NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN SÔNG- MỘ
Bấy giờ là khoảng đầu thế kỷ hai mươi, đại khái làng quê cũng vẫn vậy, miền Bắc đã tương đối ổn định.
Có anh nọ tên Lương, thôn Đoài làng Vân, không rõ tổng, huyện nào. Anh Lương có vợ là Ninh. Gia đình vỗn dĩ làm nông, nhà cũng đủ ăn, có một mụn con. Được ba tuổi thì mẹ mất, anh cũng chẳng thèm làm ăn, đâm ra nhà nghèo đi. Phải năm đói kém, lại mắc tiền xâu thuế, thành ra bán hết cả nhà cửa, ruộng vườn, mà ra dựng lều cỏ ở triền đê. Người làng thương quá, góp tiền sắm cho một cái thuyền nhỏ, hai cha con vừa làm nhà vừa làm nghề chài lưới kiếm kế sinh nhai qua ngày.
Đến giữa tháng tám, đương lúc hai cha con ở trên thuyền đánh cá, bất chợt lũ về cuốn cả thuyền đi.
Nước lớn đục ngầu, cuồn cuộn như con thuồng luồng, nuốt tất thảy, cái thuyền vỡ nát mà hai cha con trôi xuống dòng nước xiết.
Lương nhắm mắt vơ quờ quạng tìm tay con, thì nắm được vật gì, tưởng tay con, mở mắt ra thấy nắm được rễ cây, bất đắc mà nắm, lần mò vào được bờ, nhưng chẳng thấy con đâu.
Lương đứng trên bờ tần ngần, rồi theo con nước mà tìm con, vừa đi vừa khóc vừa thét gọi con mà chả thấy đâu. Khóc đến chảy cả máu mắt. Khóc rồi ngất rồi lại dậy tìm. Mệt quá lả cả đi, ngủ luôn trên triền đê.
Đến nửa đêm, đang mơ màng thì Lương nghe:
"Bố ơi, bố ơi,..."
Mở mắt, lơ mơ, vừa nghi hoặc vừa hơi rợn người. Lương dụi mắt mà nhìn, dưới ánh trời sao hiu hắt, xung quanh lặng như tờ. Bóng một người phụ nữ tay dắt một đứa trẻ con, tầm cũng ba bốn tuổi đi lại, thoáng nhìn Lương nổi hết cả sống lưng.
Lại gần, thì nhìn rõ là con mình, còn người đàn bà kia thì chẳng biết là ai nữa. Vui quá hóa khóc, Lương ôm lấy con mà khóc, xoa đầu, xoa tay, nhìn từ trên xuống dưới, trước ra sau.
Rồi định thần mà quay sang lạy người đàn bà, vừa khóc vừa nói:
"Tôi lạy chị, chị cứu con tôi, mà nhà tôi chẳng có gì, xin làm trâu ngựa đền ơn!". Thoạt rồi kéo con quỳ xuống cùng lạy.
Người đàn bà cũng hoảng hốt quá, lùi lại, không biết làm gì, ngẩn ngơ một lúc, rồi nói: "Tôi thấy thằng nhỏ bị nước cuốn, đứng trên bờ, sẵn tiện đòn gánh mà quơ vào, chứ cũng chẳng phải có gì cả".
Lại tiếp: " Ấy thế nhà hai bố con ở đâu mà đến nông nỗi này?, Vợ đâu?"
Đáp: "Vợ tôi mất sớm, còn mỗi đứa này, ở trên thuyền đánh cá qua ngày, cách đây nửa ngày đường, tôi đi tìm con mà lội theo đường đê xuống đây."
Lại hỏi: "Nhà cửa thế nào rồi, đêm khuya có chỗ nào ở chưa?"
Đáp:" Có mỗi cái thuyền giờ nó bị cuốn rồi, chẳng biết đâu nữa!"
Người đàn bà lại tiếp: "Tôi cũng dân chài lưới, thuyền tôi ở dưới kia, cũng may còn nguyên, hai bố con về trú tạm, rồi mai tính"
Đáp: "Thế thì không tiện lắm."
Người đàn bà tiếp:" Tôi cũng chẳng có gì, chồng mất sớm, mà chẳng có nổi mụn con, đem ra ở một mình, anh không ngại thì đưa cháu về ở tạm, thuyền hơi chật nhưng cũng ở được qua đêm."
Lương gật gù, lại nhìn thương con mệt nên nghe lời mà đưa con theo người đàn bà về thuyền, ở qua đêm.
Hai bố con bước xuống thuyền, thì không thấy người đàn bà đâu nữa. Mệt quá mà hai bố con ngủ thiếp đi. Ấy cũng là lúc tảng sáng.
Sáng sớm, hai bố con định về, nhưng chẳng biết chủ thuyền đâu, thành ra nấn ná, đợi người đàn bà về để cảm ơn. Nhưng chờ cả ngày, chẳng thấy đâu. Tiện đồ nghề trên thuyền, Lương đánh cá, bắt lấy vài con vừa ăn, còn vừa để tạ ơn ân nhân.
Đến chập tối, mặt trời vừa lặn thì lại thấy người đàn bà xuất hiện. Lương hỏi đi đâu, thì người đàn bà bảo trong làng vẫn có căn nhà tranh, nên vào đấy ở tạm cho tiện, hai bố con thoải mái, rồi đưa cho hai bố con hai gói cơm nắm muối vừng mà ăn.
Lương cảm động rơi cả nước mắt.
Người đàn bà nói: "Nay anh ở quê cũng chẳng còn gì, bằng không tôi có con thuyền này, hẵng còn dùng được, anh chăm chỉ hàng ngày chài lưới mà nuôi thân, tôi cũng chẳng ngại gì."
Lương nghe thế ngẫm nghĩ, lúc đầu cũng từ chối, sau người đàn bà nói lý lẽ Lương cũng xuôi lòng ở lại.
Từ đó, cứ ban ngày hai cha con trên thuyền đánh cá mang vào chợ ở triền đê bán để nuôi thân, đến đêm người đàn bà lại đến thăm, mang đồ ăn cho hai cha con lúc xôi, lúc gà, thứ gì cũng có. Nhưng có điều tảng sáng thì thị lại đi đâu mất.
Dần dần thành quen rồi đâm ra ăn nằm với nhau mà thành vợ chồng, cũng chẳng cưới xin gì. Sau này mới biết thị tên Vinh, ở làng cạnh khúc sông này, đã góa chồng, tuổi cũng ngang ngang Lương.
Mỗi tội, cứ tảng sáng là không thấy thị đâu nữa, nhưng thị kể thị có nhà trong làng, nên sáng về cho đỡ sinh truyện thị phi, nên Lương cũng chẳng nghi ngờ gì nữa.
Dần dần thành quen, Lương hay mang cá vào chợ gần làng mà bán, nhưng cũng dần dần nghe câu truyện ma mị, điều tiếng quanh mình lấy vợ ma. Được hôm bán cá xong, buồn quá vào quán mà uống rượu, lại nghe bàn bên xì xào bàn tán, Lương bực quá, xách dao mà sang bàn bên nắm cổ áo, dí dao vào cổ người đang nói mà hỏi cho ra nhẽ.
Ông kia sợ quá, nói: "Ấy là người ta nói vợ cậu là ma, tôi biết đâu đấy! Cậu tin hay không tin thì cứ lấy vôi mà bôi vào người vợ cậu sẽ biết." Nói xong vùng chạy.
Lương không tin, nhưng lại ngẫm nghĩ cũng lung lay.
Đêm đến nhân lúc ăn cơm, vừa đùa vừa thật hỏi: "Người ta bảo tôi vừa may, vừa xui, vừa lấy lại con, lại vừa có vợ, thì không biết cái nào xui, cái nào may?"
Thị đáp: "Lại đi tin lời mấy thằng uống rượu, rồi có ngày làm càn. Chớ có trách tôi."
Lương cũng cười qua loa rồi lảng chuyện khác.
Nhưng sau này lại nghe chuyện, trong làng hay mất trộm đồ cúng trong đình, lại mất cả gà vịt, mà ngẫm vợ mình bảo nhà nghèo kiếm đâu ra gà, vịt cho hai bố con ngày nào cũng ăn. Đâm ra Lương cũng ngờ. Nên định thử vợ.
Đến đêm, Lương lôi bình vôi ra mà bảo: "Tôi thấy người ta bảo vôi là chống ma tốt lắm, ta ở giữa sông nước phải xem thế nào!"
Thị nghe thấy thì không nói gì, đứng lên mà đi ra.
Bổng nhiên, thuyền rung lắc rồi đột nhiên lật úp. Hai cha con lộn mòng mòng trong thuyền, khó khăn lắm Lương mới lôi được con vào bờ. Hai cha con ướt như chuột lột, mà không biết chuyện gì vừa xảy ra. Đến sáng thì cũng không thấy thuyền đâu nữa, mà lặn mò xuống, thì chỉ thấy dưới đáy sông có xác con thuyền nhỏ đã nát tươm đắm xuống phải lâu lắm rồi.
Lương với con ở quanh đê mấy ngày, cũng chẳng thấy thị quay trở lại.
Lương sợ lắm, mà mang con vào bờ, rồi về quê cũ sinh sống. Thỉnh thoảng có quay lại làng thị mà dò hỏi, nhưng chẳng ai biết gì, chẳng ai biết thị là ai, cũng chẳng có ai tên Vinh.
Tận sau đấy mấy năm, đi qua đúng dịp cúng cô hồn, thấy mọi người bày hương án gần chỗ cũ, thấy làm lạ Lương lại gần mà hỏi, Lương mới biết khúc sống ấy, xưa là chỗ người ta hay thực hành tục cạo đầu, thả bè trôi sông những đàn bà gian dâm, ngoại tình. Nghe kể trước đây, có người đàn bà trong làng cũng bị hành thế cách đây mười mấy năm, đến đoạn này thì đắm bè mà chết đuối. Nghe Lương tả hình dáng mà người làng bảo đúng thị. Đoạn lại kể đã từng sống như vợ chồng. Ai nấy đều kinh dị mà dựng cả tóc gáy, bảo không có sai, đúng người đấy, chẳng thể sai, lại còn chuyện làng cách đây mấy năm hay mất đồ ăn lại cũng quy về chuyện này cả, từ ngày thị biến mất, Lương về quê cũng chẳng thấy mất mát gì nữa.
Lương lấy làm ngậm ngùi mà than rằng: "Người hay ma thì cũng có tình nghĩa, lại ơn cứu con ta, chẳng kể người ma đều là ân nghĩa". Hướng về đàn cúng mà lạy rồi lủi thủi đi.
Hết./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro