ nhiệm Amerigo Vespucci vào một chức

vụ mới được đặt ra là "đô đốc của Tây Ban Nha". Ông phải lập một

trường đào tạo hoa tiêu và ông có thẩm quyền tuyệt đối để khảo

sát và cấp văn bằng "cho tất cả những hoa tiêu của vương quốc

chúng ta từ nay sẽ thực hiện những cuộc hành trình đi đến những

vùng dất Indies nói trên của chúng ta, đã hay sẽ được khám phá".

Những hoa tiêu thám hiểm trở về phải báo cáo lại cho ông những

khám phá của họ, để cập nhật những bản đồ của Tây Ban Nha.

Chống lại sự kháng cự của những hoa tiêu thất học, thực dụng,

Vespucci cố gắng phổ biến phương pháp tìm kinh độ rất phức tạp

của mình. Ông đã có kế hoạch thực hiện một cuộc hành trình của

riêng mình, ông đã chuẩn bị những tàu bọc kẽm để tránh bị mọt

tàu ăn thủng, để "đi về hướng tây nhằm tìm kiếm những vùng đất

mà người Bồ Đào Nha đã tìm thấy khi đi về hướng đông". Nhưng

vẫn còn bị bệnh sốt rét đã mắc phải từ chuyến đi trước, mà thời ấy

không có thuốc chữa, Amerigo Vespucci đã chết năm 1512.

Cũng không ngạc nhiên khi cái mới mẻ của Tân Thế Giới, với

những cơ hội vượt ngoài sức tưởng tượng, đã không mê hoặc được

châu Âu. Nhưng chủ nàh sách và những nhà vẽ bản đồ đã có

những quyền lợi không thể thay đổi trong những món hàng được

coi là chính xác của họ và trong những bản khắc gỗ hay bản kẽm

để in ra chúng. Các bản đó, quả cầu và bình đồ địa cầu được tôn

trọng nhát không có chỗ nào dành cho một Lục Địa Thứ Tư. Các từ

ngữ và mẫu đơn hành chánh của các chính phủ đều khuyến khích

người dân ở lại trong nếp ngôn ngữ đã quen từ lâu đời. Chính

quyền Tây Ban Nha vẫn tiếp tục sử dụng tên Indies và gọi những

người bản địa của Tân Thế Giới là người Indies. Cả khi Tân Thế

Giới sẽ không phải là một phần của lục địa châu Á, thì lúc này

thái độ an toàn hơn vẫn là coi nó như một tiền đồn của châu á.

Daniel J. Boorstin 46

http://ebooks.vdcmedia.com

Nhưng cũng có một ít người bị kích thích bởi những cuộc

hành trình của Vespucci, đã cảm thấy thích thú với một khái niệm

mới về một phần trái đất bất ngờ khám phá ra. Tân Thế Giới

không được đặt tên tại một lễ nghi trọng thể bởi các lãnh tụ của

một quốc gai hay một hội nghị các nhà trí thức uy tín, nhưng đã

được đặt tên một cách không nghi lễ tại một nơi mà bản thân

Vespucci không bao giờ đặt chân tới và có lẽ cũng chưa bao giờ

nghe nói đến. Vespucci không hề lấy tên mình đặt cho lục địa này,

dù ông thường bị tố cáo về sự hợm hĩnh này. Alexander von

Humboldt (1769-1859), nhà thám hiểm và thiên nhiên học lớn

người Đức, nhận là "đã có chút công trong việc chứng minh rằng

Amerigo Vespucci không có vai trò gì trong việc đặt tên cho Tân

Lục Địa, nhưng cái tên America đã bắt nguồn từ một địa điểm hẻo

lánh của vùng Núi Vosges".

Việc đặt tên cho Tân Thế Giới là công trình của Martin

Waldseemuller (1470-1518), một giáo sư ít tiếng tăm, đã từng học

ở Đại học Freiburg. Waldseemuller có những sở thích rất rộng và

dồi dào cảm hứng thi ca đối với các từ ngữ, cộng thêm lòng say mê

địa lý. Khi ông trở thành kinh sĩ của một thị trấn ở Saint-Dié, một

thị trấn vùng Núi Vosges thuộc lãnh đại Lorraine là Renaud II de

Vaudemon muôn phát huy văn học nghệ thuật, nên đã lập một hội

trí thức địa phương, một loại sa lông văn nghệ sĩ và

Waldssemuller trở nên thành viên của hội Gymnase Vosgien này.

Kin sĩ Walter Ludd, một thành viên giàu có của hội, đã muốn phô

trương tên tuổi của mình bằng việc mở một nhà in riêng vào năm

1500 để in những tác phẩm của chính mình và nhân thể cũng in

các tác phẩm của các thành viên trong hội.

Được Waldssemuller dẫn đầu, hội Gymnase Vosgien có kế

hoạch đầy tham vọng là in một ấn bản mới về địa lý của Ptolêmê

để khai trương nhà in của mình. Lúc ấy một thành viên trong hội

báo cáo là đã thấy bản in của một lá thư bằng tiếng Pháp nhan đề

"Bốn Cuộc Hành Trình", trong đó

... Americus Vespucius, một con người vĩ đại, dũng cảm, tuy

ít kinh nghiệm, lần đầu tiên đã tường thuật một cách không cường

điệu về những dân sống ở miền nam, hầu như dưới nam cực. Tại

đây có những người... đi lại hầu như khỏa thân; những người này

không những (giống như một số dân ở Ấn Độ) dâng cho vua của

mình những thủ cấp của các quân thù mà họ giết được, mà còn sẵn

sàng ăn thịt những quân thù bị họ giết. Cuốn sách của chính

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 47

http://ebooks.vdcmedia.com

Amerigo Vespucci may mắn đã rơi vào tay chúng tôi và chúng tôi

đã đọc vội nó rồi đối chiếu hầu như cả cuốn sách với Ptolêmê, mà

như các bạn đã biết, những bản đồ của ông này chúng tôi đang

nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng và chúng tôi đang soạn thảo về đề tài

của vùng đất mới được khám phá này của thế giới, một tác phẩm

nho nhỏ không chỉ có tính chất thi ca mà còn có tính chất địa lý

nữa.

Bất ngờ nhóm Gymnase Vosgien hủy bỏ dự án xuất bản các

tác phẩm Ptolêmê. Ngược lại, họ xuất bản một tập sách nhỏ 103

trang nhan đề Cosmographiae Introductio, tóm lược những

nguyên lý cơ bản của khoa địa lý vũ trụ, gồm những định nghĩa về

các trục và các khung climata, các phần của trái đất, gió và các

khoảng cách từ nơi này tới nơi khác. Cuốn sách này cũng cung cấp

một điều mới lạ đầy ấn tượng, một tường thuật về một phần thứ tự

của trái đất được khám phá trong những chuyến thám hiểm của

Amerigo Vespucci. Trong một chương tóm lược, Waldssemuller

ngẫu nhiên nhận định:

Giờ đây, ba phần này của trái đất [châu Âu, châu Phi, châu

Á] đã được am hiểu sâu rộng hơn và một phần thứ tư nữa được đã

Amerigo Vespucci khám phá ra (như sẽ được mô tả sau đây). Vì cả

châu Âu lẫn châu Á đều lấy tên của phụ nữ, nên tôi thấy không có

lý do gì ngăn cản gọi phần này là Amerige [tiếng Hi Lạp "ge" có

nghĩa là "đất của"], nghĩa là đất của Amerigo, hay America, theo

tên của Amerigo, một con người đầy tài năng.

Bất kể những nhà thám hiểm dũng cảm và nổi tiếng đã làm

được những gì, nhưng chính Martin Waldssemuller, một con người

ít tiếng tăm, lại là người đưa châu Mỹ lên bản đồ. Cuốn sách đầu

tiên này của nhà in Saint-Dié vào năm 1505 đã có rất nhiều người

đọc khiến cho tháng tám năm ấy đã phải xuất bản lần thứ hai.

Năm sau, Waldssemuller đã hãnh diện khoe với đối tác của mình

rằng bản đồ của họ đã được biết đến và được giới thiệu trên khắp

thế giới. Không lâu sau, ông tuyên bố đã bán được một ngàn bản.

Các ấn phẩm có thể phân tán ở khắp nơi, nhưng không thể

nào thu hồi lại. Khi Waldssemuller thay đổi ý kiến và kết luận

rằng dù sao cũng không thể coi Amerigo Vespucci là người đã thực

sự khám phá ra Tân Thế Giới, thì đã quá muộn. Trong tất cả ba

bản đồ ông tái bản sau đó về Tân Thế Giới, ông đã xóa bỏ tên

"America". Nhưng những bản in phổ biến về châu Mỹ đã được

truyền đi đến cả ngàn nơi khác nhau và không thể sửa lại được và

Daniel J. Boorstin 48

http://ebooks.vdcmedia.com

"America" trở thành tên được ghi vĩnh viễn trên các bản đồ thế

giới. Tên gọi này có sức lôi cuốn đến nỗi trong khi chính

Waldssemuller chỉ áp dụng chu phần lục địa phía nam, thì

Gerardus Mercator khi xuất bản bản đồ thế giới lớn của mình vào

năm 1538, ông đã nhân đôi áp dụng của tên gọi này. Bản đồ của

Mercator đã dùng tên gọi America cả cho miền Bắc Mỹ (America

pars septentrionalis) và cho miền Nam Mỹ (America pars

meridionalis).

Trong một phần tư thế kỷ sau lần xuất bản đầu tiên tài liệu

về những cuộc hành trình của Vespucci, các sách xuất bản về các

cuộc hành trình của Vespucci nhiều gấp ba những sách viết về các

hành trình của Colômbô. Vào những năm ấy, trong số những sách

xuất bản ở châu Âu nói về các cuộc khám phá Tân Thế Giới,

khoảng một nửa là nói về Amerigo Vespucci. Giờ đây công chúng

đã có dồi dào phương tiện để đón nhận những thông tin về những

thế giới mới.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 49

http://ebooks.vdcmedia.com

Phần VIII

Những đường biển đi đến khắp nơi

Sau nhiều năm, sẽ đến thời mà Đại

Dương sẽ tháo tung những xiềng xích trói

buộc sự vật và những vùng đất bao la sẽ

được bộc lộ; khi ấy Typhys sẽ mở ra những

thế giới mới và Thule sẽ không còn là điểm

cuối cùng - Seneca, Medea -

Và nếu có nhiều thế giới,

thì họ có thể đến bất kỳ đâu - Camoens,

The Lusiads, VII, 14 -

Daniel J. Boorstin 50

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 34

THẾ GIỚI CỦA CÁC ĐẠI DƯƠNG

Chưa bao giờ trái đất lại được thám hiểm nhiều đến thế.

Chúng ta có thể chứng kiến cuộc khám phá đại dương này qua

những tài liệu lịch sử chắc chắn của hai người hùng và lãnh tụ -

Balboa và Magellan - hai danh nhân có những tính khí và tài năng

đối chọi nhau, nhưng cùng đến từ bán đảo Iberia.

Vasco Núnez de Balboa (1474-1517), một con người thích

phiêu lưu, sinh bởi cha mẹ không có tiếng tăm tại một làng thuộc

miền tây nam Tây Ban Nha. Ông đã đi biển từ hồi 25 tuổi, nhưng

định mệnh của ông lại là làm công việc lịch sử trên đất liền. Năm

1500 ông tham gia một đoàn thám hiểm tới vùng Main thuộc Tây

Ban Nha, rồi ở lại để thành người trồng trọt ở Santo Domingo. Rõ

ràng không thích hợp với nếp sống định cư, ông chồng chất nợ nần

và để trốn các chủ nợ, ông leo lên một chiếc tàu đang trên đường đi

tới các khu định cư Tây Ban Nha ở bờ biển phía đông Vịnh Darien,

là chỗ eo đất Panama tiếp giáp với lục địa Nam Mỹ. Những dân

định cư Tây Ban Nha ở đây đã bị chết vì đói và vì những tên có

tẩm thuốc độc của người Indian. Khi viên chỉ huy mới tới là

Martin Fernández de Enciso tỏ ra không thích hợp với việc tổ chức

thuộc địa, Balboa lúc đó mới phất lên liền giành quyền chỉ huy.

Ông chuyển tới một nơi thích hợp hơn, ở đó có sẵn lương thực và

người Indies không có tên tẩm thuốc độc. Ông đặt tên cho chỗ này

là Santa Maria de l'Antigua del Darien, nay là Darien. Hồi đó con

của Colômbô là Diego đang cai trị vùng này từ một thủ phủ ở

Santo Domingo, đã bổ nhiệm Balboa giữ quyền chỉ huy, nhưng

Enciso và những sĩ quan khác phản đối và Balboa đã tống những

địch thủ của mình lên thuyền trở về Tây Ban Nha. Sau đó Balboa

hòa giải với người Indian địa phương bằng cách giúp tù trưởng của

họ là Comaco trong các cuộc chiến, rồi cưới một người con gái của

Comaco.

Trong một lúc tức giận trước thái độ tham lam bẩn thỉu của

người thực dân Tây Ban Nha, một người con trai của tù trưởng đã

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 51

http://ebooks.vdcmedia.com

nói lên sự giận dữ của mình. Nhưng trong những lời này, anh ta

đã cung cấp cho Balboa một thông tin địa lý quý giá hơn cả vàng

bạc châu báu.

Các ông quý một chút vàng hơn cả sự thanh thản của mình...

Lòng tham lam vàng của các ông đã đẩy biết bao quốc gia vào chỗ

hỗn loạn... Tôi sẽ chỉ cho các ông thấy một vùng đất đầy vàng, ở đó

các ông có thể thỏa mãn sự đói khát của các ông... Khi các ông vượt

qua những dãy núi này (anh chỉ tay về hướng núi phía nam)... các

ông sẽ thấy một vùng biển khác, ở đó người ta có những con tàu

cũng lớn như tàu của các ông, họ cũng dùng cả buồm và mái chèo

giống như các ông, nhưng đàn ông họ cũng ở trần truồng như

chúng tôi.

Ngay lập tức con người Balboa bén nhạy đã chọn 190 người

của mình và hàng trăm người bản địa làm hướng dẫn và khuân

vác rồi khởi hành theo chỉ dẫn nói trên để vượt qua vùng núi đồi

của eo đất Panama. Ông cẩn thận lấy lòng người Indian vì sợ họ

đe dọa phía sau, vì thế ông đã dùng họ làm "người dẫn đường và

khuân vác đi trước để mở đường. Họ vượt qua những hẻm núi

hiểm trở đầy thú dữ và họ leo lên những bờ núi chênh vênh".

Những vùng hẻo lãnh tối tăm của khu rừng mưa nhiệt đới

này họ chưa thấy bao giờ. Các nhà thám hiểm sau này đã thấy

rằng lộ trình của Balboa quả đã thử thách sự dũng cảm và chịu

đựng của đoàn người hết mức. Vào giữa thế kỷ 19, một nhà thám

hiểm Pháp báo cáo rằng ông không thể nhìn thấy bầu trời trong

suốt 11 ngày, trong khi một đoàn thám hiểm thực vật người Đức

khi đi qua dây đã bị chết sạch. Họ phải vượt qua rất nhiều hồ và

đầm lầy, ở đó họ phải cởi bỏ hết quần áo rồi đội trên đầu để tránh

rắn độc và mũi tên của những bộ lạc lạ. Khi bị những thổ dân

Quarequas cản đường - những thổ dân này chỉ có cung tên và kiếm

bằng gỗ - đoàn người của Balboa đã giết sạch họ "giống như những

đồ tể chặt thịt cừu và bò đem ra chợ. Sáu trăm thổ dân, gồm cả tù

trưởng, đã bị giết như thế chẳng khác gì súc vật".

Sau 25 ngày "mạo hiểm và đói khát", họ đã vượt qua được

rặng núi.

Ngày 25 tháng 9, 1513, người thổ dân Quarequa dẫn đường

chỉ cho họ một đỉnh núi gần đó. Vasco ra lệnh cho người của mình

dừng lại, còn ông thì leo lên và từ đỉnh núi ông thoáng thấy một

đại dương ở xa xa. Ông vẫy tay gọi người của mình leo lên và khi

Daniel J. Boorstin 52

http://ebooks.vdcmedia.com

đã lên tới đỉnh, họ cùng nhau quỳ gối và tạ ơn. Vasco lấy đá xếp

lên thành một bàn thờ, trong khi các người của ông khắc tên vua

của họ trên những thân cây quanh thung lũng. Theo tục lệ Tây

Ban Nha, viên công chứng mà họ mang theo đã soạn một lời thề

rồi đưa cho Balboa ký tên trước tiên, sau đó những người khác

cũng ký tên vào.

Đi thêm bốn ngày nữa, họ xuống tới bờ biển mới được khám

phá này. Balboa đặt tên cho nó là Biển Nam vì một lý do hiển

nhiên. Eo đất Darien mà họ vừa vượt qua chạy từ đông sang tây.

Khởi hành từ biển Caribê, ông đã đi xuống phía nam và theo

hướng đó ông đã trông thấy Thái Bình Dương lần đầu tiên. Ông

cũng chiếm cứ "toàn thể biển đó và những xứ sở quanh bờ biển"

bằng một lễ nghi đi dạo ngắn trên những chiếc ca nô bằng thân

cây mượn của những người Indian địa phương.

Đây là tột đỉnh định mệnh của Balboa. Những tin tức về

khám phá của ông không đến Tây Ban Nha kịp lúc để xóa tan

những báo cáo tai hại của Enciso về vụ tiếm quyền của Balboa.

Được cử thay thế Balboa làm toàn quyền là Pedrárias Dávila,

người chỉ có công duy nhất là cưới một nàng hầu của hoàng hậu

Isabella. Với 20 tàu và 1500 người, Pedráriás khởi sự một chương

trình nô lệ hóa những thổ dân. Chương trình này đã có hiệu quả

ngay, theo chính lời của Balboa, là biến những người thổ dân

Indian hiền lành trở thành những "con sư tử dữ tợn". Cùng lúc ấy,

Balboa có kế hoạch thám hiểm những bờ biển của Biển Nam, nên

đã chuyển các vật liệu đóng tàu ngang qua eo Isthmus. Năm 1517,

khi ông gần đóng xong 4 chiếc tàu thì người của Pedráriás, trong

đó có một người mang tên Francisco Pizarrom, đến bắt Balboa và

giải ông qua eo Isthmus về Darien. Tại đây Pedráriás vu cáo

Balboa tội phản quốc, rồi tự xưng là hoàng đế Pêru. Trước khi

những người ủng hộ Balboa kịp bênh vực ông, Balboa cùng bốn

đồng nghiệp đã bị chém đầu ở quảng trường và xác họ bị quăng

cho thú dữ ăn thịt.

Các nhà thám hiểm Tây Ban Nha giờ đây đã vững vàng định

cư ở vùng Tây Indies. Nhưng họ vẫn tiếp tục tin rằng đây chỉ là

những tiền đồn tiến về châu Á. Như thế phải chăng cứ đi xa hơn

nữa về hướng tây họ sẽ tới được những Đảo Gia Vị?

Cho tới bấy giờ, vẫn chưa ai biết được có cái gì nằm giữa

Phần Thứ Tư mới của Thế Giới và châu Á. Người Tây Ban Nha

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 53

http://ebooks.vdcmedia.com

vẫn còn rất tin tưởng rằng Ptolêmê, Marco Polo và Colômbô đã

đúng khi cho rằng lục địa châu Á kéo dài mãi về hướng đông.

Hoàng đế Tây Ban Nha Charles V tự nhiên hy vọng rằng

những Đảo Gia Vị phải nằm ở phía đông của Tây Ban Nha qua

đường phân chia nửa địa cầu. Thế thì tại sao không cử một đoàn

thám hiểm đi tìm hiểu con đường phân chia này rồi tuyên bố chủ

quyền của Tây Ban Nha? Đây là cơ hội cho Magellan.

Ferdinand Magellan (1480-1521) sinh ra trong một gia đình

quý tộc ở vùng núi phía bắc Bồ Đào Nha, một vùng được người dân

địa phương coi là trải qua "chín tháng mùa đông và ba tháng địa

ngục". Bỏ vùng khí hậu khác nghiệt này của quê hương,

Ferdinand bước vào một đời sống êm dịu ở cung điện hoàng hậu

Leonor, đương kim hoàng hậu của vua Joan II, tại đây cậu được

huấn luyện thành một người phục vụ. Tới tuổi 25, ông tham gia

đoàn tàu của Francisco de Almeida, vị phó vương thứ nhất của ấn

Độ thuộc Bồ Đào Nha (1505-1509), rồi phục vụ cho Afonso de

Albuquerque, người sáng lập đế quốc Bồ Đào Nha ở châu Á và

thám hiểm các Đảo Gia Vị, Molucca, nơi chính ông xác định được

là có kho báu cất giữ ở đây. Khi ông trở về Bồ Đào Nha năm 1512,

ông đã mang cấp bậc thuyền trưởng và được thăng tước fidalgo

escudeiro, một tước cao hơn trong hàng quý tộc. Trong cuộc chiến

của lực lượng Bồ Đào Nha với dân Moors ở Bắc Phi, ông bị thương

và bị què chân suốt đời. Khi bị tố cáo là buôn bán với kẻ thù, ông

bị mất sự sủng ái của Vua Manuel và kết thúc sự nghiệp tại Bồ

Đào Nha.

Magellan công khai từ bỏ lòng trung thành với Bồ Đào Nha

và rời đất nước để đến với triều đình Tây Ban Nha của vua

Charles V. Ông mang theo với mình một người bạn cũ, Rui

Faleiro, một nhà toán học và thiên văn học. Ông này hoang tưởng

nghĩ rằng mình đã giải quyết được vấn đề xác định kinh độ, nhưng

ông là một nhà địa lý vũ trụ rất nổi tiếng và say mê cổ võ cho việc

tìm con đường biển tây nam tới châu Á. Để thể hiện dự án to lớn đi

thám hiểm về hướng tây với nửa vòng trái đất tới Indies, Magellan

đã chơi ván bài của mình một cách rất thông minh. Ông cưới con

gái của một kiều dân Bồ Đào Nha có ảnh hưởng, là người kiểm

soát những chuyến hành trình của Tây Ban Nha tới Indies, rồi ông

nhận được sự tán thành phấn khởi của Juan Rodríguez de

Fonseca, người tổ chức Đại Hội Đồng Indies và là địch thủ chính

của Colômbô. Ngày 22 tháng 3, 1518, vua Charles V tuyên bố ủng

Daniel J. Boorstin 54

http://ebooks.vdcmedia.com

hộ cuộc thám hiểm của Magellan. Mục tiêu quen thuộc là đến được

Đảo Gia Vị theo hướng biển phía tây. Lần này kế hoạch chính xác

hơn - tìm một eo biển ở mũi tận cùng của Nam Mỹ. Magellan và

Faleiro sẽ được chia 1 phần 20 lợi tức và họ cùng những người

thừa kế của họ sẽ được cai trị tất cả những đất họ khám phá được,

với tước hiệu Adelantados.

Người Bồ Đào Nha đã thất bại trong việc ngăn cản cuộc hành

trình của Magellan. Sau một năm rưỡi chuẩn bị, Magella đã cương

quyết khởi hành ngày 20 tháng 9, 1519. Với chuyến đi vòng quanh

trái đất này, ông có 5 chiếc tàu chỉ đủ sức để vượt biển với tọng tải

từ 75 tấn tới 125 tấn. Các tàu được trang bị đầy đủ vũ khí và hàng

hóa để buôn bán, bao gồm những cái chuông chùm và lắc đồng như

vẫn thường có và 500 chiếc gương soi, những cuộn vải nhung và

khoảng một ngàn kilô thủy ngân - tất cả được lựa chọn để dụ dỗ

những vua chúa kiêu kỳ của châu Á. Đoàn người gồm 250 người,

trong đó có người Bồ Đào Nha, ý, Pháp, Hi Lạp và một người Anh,

bởi vì rất khó kiếm được người Tây Ban Nha chịu đi mạo hiểm như

thế dưới quyền điều khiển của một người mạo hiểm ngoại quốc.

Faleiro, bạn của Magellan vào phút chót quyết định không đi bởi

vì số từ vi nói ông không thể sống sót trong cuộc hành tình.

Hai tháng giong buồm đã đưa đoàn thám hiểm của Magellan

từ quần đảo Canary tới múi phía đông của Brazil, từ đó họ men

theo bờ biển hướng tây nam, cố gắng tìm ra cửa biển để đưa họ vào

Biển Nam của Balboa. Khi họ tới được cảng San Julian, đó là cuối

tháng 3 và bắt đầu mùa đông ở phương nam. Magellan quyết định

chờ tại đây, chấp nhận giảm bớt khẩu phần ăn uống và chịu đựng

gió rét của mùa đông, chờ tới mùa xuân lại đi tiếp. Khi đoàn người

kêu ca đòi trở về phía bắc để nghỉ đông ở vùng nhiệt đới, ông nói

thà chết chứ không quay về.

Magellan phải đối diện với hai thử thách lớn, chỉ huy đoàn

người và điều khiển tàu thuyền, cả trước khi ông vào được Thái

Bình Dương. Tại cảng San Julian, thủy thủ đã nỏi loạn trên ba

chiếc tàu Conceptión, San Antonio và Victoria, Magellan chỉ được

sự hỗ trợ của tàu Trinidad của chính mình và tàu Santiago là tàu

nhỏ nhất. Thế là ông chỉ có hai tàu để chống lại ba tàu nổi loạn.

Magellan không dám để cho các tàu nổi loạn quay trở về. Trong

một chuyến đi lập thuộc địa, mọi con tàu và mọi người đều cần

thiết. Biết rằng trên tàu Victoria có nhiều người ủng hộ, Magellan

phái lên tàu đó một nhóm người trung thành giả vờ là để điều đình

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 55

http://ebooks.vdcmedia.com

việc quay trở về. Theo những hướng dẫn của ông, các sứ giả này đã

giết người cầm đầu cuộc nổi loạn, rồi thuyết phục những người còn

đang do dự trở về với bổn phận. Giờ đây với ba tàu, ông khóa chặt

cửa vịnh. Khi tàu San Antonio tìm cách chạy trốn, nó bị đánh bại

và rồi tàu Conception chỉ còn lại một mình nên đã đầu hàng.

Trong thời gian nghỉ đông tại cảng San Julián, tàu Santiago

bị đắm khi thám hiểm bờ biển và thủy thủ phải trở về trên những

chiếc tàu khác ở cảng.

Cuối tháng 8, 1520, bốn chiếc tàu còn lại của Magellan đi

tiếp xa hơn xuống phía nam tới cửa sông Santa Cruz, ở đây họ ở lại

cho tới tháng 10, là lúc mùa xuân ở miền nam bắt đầu. Lúc này

Magellan phải đối diện với thử thách lớn thứ hai, tài đi biển của

mình. Ông phải tìm ra con đường để dẫn ông tới một lục địa rộng

lớn bao nhiêu ông không hề biết. Làm sao ông có thể tin chắc rằng

mỗi đường đi sẽ không đưa ông tới chỗ chết? Làm sao ông có thể

biết mình đang không biến mất mỗi ngày một sâu hơn giữa lòng

một lục địa?

Ngày 21 tháng 10, chỉ bốn ngày sau khi vượt qua sông Santa

Cruz, một lần nữa họ lại "trông thấy một cửa ngõ giống như một

cái vịnh", khi họ đi vòng Mũi Virgins ở ngay bên kia vĩ độ 52 độ

nam. Lần này có thể nào cái vịnh sẽ mở ra một eo biển quý báu

chăng? Các thủy thủ nghĩ không thể, vì hình như cái vịnh này

đóng kín cả các phía. Nhưng Magellan hầu như đã chuẩn bị để tìm

thấy một "eo biển giấu kín". Theo Pigafetta nhận xét, có thể

Magellan đã được thấy "trong kho báu của vua Bồ Đào Nha" một

bản đồ bí mật có vẽ một con đường bí hiểm.

Cho rằng eo biển này "rất kín ẩn" thì mới chỉ là nói quá nhẹ.

Eo Magellan là một eo hẹp nhất, ngoằn ngoèo, khó đi nhất trong

tất cả các eo nối hai biển, là một thách đố lớn nhất cho người đi

biển. Magellan đã phải mất 38 ngày để vượt qua 334 dặm giữa hai

đại dương. Chuyến vượt qua eo mất 16 ngày của Drake quả là kỷ

lục ở thế kỷ 16, những người khác phải mất trên ba tháng, cũng có

người phải đầu hàng.

Chỉ có lòng can đảm sắt đá và tài điều khiển con người của

Magellan mới giúp ông tiếp tục tiến tới. Sau khi mất tàu Santiago

ở cảng San Julián, Magellan vào eo chỉ còn 4 tàu. Lúc đầu dò

đường, ông cử chiếc tàu lớn nhất của mình, con tàu San Antonio

(120 tấn) đi tìm đường.

Daniel J. Boorstin 56

http://ebooks.vdcmedia.com

Chiếc tàu này đã bị mất hút. Magellan đi tìm suốt 250 dặm

mà không kiếm thấy. Ông không biết rằng hoa tiêu của tàu San

Antonio tên là Esteban Gómez, khó chịu vì không được ông cho chỉ

huy tàu, đã nổi loạn, xích thuyền trưởng của mình lại rồi lái tàu

trở về Tây Ban Nha.

Điều đáng nói là từ lúc này trở đi không còn vụ nổi loạn nào

nữa và cả ba chiếc tàu còn lại luôn luôn đi chung với nhau. Một số

chỗ hẹp bề ngang chỉ dưới hai dặm. Đường đi ngoằn ngoèo, với vô

số những vịnh nhỏ và sông dễ làm lạc đường, mãi tới cuối eo mới

thấy lối ra biển. Khi Magellan linh cảm rằng mình có thể đã tới

gần cuối eo, ông cho một thuyền nhỏ trang bị đầy đủ đi dò thử

phía trước. "Ba ngày sau nhóm người này quay trở về, báo cáo họ

đã trông thấy mũi đất và biển rộng mở. Vị đô đốc khóc lên sung

sướng và đặt tên mũi đất đó là Cape Dezeado, Mũi Khát Vọng, vì

chúng tôi đã khao khát nó từ lâu".

Có những thứ gió lạ, loại cuồng phong, hoành hành ở nửa

phía tây của eo. Loại gió này, như thuyền trưởng Joshua Slocum

nhận xét vào năm 1900, có thể đánh đắm một chiếc tàu dù không

căng buồm. Sau khi đã vượt qua được những mê cung, sống sót

qua những ghềnh đá, giờ đây Magellan bị ném ra một biển nước

mênh mông vô tận. Trong hơn một trăm ngày, Magellan và đoàn

người của mình đã phải vật lộn với một biển nước xem ra không

thấy đâu là bến bờ.

Bấy giờ không có cách nào tính được kinh độ một cách chính

xác và như thế không thể nào tính được khoảng cách giữa bất kỳ

hai điểm nào quanh trái đất. Đối với Magellan, bề rộng của Thái

Bình Dương là một sự ngạc nhiên đầy cay đắng! Tuy nhiên, nó

cũng có thể là sự khám phá vĩ đại nhất và miễn cưỡng nhất của

ông.

Giờ đây họ biết họ chỉ còn một phần ba số lương thực dự

kiến, cho một hành trình lâu gấp ba lần thời gian họ dự kiến.

Chúng ta hãy nghe Pigafetta, người có mặt trong cuộc hành trình,

kể lại:

Thứ tư, 28 tháng 11, 1520, chúng tôi ra khỏi eo, ném mình vào

Biển Thái Bình Dương xa thăm thẳm. Đã ba tháng hai mươi ngày

chúng tôi không có thức ăn tươi nào. Chúng tôi ăn bánh quy, lúc

này không còn là bánh quy, mà chỉ là bột bánh quy đầy sâu bọ, vì

chúng ta ăn phần tốt của thứ nước vàng khè đã thối từ nhiều

ngày. Một số người bị sưng lợi răng và không thể ăn gì được nên

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 57

http://ebooks.vdcmedia.com

đã chết. Mười chín người đã chết vì bệnh tật và người khổng lồ

Patagonial cùng với một người Indian từ miền Verzin.

Nhưng họ lại gặp may với thời tiết. Trong suốt ba tháng hai

mươi ngày đi khoảng mười hai ngàn dặm trên biển khơi, họ không

gặp một cơn bão nào. Bởi một kinh nghiệm duy nhất này mà họ đã

sai lầm gọi biển này là Thái Bình Dương.

Giả như Magellan không thành thạo về gió, có lẽ ông đã

không bao giờ vượt qua Thái Bình Dương. Sau khi rời những eo

biển, ông không đi thẳng theo hướng tây bắc để đến Đảo Gia Vị

mà ông mơ ước, nhưng trước tiên ông đi theo hướng bắc dọc bờ

biển phía đông Nam Mỹ. Mục tiêu của ông chắc hẳn là lợi dụng gió

đông bắc ở đó để đưa ông tới những đảo gia vị khác còn để ngỏ cho

sự xâm nhập của Tây Ban Nha, chứ không tới đảo Molucca mà ông

nghe nói đang thuộc quyền kiểm soát của Bồ Đào Nha.

Sau cùng, ngày 6 tháng 3, 1521, họ đã bỏ neo tại Guam để

nghỉ ngơi và lấy lương thực. Tại đây họ được chào mừng bởi những

người bản địa hiền lành nhưng tham lam, những người này đổ xô

nhau lên tàu của họ, lùng sục từ boong tàu xuống khoang tàu để

vơ vét mọi thứ có thể đem đi được - chén bát bằng sành, cọc cắm

thuyền và cả những chiếc xuồng. Magellanđặt tên cho đảo này là

Islas de Ladrones, Đảo Trộm Cướp, nay gọi là Marianas. Tuần lễ

tiếp theo họ đi dọc theo bờ biển phía đông của đảo Samar trong

quần đảo Philippin, gần Vịnh Leyte, nơi mà bốn thế kỷ sau sẽ diễn

ra một trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử.

Trong những vùng mà Magella đang tới gần, có những người

Trung Hoa, Bồ Đào Nha và những người khác hoạt động thương

mại đường biển rất sầm uất và cạnh tranh, nguy hiểm lớn đang

rình chờ người thương gia thông minh và nhà ngoại giao thận

trọng này. Mạng sống của Magellan, sau khi vừa thoát nạn qua

những yếu tố khốc hại nhất của thiên nhiên, giờ đây lại suýt bị đe

dọa chỉ vì một hành động thiếu thận trọng. Vua của đảo Cebu giả

vờ theo đạo và thuyết phục Magellan liên minh với mình đánh lại

vua của đảo Mactan, vì ông vua này "không chịu hôn tay vua Cebu

và dâng lễ vật triều cống là một đấu gạo và một con dê". Các sĩ

quan của Magellan khuyên ông đừng đi, nhưng ông vì không

muốn bỏ rơi con chiên mới, nên đã chiều theo ý của vua Cebu và

đến đảo Mactan. Tại đây, ngày 27 tháng 4, 1521, Magellan bị

trúng tên có thuốc độc của quân Mactan và bị những ngọn gió của

chiến binh Mactan đâm, nên đã ngã sấp xuống cát.

Daniel J. Boorstin 58

http://ebooks.vdcmedia.com

Lẽ ra Magellan có thể rút nhanh và thoát mạng, nhưng ông

đã chọn ở lại để che chở cho quân của mình rút lui. "Thế là họ đã

giết chết tấm gương của chúng tôi, niềm an ủi và người hướng đạo

thực sự của chúng tôi", Pigafetta than thở. "Khi họ đánh ông trọng

thương, ông còn ngoái đầu lại nhiều lần để xem chúng tôi đã rút

hết lên thuyền chưa. Sau đó, khi thấy ông đã chết, chúng tôi tất cả

đều bị thương đã cố hết sức chạy theo những chiếc thuyền lúc này

đã đang rời xa bờ. Nếu không có ông, không ai trong chúng tôi có

thể thoát nạn, vì ông đã ở lại chiến đấu để chúng tôi chạy thoát".

Có thể nói Magellan đã hoàn tất chuyến hành trình vòng

quanh trái đất. Bởi vì trong những chuyến đi trước cho người Bồ

Đào Nha, khi đi vòng quanh châu Phi để đến những hòn này, chắc

là ông đã đi về phía đông xa hơn Cebu.

Cuộc thám hiểm không bị bỏ dở. Tàu Concepción đã bị hư hại

không còn đi được nữa nên bị đốt bỏ. Tàu Trinidad cũng được nhận

định là không còn đủ sức quay trở về Tây Ban Nha bằng con

đường phía tây, nên đã cố gắng đi băng Thái Bình Dương để tới

Panama, nhưng không thành công và đã quay trở về miền Đông

Indies. Tàu Victoria nhỏ hơn thì được Juan Sebastián del Cano

điều khiển đi theo đường phía tây quanh Mũi Hảo Vọng. Cùng với

những thử thách đã quen thuộc của đói khát và dịch bệnh, giờ đây

còn thêm sự thù nghịch của người Bồ Đào Nha. Họ đã bắt giam

phân nửa đoàn người của Del Cano khi những người này cập bến ở

Mũi Verde Islands trên biển Đại Tây Dương. ngày 8 tháng 9, 1522,

chỉ thiếu 12 ngày là đủ ba năm kể từ ngày khởi hành, trong số 250

người đã ra đi, chỉ còn 18 người sống sót về được Seville.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 59

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 35

CHÍNH SÁCH BẢO MẬT

Vua Joan II công khai trách mắng anh ta rồi kéo anh ta ra

một bên và giải thích riêng tư với anh ta rằng ông ta chỉ muốn làm

nản lòng những kẻ rình mò nước ngoài nào có ý lợi dụng kinh

nghiệm của Bồ Đào Nha. Hoàng tử Henry Nhà Hàng Hải và

những người tiếp nối công trình của ông đã cố hết sức để thiết lập

và duy trì sự độc quyền thương mại tại các miền bờ biển châu Phi

mà họ mới khám phá ra. Có nghĩa là họ không bật mí cho ai về

những nơi đó và cách để đi đến đó. Khi vua Manuel khai triển kế

hoạch độc quyền hạt tiêu vào năm 1504, ông ra lệnh phải giữ bí

mật mọi thông tin hàng hải.

Chính sách này không dễ thực hiện, vì các vua Bồ Đào Nha

phải dựa vào các người nước ngoài như Vespucci để thực hiện công

việc khám phá. Năm 1481, một người Bồ Đào Nha là Cortes đã

thỉnh cầu vua Joan II cấm mọi người nước ngoài, nhất là những

người Florence và Genoa, không được định cư ở Bồ Đào Nha, vì họ

thường đánh cắp những "bí mật về châu Phi và các đảo". Thế

nhưng một ít năm sau, chàng thanh niên Christophe Colômbô

người Genoa đã thực hiện cuộc hành trình để giúp người Bồ Đào

Nha xây dựng đồn lũy của họ tại São Jorge da Mina trên bờ biển

Guinea. Và một người Flamand là Fernão Dulmo cũng được vua

Joan II cử đi cùng với Estreito tới những đảo ở biển phía tây, trước

cả Colômbô.

Dù vậy, âm mưu giữ bí mật của Bồ Đào Nha đã có hiệu quả -

ít là trong một thời gian. Cho tới giữa thế kỷ 16, các quốc gia khác

muốn tìm thông tin về nền thương mại đường biển của người Bồ

Đào Nha tại châu Á phải dưạ vào những mảnh tài liệu lẻ tẻ của

các sách thời xưa, những câu chuyện thu nhập đây đó từ các người

lữ hành, những thủy thủ đào ngũ và những gián điệp. Như thế

chính sách này cũng đã không ngăn cản được các bản đồ về châu Á

rò rỉ sang các nước khác của châu Âu.

Daniel J. Boorstin 60

http://ebooks.vdcmedia.com

Người Tây Ban Nha cũng cố gắng theo đuổi chính sách bảo

mật giống như thế, nên những bản đồ chính thức của họ được giữ

trong những két sắt có hai ổ khóa và hai chìa, một chìa do viên

hoa tiêu trưởng giữ (Amerigo Vespucci là người đầu tiên), chìa kia

do viên tổng quản trắc địa giữ. Sợ rằng những bản đồ chính thức

có thể bị phá hủy cố ý hay không chứa những thông tin mới nhất,

năm 1508 triều đình đã thiết lập một bản đồ chủ gọi là Padron

Real, do một ủy ban gồm những hoa tiêu tài giỏi nhất trông coi.

Nhưng những sự thận trọng này vẫn không đủ. Sebastian Cabot

(1476-1557), một người gốc Venice, trong thời gian làm hoa tiêu

trưởng dưới thời vua Charles V, đã tìm cách bán "Bí mật của Eo

biển" cho cả Venice và Anh Quốc.

Sợ kích thích các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng cản trở

những quốc gia thám hiểm thành công này không khai thác hết

được những lợi thế quốc gia của mình từ các cuộc thám hiểm do

nhà nước tài trợ. Ở bên ngoài Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, các tài

liệu về những cuộc thám hiểm của Vespucci là những sách được in

nhiều nhất trong tất cả những chuyến hành trình tới Tân Thế Giới

trong suốt 35 năm sau chuyến đi về phía tây lần đầu tiên của

Colômbô. Nhưng trong những năm này, không có ấn bản nào xuất

hiện ở Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha. Sự kiện kỳ lạ này cho thấy

chính quyền của hai nước thuộc bán đảo Iberia này không muốn

sự độc quyền của chính phủ bị đe doạ bởi những nhà cạnh tranh tư

nhân ngay cả trong dân của mình.

Sự bảo mật cũng đã tạo những vấn đề về việc tuyển mộ thủy

thủ đoàn và việc giữ vững tinh thần của thủy thủ trong những

cuộc hành trình dài tới những nơi vô định. Các thuyền trưởng khi

tuyển mộ thủy thủ để thám hiểm những vùng biển lạ thường mệt

mỏi vì gây sợ hãi cho thủy thủ và rồi ở trên biển lại sợ họ nổi loạn

khi gặp nguy hiểm.

Chính sách bảo mật đã bị đánh bại bởi một yếu tố hoàn toàn

bất ngờ. Không phải bởi những gián điệp hay những hoa tiêu

trưởng phản bội như Sebastian Cabot. Nhưng bởi một kỹ thuật

mới đã tạo nên một thứ hàng hóa mới. Với sự phát minh ra máy

in, kiến thức địa lý có thể dễ dàng được đóng gói và đem bán để lấy

lời.

Hiển nhiên từ lâu đã có việc mua bán những bản đồ hàng hải

của các thủy thủ để kiếm sống. Các họa đồ vẽ tay đã có hình dạng

từ thế kỷ 13 để dùng cho các người đi biển Địa Trung Hải và đến

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 61

http://ebooks.vdcmedia.com

thế kỷ 14 những nhà vẽ bản đồ đã có những cơ sở phồn thịnh. Cho

tới giữa thế kỷ 15, đây là những nhà trắc địa chuyên nghiệp duy

nhất ở châu Âu. Nhưng việc giữ bí mật và độc quyền đã tạo ra một

thứ thợ đen với những hàng hóa giả được nói là những bản gốc

đánh cắp được.

Các công ty thương mại tư nhân làm ra những bản đồ "bí

truyền" của mình. Chẳng hạn, Công ty Dutch East India sử dụng

những nhà trắc địa tài giỏi nhất ở Hà Lan, đã kết hợp độc quyền

180 bản đồ, họa đồ và phong cảnh của những con đường tốt nhất

quanh châu Phi đi tới ấn Độ, Trung Hoa và Nhật. Sưu tập bản đồ

này từ lâu đã được nghe nói đến, nhưng mãi nhiều năm sau mới

tìm thấy trong thư viện của hoàng tử Eugen nhà Savoy ở Vienna.

Các bản đồ chính thức của nhà nước nói chung thường chỉ được

phổ biến ra quần chúng khi nội dung của nó đã trở thành kiến

thức chung rồi.

Những phát hiện về vạn vật và con người (phần 67)

Việc in bản đồ đã sớm trở thành một công việc thương mại

lớn. Chỉ không đầy 20 năm sau khi có cuốn sách in Kinh Thánh

của Gutenberg, đã xuất hiện ấn bản đầu tiên của bộ sách Địa lý đồ

sộ của Ptolêmê, rồi nhiều lần xuất bản khác nối tiếp.

Daniel J. Boorstin 62

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 36

KIẾN THỨC TRỞ THÀNH HÀNG HÓA

Máy in cũng có một sức mạnh kinh khủng là mở rộng thế

giới và phổ biến kiến thức về những phát minh bằng những gói

hàng tiện sử dụng. Hàng trăm và hàng ngàn tấm bản độ in được

xuất hiện ra nước ngoài. Một khi máy in đã làm ra sản phẩm, thì

không có sức mạnh nào, không có đạo luật nào có thể thu hồi

thông tin trở lại. Một cuốn sách in sau có thể nói ngược lại cuốn

sách in trước, nhưng không thể nào xóa sạch hay loại bỏ cuốn sách

trước. Những người đốt sách, kiểm duyệt sách chỉ làm việc uổng

công.

Không giống với một thủ bản chỉ cần bút mục, giấy và tài

khéo của người chép, một cuốn sách in đòi một sự đầu tư nặng vốn.

Ngoài việc cần có một lượng lớn giấy mực để in ra nhiều bản, còn

cần có phông chữ và máy in. Việc chế khuôn bằng gỗ hay bằng

đồng để in một bản đồ rất tốn kém. Một khi đã bắt đầu rồi thì

không thể bỏ dở mà phải tìm cách bán cho được.

Việc in bản đồ đã sớm trở thành một công việc thương mại

lớn. Chỉ không đầy 20 năm sau khi có cuốn sách in Kinh Thánh

của Gutenberg, đã xuất hiện ấn bản đầu tiên của bộ sách Địa lý đồ

sộ của Ptolêmê, rồi nhiều lần xuất bản khác nối tiếp. Sau năm

1500, các bản đồ xuất khỏi xưởng in đều đặn và ngày càng nhiều.

Henricuss Martellus là người đã cập nhật bản dịch Ptolêmê mà

Colômbô sử dụng, là chuyên viên đầu tiên trong ngành in và bán

bản đồ. Trong tác phẩm của Waldseemuller vào năm 1507, chúng

ta đã thấy một nhà in dù rất nhỏ tại một nơi hẻo lánh cũng có thể

có ảnh hưởng lớn biết chừng nào.

Gerardus Mercator (1512-1594) là con người độc đáo nhất và

ảnh hưởng nhất trong số những người chớp được thời cơ này. Ông

đã biến đổi quan niệm về bản độ thế giới phù hợp với thời đại mới.

Khoa vũ trụ trở thành khoa địa lý và ông đã tìm cung cấp cho

những nhà buôn, những nhà quân sự và những nhà hàng hải,

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 63

http://ebooks.vdcmedia.com

không chỉ những bản đồ sơ sài về các bờ biển, mà là những hình

ảnh của toàn thể hành tinh.

Đóng góp thời đại của Mercator cho các nhà hàng hải là

"phương pháp dọi chiếu Mercator". Các nhà hàng hải cảm thấy

khó sử dụng họa đồ biển vì những họa đồ ấy không để ý tới tính

hình cầu của trái đất. Trên mặt đất hình cầu, các đường kinh

tuyến đồng quy tại một điểm ở các cực. Làm cách nào để đưa một

khúc của đường kinh tuyến này lên mặt phẳng của một tờ giấy để

nhà hàng hải có thể đặt la bàn của mình theo một đường thẳng?

Mercator đã tìm ra cách. Ông tưởng tượng ra những đường kinh

tuyến giống như những đường cắt vòng quanh vỏ một quả cam, rồi

gỡ những khía vỏ này ra và đặt chúng xuống sát cạnh nhau trên

mặt bàn. Coi những đoạn vỏ cam này như có tính co dãn, ông kéo

dãn những điểm hẹp, trải chúng ra để làm cho mỗi khía thành một

hình chữ nhật tuần tự để sát cạnh nhau từ trên xuống dưới. Thế là

toàn thể mặt vòng cầu, tiêu biểu cho mặt trái đất, trở thành một

hình chữ nhật lớn, với những đường kinh tuyến song song nhau từ

Bắc Cực tới Nam Cực. Bằng cách kéo dãn một cách cẩn thận, hình

dạng của bề mặt có thể giữ nguyên, nhưng kích thước của chúng

lớn ra. Đó là phương pháp dọi chiếu Mercator, theo đó bề mặt hình

cầu của trái đất bây giờ trở thành một hình chữ nhật phẳng được

chia thành những ô bởi những đường thẳng song song là kinh

tuyến và vĩ tuyến. Sau đó với những dụng cụ vẽ đơn sơ, người

hàng hải có thể đánh dấu vị trí ổn định của la bàn thành một

đường thẳng cắt ngang tất cả các đường kinh tuyến hay vĩ tuyến

theo một góc bằng nhau. Vào cuối thế kỷ 20, các nhà hàng hải ở

vùng biển sâu vẫn còn sử dụng phương pháp dọi chiếu Mercator

cho hơn 90 phần trăm công việc của họ.

Là con người hoạt động và năng nổ, Merator có một lợi thế là

được học hành đến nơi đến chốn. Sinh tại Flanders, ông học triết

học và thần học ở Đại học Louvain, rồi chuyển sang toán học và

thiên văn học và cũng học thêm nghệ thuật khắc, chế tạo dụng cụ

và trắc địa. Tác phẩm đầu tay của ông năm 1517 là một bản đồ

Palestin với tỷ lệ nhỏ. Sau đó ông qua ba năm làm đủ thứ công

việc từ trắc địa đến vẽ thiết kế và khắc cho tác phẩm Exactissima

Flandriea Descriptio (Mô tả xứ Flanders chính xác nhất), là tác

phẩm được nhìn nhận là có giá trị hơn tất cả mọi tác phẩm loại

này trước kia, nhờ đó ông được giao công việc làm một quả cầu cho

Vua Charles V. Khi Merator giao quả cầu vào năm 1541, vua

Daniel J. Boorstin 64

http://ebooks.vdcmedia.com

truyền cho ông chế tạo một bộ dụng cụ vẽ thiết kế và trắc địa, gồm

cả một đồng hồ mặt trời, để sử dụng cho quân đội.

Phép dọi chiếu của Mercator dựa theo khung kinh tuyến và

vĩ tuyến của Ptolêmê, nhưng ông đã bổ sung những ứng dụng cho

ngành hàng hải. Bản đồ thế giới đầu tiên của ông (1538) là bản đồ

đầu tiên có có Bắc Mỹ và Nam Mỹ, vẫn cho thấy ảnh hưởng sâu

đậm của Ptolêmê. Nhưng ông là con người sáng tạo. Trên bản đồ

lớn của ông về châu Âu (1554), Địa Trung Hải không còn dài thòng

như kiểu Ptolêmê truyền thống nữa, ngược lại chỉ có 52 độ chiều

dài và như thế gần đúng với kích thước thực sự hơn. Ông cũng

thiết lập một tiêu chuẩn mới cho ngành khắc bản đồ và kiểu chữ

nghiêng cho việc viết các tên trên bản đồ.

Những phát hiện về vạn vật và con người (phần 68)

Người bạn trẻ năng nổ của Mercator là Abraham Ortelius

(1527-1598) sinh tại miền nam nước Hà Lan. Ông không được học

đại học, nhưng lại có tài kinh doanh xuất chúng.

Khác với Mercator, Ortelius đến với khoa trắc địa không

phải qua toán học và thiên văn học, mà qua việc sử dụng bản đồ

như một thứ hàng hóa. Ngay từ tuổi 20, ông đã tô vẽ các bản đồ và

được nhận vào trong hội của ngành này. Để giúp đỡ mẹ và hai em

gái sau khi cha chết, ông trở thành một nhà buôn. Ông mua bản

đồ, đưa cho các em ông đóng khung vải, rồi tô màu và đem bán ở

Frankfurt hay một chợ phiên nào đó. Khi công việc buôn bán phát

triển, ông thường xuyên đi vòng các nước Anh, Đức, ý và Pháp,

mua những bản đồ tốt nhất ở khắp châu Âu thời đó và đem trở về

trung tâm Antwerp của mình.

Trong những thời buổi rối loạn về tranh chấp tôn giáo ấy, các

nhà buôn ở Antwerp bức bách cần có những bản đồ cập nhật và

đáng tin cậy về những kết quả mới nhất của các cuộc chiến tranh

tôn giáo và chính trị. Lý do là vì nếu không có bản đồ, họ không

thể dự trù những lộ trình ngắn nhất và ít rủi ro nhất cho hàng hóa

của họ. Ortelius được đặt hàng tìm cho họ những bản đồ đáng tin

cậy nhất và đồng nhất về kích thước. Mọi bản đồ phải được in trên

một tờ giấy duy nhất khổ 28 x 24 inches, là khổ giấy lớn nhất được

chế tạo thời ấy. Sau đó phải đóng lại thành một quyển gồm ba

mươi tờ, với khổ thích hợp để cất giữ và tiện sử dụng.

Khi làm công việc này, Ortelius đã vô tình phát minh ra một

loại sách mới, sách bản đồ địa lý thời đại mới. Ông thấy nếu đóng

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 65

http://ebooks.vdcmedia.com

nhiều cuốn sách này lại với nhau thì rất tốt cho thị trường phổ

thông. Với sự giúp đỡ của bạn mình là Mercator, ông thu thập

những bản đồ tốt nhất, thu nhỏ những bản đồ lớn xuống theo tỷ lệ

chuẩn và nhận được sự hợp tác của một người bạn khác là

Christophe Plantin, chủ nhà in Antwerp. Sách Theatrum orbis

Terrarum (Bản đồ Thế giới) được xuất xưởng in Antwerp của

Plantin ngày 20 tháng 5 năm 1570, là cuốn sách bản đồ hiện đại

đầu tiên được xuất bản sau 10 năm làm việc. Nó có khổ lớn hơn

nhiều so với khổ ông làm theo đặt hàng trước đây và chứa 53 bản

đồ bằng bản in đồng, kèm theo một bản văn mô tả. Một đặc điểm

mới lạ là nó có danh sách của nhà xuất bản nêu tên của 87 tác giả

của các bản đồ mà nó đã tham khảo hay in lại.

Ngay lập tức sách bản đồ của Ortelius đã đạt được thành

công thương mại lớn. Sau 3 tháng, đã có yêu cầu tái bản và bản

văn tiếng Latinh được dịch sang tiếng Hà Lan, Đức, Pháp, Tây

Ban Nha, ý và Anh. Vào lúc Ortelius chết (1598), đã có 28 lần xuất

bản và vào năm 1612 đã có 40 lần xuất bản. Tiếng tăm và tiền bạc

đã đến với Ortelius, vì ông còn tư vấn cho những nhà địa lý hàng

đầu của thời ấy trong những lần ông đi quanh châu Âu. Ông được

chọn làm nhà địa lý cho vua Philip II của Tây Ban Nha.

Riêng Mercator cũng đã có kế hoạch xuất bản bộ sách bản độ

ba cuốn chứa những bản đồ tốt nhất của toàn thể thế giới. Ông đã

xuất bản được 2 cuốn trước khi chết vào năm 1594 và con ông là

Rumold đã hoàn tất công trình năm 1595 với tựa đề theo kiểu cổ

và có vẻ khoa trương mà Mercator đã chọn: Atlas, hay những suy

tư vũ trụ học về việc tạo dựng vũ trụ và vũ trụ được nhìn như một

tạo vật (Atlas sive Cosmographicae meditationes de fabrica mundi

et jabricati figura). Chỉ trong một ít năm đã có 31 lần xuất bản bộ

atlas này theo khuôn khổ folio (khổ giấy đôi). Tuy Ortelius đã xuất

bản một sách bản đồ, nhưng đây là lần đầu tiên từ "Atlas" được sử

dụng cho một tập sách in loại này.

Sau khi những sách bản đồ thế giới khổ lớn đã được nổi

tiếng, người ta bắt đầu ra những sách bản đồ nhỏ dễ mang theo và

rẻ tiền hơn. Sách bản đồ lớn của Mercator được xuất bản thành

khổ nhỏ hơn với tựa đề Atlas Minor với ít là 27 lần xuất bản và

sách bản đồ Theatrum của Ortelius chẳng bao lâu sau cũng đã

được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng thành trên mươi tập Epitomes

khổ bỏ túi. Từ nay những người châu Âu quan tâm có thể mang

theo trong túi mình hình ảnh cập nhật nhất của trái đất.

Daniel J. Boorstin 66

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 37

HĂNG SAY ĐI TÌM NHỮNG KHÁM PHÁ PHỦ ĐỊNH

Ảo tưởng này vẫn còn rất lôi cuốn có lẽ vì chưa ai chứng

minh được rằng nó không có và nó cũng là giải đáp cho sự say mê

cái đối xứng. Người Hi Lạp vốn biết trái đất có hình cầu và biết có

một khối đất liền như thế ở đối xứng phía nam. Rồi Pomponius

Mela, tác giả cổ nhất còn để lại tài liệu địa lý bằng tiếng Latinh,

khoảng năm 43 C.N, đã cho rằng Nam Lục Địa rất rộng đến nỗi

Ceylon chính là mỏm phía bắc của nó. Các bản đồ tự nhận mình đi

theo Ptolêmê vẫn còn tiếp tục cho thấy có một lục địa to lớn ở nam

bán cầu được ghi chữ "Đất Chưa Khám Phá theo Ptolêmê". Vào

cuối thế kỷ 15, lục địa huyền thoại này được gắn chặt vào với châu

Phi để làm Đại Tây Dương trở thành một cái hồ khổng lồ, mà từ

châu Âu không thể nào đi tới bằng đường biển.

Khi Dias đi vòng Mũi Hảo Vọng và chứng minh có một đường

biển đi sang Ấn Độ dương, thì phải thu hẹp lại ở phần đó của địa

cầu. Và khi Magellan sau cùng đã đi qua được eo biển mang tên

ông để vào biển Thái Bình Dương, các nhà vẽ bản đồ vẫn còn tin

rằng Tierra del Fuego ở phía nam chính là bờ biển phía bắc của

Nam Lục Địa huyền thoại đó.

Vào thế kỷ 18, một nhà địa lý người Tô Cách Lan làm việc

cho công tu British East India đã bị ám sát bởi Nam Lục Địa

huyền thoại này và đã đưa ra rất nhiều những luận chứng chi tiết

chưa từng có trước kia. Đó là Alexander Dalrymple (1737-1808)

làm nghề vẽ các lộ trình đường biển và dòng nước và sẽ trở thành

nhà thủy văn học đầu tiên cho Hải quân, năm 1795. Thời nhỏ,

người hùng của ông là Colômbô và Magellan và ông hi vọng trở

thành đối thủ của họ trong việc khám phá ra lục địa riêng của

mình. Trong tác phẩm Thuật lại những cuộc khám phá ở Nam

Thái Bình Dương trước năm 1764 (xuất bản năm 1767), ông lý

luận "từ những sự tương hợp của thiên nhiên và từ những suy diễn

qua các cuộc khám phá" để mô tả một Nam Lục Địa khổng lồ "còn

thiếu ở phía Nam của Xích đạo để đối xứng với phần lục địa phía

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 67

http://ebooks.vdcmedia.com

Bắc và để tạo sự thăng bằng cần thiết cho chuyển động của Trái

Đất".

Tình cờ có hiện tượng sao Kim đi ngang qua mặt trời mà

người ta tính được là phải xảy ra ngày 3 tháng 6 năm 1769. Bằng

việc quan sát hiện tượng này ở những vị trí cách xa nhau trên mặt

đất, người ta có thể tính được chính xác hơn khoảng cách từ trái

đất tới mặt trời và cải thiện những số liệu cho việc đi biển nhờ

quan sát bầu trời. Vì thế Hội Hoàng Gia ở Luân Đôn đã chuẩn bị

một phái đoàn đi Tahiti. Chính phủ coi đây là một cố gắng để đi

xuống ranh giới tận cùng phía nam còn chưa được khám phá của

Thái Bình Dương, để tìm ra những ranh giới của Nam Lục Địa

huyền thoại. Nếu chứng minh được Nam Lục Địa này không tồn

tại, cuộc hành trình sẽ có thể vĩnh viễn xóa tan huyền thoại này.

Alexander Dalrymple rất hi vọng được cầm đầu đoàn thám

hiểm này, vì ông coi mình như chuyên gia hàng đầu về đại lục

chưa được khám phá ấy. Mặc dù mới ở tuổi 30, ông đã là một nhà

toán học lỗi lạc và là thành viên của Hội Hoàng Gia. Nhưng tiếc

cho Dalrymple, vị đô đốc Hải quân Anh là Lord Hawke lại chọn

một người khác, James Cook (1728-1779), một hạ sĩ quan ít được

biết đến. Là một con trai thông minh của một nông dân nhập cư từ

Tô Cách Lan và định cư ở Yorkshire, Cook chỉ học hết bậc sơ cấp

về viết, đọc và toán ở một trường tiểu học. Làm việc trong một cửa

hàng tổng hợp, anh quen biết nhiều thủy thủ và chủ tàu đi lại trên

bờ biển đông. Lúc 18 tuổi anh được nhận học việc đi biển với một

chủ tàu địa phương có một đoàn tàu chở than đá trên Biển Bắc.

Anh làm việc trong chín năm trên những bờ biển nguy hiểm với

những cơn gió khó ngờ trước. Trong những giờ rảnh anh học toán

học và tỏ ra có thiên khiếu về môn này, sau đó trở thành một

người đi biển thành thạo và chẳng bao lâu trở thành thủy thủ trên

một tàu chở than. Lẽ ra anh có thể bảo đảm được một nghề ổn

định trên những chiếc tàu tư nhân ở Biển Bắc, nhưng anh thích

mạo hiểm hơn, nên đã tình nguyện gia nhập Hải quân Hoàng gia

năm 1755. Có thân hình to lớn vạm vỡ, anh được mọi người chú ý

vì phong cách điều khiển, tính nhã nhặn và tài đi trên những vùng

biển khó đi. Trong Cuộc Chiến Bảy Năm, Cook được thăng cấp hạ

sĩ quan. Tài chuyên môn đo đạc các hải trình khó qua lại ở St.

Lawrence của Cook đã giúp Hải quân chiếm được Quebec và chiến

thắng.

Daniel J. Boorstin 68

http://ebooks.vdcmedia.com

Sau chiến tranh, ông trở về Newfoundland, ở đó trong năm

năm ông chỉ huy một tàu duyên hải, các mùa đông ông nghỉ tại

Anh quốc để cải thiện các bản đồ của mình. Tại Newfoundland,

khi ông quan sát một cuộc nhật thực năm 1776, ông đã phá bỏ các

tiền lệ và tự nguyện cống hiến các kết quả tính toán của mình cho

Hội Hoàng Gia ở London.

Không lạ gì Đô đốc Hải quân đã chọn Cook để chỉ huy đoàn

thám hiểm tới Tahiti. Tuy mới chỉ là một hạ sĩ quan, ông đã chứng

tỏ bản lĩnh trong chiến tranh và trên biển nguy hiểm, ông là người

đo đạc tài giỏi về các bờ biển hiểm trở và đã chứng tỏ là một nhà

quan sát thiên văn tài ba. Chọn lựa Cook cũng là chọn lựa loại tàu

để sử dụng, vì theo lời khuyên của ông, Đô đốc Hải quân đã đặt

mua một tàu chở than cứng cáp theo đúng loại mà Cook đã phục

vụ trong thời gian học việc ở Biển Bắc. Chiếc tàu rất thô kệch

nhưng cứng cáp vững vàng.

Tháng 5, 1768 James Cook được thăng cấp sĩ quan với quân

hàm đại úy. Chiếc tàu được đặt tên là Endeavour, được bọc bằng

gỗ đóng đầy đinh để chống lại những con hà nhiệt đới và được dự

trữ lương thực cho mười tám tháng.

Chiếc Endeavour rời bến ở Plymouth ngày 26 tháng 8 năm

1768, chứa đầy đủ 94 người và vào phút chót, theo yêu cầu của

Joseph Banks, phải chở thêm một đoàn tùy tùng 8 người của ông

với hành lý. Trong thời tiết đẹp, tàu đi theo hướng tây nam tới

Madeira, rồi tới Rio de Janeiro và quanh Mũi Ngà, rồi tới Tahiti

ngày 10 tháng 4 năm 1769, còn dư thời gian để chuẩn bị quan sát

những hiện tượng sẽ xảy ra vào ngày 3 tháng 6. Sau khi hoàn tất

việc quan sát thiên văn, Cook tiếp tục lại nhiệm vụ bí mật to lớn

hơn của mình, là đi tìm Nam Lục Địa và có thể chứng minh nó

không hề tồn tại.

Để thành công trong việc khám phá phủ định - chứng minh

rằng một thực thể huyền thoại nào đó không tồn tại - là một

nhiệm vụ đòi hỏi nhiều hơn và vất vả hơn là thành công trong việc

khám phá một mục tiêu đã biết. Con đường biển phía tây từ châu

Âu sang châu Á mà Colômbô tìm kiếm là con đường dẫn tới một

mục tiêu đã biết. Khi đi về hướng tây trên vĩ độ của Nhật Bản, ông

luôn luôn tin rằng mình đã đạt đến đích điểm. Khi ông biết mình

đã sai, đó là vì có một lục địa bất ngờ chắn ngang đường, nhưng

cuối cùng ông cũng đã mở được con đường vòng phía tây trên biển

để đến châu Á. Còn sự tồn tại của Nam Lục Địa thì vẫn chỉ dựa

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 69

http://ebooks.vdcmedia.com

vào truyền thuyết, nhà thám hiểm phải dò tìm mọi nơi có thể nghĩ

đến được và trong thực tế phải đi hết vòng trái đất trước khi dám

khẳng định là nó sẽ không bao giờ được khám phá ra.

Đại úy James Cook có những đức tính thích hợp để là nhà

khám phá phủ định vĩ đại nhất của thế giới - nghị lực năng nổ, tài

tổ chức, kiến thức rộng về bản đồ và biển, tính kiên trì trong cố

gắng thử nghiệm những cái mà những người khác không có can

đảm để đi đến cùng. Công trình thám hiểm to lớn này khởi sự khi

ông rời Tahiti. Trước ông, các nhà thám hiểm trong vùng đó

thường đi về hướng tây và tây bắc theo hướng gió thuận, nhưng

Cook lại đi theo hướng nam và tây nam để tìm lục địa mà ông giả

thiết nằm ở 40o vĩ độ nam. Khi đi đến đó mà không thấy đất, ông

quay về hướng tây, ở đó ông gặp Tân Tây Lan và qua sáu tháng đi

vòng quanh và vẽ bản đồ 2400 dặm bờ biển của cả phía bắc và

nam của hải đảo. Bất ngờ ông chứng minh đó là những đảo thực sự

chứ không phải đất ăn liền với một Nam Lục Địa nào. Đây là bước

đầu tiên, nhưng mới chỉ là một bước nhỏ trong việc chứng minh

những lý luận của Dalrymple đã sai.

Các lệnh Cook nhận được cho phép ông chọn lựa khi quay trở

về có thể theo hướng đông như lúc đã ra đi, hoặc theo hướng tây

quanh Mũi Hảo Vọng. Cuối tháng 3, 1770, khi ở miền nam kết

thúc mùa hè, thì đi đường biển theo hướng đông trên các vĩ độ

phía nam bán cầu quả là rất rủi ro. Vì thế ông đã quyết định đi

theo hướng tây, để khám phá bờ biển đông của Tân Hà Lan

(Australia), rồi đi lên phía Đông Indies và quay về nhà theo đường

vòng quanh Mũi Hảo Vọng. Lộ trình này tuy gạt bỏ cơ hội thu

thập thêm dữ kiện về Nam Đại Lục Địa, nhưng nó sẽ làm giàu cho

khoa học bằng những cách thật bất ngờ. Ở bờ biển đông nam

Australia, họ gặp thấy cảng Stingray, nhưng những nhà khoa học

trong đoàn như Banks và Solandes và các họa sĩ cảm thấy say mê

vô số những mẫu thực vật họ gặp ở đó và đã gọi nó là Vịnh Thực

Vật. Thế là nó trở thành lời nhắc nhở sống động ở Nam Thái Bình

Dương rằng cuộc thám hiểm của những nhà thiên nhiên học đã

làm giàu cho tầm nhìn của châu Âu về toàn thể thế giới như thế

nào.

Cuộc hành trình thứ nhất của Cook đã đem về những mẫu

động thực vật quý giá, khơi dậy sự quan tâm rất lớn. Banks thôi

thúc Cook tổ chức tiếp một cuộc thám hiểm thứ hai. Nhưng lần

này, Banks đòi hỏi mang theo mình một đoàn tùy tùng đông gấp

Daniel J. Boorstin 70

http://ebooks.vdcmedia.com

đôi lần trước và muốn dùng loại tàu lớn East Indiaman, nhưng

Cook vẫn hết sức tin tưởng ở loại tàu chở than Whitby vững chắc

của mình và vì thế không thể chấp nhận đòi hỏi quá đáng của

Banks. Thế là Banks giận dỗi cùng đoàn người của mình bỏ đi đến

Aixơlen. Cook chuẩn bị hai tàu than Whitby mới đóng - tàu

Resolution, trọng tải 462 tấn và tàu Adventure, trọng tải 340 tấn -

cả hai trang bị vật dụng đầy đủ và mang theo những người tài

giỏi.

Kế hoạch của Cook lần này hoàn toàn nhắm vào việc giải bài

toán về Nam Đại Lục Địa. Để đạt mục tiêu này, chuyến đi phải

vòng quanh toàn thể trái đất ở vĩ độ cuối cùng của cực nam.

Chuyến đi lần trước Cook đã vào Thái Bình Dương qua con đường

Mũi Ngà. Lần này, ông đề nghị thử con đường khác, đi dọc xuống

Đại Tây Dương ngang qua Mũi Hảo Vọng, rồi cố gắng đi tới vĩ độ

cực nam và tiến thẳng theo hướng đông vòng quanh các vùng Nam

Cực của địa cầu. Nếu thực sự có một Nam Lục Địa thì chắc chắn

ông sẽ phải thấy nó.

Cuộc hành trình thứ hai này khởi hành từ cảng Plymouth

ngày 13 tháng 7, 1772, sẽ là một trong những cuộc hành trình lớn

nhất trong lịch sử mạo hiểm bằng thuyền buồm, vì nó là chuyến đi

dài nhất. Ông sẽ đi hơn 70 ngàn dặm trên biển. Nhưng đây cũng

là một chuyến đi độc đáo vì nhiều lý do khác. Đó là chuyến đi rất

dài này chỉ tập trung vào một mục đích duy nhất. Không phải đi

tìm một Eldorado, một miền đất huyền thoại, không phải tìm

vàng, bạc, châu báu, cũng không phải đi bắt nô lệ. Bây giờ, trong

tinh thần hoài nghi của thời cận đại, Cook đi tìm câu trả lời cho

một câu hỏi: "Có thực sự tồn tại một Nam Lục Địa như những lời

đồn đại không?"

Tình cờ, câu hỏi này đã đưa Cook vào những vùng khó sinh

sống nhất trên trái đất và mở ra những phong cảnh biển chưa

từng thấy từ trước tới giờ. Vì Nam Băng Dương là một vùng nguy

hiểm khác hẳn với Bắc Băng Dương. Một tác phẩm thời trung cổ,

De Vegetatibus cho rằng ở hai cực trái đất, mặt trời chiếu liên tục

suốt nửa năm và không bao giờ lặn dưới đường chân trời, nên

không có động vật hay cỏ cây nào sống được, vì chúng liên tục bị

mặt trời thiêu rụi.

Nhưng cũng có 4 tháng mùa hè ở Nam Cực và Cook phải vội

vàng lợi dụng tối đa thời kỳ này. Tàu Resolution và Adventure rời

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 71

http://ebooks.vdcmedia.com

Cape Town ngày 23 tháng 11, 1772, đi xuống phía nam và sau hai

tuần đã đến vòng Nam Cực (60 vĩ độ nam).

Đến được Nam Băng Dương trong mùa hè vào tháng giêng,

Cook cùng đoàn người của mình bị choáng ngợp bởi cảnh đẹp màu

xanh lơ trộn với màu trắng của những dãy núi bằng mà họ nhìn

thấy phía trước mặt. Họ cứ đi tiếp xuống phía nam cho tới lúc

không còn đi xa hơn được vì băng quá dày. May mắn thay, họ đã

tránh được những núi băng, nhưng khi gặp một cơn bão lớn và

biển động mạnh, họ không dám đi tiếp vào màn sương mù. Tới một

chỗ Cook chỉ còn cách lục địa Nam Cực chừng 75 dặm, nhưng ông

không nhìn thấy được và cũng không thể nào vẽ được bờ biển - nếu

thực sự có một bờ biển ở đây. Cook thất vọng quay lên phía bắc để

ra khỏi vùng băng rồi đi theo hướng đông. Hai tàu của ông lạc

nhau vì sương mù, nhưng đã gặp lại nhau theo kế hoạch tại Vịnh

Dusky ở tây nam Tân Tây Lan để nghỉ đông ở miền nam. Ngày 39

tháng 1, 1774, khi họ chạm tới vùng phía nam xa nhất có thể đi

được, họ bị băng cản lối và trong sương mù chỉ thấy toàn là băng ở

phía xa xa, nên họ không đi tiếp được nữa.

Mùa đông năm sau ông nghỉ ở Nam Thái Bình Dương, tại

đây ông vẽ bản đồ quần đảo Easter và Tonga và khám phá ra Tân

Calêđôni trước khi đi tiếp theo hướng đông lên những vĩ độ cao ở

phía nam. Trên đường đi đến Mũi Hảo Vọng trên Đại Tây Dương,

ông khám phá ra quần đảo South Sandwich và South Georgia.

Ông trở về Anh ngày 30 tháng 7, 1775, sau ba năm mười bảy ngày

hành trình.

Cook tóm tắt những thành tựu của mình trong nhật ký:

Bây giờ tôi đã đi hết vòng Nam Đại Dương ở vĩ độ cao và đã

đi khắp nơi để có thể kết luận rằng không thể có một lục địa tại đó,

trừ khi nó ở sát Cực Nam và tàu bè không đi tới được; trong khi đi

hai lần trên biển Thái Bình Dương Nhiệt Đới, tôi không chỉ xác

nhận tình hình của những khám phá cũ, mà còn thực hiện những

khám phá mới nữa và tôi nghĩ không còn có thể làm hơn được gì ở

phần này của trái đất nữa. Như thế tôi thấy mãn nguyện là ý định

hành trình của tôi đã hoàn toàn được trả lời, Nam Bán Cầu đã

được thăm dò khá đầy đủ và đã đặt dấu chẩm hết cho công việc

tìm kiếm một Nam Lục Địa, từng thu hút sự chú ý của một số lực

lượng hàng hải trong gần hai thế kỷ qua và những nhà địa lý của

mọi thời đại.

Daniel J. Boorstin 72

http://ebooks.vdcmedia.com

Bộ Hải Quân Anh vẫn còn một nhiệm vụ nữa cho Cook để

thám hiểm những ranh giới của huyền thoại, hi vọng và địa lý.

Thực sự có hay không một Đường Biển Tây Bắc? Việc tìm kiếm con

đường theo hướng bắc từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương đã

kích thích nhiều nhà du hành từ sau cuộc khám phá châu Mỹ.

Những thành tích của Cook trên Thái Bình Dương huyền bí đã gợi

ý cho Hội Hoàng Gia rằng ông chính là con người thích hợp để trả

lời cho câu hỏi về phía Thái Bình Dương. Không đầy một năm sau

chuyến hành trình thứ hai, Cook lại lên đường với nhiệm vụ tìm

kiếm xem có hay không một con đường ở đó. Tàu Resolution được

trang bị lại và thêm một tàu than Whitby mới, tàu Discovery.

Cook lên đường theo hướng đông quanh Mũi Hảo Vọng, đi ngang

qua Ấn Độ dương, vượt qua eo Cook nằm giữa hai đảo của Tân Tây

Lan, tới bờ biển tây bắc của châu Mỹ. Cuộc tìm kiếm của ông dọc

bờ biển qua Biển Bering, tới ranh giới băng đá phía nam của Bắc

Băng Dương không mang lại kết quả. Không có một Đường Biển

Tây Bắc - ít là không có đường mà tàu bè có thể qua lại. Trên

đường quay trở về Hawaii để nghỉ chân, Cook đã đi đến một kết

cục bi thảm gợi nhớ lại cái chết của Magellan ở Philipin đúng hai

trăm năm trước. Người Polynesian mà Cook đã hết sức cố gắng để

thiết lập hữu nghị, là những người rất thèm muốn bất cứ thứ gì có

thể gỡ được từ các con tàu, nhất là những đồ bằng sắt. Họ thậm

chí nghĩ ra cách lặn xuống đáy tàu và dùng đá lửa cột vào một cái

cây để lôi ra những chiếc đinh dài đóng vỏ tàu với đáy tàu. Khi họ

ăn cắp một chiếc xuồng lớn của ông, Cook không còn chịu đựng

được nữa. Ông đi với một lính bảo vệ có khí giới lên bờ để đòi lại

chiếc xuồng hay bắt một con tin. Người Hawaii tức giận đã dùng

gậy và mã tấu tấn công và dìm ông xuống nước cho tới chết.

Việc khám phá thiên nhiên, các hành tinh, các loài thực và

động vật, đòi hỏi người ta trước tiên phải chinh phục nhận thức

thông thường. Khoa học tiến bộ không phải là việc xác nhận sự

thật của kinh nghiệm hằng ngày, mà là việc lĩnh hội được sự

nghịch lý, dám mạo hiểm vào thế giới xa lạ.

Thiên nhiên - việc tìm hiểu thiên ví như một cánh đồng cỏ

rộng mênh mông, ai tới đó ăn cũng được và chỗ nào cỏ càng bị gặm

nhiều, nó càng mọc tươi tốt hơn, hương vị càng ngọt ngào và bổ

dưỡng hơn. -Thomas Henry Huxley (1871).

Việc khám phá thiên nhiên, các hành tinh, các loài thực vật

và động vật, đòi hỏi người ta trước tiên phải chinh phục nhận thức

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 73

http://ebooks.vdcmedia.com

thông thường. Khoa học tiến bộ không phải là việc xác nhận sự

thật của kinh nghiệm hằng ngày, mà là việc lĩnh hội được sự

nghịch lý, dám mạo hiểm vào thế giới xa lạ. Các dụng cụ mới mẻ,

trong đó có kính viễn vọng và kính hiển vi, sẽ cung cấp cho người

ta những chân trời mới kỳ lạ. Trong nghị trường khoa học - những

cộng đồng tri thức, không phải bằng ngôn ngữ bác học nhưng bằng

ngôn ngữ địa phương - các nhà khám phá nghiệp dư có thể thách

thức những nhà chuyên môn và những nhà chuyên môn thách

thức lẫn nhau. Công chúng trở thành một chứng nhân và người

bảo trợ. Những phát minh sẽ được giải thưởng. Chính thiên nhiên

đã có một lịch sử của mình và trong quá khứ vô tận của hành tinh

này đã xuất hiện hằng hà sa số những tạo vật mà nay không còn

tồn tại nữa. Đây là những động lực mới để con người sục sạo thế

giới bầu tìm ra những loài chưa từng được biết đến và tìm ra chìa

khóa để mở những bức màn bí mật của thiên nhiên không ngừng

biến dịch.

Daniel J. Boorstin 74

http://ebooks.vdcmedia.com

Phần IX

Thấy những cái mắt thường

không thể thấy

Kính hiển vi bắt đầu tại chỗ kính viễn vọng kết thúc.

Thứ nào cho ta cái nhìn to lớn hơn?

Victor Hugo, Les Misérables (1862)

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 75

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 38

ĐI VÀO "MÀN SƯƠNG NGHỊCH LÝ"

Không có gì hiển nhiên bằng việc trái đất đứng yên không

chuyển động và chúng ta là trung tâm của vũ trụ. Khoa học

phương Tây bắt đầu bằng việc phủ nhận tiền đề của nhận thức

thông thường này. Việc phủ nhận này phát sinh và là khuôn mẫu

đầu tiên của các nghịch lý cao nhất của khoa học và mời gọi chúng

ta đi vào một thế giới không thể nhìn thấy. Việc khám phá ra

nghịch lý đơn sơ này - rằng trái đất không phải bất động và cũng

không phải trung tâm của vũ trụ - sẽ đến đưa con người khám phá

ra sự thật phũ phàng của các giác quan. Nhận thức thông thường

vốn là nền tảng của đời sống hàng ngày, nay không còn phục vụ

được cho việc thống trị thế giới. Khi nhận thức "khoa học" là sản

phẩm tinh vi của những dụng cụ phức tạp và những phép tính chi

li cung cấp cho ta những chân lý không thể chối cãi, thì sự vật

không còn giống như chúng ta đã thấy nữa.

Người Hi Lạp đã triển khai khái niệm trái đất hình cầu với

con người sống trên đó, trong khi trời ở bên trên là một cái vòm

hình cầu quay tròn giữ các ngôi sao và làm chúng chuyển động.

Như chúng ta đã thấy, tính chất hình cầu của trái đất đã được

kinh nghiệm của nhận thức thông thường chứng minh vì các tàu

thuyền biến mất dưới đường chân trời. Ở bên ngoài vòm trời chẳng

có gì hết, chẳng có không gian, cũng chẳng có khoảng trống. Bên

trong vòm trời, mặt trời quay quanh trái đất theo chu kỳ ngày và

năm của nó. Plato đã mô tả việc tạo dựng vũ trụ hai hình cầu này

với vẻ mãn nguyện đầy tính thần thoại của ông. "Từ đó Ngài đã

làm ra thế giới với hình một quả cầu, tròn quay, với mọi điểm cuối

cùng ở mọi hướng cách đều tâm, một hình hoàn hảo nhất của

giống chính bản thân nó hơn hết mọi hình, vì ngài cho rằng cái

giống nhau thì vô vàn lần đẹp hơn cái không giống nhau".

Trong tác phẩm Luận về Bầu Trời, Aristote đã khai triển

nhận thức thông thường này thành một giáo điều hấp dẫn. "Ê-te",

trong suốt và không trọng lượng, là chất thể tinh truyền của trời

Daniel J. Boorstin 76

http://ebooks.vdcmedia.com

và của các hình cầu đồng tâm trên trời, chứa các ngôi sao và các

hành tinh. Tuy một số đệ tử của ông không nhất trí, nhưng

Aristote vẫn nói rằng những quả cầu ê-te này có con số chính xác

là 55. Khoảng cách khác nhau giữa mỗi hành tinh với trái đất

được giải thích bởi chuyển động của mỗi hành tinh từ mép trong

cùng ra mép ngoài cùng của hình cầu đặc thù của mỗi hành tinh.

Suốt nhiều thế kỷ, sự suy tư của những nhà thiên văn, chiêm tinh

và vũ trụ học phương Tây chỉ là những sự biến báo từ hình ảnh

này mà thôi.

Để hiểu những khởi điểm nghịch lý này của khoa học hiện

đại, chúng ta phải nhớ rằng cái khung đối xứng xinh đẹp này, tuy

bị chế giễu trong các lớp học thời hiện đại, nhưng thực sự đã giúp

ích rất nhiều cả cho các nhà thiên văn lẫn người thường. Khung

đối xứng này mô tả trời đúng như mắt có thể trông thấy và hợp với

những sự quan sát và tính toán của mắt thường. Tính đơn sơ, đối

xứng và nhận thức thông thường có vẻ như khẳng định vô số

những tiền đề của triết học, thần học và tôn giáo. Và thực ra nó

cũng giải thích được một số dữ kiện khoa học. Bởi vì nó phù hợp

với những sự kiện đã biết, là một dụng cụ tiên đoán khá thỏa đáng

và hòa hợp với quan niệm được chấp nhận về những phần còn lại

của thiên nhiên. Hơn nữa, tuy cái quan niệm trái đất trung tâm

của Ptolêmê làm cho người thường ngộ nhận về hình ảnh rõ ràng

của vũ trụ, nhưng nó đã giúp nhà thiên văn đi tới những cái chưa

biết đến. Ngay cả đối với những người hàng hải mạo hiểm, nó cũng

có ích rất lớn, như trường hợp của Colômbô đã chứng minh. Sẽ khó

có thể tiến sang bước tiến mới của thời cận đại với hệ thống mặt

trời là trung tâm của Copernic nếu đã không có sẵn hệ thống trái

đất là trung tâm để xét lại. Copernic không thay đổi hình thù của

hệ thống, ông chỉ thay đổi vị trí của các vật thể trong hệ thống.

Đương nhiên hệ thống trái đất trung tâm của truyền thống

Aristote và Plato cũng như nhiều người khác qua nhiều thế kỷ

cũng có nhược điểm của nó. Ví dụ, hệ thống này không cắt nghĩa

được những chuyển động không đều được quan sát thấy nơi các

hành tinh. Nhưng người thường khó nhận ra tính chất không đều

của chuyển động đó và dù sao nó cũng được cắt nghĩa thỏa đáng

nhờ giả thiết về chuyển động của mỗi hành tinh bên trong bầu khí

ê-te đặc biệt của chính nó. Nếu quan niệm trung tâm không đúng,

hẳn nhiều nhà thông thái đã không phải nhọc công để có những

sửa sai nho nhỏ.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 77

http://ebooks.vdcmedia.com

Thế thì tại sao Nicolaus Copernic (1473-1543) đã phải nhọc

công như thế để thay đổi một hệ thống đã từng được ủng hộ bởi

kinh nghiệm hàng ngày, bởi truyền thống và cả uy quyền nữa?

Chúng ta càng hiểu biết nhiều về Thời đại Copernic, chúng ta càng

có thể thấy rằng những người không chấp nhận thuyết của

Copernic không phải là họ không có lý. Những chứng cớ có sẵn vào

thời bấy giờ không đòi hỏi việc sửa đổi hệ thống. Phải mất nhiều

thập kỷ nữa các nhà thiên văn và toán học mới có thể thu thập

được những sự kiện mới và tìm ta những dụng cụ mới và phải cả

thế kỷ nữa người dân thường mới có thể được thuyết phục để

chống lại nhận thức thông thường của mình. Tất nhiên, tuy các

nhà thiên văn và toán học đã chế ra những sự sửa đổi bí hiểm cho

hệ thống cũ, nó vẫn không phù hợp với tất cả các sự kiện đã biết.

Và chính hệ thống quá đơn giản của Copernic sau này cũng thế.

Có vẻ như Copernic được thúc đẩy mạnh mẽ không phải bởi

sức ép của các sự kiện, mà bởi một mối quan tâm thẩm mỹ và siêu

hình. Ông tưởng tượng một hệ thống khác sẽ phải đẹp đẽ hơn biết

bao. Copernic có một đầu óc khoáng đạt kỳ lạ và một trí tưởng

tượng mạnh bạo. Nhưng không có gì là phi thường nơi nghề nghiệp

của ông. Ông không bao giờ lãnh các chức thánh, nhưng ông sống

cả cuộc đời hoạt động của mình trong lòng Giáo Hội. Thực ra chính

Giáo Hội đã cưu mang những mối quan tâm đa dạng của ông về tri

thức và nghệ thuật. Ông sinh năm 1473 ở Thorn, một thành phố

thương mại sầm uất trên bờ sông Vistula ở miền Bắc Ba Lan. Cha

của ông, một nhà buôn phát đạt và là một viên chức của thành

phố, đã chết khi ông mới 10 tuổi. Chú của ông là một giám mục ở

Ermeland đã thu xếp để đưa ông về nuôi tại nhà thờ chính Tòa

của giám mục ở thành phố Frauenburg, ở đó Nicolaus được phong

làm kinh sĩ khi ông 24 tuổi và chức vụ này đã trở thành một sự hỗ

trợ cho đời sống của ông cho tới khi ông mất.

Về thiên văn học, Copernic chỉ là một nhà nghiệp dư. Ông

không kiếm sống bằng nghề thiên văn hay các ứng dụng thiên

văn. Theo tiêu chuẩn đánh giá của chúng ta, ông là một con người

có tài, đáng được liệt vào hàng ngũ những thiên tài của thời Phục

Hưng. Ông sinh ra khi Leonardo da Vinci (1452-1519) đã có sự

nghiệp vững vàng và Michelangelo (1475-1564) cùng thế hệ với

ông. Ông bắt đầu học toán học ở Đại học Cracovi, ở đó ông đã phát

triển tài hội họa và đã để lại cho chúng ta một bức chân dung tự

họa có đẳng cấp. Sau khi nhận chức kinh sĩ ở nhà thờ chính Tòa

Daniel J. Boorstin 78

http://ebooks.vdcmedia.com

Frauenburg, ông xin phép đi một chuyến hành trình dài ngày tới

Italia để học giáo luật ở Bologna và Ferrara, học y ở Padua và

thỉnh thoảng đi dự các bài giảng về thiên văn học. Trở về

Frauenburg, ông trở thành bác sĩ riêng của giám mục là chú của

ông cho tới khi ngài qua đời năm 1512. Trong những năm đầy biến

động đó, chức vụ kinh sĩ của ông không phải là nhàn hạ. Ông phải

giữ sổ sách, trông coi việc bảo vệ những lợi ích chính trị của địa

phận và làm đại diện của địa phận. Copernic đã triển khai lý

thuyết mặt trời trung tâm như một sở thích phụ và việc ông xuất

bản lý thuyết này hoàn toàn là do sự khích lệ của những bạn bè và

học trò đầy nhiệt huyết của ông.

Copernic ý thức rất rõ hệ thống mình có thể vi phạm nhận

thức thông thường. Chính vì thế các bạn bè ông đã phải "thôi thúc

và thậm chí ép buộc" ông xuất bản tác phẩm của mình. Ông viết,

"Họ nhấn mạnh rằng, mặc dầu lý thuyết của tôi về chuyển động

của Trái Đất có thể có vẻ kỳ lạ, nhưng nó sẽ có thể trở thành tuyệt

vời và được chấp nhận khi tôi xuất bản những bình luận minh giải

để xua tan những đám sương mù nghịch lý".

Ý tưởng cách mạng của Copernic là trái đất tự chuyển động.

Nếu trái đất quay quanh mặt trời, thì mặt trời mới là trung tâm

của vũ trụ, chứ không phải trái đất. Nếu mặt trời là trung tâm của

vũ trụ chứ không phải trái đất, thì toàn thể hệ thống của bầu trời

sẽ trở nên đơn giản hơn ngay lập tức.

Mục đích của Copernic không phải là sáng chế ra một hệ

thống vật lý mới, lại càng không phải sáng chế ra một phương

pháp khoa học mới. Ông chỉ muốn sửa lại một phần của hệ thống

Ptolêmê, còn tất cả những lý thuyết lớn khác của hệ thống ấy ông

không đụng tới. Ông vẫn theo lý thuyết về các hình cầu, là trọng

tâm của hệ thống và tránh đụng đến những vấn đề tranh cãi về

các thiên thể hình cầu và thực hay tưởng tượng. Ông không khẳng

định những "quả cầu" (orbes) mà những hành tinh và trái đất

quay trong đó chỉ là những đường hình học tưởng tượng dùng để

mô tả chuyển động của chúng, hay chúng là những "quả cầu" thật

được cấu tạo bởi chất khí ê-te. Ông chỉ đơn giản sử dụng từ "quả

cầu" theo khái niệm truyền thống trong hệ thống của mình. Tựa

đề của tác phẩm tột đỉnh của ông, De Revolutionibus Orbium

Caelestium, không ám chỉ những hành tinh, mà muốn nói "Về

những chuyển động quay của những thiên thể hình cầu". Về một

vấn đề chủ chốt khác, vũ trụ có giới hạn hay vô hạn, Copernic lại

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 79

http://ebooks.vdcmedia.com

một lần nữa không muốn xác định lập trường của mình. Ông để

vấn đề này lại cho các nhà triết học thiên nhiên tranh luận.

Giống như Colômbô đã dựa vào Ptolêmê và những tác giả cổ

khác mà ông cho rằng đã không đủ dũng cảm để đi cho tới cùng,

Copernic cũng dựa vào những tác giả thời cổ. Trên hết là phái

Pythagoras với lý thuyết quan trọng về nhận thức. Theo phái

Pythagoras, tri thức thuần túy là sự thanh tẩy (catharis) tâm hồn.

Nghĩa là vươn lên khỏi bình diện những dữ kiện của giác quan con

người. Thực tại bản thể thuần túy chỉ có trong thế giới các con số.

Sự cân đối đơn sơ và kỳ diệu của các con số cắt nghĩa cho sự hòa

điệu của âm nhạc làm cho ta thấy khoái tai. Chính vì lý do đó họ

đã sáng tạo ra các thuật ngữ âm nhạc như quãng tám, quãng năm,

quãng bốn, được diễn ra bằng 2:1, 3:1 và 4:3.

Về thiên văn, có thể nói phái Pythagoras tôn thời các con số.

Trong cuốn Siêu hình của mình, Aristote đã tóm tắt lý thuyết của

họ như sau, "Họ nói bản chất các sự vật là các con số và không coi

các hình và các đồ vật khả giác là đối tượng của toán học. Vào thời

Copernic, các nhà Pythagoras vẫn còn tin rằng cách duy nhất để

biết chân lý là nhờ toán học.

Một nguồn tri thức phong phú khác Copernic dựa vào là

Plato và phái Tân Plato. Tuy Copernic vô tình sẽ trở thành nhà

tiên tri cho niềm tin tuyệt đối của khoa học vào các giác quan,

nhưng người đỡ đầu của ông lại là Plato, người tin rằng mọi dữ

kiện của cảm giác chỉ là những cái bóng không có chất thể. Thế

giới "thực" của Plato là thế giới các hình tượng của trí óc và theo

quan điểm này thì hình học thực hơn là vật lý. Trên cổng vào

Trường Học của Plato có treo tấm bảng ghi rõ: "Ai không biết hình

học xin miễn vào cửa nhà tôi".

Thời Phục Hưng mà Copernic sống cũng là thời mà phái Tân

Plato tái sinh. Họ lại tiếp tục cuộc chiến chống lại tinh thần khô

khan cứng nhắc của triết lý kinh viện mà sư tổ là Aristote với

phương pháp nhận thức dựa vào kinh nghiệm giác quan. Chống lại

tinh thần này, các triết gia Tân Plato đề cao thi văn và trí tưởng

tượng bay bổng. Khi Copernic học ở Bologna, giáo sư của ông là

Domenico Maria de Novara, một triết gia Tân Plato rất mãnh liệt

trong việc đã kích hệ thống Ptolêmê. Rõ ràng các nhà thiên văn đã

bỏ quên sức lôi cuốn cốt yếu của các con số để áp dụng vào các

thiên thể.

Daniel J. Boorstin 80

http://ebooks.vdcmedia.com

Trong Lời tựa cho tác phẩm De Revolutionibus của mình,

ông đã nói tiếng nói của thầy mình và tuyên bố thẳng thừng ông

thuộc phái Tân Plato. Ông cho rằng hệ thống Ptolêmê dùng để cắt

nghĩa chuyển động của hành tinh đòi phải "giả thiết rất nhiều

điều vi phạm nguyên lý đệ nhất là tính đồng đều của chuyển động.

Mà họ cũng không phận biệt hay kết luận được điều chính yếu của

hệ thống - đó là hình thù của vũ trụ và tính chất đối xứng không

đổi của các thành phần của vũ trụ". Cuối cùng Copernic tin rằng

hệ thống của mình thực sự phù hợp hơn với bản chất của vũ trụ và

vì thế hệ thống của ông tốt hơn hệ thống cũ coi trái đất là trung

tâm. Ông tin mình đang mô tả chân lý hiện có của một vũ trụ bản

chất là toán học.

Chuyển động của các thiên thể phải là những đường tròn

hoàn hảo. Vào thời Copernic, thiên văn học vẫn còn là một ngành

của toán học - "khoa hình học về vũ trụ", theo lời của E.A. Burtt.

Theo lý thuyết của Pythagoras và của phái Tân Plato, điều này có

những cập lụy đối với chính toán học, được coi không như một

khoa học diễn dịch về cấu trúc trừu tượng, mà là một khoa học mô

tả thế giới hiện thực. Phải mất khá lâu người ta mới thay đổi được

quan niệm này. Đồng thời việc lẫn lộn hai khoa học này cũng có

ích, vì nó lôi cuốn những nhà thiên văn và những nhà khoa học

khác tiến tới ngưỡng cửa của khoa học cận đại.

Copernic đã đạt được một mức uy tín và có một số tiền đề

hấp dẫn, nhưng ông vẫn chưa tìm ra được chứng cớ để bảo vệ cho

lý thuyết của mình. Trong vấn đề này, ông cũng giống như

Colômbô, là người đã nghĩ nên hết sức thử mở đường phía tây sang

vùng Indies, mặc dù ông vẫn chưa có bằng chứng cụ thể và mặc dù

ông biết Gama đã thành công bằng con đường phía đông. Cũng

thế, hệ thống Ptolêmê trong nhiều thế kỷ đã tỏ ra là một loại lịch

hữu ích. Còn hệ thống mà Copernic bây giờ đề xuất, mặc dù rất

hấp dẫn về thẩm mỹ học, nhưng cũng không phù hợp với những sự

kiện quan sát được. Ngoài ra, ông cũng không tính toán trước được

vị trí của những hành tinh một cách có cơ sở chính xác như hệ

thống của Ptolêmê.

Copernic đã tin tưởng ở những đề xuất của mình tới mức

nào? Ông có nghĩ mình đã dứt khoát giải quyết xong những vấn đề

nòng cốt của khoa thiên văn không? Hay ông chỉ thử đưa ra những

đề xuất để cho những người khác triển khai? Có vẻ như ấn bản

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 81

http://ebooks.vdcmedia.com

đầu tiên của tác phẩm chủ yếu của Copernic, De Revolutionibus

(1543) đã trả lời không chút nghi ngờ cho câu hỏi này.

Vì những giả thuyết mới lạ trong tác phẩm này đã được phổ

biến rộng rãi, tôi tin là có một số nhà trí thức cảm thấy bị xúc

phạm vì quyển sách tuyên bố trái đất quay và mặt trời đứng yên ở

trung tâm vũ trụ; hẳn là những nhà trí thức này tin rằng không

thể nào làm lẫn lộn những khoa học nhân văn đã được thiết lập

trên cơ sở vững vàng từ xưa đến nay. Nhưng nếu họ muốn nghiên

cứu sát vấn đề hơn, họ sẽ thấy rằng tác giả của tác phẩm này

không làm điều gì đáng trách cả. Bởi vì nhiệm vụ của nhà thiên

văn là ghi lại lịch sử của chuyển động của thiên thể bằng sự quan

sát cẩn thận và tài giỏi. Rồi quay sang nguyên nhân của những

chuyển động này hay những giả thuyết về chúng, họ phải có khái

niệm và tìm cách lý giải những giả thuyết này như là phương thế

giúp tính toán đúng các chuyển động dựa trên các nguyên lý hình

học, cho tương lai cũng như quá khứ. Tác giả của quyển sách này

đã thực hiện cả hai nhiệm vụ này một cách tuyệt vời. Vì những giả

thuyết này không nhất thiết phải đúng hoặc có thể đúng; chỉ cần

nó cung cấp dữ liệu để tính toán ăn khớp với những sự kiện quan

sát được là đủ rồi... Xét về những giả thuyết trong sách này, xin

đừng ai chờ đợi một điều gì chắc chắn ở khoa thiên văn, vì nó

không thể làm điều này, kẻo lỡ người ấy sẽ ngộ nhận các ý tưởng

chân thật vì một mục đích khác và như thế học xong rồi sẽ lại ngu

dốt hơn trước khi học. Tạm biệt.

Sau này người ta mới phát hiện ra rằng, Lời tựa này hoàn

toàn không phải do Copernic viết. Để bảo vệ giáo lý chính thống

Luthêrô, một người quen của Copernic tên là Andreas Osiander đã

bí mật bỏ đi lời tựa của Copernic và thay vào bằng lời tựa do chính

mình soạn ra. Nhà bác học vĩ đại Johannes Kepler (1571-1630) đã

phát hiện ra sự man trá này và đã lên tiếng bảo vệ Copernic chống

lại "sự bịa đặt vô lý nhất" này của Osiander, sự bịa đặt có thể phá

hủy sự chân chính khoa học của Copernic. Kepler đã đính chính

cho Copernic, "Copernic tin rằng những giả thuyết của mình là

đúng, không thua gì những nhà thiên văn xưa kia... Ông không

chỉ nghĩ, mà ông còn chứng minh được những giả thiết ấy là

đúng... Như thế Copernic đã không phịa ra một chuyện thần thoại,

trái lại, ông can đảm phát biểu những điều nghịch lý và đó chính

là suy tư triết học, là điều mà một nhà thiên văn học cần phải có".

Daniel J. Boorstin 82

http://ebooks.vdcmedia.com

Copernic mô tả hệ thống của mình như là những "giả

thuyết". Và trong ngôn ngữ của Thời đại Ptolêmê, "giả thuyết" có ý

nghĩa nhiều hơn là khái niệm thực nghiệm. Đúng hơn, đó là

nguyên lý hay phát biểu cơ bản mà toàn thể một hệ thống phải

dựa vào. Có nghĩa là, theo Copernics, các phát biểu của ông mang

hai đặc tính cơ bản. Thứ nhất, chúng phải "cứu vãn những hình

dáng bên ngoài", nghĩa là các kết luận của chúng phải phù hợp với

sự quan sát. Nhưng chỉ phù hợp với những gì mắt thường có thể

thấy được thì không đủ. Một đòi hỏi thứ hai là phát biểu khoa học

phải phù hợp và khẳng định những ý niệm tiên thiên được chấp

nhận như những tiền đề của khoa vật lý. Ví dụ, nó không được đi

ngược lại tiền đề cho rằng mọi chuyển động của các thiên thể đều

theo đường tròn và mọi chuyển động loại này thì đồng đều. Theo

Copernic, tuy hệ thống Ptolêmê rất phù hợp với những gì quan sát

được, nhưng nó lại không cắt nghĩa thỏa đáng tính chất đường

tròn và đồng đều của các chuyển động thiên thể. Một hệ thống

"đúng" theo tiêu chuẩn của Copernic không những phải thỏa mãn

con mắt mà còn phải thỏa mãn trí khôn nữa.

Trong lãnh vực thiên văn, có một loại trắc nghiệm đơn giản

về bất kỳ hệ thống nào. Một lý thuyết thiên văn hoàn hảo phải dự

báo thường xuyên và chính xác những ngày hạ chí và đông chí,

những ngày bắt đầu mùa hè và mùa đông.

Vào thời Copernic, các lịch sai nhau là một bằng chứng cho

thấy lý thuyết thiên văn được chấp nhận thời đó không hoàn toàn

đúng. Khi Julius Cesar dựa vào lịch Ai Cập để cải cách lịch Rôma

vào năm 45 trước C.N., ông đã đưa vào một hệ thống gồm ba năm

có 365 ngày và tiếp theo là một năm nhuận 366 ngày. Hệ thống

này tạo thành một năm có 365 1/4 ngày và như thế vẫn còn dài

hơn năm theo vòng quay mặt trời là 11 phút 14 giây. Trải qua

nhiều thế kỷ, sự sai biệt này tích lũy dần giống như một chiếc

đồng hồ chạy quá chậm và đã tạo ra một sự sai biệt đáng kể trong

lịch. Kết quả là vào thời Copernic, ngày xuân phân, tức là ngày

bắt đầu mùa xuân ở bán cầu phía bắc, đã xê dịch từ 21 tháng 3 lên

ngày 11 tháng 3. Nông dân không còn có thể dựa vào lịch để gieo

hạt và thu hoạch, các thương gia không thể dựa vào lịch để ký kết

các hợp đồng giao các loại sản phẩm theo mùa.

Bản thân Copernic đã từng lợi dụng sự lộn xộn này trong lịch

để có cớ sửa đổi hệ thống Ptolêmê. Trong lời tựa của cuốn De

Revolutionibus, ông tuyên bố, "Các nhà toán học không chắc chắn

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 83

http://ebooks.vdcmedia.com

chút nào về chuyển động của mặt trời và mặt trăng, nên họ không

thể nào cắt nghĩa hay quan sát thời gian đồng đều của một năm

theo mùa". Và ông lý luận rằng chắc chắn phải có điều gì đó không

ổn trong cái lý thuyết tạo ra lịch này.

Cùng trong thời kỳ này, các thành phố lớn của thời Phục

Hưng và nền thương mại trên đường biển trải khắp thế giới đã

nhận thấy nhu cầu phải có một lịch chính xác và đáng tin cậy.

Nhưng khi họ yêu cầu Copernic giúp đỡ trong dự án này, ông trả

lời thời điểm chưa chín muồi. Đành rằng hệ thống địa tâm của

Ptolêmê không thể tạo ra một lịch chính xác, ông vẫn chưa có đủ

chứng cớ để minh chứng hệ thống nhật tâm của mình có kết quả

tốt hơn hệ thống cũ. Thực vậy, với những dữ kiện có sẵn vào thời

đó, hệ thống sửa đổi của Copernic đã không đem lại kết quả tốt.

Dù vậy, những ý tưởng của Copernic đã giúp ông được tuyển

chọn để giúp Giáo hoàng Gregorio XIII làm ra lịch cải cách mà

chúng ta đang dùng. Trong nửa thế kỷ tiếp sau đó, các lý thuyết

của Copernic chỉ có một ứng dụng công cộng và trực tiếp duy nhất

là để làm lịch. Thế nhưng không phải chính Copernic đã chứng

minh cho chân lý của hệ thống của mình qua kết quả của việc sửa

lịch này.

Việc làm lịch đã được thực hiện bởi một đệ tử khác của

Copernic tên là Erasmus Reinhold (1511-1553). Ông là người có

thiên tài và đam mê trong việc tính toán thiên văn. Năm 25 tuổi,

Reinhold được cử làm giáo sư thiên văn ở Đại học Wittenberg năm

1536. Vào những năm 1540, khi ngành in đã giúp cho việc in sách

giáo khoa trở nên ít tốn kém hơn để có thể phổ biến rộng rãi trong

các đại học, Reinhold đã in ra những ấn bản phổ thông của các tác

phẩm cổ điển nghiên cứu hệ thống Ptolêmê và các thiên thể.

Wittenberg đã phấn khởi báo cáo về công trình của Copernic. Điều

này đã khơi dậy nơi Reinhold niềm hi vọng nóng bỏng rằng

Copernic sẽ "phục hưng khoa thiên văn". Khi cuốn De

Revolutionibus được xuất bản, Reinhold đã đọc và ghi chú trên

sách để chuẩn bị những bảng thiên văn đầy đủ hơn từ trước đến

giò. Sau bảy năm vất vả với công việc này, Reihold đã xuất bản

những bảng tính thiên văn của mình năm 1551.

Tác phẩm Các bảng Prutenic vượt xa tất cả những thứ cùng

loại này vào thời đó và đã mau chóng trở tành những bảng thiên

văn tiêu chuẩn ở châu Âu. Để sửa đổi những bảng thiên văn cũ,

Reinhold đã tự tiện sử dụng những nhận xét của trong tác phẩm

Daniel J. Boorstin 84

http://ebooks.vdcmedia.com

của Copernic. Tất nhiên ông không nhận ra rằng những khái niệm

của Copernic về vị trí và chuyển động của các hành tinh vẫn còn

xa sự thật, khi coi chúng chỉ là sự phối hợp của những chuyển

động vòng tròn đơn giản. Dầu sao tác phẩm của Reinhold cũng đã

là một tiến bộ và được sử dụng rộng rãi. Khi Giáo hoàng Gregorio

XIII làm lịch mới của mình vào năm 1582, ngài đã dựa vào những

bảng của Reinhold. Tính chính xác vượt trội của những bảng thiên

văn này làm nổi bật trực giác của Reinhold hơn là tính chân lý của

hệ thống Copernic.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 85

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 39

NHỮNG GÌ MẮT THƯỜNG CÓ THỂ THẤY

Những khả năng của mắt thường để quan sát và tính toán

các thiên thể đã được đẩy tới hết giới hạn của chúng bởi một nhà

thiên văn không biết mệt mỏi người Đan Mạch tên là Tycho Brahe

(1546-1601), sinh ra ba năm sau khi Copernic qua đời. Cha ông là

một nhà quý tộc giàu có Đan Mạch, luôn khích lệ ông phát triển

những đức tính cao quý của nhà quý tộc và những sở thích xa hoa

của giới quyền quý để có tiếng trong xã hội trí thức châu Âu thời

đó. Tại Đại học Lutheran ở Copenhagen, ông được học đầy đủ bảy

môn của các khoa học nhân văn thời bấy giờ, gồm tam khoa (ngữ

pháp, tu từ và logic) và tứ khoa (hình học, thiên văn, số học và âm

nhạc). Tại đây, ông ngốn ngấu những tác phẩm của Aristote và bắt

đầu đi vào hệ thống các thiên thể của Ptolêmê. Tất nhiên ông cũng

học khoa chiêm tinh, là một môn học kết hợp giữa thiên văn học và

y học, rất hữu ích cho các nhà thiên văn trong đời sống hàng ngày.

Sau đó ông đến Leipzig để học luật nhằm hoàn tất nền học vấn

của mình.

Nhưng nền giáo dục sách vở đó đã không bóp nghẹt niềm

đam mê quan sát thiên văn mà ông đã có từ hồi còn rất nhỏ.

Đương nhiên quan sát thiên văn không phải là một môn trong

chương trình đại hoc. Khi Tycho chưa đầy 14 tuổi, ông rất kinh

ngạc và thích thú vì được chứng kiến một vụ nhật thực đã được

tiên đoán trước và đã xảy ra vào đúng ngày dự báo. Ông nghĩ "con

người quả là thần thánh khi có thể biết rõ những chuyển động của

các ngôi sao nhờ đó có thể tiên đoán từ lâu vị trí và sự tương quan

của chúng".

Nhưng vì gia đình muốn ông theo học các môn học truyền

thống hơn, nên ông phải theo đuổi niềm đam mê của mình một

cách bí mật. Tại Leipzig, gia đình thuê một giảng viên phụ đạo để

theo dõi việc học của ông, vì thế ban ngày ông buộc phải học luật.

Nhưng đêm đến, khi các ngôi sao xuất hiện và thầy phụ đạo đi

ngủ, ông bắt đầu theo đuổi sở thích thực sự của mình. Ông để

Daniel J. Boorstin 86

http://ebooks.vdcmedia.com

dành tiền mua thêm nhiều bảng thiên văn và tự học về các chòm

sao bằng một quả cầu nhỏ chỉ bằng nắm tay mà ông giấu không

cho thầy phụ đạo của mình biết.

Một vụ giao hội giữa các hành tinh đã đưa Tycho lên đường

sự nghiệp của mình. Tháng 8 năm 1563, trong một vụ giao hội kéo

dài nhiều ngày giữa sao Thổ và sao Mộc, Tycho lúc ấy chưa đầy 17

tuổi, đã chớp lấy cơ hội để bắt đầu việc quan sát thiên văn của

mình. Dụng cụ duy nhất của ông là một cái compa thông thường

của người vẽ đồ án. Ông đưa tâm của cây compa sát mắt mình, rồi

quay mỗi chân compa về một hành tinh, sau đó đặt compa lên một

tờ giấy trên đó ông đã vẽ một vòng tròn chia thành 360 độ và nửa

độ. Ông đã ghi lại lần quan sát đầu tiên của mình vào ngày 17

tháng 8, 1563 và từ đó về sau còn tiếp tục hàng ngàn lần khác.

Ngày 24 tháng 8, ông thấy sao Thổ và sao Mộc gần nhau đến nỗi

khó mà nhận ra được khoảng cách giữa chúng. Ông ngạc nhiên

phát hiện ra rằng những dự báo trong bảng thiên văn Alphongsine

sai hẳn một tháng và ngay cả những bảng Plutenic của Reinhold

cũng sai nhiều ngày.

Năm sau, ông trang bị thêm một cái thước đo góc, là một

dụng cụ khá phổ biến thời ấy. Thước đo góc chỉ là một cái cây có

khắc vạch, dài khoảng 1 mét, trên đó có đặt một cây khác dài bằng

một nửa cây kia và có thể trượt qua lại để luôn luôn tạo thành một

góc vuông với cây kia. Khi quan sát nhìn qua những ống ngắm gắn

ở đầu của cả hai cây và từ từ trượt thanh ngắn cho tới khi cả hai

vật được nhìn thấy, họ có thể đo được những độ xa góc. Tycho đã

sử dụng thước đo góc này để tập luyện việc quan sát một cách lén

lút trong lúc ông thầy phụ đạo ngủ. Khi thấy dụng cụ này quá thô

sơ không cho những góc chính xác, Tycho muốn mua một chiếc tốt

hơn. Ông không dám xin tiền của bố mẹ để mua, nên đã tự mình

chế ra bảng điều chỉnh để cải thiện độ chính xác của dụng cụ của

mình. Nhà khoa học vĩ đại Kepler đã gọi cố gắng này của Tycho

vào năm 1564 là "sự phục hưng của thiên văn học".

Con người Tycho quả là một hiện tượng, ông không chỉ là

mẫu mực của nhà quan sát thiên văn học, mà còn là một trong

những nhân vật kỳ lạ nhất của thời đại. Ở tuổi 20, khi còn là sinh

viên ở Đại học Rostock, trong dịp dự một buổi khiêu vũ ở nhà một

giáo sư, ông đã cãi lộn với một sinh viên khác xem ai là nhà toán

học giỏi hơn. Cuộc cãi luận được giải quyết bằng một cuộc thách

đấu "hoàn toàn trong bóng tối" vào lúc 7 giờ tối ngày 29 tháng 12,

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 87

http://ebooks.vdcmedia.com

1566, làm cho Tycho bị mất một miếng mũi. Ông đã sửa cái mũi

của mình bằng cách chế ra một miếng mũi rất khéo bằng vàng và

bạc để đắp vào chỗ bị sứt. Đây chỉ là một trong rất nhiều chuyện

lạ thường trong cuộc đời Tycho.

Những quan sát của Tycho đã đóng góp vào kho tàng sự kiện

thiên văn nhiều hơn bất cứ ai trước ông. Hầu hết những sự kiện

này được ông sưu tập trong thời gian 20 năm sống trên hòn đảo

Hven rộng 2000 mẫu mà vua Frederick II đã tặng ông để làm đài

thiên văn của ông. Từ tài sản của riêng mình, ông đã xây dựng

một trung tâm khoa học lớn. Ông gọi trung tâm khoa học này là

Thiên Lâu (Uraniborg), nhưng đúng ra phải gọi là Thiên Đô, vì nó

là cả một Đô thị gồm những nhà nghiên cứu thiên văn đầy nhiệt

huyết.

Tycho thực hiện những cuộc quan sát hết sức đều đặn, lặp đi

lặp lại, phối hợp chúng và luôn luôn tính đến phần sai sót do dụng

cụ của ông. Kết quả ông đã giảm mức độ sai sót xuống chỉ còn một

phần của phút trong một cung và đã có được sự chính xác cao nhất

từ trước đến giờ.

Với sự giúp đỡ của rất nhiều sinh viên và đồng nghiệp của

mình, trong cuốn Progymnasmata (1602) ông đã liệt kê được vị trí

của 777 định tinh. Để giúp những người khác đánh giá mức chính

xác của ông, ông đã đưa vào trong sách này phần mô tả và những

sơ đồ của các phương pháp quan sát cũng như các dụng cụ của

ông. Chẳng bao lâu công trình phong phú của ông đã thay thế

bảng liệt kê cổ điển của Ptolêmê. Cuối cùng ông đã thêm vào 223

ngôi sao nữa, nâng tổng số lên đúng 1000.

Hệ thống các thiên thể của ông đã chứng minh rằng hệ thống

địa tâm của Ptolêmê không thỏa đáng, đồng thời cũng cho thấy

chưa có đủ bằng chứng chắc chắn để chứng minh hệ thống nhật

tâm của Copernic là đúng.

Tycho không muốn bỏ đi niềm tin của mình vào hệ thống coi

trái đất đứng yên và là trung tâm của vũ trụ. Ông quá gắn bó với

khoa vật lý của Aristote chủ trương trái đất nặng và đứng yên.

Ông nhận xét, nếu thực sự trái đất quay, một quả đại bác bắn ra

theo chiều quay của trái đất sẽ đi xa hơn là nếu bắn ngược với

chiều quay của trái đất. Nhưng trong thực tế điều này không xảy

ra. Và ông cũng dựa vào lập luận rõ ràng của sách Giosuê trong bộ

Kinh thánh kể lại rằng mặt trời đã dừng lại trên bầu trời.

Daniel J. Boorstin 88

http://ebooks.vdcmedia.com

Nhưng ông cũng thấy hệ thống nhật tâm có thể làm cho hình

ảnh của thế giới đơn giản đi rất nhiều, nên ông đã nghĩ ra một

cách thỏa hiệp. Ông vẫn giữ lại quan niệm trái đất đứng yên ở

trung tâm trong khi mặt trời quay chung quanh nó giống như

trong hệ thống địa tâm của Ptolêmê. Nhưng trong hệ thống mới

của Tycho, các hành tinh khác quay xung quanh mặt trời theo

đường quay của mặt trời quanh trái đất.

Trên giường hấp hối, ông đã trối lại kho công trình đồ sộ của

mình cho một nhà khoa học khác có đầu óc trẻ trung và khoáng

đạt hơn. Ông xin Johannes Kepler cải thiện những bảng thiên văn

của ông. Và ông hi vọng Kepler sẽ có thể dùng những bảng thiên

văn này để chứng minh lý thuyết của ông (chứ không phải của

Copernic) là đúng.

Mặc dù Copernic đã dám thay đổi các tương quan của các

thiên thể, ông vẫn không dám sửa đổi chuyển động theo đường

tròn hoàn hảo của các thiên thể, hay thay đổi hình tròn của cả hệ

thống. Kepler đã thực hiện bước tiếp theo này. Trong khi tìm kiếm

một sự đối xứng tinh vi hơn trong quỹ đạo của các thiên thể và

những tương quan giữa những độ xa và chu kỳ của chúng, Kepler

đã dám rời bỏ lý thuyết Aristote về chuyển động của thiên thể theo

đường tròn hoàn hảo. Nhìn lại, chúng ta thấy ông đã tình cờ làm

cho hệ thống Copernic hợp lý hơn bằng cách đưa tất cả các chuyển

động quan sát được thành những định luật thực nghiệm được diễn

tả dưới dạng toán học.

Johannes Kepler (1571-1630) sinh tại Wurttemberg, thuộc

miền nam nước Đức. Cho tới năm 22 tuổi, Kepler luôn luôn được

chuẩn bị để trở thành một mục sư. Lòng đạo của ông và của gia

đình đã luôn luôn thôi thúc ông nhìn mọi biến cố trong cuộc đời

đều là do sự an bài của Thiên Chúa.

Johannes Kepler (1571-1630) sinh tại Wurttemberg, thuộc

miền nam nước Đức. Cho tới năm 22 tuổi, Kepler luôn luôn được

chuẩn bị để trở thành một mục sư. Lòng đạo của ông và của gia

đình đã luôn luôn thôi thúc ông nhìn mọi biến cố trong cuộc đời

đều là do sự an bài của Thiên Chúa. Ông luôn luôn cảm nếm được

hương vị của đời sống thiên quốc và suốt đời ông hăm hở đi tìm

biết ý định của Thiên Chúa.

Giá như gia đình ông giàu có, ông đã có thể trở thành một

mục sư, chứ không phải một nhà thiên văn. Ông say mê thần học

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 89

http://ebooks.vdcmedia.com

và chỉ vì hoàn cảnh tài chính mà ông phải bỏ ơn gọi mục sư để

kiếm sống bằng nghề giáo viên toán học tại một làng nhỏ miền

nam nước áo. Ông bổ sung thu nhập của mình bằng việc xuất bản

những lịch thiên văn dự báo những mùa, số mệnh của những bậc

quân vương, các cuộc nổi dậy của nông dân và những nguy cơ xâm

lăng của người Thổ. Nghề thiên văn luôn luôn là nguồn thu nhập

chính của ông khi mọi nguồn thu nhập khác không còn. Ông nói,

làm nghề bói toán ít ra cũng còn hơn là đi ăn mày.

Năm 1595, ông đã giải thích cho giáo sư Michael Maestlin

của đại học Tubingen, là người đã hướng dẫn ông đến với hệ thống

thiên văn của Copernic, "Tôi đã muốn trở thành một nhà thần học,

vì từ lâu tâm hồn tôi luôn bị giằng co. Nhưng bây giờ, tôi nhận ra

là Chúa muốn tôi làm rạng danh Người qua các cố gắng truy tìm

thiên văn của tôi". Cuốn sách đầu tiên của ông nhan đề Vũ trụ

Mầu Nhiệm (1596) là một sự diễn tả khéo léo tính chất huyền bí

toán học, là khởi điểm cho hoạt động suốt đời của ông. Ông kể lại

rằng, vì ông tin chắc có vẻ đẹp toán học trong những kích thước

tương đối giữa các hành tinh và quỹ đạo của chúng, nên ông lao

mình vào cuộc tìm kiếm.

Hầu như cả mùa hè đã trôi qua với sự tìm kiếm nặng nề

nhưng không kết quả này. Cuối cùng, trong một dịp rất tầm

thường, tôi đã đến gần được sự thật hơn. Tôi tin Chúa quan phòng

đã can thiệp để tôi may mắn đạt được điều mà tôi không bao giờ có

thể đạt được chỉ bằng cố gắng riêng của mình. Tôi lại càng tin ở

điều này hơn nữa vì tôi luôn luôn cầu xin Chúa cho tôi được thành

công nếu lý thuyết của Copernic là đúng. Thế là chuyện đã xảy ra

vào ngày 19 tháng 7, 1595. Khi tôi đang giảng cho sinh viên thấy

những sự kiện giao hội lớn (của sao Thổ và sao Mộc) xảy ra liên

tiếp tám ký hiệu hoàng đạo sau và chúng từ từ chuyển từ một

khoảng cách 120 độ giữa hai hành tinh sang một khoảng cách

khác, thì cùng lúc đó tôi đã vẽ lồng vào trong một vòng tròn nhiều

hình tam giác với điểm cuối của tam giác này là điểm đầu của tam

giác kia. Bằng cách này tôi có một hình tròn nhỏ hơn hợp bởi

những điểm giao nhau của các cạnh hình tam giác.

Khi ông so sánh hai vòng tròn này, ông thấy vòng tròn không

tương ứng với sao Mộc, vòng tròn ngoài tương ứng với sao Thổ.

Ông đã tìm ra được chìa khóa chăng?

Daniel J. Boorstin 90

http://ebooks.vdcmedia.com

Bất ngờ Kepler nhớ lại một sự trùng hợp đặc biệt: trong hình

học có năm loại hình khối đa diện và ngoài trái đất thì chỉ có năm

hành tinh khác.

Và rồi... điều này làm tôi ngạc nhiên: tại sao lại có các hình

phẳng trong số những quĩ đạo ba chiều? Thưa độc giả, xin hãy để ý

đến lý do tại sao tôi viết cuốn sách nhỏ này. Để ghi nhớ sự kiện đó,

tôi viết ra đây cho bạn câu phát biểu bằng chính những lời lúc nó

mới được phát sinh trong đầu: Quĩ đạo của trái đất là thước đo mọi

sự. Vẽ ngoại tiếp quĩ đạo này là một hình mười hai mặt và vòng

tròn chứa hình này sẽ là sao Hỏa; vẽ ngoại tiếp sao Hỏa một hình

tứ diện và vòng tròn chứa nó sẽ là sao Mộc; vẽ ngoại tiếp sao Mộc

một hình lập phương và vòng tròn chứa nó sẽ là sao Thổ. Bây giờ

vẽ nội tiếp trái đất một hình hai mươi mặt và vòng tròn nằm trong

đó sẽ là sao Kim; vẽ nội tiếp sao Kim một hình tám mặt và vòng

tròn nằm trong đó sẽ là sao Thủy. Bây giờ bạn đã hiểu lý do của

con số các hành tinh.

Đây là cơ hội và thành công của những lao nhọc của tôi. Và

niềm thỏa mãn sâu xa của tôi trong khám phá này quả thực không

thể diễn tả thành lời. Tôi không còn tiếc thời giờ đã mất nữa. Ngày

đêm tôi không mỏi mệt trong việc tính toán, để xem ý tưởng này có

phù hợp với những quĩ đạo của Copernic hay không, hay là niềm

vui của tôi sẽ bay đi theo gió. Chỉ trong ít ngày, mọi cái đã hoạt

động tốt và tôi cứ ngồi nhìn từng thiên thể tiếp nối nhau ăn khớp

chính xác vào chỗ của nó trong số các hành tinh.

Trí tưởng tượng hình học của ông đã có tác dụng. Nếu chúng

ta kể đến chuyển động ly tâm của các của hành tinh và bỏ qua một

vấn đề nho nhỏ về sao Kim, thì mọi hành tinh đều ăn khớp với hệ

thống của Kepler, với một sai biệt chỉ chừng 5 phần trăm.

Bất luận chúng ta nghĩ thế nào về "phương pháp" của

Kepler, sản phẩm của ông quả là đầy ấn tượng. Đối với ông, hình

như việc ông chuyển từ lãnh vực thần học sang thiên văn là một

hành động chính đáng. Kể cũng lạ, cuốn sách này do một chàng

thanh niên tên Kepler viết lúc 25 tuổi đúng một nửa thế kỷ sau

cuốn De Revolutionibus của Copernic lại là tác phẩm đầu tiên sau

chính bản thân Copernic công khai bảo vệ hệ thống mới.

Trong hệ thống của Copernic, mặt trời được đưa vào trung

tâm thay chỗ cho trái đất, nhưng mặt trời vẫn chỉ thực hiện chức

năng quang học là soi sáng cho toàn thể vũ trụ hành tinh, chứ

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 91

http://ebooks.vdcmedia.com

không tạo ra chuyển động của các hành tinh đó. Kepler đã tiến

một bước khổng lồ khi ông coi mặt trời là một trung tâm tạo lực.

Ông nhận thấy rằng một hành tinh càng xa mặt trời, thì chu kỳ

xoay vòng của nó càng dài. Đối với sự kiện này, các nhà thiên văn

thời trung cổ chỉ cống hiến những giải thích thần bí hay duy linh.

Ví dụ, các triết gia khắc kỷ tin rằng mỗi hành tinh có hồn riêng

của mình - là tinh thần hay trí khôn - để hướng dẫn các chuyển

động của nó trong bầu trời. Quan niệm trổi vượt của thời trung cổ

gắn mỗi hành tinh vào một quả cầu trong suốt cũng tuyên bố rằng

những quả cầu này được chuyển động bởi trí khôn thiên giới.

Khi Kepler tìm cách cắt nghĩa sự giảm tốc của một hành tinh

khi nó chuyển động xa dần mặt trời, lúc đầu ông cũng nghĩ mỗi

hành tinh có một "hồn chuyển động" (anima motrix):

Vì thế chúng ta phải thiết lập một trong hai sự kiện sau:

hoặc là các animae motrices (của các hành tinh) trở nên yếu hơn

khi chúng xa dần Mặt trời, hoặc là chỉ có một anima motrix duy

nhất ở tâm điểm của tất cả các quỹ đạo, nghĩa là, ở Mặt trời, cái

hồn chuyển động này tạo lực mạnh hơn đối với một vật thể khi vật

thể này ở gần mặt trời, nhưng sẽ không có tác dụng đối với các vật

thể ở xa hơn, vì khoảng cách và vì ảnh hưởng của lực tác động

càng xa càng yếu.

Sau này chính Kepler đã trịnh trọng nói thêm rằng toàn thể

hệ thống vật lý các thiên thể của mình sẽ có ý nghĩa hoàn hảo "nếu

ta thay thế từ hồn (anima) bằng lực (vis). Thế là ông đã mạnh dạn

vạch ra con đường chuyển từ việc giải thích vũ trụ theo cách hữu

cơ sang lối giải thích cơ học. Các "tinh thần" và "trí khôn của các

thiên thể" được thay thế bằng các lực.

Từ lý thuyết đầy trực giác của Copernic, từ lượng dữ liệu

khổng lồ do Tycho Brahe thu thập được và với niềm say mê toán

học thần bí của mình, Kepler đã hình thành ba định luật về

chuyển động của hành tinh, nhờ đó ông đã trở thành nhà tiên

phong cho một ngành khoa học mở đường cho khoa vật lý hiện đại.

Daniel J. Boorstin 92

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 40

MỘT CÁI NHÌN GÂY BỐI RỐI VÀ NGẠC NHIÊN

Bước nhảy vọt từ quan sát bằng mắt thường tới quan sát nhờ

dụng cụ sẽ là một trong những bước tiến lớn trong lịch sử của

hành tinh. Nhưng không ai đã có chủ ý phát minh ra kính viễn

vọng. Một trong những thành kiến ăn rễ sâu và phổ biến nhất của

con người là niềm tin vào các giác quan tự nhiên của con người mà

không cần dùng đến dụng cụ.

Chúng ta không biết ai đã phát minh ra kính mắt, phát

minh thế nào và ở đâu. Chúng ta chỉ biết đại khái nó được phát

minh một cách tình cờ và bởi những người thường chứ không phải

những nhà nghiên cứu về quang học. Có lẽ một người thợ làm kính

đã lớn tuổi trong khi chế tạo những chiếc đĩa bằng kính để gắn cửa

sổ đã thử những chiếc đĩa đó và khi nhìn vào ông đã mừng rỡ nhận

ra mình có thể nhìn thấy rõ hơn. Chúng ta có thể tin rằng nhà

phát minh không phải thuộc giới trí thức, vì thời đó các giáo sư

thường khoe khoang về những phát minh của mình, thế mà trước

thế kỷ 13 chúng ta lại chưa từng thấy có tài liệu nào ghi nhận về

một nhà phát minh tự xưng đã làm ra kính viễn vọng. Từ những

tài liệu được ghi lại trước năm 1300 cho tới tiệc phát minh ra kính

viễn vọng gần ba trăm năm sau đó, các nhà học giả đều không biết

gì về thấu kính. Có rất nhiều lý do cắt nghĩa điều này. Người ta

biết rất ít về lý thuyết khúc xạ ánh sáng. Tiếc thay, một số ít ỏi các

nhà vật lý ham tìm tòi đã không nghiên cứu về khúc xạ bằng

những mặt thấu kính cong bình thường, nhưng lại bị mê hoặc bởi

các hình thù hoàn hảo là hình tròn và hình cầu. Họ bắt đầu

nghiên cứu khúc xạ trong một quả cầu hoàn hảo bằng kính, khiến

tạo ra những quang sai phức tạp nhất và thực tế đã không mang

lại cho họ kết quả nào.

Khi tìm hiểu những hiệu ứng của thấu kính, các nhà triết

học thiên nhiên bị cản trở vì những lý thuyết của họ về ánh sáng

và thị giác. Từ những thời xa xưa, suy tư của các nhà triết học tây

phương đã bị hướng về cách người ta thấy thế nào hơn là về chính

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 93

http://ebooks.vdcmedia.com

bản chất của ánh sáng như là một hiện tượng vật lý. Các triết gia

Hi Lạp cổ cho rằng thị giác là một quy trình hoạt động của con

mắt sống động của một người, chứ không phải sự ghi lại thụ động

những ấn tượng từ bên ngoài. Thuyết phối cảnh của Eculid lấy

mắt chứ không phải vật được nhìn làm điểm gốc của các đường

viễn cảnh. Plato và các triết gia trường phái Pythagoras mô tả việc

nhìn xem như là một qui trình phát tỏa từ con mắt một cách nào

đó bao trùm lấy vật thể được nhìn. Ptolêmê cũng chia sẻ quan

điểm này. Ngược lại, Democritus và các triết gia trường phái

nguyên tử cho rằng vật thể được nhìn phát tỏa ra các luồng

nguyên tử và sự phát tỏa này một cách nào đó đập vào mắt và tạo

ra ảnh. Nhưng nhà giải phẫu phương tây Galen nêu lên vấn nạn

của nhận thức thông thường rằng những hình ảnh lớn, ví dụ như

ảnh của một quả núi, không thể nào thu nhỏ được để đi vào đồng

từ nhỏ xíu của mắt. Hơn nữa, các triết gia nguyên tử cũng không

thể cắt nghĩa được làm sao một vật có thể tạo ra vô số phân tử để

có thể đi đến mắt của hàng trăm hàng ngàn người cùng thấy vật

đó đồng thời. Và Galen đã khai triển một lý thuyết dung hòa là

liên kết với chức năng sinh lý của mắt.

Ngoài ra, việc nghiên cứu quan học hay sử dụng dụng cụ để

trợ giúp mắt thường cũng còn gặp những trở ngại về tôn giáo.

Thần học chịu ảnh hưởng mạnh của nhận thức thông thường và

truyền thống dân gian. Con người có mắt để làm gì nếu chính mắt

không biết được hình thù, kích thước và màu sắc thực sự của ngoại

vật? Hơn nữa, chẳng phải những dụng cụ như gương, lăng kính và

thấu kính thường làm sai lạc thị giác đó sao? Và những dụng cụ

nhân tạo để làm ra nhiều, phản chiếu, khuyếch đại hay thu nhỏ và

nhân đôi hay đảo ngược các hình ảnh thị giác đã được sử dụng để

làm méo mó sự thật hay sao? Các tín hữu sùng đạo và các triết gia

không đời nào chịu đụng chạm tới những dụng cụ lừa đảo đó.

Thế nhưng một số người thực tiễn vẫn tiếp tục tiến tới. Họ

thích đeo cặp kính trên sống mũi, đơn giản vì nó giúp họ thấy rõ

hơn. Công dụng đầu tiên của kính mắt có lẽ là để chữa tật viễn thị,

khuyết tật của thị giác ở tuổi già do việc thủy tinh thể bị chai cứng

làm cho mắt không thể tập trung sắc nét vào những vật ở gần. Hồi

đầu thế kỷ 14, trong danh mục bất động sản của một vị giám mục

ở Florence có liệt kê "một cặp kính mắt có gọng mạ bạc". Ở Venice

vài khoảng 1300, nghề làm kính mắt đã khá phổ biến khiến cho đã

có một luật chống lại những thợ kính đánh lừa khách hàng bằng

Daniel J. Boorstin 94

http://ebooks.vdcmedia.com

cách tuyên bố họ bán cho khách hàng kính bằng pha lê thật, đang

khi thực sự chỉ là kính thủy tinh. Petrarch (1304-1374) trong tác

phẩm tự thuật Thơ gởi cho Hậu thế, đã than phiền rằng "khi tôi

quá 60 tuổi... tôi phải đeo kính mới thấy rõ được". Bản thân Kepler

cũng đeo kính. Vào giữa thế kỷ 14, các nhân vật châu Âu nổi tiếng

đều cho vẽ chân dung mình với cặp kính. Khó mà biết hết được

ngọn nguồn của việc chế tạo kính mắt, vì những thợ kính khám

phá ra kỹ thuật làm kính đều có những lý do thương mại chính

đáng để giữ bí mật nhà nghề.

Galileo đã viết: "Chúng ta biết chắc chắn nhà phát minh

kính viễn vọng đầu tiên là một người thợ kính bình thường, do

tình cờ thử những dạng kính khác nhau và cũng tình cờ nhìn vào

hai trong số các dạng kính đó, một kính lồi và một kính lõm, để ở

những khoảng cách khác nhau đối với mắt, đã thấy và phát hiện

những kết quả bất ngờ và thế là ông đã khám phá ra dụng cụ

này". Có thể sự phối hợp may mắn các loại kính khác nhau này đã

xảy ra đồng thời cho những hiệu kính mắt khác nhau. Câu chuyện

có phần chắc chắn nhiều hơn cả là sự kiện có tính quyết định xảy

ra tại một hiệu kính của một thợ làm kính bình thường người Hà

Lan tên là Hans Lippershey, ở Middelburg khoảng năm 1600.

Người ta kể rằng có hai đứa trẻ tình cờ vào tiệm của Lippershey và

cầm những mắt kính lên chơi. Chúng áp hai mắt kính sát nhau và

khi chúng nhìn qua cả hai mắt kính để nhìn tới một chiếc chong

chóng gió trên tháp một nhà thờ, chúng thấy chiếc chong chóng

được khuyếch đại một cách tuyệt vời. Chính Lippershey cũng nhìn

thử và thế là ông bắt đầu chế tạo các kính viễn vọng.

Không may cho Lippershey là vào cùng thời đó tại Hà Lan

cũng có những thợ kính khác tuyên bố mình là tác giả phát minh

ra kính viễn vọng và đòi hỏi được thừa nhận quyền sáng chế và lợi

lộc từ sáng chế này. Một trong những người này là James Metius ở

Alkmaar, tuyên bố ông đã chế tạo được một kính viễn vọng cũng

tốt như của Lippershey, ông biết những bí quyết làm thủy tinh và

nếu nhà nước tài trợ, ông có thể chế tạo một kính viễn vọng tốt

hơn. Khi chính quyền không chấp nhận đề nghị của ông, Metius

đã từ chối không cho ai xem kính viễn vọng của mình và khi chết

ông đã phá hủy các dụng cụ của mình để không cho ai giành được

quyền sáng chế của ông

Trong tình trạng quyền sáng chế chưa rõ ràng, nhà nước Hà

Lan đã từ chối đề nghị chế tạo kính viễn vọng của Lippershey,

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 95

http://ebooks.vdcmedia.com

không công nhận quyền sáng chế của ông, cũng không tài trợ cho

dụng cụ mới này. Đồng thời, kính viễn vọng ngày càng được người

ta biết đến nhiều hơn. Năm 1608 đại sứ Pháp ở The Hague đã mua

một chiếc kính viễn vọng cho vua Henry IV và ngay năm sau ở

Paris đã có bán kính viễn vọng. Năm 1609 kính viễn vọng đã được

triển lãm tại hội chợ Frankfurt. Nó cũng xuất hiện ở Milan, Venice

và Padua và trước cuối năm đó, người ta đã chế tạo nó ở Luân

Đôn.

Không dễ gì thuyết phục những "nhà triết học tự nhiên" học

cách nhìn qua kính viễn vọng của Galieo. Họ có quá nhiều lý do tri

thức để nghi ngờ những gì mà họ không trông thấy bằng mắt

thường.

Nhưng những con người thận trọng vẫn còn e dè chưa muốn

tin tưởng ở dụng cụ mới mẻ còn đầy nghi ngờ này. Không dễ gì

thuyết phục những "nhà triết học tự nhiên" học cách nhìn qua

kính viễn vọng của Galieo. Họ có quá nhiều lý do tri thức để nghi

ngờ những gì mà họ không trông thấy bằng mắt thường. Triết gia

nổi tiếng Cesare Cremonini thuộc trường phái Aritote cho rằng chỉ

phí thời giờ khi nhìn vào dụng cụ lừa bịp của Galieo chỉ để thấy cái

mà "không một ai ngoại trừ Galieo nhìn thấy... và đàng khác, nhìn

những ống kính này làm tôi nhức đầu". Một đồng nghiệp thù

nghịch khác của Galieo đã báo cao: "Galieo Galilei, nhà toán học

thành phố Padua, đã đến Bologna với chúng tôi, mang theo ống

kính viễn vọng mà ông có thể nhìn thấy bốn hành tinh bịa đặt.

Các ngày 24 hay 25 tháng 4, tôi không bao giờ ngủ ban ngày cũng

như ban đêm, chỉ để thử dụng cụ của Galieo bằng hàng ngàn cách

khác nhau, để nhìn những vật ở dưới đất cũng như trên trời. Nhìn

các vật dưới đất, kính cho kết quả tuyệt vời, nhưng nhìn các vật

trên trời, nó đánh lừa người ta, vì một định tinh sẽ hóa thành hai.

Có nhiều nhân vật có thế giá khác làm chứng cho tôi... và mọi

người đều nhìn nhận là dụng cụ này đánh lừa người ta. Galieo đã

phải câm miệng và vào ngày 26 ông đã buồn sầu bỏ đi".

Bản thân Galieo thường nhìn qua kính viễn vọng của mình

để xem một vật, rồi đi thẳng tới vật đó để kiểm chứng chắc chắn

mình không bị đánh lừa. Đến ngày 24 tháng 5, 1610, ông tuyên bố

mình đã thử nghiệm kính viễn vọng của mình "một trăm ngàn lần

đối với một trăm ngàn ngôi sao và những vật khác". Năm sau, ông

vẫn còn tiếp tục thử nghiệm. "Đã hai năm nay, tôi đã thử dụng cụ

của mình (đúng hơn là hàng chục dụng cụ của mình) bằng hàng

Daniel J. Boorstin 96

http://ebooks.vdcmedia.com

trăm ngàn cuộc thử nghiệm với hàng ngàn hàng ngàn đồ vật, xa

và gần, to và nhỏ, sáng và tối; vì vậy tôi không hiểu nổi tại sao

người ta lại cho tôi là ngây thơ bị đánh lừa bởi chính những quan

sát của mình".

Những gì Galieo thấy khi quay kính viễn vọng của mình lên

trời đã làm ông say mê đến nỗi đã vội vàng xuất bản một cuốn

sách mô tả những gì ông đã trông thấy. Tháng 3 năm 1610 ông ra

một tập sách nhỏ dày 24 trang mang tựa đề Sidereus Nuncius (Sứ

Giả của các Vì sao) và tập sách đã mau chóng gây sửng sốt và bối

rối cho giới trí thức. Trong tập sách này, Galieo say mê tường

thuật về "những cảnh vật tuyệt đẹp và làm ngây ngất tâm hồn...

những vấn đề đáng quan tâm nhất cho mọi nhà quan sát về các

hiện tượng thiên nhiên... thứ nhất, là vì bản chất tuyệt vời của

chúng; thứ hai, vì sự mới mẻ hoàn toàn của chúng; và cuối cùng,

cũng là vì nhờ dụng cụ này trợ giúp mà tôi thấy được chúng với

đầy niềm kinh ngạc". Cho tới bấy giờ, con số những ngôi sao có thể

thấy được bằng mắt thường thì có thể đếm được. Nhưng nay kính

viễn vọng đã "cho thấy rõ trước mắt hàng hà sa số những ngôi sao

khác chưa từng thấy trước kia và con số này vượt xa gấp mười lần

con số những ngôi sao đã được biết đến trước đây". Bây giờ đường

kính của mặt trăng xem ra "lớn hơn khoảng 30 lần, diện tích của

nó lớn hơn khoảng 900 lần và khối lượng của nó gần 27 ngàn lần

lớn hơn khi xem bằng mắt thường..."

Kế đến, kính viễn vọng đã giải quyết những tranh luận về

Dải Ngân Hà: "Mọi tranh luận vốn từng giày vò những triết gia từ

bao thế kỷ nay được giải quyết... và chúng ta được giải phóng khỏi

những cuộc tranh luận dài dòng về vấn đề này, vì Dải Ngân Hà chỉ

là một khối vô số các ngôi sao đứng thành chùm với nhau. Bất

luận bạn quay ống kính viễn vọng thẳng về phía nào, bạn cũng

thấy được một đám rất đông các ngôi sao rõ ràng trước mắt..."

"Nhưng điều kích thích niềm say mê nhất của tôi và thúc

đẩy tôi kêu gọi sự chú ý của các nhà triết học và thiên văn, là tôi

đã khám phá ra 4 hành tinh chưa từng được biết đến trước đây,

chúng quay trên một quĩ đạo chung quanh một ngôi sao sáng nào

đó". Thực tế đây là bốn vệ tinh của sao Mộc.

Mỗi một quan sát đơn sơ của Galieo đều đã làm lay chuyển

một lý thuyết trụ cột khác của vũ trụ quan Aristote - Ptolêmê. Giờ

đây, bằng chính mắt của mình, Galieo đã trông thấy những ngôi

sao với số lượng không thể nào đếm được (vũ trụ có vô hạn

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 97

http://ebooks.vdcmedia.com

không?). Ông đã thấy mặt trăng cũng như trái đất đều không có

hình thù hoàn hảo (Bản chất của các thiên thể và bản chất của

trái đất có lẽ không khác gì nhau). Dải Ngân Hà được chứng minh

chỉ là một khối vô số các ngôi sao (Phải chăng lý thuyết của

Aristote về các vầng khí thiên giới thực ra chẳng là gì cả? Phải

chăng các quá trình của các thiên thể không có gì khác biệt cơ bản

với trái đất?). Trong khi những nhận xét vắn tắt và ngẫu nhiên

này đã bắt đầu gỡ bỏ được những trở ngại giáo điều của truyền

thống, nhưng không điều nào đã thực sự xác nhận cho lý thuyết

của Copernic.

Thế nhưng với Galieo, những gì ông xem thấy đã thuyết

phục ông. Trong tập sách nhỏ này, ông đã dám thông báo mối

thiện cảm ông dành cho hệ thống Copernic. Tuy chính Kepler đã

không thuyết phục được ông, nhưng giờ đây ông đã bị thuyết phục

bởi kính viễn vọng. Theo ông, việc khám phá ra 4 vệ tinh mới quay

quanh sao Mộc xem ra là những khám phá quan trọng nhất của

ông, vì chúng là những bằng chứng hiển nhiên nhất cho thấy trái

đất không phải là độc nhất trong vũ trụ. Còn có bao nhiêu hành

tinh khác có các vệ tinh riêng? Và điều đó chứng tỏ rằng một vật

thể như trái đất với một vật thể khác xoay quanh nó có thể bản

thân nó lại xoay quanh một vật thể khác nữa. Vì thế Galieo kết

luận:

... chúng ta có một lập luận vững chắc tuyệt vời để gỡ bỏ mọi

bối rối cho những ai có thể chấp nhận sự kiện các hành tinh xoay

quanh Mặt Trời trong hệ thống Copernic, nhưng về chuyển động

của Mặt Trăng quanh Trái Đất, đồng thời cả hai hành tinh này

đều quay đủ một quĩ đạo trong một năm quanh Mặt Trời, học còn

quá bối rối nghĩ rằng lý thuyết này không thể chấp nhận được: bởi

vì bây giờ chúng ta không chỉ có một hành tinh xoay quanh một

hành tinh khác, trong khi cả hai cùng chuyển động trên một quỹ

đạo lớn quanh Mặt Trời, mà thị giác của chúng ta còn cho chúng ta

thấy 4 vệ tinh xoay quanh sao Mộc, giống như Mặt Trăng xoay

quanh Trái Đất, trong khi toàn thể hệ thống cùng chuyển động

quanh một quĩ đạo to lớn quanh mặt trời trong một chu kỳ 12

năm.

Những khám phá kỳ diệu này đã đưa Galileo tiến nhanh

trong sự nghiệp của ông. Nhưng những mối ghen tị ở Padua và

Venice hình như đã gây ra một số tác dụng, vì Thượng Viện Venice

đã không giữ lời hứa hào phóng trước kia của họ. Galileo đã đi tìm

Daniel J. Boorstin 98

http://ebooks.vdcmedia.com

những sự tài trợ ở nơi khác để theo đuổi công việc nghiên cứu

thiên văn của mình. Để đạt mục tiêu, ông đã đặt tên cho bốn vệ

tinh của sao Thổ mà ông mới khám phá là "những hành tin

Medici" theo tên của dòng họ lớn của công tước Cosimo II của

Medici ở Florence. Và ông đã gởi tặng vị đại công tước này một

kính viễn vọng "tinh xảo".

Những lời khen ngợi này đã nhanh chóng tạo được kết quả

mong muốn. Vị đại công tước gởi tặng ông một chuỗi dây chuyền

vàng và một huy chương vàng và tháng 6 năm 1610 ông viết một

lá thư bổ nhiệm Galileo làm "Trưởng Khoa Toán học của đại học

Pisa và Triết gia của Đại Công Tước", mà không cần giảng dạy hay

ở trong Đại học tại thành phố Pisa, với một khoản tiền lương hàng

năm là một ngàn đồng vàng Florentin. Florence đã trở thành cơ sở

nghiên cứu của ông cho tới hết đời.

Kepler rất vui mừng vì cuối cùng Galileo đã xua tan mối

nghi ngờ của ông và viết hai cuốn sách để ủng hộ Galileo. Đồng

thời Galileo tiếp tục những quan sát qua kính viễn vọng của mình,

tạo được thêm nhiều chứng có hơn nữa cho hệ thống Copernic. Ông

phát hiện ra sao Thổ có hình bầu dục. Và các chu kỳ chuyển động

của sao Kim mà trước đây không thể nhận ra bằng mắt thường,

thì nay đã cho thấy dấu hiệu nó xoay quanh Mặt Trời. Những

quan sát này bắt đầu cung cấp những chứng cớ cho hệ nhật tâm.

Galileo được mời tới Roma, ở đó ông được tiếp đón trọng thể

một cách bất ngờ. Đến nơi ngày 1 tháng 4, 1611, ông đã được Giáo

Hoàng Paul V tiếp kiến ngay và vị giáo hoàng này đã dành cho

ông một sự ưu đãi đặc biệt là không phải quỳ gối khi tiếp kiến giáo

hoàng. Các cha Dòng Tên đã triệu tập một hội nghị đặc biệt ở Đại

học, tại đây ông được ca tụng là "Vị Sứ Giả Các Vì Sao của Đại học

Rôma". Galileo đã thuyết phục được các giới chức của Giáo Hội

nhìn qua ống kính viễn vọng của ông. Họ rất vui sướng về những

gì họ nhìn thấy, nhưng vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận những giải

thích của Galileo.

Tối ngày 14 tháng 4, 1611, Hiệp hội khoa học tiên phong là

Viện Accademia dei Lincei đã tổ chức một bữa tiệc khoản đãi

Galileo trên một sườn đồi bên ngoài cổng thành Rôma. Khách mời

gồm nhiều nhà thần học, triết học, toán học và những nhà chuyên

môn khác. Sau khi Galileo cho họ xem các vệ tinh của sao Mộc,

cùng với một số những điều kỳ diệu khác trong bầu trời, ông cho

họ nhìn qua kính viễn vọng của ông để xem viện bảo tàng thánh

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 99

http://ebooks.vdcmedia.com

Gioan Latran và họ đã thấy được cả những hàng chữ tên của giáo

hoàng Sixtus V rất rõ ràng... mà viện bảo tàng này ở cách đó đến 3

dặm.

Dịp này, dụng cụ của Galileo đã được đặt tên. Người công bố

tên của nó là vị chủ tiệc, Federico Cesi, một nhà quí tộc, nhưng

thực tế cái tên "kính viễn vọng" (telescope) đã được tạo bởi một

nhà thần học kiêm thi sĩ người Hi Lạp có mặt trong bữa tiệc và từ

đó người ta có thói quen dùng các từ Hi Lạp để đặt tên cho các

dụng cụ khoa học mới.

Daniel J. Boorstin 100

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 41

VỤ GALILEO

Khi trở về Florence, bản thân Galileo đã truy tìm những lý

luận để minh chứng sự hòa hợp giữa chân lý của Kinh Thánh với

thuyết Copernic. Ông lo lắng duy trì tư tưởng chính thống của

mình và đã nghĩ ra một lối giải thích khéo léo cho vẻ bề ngoài trái

ngược giữa các lời Kinh Thánh và những sự kiện của Thiên Nhiên.

Ông nói, chân lý chỉ có một, nhưng nó được thông truyền theo hai

dạng - ngôn ngữ của Kinh Thánh và ngôn ngữ của Thiên Nhiên.

Cả hai đều là ngôn ngữ của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh,

Thiên Chúa khôn ngoan nói bằng ngôn ngữ bình dân, còn trong

Thiên Nhiên, Ngài sử dụng một ngôn ngữ bác học hơn.

Trong khi đó, các cha Dòng Tên ở Rôma không dễ hài lòng

với lập luận này của Galileo. Đứng đầu là Hồng y Robert

Bellarmine (1542-1621), một nhà thần học xuất sắc và là người

hăng say bênh vực giáo hoàng, họ cảm thấy lập luận của Galileo có

dấu vết lạc giáo. Hồng y Bellarmine là bậc thầy của khoa bút

chiến thần học và tư tưởng chính thống Aristote, đặt nền tảng tư

duy của mình trên nhận thức thông thường của giác quan. Ông

nhắc lại lập luận của Tháng Augustin là phải cắt nghĩa lời Kinh

Thánh theo nghĩa đen, trừ khi điều trái ngược có thể "chứng minh

chắc chắn". Vì kinh nghiệm hàng ngày "cho ta thấy rõ ràng trái

đất đứng yên", và, tự bản chất của vấn đề này, việc trái đất quay

và quay xung quanh mặt trời là điều không thể "chứng minh chắc

chắn", nên phải tin theo nghĩa đen của lời Kinh Thánh.

Galileo đã sai lầm khi đến Rôma để tự biện hộ cho mình.

Chuyến đi này không mang lợi ích gì cho ông, mà chỉ tạo đủ thứ đề

tài cho các sử gia của những thế kỷ sau này. Trong vụ xét xử nổi

tiếng của Tòa án Dị Giáo mười bảy năm sau, những lời buộc tội

ông đã dựa trên những gì đã hay không nói ra trong cuộc hội kiến

của ông với Hồng y Bellarmine và giáo hoàng Paul V vào năm

1616. Ông có bị buộc phải từ chối giảng dạy lý thuyết Copernic hay

không? Những gì đã thực sự được nói ra? Nếu ông đã không đến

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 101

http://ebooks.vdcmedia.com

Rôma, có lẽ Giáo hội đã phải dành cho ông một loại xét xử khác.

Trong chuyến viếng thăm này, Galileo đã không thành công trong

việc thuyết phục giáo quyền Rôme để họ nhìn nhận lý thuyết của

ông là trái đất quay. Quan niệm này đã bị kết án rõ ràng, nhưng

bản thân Galileo không bị kết án và sách của ông cũng không bị

cấm phổ biến.

Năm 1624 Galileo lại đến Rôma một lần nữa để chúc mừng

vị tân giáo hoàng Urban VIII vừa đăng quang. Ông xin phép giáo

hoàng cho ông xuất bản cuốn sách rất vô tư so sánh các lý thuyết

của Ptolêmê và Copernic nhưng không được giáo hoàng chuẩn y.

Khi trở về Florence, ông bỏ ra 6 năm tiếp theo đó để viết cuốn Đối

Thoại về Hai Hệ thống Chính về Vũ Trụ. Tuy không phải một loại

bút chiến để bênh vực hệ thống Copernic, nhưng đây là một tác

phẩm thực sự thuyết phục cho hệ thống vũ trụ mới. Theo truyền

thống Plato, Galileo trình bày cả những lập luận thuận và chống

đối với hệ thống của Copernic trong cuộc đối thoại giữa các người

bạn: một nhà quí tộc Florence tn tưởng hệ thống Copernic, một

nhà biện hộ tư tưởng Aristote bênh vực cho thuyết địa tâm và một

nhà quí tộc Venice có đầu óc vô tư để cân nhắc những giá trị các

lập luận.

Lý thuyết Copernic đã bị xếp xó suốt một nửa thế kỷ sau

Copernic. Nếu không có kính viễn vọng, lý thuyết hệ nhật tâm vẫn

hấp dẫn nhưng mãi mãi chỉ là một giả thuyết kém thuyết phục.

Bây giờ kính viễn vọng đã tạo hẳn sự khác biệt. Những gì Galileo

nhìn thấy đã thuyết phục ông về sự thật của những gì ông đã đọc.

Và không chỉ có một mình ông. Trước khi có kính viễn vọng, các

nhà bảo vệ giáo ký Kitô giáo không cảm thấy cần phải khử trừ các

tư tưởng của Copernic. Nhưng dụng cụ mới này có tiếng nói trực

tiếp với giác quan và thiên văn học đã biến đổi từ một kho lý

thuyết bí truyền của những nhà trí thức sang một kinh nghiệm

phổ thông của quần chúng.

Khi Galileo lần đầu tiên nhìn vào kính viễn vọng của mình

lúc ông 45 tuổi, ông đã chính thức thách đố các nhà tư tưởng

Aristote. Và ông đã thực hiện cuộc thí nghiệm nổi tiếng của mình

trên Tháp Pisa chính là để loại bỏ uy tín của họ. Thế nhưng giờ

đây ông đột nhiên bị ném vào một cơn bão tranh luận về vũ trụ

học. Ông không rút lui. Với cá tính kiên quyết, ông đón nhận cơ

hội miễn là ông vẫn còn giữ được giáo lý chính thống để thực hành

một Phúc âm mới. Với dụng cụ mới hấp dẫn này, ông đã thực hiện

Daniel J. Boorstin 102

http://ebooks.vdcmedia.com

một chiến dịch thuyết phục hai mặt: khêu gợi sự quan tâm của

dân thường có học để họ theo cách nhìn mới này về vũ trụ và

thuyết phục Giáo hội chấp nhận điều tất yếu.

Tác phẩm Đối thoại của Galileo xuất bản ở Florence ngày 21

tháng 2, 1632 được đón nhận nhiệt tình đã khích lệ ông tin rằng

chiến dịch quảng cáo nói trên của mình đang thành công. Ở châu

Âu vào thời đó phần lớn các tác phẩm khoa học đều in bằng tiếng

Latinh, nhưng để đến được với quần chúng, Galileo đã xuất bản

tác phẩm của mình bằng tiếng ý. Khoảng giữa hè năm ấy, thư từ

khen ngợi tới tấp được gởi tới Galileo. Một lá thư viết, "Có những

lý thuyết và nhận định mới mà ông đã diễn tả một cách hết sức

đơn sơ khiến cho tôi, dù không ở trong nghề, cũng có thể hiểu được

ít là một phần nào". Một lá thư khác viết, "Ông đã thành công với

công chúng hơn hẳn mọi người trước đây".

Có những lý do không liên quan gì đến thiên văn học nhưng

đã chen chân vào để làm mất niềm hi vọng thuyết phục Giáo hội

Rôma. Galileo bị rơi vào làn lửa giữa những người Công giáo và

những người Tin lành. Những sự tấn công ngày càng gia tăng của

phái Tin lành đã buộc giáo hoàng Urban VIII phản ứng bằng việc

tỏ rõ quyết tâm của Giáo hội Rôma duy trì sự tinh truyền của

những tín điều Kitô giáo truyền thống. Giáo hoàng không muốn để

cho phái Tin lành lợi dụng tình thế.

Vụ xét xử Galileo một cách tàn bạo bởi Tòa án Dị Giáo là

chuyện mọi người đều biết. Khi thư của Giáo hoàng gọi Galileo ra

tòa, ông đang bị đau nặng ở Florence. Các bác sĩ xác nhận ông có

thể có nguy cơ tử vong nếu bị đưa đến Rôma. Nhưng giáo hoàng

vẫn ép buộc ông phải trình diện. Và Galileo đã lên đường tới Rôma

trong tháng hai, 1633, giữa mùa đồng giá lạnh. Cuộc xét xử chỉ

tập trung vào các chi tiết kỹ thuật, về những gì Galileo đã hay

không được Hồng y Bellarmine thông báo hồi năm 1616, về việc

ông đã hiểu rõ thế nào việc giáo hoàng không nhìn nhận thuyết

Copernic. Để bắt buộc ông nói sự thật, ông còn bị đe dọa tra tấn,

tuy trong thực tế ông không bị tra tấn. Phán quyết của giáo hoàng

đã dành cho ông bản án nghiêm khắc và nhục nhã nhất. Lẽ ra giáo

hoàng chỉ cần đơn giản cấm lưu hành cuốn Đối thoại cho tới khi nó

được "sửa lại", hay là quản thúc ông tại gia để làm việc đền tội.

Nhưng không, cuốn Đối thoại bị cấm hoàn toàn, Galileo phải đọc

lời tuyên thệ công khai từ bỏ lý thuyết của mình và còn bị giam

cầm vô thời hạn.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 103

http://ebooks.vdcmedia.com

Bị biệt giam tại một căn nhà ở Arcetri ngoài thành phố

Florence, ông không phép có ai thăm viếng nếu không có phép của

vị đại diện của giáo hoàng. Không lâu sau khi ông trở về Florence,

cái chết của con gái, nguồn an ủi duy nhất của ông, đã đẩy ông vào

cảnh sầu não tột độ. Hầu như ông không còn thiết tha tới chuyện

gì nữa. Nhưng tính ham tìm tòi của ông vẫn không bị dập tắt. Sau

4 năm, ông đã viết xong một cuốn sách với tựa đề "Về hai khoa học

mới" - một liên quan tới cơ học và một liên quan tới sức mạnh của

chất thể. Cuốn sách này cũng viết bằng tiếng ý và được trình bày

dưới dạng một cuộc đối thoại giữa ba người bạn Salvati, Sagredo

và Simplicio. Vì Tòa án Dị Giáo đã cấm lưu hành các sách của ông,

nên cuốn sách này phải đưa lậu ra khỏi nước và được xuất bản bởi

Elzevirs ở Leyden. Đây là cuốn sách cuối cùng của Galileo, đặt ra

những nền tảng để từ đó Huygens và Newton có thể khai triển

khoa động lực học và sau cùng là một lý thuyết về sự vạn vật hấp

dẫn.

Daniel J. Boorstin 104

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 42

NHỮNG THẾ GIỚI MỚI BÊN TRONG

Kính hiển vi đã ra đời vào cùng thời với kính viễn vọng.

Nhưng trong khi Copernic và Galileo đã trở thành những người

hùng nổi tiếng, những vị tiên tri của thời đại mới, thì Hooke và

Leeuwenhoek, hai nhà phát minh trong lãnh vực kính hiển vi, lại

vẫn chỉ được biết đến trong những lãnh vực khoa học chuyên biệt

mà thôi. Copernic và Galileo đã đóng vai trò dẫn đường trong cuộc

đấu tranh được mọi người biết đến giữa "khoa học" và "tôn giáo",

còn Hooke và Leeuwenhoek thì không.

Chúng ta không biết ai đã phát minh ra kính hiển vi. Người

có khả năng nhất là Zacharias Jansen, một thợ mắt kính ít tên

tuổi ở Middelburg. Chúng ta biết rằng, giống như kính mắt và

kính viễn vọng, kính hiển vi đã được sử dụng từ lâu trước khi

người ta hiểu biết về những nguyên lý của quang học và có lẽ nó

cũng được phát minh một cách tình cờ như kính viễn vọng. Có lẽ

chẳng ai có ý định chế ra một thứ dụng cụ để đi vào thế giới vi vật.

Chẳng bao lâu sau khi những chiếc kính viễn vọng đầu tiên

được chế tạo, người ta chỉ đơn giản sử dụng chúng để phóng to

những vật ở gần. Bản thân Galileo cũng đã từng dùng kính viễn

vọng làm kính hiển vi. Ông đã kể cho một vị khách ở Florence hồi

tháng 11 năm 1614: "Với chiếc ống này, tôi đã trông thấy những

con ruồi lớn bằng những con cừu và biết được rằng mình chúng

phủ đầy lông và có những móng chân rất nhọn nhờ đó chúng có

thể đậu và đi trên mặt kính, mặc dù chúng đứng ngược chân lên

trên, nhờ cắm những móng chân của chúng vào các lỗ nhỏ li ti

trong kính". Ông thất vọng khám phá ra rằng trong khi một kính

viễn vọng để nhìn những ngôi sao chỉ cần một ống kính dài 60

centimét, muốn khuyếch đại những vật nhỏ li ti ở gần thì phải có

một ống kính dài gấp hai hay ba lần ống kính viễn vọng.

Ngay từ năm 1625, một hội viên Viện Hàn Lâm Lynxes, một

nhà vật lý kiêm thiên nhiên học tên là John Faber (1574-1629) đã

đặt tên cho loại dụng cụ mới này. "Ống kính quang học này... tôi

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 105

http://ebooks.vdcmedia.com

thích theo kiểu của kính viễn vọng (tele-scope) để gọi nó là kính

hiển vi (micro-scope), vì nó cho phép ta thấy những vật cực nhỏ".

Nếu những người chỉ trích Galileo đã không chịu nhìn vào

kính viễn vọng của ông thế nào, thì họ cũng đã nghi ngờ và

nguyền rủa kính hiển vi như thế. Rõ ràng kính viễn vọng rất có

ích trong chiến tranh, nhưng kính hiển vi thì lại chẳng có công

dụng gì trong chiến tranh cả. Vào thời chưa có quang học, người ta

đặc biệt cảnh giác trước các "ảo tưởng của thị giác". Thái độ nghi

ngờ mọi dụng cụ quang học của thời trung cổ này đã là cản trở lớn

cho khoa quang học. Như chúng ta đã thấy, người ta từng tin rằng

bất cứ dụng cụ nào đặt giữa giác quan và đối tượng cảm giác chỉ có

thể đánh lừa những khả năng thiên bẩm của con người. Và ở mức

độ nào đó, những chiếc kính hiển vi thô sơ thời đó đã củng cố

những mối nghi ngờ của họ. Những hiện tượng quang sai về màu

và mặt cầu vẫn còn tạo ra những hình ảnh mù mờ.

Năm 1665 Robert Hooke xuất bản cuốn Micrographia (Khảo

sát bằng kính hiển vi), một tập hợp diễn giải rất hấp dẫn lý thuyết

của ông về ánh sáng và màu sắc và những lý thuyết về sự đốt cháy

và hô hấp, cùng với những bài mô tả về kính hiển vi và công dụng

của nó. Nhưng những mối nghi ngờ đã phổ biến về những ảo tưởng

của thị giác đã làm người ta xa tránh tác phẩm của ông.

Như tác phẩm Sidereus Nuncius (Sứ Giả của Các Vì Sao) của

Galileo đã thực hiện cho kính viễn vọng và toàn cảnh của bầu trời

thế nào, thì tác phẩm Micrographia của Hooke nay cũng làm cho

kính hiển vi như thế. Galileo đã không phải là người sáng chế ra

kính viễn vọng, thì Hooke cũng không phải là người phát minh ra

kính hiển vi. Thế nhưng những gì ông mô tả khi nhìn trong kính

hiển vi của ông đã làm thức tỉnh giới trí thức châu Âu về cái thế

giới kỳ diệu bên trong. Năm mươi bảy tấm hình minh họa do chính

Hooke vẽ ra đã lần đầu tiên cho thấy mắt của một con ruồi, hình

thù của kim châm của một con ong, bộ xương một con bọ chét và

một con rận, cấu trúc của một cái lông chim và hình thù giống loài

thảo mộc của nấm mèo. Khi ông khám phá ra cấu trúc hình tổ ong

của gỗ bần, ông gọi nó là "tế bảo". Các minh họa của Hooke đã

được in đi in lại rất nhiều lần và được sử dụng trong các sách giáo

khoa mãi cho tới thế kỷ 19.

Như kính viễn vọng đã tập hợp trái đất và những thiên thể

xa xôi nhất vào trong một khung suy tư duy nhất thế nào, thì nay

những hình ảnh của kính hiển vi cũng cho thấy một thế giới vi mô

Daniel J. Boorstin 106

http://ebooks.vdcmedia.com

hết sức giống những gì được nhìn thấy ở bình diện vĩ mô mỗi ngày.

Trong cuốn Lịch sử Giải phẫu Tổng quát, Jan Swammerdam

(1637-1680) cho thấy ràng côn trùng, giống như các động vật "cao

cấp" khác, có một cấu trúc giải phẫu phức tạp và không sinh sản

bằng cách ngẫu sinh. Trong kính hiển vi của ông, ông thấy các côn

trùng cũng phát triển như con người, sinh sản bằng cách biểu sinh

(epigenesis), nghĩa là các cơ quan phát triển lần lượt từ một cơ

quan này tới một cơ quan khác. Thế nhưng người ta vẫn còn tin

vào các dạng ngẫu sinh khác. Như chúng ta sẽ thấy, chỉ tới khi

Louis Pasteur có những thí nghiệm nổi tiếng ở thế kỷ 19 về việc

lên men và ứng dụng thực tế các tư tưởng của ông vào việc bảo

quản sữa, thì cái giáo điều khoa học cũ kỹ kia mới biến mất.

Antoni van Leeuwenhoek (1632-1723) với kính hiển vi của

mình đã đi tiên phong trong khoa học mới này về việc thám hiểm

các thế giới mới. Tại Delft là nơi ông sinh trưởng, cha ông làm

những chiếc giỏi để đóng hàng những sản phẩm nổi tiếng của địa

phương gởi đi thị trường thế giới. Bản thân ông cũng buôn bán

phát đạt các mặt hàng vải bông, len, lụa, nút và dải băng, đồng

thời cũng có một khoản thu nhập lớn trong tư cách Chủ tịch Hội

đồng Thành phố, thanh tra chất lượng và đo lường và giám sát

viên Tòa án. Ông chưa một lần ngồi ở giảng đường đại học và

trong suốt 90 năm còn sống, ông chỉ ra khỏi Hà Lan hai lần, một

lần đi Antwerp và một lần đi Anh.

Leeuwenhoek không biết tiếng Latinh và chỉ có thể viết bằng

tiếng thổ ngữ Hà Lan của vùng Deft của ông. Nhưng kinh nghiệm

của giác quan nhờ sự trợ giúp của dụng cụ khoa học mới vượt qua

được biên giới ngôn ngữ. Người ta không còn cần biết tiếng Hi Lạp,

Híp ri, La tinh, hay ả rập để được gia nhập cộng đồng khoa học.

Những nhà buôn vải như Leeuwenhoek thích dùng một kính

khuyếch đại loại yếu để kiểm tra chất lượng của vải. Kính hiển vi

đầu tiên của ông là một thấu kính nhỏ, được mài bằng tay từ một

cục kính và được kẹp chặt giữa hai thanh kim loại có đục lỗ, qua lỗ

đó có thể nhìn thấy đồ vật. Một dụng cụ có thể điều chỉnh được gắn

vào đó để giữ các mẫu khảo sát. Tất cả công việc của ông có thể

làm với những kính hiển vi đơn sơ có một thấu kính như thế.

Leeuwenhoek đã mài khoảng 550 miếng thấu kính, trong số đó

thấu kính có độ khuyếch đại mạnh nhất là 500 độ và có khả năng

phân biệt rõ tới một phần triệu mét.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 107

http://ebooks.vdcmedia.com

Hội Khoa học Hoàng gia đã yêu cầu Leeuwenhoek báo cáo

các khám phá của ông trong một trăm chín mươi lá thư. Vì ông

không có một chương trình nghiên cứu hệ thống, nên lá thư là

dạng thích hợp nhất để ông báo cáo những khám phá bất ngờ của

mình về bất cứ điều gì. Một số những khám phá ngẫu nhiên của

ông lại là những khám phá kỳ diệu nhất của ông. Nếu Galileo đã

hết sức phấn khích khi phát hiện ra những ngôi sao trong Dải

Ngân Hà và bốn vệ tinh của sao Mộc, thì khám phá ra cả một vũ

trụ trong từng giọt nước còn tạo được sự phấn khích to lớn biết

chừng nào!

Sau khi đã có một chiếc kính hiển vi, Leeuwenhoek bắt đầu

tìm một vật để nghiên cứu. Tháng 9, 1674, do tò mò, ông đổ đầy

một ly thủy tinh bằng một chất nước có khí màu xanh nhợt, mà

dân gian gọi là "dịch ngọt" lấy từ một khu đầm lầy cách Delft hai

dặm và nhìn vào kính hiển vi, ông thấy "rất nhiều động vật nhỏ li

ti". Rồi ông lấy kính hiển vi nhìn một giọt nước hồ tiêu.

Giờ đây tôi thấy rất rõ đây là những con lươn hay những con

sâu cực nhỏ, nằm quấn chặt lấy nhau và trườn ngang dọc tứ phía;

cũng giống như bạn trông thấy bằng mắt thường một cái hồ nước

đầy những con lươn, con này quấn lấy con kia; và cả hồ nước xem

ra sinh động với những vi sinh vật đủ loại như thế. Theo tôi, đây là

hình ảnh kỳ diệu nhất mà tôi khám phá ra trong thiên nhiên; và

tôi phải nói, theo tôi, không có cảnh tượng nào thích thú hơn trước

mắt tôi cho bằng cảnh tượng của hàng ngàn sinh vật cùng sống

chen chúc trong một giọt nước, cùng cử động, mỗi con có cử động

riêng của mình...

Trong Lá thư số 18 nổi tiếng của ông gởi Hội Hoàng Gia (9

tháng 10, 1678), ông kết luận rằng "dưới con mắt tôi, những cong

vật nhỏ xíu này nhỏ gấp trên mười ngàn lần những con vật cực

nhỏ mà Swammerdam đã vẽ và gọi bằng cái tên là những con bọ

chét nước hay những con rận nước, mà quí vị có thể thấy chúng

sống động trong nước bằng mắt thường của quí vị".

Giống như Balboa tính toán về mức độ bao la của Nam Đại

Dương mà ông thám hiểm, hay Galileo khoái trá chiêm ngắm sự

vô hạn của các ngôi sao, thì Leeuwenhoek cũng cảm thấy say sưa

chiêm ngắm kích thước nhỏ bé của các sinh vật tí hon này và con

số nhiều vô tận của chúng. Ông đổ vào một cái ống thủy tinh nhỏ

một lượng nước lớn bằng một hạt kê, ghi vạch ống thủy tinh thành

30 mức "và rồi tôi đem ống thủy tinh này vào kính hiển vi, gắn

Daniel J. Boorstin 108

http://ebooks.vdcmedia.com

chặt bằng hai lò xo bằng bạc hay đồng để có thể nâng lên hay hạ

thấp xuống". Khách tới thăm cửa hàng của ông đã phải kinh ngạc.

"Bây giờ, giả sử người khác này thực sự nhìn thấy 1000 sinh vật

nhỏ li ti trong một phân tử nước lớn bằng 1/30 độ lớn của một hạt

kê, thì sẽ có 30 ngàn sinh vật trong một lượng nước lớn bằng hạt

kê và 2,730,000 sinh vật trong một giọt nước". Thế nhưng,

Leeuwenhoek nói thêm, còn có nhiều sinh vật nhỏ hơn mà người

khách này không thể thấy, "nhưng tôi có thể thấy bằng những

kính khác và bằng phương pháp khác (mà tôi giữ riêng cho một

mình xem thôi)".

Không lạ gì những người đọc báo cáo này cảm thấy nghi ngờ.

Một số người tố cáo rằng "ông thấy bằng trí tưởng tượng hơn là

bằng kính khuyếch đại". Để thuyết phục Hội Hoàng Gia, ông đưa

ra chữ ký của những nhân chứng, không phải những nhà khoa học

đồng nghiệp, mà là những công dân đáng tin cậy, những công

chứng viên mà mục sư của thành phố Delft, cùng những người

khác nữa. Mỗi chứng nhân đều xác nhận đã thấy tận mắt những

sinh vật cực nhỏ đó.

Sau khi đã khám phá ra thế giới vi khuẩn, Leeuwenhoek

tiếp tục nghiên cứu cấu trúc của các vi khuẩn. Ngược với những

giáo điều Aristote về những "động vật hạ đẳng", Leeuwenhoek

tuyên bố rằng mỗi sinh vật nhỏ này đều có đầy đủ những cơ quan

cho sự sống của nó. Vì thế không có lý do gì để tin rằng những sinh

vật nhỏ này, côn trùng hay giun sán, lại sinh ra một cách ngẫu

nhiên từ rác rưởi, bụi đất, hay những vật liệu thối rữa. Đúng hơn,

như Kinh Thánh gợi ý, mỗi vật sinh sản theo giống của mình và

con vật sinh sau là con của con vật sinh trước thuộc cùng loài.

Khi Leeuwenhoek gởi báo cáo cho Hội Hoàng Gia về những

quan sát của mình về tinh trùng người, ông thận trọng cáo lỗi. "Và

nếu các Ngài cho rằng những quan sát này có thể làm những

người có học ghê tởm, tôi thành khẩn xin các Ngài coi đây là

chuyện tư riêng và các Ngài muốn công bố hay không tùy các ngài

xét là thích hợp". Ít năm trước, trong cuốn De Generatione (Về việc

sinh sản, 1651) của mình, William Harvey đã mô tả trứng như là

nguồn duy nhất phát sinh sự sống. Quan niệm phổ biến lúc bấy

giờ coi tinh dịch chỉ như là "những khí chất" giúp cho việc đậu

thai. Khi Leeuwenhoek coi sự di động đồng nghĩa với sự sống, ông

đã nhìn thấy những tinh trùng bơi lội và đã đi đến một kết luận ở

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 109

http://ebooks.vdcmedia.com

thái cực bên kia và cho rằng tinh trùng có vai trò chủ yếu trong

việc tạo ra sự sống.

Là một nhà khám phá không bao giờ chịu bỏ cuộc, ông cũng

đã vấp phải nhiều bế tắc - như khi muốn cắt nghĩa vị cay của hồ

tiêu bằng cấu trúc gai vi tế của nó và sự tăng trưởng của con người

bằng sự "tiền hình thành" những cơ quan trong tinh trùng. Nhưng

ông cũng đã mở ra nhiều viễn ảnh cho khoa vi trùng học, phôi thai

học, mô học, côn trùng học, thực vật học và tinh thể học. Việc ông

được nhận một cách xứng đáng làm Hội viên Hội Hoàng Gia Luân

Đôn (8 tháng 2, 1680) làm ông vô cùng sung sướng. Sự kiện này

mở ra một thế giới mới các nhà khoa học quốc tế và không có tính

hàn lâm, trong thế giới này trí thức được thăng tiến không chỉ nhờ

những con người nắm giữ tri thức truyền thống. Những người "thợ

máy" bình thường, những nhà nghiệp dư, cũng có chỗ đứng riêng

của họ.

Daniel J. Boorstin 110

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 43

MỘT GALILEO BÊN TRUNG QUỐC

Vào thời Trung cổ, những bước tiến lớn về lý thuyết quang

học và sự hiểu biết về con mắt đã xuất phát từ những nhà vật lý

và triết học tự nhiên Ả Rập. Al-kindi (813-873), đôi khi được gọi là

triết gia Ả rập đầu tiên, đã khai triển khái niệm về các tia sáng

thẳng đi tới con mắt từ một vật được chiếu sáng. Nhà thí nghiệm

tiên phong là Alhazen (Ibn al-Haytham; 965-1039), đã đẩy ý tưởng

trên đi xa hơn và cho rằng thị giác là sản phẩm của một tác nhân

ở bên ngoài con mắt nhìn và điều này chưa được các triết gia Kitô

giáo nhìn nhận. Ông còn đi xa hơn nữa để triển khai ý niệm rằng

những tia sáng thẳng phát ra từ mọi điểm trên một mặt phẳng

được chiếu sáng. Ông làm thí nghiệm với vấn đề lóa mắt, ghi nhận

sự duy trì hình ảnh trên võng mạc và bắt đầu coi mắt như là một

bộ phận của bộ máy quang học. Các nhà khoa học ả rập là những

người dẫn đường cho khoa quang học.

Trong lịch sử Trung Quốc, chúng ta không gặp thấy ở đâu

nhấn mạnh đến vai trò của kính viễn vọng hay kính hiển vi.

Nhưng người Trung Quốc đã thành thạo các kỹ thuật chế tạo kính

soi mặt ngay từ thế kỷ 7 trước C.N. Họ đã biết chế tạo kính hội tụ

và kính phân kỳ từ rất sớm và đã thành thạo kỹ thuật thủy tinh ít

là từ thế kỷ 5 trước C.N. và họ đã có kính đeo mắt từ thế kỷ 15.

Như chúng ta đã thấy, người Trung Quốc quan sát và ghi lại

các hiện tượng của các thiên thể một cách tỉ mỉ và chính xác.

Nhưng khi cha con Ricci đến Trung Quốc, ông nhận ra ngay rằng

họ có một khoa thiên văn lạc hậu. Ông nhận xét rằng họ đã tính

được 400 ngôi sao nhiều hơn số ngôi sao mà phương Tây đếm được,

nhưng chỉ vì họ kể cả những ngôi sao mờ nhạt. "Dù vậy, các nhà

thiên văn Trung Quốc không chịu khó nghiên cứu để đem những

hiện tượng của các thiên thể vào trong lãnh vực toán học... họ

dừng lại ở giai đoạn của khoa thiên văn mà các nhà khoa học gia

phương Tây gọi là khoa chiêm tinh, lý do có thể được cắt nghĩa là

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 111

http://ebooks.vdcmedia.com

vì họ tin mọi sự xảy ra trên trái đất này đều là do ảnh hưởng của

các ngôi sao...

Từ Bắc Kinh, ngày 12 tháng 5, 1605 cha Ricci viết thơ về

Rôma xin bề trên gởi đến cho ông một nhà thiên văn có tài để cộng

tác với ông ở Trung Quốc. "Những quả cầu, đồng hồ, khối cầu,

dụng cụ đo độ cao thiên thể và nhiều thứ khác nữa mà tôi đã chế

tạo và sử dụng để dạy học đã tạo cho tôi một uy tín lớn đến độ họ

coi tôi là nhà toán học vĩ đại nhất thế giới... nếu toán học mà tôi

nói đến có thể đến đây, chúng ta có thể sẵn sàng dịch những bảng

tính của chúng ta sang tiếng Trung Quốc và hiệu đính lại niên lịch

của họ. Điều này sẽ làm chúng ta nổi tiếng, sẽ mở rộng cửa vào

Trung Quốc và sẽ giúp chúng ta sống ở đây an toàn và tự do hơn".

Những lời này Ricci đã viết ngay cả trước khi Galileo thực hiện

những quan sát kỳ diệu của mình.

Khi rốt cuộc có tin ở phương Đông về việc Galileo được các

nhà trí thức Dòng Tên ở Rôma tiếp đón một cách trọng thể, sự

kiện này đã củng cố quyết tâm của các cha Dòng Tên ở Trung

Quốc là tạo ấn tượng về tài thiên văn của họ. Phải mất 5 năm,

nhưng vào thời đó không được coi là quá lâu, để tác phẩm Sứ giả

của các Vì Sao của Galileo có thể từ Rôma đến được Bắc Kinh.

Khi Galileo từ chối cung cấp cho các cha truyền giáo Dòng

Tên những số liệu thiên văn, họ quay sang nhờ Kepler và ông này

đã giúp đỡ họ. Tổng Quyền Dòng Tên đã cử một số nhà toán học

tài giỏi sang củng cố sứ mạng ở Bắc Kinh, Cha Schall, người từng

có mặt trong Hội nghị tôn vinh Galileo tại Đại học Rôma vào

tháng 5, 1611, vẫn còn nhớ những thông điệp của Galileo. Nay đến

ở Bắc Kinh, năm 1626 ông đã viết một cuốn sách minh họa với đầy

đủ chỉ dẫn về cách chế tạo một kính viễn vọng. Trong lời tựa của

sách, ông đề cao vai trò của con mắt, là dẫn đưa "từ cái xem thấy

tới các không xem thấy" và nhận được sức mạnh mới từ kính viễn

vọng. Năm 1634 một kính viễn vọng được chế tạo dưới sự hướng

dẫn của các cha Dòng Tên và được dâng lên Hoàng Đế trong một

nghi thức trọng thể.

Các cha Dòng Tên vẫn chưa biết gì về vụ xét xử và kết án

của Galileo năm 1633. Khi họ biết tin này, sự phấn khởi của họ đối

với kính viễn vọng vẫn không bị nao núng, nhưng họ đã thôi

không đề xướng lý thuyết của Copernic về một vũ trụ nhật tâm và

về một trái đất quay. Chúng ta cũng đã thấy chính Galileo đã phải

chiều theo phán quyết của giáo hoàng như thế nào. Khi Galileo

Daniel J. Boorstin 112

http://ebooks.vdcmedia.com

chết vào năm 1642, giới trí thức vẫn chưa ngả hẳn sang thuyết

Copernic.

Tình hình này đã khiến cho ống kính viễn vọng khi đến

Trung Quốc đã không trở thành một quảng cáo hiệu quả cho hệ

nhật tâm. Mới đây, các cha Dòng Tên đã cố gắng biện minh cho

việc các nhà truyền giáo của họ công khai rút lui khỏi lập trường

bênh vực lý thuyết nhật tâm. Họ nói rằng, vì khoa học truyền

thống Trung Quốc coi trái đất là trung tâm vũ trụ, vì thế nếu

nhấn mạnh vào hệ thống mặt trời là trung tâm sẽ tạo ra mối ác

cảm không cần thiết đối với các nhà truyền giáo và có thể làm cho

người Trung Quốc không tin vào Kitô giáo mà các cha Dòng Tên

đến để rao giảng. Giờ đây họ gợi ý là việc chuyển sang hệ thống vũ

trụ Copernic đòi có những điều kiện xã hội thích hợp mà hồi đó ở

Trung Quốc không có. Vào khoảng 1635, kính viễn vọng đã thực sự

được dùng để hướng dẫn pháo binh ngoài mặt trận. Theo nhà viết

sử Needham, một thập niên sau khi tác phẩm Sidereus Nuncius

xuất bản, các "nghệ nhân đồ kính" Trung Quốc đã chế tạo một bộ

máy quang học, gồm một tập hợp các kính hiển vi và những chiếc

đèn thần kỳ. Trước khi Galileo chết, một số học giả Trung Quốc đã

phiên âm tên của ông thành Kia-li-lê-lô và nghĩ ông là một nhà

thiên văn của dân man di.

Tại các nơi khác của châu Á, việc phổ biến kính viễn vọng chỉ

là qua những kênh giao thông chính thức. Một vị đại sứ Hàn Quốc

trên đường đến Bắc Kinh năm 1631 đã gặp một vị truyền giáo

Dòng Tên người Bồ Đào Nha, cha John Rodriguez, đang tị nạn ở

áo Môn. Khi vị đại sứ bày tỏ mối quan tâm về thiên văn học và

việc cải tiến niên lịch, cha Rodriguez cung cấp cho ông hai cuốn

sách về thiên văn, mô tả những khám phá của Galileo và tặng ông

một ống kính viễn vọng. Kính này được gọi là "gương vạn lý", vì

người ta cho rằng nó có thể nhìn xa ngàn dặm.

Kính viễn vọng đã đi thế nào từ Hàn Quốc ngang qua eo biển

để đến Nhật Bản, điều này chúng ta không biết. Nhưng chúng ta

biết rằng năm 1638, từ trước khi Galileo chết, đã có một kính viễn

vọng ở Nagasaki, là cảng duy nhất mà người nước ngoài có thể

xâm nhập, kính được đặt tại đây để giúp báo động cho quân Nhật

sự xâm nhập của những vị khách không mời. Sau một nửa thế kỷ,

dụng cụ này đã được sử dụng vào những mục đích khác. Một tiểu

thuyết bằng tranh của Ihara Saikaku, Người Đàn Ông Suốt Đời Si

Tình (1682), vẽ hình người hùng chín tuổi của câu truyện trèo lên

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 113

http://ebooks.vdcmedia.com

nóc nhà và dùng kính viễn vọng của mình để ngắm nhìn một cô

gái hầu đang tắm.

Cuối cùng những tư tưởng của Copernic và Galileo đã đến

Nhật Bản nhờ những sách được in bởi các cha Dòng Tên ở Bắc

Kinh. Trong số những nhà khoa học mà những sách này tạo được

ảnh hưởng, có thể kể đến "Newton người Nhật" là Seki Kowa

(1642-1708?), người đã phát minh ra bảng tính riêng. Nagasaki

tiếp tục là cửa ngỏ đón nhận những tư tưởng mới. Vào cuối thế kỷ

18, lý thuyết của Copernic đã được nhiều nhà thiên văn Nhật chấp

nhận và mặc dù đại đa số vẫn còn bán tín bán nghi, nhưng lý

thuyết này đã được phổ biến trong sách vở của những học giả nổi

tiếng. Tuy các tư tưởng Copernic đến Nhật Bản khá muộn màng,

nhưng khi đến, nó gặp ít sự chống đối hơn ở châu Âu, vì vào đầu

thế kỷ 19, uy tín của khoa học phương Tây đã tạo cho lý thuyết

này một sức hấp dẫn đặc biệt.

Daniel J. Boorstin 114

http://ebooks.vdcmedia.com

Phần X

Bên trong chúng ta

Kinh nghiệm không hề lầm lẫn,

chỉ có phán đoán của chúng ta sai lầm

khi tự hứa hẹn cho mình những kết

quả mà không phải do kinh nghiệm

tạo ra.

Leonardo da Vinci (1510).

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 115

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 44

MỘT NHÀ TIÊN TRI NGÔNG CUỒNG MỞ ĐƯỜNG

Tại châu Âu ở thế kỷ 16, nhận thức thông thường và sự hiểu

biết của dân gian, như đã che mắt con người trước các vì sao, thì

cũng đã che khuất cái nhìn của con người về chính mình và cản trở

công việc tìm hiểu cơ thể con người. Nhưng không giống với thiên

văn, giải phẫu con người là một môn mà không một ai có thể trốn

tránh một sự hiểu biết trực tiếp nào đó. Tại châu Âu, sự hiểu biết

về cơ thể con người đã được mã hóa và được dành riêng cho sự

trông coi của một giới độc quyền có thế lực và uy tín. Được cất giữ

bằng những ngôn ngữ bác học (Hi Lạp, La tinh, ả Rập và Híp-ri),

kiến thức trong lãnh vực này là sở hữu riêng của những người tự

xưng mình là những bác sĩ cơ thể học. Còn việc đụng chạm tới

thân thể để điều trị hay mổ xẻ thì là một lãnh vực thuộc một giới

khác gần giống như giới mổ súc vật và đôi khi gọi là những nhà

phẫu thuật thợ cạo.

Mãi đến khoảng năm 1300 cơ thể con người mới được mổ xẻ

để dạy và học giải phẫu học. Vào thời ấy, mổ xẻ tử thi là một công

việc đặc biệt ghê tởm. Vì không có hệ thống ướp lạnh, nên cần phải

mổ xẻ những bộ phận dễ hư trước - bắt đầu là ổ bụng rồi đến lồng

ngực và sau cùng là đầu và các chi. Một cuộc mổ xẻ thường phải

làm vội vàng và liên tục trong khoảng bốn ngày đêm và thường ở

ngoài trời.

Các bác sĩ cơ thể học giữ những bí mật của mình rất kỹ bằng

những ngôn ngữ mà bệnh nhân không thể đọc được. Không lạ gì

họ chiếm được một uy tín rất lớn về trí thức và sự nể sợ vì tính

cách huyền bí.

Hiển nhiên con đường dẫn tới y học hiện đại không thể được

mở ra bởi bất kỳ giáo sư lỗi lạc nào. Cần phải có một con người

khoáng đạt, giàu tưởng tượng, một con người táo bạo. Con người

này phải dùng ngôn ngữ địa phương và không chỉ nói mà phải la

to.

Daniel J. Boorstin 116

http://ebooks.vdcmedia.com

Paracelsus (1493-1541) là con người bị nghi ngờ ở thời mình

và không bao giờ mất tiếng xấu là một tay lang băm.

"Paracelsus" là biệt danh mà ông đã giữ lại trong lịch sử, tự

nó cũng là một điều bí nhiệm. Tên thật của ông là Theophrastus

Philippus Aureolus Bombastus von Hohenheim. Ông sinh ở miền

đông bộ Thụy Sĩ, cha ông là một thầy thuốc và mẹ ông là một

người giúp việc trong một nhà dòng Biển Đức ở Einsiedelm. Mẹ

ông qua đời năm ông chín tuổi và cha ông dời gia đình về một làng

hầm mỏ ở Carinthia nước Áo, là nơi ông lớn lên. Việc giáo dục của

ông không đều đặn và ông phải học theo kiểu được chăng hay chớ

và học lỏm nghề của cha mình hay của những giáo sĩ giỏi về thuốc.

Có lẽ ông không bao giờ đậu bằng tiến sĩ. Ông không hề định cư

tại một chỗ nào và trong khi đi lang thang nay đây mai đó, ông đã

làm việc tại vùng mỏ Fugger ở Tyrol và làm phẫu thuật viên cho

quân đội Venice ở Đan Mạch và Thuỵ Điển. Ông còn phiêu lưu đến

tận đảo Rhodes và xa hơn về phía đông.

Tuy sức khoẻ bị yếu kém vì nghèo khổ và tiếp xúc với bệnh

nhân, cũng như vì những thử thách của cuộc đời phiêu bạt, ông

vẫn cố gắng hành nghề y khoa. Ông kết hợp nơi mình niềm kiêu

hãnh của một con người tự lập và niềm xác tín rằng mình là phát

ngôn nhân của Thiên Chúa. Được sự tài trợ của những nhà nhân

bản hàng đầu, ông tranh thủ cơ may này ở Basil để làm nổ tung cơ

chế y học. Đồng thời ông quảng bá bản tuyên ngôn hung hăng của

mình để phục vụ nghệ thuật chữa trị mà ông hi vọng sẽ dùng để

thay thế lời thề Hippocrate.

Khái niệm độc đáo của Paracelsus về bệnh tật, tuy bắt nguồn

từ những ý tưởng bí nhiệm, nhưng sẽ là nguồn cung cấp những

định đề cho khoa y học thời mới. Quan niệm về bệnh tật phổ biến ở

châu Âu thời Trung cổ là di sản của những tác giả cổ điển, được

các bác sĩ cơ thể học khai triển và quảng bá. Họ cho rằng bệnh tật

là sự đảo lộn thế cân bằng của các "chất dịch" nơi cơ thể. Lý thuyết

y học chỉ là một bộ phận của lý thuyết tổng quát về bản tính con

người. Trong con người có bốn "chất dịch cơ bản" (máu, đờm, nước

mắt và mật). Sức khoẻ là kết quả của sự cân bằng bốn chất dịch

này trong cơ thể mỗi người. Kết quả là có bao nhiêu cá nhân thì có

bấy nhiêu loại bệnh tật. Thuyết các chất dịch vừa là một thuyết

sinh lý, bệnh lý và tâm lý.

Paracelsus đã đề xướng một lý thuyết khác hẳn, dựa trên

một khái niệm triệt để khác về bệnh tật, với những hệ quả rộng

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 117

http://ebooks.vdcmedia.com

lớn cho khoa y học. Paracelsus nhấn mạnh rằng nguyên nhân của

bệnh tật không phải là do sự kém điều chỉnh các chất dịch trong cơ

thể con người, mà do một nguyên nhân nào đó ở bên ngoài cơ thể.

Ông chế nhạo rằng những chất dịch chỉ là những chuyện thêu dệt

của những nhà trí thức. Nhưng ông cũng không chịu được một số

nhà giải phẫu tiên phong tìm cách đặt cho khoa y học một nền

móng thực tiễn và vững chắc hơn. Theo Paracelsus, khi Thiên

Chúa tạo dựng vũ trụ, Ngài đã cung cấp một phương thuốc cho

mọi thứ rối loạn. Các nguyên nhân của bệnh tật chủ yếu là những

chất khoáng và chất độc từ những ngôi sao thoát ra trong không

khí. Trực giác này của Paracelsus cho thấy ông chịu ảnh hưởng rất

nhiều của khoa chiêm tinh. Khi ông nói đến ngoài cơ thể, khi ông

nhấn mạnh tính thuần nhất của những nguyên nhân gây bệnh và

tính đặc trưng của mỗi bệnh, ông đang vạch đường cho khoa y học

thời đại mới. Tuy các lý luận của ông không đúng, nhưng những

trực giác của ông thì đúng.

Niềm tin của Paracelsus bảo ông rằng không có bệnh nào là

không thể chữa, chỉ có những thầy thuốc kẽm mà thôi. Các thầy

thuốc phải luôn nghiên cứu để tìm ra những phương trị liệu mới,

đừng bao giờ dừng lại ở những giáo điều của Galen.

Trong khi các "bác sĩ cơ thể học" chuyên chữa trị những sự

bất quân bình dịch chất của các bệnh nhân giàu có của mình, thì

Paracelsus đi tiên phong trong việc nghiên cứu các bệnh nghề

nghiệp. Ông hiểu biết đời sống của những thợ hầm mỏ, vì năm ông

chín tuổi, cha ông đã đưa ông đến sống ở làng mỏ Villach ở nam bộ

nước áo và khi là thanh niên, ông đã làm việc trong các nhà máy

kim loại ở Schwaz thuộc vùng Tyrol. Những chuyến phiêu lưu sau

này của ông tới Đan Mạch, Thuỵ Điển và Hungary và tới Inn

Valley đã dẫn ông tới những vùng hầm mỏ. Cuối cùng ông trở lại

Villach để điều khiển nhà máy luyện kim Fugger. Trong tất cả

những năm này, ông đã ghi nhận điều kiện làm việc của những

người thọ hầm mỏ và những người thợ luyện kim, ông quan sát các

bệnh tật của họ và ông nghiên cứu các phương thức điều trị. Tác

phẩm Về Căn bệnh của Thợ Mỏ và các Bệnh khác của Thợ Mỏ,

cũng như các sách khác của Paracelsus, đã không được xuất bản

lúc ông sinh thời. Nó được in năm 1567, một phần tư thế kỷ sau

khi ông mất và nó đã mang lại kết quả trong những thế kỷ tiếp

theo.

Daniel J. Boorstin 118

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 45

SỰ THỐNG TRỊ CỦA GALEN

Trong suốt mười lăm thế kỷ, nguồn hiểu biết chủ yếu của các

bác sĩ phương Tây về cơ thể người lại không phải là chính cơ thể

con người. Ngược lại, họ dựa vào những tác phẩm cổ điển của một

thầy thuốc Hy Lạp thời cổ đại. "Kiến thức" lại là rào cản tri thức.

Nguồn cổ điển lại trở thành một vật cản.

Trong tất cả các tác giả cổ đại ngoại trừ Aristote và Ptolêmê,

không ai ảnh hưởng lớn hơn Galen (130-200). Ông sinh tại

Peramum bên Tiểu Á và cha mẹ ông là người Hi Lạp. Ông bắt đầu

học ngành y khoa từ tuổi 15. Sau một thời gian làm việc dưới sự

hướng dẫn của các giáo sư y khoa ở Smyrna, Corinth và

Alexandria, năm 28 tuổi ông trở về quê Pergamum của ông để làm

bác sĩ cho các đấu sĩ. Ở thời đại mà việc giải phẫu tử thi là điều

cấm kỵ, ông đã lợi dụng các cơ hội để học từ những gì ông thấy nơi

vết thương của các tay đấu sĩ. Khi ông dời tới Rôma, ông chữa trị

cho một số bệnh nhân tên tuổi, giảng dạy y khoa và cuối cùng trở

thành bác sĩ cho hoàng đế triết gia Marcus Aurelius và hoàng tử

Commodus. Người ta nói Galen đã viết khoảng 500 khảo luận

bằng tiếng Hi Lạp về giải phẫu, sinh lý, tu từ, văn phạm, kịch

nghệ và triết học. Có lẽ ông là văn sĩ phong phú nhất thời cổ đại.

Hơn một trăm tác phẩm của ông hiện còn tồn tại, trong đó có một

khảo luận về thứ tự các tác phẩm ông viết và các tác phẩm của ông

còn đến ngày nay có thể chứa trong 20 cuốn sách dày.

Theo Galen, vì kiến thức là sự tích lũy, nên người thầy thuốc

tiến bộ phải học hỏi Hipppcrate và tất cả những thầy thuốc lớn

trước kia. Ông thúc đẩy các đồng nghiệp để đang khi họ học hỏi từ

kinh nghiệm, họ tập trung vào những kiến thức hữu ích để chữa

trị bệnh nhân. Ông đã nghiên cứu đặc biệt về mạch và chứng minh

rằng các động mạch không dẫn không khí như nhiều người khác

vẫn nghĩ, nhưng chúng dẫn máu. Người ra nói ông rất tài giỏi về

chẩn đoán và ông còn viết một khảo luận về bệnh giả vờ.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 119

http://ebooks.vdcmedia.com

Tác phẩm danh tiếng nhất của ông dày khoảng 700 trang

giấy in, là Về lợi ích của các Bộ Phận Cơ Thể. Trong tác phẩm này,

ông mô tả từng chi và cơ quan và cắt nghĩa chúng phục vụ các

chức năng với những mục đích riêng biệt như thế nào.

Cả khi ông dựa vào Aristote, ông vẫn nhắc nhở các độc giả

của ông phải cảnh giác đối với thứ y khoa mô phạm. "Nếu ai muốn

quan sát những kỳ công của Thiên nhiên, họ phải đặt sự tin tưởng

của mình không phải vào những sách nói về giải phẫu, mà chính

mắt của mình hoặc đến với tôi hay tham khảo các đồng sự của tôi,

hay tự mình chuyên chăm tập luyện mổ xẻ; nhưng nếu họ chỉ đọc

mà thôi, họ sẽ có khuynh hướng tin mọi điều các nhà giải phẫu

xưa kia đã nói, vì có nhiều nhà giải phẫu như thế". Galen cho thấy

ông là một bác sĩ thực nghiệm, liên tục nại đến kinh nghiệm.

Nhưng lịch sử luôn có những điều trớ trêu. Khi các sách của

Galen trở thành kinh điển thì tinh thần của ông lại bị lãng quên.

Trong nhiều thế kỷ, "học thuyết Galen" sẽ là giáo điều chủ yếu của

người thầy thuốc. Cũng như những tác phẩm của Aristote đã trở

thành nền tảng của triết học kinh viện, thì những tác phẩm của

Galen đã đặt nền cho khoa y học kinh viện. Vì ông viết bằng tiếng

Hi Lạp, ảnh hưởng đầu tiên của ông là tại Alexandria và

Constantinople, những phần còn lại phía đông Đế Quốc Rôma và ở

vùng Hồi giáo lân cận.

Ngay trong thời đại của Galen, một nhà quan sát sâu sắc và

quyết đoán như Leonardo da Vinci (1452-1519) có thể mô tả những

gì chính mắt mình trông thấy. Leonardo có ý định viết một khảo

luận về giải phẫu học, cùng với các khảo luận khác về hội họa,

kiến trúc và cơ học. Ông không bao giờ xuất bản những sách đó,

nhưng sau khi ông mất, đã có một tác phẩm viết về hội họa và một

tác phẩm khác về chuyển động và đo lường của nước đã được soạn

từ những bài ghi chép của ông. Giá mà ông đã hoàn tất tác phẩm

về giải phẫu học của ông và giá mà nó đã được xuất bản, hẳn là

khoa y học đã tiến bộ nhanh hơn nhiều. Nhưng Leonardo ít khi

làm xong cái gì. Một số phận trêu ngươi đã khiến ông bỏ dở hai

bức họa quan trọng nhất của ông, tượng đài Sforza và bức tính họa

Trận chiến Anghiari.

Sau khi ông chết, khoảng năm ngàn trang giấy bản thảo của

ông bị tản mác khắp nơi để trở thành những mục sưu tầm. Hầu

như trang nào cũng bộc lộ sự bao quát của lãnh vực của đầu óc ông

và trí tò mò không giới hạn của ông. Ví dụ, chỉ một trang diễn tả

Daniel J. Boorstin 120

http://ebooks.vdcmedia.com

sự quan tâm của ông về đường cong, ông đã vẽ những đường cong

hình học, một hình tóc quăn, những lá cỏ cong lượn quanh một cây

huệ, những nét vẽ về cây, những cụm mây cong tròn, những gợn

sóng nước và bản thiết kế con ốc của máy ép.

Nhưng Leonardo còn chứng tỏ là một nhà giải phẫu tiên

phong. Ông viết, "Con mắt là cửa sổ của linh hồn, là phương tiện

chính yếu nhờ đó trí khôn có thể thường thức đầy đủ và phong phú

những tác phẩm vô cùng của Thiên Nhiên; và tai đứng ở vị trí thứ

hai". Không lạ gì sự thính mắt thính mũi của Leonardo khiến ông

ghê sợ trước một xác chết. Thế nhưng đối với ông, mọi dấu vết và

mạch máu và nốt điểm của thế giới này đều là linh thánh. Phủ

nhận bất kỳ cái gì mình thấy thì là một trọng tội. "Kinh nghiệm

không hề lầm lần. Chỉ có phán đoán của ta sai lầm khi tự hứa hẹn

cho mình những kết quả mà không phải do kinh nghiệm của bạn

đem lại. Chính vì thế Leonardo rất ngần ngại đưa những sự kiện

mình quan sát trở thành những nguyên tắc "phổ quát", như trong

vấn đề tuần hoàn máu.

Kiến thức giải phẫu học mà chúng ta rút ra được từ hàng

ngàn tờ ghi chép của Leonardo chứng tỏ ông đã nhìn thấy và ghi

lại được những điều mà những người khác trước ông không thấy.

Giá mà ông đã tổng hợp được tất cả những quan sát của mình và

giá mà ông không bị chi phối bởi những quan tâm phổ quát hơn

của ông, hẳn ông đã trở thành người kế vị xứng đáng của Galen.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 121

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 46

TỪ ĐỘNG VẬT TỚI CON NGƯỜI

Andreas Vesalius (1514-1564) không phải một thiên tài phổ

quát, ông luôn luôn chỉ chú tâm vào đề tài chính của mình. Ông

sinh ra ngay bên trong tường thành phố Brussels, từ đó có thể

nhìn thấy quả đồi nơi các kẻ tử tù bị tra tấn và hành quyết. Hồi

còn bé, chắc hẳn ông từng nhìn thấy những thi thể bị bỏ lại trên

đồi cho diều hâu rỉa thịt. Cha của ông làm thái y cho vua Charles

V và gia đình ông nổi tiếng về nghề thuốc. Khác với Paracelsus,

Vesalius được học ở những trường y khoa danh tiếng nhất thời bấy

giờ. Ông đậu trung học ở Đại học Louvain năm 1530, rồi đi học ở

Đại học Paris, ở đây ông thụ giáo với giáo sư Sylvius, người theo

học thuyết của Galen. Khi chiến tranh giữa Pháp và Đế quốc

Rôma bùng nổ, Vesalius vì là dân của nước thù địch, nên bị trục

xuất khỏi Paris. Trở về Louvain, ông đậu bằng cử nhân y khoa

năm 1537, rồi đi đến Padua, là trường y khoa nổi tiếng nhất châu

Âu. Tại đây ông dự khóa thi hai ngày và đậu bằng tiến sĩ y khoa

hạng giỏi. Chắc hẳn ông rất thông thạo các môn học qui ước, bởi vì

ở tuổi 23, chỉ hai ngày sau khi đậu kỳ thi, ông đã được chọn giữ

chức khoa trưởng khoa giải phẫu học.

Khi Vesalius đảm nhận chức vụ giáo sư, ông đã đem đến cho

khoa giải phẫu một ý nghĩa mới. Vì ông không còn coi nhiệm vụ

chính của ông là giảng cách sách giáo khoa của Galen nữa. Khi

dạy môn giải phẫu, ông đã thay đổi phương pháp mà các giáo sư

khác vẫn dùng. Không giống các giáo sư trước ông, ông không

đứng cao trên bục giảng để chứng kiến một nhà phẫu thuật với

bàn tay vấy máu đang moi những bộ phận ra khỏi thi thể. Ngược

lại, chính Vesalius tự tay mô xẻ thi thể và lấy các cơ quan ra. Để

giúp các sinh viên, ông chuẩn bị một số trợ giúp giảng dạy gồm

bốn bức vẽ giải phẫu lớn, khá chi tiết để cho sinh viên thấy cấu

trúc của thân thể khi không có sẵn thi thể trước mắt. Mỗi bộ phận

được dán nhãn tên kỹ thuật riêng. Thêm vào đó là một bộ từ vựng

liệt kê tên của các bộ phận bằng tiếng Hi Lạp, La tinh, Ả Rập và

Híp Ri.

Daniel J. Boorstin 122

http://ebooks.vdcmedia.com

Chỉ nguyên việc sử dụng các họa đồ cũng đã là điều mới mẻ

vào thời ấy rồi. Vào thế kỷ 16, những sách giáo khoa của Galen

tuy đã được hiệu đính và biên tập kỹ lưỡng, nhưng vẫn không có

hình vẽ. Một số giáo sư giải phẫu hàng đầu thậm chí còn cấm sinh

viên sử dụng các hình vẽ, vì họ cho rằng đó không phải những tài

liệu chính truyền của Galen.

Sáu Bảng Giải Phẫu (Tabulae Anatomicae Sex, Venice,

1538) của Vesalius là cố gắng đầu tiên để tạo cho những bài giảng

của Galen một hình thức cụ thể đập vào mắt. Ngày nay chúng ta

thấy ngạc nhiên tại sao một kỹ thuật đơn sơ như thế mà phải phát

minh ra. Nhưng nghĩ kỹ chúng ta thấy không phải điều đáng ngạc

nhiên. Bởi vì trong nhiều thế kỷ, cả trong những trường y khoa

danh tiếng nhất châu Âu mà có môn giải phẫu, thì cơ hội được

nhìn thấy các cơ quan bên trong cơ thể con người vẫn rất hiếm hoi.

Sau Sáu Bảng Giải Phẫu, Vesalius vẫn còn cả một quãng

đường dài phải đi, bởi vì những bảng của ông đã âm thầm làm

bước nhảy vọt từ giải phẫu động vật sang giải phẫu người. Ví dụ,

những bảng giải phẫu này cho thấy một rete mirabilie, một "mạng

lưới kỳ diệu", ở hạ não của con người, là nơi mà theo Galen, "hồn

sống" của con người biến đổi thành "hồn động vật". Nhưng trong

khi mạng lưới này có trong các loài động bật có móng, thì lại không

thấy có trong con người. Những "mạch máu lớn" trong các bảng vẽ

của Vesalius thì cũng chỉ có trong các loài có móng. Bảng vẽ hình

thù quả tim, các nhánh động mạch, vị trí của thận và hình thù của

gan được vẽ bản văn giáo khoa của Galen là của một con vượn chứ

không phải con người.

Vesalius đã lợi dụng mọi cơ hội, hợp pháp cũng như bất hợp

pháp, để cơ thể thu thập những mẫu cơ thể người cho việc giải

phẫu của mình. Bằng nhiều cách, ông đã có được một bộ xương

người ở Louvain. Về sau, ông đã quen với một thẩm phán ở tòa đại

hình quan tâm tới công trình nghiên cứu của ông và vị thẩm phán

này đã chấp nhận cho ông xác của những tử tội bị hành quyết.

Không những thế, ông này còn có thể hoãn giờ hành quyết để

Vesalius có thể sẵn sàng khi hành quyết xong là có ngay xác để mổ

lúc còn tươi.

Trong khi giảng giải theo sách giáo khoa của Galen, Vesalius

đã nhận thấy quá nhiều chỗ Galen mô tả về cơ thể người nhưng

thực ra là cơ thể động vật. Ông dễ dàng đi đến kết luận là khoa

giải phẫu "người" của Galen thực ra chỉ là một tổng hợp các phát

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 123

http://ebooks.vdcmedia.com

biểu của Galen về động vật nói chung. Vesalius ghi nhận vào năm

1539 như một sự khám phá, "Tôi nghiêm túc suy nghĩ tới khả

năng việc phẫu thuật có thể được dùng để kiểm chứng lý thuyết".

Thế là ông quyết định soạn một bộ sách giải phẫu mới hoàn toàn

dựa trên những quan sát của ông về cơ thể người.

Những nghiên cứu giải phẫu học của ông đạt tới chóp đỉnh

trong cuốn sách đã mang lại danh tiếng cho ông trên khắp châu

Âu. Đó là cuốn Cấu Trúc Cơ Thể Người (De Humanis Corporis

Fabrica) thường được gọi tắt là Fabrica, một cuốn sách in khổ lớn

rất đẹp dày 663 trang, xuất bản tháng 8 năm 1543, cùng năm với

cuốn De Revolutionibus của Copernic. Tựa đề của Vesalius De

Humanis Corporis Fabrica cho thấy ông quan tâm cả về cấu trúc

lẫn chức năng.

Chỉ trong vòng một nửa thế kỷ, giải phẫu học của Vesalius

đã giữ ưu thế tại các trường y khoa ở châu Âu. Việc nghiên cứu

giải phẫu học ở phương Tây sẽ không bao giờ còn như cũ nữa.

Những gì ông nói về quả tim hay bộ não không quan trọng cho

bằng con đường mà ông đã mở ra cho các sinh viên tương lai để học

về mọi cơ quan của cơ thể con người. Phê bình Galen mà thôi

không đủ. Cần phải có sự say mê mới trong việc thực hành giải

phẫu so sánh thật nhiều. Không có cách nào khác để người thầy

thuốc có thể chắc chắn mình không mô tả những điều bất bình

thường.

Sau khi xuất bản Fabrica, Vesalius tuy còn trẻ nhưng đã đột

ngột rời bỏ công việc nghiên cứu giải phẫu để chuyển sang hành

nghề bác sĩ và được chọn làm bác sĩ cho triều đình vua Charles V.

Vì sự phóng túng và say sưa là những tật thường xuyên ở triều

đình, nên Vesalius trở nên quan tâm tới các bệnh về mật, các rối

loạn dạ dày tá tràng và các chứng bệnh mãn tính, là những chứng

phổ biến trong hoàng cung. Ông còn sống thêm 20 năm nữa,

nhưng ông đã hoàn thành công trình của mình trước đó rồi.

Daniel J. Boorstin 124

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 47

NHỮNG LUỒNG KHÍ BÊN TRONG CHÚNG TA.

Suốt 14 thế kỷ Galen đã thống trị khoa sinh lý cũng như giải

phẫu ở châu Âu. Giải thích đầy thuyết phục của ông về qui trình

sự sống bắt đầu bằng ba cái "hồn", hay "khí" (pneuma) mà Plato

cho là chỉ huy thân xác. Lý hồn trong não chỉ huy cảm giác và cử

động; nộ hồn trong tim kiểm soát các đam mê và dục hồn trong

gan tạo sự dinh dưỡng. Sau khi được hít vào, không khí được biến

đổi thành pneuma bởi phổi và qui trình sự sống biến đổi một loại

pneuma này sang một loại pneuma khác. Có thể gọi sinh lý học

Galen là một khoa khí học (pneuma-tology).

Ở tâm điểm hệ thống của Galen là một lý thuyết đặc biệt là

quả tim người. Vì theo Hippocrate và Aristote, nội nhiệt thấm

nhập toàn thân thể và phân biệt người sống với người chết, có

nguồn của nó là quả tim. Quả tim được khí nuôi dưỡng nên tất

nhiên tim là cơ quan nóng nhất, giống như một hỏa lò có thể bị tự

thiêu hủy nếu không có khí mát của phổi. Vì thế nhiệt đi với đời

sống là bẩm sinh là dấu ấn của hồn.

Vì tim rõ ràng là trung tâm khoa sinh lý học Galen, nên

trước khi các bác sĩ có thể loại bỏ các "hồn" và khí, thì phải có ai đó

cung cấp một lối cắt nghĩa khác thuyết phục hơn về hoạt động của

tim. Việc này sẽ được thực hiện bởi William Harvey (1578-1657).

Sinh ra tại Folkestone, nước Anh, trong một gia đình khá giả, ông

sẽ có đủ mọi thuận lợi để đạt được những gì mà một bác sĩ tương

lai mong ước. Sau khi học ở King School ở Canterbury, ông tiếp tục

đi học ở đại học Gonville và Caius ở Cambridge.

Đại học này đã trở thành một trung tâm đào tạo y khoa độc

đáo vì nó thành lập bởi John Caius (1510-1573), một con người

năng nổ đã từng đề xướng việc chuyên môn hóa y khoa trong thế

hệ trước. Khi Harvey lúc đó 15 tuổi đến trường Gonville và Caius

năm 1593, ông đã được một học bổng về y khoa trong sáu năm.

Đến năm 1599, ông đến Padua, tại đây ông được thầy yêu bạn quí

và trở thành đại diện của "Nước Anh" trong hội đồng nhà trường.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 125

http://ebooks.vdcmedia.com

Các bài giảng đều bằng tiếng La tinh, là ngôn ngữ Harvey có thể

đọc và viết. Đời sống sinh viên tại đất rất sôi động nhưng không

kích thích công việc tri thức. Harvey thường mang vũ khí bên

mình và sẵn sàng rút kiếm ra mỗi khi có cơ hội. Nhưng may mắn

cho ông, một giáo sư tinh tường đã vạch đường cho ông đi vào đời

sống y khoa.

Vị giáo sư nổi tiếng Fabricius ab Aquapendente (1533-1619),

người từng điều trị cho Galileo, là một nhà nghiên cứu say mê,

những vẫn còn là một đồ đệ của Galen. Giảng đường giải phẫu mà

Fabricius xây dựng năm 1595 đã tạo điều kiện cho việc giảng dạy

giải phẫu được thực hiện lần đầu tiên trong nhà. Năm cấp thang

bằng gỗ chạy vòng lên tới sáu hành lang bên trên một vòng hẹp.

Từ tất cả những hành lang này, các sinh viên có thể đứng tựa vào

những lan can để nhìn xuống một chiếc bàn để ở giữa trong bóng

tối, ở đó các sinh viên đốt những đèn chùm để chiếu sáng thi hài

khi được mổ. Giảng đường này cho phép ba trăm sinh viên có thể

theo dõi cuộc giải phẫu cùng một lúc và rất rõ. Tình trạng hiếm thi

hành và ít có các buổi giải phẫu đã khiến cho cách làm này trở

thành một bước tiến bộ có ý nghĩa trong việc đào tạo y khoa. Chính

tại đây Harvey được chứng kiến những cuộc giải phẫu ngoạn mục

của Fabricius.

Khoảng năm 1574, khá lâu trước khi Harvey đến Padua,

trong khi giải phẫu Fabricius đã nhận thấy rằng những tĩnh mạch

của các chi người chứa những van cực nhỏ cho phép máu chỉ lưu

thông một chiều. Ông nhận thấy những van đó không có trong

những tĩnh mạch lớn của thân là những tĩnh mạch đưa máu lên

thẳng tới các cơ quan sự sống. Fabricius đã thích nghi các sự kiện

mới này vào các lý thuyết cũ của Galen về chuyển động ly tâm của

máu ra ngoài để nuôi các cơ quan:

Lý thuyết của tôi là Thiên nhiên đã tạo ra chúng (các van) để

làm chậm phần nào lưu lượng của máu và để ngăn trở cả khối

lượng không tràn xuống chân, hay tay và các ngón tay và đọng lại

ở đó. Như thế tranh được hai điều xấu này là sự thiếu dinh dưỡng

ở các phần trên của các chi và sự sưng phù của bàn tay và bàn

chân. Vì thế, các van được tạo để bảo đảm có sự phân phối đồng

đều máu cho việc nuôi dưỡng các phần thân thể khác nhau.

Việc nhớ lại những van kỳ diệu này mà Fabricius đã giảng

cho Harvey tại Padua đã thực sự kích động tâm trí Harvey.

Daniel J. Boorstin 126

http://ebooks.vdcmedia.com

Galen đã cho rằng qui trình sự sống lan tỏa trong các cơ

quan khác nhau, mỗi cơ quan thỏa mãn một nhu cầu đặc biệt của

cơ thể. Trong hệ thống Galen, máu không có chức năng thống

nhất, vì chức năng này là ở sự hợp tác giữa các hồn hay khí khác

nhau. Máu được tạo ra trong gan chỉ là một đường dẫn đặc biệt để

chuyển chất dinh dưỡng tới các cơ quan nào đó. Harvey thì đi tìm

một hiện tượng thống nhất sự sống. Ông đã mô tả sự thành công

trong cuộc tìm kiếm này trong tác phẩm của ông nhan đề De Motu

Cordis et Sanguinis Animalibus (Về chuyển động của tim và máu

trong các động vật).

Khi đọc cuốn sách nhỏ này của Harvey hôm nay, chúng ta

vẫn còn bị ấn tượng bởi tính thống nhất chặt chẽ của nó. Từng

bước một ông dẫn chúng ta tới kết luận rằng tim đẩy máu đi, rằng

chuyển động của máu thì tuần hoàn khắp cơ thể. Trước hết ông

trình bày những sự kiện đã biết về các động mạch, tĩnh mạch và

tim, cấu trúc và hoạt động của chúng. Trong tất cả các bước trình

bày, các quan sát của ông đều "được đo lường bằng việc mổ xẻ các

động vật còn sống".

Những nghiên cứu của Harvey đã dẫn ông tới kết luận rằng

quả tim không phải một lò lửa mà là một cái máy bơm và máu

được lưu thông để đi nuôi các cơ quan. Nhưng ông vẫn còn cần

những sự kiện khác để chứng minh tính tuần hoàn của dòng máu.

Harvey phải bước một bước quan trọng từ sự kiện đơn giản là sự

lưu thông của máu để đi tới chỗ chứng minh tính tuần hoàn của sự

lưu thông này, là khái niệm nền tảng cho khoa sinh lý học hiện

đại. Lý luận làm cho bước này thành hiện thực có một tầm quan

trọng quyết định. Nó mở đường đi từ chất lượng sang số lượng - từ

thế giới cũ của các "dịch chất" và các hồn sống tới thế giới mới của

nhiệt kế và máy đo huyết áp, điện tâm đồ và những máy đo khác.

Harvey đã nêu lên một câu hỏi mới có tính định lượng "Có

bao nhiêu máu đi từ các tĩnh mạch sang các động mạch?" và ông

quyết định tìm cho câu hỏi này một câu trả lời định lượng. "Tôi

cũng suy đến sự đối xứng và kích thước của các tâm thất và của

những mạch máu đi vào và ra những tâm thất ấy (vì Thiên nhiên

không làm gì mà không có mục đích, nên không thể vô lý làm ra

những mạch máu có kích thước quá lớn như thế)". Nếu việc đổ đầy

các mạch máu liên tục được cung cấp chỉ do những chất dinh

dưỡng chúng ta hấp thu qua thức ăn, thì kết quả sẽ là các động

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 127

http://ebooks.vdcmedia.com

mạch rất mau bị trống rỗng và cũng bị nổ tung vì lượng máu quá

tải đổ vào đó.

Phải trả lời thế nào? Trong hệ thống cơ thể không có câu trả

lời, "trừ khi là máu một cách nào đó đổ trở lại từ các động mạch

vào trong tĩnh mạch và trở về lại tâm thất phải của tim. Hậu quả

là tôi bắt đầu tin chắc rằng, nếu nó có một chuyển động, thì

chuyển động ấy là tuần hoàn".

Harvey liên tục lặp đi lặp lại rằng những gì ông mô tả chỉ

thuần là sự kiện do ông quan sát được, chứ không phải là một sự

áp dụng hay thêu dệt của một triết lý. "Tôi không tuyên bố mình

học và dạy Giải phẫu học từ những định lý của các triết gia," ông

giải thích trong bài nhập đề của De Motu, "nhưng từ những cuộc

mổ xẻ và từ Cấu Trúc của Thiên Nhiên". Và vào cuối đời ông còn

nhắc lại, "Tôi muốn nói theo Fabricius, "Hãy để mọi suy luận nín

thinh khi kinh nghiệm đưa ra kết luận ngược lại".

Nhưng vẫn còn một lỗ hổng trong lý thuyết tuần hoàn mà

ông không thể lấp đầy. Lượng máu lớn luôn luôn được đẩy nhanh

từ tim vào động mạch, rồi tới tĩnh mạch và rồi trở về lại tim.

Nhưng toàn bộ hệ thống sẽ không hoạt động nếu máu không liên

tục được tải từ động mạch vào tĩnh mạch.

Cuối cùng thì Harvey cũng không có câu trả lời để cắt nghĩa

điều này xảy ra như thế nào. Nhưng niềm tin của ông vào tính

tuần hoàn của máu giúp ông chắc chắn rằng cái mắt xích quyết

định phải nằm ở đây. Ông không bao giờ tìm ra những đường nối

(các bác sĩ về sau sẽ gọi là các anastomose), nhưng ông diễn tả

niềm tin vững chắc của ông rằng sự nối kết thực sự được thực hiện

bởi một số những "thủ thuật kỳ diệu" nào đó chưa được khám phá

ra. Tuy Harvey thỉnh thoảng sử dụng một chiếc kính lúp, ông

không có kính hiển vi, là dụng cụ cần để khám phá ra những mao

mạch. Rốt cuộc, ông phải dựa lý thuyết của ông trên niềm tin rằng

Thiên nhiên không sai lầm trong việc thực hiện sự tuần hoàn.

Daniel J. Boorstin 128

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 48

TỪ PHẨM ĐẾN LƯỢNG

Các người theo trường phái Galen chính thống vẫn phê bình

tác phẩm của Harvey. Phê bình cổ điển là do một người đương thời

của ông, giáo sư Caspar Hofmann, một giáo sư y khoa lừng danh

của đại học Aldorf, gần Nuremberg. Đại diện cho các bác sĩ nổi

tiếng, Hofmann tố cáo Harvey là vô lương tâm trong nghề nghiệp

của mình khi "vứt bỏ tục lệ của nhà giải phẫu" để đột nhiên chơi

trò nhà toán học. Theo Hofmann, phương pháp đo lường vụn vặt

của Harvey đã làm trệch hướng toàn thể vấn đề tranh luận.

Hofmann đưa ra lập luận sau đây về cơ cấu có mục đích tổng thể

của Thiên Nhiên"

1. Ông (Harvey) có vẻ tố cáo Thiên Nhiên là ngốc nghếch khi

nó đi lạc, quá xa trong một hoạt động có tầm quan trọng cơ bản là

chế tạo và phân phối việc dinh dưỡng! Và khi đã nghĩ như vậy, sẽ

còn biết bao sự lẫn lộn khác trong tất cả những hoạt động khác có

liên quan đến máu!

2. Vì lý do đó, ông có vẻ kết án nguyên lý đã được chấp nhận

một cách phổ quát về Thiên Nhiên, mà chính ông ca ngợi bằng

nguyên văn lời ông rằng nó không hề khiếm khuyết trong những

gì là cần thiết, cũng không khiếm khuyết trong những gì là dưa

thừa v.v...

Tuy bị những chỉ trích gay gắt của những người theo trường

phái Galen, Harvey vẫn đã thu hút được sự chú ý của những người

thế giá trong việc đo lường "vụn vặt" những số lượng. Harvey đã

không cô độc. Những người trên khắp châu Âu đang bắt đầu nói

bằng ngôn ngữ của máy móc, bắt đầu phân tích kinh nghiệm bằng

những ngữ pháp mới về việc đo lường. Kinh nghiệm quen thuộc

nay được biến đổi. Không gì dễ nhận thấy hơn cách suy nghĩ mới

về sức nóng và lạnh. Nóng và lạnh, khô và ướt, là những sự phân

biệt dễ cảm thấy bằng xúc giác. Theo các triết gia cổ Hi Lạp,

những phẩm tính này kết hợp lại để làm thành đất, khí, lửa và

nước, từ đó tạo thành toàn thể thế giới. Cũng như ngày nay chúng

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 129

http://ebooks.vdcmedia.com

ta coi mùi hay vị là những loại khác nhau hơn là những lượng

khác nhau, thì thời đó người ta cũng coi nhiệt độ như vậy.

Khi y khoa còn bị thống trị bởi lý thuyết của Galen về các

"dịch thể", thì không có cách nào để đo lường tình trạng bên trong

cơ thể bằng các qui luật bên ngoài. Sự pha trộn đúng mức các dịch

thể ở một người tạo thành sức khoẻ, còn sự xáo trộn các dịch thể

tạo thành bệnh tật.

Sự phân biệt dễ thấy nhất về nóng và lạnh là ở trong khí hậu

và thời tiết. Khái niệm về một thang đo sức nóng có lẽ trước tiên

đã được ứng dụng vào thời tiết. Nó phù hợp với các vùng của hệ

thống Ptolêmê trên khắp trái đất. Khái niệm về thang đo nhiệt độ,

theo nghĩa mới, có lẽ đã xuất hiện cả trước khi có dụng cụ để đo

nhiệt độ. Chính Galen đã từng gợi ý có thể dùng bốn "độ nóng và

lạnh" để đo theo cả hai chiều từ một điểm trung lập được xác định

bằng việc pha trộn các lượng bằng nhau của nước đá và nước sôi.

Nhưng định nghĩa của ông vẫn còn mơ hồ và đương nhiên ông tin

rằng quả tim là cơ quan nóng nhất trong cơ thể.

Trước khi tìm ra cách để đo nhiệt độ cơ thể theo một thang

phổ quát, người ta thường tin rằng nhiệt độ cơ thể thay đổi theo

những vùng khác nhau trên trái đất. Những người sống ở vùng

nhiệt đới có thân nhiệt nóng hơn những người sống ở vùng khí hậu

lạnh. Cuốn sách đầu tiên ở châu Âu về y - toán học (De Logistica

Medica) của Johannis Hasler ở Berne, 1578) đặt vấn đề cơ bản của

nó: "Để tìm nhiệt độ tự nhiên của mỗi người, được xác định bởi tuổi

tác, thời kỳ trong năm, độ cao trên cực (nghĩa là vĩ độ) và các ảnh

hưởng khác". Tác giả cung cấp một biểu đồ để tính nhiệt độ tự

nhiên của một người sống ở một vĩ độ nào đó, nhờ đó thầy thuốc có

thể điều chỉnh "nhiệt độ" của thuốc cho thích hợp.

Trước kia đã có những "nhiệt biểu" (thermoscopes), là những

dụng cụ để chỉ sự thay đổi của nhiệt độ, từ rất lâu trước khi có

những "nhiệt kế" (thermometers), đo nhiệt độ theo một thang chia

độ. Tuy Galileo có lẽ không phải là người đầu tiên, nhưng chúng ta

biết chắc ông đã làm ra một dụng cụ để đo những thay đổi về nhiệt

độ trong không khí. Việc sử dụng lần đầu tiên tên gọi "nhiệt kế"

(thermometer) năm 1633 mô tả nó là "một dụng cụ để đo những độ

nóng và lạnh trong không khí".

Câu hỏi ai là người đầu tiên làm ra nhiệt kế vẫn còn là một

ẩn số. Một người bạn của Harvey, Bác sĩ Robert Fludd (1574-1637)

Daniel J. Boorstin 130

http://ebooks.vdcmedia.com

vào năm 1626 đã khiêm tốn tuyên bố mình không phải người sáng

chế ra nhiệt kế. Nhưng ông thừa nhận rằng ông đã tái khám phá

lý tưởng chế tạo nhiệt kế "trong một bản thảo đã có ít là năm trăm

năm xưa". Từ trước khi có một dụng cụ thực tiễn để đo nhiệt độ

thay đổi nhờ mức lên xuống của một chất lỏng trong một ống đóng

kín, các nhà triết học tự nhiên đã có ý tưởng về chuyển động dựa

theo nhiệt của chất lỏng cho những mục đích cao xa hơn. Salomon

de Caus, một kỹ sư và kiến trúc sư ở Heidelberg năm 1615 đã có

kế hoạch sử dụng hiện tượng này để chế tạo một động cơ vĩnh cửu.

Và cũng dựa trên ý tưởng này, một doanh nhân Hà Lan, Cornelis

Drebbel, năm 1598 đã sáng chế ra một "đồng hồ hay máy đo giờ, có

thể chạy suốt 50, 60, thậm chí 100 năm mà không phải lên dây cót

hay làm động tác nào khác, bao lâu các bánh xe và các phụ kiện

khác không bị mòn". Dần dần những thay đổi dụng cụ đo khí áp

đã được ứng dụng vào việc chế tạo những đồng hồ đo "khí áp" tinh

vi và chính xác hơn.

Nhưng chính những giáo điều của Galen đã khơi dậy được

một tinh thần sáng chế trong lãnh vực đo lưòng mới. Cũng như

Christopher Colombo đã đi theo hành trình do Ptolêmê vẽ ra, thì

Santorio Santorio cũng sẽ đi theo những lộ trình của Galen. Thực

vậy, Santorio tin rằng mình đã khám phá ra những kỹ thuật đo

lường có thể chứng minh lý thuyết của Galen và làm cho lý thuyết

cổ điển này trở nên hữu dụng hơn. Theo lối phân chia các bệnh của

Galen, mỗi người có một thang liên tục các rối loạn khác nhau, đi

từ sự pha trộn đúng mức các dịch thể ("eurasia") sang sự pha trộn

tệ nhất ("dyscrasia") gây nên tử vong. Santorio với đầu óc toán học

đã tính toán tất cả các khả năng pha trộn dịch thể thành khoảng

80 ngàn mức độ, nghĩa là phải có tới 80 ngàn thứ "bệnh". Trước

khi qua đời, quan tâm của Santorio về đo lường và tính toán đã

đưa ông vượt xa Galen.

Santorio Santorio (1561-1636) sinh ra trong một gia đình quí

tộc giàu có tại một đảo của Cộng hoà Venice. Lúc 14 tuổi cậu bé đã

vào đại học Padua, ở đó, theo lệ thường, anh bắt đầu học triết học,

sau đó học y khoa và đậu bằng y khoa năm 1582, khi mới 21 tuổi.

Anh đi sang Croatia, ở đó anh làm bác sĩ cho một gia đình quí tộc.

Tại bờ biển Adriatic, anh lợi dụng cơ hội để thử nghiệm các dụng

cụ đo gió và đo dòng nước do anh làm ra.

Khi trở về Venice để hành nghề bác sĩ tại đây năm 1599,

Santorio qui tụ được rất nhiều bạn bề gồm các nghệ sĩ, bác sĩ, các

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 131

http://ebooks.vdcmedia.com

nhà hoá kim và các nhà bí nhiệm, trong số đó có những người nổi

tiếng như Galileo, Paolo Sarpi, Fabricius và Giambattista della

Porta.

Santorio tin rằng mình đã sáng chế ta một ngành y khoa

mới, mà ông gọi là "Y Khoa Thống Kê", có nghĩa là sử dụng kỹ

thuật đo lường. Tác phẩm của Santorio, Ars Medicina Statica

(1621) được xuất bản ở Venice và nổi tiếng khắp châu Âu. Chỉ

trong vòng một thế kỷ, giới y khoa hàng đầu của châu Âu đã đánh

giá sách này ngang hàng với sách của Harvey về sự tuần hoàn

máu và là một trong hai nền tảng của khoa y học cận đại.

Santorio đặt khởi điểm cho công trình của mình từ các tác

giả y học thời cổ và đặt nền công trình của mình vững vàng trên

những tác giả này. Trong những tác phẩm ban đầu, ông nhắm

"chiến đấu chống lại những sai lạc trong nghệ thuật y khoa" bằng

cách sử dụng những kinh nghiệm cá nhân của mình để hiệu đính

những tác phẩm y khoa xưa của Hippocrates, Galen, Aristote và

Avicenna. Khi gởi cuốn Ars Medicina Statica của mình cho Galileo

năm 1615, ông kèm theo một lá thư giải thích rõ hai nguyên tắc

của mình. "Nguyên tắc thứ nhất, do Hippocrates đề xuất, là y học

gồm tính cộng và tính trừ, cộng thêm những gì còn thiếu và trừ đi

những gì dư thừa; nguyên tắc thứ hai là thí nghiệm". Santorio tin

tưởng rằng ông có thể đưa khoa học về các dịch thể tiến tới một kỷ

nguyên mới về lượng bằng những dụng cụ để đo những hiện tượng

và những phẩm tính trong cơ thể con người. Vô tình ông đã phát

minh ra một kho dụng cụ giúp chinh phục thành trì các dịch thể

và phẩm tính của Galen. Nhiệt khí biểu mà Galileo và những

người khác dùng để ghi nhận những thay đổi về nhiệt độ trong

không khí chung quanh thì Santorio đã thích nghi nó để đo những

thay đổi về nhiệt độ trong cơ thể. Những nhiệt khí biểu cũ gồm

một cái bầu bằng chì hay thuỷ tinh chứa đầy một chất lỏng và gắn

vào một ống trong đó ta có thể nhìn thấy mực chất lỏng lên và

xuống tuỳ theo không khí chung quanh nóng hay lạnh. Santorio

đã biến đổi nó thành một dụng cụ để đo nhiệt độ của cơ thể con

người. Santorio cắt nghĩa như sau: "Người bệnh nắm chặt chiếc

bầu hau thổi hơi vào một chiếc mũ trên cái bầu, hay ngậm cái bầu

vào miệng, bằng cách đó ta có thể biết được người bệnh đang khá

hơn hay tệ hơn và nhờ đó không bị lầm lẫn trong việc chẩn đoán

hay chữa trị".

Daniel J. Boorstin 132

http://ebooks.vdcmedia.com

Trung thành với lý thuyết dịch thể của Galen về sức khoẻ và

bệnh tật, Santorio không đưa ra một thang tuyệt đối về nhiệt độ.

Santorio chỉ biến đổi cây nhiệt biểu thành cây nhiệt kế bằng cách

thêm vào một thang độ được chia thành những đơn vị đều nhau

giữa nhiệt độ của tuyết và nhiệt độ ngọn lửa của một cây nến sáp.

Đây không phải là thiết lập một nhiệt độ "bình thường" cho mọi cơ

thể con người, nhưng là để kiểm tra sự thay đổi nhiệt độ nơi mỗi

cá nhân giữa nhiệt độ cơ thể của người ấy lúc khoẻ mạnh và nhiệt

độ lúc đau yếu. Càng xa rời mức độ bình thường của cá nhân đó,

sự chuẩn đoán tình trạng càng tồi tệ.

Bệnh nhân phải nắm lấy cái bầu nhiệt biểu hay thở vào cái

mũ hay ngậm cái bầu trong bao lâu để có thể đo lường đúng nhiệt

độ của họ? Santorio giải thích: "Trong mười nhịp của dụng cụ đo

mạch". Không có gì ngạc nhiên khi một người bạn của Galileo mà

lại phải tìm cách chế ra một cái đo nhịp thời gian. Thời đó đồng hồ

còn ở trong giai đoạn ấu trĩ, vẫn chưa có kim chỉ phút và chỉ giây.

Và như chúng ta đã thấy, khi chàng trai trẻ Galileo nhìn chiếc đèn

chùm trong nhà thờ Pisa đong đưa, ông đã đo thời gian bằng cách

tính nhịp mạch của mình. Còn bây giờ, cùng một nguyên tắc đã

được Santorio khôn khéo ứng dụng ngược lại, ông thấy rằng có thể

dùng quả lắc đồng hồ để đo nhịp mạch.

Sức khoẻ thể xác, theo Hippocrates và Galen là sự cân bằng

giữa cơ thể sống và tất cả những gì chung quanh. Bệnh tật vì vậy

là sự mất cân bằng giữa những gì cơ thể nhận và hấp thu và

những gì cơ thể từ choói và thải ra. Santorio đã đề ra cho mình

nhiệm vụ nghiên cứu sự cân bằng này. Đây quả là một nhiệm vụ

vừa khó vừa kém hấp dẫn, vì phải đo lường tỉ mỉ mọi thứ đi vào

hay ra khỏi cơ thể. Để làm việc này, ông đã làm ra một "ghế thống

kê", sau này trở thành chiếc ghế cân của Santorio. Ông treo chiếc

ghế ông ngồi vào một cây thước được chia độ đặc biệt để cân trọng

lượng cơ thể của mình trước và sau khi ăn, ngủ, tập thể dục và

sinh hoạt tình dục. Ông cân thức ăn ông ăn và lượng phân ông

thải ra, rồi ghi nhận tất cả những khác biệt.

Bằng cách này, Santorio đang sáng lập một khoa học hiện

đại về sự chuyển hoá, nghiêm cứu những biến đỏi làm thành qui

trình sự sống. Ông thành công quá mức trong các cố hắng đo lường

của mình để chứng minh các lý thuyết của Galen đến nỗi cuối cùng

đã phá huỷ toàn bộ hệ thống của Galen. Trong hệ thống Galen,

nóng và lạnh, khô và ẩm (bốn dịch thể sơ đẳng) là những phẩm

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 133

http://ebooks.vdcmedia.com

tính khác nhau. Chúng không chỉ có thực một cách khách quan,

chúng còn là những thực thể duy nhất quan trọng cho sức khoẻ và

bệnh tật của con người. Các sự phân biệt nơi chúng là tuyệt vời.

Nhưng khi nóng và lạnh được đo trên thước đo của một nhiệt kế,

khi ẩm và khô được đo trên thước đo của một ẩm kế, thì mỗi phẩm

tính trong bốn phẩm tính đó trở thành hơn kém một cái gì khác.

Vì vậy, trong các khoa vật lý hiện đại, "nóng" và "lạnh" sẽ chỉ là

những phẩm tính thứ yếu, chủ quan, được cảm nhận nơi một cơ

thể nào đó trong những điều kiện nào đó. Bằng cách biến đổi

những dịch thể của Galen thành những lượng, Santorio đã giáng

vào khoa y học cổ xưa một đòn chí mạng.

Nhưng "Khoa Y học Thống Kê" của Santorio không dừng lại

ở đây. Nó mở ra cả một đấu trường mới cho một thế giới mà các qui

trình sự sống sẽ được tìm hiểu và giải thích bằng số lượng. Những

quan sát tỉ mỉ của Santorio cho thấy là khi ông cân thức ăn rồi cân

lượng phân, trọng lượng của phân nhỏ hơn rất nhiều so với trọng

lượng thức ăn. Đồng thời ông thấy rằng trọng lượng cơ thể của ông

nhỏ hơn rất nhiều nếu xét theo toàn thể trọng lượng các chất được

thải ra, gồm phân, nước tiểu và mồ hôi thấy được. Chắc chắn phải

có một qui trình nào khác xử lý những thứ ông đã hấp thu. Đó là

cái gì?

Câu trả lời của Santorio là "sự thoát mồ hôi không nhận

thấy". Vào thời ông, từ "thoát mồ hôi" vẫn còn mang nghĩa gốc La

tinh là bốc hơi, thở ra hay toả ra. Qui trình hấp thu thức ăn cơ bản

trong cơ thể vẫn chưa giải thích được. Santorio bắt đầu lập đồ biểu

những khía cạnh cần được giải thích. Khi ông thêm chữ "không

nhận thấy" vào từ "thoát mồ hôi", vào thời đó chữ này có vẻ thừa,

nhưng ông nhấn mạnh rằng ông không mô tả những chất thải có

thể nhận thấy được.

Với sự hăng say của một người tiên phong, ông nhấn mạnh

rằng hiện tượng mà ông mô tả là hiện tượng qan trọng trong mọi

qui trình của cơ thể xét về lượng.

Các thầy thuốc Hi Lạp thời cổ đã tin rằng không chỉ có hai lá

phổi mà toàn thân thể đều hít vào và thở ra. Galen đã giải thích

rằng mục đích của việc hít thở là làm mát lửa trong tim và tạo ra

hồn tự nhiên, hồn động vật và hồn sống là những cái duy trì sự

sống và phát triển của cơ quan. Ông nói mồ hôi là một dấu hiệu

thừa chất lỏng trong toàn thân. Sức khoẻ của cơ thể đòi hỏi các lỗ

thoát trong cơ thể phải được mở đúng mức, nhất là các lỗ thoát

Daniel J. Boorstin 134

http://ebooks.vdcmedia.com

trên da, để co các "chất hơi" trong các qui trình của cơ thể có thể

thoát ra. Các chất hơi này được gọi là "sự toát mồ hôi". Phải đến

cuối thế kỷ 19 từ này mới mang nghĩa chuyên biệt là chỉ về các

giọt mồ hôi. Vì thời đó người ta còn biết quá ít về cấu trúc của da,

nên khó có thể cắt nghĩa được mồ hôi thoát ra khỏi cơ thể bằng

cách nào. Vấn nạn này chỉ được giải quyết sau khi Nicoluas Steno

(1638-1686) và Marcello Malphighi nghiên cứu da dưới kính hiển

vi.

Santorio cuối cùng đã đưa qui trình thoát mồ hôi không

nhận thấy này vào những lãnh vực định lượng. "Đây là một điều

mới mẻ chưa từng được nói tới trong Y khoa", Santorio đã tự hào

nói như thế, "và ai cũng có thể cân đo chính xác sự toát mồ hôi

không nhận thấy. Và không ai, dù là triết gia hay bác sĩ, dám

phản đối phần này của công trình nghiên cứu y khoa. Thực vậy,

tôi là người đầu tiên đã thử nghiệm và tôi đã nhờ lý luận và kinh

nghiệm của ba mươi năm để hoàn thiện ngành khoa học này".

Khoa học mới chỉ ở thời kỳ bắt đầu và nhiệt kế, máy đo mạch và

ghế cân trọng lượng của Santorio đã đưa các bác sĩ tới những điều

mới lạ chưa từng biết trước kia.

Suốt nhiều năm Santorio ăn uống, làm việc và ngủ nghỉ trên

chiếc ghế cân. Ông cũng giỏi chế tạo những dụng cụ đơn sơ khác

như "dùi chọc" (một ống chích phẫu thuật để lấy sỏi ra khỏi bàng

quang), cũng như những dụng cụ phức tạp như giường tắm dùng

cho bệnh nhân ngâm mình bằng nước lạnh hay nước nóng để hạ

thấp hay tăng cao nhiệt độ cơ thể trong khi phòng ở vẫn giữ khô.

Các thầy thuốc đồng nghiệp của ông đã chọn ông làm chủ tịch

Hiệp hội các thầy thuốc Venice và trong nạn dịch thê thảm năm

1630, thượng viện Venice đã giao cho ông trọng trách tìm biện

pháp chống lại nạn dịch.

Tâm trí của Santorio vẫn còn là sự pha trộn giữa cái mới và

cái cũ. Trong khi những chỉ trích của ông về khoa chiêm tinh gây

sự thù ghét nơi các đồng nghiệp, thì ông lại bênh vực hệ thống

Copernic, đồng ý với Galileo về khoa thiên văn và cơ học và với

Kepler về quan học. Nhưng ông không hiểu rõ tầm quan trọng to

lớn của những khám phá của Harvey. Đương nhiên những lời rêu

rao quá đáng của ông về "Khoa Y học Thống Kê" như một kỹ thuật

mới của khoa y học Galen là những lời phát biểu thiếu cơ sở.

Nhưng phương pháp định lượng của ông mà ông rất thích thú và

tự hào, sẽ làm cho lý thuyết của Galen trở nên lỗi thời.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 135

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 49

"KÍNH HIỂN VI CỦA THIÊN NHIÊN"

Như chúng ta đã thấy, khoa giải phẫu thời cận đại đã tiến bộ

khi Vesalius và những người khác nhấn mạnh vào việc nghiên cứu

cơ thể con người bằng cách mổ xẻ. Thế nhưng chỉ sau một ít thập

kỷ, một số sự so sánh kỳ lạ sẽ tỏ lộ cơ thể con người bằng những

cách bất ngờ. Harvey đã tìm ra giải thích cho sự tuần hoàn máu

nhờ những thí nghiệm của ông trên gà, ếch nhái, rắn và cá. Nhưng

sự tuần hoàn máu của Harvey vẫn chưa đầy đủ và sẽ phải được

những quan sát tỉ mỉ trên những động vật "hạ đẳng", nhờ một

khoa giải phẫu học so sánh. Mức độ của những sự đối chiếu này sẽ

trở nên rộng lớn hơn, táo bạo hơn và lạ lùng hơn những gì Galen

dám làm.

Người hùng của câu chuyện này là Marcello Malpighi (1628-

1694), một nhà khoa học lớn mà công trình ông thực hiện không

dựa vào một giáo điều duy nhất. Ông là một trong những nhà

thám hiểm mới đầu tiên xác định sứ mệnh của mình không phải

nhờ những lý thuyết của thầy mình hay nhờ đề tài nghiên cứu của

mình. Họ không còn là những người thuộc "trường phái Aristote"

hay "trường phái Galen". Quan thầy của họ, người đỡ đầu của họ

là những dụng cụ giúp họ mở rộng nhãn giới. Điều làm cho những

nghiên cứu của ông có sự nhất quán là một dụng cụ mới. Malpighi

sẽ trở thành một "nhà hiển vi học" và khoa học của ông sẽ là "khoa

hiển vi học", một từ mới xuất hiện lần đầu tiên bằng tiếng Anh

trên Nhật Ký của Pepys năm 1664. Sự nghiệp khoa học của ông có

sự nhất quán không phải do những gì ông khẳng định hay chứng

minh, mà do những phương tiện vận chuyển đưa ông đi trong

những cuộc hành trình quan sát.

Thường được gọi là nhà sáng lập khoa giải phẫu học hiển vi,

Malpighi là một trong những nhà khám phá kiểu mới này, chuyển

hướng chú ý từ vũ trụ sang lượng gia, từ vạn vật sang sự kiện. Các

tác phẩm của Malpighi có thể được gọi là "Những cuộc du hành với

kính hiển vi", vì công trình của ông là một nhật ký hỗn hợp của

Daniel J. Boorstin 136

http://ebooks.vdcmedia.com

một người du hành vào một thế giới không thể thấy bằng mắt

thường. Vesalius khám phá ra những đường nét lớn của Lục địa

con người, Harvey khám phá ra dòng sông Mississippi. Bây giờ

đến lượt Malpighi mô tả địa hình, những cửa biển, những con rạch

và những tiểu đảo bên trong. Không lạ gì công trình của ông ít có

sự thống nhất lý thuyết. Trên một lãnh thổ tiến hóa tinh vi như

thế này, có thể tìm thấy sự thích thú của việc khám phá khắp nơi.

Malpighi từng nói, hai lần nhìn qua kính viễn vọng của

Galileo đã tỏ lộ về bầu trời nhiều hơn những gì từng được thấy

trong suốt những thiên niên kỷ trước. Khi một nhà phê bình chỉ

trích Malpighi là phí thời gian trong những chuyện nhỏ nhặt ở

kính hiển vi và tương phản ông với cái nhìn tập trung toàn diện

của Galen vào những hình thù thấy được, Malpighi đã có sẵn câu

trả lời. Ông lưu ý rằng chính Galen cũng đã kể về những hình thể

nhỏ bé nhất mà ông ta có thể thấy. "Tôi không phải nhà chiêm

tinh", Malpighi nhận định, "vì thế tôi không thể biết chắc chắn

Galen sẽ nói gì, nhưng tôi nghĩ có thể ông ấy sẽ phải hát bài hát

thánh ca tạ ơn Chúa vì Người đã tỏ lộ cho ông biết thật nhiều

những thứ mà ông đã không biết, thậm chí những thứ nhỏ bé

nhất".

Tiếc rằng chúng ta không biết nhiều về dụng cụ đặc thù mà

Malpighi đã sử dụng để quan sát. Chúng ta chỉ biết ông thường sử

dụng một kính hiển vi có một thấu kính duy nhất mà ông gọi là

"thấu kính bọ chét", và thỉnh thoảng ông dùng một kính hiển vi có

hai thấu kính. Ông coi những kính hiển vi của mình là những

dụng cụ nòng cốt cho việc nghiên cứu và năm 1684, khi một đám

cháy đã thiêu rụi căn nhà của ông ở Bologna cùng với tất cả những

kính hiển vi của ông, ông đã vô cùng sầu não. Để bù đắp cho sự

mất mát đó, Hội khoa học Hoàng Gia ở Luân Đôn đã đặt làm đặc

biệt cho ông những thấu kính mới và một số nhà quí tộc yêu thích

khoa học cũng gởi tặng ông các kính hiển vi của họ.

Malpighi đã sử dụng kính hiển vi để tập trung nghiên cứu

cấu trúc tế vi của các cơ quan nội tạng của cơ thể. Hồi còn là sinh

viên y khoa trẻ ở Đại học Bologna, ông đã bị ấn tượng rất mạnh

bởi công trình của Harvey, mà ông đã nhận ra như là dấu hiệu của

"kiến thức mới về giải phẫu học đang tiến bộ". Ông tin rằng khi

Harvey giải thích chức năng của tim và máu, ông này đã tạo một

sự nhất quán kỳ diệu cho mọi khoa sinh lý con người và ông thấy

rằng những kỹ thuật thí nghiệm, lý luận chặt chẽ và sự loại bỏ

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 137

http://ebooks.vdcmedia.com

mọi khả thể khai thác của Harvey đều rất thuyết phục. Nhưng vào

thời Malpighi, người ta vẫn chưa nhất trí đón nhận lý thuyết của

Harvey

Malpighi nói Harvey đã minh chứng rõ ràng máu lưu thông

trong cơ thể nhiều lần mỗi ngày. Nhưng vẫn còn thiếu một mắt

xích quan trọng trong lý thuyết Harvey. Nếu máu lưu thông qua

tim quá nhiều và quá nhanh và cơ thể tạo ra máu quá chậm như

thế, thì hẳn nhiên máu phải có một qui trình tái tạo và tái tuần

hoàn. Cùng lượng máu đó phải liên tục di chuyển từ các động

mạch vào các tĩnh mạch để giữ cho sự sống được liên tục. Một nhà

giải phẫu học tài giỏi sẽ không thấy khó khăn gì trong việc hiểu rõ

các động mạch hay tĩnh mạch. Nhưng còn tương quan giữa chúng

với nhau thì sao? Bao lâu điều bí ẩn này chưa được giải quyết, thì

vẫn còn có thể nghi ngờ lý thuyết Harvey.

Malpighi xác định chỗ của điều bí ẩn ấy là phổi. Và ở đó ông

sẽ giải quyết điều bí ẩn nhờ những kỹ thuật mới của khoa giải

phẫu so sánh. Năm 1661 ông công bố những khám phá của mình

trong hai lá thư viết từ Bologna cho một người bạn thân ở Pisa,

Giovanni Borelli. Hai lá thư này mau chóng được xuất bản ở

Bologna thành một cuốn sách với tựa đề Về phổi và đã trở thành

một công trình tiên phong cho khoa y học cận đại.

Trong khoa giải phẫu truyền thống của Galen, phổi được

nghĩ là cơ quan nội tạng bằng thịt, là nguồn của những khí chất

nóng - ẩm và có bản chất nóng. Malpighi tự hỏi đây có phải cấu

trúc thực sự của phổi không. "Vì Thiên Nhiên có thói quen đặt

những cái khiếm khuyết làm nền cho những cái hoàn hảo, nên

chúng ta tìm ra ánh sáng từng bước một". Bằng cách mổ xẻ những

động vật "hạ đẳng" và quan sát dưới kính hiển vi, ông hi vọng tìm

ra những chìa khóa mới cho việc giải phẫu cơ thể người. Không

biết là do giỏi tính toán, do trực giác khoa học, hay do may mắn,

Malpighi đã tình cờ đến được tại chỗ để thấy rõ cái mắt xích còn

thiếu trong lý thuyết tuần hoàn máu. Trong lá thơ gởi cho Borelli,

Malpighi nhớ lại:

Tôi đã hi sinh hầu như cả một chủng loại ếch, một điều chưa

từng xảy ra ngay cả trong cuộc chiến man rợ giữa loài ếch và loài

mèo trong tác phẩm của Homer. Tôi đã thực hiện những cuộc mổ

xẻ ếch, với sự trợ giúp của đồng nghiệp yêu quí của tôi, Carol

Frassati, để đạt được hiểu biết chắc chắn hơn về chất màng mỏng

của phổi và chính trong những cuộc mổ xẻ này tôi đã bất ngờ nhìn

Daniel J. Boorstin 138

http://ebooks.vdcmedia.com

thấy những điều kỳ diệu hết sức... Thực vật, chúng ta thấy rất rõ

khi mổ xẻ loài ếch, vì ở loài này chất màng mỏng có một cấu trúc

đơn giản và các ống dẫn truyền cũng như hầu hết các cơ quan khác

đều trong suốt, giúp ta thấy được cấu trúc bên trong.

Thế mà quan sát bằng kính hiển vi còn cho thấy những điều

kỳ diệu hơn nữa, vì trong khi tim đang đập... ta có thể quan sát

được chuyển động của máu theo những hướng ngược chiều trong

những ống dẫn truyền và vì thế ta hiểu rõ được sự tuần hoàn của

máu...

Vì bằng mắt thường tôi không thể thấy nhiều hơn trong cơ

thể động vật, nên tôi đã tin rằng máu đổ vào một khoảng trống ở

đó nó được gom lại bởi một ống mở ra tiếp nhận. Nhưng phổi của

một con ếch khô làm tôi nghi ngờ điều này, vì các bộ phận nhỏ

nhất của nó (sau này tôi biết là các mạch máu) ngẫu nhiên vẫn còn

đỏ màu máu và với một thấu kính mạnh hơn tôi đã nhìn thấy

không phải những đốm nhỏ giống như da cá mập mà là những ống

nhỏ nối liền với nhau để tạo thành những vòng nhẫn và những

đường ống này phân nhánh từ một tĩnh mạch ở một phía và động

mạch ở phía kia nhiều đến nỗi không còn giữ lại tình trạng của

một đường ống và thay vào là một mạng lưới xuất hiện, tạo nên

hai ống từ những nhánh. Tôi có thể xác nhận sự quan sát này nơi

phổi của loài rùa, cũng có tính màng mỏng và trong mờ.

Từ đó tôi thấy rõ rằng máu được chia ra và chảy qua những

đường ống ngoằn ngoèo và không phải đổ vào những khoảng trống,

mà luôn luôn được đẩy vào những ống nhỏ và được phân phối nhờ

rất nhiều những khúc quanh của các mạch máu...

Để giúp những người khác kiểm chứng khám phá của ông,

Malpighi đưa ra những hướng dẫn về cách chuẩn bị và làm một

mẫu thử của phổi ếch trên một tấm kính nhỏ, cách chiếu sáng nó

và rồi cách quan sát nó bằng một "ống kính bọ chét" có một thấu

kính hay một kính hiển vi có hai thấu kính.

Cả sau khi mạch đập của ếch đã ngưng, người ta vẫn thấy

dòng chảy của máu. Từ những quan sát này ta có được những kết

luận rõ ràng về giải phẫu con người và về cấu trúc của phổi người.

Vì vậy, nhờ loại suy và nhờ tính chất đơn sơ mà Thiên Nhiên

sử dụng trong mọi tạo vật, chúng ta có thể kết luận ... rằng mạng

lưới mà trước kia tôi tin là mạng thần kinh thực ra là một mách

máu xen lẫn những bọng và xoang và vận chuyển khối lượng máu

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 139

http://ebooks.vdcmedia.com

đến chúng hay ra khỏi chúng. Và mặc dầu trong phổi của những

động vật hoàn, một mạch máu đôi khi có vẻ kết thúc và mở ra ở

giữa mạng lưới các vòng nhẫn, nhưng rất có thể là, giống như ở các

tế bào của loài ếch và rùa, nó có những mạch máu li ti tỏa ra xa

hơn dưới dạng một mạng lưới, tuy rằng chúng không thể nhìn thấy

được dù là bằng cặp mắt tinh tường nhất vì chúng quá nhỏ.

Malpighi đã khám phá ra các mao mạch. Nhờ vật, ông đã tỏ

lộ cấu trúc và chức năng của phổi, mở đường cho việc tìm hiểu qui

trình hô hấp.

Bằng sự khéo léo, kiên nhẫn, kỹ thuật phòng thí nghiệm,

niềm say mê tìm kiếm những sự tương đồng và chăm chỉ thu lượm

những bằng chứng, Malpighi đã triển khai một khoa giải phẫu học

so sánh mới. Những gì dã là nguyên nhân sai lầm cho Galen thì

nay trở thành nguồn mạch kiến thức cho Malpighi. Khoa giải phẫu

học so sánh này sử dụng một dụng cụ mà Malpighi gọi là "Kính

hiển vi Thiên Nhiên".

Malpighi cho thấy kính hiển vi mở ra những viễn cảnh vô

hạn như thế nào. Ở lưỡi, ông nhận thấy những cơ quan vị giác

giống như nụ hoa, hay nhú và ông bắt đầu mô tả chức năng của

chúng. Ông mô tả cấu trúc của các tuyến. Ông là người tiên phong

về giải phẫu não bằng cách quan sát sự phân phối chất xám và

những cấu trúc tế vi của đại não và tiểu não. Ông khám phá ra

tầng sắc tố của da. Các sinh viên y khoa của thế kỷ 20 thấy tên

của Malpighi được gắn với các phần của thận và lá nách, vì ông là

người đầu tiên mô tả những bộ phận này. Sau cùng, ông đã đẩy

mạnh tiến bố của khoa phôi học bằng những quan sát tinh vi của

ông trong kính hiển vi về sự phát triển của gà con trong quả

trứng. Malpighi rất hăm hở đến bất kỳ chỗ nào mà kính hiển vi

mời gọi, tới cả những loài động vật "hạ đẳng" và côn trùng, mà

Aristote thậm chí nghĩ rằng chúng không có đủ cơ quan. Nghiên

cứu cổ điển của ông về con tằm cung cấp một khảo luận chi tiết

đầu tiên về giải phẫu học loài không có xương sống. Con tằm cũng

giúp ông hiểu biết qui trình hô hấp nhờ hệ thống tinh vi và phức

tạp của các ống khí quản trải rộng trên khắp thân thể nó. Với kính

hiển vi, ông so sánh các tế bào và hệ thống các bọng của thực vật

với hệ thống khí quản của côn trùng, từ đó ông đã lập ra khoa giải

phẫu thực vật học.

Daniel J. Boorstin 140

http://ebooks.vdcmedia.com

Phần XI

Khoa học trở thành phổ cập

Khoa học chỉ có thể tiến tới.

Galileo. Đối thoại (1632)

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 141

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 50

NGHỊ TRƯỜNG CÁC NHÀ KHOA HỌC

Vescartes từng nhận định, "Thông thường, các chân lý được

khám phá bởi một cá nhân hơn là bởi một quốc gia. Các thế hệ

từng sản sinh ra những Galileo, Vesalius, Harvey và Malpighi cần

có những diễn đàn khoa học mới để tập hợp lại những chân lý đã

được các cá nhân khám phá ra, để làm giàu lẫn cho nhau và để

giúp ích cho các nhà khám phá khác ở khắp nơi. Các cộng đồng

khoa học trở thành những nghị trường các nhà khoa học trong đó

người ta sử dụng các ngôn ngữ địa phương. Nội dung không cần

phải là những đề tài to lớn, mà chỉ cần có những điều "thú vị", lạ

thường, hay mới mẻ là đủ. Những ranh giới trở thành mờ nhạt

giữa khoa học và kỹ thuật, giữa nhà chuyên nghiệp và người

nghiệp dư. Từ những động tác mới để trao đổi thông tin đã phát

xuất một khái niệm mới gia tăng về khoa học.

Nghị trường các nhà khoa học cần có một loại chính khách

hay chính trị gia mới về khoa học có sở trường kích thích, hun đúc

và hòa giải. Người này phải là bạn của những con người vĩ đại và

đầy tham vọng, nhưng không thể là một đối thủ cạnh tranh về

danh tiếng với những người đó. Họ phải thành thạo các ngôn ngữ

địa phương chính, vì từ thế kỷ 16 và 17, ít có nhà khoa học nào nói

các thứ tiếng khác ngoại trừ tiếng mẹ đẻ của mình và nhiều nhà

khoa học danh tiếng không còn viết các tác phẩm của mình bằng

tiếng La tinh nữa.

Martin Mersenne (1588-1648) là một kiểu mẫu đích thực cho

Con người khoa học mới này. Ông sinh trưởng trong một gia đình

lao động ở miền tây bắc nước Pháp. Sau khi theo học tại một

trường trung học Dòng Tên và học thần học tại Đại học Sorbonne,

ông gia nhập dòng Phanxicô và sống trong một tu viện của dòng

tại Paris gần công trường Vosges. Ngoại trừ những chuyến đi

ngắn, Mersenne đã ở lại trong nhà dòng này suốt đời. Tính thiện

cảm và lôi cuốn của ông đã làm cho tu viện trở thành một trung

tâm sinh hoạt khoa học cho thành phố Paris và giúp làm cho Paris

Daniel J. Boorstin 142

http://ebooks.vdcmedia.com

trở thành một trung tâm trí thức của châu Âu. Mersenne đã qui tụ

tại tu viện này một số nhà khoa học năng nổ nhất, ham tìm tòi

nhất của thời đại và không chỉ ở Pháp. Các hội nghị của ông có sự

hiện diện của những nhà khoa học nổi tiếng như Pierre Gassendi

(bạn thân của Galileo và Kepler), hai cha con Descartes và nhiều

người khác nữa. Thư từ của Mersenne viết đi rất nhiều nơi, từ

Luân Đôn tới Tunisia, Syria và Constantinople, thu thập những ý

tưởng và khám phá mới nhất của Huygens, van Helmont, Hobbes

và Torricelli. Chính tại căn phòng của Mersenne ở tu viện mà

Pascal đã gặp Descartes lần đầu tiên.

Mersenne đã khai triển một cuộc trao đổi đặc biệt tích cực

với nước Anh, qua việc nhập khẩu sách báo tiếng Anh vào Pháp và

cung cấp sách báo tiếng Pháp cho các nhà khoa học Anh. Tại đó

ông đã gợi hứng cho một hội nghị trường khoa học có tính cách bài

bản hơn. Người đã đứng ra qui tụ tất cả lại là một người không

mấy danh tiếng tên là Henry Oldenburg (1617-1677), một người

không thuộc giới khoa học gia lớn của thế hệ mình, nhưng là người

có tài tổ chức và gợi hứng cho những nhà khoa học lớn.

Oldenburg sinh tại thành phố Bremen phồn thịnh, là con của

một giáo sư y khoa và triết học. Ông học tiếng La tinh, Hi Lạp và

Híp rri, đậu bằng Thạc sĩ Thần học, rồi đi học tiếp ở Đại học

Ultreetch. Trong khoảng chục năm sau đó, ông làm gia sư cho

những nhà quí tộc trẻ người Anh, ông đi thăm các nước Pháp, ý,

Thụy Sỹ và Đức, thông thạo tiếng Pháp, ý, Anh, ngoài tiếng Đức là

tiếng mẹ đẻ của mình.

Oldenburg bị mê hoặc bởi nhãn giới mới của mình về khoa

học. "Tôi đã bắt đầu kết bạn với một số ít người có quyết tâm đi

vào những khoa học vững chắc hơn, chứ không đi vào những lãnh

vực khác và là những người đã chán ngấy khoa Thần học Kinh

viện và khoa Triết học Duy danh. Họ là những đồ đệ của chính

thiên nhiên và của chân lý và hơn nữa, họ đánh giá rằng thế giới

đã không quá già, cũng như thời đại của chúng ta không quá yếu

hèn, vì thế vẫn còn nhiều điều đáng để thực hiện".

Vòng bạn bè của Oldenburg không còn giới hạn vào những cư

dân lỗi lạc và đáng kính của một thủ đô, mà nay đã trở thành một

"tập đoàn vô hình". Để tiếng nói của mình được lắng nghe ở Hội

khoa học Hoàng gia ở Luân Đôn, không còn cần phải đến dự một

cuộc họp. John Beale có thể viết từ Herefordshire ở miền tây nước

Anh để mô tả những vấn đề về các vườn cây trái, đưa ra những lời

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 143

http://ebooks.vdcmedia.com

khuyên về cách làm rượu táo tốt nhất và cung cấp những phương

thuốc chữa bách bệnh do ông tìm ra để giúp những nông dân mắc

bệnh. Nathaniel Fairfax viết từ Suffolk để báo cáo về sự kiện có

những người ăn thịt nhện và thịt cóc. Nhưng danh sách này cũng

bao gồm John Flamsteed, viết từ Derbyshire về thiên văn học và

Martin Lister, viết từ York về sinh học. Đương nhiên cũng có

những thư từ qua lại thường xuyên từ Boyle và Newton.

Mối quen biết rộng rãi và sự thông thạo các ngôn ngữ của

Oldenburg mang lại cho ông nhiều lợi ích to lớn. Lượng thư từ

ngày càng mở rộng và cùng với những sách được gởi tới, các lá thư

cung cấp những đề tài cho các cuộc hội hàng tuần của hiệp hội.

Năm 1668, Oldenburg báo cáo rằng chức vụ Thư ký Hiệp hội của

ông có vai trò bảo đảm việc hoàn thành những nhiệm vụ thử

nghiệm được giao phó, viết các thư từ gởi ra nước ngoài và liên lạc

thư từ đều đặn ít là ba mươi nhà khoa học nước ngoài, "chăm lo

việc tìm tòi và đáp ứng những yêu cầu ở nước ngoài về những vấn

đề triết học".

Vào thời này, thư từ đã trở thành một dạng thông tin quen

thuộc giữa các nhà khoa học. Ví dụ, ở Paris, các nhà khoa học viết

các ý tưởng của mình trong một lá thơ gởi cho một người bạn, thuê

in thành hàng trăm bản rồi gởi đi.

Rõ ràng viết bằng thư thì có nhiều lợi thế hơn viết thành

sách. Trong khi các tác phẩm khoa học thường là những bộ sách

dày cộm dễ bị cản trở do việc kiểm duyệt, thì những ý tưởng mới lạ

trong một lá thư có thể thoát được sự để ý hay có thể được gởi đi

bằng "đường bưu điện bình thường". Hồi đó chưa có các chuyến gởi

bưu kiện đều đặn, nhưng ngay ở thế kỷ 17 bưu điện thường cũng

đã có thể chạy mỗi tuần một lần giữa Luân Đôn, Paris và

Amsterdam.

Thư từ được viết bằng mọi ngôn ngữ địa phương chính ở châu

Âu. Nhà khoa học nghiệp dư Leewenhoek không biết La tinh nên

đã viết thư bằng tiếng Hà Lan là tiếng mẹ đẻ của mình.

Oldenburg sẽ tóm tắt hay dịch những thư như thế sang tiếng Anh,

từ đó người ta sẽ dịch sang tiếng Pháp để phổ biến tại Pháp.

Không biết tiếng La tinh không còn là một trở ngại khiến những ai

có đầu óc và sáng kiến bị gạt ra ngoài cộng đồng các nhà khoa học.

Daniel J. Boorstin 144

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 51

TỪ KINH NGHIỆM TỚI THÍ NGHIỆM

Châm ngôn của Hội khoa học Hoàng gia, Nullius in Verba,

đã được dịch rất hay là "Trăm nghe không bằng một thấy". Luồng

tri thức mới là sản phẩm của một dạng kinh nghiệm đặc biệt được

gọi là thí nghiệm. Trong khi ngôn ngữ cũ của khoa học nhắm tới ý

nghĩa và sự chín chắn, thì ngôn ngữ mới nhắm tới sự chính xác.

Chủ định của Hội khoa học Hoàng gia "không phải là chế tạo

những từ ngữ, mà là hiểu biết sự vật". Trong lịch sử nước Anh thời

đó, người ta quá đề cao tài hùng biện, với những bài thuyết giảng

dài lê thê và những cuộc tranh luận trong nghị viện trở thành

những sự kích động tạo nên rối loạn xã hội. Phản ứng lại tính đa

ngôn của thời đại, Hội khoa học Hoàng gia đã tuyên bố "rằng phải

loại bỏ mọi sự hùng biện ra khỏi các tổ chức dân sự, coi nó như

những tai hoạ đối với hoà bình và phép lịch sử". Muốn canh tân

cách ăn nói phải đổi mới cách suy nghĩ.

Vì muốn đạt điều này, Hội Hoàng gia đã "đòi hỏi mọi thành

viên của mình phải hiểu biết nói năng đơn sơ, thẳng thắn, bộc

trực, các phát biểu phải tích cực, ý tưởng rõ ràng; phong cách thoải

mái, diễn đạt mọi sự sát với sự minh bạch của toán học bao có thể;

và chọn ngôn ngữ của người thợ, người dân quê và người buôn bán,

hơn là ngôn ngữ của những người thông thái, học giả".

Ngôn ngữ khoa học đơn giản nhưng chưa đầy đủ. Nó phải

chính xác - và, nếu có thể phải có tính quốc tế. Nó phải có tính

chất "minh bạch của toán học". Ngôn ngữ khác biệt sẽ là nguyên

nhân của sự khác biệt giữa kinh nghiệm và thí nghiệm. Kinh

nghiệm luôn luôn có tính cá nhân và không bao giờ có thể lặp lại

giống hệt nhau. Các cuộc hành trình của Marco Polo, của Colômbô

và Magellan là những kinh nghiệm cần được kể lại để nghe và

thưởng thức. Nhưng trong thế giới mới của "Tri thức thực nghiệm",

điều này chưa đủ. Để trở thành một thí nghiệm, kinh nghiệm phải

có thể lặp lại được.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 145

http://ebooks.vdcmedia.com

Các hội viên của Hội Hoàng gia đã có quyết tâm là mỗi khi

nghe nói đến một thí nghiệm nào đó được thực hiện ở một nơi xa

xôi, họ sẽ cố gắng để "chính họ có thể rờ bằng tay và nhìn bằng

mắt" thí nghiệm đó. Họ đã lập "một Quy luật cơ bản là mỗi khi họ

có thể xử lý đề tài, họ sẽ phải tự mình thực hiện lại thí nghiệm. Sự

chính xác này không có nơi các nhà Thiên nhiên học trước đó, vì

thế những người này không được tín nhiệm nhiều.

Toán học sẽ là ngôn ngữ của thế giới khoa học mới, giống như

tiếng La tinh trong thế giới cũ và nó sẽ giúp vượt qua những hàng

rào ngôn ngữ địa phương. Từ thời xưa, các đơn vị đo lường đã phát

sinh từ việc sử dụng hàng ngày tại các chợ địa phương. Chúng là

những đơn vị đo kích thước thân thể mà ở đâu cũng có thể dùng

được. "Ngón" (digit) là bề ngang một ngón tay, "gan bàn tay"

(palm) là chiều ngang 4 ngón tay, "cubit" là khoảng cách từ cùi chỏ

tới đầu ngón tay giữa, "bước" (pace) là chiều dài một bước chân và

"sải" (fathom) là khoảng cách giữa hai cánh tay dang ra. Bằng

những luật đơn vị theo thói quen đó, người ta đã có thể xây dựng

một Kim Tự Tháp lớn, với sai biệt về chiều dài các cạnh chỉ bằng

một phần bốn ngàn.

James Madison đã nhận định vào năm 1785: "Ngoài sự rắc

rối của sự khác biệt về ngôn ngữ, phải kể đến sự rắc rối của việc sử

dụng các đơn vị để đo trọng lượng và chiều dài". Một ngôn ngữ

toán học quốc tế hữu dụng để các nhà khoa học hiểu được các thí

nghiệm của người khác sẽ phải cung cấp một cách thức tiện lợi để

diễn tả và chia các đơn vị phân số nhỏ nhất. Người hùng của cố

gắng này là một thương gia Bỉ, Simon Stevin (1548-1620). Ông đã

trở thành một hiện tượng của sự phát triển muộn màng. Ông sinh

tại Bruges, bố mẹ ông là những người giàu có, nhưng ông không

được học đại học mãi cho tới khi đã ngoài ba mươi. Thời đó, ông đã

nổi tiếng với chiếc "Xe lội nước" do ông chế tạo, chạy được cả trên

biển và trên bộ.

Các sáng chế khác của Stevin có tính thực dụng hơn. Bảng

Lãi suất của ông đã đánh dấu một kỷ nguyên mới trong ngành

ngân hàng. Trước đó cũng đã từng có những bảng lãi suất, nhưng

chúng được giữ bí mật riêng cho các người làm ngân hàng, giống

như những bản đồ hải trình được giữ riêng cho những người đi

biển. Christophe Plantin (1520-1589) đã xuất bản Bảng Lãi Suất

của Stevin thành những bảng in rất đẹp và phổ biến ra ngoài thị

trường chung, với những quy luật tính toán đơn giản và tính lãi

Daniel J. Boorstin 146

http://ebooks.vdcmedia.com

gộp, kèm với những bảng để tính nhanh số tiền chiết khấu và tiền

trả hàng năm.

Nhưng phát minh vĩ đại nhất của Stevin lại quá đơn giản

khiến chúng ta không thể ngờ rằng chúng cần được phát minh, đó

là hệ thập phân của ông, mà Plantin đã xuất bản với nhand dề

Phần Mười (1585). Các hệ thống trước kia để tính toán các phân số

rất rắc rối. Giải pháp của Stevin là coi mọi đơn vị phân số như

những số nguyên. Ví dụ, ta có một lượng 4 và 29/100. Stevin hỏi,

tại sao ta không đơn giản coi nó như là 429 phần của đơn vị 1/100?

Ta chỉ cần giản lược đơn vị thành lượng nhỏ nhất, rồi coi cả số

nguyên và phân số như là bội số của lượng nhỏ nhất đó. Các nhà

thí nghiệm ngày nay có thể chỉ cần xử lý các con số nguyên thôi.

Trong việc sử dụng hằng ngày, Stevin cho thấy hệ thống

thập phân của ông sẽ đơn giản rất nhiều những bài toán của các

thương gia và khách hàng, các nhân viên ngân hàng và các người

vay tiền. Các số thập phân cũng có thể được dùng để đo trọng

lượng, kích thích và hệ thống tiền tệ thập phân, thậm chí nó có thể

dùng để phân chia thời gian và độ của cung vòng tròn. Stevin cho

thấy những lợi thế của số "phần mười" trong việc đo đạc, đo vải và

các bình rượu, cho công việc của các nhà thiên văn và các thợ đúc

tiền. Và ông cũng giải thích lợi điểm của nó trong việc tập hợp các

đơn vị quân đội thành những đơn vị 10 hay 100 hay 1000.

Stevin đã không nghĩ đến số chấm thập phân. John Napier

(1550-1617), nhà toán học Tô Cách Lan và là phát minh toán học

loga, đã đưa vào dấu chấm thập phân theo hệ thống vị trí các con

số của Ấn Độ - Ả Rập và làm cho các số thập phân trở thành dễ

phân biệt hơn trong việc sử dụng hằng ngày.

Stevin quá phấn khởi đã muốn thúc đẩy đưa hệ thống thập

phân của mình vào sử dụng trong mọi loại tính toán khác, kể cả

tính các độ của một cung và các đơn vị thời gian. Nhưng hệ thống

lục thập phân đã tồn tại từ lâu đời và rất phù hợp với vòng tròn

hoàn hảo và các chuyển động của các thiên thể, nên không thể

thay thế trong việc tính toán thiên văn, vòng tròn, hay các đơn vị

thời gian vì những loại này tương quan rất mật thiết với chúng.

Khi Galileo nhận thấy sự tương quan giữa chu kỳ và chiều

dài của một quả lắc, ông đã mở đường cho việc sử dụng thời gian

làm cơ sở cho một đơn vị không gian đồng đều. Khi Christian

Huygens phát minh đồng hồ quả lắc, ông đã hoàn thành điều này.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 147

http://ebooks.vdcmedia.com

Dần dần, việc tìm kiếm một đơn vị chung để đo thời gian sẽ thúc

đẩy việc tìm kiếm các đơn vị phổ quát khác và cũng theo nghĩa

này, đồng hồ đã trở thành mẹ của các máy móc. Gabriel Mouton

(1618-1694), một linh mục ở Lyons suốt đời không rời khỏi thành

phố quê hương mình, đã bị ám ảnh bởi công cuộc tìm kiếm này.

Ông nghiên cứu chu kỳ của quả lắc và ngạc nhiên khám phá ra

rằng chiều dài của quả lắc với tần số một lắc mỗi giây sẽ thay đổi

tuỳ theo vĩ độ. Từ đó ông gợi ý có thể sử dụng sự thay đổi này để

tính chiều dài một độ của đường kinh tuyến trái đất. Một phần của

giờ, hay một phút của một độ, có thể trở thành một đơn vị phổ

quát của chiều dài.

Cố gắng này trong việc sử dụng quả lắc cùng với hệ thống

thập phân đơn giản và toàn diện để xác định đơn vị đo lường phổ

quát rốt cuộc đã mang lại kết quả. Tháng 4 năm 1790, Talleyrand

(1754-1838) đã yêu cầu Đại Hội Quốc gia của cuộc Cách mạng

Pháp soạn một hệ thống đo lường quốc gia (mà ông hi vọng sẽ trở

thành quốc tế) dựa trên chiều dài chính xác của quả lắc đồng hồ

với chu kỳ lắc một giây ở phút 45 độ vĩ tại chính miền trung nước

Pháp.

Hàn lâm viện Pháp đã tiến hành công việc này và khuyến

cáo làm những đơn vị mới dựa trên hệ thập phân và đơn vị cơ bản

sẽ là một phần mười triệu chiều dài của một cung phần tư của một

kinh tuyến trái đất (nghĩa là một phần mười triệu chiều dài của

một cung giữa xích đạo và Bắc Cực). Không bao lâu, đơn vị này đã

được đặt tên là "mét", bởi từ Hi Lạp metron nghĩa là đo và từ mét

phát sinh mọi đơn vị đo lường thập phân khác. Khối lập phương

một mét mỗi cạnh sẽ là đơn vị đo thể tích và khối lập phương đầy

nước sẽ là đơn vị đo khối lượng. Có một hằng số tự nhiên làm cơ sở

cho toàn thể hệ thống, đó là quả lắc đồng hồ một giây, được dùng

để tính mọi loại số lượng, tất cả đều được phát biểu bằng những

bội số của 10.

Khi nền khoa học cận đại được hình thành ở châu Âu, những

quốc gia lớn chế tạo các dụng cụ cũng là những quốc gia có tiến bộ

khoa học lớn. Các nước Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, ý nơi nuôi dưỡng

những nhà khoa học xây dựng lý thuyết, cũng là nơi chế tạo những

dụng cụ khoa học tốt nhất. Các dụng cụ khoa học mới đã biến đổi

thế giới phẩm tính của Aristote thành thế giới lượng tính mới của

Bacon. Mersenne đã nhấn mạnh rằng mục tiêu của nhà triết học

tự nhiên phải là sự chính xác. Tác phẩm đánh dấu thời đại của

Daniel J. Boorstin 148

http://ebooks.vdcmedia.com

Newton mà chúng ta thường gọi sai là Principia, Các Nguyên Lý,

thực ra tên đầy đủ của nó là Philosophiae Naturalis Principia

Mathematica, hay các Nguyên Lý Toán học của Triết học Tự

nhiên. Khi khoa học trở thành toán học, khi đo lường trở thành sự

trắc nghiệm các chân lý khoa học, thì những người chế tạo những

dụng cụ đo lường trở thành những công dân hàng đầu của nước

cộng hoà khoa học và cộng đồng khoa học mở rộng rất nhiều.

Các dụng cụ mới cũng biến đổi các kinh nghiệm có một

không hai thành những thí nghiệm có thể lặp đi lặp lại được. Tại

châu Âu vào thế kỷ 17 đã phát triển một công nghệ chế tạo dụng

cụ, đương nhiên có việc chế tạo đồng hồ. Vào thế kỷ 18, các dụng

cụ khoa học và toán học là những mặt hàng xuất khẩu chính yếu

của nước Anh và Hà Lan

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 149

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 52

"THƯỢNG ĐẾ PHÁN HÃY CÓ NEWTON"

Người hùng đầu tiên của khoa học thời cận đại là Issac

Newton (1642-1727). Đương nhiên trước ông đã từng có những nhà

khoa học khác được biết đến khắp châu Âu vì khả năng chế ngự

thực sự hay tưởng tượng các sức mạnh của thiên nhiên. Aristote

được nhìn nhận là tác giả kinh điển. Nhưng khi Roger Bacon

(khoảng 1220-1292), nhà khoa học châu Âu nổi tiếng nhất thời

Trung cổ, tìm cách "sử dụng những bản chất và tính năng của các

sự vật" - gồm việc nghiên cứu ánh sáng và cầu vồng và mô tả một

qui trình chế tạo thuốc súng - ông bị tố cáo là thực hành ma thuật.

Ông không thuyết phục được Giáo hoàng Clêmentê IV chấp nhận

đưa các khoa học thực nghiệm vào chương trình giảng dạy đại học,

ông phải viết các tiểu luận khoa học của mình trong bí mật và bị

tù giam vì "những điều mới lạ đáng nghi ngờ".

Nhưng Newton, với tầm nhìn to lớn và sâu sắc hơn Bacon về

các qui trình của thiên nhiên, đã được công khai nhìn nhận và

sùng bái. Trong khi những nhà thực nghiệm thời trước bị tố cáo là

liên minh với ma quỉ, thì Newton được đặt trong bàn tay phải của

Thượng đế. Không giống Galileo, người tiền nhiệm vĩ đại của ông,

Newton sống giữa các trào lưu khoa học đang tràn ngập thời đại

mình. Có lẽ ông tạo được những ảnh hưởng to lớn về tư tưởng khoa

học hơn bất kỳ ai kể từ sau Aristote. Sẽ không có một người hùng

nào như ông cho tới khi Einstein xuất hiện. Mặc dù các tác phẩm

của Newton rất khó hay không thể hiểu nổi đối với người đọc bình

thường, nhưng vào thời ấy, người ta đã hiểu ông khá đủ để tôn ông

lên hàng thần thánh. Khi Nữ hoàng Anne phong cho ông tước hiệp

sĩ tại trường Đại học Trinity, Cambridge, năm 1705, ông đã là

người đầu tiên nhận được một vinh dự như thế vì những thành tựu

khoa học của mình.

Newton đã tập hợp nơi mình và nâng lên tột đỉnh những sức

mạnh để thúc đẩy bước tiến bộ của khoa học. Thời đại ông đã bắt

đầu bước vào "đường lối toán học". Các nghị trường mới của khoa

Daniel J. Boorstin 150

http://ebooks.vdcmedia.com

học lần đầu tiên đã trình bày những quan sát và khám phá để

tranh luận, nhìn nhận, sửa chữa và phổ biến. Trong một phần tư

thế kỷ trong tư cách là chủ tịch Hội Hoàng gia ở Luân Đôn, ông đã

làm cho Hội trở thành một trung tâm phổ biến và tạo sức mạnh

cho khoa học, một điều trước đây chưa từng có.

Thế nhưng hoàn cảnh gia đình và tuổi trẻ của ông đã tỏ ra

không thuận lợi cho sự nghiệp lẫy lừng ấy, mà chỉ thích hợp để

nuôi dưỡng nơi ông những cảm giác bấp bênh về đời sống mình.

Cha ông là một nông dân nghèo, một tiểu điền chủ không biết ký

tên của mình. Tổ tiên bên nội của ông có lẽ cũng thuộc lớp người

còn nghèo khổ hơn nữa. Ông sinh ra rất ốm yếu. Người ta nói lúc

sinh ra ông chỉ lớn bằng cái nắm tay và không ai tin là ông có thể

sống sót nổi. Cha ông mất ba tháng trước khi ông chào đời và khi

ông mới ba tuổi thì mẹ ông tái giá và đến sống với một mục sư giàu

có ở vùng lân cận, bỏ lại cậu bé Isaac cho bà ngoại nuôi tại một

nông trại hẻo lánh. Ông rất tức giận vụ tái giá của mẹ ông đến nỗi

sau này khi đã hai mươi tuổi ông vẫn còn nhớ lại đã từng "đe dọa

thiêu cháy cha và mẹ Smith của tôi cùng với căn nhà của họ". Khi

ông mười một tuổi, người chồng sau của mẹ ông qua đời, bà trở về

nhà Isaac, mang theo đứa con ba tuổi của bà. Bà bắt cậu nghỉ học

vì muốn ông trở thành một nông dân, nhưng ông không thích hợp

với công việc đồng áng. Được thầy giáo và một ông cậu là mục sư

khuyến khích, cậu lại tiếp tục đến trường, ở đây cậu có một nền

tảng khá vững về La tinh, nhưng rất ít kiến thức về toán học. Lúc

mười chín tuổi, già hơn các sinh viên khác, ông nhập trường đại

học Trinity, Cambridge với tư cách một học giả nghèo tự học. Tuy

học sau này được danh tiếng lừng lẫy, ông không bao giờ mất cái

cảm giác bấp bênh của những năm ấy. Không bao lâu sau ông bắt

đầu tự xưng là một "gentleman" và tự nhận có quan hệ bà con với

các ông bà quí tộc.

Newton nhận bằng cử nhân đầu mùa hè 1665 ngay trước lúc

trường đại học bị đóng cửa vì một trận dịch và ông lui về quê nhà

Lincolnshire trong khoảng hai năm. Khi đại học mở cửa trở lại,

ông quay lại Cambridge năm 1667, ông được bầu làm ủy viên của

Đại học Trinity và hai năm sau, ở tuổi hai mươi sáu, ông được

phong học hàm Giáo sư Toán học Lucasian. Khi Newton đến

Cambridge, khoa vật lý của Aristote dựa trên sự phân biệt chất

lượng đang được thay thế bởi một khoa triết học "cơ giới" mà

Descartes là người đề xướng nổi tiếng nhất. Descartes mô tả thế

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 151

http://ebooks.vdcmedia.com

giới vật lý như bao gồm những phân tử vật chất vô hình luôn

chuyển động trong khí ê-te. Ông cho rằng mọi vật trong thiên

nhiên có thể được cắt nghĩa bởi sự tương tác cơ giới của các phân

tử vật chất này. Theo quan niệm cơ bản của Descartes về vũ khí,

không có khác biệt cơ bản giữa hoạt động của cơ thể người với hoạt

động của một cây hay một chiếc đồng hồ, mà chỉ có khác biệt về

mức độ phức tạp. Được khai triển trong những lý thuyết nguyên tử

khác nhau, các tư tưởng của Descartes đã thống trị nền tư duy vật

lý mới ở châu Âu. Mọi vật trong thiên nhiên đều được cắt nghĩa bởi

sự chuyển động và tương tác của những phân tử vật chất nhỏ bé

vô hình này. Đối với Newton, nền triết học đang thống trị có vẻ

như dựa trên "những sự vật không thể chứng minh" và vì thế

chúng chỉ là "những giả thuyết" không hơn không kém. Khoa vật

lý hay "triết học tự nhiên" của thời kỳ Newton đến ở đại học

Cambridge chứa đầy những sự khai thác chi li các ý niệm của

Descartes thành những "hạt", "nguyên tử" và những "cơn xoáy".

Phản ứng lại những giả thuyết vô căn cứ này, Newton quyết

tâm đứng vững trên con đường thẳng của toán học. Ông tin rằng

mặc dù lúc này có thể ông giải thích được ít, nhưng dần dà nền

triết lý thực nghiệm của ông chắc chắn có thể cắt nghĩa được nhiều

hơn. Descartes là mẫu người bác học, đồng thời có thiên tài toán

học, chính ông đã phát minh ra hình học giải tích và tạo những

bước tiến khác trong ngành đại số và hình học. Nhưng ông đã bay

bổng lên cao để khai triển những lý thuyết mở rộng của mình về

cảm giác và sinh lý học và ông thậm chí còn có tham vọng khai mở

được bí mật về sự truyền sinh của con người. Được trang bị bằng

giáo điều duy cơ của mình, Descartes không muốn chấp nhận bí

mật nào của Thiên Nhiên vượt quá khả năng tìm hiểu của ông.

Như chúng ta sẽ thấy, tuy Newton có tính khí cũng không khiêm

tốn gì hơn Descartes, nhưng hầu như ông luôn luôn cố gắng giữ

cho những cố gắng khoa học của mình đi đúng con đường tìm kiếm

những quy luật vật lý được diễn tả bằng dạng toán học.

Khi còn là sinh viên chưa tốt nghiệp đại học, trong hai năm

nghỉ học để tránh trận dịch, Newton đã phác thảo ra những đường

nét chính yếu cho phương thức nghiên cứu thực nghiệm của mình

đối với thiên nhiên.

Khi còn chưa đủ hai mươi sáu tuổi, ông đã khám phá ra định

lý nhị thức và đã tiến khá gần tới việc hình thành các phép tính

tích phân và vi phân. "Triết lý thực nghiệm" của ông là một thứ kỷ

Daniel J. Boorstin 152

http://ebooks.vdcmedia.com

luật tự giác. Ông thường tự mô tả mình về vấn đề này như sau:

"Tôi không biết người ta nghĩ thế nào về tôi; nhưng đối với bản

thân tôi, hình như tôi chỉ là một đứa trẻ chơi đùa trên bãi biển,

cảm thấy thích thú mỗi khi tìm thấy một hòn sỏi nhẵn nhụi hay

một vỏ sò đẹp hơn bình thường, trong khi đại dương chân lý vẫn

còn đang bị giấu ẩn trước mắt tôi".

Bản chất phương pháp thực nghiệm mới của ông được tỏ lộ

trong những thí nghiệm có ý nghĩa đầu tiên của ông, đó là những

thí nghiệm của ông với ánh sáng và màu sắc. Như sử gia Henry

Guerlac đã chứng minh, đây là một dụ ngôn tuyệt vời về "triết lý

thực nghiệm" của Newton. Bởi vì, trong tất cả những hiện tượng

thiên nhiên, ánh sáng là hiện tượng gây kinh hãi nhất do những

mê hoặc của nó về tính cách trữ tình, ẩn dụ và thần học và khó có

thể giản lược vào môn khoa học các con số. Nhưng đây lại chính là

điều mà chàng trai trẻ Newton sẽ xử lý. Ngay sau khi đậu bằng cử

nhân, theo lời ông viết cho Henry Oldenburg:

Vào đầu năm 1666 (lúc đó tôi đang chuyên chú mài những

thấu kính thành những hình thù khác với hình cầu) tôi mua một

Lăng kính Tam giác để thử với hiện tượng kỳ diệu của màu sắc.

Và để làm việc này, sau khi che tối phòng của mình và làm một lỗ

nhỏ qua cửa sổ để cho một lượng ánh sáng mặt trời vừa đủ dọi vào,

tôi đặt chiếc lăng kính vào lỗ nhỏ đó, để nó có thể khúc xạ ánh

sáng sang phía tường đối diện. Lúc đầu thật là một trò giải trí thú

vị, khi nhìn thấy những màu sắc sinh động và đậm đà tạo ra từ đó;

nhưng sau khi nhìn kỹ hơn một lúc, tôi ngạc nhiên thấy chúng có

hình chữ nhật, mà đáng lẽ theo các định lý về khúc xạ đã học thì

tôi nghĩ nó phải hình tròn...

Để cắt nghĩa hiện tượng này, ông chế ra cái mà ông gọi là

experimentum crucis, thí nghiêm chủ chốt. Qua một lỗ nhỏ ông

hướng dẫn một phần của phổ hình chữ nhật - một tia sáng chỉ có

một màu - qua một lăng kính thứ hai. Ông thấy rằng ánh sáng

khúc xạ từ lăng kính thứ hai không bị khuếch tán thêm nữa,

nhưng vẫn còn là một màu duy nhất. Từ đó ông kết luận giản đơn

rằng "ánh sáng được cấu tạo bởi những tia sáng có độ khúc xạ

khác nhau và tùy theo độ khúc xạ của chúng, chúng truyền đi tới

những phần khác nhau của bức tường". Điều này có nghĩa là "ánh

sáng tự nó là hỗn hợp không đồng nhất của các Tia có độ khúc xạ

khác nhau". Ông nhận thấy rằng có một sự tương quan chính xác

giữa màu và "độ khúc xạ" - màu kém khúc xạ nhất là màu đỏ và

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 153

http://ebooks.vdcmedia.com

màu khúc xạ mạnh nhất là màu tím. Bằng cách này, ông đã gạt bỏ

quan niệm thông thường xưa kia cho rằng màu sắc là những biến

đổi của ánh sáng trắng. Rồi ông khẳng định ý tưởng đầy ngạc

nhiên của ông rằng mọi màu đều là những thành phần cấu tạo của

màu trắng bằng cách dùng một thấu kính hai mặt lõm để đưa

những tia sáng của một phổ đầy đủ vào một tiêu điểm chung. Các

màu sắc hoàn toàn biến mất khi chúng kết hợp với nhau tạo thành

ánh sáng trắng. Bằng những thí nghiệm khéo léo và đơn sơ này.

Newton đã giản lược những khác biệt về "phẩm" của màu sắc

thành những khác biệt về lượng. Hoặc như lời ông nói, "cùng một

màu luôn luôn thuộc về cùng một độ khúc xạ và cùng một độ khúc

xạ luôn luôn thuộc về cùng một màu".

Vì vậy, ta có thể xác định bất cứ màu nào bằng một con số

chỉ độ khúc xạ của nó. Đây là nền tảng cho khoa quang phổ học.

Quan trọng hơn nữa, đây là một mẫu mực của phương pháp thực

nghiệm Newton. Có người đã hạ giá Newton khi cho rằng ông thực

sự đã không khám phá ra điều gì về "bản chất" ánh sáng. Họ cho

rằng giải thích về màu sắc của ông chỉ là một "giả thuyết". Đáp lại,

Newton đã khẳng định vững chắc rằng "lý thuyết mà tôi cắt nghĩa

về khúc xạ và màu sắc chỉ liên quan tới một số đặc tính của ánh

sáng, chứ không liên quan tới một giả thuyết nào dùng để cắt

nghĩa những đặc tính ấy... Bởi vì các giả thuyết chỉ có tính hỗ trợ

cho việc giải thích các đặc tính của sự vật, chứ không phải để xác

định các tính chất ấy; cùng lắm nó chỉ có thể cung cấp những thí

nghiệm. Vì nếu các giả thuyết có khả năng trắc nghiệm chân lý và

thực tại của sự vật, tôi không thấy được bằng cách nào sự chắc

chắn có thể đạt được trong bất cứ khoa học nào" Newton cảm thấy

đã đủ cho mục đích của mình khi coi ánh sáng như "một cái gì đó

khuếch tán ra mọi hướng thành những đường thẳng từ những vật

thể sáng mà không cần xác định cái đó là gì". Ông nhìn nhận rằng

đương nhiên Huygens có lý khi nói rằng ông đã không mô tả cơ

cấu hình thành của màu sắc. Nhưng đó chính là sức mạnh và tính

nghiêm khắc của phương pháp thực nghiệm Newton.

Tính nghiêm khắc này cũng là điểm đặc trưng của phương

pháp Newton khi ông bắt đầu mô tả hệ thống vũ trụ. Ngay từ năm

1664, khi còn chưa tốt nghiệp đại học, Newton đã bắt đầu suy nghĩ

về những cách thức để định lượng các qui luật chuyển động của tất

cả các vật thể. Ông cũng được kích thích bởi những gợi ý ngẫu

nhiên của những tác giả khác nhau - khái niệm của Hook dựa trên

Daniel J. Boorstin 154

http://ebooks.vdcmedia.com

linh cảm rằng lực hút của trọng lực có thể giảm theo bình phương

của khoảng cách và khái niệm của Edmund Halley dựa trên định

luật thứ ba của Kepler, rằng lực hướng tâm về phía mặt trời sẽ

giảm theo tỷ lệ bình phương khoảng cách của mỗi hành tinh với

mặt trời. Nhưng đó chỉ là gợi ý đơn thuần. Newton phải thực hiện

công việc tìm ra tính phổ quát của những nguyên lý, làm những

tính toán để chứng minh chúng và cho thấy các quĩ đạo của các

hành tinh có hình ê-líp.

Để trả lời cho một yêu cầu của Halley, Newton soạn "một

tiểu luận kỳ lạ" dày chín trang nhan đề De Motu (Về sự chuyển

động) mà Halley hứa sẽ gởi cho Hội Hoàng gia để ghi vào sổ chứng

nhận. Đây là một phương thức do Oldenburg đề xướng để bảo đảm

giá trị của những "nhà phát minh đầu tiên" đồng thời cung cấp

thông tin cho Hội Hoàng gia. Tập sách mỏng chỉ vẻn vẹn ít trang

này "Về chuyển động của các vật thể trên một quĩ đạo" cho thấy

ông đã đạt tới điểm quyết định của lý thuyết lớn của ông, bằng

cách chứng minh rằng có thể cắt nghĩa một quĩ đạo hình ê-líp bằng

cách nghĩ đến một lực bình phương nghịch đảo với một tiêu điểm.

Khi hiệu đính lại tiểu luận De Motu, Newton đã triển khai luật

thứ nhất và thứ hai của mình (1) luật định quán và (2) luật cho

rằng tốc độ thay đổi của chuyển động thì tỷ lệ thuận với lực đưa

vào.

Hiển nhiên hệ thống Newton có sức mạnh và sự vĩ đại là nhờ

tính phổ quát của nó. Cuối cùng ông đã cống hiến một lược đồ

chung cho ngành động lực học về trái đất và các thiên thể. Ông đã

làm cho các thiên thể trở nên dễ hiểu và đồng thời cung cấp một bộ

khung mới và những giới hạn mới cho nhận thức của con người về

vũ trụ. Truyền thuyết Newton và quả táo không phải là hoàn toàn

vô căn cứ. Chính Newton đã kể lại, "khái niệm về trọng lực đã đến

với ông khi ông ngồi đăm chiêu dưới gốc cây táo và tình cờ để ý tới

một quả táo rụng". Trí tưởng tượng của ông đã khiến ông mạnh

bạo nghĩ đến quả táo không phải chỉ đơn thuần đang rơi xuống

đầu ông mà là đang bị hút vào tâm của trái đất. Newton nhận xét

rằng mặt trăng cách xa tâm của trái đất hơn quả táo sáu mươi lần

và vì thế, theo luật bình phương nghịch đảo, nó phải có gia tốc của

sự rơi tự do là 1 (60)2 = 1/3600 gia tốc của quả táo. Rồi ông áp

dụng luật thứ ba của Kepler để trắc nghiệm lý thuyết của mình.

Ông gặp phải một số khó khăn thực tế - gồm việc tính toán sai của

ông về bán kính của trái đất. Nhưng trực giác đơn sơ của ông đã

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 155

http://ebooks.vdcmedia.com

đưa ông đi đúng đường trong việc lập ra Hệ thống vũ trụ của ông.

Ông thống nhất mọi hiện tượng vật lý trên trái đất với những hiện

tượng trên trời bằng các luật phổ quát của ông, được phát biểu

theo toán học. Bởi vì mọi chuyển động của trái đất và các thiên thể

đều có thể nhìn thấy, quan sát và đo lường. Lực thống nhất to lớn

trong hệ thống Newton là toán học, thậm chí trước cả trọng lực.

"Đường lối toán học" của Newton là một đường lối khám phá.

Nhưng nó cũng là một đường lối khiêm tốn, vì đường lối toán học

là một phương pháp kỷ luật tự giác và một dụng cụ để khám phá.

Tựa đề tác phẩm vĩ đại của Newton, các nguyên lý toán học của

triết học tự nhiên (Philosophiae Naturalis Principia Mathematica,

1687) cho thấy rất rõ ràng dụng ý của ông là gạt thái độ tự phụ

muốn bộc lộ những cơ cấu của thiên nhiên. Các nhà phê bình của

châu Âu lại chỉ trích mục tiêu quá hạn hẹp của ông. Ông đã không

cắt nghĩa tại sao vũ trụ vật chất có những đặc tính như nó xuất

hiện mà chỉ cung cấp những công thức toán học. Vì vậy, họ cho

rằng thực sự ông chẳng đưa ra một "triết lý tự nhiên" nào cả.

Đương nhiên lần này họ vẫn có lý, nhưng đồng thời họ đã vô tình

mô tả sức mạnh mới của phương pháp Newton. Ở cuối tác phẩm

Principia, quyển III, "Hệ thống của vũ trụ", Newton đã cố gắng xác

định những giới hạn của phương pháp của mình và sự thành tựu

của mình. Sau khi kết luận bằng bài tán tụng Thiên chúa là Đấng

"hằng hữu và ở khắp mọi nơi", ông giải thích rằng "Chúng ta có

những ý tưởng về các phẩm tính của Người, nhưng chúng ta không

biết bản chất đích thực của mỗi phẩm tính đó là gì", và vì thế

chúng ta chỉ biết Thiên chúa "nhờ dáng vẻ bên ngoài của sự vật".

Một đệ tử của Newton có ảnh hưởng nhất ở thế kỷ 18, Jean

Rond d' Alembert (1717-1783), chủ biên khoa học của bộ Bách

khoa của Diderot, đã nhìn nhận Newton không muốn đóng vai của

Thượng đế, ông chỉ nùn thiên nhiên "qua tấm màn mỏng che giấu

những công trình của phần tinh tế nhất khỏi cái nhìn của chúng

ta... Bản tính của chúng ta là ngu dốt về bản chất và cơ cấu nội tại

của các vật thể, nên chúng ta chỉ có một nguồn hiểu biết duy nhất

là cố gắng ít là lãnh hội được sự tương tự của các hiện tượng để

suy diễn và giản lược chúng vào một con số nhỏ các sự kiện sơ

đẳng và nền tảng. Như thế, tuy Newton không xác định nguyên

nhân của sự vạn vật hấp dẫn, nhưng ông đã chứng minh rằng hệ

thống vũ trụ được đặt nền duy nhất trên những định luật của sự

vạn vật hấp dẫn này". Chống lại những cạm bẫy của nhận thức

Daniel J. Boorstin 156

http://ebooks.vdcmedia.com

thông thường, d' Alembert cảnh giác rằng "những khái niệm trừu

tượng nhất, những khái niệm mà người bình thường coi là không

thể hiểu được, thường lại là những khái niệm chiếu dọi luồng ánh

sáng chói chang nhất".

Newton là một tông đồ mãnh liệt của ánh sáng toán học

chính là vì ông nhận thức sâu sắc về bóng tối che phủ vạn vật. Ai

ngoài Thượng đế có thể thấu hiểu những cấu trúc sâu xa nhất của

vũ trụ? Thái độ huyền bí của Newton - cảm giác của ông về sự

huyền nhiệm ẩn dưới tính thống nhất của vũ trụ - đã lớn dần theo

thời gian. Nhưng suốt đời ông, ông đã nhìn thấy những giới hạn

của lý trí con người trong việc lãnh hội kinh nghiệm và sự nhận

thức về giới hạn này đã thúc đẩy ông quan tâm nghiền ngẫm Kinh

Thánh và các Ngôn Sứ. Thiên tài thực nghiệm và toán học của

Newton trở nên lu mờ do tâm tình tôn giáo và thần bí của ông. Số

lượng các bản thảo không đếm nổi của ông về thuật hóa kim

(650,000 từ) và về các đề tài Kinh Thánh và Thần học (1,300,000

từ) đã khiến các nhà nghiên cứu về Newton bối rối khi muốn tập

hợp chúng vào một khung hợp lý của hệ thống vũ trụ của ông.

Trong khi Newton được mọi người sùng bái vì thiên tài toán học

của ông đã dọi sáng sự biểu biết về vũ trụ, thì chỉ có rất ít người

cảm nhận được niềm kinh sợ của ông trước vẻ huyền nhiệm của vũ

trụ.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 157

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 53

QUYỀN ƯU TIÊN TRỞ THÀNH GIẢI THƯỞNG

Việc đề cao Newton là một nghĩa cử hoàn toàn mới mẻ của

thời cận đại, vì châu Âu đã học biết đề cao cái mới rất muộn. John

Dryden đã nêu lên câu hỏi vào năm 1668, "Không phải hiển nhiên

là một Thiên nhiên mới đã được tỏ lộ cho chúng ta sao?... không

phải nhiều bí mật cao quí về quang học, y học, giải phẫu học, thiên

văn học đã được khám phá, hơn là trong tất cả những thời đại dễ

tin và lẩm cẩm từ Aristote đến nay sao?" Trong thời đại mới của

các cuộc "mạc khải" này, mọi vinh dự sẽ được chất đầy lên con

người nào được coi là người đầu tiên đã tỏ lộ ra một sự thật về

thiên nhiên. Vì bây giờ máy in giúp nhanh chóng truyền đi tin tức

về mỗi cuộc khám phá mới, nên đã giúp xác định được ai có quyền

ưu tiên. Và quyền ưu tiên đã mang lại danh tiếng mà nó chưa

từng có trước nay.

Các trung tâm văn hóa và các đại học thời xưa tại châu Âu

đã được thiết lập không phải để khám phá cái mới mà để truyền

lại một di sản. Ngược lại, Hiệp Hội Hoàng gia và các nghị trường

khoa học khác, cùng với các hàn lâm viện khoa học ở Luân Đôn,

Paris, Florence, Rôma, Berlin và những nơi khác, đã nhắm mục

tiêu gia tăng kiến thức. Đó là những nhân chứng không phải do sự

giàu sang của quá khứ mà là cho điều được Giám mục Sprat, chủ

tịch Hội Hoàng gia gọi là "Thái độ tìm hiểu hiện tại của Thời đại

này".

Xưa kia, sở hữu một ý tưởng hay sự kiện có nghĩa là phải giữ

nó bí mật cho riêng mình, có khả năng ngăn ngừa để người khác

không biết được bí mật đó. Các bản đồ những lộ trình tìm kho báu

được bảo mật và những dịch vụ bưu điện đầu tiên đã được thiết

lập vì lý do an ninh của đất nước. Các thầy thuốc và luật sư giữ

kín các kiến thức của họ bằng thứ ngôn ngữ bác học. Chính phủ

giúp các phường ngành nghề loại trừ các kẻ vi phạm khỏi những bí

mật nhà nghề. Nhưng sự xuất hiện của máy in đã làm cho việc giữ

bí mật từ nay trở nên khó hơn bao giờ. Hơn nữa, ngành in đã thay

Daniel J. Boorstin 158

http://ebooks.vdcmedia.com

đổi triệt để, thậm chí đã đảo ngược ý nghĩa của việc "sở hữu" một ý

tưởng. Bây giờ việc xuất bản có thể tạo một nhãn hiệu cá nhân

trên một sự kiện mới khám phá hay một ý tưởng mới.

Các nhà buôn và thợ thủ công cổ truyền đương nhiên nghi

ngờ những cái mới, vì "họ thường có thái độ hẹp hòi vốn có của các

nghiệp đoàn, thường có thói quen chống lại những người mới đến,

coi họ như kẻ thù của những đặc quyền của mình".

Khi tổ chức Hội Hoàng gia, Henry Oldenburg rất khôn ngoan

đã nhìn ra ý nghĩa mới của quyền ưu tiên. Ông đã linh cảm rằng

những thành viên có thể sẽ ngại gởi các khám phá của mình tới

hội vì sợ người khác có thể cướp mất quyền phát minh của mình.

Vì thế ông đã đề nghị "phải đề cử một người để phát hiện những

kẻ ăn cắp tác phẩm và để xác nhận đúng tác giả của những phát

minh". Để bảo vệ quyền ưu tiên của những nghiên cứu còn đang

tiến triển, Oldenburg quyết định rằng "khi một hội viên nào có

một ý tưởng hay phát minh chưa được hoàn thành và muốn cất giữ

nó trong một hộp niêm phong để gởi tới thư ký của hội cho tới khi

nó được hoàn thành, điều này có thể cho phép, để bảo đảm tốt hơn

những phát minh cho các tác giả của chúng". Tiến bộ của khoa học

có thể bị ám ảnh bởi bóng ma của quyền ưu tiên. Ngay cả nhà

khoa học lỗi lạc nhất cũng có vẻ quan tâm nhiều đến quyền tác giả

của mình hơn là tới việc chứng minh chân lý của các khám phá

của họ.

Trước khi 30 tuổi và khi còn chưa có những khích lệ hay giải

thưởng do sự nhìn nhận của công chúng, Newton đã vững vàng đi

trên con đường dẫn tới những khám phá lớn của mình rồi. Đến

năm 1672, ông đã hình thành lý thuyết vi phân làm cơ sở cho phép

tính vi phân của ông, nhưng các nhà sách ở Luân Đôn thời ấy

thường bị lỗ khi xuất bản những tiểu luận toán học nên không

hăng hái xuất bản tác phẩm của ông. Tháng năm 1669 ông lần

đầu tiên được công khai gia nhập cộng đồng các nhà khoa học khi

ông đề nghị quyền sáng chế cho kính viễn vọng phản xạ của ông.

Các kính viễn vọng mà Galileo và những người khác sử dụng đều

là những kính viễn vọng phản xạ, sử dụng hai thấu kính để

khuếch đại hình ảnh và đưa các tia sáng về một tiêu điểm. Nhưng

những ống kính này phải rất dài và dễ bị quang sai màu. Trái lại

kính viễn vọng của Newton không sử dụng thấu kính nhưng sử

dụng hai gương lõm nên có thể làm ngắn hơn nhiều mà lại có khả

năng khuếch đại mạnh hơn và không bị quang sai màu. Về sau,

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 159

http://ebooks.vdcmedia.com

kính này còn có những ưu điểm khác nữa mà Newton chưa nghĩ

tới.

Kính viễn vọng phản xạ có sự giới hạn tự nhiên về kích thước

vì các thấu kính phải được giữ chắc ở đường riềm chung quanh và

sức nặng của thấu kính tự nó dễ làm lệch hình dạng của nó.

Nhưng các gương thì có thể được giữ chắc phía sau và vì thế gương

có thể có kích thước lớn mà không bị lệch hình dạng. Chính

Newton tự tay làm và tráng thủy các gương và dụng cụ làm gương

để chế tạo kính viễn vọng của mình. Ông nói, "Nếu tôi nhờ người

khác làm thứ này, tôi sẽ chẳng chế tạo được gì cả". Kính viễn vọng

phản xạ đầu tiên của ông, tuy chỉ dài 6 inch (= khoảng 15cm),

nhưng có độ khuếch đại gấp 40 lần và ông khoe nó mạnh hơn cả

một kính phản xạ dài 6 feet (= khoảng 180cm).

Qua từng nấc thang địa vị, Newton trở thành cố vấn, rồi đến

năm 1703 trở thành chủ tịch - đúng ra là nhà độc tài - của Hội

Hoàng gia suốt một phần tư thế kỷ cho tới lúc ông mất. Khi uy tín

gia tăng, tính độc đoán của ông cũng tăng theo và ông không muốn

để cho những người khác chia sẻ uy tín của những khám phá của

mình. Những năm cuối đời, khi ông trở thành thần tượng của giới

"Triết học" Luân Đôn, ông thường xuyên có những cuộc cãi vã cay

đắng với những người cấp dưới và những ai có vẻ đe dọa vị trí độc

tôn của ông.

Cuộc tranh chấp ngoạn mục nhất của thế kỷ trên sân khấu

khoa học mới được phổ cập này là cuộc chiến của ông với đại triết

gia Nam tước Gottfried Wilhelm von Leibniz. Thách đố lúc này là

một giải thưởng tác quyền khoa học lớn nhất của thời đại - vinh dự

của việc phát minh phép tính (calculus). Thời đó ít người hiểu

phép tính là gì, thậm chí trong số các nhà khoa học. Nhưng vấn đề

tranh chấp quyền ưu tiên thì ai cũng hiểu. Các người có học đều

nhận ra rằng calculus là một phương pháp mới để tính toán tốc độ

và sự thay đổi chuyển động và phép tính mang lại nhiều hứa hẹn

cho việc tăng nhanh những công dụng của các dụng cụ khoa học và

các dụng cụ đo lường. Chúng ta dù không phải chuyên gia về phép

tính vẫn có thể hiểu rõ vấn đề tranh chấp quyền ưu tiên. Cuộc cãi

vã về quyền ưu tiên, tuy không có tính chất xây dựng, nhưng đã

giúp mở rộng thành phần công chúng quan tâm đến khoa học.

"Phép tính vi phân" này là gì mà người ta lại thích thú cãi vã nhau

trước công chúng như thế?

Daniel J. Boorstin 160

http://ebooks.vdcmedia.com

Đối thủ của Newton, Leibniz (1646-1716) cũng là một triết

gia kiêm khoa học gia sâu sắc nhất của thời cận đại. Từ lúc 6 tuổi,

cậu bé Leibniz đã ham thích đọc sách trong thư viện lớn của cha

cậu, lúc đó làm giáo sư triết học đạo đức tại Đại học Leipzig và khi

14 tuổi cậu đã thông suốt các tác phẩm cổ điển. Trước khi 26 tuổi,

Leibniz đã chế ra một chương trình cải cách luật pháp cho Đế quốc

Thánh Rôma, sáng chế ta một máy tính và đã khai triển một kế

hoạch để thuyết phục vua Louis XIV bỏ cuộc tấn công vùng

Rhineland và thay vào là xây dựng kênh Suez. Năm 1673, khi ông

đến thăm Luân Đôn trong một sứ vụ ngoại giao, ông gặp

Oldenburg và được chọn làm Hội viên của Hội Hoàng gia. Các cuộc

du hành của Leibniz tại châu Âu đã cho ông cơ hội gặp gỡ

Huygens, Spinoza Malpighi và Viviani, học trò của Galileo. Ông

cũng đã gặp nhà truyền giáo Dòng Tên Grimaldi khi ông này sắp

sửa đi sang Bắc Kinh để trở thành nhà toán học trong Hoàng cung

Trung Hoa.

Điều chủ yếu trong câu chuyện của chúng ta liên quan tới

Leibniz là mối quan hệ lâu dài của ông với Hội Hoàng gia, lúc đầu

rất hiệu quả, nhưng về sau trở thành tai hại. Thảm kịch tột đỉnh

xảy ra với việc xuất bản năm 1712 bản tường trình chính thức của

ủy ban tháng tám của Hiệp hội được chỉ định để giải quyết vụ

tranh chấp quyền ưu tiên giữa Leibniz và Newton. Bối cảnh chỉ là

một lời phàn nàn của Leibniz rằng ông bị lăng mạ bởi John Keill.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 161

http://ebooks.vdcmedia.com

Phần XII

Phân loại vạn vật

"Darwin đã làm chúng ta ham

thích lịch sử kỹ thuật của thiên

nhiên".

Karl Marx, Tư bản (1867)

Daniel J. Boorstin 162

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 54

HỌC QUAN SÁT

Trong suốt 15 thế kỷ, những người tri thức châu Âu muốn

tìm hiểu thiên nhiên đều dựa trên những sách truyện về "cây

cỏ"và "loài vật", là những tác phẩm đã thống trị giống như Galen

trong lãnh vực y khoa và những diễn tả thi vị của những câu

chuyện đã làm mê hoặc người đọc và lôi cuốn họ xa rời thế giới

thực của cây cỏ và động vật. Ngày nay, khi chúng ta đọc những

sách hướng dẫn đó, chúng ta hiểu được tại sao người châu Âu thời

Trung Cổ đã tỏ ra chậm chạp trong việc học quan sát như thế.

Không bao giờ có gì thay thế nổi những trang sách truyện đầy thi

vị về cây cỏ và loài vật để mang lại sự giải trí và niềm vui cũng

như những phương thuốc chữa bệnh trong gia đình .

Khoa thực vật học thời trung cổ đều dựa trên những nguồn

này, một di sản của Dioscorides, nhà phẫu thuật Hi Lạp thời cổ và

là người đã từng tham gia quân đội của hoàng đế Nêro trên vùng

biển Địa Trung Hải. Tác phẩm của ông nhan đề De Materia (Các

dược liệu) viết khoảng năm 77 là một tài liệu quan sát thực vật

nhằm mục đích bào chế dược phẩm. Các thầy thuốc đã rong ruổi

khắp đó đây để tìm kiếm những loài cây cỏ theo mô tả với những

gì họ thấy ở Đức, Thụy Sĩ, hay Tô Cách Lan. Giống như Galen,

Dioscorides đã nghiên cứu thiên nhiên, nhưng các học trò của

Dioscorides lại nghiên cứu Dioscorides. Ông đã thất bại trong

niềm hi vọng của ông rằng người đọc sách của ông "sẽ không nên

quan tâm nhiều đến những lời nói của ông, mà nên để ý đến sự

chuyên chăm và kinh nghiệm mà ông đã đưa vào chất liệu nghiên

cứu". Các tác giả thời cổ thường xếp đặt theo thứ tự chữ cái ABC

để phân biệt "những loại và hoạt động của những sự vật có tương

quan mật thiết với nhau, khiến chúng trở nên khó nhớ hơn".

Ngược lại, Dioscorides chú ý đến chỗ các cây mọc lên, khi nào thu

hoạch chúng và cách thức thu hoạch chúng và cả tới những loại

thùng để chứa chúng nữa. Giống như các tác giả cổ điển khác, ông

đã đào tạo ít môn sinh, nhưng lại nhiều người chú giải. Những

người này giữ lại những lời ông nói, nhưng quên mất gương mẫu

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 163

http://ebooks.vdcmedia.com

của ông. Ông đã trở thành một sách giáo khoa thay vì trở thành

một bậc thầy.

Thế nhưng đối với những đầu óc thực tiễn của thời Trung cổ,

Dioscorides có sức lôi cuốn lạ thường, vì ông không phân tán sự

chú ý của độc giả bằng lý thuyết hay sự phân loại. Viết bằng tiếng

Hi Lạp, truyện cây cỏ của Dioscorides liệt kê hơn sáu trăm cây cỏ

thông dụng hàng ngày. Phải kiếm cây nào để lấy chất dầu, chất

mỡ, hay hương thơm? Cây nào có thể chữa nhức đầu hay tẩy xóa

những nốt tàn nhang trên da. Trái cây nào hay rau nào hay củ nào

ăn được? Các gia vị địa phương gồm những cây nào? Những cây

nào có chất độc và chất cây nào có thể giải độc? Những thuốc nào

có thể chế ra từ cây cỏ?

Vô số thủ bản giáo khoa của "Dioscorides" còn tồn tại đã

chứng minh sự phổ cập của những sách này suốt thời Trung cổ.

Càng đọc các bản văn của Dioscorides, chúng ta càng hiểu rõ tại

sao ông được nhiều người đọc như thế và các tên ông đặt cho cây cỏ

đã tồn tại lâu như thế. Ví dụ, ông viết về cây đầu tiên trong các

loại "cây hương liệu" của ông.

Cây cầu vồng (iris) được gọi như thế vì nó trông giống như

cầu vồng trên trời... Rễ cây có những đầu mẩu, cứng và có vị ngọt,

sau khi cắt ra phải phơi khô trong bóng mát và vì thế (sau khi cột

ngang bằng một dây vải) phải để chúng dựng đứng. Nhưng loại

cây tốt nhất là ở Illyria và Macedonia... Loại tốt thứ hai là ở

Lybia... Nhưng tất cả đều có hiệu quả làm cho ấm, giảm ho và làm

tróc đờm. Nếu pha vào nước mật ong để uống, nó gây buồn ngủ và

làm chảy nước mắt và chữa những cơn đau dạ dày. Nhưng uống

với giấm nó giúp chữa những người bị cắn bởi các con vật có nọc

độc và chữa viêm lá lách và những chứng rối loạn gây co giật và

chữa tê cóng và những chứng như nôn mửa.

Hơn một ngàn năm sử dụng các thủ bàn của Dioscorides cho

chúng ta thấy hậu quả của việc "tam sao thất bản" là như thế.

Dần dà với thời gian, các hình vẽ minh họa càng bị sửa đổi và càng

xa dần hình ảnh thực tế thiên nhiên. Các bản sao chép của thế hệ

sau đã tưởng tượng ra những lá cây có hình đối xứng cho đẹp, tô

thêm các rễ cây thân cây cho to ra để có thể vừa đủ một trang giấy.

Thế là dần dần các tưởng tượng của những người sao chép đã trở

thành ước lệ.

Daniel J. Boorstin 164

http://ebooks.vdcmedia.com

Những người sao chép giàu tưởng tượng đã dựa vào các tên

gọi để rút ra đủ loại tính chất của các cây, làm cho thực vật học trở

thành một môn ngữ văn. Từ tên hoa thủy tiên (Narcissus), người

ta tưởng tượng ra những hình đầu người nho nhỏ, nhắc lại sự tích

của chàng thanh niên tên Narcissus chỗ nào cũng nhìn thấy và

yêu hình ảnh của chính mình. "Cây trường sinh" được quấn quanh

bởi một con rắn với đầu một phụ nữ.

Cuối thế kỷ 16, người giữ chiếc ghế trưởng khoa thực vật học

ở Đại học Bologna vẫn còn được gọi là "Người đọc sách

Dioscorides". Mỗi thế hệ tiếp theo chỉ thêm thắt những chi tiết nho

nhỏ, ít khi khác với bản gốc và vì thế những nhà thực vật học và

nhà nghiên cứu dược liệu chỉ là những nhà giải thích. Sách cây cỏ

là một danh mục các vị thuốc đơn giản, mỗi vị thuốc chỉ có một

thành phần, thường là lấy từ một cây duy nhất.

Những gì sách cây cỏ làm cho thực vật học, thì sách các loài

vật cũng làm cho động vật học. Những sách này cũng bắt nguồn từ

một sách gốc xa xưa duy nhất, được thêu dệt thêm sau nhiều thế

kỷ. Và ở thời Trung cổ, chỉ có sách Kinh Thánh là vượt lên trên nó

về số người đọc. Ở thời đại sách in của chúng ta, các sách in bán

chạy nhất được phổ biến rất nhanh qua các ranh giới địa lý nhưng

ít khi đi xa xuống các thế hệ kế tiếp. Nhưng ở thời đại của các thủ

bản xưa kia, sức mạnh của một tác giả cổ điển là bất tử. Vương

quốc của người trí thức được thống trị bởi một số ít những "tác giả"

có tài biến báo. Các tên tuổi cổ điển được dựng lên để phục vụ các

thế hệ về sau bằng vô số những lần hiệu đính và tác giả gốc chỉ

còn là một bóng ma. Bàn tay của người sao chép đã gạt bỏ tác giả

chính thức.

Bản sách gốc về loài vật lấy tên từ tiếng Hi Lạp, Physiologus

(Nhà Thiên nhiên học), mà chúng ta không biết rõ về tác giả. Tác

phẩm của ông, có lẽ viết trước giữa thế kỷ 2, hình như được chia

thành 48 phần, mỗi phần trích một đoạn văn trong Kinh Thánh.

Một ít sự kiện nêu trong sách đã cung cấp cho khoa động vật học

của nhiều thế hệ, nhưng chúng được thêu dệt bằng những chi tiết

thần học, luân lý, truyện dân gian, thần thoại, ngụ ngôn. Tới thế

kỷ 5, ngoài bản dịch La tinh, còn có những bản dịch sang tiếng

Armeni, ả Rập và Ethiopi. Về sau, đây là một trong những sách

được dịch sớm nhất sang các thổ ngữ châu Âu, gồm tiếng Đức cổ,

Anglo-Saxon, Anh cổ, Anh trung, Pháp cổ, Provencal và tiếng

Aixơlen.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 165

http://ebooks.vdcmedia.com

Bản tiếng Hi Lạp gồm khoảng 40 con vật được liệt kê một

cách thú vị. Tất nhiên đứng đầu là sư tử, vua các loài vật, với ba

đặc điểm nổi bật: nó dùng đuôi để quét sạch dấu vết chân của

mình khiến các thợ săn không thể đuổi theo; nó mở mắt trong khi

ngủ; và sư tử con mới sinh phải chờ ba ngày mới có sự sống khi sư

tử bố thở hơi sự sống vào nó.

Các con vật còn lại (thằn lằn, quạ, phượng hoàng, chim đầu

rìu và khoảng ba mươi con vật khác) đều mang nặng những bài

học luân lý. Không con nào sinh động hơn con "kiến sư tử" là con

pha giống không tự nhiên giữa một con sư tử và một con kiến, bản

tính của nó là phải chết đói, vì bản tính của kiến không cho nó ăn

thịt và bản tính của sư tử không cho nó ăn cỏ cây.

Trong các sách thực vật và động vật, tác giả và người minh

họa không những chỉ là những người khác nhau, mà đôi khi còn xa

cách nhau nhiều thế kỷ. Qua nhiều thế kỷ, cũng có những hình

minh họa khác nhau cho cùng một văn bản và ngược lại.

Chỉ có ít người có thể bao gồm những tài năng của cả nhà

thiên nhiên học và họa sĩ để có thể biến những vật tạp nham

thành những mẫu, những vật không chỉ được diễn tả mà còn được

trình bày cho thấy. Sự tương phản giữa những bản phác họa các

cây cỏ và những bác vẽ cây cỏ đúng với sự thực do Leonardo da

Vinci hay D(rer thực hiện khoảng năm 1500 là điều thật lạ lùng.

Leonardo kể lại rằng ông đã vẽ "nhiều bông hoa từ chính thiên

nhiên" và từ những hình vẽ của ông về cây mâm xôi, cây cỏ chân

ngỗng, hay cây cúc vạn thọ, những nhà thực vật học thời nay có

thể phân biệt chính xác từng loại một. Bức tranh thảm cỏ đồng

thật linh động của D'rer (một chùm cỏ gồm khoảng một chục loại

cỏ khác nhau) được nhìn từ mặt cỏ đã được coi là bản nghiên cứu

sinh thái đầu tiên về thực vật học.

Sự dũng cảm để quan sát và vẽ lại điều thực sự có đó đã đến

rất muộn màng. Vì trong thời kỳ cuối cùng này của các truyện về

cây cỏ, các sách in vẫn còn giữ lại những bản văn xa xưa. Giống

như Luther đã cố gắng cải cách Kitô giáo bằng cách kêu gọi trở về

với Kinh Thánh, Leonhart Fuchs (1501-1566) đã thúc đẩy các thầy

thuốc rời bỏ những bài bình luận thời sau này để trở về với bản

văn gốc của Galen và ông đã đưa ra ấn bản riêng của mình (Basel,

1538). Sinh trưởng tại vùng Alps thuộc xứ Swabia, hồi còn nhỏ cậu

bé thường đi dạo khắp vùng quê với ông nội, nghe ông kể cho cậu

tên của những loài hoa. KHi học đại học, cậu thụ giáo với nhà

Daniel J. Boorstin 166

http://ebooks.vdcmedia.com

nhân văn học Johan Reuchlin (1455-1522) và trở thành giáo sư y

khoa. Sau đó trong tác phẩm về cây cỏ của ông nhan đề De

Historia Stirpium (1542), ông dựa nhiều vào tác phẩm của

Dioscorides và các tác giả cổ điển khác. Nhưng ông đã mạnh bạo

rời xa những khuôn mẫu quan sát cổ xưa. Để cung cấp những hình

ảnh sống động, ông đã tổ chức một tập thể các họa sĩ (một người vẽ

cây từ thiên nhiên, người khác vẽ lại các hình vẽ vào các bản khắc

gỗ và người thứ ba khắc trên gỗ. Bìa sách có vẽ chân dung của

từng họa sĩ này.

Vượt xa qui phạm của Dioscorides, những hình vẽ này gồm

những bức khắc gỗ của 400 loài cây của địa phương nước Đức và

một trăm cây của nước ngoài. Fuchs cắt nghĩa trong Lời tựa tác

phẩm, "Mỗi loại cây được vẽ đúng theo những đặc tính và giống với

cây thật... và hơn nữa, chúng tôi cũng đã cẩn thận vẽ mỗi cây với

đầy đủ bộ rễ, thân, lá, hạt và trái của nó... chúng tôi cũng đã cố ý

tránh làm cho hình sáng thực sự của cây bị lu mờ bởi những bóng

hay những chi tiết không cần thiết khác mà những họa sĩ thường

dùng để tô điểm cho tác phẩm nghệ thuật của mình". Và ông còn

đi xa trong niềm say mê của mình, vì đối với ông "không có gì trên

đời thú vị và sung sướng hơn được đi dạo qua những khu rừng,

những ngọn núi, những cánh đồng xinh đẹp muôn vẻ với những

bông hoa và những cây cỏ đủ loại và được chạm đến và chiêm

ngắm chúng". Ông còn sắp xếp tên của các loài tên theo thứ tự

ABC.

Sách cây cỏ của Fuchs, ngày nay thực sự đáng được gọi là

một tác phẩm thực vật học, đã đề ra tiêu chuẩn cho việc minh họa

về cây cho thời cận đại, sau này đã gợi hứng rất nhiều cho William

Morris và John Ruskin. Từ những chuyến đi sang Tân thế giới,

Fuchs đã thu thập được một số cây cỏ của châu Mỹ, đặc biệt là

giống ngô Indies và sau khi ông qua đời, tên ông đã được dùng để

gọi một loài cây nhiệt đới đẹp nhất của châu Mỹ, cây fuchsia, cây

hoa vân anh.

Theo một nghĩa nào đó, Hieronymus Bock (1498-1554), ông

tổ thứ ba của khoa thực vật học Đức, lại còn xuất sắc hơn nữa. Sau

khi bắt đầu cố gắng xác định các tên Đức và La tinh cho các loài

cây thuộc vùng ông sống ở Đức, ông tiếp tục mô tả một cách rất

thoáng trong cuốn Neu Kreutterbuch (1539) tất cả những cây

thuộc vùng phụ cận và cũng đã đề ra cho mình một nhiệm vụ mới

là đặt tên cho các cây địa phương bằng tiếng địa phương.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 167

http://ebooks.vdcmedia.com

Đi xa hơn những điều kì diệu quen thuộc ở miền quê nước

Đức, châu Âu của nửa thế kỷ 16 cảm thấy rất thích thú với những

cây cỏ và động vật xa lạ của vùng Đông và "Indies". Các "sự kiện"

của Tân Thế Giới không tự động làm giàu cho kho kiến thức mới.

Vì theo lời kể của Shakespeare, các thủy thủ rất thích thú với

những kinh nghiệm đầy ấn tượng của họ ( với những câu truyện về

những người đầu thụt xuống dưới vai, hay không có đầu gì cả, hay

những người như người Pantagonia chỉ có một chân rất to, hay

những người Labradorea có đuôi. Kết quả là, như lời sử gia

Richard Lewinsohn nhắc nhở chúng ta, có "Cuộc tái sinh của Thái

độ Mê tín dị đoan". Từ châu Mỹ phát sinh hàng loạt những giống

người dị chân và những loài vật kì lạ. Vì nghĩ tới một loài đọng vật

mới thì cũng khó chẳng kém gì khám phá ra nó, nên những sự

kiện tưởng tượng ra được ghép vào với những con vật của thần

thoại và truyện dân gian.

Thời Đại Khám Phá đã đem đến sự phục hưng cho các câu

truyện hoang đường. Đã xuất hiện những con mãng xà biển dài

hàng trăm thước xưa nay chưa từng thấy. Những người biển được

kể lại với đầy đủ chi tiết ( đàn ông với những cặp mắt sâu và đàn

bà với những bộ tóc dài - chỉ thèm những người da đen hay da đỏ,

nhưng cũng chỉ ăn những bộ phận lồi ra ngoài của cơ thể như mắt,

mũi, ngón tay, ngón chân và bộ phận sinh dục. Cùng với những

giống vật tưởng tượng của thời Trung Cổ còn thêm những giống

vật có thật từ những cuộc du hành qua châu Mỹ. Những ai không

đọc được tiếng La tinh có thể thưởng thức những hình ảnh in trong

sách rất nhiều.

Đay là những cơ hội gợi hứng cho cả một thế hệ mới các nhà

bách khoa về thiên nhiên. Người xuất sắc nhất là Konrad Gesner

(1516-1565)có thiên tài ghép những cái mới vào với những cái cũ.

Thàng thạo rất nhiều ngôn ngữ, Gesner luôn luôn bị dằn vặt giữa

những gì ông đọc những gì ông thấy. Sinh năm 1516 trong một gia

đình nghèo, ông tự học trong tư cách một học giả đi khắp đó đây

và mới 20 tuổi ông đã viết một cuốn từ điển La tinh-Hi Lạp. Trong

ba mươi năm kế tiếp, ông đã viết 70 bộ sách về mọi đề tài có thể

nghĩ ra. Bộ sách đồ sộ Bibliotheca Universalis, "Thư viện Thế

Giới" (4 quyển, 1545-1555) có mục đích cung cấp một danh mục

của mọi tác phẩm La tinh, Hi Lạp và Híp ri đã có từ trước tới nay.

Gesner liệt kê một ngàn tám trăm tác giả và tựa đề sách của họ

bằng và sách in, với tóm lược nội dung của mỗi sách. Từ đó ông

Daniel J. Boorstin 168

http://ebooks.vdcmedia.com

được mệnh danh là Ông Tổ của Khoa Thư Tịch Học. Khoa trắc địa

giúp cho các nhà thám hiểm trên bộ và trên biển thế nào, thì khoa

Thư Tịch Học cũng giúp cho công việc thư viện như thế .

Tại thư viện của dòng họ Fuggers, ông đã phát hiện ra một

thủ bản bách khoa bằng tiếng Hi Lạp của thế kỷ 2và sự kiện này

đã gợi hứng cho ông trở thành một Pliny của thời cận đại. Sau

cùng, tác phẩm Historia Animalium ( Lịch Sử Động Vật) của ông

theo lôi sắp xếp của Aristote đã cung cấp mọi điều ta biết, nghĩ,

tưởng tượng, hay kể lại về mọi loài vật từng được biết đến. Giống

như Pliny, ông thâu thập mọi điều đã có, nhưng cũng thêm vào

những điều đã tích lũy trong 15 thế kỷ sau Pliny. Tuy có óc phê

bình nhiều hơn Pliny, nhưng ông cũng không loại bỏ hết được

những truyện hoang đường, như khi ông kể về một con mãng xà

biển dài hơn một trăm thước. Nhưng tùy hoàn cảnh, ông thêm vào

những chi tiết hữu ích như khi ông kể về việc săn cá voi và là

người đầu tiên đưa hình ảnh một con cá voi được lột da để lấy mỡ.

Công trình của Gesner tạo được ảnh hưởng lâu dài là nhờ thể viết

dân gian của ông và khả năng họa lại những sự kiện và những

điều tưởng tượng với cùng một nét sinh động đầy thuyết phục.

Tác phẩm của Gesner được in đi in lại nhiều lần, được dịch

sang nhiều thứ tiếng và được tóm lược, đã thống trị khoa động vật

học sau Aristote cho tới khi có sự khai phá mới của các công trình

khảo sát của Ray và Linnaeus, nhưng những công trình sau này

không có những hình vẽ minh họa. Những ghi chép không xuất

bản của ông đã được dùng làm cơ sở cho một tiểu luận đầu tiên về

côn trùng trong thế kỷ tiếp theo. Để viết bộ thực vật học Opera

Botanica, ông đã thu thập một ngàn hình vẽ, nhiều hình tự tay

ông vẽ, những tác phẩm lớn của ông về thực vật, mối tình đầu của

ông, ông không bao giờ hoàn tất .

Ông không bao giờ dứt bỏ hẳn được mối ám ảnh về ngữ văn

của mình. Ông đã viết một tập sách 158 trang với nhan đề,

Mithridates, hay quan sát các khác biệt nơi các ngôn ngữ đã hay

đang được sử dụng tai những quốc gia khác nhau trên toàn thế

giới (1555), với mục đích thực hiện cho ngôn ngữ những gì ông đã

làm cho lãnh vực động vật và thực vật. "Tất cả" một trăm ba mươi

thứ tiếng trên thế giới đã được ông mô tả và so sánh trong bản

dịch Kinh Lạy Cha của ông. Tiện thể, ông cũng đã cung cấp lần

đầu tiên từ vựng của ngôn ngữ dân Gypsy.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 169

http://ebooks.vdcmedia.com

Gesner đã tìm ra một cách đặc trưng Thụy Sĩ hơn để khám

phá thiên nhiên khi ông quảng cáo cho những cuộc mạo hiểm để

thám hiểm những ngọn núi cao, mà như chúng ta thấy, từ lâu đã

là những cảnh gợi ra sự kinh ngạc và khiếp sợ. Châu Âu thời Phục

Hưng đã thoáng thấy một tia chớp ngắn ngủi về tinh thần mạo

hiểm núi non. Pertrarch (1304-1374) đã là người mở đường gần

Avignon năm 1336 bằng việc ông leo lên đỉnh núi Ventoux.

Leonardo de Vinci, với cặp mắt của nhà họa sĩ kiêm thiên nhiên

học, đã thám hiểm núi Bo năm 1511. Nhà cải cách và nhân văn

học Thụy Sĩ Joachim Vadianus (1484-1551) đã leo lên đỉnh

Gnepfstein gần Lucerne năm 1518.

Nhưng Gesner là người châu Âu đã xuất bản một tác phẩm

tán dương việc leo núi. Sau khi leo lên đỉnh Pilatus gần Lucerne

năm 1555, ông đã viết ra một tác phẩm cổ điển nho nhỏ của mình .

Nhưng những niềm sợ hãi lâu đời trước cảnh núi non vẫn

chưa dễ khắc phục và phải đợi đến hai thế kỷ sau Gesner, ngành

leo núi hiện đại mới thực sự bắt đầu. Ngọn Mont Blanc (15,771

ft.), ngọn cao nhất châu Âu ngoài dãy Caucase, chỉ được leo lên

năm 1786 bởi một người muốn đoạt giải thưởng của một ông tổ địa

chất học Thụy Sĩ, Horace-Bénédict de Saussure (1740-1799) được

treo hai mươi lăm năm trước đó.

Daniel J. Boorstin 170

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 55

PHÁT MINH CÁC "LOÀI"

Bao lâu các nhà thiên nhiên học còn xếp các cây cỏ và động

vật theo thứ tự ABC, việc nghiên cứu thiên nhiên còn ở trong tình

trạng sách vở và địa phương. Hiển nhiên thứ tự các cây cỏ và động

vật sẽ tùy thuộc ngôn ngữ bạn đọc. Bản dịch La tinh sách bách

khoa uy tín của Gesner bắt đầu bằng chữ Alces (Nai sừng tấm),

nhưng bản dịch tiếng Đức lại bắt đầu bằng chữ Affe (Khỉ cụt đuôi),

trong khi cuốn Lịch sử các động vật Bốn chân của Topsell Chương

Một lại bắt đầu mô tả về loài linh dương, với chữ Antelope.

Các nhà thiên nhiên học cần tìm ra một cách chính xác để

gọi các tên cây cỏ và động vật mà không bị trở ngại ngôn ngữ.

Nhưng ngay cả trước việc này, họ cần phải nhất trí với nhau về

cách hiểu thế nào là một "loại" thực vật hay động vật. Đâu là

những đơn vị của thiên nhiên? Khi các nhà thiên nhiên học tiên

phong hình thái khái niệm về "loài" (species), họ đã cung cấp một

từ vững hữu dụng để phân loại toàn thể thiên nhiên. Dần dần,

cách thức mô tả mới này sẽ mở ra nhiều câu hỏi không thể trả lời.

Nhưng đồng thời nó cũng mở rộng nhãn giới về sự đa dạng của

thiên nhiên. Và việc tìm kiếm một cách thức "tự nhiên" để phân

loại vạn vật sẽ tạo ra những cuộc mạo hiểm tri thức vĩ đại của thời

đại mới.

Trong những bộ bách khoa phổ biến cũ, như bộ Lịch sử các

động vật bốn chân của Topsell, vẫn còn một màn sương dày đặc

bao trùm các ranh giới giữa các loài động vật. Aristote đã chỉ mô

tả được khoảng năm trăm loại.

Một khó khăn mà chúng ta đã quên mất, đó là niềm tin

tưởng phổ biến vào việc sinh sản tự phát (ngẫu sinh). Aristote đã

viết rằng ruồi, sâu bọ và những con vật bé nhỏ sinh ra một cách

ngẫu nhiên từ chất hư thối. Vào thế kỷ 17, bác sĩ và nhà sinh lý

học nổi tiếng người Flamand là Jan Baptista van Helmont (1577-

1644) nói ông đã thấy những con chuột sinh ra từ cám và giẻ rách.

Nếu các động vật có thể phát sinh một cách ngẫu nhiên, thì ta

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 171

http://ebooks.vdcmedia.com

không thể nào định nghĩa được về loài như một vật sinh ra hay

được sinh ra bởi một vật khác cùng loài của mình.

Phải dần dần và một cách miễn cưỡng, các nhà thiên nhiên

học châu Âu mới từ bỏ được ý tưởng này. Như chúng ta đã thấy,

thái độ khinh thị của Aristote đối với các loài sâu bọ "hạ đẳng" là

dựa trên khái niệm của ông rằng những con vật này không có

những cơ quan đặc trưng để phân biệt như nơi các động vật

"thượng đẳng". Francesco Redi (1626-1697) là người đã khám phá

ra cách thức loài rắn tạo ra nọc độc và là người quan tâm đến

những loài vật "hạ đẳng", bao gồm những côn trùng. Sau khi kính

hiển vi của Leeuwenhoek cho thấy những động vật nhỏ xíu có

những cấu trúc phức tạp ra sao, các nhà thiên nhiên học như

Swammerdam đã cảm thấy dễ dàng hơn để kết luận rằng những

con vật nhỏ xíu này không sinh sản tự phát, nhưng chúng có

những cơ quan sinh sản. Và Redi đã mô tả những bộ phận của côn

trùng tạo ra trứng của chúng. Năm 1688, ông gợi ý rằng "Thịt và

thảo mộc và những đồ vật khác... bị thối rữa không có vai trò hay

chức năng nào trong việc sinh sản ra côn trùng, có chăng là chỉ

chuẩn bị một chỗ thích hợp hay một tổ chức để tới lúc sinh sản, ấu

trùng hay trứng hay hạt giống của côn trùng được con vật tạo ra

và nở ra; và trong cái tổ này, con trùng mới sinh tìm ngay được

thức ăn để nuôi dưỡng một cách đầy đủ". Redi đã lấy một tấm vải

phủ lên một miếng thịt thối hay đặt miếng thịt này vào trong một

bình kín, nhờ đó ông chứng minh được rằng nếu ruồi không chạm

tới miếng thịt để đẻ trứng thì sẽ không có giòi bọ sinh ra. Nhưng

trong vài trường hợp khác, ông vẫn còn nghi ngờ có hiện tượng

ngẫu sinh và vấn đề này còn là đề tài tranh cãi trong suốt hai thế

kỷ nữa.

Ý tưởng về "loài" sẽ được định nghĩa, khai triển và ứng dụng

một cách lợi ích bởi các nhà sinh vật học khá lâu trước khi khái

niệm về ngẫu sinh có được kết luận và vấn đề này đã không thể

giải quyết vì những khía cạnh thần học của nó. Các nhà khoa học

cực đoan thấy rằng ý tưởng ngẫu sinh hữu ích cho giải thích của

họ về nguồn gốc sự sống, làm cho vai trò của Thiên chúa trong việc

tạo dựng trở thành dư thừa. Nhưng Louis Pasteur (1822-1895),

một tín hữu Công giáo trung thành và một nhà thực nghiệm lỗi

lạc, đã thấy vấn đề một cách khác. Theo ông, cần phải có một khái

niệm trật tự về loài để hiểu được hoạt động sáng tạo của Thiên

Chúa lúc khởi đầu. Sau những cuộc tranh luận gay gắt, các thí

Daniel J. Boorstin 172

http://ebooks.vdcmedia.com

nghiệm của ông về sự lên men đã chứng tỏ sự tồn tại của những

sinh vật trong không khí và chứng tỏ rằng sức nóng và sự khử bỏ

các hạt bụi trong không khí sẽ ngăn ngừa được sự xuất hiện của

thảm thực vật. Việc áp dụng thành công ý tưởng của ông trong

công việc tiệt trùng sữa và trong việc cải thiện qui trình chế tạo

rượu bia đã giúp thắt chặt những lập luận chống lại sự ngẫu

nhiên.

Khi nghĩ đến sự khó khăn trong việc tạo ra một hệ thống

phân loại toàn thể tạo vật, chúng ta không còn ngạc nhiên tại sao

các tác giả của các sách về thực vật và động vật đã xếp loại chúng

theo thứ tự ABC hay theo cách sử dụng của con người. Vì những

khác biệt giữa các động vật thường dễ thấy hơn là giữa các thực

vật nên những cố gắng đầu tiên để phân loại đã nhắm vào các

động vật. Các tác giả thời Trung cổ bắt đầu dựa vào lược đồ của

Aristote, trong lược đồ này Aristote đã phân chia các động vật có

máu đỏ với tất cả các động vật khác, mà ông gọi là không có máu.

Rồi các loại có máu lại được phân chia theo cách thức sinh sản (đẻ

con hay đẻ trứng) và theo môi trường sống, còn những động vật

khác được phân chia theo cấu trúc tổng quát của chúng (vỏ mềm,

vỏ cứng, côn trùng, v.v...). Bản thân Aristote đã sử dụng một khái

niệm về "chủng" từ tiếng Hi Lạp genos, hay giống; và loài (species)

từ tiếng Hi Lạp eidos, hay dạng, có lẽ có xuất sứ từ Plato. "Chủng"

hay giống của ông chỉ về những nhóm lớn hơn loài (species). Lược

đồ khái quát của Aristote đã phục vụ tạm đủ cho các nhà thiên

nhiên học châu Âu trong thời Trung cổ, khi ấy tương đối có ít thực

vật hay động vật mới được người ta phát hiện. Họ chỉ việc xác định

các thực vật và động vật của địa phương họ phù hợp với những mô

tả trong các văn bản cổ.

Đến Thời đại Khám phá, người ta bắt đầu phát hiện ra vô số

thực vật và động vật mới. Phải sắp xếp chúng thế nào? Làm sao có

thể biết được cây nào hay con vật nào thực sự là mới?

Các mẫu thực vật và động vật, các câu chuyện của những du

khách và những hình vẽ mới mẻ sống động về thiên nhiên tràn

ngập khắp nơi và hết sức hỗn độn. Các sách bách khoa như của

Gesner tập hợp lẫn lộn các sự kiện có thực với các điều tưởng

tượng. Các điều kỳ lạ ở khắp nơi được qui tụ lại. Làm cách nào để

sắp xếp từng mẫu một? Làm cách nào để dán nhãn, tổ chức, hay

truy tìm?

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 173

http://ebooks.vdcmedia.com

Để tìm ra một "hệ thống" trong thiên nhiên, nhà thiên nhiên

học trước tiến phải tìm hay tạo ra những đơn vị cho hệ thống của

mình. Khái niệm về "loài" (species) đã giúp đạt mục đích này.

Trong khoảng một trăm năm từ giữa thế kỷ 17 tới giữa thế kỷ 18,

người ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc phân loại thiên nhiên

nhiều hơn là những gì đã đạt được trong cả một ngàn năm trước

đó.

Hai nhà hệ thống hoá lớn (Ray và Linnaeus) đã làm cho mọi

thực vật và động vật điều mà Mercator đã làm cho toàn thể bề mặt

của trái đất. Giống như những nhà vẽ bản đồ trái đất đã bắt đầu

từ những đường ranh giới tự nhiên của đất, biển, núi và sa mạc,

thì các nhà thiên nhiên học cũng đã tìm những đơn vị tự nhiên nơi

thực vật và động vật. Nhưng, như chúng ta đã thấy, ngay cả đối

với bề mặt của trái đất, cũng cần phải chế ra những đường tưởng

tượng về vĩ tuyến và kinh tuyến để những người khác có thể tìm ra

vị trí của mình và mọi người có thể cũng chia sẻ sự gia tăng kiến

thức. Cũng thế, các nhà thiên nhiên học phải chế ra những đơn vị

để giúp những người khác ở khắp nơi có thể tìm ra vị trí của chúng

trong cả một rừng thiên nhiên bao la. Giống như những "nguyên

tử" trong hệ thống vật lý, những "loài" (species) này cuối cùng sẽ

được mở ra và bị phá bỏ, nhưng đồng thời chúng cung cấp một bộ

từ vựng cơ bản và thuận tiện. Vào cuối thế kỷ 20, "loài" đã trở

thành quen thuộc và hữu ích đến nỗi nó trở thành cốt yếu mỗi khi

ta nghĩ đến thực vật hay động vật, gần như là một cơ cấu tự nhiên

của thiên nhiên.

Ngay từ đầu khái niệm "species" đã là một sản phẩm gặp

nhiều sóng gió và tranh cãi. Cũng may cho tương lai của sinh vật

học là John Ray (1627-1705) đã định nghĩa về "Species" ngay khi

ông phát minh ra nó. Không giống những lược đồ trước kia, lược đồ

của ông áp dụng cả cho thực vật lẫn động vật và làm cho người kế

tục vĩ đại của ông có thể phát minh ra một hệ thống để phân loại

toàn thể tạo vật. Tại Đại học Trinity, Cambridge, Ray học các tác

giả cổ điển, thần học và khoa học tự nhiên (đậu cử nhân khoa học

năm 1648), rồi trở thành một giảng viên của đại học, ông dạy các

sinh viên chưa tốt nghiệp tiếng Hi Lạp và toán học. Một đạo luật

của Quốc hội năm 1662 buộc mọi giáo sĩ, giảng viên đại học và các

giáo viên trung học phải tuyên thệ chấp nhận mọi điều trong sách

Kinh Chung, nhưng Ray không muốn chấp nhận một điều nào và

vì thế ông đã từ bỏ chức vụ giảng viên đại học.

Daniel J. Boorstin 174

http://ebooks.vdcmedia.com

Một sự tình cờ may mắn đã cho Ray gặp một giảng viên của

đại học trẻ tuổi hơn ông và rất giàu có. Francis Willughby (1635-

1672), người đã tạo điều kiện cho Ray trở thành một học giả tự túc

và độc lập suốt đời. Sau một thời niên thiếu bệnh tật, Ray đã tập

thói quen đi dạo miền quê và rồi cùng Willughby trở thành đôi bạn

trung thành thường xuyên dạo chơi khắp vùng đồng quê

Cambridge. Ray theo đuổi những mối quan tâm khoa học của

mình bằng cách mô tả mọi cây cỏ ông trông thấy và rồi tiếp tục

khảo sát các cây cỏ tại những miền khác trên nước Anh. Ông đã

xuất bản năm 1670 một sách phân loại các cây cỏ của nước Anh,

trong đó thỉnh thoảng ông ghi chú những câu tục ngữ và các tên

quen thuộc gọi của các miền khác nhau trên đất nước, kết hợp việc

phân loại các tên gọi với các sinh vật. Ray và Willughby cùng nhau

đi tham quan các nước Hà Lan, Đức, Italia, Sicily, Tây Ban Nha

và Thuỵ Sĩ, đi đến đâu hai ông đều chăm chú để ý đến các loài

thực vật. Trên đường, hai ông đã hình thành một kế hoạch to lớn,

một thứ hợp đồng của tuổi trẻ thường ký kết nhưng ít khi thực

hiện. Theo kế hoạch này, họ sẽ hợp tác thực hiện một công trình

hệ thống hoá thiên nhiên toàn diện (mô tả toàn thể lược đồ về

thiên nhiên dựa trên những quan sát của chính mình. Ray sẽ làm

trong lãnh vực thực vật, Willughby trong lãnh vực động vật. Kế

hoạch đầy tham vọng này đang tiến triển thì Willughby qua đời

năm 1672 lúc đó mới 37 tuổi.

Trong khi đó các lá thư của Ray gởi cho Oldenburg đã gây ấn

tượng rất mạnh cho Hội Hoàng gia đến nỗi không những ông được

chọn làm hội viên của Hội, mà khi Oldenburg mất, ông đã được đề

nghị giữ chức Thư ký của Hội. Nhưng Ray đã từ chối, vì trong di

chúc Willughby đã để lại cho ông một khoản thu nhập hàng năm

và thay vì trở thành một trung gian làm việc cho những nhà khoa

học khác, ông muốn là một nhà nghiên cứu thiên nhiên độc lập.

Ông dời đến ở trang viên Middleton của Willughby, tại đây ông

duyệt lại các bản thảo của Willughby và xuất bản hai khảo luận,

một về các loài chim, một về các loài cá, cả hai đều lấy tên tác giả

là Willughby.

Sau đó ông đứng tên của mình xuất bản các tác phẩm của

thế kỷ về thực vật. Cuốn sách vắn tắt Methodus Plantanrum

(Phương pháp Thực vật, 1682) cống hiến định nghĩa khả thi đầu

tiên về "Species" (loài) và cuốn Historia Plantarum (Lịch sử thực

vật, 3 cuốn, 1686-1704) cung cấp một sự mô tả hệ thống mọi loài

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 175

http://ebooks.vdcmedia.com

thực vật được biết đến ở châu Âu vào thời đó. Tuy Ray bắt đầu với

Aristote, nhưng ông đi xa hơn bằng cách khai triển một lối sắp xếp

thoả đáng hơn, phân loại các thảo mộc không chỉ theo một đặc

điểm duy nhất như hạt của chúng, mà theo toàn thể cấu trúc. Dựa

theo câu châm ngôn cổ Natura non facit saltum (Thiên nhiên

không đi những bước nhảy vọt), Ray tìm kiếm những "bước trung

gian", những dạng ở giữa để lấp đầy toàn thể tạo vật. Ông cũng cải

thiện lối phân loại chung của Aristote đối với các động vật và cũng

nhấn mạnh đến những sự tương tự về hình dạng. Lối sắp xếp này

tỏ ra hữu ích từ thời đó. Ray tiếp tục khảo sát các loài bốn chân và

các loài rắn và là người tiên phong có những bài mô tả đầy đủ về

côn trùng.

Trước khi Ray qua đời, ông đã gần hoàn thành kế hoạch to

lớn thời trẻ của ông và Willughby về khảo sát hệ thống thiên

nhiên dựa trên sự quan sát trực tiếp. Không giống những tổng lược

sắp xếp theo thứ tự ABC của Gesner và những người đi trước, tác

phẩm của Ray đã loại bỏ những loài vật thần thoại mà người ta

vẫn ưa thích. Bằng việc loại bỏ những thứ thừa thải này và bằng

việc phủ nhận sự ngẫu sinh, ông đã ở trong vị trí thích hợp để định

nghĩa những đơn vị của đời sống tự nhiên cho những thế hệ các

nhà thiên nhiên học kế tiếp.

Thành tựu to lớn của Ray chính là việc ông đã hình thành,

hay nói chính xác hơn, ông đã là phát minh ra khái niệm mới về

"species" (loài). Những gì Newton đã làm cho các sinh viên vật lý

với các khái niệm của ông về trọmg lực và cung lượng, thì Ray đã

làm cho các sinh viên khoa học tự nhiên. Ông đã giúp họ học hỏi

dựa trên một hệ thống. Cũng giống như nhiều tư tưởng hình

thành thế giới khác, khái niệm của ông cũng đơn giản một cách kỳ

lạ. Chúng ta không biết ông đã đạt đến khái niệm ấy bằng cách

nào. Nhưng chắc chắn trực giác mạnh bạo và sự nhấn mạnh của

ông đã phải được khơi dậy bởi những quan sát sâu rộng mà bản

thân ông đã thực hiện một cách trực tiếp. Sau cùng, với Ray, việc

nhìn thấy vô số các mẫu động thực vật khác nhau (specimens) gợi

ý cho ông rằng việc sử dụng khái niệm về loài (species) là rất

thuận tiện (cả hai từ này đều do từ La tinh specere, "nhìn, xem

thấy"). Khác với những người đi trước, ông đã tìm ra một hệ thống

phân loại có thể áp dụng cho cả động vật lẫn thực vật.

Theo Ray, một "species" (loài) thực vật là một tên để chỉ một

nhóm các cá nhân làm phát sinh những cá nhân mới giống như

Daniel J. Boorstin 176

http://ebooks.vdcmedia.com

chúng qua việc sinh sản. Định nghĩa này cũng được áp dụng cho

động vật. Bò đực và bò cái thuộc cùng một loài, vì khi chúng giao

phối, chúng sinh ra một con vật giống như chúng.

Ray tin rằng, theo luật chung, mỗi loài đều cố định và không

biến đổi qua các thế hệ. "Các dạng khác nhau trong các loài luôn

luôn duy trì những bản tính biệt loại của chúng và một loaì không

phát sinh từ giống của một loài khác". Dần dần, khi ông càng

nghiên cứu thêm nhiều mẫu động thực vật, ông nhận thấy có thể

xảy ra những đột biến nh nhỏ. Ông kết luận, "Tuy dấu hiệu thống

nhất này của một loài khá cố định, nhưng không phải là bất biến

và tất yếu".

Các nhà sinh vật học sau Darwin đã gay gắt chỉ trích Ray vì

ông tin vào sự cố định của loài, là điều mà người kế vị ông là

Linnaeus còn tin tưởng với nhiều xác tín hơn cả ông. Nhưng vào

thời mình, việc Ray nhấn mạnh tính cố định và liên tục của loài đã

là một bước tiến vĩ đại rồi. Nó giúp tạo được một bảng phân loại

quốc tế sử dụng được cho toàn thể thế giới tự nhiên.

Lyell và các nhà địa chất học tiên phong khác sẽ đưa tính

thống nhất vào trong lịch sử của trái đất. Ray có công đưa tính

thống nhất vào trong lịch sử động vật và thực vật. Cả Lyell lẫn

Ray đều không nói hết câu chuyện, nhưng cả hai đã giúp mở rộng

những nhãn giới của thời gian, một thế giới mới đang tiến hoá và

những vấn đề không giải quyết được của thế giới này. Ray thuộc số

những người đầu tiên gợi ý rằng các mẫu hoá thạch tìm thấy trên

núi và trong trái đất không phải là những vật ngẫu nhiên tồn tại

mà là những di tích của những sinh vật xa xưa. Và ông đã đi đến

kết luận là nó có khả năng nhiều loài từng tồn tại trong thời tiền

sử có thể đã bị tuyệt chủng.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 177

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 56

SĂN LÙNG CÁC MẪU ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT

Linnaeus là người kế thừa sứ mạng của Ray. Hệ thống Thiên

nhiên của ông tuy toàn diện hơn và có ảnh hưởng hơn bất kỳ hệ

thống nào trước đó, nhưng được xây dựng từ những yếu tố do Ray

để lại. Chia sẻ cùng một niềm tin vào sự thống nhất của thiên

nhiên, Linnaeus sẽ giúp phát triển khoa Thần học Tự nhiên cũng

như Khoa học Tự nhiên. Ông cũng lấy "species" (loài) làm chìa

khóa để tìm hiểu sự khôn ngoan của Tạo hóa.

Nhưng về tính cách con người và đường lối làm việc, Ray và

Linnaeus có ít điểm chung với nhau. Ray làm việc đơn độc cùng với

người bạn học giả Willughby, đã viết chủ yếu dựa vào những quan

sát của chính mình. Còn Linnaeus đầy xã hội tính và giao thiệp

rộng, là một giáo viên xuất sắc, đã gợi hứng và tổ chức hàng hàng

lớp lớp những chuyên gia đi săn lùng các mẫu vật trên khắp thế

giới và gởi những khám phá về cho ông

Carolus Linnaeus (1707-1778) sinh ở miền đông nam Thụy

Điển. Cha ông là một mục sư nghèo đã khơi dật nơi ông lòng say

mê những cây cỏ trong khu vườn nhà của ông. Linnaeus lớn lên ở

Stenbrohult, nơi ông mô tả là "nơi đẹp nhất trên khắp đất Thụy

Điển, vì nó trải dài dọc theo bờ hồ lớn Mockeln... Ngôi nhà thờ

trông thẳng xuống mặt nước trong veo của hồ. Xa xa phía nam là

những khu rừng cây sồi, phía bắc là triền núi cao Taxas... Phía

đông bắc là những khu rừng thông, phía đông nam bát ngát những

cánh đồng cỏ với những lùm cây xanh um tùm". Ông không bao giờ

quên được những cảnh thơ mộng hữu tình ấy. "Khi ta ngồi đó giữa

trời mùa hè và nghe tiếng chim cu và những giống chim khác hót

líu lo, tiếng than vãn nỉ non của côn trùng; khi ta nhìn ngắm

những bông hoa đầy màu sắc rực rỡ và tươi vui: ta cảm thấy vị

choáng ngợp bởi sự giàu có khôn lường của tạo hóa".

Nhưng ở trường Carolus không tỏ dấu ham thích môn thần

học khiến cha của cậu thất vọng đã muốn cho cậu học làm thợ

đóng giày. Nhưng một giáo viên tinh tế đã thuyết phục ông cho

Daniel J. Boorstin 178

http://ebooks.vdcmedia.com

Carolus thử học ngành y tại Uppsala, cậu đã thay thế cho giáo sư

để làm những chứng minh trong vườn thực vật của đại học. Rồi

năm 1732 ông được Hội Khoa học Uppsala cử cầm đầu một đoàn

thám hiểm đi đến miền đất huyền bí Lapland để thu thập những

mẩu cây và những thông tin về các tập tục tại địa phương. Lần

đầu tiên nghiêm túc chạm trán với những hệ thực vật ngoại lai và

những tổ chức kỳ lạ này đã làm ông tràn ngập niềm khoái cảm mà

ông chưa từng cảm thấy mãnh liệt như thế bao giờ, cả những khi ở

trong các vườn thực vật được tổ chức hẳn hoi hay khi đọc những

trang sách về thực vật hay động vật.

Khi trở về, ông đi sang Hà Lan, thời đó là một trung tâm đào

tạo y khoa lớn, để trở thành bác sĩ và cũng để theo đuổi những

tham vọng thực vật học của mình. Trong vòng ba năm, khi chưa

đầy 30 tuổi, Linnaeus đã phác họa lược đồ lớn của mình. Tập sách

mỏng chỉ bảy trang giấy khổ hai, nhan đề Systema Naturae, "Hệ

Thiên nhiên" (Leyden, 1735), tác phẩm đầu tiên ông xuất bản ở Hà

Lan, là một bản cáo bạch cho sự nghiệp của ông và toàn thể khoa

sinh vật học hệ thống thời cận đại. Nhưng ngay cả trước đó, khi

mới chỉ 22 tuổi, ông đã mô tả cốt tủy hệ thống của mình cho vị giáo

sư mà ông đang ở chung với. Hệ thống thực vật của ông thành tựu

được là vì, giống như Ray, ông chỉ quan sát thực vật mà thôi.

Nhưng ông đã đi xa hơn Ray, khi ông mạnh bạo áp dụng khái

niệm từ thế giới động vật cho toàn thể các loài sinh vật.

Linnaeus là một Freud của thế giới thực vật. Ở cuối thế kỷ

20, chúng ta đã quen nói về giới tính một cách tự do, khiến chúng

ta quên rằng vào thời tiền - Freud, người ta luôn cảm thấy xấu hổ

khi đề cập đến giới tính nơi công cộng, dù cho là giới tính của cỏ

cây. Trong khoa thực vật học của Linnaeus, giống như trong khoa

tâm lý học của Freud, sự kiện sơ đẳng là giới tính.

Từ thời Ovid, các thi sĩ đã quen sử dụng những ẩn dụ về giới

tính nơi cây cỏ. Nhưng đa số vẫn coi những gợi ý về giới tính như

thế trong văn chương là điều xấu xa, thậm chí là tục tĩu. Một ít

nhà thiên nhiên học đã dám chứng minh hiện tượng giới tính nơi

thiên nhiên. Nhà thực vật học Pháp Sebastian Vaillant (1669-

1722) là người trông coi vườn ngự uyển của hoàng cung đã dám

bạo dạn sử dụng những đặc điểm độc đáo của cây hồ trăn trong

vườn ngự uyển ở Paris để chứng minh vào năm 1717 trước công

nguyên về giới tính của thực vật và bài giảng đã đánh thức sự

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 179

http://ebooks.vdcmedia.com

quan tâm của chàng sinh viên trẻ Linnaeus và thúc đẩy cậu truy

lùng từng cây cỏ để đếm những bộ phận sinh dục của nó.

Một ít thập kỷ trước, sự kiện cơ bản đã được bộc lộ bởi một

nhà thực vật học Đức, Rudolph Jacob Camerarius (1665-1721) khi

ông chứng minh rằng một hạt giống phải có sự phối hợp của phấn

hoa thì mới nảy mầm được. Nhưng khi Linnaeus là sinh viên ở

Uppsala, giới tính của thực vật vẫn còn là một vấn đề còn để ngỏ

và tế nhị. Trong tựa đề bài thi của mình, Sponsalia Planturum

(1729), Linnaeus đã dùng ngôn ngữ ẩn dụ tế nhị - "một tiểu luận

về sự phối hợp của các loài thực vật, cắt nghĩa sinh lý học của

chúng ... dẫn đến kết luận về sự tương tự hoàn hảo của chúng với

các loài động vật". Ông nói, giống như vào mùa xuân mặt trời làm

cho cơ thể của mọi động vật sinh động trở lại sau thời kỳ nghỉ

đông, thì thực vật cũng thế, chúng tỉnh dậy sau giấc ngủ đông.

Giống như động vật, thực vật không sinh sản khi còn non, nhưng

sinh sản rất mạnh vào những năm giữa đời, rồi héo tàn dần khi về

già. Ông ghi nhận rằng Malpighi và Nehemiah Grew (1641-1712)

mới đây đã chứng minh thảo mộc giống như động vật cũng thực sự

có những bộ phận phân biệt. Cho nên hợp lý phải nói rằng chúng

có những cơ quan để sinh sản.

Vaillant đã cho rằng những cơ quan sinh sản này nằm ở hoa,

vì ông nói không cây nào sinh sản ra trái nếu không có hoa.

Nhưng Linnaeus vấn nạn rằng những nhà thực vật tập trung vào

tràng hoa hay cánh hoa cũng không đúng hẳn, vì có những cây

mặc dù không có đài hoa hay cánh hoa mà vẫn có trái. Linnaeus

mạnh bạo cho rằng những cơ quan sinh sản chính là cơ sở để phân

loại thực vật và chúng phải là nhị hoa và nhuỵ hoa, cho dù ở trên

cùng một cây hay ở những cây khác nhau trong cùng một loài. Ông

cắt nghĩa, cánh hoa không trực tiếp giúp vào qui trình sinh sản.

Nhưng hình dáng màu sắc, hương thơm lôi cuốn của nó đã được

tạo hóa khôn khéo tạo nên để các "cô dâu" và "chú rể" trong vương

quốc thực vật có thể cử hành hôn lễ trên "giường cưới" hạnh phúc

của chính chúng.

Khi Linnaeus đến Hà Lan, ông đã sẵn sàng với những dữ

liệu đã thu thập được để phác thảo một "hệ thống giới tính" lớn cho

thực vật. Trong tập sách nhỏ Systema Naturea, ông sử dụng khái

niệm của Ray về "loài" và làm cho mỗi nhóm cây tự sinh sản trở

thành một đơn vị cơ sở. Nếu các loài tự sinh sản là cơ bản, hiển

Daniel J. Boorstin 180

http://ebooks.vdcmedia.com

nhiên trong hệ thống của Linnaeus, bộ máy sinh sản hay "giới

tính" của mỗi cây phải là dấu đặc trưng để phân loại.

Trong khi hệ thống "giới tính"cung cấp một khái niệm đơn

giản để phân loại, thì hệ thống thuật ngữ của khoa sinh vật học

vẫn còn luộm thuộm, mơ hồ và không cố định. Cộng đồng những

nhà thiên nhiên học đang mở rộng trên thế giới cần phải có một

ngôn ngữ chung để bảo đảm họ đang nói về cùng một điều.

Linnaeus sẽ là người tiên phong trong việc tổng hợp này. Các cố

gắng tạo ra những loại ngôn ngữ quốc tế khác đã không bao giờ

thành công. Nhưng Linnaeus đã thành công tạo ra một ngôn ngữ

quốc tế cho ngành sinh vật học. Ông đã sử dụng tiếng La tinh làm

thứ ngôn ngữ chung, sau khi từ lâu nó đã hết còn là ngôn ngữ của

giới trí thức châu Âu. "La tinh thực vật học" của ông không dựa

trên tiếng La tinh cổ điển, mà dựa trên tiếng La tinh thời Trung cổ

và Phục hưng, được ông thích nghi cho hợp với mục đích của mình.

Linnaeus đã gợi hứng cho cả một chương trình những người

săn lùng các mẫu thiên nhiên trên khắp thế giới. Công trình của

ông đã giúp cho nhiều thế hệ những người săn lùng các mẫu thiên

nhiên có sự kích thích mới để đẩy mạnh bước tiến khoa học, nhiều

khi phải liều mạng. Từ nay những khám phá của họ không còn bị

xếp xó hay bị lãng quên. Từ nay mỗi cây cỏ hay động vật mới được

nhận diện bởi hệ thống Linnaeus đều góp phần vào việc nghiên

cứu có hệ thống về thiên nhiên trên khắp thế giới.

Cùng một niềm tin từng nuôi dưỡng công việc tìm kiếm một

"hệ thống" trong thiên nhiên của Linnaeus cũng đã làm ông xác

tín rằng một người đơn độc không thể nào lãnh hội được hết

chương trình của Đấng tạo hóa. Ông biết rất rõ hệ thống "giới

tính" của ông không tự nhiên, mà chỉ là một cách tiện lợi để phân

loại các mẫu thiên nhiên. Một sự phân loại tự nhiên đúng nghĩa

phải tập hợp được những cây có chung một con số lớn những thuộc

tính giống nhau.

Khi các học trò của Linnaeus thu thập được thêm hàng ngàn

"loài" với thêm nhiều ví dụ về sự lai giống, ông bắt đầu mạnh bạo

nghĩ rằng có thể không phải mọi loài đã được dựng nên lúc khởi

đầu. Có thể có những loài mới được phát sinh về sau do sự phối

hợp của những loài của một giống khởi thủy với một loài của một

giống khác. Điều này mở ra những khả năng thay đổi lộn xộn và

khi Linnaeus thỉnh thoảng suy nghĩ về nguồn gốc của các loài, ông

cảm thấy mình rơi vào bế tắc. May thay, đức tin tôn giáo và tính

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 181

http://ebooks.vdcmedia.com

khí thực tiễn của ông đã giúp ông không bị tê liệt với sự suy nghĩ

về nguồn gốc (là điều mà có lẽ chỉ mình Tạo hóa là biết được. Các

người ngưỡng mộ ông thường nói, "Deus creavit, Linnaeus

disposuit" (Thiên chúa tạo dựng vạn vật, Linnaeus phân loại vạn

vật).

Daniel J. Boorstin 182

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 57

KÉO DÀI QUÁ KHỨ

Trong số những nhà trí thức châu Âu của thời đại, khó có thể

kiếm được một người tương phản với Linnaeus mà có đầu óc sâu

sắc hơn nhà quí tộc đương thời của ông là Georges - Louis Leclere,

Bá tước de Buffon (1707-1788). Bây giờ nhìn lại, chúng ta thấy họ

có vẻ tương đồng trong những khám phá về thiên nhiên, nhưng

vào thời của họ, họ là những đối thủ nổi tiếng. Linnaeus xuất thân

là con một vị mục sư nghèo miền quê, còn Buffon sinh ra trong

một gia đình giàu có ở Bugundy, nơi cha ông là một sĩ quan thuộc

dòng dõi quí tộc. Được giáo dục tại một trường trung học Dòng Tên

rồi vào Đại học Dijon, Buffon theo đuổi tham vọng của cha mình là

muốn trở thành một luật sư. Rồi ông đến đại học Angers, ở đây ông

chuyển qua ngành y khoa, thực vật học và toán học. Sau một cuộc

quyết đấu, ông phải rời trường đại học và bắt đầu một chuyến du

hành dài với Công tước Kingston và vị gia sư của công tước, lúc đó

là một hội viên của Hội Hoàng gia. Sau cuộc du hành trở về, ông

được tin mẹ ông qua đời và cha ông đã tục huyền và chiếm đoạt

toàn bộ di sản thừa kế to lớn mà mẹ ông để lại cho ông. Sau một

cuộc cãi vã dữ dội với cha và từ đó hai cha con không thể nói

chuyện với nhau, ông tìm cách giành lại đầy đủ tài sản của mình,

gồm làng Buffon, từ đó ông lấy tên quí tộc Buffon. Chàng trai trẻ

Buffon 25 tuổi đã mau chóng trở thành một lãnh chúa của địa

phương.

Đồng thời ông tiếp tục theo đuổi những sở thích khoa học của

mình. Buffon lần đầu tiên được công chúng biết đến qua báo cáo

của ông cho Hải quân về sức căng của gỗ dùng để đóng các tàu

chiến. Một bài viết về lý thuyết sác xuất đã giúp ông trở thành hội

viên phụ cơ giới trong Hàn lâm viện Pháp, tiếp theo là những tác

phẩm về toán học, thực vật học, lâm học, hóa học và sinh vật học.

Ông sử dụng kính hiển vi để nghiên cứu về các bộ phận sinh sản

của động vật. Khi 28 tuổi, do những thành tựu đầy ấn tượng của

mình, Buffon được vua nhìn nhận và cử trông coi vườn thực vật

hoàng gia.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 183

http://ebooks.vdcmedia.com

Trong suốt 50 năm, Buffon sống những mùa xuân và hạ tại

lãnh địa của mình ở Bugundy và mua thu và đông tại Paris. Ở

miền quê, ông dậy từ sáng sớm, dành buổi sáng cho khoa học, buổi

chiều cho việc làm ăn. Các buổi tối ở Paris ông làm say mê các bà

chủ quí tộc thông minh tại các salông, tại đó người ta "nói về

những đề tài chủ yếu là động vật học, địa chất học và khí tượng

họa, nhưng thường là những chuyện lặp đi lặp lại buồn tẻ", theo

ghi nhận của Willia, Beckford. Sau một nửa thế kỷ sống đều đặn

như thế, ông không những làm giàu nhờ gia tăng các phần lãnh

địa, nhưng cũng đã mở rộng những dinh thực trong vườn thực vật

hoàng gia và đã xuất bản 36 quyển của bộ Lịch sử Thiên nhiên của

ông và hàng chục bài viết quan trọng về mọi ngành khoa học. Vua

Louis XV phong ông làm Bá tước de Buffon, hoàng hậu Catherine

tôn sùng ông và ông được chọn vào những hàn lâm viện khoa học ở

Luân Đôn, Berlin và St. Petersburg.

Danh tiếng Buffon vang tới châu Mỹ, là châu lục đã gia nhập

cộng đồng khoa học đang phát triển của châu Âu. Thomas

Jefferson, lúc đó đang làm đại sứ Mỹ tại Pháp và sống ở Paris năm

1785, đã nhờ Hầu tước de Chastellux trao tặng Buffon một bản

Ghi chép về Virginia do mình viết và vừa in xong, kèm với một bộ

da báo Mỹ châu, để bác bỏ luận đề của Buffon về sự thoái hóa của

các loài động vật ở Tân thế giới. Kết quả Jefferson nhận được lời

mời đến thảo luận về lịch sử thiên nhiên và dự tiệc tại vườn của

Buffon. Như Jefferson còn nhớ lại, "Buffon có thói quen ở lại phòng

nghiên cứu của mình cả ngày cho tới giờ ăn tối và không tiếp

khách bất cứ vì lý do gì; nhưng nhà ông luôn mở cửa và có một đầy

tớ túc trực để tiếp khách một cách rất lịch sử và mời moị khách lạ

cũng như bản thân dùng bữa tối với ông. Chúng tôi thấy Buffon

trong vườn, nhưng đã cẩn thận tránh gặp ông; nhưng chúng tôi đã

ăn tối với ông và lúc đó ông tỏ cho chúng tôi thấy ông là một con

người có sức mạnh tuyệt vời trong khi trò chuyện".

Trong thời đại mà khoa học đã trở thành phổ cập, Buffon là

một nhà tiên phong của khoa học phổ thông, đòi hỏi một cái nhìn

mới về ngôn ngữ. Tất nhiên ông đọc sách bằng tiếng La tinh,

nhưng ông viết bằng tiếng Pháp và ông coi đây là một hành vi đức

tin (không viết ra những bản văn khó hiểu cho một số tiểu trí

thức, mà trình bày những sự kiện cho toàn dân. "Văn là người",

ông đã tuyên bố như thế trong tác phẩm cổ điển của ông Discours

sur Style "Luận về văn phong" (1753), được xuất bản vào dịp ông

Daniel J. Boorstin 184

http://ebooks.vdcmedia.com

được chọn vào Hàn lâm viện Pháp. Ông nghi ngờ những văn sĩ

trau chuốt gọt giũa câu văn và ông cho rằng tư tưởng của họ

"giống như một lá kim loại dập mỏng, được đánh bóng mà mất đi

chất lượng". Rousseau gọi ông là tác giả có văn phong đẹp nhất và

những đoạn văn xuôi trữ tình của ông (ông không viết văn vần) đã

khiến một số người liệt ông vào số những "nhà thơ" Pháp hàng đầu

của thời đại.

Bộ Lịch sử thiên nhiên (1749-1785) gồm 36 cuốn được xuất

bản lúc sinh thời của ông và được bổ sung 8 cuốn (1788-1804) sau

khi ông mất, trình bày mọi vấn đề về thiên nhiên từ con người và

động vật tới thực vật và khoáng vật. Lần đầu tiên trong lịch sử

xuất bản, các sách khoa học phổ thông đã là những sách bán chạy

nhất. Sách của ông bán chạy ngang với bộ Bách khoa 35 cuốn của

Diderot, là dự án xuất bản thành công nhất châu Âu của thế kỷ và

đã được dùng để đặt tên cho thời đại ấy. Hiển nhiên công trình của

Diderot là một công trình hợp tác, trong khi tác phẩm của Buffon

rõ ràng là sản phẩm của cá nhân ông.

Buffon nhắm tới thành phần độc giả là quảng đại quần

chúng. Trong bài viết nổi tiếng của ông về con lạc đà, đoạn văn chỉ

có một câu của ông đã tóm tắt cả một toàn cảnh sa mạc.

Bạn hãy hình dung ra một xứ sở không có cây xanh và nước,

chỉ có mặt trời nóng bỏng, bầu trời luôn luôn khô ráo, những cánh

đồng đầy cát, những dãy núi còn khô cằn hơn, trên đó mắt chúng

ta rảo khắp mà không nhìn thấy một sinh vật nào; một mảnh đất

chết, như bị bóc trần bởi gió nóng, chỉ phơi bày trước mắt những

mẩu xương khô, những hòn sỏi rải rác, những tảng đá trồi lên theo

chiều dựng đứng hay nằm ngang, một sa mạc không có những bí

mật, nơi không một lữ khách nào hít được một làn khí dưới bóng

mát hay tìm được một bạn đồng hành, hay bất cứ thứ gì nhắc họ

biết họ đang sống giữa sức sống của thiên nhiên: hoàn toàn cô

quạnh, cả ngàn lần dễ sợ hơn trong rừng thẳm, vì cây cối cũng là

những sinh vật khác, những sự sống khác, đối với con người khi

chỉ nhìn thấy một mình; cô độc hơn, trần trụi hơn, lạc lõng hơn,

trong những mảnh đất trống rỗng và vô hạn này; con người nhìn

vào không gian, tứ phía của mình chỉ là không gian, một không

gian chết như một nấm mồ; ánh sáng ban ngày cũng u sầu như

bóng tối ban đêm, chỉ được tái sinh để chiếu sáng sự trần trụi và

bất lực của họ, cho họ thấy rõ hơn tình hình khủng khiếp của

mình, đẩy những ranh giới đi xa hơn nữa vào cõi hư vô, mở rộng

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 185

http://ebooks.vdcmedia.com

quanh họ những vực thẳm mênh mông chia cách họ với thế giới

con người, một sự bao la mà họ cố gắng vượt qua một cách vô vọng,

vì cái đói, cái khát và cái nóng cháy người dồn ép họ mọi lúc và

trải dài giữa thất vọng và sự chết.

Nhưng những mô tả của ông về những con vật lại rất cô đọng

và súc tích và thường được sưu tầm để làm những sách truyện cho

thiếu nhi.

Trong khi những thuật ngữ về tính dục trần trụi của

Linnaeus làm người ta giật mình, Buffon biết tìm ra sự lãng mạn

trong hoạt động giới tính của các con vật mà ông mô tả. Ví dụ, ông

đối chọi cách giao phối của loài chim sẻ với loài bồ câu:

ít có loài chim nào ái ân nồng nhiệt và mạnh bạo như chim

sẻ; người ta thấy chúng giao phối nhiều đến hai mươi lần liên tiếp,

luôn luôn với cùng sự hăm hở, cùng sự mạnh bạo, cùng biểu lộ

khoái lạc; và kể cũng lạ, con mái có vẻ như nóng lòng muốn đi vào

cuộc chơi trước tiên mà lại cảm thấy ít mệt hơn con trống, nhưng

cũng làm nó ít vui thú hơn, vì không có những màn vuốt ve mơn

trớn dạo đầu, không có những cử chỉ thay đổi; cử chỉ mạnh bạo chứ

không dịu dàng, lúc nào cũng vội vàng hấp tấp, cho thấy đó chỉ là

bản năng muốn thỏa mãn mà thôi. Hãy so sánh sự ân ái của chim

câu với chim sẻ, bạn sẽ thấy hầu như mọi tính chất đi từ phương

diện thể lý sang luân lý.

Trong khi đó, nơi loài chim câu, những mơn trớn dịu dàng,

những cử động mềm mại, những nụ hôn rụt rè chỉ trở thành thân

mật và gấp gáp vào lúc khoái cảm; nhưng cả giây phút này cũng

chỉ kéo dài vài giây rồi chuyển sang những thém khát mới, những

cách thức gần gũi mới; một nhiệt tình luôn luôn bền bỉ, một sở

thích không thay đổi và một lợi ích còn lớn hơn, đó là sức mạnh để

thỏa mãn chúng liên tục mà không chấm dứt; không nóng giận,

không chán ngán, không cãi vã; cả một đời sống dành cho tình yêu

và cho sự chăm sóc kết quả của tình yêu.

Tác phẩm của ông mang đậm nét một bài mô tả, "một lịch sử

thiên nhiên", chứ không phải một "hệ thống".

Khác với Linnaeus, Buffon không có tham vọng muốn biết

tạo hóa đã dựng nên bao nhiêu "loài" lúc khởi đầu. Ngược lại, ông

theo đường lối của Ray và tự hài lòng bằng một định nghĩa thuần

túy dựa trên kinh nghiệm.

Daniel J. Boorstin 186

http://ebooks.vdcmedia.com

Chúng ta có thể coi hai con vật là thuộc cùng một loài nếu,

qua việc giao phối, chúng có thể bảo tồn nòi giống và duy trì những

tính chất đặc trưng làm chúng giống nhau trong loài của chúng; và

chúng ta phải coi chúng là thuộc hai loài khác nhau nếu chúng

không thể sinh sản ra cùng nòi giống bằng cùng những phương

tiện. Như thế, con cáo sẽ được coi là khác với con chó, nếu chứng

minh được rằng qua việc giao phối con đực và con cái của hai con

vật này không phát sinh một con vật nào; và cả khi có một con vật

lai giống được phát sinh, một con la chẳng hạn, thì điều này cũng

đủ để chứng minh là cáo và chó không thuộc cùng một loài - bởi vì

con la này sẽ không thể sinh sản được.

Chỉ có sự giống nhau bên ngoài mà thôi không đủ để chứng

minh các con vật thuộc cùng một loài. Tuy nhiên ông vẫn rất kinh

ngạc trước khái niệm về loài và luôn luôn cảnh giác trước sự đơn

giản hóa quá đáng những sự khác biệt giữa các loài. Sự thận trọng

của ông trong điều này còn sâu xa hơn sự thận tọng của các người

đi trước ông. Buffon không thể nào xác tín được rằng "loài" là một

chìa khóa để hiểu về chương trình của tạo hóa hay về một chân lý

thần học.

Nói chung, sự giống nhau giữa các loài (species) là một trong

những màu nhiệm sâu thẳm của thiên nhiên mà con người chỉ có

thể dò thấu được nhờ những thí nghiệm lâu dài, lặp đi lặp lại và

khó khăn. Nếu không thử lai giống hàng ngàn lần các con vật

thuộc các loài khác nhau, là sao chúng có thể xác định được mức

độ giống nhau của chúng? Con la giống con ngựa hơn hay là giống

ngựa vằn hơn? Chúng ta phải đặt con vượn gần hay xa con người,

vì vượn giống người một cách tuyệt vời về hình dáng thân thể? Có

phải tất cả các loài động vật hiện nay cũng là các loài trước kia

không? Hay con số các loài đã gia tăng, hay đã bớt đi?...

Còn biết bao sự kiện nữa mà chúng ta cần phải biết trước khi

có thể phát biểu (hay phỏng đoán về những câu hỏi này). Cần phải

làm biết bao thí nghiệm để khám phá những sự kiện ấy, để tìm

tòi, hay thậm chí để dự đoán những câu trả lời có cơ sở vững chắc.

Buffon là người đã mở ra nhãn giới cho khoa sinh vật học cận

đại bằng cách đưa cả trái đất và mọi động vật và thực vật trên trái

đất lên sâu khấu lịch sử. Sau Buffon, thật khó mà tin rằng có điều

gì trên trái đất là bất di bất dịch. Ông đã thoáng thấy "màu

nhiệm" của các loài. Bây giờ là thời để dành cho các loài động vật

khác nhau xuất hiện hay bị tuyệt chủng, biến thế giới trở thành

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 187

http://ebooks.vdcmedia.com

một viện bảo tàng các mẫu hóa thạch kỳ lạ. Bằng cách kéo dài

niên lịch, Buffon đã mở rộng sân khấu lịch sử cho trí tượng tượng

của các nhà thiên nhiên học. Việc tạo dựng có thể được quan sát

không chỉ như một toàn cảnh không gian theo kiểu Linnaeus, mà

còn như một sân khấu các sự kiện liên tục trong thời gian. "Thời

gian là nhà sáng tạo vĩ đại của Thiên nhiên. Nó luôn luôn đi

những bước đều đặn và không làm những bước nhảy vọt, nhưng từ

từ, tiệm tiến và tuần tự, nó làm ra mọi sự; và những thay đổi mà

nó làm ra lúc đầu khó nhận thấy - dần dần có thể nhận thấy được

và cuối cùng tỏ lộ hoàn toàn nơi những kết quả hoàn hảo, không

thể nhận thấy điều gì khiếm khuyết trong đó".

Daniel J. Boorstin 188

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 58

ĐI TÌM MẮT XÍCH CÒN THIẾU

Một ẩn dụ lớn đã thống trị, làm hư hỏng và ngăn cản những

cố gắng của châu Âu để khám phá vị trí của con người trong thiên

nhiên. Đó là khái niệm đơn giản về Chuỗi xích lớn của Hữu Thể.

Các nhà khoa học và triết học châu Âu từng cắt nghĩa rằng toàn

thể vũ trụ gồm một chuỗi có trật tự các hữu thể, từ vật thất nhất,

đơn sơ nhất, nhỏ nhất ở dưới cùng lên tới vật cao nhất và phức tạp

nhất ở trên cùng. Trả lời cho câu hỏi "Con người là gì? mà Chúa đã

nhờ tới?" tác giả Thánh vịnh đã trả lời (và các nhà triết học tự

nhiên cũng nhất trí), "Chúa đã làm con người chỉ thua kém các

thiên thần một chút, đã dội triều thân vinh quang và danh dự cho

con người".

Ẩn dụ Chuỗi Xích Hữu Thể chứa đầy những điều mơ hồ và

mâu thuẫn. Có bao nhiêu mắt xích trong chuỗi xích? Mắt xích này

khác với mắt xích kế tiếp ở phía trên hay dưới như thế nào? Trả lời

được những câu hỏi này giả thiết phải có một kiến thức toàn diện

về thiên nhiên, mà chỉ tạo hóa mới có được.

Chuỗi Xích Hữu Thể là một ẩn dụ hấp dẫn đối với các thi sĩ

và các nhà siêu hình học, nhưng nó không giúp ích bao nhiêu cho

nhà khoa học. Tuy các nhà thiên nhiên học không ngớt nói về "mắt

xích còn thiếu", họ vẫn cảm thấy thất vọng trong những cố gắng để

tìm hiểu con người từ những sự giống nhau với các động vật khác.

Trong khi Chuỗi Xích Hữu Thể đặt con người trong một dây xích

liên tục, nó cũng làm con người trở thành một mắt xích độc đáo

cách ly khỏi những mãnh lực của thiên nhiên.

Chuỗi Xích Hữu Thể tỏ ra linh động tuyệt vời và cuối cùng

đã có thể đem ứng dụng vào ý tưởng tiến hóa. Nhưng ít là cho tới

thế kỷ 18, nó vẫn chỉ là mô tả sản phẩm chứ không phải qui trình

của việc tạo dựng và chỉ là một cách thức khác để ca ngợi tài trí và

sự sung mãn của Đáng Hóa Công. Nó mô tả thiên nhiên trong

không gian chứ không trong thời gian. Để khám phá vị trí của

mình trong thiên nhiên, con người cần có ý thức về lịch sử, hiểu

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 189

http://ebooks.vdcmedia.com

biết các loài khác nhau đã xuất hiện thế nào và khi nào và con

người cũng cần thấy được thân xác của mình giống với các loài vật

khác như thế nào.

Edward Tyson (1651-1708), một bác sĩ người Anh thành

công, đã có những điều kiện lý tưởng để mở đường cho việc khám

phá từ khoa lịch sử thiên nhiên đến khoa giải phẫu so sánh. Ông

không bao giờ tìm kiếm một chỗ đứng bên cạnh những Vesalius,

Galileo, Newton, hay Darwin; ông tránh những cuộc tranh cãi và

không bao giờ tìm kiếm sức mạnh nơi nghị trường mới của khoa

học. Nhưng những gì Sir Willia, Harvey đã làm được cho khoa

sinh lý học, Tyson đã làm được cho khoa giải phẫu so sánh. Sinh

ra trong một gia đình giàu có và tiếng tăm lâu đời tại Bristol,

Edward Tyson đã đi theo con đường truyền thống (ông đậu cử

nhân y khoa ở oxford năm 1677, rồi hành nghề ở Luân Đôn với

anh rể của mình). Khi bắt đầu các thí nghiệm giải phẫu học của

mình, ông làm quen với Robert Hooke, người đã vẽ minh họa cho

một số tiểu luận của ông và ông đã được chọn làm hội viên của Hội

Hoàng gia năm 1679.

Trong ban điều hành của hội, ông phụ trách các kế hoạch

chứng minh cho các cuộc họp thường kỳ của hội. Ông rao giảng

cương lĩnh mới của hội là thăng tiến khoa học. Và ông sui sướng

tiếp nhận những sự kiện hết sức phong phú từ Tân thế giới gởi đến

cho hội. "Những lộ trình mới, những đất mới, những biển mới mỗi

ngày được khám phá thêm và những bài mô tả về những quốc gia

mới mà trước đây chưa được biết đến nay được gởi tới cho hội; vì

thế chúng tôi buộc phải sửa lại các bản đồ và làm lại địa lý của cả

hai thế giới cũ và mới. Và các khám phá về vùng Indies đã làm

giàu thêm cho thế giới cũ cũng nhiều như những khám phá về giải

phẫu học nay đang làm giàu cho Khoa học tự nhiên và y khoa".

Nhưng các nhà khoa học tự nhiên không được để mình bị cám dỗ

bởi những sự tổng quát hóa dễ dãi - "thà ít mà chính xác còn hơn

là cả đống sự kiện tập hợp lại một cách bừa bãi. Malpighi trong

công trình của mình về con Tằm đã làm được nhiều hơn là Jonston

trong cả cuốn sachs của ông về Côn trùng".

Tyson đã nhấn mạnh, "Việc giải phẫu một con vật sẽ là chìa

kháo để mở ra nhiều con vật khác, và cho tới lúc chúng ta có thể

hoàn thành công việc này, chúng ta còn rất cần có thật nhiều

những dữ kiện khác biệt và bất thường". Ông rất thích thú với báo

Daniel J. Boorstin 190

http://ebooks.vdcmedia.com

cáo đầy đủ của Swammerdam về con Phù du hay Thiêu thân, vì

chỉ có thể hiểu được sự sống nhờ "một sự nghiên cứu so sánh".

Thiên nhiên khi tỏ ra kín ẩn nơi một vật, lại có thể tỏ lộ tự

nhiên và rõ ràng nơi một vật khác; và một con ruồi đôi khi tỏ lộ

nhiều ánh sáng hơn để ta hiểu rõ cấu trúc và chức năng của các bộ

phận của cơ thể con người, hơn là những cuộc mổ xẻ làm đi làm lại

của cùng cơ thể ấy... Vì vậy chúng ta không được nghĩ rằng những

con vật nhỏ bé nhất của tạo hóa là tầm thường hay vô dụng, vì nơi

những con vật bé nhỏ ấy chúng ta có thể nhận ra một cách sống

động những tính chất để bộc lộ cho chúng ta về một thiên tính hay

về bản thân chúng ta... Trong mỗi con vật đều có một thế giới kỳ

diệu; mỗi con vật là một tiểu thế giới hay một thế giới tự tại.

Một hôm Tyson đến thăm bến tàu Tower và nhà bếp của

Ngài thị trưởng để tìm những con cá quí hiếm về giải phẫu, một

người bán cá cho ông coi một con cá heo. Đây là con vật duy nhất

thuộc loài động vật biển có vú tồn tại ở vùng biển Anh Quốc. Con

vật đã lạc đường khi đi ngược dòng sông Thames và đây lại là điều

rất đáng mừng cho tương lai của khoa học.

Hội Hoàng gia đã từng bày tỏ ước muốn đặc biệt quan tâm

tới việc giải phẫu mọi loài vật quí hiếm và loài cá heo chưa bao giờ

được giải phẫu. Anh bạn Robert Hook của Tyson đã trích bảy đồng

tiền 6 penny của hội để mua "con cá" nặng 95 pound này và đem

về đại học Gresham để giải phẫu. Tại đây Tyson vội vàng bắt tay

vào việc và khi giải phẫu đến đâu thì nhờ Hooke giúp vẽ hình đến

đó. Cuốn Giải phẫu một con cá heo (1680) của Tyson cho thấy việc

phân loại động vật dựa theo hình dáng bề ngoài của chúng là một

điều nguy hiểm. John Ray đã từng xếp cá heo vào loại cá. Tyson

nhận định, "Nếu chỉ nhìn bề ngoài con cá heo, chúng ta thấy nó

không khác gì con cá. Nhưng nếu nhìn vào bên trong, nó chẳng có

gì giống một con cá". Giải phẫu bên trong con cá heo đã giúp Tyson

tin chắc rằng cá heo thực sự là một loài có vú, giống như những

con vật bốn chân trên bộ, "chỉ có điều nó sống trên biển và chỉ có

hai vây đằng trước".

Cấu trúc nội tạng và những bộ phận bên trong rất giống

những con vật bốn chân, khiến chúng tôi thấy ở đây chúng hầu

như thuộc cùng một loài. Khác biệt lớn nhất nơi chúng có vẻ là ở

hình dáng bên ngoài và không có chân. Nhưng cũng ở đây chúng

tôi nhận thấy khi lóc da và thịt đi, các vây trước đúng là một cánh

tay, trên đó có xương bả vai, xương cánh tay, xương khuỷu tay,

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 191

http://ebooks.vdcmedia.com

xương quay, xương cổ tay, xương bàn tay và 5 xương ngón tay nối

với nhau một cách kỳ lạ.

Cái nhìn tinh tường của Tyson về các mẫu động vật lạ đã

khơi dậy sự quan tâm của các đồng nghiệp trong Hội Hoàng gia.

Họ đã mua một con đà điểu để ông mổ xẻ. Sau cùng ông đã tặng

hội những bản vẽ giải phẫu của một con rắn hổ mang châu Mỹ,

một con hươu lợn Mêhicô, một con thú có túi, do William Byrd ở

Virginia gửi cho hội.

Trong một thời kỳ khó khăn, Tyson đã thành công một cách

kỳ diệu trong việc đối xử nhân đạo với những bệnh nhân tâm

thần. Để thay đổi bầu khí của một nhà tù thành bệnh viện, ông đã

thuê những nữ y tá vào phục vụ và thiết lập một quỹ quần áo để

cung cấp cho bệnh nhân nghèo.

Một tai nạn khác đã cho Tyson cơ hội đi tiên phong trên con

đường gian nan để tìm hiểu nguồn gốc con người . Một con tinh

tinh do một thủy thủ đưa lên tàu của mình ở Angola đã bị thương

trong cuộc hành trình, vết thương bị nhiễm trùng khiến nó bị chết

sau khi đến Luân Đôn, Tyson đã thấy con vật này khi nó còn sống,

nên giữ lại xác của nó và đưa về nhà để giải phẫu. Vì không có hệ

thống ướp lạnh, Tyson phải mổ xẻ rất vội vàng. Dịp may đã khiến

ông nhờ được một nhà giải phẫu cơ thể người nổi tiếng nhất thời

đó là William Cowper để giúp ông vẽ hình. Kết quả của họ được

xuất bản năm 1699 dưới nhan đề Orang Outang, sive Homo

Sylvestris (Orang - Outang, hay Người Rừng): hay, Giải phẫu một

con vật lùn (Pygmie). So sánh với giải phẫu một con khỉ, khỉ

không đuôi, và người.

Từ "orang outang" theo tiếng Mã Lai có nghĩa là "người

rừng" và ở châu Âu thời đó được dùng khái quát để chỉ mọi loài

linh trưởng to lớn không phải người. Con vật mà Tyson đã giải

phẫu không phải là con đười ươi orang - outang theo tên gọi của

các nhà động vật học thời nay, mà là một con tinh tinh châu Phi.

Con vật này là loài vượn người lần đầu tiên xuất hiện trên sách vở

khoa học tại châu Âu, đã được bác sĩ Nicolaes Tulp nhắc đến năm

1641. Tyson thích gọi mẫu động vật này là một "con vật lùn"

(pygmie).

Ông gọi nó là gì không quan trọng bằng ông đã làm gì với nó.

Việc làm của ông là một sự kiện đánh dấu thời đại.. Việc Tyson

giải phẫu con tinh tinh đã đặt con người vào cả một bầu trời mới.

Daniel J. Boorstin 192

http://ebooks.vdcmedia.com

Giống như Copernic đã chuyển dời vị trí của trái đất ra khỏi trung

tâm của vũ trụ, Tyson cũng đã tước bỏ vị trí độc nhất của con

người là đứng bên trên và cách ly các tạo vật khác. Trước đó chưa

từng có ai ngẫu nhiên hay công khai đưa ra luận chúng nào về sự

giống nhau giữa thân thể con người và loài vật. Giống như

Vesalius đã mô tả chi tiết và vẽ cấu trúc cơ thể con người , Tyson

bây giờ cũng mô tả chi tiết giải phẫu về con vật mà ông chứng

minh là gần với con người nhất trong số các loài vật. Ông cho thấy

rõ đây chính là "mắt xích còn thiếu" giữa con người và toàn thể các

loài động vật "thấp hơn" con người.

Tyson đã liệt kê một cách rõ ràng những điểm giống nhau và

khác nhau về thể lý giữa tinh tinh và người. Ông không đả động

tới Thượng đế hay những suy tư về linh hồn bất tử, nhưng ông liệt

kê các kết luận của mình thành hai cột. Một cột nêu những điểm

cho thấy "Con đười ươi (orang - outang) giống con người hơn khỉ

cụt đuôi và những loài khỉ khác", còn một cột kia nêu lên những

điểm làm nó "khác con người và giống con khỉ cụt đuôi và các loài

khỉ khác hơn". Các điểm giống với người gồm 48 điểm, bắt đầu với

"1. Có tóc ở Vai đi xuống, và tóc ở Cánh tay đi ngược lên", rồi tiếp

theo là những điểm giống nhau về ruột, ruột kết, gan, lá lách, tụy

tạng và tim. "25. Bộ óc lớn hơn óc khỉ không đuôi rất nhiều; và mọi

phần của nó được cấu tạo giống hệt như óc con người". Rồi giống

nhau về răng, xương sống, ngón tay và ngón chân, nhưng sau cùng

"không thể xác định được bằng tất cả những cơ bắp của khỉ không

đuôi và khỉ có giống với cơ bắp của người hay không, vì không có

một vật thí nghiệm để so sánh, hay những quan sát của những

người khác". Ba mươi bốn sự khác biệt giải phẫu học với người và

những điểm giống nhau của tinh tinh "với khỉ không đuôi và các

loài khỉ khác" cũng được liệt kê một cách chính xác và tỉ mỉ. Khi

khám phá ra rằng những cơ quan phát tiếng nói và não của con

vật lùn của ông "giống hệt như của người", ông khiến cho các độc

giả thắc mắc "nếu đó là những cơ quan chuyên biệt cho những

hành động của con người , vậy thì con vật lùn này có thể thực sự là

một con người". Tại sao con người có thể suy luận, còn con vật lùn

thì không? Tyson đã đặt câu hỏi này vào một ma trận mới vào thế

giới của thiên nhiên vật lý. Giống như ta không thể quên đi nhãn

giới của hệ nhật tâm sau khi đã thấy nó, giờ đây khi đã đọc Tyson,

ra cũng không thể còn tin rằng con người là một tạo vật tách biệt

khỏi phần còn lại của thiên nhiên.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 193

http://ebooks.vdcmedia.com

Tyson kết luận rằng con tinh tinh giống con người nhiều hơn

là giống các loài tinh trưởng khác. Giờ đây những khác biệt của

con người với những loài vật khác chỉ còn là về những sắc thái có

thể liệt kê trên một bảng danh sách. Tài năng giải phẫu của Tyson

đã cống hiến cho đề tài tranh luận thần học về bản chất "thú tính"

của con người một ý nghĩa mới chính xác - và cũng nguy hiểm về

mặt thần học. Tyson đã đạt tới ngưỡng cửa của khoa nhân chủng

học tự nhiên.

Điều kỳ lạ nhất trong sự nghiệp nhân chủng học tự nhiên

của Tyson là vai trò tiên phong của ông trong việc nghiên cứu

những tính cách thất thường của trí khôn con người . Ông đã được

chọn làm thành viên Đoàn bác sĩ Hoàng gia và năm 1684 được bổ

nhiệm chức Giám đốc Bệnh viện Bethlehem. Tại đây ông đã chiếm

được một vị trí trong hàng ngũ những nhà nhân đạo. Bệnh viện

Bethlehem, gọi tắt là "Bedlam", được thành lập vào thế kỷ 13 bởi

Hội Dòng Ngôi sao Bethlhem, để chăm sóc những người mất trí, là

viện tâm thần đầu tiên thuộc loại này ở Anh. Từ lâu bệnh viện này

trở thành đồng nghĩa với một nơi ồn ào mất trật tự. Tại đây những

bệnh nhân tâm thần bị đánh đập, xiềng xích và giam vào những

xà lim. Và thỉnh thoảng nó cũng trở thành nơi để giam cầm những

con người "quấy rối" và những thợ tập nghề biếng nhác.

Trong một thời kỳ khó khăn như thế, Tyson đã thành công

một cách kỳ diệu trong việc đối xử nhân đạo với những bệnh nhân

tâm thần. Để thay đổi bầu khí của một nhà tù thành một bầu khí

bệnh viện, ông đã thuê những nữ y tá vào phục vụ và thiết lập một

quĩ quần áo để cung cấp quần áo cho bệnh nhân nghèo. "Bedlam"

bắt đầu trở thành một nơi để điều trị chứ không còn là một nơi để

trừng phạt nữa. Cải cách lớn của ông là việc điều trị cho các bệnh

nhân sau khi rời bệnh viện, với những cuộc thăm viếng định kỳ tại

nhà. Trong 20 năm ông làm bác sĩ tại đây, trong số 1,294 bệnh

nhân nhập viện, đã có 890 người xuất viện (nghĩa là khoảng 70%)

được khỏi hẳn hay giảm bớt chứng điên. Những cải cách của Tyson

còn tồn tại nhiều thế kỷ sau và đã để lại dấu ấn vững bền tại

Bethlehem và những nơi khác.

Khi Linnaeus sau này đưa Con người vào trong Hệ Thống

Thiên Nhiên của mình năm 1735, ông đã không tránh né vấn đề

bằng cách gọi Tyson là một thiên thần sa ngã. Giống như Tyson,

ông nhìn nhận mình "không thể tìm ra sự khác biệt giữa con người

và con tinh tinh" và không bao giờ thực sự tìm ra được một "đặc

Daniel J. Boorstin 194

http://ebooks.vdcmedia.com

tính riêng của giống" để phân biệt người với vượn. Linnaeus đã kết

luận với một sự khôi hài hiếm thấy nơi ông, "Thật là lạ khi một

con vượn ngu đần nhất lại khác biệt quá ít với một con người

thông minh nhất, và thật là lạ khi vẫn chưa tìm ra nhà quan sát

nào về thiên nhiên có khả năng vạch ra được đường phân cách

giữa con người và con vượn". Shakespeare trong Henry IV, phần I

đã nói. "Homo (Người) là một tên chung cho mọi người". Linnaeus

đã đặt tên cho người trong hệ thống hai tên gọi của ông là Homo

sapiens, Người trí tuệ. Ông đã cho người một ý nghĩa mới rộng

hơn, bằng cách bạo dạn xếp con người thành một "loài" (species),

nghĩa là coi con người cũng chỉ là một loài trong các loài động vật.

Linnaeus đặt loài người vào Họ có vú thuộc Dòng Linh trưởng và

phân biệt những giống người khác nhau:

Bốn chân, người biết nói, đầy lông. Người Rừng.

Da màu đồng, tính lạc quan, đứng thẳng. Người Mỹ.

Tóc đen, thẳng, dày, lỗ mũi cao, mặt gồ ghề; râu thưa, cố

chấp, tự do. Xâm mình bằng những đường nét đẹp màu đỏ. Đời

sống được qui định bởi tập tục.

Da trắng, tính nóng, người rắn chắc. Người Âu.

Tóc vàng, nâu, suôn, mắt xanh lơ, thanh lịch, sâu sắc, sáng

tạo.

Mặc quần áo sát người. Điều hành đời sống bằng luật pháp.

Da sạm, tính trầm, cứng nhắc. Người Á.

Tóc đen, mắt đen, nghiêm nghị, kiêu ngạo, tham lam. Mặc

quần áo mỏng, sống dựa trên dư luận.

Da đen, dễ tính, phóng khoáng. Người Phi.

Tóc đen, quăn, da bóng, mũi tẹt, môi dày, khéo tay chân, uể

oải, lười biếng. Xoa mỡ trên người. Sống theo ngẫu hứng.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 195

http://ebooks.vdcmedia.com

CHƯƠNG 59

NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐI TỚI TIẾN HÓA

Thomas Bell, vị chủ tịch lỗi lạc của Hội Linnaeus Luân Đôn,

đã báo cáo vào cuối năm 1858 như sau: "Năm vừa qua thực sự đã

không có một khám phá nổi bật nào có thể ngay lập tức tạo ra cuộc

cách mạng... trong lãnh vực khoa học mà hội nhằm tới; chúng ta

chỉ có thể mong đợi những sự đột phá bất ngờ và nổi bật trong

những quãng thời gian cách xa nhau mà thôi". Hội Linnaeus đã

được thành lập từ năm 1788 để bảo tồn thư viện, các loài cây cỏ và

các thủ bản do Linnaeus để lại cho con trai ông và khi người con

trai này qua đời, di sản này đã được một nhà thực vật học người

Anh mua lại cho hội. Dù Bell đã nhận định như thế, nhưng ba tài

liệu được đọc cho hội vào ngày 1 tháng 7 năm đó đã gói ghém

nhiều hệ quả cách mạng hơn bất kỳ đóng góp nào khác cho diễn

đàn của các nhà khoa học kể từ thời Newton.

Những tài liệu nói trên (chỉ dài 17 trang trong tờ Journal của

hội), "Về khuynh hướng của các loài biến đổi để trở thành đa dạng;

và Về sự vững bền của các dạng khác nhau và các loài nhờ sự đào

thải tự nhiên", đã được thông tri cho hội do hai thành viên thành

công nhất của hội, Sir Charles Lyell, nhà địa chất học và J. D.

Hooker, nhà thực vật học. Hai ông này đã giới thiệu "những kết

quả nghiên cứu của hai nhà khoa học tự nhiên hăng say là Ông

Charles Darwin và Ông Alfred Wallace. Hai nhà khoa học này đã

làm việc độc lập và không biết nhau, nhưng đã cùng đạt đến một

lý thuyết rất tinh vi để giải thích về sự xuất hiện và tồn tại của

những loài và những dạng khác nhau trên hành tinh chúng ta, cà

hai vị đều xứng đáng là những nhà tư tưởng đầu tiên trong lĩnh

vực nghiên cứu quan trọng này". Ba mục tài liệu đó là: những

trích đoạn một thủ bản được Darwin phác thảo năm 1839 và duyệt

lại năm 1844; trích đoạn một lá thư của Darwin gởi cho Giáo sư

Asa Gray ở Boston, Massachusetts vào tháng 10, 1857, lập lại

những quan điểm của ông về các loài đã được phát biểu trong thủ

bản trước đó; và một khảo luận của Wallace viết tại Tarnate thuộc

Daniel J. Boorstin 196

http://ebooks.vdcmedia.com

miền Đông Indies vào tháng 2, 1858, mà ông đã gởi cho Darwin để

nhờ ông này chuyển cho Lyell nếu thấy nó mới lạ và thú vị.

Về sau, các nhà viết sử sẽ ghi nhận ngày 1 tháng 7 năm 1858

là ngày thuyết tiến hóa công bố lần đầu tiên. Nhưng ở thời điểm

đó, các tài liệu của Darwin - Wallace không được các hội viên của

hội chú ý. Cả Darwin lẫn Wallace đều không có mặt trong hội nghị

và ba mươi thành viên trong hội nghị cũng không thảo luận về các

tài liệu đó. Việc trình bày những tài liệu này chỉ là một hành vi

thủ tục mà thôi.

Trong quá trình của ý tưởng tiến hóa, chúng ta chứng kiến

một hiện tượng nổi bật trong tiến bộ của khoa học. Thời đại mới đã

phát minh ra nhiều dụng cụ quảng cáo, máy in đã mang lại hiệu

quả phổ biến rộng rãi, các hội khoa xuất hiện với những diễn đàn

rộng rãi và công khai hơn. Tất cả những sự kiện này tạo nên một

sức chuyển động mới cho các ý tưởng khoa học và cho chính nhà

khoa học.

Ngày 27 tháng 21, 1831, khi chàng thanh niên 22 tuổi

Darwin khởi đầu một cuộc du hành 5 năm trên chiếc tàu Beagle,

anh theo bên mình quyển đầu tiên vừa được xuất bản trong bộ Các

nguyên lý địa chất học của Charles Lyell, do giáo sư thực vật học

của anh ở Cambridge tặng. Lyell (1797-1875) sẽ cung cấp cái nền

cho mọi tư tưởng của Darwin về các qui trình của thiên nhiên và

nhờ đó giúp cho những tư tưởng mới về tiến hóa mang tên lý

thuyết Darwin. Trực giác quyết định của Lyell được trình bày với

rất nhiều dữ kiện trong sách của ông, cho rằng trái đất đã được

hình thành ngay từ đầu bởi những sức mạnh đồng đều hiện vẫn

đang hoạt động - sự xói mòn bởi dòng nước, sự tích lũy phù sa, các

cuộc động đất và núi lửa. Vì những sức mạnh đó qua nhiều thiên

niên kỷ đã hình thành trái đất như ta thấy ngày nay, nên không

cần phải tưởng tượng ra những thiên tai nào cả. Lý thuyết này

được gọi là lý thuyết động lực đều.

Lyell đã cố tránh những vấn đề nan giải của thần học và vũ

trụ học bằng cách không bàn tới nguồn gốc trái đất. Ông cho rằng

những lý thuyết trừu tượng về việc tạo dựng là không cần thiết và

không khoa học. Hệ quả đối với thực vật và động vật là điều dễ

thấy. Nếu hoạt động hiện nay của núi lửa Vesuvius hay Etna cắt

nghĩa cho những thay đổi nơi bề mặt trái đất, tại sao chúng ta

không nghĩ rằng những sức mạnh khác cùng cắt nghĩa cho sự xuất

hiện của các loài và các dạng khác nhau của thực vật và động vật ?

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 197

http://ebooks.vdcmedia.com

Vị giáo sư ở Cambridge khi tặng Darwin cuốn sách của Lyell đã

khuyến cáo anh không nên tin mọi điều trong đó. Ngoài ra,

Darwin còn mang theo một ít sách khác, trong đó có sách Kinh

Thánh, Milton, các cuộc thám hiểm của Alexander von Humboldt ở

Venezuela và lưu vực sông Orinoco.

Chuyến du khảo Beagle là giai đoạn quyết định đưa Darwin

tới những khái niệm về tiến hóa và người đầu tiên gợi hứng cho

chàng sinh viên trẻ Darwin say mê đi vào lãnh vực nghiên cứu

thiên nhiên là John Stevens Henslow (1796-1861), giáo sư thực

vật học của cậu ở đại học Cambridge. Từ ghế giảng đường, vị giáo

sư có tài cuốn hút này đã một mình khơi dậy sự phục hưng khoa

thực vật học tại đại học. Ông đã khởi xướng những chuyến du

khảo thực địa để sinh viên quan sát thực vật trong môi trường tự

nhiên và yêu cầu các sinh viên của mình có những quan sát độc

lập, nhờ đó ông đã đào tạo một thế hệ những nhà thực vật học mới

quan tâm ít tới thuật ngữ của Linnaeus nhưng để ý nhiều tới sự

phân phối, sinh thái và địa lý của thực vật. Vườn thực vật

Cambridge đã trở thành một phòng thí nghiệm giảng dạy.

Thành tựu lớn của Henslow đáng ghi vào lịch sử, đó là ông

đã có công biến đổi chàng sinh viên ham chơi Darwin thành một

nhà khoa học thiên nhiên say mê. Khi đã 67 tuổi, Darwin vẫn còn

nhớ lại "một hoàn cảnh đã ảnh hưởng tới sự nghiệp của tôi hơn

mọi điều gì khác".

Đó là tình bạn của tôi với giáo sư Henslow. Trước khi tới

Cambridge, tôi đã nghe anh trai tôi kể về ông như một con người

thông thạo mọi ngành khoa học và tôi cảm thấy kính trọng ông từ

đấy. Mỗi tuần ông đều mở cửa nhà ông một lần để sinh viên và

những người yêu thích khoa học trong đại học đến gặp gỡ nhau vào

buổi tối. Ngay từ đầu tôi nhận được một lời mời của Fox và tôi cứ

đều đặn đến đó. Chẳng bao lâu tôi đã quen thân với thầy Henslow

và trong nửa sau của thời học ở Cambridge, tôi thường xuyên đi

dạo chơi với thầy; vì thế một số giáo sư ở trường đã gọi tôi là

"người đi dạo với Henslow"; và buổi tối tôi thường xuyên được mời

ăn tối với gia đình thầy. Thầy rất uyên bác về thực vật học, côn

trùng học, hóa học, khoáng chất học và địa chất học. Sở thích

mạnh nhất của thầy là rút ra những kết luận từ những quan sát

lâu ngày liên tiếp và tỉ mỉ.

Năm 1831, khi bộ Hải quân xin Henslow giới thiệu một nhà

thiên nhiên học phục vụ chuyến thám hiểm Beagle để vẽ bản đồ

Daniel J. Boorstin 198

http://ebooks.vdcmedia.com

các bờ biển Patagonia, Tierra de Fuego, Chilê và Peru, ông đã giới

thiệu người học trò yêu quí nhất của mình.

Charles Darwin phấn khởi chấp nhận. Nhưng cha của cậu

dứt khoát không chịu để cậu lao vào những cuộc mạo hiểm như

thế. May thay, Henslow và chú của Darwin đã thuyết phục được

ông để cho phép cậu đi.

Henslow liên lạc chặt chẽ với Darwin trong suốt 5 năm của

cuộc thám hiểm Beagle. Hai người thường xuyên liên lạc thư từ với

nhau và Henslow trông coi những mẫu động vật và thực vật do

Darwin gởi về Luân Đôn. Khi tàu Beagle đến Montevideo, Darwin

nhận được cuốn thứ hai trong bộ Địa chất của Lyell và khi tới

Valparaiso ở phía bờ bên kia của lục địa Nam Mỹ, Darwin nhận

được cuốn thứ ba vừa mới ra khỏi nhà in. Trong suốt cuộc hành

trình, Darwin luôn luôn ứng dụng các nguyên lý của Lyell.

Cuốn thứ hai của Lyell vượt ra ngoài lãnh vực địa chất để áp

dụng lý thuyết các lực đồng đều của ông vào sinh vật học. Lyell

giải thích : trong thời địa chất, có những loài mới xuất hiện và

những loài khác bị tuyệt chủng, nhưng những qui tình địa chất

luôn luôn làm thay đổi những tình trạng ấy. Một loài thua trong

cuộc cạnh tranh với một loài khác trong cùng môi trường sinh thái

có thể làm cả một loài bị tuyệt chủng. Một loài thắng trong cuộc

cạnh tranh sẽ phát triển ra nhiều để làm biến mất những loài

khác. Nghiên cứu của Lyell về sự phân phối địa lý các loài thực vật

và động vật gợi ý rằng mỗi loài đã xuất hiện trong một trung tâm.

Những môi trường sinh thái giống nhau tại những lục địa khác

nhau hình như làm phát sinh những loài hoàn toàn khác nhau

nhưng vẫn hoàn toàn thích nghi được với môi trường sinh thái của

mình. Môi trường, (loài) mọi sự đều ở trong tình trạng thay đổi

liên tục.

Sự quan tâm của Lyell tới những vấn đề này đã được kích

thích bởi nhà thiên nhiên học người Pháp Lamark (1744-1829).

Nhưng Lamark chú trọng vào sự di truyền các đặc tính thu được

nên đã thực sự gạt bỏ khái niệm về loài. Theo ông, loài chỉ là tên

để gọi một chuỗi các thế hệ trong khi con vật đang thích ứng với

môi trường. Và nếu mọi loài đều có tính linh động vô tận, thì

không hề có loài nào bị tuyệt chủng cả. Trong khi Lyell coi loài

như là những đơn vị cơ bản trong qui trình của thiên nhiên, ông

không giải thích được bằng cách nào một loài mới có thể xuất hiện.

ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 199

http://ebooks.vdcmedia.com

Những gợi ý của Lyell đầy ấn tượng đã kích thích Darwin.

Khắp nơi ở Nam Mỹ, anh đều gặp những loài thực vật và động vật

mà anh chưa thấy bao giờ. Tại quần đảo Galápagos anh bị cuốn

hút bởi những loài chim đa dạng tại những hòn đảo khác nhau

trên cùng một vĩ độ. Cùng lúc đó, Henslow bị ấn tượng mạnh bởi

những lá thư của Darwin và ông đã đọc một số lá thư cho Hội

Triết học của Cambridge, thậm chí ông đã in một số để phân phát

cho bạn bè. Khi tàu Beagle trở về năm 1836, Henslow đã kết hợp

với Lyell tìm cho Darwin một khoản tài trợ 1,000 bảng Anh để

giúp Darwin soạn một báo cáo dày 5 tập sách và đã giúp để ông

được bầu làm Thư ký hội địa chất ở Luân Đôn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro