Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Nguyễn Bình-huyền thoại và sự thật

Nguyên Hùng

NGUYỄN BÌNH, Huyền Thoại và Sự Thật

Dịch giả : Lê Kim

Chương 36

Đầu 1947 Nguyễn Bình vào đảng
Vũ Huy Xứng nạp anh Ba






























Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Cuối 1946 Tây đánh mạnh chiến khu D, phong toả các đường tiếp tế, Bộ chi huy Khu 7 phải dời về Đức Hoà Thành ở rìa Đồng Tháp Mười. Đánh dấu ngày này, Tám Nghệ làm bài thơ “Rừng nhớ người đi” đầy tình cảm thân thương:
        Từ độ Anh đi vung kiếm thép
        Mịt mù khói lửa khuất binh nhung
        Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
        Hồi hộp nghe từ tin chiến công
        Chòi cũ còn đây mái xác xơ
        Tro tàn bếp lạnh nhờ người xưa
        Còn đâu những sáng tưng bừng nắng
        Lời quốc ca vang động bóng cờ
        Còn đây mái suối chiếc cầu con
        Bên đá chân anh bước đã mòn
        Chim lắng, nước ngừng không hát nữa
        Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong
        Sân hoa đâu nữa nơi múa kiếm
        Thề với trăng khuya rửa sạch thù
        Ai kẻ đề thơ trên lá thắm
        Gởi dòng suối Ngọc nhắn kinh đô?
        Ngày đi có bướm, hoa đưa tiễn
        Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương
        Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp
        Thổn thức rừng ca khúc đoạn trường.
        Từ đó, Lạc An mang nhớ thương
        Sầu đông, rừng rụng lá muôn vàn
        Bốn phương khói lửa phun mờ mịt
        Rừng vẫn trông theo cánh phượng hoàng.
        Tháng 2-1947 là một thời điểm lịch sử trong đời anh Ba Bình. Văn phòng Bộ chỉ huy Khu đóng ở Giồng Lức. Đây là một bưng lớn ở rìa Đồng Tháp Mười. Kế bên có Giồng Lớn, rồi tới Quéo Ba, nơi bộ đội thường tới đóng quân. Trong Phòng tham mưu có các nhân vật Tạ Nhất Tứ, Bùi Thanh Khiết, Vũ Huy Xứng, Phan Trọng Bình, Nhuận, Thơm, Thanh cạn được gọi là Thanh kiếng. Thơm là thư ký của Nguyễn Đình Thâu sau làm thư ký cho anh Ba, Thanh kiếng là thư ký đánh nháy. Tạ Nhất Tú nguyên là thanh tra chính trị miền Đông, trước Cách mạng tháng Tám từng là quận trưởng Gò Vấp.
        Nhưng xin giới thiệu nhiều về Vũ Huy Xứng.
        Xứng quê Gia Lâm, ra Hải Phòng từ năm tuổi, học trường Kỹ Nghệ tới năm thứ hai thì bị đuổi. Xứng làm thợ trong nhà máy kẽm. Nhờ có trình độ văn hoá và tài tháo vát, Xứng được chủ Tây cất nhắc nắm toàn bộ nhà máy. Các phu mỏ gọi Xứng là chủ nhì, chỉ đứng sau chủ nhất là Tày chủ mỏ. Xứng được cấp nhà ở như nhà Tây, cho lãnh lương cao, 68 đồng trong khi chủ chỉ lãnh có hai cắc tám. Đó là năm 1939. Dù được biệt đãi như vậy Xứng vẫn không quên nhiệm vụ của mình là tranh đấu cho quyền lợi anh em công nhân. Anh được anh Đào Văn Trường kết nạp vào Đảng năm 1939. Trong một năm, Xứng xui anh em thợ đòi lên lương bốn lần. Năm 1940 công nhân Hòn Gai bị đàn áp, công nhân các mỏ Quảng Yên, Uông Bí, Hải Phòng hoạt động mạnh để hỗ trợ.
        Chính trong đợt đó Xứng bị bắt. Lúcc đó anh là bí thư chi bộ nhà máy kẽm Quảng Yên. Vừa được tự do năm 1941 anh vào Nam cùng với hai anh em Phan Trọng Thái và Phan Trọng Bình. Tại Sài Gòn, hai anh Xứng và Bình hoạt động trong giới công nhân, thanh niên, tổ chức được năm nghiệp đoàn. Ngày 9-1-1946 trên đường công tác, Xứng và Bình bị Tây bắt và đưa về bót Catinat tra tấn 17 ngày trước khi đưa qua Khám Lớn. Sau thoả hiệp án, Tây đưa Xứng ra toà xử chín tháng tù. Nhưng anh đã ở tù quá bản án một tháng nên chúng thả ra. Lập tức Xứng nhảy ra bưng.
        Trong bộ chỉ huy của Khu 7 cuối 1946 chưa có chi bộ. Xứng đề nghị lập chi bộ. Muốn mọi việc dễ dàng, phải tranh thủ sự đồng tình của Khu trưởng. Vũ Huy Xứng hỏi thăm những người từng ở gần Nguyễn Bình để tìm hiểu xu hướng chính trị của anh Ba. Người biết rõ anh Ba hơn ai hết là ông Trần Xuân Độ, nguyên là chánh trì bộ chủ nhiệm Khu 7. Qua ông Độ, Xứng biết anh Ba Bình đã là đảng viên Quốc Dân Đảng từ năm 1929-1930, nhưng ra đảo thì chuyển hướng và bị thanh trừng vì tội phản Đảng. Con mắt bên trái như là dấu tích kỷ niệm khó quên đó. Xứng nghĩ thầm: “Khó đấy”! Chim bị tên sợ cây cong. Nói thế nào cho “ông tướng” nghe đây? Sau mấy ngày nghiền ngẫm. Xứng đã tìm được bí quyết: Nguyễn Bình chỉ kính phục có một người trên đòi. Người đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đang làm tư lệnh chiến khu Đông Triều cũng là Đệ Tứ quân khu mà Nguyễn Bình bỏ hết, để vào Nam chỉ với cương vị phái viên của Trung ương thì biết anh Ba kính trọng và tin tưởng Bác Hồ như thế nào. Bây giờ chỉ cần nói mời anh Ba vào Đảng của Bác là xong ngay.
        Đúng như Vũ Huy Xứng nghĩ, anh Ba Bình không bác lời gợi ý của Xứng. Anh Bình chỉ nói:
        - Chọn lựa bao giờ cũng đi đôi với mất mát. Hễ chọn cái này thì phải bỏ cái kia. Nhưng đến một lúc nào đó thì cũng phải chọn. Để tôi suy nghĩ thêm đã.
        Vài ngày sau, anh Ba nói với Xứng:
        - Tôi biết có nhiều người nói sau lưng tôi đủ thứ chuyện. Họ nói tôi là Quốc dân Đảng Họ nói đúng có một nửa. Đó là những năm tôi và Trần Huy Liệu hoạt động cho Quốc Dân Đáng và bị đày ra Côn Đảo. Nhưng từ năm 1935 tôi đã ra khỏi Đảng với cái kỷ niệm xốn xang nhức nhối này đây - Anh Ba đưa tay chỉ còn mắt trái và thở dài nói tiếp - Tôi chúa ghét đầu óc bè phái. Nói tới đảng này phái kia là mặc nhiên thừa nhậu có một sự chia rẽ nào đó. Trong lúc này cần đoàn kết, nhất trí mới thắng được giặc. Bác Hồ đã nêu khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” thật chí lý. Nếu toàn dân ta trên dưới một lòng chung sức đánh Tây thì cuộc kháng chiến sẽ mau tới thắng lợi.
        Xứng im lặng để nghe anh Ba nói hết ý. Anh Ba tiếp tục:
        - Rất tiếc là trên thực tế có nhiều Đảng phái đang tranh nhau quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ngoài Đảng Cộng Sản của Bác Hồ còn có Việt Nam Quốc Dân đảng của Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội, gọi tắt là Việt Quốc, Việt Cách. Hai đảng này theo Tàu chống phá công cuộc kháng chiến của Việt Minh. Những người rỉ tai bảo Nguyễn Bình là Quốc Dân đảng là có ý đồ lên án tôi là tay phản động chui vào phá hoại Việt Minh. Đó là thủ đoạn cực kỳ nguy hiểm, có thể là một đòn ly gián của địch. Để đối phó chiến dịch rỉ tai này, chi có một cách hay nhất: Nguyễn Bình phải gia nhập Đảng Cộng Sản.
        Vỗ vào cánh tay Vũ Huy Xứng, anh Ba Bình nói:
        - Anh Xứng gợi ý rất đúng lúc. Tôi phải vào Đảng thôi. Để cho cuộc kháng chiến lược thuận lợi hơn. Anh Xứng coi ngày nào tốt thì tiến hành lễ kết nạp đi!
        Vào một ngày đẹp trời tháng 2-1947, Vũ Huy Xứng làm lễ kết nạp trung tướng Nguyễn Bình tại Giồng Lức. Cùng ngày ấy có hai người cũng được kết nạp. Đó là Bùi Thanh Khiết và Nguyễn Văn Nhuận. (Có người quả quyết Nguyễn Bình và Phạm Thiều được kết nạp cùng lúc do Hà Huy Giáp và Nguyễn Đức Thuận chủ trì).
        Vũ Huy Xứng thấy rõ từ ngày vô Đảng, anh Ba Bình cố phấn đấu bản thân để giữ đúng kỷ luật Đảng với hai nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số và hạ cấp phải phục tùng thượng cấp. Nguyên tắc thứ hai thì không đụng tới anh Ba bởi vì không ai cao cấp hơn ông trung tướng. Nhưng còn nguyên tắc thứ nhất thì có đôi lúc anh Ba khó chịu vì phải tôn trọng ý của số đông dưới quyền mình. Có một lần anh Thơm là thư ký của anh Ba phê bình anh Ba khá gay gắt trong một cuộc họp tổ Đảng về việc anh Ba nuông chiếu Hoàng Thọ, để Hoàng Thọ xem thường mọi người kể cả ông chánh uỷ Khu là Hai Trí. Rõ ràng là anh Ba bực mình ghê gớm nhưng anh cố giằn xuống nhận sự phê bình của đồng chí. Sau phiên họp, với tư cách là tổ trưởng, anh Xứng phải “tốp” bớt Thơm:
        - Mày vừa vừa thôi nghe Thơm. Tao thấy đêm rối anh Ba bực mấy lắm đó.
        Thơm nói tỉnh bơ:
        - Phê tự phê là võ khí tu dưỡng đảng viên mà. Sao anh không cho tôi phê bình xây dựng anh Ba!
        Xứng nhấn mạnh:
        - Đồng ý rối. Nhưng phê bình cũng tuỳ đối tượng, phải chọn lời lẽ. Với ông tướng mà mày nói xáng xả như đêm qua sao được!
        - Tướng thì tướng chớ, đã cùng một tổ Đảng thì bình đẳng như nhau.
        - Thôi thôi! Chớ có đòi dân chủ quá trớn. Trong Đảng cũng phải có tôn ti trật tự chớ. Tao thất anh Ba giằn lắm vì mấy phê bình anh trong tổ Đảng. Chớ bên ngoài thì coi chừng à...
        Thơm cười rất hóm:
        - Bên ngoài cha tôi cũng khỏng dám phê ổng như vậy!
        ***
        Trung tướng Nguyễn Bình đã chánh thức vào Đảng rồi mà chung quanh hãy còn không ít kẻ tung tin đồn tai hại như Nguyễn Bình là Nguyễn Phương Thảo, là đảng viên Việt Nam Quốc Dân đảng. Trước tình trạng này, anh Ba bình tâm bình với anh em trong tổ Đảng:
        - Rõ ràng đây là chủ trương của Phòng Nhì. Tây gọi là “jeter le doute” tức là gieo sự nghi ngờ dễ bề chia rẽ. Về hai đảng Việt Quốc và Việt Cách thì khi tướng Lư Hán kéo bọn Tàu Tưởng từ Hoa Nam xuống miền Bắc nước ta để giải giới quân Nhật theo quyết nghị của Đồng Minh, hai đảng này cũng kéo bọn thổ phỉ theo nhũng nhiễu dân mình. Tôi đã từng diệt bọn nầy trong nhiều trận ở Tiên Yên và Móng Cáy. Có trận đánh thẳng vô bọn Tàu, không thèm đánh các cánh Việt Quốc hay Việt Cách. Có một trận tôi diệt gần ba trăm tên. Diệt một cách im lặng không ồn ào. Bọn Quốc Dân Đảng nghe tên Nguyễn Bình là khiếp vía kinh hổn. Nhỏ không ồn ào mà không xảy ra vụ Lư Hán làm ầm ĩ như vụ Chèm. Dù vậy Bác Hồ vốn thấy xa trông rộng nên đưa tôi vào Nam để tránh rắc rối về sau. Một người đã diệt cả trăm thổ phỉ Việt Quốc Việt Cách ở miền Bắc mà vô Nam lại bị chụp mũ Quốc Dân Đảng thì thật là chuyện trớ trêu đến buồn cười. Cho nên tôi khẳng định: Đây là chủ trương của địch. Hễ nghe ai rỉ tai nói bậy thì các đồng chí bắt ngay cho tôi.
        Vũ Huy Xứng cũng đồng ý với anh Ba.

Chương 37

Phong trung tướng, Nguyễn Bình nở mặt
Huỳnh Thế Phương tiếp khách Sài Gòn































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Ngày 25-1-1948 chánh phủ Trung ương kiện toàn bộ máy quân dân chánh ở Việt Bắc, Bác Hồ phong quân hàm tướng cho các cán bộ quân sự cao cấp. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong đại tướng, Nguyễn Bình ở Nam Bộ được phong trung tướng và Nguyễn Sơn phụ trách miền Trung được phong thiếu tướng. Ở cấp thiếu tướng còn có năm vị nữa. Đây là tám vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
        Điện phong trung tướng cho Nguyễn Bình tới Nam Bộ tạo một niềm phấn khỏi cho toàn thể quân và dân miền Nam. Ai nấy đều hồ hởi vì Trung ương thấy công lao của vị phái viên Trung ương đã giữ được miền Nam trong những năm cuồng phong bão tố bẻ gãy được mũi nhọn viễn chinh của danh tướng Leclerc đã từng giải phóng mrớc Pháp và dẫn đầu Sư đoàn 2 thiết giáp thừa tháng xốc tới vượt hai sông Rhin và Danube góp phần đánh bại quân Đức hung hăng của Hítle. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Nguyễn Bình, các bộ đội địa phương được tập hợp lại: chánh qui hoá, đi vào nề nếp, đặt trọng tâm đánh Tây lên trên hết, dẹp bỏ nhưng tị hiềm cá nhân kiểu thập nhị sứ quân. Thống nhất được các bộ đội giang hồ mà đứng đầu là Bình Xuyên là một thành công lớn không ai phủ nhận được. Kế đó là sáng kiến tuyệt vời: đào tạo binh chủng tinh nhuệ luồn sâu đánh hiểm, đột nhập vào thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn là hang ổ của địch, ngày đêm khuấy rối, rải truyền đơn, ném lựu đạn, làm cho địch ăn không ngon, ngủ không yên: biến thiên đàng thành địa ngục. Thời chiến quốc bên Tàu chỉ có một Kinh Kha, một Tào Mạt, một Chuyên Chư, một Dự Nhượng, một Nhiếp Chính, một Cao Tiệm Ly mà để lại cho ngàn đời sau những trang sử hào hùng. Nhưng với sáng kiến lập 10 Ban công tác Thành, Nguyễn Bình đã tạo ra không biết bao nhiêu Kinh Kha, Nhiếp Chính Việt Nam.
        Trước tin điện phong trung tướng không bao lâu thì báo chí Sài Gòn loan tin một thợ hớt tóc cắt cổ tên đại tá uỷ viên cộng hoà Pháp tại Lào tên là Hans Imfelt. Vụ ám sát diễn ra trong phòng số 28 khách sạn Hotel des Nations số 68A Charner (Nguyễn Huệ). Anh thợ hớt tóc này là một đội viên Ban Công Tác Thành tên là Vô Hồng Tâm, mới mười tám tuổi. Điều quan trọng là tên đại tá Imfelt không chỉ là uỷ viên cộng hoà (tương đương thống đốc cũ) ở Lào mà thật ra là một sĩ quan tình báo lợi lại. Chính Imfelt đã vạch kế hoạch tấn công Việt Bắc, định diệt đầu não chánh phủ Trung ương. Sau đó chính nó lại vạch kế hoạch đánh toàn lực vào Đồng Tháp Mười để “hốt trọn” Uỷ ban kháng chiến - hiành chánh Nam Bộ. Hắn chưa kịp ra tay thì ta đã đánh trước. Ngày 8-4-1946 ta đốt kho đạn lớn nhất của địch tại Thị Nghè. Kho đạn này Tây gọi là Pyrotechnie, ở góc đường Chasseloup Laubat-doctetư Angier (Xô viết Nghệ Tĩnh- Nguyễn Bỉnh Khiêm). Kho đạn chiếm một diện tích lớn, mặt tiền ngó ra đài phát thanh Sài Gòn, còn mặt hậu thì chạy dài tới rạch Thị Nghè. Bởi vậy mới được gọi là Kho đạn Thị Nghè. Vụ nổ cháy này kéo dài trong ba ngày ba đêm. Khói bốc lên đen cả một góc trời. Tây hoang mang không kể xiết. Càng hoang mang dữ khi biết hệ thống phòng vệ kho đạn này thật kiên cố, lính gác nhiều vòng trong vòng ngoài. Thế mà vẫn bị Việt Minh đánh phá. Có tin được xác nhận là Việt Minh đã đột nhập kho đạn bằng đường cống ngầm trổ miệng ra con rạch Thị Nghè từ trong Sở thú bên kia đường Chasseloup.
        Như sóng trường giang lớp sau đè lớp trước, cơn chấn động về kho đạn Thị Nghè chưa tan thì xảy ra chuyện đại tá uỷ viên cộng hoà Pháp ở Lào bị cắt cổ ngay trong phòng khách sạn giữa trung tâm Sài Gòn...
        Đánh địch một lúc hai chiến trường, tiền tuyến và hậu phương, mỗi chiến trường có một thứ binh chủng tinh nhuệ. Trong vùng giải phóng có Vệ Quốc Đoàn, ở vùng tạm chiếm có Ban công tác Thành. Về sau có thêm các đội Công an xung phong cũng không kém lợi hại... Tóm lại, với tài chỉ huy của Nguyễn Bình, kháng chiến đã bẻ gãy các mưu đồ xâm chiếm của địch về quân sự cũng như về chính trị. Vụ giết tên bác sĩ Trần Tấn Phát, báo chí Sài Gòn đều đăng tin sôi nổi. Các báo Pháp còn nói rõ hơn: Nguyễn Bình đã bóp nát chánh phủ Nam Kỳ tự trị từ trong trứng nước khi loại trừ vị thủ tướng đã được quan thầy Pháp chọn. Cố nhiên là không có Trần Tấn Phát thì cũng có Nguyễn Văn Thinh. Nhưng Nguyễn Văn Thinh bản chất hiền lành, không hiếu chiến như Trần Tấn Phát. Đưa Thinh lên là vì nhu cầu cấp thời mà thôi. Quả đúng như chúng nhận định, Nguyễn Văn Thinh vừa ra mắt chánh phủ ở nhà thờ Đức Bà ngày 1-6-1946 thì năm tháng chín ngày sau, ngày 9-11-1946, Thinh đã thắt cổ tự tử vì ăn năn đã đi ngược lại con đường của dân tộc.
        Công điện phong chức trung tướng cho Nguyễn Bình tạo một không khí tưng bừng chưa từng thấy. Tất cả ba khu 7, 8 và 9 đều đánh điện về chia vui.
        Nhưng không đâu hồ hởi cho bằng Khu 7 là nơi đầu sóng ngọn gió. Tất cả các trung đoàn đều làm lễ liên hoan ăn mừng thắng lợi tuy là vinh dự dành riêng cho vị uỷ viên quân sự Nam Bộ nhưng cũng là niềm vinh dự chung của mọi người trong chiến khu.
        Lễ thụ phong trung tướng được Bộ tư lệnh Nam Bộ tổ chức hết sức trọng thể. Cả nước Việt Nam chỉ có một vị trung tướng. Đó là nhân vật số hai, sau đại tướng Võ Nguyên Giáp. Địa điểm làm lễ là xã Nhơn Hoà Lập, nơi các cơ quan Nam Bộ đóng. Xã này chạy dài theo con kinh Lagrange, vừa được đổi tên kinh Dương Văn Dương, vị lãnh tụ của Bình Xuyên đã tử trận sau Tết Bính Tuất (1946) tại Châu Bình (Bến Tre).
        Để có đủ thành phần xã hội tham dự, ban tổ chức mời một số nhân sĩ trí thức ở Sài Gòn ra. Tất nhiên giới văn nhân ký giả được nghĩ tới đầu tiên. Trong danh sách được liên lạc thành tới mời và đưa đón có nhà báo Thiếu Sơn Lê Sỹ Quý, Tam Ích (XXX) và nhà văn Lý Văn Sâm. Ba vị này viết báo công khai tỏ quan điểm ủng hộ kháng chiến, là ba tay cự phách trong làng báo chí thống nhất bút chiến ác liệt với nhóm báo chí phân ly mà dẫn đầu là hai tờ Phục Hưng và Tương Lai.
        Mời trí thức ở thành ra, phải có người đón tiếp cẩn thận. Người được trung tướng giao trọng trách đó là trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương. Anh Phương là ai vậy? Phương là dân miền Trung lưu lạc giang hồ từ nhỏ, đã từng ra Huế học Lycéum Việt Anh, qua Nam Vang học Lycée Sisawath. Năm 1945 về Sài Gòn học trường sĩ quan Nhật sau ngày 9-3. Ta cướp chánh quyền, Phương vận động binh lính Heiho (do Nhật đào tạo) gia nhập Cộng hoà vệ binh cũng gọi là Đệ nhất sư đoàn. Do vậy mà số Heiho trong Cộng hoà vệ binh rất đông, chỉ đứng sau anh em Garde Civile Locale và Brigade Mobile tức lính Bảo an mà dân Nam gọi là “mã tà chân xanh mắt ếch”. Đơn vị Phương thủ ở Bình Điền, đánh một trận ra trò tại Gò Đen. Lúc đó Phương đã là trung đội trưởng. Trận này báo Kèn gọi lính của Trần Bửu Kiếm đã viết bài tường thuật. Tây đánh mạnh, ta rút xuống Mỹ Tho rồi Bến Tre. Tại mặt trận An Hoá - Giao Hoà, Phương đã gặp anh Ba Dương, và sau khi Ba Dương hy sinh, Phương đã yểm trợ bộ đội Bình Xuyên lúc đó do Sáu Đối chỉ huy về Rừng Sác. Ban đầu định đi đường biển. Xuống tới Bình Đại thì có tin Tây chiếm Bà Rịa. Phải đi đường bộ. Bộ chỉ huy họp bàn lộ trình hành quân. Anh em vẽ bản đồ trên cát. Đang phân vân không biết đi qua những nơi nào thì Sáu Đối rút gươm thọc một đường thẳng trên bản đồ cát nói: “Đi đường này”. Thế là “đại quân” gồm khoảng bốn trăm binh sĩ cứ cương quyết ra đi, đụng địch thì đánh mở đường máu. Ngày nghỉ đêm đi. Về tới Rừng Sác, một bất ngờ khó chịu chờ đón anh Phương: Bảy Viễn muốn “Bình Xuyên hoá” cánh quân Cộng hoà vệ binh của Huỳnh Thế Phương. Tất nhiên Phương không đồng ý. Anh đã làm xong nghĩa vụ yểm trợ Bộ đội Bình Xuyên trở về Rừng Sác an toàn. Giờ thì anh phải đưa quân của mình về Khu Tám. Trong cuộc tranh chấp này, anh Phương thất thế vì anh chỉ là một nhóm nhỏ. Mà luật giang hồ bây giờ là cá lớn nuốt cá bé. Thời may có Mai Văn Vĩnh can thiệp. Bảy Viễn nể Chi đội 7 của cha con ông Tám Mạnh - Hai Vĩnh bỏ ý định sát nhập Cộng hoà vệ binh của Huỳnh Thế Phương. Trở về Khu Tám, Phương làm phó cho ông Đồng Văn Cống (Trung đoàn 99) một thời gian rồi qua bộ đội hải ngoại Trần Phú. Có thể nói cuộc đời của Huỳnh Thế Phương từ lúc đi học tới lúc đánh giặc rất long đong, không ở nơi nào lâu.
        Long đong vì tánh tình ngay thẳng, thấy sai không thể làm ngơ, chẳng hạn như trong chủ trương tảo thanh Hoà Hảo ở hai Khu 8 và 9, Phương rất xót xa vì cảnh nồi da xáo thịt.
        Trong trận vây bắt Hoà Hảo hành quân trong xã Bình Tiên, ngoại vi thị xã Sa Đéc, lần đầu tiên Phương trông thấy nữ binh Hoà Hảo xuất viện. Thật không thể tưởng tượng được. Nữ tướng tự xưng là Phàn Lê Huê được khiêng trên kiệu. Cô còn trẻ măng, khoảng mười tám. Nữ binh Hoà Hảo với gươm giáo làm sao đương cự với bộ đội Hải ngoại là đơn vị có súng ống tối tân từ Xiêm về.
        Phương cho bao vây và bắt sống Phàn Lê Huê sau khi đánh tan đội bảo vệ. Cô ta khai tên là Thanh, quê xã Bình Tiên học trên Sài Gòn năm thứ tư trung học. Sắp thi đíp-lôm thì xảy ra chiến tranh. Về làng cô được Hoà Hảo chọn làm nữ tướng Phàn Lê Huê nhờ đẹp gái và có ăn học... Phương nhìn kỹ trong lúc thẩm vấn, nữ tướng mặc bộ đồ hàng đen viền chỉ vành. Trước khi đóng vai Phàn Lê Huê, cô Thanh làm y tế huyện. Phương suy nghĩ: phải cứu cô gái này. Cô ta chỉ là nạn nhân của Hoà Hảo. Nếu giao đám nữ binh Hoà Hảo này vào các tay hiếu sát thì cái chết rùng rợn chờ đợi các cô: mò tôm. Lúc đó ta không có chánh sách tù binh. Giam giữ vừa tốn cơm vừa tốn người canh gác. Khử là nhanh gọn nhất. Anh chuyển Phàn Lê Huê tới một trại tù binh mới thành lập mà trưởng trại là người hiền lành. (Về sau, năm 63, anh Phương gặp lại cô Thanh tại Hà Nội, bấy giờ nguyên nữ tướng Phàn Lê Huê nghiễm nhiên là bác sĩ quân y)
        Nhưng hãy trở lại lễ thụ phong trung tướng của Nguyễn Bình. Trong một cuộc họp quân sự cao cấp ở Nam Bộ, Nguyễn Bình đã để mắt xanh tới trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương: “Đây là cán bộ trung đoàn trẻ nhất, có trình độ văn hoá, có khả năng chỉ huy”. Lời nhận xét này khiến Phương phục Nguyễn Bình là “quân tử” vì trước đó anh đã từng “nói lén” trung tướng với một số anh em: “Nguyễn Bình nặng đầu óc huynh trưởng, pha thêm chất lưu manh. Ông dùng đám giang hồ tự do phóng túng chỉ biết phục tùng cá nhân Nguyễn Bình, còn chánh uỷ Hai Trí thì coi không có ra ký lô nào hết. Về cái mà thiên hạ thán phục, gọi là dũng cảm phi thường như mạo hiểm về thành quan sát tình hình, tôi cho là liều mạng làm hy sinh cả trung đội có nhiệm vụ yểm trợ...“. Không ngờ trong đánh bạn bè thân cận có người lén “méc” anh Ba. Nếu là kẻ tiểu nhân thì Nguyễn Bình đã “đì” kẻ nói xấu mình. Nhưng không, anh Ba còn chọn Phương thay mặt cho mình đón tiếp đoàn nhà văn nhà báo Sài Gòn. Suốt mấy ngày ba anh Lý Văn Sâm, Thiếu Sơn, Tam Ích xuống Đồng Tháp Mười, Phương lo cho họ thật chu đáo. Sáng đưa họ đi ăn hủ tiếu; tối đưa họ đi ăn chè ở quán Dì Ba, một quán của nhóm Dân Chủ lập trên bờ kinh Nhơn Hoà Lập để cho căn cứ Nam Bộ có chất tươi mát, giải trí anh em cán bộ xa nhà. Từ ngày đầu đến ngày cuối ba anh em trí thức Sài Gòn rất hài lòng về tổ chức trong lễ thụ phong trung tướng. Họ được thấy tận mắt sinh hoạt vui tươi, lạc quan, tin tưởng của nhân dân trong Đồng Tháp Mười. Người mà họ khoái nhất tất nhiên là trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương đã phục vụ hết mình “khách đô thành viếng chiến khu xanh”.

Chương 38

Ấp An Điền nhiều dân thổ mộ
Theo Bảy Quới hăm hở đánh Tây
































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Ấp An Điền nằm trong làng Bình Quới quận Thủ Đức cách Sài Gòn có ba ngàn thước, nhờ tinh thần đánh Tây mà nổi tiếng như cồn. Đặc điểm của ấp này là dân đa số sống nghề đánh xe thổ mộ tuyến đường Thủ Đức - Sài Gòn và Thủ Đức- Giồng Ông Tố.
        Đất nghèo nhưng thuộc địa linh nhơn kiệt, ấp An Điền cũng sản sanh một sinh viên ra Hà Nội học. Đó là anh Trần Văn Quới - dân trong vùng gọi thân mật là Bảy Quới - sanh năm 1916 ở xã Bình Quới. Có lẽ cha mẹ lấy tên đất đặt tên người cho đậm đà tình quê hương. Bảy Quới theo ngành quật, mới học có một vài năm thì Tây trở lại tái chiếm thuộc địa. Bảy Quới xếp bút nghiên lập bộ đội đánh Tây. Phất cờ tại ấp nhà nên bộ đội Bảy Quới lấy tên là bộ đội An Điền. Nhiều người tưởng An Điền là một xã trong quận Bến Cát, nhưng An Điền đây chỉ là một ấp nhỏ mà thôi.
        Bảy Quới đang cần một người có khả năng để chia bớt gánh nặng thì có bạn cũ là Nguyễn Văn Hoài từng bôn ba ở Thái Lan về. Hoài đi lính Pháp, lên tới adjudant (ông ách) vốn là người xã Linh Đông, ngay thị trấn Thủ Đức, chỉ cách Bình Quới có ba ngàn thước. Lập tức Quới kéo Hoài về Bình Quới với mình.
        Không bao lâu lại có thêm một chiến hữu nữa. Đó là Chấn, nguyên là “recevetư”(1) trên bến bắc Mỹ Thuận. Quới phân công Chấn tiếp tế bộ đội còn Hoài và anh lo về mặt chỉ huy tác chiến. Hoài là cựu quân nhân nên giữ chức chỉ huy còn Quới làm chánh trị viên.
        Lúc đầu bộ đội An Điền chỉ có hai trung đội. Đa số là “xà ích” (đánh xe thổ mộ) và công nhân cao su. Nổi bật nhất có hai tay anh chị Năm Xê, Năm Ký. Khí thế bộ đội An Điền rất cao nhờ chiến công sốt dẻo: chụp đồn Thủ Đức trước ngày Sài Gòn cướp chánh quyền ngày 25-8-1945. Lập đầu công là do anh em đánh xe ngựa hàng ngày chạy qua chạy lại trước bót, biết rõ giờ giấc sinh hoạt trong đồn. Ta thừa lúc bất ngờ bắt sống tên Tây xếp bót, tịch thu súng. Thừa thắng xông lên, hôm sau ta họp mít-tinh tại chợ cá Thủ Đức. Anh Chấn là diễn giả kêu gọi đồng bào ủng hộ cuộc kháng chiến. Trong dịp này ta vây bắt tên cai tổng Định, nhưng lão nhanh chân chạy thoát.
        Hai ngày sau, hai anh Bảy Trấn (Nguyễn Văn Trấn) và Huỳnh Tấn Phát về Thủ Đức phổ biến đường lối chánh sách Việt Minh. Cờ vàng sao đỏ của Thanh niên tiền phong biến thành cờ đỏ sao vàng của Việt Minh.
        Kỷ niệm nhớ đời là trong cuộc biểu tình vĩ đại ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn, bộ đội An Điền đã lập thành tích: anh Hoài đã bắt một thằng Tây núp trong hãng Jean Comte bắn lén đoàn biểu tình nạp cho chủ tịch Lâm uỷ Hành Chánh Nam Bộ Trần Văn Giàu. Tới chiều tối anh em bộ đội An Điền mới về tới nhà.
        Trước đó có tin bộ đội An Điền bị Tây bắn chết hết. Chừng các anh về, cha mẹ các anh vui mừng tới chảy nước mắt. Ngày bộ đội An Điền chánh thức ra mắt đồng bào là ngày 13-9-1945. Trận đầu tiên là trận ngã ba bến đò Bình Quới vào ba giờ chiều. Ta phục kích đánh ba xe GMC chở Chà Chớp. Đánh rất có bài bản: chặt mấy cấy dừa ngay cua(2) để buộc xe địch chạy chậm lại. Ta giết 15 địch, bên ta hy sinh ba chiến sỹ trong đó có con chị Năm Cò. Đó là ngày 20-9-1945. Ta đưa xác về trường Linh Đông làm lễ truy điệu rồi mai táng tại Gò Cầy.
        Sau đó có tin một tên quan tư từ Đà Lạt về, có bốn xe lính hộ tống. Ta liền phục kích trên nóc nhà lồng chợ Thủ Đức. Đoàn xe chạy tới, ta nổ súng, tên quan tư bị thương. Bốn xe hộ tống dừng lại nổ súng như mưa. Ta chết ba, rút khỏi vòng vây an toàn bằng cách giả dạng thường dân.
        Trận thứ ba nhằm mùng ba Tết. Ta đánh Chợ Nhỏ (Thủ Đức). Nắm quy luật Tây chở súng hàng tuần vào sáng thứ hai từ Thủ Đức tới Chợ Nhỏ, ta nổ hai loạt súng, địch bỏ chạy, ta cướp bốn súng đại liên, với thùng đạn 50 viên, 30 Mút Anh, 10 tôm-xông đem về Tăng Nhơn Phú. Chiến thắng này do anh Tư Mọi lập đầu công với cách đánh cực kỳ gan dạ. Anh giả là hương chức hội tề, mặc áo dài the, khăn đóng, cặp tôm-xông như xách dù, chờ xe Tây tới gần mới nổ cả hai băng. Một giờ trưa Tây trở lại tấn công ba mũi Dĩ An, Chợ Nhỏ, Thủ Đức. Ta chống cự tới bốn giờ, diệt thêm ba mươi tên nhưng anh Tứ Mọi tử thương. Sau trận này ta rút về Long Phước Thôn dưỡng quân.
        Năm ngày sau Bảy Quới nhận được thư Nguyễn Bình “hoan hô các anh đánh trận Mít Nài và tặng một số tiền để khao quân”. Đó là bức thư đầu tiên bộ đội An Điền nhận được của khu trưởng Nguyễn Bình. Ai nấy đều phấn khởi, chỉ có một mình Bùi Hữu Phiệt thắc mắc. Hắn la lớn: “ Nguyễn Bình là thằng nào? Nó muốn tước vũ khí mình à?”. Mặc kệ hắn, anh em bộ đội An Điền phấn khởi, bất liên lạc với Nguyễn Bình. Đó là ngày mùng 4 Tết.
        Nhưng hãy nói về tên Bùi Hữu Phiệt.
        Sau trận đánh ở Ngã ba Bình Quới, bộ đội An Điền đóng trong nhà mát của thanh tra học chính Taboulet. Có một toán mười người miền Bắc tới xin gia nhập bộ đội An Điền. Chỉ huy là Btù Hữu Phiệt, tự xưng là chánh trị phạm từ Côn Đảo về. Quới và Hoài vui lòng nhận họ và phân công họ Bùi lo việc văn phòng. Nhưng qua hai trận đánh tiếp theo thì anh em thấy nhóm người Bắc mới đầu quân này không có tinh thần chiến đấu, lại tỏ ý “lánh nặng tìm nhẹ”. Hai anh Năm Xệ và Năm Ký vốn tánh lỗ mãn đòi “giết mấy thằng Bắc Kỳ này cho rảnh”. Nhưng hai anh Quới và Hoài khuyên anh em chớ nóng...
        Về Long Phước Thôn, ta bị Tây tấn công ác liệt. Rồi lại đụng một trận chống càn tại Dốc 1947 gần Long Thành, nhóm Bùi Hữu Phiệt chạy dài. Anh em đánh xe thổ mộ gọi họ là “cá sọc dưa”; hay là “gà chạy rót”. Đã không có gan đánh đấm, Bùi Hữu Phiệt lại ngấm ngầm tuyên truyền trong số anh em công nhân cao su người Bắc chống Nguyễn Bình. Một số anh em này nghe Bùi Hữu Phiệt. Nhưng anh em đánh xe thổ mộ nhất định không thèm nghe “thằng Phiệt ọ ẹ”.
        Phiệt rất mê cầu cơ. Đêm nào cũng xúm xít cầu cơ rồi bàn bạc về Thánh ngôn. Hắn giao du với Nguyễn Thành Long là tay dựa hơi Cao Đài, tìm cách liên lạc với nhóm Năm Hà đóng ở Phước An, Long Thành.
        Lúc Tây đánh mạnh, hắn cứ một hai đòi rút đi, tìm nơi an toàn mà đóng quân. Không được tín hiệu gì về Liên Chi 2-3 của Năm Hà, Bùi Hữu Phiệt quay sang Mười Trí. Hắn đề nghị với hai anh Quới và Hoài:
        - Nếu anh Bảy và anh Tám đồng ý, ta bắt liên lạc ngay với Chi đội 4 của anh Mười Trí.
        Tháng 5-1946, bộ đội An Điền lên ấp 4 Vĩnh Lộc. Bị Chi đội 12 của Tô Ký theo dõi, Bùi Hữu Phiệt than với Quới và Hoài: “Tụi nó muốn giết tôi”. Quới cười bảo “Anh làm gì sai trái mà người ta giết?”. Anh Quới cương quyết tới ấp 4 Vĩnh Lộc đóng quân. Chi đội 12 chận lại tại Bà Quẹo, nhưng Quới tranh thủ Mười Trí để tiến về ấp 4. Mười Trí đồng ý và đưa quân lên ấp 8 đóng yểm trợ. Sáng hôm sau Tây vô, bộ đội An Điền rút xuống bưng. Chưa quen địa hình, anh em hoàn toàn bị động. Trận này bộ đội An Điền bị thiệt hại nặng: chết gần 70 đội viên. Thế là bộ đội An Điền với khoảng 300 kể như tan rã. Chuyện đáng đánh dấu hỏi là cả văn phòng của Bùi Hữu Phiệt biến mất. Tây rút đồng bào trong vùng giúp bộ đội tìm xác và mai táng anh em tử trận. Ngày ấy, về sau là ngày giỗ hội trong vùng Vĩnh Lộc. Không nhớ rõ ngày, chỉ biết là vào cuối tháng 5-1946. Trong số tử vong có một lính Nhật theo ta. Anh này tên Nô và là xạ thủ đại liên.
        Hoạ vô đơn chí, sau trận này, Tám Hoài về Thủ Đức thăm nhà cha và vợ, tới cầu Bến Phân thì bị bắn chết. Về sau Quới mới biết Bùi Hữu Phiệt và Nguyễn Thành Long âm mưu thủ tiêu hai anh Hoài và Quới để cướp bộ đội An Điền, liên kết với bộ đội Cao Đài của Nguyễn Thành Long.
        Sau biến cố ấp 4 Vĩnh Lộc, Bùi Hữu Phiệt và Nguyễn Thành Long tham gia Mặt trận Liên hiệp Quốc gia chống Việt Minh. Bảy Quới tự phê bình nghiêm khắc đã “nuôi ong tay áo”, chứa chấp tên phản động Bùi Hữu Phiệt. Anh thấy các tay giang hồ Năm Xệ và Năm Ký đòi giết Phiệt là có lý.
        Phiệt và Long đưa bộ đội An Điền còn sống sót về tá túc với Chi đội 4 của Mười Trí. Vốn tánh mạnh thường quân, Mười Trí sẵn sàng giúp đỡ những người nhờ mình, vô tình phạm phải khuyết điểm của Bảy Quới là “nuôi ong tay áo”.
        Tháng 10-1946, Bảy Quai bị cảm thương hàn sau trận Rau Râm. Anh được chở về Bình Hoà điều trị, khi mạnh rồi nhận quyết định của Nguyễn Bình, lập Chi đội 25 với bộ đội Sài Gòn - Chợ Lớn của Tư Tỵ và hai trung đội Cao Đài của Nguyễn Thành Long.
        Cũng nói qua về Tự Tỵ. Đây là tay giang hổ xuất thân từ Cầu Bót ở Bình Đông. Mặt chữ điền, miệng giống mỏ chim sẻ, lực lượng chi có một tiểu đội nhường lại được đưa lên làm chỉ huy trưởng, còn Bảy Quới chỉ làm phó. Chánh trị viên là anh Nguyễn Văn Tốt, công nhân Ba Son.
        Chi đội 25 là thối thân của bộ đội An Điền mà linh hồn là Bảy Quới. Sau khi thành lập, Chi đội kéo về Giồng Dinh để huấn luyện. Tại đây Chi đội có tham mưu trưởng là Bảy Cao vốn là thủ lãnh Thanh niên ái quốc Đoàn cùng với Nguyễn Văn Tư. Vừa củng cố đội nghũ xong, Chi đội 25 được thử lửa ngay.
        Ngày 20-3-1947 Tây nhảy dù xuống Giồng Dinh. Đây là trận nhảy dù đầu tiên trên Đồng Tháp Mười. Lúc đó Chi đội 25 đóng ở Giồng Nhỏ, cách Giồng Dinh năm cây số Tư Tỵ được mời đi đón bộ đội Hải Ngoại ngày 19-3. Sáng sớm hôm sau Tây nhảy dù trắng đồng. Phía Bình Hoà có tàu lồng cu lên khoá mặt sông.
        Tham mưu trưởng quận khu 7 Tạ Nhứt Tứ ra lịnh Chi đội 25 đánh giải vây Chi đội 6 của Hai Dung đang mở đường máu. Bộ tham mưu bàn kế hoạch, xạ thủ Nhật góp ý: hành quân trên đồng trống, máy bay bắn chết. Nên bám trụ chiến đấu. Thế nào chiều bọn Tây cũng rút qua ba xóm giữa đồng. Ta liền phục kích ở Giồng Dinh, Giồng Nhỏ và Hiệp Hoà.
        Một giờ trưa, Tây từ Giồng Dinh kéo qua Hiệp Hoà. Chúng đụng bộ đội Hải ngoại, liên quân với Chi đội 25. Pháo dưới tàu lồng cu giã ác liệt dọn đường cho bộ binh rút. Ta mằm êm nhìn xe lội nước băng đồng. Lúc đó là mùa khô, từ xa thấy xe lội nước “nhảy cà còng” lên lau sậy, đựng năn, như bầy trâu động cỡn. Đến hai giờ ba mươi, ba xe lội nước đi đầu tới gần nơi ta phục kích. Nguyễn Bình và Tạ Nhứt Tứ leo lên ngọn cây quan sát. Lần đầu tiên ta dùng súng Piat của Hải ngoại đem về từ Thái Lan. Ngay những phát đầu, ba chiếc xe lội nước đã cháy tức khắc. Piat là chữ tắt của Protectile anti-tank - tức súng chống tăng. Loại đạn này có sức nóng chảy thép, đã đánh tan binh chủng thiết giáp cực kỳ lợi hại của tướng Đức Rommel, tư lệnh quân đoàn Afrika Korps ở Châu Phi. Địch hoảng kinh co cụm lại, cho pháo dưới tàu giã vào nơi ta phục kích, nhưng ta vẫn nằm im trong công sự. Chúng phản công ba lần đều thất bại. Anh xạ thủ đại liên Nhật bắn phát một hay từng loạt thật chính xác khiến bọn Dù thiện chiến cũng phải nằm lại Giồng Dinh. Còn bọn đầm cứu thương thì chạy bò càng tốc bùng-rền trông thật buồn cười. Đến sáu giờ chiều ta rút lên kinh Lý Văn Mạnh. Vừa tắm rửa xong thì được thư khen của Khu trưởng Nguyễn Bình kèm theo 10.000 và một cặp heo để khao binh sĩ Chi đội 25 đã chống trận càn một trận tuyệt vời. Bộ đội Hải ngoại cũng được khu trưởng khen thưởng như vậy. Cuộc đời binh nghiệp Bảy Quới không suôn sẻ. Tư Tỵ tìm mọi cách để đưa tay trí thức này ra khỏi Chi đội 25 để độc chiếm Chi đội 25 mặc dầu thực lực ban đầu của hắn chỉ có một tiểu đội. Một hôm Trưởng phòng quân Pháp khu 7 Lê Đình Chi mời Bảy Quới qua nhà ăn cơm. Trong bữa ăn, ông Chi cho biết Tư Tỵ gởi đơn tố cáo Bảy Quới theo Cao Đài. Biết Bảy Quới là sinh viên Luật Hà Nội, ông Chi nói tiếp:
        - Trong nội bộ chú lộn xộn, nó định làm hại chú. Chú ở đây với tôi.
        Vậy là Bảy Quới bị giữ tại Phòng Quân pháp. Đồng thời bộ đội An Điền bị đưa hết vô Hội đồng Sầm, nơi giam giữ tội nhân cũng như những người bị tình nghi. Năm Xê chịu không nổi nạn bị bắt một cách vô cớ, đánh cắp một chiếc ghe chạy trốn, không may bị bắt và bị giết.
        Bảy Quới bị “kẹt” tại Phòng Quân pháp trên một năm, từ tháng 7-1947 tới tháng 8-1948. Trong cái rủi có cái may. Lê Đình Chi cùng học Luật ở Hà Nội với Quới và Dương Minh Châu. Hồi ấy Châu và Quới cùng ở chung một gác trọ. Nhờ vậy mà ông Chi đối xử với Quới rất đẹp, coi như bạn chứ không như kẻ bị quản thúc. Trong một năm này, Quới đọc lại bộ Luật “Code pénal modfié” (luật hình sự sửa đổi).
        Vài tháng sau Nguyễn Bình hỏi ông Chi: “Anh Quới có vấn đề gì không?”. Ông Chi đáp:”Quới chỉ mê đánh giặc. Mấy tháng nay ở với tôi, ngày đêm nghiền ngẫm sách Luật với anh Tiến, chánh trị viên Chi đội 16”. Nguyễn Bình gật: “Vậy Phòng Quân pháp sẽ có thêm lai cán bộ có khả năng tăng cường, tiếp tay với anh”. Ông Chi cười nói: “Đọc sách luật chỉ là “để giết thời giờ”. Theo tôi biết thì Quới chỉ mong được cho tiếp tục đánh giặc”.
        Nhờ ông Chi mà sau vài tháng bị quản chế, bộ đội An Điền được thả ra. Trong khi Bảy Quới còn kẹt ở phòng quân pháp, Nguyễn Bình chỉ định Thiết Sơn thay Quới chỉ huy chi đội 25 với cương vị chính trị viên...
        Chú thích:
        (1) Receveur: Công chức trung cấp ngành giao thông công chánh thời Pháp.
        (2) cua: khúc quanh

Chương 39

Mượn danh Mười Trí giết Nguyễn Bình
Bọn Phiệt, Anh lộ mặt lưu manh

































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Chi đội 4 đóng trên bờ sông Vàm Cỏ giống như một tụ nghĩa đường của một Mạnh Thường Quân.
        Mười Trí là tay giang hồ theo lối xử thế “tứ hải vi gia”. Ông luôn luôn chiêu hiền đãi sĩ. Khách tới nhà không gà cũng vịt. Bà Mười cũng là tay mến khách.
        Dưới trướng Mười Trí có “giáo chủ“ Huỳnh Phú Sổ đang bị truy nã vì âm mưu chống lại Việt Minh. Sổ muốn nắm Chi đội 4 để mặc cả với Việt Minh nhưng Mười Trí không dễ mua mặc dầu Sổ tung đủ “bửu bối”.
        Bộ chỉ huy Đệ tam sư đoàn cũng tấp vô xin tá túc. Đám này gồm Nguyễn Hoà Hiệp, hai anh em Lai Văn Sang, Lai Hữu Tài, Lý Hồng Chương, Ngô Đình Đẩu Các tay này là nhân viên Phòng Nhì. Lúc mới cướp chánh quyền thì vỗ ngực xưng tên “cách mạng”, yêu nước hơn ai hết. Lúc đó Sài Gòn có bốn sư đoàn. Đệ nhứt do Kiều Công Cung, Trần Tử Oai, Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quan chỉ huy. Đệ nhị do Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt cầm đầu. Đệ tam do Nguyễn Hoà Hiệp năm. Đệ tứ của Lý Huê Vinh...
        Nguyễn Bình không tín nhiệm các sư đoàn nói trên vì khi tiếng súng xâm lăng vừa nổ thì các tay “cách mạng sa-lông” thi nhau chạy như chuột. Kiều Công Cung, Trần Tử Oai đầu hàng trước nhất. Trần Tử Oai là cháu nội Trần Tử Ca, tên quận trưởng Hóc Môn đã bị Quản Hớn chặt đầu trong cuộc khởi nghĩa Mười tám thôn vườn trầu nổi tiếng với tên Thập bát phù viên. Tên Oai chạy về Xóm Củi đầu Tây. Lúc đó Oai chẳng oai tí nào. Trong khi Cộng hoà vệ binh do hai anh em Giàu và Quán chỉ huy đánh Tây nhiều trận ra trò thì Đệ nhị sư đoàn chỉ lo rút chạy. Vũ Tam Anh vốn con địa chủ, tên cúng cơm là Nguyễn Ngọc Nhẫn không đánh đấm gì. Vì tên có ba chữ N đứng đầu nên tự đặt là Tam Anh, thêm họ Vũ cho ra vẻ con nhà võ tướng. Chọn họ Vũ nhưng gốc là dân Mỹ Tho. Vũ Tam Anh cấu kết cùng Bùi Hữu Phiệt, Sáu Section, (tức Nguyễn Văn Sạch), lính mã tà trong lội section de lutte (trung đội dẹp loạn), Nguyễn Thành Long và Trần Xuân Nam để thao túng.
        Còn Đệ tam sư đoàn thì Nguyễn Hoà Hiệp là con cường hào Lái Thiêu rớt đíp-lôm, làm thư ký Bưu điện Lái Thiêu cưới con địa chủ ở Bình Hoà, làm thầu khoán cho Nhật.
        Tư lệnh Đệ tứ sư đoàn thì Lý Huê Vinh là chệt lai, đậu đíp-lôm của Pháp nhường lại làm gián điệp cho Nhật. Tây tới là Vinh “nhảy nai”.
        Nắm được tình hình này, Nguyễn Bình cương quyết giải giới các sư đoàn đã trở thành quân phiệt.
        Bắt đầu từ Đệ tam sư đoàn. Tây đánh lấn ra ngoại vi Sài Gòn Chợ Lớn, Nguyễn Hoà Hiệp dẫn quân chạy xuống Cao Lãnh. Tại đây chúng tha hồ vơ vét, bắt bớ các trí thức tản cư theo kháng chiến. Chừng tàu Tây thọc sâu vô sông rạch, uy hiếp các thị trấn nằm dọc hai con sông Tiền và Hậu, Nguyễn Hoà Hiệp lại kéo quân trở lên miền Đông. Xuồng ghe chở quân và chiến lợi phẩm cướp đoạt của dân như máy may, máy hát kéo dài mấy cây số. Gặp những nơi. đường nước khô cạn, chúng bắt dân kéo, để lại những luồng lạch mà dân gọi là đường nước Đệ Tam sư đoàn.
        Nguyễn Bình ra lệnh cho Huỳnh Văn Một, Chi đội 15 tước súng đám này. Do sáng kiến tổ chức đưa ghe thuyền rước binh lính Đệ Tam sư đoàn qua sông Vàm Cỏ, ông Một phân tán chúng từ tiểu đội, đưa về nhà dân cho ăn uống, đồng thời cho du kích giả làm dân hiếu kỳ đi xem tổng bộ đội. Hay tin “đại quân” đã bị Huỳnh Văn Một tước hết khí giới, bộ chỉ huy hốt hoảng bỏ chạy. Chúng tấp vô Chi đội 4 của Mười Trí xin tá túc để rồi “hồi sau phân giải”. Tại đây Nguyễn Hoà Hiệp vui mừng gặp hai tay tổ của Đệ Nhị sư đoàn là Vũ Tam Anh và Bùi Hữu Phiệt.
        Nhưng hắn chỉ ở lại Chi đội 4 có một ngày rồi lật đật chạy ra thành đầu hàng Tây tại ấp Vĩnh Lộc. Thế là công lao cướp bóc suốt mấy tháng trời của chúng bỗng chốc trắng tay: Chiến lợi phẩm Huỳnh Văn Một tịch thu của Đệ Tam sư đoàn gốm có: 52 súng mút, 27 súng lục, 30 máy may, 15 máy hát...
        ***
        Trở lại đám Vũ Tam Anh, Bùi Thế Phiệt. Vũ Tam Anh cao to để râu mép, thiên hạ gọi là ông Phán râu kẽm. Ngoài tên Nhẫn hắn còn có tên Niên. Tên nào cứng bắt đầu từ chữ N. Nhờ nắm được Sáu Section, vũ Tam Anh lui tới “tụ nghĩa đường” của Mười Trí.
        Anh và Phiệt mưu tính ám sát Nguyễn Bình, bèn bàn với Sáu Section: kiếm được chữ ký của “anh Mười” là kể như đạt kết quả 75%. Có chữ ký rồi, Sáu Section tập ký cả buổi để sau cùng ký vô một thiệp mời: “Mười Trí kính mời anh Ba Bình dùng bữa cơm gia đình vào chiều mai. Rất mong anh Ba tới.
        Ký tên Mười Trí”.
        ***
        Nhận được thư Mười Trí, Nguyễn Bình sửa soạn đi một mình. Nơi anh Ba đóng không xa mấy tổng hành dinh Chi đội 4. Thấy anh Ba nai nịt trước khi xuống tam bản, đại đội trưởng Hứa là Văn Yến hỏi:
        - Anh Ba đi một mình à?
        - Người ta mời qua ăn cơm gia đình, đi nhiều người sao được?
        - Nhưng bên anh Mười như cái chợ, anh Ba đi một mình không tiện. Để tôi đem vài đứa theo...
        Anh Ba khoát tay:
        - Khỏi. Đây qua đó cũng gần mà. Có gì thì tôi đã có cái này!
        Anh vỗ khẩu Wicker bên hông. Nói xong anh bước xuống tam bản chèo đi.
        Đúng lúc đó Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt cùng Sáu Section bí mật tới một miếu hoang gần Lò Đường dọc bờ sông. Tại đây chúng đã bố trí một thiện xạ thủ súng chờ con mồi tới nạp mạng. Vũ Tam Anh nôn nóng, chốc chốc lại nhìn xuống phía Nguyễn Bình sẽ tới. Bùi Hữu Phiệt nói:
        - Làm thịt được hắn thì bọn mình mới dễ thở. Ai hắn cũng nghi không triệt để cách mạng như hắn...
        Vũ Tam Anh cười:
        - Mà hắn nghi đúng. Bọn mình làm sao triệt để cách mạng được! Đâ quen với nếp sống đế vương, sáng cà phê hủ tiếu, bánh bao xíu mại, chiều tôm khô củ kiệu la ve. Vô đây thiếu mấy thứ đó, buồn chết.
        Sáu Section xía vô:
        - Bởi vậy anh em mới gọi anh là ông Phán râu kẽm - Hít một hơi khói thuốc Cotab, nói tiếp - Tướng độc nhãn rất đa nghi, nhưng có một người ông ta không nghi, mà người này mới là đáng ngại hơn hết. Hà hà...
        - Ai vậy? Phiệt và Anh cùng hỏi.
        Sáu hất hàm về phía văn phòng Chi đội 4:
        - Mười Trí chớ ai!
        - Anh nghĩ về Mười Trí như thế nào mà nói là đáng nghi? Mà nghi cái gì?
        - Nghi về điểm có triệt để cách mạng hay không.
        Theo tôi dân giang hồ đi theo kháng chiến một lúc nào đó thôi. Họ là hảo hán Lương Sơn, không ưa triều đình nên rút ra rừng lập giang san riêng. Nếu cách mạng kìm chế họ quá thì ngày nào đó họ sẽ bung ra thôi.
        Bùi Hữu Phiệt gật lia:
        - Anh Sáu nói rất đúng. Tôi thấy Mười Trí khí phách lắm. Đi theo kháng chiến mà ông ta không bỏ thói quen của một sơn trại chủ: vận xà-rông, sáng trà, trưa rượu, tối lai rai... nghĩ sao nói vậy chớ không ý tứ như mấy cha cộng sản.
        Vũ Tam Anh đắc ý:
        - Cũng nhờ Nguyễn Bình không nghi Mười Trí nên mình mới dùng được độc kế hôm nay. Một mũi tên, hai con nhạn. Cao Đăng Chiếm sẽ thấy lá thư mời ăn cơm gia đình của Mười Trí trong túi áo xá xẩu của Nguyễn Bình... Còn bằng chứng nào hùng hồn hơn? Nghĩ mà phục bọn mình sát đất!
        Bộ ba đang hí hửng bỗng xạ thủ đưa tay làm hiệu. Tất cả đều ngó xuống mé sông. Trên con sông vắng, buổi chiều tà, một bóng thuyền lướt êm. Tam bản chỉ có một người chèo. Sáu Section khẽ nói:
        - Nguyễn Bình đi có một mình. Dễ xơi quá!
        Xạ thủ nâng súng lên rà họng súng theo tam bản, đầu ruồi nhắm ngay ngực người chèo. Tất cả hồi hộp chờ đợi. Chiếc tam bản vô tình cứ lướt chầm chậm.
        Khi nó tới thật gần, xạ thủ sửa soạn bóp cò thì Sáu Section sốt ruột kêu lên: “Bắn đi?” Tiếng kêu bất ngờ đó làm xạ thủ giật mình, lúc bóp cò, nòng súng hơi nhích một chút. Do vậy mà đạn không ghim ngay vào ngực mà bay qua bả vai. Nguyễn Bình ngã xấp xuống ván thuyền ngay loạt súng đầu. Đạn trúng bả vai và cánh tay mặt. Anh Ba dùng tay trái móc khẩu wicker đưa lên miệng đẩy chót an toàn bắn ngay vào đám người lô nhô trong miếu hoang. Xạ thủ điều chỉnh mục tiêu nổ tiếp loạt thứ hai. Sanh mạng Nguyễn Bình như chỉ mành treo chuông. Cuộc đấu súng diễn ra vô cùng thất lợi cho ông: xạ thủ chiếm ưu thế tuyệt đối, có công sự phòng ngự và nắm chủ động. Bất ngờ một yếu tố đột xuất làm thay đổi tình hình: tiếng súng nổ vang từ trên sông. Nguyễn Bình đã có đội bảo vệ theo sau. Hoàng Thọ nghe súng nổ lập tức chạy tới. Xạ thủ và bộ ba sát nhân co giò chạy. Tam bản của Hứa Văn Yến cùng ba binh sĩ ào tới đúng lúc. Nguyễn Bình bị thương nhiều nơi, máu thấm đỏ bộ đồ xá xẩu. Hai Yến cấp tốc đưa anh về cho y sĩ khám và băng bó các vết thương. Anh Ba bắt tay Hai Yến, xúc động:
        - Cám ơn anh. Không có anh thì tôi nguy rồi. Thật không ngờ chuyện lại như thế...
        Hứa Văn Yến nói:
        - Tôi đã nói mà anh Ba không nghe. Tin người là đức tánh tốt của vị tướng, nhưng tin mà cũng phải ngờ...
        Ba Bình gật:
        - Đây là bài học đáng giá. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu được vì sao lại có chuyện này. Phải gặp Mười Trí mới được.
        Sáng hôm sau, Nguyễn Bình qua văn phòng Chi đội 4. Mười Trí vui mừng ra đón. Thấy khu trưởng băng bó nhiều chỗ, lấy làm ngạc nhiên, chú Mười hỏi:
        - Chuyện gì vậy anh Ba?
        - Anh Mười không biết thật sao? Súng nổ ở gần lò đường, sát một bên mà...
        Mười Trí gật:
        - Súng nổ thì tôi có nghe. Tụi nhỏ báo cáo có mấy thám báo địch mò vô bị mình bắn chạy trở ra. Tôi đâu có ngờ anh Ba bị thương trong vụ đó.
        Ba Bình cười:
        - Chỉ huy như anh Mười là khơi lắm! Chuyện không đơn giản như anh nghĩ đâu. Anh xem đây thì rõ!
        Ba Bình trao lá thư, Mười Trí càng ngẩn ngơ. Vài giây sau, ông chợt hiểu, nét mặt bình thản biến thành cơn thịnh nộ:
        - Ai? Thằng nào mạo chữ ký của tôi mời anh Ba qua đây để ám sát dọc đường? Nó phải chết? Ba Chiêu! Mầy đâu?
        Ba Chiêu là đại đội trưởng kiêm thư ký riêng của Mười Trí. Anh là dân Bà Quẹo, theo bộ đội Mười Trí ngay từ đầu.
        - Có đây, chú Mười?
        Mấy cho tập hợp tất cả ngay bây giờ. Điểm danh coi vắng mặt thằng nào?
        Ba Chiêu tập hợp ngay, điểm danh thì thấy thiếu ba người: Sáu Section, Bùi Hữu Phiệt và Vũ Tam Anh. Sáu Section cũng là đại đội trưởng, theo anh Mười ngay từ đầu. Còn hai tay Phiệt và Anh là “tân khách” dưới trướng Mạnh thường quân Huỳnh tướng quân.
        Nghe Ba Chiêu báo cáo, Mười Trí nói với Nguyễn Bình:
        - Vậy là quá rõ rồi! Ba thằng này bấy lâu ăn nhậu với nhau, tính toán cái gì đó. Tôi không ngờ chúng “ăn cơm tui mà hại tao”. Tôi thành thật xin tôi anh Ba. Vụ này tôi hoàn toàn không biết gì. Nếu biết thì tôi đã bẻ họng vặn cổ tụi nó rồi!
        Nguyễn Bình cười thoải mái:
        - Trọn đêm rồi tôi cứ thắc mắc: không lẽ anh Mười lại hại mình? Bây giờ mới rõ. Sáu Section thì tôi không chú ý. Còn hai tay Bùi Hữu Phiệt với Vũ Tam Anh thì tôi đã nghi ngờ từ lâu. Bùi Hữu Phiệt dựa vô bộ đội An Điền của Bảy Quới, rồi liên kết với bộ đội Cao Đài của Nguyễn Thành Long, đưa hết về ấp 4 Vĩnh Lộc cho Tây tiêu diệt trong một trận càn. Sau đó chúng âm mưu sát hại Tám Hoài tại cầu Bến Phân... Còn Vũ Tam Anh thì nắm Đệ nhị sư đoàn để làm lãnh chúa. Hắn cấu kết với Bùi Hữu Phiệt và Sáu Section ám hại tôi vì tôi biết rõ căn cội của chúng.
        Mười Trí hối hận, làm gà nấu cháo đậu xanh đãi anh Ba. Chú Mười đem chai rượu thuốc ra rót hai ly.
        - Xin mừng anh Ba tai qua nạn khỏi. Tôi biết anh Ba không uống rượu, nhưng mà “vô tửu bất thành lễ” Phải có rượu trong những tiệc mừng. Anh Ba chỉ “nhúng môi” cũng được.
        Hai bên cụng ly. Dù không uống rượu, anh Ba cũng nốc cạn một chung nhỏ - loại chung Duralex bán tràn các chợ vườn.
        - Tôi không uống rượu, nhưng nay phá lệ để đánh dấu ngày kết bạn tri âm với anh Mười...
        Mười Trí châm thêm chung nữa:
        - “Anh hùng tri ngộ tam bôi thiểu”, kết bạn tri âm uống ba chấm rượu là yếu lắm. Vô tiếp đi anh Ba. Hôm nay là một ngày vui đối với tôi: được kết bạn tri âm với trung tướng Nguyễn Bình, đặc phái viên Trung ương của Bộ Tổng.
        - Đây là chung thứ hai. Trước khi uống, tôi có một lời khuyên anh Mười. Có được không?
        Mười Trí hạ chung rượu giữa chừng, cười lớn:
        - Được quá chớ anh Ba.
        - Anh Mười đúng là một Mạnh Thường Quân, dưới trướng luôn có cả chục tân khách. Tôi thấy đó là chuyện thường tình của một tay giang hồ mã thượng. Tuy nhiên trong đánh tân khách có người này người khác, không ai giống ai. Một Mạnh Thường Quân tài đức song toàn phải biết phân biệt, người tốt với kẻ xấu...
        Mười Trí nhăn mặt:
        - Vụ vừa rồi tôi đã tự mắng đã nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Tôi quyết sẽ không tha ba tên khốn kiếp đó, nhất là thằng Sáu Section. Nó đã theo tôi ngay từ đầu mà bây giờ nó chạy theo hai cha chánh khách “si-kên” phản lại tôi... Lời khuyên của anh Ba, tôi sẽ nhớ đời. Bây giờ mời anh Ba một chung thứ ba cho đủ tam bôi...
        Nguyễn Bình đưa tay lên cản:
        - Cho tôi thiếu chung thứ ba. Tửu lượng tôi không kém. Nhưng vì con mắt yếu. Hai chung là vừa. Thêm chung tía là quá sức. Mà cái gì quá là không hay. Bây giờ tôi còn phải về làm việc với chú Hoàng Thọ.
        Mười Trí cười:
        - Đã kết nghĩa anh em thì cho tôi khuyên anh Ba một câu để trả lễ: anh Ba chớ nuông chiều thằng đệ tử của anh. Coi chừng có ngày anh Ba mệt vì nó.
        Nguyễn Bình gật gù:
        - Anh Mười nói chí lý. Có điều này chắc anh Mười chưa biết: trong vụ mưu sát vừa rồi, Hoàng Thọ cũng đã xách lính chạy tới Lò Đường. Chính nhờ súng nổ cùng lúc trên bờ và dưới sông mà bọn sát nhân phải bỏ chạy. Hứa Văn Yên và Hoàng Thọ đã kịp thời cứu tôi

Chương 40

Chú bếp Tuồng nhảy theo bộ đội
Đi kháng chiến lặn lội khắp nơi


































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


        Người ta nói cách mạng là một cuộc đổi đời; Với chú bếp Tuồng, điều đó là sự thật. Ta vừa cướp chính quyền là anh Năm Tuồng vứt bỏ bộ đồ ka ki vàng mã-tà nhảy theo cách mạng. Đây không phải là một quyết định đột xuất mà là một quá trình suy gẫm nhiều năm. Xuất thân từ con nhà nghèo phải sớm đi làm để kiếm sống, lại gặp lúc Tây bắt lính đưa ra mặt trận đánh giặc Xiêm nên Năm Tuồng đành thi vô lính mã tà có cái tên là Brigade Mobile (Lữ đoàn cơ động) chuyên gác tù và đàn áp các cuộc nổi loạn chống Pháp. Anh được đưa lên căng Tà Lài gác tù chánh trị bị tập trung trên rừng. Tà Lài nằm dọc đường 20 Sài Gòn - Đà Lạt, cách Định Quán hai mươi cây số, ở giữa rừng. Đây là nơi mọi người, từ tù đến lính, đều sợ vì sơn lâm chướng khí, bịnh hoạn mà chứng phổ biển nhất là sốt rét rừng. Ngoài ra còn cọp beo, rắn rít. Nhưng trong cái rủi có cái may: anh Tuồng được tiếp xúc với các nhà tri thức cách mạng như Trần Văn Giàu, Kỹ sư Vằn, Nguyễn Công Trung, hoạ đồ Lý, nhà báo Lê Văn Thử... Nhờ học ké chánh trị mà Năm Tuồng biết về tình hình đất nước, biết vì sao anh em Cộng sản khởi nghĩa cướp chánh quyền ngày 23-11-1940 gọi là “Nam Kỳ khởi nghĩa”. Cho nên khi ta cướp chánh quyền tại Sài Gòn ngày 25-8-1945, Năm Tuồng lột xác mã tà để đầu quân vô Cộng hoà vệ binh. Lúc đó có nhiều sư đoàn, tại sao lại chọn Đệ nhất sư đoàn tức Cộng hoà vệ binh? Lý do dễ hiểu. Anh em mã tà đi theo các sĩ quan của mình mà đứng đầu là hai anh adjudant (gọi là ông ách) Trương Văn Giàu và Nguyễn Văn Quạn, ở trong đơn vị GCL (Garde Civile Locale) Chí Hoà. Công tác đầu tiên của anh Năm Tuồng là đưa một trung đội xuống miền Tây với đồng chí Nguyễn Văn Tây, uỷ viên trong Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ kiêm Thanh tra chánh trị miền Tây. Mục đích chuyến đi này là giải quyết vấn đề Hoà Hảo tham gia chánh quyền đồng thời tiếp đón anh em chính trị phạm được tàu Phú Quốc do thuyển trưởng Bảy Ngạnh lái cùng khoảng hai chục ghe của Vàm Láng, Bình Đại ra Côn Đảo rước anh em về đất liền tham gia chánh quyền.
        Nhờ có mặt tại Cần Thơ nên Năm Tuồng chứng kiến cuộc xuống đường cướp chánh quyền của Hoà Hảo xuất phát từ Cái Vồn dưới sự chỉ huy của Trần Văn Hoành là con của Trần Văn Soái tức Năm Lửa. Đó là ngày 9-9-1945. Trận đụng độ nẩy lửa diễn ra tại cầu Cái Khế. Các đội Bảo an Hoà Hảo võ trang gươm giáo ồ ạt từ bến bắc Cần Thơ tràn qua cầu. Bên kia cầu là anh em dân quân du kích dưới sự chỉ huy của Cò Hộ (Huỳnh Phan Hộ). Loạt đạn đầu ta bắn chỉ thiên. Hoà Hảo xông tới vì tin rằng súng bắn không chết tín đồ Hoà Hảo. Buộc lòng dân quân phải bắn đúng mục tiêu, những người đi đần gục ngã, tức thì mạnh ai nấy chạy, ném gươm giáo và nhảy xuống sông. Số võ khí vớt lên để đầy hai căn nhà. Vụ xô xát này mở màn cho mối bất hoà giữa Việt Minh và Hoà Hảo.
        Vài tuần sau đó, Sóc Trăng làm lễ tiếp đón chánh trị phạm Côn Đảo thật long trọng. Địa điểm làm lễ là trường Taberd của tỉnh. Thanh niên tiền phong quần soóc xanh, sơ mi trắng, đội nón bàng, vác gậy tầm vông diễn hành phất cờ Việt Minh, nền đỏ sao vàng. Thuyền trưởng Bảy Ngạnh vừa về tới Đại Ngãi thì được lịnh trở ra Côn Đảo rước chánh trị phạm một chuyến nữa. Phải chạy đua nước rút với Pháp vì có tin chúng sẽ đưa quân sang chiếm lại thuộc địa Đông Dương, mà Sài Gòn là thành phố chúng nhắm trước tiên. Hai chuyến rước tù Côn Đảo này rất quan trọng trong lịch sử kháng chiến Nam Bộ. Các đồng chí lãnh đạo Nam Bộ phần lớn đều từ Côn Đảo về đất liền trong hai chuyến tàu này như Bác Tôn Đức Thắng, các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Công Trung, Phạm Hữu Lầu, Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Tuệ, Võ Quang Anh.
        Hay tin Tây sắp đánh Sài Gòn, đơn vị Năm Tuồng cấp tốc trở về Sài Gòn bằng ca nô. Tất cả có 50 Cộng hoà vệ binh mặc quân phục cũ, chỉ có ca-lô(1) là mới.
        Đó là ngày 20-9-1945. Ca-nô vừa tới Tân An thì được tin Sài Gòn đã tản cư và quân ta đang chân đánh Tây ở Phú Lâm. Trương Văn Giàu ra lịnh đơn vị Năm Tuồng qua Gò Công đánh tàu Tây tại Cầu Nổi và tàu Nhật tại Chợ Gạo. Tại Cầu Nổi, lần đầu tiên Năm Tuồng được thấy Soái hạm Richelieu của Pháp. Tàu lớn quá thành ra con sông Bao Ngược có vẻ như nhỏ lại. Mấy cây súng Mút cổ lổ sĩ của ta chỉ gãi ngứa nó thôi.
        Trận đánh bót Chợ Gạo mới có chuyện đang nói: Ông Dương Khuy, bí thư Mỹ Tho đích thân gánh lựu đạn dẫn đường anh em bộ đội. Tổng cộng dân quân du kích tham gia trận này khoảng 160 người, võ trang lựu đạn ta chế, vỏ tôn có bình dầu, ném nhiều trái mới nổ một trái...
        Sau trận đánh tàu Richelieu ở Cầu Nổi, anh em binh sĩ có hơi mất tinh thần, “Tây mạnh quá, mình đánh sao xuể, bỏ về nhà làm ăn”: Nhưng Năm Tuồng không dễ bỏ cuộc, nói:
        - Mất Gò Công còn Bến Tre, mất Bến Tre còn miền Tây. Mất Nam Bộ còn miền Bắc. Tự động bỏ về là đào ngũ. Phải chờ anh Trương Văn Giàu.
        Để củng cố thực lực, ta lập ban quân sự liên tỉnh Mỹ Tho- Gò Công- Bến Tre với ba chủ tịch: Tiếp (Mỹ Tho) Côn (Gò Công) và Cái (Bến Tre). Công việc đầu tiên là in tiền kháng chiến để nuôi quân. Tiền lầy gọi là tín phiếu Đổ Chiểu in bằng nghệ. Mỗi người được phát 20 đồng để ăn Tết. Lúc đó tỏ hủ tiếu là năm cắc.
        Tết đầu tiên của nước Việt Nam độc lập có chuyện khó quên là mùng 7 Tết Tây đánh tỉnh Bến Tre. Ta rút ra Chân Bình vào xế chiều. Sáng mùng 8, Tây đánh mạnh. Cộng hoà vệ binh liên quân cùng cánh Bình Xuyên của anh Ba Dương. Hai bên chia lương thực cho nhau ăn để chống giặc. Sáng mùng 9 máy bay lên quần bắn vùng Cổ Cò là nơi anh Ba Dương đóng quân. Anh Ba không xuống hầm mà “xây cây rơm”. không may bị trúng đạn tử thương. Tin này được hai anh Sáu Đối và Từ Văn Ri giữ bí mạt vì sợ anh em mất tinh thần. Sáu Đối đề nghị anh Trương Văn Giàu giúp đưa bộ đội Bình Xuyên về Rừng Sác. Anh Giàu đồng ý và uỷ quyền anh Quạn chỉ huy đơn vị Cộng hoà vệ binh hộ tống Bình Xuyên về miền Đông. Tính đi đường biển, có tin Cần Giờ bị Tây chiếm, đổi kế hoạch đi đường bộ. Trên đường đi, đụng địch ở Cửa Đại, đánh cả ngày, dân nấu cơm gánh ra mặt trận cho lính ăn. Mấy ngày đi ròng rã mới về tới Phước An. Trong chuyến đi này, Năm Tuồng gặp được các chỉ huy Bình Xuyên như Hai Vĩnh, Bảy Viễn... Kỷ niệm khó quên là bộ đội anh đóng trong một làng có cái tên gọi “ớn xương sống”: làng Dao Phay. Làng này thuộc tổng Ăn thịt, sau kêu trại là An thịt. Cộng hoà vệ binh đóng trong miếu thờ Cá Đao. Trên bàn thờ có hai bộ xương cá đao. Đang thiếu thức ăn thời may gặp anh Năm Chàng, chỉ huy Chi đội 2 Bình Xuyên tổ chức đăng, bắt cá đãi bộ đội Khu Tám. Nước ngọt vùng này quý như vàng, phải đi xa mới có. Đi tìm nước ngọt cũng chết sống như ra trận.
        Đêm ấy, Năm Tuồng đi Tân Lập lấy nước, xuồng chìm vì gặp sóng tàu Tây. Trời tối, sông lớn, phải ôm xuồng chịu trận. Chừng mò vô xóm thì bị dân quân nghi là địch, lườm súng toan bắn.
        Tới Lý Nhơn, Năm Tuồng gặp Bùi Sĩ Hùng là sinh viên năm thứ ba ngành y và là chỉ huy mặt trận An Hoá Giao Hoà. Đau tháng 10-1946, anh Trương Văn Giàu tới Rừng Sác rước quân về Bến Tre. Vì quân số đông phải chia làm hai, một do anh Giàu, một do anh Quạn chỉ huy. Về đường biển, cánh quân anh Giàu đi trót lọt, cánh anh Quạn bị sóng gió đánh gãy cột buồm và bánh lái, tám ghe kẹt lại Cần Giờ. Năm Tuồng bị phỏng hai chân không đi được. Bùi Sĩ Hùng cõng Tuồng tránh vùng địch chiếm. Phải đi lòng vòng từ Cần Giờ qua Tiều, rồi từ Tiều trở lại Cần Giờ tìm đường về Bến Tre. Trong thời gian này, Cộng hoà vệ binh biết cái khát như thế nào. Phải trầm mình dưới nước để trị khát. Thời may gặp chủ tịch Bảy Trân tiếp tế gạo khử, đường và nhất là nước ngọt. Suốt ba tháng đi loanh quanh trong Rừng Sác, áo quần sờn rách. Nạn rận tha hồ hoành hành. Anh em áp dụng phương pháp diệt rận thật hữu hiệu, cởi áo cởi quần ra, dùng ve chai chà đi xát lại. Rốt cuộc rồi cũng tổ chức được thuyền ghe vượt biển về tới Bến Tre.
        Sau chuyến đi miền Đông này, Năm Tuồng được anh Trương Văn Giàu tín nhiệm. Khi được bổ nhiệm Khu phó khu Tám (Khu trưởng là Đào Văn Trường) Trương Văn Giàu chỉ định Năm Tuồng làm Trưởng ban quân nhu Chi đội 20 của Vĩnh Trà (Vĩnh Long- Trà Vinh). Đó là ngày 12-9-1946. Lúc đó Khu Tám có hai chi đội chủ lực 19 và 20. Chi đội 19 do các ông Đồng Văn Cống, Nguyễn Công Trung, Huỳnh Thế Phương chỉ huy. Chi đội 20 do các ông Ngô Văn Sung. Đặng Văn Thông chỉ huy. Cũng cần nhắc qua năm 1946 bộ chỉ huy ba khu 7, 8, 9 gồm có:
        Khu 7: Nguyễn Bình - Dương Văn Dương
        - Khu 8: Đào Văn Trường - Trương Văn Giàu
        - Khu 9: Vũ Đức - Nguyễn Ngọc Bích.
        Lần đầu tiên Nguyễn Bình được nghe báo cáo tường tận về chuyến viễn chinh của anh em Bình Xuyên dưới sự chỉ huy của Khu phó Dương Văn Dương là Sáu Đối mở đường máu về Rừng Sác. Nghe phân đội trưởng kiêm trưởng ban Quân nhu Chi đội 20 Năm Tuồng kể chuyện về bộ đội Cộng Hoà Vệ Binh, anh Ba Bình rất thú vị. Qua báo cáo của anh Năm Tuồng, anh Ba biết thêm về các anh chỉ huy Cộng hoà vệ binh, xưa đã từng là hạ sĩ quan trong quân đội Pháp như các anh Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quạn. Như hạt giống tốt gặp đúng mảnh đất mầu mỡ họ phát huy khả năng nhanh chóng và trở thành chỉ huy giỏi có uy tín trong ba quân. Anh Ba thấy việc đề bạt Trương văn Giàu tư lệnh phó khu 8 cũng như Dương Văn Dương tư lệnh phó Khu 7 là hợp lý hợp tình. Đồng thời anh Ba ký giấy bổ nhiệm Nguyễn Văn Tuồng là đại diện Chi đội 20 tại Phòng Quân Nhu Nam Bộ. Ký tên Nguyễn Bình, uỷ nhiệm quân sự Nam Bộ kiêm Khu trưởng Khu 7. (Tổng thư ký Ban Quân Nhu Nam Bộ là Trịnh Đình Hoa).
        Chú thích:
        (1) Ca-lô (calot): Mũ vải của lính

Chương 41

Chính bị bắt, Nguyễn Bình xúc động
Phai cứu Chính bất cứ giá nào



































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Tết Đinh Hợi (1947) chưa được mấy ngày thì tin dữ bay ra bưng: Chính Heo đã bị bắt. Tin này làm bàng hoàng mọi người. Ban công tác số 1 là niềm hãnh diện của kháng chiến. Đó là nắm đấm của nhãn dân yêu nước trong vùng tạm chiếm đã từng giáng những cú thôi sơn vào đầu não quân thù khiến cho chúng hoang mang. Nguyễn Đinh Chính là con chim đầu đàn của Ban công tác số 1.
        - Chính Heo bị bắt trong trường hợp nào? Anh Ba hỏi.
        Liên lạc thành báo cáo:
        - Để cho đồng bào nội thành ăn Tết trong tinh thần tự do độc lập, Ban công tác số 1 quyết định đánh lớn, làm nhiều vụ cho Tây và Việt gian “ê càng” bỏ thói ruồng bó làm tiền dân chúng. Phải gây nhiều tiếng nổ diệt ác trừ gian cho bà con lên tinh thần. Tết Đinh. Hợi phải vui hơn Tét Bính Tuất (46) là năm Tây đang thắng thế đẩy lui bộ đội và cơ quan Nanh Bộ chạy tới mũi Cà Mau. Rất tiếc là trong việc vận chuyển súng đạn vô nội thành, vài nơi bị lộ và đường giao liên bị nghẽn. Chính Heo vẫn cho các tổ nổ súng trừ gian. Đêm giao thừa các bót cảnh sát ở Cầu Kiệu (Phú Nhuận), cầu Mạc Mahon (cầu Công Lý), cầu Bông, cầu Thị Nghè đều bị anh em ném lựu đạn và rải truyền đơn. Một số chiến sĩ bị bắt và lựu đạn ta chế không nổ. Phải vô bưng xin thêm súng đạn và lựu đạn. Đích thân Chính Heo đi để báo cáo rõ về tác hại của nạn thiếu lựu đạn trong các trận đánh ở nội thành. Anh tin rằng anh Ba sẽ không tiếc một thứ gì với anh em công tác thành...
        Anh Ba gạt nhưng nói:
        - Đồng chí đi ngay vô đề, đừng dài dòng. Trong tình huống nào Chính Heo bị bắt?
        - Ra tới Bà Quẹo, anh Chính gặp em Hiệp bị thương ở đùi. Vết thương làm độc, phải mổ ngay. Hiệp mới mười bốn, là đội viên trẻ nhất của Ban công tác số 1 Hiệp và anh trai tên là Hoàng, mười sáu tuổi, là con của ông chủ tiệm đồ da ở đường D Espagne (Lê Thánh Tôn) chiến đấu rất hăng. Hoàng đã ném lựu đạn làm què thằng thực dân già Béziat, chủ tịch Hội đồng tư vấn Nam Kỳ. Chính Heo tạm hoãn chuyến ra bưng để đưa em Hiệp về nội thành chăm sóc vết thương đã nhiễm trùng. Gởi Hiệp tại một nhà cơ sở, anh Chính đi tìm Mạnh thường quân xin tiền mua thuốc cho Hiệp. Không may anh bị bắt tại Phú Nhuận. Ngày đó là mùng sáu Tết. Bắt được Chính Heo, Tây và Việt gian reo hò tở mở. Chúng đã từng treo giá cái đầu Chính Heo khá cao.
        Anh Ba cau mày:
        - Phải giải cứu cho Chinh Heo. Với bất cứ giá nào. Các đồng chí đã có kế hoạch gì?
        - Đã kiếm luật sư cho anh Chính. Ông Ngô Sách Vinh nhận cãi cho anh Chính không lấy thù lao...
        Anh Ba gật:
        - Nên liên lạc với nhóm Văn hoá Mác xít - Groupe culturel du Marxisme, báo Les Lendemains và các tổ chức tiến bộ trong thành. Phải gõ cửa tất cả những nơi ta có thể tranh thủ được...
        Một lúc sau anh Ba lại nói:
        - Đó là về mặt công khai hợp pháp. Nhưng quan trụng hơn hết là mặt bí mật làm sao tổ chức đường dây vượt ngục. Hãy nghiên cứu hệ thống ông cống thành phố. Có thể có đường dây chạy dưới khu vực Khám Lớn...
        Mắt liên lạc thành sáng rực lên:
        - Một ý hay. Vượt ngục theo ống cống. Nhưng làm sao có hoạ đồ hệ thống cống ngầm Sài Gòn?
        - Hãy liên lạc với Sở vệ sinh toà đô chính. Cống ngầm Sài Gòn không quy mô như bên Pháp, nếu các đồng chí có xem bọ phim Les misérables thì thấy Jean Valjean lội bì bõm trong ống cống giải thoát cho anh sinh viên, người yêu của Cosette. Cống Sài Gòn không lớn rộng như vậy, nhưng cũng có thể giúp chúng ta đột nhập nội thành. Các đồng chí cố gắng tìm hoạ đồ đem về đây, ta sẽ nghĩ ra kế hoạch...
        Thời gian thấm thoắt trôi, Chính Heo đã bị đưa ra toà kết án tử hình. Báo chí Sài Gòn đều có đăng.
        Vài hôm sau liên lạc đem báo thành vô khu. Anh Ba đọc hết tất cả các báo nói về vụ xử ngày 10-10-1947.
        Chánh án kêu tối đa: tử hình. Anh Ba lộ vẻ thất vọng vì không tìm ra cách giải thoát cho Chính Heo.
        Mấy tuần sau liên lạc thành đem ra bản sao một bức thư Chính Heo viết trong tù. Đây là bức thư gởi Cụ Hổ mà Chính Heo đã tự cắt tay lấy máu ra viết.
        Thư chỉ chép có một đoạn:
        Thưa Cha, Đến nay con sa vào tay địch, con nắm chắc cái chết trong thời kỳ chúng tra tấn con trong bót Catinat. Rồi chúng đưa con qua Khám Lớn. Con biết chúng sẽ két án tử hình, nên tìm mọi cách vượt ngục.
        Tổ chức rất khoa học nhưng không gặp thời cơ. Ra toà ngày 10-10-1947, con bị chúng tuyên án tử hình.
        Con chống án và trong phiên xử sau, con sẽ đọc một bản điều trần “Mémoire de défense” vạch mặt bọn xam lăng cướp nước mà vỗ ngực xưng văn minh đi khai hoá nước người...
        Ngày 19-5-1948 toà án binh Sài Gòn lại đem tử tội Nguyễn Đình Chính ra xử. Đây là ngày Chính Heo mong đợi. Anh đã chuẩn bị xong bản điều trần lên án bọn thực dân. Bản thảo của anh được anh em tù trí thức như sinh viên trường thuốc Hoàng Xuân Bình, nhà báo Vũ Tùng gọt dũa thêm. Lại được luật sư Ngô Sách Vĩnh chấp bút về ngôn ngữ luật pháp.
        Chính Heo đọc rất hùng hồn, bọn Tây hoàn toàn bất ngờ trước bản lĩnh của Nguyễn Đình Chính. Trước vành móng ngựa kẻ tử tội biến thành quan toà dõng dạc lên án cả một chế độ thực dân từ trên xuống dưới.
        Báo chí Sài Gòn chỉ loan tin tử tội đọc bản tự bào chữa trước toà, không dám nêu rõ các điểm lớn về nội dung.
        Đến khi tử tội bị đày ra Côn Đảo có vài tù nhân Khám Lớn được phóng thích nhảy ra khu. Họ cho biết nội dung bản điều trần của Nguyễn Đình Chính trước toà án binh Sài gòn: đây là một bản án chế độ thực dân. Vô đầu Chính Heo không nhìn nhận tính hợp pháp của phiên toà bởi vì năm 1945 Pháp đã nhục nhã đầu hàng quân đội Nhật. Chủ quyền của Pháp chấm dứt từ khi Bảo Đại thoái vị với lời tuyên bố lịch sử: “Trẫm thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị trị”. Thứ hai Chính Heo bác lời buộc tội làm mất tinh thần chiến đấu của quân đội và gây nguy hiểm cho quốc phòng. Điếu đó vô nghĩa. Thứ ba Chính Heo khẳng định nhưng gì tôi làm, tất cả nghiêng người yêu nước của bất cứ quốc gia nào cũng phải làm. Tôi đã hành động hết sức sáng suốt bình tĩnh. Và bây giờ trong móng vuốt của các ông, tôi sẽ cho các ông thấy tôi có đủ bản lĩnh đón lấy cái chết vinh quang cho Tổ quốc cũng như nhà thơ Corneille đã viết: “Mourir pour le pays est ùn si diglle soạt ét qưon brigllerait en foule une si belle mort”.
        Tất cả anh em trong khu đều hãnh diện trước hào khí của Nguyễn Đình Chính. Đúng là con cháu Trần Bình Trọng đã xem thường cái chết nhẹ như mảnh lông hồng. Lời thề “Thà làm quỷ nước Nam, không làm vương đất Bắc” của người xưa đã được con cháu lặp lại với lời lẽ khác nhưng tinh thần bất khuất vẫn như nhau.
        Tuy đau buồn, anh Ba Bình rất hãnh diện có một người em “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Nguyễn Đình Chính. Chính Heo đã làm vang danh Ban công tác Thành.

Chương 42

Tại Vườn Thơm, Minh Khai ra mắt
Majéstic đầy xác giặc Tây




































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Ban công tác số 1 là lá cờ đầu của lực lượng vũ trang Sài Gòn Chợ Lớn. Đơn vị này đã lập nhiều thành tích vẻ vang khiến thực dân ở Sài Gòn và cả Paris cũng hoang mang. Nhưng sự tổn thất của Ban công tác số 1 cũng to lớn. Lần lượt các chi huy tên tuổi như Nguyễn Ngọc Sớm, Trần Phong, Nguyễn Đình Chính bị bắt. Trần Phong bị đem đi thủ tiêu còn hai anh Sớm và Chính đều bị kết án tử hình đầy ra Côn Đảo chờ ngày hành quyết. Trung tướng Nguyễn Bình rất buồn về sự mất mát này. Bao kế hoạch giúp từ tù vượt ngục đều thất bại. Chỉ còn cách đánh lớn để trả thù cho các anh. Anh Ba đang nghĩ về chuyện đó thì trưởng Ban công tác số 10 vô khu báo cáo tình hình.
        Đó là anh Nguyễn Văn Nam, tự Danh Khôi. Khôi là người miền Bắc lưu lạc vào Nam làm nhiều nghề, nhưng nghề chính là nhân viên khách sạn.
        Anh đã bắt đầu với những công việc vỡ lòng như bồi bàn, phụ bếp. Nhờ đẹp trai, có vốn liếng tiếng Tây anh tiến lên từng bước và vài năm sau đã làm cho các nhà hàng khách sạn lớn ở Sài Gòn như Majéstic, Continental, Hôtel Des Nations, Saigon Palace và lên tận Đà Lạt quản lý Hôtel du Parc, qua Chùa Tháp làm cho Bungalow Kép rồi Grand hôtel d’ Angkor. Nhờ cuộc đời giang hồ này mà anh Khôi gặp được người bạn đời trên Đà Lạt. Năm 1945, Khôi tham gia Thanh niên tiền phong Hẻm Đội Có, Phú Nhuận, sau theo Chi đội 13 của Triệu Cải và Nguyễn Đình Thâu. Sau trận An Phú Đông, anh về Ban Quân Báo Khu 7. Sau sơ ước 6-3-1946, anh được anh Ba Bình phái về nội thành xây dựng cơ sở bí mật ở các vùng cầu chữ Y, Vĩnh Hội, Xóm Chiếu, Tân Thuận... Hoạt động được năm tháng thì bị bắt về Catinat, rồi Khám Lớn, căng Biên Hoà.
        Đầu tháng 2-1947, khi mãn tù, Khôi nhảy vô khu, lại được anh em Ba Bình phân công phụ trách Ban công tác số 10. Khôi có sáng kiến tổ chức vài tiểu đội nữ để loạt động dễ dàng hơn thanh niên. Anh Ba tán thành ngay và giao anh Khôi và Huỳnh Văn Khai (Hoàng Hồng Cúc) tuyển sinh, lấy trong số các học viên quân chính gốc Sài Gòn. Anh chọn cho các tiểu đội nữ tên Trung đội Minh Khai.
        Sau thời gian huấn luyện, các chị em sử dụng thông thạo các loại súng trường, súng ngắn, lựu đạn. Lễ ra mắt Trung đội Minh Khai được tổ chức trọng thể tại Vườn Thơm. Trung đội trưởng là chị Dư Thị Lắm (tức Nguyễn Thị Hạnh). Khí thế rất hăng các chị em tranh nhau mỗi khi nghe tin sắp có trận đánh. Phải bắt thăm cho công bằng. Một trong nhưng trận đánh có tiếng vang của trung đội là trận ném lựu đạn trong rạp chiếu bóng sang trọng nhất Sài gòn là rạp Majestic, chiếm liền hai căn số 15-17 đường Catinat (Đồng Khởi). Khán giả rạp này là khán giả chọn lọc, nhà giàu, trí thức, ít nhất cũng phải biết nói tiếng Pháp vì rạp chiếu toàn phim Pháp (hồi đó chưa có phụ đề Việt ngữ) phần đông là công chức và sĩ quan Pháp. Trinh sát Ban công tác số 10 được biết vào tôi thứ năm 10-6 năm ấy (1948) bọn sĩ quan Marine (Thuỷ quân) sẽ kéo nhau tới xem phim Adieu, Cherie, một phim tình ướt át. Thủ vai chính là cô đào Danielle Darrieux minh tinh màn bạc số 1 thời ấy. Lập tức ban chỉ huy quyết định đánh. Võ khí có sẵn là ba trái OF, loại lựu đạn của quân Anh dùng để tấn công. Đây là quà chiến lợi phẩm trận Mộc Hoá của trung đoàn phó Huỳnh Thế Phương (tên thật là Huỳnh Kim Cúc). Bốn nữ đội viên được chọn là Nguyễn Thị Kim Dung, Bùi Thị Huê, Hoàng Thị Thanh (tức Từ Thị Đào), Mạc Thị Lan (tức Huệ Nhỏ).
        Gọi Huệ Nhỏ vì trong Trung đội có chị Huệ lớn là chính trị viên của Trung đội Minh Khai. Bốn chị em được chọn rất hân hoan nô nức lập chiến công. Ai nay đều chọn áo quần thật đẹp - không có thì mượn của bạn - để công việc vô cửa được dễ dàng, không bị bọn gác cửa lục bóp đầm. Vào xế chiều ngày ấy, bốn chị em tập họp tại nhà của chị Minh, chủ tiệm may ở đường Mayer (Võ Thị Sáu) gần chợ Tân Định. Kim Dung và Huệ nhỏ đi chung một xích lô. Huệ nhỏ còn dẫn theo một cậu em nhỏ để bọn lính kín không chú ý Thanh và chị Huê đi một xe, cách nhau vài phút.
        Kim Dung và hai chị em Huệ nhỏ mua kẹo ở tiệm Chà kế bên rạp, vừa nhai kẹo vừa lững thững bước vô rạp ở cửa bên mặt. Đi ngang qua lính gác, Kim Dung đưa bóp cho chúng xét nhưng tay chị nắm chắc trái lựu đạn gói trong khăn tay đặt dưới đáy bóp, ở trên là mấy viên kẹo. Vài phút sau, hai chị em Thanh và Huê vô cửa bên trái như đã sắp đặt trước. Bốn người tìm chỗ ngồi thuận tiện để ném lựu đạn đúng tầm vào mấy hàng ghế hạng nhất của bọn sĩ quan Pháp ngồi. Hết phim thời sự, bắt đầu vô phim Adieu, Cherie. Trong lúc mọi người dán mắt vô màn bạc thì Kim Dung rút chốt lựu đạn ném trước tiên. Một tiếng nổ kinh hồn. Rồi tiếp theo là hai trái của hai chị Thanh và Huê. Lan tức Huệ nhỏ chỉ đi hướng dẫn chứ không lãnh lựu đạn. Sự kinh hoàng trong rạp không bút mực nào tả xiết, Kim Dung nhớ lời các anh dặn: lau tay trong mu soa tẩm dầu thơm để tay không còn mùi tanh của gang thép lựu đạn. Sau mấy phút hoang mang, bọn linh kéo cửa sắt lại, không cho ai ra. Nhưng Hoàng Thị Thanh đã nhanh chân ra trước. Còn kẹt lại ba chị em. Kim Dung nhanh trí đổi vé ngồi gần hàng ghế các sĩ quan Pháp. Nhờ bình tĩnh mà Kim Dung được cho ra về. Còn Huệ nhỏ thì bị miếng lựu đạn trúng bàn chân, không nặng lắm nhưng vờ la, làm ầm lên. Lính cũng cho hai chị em Huệ nhỏ về. Chỉ còn kẹt lại chị Bùi Thị Huê. Chị có hai điều thất lợi là lãng tai và không biết tiếng Pháp.
        Bố trí công tác này cho chị vì kẹt người, vào giờ chót mới giao cho chị. Do hai điều thất lợi trên mà Tây nghi chị Huê, đưa về bót Catinat tra khảo ngay. Chị Huê ráng chịu đòn hai ngày để cơ sở có thì giờ di tản.
        Sau đó chị chịu dẫn lính về tiệm may của chị Minh ở góc Garcerie - Mayer (Phạm Ngọc Thạch - Võ Thị Sáu). Chị Hoàng Thị Minh chủ quan vẫn ở nhà nên bị bắt. Hoàng Thị Thanh (tự Từ Thị Đào) chạy vô khu nên địch bắt, chị Nguyễn Thị Đào cũng là đội viên Minh Khai. Kim Dung bị bắt nguội một thời gian sau. Địch đưa tất cả ra toà án binh Sài gòn. Vì số thương vong quá lớn: 20 chết, 50 bị thương (trong số chết có hai đại tá và tên cò mật thám Arbert) địch kêu án một tử hình: chị Huê, một án 20 năm khổ sai: Chị Đào, một mười năm khổ sai: Kim Dung. Phiên xử thứ hai do ta đánh lớn, địch kêu án tối đa: cả ba đều lãnh án tử hình. (Lúc đó là tháng 2-1949). Báo chí Sài gòn phản ứng mạnh nêu rõ Kim Dung mới 16 tuổi. Về sau Tây giảm án còn 20 năm khổ sai.
        ***
        Tất cả diễn tiễn của phiên toà. Trung trướng Nguyễn Bình đều theo dõi qua báo chí Sài Gòn mà liên lạc thành đưa vô bằng trễ vài ngày. Anh Ba rất xúc động trước chí khí hiên ngang của các chị em trong cảnh biệt giam. Một bài thơ của một chị được đưa lọt ra ngoài:
        Tuy sa lưới nhưng hồn ta vẫn tiến
        Thân tù đày ta vẫn nguyện hy sinh
        Và vẫn mơ tươi đẹp buổi bình minh
        Ngày chiến thắng trở về cùng đất nước
        Anh Ba chi thị cho các cấp tuyên dương các chiến sĩ trong tù. Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến - hành chính Sài Gòn Chợ Lớn Tạ Nhựt Tứ gởi thủ khen ba chị Huê, Đào, Kim Dung. Phòng chính trị Bộ Tư lệnh Khu 7 ra bản tin đặc biệt ngày 23-9-1949 ca ngợi gương chiến đấu của phụ nữ Sài Gòn. Bộ Tư lệnh Khẩn 7 cấp giấy tuyên dương với hai chữ ký của tư lệnh Huỳnh Văn Nghệ và chánh uỷ Nguyễn Văn Trí.
        Riêng anh Ba Bình thì gởi thư, tặng ảnh và tiền cho từng người, giao cho anh Khôi phải tìm cách trao tận tay ba chị.
        Vụ Majestic đã nêu cao tên tuổi Trung đội Minh Khai như là tinh hoa của nữ giới Sài Gòn trong thời binh lửa.

Chương 43

Ra bưng chơi may gặp Nguyễn Bình
Trần Nam Hưng quyết định đi Khu





































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Trong số 50 nhân viên đơn vị quân y có cái tên Hôpital d évacuation Motorisé 415của Pháp từ Đức qua Đông Dương chỉ có một người Việt Nam duy nhất: lieutenánt médecin Trần Nam Hưng. Anh Ba Hưng là dân Chợ Giữa, Mỹ Tho tốt nghiệp y khoa bác sĩ Hà Nội khoá 1935-1943. Đơn vị anh gọi tắt là HEM chiếm nhà thương Chợ Rẫy làm trụ sở. Nhân viên hai phần ba là phụ nữ. Những y tá, cứu thương, thuộc hai tổ chức: Croix Rouge (Chữ Thập Đỏ) và AFAT (Auxiliares Féminins de l armée de Terre tức nữ trợ tá Quân đội).
        Anh Ba Hưng là bác sĩ mới ra trường, hãy còn trẻ lại đẹp trai nên các cô đầm non rất có cảm tình. Có ba nàng bám sát anh, một cô đầm gốc Nga trong Hội Chữ Thập Đỏ, một cô AFAT và một vợ tên quan ba. Về sau anh Ba Hưng mới biết ngoài tình cảm trai gái, các cô này còn có nhiệm vụ theo dõi anh để báo cáo với cấp trên vì anh bị nghi có cảm tình với kháng chiến. Tại sao anh bị nghi? Lúc đó trung uý quân y Hưng được giao công việc khám bịnh và phát thuốc cho bịnh nhân. Thấy dân quá nghèo túng, anh Ba cho họ rất nhiều thuốc. Vì chuyện phân phối thuốc hào hiệp đó mà Tây “đuổi” anh Ba Hưng. Để thay đổi không khí, anh tính ra bưng tìm hiểu kháng chiến mà anh đã nghe được nhiều giai thoại. Anh đến nhà luật sư Bùi Thị Cẩm là vợ của luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần đang ở trong bưng. Chị Cẩm nói:
        - Mai có liên lạc đi An Phú Đông, chỗ anh Thuần, anh có muốn vô thăm anh Thuần thì đi.
        Buồn ngủ gặp chiếu manh, Ba Hưng chụp ngay:
        - Cho tôi đi chơi!
        Vô khu gặp hai anh trí thức quen: Phạm Ngọc Thuần và Nguyễn Ngọc Bích, Ba Hưng bắt đầu khoái không khí bưng biền. Anh định trở về thì anh Thuần rủ qua Vườn Thơm gặp Nguyễn Bình:
        - Sắp tới sẽ thành lập Uỷ ban Kháng chiến Hành Chánh Nam Bộ, anh em mình nên cố gắng tham gia.
        Ba Hưng theo bạn qua Vườn Thơm. Lần đầu tiên anh gặp Nguyễn Bình mà từ lâu anh đã nghe danh. Vị tư lệnh Khu Bảy hết sức ân cần với anh em trí thức trong thành. Biết bác sĩ Trần Nam Hưng chỉ vô chiến khu cho biết và sắp sửa trở về thành: anh Ba cấp cho anh một giấy giới thiệu: “Bác sĩ Trần Nam Hưng có chuyện cần gặp tôi. Liên lạc nên giúp đỡ bác sĩ”.
        Về thành, bác sĩ Hưng mở phòng mạch ở đường Follcault (Nguyễn Phi Khanh), Đa kao. Làm ăn cũng khá, nhưng cuộc sống nhung lụa ở thành không hấp dẫn bằng sinh hoạt hào hùng trong chiến khu nên chín tháng sau Ba Hưng lại trở vô bưng. Lần này thì di thiệt chứ không phải vô bằng cho biết như lần trước.
        Anh Ba Hưng được anh Thuần tiếp đón nồng nhiệt. Anh Thuần vừa được giữ chức Phó Chủ Tịch Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ. Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình cũng hoan nghênh ngày tái ngộ người trí thức đã trăn trở chọn con đường tiến thủ. Ngành quân y đang là một ngành cần thiết trong kháng chiến. Các đơn vị đang cần y tá, bác sĩ.
        Anh Ba đình giao cho anh Ba Hưng trọng trách mở một khoá đào tạo cứu thương cấp tốc 15 ngày. Sau đó lại mở một khoá y tá trong ba tháng. Trong khoá này anh Ba dạy săn sóc vết thương theo phương pháp mới được áp dụng trong đệ nhị thế chiến. Anh tạm gọi là gọi là phương pháp HEM. Trước đây vết thương được rửa và rắc thuốc hằng ngày, còn theo cách điển trị mới thì rắc trụ sinh, băng lại, ba ngày sau mới tháo băng. Thường thì khi tháo băng, vết thương đã kéo da non. Điều đáng nhớ của khoá này là sáng bế giảng, có trung tướng chủ toạ, chiều máy bay lên ném bom. Nhờ sơ tán ngay nên không ai bị thương. Khoá này mở tại Ba Thu, giữa Đồng Tháp Mười. Đồng trống không có cây cao, máy bay tha hồ rà sát đất.
        Đó cũng là lần đầu anh Ba Hưng thấy sức mạnh cỉla không quân Pháp ở Khu Tám.
        Sau ngày lễ Thương Binh 27-7-1948, quân y viện 2 đã cất xong tại một giồng gần Ba Thu. Giồng này không biết tên trong vùng gọi là gì nhưng anh em bộ đội gọi là Giồng Nhà Thương vì mới mở nhà thương tại đây. Anh Ba Bình giao nhà thương này cho anh Ba Hưng. Lúc đó bác sĩ Hồ Văn Huê phụ trách Quân Y viện khu 7 ở Cần Giờ. Bác sĩ Hoa coi bịnh xá của Trung đoàn 308.
        Gọi là quân y viện 2 nghe rất xôm nhưng đây chỉ là trại cột tràm mái lá, giường chỏng đóng bằng tre trải đệm bàng. Bác sĩ và bệnh nhân ở chung trại chỉ cách một tấm vách lá. Có một kỷ niệm khó quên trong những ngày đầu phụ trách quán y viện ở Giồng Nhà Thương giữa năm 1947 này. Có hai thương binh được đưa tới: anh Nên thuộc trung đoàn 300 và anh Hoàng thuộc trung đoàn 305. Cả hai đều bị thương gãy xương ở tay. Anh Ba Hưng điều trị theo phương pháp HEM, rửa vết thương, rắc thuốc bột Sunfamit (trụ sinh) để năm ngày mới mở băng ra. Hai anh Nên và Hoàng không biết cách điều trị mới lạ này, cứ thắc mắc vì sao bác sĩ không ngó ngàng gì tới vết thương trong năm ngày. Không rõ ai nói cho hai anh biết bác sĩ Hưng là quan hai thầy thuốc trong nhà binh Pháp, chỉ mới ra bưng có mấy tháng. Thế là hai anh nhìn anh Ba Hưng với cặp mắt nghi ngờ: “phải chăng tay này của địch chui vô hàng ngĩl kháng chiến để ám hại chiến sĩ!”. Những lời thì thầm đó thấu tới tai anh Ba Hưng. Anh giải thích phương pháp điều trị mới, nhưng không ai tin vì các nơi khác, thầy thuốc và y tá thay băng mỗi ngày cho bệnh nhân. Không ai nói trước mặt, nhưng sau lưng nhiều người chửi lén: “đã làm biếng lại còn nói dóc”. Anh Ba Hưng rất khổ tâm về thái độ không thán thiện của anh em thương binh. Có đêm anh ngủ không yên vì sợ một kẻ quá khích nào đó lén sang buồng anh “thích khách”. Hai bên chỉ cách nhau vách lá mỏng manh, sơ sài.
        Rất may cho anh là những lời xì xào nghi kị đó thấu tới anh Ba Bình. Và một sáng nọ, anh Ba chống xuồng tới quân y viện 2. Thật là bất ngờ, mọi người xôn xao nhưng anh Ba khoát tay nói: “Cứ làm việc bình thường. Tôi chỉ ghé một chút thôi”. Lúc đó anh Ba Hưng đang tháo băng cho hai anh Nên và Hoàng.
        Hai anh nhăn mặt lộ vẻ khó chịu vì mùi hôi bốc lên từ vết thương băng đã hơn ba ngày. Nhưng cuộn băng vừa tháo hết thì cả thầy thuốc lẫn thương binh đều reo lên mừng rỡ:
        - Lành rồi!
        - Kéo da non rồi! Xương đã ráp cứng.
        Anh Ba Bình bước tới nhìn kỹ vết thương đã kéo da non của hai anh Nên và Hoàng. Anh gật gù nói với anh Ba Hưng:
        - Trước đây tôi có nghe bác sĩ nói về phương pháp băng bó của Pháp trong đệ nhị thế chiến. Này mới thấy tận mắt. Kỳ diệu thật! Tên phương pháp là gì vậy?
        - HEM, tức Hospital d évachation Motorise.
        Anh Ba Bình gật gù quay lại hai anh thương binh:
        - Tôi có nghe lời phàn nàn của hai anh về giám đốc Quân y viện 2. Cho nên sáng nay tôi gác công việc để qua đây điều tra tại chỗ. Kết quả cho thấy là hai anh hơi vội vàng trong việc phê phán...
        Hai anh Nên và Hoàng ấp úng xin lỗi bác sĩ Hưng. Trong khi đó, anh Ba Bình gọi anh Nguyễn Đức Hinh từ dưới xuống lên, nói:
        - Chụp bác sĩ Hưng và hai anh thương binh này một bức ảnh kỷ niệm đánh dấu ngày thành công đầu tiên của Quân y viện.
        Nguyễn Đức Hinh là nhà thơ kiêm nhiếp ảnh. Ra bưng, anh được anh Ba Bình khai thác một tài năng mới: đánh giặc. Dù vậy anh Hinh vẫn không rời cái máy Zeiss I Rón thân thương. Anh mở máy mời anh Ba Hưng và hai anh Nên, Hoàng ngồi trên giường chụp một bức. Xong rồi anh Ba Hưng mời anh Phạm Ngọc Thuần cùng chụp với ba anh một “pose” làm kỷ niệm.
        Vài ngày sau liên lạc đem qua một bao thư trong đó có các bức ảnh rọi lớn với mấy chữ đề tặng của Trung tướng Nguyễn Bình. Bức ảnh đó anh Ba Hưng giữ kỹ như gia bảo: “Nếu ra khu không gặp Nguyễn Bình thì mình đã trở về thành ngay từ đầu”.

Chương 44

Tô Ký cưới vợ mời khu trưởng
Nguyễn Bình cưỡi ngựa tới chung vui






































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Anh em trong Giải phóng quân liên huyện nhớ mãi ngày hôm ấy: chỉ huy trưởng Tô Ký cưới vợ. Từ lâu vị chỉ huy này mê đánh giặc không chịu nghĩ tới việc lập gia đình, chỉ sợ vợ con “vướng tay vướng chân” nhưng rồi chuyện phải tới đã tới: chiến tranh là chuyện lâu dài, có thể kéo dài đời cha tới đời con, như chủ trương “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” mà ai cũng thấm nhuần. Trước khi vào tiệc liên hoan, hãy tìm hiểu về tân bang và tân giai nhân.
        Tô Ký theo cách mạng từ nhỏ. Cha là ông Tô Nếp hoạt động bí mật, tham gia Nam Kỳ khởi nghĩa bị Tây bắt đưa về trại giam Xóm Chiếu và đưa đi thủ tiêu Lúc đó thực dân đưa các chiến sĩ cộng sản ra Mũi Tàu Nhà Bè, xỏ dây kẽm vào lòng bàn tay xâu từng chùm, lùa xuống xà lan đem nhận chìm ngoài biển. Trước Nam Kỳ khởi nghĩa, Tô Ký bị Tây bắt đưa lên trại tập trung giữa rừng gọi là cam des travailleurs Tà Lài, ta gọi là Căng Tà Lài. Đây là trại giam khoét trong rừng sâu dọc con đường 20 Sài Gòn - Đà Lạt, cách Định Quán 15 cây số. Trong năm đợt liền, Tây đưa lên đây mấy trăm nhà cách mạng chúng bắt được khắp Nam Kỳ lục tỉnh để ngăn chặn những cuộc khởi nghĩa mà chúng tiên đoán sẽ xảy ra trong lúc chánh quốc của chúng đang bị Đức quốc xã chiếm đóng. Dù vậy cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn xảy ra. Tây thẳng tay đàn áp và tàn sát hàng ngàn người. Chúng vô tình tập trung một lực lượng dự trữ cán bộ cộng sản ưu tú trong căng Tà Lài. Vài tháng sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, chi bộ nhà tù quyết định cho tám đồng chí vượt ngục dưới sự cầm đầu của bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ Trấn Văn Giàu (Sáu Giàu). Bảy người kia là Châu Văn Giác, Dương Văn Phúc tự Năm Đông, Trương Văn Nhâm, Nguyễn Công Trung, Lê Anh Kiệt tức kỹ sư Văn, Nguyễn Tấn Đức và Tô Ký. Tô Ký theo hai anh Giàu và Giác đi về hướng Đà Lạt còn năm người kia đi về hướng Sài Gòn. Tô Ký bị Tây bắt ở Đà lạt đưa về căng Bà Rá. Sau đó lại đưa về khám Tây Ninh. Ngày Nhật đảo chánh Pháp, ngày 9-3-1945, Tô Ký vận động lính mã-tà giao súng cho anh em tù chánh trị rồi về nhà làm ăn.
        Anh trở về quê nhà, Tân Mỹ, Bình Lý (nay là xã Bình Mỹ) tiếp tục hoạt động. Khi ta cướp chánh quyền cuối tháng 8-1945, Tô Ký là chỉ huy trưởng Giải phóng quân liên quận Hốc Môn- Bà Điển- Đức Hoà.
        Về cô dâu, chị Tân là dân Hốc Môn, gia đình có truyền thống cách mạng. Vụ Tây xử tử người anh hùng Chín Bỉnh (Đặng Công Bỉnh người chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Hốc Môn) càng nung chí căm thù quân cướp nước trong gia đình chị Tân. Vợ Chín Bỉnh có bà con với mẹ chị Tân, nhà ở ấp Bến Đò, xã Tân Phú Trung. Có một điều kì diệu là trước đây Chín Bỉnh là tay anh chị, có ai ngờ lại trở thành một nhà cách mạng ngoan cường. Giai thoại cái chết đầy khí phách của “nguyên soái Bỉnh” được truyền miệng khắp Hốc Môn và các quận lân cận Gò Vấp, Thủ Đức, Đức Hoà. Đích thân chủ quận Hốc Môn tên Thọ, thiên hạ gọi là Quận Dẻo vì có tật chân, nhắc ghế mời Chín Bỉnh ngồi khi ông bị áp giải về dinh quận. Nhưng hãy trở lại cô dâu. Chị Tân đậu tiểu học vài năm thì ta cướp chính quyền. Ngày 25-8-1945 cả triệu người, phần lớn là thanh niên các quận nội ngoại thành kéo về Sài Gòn dự mít-tinh, chị Tân cũng ủi quần áo đi dự. Chị không quên gắn phù hiệu Thanh niên tiền phong vào ngực áo, nhưng gặp trục trặc vào giờ chót: các anh không cho chị đi “đàn bà con gái mà đi đâu. Có thể xảy ra lộn xộn, chết chóc”. Dù vậy, sau khi các anh đi rồi, chị Tân cũng đi. Những ngày rực rỡ cờ bay trống thúc, làm sao có thể nằm nhà được! Từ cuộc mít-tinh lịch sử đó, chị Tâm hăm hở tham gia mọi công tác mà cách mạng giao phó. Và trên đường kháng chiến, chị đã gặp chỉ huy trưởng Giải phóng quân Liên quận.
        Trong ngày vui đáng ghi nhớ nhất trong đời, hai anh chị quyết định mời trung tướng Nguyễn Bình tới chung vui. Đối với Nguyễn Bình, anh Ba Tô Ký rất có nhiều cảm tình. Anh gọi vị đặc phái viên của Bộ Tổng là “anh Ba” như giới chỉ huy thân cận của Nguyễn Bình. Ngay từ đầu, khi được thư mời dự hội nghị quân sự tại An Phú Xã, Tô Ký đã ủng hộ ngay. Anh nghĩ là “hiện nay Miền Đông đang cần thống nhất các lực lượng võ trang. Người đứng ra làm việc này phải là tay có bản lãnh mới thu phục được đám anh hùng tứ chiếng. Nếu không thì cũng phải là người của Trung ương phái vào. Chưa biết Nguyễn Bình “làm ra cơm cháo” gì không, nhưng mình phải vì việc lớn mà ủng hộ”. Chừng gặp Nguyễn Bình tại hội nghị, anh thấy rõ đặc phái viên Trung ương đúng là một người của tình thế khó khăn và quyết định ủng hộ của anh trước đây rất đúng. Kỷ niệm sâu sắc nhất của anh về Nguyễn Bình là đêm “hội sư” trên sông Đồng Nai vài tháng sau đó. Anh Ba Bình, đã cùng một số chỉ huy quân sự đi thị sát tình hình hai bờ sông Đồng Nai trên một chiếc tàu ta cướp được của Tây. Lúc đó ta phát động dân quân du kích tấn công các đồn điền cao su là nơi Tây thường chiếm để đóng quân và làm điểm xuất quân đánh ta. Đêm đó nhiều sở cao su dọc hai bờ sông Đồng Nai bốc cháy đỏ rực.
        Anh Ba Bình chỉ các đám cháy nói với các chỉ huy:
        - Xem kìa: Lửa Việt Minh thiêu đồn giặc.
        Ngày tới Thủ Đầu Một, anh Ba đã ra lệnh đốt sở cao su Phú Riềng, giải thoát dân “contrat”, chiếm xưởng máy đem về xây dựng Binh Công Xưởng.
        Qua những tiếp xúc với các chi đội khác, Tô Ký biết anh Ba Bình rất yêu mến binh sĩ và cán bộ quân sự. Anh Ba thường đến các trạm quán y thăm thương binh. Các bác sĩ và y tá đều xúc động khi thấy anh Ba lấy khăn tay đuổi ruồi bu trên các vết thương anh em binh sĩ, nhưng ruồi là giống lì nên anh Ba phải đắp khăn tay của mình lên mặt một thương binh.
        Anh Nguyễn Đức Hinh thường khoe chuyện anh Ba Bình và chị Thanh xách cặp gà tới tặng vợ anh sanh được vài tuần. Khi Hinh cám ơn thì anh Ba nói “đó là chánh sách đối với cán bộ chứ có gì riêng tư mà cám ơn”. Sau đó chị Thanh nói riêng với anh Hinh “anh Ba bảo mình có trách nhiệm lo cho hậu phương, vợ con có yên ổn thì chiến sĩ mới yên tâm mà đánh giặc nơi mặt trận”.
        Không riêng gì Nguyễn Đức Hinh mà nhiều anh em cũng được anh Ba chăm sóc. Có anh vừa báo tin cưới vợ anh Ba móc túi trao hết xấp tiền phụ cấp tháng mới lãnh để về làm lễ liên hoan mời bạn bè tới chia vui.
        Anh Lâm Thái Hoà gắn bó với anh Ba Bình cũng do thái độ chăm sóc ân cần của vị tư lệnh. Lúc anh Hoà đi công tác, anh Ba cho chị Thanh đến nhà giúp đỡ chị Hoà.
        Chị Phạm Thị Nhiệm, em giáo sư Phạm Thiều và là vợ của anh Phạm Ngọc Thảo sanh con so. Anh Bình cũng bảo chị Thanh tới săn sóc chị Nhiệm. Có chuyện vui, nhà bảo sanh ở Khu 9 đèn lù mù, Phạm Ngọc Thảo đứng ở đầu giường hỏi chị Thanh đang bế đứa nhỏ: “Trai hay gái?” Thấy “dây nhợ lòng thòng”, chị Thanh nói: “con trai”. Chừng xem kỹ lại là con gái. Trai hay gái gì cũng cám ơn vợ. Anh Thảo hấp thụ văn hoá Pháp nên ôm hôn vợ trước cặp mắt ngơ ngác của chị Thanh...
        Do biết những giai thoại đó, anh Ba Tô Ký mời anh Ba Bình làm chủ hôn đám cưới của anh. Không riêng vợ chồng anh mà cả Giải phóng quân Liên quận đều hãnh diện về sự có mặt của trung tướng. Anh Ba cưỡi ngựa tới dự hôn lễ cùng một số vị trong Bộ tư lệnh Khu. Vô tiệc anh Ba Tô Ký mới biết anh Ba Bình sống thật “thanh đạm”, không uống rượu, không uống cà phê. Không phải là thầy tu, nhưng vì con mắt hư, phải kiêng cữ các thức uống gây nhiệt. Tuy không dùng rượu, anh Ba vẫn hoà mình vào không khí vui nhộn của tập thể và cũng tỏ ra là “một cây văn nghệ xanh dờn”. Những ai có mặt trong tiệc cưới đó rất thú vị được biết một Nguyễn Bình thân mật gần gũi, khác hẳn chân dung vị tư lệnh mà khẩu hiệu số một trong đời là “kỷ luật” nghiêm minh.

Chương 45

Thanh Sơn phụ trách Campuchia
Uỷ viên quân sự về Nguyễn Bình







































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Đây nói về Thanh Sơn, Nguyễn Văn Tây, một nhân vật tên tuổi của Nam Bộ. Có chuyện này ít người biết: Thanh Sơn không phải họ Nguyễn. Nội tổ Thanh Sơn là một nghĩa quân của Bình Tây Đại Nguyên Soái Dân Phong - tức Quản cơ Trương Định. Ông nghĩa quân này tên là Phạm Tự. Em của Phạm Tự là Phạm Thị Hiền, tức bà cô của Thanh Sơn, rất giỏi võ, lập ra đội nữ dân binh cùng với anh quyết chí đánh Tây. Khi Trương Định bị tên Việt gian Huỳnh Công Tấn (đội Tấn) hãm hại ở Đám Lá Tối Trời (Gò Công), bà Phạm Thị Hiền bị Tây giết và tru di tam tộc. Ông Phạm Tự chạy về Rạch Rầy, xã Hựu Thạnh, Cầu Kè, nay là Trà Ôn. Vẫn chưa trốn thoát, Tây bắt chặt đầu, ném xác xuống bưng Đập Vong cũng trong xã Hựu Thạnh. Trước nạn tru di tam tộc, ông nội của Thanh Sơn tên Phạm Cao Y đổi là Nguyễn Văn Bằng, cha Thanh Sơn tên Phạm Văn Hiến đổi là Nguyễn Vinh Hiển. Ông Nguyễn Văn Bằng gia nhập “Việt Nam Phục Quốc Hội” của cụ Phan Bội Châu còn ông Nguyễn Vinh Hiển thì làm làng để dễ hoạt động theo lý tưởng của cha ông.
        Thanh Sơn nhớ hồi nhỏ thường bị cha bắt chép mấy câu chừ nho “trung hiếu tiết nghĩa”, “trung can nghĩa khí” không phải chỉ chép vài trăm hàng mà chép đầy ba mảnh giấy học trò. Nhờ chép nhiều như vậy mà Thanh Sơn có nét chữ đẹp. Đến khi bị Tây đày ra Côn Đảo cái hoa tay đó có chỗ đắc dụng. Thanh Sơn được đưa vào tổ phục vụ học tập, chép tài liệu Duy vật lịch sử, Duy vật sử quan, Duy vật biện chứng pháp. Đang học collège Cần Thơ dưới Ung Văn Khiêm một lớp, hai anh em bỏ trường theo cách mạng.
        Thanh Sơn trốn sang Tàu học trường Hoàng Phố và được vinh dự sớm là học trò của Nguyễn Ái Quốc...
        Nhưng hãy trở lại Nam Bộ trong những ngày nước sôi lửa bỏng cuối 1945. Khi ta cướp chánh quyền vào 25-8, Thanh Sơn là uỷ viên trong Lâm uỷ Hành chánh Nam Bộ kiêm Thanh tra chính trị miền Tây.
        Mặt trận Cần Thơ đã bao vây địch trong 90 ngày, một thành tích đáng hãnh diện so với 29 ngày Sài Gòn sống trong độc lập tự do (25-8 đến 23-9-1945). Đầu tháng 2-1946 mặt trận Cần Thơ vỡ, Trung ương Quân sự uỷ viên Hội mà chủ tịch là Võ Nguyên Giáp - lúc đó chưa có Bộ Quốc Phòng - rút Thanh Sơn về Trung ương để lo vấn đề chi viện cho kháng chiến trong Nam. Thanh Sơn lên đường ra Bắc với trợ lý là kỹ sư Nguyễn Đăng. Nguyễn Đăng là kỹ sư canh nông làm việc ở Cần Thơ đã theo Thanh Sơn từ đầu năm 1945.
        Hai anh em cùng trên đường ra Hà Nội dự kỳ họp Quốc Hội đầu tiên. Tới Vàm Láng (Gò Công) hai anh mướn ghe cửa mua gạo chở ra Phú Yên vừa là cải trang làm dân thương lái vừa tiếp tế miền Trung đang đói.
        Lúc đó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng ở Quảng Ngãi là Nguyễn Sơn, nguyên là chánh uỷ quân đoàn Diên An, từng tham gia cuộc Vạn lý trường chinh với quân giải phóng Trung Hoa thời kháng Nhật. Anh em ở Nam Bộ ra thấy tướng Nguyễn Sơn xây dựng vừng Quảng Ngãi như một thủ đô cách mạng, tập trung các thứ Trung ương chi viện cho Nam Bộ để biến căn cứ Quảng Ngãi như một Diên An. Là dân Nam Bộ ăn ngay nói thẳng, Thanh Sơn đã đụng Nguyễn Sơn nhiều trận, rõ ràng là hai ngọn núi không tống chung trên một mảnh đất.
        Đụng nhau về chuyện võ khí. Nam Bộ cần súng đạn đánh Tây, được Trung ương chi viện súng đạn là mừng. Thanh Sơn tìm ghe thuyền đưa về Nam Bộ.
        Còn Nguyễn Sơn thì cương quyết giữ số súng đạn đó lại cho Quảng Ngãi viện lý do: Tây cắt đường giao thông, làm sao đưa võ khí vào nam Bộ? Thanh Sơn cự: “ Sao không được, ngày xưa Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc giải phóng Thăng Long bằng cách nào? Ghe bầu ở đây thiếu gì!”
        Thành Sơn còn tố thêm:
        - Nếu anh muốn đánh Pháp, xin mời anh vô Nam Bộ. Còn nếu không thì anh phải trả võ khí lại cho Nam Bộ.
        Đúng vào lúc đó Trung ương bổ nhiệm Thanh Sơn, Phó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ lo tiếp tế cho Nam Bộ để đẩy mạnh kháng chiến chống xâm lăng. Công việc cấp bách lúc đó là xây dựng các kho chứa vũ khí, tìm ghe thuyền đưa võ khí về Nam Bộ. Một trong các kho đó là Vũng Rô mà thủ kho là đồng chí Tất. Chính từ kho Vũng Rô này mà bà Nguyễn Thị Định nhận võ khí chi viện cho Nam Bộ. Các thuyền trưởng Trần Văn Hoài (Hoài Râu), Đặng Văn Qua, Mười Thôi cũng xuất phát từ đó đưa súng đạn về cho ba khu 7, 8, 9.
        Tháng 7-1947 Thanh Sơn về Nam Bộ. Cũng trong thời điểm đó hội nghị Xứ đại biểu họp tại Đồng Tháp Mười. Trong cuộc họp này có các đồng chí Lé Duẩn, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm, Trần Văn Trà. Hội nghị giải quyết các mâu thuẫn giữa Việt Minh Mới, Việt Minh Cũ, thống nhất hai hệ Uỷ ban Hành chánh và Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ và các liên tỉnh, tránh tình trạng không ăn khớp trước đó. Cũng trong thời điểm này, đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Trung ương ở phía Nam điện vào ra lịnh cho Thanh Sơn mở mặt trận Kampuchia để cầm chân Pháp bên đó đồng thời giải toả cho Khu 5 đang bị Pháp cô lập.
        Thanh Sơn tiếp nhận sứ mạng đó với sự han hoan khó tả: Năm 1946 khi ra Trung ương, Thanh Sơn đã dựa vào Khu Năm, cái ơn đó anh định sẽ trả thì dịp may đến: Trung ương giao cho anh nhiệm vụ giải toả áp lực Pháp đang đè lên Khu 5 đồng thời tiếp tế cho Khu 5 bằng cách mở bến bãi ở Nam Bộ và Kampuchia, cho thuyền ghe chở lúa gạo, khô mắm cho miền Trung. Để thực hiện kế hoạch này, bộ trưởng Canh Nông Ngô Tấn Nhơn (thay Huỳnh Thiện Lộc) đưa hai chục ký vàng vô Nam để chi dụng. Lúc đó Thanh Sơn là uỷ viên Quân sự kiêm Ngoại vụ. Đến năm 48, anh là Trưởng Phân Ban của uỷ viên Kháng chiến hành chánh Nam Bộ ở Miền Tây Nam Bộ. Vì tầm quan trọng của mặt trận Kampuchia, Thanh Sơn giao đại nhiệm vụ uỷ viên Quân sự Nam Bộ cho người khác để tập trung nỗ lực vào trọng trách mới trên đất Chùa Tháp.
        Giao cho ai chức uỷ viên quân sự Nam Bộ đây?
        Xứ uỷ và Uỷ ban Nam Bộ thấy không ai xứng đáng hơn trung tướng Nguyễn Bình. Vị phái viên quân sự của Bộ Tổng được Bác Hồ và đồng chí Võ Nguyên Giáp phái vô Nam trong tháng 10-1945 đã nắm được tình hình quân sự và chính trị ở miền Đông Nam Bộ, kịp thời thống nhất các lực lượng võ trang địa phương mà sừng sỏ nhất là Bình Xuyên. Ở vùng giải phóng, Khu trưởng Khu 7 đã chánh quy hoá các bộ đội tổ chức thành các trung đoàn sinh hoạt có nề nếp và tác chiến có bài bản, kỹ thuật và kỷ luật. Ở vùng tạm chiếm, Nguyễn Bình tổ chức các Ban công tác chuyên hoạt động trong thành phố rải truyền đơn, ném lựu đạn, trừng trị giặc Pháp và bọn Việt gian phản động. Tuy có một số đội viên quen tác phong giang hồ vô tổ chức gây nhiều tác hại đáng tiếc, nhưng nói chung thì các đội quyết tử trong nội thành đã gây được nhiều tiếng vang, ảnh hưởng tới tận Paris làm bọn thực dân ăn ngủ không yên.
        Sau khi cân nhắc, Xứ uỷ và Uỷ ban Nam Bộ nhất trí cử trung tướng Nguyễn Bình giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban Hành chánh - Kháng chiến Nam Bộ kiêm uỷ viên quân sự Nam Bộ. Đưa Nguyễn Bình lên Nam Bộ cũng có nghĩa là khép vị trung tướng vào khuôn khổ với nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, một nguyên tắc mà trước đây khu trưởng Khu 7 không mấy quan tâm, dẫn đến những quyết định có tánh cách cá nhân như “hành động của một viên tướng ngoài cõi” bất chấp triều đình.
        Ngoài ra Xứ uỷ và Uỷ ban Nam Bộ cũng bàn việc chọn ai giữ chức Khu trưởng Khu 7. Đa số nhất trí chọn anh Tám Nghệ (Huỳnh Văn Nghệ) đang lâ khu phó, một chỉ huy quân sự tuyệt vời đã lập nhiều chiến công hiển hách như Là Ngà, Đồng Xoài, Bàu Cá.

Chương 46

Bắt Phán Huề lòi ra chuyện lớn
Tây mưu đồ lập chiến khu ma








































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


        Quân khu 7 đang họp bàn vấn đề chánh quy hoá bộ đội, biến các chi đội thành trung đoàn thì có tin điện từ Chi đội 7 cho biết bắt được Phán Huề, nguyên là chủ tịch tỉnh Bà Rịa đã bị Tây bắt trong cuộc tấn công tỉnh Bà Rịa. Không rõ vì sao Phán Huề lại lén lút trở vô khu giải phóng. Đoán biết có chuyện quan trọng, Khu trưởng Nguyễn Bình bèn cùng Mai Văn Vĩnh: Chị đội trưởng Chi đội 7 cấp tốc về Bà Rịa.
        Khi bị bắt, Phán Huề nghĩ là cuộc đời mình đã tàn, nhưng Hai Vĩnh khéo léo đối xử để Phán Huề lên tinh thần. Hai Vĩnh đóng vai chiến sĩ quốc gia bất mãn về sự lãnh đạo của cọng sản khéo đến mức Phán Huề tin thật và tiết lộ âm mưu thành lập chiến khu quốc gia của chánh phủ quốc gia Nam phần Việt Nam dọn đường cho giải pháp Bảo Đại. Phán Huề thú nhận lãnh nhiệm vụ vô khu dụ dỗ một số cán bộ kháng chiến về với chánh nghĩa quốc gia.
        Phán Huề cũng tiết lộ Bảy Viễn đã phái Lai Hữu Tài dự các cuộc họp của các giáo phái lập Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại.
        Hai Vĩnh tương kế tựu kế viết thư cho Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân tỏ ý hoan nghinh chủ trương kêu gọi chiến sĩ quốc gia bỏ Khu về Thành và đang nghiên cứu để thi hành chủ trương đó.
        Đọc bức thư của Hai Vĩnh, Phán Huề phấn khởi, không ngờ mình đã tự thú tội lỗi của mình. Khi Hai Vĩnh báo cáo mọi việc, Nguyễn Bình ra lịnh giải quyết ngay Công An và Quốc vệ Đội Bà Rịa.
        Xong rồi, Nguyễn Bình trở về Bộ Tư định lo đối phó với nguy cơ Bảy Viễn ngả theo Phòng Nhì, bắt tay thủ tướng Nguyễn Văn Xuân lập chiến khu quốc gia giả hiệu.
        Từ lâu ta đã nắm được tin Bảy Viễn dung túng bọn Phòng Nhì trong Chi đội 9. Nay lại biết rõ thêm là bọn Tư Sang, Năm Tài đã lái Bảy Viễn đi quá xa. Phải ra sức kéo Bảy Viễn trở lại đường ngay nẻo thẳng. Làm sao?
        Sau mấy ngày suy tính, Nguyễn Bình cho mời giáo sư Đặng Minh Trứ, chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn bàn cách liên hệ chặt chẽ với anh em Chi đội 9 mà một đại bộ phận đóng trong địa bàn thành phố. Giáo sư Trứ dạy trong trường trung học Pétrus Ký và cùng ra khu tham gia kháng chiến ngay từ đầu với các đồng nghiệp Phạm Thiều, Hồ Văn Lái, Nguyễn Văn Chì, Trần Văn Các. Trong những năm đầu, ông Trứ hoạt động ở miền Đông với luật gia Lê Đình Chi, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, giáo sư Phạm Thiều. Đến khi thành lập Uỷ ban kháng chiến hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn, ông được bổ nhiệm chủ tịch.
        Sau khi nghe Nguyễn Bình trình bày Phòng Nhì cố lái Bảy Viễn ngả theo giải pháp Bảo Đại, ông Trứ tán thành việc mời một đại diện Bình Xuyên vô Uỷ ban kháng chiến-hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn. Người đại diện sẽ do Bảy Viễn và các chỉ huy các Chi đội trong Liên Khu Bình Xuyên chỉ định, nhưng ta có thể đoán trước được là Mười Trí. Nhân vật Mười Trí thì Nguyễn Bình đã nắm được phần nào nhờ có thời gian hai bên đóng sát nhau.
        Theo thư mời của giáo sư Đặng Minh Trứ, ngày 24-3-1948, các vị chỉ huy Bình Xuyên gồm có Lê Văn Viễn, khu bộ phó Khu 7 kiêm chỉ huy trưởng Chi đội 9, Dương Văn Hà, Bộ tư lệnh Liên Chi Bình Xuyên, Trần Văn Đối, phó tư lệnh Liên Chi Bình Xuyên, Huỳnh Văn Trí, chi đội trưởng chi đội 4, Lâm Văn Đức tức Tư Tỵ, chi đội 25, Nguyễn Văn Hoạnh, chi đội 21, Lê Văn Chàng, chi đội 2, Ngô Văn Lực chi đội 3 cùng với các ông Nguyễn Hộ, uỷ viên Dân quân thành, Cao Đăng Chiếm, phó giám đốc sở Công An Nam Bộ kiêm trưởng ty Công an thành, đến dự hội nghị.
        Đúng chín giờ, giáo sư Trứ trình bày lý do cuộc họp. Hội nghị bầu chủ tịch danh dự: cố khu phó khu 7 Dương Văn Dương vừa được truy phong thiếu tướng.
        Chủ tịch hội nghị là Khu phó Lê Văn Viễn, thư ký là ông Nguyễn Hộ.
        Ông Đặng Minh Trứ báo cáo về việc thành lập Uỷ ban Kháng chiến-hành chánh thành Sài Gòn-Chợ Lớn, cần có một đại diện Liên Khu Bình Xuyên trong Uỷ ban.
        Hội nghị nhất trí cử ông Mười Trí làm đại diện trong Uỷ ban. Tiếp theo đó ông Bảy Viễn phát biểu cảm tưởng:
        - Có đại diện Liên Khu Bình Xuyên trong Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh Sài Gòn- Chợ Lớn thì mọi sự lủng củng sẽ dễ giải quyết. Ban tiêu dùng sản vật Nam Bộ sẽ hoạt động đắc lực hơn để giúp chánh phủ có đủ tiền cung cấp cho quân đội toàn Nam Bộ.
        Mười Trí cũng phấn khởi phát biểu:
        - Ngày 11-3-1948 vừa qua tôi đã dự cuộc hội nghị Uỷ ban Kháng chiến-hành chánh Nam Bộ. Các anh trong Uỷ ban nhìn nhận trước đây có vài lủng củng do thiếu gần gũi, do hệ thống làm việc không ăn khớp. Nếu trong các Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh có đại diện Bình Xuyên thì sẽ tránh được những ngộ nhận đáng tiếc. Các anh Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Bình, Ung Văn Khiêm, Lê Duẩn, Diệp Ba, Lê Đình Chi, Nguyễn Thành Vĩnh đều tỏ ý một ngày nào đó Khu bộ phó Lê Văn Viễn về Nam Bộ họp thì chắc chắn tình hình sẽ sáng sủa hơn.
        Bảy Viễn đưa hai tay lên tỏ vẻ hân hoan:
        - Nhất định là tôi sẽ về Nam Bộ họp với các anh để giải quyết một lần cho xong những lủng củng đã kéo dài quá lâu. Tôi hứa chắc là sẽ lên đường một khi nhận được công điện của Nam Bộ.
        Ai nấy đều phấn khởi trước kết quả tốt đẹp của cuộc họp. Riêng giáo sư Trứ thì vui mừng đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng mà trung tướng Nguyễn Bình giao cho: Kéo Bình Xuyên về kháng chiến.
        Trước đầy giáo sư nghĩ Nguyễn Bình chuyên đánh giặc nhưng nay mới biết về chính trị, anh Ba Bình cũng có bài bản, từng bước thu phục nhân tám.
        Nhưng hãy còn quá sớm để kết luận Bảy Viễn tính gặp Nguyễn Bình để đòi lại hai đại đội của hai anh Nghiệp và Dư đã bỏ Chi đội 21 khi Bảy Viễn bắt chính trị viên Lê Hiền. Bảy Viễn không chấp nhận chế độ chính trị viên và cán bộ người Bắc trong Chi đội 9 của ông ta. Ngoài ra còn nhiều đụng chạm khác như vấn đề thu thuế Bình Xuyên và khu Sài Gòn thường dẫm chân nhau...
        Trong khi Bảy Viễn chịu gặp Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ thì bọn Sang, Tài rất lo. Chúng sợ Bảy Viễn ngã theo kháng chiến thì vai trò chúng nhận lãnh của Phòng Nhì bên cạnh Bảy Viễn khó thành công. Năm Tài tìm cách cản trở:
        - Ngài khu bộ phó chớ xuống Đồng Tháp Mười. Giang sơn nào anh hùng nấy. Tụi cộng sản ma giáo lắm. Chúng rất nhiều mưu ma chước quỷ. Chúng tôi lo cho ngài khu bộ phó lắm.
        Bảy Viễn cười:
        - Người ta mời mà mình không đi là dở. Người ta sẽ nói là mình sợ. Dân giang hồ không hề biết sợ một thứ gì. Để tao đi. Tụi bây đừng có làm kỳ đà cản mũi...
        Nhưng anh em Sang Tài không bỏ cuộc trong việc cản ngăn Bảy Viễn đi xuống Đồng Tháp Mười.

Chương 47

Nguyễn Bình mời, Bảy Viễn do dự
Vào hang cọp Tám Nghệ trổ tài









































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Trong tinh thần giữ tình đoàn kết, Trung tướng Nguyễn Bình bàn với các đồng chí ở Nam Bộ tìm mọi cách tách rời Bảy Viễn khỏi bọn Phòng Nhì mà nguy hiểm nhất là hai tên Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên. Hai tên này đã cài hai anh em họ Lai chui vào chi đội 9 của Bảy Viễn ngay từ đầu. Cách hay nhất là đưa Bảy Viễn ra khỏi Rừng Sác. Từ lâu Rừng Sác đã trở thành giang san của Bảy Viễn. Đây là một tiểu triều đình có đầy đủ bá quan văn võ, hoạn quan thái giám, cung phi mỹ nữ. Bảy Viễn đúng là một lãnh chúa trong chiến tranh. Cách xưng hô “ngài khu bộ phó” mà hai tên Tài Sang “chế“ ra chứng minh tình trạng “trưởng giả học làm sang” của Bảy Viễn.
        Chánh uỷ Hai Trí một lần nữa đem túi khôn người xưa ra áp dụng: điệu hổ ly sơn. Phải dụ con cọp Bảy Viễn ra khỏi hang Rừng Sác. Dụ bằng cách đưa con hắc hổ này lên chức Khu trưởng. Tình thế có thuận lợi cho kế độc này. Nguyễn Bình vừa được đề bạt thành uỷ viên Quân sự Nam Bộ. Các đồng chí lãnh đạo tính đưa Khu phó Tám Nghệ lên Khu trưởng Khu 7. Nhưng vì chuyện lớn, Tám Nghệ có thể nhường chức Khu trưởng cho Bảy Viễn. Nếu nhận chức Khu trưởng Khu 7 thì bắt buộc Bảy Viễn phải về Bộ Tư lệnh đóng ở Đồng Tháp Mười. Như vậy có nghĩa là Bảy Viễn phải rời giang san Rừng Sác. Một khi về ở “gần mặt trời” thì Bảy Viễn không còn làm vua một cõi như trước. Bọn Tài Sang cũng không dám lộ mặt “tả hữu thừa tướng” tác oai tác quái, lèo lái Bảy Viễn theo ý quan thầy Pháp của chúng.
        Kế điệu hổ ly sơn của quán sư Hai Trí được mọi người tán thành. Tức thì Nam Bộ xin ý Trung ương về việc đề bạt khu bộ phó. Lê Văn Viễn lên giữ chức Khu bộ trưởng Khu 7 thay trung tướng Nguyễn Bình nay là uỷ viên quân sự Nam Bộ kiêm phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến-hành chánh Nam Bộ. Trung ương đồng ý và đánh công điện phong chức Khu trưởng Khu 7 cho đồng chí Lê Văn Viễn.
        Được tin vui mà lạ thay Bảy Viễn lại không mừng. Linh tinh như báo trước một điều gì không ổn, bèn họp chư tướng bàn tính xem đằng sau quyết định này có dụng ý gì. Tất nhiên bọn Phòng Nhì bén nhạy hơn ai hất trong việc nhận định tình hình. Tất cả đều nhất trí: đây là độc kế “dụ hổ ly sơn” của tướng một mắt. Nghe lời chư tướng, Bảy Viễn không tính tới chuyến đi Nam Bộ nhận chức Khu trưởng.
        Mấy ngày trôi qua không thấy Bảy Viễn đánh điện trả lời, Người Bình nói với Hai Trí:
        - Kế độc của quân sư không “ăn” rồi. Bảy Viễn biết ngay ý đồ của mình. Thứ nhất, người đáng nhận chức Khu trưởng phải là Tám Nghệ vì công trận nhiều hơn. Thế thì tại sao vinh dự đó lại chạy về Bảy Viễn? Đúng là có ý đồ gì đây?
        Hai Trí gật:
        - Đúng là ý đồ của mình có phần lộ liễu. Nhưng mà tôi đã có cách. Anh Tám Nghệ có đây không?
        Nguyễn Bình cười:
        - Lại bầy trò khích tướng chớ gì? Tôi nghĩ Tám Nghệ đúng là sứ giả của mình trong chuyến du thuyết này.
        Khi nghe tư lệnh và chánh uỷ giao công tác xuống Rừng Sác, Tám Nghệ đăm chiêu:
        - Tôi đã xuống Tiều một lần trong dịp Bảy Viễn làm lễ nhậm chức khu bộ phó. Bây giờ xuống đó mừng ông ta lên chức Khu bộ trưởng và mời ông ta cùng đi với tôi về Đồng Tháp Mười dự lễ tấn phong. Lý do đó đầy đủ lý và tình. Nhưng chưa chắc Bảy Viễn chịu rời Rừng Sác.
        Hai Trí cắt lời:
        - Bởi vậy mới dùng kế khích tướng. Bảy Viễn là dân anh chị, rất trọng danh dự. Hồi ở tù trong Khám Lớn, tôi từng thấy nhiều tay giang hồ xám trên lừng nhiều câu rất hay, như “báo tử lưu bì, nhơn tử lưu danh”, hoặc xâm tiếng Tây “Plutôt la mort que la honte” tương đương với “ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục”.
        - Được tôi sẽ cố gắng. - Tám Nghệ nói.
        Hai Trí vui mừng:
        - Có cần lấy quân hộ tống không? Bao nhiêu thì đủ?
        Tám Nghệ lắc đầu:
        -Nếu tính thị uy thì bao nhiêu cũng không đủ. Tô Tần hay Trương Nghi thời Chiến Quốc đi du thuyết chỉ có một mình. Cái lưỡi của kẻ thuyết khách bén hơn kiếm báu, cái dùi của Kinh Kha. Dự Nhượng mạnh hơn cả đại đội hùng binh.
        Nguyễn Bình thích thú cười với Tám Nghệ:
        - Tôi đã không lầm khi chọn Tám Nghệ trong khi cả tỉnh Biên Hoà giao quyền hành cho ông Nghệ kia.
        Hai Trí ngạc nhiên:
        - Còn Nghệ nào nữa?
        Tám Nghệ giải thích:
        - Lúc cướp chánh quyền, Biên Hoà có anh Huỳnh Thiện Nghệ là thầy giáo ở thị xã. Anh Huỳnh Thiện Nghệ nắm Thanh niên tiền phong tỉnh và được xem là lãnh tụ lớn trong tỉnh còn tôi thì chỉ là chỉ huy vài trung đội dân quân trong quận Tân Uyên. Nhờ anh Ba tín nhiệm mà đề bạt tôi lên.
        Hai Trí hỏi:
        - Còn tay Huỳnh Thiện Nghệ kia đâu rồi Tám Nghệ?
        - Khi Tây đánh chiếm Biên Hoà thì Huỳnh Thiện Nghệ kéo quân ra Bắc. Tới Quảng Ngãi thì bị giữ lại chất vấn: địch tới Biên Hoà sao không đánh mà lại rút ra trung tướng làm gì? Thầy giáo Nghệ trở về Biên Hoà tiếp tục chiến đấu thì bị bịnh nặng chết trên đường hành quân.
        ***
        Tám Nghệ đơn thương độc mã tới tổng hành dinh Bảy Viễn làm bọn Phòng Nhì hét sức bất ngờ. Nhưng chúng cũng đủ thông minh để biết sứ giả của Nguyễn Bình mạo hiểm vô hang hùm là để thuyết phục Bảy Viễn đi Nam Bộ nhận chức khu trưởng. Tức là Tám Nghệ thúc đẩy kế điệu hổ ly sơn. Năm Tài và Tư Sang quyết ám sát Tám Nghệ nhưng vào giờ chót.
        Năm Tài cẩn thận dò ý Bảy Viễn. Vừa nghe Năm Tài gợi ý, Bảy Viễn đã nạt đùa:
        - Dẹp! Dẹp! Tao không cho phép bây giở trò hèn mạt đó ngay trên giang san của tao? Tám Nghệ là thượng khách của tao.
        Hai anh em họ Lại đành huỷ bỏ kế hoạch ám sát đã tính toán kỹ lưỡng. Trong tiệc rượu gọi là tái ngộ, Tám Nghệ nói rõ mục đích chuyến đi của mình, rủ Bảy Viễn cùng đi Nam Bộ nhận chức Khu trưởng:
        - Lễ tấn phong khu bộ trưởng được chuẩn bị hết sức long trọng tại Nhơn Hoà Lập, nơi Nam Bộ đóng. Có đầy đủ ba ngành Quân Dân Chánh dự.
        Bảy Viễn lắc đầu:
        - Tôi không xứng đáng với chức đó. Anh Tám có thành tích hơn tôi.
        - Anh Bảy đừng khiêm nhượng. Lãnh đạo đã cân nhắc kỹ rồi. Anh được đề bạt là cả một vinh dự cho cả giới giang hồ đi theo kháng chiến. Làm khu trưởng, anh sẽ quy tụ hào kiệt bấy lâu còn mai danh ẩn tích để hàng ngũ quân ta ngày càng thêm đông thêm mạnh.
        - Nhưng tôi đã quen với vùng Rừng Sác này, không thể dời đi nơi khác. Dân ở rừng mà về đồng bằng thì “lạnh lưng”.
        Tám Nghệ cười ha hả:
        - Cọp ở đâu cũng là cọp. Hắc Hổ Bảy Viễn ở Rừng Sác hay ở Tháp Mười cưng là cọp. Không lẽ cọp trên rừng về đồng thành chồn?
        Mắt Bảy Viễn sáng rực lên:
        - Anh Tám nói đúng: cọp ở đâu cũng là cọp. Tôi sẽ về Tháp Mười nhận chức khu trưởng.
        Cuộc hội kiến kết thúc bằng một tiệc nhậu đặc sản Rừng Sác: cua rang muối. Nhưng rượu thì là rượu chát Tây.
        Lính đem ra hai chai Bordeaux trắng và đỏ. Bảy Viễn hỏi:
        - Anh Tám dùng thứ nào?
        - Trắng đỏ thứ nào cũng ngon, nhưng dân sành điệu ăn nhậu thì uống rượu chát đỏ với món thịt, còn với món cua sò ốc hến thì dùng loại rượu chát trắng.
        Bảy Viễn cười gật gù:
        - Anh Tám sành ăn quá. Tôi thì thế nào cũng được, miễn là rượu Tây chánh hiệu.
        Hai bên cụng ly rất là tâm đắc. Tám Nghệ cười nói rốn ràng rất thoải mái:
        - Ly thứ nhất xin chúc mừng anh Bảy đầy đủ sức khoẻ để làm tròn trọng trách khu bộ trưởng khu 7, một khu cực kỳ quan trọng của Nam Bộ.
        - Còn tôi thì chúc anh Tám lập nhiều chiến công vang dội như các trận Là Ngà, Bàu Cá làm cho Tây khiếp đảm.
        Anh em Tài Sang núp gần đó thấy chủ tướng chúc tụng khách mà tức điên lên. Tây đã treo giải thưởng rất lớn cho ai lấy được đầu của Lưu Bá Thừa Việt nam là tướng độc nhãn Nguyễn Bình. Tám Nghệ là cánh tay mặt của Nguyễn Bình, chỉ cần khẽ nhẹ một phát là đi đời nhà ma. Vậy mà Bảy Viễn cứ làm kỳ đà cản mũi?
        Tám Nghệ hoàn thành nhiệm vụ thuyết khách, vui vẻ bắt tay từ giã. Bảy Viễn tiễn đưa khách quý một khúc rồi quay lại bảo Tài Sang:
        - Tao quyết định xuống Đồng Tháp nhậm chức khu bộ trưởng. Nam Bộ đã chuẩn bị lễ lạt xong xuôi, định vào ngày sanh nhật Hồ Chủ Tịch, q9 tháng 5. Mình phải sửa soạn ngay bây giờ mới kịp... Tụi bây đừng có cản! Không đi là hèn, là dại!
        Năm Tài:
        - Ngài khu bộ phó muốn đi thì phải có hộ tống hùng hậu. Với bọn Việt Minh thì phải thị uy, nếu không thì chúng dám làm ẩu.
        - Nhứt định phải vậy rồi. Tư Sang phải cấp tốc lập một lực lượng thật mạnh, chừng hai đại đội cứng, mỗi tiểu đội phải có một FM đầu bạc. Nhất là phải có một trung đội Trây-đơ để yểm trợ lúc vượt sông cái...
        Vậy là Bảy Viễn quyết định tham dự Hồng Môn hội yến tại Nhơn Hoà Lập.

Chương 48

Ý thế mạnh. Bảy Viễn về Đồng Tháp
Đem tâm can Nguyễn Bình thuyết Bình Xuyên










































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Bảy Viễn quyết định về Nam Bộ nhận chức Khu trưởng, Năm Tài biết không thể can ngăn được bèn bàn với anh là Tư Sang:
        - Chuyến đi này quyết định số phận của Bình Xuyên và cũng là số phận của hai anh em mình. Theo tôi biết thì Nguyễn Bình, Tám Nghệ không đáng sợ bằng tay quân sư Hai Trí. Tên này dám làm ẩu lắm. Cho nên anh phải luôn luôn sẵn sàng, hễ chúng nó ló mồi là mình phải đánh trước. Tiên hạ thủ vi cường.
        Tư Sang cười lớn:
        Đó là nghềcủa chàng! Chú khéo nhắc tuồng làm chi cho mệt? Kỳ này mình đưa hai đại đội cứng đi diễu võ dương oai cho chúng nó ngán. Có trung đội súng lớn với cây trây-đơ của đại đội thằng Xê bên Chi đội 4 của Mười Trí. Có cây này qua sông cái hay qua lộ Đông Dương rất an toàn.
        Năm Tài nói:
        - Về quân sự thì mình ăn trừn chúng nó, nhưng tôi vẫn thấy không an tâm. Nhất là sau khi Tám Nghệ đích thân xuống đây thuyết phục ông Bảy đi Nam Bộ. Tôi nghi là có một sự sắp đặt nào đó để đưa chúng mình vào tròng. Tôi phải hỏi ý hai ông Đường và Thiên.
        Sau khi hội ý, Lâm Ngọc Đường và Maurice Thiên nhất trí cứ để Bảy Viễn đi nhậm chức Khu trưởng rồi trở về Rừng Sác chứ không dại gì mắc kế điệu hổ ly sơn của Việt Minh. Nếu gặp trở ngại thì Năm Tài phải cấp tốc về thành chuẩn bị đón tiếp Bình Xuyên bỏ kháng chiến vế với quốc trưởng Bảo Đại. Trong khi Bảy Viễn kéo đại đội hùng binh xuống Đồng Tháp thì Maurice Thiên có nhiệm vụ thông báo kế hoạch tiến thoái của Bảy Viễn cho đại uý Savani, trưởng phòng Phòng Nhì Pháp tại Sài Gòn. Như vậy dù tình huống xoay chiều cách nào, ta vẫn ở trong thế thượng phong.
        Với mưu lược cực kỳ tinh khôn của hai bậc thầy, Tư Sang và Năm Tài yên chí lớn hộ tống Bảy Viễn xuống khu 8 nhận chức.
        Trước ngày lễ bàn giao chức Khu trưởng cho Bảy Viễn, Trung tướng Nguyễn Bình nhân danh uỷ viên quân sự Nam Bộ mời toàn bộ các chỉ huy Bình Xuyên họp để giải quyết những lấn cấn trong thời gian qua.
        Tới dự cuộc họp này ngoài Bảy Viễn có Mười Trí, Chi đội 4 nay là Trung đoàn 304: đại diện Liên khu Bình Xuyên trong Uỷ ban kháng chiến hành Chánh Thành Sài Gòn- Chợ Lớn, Trần Văn Đối (Sáu Đối) phó tư lệnh Liên khu Bình Xuyên, Nguyễn Văn Hoạnh (Tư Hoạch). chi đội trưởng chi đội 21. Mở đầu cuộc họp, Nguyễn Bình tuyên bố lý do:
        - Mấy năm nay có sự không ăn khớp giữa chúng ta, nay trước khi rời khu 7 để lãnh nhiệm vụ mới, tôi muốn chấm dứt hẳn tình trạng lủng củng đó. Tôi muốn giao lại cho anh Bảy một gia tài sung túc, giao lại một gia đình vui vẻ trên thuận dưới hoà. Tôi không muốn giao lại cho anh Bảy một cái nợ nần, khó khăn. Và trên thực tế thì Khu 7 mà tôi giao cho anh Bảy là một khu có nhiều chiến công nhất, là đàn anh trong Nam Bộ. Nhưng tôi chỉ có một thắc mắc là vì hai bên ở xa cách nên anh Bảy và tôi có nhiều sự hiểu lầm và nhiều mâu thuẫn. Các hiểu lầm và mâu thuẫn đó bị bọn Phòng Nhì lợi dụng triệt để để gây chia rẽ, cố làm tê liệt phần nào về phía anh Bảy và các anh em Bình Xuyên. Do vậy mà trong chủ trương chánh quy hoá quân đội, hai khu 8 và 9 đã làm xong rồi mà Khu 7 còn vài chi đội Bình Xuyên chưa được tổ chức thành trung đoàn. Hôm nay các anh về đây là một cuộc hội nghị lịch sử mà cũng là một điều mà tôi mơ ước bấy lâu nay.
        Trước hết, tôi xin cám ơn anh Tám Nghệ đã thi hành uỷ nhiệm của tôi tới tận nơi mời cho được các anh, nhất là anh Bảy về Nam Bộ dự lễ tấn phong khu trưởng. Nhân dịp này tôi cố gắng đánh tan những điều nghi kỵ giữa chúng ta. Đã nhiều lần, trong ba năm nay, tôi mời các anh gặp tôi nhưng lần nào cũng không thành. Bởi vì có những kẻ xúc xiểm tung tin “một đi không trở về”. Các cán bộ của khu tới các anh cũng đều bị nghi ky là người của tôi xuống dò la. Họ bị xem như là lính kín nên phải rút lui sớm. Năm kia, anh Năm Hà, tư lệnh Liên Chi 2-3 về Nam Bộ cũng phải có sự bảo đảm bằng gia đình anh Hai Trọng, anh Năm Hà mới dám đi. Và phải có một đội cảm tử theo bảo vệ. Và anh Năm Hà đã trở về bình an vô sự. Sau đó tới anh Sáu Đối, rồi nhiều anh em khác nữa. Lần lượt các anh em tới với tôi. Chỉ trừ một mình anh Bảy. Tôi biết vì sao có chuyện đáng tiếc này. Đó là vì bên cạnh anh Bảy có những kẻ cản ngăn. Chúng sợ một khi anh Bảy đã gặp tôi rồi thì chúng sẽ không còn chỗ dựa nữa. Bởi vậy chúng thêu dệt đủ điều nói xấu tôi và ngăn cản anh Bảy về Nam Bộ.
        Bây giờ xin đi ngay vô đề: Trước khi về Ban Quân sự Nam Bộ, tôi biên thư mời anh Bảy về Nam Bộ nhận chức Khu trưởng vì anh bảy là khu phó thứ nhất, rồi mới tới anh Tám Nghệ là khu phó thứ hai.
        Anh Tám Nghệ nhất trí với tôi trong việc đề cứ anh Bảy là Khu Bộ trưởng và hứa sẽ hết sức giúp đỡ anh Bảy làm tròn nhiệm vụ cũng như trước đây anh Tám Nghệ đã giúp tôi. Nếu anh Bảy cần đưa một người tin cẩn vô Bộ Tư lệnh thì chỉ dề nghị. Để sau này không xảy ra những lủng củng như trước đây. Đó chính là lý do cuộc họp hôm nay. Nhân dịp này, tôi yêu cầu các anh mạnh dạn đưa ra những gì còn thắc mắc để chúng ta giải quyết một lần cho xong. Và tôi xin xung phong kể ra những thắc mắc của tôi đối với anh Bảy:
        - Thứ nhất: anh Bảy thị chứng bức thư của Lai Hữu Tài mạt sát tôi trong cương vị uỷ viên Quân sự Nam Bộ.
        - Thứ hai: anh Bảy bao dung cho Lâm Văn Hậu. Tịnh Độ Cư Sĩ thuộc Đệ Tam sư đoàn đi qua khu vực Bình Xuyên tuyên truyền kền gọi anh em chiến sĩ bưng biền về thành đầu Tây.
        - Thứ ba: anh Bảy chứa chấp Nguyễn Thành Long, Bùi Hữu Phiệt, Lai Hữu Tài đã âm mưu ám sát tôi mà không chịu giải giao về Sở tư pháp.
        - Thứ tư: anh Bẩy để hai tên Lâm Ngọc Dường, Maurice Thiên lấy danh nghĩa của anh để làm tiền như chứa bài lấy xâu, đồng thời chúng cũng giăng lưới bắt các nhân viên chánh phủ hoạt động ở thành.
        Bảy Viễn cau mày lộ vẻ khó chịu. Nguyễn Bình quay lại Mười Trí:
        Còn về anh Mười Trí thì tôi cũng có vài điều tâm sự:
        - Thứ nhất: anh Mười mang nặng đầu óc Mạnh Thường Quân nên chứa chấp bao dung nhung kẻ tới xin trú ngụ dưới trướng. Anh Mười không biết đó là những kẻ phản động như Vũ Tam Anh tức Nguyễn Ngọc Nhẫn. Tên này đã đánh chết lính gác cùng với Trần Quang Vinh vượt ngục. Rồi đến tên Nguyễn Hoà Hiệp, Đệ Tam sư đoàn. Anh Mười đã làm giấy bảo lãnh cho nên này để cho nó đem quân ra đầu Tây.
        Điều đáng trách là anh Mười để hai tên Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt mạt sát Chính phủ cụ Hồ ngay trước mặt tôi, ông kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích, ông Nguyễn Kim Cương, đồng thời chúng ca ngợi hai ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam khi tôi tới viếng thăm anh Mười sau trận ấp số 10.
        Cũng như anh Bảy Viễn, anh Mười đã thị chứng bức thư Vũ Tam Anh mạt sát tôi. Anh Mười không thi hành lịnh bắt Vũ Tam Anh của tôi vì nó khóc lóc xin anh che chở. Tóm lại những tên nguy hiểm theo Pháp chống Kháng chiến đều có mặt trong Chi đội 4 của anh Mười. Quan trọng hơn hết là vụ tên Sáu Section nhân danh anh Mười mời tôi tới Chi đội 4 để chúng phục kích ám sát tôi. Việc tày trời như vậy mà tôi đều bỏ qua vì biết anh Mười vô tâm, chỉ bị bọn phản động lợi dụng tính hào hiệp mà thôi...
        Quay sang Tư Tỵ, Nguyễn Bình nói tiếp:
        - Còn về phần anh Tư Tỵ buồn tôi vì tôi đã xuống lịnh cho bắt Trần Quốc Bửu tá túc Chi đội 25 của anh Tư. Tôi biết các anh công nhận các việc làm của tôi là vì quyền lợi quốc, không vì quyền lợi đảng phái hay cá nhân. Vì biết như vậy nên các anh mới bấm bụng bỏ qua. Như thế là cả hai bên chúng ta đều vì đại sự mà bỏ qua tiểu tiết. Hôm nay tôi nhấn mạnh: tôi rất kính trọng các anh là những bậc anh hùng nghĩa hiệp, bao dung đại lượng, khoan hồng tha thứ, các anh là những nhà chân chánh ái quốc, những tướng lãnh bài Pháp, ghét Pháp hơn ai hết. Vì hiểu nhau, tha thứ cho nhau, cố gỡ rối cho nhau, giữ uy tín và danh dự cho nhau là bước đầu đi tới thành công. Để dứt lời, tôi đề nghị chúng ta hãy nói hết sự thật, cái gì dở thì bỏ, cái gì hay thì làm.
        Vừa rồi chúng tôi bắt được tên Phán Huề bí mật vô khu để lôi kéo các vị chỉ huy Bình Xuyên về thành dưới chánh phủ thủ tướng Nguyễn Văn Xuân. Chủ tâm của tên Phán Huề này là tìm tới khu bộ phó Lê Văn Viễn để bầy mưu lập chiến khu quốc gia giả hiệu mà chúng tôi gọi là chiến khu ma. Tại sao Tây nhắm vào Bình Xuyên? Vì chúng đã cấy được những tên lợi hại Lâm Ngọc Đường, Maurice Thiên, Lai Hữu Tài, Lai Văn Sang bên cạnh anh Bảy. Chúng tin rằng anh em Bình Xuyên sẵn sàng theo Bảo Đại. Để chống lại chủ trương mua chuộc Bình Xuyên, tôi đề nghị một giải pháp sau đây: bỏ hẳn danh từ Bình Xuyên. Không còn Bình Xuyên thì địch không thể nhân danh Bình Xuyên tuyên truyền cho Bảo đại. Đã bỏ hẳn danh từ Bình Xuyên thì không còn Bộ tư lệnh Bình Xuyên, không còn quân đội Bình Xuyên. Anh em sẽ mang một cái tên chung là Vệ Quốc Đoàn. Từ nay chỉ có một chánh phủ, một quân đội. Không thể có một chánh phủ trong Chánh phủ. Khu Rừng Sác sẽ được tổ chức lại thành một thành trì kháng chiến. Việc thu thuế thuỷ lảm giao lại cho ngành thuế vụ bên hành chánh cho có nề nếp.
        Trước khi dứt lời, tôi nhấn mạnh lại một điểm: bạc triệu tiền muốn cũng dễ kiếm, nhưng danh dự anh hùng mà các anh đang có rất quý, vì danh dự đó không thể mua bằng tiền hay bằng vàng, vì danh dự đó được tạo ra bằng tấm lòng yêu nước yêu dân, vì đại nghĩa mà hy sinh tất cả mọi thứ trên đòi. Nếu các anh giữ được danh dự cao quý đó thì tôi cũng được thơm lây vì đã có mắt chọn đúng người đặt đúng chỗ.
        ***
        Nguyễn Bình nói một tiếng đồng hổ với tất cả tấm lòng, từng lúc dừng lại để quan sát phản ứng của các tư lệnh Bình Xuyên Tất cả các khuôn mặt đều nghiêm nghị vì những tiết lộ của Nguyễn Bình đều chính xác mà Bảy Viễn, Mười Trí đều muốn giấu.
        Đến đề nghị cuối cùng, tất cả tư lệnh Bình Xuyên đều nhăn mặt: Giải tán Bình Xuyên? Không đời nào!
        Và chuyện phải đến đã đến.

Chương 49

Mất Bình Xuyên, Bảy Viễn phẫn chí
Cướp Rừng Sác, Hai Trí thị oai











































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Ngày 26-5-1948 đi vào lịch sử cuộc kháng Pháp như là một cái mốc quan trọng: Ban Thường Vụ Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ họp khoáng đại để giải quyết những xung đột giữa Bộ tư lệnh khu 7 và các chỉ huy Bình Xuyên. Có mặt trong cuộc họp này về phía Uỷ ban là các ông Phạm Ngọc Thuần, quyền chủ tịch Uỷ ban, trung tướng Nguyễn Bình, Phó chủ tịch Uỷ ban kiêm khu trưởng Khu 7, Ung Văn Khiêm, uỷ viên Nội Vụ, Nguyễn Thành Vĩnh uỷ viên tài chánh, Kha Vạn Cân, uỷ viên Kinh tế, Lê Duẩn, Trưởng phòng dân quân, Diệp Ba, giám đốc Sở công an, Lê Đình Chi, giám đốc Tư pháp khu 7, Trịnh Đình Trọng, Trưởng phân sở A, Sở Thông tin - tuyên truyền, Phan Văn Chương, Đổng Lý sự vụ uỷ ban. Về phía Bình Xuyên có các ông Lê Văn Viễn, Khu phó Khu 7, Huỳnh Văn Trí, Trung đoàn trưởng trung đoàn 304, Trần Văn Đôi, phó tư lệnh Liên khu Bình Xuyên, Nguyễn Văn Hoạnh, chi đội trưởng chi đội 21. Ngoài ra còn có hai ông Huỳnh Văn Nghệ, khu phó Khu 7 và Nguyễn Văn Trấn, khu phó Khu 9.
        Ông Thuần chủ toạ cuộc họp. Vì đây là hội nghị quan trọng nên phải hai thơ ký: ông Bảy Trấn và Diệp Ba.
        Chương trình nghị sự giữa ba điểm: Tình trạng chung Khu 7, tìm giải pháp chung và giải quyết những vấn đề chi tiết.
        Mở đầu cuộc họp, Bảy Viễn nhấn mạnh:
        - Tôi là một chiến sĩ cách mạng. Tôi chiến đấu cho Tổ quốc dưới mạng lịnh của chánh phủ. Tất cả chiến sĩ Bình Xuyên chiến đấu cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Giữa tôi và ông khu trưởng không có vấn đề gì ông khu trưởng muốn bắt một số nhân viên của tôi, cho là tay sai Phòng Nhì, tôi không bao giờ che đậy em út. Nếu chúng có tôi thì tôi trừng trị ngay. Tôi yêu cầu ông Khu trưởng trưởng bằng cớ, nhưng tới nay thưa được trả lời...
        Ông Tám Nghệ phân tách tình hình Khu 7 như sau:
        - Khu 7 chia làm ba khu riêng biệt là Khu 7, địa phương Sài Gòn- Chợ Lớn và Liên khu Bình Xuyên.
        Ba khu này đóng xa nhau nên không thống nhất về tổ chức, các hoạt động thường dẫm chân nhau như vấn đề thu thuế chẳng hạn, do vậy mà mất đoàn kết.
        Ngay trong Bộ Tư lệnh Khu 7 cũng lủng củng vì một khu phó sống riêng, có quân đội riêng. Tình trạng này không thể kéo dài được.
        Ông Thuần nối lời:
        - Tình hình Khu 7 cần được chấn chỉnh lại. Tôi đề nghị giải pháp: thống nhất chỉ huy để thống nhất hành động.
        Trung tướng Nguyễn Bình nói:
        - Sau khi tham khảo nhiều người, tôi đề nghị Bộ Tư lệnh Khu 7 gồm có các ông sau đây: ông Lê Văn Viễn, Khu bộ trưởng, ông Huỳnh Văn Nghệ khu bộ phó, ông Nguyễn Văn Trấn; chánh trị viên. Ông Bảy Trấn hiện là khu phó khu 9, ông Viễn xin ông Trấn về làm việc chung với ông, chúng tôi thấy đề nghị hợp lý nên điện mời ông Trấn lên đây dự cuộc họp này.
        Ông Nguyễn Văn Trấn đứng lên nói:
        - Tôi cám ơn ông Lê Văn Viễn đã đề nghị tôi làm chánh trị uỷ viên. Đây là sự tín nhiệm của anh Bảy đành cho tôi. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu trọn khu bộ cũ đi hết thì công việc sẽ ngưng trệ ít nhất là trong thời gian đầu. Cho nên tôi đề nghị ông chánh trị uỷ viên cũ ở lại còn tôi thì chỉ muốn làm thư ký riêng cho anh Bảy.
        Mọi người đều ngó về phía ông Hai Trí chờ ông phát biểu nhưng ông Lê Duẩn nói:
        - Đi hết sẽ có ngừng trệ nhưng Khu sẽ gởi một số cán sự về tăng cường. Ông uỷ viên chính trị Nguyễn Văn Trí có thể ở lại phụ trách lớp cán sự ấy và cũng sẽ ở gần các ông để giúp trong lúc đầu.
        Ông Mười Trí nói:
        - Vế vấn đề thanh trừng, tôi nhìn nhận có chứa chấp vài người chống phá kháng chiến, chúng tôi làm như vậy vì họ năn nỉ ỉ oi xin bảo bọc. Tôi không nỡ bỏ rơi những kẻ sa cơ thất thế. Trong số đó lại có chăng người trước đây là bạn nữa. Còn về phần tôi thì tôi xin nhắc lại là tôi theo kháng chiến không ngoài mục đích cứu quốc. Nếu trung tướng hiểu lầm tôi thì đó là do nhưng người ở gần trung tướng nói xấu tôi...
        Nguyễn Bình liền đứng lên:
        - Anh Mười hãy an tâm. Tôi không bao giờ hiểu lầm anh Mười đâu. Tôi biết anh Mười vô tâm, anh chứa những kẻ kia là vì bản tánh Mạnh thường quân mà thôi, chớ không có ý đồ chống phá cách mạng. Nhân đây tôi đề nghị bàn về các tay Lâm Ngọc Đường, Maurice Thiên, Lai Hữu Tài đang xâm nhập vô hàng ngũ chiến binh Bình Xuyên.
        Bảy Viễn cau mày khó chịu trước khi nói:
        - Tôi đề nghị gác lại. Chờ Ban chỉ huy thành lập xong rồi chúng ta giải quyết. Luôn tiện tôi xin nói rõ cho quý vị biết là không bao giờ tôi để cho Tư Thiên lôi kéo. Chính tôi lợi dụng nó để giúp các Ban công tác Thành hoạt động. Nó là người bạn lâu đời của tôi. Khi Pháp chiếm Sài Gòn, nó bị Tây bắt giam sáu bảy tháng. Nó được thả ra với điều kiện phải làm việc cho Đơ dèm Buy-rô với thằng quan hai Huc. Điều đó tôi có biết. Tôi lợi dụng nó chớ không phải nó lợi dụng tôi.
        Ông Thuần kết thúc cuộc họp:
        - Hội nghị thành công tốt đẹp là nhờ tất cả đặt mọi vấn đề trên lập trường cứu quốc. Tôi có cảm tưởng như đây là một hội nghị gia đình, tất cả mọi người thân ái với nhau.
        Ông đốc phủ Chương im lặng suốt cuộc họp đưa tay xin nói:
        - Thú thiệt là từ nãy giờ tôi rất lo. Nay nhờ ông Trung tướng và ông Khu bộ phó Lê Văn Viễn đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên hết mà dẹp qua các vấn đề cá nhơn, mọi việc được giải quyết dễ dàng. Tôi mừng lắm. Tôi đã già rồi nhưng tôi xin sẵn sàng làm thân trâu ngựa để phụng sự mấy ông.
        Mọi người đều cảm động trước lời lẽ chân tình của ông đốc phủ yêu nước đã dám bỏ chức đô trưởng Sài Gòn - Chợ Lớn để ra bưng kháng chiến. Ông Ba Duẩn vội nói:
        - Xin ông Đổng Lý chớ nói vậy. Đúng ra là ông Đổng Lý đáng là người cha của chúng tôi. Chúng tôi chỉ là con cháu của ông thôi. Nghe ông nói, chúng tôi không thể nào không đoàn kết với nhau được.
        Nguyễn Bình hân hoan nói:
        - Tôi rất sung sướng trước kết quả của cuộc họp hôm nay. Chúng ta sẽ cố gắng thực hiện những lời hứa hôm nay để Hồ Chủ tịch khỏi còn lo ngại về chúng ta nữa.
        ***
        Hội nghị kết thúc tốt đẹp, nhưng đó chỉ là mặt nước hồ thu. Dưới đây có những ngọn sóng ngầm.
        Bảy Viễn trở về nơi đóng quân thì bộ tham mưu xúm lại bàn. Tả thừa tướng Năm Tài lắc đầu:
        - Hai ông Đường và Thiên nhận định thật là tài: Chúng nó bày trò phong chức khu trưởng cho ông Bảy nhưng lại quyết định huỷ bỏ toàn bộ danh hiệu Bình Xuyên. Như vậy cái chức Khu trưởng của ông Bảy chỉ là một cái bánh vẽ to tướng. Không có Bình Xuyên làm hậu thuẫn thì ông Bảy nói ai nghe? Thà làm khu bộ phó mà giữ được danh nghĩa Bình Xuyên thì còn ngon bằng mười lần. Tướng mà không quân thì oai gì
        Bảy Viễn ngồi buồn hiu suy nghĩ:
        - Mấy nói đúng! Mất danh nghĩa Bình Xuyên là mất tất cả! Bây giờ mình phải làm gì? Tụi nó đã quyết định dẹp bỏ hai tiếng Bình Xuyên vì biết thằng Tây đang có ý đồ mua chuộc Bình Xuyên để làm hậu thuẫn cho cựu hoàng Bảo Đại. Mình làm sao đây?
        Năm Tài hiến kế:
        - Không còn con đường nào khác. Mình kéo quân về Rừng Sác tuyên bố lập chiến khu quốc gia. Mình đứng giữa, cứ để Việt Minh với Tây choảng nhau, mình ngồi coi chơi. Đó là kế “bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”, tức là cò ngao trì kéo nhau ông câu bất được cả hai. Ông Bảy thấy tính vậy được không?
        Bảy Viễn quay qua Tư Sang:
        - Mấy thấy thế nào?
        Tư Sang gật:
        - Năm Tài tính nước đó cũng khá. Theo tôi thì tạm thời ta án binh bất động. Hễ chúng nó rục rịch thì ta ra tay trước.
        Đóng quân tại làng Nhơn Hoà Lập được hai ngày đến ngày thứ ba thì hai tên Cung và Hoằng từ tổng hành dinh Bảy Viễn hớt hãi tới báo tin chẳng lành: “Rừng Sác đã bị tảo thanh”.
        Tin như sét đánh giữa trời quang, Bảy Viễn cùng gia tướng hoang mang rụng rời:
        - Nói rõ hơn nghe coi! - Bảy Viễn nóng nẩy ra lịnh.
        - Tụi nó đã tính trước rồi. Ông Bảy đi được mấy ngày thì chi đội nào cũng xảy ra chuyện bắt bớ lung tung. Bên chi đội 9 thì Tám Tâm cầm đầu kéo quân đi lục xét, ông Lâm Ngọc Đường nhanh chân nhay vô tang, không biết có trốn thoát được hay không. Bên Chi đội 25, ông Tư Tỵ vừa đưa vợ về thành cũng đã bị Lưu Quý Thoái bắt...
        Bảy Viễn giậm chân kêu trời:
        - Tháng Tám Tâm! Rõ ràng là mình nuôi ong tay áo! Phải chi trước đây mình giết phắt nó thì bây giờ đâu bị hậu hoạn.
        Năm Tài lắc đầu:
        - Tám Tâm chỉ là con tốt thôi ông Bảy à. Chỉ mưu việc này là thằng cha quân sư Hai Trí. Chính nó đã bày ra kế điệu hổ ly sơn. Chính nó đã sai Tám Nghệ mạo hiểm xuống Lý Nhơn để giở trò khích tướng. Mình vừa đi là chúng “cướp sơn trại”.
        Tư Sang nghiến răng:
        - Mấy thằng Việt Minh này chơi không được? Phải đập chúng một trận!
        Bảy Viễn thở dài:
        - Rừng Sác đã bị phá nát rồi, mình biết về đâu bây giờ?
        Năm Tài:
        - Hai ông Thiên và Đường đã dặn tôi: nếu xẩy chuyện bất lành thì cứ đưa hết đại đội hùng binh về thành. Tướng De la Tour sẵn sàng đón tiếp Bình Xuyên về với Cựu Hoàng Bảo Đại. Ông Bảy nên tính ngay đi. Ngay đêm nay tôi tốc về thành, dọn đường tnrớc. Tướng De la Tour sẽ đón ông Bảy tại cửa ngõ Sài Gòn với tất cả nghi lễ dành cho một tướng lãnh Bình Xuyên trở về với chính nghĩa quốc gia.
        Bảy Viễn cứ lắc đầu thở dài. Tư Sang khoát tay cho Năm Tài lui ra:
        - Cứ đi đi! ông Bảy không còn con đường nào khác!

Chương 50

Bảy Viễn đi, Mười Trí thanh minh
Chận đại đội, Nguyễn Bình tước súng












































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


        Bảy Viễn rút quân về thành trong tình thế cực kỳ gay cấn. Nguyễn Bình biết trước ý đồ đó nên cho các chi đội đuổi theo đồng thời điện các đơn vị ở ven đô chân đường chạy về thành. Lúc Bảy Viễn với sông Vàm Cỏ, Mười Trí ra đón và hứa sẽ thuyết phục Bảy Viễn bỏ ý định về thành để các chi đội bạn không đuổi theo hai đại đội của Bảy Viễn, tránh nạn nổ súng huynh đệ tương tàn.
        Mười Trí hết lời can gián nhưng Bảy Viễn chỉ thở dài:
        - Nhục lắm! Tao đã thua trí tụi nó. Tao đã lầm kế “điệu hổ ly sơn“ của hai thằng Nguyễn Bình với Hai Trí. Trong lúc họp ở Đồng Tháp thì chúng nó tảo thanh Rừng Sác. Sào huyệt tan hoang, tao có gì nữa mà ở lại? Đành phải noi gương người xưa mượn đất Kinh Châu mà ở đó chờ thời.
        Không giữ Bảy Viễn được, Mười Trí tìm cách giảm bớt tổn thất cho kháng chiến. Ông bí mật dặn thằng Ly là con đầu lòng của ông ra lịnh cho đại đội trưởng Xê không được đưa đại đội trọng pháo qua sông Vàm Cỏ khi chưa có lịnh của Mười Trí. Đại đội trọng pháo do Xê chỉ huy là của chi đội 4 Mười Trí cho Bảy Viễn mượn để lập liên quân định thị uy Nam Bộ.
        Vậy là trên đường về thành, Bảy Viễn mất hết một đại đội. Vào giờ chót thì Bảy Cao với hai tiểu đội của Bảy Viễn chạy về Nam Bộ ra mặt Nguyễn Bình.
        Bảy Viễn về thành rồi, Mười Trí nhận khuyết điểm với uỷ viên quân sự Nam Bộ là đã không giữ được Bảy Viễn. Anh Ba Bình mỉm cười trao cho Mười một tờ truyền đơn máy bay Pháp vừa rải xuống Đồng Tháp. Đó là tuyên ngôn của Khu bộ trưởng Lê Văn Viễn khi trở về với chánh nghĩa quốc gia.
        Mười Trí cau mày tức giận:
        - Rõ ràng đây là lời lẽ của bọn Pháp chớ đâu phải của Bảy Viễn. Mấy chữ “cộng sản độc tài”, “chiến sĩ Bình Xuyên bị ngược đãi” là giọng điệu của thằng Tây. Chúng viết sẵn, Bảy Viễn chỉ ký thôi.
        Anh Ba nói:
        - Chống lại truyền đơn này chỉ có anh Mười là có đủ uy tín, vì anh là bạn giang hồ đồng sanh đòng tử với Bảy Viễn. Anh Mười nên ra một bản thanh minh. Được chứ?
        Mười Trí gật:
        - Tôi sẽ thảo ngay tại đây.
        Anh Ba Bình đọc xong gật đầu khen:
        - Anh Mười viết ngắn mà hay. Để tôi in cho.
        Ông đọc lần nữa bức thanh minh:
        “Ông Lê Văn Viễn đã gạt được một ít chiến sĩ ra đầu Tây Vừa rồi ông ra tuyên ngôn ủng hộ bù nhìn Bảo Đại và Nguyễn Văn Xuân. Trước đây có Nguyễn Hoà Hiệp, Năm Lửa, nay tới Bảy Viễn. Bọn chạy theo giặc thì đồng bào Nam Bộ chẳng lạ gì. Nhưng tôi là bạn thân với Bảy Viễn nên phải có đôi lời thanh minh:
        Tôi rất buồn đã không ngăn cản được người bạn đã thề đồng sanh đồng tử từ thuở nhỏ. Chúng tôi từng đi giang hồ, từng chống cường quyền thực dán, từng vào tù ra khám, nhiều lần vượt ngục Côn Đảo về đất liền. Từ năm 1945 chúng tôi đi kháng chiến đánh Tây giành độc lập. mỗi người đóng quân một nơi nên chúng tôi ở xa nhau. Do đó mà bọn phản động chui vào xúi giục Bảy Viễn chóng Việt Minh. Nay thì Bảy Viễn ra mặt đầu Tây không màng lời khuyên can của tôi Bảy Viễn đã chôn vùi thanh danh giang hồ mã thượng, thiêu huỷ sự nghiệp ba năm chiến đấu chống thực dân.
        Xem bản tuyên ngôn, tôi thấy rõ lời lẽ của bọn Pháp và Việt gian chớ không phải của Bảy Viễn. Chúng làm sẵn cho Bảy Viễn ký.
        Tôi bác bỏ tình bạn bè qua một bên, cương quyết theo kháng chiến tới cùng để giành Độc lập, Tự do và Hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Vi chánh nghĩa, vì quốc dân, ta quyết chiến, ta sẽ thắng.
        Văn phòng quân sự, ngày 25-6-1948
        Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304
        Huỳnh Văn Trí.
        Cùng lúc đó thì Bộ tư lệnh khu 7 cũng nhận được công điện 36 đánh từ ngày 10-6 của các chi đội 2, 3, 4, 5, 7, 9, 21, và 25. Nội dung như sau:
        “Yêu cầu quý vị chuyển lên Uỷ ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ và Bộ Quốc Phòng nguyện vọng của chúng tôi:
        1. Chiến sĩ Bình Xuyên chúng tôi đã đổ xương máu chiến đấu trong ba năm nay không phải là một vài tên du đãng thổ phỉ hay bọn phòng Nhì, côm-man-đô!
        2. Những người anh cả chúng tôi là Khu bộ phó Dương Văn Dương, ông Tám Mạnh, ông Năm Hà.
        Còn mấy ông Viễn, Trí, Hoạnh, gần đây đã truỵ lạc không xứng đáng là đàn anh của chúng tôi nữa.
        3. Chúng tôi hy sinh cho Tổ quốc chớ không hy sinh cho cá nhơn bọn anh chị không xứng đáng ấy.
        4. Yêu cầu cho chúng tôi làm người chiến sĩ của quốc gia chớ không phải làm nô lệ cho bọn quân phiệt”.
        Lê Tâm không thể quên được chuyến đi tước súng một đại đội của Bảy Viễn khi tay này chạy về thành.
        Vừa hay tin, anh Ba quyết định dẫn quân đi tước võ khí đại đội nói trên để tránh những vụ va chạm đổ máu có thể xảy ra. Đây là một đại đội mạnh, mỗi tiểu đội đều có cây “luộc (mitrailleuse lourde) loại sết-sết bắn đạn nồi. Đại đội đang trong thế nghỉ ngơi nhưng rất trật tự. Anh Ba cho quân của mình dừng lại đằng xa và chỉ đi một mình với Lê Tâm đến trước ban chỉ huy đại đội.
        Lê Tâm không hiểu vì sao anh Ba lại đưa anh đi theo, chưa hỏi thì anh Ba đã nói: “số vũ khí này sẽ giao cho quân giới để sau đó phân phối cho các đơn vị nào thiếu”.
        Sự xuất hiện của trung tướng Nguyễn Bình khiến cả đại đội đặc biệt chăm chú. Hàng trăm cặp mắt ngó lom lom. Nhưng thấy vị tư lệnh đi tới một mình, không có súng gì cả, họ yên chí.
        Anh Ba hỏi ban chỉ huy:
        - Có phải các đồng chí là đại đội của Bảy Viễn bỏ lại?
        Đại đội trưởng Xê chào:
        - Thưa trung tướng, chúng tôi là đại đội súng lớn của Chi đội 4, là một trong hai đại đội theo hộ tống anh Bảy Viễn về nhận chức khu trưởng khu 7. Nhưng hay tin anh Bảy Viễn quyết định về thành, chúng tôi được anh Mười Trí ra lịnh tách ra.
        Anh Ba nói:
        - Thái độ của các đồng chí như vậy là rất tốt.
        Nhưng trong tình thế hiện nay, các đồng chí nên trao vũ khí cho Bộ Tư lệnh để tránh những va chạm với các đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ...
        Đại đội trưởng Xê kêu lên:
        - Tước súng của chúng tôi à? Không đời nào chúng tôi để tước súng. Đó là cái nhục mà không một chiến sĩ nào chấp nhận...
        Một người khác hoạ theo:
        - Nếu trung tướng không tin chúng tôi thì chúng tôi xin tự sát trước mặt trung tướng.
        Tới đây thì cả đại đội đều chụp súng chờ lịnh chỉ huy. Tình thế căng thẳng. Lê Tâm nghĩ thầm: “Nếu lính nổ súng vào anh Ba và mình thì đúng là bi kịch”. Nhưng anh Ba vẫn bình tĩnh nói:
        - Đừng! Đừng chết vô lý như vậy. Hãy giành cái chết trước quân thù, chết vì lý tưởng cao cả, chết vì độc lập, tự do thì nên, còn chết vì sự hiểu lầm giữa chiến hữu thì không nên. Tôi xin nói rõ một lần nữa ý định của tôi: Trong khi Bảy Viễn trốn về thành, các đồng chí tách ra: ở lại đây là một quyết định sáng suốt. Nhưng trong tình thế hiện nay, các đơn vị đã được báo động. Đã có lịnh tước vũ khí các đại đội của Bảy Viễn. Nếu các đồng chí nào không nghe lời tôi thì sẽ có những vụ xô xát đẫm máu đáng tiếc. Tốt hươn là giao súng ngay bảy giờ để rồi sau này súng sẽ trở về tay các đồng chí...
        Đại đội xôn xao, các chỉ huy phân vân. Anh Ba nói tiếp:
        - Tôi lấy danh dự trung tướng hứa chắc với các đồng chí: đây là biện pháp cần thiết đề bảo vệ các đồng chí. Sau này khi tình hình bớt căng, xét thấy các đồng chí là người chiến sĩ trung thành với cách mạng thì tất nhiên súng sẽ được giao trả lại các đồng chí. Tôi là quân nhân tôi biết cái nhục bị tước vũ khí, nhưng vì sinh mạng chung cho các đồng chí lẫn các đơn vị bảo vệ chiến khu, đề nghị các đồng chí cho giải giới!
        Ban chỉ huy đại đội gạt đầu quân lịnh. Cả đại dội vừa rơi nước mắt vừa hạ súng, dựng súng từng to ba người hình trụ. Anh Ba khoát tay cho bộ đội tới gom súng. Và đưa đại đội của Mười Trí về nơi tạm trú.
        Lê Tâm mừng rỡ: tấn bi kịch đã kết thúc êm đẹp. Đó là một bi kịch lạc quan. Nếu một người nào khác không phải là anh Ba thì không biết sự việc sẽ diễn biến thế nào.
 

Chương 51

Với Hai Trọng, Nguyễn Bình tâm sự
Đi vào Nam vì mến dân Nam.












































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Ba Dương tử trận ở Bến Tre, Hai Trọng được anh Ba Bình đề đạt uỷ viên quân sự liên tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Trong một chuyến về Khu họp, anh Ba Bình lại đề nghị rút anh về làm cán bộ nghiên cứu đặc trách các bộ đội Bình Xuyên. Một lần nữa, Hai Trọng vui lòng về làm việc bên cạnh Nguyễn Bình.
        Thú vị nhất là những lúc cơm tối xong, rảnh rỗi, hai anh em ngồi dưới ngọn đèn bão - loại đèn đặc biệt có thể xách đi dưới cơn giông bão mà không tắt - khi thì đọc báo lúc bình thơ. Cả hai đều yêu văn thơ, tuy không viết văn làm thơ nhưng biết thưởng thức một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Anh Ba Bình rất thích đọc báo thành. Lúc đó báo Sài Gòn chia làm hai phe, một vài tờ lãnh lương của Pháp nói xấu kháng chiến.
        Tất nhiên chúng nhằm vào các vị đứng đầu. Còn đại đa số báo khác đều ủng hộ cuộc kháng chiến. Hai tờ Phục Hưng và Tương Lai là hai tờ ra mặt chống kháng chiến. Các tờ khác nằm trong phe báo chí thống nhất chống thuyết phân ly của thực dân. Anh Ba Bình đọc hết cả hai phe chống và ủng hộ kháng chiến.
        Hai Trọng hỏi:
        - Sao anh Ba mất thì giờ đọc bọn bồi bút này?
        Anh Ba mỉm cười:
        - Phải đọc cho biết mình yếu chỗ nào. Người xưa nói kẻ nói xấu ta là kẻ giúp ta hoàn thiện. Cho nên đọc những người khen ta thì thích, nhưng đọc những kẻ chê ta lại càng thích hơn... Đây anh xem bài này.
        Anh Ba trao tờ Journal d Extrême Orient, tờ báo cực kỳ phản động... Chúng nó phong cho tôi cái tên độc đáo: Nguyễn Binh, Lưu Bá Thừa Việt Nam. Anh có biết tại sao không?
        - Lưu Bá Thừa là tướng một mắt và là tướng chuyên đánh du kích, là hung thần đối với quân Nhật xâm chiếm Trung Hoa...
        Vào giữa năm 48, Hai Trọng thấy anh Ba bỗng nhiên không được vui. Anh Ba nói:
        - Không hiểu vì sao ông Cụ lại đánh cho mình cái điện này...
        Anh Ba trao bắc điện cho Hai Trọng. Nội dung bức điện vắn tắt vài câu hỏi thăm súc khỏe và quan trọng nhất là câu này: Bác tin chú giữ được tình đoàn kết vì chỉ có đại đoàn kết mới đưa tới đại thành công.
        Chờ Hai Trọng xem xong, anh Ba nói:
        - Tuy Bác chả trách nhưng...
        Anh Ba thở dài. Một lúc sau anh lấy giấy bút thảo một bức điện hồi âm: “Thưa cha, con có bao giờ dám quên lời Cha dặn lúc con vế thủ đô...”
        Anh suy nghĩ mọt lúc rồi bỏ bút xuống, nhìn Hiai Trọng, mắt sáng lên như chợt lóe ra sáng kiến.
        - Đồng chí Trọng. Tôi nhờ đổng chí một việc. Một việc rất hệ trọng. Đồng chí ra Bắc báo cáo tình lình miền Đông thay tôi. Ông Cụ và Bộ Tổng cần biết tình hình hiện nay, những việc đã làm được và những việc chưa làm được. Hai Trọng giật mình. Anh hoàn toàn bất ngờ trước sự tín nhiệm anh Ba Bình dành cho anh. Trách nhiệm quá lớn lao, anh sợ không đủ sức. Thấy anh lúng túng. anh Ba nói tiếp:
        - Lúc này tôi không thể rời chiến trường miền Đông được. Mà ngoài kia thì cần nắm tình hình Nam Bộ. Trong vài ngày nữa sẽ có một phái đoàn quân dân chánh ra Trung ương. Tôi chỉ định anh thay mặt tôi báo cáo tình hình quân sự trong Khu 7. Đặc biệt nhấn mạnh vào việc tập hợp các lực lượng võ trang, giải quyết các mối bất hoà mất đoàn kết vì đầu óc địa phương cục bộ cá lớn nuốt cá bé... Anh cần nghiên cứu đặc tính của từng đơn vị, tác phong của từng chỉ huy Bình Xuyên phải được điều tra, phân tách và tổng kết quá trình chuyển biện, từ các tay giang hồ lục lâm thảo khấu mà nay chịu theo cách mệnh đánh giặc gan lì, lập nhiều chiến công. Vì nhưng nguyên do nào mà có sự lột xác để thân sâu hoá bướm...
        Hai Trọng lắng nghe hết sức chăm chú và thấy với lời giãi bày đó, tự thấy có thể làm được báo cáo anh Ba giao.
        Như thấy được sự tự tin đang dần dần hiện ra trên nét mặt Hai Trọng, anh Ba nói tiếp:
        - Đồng chí ngạc nhiên khi tôi chỉ định đồng chí thay tôi ra Bắc, nhưng tôi đã tính kỹ rồi. Lâu nay đồng chí đặc trách liên lạc giữa tôi và anh em Bình Xuyên. Anh đã ở bên cạnh đồng chí Ba Dương từ những trận đánh đầu tiên. Anh Ba Dương tử trận, anh vẫn bám sát Liên Chi 2 - 3 của đồng chí Năm Hà. Anh cũng có dịp biết các chỉ huy các Chi đội 4, 7, 9, 21, 25 - tóm lại là biết tất cả anh em chỉ huy trong Liên Khu Bình Xuyên những tay Mười Trí, Hai Vĩnh, Bảy Viễn, Tư Hoạnh, Tư Ty... anh đều biết cả. Vậy ngay từ đêm nay anh hãy phác thảo cho tôi về các phe nhóm Bình Xuyên trước cách mạng. Sau đó họ lập bộ đội theo kháng chiến. Họ quan niệm cuộc sống mới như thế nào? Họ nghĩ gì về sự lãnh đạo của chúng ta? Qua đó, đồng chí mạnh dạn vạch ra những ưu điểm và những khuyết điểm của ta trong chủ trương thanh trừng bọn Cao Đài phản động do Hộ pháp Phạm Công Tắc từ Toà Thánh Tây Ninh điều khiển...
        Hai Trọng hí hoáy ghi nhanh chỉ thị giảng của anh Ba. Anh không học tốc ký nhưng nắm lấy ý chánh, gạch đầu dòng thành một dàn bài theo kiểu các nhà báo trong các cuộc phỏng vấn đột xuất. Anh Ba nói tiếp:
        - Anh tranh thủ làm thật nhanh. Tối mai, ta sẽ duyệt báo cáo. Vì tuần sau phái đoàn đồng chí Trần văn Trà sẽ lên đường. Trong đoàn có chừng một chục đồng chí như Trần Bửu Kiếm, Nguyễn Đức Thuận, linh mục Nguyễn Bá Kính, các đồng chí phụ trách binh công xưởng Phạm Văn Khung, Kiều Công Quế, Trần Văn Nguyên...
        Đêm đó Hai Trọng thức gần tới sáng làm báo cáo.
        Các chỉ huy Bình Xuyên mỗi người một tính cách, không ai giống ai dù cùng chung một dòng máu giang hồ thích “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật Hai Trọng có dịp gần gũi sau Ba Dương là Bảy Viễn. Anh nhớ một chuyện nhỏ như sau:
        Hai Trọng đang ở Liên Chi 2-3 thì Nguyễn Đức Huy tới tìm anh. Tay này to cao nên còn có cái tên Hai Đại - anh ta ký tên chữ nho ba nét: Một gạch ngang với chữ nhơn. Hai Đại để một hàng râu rậm cho nên lại thêm một biệt hiệu, ông già râu kẽm. Gian nhà sàn chỉ có hai người nhưng Hai Đại kề tai Hai Trọng nói nhỏ:
        - Bẩy Viễn định giết hai đứa mình!
        Hai Trọng trố mắt nhìn Hai Đại:
        - Có chắc không? Tại sao đồng chí biết?
        Hai Đại cười bí hiểm:
        - Sao lại không chắc? Người của tôi đã được bố trí trong Chi đội 9 của nó. Anh Hai tính sao?
        Hai Trọng lắc đầu:
        - Biết tính sao! Tôi mới nghe anh nói chuyện đó.
        Hai Đại xách ba-lô lên chuẩn bị xuống tam bản:
        - Tính sao thì tính cho nhanh! Chần chừ không xong đâu? Về phần tôi tin tôi đi đây. Thằng đó nguy hiểm lắm!
        Hai Trọng đâm tức:
        - Đảng viên mà đụng chuyện là chuồn, bỏ anh em lại sao?
        Hai Đại nhún vai rồi chống ghe đi, không thèm bắt tay từ biệt.
        Hai Trọng ngồi thừ ra suy nghĩ về Bảy Viễn. Bảy Viễn tuy là anh chị nhưng cũng có một chút lòng yêu nước. Trong Chi đội 9 nếu có ai tính chuyện đầu Tây là Bảy Viễn bắn ngay. Rất tiếc là Bảy Viễn có tánh anh hùng cá nhân rất nặng, lại bị hai thằng nịnh họ Lai kè sát ngày đêm, gây chia rẽ Bắc Nam và chống chủ trương bố trí chánh trị viên trong bộ đội.
        Nghe chúng mãi, nhất là Nam Tài biết cách thoả mãn những thèm khát trần tục như tiền, rượu và gái nên Bảy Viễn ngày càng nghiêng về lối sống “đế vương” của một “lãnh chúa trong thời loạn”. Chính Năm Tài thúc giục Bảy Viễn nắm vai trò lãnh tụ Liên Khu Bình Xuyên của Ba Dương để tự do thao túng. Nhưng Hai Trọng không tin Bảy Viễn có ý đầu Tây như Hai Đại nói. Muốn nắm chắc, phải mạo hiểm tới giáp mặt với Bảy Viễn. Chuyến đi có phần phiêu liêu, nhưng “không vào hang hùm làm sao bắt hùm con”, Hai Trọng đi ghe lườn tới nơi Bảy Viễn đóng.
        Lính gác báo tin, Bảy Viễn ra đón tận bến:
        - Hôm nay tốt ngày, anh Hai tới thăm bọn tôi.
        Dù Bảy Viễn thân mật như vậy, Hai Trọng cũng có hành động huê dạng chứng tỏ mình tới với tánh cách anh em. Anh tháo thắt lưng da có khẩu súng sáu trong bao ném lên một chiếc chõng sát vách rồi đưa cả hai bàn tay cho Bảy Viễn bắt. Bảy Viễn mời vô nhà:
        - Anh tới chơi hay có việc gì? Chắc là có chuyện quan trọng nên bí thư của khu trưởng Nguyễn Bình mới thân chinh tới đây.
        Sau một tuần trà, Hai Trọng mới vô đề:
        - Tôi nghe vài lời đồn đại về anh Bảy nên qua đây gặp anh cho rõ trắng đen.
        - Người ta đồn sao đó anh hai? Chắc là không hay rồi.
        - Tất nhiên là không hay. Người ta đồn anh Bảy muốn thủ tiêu những cán bộ người Bắc, trong đó có tôi?
        Bảy Viễn bật cười khanh khách:
        - Có chuyện đó nữa sao? Mà anh Hai có tin chuyện đó không?
        - Nếu tin thì làm sao tôi dám đơn phương độc mã qua đây phó hội với anh?
        Bảy Viễn bắt tay Hai Trọng, gật tới gật lui mấy lần:
        - Anh Hai đúng là tay hảo hớn, tụi tôi không bì kịp. Tôi nói thẳng với anh là tôi không ưa người Bắc, nhưng cũng tuỳ người. Nam hay Bắc gì cũng có người chơi được, người không. Như anh Hai đây, người đã từng sát cánh với anh Ba Dương, nay sát cánh với anh Nam Hà, lại là bí thư của Khu trưởng Nguyễn Bình làm sao không ưa cho được! Những lời đồn gió bay: ăn thua gì! Bây giờ anh em mlnh gặp nhau đây, nhậu cái đã. Rượu là thần dược xoá mọi thắc mắc, mọi hiểu làm.
        Bảy Viễn đãi Hai Trọng một chầu bia thành. Trong khi nhậu, Hai Trọng vẫn quan sát Bảy Viễn và thấy rõ anh ta thành thật, nghĩ sao nói vậy. Rõ ràng chuyện Hai Đại tiết lộ với Hai Trọng là mưu mô của bọn Sang, Tài muốn tách rời Bảy Viễn với anh em quê miền Bắc, và các chánh trị viên. Bảy Viễn mà đầu Tây thì do hai tay Phòng Nhì xỏ mũi. Rấc tiếc là ta sống xa Bảy Viễn không lui tới thường xuyên để giúp đỡ từ đầu.
        Về Bình Xuyên, hai ông Ba Bình và Hai Trí quan niệm khác hẳn. Hai Trọng biết rõ giữa hai ông có nhiều hục hặc về quan điểm lãnh đạo cũng như về tình cảm riêng tư, Ba Bình có tác phong hảo hán, tánh tình cởi mở, còn Hai Trí có dáng vẻ một tay mưu sĩ kiểu Trương Nghi hay Tô Tần xử sự như các nhân vật thời Đông Chu liệt quốc... Chính vì tư lệnh và chánh uỷ không “en jeur” với nhau mà Khu 7 xảy ra nhiều điều không hay.
        Hai Trọng chỉ chợp mắt một chút thì gà gáy rộ. Anh thức dậy rửa mặt cho tỉnh minh rồi chép sạch bản báo cáo. Đến chiều anh mang báo cáo tới để cho anh Ba Bình duyệt. Anh Ba mắt kém, Hai Trọng phải đọc cho anh nghe. Đọc chầm chậm, ngừng từng câu. Khi nào có chữ chưa chính xác, anh Ba góp ý chọn chữ cho thật vừa ý. Gần đến nửa đêm, anh Ba mới duyệt xong bản báo cáo. Đọc tới dòng cuối cùng anh thở phào:
        - Cám ơn đồng chí đã giúp tôi làm bản báo cáo này...
        53
        Gặp Hoàng Thọ, Hai Trọng thấy chướng
        Trách Nguyễn Bình dung dưỡng đàn em
        Trên đường ra Bắc, Hai Trọng gặp lại Hoàng Thọ ở Phú Mỹ. Anh nhớ lại lần gặp gỡ đầu tiên. Năm ấy Hai Trọng từ Bà Rịa về chiến Khu D dự cuộc họp quân sự Khu 7. Lúc đó anh là uỷ viên quân sự liên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Sau mấy ngày băng rừng lội suốt và vượt mấy con lộ, Hai Trọng về tới căn cứ Bộ Tư lệnh Khu. Hội trường đơn sơ tranh lá nhưng trang hoàng rất đẹp. Nhưng tấm đệm đan bằng lá buông óng ánh một màu vàng nhạt làm cho hội trường sáng hẳn lên. Khẩu hiệu viết bằng mực đỏ trên giấy trắng “Tổ Quốc trên hết” cùng lá quốc kỳ nền đỏ sao vàng nói lên khí thế hào hùng của miền Đông gian lao và anh dũng.
        Hai Trọng quên hết mệt nhọc đường xa khi Nguyễn Bình ra đón. Hai anh em ôm choàng lấy nhau, trà thuốc tâm sự. Sáng hôm sau cuộc họp bắt đầu. Có một sự kiện Hai Trọng không thể nào quên. Trong lúc anh Ba Bình đang nói chuyện với các đại biểu toàn là cán bộ trung cấp như uỷ viên quân sự tỉnh, chi đội trưởng... bỗng một người ăn mặc lôi thôi, áo sơ-mi bỏ ra ngoài, tay xách máy ảnh đi lăng xăng khắp hội trường. Cũng như nhiều đại biểu, Hai Trọng đảo mắt nhìn xem cử chỉ lung tung của anh ta, không tập trung tinh thần nghe anh Ba nói. Thoạt tiên Hai Trọng nghĩ anh ta là nhiếp ảnh của báo Tiền Đạo, nhưng dù là phóng viên, cũng phải ăn mặc đứng đắn đàng hoàng, vì anh Ba là vị tư lệnh nghiêm khắc về quân phong quản kỷ. Nhưng anh chàng phóng viên kia càng làm nhiều trò chướng mắt: hết khom lưng, ưỡn ngực, anh ta lại leo lên cột bám lấy đòn vong, đeo toòng ten như diễn viên xiếc. Cũng may là anh ta chụp vài “pô” rối đi mất. Tới đột, ngột và đi cũng đột ngột, như một bóng ma. Hai Trọng định hỏi anh Ba Bình xem “hắn” là ai, nhưng vì bận rộn về các vấn đề quan trọng liền quên khuấy. Hôm sau, Hai Trọng đang uống trà đàm đạo với anh Ba thì “hắn” xộc tới, ngang nhiên như chỗ không người:
        - Anh Ba, ảnh đẹp hết chỗ nói. Hãy xem đây. - Hắn chìa ra một xấp hình cỡ “xít nớp” - Xem tấm này nè chụp lúc anh đứng nói chuyện, đằng sau là lá cờ đang lay động dưới làn gió nhẹ. Trông anh vừa đẹp vừa oai quá xá ngán!
        Anh Ba Bình xem ảnh tấm nào xem xong anh trao cho Hai Trọng xem, nhưng Hai Trọng chỉ liếc sơ qua vì đang lom lom quan sát anh chàng nhiếp ảnh kỳ lạ này. Hắn ta to cao râu quai nón cạo nhẵn mà còn ánh lên một màu xanh rờn. Lần này hắn chịu khó bỏ áo sơ mi vô quần, trông cũng đẹp trai. Lại thêm cái giò heo lủng lẳng bên hông, càng oai tệ. Tuy vậy anh ta là chỉ huy chứ không phải là phó nhòm. Bấy giờ anh Ba mới giới thiệu:
        - Đây là Hoàng Thọ, chắc anh Hai Trọng chưa biết.
        Hai Trọng reo lên:
        - Hoàng Thọ! Tôi đã nghe tên chú lúc tôi còn ở với anh Ba Dương. - Vừa nói Hai Trọng nắm cánh tay Hoàng Thọ lắc lắc giọng thân thật - Chú có biết không. hôm qua tôi rất bực, tính trách anh Ba: hội nghị quan trong như thế mà để thằng cha ăn mặc xập xệ leo trèo chụp ảnh. Nhưng nay biết chú thì thôi!
        Cả anh Ba và Hoàng Thọ cùng cười. Anh Ba cười độ lượng còn Hoàng Thọ thì cười thích chú của một thằng em được nuông chiều. Hai Trọng không tán thành thái độ dễ dãi với Hoàng Thọ trong khi lại rất nghiêm nghị với những người khác của anh Ba. Hai Trọng chưa tiện nói ra ý nghĩ của mình vì nghĩ rằng những người lớn đều có những cái yếu nho nhỏ. Với anh Ba, đó là dung dưỡng những thói quen ngang tàng của thuộc hạ, theo kiểu các tay giang hồ tự do, phóng túng. Đó là ấn tượng đầu tiên khi Hai Trọng gặp anh chàng Hoàng Thọ lần đầu tại chiến khu Đ.
        Lần gặp lại thứ hai vào tháng 5-1948, trên đường ra Bắc với phái đoàn quan dân chánh do anh Trần Văn Trà làm trưởng đoàn. Hai Trọng gặp Hoàng Thọ tại Phú Mỹ, Bà Rịa. Vẫn tác phong lôi thôi lếch thếch như thường lệ.
        - Chú vẫn vậy, không khác mấy so với lần tôi gặp chú ở thà anh Ba.
        Hoàng Thọ cười, nhưng trong nụ cười có chút gì không vui.
        - Tính khí trời cho, làm sao đổi được anh Hai!
        Đoán biết tay tếu có hạng này có tâm sự gì đây, Hai Trọng cố thăm dò:
        - Năm qua đánh đấm thế nào? Bộ đội lưu động nổi danh như cồn. Đã lên chức chưa?
        Hoàng Thọ lột phắt cái nón rộng vành bẻ đứng một bên quạt quạt như để xua nỗi bực:
        - Tảo thanh Cao Đài, đánh đấm liên miên, diệt địch vô số. Vậy mà anh Hai biết không, công đâu chả thấy chỉ mang tiếng háo sát.
        À thì ra thế! Hai Trọng biết rõ chủ trương tảo thanh Cao Đài phản động ở miền Đông mà mục tiêu chánh là toà thánh Tây Ninh. Hộ pháp Phạm Công Tác ngày càng tỏ ra phản động. Hắn lập quân đội, trước còn lo thủ Toà Thánh, sau bung lên chiếm các vùng giải phóng. Lúc đầu ta còn tranh thủ Cao Đài, mời họ tham gia mặt trận Việt Minh nhưng dần dần do Tây tung đòn ly gián, tình đoàn kết hai bên rạn nứt, nhưng cuộc xô xát ngày càng tăng. Bộ đội Hoàng Thọ là một trong các đơn vị tích cực đối phó với đám đội lốt Cao Đài hại dân hại nước. Nghe nói tên Hoàng Thọ là dân vùng đạo Cao Đài hãi sợ. Trong trận Cầu Khói gần Tây Ninh, bộ đội Hoàng Thọ liên quân với bộ đội Cao Minh Căng thuộc Chi đội 2 Tỉnh Tây Ninh. Thấy Hoàng Thọ tung hoành ngang dọc, trung đội trưởng Cao Hoài Sai cũng lao theo, lia tôm-xông vào địch đang hoang mang vứt súng chạy dài. Bộ đồ của Sai đã rách nát, anh định bắt sống một thằng Tây để tước bộ ka ki mặc cho chắc. Anh chọn thằng chỉ huy Tây trên xe jeep với bộ đồ còn mới, nhưng Hoàng Thọ đã lia một băng. Thằng Tây gục xuống máu thấm đỏ bộ đồ Sai tinh tước đoạt. Sai tiếc mãi bộ ka-ki ấy.
        Hai Trọng vỗ vai Hoàng Thọ:
        - Giết Cao Đài nhiều qná, chú nghĩ lại xem có đúng không?
        Hoàng Thọ im lặng. Hai Trọng nói tiếp:
        - Máu người mình, mình nên tiếc một chút...
        - Đồng ý là nên tiếc máu người mình, nhưng Cao Đài là bọn phản động...
        Hai Trọng lắc đầu:
        - Không nên quơ đũa cả nắm. Phản động là Phạm Công Tắc với đám bộ hạ Trần Quang Vinh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thành Phương, Trịnh Minh Thế, còn dân trong vùng thì có tội tình gì mà tảo thanh, mà tàn sát? Nói thật với chú, tôi không tán thành chủ trương tảo thanh dù là binh lính Cao Đài lãnh súng Pháp đánh lại ta. Họ chỉ là những người mù quáng, làm bia đỡ đạn. Nếu chú là dân ở vùng Cao Đài, bị bắt lính, chú làm sao?
        - Tất nhiên là tôi nhẩy ra khu... - Hoàng Thọ đáp ngay.
        Hai Trọng cười lớn:
        - Bởi chú là Hoàng Thọ. Còn tín đồ Cao Đài thì quen tôn sùng các chức sắc thiên phong, quen tin tưởng “thánh ngôn” của Cao Đài Thượng Đế. Họ đâu có biết thánh ngôn là chuyện bịa của bọn buôn thần bán thánh...
        Được khen, Hoàng Thọ khoái chí:
        - Anh Hai nói chí lý. Nhiều người đã nói với tôi trước đây, họ nói tảo thanh Cao Đài là hạ sách. Bởi vì lấy oán trả oán thì oán càng chồng chất, không biết tới ngày nào mới hết. Bây giờ anh Hai nói, tôi mới thấy rõ: mình tảo thanh Cao Đài trên một năm nay mà tình hình ngày càng đen tối hơn. Đúng là hạ sách.
        Ngừng một lúc Hoàng Thọ nói:
        - Đây là sáng kiến của thằng cha mưu sĩ Hai Trí. Tôi chưa thấy ai như thằng cha này...
        Tò mò Hai Trọng hỏi:
        - Chú thấy sao? Nói coi!
        - Cha này giống như mấy tay trong Đông Chu liệt quốc. Mưu mô xảo quyệt hết chỗ nói. Nghĩ vầy nói khác. Thật khác một trời một vực với anh Ba mình. Tôi khoái anh Ba ở chỗ thẳng thắn nghĩ sao nói vây. Hay nói hay, dở nói dở. Không úp mở, không che đậy. Tại sao người ta lại bố trí cho hai Trí bên cạnh anh Ba? Trước đây anh Ba làm việc với ông Trần Xuân Bộ rất tâm đồng ý hiệp.
        Không có thì giờ nói chuyện lâu, Hai Trọng bắt tay từ biệt:
        - Tôi ra Bắc báo cáo tình hình quân sự miền Đông thay anh Ba, xong là về liền. Chỉ chuyên chú suy nghĩ chín chắn rồi hãy hành động.

Nguyên Hùng

NGUYỄN BÌNH, Huyền Thoại và Sự Thật

Dịch giả : Lê Kim

Chương 52

Cuối 48 Hai Trọng ra Bắc
Báo với Bác công trạng Nguyễn Bình













































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


        Ngày 3-10-1948 phái đoàn quân dân chánh Nam Bộ ra Trung ương báo cáo tình hình Nam Bộ với Hồ Chủ tịch, chánh phủ và bộ Tổng. Trưởng đoàn là Khu trưởng Khu 8 Trần Văn Trà. Trong đoàn có các ông Trần Bửu Kiếm, tổng thư ký Uỷ ban kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ, ông Nguyễn Đức Thuận, Lương Văn Trọng, thư ký riêng của trung tướng Nguyễn Bình, linh mục Nguyễn Bá Kính, Phạm Văn Khung, Kiều Công Quế Lâm, Trần Văn Nguyên.
        Nói riêng Hai Trọng. Nhiệm vụ của ông trong chuyến đi Trung ương này là báo cáo công việc thống nhất các lực lượng võ trang ở miền Đông Nam Bộ. Các lực lượng này rất đông. và thuộc nhiều thành phần trong xã hội. Phần lớn là công nhân, lao động dân cạo mủ cao su quê miền Bắc vào Nam gọi là dân “contrat”. Nhưng cũng có một số dân anh chị đứng bến. Những tay này lanh lợi tháo vát nên nắm tiểu đội hoặc trung đội. Phức tạp là ở chỗ đó. Nhiều nhóm quen thói cướp bóc nên sẵn súng lâu lâu làm ăn một đám. Tình thế mới, cách đi “hát” cũng mới: thay vì đánh cướp thì “sung công” tiệm buôn hay ghe hàng. Cho nên công việc khép các nhóm này vô khuôn khổ kỷ luật không phải là dễ. Vụ trừng trị Ba Nhỏ ở chợ Phước Thiền, quận Long Thành của Nguyễn Bình là một điều cần thiết để răn dậy ba quân. Nhờ anh Ba Bình cương quyết mà quân đội nói chung và Bình Xuyên nói riêng có tiến bộ về quân phong, quân kỷ.
        Đã được anh Ba Bình gợi ý trước nên Hai Trọng đủ thì giờ thu thập tài liệu để làm báo cáo. Báo cáo cũng đã được anh Ba Bình duyệt rồi nên Hai Trọng rất vững vàng khi lên đường. Tuy nhiên về phương diện tình cảm thì có chút ít lấn cấn: số là Hai Trọng lập gia đình trẻ. Anh chỉ mới cưới vợ khi về lãnh công tác uỷ viên quân sự liên tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vợ anh là cán bộ phụ nữ tương đối trẻ và đẹp. Hai vợ chồng son vừa quá tuần trăng mật thì Hai Trọng được đề bạt về làm thơ ký riêng cho Khu trưởng Nguyễn Bình. Lên khu bộ không bao lâu thì Hai Trọng lại được chọn đi Trung ương. Đây lả một vinh dự không phải ai cũng có được. Nhưng trong thời chinh chiến, ra đi khó hẹn ngày về.
        Mấy tháng leo đèo vượt suối băng rừng phái đoàn quân dân chánh Nam Bộ ra tới miền Bắc. Gian nan kể không xiết, có ngày đoàn phải vượt qua cả trăm con suối. Đoàn tới nơi mà không thiệt hại về người và tài liệu là một thắng lợi lớn. Riêng về tài liệu, phải một tiểu đội mang. Chuyến ra Bắc đó đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời Hai Trọng. Anh may mắn được sống bên Bác Hồ ba ngày. Phái đoàn lần lượt báo cáo về tình hình quân, dân, chính trong Nam cho Bác và các đồng chí Trung ương nghe.
        Riêng về tình hình quân sự ở Khu 7, nhất là về lực lượng Bình Xuyên, báo cáo của Hai Trọng thay mặt cho trung tướng Nguyễn Bình được đặc biệt chú ý.
        Hôm sau đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu Hai Trọng viết một luận án về vấn đề “cách mạng hoá bộ đội giang hồ”.
        Nghe qua Hai Trọng toát mồ hôi hột:
        - Thưa đại tướng, tôi không đủ trình độ để làm luận án đó.
        Ông Giáp cười nói:
        - Sao lại không đủ trình độ? Đồng chí cứ viết về nhưng khó khăn mà đồng chí Nguyễn Bình gặp phải trong việc thuyết phục các chỉ huy Bình Xuyên bỏ con đường cũ để theo kháng chiến. Đồng chí đi sâu vào những trăn trở của anh em giang hồ khi từ bỏ những lề thói mưu đồ lợi ích cá nhân đẻ dấn thân vào đại nghĩa, đạt quyền lợi đất nước lên trên tất cả... Trước những đắn đo thắc mắc đó, đồng chí Nguyễn Bình đã có hành động nào để giúp anh em giang hồ yên tâm theo cách mạng. Chuyện chỉ có thế. Đồng chí cố nhớ lại những cá tánh các lãnh tụ Bình Xuyên mà đồng chí có dịp sống gần, như các ông Ba Dương, Năm Hà, Bảy Viễn, Mười Trí v.v. và những chuyển biến trong tâm tư tình cảm của họ trước những mưu mô của bọn Phòng Nhì cho gái đẹp, tiền bạc, xa xỉ phẩm từ Sài Gòn vô Rừng Sác để lung lạc, mua chuộc...
        Hai Trọng gật gù:
        - Nếu làm luận án như đại tướng nói thì tôi có thể làm được. Tôi sẽ cố gắng...
        Đại tướng cười:
        - Tôi đã nói là đồng chí đủ sức. Vì đây là chuyện người thật việc thật. Chỉ cần sắp xếp lại cho có mạch lạc để nổi bật chủ đề là nghệ thuật lãnh đạo anh em giang hồ đi theo cách mạng... Đây là việc rất quan trọng. Hiện nay các nước thuộc địa đang vùng lên võ trang khởi nghĩa chống bọn thực dân, giải phóng đất nước, giành độc lập tự do. Tất cả các nước này đều cần học hỏi kinh nghiệm những nước đi trước như Việt Nam ta. Kinh nghiệm “cách mạng hoá bộ đội giang hồ” mà đồng chí Nguyễn Bình đã làm được tại Nam Bộ rất quý. Bởi vì nước nào cũng có giang hồ...
        Đại tướng kết thúc cuộc họp:
        - Đồng chí hiện nay chỉ có một công tác duy nhất là làm bản luận án đó. Tôi đã cho chuẩn bị chỗ ăn ở và làm việc cho đồng chí. Cứ viết thong thả, chừng nào xong cũng được, miễn là viết cho đạt.
        Đúng như đại tướng nói Hai Trọng được chăm sóc chu đáo để viết bản tham luận “cách mạng hoá bộ đội giang hồ”. Càng viết anh càng sáng ra. Những năm tháng sống gần gũi với anh em Bình Xuyên như khúc phim quay chậm. Anh nhớ từng khuôn mặt, từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ của các tay anh chị. Tuy đã theo kháng chiến mà vẫn không bỏ được thói quen tật xấu. Nét chung nhất của các tay tổ là ăn trên ngồi trốc bất cứ chuyện gì cũng chơi trội thiên hạ. Mỗi lãnh chúa là một giang san, là một triều đình, có đủ trung nịnh đâu đâu cũng râm rắp phục tùng, “nhứt hô bá ứng”. Quen sóng phong lưu nên vô rừng vẫn thèm cà phê hủ tiếu, la ve xá xị. Lúc rảnh rỗi vẫn quen tay cắc-tê bài cào đậu chấn tứ sắc. Còn chuyện mèo chuột trai gái thì khỏi nói. Một đặc điểm của Bình Xuyên là đa thê. Ông nào cũng có năm ba bà, đúng như câu nói phổ biến ở miền Bắc “vợ cả vợ hai đều là vợ cả”. Có một điểm Hai Trọng đắc ý nhất: Anh tìm được mẫu số chung cho hai giới cách mạng và giang hồ. Đó là tinh thần yêu nước. Chỉ có dân Việt Nam ta mới có chuyện độc đáo này. Các nhóm anh chị nổi tiếng thế giới nhít đảng KKK (Ku Klux Klan) ở Mỹ, bọn Mafia ở Ý chỉ là bọn giết người vì tiền, không hề nghĩ chuyện nước non. Bình Xuyên là truyền thống nghĩa quân Trương Định, lòng yêu nước sục sôi đã được chứng minh trong lịch sử kháng Pháp ngay từ đầu.
        Suốt trăm năm, truyền thống dân lân dân ấp nối tiếp từ phong trào nấy sang phong trào khác, hết Cần vương đến Thiên Địa Hội rồi Hội kín Ngnyễn An Ninh, sau cùng là Bình Xuyên. Chính ngọn lửa yêu nước tiềm tàng trong lòng anh em Bình Xuyên đã đưa họ tới với anh em kháng chiến. Tuy cùng đi một con đường mà mỗi người một phách, không ai giống ai. Cách mạng thì muốn thống nhất một mối đề dễ lãnh đạo, còn giang hồ thì quen thói anh hùng nhứt khoảnh chịu làm đầu gà hơn đuôi phụng Cho nên lãnh đạo họ phải khéo, phải hết sức tâm lý, mềm dẻo, tế nhị. Chớ có thô bạo độc đoán mà mong họ tuân theo. Và nhất là phải dũng cảm, gan lì hơn họ, tỏ ra anh hùng hảo hán hơn họ, thì mới chinh phục được những tay hảo hớn.
        Càng đi sâu vào bản luận án, Hai Trọng càng mến phục anh Ba Bình. Một mình từ Bắc vô Nam, anh Ba đã tập hợp được các bộ đội rải rác khắp miền Đông, trên hai ba chục nhóm lớn nhỏ đang rình rập nhau “cá lớn nuốt cá bé”. Đâu phải chuyện dễ! Giấy chứng nhận phái viên Trung ương do bộ Tổng ký đâu phải lá bùa hộ mạng. Các tay giang hồ là chúa làm giấy giả giống như thật. Giấy tờ đóng mộc đỏ to bằng khu chén cũng không uy hiếp được họ. Huống chi trong một lần bị quân Nhật bắt, anh Ba đã bị chúng tịch thu tất cả giấy tờ kể cả giấy của Bộ Tổng. Anh tới các bộ đội giang hồ chỉ tự giới thiệu miệng thôi.
        Như vậy cái gì đã khiến các lãnh chúa lục lâm tin anh và chịu sự chỉ huy của anh? Chính hai tay tả hữu thừa tướng Lai Hữu Tài, Lai Văn Sang đã “xàm tấu” với Bảy Viễn: “Nguyễn Bình là thằng trôi sông lạc chợ, từ Bắc vô Nam, đã đánh đấm gì mà toan lãnh đạo anh Bảy?”. Nhưng Bảy Viễn đã không nghe lời hai tay Phòng Nhì này mà xem Nguyễn Bình đúng là một phái viên Trung ương được cử vô Nam để thống nhất các bộ đội địa phương.
        Đó là về phía giang hồ. Còn về phía cách mạng thì chính anh Ba Trà về sau tâm sự: “Lần đầu tiên tôi gặp khu trưởng Nguyễn Bình là ở Mỹ Hạnh. Nguyễn Bình chỉ tự giới thiệu chứ không đưa giấy tờ. Tuy vậy tôi tin vì anh Ba Bình có tác phong anh hùng hảo hớn. Lúc đó tôi có nhiệm vụ tập hợp các cán bộ Đảng. tập hợp các bộ đội do Đảng nắm và thống nhất các lực lượng võ trang. Nguyễn Bình cũng đang làm nhiệm vụ đó. Tôi phải ủng hộ anh Ba”.
        Anh Ba Tô Ký chỉ huy trưởng Giải phóng quân Liên Quận Hốc Môn Bà Điểm Đức Hoà cũng chịu sự chỉ huy của Nguyễn Bình ngay ngày đầu vì mối quan tâm lớn nhất của anh là thống nhất các bộ đội miền Đông để đánh Tây. Anh Ba Bình làm được điều đó cho nên mình phải ủng hộ.
        Đại đội trưởng Hứa Văn Yến, chỉ huy mặt trận An Phú Đông trong những giờ phút nghiêm trọng sau ngày 23 tháng 9 đã gặp Nguyễn Bình vào tháng 10-1945, giữa tiếng đại bác nổ ầm dọn đường cho Tây lên chiếm. Anh Ba Bình chỉ đi có một mình với một anh liên lạc. Anh Ba trình giấy phái viên Bộ Tổng và yêu cầu đồng chí Hai Yến cho liên lạc đưa anh qua An Phú xã. Tây đang tiến vô nên Hai Yến không có thì giờ, chỉ làm theo yêu cẩu của anh Ba Bình, nhưng cảm giác đầu tiên về cuộc gặp gỡ này vẫn còn đậm nét mãi mãi sau này: Một con người to cao mặc đồ xá xẩu, mang kính râm, đeo sắc-cốt. Giữa tình thế nước sôi lửa bỏng, anh vẫn bình tĩnh, ung dung. Đúng là một tay hảo hớn...
        Đại tướng đọc bản luận án gật gù khen Hai Trọng:
        - Đồng chí viết rất đạt. Hãy nghỉ ngơi vài bữa cho khỏe.
        Thời gian ở Bộ Tổng, Hai Trọng được Bác và đại tướng đặc biệt chăm sóc. Anh hiểu đây không phải dành cho cá nhân anh mà dành cho cả đồng bào Nam Bộ mà người có trọng trách bảo vệ là trung tướng Nguyễn Bình.
        Làm xong bản luận án, Hai Trọng nghĩ là công tác ra Bắc của mình đã xong, anh xin được trở về Nam chiến đấu. Nhưng đại tướng nói:
        - Tôi hiểu tình cảm của đồng chí, nhưng nhân dịp ra đây đồng chí nên tranh thủ học tập thêm. Trung Quốc đang mở lớp chỉnh huấn ở Vân Nam. Đồng chí nên sang đó dự rồi về sẽ trở vào Nam phổ biến luôn.
        Hai Trọng lại khăn gói sang Vân Nam cùng một số học viên. Nơi chỉnh huấn là một căn cứ cũ của Mỹ. Nơi đây đồi núi tuyệt đẹp, nhưng lòng dạ Hai Trọng đang nhớ Nam Bộ với anh Ba Bình và vợ trẻ nên không hưởng được cái thú thanh tao của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Khoá học ở Vân Nam ấy có chuyện khác thường là tiết mục “tự phong”. Mỗi học viên phải làm bản tổng kết các loại hoạt động của mình, nêu lên khuyết điểm rồi tự phong. Hai Trọng phát biểu trong tổ:
        - Tôi từ Nam Bộ ra Bắc, đại diện trung tướng Nguyễn Bình báo cáo tình hình quân sự miền Đông Nam Bộ. Các đồng chí Trung ương chiếu cố Nam Bộ cho tôi đi học. Tại khoá này, không có ai cùng chiến đấu với tôi, không có ai hiểu tôi, giúp tôi tự đánh giá nên tôi không thể tự phong được. Tôi sẽ cố gắng học tập để trở vô miền Nam chiến đấu rồi sẽ tự phong sau. Hiện nay tôi chỉ là khách của Bộ Tổng.
        Nhưng nhà trường không chấp nhận quan điểm của Hai Trọng. Ngày thứ hai họ lại yêu cầu anh tự phong như mọi người trong khoá. Một câu cứ ám ảnh anh cả ngày lẫn đêm: Nhà trường yêu càn ta tự phong sao ta không tự phong?”. Nhiều đêm thao thức nhìn ra ngoài. Vùng Dương Đông Hải nổi tiếng danh lam thắng cảnh. Bấy giờ vào mùa cận Tết, hoa đào Vân Nam lộng lẫy dưới ánh đèn đẹp khó tả.
        Nhưng Hai Trọng không thưởng thức được vì nỗi nhớ miền Nam và việc tự phong. Tự phong trung đoàn trưởng sẽ bị phê bình là thiếu khiêm tốn. Đành phải sụt xuống một cấp: tiểu đoàn trưởng. Để được yên thân trở về Nam chiến đấu. Hai Trọng tự phong như sau: “Tôi là đại biểu Bình Xuyên với chức vụ chánh uỷ, đặc phái viên của Bộ Tư lệnh Nam Bộ có nhiệm vụ nghiên cứu đường liên lạc Bắc Nam, được dự khoá huấn luyện này, xin tự phong Tiểu đoàn trưởng. Tổ trưởng nhận xét: “chân thật”. Tức thì cả tổ vỗ tay.
        Mãn khoá anh trở về cám ơn anh Hoàng Văn Thái đã cấp cho anh con ngựa đua rất hiền và khẩu tôm-xông, cho thêm một cần vụ từ Cao Bằng qua Vân Nam. Thời gian đi học và trở về kéo dài hơn một năm thay vì sáu tháng như dự định.
        Hai Trọng lại xin trở vào Nam chiến đấu, nhưng một lần nữa lại được giữ lại. Trọng phản đối mạnh:
        - Sao giữ tôi lại đây? Miền Nam đang thiếu cán bộ.
        - Còn ở đây đâu có thiếu cán bộ. Phải cho tôi về với trung tướng Nguyễn Bình. Ngày ra đi, tôi được anh Ba Bình căn dặn: “Báo cáo xong đồng chí trở về ngay. Tôi đang cấn đồng chí”.
        Đại tướng Giáp chuẩn bị đi chiến dịch, tướng Hoàng Văn Thái giải quyết yêu cầu của Hai Trọng:
        - Bộ Tổng quyết định giữ đồng chí lại vì đồng chí có trình độ, lại từng hoạt động trong Nam. Đồng chí sẽ làm tham mưu cho Bộ Tổng.

Chương 53

Đánh không thắng, Pháp muốn cầu hoà
Vô Đồng Tháp, sứ Tây chào trung tướng














































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Cuộc sống trong vùng sâu đồng Tháp Mười, quanh năm trầm lặng như nước lớn nước ròng trên các con kinh hiền lành Nguyễn Văn Tiếp và Dương Văn Dương chạy song song xuyên cánh đồng bảy trăm ngàn mẫu đất. Bỗng một ngày đẹp trời, căn cứ kháng chiến Nam Bộ sôi nổi hẳn lên: có khách nước ngoài tới thăm đầu não kháng chiến. Lần này khách không phải là phóng viên nhà báo như năm trước mà là một nhân vật lớn trong chính giới Pháp từ Paris sang, có nhiệm vụ thăm dò “đối phương” trong vấn đề hoà hay chiến. Trước đây, đô đốc D Argenlieu Cao uỷ Đông Dương, rồi sau đó tướng Leclerc, tổng tư lệnh Đông Dương huênh hoang tuyên bố “bình định Việt Minh trong vòng ba tháng. Nhưng ba năm thấm thoát trôi qua, chiến cuộc đang trong thế ngang ngửa. Chánh phủ Pháp phái sứ giả sang nghiên cứu tình hình. Tên sứ giả là Alain Savary, nghị viên hội đồng Liên Hiệp Pháp, đại biểu đảng Xã hội Pháp SFIO (Section Francaise de l’ Internationale Ouvrière).
        Savary tới Sài Gòn tiếp xúc với Tổng thư ký Đảng Xã hội Pháp, chi nhánh Sài Gòn, Hervochon. Anh này hỏi ý nhà báo Thiếu Sơn từng giao du với chi nhánh Pháp ở Sài Gòn. Thiếu Sơn tên là Lê Sỹ Quý, là viên chức Bưu điện nổi tiếng với nghề viết văn và làm báo. Anh quê miền Bắc đổi vô Nam Kỳ trước thập niên 40. Anh là kiện tướng trong làng báo “Thống nhất” tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến, nhiều lần ra bưng dự các lễ lớn mà gần đây nhất là lễ thụ phong trung tướng của anh Nguyễn Bình. Thiếu Sơn là một trong ba thượng khách trong làng báo Sài Gòn của anh Ba Bình. Hai người kia là nhà báo Tam Ích (XXX) và nhà văn Lý Văn Sâm.
        Hervochon gõ cửa anh Thiến Sơn vì trước đó anh đã đưa hai nhà trí thức lớn Pháp vô khu gặp các lãnh đạo Nam Bộ. Đó là Giáo sư Tiến sĩ Chesneau, dạy môn xã hội trường đại học Sorbonne ở Paris và giáo sư Petelot. Về sau ông Chesneau là sứ giả nổi tiếng chuyên về Việt Nam và các nước Đông Dương.
        Anh Thiếu Sơn bảo Hervochon: “Muốn có hoà bình, phải nói chuyện với kháng chiến. Tất nhiên phải vô Khu”. Savary đồng ý và nhờ Thiếu Sơn dẫn đường.
        Thiếu Sơn đưa Savary xuống Tháp Mười và tới tận nơi anh Ba Bình đóng ở Kinh Bùi, xã Nhơn Ninh, nằm giữa hai con kinh lớn Nguyễn Văn Tiếp và Dương Văn Dương. Trong chuyến đi này, anh Thiếu Sơn có sáng kiến mời thêm hai trí thức ở thành cùng đi để Savary có bạn đồng hành. Đó là Luật sư Trịnh Đình Thảo và dược sỹ Nguyễn Văn Liễn.
        Tới Thiên Hộ nam trên con kinh Nguyễn Văn Tiếp đoàn gặp bác sĩ Trấn Nam Hưng vừa vô khu kháng chiến không bao lâu. Anh Ba Hưng quê Vĩnh Kim- Chợ Giữa (Mỹ Tho) trước khi ra bưng bị động viên đóng lon “lieutenant – médecin” (trung uý quân y) làm việc tại Bịnh viện Chợ Rẫy. Lúc đó đơn vị quân y này mang tên HEM 415 (Hem là chữ tắt của Hopital d Évacuation Motorisé) từng tham chiến ở chiến trường Tây Âu sang. Anh Ba Hưng nói tiếng Tây giỏi như bẻ củi, khiến Savary thích thú. Té ra nơi bùn lầy nước đọng, dân kháng chiến không thiếu trí thức do Pháp đào tạo. Sau đó Savary được Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát giám đốc Sở Thông tin - tuyên truyền tiếp tại văn phòng là một nhà sàn bên bờ kinh Dương Văn Dương, xã Nhơn Hoà Lạp. Nhà sàn như một nhà sàn trong đồng sâu nhưng cách trang trí thẩm mỹ khiến văn phòng rực sáng, nhưng phong cách hào hoa của chủ nhà càng làm khách từ Kinh thành Ánh sáng đặc biệt chú ý.
        Đã được thông báo trước anh Sáu Pháp đưa khách tới thăm trung tướng uỷ viên quân sự Nam Bộ kiêm phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ. Văn phòng anh Ba Bình cũng được sửa sang như nền đất, được trải một lớp tre đập giập để ngăn hơi ầm của đất. Các vách cũng được treo bản đồ quân sự và các lá quân kỳ: rất ra vẻ tổng hành dinh vị tướng tư lệnh.
        Khi khách tới, một trung đội bảo vệ mặc ka ki vàng bồng súng dàn chào đúng quân cách. Savary quan sát kỹ từng chi tiết. Ông ta bật cười khi thấy trung đội đi chân đất. Nhưng không đợi giải thích, ông hiểu ngay chiến trường sông rạch, lính tráng không cần giày. Anh Sáu Phát giới thiệu chủ khách. Phía chủ có anh Ba Bình, trưởng phòng quân giới Nam Bộ, kỹ sư Lê Tâm, chánh văn phòng của trung tướng, anh Võ Bá Nhạc.
        Tiệc sơ giao do bà Lê Đình Chi nấu nướng được dọn ra. Ông Lê Đình Chi là trưởng phòng quân pháp Nam Bộ đã hy sinh trên đường công tác trước đó một nam.
        Sâm banh nổ ròn. Savary đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Trong bưng biền cũng có thứ rượu sang trọng này sao? Anh Ba nâng ly mời khách và nói bằng tiếng Việt. Anh Lê Tâm dịch thật lưu loát.
        Về sau Savary mới biết tên Lê Tâm là kỹ sư cầu đường ở Paris về nước kháng chiến sau hội nghị Fontainebleau và được đưa vô đồng Tháp làm cố vấn phá hoại cho trung tướng Nguyễn Bình.
        Anh Ba Bình nói ngắn gọn. Savary đứng lên nói và nhờ hai anh Sáu Phát và Lê Tâm dịch nhưng anh Phát nói “khỏi phải dịch. Trung tướng nghe được hết”. Savary nói thật trang trọng, gọi anh Ba bằng “mon général” thật là ngọt ngào. Ai nấy đều hân hoan phấn khởi. Nhà chính trị có khác. Không xấc láo như tên Cao uỷ kiêm Tổng tư lệnh Đông Dương D’ Argenlieu từng gọi anh Ba Bình là tướng giặc về sau, Savary tiết lộ “trăm nghe không bằng một thấy. Tôi đã thấy và đã cụng ly với trung tướng Nguyễn Bình mà các tướng lãnh Pháp gọi là “le borgne” (thằng chột).
        Savary lần lượt gặp các ông Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc Thuần, chủ tịch và phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Nam bộ. Ông cũng đi thăm các chợ, trường học, binh công xưởng, nhà in, toà soạn báo Tổ Quốc, phòng triển lãm hội hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Cao Thương v.v... Ông cũng có dịp chạy xuống hầm khi máy bay Spỉtfire lên bỏ bom và bán đại liên xuống xóm nhà hai bên bờ kinh.
        Rất may là chuyến đi đó, khách quý không bị bắt như giáo sư Chesneau năm trước vì đụng một cuộc hành quân càn quét của quân đội Pháp.
        Khi trở về Paris, nghị viên Alain Savary viết nhiều bài báo ca ngợi kháng chiến và tiên đoán võ lực không thể giải quyết chiến tranh Việt Nam. Chuyến vô Đồng Tháp Mười năm ấy là một kỷ niệm khó phai trong đời ông đại biểu Đảng Xã Hội Pháp Alain Savary.

Chương 54

Đại hội quân dân y Bưng Kè
Nữ dược sĩ Yên, tôi mê Nguyễn Bình















































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Cuối 1948 đầu 1949 Nam bộ tổ chức đại hội quân dân y tại Bưng Kè, một địa danh nằm trong xã Mỹ Lộc, giĩra chiến khu Đ. Địa điểm là quân y viện Khu 7 do bác sĩ Võ Cương, chính trị viên Trưởng đoàn 310 làm giám đốc. Về dự đại hội có nhiều bác sĩ, dược sĩ ở ba khu 7, 8, 9 và một số bác sĩ, dược sĩ trong thành nữa. Về mặt tiếp tế, thuốc men và dụng cụ y khoa thì các bác sĩ và dược sĩ Sài Gòn Chợ Lớn đóng góp rất lớn.
        Nổi bật trong số dược sĩ này là các anh Hồ Thu, Bùi Quang Tùng, chị Yên.
        Anh Hồ Thu sinh 1910 tại Phan Thiết, đậu dược sĩ tại Hà Nội năm 1933. Anh mở tiệm thuốc Tây tại Bến Tre. Anh giao du với nhóm trí thức có tình thần cách mạng nên tham gia kháng chiến ngay từ đầu.
        Do quen biết với anh Phạm Văn Sổ, sinh viên dược phụ trách ngành dược trong tỉnh Thủ Đầu Một, anh Hồ Thu đảm trách việc tiếp tế thuốc men cho tỉnh Thủ Đầu Một, sau là Thủ - Biên (hai tỉnh Biên Hoà và Thủ Đầu Một nhập lại). Năm 1949 được thư mời vào Khu 7 họp đại hội quân dân y Nam bộ. Anh Hồ Thu hăm hở theo liên lạc ra khu. Nghe ra quân khu, anh ngỡ là xa xôi diệu vợi, nào ngờ khu ở sát thành phó Sài Gòn nói theo quân sự thì nó nằm trong tầm súng đại bác “vua chiến trường” (35 km). Liên lạc đưa lên Tân Uyên, từ đó đi bộ vô Bưng Kè. Chuyến vô khu lần đầu tiên đã để lại cho anh nhiều kỷ niệm khó quên Nơi rừng xanh đất đỏ anh lại gặp các bạn đồng nghiệp như dược sĩ Phạm Thị Yên. vợ anh Trần Bửu Kiếm và bác sĩ Hồ Văn Huê, Võ Cương...
        Còn anh dược sĩ Bùi Quang Tùng là dân Mỏ Cày, Bến Tre, sinh năm 1914, con ông Cai tổng Bùi Quang Đại và là em của lãnh tụ đảng Lập Hiến Bùi Quang Chiêu. Bùi Quang Chiêu thứ ba và lớn hơn anh Tùng tới 40 tuổi vì anh Tùng là con dòng sau. Ra Bắc học hai năm, anh Tùng sang Pháp học, đậu dược sĩ Pháp năm 1938. Anh về nước vào năm 1939, khi chiến tranh thế giới sắp nổ ra. Anh mở tiệm thuốc Tây ở Bạc Liêu, gần cầu Quay... Năm 1943 anh sang tiệm thốóc ở Bạc Liêu đế về Sài Gòn: mở tiệm thuốc tây tại đường Tháp Mười trước chợ Bình Tây trong Chợ Lớn...
        Ý thức dân tộc nảy ra rất sớm trong đầu anh Tùng. Năm 1930 khi đọc báo ảnh Pháp, tờ L’ Illustration, số đặc biệt kỷ niệm một trăm năm xứ Algérie (Centenaire de l’ Algérie) anh Tùng đã có ý nguyện tranh đấu cho Việt Nam thoát ách đô họ của người Pháp. Lúc đó lại đúng là lúc anh Chiêu “lên hương”: Bùi Quang Chiêu được Pháp phong chức đại biểu Nam Kỳ trong Thượng Hội đồng thuộc địa (Nguyên văn là Délégué de la Cochinchine au Conseil Supérieur des colonies).
        Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, Nghiệp đoàn dược sư thay các chuyên viên Pháp ở Sở Y Tế Nam Kỳ, số 59, Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai): Trong Ban chấp hành nghiệp đoàn các anh Lê Quang Thăng, Trần Văn Luân và chị Phạm Thị Yên. Anh Hồ Đắc Ân và chị Yên đề cử Bùi Quang Tùng tiếp quản kho thuốc để phán phối cho các khu.
        Công việc này rất khó vì Tây phá bằng cách xé các nhãn hiệu số thuốc chứa trong phòng dược khoa, bịnh viện Grall (Nhi đồng 2)... Ta phải phân chất các loại thuốc và làm nhãn hiệu mới. Tùng lo về chuyên môn còn anh Ân và chị Yên phụ trách chỉ huy chung. Khi Tây trở qua Sài Gòn, chúng bắt được anh Tùng giam hai tuần tại Catinat rồi đưa qua Khám Lớn cho đến đầu 1946 mới thả. Anh mở tiệm thuốc Tây ở chợ Bình Tây và cùng với chị Yên tiếp tế thuốc men vô chiến khu đồng thời đào tạo bào chế viên đưa vô khu 7.
        Còn chị Dược sĩ Phạm Thị Yên là vợ Trần Bửu Kiếm những ngày đầu kháng chiến là chủ nhiệm báo Kèn gọi lính. Tờ báo này có nét độc đáo là cả toà soạn với nhà in được đặt trên một chiếc ghe “cà dom” lưu động trên sông rạch khắp miền. Về sau anh Kiếm là Tổng thơ ký Uỷ ban Kháng chiến - Hành chánh Nam bộ. Chị Yên vẫn làm công việc chuyên môn của mình là đào tạo bào chế viên đồng thời tiếp tế thuốc men cho các chiến trường.
        Người hăm hở nhất trong cuộc họp Quân dân y Nam Bộ năm ấy là chị Yên. Nhân dịp này chị muốn tận mắt quan sát Chiến khu xanh mà chị mới vừa làm quen trên tờ báo Tiền Đạo, số đặc biệt chiến thắng La Ngà. Năm đó cả ba khu đều thi đua đánh lớn, lập chiến công to. Và cả ba khu đều ra ba tờ báo in chữ chì khổ lớn như báo trong thành. Đó là tờ Tiên Đạo của Khu 7, tờ Tổ Quốc của khu 8 và tờ Tiếng súng kháng địch của Khu 9 và cũng là một điều ngẫu nhiên kỳ diệu là cùng lúc cả ba khu đều có chiến công hiển hách. Khu 7 có chiến thắng La Ngà, Khu 8 có trận Giồng Dứa, khu 9 có chiến thắng Tầm Vu cướp được khẩu đại bác 105 ly.
        Bài bút ký “Khách đô thành viếng Chiến Khu Xanh” của anh Bùi Thanh Khiết viết về tình cảm của các cô nữ sinh trường đầm Couvent Des Oiseaux Đà Lạt bị kẹt trong trận phục kích đoàn công-voa nhà binh Pháp và được đưa vô chiến khu vài tuần để tránh cuộc truy kích trả đũa của Pháp. Không khí hào hùng của đoàn quân chiến thắng cộng với tâm hồn mơ mộng của các cô gái Việt học trường đầm tạo một ấn tượng khó phai cho những ai thích phiêu lưu vào những chân trời lãng mạn. Còn một điểm này nữa: mến mộ anh em chiến sĩ đã lập chiến công chị Yên còn mến mộ vị chỉ huy các chiến sĩ này. Báo chí gọi là “Thống nhất” đã viết nhiều về Nguyễn Bình.
        Báo Việt Bút viết về một vị tướng đơn phương độc mã từ Bắc vô Nam có chặng phi ngựa vượ. đèo băng suối giữa muôn vàn hiểm nguy. Với đầu óc lãng mạn, Chị Yên hình dung Nguyễn Bình phải là một “Từ Hải hàm én mày ngài, oai phong lẫm liệt!”.
        Tại Bưng Kè, giữa rừng già Mỹ Lộc, gặp bác sĩ Võ Cương, bác sĩ Hồ Văn Huê, dược sĩ Hồ Thu, chị Yên hỏi ngay:
        - Trung tướng Nguyễn Bình có dự đại hội quân dân y này không?
        Võ Cương đáp:
        - Trung tướng rất bận, không dự được, nhưng trong ngày đại hội kết thúc, anh Ba Bình sẽ tới nói chuyện với các đại biểu.
        Chị Yên nói tiếp:
        - Chuyến đi của tôi vô đây cốt là để gặp trung tướng.
        Mọi người ngạc nhiên:
        - Về việc gì?
        Chị Yên cười lớn:
        - Chẳng có việc gì hết? Sự thật là tôi mê Nguyễn Bình. Và tôi muốn gặp để xem trong trong có giống như người kỵ mã tôi thấy trong mộng hay không.
        Mọi người cười rộ lên. Ai cũng thích thú về tánh trung thực, nghĩ sao nói vậy của chị Yên. Bác sĩ Huê hỏi nhỏ:
        - Chị có dám nói như vậy trrớc anh Trần Bửu Kiếm?
        Chi Yên gật:
        - Dám chớ. Anh Kiếm là chồng, còn ông Bình là thần tượng. Hai cái đó khác nhau: chồng thì mình thương mình yêu, còn thần tượng thì mình kính mình phục. Các anh hiểu rõ ý chừ “mê” của tôi chưa?
        Chị Yên đã toại nguyện. Trung tướng Nguyễn Bình đã đến chung vui với đại biểu trong liên hoan kết thúc đại hội quân dân y Nam Bộ. Cùng đi với anh Ba có một phụ nữ phốp pháp mà các anh gọi là chị
        Ba. Sau này chị Yên mới biết là chị Thanh, liên lạc thành kiêm thơ k-v của anh Ba Bình.
        Khi anh Võ Cương giới thiệu các đại biểu, anh Ba bắt tay từng người, hỏi chuyện công tác rồi chuyện gia đình, thân ái như người trong gia quyến thân tộc.
        Đặc biệt với các đại biểu ở thành, anh Ba bắt tay siết mạnh và giữ lâu hơn. Anh có một tình cảm sâu đậm với những gì thuộc về Sài Gòn - Chợ Lớn mà anh đã vài lần đột nhập dưới lốt nhà văn Minh Hương hoặc một phú thương “khách trú”.
        Vì có tin Tây tập trung tầu chiến tại Biên Hoà - rất có thể chúng sẽ tấn công chiến Khu Đ nên anh Ba khuyên anh em đại biểu nên trở về đơn vị gấp, các anh Võ Cương, Hồ Thu, Hồ Văn Huê không kịp hỏi chị Yên một câu: “Anh Ba Bình có giống người trong mộng của chị?”

Chương 55

Gặp Nguyễn Đăng Nguyễn Bình ưng
Cuộc họp nào cũng kéo Đăng theo
















































Nguyễn Bình tại An Phú Xã
Huỳnh Văn Một kể chuyện miền Đông


Kỹ sư Ngô Tấn Nhơn được Trung ương giao chức bộ trưởng Bộ Canh Nông thay ông Huỳnh Thiện Lộc lãnh nhiệm vụ khác. Ông Nhơn giữ kỹ sư Nguyễn Đăng làm phó đổng lý sự vụ Bộ Canh nông. Ông Nhơn tốt nghiệp khoá một còn ông Đăng tốt nghiệp khoá năm. Được đề bạt chức vụ khá cao nhưng ông Đăng không vui. Ông chỉ muốn đánh giặc ngoài mặt trận hơn. Nguyễn Đăng quê ở Suối Đá, một vùng rừng rậm trong tỉnh Tây Ninh, nằm giữa núi Bà và Núi Cậu. (Nay là huyện Dương Minh Châu). Gia đình đủ ăn, Nguyễn Đăng được học bổng nhờ đậu cao lên trung học và đại học. Đậu kỹ sư Nông nghiệp, Nguyễn Đăng được bổ về Cần Thơ làm việc. Đầu 1945 Nguyễn Đăng gặp Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây và tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi còn là sinh viên ở Hà Nội, Nguyễn Đăng đã hoạt động trong Tổng hội sinh viên và sáng lập đảng Dân Chủ. Kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Đăng là một các chỉ huy quân sự trẻ. Khi mặt trận Cần Thơ vỡ sau ba tháng bao vây địch trong thành phố, Thanh Sơn được trung tướng gọi ra Bắc đảm trách việc chi viện cho chiến trường miền Nam. Lúc đó Nguyễn Đăng cũng đi ra Bắc để dự khoá họp đau tiên của Quốc Hội. Nguyễn Đăng đắc cử đại biểu tinh Cần Thơ. Cùng một chuyến đi, Thanh Sơn chọn Nguyễn Đăng làm trợ lý. Ra tới Hà Nội thì tách ra, ai lo việc nấy.
        Muốn trở về bộ đội, Nguyễn Đăng điện cho Thanh Sơn bày tỏ nguyện vọng muốn đánh giặc hơn làm văn phòng. Thanh Sơn lúc đó là phó chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Miền Nam Việt Nam đóng ở Quảng Ngãi. Thanh Sơn liền can thiệp rút Nguyễn Đăng về giao nhiệm vụ đưa tiểu đoàn Ba Dương vào Nam Bộ.
        Đúng ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, Pháp đánh Phú Yên. Đầu tháng 1-1947 Bộ Quốc Phòng điện vào bổ nhiệm Nguyễn Đăng làm tham mưu trưởng khu 6 gồm các tỉnh Nam Trung Bộ từ Phú Yên Darlac trở vào. Nguyễn Đăng được giao nhiệm vụ phối hợp lực lượng của Khu 6 và tiểu đoàn Ba Dương chặn mũi tấn công của Pháp ra thị xã Tuy Hoà. Sau mấy trận chiến đấu ác liệt ngay trong những ngày Tết Đinh Hợi. Pháp bị thiệt hại đặng rút lui vào Núi Hiềm, gần Đèo Cả.
        Tháng 4-1947, biết được một đoạn đường trong vùng núi từ Khánh Hoà vào Ninh Thuận còn bị tắc do địch khống chế, làm cho nhiều cán bộ lãnh đạo và nhiều tài liệu quý của Trung ương đưa vào Nam Bộ bị dồn đọng lại Phú Yên, Nguyễn Đăng đề nghị Uỷ ban kháng chiến Miền Nam giao cho mình nhiệm vụ mở thông đoạn đường này và sau đó cho được về luôn chiến trường Nam Bộ. Được chấp thuận, Nguyễn Đăng bàn giao ngay nhiệm vụ tham mưu trung Khu 6, nhận một trung đội đi mở đường. Sau hai tháng, đường thông. Đoàn cán bộ Trung ương do ông Thanh Sơn phụ trách hành quân vào Nam có Tiểu đoàn Ba Dương hộ tống. Nhưng vì đoàn đông, đến khu căn cứ tỉnh Khánh Hoà thì bị lộ. Pháp huy động lực lượng từ Nha Trang lên, từ Ban Mê Thuột xuống. Từ Đà Lạt ra bao vây chặn quân ta. Nguyễn Đăng đề xuất ý kiến chia đôi lực lượng vũ trang, một bộ phận lấy tên là bộ đội Ba Dương do Nguyễn Đăng và một số cán bộ trực tiếp chỉ huy, chủ động tấn công địch để thu hút địch vào mình, tạo điều kiện cho bộ phận còn lại lấy tên là bộ đội Hùng Phước mở đường đưa đoàn ông Thanh Sơn vào Nam an toàn. Trong hai tháng trời Nguyễn Đăng cùng đơn vị chiến đất liên tục, có ngày đụng địch ba trận. Sau cùng Tiểu đoàn Ba Dương về tới Bà Rịa, rồi Biên Hoà, Nguyễn Đăng lần lượt gặp các chỉ huy Miền Đông như Hứa Văn Yến, Nguyễn Thuận Thảo, Chi đội 16, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Văn Lung, Chi đội 10 và tư lệnh Khu 7 Nguyễn Bình.
        Lúc đó anh Ba đóng ở Giồng Lức. Nguyễn Đăng báo cáo:
        - Sứ mạng tôi đã hoàn thành. Tôi đã đưa Tiểu đoàn Ba Dương về với Đồng Tháp Mười.
        Nguyễn Bình gật đầu:
        - Tôi đã được điện của anh Tám Nghệ báo trước là ông kỹ sư đã cầm chân địch cho đoàn ông Thanh Sơn vào Nam Bộ an toàn. Về Tiểu đoàn Ba Dương, tôi thấy nên bố trí ở Khu 7 là đúng vị trí, vì Khu 7 là muc tiêu số một của thằng Tây. Ông kỹ sư nghĩ thế nào?
        Nguyễn Đăng bảo:
        - Vấn đề đó xin đề nghị Khu trưởng bàn với ông Thanh Sơn. Tôi chỉ làm nhiệm vụ đưa Tiểu đoàn về tới Đồng Tháp Mười như đã được định.
        Nguyễn Bình gật gù:
        - Tôi sẽ bàn với đồng chí Thanh Sơn.
        Vài ngày sau Nguyễn Đăng được Nguyễn Bình cho biết:
        - Tôi đã thống nhất với đồng chí Thanh Sơn là để
        - Tiểu đoàn ở đây. Ta nên xúc tiến việc bàn giao.
        Trong những ngày ở Nam Bộ, Nguyễn Đăng thấy vài việc không ổn như cùng một lúc có hai chức trưởng ban quân sự Nam Bộ tuy danh xưng khác nhau: Thanh Sơn là trưởng ban quân sự Nam Bộ còn Nguyễn Bình là uỷ viên quân sự Nam bộ. Làm sao hai vị này chẳng giẫm chân nhau?
        Lúc đó còn có nạn dòm ngó nhau giữa Cộng sản và Dân chủ. Nguyễn Đăng theo Dân chủ. Năm 1944, Nguyễn Đăng là một trong những sinh viên sáng lập ra đảng Dân chủ Việt Nam, trong mặt trận Việt Minh. Năm 1946, tại đại hội Đảng Dân chủ lần đầu tại Hà Nội, Nguyễn Đăng cùng các bạn Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm, Vương Văn Lê, Nguyễn Việt Nam được bầu vô Ban chấp hành Trung ương. Để giải quyết các xung đột giữa hai nhóm, một ban hoà giải được lập ra gồm có các ông Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Đăng, Vương Văn Lễ bên dân chủ, Ung Văn Khiêm, Thượng Vũ, Nguyễn Văn Kỉnh và Hà Huy Giáp bên Cộng sản.
        Nguyễn Bình đã được Vũ Huy Xứng, Phòng chính trị khu 7 kết nạp vào năm 1947 nhưng nhiều người vẫn đinh ninh ông Bình là Nguyễn Phương Thảo, đảng viên Quốc Dân Đảng.
        Có chuyện đáng kể là Nguyễn Bình thích Nguyễn Đăng. Trong các cuộc họp, luôn luôn ông Ba Bình đề cử “ông kỹ sư” làm thư ký. Nhiệm vụ của thư ký hội nghị là làm biên bản ngay tại chỗ, tóm tắt các ý kiến phát biểu và kết luận của chủ toạ, xong rồi đọc cho cử toạ nghe để thông qua, sau cùng đưa cho chủ toạ ký.
        Với trình độ đại học thì làm thư ký hội nghị thì công việc đó không có gì là khó khăn, nhiều người cười, cho việc trung tướng đề cử Nguyễn Đăng làm thư ký hội nghị là “giết gà mà dùng dao mổ trâu”. Dù vậy không bao giờ Nguyễn Đăng từ chối đề cử của anh Ba. Do vậy mà trong một thời gian một số biên bản hội nghị đều mang chữ ký của chủ toạ Nguyễn Bình và thư ký Nguyễn Đăng. Thế là thiên hạ đồn Nguyễn Đăng đã được “mắt xanh” trung tướng Nguyễn Bình chấm.
        Tin này tới tai đồng chí Lê Duẩn lúc bấy giờ là bí thư xứ uỷ. Anh Ba Duẩn, trước đây đã chú ý tới “ông kỹ sư” trong giới chỉ huy quân sự ở Nam Bộ, Nguyễn Đăng là người trí thức say mê đánh giặc sau luật sư Thái Văn Lung hy sinh quá sớm. Anh Ba Duẩn chọn Nguyễn Đăng làm mô hình để nghiên cứu về người trí thức miền Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lăng. Nhận thấy Nguyễn Đăng có đủ điều kiện để trở thành đảng viên cộng sản, anh Ba Duẩn đặc biệt quan tâm tới người cán bộ quân sự trí thức hiếm có này. Nhân đồng chí Dương Minh Châu hy sinh, anh Ba Duẩn tính đưa Nguyễn Đăng về làm chủ tịch Tây Ninh. Việc đề bạt này cũng hợp lý vì tâm lý cử người của địa phương, Nguyễn Đăng là dân Tây Ninh. Nhưng Nguyễn Đăng lại không khoái chức vụ ấy, anh chỉ thích đánh giặc thôi. Khi anh Ba Duẩn gợi ý, Nguyễn Đăng nói rõ ý định của mình. Anh Ba Duẩn bỏ ý định đưa Nguyễn Đăng làm chủ tịch Tây Ninh. Trong việc bố trí lại Bộ Tư lệnh Nam Bộ (bỏ tên cũ là Ban Quân Sự Nam Bộ do Thanh Sơn đảm trách) Nguyễn Bình là tư lệnh, Dương Quốc Chính là chánh uỷ, Nguyễn Đăng làm tham mưu trưởng.
        Nguyễn Đăng nói riêng với anh Ba Duẩn: “Tôi thấy không được. Tôi không hợp với trung tướng Nguyễn Bình”. Anh Ba Duẩn lộ vẻ ngạc nhiên: sao tôi nghe nói hai người ăn ý lắm? Nguyễn Đăng cười kể chuyện ông Bình thích đề cử anh làm thư ký hội nghị. Chỉ có thế thôi. Còn về sinh hoạt thì anh không chịu được tác phong huynh trưởng của ông Bình và nhất là chung quanh đám em út của anh Ba Bình có cả người trong thành ra. Là chỉ huy quân sự, Nguyễn Đăng giữ gìn bí mật như giữ gìn con ngươi của mình. Biết bao chiến dịch chuẩn bị chu đáo mà thất bại vì bí mật bị lộ trước giờ nổ súng. Dù Nguyễn Đăng thoái thác vẫn có quyết định bổ nhiệm Nguyễn Đăng tham mưu trưởng Nam Bộ. Anh Ba Duẩn bảo Nguyễn Đăng: “Cố gắng làm thử đi. Có gì báo cáo với tôi!”.
        Hai tháng sống ở Bộ tư lệnh Nam Bộ đóng ở Kinh Bùi, Kinh Dương Văn Dương, sát Nguyễn Bình, Nguyễn Đăng tự thấy không thể hoà đồng với không khí còn nhiều mặt chưa hợp nhau nên xin bố trí lại.
        Anh Ba Duẩn đề nghị Bộ Quốc Phòng cử Nguyễn Đăng giữ chức Tư lệnh phó Khu 8. Lúc đó Bộ Tư lệnh Khu gồm có các ông Trần Văn Trà, tư lệnh, Nguyễn Văn Quạn, phó tư lệnh, Nguyễn Văn Vịnh chánh uỷ.
        Kỷ niệm khó quên trong đời Nguyễn Đăng là được anh Ba Duẩn kết nạp vô Đảng Cộng sản vì theo nguyên tắc kết nạp một uỷ viên trong Ban Chấp hành Trung ương một đảng khác, phải là cấp Trung ương. Cuối năm 1949, anh Ba Duẩn nói:
        - Từ lâu tôi đã chú ỷ tới đồng chí. Đồng chí là một trí thức mà tinh thần yêu nước đã nảy nở trong thời kỳ tiền cách mạng... Đồng chí vào Đảng Dân Chủ là phải. Nhưng để tiện việc đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng, đồng chí nên đứng vào Đảng của Bác.
        Năm 1950, khi chi bộ Đảng họp làm lễ kết nạp Nguyễn Đăng, anh Ba Duẩn dự. Anh Ba đã phát biểu ý kiến, chỉ thị về các mặt phấn đấu để làm tròn nhiệm vụ một đảng viên Cộng sản, hướng dẫn, giáo dục, việc rèn luyện đạo đức, tác phong, gắn chặt với giai cấp công nhâu, nhất là mình thuộc giới trí thức Những lời của anh Ba Duẩn đã đi vào lòng Nguyễn Đăng từ ngày ấy.

Chương 56

Về Tháp Mười dự khoá đại đội
Hai Giỏi làm thư ký Nguyễn Bình


Vào cuối năm 49 trung tướng Nguyễn Bình có thư ký mới. Đó là một thanh niên hăm hai tuổi quê ở Long Điền Bà Rịa, tên là Dương Văn Giỏi. Hai Giỏi học tới năm thứ tư trường trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn thì đụng Cách mạng tháng Tám. Năm 1944 Giỏi đã gặp thầy giáo Dương Văn Xá viết báo ký tên Nam Dương là tay hoạt động cách mạng nổi tiếng trong tỉnh Bà Rịa. Tháng 7-1944, Nam Dương phổ biến chương trình Việt Minh cho Hai Giỏi. Hai Giỏi kéo nhóm học sinh Pétrus của anh ở Bà Rịa, Long Điền, Đất Đỏ theo Việt Minh. Nhóm này gồm có hai anh em Trần Thượng Thu và Trần Thượng Thủ con của thầy giáo Trần Thượng Tứ, Hoàng Việt, Nghiêm Phú Phi, Nguyễn Văn Tần, ở Vũng Tàu, Nguyễn Văn Tuấn ở Long Hương, Bà Rịa. Giữa 1946 Hai Giỏi gia nhập bộ đội lưu động Hoàng Thọ. Đầu 1949, trên đường từ Bến Cát về Phú Mỹ để rèn cán chỉnh quân, Hai Giỏi bị thương khi băng qua đường sắt cặp con lộ Đông Dương. Bộ đội lưu động Hoàng Thọ được bổ sung để trở thành Tiểu đoàn 303, đơn vị chủ lực của Khu 7. Lễ ra mắt của Tiểu đoàn là ngày 19-5-1949. Vài tuần sau, Hoàng Thọ tuy vẫn là chỉ huy trưởng bất mãn bỏ ra đi, kéo theo vài người thân tín như Tứ, Kính, Thảo, Giỏi. Kính là chính trị viên đại đội, Giỏi là trung đội trưởng, Tứ là thư ký đại đội, Thảo là trung đội trưởng. Riêng về Giỏi thì khi Hoàng Thọ rủ về Nam Bộ dự khoá đại đội, Giỏi vừa bình phục nên muốn xưống Khu 8 để an dưỡng. Anh thận trọng hỏi ý chính trị viên Tiểu đoàn là Trần Đình Cửu. Anh Chín Cửu khuyên Giỏi nên đi dự khoá đại đội ở Khu 8 đồng thời bồi dưỡng để mau phục sức. Việc ra đi bất ngờ của Hoàng Thọ và các cán bộ đại đội làm cả tiểu đoàn xôn xao. Đại đội trưởng Đoàn Duy Ngơi vội báo với anh Chính Cửu. Anh Cửu nói: “Chớ làm to chuyện. Hoàng Thọ không chạy ra thành đâu. Hoàng Thọ cũng chẳng lên Khu. Hoàng Thọ về Nam Bộ thôi”. Trần Đình Cửu biết rõ Hoàng Thọ hơn ai hết vì chính anh là người kết nạp Hoàng Thọ một tháng trước khi thành lập Tiểu đoàn 303 chủ lực của Thủ Biên. Anh em chọn cho Hoàng Thọ bí danh Hai Bằng với ngụ ý: Hai là anh Hai, là người anh cả của bộ đội bấy lâu mang tên Hoàng Thọ, còn Bằng là bằng lòng vô Đảng. Hoàng Thọ vô Đảng vì lý chứ không phải vì tình. Là một “tướng lĩnh” chuyên đánh đấm, Hoàng Thọ không khoái chính trị. Anh không ưa nói chuyện đảng. Anh cũng có lý do của anh: sự nghiệp đánh Tây cứu nước là của toàn dân. Bày ra đảng này đảng kia là làm suy yết lực lượng tác chiến. Sự vụng về của cán bộ chi viện Trần Văn Quán, lấy tên là Hoàng Trường, càng làm cho Hoàng Thọ tin rằng mình nghĩ đúng. Hoàng Thọ đi hội nghị một thời gian về thấy có chuyện lạ trong đơn vị mình. Chuyện lạ đó là một số đội viên sanh hoạt riêng lẻ, bí mật, khi Hoàng Thọ điểm danh thì vắng mặt. Hạch hỏi mới biết họ sinh hoạt Đảng. Hoàng Thọ càng tin chắc đơn vị có sự chia rẽ từ khi có Đảng. Tệ hại hơn nữa là Hoàng Thọ bắt gặp Hoàng Trường lục xét giấy tờ của mình. Thế là cơn giận bấy lâu dồn nén nổ tưng: “Hoàng Thọ này đi kháng chiến là vì dân vì nước, đâu có ngờ ngày nay lại có cái nạn đảng này phái nọ. Đem mà bắn cha nó hết ba cái đảng phái này cho nó rồi!”
        Cơn thịnh nộ của Hoàng Thọ thấu tới tai tham mưu trưởng khu là Lê Đức Anh. Khi gặp Hoàng Thọ, ông Anh phê bình ngay: “Hoàng Thọ là công nhân mà phản lại công nhân”. Hoàng Thọ bực lắm, cạo đầu để biểu hiện cơn bực của mình. Nhưng hãy trở lại chuyện đi Nam Bộ của Hai Giỏi.
        Tháng 6-1949 Giỏi cùng các bạn Thảo, Kính, Hổ dự khoá đại đội. Thời gian sau đó tin Hoàng Thọ được trung tướng Nguyễn Bình giới thiệu về Bắc nhưng Hoàng Thọ đi vài chặng thì đổi ý trở về Mỹ An, sang một quán lá kề bên trạm gác tại ngã tư kinh Nguyễn Văn Tiếp và kinh Tháp Mười. Với số tiền hai ngàn đồng Đông Dương ngân hàng, Hoàng Thọ sống như một Mạnh thường quân, cán bộ nào đi công tác ngang Mỹ An cũng được Hoàng Thọ mời vô quán ăn uống đãi đằng. Hai Giỏi biết Hoàng Thọ đã trở thành một tay bất mãn mà cả “đại huynh” Nguyễn Bình cũng bó tay uốn nắn được nữa. Anh lấy làm buồn cho một tay chỉ huy đã lập nhiều chiến công vang dội đang tự giết cuộc đời chính trị của mình bằng rượu và sự bất mãn.
        Học xong khoá đại đội, Hai Giỏi được giới thiệu về văn phòng trung tướng Nguyễn Bình. Thấy Giỏi có trình độ văn hoá khá, anh Ba thu nhận ngay, giao nhiệm vụ thư ký ghi chép. nghe đài phát thanh tiếng Pháp để báo mỗi đêm. Đồng thời đảm trách luôn việc bảo vệ văn phòng trung tướng.
        Không bao lâu văn phòng trung tướng dời về Khu 9 vào năm 1950. Thoạt tiên ở Cá Lốc, trong quận Long Mỹ, sau về sông ông Dẻo, gần Cầu Đúc, quận Gò Quào. Trong thời gian này anh Ba Bình giải phẫu con mắt trái đã hư từ năm 1935 lúc ở tù Côn Đảo - năm đó còn mang tên Nguyễn Phương Thảo, bị Quốc Dân Đảng thanh trừng về tội phản Đảng.
        Bác sĩ Thân, một bác sĩ già theo kháng chiến, đã giải phẫu cho anh Ba. Có một chuyện vui: chị Thanh kề cận săn sóc anh Ba đã phải đút thức ăn tận miệng vì cả hai mắt đều bị quấn băng. Không rõ chị Thanh nghĩ ngợi điều gì mà đút muỗng vô mũi anh Ba làm anh Ba kêu lên: “Mồm ở đây này, sao cứ đút vào mũi người ta!”.
        Tiếp theo đó là một chuyện bực: Khi vết mổ lành, anh Ba tiếp tục nếp sinh hoạt như thường lệ tức mỗi sáng tập thể dục rồi bơi lội dưới sông. Hai Giỏi có nhiệm vụ ở trên bờ nghe ngóng máy bay. Một hôm có tiếng phi cơ rất gần. Hai Giỏi báo động: “Máy bay nghe anh Ba”. Thay vì lên bờ mặc quần áo, anh Ba lại rầy: “Nó ở tận đâu đâu! Cạu nhát quá!”. Dân đánh giặc mà bị chê “nhát”, Hai Giỏi tự ái:
        - Tôi có trách nhiệm bảo vệ anh Ba. Có hơi máy bay thì tôi phải cho anh Ba hay. Vậy thôi! Đâu phải nhát!
        Đó chỉ là chuyện nhỏ, nhưng lại là giọt nước làm tràn tách nước. Từ lâu Hai Giỏi không khoái tác phong huynh trưởng của anh Ba. Chung quanh anh rất nhiều em út, mà phần đông là nữ. Có tin đồn là gián điệp trẻ đẹp trà trộn trong số em út ở thành.
        Thực hư thế nào chưa biết, nhưng rõ ràng là không khí đó không hợp với Hai Giỏi. Đêm đó anh bỏ ra sóc Miên sau khi viết thư xin trở về đơn vị cũ. Nửa đêm có người của anh Ba đi tìm mời Hai Giỏi về. Anh Ba bắt tay Giỏi cười nói “Hồi sáng mình nóng nẩy làm chạm tự ái cậu. Mình xin lỗi cậu”. Hai Giỏi vuốt giận ở lại với anh Ba.
        Không lâu sau, văn phòng trung tướng Nguyễn Bình lại lên miền Đông. Đi lòn khu vực Hoà Hảo thật gian nan, lại phải vượt hai con sông Hậu và Tiền. Hai Giỏi chịu trách nhiệm bảo vệ cả đại đội. Không thể nào quên được những đêm vượt trường giang, trong bóng đêm, bờ bên kia tăm tăm mù mù trong màn sương hơi nước. Hai Giỏi không quên hai anh Thới và Danh là trưởng và phó huyện đội Ô Môn đã bố trí những chiếc ghe đặc biệt bốn chèo, tám giầm để đưa văn phòng Trung ương qua sông. Những chiếc ghe này lướt sóng như ca-nô. Lúc đó Hai Giỏi có một ý nghĩ ngộ nghĩnh: nếu sau này mình còn sống, mình phải phục chế một chiếc ghe như thế để chưng trong viện bảo tàng kháng chiến cho con cháu mình xem cho biết kháng chiến ra làm sao.
        Tới Đất Cuốc, Hai Giỏi tính xin trở về đơn vị cũ thì dịp may xảy đến: Có tin Trung ương gọi Nguyễn Bình ra Bắc. Đúng lúc đó Hai Giỏi gặp thiếu tướng Dương Quốc Chính. Anh nói:
        - Anh Ba Bình đề nghị tôi cùng đi ra Bắc với anh. Nhưng tôi kém sức khỏe, sợ đi không nổi. Tôi tính xin trở về đơn vị cũ.
        Ông Chính nói: “Vậy thì cậu cứ ở đây với tôi”.
        Thế là nhưng ngày sống kề cận anh Ba Bình của Hai Giỏi chấm dứt vào lúc đó.

Chương 57

Trong ương gọi Nguyễn Bình ra Bắc
Bao nhiêu đêm thắc mắc suy tư


        Giữa năm 1951 có tin Trung ương gọi trung tướng Nguyễn Bình ra Bắc. Bức điện rất vắn tắt. Những người ở ngay trong văn phòng anh Ba cũng không hiểu lý do triệu hồi một vị tướng mà Bác Hồ đã giao Nam Bộ trong những ngày “ngàn cân treo sợi tóc”.
        Hai Giỏi là thơ ký kiêm bảo vệ của anh Ba cũng không nắm rõ nguồn cơn. Chỉ thấy anh Ba đăm chiêu nghĩ ngợi. Có lẽ anh Ba tính sổ những gì đã làm được và những gì chưa làm được cho Nam Bộ.
        Dường như linh tính báo trước là chuyến về Bắc lần này là một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời của mình. Sau mấy ngày suy tư, anh Ba quyết định tuân lịnh thượng cấp. Nguyên tắc mà anh tuân thủ suốt đời chẳng phải là kỷ luật đó sao? Rất có thể mình về Bắc rồi lãnh một công tác khác ở đâu đó chứ không được trở vào Nam. Có lẽ Trung ương đã biết những va chạm mà mình đã gặp trong năm sáu năm hoạt động trong Nam. Đánh địch, mình đã lập nhiều chiến công, đặc biệt qua thành tích diệt ác trừ gian của mười đội công tác thành. Bọn bồi bút Hiển Sĩ, tên thực dân De la Chevrotière, tên gian Trần Tấn Phát, con cáo già Bazin lần lượt gục ngã dưới làn đạn của anh em Công tác thành và đội Công an Xung phong.
        Rồi hàng chục sĩ quan hải quân, không quân của địch bỏ xác trong rạp chiếu bóng Majestic, các nhà hàng La Pagode, Impérial, Câu lạc bộ sĩ quan không quân... Rồi các trận đót kho đạn Thị Nghè, kho bom Phú Thọ... Tóm lại Mười Ban công tác Thành là một đội quân tinh nhuệ gieo kinh hoàng trong sào huyệt địch. Đúng là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bình: đem chiến tranh du kích vào tận trung tâm Sài Gòn-Chợ Lớn. Nhưng bên cạnh những chiến công lại là những mất mát, những hy sinh lớn lao của nhiều đồng chí trung kiên ở cơ sở bí mật. Vấn đề thứ hai là việc thu phục giới giang hồ Bình Xuyên. Kéo được các bộ đội Ba Dương - Năm Hà, Tám Mạnh - Hai Vĩnh, Bảy Viễn, Mười Trí là cả một nghệ thuật, kết hợp bản lĩnh sáng tạo. Giang hồ là con dao hai lưỡi, không khéo sử dụng có thể đứt tay như chơi. Thế mà mình đã sử dụng được, Nhưng vấn đề Bình Xuyên chỉ hay có khúc đầu còn khúc đuôi thì thật đáng tiếc. Bảy Viễn đã đầu Tây. Việc này chắc phải có thời gian để đánh giá.
        Còn gì nữa nào? À, còn vụ Hoàng Thọ. Mình đã quá nuông chiều cậu này. Nuông chiều vì một lẽ: Nó là thằng em út đồng hương có nhiều điểm giống mình: anh hùng hảo hớn, trung thực ăn nói ngay thẳng. Khi Hoàng Thọ bất mãn bỏ về tiểu đoàn 303 về tìm mình, mình đã khuyên nó về Bắc lập lại sự nghiệp. Mình đã ký giấy giới thiệu và cho tiền lộ phí.
        Tưởng đã giúp được thằng em khỏi nghịch cảnh, nào ngờ đi vài chặng, gặp bạn bè xúi bậy, nó lại đổi ý, trở lại Mỹ An mở quán làm đủ thứ chuyẹn “ba-gai” trên đời. Đến khi nhận yêu cầu phải ký giấy bắt Hoàng Thọ, mình hết sức khổ tâm. Nó đã nhiều lần cứu mình thoát hiểm, vụ Sáu Section mưu sát mình ở Lò Đường, rồi vụ Vũ Tam Anh, Bùi Hữu Phiệt, không có Hoàng Thọ thì Nguyễn Bình đã xanh cỏ từ lâu. Mình suy nghĩ mấy ngày trước khi hạ bút ký bắt Hoàng Thọ. Mình dư biết đó là hạ sách, vì với Hoàng Thọ, chỉ dùng tình cảm mới thu phục được nó. Cho nên ký giấy bắt Hoàng Thọ cũng đồng nghĩa với ký bản án tử hình Hoàng Thọ. Đau xót quá! Nỡ lòng nào đẩy một thằng em út như Hoàng Thọ vào chỗ chết!
        Nhưng biết làm sao đây? Không ký thì càng mang tiếng Nguyễn Bình bao che đàn em, thậm chí xúi đàn em khinh thường và coi rẻ thượng cấp.
        Chuẩn bị lên đường. anh Ba viết thư tạm biệt các bạn từng sống chết với nhau trên chiến trường miền Đông gian lao mà anh dũng. Anh nhớ ngay tới luật sư Nguyễn Thành Vĩnh và luật gia Lê Đình Chi. Ông Chi không may bị máy bay bắn chết, còn ông Vinh là người trí thức Sài Gòn đã tạo điều kiện cho anh Ba đột nhập Sài Gòn lần đấu tiên vào đầu năm 1946. Ông Vĩnh đã khiến anh Ba khâm phục khi nhà trí thức tư sản này đã yêu cầu anh cho một tiểu đội hộ tống ông về ngôi nhà tổ phụ ở Trung Lương đào hai trăm lượng vàng để làm công quỹ lúc Nam Bộ cạn tiền nuôi quân. Nhờ số vàng đó ta mở được các chiến dịch Cầu Kè, Trà Vinh... Anh Ba soạn một số ảnh có anh và ông Vĩnh - chụp trong các hội nghị lễ tấn phong trung tướng bên bờ kinh Dương Văn Dương, dán vào album nhỏ gọi là có quà mọn lúc chia tay. Trong thư anh Ba cũng nhắc vụ về thành ba ngày ở ngay trong nhà ông Vĩnh, 35 đường Pierre Đakao và không quên chúc sức khỏe bạn để tiến mạnh trên đường giải phóng dân tộc và nhân loại khỏi tham tàn bóc lột của tư bản đế quốc.
        Người thứ hai được anh viết thư là ông Lâm Thái Hoà, phụ trách pháo binh. Anh Ba viết đến năm sáu trang, bày tỏ nỗi lòng của người đi xa mà không biết có hy vọng còn gặp lại những người thân.
        Tất nhiên anh Ba không thể quên Tám Nghệ là vị “tướng trời” theo lối nói của người dân Tân Hoà, Mỹ Lộc, còn anh thì gọi Tám Nghệ là thi tướng vì Tám Nghệ có biệt tài vừa đánh giặc vừa làm thơ. Làm sao quên được bài thơ “Bờ sông xanh chiều hôm buộc ngựa, kiếm gối đầu theo gió thả hồn cao”. Khi quyết định về Bắc, anh Ba đã yêu cầu Trung ương cho Khu trưởng Khu 7 Huỳnh Văn Nghệ cùng đi. Nhưng không rõ vì lý do gì đề nghị đó không được Trung ương chấp nhận. Người được chọn để cùng đi với anh là chánh văn phòng Bộ tư lệnh Nam Bộ Võ Bá Nhạc.
        Với anh Ba thì ông Nhạc là người phụ tá thân thiết, làm việc với anh ngay từ đầu, lúc anh Ba tới Bến Vịnh là vàm Sông Bé đổ ra sông Đống Nai. Ông Nhạc bấy giờ là quản đốc sở cao su Bến Vịnh. Ông đã hiến sở cao su cho anh Ba làm văn phòng chỉ huy, còn ông thì phụ trách văn phòng đó luôn. Cũng được? Trên đường thiên lý có bạn tâm đồng thì đường dài cũng hoá ngắn...
        Thấm thoát đã đến ngày lên đường. Bài thơ nhớ Bắc của Tám Nghệ lại vang vọng bên tai:
        Ai về Bắc, ta đi với
        Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
        Từ độ mang gươm đi mở cõi
        Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

 

Chương 58

Công tác thành về tận Sa Đéc
Diệt Chanson, thủ hiến Nam Phần


        Tháng 7-1951, đúng vào lúc trung tướng Nguyễn Bình sửa soạn lên đường ra Bắc thì một chiểu công của Ban công tác Thành tới tai người anh cả của binh chủng tinh nhuệ này. Một cảm tử của ta đã diệt được Thủ hiến Nam phần Thái Lập Thành và tướng Chanson, uỷ viên cộng hoà Pháp (tương đương Thống đốc Nam Kỳ trước kia). Chiến công này xảy ra tại thị xã Sa Đéc, ngay lễ đài dựng trước toà hành chánh tỉnh.
        Hãy nghe chị Lưu Hồng Cúc báo cáo nội vụ:
        - Tôi là Lê Thị Chẳn sanh đẻ tại Phú Hữu, Cái Tàu Hạ, Sa Đéc nhưng quê nội ở ngã tư Long Hồ, Vĩnh Long. Mười sáu tuổi lên Sài Gòn làm mướn và được anh Bảy Khám gốc Vĩnh Long giới thiệu vô đội cảm tử thành. Về sau được điều về đội 963 hoạt động trong thị xã Vĩnh Long. Tại đây tôi lấy bí danh Lưu Hồng Cúc. Tôi thứ mười nên anh em gọi là Mười Cúc.
        Tổ của tôi chỉ có bốn người. tôi là tổ trưởng; ba người kia là các anh Mười Kiên quê ở Trà Vinh, Hùng quê ở Vĩnh Long và Hạnh cũng ở Vĩnh Long. Chỉ huy đội 963 lúc đó là anh Võ Quốc Quân. người đồng hương với tôi (Cái Tàu Hạ). Khi anh Quân hy sinh, anh Trần Xuân Vỹ quê ở Bến Tre lên thay. Để tiện hoạt động, tôi dựa vào đạo Cao Đài. Tôi giao thiệp với lễ sanh Thanh Châu Ơn là người “có máu mặt” trong tỉnh Vĩnh Long. Ông này là chức sắc cao cấp trong đảng Việt Nam Phục Quốc Hội. Tôi thầu chở muối cho Cao Đài để bí mật chở súng giấu dưới muối đưa về Cái Tàu Hạ, từ đó đưa xuống ghe vô căn cớ. Một lần bị lính gác cầu Lẩu chặn xét, tôi cho người gọi lễ sanh Thành Châu Ơn can thiệp “qua truông” được.
        Ba ngày trước vụ mưu sát, trinh sát ta được tin tướng Chanson và Thủ hiến Nam phần Thái Lập Thành đi kinh lý Sa Đéc để trấn an tinh thần dân chúng sau những tổn thất dồn dập: ngày 28-4-1951, tướng Harteman, tư lệnh không quân Pháp đi máy bay B26 bị mất tích ở Tiên Yên. Ngày 30-5-1951 con tướng De Lattre là trung uý Jean de Lattre tử trận ở Ninh Bình.
        Hay tin này, anh Trần Xuân Vỹ bàn với tôi mưu sát hai nhân vật quan trọng này. Đơn vị có hai trái lựu đạn OF. Chỉ cần một người cảm tử dám mang hai trái lựu đạn này tới lễ đài. Anh Mười Kiên xung phong lãnh trách nhiệm này. Tôi bàn bạc mọi việc với “Kinh Kha” mấy ngày và lo kiếm bộ đồ sắc phục Phục Quốc với phù hiệu để anh Mười Kiên cải trang mà vô lọt khán đài danh dự tiếp cận tướng Chauson và Thái Lập Thành.
        Ngày trọng đại đã đến. Cả tổ cùng đi để động viên anh Mười Kiên. Bất ngờ làm sao, vào phút chót anh Kiên “sọc dưa”, Hùng đi kèm bực mình nói: “Không dám làm thì đưa hai trái đó cho tôi”. Anh rút chốt cả hai trái thọc vô hai túi quần xăm xăm đi tới khán đài danh dự. Nhờ có bộ sắc phục Cao Đài mà anh Hùng không bị lính gác ngăn chặn. Cách tướng Chanson ba thước, Hùng đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Lựu đạn nổ tung tức khắc. Trái thứ hai nổ tiếp theo. Tất cả nhốn nháo. Cuộc lễ tự động giải tán. Thái Lập Thành chết tại trận còn Chanson chết trên đường bay về Sài Gòn.
        Chúng lục xét các hồ sơ của Phục Quốc Hội thấy có tên Cúc, Kiên và Hạnh. Tôi bị bắt nguội. Chúng giải tôi về Toà Thánh Tây Ninh cột dưới gốc cau tra tấn ác liệt. Tôi cắn răng chịu đau, không hề khai rồi bí mật nhắn lễ xanh Thanh Châu Ơn lên Tây Ninh xin lãnh về “để giáo dục”.
        Rất tiếc là về tráng sĩ Kinh Kha Việt Nam đã hy sinh vì đại nghĩa, chị Cúc chỉ biết anh tên Hùng, thậm chí họ của Hùng chị cũng quên. Đúng Hùng là một chiến sĩ vô danh mà thị xã Sa Đéc phải dựng tượng để hậu thế noi gương.
        Trong lịch sử kháng chiến, chưa có một vụ ám sát nào mà cả Phòng Nhì lẫn Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đều mù tịt như vụ cảm tử thành tên là Hùng diệt tướng Chanson và thủ hiến Thái Lập Thành tại thị xã Sa Đéc ngày 31-7-1951. Báo chí Sài Gòn đều đổ tội cho Cao Đài và đảng Việt Nam Phục Quốc Hội.
        Tin diệt tướng Chanson, uỷ viên Cộng Hoà Pháp ở Nam Phần đến với anh Ba Bình khi anh rời chiến khu Dương Minh Châu. Đây là một an ủi, là một món quà quý báu tiễn chân anh. Tướng Chanson là uỷ viên Cộng hoà Pháp thứ hai bị Ban công tác Thành “giũ sổ”. Uỷ viên Cộng hoà Pháp thứ nhất bị diệt là đại tá Hanh Imfelt, một người Pháp gốc Thuỵ Sĩ làm uỷ viên Cộng Hoà tại Lào nhưng lại lấy Sài Gòn làm trung tâm hoạt động. Anh thợ hớt tóc trẻ - chưa tới hai mươi tuổi - Võ Hồng Tâm đã diệt tên này trong phòng số 28 khách sạn Hôtel des Nations, đường Charner (Nguyễn Huệ), giữa Sài Gòn...
        Với nhưng tin chiến thắng ấy anh Ba Bình ra đi trong niềm vui của người đã gieo hạt giống, tin tưởng mùa màng sẽ tốt tươi sau khi mình nằm xuống. Trước tình cảm cao đẹp ấy, các va chạm về nhân tình thế thái bỗng trở nên nhỏ nhen không đáng bận tâm.

Chương 59

Đêm cuối cùng vợ chồng ngăn cách
Chị Thanh buồn ông khách vô duyên


Đêm nay là đêm cuối cùng, sáng mai anh Ba sẽ lên đường. Đường xa vạn dặm, từ Nam ra Bắc, biết bao giờ mới tới? Và có được trở vào Nam không? Vợ chồng chẳng nào tái hợp? Đó là những thắc mắc lo âu của chị Thanh. Chị tính trong đêm sẽ nói tất cả những lo toan của mình, nhưng một sự kiện bất ngờ làm đảo lộn chương trình của chị. Có một ông khách tới thám bất ngờ.
        Cuộc chia tay lẽ ra phải có rượn “tống hành” nhưng anh Ba khỏng uống được rượu nên đành uống trà vậy. Thấy chị Thanh có vẻ buồn ông khách nói:
        - Chị Ba cứ yên tám. Chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo cho anh Ba. Có đội bảo về chăm sóc sức khỏe anh Ba, có ngựa cho anh Ba cưỡi. Có người đi tiền trạm từng chặng để nắm rõ tình hình. Sẽ không có bất trắc trên đường hành quân đâu!
        Chị Thanh được dịp tỏ bày:
        - Đường đi nguy hiểm, nhưng là tướng, anh Ba biết đi đứng an toàn. Tôi chỉ thắc mắc là ra Trung ương rồi anh Ba có trở vào Nam không? Vợ chồng tôi có còn gặp lại...?
        Ông khách nói ngay:
        - Chuyện đó do Trung ương quyết định. Phân công cho một vị trung tướng phải do Bộ Tông tư lệnh. Còn chuyện thứ hai thì chúng tôi sẽ bố trí cho chị Ba về thành để đi theo đường công khai ra Bắc. Chị có giấy tờ hợp pháp thì đi ra Hà Nội dễ dàng, từ đó sẽ bắt liên lạc về vùng giải phóng không khó.
        Chị Thanh gật gù nghĩ ngợi, nỗi lo âu của chị đã được giải toả. Chị tính chừng ông khách ra về chị sẽ bàn thêm với anh Ba. Nhưng ông khách lại nẩy ra sáng kiến giăng võng nằm đàm đạo trong đêm với anh Ba. Nhiều lần chị nháy mắt làm ám hiệu nhưng anh Ba không có phản ứng, có thể vì mắt kém, mà cũng có thể anh Ba không tiện cắt đứt cuộc đàm đạo. Vì vậy ông khách vô tình nghỉ đêm tại nhà anh Ba. Chỉ tội cho chị Ba ấm ức không được tự do tâm sự với chồng trong đêm cuối.
        Trong đêm chị nghe hai người trao đổi. Ông khách cho chị Ba biết về tiểu đội bảo vệ: Có Vũ Tùng trước ở Ban công tác thành. Vũ Tùng là người Bắc, một thiện xạ chuyên bắn súng Colt 12, ngoài ra còn thủ một tiểu liên Ý Mosqnito, nòng dài có nhiều lỗ hãm nhiệt, báng súng có khắc chữ “bộ đội Hoàng Thọ” chứng tỏ cây súng này do Vũ Tùng cướp được của địch lúc còn ở trong bộ đội Hoàng Thọ. Chỉ có bộ đội này mới có sáng kiến khắc tên vào chiến lợi phẩm: Kế đó là Nguyễn Văn Bổn. Chị Thanh nghe nói Bổn theo bảo vệ anh Ba thì yên trí. Bổn là thanh niên khả ái mà chính chị đã làm mai cưới con nuôi của ông bà luật sư Lê Đình Chi là Ngân. Ngân về ở với chị Thanh trước khi được ông bà Chi gả cho Bổn. Người thứ ba được chọn đi trong đoàn là y tá Liên, là người Miền Nam. Đó là ba người có trách nhiệm săn sóc anh Ba trong chuyến đi. Ngoài ra trong đoàn còn có ông Võ Bá Nhạc, chánh văn phòng của anh Ba trong nhiều năm. Ông Nhạc lớn tuổi nên cũng được cấp một con ngựa như anh Ba. Người được giao chức trưởng đoàn là ông Nguyễn Văn Sĩ cũng được gọi là Sĩ Kiếng. Ông còn là cán bộ trung đoàn được chọn ra Bắc học khoá quân sự trung cao cấp. Tiện dịp, anh Sĩ được giao nhiệm vụ trưởng đoàn với nhiệm vụ bảo vệ anh Ba...
        Đêm trong rừng Đất Cuốc vào đầu thu khá lạnh. Chị Thanh cứ thao thức. Niềm kia nỗi nọ cứ ẩn hiện trong đầu! Bỗng chị nhớ tới Hoàng Thọ. Chị không thể nào quên ngày ấy có giấy bắt Hoàng Thọ, yêu cầu anh Ba ký. Lúc đó anh Ba vô cùng khổ tâm. Hoàng Thọ là đầu bò đầu bướu, tuy nói năng lung tung nhưng là người trung thực. Đã có lần cứu anh Ba tại Cần Giè, khi Vũ Tam Anh và Sáu Section mưu sát anh Ba tại Lò Đường. Anh Ba đã không ký và tìm cách cứu Hoàng Thọ. Anh khuyên Hoàng Thọ ra Bắc "làm lại cuộc đời”. Rất tiếc Hoàng Thọ đi được ba chặng, lại nghe lời bạn bè đổi ý quay trở về Đồng Tháp. Trong cơn phẫn chí, Hoàng Thọ đã làm lung tung lên, nói năng chửi bới bừa bãi. Đến nước đó thì khó thể bao che cho em út được nữa rồi. Lần nầy thì anh Ba phải ký giấy bắt Hoàng Thọ. Vào trại quân lao - gọi là đề lao binh - Hoàng Thọ lại đánh lính gác. Vậy là bị đưa ra toà. Với những tội ấy, không ai ngờ toà Quân khu 9 lại kết án tử hình. Tin này tới tai anh Ba vào tháng 4-1951, hai tháng trước khi có điện gọi anh Ba về Bắc. Anh Ba buồn vô hạn. Làm sao cứu được Hoàng Thọ? Anh đã nhiều lần uốn nắn Hoàng Thọ như có lần Hoàng Thọ lấy dao săn toan khử chánh uỷ Hai Trí mà Hoàng Thọ cho là "tay mưu sĩ không chơi được". Anh Ba đã quắc mắt điểm mặt:
        - Chú đã nhiều lần làm cho tôi mang tai tiếng. Người ta đã tố tôi đung túng chú làm nhiều điều xằng bậy. Hãy bỏ tánh ngông muốn làm đao phủ ấy đi. Công việc đó đã có ngành tư pháp đảm trách, không phải việc của chú.
        Hoàng Thọ thấy anh Ba nổi nóng, lặng lẽ bỏ đi. Nhưng sau đó Hoàng Thọ nói riêng với chị Thanh:
        - Tôi đã nói với anh Ba là phải nhìn đời bằng hai con mắt mới thấy rõ kẻ tốt người xấu, kẻ nịnh người trung.
        Chị biết anh Ba đã nghĩ ngợi nhiều về ngã rẽ quan trọng trong đời mình. Nhưng anh Ba không để lộ ra ngoài cho bất cứ người nào, kể cả chị. Anh chỉ nói mí mí thôi. Chị nhất định phải tìm hiểu đằng sau bức điện gọi anh Ba ra ngoài ấy là cái gì. Chị tính sẽ hỏi anh Ba trong đêm nay. Nhưng anh Ba và ông khách cứ mải miết trò chuyện như một đôi bạn chí thân trong đêm cuối cùng trước chuyến viễn du không hẹn ngày về.
        Gà rừng đã gáy, đêm sắp tàn, ngày gần rạng. Chị Thanh ấm ức nuối tiếc cái đêm cuối cùng anh Ba ra Bắc vợ chồng không sao tâm tình được. Chị hoàn toàn không ngờ đấy là đêm cuối cùng chị sống bên anh Ba Bình.
        Khởi thảo 1978 tại Tân Uyên (chiến khu Đ)
        Hoàn chỉnh 1995 tại Đông Triều (Đệ Tứ chiến khu)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: