Những phát hiện về vạn vật và con người 1
Những phát hiện về vạn vật và con người 1
http://ebooks.vdcmedia.com
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU .................................................................................3
PHẦN I: BẦU TRỜI BAO LA .............................................................................4
Chương 1 Sự quyến rũ của mặt trăng .................................................5
Chương 2 Tuần lễ: ngưỡng cửa khoa học...........................................13
Chương 3 Thượng đế và các nhà chiêm tinh .....................................18
PHẦN II TỪ THỜI GIAN MẶT TRỜI ĐẾN THỜI GIAN ĐỒNG HỒ...........23
Chương 4 Đo những giờ tối.................................................................24
Chương 5 Phát minh giờ đồng đều.....................................................32
Chương 6 Mang thời gian đi khắp nơi ...............................................37
PHẦN III CHIẾC ĐỒNG HỒ CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO .............................45
Chương 7 Mở đường vào Trung Hoa ..................................................46
Chương 8 Mẹ của các máy móc ..........................................................54
Chương 9 Tại sao lại xảy ra bên Tây .................................................56
PHẦN IV ĐỊA LÝ CỦA TRÍ TƯỞNG TƯỢNG................................................61
Chương 10 Kinh sợ trước núi non ......................................................62
Chương 11 Vẽ bản đồ bầu trời và âm phủ.........................................66
Chương 12 Sự lôi cuốn của tính đối xứng ..........................................71
Chương 13 Giáo điều giam hãm kiến thức ........................................81
Chương 14 Quay về với trái đất phẳng..............................................85
PHẦN V ĐƯỜNG ĐI ĐẾN PHƯƠNG ĐÔNG..................................................90
Chương 15 các cuộc hành hương Kitô giáo ........................................91
Chương 16 Người Mông Cổ đã mở đường như thế nào.....................97
Chương 17 Các nhà truyền giáo ngoại giao .....................................102
Chương 18 Khám phá châu Á..........................................................107
Daniel J. Boorstin 2
http://ebooks.vdcmedia.com
Chương 19 Thời đại đen tối trên đường bộ......................................112
PHẦN VI ĐI VÒNG QUANH TRÁI ĐẤT.......................................................116
Chương 20 Phục Hưng và tu sửa lý thuyết Ptolêmê.......................117
Chương 21 Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha tiên phong ...................124
Chương 22 Bên kia mũi hiểm nghèo................................................133
Chương 23 Đến Ấn Độ và trở về.......................................................140
Chương 24 Tại sao không phải người Ả Rập?..................................145
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 3
http://ebooks.vdcmedia.com
LỜI GIỚI THIỆU
"Thời gian là nhà khám phá vĩ đại nhất", Francis Bacon
(1625). Khám phá vĩ đại đầu tiên là thời gian, khung của kinh
nghiệm. Chỉ khi biết phân định năm tháng, tuần lễ, ngày giờ, phút
giây, con người mới thoát ra được cái chu kỳ đơn điệu của thiên
nhiên.
Dòng chảy của bóng tối, cát, nước và của thời gian, được
chuyển đổi thành những đoạn ngắt đều của đồng hồ. Nó đã trở
thành một dụng cụ hữu ích để con người đo lường chuyển động
trên khắp hành tinh. Các khám phá về thời gian và không gian sẽ
trở thành một chiều kích liên tục. Các cộng đồng của thời gian sẽ
mang đến cho các cộng đồng tri thức đầu tiên những cách thức để
chia sẻ khám phá, một giới tuyến chung về cái còn chưa được biết
đến.
Daniel J. Boorstin 4
http://ebooks.vdcmedia.com
Phần I: Bầu trời bao la
"Thượng Đế đã tạo dựng các
hành tinh và các ngôi sao không phải
để chúng thống trị con người, nhưng
để chúng cũng như các tạo vật khác,
vâng phục và phục vụ con người" -
Paracelsus (1541)
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 5
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 1
SỰ QUYẾN RŨ CỦA MẶT TRĂNG
Từ cực tây bắc Greenland tới cực nam Patagonia, người ta
đâu đâu cũng đón chào trăng mới - một thời gian để ca hát và cầu
nguyện, ăn uống và vui chơi. Người Eskimô mở một lễ hội, trong
đó các pháp sư của họ cử hành, họ tắt hết đèn rồi vui vẻ với những
người phụ nữ. Các thổ dân Nam Phi hát một bài thánh ca: "Trăng
Mới!.. Kính chào, Kính chào Trăng Mới!". Dưới ánh trăng, mọi
người đều thích khiêu vũ. Và mặt trăng còn có những sự quyến rũ
khác. Theo lời kể của sử gia Tacitus cách đây gần 2000 năm,
những cộng đồng người Đức cổ đại thường tổ chức lễ hội vào những
ngày trăng non hay trăng tròn, là "những mùa được coi là tốt đẹp
nhất để bắt đầu công việc làm ăn".
Khắp nơi ta đều tìm thấy những ý nghĩa thần thoại, huyền
bí và lãng mạn về mặt trăng - mặt trăng được gọi là chị Hằng, chị
Nguyệt; mặt trăng gắn liền với truyện Thằng Cuội ngồi gốc cây đa;
mặt trăng được coi là khung cảnh lý tưởng để đôi trai gái hẹn hò
tình tự. Nhưng ý nghĩa sâu xa và quan trọng nhất của mặt trăng
có liên quan tới việc đo lường thời gian; mặt trăng được gọi là
nguyệt, là một tuần trăng, nghĩa là một tháng. Người cổ xưa đã
biết dùng mặt trăng làm một đơn vị đo lường thời gian.
Tuy việc sử dụng mặt trăng làm đơn vị thời gian này khá đơn
giản, nhưng nó từng là một cạm bẫy đối với đầu óc ngây thơ của
con người. Tính tháng theo mặt trăng rất tiện lợi, vì khắp nơi trên
mặt đất đều có thể nhìn thấy các chu kỳ trăng, thế nhưng nó dẫn
người ta vào ngõ cụt. Điều mà các thợ săn và nông dân cần có một
lịch các mùa - một cách để dự báo sẽ có mưa hay tuyết, nóng hay
lạnh. Còn bao lâu nữa mới tới thời kỳ gieo trồng? Khi nào sẽ có đợt
sương giá đầu tiên? Khi nào sẽ có mưa lũ?
Mặt trăng không giúp được bao nhiêu cho những nhu cầu ấy.
Thực ra, những chu kỳ của mặt trăng tương ứng một cách kỳ lạ
với chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, vì một tuần trăng, nghĩa là
một thời gian cần thiết để mặt trăng trở về cùng một vị trí trong
Daniel J. Boorstin 6
http://ebooks.vdcmedia.com
bầu trời, là hơn kém 28 ngày và một người phụ nữ có thai có thể
trông chờ sẽ sinh con sau 10 tuần trăng này. Nhưng một năm tính
theo mặt trời - cách đo lường chính xác các ngày giữa các mùa trở
về - là 365 1/4 ngày. Các chu kỳ của mặt trăng là do chuyển động
của mặt trăng xoay quanh trái đất cùng lúc với trái đất xoay
quanh mặt trời. Quỹ đạo của mặt trăng hình êlíp và rời xa quỹ đạo
của trái đất với mặt trời một góc khoảng 5 độ. Đây là lý do tại sao
nhật thực không xảy ra hằng tháng.
Các chu kỳ của mặt trăng không tương ứng với các chu kỳ
của mặt trời, đây là một sự kiện gây thắc mắc và kích thích suy
nghĩ của con người. Giá mà người ta có thể tính toán được chu kỳ
các mùa và các năm bằng cách chỉ cần nhân lên các chu kỳ của
mặt trăng thì việc tính toán đỡ rắc rối cho người ta biết bao.
Nhưng nếu như vậy, có lẽ chúng ta cũng mất đi động cơ để nghiên
cứu về bầu trời và trở thành những nhà toán học.
Như chúng ta biết ngày nay, các mùa trong năm bị chi phối
bởi các chuyển động của trái đất xoay quanh mặt trời. Mỗi chu kỳ
các mùa đánh dấu việc trái đất trở về vị trí cũ của nó trên quỹ đạo,
một chuyển động từ một điểm phân (hay điểm chí) sang điểm kế
tiếp. Loài người cần có một lịch để sinh hoạt trong mùa. Phải bắt
đầu thế nào?
Người Babylon cổ đại bắt đầu với lịch mặt trăng và tiếp tục
duy trì nó. Sự cố chấp của họ với các chu kỳ mặt trăng trong việc
làm lịch đã tạo ra những hậu quả nghiêm trọng.
Khi tìm cách đo chu kỳ các mùa theo bội số của các chu kỳ
mặt trăng, họ đã khám phá ra, khoảng năm 432 trước C.N., chu
kỳ 19 năm gọi là chu kỳ Mêtônic (theo tên của nhà thiên văn
Mêtôn). Họ thấy rằng nếu dùng một chu kỳ 19 năm, gồm 7 năm có
13 tháng và 12 năm chỉ có 12 tháng, họ có thể tiếp tục sử dụng các
chu kỳ rõ ràng thuận tiện của mặt trăng làm cơ sở để tính lịch của
họ. Việc họ chèn vào một tháng phụ trội tránh được cái bất tiện
của một năm "trôi nổi" trong đó các mùa dần dần trôi nổi theo các
tháng mặt trăng, khiến không thể biết được tháng nào sẽ bắt đầu
một mùa mới. Lịch Mêtônic với chùm 19 năm quá phức tạp không
tiện cho việc sử dụng hằng ngày.
Người Ai Cập hầu như tránh được những quyến rũ của mặt
trăng. Như chúng ta biết, họ là những người đầu tiên khám phá ra
thời gian của năm mặt trời và xác định nó một cách cụ thể và thực
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 7
http://ebooks.vdcmedia.com
dụng. Giống như với các thành tựu quan trọng khác của nhân loại,
chúng ta biết được cái gì rồi, nhưng vẫn còn thắc mắc về cái tại
sao, cái thế nào và cả cái khi nào. Thắc mắc thứ nhất là tại sao lại
do người Ai cập tìm ra. Người Ai Cập không có sẵn những dụng cụ
thiên văn được biết đến trong thế giới cổ đại. Họ không có những
thiên tài toán học xuất sắc. Khoa thiên văn của họ còn rất thô sơ
so với khoa thiên văn của người Hy Lạp và các dân tộc khác ở vùng
Địa Trung Hải và chịu ảnh hưởng mạnh bởi các nghi tiết tôn giáo.
Nhưng có lẽ vào khoảng 2500 trước C.N., họ đã mường tượng ra
các dự đoán thời điểm mặt trời mọc hay mặt trời lặn sẽ chiếu dọi
lên đỉnh của một tháp kỷ niệm, nhờ đó họ tăng thêm cảnh rực rỡ
cho các lễ nghi hay các cuộc mừng kỷ niệm của họ.
Phương thức làm lịch của Babylon sử dụng chu kỳ mặt trăng
và điều chỉnh các mùa và năm mặt trời bằng cách chèn thêm một
tháng, nên tỏ ra bất tiện. Những sự tùy tiện của các địa phương
thắng thế. Tại Hy Lạp, các miền đất nước bị phân cách bởi các núi
đồi và các vùng biển và các đồng bằng phì nhiêu, mỗi tiểu quốc có
lịch riêng cho mình, tùy tiện "chèn vào" tháng phụ trội để đánh
dấu một lễ hội địa phương hay đáp ứng các nhu cầu chính trị. Kết
quả là làm hỏng chính mục đích của lịch - một khung thời gian để
giúp quy tụ người ta lại với nhau, giúp thực hiện dễ dàng các kế
hoạch chung, như các thỏa thuận về thời kỳ bắt đầu gieo trồng và
phân phối hàng hóa.
Người Ai Cập không có gen toán học của người Hy Lạp,
nhưng họ đã giải quyết được vấn đề thực tiễn. Họ đã phát minh ra
một lịch phục vụ cho các nhu cầu hằng ngày trên khắp đất nước
họ. Ngay từ năm 3200 trước C. N., toàn vùng thung lũng sông Nile
đã thống nhất với châu thổ sông Nile thành một đế quốc duy nhất
trong suốt 3000 năm, mãi cho tới Thời đại Clêôpatra. Sự thống
nhất chính trị còn được sự hỗ trợ của thiên nhiên. Giống như các
thiên thể trên bầu trời, sông Nile cũng mang một dòng chảy tự
nhiên êm đềm và thơ mộng. Là con sông dài nhất ở châu Phi, sông
Nile trải dài 4 ngàn dặm từ đầu nguồn xa tắp, thu gom lượng nước
mưa và tuyết dồi dào của các cao nguyên Êtiôpia và toàn thể miền
đông bắc của lục địa trong một dòng sông lớn duy nhất và đổ ra
Địa Trung Hải. Người cổ đại dựa theo gợi ý của Herodotus đã gọi
Ai Cập là "quà tặng của sông Nile". Việc đi tìm các nguồn của sông
Nile, giống như việc đi tìm Chén Thánh, chất chứa vô số những ý
Daniel J. Boorstin 8
http://ebooks.vdcmedia.com
nghĩa huyền bí và đã kích thích những nhà thám hiểm gan dạ vào
thế kỷ 19.
Sông Nile đã làm hoa màu tươi tốt, tạo thuận lợi cho nền
thương mại và ngành kiến trúc của Ai Cập. Là đường giao thông
thương mại lớn, sông Nile còn là đường vận tải các vật liệu để xây
dựng các đền thờ và kim tự tháp đồ sộ. Một cây tháp bằng đá
granít nặng 3 nghìn tấn có thể được khai thác ở Aswan rồi được
vận chuyển 2 trăm dặm xuôi dòng sông tới thành Thebes. Sông
Nile nuôi dưỡng các thành phố cắm dọc hai bên bờ sông. Chẳng lạ
gì người Ai Cập gọi sông Nile là "biển" và trong Kinh Thánh nó
được gọi là "Sông Cả".
Nhịp chảy của sông Nile cũng chính là nhịp chảy của đời
sống Ai Cập. Mực nước sông dâng lên hằng năm định ra lịch gieo
trồng và gặt hái với ba mùa: tưới tiêu, tăng trưởng và thu hoạch.
Nước lũ của sông Nile từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 10 bồi nhiều
đất phù sa phì nhiêu, giúp cho hoa màu được gieo trồng và tăng
trưởng từ cuối tháng 10 đến cuối tháng 2, được thu hoạch từ cuối
tháng 2 đến cuối tháng 6. Vừa đều đặn vừa cần thiết cho đời sống
giống như mặt trời, mực nước sông Nil dâng lên đánh dấu cho năm
của sông Nil. Hiển nhiên, lịch Ai Cập sơ khởi là một "đồng hồ sông
Nil" - một cây thước đơn sơ đánh dấu mực nước sông dâng lên
hằng năm. Chỉ cần tính toán niên lịch sông Nil trong một ít năm
cũng cho thấy rõ nó không tương ứng với các chu kỳ mặt trăng.
Nhưng ngay từ rất sớm, người Ai Cập đã khám phá ra rằng có thể
làm ra một lịch về mùa rất hữu ích với mười hai tháng, mỗi tháng
gồm ba mươi ngày, cộng thêm 5 ngày vào cuối năm, thành một
năm 365 ngày. Đó là lịch "dân sự", hay "lịch sông Nile, mà người
Ai Cập đã bắt đầu sử dụng ngay từ năm 4241 trước C.N".
Không dùng chu kỳ tiện dụng của mặt trăng, người Ai Cập
đã tìm ra một ký hiệu khác để đánh dấu năm của họ: sao Thiên
Lang, ngôi sao sáng nhất trên bầu trời. Mỗi năm một lần, sao
Thiên Lang mọc vào buổi sáng cùng đường thẳng với mặt trời.
Sao Thiên Lang mọc hằng năm tương ứng với giữa mùa nước
lũ của sông Nile, đã trở thành đầu năm theo lịch Ai Cập. Sự kiện
này được đánh dấu bằng một lễ hội đầu năm gồm 5 ngày (những
ngày không nằm trong các tháng), được cử hành để tôn kính lần
lượt sinh nhật của Osiris, của thần Horus (con thần Osiris), thần
Set (thù địch của Osiris), của Isis (chị và vợ của Osiris) và của
Nepththys (vợ của Set).
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 9
http://ebooks.vdcmedia.com
Hiển nhiên, vì năm mặt trời không đúng 365 ngày, nên trải
qua nhiều thế kỷ, năm Ai Cập 365 ngày đã trở thành một "năm
trôi nổi" với mỗi tháng được xác định dần dần xảy ra vào một mùa
khác nhau. Sự sai biệt này quá nhỏ khiến phải thật nhiều năm,
dài hơn một đời người rất nhiều, thì sự sai biệt này mới gây xáo
trộn cho đời sống hằng ngày. Mỗi tháng di chuyển qua mọi mùa
trong suốt một nghìn bốn trăm sáu mươi năm. Hơn nữa, lịch Ai
Cập này ích lợi hơn bất kỳ lịch nào khác vào thời đó nên đã được
Julius Cesar dùng để làm lịch Julian của ông. Nó tồn tại suốt thời
Trung Cổ và vẫn còn được Copernic sử dụng trong các bảng tính
thiên thể của ông vào thế kỷ 16.
Mặc dầu với lịch hằng ngày của mình, người Ai Cập đã
thành công trong việc tuyên bố họ không lệ thuộc mặt trăng,
nhưng mặt trăng vẫn còn tạo sự mê hoặc cho con người cổ đại.
Nhiều dân tộc, kể cả người Ai Cập, vẫn dùng chu kỳ mặt trăng để
hướng dẫn các lễ hội tôn giáo và các ngày kỷ niệm huyền bí của
mình. Ngay cả ngày nay, những người chịu ảnh hưởng tín ngưỡng
mạnh vẫn bị chi phối bởi các chu kỳ của mặt trăng. Những bất
tiện của việc sống theo lịch mặt trăng trở thành một bằng chứng
cho niềm tin tôn giáo hằng ngày.
Người Do Thái, chẳng hạn, vẫn theo âm lịch của họ và mỗi
tháng âm lịch Do Thái vẫn bắt đầu khi trăng mới xuất hiện. Để
năm âm lịch của họ phù hợp với năm theo mùa, người Do Thái đã
thêm vào một tháng cho mỗi năm nhuận và lịch Do Thái đã trở
thành một môn học kỳ cục của các giáo sĩ Do Thái. Năm âm lịch
Do Thái gồm 12 tháng, mỗi tháng 29 hay 30 ngày, tổng cộng 354
ngày. Để làm cho đủ năm dương lịch, những năm nhuận thêm vào
một tháng, mỗi tháng 29 hay 30 ngày, tổng cộng 354 ngày. Để làm
cho đủ năm dương lịch, những năm nhuận thêm vào một tháng
cho các năm thứ ba, sáu, tám, mười một, mười năm. Thỉnh thoảng
cần có các sự điều chỉnh khác cho các dịp lễ của họ xảy ra đúng
mùa - ví dụ, để đảm bảo cho dịp lễ Vượt Qua là lễ mùa xuân diễn
ra sau xuân phân. Trong Kinh Thánh, hầu hết các tháng đều lấy
tên Babylon thay vì tên Do Thái.
Kitô giáo theo Do Thái giáo trong hầu hết các lễ của mình,
đã duy trì sự gắn bó của mình với năm âm lịch. Các "ngày lễ di
động" của Giáo Hội không cố định theo năm dương lịch vì Giáo Hội
muốn giữ cho các ngày lễ ấy tương ứng với các chu kỳ của mặt
trăng. Những ngày lễ này vẫn còn gợi lại cho chúng ta niềm hứng
Daniel J. Boorstin 10
http://ebooks.vdcmedia.com
cảm ban đầu của luồng ánh sáng rực rỡ trên bầu trời ban đêm.
Hiển nhiên ngày lễ di động quan trọng nhất của Kitô giáo là lễ
Phục Sinh, cử hành cuộc sống lại của Chúa Giêsu. Theo Sách Kinh
Chung của Giáo Hội Anh giáo, ngày lễ Phục Sinh luôn luôn rơi vào
chủ nhật đầu tiên sau trăng tròn, tức là ngày chủ nhật đầu tiên
sau ngày 21 tháng ba hoặc ngày kế tiếp, và nếu trăng tròn xảy ra
vào một ngày chủ nhật, thì lễ Phục Sinh sẽ rơi vào ngày chủ nhập
kế tiếp. Có cả chục ngày lễ khác của Giáo Hội được ấn định dựa
vào ngày lễ Phục Sinh và ngày âm lịch của lễ này, kết quả là lễ
Phục Sinh chi phối khoảng 17 tuần lễ trong lịch Giáo Hội. Việc ấn
định ngày lễ Phục Sinh - hay nói cách khác, việc ấn định lịch - đã
là một vấn đề và một biểu tượng lớn. Vì sách Kinh Thánh Tân Ước
kể lại rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh vào ngày lễ Vượt Qua của Do
Thái giáo, cho nên việc kỷ niệm Chúa Sống Lại vào ngày lễ Phục
Sinh rõ ràng gắn liền với lịch Do Thái. Kết quả tất yếu là việc ấn
định ngày lễ Phục Sinh sẽ tùy thuộc vào lối tính toán phức tạp của
Thượng Hội Đồng Do Thái giáo trong việc ấn định ngày lễ Vượt
Qua.
Nhiều Kitô hữu thời kỳ đầu giải thích Kinh Thánh theo
nghĩa đen nên đã xác định rằng Chúa Giêsu chết vào ngày thứ sáu
và sống lại vào ngày Chủ nhật Phục Sinh tiếp theo. Nhưng nếu
ngày lễ này được mừng theo âm lịch Do Thái, thì không có gì bảo
đảm là lễ Phục Sinh phải rơi vào ngày Chủ nhật. Cuộc tranh cãi
gay gắt về lịch đã gây ra cuộc ly giáo đầu tiên giữa Giáo Hội Chính
Thống Phương Đông với Giáo Hội Công Giáo Rôma. Các Kitô hữu
phương đông theo âm lịch nên tiếp tục duy trì lễ Phục Sinh vào
ngày 14 của tháng âm lịch, bất kể ngày này có thể là chủ nhật hay
không. Tại Công Đồng Chung đầu tiên của Kitô giáo họp ở Nicea
bên Tiểu á vào năm 325, một trong những vấn đề phải thống nhất
trong toàn thế giới Kitô giáo là việc ấn định ngày lễ Phục Sinh.
Người ta đã ấn định một ngày chung sao cho cả hai giáo hội đều
duy trì âm lịch và đồng thời bảo đảm cho ngày Phục Sinh luôn
luôn rơi vào Chủ nhật.
Nhưng điều này không giải quyết được vấn đề. Để có thể ấn
định chung, phải có người lo việc dự báo những chu kỳ mặt trăng
và đưa nó vào trong dương lịch. Công Đồng Nicea đã trao nhiệm
vụ này cho giám mục thành Alexandria. Tại trung tâm thiên văn
cổ kính ấy, vị giám mục này phải dự báo những chu kỳ của mặt
trăng cho tất cả các năm trong tương lai. Sự bất đồng về cách dự
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 11
http://ebooks.vdcmedia.com
báo những chu kỳ đặc biệt này đã dẫn đến một sự phân rẽ trong
Giáo Hội, với kết quả là các miền khác nhau trên thế giới tiếp tục
mừng lễ Phục Sinh vào các chủ nhật khác nhau.
Việc sửa đổi lịch do Giáo Hoàng Gregorio XIII thực hiện là
cần thiết, vì lịch mà Julius Cesar đã mượn của Ai Cập và toàn thể
phương Tây đã sử dụng cho tới thời đó thì không đủ chính xác để
đo chu kỳ dương lịch. Năm dương lịch thực tế - thời gian cần thiết
để trái đất quay đủ một vòng quanh quỹ đạo mặt trời - là 365
ngày, 5 giờ, 48 phút và 46 giây. Nghĩa là ít hơn 11 phút 14 giây so
với con số 365 1/4 ngày của năm theo lịch Ai Cập. Kết quả là các
ngày tháng trong lịch dần dần mất đi sự tương quan với các sự
kiện của mặt trời và các mùa. Ngày trọng yếu để tính ngày lễ Phục
Sinh là ngày xuân phân, đã được Công Đồng Nicea ấn định là
ngày 21 tháng 3. Nhưng những sự thiếu chính xác tích lũy dần
trong lịch Julian đã khiến cho ngày xuân phân của năm 1582 thực
sự rơi vào ngày 11 tháng 3.
Giáo Hoàng Gregorio XIII là một nhà cải cách đầy nghị lực
trong một số lĩnh vực. Ngài đã quyết tâm tu sửa niên lịch một cách
dứt khoát. Năm 1582, ngài đã truyền rằng ngày kế tiếp sau 4
tháng 10 ngày là ngày 15 tháng 10. Như thế cũng có nghĩa là xuân
phân của năm tới sẽ rơi vào ngày 21 tháng 3, đúng theo đòi hỏi
của dương lịch các mùa. Thế là niên lịch theo mùa đã được hồi
phục lại theo niên lịch đã có năm 325. Những năm nhuận của lịch
Julian cũ đã được điều chỉnh lại. Để tránh tích lũy sự khác biệt do
11 phút mỗi năm, lịch Gregorio đã loại bỏ những ngày nhuận
trong các năm có hai số 0 tận cùng, trừ khi chúng chia chẵn cho
400. Lịch này đã trở thành lịch mới được phương Tây sử dụng cho
tới nay.
Trở lại năm 1582, khi Giáo Hoàng Gregorio cắt bớt 10 ngày
trong lịch năm ấy, đã có những sự phàn nàn và xáo trộn. Những
người làm thuê đòi hưởng đủ số lương cho tháng đã bị cắt ngắn đó;
các chủ nhân từ chối. Người ta phản đối vì tuổi thọ mình bị rút
ngắn do sắc lệnh của Giáo Hoàng. Nhưng khi nước Anh và các
thuộc địa châu Mỹ họp lại để thực hiện việc đổi lịch, Benjamin
Franklin, 46 tuổi khi ông bị rút mất 10 ngày đời mình, đã hóm
hỉnh viết cho các độc giả quyển Poor Riachard's Almanach rằng họ
phải vui mừng mới đúng: "Độc giả thân mến, bạn đừng ngạc
nhiên, cũng đừng tức giận vì việc bị rút bớt 10 ngày, cũng đừng
nuối tiếc đã bị mất nhiều thời giờ như thế, nhưng hãy tự an ủi vì
Daniel J. Boorstin 12
http://ebooks.vdcmedia.com
các chi tiêu của bạn được giảm nhẹ và tâm trí bạn được thảnh thơi
hơn".
Thế giới không bao giờ chấp nhận hoàn toàn lịch cải cách
Gregorio. Giáo Hội Chính Thống Phương Đông vẫn theo lịch
Julian để tính ngày lễ Phục Sinh của mình. Tuy nhiên, đối với các
sinh hoạt thường ngày, toàn thế giới Kitô giáo đều chấp nhận
dương lịch vì nó tiện lợi cho việc nhà nông và công việc buôn bán.
Còn Hồi Giáo vì muốn trung thành với lời tiên tri Môhamét của
mình và với những lời dạy của Kinh Koran, nên vẫn duy trì âm
lịch.
Tại Trung Hoa, cuộc cách mạng 1911 đã thực hiện một cuộc
cải cách và đưa vào sử dụng lịch phương Tây bên cạnh lịch truyền
thống của Trung Hoa.
Năm 1929 Liên Xô muốn xóa bỏ lịch Kitô giáo, nên đã thay
thế lịch Gregorio bằng lịch Cách mạng. Tuần lễ có 5 ngày, 4 ngày
làm việc, ngày thứ năm nghỉ và mỗi tháng có sáu tuần. Những
ngày phụ trội để làm cho năm đủ 365 hay 366 ngày sẽ là những
ngày nghỉ. Tên các tháng vẫn giữ theo lịch Gregorio, nhưng tên
các ngày trong tuần được gọi đơn giản bằng con số. Đến năm 1940,
Liên Xô đã quay trở lại với lịch Gregorio quen thuộc.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 13
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 2
TUẦN LỄ: NGƯỠNG CỬA KHOA HỌC
Bao lâu con người còn đánh dấu đời sống mình bằng những
chu kỳ của thiên nhiên - các mùa đắp đổi, trăng non hay trăng
tròn - thì con người vẫn còn bị thiên nhiên giam hãm. Nếu con
người muốn tự lập và đổi mới thế giới bằng những sáng tạo của
mình, họ cần phải có cách đo lường thời gian riêng của mình. Và
những chu kỳ nhân tạo này sẽ trở nên đa dạng một cách kỳ diệu.
Có lẽ tuần lễ là một trong những nhóm đơn vị thời gian nhân
tạo có sớm nhất trong lịch sử. Tuần lễ không phải là một sáng tạo
của phương Tây, cũng không phải ở đâu tuần lễ cũng gồm 7 ngày.
Trên khắp thế giới, người ta thấy có ít nhất là 15 kiểu tuần lễ khác
nhau, với những tập hợp từ 5 đến 10 ngày. Kiểu tuần lễ được sử
dụng phổ biến nhất không phải một tập hợp số ngày đặc biệt nào,
mà là do nhu cầu và ước muốn có một tập hợp nào đó mà thôi. Con
người có một ước muốn mãnh liệt và thúc bách xử lý thời gian, sử
dụng nó cho lợi ích của mình nhiều hơn những gì thiên nhiên cống
hiến.
Tuần lễ bảy ngày phổ biến hiện nay bắt nguồn từ nhu cầu và
sự thỏa thuận chung của người ta, chứ không phải do pháp chế
của một nhà nước nào. Nó đã xảy ra thế nào? Tại sao? Khi nào?
Tại sao tuần lễ lại là 7 ngày?
Người Hy Lạp cổ hình như không có tuần lễ. Người Rôma
sống theo tuần lễ 8 ngày. Các nông dân làm việc ở đồng ruộng 7
ngày và ra thành phố ngày thứ 8 - ngày chợ phiên. Đây là một
ngày nghỉ ngơi và giải trí. Không rõ tại sao người Rôma ấn định
tuần lễ 8 ngày và tại sao cuối cùng họ đã đổi thành 7 ngày. Con số
7 có một sức lôi cuốn kỳ bí hầu như ở khắp nơi. Người Nhật cho
rằng có 7 vị thần hạnh phúc, thành Rôma được xây trên 7 ngọn
đồi, người cổ đại kể ra 7 kỳ quan của thế giới và các Kitô hữu thời
Trung Cổ liệt kê ra 7 mối tội đầu. Hình như không có văn bản
chính thức nào của chính quyền Rôma để thay đổi tuần lễ từ 8
Daniel J. Boorstin 14
http://ebooks.vdcmedia.com
sang 7 ngày. Người Rôma đã sống theo tuần lễ 7 ngày ngay từ đầu
thế kỷ 3 sau C.N.
Chắc hẳn phải có những ý tưởng mới phổ biến nào đó về tuần
lễ bảy ngày. Một ý tưởng nổi bật là về ngày Sabát, hình như từ Do
Thái du nhập vào Rôma. Giới răn thứ hai truyền dạy, "Ngươi hãy
nhớ ngày Sabát và coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ
lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày
sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi; ngày đó ngươi không
được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ
nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong
sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài
trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa
đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh". (Xuất Hành
20, 8-11). Mỗi tuần lễ đều tái diễn lại công trình sáng tạo của
Thiên Chúa nơi tạo vật của Người. Người Do Thái cũng dùng tuần
lễ để kỷ niệm cuộc giải phóng của họ khỏi cảnh nô lệ. "Ngươi hãy
nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai Cập và Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, đã dùng cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi
đó. Bởi vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi
cử hành ngày sabát". (Đệ Nhị Luật 5, 15). Khi người Do Thái tuân
giữ ngày sabát, họ liên tục tái thể hiện chất lượng thế giới của họ.
Cũng còn có những lý do khác cho việc nghỉ ngày thứ bảy,
như nhu cầu bồi dưỡng thể xác và tinh thần của con người. Ý
tưởng này đã có từ thời dân Do Thái lưu đày bên Babylon. Người
Babylon kiêng một số ngày nào đó trong tháng, đó là các ngày 7,
14, 19, 21 và 28. Trong những ngày này, vua của họ không được
làm một số hoạt động nào đó.
Chúng ta còn có một gợi ý khác về tên gọi của ngày thứ bảy.
Đối với người Rôma, ngày của thần Saturn, hay Saturday, là một
ngày của điềm gở, mọi công việc đều trục trặc, vì thế không nên
giao chiến, cũng không nên đi lại trong ngày này. Người thận
trọng không ai muốn gặp những rủi ro do Saturn đem đến. Theo
sử gia Tacitusm, ngày thứ bảy được cử hành để kính thần Saturn
vì "trong bảy ngôi sao chi phối công việc của loài người, Saturn
(sao Thổ) có địa vị và quyền năng cao nhất".
Từ thế kỷ 3, tuần lễ 7 ngày đã phổ biến khắp đế quốc Rôma
và mỗi ngày được dành để kính một trong 7 hành tinh. Theo khoa
thiên văn thời đó, 7 hành tinh này gồm cả mặt trời và mặt trăng,
nhưng không gồm trái đất. Thứ tự mà các hành tinh chi phối các
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 15
http://ebooks.vdcmedia.com
ngày trong tuần là: Mặt trời (Sun), Mặt trăng (Moon), sao Hỏa
(Mars), sao Thủy (Mercury), sao Mộc (Jupiter), sao Kim (Venus) và
sao Thổ (Saturn).
Chúng ta ngày nay dễ quên rằng nguồn gốc tên gọi của các
ngày trong tuần thực sự là từ tên những "hành tinh" được biết đến
ở Rôma hai ngàn năm trước đây. Theo quan niệm thời đó, những
hành tinh này tác động trực tiếp tới đời sống mỗi ngày trong tuần
của chúng ta. Trong các ngôn ngữ châu Âu ngày nay, tên các ngày
trong tuần vẫn còn được gọi theo tên của các hành tinh.
Khi muốn xóa bỏ óc mê tín dị đoan, người ta đã thay thế các
tên gọi ngày theo hành tinh bằng các con số từ 1 đến 7. Tại Israel
ngày nay, các ngày trong tuần vẫn được gọi bằng số thứ tự.
Việc chia thời gian thành tuần lễ là một bước tiến mới của
con người trong việc làm chủ thế giới và con đường đạt tới khoa
học. Tuần lễ là một tập hợp các ngày do con người ấn định, chứ
không phải do sự áp đặt của những sức mạnh thiên nhiên (vì ảnh
hưởng của các hành tinh đều là vô hình, chỉ có thể đánh giá bằng
những hiệu quả của chúng). Bằng cách tìm hiểu những chuyển
động đồng đều của các thiên thể và bằng cách hình dung ra rằng
các sức mạnh từ nơi xa lặp đi lặp lại có thể chi phối thế giới, con
người đã chuẩn bị cho một kho tư tưởng mới, một cuộc giải phóng
mình khỏi sự tù túng của cái lặp đi lặp lại. Các hành tinh là các
sức mạnh bên ngoài thế giới, sẽ dẫn đưa nhân loại đi vào thế giới
của lịch sử.
Tuần lễ dựa theo các hành tinh là một con đường dẫn tới
khoa chiêm tinh. Và khoa chiêm tinh là một bước dẫn tới các kiểu
tiên tri mới. Các hình thức tiên tri cổ xưa có thể gợi ý cho chúng ta
tại sao khoa chiêm tinh là một bước tiến tới thế giới khoa học. Các
nghi tiết cổ xưa gói ghém một thứ "khoa học" phức tạp để sử dụng
các bộ phận của một con vật bị sát tế để tiên tri về tương lai của
người dâng hiến tế. Ở Sindh, trong thung lũng Indus, vào giữa thế
kỷ 19, các thầy bói đã sử dụng xương vai của con cừu sát tế để bói
toán với một kỹ thuật khá tinh vi. Thầy bói toán cắt xương thành
mươi hai mảnh, gọi là "nhà", mỗi mảnh trả lời một câu hỏi khác
nhau về tương lai. Nếu mảnh thứ nhất sạch sẽ trơn tru, đó là dấu
thuận lợi và người được bói sẽ là người tốt. Nếu trong nhà thứ
"hai" là nhà thuộc đoàn súc vật, mảnh xương sạch sẽ và trơn tru,
thì đoàn súc vật sẽ lớn mạnh, nhưng nếu trong xương có những
đường sọc đỏ và trắng, đó là dấu hiệu sẽ có kẻ trộm tới thăm.
Daniel J. Boorstin 16
http://ebooks.vdcmedia.com
Tại vùng Assyro - Babylon, người ta dùng bói toán bằng gan
con vật sát tế. Hình như khoa bói toán này đã được sử dụng ở
Trung Hoa vào thời Đồ Đồng. Sau đó người Rôma và nhiều dân tộc
khác cũng áp dụng. Thầy bói sẽ đoán tương lai dựa vào hình thù,
kích cỡ của lá gan và lượng máu trong gan. Mọi hoạt động hay
kinh nghiệm của con người đều trở thành một điềm báo để trả lời
cho niềm khao khát hiểu biết tương lai của con người.
Tương phản với những hình thức bói toán này, khoa chiêm
tinh có tính chất tiến bộ. Chiêm tinh khác biệt với chúng trong
việc khẳng định về sức mạnh liên tục, đều đặn của một quyền lực
từ xa. Ảnh hưởng của các thiên thể đối với những biến cố trên trái
đất được mô tả là những sức mạnh vô hình, có chu kỳ, lặp đi lặp
lại giống như những sức mạnh sẽ điều khiển đầu óc khoa học.
Không lạ gì khi con người cổ xưa kinh ngạc trước bầu trời và
bị mê hoặc bởi những vì sao. Những ngọn đèn trời đầu tiên này
từng thu hút các giáo sĩ vùng Babylon cổ đại thì cũng đã thu hút
trí tưởng tượng của dân chúng. Nhịp sống đều đặn không thay đổi
trên trái đất làm cho người ta thi vị hóa những bó đuốc sáng ngời
trên bầu trời. Các tinh tú di chuyển, đổi ngôi, lên và xuống,
chuyển động khắp bầu trời, được nhìn như là những cuộc tranh
giành, mạo hiểm của các vị thần.
Những sức mạnh của mặt trời và mưa, sự tương ứng giữa
những gì xảy ra trên bầu trời với những gì xảy ra dưới đất, đã kích
thích người ta đi tìm các sự tương ứng khác. Người Babylon là
những người đầu tiên đã tạo ra một khung thần thoại cho những
sự tương ứng trong vũ trụ. Những tưởng tượng linh hoạt của họ sẽ
được tiếp nối bởi những người Hy Lạp, Do Thái, Rôma và những
dân tộc khác qua những thế kỷ kế tiếp.
Lý thuyết tương ứng đã trở thành khoa chiêm tinh, nghiên
cứu những mối tương quan giữa không gian và thời gian, giữa
những chuyển động của các vật thể trong vũ trụ và ý nghĩa của
mọi kinh nghiệm con người. Sự phát triển của khoa học sẽ tùy
thuộc ở chỗ con người có chịu tin vào những cái khó hiểu, có chịu
vượt lên trên những chỉ bảo của nhận thức thông thường không.
Với khoa chiêm tinh, con người đã làm một bước nhảy vọt lớn về
khoa học để đi vào một chương trình mô tả: làm sao những sức
mạnh vô hình của các vật thể từ rất xa chúng ta lại có thể ảnh
hưởng đến mọi chuyện nhỏ nhặt nhất trong đời sống hằng ngày
của chúng ta. Bầu trời do đó chính là phòng thí nghiệm của khoa
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 17
http://ebooks.vdcmedia.com
học đầu tiên của nhân loại, cũng như nội tạng cơ thể con người,
chỗ thâm sâu nhất của ý thức con người và những Lục Địa Tối
trong nguyên tử, sẽ là những phòng thí nghiệm của các khoa học
hiện đại nhất của con người. Con người tìm cách sử dụng hiểu biết
ngày càng lớn của mình về những mẫu kinh nghiệm lặp đi lặp lại
nhằm không ngừng cố gắng phá vỡ cái vòng kiềm tỏa của thiên
nhiên.
Tại Rôma, khoa chiêm tinh đã đạt tới một tầm ảnh hưởng to
lớn mà các thế kỷ sau không sánh được. Các nhà chiêm tinh được
gọi mathematici, nghĩa là các nhà toán học, do việc họ tính toán
thiên văn. Họ được nhìn nhận như là một nghề chính thức và thế
lực của họ thay đổi tùy mỗi thời đại xã hội. Dưới thời Cộng Hòa
Rôma, họ rất mạnh và rất lập dị, khiến cho vào năm 139 trước
C.N., họ bị trục xuất không những khỏi Rôma mà khỏi toàn đất
Italy. Về sau, dưới thời đế chế, khi những lời tiên tri nguy hiểm
của họ đã khiến cho nhiều nhà chiêm tinh bị xét xử vì tội phản
quốc, họ liên tục bị truy nã và trục xuất. Nhưng cùng một hoàng
đế có thể trục xuất một nhà chiêm tinh vì những lời bói toán xui
xẻo của ông, lại có thể sử dụng những nhà chiêm tinh khác để
hướng dẫn công việc trong cung đình của mình. Một số lĩnh vực
được tuyên bố là vô giới hạn. Vào thời đế chế sau, tuy những nhà
chiêm tinh có thể được dung túng hay khích lệ nhưng họ vẫn bị
cấm không được nói tiên tri về đời sống của hoàng đế.
Daniel J. Boorstin 18
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 3
THƯỢNG ĐẾ VÀ CÁC NHÀ CHIÊM TINH
Khoa chiêm tinh đã gói ghém các nhu cầu khác nhau của
nhân loại, mà những thế kỷ sau sẽ phân chia thành khoa học và
tôn giáo. Phải chăng khoa chiêm tinh thời cổ Rôma chỉ là một thứ
tin tưởng mê tín vào định mệnh, một sự chiến thắng của cái phi lý,
như các sử gia thường nói? - Không thể phủ nhận rằng niềm kính
sợ trước các vì sao - những vị "thần hữu hình" - đã khơi dậy sự
kính sợ của mọi người đối với các nhà chiêm tinh. Arellius Fuscus,
một nhà hùng biện nổi tiếng thời Augustô, đã nhận định: "Người
được chính các thần mạc khải cho tương lai, người có quyền trên cả
vua lẫn dân, người ấy không thể là phàm nhân tục tử giống như
chúng ta. Người ấy thuộc hàng siêu nhân. Được các thần tin cậy,
người ấy cũng chính là thần linh... chúng ta hãy nâng tâm hồn
mình lên cao bằng thứ khoa học tỏ lộ cho chúng ta tương lai và
trước khi giờ chết đến, chúng ta hãy nếm cảm những thú vui của
Đấng Thánh".
Nhưng tôn giáo thiên thể không được tách rời khỏi khoa học
thiên thể. Các nhà khoa học tiên phong đã coi ảnh hưởng của các
vì sao đối với đời sống con người là điều hiển nhiên. Họ chỉ bất
đồng ý kiến với nhau về việc các ngôi sao này tạo ảnh hưởng bằng
cách nào mà thôi. Bộ bách khoa khoa học lớn thời ấy, Lịch Sử Tự
Nhiên của Pliny, đã phổ biến những kiến thức sơ đẳng về khoa
chiêm tinh bằng cách cho thấy ảnh hưởng của các ngôi sao ở khắp
nơi. Lời than phiền duy nhất của Seneca là các nhà chiêm tinh
không hiểu biết bao quát đủ.
Nhà khoa học ảnh hưởng nhất của đế quốc Rôma thời cổ
chính là người đã giữ được uy tín lâu bền nhất về khoa chiêm tinh.
Ptolêmê ở Alexandria đã viết một tiểu luận vững chắc để tạo nội
dung và sự kính trọng cho khoa học này trong suốt một ngàn năm
tiếp theo. Nhưng danh tiếng của ông đã bị sứt mẻ vì hai lý thuyết
sai lầm trọng yếu của ông. Cả hai lý thuyết rất nổi tiếng vào thời
đó và cả hai được khai triển và tồn tại trong các tác phẩm của ông.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 19
http://ebooks.vdcmedia.com
Thuyết trái đất là trung tâm, hay còn gọi là thuyết Ptolemaic, là lý
thuyết vũ trụ của ông ngày nay bị coi là một sai lầm trong thiên
văn học. Cũng thế, thuyết trái đất phần lớn là đất, cho rằng bề
mặt của trái đất gồm phần lớn là đất, ngày nay là một sai lầm
trong khoa địa lý. Hai quan niệm sai lầm này đã làm lu mờ những
thành tựu khổng lồ của Ptolêmê. Thế nhưng kể từ Ptolêmê đến
nay, chưa có ai đã từng cung cấp một kiến thức khoa học toàn diện
của một thời đại bằng ông.
Tuy nhiên, cuộc đời của nhà bách khoa thiên tài này vẫn còn
là một bí ẩn. Có lẽ xuất thân từ dòng những người Hy Lạp di dân,
Ptolêmê (90 - 168) đã sống ở Ai Cập dưới thời các hoàng đế
Hadrian và Marcus Aurelius. Thành phố Alexandrian của ông
luôn luôn là một trung tâm trí thức lớn cả sau khi thư viện nổi
tiếng của thành phố Cesar thiêu hủy năm 48 trước C.N.
Ptolêmê đã thống trị quan niệm dân gian và văn học về vũ
trụ suốt thời Trung Cổ. Thế giới như được Dante mô tả trong tác
phẩm Hài Kịch Thần Linh lấy thẳng từ tác phẩm Almagest của
Ptolêmê. Xét về nhiều phương diện, Ptolêmê đã nói như một nhà
tiên tri. Bởi vì ông đã mở rộng việc sử dụng toán học để phục vụ
khoa học. Trong khi ông tận dụng những quan sát tốt nhất đã có
trước ông, ông nhấn mạnh nhu cầu phải có những quan sát liên
tục và ngày càng chính xác hơn. Thực vậy, Ptolêmê là một người đi
đầu trong tinh thần khoa học, một người tiên phong đi đầu trong
tinh thần khoa học, một người tiên phong âm thầm trong phương
pháp thực nghiệm. Ví dụ, trong lượng giác học, bảng các dây cung
của ông chính xác đến 5 vị trí thập phân. Trong hình học cầu, ông
đã đưa ra một giải đáp tuyệt vời cho các vấn đề về đồng hồ mặt
trời, có giá trị đặc biệt vào thời đó trước khi có đồng hồ cơ khí.
Không có ngành khoa học vật lý nào mà ông không khảo sát và tổ
chức thành những hình thức mới dễ sử dụng. Địa lý, thiên văn,
quang học, hòa âm - ông đã khai triển mỗi môn trong một hệ
thống riêng. Tác phẩm hay nhất của ông là tiểu luận về thiên văn
học, cuốn Almagest. Cuốn Địa lý của ông, trong đó ông nhắm vẽ
bản đồ của toàn thế giới thời bấy giờ, là một tác phẩm đi tiên
phong trong việc liệt kê các địa điểm một cách hệ thống bằng kinh
tuyến và vĩ tuyến. Cũng trong tác phẩm này, ông đã cống hiến
phương pháp cải tiến của chính mình để phóng những mặt hình
cầu xuống các bản đồ mặt phẳng. Với những dữ liệu vô cùng ít ỏi
vào thời đó, những bản đồ của ông về "thế giới được biết đến" vào
Daniel J. Boorstin 20
http://ebooks.vdcmedia.com
thời đó, đế quốc Rôma, quả là một thành tựu vượt bực. Ông cho
thấy những tài năng khoa học trọng yếu - hình thành các lý thuyết
cho phù hợp với những dữ liệu có sẵn và trắc nghiệm các lý thuyết
cũ bằng những dữ liệu mới.
Người Ả Rập nhìn nhận sự vĩ đại công trình của Ptolêmê và
đã đưa ông sang phương Tây. Cuốn sách về thiên văn của ông sẽ
mang một tên Ả Rập (Almagest, nghĩa là "bộ sưu tập vĩ đại nhất")
và cuốn Địa lý của ông được dịch sang tiếng Ả Rập ngay từ đầu thế
kỷ 9. Bốn cuốn sách của ông về chiêm tinh học. Tetrabiblios, được
ông coi là bạn đồng hành với cuốn Almagest, cũng được phổ biến ở
phương Tây bằng tiếng ả Rập.
Trong khi cuốn Almagest của Ptolêmê tiên đoán vị trí thay
đổi của các thiên thể, thì khoa chiêm tinh của ông lại tiên đoán
những ảnh hưởng của chúng đối với các sự kiện trên trái đất.
Không phải những chu kỳ của mặt trời và mặt trăng rõ ràng
ảnh hưởng tới những gì xảy ra trên trái đất sao? Thế thì tại sao
những ngôi sao kém quan trọng hơn lại không ảnh hưởng tới các
biến cố trên trái đất? Nếu những thủy thủ ít học còn có thể dự
đoán được thời tiết khi nhìn lên bầu trời, thì tại sao những nhà
chiêm tinh có học lại không thể dùng những sự kiện trên bầu trời
để dự báo những sự kiện của con người? Ptolêmê cho rằng ảnh
hưởng của các ngôi sao chỉ thuần là vật lý, chỉ là một trong nhiều
sức mạnh khác. Ông thừa nhận rằng tất nhiên khoa chiêm tinh
cũng có thể sai lầm như bất kỳ khoa học nào khác. Nhưng đó
không phải là lý do khiến cho việc quan sát tỉ mỉ sự tương ứng
giữa những sự kiện dưới đất với những sự kiện trên bầu trời lại
không giúp ta có được những sự tiên đoán hữu ích, tuy không phải
là chắc chắn theo kiểu toán học.
Trong tinh thần thực tiễn này, Ptolêmê đã đặt nền móng cho
khoa học lâu bền nhất trong số các khoa học huyền bí. Trong bốn
cuốn của bộ Tetrabiblios, hai cuốn đầu về "địa lý các vì sao" và dự
báo thời tiết, nói về những ảnh hưởng của các thiên thể đối với các
sự kiện vật lý của trái đất và hai cuốn sau nói về ảnh hưởng của
chúng đối với các sự kiện của con người. Ptolêmê khai triển khoa
tử vi, tiên đoán số mệnh con người từ vị trí của các vì sao vào lúc
con người sinh ra. Mặc dù công trình của Ptolêmê đã trở thành
sách học cổ điển hàng đầu về khoa chiêm tinh cho suốt một ngàn
năm sau ông, nhưng ông không biết đến kỹ thuật trả lời câu hỏi về
tương lai nhờ vị trí của thiên thể vào lúc câu hỏi được đặt ra, nên
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 21
http://ebooks.vdcmedia.com
công trình của ông không thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu của các
người thực hành khoa chiêm tinh.
Những lời tuyên bố phổ biến của các nhà chiêm tinh ngoại
giao đã gây lo ngại cho các giáo phụ Kitô giáo thời kỳ đấy. Các giáo
phụ từng cho rằng mình có thẩm quyền tiên đoán vận mệnh đời
sau của mỗi người, nhưng lại cảm thấy khó chịu với những người
tự xưng có khả năng tiên đoán vận mệnh của mỗi người trong cuộc
sống ở đời này. Nếu khoa tử vi của các nhà chiêm tinh đúng như
những gì họ nói, thì còn chỗ đâu cho ý chí tự do, còn chỗ đâu cho sự
tự do lựa chọn điều thiện hơn điều ác?
Chính cuộc chiến đấu của Augustino với bản thân để trở
thành Kitô hữu - từ bỏ những sự mê tín dị đoan của dân ngoại để
chọn tự do Kitô giáo - hình như là một cuộc chiến đấu chống lại
khoa chiêm tinh. Thánh Augustino ghi lại trong cuốn Tự Thú của
mình: "Những con người huênh hoang đó, mệnh danh là những
nhà toán học [thiên văn học], tôi hỏi ý kiến mà không có gì phải e
ngại; vì có vẻ họ không thờ cúng, không cầu nguyện với một ngẫu
thần nào để có những lời tiên đoán của họ". Và ngài bị cám dỗ bởi
lời khuyên của những nhà chiêm tinh ấy: "Tội lỗi của anh chắc
chắn đã được định ở trên trời; chính sao Kim, sao Thổ, hay sao
Hỏa đã làm việc đó. Thực vậy, con người này, là huyết nhục và là
sự trụy lạc kiêu căng, có thể không bị quy trách, nhưng Tạo Hóa
và Đấng điều khiển bầu trời và các vì sao chính là người bị quy
trách".
Thánh Augustino ra sức bác bỏ "những lời tiên đoán dối trá
và những câu nói vô đạo của các nhà chiêm tinh". Hai người mà
ngài quen biết nhắc nhờ ngài rằng "không thể có tài nghệ nào để
tiên đoán những điều sắp xảy đến; những suy đoán của con người
chỉ dựa vào may rủi, họ nói thật nhiều, may ra trong số những
điều đó có điều đúng".
Đúng lúc hoang mang như thế, ngài gặp được một người bạn
nhờ đó ngài đã giải tỏa được những trăn trở của mình.
Câu chuyện mà người bạn tên là Firminus này kể lại đã làm
lung lay niềm tin ngoại giáo của chàng Augustino trẻ tuổi. Cha
của Firminus là một người say mê khoa chiêm tinh. Ông luôn luôn
để ý đến vị trí của các vì sao và thậm chí "để ý cặn kẽ đến ngày giờ
sinh của từng con chó con trong nhà". Ông biết là một đứa nô lệ
gái của ông sắp sửa sinh con vào khoảng cùng giờ với vợ ông. "Cả
Daniel J. Boorstin 22
http://ebooks.vdcmedia.com
hai đứa trẻ sẽ được sinh ra cùng giờ, vì thế cả hai bắt buộc sẽ theo
cùng một chùm sao, một là con ông, là con của đứa nô lệ. Ngay khi
hai người thai phụ bắt đầu trở dạ, ông cho người theo dõi để biết
đích xác giờ sinh của hai đứa trẻ, rồi quan sát vị trí của các ngôi
sao vào đúng lúc đó. Họ cho biết hai đứa trẻ sinh ra cùng lúc và vị
trí của các ngôi sao không có một chút khác biệt nào. Thế nhưng
Firminus được sinh ra trong một gia đình quyền quý, sống một đời
sống giàu sang phú quý, trong khi đứa trẻ sinh ra bởi người nô lệ
tiếp tục hàu hạ chủ của nó, sống một cuộc đời vất vả khổ cực". Hai
đứa trẻ sinh ra dưới cùng một chòm sao nhưng có hai số mệnh
khác nhau, điều đó cho chàng trẻ Augustino một luận chứng hiển
nhiên và mạnh mẽ để chống lại khoa bói toán chiêm tinh.
Những nhà thần học sâu sắc của thời Trung Cổ đã cố gắng
tìm ra những ứng dụng thánh thiện của việc tin vào quyền lực các
ngôi sao. Thánh Albéctô Cả và thánh Tôma Aquinô đều nhìn nhận
rằng các ngôi sao có một ảnh hưởng chi phối mãnh liệt, nhưng các
ngài nhấn mạnh rằng tự do của con người chính là sức mạnh của
họ để chống lại những ảnh hưởng đó.
Những nhà thần học lớn thời Trung Cổ thích sử dụng niềm
tin vào khoa chiêm tinh để củng cố những chân lý của Kitô giáo.
Họ thích nhắc đến những lời tiên báo dựa vào chiêm tinh về việc
Chúa Giêsu giáng sinh. Tuy rằng Chúa Giêsu không lệ thuộc quy
luật của các ngôi sao, nhưng quả thực các ngôi sao đã báo hiệu việc
Ngài sinh ra. Đó lại không phải là Ngôi Sao ở Bêlem sao? Và
những nhà đạo sĩ biết đi theo ngôi sao dẫn đường để đến viếng Hài
Nhi Giêsu rất có thể là những nhà chiêm tinh say mê kiến thức.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 23
http://ebooks.vdcmedia.com
Phần II
Từ thời gian mặt trời
đến thời gian đồng hồ
Xin các thần linh trừng phạt con
người đầu tiên đã khám phá ra cách
phân chia giờ giấc! Hắn đáng phải
trừng phạt, vì hắn đã chế tạo ra đồng
hồ mặt trời, chia cắt những ngày đời
của tôi thành những mảnh vụn rắc rối.
- Plautus (200 trước C.N.)
Daniel J. Boorstin 24
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 4
ĐO NHỮNG GIỜ TỐI
Vào thời loài người còn sống bằng nghề trồng trọt và chăn
nuôi súc vật, họ ít có nhu cầu đo thời gian bằng những đơn vị nhỏ.
Chỉ có các mùa là quan trọng - biết khi nào trời mưa, tuyết, nắng,
lạnh. Cần gì phải bận tâm đến những giờ những phút? Chỉ có thời
giờ ban ngày là quan trọng, vì là thời gian người ta có thể lao động.
Do đó, đo thời gian có ích là đo những giờ của mặt trời.
Trong kinh nghiệm hằng ngày, không sự thay đổi nào tệ hại
bằng việc mất cảm giác phân biệt ngày và đêm, ánh sáng và bóng
tối. Thế kỷ ánh sáng nhân tạo của chúng ta làm chúng ta quên
mất ý nghĩa của đêm tối. Cuộc sống đô thị hiện đại luôn luôn là
một thời gian pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng đối với
hầu hết các thời đại của loài người, đêm tối đồng nghĩa với bóng tối
đầy sự đe dọa của những điều bí ẩn. Sách Talmud cảnh giác,
"Đừng bao giờ chào người lạ ban đêm, vì hắn có thể là ma quỷ".
Còn Chúa Giêsu thì nói, "Tôi phải làm những công việc của Đấng
là sai tôi, bao lâu còn là ban ngày. Khi đêm đến, không ai có thể
làm được gì. Bao lâu tôi còn ở trong thế gian, tôi là ánh sáng thế
gian". Ít có đề tài nào khêu gợi trí tưởng tượng nhiều bằng đêm tối.
"Giữa đêm tối chết tróc ghê rợn" thường là khung cảnh mà
Shakepeares và những nhà viết kịch chọn để đưa các tội ác vào
kịch bản của họ.
Ôi đêm tối giết chết niềm an ủi,
Ngươi vẽ lên cảnh Địa ngục hãi hùng;
Ngươi chứng kiến bao hành vi tội lỗi,
Và phơi bày những thảm cảnh sát nhân;
Ngươi che giấu bao tội ác điên cuồng,
Và dung dưỡng những hành vi hư đốn.
Bước đầu tiên để làm cho đêm tối gần với ban ngày hơn đã
được thực hiện từ lâu trước khi con người biết đến ánh sáng nhân
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 25
http://ebooks.vdcmedia.com
tạo. Đó là lúc con người khi chơi đùa với thời gian, đã bắt đầu chia
thời gian thành những mảnh nhỏ để đo lường.
Tuy người thời xưa đã biết đo thời gian theo năm và tháng và
đặt ra khung thời gian theo tuần lễ, nhưng những đơn vị thời gian
ngắn hơn vẫn còn rất mơ hồ và có ít vai trò trong kinh nghiệm
thông thường của con người, mãi cho tới vài thế kỷ gần đây. Giờ
đồng đều và chính xác của chúng ta là một phát minh của thời cận
đại, các đơn vị phút và giây còn mới hơn nữa. Tự nhiên, khi ngày
lao động là ngày có ánh sáng mặt trời, thì những cố gắng đầu tiên
của người ta để chia thời gian và đo đường đi của mặt trời trên bầu
trời. Vì mục đích này, các đồng hồ mặt trời, hay đồng hồ báo mặt
trời, là những dụng cụ đo thời gian đầu tiên.
Các xã hội xa xưa đã nhận thấy rằng bóng của một cây cột
dựng đứng sẽ ngắn dần khi mặt trời lên cao trên bầu trời và dài
trở lại khi mặt trời xuống dần. Người Ai Cập cổ đại đã sử dụng
một dụng cụ như thế, nhưng chúng ta còn có thể thấy một cái tồn
tại từ thời Thutmose III (khoảng 1500 trước C.N.). Một thanh
ngang dài chứng 30 centimet có một đầu hình chữ T, đầu này sẽ
dọi bóng xuống vạch đo vẽ trên thanh ngang. Buổi sáng, người ta
đặt thanh gỗ này với chữ T hướng về phía đông; Giữa trưa thanh
cây này được quay xang hướng tây. Khi ngôn sứ Isaia hứa chữa
lành bệnh cho vua Hêdêkia bằng cách làm cho thời gian quay
ngược trở lại, ông tuyên bố sẽ làm được việc này bằng cách làm cho
bóng mặt trời lui lại (Is 38, 8).
Suốt nhiều thế kỷ, bóng mặt trời luôn là phương tiện phổ
biến để đo thời gian. Và đây cũng là một dụng cụ tiện dụng, vì ở
bất cứ đâu và bất cứ ai cũng có thể lầm được đồng hồ mặt trời mà
không cần sự hiểu biết hay dụng cụ đặc biệt nào. Nhưng lời tự hào
hóm hỉnh ghi trên những đồng hồ mặt trời: "Tôi chỉ đo những giờ
có mặt trời", cho thấy rõ sự giới hạn của đồng hồ mặt trời để đo
thời gian. Đồng hồ mặt trời đo bóng mặt trời: không có mặt trời thì
không có bóng. Đồng hồ bóng mặt trời chỉ có tác dụng ở những
miền đất trên thế giới có nhiều nắng và chỉ vào lúc mặt trời đang
chiếu".
Chỉ khi ánh mặt trời chói chang, chuyển động của bóng mặt
trời quá chậm khiến khó có thể đo được phút và hoàn toàn không
thể đo được giây. Đồng hồ đánh dấu thời gian một ngày ở một nơi
sẽ không thích hợp để đo được một đơn vị thời gian chuẩn trên
toàn cầu, như một giờ gồm sáu mươi phút của chúng ta. Bởi vì
Daniel J. Boorstin 26
http://ebooks.vdcmedia.com
ngoại trừ vùng xích đạo, ở mọi nơi khác và quanh các mùa thì số
giờ trong ngày không giống nhau. Muốn sử dụng bóng mặt trời ở
bất kỳ nơi nào để định giờ theo giờ GMT, cần phải có một sự kết
hợp các kiến thức về thiên văn, địa lý, toán học và cơ học. Phải đợi
đến thế kỷ 16 các đồng hồ mặt trời mới được ghi số bằng những giờ
thực này. Khi khoa học "đồng hồ số" này phát triển, việc có một
chiếc đồng hồ mặt trời bỏ túi trở thành mốt thời thượng. Nhưng
lúc đó người ta đã làm ra đồng hồ quả lắc và đồng hồ tay và chúng
tiện dụng hơn về mọi mặt.
Các đồng hồ mặt trời ban đầu còn có nhiều mặt hạn chế
khác. Thanh đo ngang của Thutmose II không đo được các giờ
sáng sớm hay lúc hoàng hôn vì cây ngang chữ T sẽ kéo dài vô hạn
và không thể nào đọc được trên thanh chia độ. Tiến bộ lớn trong
thiết kế đồng hồ mặt trời thời cổ, tuy không giúp gì trong việc định
giờ toàn cầu, nhưng đã thực sự giúp cho việc phân chia đều nhau
các giờ ban ngày được dễ dàng hơn. Đó là một đồng hồ mặt trời có
hình bán nguyệt, mặt trong của một bán cầu, với kim kéo từ một
cạnh tới tâm và phần mở ngửa lên phía trên. Do đó, đường đi của
bóng mặt trời trong bất cứ ngày nào sẽ là một bản sao y hệt đường
đi của mặt trời trong bán cầu của bầu trời bên trên. Đường cung
do mặt trời vẽ ra và ghi lại ở mặt trong bán cầu được chia thành
12 phần đều nhau. Sau khi vẽ những đường để chỉ các ngày khác
nhau, người ta nối 12 phần chia giờ của mỗi ngày với những đường
cong, để chỉ từng phần khác nhau của 12 giờ ban ngày.
Cả sau khi đồng hồ mặt trời được thiết kế để chia thời gian
ban ngày thành 12 phần đều nhau, nó cũng không giúp người ta
so sánh được thời gian giữa mùa này với mùa khác. Trong mùa hè,
các ngày thì dài và các giờ cũng dài. Dưới thời hoàng đế
Valentinianô I (364-375), quân đội Rôma được tập luyện để chạy
bộ "với tốc độ 20 dặm trong năm giờ mùa hè". Một "giờ" - một phần
mười hai của thời gian ban ngày - của một ngày nào đó tại một nơi
nào đó sẽ khác với một giờ vào ban ngày khác và tại một nơi khác.
Đồng hồ mặt trời là một thước đo co dãn.
Làm cách nào loài người thoát ra được mặt trời? Chúng ta đã
chinh phục đêm tối thế nào để biến nó thành một thế giới có thể
hiểu được? Chỉ có cách trốn thoát khỏi sự thống trị của mặt trời,
chúng ta mới học được cách đo thời gian của mình thành những
đơn vị nhỏ đồng đều và toàn cầu. Chỉ có thể những phương thức
hành động, xử sự và chế tạo mới được mọi người ở mọi nơi hiểu
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 27
http://ebooks.vdcmedia.com
đúng. Theo Plato định nghĩa, thời gian là "một hình ảnh cử động
của vĩnh cửu". Không lạ gì việc đo dòng thời gian luôn luôn quyến
rũ loài người trên khắp hành tinh.
Bất cứ cái gì chảy được, tiêu hao hay đốt cháy đều đã được
người ta sử dụng khi này hay khi khác để đo thời gian. Tất cả đều
là những cố gắng để thoát khỏi quyền thống trị của mặt trời, để
nắm được thời gian một cách chắc chắn hơn, dễ dự đoán hơn và
đem vào phục vụ con người. Dụng cụ để đo thời gian phổ quát, để
đo chính đời sống, phải là một cái gì khác hơn là cái bóng mặt trời
hay thay đổi, trôi nổi, chậm chạp và thường bị che khuất. Con
người phải tìm ra được cái gì tốt hơn cái dụng cụ đo thời gian mà
người Hi Lạp gọi là "vật săn đuổi cái bóng".
Nước quả là một vật kỳ diệu, là dung môi chảy, là may phước
của hành tinh, phục vụ cho loài người bằng vô vàn cách khác nhau
và tạo cho hành tinh chúng ta một tính chất đặc biệt. Nước là vật
giúp cho con người đạt những thành công ban đầu trong việc đo
những giờ tối. Nước có thể chứa trong bất cứ cái chén nhỏ nào, nên
dễ xử lý hơn bóng mặt trời. Khi loài người bắt đầu dùng nước để đo
thời gian, họ đã bước thêm một bước nhỏ nữa trong việc đưa hành
tinh vào trong nhà của mình. Con người có thể làm cho nước trong
một vật chứa chảy nhanh hay chậm, ngày và đêm. Họ có thể đo
dòng chảy của nó bằng những đơn vị đều đặn, áp dụng chung được
cho vùng xích đạo hay vùng băng giá, mùa đông hay mùa hạ.
Nhưng hoàn thiện dụng cụ này là cả một con đường dài và gian
truân. Đến lúc đồng hồ nước được phát triển thành một dụng cụ
khá chính xác, nó đã bắt đầu bị thay thế bởi một dụng cụ khác tiện
dụng, chính xác và thú vị hơn nhiều.
Tuy nhiên, suốt phần lớn lịch sử, đồng hồ nước đã được dùng
để đo thời gian khi không có mặt trời. Và trước khi đồng hồ quả lắc
được hoàn thiện vào khoảng 1700, thì đồng hồ nước có lẽ là vật đo
thời gian chính xác nhất. Trong tất cả những thế kỷ ấy, đồng hồ
nước đã thống trị sinh hoạt hằng ngày - đúng hơn, hằng đêm - của
con người.
Từ rất sớm, con người đã khám phá ra rằng họ có thể đo
dòng thời gian bằng lượng nước nhỏ giọt từ một bình nước. Khoảng
500 năm sau khi có những đồng hồ mặt trời đầu tiên, người Ai Cập
cổ đại đã sử dụng các đồng hồ nước. Đất nước họ đầy ánh sáng mặt
trời, nên đồng hồ mặt trời rất thích hợp cho các nhu cầu ban ngày
của họ, nhưng họ cần đồng hồ nước để đo giờ giác ban đêm. Thoth
Daniel J. Boorstin 28
http://ebooks.vdcmedia.com
là thần đêm của họ, cũng là thần tri thức, chữ viết và đo đạc, trông
coi những mẫu đồng hồ nước chảy ra và chảy vào. Mẫu chảy ra là
một chiếc bình thạch cao được ghi vạch bên trong và có một lỗ nhỏ
duy nhất gần đáy bình để cho phép nước nhỏ giọt ra ngoài. Bằng
cách quan sát giọt nước ở mực nước bên trong từ vạch trên tới vạch
kế tiếp bên dưới, người ta đo được thời gian trôi qua. Loại chảy vào
đánh dấu thời gian bằng mực nước dâng lên trong bình, là loại
được phát triển sau này và phức tạp hơn, vì nó đòi một nguồn cung
cấp nước điều hòa và liên tục. Tuy vậy, những dụng cụ đơn giản
này cũng không phải không có vấn đề. Khi thời tiết lạnh, tính sền
sệt của nước thay đổi gây nên rắc rối. Nhưng trong bất kỳ thời tiết
nào, muốn đồng hồ chạy đều, phải làm sao cho miệng lỗ thoát nước
không bị bít hay toang rộng ra. Các đồng hồ nước chảy ra còn có
một vấn đề nhỏ khác nữa, vì tốc độ chảy tùy thuộc áp lực nước, mà
áp lực này lại luôn luôn thay đổi theo lượng nước còn lại trong
bình. Vì thế người Ai Cập đã thiết kế các mạt trong bình vắt xuống
để khi lượng nước giảm thì áp lực nước trong bình vẫn không thay
đổi vì nước được tập trung trên một diện tích nhỏ.
Vấn đề thiết kế một đồng hồ nước hữu dụng thì khá đơn giản
nếu nó chỉ nhằm mục đích đo những đơn vị thời gian nhỏ đồng
đều, giống như chiếc máy luộc trứng định giờ hiện đại. Nhưng
muốn dùng đồng hồ nước như một dụng cụ để chia những giờ ban
ngày hay ban đêm thành những đoạn đều nhau, việc định cỡ là
một vấn đề khó. Rõ ràng đêm mùa đông ở Ai Cập ngắn hơn đêm
mùa hè. Theo những đơn vị đo lường của Ai Cập, chiếc đồng hồ
nước ở Thebes đòi hỏi đêm mùa hè phải đo được mười hai đốt ngón
tay nước, trong khi đêm mùa đông phải đo được mười bốn. Những
"giờ" như thế thay đổi, vì chúng là những phần chia đều của tổng
số các giờ của ban đêm hay ban ngày và vì vậy không phải là
những giờ để đo thời gian thực sự. Chúng được gọi là những giờ
"tạm thời" vì chúng chỉ có giá trị tạm thời và không bằng một giờ
của ngày kế tiếp. Vấn đề sẽ đơn giản hơn nhiều nếu làm được một
đồng hồ để đo một đơn vị cố định, không đổi. Nhưng phải mất
nhiều thế kỷ trước khi có được một chiếc máy đo thời gian trừu
tượng bằng cách đo một cái gì khác với một đoạn của ban ngày hay
ban đêm.
Không phải những dòng nước thời gian, mà là những hạt cát
thời gian chảy xuống đã tạo cảm hứng cho những thi sĩ thời cận
đại về thời gian trôi qua. Ở nước Anh, người ta thường để các đồng
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 29
http://ebooks.vdcmedia.com
hồ cát trên những cỗ quan tài để nhắc nhở rằng một đời người đã
trôi qua. Một bài thánh ca có câu này: "Cát bụi thời gian đang
chìm lắng, bình minh ló dạng chốn thiên đường".
Nhưng đồng hồ cát đo thời gian bằng những hạt cát rơi, đã
xuất hiện khá muộn màng trong lịch sử. Hiển nhiên cát không có
độ chảy dễ bằng nước và vì thế kém thích hợp hơn nước để đo
những đơn vị nhỏ bé của các giờ ban ngày và ban đêm thời ban
đầu. Bạn không thể đặt một cái thước nổi tự do trên cát. Nhưng
cát có thể chảy ở những vùng thời tiết làm cho nước bị đông. Muốn
có một đồng hồ cát hữu dụng và chính xác, cần có tài nghệ điêu
luyện của người thợ thủy tinh.
Chúng ta nghe nói đến những đồng hồ cát ở châu Âu vào thế
kỷ 8, khi truyền thuyết cho rằng một vị tu sĩ ở Chartres đã sáng
chế ra nó. Với sự tiến bộ của nghề thủy tinh, người ta đã có thể
hàn kín đồng hồ cát để giữ cho nó khỏi bị ẩm ướt làm cho cát
xuống chậm. Các quy trình phức tạp đã sấy khô cát trước khi đổ
nó vào trong bình thủy tinh. Một cuốn sách chuyên môn thời trung
cổ đã quy định cát trong bình phải là đá hoa cương đen nghiền
nhuyễn, được nấu đi nấu lại chín lần trong rượu. Trong mỗi lần
nấu, phải hớt bỏ những hạt cặn, rồi cuối cùng đem phơi nắng.
Đồng hồ cát không thích hợp để tính thời giờ dài suốt ngày,
vì nếu quá to nó sẽ kềnh càng bất tiện, hoặc nếu quá nhỏ thì phải
lật đi lật lại thường xuyên và đúng lúc mỗi lần hạt cát cuối cùng
rớt xuống. Nhưng nó thích hợp hơn đồng hồ nước để đo những
khoảng thời gian ngắn khi mà người ta chưa biết đến một dụng cụ
nào khác. Côlômbô đã sử dụng đồng hồ cát trên tàu của mình để
giữ 7 "giờ kinh" theo luật và cứ nửa giờ lại lật bình một lần khi cát
trong bình chảy hết. Vào thế kỷ 16, người ta đã dùng đồng hồ cát
để đo những khoảng thời gian ngắn trong nhà bếp. Trong các lễ
nghi ở nhà thờ, người ta cũng đặt một đồng hồ cát ở bục giảng để
điều chỉnh thời giờ cho các bài giảng. Các thợ xây và các thợ thủ
công khác cũng dùng đồng hồ cát để tính giờ làm việc của họ. Các
giáo viên cũng đem đồng hồ cát vào trong lớp để tính thời gian cho
bài giảng hay bài làm của học sinh. Một hiệu trưởng trường
Oxford thời nữ hoàng Elizabeth có lần đe dọa những học sinh lười
biếng rằng "nếu họ không chăm chỉ làm bài tập, ông sẽ để trong
lớp một đồng hồ cát hai giờ".
Sau thế kỷ 16, người ta chỉ còn sử dụng đồng hồ cát để đo tốc
độ của một con tàu. Người ta thắt những chiếc nút cách quãng
Daniel J. Boorstin 30
http://ebooks.vdcmedia.com
từng 7 sải ở một cái dây cột vào một khúc gỗ có thể nổi ở phía sau
tàu. Một thủy thủ ném khúc gỗ ra xa khỏi đuôi một chiếc tàu đang
chạy và đếm những chiếc nút đã trải ra trên dây, đồng thời có một
đồng hồ cát đo thời gian đó, chiếc tàu đang chạy với tốc độ 5 dặm
một giờ. Suốt thế kỷ 19, các tàu buồm vẫn còn "kéo khúc gỗ" từng
giờ để theo dõi tốc độ.
Cuối cùng người ta không còn sử dụng đồng hồ cát để đo giờ
giấc ban đêm nữa vì nó quá bất tiện do cứ phải lật lại đồng hồ
nhiều lần. Thỉnh thoảng người ta cũng nghĩ ra những giải pháp
khác bằng cách kết hợp một dụng cụ đo thời gian với một dụng cụ
thắp sáng. Họ tìm cách dùng lừa vừa cho ánh sáng vừa đo được
dòng thời gian trôi qua ban đêm. Những phát minh này tuy độc
đáo nhưng không thực tế. Chúng khá tốn phí, có khi nguy hiểm và
không bao giờ có được những giờ ban ngày và ban đêm đồng đều.
Vì các "giờ" co dãn như thế, nên đồng hồ lửa cũng giống như đồng
hồ cát không thể dùng để đo những khoảng thời gian dài.
Truyền thuyết kể về một chiếc đồng hồ nến nổi tiếng được
làm ra để giúp Alfred Đại Đế (849-899) giữ lời thề của ông khi ông
phải bỏ vương quốc của mình để đi lánh nạn. Ông thề rằng nếu
vương quốc được phục hồi, ông sẽ dành đủ một phần ba thời gian
mỗi ngày để thờ phượng Chúa. Theo truyền thuyết, khi trở về Anh
quốc, vua cho làm một đồng hồ nến. Người ta dùng 100 gram sáp
đúc thành sáu cây nến, cây nào cũng to đều nhau, cao 12 inch và
mỗi cây đều được khắc vạch từng inch một. Các cây nến được đốt
xoay vòng và cả sáu cây cháy hết sẽ kéo dài đúng 24 giờ. Người ta
lấy những tấm giấy kính dán vào khung gỗ để chắn gió cho nến
khỏi tắt. Nếu vua Alfred đọc kinh đủ thời gian đốt hết hai cây nến,
ông có thể chắc chắn đã làm trọn lời thề của mình.
Cả sau khi các đồng hồ cơ học trở thành phổ biến, các nhà
sáng chế vẫn không ngừng thử đủ kiểu khác nhau mà họ thấy là
thích hợp - có người dùng lửa đèn dầu để làm quay máy đồng hồ,
có người dựa vào mức tiêu hao dầu trong bình có chia độ, người
khác còn dùng bóng của một cây nến sắp tắt dọi trên một thước đo
để tính những giờ thay đổi ban đêm - tất cả đều nhằm chinh phục
đêm tối và đo thời giờ với cùng một dụng cụ.
Những sáng kiến tinh vi để tìm cách đo thời giờ ban đêm
thật không tài nào đếm nổi trước khi việc thắp sáng nhân tạo trở
nên phổ biến và ít tốn kém. Sau khi đồng hồ cơ học được phát
minh, chuông đồng hồ là một sự chinh phục bóng đêm một cách
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 31
http://ebooks.vdcmedia.com
hiển nhiên. Một nhà phát minh Pháp tài giỏi ở cuối thế kỷ 17, M.
de Villayer, đã thử dùng tới vị giác. Ông thiết kế một đồng hồ được
bố trí sao cho để khi ông chạm vào kim chỉ giờ ban đêm, nó dẫn
ông tới một hũ gia vị nhỏ được gắn ở chỗ những con số, mỗi hũ có
một vị riêng. Cả khi không nhìn thấy đồng hồ, ông vẫn luôn luôn
"nếm" được giờ.
Daniel J. Boorstin 32
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 5
PHÁT MINH GIỜ ĐỒNG ĐỀU
Tuy con người đã biết phân chia thời gian của mình theo
những chu kỳ thay đổi của ánh sáng mặt trời, họ vẫn còn phải lệ
thuộc mặt trời. Để làm chủ thời giờ của mình, để kết hợp được đêm
với ngày, để chia đời sống mình thành những mảng gọn gàng, dễ
sử dụng, họ phải tìm cách xác định được những đoạn thời gian nhỏ
và chính xác - không những chia thành những giờ đều nhau, mà cả
những phút, giây và phần của giây. Họ cần phải chế ra một bộ
máy. Mãi tới thế kỷ 14 người châu Âu mới chế ra chiếc máy để đo
thời gian. Trước đó, như chúng ta đã thấy, người ta chỉ có các đồng
hồ bóng mặt trời, đồng hồ nước, đồng hồ cát và những đồng hồ tạp
nham dùng nến hay mùi vị. Trong khi việc chia thời gian thành
năm đã có từ năm ngàn năm và việc gộp những chùm ngày thành
tuần đã được biết đến từ rất lâu, thì việc chia nhỏ ngày ra lại là
một chuyện khác. Mãi tới thời cận đại chúng ta mới bắt đầu sống
theo đơn vị giờ, nói chi là đơn vị phút.
Những bước đầu tiên dẫn tới việc đo thời gian bằng máy,
khởi điểm của các đồng hồ hiện đại ở châu Âu, đã xuất phát không
phải từ các người làm nghề nông hay chăn nuôi gia súc, cũng
không phải từ các thương gia hay thợ thủ công, nhưng từ những
con người sùng đạo thao thức muốn chu toàn bổn phận thờ phụng
của mình một cách mau mắn và đều đặn. Các thầy dòng muốn biết
thời giờ ấn định để đọc kinh cầu nguyện. Tại châu Âu, các đồng hồ
cơ học được thiết kế không phải để chỉ giờ mà để nghe giờ. Đồng hồ
thực sự đầu tiên là đồng hồ báo thức. Những bộ máy đồng hồ đầu
tiên, tiền thân của ngành chế tạo đồng hồ, là những bộ máy được
kéo bằng trọng lượng làm rung một chiếc chuông sau một khoảng
thời gian đã đo sẵn. Có hai loại đồng hồ được chế tạo cho mục đích
này. Có lẽ những chiếc đầu tiên là những đồng hồ báo thức nhỏ
trong các dòng tu, hay những đồng hồ phòng - được gọi là horologia
excitatoria, hay đồng hồ đánh thức - đặt trong phòng của custos
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 33
http://ebooks.vdcmedia.com
horologi, người giữ đồng hồ. Những đồng hồ này đánh một tiếng
chuông để nhắc một thầy dòng gọi các thầy khác đi cầu nguyện.
Thầy giữ đồng hồ sẽ ra kéo chuông lớn, thường treo trên một tháp
cao để mọi người nghe được. Khoảng cùng thời kỳ ấy, người ta đã
làm những đồng hồ tháp lớn hơn để đặt trên những tháp chuông, ở
đó những đồng hồ này sẽ đánh chuông lớn cách tự động.
Những đồng hồ trong các nhà dòng báo các giờ kinh theo
luật, là những giờ giấc trong ngày được luật của Giáo hội quy định
để cầu nguyện. Số tiếng chuông đồng hồ thay đổi tùy theo giờ, từ
bốn tiếng lúc rạng đông tới một tiếng lúc trưa và rồi lại bốn tiếng
lúc đêm về. Việc định giờ chính xác cho các giờ kinh khá rắc rối vì
còn lệ thuộc từng nơi và từng mùa, nhưng các đồng hồ trong nhà
dòng có thể điều chỉnh để thay đổi thời giờ giữa các chuông tùy
theo mùa.
Các cố gắng để kết hợp các dụng cụ đo thời gian với chức
năng đánh chuông đã không bao giờ thành công hoàn toàn. Một
người Paris tài giỏi đã gắn một tấm lăng kính vào mặt đồng hồ
mặt trời để làm một kính đốt, kính này vào đúng trưa sẽ tụ ánh
mặt trời vào lỗ của một khẩu pháo nhỏ và tự động phát tiếng nổ
chào mặt trời lúc chính ngọ. Người ta kể rằng đồng hồ pháo xinh
xắn này đã được công tước d'Orléans dựng trong vườn Hoàng Cung
năm 1786 và đã khai hỏa mở đầu cho cuộc Cách Mạng Pháp.
Nhiều thế kỷ trước, người ta đã thiết kế các đồng hồ nước phức tạp
có chức năng báo giờ bằng cách lăn các viên sỏi hay phát tiếng còi.
Có thể một số dụng cụ loại này đã được thử trong các tu viện.
Nhưng các nhu cầu cơ học mới đòi hỏi một đồng hồ đúng
nghĩa, đồng hồ chạy bằng máy. Những đồng hồ chạy bằng máy
đầu tiên đã xuất hiện vào thời mà những thời gian của đời sống và
chuyển động bị chi phối hoàn toàn bởi ánh sáng mặt trời, khi ấy
người ta chưa biết đến ánh sáng nhân tạo làm lẫn lộn ngày và
đêm. Các đồng hồ chuông thời trung cổ không đánh chuông vào các
giờ tối. Sau khi đánh 4 tiếng báo giờ kinh tối, đồng hồ sẽ im không
đánh chuông nữa cho tới giờ kinh sáng vào lúc mặt trời mọc sáng
hôm sau. Nhưng dần dà do hậu quả không dự kiến trước của việc
chế tạo đồng hồ máy và do sự bắt buộc của máy móc, những đồng
hồ này phải kết hợp cả những giờ tối với những giờ sáng và chia
chúng thành 24 giờ đều nhau mỗi ngày. Như thế, các đồng hồ bắt
nguồn từ các nhà dòng với mục đích đặc biệt là đánh chuông báo
Daniel J. Boorstin 34
http://ebooks.vdcmedia.com
giờ lại chính là khởi điểm dẫn tới một lối suy nghĩ mới về thời
gian.
Đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước và đồng hồ cát, tất cả đều
được thiết kế chủ yếu để chỉ giờ, nhờ bóng mặt trời đi qua một mặt
đồng hồ, nước chảy trong một cái chén, hay cát chảy trong một
bình thủy tinh.
Nhưng đồng hồ máy khởi thủy của các thầy dòng được thiết
kế để tạo một chuyển động cơ học và đánh búa vào một cái chuông.
Cơ chế của máy móc đòi hỏi một lối suy nghĩ và cảm nhận mới.
Thay vì dựa vào những chu kỳ của mặt trời thay đổi theo mùa, hay
dựa vào những chu kỳ ngắn hơn của các vật chảy như nước và cát,
bây giờ thời gian được đo bằng chuyển động ngắt quãng của một
bộ máy. Làm ra một máy đánh chuông báo những giờ kinh bắt đầu
và kết thúc, đó là những cái mới về cơ học, làm nền tảng cho
ngành chế tạo đồng hồ của những thế kỷ tiếp theo.
Con lắc rơi sẽ tạo ra lực làm di chuyển một cái cần đánh vào
chuông. Điều thực sự mới mẻ nơi cái máy đã có một bộ phận không
cho con lắc rơi tự do và ngắt đường rơi của nó thành những quãng
đều nhau. Đồng hồ mặt trời chỉ sự chuyển động không ngắt quãng
của bóng mặt trời và đồng hồ nước và cát hoạt động nhờ sự rơi tự
do của nước hay cát. Cái làm cho chiếc máy mới này chạy lâu hàng
giờ và đo được những đơn vị là một bộ phận khá đơn giản, hầu như
ít được biết đến trong lịch sử. Nó được gọi là cái hồi, vì nó giúp
điều chỉnh sự "hồi phục" của động lực vào trong đồng hồ.
Với tính đơn giản của những phát minh vĩ đại nhất, "cái hồi"
không là gì khác hơn sự bố trí để ngắt quãng đều đặn lực của một
vật rơi. Bộ phận ngắt này được thiết kế sao cho nó luân phiên ngắt
rồi thả lực của vật rơi trên bộ máy đang chạy của chiếc đồng hồ.
Đây là phát minh cơ bản để mọi đồng hồ hiện đại có thể tồn tại.
Hơn nữa, con lắc chỉ rơi một khoảng ngắn sẽ giúp đồng hồ chạy
lâu hàng giờ vì lực ghì xuống đều đặn của con lắc được biến thành
chuyển động ngắt quãng của bộ máy đồng hồ.
Hình thức đơn giản đầu tiên là cái hồi bằng "cần". Một thiên
tài vô danh về máy lần đầu tiên đã tưởng tượng ra để nối vật rơi
bằng cách đặt những bánh răng xen vào một trục thẳng đứng có
một thanh ngang, hay cần, cột vào những con lắc. Những con lắc
này điều khiển chuyển động. Khi những con lắc đi ra, đồng hồ
chạy chậm hơn; khi đi vào, nó chạy nhanh hơn. Chuyển động qua
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 35
http://ebooks.vdcmedia.com
lại của thanh ngang (do lực rơi của những con lắc lớn) sẽ luân
phiên làm cho các bánh răng của bộ máy đồng hồ ăn hay nhả ra.
Những chuyển động ngắt quãng này rốt cuộc sẽ đo những phút và
về sau cũng đo những giây. Dần dà, khi đồng hồ đã trở thành phổ
biến, người ta không còn nghĩ về thời gian như một dòng chảy nữa,
mà như một sự tập hợp những lúc phân biệt đã được đo lường.
Thời gian cai quản đời sống con người không còn là những chu kỳ
co giãn êm đềm trôi của mặt trời nữa. Thời gian cơ học không trôi
nữa. Tiếng tích tắc của quả lắc đồng hồ sẽ trở thành tiếng nói của
thời gian.
Rõ ràng là đồng hồ máy không còn dính líu gì tới mặt trời
hay chuyển động của các hành tinh nữa. Các luật của chính nó tạo
ra hàng loạt những đơn vị đồng đều và vô tận. "Độ chính xác" của
một đồng hồ sẽ tùy thuộc độ chính xác và đều đặn của cái hồi.
Trong kinh nghiệm nhân loại, có ít cuộc cách mạng lớn hơn
bước tiến triển từ giờ theo mùa hay giờ "tạm" sang giờ đồng đều.
Đây chính là tuyên ngôn độc lập của con người đối với mặt trời,
bằng chứng mới của việc con người làm chủ chính mình và làm
chủ vạn vật. Chỉ sau này người ta mới phát hiện ra rằng mình đã
đạt được quyền làm chủ này nhờ việc đặt mình dưới quyền thống
trị của một bộ máy với những đòi hỏi tuyệt đối của nó.
Hơn hẳn các phát minh trước đó, đồng hồ máy bắt đầu đo
chung các giờ ban đêm với các giờ ban ngày. Để chỉ đúng giờ lúc
bình minh, bộ máy này phải chạy liên tục thâu đêm.
Một ngày bắt đầu lúc nào? Trả lời câu hỏi này cũng giống
như trả lời cho câu hỏi có bao nhiêu ngày trong một tuần. Nhiều
cách trả lời lắm! Chương 1 sách Sáng Thế nói: "Có một buổi chiều
và một buổi sáng, đó là ngày thứ nhất" nghĩa là "ngày" đầu tiên lại
chính là một đêm. Có thể đây là một lối diễn tả tính mầu nhiệm
của việc Tạo dựng, để cho Thiên Chúa thực hiện công việc của
Người trong bóng đêm. Người Babylon và người Ấn Độ cổ đại tính
ngày bắt đầu lúc mặt trời mọc. Người Athen, giống như người Do
Thái, tính ngày bắt đầu lúc mặt trời lặn và cứ theo như thế cho tới
hết thế kỷ 19. Người Hồi Giáo Chính Thống cắt nghĩa Kinh thánh
theo nghĩa đen, vẫn tiếp tục bắt đầu ngày của họ lúc hoàng hôn,
lúc đó họ vẫn để đồng hồ của họ chỉ 12 giờ.
Cả sau khi đã xuất hiện đồng hồ cơ học, mặt trời vẫn để lại
dấu vết trong cách tính các giờ. Các đồng hồ chỉ 24 giờ của thời kỳ
Daniel J. Boorstin 36
http://ebooks.vdcmedia.com
đầu vẫn còn lệ thuộc mặt trời một cách kỳ lạ. Trên những đồng hồ
này, giờ cuối của 24 giờ là lúc chiều tà.
Đồng hồ đã không giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mặt
trời, vì những đòi hỏi của bóng tối và ánh sáng. Ở Tây Âu, các giờ
đồng hồ tiếp tục được tính số từ giữa trưa, là lúc mặt trời ở thiên
đỉnh, hay từ nửa đêm là thời điểm ở giữa hai buổi trưa. Ở phần lớn
châu Âu và châu Mỹ, một ngày vẫn bắt đầu từ nửa đêm theo đồng
hồ.
Nguồn gốc nếp sống hàng ngày của chúng ta là kết quả của
những phát minh đến từ khắp nơi trên thế giới. Chúng ta biết một
năm có 365 ngày là nhờ các giáo sĩ Ai Cập cổ xưa, trong khi tên
của các tháng trong năm theo các ngôn ngữ phương Tây - January,
February, March - và các ngày trong tuần - Saturday, Sunday,
Monday - bắt nguồn từ những nhà chiêm tinh Do Thái, Hi Lạp và
Rôma. Và việc chúng ta chia một ngày thành 24 giờ là kết quả
tổng hợp của những phương thức tính toán của người Hi Lạp, Ai
Cập và Babylon.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 37
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 6
MANG THỜI GIAN ĐI KHẮP NƠI
Năm 1583, Galileo Galilei (1564 - 1642), khi đó là một thanh
niên 19 tuổi, đang cầu nguyện ở giếng rửa tội trong Vương Cung
Thánh Đường Pisa thì bị phân tâm bởi cây đèn dầu phía trên bàn
thờ lắc qua lắc lại. Bất kể cây đèn lắc dài hay ngắn thì hình như
thời gian nó lắc từ bên này sang bên kia đều bằng nhau.
Đương nhiên Galileo không có đồng hồ, nhưng ông đã kiểm
tra các khoảng lắc bằng mạch tim của mình. Theo lời ông kể lại,
cái thắc mắc kỳ lạ của đời sống thường nhật này đã kích thích ông
bỏ ngành y như cha ông đã quyết định, để theo ngành toán học và
vật lý. Tại giếng rửa tội của nhà thờ, ông đã khám phá ra cái mà
các nhà vật lý sẽ gọi là tính đẳng thời, hay thời gian đều nhau của
quả lắc - đó là thời gian quả lắc đong đưa sẽ thay đổi không theo
chiều ngang đường đi của quả lắc mà theo độ dài của quả lắc.
Khám phá đơn giản này đã trở thành biểu tượng của thời đại
mới. Tại đại học Pisa, nơi Galileo theo học, các môn thiên văn và
vật lý đều được giảng dạy theo sách giáo khoa của Aristốt. Nhưng
lối học độc đáo của Galileo dựa vào quan sát và đo lường những
điều ông thấy, đã mở ra một thời đại mới trong việc đo thời gian.
Ba thập niên sau khi Galileo mất, sai số trung bình của những
đồng hồ tốt nhất đã giảm từ 15 phút xuống chỉ còn 10 giây mỗi
ngày.
Một đồng hồ chỉ đúng thời gian với vô số những đồng hồ khác
ở khắp nơi đã biến thời gian thành một đơn vị đo lường vượt không
gian. Các cư dân ở Pisa có thể biết giờ ở Florence hay ở Rôma vào
bất cứ lúc nào. Các đồng hồ đó một khi đã chạy đồng bộ, sẽ tiếp tục
chạy đồng bộ. Nó không còn chỉ thuận tiện cho một địa phương để
tính giờ làm việc của công nhân hay định giờ cầu nguyện hay một
cuộc họp hội đồng thành phố; từ nay đồng hồ đã trở thành một
thước đo thời gian toàn cầu. Cũng giống như trước đây, giờ đồng
đều đã chuẩn hóa các đơn vị thời gian của ngày và đêm, đông và
Daniel J. Boorstin 38
http://ebooks.vdcmedia.com
hạ, ở bất kỳ thành phố nào, thì bây giờ đồng hồ chính xác đã
chuẩn hóa các đơn vị thời gian trên khắp hành tinh.
Hành tinh của chúng ta có một số đặc tính làm cho điều kỳ
diệu này thực hiện được. Vì trái đất xoay quanh trục của nó, mọi
nơi trên mặt đất đều đi qua một ngày 24 giờ với một vòng quay đủ
360 độ. Các đường kinh tuyến đánh dấu những độ này. Khi trái
đất quay, nó đưa buổi giữa trưa lần lượt đi qua các nơi khác nhau.
Khi ở Istanbul đang là trưa, thì ở Luân Đôn mới chỉ là 10 giờ sáng.
Trong một giờ, trái đất quay 15 độ. Vì thế chúng ta có thể nói rằng
Luân Đôn ở 30 độ kinh tây Istanbul, hay hai giờ tây Istanbul và
như thế những độ kinh này trở thành đơn vị đo cả không gian và
thời gian. Nếu bạn có một đồng hồ chính xác đặt giờ ở Luân Đôn
và mang theo sang Istabul, chỉ cần đối chiếu với giờ địa phương ở
Istanbul là bạn có thể biết mình đã đi xa về hướng đông bao nhiêu,
hay đông Istabul cách xa Luân Đôn bao nhiêu.
Nếu bạn là người du lịch đường dài và muốn biết chính xác
vị trí bạn đang ở, bạn sẽ thấy khó biết vị trí trên biển hơn trên đất
liền. Trên đất liền bạn có thể biết vị trí của mình nhờ những điểm
mốc chết như núi đồi, sông ngồi, nhà cửa, đường xá và thành phố.
Nhưng các mốc trên biển rất hiếm và nếu có thì cũng chỉ những
người quan sát lành nghề mới nhận ra được. Biển rộng mênh
mông, chỗ nào trông cũng giống chỗ nào, nên tự nhiên đã thúc đẩy
những người đi biển tìm vị trí của mình bằng cách quan sát bầu
trời, mặt trời, mặt trăng và các chòm sao. Họ tìm những mốc trên
trời để biết những mốc trên biển. Không lạ gì thiên văn học đã trở
thành người hầu của thủy thủ và Thời Đại Colômbô đã dẫn tới
Thời Đại Copernic. Nhờ kính viễn vọng mới được phát minh hướng
lên bầu trời và nhờ quan niệm mới của Galileo về mặt trăng, sao
Mộc và sao Kim, con người đã khám phá ra biển cả, vẽ bản đồ
những đại dương và xác định được những lục địa mới.
Khi người ta bắt đầu công cuộc thăm dò biển cả, họ cảm thấy
nhu cầu hiểu biết bầu trời lớn hơn bao giờ hết. Họ phải xác định vị
trí của chính họ, dựa trên vĩ bắc hay nam của xích đạo và trên
kinh đông hay tây của một điểm nào đó đã được thỏa thuận trước.
Nhưng xác định độ kinh (tương quan đông - tây) bao giờ cũng
khó hơn là độ vĩ (tương quan bắc - nam) và điều này giải thích tại
sao phải rất lâu con người mới tìm ra Tân Thế Giới, tại sao
Colômbô đã có can đảm làm cuộc vượt biển để khám phá và tại sao
"Đông" và "Tây" đã bị ngăn cách lâu như thế. Chẳng hạn, để xác
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 39
http://ebooks.vdcmedia.com
định vị trí đông - tây của mình trên hành tinh, người đi biển phải
đo sự khác biệt về thời gian lúc mặt trời giữa trưa tại những điểm
khác nhau.
Xác định độ vĩ đơn giản hơn nhiều, vì độ cao của mặt trời
trên đường chân trời là một yếu tố quyết định. Ở xích đạo vào mọi
mùa, mặt trời giữa trưa ở thẳng phía trên hay ở độ cao 90, trong
khi ở Bắc Cực mùa đông hoàn toàn không có mặt trời còn mùa hè
luôn luôn có mặt trời. Ở những nơi nằm giữa hai vùng trên, người
ta ghi nhận độ cao của mặt trời giữa trưa trên đường chân trời, rồi
đối chiếu với những bảng thiên văn trong sách niên giám quốc gia
để biết mình đang ở cách xa xích đạo về phía bắc hay nam bao
nhiêu. Để làm việc này, dụng cụ duy nhất cần có là một cây thước
nhắm để đo độ cao của mặt trời trên đường chân trời. Người Hi
Lạp xưa chỉ cần nhìn độ cao của các ngôi sao trên đường chân trời
để xác định vĩ độ mà không cần dùng đến dụng cụ nào cả. Các
bảng thiên văn trong các sách giáo khoa hàng hải thời trung cổ
chính xác đến nỗi một người đã xác định được vĩ độ của mình mà
chỉ xê xích một nửa độ hay ít hơn thế.
Những người đi biển càng ra xa ngoài đại dương bao la càng
nhận ra mình biết quá ít về hành tinh của mình. Họ phải giải
quyết vấn đề kinh độ. Từ vị Toàn Quyền của Liên hiệp các Tỉnh
Hà Lan, Galileo được nghe nói về nhu cầu cấp bách giải quyết vấn
đề này của các nhà hàng hải. Ngay từ năm 1610, ông đã gợi ý cho
vị Toàn Quyền rằng kinh độ có thể xác định được trên biển nhờ
quan sát bốn vệ tinh của sao Mộc mà ông đã khám phá ra hồi đầu
năm ấy. Nhưng việc này đòi hỏi phải quan sát một thời gian dài
qua một kính viễn vọng dài đặt cao trên boong một chiếc tàu đang
di chuyển trên biển và vì thế việc này không thực hiện được. Sau
đó ông chế ra một chiếc nón có gắn một kính viễn vọng để người
quan sát đội trên đầu và ngồi trên một chiếc bệ có những khớp
cardan, giống như những chiếc bệ dùng để giữ cho la bàn của một
con tàu luôn ở vị trí nằm ngang. Tuy phương pháp này cho thấy
rất thực tiễn khi quan sát trên đất, nó lại không bao giờ có tác
dụng trên biển. Cuối cùng ông đã khuyên làm một dụng cụ đo thời
gian chính xác cho người đi biển. Sau khi ông khám phá ra quả lắc
là một dụng cụ đo thời gian đơn giản, ông suy ra rằng nếu nó có
thể đo mạch của con người, có lẽ nó cũng có thể là một chiếc đồng
hồ chính xác để đi biển. Mãi tới mười năm cuối đời mình, khi ông ở
trong tình trạng ẩn dật bắt buộc, Galileo mới tự mình khai thác
Daniel J. Boorstin 40
http://ebooks.vdcmedia.com
khả năng này, nhưng lúc đó mắt ông đã mù khiến ông không thể
lắp ráp chiếc đồng hồ ông đã thiết kế.
Người Hà Lan hồi đó có những trạm trú quân ở vùng viễn
đông trên các bờ biển châu Á, cảm thấy hơn bao giờ hết nhu cầu
xác định tốt hơn kinh độ, nhu cầu có đồng hồ đi biển. Chàng thanh
niên Christiaan Huygens tài giỏi (1629 - 1695) bắt tay giải quyết
vấn đề. Từ 27 tuổi, anh đã chế ra đồng hồ quả lắc đầu tiên của
mình và anh đã thử đi thử lại. Nhưng anh không bao giờ thành
công hoàn toàn, vì quả lắc không thể giữ thời giờ chính xác trên
một chiếc tàu tròng trành, bập bềnh.
Trước khi có một đồng hồ đi biển chính xác, người đi biển
muốn biết vị trí của mình phải là một nhà toán học giỏi. Phương
pháp được nhìn nhận để tìm kinh độ trên biển là bằng quan sát
chính xác mặt trăng và điều này đòi phải có những dụng cụ tinh
xảo và những tính toán chi li. Chỉ cần sai 5 inch khi quan sát mặt
trăng sẽ có nghĩa là sai 2,5 độ kinh, tương đương với 150 dặm trên
biển - đủ để một con tàu đụng phải những tảng đá ngầm nguy
hiểm. Những sự tính toán sai lầm gây tai họa có thể xuất phát từ
những dụng cụ thô sơ, từ một sai lầm trên bảng đo lường hàng hải,
hay từ chuyển động lắc lư của con tàu. Điều này khiến cho vấn đề
tìm kinh độ trở thành một vấn đề thuộc khoa học cũng như kỹ
thuật. Các cường quốc hàng hải đã phấn khởi tổ chức những lớp
toán học cho những thủy thủ thường. Khi Charles II mở một lớp
toán học cho 40 học sinh ở Christ's Hospital, một trường từ thiện
"áo Xanh" ở Luân Đôn, các giáo viên cảm thấy khó thỏa mãn cùng
một lúc các thủy thủ và các học sinh toán học. Các người quản trị
nhà trường nhận thấy rằng Drake, Hawkins và những nhà hàng
hải lớn đã thành công mà không cần toán học, nên đặt vấn đề
những thủy thủ tương lai có thực sự cần đến toán học hay không.
Đứng về phía toán học, Sir Isaac đã lập luận rằng những quy luật
cũ không còn thích hợp nữa. "Các học sinh toán học là những bông
hoa của nhà trường, các em có khả năng hưởng nhận tri thức tốt
hơn và nếu được dạy dỗ tốt và theo học những vị thầy giỏi, các em
trong tương lai có thể cung cấp cho đất nước những thủy thủ,
những nhà đóng tàu, kiến trúc sư, kỹ sư, chuyên viên toán học về
đủ lãnh vực, trên biển và trên đất, tài ba hơn những người mà
nước Pháp hiện đang tự hào".
Tuy nhiên, những tính toán để tìm kinh độ nhờ quan sát mặt
trăng rất phức tạp. Cần tìm ra một phương pháp nào đó, tốt nhất
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 41
http://ebooks.vdcmedia.com
là một bộ máy, để giúp cho những thủy thủ ít học dễ tìm ra vị trí
trên biển của mình.
Năm 1604, Vua Philip III của Tây Ban Nha treo giải 10.000
ducat cho ai có giải pháp và sau đó vua Louis XIV của Pháp cũng
treo giải 100.000 florin. Và Toàn Quyền Hà Lan cũng treo giải mà
Galileo đã giải đáp.
Ở Anh, động lực thúc bách giải quyết vấn đề kinh độ không
phải là nhu cầu của những thủy thủ trên những đại dương xa xôi
mà là do một thảm họa xảy ra ngay ở thềm lục địa phía bờ biển
phía nam. Năm 1707, một tàu chiến Anh va vào đá ngầm của
quần đảo Scilly, gồm 140 hòn đảo nhỏ cách xa bờ biển không đầy
40 dặm. Toàn bộ thủy thủ bị chìm cùng với thuyền trưởng của họ,
Đô đốc Clowdisley Shovell, mẫu thuyền trưởng anh hùng. Vào thời
hải quân Anh ở đỉnh cao vinh quang, cái chết của nhiều thủy thủ
như thế ở rất gần đất liền và không phải do kẻ thù tấn công, quả
là chuyện đau đớn. Lương tâm quần chúng bị đánh động. Hai nhà
toán học lỗi lạc tuyên bố công khai rằng tai nạn đã có thể tránh
được nếu các thủy thủ có hiểu biết về kinh độ. Chỉ cần họ biết cách
tìm kinh độ, mà điều này "các thủy thủ bình thường có thể hiểu và
áp dụng cách dễ dàng mà không cần đến những tính toán rắc rối
của thiên văn học".
Do biến cố thúc đẩy, Quốc hội vào năm 1714 đã thông qua
một đạo luật "Treo một Giải Thưởng Công Cộng cho người nào hay
những người nào tìm ra được Kinh độ trên Biển".
Rõ ràng một đồng hồ quả lắc không thể đoạt giải. Để tính
được thời gian trên một con tàu tròng trành, lắc lư, phải có một
phương pháp khác. Đồng hồ phải không có con lắc hay quả lắc.
Có người nảy ra ý tưởng nếu cuộn tròn một thanh kim loại
mỏng thành một lò xo, khi nó bung ra nó có thể tạo lực đẩy cái
máy. Kiến trúc sư người ý Brunelleschi có lẽ đã chế ra chiếc đồng
hồ chạy bằng dây cót khoảng năm 1410. Một thế kỷ sau, một thợ
khóa người Đức đã chế những đồng hồ nhỏ chạy bằng dây cót.
Nhưng dây cót cũng có vấn đề của nó. Với con lắc rơi, lực tạo ra lúc
đầu và lúc cuối luôn đều nhau, nhưng với dây cót, khi dây cót càng
bung ra thì lực càng yếu dần. Một giải pháp tài tình cho vấn đề
này là chiếc "bánh côn", một cái lõi cônic được thiết kế sao để khi
lò xo bung ra, thì chính hình thù của cái lõi tạo một lực tăng dần
trên máy.
Daniel J. Boorstin 42
http://ebooks.vdcmedia.com
Ban đầu, những chiếc đồng hồ bỏ túi mới này có đủ thứ hình
dạng. Có đồng hồ hình sọ người, quả trứng, quyển sách, thánh giá,
chó, sư tử, hay chim bồ câu, Và có một số được thiết kế để cung cấp
những lịch thiên văn, chỉ những chuyển động của mặt trời, mặt
trăng và các ngôi sao.
Nhưng những đồng hồ đầu tiên chạy bằng dây cót này cũng
không chính xác hơn những đồng hồ quả lắc mà chúng thay thế.
Lúc đầu mặt đồng hồ đặt này ngang phía trên và chỉ có một kim
chỉ giờ. Cho tới đầu thế kỷ 17, bộ máy không có bao chịu bụi và
nước. Sau đó đồng hồ được đặt đứng và mặt đồng hồ trông ra
ngoài, được đặt trong một khung bằng đồng. Nhưng vì nó vẫn còn
dựa trên cái thanh hồi của thời kỳ đầu, nên sự thiếu chính xác là
chuyện thường. Khi Hồng y Richelieu giới thiệu sưu tập đồng hồ
của mình, một vị khách vô ý đánh rớt hai chiếc cùng một lúc trên
nền nhà. Vị Hồng y điềm nhiên nhận xét, "Đây là lần đầu tiên hai
cái chạy giống nhau!".
Một đồng hồ bỏ túi chính xác hơn cần phải có một bộ phận
điều khiển chính xác hơn. Cả cái hồi bằng thanh lẫn cái hồi quả
lắc đều không đáp ứng được điều này.
Thời gian đầu, đồng hồ đi biển còn mắc tiền nên các thuyền
trưởng vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp mặt trăng. Nhưng dần
dà, việc sản xuất những đồng hồ rẻ tiền còn dễ hơn là việc đào tạo
thủy thủ giỏi toán học.
Đồng hồ đi biển phải độc lập với trọng lực của động lực của
nó, cũng như của bộ phận điều khiển của nó. Robert Hooke có một
ý tưởng đơn sơ: nếu lực của một lò xo có thể dùng để chạy đồng hồ,
thì tại sao tính đàn hồi của nó lại không thể dùng thay cho quả lắc
để điều khiển bộ máy?
Trước khi Robert Hooke (1635-1703) lên 10 tuổi, ông đã
trông thấy một chiếc đồng hồ được tháo rời ra và thế là ông tự
mình ráp lấy một chiếc bằng gỗ. Ở đại học Christ Church, Oxford,
ông lớn tuổi hơn các sinh viên khác và được tham gia một nhóm
nghiên cứu khoa học gồm nhà kinh tế học tiên phong William
Petty, kiến trúc sư Christopher Wren và nhà vật lý học Robert
Boyle. Hooke làm ra những chiếc máy để trắc nghiệm những lý
thuyết mà những người kia đang khai triển. Khi Royal Society
được thiết lập năm 1662, họ đã khôn ngoan chọn Hooke, lúc bấy
giờ mới 27 tuổi vào chức vụ Phụ trách thí nghiệm, có nhiệm vụ thử
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 43
http://ebooks.vdcmedia.com
những thí nghiệm do các thành viên đưa ra. Trong cuốn
Micrographia (1665) của mình, Hooke đã cho thấy ông nắm bắt
được cái mấu chốt của thời đại mới. Ông viết, "Sự thật là khoa học
về Thiên Nhiên đã quá lâu chỉ là công việc của khối óc và trí tưởng
tượng. Đã đến lúc nó phải quay trở về với tính chất rõ ràng và
vững chắc của việc quan sát vật chất và những sự vật hiển nhiên".
Năm 1658, khi mới 23 tuổi, Hooke đã nghĩ rằng có thể làm
bộ phận điều khiển của đồng hồ đi biển bằng việc "dùng những
dây cót thay vì trọng lực để làm cho một vật thể rung động trong
bất kỳ tư thế nào". Một dây cót gắn vào một con lắc có thể làm cho
con lắc lắc qua lắc lại quanh tâm trọng lực của chính nó và như
thế tạo một chuyển động tuần hoàn cần để bộ máy đồng hồ dừng
hay chạy và nhờ đó chỉ các đơn vị thời gian. Trực giác này có tính
quyết định cho việc làm ra đồng hồ đi biển.
Nếu mẫu đồng hồ của ông được chứng nhận bằng sáng chế,
ông đã có một tài sản rất lớn. Các nhà khoa học đồng nghiệp của
ông, trong đó có Robert Boyle và William Brouncker, cả hai đều
giàu có, đã muốn tài trợ dự án của ông. Nhưng Hooke đã từ chối
khi họ không đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của ông. Năm 1674, khi
Huygens, đối thủ người Hà Lan của ông thực sự làm ra chiếc đồng
hồ đeo tay chạy bằng lò xo con lắc, Hooke tức giận và tố cao
Huygens đã ăn cắp phát minh của ông. Để khẳng định ưu thế của
mình, năm sau ông chế tạo chiếc đồng hồ đeo tay để gửi tặng vua,
trên đồng hồ có ghi dòng chữ khẳng định Hooke đã sáng chế ra bộ
máy quyết định này từ năm 1658. Hooke đã trở thành tác giả
không thể tranh cãi của định luật Hooke: Ut tensio vis - sức căng
bao nhiêu thì lực bấy nhiêu: một lò xo khi bị kéo căng sẽ tạo một
phản lực bằng với lực căng của nó. Nhưng quyền ưu tiên cho hầu
hết các sáng chế chuyên biệt của ông, kể cả con lắc lò xo, thì còn
nhiều tranh cãi. Dù ai là "nhà phát minh đầu tiên" của những thứ
đó, thì rốt cuộc việc kết hợp một dây cót chính làm động lực và một
lò xo con lắc làm bộ phận điều khiển đã tạo ra chiếc đồng hồ đi
biển.
Thời gian đầu, những đồng hồ biển còn mắc tiền, nên các
thuyền trưởng vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp mặt trăng.
Nhưng dần dà việc sản xuất những đòng hồ rẻ tiền vẫn dễ hơn là
việc đào tạo những thủy thủ giỏi toán học. Không chỉ có các thủy
thủ mới là những người đón nhận được sự tiện lợi của chiếc đồng
hồ. Đồng hồ chạy bằng dây cót đã trở thành một vật dụng tiện
Daniel J. Boorstin 44
http://ebooks.vdcmedia.com
mang theo cả trên đất lẫn trên biển. Với chiếc đồng hồ dễ mang
theo - càng ngày càng nhỏ, không bị trọng lực, bỏ trong túi hay đeo
ở cổ tay - mọi lãnh vực của đời sống con người sẽ mang một ý nghĩa
mới về thời gian.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 45
http://ebooks.vdcmedia.com
Phần III
Chiếc đồng hồ của nhà truyền giáo
Đối với người Trung Hoa, trời thì
tròn nhưng trái đất thì vuông và dẹt,
và họ tin chắc rằng nước của họ ở ngay
trung tâm của trái đất. Họ không
thích cái ý tưởng của các bản đồ địa lý
phương tây, đẩy đất Trung Hoa của họ
ra một góc của phương Đông.
Daniel J. Boorstin 46
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 7
MỞ ĐƯỜNG VÀO TRUNG HOA
"Người ta không phải ngạc nhiên vì
các hiền nhân Trung Hoa đã không làm
những bước đó. Điều đáng ngạc nhiên là đã
có người làm được những khám phá đó",
lbert Einstein, (1953).
Giờ đây, xét về mặt kỹ thuật, người ta ở đâu cũng có thể xác
định được vị trí của mình trên trái đất. Nhưng điều đó có thể về
mặt kỹ thuật thì lại không luôn luôn có thể về mặt xã hội. Truyền
thống, tập quán, phong tục, ngôn ngữ, cơ chế, hàng ngàn thói quen
nho nhỏ, những lối suy nghĩ và hành động, đã là những rào cản.
Chuyện ly kỳ về chiếc đồng hồ bên phương Tây đã không xảy ra
bên phương Đông.
Năm 1577, tại Đại học Dòng Tên ở Rôma, linh mục trẻ tên là
Matteo Ricci (1552-1610) lúc đó mới 25 tuổi gặp một cha từ địa sở
truyền giáo Dòng Tên ở ấn Độ trở về, liền quyết định đi truyền
giáo tại vùng thế giới đó để "thu vào kho lẫm của Giáo Hội Công
Giáo những hoa màu phong phú do hạt giống Tin mừng gieo vãi
tại đó". Nhà truyền giáo trẻ đã bộc lộ rõ một khối óc độc lập sẽ biến
ông thành một trong số những nhà truyền giáo vĩ đại nhất.
Lúc cậu bé được 17 tuổi, cha cậu đã gởi cậu đến Rôma để học
luật. Sợ rằng con mình sẽ bị dụ dỗ đi tu làm linh mục, cha cậu đã
ra lệnh cho cậu không được học các môn tôn giáo. Bất chấp những
cố gắng của cha mình, Matteo đã xin gia nhập Dòng Tên trước khi
cậu 20 tuổi, sau đó viết thư xin cha mình chấp thuận. Khi ông
Ricci (bố) vội vàng đi Rôma để rút con mình ra khỏi nhà tập Dòng
Tên, dọc đường bị ngã bệnh, ông tin rằng đây là ý của Chúa để con
mình theo ơn kêu gọi của nó. Thế là Matteo Ricci bỏ Rôma đi
Genoa, rồi từ đó đáp tàu sang Bồ Đào Nha, để quá giang trên một
tàu buôn sang ấn Độ. Khi đến Goa, một vùng đất thuộc Bồ Đào
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 47
http://ebooks.vdcmedia.com
Nha ở bờ biển tây nam, tháng 9 năm 1578, ông ở lại đó bốn năm để
học và dạy thần học. Sau đó các bề trên Dòng Tên của ông cử ông
sang truyền giáo tại Macao, ở đó ông bắt đầu học tiếng Trung Hoa.
Chỉ cách thành phố thương mại lớn Quảng Đông một cái vịnh,
Macao có vẻ là một bệ phóng lý tưởng cho các nhà truyền giáo.
Ricci và một linh mục bạn, Michele Ruggieir, sống 7 năm ở
Châu Thanh, một thành phố phía tây Quảng Đông. Họ xây một
ngôi nhà truyền giáo và dù bị sự nghi kỵ của dân chúng và thỉnh
thoảng có những trận mưa đá do bàn tay của những người thù
nghịch, nhưng mọi người đều coi các ông là những người học rộng.
Trên tường phòng khách của ngôi nhà truyền giáo, Ricci trên một
tấm bản đồ thế giới. Chính ông đã thuật lại như sau:
"Trong số những nước lớn, Trung Hoa là nước có nền thương
mại kém nhất; thực vậy, có thể nói họ hầu như không có giao lưu
nào với thế giới bên ngoài và hậu quả là họ mù tịt không biết gì về
thế giới nói chung. Thực ra, họ cũng có những họa đồ giống như
bản đồ này và họ cho đó là cả thế giới, nhưng thế giới của họ chỉ là
15 tỉnh của Trung Hoa và trên phần biển chung quanh bản đồ, họ
cũng vẽ ra một vài hòn đảo và đặt tên cho chúng bằng cái tên của
những vương quốc khác nhau mà họ được nghe nói đến. Tất cả
những hòn đảo này gộp lại cũng không to bằng tỉnh nhỏ nhất của
Trung Hoa. Với một kiến thức hạn chế như thế, không lạ gì họ
huênh hoang rằng nước họ là cả thế giới và họ gọi đó là Thiên hạ,
nghĩa là tất cả những gì ở dưới bầu trời. Khi họ biết Trung Hoa chỉ
là một phần của phương đông to lớn, cho rằng ý tưởng này là khác
xa với ý tưởng của họ, hoàn toàn vô lý và họ muốn tìm đọc về
những chuyện này, để có thể đánh giá tốt hơn.
Chúng tôi phải nêu ra đây một khám phá khác giúp chính
phục thiện chí của người Trung Hoa. Đối với họ, trời thì tròn
nhưng trái đất thì vuông và dẹt và họ tin chắc rằng nước của họ ở
ngay trung tâm của trái đất. Họ không thích cái ý tưởng của các
bản đồ địa lý phương tây đẩy đất Trung Hoa của họ ra một cái góc
của phương Đông. Họ không thể nắm được những chứng minh
rằng trái đất hình cầu, gồm có đất và nước và tự bản chất một
hình cầu không có chỗ bắt đầu và chỗ cuối...
Ở Trung Hoa, việc ra lịch, giống như việc in tiền ở châu Âu,
có nghĩa là công bố quyền bính của một triều đại mới. Làm giả lịch
hay dùng một lịch không chính thức là phạm tội khi quân. Thiên
văn học và toán học chỉ dành cho những người có thẩm quyền...
Daniel J. Boorstin 48
http://ebooks.vdcmedia.com
Vì không hiểu biết về kích thước của trái đất và vì não trạng
quá tự tôn, người Trung Quốc nghĩ rằng chỉ có Trung Hoa là nước
đáng kính nể. Sánh với sự rộng lớn của vương quốc, việc cai trị và
tầm hiệu biết, họ coi mọi dân tộc khác không những là mọi rợ mà
còn là những con vật không có lý trí. Đối với họ, không một nơi nào
trên trái đất xứng đáng có một hoàng đế, một triều đại, hay một
nền văn hóa. Lòng kiêu ngạo của họ càng được thổi phồng do sự
ngu dốt này bao nhiêu, họ càng cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu khi sự
thật được phơi bày".
Học thức và sự khéo léo trong giao tế của Ricci không xua
tan được những mối lo sợ của dân chúng. Một đêm họ đã ném đá
khu nhà truyền giáo, tố giác Ricci thông đồng với người Bồ Đào
Nha đánh chiếm thành phố, vu cáo ông biết phép hóa kim nhưng
không chịu dạy họ những bí mật của khoa này, rồi họ phá hủy nhà
ông, Ricci dời lên miền bắc và đi đến thủ đô Bắc Kinh.
Theo truyền thống, các hoàng đế Trung Hoa không để dân
chúng thấy mặt mình. Trong những năm suy đồi cuối triều Minh,
vua Uông Lý, một ông vua ẩn dật bệnh hoạn, tự nhốt mình trong
Cung Cấm với hoàng hậu, các phi tần và hàng trăm cung nữ, có vô
số các thái giám hầu hạ. Ngay cả những vị quan lớn nhất của vua
cũng ít khi được gặp vua, họ phải nhờ các thái giám trong cung đệ
đạt lại.
Ricci và các tu sĩ Dòng Tên đến Bắc Kinh, họ bị chặn lại và
lấy hết của cải. Quan bộ hình còn cảnh cáo "sẽ hủy ra tro tất cả
những vật gì họ mang theo có hình ảnh của con người bị đóng đinh
trên thập tự". Các quan Trung Hoa cảm thấy ghê rợn trước cảnh
máu me của người chịu đóng định và họ sợ đó là một dụng cụ của
ma thuật. Trong suốt sáu tháng bị giam cầm, các cha Dòng Tên
không còn hy vọng nào khác, họ chỉ biết "hướng lòng trí về Chúa
và quyết tâm chuẩn bị mình một cách vui vẻ để đương đầu với mọi
khó khăn, ngay cả cái chết, vì lý tưởng mà họ đã theo đuổi".
Ròng rã hai mươi năm, cha Ricci luôn cố gắng gặp mặt vua,
vì ông biết chỉ vua là người có thể mở cửa cho Tin Mừng và ông bắt
đầu lo ngại rằng sứ mạng của mình có thể kết thúc trong ngục tù ở
Bắc Kinh. Giữa sự vô vọng đó, có một lệnh của vua triệu ông vào
cung và phải mang theo lễ vật từ châu Âu. Theo cha Ricci, lý do
thật bất ngờ, đó là "một hôm vua sực nhờ ra rằng có một lời thỉnh
cầu được gởi tới mình, vua liền nói "Hãy nói cho trẫm biết, cái
đồng hồ đó đâu, cái đồng hồ biết kêu reng reng ấy; cái đồng hồ mà
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 49
http://ebooks.vdcmedia.com
những người ngoại quốc muốn đem đến đây cho trẫm, theo như họ
nói trong lời thỉnh cầu của họ?"
Thế là cha Ricci được thả, các món quà của ông được gởi đến
hoàng cung và người ta bắn pháo để báo hiệu rằng vua đã vừa
nhận được món quà. Món quà trước tiên đã được gởi đến các quan
bộ lễ xem xét và họ đã cho ý kiến như sau:
"Các nước tây dương chưa hề có quan hệ với chúng ta và
không bao giờ nhìn nhận luật lệ của chúng ta. Những ảnh tượng
của Chúa Trời và của người trinh nữ mà Lý Mã Tâu (Ricci) dâng
không có giá trị bao nhiêu. Ông ta dâng một cái túi mà ông ta nói
là đựng xương của những con người bất tử, cứ như thể là những
con người bất tử khi lên trời thì không mang theo xương của mình.
Trong một hoàn cảnh tương tự như thế, Hàn Du (một học giả
chống Phật giáo, khi được hỏi về việc người ta dâng một ngón tay
được nói là của đức Phật) đã trả lời không nên cho phép đưa
những điều mới lạ như thế vào cung, vì chúng có thể đem tai họa.
Vì thế, chúng thần khuyên không nên nhận những lễ vật này và
ông ta không được phép ở lại trong kinh thành. Phải trục xuất ông
ta về nước".
Bất chấp những lời đó, vua đã nhận lễ vật và triệu cha Ricci
vào Nội Cung.
Lễ vật của Ricci gồm hai đồng hồ rất đẹp thuộc mẫu thiết kế
mới nhất của Italy - một đồng hồ lớn chạy bằng quả lắc và một
đồng hồ nhỏ chạy bằng dây cót. Cả hai được đem đến hoàng cung
vài ngày trước khi Ricci đến và khi Ricci được triệu vào cung, chiếc
đồng hồ nhỏ vẫn còn chạy. Chiếc đồng hồ lớn ngưng chạy vì quả
lắc của nó đã rớt xuống đáy đồng hồ. Các "chuông biết kêu" làm
cho vua rất thích thú, nhưng bây giờ không còn kêu nữa. Ông vua
giống như đứa trẻ buồn phiền vì món đồ chơi bị bể, đã truyền quan
thái giám của mình ra lệnh cho Ricci trong ba ngài phải làm cho
chiếc đồng hồ chạy laị.
May thay, trong thời gian Ricci trở về Rôma, ông đã được
huấn luyện cho sứ mạng truyền giáo và ông đã để ý học nghề sửa
đồng hồ. Thế là giờ đây ông đã sẵn sàng để giảng một bài về sửa
đồng hồ.
Vua truyền cho dựng một cái tháp bằng gỗ để đặt chiếc đồng
hồ lớn trong vườn thượng uyển, nơi chỉ một mình vua và một ít
người được vua sủng ái cho vào thưởng lãm.
Daniel J. Boorstin 50
http://ebooks.vdcmedia.com
Trong chín năm tiếp theo, cha Ricci trở thành một sứ thần
được kính nể quá sức tưởng tượng của chính mình. Chiếc đồng hồ
của nhà vua "làm cho mọi người Trung Hoa kinh ngạc", cha Ricci
giải thích, chỉ vì nó là một "công trình chưa từng được nhìn thấy,
nghe thấy, hay tưởng tượng ra trong lịch sử Trung Hoa". Nhưng
cha Ricci đã lầm. Tuy các cha dòng không biết, nhưng đồng hồ
máy đã có một lịch sử rực rỡ và lâu dài ở Trung Hoa. Năm trăm
năm trước khi các cha Dòng Tên đến đó, một số cận thần được
sủng ái trong cung đã phải kinh ngạc trước một chiếc đồng hồ
thiên văn kỳ diệu. Vào thời các cha Dòng Tên đến Trung Hoa,
chiếc đồng hồ thiên văn đó là còn là một giai thoại được biết đến
nơi một vài học giả sưu tầm đồ cổ mà thôi.
Việc chế tạo đồng hồ thiên văn của Tô Tống là một truyền
thống. Năm 1077, một viên chức uyên bác tên là Tô Tống, được
vua Tống phái làm sứ giả đi mừng sinh nhật của một vua rợ phía
bắc. Năm ấy sinh nhật của vua rợ này nhằm đúng ngày đông chí.
Khi Tô Tống đến nơi, ông xấu hổ vì thấy mình đến sớm một ngày.
Có vẻ lịch của dân rợ chính xác hơn lịch Trung Quốc. Vì Tô Tống
không dám thừa nhận lịch của hoàng đế thua kém lịch dân rợ, ông
đã thuyết phục vua rợ cho phép ông hoàn thành sứ mạng ngoại
giao của mình vào ngày ông đã định.
Ở Trung Hoa, việc ra lịch, giống như việc in tiền ở châu Âu,
có nghĩa là công bố quyền bính của một triều đại mới. Làm giả lịch
hay dùng một lịch không chính thức là phạm tôi khi quân. Thiên
văn học và toán học chỉ dành cho những người có thẩm quyền, vì
những người khác có thể sử dụng chúng để xem vị trí thuận lợi của
những ngôi sao cho việc lật đổ chế độ. Vua là người đẹp lòng trời
nếu ông chăm lo tốt đẹp cho đời sống của thần dân.
Khi vua Tống hỏi sứ giả của mình là lịch Trung Hoa đúng
hay lịch rợ đúng, "Tô Tống đã nói với vua sự thật và kết quả là
những quan trông coi sở thiên văn đã bị trừng phạt". Thế là Tô
Tống được lệnh của vua thiết kế một đồng hồ thiên văn đẹp và hữu
dụng hơn tất cả đồng hồ đã có trước đó.
Mục đích của Tô Tống không phải chế tạo một đồng hồ cho
dân chúng sử dụng, nhưng là một chiếc máy làm lịch, một "đồng
hồ thiên văn" riêng cho Thiên Tử.
"Theo ý kiến của hạ thần, trong những triều đại trước đã có
nhiều phương pháp và kiểu thiết kế những dụng cụ thiên văn
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 51
http://ebooks.vdcmedia.com
khác nhau, mỗi thứ đều khác nhau một chút. Nhưng nguyên lý sử
dụng sức nước để chạy máy vẫn luôn luôn là một. Các thiên thể di
chuyển không ngừng, nhưng nước cũng chảy (và đổ) không ngừng.
Vâỵ nếu ta làm sao cho nước đổ đều một cách hoàn hảo, thì việc so
sánh các chuyển động vòng tròn (của các thiên thể và của chiếc
máy) sẽ cho thấy không có sai lệch hay mâu thuẫn; vì vạn vật biến
dịch không ngừng".
Ông đã soạn một "Thiết Kế Mới Cho Một Khung Hỗn Thiên
Nghi Và Thiên Cầu Chạy Bằng Máy" rất tỉ mỉ để có thể chuẩn bị
từ đó những bản vẽ chi tiết và làm những mô hình vận hành của
máy.
Tháp đồng hồ thiên văn cao 10 mét là một cấu trúc năm tầng
trông giống như một ngôi chùa. Ở tầng trên cùng, nơi người ta đi
lên bằng một cầu thang riêng bên ngoài, có một khung hỗ thiên
nghi bằng đồng chạy bằng máy trong đó có một quả cầu thiên văn
quay tự động.
Bên ngoài mỗi tầng có những người giả cầm chuông và
chiêng để đánh vào những giờ nhất định. Bên trong tháp chính cao
tới tầng ba tính từ mặt đất, có một đồng hồ lớn, chạy bằng sức
nước chảy ở dưới đất và luân phiên đổ đầy rồi dốc cạn những chén
nhỏ trên một bánh xe quay đặt theo chiều thẳng đứng.
Cứ 1/4 giờ, toàn thể cấu trúc lại vang lên tiếng chuông, tiếng
còng, tiếng nước đổ, tiếng cọt kẹt của những bánh xe khổng lồ,
tiếng chân đi của những người giả. Tuy nhiên, bộ phận chủ yếu
chính là cái hồi dùng để ngưng và bắt đầu chạy máy khi nó phân
biệt các đơn vị thời gian. Cái hồi tài tình của Tô Tống chạy bằng
sức nước, sử dụng đặc tính lỏng của nước - giống như sau này
Hooke và Huygens sử dụng tính đàn hồi của kim loại - để tạo
chuyển động ngắt quãng cần thiết cho một máy đo giờ.
Số ít người có diễm phúc được xem Đồng Hồ Thiên Văn của
Tô Tống đều kinh ngạc khi chứng kiến cảnh ngoạn mục này, như
chính Tô Tống đã mô tả.
"Có chín mươi sáu tên hầu. Chúng được sắp xếp tương ứng
với các tiếng chuông và trống điểm các "khắc"...
Lúc mặt trời lặn, một tên hầu mặc trang phục đỏ xuất hiện
để thông báo, rồi sau hai "khắc" rưỡi lại có một tên hầu khác xuất
hiện trong trang phục màu xanh để báo giờ đêm. Các canh đêm
Daniel J. Boorstin 52
http://ebooks.vdcmedia.com
mỗi canh chia thành 5 phần nhỏ. Một tên hầu mặc trang phục đỏ
xuất hiện đầu canh, chỉ phần đầu tiên của canh, 4 phần còn lại
của canh đều là các tên hầu màu xanh. Cứ như thế, có tất cả 25
tên hầu cho năm canh đêm. Khi đến giờ đợi bình minh, gồm 10
"khắc", có một tên hầu màu xanh xuất hiện để thông báo. Rồi bình
minh gồm 2 "khắc" rưỡi được thông báo bằng một tên hầu màu
xanh khác và mặt trời mọc được thông báo bởi một tên hầu màu
đỏ. Tất cả những tên hầu này đều xuất hiện ở cổng chính giữa".
Năm 1090, chiếc máy này đã sẵn sàng để biểu diễn và hướng
dẫn cho vua cùng một số ít cận thần trong cung.
Khi một ông vua mới lên ngôi năm 1094, đám nịnh thần theo
thói lệ cũ đã tuyên bố lịch của tiên đế là sai. Không còn được sự
bảo vệ của triều đình, chiếc đồng hồ thiên văn của Tô Tống bị
người ta cướp phá để lấy đồng và đã biến mất khỏi ký ức của
những nhà trí thức. Khi cha Ricci đến Bắc Kinh, các học giả Trung
Hoa tại triều đình quá bỡ ngỡ trước phát minh "châu Âu" kỳ diệu,
họ coi đây là một cái gì mới có dưới bầu trời.
Ricci và các nhà truyền giáo Dòng Tên sau ông đã sử dụng
kiến thức thiên văn và khoa làm lịch của mình để củng cố ảnh
hưởng đối với triều đình Trung Hoa. Khi mới đến Trung Hoa, Ricci
nhận thấy lịch âm của Trung Hoa bị sai lầm, như đã từng sai lầm
suốt nhiều thế kỷ. Các nhà thiên văn của triều đình liên tục sai
lầm mỗi khi dự báo các cuộc nhật thực và vì thế tạo sự nghi ngờ về
khả năng hoàng đế tuân theo ý trời.
Cơ hội lớn đã đến với các cha Dòng Tên khi người ta dự đoán
sẽ có nhật thực vào sáng ngày 21 tháng 6 năm 1629. Các nhà
thiên văn của triều đình dự báo biến cố sẽ xảy ra lúc 10 giờ 30 và
sẽ kéo dài hai giờ. Các cha Dòng Tên lại dự báo nhật thực sẽ xảy
ra lúc 11 giờ 30 và chỉ kéo dài hai phút. Vào ngày quyết định đó,
đã tới 10 giờ 30 mà mặt trời vẫn chói chang. Các nhà thiên văn
triều đình đã sai. Nhưng các cha Dòng Tên có đúng không? Thế
rồi, đúng 11 giờ 30, nhật thực bắt đầu và chỉ kéo dài hai phút,
đúng như các cha Dòng Tên đã dự đoán. Thế là từ nay vị thế của
các cha Dòng Tên đối với Vua được vững vàng và cánh cửa Trung
Hoa mà Ricci mới chỉ hé mở nay đã mở toang để đón nhận khoa
học phương Tây. Bộ Lễ của triều đình khẩn cầu vua cho duyệt lịch
và ngày 1 tháng 9 vua truyền cho các cha Dòng Tên bắt đầu công
việc. Tiện thể, họ cùng với các người Trung Hoa dịch sang tiếng
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 53
http://ebooks.vdcmedia.com
tây phương những sách về toán học, quang học, thủy lực học và âm
nhạc và họ bắt đầu chế tạo những kính viễn vọng cho Trung Hoa.
Cùng thời kỳ này, trong khi ở Rôma, Galileo bị giáo hoàng
xét xử vì lạc giáo, thì ở Bắc Kinh các cha Dòng Tên đang dùng
những học thuyết của Galileo để giảng đạo.
Tài năng và sự khôn ngoan của những thế hệ các nhà thiên
văn - truyền giáo Dòng Tên kế tiếp đã làm cho họ được các vua
Trung Hoa sủng ái. Các nhà truyền giáo Dòng Tên đã đạt được
một quyền lực mà không người ngoại quốc nào đạt được trước đó,
mãi cho tới thế kỷ 19. Chính sự hiểu biết về lịch đã mở đường cho
các cha Dòng Tên đến được với triều đình. Tuy nhiên, không phải
lịch mà đồng hồ mới là cái mở ra nền thương mại mới giữa Đông
và Tây. Bên Tây, đồng hồ đã sớm trở thành một vật dụng hằng
ngày, trong khi ở Trung Quốc, nó vẫn luôn luôn là một món đồ
chơi trong suốt nhiều thế kỷ.
Ở thế kỷ 18, các đồng hồ quả lắc, đồng hồ tay, đồng hồ đồ
chơi đã trở thành một thứ ngoại tệ quý để người châu Âu trao đổi
với triều đình Trung Hoa. Vị vua trẻ Khang Hy, người bảo trợ cho
cha Ferdinand Verbiest, đã rất thích thú nhận được từ cha Dòng
Tên Gabriel Magalhaen một đồng hồ hình anh lính, một tay múa
kiếm, còn tay kia cầm khiên và một đồng hồ khác cứ mỗi khi bắt
đầu một giờ lại chơi một điệu nhạc khác. Khoảng những năm
1760, cha Dòng Tên phục trách các sưu tập của hoàng đế đã báo
cáo rằng hoàng cung "chật ních đồng hồ... nào là đồng hồ treo
tường, đồng hồ tay, chuông chùm, đồng hồ báo giờ, đàn organ,
đồng hồ quả cầu và đồng hồ thiên văn đủ loại - có đến trên 4 ngàn
món đồ từ những tay thợ giỏi nhất ở Paris và Luân Đôn".
Các vua Trung Hoa đã lập những nhà máy và xưởng chế tạo
riêng của mình để làm những đồ chơi dễ thương này. Vào giữa thế
kỷ 19, nhà máy chế tạo đồng hồ của nhà vua sử dụng đến một
trăm nhân công, nhưng sản phẩm của họ không sánh được với sản
phẩm của châu Âu. Vì người Trung Hoa không làm được những
dây cót chất lượng cao nên họ vẫn còn lạc hậu so với thế hệ những
đồng hồ chạy bằng quả lắc. Sau cùng, cuốn sách dạy nghề làm
đồng hồ đầu tiên đã xuất hiện bằng tiếng Trung Hoa vào năm
1809, lúc ấy số đồng hồ cũ ở Trung Hoa đã tạo đủ việc làm cho
hàng trăm thợ sửa đồng hồ.
Daniel J. Boorstin 54
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 8
MẸ CỦA CÁC MÁY MÓC
Chính vì đồng hồ lúc ban đầu được chế tạo không phải như
một dụng cụ thực tiễn để phục vụ một mục đích duy nhất, nên nó
sẽ trở thành mẹ của các máy móc. Sự tiến bộ đã có nhờ sự cộng tác
giữa những nhà khoa học - Galileo, Huygens, Hooke và những
người khác - với những thợ thủ công và thợ máy.
Vì đồng hồ là những máy đo đầu tiên của thời đại mới, nên
những người chế tạo đồng hồ trở thành những người tiên phong
trong ngành chế tạo dụng cụ khoa học. Di sản vững bền của những
người chế tạo đồng hồ đầu tiên là kỹ thuật cơ bản của các máy
dụng cụ. Hai ví dụ vượt trội là nhông (hay bánh răng) và con vít.
Việc phát minh ra quả lắc bởi Galileo và sau đó bởi Huygens đã
giúp cho đồng hồ có thể chạy chính xác gấp mười lần trước kia,
nhưng điều này chỉ có thể có được nhờ việc chia và cắt thật chính
xác các bánh răng. Các nhà chế tạo đồng hồ đã phát triển những
kỹ thuật mới, đơn giản và chính xác hơn để phân chia chu vi của
một tấm kim loại hình tròn thành nhiều phần đều nhau và cắt
bánh răng với những góc thích hợp. Đồng hồ cũng cần những con
vít chính xác và vì thế cần cải tiến kỹ thuật tiện kim loại.
Hiển nhiên nhông là bộ phận liên kết chủ yếu trong một bộ
máy đồng hồ. Các răng nhông trong đồng hồ sẽ không thể cách đều
nhau hay cắt gọn nếu chúng được đẽo gọt bằng tay. Chiếc máy cắt
nhông đầu tiên mà chúng ta biết được là công trình của một thợ
thủ công người ý, Juanelo Torriano ở Cremona (1501-1575), sang
Tây Ban Nha năm 1540 để chế một đồng hồ hành tinh độc đáo cho
vua Charles V. Ông bỏ ra 20 năm thiết kế một đồng hồ có một
ngàn tám trăm bánh răng rồi bỏ ra ba năm rưỡi để thực hiện thiết
kế đó. "Chính vì thế, mỗi ngày (không kể ngày nghỉ)", bạn ông
thuật lại, "ông phải làm... trên ba bánh răng khác nhau về kích
thước, số và hình dạng răng và theo cách chúng được đặt và gài
vào nhau. Tốc độ này đã là kỳ diệu rồi, nhưng vẫn chưa kỳ diệu
bằng chiếc máy tiện tinh vi mà ông sáng chế ra... để tiện bằng một
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 55
http://ebooks.vdcmedia.com
thanh sắt những bánh răng theo đúng kích thước đòi hỏi và đúng
độ đều của các răng... mà không bánh răng nào phải làm lại lần
thứ hai vì tất cả đều chính xác ngay từ lần đầu rồi".
Giống như bánh răng, con vít cũng là phần cốt yếu đối với
ngành chế tạo máy. Mẫu sơ khởi của nó đã có từ thời Archiamedes
hay trước đó. Có thể một nhà khoa học Hi Lạp cổ đại. Hero, đã chế
ra một dụng cụ cắt vít. Nhưng chế tạo được một con vít đơn giản
vẫn là một công việc khó khăn từ lâu đời. Mãi đến giữa thế kỷ 19,
khi mà cuối cùng người ta đã làm ra được những đinh vít có đầu
nhọn, người ta mới không còn phải đục một lỗ trước để bắt con vít
vào.
Các nhà máy tiện kim loại đầu tiên đã được sáng chế bởi các
thợ đồng hồ và cho các thợ đồng hồ sử dụng. Các máy tiện sau này
chỉ là cải tiến đôi chút thiết kế ban đầu của các thợ làm đồng hồ,
nhưng là cơ bản cho kỹ nghệ máy dụng cụ. Các thợ làm đồng hồ
tiên phong của thế kỷ 17 và 18 đúng là những người chế tạo máy
tiện tiên phong.
Vào thế kỷ 17, những nhà chế tạo đồng hồ đã tiến xa một
cách ngoạn mục trước những công nghệ khác của thời đại và đã áp
dụng nguyên tắc phân công. Năm 1763, Ferdinand Berthoud đã có
thể liệt kê ra 16 loại thợ khác nhau trong ngành làm đồng hồ lớn
và 20 loại thợ đồng hồ đeo tay. Đó là những thợ lo các khâu về vận
hành, khoan lỗ, làm dây cót, làm kim, làm quả lắc, khắc mặt đồng
hồ, đánh bóng các phần bằng đồng, tráng men, mạ bạc, mạ vàng
mặt đồng hồ, làm khung, sơn giả vàng, lắp bánh răng, vặn và
đánh bóng chuông đồng hồ...
Daniel J. Boorstin 56
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 9
TẠI SAO LẠI XẢY RA BÊN TÂY
Chuông đồng hồ vang lên cho
mọi người và từng người, như thi sĩ
John Donne ghi nhận vào năm
1623. Theo ông, tiếng chuông đồng
hồ công cộng là lời nhắc nhở rằng:
"tôi là thành phần của nhân loại".
Ở châu Âu, đồng hồ đã sớm trở thành một chiếc máy công
cộng. Các nhà thờ muốn các tín hữu đến tụ tập đều đặn và thường
xuyên để cầu nguyện và các thành phố phát triển muốn quy tụ
dân chúng lại với nhau để chia sẻ đời sống thương mại và giải trí.
Khi những chiếc đồng hồ có chỗ của chúng nơi những tháp chuông
nhà thờ và thành phố, chúng đã đi vào sinh hoạt của cộng đồng.
Từ trên những tháp chuông này, chúng thu hút sự chú ý của người
giàu lẫn nghèo, đánh thức sự quan tâm của cả những ai không có
nhu cầu riêng để biết giờ giấc. Các máy lúc ban đầu được dùng làm
những dụng cụ công cộng dần dà trở thành những dụng cụ cá
nhân phổ cập nhất. Nhưng những dụng cụ bắt đầu được chế tạo để
phục vụ đời sống cá nhân có thể không bao giờ trở thành những
dụng cụ phổ cập trong nhu cầu đời sống của cả một cộng đồng.
Đồng hồ đã trở thành sự quảng cáo cho chính nó, bằng cách phục
vụ cho những cộng đồng mới trên khắp châu Âu.
Một thành phố đáng tự hào ở châu Âu không thể thiếu chiếc
đồng hồ công cộng của mình, để đánh chuông báo hiệu cho người
dân quy tụ lại với nhau để tự vệ, để chia vui sẻ buồn. Chuông đồng
hồ vang lên cho mọi người và từng người, như thi sĩ John Donne
ghi nhận năm 1623 và tiếng chuông đồng hồ của công cộng là lời
nhắc nhở rằng "tôi là thành phần của nhân loại".
Như ta đã thấy, những đồng hồ của châu Âu lúc ban đầu có
mục đích báo hiệu giờ cầu nguyện cho các thầy dòng, nhưng từ khi
nó được đưa lên những tháp nhà thờ và thành phố, nó đã chuyển
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 57
http://ebooks.vdcmedia.com
sang thế giới của đời sống công cộng. Cộng đồng to lớn hơn này
sớm cảm thấy cần có chiếc đồng hồ để ấn định thời biểu cho đời
sống thường nhật. Ở châu Âu, giờ nhân tạo - giờ đồng hồ, đã đưa
việc tính toán thời gian ra khỏi lịch vũ trụ, ra khỏi cái tranh sáng
tranh tối của khoa chiêm tinh, để đi vào cái ánh sáng chói chang
của mỗi ngày. Khi năng lượng của hơi nước, của điện và ánh sáng
nhân tạo giúp cho các nhà máy liên tục hoạt động ngày và đêm,
giờ nhân tạo của đồng hồ trở thành chế độ sinh hoạt thường nhật
cho mọi người.
Cái khác với Trung Hoa là ở kịch tính và sự soi sáng. Ở
Trung Hoa, những hoàn cảnh khác nhau đã góp phần ngăn cản
đồng hồ trở thành phổ cập. Những đồng hồ máy độc đáo đầu tiên ở
Trung Quốc, như chúng ta đã thấy, được chế tạo không phải để chỉ
giờ nhưng để chỉ lịch. Và khoa làm lịch được nhà nước giữ bí mật.
Mỗi triều đại Trung Hoa được biểu tượng, phục vụ và bảo vệ bởi
lịch mới của mình. Kể từ cuộc thống nhất vương quốc vào thế kỷ 3
trước CN (khoảng năm 221) tới cuối đời Thanh, hay Mãn Châu,
triều đại của năm 1911, đã có khoảng một trăm lịch khác nhau ra
đời, mỗi lịch có một tên gọi theo triều đại hay hoàng đế đương thời.
Những lịch này không dựa theo đòi hổi của những tiến bộ về thiên
văn hay kỹ thuật quan sát, nhưng do nhu cầu đóng dấu ấn của
trời trên quyền bính của một vị vua mới. Việc làm lịch tư nhân
được coi là một tội giả mạo và bị trừng trị vì nó đe dọa sự an toàn
của vua và là một tội khi quân.
Để hiểu được tại sao mẹ của các máy móc lại kém phát triển
ở Trung Hoa, ta phải nhớ lại một số nét đặc trưng lớn trong đời
sống Trung Hoa thời cổ. Một trong những thành tựu đầu tiên, nổi
bật nhất của người Trung Hoa là một chính quyền tập trung được
tổ chức chặt chẽ. Ngay từ năm 221 trước C.N, vua Tần lên ngôi lúc
13 tuổi đã hoạt động suốt 25 năm để thống nhất các tỉnh của
Trung Quốc thành một vương quốc lớn duy nhất, với một hệ thống
quan lại khổng lồ. Ông đã thống nhất luật pháp và chữ viết, thiết
lập các hệ thống đo lường thống nhất và thậm chí ấn định cả chiều
dài của các trục bánh xe để chúng có thể khớp với các máng bánh
xe.
Vì lịch là do các vua Trung Hoa ấn định, nên tôn giáo củ
vương quốc gắn liền với chu kỳ đắp đổi của các mùa và thiên văn
học trở thành "khoa học huyền bí của các vì vua sùng đạo". Việc
trồng trọt ở Trung Hoa dựa vào thủy lợi và việc này đòi phải dự
Daniel J. Boorstin 58
http://ebooks.vdcmedia.com
đoán được nhịp điệu của những đợt mưa mùa và những đợt tuyết
tan đổ vào các con sông và kênh.
Từ những thời kỳ đầu của lịch sử Trung Hoa, đài quan sát
thiên văn luôn là một phần cốt yếu của đền vũ trụ, tức là cung
nghi lễ của vua. Khác với Hy Lạp và châu Âu thời Trung cổ, ở
Trung Quốc, khi chính quyền trung ương càng vững mạnh thì
khoa thiên văn càng trở thành vật sở hữu chính thức của nhà
nước.
Tất nhiên điều này có nghĩa là thiên văn học Trung Quốc
ngày càng mang tính chất thư lại và xa lạ. Ở đây, công nghệ đồng
hồ là công nghệ các máy thiên văn. Giống như ở phương Tây các
máy in tiền hay chế tạo thuốc súng bị nhà nước kiểm soát chặt
chẽ, thì ở Trung Hoa, các dụng cụ đo thời gian để làm lịch cũng bị
kiểm soát như vậy.
Đồng hồ thiên văn nổi tiếng của Tô Tống đã không thể được
chế tạo nếu Tô Tống không phải là một quan chức cao cấp trong
hoàng cung được giao trọng trách giúp vua tìm hiệu vận mệnh nhờ
quan sát thiên văn. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao chỉ trong vòng
ít năm, sáng chế độc đáo của Tô Tống đã chỉ còn là một truyền
thuyết bị lãng quên. Giả như Tô Tống đã chế tạo chiếc đồng hồ
không phải cho vườn ngự uyển của một vua Trung Hoa, mà cho
một tòa thị sảnh bên châu Âu, hẳn ông đã được ca tụng là một đại
ân nhân của loài người. Công trình của ông hẳn phải trở thành
một đài kỷ niệm đáng tự hào của nhân loại, là đối tượng ganh đua
của cả thế giới.
Ngược lại, sự phổ cập của chiếc đồng hồ bên phương Tây là
do những nhu cầu của cộng đồng - nghĩa là vừa có ích cho mọi
người vừa tiện dụng. Mốc phát triển quyết định chính là sự tiến bộ
từ đồng hồ chạy bằng quả lắc sang đồng hồ chạy bằng dây cót.
Những quả lắc khiến cho đồng hồ phải cố định ở nơi nó được lắp
đặt lần đầu tiên. Nhưng một đồng hồ dây cót có thể mang đi bất cứ
nơi đâu. Với người phương Tây, đồng hồ đi biển của thế kỷ 18 là
một máy thăm dò - một dụng cụ hỗ trợ các nhà vẽ bản đồ, du
khách, người đi buôn, người nghiên cứu thực vật và người đi biển,
một dụng cụ khuyến khích các thủy thủ đi xa hơn, giúp họ biết họ
đang ở đâu, mà bảo đảm họ có thể trở lại chỗ đó một lần nữa. Sau
cùng là đồng hồ bỏ túi, rồi đồng hồ đeo tay cho phép hàng triệu
người có thể mang theo mình một dụng cụ đo giờ.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 59
http://ebooks.vdcmedia.com
Nói rằng đồng hồ không được phát triển bên Trung Hoa
không có nghĩa là do nguồn gốc "Đông Phương" hay "Á Châu" của
nó. Chúng ta có thể lấy Nhật làm một ví dụ tương phản. Trong khi
người Trung Hoa cố chấp trong việc tự cô lập mình, luôn luôn nghi
kỵ những gì bên ngoài, thì người Nhật biết kết hợp quyết tâm bảo
tồn những nghệ thuật và định chế truyền thống của mình với khả
năng sâu sắc trong việc bắt chước và du nhập những gì đến từ
nước ngoài. Trước khi kết thúc thế kỷ 17, người Nhật đã sản xuất
những mẫu đồng hồ của châu Âu rồi. Trong thế kỷ tiếp theo, người
Nhật bắt đầu phát triển một công nghiệp đồng hồ, sản xuất ra
những chiếc đồng hồ do họ tự thiết kế với mặt số chỉ "giờ" có thể
điều chỉnh được và các kim cố định. Họ hoàn thiện loại đồng hồ hai
thanh hồi với một con lắc chỉ giờ ban ngày và con lắc thứ hai chỉ
giờ ban đêm, vì những "giờ" của ngày và đêm không bằng nhau.
Cho tới 1873, người Nhật vẫn theo ngày của ánh sáng "tự
nhiên" được chia thành sáu giờ bằng nhau từ lúc mặt trời mọc tới
mặt trời lặn. "Giờ" của họ vẫn còn thay đổi tùy mỗi ngày, nhưng họ
đã chế tạo thành công một đồng hồ chỉ chính xác những giờ không
bằng nhau đó cho cả năm. Vì những tường bằng giấy của các nhà
người Nhật quá mỏng manh không giữ được những đồng hồ treo
khá nặng của châu Âu, nên họ đã chế ra một "đồng hồ trụ" treo từ
sườn nhà xuống và chỉ thị có thể trượt trên những thước vạch
thẳng đứng sẽ di chuyển để chỉ đúng những khoảng giờ thay đổi từ
ngày này sang ngày khác. Việc người Nhật còn giữ một hệ thống
mà từ lâu người châu Au đã bỏ lại chính là dấu chỉ động cơ sáng
kiến của họ.
Việc khó chế tạo những dây cót chính đã làm trì trệ ngành
sản xuất đồng hồ ở Nhật mãi cho tới những năm 1830. Nhưng
chẳng bao lâu người Nhật đã có thể làm được những đồng hồ inro
xinh đẹp có thể đặt gọn trong cái inro - cái tráp truyền thống mà
người Nhật cột vào một cái dây để đeo vào cổ hay cột vào dải lưng,
khi họ mặc trang phục truyền thống không có túi. Vì người Nhật
quen ngồi trên sàn, họ không làm những đồng hồ có hộp dài hay
đồng hồ để đứng.
Mật độ dân cư cao của Nhật, cùng với những trung tâm đô
thị sầm uất và những nhà buôn mạnh dạn, đã kích thích việc phổ
cập hóa các ngành thủ công và nghệ thuật và thúc đẩy đời sống
luôn luôn chuyển động. Nhiều cảng và mạng lưới đường sá tốt giúp
việc giao thông trở thành rất tiện nghi. Ngành chế tạo đồng hồ
Daniel J. Boorstin 60
http://ebooks.vdcmedia.com
phát triển ở Nhật sớm hơn ở Trung Hoa. Các lãnh chúa, các đại
gia và các tướng quân đã từng đạt làm những đồng hồ cho các lâu
đài của họ. Nhưng phải đợi đến thế kỷ 19, đồng hồ mới trở thành
một sở thích của quần chúng và hàng triệu người dân mới có cơ hội
để mua.
Phương Tây tỏ ra có lợi thế và trong phần lớn lịch sử, phương
Tây là người khám phá, còn phương Đông là phần được khám phá.
Những người phương Tây đầu tiên đến được với nửa kia của hành
tinh là những người bộ hành đơn thương độc mã và chịu khó.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 61
http://ebooks.vdcmedia.com
Phần IV
Địa lý của trí tưởng tượng
Đất và biển
Không biển nào không đi được, không đất nào
không ở được -Robert Thorne (1527).
Muốn khám phá hành tinh, loài người phải giũ bỏ những
niềm hy vọng và những nỗi sợ hãi xa xưa và mở toang cửa cho
kinh nghiệm. Những chiều kích bao la của không gian, các lục địa
và đại dương, chỉ được phơi bày từ từ. Phương Tây tỏ ra có lợi thế
và trong phần lớn lịch sử, phương Tây là người khám phá, còn
phương Đông là phần được khám phá. Những người phương Tây
đầu tiên đến được với nửa kia của hành tinh là những người bộ
hành đơn thương độc mã và chịu khó. Nhưng việc khám phá đầy
đủ tầm mức bao la của hành tinh chỉ có thể có được nhờ những
cuộc mạo hiểm trên biển của những cộng đồng có tổ chức, mở ra
những bất ngờ to lớn.
Cầu Chúa cho chân trời của bạn rộng mở mỗi ngày! Những ai
cột chặt mình vào hệ thống là những người không thể hiểu thấu
được sự thật toàn diện và chỉ cố nắm lấy cái đuôi của sự thật, một
hệ thống thì giống như cái đuôi của sự thật. Còn sự thật thì giống
như một con tắc kè; nó bỏ đuôi nó lại trong ngón tay bạn và chạy
biến đi mất, hoàn toàn yên tâm rằng nó sẽ mọc một cái đuôi một
chỉ trong nháy mắt - Ivan Turgenev viết cho Lev Tolstoy (1856).
Daniel J. Boorstin 62
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 10
KINH SỢ TRƯỚC NÚI NON
Ngàn ngàn năm trước khi con người nghĩ đến chuyện chinh
phục núi non, núi non đã chinh phục con người. Được coi như lâu
đài của những Sức Mạnh Cao Cả, núi non từ lâu vẫn là "một thách
thức cho cuộc chinh phục thiên nhiên của con người", theo lời của
Edward Whymper, người đầu tiên chinh phục ngọn Matterhorn.
Mỗi ngọn núi cao đều được thần thánh hóa bởi những con người
sống dưới bóng của nó. Cảm hứng từ dãy Hi Mã Lạp Sơn mà họ
kinh ngạc chiêm ngắm, những người dân bắc Ấn Độ tưởng tượng
ra còn có một ngọn núi cao hơn nữa ở phía cực bắc, mà họ gọi là
Núi Meru. Người Ấn giáo và sau này người Phật giáo coi ngọn núi
huyền thoại 84.000 dặm là núi-siêu-việt-trên-các-núi, là nơi ở của
các thần linh. Núi Meru, núi trung tâm của vũ trụ là trục đứng
của vũ trụ hình quả trứng, được vây quanh bởi bảy ngọn núi xếp
theo những vòng tròn đồng tâm và quay quanh quỹ đạo của nó là
mặt trời, mặt trăng và các hành tinh. Giữa ngọn núi thứ bảy và
vòng núi thứ tám bên ngoài là những đại lục của trái đất.
Theo kinh thánh Ấn giáo, trên núi Meru "có những dòng
sông nước ngọt chảy và những ngôi nhà bằng vàng làm nơi cư ngụ
của các thần linh gọi là Deva, các đào hạt Gandharva và các gái
điếm Apsaras của Deva". Truyền thống Phật giáo sau này tin rằng
"Meru nằm giữa bốn thế giới ở bốn phương chính; chân núi hình
vuông và đỉnh núi hình tròn; núi cao 84,000 dặm, một nửa đi lên
trời, còn nửa kia cắm xuống đất. Phía núi gần chúng ta toàn là
bích ngọc, vì thế chúng ta thấy bầu trời màu xanh; phía núi bên
kia toàn là hoàng ngọc, hồng ngọc và bạch ngọc. Như thế, Meru là
trung tâm của trái đất". Núi Hi Mã Lạp Sơn thần thánh - một dãy
núi dài 1,600 dặm và rộng 150 dặm - là tất cả những gì chúng ta
có thể thấy được về các Núi Non. Các ngọn cao trên 8 ngàn mét,
gồm Everest, Kanchenjunga, Godwin Austen, Dhaulagiri, Nanga
Parbat và Gosainthan, không người leo núi nào có thể leo tới được,
kể cả khi kỷ nguyên leo núi đã đến. Những ngọn núi này gợi cho
con người lòng biết ơn, vì ở trên cao ẩn giấy những nguồn mạch
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 63
http://ebooks.vdcmedia.com
huyền bí của con sông Indus ban sinh lực, sông Hằng linh thiêng
và sông Brahmaputra.
Cũng thế, người Nhật có núi Phú Sĩ, vị nữ thần cai quản
phong cảnh của họ và luôn luôn được họ tôn kính qua các tác
phẩm nghệ thuật. Nghệ nhân bậc thầy Hokusai đã tạo hình tác
phẩm Ba mươi sáu hình ảnh núi Phú Sĩ (1823- 29), trình bày
nhiều bộ mặt khác nhau của ngọn núi linh thiêng.
Bên phương Tây, người Hi Lạp có núi Olumpus, cao dựng
đứng trên bờ biển Aegean ở độ cao hơn 3 nghìn mét. Thường xuyên
bị mây mù bao phủ, đỉnh núi mịt mù Olympus là nơi ở của thần
linh.
Loài người chỉ có thể nhìn thấy hí trường của những tầng đá
làm chỗ hội họp cho các vị thần, ẩn sau những đám mây mù. "Gió
không bao giờ thổi qua, tuyết không bao giờ chạm tới", Homer viết,
"chung quanh nó là một làn khí tinh tuyền, một bầu ánh sáng
trắng ngần bao bọc nó và các thần linh nếm cảm hạnh phúc miên
trường như đời sống vĩnh cửu của các ngài". Người Hi Lạp tin rằng
núi Olympus là ngọn núi cao nhất trên trái đất.
Trên đỉnh núi Xinai, Thiên Chúa của người Do Thái đã ban
cho ông Môsê những tấm bia ghi khắc Luật Pháp.
"Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày
đặc trên núi và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại
đều run sợ. Ông Môsê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên
Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức
Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và
cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất
mạnh. Ông Môsê nói và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Đức
Chúa ngự xuống trên núi Xinai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Môsê
lên đỉnh núi và ông đi lên. Đức Chúa phán với ông Môsê: "Hãy
xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem Đức Chúa, kẻo
nhiều người lăn ra chết. Ngay các tư tế đến gần Đức Chúa cũng
phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị Đức Chúa đánh phạt".
Ông Môsê thưa với Đức Chúa: "Dân không thể lên núi Xinai được,
vì chính Ngài đã cảnh cáo chúng con rằng: "Hãy vạch rõ ranh giới
của núi và tuyên bố đó là núi thánh". Đức chúa phán với ông: "Hãy
đi xuống, rồi lại trở lên, đem theo Aharon với ngươi. Còn tư tế và
dân thì đừng có kéo nhau lên Đức Chúa, kẻo bị Đức Chúa đánh
Daniel J. Boorstin 64
http://ebooks.vdcmedia.com
phạt". Ông Môsê xuống với dân và nói với họ..." (Sách Xuất hành
19,16-20)
Nơi nào không có núi tự nhiên, người ta xây dựng những
ngọn núi nhân tạo. Những bằng chứng cổ xưa nhất còn tồn tại là
những kim tự tháp có tầng - những tháp gọi là ziggurat của Lưỡng
Hà Địa, đi ngược lên tới thế kỷ 22 trước C.N. "Ziggurat" vừa có
nghĩa là đỉnh núi vừa có nghĩa là tháp nhân tạo có tầng. Tháp
ziggurat khổng lồ ở Babylon, nổi tiếng với tên gọi là Tháp Babel,
gồm có 7 tầng, rộng 90 mét vuông và cao 90 mét. Nhìn xa đó là
một loại kim tự tháp có bậc, nhưng theo như Herodotus mô tả nó
khoảng năm 460 trước CN., nó là một khối những tháp đạt chồng
lên nhau, cái bên trên nhỏ hơn cái bên dưới một chút "ở trên tầng
tháp trên cùng có một ngôi đền lớn, trong đền có một cái giường
lớn được trang hoàng rực rỡ, cạnh giường là một cái bàn. Không có
tượng thần nào ở đó. Không ai ngủ đêm trên đó, trừ một người phụ
nữ trong xứ được vị thần chỉ định đích danh, theo như tôi được
biết từ miệng người Canđê, là những sãi của thần đó".
Khi những tháp ziggurat thời cổ bị phá hủy vào thế kỷ 4, một
người Ai Cập kể lại một truyền thuyết cho rằng tháp ziggurat
"được xây bởi những người khổng lồ muốn leo lên tới trời. Vì sự
điên rồ vô đạo này, một số bị sét đánh; một số bị thần trừng phạt
không còn nhận ra nhau; số còn lại bị rơi cắm đầu xuống đảo
Crêta, là nơi mà cơn giận của thần linh đã ném họ xuống". Theo
những bản văn kinh thành Babylon, tháp ziggurat là một "Sợi Dây
Nối Trời với Đất".
Tháp Babel đã trở thành biểu tượng sự cố gắng của con người
để chạm tới trời, vi phạm vào lãnh địa của thần linh.
Các vị Lạt-ma Tây Tạng hằng ngày dâng cho Đức Phật mô
hình trái đất của họ: đống gạo nhỏ của họ là biểu tượng của Núi
Meru. Đức Phật truyền cho họ rằng hài cốt của ngài sau khi hỏa
thiêu phải để thành một đống ở giao điểm của bốn con đường, biểu
tượng quyền năng hoàn vũ của các lời ngài dạy.
Trong thời gian dài ấn Giáo ngự trị, người ta đã xây vô số các
tháp-điện "stupa" - những mô hình của núi Meru-làm biểu tượng
cho trục đứng của vũ trụ hình quả trứng. Khi vua Asoka, trị vì từ
273 tới 232 trước C.N., biến Phật Giáo thành quốc giáo trong đế
quốc rộng lớn của ông, ông chỉ đơn giản đổi những tháp của ấn
Giáo thành của Phật Giáo. Hiện còn hai tháp của Asoka-Tháp
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 65
http://ebooks.vdcmedia.com
Stupa Lớn ở Sanchi miền trung ấn Độ và Tháp Stupa Bodhnath ở
Katmandu, Tây Tạng.
Tháp điện Phật Giáo lớn nhất, ấn tượng nhất và cầu kỳ nhất
là tháp stupa của Borobudur (khoảng thế kỷ 8 sau C.N.), ở Java.
Bên trên năm tầng hình chữ nhật có tường bao quanh là ba sân
thượng hình tròn mang 72 tháp nhỏ có treo chuông, mỗi tháp có
một tượng Phật. Phía tren cùng là một tháp lớn bằng đá kiên cố.
Sau khi Phật Giáo suy tàn ở Ấn Độ và Ấn Giáo hưng thịnh
trở lại, nhiều đền đài được sơn trắng để làm nó giống với ngọn núi
thánh Hi Mã Lạp Sơn quanh năm tuyết phủ. Các đền thờ ấn Giáo
cũng giống như các tháp ziggurat vùng Lưỡng Hà Địa và các kim
tự tháp Ai Cập, không phải là những nơi để các tín đồ đi vào cầu
nguyện, khác với các thánh đường của Thiên Chúa Giáo. Cũng
giống như núi tự nhiên, núi nhân tạo hay đền thờ là chính vật thờ
phượng, là đất thánh thiêng nhất. Có lẽ đền đài nguy nga nhất
trên thế giới là đền Angkor Vat, phức tạp hơn tháp-đền được xây
dựng bởi vua Cambốt Suryavarman II (1113-1150) vừa làm lăng
vừa làm đền thờ của vua. Tháp của đền này có rất nhiều và đầy ấn
tượng, là một kim tự tháp xếp tầng, giống như một quả núi được
điêu khắc.
Ở phương trời bên kia cũng thấy sừng sững những kim tự
tháp khác tuy đơn sơ mộc mạc hơn, nhưng cũng là những biểu
tượng của sự kinh ngạc trước cảnh núi non huyền bí. Trong thung
lũng Mexico, những thổ nhân Toltecs đã dựng lên Kim Tự Tháp
Mặt Trời của họ ở Teorihuacán, cao bằng 2/3 tháp Babel. Ở bán
đảo đồng bằng Yucatán, người Mayas đã dựng tháp đền của họ ở
Uxmal và Chichén Itzá.
Daniel J. Boorstin 66
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 11
VẼ BẢN ĐỒ BẦU TRỜI VÀ ÂM PHỦ
Trở ngại lớn trong việc khám phá hình
thể của trái đất, các lục địa và đại dương,
không phải là sự ngu dốt, mà là những ảo
tưởng của nhận thức. Trí tưởng tượng có
ảnh hưởng sâu đậm, vừa tạo niềm hy vọng
vừa gây nên sợ hãi, trong khi sự hiểu biết cứ
tiến tới từ từ kèm theo những bằng chứng
mâu thuẫn nhau.
Bản thân người dân làng quê luôn luôn sợ leo lên những đỉnh
núi, song họ lại đặt chỗ cho những người chết của mình ở những độ
cao không thể nào đạt tới.
Các thiên thể là những ví dụ rõ ràng về sự biến mất và hồi
sinh. Mặt trời tàn đi mỗi đêm để rồi hồi sinh mỗi buổi sáng, trong
khi mặt trăng được tái sinh mỗi tháng một lần. Có phải mặt trăng
này cũng được cái thiên thể cứ tái sinh đều đặn không? Có phải
những ngôi sao chiếu sáng mỗi buổi chiều tà cũng là những ngôi
sao tàn lụi mỗi khi bình minh tới? Có lẽ, giống như chúng, mỗi
người chúng ta cũng có thể bị chết đi rồi lại hồi sinh. Không có gì
đáng ngạc nhiên khi người ta liên kết những thiên thể, đặc biệt
mặt trăng, với sự hồi sinh của người chết. Chúng ta sẽ tìm hiểu
những ý niệm này từ Hi Lạp và Rôma cổ đại, nhưng cũng nên nhớ
rằng những ý niệm này không chỉ có ở vùng Địa Trung Hải hay
thế giới phương Tây.
Trong thời kỳ đầu của Hi Lạp cổ đại, nữ thần mặt trời là chủ
của các quỷ thần, nữ hoàng âm phủ. Theo một khoa chiêm tinh
phổ biến ở phương Đông, những tia sáng ẩm ướt lãnh lẽo của mặt
trăng làm thối rữa xác người chết, nhờ đó linh hồn thoát ra khỏi
xác và linh hồn này được giải phóng khỏi ngục tù trần gian để bay
lên cõi trời. Những người Syria thời cổ đã cố gắng làm cho tiến
trình này được xảy ra mau lẹ bằng cách dâng những hiến tế ở mộ
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 67
http://ebooks.vdcmedia.com
người chết vào đêm mà những tia sáng mặt trăng mạnh nhất.
Trong Giáo Hội Đông Phương, người ta ấn định những ngày cử
hành nghi thức cho người chết để khơi dậy những niềm hy vọng
này.
Kinh Upanishad, một bản văn Ấn Giáo cổ tuyên bố, "Mọi
người lìa bỏ trái đất đều đi lên mặt trăng và hơi thở của họ làm
mặt trăng trương phồng lên vào thượng tuần mỗi tháng".
Việc các linh hồn bay lên tới mặt trăng không chỉ là một ẩn
dụ. Theo những triết gia Khắc Kỷ, mặt trăng được bao bọc bởi một
vùng có những tính chất vật lý đặc biệt. Linh hồn là một hơi thở
nóng, bay lên một cách tự nhiên qua không khí để vào vùng lửa
của bầu trời. Khi tiến gần đến mặt trăng, linh hồn gặp "vòm" khí
ê-te, một chất khí có đặc tính giống như bản tính của linh hồn
khiến cho linh hồn nổi lên ở đó trong trạng thái cân bằng. Mỗi linh
hồn là một quả cầu lửa được phú bẩm trí thông minh và mọi linh
hồn hợp lại tạo thành một ban hợp xướng xung quanh mặt trăng
tươi sáng láng. Theo lối hiểu này thì Thiên Đường không phải trên
mặt trăng như phái Pythagore quả quyết, mà ở vòm khí ê-te bao
quanh mặt trăng, nơi chỉ những linh hồn tốt lành mới có thể vào.
Theo khoa thiên văn phổ biến thời đó, mặt trăng là hành
tinh thấp nhất trong bảy hành tinh và vòm ê-te của nó tiếp giáp
với khí quyển dơ bẩn của trái đất. Phái Pythagore và Khắc Kỷ còn
tưởng tượng ra việc các linh hồn trở về trái đất ngay sau khi đi hết
vòng của mặt trăng.
Theo tin tưởng dân gian châu Âu, có lẽ mỗi người ngôi sao
của mình - sáng hay tối, tùy theo hoàn cảnh và số mệnh của mình
- ngôi sao này sáng lên lúc người ấy sinh ra và tắt lúc người ấy
chết. Vì thế, một sao băng có thể có nghĩa là có ai đó chết. Từ khái
niệm dân gian này, Giám mục Eusêbiô thành Alexandria ở thế kỷ
5 đặt câu hỏi, "Nếu vậy thì chỉ có hai ngôi sao vào thời điểm Ađam
và Eva thôi sao, cũng như chỉ có tám ngôi sao sau cơn Hồng Thủy,
khi mà chỉ còn ông Nôê và bảy người khác sống sót thôi sao?" Mỗi
người đều sinh ra dưới một ngôi sao tốt hoặc một ngôi sao xấu.
Nhiều thiên niên kỷ trước cuộc khám phá định luật trọng
lực, mặt trời, thiên thể mạnh nhất trong các thiên thể, được coi là
cai trị các thiên thể khác và là một thứ "trung tâm của vũ trụ,
nguồn sinh ra các linh hồn mới". Theo phái Pythagoras (thế kỷ 2
Daniel J. Boorstin 68
http://ebooks.vdcmedia.com
trước C.N), mặt trời là Apollo Masaagetes, nhạc trưởng của các Thi
Thần, âm nhạc của họ là sự hòa điệu của các tinh cầu.
Những người có thể nhất trí với nhau về một ít sự kiện khác
của những vùng xa xôi của trái đất hầu như đều nhìn nhận có thế
giới âm phủ. Cả trước khi người ta biết được hình thù của phần lớn
mặt đất, người ta đã biết mô tả rất sống động và chi tiết về Thế
Giới Ngầm dưới đất. Việc chôn người chết dưới đất rõ ràng cho
thấy người ta có thể nghĩ rằng Âm Phủ là ơi ở của người chết.
Hình như chỗ ở của người chết gợi ra cho người ta ý tưởng về đời
sống sau khi chết. Truyền thuyết kể lại rằng người Rôma, khi xây
dựng thành phố của mình, đã theo một tập tục của người Etrúca
cổ và đào một cái giếng ở giữa thành phố để cho những tổ tiên
đang sống dưới âm phủ có thể liên lạc dễ dàng với thế giới người
sống. Người ta đổ vào giếng này những của cúng - những trái đầu
mùa và một cục đất lấy từ thành phố những cư dân đã ở trước khi
đến đây - để làm cho những người đã chết được yên ổn và để đảm
bảo có những dòng dõi nối tiếp.
Lúc đầu, đời sống dưới Âm Phủ chỉ là nối dài đời sống trên
trái đất. Đây là lý do tại sao nhiều dân tộc chôn các chiến binh của
mình với xe trận, ngựa, vũ khí và các thê thiếp của họ...
Lúc đầu, đời sống dưới Âm Phủ chỉ là nối dài đời sống trên
trái đất. Đây là lý do tại sao nhiều dân tộc chôn các chiến binh của
mình với xe trận, ngựa, vũ khí và các thê thiếp của họ, tại sao
người thợ được chôn với các dụng cụ của mình và tại sao phụ nữ
được chôn với các đồ thêu dệt và các đồ bếp núc của mình. Như thế
cuộc đời trên mặt đất có thể tiếp tục dưới âm phủ.
Ở Hi Lạp, có một giáo phái lấy tên của Orphenus, một thi sĩ
thần thoại muốn cứu Eurydice, người vợ yêu dấu của mình ra khỏi
âm phủ; giáo phái này đã tôn dương Orphenus như là người anh
hùng trong những cuộc hành trình mạo hiểm đi xuống âm phủ và
đi lên mặt đất. Khoảng thế kỷ 6 trước C. N, giáo phái này và
những người Etrrusca theo họ đã khai triển một ý niệm về ngày
phán xét, một cảnh ngày tận thế thật cảm động mà chúng ta vẫn
còn có thể thấy những bức vẽ thật đẹp trên những chiếc bình của
họ.
Có vẻ như ở Hi Lạp và Rôma cổ đại, ý niệm về âm phủ như là
nơi ở của các âm hồn đã được dân chúng chấp nhận rộng rãi, hay ít
là không hoài nghi một cách tích cực.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 69
http://ebooks.vdcmedia.com
Mặc dầu triết học Plato và Kitô giáo đối chọi nhau về vô số
giáo điều, nhưng cả hai đều nhìn nhận được những bản đồ truyền
thống về thiên đường và âm phủ, theo những cách khác nhau. Khi
phái Tân Plato ở thế kỷ 3 phục hưng những giáo thiết của Plato
như là kinh điển, họ đã bảo vệ lối mô tả sinh động của Plato về
cuộc sống của các linh hồn trong lòng đất. Porhyri, một địch thủ
quyết liệt của Kitô giáo, cắt nghĩa rằng mặc dù mỗi linh hồn bản
chất là một "hơi thở nóng" có khuynh hướng bay lên trời, nhưng
khi một linh hồn đi thấp xuống bầu khí của trái đất, nó trở nên ẩm
ướt và nặng. Trong cuộc sống của linh hồn trên mặt đất, khi nó bị
vương bẩn vì đất sét của đời sống nhục dục, nó càng trở nên nặng
hơn, cho tới khi nó tất yếu bị lôi kéo xuống vực thẳm của lòng đất.
Proclus, một nhà Tân Plato khác lập luận rằng, "Mặc dù linh hồn
tự bản chất có khát vọng bay lên nơi ở tự nhiên của nó, nhưng khi
bị dục vọng xâm chiếm, nó bị đè nặng xuống và những bản năng
thấp hèn trong linh hồn lôi kéo nó tới chỗ nó phải ở, là lòng đất".
Như thế dễ hiểu rằng những linh hồn xấu xa sẽ bị kết án xuống
Âm Phủ. Vì vậy, Âm Phủ không phải chỉ là một ẩn dụ, mà là một
mạng lưới ngầm dưới đất gồm những dòng sông và đảo, những nhà
tù và xà lim, có những dòng sông và đảo, những nhà tù và xà lim,
có những dòng nước của trái đất đi qua và không bao giờ thấy mặt
trời.
Trong thiên niên kỷ sau đó, Kitô giáo đem đến cho hình ảnh
thiên đường và hỏa ngục cổ xưa có ý nghĩa và một thực tại mới. Ít
có cái nhìn nào ấn tượng cho bằng quan niệm của thánh nữ
Hildegard ở Bingen (1099 - 1179), một phụ nữ có cá tính mạnh đã
sống trong một nữ tu viện từ khi lên tám, tại đó bà được dự các
nghi thức cuối cùng dành cho người chết để dạy bà rằng bà đã
được mai táng đối với thế gian. Bà đã viết những tiểu sử các thánh
với những lời lẽ hùng hồn, những tác phẩm về lịch sử tự nhiên, y
học và những bí nhiệm của việc Tạo dựng vũ trụ. Bà đã nhìn thấy
và mô tả một cách sinh động những gì xảy ra cho những linh hồn
tội lỗi không biết hối cải.
Đương nhiên, người mô tả thiên đường và hỏa ngục thuyết
phục nhất của Kitô giáo là đại thi hào ý Dante Alighieri (1265 -
1321). Kinh nghiệm cảm xúc chủ đạo của đời ông là cái chết của
Beatrice, người yêu của ông, lúc ông mới 25 tuổi; kinh nghiệm này
đã dẫn dắt ông dành hầu như tất cả đời sáng tác của mình để viết
một thiên sử thi về thế giới bên kia nơi Beatrice đã đi đến. Ông bắt
Daniel J. Boorstin 70
http://ebooks.vdcmedia.com
đầu viết từ năm 1307 và vẫn còn viết cho tới ngày ông chết. Mười
ba bài ca cuối cùng của tác phẩm lẽ ra đã bị mất nếu sau khi chết
Dante không trở về báo mộng cho Jacop con ông biết chỗ ông cất
giấu những vần thơ ấy.
Cuộc hành trình của ông xuống âm phủ là một cuộc lữ hành,
một cuộc trở về với những cảnh trí rất quen thuộc đối với con người
thời cổ đại.
La Divina Commedia (Hài kịch Thần Linh) là một thiên sử
thi kể lại cuộc hành trình của tác giả xuống âm phủ, nơi cư ngụ
của kẻ chết. Một trăm bài thi ca (14,233 dòng) mô tả đầy đủ "tình
trạng của các linh hồn sau khi chết" xuyên qua cuộc hành trình
của Dante xuống Hỏa ngục (Enferno), Luyện Ngục (Purgatorio) và
lên Thiên Đường (Paradiso).
Dante đã sử dụng những quan niệm văn học thời trung cổ để
mô tả toàn cảnh của đời sống thế giới bên kia. Virgilius, thi hào
Latinh cổ đại, dẫn ông qua Hỏa Ngục và tiếp tục dẫn ông qua
Luyện Ngục. Beatrice dẫn ông qua Thiên Đường và chỉ nhường
chỗ cho thánh Bênađô hướng dẫn tiếp khi ông đã gặp được Thiên
Chúa. Vigilius dẫn ông đi xuống chín tầng âm phủ, ở mỗi tầng đều
có những hình phạt khác nhau dành cho từng loại linh hồn bị đọa
đầy, cho tới khi họ gặp chính Satan ở tầng cuối cùng. Đi lên theo
một đường hầm dẫn tới chân núi Luyện Ngục, họ leo lên 7 tầng
của Luyện Ngục, mỗi tầng là một trong bảy trọng tội, rồi họ tiếp
tục leo lên tới Thiên Đường, ở đó có chín tầng trời. Tầng trời thứ
mười là nơi ở của Thiên Chúa và các thiên thần của ngài.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 71
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 12
SỰ LÔI CUỐN CỦA TÍNH ĐỐI XỨNG
Cảm nhận sự hiểu biết còn hấp dẫn hơn chính sự hiểu biết.
Và không có gì ngạc nhiên khi óc tưởng tượng của con người đã tạo
cho trái đất những hình thể đối xứng đơn giản nhất.
Một trong những hình thể hấp dẫn của trái đất là hình quả
trứng. Người Ai Cập cổ xưa coi toàn thể trái đất như một quả
trứng ban đêm được giữ gìn bởi mặt trăng, "một con chim trắng
khổng lồ... giống như một con ngỗng đang ấp trứng". Các nhà Ngộ
Đạo, một giáo phái thần bí Kitô giáo ở thế kỷ 1 và 2, cũng coi trời
và đất như một Quả Trứng Thế Giới trong lòng của vũ trụ. Quấn
lấy quả trứng này là một con rắn khổng lồ sưởi ấm cho quả trứng,
giữ gìn trứng, ấp trứng và đôi khi ăn quả trứng đó. Thánh Bede
Đáng Kính đã viết vào thế kỷ 7: "Trái đất là một vật thể nằm giữa
lòng của vũ trụ, giống như lòng đỏ trứng nằm giữa quả trứng;
chung quanh nó là nước, giống như lòng trắng trứng bao quanh
lòng đỏ; bên ngoài nước là không khí, giống như màng của quả
trứng; và ở ngoài cùng là lửa, bao bọc lấy nó như chiếc vỏ trứng".
Một ngàn năm sau, nhà thần học người Anh Thomas Burnet
(1635?-1715) đã kết hợp tư tưởng thần học Plato, khoa học và kinh
nghiệm du lịch dãy núi Alpes để viết thành cuốn sách danh tiếng
Thần Học và Trái Đất (1684). Nhưng ông phải nhìn nhận rằng
"quan niệm này về trái đất hình quả trứng đã có từ thời cổ đại ở
các dân tộc Latinh, Hy Lạp, Ba Tư, Ai Cập và những dân tộc khác
nữa". "Thần học" của Burnet mô tả việc sáng tạo và tái tạo mặt
đất thành 4 thời kỳ: Sáng tạo, Hồng Thủy, Hỏa Tai và Tận Thế.
Trong thời kỳ hiện tại, sau thời kỳ Hồng Thủy và chuẩn bị cho thời
Hỏa Tai, mặt trời làm khô trái đất và những thay đổi bên trong
trái đất đang chuẩn bị cho tất cả trái đất bốc cháy. Sau thời Hỏa
Tai là một ngàn năm với một trời mới và một đất mới; và sau ngàn
năm này, khi trái đất được biến đổi thành một ngôi sao sáng, mọi
lời tiên tri của kinh thánh sẽ được ứng nghiệm.
Daniel J. Boorstin 72
http://ebooks.vdcmedia.com
Chúng ta không còn bản đồ nào của người Hy Lạp cổ đại,
nhưng kho văn học Hy Lạp có mô tả cuộc tìm kiếm cái đối xứng.
Từ lâu trước khi bắt đầu tin rằng trái đất hình cầu, người Hy Lạp
đã tranh luận về những hình thù đơn giản khác mà trái đất có thể
có. Herodotus chế giễu quan niệm của Homer về trái đất là một cái
đĩa tròn được sông Oceanus bao quanh. Theo ông, rõ ràng chung
quanh trái đất phải toàn là sa mạc. Ngay từ trước khi người ta
biết trái đất hình cầu, người ta đã tin rằng có một thứ "xích đạo"
chia trái đất thành hai phần đều nhau. Theo Herodotus, sông Nil
và sông Danube nằm đối xứng nhau qua một kinh tuyến chạy
xuyên qua những bản đồ Hy Lạp. Một hình thang cân là hình ảnh
về trái đất được chấp nhận bởi Aechylus, sử gia Ephorus và các tác
giả Hy Lạp khác. "Đường xích đạo" này đi theo trục kinh tuyến
của biển Địa Trung Hải trên các bản đồ Hy Lạp, có vẻ giúp cắt
nghĩa nhiều điều. Nó giải thích rằng vùng Tiểu á có khí hậu lý
tưởng vì nó nằm dọc theo trục đó và ở giữa hai điểm cực của mặt
trời mọc và lặn vào mùa hè và mùa đông.
Trái đất hình vuông cũng lôi cuốn rất nhiều người. Những
người Pêru cổ xưa hình dung trái đất như một cái hộp với một màn
hình gợn sóng, nơi ở của Thần Vĩ Đại. Người Aztecs chia vũ trụ
của họ thành năm hình vuông- có một hình vuông ở giữa và kéo ra
mỗi mặt một hình vuông. Mỗi hình vuông chứa một trong bốn
phương đi ra từ Chỗ Trung Tâm, nơi ở của Thần lửa Xiuhtecutli,
mẹ và cha của các thần, ở trong rốn của trái đất. Các dân tộc khác
coi vũ trụ có hình bánh xe, hay một khối tứ diện.
Những chuyện thần thoại và ẩn dụ khắp nơi đã giúp làm cho
vũ trụ trở nên dễ hiểu, đẹp và hợp lý. Người ta đã tưởng tượng ra
đủ loại nhân vật kỳ diệu có vai trò Nâng Đỡ Vũ Trụ. Thần thoại
Hy Lạp có Atlas vác quả đất trên vai, là hình ảnh quen thuộc đối
với người châu Âu. Ở Mexicô, có ít nhất bốn vị thần nâng đỡ bầu
trời, trong đó nổi nhất là thần Quetzalcoatl. Một hình ảnh của Ấn
giáo cổ xưa cho thấy quả đất hình bán cầu được đỡ trên lưng của
bốn con voi đứng trên mu hình bán cầu của một con rùa khổng lồ
nổi trên đại dương của vũ trụ.
Từ rất sớm, khoảng thế kỷ 5 trước C.N., các học giả Hy Lạp
đã biết trái đất có hình cầu. Bằng chứng chắc chắn đầu tiên được
ghi lại trong cuốn Phaedo của Plato. Các triết gia Hy Lạp nghiêm
túc đã bỏ quan niệm trái đất như là một cái đĩa phẳng nổi trên
mặt nước. Trường phái Pythagora và Plato đặt niềm tin của họ
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 73
http://ebooks.vdcmedia.com
trên cơ sở mỹ học. Vì hình cầu là hình toán học hoàn hảo nhất, nên
tất nhiên trái đất phải hình cầu. Suy nghĩ theo cách khác sẽ là
chối bỏ trật tự trong Tạo dựng. Aristote cũng chấp nhận lý thuyết
này dựa trên những lý do toán học thuần túy và ông còn thêm một
số dẫn chứng về vật lý. Ở trung tâm của vũ trụ, tất nhiên là trái
đất phải là hình cầu. Vì mọi vật thể rơi đều hướng về tâm, nên
những hạt của trái đất sẽ hợp thành một quả cầu khi chúng tụ lại
từ các phía. "Hơn nữa, tính chất hình cầu của trái đất còn được
chứng minh bởi kinh nghiệm của cảm giác, vì nếu không, nguyệt
thực sẽ không có hình dạng như thế; vì tuy trong những chu kỳ
hàng tháng của mặt trăng các mảnh mang những hình thù đủ
loại- thẳng, khuyết, lưỡi liềm- nhưng trong nguyệt thực là do mặt
trăng bị trái đất che khuất, thì đường tròn đó chính là do hình cầu
của trái đất".
Vào sinh thời của Aristote, khoa địa lý toán học ở Hy Lạp đã
có những tiến bộ rất lớn. Tuy họ vẫn chưa quan sát đủ những chi
tiết về mặt đất để vẽ một bản đồ trái đất hữu dụng, nhưng chỉ
dùng toán học và thiên văn học, họ đã đạt đến những con số tính
toán chính xác đến kinh ngạc. Các tác giả cổ điển sau Aristote,
không những chỉ có các nhà khoa học-triết học lớn như Pliny Lớn
(23-79) và Ptolêmê (90-168), còn có những nhà bách khoa nổi tiếng
chấp nhận và khai triển tính chất hình cầu của trái đất. Khám
phá này là một trong những di sản quan trọng nhất của kiến thức
cổ điển để lại cho thế giới hiện đại.
Trái đất hình tròn gợi ra những cơ hội mà trí tưởng tượng
thẩm mỹ không thể nào cưỡng lại được. Một hình cầu có thể được
chia nhỏ ra một cách đối xứng, thậm chí đẹp nữa, theo rất nhiều
cách. Các nhà triết học-địa lý học thời cổ đã rất sớm khám phá ra
điều này.
Những cố gắng đầu tiên là muốn vẽ chung quanh quả cầu
những đường song song đối xứng. Nếu có thể vẽ đều được những
đường song song này, phải chăng những khoảng cách giữa chúng
không có một ý nghĩa đặc biệt? Thế là người Hy Lạp vẽ những
đường này quanh khắp quả cầu, chia trái đất thành những phần
nhỏ song song nhau, mà họ gọi là klimata. Những klimata này có
ý nghĩa địa lý và thiên văn học, chứ không có ý nghĩa về thời tiết.
Chiều dài của ngày dài nhất xấp xỉ bằng nhau tại mọi nơi trong
cùng một vùng. Klimata theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là "sự
nghiêng" vì chiều dài của một ngày luôn luôn được xác định bởi độ
Daniel J. Boorstin 74
http://ebooks.vdcmedia.com
nghiêng của mặt trời khi nó được nhìn thấy ở mỗi nơi. Trong vùng
gần cực, ngày dài nhất trong năm là 20 giờ, trong khi gần xích đạo
ánh sáng ban ngày không bao giờ kéo dài quá 12 giờ đồng hồ. Giữa
hai điểm đó là những vùng mà ngày dài nhất sẽ có những lượng
gia khác nhau.
Các học giả thời xưa không nhất trí trong việc chia quả đất
thành bao nhiêu vùng như thế. Một số nghĩ chỉ có ba, số khác nghĩ
có thể mười hay nhiều hơn. Sự đối xứng của những sự phân chia
này bị rắc rối vì vùng mà ngày kéo dài từ 14 đến 15 giờ sẽ rộng
632 dặm, trong khi vùng mà ngày kéo dài từ 19 đến 20 giờ sẽ chỉ
rộng 173 dặm. Sơ đồ nổi tiếng nhất là của Pliny, phân chia phần
của mặt đất được người Hy Lạp và Rôma biết đến thời đó (nghĩa là
phần đất ở 46 vĩ bắc) thành 7 múi song song hoàn toàn ở phía bắc
xích đạo. Ông cũng vẽ thêm ba vùng nữa cho các "hoang mạc" ở
phía cực bắc. Ptolêmê tăng con số lên 21 múi song song cho toàn
thể bắc bán cầu.
Những đường tùy ý đó dần dần sẽ có tầm quan trọng lớn
trong việc con người hiểu biết bề mặt của hành tinh, nhưng không
phải các học giả thời cổ đại mong đợi. Nhà địa lý nổi tiếng Strabo
(64 trước C.N.?) nhấn mạnh rằng phần klimata nhiệt đới ở cả hai
phía xích đạo, chỗ mà mặt trời đứng ở trên đỉnh đầu suốt nửa
tháng mỗi năm, có một hệ thực vật và động vật đặc biệt. Ở vùng
này, mặt đất toàn cát nứt nẻ "không tạo ra được loài gì ngoài cây
dầu thông, loại cây dầu thông nhỏ tạo ra nhựa thông và một số cây
mang trái có vị cay dễ bị sức nóng làm khô héo; vì ở những vùng
này không có những núi để làm tan mây và tạo mưa, cũng không
có sông ngòi; và vì vậy các vùng này chỉ có những loài động vật có
lông tơ, sừng cụt, môi dề và mũi tẹt (vì các phần đầu của những bộ
phận này bị sức nóng làm què cụt)". Nước da đen sạm của người
Ethiopi được coi là sức nóng cháy bỏng của vùng nhiệt đới, còn
màu hung đỏ và tính hoang dã của những cư dân các vùng cực bắc
là do cái lạnh của khu vực Bắc cực.
Từ cuộc tìm kiếm các khu vực klimata và sự đối xứng đã
phát sinh Hệ Thống Trái Đất của Ptolêmê. Tuy không được biết
nhiều bằng Hệ Thống Hành Tinh, mà ai cũng biết là sai lầm, Hệ
Thống Trái Đất của Ptolêmê vẫn còn cung cấp cho chúng ta vị trí
và phương hướng của mình trên mặt đất.
Herodotus và những học giả Hy Lạp thời xưa khi đi tìm
những đường đối xứng, đã vẽ một đường từ đông sang tây qua Địa
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 75
http://ebooks.vdcmedia.com
Trung Hải, chia thế giới mà họ biết vào thời đó thành hai phần.
Dụng cụ đơn giản này mà họ khai triển để phù hợp với hình cầu
mà họ mới khám phá ra đối với trái đất, là một khởi điểm quyết
định.
Eratosthenes (276?-195 trước C.N.?) có lẽ là nhà địa lý học
lớn nhất thời cổ mà chúng ta biết đến phần lớn qua truyền thuyết.
Julius Caesar có lẽ đã dựa trên cuốn Địa lý của ông. Ở Alexandria,
ông là người thủ thư thứ hai của thư viện lớn nhất phương Tây
vào thời đó. "Là nhà toán học trong giới các nhà địa lý", ông đã
khai triển một kỹ thuật để đo chu vi của trái đất nay vẫn còn được
sử dụng.
Qua các lữ khách, Eratosthenes nghe nói rằng vào giữa trưa
ngày 21 tháng 6, mặt trời không đổ bóng trong một cái giếng ở
Syene (nay là Aswan), nghĩa là mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu. Ông
biết rằng mặt trời luôn đổ bóng tại Alexandria. Từ những kiến
thức có sẵn vào thời đó, ông suy ra rằng Syene phải ở phía nam
Alexandria. Ông nảy ra ý tưởng là nếu có thể đo được chiều dài
của bóng mặt trời ở Alexandria vào lúc mà ở Syene không có bóng
mặt trời, thì ông có thể tính được chu vi của trái đất. Ngày 21
tháng 6 ông đo bóng của một cột kỷ niệm tại Alexandria và bằng
cách tính đơn giản của hình học ông tính được mặt trời ở 7014'
cách đỉnh đầu. Độ nghiêng này bằng 1 phần 50 của một vòng trong
3600. Tính toán này chính xác một cách lạ lùng, vì độ khác biệt
thực sự giữa vĩ độ của Aswan và Alexandria, theo những tính toán
hoàn hảo nhất của chúng ta ngày nay, là 7014'. Như thế chu vi của
trái đất bằng 50 lần khoảng cách từ Syene tới Alexandria. Nhưng
khoảng cách này là bao nhiêu? Qua lữ khách, ông biết rằng những
con lạc đà phải mất 50 ngày để đi hết quãng hành trình này và lạc
đà mỗi ngày đi được 100 stadium. Như thế khoảng cách từ Syene
tới Alexandria là 5,000 stadium (50x100). Từ đó ông tính được chu
vi của trái đất là 250,000 stadium (50x5000). Một stadium của Hy
Lạp tương đương 607 feet Anh. Theo cách tính toán này,
Eratosthenes đã đạt đến một con số cho chu vi của trái đất là
khoảng 28,700 dặm, cao hơn con số thật chúng ta biết ngày nay
khoảng 15 phần trăm.
Việc đo các góc của ông chính xác hơn việc đo khoảng cách và
điều này không đáng ngạc nhiên. Trong lịch sử đo đạc, góc luôn
luôn được đo chính xác hơn khoảng cách rất nhiều. Sự chính xác
về tính toán chu vi trái đất của Eratosthenes không ai vượt qua
Daniel J. Boorstin 76
http://ebooks.vdcmedia.com
được cho tới thời cận đại. Sự kết hợp hiệu quả giữa lý thuyết thiên
văn và toán học với kinh nghiệm hằng ngày của ông đã cống hiến
chúng ta một mẫu mực mà sau ông người ta đã lãng quên suốt
thời gian quá dài.
Nhưng kỹ thuật của ông để đo đạc bề mặt trái đất còn quan
trọng hơn những số liệu tính toán của ông rất nhiều. Chúng ta biết
điều này nhờ những bài đả kích Eratosthenes do Hipparchus ở
Nicea (khoảng 165-127 trước Công nguyên), người được coi là nhà
thiên văn lớn nhất của Hy Lạp. Hipparchus là người đã khám phá
ra tiến động của các điểm phân, liệt kê ra 1,000 ngôi sao và chung
chung người ta nhìn nhận ông là người phát minh ra toán lượng
giác. Nhưng Hipparchus có một mối tị hiềm rất mạnh đối với
Eratosthenes, người đã chết 30 năm trước khi Hipparchus sinh ra.
Eratosthenes đã chia trái đất bằng những đường song song đôngtây
và bắc-nam. Ông chia thế giới ở được thành Miền Bắc và Miền
Nam bằng một đường đông-tây song song với xích đạo, chạy qua
đảo Rhodes và chia đôi biển Địa Trung Hải. Rồi ông thêm một
đường thẳng góc bắc-nam, chạy qua Alexandria. Trên bản đồ của
Eratosthennes, các đường khác-đông-tây và bắc-nam-không được
vẽ cách đều nhau. Ngược lại, ông đã vẽ những đường này qua các
điểm nổi tiếng và quen thuộc thời đó-Alexandria, Rhodes, Meroe,
Pillars của Hercules, Sicily, sông Euphrate, cửa Vịnh Ba Tư, cửa
sông Indus, mũi bán đảo ấn Độ. Kết quả là một mạng lưới không
đều đặn trên mặt hình cầu của trái đất.
Hipparhus đã đi bước tiếp theo. Tại sao không vẽ những
đường tròn kín quanh địa cầu, tất cả song song với đường xích đạo
và cách đều từ xích đạo tới hai cực? Rồi sau đó cũng vẽ những
đường khác thẳng góc với những đường song song và cách đều quĩ
đạo này. Kết quả sẽ có một mạng lưới đều đặn bao phủ toàn mặt
hành tinh. Các đường này không chỉ mô tả các vùng trên mặt đất
nhận được ánh mặt trời ở những góc giống nhau. Nếu đánh số cho
những đường ấy, chúng có thể cho ta một tập hợp các tọa độ để
định vị trí của mọi nơi trên trái đất. Lúc đó thật dễ biết bao để nói
cho bất cứ ai biết chỗ của bất cứ thành phố, con sông, hay ngọn núi
nào trên hành tinh này!
Eratosthenes đã hình dung ra một cách mơ hồ những khả
năng của một bản đồ như thế. Nhưng vào thời kỳ của ông, hầu hết
những chỗ mà người ta cần tìm trên bản đồ đều chỉ được xác định
bởi những câu chuyện của các lữ khách và bởi truyền thống. Ông
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 77
http://ebooks.vdcmedia.com
biết là chưa đủ, nhưng ông không có đủ những điểm mốc đủ chính
xác để vẽ bản đồ của mình. Hipparchus tiếp tục công việc đó bằng
cách nhấn mạnh rằng mỗi điểm phải được xác định bằng việc quan
sát thiên văn chính xác để có một bản đồ toàn cầu gồm các vĩ
tuyến và kinh tuyến. Ông không chỉ có ý tưởng đúng mà còn thấy
làm cách nào có thể đưa ý tưởng của mình vào một bản đồ chính
xác và thực dụng. Bằng cách sử dụng những hiện tượng thiên văn
chung của toàn thể trái đất để định vị trí các nơi trên mặt đất, ông
đã thiết lập khuôn mẫu cho việc vẽ bản đồ của hành tinh này.
Tiện thể, Hipparchus đã sáng tạo ra từ vựng toán học vẫn
còn được sử dụng ngày nay. Eratosthenes đã chia mặt đất thành
60 phần, nhưng Hipparchus lại chia nó thành 360 phần để trở
thành những "độ" cho các nhà địa lý thời đại mới. Ông đặt những
đường kinh tuyến của mình trên xích đạo ở những khoảng cách
nhau 70 dặm, xấp xỉ kích thước của một "độ". Bằng cách phối hợp
những đường klimata trước kia với những đường kinh tuyến này,
ông đã cho ra những khái niệm về một bản đồ thế giới dựa trên
những quan sát thiên văn về vĩ tuyến và kinh tuyến.
Vĩ tuyến và kinh tuyến có tầm quan trọng trong việc đo đạc
không gian giống như đồng hồ có tầm quan trọng trong việc đo đạc
thời gian. Chúng báo hiệu việc con người làm chủ thiên nhiên,
khám phá và đánh dấu những kích thước của kinh nghiệm. Chúng
thay thế những hình dạng ngẫu nhiên của thiên nhiên bằng
những đơn vị chính xác tiện cho con người sử dụng.
Không thể chối cãi rằng Ptolêmê là cha đẻ của địa lý cận đại,
nhưng tiếc rằng người ta đã mãi mãi gắn liền ông với một khoa
thiên văn lạc hậu! Một lý do cắt nghĩa tại sao Ptolêmê có một hình
ảnh lu mờ trong lịch sử khoa địa lý, đó là chúng ta biết quá ít về
cuộc đời của ông. Không biết ông là người Ai Cập gốc Hy Lạp hay
người Hy Lạp gốc Ai Cập, vì ông mang một cái tên vừa phổ thông ở
thành phố Alexandria Ai Cập, vừa ngẫu nhiên trùng hợp với tên
một người bạn thân thiết nhất của Alexader Đại Đế. Một người
khác cũng có tên Ptolêmê đã trở thành tổng trấn Ai Cập sau khi
Alexander chết, rồi tự xưng vua và thiết lập triều đại Ptolêmê cai
trị Ai Cập suốt 3 thế kỷ (304-30 trước C.N.). Nhưng những người
có tên Ptolêmê đó là những nhà cai trị, còn ông Ptolêmê này là
một nhà khoa học.
Có vẻ Ptolêmê có thiên tài trong việc cải thiện công trình của
những người khác và trong việc phối hợp vô vàn kiến thức lẻ tẻ
Daniel J. Boorstin 78
http://ebooks.vdcmedia.com
thành những công thức phổ quát hữu ích. Những tác phẩm của
ông như Almagest về thiên văn học, địa lý, Tetrabiblos về chiêm
tinh học, cùng với những tác phẩm về âm nhạc, quang học và bảng
niên biểu các đời vua của thế giới được ông biết đến, đã tóm lược tư
tưởng cao nhất của thời đại ông. Về địa lý, ông tham khảo
Eratosthenes và Hypparchus. Ptolêmê cũng thường nhìn nhận
mình mắc nợ với Strabo, nhà địa lý và sử học rất phong phú với
các phẩm sử dụng truyền thống, huyền thoại và những cuộc hành
trình xa rộng của mình để tìm hiểu thế giới thời bấy giờ.
Điều kỳ diệu nhất là Ptolêmê đã duy trì được một ảnh hưởng
mạnh đến thế nào suốt hai thiên niên kỷ sau khi ông chết. Những
bản đồ chúng ta vẽ thời nay vẫn còn sử dụng những bộ khung và
từ vựng do Ptolêmê sáng chế. Hệ thống các ô mà ông đã đón nhận
và cải tiến vẫn còn là cơ bản cho việc vẽ bản đồ thời nay. Ông là
người đầu tiên phổ biến và cũng có thể chính ông đã sáng chế ra
những thuật ngữ vĩ tuyến và kinh tuyến. Tuy nhiên đối với
Ptolêmê, những từ này cũng mang thêm ý nghĩa về "chiều rộng"
và "chiều dài" của thế giới bây giờ, mà ngày nay những ý nghĩa
này không còn nữa. Trong cuốn Địa Lý, ông đã đưa ra vĩ tuyến và
kinh tuyến cho 8,000 chỗ. Ông sáng chế ra qui ước về phương
hướng cho các bản đồ theo hướng bắc ở phía trên và hướng đông ở
bên phải và qui ước này vẫn còn là yếu tố cốt yếu cho khoa vẽ bản
đồ ngày nay. Lý do của điều này có thể là vì những nơi được biết
đến nhiều nhất thời đó đều nằm ở bán cầu phía bắc và trên một
bản đồ phẳng những nơi này sẽ dễ nghiên cứu hơn nếu nó nằm ở
góc cao bên phải. Ông chia bản đồ thế giới của mình thành 26
miền và ông thay đổi tỷ lệ để cho thấy nhiều chi tiết hơn trong các
miền đông dân cư. Ông đã thiết lập cho các học giả thời nay sự
phân biệt giữa địa lý "geography, bản đồ của toàn thể trái đất" và
địa chí (chorography, bản đồ chi tiết của những nơi nhất định).
Ông theo Hipparchus chia vòng tròn và hình cầu thành 3600 và
chia nhỏ mỗi độ này thành partes minutae (= những phần nhỏ cấp
1, tiếng Tây phương trở thành "minutes"= phút), rồi mỗi phần này
lại chia thành partes minutae secundae (= những phần nhỏ cấp 2,
tiếng Tây phương trở thành "seconds"= giây) của cung.
Ptolêmê đã can đảm đối diện với những hệ quả của khoa vẽ
bản đồ theo hình thể quả cầu của trái đất. Và ông đã khai triển
một bảng dây cung, dựa trên khoa lượng giác của Hipparchus, để
xác định khoảng cách giữa các nơi. Ông sáng chế ra phương pháp
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 79
http://ebooks.vdcmedia.com
chiếu trái đất hình cầu xuống một mặt phẳng. Những sai lầm của
Ptolêmê không phải do ông không có óc phê bình. Ông nói rằng giả
thuyết tốt nhất là giả thuyết đơn giản nhất có thể lý giải các Sự
kiện. Ông cảnh giác chúng ta chỉ chấp nhận những dữ liệu đã được
phê bình bởi những bằng chứng khác nhau.
Nhược điểm chủ yếu của Ptolêmê là ở chỗ ông thiếu những
sự kiện. Dần dần về sau, những nhà quan sát chuyên môn trên
khắp thế giới sẽ thu thập được những dữ liệu để thỏa mãn những
đòi hỏi của bản đồ thế giới. Chúng ta không ngạc nhiên là với kho
dữ liệu hạn chế của mình, Ptolêmê đã mắc phải một số sai lầm
nghiêm trọng.
Một trong số những sai lầm này có lẽ là sự tính toán sai có
ảnh hưởng mạnh nhất trong lịch sử. Đối với chu vi trái đất,
Ptolêmê bác bỏ tính toán rất chính xác của Erastothenes, Ptolêmê
tính mỗi độ của trái đất chỉ có 50 dặm thay vì 70 và rồi ông theo
nhà bác học Hy Lạp Posidonius (khoảng 135-52 trước C.N.) và
Strabo, ông tuyên bố chu vi trái đất là 18,000 dặm. Cùng với việc
tính toán quá thấp này, ông phạm thêm sai lầm là kéo dài châu Á
về phía đông quá xa kích thước thực sự của nó, tới 1800 thay vì
đúng là 1300. Hậu quả là bản đồ của ông đã thu hẹp rất nhiều
những phần thế giới chưa được biết đến giữa mép phía đông châu
Á và mép phía tây châu Âu. Nhưng sai lầm của Ptolêmê lại là một
điều may. Giả như ông đã không theo Strabo mà theo
Erastothenes, cuộc gặp gỡ của châu Âu với Tân Thế Giới đã có thể
bị trì hoãn đến bao lâu? Và rồi, giả như Colômbô đã biết được
chiều rộng đích thực của trái đất? Nhưng Colômbô đã theo
Ptolêmê, vì thời đó không có uy tín địa lý nào cao hơn Ptolêmê.
Colômbô lại còn tăng viễn tưởng của mình bằng cách tính độ của
trái đất 10 phần trăm nhỏ hơn tính toán của ptolêmê.
Hơn nữa, không phải chỉ có những sai lầm của Ptolêmê làm
cho ông có công trong thành tích của Colômbô. Bằng việc sử dụng
tất cả những sự kiện có sẵn để khẳng định tính hình cầu của trái
đất và rồi bằng việc thiết lập mạng vĩ tuyến-kinh tuyến làm điểm
đối chiếu cho những kiến thức mỗi ngày một gia tăng, Ptolêmê đã
chuẩn bị cho châu Âu đi vào cuộc thám hiểm thế giới. Ptolêmê đã
bác bỏ ý tưởng của Homer cho rằng quanh thế giới toàn là Đại
dương không thể ở được. Ngược lại, ông còn gợi ý cho thấy đất còn
bao la chưa được biết đến và còn phải được khám phá, nhờ đó ông
đã kích thích các đầu óc tìm tòi. Tưởng tượng ra cái chưa biết thì
Daniel J. Boorstin 80
http://ebooks.vdcmedia.com
khó hơn nhiều so với việc vẽ ra những đường nét của những cái mà
người ta tưởng là mình đã biết.
Không những đối với Colômbô, mà cả đối với những người Ả
Rập và những người khác đã từng tin tưởng nơi kho tàng kiến
thức cổ điển, Ptolêmê luôn luôn là nguồn, tiêu chuẩn và thầy dạy
của khoa địa lý thế giới. Giả như trong thiên niên kỷ sau Ptolêmê,
các nhà hàng hải và các vị vua bảo trợ cho họ đã tự do và mạo
hiểm khởi hành từ chỗ mà Ptolêmê đã đạt đến, lịch sử của cả Thế
Giới Cũ và Thế Giới Mới chắc hẳn đã phải khác hơn nhiều.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 81
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 13
GIÁO ĐIỀU GIAM HÃM KIẾN THỨC
Châu Âu kitô giáo không đi theo công trình của Ptolêmê.
Thay vào đó, những lãnh tụ Kitô giáo bảo thủ đã dựng một rào cản
trước sự tiến bộ trong kiến thức về trái đất. Các nhà địa lý Kitô
giáo thời Trung Cổ dồn sức lực của mình vào việc thêu dệt một
hình ảnh sắc gọn, thần học, về những điều đã biết hay nghĩ là đã
biết.
Địa lý không có chỗ trong danh sách "bảy môn khoa học
nhân văn" thời Trung Cổ. Nó không vào được trong bốn môn của
toán học (số học, âm nhạc, hình học và thiên văn), cũng không hợp
với môn nào trong ba môn của khoa lý luận và ngôn ngữ (văn
phạm, biện chứng và tu từ). Không có vị trí của một khoa học độc
lập, địa lý là một cô nhi trong thế giới tri thức. Nó trở thành một
tạp loại kiến thức và giả kiến thức, những giáo điều Kinh Thánh,
những câu chuyện tầm phào, những suy luận của triết gia và
những tưởng tượng thần thoại.
Thuật lại những điều đã xảy ra thì dễ hơn cắt nghĩa thỏa
đáng nó xảy ra thế nào và tại sao. Sau khi Ptolêmê chết, Kitô giáo
chinh phục Đế Quốc Rôma và hầu hết châu Âu. Tiếp theo là hiện
tượng toàn châu Âu lãng quên kiến thức, gây ảnh hưởng cho châu
lục này từ năm 300 đến năm 1300. Trong những thế kỷ này, các
tín điều Kitô giáo đã đè bẹp hình ảnh hữu ích của thế giới mà
những nhà địa lý xưa đã vẽ ra một cách hết sức chậm chạp, vất vả
và tỉ mỉ. Chúng ta không còn tìm thấy những đường vẽ tỉ mỉ các bờ
biển, sông ngòi, núi non mà Ptolêmê đã vẽ ra trên những sơ đồ dựa
trên những dữ liệu thiên văn khá nhất thời đó.
Chúng ta không thiếu những bằng chứng về những gì các
nhà địa lý Kitô giáo đã suy nghĩ thời đó. Có trên sáu trăm mappae
mundi, bản đồ thế giới, còn sót lại từ thời Trung Cổ. Chúng có đủ
kích cỡ - có tấm chỉ bằng 5 cm đường chéo, như trong bộ bách khoa
của isdore ở Seville thế kỷ 7, có tấm lớn đường kính đến 150 cm
như bản đồ ở Nhà Thờ Lớn Hereford (năm 1275). Điều đáng nói là
Daniel J. Boorstin 82
http://ebooks.vdcmedia.com
khi những bản đồ như thế được vẽ do trí tưởng tượng, có rất ít
những thay đổi trong các bản đồ của trái đất.
Hình dạng chung của những bản đồ này khiến chúng được
gọi là "bản đồ bánh xe" hay "bản đồ T-0". Toàn thể mặt đất ở được
có hình một chiếc đĩa tròn (chữ 0), được chia ra bởi một dòng nước
hình chữ T. Phương Đông đặt ở phía trên cùng, hồi đó có nghĩa là
"hướng" của bản đồ. Trên chữ "T" là lục địa châu Á, phía dưới bên
trái chữ T là lục địa châu Âu và bên phải là châu Phi. Thanh chữ
T phân cách châu Âu với châu Phi là biển Địa Trung Hải; thanh
ngang phân cách châu Âu và châu Phi với châu Á là sông Danube
và sông Nil, được coi là chảy theo một đường duy nhất. Bao quanh
tất cả là "Biển Đại Dương".
Những bản đồ này được coi là bản đồ thế giới. Chúng được vẽ
với mục đích diễn tả những tín điều của Kitô giáo theo kinh thánh.
Jerusalem được vẽ ở trung tâm của bản đồ. "Đức Chúa đã phán
như vậy. Đây là Giêrusalem. Ta đã đặt nó ở giữa các dân và các
nước sông chung quanh nó" (Edêkiel 5.5). Những lời này của ngôn
sứ Edêkiel loại bỏ mọi nhu cầu vụn vặt về vĩ tuyến và kinh tuyến.
Bản dịch phổ thông của Kinh Thánh bằng tiếng Latinh còn dùng
chữ umbilicus terrae, rốn của trái đất. Các nhà địa lý Kitô giáo
trung cổ kiên quyết đặt Thành Thánh Giêrusalem vào đúng chỗ
này.
Đặt nơi thánh thiêng nhất vào chỗ trung tâm không phải là
chuyện mới. Như chúng ta đã thấy, người Ấn giáo cũng đặt núi
Meru của họ vào "trung tâm của trái đất". Niềm tin vào một núi
thánh, với những cách diễn tả khác nhau ở Ai Cập, Babylon và
những nơi khác, chỉ đơn giản là cách nói rằng chỗ ưu điểm nhất
trên mặt đất chính là cái rốn của vũ trụ. Các thành phố của
phương Đông thường coi mình là trung tâm. Babylon (= cửa của
các thần) là nơi các thần đi xuống trái đất. Trong truyền thống Hồi
Giáo, Ka'bah là điểm cao nhất thế giới và sao bắc đẩu cho thấy
Mecca là đối tâm của bầu trời. Kinh thành cho một vua Trung hoa
tốt là chỗ mà mặt trời không dọi bóng giữa trưa vào ngày hạ chí.
Vì thế không lạ gì các nhà địa lý Kitô giáo cũng đặt Thành Thánh
của họ vào trung tâm, biến nó thành nơi hành hương và thành
mục tiêu của các cuộc thập tự chinh.
Điều đáng ngạc nhiên chính là xảy ra Bước Thụt Hậu lớn. Ai
ai cũng muốn tin rằng mình ở trung tâm. Nhưng sau những tiến
bộ tích luỹ được từ xa xưa, giờ đây phải có cố gắng để quên đi khối
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 83
http://ebooks.vdcmedia.com
lượng những kiến thức đã tích luỹ ấy và rút lui vào một thế giới
của đức tin và biểu tượng. Chúng ta đã thấy các hoàng đế Trung
Hoa đã sáng chế ra Đồng Hồ Thiên Văn của Tô Tống như thế nào
trước cả những đồng hồ ở phương Tây, để họ lại tịch thu kiến thức
và kỹ thuật. Bước Thụt Hậu Lớn mà chúng ta sắp mô tả trong
lãnh vực địa lý là một hành vi thụt lùi đáng nói hơn nhiều. Vì sự
tiến bộ về kiến thức địa lý đã lan rộng ở phương Tây, đạt tới những
giao điểm văn hoá của một lục địa đa dạng.
Các tín điều Kitô giáo và các hiểu biết Kinh Thánh đã áp đặt
những điều tưởng tượng thần học trên bản đồ thế giới. Bản đồ trở
thành hướng dẫn viên cho các Tín Điều. Mỗi câu chuyện và mỗi
nơi được nhắc đến trong Kinh Thánh đều phải có một địa điểm xác
định và trở thành một lãnh vực tìm kiếm đầy hấp dẫn đối với các
nhà địa lý Kitô giáo. Một trong những điểm hấp dẫn nhất là Vườn
Eđen. Ở phần phía đông của thế giới, các nhà địa lý thời Trung Cổ
thường vẽ một vườn Địa Đường với hình của Ađam và Eva và con
rắn, chung quanh là một bức tường cao hay một rặng núi.
Để làm cho thế giới phù hợp với hình ảnh thô sơ của Kinh
Thánh, người ta cần phải thêu dệt lời Kinh Thánh và đồng thời
phủ nhận hình dạng thực sự của trái đất.
Niềm tin vào Eđen trở thành một niềm vui sướng cũng như
bổn phận. Các thầy dòng dũng cảm rong ruổi đi tìm vườn Địa
Đường trở thành những người hùng trong câu chuyện phiêu lưu.
Nhưng ngay cả trong những chuyện cơ bản như xác định vị
trí của vườn Eđen, thì các nhà địa lý Kitô giáo cũng không nhất trí
với nhau. Một trong những người lữ hành nổi tiếng nhất tìm đến
được Địa Đường là Saint Brendan, một tu sĩ gan dạ người ái Nhĩ
Lan (484-457). Tin rằng Địa Đường ở một vị trí nào đó trên Đại
Tây Dương, ông đã lênh đênh mạo hiểm trên thuyền mãi về hướng
tây cho tới khi ông tới một hải đảo xinh đẹp, đất đai mầu mỡ chưa
từng có. Saint Brendan tin chắc đây là địa đàng, "Đất Hứa của các
Thánh". Và ngay cả những người thích đặt Địa Đàng ở một nơi
khác cũng vẫn giữ "Đảo Saint Brendan" trên các bản đồ của mình.
Câu chuyện về người tu sĩ gan dạ này được kể đi kể lại bằng rất
nhiều thứ tiếng châu Âu. Hòn đảo thánh này của ông đã được vẽ
rõ nét trong các bản đồ trong hơn một ngàn năm, ít là cho tới 1759.
Và các nhà bản đồ học thời cận đại cũng đã cố gắng đi tìm vị trí
của nó. Nhà chế tạo địa cầu kinh điển Martin Behaim năm1492 đã
Đảo Saint Brendan gần xích đạo, tây Canaries, trong khi một số
Daniel J. Boorstin 84
http://ebooks.vdcmedia.com
nhà địa lý đặt nó ở gần Ái Nhĩ Lan hơn, số khác đặt nó ở vùng Tây
Indies. Mãi sau hai thế kỷ có các cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha
(1526-1721) đi tìm Đảo Saint Brendan, các người Kitô giáo mới dứt
khoát từ bỏ cuộc tìm kiếm. Họ đã tìm ra một chỗ khác tốt hơn cho
Địa Đường.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 85
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 14
QUAY VỀ VỚI TRÁI ĐẤT PHẲNG
Lactantius, nhà hùng biện Kitô giáo đáng kính nể, một
"Cicero của Kitô giáo", đã nêu câu hỏi, "Có ai lại ngu ngốc đến độ
tin rằng có những người chân ở trên đầu, hay những nơi có các vật
treo ngược, cây mọc ngược, hay mưa đổ từ dưới lên trên? Chúng ta
có thể tìm thấy điều kỳ diệu của những vườn Babylon treo ngược ở
đâu nếu chúng ta tin rằng có một thế giới treo ở những điểm Đối
Chân?" Các thánh Augustin, Chrysostom và nhiều vị khác cùng
tầm cỡ không ngần ngại thừa nhận rằng không thể có những điểm
Đối Chân (tiếng Latinh là "Anti-podes", có nghĩa là một nơi mà
chân người ta ở phía đối diện).
Các lý thuyết cổ điển về những điểm Đối Chân mô tả một
vùng lửa nóng không thể đi qua bao quanh xích đạo, phân cách
chúng ta với vùng có người ở phía mặt bên kia của địa cầu. Lý
thuyết này tạo những mối hoài nghi nghiêm trọng nơi đầu óc
những người Kitô giáo về tính hình cầu của trái đất. Dòng giống
sống phía bên dưới vùng xích đạo đó dĩ nhiên không thể là dòng
giống của Ađam, cũng không thể là dòng giống những người được
Chúa Kitô cứu chuộc. Nếu người ta tin rằng con tàu của ông Nôê
đã dừng lại trên núi Ararat phía bắc xích đạo, thì không có cách
nào có thể có người sống đặt chân tới được các điểm Đối Chân. Để
tránh rơi vào lạc đạo, những tín hữu Kitô giáo thích tin rằng
không thể có các điểm Đối Chân, hoặc thậm chí nếu cần, không
thể có trái đất hình cầu.
Những nhà địa lý Hy Lạp và Rôma cổ đại không phải bận
tâm về những vấn đề như thế. Nhưng không một người Kitô giáo
nào có thể nhìn nhận rằng có những con người phát sinh từ Ađam
hay bị ngăn chặn bởi vùng lửa xích đạo khiến họ không đến được
với Tin Mừng của Chúa Kitô. Thơ Rôma 10, 18 tuyên bố, "Phải,
quả thực, tiếng của họ đã vang cùng trái đất và lời của họ đã vang
đi khắp địa cầu". Cả Đức Tin lẫn Kinh Thánh đều không chấp
nhận có một nơi có những người không thuộc dòng giống Ađam
Daniel J. Boorstin 86
http://ebooks.vdcmedia.com
hay Chúa Kitô. Một tác giả thế kỷ 10 diễn giải về boethius có viết,
"Chớ gì đừng có ai cho rằng chúng tôi chấp nhận có những điểm
Đối chân, là điều hoàn toàn đi ngược lại đức tin Kitô giáo". "Tin
vào những điểm Đối Chân" đã trở thành một lời kết tội những
người lạc đạo chuẩn bị lên giàn hỏa thiêu. Cũng có một số ít người
tìm cách thỏa hiệp bằng việc cố gắng chấp nhận hình cầu của trái
đất vì những lý do địa lý, nhưng về phương diện thần học họ vẫn
còn phủ nhận sự tồn tại của những người sống ở những điểm đối
chân. Nhưng con số này không nhiều.
Các nhà địa lý Kitô giáo không có những dữ kiện để lấp đầy
các bản đồ của họ, nên họ đã tìm được những chất liệu dồi dào nơi
những tưởng tượng của thời xa xưa. Trong khi họ khinh bỉ khoa
học của ngoại giáo, mà họ coi là đe dọa đức tin kitô giáo, thì họ lại
không ngần ngại sử dụng những hình ảnh của thần thoại ngoại
giáo và sử dụng chúng để phục vụ cho những mục đích có tính giáo
điều nhất của Kitô giáo. Trong khi các nhà địa lý Kitô giáo e sợ
những tính toán khá chính xác của eratosthenes, Hipparchus và
Ptolêmê, thì họ lại vui vẻ trang trí cho những bản đồ lấy
Giêrusalem làm trung tâm của họ bằng những điều ngông cuồng
nhất của trí tưởng tượng ngoại giáo. Julius Solinus, biệt danh là
Polyhistor hay "Người Kể Chuyện Đa Năng" đã là nguồn cung cấp
tiêu chuẩn cho nền thần thoại địa lý trong suốt một thời gian dài,
từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 14. Bản thân Solinus có thể không phải một
tín đồ Kitô giáo. Chín phần mười của bộ Collectanea rerum
memorabilium (Sưu tập những Điều Kỳ Diệu), xuất bản năm 230-
240, rút ra từ tác phẩm Lịch Sử Thiên Nhiên của Pliny, tuy
Solinus không một lần nhắc đến tên tác giả. Và phần còn lại được
xào nấu từ những tác giả cổ điển khác. Tài năng đặc biệt của
Solinus, như một nhà lịch sử địa lý gần đây nhận xét, là ở chỗ "đãi
cát để lấy vàng". Thật khó có thể tìm được một người khác trong
suốt một thời gian dài đã ảnh hưởng đến khoa địa lý "một cách sâu
đậm hay tệ hại đến thế".
Nhưng hạt cát của Solinus đã có sức quyến rũ đặc biệt.
Chính thánh Augustin đã tham khảo Solinus, cũng như nhiều nhà
tư tưởng Kitô giáo hàng đầu của thời Trung Cổ. Những câu chuyện
và hình ảnh thần thoại của Solinus đã chứa đầy những bản đồ của
Kitô giáo mãi cho tới Thời đại Khám phá. Chúng trở thành một
mạng lưới của các kinh tuyến và vĩ tuyến mà Ptolêmê đã để lại.
Solinus tìm thấy những diều kỳ diệu khắp nơi. Ông kể rằng ở
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 87
http://ebooks.vdcmedia.com
Italia, có những dân thờ cúng thần Apollo bằng cách nhảy múa
chân trần trên than hồng, những con mãng xà dài và mập sống
bằng vú những con bò sữa và những con linh miêu nước đái đóng
băng thành "những viên ngọc quí, có sức hút của nam châm và có
màu hổ phách". Ở Rhegium có những con dê và châu chấu không
còn dám kêu bởi vì Hercule tức giận do tiếng ồn của chúng đã bắt
chúng phải câm lặng. Dọc bờ biển Ethiopia có những dân bốn mắt,
trong khi dọc theo dòng sông Niger có những con kiến khổng lồ
như những con chó giữ nhà. Ở Đức có một loài giống như con lừa
có môi trên dài đến nỗi "nó phải đi giật lùi để ăn".
Có lẽ cái di sản lâu dài nhất của thời đó là biển Địa Trung
Hải, quá quen thuộc khiến chúng ta ngày nay đã quên mất ý
nghĩa của nó. Đó là một vùng biển nằm giữa châu Phi, châu Á và
châu Âu và người Rôma đã gọi nó là mare nostrum (biển của
chúng ta). Solinus là một trong những người đầu tiên gọi nó là
mare mediterraneum, nghĩa là biển ở giữa trái đất. Vị giám mục
thông thái Isodore ở Seville đã đổi nó thành một tên riêng và
không ai có thể chối cãi uy quyền của ông.
Trong khi khoa địa lý ở châu Âu đang trở thành một mớ
nhập nhằng những giáo điều và óc tưởng tượng, thì ở những nơi
khác người ta vẫn đang gia tăng hiểu biết về trái đất, cũng như
khả năng vẽ bản đồ trái đất.
Không có những trợ giúp của Erastothenes, Hipparchus hay
Ptolêmê, người Trung Hoa đã độc lập sáng chế ra một họa đồ cho
bề mặt thất thường của trái đất. Chúng ta đã thấy điều mà đồng
hồ làm cho thời gian, thì họa đồ hình chữ nhật đã làm cho không
gian, bằng cách cung cấp những khung đồng đều để phân biệt, mô
tả, khám phá và tái khám phá sự đa dạng vô cùng của đất và biển,
núi đồi và sa mạc.
Nếu khoa địa lý Hy Lạp dựa vào trái đất hình cầu, thì khoa
địa lý Trung Hoa dựa vào trái đất hình dẹt. Vào thời mà Ptolêmê
đang thực hiện những công trình của mình ở phương Tây, thì ở
Trung Hoa, các nhà địa lý đã phát triển cho riêng mình những kỹ
thuật vẽ bản đồ và đã có một bề dày truyền thống về khoa vẽ bản
đồ thế giới. Người Hy Lạp đã khai triển hệ thống vẽ họa đồ khung
theo các đường vĩ tuyến và kinh tuyến, rất dễ vẽ trên một quả cầu.
Nhưng vì việc dọi một bề mặt hình cầu xuống một mặt phẳng quá
khó, nên trong thực tế hệ thống họa đồ khung của người Hy Lạp
Daniel J. Boorstin 88
http://ebooks.vdcmedia.com
cũng không khác bao nhiêu với việc vẽ họa đồ theo quan niệm trái
đất phẳng.
Vì hệ thống họa đồ khung của người Hy Lạp bắt nguồn từ
quan niệm trái đất hình cầu, nên hệ thống họa đồ chữ nhật của
người trung Hoa chắc hẳn phải có những nguồn gốc hoàn toàn
khác. Những nguồn gốc ấy là gì.
Từ những tài liệu lịch sử sớm nhất của thời nhà Tần (221-
207 trước C.N.), chúng ta thấy nhắc nhiều đến những bản đồ và
công dụng của chúng. Nước Trung Hoa được thống nhất năm 221
trước C.N., vừa là sản phẩm vừa là người sản sinh ra chế độ quan
liêu to lớn, thấy cần phải biết những đặc điểm và ranh giới của các
vùng đất bao la của mình. Bộ Lễ của nhà Chu (1120-256 trước
C.N.) đã cho người soạn ra những bản đồ của từng lãnh địa và
kiểm kê nhân khẩu của lãnh địa. Khi vua Chu đi thăm lãnh thổ
của mình, nhà địa lý triều đình luôn tháp tùng để giảng giải cho
vua về địa hình và sản phẩm của mỗi vùng trong nước. Dưới triều
Hán (202 trước C.N.-200 C.N.), các bản đồ luôn luôn xuất hiện như
một bộ máy không thể thiếu của đế quốc.
Hai thiên kỷ cuối cùng ở Trung Hoa nở rộ những tài năng vẽ
bản đồ. Cả trước khi Ptolêmê thực hiện công trình của mình ở
Alexandria, một người trung Hoa tiên phong tên là Khang Uông
(78-139 C.N.) đã "vẽ ra những đường tọa độ cho trời và đất và tính
toán dựa trên những tọa độ đó". Hai thế kỷ sau, Phi Sở Y, một
Ptolêmê của Trung Quốc, đã áp dụng những kỹ thuật này để vẽ ra
một bản đồ chi tiết Trung Hoa gồm 18 tờ.
Trong lời tựa cho bản đồ của mình, Phi Sở Y đã đưa ra những
hướng dẫn đơn giản cho việc vẽ bản đồ đúng tỷ lệ, với những
khung hình chữ nhật. "Nếu vẽ bản đồ mà không có những khung
chia độ, thì không thể nào phân biệt được xa với gần... Nhưng
những khung chia độ cho ta một tỷ lệ đúng của các khoảng cách.
Cũng thế, ta sẽ có những điểm tương đối nhau nhờ dùng những
cạnh phân độ của những tam giác vuông; và tỷ lệ đúng của các độ
và hình được biểu thị bằng việc xác định cao và thấp, các kích
thước của góc, các đường cong và đường thẳng. Như thế, dù có
những trở ngại lớn về hình dạng của các núi cao hay hồ rộng,
những khoảng đường dài hay những nơi xa lạ, những chỗ phải leo
lên và đi xuống, những bậc hay những đường vòng-tất cả đều có
thể ghi nhận và xác định được. Nếu ta áp dụng đúng hệ thống
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 89
http://ebooks.vdcmedia.com
khung chữ nhật, thì dù là đường thẳng hay đường cong, gần hay
xa, không có gì có thể che giấu chúng ta về hình dạng của chúng".
Làm cách nào người Trung Hoa phát triển được một kỹ thuật
tinh vi như thế để nắm được những sự đa dạng của trái đất? Hình
như từ rất xa xưa, họ đã chia đất thành những mảnh bằng một sơ
đồ các tọa độ. Từ thời nhà Tần, các bản đồ của hoàng đế đã được vẽ
trên lụa. Các từ kinh và vĩ mà Phi Sở Y đã dùng cho những tọa độ
trên bản đồ cũng là từ để chỉ các sợi dọc và sợi khổ trong ngành
dệt vải. Phải chăng ý tưởng về một khung chữ nhật trên bản đồ đã
phát sinh từ việc khám phá ra rằng có thể tìm ra một điểm trên
bản đồ vẽ trên lụa bằng cách lần theo một sợi dọc và sợi khổ đến
chỗ hai sợi này gặp nhau? Hay nguồn gốc của nó là một bảng bói
toán của thời Hán sử dụng những tọa độ biểu thị toàn bộ vũ trụ?
Hay nó có liên quan cách nào đó với bảng cờ tướng Trung Hoa xếp
quân trên các đường giao nhau? Dù nguồn gốc là gì, thì kết quả đã
rõ: đó là một hệ thống khung chữ nhật đã phát triển và được sử
dụng rộng rãi.
Tới giữa thế kỷ 12, trước cả khi hệ thống của Ptolêmê được
phục hưng tại châu Âu, khi nhà địa lý ả Rập vẽ bản đồ thế giới
năm 1150 cho vua Sicily là Roger II, ông cũng đã dùng một họa đồ
khung và giống như người Trung Hoa, ông không để ý gì tới mặt
cong của trái đất. Theo Joseph Needham gợi ý, truyền thống lâu
đời của Trung Hoa đã đến với người ả Rập ở Quảng Đông và qua
những chuyến đi lại ngày càng nhiều của người ả Rập sang
phương Đông. Và vì thế có lẽ người Trung Hoa đã đóng một vai trò
trong việc chấm dứt Thời Thụt Hậu Lớn-giúp cho các nhà địa lý
châu Âu trở lại con đường truy tìm kiến thức, khám phá lại những
dụng cụ đo đạc mà Hy Lạp và Rôma đã để lại.
Daniel J. Boorstin 90
http://ebooks.vdcmedia.com
Phần V
Đường đi đến phương đông
"Ánh sáng xuất tự phương Đông..." Tục ngữ Latinh
" Đi hết Đông thì gặp Tây" Tục ngữ Anh.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 91
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 15
CÁC CUỘC HÀNH HƯƠNG KITÔ GIÁO
Ở thời Trung Cổ, nếu niềm tin đã vẽ các bản đồ theo óc tưởng
tượng và giam hãm người Kitô giáo trong khoa địa lý giáo điều, thì
cũng niềm tin đó đã lôi cuốn khách hành hương và những đoàn
quân thập tự chinh lên đường khám phá phương Đông. Ngôi Sao
đã từng dẫn đường cho Ba Vua đến Bêlem, cũng hướng dẫn tầng
tầng lớp lớp tín hữu đến Đất Thánh vào các thế kỷ sau đó. Hành
hương đã trở thành một tục lệ Kitô giáo và dẫn đến đức tin, cũng
sẽ trở thành con đường dẫn tới những khám phá.
Một thế kỷ sau cái chết của Chúa Giêsu, có những tín hữu
can trường đã trẩy đi Giêrusalem để sám hối, tạ ơn, hay chỉ để
được đi trên những nẻo đường mà Đấng Cứu Thế của họ đã đi. Sau
khi hoàng đế Constantin trở thành tín đồ Kitô giáo, mẹ ông là
hoàng thái hậu Hêlêna đến Giêrusalem vào năm 327, trở thành
nhà khảo cổ, lập Núi Canvê, thu thập những mảnh gỗ được coi là
của cây Thánh Giá đích thực và khám phá ra Mộ Thánh, nơi người
ta cho rằng đã chôn cất Chúa Giêsu. Ngay tại đây, chính vua
Constantin xây ngôi Thánh Đường Mộ Thánh đầu tiên. Thánh
Giêrôm, một nhà bác học, đã đến ở tại một vụ viện ở Bêlem do một
phụ nữ quý tộc Rôma là thánh Paola bảo trợ. Tại đây thánh
Giêrom giảng cho các tín hữu sau khi họ đi viếng các nơi thánh.
Vào đầu thế kỷ 5, đã có hai trăm tu viện và nhà trọ ở quanh
Giêrusalem cho khách hành hương. Thánh Augustin và các Giáo
phụ khác đã khuyên các khách hàng hương đến Giêrusalem đừng
để mình bị lôi cuốn bởi những cuộc hành trình mà quên mất
Thành Đô Thiên Quốc. Thế nhưng dòng thác những khách hành
hương vẫn tiếp tục đổ vào Giêrusalem, với đông đảo những người
hướng dẫn luôn sẵn sàng phục vụ và vô số quán trọ khắp dọc
đường.
Hình ảnh người hành hương lãnh phép lành của linh mục
trước khi khởi hành, tay cầm gậy và vỏ ngọc trai, đầu đội một
triều thiên và đeo phù hiệu của nơi đến, đã trở thành một hình
Daniel J. Boorstin 92
http://ebooks.vdcmedia.com
ảnh đầy ấn tượng của toàn cảnh thời trung cổ. Nếu hiểu đúng
nghĩa của nó, người hành hương là người lên đường đi đến một nơi
thánh, là một tín hữu lang thang có thể suốt đời phiêu bạt từ một
nơi thánh này đến một nơi thánh khác.
Đế quốc Rôma suy tàn, cùng với sự nổi dậy của quân cướp
biển, quân Vandal và những quân cướp phá khác, đã khiến cho số
phận của người hành hương đầy khó khăn và nguy hiểm. Cuộc
chinh phục ngày càng lan rộng của người Ả Rập quanh vùng biển
Địa Trung Hải, sự ra đời của Hồi giáo và con số người hành hương
Hồi giáo gia tăng đã làm tắc nghẽn những con đường đi lại của
người hành hương Kitô giáo và khơi dậy một cuộc tranh giành
Giêrusalem thật chua xót. Tảng đá ở Núi Đền Thờ, khu Đền Thờ
của Salômôn, chính là nơi Môhamét đã lên trời. Một số truyền
thuyết Hồi giáo coi Giêrusalem chứ không phải Mecca là trung
tâm và rốn của trái đất, "nơi cao nhất trên trái đất và gần trời
nhất". Khi giáo chủ Omar thắng trận cưỡi một con lạc đà trắng
tiến vào Giêrusalem chỉ sáu năm sau cái chết của Môhamét, ông
đã mở ra một cuộc chiến ngàn năm để giành giật những nơi thánh.
Thời đại lớn của các cuộc hành hương Kitô giáo bắt đầu ở thế
kỷ 10. Những người Hồi giáo nói chung tỏ ra khoan nhượng, có thể
là khinh bỉ, những "quân vô đạo" cuồng nhiệt này. Nhưng khi
miền Đất Thánh xa xôi trở nên khó đến, những người Kitô giáo
đạo đức đã tìm cách đem hương vị của các cuộc hành hương vào
trong nhà của mình. Họ sáng tạo những câu chuyện pha trộn giữa
lịch sử xã hội, thần thoại và những truyện dân gian. Trong sách
truyện hành hương nổi tiếng Guide de Pèlerin, người ta có thể đọc
thấy câu chuyện một khách hành hương đến xin một miếng bánh
mì của một người đàn bà ở Villeneuve khi bà đang nướng trong lò.
Bà từ chối và khi bà quay lại lấy bánh, thì chỉ thấy một hòn đá
tròn. Cũng có chuyện những khách hành hương qua Poitiers đi hỏi
hết một dãy phố mới có một nhà chịu cho họ trọ qua đêm. Ngay
đêm đó, mọi căn nhà trên dãy phố đều bị cháy rụi, trừ căn nhà đã
cho họ ở trọ. Các anh hùng ca như Chansons de Geste kể về những
khách hành hương anh hùng.
Nơi thu hút khách hành hương nhiều nhất ở châu Âu là
Rôma, "ngưỡng cửa của các thánh Tông Đồ". Thánh Bede Đáng
Kinh (673-735) thuật lại đoạn đường đi đến Rôma của người
Britông gồm "người sang cũng như hèn, tín hữu cũng như giáo sĩ,
nam cũng như nữ", khát khao dành một ít những cuộc "hành
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 93
http://ebooks.vdcmedia.com
hương trần thế" gắn những nơi thánh, "để hi vọng đáng được nồng
nhiệt đón nhận bởi các thánh trên trời". Khoảng năm 727, vua Ina
của Wessex đã lập một nhà trọ đặc biệt ở Rôma cho các khách
hành hương Saxông. Dòng thác người hành hương từ nước Anh và
những nơi khác đổ về Rôma ngày càng lớn sau khi các cuộc Thập
tự chinh để tái chiếm Giêrusalem bị thất bại.
Cùng thời kỳ này, những sức mạnh ở viễn tây, một đời sống
thương mại mới và mức dân số không ngừng gia tăng đã làm cho
làn sóng hành hương tràn ngập. Dân Norman, hậu duệ của những
người Norse hồi thế kỷ 10 từng tràn qua Normandie ở phía bờ biển
bắc nước Pháp, đã trở lại Kitô giáo và phái đội quân viễn chinh
của họ đi khắp nơi. William Nhà Chinh Phục đã đưa họ tới nước
Anh năm 1066. Họ bủa đi khắp vùng biển Địa Trung Hải, đánh
chiếm miền nam Italia và tới năm 1130 đã thiết lập vương quốc
Sicily, là nơi những người Kitô, Do Thái và ả Rập chung sống và
trao đổi về tri thức, nghệ thuật và tư tưởng.
Khi Đức Urban II lên ngôi Giáo hoàng vào năm 1088, Giáo
hội đang ở trong một tình trạng cần cải tổ cấp bách, do những sự
nhũng lạm của việc mua bán ân xá và chức tước, cùng với sự chia
rẽ do sự tranh chấp của một phản - Giáo hoàng. Giáo hoàng Urban
II là một nhà cải cách đầy nghị lực, ngài đã sử dụng tài tổ chức và
hùng biện của mình để thanh tẩy và chữa lành. Hoàng đế phương
Đông hồi đó là Alexius Comnenus thấy thủ đô Byzance của mình
bị quân Hồi đe dọa, đa gửi sứ giả tới Giáo hoàng Urban để cầu
viện. Là con người đầy nghị lực, Giáo hoàng nhận thấy đây là cơ
hội để hòa hợp các giáo hội Đông và Tây, đồng thời để giải phóng
Đất Thánh.
Giáo hoàng đã triệu tập một Công Đồng lịch sử ở Clermont,
miền nam nước Pháp, với sự tham dự của các giám mục Pháp và
các đại biểu của giáo hội ở khắp châu Âu. Khi Công đồng khai mạc
vào ngày 18 tháng 11, 1095, nó đã trở thành một đại hội quần
chúng, số người tham dự quá đông khiến cho thánh đường không
thể chứa hết, nên phải chuyển sang một cánh đồng ở ngoài cổng
phía đông của thành phố. Trong cuộc đại hội ngoài trời, bằng
những lời lẽ hết sức hùng hồn, Giáo hoàng đã kêu gọi mọi tín hữu
hăng hái lên đường giải phóng Đất Thánh.
Để giải phóng Đất Thánh, mọi tín hữu sẽ lên đường hướng về
phương Đông ngay sau khi họ thu hoạch xong hòa màu vào mùa
hè, trước ngày lễ Đức Mẹ Lên trời, 15 tháng 8, 1096. Thiên Chúa
Daniel J. Boorstin 94
http://ebooks.vdcmedia.com
sẽ là người chỉ đạo, thánh giá trắng sẽ là cờ hiệu và tiếng hô xung
trận sẽ là "Deus le volt!" (Chúa trời!). Nhà cửa và mọi sự của họ sẽ
được đặt dưới sự bảo vệ của Giáo hội.
Với lời kêu gọi lâm chiến này, Giáo hoàng Urban II đã huy
động mọi sức mạnh của Giáo hội châu Âu biến những cuộc hành
hương thành những cuộc thập tự chinh. Hành hương chỉ là cuộc
hành trình nhỏ của cá nhân, còn thập tự chinh lại là cuộc hành
trình lớn của cộng đồng hay quần chúng. Những người cất bước
lên đường tất yếu phải trở thành những người khám phá. Thế
nhưng, nhìn chung, điều họ muốn tìm thì đã không tìm thấy, còn
điều họ không nghĩ tới thì họ lại tìm thấy rất nhiều.
Các cuộc Thập tự chinh sẽ là một trong những phong trào
hỗn độn nhất, rối loạn nhất trong lịch sử. Pierre ẩn sĩ là một điềm
báo trước những tai họa sẽ xảy đến. Ông được gọi là ẩn sĩ vì ông
thường khoác một chiếc áo ẩn sĩ, thực tình ông không phải một ẩn
sĩ gì cả, vì ông thích đám đông và biết cách khích động họ. Pierre
đã lập tạo quân riêng của mình được chiêu mộ từ đoàn quân hành
hương hỗn tạp ở quận Berry miền trung nước Pháp. Khi ông đến
Cologne miền đông nước Đức vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, 12
tháng 4, 1096, có khoảng 15 ngàn người hành hương thuộc mọi lứa
tuổi, đàn ông cũng như đàn bà, lớn cũng như nhỏ, đã theo ông.
Một công chúa Byzance tên là Anna Comnena đã sợ hãi thuật lại.
"Cả một đạo binh của toàn thể phương Tây cùng tất cả các bộ lạc ở
xa tận miền Pillars của Hercules bên kia biển Adriatic đang tràn
qua châu Âu để tiến về châu Á, mang theo toàn bộ gia đình của
họ".
Khi đến Constantinople, đoàn lữ chiến binh của Pierre đã
đem đến đây những rắc rối mới. Ở đây họ nhập chung với đoàn
quân của Walter Không Xu, rồi tiến về Thành Thánh, đi đến đâu
cướp phá ở đó. Hoàng đế Byzance là Alexeus I tìm cách thuyết
phục những hiệp sĩ ngang tàng tuân thủ kỷ luật của ông, nhưng
những tay hiệp sĩ có đầy tham vọng đã chinh phục và cướp phá để
lập những vương quốc mới riêng cho mình. Những đạo quân Kitô
giáo này đã đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ trong nhiều trận chiến và
khải hoàn tiến vào Giêrusalem năm 1099, kết thúc cuộc Thập Tự
Chinh thứ nhất.
Giêrusalem mau chóng được tổ chức thành một Đế quốc
Latinh. Đây mới chỉ là bước đầu của phong trào sôi động kéo dài
suốt hai thế kỷ để đem lại an toàn cho các cuộc hành hương.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 95
http://ebooks.vdcmedia.com
Nhưng về mặt nào đó, đây cũng là sự chấm dứt của các cuộc Thập
tự chinh, vì là cuộc viễn chinh thành công cuối cùng để giải phóng
Đất Thánh. Các cuộc "Tập tự chinh" sau này chỉ còn là những cuộc
viễn chinh để giúp đỡ những tín hữu đã định cư ở phương Đông.
Sau khi Giêrusalem rơi vào tay giáo chủ Thổ Nhĩ Kỳ Saladin năm
1187, càng ngày càng nhiều người hành hương muốn về những nơi
thánh dễ đến hơn ở phương Tây.
Đối với các tín đồ ở Anh quốc, nơi thánh có tiếng nhất là
Canterbury. Tại đây có Vương Cung Thánh Đường Canterbury, là
nơi thánh Austin (cũng gọi là Augustin thứ hai, chết năm 604) đã
được phong làm tổng giám mục đầu tiên và cũng tại đây thánh
Thomas à Becker đã ho hào tín hữu chống lại vua Henry II và tử
đạo ngày 29 tháng 12, 1170. Sau này, chính vua Henry II đã đặt
nơi này làm địa điểm hành hương khi ông đi đến đó để làm việc
sám hối công khai. Roger ở Hoveden, một nhà viết sử thời đó, đã
thuật lại. "Vừa khi vua đến gần thành phố, khi nhìn thấy ngôi
Thánh đường có chôn xác vị thánh tử đạo, ông đã xuống ngựa, cởi
giày, đi chân trần và mặc áo nhặm, rồi đi bộ ba dặm tới mộ của vị
thánh tử đạo, với một vẻ hiền lành và thống hối khiến ta có thể
nghĩ đây là việc của Đấng đang nhìn xem trái đất và làm nó rung
chuyển".
Sau khi chấm dứt các cuộc Thập tự chinh, hành hương vẫn
còn là một sức mạnh trường tồn của Kitô giáo châu Âu và đối với
nhiều người Rôma đã thay thế cho Giêrusalem. Năm 1300, tiếp nối
tinh thần của Urban II, Giáo hoàng Boniface VIII đã công bố Năm
Thánh lần thứ nhất, ban những ơn toàn xá cho các tín hữu hành
hương đến Rôma và đã thu hút trên hai mươi ngàn người hành
hương. Từ đó trở đi, cứ 50 năm lại có một Năm Thánh với ơn toàn
xá cho những người hành hương đến Rôma, cho tới năm 1470 thì
Giáo hoàng đã rút khoảng thời gian này xuống còn 25 năm.
Trong Hồi giáo, ngay từ ban đầu, hành hương luôn luôn là
một nghĩa vụ thánh. Mọi tín đồ Hồi giáo ngoan đạo, nếu có khả
năng và có thể cấp dưỡng gia đình trong lúc mình đi vắng, đều
buộc phải hành hương đến Mecca ít là một lần trong đời. Trong
cuộc hành hương () từ tháng bảy tới tháng mười theo lịch Hồi giáo,
người hành hương mặc hai chiếc áo choàng trắng không đường chỉ,
biểu tượng sự bình đẳng của họ trước mặt Thượng Đế. Họ không
được cạo râu hay cắt móng tay. Họ phải đi bộ vòng quanh đền
Kabah bảy lần và thực hiện một số nghi thức khác xung quanh
Daniel J. Boorstin 96
http://ebooks.vdcmedia.com
đền thờ Mecca trước khi trở về nhà. Từ đó về sau, họ được truy
tặng danh hiệu hajji, người hành hương.
Lời tuyên xưng đức tin trong Bản Tuyên Thệ Augsburd
(1530) của giáo phái Cải Cách Luther đã kết án những cuộc hành
hương - cùng với việc ăn chay, tôn thờ các thánh và lần chuỗi mân
côi - như là những "trò trẻ con và vô bổ". Nhưng nhìn lại, các cuộc
Thập tự chinh của những đoàn quân hành hương là một sự gây
thức tỉnh lớn. Đó vừa là một dấu hiệu và nguyên nhân của một sức
sống mới, một sự tìm tòi mới, một sự cởi mở và linh hoạt mới trong
đời sống phương Tây. Từ những cuộc Thập tự chinh đã phát sinh
biết bao điều mới lạ do những con người từng đi hết nơi này đến
nơi khác. Các nước tham dự Thập tự chinh tại phía đông Địa
Trung Hải đã phát triển nền thương mại của mình với thế giới Hồi
giáo. Các nhà băng của ý phát đạt khi họ tài trợ cho các ông vua
và Giáo hoàng và cho những khách hành hương vay vốn. Những
người hành hương trở về mang theo những câu chuyện kỳ diệu của
phương Đông, cùng với sự sành điệu trong các hàng gấm vóc, tơ
lụa, nước hoa và gia vị, là những cái đã tạo cho thành phố Venice
nét quyến rũ vẫn còn thấy được ở Dinh Doges và Piazza San
Marco.
Xét về nhiều phương diện, sự thất bại của các cuộc Thập tự
chinh lại là sự may phước cho các nước Kitô giáo và là một chất
xúc tác cho châu Âu khám phá ra thế giới phương Đông. Khi
không còn hi vọng tái chiếm Giêrusalem và những con đường hành
hương đến đó, Kitô giáo phương Tây quay sang hoạt động truyện
giáo. Hành hương thì quy tụ tín đồ về một nơi, còn truyền giáo thì
tỏa ra để đến với những người xa lạ ở cả những miền đất mới. Lịch
sử phát triển Kitô giáo là lịch sử của các cuộc truyền giáo.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 97
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 16
NGƯỜI MÔNG CỔ ĐÃ MỞ ĐƯỜNG NHƯ THẾ NÀO
Những nhà thám hiểm đường bộ của Kỷ Nguyên Khám Phá
đầu tiên của châu Âu trên đường tiến về phương Đông vào giữa
thế kỷ 13 đã cần đến những nguồn lực khác hẳn với những nhà
thám hiểm trên biển của thời đại sau. Colombô sẽ phải tìm ra thật
nhiều tiền bạc, tàu thuyền, tuyển mộ và tổ chức một thủy thủ
đoàn, bảo đảm lương thực, giữ cho thủy thủ đoàn vui vẻ và không
nổi loạn và đi trên những đại dương không có bản đồ. Một người
thám hiểm trên bộ trước kia cũng cần những tài năng khác hẳn.
Anh ta có thể chỉ cần một hay hai bạ đồng hành trong suốt cuộc
hành trình - dù trên những lộ trình chưa từng có người châu Âu
qua lại trước đó. Họ có thể kiếm thức ăn thức uống dọc đường. Họ
không cần phải là những người gây vốn hay những nhà tổ chức
bậc thầy, nhưng họ phải có tính dễ thích nghi và dễ hòa hợp.
Những thủy thủ của Colômbô đã nổi loạn khi cuộc hành trình kéo
dài mấy tuần lễ quá thời gian họ chờ đợi, trong khi những nhà
thám hiểm trên bộ có thể kéo dài hành trình của mình tùy theo
nhu cầu có thể một tháng, một năm, hay thậm chí mời năm. Trong
khi người đi biển lênh đênh trên những khoảng mênh không
không một bóng người và trên biển tin tức thường là tin xấu, thì
ngược lại, những người đi trên bộ - thương gia hay nhà truyền giáo
- có thể làm nghề của mình dọc đường, học hỏi đang khi trên
đường. Nếu người đi thám hiểm đường bộ đi một mình phải dùng
thuyền bè cho một quãng đường nào đó, họ là hành khách. Chiếc
thuyền thường do một người địa phương chỉ huy và cung cấp
những thứ cần thiết. Người đi đường bộ có thể vừa cô đơn hơn, vừa
ít cô đơn hơn người đi trên biển. Vì dù họ có thể thiếu bạn đồng
hành hay những người địa phương giúp đỡ, giống như những
người đi với Colômbô trên chuyến tàu Santa Maria, nhưng họ có cơ
hội để gặp gỡ nhiều điều mới lạ, thích thú, hay thỉnh thoảng gặp
được một vài người để trò chuyện trong những ngày đêm dọc
đường.
Daniel J. Boorstin 98
http://ebooks.vdcmedia.com
Những hiểm nguy trên biển hầu như ở đâu cũng giống nhau
- sóng to và gió lớn, mất phương hướng - nhưng những nguy hiểm
trên bộ thì cũng muôn màu muôn vẻ như những phong cảnh, tạo
cho cuộc hành trình nhiều thích thú và bất ngờ. Có thể có cướp
trong quán trọ này chăng? Bạn có thể tiêu hóa được thức ăn địa
phương không? Bạn nên mặc trang phục của bạn hay trang phục
địa phương? Người ta có cho bạn vào cổng thành này không? Bạn
có vượt qua được hàng rào ngôn ngữ để giải thích điều bạn cần và
cho thấy công việc của bạn vô hại đối với người ta?
Thám hiểm đường bộ không phải một bước nhảy mạo hiểm
của tập thể, mà là một chuyến đi vất vả cực nhọc của cá nhân. Thế
mà đã có một ít người tiên phong làm cuộc hành trình gian nan
này và mở đường từ châu Âu đi đến Cathay (= Trung Hoa).
Người châu Âu đã từ lâu được nghe nói đến những truyền
thuyết về một phương Đông bí ẩn. Một ít người đã được thưởng
thức những món xa hoa kỳ lạ từ phía bên kia trái đất - lụa mịn
của Trung Hoa và kim cương lấp lánh của Golconda. Trong những
căn phòng trải thảm đất tiền từ Ba Tư, họ có những bữa tiệc với
những món ăn có gia vị đem từ Ceylon và Java và giải trí hàng giờ
với những quân cờ tướng làm bằng ngà của Xiêm La.
Nhưng những nhà buôn của Venice, Genoa, hay Pisa từng
phát đạt nhờ việc buôn bán những thứ vật dụng của phương Đông
xa lạ này lại chưa bao giờ được trông thấy ấn Độ hay Trung Hoa.
Sự giao thương của họ với phương Đông là ở những cảng phía đông
của biển Địa Trung Hải. Những mặt hàng quý của họ đã được đem
đến bởi một trong hai con đường chính. Một là Con Đường Tơ Lụa
huyền thoại, một đường bộ dọc suốt từ đông Trung Hoa sang
Trung Á, đi qua Samarkand và Baghdad, cuối cùng dẫn tới những
thành phố ven Hắc Hải hay tây Địa Trung Hải. Con đường thứ hai
đi qua Biển Đông, Ấn Độ dương và Biển Ả Rập, rồi hoặc đi lên
Vịnh Ba Tư đến Bastra, hay đi lên Biển Đổ để đến kênh Suez. Để
đến được thị trường châu Âu, những hàng hóa này còn phải đi tiếp
trên bộ, qua Ba Tư hay Syria hay qua Ai Cập. Trên cả hai con
đường này, các lái buôn người Frank hay ý thường không thấy con
đường nào từ các cảng Địa Trung Hải để đi tiếp lên hướng đông.
Các lái buôn Hồi giáo sẵn sàng trao đổi hàng hóa với họ ở
Alexandria, Aleppo hay Damascus, nhưng những người Thổ Hồi
giáo không cho phép họ đi tiếp về hướng đông. Đây là Bức Màn
Sắt của thời cuối Trung cổ.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 99
http://ebooks.vdcmedia.com
Rồi bức màn ấy đã được kéo lên trong vòng chỉ có một thế kỷ,
từ khoảng 1250 tới 1350 và đã có giao thông trực tiếp giữa châu
Âu và Trung Hoa. Trong thời kỳ này, những lái buôn ý gan dạ đã
không còn phải chờ cho những mặt hàng đặc sản của họ tới được
Aleppo, Damascus, hay Alexandria. Bây giờ, họ tự mình đi thành
từng đoàn qua Đường Tơ Lụa tới những thành phố ở ấn Độ và
Trung Hoa. Cứ tưởng đây sẽ là khởi đầu cho một sự trao đổi liên
tục và kéo dài để Đông và Tây làm giàu lẫn cho nhau, nhưng trong
thực tế thời gian này chỉ là một giai đoạn mạo hiểm tạm thời, để
rồi bức màn lại rớt xuống một cách nặng nề. Bóng tối lại tiếp tục
phủ lên phần lớn lịch sử tầm nhìn của cả Đông và Tây thời cận
đại. Nhiều thập kỷ nữa sẽ còn phải qua đi trước khi có cuộc khám
phá đại dương để làm cho châu Âu một lần nữa lại có thể tiếp xúc
với các bờ biển của ấn Độ và Đông Nam Á. Nhiều thế kỷ nữa sẽ
còn phải qua đi trước khi người châu Âu lại được phép viếng thăm
những hải cảng Trung Hoa và còn lâu nữa người châu Âu mới có
thể đặt chân đến Trung Á và đất liền Trung Hoa.
Bức màn đã được kéo lên không phải nhờ những người lính
viễn chinh châu Âu, cũng không phải do những thủ đoạn của các
nhà chính trị châu Âu. Thật ngạc nhiên, việc mở đường vào Trung
Hoa phải được kể là do công của những người Tartar, một tộc
chủng Mông Cổ ở Trung Á. Là một mối đe dọa cho châu Âu thời
Trung Cổ, những người Tartar này đã bị người châu Âu coi là
những người dân cướp phá man rợ, qua những hình ảnh ghê sợ
được mô tả về họ bởi những nhà văn châu Âu đã biết hay nghe nói
về những cuộc thảm sát của người Tartar ở phương Tây. Nhưng
trong những nhà văn châu Âu này, rất ít người đã tận mặt nhìn
thấy một người Tartar và họ chẳng biết chút gì về những thành
tích to lớn và vững bền của các thủ lãnh người Tartar của triều đại
Khan.
Mông Cổ là một đế quốc rộng lớn, rộng gấp đôi đế quốc Rôma
ở thời kỳ rộng lớn nhất. Genghis KHan và đoàn quân của ông từ
Mông Cổ tràn xuống Bắc Kinh năm 1124. Trong một nửa thế kỷ
sau đó, họ đã chiếm được hầu hết đông á, rồi đi ngược phía Tây
qua Nga, đến tận Ba lan và Hungari. Khi Kublai Khan lên trị vì ở
Mông Cổ năm 1259, đế quốc của ông đã trải rộng từ sông Hoàng
Hà ở Trung Hoa tới vùng bờ sông Danube bên đông Âu và từ
Siberia đến Vịnh Ba Tư. Triều đại Khan của Mông Cổ, từ Genghis
Khan tới các con và cháu của ông - Batu Khan, Mangu Khan,
Daniel J. Boorstin 100
http://ebooks.vdcmedia.com
Kublai Khan và Hulagu - là một trong số những triều đại tài ba
nhất của các đế quốc lớn. Họ biết kết hợp tài năng quân sự, lòng
dũng cảm, tài tổ chức hành chính và sự bao dung văn hóa hơn bất
kỳ chế độ quân chủ nào ở châu Âu. Họ đáng có một chỗ đứng đáng
kính trọng hơn và khác hơn với những gì mà các sử gia tây phương
đã gán cho họ.
Con đường vào Trung Hoa đã không thể mở ra nếu không có
những tài năng và thành tựu đặc biệt của những quân vương
Mông Cổ và nhân dân của họ. Marco Polo đã tìm ra con đường đến
Trung Hoa khi nào? Không có Marco Polo và những người khác
kích thích trí tưởng tượng của người châu Âu để nóng lòng đến
Trung Hoa, liệu sẽ có một Christopher Colômbô?
Năm 1241, một đoàn kỵ binh hùng hậu người Tartar đã tàn
phá Ba Lan và Hungari, đánh bại một đạo binh người Đức và Ba
Lan trong trận chiến Lignitz ở Silesia, trong khi một đoàn quân
khác của họ đánh bại quân Hungari. Cả châu Âu kinh hoàng. Ở
Biển Bắc, ngay cả những ngư dân can đảm nhất của Gothland và
Friesland cũng khiếp sợ không dám ra đánh cá ở bờ biển
Yarmouth quen thuộc của họ. Hoàng đế Roma Frederic II (1194-
1250), người đã từng chiến thắng trong cuộc Thập tự chinh thứ
sáu (1128-29) và đã chiếm được Giêrusalem và sau đó ký một hiệp
định đình chiến mười năm với vua Hồi giáo của Ai Cập, nay sợ
rằng dòng thác Tartar sẽ lan tràn khắp đế quốc Kitô giáo. Ông kêu
gọi sự liên minh của vua Henry III, vua nước Anh và các vua khác
để cùng chống lại quân Tartar, với hy vọng tiêu diệt quân Tartar.
Giáo hoàng Grêgôriô IX tuyên bố một cuộc thập tự chinh mới
chống lại quân Tartar. Nhưng vì có sự mâu thuẫn giữa Giáo hoàng
với Frederick II, người đã hai lần bị vạ tuyệt thông, nên vua
Hungari chỉ hứa suông mà không gửi quân đi. May thay, khi quân
Tartar đang đạt được những thành công quân sự lẫy lừng nhất của
họ thì họ nghe tin thủ lãnh Khan Okkodai của họ đã chết ở châu Á
và vì thế họ phải vội kéo quân về nước.
Mặc dù có sự dè chừng của các vua Kitô giáo và những cuộc
tàn sát người Ba Lan và Hungari của người Tartar, nhưng những
người Tartar có thể là những đồng minh hùng mạnh chống lại
người Hồi giáo và Thổ khi đó đang án ngữ con đường dẫn tới
phương đông. Bởi vì quân Tartar, sau khi thành công trong những
chiến dịch chống lại quân Ismailian ở bờ phía nam của biển
Caspian, đã tiếp tục đi chinh phạt và chiến thắng Giáo chủ của
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 101
http://ebooks.vdcmedia.com
Baghdad và Syria. Vị tướng người Tartar ở Ba Tư đã phái đặc sứ
tới vua Lui IX của Pháp, lúc đó đang ở Cyrus trong cuộc thập tự
chinh, để đề nghị sự liên minh và hợp tác. Nhưng các vua Kitô
giáo và Giáo hoàng từ chối liên minh với những người không phải
Kitô giáo. Họ muốn những thủ lãnh Khan phải được rửa tội trước
khi chấp nhận liên minh. Phán đoán sai lầm này của những nhà
lãnh đạo Kitô giáo đã có ảnh hưởng quyết định tới diện mạo tương
lai của phần lớn châu Á. Sức mạnh của Hồi giáo lúc này đã bị suy
yếu bởi những người Tartar, nhưng những nước châu Âu Kitô giáo
không có phần đóng góp nào trong sự thành công này.
Những người Tartar bị coi là "man rợ" chỉ hành động mà
không cần nhân dân một giáo điều nào, nhưng họ lại chính là
người mở đường cho phương Tây đến với phương Đông. Với cuộc
chinh phục Ba Tư, người Tartar đã đem lại một chính sách thuế
má thấp của Mông Cổ, những con đường bảo đảm an ninh và tự do
đi lại cho mọi người - và như thế họ đã mở ra con đường đi đến ấn
Độ. Cuộc chinh phục Nga của họ mở đường sang Trung Hoa. Con
đường lớn có tên là Đường Tơ Lụa, băng ngang châu Á, tuy đã có
sự qua lại tấp nập từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chỉ sau cuộc chinh
phục của người Tartar, mới có người châu Âu đi lại qua đó. Những
con đường Ai Cập, lúc này còn nằm trong tay Hồi giáo, vẫn cấm
người châu Âu qua lại và hàng hóa đi qua đó phải chịu thuế quá
nặng bởi những vua Mamluk Hồi giáo, khiến cho giá hàng hóa từ
Ai Cập tới được Italia tăng lên gấp ba lần.
Daniel J. Boorstin 102
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 17
CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO NGOẠI GIAO
Giữa thế kỷ 13, những biến cố mới xảy ra đã nhóm lên nơi
người Kitô giáo niềm hy vọng cải hóa người Tartar theo đạo. Bởi vì
cuộc chinh phục người Thổ Hồi giáo đã vô tình biến người Tartar
thành những đồng minh của Kitô giáo phương Tây. Những niềm
hy vọng ngày càng lây lan này đã làm các người Kitô giáo nhiệt
thành háo hức muốn thấy Genghis Khan trở thành người Kitô giáo
đầu tiên trên đất Mông Cổ. Những tin đồn về việc Genghis Khan
đã tin đạo có vẻ như được củng cố bởi một báo cáo rằng các người
vợ và người mẹ của Đại Vương Khan đã theo Kitô giáo và bởi sự
kiện có rất nhiều người Kitô giáo thuộc phái Nestoriô trong lãnh
thổ Tartar được phép tự do theo đạo.
Các tu sĩ dòng Phanxicô đã trở thành những nhà thám hiểm
đầu tiên.
Năm 1423, ngay sau khi lên ngôi, Giáo hoàng Innocent IV đã
cải tổ giáo hội một cách quyết liệt để đương đầu với mối đe dọa
xâm lăng mới của người Tartar. Giáo hoàng đã triệu tập công đồng
chung ở Lyons năm 1245 để "tìm ra phương thuốc chống lại những
người Tartar, những kẻ chà đạp đức tin và những kẻ bách hại
người Kitô giáo". Gợi lại những thảm cảnh ghê rợn do người Tartar
gây nên ở Nga, Ba Lan, Hungari và cảnh làn sóng Tartar đang
dâng lên, cộng đồng khẩn thiết kêu gọi các tín hữu chặn đứng mọi
con đường mà quân xâm lăng có thể đi qua, bằng cách đào hào,
xây tường và đắp lũy.
Nhưng đồng thời vị Giáo hoàng đầy nghị lực này đã quyết
định ngăn chặn mối nguy hiểm ngay từ gốc rễ, bằng cách gởi một
đặc sứ của mình tới Cathay để cải hóa vua Khan là Kuyuk Khan,
tại thủ đô của ông ở bắc Mông Cổ. Không sợ hãi vì sự kiện chưa
từng có người châu Âu nào tới thủ đô Tartar mà có thể còn sống để
trở về, Giáo hoàng Innocent IV đã gởi đặc sứ của mình đi ngày 16
tháng 4, 1245, trước cả lúc công đồng khai mạc. Ngài đã khôn
ngoan chọn một tu sĩ dòng Phanxicô, John of Pian de Carpine
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 103
http://ebooks.vdcmedia.com
(1180?-1225) người từng là bạn và đệ tử của thánh Phanxicô Assisi
(1182-1226). Sinh tại Perugia, gần Assisi, thầy lúc đó đang làm bề
trên của dòng tại Cologne. Thầy John là người thích hợp tuyệt vời
cho sứ mạng này. Bản báo cáo dài 30 trang của thầy về cuộc hành
trình hai năm, tuy vắn tắt, nhưng là một trong những bài mô tả
hay nhất về những phong tục của người Tartar vào thời Trung Cổ.
Cùng đi với thầy có một tu sĩ Phanxicô khác, thầy benedict the
Pole. Cả hai đã đến được Mông Cổ và đã thành công trở về.
Thầy John không giấu giếm sứ mạng của mình, nhưng đã
khôn khéo dụ dỗ được những người địa phương không mấy hiếu
khách để họ chỉ đường cho các thầy chóng đi đến nơi. Từ trại của
Batu bên dòng sông Volga, các thầy dòng đã phải mất ba tháng
rưỡi mới tới được cung điện của Đại Vương Khan là Kuyuk Khan,
ở Karakorum trung tâm của Mông Cổ. Trước khi hai thầy dòng
Phanxicô tới đó vào giữa tháng tám, các tướng lãnh Tartar đã hội
họp để chọn và đưa lên ngôi vị hoàng đế mới của họ, trong một
chiếc lều lớn "dựng trên những cột lều dát bạc và đóng bằng những
đinh vàng". Cuộc triều yết đầu tiên của vị tân vương Khan đã kích
động mạnh trí tưởng tượng của người phương Tây về vẻ huyễn
hoặc của phương Đông. "Họ hỏi xem chúng tôi muốn dâng lễ vật gì
lên Tân Vương; nhưng chúng tôi chẳng còn gì vì bao nhiêu của cải
chúng tôi đã tiêu hết dọc đường rồi. Trong lúc ở tại lều, chúng tôi
nhìn thấy trên một ngọn đồi ở cách xa đó một chút, có đến trên 5
trăm xe chất đầy vàng, bạc và gấm lụa, tất cả được vua chia cho
các tướng lãnh và các tướng lãnh chia cho quân lính theo phần của
mỗi người". Sau đó các thầy Phanxicô được phép trình lên vua
thông điệp của Giáo hoàng tuyên bố thiện chí muốn người Kitô
giáo là bạn của người Tartar và mong ước người Tartar trở nên
hùng mạnh với Thiên Chúa trên trời. Nhưng Giáo hoàng ra điều
kiện là người Tartar phải theo đạo của Chúa Giêsu Kitô và phải
ăn năn sám hối vì những thảm họa đó đã gây nên.
Đại Vương Khan đáp lễ bằng việc nhờ thầy John chuyển cho
Đức Giáo hoàng hai lá thư. Tiếc thay, những thư này chẳng có nội
dung đáng kể nào, vì đại vương Khan không sẵn sàng tin Chúa
Giêsu Kitô. Dù vậy, thầy John không nản lòng, vì thầy được
những người Kitô giáo giúp việc trong hoàng cung cho biết vua sắp
sửa tin đạo. Khi Genghis Khan đề nghị phái hai sứ giả của mình
theo hai thầy dòng đến thăm Đức Giáo hoàng, thầy John đã can
ngăn vua. "Chúng tôi sợ rằng họ sẽ nhìn thấy cảnh chúng ta đang
Daniel J. Boorstin 104
http://ebooks.vdcmedia.com
hiềm thù và xâu xé lẫn nhau và điều đó có thể thúc đẩy họ gây
chiến với chúng ta". Ngày 13 tháng 11, 1246, vua Kuyuk Khan cho
phép thầy John trở về.
Vai trò của thầy John of Pian de Parpine trong việc đông tây
gặp nhau không chấm dứt ở đây. Vua Louis IX của Pháp sắp sửa
khởi hành đi Cyprus để bắt đầu giai đoạn đầu của cuộc thập tự
chinh thứ 7.Để thuyết phục vua Louis rằng sẽ lợi hơn cho Giáo hội
nếu vua Louis ở lại Pháp để bảo vệ Giáo hoàng Innocent IV chống
quân Tartar và tên "chúa quỷ" Frederick II, Giáo hoàng phái hai
thầy dòng Phanxicô tài ba này tới Paris. Họ đã thất bại trong
chuyến đi này. Nhưng một thầy Phanxicô khác, William of
Rubruck, một bạn thân của vua Louis, đã có những ấn tượng rất
mạnh về những câu chuyện của hai thầy ở Mông Cổ. Khi vua
Louis lên đường thập tự chinh, vua mang thầy William theo mình.
Một thời gian ngắn sau khi vua đến Cyprus vào tháng 9, 1248,
một người tới gặp vua tự xưng là sứ giả của Đại Vương Khan và
mang theo một thông điệp chào mừng hữu nghị. Sứ giả này trình
vua Louis rằng Đại Vương Khan rất muốn có một khối liên minh
chống lại quân Hồi. Sứ giả cũng báo cáo rằng vào ngày lễ Hiển
Linh ba năm trước, vua Kuyuk Khan đã theo gương mẹ của vua và
theo đạo. Tất cả các thủ lãnh Tartar đã theo gương của vua và
toàn dân Tartar đang hăng hái đoàn kết để chống lại quân thù
Saracen.
Vua Louis cả tin đã vội phái thầy dòng Daminh là André de
Longumeau làm đặc sứ của vua, thầy thông thạo tiếng Ả Rập và
đã từng đến trại Batu. Sau một cuộc hành trình dài, thầy André
đã đến được cung điện của Đại Vương Khan, nhưng sứ mạng của
thầy đã chuyển thành một bi kịch. Thầy nghĩ mình sẽ được Kuyuk
Khan chào đón như một người đồng đạo và kết một liên minh lớn.
Nhưng Kuyuk Khan đã băng hà và và đế quốc này nằm trong tay
của thái hậu nhiếp chính Ogul Gaimish, người hoàn toàn không
phải là Kitô hữu. Sau khi đón nhận lễ vật, bà đã đuổi thầy về với
những lá thư đầy lời lẽ xúc phạm đối với vua Louis.
Chuyến hành trình trở về kéo dài một năm. Phái đoàn của
thầy André đã báo cáo lại rằng người Tartar là những người
nguyên thủy xuất phát từ phía tận cùng của một sa mạc lớn bắt
đầu từ tận cùng phía đông của trái đất, từ thời xa xưa đã trốn qua
những bức tường núi lớn (Vạn Lý Trường Thành?) là bức tường
ngăn chặn quân Gog và Magog. Họ thuật lại việc Genghis Khan
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 105
http://ebooks.vdcmedia.com
ông nội của Kuyuk đã trở lại Kitô giáo sau khi ông được thấy
Thiên Chúa trong một giấc mộng. Họ mô tả những đống xương
người trắng xóa trên những con đường chinh phục của quân
Tartar và chỉ trong một trại của quân Tartar, họ đã trông thấy
tám trăm ngôi nhà thờ nhỏ dựng trên những chiếc xe trận. Họ
cũng thuật lại tin đồn rất đáng mừng rằng một tướng Mông Cổ tên
là Sartach, con của Batu, là một người Kitô giáo.
Vua Louis đang ở Đất Thánh khi ông nhận được những báo
cáo lạc quan này. Thầy William of Rubbruck cũng đang có mặt bên
cạnh vua. Vua trao cho thầy một cuốn Kinh Thánh và một ít tiền
để tiêu, cùng với những lá thư gửi cho tướng Sartach và Đại Vương
Khan. Để tránh bị xúc phạm như lần trước, vua không chính thức
gọi thầy William là đặc sứ của mình. Thầy William cùng với một
thầy khác tên là Bartholomew of Cremona đã rời Constantinople
ngày 7 tháng 5, 1253, đáp tàu băng qua Hắc Hải đến Crimea, rồi
đi đường bộ dọc theo dòng sông Don. Khi họ gặp Sartach mà họ
tưởng là bạn, ông ta nổi giận phủ nhận mình là người Kitô giáo và
"chế giễu người Kitô giáo". Các thầy bỏ đấy rồi băng ngang sông
Volga, và sức nóng của sa mạc trước khi đến được trại của Đại
Vương Khan là Mangu, ở kinh thành của Mông Cổ, ngày 27 tháng
12, 1253. Đại Vương thương hại các thầy đã cho ở lại hai tháng cho
tới khi "giá lạnh" qua đi.
Ở triều đình có khá nhiều người thuộc phái lạc giáo Nestoriô,
làm cho kitô giáo bị mang tiếng xấu. Chính Mangu Khan tuy tỏ ra
độ lượng nhưng những quan điểm rõ rệt của vua khiến thầy đã
không thành công trong sứ mạng của mình.
Thầy William kể lại với sự tiếc rẻ, "Giá như tôi có được quyền
làm những phép lạ như Môse, có lẽ ông ta đã phải chịu khuất
phục".
Không thành công trong sứ mạng của mình, nhưng thầy
William đã mang về cho châu Âu một kho báu các sự kiện ở mặt
phía bên kia của địa cầu. Thầy mô tả dòng sông Don và sông Volga
và cho thấy Caspian không phải một vịnh mà là một cái hồ. Lần
đầu tiên châu Âu biết được qua những bài viết của thầy rằng
Trung Hoa chính là vùng đất mà người Rôma gọi là "Seres", nơi
phát minh ra tơ lụa.
"Người Trung Hoa viết bằng một cái cọ giống như cái cọ vẽ
của họa sĩ và họ vẽ các nét khác nhau thành một hình biểu trưng
Daniel J. Boorstin 106
http://ebooks.vdcmedia.com
cho một từ". Trong tài liệu đầu tiên này của phương Tây liên quan
tới chữ viết Trung Hoa, thầy cho thấy đã hiểu biết một điều mà
nhiều người khác không biết trong nhiều thế kỷ. Thầy cũng tỉ mỉ
và chính xác mô tả những nghi thức tôn giáo của các lạt ma của
Phật giáo Tây Tạng và kinh nguyện "om maini padme, bum" của
họ.
May mắn thay, khi được phép rời Paris, thầy William được
gặp nhà bác học tiên phong người Anh và là bạn cùng dòng
Phanxicô với thầy, đó là Roger Bacon (khoảng 1220-1292). Thầy
Bacon bị nhà dòng nghi ngờ là thực hành pháp thuật gọi hồn và
lạc giáo, nên đã bị cách ly ở Paris để các bề trên có thể canh chừng.
Bacon nghiên cứu bản tường trình về hành trình của thầy
William, rồi đưa những điều khám phá của thầy William vào bộ
Opus Majus của mình, là bộ bách khoa Bacon soạn cho Giáo hoàng
Clêmentê IV (1268). Chính qua tác phẩm này của Bacon mà
những khám phá của William được biết đến ở châu Âu.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 107
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 18
KHÁM PHÁ CHÂU Á
Marco Polo vượt xa mọi nhà thám hiểm Kitô giáo về kinh
nghiệm, thành tựu và ảnh hưởng của ông. Những thầy dòng
Phanxicô hành trình đến Mông Cổ và trở về trong không đầy ba
năm và ở đó với tư cách là những nhà truyền giáo - ngoại giao.
Hành trình của Marco Polo kéo dài hai mươi bốn năm. Ông đi xa
hơn những người đã đi trước mình, vượt qua Mông Cổ đến tận
trung tâm của Trung Hoa. Ông rong ruổi khắp đất Trung Hoa cho
đến tận đại dương và ông nắm giữ những vai trò khác nhau, trở
thành cận thần của Kublai Khan và tổng trấn của một thành phố
lớn Trung Hoa. Ông thông thạo ngôn ngữ và say mê tìm hiểu đời
sống và văn hóa Trung Hoa. Đối với mọi thế hệ châu Âu, những
bài mô tả dồi dào, sống động và hiện thực của ông về lối sống đông
phương chính là cuộc khám phá châu Á.
Venice thời đó là một trung tâm thương mại lớn ở Địa Trung
Hải và xa hơn. Marco vừa tròn 15 tuổi vào năm 1269, khi ông
Nocolò, cha của Marco và ông Maffeo Polo, chú của Marco từ
Venice trở về sau một cuộc hành trình 9 năm sang phương Đông.
Một người chú khác của Marco cũng tên là Marco Polo, có những
trung tâm buôn bán ở Constantinople và Soldaia ở Crimea; hai
ông Nicolò và Maffeo cùng đến đó năm 1260 để hợp tác với chú em.
Trong phần mở đầu cuốn sách của mình, Marco Polo đã kể lại
những cuộc hành trình này mà ông không tham dự. Hai ông
Nicolò và Maffeo có ở Constantinople một kho dự trữ đá quý. Họ
chuyển bằng đường biển tới Soldaia, rồi từ phía đông bắc đi dọc
sông Volga đến cung điện nguy nga tráng lệ của Barka Khan, con
của Genghis Khan. Barka Khan không chỉ tiếp đãi hai anh em rất
lịch sự và long trọng, nhưng điều đáng nói hơn, ông đã mua toàn
bộ đá quý của họ, khiến "hai anh em nhận được gấp đôi giá trị thật
của nó", theo như Marco Polo nhận định.
Khi một cuộc chiến nổ ra giữa Barkha Khan và một hoàng tử
Tartar khác cắt đứt đường về Constantinople của hai anh em, họ
Daniel J. Boorstin 108
http://ebooks.vdcmedia.com
quyết định tiếp tục công việc mạo hiểm kinh doanh xa hơn về phía
đông. Một cuộc hành trình 7 ngày qua sa mạc đưa họ tới Bokhara,
ở đây họ nhập đoàn với một số sứ giả Tartar khác đang trên đường
đến cung điện của Đại Vương Khan là Kublai Khan. Những sứ giả
này cho hai anh em Polo biết rằng vua Kublai Khan chưa từng gặp
hai ông và sẽ tiếp đãi hai ông một cách long trọng và hào phóng.
Những sứ giả này hứa sẽ bảo vệ hai ông dọc đường. Hai anh em
Polo nhận lời mời của họ và sau một năm dài hành trình, "được
tận mắt nhìn thấy đủ thứ kỳ diệu", họ tới được cung điện của vua
Kublai Khan. Vua Khan tiếp đãi họ hết sức thân thiện như những
sứ giả đã nói trước và tỏ ra là một con người say mê tìm hiểu,
thông minh linh lợi và muốn biết mọi điều về phương Tây.
Cuối cùng vua đề nghị hai ông làm sứ giả của vua đến Giáo
hoàng, thỉnh cầu Giáo hoàng phái một trăm nhà truyền giáo thông
thạo về Thất Nghệ để dạy cho dân của ông về Kitô giáo và khoa
học của phương Tây. Ông cũng xin đem về cho ông ít dầu từ cây
đèn ở Mộ Thánh tại Giêrusalem. Khi hai ông Nicolò và Maffeo lên
đường, họ mang theo Bảng Vàng của vua, giấy bảo đảm an toàn
trên đường và lệnh của vua cho mọi người phải giúp đỡ hai ông
trên đường. Khi về tới Acre vào tháng 4, 1269, hai anh em được tin
Giáo hoàng đã qua đời và chưa có người kế vị. Họ trở về Venice để
đợi kết quả bầu tân Giáo hoàng. Khi Đức Gregoriô X trở thành tân
Giáo hoàng, ngài không cử một trăm nhà truyền giáo như đã được
yêu cầu, nhưng chỉ phái hai tu sĩ Đaminh đi theo hai anh em Polo.
Năm 1271, khi hai anh em Nicolò và Maffeo Polo rời Venice
để lên đường trở về với Kublai Khan, họ cho con trai của Nicolò là
Marco đi theo. Khi ấy Marco 17 tuổi và sẽ là người làm cho cuộc
hành trình của họ đi vào lịch sử. Tại Lajazzo trên bờ đông Địa
Trung Hải, hai tu sĩ Đaminh hoảng sợ đã bỏ cuộc, chỉ còn lại ba
người của gia đình Polo. Họ tiếp tục đi đến Baghdad, rồi đến
Ormuz ở cửa Vịnh Ba Tư. Từ Ormuz, lẽ ra họ đã có thể làm một
cuộc hành trình dài bằng tàu qua biển ấn Độ, nhưng họ đã chọn đi
đường bộ lên phía đông bắc qua Sa Mạc Kerman của Ba Tư tới
vùng đồi núi giá lạnh ở Badakhshan, nổi tiếng về ngọc thạch, lam
thạch và ngựa quý. Macro kể lại, ở đây có những con ngựa "sinh ra
từ những con ngựa cái đã phối giống với con ngựa Bucephalô của
hoàng đế Alexandro và tất cả chúng khi sinh ra đều có một sừng
trước trán giống như con Bucephalô". Họ ở lại đây một năm chờ
cho Marco khỏi bệnh nhờ hít thở không khí miền núi trong lành.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 109
http://ebooks.vdcmedia.com
Họ lại lên đường qua sa mạc và đến Tangut, phía cực tây bắc
Trung Hoa, băng qua những thảo nguyên Mông Cổ và đến cung
điện của Vua Khan, sau một cuộc hành trình gian nan ba năm
rưỡi.
Vua Kublai Khan tiếp đón những công dân Venice hết sức
long trọng. Linh cảm được những tài năng của cậu bé Marco 21
tuổi, vua Khan ngay lập tức giữ Marco lại phục vụ ông và phái ông
đi làm đặc sứ của mình tại một nước trong sáu tháng. Ngày nay,
khi đọc những cuộc hành trình của Marco Polo, tất cả chúng ta
hiểu rõ được kết quả sự say mê tri thức của vị vua Mông Cổ ở thế
kỷ 13 ấy.
Nhiều lần, khi các sứ giả của vua đi thăm các miền khác
nhau trên thế giới trở về, họ chỉ báo cáo cho vua những gì liên
quan tới nhiệm vụ của họ, ngoài ra họ không biết thêm điều gì
khác. Vua coi họ chỉ là những kẻ ngốc nghếch vô tích sự và vua
nói: "Ta muốn biết nhiều điều xa lạ và hay ho ở xứ người, những
phong tục của các dân tộc khắp nơi trên thế giới, chứ không muốn
biết những công việc của các nước đó". Biết được ý vua, nên mỗi
khi Marco Polo đi đi về về, ông đều tìm hiểu cặn kẽ mọi điều thuộc
mọi lãnh vực khác nhau của các xứ sở xa lạ mà ông đến thăm, rồi
thuật lại tất cả cho Đại Khan. Ông tìm hiểu tất cả những gì ở
những miền đất xa xôi mà ông biết là vua rất thích, khiến cho vua
rất hài lòng và đem lòng yêu mến sủng ái Marco lắm. Vua cho
rằng Marco biết nhiều hơn bất cứ một ai và đối với vua Khan, chỉ
có Marco Polo là biết dùng cặp mắt của mình!
Chúng ta không biết thêm gì về những năm tháng hai ông
Nicolò và Maffeo Polo sống ở triều đình vua Khan, chỉ biết rằng
sau 17 năm, họ đã "có rất nhiều vàng bạc châu báu". Càng ngày
vua càng muốn giữ Marco lại bên mình, không muốn ông rời xa
ông. Nhưng năm 1292, vua cần có một người hộ tống một công
chúa Tartar sang làm dâu cho nhà Ilkhan của Ba Tư. Các phái
đoàn của Ilkhan đã không thành công trong việc đưa công chúa 17
tuổi này về Ba Tư bằng đường bộ. Họ trở lại hoàng cung của
Kublai Khan và đề nghị đưa công chúa đi qua đường biển. Đúng
lúc đó Marco đã trở về sau một chuyến công vụ trên đường biển tới
ấn Độ. Phái đoàn Ba Tư đã biết danh tiếng của người Venice trên
đường biển, nên đề nghị vua cho phép Marco hộ tống họ và công
chúa trên đường biển. Vua Khan lệnh cho chuẩn bị 14 thuyền lớn,
với một đoàn hộ tống sáu trăm người và lương thực đủ cho hai
Daniel J. Boorstin 110
http://ebooks.vdcmedia.com
năm. Sau một chuyến hành trình hiểm nghèo qua Biển Đông tới
Sumatra rồi qua biển Ấn Độ, chỉ còn mười tám người trong số sáu
trăm người trong đoàn sống sót, công chúa Tartar đã tới được triều
đình của Ba Tư an toàn. Công chúa rất quyến luyến những người
Venice và đã khóc lúc họ chia tay.
Những người của gia đình Polo trở về quê nhà bằng đường bộ
qua Babriz bắc Ba Tư, qua Trebizond ở bờ biển nam Hắc Hải, rồi
đến Constantinople, từ đó họ về tới Venice vào mùa đông 1295,
sau 24 năm xa nhà. Gia đình Polo từ lâu tưởng họ đã chết. Người
ta kể lại rằng sau khi ba người lạ ăn bận xốc xếch xuất hiện, trông
họ giống như những người Tartar hơn là người Venice, những
người bà con quý tộc Venice của họ không biết phải đối xử với họ
ra sau. Nhưng những ký ức xa xưa của họ đã trở lại ngay trong
tâm trí họ khi những người phiêu bạt này giật bung những đường
chỉ của những bộ áo quần bẩn thỉu của họ ra và lôi ra kho châu
báu bí mật của họ - toàn là ngọc bích, kim cương và ngọc thạch.
Thế là họ ôm choàng lấy nhau và tổ chức một đám tiệc hội ngộ linh
đình, kể cho nhau nghe những câu chuyện kỳ lạ.
Đó là những năm xảy ra những cuộc sát phạt cay đắng giữa
Venice và Genoa để giành quyền buôn bán trên biển Địa Trung
Hải. Ngày 6 tháng 9, 1298, cuộc chiến đạt tới tột đỉnh giữa người
Venice và Genoa ở Curzola ngoài bờ biển vùng Dalmatia, người
Genoa thắng trận, với bảy ngàn tù binh. Trong số những tù binh
này, có một "thuyền trưởng quý tộc" của chiến thuyền Venice, đó
là Marco Polo. Bị xiềng và đưa về một nhà tù ở Genoa, ông đã kết
thân với một tù binh khác từng bị bắt trong một cuộc chiến trước
đây giữa người Genoa và người Pisan. Tên ông ta là Rustichello.
Rustichello vốn là một văn sĩ từng viết các truyện hiệp sĩ và đã nổi
tiếng với các truyện về Vua Arthur và chiếc Bàn Tròn. Tuy không
hẳn là một thiên tài văn chương, Rustichello vẫn là một bậc thầy
trong loại hình truyện cổ của mình. Qua những hồi ức của Marco,
Rustichello tìm thấy những chất liệu cho một loại hình truyện cổ
mới của ông - "Truyện Thế Giới" - và ông đã thuyết phục Marco
hợp tác. Chắc hẳn Marco Polo đã phải thu thập những ghi chép
của mình ở nhà. Thế rồi, lợi dụng những giờ rảnh rỗi trong tù và vì
hai người bị giam chung phòng với nhau, Marco Polo đã kể lại
hàng giờ kho chuyện phong phú về các cuộc hành trình của mình
cho Rustichello và ông này đã viết thành sách.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 111
http://ebooks.vdcmedia.com
Từ trước tới nay, chưa từng có cuốn sách nào cung cấp nhiều
thông tin trung thực như cuốn sách này, hay mở rộng tầm nhìn
của con người về một châu lục như thế.
Daniel J. Boorstin 112
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 19
THỜI ĐẠI ĐEN TỐI TRÊN ĐƯỜNG BỘ
Trong những thập kỷ của những nhà thám hiểm đường bộ
tiên phong, việc buôn bán giữa châu Âu và phần cực đông châu Á
đã phồn thịnh, tuy ở mức độ nhỏ và không phổ cập. Hàng chục lái
buôn châu Âu có lẽ đã đi đến những miền đất xa xôi ấy, nhưng
ngoài những người của gia đình Polo, số những người viết lại các
cuộc hành trình của họ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chúng ta còn
giữ lại được một tài liệu sống động tuy không luôn luôn đáng tin
cậy về những cộng đồng người Âu sống ở các thành phố Trung
Hoa, do các tu sĩ dòng Phanxicô gan dạ đã để lại. Một trong những
người dũng cảm nhất là cha Giovanni del Montecorvino.
Năm 1289, Giáo hoàng Nicolas IV phái cha tới Bắc Kinh và
cha đã tới đó năm 1295. Đến nơi, cha đã "trình lên vua Khan thư
của Đức Giáo hoàng và kêu mời vua đón nhận Đức Tin Công Giáo
của Chúa Giêsu Kitô, nhưng vua đã quen tôn thờ ngẫu tượng từ
lâu rồi. Tuy nhiên, vua ban nhiều ân huệ cho người Kitô giáo và
hai năm ấy tôi được ở trong vung với vua". Tu sĩ này đã xây dựng
một thánh đường lớn ở Bắc Kinh với một tháp chuông và ba quả
chuông, ngay giữa đường đi từ cung điện của vua Khan. Theo lời
cha kể, tại đây cha đã rửa tội cho khoảng sáu ngàn người. Cha
cũng đã lập và huấn luyện một ban hợp xướng gồm một trăm năm
mươi thiếu niên. "Đức Vua rất thích thú khi nghe các em hát. Tôi
cho kéo chuông vào tất cả các giờ kinh và tôi hát kinh chung với
công đoàn gồm toàn trẻ thơ và chúng tôi hát thuộc lòng, vì không
có sách nhạc". Cha Giovanni được phong Tổng Giám Mục
Cambaluc (Bắc Kinh) năm 1307 và ít năm sau có 3 giám mục phụ
tá.
Một tu sĩ Phanxicô khác, cha Odorico di Pordenone, đã đọc
cho một đồng nghiệp viết lại những hồi ức phong phú và giàu hình
ảnh về đời sống ở Trung Hoa, nơi cha đã sống 3 năm trước khi trở
về Padua bằng đường bộ qua trung á vào năm 1330. Cha đã ghi lại
nhiều điều không được Marco Polo kể - phong tục câu cá với chim
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 113
http://ebooks.vdcmedia.com
cốc, thói quen để móng tay dài và truyền thống phụ nữ phải bó
chân. Khi tu sĩ Giovanni Marignolli người Florentina đến Bắc
Kinh năm 1342, cha ghi nhận rằng Tổng Giám Mục Bắc Kinh đã
có một tòa giám mục xứng với địa vị cao của ngài và tất cả giáo sĩ
Công giáo "được ăn cùng bàn với Hoàng Đế một cách hết sức vinh
dự". Ở thành phố cảng Zayton (Xinh Quang), cha thấy có ba thánh
đường lớn của dòng Phanxicô và một nhà nghỉ cho những lái buôn
châu Âu.
Khoảng năm 1340, ông Francesco Balducci Pegolotti, một
nhân viên làm việc cho gia đình ngân hàng Baldi của Florentina
đã soạn một cẩm nang tiện dụng cho các lái buôn đi xa. Cuốn sách
này cho chúng ta những khái niệm quý báu về sự buôn bán phồn
thịnh. Cẩm nang thương mại Baedeker của ông chứa rất nhiều
thông tin mà một lái buôn đường bộ cần đến khoảng cách giữa các
nơi và những chỗ nguy hiểm, các hệ thống đo lường, giá cả và tỷ lệ
hối đoái, các luật hải quan, những chỉ dẫn thực tiễn về luật hải
quan, về cái gì ăn được, cái gì không ăn được và phải ngủ ở đâu.
"Trước tiên, bạn phải để râu mọc dài không được cạo. Và ở
Tana, bạn nên có một người thông ngôn riêng. Và bạn không được
tiếc tiền thuê thông ngôn, để có một người thông ngôn giỏi chứ
không phải một thông ngôn dở. Ngoài người thông ngôn, bạn nên
thuê ít là hai người giúp việc là đàn ông tốt và thạo tiếng Cuman.
Nếu nhà buôn muốn thuê một phụ nữ ở Tana cũng được, vì người
này có thể giúp được nhiều việc, nhưng phải là người cũng thạo
tiếng Cuman như đàn ông.
Bạc mà người lái buôn mang theo tới tận Cathay sẽ bị tịch
thu và bỏ vào kho quỹ của vua. Bù lại, họ nhận được tiền giấy của
người Cathay. Đây là thứ giấy màu vàng, có đóng ấn của vua. Bạn
có thể dùng tiền này mua tơ lụa và các mặt hàng khác nếu muốn.
Mọi người dân ở đây buộc phải nhận tiền này. Thế nhưng không
phải vì là tiền giấy mà bạn phải chịu giá cao hơn...
(Và bạn cũng đừng quên là nếu bạn tỏ ra kính trọng đối với
các nhân viên hải quan và tặng quà biếu họ bằng đồ vật hay tiền,
họ sẽ đối xử rất lịch sự với bạn và luôn luôn sẵn sàng đánh giá các
hàng hóa của bạn thấp hơn giá trị thật của chúng)".
Những ngày qua lại tấp nập trên đường bộ giữa những miền
tận cùng của trái đất không kéo dài được lâu. Giovanni di
Montecorvino vừa là Tổng Giám mục Bắc Kinh đầu tiên và cuối
Daniel J. Boorstin 114
http://ebooks.vdcmedia.com
cùng cho suốt nhiều thế kỷ. Người kế vị của ông do Đức Giáo
hoàng Gioan chỉ định năm 1333 hình như không bao giờ đến được
địa chỉ của mình. Con đường bộ đến phương Đông vốn đã được mở
ra một cách đột ngột vào giữa thế kỷ 13 đã bị đóng lại cũng đột
ngột như thế chỉ một thế kỷ sau đó.
Sức mạnh và sự thống nhất của đế quốc Mông Cổ lớn rộng đã
từng mở ra, tiếp tục mở ra và bảo vệ những người châu Âu đi sang
Ấn Độ và Trung Hoa. Trong thời kỳ này, đôi khi được gọi là Thế
Kỷ Mông Cổ, trong khi những người châu Âu đi đến phương đông,
thì cũng có những người Trung Hoa đi sang phương tây. Những
người phương Tây trên đường về nhà và những người Trung Hoa
đi sang phương Tây mang theo những cỗ bài, đồ sứ, đồ dệt, hàng
mỹ thuật, những đồ trang trí nội thất, là những thứ đã tô điểm
cho đời sống hằng ngày của giới thượng lưu châu Âu. Một ít vật
như tiền giấy, sách in và thuốc súng là những thứ gây kinh ngạc
cho khắp thế giới. Những thứ mới lạ này đã đi thẳng qua Trung
Đông rồi đến châu Âu một cách gián tiếp và qua những con đường
lậu của người Ả Rập và những người khác.
Người Mông Cổ khám phá ra rằng đế quốc mà họ đã chinh
phục được trên lưng ngựa không thể nào được cai trị trên lưng
ngựa. Họ cần một hệ thống hành chánh tinh vi để tổ chức đế quốc
rộng lớn của mình. Bên trong đất Trung Hoa, họ là những người
ngoại bang và xâm lăng, nên họ khó làm cho người dân Trung Hoa
thần phục. Người Mông Cổ đã đặt chính mình và những người
ngoại quốc khác như Marco Polo vào những vị trí cao trong chính
quyền. Trong khi đó người Trung Hoa, với truyền thống văn minh
lâu đời, kỹ thuật phát triển và hệ thống nghi lễ rườm rà, đã có đủ
mọi lý do để kết án dân xâm lược man di. Người Mông Cổ, từ thời
còn sống ở vùng thảo nguyên khô cằn ở phía bắc, đã không bao giờ
có thói quen tắm rửa. Một người Trung đi lại nhiều đã kể, "Người
họ rất hôi không ai dám đến gần". "Họ chỉ tắm bằng nước tiểu".
Marco Polo từng khiếp sợ tính thô lỗ cộc cằn của quân lính Mông
Cổ, họ uống sữa ngựa, không mang hành lý gì cả và "trong tất cả
các dân trên thế giới, họ là người giỏi chịu đựng luyện tập và khắc
khổ nhất và sống ít tốn kém nhất, nên họ là dân thích hợp nhất để
chinh phục các miền đất và lật đổ các vương quốc". Những người
lính Mông Cổ mà ông thấy ở Cathay đã bắt đầu suy đồi và biến
chất và ông nhận thấy sự bất an của những người dân Trung Hoa
bản xứ. Tất cả những cách cai trị của người Mông Cổ và sự dung
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 115
http://ebooks.vdcmedia.com
túng của họ đối với các tôn giáo ngoại lai, đã làm nổi giận những
người Khổng giáo truyền thống.
Vào giữa thế kỷ 14, nạn đói ở miền bắc và thiên tai lũ lụt của
sông Hoàng Hà đã chồng chất thêm nhiều vấn đề cho các nhà cai
trị Mông Cổ. Đã nổ ra những cuộc nổi loạn ở khắp nơi trong nước.
Đỉnh cao của những cuộc nổi loạn này xảy ra năm 1368, khi
Hung Wu (Chu Yuan-chang, 1328-1398), một con người tự lập và
có thiên tài, đứng lên lãnh đạo cuộc nổi loạn của người Trung Hoa
để thiết lập triều Minh. Người dân bản xứ đã tinh vi tổ chức cuộc
nổi loạn ngay trước mũi người Mông Cổ. Trong những năm cuối
của thời đô hộ Mông Cổ, truyền thuyết kể lại rằng, các vua Khan
lo sợ đã đặt quân do thám vào hầu như mọi gia đình và cấm dân
tụ tập thành nhóm. Người Trung Hoa bị cấm mang khí giới, nghĩa
là cứ mười gia đình thì mới có một được giữ dao. Nhưng người
Mông Cổ đã quên dẹp bỏ phong tục của người Trung Hoa, là cứ độ
trăng tròn họ trao đổi cho nhau những chiếc bánh hình trăng tròn
kẹp bên dưới là một miếng giấy để cầu chúc may mắn. Những
người dân Trung Hoa nổi loạn đã dùng bánh trăng tròn làm người
đưa thư. Bên trong thư là những lời hiệu triệu người dân Trung
Hoa nổi dậy giết hết người Mông Cổ vào đêm trăng tròn tháng 8,
1368.
Daniel J. Boorstin 116
http://ebooks.vdcmedia.com
Phần VI
Đi vòng quanh trái đất
May phước cho chúng ta là phần nửa
địa cầu kín ẩn bên kia đã được đưa ra ánh
sáng và người Bồ Đào Nha mỗi ngày một đi
xa hơn qua bên kia xích đạo. Nhờ vậy,
những bờ biển trước đây chưa từng biết đến
nay đã có thể đặt chân tới được; vì người này
kế tiếp người khác đã đua nhau tiến bước
trong gian lao và hiểm nguy vô bờ.
- Peter Martyr (1493) -
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 117
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 20
PHỤC HƯNG VÀ TU SỬA LÝ THUYẾT PTOLÊMÊ
Sự bế tắc trên đường bộ hóa ra lại là điều may. Nhờ động lực
đi biển thúc đẩy, người châu Âu sẽ khám phá ra những con đường
biển đi đến khắp nơi. Khoa vẽ bản đồ đã phát triển trên biển trước
tiên. Do nhu cầu của những người đi biển, các nhà địa lý và các
nhà vẽ bản đồ nay quay sang chú tâm vẽ bản đồ của các vùng biển
thay vì vẽ bản đồ của cả thế giới.
Người đi biển thời đó cần biết vị trí chính xác của những
tảng đá ngầm và những chỗ cạn ở các cảng Athen và Roma và họ
cần biết những lộ trình an toàn giữa những đảo nhỏ của biển
Adriatic. Qua công việc của mình, các người đi biển đã tích lũy dần
dần những mảnh dữ liệu về biển Địa Trung Hải hầu giúp họ tìm
được những lộ trình dễ qua lại, an toàn và nhanh hơn. Họ đưa
những dữ liệu này vào một bản vẽ tỷ lệ và dưới một dạng dễ sử
dụng, nhờ đó họ đã tích lũy được một kiến thức thực tiễn không
liên quan gì tới những suy tư của những nhà triết học, thần học
hay những tay tưởng tượng về vũ trụ. Họ chẳng cần biết gì đến cái
hình thù Đại Đồng của quả đất, vị trí của vườn Eđen và quân Gog
và Magog sẽ từ phương trời nào xuất hiện vào ngày tận thế, mà họ
chỉ tập trung ghi lại vô số những chi tiết về các bờ biển để hướng
dẫn họ và những người theo sau họ. Ngay từ thế kỷ 5 trước C.N.,
đã có một số người đi biển ghi chép lại những vùng đất, những đặc
điểm của các bờ biển và những sự kiện linh tinh có ích khác.
Những ghi chú đó được gọi là periplus, (có nghĩa là "đi quanh bờ
biển") và chúng ta có thể coi nó là một sơ đồ hướng dẫn bờ biển.
Chúng ta còn giữ lại được một bản periplus cổ nhất của
Scylax, người làm việc cho Đariô Đại Đế, vị hoàng đế Ba Tư ở thế
kỷ 6 trước C.N.. Những hướng dẫn chi tiết của Scylax cho việc đi
biển mô tả những nguy hiểm và những lộ trình trên Địa Trung
Hải - đường đi tốt nhất từ mũi phía Đông, cửa Canapic của sông
Nil bên Ai Cập, để đi tới Các Trụ của Hercule (Gibraltar) và nhiều
lộ trình ngắn hơn, luôn luôn có chỉ dẫn thời gian đi mỗi chuyến
Daniel J. Boorstin 118
http://ebooks.vdcmedia.com
mất bao nhiêu ngày khi thời tiết tốt và gió thuận. "Đi hết vòng bờ
biển từ Các Trụ của Hercule tới Đảo Cernê phải mất 12 ngày.
Phần phía bên kia đảo Cernê không qua lại được vì nước cạn, lắm
bùn và đầy rong biển. Thứ rong biển này to bằng cây cọ và mũi lá
của nó nhọn có thể đâm thủng thuyền".
Ra khỏi lãnh vực đường biển, những mô tả của ông không
được tỉ mỉ và chính xác như thế. Tuy nhiên, trong những trường
hợp này, các sai lầm hay cường điệu của ông không ảnh hưởng gì
tới việc qua lại của tàu bè hay làm chậm giờ tàu cập bến. "Dân
Ethiopi này là dân to lớn hơn mọi dân mà chúng ta được biết, họ
cao hơn 4 cubit; có người còn cao tới 5 cubit (khoảng 2,5 mét tới 3
mét); họ để râu và tóc dài và là những người đẹp nhất trong các
dân. Và người to lớn nhất cai trị họ". Hiển nhiên những tài liệu
bằng chữ viết chỉ có ích cho những thủy thủ biết đọc, mà phải
nhiều thế kỷ nữa trong tương lai mới có các thủy thủ biết chữ và vì
thế rất ít người đọc được những tài liệu chữ viết đó. Nhưng cũng
khó cung cấp một họa đồ của bờ biển vì ngành vẽ bản đồ còn ở thời
sơ khai. Lộ trình ngắn và an toàn nhất từ một cảng tới một cảng
khác trở thành bí mật thương mại của một thủy thủ và cũng là bí
mật quan trọng của một quốc gia, vì nó tạo cơ hội thương mại có
thể làm giàu cho một thành phố hay làm phồn vinh một đế quốc.
Vì thế không lạ gì các thủ bản hướng dẫn đường đi biển rất
hiếm. Từ thế kỷ 4 tới 14, không một họa đồ đi biển nào loại ấy còn
tồn tại. Trong thời đại dốt chữ ấy, các thủy thủ truyền miệng lại
cho nhau những kiến thức họ đã học được. Tuy nhiên từ khoảng
1300, chúng ta tìm thấy những họa đồ đi biển Địa Trung Hải, mô
tả những chi tiết hữu ích tìm thấy trong các họa đồ xa xưa. Những
họa đồ biển Địa Trung Hải này, theo những sử gia về bản đồ, là
"những bản đồ thực sự đầu tiên" vì chúng "lần đầu tiên vẽ ra
những phần đáng kể của mặt đất dựa trên sự quan sát khoa học
tại chỗ và liên tục". Những họa đồ này được gọi bằng cái tên tiếng
Italy là portolano, hay hướng dẫn cảng. Lẽ ra đã có thể gọi chúng
là những bảng hướng dẫn tiện dụng, vì thế chúng dễ mang theo và
có thể được kiểm tra và sửa chữa tại chỗ dựa vào kinh nghiệm
thực ở mỗi nơi.
Tuy có nguồn gốc thực dụng và khiêm tốn, các họa đồ
portolano quả thực là nguồn của một số dữ liệu đáng tin cậy sẽ
được gặp trong những bản đồ lớn cho tới giữa thế kỷ 16. Các bậc
thầy tiên phong của khoa trắc địa thời mới, Mercator và Ortelius,
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 119
http://ebooks.vdcmedia.com
là những người đã mở ra một kỷ nguyên mới trong ngành vẽ bản
đồ trái đất, đã trân trọng sử dụng những khám phá thực tế hằng
ngày của các thủy thủ xưa kia để đưa vào các bản đồ của họ. Mãi
tới năm 1595, các thương gia đi biển hàng đầu thế giới, các nhà
hàng hải Hà Lan, đều sử dụng những tài liệu hướng dẫn đường
biển và những lời khuyên của các thủy thủ đã vẽ ra những họa đồ
đi biển hai thế kỷ trước đó. Chính ở trên bờ biển, nơi những đường
biên của trái đất được thử nghiệm bằng kinh nghiệm hằng ngày,
là nơi đã khai sinh ra những sự thật sống động về khoa trắc địa
học thời cận đại.
Để đi đến châu Á bằng đường biển từ các nước ven bờ Địa
Trung Hải, tất nhiên phải rời bờ biển để ra xa ngoài khơi. Các cuộc
hành trình đường biển Địa Trung Hải phần lớn là đi men theo bờ
biển, nghĩa là dựa trên kinh nghiệm cá nhân về từng nơi riêng biệt
- những chỗ gió lớn và sóng to, những vùng đất quen thuộc, những
đảo ngoài khơi đã được biết và những bóng nổi bật của những dãy
núi gần bờ biển. Nhưng đi quá Các Trụ của Hercule thì nảy sinh
những vấn đề mới. Khi những người đi biển Bồ Đào Nha tiến
xuống phía nam theo bờ biển châu Phi, họ đã bỏ lại đằng sau
những điểm mốc quen thuộc của đất liền. Càng đi xa xuống, họ
càng xa những chi tiết được vẽ trong các họa đồ portolano. Tới
những nơi này, họ không còn kinh nghiệm nào, cũng không còn
họa đồ hướng dẫn nào nữa.
Biển Địa Trung Hải từ bờ phía nam tới bờ gần nhất phía bắc
dài không quá 5 trăm dặm, nghĩa là chỉ cách nhau 7 độ vĩ tuyến.
Vì thế các người đi biển Địa Trung Hải ít khi quan tâm tới vĩ độ
của mình, nhất là vào thời đó phương pháp xác định vĩ độ còn rất
thô sơ. Nhưng lục địa châu Phi trải dài từ 38O vĩ bắc xuống 38O vĩ
nam, nghĩa là 1/5 chu vi trái đất. Khi các bờ biển còn hoàn toàn xa
lạ, khi các cư dân địa phương còn đầy thù nghịch và khi những rủi
ro ngoài khơi chưa được biết đến, thì vĩ độ chính là phương pháp
tốt nhất và có khi là duy nhất để xác định vị trí con tàu. Vì thế các
thủy thủ phải học cách tính vĩ độ. Lúc đầu họ có thể tính phỏng
chừng vĩ độ dựa vào độ cao của sao Bắc đẩu. Nhưng khi họ đi dần
xuống phía nam thì sao Bắc đẩu đã lặn và họ phải dùng những
bảng phân độ nghiêng của mặt trời với một dụng cụ đo độ cao các
thiên thể hay thước đo độ đồng thời quan sát độ cao của mặt trời
lúc giữa trưa.
Daniel J. Boorstin 120
http://ebooks.vdcmedia.com
Những dụng cụ đi biển quan trọng này đã giúp phát triển
việc đi biển từ bắc xuống nam. Nhưng như chúng ta đã thấy, việc
xác định kinh độ, để nhận ra và đo khoảng cách từ đông sang tây
phức tạp hơn nhiều. Các nhà đi biển vẫn phải dựa vào việc "đoán
mò". Có nghĩa là đoán vị trí mà không quan sát thiên văn, chỉ tính
hay đoán lộ trình hay khoảng cách đã đi qua từ một điểm đã cố
định trước đó. Như ta đã thấy, mãi đến thế kỷ 18, chiếc đồng hồ đi
biển mới cho phép người đi biển xác định khá chính xác kinh độ
của họ để hướng dẫn họ trở về nơi họ đã ra đi và để hướng dẫn
những người muốn đi theo họ. Ngoài những vấn đề kể trên, rời bờ
biển Địa Trung Hải có nghĩa là kéo theo rủi ro bị dòng nước cuốn
trôi ra ngoài đại dương không bờ biển.
Đây chính là điểm mà Ptolêmê vĩ đại nhập cuộc - hay đúng
hơn, tái nhập cuộc. Vừa đúng khoảng thời kỳ này, khi bức màn đất
buông xuống cắt đứt con đường bộ từ châu Âu tới phương Đông, thì
khoa địa lý của Ptolêmê được phục hưng để canh tân lối tư duy
của người châu Âu. Sự trùng hợp của hai biến cố này đầy ý nghĩa
cho tương lai của thế giới.
Cống hiến to lớn của Ptolêmê là tinh thần khoa học và lượng
tính. Khung vĩ độ và kinh độ của ông thì đồng đều và toàn cầu.
Bất cứ hai bản đồ nào hoàn chỉnh theo chỉ dẫn của ông đều phải
chính xác như nhau. Các tọa độ mà ông cung cấp không tùy thuộc
khổ giấy hay khu vực được vẽ lớn hay nhỏ. Trong cuốn sách đầu
tiên của bộ địa lý của ông trong đó ông dạy cách vẽ bản đồ, ông
khai triển vấn đề dọi chiếu mặt hình cầu của quả đất xuống một
mặt phẳng của tờ giấy. Ở đó ông cắt nghĩa nhu cầu xác định
những đường vĩ độ và những đường vĩ tuyến song song. Ông mô tả
quy trình khó khăn của việc chiếu hình cầu của mặt trái đất và
cũng dạy cách đơn giản và chính xác để chiếu một hình chóp
xuống một mặt phẳng "cho những ai vì lười biếng muốn đi theo
phương pháp cũ". Ptolêmê là người tranh đấu cho phương pháp
toàn thể và toán học được áp dụng cho bề mặt trái đất.
Thế nên, cuộc phục hưng Ptolêmê có nghĩa là sự đánh thức,
hay tái đánh thức, tinh thần thực nghiệm. Từ nay, người ta sẽ
dùng kinh nghiệm của mình để đo đạc toàn thể trái đất, để phân
biệt cái đã biết với cái chưa biết và để xác định những chỗ mới tìm
thấy để có thể quay trở lại. Cuộc tái khám phá Ptolêmê là một thời
điểm báo cho cuộc phục hưng tri thức đánh dấu Thời Đại Phục
Hưng, là thời đại mở đầu cho thế giới cận đại.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 121
http://ebooks.vdcmedia.com
Các thủ bản của Ptolêmê bằng tiếng Hi Lạp được truyền lại
cho chúng ta từ đầu thế kỷ 13. Nhưng vì người châu Âu thời đó,
ngay cả trong giới có học, rất hiếm người có khả năng đọc tiếng Hi
Lạp, nên hiểu biết về các công trình của Ptolêmê không được phổ
biến rộng rãi, cho tới khi nó được dịch sang tiếng Latinh.
Khi Ptolêmê được phục hưng, ngày càng có nhiều bản sao
được làm từ thủ bản của "Ptolêmê" gồm bản văn và các bản đồ và
toàn thể tác phẩm của ông có tiếng vang chưa từng thấy. Không
chỉ kỹ thuật làm bản đồ, mà cả bản văn và những bản đồ trong
phần trước đều được chấp nhận như kinh thánh và uy tín của
Ptolêmê gia tăng gấp đôi. Tuy lý thuyết vẽ bản đồ của Ptolêmê
không thể chê trách, nhưng những bản đồ được đính kèm trong
cuốn Địa Lý của ông chứa đựng một số sai lầm nghiêm trọng sẽ
ảnh hưởng quyết định tới những cuộc thám hiểm thế giới trong
tương lai.
Ví dụ, ông ước tính chu vi trái đất quá nhỏ và ước tính
khoảng cách phía đông châu Á quá lớn, hai sai lầm này cộng lại đã
làm cho châu Á có vẻ quá gần châu Âu theo đường biển phía Tây,
mà thực ra không phải thế. Dựa vào những "dữ liệu" này, Colômbô
đã bị dụ dỗ để đi theo hướng Tây. Đồng thời, những sai lầm khác
trong bản đồ thế giới kinh điển của "Ptolêmê" cho thấy không thể
nào đi đến Ấn Độ và Trung Hoa bằng cách đi vòng bờ biển phía
đông châu Phi. Kết quả là toàn thể Ấn Độ dương và Biển Trung
Hoa trở thành một cái hồ khổng lồ đóng kín và như thế đương
nhiên không có đường biển nào đến được châu Á từ phía nam và
phía tây.
Trước khi những nhà đi biển châu Âu có thể giải quyết được
thách đố do việc đóng cửa các con đường bộ sang châu Á, bản đồ
thế giới của Ptolêmê về phần phía nam châu Phi phải được duyệt
xét lại. Thực vậy, chính ý nghĩa của từ "Đại Dương" cần được thay
đổi. Cho tới thời đó, người châu Âu phân biệt rõ ràng giữa Đại
Dương và biển. Trong thực tế chỉ có một Đại Dương. Trong thần
thoại Hi Lạp, đó là Oceanus, dòng nước vòng tròn mà người ta
nghĩ là bao quanh trái đất như một cái đĩa. Vì thế người ta hiểu
Đại Dương theo nghĩa là khối nước mênh mang vô tận, trái với
biển Địa Trung Hải hay những biển khác có đất bao quanh.
Vào thời đó, Đại Dương bao la không bờ bến, không dẫn tới
chỗ nào cả. Mãi sau này vào thế kỷ 15, dần dà người ta mới hiểu
nó theo một nghĩa hoàn toàn mới: nó có dẫn tới chỗ nào đó. Trước
Daniel J. Boorstin 122
http://ebooks.vdcmedia.com
kia, Đại Tây Dương thường không được kể vào các "biển" của trái
đất. Đường biển dẫn tới Ấn Độ phải có trong khái niệm và trên
những bản đồ của người ta trước khi tàu bè có thể qua lại trong
thực tế. Và quả đúng như vậy. Tâm trí con người đã mở ra và đã
làm cho những cố gắng của mình mở ra những con đường trên biển
cả. Về phương diện này, việc khám phá đường biển tới vùng Indies
khác hẳn việc tìm ra châu Mỹ. Người ta khám phá châu Mỹ trên
đất trước khi khám phá ra nó trong tâm trí.
Vào giữa thế kỷ 15, một số bản đồ thế giới vẽ ở châu Âu đã
mô tả châu Phi như một bán đảo không có giá đỡ và Ấn Độ Dương
như một biển mở rộng không bờ, mà nước quanh lục địa châu Phi
có thể đổ vào trên đường tới ấn Độ và Trung Hoa. Những sự mở
rộng tâm trí và bản đồ này đã xảy ra nhiều thập kỷ trước khi
chúng ta biết có người châu Âu nào đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng
để tìm ra Ấn Độ Dương.
Sự khai mở này về đại dương chưa được chứng minh bởi kinh
nghiệm của các người đi biển thời bấy giờ. Nó phần lớn vẫn còn là
những suy đoán dựa trên các tin đồn và báo cáo của những người
du hành bằng đường bộ. Sự đổi mới dứt khoát các bản đồ của
Ptolêmê có lẽ phát sinh từ một người lái buôn Venice đơn độc. Cả
sau khi Đế Quốc Mông Cổ suy tàn, khi lộ trình thẳng phía đông từ
Syria qua châu Á không còn được người châu Âu bảo vệ, vẫn có
những lái buôn Venice không chịu bỏ việc buôn bán của họ với
phương Đông. Một trong những người lái buôn Venice này là
Nicolo de' Conti, người đã du hành suốt 25 năm sau khi rời Venice
vào năm 1419. Những chuyến mạo hiểm đường dài này đưa ông
vượt qua Sa Mạc Ả Rập, để tìm kiếm đá quý dọc bờ biển phía tây
Ấn Độ tới mũi của bán đảo và tới tận nơi chôn cất thánh Tôma
Tông Đồ gần Madras vào vùng rừng quế ở Ceylon và đến tận đảo
Sumatra, nơi ông kể lại là có nhiều vàng, long não, ớt và tục ăn
thịt người, rồi ông tới Burma để quan sát những người dân xăm
mình và các đoàn voi, tê giác và trăn và đi xa đến tận Java. Trong
những chuyến hành trình này ông đã lấy vợ là một người Ấn Độ và
được hai người con. Trên đường trở về Venice, ông ghé qua Đất
Thánh, ở đây ông gặp một du khách người Tây Ban Nha, ông này
đã ghi chép lại những câu chuyện kỳ lạ do Conti kể lại.
Lẽ ra tất cả những gì chúng ta có thể biết được về những
cuộc hành trình của Conti chỉ là qua những câu chuyện như thế.
Nhưng trong những năm dài hành trình bên phương Đông. Conti
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 123
http://ebooks.vdcmedia.com
đã bỏ đạo. Vì thế, khi ông trở về Venice năm 1444, Giáo hoàng
Eugeniô IV đã ra lệnh cho ông phải làm việc sám hối bằng cách
đọc lại đầy đủ câu chuyện của mình cho viên thư ký giáo hoàng là
Poggio Bracciolini. Kết quả là chúng ta có một trong những bản
mô tả hay nhất về vùng Nam Á trong những năm sau khi dòng
người đi buôn trên đường bộ chấm dứt và trước khi có các nhà du
hành trên biển. Tuy những quan sát khác của Conti có thể là giàu
hình ảnh hơn, nhưng không có gì gây ảnh hưởng nhiều hơn là
những suy đoán của ông về khả năng có thẻ đến được những đảo
gia vị của phương Đông bằng con đường biển vòng quanh châu
Phi. Các nhà vẽ bản đồ của giữa thế kỷ 15 đã nắm bắt được ý
tưởng của Conti một cách rất lạc quan. Và sử dụng những thông
tin mới nhất này, họ đã mạnh bạo sửa đổi lý thuyết của Ptolêmê
để mở đại dương sang Ấn Độ.
Việc mở sang Ấn Độ dương là sự sửa đổi đầu tiên lý thuyết
Ptolêmê và là một sự sửa đổi làm chấn động thế giới và hình
thành lại thế giới. Những thế kỷ sau khi đóng cửa các lộ trình
đường bộ sang phương Đông còn sửa đổi lý thuyết Ptolêmê bằng vô
vàn cách khác nữa. Thế giới của Ptolêmê tận cùng ở 63O vĩ bắc,
khoảng nửa đường tới bán đảo Scandinavia, sẽ phải được mở rộng
cả lên phía bắc lẫn tây bắc. Và, đương nhiên, cả một Tân Thế giới
sẽ phải được thêm vào giữa châu Âu và châu Á. Tinh thần khoa
học của Ptolêmê, việc ông nhìn nhận những điều còn chưa biết và
việc ông sử dụng vĩ độ và kinh độ, tất cả những điều này đã khích
lệ rất nhiều cho các nhà trắc địa và các nhà hàng hải.
Daniel J. Boorstin 124
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 21
CÁC NHÀ HÀNG HẢI BỒ ĐÀO NHA TIÊN PHONG
Trong số những người được khích lệ nhiều nhất phải kể đến
các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, những người đã được ngành địa lý
trao phó một vai trò lớn trong lịch sử. Nằm ở phía cực tây bán đảo
Ibêria, quốc gia này đã có đường biên giới mới của mình từ rất
sớm, giữa thế kỷ 13. Bồ Đào Nha không có cửa trông ra biển Địa
Trung Hải, nhưng được ưu đãi bởi những con sông dài dễ qua lại
và những bến cảng sâu mở ra đại dương. Các thành phố mọc hai
bên bờ sông đổ vào Đại Tây Dương. Vì vậy dân Bồ Đào Nha bẩm
sinh hướng ra bên ngoài, xa khỏi những trung tâm cổ điển của nền
văn minh châu Âu, phía tây hướng về đại dương còn bí ẩn, phía
nam hướng về một đại lục mà đối với người châu Âu cũng còn đầy
bí ẩn.
Thành tựu của người Bồ Đào Nha là một công trình khám
phá có tổ chức dài hạn và là một thành tựu hiện đại hơn, cách
mạng hơn những thành tích nổi tiếng hơn của Colômbô. Bởi vì
Colômbô đã đi theo con đường được hướng dẫn bởi nhiều nguồn tài
liệu thời cổ và trung cổ, là những thông tin tốt nhất của thời dại
ông và nếu ông thành đạt mục đích của mình, là ông xác nhận giá
trị của những thông tin đó. Như vậy trong đầu óc của ông không có
sự mơ hồ nào về những phong cảnh trên đường tới châu Á hay về
hướng phải theo. Chỉ có biển là chưa được biết rõ. Sự dũng cảm
của Colômbô là ở chỗ ông chọn con đường thẳng trên biển để đến
những miền đất "đã biết" theo một hướng đã biết nhưng không
biết chính xác con đường này có thể xa bao nhiêu.
Ngược lại, những chuyến hành trình của người Bồ Đào Nha
quanh châu Phi và tới ấn Độ theo hi vọng của họ, đều dựa trên
những khái niệm phỏng đoán, những tin đồn và những gợi ý đầy
rủi ro. Họ trông chờ gặp được những miền đất mới trên đường để
lấy lương thực và nước uống. Lộ trình của họ có thể phải xuyên
qua những vùng được cho là có nguy hiểm chết người, rất xa phía
dưới xích đạo. Vì vậy, những khám phá của người Bồ Đào Nha đòi
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 125
http://ebooks.vdcmedia.com
hỏi một kế hoạch tiệm tiến, có hệ thống và từng bước, để tiến sâu
vào những miền đất lạ. Cuộc chinh phục miền Indies của Colômbô
là một đòn mạnh bạo mà nhiều thập niên sau người ta mới hiểu
hết tầm quan trọng của nó. Các nhà du hành Bồ Đào Nha bắt tay
vào một công trình kéo dài một thế kỷ rưỡi, họ đã từ lâu hình dung
ra ý nghĩa thực sự của nó và sự thành tựu của nó đã được biết
ngay lập tức. Thành tựu to lớn nhất của Colômbô là một cái gì ông
đã không hề hình dung trước, một sản phẩm phụ do những mục
tiêu của ông phát sinh, một hậu quả do những sự kiện không ngờ
trước. Thành tựu của người Bồ Đào Nha là sản phẩm của một mục
tiêu rõ ràng đã định từ trước, đòi hỏi sự tài trợ lớn của quốc gia.
Đây là một kiểu mẫu lớn cho các cuộc thám hiểm thời cận đại.
Người Bồ Đào Nha đã có thể có một kế hoạch dài hạn là vì họ
đã thực hiện một cuộc mạo hiểm trên bình diện hợp tác quốc gia.
Những thiên anh hùng ca thời xưa ca tụng sự dũng cảm và kỳ tích
của những cá nhân anh hùng, như Ulyxê, Aeneas, hay Beowulf.
Thiên anh hùng ca Bồ Đào Nha trên biển không thể ca ngợi một cá
nhân anh hùng nào đó, mà phải ca ngợi những con người anh
hùng, Thiên anh hùng ca Lusiads của Camoens mở đầu bằng lời
ca tụng "những người hùng đã bỏ quê hương Bồ Đào Nha lại sau
lưng, để mở một con đường tới Ceylon và đã đi xa mãi, vượt qua
ngàn biển cả, nơi chưa từng có ai qua lại". Trong khi các bài hùng
ca xưa ca ngợi một người hùng thần thánh, thì các bài hùng ca cận
đại ca ngợi những dân tộc anh hùng.
Các lộ trình mạo hiểm cũng trải rộng hơn nhiều. Các con
đường biển không còn đóng khung trong những lộ trình quen
thuộc trong một vùng biển khép kín như Địa Trung Hải. Những
con đường mới xuyên qua biển cả mênh mông và chúng dẫn đi
khắp nơi.
Phân cách với châu Phi chỉ bằng một eo biển nhỏ, người Bồ
Đào Nha hoàn toàn không bị chi phối bởi thiên kiến chủng tộc hay
óc địa phương. Tổ tiên của họ là những người Celtic, Ibêri và người
Anh. Họ pha trộn dòng giống của mình với người Á và Phi. Bồ Đào
Nha trở thành một tiểu châu Mỹ kiểu mẫu, một nơi đón nhận mọi
loài người Kitô, Do thái và Hồi giáo. Những đặc tính khác nhau về
thể chất, tâm lý, tính khí, truyền thống, thẩm mỹ và văn học đã
làm giàu lẫn cho nhau, tạo ra những năng lượng thật phong phú
và vốn tri thức đa dạng để giúp họ đi tới đại dương bao la rồi lại
trở về được quê hương.
Daniel J. Boorstin 126
http://ebooks.vdcmedia.com
Khả năng về lại được quê hương là điều cốt yếu để một dân
tộc có thể làm giàu mình, làm đẹp mình và chiếu sáng mình ở
những nơi xa xôi. Nó là điều có tính quyết định đối với những nhà
khám phá và nó giúp cắt nghĩa tại sao việc đi ra ngoài biển cả,
việc mở ra những đại dương lại đánh dấu cho một kỷ nguyên mới
của loài người.
Thế nhưng, để khai thác những lợi thế đa dạng đó của mình,
người Bồ Đào Nha cần có một người lãnh đạo... một người có thể
tập hợp nhân lực, tổ chức các nguồn tài lực và vạch ra đường
hướng. Không có lãnh đạo, tất cả những lợi thế kia sẽ chỉ là vô
dụng. Hoàng tử Henry Nhà Hàng Hải chính là con người đó. Nơi
ông là một sự kết hợp kỳ lạ của một trí tuệ anh hùng, đại đảm,
một trí tưởng tượng bao la, với một cá tính của một hiền nhân ẩn
dật. Lạnh lùng đối với các cá nhân, nhưng ông lại sôi nổi với
những lý tưởng lớn. Tính kiên cường và tài tổ chức của ông đã trở
thành yếu tố nòng cốt cho công trình khám phá đầu tiên của thời
cận đại.
Xét về mặt lịch sử, không đáng ngạc nhiên bao nhiêu nếu
nhà mạo hiểm tiên phong của thời cận đại chưa từng đích thân có
mặt trong một chuyến thám hiểm nào. Các cuộc mạo hiểm lớn ở
châu Âu thời trung cổ - thập tự chinh - đòi hỏi sự liều mạng và mối
đe dọa của người ngoại giáo. Thám hiểm thời cận đại phải là một
cuộc đấu trí, một nỗ lực tưởng tượng của ai đó, trước khi nó trở
thành một cuộc mạo hiểm trên đường biển. Cuộc mạo hiểm lớn của
thời cận đại - cuộc thám hiểm - trước tiên phải được thực hiện
bằng trí tuệ. Nhà thám hiểm tiên phong là một con người suy tư
đơn độc.
Những tính cách của con người từng làm cho cuộc mạo hiểm
đơn độc này thành hiện thực thì không mấy hấp dẫn. Theo các nhà
viết tiểu sử của ông, Henry nhà Hàng Hải sống đời sống như một
thầy tu và vẫn độc thân cho tới lúc chết. Cả đời ông luôn bị giằng
co giữa thập tự chinh và thám hiểm. Cha ông, Vua Joan I, là người
sáng lập triều đại Aviz, đã chiếm ngai vàng của Bồ Đào Nha năm
1385. Trong trận chiến quyết định ở Aljubarrota, với sự hỗ trợ của
các xạ thủ người Anh, Joan đã đánh bại Vua của Castille và nhờ
đó đảm bảo nền độc lập và thống nhất của Bồ Đào Nha. Joan đã
củng cố liên minh của mình với người Anh bằng việc kết hôn với
con gái của John of Gaunt tên là Philippa of Lancaster, một phụ
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 127
http://ebooks.vdcmedia.com
nữ đạo hạnh và quyết đoán. Bà đã sinh cho vua sáu người con trai,
người con thứ ba là Henry, sinh năm 1394.
Để mừng ngày ký hiệp ước hữu nghị với Castille năm 1411,
vua Joan theo tập tục hiệp sĩ thời đó định tổ chức một vòng thi
đấu kéo dài suốt một năm. Các hiệp sĩ khắp châu Âu được mời tới
dự và các cuộc cưỡi ngựa quyết đấu có thể tạo cơ hội cho ba người
con trai lớn của vua vừa tới tuổi thành niên được nhận tước hiệu
hiệp sĩ. Nhưng ba hoàng tử này đã khuyên vua cha không nên tổ
chức vòng thi đấu quá tốn kém này. Bù lại, họ xin vua cho họ có cơ
hội thể hiện lòng dũng cảm Kitô giáo bằng cách tổ chức một cuộc
thập tự chinh để đánh chiếm Ceuta, một căn cứ địa Hồi giáo và là
trung tâm thương mại ở đất Phi châu đối diện với Gibraltar. Ở đó,
vua cũng có thể đền tội vì những hành vi đẫm máu của mình trước
kia. Hoàng tử trẻ Henry đã giúp lập kế hoạch cho cuộc viễn chinh
này và nó đã là sự kiện hình thành cuộc đời của ông.
Hoàng tử Henry lúc này mới 19 tuổi, được giao trách nhiệm
đóng một tàu chiến ở thành phố Oporto phía tây bắc Bồ Đào Nha.
Sau hai năm chuẩn bị, cuộc thập tự chinh chống lại Ceuta được mở
đầu trong vùng hào quang của những phép lạ và điềm lành.
Hạm đội Bồ Đào Nha tấn công pháo đài ở Ceuta ngày 24
tháng 8, 1415, trong một trận chiến không cân sức. Được trang bị
đầy đủ vũ khí và quân trang và được sự hỗ trợ của các xạ thủ
người Anh, quân Bồ Đào Nha đã vây hãm và tiêu diệt toàn thể
quân Hồi. Chỉ trong một ngày, quân thập tự chinh Bồ Đào nha đã
chiếm được căn cứ địa Hồi giáo và đưa hoàng tử Henry lên đài
vinh quang. Phía Bồ Đào Nha chỉ có tám binh sĩ tử trận, trong khi
trên các đường phố xác quân Hồi chất đống. Buổi chiều quân Bồ
bắt đầu cướp phá thành phố và những chiến lợi phẩm họ thu được
thì quá sức tưởng tượng. Đây là cơ hội đầu tiên để Henry thoáng
thấy sự giàu có ghê gớm còn đang giấu ẩn ở châu Phi. Những của
cải chiếm được ở Ceuta là những của cải đã được những đoàn
thương gia mang về từ miền nam sa mạc Sahara châu Phi và từ
miền đông Indies. Ngoài những nhu cầu yếu phẩm thông thường
như gạo, lúa mì và muối - quân Bồ Đào Nha còn tìm thấy những
kho lương thực đặc sản như ớt, quế, gừng, đinh hương và rất nhiều
thứ gia vị khác. Các nhà cửa ở Ceuta đều trải những thảm gấm
đắt tiền mua từ phương Đông. Thêm vào đó là vô vàn trân châu,
ngọc ngà và vàng bạc.
Daniel J. Boorstin 128
http://ebooks.vdcmedia.com
Quân Bồ Đào Nha để lại đó một đội quân đồn trú nhỏ rồi về
nước. Khi hoàng tử Henry được phái trở lại Ceuta để dẹp những
đợt tấn công mới Hồi giáo, ông dành nhiều tháng trời học hỏi về
những đoàn thương gia Phi châu. Dưới sự cai trị của người Hồi
giáo, Ceuta sầm uất với khoảng hai mươi tư ngàn cửa tiệm vàng,
bạc, đồng, vải lụa và gia vị, tất cả đều do các đoàn thương gia
mang đến. Nay Ceuta đã trở thành một thành phố Kitô giáo,
những đoàn thương gia không đến nữa. Người Bồ Đào Nha giờ đây
có trong tay một thành phố chết, không mang lại lợi tức gì. Hoặc
họ phải hòa hoãn với các bộ tộc ngoại giáo chung quanh, hoặc họ
phải chinh phục tiếp những phần đất nằm sâu trong đất liền.
Hoàng tử Henry thu thập những thông tin về các miền đất
bên trong là nguồn gốc đưa những kho báu tới Ceuta. Ông đã nghe
được các câu chuyện về một kiểu buôn bán kỳ lạ, "buôn bán câm",
dành cho những người không hiểu được ngôn ngữ của nhau. Các
đoàn lái buôn Hồi giáo đi từ Marốc xuống phía nam qua dãy núi
Atlas sau hai mươi ngày thì đến được bờ sông Senegal. Tại đây,
các nhà buôn Marốc đặt xuống riêng từng đống muối, xâu chuỗi
ngọc trai của Ceutan và những hàng hóa rẻ tiền khác. Sau đó họ
rút đi không cho ai nhìn thấy. Những người dân bộ lạc bản xứ
sống gần những mỏ đào vàng đi ra bờ sông và đổ những đống vàng
bên cạnh những đống hàng hóa của người Marốc. Rồi họ cũng rút
đi không cho ai nhìn thấy, để cho các nhà buôn Marốc tùy ý nhận
số vàng để đổi lấy một đống hàng nào đó của họ, hay bớt đi số
lượng hàng của một đống cho cân xứng với giá trị của đống vàng.
Rồi người Marốc lại rút đi và quy trình cứ tiếp diễn như vậy.
Người Marốc đã thu được vàng của họ theo hệ thống trao đổi này.
Những câu chuyện buôn bán kỳ lạ như thế đã kích thích những
niềm hy vọng của hoàng tử Henry. Nhưng ông đang là một chiến
binh thập tự chinh, vì thế ông đã tổ chức một chiến thuyền Bồ Đào
Nha và tuyên bố ý định chiếm Gibraltar từ quân vô đạo. Nhưng
chiến dịch này đang diễn tiến thì bị vua Joan ngăn cấm và hoàng
tử Henry giận dỗi về nước. Thay vì trở về sống ở hoàng cung để
gánh vác trách nhiệm triều đình, ông bỏ xuống xa phía nam,
xuyên qua Algarve tới tận mũi Mũi Saint Vincent là mũi cuối của
lãnh thổ Bồ Đào Nha và là mũi cực tây nam của châu Âu. Các nhà
địa lý thời xưa đã coi mỏm đất này là một chỗ huyền bí, là ranh
giới với vùng biển xa lạ. Marinus và Ptolêmê đã đặt tên cho nó là
Promontorium Sacrum, mỏm đất thánh và người Bồ Đào Nha đã
chuyển tên gọi này thành Sagres để đặt tên cho một làng gần đó.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 129
http://ebooks.vdcmedia.com
Du khách tới Bồ Đào Nha hôm nay có thể thấy một chiếc hải
đăng giữa các phế tích của pháo đài từng được hoàng tử Henry
dùng làm căn cứ địa trong 40 năm. Tại đây, ông khởi xướng, tổ
chức và chỉ huy các đoàn thám hiểm về phía lãnh thổ huyền bí.
Trong chuyến thám hiểm đầu tiên thời cận đại của ông, từ chỗ này
ông đã cho xuất phát liên tục hàng loạt chuyến thám du vào
những miền đất lạ.
Chính tại Sagres, hoàng tử Henry đã được mệnh danh là
Nhà Hàng Hải. Tại đây ông đã dành hết tâm huyết và nghị lực
của người lính thập tự chinh để đưa vào công cuộc thám hiểm thời
cận đại. Cung điện của hoàng tử Henry là một thứ Phòng Thí
Nghiệm Nghiên Cứu và Phát Triển thời ban đầu.
Hoàng tử Henry đã biết được số mệnh của mình qua những
nhà chiêm tinh. Số mệnh đó được định nơi các ngôi sao, nói rằng
"vị hoàng tử này có số mệnh đi vào những cuộc chinh phục vĩ đại
và cao cả và nhất là đi vào những cuộc khám phá những điều bí ẩn
không ai biết tới". Từ những miền đất lạ mới khám phá, ông sẽ
đưa hàng hóa về để làm giàu cho nền thương mại Bồ Đào Nha.
Hoàng tử Henry đã biến Sagres thành một trung tâm trắc
địa, hàng hải và đóng tàu. Ông biết rằng chỉ có thể khám phá ra
những miền xa lạ nếu phân định rõ ràng được ranh giới những
miền đã biết. Và vì thế cần phải có dụng cụ.
Theo phương pháp của các họa đồ portolano, ông thu thập
những kinh nghiệm lẻ tẻ của các người đi biển để lấp đầy những
vùng bờ biển còn chưa biết. Một người Catalan gốc Do thái quê ở
Majorca tên là Jehuda Cresques, con của nhà trắc địa Abraham
Cresques, được đưa tới Sagres, ở đây ông trông nom việc thu gom
và sắp xếp lại các sự kiện địa lý do những nhà thám hiểm biển của
hoàng tử Henry mang về.
Hoàng tử Henry khích lệ và rồi yêu cầu các nhà thám hiểm
đường biển của mình giữ những nhật ký hải trình và họa đồ chính
xác và ghi chú kỹ cho những người theo sau họ những gì họ đã
thấy ở các bờ biển. Hoàng tử Henry ra lệnh cho họ ghi chép chính
xác mọi chi tiết rồi gởi về Sagres, để khoa trắc địa có thể trở thành
một khoa học lũy tích. Thế là những thủy thủ, du khách và những
nhà bác học từ khắp nơi đồ về Sagres, mỗi người đem đến thêm
những sự kiện mới hay những thông tin mới về các sự kiện. Ngoài
những người Do thái, còn có những người Hồi giáo, Ả Rập, người Ý
Daniel J. Boorstin 130
http://ebooks.vdcmedia.com
từ Genoa và Venice, người Đức và Scandinavi và sau đó, theo đà
tiến triển của công cuộc thám hiểm, còn có những người thổ dân
của các bộ lạc vùng bờ biển tây châu Phi. Tại Sagres cũng có
những tư liệu của các nhà du hành lớn mà người anh của hoàng tử
Henry là Pedro đã thu thập được trong vòng hành trình lớn của
ông tới các cung điện của châu Âu (1419-28). Tại Venice, Pedro đã
nhận một bản tường thuật các cuộc hành trình của Marco Polo
kèm theo một bản đồ "vẽ lại tất cả những phần của trái đất đã
được mô tả, nhờ đó hoàng tử Henry đã tiến xa được rất nhiều".
Cùng với những sự kiện này, người ta lại có những dụng cụ
mới nhất và những kỹ thuật mới nhất về ngành hàng hải. Hồi đó
chiếc la bàn đi biển đã phổ biến rồi, nhưng người ta còn e ngại
dùng nó vì họ tin nó có sức ma thuật, tương tự như thuật gọi hồn.
Mới chỉ một thế kỷ trước đó, việc sử dụng đá nam châm đã khiến
Roger Bacon gặp rắc rối vì bị coi là những tiểu xảo huyền bí. Tại
Sagres, chiếc la bàn cũng như các dụng cụ khác được trắc nghiệm
dựa vào hiệu năng của nó là có giúp cho người đi biển ra xa ngoài
khơi hơn rồi có thể tìm đường trở về nhà được không.
Khi những nhà hàng hải của hoàng tử Henry đi xa hơn
những nơi mà các người Âu châu trước kia đã từng đến, họ đã gặp
những vấn đề mới phát sinh, đó là việc xác định vĩ độ, lúc đó chỉ có
cách tốt nhất là đo độ cao của mặt trời lúc giữa trưa. Thay vì dùng
dụng cụ đo độ cao thiên thể rất phức tạp và đắt tiền, các nhà hàng
hải của hoàng tử Henry đã sử dụng một dụng cụ đơn sơ hơn là cây
đo chữ thập - một cây nhỏ gọn có ghi độ với một thanh chữ thập có
thể di động theo đường chân trời và mặt trời để đo góc của mặt trời
lúc lên cao. Cộng đồng những người từ khắp nơi tới Sagres đã giúp
chế ra thước đo độ, những bảng toán học mới và những dụng cụ
mới, hợp thành một bộ thiết bị thám hiểm của hoàng tử Henry.
Tại Sagres và cảng Lagos gần đó, các thí nghiệm về đóng tàu
đã sản xuất ra một loại tàu mới nhờ đó những chuyến thám hiểm
của hoàng tử Henry và những cuộc thám hiểm lớn về đường biển
trong thế kỷ tiếp theo mới có thể thực hiện được. Thuyền buồm
nhỏ caravel là một thuyền lớn được thiết kế để có khả năng đưa
các nhà thám hiểm trở về. Loại thuyền ba buồm barca là loại
thuyền lớn có buồm chính thẳng góc với thuyền hay tàu lớn hình
vuông của người Venice có trọng tải đến sáu trăm tấn hay nhiều
hơn. Tàu càng lớn thì lợi tức càng nhiều vì chở được nhiều hàng
hơn.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 131
http://ebooks.vdcmedia.com
Tàu dùng để thám hiểm có vấn đề riêng của nó. Nó không
phải tàu chở hàng, nó phải đi rất xa trong những vùng biển lạ và
khi cần, nó phải có khả năng chạy ngược gió. Tàu thám hiểm chỉ
có công dụng nếu nó có thể đi và trở về. Hàng hóa quan trọng của
nó là các tin tức, những tin tức này có thể giữ trong một gói nhỏ,
thậm chí được nhớ trong óc của một người, nhưng dứt khoát nó
phải là một sản phẩm về được tới nhà. Tàu thám hiểm không cần
lớn, nhưng nó phải dễ điều khiển và thích hợp để quay trở về. Tự
nhiên người đi biển có khuynh hướng ra khơi xuôi gió, nên cũng có
nghĩa là họ phải trở về ngược gió. Các tàu buôn tốt nhất cho việc
thương mại trên biển Địa Trung Hải thì không thích hợp cho các
cuộc thám hiểm ngoài đại dương xa lạ mênh mông.
Tàu buồn caravel của hoàng tử Henry được thiết kế đặc biệt
cho những nhu cầu nói trên của nhà thám hiểm. Ông đã lấy ý
tưởng từ kiểu tàu caravos của người ả Rập thời xưa, là những tàu
lớn một buồm có khả năng chuyên chở một đoàn thủy thủ lên tới
30 người và 70 con ngựa. Rồi ông cũng lấy ý tưởng từ một kiểu tàu
nhỏ hơn và dễ điều khiển, gọi là thuyền buồn caravela, vẫn được
dùng trên sông Douro ở miền bắc Bồ Đào Nha. Các nhà đóng tàu
của hoàng tử Henry đã sản xuất chiếc tàu caravel nổi tiếng, bằng
cách kết hợp giữa kiểu tàu chở hàng caravos của người Ả Rập với
kiểu tàu caravela của sông Douro do tính năng dễ điều khiển của
nó.
Những con tàu nhỏ caravel độc đáo này đủ sức chở một đoàn
thủy thủ cỡ 20 người cùng vật dụng thám hiểm. Họ thường ngủ
trên boong tàu, trừ khi thời tiết xấu mới xuống trong khoang. Tải
trọng của tàu là khoảng 50 tấn, dài khoảng 23 mét, bề ngang thân
tàu khoảng 8 mét và có hai hay ba buồm tam giác. Nhà hàng hải
lão luyện người Venice Alvise da Cadamosto (1432-1511) vào năm
1456 đã gọi đó là "những tàu đi biển tốt nhất", sau chuyến thám
hiểm châu Phi của ông trên một chiếc tàu caravel do hoàng tử
Henry tổ chức. Tàu caravel đã trở thành tàu tiêu chuẩn của nhà
thám hiểm. Ba chiếc tàu của Colômbô - Santa Maria, Pinta và
Nina - đều thiết kế theo kiểu tàu caravel và chiếc Santa Mari chỉ
lớn bằng 1 phần 5 những chiếc tàu lớn Venice có buồm thẳng góc
thời bấy giờ. Tàu caravel chứng tỏ tàu lớn hơn chưa chắc đã tốt
hơn.
Những cuộc thám hiểm châu Phi của hoàng tử Henry sẽ cho
thấy tàu caravel có khả năng trở về nhà một cách bảo đảm mà các
Daniel J. Boorstin 132
http://ebooks.vdcmedia.com
loại tàu trước đó không có. Phần chìm của tàu không sâu giúp nó
thám hiểm được những vùng biển cạn gần bờ và cũng giúp nó dễ
dàng đi vào bãi cạn để sửa chữa. Trong thuật ngữ hàng hải, khả
năng trở về nhà đồng nghĩa với khả năng chạy ngược gió và về
điều này thì tàu caravel thật tuyệt vời. Điều này có nghĩa là trong
điều kiện gió ngược, tàu caravel có thể chạy nhanh hơn những loại
tàu buồm khác. Các thủy thủ biết mình ở trên một chiếc tàu có
khả năng đưa mình về nhà bảo đảm và nhanh hơn, sẽ cảm thấy an
tâm, vui vẻ và sẵn sàng chấp nhận những cuộc hành trình xa và
nguy hiểm hơn.
Tuy hoàng tử Henry không thực sự xây dựng một viện
nghiên cứu hàng hải, nhưng ông là người đã gom góp tất cả những
chất liệu nòng cốt. Ông đã sưu tầm sách vở, họa đồ, quy tụ các
thuyền trưởng, hoa tiêu và các nhà hàng hải, các thợ đóng tàu, thợ
mộc và các thợ thủ công khác, để hoạch định những cuộc đi biển,
để đánh giá những khám phá và chuẩn bị cho những chuyến thám
hiểm ngày một xa hơn vào những vùng biển xa lạ. Công trình mà
hoàng tử Henry đã bắt đầu sẽ không bao giờ chấm dứt.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 133
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 22
BÊN KIA MŨI HIỂM NGHÈO
Không giống với Colômbô, người sẽ nhắm thẳng tới vùng
Indies, hoàng tử Henry Nhà Hàng Hải có một hướng nhắm rộng
lớn hơn, mơ hồ hơn và cũng mới mẻ hơn, đúng theo số tử vi của
ông. Theo Gomes Eanes de Zurara, một người rất khâm phục
hoàng tử Henry, "tinh thần cao quý của vị Hoàng tử này không
ngừng thúc đẩy ông mở đầu và thực hiện những hành động phi
thường... ông cũng ao ước biết đến những vùng đất bên kia các đảo
Canary và Mũi có tên là Bojador, vì cho tới thời đó, chưa hề có tài
liệu bằng chữ viết hay lời kể của ai về tính chất của vùng đất bên
kia Mũi... ông nghĩ rằng nếu chính mình hay một người quý tộc
nào khác không cố gắng đạt được sự hiểu biết về vùng đó, thì
không một nhà hàng hải hay lái buôn nào sẽ dám mạo hiểm, vì rõ
ràng là chưa hề có ai dám liều giong buồm tói một nơi mà họ
không nắm chắc hi vọng sẽ thu về được những lợi lộc".
Chúng ta không có bằng chứng chắc chắn rằng hoàng tử
Henry đã có trong đầu mục tiêu rõ rệt là mở một đường biển vòng
quanh châu Phi để đến ấn Độ. Cái kích thích ông là một vùng xa
lạ, nằm ở phía tây và tây nam trong vùng Biển Tối Tăm và xa xa
xuống phía nam dọc bờ biển châu Phi chưa từng ai biết đến. Các
quần đảo của Đại Tây Dương - quần đảo Azores, Madieras và
Canaries - có lẽ đã được khám phá bởi những thủy thủ Genoa vào
giữa thế kỷ 14. Các cố gắng của hoàng tử Henry theo hướng này
đúng ra là nhằm mục đích tìm thuộc địa và phát triển hơn là một
công cuộc thám hiểm. Nhưng khi người của ông đến quần đảo
Madeira (maderia có nghĩa là gỗ) vào năm 1420 và bắt đầu vào
sâu trong rừng rậm, họ đã đốt lửa khiến cả khu rừng bị cháy trong
7 năm trời. Một cách tình cờ họ khám phá ra chất bồ tạt do than
cây cháy để lại sẽ là một loại phân bón rất tốt cho các vườn nho
thuộc giống nho Malmsey nhập từ đảo Creta về để trồng vào chỗ
rừng bị cháy. Rượu "Madeira" đã trở thành nổi tiếng. Nhưng, như
số tử vi của ông đã tiên báo, hoàng tử Henry bản chất không phải
một nhà thuộc địa mà là một nhà khám phá.
Daniel J. Boorstin 134
http://ebooks.vdcmedia.com
Khi đọc một bản đồ mới của châu Phi, chúng ta phải mất lâu
giờ và dùng một kính phóng đại mới có thể tìm ra Mũi Bojador
(tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là "Mũi Phình Lên"), ở bờ biển phía
tây, ngay phía nam quần đảo Canary. Bờ cát chắn ngang khu vực
này rất thấp phải đến gần mới nhìn thấy và có những vách đá
cheo leo và những dòng nước rất khó qua lại. Mũi Bojador cũng chỉ
nguy hiểm như hàng chục bờ cát khác mà các nhà hàng hải Bồ
Đào Nha đã đi qua và còn sống sót. Nhưng họ đã coi Mũi Bojador
là điểm cuối cùng mà họ không thể nào vượt qua được nữa. Không
ai dám vượt qua.
Ở nhà, hoàng tử Henry biết rằng mình không thể chinh phục
được cái rào chắn thiên nhiên này nếu trước tiên không chinh
phục được cái rào chắn của sự sợ hãi.
Ông biết mình sẽ không bao giờ đi xa hơn được vào vùng xa
lạ nếu ông không thể thuyết phục các người thám hiểm của mình
vượt qua Mũi Bojador. Từ năm 1424 đến 1434, hoàng tử Henry đã
gởi 15 đoàn thám hiểm đi vòng cái mũi nhỏ bé nhưng hiểm nghèo
ấy. Mỗi chuyến thám hiểm trở về đều đưa ra những lý do này hay
lý do khác để cho thấy họ không thể đi tới những nơi mà chưa từng
có ai đi tới. Họ thuật lại những sự kiện kỳ lạ của cái mũi huyền
thoại này: có những đợt cát đỏ tung lên như những thác lũ từ
những vách đá cheo leo bị sập, trong khi từng đàn cá mòi bơi lặn
trong dòng nước cạn khuấy động thành các xoáy nước. Không thấy
có sự sống nào dọc theo bờ biển sa mạc. Phải chăng đây là bờ tận
cùng của trái đất?
Khi Gil Eannes báo cáo về cho hoàng tử Henry năm 1433
rằng Mũi Bojador thực sự không thể vượt qua, hoàng tử không hài
lòng. Phải chăng các thủy thủ của mình quá nhát gan? Nhưng ông
biết rõ Gil Eannes là con người gan dạ. Ông lại phái Gil đi lại một
lần nữa vào năm 1434 và hứa sẽ trọng thưởng. Lần này, khi Gil
vừa đến gần mũi, anh quay tàu về phía tây, đánh liều với những
hiểm nguy chưa được biết tới của đại dương xa lạ thay vì liều
mạng với những hiểm nguy đã biết của mũi đã ở phía sau lưng
mình rồi. Đặt chân lên bờ biển châu Phi, anh thấy đất đai hoang
vắng, nhưng hoàn toàn không phải là chỗ chết. Thế là, như Zurara
thuật lại, "Ông ta đã dự định thế nào thì đã thực hiện được như
vậy - vì trong chuyến thám hiểm này, ông đã đi vòng quanh Mũi
biển, coi thường mọi nguy hiểm và khám phá ra những vùng đất
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 135
http://ebooks.vdcmedia.com
xa lạ, ngược hẳn với những gì chính ông và những người khác đã
mong đợi".
Sau khi phá được bức tường sợ hãi, hoàng tử Henry tiếp tục
chương trình của mình. Năm này qua năm khác, ông liên tục gởi
đi những đoàn thám hiểm, mỗi đoàn đi xa hơn một chút vào miền
xa lạ. Năm 1435, khi ông phái Gil Eannes đi một chuyến nữa cùng
với Afonso Baldaya, người hầu rượu của vua, họ đã tiến xa thêm
được 50 hải lý dọc bờ biển. Tại đây họ thấy những vết chân người
và lạc đà, nhưng vẫn chưa gặp được người nào. Năm 1436, khi
Baldaya, đi một chuyến nữa, với nhiệm vụ đưa về cho hoàng tử
một người dân bản địa để hoàng tử phỏng vấn ở Sagres, họ đến
được một chỗ giống như một cửa sông lớn, mà họ nghĩ có thể là
sông Senegal của "chợ câm" trao đổi vàng. Họ gọi chỗ này là Rio de
Ouro, tuy đây chỉ là một con lạch lớn chứ không phải một con
sông, vì trong thực tế sông Senegal còn cách xa đó năm trăm dặm
về phía nam.
Năm này qua năm khác, cuộc thám hiểm bờ biển tây Phi
châu cứ tiến hành sôi động và từng bước, tuy những kết quả
thương mại đạt được không bao nhiêu. Năm 1441, hai người nhà
của hoàng tử Henry là Nuno Tristão và Antão Goncalves lên
đường đi xa thêm 150 dặm và đến được Mũi Branco (Blanco); ở đây
họ bắt hai người bản xứ mang về. Năm 1444 Gil Eannes mang từ
vùng đất này về chuyến hàng hóa người đầu tiên - hai trăm người
châu Phi bị bán làm nô lệ ở Lagos. Bằng chứng tận mắt này của
Zurara về thời kỳ đầu tiên của việc buôn nô lệ châu Phi là một
thoáng nhìn đau đớn cho những sự khốn nạn sắp đến. "Những bà
mẹ ôm cứng con họ trong tay và ném mình xuống đất để bao bọc
thân thể con mình, coi thường mọi đau đớn thể xác của chính
mình, miễn làm sao họ có thể không bị giằng giật mất con khỏi
mình".
Nhưng Zurara nhấn mạnh rằng "họ được đối xử tử tế và
không có phân biệt đối xử giữa họ và những đầy tớ tự do của Bồ
Đào Nha". Họ được học nghề, được theo đạo và được kết hôn với
người Bồ Đào Nha.
Chuyến hàng nô lệ đến từ châu Phi này đã làm cho công
chúng thay đổi thái độ với hoàng tử Henry. Những người trước đây
từng phê phán hoàng tử Henry vì phí phạm tài sản quốc gia vào
những cuộc thám hiểm ngông cuồng, nay "đã đổi những lời trách
móc của họ thành những lời tán tụng. Họ gọi vị hoàng tử là
Daniel J. Boorstin 136
http://ebooks.vdcmedia.com
Alexandrô thứ hai và tham vọng của cải của họ bắt đầu tăng lên".
Mọi người đều muốn chia phần trong công việc buôn bán đầy triển
vọng ở Guinea.
Vào thời điểm hoàng tử Henry chết ở Sagres năm 1460, cuộc
khám phá bờ biển tây châu Phi mới chỉ bắt đầu, nhưng là sự khởi
đầu tốt đẹp. Bức tường sợ hãi vô lý đã được vượt qua bằng công
cuộc thám hiểm đầu tiên có tổ chức và liên tục để đi vào miền xa
lạ. Vì vậy, hoàng tử Henry xứng đáng được tôn là người sáng lập
công cuộc khám phá liên tục. Đối với ông, mỗi một bước mới đi vào
miền lạ là một lời mời gọi đi xa hơn mãi.
Cái chết của hoàng tử Henry chỉ làm gián đoạn công cuộc
thám hiểm trong một thời gian ngắn. Năm 1469, vua Alfonso V,
cháu của hoàng tử Henry, trong lúc gặp khó khăn tài chánh, đã
tìm cách biến công cuộc thám hiểm trở thành một công trình đem
lại lợi nhuận. Vua đã ký hợp đồng với một chư hầu tên là Fermão
Gomes, một phú gia ở Lisbon, để ông này thực hiện mỗi năm một
cuộc thám hiểm xa hơn ít là một trăm hải lý, khoảng ba trăm dặm,
dọc bờ biển châu Phi, trong thời hạn 5 năm. Bù lại, Gomes được
độc quyền buôn bán ở Guinea và vua Alfonso được chia phần. Cuộc
khám phá toàn bộ bờ biển tây châu Phi bởi người Bồ Đào Nha lúc
này chỉ còn là vấn đề khi nào mà thôi.
Hợp đồng của Gomes đã tạo ra hàng loạt những cuộc khám
phá ngoạn mục mỗi năm về châu Phi - quanh Mũi Palmas, tiến
sâu vào Bighr of Benin, đảo Fernando Po và rồi đi qua xích đạo
xuống phía nam. Các nhà thám hiểm của hoàng tử Henry đã phải
mất ba mươi năm để đi qua những quãng bờ biển mà Gomes chỉ
phải mất 5 năm trong hợp đồng của mình. Khi hợp đồng của
Gomes đáo hạn, vua đã trao quyền khai thác thương mại cho
hoang tử Joan. Năm 1481, hoàng tử Joan trở thành vua Joan II,
mở đầu cho một kỷ nguyên thám hiểm đường biển lớn tiếp theo
của người Bồ Đào Nha.
Vua Joan II có một số lợi thế mà hoàng tử Henry không có.
Kho của hoàng gia bây giờ chất đầy những hàng hóa đem từ bờ
biển tây châu Phi về. Những hàng hóa như tiêu, ngà voi vàng và
nô lệ đã trở thành những mặt hàng chính yếu khiến người ta đã
lấy những tên gọi đó để đặt tên cho những miền đất mới khám phá
đối diện với Vịnh Guinea. Trong nhiều thế kỷ, những miền này sẽ
được gọi là "Bờ Biển Hạt" (hạt tiêu Guinea được gọi là "Hạt Địa
Đàng"), Bờ Biển Ngà, Bờ Biển Vàng và Bờ Biển Nô Lệ. Vua Joan
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 137
http://ebooks.vdcmedia.com
II bảo vệ những khu định cư của người Bồ Đào Nha bằng việc xây
dựng pháo đài Fort Elmina, "cái mỏ" ở giữa trung tâm Bờ Biển
Vàng. Vua tài trợ các chuyến thám hiểm đường bộ vào sâu trong
đất liền, tới tận xứ Sierra Leone và xa tới tận Timbuktoo. Và vua
đã thúc đẩy đi xuống bờ biển.
Như ta đã biết, khi các nhà hàng hải tiến xuống phía dưới
xích đạo, họ không còn nhìn thấy sao Bắc đẩu nữa, vì thế họ phải
tìm một dụng cụ khác để xác định vĩ độ. Để giải quyết vấn đề này,
vua Joan cũng giống như hoàng tử Henry đã quy tụ các chuyên gia
từ khắp nơi và lập một ủy ban đứng đầu là hai nhà bác học do thái
chuyên về toán học và thiên văn học - đó là nhà bác học nổi tiếng
Abraham Zacuto của Đại học Salamanca của Tây Ban Nha và đệ
tử của ông là Joseph Vizinho, cả hai đã được vua Joan II mời tới
Bồ Đào Nha. Joseph Vizinho đã nhận lời của vua Joan II từ mười
năm trước và đến năm 1485 được vua cử đi trong một chuyến hành
trình để khai triển và áp dụng kỹ thuật xác định vĩ độ nhờ độ cao
của mặt trời lúc giữa trưa. Ông sẽ hoàn thành nhiệm vụ này nhờ
ghi lại độ nghiêng của mặt trời dọc suốt bờ biển Guinea. Tác phẩm
đầy đủ nhất để tìm vị trí trên biển nhờ đo độ nghiêng của mặt trời
là bộ Almanach Perpetuum do Zacuto viết bằng tiếng cổ Do thái
gần hai mươi năm về trước. Sau khi Vizinho dịch những bảng này
sang tiếng Latinh, chúng được dùng để hướng dẫn các nhà khám
phá trong suốt một nửa thế kỷ.
Đồng thời vua Joan tiếp nối công trình của hoàng tử Henry
và tiếp tục gởi những đoàn thám hiểm đi xa xuống bờ biển tây
châu Phi. Diogo Cão đã đi tới tận cửa biển Congo (1480-84) và bắt
đầu tục lệ dựng những bia đá có gắn hình thập tự bên trên để làm
bằng chứng cuộc khám phá đầu tiên của mỗi nơi.
Từ năm 1487, vua Joan II đưa ra một chiến lược thám hiểm
lớn gồm hai nhánh: Ông sai một phái đoàn thám hiểm đường bộ
theo hướng đông nam và một phái đoàn khác theo đường biển dọc
bờ biển châu Phi. Nếu thực sự có một con đường biển đi đến Ấn
Độ, ông sẽ có thể tìm được sự liên minh của các nước Kitô giáo
không những cho các cuộc thập tự chinh mà còn có những trạm
dừng chân và căn cứ hậu cần cho những cuộc thám hiểm thương
mại trong tương lai.
Đoàn thám hiểm đường bộ rất nhỏ, chỉ gồm hai người, đã rời
Santarém ngày 7 tháng 5, 1487. Sau khi tìm kiếm kỹ lưỡng, vua
đã chọn Pero da Covilhã và Affonso de Paiva cho nhiệm vụ nguy
Daniel J. Boorstin 138
http://ebooks.vdcmedia.com
hiểm này. Hai chuyên gia này đã tham khảo những thông tin hữu
ích từ những kế hoạch mà Christopher Colômbô đã thông báo ở Bồ
Đào Nha một thời gian trước đây. Một chủ ngân hàng Florentina
đã cho hai nhà thám hiểm một thư tín dụng để họ có các khoản chi
phí trên đường qua Tây Ban Nha và Italia để tiến về phía đông. Ở
Barcelona họ đáp tàu đi Napoli, rồi lại đáp tàu đi Rhodes. Tại đây,
họ lên bờ vào lãnh địa Hồi giáo và bắt đầu phải dè chừng vì họ sẽ
bị coi là những "con chó Kitô giáo". Họ cũng sẽ gặp phải những lái
buôn Venice và Genoa là những người không muốn có sự cạnh
tranh của Bồ Đào Nha. Vì thế họ buộc phải cải trang làm những
lái buôn Hồi giáo giả đi buôn hàng mật ong. Bằng cách cải trang
như thế, họ đã đến được Alexandria, tại đây cả hai suýt chết vì bị
sốt, rồi họ lên đường tới Cairo và Aden ở cửa Biển Đỏ.
Tại đây hai người đi mỗi người một ngả. Paiva sẽ đi thẳng tới
Ethiopia và Prester John, còn Covilhã đi tới Ấn Độ. Paiva đã mất
tích, nhưng Covilhã đến được Calicut và Goa ở bờ biển tây nam Ấn
Độ, tại đây ông chứng kiến cảnh phồn thịnh của nền thương mại
ngựa ả Rập, gia vị, vải bông và đá quý. Tháng 2, 1489, Covilhã đáp
tàu hướng về phía tây đến Ormuz ở cửa Vịnh Ba Tư, rồi đến cảng
Sofala ở đông châu Phi đối diện với Madagascar rồi trở ngược về
phía bắc tới Cairo. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tìm hiểu công
việc buôn bán của người châu Âu với ấn Độ, ông nóng lòng trở về.
Nhưng ở Cairo ông gặp hai sứ giả của vua Joan II người Do Thái
trao cho ông lá thư của vua, truyền ông phải đi ngay tới đất của
Prester John để thu thập thông tin và kết liên minh.
Không thể không vâng lệnh vua, Covilhã tiếp tục sứ mạng
của mình, đồng thời gởi về cho vua một lá thư quan trọng kể lại
tất cả những gì ông đã biết về chuyến đi biển ả Rập và việc buôn
bán với ấn Độ. Năm 1493, sáu năm kể từ ngày ông rời Bồ Đào
Nha, ông đã tới Ethiopia. Trong lãnh địa này của John Prester,
ông trở thành một Marco Polo Bồ Đào Nha, giúp ích rất nhiều cho
triều đình khiến vua không muốn cho ông ra đi. Tin chắc mình
không có hy vọng trở về quê hương, Covilhã đã cưới vợ người
Ethiopia và có mấy người con.
Lá thơ Covilhã viết cho vua chỉ còn lại bản sao, sẽ có một ảnh
hưởng mạnh đối với tương lai của Bồ Đào Nha và châu Á. Bởi vì lá
thư này đã cho vua Joan II những thông tin từ các báo cáo mà
Covilhã đã nghe được ở bờ biển châu Phi, "rằng các chiếc tàu
caravel [của vua] vẫn dùng trong các chuyến buôn hàng ở Guinea,
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 139
http://ebooks.vdcmedia.com
đang đi từ bờ biển này sang bờ biển khác và đang nhắm tới bờ biển
của đảo này [Madagasscar] và Sofala, có thể dễ dàng đi sâu vào
những biển phương Đông và dọc bờ biển Calicut, bởi vì ở đâu cũng
có biển"
Daniel J. Boorstin 140
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 23
ĐẾN ẤN ĐỘ VÀ TRỞ VỀ
Nhánh thứ hai trong chiến lược thám hiểm của vua Joan II
là đường biển, một dự án được sắp đặt lâu ngày, tổ chức kỹ lưỡng,
với vốn đầu tư lớn và một đoàn thám hiểm đông người. Người chỉ
huy được vua chọn là Bartholomeu Dias, người đã từng trông coi
các kho của hoàng gia ở Lisbon và đã đi một chuyến tàu caravel
xuống bờ biển châu Phi. Đoàn thám hiểm của Dias gồm hai tàu
caravel, mỗi tàu có trọng tải 50 tấn và một tàu kho mà các chuyến
thám hiểm từ trước đến nay chưa có, để giúp cho hai tàu kia có
khả năng nhiều hơn, ở ngoài biển lâu hơn và có thể ra xa ngoài
khơi hơn. Dias mang theo sáu người châu Phi đã từng có mặt
trong các chuyến thám hiểm Bồ Đào Nha trước đây. Dias cho họ
ăn uống tử tế, cho mặc đồ theo kiểu người Âu, rồi rải họ ở một số
nơi dọc bờ biển, cùng với những mẫu hàng hóa như vàng, bạc, gia
vị và các sản phẩm châu Phi khác, để họ dùng kiểu "buôn bán
câm" chỉ cho những người bản xứ biết người Bồ Đào Nha cần
những loại hàng hóa nào. Sau khi đã rải hết những sứ giả châu
Phi này, các con tàu của Dias gặp phải một cơn bão chuyển thành
một cuồng phong dữ dội. Những con tàu phải hạ buồm chạy trước
cơn gió bắc trên biển sóng lớn trong 13 ngày và bị gió đưa đi xa ra
ngoài khơi rồi xuống phía nam của biển cả. Đoàn thủy thủ vừa mới
bị sức nóng thiêu đốt của xích đạo, giờ đây trở thành hoảng loạn.
"Và vì các tàu khá nhỏ và biển thì càng lúc càng lạnh hơn và
không giống như lúc họ còn ở Guinea,... họ chỉ nằm trên tàu chờ
chết". Nhưng cơn bão đã qua đi và Dias căng tất cả các cánh buồm
và quay về phía đông, nhưng sau nhiều ngày vẫn không thấy đất
đâu cả. Quay lên phía bắc 150 hải lý, ông bất ngờ thấy những dãy
núi cao. Ngày 3 tháng 2, 1488, ông bỏ neo ở vịnh Mossel, nằm vào
khoảng 30 dặm phía đông chỗ ngày nay gọi là Mũi Town. Có vẻ do
ý trời, cơn bão đã thực hiện được điều mà không một kế hoạch nào
có thể thực hiện, vì nó đã đưa Dias vòng qua mũi cực nam của
châu Phi. Khi đoàn người thám hiểm lên bờ, họ bị dân bản xứ ném
đá đuổi đi, Dias dùng cung bắn chết một người bản xứ khiến họ
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 141
http://ebooks.vdcmedia.com
phải bỏ đi. Ông đi theo bờ biển, đi thêm ba trăm dặm nữa đến cửa
của Great Fish River và vào vịnh Algoa.
Dias muốn đi tiếp vào Ấn Độ Dương, để hoàn thành niềm
mong đợi của nhiều thế kỷ, nhưng đoàn thủy thủ không muốn.
"Mệt mỏi và kinh hoàng vì biển cả dữ dội mà họ đã đi qua, tất cả
đều cùng nhau bắt đầu lẩm bẩm kêu ca và yêu cầu không được đi
xa thêm nữa". Lương thực còn rất ít và chỉ có cách quay nhanh trở
về tàu lương thực còn ở xa tít phía sau. Sau khi hội ý với các
thuyền trưởng và mọi người đều ký vào quyết định quay trở về,
Dias đã đồng ý.
Trên đường về, họ trở lại chiếc tàu lương thực mà họ đã để
lại cách đây chín tháng với 9 người trên tàu. Chỉ còn ba người sống
sót và một trong ba người này "quá vui khi gặp lại các bạn nên đã
chết một cách đột ngột, vì đã quá đuối sức vì bệnh tật". Người ta
dỡ hàng từ chiếc tàu lương thực rồi đốt bỏ nó, chỉ còn hai con tàu
caravel quay về Bồ Đào Nha vào tháng 12 năm 1488, sau mười sáu
tháng và mười bảy ngày lênh đênh trên biển.
Khi hai chiếc tàu caravel tan nát vì thời tiết về tới cảng
Lisbon, Christopher Colômbô đã có mặt ở đó để đợi đoàn thám
hiểm. Dạo ấy Christopher Colômbô chưa có tiếng tăm gì. Ông rất
quan tâm đến kết quả chuyến đi của Dias. Thời gian đó, Colômbô
đang ở Lisbon để một lần nữa cố gắng thuyết phục vua Joan II tài
trợ cho đoàn thám hiểm của riêng ông tới vùng Indies bằng con
đường biển phía tây băng qua Đại Tây Dương. Năm 1484, khi
Colômbô lần đầu tiên đến trình bày dự án của mình cho vua, vua
đã giao cho một ủy ban chuyên môn xem xét, họ đã bác bỏ dự án vì
cho rằng ông đã đánh giá quá sai khoảng cách phía tây đến vùng
Indies. Nhưng vua đã có ấn tượng rất mạnh về "tài trí" của ông và
vì thế lần này ông đến thử một lần nữa. Lúc Dias chiến thắng khải
hoàn cũng là thời điểm không hài lòng cho Colômbô. Bởi vì con
đường vòng quanh châu Phi để đến Indies nay đã khả thi và dự án
của Colômbô kể là thừa. Thế là Colômbô phải đi tìm sự trợ giúp
của một quốc gia khác chưa từng tìm ra con đường quanh châu
Phi.
Dias không bao giờ được vua thưởng công xứng đáng và ông
trở thành con người của Kỷ Nguyên Khám Phá của Bồ Đào Nha bị
quên lãng. Ông có trông coi việc đóng những tàu cho Vasco da
Gama, nhưng không dự phần trong chuyến hành trình cao điểm
của Gama tới Ấn Độ.
Daniel J. Boorstin 142
http://ebooks.vdcmedia.com
Người ta đã trông chờ công trình thám hiểm của Dias được
tiếp nối mau chóng, nhưng nó đã bị trì hoãn do những vấn đề nội
bộ ở Bồ Đào Nha, do việc kế vị ngôi vua bị gián đoạn và nhất là do
cuộc tranh giành xảy ra khiến Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang
đứng bên bờ của một cuộc chiến.
Khi vua Joan II được tin Colômbô khám phá ra những đảo
mới ở Đại Tây Dương, ông tuyến bố năm 1493 rằng những đất này
vì gần quần đảo Azores và vì những lý do khác nữa, nên phải
thuộc về Bồ Đào Nha. Tuyên bố này gây nên cuộc tranh giành giữa
vua Joan của Bồ Đào Nha với vua Derdianand de Castile của Tây
Ban Nha, hai nước phải nhờ sự phân xử của Giáo hoàng, qua Hiệp
ước Tordesillas (7-6-1494). Hiệp ước này đã giúp tránh được cuộc
chiến giữa hai nước và trở thành một trong những hiệp ước thời
danh nhất trong lịch sử châu Âu. Nhưng hiệp ước cũng có nhiều
điểm mơ hồ khiến không ai biết được nó có hiệu lực thực sự hay
không.
Lên ngôi vua Bồ Đào Nha vào năm 1495 là một hoàng tử gan
dạ 26 tuổi, vua Manuel I, có biệt danh là "Người May Mắn", vì ông
được kế thừa nhiều công trình to lớn. Ông đề xướng một kế hoạch
tiếp nối những khám phá của Dias bằng một cuộc thám hiểm theo
đường biển tới Ấn Độ, với mục đích mở đường thương mại và đồng
thời mở đường chinh phục. Các quân sư thận trọng khuyên can
vua, nhưng vua bác bỏ các vấn nạn của họ và kiên quyết chọn một
người chỉ huy cho đoàn thám hiểm, đó là Vasco da Gama (1460-
1524), một nhà quý tộc trong hoàng cung, Gama đã từng chứng tỏ
là một thủy thủ giỏi và một nhà ngoại giao. Như vua Manuel dự
kiến trước, sự chuyên môn của một thủy thủ có thể là đủ cho
những chuyến đi dọc bờ biển thưa thớt dân cư ở tây phi Châu,
nhưng không đủ khi phải đối diện với những nhà cai trị đầy mưu
lược của Ấn Độ. Các sự kiện cho thấy Vasco da Gama là con người
thích hợp một cách xuất sắc. Tuy là con người tàn nhẫn và hung
dữ, nhưng ông có lòng can đảm, tính kiên quyết và tầm nhìn rộng
trong cung cách đối xử với những thủy thủ quê mùa và những
lãnh chúa ngạo mạn.
Sau hai năm trời chuẩn bị, với một hạm đội gồm 4 chiến
thuyền lớn - hai tàu buồm vuông có phần chìm nông, mỗi chiếc
khoảng 100 tấn, một tàu buồm caravel khoảng 50 tấn và một tàu
kho khoảng 200 tấn - đoàn thám hiểm của Gama rời cảng Lisbone
ra khơi ngày 8 tháng 7, 1497. Các tàu mang theo lương thực cho
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 143
http://ebooks.vdcmedia.com
ba năm. Đoàn thám hiểm cũng được trang bị đầy đủ với các bản
đồ, các dụng cụ đo thiên văn và các bảng tính độ nghiêng mặt trời
của Zacuto. Họ cũng mang theo những phiến đá làm trụ mốc để
đánh dấu những phần đất người Bồ Đào Nha khám phá ra. Tất
nhiên cũng có một tuyên úy và một số những tù nhân có thể dùng
làm cảm tử quân khi gặp những tình huống nguy hiểm đến tính
mạng. Toàn bộ đoàn người trên tàu là 170 người.
Những hào quang rực rỡ của Colômbô nhiều khi làm lu mờ
những con người khác đã có những thành tựu cũng to lớn, hay
thậm chí còn to lớn hơn của Colômbô về những khám phá đường
biển trong Kỷ Nguyên Đường Biển đầu tiên này. Không xét đến
những đức tính của cá nhân, nhưng xét đến những thành tựu to
lớn về đường biển, thì Vasco da Gama phải vượt xa Colômbô.
Chuyến du hành đầu tiên của Colômbô đi thẳng hướng tây theo
gió nhẹ và đi được hai ngàn sáu trăm dặm từ Gomera ở Canaries
đến Bahamas, lênh đênh trên biển ba mươi sáu ngày. Chuyến
hành trình của Gama đòi hỏi di chuyển khéo léo hơn, đã buộc ông
phải đi một vòng rộng gần bằng chiều ngang của nam Đại Tây
Dương, lại còn ngược dòng và ngược gió. Ông đã có quyết định
nguy hiểm không men theo bờ châu Phi mà thả buồm quanh phần
giữa của Đại Tây Dương, từ các hải đảo ở Mũi Verde tới Mũi Hảo
Vọng, một khoảng đường hơn ba ngàn bảy trăm dặm, trước khi
đến được Saint Helena ngay phía trên Cape Town ngày nay, lênh
đênh trên biển suốt chín mươi ba ngày. Từ đó, với tài đi biển và tài
chỉ huy đoàn thủy thủ và tài ứng phó với những lãnh chúa Hồi
giáo thù nghịch ở Mozambique, Mombasa và Malindi, ông đã đưa
đoàn tàu của mình vượt qua Biển Ả Rập và Ấn Độ Dương và đến
được Calicut, là đích điểm cuộc hành trình dự kiến của ông, nằm
trên bờ tây bán đảo Ấn Độ vào ngày 22 tháng 5, 1498. Cho tới thời
đó, chưa từng có một thành tựu đi biển nào ngang tầm với ông.
Tiếc rằng không giống với Colômbô, Gama không để lại tài
liệu tự thuật nào. Nhưng may thay, có một thành viên thủy thủ
đoàn của ông đã viết nhật ký và đã giữ lại cho chúng ta những
thoáng nhìn sống động về đủ loại vấn đề mà đoàn thám hiểm đã
vượt qua trên đường đi.
Đoàn thám hiểm của Gama rời Calicut cuối tháng 8, 1498,
"hết sức vui mừng vì đã may mắn đạt được một sự khám phá to
lớn như thế". Trải qua những cuộc hành trình ngược gió, bị những
lãnh chúa Hồi giáo ngăn chặn và bị dịch bệnh sát hại, cuối cùng
Daniel J. Boorstin 144
http://ebooks.vdcmedia.com
hai trong số bốn tàu của Gama đã vinh quang cập bến Lisbon vào
giữa tháng 9, 1499. Đó là chiếc tàu buồm vuông San Gabriel và
tàu caravel Berrio. Trong số 170 người đã đi trong đoàn, chỉ còn 55
người sống sót trở về.
Không có mấy người hùng trong các cuộc thám hiểm có may
mắn nhìn thấy kết quả công cuộc thám hiểm của mình. Vasco da
Gama là một trong số ít những người này. Chuyến du hành của
ông đã chứng tỏ tính khả thi của con đường biển nối Tây và Đông
và nhờ đó đã thay đổi lịch sử của cả phương Đông và phương Tây.
Những bước tiếp theo để thiết lập một đế quốc ở Ấn Độ xem
ra cũng hiển nhiên như những giai đoạn đi xuống bờ biển tây châu
Phi. Phó vương người Bồ Đào Nha đầu tiên của Ấn Độ, Francisco
de Almeida, đã tiêu diệt chiến hạm Hồi giáo năm 1509. Vị toàn
quyền tiếp theo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Afonso de
Albuquerque vào năm 1507 đã chinh phục Ormuz, cửa ngõ vào
Vịnh Ba Tư. Đến năm 1510, ông biến Goa thành thủ đô của những
lãnh thổ do Bồ Đào Nha chiếm đóng, chiếm Malacca năm 1511, rồi
mở thương mại đường biển với Xiêm La, Moluccas hay Quần Đảo
Gia Vị và Trung Hoa. Từ đó Bồ Đào Nha thống trị Ấn Độ Dương.
Những hậu quả đã lan rộng khắp thế giới. Nền thương mại
phồn thịnh của Italia từ trước tới nay dựa vào của cải phương
Đông đổ vào qua ngả Venice và Genoa. Bây giờ việc buôn bán
những đặc sản châu Á - gia vị, thuốc phiện, đá quý và lụa - không
còn đi qua Vịnh Ba Tư, Biển Đỏ và phương Đông nữa, nhưng đi
trên những con tàu Bồ Đào Nha quanh Mũi Hảo Vọng đến phần
đất châu Âu đối diện Đại Tây Dương. Các lãnh chúa Hồi giáo Ai
Cập đã giữ cho hạt tiêu được cao giá nhờ biện pháp hạn chế vận
chuyển mỗi năm chỉ khoảng 210 tấn mà thôi. Hậu quả của con
đường biển Bồ Đào Nha xảy ra nhanh đến nỗi năm 1503, giá hạt
tiêu tại Lisbon chỉ bằng một phần năm giá hạt tiêu ở Venice. Thế
là nền thương mại giữa Ai Cập và Venice bị phá hoại. Của cải từ
châu Á, các kho báu huyền thoại từ phương Đông đang đổ về
phương Tây. Kỷ Nguyên Đường Biển mới đã chuyển các trung tâm
thương mại và văn minh từ những miền đất cố định xung quanh
Địa Trung Hải sang những bờ biển của Đại Tây Dương rộng mở và
tới những đại dương bao la trên khắp thế giới.
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 145
http://ebooks.vdcmedia.com
CHƯƠNG 24
TẠI SAO KHÔNG PHẢI NGƯỜI Ả RẬP?
Nếu người ta đã khám phá ra châu Phi là một bán đảo và có
một đường biển rộng mở từ Đại Tây Dương sang Ấn Độ Dương, thì
tất nhiên cũng có một đường biển từ phía Ấn Độ Dương tới Đại
Tây Dương. Những người Ả Rập sống quanh những bờ biển phía
tây và tây bắc Ấn Độ Dương là những người cũng tiến bộ ít ra là
bằng với những người châu Âu đồng thời của họ, về những khoa đi
biển, gồm khoa thiên văn, địa lý, toán học và nghệ thuật hàng hải.
Vậy tại sao người Ả Rập đã không tìm ra những biển hướng về
phía tây?
Khi Vasco da Gama cuối cùng đã đến được bờ biển Malabar,
ông được tiếp đón bởi những người Ả Rập ở Tunis. Đây là người
của một cộng đồng Ả Rập đông đảo, gồm những lái buôn và chủ
tàu, đã thống trị công việc buôn bán ở Calicut với người nước
ngoài. Từ lâu trước khi có cuộc khám phá con đường biển liên tục
từ Tây sang Đông, người Ả Rập từ Bắc Phi và Trung Đông đã có
một đời sống ổn định ở Ấn Độ rồi.
Những cấm kỵ về giai cấp xã hội có lẽ đã ngăn cản người
tham gia công việc buôn bán với người nước ngoài. Một số bị
những cấm đoán của tôn giáo không cho họ đi qua biển nước mặn.
Đồng thời, sự bành trướng kỳ diệu của Hồi giáo ở những thế hệ
sau Môhamét đã đưa đế quốc Hồi giáo vượt qua sông Indus và đi
vào Ấn Độ trước giữa thế kỷ 8. Các lái buôn Ả Rập đổ xô đến
những thành phố trên bờ biển Malabar.
Các người Hồi giáo đi đến đâu cũng cảm thấy như quê hương
của mình trong thế giới Hồi giáo. Như chúng ta đã thấy, Ibn
Battuta, một Marco Polo của thế giới Ả Rập đã sinh ra tại Tangier,
trong những chuyến du hành rộng rãi đã trở thành một thẩm
phán ở Đê Li và quần đảo maldive và được một lãnh chúa Hồi giáo
Ấn Độ phải làm sứ giả sang Trung Hoa. Thành phố Calicut mà
Gama đã đến có một khu người Ả Rập rất phồn thịnh. Các kho
hàng và cửa tiệm do người Ả Rập làm chủ có mặt trong khắp
Daniel J. Boorstin 146
http://ebooks.vdcmedia.com
thành phố và cộng đồng Ả Rập có pháp quan riêng của mình để
xét xử. Các nhà cai trị người Ấn tỏ ra bao dung đối với tôn giáo của
những lái buôn đến làm cho nền thương mại của thành phố họ
phát đạt. Nhiều gia đình người Ấn ước mong con gái họ trở thành
vợ của những lái buôn Ả Rập giàu có. Không lạ gì người Ả Rập ở
Calicut không mấy hoan nghênh những kẻ xâm nhập Bồ Đào Nha.
Ngành hàng hải ở Ấn Độ Dương đã phát triển từ lâu trước
khi Tiên tri Môhamét sinh ra. Lúc đầu người ta đi từ Ai Cập và
Biển Đỏ đến Ấn Độ bằng đường dọc theo bờ biển. Dần dần khi
khám phá ra những đợt gió mùa, người ta đã sử dụng chúng và
việc đi lại trên biển gia tăng rất nhanh. Gió mùa là một nét đặc
trưng của Ấn Độ Dương, đó là một mẫu gió đổi hướng theo mùa.
Trong phạm vi hành tinh, nó là kết quả của sự tương quan đặc
biệt giữa đất, biển và khí quyển - là kết quả của những khác biệt
về nhiệt độ nóng hay lạnh của khối lượng trái đất đối với khối
lượng của biển. Ở Ấn Độ và Đông Nam Á, gió mùa thay đổi ngược
chiều theo mỗi mùa và vì thế giúp cho việc đi lại về hướng đông
trên Ấn Độ Dương rất thuận lợi.
Dưới thời đế quốc Roma của hoàng đế Augustô, nền thương
mại đường biển giữa Biển Đỏ và Ấn Độ đã phát triển đạt tới một
trăm hai mươi tàu qua lại mỗi năm. Dưới thời Nêrô cai trị, sử gia
Pliny than phiền rằng tiền của đế quốc đang bị tiêu hao để đổi lấy
những món đồ trang sức rẻ tiền của ấn Độ. Những khối đồng tiền
kẽm của Rôma tìm thấy ở Ấn Độ chứng tỏ nền thương mại đã
bành trướng như thế nào.
Các lái buôn Ả Rập đã là những khuôn mặt quen thuộc ở Ấn
Độ từ lâu trước khi có cuộc bành trướng trên bộ của Hồi giáo,
nhưng sau thời Môhamét, ngoài lý do thương mại, còn có lý do của
các cuộc thập tự chinh. Vào giữa thế kỷ 14, Ibn Battuta ghi nhận
rằng các lái buôn Ả Rập đã được đưa từ bờ biển Malabar tới Trung
Hoa trên những con tàu của Trung Hoa. Ở Quảng Đông, ngay từ
thế kỷ 9, đã có một cộng đồng Ả Rập với pháp quan riêng của họ
và chúng ta có những tư liệu rất sớm về những người Hồi giáo ở xa
tận phía bắc như Korea.
Người châu Âu thường mang thành kiến rằng người Ả Rập
không phải những nhà hàng hải tài giỏi hay thành công. Câu
chuyện về những người Ả Rập ở Địa Trung Hải cho thấy phần nào
nguyên do của thành kiến ấy. Giáo chủ Omar I (581-644) là người
tổ chức lực lượng Hồi giáo sang Ba Tư và Ai Cập. Nhưng ông ta rất
ÁNhững phát hiện về vạn vật và con người 147
http://ebooks.vdcmedia.com
e ngại đường biển. Quan toàn quyền của ông ở Syria xin ông cho
phép tấn công đảo Síp. Nhưng Omar không cho phép, vì ông thấy
đường biển đầy bất trắc và nguy hiểm.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro