Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ngược về thời minh ( chap 175-190)

Ngược về thời Minh

Chương 175 Không rõ sống chết

Bóng đêm sâu thẳm trở lại vẻ tĩnh mịch vốn dĩ của nó.

Trận đại chiến ngoài thôn chỉ kinh động đến hơn chục hộ gia đình kế cận, song tiếng chó sủa inh ỏi lại khiến cả thôn náo loạn. Có mấy kẻ hóng chuyện mặc quần áo vào chạy ra quan sát thì bị phiên tử được bố trí canh phòng trong thôn ngăn cản, giải thích rằng có giặc cướp đột nhập vào thôn cướp bóc, Nội xưởng đang tróc nã, rồi hết sức khách sáo mời bọn họ trở về.

Những thôn dân này thấy động tĩnh không lớn, quan binh lấp ló đầy thôn xóm, nghĩ bụng dưới chân thiên tử cho dù có giặc cỏ cũng bất quá chỉ là vài con sâu mọt hại dân, bèn lẩu bẩu lầu bầu trở về nhà, chèn thêm cây chày cán bột lên cửa rồi yên tâm đi ngủ.

Trong Phủ Uy Vũ Bá, Dương Lăng hớp ngụm trà đặc, Thành Khởi Vận đang ngồi bên cạnh, y vô tình nhìn thấy nàng đang lấy bàn tay nhỏ nhắn che miệng ngáp khẽ, không khỏi hiểu ý bèn cười bảo:

- Mọi thứ đã rõ ràng, đại cuộc đã định, lần này hẳn là đã yên tâm rồi chứ? Những thứ hiện cần làm chẳng qua là giải quyết hậu quả, nữ Gia Cát hãy về phòng nghỉ ngơi một chút đi.

Thành Khởi Vận nguýt yêu y, khẽ trách:

- Còn dám nói giải quyết hậu quả ư? Vẫn chưa bắt được hai tên đầu mục Dương Hổ và Hồng Nương Tử đó. Bọn chúng ấy... giang hồ truyền rằng chúng đang chuẩn bị tụ tập tạo phản, đại nhân há có thể lơ là?

Ngoại trừ Ninh Vương, Dương Lăng không nhớ vào thời Chính Đức có sự kiện quy mô lớn nào khác. Cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo của Đường Tái Nhi(1), Từ Hồng Nho(2), thậm chí là cuộc khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành(3) và Trương Hiến Trung(4) đều không thuộc niên đại này, thiết nghĩ cho dù có chuyện giang hồ đồn đãi thì cùng lắm cũng chỉ lũ nhãi nhép không có tiền đồ tự chiếm núi xưng làm vua cỏ mà thôi.

Dương Lăng nghĩ đi nghĩ lại, nhớ rõ là không có đôi đạo tặc nào như vậy thành công, bèn tự tin cười nói:

- Đại Minh vận nước đang thịnh, bên ngoài không có họa lớn có thể thương tổn đến gốc rễ, bên trong cũng không lo bị dân biến. Chỉ vài tên đạo tặc lục lâm thì có thể làm nên chuyện gì chứ? Huống hồ, trừ phi Dương Hổ thấy tình thế không ổn, lập tức bỏ đường cái mà chạy, bằng không chỉ cần hắn đến Lộ Ao lí, trước năm trăm tay súng hỏa mai, cho dù võ công có lợi hại thế nào cũng đừng hòng thoát chết. Nếu nói lo lắng thì ta lại lo cho tình hình trong thành. Giết quan chính là tạo phản, vạn lần không ngờ Dương Hổ tập kích mà Hồng Nương Tử lại vẫn ở trong thành. Nơi đó chỉ an bài hơn hai mươi người, cái đám phiên tử cậy quyền đó tuy là những kẻ lành nghề trong việc khoét cửa đào hang và dò la tin tức, song lại không thạo việc bắt giặc tróc hung. Ta đã từng chứng kiến võ nghệ của Hồng Nương Tử, nếu ả nhận được tin tức mà trốn tránh trước khi Ngũ thành binh mã ty xuất binh, Nhất Thanh tuyệt sẽ không ngăn được ả.

Thành Khởi Vận đảo tròng mắt, che môi khẽ cười nói:

- Hoá ra đại nhân cực khổ chờ đợi ở đây không phải vì muốn biết tung tích của Dương Hổ mà vì lo vuột mất vị Hồng Nương Tử này.

Dương Lăng vờ nạt:

- Giỏi cho Khởi Vận nhà ngươi, đem bản quan ra đùa cợt có phải không?

Thành Khởi Vận liền duyên dáng đáp lại:

- Khởi Vận nào dám ạ?

Dương Lăng trừng mắt với nàng, rồi thở dài bảo:

- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, để xem cô ta có mạng sống đến bình minh không. Đám người này tụ tập làm loạn, ít nhiều cũng vì bị tham quan ô lại và sự quản lý tồi của triều đình bức bách, vô kế mưu sinh mới phải lên Lương Sơn. Tội không thể tha, song về tình thì có thể thứ. Ép bản quan phải vùi hoa dập liễu, quả thực trong lòng có phần không nỡ.

Từ xưa đến nay những kẻ tạo phản đối kháng triều đình đều có hình tượng rất tốt trong đánh giá của dân gian, nếu Dương Lăng không bởi thân ở triều đình, mình nằm trong cuộc, nghe kể về những chuyện anh hùng lục lâm này, khó dám đảm bảo rằng sẽ không xem bọn họ như những người anh hùng thay trời hành đạo. Y nhớ lúc trước từng xem một bộ phim truyền hình tựa là “Đường Tái Nhi”, trong đó tướng lĩnh nhà Minh đi dẹp loạn đều bị khắc hoạ là nham hiểm độc ác, tham lam háo sắc, ai nấy đều là đại tham quan. Dương Lăng không khỏi thầm cười khổ: "Nếu trên danh sách nịnh thần lại ghi thêm tên mình, nói không chừng một ngày nào đó trên màn ảnh mình cũng sẽ mang hình tượng mắt tam giác, gò má cao, chua ngoa cay nghiệt, hà hiếp thiện lương đây."

Thành Khởi Vận nghe vậy thì đăm chiêu, lẩm bẩm:

- Tội không thể tha, song về tình lại có thể thứ, tình có thể thứ...

Nàng trầm ngâm hồi lâu, mới thoáng liếc lấy Dương Lăng, cất giọng hờn dỗi:

- Đạo tặc giết quan tạo phản trong miệng đại nhân lại có lý lẽ để tha thứ, vậy mà một tiểu nữ tử một lòng dốc sức cho đại nhân thì lại năm lần bảy lượt suýt nữa bị đại nhân chém đầu.

Mặt Dương Lăng thoáng đỏ lên, hơi lúng túng nói:

- Lại nữa rồi. Ta cũng chỉ hù doạ cô một chút thôi, chứ đâu thực sự muốn động đao động kiếm? Hồng nương tử và bản quan ranh giới phân minh, cho dù bị hại, trong lòng bản quan cũng không có kiêng dè, cô thì lại khác...

Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng mím môi, đôi mắt quyến rũ như tơ trời liếc y, ngữ khí dịu dàng:

- Nô gia... nô gia và ả ta có gì khác biệt?

Dương Lăng bỗng cảm thấy hơi rợn người, y vươn người đứng dậy, làm như không nghe thấy và nói:

- Đi thôi, chúng ta ra trước thôn đi dạo một chút. Nếu cô đã không ngủ, vậy đi dạo một chút sẽ không buồn ngủ nữa.

Trêu ghẹo Dương Lăng đã trở thành chuyện vui nhất cuộc đời của nàng, ngày tháng còn dài, Thành Khởi Vận cũng không muốn bức chàng trai trẻ - mà trong ý thức nàng coi là chỗ dựa, là tình nhân, rồi dần dà lại coi là người đệ đệ yêu mến cưng chiều này - thẹn quá mà hoá giận. Lúc này nghe ẩn ý y tiết lộ trong lúc vô tình, trong lòng Thành Khởi Vận chợt có cảm giác hoan hỉ và thoả mãn lạ kỳ. Nàng cũng không truy vấn tiếp, chỉ tươi cười đứng dậy theo.

Dương Lăng đi đến trước cửa, lão quản gia vội mang áo khoác dài đến, mười mấy tay thị vệ đứng ngoài đình trông thấy Dương Lăng liền vội khom người thi lễ. Dương Lăng cầm lấy áo khoác, thấy Thành Khởi Vận ăn mặc hơi sơ sài, ngồi trong trung đường lâu như vậy, đôi môi đã có chút nhợt nhạt, liền đưa cho nàng và nói:

- Khoác vào đi, ban đêm trời rét, cô chịu không nổi lạnh đâu.

Hai hàng thị vệ theo sát Dương Lăng bước vào trong sân, chợt một giọng nói sang sảng cất lên dưới hành lang bên trái:

- Đại nhân, trong thôn có phải đã xảy ra chuyện gì? Có cần kẻ hèn cống hiến sức lực không?

Trung đường đèn đóm sáng trưng, cả đám thị vệ phiên tử đeo đao giắt kiếm đứng trang nghiêm trong sân, đừng nói thoát không khỏi tai mắt của Ngũ Hán Siêu mà ngay cả chú cháu Dương Tuyền cũng sớm đã bị kinh động. Có điều khắp sân thị đều là vệ sát khí đằng đằng, Dương Tuyền biết Dương Lăng không ưa mình nên cũng không dám ra ngoài hỏi han.Ngũ Hán Siêu chưa được phép nên cũng không tiện đường đột yết kiến, lúc này thấy Dương Lăng dẫn người định rời phủ, mới nhịn không được lách ra khỏi phòng cất to tiếng hỏi han.

Dương Lăng dừng chân lại, cười gọi:

- Là Hán Siêu à? Nhân mã huyên náo, thực đã làm quấy nhiễu giấc ngủ của huynh rồi. Ha ha, huynh hãy qua đây!

Đám phiên tử tay lăm lăm đao canh phòng cẩn thậnnhường ra một con đường, Ngũ Hán Siêu đi đến bên cạnh Dương Lăng ôm quyền vái một vái; đầu y đội khăn tiêu dao(5), thân vận thường phục đơn bào, để tránh hiểu lầm nên hai tay để không, thực trông cũng rất tuấn tú.

Dương Lăng vỗ vai y cười nói:

- Bản quan đã coi thường bản lĩnh của đám cường đạo giỏi võ đó quá. Nếu sớm mời huynh xuất thủ, tên Dương Hổ đó vị tất đã có thể trốn chạy.

Ngũ Hán Siêu theo cạnh Dương Lăng, vừa ra ngoài thôn vừa nghe y kể lại lai lịch vợ chồng Dương Hổ, lúc này mới biết Dương Phúc, thủ lĩnh đoàn ngựa thồ dọc đường cứu mình rồi hộ tống vào kinh, lại là đạo tặc lục lâm. Ngũ Hán Siêu ngoài giật mình thất kinh còn không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tuy y là con cháu quan lại nhưng đồng thời cũng là người trong võ lâm, nghĩa khí giang hồ tri ân tất báo ấy đối với y có ảnh hưởng rất lớn. Bất kể Dương Hổ xuất phát từ mục đích gì, dẫu sao mình cũng đã được hắn cứu giúp và chăm sóc đưa vào kinh, nếu thực gặp lại trong cảnh binh đao, là bắt hay tha đều sẽ muôn phần khó xử.

Ngoài đầu thôn. mấy trăm tên phiên tử đang thắp đèn soi đuốc lùng sục khắp rừng táo bao la bát ngát; để ngừa có giặc cướp giả chết náu thân, sĩ tốt bị thương và chết của Nội xưởng đều đã được đưa về núi. Liễu Bưu đang bố trí lại canh gác, trông thấy Dương Lăng đến liền vội bước đến đón.

Dương Lăng nhìn thấy từng cỗ thi thể bị kéo vào trong rừng táo thì nói với Liễu Bưu:

- Sai người canh gác, sau khi trời sáng đừng để thôn dân đến gần, tránh làm cho bọn họ kinh sợ. Một khi cổng thành mở ra liền sai người thông báo cho bộ Hình và Ngũ thành binh mã ty, phái người đến xử lý.

Một thớt khoái mã phi tới, bị phiên tử chặn lại ở đằng xa, người trên ngựa thì thầm cùng phiên tử một chốc thì được dẫn đến trước mặt. Người này cũng vận trang phục Nội xưởng, nhìn thấy xưởng đốc đại nhân cũng có mặt liền vội quỳ sụp xuống thi lễ:

- Ra mắt xưởng đốc đại nhân, Liễu đại nhân.

Liễu Bưu vội hỏi:

- Mau đứng lên, Lộ Ao lí có tin tức à? Thế nào rồi?

Phiên tử nọ đứng dậy, dáng vẻ vui mừng đáp:

- Đại nhân, giặc cướp tháo chạy về Lộ Ao lí, Cổ đáng đầu quát ra lệnh bọn chúng tước nộp vũ khí, một đợt hỏa lực đồng loạt đã bắn cho chúng thành cái nia, không tên nào thoát thân.

Dương Lăng lộ vẻ xúc động hỏi:

- Dương Hổ... cũng nằm trong số đó chứ?

Phiên tử do dự một chút rồi đáp:

- Việc đó... Lộ Ao lí không giữ lại người sống, chúng thuộc hạ không biết tướng mạo tên đạo tặc đó, Cổ đáng đầu đang dẫn người dọn dẹp thi thể, độ nửa canh giờ nữa sẽ có thể đưa toàn bộ xác người về tới.

Liễu Bưu khẽ nói:

- Đại nhân từng thấy diện mạo của tên thủ lĩnh đạo tặc đó, cũng có thể tra hỏi mấy tên còn sống bị bắt , đại nhân chớ nên sốt ruột. Có điều... theo ti chức thấy, Dương Hổ ắt sẽ lành ít dữ nhiều.

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, phiên tử nọ lại hớn hở khoe:

- Xưởng đốc đại nhân, hai trăm thớt mã đó đều là ngựa tốt ở biên tái, Bành đại nhân mê thích không thôi, Nội xưởng chúng ta quả thực chưa từng có ngựa tốt như vậy.

Dương Lăng chỉ cười cười mà không nói gì, thời này ngựa tốt khó tìm, cũng khó trách Bành Kế Tổ vui sướng như vậy, nếu còn một canh giờ nữa Bành Kế Tổ mới trở về, Dương Lăng liền muốn trở lên núi thăm hỏi thương binh một lượt. Trong lúc vô ý, y hướng mắt vọng nhìn về phương xa, mắt chợt nheo lại, trong bóng đêm lờ mờ thoáng ẩn hiện một chấm đen; người đó cưỡi ngựa, không men theo đường nhỏ, mà băng thẳng qua đồng ruộng phi tới, phương hướng chính là kinh thành.

Thành Khởi Vận và Ngũ Hán Siêu cũng đến gần, khi còn cách khoảng mười bước người đó liền nhảy xuống ngựa, vừa chạy đến phía trước vừa gọi lớn:

- Có Liễu đại nhân ở đây không? Trong thành đã truyền tin tức đến rồi.

Liễu Bưu vội vàng bước lên mấy bước đón, quát:

- Đừng gấp, từ từ mà nói, xưởng đốc đại nhân đang ở đây.

Phiên tử nọ không ngừng thở dốc, trông thấy Dương Lăng dưới hai hàng đuốc, vội vàng bước tới thưa:

- Đại nhân, trong thành Dương thiên hộ truyền ra tin tức, vào canh ba Hồng Nương Tử dẫn theo sáu bảy người đột nhiên rời khỏi viện trạch, Dương thiên hộ chưa kịp điều binh, đành phải âm thầm bám đuôi, Hồng nương tử chưa rời khỏi ngõ hẻm liền phát hiện có người theo dõi, lập tức đã dẫn người trốn vào trong một hộ gia đình rồi trèo tường chạy mất. Dương đại nhân nhận được lệnh căn dặn của đại nhân, đã thông tri cho Ngũ thành binh mã ty lục soát truy bắt khắp khu vực đó, song vẫn chưa có tung tích.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói với Liễu Bưu:

- Ta đoán bọn chúng cũng sẽ không ở yên đó chờ đợi. Nhất Thanh nhân thủ không đủ, đối phó không nổi đám cường đạo bản lĩnh cao cường này là việc nằm trong dự liệu, bất kể bọn chúng ở lại trong thành còn có âm mưu gì, đã kinh động chúng ta, đêm nay sẽ không giở thêm thủ đoạn gì nữa đâu. Bảo Nhất Thanh đừng làm ra thanh thế quá lớn, không có chứng cứ tạo phản, nếu chỉ vì mấy tên cường đạo xâm phạm phủ ta mà lục soát toàn thành, đám ngôn quan sẽ lại sinh sự đấy.

Liễu Bưu dạ một tiếng, căn dặn tên phiên tử đó mấy câu, kẻ đó liền chắp tay cáo từ, phóng lên ngựa rồi lại vội vàng phi lướt vào trong màn đêm. Dương Lăng dõi về phía kinh thành đương chìm trong bóng đêm, khẽ lắc đầu nói:

- Kinh sư rộng lớn như vậy, nếu bọn chúng đã chạy thoát, biển người mênh mông, muốn bắt lại sẽ khó đây.

Thành Khởi Vận máy động trong lòng, vội nói:

- Đại nhân, quả như Dương Hổ đã chết, vậy phải đề phòng Hồng Nương Tử báo thù cho chồng. Người phụ nữ này có công phu cao cường, nếu tập kích ám sát, sẽ khó lòng phòng bị.

Từ khi đến thời đại này, Dương Lăng cũng biết võ nghệ cá nhân còn lâu mới lợi hại như trên phim ảnh, có thể ngang nhiên xông vào đối địch với thiên quân vạn mã. Bất quá trong thời đại chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh này, chung quy võ nghệ vẫn còn có thể phát huy tác dụng trọng đại. Nếu như có một quả phụ xinh đẹp có thể băng tường vượt nóc như đi trên đất bằng suốt ngày tìm cách lấy mạng mình, hại khiến mình đi đâu cũng chẳng dám đi, thì thực sẽ khiến người ta rất nhức đầu.

Y dời ánh mắt, chợt thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng cạnh mình, thế là không khỏi bật cười thoải mái:

- Ta có Ngũ Hán Siêu, há còn sợ Hồng Nương Tử? Hán Siêu à, bản quan vốn định ngày mai tiến cử huynh vào triều làm quan, tìm một công việc trong Lục Bộ, nay xem ra huynh phải tạm thời ở cạnh bản quan chờ đợi rồi.

Võ nghệ của Ngũ Hán Siêu hơn hẳn tài văn chương, cũng không có thành kiến gì với xưởng vệ, ở lại trong Nội xưởng quyền khuynh thiên hạ đương nhiên oai phong hơn hẳn đi đến Lục Bộ làm một chức quan bé rồi. Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì mỉm cười, vái một vái dài đáp:

- Vốn là mong ước không dám thỉnh cầu. Hán Siêu nguyện noi theo ý đại nhân, bám gót từ đây.

*****

Hồng Nương Tử đang dẫn người chạy ra khỏi ngõ tắt, liền phát hiện có người âm thầm theo dõi. Nơi ở của nàng đã nằm trong sự giám thị, vậy hành động tập kích thôn trang của Dương Hổ còn có thể thành công sao? Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ vậy, lòng liền như lửa đốt, hận không thể lập tức xông ra khỏi thành, cứu trượng phu thoát khỏi lao ngục.

Công phu quyền cước của Lưu đạo sĩ tuy kém, song tâm kế lại cao sâu hơn nàng, vừa nghe có người ngầm theo dõi, lập tức khuyên Hồng Nương Tử theo lão lẩn trốn trước. Lúc này hành động của Dương hổ sớm đã phát động, nếu như trúng kế thì cũng đã trúng rồi.

Lúc này mà rời thành thì chỉ tổ tự chui đầu vào lưới, chi bằng thừa lúc đối phương vẫn chưa điều động nhân thủ đối phó với nàng mà mau chạy trốn và náu thân. Quả như Dương Hổ bình yên vô sự, sẽ lại phái người đến liên lạc cùng hắn, ví bằng Dương Hổ thất bại, có thể cứu được thì cứu, cùng lắm cũng có thể giữ lại người báo thù cho hắn.

Hồng Nương Tử tuy bận lòng đến sự an nguy của trượng phu như từ nhỏ lớn lên trong giới lục lâm, nghe quen tai nhìn quen mắt, đương nhiên biết được lợi hại trong đó. Tuy nói rằng kẻ nào tài cao gan đều lớn, song nàng cũng không dám vọng tưởng lấy sức một mình mình đối kháng với quan binh đã sớm có chuẩn bị, sau thoáng cân nhắc, đành chọn theo Lưu đạo sĩ trốn đi.

Từ thời Tống, Nguyên đến nay, Bạch Liên giáo nhiều lần khởi sự, nhiều lần thất bại, nhưng hương hoả vẫn chưa tận. Sau khi Chu Nguyên Chương lợi dụng Bạch Liên giáo khởi sự và thâu tóm được thiên hạ, sự đả kích đối với bọn họ càng thêm kinh khủng. Trong quan phủ có một lượng lớn xuất thân là người của Bạch Liên giáo, cho nên hiểu rõ phương thức liên lạc như lòng bàn tay, qua nhiều bài học kinh nghiệm bằng xương máu, hành tung của Bạch Liên giáo và phân đàn của nó càng trở nên bí hiểm, kinh nghiệm trốn chạy cũng vì vậy mà phong phú hơn.

Từ sau khi giáo phái Di Lặc của Lý Phúc Đạt khởi sự ở Sơn Tây thất bại, bị quan phủ vây quét, đã chuyển hướng vươn vòi sang các thế lực thân hào đại tộc các nơi, nơi an toàn để ẩn náu càng nhiều không đếm xuể.

Có dân chúng cuồng tín bị bọn họ dùng phép thuật che mắt khiến cho thần hồn điên đảo, có phú hào đại tộc bước lên thuyền giặc, đến khi tỉnh ngộ muốn rút chân thì vận mệnh của cả gia tộc đều đã ràng chung với giáo phái Di Lặc, không thể không tiếp tay cho giặc.

Ở kinh sư Hồng Nương Tử lạ nước lạ cái, song Lưu đạo sĩ lại biết rõ đường đi lối tắt hơn nhiều. Ban đêm binh sĩ tuần thành ở kinh sư cực đông, bọn họ xuyên nhà trèo tường mà đi, vừa thoát khỏi Dương Nhất Thanh và đám thủ hạ, lại tránh được tai mắt quan binh.

Bọn họ lặng lẽ trèo vào một khu trạch viện rộng lớn, rồi lại men theo bóng đêm trèo từ phía vách tường vào; cũng không biết là nhà của ai. Lưu đạo sĩ bịa chuyện nói rằng đây là nơi ở của một tín đồ của lão, bảo đám người Hồng Nương Tử đợi tại hoa viên, còn lão thì lách vào bên trong sân như một bóng ma, lặng lẽ đi vào tìm kiếm chủ nhân.

Sau thời gian hai chén trà, một viên ngoại dáng phốp pháp mồ hôi đầy đầu mặc áo dài gấm màu đồng, đích thân cầm đèn lồng theo Lưu đạo sĩ chạy ra, cuống quít dẫn bọn họ vào sâu trong nhà rồi thu xếp chỗ ở.

Cho dù kết cấu phòng ốc, trạch viện của mỗi gia đình giàu có những thay đổi nhất định nhưng phần lớn vẫn theo kết cấu tạo thành bởi tiền viện, trung đường, hậu viên của nội quyến, sương phòng. Cùng lắm là thêm vài nhà ngang ở phía đông và phía tây để thết đãi bạn bè thân thích, tuy nhiên những chỗ chi tiết thì rất hiếm khi rập khuôn. Trong bóng tối mà Lưu đạo sĩ có thể tìm thẳng đến chủ nhà mà không kinh động những người khác, hiển nhiên là hết sức quen thuộc nơi này.

Với sự cơ cảnh thường ngày của Hồng Nương Tử trông thấy chuyện này khó tránh sẽ có điều nghi ngờ về thân phận thật của Lưu đạo sĩ, có điều lúc này lòng nàng đang rối như tơ vò, nên cũng không bận tâm đến những chi tiết nhỏ này. Tuy rằng nàng vô cùng bất mãn với hành vi của trượng phu mình, song nói cho cùng thì vẫn là phu quân nàng, sao có thể không để ý đến sống chết của hắn.

Trạch viện này là chỗ ở gia đình này dùng để chiêu đãi thân bằng quyến thuộc, do đã cuối năm, cho nên phòng ốc được dọn sạch sẽ tươm tất. Căn phòng của Thôi Oanh Nhi là nơi ở dành cho nữ quyến, trên bàn trang điểm thắp một ngọn đèn dầu, phát ra ánh sáng lờ mờ u ám.

Chủ nhà được gọi là Cừu viên ngoại kêu mấy gia nhân tâm phúc dậy đốt hai lò than đồng hình đầu thú trong phòng, trong chốc lát căn phòng ấm áp như xuân. Thu xếp ổn thoả hết thảy, Lưu đạo sĩ đưa Cừu viên ngoại đi. Hai người ra đến dưới hành lang bên ngoài, thấy không ai ra theo, Cừu viên ngoại mới quệt mồ hôi túa ra vì căng thẳng, hết sức lo lắng nói:

- Lưu hương chủ, ngài dẫn đến đều là những kẻ gì vậy. Kẻ nào kẻ nấy cầm kiếm cầm đao, ngay cả vị nương tử áo đỏ đó trông cũng thật đáng sợ. Gần trăm nhân khẩu cả nhà Cừu mỗ, ngài đừng hại ta đó.

Lưu đạo sĩ cười nham hiểm trấn an:

- Cừu viên ngoại, ông cứ việc yên tâm, chỉ cần ông không rêu rao ra ngoài, trừ khi là hoàng đế bị giết, ai dám xông vào hết mọi nhà trong kinh thành để bắt người chứ? An toàn lắm.

Lão thấy trời đang rét run mà Cừu viên ngoại lại đổ mồ hôi ròng ròng khắp mặt thì nhịn không được bèn bật cười ha hả, rồi vỗ vỗ vai hắn nói:

- Ông là thí chủ hộ pháp của bản giáo, nếu như bản giáo đoạt được thiên hạ, vinh hoa phú quý há sẽ thiếu phần ông? Yên tâm đi, chúng ta ở lại đây nửa bước không ra, sáng sớm ngày mai ông phái người ra ngoài dò la tin tức một chút, xem thử Nội xưởng có động tĩnh gì không?

Cừu viên ngoại cuống quít giậm chân nài khẩn:

- Ối trời ơi! Hương chủ của tôi ơi, không ngờ các người lại trêu chọc đến Nội xưởng nữa? Bên phía xưởng vệ đáng sợ nhất chính là Nội xưởng đó. Các người... các người...

Lưu đạo sĩ lạnh lùng nói:

- Ông tỉnh lại đi, chúng ta làm là giao dịch tạo phản đoạt thiên hạ! Nội xưởng ư? Cho dù là hoàng đế, chúng ta cũng không sợ trêu phải. Ngươi là hộ pháp hương đàn của bản giáo trong kinh sư, làm nhiều việc cho bản giáo như vậy, đứa con bảo bối độc nhất của ngươi thì được giữ lại bên người giáo chủ, sớm đã là người cùng hội cùng thuyền với chúng ta rồi.

Lão hừ một tiếng rồi tiếp:

- Còn nữa, phải tránh nhắc đến thân phận của ngươi và ta trước mặt người khác, kể cả những người mà ta dẫn đến, bọn họ không phải là người của bản giáo. Trở về ôm lục phu nhân của ngươi mà ngủ ngon giấc đi, ngày mai thức dậy đừng quên đi dò la tin tức cho ta đó.

Đoạn lão cười ám muội nói:

- Lục phu nhân là đệ tử thánh đường của bản giáo, cô ả lẳng lơ đó quyến rũ động lòng người, công phu trên giường cao thâm lắm. Cái đồ già nhà ngươi có phước hưởng thụ còn không phải vì bản giáo coi trọng thân phận của ngươi ư. Nên tự thu xếp cho ổn thoả đi.

Nói rồi Lưu đạo sĩ xoay người đi vào phòng. Cừu viên ngoại cầm đèn lồng, đứng ngây người trong gió thật lâu. Một cơn gió thổi tới, lão bất giác rùng mình, lúc này mới thở dài ra một hơi, thẫn thờ bước đi.

Lưu đạo sĩ lách mình vào trong căn phòng của Hồng Nương Tử. Đây là khuê phòng nữ nhân, màn lụa cuộn lên, trên chiếc giường khảm ngà voi đặt một chồng chăn gấm, bề mặt lờ mờ để lộ hình uyên ương hí thủy bằng tơ lụa. Thôi Oanh Nhi vận bộ đồ bó sát người màu xanh thẫm, đang ngồi trước bàn nhíu mày trầm tư.

Eo thon mảnh khảnh, bờ mông tròn lẳn đẫy đà, phơi bày mọi đường cong, vẻ phong tình mê hoặc lòng người. Lưu đạo sĩ bước vào, vừa trông thấy dưới ánh đèn Thôi Oanh Nhi tựa như một đoá mẫu đơn màu đen; dáng người như ngọc, nét mặt như hoa, trong mắt không khỏi loé lên vẻ dị thường.

Thúy Nhi đang đứng hầu cạnh bên trông thấy vậy thì không khỏi bĩu môi. Hồng Nương Tử là hào kiệt lục lâm, không hề để ý đến những quy củ thối tha của các gia đình giàu có, thấy lão ta không gõ cửa đã xông vào khuê phòng thì không hề lấy làm tức giận, mà lại lo lắng hỏi:

- Lưu tiên sinh, Hổ ca sống chết không rõ, ta thật sự một khắc cũng không yên, theo tiên sinh thấy, huynh ấy có thể gặp chuyện không?

Lưu đạo sĩ bày ra bộ mặt thần bí khó lường, nghiêm mặt nói:

- Dương phu nhân, bần đạo đã bấm đốt tính toán, đương kim hoàng đế Đế tinh sắp sụp, lại có Tướng tinh phò tá, tạm thời chuyển nguy thành an. Khi ấy không biết Tướng tinh đó là người nào, nay xem ra, chính là ứng trên người Dương Lăng. Chậc, là bần đạo không thể xem trộm thiên cơ, đã không ngăn cản lão đại.

Lão ngồi đối diện với Thôi Oanh Nhi, dưới ánh đèn hai cánh tay thon thả trắng nõn như hoa lan, da dẻ sáng ngời, trong lòng lão không khỏi gợn sóng, lập tức cụp ánh mắt, kiềm chế ý niệm muốn vuốt ve một phen. Nữ nhân này thoạt trông thì yêu kiều mềm mại, lúc động thủ lại hung mãnh hơn cọp dữ, quyền nào cước nào đều đủ lấy mạng, lão thực không dám vọng động.

Lưu đạo sĩ bấm ngón tay, làm bộ làm tịch nói:

- Trong số mạng của mỗi con người đều có ba ngôi sao chính, Thất Sát coi giữ thành bại, Phá Quân coi giữ chinh phạt, Tham Lang coi giữ hoạ phúc, hiện Tổng Biều Bả Tử bị sao Phá Quân coi giữ chinh phạt nhập vào cung chủ mệnh, mới gặp phải kiếp nạn này.

Thôi Oanh Nhi run rẩy hỏi:

- Vậy... có thể bị thương hoặc sống chết sao?

Lưu đạo sĩ nào dám nói hắn đã chết, người phụ nữ này tính nóng như lửa, trở mặt còn nhanh hơn lật sách, nếu ngày mai nhận được tin báo tử của Dương Hổ, e rằng cho dù mình có nói ông trời sắp sập thì cô nàng cũng sẽ không chịu để yên đâu.

Thế là Lưu đạo sĩ cười khùng khục, ậm ờ trả lời:

- Dương Lăng là Tướng tinh hộ vệ cho Đế tinh cũ, mà lão đại là Đế tinh mới, cũ mới thay nhau, nhật nguyệt luân chuyển, trong số mệnh của lão đại nên có kiếp này. Bất quá Phá Quân nhập chủ cũng là chuyện tốt, đại nạn không chết mai sau ắt sẽ gặp phúc. Chờ hai ngôi sao còn lại cũng nhập vào cung chủ mệnh, Sát-Phá-Lang tam tinh tụ hợp, thì thiên hạ tất sẽ đổi chủ, không thể nghịch chuyển!

Thôi Oanh Nhi đứng bật dậy vung tay áo nói:

- Nói cả buổi vẫn chưa biết rõ là sống hay chết, cửa ải này có thể vượt qua hay không còn không biết đây,

Nói rồi nàng mới cảm thấy mình quá nặng lời, bèn lúng túng phẩy mái tóc mai, giọng dịu lại:

- Nô gia lo cho trượng phu, nóng lòng nên đã thất lễ, xin tiên sinh chớ trách.

Nói đoạn nàng đanh mặt lại, sát khí đằng đằng:

- Nô gia sẽ đợi tại nơi này, ngày mai dò thám được tin tức rồi hẵng nói tiếp. Nếu Dương Hổ bình yên vô sự thì thôi, nhược bằng huynh ấy xảy ra chuyện gì không may, Thôi Oanh Nhi là phận nữ nhi, cũng sẽ mặc kệ hắn là Tướng tinh hay Đế tinh gì, ta nhất định sẽ đánh vào Dương phủ. Cho dù có liều mạng đồng quy vu tận cũng phải giết chết cái tên khốn đó!

(1) Đường Tái Nhi (1399 - không rõ năm mất), nữ thủ lĩnh Bạch Liên giáo trứ danh trong cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thời Minh, là người huyện Bồ Đài châu Tân tỉnh Sơn Đông.

(2) Từ Hồng Nho (không rõ năm sinh - 1622), người Cự Dã tỉnh Sơn Đông, giáo đồ Bạch Liên giáo, thủ lĩnh cuộc dân biến cuối thời Minh, tự xưng là Trung Hưng Phúc Liệt đế.

(3) Lý Tự Thành (1606 - 1645?), người Mễ Chi, tỉnh Thiểm Tây, là người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh vào năm 1644, tự xưng Đại Thuận hoàng đế.

(4) Trương Hiến Trung (1606 – 1647), tên tự là Bỉnh Trung, hiệu là Kính Hiên, người Bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Minh, từng kiến lập chính quyền Đại Tây; đồng thời với Lý Tự Thành, người kiến lập chính quyền Đại Thuận.

(5) "tiêu diêu cân", còn gọi là "hà diệp cân" (khăn lá sen)

Ngược về thời Minh

Chương 176 Tiệc rượu

Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 176 Tiệc rượu.

------------------------

Hôm qua một toán cướp lớn bị tiêu diệt, gần hai trăm cỗ thi hài được giao cho Ngũ thành binh mã ty. Dưới chân thiên tử lại xảy ra vụ án lớn như vậy, Ngũ thành binh mã ty và Kinh doanh khẩn trương vạn phần, lập tức tăng cường kiểm soát kinh sư, nghiêm ngặt thẩm tra từng bá tánh muốn ra khỏi thành; thám mã của bộ Hình lẫn ba xưởng một vệ liên tục xuất hiện, dò la tin tức khắp nơi.

Triều đình không muốn bá tánh biết tin vào ngày cận Tết lại có một đám cướp lớn tập kích trọng thần triều đình vào ban đêm, tránh cho lòng người phấp phỏng; nhưng như thế lại càng phản tác dụng, đủ loại tin đồn vẫn được lan truyền.

Đến khi có người đến Cao Lão trang thăm viếng bạn bè trở về, câu chuyện dần dần được thống nhất: kể rằng có một đám đại đạo đến từ phương Bắc, đều là hảo hán lục lâm võ nghệ cao cường, một có thể chọi trăm, ban đêm tìm đến Nội xưởng làm loạn. Sau khi giáp chiến với mấy ngàn phiên tử Nội xưởng, toàn quân đã bị diệt. Lại kể rằng thủ lĩnh đám giặc cướp nọ tên là Dương Hổ, thân cao hai trượng, lưng hùm vai gấu, một mình đã giết chết hơn trăm viên phiên tử Nội xưởng, cuối cùng bị súng thần hỏa bắn thủng như cái nia. Tin tức đó đã trở thành đề tài hấp dẫn nhất của mọi người khi thăm thân nhân viếng bằng hữu trong dịp tết ông Táo.

Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đều mong muốn biến cả Cao Lão trang thành quân doanh để đề phòng vợ chồng Dương Hổ quay lại, nhưng Dương Lăng nhất quyết không chịu. Đừng nói hôm nay là ngày tết ông Táo, là ngày mà bá tánh đi thăm viếng thân nhân bằng hữu, mà cho dù là ngày thường, cũng không có lẽ gì lại hạn chế mọi người ra vào. Đây là Cao Lão trang, chứ không phải là Nội tập sự xưởng; là Uy Vũ bá cư trú ở thôn trang, chứ không phải người của thôn trang cư trú trong Nội xưởng.

Không còn cách nào khác, hai người Liễu Bưu đành “ngoài buông lơi trong siết chặt”. Tuy không cấm tiệt bá tánh lui tới trong thôn thăm hỏi thân nhân, cũng không hề có người đến gặng hỏi, song chung quanh phủ Uy Vũ Bá lại bí mật bố trí thêm nhân thủ, tăng cường canh gác.

Thi thể của đám đạo tặc bị loạn súng bắn chết tại Lộ Ao lý hôm qua đều đã được đưa về, trong đó không hề thấy hình dáng của Dương Hổ. Vào giờ Tỵ ba khắc, Bắc trấn phủ ty Thiệu Tiết Vũ của Cẩm Y vệ phái người đến đưa tin rằng bọn họ bắt được một tên đạo tặc bị thương đang chạy trốn. Kẻ đó hung hãn không sợ chết, khi phải hứng chịu đủ loại cực hình của Cẩm Y vệ đã định cắn lưỡi tự vận nhưng không thành. Sau khi trải qua thêm mấy loại cực hình tàn khốc khác hắn đành phải thều thào tiết lộ sự thật.

Đêm qua Dương Hổ thoát khỏi kiếp nạn quả thực là do ý trời. Vốn dĩ Dương Hổ trúng tên trên bắp đùi, trong lúc chiến đấu ác liệt miệng vết thương bị toét lớn, máu chảy không ngừng. Thoát ra khỏi vòng vây được ba dặm thì thân thể cường tráng của hắn cũng không chịu nổi nữa, bốn tên bộ hạ thân tín đành phải dìu hắn ẩn náu trong một phần mộ ven đường để băng bó vết thương, chờ đợi các huynh đệ đi kiếm ngựa về.

Không ngờ đợi một hồi rồi lại thêm một lúc, cả bọn láng máng nghe đâu đó như có tiếng súng giòn giã như đậu rang. Một tên đạo tặc bèn lặng lẽ bí mật lẻn đi quan sát thì thấy Bành Kế Tổ đang hào hứng dẫn binh sĩ thu thập thi thể và thu gom ngựa chiến. Tên đạo tặc này thấy tình thế không ổn, lập tức trở về bẩm báo với Dương Hổ, mấy người bọn chúng bèn trốn vào đồng hoang.

Đến tảng sáng, bọn chúng chạy vào một thôn trang nhỏ không rõ tên, cướp được ba thớt la và ngựa, hai tên thân tín kèm Dương Hổ chạy trốn mất dạng, hai tên còn lại chia nhau lẩn tránh. Tên này luống cuống không biết đường, bị Cẩm Y Vệ thấy khả nghi chặn lại. Vừa mới bị gặng hỏi mấy câu thì tên đạo tặc này liền đột ngột ra tay đả thương người, giết chết sáu bảy tay Cẩm Y Vệ. Cuối cùng một người không chống nổi đám đông nên gã đã bị bắt.

Nghe được tin tức này, Dương Lăng liền đoán rằng rất có nhiều khả năng Dương Hổ đã trốn về sào huyệt, bèn căn dặn thủ hạ thông tri cho bộ Hình, bảo bọn họ gởi công văn đến Bá châu, lệnh cho quan phủ địa phương tra kỹ vụ án này. Thu xếp xong xuôi, Dương Lăng mới trở về phủ chuẩn bị đón tiếp khoản đãi khách mời sẽ đến dự tiệc hôm nay.

Tuy rằng trong ngoài kinh sư căng như dây đàn nhưng bên trong Dương phủ lại ngập tràn bầu không khí vui vẻ. Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh, Bành Kế Tổ, Liên Đắc Lộc, Phùng Đường và thậm chí cả Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh sau khi đã an bài thủ vệ thỏa đáng đều tụ tập dưới một mái nhà. Những người này đều là trụ cột của Nội xưởng, hết lòng theo phò Dương Lăng, tận sức tận lực, Nội xưởng mới có thể phát triển nhanh chóng như hiện nay.

Hơn nửa năm mưa máu gió tanh, chung vai tác chiến, những người này cùng tiến cùng lui, nay nghiễm nhiên đã trở thành một nhóm có chung lợi ích gắn kết vững bền. Dương Lăng tin tưởng bọn họ vô cùng.

Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh đều dẫn theo gia quyến đến phủ. Ngô Kiệt dưới gối không con, chỉ dẫn phu nhân cùng đến; Hoàng phu nhân dẫn theo cháu trai; trưởng nữ của Vu Vĩnh đã xuất giá, lão ta dẫn theo cả phu nhân lẫn nhị nữ, tam nữ. Gia quyến của ba vị Đô ty thuộc Thần Cơ doanh trước đây đều đang sinh sống ở nơi khác; bình thường bọn họ vẫn sống trên núi, chỉ thi thoảng vào thành tìm đến xóm làng chơi hưởng thụ mùi vị âu yếm, cho nên bọn họ đi dự tiệc hết sức thuận tiện.

Ngày thường Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi ăn mặc hết sức tùy ý, trang điểm qua loa, vì ở không trong nhà nên các nàng cùng lắm cũng chỉ đeo bông tai và cài trâm nạm trân châu. Hôm nay khách đến rộn nhà, bọn họ bèn khoác lên người những bộ cánh sang trọng theo bên cạnh Dương Lăng, xinh đẹp như hoa, sáng ngời như ngọc.

Hoàng phu nhân, Ngô phu nhân và Vu phu nhân tuổi đã hơn năm mươi nên rành rẽ lễ nghi. Vừa gặp các vị Cáo Mệnh phu nhân của triều đình, cả ba bà liền vội bước tới làm đại lễ yết kiến khiến ba cô nàng tuổi còn nhỏ xíu ngượng chín cả mặt, lật đật bước tới đỡ dậy.

Phu nhân Vu Vĩnh cũng là người Sắc Mục, mũi cao mắt sâu, mái tóc vàng óng. Người Sắc Mục ở kinh sư không hiếm nên ngoại trừ Hàn Ấu Nương, các cô này ai nấy đều có kiến thức sâu rộng nên không hề lấy làm lạ, nhưng hai người con gái thướt tha chưa xuất giá của Vu phu nhân đang đứng sau lưng bà ấy thì lại hấp dẫn ánh mắt mọi người.

Vóc dáng thon cao, so với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận bọn họ còn cao hơn non nửa đầu, mái tóc mềm mại óng vàng, mặt che bởi một lớp voan mỏng chỉ để lộ hai con mắt xinh xắn màu xanh thẫm, chiếc mũi ngọc ngà cùng cánh môi anh đào như ẩn như hiện dưới lớp voan càng làm tăng thêm vẻ mỹ miều.

Đôi tỷ muội này vận váy lụa cân vạt ống tay hẹp, bên ngoài khoác áo chẽn bông nhiều màu. Bên dưới là một chiếc quần dài ống chật màu xanh nhạt làm tôn thêm vẻ mềm mại dịu dàng của thân hình gợi cảm; đường cong trên đôi chân thon thả chắc nịch ẩn dưới lớp quần trông hết sức mê người. Lúc di chuyển eo thon khẽ đong đưa càng khiến người ta thêm mê mệt, gây một ấn tượng thật mạnh.

Phụ nữ thời Minh ra ngoài rất thích mặc áo chẽn váy khít, rất hiếm người mặc quần dài ống chật hoặc miệng ống loe, có thể gặp mỹ nữ phong tình dị quốc ăn mặc như vậy lại càng thêm hiếm. Tô Tam và Tuyết Lý Mai thầm nổi lòng hiếu thắng, thế nhưng bên dưới bộ ngực cao vút và bên trên cặp mông tròn lẳn như trăng rằm mà dường như còn to gấp đôi của bọn họ, chiếc eo thon thả mảnh dẻ khiến người ta phải đỏ mắt vì ghen tị ấy không khỏi khiến bọn họ âm thầm cảm thấy hổ thẹn.

Các cô thực không biết hai chị em đó đã dùng thứ gì mà có thể thít chặt eo đến tắt thở như vậy, bằng không cho dù eo họ có thon cỡ nào đi chăng nữa thì làm sao có thể thon thả bằng chiếc eo của hai cô chứ?

Dương Lăng tươi cười đón khách vào trong nhà. Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm cũng tươi cười nghênh đón, rồi cùng với Hàn Ấu Nương vừa vui vẻ chuyện trò vừa đưa nữ khách theo hành lang bên hông vào trong hậu viện.

Dương Lăng đưa đám khách đàn ông vào trung đường. Trong chậu than lửa kêu tí tách, than củi thượng đẳng trộn lẫn hương liệu cháy thơm ngát cả căn phòng. Quản gia sớm đã bày biện đủ bàn ghế.

Mọi người ngồi vào chỗ trò chuyện cười đùa. Uống trà đàm đạo được một chốc, Dương Lăng mỉm cười đứng dậy nói:

- Ngô lão, Hoàng lão, các vị huynh đệ đồng nghiệp! Dương mỗ nhờ có các vị dốc lòng tương trợ, Nội xưởng mới có được ngày oanh oanh liệt liệt như hôm nay. Hôm nay là ngày tết ông Táo, Dương mỗ mời các vị hảo huynh đệ vào phủ sum họp một nhà là để biểu đạt sự tôn kính và lòng cảm tạ với các vị. Chỉ mong huynh đệ chúng ta nắm tay đồng hành, về sau kiến công lập nghiệp, Nội xưởng của chúng ta...

Đoạn y chỉ vào ngọn lửa đang cháy bùng trong chậu than nói tiếp:

- Nội xưởng của chúng ta dưới sự nỗ lực chung của các vị và ta sẽ huy hoàng rực rỡ, phát triển không ngừng như ngọn lửa này.

Liên Đắc Lộc cười lớn:

- Xưởng đốc quá khách sáo rồi, nếu như Nội xưởng không có đại nhân chủ trì thì sao có được oai phong của ngày hôm nay? Thỉnh thoảng ti chức trở về Thần Cơ doanh chơi, những người bạn đồng liêu nơi đó gặp ti chức đều kính sợ và hâm mộ không thôi. Theo đại nhân ngài kiếm sống, tuyệt đối là không sai.

Một trận cười lớn nổ vang khắp căn phòng. Bành Đắc Lộc ưỡn cái bụng phệ ra vẻ trịnh trọng gật gù phụ hoạ:

- Nói rất đúng. Thực ra lần đầu ti chức gặp đại nhân, thấy đại nhân bước lên điểm tướng đài, khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, liền đã cảm thấy đại nhân tuyệt không phải là vật trong ao rồi. Nhãn quang của lão Bành quả nhiên không tệ!

Lời ba hoa tâng bốc của lão khiến ngay cả Phùng Đường xưa nay luôn hiền lành ít nói cũng nhịn không được phải bật cười phì. Dương Lăng mỉm cười nhìn lão, chế diễu:

- Thật như thế à? Khi đó bản quan bị Bào tham tướng gây khó dễ, dẫn mấy người các ông dùng đại lễ yết kiến Liễu thiên hộ; lúc bản quan đăng đài điểm tướng, bản quan thấy lão Bành ông hình như vẫn chưa tình nguyện quỳ xuống mà. Chẳng lẽ vì bụng quá to cho nên khó quỳ?

Bành Kế Tổ bị y trêu khiến khuôn mặt già đỏ au, nghe được câu cuối liền vội vỗ bụng tán thành:

- Chính phải, chính phải! Xưởng đốc thật anh minh. Ti chức đều bị cái bụng này cản trở, hắc hắc, là do cái bụng to này cản trở.

"Ha ha", mọi người càng cười to hơn. Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh nghe xong cũng không khỏi cảm khái vạn phần. Đúng là “nam sợ đi lầm đường, nữ sợ gả lầm chỗ”. Mới nửa năm trước đây mình chỉ là một viên hiệu úy cỏn con của Cẩm Y vệ, từ ngày đi theo Dương Lăng lại thăng tiến như diều gặp gió, nay cho dù là Cẩm Y đề đốc gặp mình cũng phải đối đãi nồng hậu mấy phần. Chức thiên hộ này kẻ khác dù lăn lộn ba mươi năm cũng chưa chắc đã với tới được.

Đợi mọi người ngưng cười, Dương Lăng nói tiếp:

- Thành nhị đáng đầu là nữ nhân, không tiện cùng mọi người uống rượu, hiện cô ta đã ra hậu viện bầu bạn cùng phu nhân, chúng ta không cần phải...

Bành Kế Tổ ngoác miệng cười to:

- Cô ta không có mặt ở đây càng tốt. Lần trước cô ta đến Nội xưởng dạo một vòng, cặp mắt hoa đào đó liếc Bành mỗ một cái, hại khiến lão Bành ta tim đập thình thịch, cả ngày cũng không yên...

Liên Đắc Lộc ngồi cạnh chợt huých khuỷu tay vào hông Bành Kế Tổ khiến lão loạng choạng suýt ngã. Lão quay đầu lại bực bội la lên:

- Cái tên Liên mặt rỗ này, chưa uống mà đã bị ma men nhập rồi à?! Ngươi huých ta làm gì?

Liên Đắc Lộc nháy mắt với lão:

- Lỡ tay, chỉ là lỡ tay thôi mà! Ha ha, chốc nữa huynh đệ tự phạt ba chén là xong.

Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh không nhịn được cúi mặt cười thầm. Ngô Kiệt vừa vuốt râu mỉm cười vừa liếc nhìn Dương Lăng không nói gì. Dương Lăng thấy Vu Vĩnh nghiêng người kề tai nói nhỏ mấy câu với Bành Kế Tổ, khuôn mặt lão Bành lập tức xám ngoét như quả gan lợn, thấp thỏm liếc về phía mình, thì bất giác cũng cảm thấy lúng túng.

Đừng nói là ở thời đó, cho dù ở xã hội hiện đại thì việc trọng dụng một người con gái cũng đã là đề tài câu chuyện được mọi người say sưa bàn tán, huống hồ đó lại là một người con gái duyên dáng yêu kiều, phong tình tha thướt; làm sao không có những lời đồn đãi phong tình chứ?

Dương Lăng ho khan vài tiếng, vờ như không trông thấy, tiếp tục:

- Ngoài ra, bản quan còn muốn giới thiệu với các vị một vị bằng hữu: Hán Siêu!

Ngũ Hán Siêu từ nội thư phòng lách người bước ra, ôm quyền vái mọi người:

- Ngũ Hán Siêu ra mắt các vị đại nhân.

Mọi người thấy là người do Dương Lăng tự thân giới thiệu nên nào dám qua quýt, liền vội đứng dậy chào hỏi. Dương Lăng ra hiệu bảo Ngũ Hán Siêu ngồi vào chỗ rồi cười nói:

- Hán Siêu là công tử của Ngũ Văn Định đại nhân, Thành Đô đồng tri, là đệ tử thân truyền của chưởng môn chân nhân núi Võ Đang, giỏi văn hay võ, một thân tài nghệ hết sức cao cường.

Nội xưởng vừa mới thành lập, nhân tài thiếu hụt, bản đốc cầu hiền như khát nước, may kết giao được Hán Siêu, huynh ấy đã đáp ứng tương trợ bản đốc, gia nhập vào Nội xưởng cùng làm việc. Sau này Hán Siêu sẽ là đồng liêu của các vị, hôm nay các vị hãy cùng nhau gặp mặt, sau này chúng ta sẽ cùng hội cùng thuyền, cùng vượt qua hoạn nạn.

Nói xong Dương Lăng vỗ tay, gia bộc nối đuôi nhau đưa món ăn lên, nhất thời sơn hào hải vị, thức ăn hoa quả có đủ, thịnh soạn vô cùng. Từng chiếc đĩa sứ Thanh Hoa tinh xảo sáng bóng được bày lên bàn, tiểu tì nhẹ nhàng dâng rượu rót đầy từng chén rồi lui sang chầu chực một bên.

Dương Lăng nâng chén đứng dậy:

- Trên bàn rượu bất luận chức vị tôn ti. Ở đây Hoàng lão và Ngô lão tuổi tác cao nhất, trước ta xin kính hai vị trưởng giả, tiếp kính các vị huynh trưởng Bành, Liên, Phùng. Hôm nay chúng ta nhất định phải vui cho thoả thích, không say không về.

Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt vội đứng dậy chắp tay cảm tạ, mọi người đều theo Dương Lăng đứng dậy kính rượu hai lão. Hai ông già được Dương Lăng trọng đãi như vậy không khỏi cảm kích vạn phần, hai người ngưỡng cổ uống cạn rượu ngon trong chén, dốc cho mọi người xem chén rượu cạn trơn rồi mới mỉm cười ngồi xuống.

Dương Lăng cũng uống một hơi cạn rượu trong chén rồi từ từ ngồi xuống. Rượu hôm nay dịu mà tinh khiết ngọt lịm, uống vào hai má ngát hương, là rượu Phượng Tường(1) chính gốc, mới uống vào thì cảm thấy không nặng, dần dà ngấm vào lại không nhẹ. Tửu lượng Dương Lăng không cao cho nên y chỉ kính rượu hai chén, sau đó mặc kệ đám người phàm ăn tục uống Bành Kế Tổ hét hò thi rượu.

Sau ba tuần rượu, thưởng thức đồ ăn đủ các loại mùi vị(*), Ngô Kiệt mới nghiêng người thấp giọng hỏi:

- Đại nhân, nghe nói lúc sáng Cẩm Y Vệ bắt được một tên đạo tặc lọt lưới, đã đặc biệt chạy đến báo tin cho đại nhân?

(*) nguyên văn “ngũ vị”, chỉ các món mặn, ngọt, chua, cay, đắng.

Dương Lăng kinh ngạc cười nói:

- Tai mắt của Ngô lão càng lúc càng lợi hại, người Trấn phủ ti nha môn chạy đến ông liền biết rõ nội tình ngay. Đúng vậy, Thiệu Tiết Vũ quả thực đã phái người đến. Nhắc đến việc này, ta chợt nhớ đến một chuyện. Mục tiêu dò xét và truy lùng bên phía Ngô lão dường như chỉ chú trọng vào các quan viên văn võ; tin tức dân gian tuy phần nhiều là hoang đường không đáng tin, song tăng cường thêm bên phía ấy cũng rất có ích. Nội tình chuyện Dương Hổ đến nay chúng ta vẫn chưa nắm rõ. Sau này cũng nên chú ý thêm về phương diện này.

Ngô Kiệp đáp:

- Dạ! Bởi Nội xưởng vừa mới thành lập mạng lưới tình báo, nên vẫn chưa đủ sức xâm nhập đến mọi ngõ ngách. Ti chức lo ngại trong triều vẫn còn quan viên gây bất lợi cho đại nhân, cho nên cố ý yêu cầu bọn thám tử tập trung tinh thần vào triều đình nhiều hơn, việc trong thiên hạ chúng ta cũng sẽ dần dà để ý tới.

Dương Lăng ừ một tiếng, lại nghe Ngô Kiệt nói tiếp:

- Cẩm Y vệ nghe nói đại nhân bị tập kích, đã phóng ngựa khắp nơi, dốc lòng bán sức, vì bắt một tên cường đạo mà đã bị tử thương sáu bảy người. Đại nhân có biết vì sao Cẩm Y vệ lại dốc sức giúp ngài như vậy không?

Ánh mắt Dương Lăng lập tức trở nên tập trung, y thấp giọng hỏi:

- Bên trong còn có nội tình gì khác à?

Ngô Kiệt cười ra vẻ bí hiểm:

- Biếu lễ cho người tất có mưu cầu. Ban đầu Trương Tú của Cẩm Y vệ dựa vào Đông xưởng, phái Mâu Bân cực kỳ bất mãn với hành vi khom lưng uốn gối của lão ta, cho nên sau khi lên nắm quyền hắn vẫn duy trì khoảng cách với Đông xưởng, Tây xưởng và Nội xưởng, giữ cho Cẩm Y vệ không chịu sự tiết chế của ba xưởng. Nay hắn hao tâm tổn trí tặng cho đại nhân món nhân tình này, đương nhiên là có dụng tâm khác.

Dương Lăng rót rượu vào chén Ngô Kiệt, trầm ngâm:

- Ừm! Dạo này khoảng cách giữa Cẩm Y vệ và chúng ta đích thực không xa cũng không gần, song bọn họ lại đem hết sức mình giúp đỡ chúng ta điều tra chuyện buôn lậu của đám quan lại, sĩ tộc và thân hào cự phú vùng duyên hải. Mâu Bân và Thiệu Tiết Vũ lại hết lòng trợ giúp chúng ta bắt cướp như vậy là có dụng ý gì?

Ngô Kiệt mỉm cười đáp:

- Đây cũng chỉ là suy đoán của ti chức. Liên hệ hai việc bề ngoài không hề có liên quan gì với nhau mà suy đoán ra, tuy nhiên dựa theo những hoạt động nổi bật của Cẩm Y Vệ trong thời gian gần đây, dường như cũng chỉ có chuyện này là có thể giải thích được.

Đoạn lão liếm môi, mỉm cười nói:

- Hẳn đại nhân vẫn còn nhớ chuyện hai mươi mốt người Đới Nghĩa dâng tấu xin Hoàng thượng giữ lại Lưu Kiện và Tạ Thiên chứ?

Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Không phải là mấy lão ngự lại ngôn quan đó bị nhốt vào ngục một hồi rồi lại đuổi về rồi sao? Xui xẻo nhất là hai người Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân cũng đã được ta bảo vệ đưa đến Đại Đồng làm tướng. Chẳng lẽ lại có người đến gây chuyện hay sao?

Ngô Kiệt cười cười đáp:

- Vậy cũng không phải, chỉ là dư âm chưa nguôi mà thôi. Khi đám người Đới Tiễn bị bắt vào Cẩm Y vệ, lúc ở trong ngục đã viết tờ khai, luôn miệng mắng Lưu Cẩn là tên thiến cậy quyền. Tờ khai đưa vào cung, Lưu Cẩn xem xong thì rất lấy làm bất mãn, chưa dám dâng thẳng lên cho Hoàng thượng, mà trả lại Cẩm Y vệ kêu bọn họ sửa đổi lời khai rồi mới trình lên. Mâu Bân cả giận, hắn bảo xưa nay Cẩm Y vệ xét xử chưa từng có tiền lệ tự ý thay đổi lời khai của khâm phạm để dối gạt thiên tử, cho nên khăng khăng không chịu, hai bên đã căng thẳng nhiều ngày rồi.

Cốc Đại Dụng từng ra mặt hoà giải, nhưng Mâu Bân như cưỡi trên lưng cọp, lúc này mà hắn cúi đầu trước mặt thuộc hạ thì sẽ mất sạch oai phong, thế là đành phải mượn cớ chạy đến phương nam để tránh gió.

Mấy ngày trước còn có việc Doãn Chu Tỉ của phủ Thuận Thiên và Hầu Dương Nguyên của Ngũ Quan giám bị Lưu Cẩn phạt đình trượng đến chết. Lý do công khai là tham ô và chểnh mảng công vụ, song thực tế bên trong là bởi bọn họ qua lại quá thân thiết với Cẩm Y vệ, cho nên Lưu Cẩn mới giết gà để doạ khỉ.

Dương Lăng tựa lưng vào ghế ngẫm nghĩ một chốc, rồi lắc đầu cười khổ:

- Nói vậy không bao lâu nữa thì Thiệu trấn phủ sẽ lại đến nhà nhờ ta ra mặt hoà giải ư? Đã xét phạt cựu thần khiến cho đại học sĩ phải dẫn đầu bá quan đến quỳ dưới cổng cung, món nợ này còn chưa tính xong mà giờ lại quay sang gây sự với Cẩm Y Vệ rồi. Chậc! Lưu Cẩn ơi Lưu Cẩn, vị Lưu công công này tinh thần thật là khoẻ đây, lão ta nghĩ rằng có Hoàng thượng chống lưng thì không còn phải sợ gì nữa hay sao?

Bành Kế Tổ đang uống say đến độ con mắt lừ đừ, loáng thoáng nghe câu được câu mất, liền bật cười lớn chen lời:

- Lưu công công hả? Ờ... sức khoẻ đương nhiên có đủ, lão ta có sức mà không thể tiêu trên mình đàn bà, đương nhiên phải tìm ít việc làm để tiêu bớt sức lực rồi.

Liên Đắc Lộc cũng đã uống say quắc, khuôn mặt gầy gò đỏ gay như đít khỉ, cười hềnh hệch bảo:

- Lão Bành lại nói bậy rồi! Lời này mà lan truyền ra ngoài, chính ông sẽ là người “tiêu” đấy.

Bành Kế Tổ trợn mắt:

- Ai sẽ rêu rao ra ngoài hử? Là ngươi? Là ngươi? Hay là ngươi?

Ngón tay thô kệch của gã chỉ một vòng, đến khi chỉ tới mũi Dương Lăng, gã mới phát hiện bất tiện, không khỏi cười hắc hắc rồi cầm chén rượu của mình lên nốc một hơi.

Dương Lăng cười cười, cúi đầu trầm ngâm:

- Phía bắc có giặc Thát xâm phạm, dùng binh là việc lớn của nước nhà. Việc bãi bỏ lệnh bế môn tỏa cảng và dẹp trừ giặc Oa cũng cần triều đình thật tâm đoàn kết, trên dưới một lòng. Lúc này xưởng vệ lại đấu đá lẫn nhau thực không phải là chuyện tốt, xem ra việc hoà giải lần này vẫn phải do bản quan đứng ra thực hiện rồi.

- Không được!

Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt nãy giờ im lặng lắng nghe bỗng đồng thanh kêu to ngăn cản. Mấy người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu ngồi cách xa đó đang nâng rượu mời nhau nghe được câu này bèn quay đầu nhìn lại.

Hai ông già mưu sâu kế rộng liền vội nhỏ giọng lại. Hoàng Kỳ Dận nói:

- Đại nhân! Làm người tốt chưa hẳn đã là việc hay. Đại nhân nhất định đừng nhúng tay vào, nếu Thiệu Tiết Vũ tìm đến nhà, đại nhân cũng phải lựa lời thoái thác, khi nào bọn họ còn chưa phân rõ thắng thua, đại nhân chưa thể ra mặt.

- Hử?

Dẫu sao Dương Lăng vẫn còn trẻ, mấy chuyện ơn nghĩa nhân tình này y kém hiểu biết hai ông già lăn lộn lâu năm giữa chốn quan trường, chịu đủ mọi ghẻ lạnh này nhiều nên không khỏi nhìn bọn họ nghi hoặc.

Ngô Kiệt giải thích:

- Ti chức chính là lo Cẩm Y Vệ sẽ tìm gặp đại nhân, cho nên mới cố ý khơi ra chuyện này. Chuyện này rất quan hệ đến uy vọng của Cẩm Y vệ và Ti Lễ giám. Dựa vào ảnh hưởng của đại nhân, nếu đại nhân tỏ thái độ ủng hộ một phe, phe kia cũng chỉ có thể nuốt giận mà thôi.

Thế nhưng bất luận đại nhân có ăn nói khách sáo và uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa, nếu đại nhân đã khuyên Lưu Cẩn nhượng bộ, để Cẩm Y vệ công khai trình lời cung tố cáo “bọn thiến lạm quyền” lên Hoàng thượng thì không chỉ Lưu Cẩn sẽ ôm lòng oán hận ngài mà Bát Hổ của Nội đình cũng sẽ canh cánh trong lòng. Còn nếu đại nhân khuyên giải Mâu Bân sửa xoá lời cung thì oai vọng mà hắn cực khổ gầy dựng trong Cẩm Y vệ cũng sẽ rơi xuống nghìn trượng.

Hoàng Kỳ Dận gật đầu tiếp lời:

- Trừ phi một phe chịu lùi bước, bằng không cuộc chiến rối rắm này sẽ không thể nào hoá giải. Nếu như đại nhân đứng giữa điều đình, thì phe phải lùi bước sẽ trút giận sang đại nhân. Bởi thế... đại nhân nên đặt thân mình ngoài cuộc, mặc cho bọn chúng đấu đá long trời lở đất, đợi đến khi một phe thất bại thảm hại rồi, lúc đó đại nhân hãy ra mặt thu nhặt tàn cuộc. Dù đại nhân chỉ hơi đưa tay cứu vớt, đảm bảo cho sự an nguy của bọn chúng thì bọn chúng, vốn đã hứng chịu đủ mọi khổ đau, vẫn sẽ phải mang ơn đội nghĩa đại nhân.

Dương Lăng nhìn hai người một lúc rồi lặng lẽ gật đầu. Quan lại đấu đá, diệt trừ lẫn nhau, sự cay nghiệt và vô tình trong đó y đã phần nào giác ngộ. Y đành thở dài bảo:

- Thôi bỏ đi. Mâu Bân đã chạy đi tránh gió, xem ra bản quan cũng phải trốn tránh một chút vậy.

Lưu Cẩn là đại thủ lĩnh Ty Lễ Giám, mấy ngày này sự vụ trong cung rất nhiều, lão ta nhất định không thể dứt ra bức bách Cẩm Y vệ làm việc cho lão. Ngày mai bản quan sẽ đi gặp Hoàng thượng, việc minh ước với Đoá Nhan Tam Vệ không thể trì hoãn quá lâu. Bản quan phải tấu xin Hoàng thượng phái một vị thân thuộc nào đó trong hoàng thất đủ để thay mặt triều đình đến Đại Đồng vào năm sau. Bản quan sẽ đi cùng y, trong kinh cứ để lão ta làm loạn đi.

Tiệc vui người say, đến lúc hoàng hôn nặng nề buông xuống, hầu hết mọi người trong phòng khách đã uống đến say mèm. Hai người Bành, Liên như hai con chó chết được thân binh dìu đỡ lên ngựa, vừa leo lên lại ngã cắm đầu xuống đất, khiến tay đội trưởng thân binh chỉ biết cười khổ sở gọi mấy tay phiên tử cường tráng cõng hai viên đáng đầu đang say như chết trở lên núi.

Phùng Đường bước chân cũng đã xiêu vẹo, song hành động vẫn còn tỉnh táo, cũng cáo từ Dương Lăng xin phép lui ra. Lão quản gia đi đến hậu đường báo Ấu Nương mời các vị nữ khách ra ngoài. Tiệc rượu trong hậu viện sớm đã tàn, Ấu Nương đang ngồi tiếp chuyện trong phòng khách, nghe tin liền vội đưa các vị nữ khách đến tiền sảnh.

Hàn Ấu Nương sắp sẵn gia nhân mang lễ vật theo sau. Nàng là nữ chủ nhân của Dương phủ, vốn có quyền tặng lễ vật, nhưng hôm nay Dương Lăng đáp tạ đồng liêu Nội xưởng nên nàng để Thành Khởi Vận giúp chọn ra vài món quà vừa hào phóng vừa đúng mực, nhằm trượng phu đích thân tặng khách.

Nghe Ấu Nương dặn dò xong, Dương Lăng mỉm cười đi đến trước mặt mấy người Ngô Kiệt và nói:

- Năm mới sắp đến, Dương mỗ có chuẩn bị một ít quà nho nhỏ tặng các vị, vẫn mong Ngô lão, Hoàng lão và Vu đại nhân đừng từ chối.

Đoạn y lấy từ trên tay gia bộc một gói quà, hai tay bưng lấy đưa cho Hoàng Kỳ Dận và bảo:

- Hoàng lão! Khí trời đang lạnh, Hoàng lão lại không tập võ, cả ngày chạy lên chạy xuống phủ trên núi e sẽ nhiễm phong hàn. Đây là hai cuộn nhung Lan Châu, nhẹ mềm lại giữ ấm, xin tặng Hoàng lão và phu nhân làm áo nhung.

Vải nhung Lan Châu vốn đã nổi danh, được chế tạo từ nhung của loài sơn dương, một cuộn nặng chỉ mười bốn lạng (một lạng Tàu tương đương 50gr - ND), mỏng nhẹ mà tinh xảo, trơn mượt như lụa tơ, mềm mại khít người, mặc vào rất ấm. Hai cuộn vải nhung này cầm vào càng thấy mềm mại nhẹ nhàng hơn mấy phần, xem ra là loại nhung Lan Châu thượng phẩm. Mặc dù đối với Dương Lăng thì giá trị của nó không quá quý giá gì, nhưng cũng đủ biểu lộ sự quan tâm yêu quý của y, Hoàng Kỳ Dận vui vẻ nhận lấy.

Dương Lăng cúi xuống xoa đầu đứa cháu nhỏ mới hơn mười tuổi của Hoàng Kỳ Dận, cười bảo:

- Thằng nhóc này lại cao thêm rồi, đã mời được thầy dạy chưa?

Thằng bé lễ phép thưa:

- Dương thúc thúc... Con chào đại nhân ạ! Hiện nay gia gia không có thời gian dạy con viết chữ đọc sách nữa, cho nên đã mời thầy cho con rồi. Thầy giáo không tốt bằng gia gia đâu, thỉnh thoảng lại đòi khẽ tay con nữa.

Dương Lăng bật cười lớn, mọi người đứng bên cạnh cũng không khỏi mỉm cười. Dương Lăng cười bảo:

- Con mà ngoan ngoãn đọc sách thì sẽ không còn ai khẽ tay con nữa đâu.

Nói rồi y thuận tay gở miếng ngọc bội đeo ở hông, miếng ngọc bích óng ánh trong suốt, rõ là loại thượng phẩm trân quý. Dương Lăng nhét nó vào tay thằng bé rồi dặn dò:

- Đây, thúc thúc đại nhân tặng con quà năm mới, mau cao chóng lớn, chăm chỉ đọc sách, học được một thân bản lĩnh nhé. Sau này con làm quan rồi sẽ chỉ có con khẽ tay người khác, người khác sẽ không khẽ được tay con nữa.

Nói rồi Dương Lăng đứng dậy, lấy một món quà khác nói với Ngô Kiệt:

- Ngô lão! Đây là hai cuộn lụa Tô Châu, một cuộn thảm lông Thiên Trúc, ngoài ra ở đây còn có một hũ rượu thuốc. Ngô lão là con cháu Ngô lão thần y Ngô Thanh Viễn, gia đình có truyền thống uyên bác từ lâu, lại biết y thuật. Có điều nếu như phương thuốc trị thấp khớp của ông đã không thể trị khỏi thì hãy dùng thử hũ rượu thuốc này của bản quan xem sao.

Ngô Kiệt hiểu ý bèn liếc sang Cao Văn Tâm đang đứng mỉm cười bên cạnh, cười đáp:

- Hẳn là do tay nữ thần y pha chế rồi? Ngô Kiệt thẹn là con cháu y đạo thế gia, thế mà ngoại trừ một ít phương thuốc tổ truyền là còn nhớ, đối với y thuật chỉ hiểu biết lơ mơ mà thôi. Thực đã làm phiền xưởng đốc đại nhân và Cao cô nương rồi.

Vu Vĩnh bàn đến chuyện buôn bán thì hết sức hào hứng. Nhưng bữa tiệc đêm nay không ai tình nguyện nói mấy chuyện này với hắn, nên hắn đành vừa uống rượu vừa tính toán mấy chuyện buôn ngựa Tây Bắc, chế áo lông Đông Bắc, nấu muối ăn duyên hải. Càng tính càng cảm thấy rất có lời nên tự rót tự uống vẫn cảm thấy rất thú vị, lúc này cũng phải nhờ tôi tớ dìu đỡ mới đứng vững được.

Dương Lăng cũng không dám đối đãi qua quýt với ông thần tài này, y cầm lên ba hộp gấm:

- Vu huynh trông nhiều hiểu rộng, bản quan cũng không biết nên tặng món gì. Ở đây có ba món nữ trang, tuy rằng giá trị không cao nhưng chế tác rất là tinh xảo, tặng cho phu nhân và con gái huynh vậy.

Vu Vĩnh coi Dương Lăng là tri âm có mắt nhìn người, vật phẩm của y tặng thì tốt xấu cũng không hề quan tâm, bèn vội cười nói:

- Đa tạ đại nhân! Na Na, Liễu Liễu, mau bước lên cảm ơn đại nhân đi.

Hai người thiếu nữ vội bẽn lẽn bước lên, uyển chuyển quỳ lạy, cất giọng dịu dàng:

- Na Na, Liễu Liễu cảm ơn Dương đại nhân.

Ở hậu trạch bọn họ đã bỏ khăn che mặt ra, khi trở về lại che mặt lại, hiện nay tấm lụa mỏng đã che phủ hai gương mặt.

Lúc bọn họ đến khách khứa rất đông, tuy Dương Lăng cảm thấy hai người thiếu nữ này có tấm thân khiến lòng người rung động, song cũng không thể chú ý nhiều. Lúc này y để ý mới thấy bọn họ vận áo xanh ống hẹp, áo chẽ bó sát người, quần dài mảnh khảnh, trên mặt lại phủ một lớp lụa mỏng chỉ để lộ cặp mắt long lanh màu lam; lúc đôi mày liễu cong vút ngó quanh thì thần thái trông hết sức mê người.

Hàn Ấu Nương cầm lấy hộp gấm trong tay Dương Lăng đưa đến tay người con gái có vóc dáng cao hơn, mỉm cười:

- Hai vị muội muội thật xinh đẹp, vẫn mong hai món nữ trang này có thể hợp với tâm ý của hai người.

Hai cô thiếu nữ cúi đầu vái thêm một vái, rồi mỉm cười nhận lấy hộp gấm.

Dương Lăng cười bảo:

- Ừm! Na Na nhất định là chị thứ hai, còn Liễu Liễu thì là cô em thứ ba rồi. Vu huynh, bản quan nói có đúng không?

Dương Lăng chưa đến tuổi nhược quán (20 tuổi), nhưng luôn mồm gọi lão là "Vu huynh", thực đã coi mình là thúc thúc của hai người thiếu nữ này. Người thiếu nữ có cặp mặt xanh ngắt như mặt nước hồ che miệng khẽ cười đáp:

- Dương phu nhân gọi con là muội muội, Dương đại nhân lại gọi cha là Vu huynh. Cha à, cha giỏi nhất là tính toán, không biết phép tính này nên tính thế nào nhỉ?

Vu Vĩnh trừng mắt với nàng, rồi đáp lời Dương Lăng:

- Đúng vậy, nha đầu tinh nghịch này chính là Na Na. Phùng Y Cống Phú Nhĩ Tư Thái Bá Cách Na Na, ha ha, đại nhân nghe thấy có oai phong không?

Mấy người Hàn Ấu Nương nghe thấy cái tên dài kỳ lạ như vậy đều bất giác che miệng cười, Vu Vĩnh không hề phát hiện, vẫn tự dương dương dương đắc ý. Chắp tay từ biệt Dương Lăng và các vị phu nhân xong, lão bước xiêu vẹo ra ngoài cổng, trèo lên kiệu trở về phủ.

Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và Ngũ Hán Siêu vừa rồi cũng đã ngà ngà say, khi thấy Dương Lăng đã hồi phục tinh thần, ba người liền vụt đứng thẳng người dậy. Các khuôn mặt tuấn tú tuy vẫn còn hồng hào nhưng ánh mắt đã lanh lợi sắc sảo trở lại.

Dương Lăng gật đầu hài lòng, bảo:

- Cực khổ cho các vị rồi, mấy ngày nay vẫn cần đề phòng kín kẽ. Đám đại đạo đó dám tụ tập mấy trăm người ngang nhiên gây án trong kinh sư, coi thường vương pháp, trong mắt vốn không hề có triều đình. Bọn chúng có còn to gan xông tiếp vào Dương phủ hay không, việc đó không ai dám nói trước. Liễu Bưu hãy ngủ ở tiền viện, điều hành việc phòng vệ.

Liễu Bưu mỉm cười chắp tay đáp:

- Tuân lệnh đại nhân. Bọn ti chức cũng không uống nhiều nên sẽ không để lỡ việc công,

Nói đoạn gã xoay người rời đi.

Dương Lăng gật đầu ra lệnh tiếp:

- Ừm! Nhất Thanh hãy đến hậu viện! Hầm sưởi đó là nơi bản quan hết sức coi trọng. Từ trận chiến hôm qua có thể thấy được rằng, nếu không cậy vào vũ khí lợi hại mà chỉ dựa vào sự tinh nhuệ của Nội xưởng ta thì sẽ không phải là đối thủ của đám đại đạo lục lâm vùng vẫy chốn núi rừng đó. Huynh phải hết sức cẩn thận.

Dương Nhất Thanh để lọt mất Hồng Nương Tử ngay dưới mắt mình trong khi Liễu Bưu ở nơi này đã vây đánh hơn hai trăm tên đại đạo ngang tàng hung hợn nhất trong giới lục lâm, trong lòng gã sớm đã cảm thấy hổ thẹn. Cho nên gã đã hao tổn tâm huyết đảm bảo an ninh cho hậu viện, nghe dặn dò xong liền tự tin đáp ngay:

- Đại nhân yên tâm! Trừ phi đám giặc đó không đến, bằng không cho dù có ba đầu sáu tay cũng sẽ không thoát khỏi thiên la địa võng của ti chức!

Ngũ Hán Siêu thấy Dương Nhất Thanh đã đi, bèn nôn nóng hỏi:

- Đại nhân! Tại hạ sẽ làm gì?

Dương Lăng nhìn đánh giá chàng ta mấy lượt, rồi mỉm cười hỏi Ấu Nương:

- Ấu Nương, nàng thấy vóc người của Hán Siêu có giống ta không?

Hàn Ấu Nương cười tươi đáp:

- Ưm, chỉ rắn chắc hơn tướng công một chút thôi.

Dương Lăng bèn cười nói:

- Vậy thì được rồi, nàng hãy chuẩn bị một bộ áo dài của ta, bảo người đưa đến phòng của Hán Siêu. Ngày mai ta muốn Hán Siêu cùng theo ta vào thành một chuyến.

Ngũ Hán Siêu nhìn lại mình từ trên xuống dưới một lượt. Dương Lăng mua quần áo cho y không chút keo kiệt, nếu vào thành thì cớ gì phải thay đồ của Dương Lăng chứ. Nhất thời y không biết Dương Lăng làm vậy là có dụng ý gì, trong lòng không khỏi hơi nghi hoặc.

Dương Lăng không để ý đến vẻ ngơ ngác của chàng ta, lại nói tiếp:

- Bản quan vẫn chưa mệt, hay đến phòng huynh ngồi một chút đi.

Nói rồi y đến bên cạnh Ngũ Hán Siêu,cùng sánh vai đồng hành, vừa đi vừa cười nhẹ:

- Nội công tâm pháp mà đêm qua huynh dạy cho ta, cái gì mà tay trái ôm nhật nguyệt, tay phải gạt Càn Khôn, bảo rằng lúc đi đường cũng có thể luyện tập đó, sáng nay ta mới thử một chút mà thiếu chút nữa đã trẹo cả lưng. Sáng sớm mai bản quan sẽ kêu quân dịch (quân bưu vụ, đội dịch trạm của quân đội) đưa thiệp bái sư đến thẳng Võ Đang cho Tiêu chưởng môn. Huynh có nói là chưởng môn chân nhân nhất định sẽ thu nhận ta, vậy bây giờ xin nhờ đại sư huynh tương lai chỉ giáo thêm cho tiểu đệ luôn nhé!

(1) loại rượu trắng nổi tiếng ở huyện Phượng Tường, Thiểm Tây, Trung Quốc

Ngược về thời Minh

Chương 177 Chính hợp ý trẫm

Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.

Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.

Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân (viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.

Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:

- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?

Ngọ môn tướng quân cười đáp:

- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân chưa rời cung đâu.

Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuất khỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.

Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.

Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện, tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.

Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.

Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và nói:

- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.

Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương, Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:

- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.

Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.

Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ, Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, y bước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê duyệt tấu chương.

Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với y:

- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.

Dương Lăng cười đáp:

- Không dám nhọc đại nhân đâu.

Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:

- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?

Dương Lăng đáp:

- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai. Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh, tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó cũng không nắm rõ cụ thể.

Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:

- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình, nếu nói bọn chúng đến là vì Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng, thay đổi kế hoạch, rốt cuộc mục đích ban đầu bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực khiến người ta khó lòng nghĩ ra.

Dương Lăng cười nói:

- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể, hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.

Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế, nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một ai bị trừng trị cả.

Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:

- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?

… đoạn lắc đầu:

- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự, nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ, Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.

Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng suốt xưa nay hiếm có, chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên, thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có một đám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có người làm loạn.

Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:

- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.

Lý Đông Dương cười lớn:

- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:

- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.

Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm giặc mới ngày một đông.

Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồi dào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại, người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?

Lý Đông Dương gật đầu nói:

- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái, nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.

Ông nhướng mắt mỉm cười:

- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện, được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...

Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:

- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng cộng bốn nơi.

Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịch thông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?

Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán, giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấylàm kinh ngạc: Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?

Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:

- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi, nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?

Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời chút nào

Dương Lăng lại nắm quyền Ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái Ty Thuế Giám này.

Dương Lăng cười đáp:

- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y Vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, Ty Thuế Giám và Ty Thuế lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, Ty Thuế Giám thu thuế, Ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp cho bá tánh đỡ khổ.

Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:

- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?

Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:

- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì thế nào?

Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo, trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là đây(1)".

Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ bên dưới, ngạc nhiên hỏi:

- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?

Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:

- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.

Dương Lăng nhớ lại tình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ: )

Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.

Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:

- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?

Dương Lăng đáp:

- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?

Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải lo lắng gì?

Lý Đông Dương mừng lắm, nói:

- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy đi.

Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:

- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châm biếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:

- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.

Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch(2), sung quân, chiến sự, cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.

Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận lại.

Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!

Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng: đây mà là thanh quan ư? Bất chấp đại cuộc, không thấy được đạo lý, chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm, yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!

Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:

- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh, càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích, và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy, thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu công công.

Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:

- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây phải bệnh vẫn xanh rừng)

Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.

Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn, mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.

Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.

Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành, có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ, cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.

Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thể giải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương Lăng coi như cũng hiểu được.

Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi(3) trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn, mặt đầy vẻ hiếu kỳ.

Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã bước tới thi lễ:

- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?

Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:

- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.

Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.

Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc nhở nhẹ nhàng:

- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thật không nên quá phân tâm vào những việc này.

Chính Đức nhăn nhó nói:

- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng, phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn, tuyệt không tồn đọng đâu nhé.

Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:

- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!

Chính Đức không nghĩ vậy, nói:

- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.

Đoạn y phấn khởi nói:

- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.

Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô, bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy quyền.

Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn ra bài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:

- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.

Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.

Chính Đức cười bảo:

- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay không?

Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ có tiếng đàn ông cất lên:

- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn, liền học trộm được chiêu thức ngay.

Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra, lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":

- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở, muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.

Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:

- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa cũng không dám không tuân thánh dụ.

Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dà tiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng, nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.

Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.

Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái phường hát y gặp qua lần trước.

Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm hồn. Chính Đức lầu bầu nói:

- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.

Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:

- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...

Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.

Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:

- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng có bản lĩnh như vậy sao?

Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:

- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...

Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:

- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô nương... Đường Nhất Tiên.

- Đường... Nhất Tiên...

Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.

Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong cung không biết đã xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức hiếu kỳ.

Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất Tiên... cái tên thật là đẹp.

Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:

- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.

Chính Đức chán nản vung tay nói:

- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với trẫm.

Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ, rồi cũng lặng lẽ lui ra.

Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:

- Khanh ngồi đi.

Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận, Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười đứng trước ngự án, nói:

- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.

Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:

- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có chiến sự khẩn cấp?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng, và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?

Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:

- Có phải đã có hiệu quả?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm, Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.

Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác chiến của biên quân.

Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.

"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.

Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:

- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tích nhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ đã nhận được mật hàm của triều đình không?

Dương Lăng gật đầu thưa:

- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...

Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy hết can đảm nói:

- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ mới chịu nương về Đại Minh.

Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:

- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.

Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:

- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hản lúc đánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng thực không nhỏ.

Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:

- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng, nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.

Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:

- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đát Mông Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.

- Ha ha ha ha...

Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực Dương Lăng một cái, cười khanh khách:

- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?

Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:

- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là hai vị ngự muội của trẫm?

Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn. Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.

Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:

- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?

Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai tay chống nạnh nói:

- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi rồi!

Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:

- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!

Chú thích:

(1) nguyên văn "Thử Lý Tây Nhai tướng nghiệp". Tích rằng: vào năm Chính Đức (1506 - 1521), Lưu Kiện và Tạ Thiên của Nội các bị giáng chức đuổi khỏi kinh, chỉ còn lại một mình Lý Đông Dương. Đương thời Lưu Cẩn nắm quyền lực triều chính, Lý Đông Dương một cây chống chẳng vững nhà, không cách nào xoay chuyển. Vì vậy có người vẽ một bức tranh bà lão cưỡi trâu thổi sáo nhằm châm biếm. Trên trán bà lão đề "Thử Lý Tây Nhai (tên hiệu của ông) tướng nghiệp", nghĩa là "sự nghiệp tể tướng của Lý Đông Dương là đây", nhằm trào phúng Lý Đông Dương. Có người báo cho ông hay biết chuyện này, thế nhưng ông vẫn dửng dưng, tự đề lên tranh một bài thơ tuyệt cú: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca", nghĩa là "Dương Quý Phi thì bỏ thân nơi Mã Ngôi, Chiêu Quân mang theo ra biên tái nhiều ai oán. Sao như bà lão cưỡi trâu, hát vang khúc thái bình trong gió xuân". Về sau trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ Lưu Cẩn, họ Lý đã nổi lên như một nhân vật có vai trò mấu chốt.

(2) chính phủ triệu tập người dân thực hiện nghĩa vụ quân sự gọi là 'trưng dịch'

(3) loại lò sưởi cầm tay

Ngược về thời Minh

Chương 178 Nàng vốn là người tốt

------------------------

Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 178 Nàng vốn là người tốt (1)

------------------------

Hoàng đế là vua một nước. Vua chúa dựng nên các triều đại có ai mà không cả đời chinh chiến, chém giết nơi chiến trường? Để Chính Đức chứng kiến qua sự thảm khốc ở chiến trường, thấu hiểu được một phần nỗi khổ của bá tánh sẽ còn tác dụng nhiều hơn đọc vạn câu di huấn của các bậc thánh hiền.

Những lý lẽ này đương nhiên Dương Lăng hiểu rõ. Hế nhưng vừa nghĩ đến việc dẫn Hoàng đế ra biên tái, còn phải để hắn ta âm thầm lặng lẽ giữa chiến trường chém giết của hơn mười vạn quân Minh và Thát Đát mà lẻn lên núi Bạch Đăng gặp mặt thủ lĩnh của đám người Đóa Nhan Tam Vệ lúc là bạn lúc là thù thì… Càng nghĩ Dương Lăng càng thấy lo sợ.

Để cho đức vạn thặng chi tôn(*) giá lâm đến nơi hiểm địa, chỉ một chuyện này thôi đã đủ khiến bá quan dốc mạng mà hặc tội y rồi. Hơn nữa, nếu như Thát Đát hay tin đem trọng binh tập kích, hoặc là Hoa Đáng khởi dị tâm bắt Chính Đức làm con tin, lúc đó phải làm sao?

(*) nghĩa đen: bậc tôn quí giá trị bằng vạn cỗ xe. Cụm từ này thường được dùng để chỉ nhà vua.

Đang gật gù đắc ý, hoàng đế Chính Đức chợt nhìn thấy sắc mặt Dương Lăng trắng bệch, hắn không khỏi thu lại nụ cười, nghiêm túc gọi Dương Lăng:

- Dương thị độc...

- Có thần!

Dương Lăng khổ sở đáp.

Chính Đức nghiêm mặt nói:

- Người trong thiên hạ thường nói thiên hạ của trẫm rộng lớn, thế nhưng thiên hạ của trẫm chẳng lẽ chỉ là một mảng đất trời trong Tử Cấm Thành này đây sao? Trẫm muốn ra ngoài nhìn ngắm giang sơn vạn dặm thì có gì là không tốt? Huống hồ, hiện tại đi gặp mặt Hoa Đáng chính là làm một việc lớn cho Đại Minh. Quân đội của trẫm sẽ có thể bớt đổ máu, bớt hy sinh; con dân của trẫm sẽ bớt chịu khổ đau. Thân là quân vương, trẫm... không nên đi hay sao?

Thoáng ngưng lại, hắn nhẹ giọng nói tiếp:

- Trẫm biết khanh đang lo lắng cho an nguy của trẫm, cũng lo lắng sẽ vì vậy mà bị bá quan chỉ trích.

Rồi hắn cười nhạt một tiếng, giọng khinh miệt:

- Cứ để mặc bọn chúng nói cho sướng miệng. Bọn chúng chỉ muốn coi trẫm là một con chim bị nhốt trong cái lồng này, chỉ cần trẫm giữ khuôn phép đúng mực một chút, kính trọng sĩ tử một chút, lắng nghe lời ngay thẳng của bọn chúng một chút, yên tâm ngồi đây làm một vị thần bằng đất sét thì sẽ là hoàng đế tốt trong mắt bọn chúng.

Nhưng mà, trẫm không muốn làm loại vua như vậy! Đại Minh là thiên hạ của trẫm, trẫm phải làm tròn trách nhiệm thiên tử!

Dương Lăng ngẩn ngơ đứng nhìn Chính Đức, khuôn mặt non trẻ của hắn đầy sự nghiêm túc hiếm có. Ánh mắt sáng ngời, hắn nhìn chằm chằm Dương Lăng nói tiếp:

- Còn nhớ lúc khanh mới vào kinh thành, từng kể cho trẫm nghe rất nhiều chuyện về vạn quốc ở hải ngoại hay không? Vị quân vương anh minh trong đó, khi không làm tròn trách nhiệm bản thân, lại lo sợ rúc mình trong cung điện, tự hào nói với kẻ khác rằng bảo vệ tốt cái mạng của hắn chính là làm tròn bổn phận với con dân. Khanh mong muốn trẫm là một hoàng đế như vậy sao?

Chính Đức nhếch cặp mày tuấn tú, buông từng chữ:

- Trẫm là thiên tử, hiện tại trẫm muốn đi làm một việc cần làm cho Đại Minh! Khanh là bầy tôi yêu mến của trẫm, khanh có thể phò tá trẫm hoàn thành tốt việc này hay không?

Trong lòng Dương Lăng dậy sóng: ai bảo tiểu hoàng đế trước mặt này trẻ người non dạ, trong mắt chỉ có vui chơi đùa nghịch? Là do hắn chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm làm vua hay là vì hiện thực cay đắng khiến hắn chỉ có thể đắm chìm vào trong đủ loại trò chơi để giết thời gian?

Không nói lời nào, Dương Lăng lui lại hai bước, lần đầu y mang lòng kính trọng vái Chính Đức một cái thật sâu:

- Vi thần tuân chỉ! Thần nguyện phò tá đức vua, chấn hưng Đại Minh, hoàn thành bá nghiệp lẫy lừng!

Chính Đức mừng rơn nắm chặt lấy tay Dương Lăng lắc lia lịa, vừa định mở miệng thì chợt nghe có tiếng 'rột rột' phát ra. Hắn thoáng ngẩn người, rồi không nín được bật cười lớn:

- Cùng khanh trò chuyện say sưa nên quên mất đã đến bữa rồi. Lại đây, Dương khanh hãy dùng bữa cùng trẫm! Chuyến đi đến Đại Đồng của trẫm sẽ nhờ vào khanh cả đấy.

Lúc còn kèm thái tử đọc sách ở Xuân Phường, đã không ít lần Dương Lăng dùng bữa chung với hắn, nhưng sau khi Chính Đức đăng cơ lên ngôi đế thì đây mới là lần đầu. Được dùng bữa cùng với Hoàng đế là đãi ngộ trọng hậu vô cùng, trên Khởi Cư Chú(2) và công báo triều đình đều phải ghi rõ.

Dương Lăng không muốn bị rêu rao nên đang tính lựa lời cự tuyệt thì Chính Đức đã quay ra ngoài cửa gọi to:

- Người đâu, truyền đưa cơm vào! Trẫm muốn dùng bữa chung với Dương khanh. Gọi Giải Ngữ và Tu Hoa đến cùng luôn đi.

Dương Lăng cuống quýt thưa:

- Hoàng thượng, làm vậy không thích hợp lắm đâu. Giải Ngữ, Tu Hoa tuy không phải là phi tần trong cung, nhưng dẫu gì cũng là người hầu hạ cho Hoàng thượng, thần sao dám cùng bọn họ...

Chính Đức không đồng ý, khoát tay ngăn y, rồi hào hứng bàn tiếp cách rời khỏi kinh sư. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì tiểu thái giám của Ngự Thiện phòng đã đưa các món ăn thịnh soạn trong cung lên thoăn thoắt như thoi đưa, bọn họ bèn dừng trò chuyện.

Trên chiếc bàn lớn thếp vàng chạm trổ hình con rồng cuộn mình bày đầy các thức ăn, bốn chiếc ghế gấm đặt ở bốn cạnh bàn. Tiểu thái giám nhanh nhẹn dùng đũa bạc thử qua từng món ăn, lại nếm thử từng món một, sau đó quay sang vái Chính Đức một lạy rồi lặng lẽ lui ra, chỉ để lại bốn tiểu thái giám đứng hầu.

Giải Ngữ và Tu Hoa bước vào trong điện, tha thướt như một đám mây, mùi thơm của son phấn tức thời ùa vào trong cánh mũi. Chính Đức bảo hai người con gái xinh đẹp yêu kiều đó dùng tách ngọc, còn hắn và Dương Lăng thì ngồi đối diện với nhau, cả hai đều dùng chén rượu ba chân(3).

Mới uống một chén mà Dương Lăng đã thấy hơi ngà ngà. Trong lòng lo nghĩ đến chuyện năm sau hoàng thượng sẽ xuất kinh nên mặc cho Chính Đức năm lần bảy lượt thúc giục y cũng không dám uống thêm, chỉ gắp vài món ăn nhẹ cho vào miệng.

Chính Đức thì lại cao hứng vô cùng, ăn đến non nửa mới cười nói với Dương Lăng:

- Dương thị độc, hai vị cô nương này đều biết hát dân ca đấy. Giải Ngữ, Tu Hoa, hai nàng hãy hát một khúc trợ hứng cho trẫm đi.

Giải Ngữ nhoẻn miệng cười, sóng mắt đong đưa liếc Dương Lăng, thuận tay nhón lấy chiếc đũa ngà gõ nhè nhẹ lên cốc vàng bát ngọc. Trong tiếng nhạc trong vắt vui tai, cô nàng cất tiếng ngân nga một điệu hát dân gian. Tiếng ca dịu dàng mà da diết, Chính Đức nhịp đùi đắc ý, nghe rất say sưa.

Cố gắng đợi đến khi tiệc tàn rượu cạn, nhân lúc Chính Đức đang rửa tay trong thau vàng, Dương Lăng mới thấp giọng thưa với hắn:

- Hoàng thượng! Nếu ngài muốn xuất cung thì đó là việc quan trọng vô cùng. Khi nãy thần đã suy tính kỹ lưỡng rồi, muốn bá quan gật đầu đồng ý thì thật là điều không thể, xem ra chỉ có thể theo ý của Hoàng thượng là lặng lẽ rời kinh mà thôi.

Nhưng mà, cho dù có thể giấu được bá quan văn võ thì dù sao trong kinh cũng phải có người chủ trì, cho nên không thể giấu giếm ba đại học sĩ. Tiêu đại học sĩ lão luyện thành thục lại rất quan tâm đến thánh ý, thần muốn mật nghị với ông ta trước đã.

Chính Đức cười hì hà bảo:

- Được, khanh đi đi! Việc này là ý tưởng của trẫm, Dương khanh chỉ là bị ép buộc phải tuân lệnh vua, theo vua làm việc mà thôi, không ai dám làm gì khanh đâu.

Đại Minh tuy nhiều tệ chính, nhưng đương thời vẫn là quốc gia có quốc lực lớn mạnh nhất, lúc có chiến tranh, lương thảo và quân bị đều hơn xa những nước bé chung quanh, thế nhưng chiến sự lại thường luôn ở thế hạ phong, nguyên do lớn nhất là vì "trọng văn khinh võ".

Bản thân không thể trải nghiệm qua sát phạt, thì sao rèn thành một Chính Đức văn hay, trị giỏi, võ công cao? Sau khi nghe xong lời tâm sự chân thành của Chính Đức, Dương Lăng đã quyết định mặc kệ được mất cá nhân, cho dù núi đao biển lửa y cũng sẽ cùng hắn đi một chuyến. Y nghe Chính Đức ôm hết trách nhiệm về mình, không muốn y bị bá quan thừa cơ chỉ trích thì cảm kích mỉm cười rồi cung tay thưa:

- Tạ ơn Hoàng thượng quan tâm che chở, thần xin cáo lui.

Chính Đức lấy chiếc khăn lụa trắng mịn như tuyết lau tay xong, hai người con gái xinh đẹp liền vây lại, mỗi người ôm lấy một cánh tay y. Giải Ngữ cười duyên dáng hỏi:

- Hôm nay sao Hoàng thượng vui vẻ quá vậy? Đầu mày cuối mặt ngài đều rất tươi tỉnh.

Từ khi lớn đến giờ Chính Đức mới có cơ hội được ra khỏi “nhà” lần đầu, hơn nữa lại được đi đến chốn sa trường xa xôi, cho nên hắn thực sự không kiềm nén được sự hưng phấn trong lòng. Vả lại Giải Ngữ và Tu Hoa đều là những mỹ nữ vô cùng đáng yêu; hơn nữa Giải Ngữ vui vẻ rạng ngời, nghênh đón người ta bằng sự ngọt ngào mềm mại, rất hợp với tính khí của hắn.

Không kiềm được sự hào hứng trong lòng, hắn vuốt nhẹ khuôn mặt mịn màng của Giải Ngữ, hăm hở:

- Trẫm nói cho nàng hay, nhưng nàng nhất định không được để cho người khác biết đó.

Đoạn y hạ thấp giọng, nói nhỏ:

- Đợi sang năm, trẫm sẽ trốn khỏi kinh đi tuần rồi, ha ha ha! Biển rộng sóng dâng cá vẫy vùng, trời cao gió lộng chim tung cánh.

Giải Ngữ và Tu Hoa chợt ngẩn người, bốn mắt của hai cô vừa chạm vào nhau, trong mắt Tu Hoa liền không nén được sự vui mừng. Cô nàng cũng khoác lên một bộ dáng tươi cười ngọt lịm, kéo tay Chính Đức cạ vào bộ ngực đầy đặn cao vút của mình, thỏ thẻ:

- Hoàng thượng! Ngài nói rõ hơn được không, nô gia có thể đi cùng ngài không?

Chính Đức vội lắc đầu, đáp:

- Không được không được! Nếu dẫn phụ nữ theo thì nhất định Dương thị độc sẽ không cho, trẫm thực không muốn tự làm mất mặt mình.

Tu Hoa giậm chân làm nũng:

- Trời ơi! Vậy ngài nói cho nô gia biết sẽ đi đâu đi! Hoàng hậu nương nương không ưa gì chị em nô gia, nếu như ngài không ở trong kinh nữa..., - vừa nói cô nàng vừa làm ra vẻ chực khóc.

Chính Đức thấy vậy thì trở nên mềm lòng, liền vội kéo lấy tay cô nàng cười nói:

- Yên tâm đi, trẫm sẽ thu xếp cho các nàng đến Báo phòng, bảo Lưu Cẩn hết sức chăm sóc cho hai nàng là được rồi. Muốn biết trẫm sẽ đi đâu hả? Hắc hắc, thơm trẫm một cái đi rồi sẽ nói!

***

Giờ đây, trong ba đại học sĩ thì Tiêu Phương xếp thứ hai. Được quyền cao chức trọng, thân phận tôn quý, lại không phải chịu sự ghẻ lạnh như lúc còn ở bộ Lễ và bộ Lại năm xưa, sau lưng có Dương Lăng chống đỡ, tiền đồ như thuyền xuôi gió, thế nên mặt mày của lão luôn luôn tươi rói.

Lão đang ngồi trong điện phê duyệt tấu chương, thu xếp các bộ tính toán quân lương, chuẩn bị phu dịch, vận chuyển lương thảo, khí giới, vỗ về giúp đỡ những binh sĩ thương vong, điều động thầy lang, thu gom dược liệu, … Cả đống công việc nên lão bận đến túi bụi. Chợt nghe báo Dương Lăng đến thăm, ông già Tiêu Phương liền vội bước xuống giường lò, tươi cười ra đón.

Dương Lăng là thống lĩnh thân quân của Hoàng đế, là võ tướng Chánh tam phẩm. Nội xưởng là nha môn Hoàng đế tự lập ra, không hạn chế bởi phẩm hàm trong triều, không có cấp bậc, nhưng Dương Lăng thân mang tước vị (Bá tước – ND), mặc áo bào thêu hình mãng xà bốn vuốt do vua ban thưởng, quyền lực thực tế lại không ai sánh được.

Tiêu Phương tự coi mình là người cùng phe cánh với Dương Lăng, mỗi khi gặp y vẫn đều tôn kính gọi là đại nhân, tự nhún nhường xưng là môn hạ. Lúc này tuy đang ở trong cung nhưng lão vẫn rất cung kính giữ lễ. Nghênh đón Dương Lăng vào trong thư các xong, lão đích thân dâng chén trà ngon rồi mỉm cười mở lời:

- Đại nhân vào cung lúc nào vậy? Mấy ngày nay môn hạ cần phải xử lý tấu chương rất nhiều, mãi chưa đến quý phủ thăm viếng được. Môn hạ đang tính năm mới sẽ dẫn khuyển tử đến nhà thăm viếng ngài đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Lão Tiêu chớ nên khách sáo. Trong triều còn có những quan viên mượn việc công trả thù riêng, các nha môn bất tuân chính lệnh, tiền phương đang có chiến tranh; những việc mà hậu phương phải làm cũng quan trọng không thua kém gì. Thực đã làm khó cho ông rồi.

Gương mặt già nua của Tiêu Phương thoáng đỏ lên, lão xúc động:

- Đa tạ đại nhân đã quan tâm, môn hạ cảm kích vô cùng. Lưu công công biết được những chuyện này đã nổi cơn thịnh nộ, mấy ngày nay đang ra lệnh cho bá quan lập tức trở về nha môn xử lý chính vụ, bận rộn thêm dăm bữa nữa thì sẽ thoải mái hơn.

Dương Lăng gật đầu, ngồi xuống bên mép giường. Nhìn thấy tên tiểu thái giám đang đứng chầu chực ngoài cửa, y bèn bảo:

- Lui xuống đi! Ở đây không cần ngươi hầu hạ nữa.

Đợi tấm rèm dạ nhung buông xuống sau lưng tên tiểu thái giám, Tiêu Phương mới sáp lại gần, nhỏ giọng hỏi:

- Đại nhân! Có phải là có chuyện quan trọng không?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Ừm! Quả là có chuyện muốn thương nghị cùng ông một chút, - đoạn y đem chuyện Chính Đức muốn đến Đại Đồng kể cho Tiêu Phương nghe.

Tiêu Phương vừa nghe liền nhảy dựng lên, vội vã xua hai tay phản đối:

- Vạn lần không thể được! Đúng ra đại nhân nên khuyên can Hoàng thượng, chỗ binh đao há lại có thể để cho Hoàng thượng dễ dàng mạo hiểm? Việc này không thể được, vạn lần không thể được.

Dương Lăng im lặng nhìn lão, đợi lão bình tĩnh trở lại rồi y mới nhẹ nhàng bảo:

- Thánh ý đã quyết! Tôi tới tìm lão Tiêu ông là muốn thương nghị cùng ông làm sao để thu xếp cho Hoàng thượng đi được đến Đại Đồng, việc trong kinh phải xử lý thế nào. Chuyện khuyên can sẽ không bàn tới nữa.

Lúc này Tiêu Phương mới định thần lại. Lão ngồi xuống cạnh bàn, vuốt râu, đôi mày bạc phơ cau tít, một lúc lâu sau mới khổ sở lắc đầu:

- Văn võ bá quan quyết sẽ không đồng ý.

Dương Lăng gật đầu đồng tình:

- Ừm! Việc này tôi cũng đã nghĩ đến, cho nên... Hoàng thượng chỉ có thể cải trang vi hành.

Y trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:

- Vốn để bí mật gặp gỡ thủ lĩnh Đoá Nhan Tam Vệ, Hoàng thượng vẫn phải bí mật mà đi; cho dù không có bá quan ngăn cản thì hành trang cũng vẫn phải gọn nhẹ.

Nhưng…, tuy nói là cải trang vi hành nhưng số người bảo vệ cũng không thể ít được, cho nên tôi muốn rút lực lượng tinh nhuệ nhất từ Cấm quân, Kinh doanh, Nội xưởng và Đông xưởng để đi cùng Hoàng thượng. Ít nhất cũng phải... năm nghìn người, toàn bộ nhân mã sẽ cải trang thành quân binh tăng viện cho biên ải. Như vậy, năm nghìn nhân mã cũng không đáng kể, ít nhất cũng sẽ không khiến cho quan phủ địa phương và mật thám của phe giặc chú ý.

Dương Lăng thuật lại tình hình tỉ mỉ cho Tiêu Phương rõ. Nghe xong, Tiêu Phương suy nghĩ một hồi rồi hỏi:

- Đại nhân có đi cùng không?

Dương Lăng cười khổ sở đáp:

- Nếu tôi không ở cạnh trông coi Hoàng thượng thì sao yên tâm cho được? Chỉ sợ lúc đó muốn ăn ăn không nổi, muốn ngủ ngủ không yên, đương nhiên tôi phải chăm sóc bên cạnh Hoàng thượng rồi. Tôi sẽ mượn cớ thị sát để có thể đồng hành cùng Hoàng thượng đến biên ải.

Sắc mặt của Tiêu Phương lập tức hoà hoãn trở lại, lão hơi trầm ngâm:

- Vậy thì... kế này có thể thực hiện được. Nhưng để cẩn thận, đến Đại Đồng rồi, đại nhân nên bí mật thông báo cho tuần phủ Đại Đồng là Hồ Toán biết. Hắn là quan viên quân chính (kiêm quân sự lẫn chính trị - ND) cao nhất của Đại Đồng. Hiện tại tuy Dương Nhất Thanh thống lĩnh binh sĩ tiền tuyến, Miêu Quỳ đốc quân song trong tay hắn có thể điều động ít nhất hai vạn nhân mã. Có hắn âm thầm phối hợp mới bảo đảm không gặp phải sơ hở gì.

Sau thoáng trầm ngâm, Dương Lăng gật đầu đồng ý:

- Tốt lắm! Ngoài ra, chuyện này sẽ không thể giấu được mấy vị đại học sĩ Nội các. Đến khi đó Hoàng thượng sẽ mượn cớ long thể suy bệnh để lần lữa mấy ngày, áng chừng đợi bọn tôi đến Tuyên Phủ rồi, mới sẽ nhờ lão Tiêu ông thông báo cho hai vị đại học sĩ Lý, Dương.

Khi đó ván đã đóng thuyền, bọn họ cũng chỉ đành phải giúp giấu giếm cho. Có ba vị tọa trấn kinh sư thì tôi yên tâm rồi, còn về những quan viên khác... Ba đại học sĩ Nội các cứ hiểu dụ(4) Lục Bộ Cửu Khanh, tuyên bố với toàn bộ quan viên bên dưới rằng Hoàng thượng long thể bất an, tạm thời không thể thăng triều là được.

Tưởng tượng đến lúc Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà phát hiện Hoàng thượng mất tích sẽ nổi trận lôi đình như thế nào, Tiêu Phương không khỏi cảm thấy nhức đầu. Lão đành thở dài:

- Thôi được, phải xin Hoàng thượng hạ mật chỉ vậy! Bằng không môn hạ sẽ không kiềm nổi hai vị đại học sĩ đâu.

Lão suy nghĩ một chút rồi lại hỏi:

- Ngoài ra, việc lập trữ vương trấn thủ(*) sẽ được thu xếp thế nào?

(*) nguyên văn là “kiến trữ cư thủ”, trữ vương: người được chỉ định kế nhiệm ngôi vua.

Dương Lăng trố mắt hỏi:

- Lập trữ vương săn thú(*)? Lập trữ vương săn thú gì?

(*) nguyên văn 'kiến trữ thu thú', do hai chữ 'cư thủ' (jū shǒu, nghĩa canh giữ) và 'thu thú' (qiū shòu, nghĩa đi săn) đọc na ná nhau, nên Dương Lăng mới hiểu lầm

Dương Lăng đã lộ dốt. Y chỉ từng nghe nói hoàng đế triều Thanh hằng năm vào mùa thu thường đến Mộc Lan săn bắn, nên việc rời cung săn bắn gọi là “thu thú”. Chẳng lẽ rời kinh còn được gọi là săn thú, sao thời Minh cũng có cái thú đi săn này này?

Tiêu Phương cũng ngẩn người. Lão chợt sực nhớ vị đại nhân này chỉ đậu tú tài, vào kinh một bước lên trời mới trở thành bầy tôi quyền cao chức trọng, cho nên y không hiểu lắm về chế độ triều đình cũng là lẽ thường. Lão bèn thư thái cười đáp:

- Lập trữ vương trấn thủ là pháp lệnh mà các đời triều đình bắt buộc phải tuân theo. Đã gần trăm năm Hoàng thượng Đại Minh chưa từng rời kinh, bình thường không ai nhắc đến thể chế cũ này, chẳng trách đại nhân không nhớ.

Tiêu Phương hớp một ngụm trà, giải thích tiếp:

- Hoàng đế thân chinh ra trận hoặc giả tuần du thiên hạ, đều phải ra lệnh cho thái tử ở lại canh giữ kinh thành, gọi là “giám quốc”. Nếu như Hoàng thượng chưa có con nối dõi, hoặc thái tử tuổi còn nhỏ không thể trông nom quốc sự, thì phái hoàng đệ làm giám quốc cho, cũng có thể châm chế được.

Năm xưa khi Anh Tông bắc chinh, ngài đã phái hoàng đệ là Thành Vương ở lại trông giữ. Đương kim Hoàng thượng chưa có con nối dõi, cũng không có anh em ruột thịt, vậy chỉ có thể tạm thời tìm một vị thế tử(5) lập làm người kế vị, có người kế vị rồi mới bàn đến trấn thủ vậy.

Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Hoàng thượng tuổi xuân đang thịnh, hiện mới chỉ mười sáu, có cần phải lập trữ vương này nọ to chuyện như vậy không?

Tiêu Phương vội vàng giải thích:

- Đại nhân! Đây chỉ là một quy định phải có, lo trước khỏi họa sau mà thôi. Nếu như Hoàng thượng đã bí mật rời kinh thì đương nhiên việc phong lập này cũng chỉ là soạn mật chỉ. Đến lúc đó cũng chỉ có Lục Bộ Cửu Khanh và ba đại học sĩ biết được chuyện này, cho dù là thế tử phiên vương được lập cũng không hề biết đến việc ấy. Hoàng thượng hồi kinh lại hủy đi ý chỉ đó là xong.

Dương Lăng nghe xong mới cảm thấy yên tâm, nhưng việc lập người kế vị chính là chuyện của Hoàng thượng, xem ra chuyện này vẫn phải do Chính Đức quyết định. Dương Lăng đang do dự không biết có nên quay lại cung Càn Thanh gặp Chính Đức hay không thì chợt nghe có tiếng tiểu thái giám bên ngoài kêu:

- Đại học sĩ đang thương nghị quốc sự với Dương Lăng Dương đại nhân. Ngài cứ để công văn ở đó, chốc nữa sẽ quay lại lấy.

Dương Lăng cất giọng hỏi:

- Chuyện gì vậy? Ai đưa công văn đến?

Tên tiểu thái giám đứng gác bên ngoài cung kính đáp:

- Hồi bẩm đại nhân! Là lang trung Nghiêm Tung của bộ Hộ, nói có tấu chương về việc chuẩn bị lương thảo và điều động phu dịch cần trình cho đại học sĩ.

Nghiêm Tung không phải là người ngoài. Phẩm quan của hắn thấp kém cho nên hắn rất biết điều, hiếm khi đến nhà Dương Lăng mà chỉ thông qua phu nhân làm công tác ngoại giao, thủy chung vẫn bảo trì quan hệ mật thiết với nhà họ Dương.

Dương Lăng sai phái ba tỉnh Giang Nam, Hồ Nam, và Thiểm Tây, mỗi nơi cắt cử một vùng, một huyện, một tỉnh trồng thử những giống cây lương thực mới. Tuy lúc này giống lương thực và những người nông dân được đào tạo vẫn chưa được phái đi, nhưng y đã sớm ra lệnh cho ba tỉnh đo đạc và tính toán ruộng đất, nắm rõ tình hình đất đai trồng trọt nơi đó, chuẩn bị nông cụ và thuyết phục tá điền. Tất cả những việc này đều thông qua bộ Hộ ban bố thành mệnh lệnh hành chính.

Đối với việc chưa trồng thử nghiệm mà đã cho trồng trọt thí nghiệm khắp cả một tỉnh, Hàn Văn vẫn giữ vững ý kiến phản đối. Mặc dù Tuần phủ Thiểm Tây là người cùng phe cánh được Lưu Cẩn bổ nhiệm, tận hết sức lực chấp hành mệnh lệnh này, song phản ứng của Hàn Văn đối với tin tức truyền đạt từ trên xuống lại hết sức tiêu cực. Nếu không nhờ có Nghiêm Tung, là một Lang trung nho nhỏ của bộ Hộ, đứng giữa điều đình và liên lạc giữa hai bên thì không biết Dương Lăng sẽ còn lao tâm khổ trí biết bao nhiêu mà kể, tuyệt sẽ không an nhàn như hiện tại.

Dần dà hình tượng vốn có về Nghiêm Tung là một đại gian thần trong lòng Dương Lăng đã tiêu tan. Người này tuy đam mê quyền lực nhưng lại không háo sắc, không tham tiền tài, đơn giản chỉ là một kẻ cuồng sự nghiệp. Dương Lăng có cảm nhận rất tốt về hắn, đã coi hắn như tâm phúc đắc lực của mình, cho nên nghe vậy liền bảo:

- Gọi hắn vào đi!

Nghiêm Tung ôm một chồng tấu chương bước vào, đưa mắt nhìn Dương Lăng song vẫn dựa theo quy củ phẩm hàm mà thi lễ với Tiêu Phương trước, sau đó mới quay sang thi lễ với Dương Lăng. Hắn nhũn nhặn cười nói:

- Hạ quan không biết đại nhân đang cùng đại học sĩ thương nghị quốc sự, đến thực mạo muội rồi. Những tấu chương này chỉ báo cáo tình hình lương thảo và quân dịch, quan phủ các địa phương cũng không dám qua loa với việc lớn như dụng binh, họ không dám trì hoãn giấu giếm gì cho nên cũng không có gì hệ trọng.

Dương Lăng cười nói:

- Việc này các vị biết phải làm thế nào rồi. Nếu có gì thật sự khó xử thì cứ đi tìm Lưu công công, ông ấy đang rất háo hức được vẫy vùng, đang lo lắng không có chỗ để ra tay đấy. Bản quan sẽ không xen vào đâu.

Tiêu Phương và Nghiêm Tung nghe xong đều bật cười. Dương Lăng mỉm cười nói tiếp:

- Đừng khách sáo nữa, ngươi cũng ngồi xuống đi, bản quan đang có một việc lớn thương nghị cùng lão Tiêu. Ngươi cũng không phải là người ngoài, cùng nghe luôn đi.

Nghiêm Tung dạ một tiếng, ngồi khép nép xuống chiếc ghế dựa mũ quan cạnh giường, mỉm cười nói:

- Lúc hạ quan còn ở Hàn Lâm viện thì cả ngày chỉ chơi đùa với bút, viết lách ít văn chương thơ cú. Từ khi chuyển sang bộ Hộ suốt ngày tiếp xúc với lương thảo gạo tiền, mới cảm thấy tài học nông cạn, sức không bằng người. Thật như đại nhân có chuyện quan trọng, hạ quan đành xin ngóng cả hai tai, trái nghe phải đoán vậy.

Dương Lăng bực mình cười đáp:

- Chuyện này vô cùng quan trọng. Bản quan vốn biết ngươi tính tình nghiêm cẩn, hành sự ổn thỏa nên mới muốn ngươi cùng tham nghị, nếu chỉ nghe thôi thì không được.

Dương Lăng phải đi cùng Chính Đức đến Đại Đồng mà việc trồng thử lương thực mới lại không thể gác lại, rất nhiều việc lớn đều cần phải bàn giao cho gã tâm phúc này. Vốn y cũng không muốn giấu giếm hắn nên bèn thuật lại sự tình một lần nữa.

Nghiêm Tung lắng nghe, khoé miệng mang nụ cười nhẹ. Nghe nói Hoàng đế muốn cải trang rời kinh đi tuần, sắc mặt hắn cũng không hề có vẻ gì là kinh sợ, nghe đến việc an bài của Dương Lăng và Tiêu Phương, hắn cũng liên tục gật đầu, mãi đến khi nghe việc lập trữ vương trấn thủ, đôi mày rậm của hắn mới thoáng nhíu lại. Hắn trầm ngâm một lúc lâu mới lo sợ nói:

- Hạ quan cho rằng... việc này không ổn.

Dương Lăng và Tiêu Phương kinh ngạc nhìn nhau, Tiêu Phương vuốt râu bảo:

- Ừm! Duy Trung có kiến giải gì thì đừng ngại, cứ nói ra nghe thử.

Nghiêm Tung chần chừ một chút rồi đáp:

- Hạ quan cho rằng việc Hoàng thượng đi tuần phương bắc, hai vị đại nhân sớm đã tính toán sẵn trong lòng, hẳn cho rằng sẽ không có gì hung hiểm, vậy cớ gì phải rập theo cái lệ cũ là lập trữ quân trấn thủ?

Năm xưa Lưu Bang nhà Hán từng bị bốn mươi vạn thiết kỵ Hung Nô vây hãm trên Bạch Đăng sơn, nhưng thời thế xưa nay đã khác. Mảnh đất trải dài phía bắc và tây Đại Đồng đều đã nằm trong tay Đại Minh ta. Giặc Thát tuy đang tập kích quấy nhiễu, Đoá Nhan Tam Vệ tuy chưa hẳn đã trung thành, nhưng về binh mã thì Đại Minh ta lại chiếm ưu thế.

Hoàng thượng có thể đến Đại Đồng trước, sau đó mới báo tin cho Đoá Nhan Tam Vệ. Trong thời gian đó sẽ thu xếp điều binh khiển tướng, an bài ổn thỏa, chiếm hết thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì cho dù là Thát Đát hay Đoá Nhan Tam Vệ cũng sẽ không thể thừa cơ tấn kích. Nhưng nếu lập trữ vương trấn thủ thì ngược lại sẽ mang đến nhiều mối nguy hiểm và hậu họa vô cùng.

Dương Lăng lo lắng hỏi:

- Nghĩa là thế nào? Ngươi hãy nói rõ hơn đi!

Nghiêm Tung cưa quậy thân thể gầy như cây sậy, liếm môi đáp:

- Đại nhân! Họa không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong. Đại nhân thử nghĩ xem: Hoàng thượng ở bên ngoài, nếu như gặp chuyện khốn khó như bị vây hãm, những người đi theo bảo vệ đương nhiên sẽ tận lực hộ giá, còn trong triều như rắn mất đầu, bá quan văn võ tất sẽ trên dưới một lòng, hy vọng quân vương sớm ngày trở lại.

Việc Hoàng thượng không ở trong cung chưa hẳn sẽ thật sự che giấu được bá quan văn võ, cùng lắm là bọn họ e ngại lòng người hoang mang nên vờ như không biết. Nhưng giả như Hoàng thượng đã lập người kế vị..., khó dám đảm bảo sẽ không có kẻ mang dị tâm.

Hoàng thượng lâm triều chưa trọn một năm, căn cơ chưa ổn, Lục Bộ Cửu Khanh há sẽ đều trung thành? Giả như có người mang ý niệm ủng hộ vua mới, kiến công lập nghiệp thì cho dù Hoàng thượng vốn không có gì nguy hiểm, sợ rằng cũng sẽ có kẻ tiết lộ tin tức cho giặc Thát. Còn nếu như Hoàng thượng đang bị vây hãm, vậy sẽ càng...

Dương Lăng vừa nghe liền bừng tỉnh. Người kế nghiệp chưa được quyết định, bá quan văn võ tất sẽ tận tâm cống hiến và ra sức tranh giành sự yêu mến của Hoàng đế. Còn nếu người kế nghiệp đã được xác định, Hoàng đế lại ở nơi nguy hiểm mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ khác thay thế, vậy thực sẽ rất nguy. Bá quan văn võ tất sẽ có mưu tính riêng cho mình, ngáng chân cấu xé lẫn nhau, vậy sẽ lỡ hết đại sự.

Thêm nữa, sau khi Chính Đức kế vị, triều chính đổi thay, đầu tiên là một nửa số thượng thư Lục Bộ bị cho bãi chức, tiếp đó ba đại học sĩ lại mất đi hai, bá quan văn võ bị liên lụy nhiều vô số kể. Một số lão thần sớm đã sinh lòng oán hận với Hoàng thượng, cho dù là họ có ý định lập một vị vua mới có ích cho giang sơn hay là có tư tâm, muốn ủng hộ lập nên một vì vua mới, kiếm công phò tá quân vương cũng vậy, e rằng bọn họ sẽ chỉ khoanh tay đứng nhìn, thậm chí có thể còn ném đá xuống giếng nữa.

Như vậy, việc lập trữ vương trấn thủ sẽ trở thành chuyện không đề phòng chưa hẳn đã có họa, mà có đề phòng thì nhất định sẽ có họa lớn. Tiêu Phương lăn lộn lâu năm chốn quan trường, vừa nghe liền thông suốt điểm kỳ diệu trong đó ngay.

Dương Lăng bỗng vỗ đùi đánh đét nói:

- Phải à! Nếu đã như vậy, kiến nghị lập trữ vương trái lại sẽ khiến Hoàng thượng sa vào hiểm địa. Ngươi suy nghĩ rất phải, việc lập trữ vương trấn thủ tuyệt không thể làm, là ta suy xét chưa chu toàn rồi.

Nghiêm Tung khom người khẽ cười đáp:

- Không dám! Hoàng thượng bản tính thượng võ, đại nhân có phần lo lắng cũng là để Hoàng thượng không phải lo âu về việc cung đình, mới có thể như cá gặp nước mà thản nhiên đi tuần du bên ngoài.

Tiêu Phương vuốt râu đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, khẽ thở dài:

- Đến cửu biên tái ngoại, mạo muội dấn thân nơi đầu giáo mũi kiếm, nguy hiểm khôn lường, quả nên suy xét mọi mặt như ngươi. Ừm! Đúng là hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!

Tiêu Phương thuộc làu các điển chương và quy định, Nghiêm Tung lại thông thạo thế sự nhân tình. Có hai người một già một trẻ rất có tiềm năng trở thành “gian thần lộng quyền” này xem xét cặn kẽ, Dương Lăng đứng giữa cân nhắc chọn lựa, việc Chính Đức cải trang rời khỏi kinh sư được an bài hết sức cẩn thận. Chuyện trò đến lúc trời gần nhá nhem, ba người mới vui vẻ chia tay.

Lòng như tấu nhạc, Dương Lăng vui sướng rời khỏi cổng cung, chui vào trong chiếc kiệu quan, đám người hầu nâng chiếc kiệu lớn lên. Ngũ Hán Siêu đang ngồi tĩnh tọa, thấy y trở về bèn thu thế lại nhường chỗ cho y chui vào. Dương Lăng vào trong kiệu, vừa ngồi xuống liền áy náy:

- Đã làm phiền Hán Siêu rồi! Với tài học của mình, huynh vốn có nhiều chỗ để dùng, giờ lại bảo huynh bảo vệ che chở cho ta, ha ha! Đợi mấy ngày nữa đi, chờ yên ổn rồi, ta sẽ bổ nhiệm cho huynh một chức quan.

Ngũ Hán Siêu cười đáp:

- Đại nhân không cần phải khách sáo, kẻ hèn thương thế chưa khỏi, nghỉ ngơi thêm mấy ngày cũng tốt. Khi còn ở trên núi, thông thường mỗi lần tĩnh tọa là suốt một ngày, cho nên quả thực cũng không cảm thấy buồn tẻ.

Trong lúc hai người chuyện trò, chiếc kiệu đã được nhấc lên, lắc lư di chuyển trên đường.

Chiếc kiệu rời khỏi sân rồng lát đá xanh, rẽ vào một phố lớn phồn hoa. Ngũ Hán Siêu đang quay đầu giảng giải tâm pháp nội công cho Dương Lăng thì bất chợt ngừng lại, thân dưới thoáng nhích, cả thân trên đột nhiên dịch sang ngang nửa thước, một thanh kiếm bén ngót lạnh lẽo từ ngoài rèm kiệu đâm vào. Một kiếm đâm hụt, kẻ ra tay cũng phát hiện được, “xoạt” một tiếng trường kiếm bèn được rút về.

Lúc này ngoài kiệu hỗn loạn, một loạt những âm thanh huyên náo vọng vào. Ngũ Hán Siêu mắng khẽ:

- Quả nhiên có thích khách!

Dứt lời chàng quơ lấy thanh trường kiếm bên cạnh, búng người phóng ra ngoài.

Nhát kiếm vừa nãy khiến cho Dương Lăng trông thấy mà khiếp vía vô cùng. Ngoài kiệu tiếng binh khí chạm nhau vang lên dồn dập xen lẫn với những tiếng la hét ầm ĩ của bá tánh trên đường, sau đó có tiếng con gái chửi mắng vọng lại xa dần, lại nghe Ngũ Hán Siêu quát tháo: "Bảo vệ đại nhân", rồi không còn tiếng động gì nữa.

Dương Lăng thoáng định thần lại, vén hờ rèm kiệu, thấy bốn tay thị vệ đang căng thẳng bao vây chung quanh. Gần cuối năm nên nhiều người dân ra đường mua đồ sắm tết đông đúc, nơi này lại là con đường cực kỳ phồn hoa, đám đông nhốn nháo hoảng loạn quanh đấy vẫn còn trốn chạy, trên đường vứt bừa bãi nào là đầu heo, nào là bàn thờ, vàng mã, ... ngổn ngang hỗn loạn.

Dương Lăng vén rèm bước ra ngoài quát hỏi:

- Ngũ huynh đâu?

Một tay thị vệ cầm đao, vừa căng thẳng nhìn bá tánh đang chạy tán loạn khắp nơi vừa đáp:

- Dạ đã đuổi theo nữ thích khách che mặt nọ rồi.

Dương Lăng thở phào một hơi, ra lệnh:

- Cử một người đi bảo người của Ngũ thành binh mã ty mau đến trấn áp khu vực, tình hình càng hỗn loạn thì....

Y còn chưa dứt lời, mắt đã thấy một bóng hình yêu kiều mà mau lẹ chợt xuất hiện, tay thị vệ bị kẻ đó đá văng vào trong đám người, mồm hộc máu tươi.

Kẻ vừa xuất hiện hết sức nhanh nhẹn, kiếm loé như chớp, một tay thị vệ khác vừa cảnh giác vặn người bổ một đao đã bị một kiếm đâm xuyên vai. Kiếm lui chân tới, tên thị vệ bị đá quay một vòng văng vào giữa đám đông. Dương Lăng chỉ cảm thấy hông bị siết lại, y đã bị người ta ôm chặt, bên tay vẳng lại giọng nữ khẽ quát:

- Mau đoạn hậu! Gió rát, ai nấy về chùa! (từ lóng: ý nói tình thế không tốt, mọi người rút lui)

Dương Lăng chân không chạm được đất, bị kẻ đó kẹp nhảy vào trong đám đông, rẽ quanh rẽ quẩn rồi tiến vào một con hẻm chưa chong đèn. Con hẻm không sâu, nháy mắt đã ra khỏi đầu hẻm, đã có một cỗ xe ngựa đợi sẵn. Tay kẻ đó thoáng vung lên, ném bay Dương Lăng vào trong xe, rồi co người nhún chân nhảy vọt lên xe, quát:

- Lập tức rời thành!

Dương Lăng bị ném ngã vào trong xe, đầu vàng mắt hoa, vừa mới ngẩng đầu lên liền có một người nữa xông vào, chen ngồi cạnh y. Kế đó y bị kẻ kia túm lấy cổ áo nhấc lên.

Dương Lăng hoảng hốt chống tay gượng dậy. Y cảm thấy tay vịn vào một khối thịt mềm mại nở nang, vừa phát hiện ra là một cặp đùi săn mẩy chắc nịch thì cả người y đã bị ấn về phía sau, đập vào thanh xe "bộp" một tiếng, một lưỡi kiếm sắc lẹm lạnh lẽo đã kề sát trên cổ.

Dương Lăng định thần lại, thấy trong xe treo một cây đèn bão. Dưới ánh đèn, kẻ đó gỡ khăn che mặt xuống, toàn thân mặc đồ đen, da trắng như tuyết, tôn lên một vẻ đẹp không nhiễm bụi trần.

Gương mặt xinh xắn đó thanh nhã mà thoát tục, rực rỡ rạng ngời, một cây trâm ngọc bích màu xanh lá óng ánh cài trên mái tóc đen mượt, dưới hàng mi cong cong là một đôi mắt xinh đẹp lóe lên vẻ lạnh lùng và nghiêm nghị vô cùng.

Dương Lăng thoáng sững người, bật thốt:

- Dương Khóa Hổ Hồng Nương Tử?

Người con gái xinh đẹp vận bộ đồ bó màu đen nọ thoạt tiên ngẩn ra, sau đó nhếch miệng cười, thấp thoáng hàm răng trắng đều như bắp:

- Thì ra ngươi đã biết rõ tông tích của ta. Không sai, ta chính là Thôi Oanh Nhi! Xưởng đốc đại nhân, dù bản lĩnh ngươi to như vậy mà còn không phải đã rơi vào trong tay ta đó ư?

Nàng thoáng lật mũi thanh đoản kiếm, sống kiếm ấn vào cổ Dương Lăng, khuôn mặt xinh đẹp nghiêm lại, giọng lạnh lùng quát:

- Trượng phu của ta đâu? Có phải đã trúng phải độc thủ của ngươi rồi không?

Nụ cười thoáng qua kia như "bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước", nét mặt tươi cười tựa như "mây phá, trăng ra, hoa giỡn bóng", rúng động lòng người. Trong chớp mắt vẻ đẹp rạng ngời như bóng ngựa qua khe cửa, thoáng cái đã không thấy tăm hơi, trên khuôn mặt thanh tú lạnh lùng chỉ còn lại một đôi mắt đang nhìn y chằm chằm đầy thù hận.

Chú thích:

(1) Nguyên văn "Khanh bản giai nhân".

Ngoài nghĩa là người đẹp, giai nhân cũng có nghĩa là người tốt, chỉ bực quân tử.

Hán Vũ đế trong "Thu Phong từ" có câu: "Lan hữu tú hề cúc hữu phương, huề giai nhân hề bất năng vong." (Ý: Lan đẹp có cúc mới có hương thơm, gần người quân tử không thể mất nước).

Cụm từ "khanh bản giai nhân" được dùng với ý trách móc: "Ngươi vốn là người tốt, sao lại..."

Trong Đào Khản truyện, sách Tấn thư, có câu: “Khanh bản giai nhân, hà vi tùy chi dã?" (Ý: Ngươi là người tốt, sao lại theo làm (điều xấu)?).

(nguồn: )

(2) "Khởi Cư" nghĩa là sinh hoạt thường ngày; đây là quyển sổ ghi chép sinh hoạt hằng ngày của vua chúa

(3) nguyên văn "tước bôi" là loại chén rót rượu cao có ba chân thời xưa, hình giống con chim sẻ (chim tước), thường thấy trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa.

(4) người trên bảo cho các người dưới đều biết gọi là hiểu dụ, cũng như hiểu thị.

(5) từ thời Chu, con vua và các chư hầu đều được gọi là thế tử.

Ngược về thời Minh

Chương 179 Rơi vào tay kẻ địch

Nhát kiếm đó từ ngoài tấm rèm đâm vào, thế kiếm hết sức tàn độc, vẻ như thể nhất quyết phải thành công. Trong lòng Ngũ Hán Siêu lửa giận bừng lên, bèn xách kiếm lao ra ngoài kiệu, thấy bốn gã thị vệ đang rút đao xông về phía tên thích khách đột nhiên tập kích kia, còn kiệu phu thì đã sợ hãi trốn qua một bên rồi. Y bèn lập tức rút kiếm lao tới, giao chiến với tên thích khách mặc đồ đen có thân hình nhỏ nhắn, che mặt bằng khăn đen kia.

Y đã nhận định trong lòng đây chính là đại đạo Thôi Oanh Nhi chưa kịp trốn đi. Giang hồ đồn rằng Thôi phu nhân xinh đẹp như hoa, thuần thục nghề cung ngựa, một thân võ nghệ còn lợi hại hơn trượng phu, người trong giang hồ tặng cho biệt hiệu là Dương Khóa Hổ. Ngũ Hán Siêu từng kiến thức võ nghệ của Dương Hổ, tuy còn kém xa mình, song lúc này trên người đang có nhiệm vụ nặng nề, đối mặt với nữ tử bịt mặt này cũng không dám sơ ý.

Hai bên giao đấu được vài hiệp, Ngũ Hán Siêu liền cảm thấy yên tâm, Dương Khóa Hổ chỉ có hư danh, võ nghệ thật ra cũng chỉ xấp xỉ với Dương Hổ. Đấu được một lát nữ tử kia cũng nhìn ra mình không phải là đối thủ của Ngũ Hán Siêu, đột nhiên quát lớn một tiếng, vung tay ném ra một thanh tiểu đao, đoạn thừa cơ trốn vào trong đám người.

Ngũ Hán Siêu vừa mới theo vào dưới trướng Dương Lăng, nếu có thể bắt được ả đại đạo này ắt là một công lớn, có thể nở mày nở mặt, y làm sao chịu bỏ qua, bèn lập tức tung người đuổi theo. Trong suy nghĩ của y, Dương Khóa Hổ đã sinh lòng sợ hãi, dựa vào võ công của y muốn bắt sống đối phương cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn.

Nhưng nữ tử bịt mặt kia cực kỳ giảo hoạt, ỷ có thân hình nhỏ nhắn nên không ngừng rẽ trái rẽ phải trong đám người, dựa vào sự che chắn của dòng người khiến Ngũ Hán Siêu không cách nào bắt được. Đuổi theo chừng hai con đường, trong lòng Ngũ Hán Siêu chợt động, cảm thấy sự tình có điều không ổn.

Y vốn cho rằng nữ tử võ nghệ cao cường này chính là Hồng Nương Tử, một mình tới hành thích Dương Lăng, xem ra là đã ở vào đường cùng không còn ai để sai phái, do đó y mới yên tâm đuổi theo. Nếu lỡ như ả còn mai phục thêm người khác, dựa vào những thị vệ chỉ quen việc chiến đấu nơi sa trường, không giỏi về võ nghệ kia liệu có thể bảo vệ chu toàn cho đại nhân không đây?

Ngũ Hán Siêu nghĩ tới đây, không dám tham công đuổi theo tiếp nữa, tập tức quay người chạy về chỗ cũ. Khi về đến nơi chỉ thấy một đội quan binh đang vây quanh nơi đó, trên mặt đất có một thi thể, bốn gã phiên tử đều đã bị thương. Trái tim Ngũ Hán Siêu nhảy lên tận cổ họng, hoang mang chạy đến gần. Chỉ thấy một thị vệ đang dùng tay giữ chặt vai, máu tươi rỉ ra không ngừng song cũng chẳng để tâm tới vết thương của bản thân, hướng về phía đám quan binh tuần thành lớn tiếng gầm lên:

- Còn đứng ngây ra đó làm gì? Tổng đốc Nội xưởng đã bị quân giặc cướp bắt đi rồi, mau đi thông báo cho Ngũ Thành Binh Mã ti lục soát toàn thành, lệnh cho Kinh doanh (Trỏ doanh trại quân đội đóng ở khu vực kinh sư - ND) đóng chặt Cửu môn, mau đi!

Hôm qua Dương phủ bị tập kích, gian tặc đến xâm phạm gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn, tên thủ lĩnh đã trốn đi. Dựa theo lẽ thường thì cường đạo dù hung hãn đến đâu đi nữa, một khi đã bại lộ hành tung trước mặt quan phủ thì ắt sẽ cao chạy xa bay, không dám ở lại chỗ cũ nhưng quan binh tuần thành cũng không dám sơ ý chút nào. Dưới mệnh lệnh của cấp trên, các quan binh mười người lập thành một đội đi lại khắp thành, nơi nào có động tĩnh cũng đừng hòng giấu được.

Nơi này vừa mới xảy ra giao tranh bọn họ đã lập tức nghe tin mà tới, năm tên đại đạo phụ trách đoạn hậu có một tên trúng đao bỏ mạng, những kẻ còn lại thấy tình hình không hay liền lập tức tản đi, lẩn vào trong đám người rồi biến mất chẳng còn tung tích. Bốn gã thị vệ vừa lo lắng vừa tức giận, không kìm được nổi cơn lôi đình với lũ ngu ngốc kia.

Tổng đốc Nội xưởng bị bắt cóc ngay tại kinh sư, Ngũ Thành Binh Mã ti hay tin thì không ngừng kêu khổ, lập tức phái ra toàn bộ lực lượng. Các nha dịch người cầm đao kẻ cầm thương khí thế bừng bừng phong tỏa mọi con đường, năm bước một trạm gác nhỏ, mười bước một trạm gác lớn, toàn thành giới nghiêm.

Hình bộ nhân lúc cửa cung còn chưa đóng vội vã đưa tin vào trong cung. Chính Đức hay tin thì cả giận, lập tức hạ lệnh đóng chặt Cửu môn phong tỏa toàn thành, lại vội vã triệu Lưu Đại Hạ vào cung, lệnh cho ông ta quét sạch đám giặc cướp tụ tập làm loạn ở khu vực Bá Châu. Hình bộ, Kinh doanh, Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm Y vệ cũng nhận được thánh dụ, phái nhân thủ đi khắp nơi, khiến cho khắp kinh sư rơi vào cảnh gà bay chó chạy.

Các vị quan sai lão gia của các ti các bộ đều nhân cơ hội này để làm khó các gia đình giàu có, lấy cớ có người tố cáo mà đến tận cửa lục soát, tiện tay vơ vét những thứ đồ đáng tiền. Các phú thương giàu có sao chịu để cho đám sai dịch như lang như hổ đó vào nhà tìm kiếm, để cầu bình an chỉ còn cách bỏ ra chút tiền cho xong việc, đuổi đám quan sai lão gia ấy đi.

Thế nhưng lượt này đi rồi lượt sau lại tới, còn cái bóng của Dương Lăng thì vẫn chẳng thấy đâu, rốt lại thành ra giúp lũ người đó kiếm được một khoản tiền. Tin tức truyền lên trên núi, Ngô Kiệt hay tin không khỏi cả kinh, nếu Dương Lăng có mệnh hệ gì Nội xưởng coi như sụp đổ. Dù ông ta trước nay cơ cảnh bình tĩnh nhưng cũng bị tin tức này làm cho kinh hãi đến độ lòng dạ rối bời, nhất thời không nghĩ ra được chủ ý nào hay cả.

Duy có Hoàng Kỳ Dận là hết sức tỉnh táo, hỏi kĩ tình hình từ viên phiên tử đến báo tin, rồi kêu y lập tức trở về dặn dò đám người Ngũ Hán Siêu phải ở lại Hình bộ không được trở lại Dương phủ. Vẻ mặt lo âu, ông ta quay sang nói với Ngô Kiệt:

- Ngô đại nhân, xin chớ tự làm loạn trận cước, tên đại đạo đó bắt mà không giết, ắt là còn có mục đích khác, đại nhân tạm thời không có mối nguy về tính mạng đâu.

Ngô Kiệt trấn tĩnh trở lại, nói:

- Đúng rồi, bản quan hay tin mà kinh hãi quá, trong lòng chẳng nghĩ ra được chủ ý nào. Bọn chúng bắt đại nhân đi ắt có mưu đồ, phòng ốc trong kinh sư dày đặc, dân cư trăm vạn có dư, nếu mà ẩn nấp thì thực khó lòng tìm được, Hoàng lão có diệu kế gì không?

Hoàng Kỳ Dận nói:

- Phu nhân đang mang thai, lỡ mà hay tin đại nhân gặp nguy hiểm, với nỗi kinh hãi và lo lắng khó đảm bảo sẽ không có điều sơ sảy nào. Đại nhân cần lập tức phái người đi phong tỏa phủ Uy Vũ bá, không được để tin tức truyền vào trong phủ!

Ngô Kiệt nghe xong cả kinh, Dương Lăng chưa rõ sống chết, nhất thời chẳng biết tìm ở đâu. Y chỉ có một người con này, quả thực là một chuyện lớn không thể sơ xuất. Ông ta bèn quay sang nói với Liễu Bưu vừa hay tin chạy tới:

- Liễu thiên hộ, chuyện này giao cho ngươi đấy, nhất định phải bảo vệ Dương phủ an toàn, không được có điều sơ sảy!

Liễu Bưu thần sắc ngưng trọng, chẳng nói lời nào, vội vã ôm quyền rời đi. Ngô Kiệt suy nghĩ rồi tiếp:

- Nữ tặc đó bắt đại nhân đi, trong lòng thấp thỏm, chưa chắc đã dám ở lại trong kinh, có điều ả đã bắt mà không giết, chắc chắc là có mưu đồ, dù đi cũng không đi xa. Bành đáng đầu, Liên đáng đầu, Phùng đáng đầu, Dương thiên hộ, các vị mỗi người dẫn theo một đội quân, lập tức đến bốn cửa lớn của kinh thành tra hỏi xem có xe ngựa nào khả nghi không. Tìm kiếm thật kỹ, hãy nhớ mọi sự phải cẩn thận, đừng ép gấp quá, khiến cho lũ đạo tặc chó cùng rứt giậu.

Bốn người lập tức vâng lời, rồi cũng vội vã rời đi. Ngô Kiệt đưa mắt nhìn Hoàng Kỳ Dận, thở dài than rằng:

- Nay ta và ông chỉ có thể ngồi đây chờ tin tức, mong rằng đại nhân… người tốt sẽ được trời trợ giúp!

***

Dương Lăng bị lưỡi đao sắc bén kề lên cổ họng, trong lòng nghĩ thầm: “Hồng Nương Tử mạo hiểm như thế bắt mình đi, xem ra là còn chưa biết Dương Hổ đã trốn thoát. Nếu nàng ta biết tin tức chính xác của Dương Hổ, hẳn đã nghĩ cách trốn khỏi kinh thành rồi, sao dám mạo hiểm như vậy để bắt mình chứ? Cũng may mà nàng ta chưa biết trượng phu còn sống hay đã chết, ném chuột sợ vỡ đồ, do đó mới không dám giết mình. Mình vì chuyện này mà gặp họa, cũng vì chuyện này mà được an toàn, xem ra nhất thời không có nguy hiểm về tính mạng rồi.”

Xe ngựa đi nhanh rất xóc. Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng thầm thở dài một hơi, lại đưa mắt nhìn khuôn mặt xinh đẹp trắng ngần của Thôi Oanh Nhi, bèn khẽ thở dài nói:

- Hôm trước cô còn là khách của ta, hôm nay ta lại là tù nhân của cô rồi. Dương phu nhân, bản quan đối với vợ chồng cô hết sức đúng mực, không hề có chút ác ý nào, cớ sao lại tập trung mấy trăm kiêu hùng, muốn giết cả nhà ta?

Thôi Oanh Nhi nghĩ đến mục đích của chồng mình, trong lòng thoáng qua một chút áy náy, nhưng ngay sau đó lại trầm mặt gằn giọng:

- Ngươi là quan, ta là giặc, quan và giặc vốn đã thế bất lưỡng lập rồi. Quan binh bắt giặc, giặc giết quan binh, đều là dựa vào bản lĩnh, còn cần có lý do gì sao?

Nàng nghĩ đến việc trượng phu sống chết chưa rõ, hai trăm thủ hạ đắc lực mà y dẫn theo gần như đã bị thư sinh trước mắt này giết sạch, không khỏi căm hận nghiến răng nghiến lợi, hằn học hỏi:

- Mau nói đi, trượng phu của ta hiện giờ thế nào rồi?

Dương Lăng thấy nàng quả nhiên không biết tin tức của Dương Hổ, trong lòng lại càng yên tâm hơn, bèn ung dung nói:

- Đám đạo tặc đó nửa đêm xông vào Cao Lão Trang, dưới sự bao vây của hơn ngàn quan binh đã bị tiêu diệt hoàn toàn, còn về Dương Hổ…

Hồng Nương Tử nghe vậy thần sắc lộ rõ vẻ lo lắng, vội vã hỏi:

- Chàng thế nào rồi?

Dương Lăng bấm bụng nói:

- Trên đùi gã trúng một tên, đã bị bản quan bắt sống, hiện giờ đang bị nhốt trong đại lao.

Dương Hổ trúng tên bị thương, sau đó bị bắt sao? Điều này nghe cũng có mấy phần đáng tin, với tính cách của Dương Hổ quyết không lý nào lại một mình bỏ chạy, mà nếu gã không bị thương, dựa vào võ công của quan binh muốn bắt được gã thì chẳng phải chuyện dễ dàng gì.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng vẻ bán tín bán nghi, cười lạnh một tiếng nói:

- Được, ta tạm thời tin ngươi, ngươi sống hay chết phải xem xem Dương Hổ giờ đây sống hay chết. Nếu để ta biết tin chàng đã không còn sống trên đời, ta sẽ dùng cái đầu ngươi để tế vong hồn của trượng phu ta!

Thôi Oanh Nhi đột nhiên thu kiếm lại, dùng cán kiếm vén rèm cửa sổ xe lên, đưa mắt nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó bèn thay quần áo ngay trước mặt Dương Lăng, mặc vào một bộ quần áo bình thường, dáng vẻ thản nhiên như thể Dương Lăng là một người chết vậy.

Thứ nàng mặc bên trong tuy không phải quần áo lót, nhưng vì nàng eo thon ngực nở, chân dài mông cong, vóc dáng quyến rũ vô cùng, trong khoang xe lại chật hẹp, thỉnh thoảng có va chạm là lại một phen diễm phúc, nhưng rốt cuộc lại làm cho Dương Lăng thấy thiếu tự nhiên, ngoảnh đầu qua hướng khác.

Hồng Nương Tử nhanh chóng thay xong quần áo, đoạn yêu kiều quát bảo:

- Dừng xe!

Xe ngựa dừng lại, Hồng Nương Tử đưa tay chụp lấy cánh tay Dương Lăng, hệt như một chiếc vòng sắt quấn vào, khiến cho Dương Lăng chẳng thể giãy giụa. Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:

- Xuống xe!

Nàng kéo Dương Lăng xuống xe, ngồi bên ngoài đánh xe là một đại hán râu quan nón mặc áo đay, Hồng Nương Tử nói:

- Hồ lão tứ, ra ngoài thành rồi hãy đánh xe đi một mạch về hướng bắc, sau đêm nay hãy tạm thời tránh đi, đợi khi gió yên sóng lặng thì trở về sơn môn.

Hồ lão tứ đó vốn là một đại đạo độc hành, sau bị Dương Hổ thu phục về rồi kết nghĩa huynh đệ, cái trò một mình đi lại giữa sự bao vây của quan phủ này trải qua đã nhiều, đối với tương lai nguy hiểm trước mắt căn bản chẳng để tâm là mấy, vẫn thản nhiên cất tiếng cười vang:

- Tẩu tẩu yên tâm, huynh đệ đi đây, tẩu tẩu nhớ bảo trọng!

Dứt lời bèn nhìn Dương Lăng cười gằn một tiếng, vung roi quất ngựa rời đi.

Dương Lăng có chút bất ngờ, nghĩ bụng: “Hồng Nương Tử chỉ là một đại đạo lục lâm, trong kinh sư này cũng có chỗ ở bí mật sao? Mình vừa bị bắt, ắt đang được tìm kiếm khắp toàn thành, nếu ở tại khách điếm hay gia đình bình thường nào đó, nàng ta làm sao đảm bảo rằng không bị phát hiện đây?”

Con hẻm này có chút vắng vẻ, đằng xa thỉnh thoảng mới có vài bóng người qua lại, Hồng Nương Tử thúc cán kiếm vào eo lưng Dương Lăng, thấp giọng nói: “Chớ có lên tiếng, đi theo ta! Nếu dám giở trò, ta sẽ cho ngươi đầu rơi xuống đất.” Nói xong bèn đưa tay đẩy Dương Lăng, ép y đi vào trong con hẻm âm u.

Kinh sư phân làm bốn lớp là cung thành, hoàng thành, nội thành và ngoại thành, nơi này đã là ngoại thành, không được xây dựng tường thành, nhưng vẫn thuộc vào phạm vi kinh sư. Nhân khẩu cư trú ở đây khá ít, đi ra khỏi con hẻm là một mảnh đất hoang vu, đi tiếp về phía trước nữa thì là một đạo quán còn chưa được xây dựng xong.

Trong đạo quán Lưu lão đạo đang rì rầm nói chuyện riêng với Thúy Nhi. Lưu lão đại đưa mắt nhìn mấy tên sơn tặc đang ôm vũ khí đi qua đi lại trước mắt, ngồi dựa vào hương án thấp giọng nói:

- Thật là thất sách, ta trù tính để nàng ra tay trước, chính là muốn nàng một kiếm lấy mạng gã họ Dương kia luôn, ai ngờ hắn thật quá giảo hoạt, còn chơi trò giấu thêm người trong kiệu, không biết giờ Hồng Nương Tử đã đắc thủ chưa?

Thúy Nhi cũng thấp giọng nói:

- Dương Hổ rất có uy vọng trong giới lục lâm phương bắc, hô một tiếng ắt có vô số người theo, có thể giúp ích rất nhiều cho đại kế của giáo chủ. Nếu Hồng Nương Tử thật sự có thể dùng hắn đổi về Dương Hổ, tính ra lại càng có lợi cho chúng ta, giết một tên thủ lĩnh Nội xưởng thì có lợi gì cho đại cuộc chứ?

Lưu lão đạo khẽ hừ một tiếng:

- Dương Hổ là sống hay chết vẫn còn chưa biết, nếu còn sống thì liệu có thật sự đã rơi vào tay quan phủ hay không cũng chưa biết. Quan phủ liệu có chịu bất chấp thể diện mà trao đổi con tin với đạo tặc không cũng vẫn chưa biết. Chúng ta đi theo ả mạo hiểm như vậy, còn cống hiến luôn cả hương đàn bí mật vẫn chưa hoàn thành này của bản giáo ra, nếu không có chút thu hoạch nào, biết ăn nói ra sao với giáo chủ đây?

Rồi lão lại thấp giọng:

- Ta đã an bài nhân thủ đi thăm dò tin tức chuẩn xác trong cung và trong nha môn. Nếu Dương Hổ căn bản không ở trong tay quan phủ, vậy thì cứ giết Dương Lăng, sau đó tạm tránh trong địa cung vài ngày, đợi phong ba lắng xuống một chút rồi sẽ rời đi.

Thúy Nhi cười phì một tiếng nói:

- Việc này không cần ông lo, nếu Hồng Nương Tử thả Dương Lăng đi thì biết ăn nói thế nào với các huynh đệ của trượng phu chứ? Hơn nữa mấy kẻ bên cạnh chúng ta hiện giờ đều là bè lũ với hai trăm tên đại đạo kia, hận Dương Lăng đến thấu xương. Bất luận Dương Hổ còn sống hay đã chết, Dương Lăng đều đừng hòng còn sống mà rời đi được.

Hai người đang nói chuyện, ngoài cửa chợt vang lên mấy tiếng động nhỏ, mấy người trong điện vội cầm binh khí lặng lẽ nấp vào hai bên cửa điện, phía xa có một âm thanh khe khẽ vang lên:

- Đừng lo, là đại tẩu trở về rồi.

Đám người trong điện mừng rỡ vô cùng, vội vàng bước ra nghênh đón, Lưu lão đạo và Thúy Nhi đưa mắt nhìn nhau, cũng vội bước ra theo.

Hồng Nương Tử và Dương Lăng bước vào trong điện dưới sự vây quanh của mấy hán tử tay cầm đao kiếm, trong điện không thắp đèn, bởi vì trời lạnh, mái điện lợp được một nửa thì tạm dừng, ánh trăng ánh sao từ trên trời chiếu xuống, khung cảnh cũng có thể nhìn thấy khá rõ ràng.

Hồng Nương Tử hạ giọng nói:

- Các huynh đệ đã an toàn trở về hết chưa?

Một tên đại đạo nói:

- Ba Lục Tử bị giết ở đó rồi, các huynh đệ khác đều không sao.

Nói rồi đá mạnh Dương Lăng một cái, cất tiếng mắng chửi:

- Cẩu quan, nhất định phải bắt ngươi đền mạng cho các huynh đệ!

Hồng Nương Tử lạnh lùng quát một tiếng:

- Dừng tay, Hổ ca của ngươi còn ở trong tay quan phủ, người này còn có tác dụng.

Lưu lão đạo thò đầu nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó co đầu lại nói:

- Tốt rồi, người đã bắt được rồi, mọi người cũng an toàn trở về rồi, mau tránh vào trong mật thất đi, cẩn thận đừng để lộ hành tung!

Lão rón ra rón rén đi đến bên cạnh hương án, mày mò trên nền đá một hồi, đẩy một phiến đá ra, để lộ ra một cửa hang động tối thui. Có người đánh lửa lên, dẫn tất cả mọi người tránh vào trong mật thất dưới lòng đất đó.

Công trình trên mặt đất còn chưa hoàn thành, phía dưới này cũng rất sơ sài đơn giản, chỉ có ba căn phòng đá trống không, mấy bức tường đều lạnh ngắt. Có điều những người này đã quyết ý tạm lánh ở đây, đã chuẩn bị sẵn nước uống đồ ăn và đuốc thắp. Lúc này ngọn đuốc được thắp lên, chiếu sáng mọi thứ.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng bị hai tên đại đạo áp giải vào trong một căn phòng đá, xoay người lại cười nói với Lưu lão đạo:

- Tiên sinh đúng là thần cơ diệu toán! Thảo nào lại cứ phải để Thúy Nhi động thủ trước, hóa ra trong kiệu của Dương Lăng còn có cao thủ mai phục, nếu không nhờ tiên sinh dùng kế, chúng ta cứ thế xông lên để lộ hành tung, ắt khó mà bắt được Dương Lăng.

Lưu lão đạo ngẩn ra một chút, cười khan hai tiếng nói:

- Điều này… Khụ khụ, có tin tức gì của thủ lĩnh không?

Thôi Oanh Nhi vừa biết tin trượng phu bình yên vô sự, bèn vui vẻ kể lại:

- Vừa rồi hắn khai nhận rằng đã bắt được Hổ ca, Hổ ca hiện giờ chỉ bị thương, không có nỗi lo về tính mạng. Hôm nay sắc trời đã tối, đi lại trong thành hết sức khó khăn, tiên sinh có văn thư thông hành trong người, hẳn không bị kẻ khác hoài nghi. Ngày mai còn phiền tiên sinh đến đưa cho quan phủ một bức thư mật, yêu cầu đổi tên cẩu quan này lấy Hổ ca.

Lúc này từ trong căn phòng trống trải phía bên kia chợt vang tới mấy tiếng kêu lớn, Thôi Oanh Nhi lập tức đứng dậy chạy qua, thấy hai tên đại đạo kia đang muốn dùng hình với Dương Lăng, lập tức quát bảo:

- Các ngươi làm gì đấy?

Ngược về thời Minh

Chương 180 - Lại sinh thêm chuyện

Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 180 - Lại sinh thêm chuyện

Vừa nhìn tình hình liền hiểu rõ mọi chuyện, Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:

- Bỏ hắn ra, các ngươi ra ngoài!

Tuy hận Dương Lăng đến thấu xương nhưng dưới uy thế của Dương Khóa Hổ, hai gã đại đạo cũng không dám phát tác bừa bãi. Dù sao Dương Lăng cũng đã rơi vào trong tay rồi, chẳng sợ y trốn đi đâu được, hai gã bèn nhổ một bãi nước bọt về phía Dương Lăng, khẽ ôm quyền chào Hồng Nương Tử rồi bước ra ngoài.

Dương Lăng ôm ngực thở dốc, chậm chạm đứng dậy. Hồng Nương Tử hờ hững đưa mắt nhìn y, đoạn xoay người bước ra ngoài. Một lát sau nàng quay trở lại, đưa cho y một túi nước sạch và hai chiếc màn thầu, ôm bảo kiếm ngồi dựa vào vách đá, bảo:

- Ta ở đây trông coi ngươi, ăn xong rồi nghỉ ngơi đi. Ngày mai ngươi hãy tự tay viết một phong thư gửi đến quan phủ yêu cầu đổi người, ta đảm bảo cái mạng chó của ngươi sẽ giữ được.

Dương Hổ sớm đã trốn thoát mất rồi, nếu để nàng biết sự thật liệu mình còn sống được ư? Dương Lăng nhất thời chẳng có cách nào khác, đành cầm lấy túi nước và bánh màn thầu, ngồi xuống dựa lưng vào vách đá đối diện với nàng, khẽ thở dài:

- Lần đầu gặp mặt, phu nhân đang bỏ tiền mua lương thực cứu tế nạn dân, một lòng nhân từ, khá có tác phong hiệp nghĩa. Dương mỗ tuy thân ở triều đình, nhưng tự hỏi chưa từng làm chuyện gì có lỗi với trăm họ, cớ sao các vị lại muốn dồn ta vào chỗ chết vậy?

Y định nhắc tới chuyện ở hầm sưởi nhưng lại sợ cô ả này thẹn quá hóa giận khiến mình sẽ phải chịu thêm khổ sở, lời nói đã đến miệng đành nuốt trở về. Thôi Oanh Nhi cũng hơi nghẹn họng, nàng khựng lại một hồi rồi cười lạnh đáp:

- Ta cứu tế nạn dân là vì bản thân ta cũng là người cùng khổ, biết rõ nỗi khổ sở khi phải chịu đói chịu rét. Bọn ta không chỉ muốn giết ngươi mà còn muốn giết tất cả đám quan lại, lật đổ cái thiên hạ hại người này, xây dựng một triều đại mới.

Dương Lăng thở dài thườn thượt, nói:

- Cô cứu tế nạn dân cũng chỉ có thể cho bọn họ ăn no một bữa cơm. Thiên tai nhân họa không ngừng, trăm họ bữa nào cũng cần ăn, cô có bao nhiêu tiền bạc để mua sắm lương thực chứ? Đợi đến lúc kho lương của quan phủ cũng bị ăn hết cả rồi, cô kêu trăm họ trong thiên hạ phải ăn cái gì đây? Cô chỉ giúp được bọn họ nhất thời, còn ta đưa những thứ cây trồng từ nước ngoài về lại là kế sách dài lâu.

Đừng tưởng rằng chỉ có cô mới xót thương trăm họ! Thiên hạ hiện nay tuy có nhiều tệ nạn, nhưng triều đình không hề thối nát, các quan viên cũng có rất nhiều người thương dân như con. Cô muốn lập triều đình mới, vậy phải đánh bao nhiêu trận, chết bao nhiêu người đây? Đánh cho thiên hạ này trở nên tan nát, phá xong lại lập, nhưng sao bằng ủng hộ các đại thần thanh liêm chính trực trong triều, canh tân cải cách, trừ bỏ lũ tham quan ô lại để trăm họ được ăn no, được mặc ấm, có đất cày? Hơn nữa, chỉ dựa vào các người mà có thể lật đổ được thiên hạ này sao?

Hồng Nương Tử ngạo nghễ đáp:

- Quan binh giỏi lắm hay sao? Sơn trại của bọn ta bị tiễu trừ biết bao nhiêu lần rồi, đám quan binh đó có làm gì được bọn ta? Nếu nhân mã của tất cả các sơn trại tập hợp lại, chắc chắn sẽ là một đội tinh binh vượt hẳn quân đội triều đình. Muốn lấy thiên hạ, có gì là khó chứ?

Dương Lăng cười lạnh:

- Mơ tưởng hão huyền!

Thôi Oanh Nhi trừng mắt, Dương Lăng vội vã nói tiếp:

- Các người dựa vào địa lợi, quan binh tới tiễu trừ thì nấp vào trong núi sâu nên có thể an toàn thoát khỏi tay quan binh mà không tổn thất gì. Nhưng như thế mà cho rằng có thể đối phó với thiên quân vạn mã của triều đình sao?

Cô vào nam ra bắc, thấy nhiều hiểu rộng, phải biết rằng hoàng thất Đại Minh chính thống mang họ Chu, trong thiên hạ người tin phục nhiều vô số kể. Khi các người chỉ làm đại vương trên núi thì tưởng rằng điều này chẳng quan trọng gì, nhưng một khi thật sự muốn khởi binh tạo phản, liệu có bao nhiêu người tin phục mà đi theo đây? Còn bốn chữ Đại Minh chính thống kia thì lại có thể biến thành lương thảo, tiền tài, đao thương và binh sỹ, biến thành những lực lượng thật sự.

Thôi Oanh Nhi cười lạnh không đáp, Dương Lăng lại lấy can đảm nói tiếp:

- Cô nói là muốn lật đổ triều đình, thành lập một triều đình mới phải không? Được, ta hỏi cô, nếu Hồng Nương Tử cô là chủ nhân của thiên hạ, cô định tạo phúc cho nhân dân trăm họ bằng cách nào đây?

Hai mắt sáng rực, Hồng Nương Tử buột miệng đáp:

- Đương nhiên là hủy bỏ những thứ sưu thuế đáng chết kia, không bắt trăm họ ở Hà Nam, Hà Bắc phải nuôi ngựa cho triều đình để rồi nhà tan cửa nát nữa, để trăm họ được sống cuộc sống yên lành, có cơm ăn, còn có thịt ăn, có quần áo mặc, không phải chịu đói chịu rét. Bản thân ta phải chịu khổ đã nhiều, ắt không bạc đãi nhân dân trăm họ.

Dương Lăng cười nhạt không ngớt. Thôi Oanh Nhi đỏ bừng mặt ngọc, lúng túng quát bảo:

- Ngươi cười cái gì? Ta nói sai cái gì sao?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Đúng, đều đúng hết! Vậy để ta hỏi cô, năm nay Hà Nam lũ lụt, Thiểm Tây hạn hán, Sơn Đông bị nạn châu chấu ngợp trời, còn Thổ Dao làm loạn suốt một dải Miêu Sơn. Cô hủy bỏ sưu thuế, vậy lấy cái gì để nuôi dưỡng quân đội của cô, nuôi dưỡng những quan viên trong triều đình của cô, lấy cái gì để cứu tế cho những người dân sắp chết đói? Trong cơn thiên tai nhân họa, lương thực chỉ thu hoạch được không tới ba phần mười, cô làm thế nào để nhân dân trăm họ không phải lo về cơm ăn áo mặc đây?

Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người. Xưa này nàng chỉ oán hận quan phủ vô dụng bất tài nên muốn giành lấy giang sơn để mọi người dân đều được sống những ngày tốt đẹp, thực chưa từng nghĩ tới những điều này. Nàng cắn chặt môi, đáp:

- Những tên phú hào địa chủ đó đều có đất đai vạn khoảnh, dù gặp năm thiên tai trong nhà cũng ăn đủ mặc đầy. Ta có thể để trăm họ ăn lương thực của những kẻ đó, dù sao cũng không thể đến nỗi phải chết đói.

Dương Lăng lắc đầu:

- Khi đó những người phú hào kia cũng là con dân của cô, tài sản đất đai của bọn họ đều phải qua bao nhiêu đời mới tích cóp được, cô muốn ép bọn họ phải tạo phản sao? Hơn nữa số phú hào trong thiên hạ thực chẳng có tới một phần mười, tiền tài tụ tập trong tay một số ít người bọn họ thì coi như là giàu đến chảy mỡ, nhưng sau khi chia ra cho trăm họ thì chẳng qua mỗi người cũng chỉ có bát cháo mà ăn. Triều đình dẫn trăm họ đi ăn lương thực của nhà giàu, đây chính là cách của cô sao?

Cô lại nói đến việc hủy bỏ mã chính (Chính sách bắt buộc người dân phải nuôi ngựa cho nhà nước - ND), không sai, ta cũng từng nghe nói việc quan phủ hà khắc, ép cho trăm họ khổ sở vô cùng, điều này triều đình cần phải sửa đổi từng chút một, nhưng chẳng lẽ không nuôi ngựa nữa lại là phương cách tốt hay sao? Hiện nay giặc Thát đang xâm phạm biên cảnh, thiết kỵ của giặc có tới mấy vạn, nếu không có kỵ binh, cô dựa vào cái gì để bảo vệ giang sơn và trăm họ? Giặc Thát tới rồi, sự tàn độc của chúng còn chẳng hơn sưu thuế cả trăm lần ư?

Nơi duyên hải giặc Oa làm loạn, có cần đóng thuyền không? Có cần huấn luyện thủy quân không? Chặt cây, đóng thuyền cần dùng đến lao dịch, nuôi binh luyện binh cần thu sưu thuế, đóng thuyền may áo giáp chỗ nào cũng cần phải bỏ tiền. Trong lòng cô chỉ nghĩ cần đối xử tốt với trăm họ, nhưng cô có làm được không?

Hồng Nương Tử nghe mà mặt mũi tái hẳn đi, Dương Lăng lại tiếp tục tàn phá sự tự tin của nàng, chẳng hề lưu tình:

- Sưu thuế, nuôi ngựa không thể không cần, nhưng phải xem thi hành thế nào. Quan lại, đồn điền không thể không sửa, nhưng phải xem sửa như thế nào. Quản lý hành chính, xử lý sưu thuế các người có hiểu không? Các người chỉ biết phá hoại, không biết xây dựng!

Hồng Nương Tử không kìm được, quát:

- Câm miệng! Mặc cho ngươi ngụy biện thế nào, Chu Hồng Vũ kia vẫn có xuất thân như thế, chẳng phải y cũng trị được thiên hạ đó sao?

Dương Lăng ung dung đáp:

-Hoàng đế Hồng Vũ xuất thân thấp kém nhưng chẳng phải là hạng võ phu bất học vô thuật, hơn nữa ông ta nổi lên chống lại nhà Nguyên tàn bạo, bên cạnh có biết bao người tài trí giúp đỡ chứ? Còn cô thì sao? Chắc cô cũng biết trái tim người đọc sách trong thiên hạ đứng về bên nào phải không?

Nếu thật sự làm phản, các người chẳng qua là từ sơn tặc biến thành giặc cỏ, theo sóng gió mà nổi lên rồi lại theo sóng gió mà chìm xuống. Một trăm năm sau, người đời có nhắc đến các người cũng chẳng qua chỉ là nhắc đến một đám thổ phỉ gây họa một thời, khiến cho thiên hạ máu chảy thành sông, chẳng giúp ích gì cho nhân dân trăm họ. Nếu các người có con cháu, ắt bọn chúng cũng cảm thấy xấu hổ thay cho các người…

Một hơi của Dương Lăng còn chưa nói hết, đã nghe “keng” một tiếng vang lên lanh lảnh, ánh sáng tỏa ra lạnh ngắt. Thanh đoản kiếm đã kề sát vào cổ y, khiến cho y bất giác run rẩy từng hồi. Thoạt đầu Dương Lăng hơi hoảng loạn, nhưng ngay sau đó y dần bình tĩnh, thản nhiên đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử.

Trong thạch thất nhất thời trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng hô hấp của hai người. Một hồi lâu sau Hồng Nương Tử mới lạnh lùng nói:

- Ta biết ngươi đọc sách nhiều, đừng có hòng khoe chữ với ta! Ta chỉ biết cả nhà ta đều bị quan phủ ép phải lên núi làm giặc, chỉ biết trăm họ ở Bá Châu và vô số nơi khác còn đang bị quan phủ áp bức thậm tệ, ăn bước trước phải lo bữa sau, do đó… bọn ta muốn làm phản!

Nàng nói xong bèn thu kiếm lại, “cạch” một tiếng đút kiếm vào vỏ, rồi dựa đầu vào vách đá, khép hờ hai mắt đe:

- Đừng có nghĩ đến chuyện bỏ trốn! Ngoan ngoãn nghỉ ngơi đi, nếu còn nhiều lời nữa ta sẽ cắt cái lưỡi của ngươi xuống!

Dương Lăng thấy khuôn mặt nàng thoáng co giật, hiển nhiên đang cố gắng đè nén lửa giận nên y cũng không tiện nói tiếp nữa mà ngồi ngây một hồi. Y vẫn chưa nghĩ được nếu ngày mai Hồng Nương Tử mang y đi trao đổi với Dương Hổ, y phải làm thế nào mới thoát thân được đây?

Dương Lăng trầm tư hồi lâu, thầm nghĩ mấy người Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận đều đa mưu túc kế, trong triều cũng có không ít bậc tài năng. Ngày mai đưa bức thư trao đổi con tin đến chỗ bọn họ, ắt bọn họ không ngu xuẩn đến mức nói với đạo tặc rằng không có người để trao đổi. Hiện giờ chỉ đành đi bước nào tính bước đó thôi, chờ có cơ hội rồi thoát thân.

Y thở dài một hơi, cảm thấy trong bụng đã hơi đói, bèn vừa uống nước vừa ăn một chiếc màn thầu, sau đó dựa vào vách đá nhắm mắt giả vờ ngủ. Chốc lát sau, ngọn đuốc trên vách đá yếu dần đi, cuối cùng tắt hẳn.

Dương Lăng cũng bắt đầu cảm thấy hơi buồn ngủ, chỉ là y chưa từng ngủ trên nền đá cứng ngắt lạnh băng thế này nên nhất thời khó mà ngủ được. Trong phòng tĩnh lặng như tờ, Dương Lăng cứ lặng lẽ ngồi dựa vào vách đá, thầm suy nghĩ đối sách. Chợt y phát giác phía đối diện phát ra những tiếng sột soạt, dường như nàng đang trằn trọc chuyển mình không ngủ được, thỉnh thoảng còn xen lẫn những tiếng thở dài. Xem ra những lời vừa rồi của Dương Lăng nàng vẫn nghe lọt vào tai.

***

Dưới lòng đất chẳng biết trời đã sáng hay còn tối, nhưng thời gian tới là tự nhiên tỉnh dậy, trong phòng lại được thắp lên một ngọn đuốc, người canh gác bên ngoài lẳng lặng đi vào, theo sau là Lưu lão đạo. Hóa ra đêm qua lão ta không hề nghỉ lại đây, khi trời vừa sáng mới từ chỗ ở của một tín đồ bí mật khác trở về.

Hồng Nương Tử và Thúy Nhi vội bước lên nghênh đón. Hồng Nương Tử hỏi:

- Lưu tiên sinh, tình hình bên ngoài hiện giờ thế nào?

Lưu lão đạo cười khổ:

- Quan binh kiếm chuyện một hồi lâu rồi cũng dừng lại, nhưng nội thành hiện đã giới nghiêm, mọi con đường xung quanh kinh sư đều đặt trạm gác. Vào thành không bị ngăn trở nhưng người ra ngoài thành nhất định phải có giấy thông hành của quan phủ, tất cả mọi xe ngựa hàng hóa đều bị kiểm tra, ngay đến một con ruồi cũng không thoát ra ngoài được. Những người từ ngoại ô vào thành nếu không có giấy thông hành thì phải đến quan phủ đăng ký, có người nhà đảm bảo mới được ra ngoài.

Hồng Nương Tử biến sắc:

- Ồn ào đến vậy hay sao? Lưu tiên sinh có bị người ta chú ý đến không?

Lưu lão đạo đáp:

- Còn may ta là một đạo nhân vân du bốn bể, theo giấy thông hành thì ta là người từ phương nam tới nên rất ít bị hiềm nghi; hơn nữa ta chỉ đi lại trong thành không hề xuất kinh, do đó kiểm tra một phen rồi cũng không sao. Chỉ là… lần này lộ tẩy, cơ nghiệp do chúng ta vất vả đánh hạ ở một dải Bá Châu e là sẽ bị hủy trong một sớm một chiều thôi.

Hồng Nương Tử không đồng tình:

- Sợ cái gì chứ? Núi xanh còn đó, lo gì không có củi đun? Huống chi tổng trại sớm đã di dời khỏi Bá Châu. Ta sẽ lập tức kêu Dương Lăng tự tay viết một bức thư, chỉ cần bọn chúng đồng ý đổi người, chúng ta sẽ dùng tính mạng con tin uy hiếp bọn chúng để rời thành. Trao đổi người ở chỗ Phong Đài xong, dựa vào khoái mã đã được chuẩn bị sẵn và thuật cưỡi ngựa của chúng ta, một khi ra khỏi kinh sư là sẽ không kẻ nào chặn được.

Mấy tên đại đạo bên cạnh nghe nói đại ca sắp được cứu ra, không kìm được đều xoa tay nắn chân rất mực hưng phấn. Lưu lão đạo thường mang theo cây phướn, lấy việc đoán chữ đoán mệnh làm vỏ bọc, bút mực giấy nghiên luôn có sẵn trên người, bèn lấy từ trong ruột tượng ra giao Hồng Nương Tử đưa vào để Dương Lăng viết thư.

Dương Lăng do dự một hồi mới cầm bút viết một bức thư. Cũng coi như y rất biết điều, trong thư không dám ám chỉ vị trí của mình hiện tại chút nào. Thực tế y cũng chẳng quen thuộc thành Bắc Kinh cho lắm nên ngoài việc biết nơi này nằm phía dưới một đạo quán còn chưa được xây dựng xong, y cũng chẳng biết hiện mình đang ở đâu.

Trong thư Dương Lăng nói rõ mình đã bị bắt làm con tin, kẻ xấu yêu cầu trao đổi mình với Dương Hổ. Y lại nhắc người đọc được thư này mau dâng lên Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng cho phép hãy đến chỗ Cẩm Y vệ đưa đại đạo Dương Hổ bị nhốt trong đại lao ra, lại dựa theo yêu cầu của đối phương mà mang đến địa điểm chỉ định. Để cho chân thực, y còn cởi ngọc bội tùy thân ra làm tín vật.

Phong thư đã chỉ ra một cách rõ ràng địa điểm mà Dương Hổ bị bắt nhốt. Cho dù người trong quan phủ đọc được thư này là kẻ ngốc đi chăng nữa hẳn cũng không đến nổi không hiểu được ý của y.

Có điều hiện giờ là thời đại vũ khí lạnh, đám đạo tặc chỉ cần có võ nghệ cao cường, thuật cưỡi ngựa tinh thông là có thể dễ dàng thoát thân khỏi tay quan binh. Huống chi khi hai bên trao đổi con tin, ắt bọn chúng không cho phép quan binh phái ra quá nhiều người, như vậy hai bên cùng lắm cũng chỉ có thể trao đổi người khi cách nhau hai ba mươi trượng, Dương Lăng chẳng lạc quan chút nào về việc mình có thể thoát khỏi tay đối phương.

Nếu quan phủ định dùng kẻ giả mạo để trao đổi, đám đại đạo Bá Châu chẳng có lý nào lại không kiểm tra, hơn nữa Hồng Nương Tử còn là người chung chăn gối với Dương Hổ, chỉ cần nàng nhìn dáng người cũng đoán được sáu bảy phần rồi. Dù quan phủ có hiểu được sự ám thị của mình thì việc cứu mình thoát thân vẫn là một vấn đề khó khăn.

Hồng Nương Tử đứng một bên nhìn y chằm chằm . Dương Lăng cũng chẳng thể nghĩ nhiều, chỉ đành bấm bụm viết thư xong giao cho Hồng Nương Tử; chỉ mong triều đình có người tài nghĩ ra kế hoạch nào đó có thể gạt được đám lục lâm này.

Hồng Nương Tử đón lấy bức thư cùng ngọc bội, kêu hai người đến trông coi Dương Lăng, còn chính mình thì vội vã đi ra ngoài đưa thư cho Lưu lão đạo. Lưu lão đạo năm lần bảy lượt đọc thật kỹ bức thư dưới ánh đuốc, xác thực không có ẩn ý gì, nhìn ngang nhìn dọc đều không thấy huyền cơ, mới yên tâm nhét bức thư vào trong chiếc dây lưng dưới tấm đạo bào, rồi bảo:

- Các cô ăn chút gì đó rồi cứ chờ ở đây, đợi ta đến Ngũ Thành Binh Mã ti tìm cơ hội chuyển bức thư này cho quan phủ.

Lưu lão đạo vội vã ra khỏi địa đạo, đóng chặt cửa động lại rồi lặng lẽ rời đi. Một gã đại đạo mặt mũi dữ dằn đứng bên cạnh Hồng Nương Tử lạnh lùng đưa mắt nhìn căn phòng nhốt Dương Lăng, khẽ nói với Hồng Nương Tử:

- Tẩu tẩu, đợi sau khi cứu được đại ca ra, chúng ta cứ giết luôn tên tiểu tử này rồi hẵng bỏ trốn. Ra khỏi kinh thành rồi thì chúng ta như là mãnh hổ về núi, giao long xuống nước, đừng hòng có ai làm gì được chúng ta nữa.

Hồng Nương Tử hơi khựng người, do dự:

- Nói bậy! Phía chúng ta động thủ vậy bên quan binh sẽ không động thủ ư? Hôm nay có thể cứu được Hổ ca của ngươi về là được rồi, đừng để sinh thêm chuyện phiền toái!

Một tên đại hán đầu trọc mặt rỗ lỗ chỗ, nhìn rất ghê người gằn giọng đáp:

- Đại tẩu yên tâm! Chúng ta không động thủ chẳng lẽ quan binh lại chịu trơ mắt nhìn chúng ta đi ư? Tụ tiễn (ám tiễn giấu trong tay áo - ND) tẩm độc của Hồ Đại Chùy này trong vòng mười trượng chính là thiếp mời của diêm vương. Hổ ca thành thạo Địa Tranh quyền (một môn quyền thuật Trung Quốc, các động tác chủ yếu được thực hiện khi bò rạp hay lăn lộn dưới đất - ND), đến lúc đó chỉ cần tiểu đệ hô lên một tiếng, huynh ấy bò rạp xuống đất mà chạy ra, sẽ không có chuyện gì đâu. Chẳng lẽ chúng ta còn phải nói chuyện tín nghĩa với quan binh hay sao chứ?

Trong lòng Hồng Nương Tử hơi loạn. Những lời Dương Lăng nói đêm qua đã lưu lại một dấu ấn rất sâu trong lòng nàng, quả thật nàng muốn cứu trượng phu ra rồi thảo luận kỹ lưỡng với hắn một phen. Còn đối với Dương Lăng thì quả thực nàng chẳng thể sinh ra chút sát tâm nào cả.

Thúy Nhi ở bên cạnh nhìn rõ vẻ mặt Hồng Nương Tử, bèn lựa lúc mà chen vào:

- Tiểu thư! Lời của Hồ đại ca đúng lắm, cô gia với các huynh đệ tình như thủ túc, lần này có tới gần hai trăm huynh đệ thân cận nhất đã mất mạng trong tay Dương Lăng. Với tính cách hiệp nghĩa của cô gia, món huyết hải thâm thù này sao có thể bỏ qua được chứ?

Nếu để tên cẩu quan đó an toàn quay về, ngày sau ắt sẽ phòng bị nghiêm ngặt, cô gia muốn báo thù há chẳng phải hung hiểm muôn phần hay sao? Chúng ta cứ tiện tay kết liễu luôn cái mạng chó của y, vừa hay có thể báo thù cho các huynh đệ vừa bị giết, khi trở lại sơn môn cũng tiện ăn nói, lại tránh cho cô gia một lần nữa dấn thân vào nơi nguy hiểm.

Mấy tên đại đạo nghe thế đều gật đầu lia lịa, nhất tề đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử. Hồng Nương Tử lòng rối như tơ vò, suy nghĩ suốt hồi lâu mới giẫm mạnh chân, cắn răng quyết:

- Được rồi! Nếu vậy ta nghe theo lời các ngươi. Có điều nhất định phải hết sức cẩn thận, lấy sự an nguy của Hổ ca làm đầu!

Mấy tên đại đạo đồng loạt gật đầu đáp:

- Đại tẩu yên tâm, điều này thì bọn đệ hiểu!

Thúy Nhi thấy thế thì khẽ mỉm cười, một tia đắc ý thoáng qua trong đáy mắt.

***

Đường xá chốn kinh sư vẫn phồn hoa như cũ nhưng lại tràn ngập không khí căng thẳng, tất cả mọi cửa thành đều gươm giáo như rừng, phòng bị nghiêm ngặt. Bởi vì việc kiểm tra diễn ra rất chậm nên người ra vào thành đều phải xếp thành một hàng rất dài.

Trên đường lớn của kinh sư, không khí hoan hỉ chuẩn bị đón ngày đầu năm đã nhạt đi không ít, từng đội quan binh của Kinh doanh và lính đi tuần liên tục qua lại, tất cả các nha môn và nơi ở của quan viên đều được bố trí trọng binh canh gác kỹ càng. Các vị đại thần thường ngày chỉ đi xe nhẹ và dẫn theo vài tên tùy tùng, nay đều có mấy chục gia tướng tiền hô hậu ủng, còn những quan viên không có cái thực lực ấy thì liền dứt khoát chẳng ra ngoài.

Không khí căng thẳng như vậy quả thực chưa từng xuất hiện tại chốn kinh sư. Bởi việc xuất nhập không tiện, rất nhiều hàng hóa dịp tết chẳng thể đưa được vào thành, dẫn đến việc vật giá tăng cao. Có tin nếu không tìm được Dương xưởng đốc thì lệnh cấm thành sẽ không được hủy bỏ sớm, do đó mọi người dân đều lo vật giá sẽ tăng thêm nên đành liều mình chịu rét mà ra phố mua sắm đồ tết.

Lưu lão đạo giơ cao cây phướn liêu xiêu bước đi trên đường. Quan binh đi ngang chỉ cho rằng lão là một lão đạo còm nhom dáng vẻ bình thường, đang nhòm đông ngó tây kiếm mối làm ăn, nên chỉ liếc nhìn qua rồi không chú tâm đến nữa.

Lưu lão đạo chậm rãi bước tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi đi vào trong một con hẻm nhỏ ngay bên hông nha môn. Khi sắp đi tới đầu hẻm, lão bèn giả vờ đặt cây phướn xuống nghỉ ngơi. Sau đó lão nhặt một hòn đá lên, móc phong thư trong thắt lưng ra, quấn vải bọc chung thư vào với hòn đá. Thừa dịp mọi người không chú ý, lão ném mạnh viên đá cùng bức thư qua bức tường rồi vác phướn vội vã rời khỏi.

Người của Binh Mã ty không thể làm chủ việc này, nên bức thư cứ thế được trình dần lên, nhanh nhất cũng phải đến trưa mới có trả lời. Nếu triều đình đồng ý đổi người, ắt sẽ lưu lại ký hiệu dễ thấy ở tòa nhà mà lão chỉ định. Đến lúc đó lão lại tìm một nha môn khác để ném thư, đưa ra yêu cầu tiếp theo là được.

Đường Xưởng Điện có rất nhiều cửa tiệm nhỏ, là một con đường khá phồn hoa. Lưu lão đạo bỏ ra một văn tiền thuê một chiếc bàn của quầy hoành thánh để tự mở quán riêng, nhởn nha chờ khách tới. Hôm nay người có tâm tư xem bói không nhiều, không những chẳng có ai ghé thăm mà ngay cả đến liếc mắt nhìn qua cũng chẳng có hứng thú. Lưu lão đạo chẳng hề để tâm, lão chỉ nheo mắt quan sát mặt trời ước lượng thời gian. Đang lúc lão chuẩn bị dọn quán tìm chỗ ăn trưa, một thiếu niên mặt mũi thanh tú bộ dạng như kẻ hầu đã đứng trước quán của lão ta.

Lưu lão đạo hờ hững liếc mắt nhìn gã, vuốt râu cười hỏi:

- Tiểu ca muốn đoán chữ hay đoán mệnh? Hoặc là muốn ta viết hộ thư nhà chăng?

Thiếu niên cười đáp:

- Ta không biết chữ, cả đời này chỉ có cái số hầu hạ người khác, còn đoán làm gì? Xin tiên sinh giúp ta viết bức thư nhà.

Trong lúc nói, gã có vẻ như quá buồn chán nên bàn tay gảy gảy túi hành lý đeo trên người, những ngón tay tạo ra mấy ký hiệu gì đó một cách mau lẹ.

Sắc mặt Lưu lão đạo hơi đổi, bàn tay thu vào trong tay áo rồi cũng đáp lại bằng mấy ký hiệu mà chỉ có thiếu niên đang đứng trước mặt mới nhìn thấy, sau đó thân mật mời:

- Mời ngồi mời ngồi!

Rồi lão vừa lấy bút mực ra, vừa khẽ hỏi:

- Cấp trên có mệnh lệnh gì không?

Gã hầu đó đưa tay chống cằm nhìn xuống bàn, thấp giọng:

- Rất gấp! Bất kể thế nào đi chăng nữa cũng phải giữ được tính mạng Dương Lăng, đưa y trở về. Bất luận dùng cách gì cũng được!

Lưu lão đạo hơi ngẩn người. Lão nhẹ nhàng trải một tờ giấy ra, cầm lấy chiếc nghiên ra bộ mài mực, đáp:

- Tên này là tâm phúc của Hoàng đế, giết y sẽ rất lợi với đại nghiệp của chúng ta, tại sao phải thả y chứ? Huống chi y đã giết nhiều người của Dương Hổ như vậy, đời nào Hồng Nương Tử lại chịu bỏ qua? Xin trở về báo lại với đàn chủ, người này không thể tha được.

Gã thiếu niên kia tuy có vẻ ngoài như kẻ hầu người hạ, nhưng lại lập tức vênh mặt nghênh ngang với lão rất có khí thế. Gã cười lạnh bảo:

- Nếu Hồng Nương Tử cản trở thì cứ giết luôn cả Hồng Nương Tử! Ngươi nhớ lấy, bằng bất kỳ cách nào cũng phải giữ cho y được an toàn. Đây không phải mệnh lệnh của đàn chủ, mà là mệnh lệnh của giáo chủ!

Lưu lão đạo cả kinh, bàn tay mài mực lập tức dừng lại, kinh ngạc hỏi:

- Giáo chủ lão nhân gia cũng ở kinh sư sao? Chuyện này… thực khó xử quá, sao đột nhiên lại phải bảo vệ y vậy?

Ánh mắt thiếu niên trở nên lạnh ngắt, gã gằn giọng:

- Giáo chủ đang ở đâu, đây là điều mà ngươi có thể dò hỏi sao?

Lưu lão đạo khẽ rùng mình, không dám hỏi tiếp nữa. Bờ môi mỏng dính của gã thiếu niên hơi nhếch lên:

- Trong cung vừa đưa tin ra, chân long sắp xuất thủy, thiếu y thì việc chưa chắc đã thành, muốn câu được rồng thì phải tạm bỏ tướng cua. Hơn nữa, Dương Hổ đã trốn thoát rồi, nếu Hồng Nương Tử mà chết thì còn sợ hắn không càng thêm bán mạng giúp chúng ta đoạt thiên hạ hay sao?

Ngược về thời Minh

Chương 181 - Âm mưu bại lộ

Chương 181 - Âm mưu bại lộ

Chiếc trống kêu oan trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti vẫn còn nằm nguyên ở đó. Theo ước định trong thư, nếu quan phủ đồng ý đổi người thì bọn họ sẽ cất chiếc trống kêu oan này đi. Nha môn nằm giữa chốn phố phường đông đúc, đứng từ xa tít đã có thể nhìn thấy rõ chiếc trống lớn vẫn còn đó, xem ra quan phủ nhất thời còn chưa thể đưa ra quyết định.

Lưu lão đạo đứng ở chỗ rẽ đằng xa liếc mắt nhìn qua, rồi giơ cây phướn lên bỏ đi thẳng như chẳng có chuyện gì. Hoàng thượng muốn xuất kinh, Dương Hổ đã bỏ trốn, quan binh chuẩn bị ồ ạt tiến tới Bá Châu, dưới cơn phẫn nộ của thiên tử thế lực lục lâm của Dương Hổ sắp lâm nguy đến nơi. Một loạt những tin tức vừa nhận trên khiến tính toán ban đầu của lão trở nên rối loạn.

Vốn Di Lặc giáo không định lợi dụng đại đạo lục lâm để tranh đoạt thiên hạ. Bọn họ muốn đi theo con đường thượng tầng, mưu đoạt binh quyền và hoàng vị để giành lấy thiên hạ một cách thuận lợi. Hiện giờ lại sắp có cơ hội tốt nhân khi Hoàng đế xuất kinh, cho dù thế nào đi chăng nữa, Lý Phúc Đạt cũng không thể vì một con tôm nhỏ mà bỏ một con cá lớn được.

Huống chi dưới sự bao vây tiễu trừ toàn lực của quan phủ, thế lực lục lâm ở Bá Châu đã chẳng còn bao nhiêu giá trị sử dụng nữa rồi. Hiện giờ, Dương Hổ chẳng qua cũng chỉ có tác dụng như một tên thích khách kiêu dũng, gã quân sư như lão có bại lộ thân phận cũng chẳng sao, do đó cấp trên mới hạ nghiêm lệnh cho lão phải bảo vệ an toàn cho Dương Lăng bằng mọi giá.

Lưu lão đạo thầm cười khổ một tiếng. Đêm qua mình còn ra sức nghĩ kế đưa Dương Lăng vào chỗ chết, ai ngờ chỉ sau một đêm mọi chuyện đã xoay chuyển như thế này, giờ đây lại phải nghĩ cách bảo vệ tính mạng cho y. Nếu người đời thật sự do vận mệnh chi phối, e rằng trên đời này chẳng còn ai tốt phúc hơn y.

Giả bộ sợ hãi trước quan uy mà đến tố cáo với quan phủ, rồi dẫn quan quân đến bắt giết Hồng Nương Tử ư? Vừa mới nghĩ đến ý này, lão đã lập tức nhẹ lắc đầu, hộ tịch và giấy thông hành của lão và Thúy Nhi đều là đồ giả. Một tên đại đạo lục lâm như Dương Hổ không thể tìm hiểu được gốc gác thật sự của lão nhưng quan phủ thì quyết không dung thứ cho một kẻ lai lịch bất minh như lão.

Hai vị được đưa vào cung kia quả thực đã từng đóng giả làm nghệ nhân tạp kỹ mà đi lại trên giang hồ hết bảy, tám năm, nhưng dù là như vậy cũng vẫn cần đích thân Ninh vương đứng ra làm người đảm bảo mới có thể đưa được họ vào trong cung. Lão mà đi tố cáo với quan phủ, lỡ mà bị người ta điều tra được chân tướng… Năm đó lão từng theo giáo chủ Lý Việt truyền giáo ở một dải Cam Thiểm, là một trong tám đại hộ pháp có tiếng tăm ở đó, rất nhiều người nhận biết lão.

Tốt nhất là Hồng Nương Tử biết điều, sau khi hay tin Dương Hổ đã trốn thoát thì chịu thả Dương Lăng, nếu không… Lưu lão đạo thầm nghiến răng, một tia sát khí thoáng lóe lên nơi đáy mắt.

***

Buổi ngọ triều đã trôi qua rất lâu, các vị trọng thần trong điện Bảo Hòa vẫn chen chúc vào một nơi, cuộc tranh cãi sôi nổi mãi vẫn chưa đến hồi kết. Vốn Chính Đức muốn cho mang thức ăn lên cho các vị đại thần này ăn no cái bụng trước đã, nhưng nhìn tình hình này thì hắn bất giác bực mình, cứ ngồi yên vừa nhìn bọn họ cãi nhau vừa đè nén lửa giận, sắc mặt càng lúc càng khó coi.

Các vị đại thần cũng chú ý đến sắc mặt tiểu Hoàng đế, tiếng huyên náo dần nhỏ lại.

Chính Đức lẳng lặng vân vê chiếc chén ngọc cực kỳ tinh xảo trong tay, chậm rãi nhìn quanh một vòng. Hắn thấy Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng đang rì rầm nói chuyện gì đó; Lý Đông Dương và Tiêu Phương thì cùng trưng vẻ mặt như quả mướp đắng, không ngừng vuốt râu; Dương Đình Hòa đang chắp tay sau lưng nhìn bức tranh chữ trên tường. Còn Lục bộ Cửu khanh và Thị lang các bộ mỗi người một thần sắc riêng, kẻ thì đầy mặt giận dữ, người thì hả hê ra mặt.

Chính Đức lại liếc nhìn Ngô Kiệt. Vị đại nhân già nua, gày gò chưa từng bước vào hoàng cung này mặt mũi lấm tấm mồ hôi, đang nhìn về phía hắn với vẻ vạn phần lo lắng.

Chính Đức khẽ ho một tiếng, xả bớt khí giận trong lồng ngực ra rồi mới nói:

- Các vị ái khanh! Cứ theo tình hình hiện nay, hẳn là nữ tặc Hồng Nương Tử chưa biết trượng phu của ả đã trốn khỏi kinh thành nên muốn đổi Dương thị độc lấy Dương Hổ. Hiện lũ đạo tặc đang chờ câu trả lời của triều đình, các vị ái khanh bàn bạc thế nào rồi?

Lưu Đại Hạ trầm giọng thưa:

- Hoàng thượng! Lão thần cho rằng nữ tặc đó đã có thể gửi thư vào kinh nên hiển nhiên là kinh sư phong tỏa kịp thời, bọn chúng còn chưa kịp trốn thoát. Hiện giờ trong thành binh mã như mây, có Binh bộ, Kinh doanh, Thuận Thiên phủ, Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi còn cả ba xưởng một vệ, muốn lật tung kinh thành lên cũng có gì là khó? Có thể lệnh cho các bộ tăng cường tìm kiếm lục soát, bọn chúng còn có thể trốn lên trời hay sao?

Chính Đức cười lạnh:

- Đã tìm suốt một ngày một đêm rồi, nhưng đã tìm được gì chưa? Thuận Thiên phủ dâng sớ tâu trăm họ ở kinh sư đã cất tiếng oán than đầy đường, còn muốn tìm kiếm như thế nào nữa đây? Vả lại Dương khanh đang ở trong tay bọn chúng, nếu ép quá há lại chẳng phải xôi hỏng bỏng không hay sao?

Dương Phương cất tiếng:

- Hoàng thượng! Thần cho rằng lời của Lưu đại nhân đúng lắm, đường đường triều đình há có thể mặc cả với đám đạo tặc? Năm xưa Hạ Hầu Thuần phòng thủ Bộc Dương, Lữ Bố phái người bắt cóc ông ta đòi lấy tiền tài, nhưng bộ tướng của ông ta là Hàn Hạo đóng quân ngoài doanh quyết không thỏa hiệp, còn kiên quyết dùng binh với lũ tặc nhân, từ đó không còn kẻ nào dám bắt người làm con tin nữa. Nay lũ cuồng đồ dám phạm trọng tội ngay dưới chân Thiên tử, còn cả gan mặc cả với triều đình, như thế thể diện của triều đình còn đâu nữa? Mà ngày sau lũ gian tặc lại học theo đó, triều đình phải ứng phó ra sao? Việc này dứt khoát là không được!

Tiêu Phương nhướng mày lên cãi:

- Lời này của Dương đại nhân sai rồi. Có câu rằng binh bất yếm trá, Dương Hổ vốn chẳng ở trong tay triều đình, chúng ta cứ tương kế tựu kế, giả vờ đồng ý trao đổi con tin rồi thừa cơ cứu Dương đại nhân ra, thế có gì là không được? Chẳng lẽ lại trơ mắt nhìn một vị trọng thần của triều đình mất mạng trong tay gian tặc, như thế há lại chẳng mất thể diện của triều đình ư?

Hàn Văn trầm ngâm:

- Hoàng thượng! Luật pháp của triều đình không thể không để tâm đến, mà tính mạng của Dương đại nhân cũng cần phải bảo toàn. Theo thần thấy, chúng ta cứ nên suy nghĩ thêm, tính toán chu toàn. Lũ gian tặc đã có việc cần, ắt tạm thời Dương đại nhân không bị hại. Đương nhiên triều đình cũng cần phong tỏa tin tức, tăng cường tuần tra trong thành, đừng để lũ gian tặc trốn mất, cũng đừng để lộ tin Dương Hổ đã trốn thoát rồi.

Lý Đông Dương nghe vậy thì khẽ lắc đầu, vừa khéo Chính Đức nhìn thấy động tác của ông ta bèn vội hỏi:

- Lý đại học sỹ có cao kiến gì chăng?

Lý Đông Dương chắp tay thưa:

- Bẩm Hoàng thượng! Theo thần thấy, nếu đại đạo Dương Hổ thật sự ở trong tay chúng ta, với một tên thủ lĩnh cường đạo tụ tập giặc cướp chốn núi rừng, dám mưu sát đại thần, ý đồ làm phản như vậy, có nên thỏa hiệp hay không mới cần bàn bạc kỹ, dù sao luật pháp và mặt mũi của triều đình cũng là điều không thể bỏ mặc. Dương đại nhân đã hưởng ơn vua, tất nhiên phải suy nghĩ cho triều đình, không đồng tình với hành vi thỏa hiệp này cũng là hợp lẽ.

Nhưng… hiện giờ Dương Hổ không ở trong tay chúng ta, tạm dùng kế quyền nghi cũng không phải là không được. Thần cho rằng nên tạm dừng việc lục soát nhà dân để tra xét. Đừng nói là hành động này chưa chắc đã tìm được nơi ẩn nấp của lũ gian tặc mà cho dù thật sự tìm được đi chăng nữa, Dương đại nhân đang ở trong tay bọn chúng, ném chuột sợ vỡ đồ thì làm sao cứu người được đây?

Do đó, triều đình cứ đồng ý với yêu cầu của bọn chúng cũng chẳng sao, dù gì hai bên muốn đạt thành hiệp nghị cuối cùng cũng cần thời gian hai, ba ngày. Triều đình nên lệnh cho Kinh doanh và Ngũ Thành Binh Mã ti tăng cường phong tỏa và tuần tra, tránh việc gian tặc trốn thoát. Lại lệnh cho mật thám của Hình bộ và người của xưởng vệ bí mật tìm kiếm chỗ Dương đại nhân bị giam giữ, chờ thời cơ ứng cứu. Đợi khi hai bên bàn định xong nơi trao đổi con tin, triều đình có thể bố trí cung thủ phục kích, tùy cơ hành sự.

Mã Văn Thăng nghe xong bèn bước lên một bước. Lão vừa định mở lời, Cốc Đại Dụng đã bàn bạc với Lưu Cẩn xong xuôi bèn giành tâu trước:

- Hoàng thượng! Nô tài cho rằng kế này của Lý đại học sỹ là thỏa đáng nhất. Nếu không đồng ý thì thành ra hại mất tính mạng của Dương đại nhân, đường đường trọng thần của triều đình mà mất mạng trong tay gian tặc, như thế há chẳng ảnh hưởng đến thể diện của triều đình hay sao?

Còn nếu cứ đồng ý bừa, trong tay chúng ta không có tên đại đạo Dương Hổ kia, lỡ mà kẻ địch phái một tên lâu la kiểm tra thực giả, ắt sẽ bị bại lộ. Chi bằng cứ tạm đồng ý trước đã, bấy giờ chúng ta vừa chuẩn bị vừa dốc sức tìm kiếm, nếu có thể thuận lợi cứu được Dương đại nhân ra là tốt nhất, còn nếu không thể, lại nghĩ cách khác đánh lừa bọn chúng, khi trao đổi con tin sẽ làm một mẻ lưới tiêu diệt sạch lũ gian tặc luôn.

Chính Đức nghe vậy bèn vỗ án hô lớn:

- Hay! Các khanh không cần bàn bạc thêm nữa, cứ làm theo cách này đi! Đại Dụng, đi truyền tin cho Ngũ Thành Binh Mã ti, chờ gian tặc phái người đến liên hệ, còn việc truy tìm sào huyệt kẻ địch và trao đổi con tin thì do ngươi và Ngô Kiệt của Nội xưởng phụ trách. Nhớ lấy, trẫm cần một Dương Lăng sống chứ không phải một Xưởng đốc chết.

Các vị đại thần nhất tề khom người đáp:

- Thần tuân chỉ!

***

Lưu lão đạo vừa đi lại trên đường vừa suy tính đối sách. Nếu trao đổi con tin, khó đảm bảo bên phía quan phủ sẽ không bố trí phục binh; cho dù Hồng Nương Tử chạy thoát được thì bản thân mình có thể chạy thoát hay không cũng là một vấn đề khó nói.

Lại nữa, Hồng Nương Tử cũng từng không ít lần bắt cóc người nhà giàu đòi tiền chuộc, có thể coi là một chuyên gia trong nghề bắt cóc đòi tiền, nếu trước khi trao đổi ả phái người kiểm tra con tin, ắt hẳn sẽ lộ tẩy.

Nếu nói rõ với Hồng Nương Tử việc Dương Hổ đã trốn thoát, khả năng Dương Lăng được thả ra là rất nhỏ; rất có thể y sẽ bị lập tức giết chết ngay. Nói với ả việc thả Dương Lăng ra có thể dụ Hoàng đế xuất kinh ư? Cô ta từ nhỏ đã đi lại trong giới lục lâm, là người hết sức cảnh giác: mình mới vừa đi loanh quanh trong kinh sư được canh phòng nghiêm ngặt này mới có một vòng mà đã nhận được tin tức cơ mật và chuẩn xác như thế, làm sao cô ả không nảy lòng nghi ngờ?

Lưu lão đạo suy đi tính lại, rốt cuộc đành hạ quyết tâm cứ tạm trở về một chuyến trước, đợi thăm dò được suy nghĩ của cô ả rồi tính sau. Nếu thật sự không được, để câu con cá to là Hoàng đế Chính Đức và cũng vì tiền đồ của bản thân, ta đành gieo khổ cho Hồng Nương Tử vậy. Một tiểu nương tử xinh đẹp như hoa như ngọc phải bỏ mạng lúc tuổi còn xanh thì thật đáng tiếc lắm thay.

Lưu lão đạo đoán mệnh cho hai vị lão thái thái, nhận được mấy văn tiền, sau buổi trưa lại lòng vòng đi tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti. Lão thấy trên chiếc giá đã chẳng còn gì, chiếc trống kia không biết đã đi đâu mất rồi. Lúc này sắc trời đang âm u, lưa thưa mấy bông tuyết phất phơ bay xuống, người đi lại trên đường dần dần thưa thớt, Lưu lão đạo sợ khiến người khác hoài nghi, bèn xoay người lại chậm rãi đi về phía thành bắc. Đi tới con hẻm, thấy không có người nào chú ý, Lưu lão đạo bèn vội vã bước vào trong đạo quán.

Tòa đạo quán xây dở này ngay đến cửa cũng không có, bốn phía gió lùa. Đêm qua là đêm đầu tiên, còn có thể phái người ra ngoài canh gác, ban ngày thì lại không thể cho người đứng chờ ở ngoài sợ sẽ khiến người đi đường chú ý. Lưu lão đạo khởi động cơ quan, lặng lẽ chui vào trong thạch thất, hai đại hán cầm đao kiếm nhìn thấy là lão bèn buông vũ khí trong tay xuống, nôn nóng hỏi:

- Lưu tiên sinh, quan phủ có đồng ý không? Hổ ca vẫn an toàn chứ?

Lưu lão đạo khẽ mỉm cười đáp:

- Còn may, quan phủ đã tỏ ý bằng lòng trao đổi con tin với chúng ta.

Lúc này Thôi Oanh Nhi và Thúy Nhi cũng hay tin ra đón. Lưu lão đạo cùng bọn họ tránh vào trong một gian thạch thất, sau khi sắp xếp về những lời cần nói, lão bèn hỏi:

- Phu nhân có dự định gì không? Sau khi cứu được đại đương gia ra nên xử trí Dương Lăng thế nào đây?

Rốt cuộc Hồng Nương Tử vẫn phải cắn chặt môi, khẽ cất tiếng:

- Sáng nay bọn ta đã bàn định xong. Mối thù của hơn hai trăm huynh đệ không thể không báo, một khi cứu được người ra sẽ lập tức giết chết Dương Lăng, tế vong linh của bọn họ.

Lưu lão đạo gượng cười:

- Chuyện này… Cứ nên lấy đại cục làm trọng. Phu nhân và đại đương gia đều là người làm việc lớn, nếu vì chuyện này mà chọc giận quan phủ, cơ nghiệp do đại đương gia vất vả lắm mới gây dựng được khó tránh khỏi sẽ bị tấn công tiêu hủy, chi bằng tha cho y một phen…

Thúy Nhi ngẩn ra, nhìn lão với vẻ rất kinh ngạc, không biết lão lại có trò mới gì. Nụ cười của Lưu lão đạo hơi nhiễm vẻ cay đắng, nhưng lại chẳng thể nói rõ ra được.

Hai tên sơn tặc đứng ngoài cửa nghe vậy thì bèn bước vào. Một gã đại hán mặt mày hung ác nói với vẻ bất mãn:

- Lưu tiên sinh sao lại có lòng nhân từ của đàn bà như thế? Cho dù không giết hắn thì chúng ta cũng đã gây ra sự biến lớn đến thế này rồi, quan phủ còn chịu dễ dàng bỏ qua hay sao chứ?

Tên đại hán trọc đầu còn lại hăng hái:

- Chính thế! Chúng ta đã làm việc này thì không sợ đắc tội quan phủ, chỉ sợ danh hiệu không vang dội mà thôi. Lần này tiến kinh tổn thất mất hai trăm huynh đệ, không giết được y thì khi về trại biết ăn nói với mọi người sao đây? Còn nếu giết y rồi, các hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc có ai mà không khâm phục chúng ta? Ắt hẳn danh hiệu của Hổ ca sẽ càng vang dội hơn, cho dù cả ngọn núi kia bị hủy đi, chúng ta muốn xây dựng lại cơ nghiệp ở nơi khác cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.

Hồng Nương Tử nghe tới đây bèn quyết tâm:

- Cứ làm như vậy đi, với quan phủ thì còn phải nói gì đến tín nghĩa nữa chứ? Hồ Đại Chùy, quan phủ đã đồng ý rồi, vậy ngày mai chúng ta sẽ chuẩn bị dùng vũ lực rời thành, ngươi tới chỗ quan phủ xem tình hình của đại ca ngươi trước, đừng để bọn chúng lừa đấy.

Mặt mày hung ác, Hồ Đại Chùy gật đầu đáp với vẻ thản nhiên:

- Đại tẩu yên tâm! Có tên cẩu quan kia ở đây, quan phủ còn có thể làm gì được một gã tiểu lâu la như đệ chứ? Đệ nhất định sẽ có thể cùng Hổ ca an toàn đến Phong Đài, quan binh đừng hòng giở trò gì với đệ.

Lưu lão đạo nghe tới đây thì lòng dạ nguội lạnh hẳn đi.

Hồng Nương Tử nghĩ đến Dương Lăng, tuy trong lòng vẫn hơi áy náy nhưng trượng phu đã đi theo con đường này rồi, nàng là thê tử, ngoài việc tiếp tục đi theo hắn thì còn có thể làm được gì khác nữa? Nàng buồn bã thở dài một hơi, nói với Lưu lão đạo:

- Lưu tiên sinh đã vất vả rồi, ông hãy nghỉ ngơi trước đi. Đợi qua được ngày mai, chúng ta sẽ có thể cao bay xa chạy rồi.

Hồng Nương Tử xoay người đi vào phòng của Dương Lăng, Hồ Đại Chùy và gã đại hán đầu trọc Hắc Diêu Tử kia lén lút theo sau. Thôi Oanh Nhi ngoảnh đầu trừng mắt nhìn bọn hắn, hai gã sơn tặc nhìn về phía Dương Lăng cười cười với vẻ hung ác, đoạn chậm rãi bước ra ngoài.

Dương Lăng vịn tường gượng đứng dậy, trong phòng không đốt lửa, tuy ấm hơn bên ngoài một chút nhưng vẫn lạnh lẽo vô cùng. Thân thể y vốn đã không so được với đám sơn tặc, lại ở một mình trong gian phòng đá, khó chịu vô cùng, bèn ngồi xếp bằng tĩnh tọa theo cách của Ngũ Hán Siêu. Hiện giờ y vẫn chưa biết ngồi kiểu “đại bàn”, dưới sự trông coi của đám sơn tặc cũng không dám quá lộ liễu, nhưng chỉ ngồi kiểu “tiểu bàn” hơn nữa canh giờ, hai chân cũng đã mỏi nhừ.

(tiểu bàn: ngồi xếp bằng bình thường, bàn chân dưới đùi; đại bàn: kiểu hoa sen, bàn chân này gác lên đùi kia)

Thấy sắc mặt Hồng Nương Tử, y hỏi:

- Triều đình đồng ý trao đổi rồi ư?

Nhìn dáng vẻ hơi tiều tụy của y, trái tim Hồng Nương Tử bất giác nhũn đi. Trên đời liệu có mấy vị quan chịu bỏ tiền phát cháo cứu tế cho nạn dân? Y còn khổ tâm dốc sức nghĩ cách để cải tạo giống cây trồng, thật là một vị quan tốt.

Khi đến thăm phủ của y, phu nhân của y cũng là một người hòa nhã thân thiện, không hề có vẻ kiêu ngạo của một ả vợ quan, nhưng… Nếu không giết y, biết phải ăn nói thế nào với các huynh đệ khác về hai trăm huynh đệ đã bị giết? Hơn nữa trượng phu đã bước lên con đường này rồi, càng là vị quan hữu dụng với triều đình thì càng là đại địch của mình. Có ai ngờ được lần này lên kinh sư, không giết được Hoàng đế mà lại để y trở thành con dê chịu tội thay chứ?

Trong lòng đang áy náy, giọng nói cũng bất giác dịu hơn vài phần, nàng khẽ gật đầu:

- Ừm, xem ra Hoàng đế rất coi trọng ngươi đấy, vì ngươi mà phong tỏa toàn bộ kinh thành, bọn ta đưa ra yêu cầu trao đổi, quan phủ chẳng hề nghĩ ngợi gì đã đồng ý ngay. Ngày mai ta sẽ phái người đi gặp quan phủ, chỉ cần bọn chúng không giở trò gì khi trao đổi con tin, ngươi sẽ… sẽ có thể trở về rồi.

Thôi Oanh Nhi tung hoành chốn núi rừng, giết người cướp bóc cũng là tay lão luyện, chưa từng chớp mắt bao giờ. bằng không làm sao nàng có thể khuất phục được bao nhiêu tay đại đạo kiêu căng như thế. Nhưng nói tới đây khuôn mặt nàng lại bất giác nóng rần, có chút hổ thẹn. Nàng vội vã xoay người, cởi chiếc áo choàng độn bông ra, vứt cho y rồi bảo:

- Các ngươi làm quan không so được với bọn ta, đã ở đây rồi cũng đừng làm bộ làm tịch kiểu nhà quan nữa, khoác nó lên đi, đêm nay… Ta kêu người đi kiếm chút rượu thịt về, ngươi cũng không đến mức lạnh quá không ngủ được như đêm qua.

***

Trong gian phòng trước, Hồng Nương Tử vừa mới rời đi, Thúy Nhi đã ghé sát đến bên cạnh Lưu lão đạo, thấp giọng hỏi:

- Ông giở trò gì thế? Không phải ông từng bảo cần xúi bẩy Hồng Nương Tử giết y sao? Sao lại đổi quẻ rồi?

Lưu lão đạo cười khổ, đưa mắt liếc nhìn ra bên ngoài, đáp nhanh:

- Ôi! Cũng là việc đời khó liệu… Giáo chủ đã đích thân phái người đến thông báo có thể Hoàng đế sẽ xuất kinh, đây là một cơ hội cực tốt. Mà Dương Lăng lại là nhân vật quan trọng đi theo phò tá, nếu thiếu sự ủng hộ của y, e là Hoàng đế khó lòng đi được. Do đó chúng ta nhất định phải bảo vệ sự an toàn của Dương Lăng, bằng bất cứ cách nào cũng không được để y chết.

Thúy Nhi cả kinh, thấp giọng:

- Có chuyện như vậy sao? Thảm rồi, bây giờ phải làm thế nào đây? Mấy kẻ kia cứ nhất quyết muốn báo thù cho huynh đệ, ta cũng đã đỡ lời khuyên nhủ Hồng Nương Tử rồi. Nếu ả đã quyết định chuyện gì rồi thì ngoan cổ lắm, chẳng mấy người có thể khiến ả thay đổi ý kiến được đâu.

Lưu lão đạo lạnh lùng đáp:

- Cô cũng đã đi theo ả mấy năm, rất quen thuộc tính cách của ả, ả cũng đã coi cô như tỷ muội thân thiết nhất rồi, đợi lát nữa hãy thử khuyên nhủ thêm xem. Ta sẽ ngụ lại tại nhà của Hồng viên ngoại ở phía sau đạo quán. Ở đây không thể nghe thấy tiếng điểm canh, cô cứ ước lượng thời gian, chừng canh hai ta sẽ dẫn người tới, cô giả vờ đi tiểu đêm ra ngoài gặp ta. Nếu Hồng Nương Tử đã hồi tâm chuyển ý thì thôi, còn nếu không, cô ra mặt giải quyết người canh gác trước, rồi chúng ta và ả đoạn tuyệt quan hệ!

Thúy Nhi thất thanh:

- Cái gì? Nếu như vậy thì tâm huyết bao năm nay của chúng ta ở giới lục lâm…

Lưu lão đạo khẽ giải thích:

- Bọn chúng đã để lộ diện trước mắt triều đình, cô nghĩ dưới sự vây ráp tiễu trừ của quan binh mà bọn chúng còn làm gì được nữa hay sao? Vốn liếng của chúng ta không thể đặt cả vào đám sơn tặc ấy được!

Ban đêm. Ánh lửa trong phòng khi mờ khi tỏ. Thúy Nhi đang ngủ ngoài cửa đột nhiên mở mắt ra, chậm rãi chống tay ngồi dậy, nhìn qua phía Hồng Nương Tử với vẻ hơi căng thẳng. Thị thấy lúc này Hồng Nương Tử đang dựa lưng vào bức tường đá, hai tay ôm vai, quàng thanh đoản kiếm trước ngực, hơi thở đều đều tự nhiên.

Thúy Nhi lại nhìn vào trong phòng. Dương Lăng không quen ngủ trong tư thế ngồi nên đang nằm co, cuộn người lại trên mặt đất trong chiếc áo choàng độn bông. Thúy Nhi khẽ thở phào một hơi, đứng dậy lẳng lặng đi ra phía ngoài. Đêm nay người canh gác bên ngoài là Hồ Đại Chùy và Phàn lão nhị. Thấy ả đi tới, Hồ Đại Chùy cười híp mắt lại:

- Thúy Nhi, có phải cô lạnh quá không ngủ được phải không? Để ca ca đây ôm một chút cho ấm nhé!

Thúy Nhi cười mắng:

- Cút ngay! Chớ nói với ta những lời dơ bẩn đó, để tiểu thư nghe được xem người có thu thập ngươi không! Tránh xa ra một chút!

Thúy Nhi đi lên bậc thang. Tuy Hồ Đại Chùy dám bỡn cợt ngoài miệng nhưng lại không dám động chân động tay với người của Hồng Nương Tử. Huống chi hắn cũng biết võ công của cô gái này cao minh hơn mình nhiều, nên bèn cười hì hì tránh sang một bên, nhìn cặp mông căng tròn kia ưỡn ẹo biến ra khỏi tầm mắt.

Phía sau đạo quán là một vạt rừng thấp. Hồi chiều gió lạnh rít gào nhưng lúc này đã bớt gió, từng bông từng bông tuyết lớn lặng lẽ rơi xuống, trời không trăng không sao, tối đen như mực.

Ứng phó xong với gã đại đạo canh gác bên ngoài, Thúy Nhi lẳng lặng đi vào trong rừng. Lắng nghe thử thấy phía sau không có động tĩnh gì, ả lại rón rén đi tiếp về phía trước, lần mò đến bên cạnh bức tường thấp bên ngoài khu rừng. Thúy Nhi ghé tai lắng nghe một hồi, hai bàn tay khẽ vỗ ba cái, cách đó không xa có người thấp giọng hỏi:

- Ai đó?

Thúy Nhi cũng thấp giọng đáp:

- Trời giáng Di Lặc phật.

Đối phương vui mừng đáp lại:

- Làm chủ thế giới kia! Lưu hộ pháp, người tới rồi.

Thúy Nhi lần mò bước về phía trước. Phía đối phương không dám đốt đèn, dưới ánh sáng mờ mờ chỉ có thể nhìn thấy sáu bảy bóng người đi tới. Người ở giữa khẽ hỏi:

- Thúy Nhi, thế nào rồi?

Nhận ra giọng của Lưu lão đạo, Thúy Nhi vội bước tới đáp:

- Hồng Nương Tử cảnh giác lắm, hồi sáng ta mới khuyên ả giết Dương Lăng xong, buổi tối khuyên một câu rồi cũng không dám khuyên nữa, sợ khiến ả nảy lòng nghi ngờ. Về sau mấy người Hắc Diêu Tử nghe thấy, lại tới phản bác lời ta. Bọn họ đều là huynh đệ kết nghĩa của Dương Hổ, Hồng Nương Tử nghe xong lời của bọn họ lại càng không chịu thay đổi ý định.

Lưu lão đạo buồn bực:

- Chẳng còn cách nào! Vì đại kế của giáo chủ, giờ đây xem ra chỉ đành phải giết ả thôi. Con ả này võ công ghê gớm lắm, đợi lát nữa hãy nhanh nhạy một chút. Đáng tiếc chúng ta không mang theo dược vật, nếu không thì tiện lợi hơn nhiều rồi.

Thúy Nhi thấp giọng trách:

- Trên đời này làm gì có thứ độc dược nào không màu không mùi chứ? Hơn nữa ta đã theo ả mấy năm, biết rõ sự lợi hại của ả. Mấy thứ hại người tầm thường đó ả chỉ cần ngửi cái là biết ngay, đừng đưa ra mấy ý kiến tồi tệ như vậy nữa! Chẳng bằng nhân lúc ả ta không đề phòng mà tung ra đòn thật mạnh đi!

Lưu lão đạo đồng ý:

- Được! Mọi người chú ý, nhất định phải làm thật nhanh thật độc, quyết không được tha cho bất cứ kẻ nào! Sau đó đổ cái chết của Hồng Nương Tử lên đầu quan binh; khi ấy cho dù có phải leo núi đao thì Dương Hổ cũng chẳng quản ngại gì.

Một bóng đen có địa vị dường như không thấp khẽ cười, vẻ dâm dật:

- Hay cho kế xua hổ đuổi lang! Đáng tiếc, Dương Hổ đại danh đỉnh đỉnh lại là một con hổ ngốc, tự dưng lãng phí hai trăm tên tâm phúc đắc lực cho chúng ta rồi hiện giờ ngay đến vợ cũng để mất. Nghe nói ả đó một thân võ nghệ quyền cước hơn người, tướng mạo quyến rũ, vóc dáng yêu kiều. Ta có mang theo ‘Thần Tiên Võng’ đây, có cần bắt sống ả không?

Lưu lão đạo nghĩ đến dáng vẻ xinh đẹp quyến rũ của Hồng Nương Tử thì cũng thầm bức rức trong lòng. Có điều có thể lọt vào hàng ngũ Bát đại hộ pháp của Di Lặc giáo thì đều là hạng tâm chí kiên định, sau khi cân nhắc một lúc về sự lợi hại được mất, lão bèn hủy bỏ ý định này, nghiêm chỉnh đáp:

- Vạn lần không được! Hồng Nương Tử võ nghệ cao cường, nhất định phải nhân lúc ả không để phòng mà nhanh chóng giết chết! Đi thôi!

Cả bọn theo sau Thúy Nhi lặng lẽ lần mò về hướng đạo quán. Nhìn thấy mấy tòa kiến trúc đen thui phía trước, Thúy Nhi dừng lại sau một gốc cây, thấp giọng:

- Trên xà ngang của ngôi điện phía trước có kẻ canh gác. Các ngươi đợi ở đây, ta đi dụ hắn xuống rồi kết liễu hắn trước.

Lời của Thúy Nhi còn chưa dứt, kẻ đi sau cùng chợt kêu thảm một tiếng rồi im bặt. Mấy người đi phía trước tay nắm chặt binh khí kinh hãi nhìn về phía sau, chỉ thấy bóng đen đó lắc lư mấy cái, rồi đổ gục xuống mặt đất.

Cả bọn đều sởn gai ốc, cơ thịt toàn thân căng cứng, đều không dám động đậy. Tuyết vẫn từ trên trời buông xuống, ngay đến bờ mi mỗi người cũng đều có tuyết bám vào, nhưng lại chẳng ai dám giơ tay lên gạt đi.

Tất cả đều mở to hai mắt nhìn chằm chằm vào bóng đêm tối mịt xung quanh, qua một hồi lâu Thúy Nhi mới run giọng hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Từ phía bên trái chợt vang lên tiếng leng keng vũ khí va chạm. Cả bọn chợt thấy hai bóng người rất nhanh đã quấn vào một chỗ, sau đó một bóng người lao đi, biến vào trong màn đêm. Người còn lại thì kêu lên “Ối!” một tiếng, ngã ngược về phía sau, đau đớn kêu lên:

- Có kẻ tập kích, ta… dưới xương sườn ta bị trúng một kiếm.

Lưu lão đạo vội hỏi:

- Có chuyện gì thế? Là kẻ nào? Quan binh đã tìm tới rồi hay …

Lão đột nhiên xoay người lại, khẽ quát Thúy Nhi:

- Ngươi đã phản bội bản giáo?

Thúy Nhi hoảng hốt:

- Ta… Ta không có, rốt cuộc là kẻ nào?

Một giọng nữ uy nghiêm vô hạn vang lên:

- Là ta!

Thúy Nhi và Lưu lão đạo đều toàn thân chấn động. Thúy Nhi la thất thanh:

- Hồng Nương Tử? Ta… Ta không nên khuyên ngươi, khiến ngươi nảy lòng nghi ngờ!

Giọng nữ kia cười lên khe khẽ. Tiếng cười chợt dừng lại, thay bằng giọng nói khoan thai:

- Thúy Nhi! Chắc ngươi chưa biết ta từng bị quan binh vây quét, liên tục hai mươi ngày không được ngủ đẫy giấc nào. Huống chi đây là nơi kinh sư trọng địa, dưới sự bao vây trùng trùng của quan binh làm sao ta có thể ngủ sâu được cơ chứ?

Những lời khuyên của ngươi hoàn toàn không hề khiến ta nghi ngờ. Chỉ là khi thức dậy ngươi không nên lén lút thăm dò động tĩnh của ta như thế! Dã thú hết sức mẫn cảm với địch ý của kẻ khác, còn ta chính là một con mãnh hổ trong rừng!

Ngược về thời Minh

Chương 182 Xin tiễn người đi

Trong Ngũ thành binh mã ty, đám hung thần nha môn tụ tập lúc nhúc; Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, Cẩm Y Vệ và các quan lớn của bộ Hình giống như những con tu hú chiếm lấy tổ chim khách, dồn viên Ngự sử tuần thành xuống chỗ ngồi bên dưới, vị quan này đang chau mày lắng nghe tên nô bộc trẻ tuổi chuyển lời.

Bởi phong thư đầu tiên được nhận ở Ngũ thành binh mã ty nên quan lớn các bộ đều chạy đến đây, hy vọng chiếm được tin tức trước một bước. Chung quanh Ngũ thành binh mã ty thông rộng ra bốn con đường, mặc kệ tuyết lớn bay lả tả, trời tối như mực, mật thám vẫn được cài cắm, nếu ban đêm có người tình cờ dám tạt qua, lập tức sẽ xuất hiện những kẻ không biết từ đâu chui ra, bất ngờ kẹp nách xốc vào trong căn nhà nhỏ bên đường ngay.

Trên công đường, các quan lớn không ngừng nhận được tình báo thu thập từ nhiều con đường khác nhau, nhưng đúng như người ta thường nói, "một người đem giấu, vạn kẻ khó tìm", kinh sư rộng lớn như vậy, muốn giấu vài người quả thực dễ như trở bàn tay, đến tận giờ vẫn chưa có được tin tức gì hữu dụng. Đến canh ba, Lưu Cẩn và mấy đại nhân không thức nổi nữa bèn kêu người dọn chiếc bàn chân thấp ra khỏi giường, rồi nằm chen chúc nhau đánh một giấc.

Công đường của Binh mã ty đã sớm rối như canh hẹ; đám chủ nhà Điển sử, Chủ bộ, Tuần kiểm đều không dám về nhà, toàn bộ ở lại công đường bận bịu làm việc của mỗi người. Ngũ Hán Siêu đi đi lại lại trên công đường, đã hai ngày hai đêm nay hắn không thể chợp mắt, râu dưới cằm đã mọc lún phún, mắt hằn đầy tơ máu, trông hệt như một con thú bị nhốt trong chuồng.

Hắn lầm tưởng cô ả che mặt kia là Hồng Nương Tử, mới ra ràng nên nặng lòng háo thắng, chỉ nghĩ bắt sống được tên đạo tặc đó, làm đại lễ quy thuận Nội xưởng, không ngờ lại trúng phải kế điệu hổ ly sơn, giờ đây không rõ Dương Lăng sống hay chết. Nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra, hắn liền sởn gai ốc.

Ngũ Hán Siêu thả bộ đi đến bên chiếc bàn chân thấp, ngọn đèn dầu trên bàn sáng trưng, một Chủ bộ khoác trên người áo da đang chống cằm ngủ gật. Ngũ Hán Siêu nhìn thấy trên bàn bày chồng hồ sơ dày cộp, thuận tay nhón lấy một tờ lên xem, vừa nhìn thấy tin tức bên trên, liền cúi xuống gõ nhẹ bàn.

Lão Chủ bộ đang ngủ say sưa, đột nhiên bị hắn đánh thức. Lão không biết Ngũ Hán Siêu, có điều vị công tử này tuy không ăn vận như sai nha, mấy ngày nay lại thường thấy hắn đi ra đi vào cùng với đám người của xưởng vệ, dường như lai lịch không nhỏ, lão Chủ bộ nào dám xem thường, liền vội dụi mắt hỏi:

- Công tử, ngài có việc gì sao?

Ngũ Hán Siêu trỏ vào hồ sơ án hỏi:

- Lính bảo an khu hẻm nghèo nát phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có một đạo sĩ vân du lạ mặt thường hay ra vào, sáng hôm nay có tên hầu đổ phân phát hiện lão ta bước ra từ trong một đạo quán đang xây dở, đã phái người tra xét chưa?

Lão Chủ bộ khẽ gật đầu, thần trí tỉnh lại một chút rồi lại lắc đầu, Ngũ Hán Siêu nổi giận, túm lấy lão nhấc lên, quát:

- Rốt cuộc là đã tra chưa?

Lão Chủ bộ nhăn nhó khổ sở van xin:

- Công tử hãy buông tay, hãy buông tay, xin nghe lão phu nói đã. Khụ khụ khụ, thở... thở không nổi rồi.

Ngũ Hán Siêu hừ lạnh, bỏ tay ra, lão Chủ bộ vuốt vuốt cổ họng, thở hổn hển nói:

- Công tử, tra không nổi đâu. Nhân mã của chúng ta tuy đông, nhưng vào lúc này, cả thành Bắc Kinh nơm nớp lo sợ, chia quân ra canh gác, trông coi các nha môn và phủ đệ của các vị đại nhân, tuần tra kinh thành, có điều khắp kinh thành cũng sẽ không đủ dùng.

Từ khi triều đình dán công văn treo thưởng, tin báo nhận được trong mấy ngày nay không một vạn cũng tới tám nghìn, kẻ nào cũng nói tận mắt trông thấy, kết quả mỗi lần phái đại đội nhân mã đều là một chuyến uổng công, bắt được toàn những kẻ trộm vặt, ăn cướp, lừa bịp, và lưu dân không có giấy tùy thân, thậm chí có cả thông dâm nuôi trai, đại lao đã nhét chật cả người.

Nay tình hình kinh sư như vậy, ngay cả khách điếm cũng không muốn tiếp đón khách mới, càng đừng nói là chùa chiền đạo quán. Đạo sĩ đó vân du bốn phương không chỗ ngả lưng, nghỉ lại nơi miếu chùa đổ nát ngoài thành cũng hết sức bình thường, những kẻ khả nghi còn tra không nổi, lấy đâu người mà đến đó điều tra lão ta?

Ngũ Hán Siêu lạnh lùng hừ một tiếng, xoay người đi ra, lão Chủ bộ liền trừng mắt, nhếch môi. Không thấy tin tức này thì thôi, nhưng nếu đã thấy rồi, người trong lúc tuyệt vọng chỉ cần có một tia hy vọng liền sẽ không kiềm được mà suy nghĩ lung tung, cho nên tin tức này thủy chung vẫn luẩn quẩn trong đầu Ngũ Hán Siêu.

Ngũ Hán Siêu trở lại ghế ngồi, song càng nghĩ càng thấy bực bội, nếu không đích thân đi xem thử thì chuyện này sẽ mãi canh cánh trong lòng. Hắn bỗng đứng dậy, chụp lấy áo khoác ngoài trên ghế rồi vội vã mặc vào.

Liễu Bưu đang ủ rũ từ trong nhị đường(1) bước ra, trông thấy bộ dáng của hắn như vậy bèn đi đến hỏi:

- Ngũ công tử, hiện chỉ có thể đợi đám đại đạo đưa tin đến lần nữa, huynh đệ đã hai ngày không chợp mắt, đến bữa cũng không ăn miếng nào, nếu cứ tiếp tục như vậy, đến lúc có được tin tức của đại nhân rồi, sợ rằng huynh đệ cũng không gắng gượng được nữa đâu.

Ngũ Hán Siêu gượng cười nói:

- Đa tạ Liễu huynh đã quan tâm. Đại nhân bị bắt là do tiểu đệ không làm tròn bổn phận, mỗi khi nghĩ đến chuyện này, thực sự đứng ngồi không yên.

Liễu Bưu nhìn bộ dạng của hắn, thắc mắc:

- Huynh đệ còn muốn ra ngoài ư?

Ngũ Hán Siêu đáp:

- Tin báo bên phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có đạo sĩ vân du lui tới một đạo quán đang xây dở, đệ tính đến đó điều tra cho rõ.

Chủ bộ nọ không nhịn được bèn chen miệng vào:

- Đại nhân, khu vực thành bắc, bao gồm cả đạo quán đang xây dở đó cũng đã được Binh mã ty điều tra một lượt, không hề phát hiện có gì khác thường.

Ngũ Hán Siêu vặn lại:

- Tuy đã điều tra đạo quán, nhưng đã điều tra lão đạo sĩ nọ chưa? Ngươi từng nói có thể đạo sĩ đó đang tá túc tại đấy, lúc này tiết trời giá rét, thế nhưng bên trong đạo quán đó chăn đệm hay vết lửa không?

- Việc đó...

Lão Chủ bộ cứng họng, rờ mũi không biết nói thế nào. Liễu Bưu nhíu mày lại, thấp giọng nói:

- Ngũ công tử, có câu vua không sai được lính đói, quan binh tìm kiếm cả ngày lẫn đêm, cả người lẫn ngựa sớm đã mỏi mệt, lúc này vẫn chưa đến canh tư, thêm nữa tuyết lớn mịt mù, ta thấy hay là đợi trời sáng một chút hẵng cùng nhân mã đi điều tra.

Ngũ Hán Siêu buộc đai lại, đeo kiếm lên, nói:

- Thực như đã có nghi ngờ, dẫn đại quân đến sẽ khiến kẻ gian cảnh giác. Tự mình đệ đi xem thử.

Liễu Bưu biết trong lòng hắn không thoải mái, cũng không khuyên bảo thêm, bèn nói:

- Thôi được, ta sẽ đi cùng huynh đệ một chuyến.

Tuyết vẫn rơi lả tả, trời lại nổi gió, gió rít gào cuốn phăng những bông tuyết. Bóng đêm mờ mịt, mặt đất xốp mềm, cầm đèn soi không thấy nổi ba trượng. Liễu Bưu sang phòng trực gác đêm gọi bốn tay thân binh dậy, sáu người cưỡi ngựa chạy đến phía thành bắc, những giao lộ trọng yếu dọc đường vẫn có quan binh canh gác, kiểm tra thẻ bài giắt lưng của Liễu Bưu xong thì vẫy tay cho qua.

Trong rừng, Lưu đạo sĩ, Thúy Nhi và một giáo đồ Di Lặc giáo dựa sát vào nhau thành hình chữ phẩm (

); nỗi khiếp đảm và một phen chiến đấu đã khiến bọn họ thở hổn hển như trâu. Lưu đạo sĩ đảo mắt liên tục, hòng tìm cơ hội đào thoát, nhưng trong cái bóng đêm như mực ấy, bất cứ lúc nào cũng có thể có một bà la sát nhảy ra đòi mạng, không có Thúy Nhi và tay giáo đồ Di Lặc giáo nọ bảo vệ, lão căn bản không dám tự mình chạy trốn.

Hai bên vừa mới giao thủ, tên đạo tặc canh gác trên xà nhà của đạo quán đã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh; lúc Hồng Nương Tử âm thầm bám theo Thúy Nhi ra khỏi hầm, nàng vẫn chưa thể xác định ả ta có hai lòng hay không, vì vậy chỉ bảo tên nọ canh phòng cẩn thận, lúc này nghe thấy tiếng binh khí va chạm, không cần Hồng Nương Tử ra lệnh, hắn liền chạy vào trong hầm gọi người ra.

Đám cướp còn tưởng rằng đã bị quan binh bao vây, bèn để một tên ở lại trông chừng Dương Lăng, những kẻ khác cầm lấy binh khí xông ra ngoài. Đến lúc xông vào trong rừng, Hồng Nương Tử lập tức quát bảo bọn chúng bao vây bốn phía, không cho bất cứ kẻ nào thừa lúc hỗn loạn mà đào thoát.

Bọn chúng cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, đến khi nghe nói những kẻ này là giáo đồ Di Lặc, dư nghiệt của Bạch Liên giáo, từng hoành hành tại Cam Túc, Thiểm Tây và Sơn Tây, đám cướp mới yên tâm. Song phương đều 'đen', không thể ra 'sáng', chỉ cần không phải quan binh thì dễ xử rồi.

Người trong lục lâm căm ghét nhất chính là bị phản bội, nếu có người làm chuyện có lỗi với huynh đệ, cho dù đó là cha ruột, bọn chúng cũng sẽ không chút do dự tìm kẻ đó để chấp hành sơn quy. Bọn chúng không biết Thúy Nhi vốn là người trong Di Lặc giáo, cho nên chỉ dò hỏi mấy câu qua loa, nhầm tưởng ả phản bội gia nhập Di Lặc giáo, thế nên trong lòng căm ghét vô cùng.

Thúy Nhi có võ công cao nhất trong đám giáo đồ Di Lặc này, tuy đả thương được hai tên dưới sự công kích điên cuồng của bọn chúng, song vẫn bị chặn đường lui. Hồng Nương Tử có võ nghệ kinh người, mượn màn đêm mà rảnh rang ra tay giữa bầy địch, căn bản không cần phân biệt địch ta, chém giết nửa canh giờ, hiện chỉ còn lại ba tên.

Lưu đạo sĩ búng chân thoăn thoắt, chợt khàn giọng kêu lên:

- Hồng Nương Tử, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, nay triều đình đã điều động đại quân, sơn trại lục lâm của ngươi sắp không giữ được nữa rồi. Bắt cóc mệnh quan triều đình là tội lớn tày trời, ngươi và Dương Hổ đã không còn lối thoát. Bản giáo căn cơ hùng hậu, giáo đồ rải khắp thiên hạ, với võ nghệ hai vợ chồng ngươi, nếu như gia nhập bản giáo, tất sẽ là một viên hổ tướng. Ngươi có muốn suy nghĩ lại không?

Hồng Nương Tử nắm chặt thanh đoản kiếm nhuốm máu, lặng lẽ di chuyển trong khu rừng, cười khẩy nói:

- Có lẽ ngươi nên suy nghĩ trước đi! Di Lặc giáo dùng những trò bịp mê hoặc những đôi vợ chồng ngu dốt dâng hiến mọi tiền tài con cái cho các ngươi, cung cấp nô dịch cho các ngươi sai khiến, hán tử trong giới lục lâm chúng ta cũng khinh thường các ngươi. Giết!

Thừa lúc nói chuyện khiến đối phương buông lỏng, Hồng Nương Tử đột ngột lộn người tới phía trước, đâm một kiếm vào ngực gã tín đồ Di Lặc giáo nọ, rồi lại búng người lủi vào trong bóng đêm. Tên tín đồ Di Lặc nọ kêu "hự" một tiếng, buông cây đơn đao trong tay, lảo đảo mấy bước rồi ngã sấp xuống mặt đất phủ tuyết, máu tươi trong ngực trào ra ồ ạt.

Lưu đạo sĩ cực kỳ bi phẫn, giọng run lên:

- Con đàn bà ngu ngốc nhà ngươi, hợp tác thì cùng có lợi, mà chia rẽ thì đều có hại, gia nhập bản giáo, ngươi và Dương Hổ sẽ có thể được phong làm Thiên sư và Phật mẫu, dưới một người trên vạn kẻ, vinh hoa phú quý hưởng không hết.

Không sai, hai trăm huynh đệ đó của ngươi là do bọn ta sai khiến, bán mạng cho chúng ta, nhưng người trong giang hồ nguy hiểm chập trùng, việc đó có gì kỳ lạ? Chỉ dựa vào ngươi ư? Hay dựa vào ngươi và cả Dương Hổ thì có thể báo thù?

Đoạn lão cười sằng sặc dọa nạt:

- Cho dù là nhân mã lục lâm cùng tận ở Bá Châu của ngươi, cũng đừng hòng đối phó với bản giáo. Trong khu rừng này, ta là cá thịt, ngươi là dao thớt, nhưng chỉ cần rời khỏi nơi đây, ta sẽ có tiền tài và nhân thủ vô tận để dùng, cả đời này ngươi cũng đừng mơ báo thù!

Thúy Nhi cũng thấp giọng dụ dỗ:

- Đại tiểu thư, đừng trách Thúy Nhi vô tình, chúng ta ai nấy đều vì chúa của mình. Giáo chủ thần thông quảng đại, là Di Lặc giáng trần, người mới là chân long đó. Bây giờ tiểu thư đã biết Tử Vi chuyển thế, ứng tại Dương Hổ gì đó đều là lời nói gạt rồi chứ?

Hãy nghe Thúy Nhi khuyên một câu, chỉ cần tiểu thư dừng tay giảng hòa, ta và Lưu hộ pháp có thể bảo đảm rằng người sẽ có được địa vị cao quý trong bản giáo. Hiện tiểu thư đã thấy công phu thực tế của ta không kém người là mấy rồi chứ? Nếu thực sự liều mạng liệu tiểu thư có thể giết được ta mà không mất mấy người không?

Trong rừng im phăng phắc, chỉ có tuyết rơi, gió thổi...

Nghe xong lời này Hồng Nương Tử và mấy tay đại đạo đều im lặng không nói lời nào. Một lúc lâu sau, mới nghe Thôi Oanh Nhi cất giọng lạnh lùng:

- Muốn ta không giết ngươi cũng được, ngươi và ta đều phản lại triều đình, chúng ta sẽ không quy thuận các ngươi, có điều muốn hợp tác cũng không hẳn là không thể...

Thúy Nhi mừng ra mặt, vội nói:

- Đại tiểu thư, người đồng ý sao?

Thôi Oanh Nhi cười nhạt nói:

- Đừng gọi ta là đại tiểu thư, hẳn là địa vị của ngươi trong Di Lặc giáo cũng không thấp chứ? Ngươi nên biết là rằng kẻ làm thủ lĩnh nếu muốn thu phục mọi người, thì phải không phụ lòng huynh đệ. Chúng ta lúc đi mang theo hai trăm người, cha mẹ vợ con bọn họ vẫn đang chờ bọn họ trở về ăn Tết, nay đến cả di hài ta cũng không thể mang về thì sao có thể ăn nói với bọn họ?

Thúy Nhi do dự hỏi:

- Vậy... ý của tiểu thư là...?

Thôi Oanh Nhi nói một cách quả quyết:

- Nếu không phải vì Lưu đạo sĩ, chúng ta hà tất phải cực khổ chạy vào trong thành tìm chết? Ngươi giết cho ta cái tên chủ mưu gây nên chuyện này, để ta có thể ăn nói với các huynh đệ, ta sẽ tha cho ngươi, hơn nữa sẽ suy nghĩ hợp tác cùng Di Lặc giáo. Ngươi yên tâm, chuyện này trời biết đất biết, tuyệt sẽ không có bất cứ tín đồ Di Lặc nào biết ngươi làm đâu.

Người Lưu đạo sĩ thoáng run lên, cố mạnh miệng cười nói:

- Ha ha, ha ha, đúng là buồn cười, ngươi muốn chia rẽ để bọn ta tự giết lẫn nhau, để ngươi ngồi hưởng lợi ngư ông sao? Thuý Nhi là Tiên cơ của bản giáo, có thể mắc lừa ngươi sao?

Lão và Thúy Nhi vốn tựa lưng vào nhau, kết chặt thành một khối, nhưng miệng vừa nói vậy lão lại lặng lẽ tách người ra một chút, đặt một nửa sự chú ý ra phía sau, lo sợ Thúy Nhi sẽ bất thình lình cho lão một kiếm.

Thôi Oanh Nhi cười lạnh, giọng quanh quẩn khắp nơi:

- Vừa nãy ai đã nói kẻ thức thời là trang tuấn kiệt? Thúy Nhi, ngươi và ta quen biết đã lâu, nên biết lời ta thốt ra tuyệt không thay đổi. Ta sẽ đếm đến mười, nếu ngươi không động thủ, ta sẽ kêu các huynh đệ chôn xác các ngươi tại nơi này, có lẽ mấy ngày sau thi thể trong đống tuyết của ngươi cũng sẽ bị chó hoang bươi ra thôi. Một, hai, ba...

Theo nhịp đếm của Thôi Oanh Nhi, trái tim của Lưu đạo sĩ và Thúy Nhi đập thình thịch, Lưu đạo sĩ đột nhiên thấy Thúy Nhi bên cạnh thoáng có cử động, bèn cũng vội giật mình tránh thân, hông dường như bị vật gì chém sượt qua, liền nổi giận đùng đùng, chém trả lại một đao, mở miệng mắng:

- Con điếm thối tha, ngươi thực sự động thủ với ta à?

Thúy Nhi lánh người là do cũng bị một vật quét sượt qua, cảm giác giống như cành cây khô, lập tức phát giác bị mắc lừa, ngay lúc nào Lưu đạo sĩ đã hung tợn bổ một đao tới. Thúy Nhi vừa tức giận vừa lo lắng, hất kiếm lên, "keng" một tiếng, một loạt tia lửa bắn ra. Thúy Nhi quát lớn:

- Đồ ngu, đừng trúng kế ả ta.

Chính vào lúc này, từ trong bóng đêm, Hồng Nương Tử người theo ánh kiếm mang theo hoa tuyết, lao đến nhanh như một cơn lốc, một tiếng quát lạnh lùng và nghiêm nghị vang lên:

- Giết!

Từ động tác và phản ứng của Thúy Nhi sau khi vung đao, Lưu đạo sĩ liền phát hiện mình đã bị trúng kế, lúc này nhìn thấy những bóng đen đánh úp tới, Lưu đạo sĩ không kịp suy nghĩ, lập tức vung đao chém tới, la lên:

- Cẩn thận!

Một kiếm của Hồng Nương Tử vốn nhắm vào ngực Thúy Nhi, nàng liền khom người tránh lưỡi đao của lão, rồi hất kiếm lên, đâm ngay vai Thúy Nhi, tiếp đó thân kiếm bị đao chém trúng, mũi kiếm kẹp dưới xương quai xanh của Thúy Nhi rung mạnh, khiến cô ả đau đớn kêu thét lên, trước mắt tối sầm, cơ hồ ngất xỉu.

Rồi không thèm suy nghĩ, nàng lập tức bỏ kiếm, co người bổ nhào vào Lưu đạo sĩ, ôm lấy lão lao về phía trước. Hai người quấn vào nhau, trượt xa hơn trượng mới ngừng lại.

Lúc này, Lưu đạo sĩ đã choáng đến không còn biết trời đất sao trăng chi nữa. Hồng Nương Tử nâng gối thúc mạnh một cái ngay giữa quần lão, giữa tiếng kêu la thảm thiết nàng lại lấy hai tay kẹp lấy đầu lão vặn mạnh, "rắc" một tiếng, tiếng kêu thảm thiết vừa thốt ra lập tức im bặt.

Trúng phải một kiếm nọ, Thúy Nhi vẫn có thể chịu được, nhưng cây kiếm cắm vào hốc xương lại bị đao chém vào gần như chẻ xương quai xanh của ả đứt rời. Cô ả nửa quỳ trên mặt đất, khó khăn lắm mới có thể thẳng lưng dậy, liền tuyệt vọng phát hiện bên cạnh có mấy bóng người lầm lì vây quanh.

Thôi Oanh Nhi buông một câu lạnh nhạt:

- Kéo nó vào đạo quán!

Thúy Nhi chưa kịp mở miệng, liền cảm thấy da đầu bị siết lại, một cánh tay to lớn nắm đầu cô ả kéo lên, sau đó hai vai lại bị đánh một chưởng, hai cánh tay lập tức rũ xuống mềm oặt, chỗ bị thương chịu phải một kích này gần như khiến cô ả đau muốn ngất đi.

Mấy gã đại hán kéo lê Thúy Nhi vào trong đạo quán, Thôi Oanh Nhi đứng nguyên tại chỗ không nói lời nào, mấy tay hán tử còn ở lại bèn gọi:

- Chị dâu...

Thôi Oanh Nhi nhỏ giọng nói:

- Mặc dù bọn chúng để lại tai mắt nhưng tạm thời khó có thể tập hợp nhân thủ, có điều vẫn nên cẩn thận là hơn, đi dạo một vòng xem thử. Nơi này... đã không thể ở lại nữa.

Hai tên đại đạo dạ một tiếng, rồi lặng lẽ xoay người bước đi. Thôi Oanh Nhi ngước mặt lên trời, để mặc cho bông tuyết rơi phất phơ xuống khuôn mặt, hoá thành giọt nước lạnh ngắt. Tuyết đổ rất dày, rất nhanh mấy thi thể trên mặt đất đã bị phủ lên bởi một lớp tuyết trắng ngần.

Thôi Oanh Nhi khẽ run rẩy, quay người trở về trong đạo quán. Dương Lăng ngồi chờ trong một căn phòng đá nằm ở trong cùng, chỉ nghe thấy bên ngoài có tiếng con gái kêu la thảm thiết, lại bị bọn cướp nhốt trong phòng không cho ra ngoài, y còn tưởng đám giặc cướp này không chịu nổi trống vắng cho nên đêm khuya đã bắt cóc con gái nhà dân về chơi đùa, trong lòng căm hận không thôi.

Thôi Oanh Nhi đi vào trong hang, thấy cả người Thúy Nhi đầy máu, khuôn mặt vốn dĩ xinh đẹp đã bị đánh cho tím bầm, tóc tai bù xù trông như quỷ dữ. Hồ Đại Chuy xách đầu cô ả, đang định tát thêm một cái, Thôi Oanh Nhi liền nghiêm giọng nạt:

- Dừng tay!

Nàng bước tới trước mặt Thúy Nhi, chậm rãi ngồi xếp bằng, lạnh lùng nhìn một hồi lâu, rồi mới cất giọng hỏi:

- Ta hỏi ngươi ba việc. Một, tình hình của Hổ ca hiện nay thế nào? Hai, ngươi và Lưu đạo sĩ là Hộ pháp và Tiên cơ của Di Lặc giáo, lại lao tâm tổn sức trà trộn vào trong sơn trại của chúng ta rốt cuộc tính làm gì? Ba, nếu đã muốn lợi dụng ta, cớ sao lại muốn giết ta?

Thúy Nhi phun ra một bãi nước bọt lẫn với máu, thở hổn hển nói:

- Ngươi cứ giết ta đi, đừng hòng moi được tin tức gì từ chỗ của bản Tiên cơ, rồi sẽ biến thành con ma dốt của quan phủ. Ha ha... hộc!

Hắc Diêu Tử đạp một cước vào bụng dưới cô ả, tiếng cười thảm thiết của Thúy Nhi lập tức ngưng bặt. Thôi Oanh Nhi chỉ cười nhạt, lấy làm thú vị hỏi:

- Tiên cơ? Nghe nói Di Lặc giáo thần thông quảng đại, có thể lôi kéo ngũ quỷ(2), có thể biến sắt thành vàng, đao thương bất nhập, bạch nhật phi tiên, lừa gạt khiến một đám dân đen điên đảo thần hồn. Được, vậy để ta lĩnh giáo thủ đoạn của tiên cô Thúy Nhi một chút.

Đoạn nàng đứng dậy, mỉm cười, rút từ trên tường một cây đuốc chưa cháy hết, cầm kiếm gọt vài cái, đẽo thành một cây cọc có cạnh sắc nhọn, sau đó đến bên cạnh Thúy Nhi, đột nhiên vén váy cô ả lên, thò tay giật ống quần của cô ả xuống.

Bên dưới chiếc váy là chiếc quần màu xanh nhạt, trong lợp vải bông, nhưng sức tay của Thôi Oanh Nhi rất khoẻ, vừa kéo xoạt một tiếng, khúc chân trắng trẻo, thon thả và ưu mỹ liền lộ ra. Thúy Nhi rúm người lại, giọng run rẩy:

- Ngươi muốn làm gì?

Thôi Oanh Nhi nhướng đôi mày liễu, giơ cây cọc đen thùi lên, thản nhiên nói:

- Ta đang nghĩ, nếu như đục một lỗ trên chân ngươi, cắm cây cọc này vào, xuyên nó lên tận bắp đùi, không biết đám yêu đạo có thể thỉnh nhờ Đại La Kim Tiên nhập xác các ngươi sẽ vẫn chịu nổi hay không.

Sắc mặt Thúy Nhi trắng bệch. Cô ả cúi đầu trầm tư một chốc, rồi mới cười đau khổ nói:

- Thôi được! Ta biết rõ thủ đoạn của Hồng Nương Tử ngươi, rơi vào tay ngươi rồi, cũng đừng hòng sống mà thoát ra. Ta nói cho ngươi rồi, chỉ xin ngươi... có thể cho ta một cái chết thoải mái.

Thôi Oanh Nhi cười đáp:

- Thông minh, lại đây, nói nhỏ một chút. Ta đồng ý với yêu cầu của ngươi!

* * *

Sắc trời chạng vạng, bông tuyết tuy nhỏ nhưng cũng rất dày, giống như mạt phấn. Hồng Nương Tử và năm gã đại hán áp giải Dương Lăng loạng choạng đi về phía thành ngoại. Dương Lăng lạnh đến độ da dẻ tím tái, y nheo mắt để tránh gió tuyết, bước thất tha thất thểu theo sau Hồng Nương Tử.

Thành bắc là thành ngoại, bên ngoài không có tường thành, mãi đến những năm Gia Tĩnh sau này tường thành của thành ngoại mới bắt đầu được xây sửa để phòng ngừa giặc ngoài. Tiếc rằng chuẩn bị không thỏa, kế hoạch ban đầu là bao thành nội lại, song sức người và sức của không đủ, chỉ xây được mặt thành nam, còn đông và tây chỉ cho ôm lấy thành nội qua loa là liền cho kết thúc công trình.

Vốn vào thời điểm này, cấm thành trong kinh sư bình thường đều tập trung kiểm tra ở cổng nội thành, nhưng do trọng thần trong triều bị bắt cóc, cho nên hiện tại nơi ra vào của thành ngoại dựng đầy lều trại và trạm gác. Mỗi trạm gác đều có một Bả tổng, kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào.

Vẫn chưa đến canh năm, cộng thêm tuyết lớn, trạm gác chỉ có bốn tay vệ binh ôm giáo sắt co ro đứng gác. Trông xa xa thấy có mấy nam nữ đi tới, một tên binh sĩ lập tức quát hỏi:

- Kẻ nào sớm như vậy đã muốn rời thành? Mau đưa ra giấy thông hành và hộ tịch, ngươi, một mình qua đây, những người khác không được tới gần.

Bởi vì gió gắt, tiếng của binh sĩ nọ nghe không thấy lớn. Thôi Oanh Nhi dừng bước chân, ngó năm sáu căn lều trại dựng ở đó, cười lớn bảo:

- Đi gọi quan tướng dẫn binh của các ngươi ra đây, nói có đại đạo Bá Châu là Hồng Nương Tử muốn gặp hắn!

***

Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu dẫn bốn tay thân binh tiến vào căn ngõ hẻm cũ kỹ ở thành bắc. Đến trước đạo quán nọ, Ngũ Hán Siêu nhảy xuống ngựa nói:

- Liễu huynh, tiểu đệ vào trong xem thử!

Chàng ta phi thân vào trong đại điện. Một nửa số phòng ốc của đại điện trống trơn, tuyết bay vào không ít, dưới một bên tường tuyết bị gió cuốn vào gom thành ụ, phía tường đối diện lại không có chút tuyết nào. Chàng ta quan sát chính điện trống không, rồi đẩy mở cửa hông, điện thờ hai bên vẫn chưa lợp mái, chỉ đặt một cái giá, chỉ cần liếc một chút là thấy hết bên trong ngay.

Chàng ta bước mấy bước về phía trước, Liễu Bưu cũng cầm đao theo vào, vòng qua trụ điện, vừa thấy đài đá đặt hương án nọ, hai người liền không khỏi sững ra. Mặt bên hương án xuất hiện một lỗ hang, Ngũ Hán Siêu mừng quýnh, liền phóng qua, trông thấy bên trong dường như có ánh sáng lập loè. Chàng ta cúi tai xuống đất lắng nghe động tĩnh bên trong, đoạn bạt kiếm ra khỏi vỏ rồi nhảy xuống.

Liễu Bưu không kịp cản, vội cùng bốn tay thị vệ đi theo cầm đao đứng thủ ngay cửa hang, chỉ khoảnh khắc liền nghe giọng Ngũ Hán Siêu run run cất lên:

- Liễu huynh hãy mau xuống đây, nơi này không có người, chỉ có xác của một cô gái!

Liễu Bưu nghe vậy liền phóng người nhảy xuống, một lúc sau, hai người lại vội vã nhảy ra ngoài. Ngũ Hán Siêu nói:

- Thân hình và vóc dáng nữ nhân này cực kỳ giống với người đã giao thủ cùng tiểu đệ, thi thể mới vừa cứng lại, đuốc trong động vẫn chưa tàn, chứng tỏ bọn họ rời nơi này chưa lâu. Xem đồ vật để lại bên trong, hẳn có thể giấu được năm, sáu người, rất có khả năng chính là nơi này!

Liễu Bưu liền quát ra lệnh:

- Kỳ chưởng ban, lập tức đi gọi người, đến cổng thành nội, triệu tập nhân mã lật tung cả thành bắc cho ta!

Thị vệ nọ nghe có tin tức của xưởng đốc, liền vội mừng rỡ đáp vâng, rồi xoay người chạy đi. Liễu Bưu trầm ngâm nói:

- Nếu như nơi này chính là nơi ẩn nấp của bọn chúng, bọn chúng bỏ ổ, tại sao không che lấp miệng hang để giấu? Trừ phi...

Ngũ Hán Siêu tiếp lời:

- Trừ phi bọn chúng không muốn trốn nữa!

Liễu Bưu lập tức biến sắc, lo lắng nói:

- Hỏng rồi! Chẳng lẽ tin tức Dương Hổ không nằm trong tay chúng ta đã bị bọn chúng biết rồi sao? Nếu quả như vậy, bọn chúng sẽ đi đâu?

Hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh:

- Ra khỏi thành!

* * *

Trước mặt gần trăm quan binh giáp trụ sáng choang, đao thương san sát, đám người Hồng Nương Tử ngông nghênh cưỡi những con ngựa của họ. Chỉ có năm thớt ngựa, hai trong số đó lại là ngựa thồ, Hồng Nương Tử và Dương Lăng ngồi chung một ngựa, hai tên đại đạo có thân thể gầy gò khác cưỡi chung một ngựa.

Hồng Nương Tử kẹp chặt bụng ngựa, một tay ôm lưng Dương Lăng, một tay cầm thanh đoản kiếm gác trên cổ y, nhoẻn miệng cười tươi như hoa, nói với tay Bả tổng râu xồm đang đứng ngây tại chỗ:

- Đa tạ tướng quân đã ban thưởng ngựa, đại nhân đã kiểm tra lệnh bài ra vào hoàng cung của Dương đại nhân rồi, quả thực không chút giả tạo. Hiện tại ta muốn mời Dương đại nhân của ngươi tiễn ta một chặng, nếu như ngươi dám mang một binh một tốt đuổi theo, hơn trăm quan binh ở đây có thể bảo đảm rằng Dương đại nhân chính là bị ngươi bức chết. Lúc đó tự ngươi đi mà giải thích với đám hổ sói của Nội xưởng nhé. Giá!

Nàng co chân thúc vào bụng ngựa, nghênh ngang phóng đi trong chuỗi tiếng cười hào sảng.

* * *

Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đuổi theo một mạch, giữa đường gặp được tên binh sĩ được gã Bả tổng xui xẻo nọ phái trở về báo tin, nghe chưa hết lời hai người liền phi ngựa đuổi đến lều trại, chỉ thấy một đám quan binh đang đứng trong gió tuyết, gã Bả tổng râu xồm nọ đầu tóc và hai vai dính đầy tuyết. Trông thấy bọn họ đuổi đến, vẻ mặt của lão ta cũng không biết là đang khóc hay đang cười.

Ngựa chạy được một chốc, vừa rời khỏi tầm mắt quan binh, cả bọn liền bỏ quan đạo mà xông vào trong đồng cỏ hoang vu. Dương Lăng đột nhiên hỏi:

- Cô không định trao đổi Dương Hổ sao?

Hồng Nương Tử cười mỉa mai :

- Huynh ấy thực sự nằm trong tay các ngươi sao?

Dương Lăng im lặng, một hồi sau mới nói:

- Các người trốn không thoát đâu, chỉ với mấy thớt ngựa này, còn có tuyết lớn như vậy, các người chạy không tới mười dặm.

Hồng Nương Tử cười lớn nói:

- Đa tạ Dương đại nhân quan tâm. Thực ra ta phải cảm ơn con tuyết lớn này. Tuyết lớn khó đi, đất không lưu vết, đường không thấy người, ngoài trăm trượng không thấy rõ gì cả, trời đất mịt mù, cho dù có trăm vạn truy binh đuổi theo phía sau, có thể làm gì được ta chứ?

Nàng bỗng đảo mắt, kẹp lấy lưng Dương Lăng, ném y xuống đất. Dương Lăng ngã lảo đảo mấy bước, giữ cho ổn định người lại, rồi bình tĩnh ngước nhìn nàng hỏi:

- Cô muốn giết ư?

Hồng Nương Tử vòng ngựa đi quanh y mấy vòng rồi dừng lại, hai người đưa mắt nhìn nhau, bông tuyết rơi nhẹ giữa hai người, che mờ dung mạo của bọn họ. Hồng Nương Tử hít vào một hơi, rồi chợt nói:

- Oan có đầu, nợ có chủ, thật sự bại dưới tay của ngươi, là do bản lĩnh chúng ta kém, hán tử lục lâm không ghi món thù này.

Xúi giục bọn ta vào kinh giết ngươi là người của Di Lặc giáo, gian tế của Di Lặc giáo đó, cũng là thị nữ Thúy Nhi bên người của ta đã bị xử tử. Ngươi cũng đã thấy, hai trăm mạng người này, ta sẽ tìm Di Lặc giáo đòi lại. Dương đại nhân, Hồng Nương Tử ta, nói là giữ lời, hôm nay mượn ngươi để rời thành, thì sẽ tha ngươi một mạng!

Hồng Nương Tử quay đầu ngựa, quát bảo thủ hạ:

-Đi!

Rồi quay đầu lại, mỉm cười nói với Dương Lăng:

- Dương đại nhân! Ngươi là quan, ta là giặc, trượng phu ta bại dưới tay ngươi, ngày sau, chúng ta gặp nhau trên chiến trường, ta sẽ tìm trở lại cuộc chiến này! Giá!

Nói đoạn, nàng vung roi, kiện mã tung bốn vó, phóng như bay đuổi theo mấy tên thủ hạ. Dương Lăng đứng ngẩn ngơ vòng nhìn theo bóng lưng bọn họ đang dần biến mất trong màn tuyết mù mịt đất trời, nhất thời không dám tin nàng ấy sẽ dễ dàng tha cho mình như vậy.

Ngựa chạy xa dần, phía trước vẫn là một màn trời mênh mông mờ mịt. Đang dẫn đầu ở đằng trước, Hồng Nương Tử đột nhiên ghìm cương ngựa, quát:

- Đi, đến Phong Đài, đổi ngựa tốt của chúng ta, nhờ sự trợ giúp của trời đất, rời xa kinh sư!

Hồ Đại Chuy vừa chạy song song với nàng, vẫn bất bình nói:

- Chị dâu, Hổ ca tuy rằng đã thoát khỏi hiểm địa, nhưng sao chúng ta không thừa cơ giết chết tên cẩu quan đó luôn? Cứ vậy mà tha cho hắn, huynh đệ thực sự không phục!

Hồng Nương Tử cười nhạt, vặn hỏi:

- Giết y? Giết y rồi Di Lặc giáo sẽ ra tay với hoàng đế thế nào? Di Lặc giáo mà không ra tay với hoàng đế, liệu triều đình sẽ tập trung toàn lực đi báo thù thay chúng ta sao?

Hồ Đại Chuy sực tỉnh nói:

- A! Ý của chị dâu là...

Hồng Nương Tử cướp lời:

- Chạy mau lên, y tưởng chúng ta chạy về Bá Châu, chúng ta càng phải theo y đến Đại Đồng. Di Lặc giáo coi chúng ta là giáo, lần này ta muốn mượn 'cây giáo' này của triều đình đối phó với lão già Lý Phúc Đạt!

Chú thích:

(1) nơi làm việc đằng sau công đường trong quan phủ

(2) còn gọi là Ngũ ôn thần, hay Ngũ ôn sứ giả, gồm có: Xuân ôn Trương Nguyên Bá, Hạ ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu ôn Triệu Công Minh, Đông ôn Chung Sĩ Quý, Tổng quản trung ôn Sử Văn Nghiệp

 Ngược về thời Minh

Chương 183 - Vua muốn đi xa

Quan binh canh giữ những quan ải quan trọng của kinh thành cũng không có nhiều kỵ binh cho lắm, mặc dù là kinh sư cũng không nuôi nổi bấy nhiêu chiến mã mà bình thường chỉ để đó không dùng. Nhưng ngay khi tin vừa được đưa vào nội thành, đề kỵ(1) của Cẩm Y Vệ và mã khoái (sai nha cưỡi ngựa) của Ngũ thành binh mã ty liền tranh đi trước đại quân, đuổi theo ra ngoài thành tới mấy dặm đường, bất chấp tuyết rơi mù trời.

Tuyết lớn khó đi, bọn họ đuổi đến khi cả người lẫn ngựa đều mệt lử thì chợt trông thấy ở đằng trước xuất hiện mấy bóng người lẻ loi trên đường. Đám quan binh vội ghìm ngựa rút đao, dè chừng tiến tới gần mới thấy rõ là vài viên thị vệ Nội xưởng đang đứng bất động trong tuyết.

Đám Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đang đứng như trời trồng, hồn bay phách lạc: phía trước, một gốc cây khô to bằng một vòng tay bị tuyết nặng đè gãy chắn ngang trên đường, trên gốc cây tuyết xốp phủ đều, hiển nhiên bọn đạo tặc đã đi vòng qua. Thế nhưng tuyết lớn mịt mù, trên đường mất sạch dấu tích, bọn họ chẳng khác gì anh mù cưỡi ngựa lòa, biết đuổi về phương nao bây giờ?

Một tay Cẩm Y bách hộ tra cây Tú Xuân đao(2) vào vỏ, thúc ngựa tiến tới. Khi đến gần, trông thấy người ngồi trên ngựa ở đằng trước là Thiên hộ Liễu Bưu của Nội xưởng, hắn liền vội ôm quyền thi lễ:

- Liễu đại nhân! Có phải đã có tung tích của Dương xưởng đốc?

Liễu Bưu quay đầu lại, thấy sau lưng có hơn trăm quan binh cưỡi ngựa bèn hít sâu một hơi rồi quát bảo:

- Toàn bộ tản ra! Năm người một nhóm, lấy nơi này làm trung tâm tìm kiếm chung quanh, thường xuyên trao đổi tin tức lẫn nhau. Một khi có manh mối của đại nhân phải lập tức phi ngựa về báo, không được tự ý quyết định.

Tay Bách hộ đó vâng dạ rồi dặn dò Cẩm Y Vệ và mã khoái tản vào trong đồng hoang. Một lát sau, thềm nhiều người ngựa lục tục kéo đến lũ lượt gia nhập vào trong đoàn người tìm kiếm.

Dương Lăng bị mang vào đồng hoang cách đường cái mấy dặm. Đôi giày quan của y bị tuyết ngấm vào ướt sũng, đôi giày da trâu này vừa ẩm vừa nặng, y bước đi loạng choạng, đi đến độ mồ hôi đẫm lưng, tim đập như trống. Chợt trông thấy trong gió tuyết có mấy bóng người đang đến gần, Dương Lăng trợt chân, suýt nữa ngã nhào.

Mấy tay quan quân trông thấy trước mặt có người, cũng căng thẳng rút đao thương ra quát lớn:

- Kẻ nào đó? Đứng lại! Cấm đến gần! Người đâu mau lên, ở đây có người, ở đây có người!

Dương Lăng định thần lại, trông thấy những kẻ trước mặt mang mũ tua đỏ trông như quan binh, liền vội quát:

- Ta là Dương Lăng, các ngươi là quan binh của bộ nào?

Mấy tên quan binh đó nghe xong thì bán tín bán nghi, bèn đi tới gần quan sát y từ đầu đến chân một lượt, trông thấy y phục của y lập tức tin tưởng mấy phần, nhịn không được liền hào hứng reo to:

- Tìm được Dương đại nhân rồi! Chúng tôi tìm được Dương đại nhân rồi!

Tay tiểu ngũ trưởng cầm đầu hưng phấn đến độ cả mặt đỏ bừng, "Công to ở ngay trước mắt rồi! Đây quả là ông trời tặng đại lễ mừng Tết cho ta rồi!". Gã chỉnh đốn lại y phục, bước vội tới dùng quân lễ ra mắt, cao giọng thưa:

- Tiêu hạ (như thuộc hạ - ND) là Hạ Đại Niên, Ngũ trưởng của Chấn Uy doanh, tham kiến xưởng đốc đại nhân!

Dương Lăng cười khổ, bảo:

- Miễn lễ, mau đưa bản quan trở về! Thực sự chịu hết nổi rồi.

Tay Ngũ trưởng nọ liền vội đứng dậy rồi cùng với một sĩ tốt cường tráng dìu Dương Lăng nhanh chóng quay về. Tin tức mau chóng lan truyền, quan binh nhanh nhẹn tụ tập về hướng đó, đến khi Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu hay tin, mừng như điên chạy đến nơi thì người dìu Dương Lăng đã đổi thành Tì tướng Lưu Bản Nguyên và Bả tổng Trương Khai của Chấn Uy doanh.

Liễu Bưu mặt mày kích động, dừng bước chân ngắm nhìn Dương Lăng một lúc rồi mới nghẹn ngào:

- May sao xưởng đốc đại nhân... bình an vô sự!

Ngũ Hán Siêu bước đến trước mặt Dương Lăng, hổ thẹn nhìn y, rồi không nói không rằng vén áo bào quỳ xuống tuyết.

Tuy Dương Lăng ngồi nơi ghế cao nhưng lại không hề có thói kênh kiệu vênh vang, lấy thân chủ nhân đãi phận tôi tớ; đó cũng là chỗ khác biệt giữa y và những mệnh quan khác.

Tuy thuật tiết chế kẻ dưới từ xưa quý nhất là ở chân thành, chứ không phải thủ đoạn, coi chúa như thầy, coi vua như bạn, coi việc mất nước cấp bách như việc quân. Thế nhưng thời xưa quan niệm tôn ti trên dưới quá nghiêm, dẫu rằng quan viên có đối đãi rộng lượng với kẻ dưới cũng rất khó lòng tôn trọng thuộc hạ, mà chủ yếu là chỉ ban thưởng tiền tài và danh lợi. Cho nên Trình Bất Thức trị quân nghiêm ngặt, một vạn sĩ tốt dưới trướng ai nấy đều nghe lệnh, còn Lý Quảng cai quản thuộc hạ khoan dung, ấy vậy mà năm nghìn thủ hạ lại có thể chọi năm vạn người, mỗi khi gặp chiến trận ai nấy đều dốc sức liều mạng.

(Xin xem Lý tướng quân liệt truyện – Sử ký Tư Mã Thiên, )

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi mà Dương Lăng có thể xem các nội tướng Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh cùng ba vị nguyên Đô ty Thần Cơ doanh và hai người Liễu, Dương là tâm phúc. Bọn họ cũng theo y không rời không bỏ, dĩ nhiên cũng có nhân tố là họ theo y để được tiền đồ như gấm, song quan niệm "sẵn sàng chết vì tri kỷ" của những nhân sĩ này cũng chiếm một phần rất lớn tâm tư của bọn họ.

Về phần Ngũ Hán Siêu, hắn xuất thân võ lâm chỉ mới vừa gia nhập Nội xưởng; uổng cho một thân võ công thế mà lại chưa hề có ý thức làm bảo tiêu. Nay thấy hắn xấu hổ tự thẹn, bộ dạng lôi thôi lếch thếch, Dương Lăng cũng không nỡ trách thêm.

Y bước tới đỡ Ngũ Hán Siêu dậy, mỉm cười nói:

- Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng, đừng tự trách mình nữa. Có điều sau này phải nhớ kỹ bốn chữ 'làm tròn bổn phận', không phải chức trách của mình thì không can dự vào. Ngươi là thị vệ cận thân của bản quan, hộ vệ bản quan không bị làm hại chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, việc bắt giặc cứ giao cho nha môn xử án là xong. Nếu như lần sau lại xảy ra việc như vầy, cho dù bản quan không phạt gậy ngươi thì phu nhân của ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu.

Lời của Dương Lăng khoan dung độ lượng, có mềm có cứng, khiến Ngũ Hán Siêu cảm kích không thôi. Miệng hắn mấp máy, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng đành chôn chặt sự hối hận và cảm kích trong lòng, không thốt tiếng nào.

Dương Lăng quay đầu hỏi Liễu Bưu:

- Chuyện của ta... phu nhân đã biết chưa?

Hiện tại Liễu Bưu đã kiềm được sự kích động khi vừa gặp mặt, rạng rỡ đáp:

- Đại nhân yên tâm! Ngô đại nhân và Hoàng đại nhân không dám để trong phủ hay tin. Thuộc hạ đã đưa tin cho phu nhân rằng do chiến sự tiền phương và sắp đến Tết nên ở cung đình sự vụ bộn bề, vì vậy mấy ngày nay đại nhân không thể hồi phủ.

Liễu Bưu vừa cởi áo choàng của mình khoác cho Dương Lăng vừa nói tiếp:

- Đại nhân! Tin tức đã được phi mã hồi báo về thành rồi, đại nhân hãy mau hồi kinh đi, tránh để Hoàng thượng nhung nhớ. Mấy tên cường đạo đó...?

Dương Lăng bảo:

- Trời tuyết lớn khó lần ra tung tích, bọn chúng chạy về hướng nào khó mà đoán được. Quay về bảo quan phủ các nơi dán tranh, vẽ hình truy nã nghiêm ngặt là được. Còn nữa, bảo người của chúng ta chú ý đến những nhân vật khả nghi vừa xuất hiện trong thành.

Đạo tặc Dương Hổ đến kinh thành, lại do Di Lặc giáo âm thầm dụ dỗ, cuối cùng hai bên lại xảy ra chém giết, rõ ràng không chỉ đơn giản là tạm thời nảy ra ý muốn giết mình như vậy. Tuy Hồng Nương Tử không nói rõ ràng, song Dương Lăng cũng ngờ rằng trong đó ắt có âm mưu, chỉ là chuyện này y không tiện đề cập với Liễu Bưu trước đám đông người.

Y chỉ kể lại qua loa chuyện mình được thả, rồi được mọi người dìu đỡ lên ngựa vội vã hồi thành. Lưu Cẩn vừa nhận được tin, một mặt sai người báo tin mừng cho Hoàng thượng, mặt khác đích thân dẫn người ra ngoài nghênh đón.

Lúc Dương Lăng vào cung, tảo triều hãy còn chưa kết thúc. Thái giám đứng hầu ghé tai nói nhỏ với Chính Đức mấy câu, hắn vừa nghe liền mừng ra mặt, vội vã giải quyết cho hết công vụ, cho dừng tảo triều rồi liền lập tức chạy về phía điện Bảo Hòa.

Chính Đức vừa bước vào đại điện, Dương Lăng đang ngồi dựa bên cạnh lò than lửa long phượng sưởi ấm trông thấy lập tức bước tới làm lễ ra mắt. Chính Đức nâng tay đỡ y, quan sát một lượt rồi mừng rỡ cười nói:

- Tốt, tốt! Trở về là tốt rồi, mấy ngày nay khiến trẫm thực lo quá đi.

Hắn kéo Dương Lăng vào trong nội điện, ngồi trên giường lò, rồi cười nói với đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng:

- Ngồi đi, ngồi xuống cả đi! Dương khanh, đám đại đạo Bá Châu đó không làm khó gì khanh chứ?

Tiểu hoàng môn dọn vào sáu bảy cái bệ gấm, đám người Dương Lăng tạ tội rồi ngồi xuống. Thấy trong phòng chỉ có mấy người trong đám bát hổ, Dương Lăng bèn đáp:

- Dạ! Nữ tặc đó bắt cóc thần chỉ vì muốn trao đổi với đạo tặc Dương Hổ của ả, cho nên không hề ngược đãi thần. Về sau biết được Dương Hổ đã bỏ trốn, ả mới mang tính mạng của thần uy hiếp, phá ải xông ra ngoài tẩu thoát.

Chính Đức nhướng mày, nôn nao bứt rứt:

- Từ xưa những kẻ cậy võ vi phạm cấm lệnh, dám bắt cóc trọng thần triều đình quả thực rất hiếm. Gan dạ và bản lĩnh của nữ tặc này thực bất phàm, có thể bắt cóc khanh ngay giữa phố chợ sầm uất, phải chăng là phi tặc biết khinh công bay lượn trong truyền thuyết? Thực khiến cho trẫm rất háo hức, tò mò đây.

Dương Lăng đáp:

- Lên cao xuống thấp như đi trên đất bằng, búng người không cao hơn một trượng, kiếm không (dài) tới ba thước chỉ có thể cậy võ phạm cấm, khiến cho máu đổ năm bước mà thôi. Điều Hoàng thượng tu chính là Thiên Tử kiếm, một cái vung tay, binh ở ngoài vạn dặm liền kéo đi như thủy triều, vừa ra chiếu lệnh, liền thao túng tính mạng sinh tử cùng hỷ nộ ái ố của tất cả mọi người. Võ công cao có gì mà đáng hâm mộ?

Chính Đức cười to, mặt mày nở nang:

- Ái khanh nói chí phải! Thị vệ đại nội của trẫm cũng có bản lĩnh như vậy, cái gì là tám bước đuổi ve, lướt bèo qua nước gì chứ!? Có lần trẫm cao hứng từng bảo bọn chúng tay không trèo lên điện Thái Cực, song lại không một ai trèo nổi.

Dương Lăng tiếp lời:

- Lời đồn của dân gian bao giờ cũng thổi phồng bản lĩnh của bọn họ. Có điều đám mã tặc này cậy vũ lực đối chọi phép vua vẫn không đáng sợ, song hiện tại lại có một lực lượng mà Hoàng thượng vạn lần chớ nên xem nhẹ.

Chính Đức hiếu kỳ hỏi:

- Lực lượng nào?

Dương Lăng thưa:

- Di Lặc giáo! Bọn chúng dùng lời tà thuyết mê hoặc dân chúng, khắp tam giáo cửu lưu đều có tín đồ mù quáng nghe theo. Theo lời của đám mã tặc Bá Châu mà thần nghe trộm được, lần này mấy trăm đại đạo âm thầm vào kinh chính là do sự sai bảo của giáo chủ Di Lặc, mưu đồ hiển nhiên không chỉ là tính mạng của thần. Cái nguy hại của tà giáo hơn xa mối nguy của đám vũ phu tụ tập nơi núi rừng, Hoàng thượng không thể không cẩn thận!

Từ xưa, điều đế vương e ngại nhất chính là những tổ chức tà giáo mê hoặc lòng dân; lực lượng của bọn họ như rễ cây bám sâu vào lòng đất, ẩn náu trong dân gian. Khi bọn họ không phát động đấu tranh hoặc nổi loạn thực khó mà phân biệt lương dân với tín đồ; đợi đến khi bọn họ vừa khởi sự lập tức đã có ngay mấy mươi vạn tín đồ, sẽ rất nguy hại cho triều đình. Triều Minh vốn lợi dụng giáo phái để khởi sự, thành sự rồi mới thoát ly khỏi bọn họ, cho nên hiểu rõ nhất về sự đáng sợ của lực lượng tôn giáo.

Chính Đức nghe xong nụ cười liền tắt vụt, lo lắng:

- Di Lặc giáo? Lúc bọn chúng truyền đạo ở Thiểm Tây, lôi giành sự ủng hộ xa gần, ngu dân giào nghèo theo họ có kẻ dâng biếu cả nghìn vàng, cho dù phá gia cũng cam tâm tình nguyện, hoặc hy sinh con cái, hoặc buông bỏ đồ dùng, nối đuôi mà theo. Một khi giáo chủ hạ lệnh, liền có thể thu được vạn lượng hoàng kim trong một tối, hương dân gần xa không ai mà không theo bóng nó, quả thực là cái họa lớn của triều đình.

Có điều sau khi cái tên Lý Việt bị chém đầu, bọn chúng liền tan đàn xẻ nghé, triều đình đã không còn nghe đến tung tích của Di Lặc giáo nữa, chẳng lẽ bọn chúng vẫn đang hoạt động?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Dạ, Di Lặc và Bạch Liên vốn một nhà. Từ cuối đời Đường, Tống, Nguyên đến nay, người Hán làm chủ thì sẽ phản Hán, người Nguyên làm chủ lại sẽ phản Nguyên, mưu đồ của nó chính là xã tắc vậy. Mỗi khi gặp phải đả kích, nó liền sẽ biến lớn thành nhỏ, biến nhỏ thành không, rút vào trong bóng tối, âm thầm tích góp lực lượng chậm rãi chờ ngày quật khởi. Theo thần nghĩ, do lực lượng của bọn chúng hiện chưa đủ để đối kháng với triều đình nên mới mượn tay kẻ khác, nhằm loạn chính nhiễu dân.

Chính Đức đứng bật dậy, đám người Dương Lăng và Lưu Cẩn liền vội đứng lên theo. Chính Đức chậm rãi thả bước trong điện một hồi, chợt trỏ Cốc Đại Dụng bảo:

- Đại Dụng! Việc này giao cho ngươi đi làm, tập hợp lực lượng Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y Vệ, bí mật truy lùng Di Lặc giáo, nhất thiết phải diệt trừ gốc rễ bọn chúng.

Cốc Đại Dụng liền vội vâng dạ đáp lời. Chính Đức thoáng trầm ngâm, lại vung tay hạ lệnh:

- Các ngươi lui xuống đi, Dương khanh hãy ở lại.

Đợi mọi người lui ra khỏi điện rồi, Chính Đức vội nói với Dương Lăng:

- Dương khanh, mạch máu của Bạch Liên giáo kéo dài đã mấy trăm năm, đời sau nối tiếp đời trước, trước nay đều không thể tiêu diệt được nó.

Khi tiên hoàng còn sống, thường hay nói rằng bá tánh thờ ngưỡng nó, hoặc vì phú quý, hoặc do trường sinh, trong đó không thiếu người lương thiện, chưa hẳn đều là những kẻ có mưu đồ tạo phản. Nếu như trừng phạt quá rộng, sẽ gây tổn hại đến gốc rễ của Đại Minh, còn nếu chỉ tiêu diệt kẻ cầm đầu, lại sẽ như ngắm hoa trong sương. Đại Minh từ thời dựng nước đã diệt trừ tà giáo, không biết còn phải diệt trừ đến năm nào tháng nào.

Việc này không gấp, giao cho hai xưởng một vệ xử lý là được. Nội xưởng của khanh vẫn còn phải để ý đến chiến sự ngoài Đại Đồng và chuẩn bị cho trẫm đi lên phương bắc.

Dương Lăng do dự:

- Hoàng thượng! Thần bị đạo tặc bắt cóc đã khiến cho lòng người bất an, nếu như lúc này Hoàng thượng xuất kinh, e rằng bá quan sẽ càng kinh hãi. Chi bằng bí mật thông tri cho Đoá Nhan Tam Vệ trước, đợi khi việc thanh trừng giặc cướp và đả kích tà giáo của thần có chút thành quả rồi Hoàng thượng mới khởi hành. Hoàng thượng thấy thế nào?

Chính Đức có mỗi việc xuất kinh này là chuyện vui, thật sự còn sướng hơn cả đón Tết nên nào thèm nghe. Hắn không chịu:

- Kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ sớm một ngày thì biên ải sẽ bớt được một ngày tổn hại. Đây là đại sự nước nhà, trẫm đường đường là vua một nước, há có thể sợ một đám giặc cướp? Lòng dân bất ổn thì mặt mũi triều đình càng bị tổn hại, cho nên trẫm càng phải xuất kinh!

Rồi hắn hớn hở nói tiếp:

- Đợi trẫm từ biên ải nở mày nở mặt trở về kinh sư, lòng dân sẽ yên ổn ngay. Nếu như ngay cả lãnh thổ của chính mình mà trẫm còn không dám bước chân đến thì mới thực sự là mất hết mặt mũi đó. Bọn chúng có thể bắt cóc ái khanh giữa dăm ba thị vệ là có thể khiến trẫm bị thương giữa trăm nghìn giáp sĩ ư? Nếu như có bản lĩnh đó, bọn chúng cũng có thể xông vào cung bắt cóc trẫm vậy. Thế thì trẫm cũng nên chắp tay dâng cái giang sơn này cho rồi, trốn trong Tử Cấm Thành còn an toàn sao?

Dương Lăng cười khổ sở đáp:

- Muốn Hoàng thượng xuất kinh, tự dấn thân nơi biên ải, thị sát dân tình, kết giao với nước chư hầu, làm một thánh quân lưu danh thiên cổ, vốn là tâm nguyện của thần. Nhưng mà Hoàng thượng lại can hệ đến cả thiên hạ, thần thực sự chưa nguôi hết nỗi lo.

Chính Đức cười hí hửng:

- Chưa nguôi hết nỗi lo thì sẽ từ từ mà nguôi, kinh thành này trẫm vẫn sẽ phải rời khỏi. Trẫm dẫn theo ba trăm thị vệ đại nội, cộng thêm mấy nghìn quân thiết giáp của khanh, thực muốn xem thử còn ai có thể đả thương được trẫm.

Nói đoạn hắn sực nhớ ra một chuyện, bèn hớn hở kể:

- Đúng rồi! Dương khanh quả nhiên có nhãn quan độc đáo. Mấy ngày trước có đám ngôn quan dâng sớ chỉ trích Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân uổng công ôm mười vạn quân nhưng lại đóng thành không ra, mặc cho giặc Thát hung hăng càn quấy ngoài thành. Ái khanh lại nói bọn họ làm vậy ắt có mưu đồ, cho nên trẫm nghe xong mới không hạ chỉ giục bọn họ xuất binh, chỉ chuyển tấu chương hặc tội đến cho Dương Nhất Thanh, bảo gã dâng sớ biện bác.

Hôm qua tấu chương của Dương Nhất Thanh đã được đưa vào trong kinh, bọn họ quả nhiên có mưu kế khác. Ha ha, hai người này khẩu vị không nhỏ đâu à! - Chính Đức vừa nói vừa lục lọi trên chiếc bàn chân thấp trên giường một hồi, không tìm thấy bản tấu chương bèn kể tiếp - Xưa nay giặc Thát xuất binh, luôn lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, không mang theo cấp dưỡng, và thực sự là bọn chúng cũng không có cấp dưỡng để mang theo. Cho nên khi đánh luôn phải nhanh như mưa sa gió táp, phải một kích tất trúng. Mục đích không đạt được liền chuyển sang công kích nơi khác, không thể dừng lại ở một nơi quá lâu.

Lúc đầu bọn chúng công thành chiếm đất, cướp được một số lượng lớn tiền bạc và lương thực. Dương Nhất Thanh lại không cho bọn chúng có cơ hội rút lui, cứ kẹp chặt lấy bọn chúng, níu chân bọn chúng ở vùng lân cận Đại Đồng. Hơn bảy vạn đại quân giặc Thát, phải nuôi cả ngựa lẫn người, nay những thức bọn chúng cướp được đều đã hết sạch.

Năm nay bọn chúng xuất binh cướp bóc, chẳng những không thể lấy được gì về cấp dưỡng cho bộ tộc mình mà lúc xuất binh còn dùng hết lương thực dự trữ, sau khi trở về e rằng sẽ phải giết bò ngựa mới có thể qua khỏi mùa đông, ắt sẽ đại thương nguyên khí. Tên Dương Nhất Thanh này đánh giặc không chỉ lo nghĩ trước mắt, mà tầm mắt lại còn trông xa đến vậy, quả nhiên là một tướng tài.

Hai ngày trước Vương Thủ Nhân đóng quân giữ ải, sau một ngày khổ chiến đã quăng mũ cởi giáp, vờ đại bại mà chuồn, bỏ lại lương thảo cho giặc Thát. Những tên lính đói đó vội vã chôn nồi nấu cơm. Ăn xong bữa đó, lính trúng độc mà chết đã có hơn năm nghìn, ngay cả chiến mã ăn phải cỏ độc cũng chết quá nửa, đó đều là tinh nhuệ của Bá Nhan đó à. Ha ha, không phí một binh một tốt mà có thể khuất nhục được địch quân, đánh trận như vậy trẫm mới thích!

Chậc! Có điều không biết Bá Nhan Mãnh Khả nghe báo xong có thổ huyết không nữa, chốc nữa hãy kêu người của khanh thám thính thử xem sao.

Chính Đức mỉm cười vỗ vai Dương Lăng, hết sức hài lòng.

Dương Lăng nghe xong cũng vui sướng vô cùng, bèn tâu:

- Công lớn như vậy, Hoàng thượng nên thưởng lớn mới được. Trên chiến trường, làm tướng dụng binh thực không dễ, có Hoàng thượng ban thưởng, nhuệ khí sẽ được nâng cao, một lính có thể chọi hai quân đấy.

- A! Chính Đức vỗ vỗ trán, - Vốn trẫm cũng định ban thưởng, nhưng Lưu Cẩn nói mới chỉ là tin thắng trận mở màn, nếu như thưởng to, e rằng binh tướng sẽ sinh ra kiêu ngạo, cho nên trẫm đã gác lại. Việc này... hiện tại ban thưởng có sao không?

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì ngẩn người. Y đã lường trước Lưu Cẩn nhất định cực kỳ bất mãn với hai người Dương Nhất Thanh, tuy kết quả dụng binh của hai người này có liên quan trực tiếp đến niềm vui nỗi buồn của lão cho nên lão phải dốc sức làm tốt công việc hậu cần, song lão sẽ không mong thấy hai người bọn họ được khen thưởng.

Dương Lăng không trả lời ngay, mà lại cười, nhớm hỏi:

- Có công thì thưởng, có tội thì phạt, lúc nào ban ơn, khi nào nghiêm luật, Hoàng thượng nhất định đã có dự tính sẵn trong lòng. Nếu như Hoàng thượng là tướng lĩnh dẫn binh, sẽ hy vọng thế nào?

Chính Đức không hề nghĩ ngợi gì, hùng hồn đáp ngay:

- Trẫm ư? Trẫm đã lập được đại công thì đương nhiên muốn được thưởng, muốn thăng quan, muốn tiến chức, muốn cưỡi ngựa diễu hành, được nở mày nở mặt mà, bằng không ai còn bán mạng cho khanh chứ? Trẫm hài lòng thì lính của trẫm cũng không... ồ...

Hắn chợt ngậm miệng, liếc xéo Dương Lăng, cười tủm tỉm, đấm ngực y một cách thân thiết, rồi cười lớn bảo:

- Nói chuyện vòng vo! Dương thị độc cũng gạt cả trẫm vào tròng rồi.

Chính Đức suy nghĩ một hồi rồi nói:

- Vậy tức là thưởng. Tết rồi, tướng sĩ ở tiền phương phục tùng mệnh lệnh, không vì chuyện này thì vẫn phải thưởng. Chốc nữa trẫm sẽ bảo Lý Đông Dương và Tiêu Phương thu xếp là được. Đúng rồi, tấu chương liên danh của Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân còn đề cập đến việc khi giặc Thát đại thương nguyên khí, bọn chúng lấy du mục làm chủ, không quen trồng trọt, mùa đông năm nay dê bò tiêu hao quá nhiều, e rằng sang xuân cũng sẽ thay đổi thói quen trước kia, sẽ không ngừng tập kích biên giới. Bọn họ kiến nghị với trẫm là vẫn cho phép đóng trọng binh ở biên tái. Nếu như Thát Đát tập kích biên giới mà không được gì, chắc hẳn bọn chúng sẽ quay sang Đoá Nhan Tam Vệ gây áp lực đòi lấy tài vật, cho nên đề nghị trẫm ban ơn lôi kéo Đoá Nhan Tam Vệ, không ngờ lại khéo hợp với đề nghị của khanh.

Dương Lăng đăm chiêu đáp:

- Ừm! Bọn họ ở tiền phương, đương nhiên sẽ thấy được rõ, nghĩ được xa, năm sau Thát Đát tập kích biên giới, chính hợp với ý thần. Đúng lúc Hoàng thượng đổi chỗ Kinh doanh và biên quân để bọn họ luân phiên ra chiến trường rèn luyện một phen, nhân dịp này mượn tay Thát Đát huấn luyện quân Đại Minh của chúng ta.

Về phần Đoá Nhan Tam Vệ, chuyện này vốn đã được dự tính trước, đây cũng là một cơ hội tốt để bức bọn chúng quy thuận triều đình. Có điều bọn chúng chỉ biết theo đuổi cái lợi, không giữ vững lập trường, đục nước béo cò, trước đây khi còn giao hảo vẫn thỉnh thoảng tập kích cướp bóc biên cảnh, chưa hề thực sự ngoan ngoãn quy thuận. Kết minh chẳng qua chỉ là cái kế tạm thời, mảnh đất rộng lớn Liêu Đông sớm muộn gì sẽ phải nằm trong tay triều đình mới được, cho nên không thể vì vậy mà áp chế bọn chúng.

Muốn nhận trước hết phải cho. Bọn chúng có ngựa, chúng ta có lương thực, dầu, muối, vải vóc, tơ lụa, lợi ích chẳng những không thua kém, mà còn có thể cho bọn chúng nhiều hơn, tăng thêm tỉ suất trao đổi chiến mã và lương thực dầu mỡ, khiến chúng càng lúc càng giàu, càng sẽ không để ý đến Thát Đát nữa. Thát Đát cũng sẽ càng lúc càng đỏ mắt vì ghen tị, khi đó sẽ chính là cơ hội của triều đình.

Dường như Chính Đức bẩm sinh rất hứng thú với những thủ đoạn lừa bịp của phường cường đạo, không hề có chút giác ngộ nào của bậc đế vương thiên triều, nghe xong kế sách "hèn hạ thâm độc" của Dương Lăng thì hắn không khỏi gật đầu lia lịa, luôn mồm khen phải.

Đã sát cuối năm, chuyện vì một đại đạo mà binh giáp khắp thành đã tổn hại đến năng lực và uy tín trong việc khống chế thiên hạ của triều đình, nếu không phải việc cực chẳng đã, thực sự triều đình chẳng cần phải căng thẳng như vậy. Hồng Nương Tử đã thoát khỏi kinh sư, Lý Đông Dương liền xin Chính Đức thánh chỉ rút quan binh Kinh doanh về, kinh sư dường như đã khôi phục lại cục diện yên tĩnh phồn vinh trước đây.

Bộ Hình lập tức công khai phát công văn đến các phủ và các đạo, ra lệnh truy bắt đại đạo Dương Hổ và Hồng Nương Tử.

Mùa đông mà dụng binh với sơn tặc là việc lợi bất cập hại, thế nhưng hành động của vợ chồng Dương Hổ đã làm mất thể diện của triều đình. Dưới tình hình đó Lưu Đại Hạ cũng không dám làm trái thánh chỉ, lão đành phải âm thầm căn dặn tướng lĩnh dẫn binh vừa đấm vừa xoa, vây bắt thay vì tấn công, không được tùy tiện xông vào núi một cách ồ ạt.

Trên thi thể được phát hiện phía sau đạo quán trong con hẻm đổ nát phía thành bắc, quan viên khảo sát hiện trường của bộ Hình đã phát hiện tín vật của Di Lặc giáo, chứng thực nhận định của Dương Lăng. Vốn hai xưởng một vệ tưởng rằng Di Lặc giáo đã tan thành mây khói, lúc này mới biết bọn họ đã quật khởi, không khỏi bèn tăng cường việc lùng bắt.

Đã sắp đến Tết. Trước Tết ba ngày ấy là lúc triều đình được 'nghỉ phép'(3), vua không phải xử lí chính sự, một ít quan viên vùng khác cũng xin nghỉ trở về quê ăn Tết. Ngày này khắp chốn ăn mừng, ngay cả kinh sư cũng cho phép ăn xin kiếm cơm trong thành; lệnh giới nghiêm ban đêm được dỡ bỏ, đám quan sai của Ngũ thành binh mã ty cũng bớt hống hách, không tùy tiện vụt roi người đi đường phạm lỗi nữa.

Trận tuyết lớn hai ngày trước đã làm đổ nhà một số hộ dân ở thành bắc và thành tây. Bộ Hộ phái dịch phu tu sửa hoặc tài trợ ít tiền tài. Đây là thông lệ của triều đình, quan phủ các nơi cũng đều như vậy, không ai dám làm trái.

Những người phụ nữ mà ngày thường không bước chân ra khỏi nhà nay cũng có thể ra ngoài dạo chơi, đi chùa thắp hương, ra chợ mua ít son phấn, bột nước, tranh Tết cầu may lẫn những thứ mà bọn họ ưa thích.

Trở về đến phủ, Dương Lăng vẫn không dám để lộ chuyện bị bắt cóc. Thấy đám phụ nữ trong nhà hớn hở muốn ra ngoài dạo phố, y không nỡ cắt sự hào hứng của bọn họ trong ngày Tết nên đành âm thầm phái người Nội xưởng đi theo làm tùy tùng kiêm bảo vệ. Lần này y không dám lơ là, bốn mươi viên phiên tử vận thường phục được chọn đi theo ba vị phu nhân cùng với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đều là những kẻ biết công phu giang hồ, trong người đều nhét nỏ mạnh và hỏa súng ngắn.

Quan viên ở lại trong kinh đều phải tham gia đại lễ tại triều đình, ngoài ra, là người đứng đầu một nhà, bọn họ còn phải chủ trì thu xếp đón ngày Tết cho toàn gia đình, nên ai nấy bận rộn không thôi. Dương Lăng càng bận bịu hơn, bận đến nỗi thậm chí không có thời gian dạo phố cùng ba vị phu nhân. Cả ngày y bôn ba giữa ba xưởng, một vệ và mười hai đoàn doanh, chỉnh đốn quân ngũ, kiểm tra gia thế để tinh lọc, tuyển trạch tinh nhuệ, dùng Nội xưởng làm chủ lực nhằm tuyển chọn tinh binh theo tùy tùng Hoàng đế đến phương bắc. Đương nhiên những việc này đều được tiến hành một cách bí mật, rất ít người biết được mục đích thật sự của y.

Dương Lăng thân vận giáp mềm, khi ra vào thành cũng được bảo vệ canh gác, chận đường nghiêm ngặt. Vốn xuất thân danh môn nên Ngũ Hán Siêu vẫn coi thường việc sử dụng ám khí, song từ dạo ăn phải trái đắng, lúc này ngoài thanh lợi kiếm tùy thân hắn còn kè kè thêm hai bọc phi tiêu Kim Tiền, theo Dương Lăng như hình với bóng, một tấc không rời. Chung quanh y còn có mười hai viên phiên tử bảo hộ công khai và ngần ấy người âm thầm bảo vệ, có thể nói là gió mưa không lọt.

Thị vệ cận thân của Hoàng đế đã có cao thủ đại nội, còn những tinh binh do Dương Lăng tuyển chọn đều là những tráng sĩ trăm người chọn một, kiêu dũng hơn người. Đội ngũ gồm năm nghìn người tinh nhuệ như thế này đủ khiến bất kỳ một đội quân nào cũng phải ghen tị.

Năm trăm nữ kiếm sĩ hộ vệ tùy thân, hai nghìn nội giám quân túc trực luân phiên, cộng thêm dũng sĩ và quan quân hộ giá, thị vệ đại nội, lại còn có một số sư thái là đệ tử thân truyền của sư thái Thủy Vân của am Thủy Vân, đạo sĩ phái Long Hổ Sơn do Bỉnh Nhất chân nhân Đào Trọng Văn tiến cử, một số đạo sĩ của Toàn Chân Long Môn phái, đạo sĩ tu chân ở các miếu Võ Đang được hoàng gia sắc kiến(4), võ tăng ở các chùa chiền Thiếu Lâm được hoàng gia sắc kiến, cao tăng Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây; một đám người đang sẵn sàng đứng trước xa giá chờ nghe hiệu lệnh, thật là quyền thế ngút trời.

Tuyển chọn quân dũng sĩ tinh nhuệ xong, vẫn cần bọn họ làm quen với nhau, phối hợp ăn ý. Dương Lăng thu xếp cho năm nghìn tinh binh này ở trong Thần Cơ doanh, mời Ngũ quân đô đốc phủ và đại nội luân phiên phái người huấn luyện cho bọn họ phép đánh trận và phối hợp chiến đấu. Hôm nay y mới vừa từ trong Thầnh Cơ doanh chạy về, còn phải trở lên Nội xưởng xem thử hành trình xuất kinh cụ thể mà đám người Ngô Kiệt đã chuẩn bị cho Hoàng đế.

Ngựa chạy đến cổng thành, trong dòng người đông nghìn nghịt Dương Lăng chợt nhìn thấy mấy bóng hình quen thuộc. Y chăm chú nhìn, thấy là các cô Hàn Ấu Nương, Tô Tam và Tuyết Lý Mai đang kiễng chân sờ cái ụ đồng trên bề mặt cổng thành, đứng sau lưng là hai người Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận. Nghiêng đầu mỉm cười, hai má ửng hồng, các cô gái ấy xinh đẹp muôn phần, dân chúng đi qua đều trao cho bọn họ những nụ cười đầy thiện cảm.

Quan binh chặn gác cổng thành vẫn còn rất đông, cộng thêm hiện đang là lúc Bá Châu quét cướp, Đại Đồng chống giặc, thế nên thường có quan binh cưỡi ngựa lui tới báo tin. Cách cổng thành không xa là hai đội múa lân múa rồng trống chiên inh ỏi. Đám người Dương Lăng đi từ ngoài thành vào, vẫn chưa thu hút sự chú ý của các cô, có điều Liễu Bưu đứng cạnh mấy vị phu nhân luôn để ý đến động tĩnh chung quanh đã trông thấy y tới. Hắn vội ghé tai nói nhỏ với một người cải trang làm bá tánh thường dân mấy câu, sau đó vòng qua bọn họ tiến về phía y.

Dương Lăng ngồi trên ngựa khom người xuống hỏi:

- Các vị phu nhân đang làm gì vậy?

Liễu Bưu không nhịn được cười đáp:

- Đại nhân! Thuộc hạ đi theo phu nhân vào miếu dâng hương rôi đi dạo phố chợ, thuộc hạ có nhắc đến chuyện mười sáu tháng giêng nữ giới nên leo lên đầu thành, lên tường thành xua tan bệnh tật, chị em bạn dâu qua cầu nhỏ để vượt tai ương, rờ ụ đồng thì sẽ sinh con, còn là con trai nữa. Khụ khụ... mấy vị phu nhân liền đến... liền đến rờ ụ đồng. Thuộc hạ có nói rằng mười sáu tháng giêng mới linh, song Tuyết phu nhân lại nói... đã sẵn dịp ra ngoài, rờ thêm một lần cũng tốt vậy.

Dương Lăng nghe xong thì lắc đầu cười khổ. Y thấy mấy vị phu nhân đang cao hứng như vậy mà lúc này mới là chính ngọ, nếu mình đi ngang qua, bọn họ trông thấy nhất định sẽ theo mình trở về. Hiếm khi bọn họ có dịp ra ngoài như thế nên Dương Lăng không muốn làm bọn họ mất hứng. Y đang do dự không biết có nên tránh đi hay không, bỗng nhiên một hàng người ngựa dừng lại bên cạnh. Một người đàn ông vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, vận áo bào ống rộng, ngồi thẳng trên lưng ngựa, ghìm cương cười hỏi:

- Đằng trước có phải là Dương đại nhân không?

Dương Lăng ngẩng đầu, thấy người đó ria mép đen như mực, áo gấm đai ngọc, thẳng lưng trên ngựa, khí khái hào hùng, hai bên có mấy gia tướng đi theo; cưỡi ngựa bên cạnh là một vị tuổi trạc ngũ tuần, toàn thân vận nho phục cổ tròn, dáng cười toe toét.

Dương Lăng suy nghĩ một lúc mới nhớ ra người này là con trai của Vũ Định hầu Quách Lương, tên là Quách Huân. Tuy vẫn chưa kế thừa tước vị, song vì thân phụ tuổi đã cao, không tiện đi lại, mọi việc đối đáp xã giao đều giao cho ông ta ra mặt, cho nên ông nghiễm nhiên mang thân phận huân khanh. Nhà họ Quách và hoàng thất đã kết thân ba đời, hiện Quách Huân là Chánh đề đốc của Tam Thiên doanh, hai ngày trước Dương Lăng đã từng gặp qua.

Dương Lăng rẽ ngựa sang, chắp tay chào:

- Hóa ra là Quách tướng quân, thất lễ thất lễ! Tướng quân đang muốn ra ngoài thành ư?

Quách Huân cười đáp:

- Hôm nay ba mươi tháng chạp, là ngày phong ấn, nha môn không phải mở cửa làm việc. Vị bạn tốt này của bản tướng lại phải vội vã rời kinh đi nhậm chức, vì vậy ta tiễn y ra ngoài thành.

Dương Lăng thấy Quách Huân trỏ vào người đàn ông tuổi ngũ tuần trông nho nhã và thân thiện bên cạnh, nghe nói ông ta đi nhậm chức quan, lại là bạn thân của Quách Huân nên hẳn không phải là một chức quan nhỏ, bèn vội chắp tay chào:

- Hân hạnh hân hạnh! Vị đại nhân này thực lạ mặt, đã sắp đến Tết rồi, sao không ở lại kinh ăn Tết rồi hẵng đi nhậm chức vậy?

Quách Huân cười nói:

- Không phải đâu! Đại nhân tưởng vị hảo hữu hào hoa phong nhã này của bản tướng là quan văn ư? Vị này họ Trương tên Dần. Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ gặp cơn bạo bệnh mới qua đời, vị hảo hữu này của bản tướng nhận lệnh kế nhiệm vận chuyển vũ khí trang bị và lương thảo từ các nơi đến Đại Đồng. Y đã đến Thái Nguyên nhiều lần, trọng trách nặng vai, cho nên không thể không đi ngay.

Chú thích:

(1) trỏ quan lại truy nã tội phạm

(2) loại đao lưỡi hẹp của Cẩm Y Vệ, xem hình trang phục Cẩm Y Vệ ()

(3) nguyên văn "hưu mộc"', nghĩa là “nghỉ để tắm gội”. Lệ xưa làm quan cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên sau này ngày lễ nghỉ được gọi là ‘hưu mộc nhật’

(4) "sắc" nghĩa chiếu thư của vua; "kiến" nghĩa xây dựng, trỏ công trình dựng nên theo chiếu mệnh vua ban

Ngược về thời Minh

Chương 184 - Mồng sáu lên đường

Chương 184 - Mồng sáu lên đường

------------------------

Thái Nguyên và Đại Đồng nương tựa lẫn nhau, tạo thành thế ỷ giốc. Giặc Thát nhiều lần tấn công biên ải, đa phần đều tấn kích trước vào Tuyên Phủ Đại Đồng. Thái Nguyên tựa vào đất liền, không phải là mục tiêu công kích chính nên binh mã Thái Nguyên đã trở thành một cánh quân quan trọng để kiềm chế Thát Đát. Mỗi khi Đại Đồng gặp phải hiểm nguy triều đình đều điều động binh mã từ Thái Nguyên đến cứu viện.

Trước khi đại quân của Dương Nhất Thanh tiến đến Đại Đồng, do tình thế biên quan nguy cấp nên Chỉ huy sứ của vệ Thái Nguyên đã dẫn đại quân gấp rút chi viện. Trên chiến trường ông bị trúng phải tên lạc, bệnh tình vốn không quá nghiêm trọng, nhưng không ngờ sau khi trở về Thái Nguyên, vết thương lại đột nhiên diễn biến xấu, thế là ô hô thương thay. Không ngờ Chỉ huy sứ tân nhiệm của vệ Thái Nguyên lại chính là vị Trương đại nhân Trương Dần này.

Nhà họ Quách rất có ảnh hưởng trong quân đội, xem ra vị Trương Dần này hẳn là thân tín do Quách Huân đề bạt. Dương Lăng bèn vội chắp tay chào ông ta:

- Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu! Đêm giao thừa mà Trương đại nhân vẫn phải bôn ba trên đường, thực sự là cực khổ cho ngài rồi.

Trương Dần ôm quyền thi lễ, mỉm cười đáp:

- Hoá ra là Dương đại nhân ở ngay trước mặt. Hạ quan nghe uy danh của đại nhân đã lâu, như sấm bên tai, hôm nay được gặp thật là may mắn ba đời. Thân đã gửi vào nơi binh nghiệp, vốn chính là nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một chốc, lúc này cực khổ cũng là lẽ đương nhiên thôi.

Lão ta vừa nói vừa quét mắt sang những người bên cạnh Dương Lăng, lúc thấy Ngũ Hán Siêu ánh mắt lão dừng lâu hơn một chút, rồi lại dời mắt về phía Dương Lăng như thể không có việc gì. Dương Lăng thấy lão nhã nhặn nho nhã, hai mắt có thần, nói chuyện đúng chừng đúng mực, cũng bất giác nảy sinh hảo cảm.

Đôi bên trò chuyện mấy câu, thấy người đứng ở cổng thành càng lúc càng đông, đã hơi bị ùn tắc, Quách Huân bèn khẽ chau mày nói với Dương Lăng:

- Không quấy rầy Dương đại nhân nữa. Trương huynh nóng lòng nhậm chức lo liệu chính sự, xin phép cáo từ tại đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Được! Có dịp chúng ta sẽ lại trò chuyện, cung tiễn Quách tướng quân, Trương đại nhân!

Trương Dần mỉm cười gật đầu, cất giọng sang sảng:

- Dương đại nhân, hạ quan cáo từ!

Dương Lăng dõi mắt tiễn bọn họ phóng ngựa rời khỏi kinh thành. Lúc quay lại, y mới thấy mấy người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang đứng ở một bên tươi cười ríu rít. Thấy y quay đầu lại, Hàn Ấu Nương đi đến hớn hở khoe:

- Tướng công! Hôm nay là ngày ba mươi rồi, thiếp và mấy tỷ muội đang nói không biết khi nào tướng công mới trở về đây, không ngờ chàng lại về sớm như vậy rồi.

Dương Lăng trở người nhảy xuống ngựa đi đến chỗ bọn họ, đưa mắt nhìn các cô Tô Tam rồi mỉm cười hỏi:

- Không phải các nàng đi miếu dâng hương sao? Chạy đến cổng thành để làm gì?

Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cũng có phần ngượng nghịu còn Cao Văn Tâm đứng ở phía sau che miệng cười khẽ. Dương Lăng cũng không nỡ vạch trần, bèn cười nói:

- Đã gặp rồi thì cùng nhau trở về thôi.

Kiệu của các cô dừng lại bên đường cho mấy vị cô nương lên kiệu. Dương Lăng cưỡi ngựa chậm rãi theo cạnh, vừa nhìn không khí đón tết tưng bừng trong kinh sư, vừa cách rèm trò chuyện cùng Hàn Ấu Nương. Lúc gần đến rìa thành tây, mọi người trông thấy bên đường có một đám đông đang túm tụm, người của Binh mã ty cũng đã kéo đến.

Sau việc Xưởng đốc bị bắt cóc lần trước, chỉ cần có chút biến động nhỏ là đám phiên tử dưới quyền của Dương Lăng ai nấy liền như lâm phải đại địch, mấy chục người trong tối ngoài sáng liền lập tức bảo hộ kiệu và ngựa, cách ly toàn bộ bá tánh, lặng lẽ thò tay vào ngực, nắm chặt lấy nỏ cứng và súng ngắn.

Ngũ Hán Siêu cũng không để ý đến chốn om sòm ở đằng trước. Hắn vừa ghìm ngựa đến gần Dương Lăng, vừa liếc nhanh quan sát chung quanh, để ý đến bá tánh bên đường. Dương Lăng hơi nhổm người, ngó vào trong đám đông, vừa nhìn thấy người đứng giữa, y không khỏi khẽ chau mày. Vẫy tay gọi Liễu Bưu lại, y thấp giọng bảo:

- Đi xem thử đã xảy ra chuyện gì!

Liễu Bưu hiểu ý, buông cương nhảy xuống ngựa, chen vào trong đám đông đang xem chuyện náo nhiệt. Hắn thấy ông chủ một tiệm may vừa lôi kéo một gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần vừa rống họng tru tréo với tuần bộ của Binh mã ty:

- Hồ tứ gia đến thực tốt quá, kẻ này thực không biết lý lẽ gì cả. Hôm trước hắn đến, bỏ một lạng bạc ra đặt cọc, nói rõ là muốn thảo dân may một bộ áo bào Cô nhung hảo hạng. Hôm nay đến thử thấy vừa vặn, hắn lại chối bay bảo là ban đầu nói chỉ mua đồ nhung hạ phẩm. Thảo dân đưa ký ước ra cũng bị hắn xé vụn, nói là thảo dân vu cáo hắn.

Lão đây tự nhận xui xẻo, vốn định nhân nhượng cho khỏi phiền, hắn lại nói ngày mai là năm mới, thảo dân đã may nhầm áo bào của hắn, phải lấy áo nhung này ra để bồi thường. Lão đây mở tiệm ba mươi năm, xưa nay mua bán công bằng, chưa từng khinh già gạt trẻ, láng giềng phố phường đều có thể làm chứng, đã từng gạt người bao giờ? Kẻ này thật quá ư ngang ngược đi!

Đứng cạnh gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần đó là một thư sinh tuổi trạc độ hai mươi, đang đỏ mặt níu áo hắn. Gã đàn ông trung niên gạt tay hắn vùng ra, thấy quan binh chẳng những không sợ mà ngược lại còn nghênh ngang tự đắc. Gã liếc xéo tay thủ lĩnh Tuần bộ rồi cười nhạt:

- Ngươi không lừa gạt? Ngươi không lừa gạt chẳng lẽ đại gia ta lại lừa gạt sao? Buông tay!

Đoạn gã hừ một tiếng, vùng khỏi tay thợ may già, phủi phủi vạt áo, thong thả nói tiếp:

- Ngươi có biết ta là ai không? Đại gia ta là đường huynh của Đề đốc nội xưởng, thống lĩnh ngự tiền thân quân của hoàng thượng, Uy Vũ bá gia Dương Lăng!

Người thợ may già nghe xong thì sợ run cầm cập. Tay thủ lĩnh Tuần bộ được gọi là Hồ tứ gia nọ cũng không khỏi biến sắc, bốn bề im phăng phắc. Gã ta vẫn ung dung nói tiếp:

- Là đường huynh! Hồ tuần bộ, người nói đại gia ta có giống phường lừa bịp không?

Nói đoạn, gã vênh mặt nhướng mắt. Không ngờ làm vậy, vừa khéo khiến gã trông thấy bên ngoài đám đông, Dương Lăng được vây quanh bởi mấy thớt ngựa to lớn, đang sầm mặt nhìn gã. Cả người gã không khỏi run lên, vẻ mặt lập tức trở nên lo lắng.

Hồ tuần bộ khổ sở gật đầu khom người đáp:

- Không giống không giống! Đại gia ngài dáng vẻ đường đường, quả là huynh trưởng của Dương bá gia Dương đại nhân rồi, nào sẽ lại ức hiếp ông chủ tiệm may nho nhỏ như lão ấy chứ. Hề hề, hề hề.

Cười nịnh bợ xong, hắn liền thẳng lưng quát lão thợ may:

- Lão Bùi à, rõ ràng là lão già rồi lẩm cẩm, nghe lầm lời căn dặn rồi. Dương đại gia là người có danh phận, lẽ nào lại so đo tính toán với một thợ may nho nhỏ như lão chứ? Đã có lỗi với đại gia, ông tự nói nên làm sao đây?

Người thợ may già ấp úng:

- Vậy... vậy..., lão đây đưa bộ áo bào này cho đại gia xem như là nhận lỗi vậy!

Nói xong câu này, lão cảm thấy rất đau lòng, nhưng mà xưởng vệ thực sự không thể trêu vào.

Thường có câu "bắc có Cô nhung, nam có Nữ cát(1)", nhung quý Lan Châu cực phẩm chỉ có thể thấy trong cống phẩm hoàng cung. Chiếc áo khoác lụa vàng lót Cô nhung màu mận tía mà Dương Lăng đang khoác chính là mới được hoàng đế Chính Đức ban thưởng hai ngày trước, trị giá trăm lạng bạc ròng.

Cô nhung của lão thợ may tuy không phải là cống phẩm, nhưng cũng trị giá gần mười lạng bạc ròng, là thứ mà gia đình giàu có thường mặc cả mấy mươi năm, thậm chí truyền xuống đời con đời cháu. Đem thí bộ áo bào này rồi, coi như lão làm không công mấy tháng.

Dương Tuyền nhìn Dương Lăng lom lom, miệng môi trắng bệch, nào còn dám nhận lấy chiếc áo bào Cô nhung đó chứ. Liễu Bưu quay đầu nhìn Dương Lăng, y nén giận, gật đầu tỏ ý, Liễu Bưu bèn gật đầu, xoay người chen vào trong đám đông. Hắn lấy từ trong tay áo một thỏi bạc nặng, nhét vào trong tay người thợ may già, mỉm cười nói:

- Sao Dương phủ có thể tiếm lợi ích của ông được? Tam gia vốn định may một bộ thường phục mặc thường ngày, cũng không lo bị dơ hoặc sờn. Nếu bộ áo này đã dùng vải tốt, vậy chúng ta nhất định sẽ mua. Thỏi bạc này đủ mười lạng, cộng với một lạng đặt cọc trước, hẳn là đã đủ chứ?

Lão thợ may họ Bùi mừng khôn kể xiết, liền gật đầu cảm ơn rối rít:

- Đủ rồi đủ rồi! Khấu trừ tiền vải và tiền công, còn phải trả lại cho ngài năm phân bạc nữa.

Liễu Bưu cười hà hà:

- Không cần đâu, làm lễ tế trời(2) không thể sơ sài, coi như tam gia nhà ta thưởng cho ngươi đó.

Nói đoạn, hắn cầm lấy bộ áo bào rồi nói với Dương Tuyền:

- Tam gia, chúng ta về phủ thôi.

Dương Tuyền giật mình, vội "à, ờ" mấy tiếng rồi ngoan ngoãn bước theo hắn ra khỏi đám đông. Dương Lăng mặt nặng như chì, hờ hững nhìn gã rồi giật cương ngựa đi trước. mặt Dương Tuyền trờ thành tím ngắt. Liễu Bưu làm việc hết sức khéo léo, tuy biết Dương Lăng rất giận, song suy cho cùng chú cháu Dương Tuyền là người nhà họ Dương, có xa cách mấy vẫn gần hơn hắn rất nhiều. Hắn biết hai người không thể cưỡi ngựa, bèn vội gọi một viên phiên tử lại thuê kiệu ngựa đưa hai người về.

Thành Khởi Vận vén rèm kiệu, trông thấy hết mọi chuyện, đôi mắt đen láy của nàng đảo một vòng, ra vẻ đăm chiêu.

Về đến phủ, Dương Lăng hầm hầm bước vào trong trung đường, cởi áo khoác ra. Hàn Ấu Nương biết hiện tại tâm tình y không tốt nên bèn ngoan ngoãn cầm lấy áo, trộm nháy mắt với mấy vị tỷ muội, mọi người lặng lẽ trở về nhà sau.

Dương Lăng chỉ vận áo cổ bó ống tay hẹp màu xanh thẫm, mới vừa vào thư phòng trong trung đường ngồi, Dương Tuyền và Dương Vân Long đã lo lắng bước theo vào. Dương Tuyền ngượng ngập mở miệng:

- Lăng đệ...

Dương Vân Long cũng sợ sệt gọi:

- Lão thúc!

Trong nhà dán đầy câu đối cùng chữ Phúc lẫn tranh tết, tràn ngập một không khí hân hoan. Khắp nơi trong thôn thi thoảng lại có tiếng pháo rộn ràng. Hôm nay đã là ba mươi tết...

Nhớ đến điều đó, Dương Lăng chỉ thở dài, đứng dậy bảo:

- Nếu như thường ngày không đủ chi dùng, tam ca cứ nói với Ấu Nương một tiếng là được. Làm sao nhà chúng ta lại có thể làm những chuyện khiến người ta đàm tiếu sau lưng như vậy chứ?

Dương Tuyền vừa xấu hổ vừa bực tức nhưng lại không dám phát tác, chỉ biết vâng vâng dạ dạ. Dương Lăng liếc qua Dương Vân Long nói:

- Đã sắp sang năm mới, ta đã báo cho bộ Lại, qua ngày mười lăm sẽ thu xếp cho Vân Long một công việc. Ngươi biết viết biết tính, đừng chỉ dựa vào cái danh hiệu nhà họ Dương, hãy dựa vào bản lĩnh của mình mà làm cho tốt, đừng có được voi đòi tiên.

Dương Vân Long mừng rỡ cảm ơn:

- Đa tạ lão thúc! Chỉ cần có công việc ở trong kinh là được, Vân Long nhất định sẽ không gây thêm phiền phức cho thúc đâu.

Dương Lăng ừ một tiếng, rồi ngó sang Dương Tuyền bảo:

- Cho dù làm một tiểu tốt ở nha môn trong kinh cũng không phải là dễ. Tam ca... ờm... chốc nữa đệ sẽ giúp huynh tìm một vị trí ổn thỏa.

Dương Tuyền hơi thất vọng nhưng không dám biểu hiện ra mặt, chỉ đành vâng dạ; thấy Dương Lăng không muốn nói thêm gì với gã nữa, bèn cáo từ lui ra.

Ngồi trên ghế dựa, Dương Lăng day ấn đường nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc. Dương Tuyền văn dốt võ dát, phẩm hạnh tồi tệ, thực sự y không muốn dây dưa với gã. Nhưng mà quan hệ họ hàng thân thuộc như một cái lưới vô hình khổng lồ bao trùm lấy y, loại áp lực ngầm ấy khiến con người ta không thể nào phản kháng. Sóng to gió lớn cỡ nào y cũng đã đều trải qua, thế nhưng y lại không biết nên làm thế nào cho phải với cái tên tiểu nhân vật bé tí như con kiến này.

Ban đầu y còn định thu xếp cho gã công việc cai ngục trong đại lao bộ Hình, song xem ra cũng không thể sử dụng tên này được. Dương Lăng thở dài, tạm thời không nghĩ đến gã nữa, y lại cân nhắc kỹ lưỡng việc thu xếp để năm sau hoàng đế xuất kinh một lượt, rồi mới đứng dậy đi về phía nhà sau.

Trên khuôn mặt Thành Khởi Vận đọng một nụ cười ngọt ngào, nàng vừa mới chào hỏi ba vị phu nhân và Cao Văn Tâm xong. Vừa rẽ vào trong thư phòng, nụ cười trên gương mặt lập tức tan biến, nàng uể oải thỏng vai, rì rì bước vào chỗ ở của mình.

Đám người Hàn Ấu Nương đều là con gái tuổi còn khá trẻ, tinh lực dồi dào, trò chuyện cũng ăn ý. Nàng lớn hơn bọn họ cả chục tuổi, kinh nghiệm và tuổi tác khiến nàng khó lòng cảm thấy hứng thú với những đề tài mà bốn người con gái nọ nói chuyện say sưa. Buổi sáng đi dạo trong thành, đám người Hàn Ấu Nương vẫn tràn trề tinh lực, trong khi sự nhạt nhẽo và vô vị lại khiến nàng cảm thấy cả người rã rời.

Thành Khởi Vận sợ lạnh, cho nên Dương Lăng đặc biệt căn dặn đặt nhiều lò sưởi trong phòng nàng, ban ngày đốt lò sưởi, buổi tối giường lò và tường kép sưởi ấm cũng được đốt lửa khiến cho căn phòng trở nên ấm áp. Lúc này mặt trời mới vừa qua chính ngọ, bởi đêm nay là giao thừa, cho nên lò sưởi trong phòng vẫn được đốt, cả phòng ấm áp như tắm trong gió xuân.

Thành Khởi Vận lười nhác cởi váy lụa, áo kép, thay giày da hươu bằng giày thêu, ngồi duyên dáng trước gương; khuôn trăng đầy đặn trong gương, mày như lá liễu mắt như sao trời, má đào môi hạnh sáng ngời, vẫn là một vẻ rạng ngời như hoa.

Nàng vận chiếc áo cánh ống hẹp cân vạt, quần dài xanh nhạt chấm đất, chiếc "yếm kha tử"(3) màu đỏ tươi mặc bên trong ôm chặt lấy bộ ngực đầy đặn, rãnh ngực hõm sâu, như chực bung ra ngoài, phác hoạ nên đường cong mê người.

Thành Khởi Vận khẽ thở dài một hơi, ngón tay như ngọc trắng vuốt nhẹ bộ ngực mềm mại và mịn màng. Thân thể nàng vẫn kiều mị mê người như trước, cặp mắt hạnh to và sáng như sao trời vẫn có sức hút mê hoặc chúng sinh như trước, nhưng sẽ còn được bao nhiêu năm tháng thanh xuân? Hết hôm nay, sẽ lại già thêm một tuổi.

Không khí vui mừng rộn rã khắp Dương phủ và tiếng pháo giòn giã thi thoảng truyền đến từ thôn trang khiến nàng cảm thấy lạc lõng và cô quạnh, chán chường và mệt mỏi với hết thảy mọi thứ mà nàng đã theo đuổi trước đây. Lúc này nàng chỉ muốn tìm kiếm một người để nàng có thể tựa vào, có thể cuộn vào trong lòng thủ thỉ chuyện trò. Nhưng yêu cầu tối đơn giản đến vậy cũng không kiếm dễ bằng kim tiền và quyền thế.

Lười nhác chùng vai, Thành Khởi Vận ngước nhìn hình ảnh mình trong gương rồi thở dài chán nản. Nàng vừa định leo lên giường nghỉ ngơi một chút, chợt có tiếng Dương Lăng từ ngoài cửa vọng vào:

- Thành cô nương, cô đã đi nghỉ chưa?

Thành Khởi Vận giật mình, ánh mắt chợt loé lên tia vui mừng, cảm giác mệt mỏi đau nhức lập tức tan biến, tinh thần thoắt đã trở lại. Nàng vội đáp:

- Vẫn chưa ạ! Đại nhân chờ một chút, ti chức sẽ ra ngay.

Thành Khởi Vận lật đật nhặt lấy quần áo mặc vào, kéo lê đôi giày thêu đế mềm vội vã chạy ra nghênh đón. Dương Lăng đang chắp tay đứng bên cạnh bàn ngắm bức tranh do Thành Khởi Vận tiện tay vẽ nguệch ngoạc nên. Trông thấy nàng kéo rèm bước ra, y mỉm cười hỏi:

- Chắc mệt hả? Tôi cũng ghét nhất là đi dạo phố, mùa hè thì thà thả câu dưới bóng dương liễu, buông cần xuống nước, nằm trên chiếu nghe gió mà chìm vào giấc ngủ; mùa đông thì ngả trên đầu giường đọc quyển sách hay. Các cô Ấu Nương còn nhỏ, hiếm khi được dịp ra ngoài cho nên ham thích náo nhiệt. Mọi người lại không phải người ngoài, cô không cần thuận theo bọn họ, không muốn đi thì cứ đợi trong phủ cũng được.

Thành Khởi Vận vụt cười duyên dáng:

- Thì bởi khó có dịp ra ngoài, ti chức sao nỡ làm mọi người cụt hứng? Mấy ngày nay đại nhân công việc bộn bề, ti chức cũng không tiện hỏi han, có điều nghe nói đại nhân thường đến chỗ trú đóng của ba xưởng một vệ và mười ba đoàn doanh, phải chăng vẫn là vì chiến sự phương bắc?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Ừ! Sự việc trọng đại, trong Nội xưởng cũng chỉ có một mình Ngô lão biết rõ tình hình tường tận mà thôi, những người khác chỉ biết nó như vậy, chứ không biết rõ nguyên do. Ha ha, lúc đầu vốn định vào kinh thu xếp ổn thoả rồi sẽ quyết định thời gian để cô trở về Giang Nam. Không ngờ, trước tiên là vì dỡ bỏ lệnh cấm biển mà phải toan tính đến chuyện nông canh, vì nông canh mà lo toan đến giống cây trồng, rồi lại sơn tặc vào kinh, giặc Thát tác loạn biên cương, khiến cho chuyện của cô cứ bị hoãn lại. Cô ở đây đã quen chưa?

Thành Khởi Vận khẽ hé môi cười đáp:

- Phương bắc gió như dao cắt, ban đầu thì chưa quen, bây giờ cảm thấy nó cũng có ý vị khác. So với nhà cửa phương nam trong ngoài đều ẩm thấp lạnh lẽo, ở đây khi bước vào lại có cảm giác ấm áp như xuân. Đại nhân và phu nhân cũng hết mực quan tâm ti chức, cứ tiếp tục như vậy, ti chức thực sẽ vui đến quên quê nhà đấy.

Dương Lăng mỉm cười:

- Như vậy sao được, muốn quên quê nhà cũng phải làm xong đại sự giải trừ lệnh cấm biển rồi mới được.

Ánh mắt Thành Khởi Vận vụt sáng, nàng hỏi:

- Đã nắm chắc rồi sao?

Dương Lăng gật đầu:

- Ừ, có điều phải cực khổ cho cô rồi. Mồng sáu tôi sẽ phải rời kinh lên bắc, cô cũng sẽ đồng thời vào nam xuống Kim Lăng, bắt đầu chuẩn bị hết thảy mọi việc. Thượng tuần tháng hai, nhất định cô phải dẫn được người vào kinh. Về phía các quan viên đại biểu cho quan lại vùng duyên hải đó, tôi đã nắm thóp được một ít rồi, Hoàng thượng cũng đã gật đầu đồng ý. Hiện tại khó nhai nhất chính là đám hại nước, hại dân đã bảo thủ mà lại cứ hùng hồn mượn thể diện thiên triều thượng quốc làm lá chắn. Đánh thì không đánh được, chửi cũng không chửi nổi, thực phải phiền đến phương cách của Thành cô nương để bịt miệng bọn họ lại thôi.

Thành Khởi Vận chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, cười duyên dáng:

- Đại nhân yên tâm, Khởi Vận nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh. Tháng giêng về Kim Lăng, tháng hai ti chức nhất định sẽ về kinh phục lệnh đúng hẹn.

Đầu ngón tay Dương Lăng mơn trớn miếng chặn giấy trơn nhẵn bằng ngọc thạch, y đáp:

- Được! Tuy cô thể chất yếu ớt, nhưng lại là nữ trung hào kiệt, chưa từng lừa dối bản quan. Cô làm việc, ta tuyệt đối tin tưởng.

Y thoáng trầm ngâm, rồi đứng dậy nói tiếp:

- Hôm nay là giao thừa, đến giờ cơm chiều cô hãy đến phòng khách, mọi người tề tụ cho náo nhiệt, đừng trốn ở đây nữa.

Thành Khởi Vận mỉm cười dạ đáp lời, trông thấy y bước ra cửa, chợt hỏi:

- Đại nhân! Vị bà con Dương tam gia vào kinh nương nhờ, dường như đại nhân đang lo nghĩ không biết nên bố trí như thế nào cho ổn thỏa thì phải? Không bằng để ti chức dẫn gã đến Giang Nam xem sao?

Dương Lăng do dự:

- Việc này... quả thực khiến người ta lo nghĩ. Cũng không giấu gì cô, người này văn dốt võ dát, thói xấu lại có đủ, tuy không phải là một mầm họa lớn, song thực sự khiến người ta khó ưa. Do có huyết thống họ hàng nên đuổi thì không được, giữ cũng không xong. Bản quan nhìn tên lưu manh này, thực như chó cắn phải nhím, không biết nên mở miệng thế nào. Cô dám rước cái của phiền phức này theo bên mình sao?

Thành Khởi Vận nghe y nói với giọng điệu tự giễu, không khỏi che miệng cười nói:

- Đại nhân thật! Nói hắn không biết phấn đấu là được rồi, sao còn so sánh mình với... với... Ha ha, ti chức có gì mà không dám chứ, có điều đương nhiên phải xin đại nhân một cây Kim Phê lệnh tiễn(4). Dương tam gia là người chí thân của đại nhân, từ xưa việc quản lý thuộc hạ khó nhất chính là vướng phải quan hệ thân thích. Ti chức xa cách một tầng, chỉ cần công chính vô tư, vẫn dễ nói chuyện với gã hơn đại nhân nhiều.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Được, vậy tôi sẽ giao cho cô cái của nợ này. Cô phải nghiêm khắc không được dung túng gã, nếu tôi nghe nói gã cậy vào quyền thế của tôi làm điều xằng bậy thì tôi sẽ chỉ hỏi tội cô thôi đó!

Thành Khởi Vận cười đáp:

- Ti chức tuân lệnh!

***

Mùng một tết, Hoàng đế không phải lâm triều, tuy nhiên đám cận thần trong cung vẫn phải vào cung viếng thăm theo lệ. Cả nhà Dương Lăng quây quần trong phòng sưởi, chơi đùa trò chuyện đến quá trưa. Ước chừng đại thần vào cung đều đã về hết rồi, y mới dẫn theo người hầu thân cận vào cung gặp Hoàng đế.

Chính Đức bận bịu suốt cả buổi sáng: sớm ra vừa thức dậy đầu tiên là đến tẩm cung thỉnh an Thái hoàng thái hậu và Thái hậu, nhận lì xì, sau đó trở về cung Càn Thanh ngồi ngay ngắn đón một đám hoàng thân quốc thích và đại thần văn võ đến thỉnh an, phát bao lì xì. Hiện hắn đã làm xong tất tần tật những công việc cần làm, đang cùng Giải Ngữ và Tu Hoa ở trong điện thi ném thẻ vào vò. Lưu Cẩn đứng một bên cười vỗ tay ủng hộ.

Dương Lăng bước vào điện, đứng một bên đợi Chính Đức ném hết thẻ trên tay xong, mới bước đến làm lễ, chúc mừng năm mới. Diễn xong màn hỏi han chúc mừng xong, hai người vua tôi bọn họ mới cùng thở ra một hơi thật dài.

Chính Đức bảo Dương Lăng và Lưu Cẩn vào nội thư phòng, rồi không thể đợi thêm nữa, hắn lập tức hỏi ngay:

- Dương thị độc, mọi thứ chuẩn bị thế nào rồi?

Dương Lăng đáp:

- Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi có cơ hội thích hợp, mời Hoàng thượng hạ chỉ, lệnh cho thần đến biên cương ủy lạo, sau đó sẽ có thể thực hiện kế minh tu sạn đạo...

Khi nói đến đây, y chợt nhớ đến một chuyện, mặt liền biến sắc.

Chính Đức cũng rất lanh trí, trông thấy mặt y cứng lại, liền hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng lưỡng lự một lúc rồi hỏi:

- Hoàng thượng, chuyện ngài xuất kinh, ngoại đình chỉ có thần, Tiêu đại học sĩ và Nghiêm Tung của bộ Hộ rõ, Nội xưởng có Ngô Kiệt biết, nội đình ngoài Lưu công công ra còn có ai nghe nói đến nữa không?

Chính Đức thoáng do dự rồi gượng cười nói:

- Chuyện thú vị như vậy mà phải đem giữ ở trong lòng trẫm thực sự cảm thấy khó chịu, cho nên... ta đã từng nhắc đến với hai vị cô nương Giải Ngữ và Tu Hoa. Có điều chỉ nói sẽ đi về phía bắc, cuối cùng sẽ đến Đại Đồng, ngoài ra chưa từng nói với bọn họ điều gì khác. Có chuyện gì sao?

Dương Lăng chau mày thưa:

- Thần nhớ đến một chuyện, hai trăm đại đạo lục lâm Bá Châu bị Di Lặc giáo mê hoặc đột nhiên vào kinh, mục đích ban đầu là gì, chỉ có mấy thủ lĩnh trong đám sơn tặc đó biết, chứ hiện tại chúng ta vẫn chưa tường tận. Hoàng thượng xuất kinh là chuyện lớn biết dường nào, người biết được thực không nên quá nhiều.

Đoạn y cười khan hai tiếng, làm bộ nói đùa bảo tiếp:

- Từ dạo thần bị Di Lặc giáo “dạy dỗ”, đến giờ vẫn còn khiếp sợ chưa vơi. Nhớ lần đầu gặp cô nương Giải Ngữ, từng thấy trên người nàng ấy đeo một miếng ngọc bội khắc tượng phật Di Lặc. Nữ tử đeo tượng phật trên người chẳng phải kỳ quái sao? Ha ha, đương nhiên, có thể là thần đã suy nghĩ quá nhiều, thực có hơi vô lý...

Chính Đức thoáng ngẩn ra, rồi bật cười nói:

- Khanh đó nha, đúng là hoang đường! Khanh nghi ngờ hai vị mỹ nhân Giải Ngữ và Tu Hoa là người của Di Lặc giáo à? Làm sao có khả năng đó chứ, hơn nữa, nam đeo quan âm nữ đeo phật, tượng phật mà cô gái đeo ngẫu nhiên lại là phật Di Lặc thôi. Nếu như vậy liền coi là Di Lặc giáo, các cô gái trong thiên hạ mười phần sẽ có đến bảy phần bị chém đầu rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngớ ra. Nghe Chính Đức nói, y mới nhớ trước đây mình cũng từng nghe nói nam đeo quan âm nữ đeo tượng phật, chỉ là nhờ Chính Đức nhắc nhở mới nhớ lại. Ngẫm kỹ lại, tri thức về lịch sử của mình có hạn, mặc dù biết Ninh Vương tạo phản, song lại chưa từng nghe nói có liên quan gì với Di Lặc giáo cả. Hay là mình đã quá đa nghi?

Dương Lăng ngượng ngập đáp:

- Chuyện này... cẩn thận một chút vẫn tốt hơn. Thần vốn cũng không phải vì vậy mới sinh lòng nghi ngờ, có điều khi ấy bái kiến Hoàng thượng, hai vị cô nương biết tránh sang một bên để không phải tội nhận xằng đại lễ của quan viên. Người dân quê mùa lại hiểu biết lễ nghi như vậy, thần mới cảm thấy hơi kỳ quái.

Lưu Cẩn đứng một bên nghe xong cũng bật cười ha hả, nói:

- Dương đại nhân, bọn họ tuy xuất thân quê mùa, nhưng trước khi được đưa vào trong cung, phủ Ninh vương sẽ phải dạy dỗ đủ mọi lễ nghi cung đình hết ba tháng. Trước khi tiến cung, Ty Lễ giám lại phái người dạy thực tập hết năm ngày, những lễ nghi này mà còn không biết thì mới là lạ đó.

Bọn họ được Ninh vương bảo đảm đưa đến. Ninh vương là hoàng thúc, là hoàng tộc Đại Minh, Di lặc giáo phản lại chính là hoàng triều của Đại Minh chúng ta, hai bên vốn không thể nào đồng loã. Huống hồ trước giờ Ninh vương vẫn luôn trung thành với Hoàng thượng!

Chính Đức nhớ lại lúc làm đại lễ đăng cơ, trong số phiên vương đến tặng lễ vật thì Ninh vương trú đóng ở nơi xa nhất, lễ vật đem tặng cũng nhiều nhất, hợp với tâm ý của mình nhất. Nay lại tặng thêm Giải Ngữ và Tu Hoa, có thể thấy được sự kính cẩn và nể sợ của hắn. Huống hồ trong tay hắn lại không có một binh một tốt, sao có thể có ác ý chứ. Thế là Chính Đức bèn gật đầu kêu phải.

Dương Lăng nói:

- Có lẽ là thần đã đa nghi. Có điều vì an toàn của Hoàng thượng, thần sẽ quyết định đường đi, hành tung, phương thức xuất kinh và thời gian xuất kinh, vẫn mong Hoàng thượng đừng đề cập chuyện này với bất cứ người nào khác, bao gồm cả hai vị nương nương.

Chính Đức bất đắc dĩ cười bảo:

- Theo ý khanh, theo ý khanh đi! Chỉ cần có thể xuất kinh, trẫm sẽ theo ý khanh hết, được chưa?

Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn chưa thực tâm đồng ý với mình, bèn nghiêm mặt thưa:

- Hoàng thượng, vua không nói lời đùa giỡn, ngài đã đồng ý thì vạn lần phải giữ lấy lời. Hoàng thượng phải đến Đại Đồng, ấy là vì tận trách nhiệm của thiên tử với thiên hạ, thần cũng sẽ vì sự an nguy của Hoàng thượng mà tận trách nhiệm của thần!

Chính Đức nghe xong bèn nghiêm túc trở lại, nghiêm nghị:

- Được, ra khỏi miệng khanh, chỉ vào tai trẫm! Đừng nói là Giải Ngữ và Tu Hoa, - hắn liếc sang Lưu Cẩn rồi nói tiếp, - Cho dù là lão Lưu, trẫm cũng sẽ không nói cho lão biết. Như vậy được chưa?

Chú thích:

(1) vải thô, làm bằng dây đay, dùng may áo mặc mùa hè

(2) nguyên văn "đại quá niên", xuất phát từ câu "quá đông đại quá niên". Ý nghĩa của nó là: ngày xưa, vào ngày đông chí, từ đế vương ở trên cho đến bá tánh ở dưới đều phải mổ gia súc và lấy trái cây tế trời hết sức trang trọng để cảm tạ ông trời năm qua đã ban ơn, và đồng thời khấn cầu năm sau ông trời tiếp tục cho dân gian được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, vân vân.

(3) loại áo nịt ngực thời xưa

(4) xem hình giữa

Lệnh tiễn: còn gọi là cờ lệnh, ý TKV xin DL cho phép TKV toàn quyền trị tội Dương Tuyền.

Ngược về thời Minh

Chương 185 - Rồng ra biển lớn

Năm mới đã qua được ba ngày, tuy vẫn còn non nửa văn võ bá quan chưa hồi kinh chấp hành nhiệm vụ nhưng tới mồng bốn hoàng đế vẫn lâm triều xử lí chính sự. Ngay khi thượng triều, Chính Đức liền ban một ý chỉ, bảo rằng bởi Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu thắng trận, làm tiêu tan nhuệ khí của quân đội Thát Đát nên đặc biệt bổ nhiệm Dương Nhất Thanh làm Tam biên tổng chế, Vương Thủ Nhân làm phó tướng, toàn bộ tổng binh của ba trấn đều phải theo sự điều khiển, dưới quyền của hai người.

Thát Đát tập kích biên giới cũng giống như người Hán đón tết, mỗi năm đều tới. Lúc đầu quân Minh chiếm thượng phong, sau nữa thì hai bên thế lực ngang bằng, đến mấy năm gần đây phàm là Thát Đát phái trọng binh tiến đánh, nếu không có binh mã đông gấp đôi trở lên thì quân Minh không thể nào chống lại nổi.

Dương Nhất Thanh tính tình chính trực, cương nghị thanh liêm, rất được đại học sĩ Lý Đông Dương xem trọng lại vốn xuất thân từ quan văn, cho nên khi giành được trọng dụng với chiến quả ấy, văn võ cả triều cũng không ai dị nghị gì. Thừa dịp mọi người cao hứng, Chính Đức lại tuyên bố để khao thưởng tướng sĩ cực khổ ở tam quan, nay ban đặc chỉ cho Thống lĩnh ngự tiền thân quân thị vệ là Dương Lăng sẽ dẫn quân đến Đại Đồng ủy lạo, khởi hành vào mồng sáu.

Sáng mồng năm, mấy chục tay thị vệ cường tráng mặc đồ đen đứng im phăng phắc trước cổng phủ Uy Vũ bá của họ Dương. Hai cỗ xe ngựa tam mã đỗ bên cạnh, mấy thớt ngựa lực lưỡng sốt ruột cào vó, phì phì thở ra sương trắng.

Dương Lăng và ba vị phu nhân cùng Cao Văn Tâm đưa Thành Khởi Vận và chú cháu Dương Tuyền ra ngoài. Thành Khởi Vận khoác áo choàng lông chim rộng màu đỏ, nổi bật giữa mảng đất trời trắng xóa, dung nhan thùy mị như sóng nước, tựa hoa mai ngạo nghễ trong tuyết trời; trong vẻ xinh tươi khiến tim người ta đập thình thịch đó lại mang theo mấy phần hào khí.

Dương Lăng ghé mắt nhìn sang, không khỏi cười nói:

- Trông bộ dạng của cô y hệt như một Hồng Nương Tử vậy. Chuyến nam hạ này, nếu không có đám thị vệ này đi cùng, không biết cô sẽ bị quan phủ tróc nã mấy lần đây?!

Thành Khởi Vận bó tay vào trong ống tay áo, tay áo gấm hoa lộ bên dưới chiếc áo choàng, lông chồn trắng trên viền tay áo khẽ lay trong gió.

Có thể trở về với vùng đất phương nam quen thuộc, được làm một số việc, quả thực nàng có phần hào hứng. Đưa mắt nhìn Dương Lăng, thật tâm nàng cũng có phần quyến luyến. Nàng liếc nghiêng Dương Lăng, rồi như trêu ghẹo mà “nghiêm túc” đáp rằng:

- Lo gì?! Cùng lắm thì ti chức sẽ lệnh cho bọn thị vệ bắt Dương đại nhân ngài. Có ngài làm hộ tống, dù là chân trời góc biển, có nơi nào mà không thể đến chứ?

Dương Lăng nhìn Thành Khởi Vận. Tuy nàng chỉ buột miệng nhưng trong ánh mắt lại lộ tình ý miên man thắm thiết. Dương Lăng không khỏi giật thót trong lòng, y vội ho khan mấy tiếng rồi dời mắt đi, đánh trống lãng:

- Còn chưa hết tết mà đã bắt cô phải vội vã lên đường, quả thực là chuyện đặng chẳng đừng. Chuyện của Kim Lăng xin nhờ vào cô vậy.

Thành Khởi Vận thầm buông tiếng thở dài, khoé môi cố nặn một nụ cười, khẽ giọng đáp:

- Đại nhân yên tâm, ti chức... lo liệu được.

Hàn Ấu Nương có thai chưa được hai tháng, lưng bụng vẫn chưa thấy có gì thay đổi, nhưng một khi nàng ra khỏi nhà liền trở thành đối tượng bảo hộ trọng điểm. Khoác áo choàng vải nhung lạc đà mềm mại ấm áp, đeo đôi găng tay da chồn, nàng đang nói chuyện phiếm với Cao Văn Tâm, nghe thấy hai người trò chuyện bèn quay sang Thành Khởi Vận mỉm cười nói:

- Tỷ tỷ, mấy ngày qua sống chung với nhau, thực không nỡ để tỷ đi xa. Tướng công nói cần tỷ đi làm một việc hệ trọng, vậy Ấu Nương không thể ngăn tỷ rồi. Tướng công thường nói rằng Ấu Nương một thân võ nghệ, Văn Tâm tỷ tỷ y thuật diệu kỳ, Tuyết Nhi và Ngọc Nhi thông minh ngoan ngoãn, cầm kỳ thi họa đều tinh thông; nhưng nếu luận về mưu kế và trí tuệ, thì cho dù là nam nhi trong thiên hạ cũng không có mấy người bằng được tỷ tỷ. Tướng công được tỷ giúp đỡ rất nhiều, cho nên làm xong đại sự rồi, mong rằng tỷ tỷ có thể trở về phương bắc sớm một chút.

Trong lòng Thành Khởi Vận chợt có một cảm giác ấm áp ùa vào: cô bé này đúng thật là vị cô nương tốt, cô nàng ấy làm bạn khuê phòng với Cao Văn Tâm, nhất định đã sớm biết xuất thân và lai lịch của mình, đã từng... Cho dù mình ăn ngon mặc đẹp, những thôn phụ bên đường vẫn ném về phía mình những cái nhìn miệt thị, thế nhưng vị Cáo Mệnh phu nhân này lại không hề có ý gì là xem thường và khinh bỉ mình. Nàng ấy thực sự coi mình là người đáng được tôn trọng.

Mắt Thành Khởi Vận rơm rớm, nàng vuốt nhẹ tay Hàn Ấu Nương, khẽ giọng:

- Đa tạ phu nhân quan tâm! Lần này Khởi Vận đi đến khoảng thượng tuần tháng hai là sẽ trở về. Phu nhân đang mang thai, xin hãy bảo trọng thân thể. Khởi Vận mong ngóng đến trung thu năm nay, khi cây quế tỏa hương, được ôm tiểu Uy Vũ bá gia trắng trẻo và bụ bẫm vào lòng đấy!

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, vừa ngượng vừa thích, liếc Dương Lăng rồi lại lay nhẹ tay Thành Khởi Vận trách:

- Tỷ tỷ đừng nói vậy! Người ta còn chưa biết mà, nhỡ đâu... nhỡ đâu là con gái cũng không chừng.

Vừa nói nàng vừa lo lắng liếc sang Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười:

- Con gái thì sao chứ? Tướng công nhà nàng thích con gái mà.

Nói đoạn Dương Lăng vẫy tay gọi lão quản gia đến, cầm lấy một gói đồ rồi nói:

- Thành cô nương, ở đây có mấy món lễ vật mà tôi và Ấu Nương tặng cho Mã Liên Nhi cô nương ở quán rượu Trường đình trong xóm Trường Can. Sau khi đến Kim Lăng, phiền cô hãy giúp tôi chuyển đến cho cô ấy nhé!

Thành Khởi Vận nghe xong thì lấy làm ngạc nhiên, "Dương Lăng đến từ Tuyên Phủ, không hề có thân thích gì ở phương nam, mình cũng từng nghe nói đến việc này. Vị Liên Nhi cô nương này là gì của y?" Thành Khởi Vận liếc nhanh sang Hàn Ấu Nương, bèn lờ mờ đoán ra mấy phần, thế là ngoài sự kinh ngạc còn có chút ghen tị.

Nàng không biết về quá khứ của Dương Lăng và Mã Liên Nhi, còn tưởng rằng đây là một vị cô nương mà khi Dương Lăng xuống Giang Nam vừa gặp đã yêu ngay. Vị cô nương này có thể khiến y nhung nhớ không quên như vậy, phải là mỹ nhân xinh đẹp tới dường nào?

Chung quy thì Thành Khởi Vận vẫn là phụ nữ, một người phụ nữ xinh đẹp và tự phụ, lại mang lòng yêu mến Dương Lăng. Cho dù nàng có rộng lượng đến đâu, việc có liên hệ đến đức lang quân của mình thì làm sao mà nàng không để ý đến được?

Nhìn toàn bộ số nữ nhân bên cạnh Dương Lăng: Ấu Nương như đóa tường vi, Tô Tam tựa hoa bách hợp, Văn Tâm như loài u lan, Tuyết Nhi lại giống đỗ quyên, tuy ai nấy muôn vẻ yêu kiều, đều có sở trường riêng, song luận về sắc đẹp và vẻ phong tình thì không một ai có thể sánh bằng nàng. Vị cô nương này có thể khiến cho Dương Lăng bận lòng như vậy, chẳng lẽ lại là quốc sắc thiên hương? Thành Khởi Vận âm thầm ghi nhớ trong lòng, việc đầu tiên phải làm khi trở về Kim Lăng là đi gặp vị Mã cô nương này thử một chuyến.

Nàng giữ vẻ mặt điềm tĩnh cầm lấy gói quà rồi mỉm cười đáp:

- Đại nhân yên tâm! Ti chức nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh.

Thành Khởi Vận lễ phép gật đầu chào với từng người trong đám phụ nữ xong xoay người bước lên kiệu, rồi vén rèm cửa sổ từ biệt:

- Đại nhân! Tiết trời lạnh lẽo, xin các vị hãy trở về, Khởi Vận lên đường đây!

Dương Tuyền nghe vậy liền như được đại xá. Hiện nay Dương Lăng ra vào đều mang theo một đám thị vệ trùng trùng, loại khí thế mỗi lúc một oai nghiêm đó khiến ngay cả gã vốn là kẻ ngu ngốc hồ đồ cũng cảm nhận được rất rõ. Từ lúc đến Dương phủ gã đều luôn tuân thủ khuôn phép, không ngờ mới vừa lần đầu định tác oai tác phúc, thử làm ra vẻ đại lão gia một chuyến thì lại bị Dương Lăng phát hiện.

Mấy ngày nay gã đều co đầu rụt cổ không dám lộ diện, lần này có thể rời khỏi Dương Lăng đi đến tận Giang Nam trù phú nhất thiên hạ, gã liền thấy nhẹ nhõm cả người, như thể đã trút được gánh nặng. Với thân phận hiện tại của gã, nếu chỉ quanh quẩn bên người Dương Lăng thì sẽ chẳng là gì, nhưng một khi rời khỏi Dương Lăng, dựa vào tấm chiêu bài là "đường huynh của Xưởng đốc Nội xưởng", thì đi đâu cũng sẽ thuận tiện. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ chứ, đúng không?

Huống hồ vị Thành cô nương này thực sự là mỹ nhân hiếm thấy. Mặc dù bình thường nàng ta trông có vẻ lạnh lùng, nhưng khi nàng thi thoảng nhoẻn miệng cười, vẻ xinh đẹp vụt thoáng qua ấy thực khiến cho gã đầu váng mắt hoa, thần hồn ngơ ngẩn. Có thể theo cạnh mỹ nhân như vậy... nghe nói nàng ta còn là thuộc hạ của đường đệ mình? Khà khà...

Dương Tuyền lật đật cáo từ vợ chồng Dương Lăng, rồi lập tức trèo lên chiếc xe thứ hai. Dương Lăng thoáng chau mày nhìn theo bóng lưng gã. "Cuối cùng cũng đã nuốt trôi được miếng thuốc cao này." Nhưng mà, cậy vào quan hệ với mình, nếu gã đến Giang Nam tác oai tác phúc, liệu Thành Khởi Vận có dám quản chế gã không?

Dương Lăng cảm thấy hơi lo lo, song hiện tại y cũng không còn cách nào khác. Cho dù Dương Tuyền có khiến người ta chán ghét đến đâu, thì dựa vào quan hệ họ hàng và địa vị thấp kém của gã, vẫn sẽ là tấm bài ngụy trang dễ thu hút được sự đồng cảm của mọi người nhất. Nếu mình chiếu cố gã không chu đáo, thì sẽ bị coi là kẻ bất chấp cương thường, khinh họ hàng chê nghèo khó, là loại người xấu xa mà từ vương hầu công khanh cho đến bá tánh lê dân ai nấy đều căm ghét và khinh bỉ.

Trông thấy vẻ mặt lo lắng của Dương Lăng, khóe môi Cao Văn Tâm bất giác nhếch nụ cười nhẹ.

Hàn Ấu Nương chỉ có nàng là chị em có tuổi tác lớn hơn một chút, nên hễ có gì trong lòng đều đem kể cho nàng nghe. Nàng sớm đã được nghe kể chuyện vị Dương tam gia này chòng ghẹo đe dọa em dâu như thế nào, cho nên khi biết Thành Khởi Vận muốn mang Dương Tuyền xuôi nam, nàng bèn lén khéo léo tiết lộ thông tin đó cho cô ta biết.

Không ai có thể thấu rõ tâm tư của Thành Khởi Vận đối với Dương Lăng như nàng, nàng tin tưởng Thành Khởi Vận sẽ không tiếc sức lực, thậm chí cả thủ đoạn để bảo vệ y.

Ai mà có ý định làm tổn hại đến uy vọng, quyền lực và hạnh phúc của Dương Lăng, thì mỹ nhân muôn vẻ phong tình ấy lập tức sẽ cởi bỏ tấm da vẽ(*), nhe nanh giơ vuốt ra ngay. Ngay dưới tầm mắt của Dương Lăng, vị Dương tam gia này vô tình đã được y che chở, người ngoài cũng không ai dám làm gì gã. Nhưng nếu gã đến phương xa làm loạn, bằng vào tâm tư của Thành cô nương mà không trừng trị khiến gã phải ngoan ngoãn thành thật được thì mới là chuyện lạ.

(*): nguyên văn "họa bì", nhắc đến truyện Họa Bì trong Liêu Trai Chí Dị

Xem

Thành Khởi Vận buông rèm, ngồi vào chỗ mới đột nhiên phát hiện trong kiệu xe bài trí hết sức thoải mái: đệm ngồi bằng da gấu trắng, thảm nhung tuyết Ba Tư lộng lẫy, xa hoa, áo bông mỏng cổ lông chồn, một bên là bếp lửa bằng đồng, trên cái giá ở bên kia là mấy quyển sách cùng điểm tâm và rượu ngon các loại.

Con tim Thành Khởi Vận thoáng trở nên loạn nhịp, nàng chợt vươn tay về phía rèm cửa, ngón tay chạm vào rèm, hơi vén ra một chút thì liền ngưng lại. Kiệu xe khẽ lắc lư di chuyển. Một chốc sau, nàng lặng lẽ rút tay về, day nhẹ khóe mắt, rồi uể oải cuộn người vào trong tấm chăn lông mềm mại và ấm áp. Thân thể dần ấm lên, con tim cũng thêm phần ấm áp, một nụ cười ngọt ngào vụt thoáng trên khuôn trăng, chân mày khóe mắt chợt toát ra một vẻ dịu dàng mê hồn khôn xiết.

Ngựa xe bắt đầu lên đường, nụ cười trên khuôn mặt Hàn Ấu Nương cũng dần biến mất: “Chao ôi! Hôm nay Thành cô nương xuôi nam, ngày mai tướng công lại phải đi đến Đại Đồng.” Phu quân đi xa, bảo sao nàng có thể không bận lòng lo lắng?

Bọn họ ai nấy mang theo tâm tư của mình dõi nhìn theo chiếc xe ngựa lộc cộc chạy đi, tiếng vó ngựa vang lên giòn giã, chớp mắt đã rẽ qua góc đường...

Mồng sáu tháng giêng. Trên thao trường điểm binh.

Cờ phướn tung bay rợp trời, trên đài cao treo đầy bảng đỏ, dưới quảng trường kiếm rìu đao kích kín mít như rừng.

Năm nghìn tinh binh chọn ra từ trong mười vạn quân đều cưỡi chiến mã khỏe mạnh được mua về từ địa khu Hà Sáo. Ai nấy đều mặc giáp nhẹ, chia ra làm đội cung nỏ, đội phi lao, đội trường thương, đội đao thuẫn cưỡi ngựa, đội thiết côn, đội hỏa súng và năm trăm thị vệ hạch tâm.

Đội quân này được trang bị giáp nhẹ, khinh kỵ và vũ khí công kích sắc bén khác hẳn với trang bị mà các binh đoàn lớn của quân Minh sử dụng để tác chiến và công thủ thành trì. Thứ mà đội ngũ này đòi hỏi chính là “ứng biến nhanh, công kích lẹ, rút lui mau”, chẳng những sức chiến đấu phải hơn người Mông Cổ, mà tính cơ động cũng được yêu cầu rất cao, có thể nói là rất hao tâm tổn huyết.

Các tướng lĩnh của bộ Binh, Ngũ quân đô đốc phủ và mười hai đoàn doanh trong kinh trông thấy kiểu cách như vậy đều không khỏi cười thầm. Một vị đô đốc thuộc Ngũ quân đô đốc phủ thấp giọng cười bảo:

- Dương xưởng đốc thực là người tâm tư. Bảo y đến Đại Đồng ủy lạo binh sĩ mà thôi chứ đâu phải kêu y ra chiến trường đâu, thế mà y lại tuyển chọn ra đám tinh binh trải qua muôn vàn trui luyện từ trong hơn vạn người của mười hai đoàn doanh này. Bộ y muốn chuẩn bị chạy thoát thân hay sao chứ?

Mấy vị tướng quân đứng cạnh nghe xong đều khẽ cười hắc hắc. Dương Lăng có danh vọng rất cao trong quân đội, cho nên đám tướng lĩnh này mới không hề có ác ý với y, bằng không sẽ không hợp tác tuyển chọn tinh binh từ các bộ như vậy. Tuy nhiên có cơ hội trêu chọc Dương xưởng đốc, biểu hiện oai phong của bậc tiền bối trong quân đội thì đương nhiên bọn họ sẽ không bỏ qua.

Khoác trên người bộ tỏa tử giáp(1) màu bạc, chiến bào màu đỏ, dải tua đỏ trên mũ tung bay, Dương Lăng bước vào thao trường dưới sự bảo hộ của tám viên hiệu úy cầm thương. Thao trường lập tức im phăng phắc, hàng nghìn cặp mắt đồng loạt đổ dồn về phía y.

Đã lâu Dương Lăng chưa trải qua khung cảnh này: trên thao trường năm nghìn tinh binh chẳng những sát khí đằng đằng, hình thành một loại sát khí và nghiêm trang vô hình, mà vây quanh dưới điểm tướng đài là những quan quân cao cấp trong quân đội. Y nín thở, trang nghiêm bước ra khỏi đám người, bước lên điểm tướng đài, ủng giáp kêu lộp bộp.

Thoáng cái, tiếng trống trận vang rền, lọng vàng từ phương xa từ từ kéo tới. Hoàng đế Chính Đức đích thân đăng đài điểm tướng, tiễn biệt Dương Lăng. Hoàng đế đích thân ngự giá, mọi tướng sĩ trong thao trường rào rào quỳ xuống nghênh đón.

Tiểu hoàng đế Chính Đức vận áo bào thêu hình rồng cuộn màu đen tuyền, tôn lên môi hồng răng trắng, khí phách bừng bừng. Khi hắn bước lên đài, viên minh châu gắn trên mũ Dực Long khẽ rung rinh. Hắn vừa đến chính giữa điểm tướng đài, Dương Lăng liền vội quỳ xuống nghênh giá.

Theo sau Chính Đức là Lưu Cẩn và bốn tên tiểu thái giám, dâng chiếc khay sơn son thếp vàng đựng thánh chỉ, lệnh tiễn, ấn tín và Thiên Tử kiếm. Trên tấm thảm đỏ trải chính giữa điểm tướng đài, long thư án (cái bàn họa khắc hình rồng -ND) và long ỷ bề mặt phủ bởi vải lĩnh màu vàng đã sớm được bày biện ngay ngắn. Hoàng đế Chính Đức bước tới ngồi sau chiếc bàn, cao giọng tuyên:

- Chúng khanh bình thân!

Giáp bào lào xào, hơn năm nghìn viên tướng sĩ đồng loạt đứng dậy. Ba tiếng pháo vang lên rền rã khắp trời, tiếng kèn lệnh réo gào cùng tiếng trống trận gầm gừ như sấm dậy lần nữa được vang lên, khiến hoàng đế Chính Đức nghe thấy cũng dâng trào nhiệt huyết.

Khuôn mặt anh tuấn như ngọc của hắn đỏ bừng vì kích động, vừa định đứng lên nói mấy lời, hắn chợt sực nhớ nơi đây cũng có quy củ riêng của nó, bèn hướng mắt sang Lưu Cẩn. Lưu Cẩn vội hô to:

- Tướng lĩnh phụng chỉ tuần biên bước lên nghe chỉ!

Dương Lăng bước lên mấy bước, quỳ lạy:

- Có mạt tướng!

Lưu Cẩn cầm lấy thánh chỉ, cao giọng tuyên:

- Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu rằng: Nay phương bắc có Thát Đát xâm phạm Đại Minh ta, quấy nhiễu nhân dân ta, khiến cho tiếng oán dậy trời, thế nên trẫm xuất binh đánh chúng. Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu lập chiến công, đáng nên khen thưởng. Ý trẫm trao cho Dương Lăng chức Uy Vũ tướng quân, đặc biệt ban cho Thiên Tử kiếm, thay trẫm tuần thú(*) biên thùy, ủy lạo tướng sĩ, và quyết định chiến sự tiền phương; đồng thời cử đề đốc Kinh doanh là Trương Vĩnh làm phó sứ, thưởng cho mãng long bào. Hai người lập tức lên đường, không được trì hoãn. Khâm thử!"

(*: thiên tử đi tuần, xem xét các đất nước chư hầu thì gọi là tuần thú)

Dương Lăng lĩnh chỉ tạ ơn, Trương Vĩnh cũng vội quỳ dưới đài, cung kính thưa lĩnh chỉ.

Dương Lăng cầm lấy Thiên Tử kiếm giắt bên hông, tiếp nhận kim ấn và lệnh tiễn, rồi lệnh cho đại quân lên đường, năm nghìn tinh binh hùng dũng rời khỏi thao trường. Trước đây Chính Đức đã ban thưởng mãng long bào cho Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng, duy chỉ Trương Vĩnh là chưa có phần, khiến lão trông thấy mà phát thèm. Lần này phụng chỉ tuần biên, cuối cùng lão cũng đã được ân thưởng mãng long bào, Trương Vĩnh hớn hở không thôi. Tiếp nhận lấy áo bào mặc vào chỉnh tề, lão cũng trèo lên ngựa, cung kính ôm quyền thực hiện quân lễ với Chính Đức, rồi quay đầu ngựa đi theo đại quân.

Hoàng đế Chính Đức tủm tỉm cười nhìn theo Dương Lăng bước xuống điểm tướng đài, vịn yên nhảy lên ngựa tung bụi rời đi, liền như không thể chờ được nữa mà hắn lập tức khởi giá hồi cung. Thao trường này đặt trong Thần Cơ doanh, vốn nằm bên ngoài kinh thành. Hôm nay Chính Đức đòi bày ra nghi thức xuất binh long trọng như vậy, văn võ trong triều chỉ nghĩ tiểu hoàng đế lại thích vẽ chuyện cho nên cũng không ai để ý.

Hắn không thể thượng triều, nhưng đại sự trong triều vẫn phải có người xử lí, cho nên đại học sĩ nội các và Lục Bộ Cửu Khanh đều phải yên phận ở lại trong kinh xử lí công việc. Hoàng đế ngự giá rời khỏi thao trường, các võ tướng bèn quỳ xuống đưa tiễn, không ai dám sóng vai cùng hắn rời khỏi viên môn. Mãi khi lọng vàng khuất xa khỏi góc núi, các viên tướng mới lần lượt bảo đám thân binh dắt ngựa đến, rồi chắp tay cáo từ nhau.

Đội nghi trượng ngự giá dài cuồn cuộn, bám đuôi theo đại quân của Dương Lăng. Ngã ba phía trước có một con đường rẽ về kinh sư, một đi tuốt đến Xương Bình. Hai đội ngũ mỗi đội tiến về một hướng. Đang lúc từ từ tách ra, trong đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức mà hôm nay trông long trọng một cách dị thường chợt có hơn mười tay hiệu úy hông giắt bội đao phóng ngựa tách ra, lặng lẽ gia nhập vào trong đại quân của Dương Lăng.

Đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức vẫn thong thả túc tắc trở về kinh sư. Xa xa ở phía sau đám võ tướng không dám vọt lên vượt qua đội nghi trượng của Hoàng đế, bèn nhẫn nại chống đầu ngựa chờ ở ven đường. Ở hai bên đường, cứ ba bước một đội, năm bước một tiêu (đồn), binh sĩ đứng canh gác nghiêm ngặt, không cho bất kỳ kẻ vô phận sự nào đến gần trong phạm vi mười trượng.

Giữa đại quân, có mấy chục tay tiểu hiệu kè kè bên người Dương Lăng, trong đó có một hiệu úy theo sát y, mặt mày hăm hở, hết nhòm đông lại ngó tây, rất không yên phận.

Dương Lăng ghìm cương, đợi hắn lên cạnh rồi mới nhỏ giọng khuyên:

- Hoàng thượng! Cỗ xe ngựa ở phía trước tuy bề ngoài chỉ dùng để vận chuyển quân nhu nhưng bên trong bài trí rất là thoải mái, hay là Hoàng thượng hãy vào trong xe nghỉ ngơi đi. Trời lạnh gió rét, xin ngài chớ để nhiễm lạnh.

Năm nghìn quân tinh nhuệ chỉ biết phải theo Dương Lăng đến Đại Đồng tuần thị, ủy lạo quân sĩ. Ngoài ba trăm đại nội thị vệ được điều vào trong quân trước đó, cũng chỉ có mấy tướng lĩnh hạch tâm như Dương Lăng và Trương Vĩnh mới thật sự biết Hoàng đế đang trà trộn vào trong quân đội. Chung quanh bọn họ, ngoài vài người là tâm phúc của Dương Lăng, còn lại đều là thị vệ cao thủ của đại nội, cho nên Dương Lăng mới dám gọi thẳng hắn là Hoàng thượng.

Chính Đức cười khì khì, vung vẩy chiếc roi ngựa trong tay, liếc xéo Dương Lăng nói:

- Muốn đi thì ngươi đi đi! Ngươi là đại tướng quân phụng chỉ tuần biên mà, ta chỉ là hiệu úy thủ hạ cỏn con của ngươi, đương nhiên phải có đãi ngộ giống những sĩ tốt cùng đi cùng nghỉ rồi. Vả lại, luận thân thể và xương cốt, ta còn cường tráng hơn ngươi nhiều đó. Phù... thì ra không cần phải cứ hễ mở miệng thì phải xưng “trẫm” lại thoải mái đến như vậy, ha ha ha ha...

Chính Đức cười toe toét, quất mạnh roi lên mông ngựa phóng thẳng về phía trước. Mấy chục tay cao thủ đại nội chung quanh khiếp sợ lập tức vung roi phóng ngựa vọt lên theo sau.

Dương Lăng chỉ đành lắc đầu cười khổ sở. Hoàng đế xuất kinh vi hành như vậy, còn cải trang làm một tiểu tốt thấp hèn, trong mắt đám sĩ phu, hẳn là một hành động đánh mất tôn nghiêm đáng hổ thẹn của thiên tử. Xem ra vị Hoàng đế này hãy còn rất ham chơi, rời khỏi kinh sư rồi mà cũng không chịu thay quần áo, ngược lại còn hào hứng như vậy, quả là lạc quan yêu đời.

Đại quân tiến về phía trước, Dương Lăng tổ chức nhân mã của Xích Hầu(*) doanh của Nội xưởng thành mười đội thám mã, ở phía trái và phía phải mỗi bên có ba đội giữ khoảng đi cạnh ở xa xa, đằng sau đặt thêm hai đội, đằng trước là bốn đội luân phiên hồi báo tin tức. Đại quân đều là thiết kỵ, ngay cả vật tư mang đi cũng được xe tứ mã kéo theo, cho nên hành quân rất nhanh.

(*: 'xích' nghĩa là trinh sát, hiểu là đội quân chuyên trách trinh sát)

Đi được hơn hai canh giờ, đến giữa trưa, đoàn quân dừng lại dưới một triền núi chôn nồi nấu cơm. Nơi đây, một bên là triền núi hướng mặt trời, chung quanh được bao bọc bởi rặng núi dài, cho nên ấm áp vô cùng. Dương Lăng phái bốn đội, mỗi đội trăm người chia ra đồn trú bên ngoài một dặm để phòng ngừa bất trắc. Y xuống ngựa, cùng Trương Vĩnh đưa Chính Đức lên triền núi nghỉ chân.

Ánh nắng chói chang, khí hậu ôn hoà, thảm đỗ quyên mọc trên triền núi đã hé lộ những nụ hoa tươi tắn. Tuy cây vẫn khô lá, nhưng những cành cây khô ấy cũng đã hút đủ nước, vỏ cây đã hơi nhuốm sắc xanh nhưng dưới khóm hoa vẫn còn một màu trắng xoá.

Chính Đức lấy làm lạ:

- Nơi đây thực kì quái! Hoa này chẳng phải là hoa mai, song lại có thể đâm chồi trong tuyết, xem ra, có lẽ qua mấy ngày nữa hoa tươi sẽ nở rộ đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Đúng vậy! Hoa này tên là đỗ quyên. Lúc trời thoắt nóng thoắt lạnh, mọi loài hoa đều thần phục trước cái oai đáng sợ của cái rét mùa đông, là lúc đỗ quyên bắt đầu nở bung trong tuyết trắng. Chờ khi Hoàng thượng thành công trở về, khắp triền núi này sẽ phủ một màu đỏ rực như lửa, vừa khéo chúc mừng Hoàng thượng.

Chính Đức thích thú cười ha hả. Hắn đứng trên triền núi dõi mắt nhìn về phương bắc xa xăm, một hồi lâu sau mới ngoái lại nói với Dương Lăng:

- Trẫm đang nghĩ, vị Bá Nhan Khả Hãn được tôn sùng là hùng ưng chốn thảo nguyên cùng dũng sĩ Hỏa Sư hung mãnh như một con ngựa hoang kia đang dẫn thiên quân vạn mã quét ngang thảo nguyên, rong ruổi sa trường, hẳn là oai phong và mãn nguyện lắm. Trẫm thua kém bọn họ sao? Không!

Lần này đi là vì mưu lược chính sự. Rồi sẽ có một ngày, trẫm sẽ đích thân dẫn binh gặp gỡ cái tên Bá Nhan và Hỏa Sư đó. Hoàng đế Hồng Vũ đã đuổi bọn chúng rút về đại mạc, hoàng đế Vĩnh Nhạc đánh đuổi bọn chúng phải trốn đông núp tây, hiện tại đến phiên trẫm làm Hoàng đế, chẳng lẽ phải ngồi nhìn giang sơn Đại Minh trở thành bãi chăn thả của bọn chúng, con dân Đại Minh trở thành bò dê của bọn chúng ư?

Rồi hắn quả quyết:

- Khanh hãy xem đi! Sẽ có một ngày trẫm sẽ đích thân nói với bọn chúng rằng, thiên tử của người Hán là thần long hô mây gọi mưa, ngao du khắp chín tầng trời, chứ không phải là một con giun đất, mặc cho bọn chúng tha mổ, gặm rỉa!

Dương Lăng mừng thầm, giảng trăm đạo lý không bằng để Hoàng đế tận mắt nhìn thấy giang sơn và nhân dân của mình mà cảm ngộ ra đạo lý riêng. Đại Minh đồi bại là ở điểm này, là ngay ở lãnh tụ của bọn họ. Nếu như vua nhà mạt Tần thời bảy nước không phải là Doanh Chính, liệu sẽ có Tần Thủy Hoàng Đế? Nếu như Hoàng đế đời thứ bảy của nhà Tây Hán không phải là Lưu Triệt, liệu sẽ có câu "Kẻ nào xâm phạm đến Đại Hán hùng mạnh của ta, cho dù chạy xa cách mấy cũng sẽ bị đuổi giết"?

Dương Lăng mừng rỡ đáp:

- Hoàng thượng nói rất phải, hùng ưng ngựa hoang gì đều sẽ phải thuần phục Hoàng thượng hết thảy! Đến lúc đó, Hoàng thượng cao hứng muốn đi săn, sẽ cưỡi con ngựa Hỏa Sư, dẫn con ưng Bá Nhan, tiêu dao tự tại biết dường nào!

Trương Vĩnh chen vào phụ họa:

- Hỏng rồi! Như vậy há chẳng phải Hoàng thượng trở thành phường áo gấm ác ôn ư?(2)

Dương Lăng thõng tay “than”:

- Biết làm sao được! Thiên hạ thái bình rồi, không có gì để cai trị, Hoàng thượng không cưỡi ngựa dẫn ưng dạo chơi thì còn việc gì để làm nữa chứ?

Chính Đức được bọn họ kẻ tung người hứng sướng đến nở mặt nở mày, thế là liền nổi hùng tâm, phấn khởi bảo:

- Ai nói không có việc gì làm chứ? Đến lúc đó, trong nước đã thái bình, trẫm sẽ thả thuyền đến Đông Dương, căng buồm giong biển!

Mặt mày hoan hỉ, Dương Lăng liền thưa:

- Quả nhiên Hoàng thượng hùng tài đại lược! Phải chăng ngài muốn Đại Minh chúng ta xây dựng hạm đội thủy quân vô địch, oai truyền bốn bể, trở thành bá chủ thiên hạ?

Chính Đức trợn mắt:

- Bậy bạ! Làm vậy có gì là thú vị? Trẫm muốn giống như trong truyện mà khanh đã kể với trẫm vậy:

“Tay trần cầm chắc Quỷ Đầu đao,

Đầu quấn lên thêm tấm vải đào,

Mắt đeo miếng bịt cho hung bạo,

Đi làm hải tặc sướng biết bao!"

Chú thích:

((1) xem hình

(2) ngày xưa có câu "giá ưng khiên cẩu" (

鹰牵狗

) nghĩa là dẫn theo chim ưng dắt theo chó săn, nhằm trỏ phường ác bá cậy quyền cậy thế. Trương Vĩnh trêu Chính Đức là dựa trên câu nói này.

Ngược về thời Minh

Chương 186 - Tú tài gặp phải ông lính

Sau bữa cơm, đại quân nhổ trại tiếp tục lên đường. Tuyết đọng trên đường bị bánh xe lừa, ngựa cày xới khiến cho quan đạo lầy lội không thể tả, tốc độ của đội ngũ vì thế bị chậm lại rất nhiều. Không lâu sau, bọn họ đuổi gặp một đội quan binh áp tải đội xe lừa ngựa dài hun hút, đang gian khổ lặn lội trên đường.

Thám mã hồi báo với Dương Lăng rằng đây là đội xe vận chuyển lương thực và rơm cỏ đến Đại Đồng. Lương thảo và trang bị vận chuyển từ nam lên bắc thường đi trên con đường này, ngựa xe liên miên không dứt khiến con đường đất bằng phẳng được đầm chặt chẻ, dễ đi nay đã bị tàn phá nghiêm trọng. Đã lồi lõm gập ghềnh lại thêm tuyết đọng phủ dày, đường quan đạo nay rất trơn trợt khó đi.

Thấy đại quân giáp trụ chỉnh tề, hành trang gọn ghẽ đi tới, đội quân nhu tự giác tránh sang bên đường. Đại quân của Dương Lăng tu chỉnh lại đội hình, từ từ vượt lên.

Chính Đức kẹp hờ lưng ngựa, cả người hơi nhấp nhô, ánh mắt chậm rãi quét vào dòng người của đội xe. Đội xe chen chúc ở một bên, đám dân phu áo quần lam lũ, có người tu bổ mặt đường, có người vai khiên chân đạp, ra sức nâng đẩy bánh xe đang lọt vào hố tuyết.

Phu dịch đánh xe thì ngồi trên xe điều động, còn những dân đinh trai tráng đang ra sức bắc cầu sửa đường, vai khiên tay gánh này đều là những người dân lưu lạc cùng với tá điền và thôn phu tự nguyện tham gia vận chuyển lương thảo. Những người dân lưu lạc lo kiếm miếng cơm manh áo, những tá điền gia cảnh bần hàn, mùa đông không có gì làm, dựa vào chút sức khoẻ ra khỏi nhà tìm ít công việc, vừa kiếm cơm nhằm giảm gánh nặng cho gia đình, vừa có thể kiếm thêm mấy văn tiền lớn.

Nhìn những người dân nghèo khổ mày mặt xanh xao này, nụ cười ung dung trên khuôn mặt của Chính Đức vụt tắt. Khi đoàn quân vượt lên khỏi đội xe quân nhu tiếp tục tăng tốc tiến về phía trước, Chính Đức vẫn không ngừng ngoái đầu nhìn về phía ”con rồng” dài đang chầm chậm di chuyển đó.

Đại quân dừng ở Xương Bình nghỉ một đêm. Huyện lệnh của Xương Bình không hề biết đương kim Hoàng đế đang ở trong quân, tuy nhiên chỉ nội hai tấm chiêu bài tiếng tăm vang dội là đề đốc Nội xưởng và đề đốc Kinh doanh đã đủ khiến lão ta bận đến túi bụi rồi.

Đại quân của Dương Lăng đồn trú tạm trong Dịch thừa quán của huyện thành nho nhỏ, toàn bộ sai dịch và đầu bếp trong quán Dịch đều bị đuổi ra ngoài, gọi người do Trương Vĩnh dẫn tới. Huyện lệnh của Xương Bình chỉ cho rằng hai vị đề đốc đại nhân quyền thế ngút trời này muốn bày vẽ xa hoa(1) nên cũng không hề nghi ngờ gì, chỉ vội vàng đưa mấy chục con lợn béo đến. Thấy hai vị đại nhân cũng không nhiệt tình bắt chuyện cùng, lão bèn biết điều mà cáo từ rời đi.

Bên trong chiếc lều lớn dựng tạm trong quân doanh, ngay khi Dương Lăng vừa an bài ổn thoả việc trực đêm và hành trình hôm sau xong, hai viên thân quân dẫn theo một thanh niên mặc y phục thường dân bước vào. Người này ăn mặc không có gì bắt mắt nhưng cử chỉ và khí độ lại khá uy nghiêm, Dương Lăng trông thấy gã liền vui vẻ cười gọi:

- Liễu Bưu lại đây, mau ngồi đi! Có tin tức gì không?

Dương Lăng phái Dương Nhất Thanh đi theo Thành Khởi Vận xuống phương nam, thu thập nhược điểm của những quan viên được các thân hào sĩ tộc duyên hải ủng hộ và giúp đỡ mà bọn họ đã phái người điều tra từ trước. Y điều Tam đáng đầu Nội xưởng là Bành Kế Tổ dẫn theo đội năm nghìn tinh binh này; Liễu Bưu phụ trách việc chỉ huy và phối hợp thám mã trong tối lẫn ngoài sáng dọc đường; Ngũ Hán Siêu chạy trước đến Tuyên Phủ và Đại Đồng, chủ động liên lạc và âm thầm phối hợp với Hàn Lâm đang trú đóng ở đó.

Liễu Bưu thực hiện quân lễ, rồi ngồi xuống bên cạnh. Dương Lăng mỉm cười châm cho gã một chén trà, Liễu Bưu khom người cảm ơn, rồi cảnh giác quét mắt một vòng, mấy viên thị vị đứng chung quanh hiểu ý lui ra. Lúc này Liễu Bưu mới thấp giọng bẩm báo:

- Đại nhân! Thám mã trong kinh đã đưa tin đến: hai vị cô nương mà đại nhân muốn chúng ti chức để ý đến tịnh không có hành động gì bất thường. Hai người đã được đưa đến Báo phòng, dường như rất biết yên phận. Ti chức đã cho người tiếp tục giám thị.

Ngoài ra, tin tức từ thám mã tiền phương đưa về, báo rằng đường đến Cư Dung Quan, Tuyên Phủ rất thái bình. Do đội xe chở thương binh về và đưa quân nhu đến Đại Đồng nối nhau không dứt nên quân lính và dân phu hoà lẫn vào nhau. Dưới tình hình đó, nhằm phòng ngừa gian tế của Thát Đát, dọc đường đều thiết lập trạm kiểm soát, không có lệnh dụ và giấy thông hành do quân đội ban hành thì tất cả những nhóm năm người trở lên đều không được phép qua, vì vậy dọc đường tuyệt sẽ không thể xuất hiện nhân mã số lượng lớn. Nếu quả thật có mấy trăm lục lâm muốn gây hấn trước sự bảo vệ của năm nghìn quân chúng ta, bảo đảm bọn chúng sẽ chỉ có đi không về.

Dương Lăng khẽ gật đầu, hơi yên tâm. Y thả bước trong lều, trầm ngâm:

- Ngũ Hán Siêu đi sớm hơn bản quan một ngày, hiện tại vẫn chưa có tin tức đưa về, dọc đường không có hung hiểm gì thì tốt. Đợi vào đến Tuyên Phủ, Đại Đồng, nơi tập hợp trọng binh, sẽ an toàn hơn. Liễu Bưu, tạm thời huynh hãy lui xuống dùng bữa, chuyến đi này nhất định phải tập trung hết tinh thần. Bây giờ đã không như trước đây, chỉ cần Hoàng thượng mất một cọng lông, huynh và ta cũng đều sẽ có thể mất đầu đó!

Liễu Bưu đứng dậy nghiêm trang đáp:

- Ti chức hiểu được, xin đại nhân cứ yên tâm! Ti chức xin phép cáo từ!

Dương Lăng gật đầu, Liễu Bưu xoay người rời đi. Một viên thân binh bước vào bẩm báo:

- Đại nhân, bữa tối cho Hoàng thượng đã chuẩn bị xong rồi ạ!

Dương Lăng đáp:

- Ừ, để coi thử! Bản quan đi thăm Hoàng thượng một chút.

Trong cung Hoàng đế có Ngự thiện phòng chuyên phụ trách ẩm thực. Tuy bên người Trương Vĩnh vẫn có tiểu thái giám hầu hạ nhưng lão không thể mang ngự trù ra khỏi kinh. Dương Lăng đã hao tổn nhiều tâm tư mới tìm được một vị đầu bếp nghỉ hưu của Ngự thiện phòng. Y cũng không nói rõ mọi sự với ông ta, chỉ nói rằng cần chế biến món ăn cho mình dọc đường, rồi kiếm mấy thị vệ trung thành đáng tin cậy cho đi cùng với lão phụ trách bữa ăn cho Hoàng đế.

Cho dù là phụ nữ khéo tay cũng khó mà nấu được bữa trưa ngon dọc đường, hoàng đế Chính Đức cũng ăn vội mâm cơm trà đơn giản, đây cũng là bữa cơm chính thức đầu tiên của hắn. Dương Lăng đến nơi trọ của Chính Đức sau hậu viện, toàn bộ đại nội thị vệ canh gác đều nhận ra vị Dương đại nhân này, một quan thị vệ vội bước lên nghênh đón:

- Dương đại nhân!

Dương Lăng khẽ gật đầu, hỏi:

- Hoàng thượng xuất kinh lần đầu, đi đường tròng trành hẳn là đã mệt? Có phải người đã nghỉ ngơi rồi không?

Viên võ quan cũng đã cải trang thành một hiệu úy bình thường, nghe hỏi bèn cười đáp:

- Đại nhân đoán sai rồi! Hoàng thượng rất cao hứng, vừa mới tắm rửa xong liền đã dẫn Trương đề đốc ra ngoài rồi.

Dương Lăng giật nảy mình, biến sắc, hỏi ngay:

- Lúc này trời đã tối, đêm lạnh gió buốt, Hoàng thượng còn đi đâu?

Viên võ quan vội vàng giải thích:

- Đại nhân không cần phải lo! Hoàng thượng chỉ đi dạo trong doanh, thăm hỏi tướng sĩ thôi, chắc chắn không đi xa.

Lúc này Dương Lăng mới yên tâm, y vội xoay người vừa đi ra ngoài vừa nói vọng lại:

- Bản quan đi xem một chút, ngươi hãy nghỉ ngơi đi.

Dương Lăng đi vội ra khỏi dịch quán. Dịch quán của toà thành nhỏ này nằm ở đầu thành phía đông, ngoại viện vốn là nơi dừng chân và trú đóng của những đội xe quân nhu thường xuyên lui tới, chung quanh xây tường bao bọc, bên trong tường trú đóng gần nghìn tay quan binh, số còn lại trú đóng bên ngoài. Lúc này lửa trại được đốt lên khắp nơi, không khí tràn ngập mùi thịt nướng.

Dương Lăng đưa mắt nhìn quanh, trông thấy mấy đống lửa bên phải có rất đông người lui tới, bèn vội vã đi qua. Quanh đống lửa có một đám sĩ tốt đang ngồi, bên trên bắc một nồi cơm to; đồ tể mổ xong mấy chục con heo mập thì cũng đã bắc nồi, từng miếng thịt lớn chìm nổi trong nồi nước sôi sùng sục. Bọn sĩ tốt vừa rôm rả nói cười vừa nhai bánh bao, gặm xương; ăn rất ngon miệng.

Dương Lăng vẫn đang mặc trang phục tướng quân, khi đám sĩ tốt trông thấy y, tiếng nói cười lập tức dần nhỏ lại rồi lần lượt đứng dậy hành lễ. Dương Lăng mới vừa đi qua hai đống lửa, chợt có bóng người vụt sát tới gần kéo lấy tay y, khẽ giọng hỏi:

- Dương đại nhân! Đi đâu vậy?

Dương Lăng định thần nhìn kỹ, ánh lửa soi rõ ngân quang lấp loé trên mình người đó: một bộ mãng quan bào mới cáu, đai lưng ngọc bích sáng lung linh có vài phần oai phong lẫm liệt, chính là vị đề đốc Trương Vĩnh.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nắm lấy tay lão hỏi ngay:

- Người đâu?

Y đang ở bên ngoài, tuy gần đó không có ai khác, nhưng "gió đưa lời người", chỉ sợ bị người khác nghe được nên không dám nói đến hai chữ "Hoàng đế". Trương Vĩnh nháy mắt, kéo y đi mấy bước sang một bên, khẽ hất hàm về phía trước, nói nhỏ:

- Kìa! Đang ở bên đó đó, không cho ta theo. Ta thấy ngài chơi vui vẻ như vậy nên cũng chỉ đành đi tuần chung quanh, không dám đến gần.

Dương Lăng nhìn sang bên ấy, thấy rõ ánh lửa rừng rực soi sáng một khuôn mặt anh tuấn trẻ tuổi. Hoàng đế Chính Đức vận bộ đồ hiệu uý ngồi cùng một đám binh sĩ, vai kề vai, lấy cây gỗ xuyên qua bánh bao rồi hơ trên lửa, một tay cầm một khúc xương to, thi thoảng lại cắn một miếng, chuyện trò rất vui vẻ.

Một tay lính lão làng râu ria xồm xoàm đấm xuống vai Chính Đức một quyền, khiến vai hắn trùng hẳn xuống. Tên đó cười lớn bảo:

- Tiểu tử! Lần này Xưởng đốc đại nhân xuất binh, huynh đệ chúng ta được chọn ra từ hơn mười vạn đại quân trong mười hai đoàn danh, ai nấy đều biết cưỡi ngựa bắn cung, múa đao đi quyền, năm bảy tên lực lưỡng cũng không thể sáp lại. Xem thằng nhóc ngươi này: da thì trắng thịt thì mềm, làm quái được gì? Sao là đối thủ của giặc Thát được?

Nghe vậy Chính Đức cũng không nổi cáu, chỉ cười hề hề đáp:

- Đại ca chớ coi thường tiểu đệ! Tuy đệ chưa từng ra chiến trường, thậm chí trước đây đã từng đánh nhau với một tên lưu manh không biết võ nghệ trong thanh lâu, tiểu đệ còn bị hắn bất ngờ đấm cho một quyền vào mặt, suýt nữa thì trẹo cả mũi. Nhưng đó là lúc đệ còn ngu muội, chưa biết gì. Nếu thực sự luận bàn võ nghệ, nay tiểu đệ đã được mấy vị sư phụ võ công nhất đẳng đích thân chỉ dạy, sợ rằng đại ca chưa chắc đã là đối thủ của tiểu đệ đâu.

- Ồ, ồ, ồ! Tiểu tử ngươi thực biết khoác lác nhỉ! - một binh sĩ khác bộ dạng uể oải song thân thể cứng cáp cười nói, - thì ra ngươi là thân binh của đại soái, còn tưởng ngươi là con cháu phú gia chạy ra ngoài kiếm chút công danh. Nhưng ngươi lại không có vẻ gì là thiếu gia vọng tộc cả. Với bộ dạng này của ngươi, dù biết chút võ vẽ múa may thì có tác dụng gì chứ? Trên chiến trường chính là chém giết bằng đao thật thương thật, mà tiểu ca ngươi trông tuấn tú như vậy, chớ để giặc Thát bắt đi làm “thỏ tướng công”(2) đó.

Chính Đức rút chiếc bánh bao đã bị nướng cháy xém về, xé một miếng cho vào trong miệng, vừa nhai say sưa, vừa tò mò hỏi:

- Thỏ tướng công? Thỏ tướng công là gì?

Đám binh sĩ ngồi bên đống lửa cười phá lên. Tên binh sĩ có bộ râu xồm vỗ vai hắn cười ha hả:

- Ngươi không biết sự đời như vậy, thực không biết làm sao lại lăn đến bên người Dương đại soái được nữa! Đám người bên phía giặc Thát ai nấy đều cao lớn hung tợn, lưng hùm vai gấu, cho dù là đàn bà cũng không dễ nhìn hơn đàn ông bao nhiêu. Những tiểu ca nhi tuấn tú như ngươi bị bọn chúng bắt đi, sẽ không lo phải bị bắt làm nô lệ, mà không chừng sẽ được tù trưởng bọn chúng đưa về ân sủng làm ái thiếp đấy. Ha ha ha!!!...

Trương Vĩnh nghe vậy liền nổi giận, lông mày chau lại, sát khí ùn ùn định xông qua. Dương Lăng vươn tay giữ lão lại, quát khẽ:

- Bình tĩnh chớ nóng! Kẻ không biết không có tội. Hoàng thượng còn chưa nổi giận, ông nổi giận làm gì?

Trương Vĩnh bình tĩnh nhìn lại, lão thấy dường như Chính Đức chỉ hơi mắc cỡ. Tay binh sĩ đó nói như vậy thì hắn đương nhiên biết “thỏ tướng công” chính là “ái nhi” rồi. Nhưng Chính Đức không hề nổi giận, lần đầu tiên trong đời có người nói chuyện thô tục như vậy với hắn, ngoài sự mới lạ hắn còn cảm thấy rất... hay.

Chính Đức không đồng ý, phản bác:

- Giặc Thát bắt trẻ em phụ nữ ta, trẫm... trong trấn tiểu đệ cũng thường nghe khách buôn phương bắc nhắc đến. Có điều hình như bọn chúng cướp bóc lương thảo là nhiều, chứ chẳng lẽ cũng cướp nhiều người lắm hay sao?

Binh sĩ chung quanh dần thu lại nụ cười. Lúc lâu sau một Ngũ trưởng tuổi chừng hơn ba mươi, mặt đỏ bầm, thở dài một hơi rồi bảo:

- Đó là lẽ đương nhiên! Nhiều năm qua, giặc Thát tấn công Tuyên Phủ, tấn công Đại Đồng, tấn công Kế Xương không biết đã bắt đi bao nhiêu là bá tánh.

Một quan binh trông có vẻ văn nhã hơn vỗ đùi đánh bộp, căm tức mắng:

- Cái đám chó đẻ đó! Dân đen sợ bị giặc Thát cướp bóc, có chạy cũng chỉ có thể chạy vào Trung Nguyên. Còn những người dân nhiều đời vẫn sống dựa vào mấy mẫu ruộng tổ tiên để lại thì không chốn nương thân, chỉ có thể mặc cho bọn chúng lăng nhục. Hễ là ông già hay tráng niên đều sẽ bị chúng giết chết. Còn thiếu niên và phụ nữ thì bị bắt làm nô bộc và thê thiếp, giúp chúng thả dê, vắt sữa, may vá, nấu rượu, tính toán. Ngươi nói chúng bắt đi có nhiều không?

Hắc hắc! Giặc Thát ít dân, một gia đình chăn thả bò dê thì mấy chục dặm chung quanh sẽ chỉ có gia đình này, không còn nhà nào khác. Bộ lạc Cát Nang ở địa khu Hà Sáo bắt đi nhiều người Hán nhất, một gia đình Mông Cổ không quá năm sáu người song lại có đến sáu bảy nô lệ người Hán.

Ngũ trưởng mặt đỏ nọ cười gằn rồi an ủi:

- Lão Đoạn, lại nhớ đến chuyện đau lòng à? Chẳng phải Dương tổng chế đã thắng một trận lớn đó sao? Người Man ít tráng đinh, vị phó tướng Vương Thủ Nhân nọ đánh một trận hạ độc chết ba nghìn giặc Thát, những gia đình giặc Thát đó chỉ còn lại người già phụ nữ và trẻ em, chẳng bao lâu sẽ phải sa vào cảnh làm nô bộc cho các bộ tộc khác. Đó gọi là báo ứng!

Chính Đức liếc sang tay lính từng trải trông có vẻ nho nhã nọ, hỏi:

- Đoạn... Đoạn đại ca, gia đình của huynh đã từng bị giặc Thát hại sao?

Người lính từng trải nọ im lặng không nói gì. Gã lính râu xồm ngồi bên cạnh kề tai Chính Đức nói nhỏ:

- Lão Đoạn là người dân ở bảo Trợ Mã, Đại Đồng. Huynh đệ tỷ muội toàn tộc của lão có sáu mươi lăm người, bị giặc Thát cướp giết sạch, chỉ còn lại năm người lão ấy bị bắt đến thảo nguyên làm nô lệ, trồng trọt thả dê.

Hai năm sau, bộ lạc đó xảy ra chiến tranh với một bộ lạc khác, mấy thân nhân của lão Đoạn đều bị loạn mã giẫm chết trong chiến trận. Lão ấy giả chết, sau đó chạy từ nghìn dặm xa xôi về quan nội. Vì lão ấy cưỡi ngựa giỏi, cho nên mới gia nhập Thần Cơ doanh, chuyên việc huấn luyện cưỡi ngựa.

Chính Đức nghe kể vậy thì giận lắm, song lúc nghe nói đến trồng trọt lại lấy làm kinh ngạc, hắn bèn hỏi:

- Giặc Thát cũng biết trồng trọt sao? Bọn chúng trồng những gì?

Gã lính râu xồm đáp:

- Năm xưa người Nguyên thống trị Trung Nguyên hơn trăm năm cũng không học trồng trọt cấy cày mà cũng không nghĩ đến việc trồng trọt canh tác. Nhưng đến khi bọn chúng bị đuổi về đại mạc rồi, không còn ai cung cấp lương thực sẵn cho nữa, thì mới lại muốn học cách cày cấy.

Hiện tại người Mông Cổ lấy việc chăn thả làm chủ, song cũng trồng trọt ở một số nơi. Tuy nhiên người Mông Cổ không biết nông canh, những việc này đều do những người Hán bị bắt cóc làm cả. Nhân thủ không đủ dùng, thi thoảng giặc Thát còn chiêu mộ người dân lưu lạc ở biên tái nữa.

Người Mông Cổ cũng bắt đầu học tập người Hán trồng trọt rồi ư? Chính Đức thật sự không biết tin tức ấy. Năm xưa mật thám Cẩm Y Vệ tới lui vùng quan ngoại cũng chỉ chú ý đến tình báo quân sự và chính trị, cho dù có thấy người Mông Cổ khai phá một ít ruộng đồng thì cũng chả ai để ý. Chính Đức nghe xong trong lòng như chợt loé linh cơ, hắn định nắm bắt lấy nó, song lại như một giấc mơ, không thể nhớ được gì nữa.

Gã lính râu xồm rút từ trong dây thắt lưng ra một con dao nhỏ chọc một miếng thịt nhễu nước từ trong nồi ra, cắn một miếng ngon lành, rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Đừng ủ rũ nữa! Nào, ăn miếng thịt to đủ gom lấy sức. Đợi đến Đại Đồng rồi, ngộ nhỡ giặc Thát vẫn chưa bị Dương tổng chế đuổi chạy hết, không chừng huynh đệ chúng ta vẫn có thể xuất chiến đó!

Chính Đức cũng bắt chước theo, rút một con dao nhỏ chọc lấy ra một miếng thịt, cười vang:

- Nói phải lắm, gom góp sức lực, sẽ có một ngày chúng ta sẽ đoạt lại hết những gì giặc Thát đã cướp. Chê bọn chúng tay chân thô kệch không thể đun trà ngâm nước, chúng ta sẽ bắt chúng làm những công việc nặng nhọc.

Dương Lăng mỉm cười, hỏi nhỏ Trương Vĩnh:

- Trương công công! Vị đó ra ngoài chưa được một ngày, ông xem thử có phải là người đã thay đổi gì không?

Trương Vĩnh nghe vậy bèn quan sát Chính Đức kỹ lưỡng một lượt, rồi gật đầu bảo:

- Ừm! Thực không phải mà, mặc quần áo vải thô đó, sao cứ thấy chướng mắt thế nào! Còn nữa, còn nữa... xem cái tướng ngồi tướng ăn đó, ôi chao! Bình thường ta chán nhất là cái đám đại nhân già ấy cứ vung tay vung chân bảo Hoàng... bảo người phải thế này, phải thế kia! Thế mà hiện tại ngay cả ta cũng thấy vị đó không vừa mắt đây.

Dương Lăng liếc mắt nhìn quanh, thấy đại nội thị vệ cải trang làm quân sĩ bình thường ra vẻ như đang đi dạo khắp nơi. Bên cạnh Chính Đức sợ không ít hơn bốn mươi tay cao thủ đại nội bảo vệ, chung quanh cũng toàn là binh sĩ đáng tin cậy do chính mình đích thân tuyển chọn, y bèn yên tâm vỗ vai Trương Vĩnh mỉm cười nói:

- Tôi lại cảm thấy hiện tại vị đó đã có khí phách nam tử hơn, và cũng đã hiểu chuyện hơn nhiều.

Trương Vĩnh đưa mắt nhìn theo Dương Lăng đang khoan thai bước đi, đoạn quay lại quan sát Chính Đức kỹ thêm lần nữa, rồi nghi hoặc lẩm bẩm:

- Vẫn vậy mà! Chẳng lẽ lúc đầu ngài không có khí phách nam tử, không hiểu chuyện sao?

* * *

Sáng hôm sau, đại quân lên đường rời Xương Bình tiến đến Cư Dung Quan.

Hôm nay trời âm u, gió bắc kéo tới ùn ùn, thổi tung những hạt tuyết trên mặt đất, hất vào mặt đến lạnh. Dương Lăng khoác áo choàng Cô nhung lớn còn cảm thấy lạnh muốn chịu không thấu, một góc tỏa tử giáp lộ ra dưới tấm chiến bào; khi tháo găng tay da dê ra, bàn tay nóng hổi liền sẽ bị cóng ngay.

Y thấy Chính Đức vẫn ở chung với đám thị vệ, mặc quần áo hiệu úy bình thường, nheo mắt chống chọi với gió rét mà đi, thì liền tới gần khuyên:

- Hoàng thượng! Bất luận thế nào ngài cũng phải vào trong xe... nghỉ ngơi. Mặc dù thân thể Hoàng thượng cường tráng, nhưng dẫu sao vẫn chưa từng chịu qua cái rét lạnh đến bực này, nếu thực sự bị cảm lạnh sẽ lỡ đại sự đó.

Trên đồng hoang bát ngát, gió rít rợn người, phía trước sắp đến một sơn ải, gió lùa từ trong sơn khẩu ra ngoài cuốn cho tuyết bay mù trời, chỉ cần hơi há miệng là tuyết sẽ ùa ngay vào, khiến cho Dương Lăng cứ nói một hai câu lại phải dừng lại.

Chính Đức bướng bỉnh đáp:

- Không đi! Năm nghìn binh lính chịu được cái lạnh buốt xương này, bá tánh phương bắc bao năm phải chịu cái rét cắt thịt này, chẳng lẽ chỉ có mấy ngày mà ta cũng không chịu nổi? - Nói đoạn hắn lấy tay che mặt, rồi quay sang Dương Lăng đùa giỡn: - Hơn nữa gió tuyết thổi vào mặt thế này, vừa tê lại ngứa, ta chưa từng có cảm giác này bao giờ. Khó khăn lắm mới được ra ngoài một chuyến, ta nhất định phải tự mình thể nghiệm một phen.

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì cười khổ không thôi, đang tính mở miệng khuyên thêm thì chợt có một thớt khoái mã từ sau phi nước đại đến. Kỵ mã thúc ngựa chạy đến gần mới ghìm cương dừng lại, thở hổn hển kêu to:

- Khải bẩm đại nhân! Đằng sau... đằng sau có mấy chục thớt khoái mã đuổi theo. Tuân theo quân dụ của tướng quân, chưa có mệnh lệnh, bất cứ ai cũng không được tự ý gia nhập vào trong quân. Những người đó bị ngăn ở bên ngoài, liền ra lệnh cho thuộc hạ lập tức phi báo cho tướng quân hay. Xin tướng quân hãy lập tức đi ra phía sau gặp bọn họ!

Dương Lăng sửng sốt hỏi:

- Ai đuổi theo?

Khuôn mặt binh sĩ đó lộ vẻ hết sức kỳ quái, hắn ngượng ngập đáp:

- Chuyện đó... Vị đại nhân kêu thuộc hạ báo tin nói rằng, phía sau là ba vị đại học sĩ Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa. Những người còn lại... hẳn là tùy tùng của ba vị.

Dương Lăng nghe vậy liền đưa mắt nhìn sang Chính Đức, ánh mắt cả hai đều lộ vẻ thất kinh. Như một đứa trẻ trốn học bị thầy giáo bắt quả tang tại trận, khuôn mặt Chính Đức hiện rõ nét sợ hãi. Hắn bối rối nhìn Dương Lăng cầu cứu:

- Làm sao đây? Phải làm sao đây? Ta... ta phải trốn đâu bây giờ?

"Chẳng phải đã dự tính đại quân đến Tuyên Phủ rồi mới công bố mật chỉ Hoàng đế xuất kinh cho Nội các và Lục Bộ Cửu Khanh sao? Sao đã bị phát hiện sớm như vậy, đuổi kịp tới nơi rồi?" Dương Lăng thoáng nhíu mày trầm tư, rồi hạ thấp giọng hỏi Chính Đức:

- Có phải là Hoàng thượng đã sợ?

Chính Đức nghe vậy liền ưỡn ngực, liếc nhìn tay kỵ mã, rồi cũng thấp giọng nói với Dương Lăng:

- Sợ cái gì? Ta sợ chẳng qua là biết mấy vị đó mà mở miệng thì cho dù ta có làm thế nào cũng sẽ không cãi lại bọn họ. Bọn họ đã đuổi đến sát ngay sau mông rồi, ta có thể làm gì đây? Nhưng mà... ta nhất định phải đi Đại Đồng, cho dù bọn họ ngăn cản ta thế nào đi nữa, trẫm nhất định phải đi! …, Khanh hãy giúp trẫm nghĩ cách nhé!

Dương Lăng cười lớn đáp:

- Nếu đã như vậy, việc này xin cứ giao cho thần.

Y quay đầu ngựa, phi ngược về phía hậu quân. Hai mươi thị vệ tùy thân và Trung quân quan đuổi sát theo sau. Ánh mắt Dương Lăng quét nhanh hai bên, đột nhiên y phát hiện trong đội ngũ có một binh sĩ đang cưỡi một thớt ngựa béo màu vàng. Da hắn đen nhẻm, mắt đậu xanh, mũi củ tỏi, râu ria xồm xoàm kéo dài từ dưới cằm theo hai má lên tới tận đầu, trông như một con nhím. Nếu thanh thiết côn đen thui dài tám thước trong tay hắn đổi thành thanh bát xà mâu dài cả trượng, thì hắn sẽ y hệt Trương Phi tái thế.

Trông thấy người này có vẻ quen quen, y lục nhanh lại ký ức liền nhớ ra rằng đây chính là gã lính to con ngồi sóng vai với Chính Đức gặm xương bên đống lửa đêm qua. Mắt Dương Lăng liền sáng rỡ: chính là hắn! Dương Lăng quay đầu ngựa, chiến mã hí vang tràng dài, y dừng lại trước mặt người đó, quát hỏi:

- Ngươi tên là gì?

“Trương Phi” giật nảy mình. Y là binh sĩ do Dương Lăng đích thân chọn lựa, tuy Dương Lăng không nhận ra hắn, nhưng hắn lại biết Dương Lăng. Tuy tính tình thô lỗ nhưng trước mặt Dương Lăng hắn nào dám làm càn, “Trương Phi” vội ghìm cương ngựa, cung cung kính kính đáp:

- Hồi bẩm đại soái! Thuộc hạ là Lưu Đại Bổng Chùy(*), hiệu úy của Thiết Côn doanh!

(*: Đại bổng chùy nghĩa là cây chày lớn)

Dương Lăng đực mặt ra, lấy làm lạ bèn hỏi:

- Đó là cái tên gì vậy? Chẳng lẽ ngươi không có cả một cái tên nghiêm chỉnh sao?

Khuôn mặt đen đúa của “Trương Phi” thoáng đỏ bừng, hắn ngại ngùng bẩm:

- Đại nhân! Chính cha mẹ của tiểu nhân đặt cái tên này, nói rằng tiểu nhân sinh ra vừa đen lại vừa cứng cáp, giống y như một cây chày sắt nên mới gọi là Lưu Bổng Chùy.

Dương Lăng thấy hắn hào sảng, ngây ngô chất phác thì rất vừa lòng. Y cười hắc hắc, bảo:

- Bản quan nhận thánh dụ đi đến Đại Đồng tuần sát chiến sự. Ở hậu phương có mấy vị quan văn trong kinh sư đuổi theo, định sẽ dùng trăm phương nghìn kế khuyên bản quan trở về. Bản quan lệnh cho ngươi cầm cây Thượng Phương Bảo Kiếm, dẫn theo hai mươi thân binh của bản quan đến hậu phương ngăn bọn họ lại, chờ đại quân qua khỏi Cư Dung quan rồi ngươi mới được trở về. Làm xong việc này, ngươi sẽ là thân binh của bản quan, thế nào?

Nghe vậy Lưu Đại Bổng Chùy mừng rơn, lập tức vui sướng chắp tay thưa:

- Thuộc hạ tuân lệnh!

Dương Lăng cởi thanh bảo kiếm được vua ban thưởng ra trao cho hắn, dặn:

- Đám quan lớn đó đều là kẻ đọc sách, nói chuyện ba hoa xích thố, miệng lưỡi trơn tru. Mặc kệ bọn họ nói cái gì, ngươi chỉ cần nói với bọn họ rằng: “Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại kinh xử lý công việc, chớ có nhớ mong!".

Lưu Đại Bổng Chùy cắm bảo kiếm vào dây đai lưng, vắt ngang thanh thiết côn dài tám thước lên trên yên ngựa, ôm quyền bẩm:

- Thuộc hạ tuân lệnh! Mặc kệ bọn họ đánh... nói lời gì, thuộc hạ quyết không để bọn họ tiến được nửa bước!

Lưu Đại Bổng Chùy cầm cây thiết côn đen thủi lên, không nói thêm tiếng nào, lập tức dẫn hai mươi tay thân binh 'đánh' về phía hậu quân.

Dương Lăng cười hắc hắc: "Để cái đám tú tài đó đi mà nói lý lẽ với ông lính này."

Rồi y quay đầu lấy hơi quát lớn:

- Trung quân quan! Hạ lệnh toàn quân tăng tốc tiến về phía trước! Cho nghìn quân thám mã đi đến Cư Dung Quan kêu cửa trước, qua khỏi ải liền thẳng tiến Tuyên Hóa, không được chậm trễ!

- Tuân lệnh!

Trung quân quan hô lớn, cây cờ nhỏ trong tay phất mấy cái, cờ xí trong tay quan hiệu lệnh chung quanh liền không ngừng biến đổi. Năm nghìn thiết kỵ chợt như hồng thủy tràn đê, xe lộc cộc, ngựa rền vang, chạy băng băng về phía Cư Dung Quan như nước lũ chảy xiết.

Thực sự Tiêu Phương đã rất tận tâm và trung thành, lão tận lực muốn giúp hoàng đế Chính Đức và Dương Lăng che giấu chuyện này, và nguyên cả ngày hôm qua lão đã thực sự kiếm cớ che giấu được. Ai ngờ đến tối, khi ba vị đại học sĩ sắp xuất cung, nội cung lại cho thái giám của cung Nhân Thọ đến điện Văn Hoa hỏi thăm rằng vì sao Hoàng thượng vẫn chưa đến hậu cung, rằng Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu muốn mời Hoàng thượng đến ngắm đèn lồng, vân vân.

Đến lúc đó thì bị lộ tẩy. Bình thường hai vị Thái hậu rất hiếm khi chủ động tìm hoàng đế Chính Đức, song bởi đang dịp năm mới, hoàng thân quốc thích kéo vào đầy cung thăm viếng. Nhân lúc cao hứng, Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu mới nhớ rằng Chính Đức rất ưa náo nhiệt, bèn sai người đi tìm.

Hoảng sợ đến hồn phi phách tán, Lý Đông Dương bèn tìm đến Dương Đình Hòa, hai người cùng tìm đến điện Văn Hoa, đầu tiên là động khẩu, kế đó liền động tay động chân. Thái giám lẫn thị vệ nghe ồn ào kéo đến, trông thấy ba vị đại học sĩ đang tiến hành “thi đấu quyền anh” mừng năm mới, bọn họ không biết phải khuyên can ai thế là đành đứng ngây ra đó cả.

Lý Đông Dương và Dương Đình Hòa không biết rốt cuộc Hoàng đế đã xảy ra chuyện gì, thực sự muốn phát điên lên. Ba đại học sĩ vứt sạch sự nho nhã: Tiêu Phương ăn phải một đấm của Dương Đình Hòa, râu thì bị Lý Đông Dương bứt đi mấy cọng; một cước của lão cũng khiến Lý Đông Dương suýt nữa bỏ mạng.

Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu, Thái hậu, và đám công chúa, hoàng phi hay tin lập tức đều chạy lại. Tiêu Phương thấy không giấu giếm được nữa đành phải thưa thật; lại bảo rằng Hoàng đế đã hạ mật chỉ nên lão cũng không thể không tuân chỉ mà hành sự. Tam cung cả kinh, bọn họ cũng biết phái người tầm thường đi thì sẽ hoàn toàn không quản được Chính Đức, thế là bèn xua luôn cả ba đại học sĩ ra khỏi Bắc Kinh, đuổi gấp rút một ngày một đêm mới bắt kịp.

Lưu Đại Bổng Chùy dẫn hai mươi tay thiết vệ oai phong lẫm liệt xông đến phía cuối đoàn quân. Thiết kỵ sắp thành một hàng, hai mươi cây thương bạc chỉa xéo lên trời, Lưu Đại Bổng Chùy hông giắt bảo kiếm, tay cầm thiết côn, mặt mày dữ tợn.

Hắn từng nghe kể về Thượng Phương Bảo Kiếm trong lời kịch, nghe nói có vật ấy thì gặp chức quan nào mình cũng sẽ đều lớn hơn một cấp, thực oách quá đi. Hơn nữa cấp trên của hắn đã được trời định sẵn là võ tướng, hắn lại càng xem thường đám mọt sách này.

Lý Đông Dương thấy một đám thị vệ kéo đến, còn Chính Đức và Dương Lăng thì chẳng một ai lộ diện, không khỏi thầm nổi giận trong lòng.

Hoàng đế bí mật xuất kinh, hiện tại còn chưa khuyên được người trở về, lão cũng không dám tùy ý nói toạc ra, đành phải nén giận hô lớn:

- Dương Lăng, Dương tướng quân đang ở đâu? Bảo hắn ra gặp bản quan, bản quan có đôi lời muốn...

Lão chưa kịp dứt lời, Lưu Đại Bổng Chủy đã vung cây thiết côn lên trời một cách đắc thắng. Hắn rút xoạt thanh bảo kiếm từ trên đai lưng ra, giơ cao lên trời, quát một tiếng như sấm nổ, khiến ba đại học sĩ run cầm cập, thiếu chút nữa thì ngã khỏi ngựa.

Lưu Đại Bổng Chùy cố trợn thật to đôi mắt bé như hai hạt đậu xanh, cao giọng quát:

- Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại trong kinh xử lí công việc, chớ có nhớ mong!

Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (

谱儿

), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).

Ngược về thời Minh

Chương 187 - Quân đến Đại Đồng

Quyển 5 - Quần ma loạn vũ

Chương 187 - Quân đến Đại Đồng

Chương 187 - Quân đến Đại Đồng

Dương Đình Hòa hơi ngẩn người, rồi lão lập tức đùng đùng nổi giận, giục ngựa lên trước quát lớn:

- Lớn mật! Có biết trước mặt ngươi là ai không?

Đừng thấy ba người này xuất kinh ban đêm, bộ dạng tả tơi khốn đốn mà tưởng có thể coi nhẹ. Chỉ nhìn trang phục và khí thế của bọn họ, Lưu Đại Bổng Chùy cũng cảm thấy cả ba đều là những vị quan lớn khó dây vào. Nghe đối phương quát xong, tròng mắt gã thoáng xoay chuyển, hỏi lại:

- Các vị là ai?

Dương Đình Hòa thấy đại quân đã tăng tốc tiến đi mà gã lính khốn kiếp trước mặt này lại đưa hai mươi thị vệ dàn hàng chữ nhất chặn kín cả đường đi nên không khỏi lo lắng vô cùng. Lão liền nghiêm giọng bảo:

- Ba người trước mặt ngươi là tam đại học sĩ của Nội Các từ kinh sư tới, có việc cực kỳ quan trọng cần gặp Dương tướng quân. Mau mau tránh đường! Kẻo làm lỡ quân cơ ắt ta sẽ chém cái đầu của ngươi xuống.

Vừa nghe lai lịch của đối phương ghê gớm như vậy, khí thế của Lưu Đại Bổng Chùy cũng không khỏi kém hẳn đi. Nhưng gã lại nghĩ Dương đại soái đã trọng dụng một tên tiểu tốt như mình như vậy, nếu mình cứ để mặc bọn họ đi qua như thế này, một là sẽ phụ lòng tin tưởng của đại soái, hai là sẽ bị các chiến hữu chê cười. Thế là gã bèn lấy hết can đảm trả lời:

- Vâng lệnh đại soái, mời ba vị đại nhân mau mau về kinh! Tiểu nhân có quân lệnh trên người, không dám làm trái!

Không ngờ chỉ một viên hiệu úy cỏn con mà cũng dám cãi lại mình, Dương Đình Hòa giận dữ không kềm được nên chỉa roi ngựa về phía Lưu Đại Bổng Chùy, tức giận quát lớn:

- Ngươi… Ngươi lớn mật lắm! Ngươi nghĩ trên cổ ngươi có mấy cái đầu?

Lúc này Lưu Đại Bổng Chùy cũng đã quyết liều một phen, gã bèn hếch mũi lên trời nghênh ngang đáp:

- Quân lệnh như núi! Dù là ông Trời cũng đừng hòng qua chỗ này được.

Tiêu Phương không ngờ Dương Lăng lại phái một tên lính chẳng hiểu biết gì cản đường bọn họ, dù Dương Đình Hòa đầy bụng kinh văn cũng chẳng thể giải thích được gì với cái gã võ biền không thông lý lẽ này, quan uy thì lại càng chẳng dùng được. Thấy Dương Đình Hòa gặp cảnh như vậy, Tiêu Phương cũng thầm khoái chí trong lòng.

Lý Đông Dương đưa tay ra ngăn Dương Đình Hòa lúc này đang đùng đùng nổi giận nóng nảy vung roi lia lịa, lão vuốt râu cười nói với Lưu Đại Bổng Chùy:

- Vị hiệu úy này! Người không biết không có tội. Ngươi là sỹ tốt trong quân, chắc không biết ba người bọn ta đồng thời xuất kinh là chuyện quan trọng đến cỡ nào.

Ngươi hết lòng với nhiệm vụ, điều ấy hết sức đáng khen. Nhưng chuyện này có liên quan đến giang sơn xã tắc và muôn vạn dân chúng Đại Minh, bản quan khuyên ngươi mau mau tránh đường để bọn ta đi qua, bằng không ít nhất cũng nên chuyển lời của ta cho Dương tướng quân, xin y thay đổi suy nghĩ. Còn nếu như để lỡ việc của bọn ta, một hiệu úy nho nhỏ như ngươi không gánh vác nổi đâu. Ngươi phải biết là dù đương kim thánh thượng ở đây, một khi nghe nói có ba người bọn ta cùng tới ắt cũng biết là có chuyện động trời cần bẩm báo, ngàn vạn lần không thể chậm trễ chút nào.

Lưu Đại Bổng Chùy nghe xong không khỏi cảm thấy tức cười. Thấy vị lão tiên sinh này nói năng văn chương như vậy, bất giác gã nhớ đến một câu thoại trong vở kịch nào đó bèn ngẩng cao đầu, xổ luôn một tràng:

- Tướng ở ngoài biên cương, có lúc không cần theo lệnh vua!

Dương Đình Hòa giận đến bật cười, nói:

- Lý đại nhân! Gã tiểu tốt này thô bỉ dốt nát, không thông thời thế, nói chuyện với gã thực chẳng khác gì đàn gảy tai trâu. Người đâu, xông cả lên cho bản quan! Ta phải xem thử một tên hiệu úy cỏn con như hắn dám làm gì bọn ta nào!

Dương Đình Hòa vừa ra lệnh, lập tức đám thủ hạ tùy tùng giục ngựa xông lên. Còn Tiêu Phương thì lại quay đầu ngựa tránh sang bên cạnh, ngầm nháy mắt ra hiệu cho các thị vệ thủ hạ của mình lùi về phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy nóng ruột, vội giơ Thượng Phương bảo kiếm lên cao, lớn tiếng quát:

- Thượng Phương bảo kiếm ở đây có thể tiền trảm hậu tấu! Xem thử ai dám tiến lên?!

Thấy đám tùy tùng bắt đầu do dự, Dương Đình Hòa bèn nghiêm giọng quát lớn:

- Chuyện này liên quan đến vận mệnh quốc gia! Đừng nói chỉ là một thanh kiếm cỏn con, dù là đương kim thánh thượng ở đây cũng vậy, có gì mà không dám xông lên chứ? Mau xông lên hết cho ta!

Lưu Đại Bổng Chùy thấy đám thị vệ tùy tùng này định thúc ngựa xông tới thật, gã cũng không dám thật sự vung kiếm chém người. May quá, đột nhiên cái khó ló cái khôn, gã bèn cắm bảo kiếm vào ngang hông, cầm cây côn sắt đen thui dài tám thước của mình lên, “vút” một tiếng đánh trúng ngay vào đùi ngựa của gã thị vệ đi đầu. Con ngựa hí lên một tiếng thảm thiết, ngã gục xuống đất. Gã thị vệ đang cưỡi ngựa cũng ngã lăn quay, ngăn cản đường đi của những người ở phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy cười lạnh một tiếng, quát lớn:

- Đánh người phải đánh ngựa trước, đánh gãy hết đùi ngựa của bọn chúng cho ta! Để ta xem thử hai cái chân của bọn chúng có chạy nhanh hơn bốn cái chân được không?!

Hai mươi viên thị vệ nghe vậy bèn vung trường thương chuyên nhằm vào chân ngựa mà phang. Thị vệ của ba vị đại học sỹ đều là những binh lính bình thường, lúc vội vã rời kinh chỉ kịp mang theo thanh đao, quần áo trên người cũng mỏng manh, cả bọn không kịp mặc áo da dùng khi ra ngoài nên chân tay đều lạnh cóng, hành động không linh hoạt. Hơn nữa vốn kỵ thuật của bọn chúng cũng thua kém hai mươi viên thị vệ kia rồi nên làm sao có thể điểu khiển ngựa né tránh được?

Cán thương không so được với côn sắt nên không thể đánh gãy chân ngựa nhưng cũng khiến cho đám ngựa đau đớn vô cùng. Sau khi nhảy loạn một hồi bọn chúng liền không để ý đến sự điều khiển của chủ nhân nữa mà quay đầu chạy như điên về phía sau. Qua khỏi mấy chục trượng các thị vệ mới ghìm cương lại được, nhưng bất luận bọn họ hò hét thúc giục thế nào, bọn ngựa cũng không dám quay về phía trước nữa.

Hai bên đã trở mặt với nhau rồi, thói quen lỗ mãng của Lưu Đại Bổng Chùy cũng lập tức phát tác, thấy Dương Đình Hòa đích thân giục ngựa xông tới gã liền vung côn đuổi ngựa đi. Sau khi náo loạn một hồi, ngựa của ba vị đại học sỹ và mấy chục viên tùy tùng đều bị đánh cho không gãy cũng bị thương, khó thể đi tiếp được. Lưu Đại Bổng Chùy quay đầu lại thấy đại quân đã đi xa vào trong rặng núi, chỉ còn thấy một mảng cờ xí phất phơ, gã không kìm được cười lên ha hả, dẫn theo hai mươi viên thị vệ thúc ngựa bỏ đi.

Dù lòng dạ rộng rãi nhưng Lý Đông Dương cũng bị đám lính thô lỗ này khiến cho tức giận đến run người. Ông đứng trên mặt đất, tay dắt con ngựa chân thấp chân cao đang không ngừng rên rỉ đau đớn của mình, nhìn về hướng đại quân đang dần đi xa, hồi lâu vẫn chẳng thể nói được lời gì.

* * *

Tham tướng trấn thủ ải Cư Dung nhận được tin báo, từ sớm đã đội mũ mặc giáp lên cổng thành, đợi đại quân của Dương Lăng; sau khi xác nhận ấn tín khâm sai xong xuôi liền lập tức mở rộng cửa thành. Dương Lăng cũng không hề khách sáo, lập tức hạ lệnh cho đại quân đi qua.

Dương Lăng sợ Lưu Đại Bổng Chùy không ngăn nổi ba đại học sỹ nên chờ ở phía sau đoàn quân. Đến khi hai mươi mốt chiến mã phi nhanh tới nơi, hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, biết ba đại học sỹ đều không bị thương, y mừng rỡ vô cùng, lập tức dẫn theo những bộ hạ còn lại rời khỏi ải Cư Dung.

Đến khi thấy tham tướng giữ ải lại cho đóng chặt cửa thành, trái tim vốn còn thấp thỏm của Dương Lăng mới coi như yên ổn trở lại. Tham tướng giữ ải không thể nhận biết ba vị đại học sỹ, mà bọn họ ắt cũng không mang theo văn điệp thông quan do quân đội cung cấp. Như vậy cho dù có đuổi kịp đến đây thì ba vị cũng đứng hòng thuyết phục được tướng giữ ải Cư Dung mở cửa cho qua.

Đại quân đi vòng theo hướng tây nam, tiến nhanh hết cỡ, trên đường không rẽ vào tiểu huyện nào, mỗi khi nghỉ ngơi đều cắm trại tại chỗ. Hôm ấy đại quân đang đi trên cổ đạo Linh Khâu. Vùng huyện Linh Khâu này chính là nơi do Triệu Vũ Linh Vương ra lệnh khai hoang mở đất. Sau này, Hán Vũ Đế Lưu Triệt xua quân lên mặt bắc đánh Hung Nô, Tào Tháo thời Tam Quốc đóng quân mở đồn điền, Dương gia tướng thời Tống chống cự quân Liêu, tất cả đều diễn ra tại đây.

Trên đường bắc tiến, bất kể là hành quân hay ngủ nghỉ, Chính Đức đều ở chung một chỗ với sỹ tốt, đường bằng cưỡi ngựa, gặp núi leo trèo, thủy chung không chịu bước vào kiệu xe. Dù chỉ là một vị thiếu gia được nuông chiều từ tấm bé e rằng cũng không chịu được nỗi khổ sở này, huống chi là Chu Hậu Chiếu từ nhỏ đã được bao bọc hết mức.

Không ngờ hắn lại có được nghị lực như vậy, hoàn toàn khác hẳn với vẻ ham chơi biếng làm thường ngày. Không chỉ Dương Lăng, ngay đến Trương Vĩnh cũng hết sức kinh ngạc.

Đại quân đi dọc theo cổ đạo đến một ngọn núi nằm giữa những rặng núi bao quanh, đột nhiên nhìn thấy phía trước có một đội quân, nhìn thoáng qua e phải có tới hơn ba ngàn người.

Tuy nơi này cách huyện Linh Khâu chưa tới mười dặm, nhưng giữa nơi núi non thế này lại đột nhiên xuất hiện một đội quân, mà nhìn lều trại thì dường như họ đã ở đây được một thời gian rồi nên ai cũng nghi hoặc. Dương Lăng không dám sơ xuất, một mặt hạ lệnh cho đại quân dừng lại nghỉ ngơi, tăng cường phòng bị, một mặt sai tùy tùng đi dò hỏi.

Chẳng mấy chốc, viên tùy tùng dẫn theo một vị tướng quân vội vã đi vào trong lều lớn ở trung quân, Chính Đức đóng giả làm thị vệ đứng sau lưng Dương Lăng thầm quan sát. Vị tướng quân nọ chừng hơn bốn mươi tuổi, dáng vẻ cao lớn quắc thước, từ xa nhìn thấy Dương Lăng đã tươi cười cung tay thi lễ:

- Hạ quan là Tả vệ chỉ huy sứ Đại Đồng Điêu Hóa Thần, bộ hạ của Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đại nhân, bái kiến Dương đại nhân! Dương đại nhân đi đường vất vả rồi.

Dương Lăng thầm ngạc nhiên, hiện giờ chiến sự ở tiền phương đang căng thẳng, Hồ Toản phái ba nghìn quân đóng ở đây là để làm gì chứ?

Hai bên nói chuyện đôi câu, Dương Lăng bèn mời hắn ngồi xuống, hỏi:

- Điêu chỉ huy, đây là nơi nào vậy? Tiền phương đang giao chiến với Thát Đát, là lúc cần dùng người, tại sao lại cho đóng đại quân ở đây? Có việc gì quan trọng hay sao thế?

Việc cơ mật quân sự thì dù là đại thần trong triều cũng không tiện hỏi, nhưng Dương Lăng ngoài việc đến ủy lạo quân đội còn kiêm cả tuần tra, có quyền quản lý toàn bộ cuộc chiến ở tiền phương. Lúc cần y có thể dùng Kim phê lệnh tiễn và Khâm sai kim ấn để điều động đại quân, do đó y hỏi câu này cũng không có gì là quá phận.

Điêu Hóa Thần là thân tín của Hồ Toản, việc kinh sư phái Đề đốc Nội xưởng và Kinh doanh đến tuần tra vùng biên cảnh đã được truyền tới qua đường dịch trạm rồi nên hắn cũng biết nội tình. Tất nhiên hắn không dám nói dối, vội vàng đáp:

- Đại nhân có điều không biết! Từ nơi này đi đến Đại Đồng, giữa vùng núi non có rất nhiều cửa ải, duy có men theo cổ đạo này là không có cửa ải hiểm trở nào.

Thát Đát đã bị Dương tổng chế kìm chân, muốn rút cũng không rút được, nay quân lương cạn hết lại không thu được lợi ích gì. Không biết gian tế Thát Đát làm thế nào mà lần ra được con đường này, bọn chúng phái hơn ngàn người ngựa men theo con đường nhỏ trong núi lách qua các cửa ải để tập kích Linh Khâu, cướp đi một lượng lớn tiền tài lương thảo. Hồ tuần phủ hay tin liền sợ giặc Thát nếm được trái ngọt sẽ còn đến nữa, do đó lệnh cho hạ quan đóng quân tại đây.

Tới lúc này Dương Lăng mới biết nguyên nhân. Lại nghĩ đến tình hình vừa rồi, nơi này là một khe núi giữa vùng núi non, nếu muốn một đội ngũ hơn ngàn người đi xuyên qua rặng núi thì cũng chỉ có khe núi này là không có phòng bị nên có thể dễ dàng vượt qua được. Thật là làm khó cho đám gian tế Thát Đát kia, không biết đã phải hao phí bao nhiêu công sức mới tìm ra được con đường này cho quân đội cướp bóc.

Đừng coi nhẹ tác dụng của một con đường trong chiến tranh. Nếu quân Thát Đát lợi dụng con đường bí mật này không ngừng đi vòng đến phía sau đại quân cướp bóc lương thực, cuộc chiến cứ kéo dài tiếp sẽ khó mà dự liệu được việc thắng bại. Ngăn con đường này lại, nhuệ khí quân địch ắt sẽ giảm mạnh, ngay đến đám tướng lĩnh Thát Đát cũng sẽ mất dũng khí tiếp tục chiến đấu. Chẳng trách lúc tháng chạp giữa mùa đông này mà còn có ba nghìn người ngựa đóng ở đây, vất vả canh phòng trên ngọn núi này.

Dương Lăng gật đầu:

- Thì ra là vậy! Đại quân của ta đêm nay cũng đóng lại đây thôi, ngày mai sẽ khởi hành tiếp tục đến Đại Đồng. Đúng rồi, nơi này gọi là gì nhỉ?

Điêu Hóa Thần đáp:

- Nơi này thời xưa gọi là Bình Hình Trại, đến thời Tống, Nguyên thì gọi là Bình Hình Trấn. Bởi vì trên ngọn núi này có một khoảng đất rộng hơn chín trăm trượng vuông, trời sinh đã bằng phẳng vuông vức, do đó sau khi Đại Minh ta lập quốc, nó được đổi gọi là Bình Hình Lĩnh (Chữ “bình” ở đây nghĩa là bằng phẳng, khác với chữ “bình” trước đó là cái bình, cái lọ - ND).

Hai bên tán gẫu một phen, rồi Dương Lăng đưa Điêu Hóa Thần ra ngoài lều, đứng trên đỉnh ngọn núi đưa mắt nhìn về hướng xa. Lúc này mặt trời vừa lặn xuống sau dãy núi, chỉ còn lại chút ánh tà dương mờ nhạt, lớp tuyết trùng trùng điệp điệp được phủ lên bởi một tầng ánh sáng hồng nhạt.

Chính Đức đi đến bên cạnh Dương Lăng, đưa tay che bớt ánh sáng, nheo mắt nhìn về hướng xa một hồi, rồi nói:

- Ừm, giữa rặng núi này quả nhiên chỉ có hẻm núi này là đại quân có thể đi qua. Nhìn từ trên đỉnh núi xuống, huyện thành Linh Khâu như ở gần ngay trước mắt, nơi đó thành nhỏ tường thấp, không có chỗ nào hiểm yếu để phòng thủ, thực là nguy hiểm.

Chỉ là đóng quân lâu dài tại nơi này thì không khỏi vất vả quá. Trương Vĩnh, ngươi ghi nhớ lấy! Ngay khi về kinh hãy kêu bộ Binh xây một cửa ải trên Bình Hình Lĩnh này để cản đường quân địch, rồi liệt nó vào danh sách các cửa ải trọng yếu chốn biên cương, lấy tên là ải Bình Hình.

Trương Vĩnh vâng dạ liên hồi. Dương Lăng nghe đến đây thì không khỏi lấy làm ngạc nhiên liếc nhìn Chính Đức, nghĩ bụng: ”Bình Hình Lĩnh, ải Bình Hình, vừa rồi sao mình không nghĩ ra nhỉ, thì ra… ải Bình Hình nổi tiếng lại là do chính Chính Đức hạ chỉ cho xây dựng.”

Chính Đức thấy ánh mắt y có điều khác lạ, không kìm được cười hỏi:

- Sao Dương khanh lại nhìn trẫm như thế? Trẫm nói có gì không đúng sao?

Dương Lăng vội vàng cười đáp:

- Hoàng thượng nói đúng lắm! Xây dựng một cửa ải ở chỗ hiểm yếu này quả thực có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn giặc Thát. Có điều phòng ngự bị động thì không có cửa ải nào mà không bị phá, chúng ta còn cần phải…

Chính Đức cả cười, cướp lời:

- Chúng ta còn cần phải phú quốc cường binh, chủ động xuất kích, tiêu diệt giặc mạnh ở ngay bên ngoài biên ải, phải vậy chăng?

Nói rồi vua tôi đưa mắt nhìn nhau, không kìm được cùng vỗ tay cười lớn.

***

Đại quân cuối cùng cũng đã tới Đại Đồng. Tổng chế Tam biên Dương Nhất Thanh điều quân đóng tại các cửa ải hiểm yếu trên Trường Thành, trước mắt ông ta đang ở Trấn Khương Bảo. Nơi đó vốn có chợ chuyên buôn bán ngựa giao dịch với quan ngoại, được xây dựng ngay sát mặt ngoài của Trường Thành.

Để tiện cho việc chỉ huy vùng lân cận nên Dương Nhất Thanh cho lập quân doanh tại đây, Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đích thân áp tải lương thảo đến Trấn Khương Bảo, hiện đang cưỡi ngựa vội vã trở về. Hay tin kéo tới nghênh tiếp đón đại quân của Dương Lăng vào thành là quan viên các cấp ở nha môn Tuần phủ. Trên đường hành quân, bọn Dương Lăng thấy tòa thành lớn vốn phồn hoa này đã trở nên tiêu điều hơn không ít, quan binh trên đường còn nhiều hơn dân chúng.

Các quan viên nghênh đón khâm sai đến dịch quán. Dịch quán ở nơi này so với dịch quán Xương Bình nơi Dương Lăng từng ngụ lại tất nhiên là hoàn toàn khác hẳn. Khu nhà hào hoa nằm ở lớp thứ ba của dịch quán dành riêng để nghênh tiếp đại thần, được bố trí cực kỳ xa hoa. Dương Lăng vào ở trong dịch quán, phía ngoài dịch quán thì để cho hai trăm thân binh của bản thân và ba trăm thị vệ đại nội cư trú, các quan binh còn lại thì được sắp xếp đến học cung (trường học thời xưa - ND) hoặc là cho cắm trại ở thao trường.

Bận rộn một hồi mọi việc mới xong xuôi, Dương Lăng liền tiễn các vị đại nhân ra đi. Y trở về dịch trạm, nghênh đón Chính Đức vào trong thu xếp cho hắn ở phòng của mình, rồi cười nói:

- Hoàng thượng! Trên đường ngài cũng đã phải chịu vất vả rồi, nay rốt cuộc cũng có nơi thoải mái hơn một chút. Ngài cứ nên ở lại đây mà nghỉ ngơi dưỡng sức đi, đợi sau khi thần thông báo cho Hoa Đáng, tất cả mọi việc được an bài ổn thỏa rồi ngài sẽ lên núi Bạch Đăng đàm phán với y là xong.

Chính Đức gật gật đầu, rồi lại hỏi:

- Dương Nhất Thanh đang ở Trấn Khương Bảo, lúc nào mới có thể trở về? Trẫm muốn tìm hiểu một chút về tình hình chiến sự cụ thể.

Dương Lăng nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Bá Nhan nóng lòng thoát thân, nhưng lần này hắn trộm gà không thành còn mất nắm gạo, các bộ lạc tổn thất nặng nề. Vốn nội bộ Thát Đát đã không ổn định rồi, bây giờ chưa chiếm được chút lợi lộc nào ắt hẳn hắn chẳng cam tâm rút về. Nay hắn đang cùng Dương Nhất Thanh có công có thủ, chiến sự kịch liệt, thần nghĩ đừng nên thông báo cho Dương Nhất Thanh biết việc Hoàng thượng đến đây thì hơn. Để thần đến Trấn Khương Bảo thăm y là được.

Chính Đức cả mừng:

- Hay lắm! Trẫm đang muốn đến quan ải xem cảnh chém giết ngoài chiến trận, đến lúc đó trẫm sẽ đi với khanh. Đúng rồi, Đại vương là phiên vương ở Đại Đồng, khanh đã đến đây rồi, theo lễ phải đi bái kiến. Khanh chuẩn bị lúc nào thì đi?

Dương Lăng đáp:

- Hôm nay trời đã tối, không tiện đến phủ Đại vương bái kiến, thần định ngày mai sẽ đi. Hoàng thượng cũng muốn đi sao?

Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (

谱儿

), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).

Ngược về thời Minh

Chương 188 - Mỗi người một suy nghĩ

Chương 188 - Mỗi người một suy nghĩ

Chính Đức hơi do dự:

- Năm kia Thát Đát thiếu chút nữa đánh chiếm được Đại Đồng, Đại vương liền chạy đến kinh sư khóc lóc kể lể với phụ hoàng nên từng gặp trẫm một lần. Nếu mà gặp lão…

Rồi hắn đột nhiên nhướng mày, cười nói:

- Đi thì đi! Ta là thị vệ, chẳng gặp được lão đâu! Nếu cả ngày phải ở trong này thì có khác gì lúc ở kinh sư chứ?

Hai người đang nói cười, chợt có một viên thị vệ đi tới bẩm báo:

- Bẩm đại nhân! Tuần phủ Hồ đại nhân về thành rồi, đang tiến vào trong phủ.

Viên thị vệ này cũng biết thân phận của Chính Đức, có điều Dương Lăng sớm đã dặn dò tất cả những người nhìn thấy Chính Đức đều không được lộ vẻ gì khác lạ, kẻo lại khiến người hữu tâm nảy lòng cảnh giác. Vì vậy hắn cũng không dám bái kiến Hoàng thượng, chỉ hơi liếc nhìn về phía Chính Đức.

Dương Lăng ngẩn người ra, Hồ tuần phủ đã đến tận đây rồi? Tuy phẩm cấp của lão cao hơn của mình, nhưng dù sao mình cũng có cái mác Khâm sai, hơn nữa xét về thực quyền thì lão hoàn toàn không bằng mình được, tại sao lại không thông báo trước một tiếng? Thế này thì không khỏi hơi thất lễ rồi.

Đang định đến thư phòng gặp Hồ Toản, chợt Dương Lăng nghe từ bên ngoài vang lên tiếng quát lớn:

- Nơi ở của Khâm sai, không được tùy tiện xông vào.

Kế đó lại nghe một giọng khác cũng quát to không kém:

- Cặp mắt chó của ngươi mù rồi hả? Ta là Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản. Nơi này ngoài Đại vương điện hạ ra, Hồ mỗ ta là người cao nhất, có nơi nào mà ta không xông vào được?

Hừm! Vị Tuần phủ này kiêu căng quá rồi thì phải? Dương Lăng không biết Hồ Toản làm quan như thế nào, nhưng nghe giọng điệu này của đối phương, ấn tượng đầu tiên của y chính là vị Tuần phủ này quá hống hách ngang ngược.

Dương Lăng đưa mắt liếc nhìn Chính Đức, rồi đẩy cửa bước ra bảo:

- Cho ông ta vào đây! Hồ tuần phủ, bản quan tuy phẩm cấp thấp hơn ngài, nhưng hiện là Khâm sai. Hành dinh của Khâm sai cũng là nơi mà ngài có thể xông bừa vào hay sao?

Y vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra cửa, thấy các thị vệ đại nội đang ngăn cản một viên quan văn. Lúc này bọn họ đang tách qua hai bên nên y có thể nhìn thấy rõ hình dạng của viên quan. Y thấy người này dáng vẻ nho nhã, mặt mũi trắng trẻo, tuổi tác dường như chưa tới năm mươi, cũng không giống một kẻ kiêu căng hống hách, cơn giận của Dương Lăng liền giảm đi vài phần.

Nào ngờ vị Hồ tuần phủ này vừa nhìn thấy y, khuôn mặt lại càng tỏ ra giận dữ. Hai nắm tay siết chặt, ông ta rảo bước tiến thẳng tới, không đợi chủ nhân dẫn đường mà đã nghênh ngang bước vào phòng khách ngay.

Dương Lăng cảm thấy rất khó hiểu, không biết mình đã đắc tội với ông ta ở chỗ nào. Y cố giữ bình tĩnh, khoát tay ra hiệu cho các thị vệ lui ra, rồi sau đó xoay người theo Hồ Toản đi vào phòng khách. Trong phòng chỉ có hai người Chính Đức và Trương Vĩnh. Tuy Chính Đức đang mặc trang phục hiệu úy nhưng lại đang đứng ở phía trước.

Hồ Toản thi đỗ tiến sỹ, sau được thăng làm Tả thị lang bộ Hộ, kế đó lại được điều đến Đại Đồng nhậm chức Tuần phủ. Đó đều là chuyện của thời Hoằng Trị, sau khi tân đế đăng cơ ông ta còn chưa gặp thiên tử bao giờ. Hồ Toản cẩn thận quan sát Chính Đức một hồi, do dự không dám tùy tiện bái kiến. Thấy Dương Lăng bước vào, ông ta lập tức quát hỏi:

- Thánh giá ở đâu?

Sắc mặt Dương Lăng biến đổi, y kinh hãi thốt:

- Hồ đại nhân! Ngài nói gì thế?

Hồ Toản cười lạnh, rút từ trong ống tay áo ra một bức thư, hậm hực:

- Dương tướng quân! Ngài chặn ba vị Đại học sỹ ở ải Cư Dung, bọn họ không đi qua được, nhưng tốc độ của dịch trạm lại nhanh hơn quân đội của ngài mấy lần. Lá gan ngài lớn thật, không ngờ lại dám đưa Hoàng thượng đến nơi hiểm địa này. Ta hỏi ngài, thánh giá ở đâu?

Dường như vừa ăn phải thuốc súng, Hồ Toản nổi giận bừng bừng, trợn trừng cặp mắt đỏ rực lên nhìn Dương Lăng. Chính Đức thấy vậy liền khẽ ho một tiếng, nói:

- Trẫm ở đây! Hồ ái khanh đừng chất vấn Dương Lăng nữa, chính trẫm muốn xuất kinh. Chẳng qua Dương khanh chỉ làm theo ý chỉ của trẫm mà thôi.

Hồ Toản ngoảnh đầu nhìn qua, thấy vị thái giám mặc áo mãng long bào đứng sau lưng viên hiệu úy khẽ gật gật đầu với mình, liền vội bước lên một bước sụp lạy, thưa:

- Vi thần Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản, khấu kiến Hoàng thượng.

Chính Đức cười nói:

- Ái khanh bình thân! Trẫm cải trang xuất kinh, người biết rất ít, khanh đừng nói ra ngoài. Trẫm biết ba vị Đại học sỹ đều có lòng tốt, cũng do ba vị lo lắng cho sự an toàn của trẫm. Nhưng lần này trẫm đến Đại Đồng do có chuyện quốc sự cực kỳ quan trọng, chuyện này vốn cũng không định giấu khanh và Dương Nhất Thanh, chỉ là muốn đợi một thời gian nữa mới nói mà thôi.

Hồ Toản đứng dậy, nghiêm trang đáp:

- Bất luận là chuyện lớn thế nào thì cũng nên để bọn thần chia xẻ âu lo thay Hoàng thượng, há có lý nào để thiên tử đích thân đi tới nơi hiểm địa? Hiện Đại Đồng đang lúc chiến tranh loạn lạc, không tiện ở lâu, khẩn cầu Hoàng thượng lập tức khởi giá hồi kinh!

Chính Đức thầm tức cười, vị Tuần phủ này cũng thật thú vị! Văn võ khắp triều ngay cả khi Lưu Kiện, Tạ Thiên còn tại vị, ba Đại học sỹ cũng không dám trực tiếp ra lệnh cho Hoàng thượng như thế. Hóa ra ông ta không chỉ nói năng khó chịu với vị Khâm sai Dương Lăng, mà đối với Hoàng thượng cũng vẫn dùng giọng điệu kiểu như vậy.

Chính Đức thản nhiên ngồi xuống ghế, vắt chân chữ ngũ bảo:

- Trẫm đã nói rồi. Lần này trẫm đến đây là có chuyện quốc sự cực kỳ quan trọng, chưa làm xong trẫm không muốn về kinh. Nếu Hồ ái khanh muốn biết rõ mọi chuyện có thể hỏi Dương Lăng, bằng không thì hãy về đi!

Khuôn mặt Hồ Toản trở nên đỏ bừng hệt như con gà chọi, ông trừng mắt nhìn Chính Đức:

- Chủ lo thì thần cần dốc sức, chủ nhục thì thần phải lấy cái chết báo đền. Để mặc Hoàng thượng đi vào nơi nguy hiểm, thần dù chết vạn lần cũng không chuộc hết tội. Nếu Hoàng thượng không chịu về kinh, thần sẽ chết trước mặt Hoàng thượng ngay!

Chính Đức ngẩn người, hồi lâu sau mới cười nói:

- Thế này… Thế này là cái lý gì chứ? Không phải ngươi đang lấy cái chết để uy hiếp trẫm sao? Trẫm không về kinh, cũng không cho ngươi chết, ngươi lui xuống đi!

Hồ Toản lớn tiếng đáp:

- Hôm nay thần đến đây ắt phải khuyên được Hoàng thượng về kinh. Hoàng thượng mà không đi tức là thần không làm tròn bổn phận, chỉ đành chọn cái chết mà thôi.

Vừa nói ông vừa đưa tay vào trong ngực. Chính Đức cả kinh, quát lên:

- Ngươi dám mang dao đến kiến giá?

Dương Lăng cũng lao nhanh đến chắn trước mặt Chính Đức, đưa tay nắm chặt chuôi đao của mình. Hồ Toản nói:

- Chưa được cho phép mà mang đao kiến giá là đại tội phản nghịch, thần quyết không dám. Cổ nhân mang lòng trung can gián đều húc đầu vào cột tìm cái chết…

Hồ Toản vừa nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy trong phòng có cây cột nào, ông ta bèn nói tiếp:

- Quân tử yêu vua không yêu tấm thân mình. Thực ra có nhiều cách chết lắm, thần đã có chuẩn bị sẵn rồi.

Vừa nói ông ta vừa móc từ trong ống tay áo ra một gói giấy, mở ra định dốc chỗ thuốc bột vào miệng. Dương Lăng cả kinh, y còn chưa kịp xông đến thì Chính Đức đã phản ứng trước rồi. Hắn lao vọt tới bên cạnh Dương Lăng, đoạt ngay lấy gói giấy trong tay Hồ Toản.

Chỗ thuốc bột rơi cả vào tay Chính Đức. Trương Vĩnh cũng không biết đó là loại độc dược gì, dính vào da liệu có hại gì hay không nên sợ hãi la ầm lên. Lập tức có mấy viên thị vệ xông vào khống chế Hồ Toản. Trương Vĩnh vội kêu người mang nước tới, trước dùng khăn bông lau sạch tay Chính Đức, sau đó rửa đi rửa lại vài lần.

Dương Lăng cau mày:

- Tuần phủ đại nhân! Hoàng thượng đích thân đi tuần tra biên cảnh cũng là vì giang sơn xã tắc. Chuyện lớn lần này không có Hoàng thượng thì ắt chẳng thành, sao ngài có thể tùy tiện lấy cái chết ra can gián như thế chứ?

Hồ Toản cả giận:

- Tấm thân tôn quý của Hoàng thượng há có thể tùy tiện đi đến nơi hiểm địa? Việc “Thổ Mộc chi biến” hãy còn sờ sờ ra đó, ngươi muốn hại Đại Minh, hại bản thân bị chém cả nhà hay sao?

Dương Lăng cũng không khỏi cả giận, lẫm liệt trả lời:

- Câu nào cũng nhắc tới năm xưa, tại sao không nói xa hơn một chút? Sao không nhắc đến Hồng Vũ hoàng đế máu nhuộm chiến bào đánh lấy giang sơn vạn dặm? Sao không nhắc đến Vĩnh Lạc hoàng đế năm lần đánh Tái Bắc, một đời chiến chinh? Từ xưa đến nay, phàm là lúc đất nước bên trong nguy nan, bên ngoài chịu nhục, có vị thiên tử tài đức nào mà chỉ trọng văn trị mà không trọng võ công?

Dương Lăng sục sôi chí khí cao giọng nói tiếp:

- Kẻ làm bầy tôi trung với vua là tấm lòng, phò trợ vua là trách nhiệm, ngài có một trái tim trung với vua, nhưng còn cần phải dốc sức phò trợ vua nữa. Ngài muốn phò tá đương kim Hoàng thượng trở thành bậc đế quân văn trị võ công, anh minh thần vũ hay là muốn đương kim Hoàng thượng được bảo vệ kỹ càng trong Tử Cấm Thành, muốn thiên tử còn trẻ không được xuất cung một bước, không hiểu nhân tình thế thái, làm vật tượng trưng trên danh nghĩa cho triều đình, làm một con rối cho vạn dân triều bái?

Những lời này của Dương Lăng không ngờ đã khiến Hồ Toản chấn động, nhất thời ông không nói được tiếng nào.

Dương Lăng thở ra một hơi, nói tiếp:

- Tuần phủ đại nhân đã biết Hoàng thượng ở đây, hãy nên hiệp trợ bản quan làm tốt việc phòng ngự Đại Đồng, ắt Hoàng thượng sẽ an toàn rất mực. Hoàng thượng đến đây là do có một chuyện cực kỳ quan trọng cần làm, hiện giờ Hồ tuần phủ có bằng lòng nghe bản quan kể lại tường tận mọi việc không?

Hồ Toản im lặng hồi lâu, cuối cùng mới cung tay hậm hực đáp:

- Xin được nghe rõ!

Giọng đã không còn cứng rắn như trước nữa.

Dương Lăng khẽ mỉm cười, khom người thưa với Chính Đức:

- Hoàng thượng hãy nghỉ ngơi đi! Thần xin tạm lui ra trao đổi với Hồ đại nhân một lát.

Chính Đức nghe vậy bèn vội xua tay bảo:

- Các khanh cứ đi đi, đi đi!

Nhìn thấy hai người đã ra khỏi cửa, Chính Đức mới ngồi phịch xuống ghế, thở phào nói với Trương Vĩnh:

- Cái gã họ Hồ này cũng đáng sợ quá đi! Không có việc gì thì ngàn vạn lần đừng để trẫm nhìn thấy hắn nữa!

Dương Lăng và Hồ Toản nói chuyện với nhau trong phòng suốt nửa canh giờ, cuối cùng Hồ Toản mới hiểu được mục đích của Chính Đức khi tới đây. Tuy là quan văn nhưng đã quen thuộc với việc quân sự ở Đại Đồng, tất nhiên Hồ Toản hiểu rằng nếu có thể lôi kéo được Đóa Nhan Tam Vệ thì không những Đại Minh bớt đi một mối nguy hiểm bên ngoài Trường Thành, mà xét về mặt lâu dài còn thu được lợi ích cực lớn.

Nếu thật sự có thể thay đổi loại chợ mậu dịch nhỏ lẻ như trước kia, cùng Đóa Nhan Tam Vệ thực hiện những cuộc giao dịch lớn về trà và ngựa thì khu vực Hà Sáo sẽ trở thành nơi cung cấp ngựa tốt cho Đại Minh. Từ đó hoàn toàn thay đổi cục diện chiến lược hiện nay mà quân đội Đại Minh đang chỉ giỏi phòng thủ không giỏi tấn công.

Có điều nghĩ đến việc Hoàng đế đích thân đi vào nơi nguy hiểm, Hồ Toản liền cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Lão do dự:

- Đại Đồng thành cao tường dày, ngoài thành có mấy vạn đại quân của Dương tổng chế, theo suy nghĩ của bản quan, hẳn sẽ không đến mức bị Thát Đát xâm nhập. Nhưng gần đây giặc Thát thiếu thốn lương thảo nên chúng thường phái những đội quân nhỏ lẻn qua giữa những khe hở của đại quân ta mà tới hậu phương cướp bóc, hơn nữa vừa tấn công xong liền rút đi ngay, khiến người ta hết sức đau đầu. Việc này thường ngày thì cũng chẳng sao, nhưng nhất thiết không được để Hoàng thượng rời khỏi dịch quán.

Dương Lăng đáp:

- Việc này thì tất nhiên ta hiểu rõ. Ngàn vạn lần không được để Hoàng thượng tùy tiện đi vào nơi hiểm địa.

Hồ Toản lại nói:

- Đại vương điện hạ chấp chưởng Đại Đồng. Việc Hoàng thượng ở đây là việc quan hệ trọng đại, có nên thông báo với Đại vương không?

Năm xưa Chu Nguyên Chương phân đất phong vương cho các con, con trai thứ mười ba là Chu Quế được giao cho đất Đại Đồng, là một trong Cửu vương vùng biên ải. Sơn Tây có ba vị vương gia: Tấn vương ở Thái Nguyên, Đại vương ở Đại Đồng, Thẩm vương ở Lộ An.

Khác hẳn với các vị vương gia ở trung nguyên, bọn họ đều có quyền can dự vào việc chính trị và quân sự ở địa phương, chính là lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản thần, thay Hoàng đế thống trị vùng biên ải.

Do đó đừng cho rằng nơi này có Tổng chế Tam biên, có Tuần phủ đại nhân là đầu não cao nhất về quân sự chính trị. Thực ra người thống trị và chỉ huy tối cao ở Đại Đồng chính là Đại vương; ngoài ra Đại vương và Thẩm vương còn chịu sự quản hạt của Tấn vương.

Dương Lăng thoáng ngập ngừng:

- Chuyện này tạm thời đừng nói với Đại vương thì hơn. Đại vương mà hay tin ắt sẽ trở nên bồn chồn lo âu, mà trong phủ Đại vương đông người, phức tạp. Lỡ mà để lộ tin trước khi Đóa Nhan Tam Vệ phái người đến thương nghị, tất Bá Nhan Mãnh Khả sẽ ra sức ngăn cản.

Hồ Toản suy nghĩ một lúc rồi giậm chân đáp:

- Được! Vậy bản quan xin cáo từ.

Hồ Toản nhíu chặt đôi mày, tràn đầy ưu lo cáo từ rời đi. Ngay cả nha môn Tuần phủ ông cũng không về mà ngay lập tức chạy thẳng lên tường thành phái thêm người tăng cường phòng ngự.

* * *

Cửa hàng da họ Hàn là một cửa hàng buôn bán da vừa thành lập không lâu ở Đại Đồng, nhưng chỉ sau nửa năm đã trở thành một trong những số ít cửa hàng buôn bán da lớn ở nơi đây.

Từ khi đoạn tuyệt việc giao dịch ngựa với Thát Đát, đặc sản của hai vùng Nam Bắc đều phải dựa vào vận chuyển thủ công để buôn bán, gần như là một nửa buôn lậu, một nửa hợp pháp. Do đó lượng hàng hiển nhiên khó có thể cung ứng cho những nhà buôn có nhu cầu lớn ở các nơi.

Mà Hàn Lâm lại có thể đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, bất kể là hàng da chất lượng loại nào, muốn có bao nhiêu thì cửa hàng da họ Hàn đều không hề do dự. Hơn nữa chủ tiệm Hàn Lâm là người hào sảng, mua bán công bằng, rất có tác phong của người trên chốn giang hồ, do đó việc làm ăn càng ngày càng phát đạt. Phần lớn những thương nhân buôn bán da miền Nam khi lên phương Bắc buôn bán đều chọn giao dịch với y.

Cửa hàng của họ Hàn nằm trên con đường Đông Đại Nhai phồn hoa nhất Đại Đồng, cách phủ Đại vương không xa, bên trái là một cửa hàng xe ngựa, bên phải là khách điếm kiêm tửu lâu tên “Trạng Nguyên lâu” cực kỳ hào hoa.

Bởi vì chiến tranh và tuyết lớn thường xuất hiện vào mùa đông, do đó theo quy luật của các cửa hàng da ở đây, vừa đến mùa đông thì tất cả liền lập tức dừng làm ăn. Tuy nhà họ Hàn vẫn có một số ít khách hàng tìm đến, nhưng phần lớn nhân công đã trở về nhà tránh rét, trong cửa hàng vắng vẻ hiu quạnh vô cùng.

Một người lùn thấp mặc áo da dê, đi đôi ủng da chống trơn trượt bước lộp cộp lên lầu, đẩy cửa bước vào rồi tiện tay lột chiếc mũ da dê giữ ấm che kín cả mũi và miệng xuống, để lộ ra một khuôn mặt tròn xoe đỏ bừng. Đây là một thiếu niên mày rậm mắt to trông khỏe mạnh kháu khỉnh.

Em cầm chiếc bình trà lớn để trên bàn lên tu ừng ực một ngụm, sau đó mới lau miệng hào hứng kể:

- Cha! Con nhìn thấy anh rể rồi, hiện giờ anh ấy đã vào ở trong dịch quán.

Trên lò than đặt một chiếc nồi đất, những miếng thịt dê tươi ngon đã được thêm gia vị đang sôi sùng sục không ngừng, hương thơm tỏa ra khắp phía. Trên bàn còn bày một số món ăn để nhắm rượu như lá sen khô, nhân hạch đào.

(té ra lá sen khô có thể nhắm rượu!!)

Một người đàn ông chừng hơn bốn mươi tuổi, thân hình tráng kiện, ngũ quan thô kệch bỏ chiếc hồ lô rượu màu nâu vàng xuống, trừng mắt rầy:

- Thằng nhóc con, ta còn cần ngươi nói sao? Chúng ta cắm rễ ở đây quyết không được để người ta biết là có quan hệ với anh rể của ngươi, ngươi không để lộ tẩy gì đấy chứ?

Chú nhóc kia tất nhiên chính là Hàn Mãn Thương, em cười hề hề, đắc ý đáp:

- Làm gì có chứ cha? Con nhìn thấy anh rể rồi bèn đi theo đội quân của anh ấy một đoạn, nhưng anh ấy không nhìn thấy con. Cha! Cha nói xem lúc nào thì anh rể sẽ đến thăm chúng ta? Con thật nhớ anh ấy quá, lại càng nhớ tỷ tỷ. Hì hì! Tỷ tỷ sắp sinh em bé rồi, con sắp được làm cậu rồi, nghĩ thật là vui.

Ngoài miệng thì mắng con, nhưng đôi mày Hàn Lâm lại giãn hẳn ra, hiển nhiên ông cũng rất vui vẻ. Ông ta ồ một tiếng, đáp:

- Vị công tử Ngũ Hán Siêu do anh rể con phái tới mãi đến hôm kia mới rời thành. Bên ngoài đang đánh trận, y phải đi theo đường nhỏ, tuy rằng có người chúng ta phái đi dẫn đường, nhưng e là lúc này vẫn chưa đến được nơi cần đến đâu. Chắc anh rể ngươi còn phải ở lại đây một thời gian nữa.

Ông ta khẽ giơ ngón tay cái lên:

- Lăng nhi đi theo vị đó đến đây, đó là chuyện lớn bằng trời e là y không thể lập tức đến gặp chúng ta. Con đừng nôn nóng, cứ kêu đám người làm đi nghe ngóng tin tức, chú ý tất cả động tĩnh của các hạng người trong thành, đừng làm hỏng chuyện lớn của anh rể con.

Hàn Mãn Thương thất vọng ngồi phịch xuống một chiếc ghế dài, chụp lấy hồ lô rượu của cha nhấp một ngụm rượu nhỏ. Bé lại vội vã cầm đũa gắp một miếng thịt dê nóng hổi từ trong nồi lên, khẽ thổi mấy hơi rồi bỏ vào miệng rồi đáp:

- Dạ, chuyện này cha không cần quá lo lắng đâu! Trong thành mà có người lạ nào ra vào ắt là không thể giấu được cặp mắt của đám người làm đó. Có ai lại nảy lòng cảnh giác với những thằng nhóc chạy loạn xạ khắp thành đó chứ?

- Đúng rồi! - Hàn Mãn Thương nằm bò xuống bàn, vừa đung đưa chân vừa nói tiếp - Mấy tay thương nhân ở Trạng Nguyên lâu cha đã điều tra rõ chưa? Người chạy đến đây làm ăn vào khoảng thời gian này không nhiều, vậy mà ông chủ của bọn họ còn ở phía sau!? Họ đã ở liền một mạch tới bảy tám ngày rồi, đúng là lạ thật!

Hàn Lâm lắc đầu đáp:

- Còn chưa điều tra được gì cả. Có lẽ đó là những thương nhân mới vào nghề, không hiểu thời vụ với tình hình ở nơi này. Bà chủ và những người hầu đó đều ở trong khách điếm cả ngày, không giống như là người có mưu đồ gì.

Trong thời chiến tranh loạn lạc này, phải mang theo một lượng lớn tiền bạc và hàng hóa xông pha nam bắc nên có đám người hầu tinh thông võ nghệ cũng là việc bình thường. Hơn nữa quan sát giấy thông hành và hộ tịch của bọn họ đều không thấy có gì đáng nghi, nhưng để đề phòng tình huống bất ngờ, ta vẫn kêu tiểu nhị ở khách điếm chú ý đến bọn họ hơn.

* * *

Trạng Nguyên lâu là khách điếm lớn nhất Đại Đồng, đã có lịch sử hơn trăm năm. Vương phi của Chu Quế, Đại vương đời đầu tiên, là thứ nữ của danh tướng Từ Đạt. Bà này khá có phong thái như phụ thân, tuy tướng mạo bình thường nhưng lại một thân võ nghệ. Khi được gả vào phủ Đại vương, bà dẫn theo một nha đầu tùy thân họ Tống cũng tinh thông võ nghệ. Về sau, cô tỳ nữ này rời vương phủ gả cho người khác, rồi thành lập nên Trạng Nguyên lâu ở đây.

Có mối quan hệ này với phủ Đại vương, tửu lâu càng ngày càng mở rộng, dần dần phát triển thành một tổ hợp quán rượu, khách điếm, sòng bạc, kỹ viện. Trạng Nguyên lâu chiếm diện tích rất lớn, tuy làm ăn rất nhiều ngành, nhưng mỗi loại đều có khu vực riêng. Ngay đến khách điếm cũng phân ra làm ba tòa lầu có cấp bậc cao, trung, hạ khác nhau, do đó các hạng tam giáo cửu lưu đều muốn ở trọ tại đó. Rồng rắn hỗn tạp, đây là nơi dễ nghe ngóng tin tức nhất.

Tuy Đại Đồng là nơi chiến loạn nhưng đồng thời cũng là nơi dễ phát tài nhất. Qua hơn trăm năm, các đời chủ nhân của tửu lâu này kiếm được rất nhiều tiền của. Năm kia, thiếu chút nữa thì giặc Thát đánh được vào thành khiến cho chủ nhân tửu lâu vô cùng sợ hãi không muốn tiếp tục ở lại đây. Nhưng số người có thể bỏ ra một khoản tiền lớn mua lại Trạng Nguyên lâu quả thực không nhiều, do đó họ đành phải một mực kéo dài việc làm ăn mãi. Khi thế lực của Nội xưởng mở rộng đến đây, bọn họ liền ngấm ngầm mua lại Trạng Nguyên lâu, bề ngoài vẫn tuyên bố đây là việc làm ăn của nhà họ Tống, nhưng bên trong thực ra là do Hàn Lâm chưởng quản.

Cập Đệ lâu là khách điếm hạng trung của Trạng Nguyên lâu, cũng phù hợp với thân phận của vị thương nhân buôn da đó. Hiện giờ mới chỉ có phu nhân và vài người làm của vị thương nhân chưa thấy mặt đã đến đây ở trọ. Bọn họ thuê ba gian phòng khách liền nhau ở chỗ rẽ ở tầng hai, căn phòng ở giữa để cho phu nhân, hai căn phòng hai bên dành cho người hầu.

Vị phu nhân này đi lại hùng hùng hổ hổ, hành sự nói năng rất giống đàn ông, cực kỳ thô lỗ. Tuy có thân hình quyến rũ động lòng người, nhưng trên khuôn mặt bà ta lại đầy tàn nhang, hơn thế nữa còn thích trang điểm lòe loẹt. Bà ta vẽ hai hàng lông mày mỏng dính, nhưng dưới mũi thì lại là cái miệng to như chậu máu. Ngay đến mấy người làm thuê biết nhiều hiểu rộng của khách điếm cũng chẳng muốn nhìn lâu.

Khi tới thuê phòng ở trọ, bọn họ đã báo vì có việc nên ông chủ đến chậm, phu nhân không quyết định mọi việc được nên ở lại đây chờ ông đến, đã ở suốt bảy, tám ngày rồi. Vừa rồi vị thương nhân buôn da đó mới dẫn theo một vị tiên sinh tính toán sổ sách và sáu người làm thuê đến khách điếm. Người làm của khách điếm đã được Hàn Lâm dặn dò từ trước, vừa sai người lén đi thông báo cho Hàn Lâm vừa bưng một chậu nước đưa lên lầu.

Trong phòng, Dương Hổ vòng tay ôm chặt ái thê, mãi một hồi lâu sau mới buông ra, kích động:

- Thật là lo đến chết ta mất! Hôm đó không ngờ lại trúng phải mai phục của tên cẩu quan Dương Lăng, ngay đến chỗ giấu ngựa cũng đã bị mai phục sẵn, ta liền biết ngay là không hay. Sợ y đã sớm tra rõ gốc gác của ta với nàng, ắt căn nhà lớn trong kinh cũng có phục binh nên ta chỉ đành dẫn theo mấy huynh đệ bị thương bỏ trốn.

Sau đó ta phái người vào kinh nghe ngóng tin tức của nàng, lại nghe nói nàng đã bắt được Dương Lăng, dùng hắn làm con tin để trốn ra ngoài thành, tới lúc ấy ta mới yên tâm. Nàng không trở về đại trại tránh mặt một thời gian, còn giả trang thành bộ dạng quái quỷ này rồi chạy đến Đại Đồng làm gì? Huynh đệ đưa thư cũng không nói rõ.

Khi mới nhìn thấy trượng phu, Thôi Oanh Nhi cũng hết sức xúc động, nhưng lúc này đã dần bình tĩnh trở lại. Nghĩ đến việc trượng phu hám lợi khiến đầu óc lú lẫn, không nghe theo lời khuyên của mình mà lại theo lời xúi bẩy của Lưu lão đạo tiến đánh Cao Lão Trang, khiến tổn thất hai trăm huynh đệ thân tín; nàng không kìm được trừng mắt nhìn hắn một cái, sắc mặt cũng lạnh hẳn đi.

Nàng ngoảnh đầu qua nhìn thấy ông lão ăn mặc theo lối người hầu ở bên cạnh đang cười híp mắt nhìn mình, vội bước tới thấp giọng thưa:

- Ngũ thúc!

Đại trại mà Dương Hổ vừa nhắc tới chính là trại của nhà họ Thôi. Phụ thân của Thôi Oanh Nhi cùng một đám huynh đệ năm xưa tung hoành chốn núi rừng, là một nhân vật cực kỳ hiển hách trong giới lục lâm phương Bắc. Đến khi về già không muốn tiếp tục phiêu bạt nữa, lại chỉ có một mụn con gái, lão liền giao cho thủ hạ thân tín nắm lấy mười mấy tòa sơn trại tự lập môn hộ. Còn bản thân lão và một đám huynh đệ lui về ẩn cư tại Bàn Long lĩnh trong rừng sâu, sinh sống dựa vào của cải tích lũy được trong thời trẻ và việc tự trồng trọt cây thuốc, lương thực trong núi để dưỡng già.

Ngũ thúc mà Thôi Oanh Nhi vừa chào hỏi là người của đại trại nhà họ Thôi, hơn nữa còn là huynh đệ kết nghĩa với Thôi lão đại, tinh thông Ưng trảo công. Lão đã trông nom Thôi Oanh Nhi từ nhỏ đến lớn, coi như là người ruột thịt.

Lão khẽ vỗ vai Thôi Oanh Nhi, cười nói:

- Đừng đau lòng! Ngũ thúc đã nghe kể cả rồi, cháu có thể gây nên việc kinh thiên động địa như thế là giỏi lắm! Tất cả các thúc thúc bá bá ở sơn trại đều đã biết hết cả rồi, tất cả đều cảm thấy vinh dự lây.

Dương Hổ bị Thôi Oanh Nhi mỉa mai quen rồi nên cũng không cảm thấy tức giận, gã vẫn nôn nóng:

- Nương tử! Nàng đã trốn được khỏi kinh thành, tại sao không tiện tay giết luôn tên Dương Lăng đó mà còn thả cho y quay về. Ta nghe chuyện cảm thấy rất khó hiểu, việc gì phải nói đạo nghĩa với đám quan binh đó chứ?

Thôi Oanh Nhi lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, không đáp mà hỏi ngược lại:

- Ta gọi chàng đến Đại Đồng, chàng lại tìm cả ngũ thúc đến làm gì? Người của sơn trại nhà họ Thôi đã lui khỏi giang hồ, gân cốt không còn được như hồi trẻ, ngũ thúc tuổi tác đã cao, chàng còn muốn để thúc ấy phải cùng bôn ba nữa hay sao?

Dương Hổ cứng họng, ngũ thúc vội cười giàn hòa:

- Xem hai đứa các cháu kìa, vừa gặp mặt đã cãi nhau rồi! Chuyện này không trách Dương Hổ được! Các cháu gây náo loạn ở kinh sư như thế, quan binh vùng Bá Châu liền trở nên điên cuồng hơn, rất nhiều sơn trại đã bị nhổ bật cả gốc rễ. Nếu không phải đại trại của chúng ta ở sâu trong rừng, e rằng cũng khó tránh khỏi bị ảnh hưởng.

Cháu Hổ thoáng cái đã tổn thất hai trăm trợ thủ đắc lực nhất, còn phải di chuyển sơn trại, chỗ nào cũng cần dùng người, nghe cháu truyền tin kêu y nhanh đến Đại Đồng, y không thể tìm được trợ thủ đắc lực nữa. Hoắc lão đại thương con rể, lại lo cháu sẽ xảy ra chuyện gì, ta bèn xung phong đi theo…

Lão nói đến đây, đột nhiên bước nhanh đến bên cửa mở toát cánh cửa ra. Gã tiểu nhị vừa rón ra rón rén bước đến ngoài cửa sợ đến giật nảy mình, chậu nước trên tay thiếu chút nữa thì đổ cả ra đất. Gã vội cười nịnh:

- Á! Lão gia tử mở cửa thế này thực khiến tiểu nhân sợ quá. Ông chủ đến rồi, ngài đi đường vất vả nên tiểu nhân đưa nước đến đây.

Bên trong chợt có một giọng nữ chói tai vang lên:

- Chớ có làm bộ hồ đồ nữa! Nói là chỉ đến muộn ba ngày, tại sao tận bảy, tám ngày mới đến? Nói mau, chàng bị con hồ ly tinh nào mê hoặc rồi? Còn cả ngươi nữa, đừng có giấu giếm giúp y, nếu để lão nương biết ngươi lừa lão nương, chốc nữa ta sẽ đánh gãy cái cẳng chó của ngươi!

Thoáng liếc mắt nhìn vào bên trong, tiểu nhị thấy vị phu nhân mặc áo bông màu đỏ trông rất thô lỗ đó đang một tay xách tai vị đại hán thân cao bảy thước kia, một tay chỉ về phía một gã người làm đang cười nịnh không ngừng vâng vâng dạ dạ ở trước mặt. Cái miệng to như chậu máu của bà ta đang giận dữ mắng mỏ không ngừng.

Ngũ thúc cải trang thành vị tiên sinh trông nom sổ sách ho khan hai tiếng, nháy mắt ra hiệu với tên tiểu nhị, bảo:

- Khi cần nước thì tự nhiên chúng ta sẽ gọi ngươi, hãy đi xuống trước đi! Lão gia và phu nhân đang bàn chuyện làm ăn.

Gã tiểu nhị cố nhịn cười, vội vâng một tiếng rồi hấp tấp bưng chậu nước rời đi. Ngũ thúc đợi gã đi khuất qua chỗ rẽ mới khép cửa phòng lại, ghé sát tai vào cửa nghe ngóng thêm một lúc rồi mới đưa tay ra hiệu cho Dương Hổ và Hồng Nương Tử, thấp giọng bảo:

- Trong khách điếm đông người, phức tạp. Đi! Vào phòng trong nói chuyện, hai người các ngươi canh gác bên ngoài!

Hồ Đại Chùy và Hắc Diêu Tử gật gật đầu, đi đến đứng cạnh cửa với vẻ đầy cảnh giác; Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi và đám người ngũ thúc đều đi vào phòng trong. Hồng Nương Tử bắt đầu kể lại việc Lưu lão đạo và Thúy Nhi là người của Di Lặc giáo, cố tình xúi bẩy Dương Hổ vào kinh ám sát Hoàng đế, sau đó lại nghe nói Hoàng đế muốn đến Đại Đồng tuần tra, vì sợ đả thảo kinh xà nên lại bán đứng nàng.

Hai tin tức này chẳng khác gì tiếng sấm nổ giữa trời quang. Dương Hổ trợn mắt há mồm, ngẩn người suốt một hồi lâu mới hầm hầm đứng dậy, nghiến răng nghiến lợi đau đớn tột cùng:

- Di Lặc giáo! Di Lặc giáo! Đám trời đánh này, ta không ngờ lại bị bọn chúng lợi dụng! Ôi! Hai trăm huynh đệ tốt cùng vào sinh ra tử với ta!

Hắn đấm mạnh một cái vào cây cột trong phòng, sắc mặt tái xanh, da thịt trên mặt co giật liên hồi.

Mấy vị huynh đệ vừa từ sơn trại tới đây đến lúc này mới biết rõ nội tình, cũng đều căm hận nghiến răng ken két. Căn phòng nhất thời trở nên tĩnh lặng, mãi một lâu sau, một vị huynh đệ đột nhiên biến sắc thốt lên:

- Lưu tiên… Lưu lão đạo đó là người của Di Lặc giáo ư? Chó chết thật! Vậy… Vậy lão nói Hổ ca là Tử Vi chuyển thế, có tướng đế vương gì gì đó cũng đều là những lời giả dối hay sao?

Mấy người bên cạnh nghe thế đều biến sắc, đưa mắt nhìn nhau hồi lâu. Dương Hổ thầm kinh sợ trong lòng, tới lúc này gã mới nghĩ đến tính nghiêm trọng của vấn đề. Người vô tâm nói ra điều yếu hại này tên là Phùng Phúc Chí, cũng là một huynh đệ tốt một lòng một dạ đi theo Dương Hổ. Thấy sắc mặt mọi người khó coi như thế hắn không khỏi ngượng ngập vô cùng, không nói ra được lời nào nữa.

Dương Hổ hơi tức giận nhưng không tiện phát tác; rốt cuộc vẫn là ngũ thúc già đời thành tinh, lão vội nói:

- Giang sơn đều là do con người đánh chiếm được cả, có ai nghe nói Hoàng đế được vận mệnh định sẵn thì không cần phải tự mình đi đánh thiên hạ mà có thể ngồi hưởng giang sơn đâu? Trừ phi đó là Thái tử của Hoàng đế đương vị.

Cả Tống Thái Tổ, Chu Hồng Võ đều cùng các vị hảo huynh đệ của mình kề vai sát cánh đánh lấy giang sơn vạn dặm; cái gì mà sớm có tướng đế vương, chẳng phải là việc thành rồi mới có kẻ bịa đặt ra hay sao? Chúng ta đều là hạng cường đạo mã tặc, sớm đã giắt cái đầu bên thắt lưng quần rồi, chẳng ai là hạng đớn hèn. Liều một phen vị tất đã không thể chiếm được giang sơn!

Được rồi, chúng ta cứ nên thương nghị kỹ càng trước đã. Vừa nãy Oanh Nhi đã nói rồi, Di Lặc giáo cũng muốn tạo phản, có câu loạn thế xuất anh hùng, phải xem ai mới là kẻ mạnh. Nay không phải Dương Lăng đã dẫn quân vào thành rồi sao? Theo lời Oanh Nhi, gã Hoàng đế Chính Đức đó hẳn cũng ở trong quân rồi. Chúng ta cứ nên nghĩ xem làm sao mới có thể báo thù cho các huynh đệ đã chết, nghĩ xem làm thế nào mới có thể giết được Chính Đức trước đã!

Dương Hổ thầm cảm kích trong lòng, vội vàng tiếp lời:

- Ngũ thúc nói đúng lắm! Xem ra Di Lặc giáo cũng đã tới đây rồi, chúng ta nên chú ý tới những hoạt động của Dương Lăng hơn nữa. Di Lặc giáo có thể xua lang đấu hổ, hảo hán lục lâm chúng ta há lại không hiểu trò này hay sao? Hiếm khi Hoàng đế ra khỏi kinh thành, chúng ta nên nhân lúc biến loạn mà thủ lợi, tìm cơ hội giết chết hắn!

Hồng Nương Tử phản đối:

- Ta không đồng ý. Trên đường tới Đại Đồng nạn dân nhiều vô số, ta đã nghĩ kỹ rồi. Di Lặc giáo nấp ở chỗ tối, còn chúng ta đang ở ngoài sáng, quan binh đang bao vây tiêu diệt sơn trại chúng ta. Nếu Hoàng đế xảy ra chuyện gì ở đây, món nợ này ắt sẽ bị tính lên đầu chúng ta. Đến lúc đó cho dù là triều đình dốc hết binh lực cả nước đi đối phó với chúng ta, quyết tâm trảm thảo trừ căn thì hãy còn là nhẹ.

Nàng liếc nhìn mọi người lúc này đã biến sắc, nói tiếp:

- Hơn nữa… Giặc Thát đang đại chiến ngoài quan ải, chúng ta khởi sự là vì thay trời hành đạo, nếu lúc này Hoàng đế mất mạng, giặc Thát nhân loạn xâm nhập vào quan ải thì phải làm sao? Dân nghèo Bá Châu chúng ta sẽ là người gặp nạn đầu tiên, hơn nữa…

Cặp mắt nàng trở nên mông lung, hồi lâu sau mới rầu rĩ nói tiếp:

- Chúng ta có thể thật sự đánh chiếm được thiên hạ sao? Nếu chiếm được, chúng ta có thể trị vì thiên hạ sao? Chúng ta vốn cho rằng chỉ cần cướp của nhà giàu, không ép dân nộp thuế, không ép dân nuôi ngựa là được, nhưng đó là vì chúng ta là người ngoài cuộc, không đi chợ chẳng biết gạo, dầu, mắm, muối đắt tiền. Nếu thật sự đánh được thiên hạ rồi, liệu có thể không làm như vậy được không?

Mọi người đều kinh ngạc nhìn nàng, không hiểu tại sao nàng lại nói đến luận điểm này. Dương Hổ hậm hực lên tiếng:

- Nếu theo lời nàng nói, hai trăm huynh đệ của ta phải chết một cách vô ích sao? Mối thù này chẳng lẽ không báo nữa sao?

Hồng Nương Tử cắn chặt bờ môi, thấp giọng:

- Chúng ta đi giết người ta, chẳng lẽ lại bảo người ta vươn cổ ta cho chúng ta chém sao? Chúng ta cảm thấy cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo là thay trời hành đạo, nhưng quan phủ bắt giặc há lại không phải là đúng lẽ hay sao? Mà huống chi, y cũng chỉ vì tự bảo vệ bản thân mà thôi.

Oan có đầu, nợ có chủ! Nếu không phải Lưu lão đạo nói dóc cái gì mà thiên tượng sinh biến, đế tinh sắp tàn, chúng ta cũng sẽ không dẫn người lên kinh. Ta hận! Hận mình đã để cho Di Lặc giáo lợi dụng. Nhưng Di Lặc giáo ẩn trong bóng tối, tổng đàn ở đâu chúng ta không biết, giáo chủ ở đâu chúng ta không biết, muốn báo thù cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Nàng thoáng quắc mắt, gằn giọng:

- Chúng ta chỉ có mấy người thế này, có thể giết được Hoàng đế giữa thiên quân vạn mã sao? Huống chi Di Lặc giáo cũng muốn giết Hoàng đế. Bọn chúng căn cơ thâm sâu nên ắt đã sớm có chuẩn bị, Hoàng đế vừa chết, bọn chúng nhất định đã có kế hoạch chu toàn để mưu đoạt thiên hạ rồi.

Thế lực của chúng ta bị quan phủ đánh phá, tổn thất quá lớn, rất khó tranh hùng với bọn chúng. Nếu chúng ta giết chết Hoàng đế há chẳng phải là giúp đỡ cho bọn chúng hay sao? Di Lặc giáo và chúng ta có mối thù sâu như biển, bọn chúng muốn làm gì, ta quyết không để chúng thành công. Ta muốn đợi khi Di Lặc giáo ra tay sẽ ngầm động chân động tay một chút, chứng thực chuyện này là do Di Lặc giáo làm, dẫn ngọn lửa này lên đầu Di Lặc giáo.

Dương Hổ vừa giận dữ vừa buồn bực. Hắn cho rằng cái đám yêu đạo suốt ngày giả thần giả quỷ mê hoặc ngu dân kia thì có gì là ghê gớm. Mã tặc ở Bá Châu đi qua nơi nào, ngay đến quan binh vệ sở cũng đều nghe gió mà sợ hãi, huống chi là một đám dân chúng chỉ biết cầm cuốc cầm cày, dựa vào bọn họ mà có thể giành được thiên hạ hay sao?

Trong lòng hắn luôn cho rằng triều đình hiện nay mới là chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản mình hoàn thành đại sự. Giết chết Hoàng đế, triều đình Đại Minh ắt sẽ như rắn mất đầu, phiên vương có dã tâm ở các nơi nhất định sẽ nổi lên tranh đoạt, cho dù Di Lặc giáo có thừa cơ khởi sự, hắn vẫn cảm thấy mình chiếm nhiều phần thắng hơn.

Hiện nay thê tử lại nói ra những lời nhụt chí như vậy ở trước mặt tâm phúc của mình, còn muốn bảo vệ Hoàng đế, mượn sức của quan binh để đối phó với Di Lặc giáo, đúng là thiển cận hết sức! Phụ nữ mà căm hận một người nào, chẳng lẽ đều trở nên bất chấp lý lẽ như vậy hay sao?

Dương Hổ không kìm được, gắt gỏng:

- Đúng là kiến thức đàn bà! Bị bọn chúng lợi dụng thì sao chứ? Cho dù không có chúng, sớm muộn chúng ta cũng phải đối phó với triều đình. Nay bọn chúng đang có ý đồ ám sát Chính Đức, vừa hay chúng ta có thể thừa nước đục thả câu. Đây là cơ hội ngàn năm có một, sao lại có thể bỏ lỡ?

Hồng Nương Tử đứng dậy giận dữ đáp:

- Kiến thức đàn bà thì sao nào? Ngươi có kiến thức sao lại bị người ta lợi dụng? Ngươi đã đọc được mấy quyển sách rồi? Ta cảm thấy dự định ban đầu của chúng ta thực quá nông cạn. Đánh đánh giết giết chúng ta còn làm được, nhưng những đạo lý lớn đó ta không hiểu, chẳng lẽ ngươi hiểu được sao?

Dương Hổ cũng đã nổi giận, lập tức phản bác:

- Cái lý lẽ gì như thế chứ? Sao lại đột nhiên nói đến chuyện đọc sách rồi? Chẳng lẽ những đạo lý lớn này của nàng là gã thày đồ dạy học nào nói cho nàng biết hay sao?

- Ta… - Hồng Nương Tử nhất thời cứng họng, hậm hực giậm chân, - Thứ khác ta không biết. Ta chỉ biết Di Lặc giáo là kẻ thù của chúng ta, bọn chúng muốn giết Hoàng đế, ta muốn lợi dụng Hoàng đế để giết bọn chúng. Ta chỉ biết nếu ngươi thừa cơ ra tay, các huynh đệ trên sơn trại, còn cả cha mẹ vợ con của bọn họ nữa, toàn bộ đều sẽ vì ngươi mà không còn chỗ nương thân. Ngược lại bọn Di Lặc giáo sẽ được lợi vô cùng, ta không nuốt cái cục tức này xuống được.

Ngũ thúc thấy hai người lại sắp cãi nhau, vội vã can:

- Hôm nay Dương Lăng vừa tới Đại Đồng, chắc sẽ không rời đi ngay. Bất kể chúng ta có động thủ hay không thì cũng đều không gấp, đợi sau khi chúng ta thăm dò rõ nội tình của bọn chúng rồi hãy bàn bạc tiếp cũng không muộn. Hai vợ chồng các cháu trải qua cửu tử nhất sinh, vừa mới gặp mặt nhau, đừng nên làm tổn thương tình cảm thêm nữa!

Nói xong lão bèn khẽ nhếch mép ra hiệu cho Dương Hổ, nói tiếp:

- Chúng ta đi vội đến đây, còn chưa được ăn no. Đi nào, chúng ta mau tắm rửa một chút rồi đi ăn vài miếng, uống vài chén cái đã!

Hồng Nương Tử hừ mạnh một tiếng, xoay người ngồi phịch xuống giường, giận dỗi ngoảnh đầu đi hướng khác không nói gì.

Dương Hổ bị ngũ thúc kéo ra ngoài, mấy huynh đệ khác thấy tình hình không hay, liền cũng đi theo sau. Phùng Phúc Chí thấp giọng nói với một huynh đệ bên cạnh:

- Ta thấy lời của đại tẩu có lý lắm, hơn nữa… sơn môn đã bị hủy rồi, có một số sơn trại đã bắt đầu hoài nghi việc đại ca là chân mệnh thiên tử, nếu Lưu lão đạo là người của Di Lặc…

- Suỵt…

Một người khác nhận biết vợ chồng Dương Hổ đều đang kìm nén một bụng đầy lửa giận, nên vội vàng giựt vạt áo gã, Phùng Phúc Chí lập tức ngậm miệng. Có điều tai Dương Lăng rất thính nên hắn đã nghe rõ những lời của hai người bọn họ. Đang trong cơn tức giận nên vừa nghe thấy những lời xúi quẩy này hắn liền chỉ hận không thể quay lại tát cho gã Phùng Phúc Chí kia một cái.

Dương Hổ cố nén giận đi về phía trước. Ngẫm nghĩ đến lời của Phùng Phúc Chí, bất giác hắn thầm kinh hoảng. Huynh đệ trên sơn trại của mình tất nhiên không có gì để nói, nhất định đáng tin, nhưng hai năm nay chiêu binh mãi mã, thế lực khuếch trương rất nhanh. Các sơn trại mình thu phục được có một phần là sợ hãi trước vũ lực của mình, một phần là vì tin lời đồn mình là chân mệnh thiên tử, nếu tin tức này mà lộ ra ngoài…

Nếu ngầm dặn dò mấy huynh đệ giấu giếm chuyện này đi, vậy chẳng rõ ràng là mình đang lừa gạt người khác, mà ngay đến cả mình cũng hoài nghi mệnh tướng của mình ư? Giới lục lâm có ai không biết Dương Hổ là một trang hào kiệt quang minh lỗi lạc, những lời này phải nói với bọn họ thế nào đây chứ?

Dương Hổ vừa đi vừa cúi đầu thầm nghĩ cách giải quyết chuyện này. Đột nhiên, một ý nghĩ tà ác lướt qua trong đầu hắn, khiến bản thân hắn cũng phải thầm kinh sợ. Hắn vội vã ngẩng đầu lên, hoàn toàn không dám suy nghĩ tiếp nữa.

* * *

Vừa sáng sớm Dương Lăng và Trương Vĩnh đã dẫn theo hai trăm tùy tùng đến phủ Đại vương bái kiến. Chính Đức trà trộn trong đám thị vệ nên ung dung đắc chí vô cùng. Trước đây đi đâu hắn cũng là nhân vật chính, mỗi hành vi cử chỉ đều phải chú ý đến phong thái của bậc đế vương, nay thì hoàn toàn không bị câu thúc gì. Nhìn những căn nhà thấp bé bên đường, nhìn những sỹ tốt nhàn tản đi qua, nhìn những tiểu thương nhân dịp năm mới gánh hàng, đẩy xe rao bán trên đường, Chính Đức cảm thấy hết sức mới mẻ.

Dù đường đường là bậc cửu ngũ chí tôn, chủ nhân của thiên hạ, nhưng ở lẫn trong đám thị vệ này, Chính Đức cũng chẳng khác gì một thị vệ bình thường cả. Nhìn từ bên ngoài, liếc sơ qua vị tất có ai nhận ra được hắn có gì khác thường.

Phủ Đại vương tọa lạc trên Đông Đại Nhai, tổng cộng có bốn cửa, cửa phía đông là Đông Hoa Môn, phía tây là Tây Hoa Môn, phía bắc là Hậu Tể Môn, phía nam gọi là Đoan Lễ Môn. Đoan Lễ Môn là cửa chính của vương phủ, bốn phía xung quanh đều được bao quanh bởi tường cao vững chắc khiến nó trở thành một khu vực độc lập hoàn toàn cách biệt với bên ngoài, trăm họ đều gọi nó là “Hoàng Thành”.

Phía trước Đoan Lễ Môn có một bức bình phong lớn dài hơn mười trượng, cao gần ba trượng, xây bởi các loại gạch lưu li màu lam khổng tước, lục, vàng sậm, vàng, vàng nhạt. Bên trên là bức bích họa có hình chín con rồng lưu ly vô cùng đẹp mắt.

Phần bên dưới bức bích họa là sóng nước màu xanh biếc cuộn trào dữ dội, phần bên trên là mây mù màu xanh lam và mây lành màu vàng. Những con rồng lớn được ngăn cách và nối liền với nhau bởi mây mù, mây lành, sóng nước, vách núi, cây cỏ; màu sắc rực rỡ, hết sức tráng lệ.

Bức bình phong chín rồng này so với bức bình phong ở Hoàng cung trong kinh thành còn lớn hơn nhiều. Hoàng tử thứ mười ba Chu Quế và Yên vương Chu Đệ đều do cùng một mẹ sinh ra, quan hệ rất tốt, thêm nữa vương phi của cả hai lại đều là con gái của Từ Đạt, do đó lại càng thân thiết hơn. Năm xưa vua Kiến Văn muốn tước quyền của các phiên vương đã chọn Đại vương để ra tay đầu tiên, đem bắt nhốt ông ta lại, khi Yên vương tạo phản thành công liền thả ông ta ra.

Về sau Đại vương phi tính cách ngổ ngáo vào kinh nhìn thấy bức bình phong trong kinh, đến khi trở về liền nhất quyết bắt Đại vương phải xây một bức bình phong lớn hơn bức ở kinh thành. Đại vương sợ vợ liền vội vàng đồng ý, kết quả là có bức bình phong chín rồng này.

Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa thiếp bái phỏng, chẳng mấy chốc tổng quản vương phủ đã dẫn theo hai tiểu thái giám từ bên trong đi ra. Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng xuống ngựa, tổng quản vương phủ mặt mày niềm nở cười nói:

- Vương gia nghe nói hai vị Khâm sai đại nhân đến đây nên hết sức mừng rỡ, lệnh cho nô tì ra ngoài nghênh đón. Hai vị đại nhân, xin mời!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội mỉm cười đáp lời, mỗi người dẫn theo tám thị vệ theo sau viên tổng quản đi vào Đại vương phủ. Bọn họ đi qua Thừa Vận Môn, Thừa Vận Điện, Sùng Tín Môn, Tồn Tâm Điện, lại rẽ về phía tây thì tới Ngân An Điện, đây là điện chính của phủ Đại vương.

Trên mặt đất, những viên gạch xanh mài nước đều rất vuông vức chỉnh tề, bằng phẳng hệt như mặt gương. Đại vương mặc áo mãng long bào tươi cười bước ra đón, lão đã hơn năm mươi tuổi, mặt trắng ít râu, dáng người béo lùn, thoạt nhìn có vẻ rất ôn hòa nhã nhặn.

Tuy rằng hai người là Khâm sai, nhưng Đại vương thuộc dòng hoàng tộc, vốn lão chẳng cần khách sáo như vậy. Có điều hai người này lại là đại thần hiện đang được Hoàng thượng tin tưởng nhất, Đại vương đời này là người đằm tính, lão không muốn chọc giận bọn họ.

Đại Đồng tuy trở nên tiêu điều hơn bình thường rất nhiều vì mùa đông và chiến tranh, nhưng cảnh tượng trong phủ Đại vương lại hoàn toàn khác. Từng điện, từng sảnh, từng viên gạch, từng cây cột, từng cành hoa, từng ngọn cỏ đều có sự độc đáo riêng. Ngân An Điện được sơn màu đỏ và quét vôi màu trắng, rường cột chạm trổ, thực là vàng son lộng lẫy, hào hoa tôn quý đến cực điểm.

Hai người là Khâm sai nên trước tiên vương gia dùng lễ thần tử khấu bái để vấn an Hoàng thượng, hai người hiên ngang đứng nhận lễ thay Chính Đức, sau đó lại khấu bái Đại vương. Hai bên khách sáo chào hỏi nhau một phen rồi mới lần lượt ngồi xuống.

Hàn huyên hồi lâu, Đại vương hỏi:

- Hoàng thượng phái hai vị đại nhân đến Đại Đồng úy lạo quân đội và tuần tra việc chiến sự ở biên quan, không biết lúc nào thì hai vị gọi Dương Nhất Thanh về thành?

Dương Lăng khom người đáp:

- Bẩm vương gia! Hạ quan nghe nói chiến sự ở tiền phương đang vào hồi cam go, Dương tổng chế thân là chủ soái, không thể tùy tiện rời khỏi chiến trường. Do đó, hạ quan định ngày mai sẽ cùng Trương công công cùng đến bảo Trấn Khương thăm Dương đại nhân, đồng thời thị sát việc phòng ngự ở đó.

Đại vương khẽ cười hà hà, cặp mắt nheo lại thành một đường thẳng, không ngừng gật đầu bảo:

- Rất tốt, rất tốt! Năm nay giặc Thát tập hợp quân lực hùng hậu, bản vương quả thực lo lắng vô cùng, may mà Hoàng thượng phái tới đây một viên tướng tài như Dương Nhất Thanh, đánh trận rất giỏi, cần khen thưởng thật hậu mới được.

Lão nâng chén trà lên, khẽ nhấp một ngụm rồi mỉm cười nói tiếp:

- Tuy gặp lúc chiến tranh, nhưng bản vương muốn nạp trắc phi, Hoàng thượng cũng đã đồng ý rồi, chuyện này không thể chậm trễ thêm. Năm ngày sau bản vương sẽ nạp trắc phi, đến lúc đó hai vị Khâm sai đại nhân nhất định phải đến vương phủ uống chén rượu mừng đấy nhé!

Nếu vương gia nạp một người thiếp bình thường thì không cần bẩm rõ với Hoàng đế. Nhưng trắc phi cũng là vương phi, nhất định ông ta phải xin Hoàng thượng ban thánh chỉ xuống, cho ghi vào tộc phổ của hoàng thất mới được. Vị vương gia này tuổi đã trạc ngũ tuần, vậy mà vẫn bỏ công làm lớn chuyện như vậy để nạp một vị có danh phận phi tử qua cửa, xem ra là rất yêu mến vị cô nương đó.

Vừa thấy Đại vương bưng chén trà lên, Dương Lăng và Trương Vĩnh đều đã đứng dậy, nghe xong lời mời liền không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khẽ, nhất tề khom người thưa:

- Thì ra vương gia còn có chuyện vui như vậy. Chúc mừng! Chúc mừng! Năm ngày sau hạ quan nhất định sẽ đến tham gia. Vương gia bận rộn sự vụ, bọn hạ quan không dám làm phiền thêm, xin được cáo từ!

Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (

谱儿

), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).

Ngược về thời Minh

Chương 189 - Vua Lên Biên Ải

Chương 189 - Vua lên biên ải

Chương 189 - Vua lên biên ải

Đội nghi trượng của Khâm sai chậm rãi đi về phía dịch quán, dân chúng trong thành đã quen với các đội quân lớn nên chẳng để tâm lắm tới đám chỉ hơn hai trăm quan binh này, vẫn tiếp tục bận rộn cùng hưởng thụ cuộc sống của bản thân.

Yêu cầu của những người dân sống tại tầng đáy của xã hội không hề cao, chỉ cần giặc Thát tránh xa đi một chút, gió nhẹ đi một chút, ánh mặt trời ấm áp hơn một chút, đó đã là những chuyện đáng để bọn họ cảm thấy may mắn và vui mừng rồi.

Tại Đại Đồng có hơn trăm ngôi chùa chiền, am ni cô hay đạo quán, có thể thấy khắp nơi trong thành là tòa viện liền kề, am miếu san sát, hương khói vờn quanh, tiếng tụng kinh vang lên không ngớt, khiến nơi sát phạt này vẫn là một thắng địa của Phật giáo.

Theo lệ thường, khoảng đất trống phía trước các chùa chiền, đạo quán là nơi tập trung của các quầy hàng. Bởi vì Đại Đồng là con đường huyết mạch từ Mông Cổ thông đến Tấn Ký Lỗ Dự (Tên gọi tắt của 4 tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông và Hà Nam – ND), nên tuy hai bên chém giết không ngừng nhưng phần lớn chủng loại hàng hóa được bày bán trong chợ vẫn là da lông, thuốc men, vật dụng cho ngựa của người Mông Cổ.

Trong chợ cũng có rất nhiều người Mông Cổ nhưng không người Hán nào có thái độ thù địch với bọn họ. Hai bên ở gần nhau như thế, có rất nhiều người Mông Cổ không thể sống tiếp ở quê mình nữa đã lén chạy tới địa phận của người Hán làm nhân công lao dịch, buôn bán. Một số gia đình người Hán giàu sang còn có thêm một nhóm võ sỹ Mông Cổ vừa trung thành vừa dũng mãnh. Những người này đã nhiều năm sinh sống ở đây, tình cảm đối với người Hán còn sâu sắc hơn đối với bộ tộc mình.

Hơn nữa thời đó còn chưa có phương thức truyền tin nhanh nên căn bản gian tế chẳng có bao nhiêu tác dụng. Dù thật sự nghe ngóng được tin tức tình báo nào đó thì đợi đến khi gửi được về đến nơi thì cũng sớm đã mất đi tác dụng rồi, còn kém xa một trinh sát được phái đi trên chiến trường. Do đó nha môn Tuần phủ cũng không trông chừng bọn họ quá chặt, chỉ cần có người bảo lãnh, trên người không mang theo vũ khí thì quyền tự do nhân thân của bọn họ cũng chẳng khác gì của người Hán cả.

Phía trước một ngôi chùa đang có một gánh hát đang biểu diễn, tại ngã tư phía trước lại có một đội xe ngựa rất dài đang vận chuyển lương thảo. Hoàng đế Chính Đức đang ở trong quân, Dương Lăng không dám đi thẳng tới sợ trong lúc hỗn loạn có kẻ thừa cơ hành thích Hoàng đế, nên y bèn hạ lệnh cho toàn quân dừng lại nghỉ ngơi tại chỗ.

Thời đó hí khúc đã dần hình thành phong cách riêng biệt của từng vùng, nhưng loại gánh hát nhỏ ở địa phương thế này tất nhiên chỉ hát mấy bài dân ca vùng quê, hơn nữa phần lớn còn chứa những lời thô tục.

Năm Hồng Vũ thứ 22, Chu Nguyên Chương từng đích thân hạ lệnh phàm tướng sỹ nào trong quân mà học những lời hát dâm ô sẽ bị cắt lưỡi; đáng tiếc có một số chuyện dù là Hoàng đế hạ lệnh cũng vô dụng. Những năm trở lại đây, nếp sống dân gian ngược lại còn càng ngày càng cởi mở hơn. Chính Đức ngồi trên lưng ngựa, cùng một đám thị vệ ngoảnh đầu nhìn về phía gánh hát, xem với vẻ rất hứng thú.

Câu chuyện kể về một vị Tiết độ sứ thời Đường, trong tay có tới mấy chục vạn quân, nhưng lại sợ vợ như sợ cọp, ngay một người thiếp cũng không dám nạp. Về sau khó khăn lắm ông ta mới dụ dỗ được một tiểu nha hoàn xinh đẹp, nhưng vì quá sợ vợ nên mãi chẳng dám bước nốt bước cuối cùng. Vị đại tướng quân oai phong lẫm liệt đó đang đứng trên đài mặt mày sầu khổ hát:

- Gió nhẹ mây trong trời gần sáng, bà xã phạt ta quỳ trước giường. Hàng xóm đâu tỏ tường nổi khổ, còn tưởng (ta) thanh nhàn hóa ẩm ương.

Chính Đức và đám thị vệ đều ôm bụng cười vang, vô cùng vui vẻ. Gánh hát diễn tiếp đến đoạn Tiết độ sứ hẹn hò với tiểu nha hoàn ở hậu hoa viên, vừa gặp mặt liền vội vã nhào tới ôm ấp hôn hít cô nàng, rồi lại hát:

- Nha hoàn xinh đẹp, muốn giết ta ư, sao mãi lúc này nàng mới tới, mừng lắm thay, quần áo y nguyên ngồi ôm ấp, toàn thân trên dưới nàng đều thật đẹp, dù không thể chung giường ân ái, ta sờ chút thôi cũng đỡ thèm.

Khi hát đôi tay gã diễn viên còn không ngừng lên lên xuống xuống, bộ dạng hạ lưu vô cùng.

Người dân dưới đài lớn tiếng khen hay, có vài người lấy ít tiền đồng vứt lên trên đài. Gã diễn viên đóng vai tên lính quèn canh gác vội vàng cúi người xuống nhặt, đồng thời còn nháy mắt với người xem dưới đài, độc thoại rằng:

- Tiểu nha hoàn chỉ được mẽ xinh đẹp, hơn mười lăm tuổi rồi còn chưa từng lên đỉnh; phải biết là lão gia nhà ta sợ vợ, nếu không còn tưởng là thạch nữ(*) ở hậu hoa viên. Hê hê hê, xấu hổ thay, chẳng biết thiếu nữ hoài xuân làm sao chịu được cơn ngứa ngáy này!

(*): Phụ nữ bị dị tật bẫm sinh, có dị vật che chắn âm hộ;

Dưới đài lập tức vang lên vô số những tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa, lại càng có nhiều tiền đồng được vứt lên đài hơn. Những người dân vùng biên ải cả ngày phải lăn lộn giữa sự sống và cái chết này quả biết hưởng thụ cuộc sống hơn người Trung Nguyên.

Nghe thấy những lời dâm dật đó, Trương Vĩnh cảm thấy hơi không ổn bèn ngoảnh đầu nhìn qua Chính Đức, thấy hắn đang nghe một cách say mê, nếu không phải còn nhớ mình đang ở trong hàng ngũ, e cũng sớm đã lao đến dưới đài cùng đám thảo dân kia hò hét không ngừng rồi. Lão hơi khó xử, nói với Dương Lăng:

- Đại nhân! Những lời hát này thực tục tĩu quá, để Hoàng thượng nghe thấy rất không ổn! Ngài xem… có nên kêu người đuổi bọn họ đi không?

Dương Lăng ngoảnh đầu nhìn lại, y thấy Chính Đức đang mặt mày hớn hở, không ngờ nghe đến chỗ thích chí còn quên cả địa vị mà đưa tay vỗ vai gã thị vệ bên cạnh, tiếng cười vang lên không dứt. Trong lòng y đột nhiên cũng cảm thấy vui vẻ, đưa mắt nhìn Chính Đức với vẻ cưng chiều, rồi ngoảnh đầu lại mỉm cười:

- Thôi, mấy điệu hát này tuy đúng thực là bất nhã, nhưng cũng chưa đến mức dạy hư được người ta đâu.

Y thầm nghĩ: “Nhớ khi xưa mình còn xem av đạt đến cảnh giới tối cao, không gì là không tỏ tường, vậy mà bây giờ cũng có bị dạy hư gì đâu. Những kẻ phạm tội đó có người là nông dân chẳng hiểu gì về đồ điện tử hay máy móc, có kẻ là con ông cháu cha tiền chất đầy nhà; đây hoàn toàn là vấn đề nhân phẩm mà thôi!

Cái gì mà xem phim heo nên bị biến chất, chẳng qua là mấy kẻ bị bắt lại kiếm cớ nói càn mà thôi. Ngay đến mấy câu hát hơi phóng đãng này mà cũng không nghe được thì tiểu Hoàng đế làm sao chịu nổi sự chinh phạt của ba ngàn giai lệ chốn Hậu cung chứ?”

Trương Vĩnh nghe y nói như vậy bèn không nói gì thêm. Vì trích đoạn kịch này chuyên diễn cho người đi dường xem nên không hề dài, chẳng mấy chốc đã diễn đến đoạn thủ hạ của viên Tiết độ sứ đó hiến kế cho ôn ta giương cờ làm phản lại bà xã, rồi lấy tiểu mỹ nhân kia về làm vợ. Đại tướng quân toàn thân giáp trụ, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao, sát khí đằng đằng đi vào phòng trong, phía sau có bốn gã tiểu tốt vào vai thiên quân vạn mã.

Bà vợ xấu xí của Tiết độ sứ ở trên giường tỉnh giấc, nhìn thấy bộ dạng đó của trượng phu thì trừng mắt lên hỏi:

- Kêu chém kêu giết cái gì, ông muốn giết ai?

Viên Tiết độ sứ lập tức rùng mình, rồi quỳ ngay xuống trước giường cười nói:

- Chuyện này… Vi phu định giết gà cho nàng ăn.

Xem đến đây, Chính Đức liền cười nghiêng ngả, chảy cả nước mắt.

Đội xe ngựa chở lương thảo phía trước đã đi hết, đội quân của Dương Lăng tiếp tục tiến lên, Chính Đức ngoái đầu nhìn lại phía sau vẻ không nỡ. Lúc đó, bà vợ hung hãn kia đã biết rõ ý đồ của trượng phu khi mang đao tới phòng bèn nổi giận đùng đùng. Đại tướng quân phải chạy ra khỏi phủ, nhảy lên lưng ngựa bỏ trốn, còn hiềm ngựa chạy chậm nên vội rút cờ hiệu sau lưng ra quất lấy quất để vào lưng ngựa. Bộ dạng thảm hại đó khiến Chính Đức không kìm được lại bật cười.

Thì ra cuộc sống của người dân lại thú vị như vậy, tuy vấn đề ăn mặc có hơi kém một chút, nhưng thật là nhẹ nhàng thoải mái biết bao.

Chính Đức hệt như một đứa nhóc ở vùng quê nghèo khó vừa vào thành, nhìn thấy cái gì cũng cảm thấy mới mẻ. Người ở đây nhìn thấy gã cũng không quỳ xuống, còn gã thì không cần cả ngày căng mặt ra không nói lời nào, chú ý giữ gìn sự uy nghi của thiên tử. Một cuộc sống như vậy chính là điều mà gã mong ước bấy lâu.

Chính Đức hơi thúc ngựa, đi nhanh tới bên cạnh Dương Lăng, trên mặt vẫn còn nét tươi cười, hào hứng cất tiếng:

- Dương… Dương đại soái! Cuộc sống của những người dân bình thường này thật thú vị! Tuy có hơi khổ, nhưng bọn họ vẫn có thể tìm được rất nhiều niềm vui.

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Đúng rồi, cho nên mới nói trăm họ là những người dễ đối đãi nhất. Nếu không có thiên tai khiến bọn họ chịu cảnh đói rét, khó có thể sinh tồn; nếu không có đám tham quan ô lại chèn ép bọn họ khiến bọn họ nhà tan cửa nát; thì chỉ cần có cơm ăn, có nơi ở, được đối xử đàng hoàng tử tế một chút, trăm họ ắt sẽ là những người dân tốt hết sức biết vâng lời.

Chính Đức cẩn thận ngẫm nghĩ về những lời này, trên đường trầm tư suốt một hồi lâu, sau đó mới thúc ngựa đuổi theo Dương Lăng, nở nụ cười nhẹ, trịnh trọng gật đầu nói với y:

- Ta hiểu rồi!

Đội nghi trượng đi qua cửa hàng da nhà họ Hàn. Dương Lăng ngoảnh đầu lại nhìn về phía đó một lần nữa, một thiếu niên đang đứng ở cửa nhìn thấy y liền không kìm được hé miệng cười. Bộ dạng tinh nghịch đó khiến y thầm cảm thấy ấm áp, bất giác nhớ đến người vợ yêu dấu Ấu Nương ở kinh sư.

Y thoáng gật đầu chào thật kín đáo với Hàn Mãn Thương rồi thúc chân vào bụng ngựa, tăng tốc độ lên. Cửa hàng da họ Hàn vừa là nơi y an bài để cha con Hàn Lâm kiếm sống vừa là tai mắt ngầm quan trọng nhất mà y sắp đặt ở Đại Đồng, quan hệ giữa hai bên không thể để lộ. Trước mắt bao người, y không tiện đi gặp nhạc phụ của mình.

Thêm vào đó lần này y xuất kinh với nhiệm vụ quan trọng. Trước khi đạt thành hiệp nghị với Đóa Nhan Tam Vệ, thân phận của Hoàng đế Chính Đức và mục đích thật sự của hắn khi tới đây càng để ít người biết tới thì càng tốt. Muốn đi gặp người thân, xem ra chỉ có thể đành phải đợi đến sau khi gặp đại thủ lĩnh của Hoa Đáng mới được.

***

Trong một căn phòng ở tầng hai của một ngôi tửu lầu bên đường, một gã trung niên thân hình cao lớn mặc bộ quần áo da nghiêng đầu ra ngoài cửa sổ quan sát đoàn quân Dương Lăng đi qua. Sau đó hắn quay trở lại ngồi xuống bàn, nhấp một ngụm rượu, cau mày:

- Dương Lăng vâng chỉ tuần tra vùng biên cảnh, tuy lần này đội ngũ hơi lớn hơn bình thường một chút, nhưng dù sao hắn cũng vừa bị bắt cóc ở kinh sư nên việc phòng vệ nghiêm ngặt hơn cũng chẳng có gì là khó hiểu. Thật chẳng nhìn ra là Hoàng đế đang ở đây!

Hắn nở một nụ cười khinh miệt, quắc cặp mắt sắc bén lên nhìn về phía đối diện:

- Hoàng đế của người Hán các ngươi giống như một bông hoa yếu ớt, giống như một con chim lông vàng được nuôi trong lồng, chỉ có thể nấp trong Tử Cấm Thành mà đưa hiệu lệnh. Chả được như Khả Hãn của bọn ta, đó là hùng ưng của đại mạc, anh hùng trên thảo nguyên. Thông tin Giáo chủ của các ngươi vừa báo không phải là giả đấy chứ?

Đối diện hắn là một thương gia béo tròn trắng trẻo tuổi chừng hơn năm mươi, trên người mặc một chiếc áo gấm dung tục, khuôn mặt nở một nụ cười đầy hòa khí, cứ tựa như là phật Di Lặc.

Tên thương gia nghe thế liền cười hà hà:

- Khất Khắc Nông tướng quân! Di Lặc giáo thần thông quảng đại, đệ tử của bọn ta có mặt ở khắp nơi, cho dù là tin tức của Hoàng đế cũng có thể thăm dò được. Chính Đức nhất định đang ở trong quân của Dương Lăng, tuyệt đối không giả!

Ánh mắt của kẻ được gọi là Khất Khắc Nông quắc lên nhìn chằm chằm vào gã hồi lâu, cuối cùng mới xoa tay bảo:

- Nhưng bọn hắn định gặp mặt Hoa Đáng ở đâu chứ? Lúc nào thì gặp mặt? Chúng ta rốt cuộc có cơ hội nào để lợi dụng không? Bọn ta đã không thể đợi tiếp nữa rồi.

Đại quân của Khả Hãn là những võ sỹ dũng mãnh nhất trên thảo nguyên, nhưng bọn họ không phải là thần, cũng cần có thức ăn. Hiện nay lương thảo của bọn ta đã dùng hết; không chỉ những con ngựa chết mà ngay đến những con ốm yếu hay bị thương cũng đều bị giết để ăn thịt cả rồi. Cứ tiếp tục như thế này nữa thì bọn ta chỉ có thể ăn thịt người thôi!

Gã Phật Di Lặc ngồi đối diện hoàn toàn chẳng hề quan tâm đến vẻ hung hăng của đối phương. Híp đôi mắt mọng nước lại, từ trong hai cái khe hẹp dài kia lộ ra những tia sáng rực, thân hình hơi ghé về phía trước, gã cười nhạt nói:

- Khất Khắc Nông tướng quân! Hãy nghĩ xem người các ngài muốn giết là ai? Là Hoàng đế! Hoàng đế của Đại Minh! Cơ hội này còn không đáng để các ngài đợi tiếp ư?

Hiện nay khác với thời Anh Tông ở Thổ Mộc Bảo; Anh Tông còn có anh em, Chính Đức thì không có. Chính Đức mà chết, những kẻ nắm binh quyền được hắn tin tưởng như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều sẽ vì tội xúi giục Hoàng đế tới biên cảnh mà bị xử tử hết. Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa thân là Đại học sỹ, nhất định sẽ vì không làm tròn bổn phận, hộ chủ bất lực mà bị bãi chức.

Người của bọn ta sẽ thừa cơ xúi giục khiến các phiên vương nổi dã tâm, triều đình nhà Minh ắt sẽ đại loạn. Đến lúc đó bản giáo thuận theo ý trời, chọn lúc ấy mà khởi binh, sẽ dễ dàng đoạt được thiên hạ. Khi đó… tất nhiên cần tới sự giúp đỡ của thiết kỵ Thát Đát. Thử nghĩ mà xem, chúng ta sẽ giúp các vị thôn tính Đóa Nhan Tam Vệ; vùng Liêu Đông cũng thuộc hết về Khả Hãn, còn cả các vùng Cam Túc, Thanh Hải mà bọn ta đã đồng ý cắt nhượng nữa, những thứ này còn không đáng để các vị đợi tiếp sao?

Gã mỉm cười dựa lưng vào chiếc ghế, ung dung nhấp một ngụm rượu, lại gắp lấy một miếng thức ăn, nheo mắt nói tiếp:

- Người Hán bọn ta có câu “nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Để có một viên danh tướng còn mất cả vạn tính mạng như thế, huống chi điều các vị muốn đạt được còn lớn hơn nhiều, kiên nhẫn chờ thêm một quãng thời gian nữa thì có sao?!

Hoàng đế Đại Minh chuẩn bị gặp thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, loại hoạt động ngoại giao lớn như thế thì bọn chúng có muốn giấu cũng khó. Nhất định bọn ta sẽ thăm dò được những thông tin tiếp theo. Xin trở về hồi báo với Khả Hãn: bọn chúng đã tới đây rồi, thời cơ cũng không còn xa nữa.

Khất Khắc Nông nghiến răng đáp:

- Được, Du hộ pháp, ta sẽ chuyển lời về. Các ngươi hãy giúp bọn ta thăm dò rõ ràng xem xung quanh những thôn trang nào ở phía trước Đại Đồng không có phục binh, trong thôn còn có trâu ngựa lương thực không. Bọn ta… bọn ta nhất định phải phái dũng sỹ đi vòng qua đại quân nhà Minh, cướp lấy một ít lương thảo ở vùng phụ cận mới được.

Du hộ pháp vui vẻ đáp:

- Điều này thì bọn ta có thể làm được. Việc phòng ngự ở phía Liêu Đông của các vị cũng cần buông lòng hơn một chút, để các thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ có thể bình an đến đây. Ha ha ha! Hoàng đế Đại Minh và tướng quân thân tín nhất của hắn, còn cả những thủ lĩnh bộ lạc có uy vọng nhất của Đóa Nhan Tam Vệ nữa. Khi bọn chúng đột nhiên bị giết chết thì đó chính là lúc bọn ta hô mưa gọi gió rồi.

Khất Khắc Nông nghe xong những lời đầy mê hoặc ấy, trong mắt không khỏi thoáng qua một nét hưng phấn và tham lam. Hắn uống một ngụm rượu lớn, đứng dậy nói:

- Được! Có tin tức gì hãy lập tức thông báo cho bọn ta, còn cả chuyện lương thảo cũng không thể chậm trễ! Để có thể vững chân tại đây, ngày mai bọn ta sẽ đại chiến với quân Minh một trận nữa!

Hắn túm lấy chiếc mũ da chó đội lên đầu, hậm hực mắng:

- Tên Dương Nhất Thanh đáng chết, bọn ta lùi hắn liền cắn chặt không buông, bọn ta đánh hắn liền rút vào trong thành, làm tiêu hao lương thực của bọn ta. Vương Thủ Nhân thì lưu manh vô lại, chuyên chơi mấy trò xấu như dùng độc, đặt bẫy. Hừ! Tướng quân người Hán các ngươi chẳng kẻ nào là hảo hán hết!

***

Ngày hôm sau, Dương Lăng và Trương Vĩnh dẫn binh ra ngoài thành, đến Trấn Khương Bảo ủy lạo sỹ tốt.

Tiền phương đang có chiến tranh, Dương Lăng và Trương Vĩnh không dám để Hoàng đế mạo hiểm nên lưu lại ba trăm thị vệ đại nội canh gác dịch quán. Y biết Chính Đức hiếu động, e hắn không nhịn nổi mà lại chạy ra ngoài chơi bèn phái người đi tìm luôn gánh hát nhỏ kia đến biểu diễn, hy vọng có thể giữ chân được vị tiểu Hoàng đế này.

Đại quân bắt đầu tiến đi. Mặt đất hơi chấn động, tiếng vó ngựa vang lên như sấm rền. Dân thường và binh sỹ đang tản mạn trên đường đều cố gắng tránh qua hai bên, mấy ngàn kỵ binh ào ạt đi qua, khôi giáp sáng ngời, đao thương bóng loáng.

Dương Lăng thúc ngựa đi trên con đường lớn bằng phẳng trong thành, thân quân hộ vệ ai nấy đều anh dũng mạnh mẽ, đi sát theo ở bốn phía trước sau phải trái y và luôn giữ vững cự ly nhất định.

Đại kỳ của Khâm sai thêu hình rồng màu vàng đen, chiến kỳ màu đỏ máu, soái kỳ thêu chữ Dương màu xanh sẫm, tất cả cùng tung bay trước gió, phát ra những tiếng phần phật. Cả đội ngũ đều là khinh kỵ tinh nhuệ, đội ngũ chỉnh tề uy nghiêm, đao thương bóng loáng tỏa ra ánh sáng lạnh ghê người, nhất thời sát khí ngợp trời, thể hiện rõ vẻ dũng mãnh thiện chiến của đội ngũ này.

Tất cả sỹ tốt đều mặc giáp nhẹ. Đi đầu tiên là đội lính ném lao, mỗi người đều mang theo năm cây lao dùng khi đánh bộ, cán lao được làm bằng gỗ mềm, dài chừng hai mét, trước to sau bé, đầu được bọc sắt, trọng tâm nằm ở phía trước. Loại lao này không thể ném xa, nhưng trong phạm vi mấy chục bước ắt có thể xuyên qua cơ thể người, giáp trụ cũng khó mà khăn cản, có sức uy hiếp rất lớn với kỵ binh Mông Cổ dũng mãnh.

Dù loại lao này không thể ném xuyên qua lá chắn, nhưng khi bị ném trúng rồi thì đối phương cũng không thể sử dụng lá chắn tiếp được nữa, chỉ có thể bỏ lá chắn đi mà chiến đấu. Còn nếu ném trúng cơ thể người hay ngựa, dù có thân thể to lớn như chiến mã cũng phải gục ngã ngay, khi đó kỵ binh phía sau sẽ khó mà tăng tốc tiếp cận quân mình, ngăn cản được ưu thế của kỵ binh.

Tiếp sau đó là đội súng ống, còn đội cung nỏ thì được xếp cuối cùng ở phía sau đội lính mang đao thuẫn và lính cầm côn sắt. Toàn bộ đội cung nỏ đều sử dụng những chiếc nỏ rất cứng, phải dùng chân mới có thể trương dây, có thể bắn tên xa tới năm sáu trăm mét, tên xuyên thủng giáp trụ là chuyện dễ như trở bàn tay.

Vốn kỵ binh sử dụng loại nỏ cứng này không thích hợp, nhưng Dương Lăng dẫn binh xuất kinh thì tác dụng chủ yếu của đội quân là phòng thủ, do đó y đã sắp xếp thêm tám trăm người sử dụng nỏ cứng bắn tầm xa. Thử nghĩ mà xem, khi khinh kỵ của đối phương đang ào ào xông tới, bầu trời phía trên đỉnh đầu bọn chúng đột nhiên xuất hiện một loạt tên dày đặc, rồi mấy trăm người ngựa bị bắn xuyên cơ thể gục ngã xuống đất, ngay sau đó lại là từng hàng từng hàng lao được ném tới.

Kế sau đó là loạt đạn đầy trời, rồi côn sắt và đoản đao cùng phát ra như mưa, trong thời gian ngắn đủ khiến cho bất kỳ đội tiên phong dũng mãnh nào của đối thủ cũng phải tan vỡ. Đợi khi đội ngũ chính của đối phương kịp xông tới thì đám khinh kỵ bọn họ đã quay đầu bỏ chạy xa rồi.

Trong hành dinh Khâm sai, Chính Đức cười híp mắt ngồi trên một chiếc ghế lớn bọc vải nhung, trước ngực ôm một đống lớn đồ ăn vặt, dáng vẻ rất khoan khoái, chẳng khác gì một đứa bé ngoan được dỗ dành nên hết sức vui vẻ. Để giữ bí mật thân phận của gã, người của gánh hát không được báo cho biết họ đang diễn cho ai xem, cũng không nhìn thấy Chính Đức. Trong sảnh treo rèm, hắn ngồi ngay sau bức rèm nên có thể nhìn rõ mọi thứ bên ngoài, nhưng đứng bên ngoài thì lại không thể nhìn rõ người bên trong.

Trên đài vừa mới bắt đầu biểu diễn, Chính Đức liền cười hà hà một tiếng, nhảy xuống bảo gã thị vệ bên cạnh:

- Ban thưởng cho bọn họ ra sức hát tiếp, sau khi trở về sẽ còn có trọng thưởng. Chúng ta đi thôi!

Viên thị vệ đại nội hơi ngẩn người, vội thấp giọng hỏi:

- Hoàng thượng! Chúng ta đi đâu?

Chính Đức trừng mắt nhìn gã, cười mắng:

- Đồ ngốc! Dương thị độc và Trương Vĩnh đi đâu thì trẫm tất nhiên cũng phải tới đó. Ở kinh thành thì không có cách nào cựa quậy được, nhưng đến đây rồi mà trẫm còn không thể tận mắt xem đại quân tác chiến, há lại chẳng nuối tiếc ư?

Sắc mặt viên thị vệ biến đổi hẳn, gã kinh hãi thưa:

- Hoàng thượng! Dương đại nhân đã dặn đi dặn lại xin Hoàng thượng ngàn vạn lần đừng rời khỏi dịch quán. Đang lúc có chiến tranh với giặc Thát ngoài biên cảnh, sự an toàn của Hoàng thượng quan trọng vô cùng, không thể đi được!

Chính Đức bất mãn:

- Lời của Dương Lăng thì ngươi nghe, lời của trẫm ngươi không nghe sao? Muốn kháng chỉ chắc? Hừ! Cứ nói là muốn phò tá trẫm làm một thiên tử anh minh; trông cái trò này, Dương khanh cũng muốn dỗ dành trẫm như dỗ dành trẻ con chắc, tức quá!

Thị vệ đã quen nghe mệnh lệnh của Hoàng đế, hai vị Khâm sai lại không ở đây, gã nào dám khảng chỉ nhưng vẫn thấp giọng van vỉ:

- Hoàng thượng! Sự an nguy của người quan trọng vô cùng, nếu người bị tổn thương gì thì dù róc xương lóc thịt bọn thuộc hạ cũng không bù đắp được.

Chính Đức đắc ý đáp:

- Ngươi không đoán được là trẫm muốn đi theo, Dương khanh cũng không đoán được là trẫm muốn đi theo. Ngươi tưởng trên đời này thật sự có thần tiên đoán được suy nghĩ nhất thời của trẫm hay sao chứ? Huống chi trong thành Đại Đồng có rất nhiều binh mã, một hiệu úy nhỏ nhoi như trẫm đi lại giữa thiên quân vạn mã, trên đầu lại không hề che lọng vàng, ai nhận ra ta được?

Hơn nữa ra khỏi Đại Đồng còn có Trường Thành, kế đó là hơn hai mươi công sự đóng quân như Hồng Tứ bảo, Trấn Xuyên bảo, Đắc Thắng bảo và hơn trăm phong hỏa đài. Trong thành thì có hơn mười vạn quân, giặc Thát vẫn còn ở ngoài Trường Thành, trẫm lại sợ đến nỗi không dám ra khỏi cửa ư? Bớt lằng nhằng, đi thôi!

Ngược về thời Minh

Chương 190 - Cuộc chiến tại Trấn Khương quan

Chương 190 - Cuộc chiến tại Trấn Khương quan

Thành Đại Đồng cao lớn và hùng vĩ, kiên cố và hiểm trở, được trang bị đủ các loại công cụ thủ thành, có thể nói là điển hình cho sự “sống trong yên ổn nghĩ ngày gian nguy” của Đại Minh. Đương nhiên, tính an toàn của nó còn cần phải chờ được thảo luận.

Toàn bộ tường thành Đại Đồng đều được xây trên cơ sở sử dụng đá thanh(*), đá phiến, đá khối và cột đá rồi trét "vữa" gắn kết; bên ngoài lại đắp thêm gạch xanh, loại gạch trung bình một viên nặng 35 cân (khoảng 18 kg). Như vậy, chúng ta có thể thấy được tường thành được xây dựng kiên cố và gian khổ đến chừng nào. (*: loại đá hình chữ nhật dẹp và dài)

Dương Lăng đến dưới chân thành ngửa mặt nhìn lên, không khỏi tán thán: "Hùng vĩ, quả là hùng vĩ! Tường thành hùng vĩ như vậy thực khiến người ta nhìn thấy liền mất hết tinh thần để đánh chiếm! Thật không biết trước đây giặc Thát làm thế nào mà suýt nữa thì đánh chiếm được toà thành lớn như thế này, hại khiến Đại vương phải chạy như bay về kinh thành khóc lóc, kể khổ với vua Hoằng Trị nữa."

Tường chính của thành Đại Đồng cao ba trượng, trên tường chính còn có tường chắn mái, trên tường chắn mái xây thêm tường gạch, lỗ châu mai trong tường gạch là nơi quan sát và là chỗ bắn cung nỏ của tướng sĩ thủ thành. Trên tường thành xây thêm lầu thành, chòi gác, vọng lâu, đứng cách nhau. Mái lầu xây kiểu "cửu tích hiết sơn"(*), bên ngoài có cột mái hiên vây quanh, nhìn thẳng xuống đường cái.

(*: xem hình )

Những công trình kiến trúc cao thấp chập chùng trên tường thành dựng nên một phòng tuyến đa tầng: quân sĩ có thể quan sát, ẩn náu, di chuyển, bắn tên, tiếp ứng, khống chế từ trên cao; nó cũng cung cấp cao điểm cho tướng lĩnh chỉ huy, điều phối binh sĩ từ trên cao.

Hôm qua Dương Lăng đã phái người thông báo cho vị tuần phủ Đại Đồng là vị quan văn Hồ Toản mà động một tí là đòi sống đòi chết ấy, vì vậy tướng thủ thành trông thấy đại quân của khâm sai đến thì liền vội cho mở rộng cổng thành, thả cầu treo xuống. Đội quân thiết kỵ ào ào chạy ra; Dương Lăng đi giữa đoàn Hỏa Súng doanh.

Tiền quân và trung quân đã ra khỏi cổng thành, hậu quân đang ùn ùn kéo đến. Dương Lăng ghìm ngựa tránh sang một bên, ngoái đầu nhìn vọng lại về phía tường thành nguy nga và đồ sộ. Bên ngoài dãy tường thành hình răng cưa đặc thù đó, y còn trông thấy bốn vọng quân đài(1) đứng lẻ loi và cô độc. Chúng không có lối đi hay thang leo lên, chỉ có thể bắc ván gỗ giữa nóc đài với tường thành để đi lại; có thể dùng để công kích từ sau lưng quân giặc, phối hợp tác chiến và quan sát địch tình. Dương Lăng không khỏi tặc lưỡi cảm thán: "Tường đồng vách sắt có lẽ cũng chỉ thế này mà thôi".

Trong thành, ba trăm đại nội thị vệ đeo phác đao chuôi dài bọc thép và trường cung lợi tiễn đang phóng băng băng về phía cổng thành.

Từ thời Tống đến nay, binh chủng trong quân đội đều được phân định rạch ròi, không giống như quân đội thời Đường: bất kể là trường thương thủ hay đoản đao thủ, ai nấy đều đeo cung tên, bắn xa đánh gần đều được. Còn những binh sĩ mà Dương Lăng chọn ra, cưỡi trên lưng ngựa, đi dưới đất bằng, bắn xa hay đánh gần đều có thể tác chiến, cho nên mỗi người đều mang một cây cung cứng. Những tay đại nội thị vệ này không những võ nghệ tinh thông mà thuật cưỡi ngựa bắn cung càng không phải nói, cho nên bọn họ không chỉ đeo cung trên lưng, mà còn là loại tam thạch cung; đó là một loại cung khá cứng, tên loại cung này có nghĩa là cần phải dùng lực ba thạch (mỗi thạch # 60kg) mới kéo nổi.

Ở phía sau đại quân của Dương Lăng, mấy chục cỗ xe chở những vật phẩm được vận chuyển từ kinh sư và mua ở bản địa để khao thưởng ba quân nối nhau liên miên không ngớt, tốc độ cũng chậm, cho nên lúc này mới vừa ra khỏi cổng thành.

Tì tướng thủ thành còn chưa hạ lệnh đóng cổng thành thì chợt thấy lại có một đội kỵ binh giáp trụ sáng ngời xuất hiện. Trong đội kỵ binh đó có người quát lớn:

- Khoan đóng cổng thành, hậu quân chưa ra hết!

Không để vị tì tướng kịp truy hỏi, ba trăm thiết kỵ cùng hò hét xông qua, tiếng vó ngựa giẫm lên cầu treo vang rền. Ba trăm thị vệ này và những quan binh ở cuối đoàn đều đồng hành cùng nhau đến Đại Đồng, cho nên đã rất quen mặt nhau. Những tay ngạnh nỏ thủ xếp hàng ở cuối không biết chuyện Hoàng đế đang ở trong quân đội, càng không biết Dương Lăng ra lệnh cho ba trăm thiết kỵ đó ở lại, nay trông thấy bọn họ đuổi theo còn tưởng là đại soái thu xếp riêng cho bọn họ áp trận tại hậu doanh, cho nên cũng không hề dị nghị gì.

Tì tướng thủ thành thấy cả bọn ăn mặc và trang bị tương đồng, sĩ tốt hai bên lại quen biết nhau thì không hỏi thêm gì nữa. Đợi kỵ binh xông hết ra khỏi thành hắn mới cho kéo cầu treo lên, cánh cổng thành nặng trình trịch được đóng lại.

Dương Lăng hoàn toàn không hề hay biết hậu quân lại âm thầm có thêm hơn ba trăm tinh binh; giữ tin tức bí mật quá đôi khi cuối cùng lại trở thành sơ xuất lớn. Đại quân tiến về phía trước, hơn một canh giờ sau thì đến phụ cận của Trấn Khương bảo (*). (*: những thành trấn hoặc thôn làng có tường đất bao quanh thời xưa đều được gọi là "bảo")

Thám mã tiền quân đưa tin về, báo rằng Bá Nhan Khã Hãn của Thát Đát đang dẫn thiết kỵ chiến đấu với đại quân của Dương tổng chế bên ngoài quan ải. Dương tổng chế hiện không rỗi để trở về, xin đại quân của khâm sai hãy lên trên ải trước để quan sát chiến trận.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, lập tức hạ lện tăng tốc tiến lên. Trấn Khương bảo cũng là một quan ải được xây dựa vào núi, chung quanh là trường thành uốn lượn như rồng, cứ cách quan ải hơn hai dặm đường lại có một con đường rẽ dành cho quân tăng viện chạy thẳng lên phong hỏa đài trên núi.

Còn chưa kéo đến Trấn Khương quan mọi người đã nghe thấy tiếng chém giết vang trời ngoài núi. Ngay bên hông lại xuất hiện một con đường rẽ đi lên phía phong hỏa đài. Đài này được xây trên mỏm núi hiểm trở, dễ thủ khó công, cho nên giặc Thát không công kích nó, nhưng từ nơi này đã có thể nghe thấy tiếng chém giết đinh tai.

Dương Lăng lập tức xuống ngựa, hạ lệnh cho đại quân ở nguyên vị trí chờ lệnh, còn mình tự dẫn hai trăm thị vệ lên ải. Lên đến phong hoả đài, một bả tổng chỉ huy lật đật chạy đến ra mắt khâm sai. Dương Lăng vội vàng hỏi:

- Tình hình chiến sự thế nào?

Vị bả tổng này cũng đã đánh giặc đến chán chê. Mặc dù rất kính sợ khâm sai và bên tai là tiếng chém giết rền trời nhưng khi nhắc đến chiến sự, gã vẫn điềm nhiên như không:

- Khâm sai đại nhân! Xin ngài chớ bận tâm, cứ cách hai ngày giặc Thát sẽ lại đến đánh một trận. Sấm to mưa rào cỏn con thôi, bọn chúng không công vào được đâu.

Lúc này Dương Lăng và Trương Vĩnh mới yên tâm, bèn vội vàng chạy đến lỗ châu mai nhòm xuống. Lúc này mặt trời lên cao, ánh nắng rọi thẳng xuống mặt đất, tuyết phủ trắng xoá cả dãy núi, soi rõ hẻm núi lớn bằng phẳng trước ải Trấn Khương, từ trên mỏm núi này nhìn xuống có thể thấy rõ hết mọi thứ.

Giữa núi cao hẻm thẳm vang vọng những tiếng thét gào liên miên không dứt, Dương Lăng và Trương Vĩnh không khỏi khiếp sợ sững sờ bởi khung cảnh trước mắt. Không chỉ bọn họ, mà thậm chí là trong hai trăm chiến sĩ thân quân vốn dũng mãnh không sợ chết có những quan binh chưa từng tham gia chiến trận nơi biên ải cùng với Chính Đức lén dắt theo hai mươi thân binh lên núi nằm ghé mắt vào lỗ châu mai đều tròn mắt líu lưỡi.

Đây chỉ mới là trận chiến sấm to mưa rào cỏn con sao?

Trường thành được xây dọc theo dãy núi quanh co uốn khúc, trước ngọn núi hiểm trở này còn có một hòn núi nhỏ khác, dưới nữa là một khe núi vắt ngang, xa hai dặm về phía trước chính là Trấn Khương quan. Trường thành nơi này hơi vòng nhô ra ngoài, cho nên ở đây có thể quan sát rõ mọi thứ trước quan ải.

Tiếng la hét, tiếng binh khí chạm nhau và tiếng ngựa hoà trộn thành một âm thanh vang trời vọng đất bất tận, âm thanh của từng đợt sóng người và binh khí va chạm lọt rõ vào màng nhĩ, mọi thứ như đang diễn ra ở ngay trước mắt. Do thế núi đặc thù, trên này lăn đá xuống cũng không thể nào đập trúng giặc Thát nên quân Minh trên phong hỏa đài chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn chúng ồ ạt xông đến cổng thành ở bên phải của mình.

Hàng nghìn hàng vạn nào người nào ngựa, lúc nha lúc nhúc, lớp trước ngã xuống lớp sau tràn lên công kích quan ải, thi thoảng những tia sáng sắc lạnh của binh khí lại lọt vào tầm mắt. Dương Lăng nín thở, chăm chú quan sát mọi thứ, lặng im thật lâu không nói lời nào. Thậm chí Trương Vĩnh lâu nay quen thói khom lưng, miệng cười siểm nịnh giờ đây vẻ mặt cũng trở nên trang trọng.

Chính Đức siết chặt hai nắm tay, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực, thì thầm:

- Đây là chiến tranh sao?

Lâu nay, những câu chữ trong sách binh thư đã dần hình thành trong lòng Chính Đức tâm lý cho rằng chỉ huy thiên quân vạn mã là cực kỳ oai phong, cực kỳ huy hoàng. Nay trước cuộc chiến tàn khốc trước mắt, tâm lý đơn giản này bị rúng động dữ dội. Đó là sự huy hoàng được tô điểm bởi máu tươi và tính mạng, tàn khốc biết dường nào: mấy vạn nhân mã đang chém giết nhau trong hẻm núi và giữa băng tuyết hoang vu ngoài quan ải.

Trên thế giới này, chỉ có loài người là bậc tinh anh trên hết muôn loài mới có năng lực huy động bấy nhiêu sinh mạng, mới có năng lực hủy diệt bấy nhiêu con người. Vậy loài người đáng tự hào hay là đáng thương?

Dưới ải tiếng la hét chém giết inh ỏi, kỵ binh đông nghìn nghịt tung vó rong ruổi, sử dụng thuật bắn tên trác tuyệt không ngừng bắn lên đầu thành, yểm trợ cho đội bắc thang và chiến xa công thành tiến về phía trước.

Trên thành dưới đất, cờ quạt vờn bay, quân Thát Đát dùng đủ loại vũ khí công thành: máy bắn đá, xe bắn nỏ,… bắn lên đầu thành những tảng đá, những quả cầu lửa khổng lồ. Chúng đập vào tường thành phát ra những tiếng nổ đinh tai.

Trên thành cũng cho dưới thành 'biết tay': xa thì bắn đá, bắn tên bằng nỏ cứng, bắn hoả pháo, gần thì lăn cây, ném đá. Nhìn từ xa, liên tục có người leo lên được một nửa bức tường thành thì la hét ngã xuống dưới chân thành, biến thành đống thi thể máu thịt bầy hầy. Tản mác khắp nơi là những chiếc thang mây bị phá gãy và xe công thành bị bốc cháy.

Trên quan ải, bọn sĩ tốt đang không ngừng chạy đi chạy lại hoặc vận chuyển khí giới, hoặc bắn tên rồi di chuyển, hoặc hoặc cầm móc câu đẩy ngã thang mây, không ngừng ném cây gỗ và quăng đá tảng. Dưới sự công thủ với hỏa lực dày đặc như vậy, vẫn có từng tốp giặc Thát hung hãn không sợ chết trèo lên đầu thành, nhưng chỉ sau một đợt phản công thì chúng biến thành một đống thịt vụn.

Một chiếc xe công thành to lớn và bền chắc được mấy chục tên sĩ tốt đẩy đến cổng thành. Đầu xe nhô ra một cây cọc nhọn hoắc, dài hơi một trượng, nện vào cánh cổng thành rắn chắn. Trên xe trang bị mái che hình quạt, đá và tên bắn trúng đều không thể tổn thương giặc Thát bên dưới.

Từng cú nện khiến tim Dương Lăng cũng nảy lên theo. Lúc này trên đầu thành ném xuống từng chiếc vại gốm, đập vào nóc xe (công thành) vỡ tan từng mảnh, liền đó một cây đuốc được ném xuống, một tiếng nổ đinh tai phát ra, cả chiếc xe bùng cháy. Do mấy tên giặc Thát đều mặc áo lông thú dày cộm, bị dầu bắn trúng, trong chớp mắt bọn chúng đều biến thành những 'cây đuốc sống', vừa la hét vừa lăn lộn trên mặt đất để dập lửa. Dương Lăng đứng trên tường thành nhìn thấy cảnh đó mà chấn động trong lòng.

Ngay vào lúc này, một cánh quân khác bất ngờ tấn công quân Thát Đát đang hùng hổ công thành.

Nơi đây núi non nhấp nhô chập chùng, trong dãy núi có hai hẻm núi thông đến Trấn Khương quan, một rất rộng và thoáng, rộng ba mươi trượng có đủ, chính là con đường giặc Thát tấn công quan ải. Con đường còn lại chỉ rộng hơn chục trượng, ngoằn ngoèo, dẫn sâu vào trong dãy núi, thông với Trường Thành nhấp nhô trên núi xa; đây hẳn là con đường bên ngoài duy nhất thông với một cửa ải khác.

Trong ải vốn có thể điều quân đi thẳng trên Trường Thành, không cần phải đi qua sơn cốc phủ tuyết trắng xoá. Nhưng lúc này nơi đó lại xuất hiện một cánh quân lớn đang di chuyển cấp tốc, đồng thời nhanh chóng hình thành trận hình công kích dạng góc nhọn.

Là cờ xí của quân Minh! Cánh quân này đa phần là bộ binh, đằng trước chỉ có mấy tay kị sĩ. Đối mặt với dũng sĩ Thát Đát ai nấy đều cưỡi ngựa tác chiến, ý định của bọn họ hiển nhiên là quấy nhiễu quân địch. Trong trận, một viên chiến tướng, quân đánh trống, quân kèn lệnh, quân cồng chiên, và quân cờ lệnh đều đứng đầu hàng ngũ, sau lưng là một cây soái kỳ, trên viết một chữ "Vương".

Bả tổng canh giữ phong hỏa đài mừng rỡ reo lên:

- Vương phó tướng từ Thanh Ngưu lĩnh đến chi viện rồi!

Dương Lăng nghe vậy thì máy động trong lòng, vội hỏi:

- Có phải là vị Vương phó tướng nọ?

Bả tổng đáp:

- Đại nhân, chính là phó tướng Vương Thủ Nhân dưới trướng Dương tổng chế, phòng thủ Thanh Ngưu quan, cách nơi này không quá ba dặm đường núi.

Dương Lăng khẽ ồ, liền vội vịn lỗ châu mai đưa mắt nhìn xuống phía dưới lá cờ chữ Vương. Y thấy rõ một vị tướng quân mặc giáp, khoác áo choàng xanh, điềm tĩnh ghìm ngựa đứng ở trong đội quân, từ xa nhìn không rõ tướng mạo.

Đao thương san sát, chiến sĩ mặc giáp cung kính trang nghiêm. Nhóm cung tiễn thủ được yểm trợ bởi những tấm thuẫn lớn, lắp từng mũi tên dài lên trường cung, mũi tên chìa ra khe hở của những tấm thuẫn như một hàng nanh sói.

Phát hiện có quân Minh tập kích từ sườn bên, đám giặc Thát la hét quay đầu ngựa xông về phía bọn họ đồng thời rút cung lắp tên ra bắn.

Vị tướng quân cưỡi ngựa vẫn bình tĩnh đứng dưới soái kỳ. Loạt tên đầu tiên bay tới cắm bộp bộp lên những tấm thuẫn cao tới đầu người. Toán quân Minh này không có nhiều kỵ binh, bọn họ nấp dưới những tấm thuẫn cao như vậy thì rất khó bị trúng tên tập kích, nhưng nếu để cho kỵ binh kẻ thù tiếp cận thì gần như sẽ trở thành một cuộc chiến nghiêng hẳn về phía địch.

Kỵ binh giặc Thát phi rất đến nhanh. Khi hàng kỵ sĩ đầu tiên cách quân Minh chưa đến hai tầm tên bay, vị tướng quân đột nhiên vung mạnh cánh tay, dường như quát khẽ một tiếng. Một trận mưa tên dày đặc như đàn châu chấu bay trùm tới, tên bắn mạnh, ngựa phi nhanh, hai bên tranh hơn đua kém. Khi kỵ binh phi đến một tầm tên bay thì vừa lúc đón lấy trận mưa tên đầu tiên, nhất thời người la ngựa hí, kỵ binh khiếm khuyết trang bị bảo hộ tốt liền giống như vướng phải dây giăng cản ngựa, lập tức ngã rạp một mảng lớn.

Lúc này, đợt mưa tên thứ hai lại ập đến...

Trong hẻm núi chỉ có năm nghìn quân Minh, quân Thát Đát công kích Trấn Khương bảo lại có ít nhất ba vạn người. Mặc dù đội binh này tạm thời chiếm chút thượng phong, nhưng một khi giặc Thát tiến đến gần, bọn họ sẽ bị đồ sát dễ dàng. Dương Lăng không hề phát hiện trong quân có đội trường thương binh cầm trường thương to và dài mấy mét, vả lại khi nãy bọn họ vội vã chạy tới nên hiển nhiên không thể nào bố trí kịp cọc chống ngựa, hố bẫy ngựa lẫn dây cản ngựa.

Từ trên dãy núi nhìn xuống, y thấy một màu trắng mênh mông, gió thổi lồng lộng mãnh liệt. Khe sâu, đồi núi, đồng hoang đều đóng một lớp tuyết, vẫn là cảnh "non uốn phau phau, đồng vươn bàng bạc"(*) khiến lòng người thanh thản mông mênh, thế nhưng trong sơn cốc lại là tiếng ngựa hí người la, chém giết rung trời. (*: trích từ bài Thấm viên xuân tuyết của Mao Trạch Đông, Nam Long dịch)

Một tay thủ lĩnh của Thát Đát chĩa xéo trường thường, chiến mã dưới hông lướt đi băng băng như chớp, một người một ngựa dẫn đầu đội quân Mông xông thẳng vào phía quân Minh. Trường thương trong tay hắn xoay như gió lốc, gạt bay mọi lợi tiễn bắn đến. Quân Thát phía sau tựa như cuồng phong cuốn phăng mọi thứ, như lửa cháy lan khắp cánh đồng. Vó ngựa gầm vang, mặt đất rung chuyển, kỵ sĩ xung phong hò hét dọa người, thanh thế vô cùng đáng sợ.

Thế trận của giặc Thát công thành đã loạn, càng ngày càng bắt đầu có nhiều sĩ tốt tràn về phía miệng hẻm núi chật hẹp. Đội cung tiễn thủ của quân Minh lùi lại, "đoàng! đoàng! đoàng!", một trận khói mịt mù bao trùm cả miệng hẻm núi. Lính mang thuẫn rẽ ra, tiếng hỏa súng vang lên rợp trời, từng khẩu pháo liên châu lớn bắn ra từng loạt đạn lửa chi chít, tạo thành một đợt sóng công kích dày đặc.

Giặc Thát lại ngã rạp một mảng. Khói súng còn chưa tan hết, mọi người đã thấy mấy nghìn nhân mã trong hẻm núi được tướng quân cưỡi ngựa dẫn chạy vào sâu trong khe núi. Quân Thát Đát giận đến phát điên thúc ngựa điên cuồng đuổi theo. Bọn chúng vừa phóng ngựa vào đến sơn khẩu, đã thấy đám quân Minh trước mặt đang “hoảng loạn” chạy trối chết vụt cái đã đều nằm rạp xuống đất.

"Ầm ầm ầm!!!", tiếng đại pháo điếc tai nổ vang, hai mươi khẩu pháo tướng quân to bằng miệng bát, mỗi khẩu bắn ra cả trăm hạt bi sắt. Loại tấn công tầm ngắn này hết sức đáng sợ: mưa đạn che phủ khắp trời, gần bốn trăm tên giặc Thát tiên phong, bao gồm cả tay tướng quân cầm thương cực kỳ kiêu dũng nọ đều biến mất hoàn toàn sau khi loạt đạn pháo quét qua. Chỉ còn mấy thớt chiến mã thân thể đẫm máu chưa chết hẳn đang rên rĩ giãy giụa trên chiến trường rải đầy thi thể.

Trên ải Trấn Khương, tiếng trống trận vang rền, cửa quan ải được mở ra, xe công thành vẫn chưa cháy hết bị đẩy sang một bên, kỵ binh xuất hiện như hồng thủy vỡ đê. Kỵ binh giáp nhẹ bắn ra một loạt mưa tên, mỗi người cứ bắn ba phát tên lại cưỡi chậm lại, tránh sang một bên. Kỵ binh giáp nặng theo sau, đánh thốc tới, nhất tề va chạm với thiết kỵ của giặc Thát.

Từ trên quan ải nhìn xuống, hai đoàn quân như hai làn sóng lớn ập vào nhau trong nháy mắt, thoáng khựng lại, sau đó là người ngã ngựa đổ, máu thịt tung toé, thỉnh thoảng có người bị chém, đâm, máu thịt vương vãi khắp chiến trường. Mỗi một người đều liều mình tiêu diệt một sinh mạng khác; vừa rồi còn mặc sống quên chết đồ sát kẻ khác, lúc này có thể đã là đống thịt nát dưới chân ngựa.

************************************************** ************************************

Lều soái của vua Khả Hãn đủ chứa năm sáu mươi ngồi xếp bằng, nhưng lúc này bên trong lại chỉ có bảy tám người, nhưng bảy tám người này chính là những chúa tể tối cao của cả đại mạc và thảo nguyên. Trên tấm thảm lông lạc đà dày cộm trong góc lều lớn đặt tám chậu than cháy hừng hực, nhưng ở chính giữa lều chỗ mọi người ngồi lại hơi u ám.

Hai con mắt của Bá Nhan Khả Hãn đỏ hằn như máu vì phẫn nộ. Hắn ngồi ở vị trí chủ trì, hai tay chống gối, đầu đội mũ da hươu, người mặc áo da lộn, trợn mắt quát đám người trước mặt:

- Đừng nói thêm nữa, dũng sĩ của chúng ta đến chỗ của người Hán săn bắn, đã uống cạn rượu mạnh trong nhà, ăn sạch dê bò trong nhà. Nay chưa đánh cướp được con mồi nào mà cứ rút lui như vậy thì biết ăn nói thế nào với người trong bộ tộc chúng ta đây?

Bá Nhan Khả Hãn quét cặp mắt hùm, đám người ngồi trước mặt hắn đều khẽ cúi đầu, không dám đối mặt, chỉ có một viên tướng vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, nét mặt phong sương, mắt ưng lẫm liệt khoanh gối ngồi bất động thờ ơ không nói gì.

Bá Nhan Khả Hãn tuổi hơn ba mươi, đương là độ trẻ trung khỏe mạnh. Hắn khó chịu duỗi thân hình khôi ngô vạm vỡ của mình, bất mãn liếc người đàn ông ngồi chống gối không tỏ vẻ gì, hỏi:

- Nhân mã quân Minh và chúng ta ngang nhau, bọn chúng phải chia quân trấn giữ, chúng ta lại chỉ tấn công một điểm của chúng. Tuy bọn chúng có quan ải hiểm yếu để phòng thủ nhưng nhân mã công thành của chúng ta lại đông hơn, địa điểm và thời gian công thành lại do chúng ta chọn. Thế mà hiện tại đánh nhau đã mấy chục trận lớn nhỏ mà chúng ta vẫn không hề chiếm được một chút lợi thế là thế nào?

Người đàn ông mắt ưng trông cao ngạo kiên cường nọ miễn cưỡng quay đầu lại. Bá Nhan quét cặp mắt hùm, lạnh lùng hỏi:

- Hỏa Sư, ngươi có nhận định gì?

Người đàn ông mắc ưng thờ ơ đáp:

- Đại Hãn! Người của chúng ta thiếu ăn thiếu mặc, ngay cả chiến mã cũng không còn sức lực thì làm sao có thể phát huy sức chiến đấu của bọn họ đây?

Một gã nãy giờ cúi đầu lặng thinh lập tức ngẩng đầu cười khẩy nói:

- Quân Minh giao chiến với chúng ta, các nhóm bộ lạc đều tổn thất nặng nề, chỉ có nhân mã của ngươi không hề bị tổn thất gì. Hình như quân Minh sợ cái tên 'Hỏa Sư vũ dũng' của ngươi, ai nấy đều tránh không dám đánh nhau với ngươi cả. Hỏa Sư là người anh hùng ân oán phân minh, nhận giò đương nhiên phải thò lại chai rượu rồi.

Hỏa Sư tím mặt quát:

- Mông Lực Khắc! Ngươi nói vậy là ý gì? Lúc chiến đấu với quân Minh, nhóm bộ lạc(2) của ta chưa từng đứng sau kẻ nào, đã bao giờ có lòng riêng?

Bá Nhan trừng mắt lườm hắn một hồi, rồi bật cười thật lớn, quát:

- Mông Lực Khắc đừng nói bậy! Hỏa Sư là anh hùng thảo nguyên chúng ta, là đại tướng bản Hãn tin yêu nhất, sao có thể mang lòng riêng mà thỏa hiệp với quân Minh để bảo vệ thực lực của mình cơ chứ?

Gã thủ lĩnh có tên Mông Lực Khắc nọ chỉ cười khẩy mấy tiếng rồi không nói gì nữa. Khuôn mặt Hỏa Sư tái lại. Ngay vào lúc này, một gã mặc áo da thú vén lều rảo bước tiến vào. Bá Nhan trông thấy người đó không khỏi mừng rỡ hỏi:

- Khất Khắc Nông! Ngươi về rồi à, có phải đã gặp được người của bọn họ?

Khất Khắc Nông nhìn quanh lều một lượt, thấy mọi người đều là nhân vật đầu não của các nhóm bộ lạc Thát Đát, bèn yên tâm thưa:

- Dạ! Đại Hãn, tôi đã gặp hộ pháp của bọn họ.

Đoạn gã bước lên khom người thi lễ, sau đó thuật lại tin tức do Du hộ pháp của Di Lặc giáo thông báo cho mọi người. Mọi người có mặt nghe xong liền chấn động tinh thần. Bá Nhan hít một hơi thật sâu, rồi đứng bật dậy, nghiêm nghị lạnh lùng:

- Bất luận thế nào, chúng ta phải tiếp tục kiên trì. Mục tiêu hiện tại của chúng ta là Chính Đức chứ không phải cố tranh đoạt thắng bại như trước nữa!

- Thiên tử người Hán chỉ giống như một con gà con, trông thấy bóng dáng hùng ưng bay liệng liền sẽ sợ đến phát run, trốn vào lòng gà mẹ. - Bá Nhan ngửa mặt lên trời cười lớn một tràng dài đoạn vung tay - Ra lệnh cho đại quân rút lui, tạo hiện trường giả là đại quân ta muốn từng bước rút khỏi chiến trường trở về thảo nguyên. Hoa Đáng không phải là ngốc, hắn sẽ không chui vào trong túi triều đình nhà Minh. Chúng ta phải chừa cho hắn một địa phương an toàn để gặp mặt triều đình nhà Minh bàn chuyện kết liên. Bỏ Trấn Khương bảo, đưa quân về hướng Bình Thuận, Hồ Quan.

Mỉm cười nói xong, hắn quay sang bảo Hỏa Sư:

- Hỏa Sư, người nhóm bộ lạc của ngươi sẽ đoạn hậu. Một mặt ngăn cản quân Minh truy kích, một mặt chờ Di Lặc giáo đưa tin đến xong sẽ phái một tốp tinh binh cướp bóc lương thảo, kiềm chân khiến quân Minh phải đóng giữ ở nơi này, tránh phải lưỡng bề thọ địch!

Hỏa Sư cười khẩy trong bụng. Bá Nhan nói đường hoàng như vậy nhưng rõ ràng là đã không còn tín nhiệm mình lắm. Chỉ có điều xem ra hắn ta chỉ nghi ngờ mình vì bảo tồn thực lực nên đã có thỏa thuận ngầm với quân Minh, chứ không nghi ngờ mình đã nương nhờ vào triều đình nhà Minh. Cho nên hắn ta mới giữ mình lại đơn độc chiến đấu với quân chủ lực của nhà Minh, bức mình phải đánh một trận với quân Minh, bằng không thì đã không giữ mình lại phía sau để đoạn hậu.

Vả lại Hỏa Sư cũng không nguyện chạy đi làm tiên phong cho Bá Nhan đánh trận chiến ngu ngốc và hèn nhát này nên bèn vừa cung tay vâng lệnh, vừa âm thầm tính toán làm thế nào tránh quyết chiến cùng quân Minh, chỉ thừa cơ cướp đoạt chút lương thảo lắp đầy bụng binh sĩ của mình thôi.

Bá Nhan lại nói:

- Ra lệnh cho nhân mã công kích quan ải lập tức rút lui, cứ để quân Minh đắc ý thêm mấy ngày nữa đi.

Thủ lĩnh các nhóm bộ lạc khác nghe thấy mình có thể tránh được hai ôn thần Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân khiến người ta nhức đầu đó, kéo nhau đến những huyện chưa bị đánh cướp để kiếm bữa cơm no thì cũng rạng rỡ mặt mày, vội vã đứng dậy tuân lệnh thi hành.

Đợi mọi người cáo từ ra hết, nụ cười trên mặt Bá Nhan mới dần dần tắt. Hắn thả người ngồi xuống chiếc ghế lớn lợp nhung, thở dài mệt mỏi. Màn trướng bỗng vén lên, một thiếu nữ yểu điệu vận áo quần màu trắng lặng lẽ bước vào. Trong lều hơi âm u, cô nàng rón rén đi đến trước hai ngọn đèn mỡ bò treo thòng phía trước vương tọa, rút bên hông ra một cây loan đao nhỏ khơi nhẹ hoa đèn.

Ngọn lửa cháy cao hơn, trong lều sáng sủa hơn rất nhiều. Phần lớn người Mông Cổ có vóc dáng cao to vạm vỡ, nhưng thân thể yêu kiều của cô nàng lại rất là thon thả lả lướt. Ngọn đèn sáng tỏ soi rõ khuôn mặt cô nàng; chiếc cằm trơn nhẵn mịn màng đón lấy ánh đèn, gò má cong cong bên sáng ngời bên u ám phác họa nên một vẻ thanh tú cùng mỹ lệ bất phàm.

Hai gã thị vệ đứng bên Bá Nhan vội chắp tay trước ngực, cung kính thưa:

- Sát Tất Khả Đôn!

Trong tiếng Mông Cổ, "Sát Tất Khả Đôn" để chỉ Hoàng hậu, chỉ có chánh phi của Đại hãn hoặc Vương gia mới có thể xưng là Sát Tất Khả Đôn. Người đời đều biết lúc bảy tuổi Bá Nhan đã cưới bà thím họ hàng xa là Mãn Đô Hải Tư Cầm làm vợ, nhờ bà phò tá và lời hiệu triệu với thân phận hậu duệ trực hệ của gia tộc cao quí Thánh Cát Tư Hãn mới trở thành vua của thảo nguyên.

Thế nhưng người thiếu nữ thanh tú trước mặt lại trông chưa tới đôi mươi, tuyệt không thể là hoàng hậu Mãn Đô tuổi phải tới lục tuần. Sự thật thì sau khi Bá Nhan thành niên, Mãn Đô Hải Tư Cầm đã dần biến mất khỏi tầm mắt của mọi người, và người ta cũng rất tránh nhắc đến nơi ở của bà.

- Các ngươi lui xuống đi!

Bá Nhan vung tay cho hai gã người hầu lui xuống, rồi âu yếm nói với người thiếu nữ:

- Tái Lý Mộc Trác Nhĩ của ta, đến đây cho ta ôm nào.

Thiếu nữ áo trắng cười ngọt ngào, bước nhẹ nhàng đến bên hắn, được hắn ôm lấy liền nhảy lên ngồi trên đùi phải của hắn. Vị Hoàng hậu trẻ tuổi mỉm cười nói:

- Đại Hãn của thiếp, chiến sự không thuận lợi thì chúng ta rút về thảo nguyên là xong, cớ chi phiền não vậy? Chẳng phải là người Hán đã bị chàng dọa sợ đến nỗi không dám ló ra khỏi ải sao?

Bá Nhan cười ha hả, ôm ấy tấm eo thon của cô nàng:

- Trác Nhĩ à, xưa nay ta chưa hề lo lắng về triều đình nhà Minh, mà là lo về những bộ lạc dưới quyền ta. Lúc đánh thắng, cướp được dê bò và nô lệ về thì ai nấy đều nói cười rạng rỡ; nếu thua trận, mọi tù trưởng đều tính toán lợi ích cho riêng mình, kẻ có dị tâm nào chỉ một mình Hỏa Sư?

Tái Lý Mộc Trác Nhĩ dịu dàng vòng tay ôm lấy cổ, hôn lên khuôn mặt săn chắc của hắn, khẽ cười nói:

- Đừng lo lắng, đại vương của thiếp! Dưới sự trông coi của con hùng ưng như ngài, còn có ai dám nảy lòng bất tuân chứ?

Bá Nhan cười to, luồn một bàn tay to tướng vào trong người cô nàng, bóp lấy bầu vú mềm mại mà đầy đặn, kề tai nói nhỏ:

- Nói rất phải, cho nên... mặc kệ hiện tại phải tổn thất bao nhiêu nhân mã, mặc cho cái đám hèn hạ đó bàn tán sau lưng, ta sẽ làm theo chủ định của ta.

Bị hắn sờ nắn đùa bỡn, vị hoàng hậu trẻ tuổi nằm trong lòng hắn giảy nảy như cá mắc cạn, thở dốc không nói được gì. Hai người lăn từ trên ghế xuống thảm nhung, đai lưng được cởi ra, từng tấm y phục bị vất trên mặt đất; rất nhanh, một thân thể cường tráng màu đồng trùm lên một tấm thân trắng trẻo và mềm mại...

Hơi thở nóng hừng hực của Bá Nhan phà lên bộ ngực cao vút và căng tròn của cô nàng. Hắn cúi đầu nhìn đôi gò tuyết lê đầy đặn mịn màng, thấp giọng nói:

- Giết xong Chính Đức, đoạt được Liêu Đông, Cam Túc và Thanh Hải, kế đó sẽ đoạt cả thiên hạ, xây dựng lại Đại Đô! Hoàng hậu của ta, nàng sẽ theo ta đánh thẳng đến thắng lợi!

Ưm một tiếng, cặp đùi săn mẩy và mềm mại liền kẹp lấy hông hắn. Bá Nhan hừm khẽ rồi mạnh mẽ "đánh" vào...

************************************************** ***********************************

Trên tường thành, Dương Nhất Thanh mỉm cười sánh vai bước đi cùng Dương Lăng và Trương Vĩnh, quan binh đứng nghiêm trên quan ải Trường Thành, trải dài không thấy điểm cuối. Khói súng vẫn chưa tan, mùi máu tanh vẫn còn rất nồng, nhưng nhuệ khí binh sĩ dâng cao. Đối với bọn họ, có thể thắng trận, có thể sống sót trở về chính là điều hạnh phúc nhất.

Dương Lăng nói với Dương Nhất Thanh:

- Dương tổng chế! Nghe báo đại quân thắng trận, Hoàng thượng rất ư vui mừng thanh thản. Trước tiên ngài hạ thánh chỉ phong Dương đại nhân làm Tổng chế tam biên, sau lại ra lệnh cho bản quân đích thân vận tải một ít vật phẩm để ủy lạo quân sĩ. Mọi thứ như gạo mì, thịt rau, trái cây, cá trứng, chăn mền quần áo; các loại thuốc men phòng chống và chữa trị các loại bệnh sương lạnh, ôn dịch, đau bụng thổ tả; dầu mỡ, bao tay, than củi để chống rét sưởi ấm đều có. Chúng tôi đều đã đưa mỗi thứ một ít đến, hiện đang để dưới ải, vẫn xin đại nhân phái người kiểm nhận.

Trương Vĩnh cũng cười bảo:

- Còn có ngân lượng ban thưởng cho ba quân, bạc và một ít nhu yếu trợ cấp cho sĩ tốt thương tật. Cũng xin đại nhân mau chóng liệt kê danh sách, bảo quan thư ký thẩm tra rồi báo lên. Hoàng thượng rất hài lòng với lần đại thắng này và chiến sách tiêu hao quân Thát Đát, khiến chúng không trộm được gà còn mất gạo của đại nhân. Đúng rồi, sao không thấy Miêu công công đâu?

Trương Vĩnh thích cầm quân, Miêu Quỳ cũng mê đánh trận, hai người này một người nắm Ngự Mã giám, một kẻ giữ Binh Doanh, tính tình cũng khá hợp nhau. Tuy Miêu Quỳ lần đầu đốc chiến gặp xui nên phải đoái công chuộc tội, song vẫn đảm nhiệm chức giám quân của ba quân, theo lý thì lão nên có mặt trên quan ải mới phải.

Không ngờ Dương Nhất Thanh nghe hỏi lại hơi sững người rồi mới đáp:

- Bản quan đã cho trạm dịch quân đội đưa tin về kinh. Với tốc độ của bọn họ, hẳn là Hoàng thượng nhận được từ lâu rồi chứ, chẳng lẽ Hoàng thượng chưa thông báo cho hai vị khâm sai sao?

Trương Vĩnh và Dương Lăng trố mắt nhìn nhau. Dương Lăng lắc đầu bảo:

- Việc đó... hẳn là trên đường bị trì hoãn, chúng tôi chưa từng nhận được công báo trong kinh.

Đáp xong, y hơi chột dạ. Hoàng đế đang ở trong quân, tấu chương được đưa vào kinh cũng chỉ có ba đại học sĩ mới được xem. Chính Đức lại bí mật lẻn đi, để tránh tiết lộ tin tức, e rằng trừ phi là chuyện vô cùng khẩn cấp, ba đại học sĩ cũng không dám phái người đưa tấu chương đến trình lên Hoàng đế.

Dương Nhất Thanh nói:

- Ồ! Miêu công công cùng với Tổng binh Hứa Thái đã..., - nói đến đây hắn chợt ngưng lại, thấp giọng - Đợi vào trong quan lầu(3) hẵng nói. Quân vụ mà Miêu công công và Hứa Thái chấp hành hết sức cơ mật, không nên để quá nhiều người biết.

Dương Lăng hiểu ý gật đầu. Trông thấy dưới cửa ải sĩ tốt vẫn đang bận bịu dìu đỡ thương binh và dọn dẹp chiến trường, Dương Lăng lại nói:

- Dương tổng chế! Mục đích chia rẽ Bá Nhan và Hỏa Sư và tiêu hao lương thảo của bọn chúng đã đạt được, sắp đến đây hẳn sẽ tăng cường thế tiến công, đánh đuổi chúng về. Áng chừng một hai tháng nữa là xuân ấm tuyết tan, trăm họ cũng phải cấy cày, không thể kéo dài tiêu hao chiến với chúng ở đây.

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Dương khâm sai nói rất đúng! Bản quan cũng đang lo nghĩ chuyện này, có điều tạm thời vẫn phải kìm chân bọn chúng thêm mấy ngày. Về phần nguyên nhân, ha ha, nó cũng có liên hệ với chuyện ban nãy. Bản quan thấy mấy ngày nữa hẳn là sẽ có tin tức trở về rồi, kéo dài thêm nữa thì bản quan cũng chịu không nổi đâu.

Mấy trăm vạn nhân khẩu ở vùng biên giới, còn hơn mười vạn đại quân; lương thảo chiến mã sử dụng càng lớn hơn nữa. Thảng như chiến sự kéo dài, nếu không có đồn điền quân binh mà chỉ dựa vào quân nhu lương thảo của triều đình, e rằng triều đình sẽ gánh không nổi, quân dân cũng sẽ bị đói. Đó là chuyện lớn!

Dương Nhất Thanh thân là Tam quan tổng chế, không chỉ phụ trách chiến sự, mà còn phải phụ trách công việc có liên quan đến quân chính, đồn điền. Mỗi năm đồn điền quân binh có thể giải quyết được một số lượng khẩu phần khá lớn, tầm quan trọng của nó không kém gì tác chiến.

Dương Nhất Thanh nói đến đây thì không nén được thở dài. Hắn là Tam quan tổng chế, binh mã dưới tay là do binh lính từ các trấn Đại Đồng, Thái Nguyên và Tuyên Phủ tập hợp mà thành, những kiêu binh mãnh tướng lâu năm trấn thủ biên thùy nào có dễ nghe lời.

Mấy năm trước Tổng binh Đại Đồng ngược đãi sĩ tốt, đám quân binh đánh trận không sợ chết này nào biết kính sợ quyền uy là gì, bèn nổi loạn làm thịt luôn gã Tổng binh, gây loạn một hồi. Triều đình muốn bắt kẻ đầu têu gây rối nhưng cũng không thể lần ra.

Tuy Dương Nhất Thanh xuất thân từ quan văn nhưng đã gia nhập quân đội từ lâu nên biết rõ quân đội là một tổ chức tương đối độc lập. Trong quân đội coi trọng nhất là uy danh, lai lịch, địa vị, hoặc là chiến công to lớn, hoặc là sự từng trải đủ lâu; nói chung là phải trấn áp được tình hình, bằng không sẽ rất khó điều khiển quân đội hay bố trí công thủ theo ý muốn.

Dẫn lính, cầm binh, điều khiển, tác chiến đều chú trọng đến quan hệ, tín nhiệm và ủng hộ của tướng sĩ, nếu chỉ dùng hình phạt nghiêm khắc sẽ không thể trấn áp được đám người lăn lộn trong đống xác chết này. Nếu không có cơm ăn, đó thực sẽ là chuyện lớn.

Cuộc chiến lần này đã kéo dài quá lâu. Tuy rằng Bá Nhan bị tổn thương lớn hơn, nhưng chẳng lẽ tiền bạc và lương thực mà Đại Minh đã tiêu hao mất lại không phải là vấn đề lớn?

Dương Nhất Thanh khẽ thở dài, nói tiếp:

- Nơi đây núi nhiều đất ít, ruộng đất cằn cỗi, nếu gặp thêm nạn hạn hán hay nạn châu chấu, thu hoạch mùa màng sẽ giảm súc nghiêm trọng. Tam quan có đông quân dân, nhiều chiến mã súc vật như vậy, một khi thiếu lương thực thì lòng quân lẫn lòng dân đều sẽ không yên. Bản quan đang cân nhắc sang xuân mất mùa sẽ cho quan binh bổ núi khai khẩn thêm ít ruộng núi. Có điều là... chút muối bỏ bể, có còn hơn không mà thôi.

Chợt máy động trong lòng, Dương Lăng liền mừng rỡ nói:

- Nếu như những mảnh đất cằn cỗi này khó xơi như gân gà, không ảnh hưởng mấy đến việc chuẩn bị lương thực thì bản quan có vài giống cây trồng cho sản lượng rất cao, không biết Dương tổng chế có bằng lòng cho trồng thử không? Trước hết sẽ cho trồng thử trong quân điền, năm sau nếu được mùa, sẽ tặng giống ấy cho trăm họ, tam quan cũng có thể trở thành kho lương của Tây Bắc vậy.

Dương Nhất Thanh ra vẻ xúc động, vội hỏi:

- Có giống cây trồng như thế ư?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Phải! Bản khâm sai có thể đảm bảo mấy giống cây trồng khoai lang, khoai tây, ngô từ Tây dương mà bản quan tiến cử. Hiện tại lúa mạch trồng trên một mẫu đất cằn đất cỗi, cho dù ông trời nể mặt giúp cho mưa thuận gió hoà thì cố lắm cũng chỉ có sản lượng từ ba đến năm trăm cân là cùng, còn loại khoai lang này có thể đạt đến ba nghìn cân trở lên. Tuy chỉ là ít lương thực phụ, nhưng là thứ cây trồng rất tốt để lót dạ lót dày, lại không tranh ruộng tốt với lúa mì lúa mạch. Dương tổng chế thấy thế nào?

Dương Nhất Thanh nghe xong thì kinh ngạc vô cùng, vội đáp:

- Một mẫu cho ba nghìn cân? Thực không dám nghĩ, thực không dám mơ! Ở cái địa phương này, nếu không tranh ruộng tốt, không phải để ý sắc mặt ông trời, một mẫu cho được nghìn cân đã đủ khiến bản quan cảm ơn trời đất rồi. Còn về phần lương thực phụ, bà mẹ nó chứ, người đói còn gặm cả rễ cây, ai còn đi so đo mấy thứ đó?

Dương Lăng nghe vị danh tướng có xuất thân tiến sĩ này thốt ra một câu thô tục như vậy thì không khỏi bật cười. Lúc này ba người đã đi đến cạnh thành lầu phía trên cửa quan của bảo Trấn Khương, Dương Nhất Thanh dừng bước cười nói:

- Nơi đây rất đơn sơ nhưng dẫu sao cũng có thể che chắn gió tuyết. Xin mời hai vị khâm sai vào!

Dương Lăng cười nói:

- Tổng chế đại nhân khách sáo rồi.

Đoạn y quay đầu lại ra lệnh cho hai trăm thân quân thị vệ:

- Các ngươi không cần phải chờ ở đây, cứ xuống quan ải giúp đỡ quân thủ vệ mang gạo mì thịt để ăn... ăn... ăn...

Lúc y xoay lại, một bóng người đứng sau đám đông chợt vội vã nấp vào sau lưng mấy tay thị vệ. Có điều người này y quá quen thuộc đi, nên y chỉ mới liếc sơ qua liền khiếp đảm đến trợn tròn hai mắt, thiếu chút nữa thì lòi cả tròng.

Vẻ kỳ lạ của Dương Lăng khiến toàn bộ sĩ tốt đều quay đầu lại nhìn, trên cổng thành nhất thời lặng ngắt như tờ. Tay "tiểu hiệu úy" đó đứng nấp sau lưng một thị vệ cao to một chốc, rồi lại rì rì lấp ló đi ra.

Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh vừa trông thấy, sắc mặt cũng lập tức trắng bệch. Ba người cùng trố mắt nhìn hắn, nhất thời không dám tin vào mắt mình. Theo ánh mắt của ba vị đại nhân, đám thị vệ liền dạt sang hai bên, dẹp đường cho viên tiểu hiệu úy khôi ngô tuấn tú nọ.

Tuy Chính Đức đi đến đâu là vạn cặp mắt đều dồn về phía đó, nhưng chưa từng có nhiều người dám trợn tròn mắt nhìn hắn chằm chằm như vậy, khiến hắn cũng cảm thấy không thoải mái.

Chính Đức ngại ngùng cười vẻ xấu hổ với ba người, rồi chậm rãi bước tới, lúng ta lúng túng như một đại cô nương, tướng đi hệt như một con búp bê rối.

Chú thích:

1) còn được gọi là "khống quân đài", dùng để quan sát, bắn ngang, phối hợp tác chiến, đề phòng quân giặc xuất hiện nơi điểm mù, lại có thể quan sát sự biến hoá của địch tình mà mau chóng áp dụng lấy biện pháp ứng biến phù hợp. Xem hình ()

(2) nguyên văn là "minh", trỏ nhóm các bộ lạc Mông Cổ gộp lại thành một liên minh, tạm dịch chung là "nhóm bộ lạc".

(3) lầu quan sát trên thành

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro