Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Chương 1. NHẬP ĐỀ

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

Cách định nghĩa tâm lý học đã thay đổi vì tiêu điểm của tâm lý học thay đổi. Vào những thời khác nhau trong lịch sử, tâm lý học từng được định nghĩa như là môn học về tâm hồn, về tinh thần, hay ý thức, và gần đây hơn, là môn học hay khoa học về hành vi con người. Vì vậy, có lẽ chúng ta đi đến một định nghĩa có thể chấp nhận được về tâm lý học hiện đại bằng cách quan sát xem các nhà tâm lý học ngày nay tập trung chú ý vào điều gì

- Một số nhà tâm lý học chủ trương tìm kiếm các sự kiện sinh vật học tương ứng với các sự kiện tinh thần như cảm giác, tri giác, hay sự hình thành của ý tưởng.

- Một số tập trung tìm hiểu các nguyên lý chi phối việc học tập và trí nhớ.

- Một số tìm hiểu con người qua việc nghiên cứu các loài động vật

- Một số tìm kiếm các động lực vô thức.

- Một số tìm cách cải thiện hiệu quả tổ chức công nghiệp, hay việc thực hành nuôi dạy trẻ em bằng cách sử dụng các nguyên tắc tâm lý học.

- Một số cố gắng cắt nghĩa hành vi ứng xử của con người theo thuyết tiến hóa.

- Một số cố gắng lý giải những khác biệt giữa các cá nhân trong các lãnh vực như nhân cách, trí thông minh, và óc sáng tạo.

- Một số quan tâm chủ yếu tới việc hoàn thiện các công cụ trị liệu hữu ích để giúp chữa trị các cá nhân bị rối loạn tâm thần.

- Một số tập trung vào các kỹ thuật xử lý thông tin mà người ta sử dụng để thích ứng với môi trường hay giải quyết các vấn đề.

- Cũng còn có những người khác chuyên nghiên cứu việc con người thay đổi như thế nào trong quy trình trưởng thành.

Trên đây mới chỉ là một số ít hoạt động mà các nhà tâm lý học ngày nay dấn mình vào.

Rõ ràng là không một định nghĩa duy nhất nào về tâm lý học có thể bao quát được phạm vi bao la các sinh hoạt mà trên 70 ngàn thành viên và chi nhánh của Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ, chưa kể nhiều nhà tâm lý học khác trên khắp thế giới đang thực hiện. Có lẽ tốt nhất nên nói đơn giản rằng tâm lý học được định nghĩa qua các hoạt động chuyên nghiệp của các nhà tâm lý học. Các hoạt động này được đặc trưng bởi sự đa dạng về phương pháp, chủ đề quan tâm, và những giả định về bản tính con người. Một mục đích chính của sách này là xem xét các nguồn gốc của tâm lý học hiện đại và chứng minh rằng phần lớn sự quan tâm của các nhà tâm lý học ngày nay là những phát biểu về các đề tài vốn đã là thành phần của tâm lý học trong hàng trăm, hay trong nhiều trường hợp, hàng ngàn năm nay.


CÁC VẤN ĐỀ KHI VIẾT LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
TẠI SAO HỌC LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC?
KHOA HỌC LÀ GÌ?
XÉT LẠI QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG VỀ KHOA HỌC
TÂM LÝ HỌC CÓ PHẢI LÀ MỘT KHOA HỌC KHÔNG?
NHỮNG CÂU HỎI KHÁC TRONG TÂM LÝ HỌC
TÓM TẮT
TỪ VỰNG

CÁC VẤN ĐỀ KHI VIẾT LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Bắt đầu từ đâu

Theo nghĩa đen, tâm lý học là môn học về tâm hồn hay tinh thần, và môn học này cũng xưa như con người vậy. Ví dụ, người thời cổ đã từng tìm cách cắt nghĩa các giấc mơ, các bệnh tâm thần, cảm xúc, và tưởng tượng. Đó có phải là tâm lý học không? Hay tâm lý học bắt đầu khi người ta giải thích về kinh nghiệm nhận thức của con người, như những giải thích của các nhà triết học thời kỳ đầu, trở thành hệ thống? Plato và Aristotle, chẳng hạn, đã tạo ra những lý thuyết tinh vi để tìm cách cắt nghĩa các quy trình như trí nhớ, tri giác, và học tập. Có phải đó là khởi điểm của tâm lý học không? Hay tâm lý học bắt đầu được xem như là một môn học thật sự khi nó trở thành một khoa học biệt lập vào thế kỷ 19? Thói quen phổ biến ngày nay là bắt đầu một quyển sách tâm lý học ở điểm mà tâm lý học trở thành một khoa học biệt lập. Phương thức này không thỏa đáng vì 2 lí do sau: (1) Nó bỏ qua hết những di sản triết học to lớn vốn đã khuôn đúc tâm lý học thành loại khoa học như nó trở thành một môn học hôm nay; (2) nó gạt bỏ hết các khía cạnh tâm lý học quan trọng nằm ở ngoài lĩnh vực khoa học. Mặc dù đúng là từ thế kỷ 19 tâm lý học phần lớn đã chọn phương pháp khoa học, nhưng cũng từng có những nhà tâm lý học rất uy tín mà không hề cảm thấy bó buộc theo phương pháp khoa học.

Không thể không xét đến công trình của họ.

Chúng ta sẽ nhìn về một nội dung lịch sử tâm lý học mà sẽ không đi ngược với các khái niệm của các tác giả cổ đại, mặc dù chúng ta tin rằng các khái niệm ấy nằm trong phạm vi tâm lý học. Chúng ta không có đủ chỗ cho một lịch sử quá bao quát như thế. Bù lại, chúng ta sẽ bắt đầu với các triết gia lớn của Hy Lạp, vì các giải thích của học về hành vi con người và các quy trình tư tưởng là các giải thích luôn luôn có sự phản ứng của các nhà triết học và tâm lý học từ thời đó đến nay.

Bao gồm những gì

Một cách tiêu biểu, khi xác định phải bao gồm gì trong một lịch sử về bất cứ điều gì, người ta thường lần ngược trở về với con người, nối các ý tưởng và sự kiện đã dẫn tới những gì là quan trọng trong hiện tại. Chúng ta cũng sẽ chọn phương pháp này bằng cách xem xét đường lối của tâm lý học hiện nay và rồi tìm các chứng minh bằng cách nào đó nó đã trở thành như hiện nay. Lấy tình trạng hiện hành của tâm lý học như là một hướng dẫn để viết lịch sử của nó thì sẽ ít dẫn đến ra một nguy cơ lớn. Stocking (1965) gọi phương pháp lịch sử này là thuyết hiện sử (presentism). Thuyết hiện sử tương phản với thuyết duy sử, hay sự nghiên cứu quá khứ vì chính quá khứ mà không tìm cách rút ra mối quan hệ giữa quá khưứ à hiện tại. Thuyết hiện sử ngụ

ý rằng tình trạng hiện tại của một môn học là tình trạng phát triển cao nhất của nó và các sự kiện trước nó đều trực tiếp dẫn đến tình trạng này. Theo quan điểm này, cái gì đến sau cùng là cái tốt nhất. Mặc dù chúng ta đang lấy tâm lý học hiện tại làm hướng dẫn để viết về nội dung lịch sử tâm lý học, chúng ta không tin rằng tâm lý học hiện tại tất nhiên là tâm lý học tốt nhất. Phạm vi quá khác biệt khiến chúng ta không thể có một phán đoán như thế. Hiện nay, tâm lý học đang khai thác rất nhiều đề tài phương pháp và giả định. Những khai thác nào có khả năng tồn tại để được kể vào các sách lịch sử tâm lý học trong tương lai thì không ai có thể nói được. Vì vậy việc chúng ta dùng tâm lý học hiện tại làm khung quy chiếu không có nghĩa chúng ta giả thiết rằng tâm lý học quá khứ tất yếu đã dẫn đến tâm lý học hiện tại hay tâm lý học hiện tại là tâm lý học tốt nhất.

Mặc dù tâm lý học hiện đại cung cấp thông tin cho ta biết phải bao gồm các cá nhân nào, ý tưởng nào, và sự kiện nào vào lịch sử tâm lý học của chúng ta, nhưng vẫn còn vấn đề là phải chọn các thông tin ấy một cách chi tiết tới mức nào. Chẳng hạn, nếu người ta muốn tìm ra mọi nguyên nhân của một ý tưởng, người ta sẽ rơi vào một cuộc tìm kiếm vô tận. Trong thực tế, sau khi cố gắng tìm về nguồn gốc của một ý tưởng hay khái niệm trong tâm lý học, người ta rơi vào một ấn tượng (cảm tưởng) rằng chẳng bao giờ có gì hoàn toàn mới mẻ cả. Hiếm khi một cá nhân duy nhất lại là nguồn gốc tạo ra một ý tưởng hay một khái niệm. Đúng hơn, các cá nhân chịu ảnh hưởng lẫn nhau, cá nhân này chịu ảnh hưởng bởi cá nhân khác, v.v... Do đó lịch sử của bất cứ điều gì đều có thể coi như một dòng chảy không ngừng của các sự kiện tương quan lẫn nhau. Các cá nhân "vĩ đại" là những người tiêu biểu đã biết tổng hợp các ý tưởng mơ hồ hiện có để biến chúng thành một quan điểm rõ ràng và thuyết phục. Cố gắng liệt kê mọi dẫn chứng liên quan đốn nguồn gốc của một ý tưởng hay một khái niệm trong một cuốn sách lịch sử sẽ đòi hỏi quá nhiều chi tiết và làm cho cuốn sách trở nên dài dòng và nhàm chán. Giải pháp thông thường là loại bỏ một lượng lớn thông tin, làm cho lịch sử trở nên có chọn lọc. Chỉ những cá nhân nào tiêu biểu có công nhiều nhất trong việc phát triển hay phổ biến một ý tưởng sẽ được xét đến trong sách. Ví dụ, Charles Darwin thường được gắn liền với thuyết tiến hóa, tuy rằng trong thực tế thuyết tiến hóa đã tồn tại hàng ngàn năm dưới hình thức này hay hình thức khác. Chứng cớ được Darwin thu thập và báo cáo củng cố cho thuyết tiến hóa một cách khá vững chắc khiến người ta khó mà phủ nhận được. Mặc dù Darwin không phải người đầu tiên phát biểu thuyết tiến hóa, ông đã có công lớn để làm cho thuyết này vững vàng và trở nên phổ biến, do đó chúng ta gắn liền thuyết tiến hóa với tên tuổi của ông. Điều này cũng áp dụng được cho Freud với khái niệm về động cơ vô thức.

Trong sách này, chúng ta sẽ tập trung vào các cá nhân nào từng có công lớn nhất trong việc khai triển một ý tưởng, hay vì bất cứ lý do nào, từng được gắn liền một cách mật thiết với một ý tưởng. Điều này không có nghĩa là bất công đối với rất nhiều cá nhân quan trọng khác đã bị lãng quên trong quá khứ xa xăm hay không đủ mạnh và xuất sắc để đòi hỏi được sự nhìn nhận.

Chọn Phương Pháp

Sau khi đã chọn nội dung cho một quyển lịch sử tâm lý học, ta còn phải chọn phương pháp nữa. Người ta có thể nhấn mạnh đến ảnh hưởng của các nhân tố không thuộc tâm lý học như sự phát triển trong các khoa học khác, bầu không khí chính trị, tiến bộ kỹ thuật và các điều kiện kinh tế. Gộp chung lại, các nhân tố này và các nhân tố khác tạo thành một Zeitgeist, (tinh thần thời đại), mà nhiều sử gia coi là quyết định để hiểu bất cứ sự phát triển lịch sử nào. Hoặc người ta có thể lấy phương pháp danh nhân, bằng cách nhấn mạnh các tác phẩm của các tác giả lớn như Flato, Aristotle, Descartes, Darwin, hay Freud. Hoặc người ta có thể lấy phương pháp phát triển lịch sử, bằng cách chứng minh làm thế nào các cá nhân hay sự kiện khác nhau góp phần tạo những thay đổi trong một ý tưởng hay khái niệm trong lịch sử. Ví dụ, người ta có thể tập trung vào sự kiện ý tưởng về bệnh tâm thần đã thay đổi thế nào trong lịch sử.

Trong phương pháp lịch sử tâm lý học của ông, E. G. Boring (1886 - 1968) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần thời đại (Zeitgeist) trong việc xác định liệu một ý tưởng hay quan điểm có được chấp nhận hay không và được chấp nhận tới mức nào. Rõ ràng các ý tưởng không từ trên trời rơi xuống. Một ý tưởng mới muốn được chấp nhận hay được xét đến, thì phải tương hợp với các ý tưởng đã có. Nói khác đi, một ý tưởng mới sẽ chỉ được chấp nhận nếu nó xuất hiện trong một môi trường có thể hấp thu nó. Một ý tưởng hay quan điểm xuất hiện trước khi người ta được chuẩn bị để chấp nhận nó thì sẽ không được hiểu đúng để có thể được phê bình và đánh giá. Điểm quan trọng ở đây là giá trị không phải tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá một ý tưởng; các nhân tố tâm lý và xã hội cũng quan trọng, ít ra là cũng bằng giá trị. Các ý tưởng mới luôn luôn được đánh giá trong bối cảnh các ý tưởng có sẵn. Nếu các ý tưởng mới gần giống với các ý tưởng có sẵn, ít ra người ta có thể biết chúng; chúng được chấp nhận, bị bác bỏ hay làm ngơ lại là chuyện khác.

Phương pháp chúng ta sẽ dùng để viết lịch sử tâm lý học là phương pháp Zeitgeist, phương pháp vĩ nhân, và các phương pháp phát triển lịch sử. Chúng ta sẽ cố gắng chứng minh rằng đôi khi tinh thần thời đại sản sinh ra các vĩ nhân và đôi khi các vĩ nhân ảnh hưởng tới tinh thần thời đại. Chúng ta cũng sẽ chứng minh rằng cả các vĩ nhân lẫn bầu khí chung của thời đại có thể giúp thay đổi một ý tưởng hay khái niệm như thế nào. Nói khác đi, chúng ta sẽ dùng phương pháp chọn lọc nghĩa là chúng ta sẽ sử dụng bất cứ phương pháp nào tỏ ra thích hợp nhất để soi sáng một khía cạnh của lịch sử tâm lý học.

Created by AM Word2CHM

Created by AM Word2CHM

TẠI SAO HỌC LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC?

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Viễn tượng

Như chúng ta đã thấy, có một số ý tưởng ít khi vừa xuất hiện đã đầy đủ rồi. Ngược lại, có một số khác lại thường phát triển trải qua một thời gian. Xem xét các ý tưởng trong viễn tượng lịch sử của chúng sẽ giúp sinh viên đánh giá đầy đủ hơn nội dung của tâm lý học hiện đại. Tuy nhiên, xem xét các vấn đề và các thắc mắc đang được tâm lý học giải quyết như là những biểu hiện của các vấn đề và thắc mắc kéo dài nhiều thế kỷ qua là một công việc chán nản và đôi khi thất vọng. Xét cho cùng, nếu các vấn đề của tâm lý học đã được mổ xẻ qua biết bao thế kỷ, liệu bây giờ chúng có thể được giải quyết không? Nhưng ngược lại, biết được rằng việc nghiên cứu của mình hôm nay đã từng được chia sẻ và đóng góp bởi những đầu óc vĩ đại nhất trong lịch sử loài người thì cũng là một điều rất hứng thú.

Hiểu sâu hơn

Với viễn tượng lớn hơn, chúng ta sẽ có sự hiểu biết sâu hơn. Với sự hiểu biết lịch sử, sinh viên sẽ không cần phải dựa vào đức tin để thấy được tầm quan trọng của chất liệu của tâm lý học hiện đại. Một sinh viên có kiến thức lịch sử sẽ biết được chất liệu của tâm lý học đến từ đâu và tại sao nó được coi là quan trọng. Cũng như người ta hiểu biết rõ hơn về hành vi hiện tại của một người nhờ tìm hiểu nhiều hơn về các kinh nghiệm quá khứ của người ấy, vậy thì người ta cũng hiểu biết rõ hơn về tâm lý học hiện hành bằng cách nghiên cứu các nguồn gốc lịch sử của nó.

Nhận ra các mốt nhất thời và truyền thống

Khi học lịch sử tâm lý học, người ta thường bị ấn tượng mạnh khi nhận ra rằng một quan điểm không luôn luôn biến mất vì nó sai; đúng hơn, một số quan điểm biến mất chỉ vì nó không được người ta ưa chuộng. Điều được ưa chuộng trong tâm lý học thì thay đổi theo tinh thần của thời đại. Ví dụ, khi tâm lý học lần đầu tiên xuất hiện như một khoa học, người ta nhấn mạnh vào tính chất khoa học "thuần túy" - nghĩa là sự đạt tri thức mà không quan tâm gì đến tính hữu dụng của nó. Về sau, khi lý thuyết của Darwin trở thành phổ biến, tâm lý học chuyển sự chú ý vào các quy trình của con người có liên quan đến sự sống còn hay cho phép con người sống hiệu quả hơn. Ngày nay, sự nhấn mạnh chủ yếu của tâm lý học là nhằm vào các quy trình nhận thức và sự nhấn mạnh này một phần là do những tiến bộ gần đây trong công nghệ thông tin.

Trong bài phát biểu của bà chủ tịch Fell khi chủ tọa Hội Quốc Tế về Sinh học Tế bào với nhan đề "Mốt thời trang trong Khoa Sinh học Tế bào", bà Fell nêu rõ rằng nếu không nhận ra mốt thời thượng trong khoa học, chúng ta sẽ chỉ mất thời giờ và sức lực mà thôi.

Trong khoa học, cũng giống như trong thời trang, các mốt vẫn lặp đi lặp lại. Có một sự lặp đi lặp lại đáng buồn, và là những hậu quả đáng tiếc của số lượng to lớn các nghiên cứu và những sách vở bao la và không thể kiểm soát mà nó tạo ra. Tôi xin nêu một ví dụ nhỏ về loại vấn đề mà tôi đang quan tâm. Vào thập niên 1920, một số đồng nghiệp của tôi đã làm một loạt thí nghiệm sâu rộng và đã xuất bản nó. Ít năm trước, một báo cáo về một nghiên cứu hầu như y hệt với cùng những kết quả đã xuất hiện trên một tạp chí, mà không nhắc gì đến nghiên cứu trước kia. Một đồng nghiệp của tôi đã viết thư trình bày điều này cho tác giả và vị này trả lời rằng ông không bao giờ trích dẫn một tài liệu nào có trước năm 1946. (1960. tr. 1625t.)

Với các ví dụ trên đây về việc các đề tài nghiên cứu thịnh hành rồi biến mất trong khoa học, chúng ta lại thấy được rằng "tính hiện thực" không phải yếu tố duy nhất để quyết định liệu một ý tưởng có thể được chấp nhận hay không. Học về các yếu tố tâm lý và xã hội liên quan tới sự tích lũy kiến thức sẽ cho phép sinh viên đặt các kiến thức đang thịnh hành vào trong một viễn tượng thực tế hơn. Viễn tượng này sẽ cho phép sinh viên hiểu rằng tập hợp các kiến thức được chấp nhận là quan trọng hay "đúng" thì cũng có một phần chủ quan và độc đoán. Vì tinh thần thời đại thay đổi, nên những gì được coi là mốt trong khoa học cũng thay đổi theo, và tâm lý học cũng không nằm ngoài quy trình này.

Tránh lặp lại sai lầm

George Santayana từng nói: "Những ai không biết lịch sử thì tất yếu phải lặp lại lịch sử." Sự lặp lại lịch sử như thế sẽ khá tệ hại nếu nó chỉ lặp lại những thành công, bởi vì quá nhiều thời giờ và sức lực bị phí phạm. Tuy nhiên, nó còn tệ hại gấp bội nếu người ta lặp lại các sai lầm của lịch sử. Như chúng ta sẽ thấy trong sách này, tâm lý học cũng chung số phận trong các sai lầm và bế tắc của nó. Một sai lầm là tin rằng các khả năng của trí khôn có thể được kiện cường bằng việc luyện tập, giống như người ta luyện tập cơ bắp. Một bế tắc của cả một trường phái cơ cấu luận, khi các thành viên của trường phái này tìm cách nghiên cứu các yếu tố tư tưởng bằng việc sử dụng phương pháp nội quan. Nói chung người ta đã nghĩ rằng các cố gắng của trường phái cơ cấu luận, tuy vô cùng thịnh hành vào thời đó, nhưng nó nghèo nàn và không hiệu quả. Nhưng một cố gắng như thế được thực hiện là điều quan trọng cho tâm lý học, vì qua đó chúng ta học được bài học rằng một phương pháp như thế không mang lại lợi ích bao nhiêu. Giống như những bài học quan trọng khác, bài học này sẽ bị mất nếu người ta cứ lặp lại các sai lầm của quá khứ do việc thiếu hiểu biết về lịch sử.

Một Nguồn mạch các ý tưởng giá trị

Nhờ học lịch sử, chúng ta có thể khám phá ra các ý tưởng đã từng được khai triển trước kia, nhưng vì một lý do nào đó bị lãng quên. Lịch sử khoa học cho thấy nhiều ví dụ về một ý tưởng chỉ được người ta chú ý đến khi người ta tái phát hiện ra nó một thời gian dài sau khi nó được đề nghị lần đầu tiên. Đây là sự kiện rất phù hợp với việc cắt nghĩa lịch sử bằng tinh thần của thời đại, vì nó gợi ý rằng một số điều kiện thì thích hợp cho việc chấp nhận một ý tưởng hơn là một số điều kiện khác. Các khái niệm về tiến hóa, động cơ vô thức, và phản xạ có điều kiện đã từng được đề nghị và được đề nghị lại nhiều lần trước khi chúng được cống hiến trong một bầu không khí cho phép có sự phê bình và đánh giá. Chắc chắn rằng nhiều ý tưởng có tiềm năng hiệu quả trong lịch sử tâm lý học vẫn đang chờ để được thử lại một lần nữa trong những hoàn cảnh mới và có lẽ dễ tiếp thu hơn.

Sự hiếu kỳ

Thay vì hỏi câu hỏi "Tại sao học lịch sử tâm lý học?" có lẽ tốt hơn ta nên hỏi "Tại sao không? ". Nhiều người học lịch sử nước Mỹ vì họ quan tâm đến nước Mỹ, và các thành viên trong một gia đình thường thích thú nghe những câu chuyện về những thời kỳ đầu của các bậc cha chú lớn tuổi trong gia đình. Nói khác đi, muốn biết thật nhiều về một đề tài hay một nhân vật quan trọng, gồm lịch sử của đề tài hay nhân vật ấy, là điều tự nhiên. Tâm lý học cũng không phải là một ngoại lệ.

Học lịch sử tâm lý học cho phép sinh viên đặt tâm lý học hiện đại trong viễn tượng lịch sử, hiểu tâm lý học hiện đại đầy đủ hơn, nhận ra rằng những gì thịnh hành trong tâm lý học thì thường được quyết định bởi các yếu tố xã hội và tâm lý, thấy được các sai lầm của quá khứ để không lặp lại chúng một lần nữa, khám phá ra các ý tưởng có ích lợi tiềm tàng, thỏa mãn sự tò mò về một điều được coi là quan trọng.

Created by AM Word2CHM

KHOA HỌC LÀ GÌ?

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Ở nhiều thời kỳ trong lịch sử, từng có các nhà tư tưởng lớn (ví dụ Galileo và Kant) tuyên bố rằng tâm lý học sẽ không bao giờ có thể là một khoa học bởi vì đối tượng của tâm lý học là kinh nghiệm chủ quan. Nhiều nhà khoa học tự nhiên vẫn còn tin như thế, và một số nhà tâm lý học không muốn tranh luận với họ. Viết một lịch sử tâm lý học như thế để tâm lý học có thể được coi là một khoa học hay không chi phối đến. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi tâm lý học có là một khoa học hay không, trước tiên chúng ta phải định nghĩa khoa học là gì. Khoa học xuất hiện như một cách thức để trả lời các câu hỏi về thiên nhiên bằng cách quan sát trực tiếp thiên nhiên, chứ không phải dựa vào các tín điều của Giáo Hội, các tác giả xưa, sự mê tín, hay các quy trình tư tưởng trừu tượng mà thôi. Khoa học ngay từ đầu đã dựa vào thẩm quyền cao nhất là sự quan sát thường nghiệm (nghĩa là quan sát trực tiếp thiên nhiên), nhưng khoa học không chỉ là quan sát thiên nhiên.

Muốn hữu ích, việc quan sát phải được tổ chức hay xếp loại một cách nào đó vào các phạm trù, và phải ghi nhận các cách thức mà một cuộc quan sát giống hay khác với các quan sát khác như thế nào. Sau khi ghi nhận những tương đồng và dị biệt với các quan sát khác nhiều nhà khoa học đi thêm một bước nữa là cố gắng giải thích điều họ đã quan sát được. Vì vậy khoa học thường được mô tả với hai thành phần chính: (1) quan sát thường nghiệm và (2) lý thuyết. Theo Hull, có thể thấy hai khía cạnh này của khoa học ngay từ những cố gắng rất xa xưa nhất của con người để tìm hiểu thế giới:

Con người luôn luôn dấn mình vào một hoạt động mang hai khía cạnh là quan sát và sau đó tìm cách giải thích những điều họ thấy. Mọi con người bình thường ở mọi thời đại đều đã từng quan sát mặt trời mọc và lặn và các chu kỳ khác nhau của mặt trăng. Những người có tư duy hơn thì bắt đầu đặt câu hỏi: "Tại sao? Tại sao mặt trăng khi tròn khi khuyết? Tại sao mặt trời lúc mọc lúc lặn, và nó lặn về đâu?" Ở đây chúng ta có hai yếu tố của khoa học thời cận đại: việc quan sát tạo thành yếu tố thường nghiệm hay sự kiện, và cố gắng hệ thống để giải thích các sự kiện này tạo thành yếu tố lý thuyết. Khi khoa học phát triển, thì có sự chuyên môn hóa, hay phân công, một số người dành thời giờ chủ yếu cho việc quan sát, trong khi một số ít hơn chuyên lo các vấn đề giải thích.

Hai thành phần chính của khoa học cũng có thể thấy được trong định nghĩa của Stevens về khoa học: "Khoa học cố gắng tạo ra các mệnh đề có thể xác nhận được qua việc làm cho một hệ thống ký hiệu hình thức (ngôn ngữ, toán học, luận lý) ăn khớp với quan sát thường nghiệm."

Phối hợp thuyết Duy lý với thuyết Duy nghiệm

Điều làm cho khoa học trở thành một dụng cụ mạnh như thế chính là nhờ nó kết hợp hai phương pháp nhận thức cổ xưa: thuyết Duy lý và thuyết Duy nghiệm. Người duy lý tin rằng phải sử dụng các hoạt động hay các nguyên tắc của tinh thần trước khi có thể đạt tới kiến thức. Ví dụ, người duy lý nói rằng có thể xác định một số mệnh đề là đúng hay sai bằng cách áp dụng cẩn thận các quy luật hợp lý. Người duy nghiệm thì nói rằng nguồn gốc của mọi tri thức là sự quan sát bằng giác quan. Vì thế tri thức đích thực chỉ có thể bắt nguồn từ kinh nghiệm giác quan. Sau hàng thế kỷ tìm tòi, người ta khám phá rằng bản thân mỗi học thuyết (thuyết Duy lý và thuyết Duy nghiệm) đều có tính hữu dụng giới hạn cả. Khoa học đã kết hợp hai thuyết này và từ đó đã tích lũy tri thức với một tốc độ gia tăng theo cấp lũy thừa.

Khía cạnh duy lý của khoa học giữ cho nó khỏi trở thành một sự sưu tập bất tận các sự kiện thường nghiệm rời rạc. Vì nhà khoa học cách nào đó phải cho thấy ý nghĩa của điều họ quan sát, nên họ làm ra các công thức. Một lý thuyết khoa học có hai chức năng chính: (1) Nó tổ chức sắp xếp các quan sát; (2) nó trở thành sự hướng dẫn cho các quan sát tương lai. Chức năng thứ hai này của lý thuyết khoa học tạo ra cái mà Stevens gọi là các mệnh đề có thể xác nhận được. Nói cách khác, một lý thuyết đưa ra các mệnh đề có thể chứng minh bằng kinh nghiệm. Nếu các mệnh đề mà một lý thuyết đưa ra được xác nhận bằng thí nghiệm, thì lý thuyết ấy có giá trị; nếu không được xác nhận bằng thí nghiệm, lý thuyết ấy không có giá trị. Nếu một lý thuyết có quá nhiều mệnh đề sai, nó phải được xét lại hay loại bỏ. Như thế các lý thuyết khoa học phải có thể trắc nghiệm được. Nghĩa là chúng phải tạo ra các giả thuyết có thể được minh chứng một cách thực nghiệm là có giá trị hay không. Vì vậy trong khoa học sự quan sát trực tiếp là quan trọng, nhưng sự quan sát này thường được hướng dẫn bởi lý thuyết, làm cho việc quan sát có kiểm soát trở thành một khía cạnh quan trọng của khoa học. Quan sát có kiểm soát thì đồng nghĩa với thí nghiệm và đa số thí nghiệm trong khoa học đều được hướng dẫn bởi lý thuyết.

Tìm kiếm Định luật

Một khía cạnh đặc trưng khác của khoa học là nó tìm cách khám phá ra các mối quan hệ hợp pháp. Một định luật khoa học có thể định nghĩa như là sự quan hệ được quan sát một cách nhất quán giữa hai hay nhiều loại sự kiện thường nghiệm. Ví dụ, khi X xảy ra thì Y cũng sẽ xảy ra. Do đó, khoa học dùng các lý thuyết để tìm ra và giải thích các sự kiện thường nghiệm hợp lý. Bằng cách nhấn mạnh tính chất hợp lý, khoa học nói lên sự quan tâm tới trường hợp phổ quát hơn là trường hợp đặc thù. Trong truyền thống, khoa học không quan tâm tới các sự kiện riêng hay độc nhất quan tâm tới các quy luật phổ quát chúng ta có thể quan sát và kiểm chứng một cách công khai. Nghĩa là, một định luật khoa học thì phổ quát và vì nó mô tả sự quan hệ giữa các sự kiện thường nghiệm, nên nó có thể chứng minh bằng sự quan sát công khai.

Có hai loại định luật khoa học phổ quát. Một loại là các định luật tương quan, mô tả các loại sự kiện cùng biến đổi như thế nào theo một hệ thống nào đó. Ví dụ, các chỉ số trong trắc nghiệm trí thông minh thường tương ứng tích cực với các chỉ số trong trắc nghiệm về óc sáng tạo. Với dữ liệu này, người ta chỉ có thể dự đoán. Nghĩa là, nếu người ta biết chỉ số của một người trong trắc nghiệm trí thông minh, người ta có thể dự đoán được chỉ số của người ấy trong trắc nghiệm óc sáng tạo và ngược lại. Một loại định luật có sức mạnh là các định luật nhân quả; chúng xác định các biến cố có tương quan nhân quả với nhau như thế nào. Ví dụ, nếu người ta biết các nguyên nhân của một căn bệnh, người ta có thể dự đoán và kiểm soát bệnh ấy - ngăn ngừa các nguyên nhân của căn bệnh thì sẽ ngăn ngừa được căn bệnh. Như thế, các định luật tương quan cho phép dự đoán, còn các định luật nhân quả cho phép dự đoán và kiểm soát. Vì thế các định luật nhân quả mạnh hơn các định luật tương quan và do đó thường được ưa chuộng hơn. Một mục tiêu quan trọng của khoa học là khám phá các nguyên nhân của hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên việc xác định các nguyên nhân của các sự kiện tự nhiên thì rất phức tạp và thường đòi hỏi việc nghiên cứu chủ yếu bằng thực nghiệm. Ví dụ, không thể giả định rằng sự giống nhau cho thấy có sự quan hệ nhân quả. Nếu trời mưa sau một buổi khiêu vũ mùa mưa, không thể kết luận rằng khiêu vũ tất yếu tạo ra cơn mưa. Nó cũng còn phức tạp bởi vì các sự kiện thường ít khi chỉ có một nguyên nhân duy nhất; thông thường chúng có nhiều nguyên nhân. Các câu hỏi như Cái gì gây ra Thế Chiến II? Cái gì gây ra bệnh tâm thần phân liệt? Đó là các câu hỏi còn lâu mới có câu trả lời. Kể cả các câu hỏi đơn giản hơn như "Tại sao anh Ba bỏ việc làm?" hay "Tại sao chị Tư cưới anh Ba?" đó là những câu hỏi vô cùng phức tạp.

Những giả thiết của tất định luận

Vì một mục tiêu chính của khoa học là khám phá ra các mối quan hệ hợp lý, nên khoa học giả thiết rằng điều đang được tra cứu là hợp lý. Ví dụ, nhà hóa học giả thiết rằng các phản ứng hóa học là hợp lý và nhà vật lý giả thiết rằng thế giới vật lý là hợp lý. Sự giả định rằng điều đang được nghiên cứu có thể hiểu theo các luật nhân quả thì gọi là tất định luận (thuyết tất định). Thuyết tất định giả thiết rằng mọi sự xảy ra đều tuân theo một số nguyên nhân và nếu biết các nguyên nhân này, thì có thể dự đoán hoàn toàn chính xác một sự kiện. Tuy nhiên, không cần thiết phải biết mọi nguyên nhân của một sự kiện; người theo thuyết tất định chỉ hiểu ngầm là có các nguyên nhân ấy và vì thế càng biết nhiều nguyên nhân thì sự dự đoán càng chính xác hơn. Ví dụ, hầu như mọi người đều nhất trí rằng thời tiết thay đổi theo các biến số nhất định như các vệt đen ở mặt trời, các luồng gió mạnh trên cao và áp lực của khí quyển; nhưng các dự báo thời tiết luôn luôn mang tính xác suất bởi vì các biến số này thay đổi không ngừng và có nhiều biến số chúng ta không biết. Tuy nhiên, giả thiết đặt làm cơ sở cho việc dự báo thời tiết là giả thiết của thuyết tất định. Mọi khoa học đều là giả thiết thuyết của tất định.

Created by AM Word2CHM

XÉT LẠI QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG VỀ KHOA HỌC

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Quan điểm truyền thống cho rằng khoa học bao gồm quan sát thường nghiệm, phát biểu lý thuyết, trắc nghiệm lý thuyết, xét lại lý thuyết, dự đoán, kiểm soát, tìm kiếm các tương quan hợp lý và giả thiết của thuyết tất định. Tuy nhiên một số nhà triết học khoa học có uy tín đặt vấn đề về một vài khía cạnh của quan điểm truyền thống về khoa học. Trong số họ có K

arl

Popper và Thomas Kuhn.

Karl Popper

Karl Popper không đồng ý với việc mô tả truyền thống về khoa học trong hai khía cạnh cơ bản. Thứ nhất, ông không đồng ý rằng hoạt động khoa học bắt đầu với quan sát thường nghiệm. Theo Popper, quan niệm cũ về khoa học ngụ ý rằng khoa học chỉ loanh quanh với việc quan sát rồi tìm cách cắt nghĩa những gì họ đã quan sát được. Popper cho thấy quan niệm ấy gặp phải vấn đề gì:

Hai mươi lăm năm trước tôi đã cố gắng cắt nghĩa cho một nhóm sinh viên vật lý ở Vienna hiểu ra điều này bằng cách bắt đầu một bài giảng với lời hướng dẫn sau: "Hãy lấy viết chì và giấy ra: quan sát cẩn thận, rồi viết ra điều anh chị đã quan sát được!" Đương nhiên họ hỏi tôi muốn họ quan sát cái gì. Rõ ràng lời hướng dẫn, "hãy quan sát!" là vô lý... quan sát luôn luôn có tính chọn lọc. Nó cần chọn một đối tượng, một nhiệm vụ nhất định, một quan tâm, một quan điểm, một vấn đề.

Vì vậy theo Popper, hoạt động khoa học bắt đầu với một vấn đề, và vấn đề này xác định các nhà khoa học sẽ có những lối quan sát nào. Bước kế tiếp là đề nghị những giải pháp cho vấn đề, và sau đó có các cố gắng để tìm xem các giải pháp được đề nghị có khuyết điểm gì không. Popper thấy phương pháp khoa học bao gồm ba giai đoạn: các vấn đề, lý thuyết (giải pháp đề nghị) và phê bình.

Nguyên tắc về sự sai

Theo Popper, cái phân biệt một lý thuyết khoa học với một lý thuyết phi khoa học là nguyên tắc về sự sai. Một lý thuyết khoa học có thể bị bác bỏ. Ngược với điều mà nhiều người tưởng, nếu một quan sát nào phù hợp với một lý thuyết, lý thuyết ấy yếu, chứ không mạnh. Popper dành rất nhiều thời giờ để phê bình các lý thuyết của Freud và Adler chính là vì lý do này. Không có ngoại lệ nào, mọi điều mà một người làm đều có thể được coi như củng cố cho mỗi lý thuyết này. Popper đối chiếu các lý thuyết này với lý thuyết của Einstein, lý thuyết này dự đoán điều gì phải xảy ra hay không xảy ra nếu lý thuyết là đúng. Như thế, không giống các lý thuyết của Freud và Adler, lý thuyết của Einstein có thể bị bác bỏ và vì thế là một lý thuyết khoa học. Popper tóm tắt các quan điểm của ông về lý thuyết khoa học như sau:

(1) Đối với hầu hết các lý thuyết, không khó để đạt được sự xác nhận hay kiểm chứng - nếu chúng ta muốn tìm kiếm sự xác nhận.

(2) Các sự xác nhận chỉ có giá trị nếu đó là kết quả của những dự đoán mạo hiểm; nghĩa là, nếu chúng ta dự đoán có thể xảy ra một sự kiện trái ngược với lý thuyết ấy - một sự kiện có thể bác bỏ ý kiến ấy.

(3) Mọi lý thuyết "tốt" đều là một sự cấm đoán: nó ngăn cấm một số điều không được phép xảy ra. Một lý thuyết càng cấm đoán nhiều, càng là một lý thuyết tốt.

(4) Một lý thuyết không có khả năng được chứng minh là sai bởi bất cứ sự kiện nào có thể nghĩ ra được, thì là một lý thuyết phi khoa học. Tính chất không thể bác bỏ không phải là ưu điểm của một lý thuyết (như người ta thường nghĩ) mà là một nhược điểm của nó.

(5) Mọi trắc nghiệm chân chính về một lý thuyết là một cố gắng để chứng minh lý thuyết ấy sai, hay để phủ nhận lý thuyết ấy. Tính trắc nghiệm là tính có thể chứng minh lý thuyết sai: một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm nhiều hơn, dễ bị bác bỏ hơn một số lý thuyết khác; có thể nói, chúng có nhiều rủi ro hơn.

(6) Chứng cớ xác nhận chỉ có giá trị nếu nó là kết quả của một trắc nghiệm chân chính về lý thuyết; và điều này có nghĩa là nó có thể được coi như một cố gắng nghiêm túc nhằm bác bỏ lý thuyết nhưng không thành công.

(7) Một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm chân chính, sau khi bị chứng minh là sai, vẫn còn được chấp nhận bởi những người ngưỡng mộ chúng - ví dụ, bằng việc đưa vào tạm thời một vài giả định phụ thuộc, hay bằng cách tạm thời cắt nghĩa lại lý thuyết sao cho nó tránh được sự bác bỏ. Phương thức này có thể sử dụng, tuy cứu được lý thuyết nó luôn luôn hủy diệt hay ít ra là hạ thấp giá trị khoa học của lý thuyết ấy.

Như thế theo Popper, một lý thuyết muốn là lý thuyết khoa học thì phải làm các dự đoán mạo hiểm, các dự đoán có nguy cơ thực sự là sai. Các lý thuyết mà không đưa ra các dự đoán mạo hiểm hay chỉ giải thích các hiện tượng sau khi chúng đã xảy ra, thì theo Popper, không phải là khoa học. Một vấn đề lớn gặp phải trong nhiều lý thuyết tâm lý học (như của Freud và Adler) là chúng làm công việc hậu đoán (phỏng đoán sau khi các hiện tượng đã xảy ra) thay vì dự đoán trước. Vì các lý thuyết này không mạo hiểm làm các dự đoán trước, nên chúng không gặp nguy cơ bị chứng minh là sai và vì vậy chúng không có tính khoa học.

Theo quan điểm Popper, mọi lý thuyết khoa học cuối cùng sẽ bị chứng minh là sai và được thay thế bằng các lý thuyết đầy đủ hơn; vấn đề chỉ là thời gian. Vì vậy, theo Popper, địa vị cao nhất của một lý thuyết khoa học là ở chỗ nó chưa bị phủ nhận. Khoa học Popper là một sự tìm kiếm không bao giờ kết thúc hầu có các giải pháp hay giải thích ngày càng tốt hơn cho các hiện tượng. Brett đã tóm tắt rất hay điểm trên đây:

Chúng ta có khuynh hướng coi khoa học như là một "tập hợp tri thức" bắt đầu được tích lũy khi con người tìm ra "phương pháp khoa học." Đây là một quan niệm mê tín. Cái nhìn phù hợp hơn với lịch sử tư tưởng là mô tả khoa học như là các huyền thoại về thế giới mà chưa bị người ta chứng minh là sai.

Phải chăng Popper tin rằng các lý thuyết phi khoa học là vô dụng? Popper nói.

Xét dưới khía cạnh lịch sử, mọi lý thuyết khoa học đều bắt nguồn từ các huyền thoại, và... một huyền thoại có thể chứa đựng trước các khám phá quan trọng của các lý thuyết khoa học... Như thế tôi (cảm thấy) rằng nếu một lý thuyết bị chứng minh là phi khoa học, hay là "siêu hình"... thì điều đó không có nghĩa rằng lý thuyết ấy không quan trọng, hay không đáng kể, hay "vô nghĩa" hay "vô lý"

Popper dùng nguyên tắc về sự sai để phân biệt giữa lý thuyết khoa học và lý thuyết phi khoa học chứ không phải giữa lý thuyết hữu ích và lý thuyết vô ích. Nhiều lý thuyết trong tâm lý học không thỏa mãn nguyên tắc về sự sai của Popper bởi vì hoặc chúng được phát biểu một cách quá tổng quát khiến cho chúng được xác nhận bởi hầu như mọi quan sát, hoặc chúng làm việc hậu đoán thay vì tiên đoán. Các lý thuyết này thiếu tính nghiêm khắc khoa học nhưng vẫn còn rất ích lợi. Lý thuyết của Freud là một ví dụ.

Thomas Kuhn

Mãi tới gần đây, nhìn chung người ta vẫn còn tin rằng phương pháp khoa học bảo đảm tính khách quan và khoa học tạo ra những thông tin một cách vững chắc và tiệm tiến. Người ta tin rằng trong bất cứ khoa học nào cũng đều có các "chân lý" có thể biết được, và nếu áp dụng các phương pháp khoa học thì người ta sẽ tiếp cận được các chân lý ấy một cách có hệ thống. Thomas Kuhn (1973) đã thay đổi quan niệm này, về mặt khoa học, bằng cách chứng minh rằng khoa học là một hoạt động có tính chủ quan rất cao.

Các khuôn mẫu và khoa học thông thường

Theo Kuhn, trong khoa học vật lý, một quan điểm thường được đa số các thành viên của một khoa học chấp nhận. Trong vật lý học hay hóa học, đa số các nhà nghiên cứu đều cùng chia sẻ một tập hợp gồm các giả định chung hay các niềm tin chung về đề tài của họ. Kuhn gọi quan điểm được chấp nhận rộng rãi này là một khuôn mẫu. Với các nhà khoa học chấp nhận một khuôn mẫu, khuôn mẫu này trở thành cách họ quan niệm và phân tích đề tài của khoa học của họ. Một khi khuôn mẫu được chấp nhận, hoạt động của những người chấp nhận nó chỉ còn là khai thác các hệ lụy của khuôn ấy. Kuhn gọi các hoạt động này là khoa học thông thường. Khoa học thông thường cung cấp cái mà Kuhn gọi là hoạt động "dọn dẹp" cho một khuôn mẫu. Trong khi đi theo một khuôn mẫu, nhà khoa học khai thác chiều sâu của các vấn đề đã được khuôn mẫu ấy xác định và sử dụng các kỹ thuật do khuôn mẫu đề nghị trong khi khai thác các vấn đề ấy. Kuhn ví khoa học thông thường như là giải câu đố. Giống như câu đố, các vấn đề của khoa học thông thường có một giải pháp bảo đảm, và có những "quy luật giới hạn cả bản chất của các giải pháp có thể chấp nhận lẫn các bước phải theo để đạt tới các giải pháp ấy." Kuhn cho rằng cả khoa học thông thường lẫn việc giải câu đố đều không có nhiều sáng kiến trong đó: "Có lẽ đặc tính ấn tượng nhất của... các vấn đề nghiên cứu bình thường... là chúng nhắm quá ít tới mục tiêu tạo ra các cái mới to lớn, về ý tưởng hay hiện tượng." Tuy khuôn mẫu hạn chế phạm vi các hiện tượng mà nhà khoa học quan sát, nó cũng bảo đảm một số hiện tượng được nghiên cứu một cách thấu đáo:

Nhờ tập trung chú ý vào một phạm vi nhỏ của các vấn đề tương đối chuyên biệt, khuôn mẫu bắt buộc các nhà khoa học tra cứu một phần của thiên nhiên một cách chi tiết và sâu xa mà bình thường người ta không thể hình dung ra được...

Đó là mặt tích cực của việc nghiên cứu dựa theo khuôn mẫu, nhưng nó cũng có mặt tiêu cực. Mặc dù khoa học thông thường cho phép nhà khoa học phân tích thấu đáo các hiện tượng mà khuôn mẫu tập trung vào, nhưng nó làm nhà khoa học không nhìn thấy các hiện tượng khác và có lẽ không giúp họ có được các giải thích tốt hơn mà họ đang tìm kiếm.

Hoạt động dọn dẹp là công việc chính yếu mà đa số các nhà khoa học tập trung thực hiện trong sự nghiệp của họ. Chúng là điều mà ở đây tôi gọi là khoa học thông thường. Xét cho cùng, dù trong lịch sử hay trong phòng thí nghiệm hiện đại, công việc này có vẻ là một cố gắng để áp đặt thiên nhiên vào trong một cái hộp đã được làm sẵn và tương đối cứng nhắc do khuôn mẫu cung cấp. Không có phần mục tiêu nào của khoa học đòi hỏi các loại hiện tượng mới; thực ra, tất cả những gì không thích hợp với cái hộp khuôn mẫu đều hoàn toàn không được nhìn nhận. Và bình thường các nhà khoa học cũng không có ý sáng tạo các lý thuyết mới, và họ thường không có thiện cảm với các phát minh của các nhà khoa học khác. Ngược lại, việc nghiên cứu khoa học thông thường nhắm tới việc làm sáng tỏ các hiện tượng và các lý thuyết mà khuôn mẫu đã cung cấp cho.

Vì vậy, khuôn mẫu là cái quyết định vấn đề nghiên cứu hiện tại là gì và tìm kiếm giải pháp cho vấn đề ấy bằng cách nào. Nói khác đi, khuôn mẫu hướng dẫn mọi hoạt động của nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là nhà nghiên cứu trở nên bị ràng buộc về tình cảm với khuôn mẫu của họ; nó trở thành một phần của cuộc đời họ và vì vậy họ rất khó từ bỏ nó.

Khoa học thay đổi như thế nào

Các khuôn mẫu khoa học thay đổi như thế nào? Theo Kuhn, không quá dễ dàng. Trước hết, phải có các quan sát liên tiếp cho thấy rằng một khuôn mẫu đang được chấp nhận không thể cắt nghĩa được; đó gọi là các điều không bình thường. Thông thường, cá nhân một nhà khoa học hay một tập thể nhỏ gồm các nhà khoa học sẽ đề nghị một quan điểm khác thay thế, quan điểm này có thể giải thích phần lớn các hiện tượng mà khuôn mẫu hiện hành giải thích và cũng sẽ có thể cắt nghĩa cả các điều không bình thường nữa. Kuhn cho thấy rằng người ta thường rất miễn cưỡng đối với khuôn mẫu mới, và nó chỉ có thể lôi kéo người ta ngả theo nó một cách rất chậm. Tuy nhiên, cuối cùng khuôn mẫu mới cũng chiến thắng và thay thế khuôn mẫu cũ. Theo Kuhn, sự kiện này mô tả điều đã xảy ra khi Einstein thách thức quan niệm của Newton về vũ trụ. Bây giờ thì khuôn mẫu Einstein đang phát sinh ra khoa học thông thường của nó và sẽ tiếp tục như thế cho tới khi có một khuôn mẫu khác lật đổ nó.

Kuhn mô tả khoa học như một phương pháp tra cứu kết hợp phương pháp khoa học khách quan với cơ cấu cảm xúc của nhà khoa học. Theo Kuhn, khoa học tiến bộ bởi vì các nhà khoa học buộc phải thay đổi các hệ thống niềm tin của họ; và các hệ thống niềm tin thì rất khó thay đổi, dù đối với một cá nhân hay một nhóm nhà khoa học.

Các giai đoạn phát triển khoa học

Theo Kuhn, sự phát triển của một khuôn mẫu để đạt tới chỗ thống trị một khoa học thì xảy ra trong một thời gian dài. Trước khi một khuôn mẫu phát triển, một khoa học thường trải qua giai đoạn tiền khuôn mẫu, trong giai đoạn này có một số quan điểm cạnh tranh nhau. Kuhn gọi giai đoạn này là tiền khoa học, là giai đoạn mà một môn học được đặc trưng bởi một số phe hay trường phái cạnh tranh, một tình hình trái ngược với sự thống nhất và là kết quả của sự thu thập sự kiện một cách chủ yếu là tình cờ. Các hoàn cảnh này tiếp tục tồn tại cho tới khi một trường phái đánh bại đối thủ và trở thành một khuôn mẫu. Ở điểm này, môn học trở thành một khoa học, và bắt đầu một giai đoạn của khoa học thông thường. Khoa học thông thường do khuôn mẫu này phát sinh tiếp tục tồn tại cho tới khi nó bị thay thế bởi một khuôn mẫu mới, và đến lượt khuôn mẫu mới này lại phát sinh một khoa học thông thường khác. Kuhn cho rằng các khoa học trải qua ba giai đoạn khác nhau: giai đoạn tiền khuôn mẫu, trong đó các trường phái cạnh tranh nhau để thống trị khoa học, giai đoạn khuôn mẫu, trong đó diễn ra các hoạt động giải câu đố được gọi là khoa học thông thường, và giai đoạn cách mạng, trong đó một khuôn mẫu có sẵn được thay thế bằng một khuôn mẫu mới.

Các khuôn mẫu và tâm lý học

Tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với tâm lý học? Tâm lý học đã được mô tả như là một môn học tiền khuôn mẫu (Staats, 1981) bởi vì nó không có một khuôn mẫu duy nhất được chấp nhận rộng rãi, nhưng có nhiều trường phái tồn tại đồng thời. Ví dụ, trong khoa tâm lý học hôm nay chúng ta thấy có các trường phái được gọi là trường phái hành vi, chức năng, tri thức, sinh lý thần kinh, tâm phân, và nhân văn. Một số tác giả coi tình trạng tiền khuôn mẫu này là tiêu cực và nhấn mạnh rằng tâm lý học đang sẵn sàng để tổng hợp tất cả các yếu tố khác nhau của nó thành một khuôn mẫu thống nhất.

Theo Staats, tâm lý học đang sẵn sàng để trở thành một khoa học khuôn mẫu và phải sẵn sàng để làm việc này:

Một lý thuyết thống nhất trên một quy mô lớn có thể vô cùng có lợi cho tâm lý học và... chúng ta phải bắt đầu dành một phần nguồn lực của chúng ta vào việc phát triển một khoa học thống nhất... Tôi quan niệm rằng khoa học của chúng ta đòi hỏi việc triển khai một phương pháp luận để tạo ra một lý thuyết như thế, cũng như việc triển khai các phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá các lý thuyết dựa trên cơ sở sự thống nhất và bao quát của chúng.

Các nhà tâm lý học khác không đồng ý với quan điểm cho rằng tâm lý học là một môn học tiền khuôn mẫu. Họ nói rằng tâm lý học là một khoa học có nhiều khuôn mẫu đồng thời (ví dụ Koch, 1981; Royce, 1975; Rychlak, 1975). Các nhà tâm lý học này coi sự tồn tại đồng thời của nhiều khuôn mẫu trong tâm lý học là điều tích cực, hiệu quả và là điều tất yếu bởi vì tâm lý học học về con người. Trong sách này, chúng tôi dựa trên quan điểm tâm lý học như một môn học đa khuôn mẫu thay vì một môn học ở giai đoạn phát triển tiền khuôn mẫu.

Khác biệt giữa Popper và Kuhn

Nguồn gốc bất đồng lớn giữa Kuhn và Popper là khái niệm của Kuhn về khoa học thông thường. Như ta đã thấy, Kuhn nói rằng sau khi một khuôn mẫu đã được chấp nhận, đa số các nhà khoa học gia chỉ lo nghiên cứu các kế hoạch do khuôn mẫu vạch sẵn - nghĩa là họ làm khoa học thông thường.

Theo Popper, cái mà Kuhn gọi là khoa học thông thường thì hoàn toàn không phải khoa học gì cả. Các vấn đề khoa học không giống như các câu đố, vì chúng không phải là những hạn chế về các giải pháp cũng như về các phương thức phải theo trong việc giải quyết vấn đề. Theo Popper, việc giải quyết vấn đề khoa học là một hoạt động có tính sáng tạo và tưởng tượng rất cao. Hoạt động này không giống chút nào với việc giải câu đố như Kuhn mô tả. Hơn nữa, đối với Kuhn, các khuôn mẫu phát triển, được chấp nhận, và bị vứt bỏ vì các lý do tâm lý hay xã hội. Trong khoa học của Popper, các yếu tố như thế không có ảnh hưởng nào; có các vấn đề, và các giải pháp được đề nghị sẽ hoặc là vượt qua hoặc không vượt qua được các cố gắng nghiêm khắc nhằm bác bỏ chúng. Như vậy, phân tích khoa học của Kuhn nhấn mạnh các yếu tố quy ước và chủ quan, còn phân tích của Popper nhấn mạnh yếu tố thuận lý và sáng tạo. D. N. Robinson đề nghị rằng quan điểm của cả Popper lẫn Kuhn đều có thể đúng: "Trong tinh thần hòa giải, chúng ta có thể gợi ý rằng sự bất đồng giữa Kuhn và Popper biến mất khi chúng ta hiểu rằng Kuhn mô tả khoa học như nó xuất hiện trong lịch sử, còn Popper thì khẳng định khoa học phải là cái gì"

Cho dù có các sự xét lại do Fopper và Kuhn đề nghị, nhiều khía cạnh truyền thống của khoa học vẫn còn tồn tại. Sự quan sát của kinh nghiệm vẫn còn được coi là có thẩm quyền cuối cùng, các tương quan hợp pháp vẫn còn được tìm kiếm, các lý thuyết vẫn còn được phát biểu và trắc nghiệm, và thuyết tất định vẫn còn được lấy làm giả thiết.

Created by AM Word2CHM

TÂM LÝ HỌC CÓ PHẢI LÀ MỘT KHOA HỌC KHÔNG?

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Tâm lý học có phải là một khoa học không? Phương pháp khoa học đã được sử dụng rất thành công trong tâm lý học. Các nhà tâm lý học thực nghiệm đã chứng minh các tương quan hợp lý giữa các loại sự kiện môi trường (các kích thích) và các loạt hành vi cư xử, và họ đã làm ra các lý thuyết nghiêm khắc, có thể bác bỏ để giải thích các tương quan này. Các lý thuyết của Hull và Tolman là những ví dụ điển hình; và còn có nhiều lý thuyết khác nữa. Các nhà tâm lý học khác hợp tác với các nhà hóa học và thần kinh học là những người tìm cách xác định các sự kiện sinh - hóa tương ứng với trí nhớ và các quy trình nhận thức khác. Các nhà tâm lý học khác làm việc chung với các nhà sinh vật học tiến hóa và di truyền học nhằm tìm hiểu nguồn gốc tiến hóa của hành vi xã hội của con người. Trong thực tế, chúng ta có thể an tâm nói rằng các nhà tâm lý học theo hướng khoa học đã cung cấp rất nhiều thông tin ích lợi trong mọi lãnh vực lớn của tâm lý học - ví dụ, học tập, nhận thức, trí nhớ, nhân cách, trí thông minh, động lực, và tâm lý trị liệu.

Tất định luận, Vô định luận, và Bất tất định luận

Tất định luận

Các nhà tâm lý học theo hướng khoa học muốn nhận có một tất định luận trong khi nghiên cứu con người. Mặc dù mọi nhà tất định luận đều tin rằng mọi hành vi con người đều có nguyên nhân, nhưng có sự khác biệt giữa các loại tất định. Tất định luận sinh vật nhấn mạnh vào tầm quan trọng của các điều kiện sinh lý hay các đặc tính di truyền trong việc cắt nghĩa hành vi. Ví dụ, nhà sinh vật học xã hội cho rằng động cơ chính của hành vi con người (cũng như của các động vật) là truyền lại gen của mình cho thế hệ tiếp theo. Các nhà sinh vật học xã hội cho rằng phần lớn hành vi con người phát sinh từ động cơ được xác định theo di truyền này. Tất định môi luận trường nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các kích thích của môi trường như là các yếu tố quyết định hành vi. Tất định luận văn hóa xã hội giả định rằng chính các quy luật, các tập tục, và các niềm tin của một nền văn hóa hay xã hội là cái tạo ra hành vi con người. Ví dụ, Erikson nói đến văn hóa như là "một sự mô tả về tồn tại con người." Phần lớn những gì được coi là đáng ao ước, không đáng ao ước, bình thường và bất bình thường đều được xác định bởi nền văn hóa; như thế, văn hóa tác động như một yếu tố quyết định hành vi con người.

Các nhà tất định luận khác thì cho rằng hành vi con người được tạo ra do sự tương tác của các ảnh hưởng sinh học, môi trường, và văn hóa xã hội. Bất luận thế nào, nhà tất định luận vẫn tin rằng hành vi được tạo ra bởi các sự kiện có trước và nhiệm vụ của nhà tất định luận là khám phá ra các sự kiện ấy. Họ giả thiết rằng càng khám phá ra nhiều nguyên nhân, con người càng có khả năng tiên đoán và kiểm soát hành vi của mình hơn. Thực vậy, việc tiên đoán và kiểm soát hành vi thường được chấp nhận như là tiêu chuẩn để chứng minh rằng các nguyên nhân của hành vi đã được khám phá.

Mặc dù các nhà tất định luận giả thiết rằng hành vi con người là do các nguyên nhân tạo ra, nói chung họ đều nhìn nhận rằng không thể nào biết hết mọi nguyên nhân. Thứ nhất, các hành vi có nhiều nguyên nhân. Như Freud từng nói, đa số hành vi bị tất định quá nhiều (overditermined). Nghĩa là rất ít khi các hành vi chỉ có một nguyên nhân duy nhất hay thậm chí chỉ có ít sự kiện. Ngược lại, nhiều sự kiện tương tác nhau tạo ra hành vi. Ví dụ, để tiên đoán liệu một người có sẽ chấp nhận một việc làm được đề nghị hay không, thường phải trả lời các câu hỏi như:

- Đương sự quan niệm thế nào về việc làm?

- Có các việc làm khác hay không?

- Đương sự đã từng có các loại kinh nghiệm khác về các công việc tương tự không?

- Đâu là sự đền đáp họ được hưởng?

- Tình hình tài chính của đương sự ra sao?

- Công việc có đòi đương sự thay đổi chỗ ở không?

Thứ hai, một số nguyên nhân của hành vi có thể là ngẫu nhiên. Ví dụ, một quyết định miễn cưỡng tham dự một sự kiện xã hội có thể là nguyên nhân làm người ta gặp được một đối tượng sẽ là người bạn đời tương lai của mình. Jung gọi sự ngẫu nhiên có ý nghĩa này là tính đồng thời và ông tin nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của đa số. Bandura đồng ý với Jung về tầm quan trọng của tính đồng thời bằng cách nói rằng: "Các cuộc gặp gỡ tình cờ đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành dòng đời." Bandura đưa ra ví dụ sau đây:

Không hiếm trường hợp các sinh viên đại học quyết định thử làm một đề tài quy định chỉ để khỏi phải đăng ký vào một khóa học đòi hỏi có thời biểu bó buộc. Trong khi làm đề tài hầu như tình cờ này, một số sinh viên gặp được các giáo sư sâu sắc có một ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn nghề nghiệp của các sinh viên ấy.

Các hoàn cảnh ngẫu nhiên không vi phạm một sự phân tích tất định về hành vi; chúng chỉ làm nó trở nên phức tạp hơn thôi. Theo định nghĩa, các hoàn cảnh ngẫu nhiên không thể tiên đoán được liên quan đến cuộc đời một người, nhưng khi chúng xảy ra, chúng có liên quan nhân quả đến hành vi của một người: ảnh hưởng ngẫu nhiên không có nghĩa là hành vi không bị tất định. Tính không thể tiên đoán của các yếu tố quyết định hành vi và của việc quyết định hành vi bởi bất cứ sự kiện nào xảy ra một cách tình cờ là những chuyện khác nhau. Các ảnh hưởng ngẫu nhiên có thể không tiên đoán được nhưng sau khi chúng xảy ra chúng trở thành các yếu tố hiển nhiên trong các chuỗi nguyên nhân theo cùng một kiểu như các yếu tố đã sắp đặt khác.

Mục đích của các ví dụ trên đây nhằm chứng minh rằng nguyên nhân của hành vi con người ít khi đơn giản và các nhà tất định luận nhìn nhận điều này. Họ cho rằng chính sự phức tạp của các nguyên nhân của hành vi con người có thể cắt nghĩa tại sao việc tiên đoán về các hành vi con người bắt buộc phải là xác suất. Tuy nhiên, họ tin rằng vì sự hiểu biết của chúng ta về các nguyên nhân hành vi luôn luôn gia tăng, nên sự chính xác của việc chúng ta tiên đoán về hành vi con người cũng tăng.

Điểm chung của mọi loại thuyết tất định luận sinh học, môi trường và văn hóa xã hội là ở chỗ các nhà tất định luận cho rằng các yếu tố quyết định hành vi đều có thể đo lường trực tiếp được. Các gen, các kích thích của môi trường và các tập tục văn hóa đều có thể tiếp cận và định lượng được và vì thế chúng là các dạng tất định luận vật lý. Tuy nhiên, một số nhà tâm lý khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm nhận thức và cảm xúc trong việc cắt nghĩa hành vi con người. Theo họ, các yếu tố quyết định quan trọng nhất về hành vi con người là chủ quan và bao gồm các niềm tin, cảm xúc, ý tưởng, giá trị, và mục tiêu. Các nhà tâm lý học này nhấn mạnh thuyết tất định luận tâm lý hơn là tất định luận vật lý. Trong số các nhà tâm lý học giả thiết sự tất định tâm lý gồm có các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của các sự kiện tinh thần mà chúng ta ý thức và các tác giả như Freud, nhấn mạnh tầm quan trọng của các sự kiện tinh thần mà chúng ta không ý thức.

Các nhà tâm lý học, ngoài việc chấp nhận một kiểu tất định luận, cũng tìm kiếm các định luật chung, triển khai các lý thuyết và dùng quan sát thường nghiệm như thẩm quyền cuối cùng của họ trong việc đánh giá các lý thuyết ấy. Tâm lý học như được thực hành bởi các nhà tâm lý học này, chắc chắn là khoa học, nhưng không phải mọi nhà tâm lý học đều đồng ý với các giả định và phương pháp của họ.

Vô định luận

Trước hết, một số nhà tâm lý học tin rằng hành vi con người mang tính tất định nhưng các nguyên nhân của hành vi thì không thể đo lường chính xác được. Với sự tin tưởng này, các nhà tâm lý học này chấp nhận nguyên tắc không chắc chắn của Heisenberg. Nhà vật lý học Đức Werner Karl Heisenberg (1901 - 1976) thấy rằng mọi hành vi quan sát một điện tử đều ảnh hưởng đến hoạt động của nó và tạo sự hoài nghi về giá trị của việc quan sát này. Heisenberg kết luận rằng không bao giờ có thể biết điều gì chắc chắn trong khoa học. Chuyển sang địa hạt tâm lý học, nguyên tắc này nói rằng, mặc dù hành vi con người mang tính tất định, chúng ta không bao giờ có thể biết dù là một số nguyên nhân của hành vi, bởi vì khi tìm cách quan sát chúng, chúng ta đã làm cho chúng thay đổi rồi. Như thế, chính môi trường thí nghiệm có thể là biến số gây lẫn lộn trong việc tìm kiếm các nguyên nhân của hành vi, con người. Các nhà tâm lý học chấp nhận quan điểm này thì tin rằng có các nguyên nhân chuyên biệt của hành vi nhưng chúng ta không thể biết chính xác được. Lập trường này được gọi là thuyết vô định luận. Một ví dụ khác về thuyết vô định luận là kết luận của Immauel Kant (1724 - 1804) rằng tâm lý học không thể là một khoa học, bởi vì tinh thần không thể được sử dụng một cách khách quan để nghiên cứu về chính nó. MacLeod tóm tắt lập trường của Kant như sau:

Kant đã thách thức chính nền tảng của một khoa học tâm lý. Nếu tâm lý học là học về "tinh thần" và nếu mọi quan sát và mọi diễn dịch là hoạt động của một tinh thần âm thầm áp đặt các phạm trù của nó trên cái được quan sát thì làm thế nào một tinh thần có thể quay trở về chính nó và quan sát các hoạt động của chính nó khi tự chính bản chất của nó bị ép buộc quan sát bằng các phạm trù của chính nó? Có nghĩa gì không khi bật đèn lên để xem bóng tối trông giống thế nào?

Bất tất định luận

Một số nhà tâm lý học bác bỏ hoàn toàn khoa học như là một cách thế để nghiên cứu con người. Các nhà tâm lý học này thường làm việc trong các khuôn mẫu nhân văn hay hiện sinh, họ tin rằng các nguyên nhân quan trọng nhất của hành vi con người thì được thấy trong bản ngã, hay ego, hay tâm linh của một người, và chúng là tự sinh. Theo nhóm tác giả này, hành vi được chọn lựa một cách tự do chứ không bị quyết định bởi các nguyên nhân vật lý hay tâm lý. Sự tin tưởng vào ý chí tự do đi ngược với giả thiết của tất định luận và vì thế các cố gắng của các nhà tâm lý học này mang tính chất phi khoa học. Lập trường này được gọi là Bất tất định luận. Với những người theo thuyết tất định luận, vì cá nhân tự do chọn lựa đường lối hành động của mình, nên họ chịu trách nhiệm về các hành động ấy. Khái niệm về trách nhiệm cá nhân chỉ là một trong nhiều điểm bất đồng giữa nhà tâm lý học tất định luận và bất tất định luận.

Chúng ta có coi tâm lý học là một khoa học hay không tùy theo chúng ta nhấn mạnh vào khía cạnh nào của tâm lý học. Một nhà tâm lý học và triết học khoa học rất đáng kính trả lời cho câu hỏi "Tâm lý học có phải là một khoa học không?" bằng cách nhấn mạnh bản chất phi khoa học của tâm lý học:

Tôi đã từng bàn đến câu hỏi này suốt 40 năm, và trong 20 năm qua, tôi luôn luôn kiên định trong lập trường của mình rằng tâm lý học không phải một môn học duy nhất hay nhất quán mà là một tập hợp các môn học rất đa dạng, một số ít có thể gọi là khoa học, nhưng phần lớn thì không. (Koch, 1981, tr. 268).

Không nên đánh giá tâm lý học một cách quá khắt khe bởi vì một số khía cạnh của nó không có tính khoa học và thậm chí phản khoa học. Khoa học như chúng ta biết bây giờ thì tương đối mới, trong khi nội dung của hầu hết các khoa học, nếu không nói là của tất cả đều rất cũ. Như Popper đã nhận xét, những cái bây giờ chúng ta nghiên cứu một cách khoa học, thì xưa kia đã từng được nghiên cứu một cách triết học và thần học. Trước tiên xuất hiện các phạm trù mập mờ được tranh luận suốt nhiều thế kỷ một cách phi khoa học. Sự tranh luận này chuẩn bị các phạm trù tra cứu khác nhau cho việc "fine tuning" mà khoa học cung cấp.

Trong tâm lý học ngày nay, có sự tra cứu về mọi bình diện. Một số khái niệm có một di sản triết học lâu đời và sẵn sàng để được tra cứu một cách khoa học; số khác còn trong giai đoạn phát triển ban đầu và chưa sẵn sàng để được nghiên cứu một cách khoa học; còn có một số khái niệm khác nữa, do chính bản chất của chúng, có lẽ sẽ không bao giờ có thể tra cứu bằng khoa học. Tất cả các bình diện và các kiểu tra cứu này tỏ ra cần thiết cho sự phát triển tâm lý học, và tất cả đều hỗ trợ lẫn nhau. Cũng thế, nhiều yếu tố chủ quan đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học, đưa công việc tra cứu khoa học và phi khoa học lại gần nhau hơn. Thật vậy, một lãnh vực quan tâm được gọi là tâm lý học về khoa học đã mở ra (xem Maslow, 1966).

Hình 1.1 Các hình minh họa của Chisholm về các kiểu tương quan tinh thần - thể xác khác nhau. Con chim vẽ bằng nét gián đoạn biểu thị tinh thần và con chim vẽ bằng nét liên tục biểu thị thân xác

Created by AM Word2CHM

NHỮNG CÂU HỎI KHÁC TRONG TÂM LÝ HỌC

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Nhiều câu hỏi mà tâm lý học ngày nay đang cố gắng trả lời cũng là những câu hỏi đã từng tìm cách trả lời ngay từ thời kỳ đầu. Trong nhiều trường hợp, chỉ có các phương pháp xử lý các câu hỏi dai dẳng này là thay đổi. Trong đoạn này chúng ta sẽ duyệt lại các câu hỏi dai dẳng trong tâm lý học, và khi làm việc này, chúng ta sẽ lược qua phần lớn các vấn đề sẽ được trình bày trong sách này.

Bản tính Con người là gì?

Có một lý thuyết về bản tính con người cố gắng xác định điều gì là đúng một cách phổ quát về con người. Nghĩa là nó cố gắng xác định điều gì mọi người có từ lúc bẩm sinh. Một câu hỏi đáng quan tâm ở đây là có bao nhiêu phần di sản động vật nơi chúng ta còn lại trong bản tính con người? Ví dụ, chúng ta có bản tính gây hấn không? Người theo thuyết Freud trả lời là có. Con người cơ bản có tính thiện và không bạo lực không? Những người thuộc trường phái nhân văn như Rogers và Maslow trả lời là có. Hay bản tính chúng ta không thiện cũng không ác, nhưng trung lập, theo các nhà chủ trương thuyết hành vi như Watson và Skinner? Các tác giả theo thuyết hành vi cho rằng kinh nghiệm làm cho một người thành tốt hay xấu hay là bất cứ hạng người nào. Con người có ý chí tự do không? Có, theo các nhà tâm lý học hiện sinh; không, theo các nhà tâm lý học theo hướng khoa học. Gắn liền với mỗi khuôn mẫu tâm lý học là một giả thiết về bản tính con người, và mỗi giả thiết đều có một lịch sử lâu đời. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ nêu lên những khái niệm về bản tính con người và các phương pháp luận mà chúng phát sinh.

Tinh Thần tương quan thế nào với Thân Xác?

Câu hỏi liệu có một tinh thần không, và nếu có, thì nó liên hệ thế nào với thân xác; là một câu hỏi đã có ngay từ khi có tâm lý học. Mọi nhà tâm lý học đều phải đề cập đến câu hỏi này một cách minh nhiên hay ám thị. Trong lịch sử, hầu như mọi lập trường có thể quan niệm được đều đã đưa ra sự tương quan tinh thần - thân xác. Một số nhà tâm lý học cố gắng cắt nghĩa mọi sự theo quan điểm vật lý; theo họ, ngay cả các sự kiện gọi là tinh thần cuối cùng cũng được cắt nghĩa bằng các định luật vật lý hay hóa học. Các tác giả này được gọi là các nhà duy vật luận vì họ tin rằng vật chất là thực tại duy nhất và vì thế mọi sự trong vũ trụ kể cả hoạt động của các sinh vật, đều phải cắt nghĩa theo vật chất. Họ cũng được gọi là các nhà nhất nguyên luận vì họ cố gắng cắt nghĩa mọi sự theo một kiểu thực tại (đó là vật chất). Các nhà tâm lý học khác thì theo thái cực khác và tuyên bố rằng mọi sự là tinh thần, và nói rằng cả cái được gọi là thế giới vật chất cũng là một sự sáng tạo của tinh thần con người. Các tác giả này được gọi là các nhà duy tâm luận, và họ cũng là các nhà nhất nguyên luận vì họ cố gắng cắt nghĩa mọi sự theo ý thức hay nhận thức của con người. Tuy nhiên, nhiều nhà tâm lý học chấp nhận sự tồn tại của cả các sự kiện vật lý lẫn tinh thần và họ giả định rằng hai loại sự kiện này bị chi phối bởi hai nguyên lý khác nhau. Lập trường này gọi là nhị nguyên luận. Người nhị nguyên luận tin rằng có các sự kiện vật lý và tinh thần. Một khi người ta giả thiết rằng có sự tồn tại của cả thế giới vật lý lẫn tinh thần, thì vấn đề phát sinh là hai sự kiện này tương quan với nhau thế nào. Tất nhiên đối với nhà nhất nguyên, không có vấn đề tương quan tinh thần - thân xác.

Các kiểu của Nhị nguyên luận

Một kiểu nhị nguyên gọi là thuyết tương tác, cho rằng tinh thần và thân xác tương tác với nhau. Nghĩa là, tinh thần ảnh hưởng trên thân xác, và thân xác ảnh hưởng trên tinh thần. Theo quan niệm tương tác này, tinh thần có khả năng khởi xướng hành vi. Đây là lập trường của Descartes và là lập trường của hầu hết các tác giả thuộc trường phái hiện - sinh - nhân văn. Các nhà tâm phân học, từ Freud cho tới nay, đều theo lập trường tương tác. Theo họ, nhiều bệnh thể lý đều là tâm sinh, nghĩa là có nguyên nhân là các sự kiện tinh thần như xung đột, lo âu, hay thất vọng.

Một loại thuyết nhị nguyên khác cho rằng các kinh nghiệm thể lý tạo ra các sự kiện tinh thần nhưng các sự kiện tinh thần không thể tạo ra hành vi. Lập trường này gọi là phụ tượng luận vì nó cho rằng các sự kiện tinh thần là các sản phẩm phụ (epiphenomena) của kinh nghiệm thể xác và như thế chúng không ảnh hưởng nhân quả đến hành vi. Một lập trường nhị nguyên luận khác nữa cho rằng một kinh nghiệm môi trường tạo ra các sự kiện tinh thần và các phản ứng thể xác đồng thời và hai loại sự kiện này hoàn toàn độc lập với nhau. Lập trường này gọi là tâm vật lý song hành luận.

Một lập trường nhị nguyên luận khác nữa gọi là thuyết lưỡng diện, theo đó một người không thể chia thành một tinh thần và một thân xác, nhưng là một thể thống nhất có các kinh nghiệm đồng thời về sinh lý và tâm lý. Giống như "mặt phải" và "mặt trái" là hai mặt của một đồng tiền, các sự kiện tinh thần và sinh lý là hai mặt của một con người. Tinh thần và thân xác không tương tác với nhau, và cũng không bao giờ có thể tách rời nhau. Chúng chỉ là hai mặt của mỗi kinh nghiệm mà loài người chúng ta có. Các nhà nhị nguyên khác chủ trương có sự hòa hợp tiền định giữa các sự kiện thể xác và tâm lý. Nghĩa là, hai loại sự kiện thì khác nhau và biệt lập, nhưng được phối hợp bởi một tác nhân bên ngoài nào đó - ví dụ, Thượng Đế. Sau cùng, vào thế kỷ 17, Nicholas Malebranche (1638 - 1715) gợi ý rằng khi một ước muốn nảy ra trong trí khôn, Thượng Đế khiến cho thân xác hành động. Tương tự, khi một điều gì xảy ra trong thân xác, Thượng Đế tạo ra kinh nghiệm tinh thần tương ứng. Lập trường của Malebranche gọi là ngẫu nhiên luận.

Tất cả các lập trường trên đây về vấn đề tinh thần - thân xác được trình bày trong lịch sử tâm lý học, vì vậy chúng ta sẽ gặp lại chúng trong sách này. Trong Hình 1.1 Chisholm tóm lược một cách kỳ lạ các lập trường được đề nghị về tương quan tinh thần - thân xác.

Bẩm sinh luận đối lại với thuyết Duy nghiệm

Các thuộc tính của con người như trí thông minh được di truyền tới mức nào và được quyết định bởi kinh nghiệm tới mức nào? Bẩm sinh luận nhấn mạnh vai trò di truyền trong việc cắt nghĩa của thuyết này về nguồn gốc của các thuộc tính gán cho con người, trong khi duy nghiệm luận nhấn mạnh đến vai trò của kinh nghiệm. Những tác giả coi hành vi con người dưới khía cạnh bản năng hay theo lập trường bản tính con người là tốt, xấu, sống thành tập thể, đều thuộc về bẩm sinh luận. Ngược lại, các nhà duy nghiệm cho rằng con người tỏ ra như thế nào chủ yếu là do các kinh nghiệm của họ. Rõ ràng vấn đề này vẫn chưa được giải quyết ngã ngũ. Tranh luận giữa thuyết bẩm sinh và thuyết duy nghiệm có liên quan mật thiết với vấn đề về bản chất của bản tính con người. Ví dụ, những ai nói rằng bản tính con người là gây hấn thì ngụ ý rằng con người bẩm sinh có tính gây hấn.

Đa số nhà tâm lý học ngày nay nhìn nhận rằng hành vi con người chịu ảnh hưởng bởi cả kinh nghiệm lẫn di truyền; điểm khác biệt giữa nhà bẩm sinh luận và nhà duy nghiệm, là họ nhấn mạnh vào vai trò của di truyền hay vai trò của kinh nghiệm.

Thuyết Tự do đối lại với tất định Luận

Con người có ý chí tự do không? Nếu có, thì không thể có một khoa học về hành vi con người, bởi vì như ta đã thấy, khoa học giả thiết sự tất định. Nghĩa là, nếu hành vi con người thay đổi tùy theo ý chí của một người, thì nó không thể là đối tượng tra cứu khoa học nữa. Tuy các nhà tâm lý học hiện - sinh - nhân - văn theo lập trường này, còn đa số các nhà tâm lý học chấp nhận một kiểu mẫu tất định khi nghiên cứu con người. Nhưng nói rằng hành vi con người là tất định không có nghĩa nói rằng một sự kiện vật lý là tất định. Cả khi một nhà tâm lý học chấp nhận rằng hành vi con người là tất định, thì vẫn còn câu hỏi "tất định bởi cái gì?". Như ta đã thấy, nhà tất định luận vật lý tìm kiếm các nguyên nhân của hành vi trong sự kích thích từ môi trường, cơ quan cảm giác, cơ cấu vận hành của não, các gen, hệ sinh hóa của cơ thể, hay một sự phối hợp của các điều trên, cũng như trong các sự kiện vật lý khác.

Nhưng một số nhà tâm lý học khác thì tìm kiếm các nguyên nhân chính của hành vi trong kinh nghiệm chủ quan của một người. Theo các nhà tâm lý học này, các niềm tin, nhận thức, giá trị, thái độ hay các niềm mong đợi của một người là các nguyên nhân chính của hành vi người ấy:

Các hoạt động tự sinh nằm ở tâm điểm của quy trình nhân quả… Khả năng kiểm soát các quy trình tư tưởng, các động lực và hành động của mình là một nét đặc trưng chuyên biệt của con người. Vì các phán đoán và hành động có tính tự quyết định một phần, nên người ta có thể tạo sự thay đổi nơi bản thân họ và các hoàn cảnh của họ bằng các cố gắng của chính họ... Một chức năng chính của tư tưởng là giúp con người tiên đoán được các sự việc sẽ xảy ra và tạo ra được các phương tiện để kiểm soát những gì tác động đến đời sống của họ. (Bandura, 1989, tr. 1175 - 1176) Không giống các sự kiện vật lý, các sự kiện tinh thần có thể xử lý theo ý muốn thành bất cứ kiểu nào để tạo ra các ý tưởng và hành vi sáng tạo: "Nhờ khả năng xử lý các ký hiệu và đi vào tư duy phản tỉnh, con người có thể tạo ra các ý tưởng và các hành động mới lạ vượt qua các kinh nghiệm quá khứ của họ" (Bandura, 1989, tr. 1182).

Tất định luận tâm lý gặp phải các vấn đề mà tất định luận vật lý không gặp phải. Vì các yếu tố nhận thức quyết định hành vi là tư riêng và không thể đo lường trực tiếp được, nên theo các nhà tâm lý học này, có vẻ như hành vi của một người không được quyết định bởi cùng một kiểu sự vật giống như nhà tất định luận vật lý giả thiết. Ngược lại, có vẻ như phần lớn hành vi nằm dưới quyền kiểm soát của thực tại chủ quan của một người và vì vậy người ấy tự định đoạt. Nghĩa là, một người cân nhắc về phạm vi chất liệu nhận thức có sẵn, chọn lựa từ đó, và rồi hành động theo sự chọn lựa của mình. Hành vi tự - điều - chỉnh - lấy - nó có phải là hành vi "tự do" hay không - nghĩa là không tất định - còn tùy theo người ta định nghĩa tự do thế nào. Nhà tất định luận tâm lý lập luận rằng những người nhấn mạnh thực tại chủ quan chỉ đơn thuần chuyển đổi các nguyên nhân hành vi từ thực tại vật lý sang thực tại chủ quan và vì vậy hành vi vẫn còn là tất định. Cũng vậy, nhà tất định luận chủ trương rằng các kinh nghiệm chủ quan này được tạo ra bởi các kinh nghiệm khác nhau mà một người đã từng có và vì thế tự chúng có thể là đối tượng nghiên cứu khoa học. Nhà tất định luận tâm lý giả định rằng càng biết được nhiều về các niềm tin, giá trị, thái độ, sự mong đợi, v.v...của một người, thì hành vi của người ấy sẽ càng tỏ ra hợp lý và dễ tiên đoán hơn. Như thế theo nhà tất định luận tâm lý, hành vi có thể là tự định đoạt nhưng vẫn không phải là tự do: "Các ảnh hưởng tự sinh tác động một cách tất định trên hành vi cùng một kiểu như các nguồn ảnh hưởng bên ngoài tác động." (Bandura, 1989, tr. 1182).

Với đa số nhà tâm lý học ngày nay, tranh luận nằm ở vấn đề liệu các nguyên nhân của hành vi con người là vật lý hay tâm lý hơn là ở vấn đề liệu hành vi con người là tất định hay tự do. Tuy nhiên, một khi người ta đã chấp nhận rằng các nguyên nhân của hành vi con người là tâm lý hơn là vật lý, thì nhiệm vụ của nhà tâm lý học muốn tìm kiếm các nguyên nhân của hành vi con người trở nên phức tạp hơn. Nó là một nhiệm vụ không giống với nhiệm vụ của bất kỳ, một khoa học nào khác.

Cơ giới luận đối lại Sinh lực luận

Một câu hỏi trường kỳ khác trong lịch sử tâm lý học là liệu hành vi con người có hoàn toàn được cắt nghĩa bằng các định luật cơ giới hay không. Theo cơ giới luận, hành vi của mọi cơ thể sinh vật, kể cả con người, có thể được cắt nghĩa cùng một cách như hành vi của bất kỳ bộ máy nào - nghĩa là dựa theo các bộ phận và các luật chi phối các bộ phận ấy. Đối với nhà cơ giới, cắt nghĩa hành vi con người cũng giống như cắt nghĩa hoạt động của một cái đồng hồ, chỉ trừ con người thì phức tạp hơn. Theo sinh lực luận, sự sống không bao giờ có thể giản lược hoàn toàn vào các sự vật vật chất và các định luật cơ giới. Các sinh vật có một lực sống vốn không có trong các đồ vật vô tri giác. Thời xưa, lực sống này được gọi là hồn, tinh thần, hay hơi thở sự sống, và khi lực sống này rời khỏi thân xác thì có sự chết.

Tranh luận giữa cơ giới luận và sinh lực luận từng được mô tả một cách sôi động trong lịch sử tâm lý học, và chúng ta sẽ gặp nó dưới những hình thức khác nhau trong suốt cuốn sách này.

Duy lý luận đối lại thuyết Bất - thuần - lý - luận

Các giải thích duy lý về hành vi con người thường nhấn mạnh tầm quan trọng của các quy trình tư tưởng thuận lý, hệ thống, và thông minh. Có lẽ vì thế mà phần lớn các đóng góp to lớn cho toán học đã được thực hiện bởi các nhà triết học theo truyền thống duy lý luận (ví dụ Descartes và Leibniz). Các nhà duy lý luận thường tìm kiếm các nguyên lý trừu tượng chi phối các sự kiện trong thế giới thường nghiệm. Đa số các nhà triết học Hy Lạp thời kỳ đầu đều là các nhà duy lý luận và một số còn đi tới chỗ đồng hóa sự khôn ngoan với nhân đức. Khi một người biết chân lý, Socrates nói, người ấy hành động phù hợp với chân lý. Vì vậy người khôn ngoan là người tốt. Đam mê lớn nhất đối với người Hy Lạp là đam mê hiểu biết. Đương nhiên cũng có các đam mê khác, nhưng chúng phải được lý trí kiểm soát. Triết học và tâm lý học phương Tây phần lớn duy trì việc tôn thờ trí tuệ và coi nhẹ kinh nghiệm cảm xúc.

Tuy nhiên, người ta không phải lúc nào cũng đồng ý với nhau rằng trí tuệ là hướng dẫn tốt nhất cho tư tưởng và hành vi con người. Ở những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, tính cảm xúc của con người đã từng được đánh giá cao hơn là trí tuệ. Đó là trong thời Kitô giáo, thời Phục Hưng, và vào các thời kỳ khác dưới ảnh hưởng của triết học và tâm lý học hiện sinh và nhân văn. Tất cả các quan điểm này đều nhấn mạnh tình cảm của con người hơn là lý tính và vì vậy được gọi là các quan điểm bất - thuần - lý.

Mọi giải thích về hành vi con người mà nhấn mạnh các yếu tố vô thức cũng thuộc quan điểm thuận lý. Các lý thuyết tâm phân học của Freud và Jung, chẳng hạn, cũng biểu thị bất thuần lý luận vì chúng chủ trương rằng các nguyên nhân đích thực của hành vi con người là vô thức và vì vậy không thể chứng minh bằng lý trí được.

Sự căng thẳng giữa các khái niệm về con người nhấn mạnh vào trí tuệ (lý trí) và các khái niệm nhấn mạnh vào cảm xúc hay tinh thần vô thức (tinh thần) đã xuất hiện trong khắp lịch sử tâm lý học và vẫn còn bộc lộ trong tâm lý học hiện đại.

Con người tương quan với động vật không mang tính người như thế nào?

Vấn đề chính ở đây là con người khác với các động vật về phẩm hay về lượng? Nếu sự khác biệt là về lượng (khác biệt về mức độ), thì ít ra người ta có thể học biết điều gì đó về con người bằng cách nghiên cứu về loài vật. Trường phái hành vi chủ yếu dựa trên việc nghiên cứu về loài vật và chủ trương rằng hành vi của các sinh vật "hạ đẳng" và của con người bị chi phối bởi cùng các nguyên lý như nhau. Vì vậy các kết quả nghiên cứu về loài vật có thể áp dụng một cách tổng quát cho con người. Đại biểu cho lập trường ngược lại là các nhà nhân văn và hiện sinh, các tác giả này tin rằng con người là độc nhất vô nhị trong thế giới động vật và tất cả những điều quan trọng về con người thì không thể học biết được qua việc nghiên cứu loài vật. Họ nói con người là động vật duy nhất có tự do chọn lựa đường lối hành động của mình và vì vậy chịu trách nhiệm đạo đức về hành vi của mình. Do đó chúng ta có lý để phán đoán hành vi con người như là "tốt" hay "xấu" Các phán đoán tương tự về hành vi của loài vật là vô nghĩa. Nếu không có khả năng lý lẽ và chọn lựa, thì không thể có cảm giác tội lỗi. Đa số nhà tâm lý học có thể được xếp ở giữa hai thái cực trên đây; những nhà tâm lý học này cho rằng một số điều về con người có thể biết được nhờ nghiên cứu các loài vật khác và một số điều thì không thể được.

Nguồn gốc tri thức con người là gì?

Môn học về tri thức được gọi là tri thức luận hay nhận thức luận. Nhà tri thức luận hỏi các câu hỏi như "Chúng ta có thể biết được gì, đâu là những giới hạn của tri thức, và làm thế nào đạt được tri thức Tâm lý học luôn luôn gắn liền với tri thức luận vì một trong các quan tâm lớn của tâm lý học là xác định xem con người đạt được tri thức về mình và về thế giới như thế nào. Nhà duy nghiệm luận nhấn mạnh rằng mọi tri thức đều phát xuất từ kinh nghiệm cảm giác, phần nào giống như nó được ghi nhận và lưu trữ trong não. Nhà duy lý luận cũng nhất trí rằng thông tin của cảm giác thường là một bước quan trọng đầu tiên để đạt tri thức, nhưng họ lập luận rằng sau đó trí khôn phải tích cực biến đổi thông tin này một cách nào đó trước khi đạt đến tri thức. Nhiều nhà bẩm sinh luận cho rằng một số tri thức là bẩm sinh. Plato và Descartes, chẳng hạn, tin rằng nhiều ý tưởng là bẩm sinh trong trí khôn.

Khi trả lời các câu hỏi tri thức luận, nhà duy nghiệm giả định một trí khôn thụ động biểu thị các kinh nghiệm vật lý như là những hình ảnh, hồi tưởng, và liên tưởng của tinh thần. Nói khác đi trí khôn thụ động được nhìn như phản ánh trên bình diện tri thức điều đang xảy ra hay đã xảy ra trong thế giới vật lý. Các kinh nghiệm vật lý xảy ra một cách nhất quán theo một mẫu đặc thù nhất định sẽ được biểu thị trên bình diện tri thức theo mẫu ấy và sẽ được hồi tưởng lại theo mẫu ấy. Nhưng nhà duy lý luận thì giả định có một trí khôn chủ động, trí khôn này biến đổi các dữ liệu từ kinh nghiệm theo một cách quan trọng nào đó. Trong khi trí khôn thụ động được nhìn như là biểu thị thực tại vật lý trí khôn chủ động được nhìn như một cơ chế vận hành nhờ đó thực tại vật lý được tổ chức, cân nhắc, lĩnh hội, hay đánh giá. Đối với nhà duy lý, trí khôn thêm vào một cái gì đó cho kinh nghiệm tinh thần mà không có trong kinh nghiệm vật lý của chúng ta.

Vì vậy theo nhà duy nghiệm luận, tri thức bao gồm việc mô tả chính xác thực tại vật lý như nó được biểu lộ bởi kinh nghiệm giác quan và ghi nhận trong trí khôn. Theo nhà duy lý luận, tri thức bao gồm các khái niệm và nguyên lý mà chỉ có thể đạt được bởi một trí khôn tư duy, chủ động. Theo một số nhà triết học theo bẩm sinh luận, ít ra một số tri thức được di truyền như một thành phần tự nhiên của trí khôn. Các lập trường duy nghiệm, duy lý, và bẩm sinh, và các dạng kết hợp của chúng, đã luôn luôn là thành phần của tâm lý học; chúng vẫn còn tồn tại với chúng ta ngày nay, dưới dạng này hay dạng khác. Trong sách này, chúng ta sẽ thấy ba lập trường triết học quan trọng này đã được biểu hiện bằng những cách khác nhau trong suốt lịch sử tâm lý học.

Thực tại Khách quan đối với Thực tại Chủ quan

Sự khác biệt giữa cái "thực sự" hiện diện một cách vật lý (thực tại vật lý hay khách quan) và cái mà chúng ta thực sự kinh nghiệm bằng trí khôn (thực tại chủ quan hay hiện tượng) đã từng là một đề tài tranh cãi ít là từ thời các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên. Một số nhà triết học chấp nhận Duy thực luận thô thiển, họ nói rằng điều chúng ta kinh nghiệm trong trí khôn thì chính xác là một với điều đang hiện diện một cách vật lý. Nhưng nhiều người khác nói rằng ít ra là có một cái gì đó bị mất đi khi chuyển từ kinh nghiệm vật lý sang kinh nghiệm hiện tượng. Có thể có một sự không đồng đều giữa hai kiểu kinh nghiệm này nếu các cơ quan thụ cảm chỉ có thể phản ứng một phần nào với cái hiện diện thể lý - ví dụ, với một số âm thanh hay màu sắc nào đó mà thôi. Cũng có thể có một sự không đồng đều nếu thông tin bị mất hay bị xuyên tạc trong khi nó được truyền từ các cơ quan thụ cảm lên não. Cũng vậy, chính não có thể biến đổi các thông tin cảm giác, và như thế tạo ra một sự khác biệt giữa thực tại vật lý và thực tại hiện tượng. Câu hỏi quan trọng ở đây là, "Cho sự kiện có một thế giới vật lý và một thế giới tâm lý, vậy hai thế giới này tương quan với nhau thế nào?" Một câu hỏi khác có liên quan là, "Cho sự kiện là chúng ta không bao giờ có thể kinh nghiệm trực tiếp được điều gì khác ngoài thực tại chủ quan của chính chúng ta, vậy làm thế nào chúng ta có thể biết được điều gì về thế giới vật lý bên ngoài chúng ta?

Vấn đề về Bản Ngã

Các kinh nghiệm vật lý của chúng ta rất đa dạng, thế nhưng chúng ta kinh nghiệm được sự thống nhất giữa chúng. Cũng vậy, chúng ta lớn lên, mập ra hay ốm đi, thay đổi chỗ ở, tồn tại vào các thời khác nhau, thế nhưng với tất cả các sự thay đổi ấy và nhiều hơn nữa, các kinh nghiệm đời sống chúng ta vẫn có sự liên tục. Chúng ta nhận thức mình là cùng một người từ lúc này sang lúc khác, từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác mặc dù nơi chúng ta ít có điều gì còn giữ lại y nguyên như trước. Câu hỏi là, "Cái gì cắt nghĩa sự thống nhất và liên tục của kinh nghiệm chúng ta". Qua các thế kỷ, các thực thể như linh hồn, tinh thần, hay bản ngã đã được đề nghị để cắt nghĩa cho sự thống nhất và liên tục này. Trong thời gần đây, bản ngã đã trở thành nhà tổ chức kinh nghiệm được đề nghị phổ biến nhất.

Thường bản ngã được nhìn như là một sự tồn tại biệt lập và tự lập như được ngụ ý trong câu, "Tôi tự nhủ mình". Ngoài việc tổ chức các kinh nghiệm của một người và cung cấp ý nghĩa về sự liên tục qua thời gian, bản ngã thường đã được gán cho các thuộc tính như là người kích thích và đánh giá hành động. Như ta sẽ thấy, giả định một bản ngã với các khả năng tự lập tạo ra một số vấn đề khiến tâm lý học đã phải tranh đấu suốt trong lịch sử và vẫn còn đang phải tranh đấu. Hiển nhiên, dù là một bản ngã hay tinh thần tự lập được đề nghị như nhà tổ chức kinh nghiệm hay như chủ thể hành động, người ta đều phải đối diện với vấn đề tinh - thần - thân - xác.

Như ta sẽ thấy trong cuốn sách này, các lập trường của các nhà tâm lý học về các vấn đề trên đây đã biểu thị cho một sự đa dạng trong các điều giả định, các sự quan tâm, và các phương pháp luận, và điều này vẫn còn tiếp tục như thế trong tâm lý học hiện đại.

Created by AM Word2CHM

TÓM TẮT

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Tâm lý học được định nghĩa tốt nhất dựa theo các hoạt động của các nhà tâm lý học, và các hoạt động ấy đã thay đổi qua các thế kỷ. Mặc dù tâm lý học đã tồn tại ít là từ khi xuất hiện nền văn minh, lịch sử tâm lý học của chúng ta bắt đầu với các nhà triết học Hy Lạp thời kỳ đầu. Phương pháp viết sách này dựa theo thuyết hiện sử vì nó dùng triền tâm lý học hiện hành làm hướng dẫn để xác định nội dung của nó theo lịch sử. Khi trình bày lịch sử tâm lý học, sách này phối hợp trình bày các nhân vật chủ chốt, các ý tưởng trường kỳ, tinh thần thời đại, và sự đóng góp của các lãnh vực khác. Phương pháp này gọi là phương pháp chọn lọc. Khi học lịch sử tâm lý học, sinh viên sẽ có một nhãn quan và hiểu biết sâu hơn về tâm lý học hiện đại. Họ cũng sẽ học được rằng đôi khi các điều kiện văn hóa xã hội quyết định điều gì được nhấn mạnh trong tâm lý học. Sau cùng, khi học lịch sử tâm lý học, có thể tránh được các sai lầm của quá khứ, khám phá ra các ý tưởng quan trọng tiềm tàng, và thỏa mãn được sự tò mò tự nhiên về điều gì được nghĩ là quan trọng.

CÁC CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Thảo luận về những chọn lựa phải có trước khi viết một lịch sử tâm lý học.

2. Học lịch sử tâm lý học được những lợi ích gì?

3. Tóm tắt các đặc tính chính của khoa học.

4. Thảo luận tại sao tâm lý học có thể được mô tả như vừa là một khoa học vừa không phải một khoa học. Trong câu trả lời của bạn, hãy kể những đặc tính của khoa học mà một số nhà tâm lý học không muốn chấp nhận khi học về con người.

5. Quan niệm của Popper về khoa học khác với quan niệm truyền thống thế nào?

6. Tại sao Popper coi lý thuyết của Freud là phi khoa học?

7. Tóm tắt quan điểm của Kuhn về việc các khoa học thay đổi như thế nào? Trong trả lời của bạn, hãy nêu các định nghĩa về các thuật ngữ môn học tiền khuôn mẫu, khuôn mẫu, khoa học thông thường và cách mạng khoa học.

8. Có nên mong muốn tâm lý học trở thành một môn học với một khuôn duy nhất không? Bênh vực câu trả lời của bạn.

9. Tâm lý học có phải là khoa học không? Bênh vực câu trả lời của bạn.

10. Định nghĩa các thuật ngữ tất định luận vật lý, tất định luận tâm lý, vô định luận và bất tất định luận.

11. Lý thuyết về bản tính con người muốn đạt đến điều gì?

12. Tóm tắt các câu trả lời được đề nghị khác nhau cho vấn đề tinh thần - thân xác. Trong trả lời của bạn, kể ra các định nghĩa về các thuật ngữ nhất nguyên luận, nhị nguyên luận, duy vật luận, duy tâm luận, tương tác luận, song hành luận tâm lý, phụ tượng luận, hòa hợp tiền định, lưỡng diện, và ngẫu nhiên.

13. Thảo luận về các giải thích của thuyết bẩm sinh và duy nghiệm về nguồn gốc các thuộc tính của con người.

14. Hành vi con người là tự do hay tất định? Hãy bảo vệ câu trả lời của bạn. Trong câu trả lời của bạn bao gồm luôn một cuộc thảo luận về hành vi tự quyết định.

15. Trước tiên mô tả các lập trường của cơ giới luận và sinh lực luận rồi cho biết bạn chấp nhận lập trường nào và tại sao?.

16. Thảo luận về duy lý luôn và bất-thuần-lý-luận khi chúng được áp dụng để giải thích hành vi con người.

17. Chúng ta có thể học được gì về con người khi nghiên cứu về các động vật khác?

18. Mô tả mỗi lý thuyết sau đây cắt nghĩa việc chúng ta đạt được tri thức bằng cách nào: duy nghiệm luận, duy lý luận và bẩm sinh luận.

19. Thảo luận các vấn đề liên quan trong việc khám phá và giải thích các sự khác biệt có thể có giữa cái hiện diện trước mắt chúng ta về vật lý và cái chúng ta kinh nghiệm một cách chủ quan trong tâm trí.

20. Tại sao các nhà tâm lý học đã chấp nhận một khái niệm về bản ngã? Khái niệm này giải quyết được các vấn đề gì, và tạo ra các vấn đề gì?

Created by AM Word2CHM

TỪ VỰNG

NHẬP MÔN LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC

à

Chương 1. NHẬP ĐỀ

Active mind - Trí khôn chủ động

Trí khôn biến đổi, giải thích, hiểu, hay đánh giá kinh nghiệm vật lý. Các nhà duy lý luận giả định trí khôn chủ động.

Anomalies - Sự bất bình thường:

Những quan sát trường kỳ mà không thể giải thích bằng các khuôn mẫu hiện hành. Các bất bình thường cuối cùng tạo ra một khuôn mẫu mới để thay thế khuôn mẫu cũ.

Biological detenninism - Tất định luận sinh vật

Kiểu tất định luận nhấn mạnh các nguyên nhân sinh hóa, di truyền, sinh lý, hay cơ cấu của hành vi.

Causal laws - Luật nhân quả:

Các luật mô tả các tương quan nhân quả. Các luật này xác định các điều kiện cần và đủ để tạo ra một sự kiện nhất định. Hiểu biết về các luật nhân quả cho phép người ta tiên đoán và kiểm soát được các sự kiện.

Controlled observation - Quan sát có kiểm soát

: Thí nghiệm nhằm trắc nghiệm các điều tiên đoán của một lý thuyết khoa học.

Correlational laws - Luật giao hỗ:

Các luật xác định mối tương quan hệ thống giữa các loại sự kiện của kinh nghiệm. Khác với các luật nhân quả, các sự kiện được mô tả bởi các luật tương quan không cần phải có tương quan nhân quả. Ví dụ, người ta có thể quan sát thấy khi nhiệt độ trung bình của ban ngày tăng thì tỷ lệ tội phạm cũng tăng theo mà không biết (hay không cần biết) hai sự kiện có tương quan nhân quả với nhau hay không.

Determinism - Tất định luận

: Niềm tin cho rằng mọi điều xảy ra thì đều xảy ra vì các nguyên nhân đã biết hay có thể biết, và nếu có thể biết trước các nguyên nhân này thì có thể đoán trước hoàn toàn chính xác một sự kiện. Cũng vậy, nếu biết được các nguyên nhân của một sự kiện, thì có thể tránh cho sự kiện không xảy ra bằng cách ngăn ngừa các nguyên nhân của nó. Như thế, hiểu biết về các nguyên nhân của sự kiện cho phép tiên đoán và kiểm soát sự kiện.

Double aspectism - Thuyết lưỡng diện

: Niềm tin cho rằng các sự kiện thể xác và tinh thần là bất khả phân. Chúng là hai mặt của mọi kinh nghiệm.

Dualist - Thuyết nhị nguyên:

Thuyết cho rằng có hai khía cạnh nơi con người, một thể lý và một tinh thần.- Eclectic approach - Phương pháp chọn lọc: Chọn quan điểm tốt nhất giữa một loạt các quan điểm khác nhau. Phương pháp viết lịch sử tâm lý học của sách này là chọn lọc vì nó phối hợp nội dung về các nhân vật lớn, sự phát triển các ý tưởng và khái niệm, tinh thần thời đại, và các đóng góp của các khoa học khác.

Empirical chservation - Quan sát thường nghiệm

: Sự quan sát trực tiếp cái đang được nghiên cứu để thấu hiểu nó.

Empiricism - Duy nghiệm luận:

Niềm tin rằng kinh nghiệm là cơ sở của mọi nhận thức.

Environmental determinism - Tất định luận môi trường:

Kiểu thuyết tất định nhấn mạnh các nguyên nhân của hành vi ở bên ngoài sinh vật.

Epiphenomenalism - Phụ tượng luận:

Chủ trương rằng các kinh nghiệm thể xác tạo ra các sự kiện tinh thần nhưng ngược lại các sự kiện tinh thần không tạo ra hoạt động thể xác.

Great - person approach - Phương pháp tiếp cận danh nhân:

Phương pháp lịch sử tập trung vào các nhân vật có cống hiến nổi bật nhất cho đề tài hay lãnh vực nghiên cứu.

Historical development approach - Phương pháp phát triển lịch sử:

Phương pháp lịch sử tập trung vào một yếu tố của một lãnh vực hay môn học và mô tả sự hiểu biết hay phương pháp nghiên cứu yếu tố ấy đã thay đổi qua thời gian như thế nào. Một ví dụ là sự mô tả bệnh tâm thần đã được định nghĩa và nghiên cứu như thế nào trong lịch sử.

Historicism - Duy sử quan:

Nghiên cứu quá khứ vì quá khứ, mà không cố gắng chứng minh quá khứ liên quan thế nào tới hiện tại, như trong trường hợp của thuyết hiện sử.

Idealist - Duy tâm luận:

Thuyết cho rằng thực tại cơ bản bao gồm các ý tưởng hay nhận thức và vì thế không phải là thực tại vật lý.

Indeterminism - Vô định luận

: Chủ trương rằng mặc dù thuyết tất định là đúng, nhưng việc cố gắng đo lường các nguyên nhân của một điều gì thì ảnh hưởng đến chính các nguyên nhân ấy, khiến cho không thể biết được chúng một cách chắc chắn. Thuyết này còn được gọi là nguyên tắc không chắc chắn của Heisenberg.

Interactionism - Tương tác luận:

Một giải pháp được đề nghị cho vấn đề tinh thần - thân xác, theo đó các kinh nghiệm thể lý ảnh hưởng tới tinh thần và tinh thần ảnh hưởng tới thân xác.

Irrationalism - Thuyết phi lý

: Bất cứ giải thích nào về hành vi con người mà nhấn mạnh đến các yếu tố quyết định không chịu sự kiểm soát của lý trí - ví dụ, các giải thích nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc hay các cơ chế hoạt động của vô thức.

Materialist - Duy vật luận

: Thuyết cho rằng mọi sự trong vũ trụ đều là vật chất (vật lý), kể cả các điều mà những người khác gọi là tinh thần.

Meehanism - Cơ giới luận

: Niềm tin rằng hoạt động của các sinh vật, kể cả con người, có thể được cắt nghĩa hoàn toàn theo các luật cơ học.

Monist - Nhà nhất nguyên luận:

Bất cứ ai tin rằng chỉ có một thực tại duy nhất. Các nhà duy vật là các nhà nhất nguyên bởi vì họ tin rằng mọi sự đều được giản lược về vật chất. Các nhà duy tâm cũng là nhất nguyên bởi vì họ tin rằng mọi sự, kể cả thế giới "vật chất", là kết quả của ý thức con người và vì thế là tinh thần.

Naive realism - Duy thực thô thiển

: Niềm tin cho rằng cái người ta kinh nghiệm trong trí khôn thì cũng là một với cái hiện diện một cách vật lý.

Nativist - Bẩm sinh luận

: Thuyết cho rằng các thuộc tính quan trọng của con người như trí thông minh là do di truyền.

Non-determinism - Bất tất định luận

: Niềm tin cho rằng tư tưởng hay hành vi con người là do cá nhân chọn lựa tự do và vì thế không phải được tạo ra do các nguyên nhân vật lý hay tinh thần có trước nó.

Normal science - Khoa học thông thường

: Theo Kuhn, các hoạt động nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học khi họ khai thác các hệ quả của một khuôn mẫu.

Occasionalism - Ngẫu nhiên luận

: Niềm tin cho rằng tương quan giữa tinh thần và thân xác được thực hiện qua trung gian là Thượng Đế.

Paradigm - Khuôn mẫu:

Một quan điểm được chia sẻ bởi nhiều nhà khoa học khi họ khai thác đề tài khoa học của họ. Một khuôn mẫu sẽ quyết định các vấn đề nào là hợp pháp và phương pháp được dùng để giải quyết các vấn đề ấy.

Paradiglnatic stage - Giai đoạn khuôn mẫu:

Theo Kuhn, giai đoạn trong sự phát triển của một khoa học mà trong đó hoạt động khoa học được hướng dẫn bởi một khuôn mẫu. Nghĩa là giai đoạn diễn ra khoa học bình thường. (Xem Khoa học bình thường).

Passive mind - Trí khôn thụ động

: Một trí khôn chỉ đơn thuần phản ánh về mặt nhận thức các kinh nghiệm của một người về thế giới vật lý. Các nhà duy nghiệm giả định một trí khôn thụ động.

Physical determinism - Tất định luận vật lý:

Thuyết này nhấn mạnh các nguyên nhân vật lý của hành vi.

Postdiction - Hậu đoán

: Cố gắng giải thích một sự kiện sau khi nó đã xảy ra. Hậu đoán phản nghĩa với tiên đoán, là cố gắng xác định các điều kiện mà một sự kiện sẽ xảy ra, khi nó còn chưa xảy ra.

Pre - established harmony - Sự hòa hợp tiền định

: Niềm tin rằng các sự kiện thể lý và các sự kiện tinh thần là biệt lập nhưng liên quan với nhau bởi vì cả hai cùng được định trước để đi theo các chuỗi hoạt động đồng nhất.

Preparadigmatic stage - Giai đoạn tiền khuôn mẫu:

Theo Kuhn, đó là giai đoạn đầu tiên trong sự phát triển của một khoa học. Giai đoạn này được đặc trưng bởi các phe cạnh tranh nhau để định nghĩa nội dung và phương pháp của một khoa học.

Presentism - Hiện sử luận

: Lấy hiện trạng của một môn học làm hướng dẫn để viết một lịch sử về môn học ấy.

Principle of falsifiability - Nguyên tắc về khả năng sai

: Lập trường của Popper rằng để một lý thuyết được coi là khoa học, nó phải xác định những quan sát rằng nếu thực hiện chúng sẽ chứng minh lý thuyết là sai. Để được coi là khoa học, lý thuyết phải làm các tiên đoán mạo hiểm. (xem Risky prediction).

Psychical determinism - Tất định luận tâm linh

: Thuyết này nhấn mạnh đến các nguyên nhân tinh thần của hành vi.

Psychophysical paranelism - Tâm vật lý song hành luận

: Lập trường cho rằng kinh nghiệm một điều gì trong thế giới vật lý tạo ra đồng thời cả hoạt động thể xác lẫn tinh thần nhưng hai loại hoạt động này không tương tác gì với nhau. Public observation - Quan sát công khai: Điều kiện đòi hỏi rằng các luật khoa học phải có thể quan sát được bởi bất cứ ai quan tâm đến chúng. Khoa học quan tâm đến các tương quan phổ quát, thường nghiệm và có thể chứng minh công khai.

Puzzle solving - Giải câu đố:

Theo Kuhn, khoa học bình thường giống với việc giải câu đố ở chỗ các vấn đề phải giải quyết thì được xác định bởi một khuôn mẫu, các vấn đề này đã có sẵn các giải pháp bảo đảm, và phải tuân theo một số luật để đạt đến các giải pháp ấy.

Rationalism - Duy lý luận

: Niềm tin triết học cho rằng tri thức chỉ có thể đạt được bằng cách dấn mình vào một kiểu hoạt động tinh thần hệ thống nào đó.

Revolutionary stage - Giai đoạn cách mạng

: Theo Kuhn, là giai đoạn của sự phát triển khoa học trong đó một khuôn mẫu bị thay thế bởi một khuôn mẫu mới. Một khi sự thay thế này hoàn tất, khuôn mẫu mới sẽ phát sinh khoa học bình thường và tiếp tục như thế cho tới khi cuối cùng nó lại bị thay thế bởi một khuôn mẫu mới khác.

Risky prediction - Tiên đoán mạo hiểm

: Theo Popper, đó là sự tiên đoán phát sinh từ một lý thuyết khoa học có cơ may thực sự chứng minh lý thuyết là sai. Ví dụ, nếu một lý thuyết khí tượng dự báo rằng trời sẽ mưa vào một thời điểm nhất định nào đó, thì phải xảy ra đúng như thế, bằng không lý thuyết này sẽ chứng tỏ là sai.

Science - Khoa học:

Trong truyền thống, là cố gắng hệ thống để xếp loại hay cắt nghĩa một cách hợp lý các quan sát thường nghiệm. Gần đây, Popper đã mô tả khoa học như là cách để trắc nghiệm một cách nghiêm khắc các giải pháp đề nghị cho các vấn đề, và Kuhn đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các khuôn mẫu hướng dẫn hoạt động của các nhà khoa học.

Scientific law - Định luật khoa học

: Một sự tương quan nhất quán quan sát được giữa các loại sự kiện thường nghiệm.

Scientific theory - Lý thuyết khoa học

: Trong truyền thống, một sự giải thích được đề nghị về một số quan sát thường nghiệm; theo Popper, là một giải pháp được đề nghị cho một vấn đề.

Self - regulated behavior - Hành vi tự điều chỉnh lấy nó

: Hành vi thay đổi tùy theo kinh nghiệm chủ quan của một người hơn là theo môi trường vật lý.

Sociocultural determinism - Tất định luận văn hóa xã hội

: Thuyết này nhấn mạnh đến các quy luật, phong tục, quy định, hay mong đợi của nền văn hóa hay xã hội như là nguyên nhân của hành vi.

Synchronicity - Tính đồng thời

: Thuật ngữ Jung dùng để chỉ sự trùng hợp có ý nghĩa. Thuật ngữ chỉ về các kinh nghiệm tình cờ làm thay đổi dòng đời của một người.

Uncertainty principle

-

Nguyên tắc không chắc chắn

: Xem Indeterminism.

Vitalism - Sinh lực luận

: Niềm tin cho rằng sự sống không thể cắt nghĩa bằng các quy trình không sự sống. Đối với người theo thuyết sinh lực, sự sống đòi có một lực không chỉ là các đồ vật vật chất hay các quy trình không sự sống trong đó sự sống xuất hiện. Để có sự sống, phải có sự hiện diện của một lực sống.

Zeitgeit - Tinh thần thời đại

: Tinh thần đặc trưng của một thời đại.

Created by AM Word2CHM

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro