Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

NGUYÊN TẮC CHỌN HUYỆT

NGUYÊN TẮC CHỌN HUYỆT

Chọn huyệt là công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi sự vận dụng kiến thức về y lí, về chuyên môn của thầy thuốc. Có lúc phải lấy huyệt ở gần có lúc lại chọn huyệt ở xa hoặc có khi lại phải chọn huyệt theo biện chứng luận trị của từng chứng trạng.... Những cách thức này đòi hỏi thầy thuốc phải rành y lí, huyệt vị, đường vận hành của đường kinh...

1- Chọn Huyệt Ở Gần (Cục Bộ Thủ Huyệt).

- Nơi nào có bệnh: đau, sưng... có thể dùng ngay huyệt tại chỗ để trị.

Thí dụ:

• (Mắt sưng đau, đo?.... có thể chọn dùng huyệt Tình Minh, Đồng Tư? Liêu, Thừa Khấp...

• (Gáy đau có thể dùng huyệt Thiên Trụ, Phong Trì...

- Ghi Chú: Lấy huyệt tại chỗ trong trường hợp điểm đau không phải là huyệt (thuộc các đường kinh, ngoài kinh, huyệt mới...), gọi là Điểm đau, A Thị huyệt, Thống điểm, Thiên Ứng huyệt...

2- Chọn Huyệt ở Xa (Viễn Bộ Thu? Huyệt).

• Thiên "Chung Thỉ" ghi: "Bệnh ở phần trên, thu? huyệt trị ở dưới, bệnh ở phần dưới, thu? huyệt trị ở trên cao. Bệnh ở đầu thu? huyệt ở dưới chân, bệnh tại thắt lưng thu? huyệt trị ở kheo chân" (L.Khu 9, 89).

Trương - Ca?nh - Nhạc chú gia?i đoạn này như sau: "Đây là phép châm Viễn Thu?, có những bệnh ở trên nhưng mạch của nó thông với ở dưới, vì vậy nên thu? huyệt ở dưới. Có những bệnh ở dưới nhưng mạch của nó thông với ở trên, vậy nên thu? huyệt ở trên. Bệnh ở đầu thu? huyệt ở chân, bệnh ở lưng thu? huyệt ở khoeo chân, đó là phép làm thông khí ở gốc để khí tự thông".

Trương - Chí - Thông dựa vào câu "Thiên khí giáng xuống, khí lưu hành ở địa, Địa khí thăng lên, khí bay bổng ở thiên. Khí trên dưới cùng giao nhau, sự thăng giáng cùng làm nhân cho nhau" của thiên "Lục Vi Chỉ Đại Luận" (Tố Vấn 68) đã nhận xét: "Cho nên bệnh ở trên thu? huyệt ở dưới, bệnh ở dưới thu? huyệt ở trên, đó là dựa vào khí Thiên Địa thăng giáng từ thượng (trên) xuống hạ (dưới) và từ hạ lên thượng vậy".

Chọn huyệt ở xa có thể theo một số nguyên tắc sau:

- Khi ở cục bộ quá đau, nếu châm vào có thể gây đau hơn, trong trường hợp này, nên chọn huyệt ở xa, với tính cách "dụ đạo", cho dịu bớt đau rồi mới châm vào cục bộ.

Thí dụ: Bụng đau cấp, ấn vào bụng càng đau hơn, không thể áp dụng châm cục bộ được, trong trường này nên chọn châm huyệt Túc Tam Lý, vừa thuộc kinh Vị (liên hệ với chứng bụng đau) vừa là huyệt ở xa để làm dịu bớt cơn đau, sau đó mới châm Trung Qua?n... ở cục bộ.

- Huyệt ở xa cùng đường kinh, thường dùng (chọn) huyệt Nguyên vì huyệt Nguyên là nơi kinh khí chi phối mạnh nhất của mỗi đường kinh.

Thí dụ: Sổ mũi, nghẹt mũi.... ngoại trừ châm huyệt Nghênh Hương (cục bộ), có thể dùng thêm huyệt Hợp Cốc vì Hợp Cốc là Nguyên huyệt của đường kinh Đại trường (cùng kinh với huyệt Nghênh Hương).

3- Lấy Huyệt theo Kinh (Tuần Kinh Thu? Huyệt)

YHCT có nêu 1 nguyên tắc trị bệnh: "Kinh lạc sở qua, chủ trị sở cập" (Kinh lạc vận hành qua chỗ nào, lấy đó mà trị liệu), tức là có thể chọn huyệt của đường kinh lạc vận hành qua hoặc gần chỗ đau.

Vùng mặt ngoài cẳng chân đau có thể chọn huyệt của kinh Vị (Túc Tam Lý...) hoặc kinh Đởm (Dương Lăng Tuyền...)

Trong phương pháp chọn huyệt theo kinh, có thể ưu tiên chọn huyệt có tính đặc hiệu đối với tạng phu? đang bệnh.

Thí dụ: Cơn đau co thắt dạ dầy.

Biện chứng: Dạ dầy liên hệ với Tỳ Vị, đau ở dạng co thắt có liên hệ với Mộc khí (Mộc khí chủ sự chuyển động), vậy dạ dầy co thắt là dấu hiệu Mộc của Vị vượng, trên nguyên tắc, phải tả Mộc huyệt của Vị là huyệt Hãm Cốc, nhưng trên thực tế lâm sàng, có thể châm huyệt Túc Tam Lý vì Túc Tam Lý cũng thuộc Vị kinh nhưng huyệt Túc Tam Lý cũng lại là 1 trong Lục Tổng Huyệt chủ trị bụng đau.

Ngoài ra, khi áp dụng phương pháp lấy huyệt theo kinh, cũng cần hết sức linh hoạt, phải nắm vững những kinh, huyệt nào là kinh, huyệt chính (yếu tố gây rối loạn (bệnh) nơi các đường kinh) chứ không phải châm tràn lan trên tất ca? các đường kinh cùng lúc, dù các đường kinh đó có liên hệ với vùng đau.

Thí dụ: Bụng đau.

(Theo hệ thống kinh lạc, nếu áp dụng nguyên tắc lấy huyệt theo kinh thì có đến 4 - 5 đường kinh vận hành ngang qua vùng bụng: Kinh Vị, Tỳ, Can, Thận, mạch Nhâm... Do đó, cần chẩn đoán xem bụng đau trong trường hợp này liên hệ chủ yếu đến kinh nào đã gây bệnh:

• (Nếu do dạ dầy đau, liên hệ đến kinh Tỳ, Vị thì cần điều chỉnh ở Tỳ Vị là chính, các đường kinh khác như Thận... không cần đến nữa.

(Nếu đau do Thận, Bàng quang, thì phải điều chỉnh ở kinh Bàng quang hoặc Thận, không cần châm huyệt của Tỳ Vị... dù các đường kinh này cũng vận hành ngang qua vùng bụng.

Trong việc chọn huyệt theo kinh, cũng có hai trường hợp:

3.1 - Chọn Huyệt Cùng Kinh.

• + Dựa vào kinh bệnh mà chọn huyệt.

Thí dụ: Ngực đau, ho... có liên hệ đến Phế kinh (Tiếng ho là tiếng của Phế và đường kinh Phế khởi từ ngực (Trung Phu?), tùy theo biện chứng gốc bệnh do Thu?y suy hoặc Ho?a Vượng... mà chọn dùng huyệt Xích Trạch (Phế Thu?y) hoặc Ngư Tế (Phế ho?a)...

• + Dựa vào vùng bệnh mà chọn huyệt.

Thí dụ: Bệnh ở vùng Sườn, Hông, có liên hệ đến kinh Can và Đởm. Chọn dùng huyệt Chương Môn (cục bộ) và huyệt Thái Xung (Nguyên huyệt của Can).

Trong việc chọn huyệt cùng kinh thì, huyệt tại chỗ bệnh là chủ yếu rồi mới tới những huyệt ở gần hoặc xa.

Thí dụ: Gáy cứng đau, liên hệ đến kinh Đởm (và Bàng quang) dùng huyệt Phong Trì (cục bộ) là chính rồi mới phối hợp Huyền Chung [Tuyệt Cốt] (cũng thuộc kinh Đởm nhưng ở xa), hoặc Thiên Trụ (B. quang) hợp với Côn Lôn (Bquang).

3.2 - Chọn Huyệt Khác Kinh

Theo phương pháp này, không nhất thiết phải chọn huyệt cùng kinh bị bệnh nhưng có thể chọn dùng những huyệt ở các đường kinh khác có liên hệ với kinh bệnh (như quan hệ Biểu - Lý, Đồng danh...).

(Có thể chọn huyệt gần chỗ bệnh, ở thân mình... tuy nhiên các huyệt Mộ (chẩn đoán) và Bối du huyệt thường được dùng nhiều.

Thí dụ: Vùng thắt lưng đau: chọn huyệt Kinh Môn (huyệt chẩn đoán của kinh Thận, đồng thời là huyệt cục bộ), huyệt Thận Du (bối Du huyệt của Thận).

(Bụng đau chọn huyệt Trung Qua?n (huyệt chẩn đoán của Vị), Chương Môn (huyệt chẩn đoán của Tỳ) hợp với Tỳ Du, Vị Du (bối du huyệt của Tỳ và Vị).

(ở xa có thể chọn thêm huyệt Lạc phối hợp với huyệt Nguyên của kinh chính.

Thí dụ: Ngực nặng và táo bón (liên hệ đến Phế và Đại trường), có thể chọn Liệt Khuyết (Lạc của Phế) để trị ngực nặng và Hợp Cốc (Nguyên của Đại trường) để trị táo bón.

4 - Lấy Huyệt Theo Tác Dụng Đặc Hiệu

Qua thực tiễn lâm sàng hàng nghìn năm, YHCT đã biết rõ tác dụng điều hòa khí huyết của từng huyệt như châm Hợp Cốc có thể chữa răng đau, bệnh ở vùng đầu mặt; huyệt Túc Tam Lý có thể làm gia?m đau vùng bụng. Nếu lấy Hợp Cốc để trị bụng đau hoặc ngược lại, dùng Túc Tam Lý để trị răng đau sẽ không đạt hiệu qua?, vì vậy, Chu - Quyền, trong sách "Càn Khôn Sinh Ý" có nêu lên 4 câu ca tóm tắt đặc hiệu của 4 huyệt:

"Đỗ phúc TAM LÝ lưu,

Đầu hạng tầm LIỆT KHUYẾT,

Diện khẩu HỢP CỐC thâu,

Yêu bối U?Y TRUNG cầu"

về sau các nhà nghiên cứu bổ sung thêm 2 huyệt:

'Tâm hung thu? NỘI QUAN,

Tiểu phúc TAM ÂM mưu'.

(Nghĩa là: Bụng đau dùng huyệt Túc Tam Lý; đầu gáy đau dùng huyệt Liệt Khuyết; Bệnh ở mặt miệng dùng huyệt Hợp Cốc; Tim ngực có bệnh dùng huyệt Nội Quan. Bụng dưới đau dùng huyệt Tam Âm Giao).

6 huyệt này được gọi là Lục Tổng Huyệt có tác dụng đặc biệt với từng vùng bệnh liên hệ.

BIỂU ĐỒ LỤC TỔNG HUYỆT

TÊN HUYỆT

CHỦ TRỊ

Hợp Cốc (Đtr.4)

Vùng Đầu, Mặt, Mắt

Liệt Khuyết (P.7)

Vùng cổ, gáy

Nội Quan (Tb.6)

Vùng ngực, Tim

Tam Âm Giao (Ty.6)

Vùng bụng, bụng dưới

Túc Tam Lý (Vi.36)

Vùng bụng trên

Ủy Trung (Bq.40)

Lưng, thắt lưng đau.

5 - Lấy Huyệt Theo Điểm Đau

Theo nguyên tắc biểu hiện của huyệt: khi cơ thể bị bệnh, vùng huyệt tương ứng có thể sẽ xuất hiện dấu hiệu ấn đau, theo nguyên tắc "Thống tắc bất thông" (đau là không thông). Khi chữa, có thể lấy ngay những huyệt này để trị theo ý của thiên 'Chung Thỉ': "Dĩ thống vi du" [lấy chỗ đau làm huyệt] (LKhu.13, 30). Cũng gọi là A thị huyệt, Thống điểm, Thiên ứng...

• Điểm nào đau, có thể châm ngay vào điểm đau.

• Hoặc châm điểm đối chiếu bên cạnh.

Thí dụ: Đầu gối bên ngoài đau (vùng huyệt Độc T hoặc Ngoại Tất Nhãn) châm huyệt đối chiếu bên trong tức là huyệt Nội Tất Nhãn; Đau vùng huyệt Nội Quan, châm ở vùng huyệt Ngoại Quan...

Nếu có nhiều điểm đau, châm điểm đau nhất, sau đó tùy nghi chọn thêm huyệt cho phù hợp với bệnh chứng.

Thí dụ: Thần kinh hông đau, có nhiều điểm đau dọc đường kinh, có thể chọn châm Bát Liêu (đau nhất) rồi thêm Hoàn Khiêu, Phong Thị, Dương Lăng Tuyền....

6 - Lấy Huyệt Theo Tiết Đoạn Thần Kinh

Cần chú ý đến sự liên hệ giữa các huyệt của đường kinh với các khu vực dọc dây thần kinh song song với kinh mạch đó (xem thêm biểu đồ phân chia Tiết Đoạn Thần Kinh của Head và Zakharin).

Thí dụ: Đa số các huyệt của kinh Phế và Đại trường nằm ở khu vực dọc thần kinh quay, có tác dụng đến hệ hô hấp và thần kinh ở đó.

- Những huyệt của đường kinh Tâm bào nằm ở khu vực dọc thần kinh giữa có tác dụng với hệ tuần hoàn, vùng trước ngực và thần kinh đó.

Từ sự liên hệ trên giúp ta nhận định rằng: khi chẩn đoán một dây thần kinh nào đó bị rối loạn (đau), nếu dây thần kinh đó ở gần 1 kinh mạch hoặc trùng với kinh mạch đó, có thể nghĩ đến những huyệt đặc hiệu hoặc dùng lý luận biện chứng chữa kinh mạch đó mà chữa chứng đau ở vùng thần kinh có quan hệ.

7 - Lấy Huyệt Theo Nguyên Tắc Đồng Danh

Một số các nhà y học cổ xưa, đại diện là Trương - Trọng - Ca?nh, đã phân chia các đường kinh theo cùng tên, cụ thể là:

KINH ÂM

KINH DƯƠNG

Thiếu âm: Tâm + Thận

Thiếu dương: Tam Tiêu + Đởm.

Thái âm: Phế + Tỳ

Thái dương: Tiểu Trường + Bàng quang

Quyết âm: Can + Tâm Bào.

Dương minh: Đại Trường + Vị.

Theo cách phân chia trên, các kinh cùng tên có tác dụng chữa trị như nhau. Dựa vào cách sắp đặt và tác dụng như trên, có thể đề ra cách gia?i quyết bệnh ở Tạng phu?, kinh lạc có cùng tên, có thể dùng trị liệu chung với nhau.

Thí dụ:

+ Bệnh ở Phế.

Ngoài việc dùng huyệt ở Phế, có thể dùng thêm huyệt ở Tỳ vì Phế và Tỳ cùng đồng danh (đều là Thái âm).

+ Bệnh ở Tâm

Ngoài việc dùng huyệt ở Tâm, có thể dùng thêm huyệt ở Thận vì Tâm và Thận cùng đồng danh (đều là Thiếu Âm)...

8- Lấy Huyệt Theo Ngũ Hành Sinh - Khắc

a- Tương Sinh

Nguyên tắc tương sinh thường được dùng trong các trường hợp sau:

a.1) Hư Bổ Mẫu: Khi con (tử) bị hư yếu thì phải lấy kinh khí từ mẹ (mẫu) chuyển sang cho con.

Nguyên tắc này có thể được dùng:

+ Ngay trong cùng 1 kinh: Thí dụ Tạng Phế bệnh. Phế thuộc Kim, Thổ sinh Kim, Thổ là mẫu (mẹ) của Kim, khi điều trị, chọn huyệt Thái Uyên (là huyệt Thổ của kinh Phế), để chuyển kinh khí từ Thổ sang bổ cho Kim.

Các huyệt Bổ của từng đường kinh được xác lập theo cách này.

+ Bổ Ở kinh Khác : Kinh Phế bệnh, Phế thuộc Kim, Tỳ thuộc Thổ, Thổ sinh Kim. Nếu Phế hư, bổ ở kinh Tỳ để chuyển kinh khí từ kinh Tỳ sang cho kinh Phế. Tuy nhiên phải chọn đúng hành thì kinh khí mới chuyển được.

Thí dụ: Kinh Phế quá suy, trên nguyên tắc phải dùng nguyên tắc 'Hư bổ mẫu'. Phế thuộc Kim, Thổ sinh Kim, vì vậy phải bổ huyệt Thổ của kinh Tỳ là huyệt Thái Bạch (Thái Bạch là Du Thổ huyệt của kinh Tỳ), để đưa kinh khí từ Tỳ chuyển sang Phế, giúp cho Phế mạnh lên.

+ Trường phái Nhật Bản còn xử dụng nguyên tắc Mẫu - Tử trong việc chọn huyệt 'Mẫu Tử Theo Giờ Thịnh'. Nguyên tắc này được giải thích như sau: Theo chu kỳ vận hành kinh khí thì khí được chuyển bắt đầu từ kinh Phế sang Đại Trường... và sau cùng đến Can rồi lại chuyển về Phế. Khi kinh khí đến đường kinh nào, khi đó kinh khí ở đường kinh đó được coi là thịnh (vượng) nhất, nếu châm vào huyệt Tả của kinh đó lúc nó đang thịnh thì kinh khí sẽ chuyển 1 phần dư của kinh khí đó qua kinh đứng ngay sau kinh đó. Kinh đứng trước được coi là mẫu, kinh đứng sau kế tiếp được coi là tử (con).

Thí dụ: Người bệnh gân cơ tay chân yếu. Gân cơ thuộc Can, kinh Can đang bệnh. Theo vòng lưu chuyển khí thì đứng trước Can là Phế. Châm huyệt Tả của Phế kinh là huyệt Xích Trạch, có thể chuyển bớt kinh khí ở Phế sang cho Can (mà nếu xét ở góc độ khác thì trường hợp này khó chấp nhận được vì Phế Kim khắc Can Mộc).

a2) Thực Tả Tử: khi tà khí ở trong 1 kinh nào quá thịnh, có thể tả bớt bằng cách rút bớt tà khí ở mẹ sang con (tử) của kinh đang rối loạn.

Thí dụ: Người bệnh chảy máu cam, ho ra máu... do hỏa tà ở trong Phế quá nhiều. Hỏa tà gây bệnh. Hỏa sinh Thổ, khi điều trị, có thể châm tả huyệt Thái Uyên (vì Thái Uyên là Thổ huyệt của kinh Phế)...

Các huyệt Tả của mỗi đường kinh được xác lập theo phương pháp này.

Ngoài ra cũng có thể chuyển tà khí ở kinh bệnh sang kinh con đối với kinh bệnh.

Thí dụ: Ho ra máu. Bệnh thuộc Nhiệt (hỏa) tà của kinh Phế quá thịnh, Phế (kim) sinh Thận (thủy). Nguyên nhân gây bệnh là hỏa, Hỏa (mẫu) sinh Thổ (tử), khi điều trị có thể châm tả huyệt Thái Khê (vì Thái Khê là huyệt Thổ của kinh Thận)...

b- Tương Khắc

Nguyên lý tương khắc dự trên sự khắc nhau giữa các hành để điều trị.

Thí dụ: Chảy máu cam. Bệnh do nhiệt tà của Phế thịnh. Thủy khắc Hỏa. Khi điều trị, chọn dùng huyệt Xích Trạch (vì Xích Trạch là huyệt Thủy của kinh Phế) để lấy Thủy khắc hỏa (nguyên nhân gây bệnh).

9 - Lấy Huyệt Theo Biện Chứng YHCT

Muốn dùng huyệt theo phương pháp này, phải nắm vững lý luận (y lý) về Âm dương, Ngũ hành, Tạng tượng, Kinh lạc... để tìm ra nguyên nhân gây bệnh, từ đó đề ra phương pháp trị bệnh, chọn huyệt thích hợp.

Thí dụ: Chứng dạ dầy đau do khí thống (Can Khí Phạm Vị).

Những người giận dữ, lo lắng làm cho Can khí bùng lên, gây tổn thương cho Tỳ Vị (Can khí phạm nghịch), tạo thành chứng dạ dầy đau do khí. Nếu chỉ chẩn đoán là dạ dầy đau do Tỳ Vị và điều chỉnh ở Tỳ Vị thì theo nguyên tắc, bệnh có thể gia?m bớt nhưng không khỏi hẳn, bệnh có gia?m nhưng rồi lại tái lại vì gốc bệnh (từ Can) chưa được gia?i trừ, cần phải điều chỉnh ca? ở Can nữa.

Cụ thể là ngoài việc chọn huyệt Túc Tam Lý (kiện Tỳ Vị), cần phối hợp dùng thêm huyệt Thái Xung (nguyên huyệt của Can để bình Can khí), không cho phạm đến Tỳ Vị nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #ykhoanet