4 câu đầu
VIẾT MỘT BÀI VĂN TRÌNH BÀY CẢM NHẬN CỦA ANH/ CHỊ VỀ ĐOẠN THƠ SAU TRONG BÀI "NHÀN" CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM.
" MỘT MAI, MỘT CUỐC, MỘT CẦN CÂU,
THƠ THẨN DÙ AI VUI THÚ NÀO.
TA DẠI, TA TÌM NƠI VẮNG VẺ,
NGƯỜI KHÔN NGƯỜI ĐẾN CHỐN LAO XAO. "
Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491-1585 ) là một nhà uyên thâm nổi tiếng. Khi đỗ trạng nguyên, ông làm quan dưới triều Mạc, ông dân sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng quan nhưng vua không nghe nên ông bèn cáo quan về quê. Bài thơ " Nhàn " của ông sáng tác trong lúc về quê ở ẩn. Chữ "Nhàn" của ông đã thể hiện được thái độ sống, một triết lí sống vô cùng rõ ràng. Và triết lí ấy được gói gọn chỉ trong một chữ "Nhàn". Bốn câu đầu sẽ cho ta thấy được cuộc sống hằng ngày của ông khi ông sống ở quê:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Ta có thể thấy được trong hai câu đầu đã có sự mở đầu ấn tượng bằng điệp từ " một" từ này đã được lặp lại ba lần trong câu đầu tiên. Nó không chỉ mang tính chất liệt kê hình ảnh 'mai', 'cuốc', ' cần câu' mà còn cho ta biết được đó là những dụng cụ, vật dụng rất là quen thuộc đối với những người nông dân. Tác giả sử dụng hình ảnh 'mai', 'cuốc', ' cần câu' để thể hiện cuộc sống lao động nơi thôn dã với đầy đủ những thú vui như: ngư- tiều- canh- mục gợi liên tưởng đến lão nông tri điền giản dị. Với cách ngắt nhịp đều đặn 2/2/3 kết hợp với hình ảnh đã liệt kê ở trên đã làm cho câu thơ đầu tiên trong rất phong phú, linh hoạt. Cụ Trạng mà lại về với đợi sống " tự cung tự cắp" thì cũng là một sự ngông ngạo trước thói đời ngông ngạo mà không ngang.
Ở câu thơ thứ hai từ láy " thơ thẩn" cho thấy sự thư thái mông lung, ung dung không vướng bận đến việc triều chính mà tự do tự tại chốn thiên nhiên an nhiên mà giản dị, cho ta cảm thấy được tác giả rất tự tin vì sự lựa chọn của mình. Cụm từ " dầu ai vui thú nào" cho ta thấy được sự khẳng định của tác giả là người ta có thú vui riêng thì tác giả cũng có và tác giả không ta quan tâm đến những thú vui của người khác. Có thể nhận thấy được câu thơ như một lời thách thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với người đời, và cho dù ai vui thú nào đi chăng nữa thì ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê nhất. Cũng chính từ những lời thách thức đó dường như cũng đã toát lên được phong thái thật thanh thản trong tâm hồn và thật vui thú điền viên của một lão nông già. Hai câu đầu khẳng định nhàn không phải là lánh đời mà là sự lựa chọn cho mình có một không gian sống mà mình thấy thích thú, tự do tự tại.
Hai câu đầu là lối sống tự do tự tại, hòa mình vào cuộc sống chung thì hai câu sau là sự lí giải sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Bằng cách nói " dại" mà thực chất là " khôn", " khôn nhưng thực chất là "dại" tác giả đã phác họa lối sống của hai kiểu người Dại – Khôn của tu sĩ tầng lớp nho sĩ bấy giờ. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dạng ích kỉ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn.Tìm về nơi " vắng vẻ" là tìm nơi mình cảm thấy thích thú, cảm thấy thoải mái và hòa hợp với thiên nhiên làm cho cuộc sống mình thư thái hơn, xa lánh chốn quan trường hào quan danh lợi để tìm về nơi thanh cao.Về nơi chẳng có ai cầu cạnh ta và ta cũng chẳng cần cạnh ai. " Chốn lao xao" là chốn cao sang, đi xe thì có ngựa, người hầu kẻ hạ tấp nập khắp nơi, nơi có đầy rẫy thủ đoạn hèn hạ vô biên để có được danh lợi, luồn cúi, sát phạt. Sự đối lập của " vắng vẻ" và " chốn lao xao" đã cho ta thấy được Nguyễn Bỉnh Khiêm có cách sống nhàn nhã không quan tâm đến chốn hào hoa danh lợi. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khéo léo sử dụng cách nói ngược mang hàm ý mỉa mai trong câu thơ của mình: "Người khôn, người đên chốn lao xao" người khôn mà đến chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng luôn luôn phải dè chừng liệu có được sung sướng?, " Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ" ta dại mà ta lại tìm nơi vắng vẻ sao? nơi mà thư thản, giản dị sao? Cách nói ngầm Dại – Khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ trí tuệ, thể hiện sự tự tin đầy bản lĩnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cái " khôn" của người thanh cao là quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hòa nhập với tự nhiên.
Bốn câu đầu bài thơ " Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho ta thấy được trong cuộc sống hằng ngày, với NBK, lối sống Nhàn là hòa hợp với lao động bình dị, an nhiên vui vẻ tránh xa vòng danh lợi bon chen. Khác với sự nhàn của Nguyễn Trãi trong Cảnh ngày hè " thân nhàn mà tâm không nhàn" đi ngắm cảnh nhưng không tập trung vào cảnh đẹp mà nặng một nỗi lo chuyện nước nhà. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khéo léo khi sử dụng nghệ thuật đối lập trong bốn câu thơ đầu, từ láy, điệp từ được sử dụng một cách hài hòa làm cho câu thơ trong bài có những hàm ý người đọc đọc vào liền phải suy nghĩ thăng trầm. Cách nói ngược chính là điều khiến cho hai câu thơ ba và bốn nổi bật hơn hẳn trong bài làm cho ta phải đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ này. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà ý nhị làm cho người đọc cảm giác gần gũi hơn với bài.
Tóm lại bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách ẩn sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm. Đồng thời tác phẩm cũng chính là một tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình cùng thiên nhiên, tác giả như phủ nhận danh lợi. Bài thơ "Nhàn" cũng mang một triết lí sống đẹp đẽ đáng nể, làm gương cho bao thế hệ mai sau nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro