Phụ lục 1: Hiện tượng nổ lõm
Lượng nổ lõm là gì?
Lượng nổ lõm về căn bản là một khối thuốc nổ được khoét lõm hình phễu, sao cho tập hợp năng lượng của vụ nổ về một điểm.
Nguyên lý của hiện tượng nổ lõm
Hiện tượng nổ lõm xảy ra dựa trên hiệu ứng Munroe, đặt theo tên của nhà hóa học người Mỹ Charles E. Munroe, người đã phát hiện ra nó vào năm 1888. Mặc dù thí nghiệm của Charles E. Munroe, đã được công bố vào năm 1900 nhưng phải đến 44 năm sau, khi mà Thế Chiến Thứ 2 đang ở giai đoạn cao trào thì người ta mới thấy được nó quan trọng như thế nào trong chiến tranh.
Lượng nổ lõm trong đạn thường được đặt một cái phễu kim loại vào giữa. Khi được kích nổ, khối thuốc nổ sẽ ép, nhét, bắn cái phễu này về một điểm. Và luồng kim loại nóng chảy đó sẽ bắn tập trung vào một điểm nhỏ trên mục tiêu với tốc độ gấp nhiều lần vận tốc âm thanh. Nhờ đó mà lượng nổ lõm có thể đục thủng lớp thép dày vài trăm mm một cách dễ dàng. Loại đạn này được gọi là đạn HEAT (high-explosive anti-tank) hay đạn nổ mạnh chống tăng.
Các loại vũ khí áp dụng hiện tượng nổ lõm dùng cho từng người sử dụng
Hiện nay, có nhiều loại vũ khí chống tăng khác nhau, hầu hết đều sử dụng hiện tượng nổ lõm làm nguyên lý chính. Trong bài này, để cho ngắn gọn, tôi sẽ đề cập tới các vũ khí chống tăng dùng hiện tượng nổ lõm dùng cho từng người sử dụng, vì đây là loại phổ biến nhất khi nói tới các vũ khí chống tăng
a. Bom ba càng
Bom ba càng là một thứ vũ khí chống tăng cảm tử, được quân Nhật phát minh và sử dụng trên khắp chiến trường Thái Bình Dương. Tên gốc của nó là Shitotsubakurai
Bom ba càng được thiết kế với kíp kích nổ bằng va chạm, về nguyên tắc nó là đầu đạn lõm. Nó rất dễ chế tạo nên phù hợp với lối đánh du kích thời điểm đó. Bom có dạng hình phễu, miệng phễu có đường kính 22 cm, nhồi bằng thuốc nổ hoặc thuốc bom (7-10 kg), có vành gang gắn ba càng sắt dài 12 cm/càng; đáy phễu là bộ phận gây nổ, gồm: hạt nổ, kim hỏa và chốt hãm an toàn. Khoảng lõm ở đáy hình côn khi nổ sẽ khiến cho sức nổ hướng vào lớp thép xe tăng.
Bom được lắp vào một cây gậy gỗ dài khoảng 1,2m. Người ta phải lắp 3 điểm chạm (3 kíp) để đề phòng có cái kíp nào "xịt" vì không có nhiều cơ hội cho chiến sĩ cảm tử tiếp cận với xe tăng. Theo lý thuyết, bom ba càng có khả năng xuyên thủng lớp thép dày khoảng 150mm ở góc chạm 90 độ, đủ để xuyên thủng giáp trước xe tăng hạng trung thời Thế chiến 2 (1939-1945).
b. Bazooka (B60 ở Việt Nam)
Bazooka tên gọi chung của một loại súng chống tăng không giật với các đặc điểm: Thân dài, có hình ống, tính di động cao, đặt lên vai khi bắn, bắn ra rocket và mục tiêu là các vật thể kiên cố (xe tăng, công sự, tàu thuyền nhỏ, thậm chí cả máy bay). Bazooka nổi tiếng nhờ được sử dụng suốt từ Thế chiến 2 cho tới tận Chiến tranh Việt Nam.
Phiên bản nổi tiếng nhất của Bazooka là M1A1, do Mỹ sản xuất, sử dụng trong thế chiến II (1939-1945)
Trong kháng chiến chống Pháp, kỹ sư Trần Đại Nghĩa của Việt Nam đã tìm cách tự chế tạo súng Bazooka bằng các lò rèn thủ công để trang bị cho bộ đội Việt Nam.
Tháng 9/1946, kỹ sư Phạm Quang Lễ - một trí thức Việt kiều về nước, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho ông phụ trách Cục Quân giới với lời dặn: "Chú về phải lo ngay việc chế tạo vũ khí cho sự nghiệp kháng chiến của Nhân dân ta". Và ngày 27/10/1946, Chủ tịch trực tiếp giao nhiệm vụ cho kỹ sư Phạm Quang Lễ lên xưởng Giang Tiên nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu Bazooka 60mm của Mỹ. Tháng 11/1946, xưởng Giang Tiên đã sản xuất thử nghiệm 1 khẩu súng và 50 viên đạn Bazoka, bắn thử nhưng đạn không xuyên do chất lượng thuốc nổ không đảm bảo. Ngày 5/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao cho Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục Quân giới (tiền thân Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) và đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa (để giữ bí mật danh tính cho ông và cho gia đình, họ hàng ở miền Nam)
Sau một số lần cải tiến, thử nghiệm các kiểu pha chế thuốc nổ, cuối cùng súng bazooka do Việt Nam chế tạo đã thử nghiệm thành công vào đầu tháng 3/1947. Ngày 5/3/1947, trong trận Trúc Sơn - Chùa Trầm, bằng 3 súng Bazooka và 10 quả đạn vừa xuất xưởng, bộ đội Việt Nam đã bắn cháy 2 xe tăng Pháp, bẻ gãy cuộc hành quân của địch. Từ đó, nhiều xưởng quân khí Việt Nam chuyên sản xuất Bazooka để trang bị cho bộ đội.
c. RPG7 (B41 ở Việt Nam)
RPG-7 được thiết kế năm 1958, nó lần đầu được sử dụng trong thực chiến tại Chiến tranh Việt Nam từ năm 1967. Cuối thập niên 1960, phiên bản cải tiến được Liên Xô chế tạo, gọi là RPG-7V. So với phiên bản đầu tiên, RPG-7V có ống ngắm quang học được nâng cấp với tên gọi là PGO-7V. RPG-7V ban đầu trang bị cho tổ chiến đấu AT-3 của Liên Xô. Dễ chế tạo, uy lực mạnh và độ tin cậy cao, suốt thời thập niên 1960 tới nay, RPG-7 vẫn là khẩu súng chống tăng cá nhân thành công nhất trên thế giới.
B41 sử dụng nguyên lý phóng khí động cân bằng, hoàn toàn khác phương pháp phóng của B40. Đầu đạn của B41 cũng có những cải tiến khác xa RPG2 (B40). Phương pháp khí động là phương pháp dùng các tuye thay đổi tốc độ áp suất dòng khí.
B41 có đường kính trong 40 mm, cỡ đạn to hơn cỡ nòng, đạn chỉ nhồi chuôi vào nòng súng. Giữa thân súng phình to ra thành một buồng rộng, đây là buồng đốt, chứa liều phóng, Việc tạo thành buồng đốt này sẽ đẩy súng về phía trước, nhưng lực này được cân bằng bởi lỗ thoát khí và tuye sau. Chỗ phình ra của nòng có ốp lót gỗ dán (về sau thay bằng nhựa tổng hợp) chống nóng vai xạ thủ. Súng có hai tay cầm, với người thuận bên phải thì tay phải đặt trước, trái sau.
Súng có kim hỏa, cò bấm giống B40. Cũng có lò xo đẩy kim hỏa về không cản trở đạn di chuyển.
Cấu tạo của B41 làm cho áp suất không tăng quá nhanh như B40. Khi áp suất cao, cấu tạo tuye xoáy trong nòng của đạn làm áp suất đồng đều và giảm chậm. Tuye sau súng làm giảm chiều dài súng. Nhờ áp suất tăng chậm nên dùng được liều phóng thuốc súng không khói, có năng lực mạnh hơn thuốc nổ đen của B40, nhồi cũng nhiều hơn. Nhờ cấu tạo này, sơ tốc đạn lớn nhưng tiếng nổ trầm do áp suất tăng giảm chậm. Tuy trầm, nhưng chấn động tiếng nổ đầu nòng rất mạnh và nguy hiểm.
B41 dài 953 mm khi không đạn và 1,340 mét với đạn RPG-7. Súng ban đầu nặng 7,9 kg, đạn PG-7 nặng 2,25 kg. RPG-7D là phiên bản gọn nhẹ cho lính đổ bộ đường không, súng có nòng sau (phần có tuye sau) tháo ra được lắp vào bộ gá dưới buồng đốt, khi sử dụng cắm vào phần còn lại. Các khẩu RPG-7 hiện đại thì nhẹ hơn (dù thiết kế không thay đổi) do vật liệu chế tạo được cải tiến.
Súng ban đầu bắn đạn PG-7, sau đó Liên Xô/Nga chế tạo các loại đạn khác như PG-7V, PG-7VM, PG-7VL, PG-7VR là các đạn xuyên phá vỏ thép chống tăng (HEAT). Đạn TBG-7V là đạn nhiệt áp chống lô cốt, công trình. Đạn OG-7, OG-7A là đạn nổ phá - văng mảnh để sát thương bộ binh (APER, nhưng phương Tây thường cho là đạn HE. APER là đạn nhồi một ít thuốc nổ mạnh, chủ yếu khối lượng là mảnh sát thương, còn HE là đạn nhiều thuốc nổ để phá công trình). Ngoài ra còn có nhiều loại đạn khác do các nước khác tự chế tạo.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro