Từ 81 Đến 90
Chương 81: Mưu Mô
Dịch: workman
Biên dịch: lht
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
- Tận Trung! Chọn những huynh đệ tuyệt đối tin cẩn cho cải trang, nạy hàng rào phía sau núi, giả làm cường đạo vào trại quân ăn trộm, sau đó chạy thẳng tới phủ tham tướng giết quách bốn con đàn bà đó, đốt sạch sổ sách cho ta!
Dương Lăng nhìn thấy ánh mắt hâm mộ của ái thê và ba thiếu nữ, máu anh hùng nổi lên ầm ầm. Y không vội xuống ngựa, mà vẫn hiên ngang ngồi ngay ngắn trên yên, đợi đám binh sĩ mở cửa rào ra mới hai tay chống yên, lắc mình uy phong lẫm liệt nhảy xuống ngựa, trông rất tiêu sái.
Đáng tiếc thay, chiến bào hắn đang mặc toàn bằng lá sắt, nặng trên bốn mươi cân, đã nhảy lên rồi cộng thêm đà rơi xuống nên càng nặng hơn. Cả người Dương Lăng lảo đảo, chút nữa ngã nhào xuống đất, may mà có hai tiểu tốt đứng cạnh vội vàng chạy tới đỡ.
Dương Lăng giơ tay chộp chiếc mũ trụ sắp rơi, cười gượng nói:
- Ắc... Vết thương trên người chưa lành hẳn. Ha ha, chưa lành hẳn.
Ngọc Đường Xuân thấy y cố sĩ diện, không kìm được phì cười, rồi vội vàng bịt miệng lại. Mặt nóng bừng, Dương Lăng không dám nhìn mặt mấy vị cô nương, luống cuống bước lên phía trước thi lễ với Hàn Lâm:
- Nhạc phụ! Tiểu tế đang mong các vị đến kinh, xin mau mau vào doanh trại ngồi chơi.
Cha con Hàn Lâm nghe Ngô Kiệt báo tin Dương Lăng không tuân thánh chỉ, đưa Ấu Nương đi khắp chín cửa thành tìm thầy thuốc, chỉ sợ vào đến Bắc Kinh thì cả nhặt xác cũng không kịp, nên lòng nóng như lửa đốt chạy cả ngày đêm, trên đường không dám nghỉ một chút nào.
Vừa vào phạm vi kinh sư, bọn họ liền nghe dân chúng loan truyền đủ loại sự tích về việc Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ, nhưng kết cục đều như nhau: thị độc Dương Lăng có nghĩa có tình, đương kim thiên tử anh minh vô cùng. Chỉ tiếc gần đây thành Bắc Kinh vẫn chưa có mưa, nếu không việc Dương Lăng cứu vợ cảm thiên động địa nhất định cũng sẽ được dựng thành kịch trình diễn mất rồi.
Bốn cha con tới nhà Dương Lăng, lại thấy mấy cô oanh yến líu lo, e thẹn vào ra làm cho lão Hàn Lâm thật thà cả kinh chết lặng người, tưởng rằng chỉ chưa đến vài tháng mà con rể đã một hơi nạp tới bốn phòng thiếp rồi, tốc độ thật khiến cho người ta hết hồn. Mãi đến khi Ấu Nương rỉ tai lão kể lại thân phận và lai lịch của nhóm Đường Nhất Tiên, Hàn Lâm mới tỉnh ngộ.
Ba người Tuyết Lý Mai ở nhà rất buồn chán, thấy người trong gia đình Ấu Nương muốn đi thăm Dương Lăng, cũng cực kỳ hứng thú đi theo. Phụ nữ ra khỏi cửa cũng có nhiều thứ không tiện, huống chi bốn cô thiếu nữ xinh đẹp như tiên này. Ba cô từng lẻn lên phố chơi, mua mấy bộ áo công tử, áo võ sĩ, nay bèn thi nhau mặc. Đường Nhất Tiên và Ấu Nương vóc người xấp xỉ nên mặc áo công tử, đưa áo võ sĩ cho những người kia. Tám người chỉ để nha hoàn Tiểu Vân giữ nhà, còn đều tới trại quân cả.
Thấy Dương Lăng bảo họ vào doanh, Tuyết Lý Mai lặng lẽ giật giật vạt áo y, lo lắng hỏi:
- Dương đại nhân, quân đội không cho phụ nữ vào doanh trại đâu. Bọn tôi đi vào... có tiện không?
Dương Lăng không để ý lắm tới tiểu tiết. Đã là gia thuộc vào thăm thì có gì mà không cho, huống chi các nàng mặc quần áo nam nhân, cũng có thể bịt mắt thiên hạ. Dương Lăng khoát tay nói:
- Có gì đâu, có khi nào mọi người trong doanh trại lại nói chứ? Huống hồ... ha ha, các cô tới rất đúng lúc, ta đang có việc định nhờ các cô hỗ trợ. Tới đây, xin mời vào trong, chúng ta từ từ bàn lại.
Mùi son phấn của các vị cô nương quá nồng, mấy tên tiểu tốt gác cổng sớm đã biết rõ rồi, chỉ là không dám nói gì. Dương Lăng dẫn mọi người vào, đưa đến trướng tham tướng, bày rượu khoản đãi. Nói chuyện một lát y mới biết Hàn Uy đã cưới cô nương Trương gia ở Kê Minh làm vợ hơn một tháng rồi.
Vốn Dương Lăng có ý định khi anh em Hàn gia tiến kinh thì ở nhà mình chơi vài ngày. Một bên là nam nhi anh tuấn, một bên là giai nhân xinh đẹp, không biết chừng có thể lâu ngày sinh tình, ai ngờ Hàn Uy đã thành thân rồi.
Hàn Võ tuy mười tám mười chín tuổi nhưng vẫn chỉ là một chàng thiếu niên to xác. Cả ba mỹ nhân như hoa tự ngọc, cả người thơm phức, thế mà hắn cũng chẳng thèm nhìn lại mò vào đống binh khí giáp trụ trong trướng Dương Lăng, thích tới không buông tay ra được, cứ loay hoay mãi, đến cả cơm cũng chẳng ăn cho xong. Xem bộ hai bên cũng không thể phát triển được.
Ba người Ngọc Đường Xuân nghe Dương Lăng kể với Hàn Lâm về những việc phát sinh sau hai ngày vào trại nhậm chức, cũng sinh ra mối thù chung. Hơn nữa, việc đóng vai Thanh Thiên Đại lão gia quyết toán sổ sách, bắt bọn tham quan rất thú vị, nên vừa ăn cơm xong các cô liền giục Dương Lăng mau mau đem sổ sách tới, muốn thể hiện tay nghề ngay lập tức.
Dương Lăng ra lệnh thân binh dẫn người đi Thải Bạn Ty (bộ phận phụ trách mua sắm) cùng Dương Nhất Thanh đem tất cả sổ sách về soái trướng. Nơi Dương Lăng ở soái phủ dành cho tham tướng, đó là một tòa nhà dựa vào sườn núi thoai thoải, gồm ba viện nhỏ, mỗi viện đều phải leo mười bậc thang. Sổ sách mang đến được khiêng thẳng vào viện thứ ba, mang vào trong gian chính, đặt xuống nền nhà, rồi đem giấy mực mời mấy vị cô nương kiểm tra.
Ba người Ngọc Đường Xuân đã từng học về việc tính sổ. Nhìn qua là biết những sổ thu chi hỗn loạn không chịu nổi rồi, hơn nữa Dương Lăng thấy các nàng kiểm kê theo thứ tự, rồi dùng phương pháp ghi sổ liên tục. Như thế, muốn có được kết quả phân loại, thống kê, tăng giảm thu chi thì vô cùng phiền toái.
Dương Lăng bèn lấy một mảnh giấy, vẽ một cái bảng ba cột đơn giản. Muốn vài lời ngắn gọn mà giải thích rõ ràng về những nguyên lí Nợ Có cho các cô nương này là việc không thể làm được. Do đó, Dương Lăng dùng phương pháp ghi sổ thu chi đơn giản nhất, rồi làm thử một cái trên bảng, sau đó giảng giải cho các nàng một lượt.
Loại phương pháp ghi sổ này rất đơn giản dễ hiểu, ghi chép cũng rất rành mạch, hơn nữa cuối cùng lại có thể ghi số tổng cộng. Mấy vị cô nương đã có căn bản, người lại vô cùng thông minh, nghe y giảng giải một chút là thấy rõ ưu điểm của phương pháp ghi sổ này. Chỉ là Dương Lăng khi giảng còn ghi vào trong giấy những kí hiệu ngoằn ngoèo quái dị, bốn vị cô nương không ai biết được cả.
Chỉ cần nói vài lời đơn giản mà các nàng có thể nghe hiểu phương pháp ghi sổ của Dương Lăng nhưng việc dạy số Ả rập lại không dễ dàng. Không ngờ các cô nương không quen với mấy con số 12345 nên mỗi lần kết xuất một con số, các nàng luôn theo thói quen tính rồi viết bằng chữ Hán trước, sau đó mới so sánh rồi phiên dịch thành ra cái thứ số trông như gà bới đó.
Qua một lúc lâu, sau khi mỗi người kiểm tra xong một quyển, các cô mới dần dần thích ứng với loại con số đơn giản mà tân kỳ này. Tốc độ làm việc cũng nhanh hơn.
Bốn kế toán thu chi này bận mù mịt, đến cả Ấu Nương cũng hứng thú hừng hực làm việc rất hăng say, hoàn toàn không có thời gian để ý đến Dương Lăng. Sực nhớ vẫn còn để cha vợ bơ vơ ở trong đại sảnh, y liền vội vàng chạy ra tiền sảnh.
Vừa vào cửa, Hàn Mãn Thương đã hào hứng nhảy tới, níu chặt cánh tay y nói:
- Tỷ phu! Đệ và ca ca thương lượng rồi, muốn gia nhập đội quân của tỷ phu, huynh là Đại tướng quân, có thể làm được việc này không?
Hàn Võ đang kéo bảo kiếm của Dương Lăng ra thưởng thức, thích tới không buông tay ra được, lúc này cũng đưa ánh mắt nóng rực nhìn y. Dương Lăng hơi trầm ngâm, nhìn Hàn Lâm hỏi:
- Nhạc phụ! Ý cha ....
Hàn Lâm cười nói:
- Chúng đã thích, ta cũng không ngăn cản. Chỉ là chẳng biết Lăng nhi có khó xử gì không?
Lúc này Dương Lăng mới gật đầu đáp:
- Con có quyền tuyển quân nhập ngũ. Huống hồ con phải lập tức thanh lý đám ăn không ngồi rồi, phỏng chừng trong quân sẽ có không ít chỗ trống.
Mãn Thương vui vẻ:
- Vậy thì thật tốt quá. Tỷ phu là Đại tướng quân, vậy cho đệ làm sĩ quan nhé. Lúc đệ ở Kê Minh Dịch, thấy Giang bá tổng mang binh đi rất uy phong, đệ hâm mộ muốn chết luôn.
Hàn Lâm nghe thế lập tức nói:
- Việc này không được! Lăng nhi, không thể làm theo lời chúng được!
Mãn Thương trợn tròn mắt hỏi:
- Tại sao không được? Tỷ phu cai quản nhiều binh như vậy, phân cho con khoảng một trăm người để quản thì sợ cái gì? Con cũng không tin bằng vào võ nghệ của con, mấy tên lính đó dám không phục!
Hàn Lâm nói với Dương Lăng:
- Lăng nhi! Ngươi để cho chúng gia nhập quân đội thì ta không phản đối, nhưng phải đi từ binh sĩ mà lên, muốn thăng quan phải bằng vào tài năng của chính mình. Nếu chỉ dùng người thân thì chẳng phải sẽ ảnh hưởng tới ngươi sao?
Dương Lăng cười đáp:
- Lăng nhi cũng có ý như vậy. Mãn Thương, đệ nhìn tỷ phu vừa thăng quan thì chẳng biết trong quân đã có bao nhiêu tướng quân không phục rồi. Từ lính từ từ lên quan mới có thể khiến cho mọi người kính phục, mới có thể học được nhiều kiến thức, bản lãnh mới. Trong quân có rất nhiều sĩ quan không biết chữ. Đệ và hai vị huynh trưởng võ nghệ xuất sắc, lại từng đọc sách, nếu làm tốt thì tự mình có thể thăng quan. Nếu bây giờ ta lại cho đệ một chức quan, thì có gì mà vinh quang chứ?
Hàn Võ, Hàn Mãn Thương nghe y nói có lý, đều khẽ gật đầu. Dương Lăng lại nói:
- Trước mắt khi hai người vừa vào trong quân, ta thấy... trước hết quan hệ giữa chúng ta đừng để lộ ra ra ngoài. Tuy bảo rằng tiến cử cũng không ngại người thân, ta tin vào bản lãnh của các người, nhưng dù sao cũng có lắm kẻ nhiều chuyện. Còn nữa, nhạc phụ, con thấy người cũng đừng trở về Kê Minh, nhạc phụ một thân võ nghệ, không bằng cũng gia nhập quân đội. Người thấy thế nào?
Hàn Uy xen vào:
- Cha, muội phu nói có lý. Bây giờ nhị đệ tam đệ đều nhập ngũ, tiểu muội cũng ở kinh sư, người ở lại đây cũng đỡ phải lo lắng.
Hàn Lâm hơi động tâm, ngần ngừ một lúc rồi hỏi:
- Vậy... chẳng lẽ con trở về Kê Minh một mình sao?
Hàn Uy liếc mắt nhìn Dương Lăng, khuôn mặt hơi đỏ lên:
- Tuy con từng đọc sách, nhưng không có công danh. Lần này trở về cũng chỉ cả đời làm dịch tốt thôi. Nếu được nhập ngũ, không biết chừng con có thể kiến công lập nghiệp, quang vinh về quê, nhưng... thoáng cái mà bắt muội phu phải thu xếp cho nhiều người như vậy, có thể không tiện.
Dương Lăng vui vẻ đáp:
- Tiện! Sao mà không tiện? Hôm qua đệ đọc danh sách binh lính thấy có rất nhiều cặp cha con, anh em cùng đội ngũ lắm. Cứ như vậy đi! Ấu Nương một mình ở nhà, đệ cũng sợ nàng buồn. Có chị dâu tới ở với nàng, vậy cũng tốt!
Ha ha, bây giờ thì chúng ta quả thật là anh em cùng chiến đấu, cha con cùng ra trận rồi. Có các vị giúp, tú tài như ta lãnh binh cũng có thể tự tin hơn nhiều!
*********************************
Bào tham tướng ngồi trước giường lò uống rượu, mày cau tít lại.
Bào Tận Trung ngồi đối diện, lo lắng nói:
- Đại ca! Tên mặt trắng này rất âm hiểm. Thủ đoạn mềm dẻo cười cợt vui vẻ mà xuống tay thật nặng. Bây giờ hắn đem ba bao tải sổ sách đi rồi. Tuy vốn đệ không nhớ được đầy đủ trong đống hỗn độn đó có gì nhưng lỡ xui xẻo bị hắn tìm thấy chút đầu dây mối nhợ gì đó thì chúng ta làm sao bây giờ?
Bào tham tướng nghe thế rất phiền lòng. Hắn nhấc chén rượu lên uống cạn một hơi, cười lạnh nói:
- Cho hắn kiểm tra, có gì mà lo. Nếu thật sự điều tra ra thì cũng không phải chuyện lớn. Chẳng qua ngươi chỉ bị đánh vài côn rồi đuổi ra khỏi quân doanh, ta sau đó nhờ người đổi chỗ khác cho ngươi. Hừ! Mấy việc nhỏ như vậy, hai tên phó tướng họ Trương, họ Lưu còn không mở một mắt nhắm một mắt à? Ngươi cho rằng mông bọn chúng sạch sẽ lắm sao.
Bảo Tận Trung khiếp vía thốt:
- Nhưng... nhưng... Nhưng mà đệ sợ hắn tra được sự kiện đó. Nếu việc đó bị tra ra, chắc là đứt đầu đó!
Bào tham tướng nghe xong cũng chấn động. Hắn phẫn nộ hỏi:
- Cái gì! Tên ngu xuẩn này đem vật kia ghi cả vào sổ à?
Bảo Tận Trung vẻ mặt đau khổ, sợ hãi rụt rè đáp:
- Đại ca, mấy đồ vật đó... Mỗi lần chỉ có thể trộm ra từng nhóm nhỏ đưa ra ngoài, hơn nữa người giao nhận cũng rất kỹ, hàng vào tay mới chịu đưa bạc. Đệ không ghi lại vào sổ thì làm sao nhớ được?
- Khốn kiếp! Ngươi không biết lập riêng một quyển sổ cho mình à? Sao đến cả thứ đó cũng giao ra...?
Bào tham tướng nóng ruột thật sự. Nếu không phải tên em họ này luôn luôn trung thành, hắn sớm đã tát gã một cái rồi.
Bảo Tận Trung thở dài:
- Đệ chỉ định ghi để một mình mình xem thôi, nào ai biết mấy tên thân binh của Dương Lăng quả thực là đại hành gia xét nhà. Cặp mắt chúng quá độc, phòng trong phòng ngoài đi vài vòng, thứ gì có thể giấu đều bị móc ra cả. Nhưng... trong sổ đệ chỉ ghi than củi, vị tất hắn đã hiểu.
Lưu Sĩ Dung đứng lên, đi lại trong phòng vài bước, thần sắc không yên, nói:
- Bào đại ca! Nếu cứ tiếp tục như vậy, chúng ta sẽ bất lợi rồi. Bây giờ chúng ta không phát được lương, đám binh sĩ vô cùng bực tức. Ngày hôm qua hắn lại nói là muốn điều tra việc lương khống. Bây giờ một vài sĩ quan cấp cao cũng hoang mang rối loạn. Hay là chúng ta chịu thua thôi. Tiểu tử này sau lưng có thế lực, mà hắn cũng không phải loại hiền lành gì, cũng không nên trêu vào.
Bào tham tướng mặt tái nhợt, gằn giọng:
- Ngươi sợ à? Hừ, ta lăn lộn ba mươi năm trong quân, còn phải sợ một tên tiểu tử chưa ráo máu đầu như hắn à? Đấu không lại một tên non nớt như hắn sao? Hắn điều tra hả, có gì mà điều tra? Những sổ sách ấy cho dù hắn có hiểu, cũng phải tới Tết sang năm. Hơn nữa những đồ vật ấy...
Bào tham tướng cắn răng cười lạnh:
- Lượng dùng những thứ đó căn bản không có cách nào phỏng chừng. Ai biết chúng ta xưa nay luyện tập đã hao phí bao nhiêu? Cho dù hắn phát giác được số lượng sử dụng không đúng đi nữa, dù hoài nghi trong lòng thì cũng không nhân chứng, lại không vật chứng. Dựa vào vài điều nghi ngờ vu vơ, hắn có thể làm gì được một tướng quân tòng tam phẩm như ta?
Lưu Sĩ Dung do dự một chút, rồi từ từ lắc đầu đáp:
- Đại nhân! Người không chú ý sao? Hắn vừa tới đã dẫn theo hai thân binh, hiện bên người chỉ có một. Người kia chẳng biết đã ly khai khi nào. Chà, chúng ta cũng đã nghe nhiều về hắn. Ty chức bây giờ mới nhớ tới lúc hắn vừa tới, chính Phạm đốc công của Đông Xưởng tự mình đưa hắn tới. Vụ này có liên quan gì tới Đông Xưởng không?
Bào Tận Trung nghe thế hít mạnh một hơi lãnh khí. Mắt Bào tham tướng cũng không khỏi chớp lia lịa. Lúc này một tên thân binh vội vàng chạy vào, báo:
- Đại nhân, thuộc hạ vừa tìm hiểu được. Dương tham tướng lấy sổ sách không phải để tự mình kiểm tra, mà là đưa cho bốn sư gia từ ngoài vào trong doanh, bây giờ bọn họ đang làm việc trong phủ đó.
- A!
Bào tham tướng vịn án đứng dậy, mắt lóe hung quang, gằn giọng:
- Khá lắm Dương Lăng! Ngươi thật sự bỏ lắm vốn vào đây. Khinh lão Bào ta là thiện nam tín nữ à?
Thân binh lại báo tiếp:
- Đại nhân! Thật ra bốn sư gia đó là nữ cải nam trang. Mấy huynh đệ giữ cửa doanh trại đều tận mắt thấy rõ. Chắc hẳn Dương tham tướng cũng sợ nhiều người nhìn vào, nên đưa các nàng vào trong phủ tham tướng, ở tận trong viện cuối cùng lận.
Bào Tận Trung vui vẻ:
- Tốt lắm! Hắn là chủ tướng, lại đem phụ nữ vào trại quân. Ta lập tức tham tấu hắn, dẫn Trương phó tướng tới bắt hắn tại trận, xem hắn còn có gì để nói không.
Bào tham tướng nhướng mắt trả lời:
- Dám tự tiện đưa phụ nữ vào trại binh cũng không phải lỗi lớn gì, chỉ đánh hai mươi quân côn thôi. Tên tiểu súc sinh đó da mềm thịt non, vừa bị đánh ba mươi côn của Cẩm Y Vệ mà sau hai ngày đã có thể cưỡi ngựa được, rõ ràng là có người nương cho. Ngươi nghĩ rằng hai tên Trương Xuân, Lưu Thiệu Trung toàn là là đồ ngu à. Họ không biết cách thả cho hắn sao?
Với lại, đánh hắn hai mươi quân côn cũng có thể hả giận một chút, nhưng chúng ta vẫn còn bị hắn khống chế. Bây giờ hắn chuyên quyền độc đoán, lại nắm lấy đuôi của chúng ta không rời, không cho tên tiểu tử hung dữ ngạo mạn này ăn một cú thật ác, sau này hắn sẽ ngoan ngoãn được sao?
- Vậy ... vậy phải làm sao bây giờ?
Bào Tận Trung nghe xong càng không có chủ kiến gì. Bào tham tướng đưa mắt lạnh lùng nhìn hắn, phất phất tay. Mấy tên thân binh hiểu ý vội rời khỏi phòng, đóng chặt cửa lại.
Bào tham tướng từ từ ngồi xuống, hai tay tựa án bảo:
- Các ngươi tới gần đây!
Đợi hai người tới gần, da mặt Bào tham tướng co rút lại, âm hiểm nói:
- Theo ý ta, một là không làm, hai là làm tới cùng. Cho hắn cá chết lưới rách luôn!
Lưu Sĩ Dung bỗng khựng người, đụng phải chén rượu ngã lăn, rượu đổ tung tóe khắp bàn. Hắn biến sắc, run giọng nói:
- Vạn lần không thể được! Đại ca, kế này không thể được. Đường đường một vị tham tướng bị ám sát trong đại doanh, nhất định mọi người sẽ chấn động, tính mạng chúng ta cũng tiêu luôn.
Bào tham tướng âm trầm cười, nói:
- Ai nói ta muốn giết hắn? Ta muốn giết bốn tên giả sư gia tới kiểm toán đó!
Hắn chỉ vào Lưu Sĩ Dung nói:
- Ngươi đêm nay mời tên họ Dương, nói là bản quan muốn giảng hoà với hắn. Ta đi dự tiệc, hắn nhất định sẽ cho là chúng ta cúi đầu chịu thua.
- Tận Trung, chọn những huynh đệ tuyệt đối tin cẩn cho cải trang, nạy hàng rào phía sau núi, giả vờ là cường đạo vào trại quân ăn trộm, sau đó chạy thẳng tới phủ tham tướng giết quách bốn con đàn bà đó, đốt sạch sổ sách cho ta!
Bào tham tướng mở to đôi mắt đỏ như máu, cười gằn nói:
- Bốn cô gái trẻ đẹp chết trong lều của hắn, dù hắn biết chính là ta làm, hắn cũng không lộ ra được. Hừ hừ, cho dù giết gà dọa khỉ vẫn không làm gì được hắn thì bấy giờ không còn sổ sách, hắn cũng không thể kiểm tra được mấy quyển sổ rối mù đó, đến lúc đó ta xem hắn có thể làm khó dễ được ta nữa không? Ha ha ha ha...
*********************************
Hàn Mãn Thương tuổi còn nhỏ nên Dương Lăng cho làm thân binh tùy tùng, sau đó cùng Hàn Lâm và hai anh vợ ra khỏi trướng soái. Trước hết y đưa họ tới đệ nhất ty. Liên Đắc Lộc thấy Dương Lăng tước binh quyền, đánh tham ô, tra lương khống, đủ mọi thủ đoạn ghê gớm, nên cũng cảm thấy kính sợ vị tham tướng trẻ tuổi này, vì vậy tự nhiên không dám chậm trễ, giải quyết ngay cho những người do y đưa tới.
Sau khi thu xếp ổn thỏa, Dương Lăng cùng Hàn Uy ra khỏi viên môn. Hai người đi dọc theo hàng liễu xanh, Dương Lăng rốt cục không kìm được nói:
- Đại ca! Sau khi trở lại xin thay đệ thăm hỏi Hoàng huyện thừa, Vương chủ bộ, Giang quản lý,...còn... Mã Liên Nhi cô nương có khỏe không?
Trong mắt Hàn Uy lóe ánh cười: "Muội phu cũng không nhịn được rồi, bây giờ y mới nhắc tới việc này." Hắn che miệng ho nhẹ một tiếng, đáp:
- Hoàng huyện thừa mấy hôm trước đã thu xếp cho khách thương về nam chiếu cố Mã cô nương rồi. Hiện Mã cô nương đã theo thương đội trở về Kim Lăng rồi.
Chuyện Mã Liên Nhi, trong lòng cha con anh em họ đều đã đồng ý rồi. Từ khi biết Dương Lăng vì tiểu muội mà không tuân thánh chỉ, trong lòng Hàn Uy lại càng không có chút hiềm khích nào, càng cảm thấy tình cảnh vị Mã cô nương đó rất đáng thương. Hắn nhân tiện kể:
- Nghe nói Mã Ngang hứa gả em gái cho Tất đô ty làm thiếp. Ngày ấy Mã cô nương phi ngựa tiễn ngươi, Tất đô ty cảm thấy mất mặt, đã từ chối việc hôn nhân này. Mã Ngang thất sủng, trong quân không được như ý, ngươi vừa đi, hôm sau hắn đã tới dịch thự cãi nhau với Mã cô nương một trận. Anh em bất hoà, rốt cuộc ta chưa thấy Mã Ngang gặp lại nàng.
Dương Lăng bùi ngùi thở dài. Trước mặt anh vợ cũng không tiện có biểu hiện gì, y chỉ cắm cúi bước đi.
Hàn Uy liếc nhìn y, nói đầy thâm ý:
- Từ sau khi ngươi đi, Mã cô nương không mặc áo hoa, dùng lụa trắng che mặt, cũng không xuất hiện trước mặt người khác. Ta ở dịch thự cũng chỉ khi đưa rau gạo mới có thể gặp nàng.
Hắn nói rồi ngừng lại một chút, lấy từ trong lòng ra một vật nói:
- Trước khi Liên Nhi cô nương về Kim Lăng, đặc biệt có tới tìm ta, trao lại thứ này, nói là... nếu ngươi có thư về, xin tiện tay đưa cho ngươi. Ta vừa mới nhận đượccách đây vài ngày, lần này có cơ hội tới kinh thành, ta mang đến cho ngươi luôn.
Dương Lăng dừng chân, nhận lấy vật. Đây là một cái túi gấm màu xanh sẫm thêu chim uyên ương, miệng túi được khâu kín bằng sợi tơ nhỏ. Hàn Uy thở dài, liên tục vỗ nhẹ lên vai y, trêu:
- Đại tướng quân quả là đa tình. Ngươi đã vì tiểu muội mà dám kháng chỉ, đại ca cũng không có ý kiến gì về việc này. Liên Nhi cô nương cũng yêu ngươi thắm thiết, nếu lúc nào tiện, ngươi nên sai người tới Kim Lăng thăm nàng, ta đi đây.
Dương Lăng nhìn theo Hàn Uy đi xa, lại cúi đầu nhìn túi thêu trong tay, mờ mịt ngồi lên tảng đá lớn ven đường.
Gió xuân thổi vi vu, những cành liễu rủ phất phơ quệt nhẹ vào vai y cũng làm rối loạn cả trái tim y.
Cảm tình với Ấu Nương giống như nước sữa hoà nhau. Mối tình khắc cốt ghi tâm này bất luận kẻ nào cũng không thay thế được. Y luôn luôn cho rằng yêu là phải chuyên nhất, phải yêu hoàn toàn. Đối với Liên Nhi tựa hồ y vừa cảm thông vừa có trách nhiệm. Nhưng khi ly khai Kê Minh dịch, y mới biết được, cô thiếu nữ đó cũng đã chiếm mất một phần tình cảm của mình.
Thế giới này, quan niệm tình yêu của mọi người khác với thời đại mình rất xa. Ở chỗ này lâu, có khi y cũng suy nghĩ không ra, rốt cuộc loại quan niệm tình yêu nào mới là chính xác. Rốt cuộc có phải bản chất tình yêu phải là chuyên nhất không? Hay vì từ bé đã được giáo dục như thế mà y có quan niệm như vậy?
Trong các loại tình cảm, loại tình cảm sâu sắc vĩ đại nhất hẳn là tình thân. Tình thân so với tình yêu lại càng có khả năng chịu đựng thử thách nhiều hơn, lại càng lúc càng sâu hơn. Nhưng tình thân có thể chia đều cho vài thân nhân, cũng không vì mình yêu quý một người mà lại làm nhạt đi tình thân với người khác, vậy tình yêu thì sao?
Y không biết. Y không biết thật. Y dám thề y rất yêu Ấu Nương. Có phải chết vì nàng y cũng sẽ không nhíu mày. Nhưng tại sao có khi trong lòng y lại hiện lên hình ảnh của một thiếu nữ khác?
Dường như Dương Lăng lại thấy thiếu nữ bạch y trắng hơn tuyết, toàn thân không chỗ nào không yêu mị đang nhẹ nhàng đi dọc theo sơn đạo tới gần mình, giống như một cây thược dược yểu điệu mông lung, yếu đuối vô cùng, đang mỉm cười ngọt ngào với y.
Y cúi đầu, lại nhìn xuống túi gấm trong tay, rút sợi tơ ra khỏi miệng túi, lấy từ trong túi gấm một cái khăn tay trắng, nhè nhẹ trải rộng. Những chữ viết đẹp đẽ, mềm mại như người đập vào mắt y:
Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ.
Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ.
Chích duyến cảm quân nhất hồi cố.
Sử ngã tư quân triêu dữ mộ.
Hồn tùy quân khứ thiên nhai lộ.
Y đái tiệm khoan bất giác khổ.
Tích thán niên hoa như triêu lộ.
Hà thì hàm nê sào quân ốc?
Tam thập lục luân minh nguyệt hậu.
Đương vi quân tác nghê thường vũ.
Dịch nghĩa:
Chàng như trăng sáng, thiếp như sương mù
Mù theo trăng lặn mất, chỉ lưu sương lại
Cảm kích chàng từng quay đầu nhìn lại
Nên thiếp nhớ chàng suốt ngày đêm
Hồn theo chàng đi khắp muôn nơi
Y phục dần rộng, chưa thấy khổ
Chỉ tiếc tuổi trẻ dần trôi mất
Bao giờ mới xây tổ ấm (*) cùng chàng?
Sau ba mươi sáu mùa trăng nữa
Vì chàng thiếp múa khúc nghê thường!
(*): trích từ tích chim yến ngậm bùn xây tổ, ở đây ví chuyện nên vợ nên chồng (TheJoker)
Dịch thơ:
Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng
Trăng lặn mù tan, đọng sương lan
Cảm lòng chàng một phen ngóng lại
Tim này nhớ ai bao ngày sang
Hồn theo chàng đến cuối chân trời
Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi
Xuân xanh tàn tận dường sương sớm
Khi nao hội ngộ hỡi người ơi
Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua
Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca...
(Hieusol)
Chương 82: Gạo Vàng Gạo Trắng
Dịch: workman
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Ngọc Đường Xuân nhìn qua rồi nói:
- Đúng là hơi kỳ lạ, hơn nữa những thứ linh tinh khác đều ghi vào một quyển sổ to, tại sao chỉ có những than củi này lại được ghi riêng ở đây? Nhưng... số tiền chi tiêu ghi trên sổ cũng không lớn, mấy văn tiền này có đáng gì đâu chứ?
Đường Nhất Tiên ngồi trên ghế, rung đùi đắc ý hỏi:
- Tỷ chưa nghe chuyện "Gạo Trắng Gạo Vàng" à?
Trước đại trướng của đệ nhất ty thuộc Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh, sáu chiếc lồng đèn đỏ treo trên những cây trụ lớn chiếu sáng trưng mọi vật chung quanh.
Bào tham tướng và Lưu đô ty mặc giáp đội mũ đứng trước trướng, phía sau là vài tên thủ bị (*) và thiên tổng của Đệ nhất ty. Thấy xa xa có một đám người từ đại doanh phi ngựa đến, Bào tham tướng cùng Lưu đô ty lập tức ra đón, mặt nở nụ cười kính cẩn. Thấy vậy đám sĩ quan cấp cao phía sau bèn lộ vẻ hậm hực: sớm biết có ngày hôm nay, sao trước đây ngạo mạn chi vậy để sau lại phải cung kính?
((*): một chức võ quan thời Minh, là quan chánh ngũ phẩm; còn thiên tổng là quan chánh lục phẩm)
Bào tham tướng mặt mày hớn hở, không để ý gì tới ánh mắt người khác. Gã là kẻ kiêu dũng thiện chiến, nhờ công lao mà thăng chức, nhưng bụng dạ rất hẹp hòi, có thù tất báo, sao có thể chịu được việc người ngoài đối nghịch với hắn? Vừa nghĩ tới vẻ mặt khóc không ra nước mắt của Dương Lăng sau đêm nay gã cảm thấy vui sướng vô cùng, nên lúc này phải làm bộ làm tịch vẫn không lấy làm nhục.
Dương Lăng dẫn theo Dương Nhất Thanh, Mãn Thương cùng hai mươi thân binh hộ vệ chạy thẳng tới trước trướng mới nhảy xuống ngựa.
Bào tham tướng nhìn trang phục Dương Lăng cũng hơi giật mình. Hai ngày vừa qua, Dương Lăng đi khắp doanh trại, đi đến chỗ nào cũng mặc trọng giáp. Lần này gã đón ý Dương Lăng nên lúc này đám tướng lĩnh trong doanh ai cũng mặc giáp đội mũ như sắp xung phong ra trận vậy.
Thế nhưng bây giờ Dương Lăng lại mặc áo dài nho sỹ, đến cả thanh bội kiếm cũng chẳng đeo, nhẹ bước tới gần, chân không nhiễm bụi, hai dải băng của mũ nho phấp phới, anh tuấn khôn tả. Còn Bào Tận Thẩm dẫn hơn mười tướng quân mặc trọng giáp nặng nề, chiến bào giáp trụ khom người nghênh đón, giống như đang đón vương hầu tới giáo trường kiểm duyệt tam quân, khí thế đột nhiên thấp đi ba phần. Bào tham tướng cho rằng Dương Lăng cố tình chọc gã, trong lòng càng không kìm được giận.
Dương Lăng nhìn thấy đám tướng lĩnh giáp trụ đầy người, cũng hơi lấy làm lạ: "trong quân ăn tiệc uống rượu mà phải long trọng như vậy sao! Sao không mặc thường phục nhỉ?" Y không kịp nghĩ nhiều, Bào tham tướng và Lưu đô ty đã nhanh chân bước lên chắp tay muốn bái. Dương Lăng vội bước lên một bước đở lấy, nói:
- Các vị đồng liêu, xin hãy đứng dậy! Đều là huynh đệ một nhà, ngày ngày gặp nhau, hà tất làm đại lễ như vậy?
Bào tham tướng tươi cười đáp:
- Đại nhân nhậm chức, mạt tướng cùng tướng tá trong doanh còn chưa được thiết rượu tẩy trần cho đại nhân. Đêm nay trăng thanh gió mát, đúng là thời điểm rất tốt, Lưu đô ty thiết rượu mở tiệc chiêu đãi đại nhân, chúng ta phải không say không về đó.
Dương Lăng mỉm cười, mắt thoáng nhìn Lưu đô ty. Thấy hắn thần sắc khẩn trương, cố rặn nụ cười, đôi mắt lại không ngừng nhìn Bào tham tướng, y không khỏi thầm cẩn thận vài phần.
Qua hai ngày tiếp xúc ngắn ngủi, y biết Bào tham tướng bảo thủ cố chấp, không coi ai ra gì. Bây giờ tuy thần thái Lưu đô ty mất tự nhiên, nhưng cũng phù hợp với tâm tính hắn lúc này. Còn vì sao Bào tham tướng lại nhiệt tình, bình thản, không hề bị ép mà lại cúi đầu như thế?
Xem ra bữa tiệc tối nay vị tất đơn giản như vậy. Dương Lăng quay đầu lại nhìn Dương Nhất Thanh đầy thâm ý. Dương Nhất Thanh ngầm khẽ gật đầu, vung tay lên. Hai mươi tên thân binh đứng dưới trướng, tay cầm cương ngựa, nửa bước không dời. Dương Lăng lúc này mới mỉm cười, cùng Bào tham tướng cầm tay vào trong.
**************
Trong phủ tham tướng, Ấu Nương và ba người Ngọc Đường Xuân đã kiểm kê được nửa túi sổ sách. Tuyết Lý Mai nhìn sang đống sổ sách đã xem xong, hạ bút lông xuống, xoa cổ tay cười nói:
- Ấu Nương tỷ tỷ, chúng ta nghỉ một chút đi. Xem tình hình này, sợ phải mất ba hai ngày mới xong, cũng không nóng vội làm gì.
Hàn Ấu Nương đang lục lọi đống sổ sách, nghe vậy đứng thẳng người dậy, tay đấm nhẹ vào lưng, nói:
- Thật tình, vừa mới ăn cơm xong đã làm phiền ba muội muội tới đây kiểm kê sổ sách. Tướng công nhà ta không được tinh tế, cũng không thèm đến thăm các muội, lại chạy tới chỗ Bào đại tướng quân ăn tiệc rồi. Thành thật xin lỗi!
Ngọc Đường Xuân nhanh nhẹn bày ra bốn chén trà, rót trà vào chén, không hề đổ một giọtào. Nàng châm đầy một chén đưa cho Ấu Nương trước, rồi nửa đùa nửa thật nói:
- Muội thấy Dương đại nhân rất sợ ở cùng chỗ với chúng ta. Y đường đường là Đại tướng quân, chẳng lẽ còn sợ phụ nữ chúng ta sao?
Hàn Ấu Nương thấy nàng khẽ nhíu mày ngài, vẻ do dự băn khoăn lộ thêm vài phần u oán, trong lòng không khỏi thở dài: "E rằng ba vị cô nương này hiểu lầm rồi. Họ đối đãi với mình thường ngày hệt như tiểu thiếp đối với bà chủ, làm sao mà mình không cảm thấy chứ?
Đều do Thái tử ra lệnh không rõ ràng, bây giờ tạm thu xếp cho ba đại cô nương ở nhà mình, cũng không biết khi nào thì Thái tử mới có thể đưa cô nương Nhất Tiên vào cung. Tới lúc đó sẽ thu xếp cho hai cô nương kia như thế nào đây?"
Nàng nhận chén trà, thấy dưới ánh đèn những ngón tay nõn nà như ngó sen của Ngọc Đường Xuân mịn màng trong suốt như ngà, chẳng những da dẻ trắng mịn như ngọc, mà vẻ trí thức u nhã ấy càng làm tôn lên vẻ thanh lệ thoát tục ở nàng, khiến nàng giống như tiên tử hạ phàm. Ấu Nương bất giác hơi lấy làm lạ. Trong ba vị cô nương, nếu luận về tướng mạo, rõ ràng vị Ngọc Tỷ Nhi này hơn hẳn Tuyết Lý Mai và Đường Nhất Tiên một bậc, hơn nữa nàng có tính cách điềm đạm nho nhã, phong tư khá quý phái, sao mà Thái tử lại chỉ có tình ý với duy nhất mỗi Đường cô nương thôi nhỉ?
Thấy đôi mắt hờn trách của Ngọc Đường Xuân đang nhìn mình chằm chằm, Tuyết Lý Mai bên cạnh cũng ngóng tai lên lắng nghe, Ấu Nương đành phải lập lờ:
- Mấy vị muội muội đẹp như thiên tiên, bất kỳ nam tử nào tới gần cũng sẽ không tự chủ được. Đừng nói là tướng công nhà ta, muội không thấy nhị ca ta hôm nay đi cùng các muội tới đây, cũng không dám nhìn các muội lâu à?
Tuyết Lý Mai không nén được đỏ mặt nói:
- Bọn muội đều là nữ tử phận bạc như vôi, sao so được với tỷ tỷ có phước tốt. Dương đại nhân chưa tròn hai mươi đã là quan lớn tam phẩm của triều đình, tương lai xây dựng phủ đệ, kiến tạo nha môn, thậm chí cấp đất phong hầu cũng không phải là việc khó, đến lúc đó tỷ tỷ sẽ là nhất phẩm Cáo Mệnh rồi.
Đại nhân chuộc thân cho tỷ muội chúng tôi, cứu bọn muội thoát khỏi hầm lửa, bọn muội cảm kích tự đáy lòng, tình nguyện làm tỳ nữ nha hoàn. Nhưng đại nhân bây giờ cũng không nói gì, danh phận chủ tớ này mà không xác định sớm một chút thì bọn muội gặp đại nhân cũng không biết nên xưng hô thế nào cho phải nữa.
Nghe giọng nói của nàng rõ ràng rất muốn Ấu Nương minh xác thân phận của các nàng. Hàn Ấu Nương vừa bực mình vừa buồn cười, nàng liếc mắt nhìn tiểu nha đầu này, gắt giọng:
- Muội đó, nói thật dễ nghe, nếu không phải tướng công phụng... à thấy các người bị người ta bắt nạt, làm sao mà rước ba người về đây chứ. Làm nha hoàn gì chứ? Nhà tỷ nhiều tiền lắm à, bỏ ra một vạn lượng bạc chỉ để mua nha hoàn sao?
Bỏ số tiền lớn không phải mua nha hoàn, vậy là mua cái gì? Hàn Ấu Nương nói như vậy, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe mà vui sướng ra mặt. Hai cô nương lặng lẽ nhìn nhau, đều cảm thấy vui mừng: hôm nay cuối cùng cũng được tin chính xác của Ấu Nương, rốt cuộc không cần nửa đêm nằm trên giường thấp thỏm không yên, đoán mò xem tâm tư đại nhân nữa rồi. Trong lòng Dương đại nhân, lời nói của Ấu Nương tỷ tỷ còn hiệu nghiệm hơn cả thánh chỉ nữa đó.
Tuyết Lý Mai nâng chén trà lên, vội vàng uống cạn một hơi, rồi lập tức xắn tay áo, lộ ra cổ tay trắng ngần đầy đặn, vừa hăng hái mài mực vừa nói:
- Tỷ tỷ! Chúng ta hãy cố thêm, tranh thủ đêm nay kiểm kê luôn một bao đi. Có tìm được chứng cớ sớm thì lão gia chúng ta mới có thể trị cái lão Bào không biết điều đó.
Ngọc Đường Xuân uống nhanh ly trà, rồi nhanh nhẹn chạy tới đống sổ để trên mặt đất như một con bướm. Hàn Ấu Nương không hiểu toan tính của bọn họ, thấy chỉ có Đường Nhất Tiên vẫn không hề nhúc nhích, vội đảo mắt nhìn nàng. Chỉ thấy cô nàng ngồi trước bàn, hai hàng lông mày thanh tú nhíu lại cong vút, đang nhìn chằm chằm vào cuốn sổ trong tay với vẻ trầm tư, dường như không hề nghe các nàng nói chuyện.
Cô nàng cầm cán bút chốc chốc lại chọc vào gò má mịn màng của mình, rồi đột nhiên lắc đầu lẩm bẩm:
- Không đúng, nhất định quyển sổ này có vấn đề.
Ấu Nương nghe được vội ghé qua hỏi:
- Tiên nhi! Muội đã phát hiện ra điều gì rồi à?
Đường Nhất Tiên chỉ vào quyển sổ nói:
- Tỷ tỷ, tỷ xem quyển sổ này có gì bất bình thường không?
Hàn Ấu Nương nhìn chăm chú một chút, lấy làm lạ nói:
- Không phải là một quyển sổ ghi lại việc mua than củi à... Ồ! Đúng là không bình thường, quân doanh ở gần núi đã có củi gỗ để dùng, còn mua than củi làm gì?
Đường Nhất Tiên "cười gian" vài tiếng, dương dương tự đắc đáp:
- Đây không phải là vấn đề. Trong doanh có những tướng tá cấp cao, việc sưởi ấm, ăn uống và nấu nướng trong trướng chắc chắn cũng cần phải có than củi. Tỷ tỷ đoán lại đi!
Nhìn kỹ một chút, Ấu Nương cũng phát hiện ra vấn đề, không khỏi hào hứng nói:
- Không bình thường, quả thật là không bình thường, quyển sổ này nhất định có vấn đề.
Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai nghe vậy vội vàng sáp lại hỏi:
- Phát hiện được điều gì rồi sao? Cho muội xem một chút.
Hàn Ấu Nương chỉ lên trang giấy nói:
- Các muội xem, trên sổ ghi là tháng năm năm ngoái, mua năm trăm cân than củi, bên dưới là tình hình chi tiêu. Lại nhìn đây, mười bốn tháng tám, lại mua bảy trăm cân than củi.... Tại sao mùa đông mới dùng tới than củi để sưởi mà mùa xuân và hạ lại dùng nhiều như vậy?
Ngọc Đường Xuân nhìn qua rồi nói:
- Đúng là hơi kỳ lạ, hơn nữa những thứ linh tinh khác đều ghi vào một quyển sổ to, tại sao chỉ có những than củi này lại được ghi riêng ở đây? Nhưng... số tiền chi tiêu ghi trên sổ cũng không lớn, mấy văn tiền này có đáng gì đâu chứ?
Đường Nhất Tiên ngồi trên ghế, rung đùi đắc ý hỏi:
- Tỷ chưa nghe chuyện "Gạo Trắng Gạo Vàng" à?
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe xong nhất tề ồ một tiếng rồi thốt lên:
- Không sai, chuyện này cũng rất có thể.
Vụ án "Gạo Trắng Gạo Vàng" là chuyện xảy ra vài năm trước. Chuyện này chấn động kinh sư, nhà nhà đều biết. Ấu Nương không hay, nhưng ba người Ngọc Đường Xuân thì đều biết rõ.
Khi ấy tên đại hoạn quan Lý Quảng được vua Hoằng Trị tin yêu bị bệnh chết. Hoằng Trị mê tín thuật trường sinh bất lão của lão, cho Cẩm Y vệ tới phủ của lão tìm kiếm, lại tìm ra một quyển sổ, ghi lại số lượng gạo vàng gạo trắng trong nhà. Lúc đó hoàng đế Hoằng Trị không rõ ngụ ý của nó, còn không hiểu vì sao Lý Quảng cũng không có nhiều gia nhân lắm, mà lão lại cần mua nhiều gạo đến thế. Sau được đại thần giải thích, Hoàng đế mới biết số lượng đó để chỉ vàng và bạc, thế là trong lúc giận dữ đã ra lệnh cho người tịch biên gia sản của lão.
Tuyết Lý Mai phấn khởi nói:
- Không sai, không thể dùng giá tiền làm chuẩn! Một lạng cũng có thể chỉ một trăm lạng, một ngàn lạng. Nhưng than củi này rốt cuộc chỉ cái gì đây?
Đường Nhất Tiên giật quyển sổ lại, nhét vào trong lòng như bảo bối , hào hứng tới nỗi hai má đỏ bừng:
- Việc này để muội báo với Dương đại nhân! Đương nhiên đại nhân có thể điều tra được.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thấy nàng giống như sợ người khác đoạt lấy công lao mình, không khỏi nhìn nhau bật cười.
Ngay lúc này, một giọng nói lạnh lẽo vang lên:
- Chỉ sợ Dương đại nhân cũng không điều tra được chuyện này đâu!
Chương 83: Âm Mưu Rồi Hành Động
Dịch: workman
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hừ! Lần này ta sẽ không lỗ mãng nữa, đánh rắn phải đánh giập đầu. Bào Tận Thẩm làm quan lâu như vậy, sẽ có không ít quan hệ cá nhân. Không nắm chắc hoàn toàn, ta sẽ không động tới hắn. Không nắm chắc hoàn toàn, sau này ta sẽ không gây thù chuốc oán với ai nữa!
Theo giọng nói, rèm trúc chợt vén lên, một gã đàn ông mặc đồ đen, tay cầm đao thép bước vào. Trên đầu hắn quấn khăn đen che kín cả miệng mũi, chỉ lộ ra một cặp mắt hung ác.
Tuyết Lý Mai hoảng sợ thất sắc la lên:
- Ngươi là ai? Lại dám xông vào phủ tham tướng, không sợ mất đầu à!
Tên hắc y nghe vậy phá ra cười ha ha, đồng thời hai tiếng răng rắc vang lên, một cánh cửa sổ bị vỡ tan tành, lại có mấy tên cũng mặc áo đen cầm đao nhảy vào, vây các nàng vào giữa.
Ánh trăng rót vào cửa sổ, xa xa bọ kêu chim hót, gần đấy cây cối đong đưa, yên tĩnh vô cùng, nhưng trong bóng đêm im ắng này, sát khí lại tràn ngập khắp phòng.
Lại có thêm vài tên mặc áo đen lực lưỡng bước vào cửa. Tên vào trước tiên cất tiếng cười cuồng vọng, nói:
- Ta là ai, việc này chỉ sợ các ngươi cũng không biết được, cứ làm vài con quỉ hồ đồ trên đường xuống suối vàng đi.
Hắn nhìn lướt qua đống sổ sách đầy đất, trong mắt lóe lên vẻ ác độc, rồi đột nhiên xoay người ngông nghênh bước lên, chỉ vào Đường Nhất Tiên bảo:
- Đem cuốn sổ trong người ngươi giao ra đây!
Ngọc Đường Xuân thấy hắn tới gần, không chút nghĩ ngợi, vội cầm nghiên mực ném về phía hắn. Hắn lắc người né nghiên mực, bước nhanh đến gần Đường Nhất Tiên. Thấy mấy nữ tử yêu kiều nhu nhược, hắn đâu thèm để vào mắt, nên chẳng hề uý kỵ xông đến trước mặt ba người Ngọc Đường Xuân.
Lúc này Hàn Ấu Nương bất chợt áp sát lại gần, vung tay như đao chém mạnh vào cổ tay hắn. Hắn ta chỉ cảm thấy như bị sét đánh, cả cánh tay ê ẩm, đau đớn. Hàn Ấu Nương lắc mình bám theo, bàn tay nhỏ bé bóp chặt cổ tay kẻ địch, tung một cước vào mặt bên đầu gối, hắn kêu thảm một tiếng rồi khuỵu xuống đất.
Hàn Ấu Nương vốn định nhanh chóng bắt hắn làm con tin, không ngờ mấy tên sát thủ phía sau lại phản ứng cực kỳ mau lẹ. Mặc dù trong bốn cô có người biết võ nghệ là việc chúng hoàn toàn không ngờ tới, nhưng chúng vẫn phản ứng tinh nhạy, hét lớn một tiếng, vung đao chém ngay. Bốn bóng người cậy vào ánh đao mù mịt khiếp người, mang theo tiếng gió rít vù vù, vừa loé lên thì đã chém tới, thế như chớp giật.
Hàn Ấu Nương thấy ánh đao chém vào người mình, bèn không bắt tù nhân nữa mà lập tức vặn lưng, ngửa người ra sau, chân phải tung ra, vung cước đá bắn tên áo đen đó bay đi, đâm sầm vào bốn gã đại hán đang xông tới. Cùng lúc đó, vù một tiếng, một thanh đao thép lướt qua chóp mũi Ấu Nương, vút qua trước ngực. Nếu cô nàng không nhỏ con thì đã đổ máu ngay rồi.
Hàn Ấu Nương cả người toát đầy mồ hôi lạnh. Thanh đao thép chém choang một tiếng vào chiếc án thư, làm Đường Nhất Tiên sợ giật nảy người. Hàn Ấu Nương chớp thời cơ đứng thẳng dậy, đấm thẳng một quyền vào nách tên đang vung đao. Tên nọ lập tức đánh rơi đao thép, lảo đảo lùi lại vài bước, cánh tay phải xụi lơ, không cử động được nữa.
Vóc người Hàn Ấu Nương nhỏ nhắn xinh xinh, thể lực vốn không bằng nam nhân, do đó công phu mà Hàn Lâm dạy nàng đều nhằm công kích vào những chỗ yếu nhược của kẻ địch. Tên kia vừa lùi lại, Hàn Ấu Nương lập tức nhặt cây đơn đao bản hẹp, nhoáng người lao lên, đao thép mãnh liệt đỡ lấy lưỡi đao của hai tên hắc y đang chém tới. 'Keng keng!' tiếng kim loại vang lên, đao của nàng chém trái bổ phải đã rất chuẩn xác ngăn chặn đao thép của đối phương.
Hàn Ấu Nương không đủ lực cổ tay, hôm nay lại không dùng Phong Hỏa côn, nên vừa đối kình với mấy tên thích khách võ nghệ xuất chúng này, hai cánh tay nàng cũng bị chấn động đến tê rần. Hàn Ấu Nương thầm giật mình, dựa vào công phu của nàng, nếu tự mình đào tẩu thì đương nhiên những kẻ này không thể ngăn cản được. Nhưng mang theo ba cô nương không biết võ nghệ gì cả thì làm sao nàng có thể cam đoan các nàng không tổn hao một cọng lông sợi tóc gì được?
Hàn Ấu Nương quýnh lên, lập tức hét dài một tiếng, vung thanh đao thép trong tay múa che kín mít, rồi sốt ruột gọi ba cô nương:
- Nhanh! Theo ta xuống phía dưới, quan binh ở tiền viện sẽ lập tức tới ngay.
Người bị Ấu Nương đá trúng chính là Bào Tận Trung. Khi Hàn Ấu Nương nằm trong vòng tay Dương Lăng thì như một đóa phù dung ngượng ngùng, e ấp yêu kiều, thật sự đáng yêu khôn tả, nhưng khi nàng đá vào ngực Bào Tận Trung lại như một quả cân nặng chịch nện vào người hắn. Bào Tận Trung phải lăn ra thật xa, cúi gập người xuống, mãi hồi lâu sau mới thở được.
Hắn phun ra một bụm máu, gầm lên:
- Không chừa lại đứa nào, chém hết! Cả căn nhà cũng đốt cho ta!
Mặc dù ba người Ngọc Đường Xuân mặt hoa thất sắc nhưng không hề đánh mất dũng khí. Mắt thấy Ấu Nương trông như cọp điên, đánh giết mở một con đường máu, các nàng vội vàng thu hết dũng khí bám sát sau lưng nàng, cùng vọt tới cửa.
Hàn Ấu Nương vung một đao chém nát vụn tấm rèm, quát:
- Đi mau!
Rồi lập tức tiện tay vơ lấy đôi đũa chưa kịp cất trên chiếc bàn cạnh cửa, vung tay phất một cái, hai cây đũa tre phóng đi như chớp.
Hai tên đuổi theo phía sau vừa thấy nàng vung tay, không chút nghĩ ngợi gì liền lập tức né người. Một thanh trúc bắn vào khoảng không, cây khác bắn sượt qua chiếc khăn đen của một gã hắc y, làm xước một vết máu.
Bào Tận Trung thấy ba cô gái ôm quyển sổ quan trọng nhất chạy trốn ra khỏi phòng, trong lòng quýnh lên, lảo đảo vịn cánh cửa, cố trằn mình đứng lên đuổi theo. Hàn Ấu Nương bị mấy tên đại hán cuốn lấy, chỉ cần nàng vụt xoay người, lưỡi đao thép lập tức liếm vào người ngay. Vì vậy tuy trong lòng sốt ruột nhưng lại không nghĩ được biện pháp cứu trợ, nàng chỉ biết vung đao khổ chiến, thầm mong đám binh sĩ trong phủ có thể nghe tiếng kêu mà chạy tới kịp.
Ba người Ngọc Đường Xuân chạy ra khỏi phòng, luống cuống kinh hoàng không thấy rõ dưới chân. Tuyết Lý Mai hổng chân một bước, hét lớn một tiếng "ui chà" rồi lăn thẳng từ trên thềm đá xuống dưới. Ngọc Đường Xuân thấy thế vội vàng đuổi theo. Đường Nhất Tiên chạy phía sau, nhìn thấy một tên thích khách đang đuổi theo, vội vàng quơ một chậu hoa bày trước phòng ném mạnh ra sau, đồng thời hét lớn với Ngọc Đường Xuân:
- Ngọc Tỷ Nhi, mau mau dìu Tiểu Mai đi! Đi gọi người tới giúp Ấu Nương.
Không dám dẫn tên áo đen về phía Ngọc Đường Xuân, Đường Nhất Tiên vòng qua hướng cửa Nguyệt Lượng* mà chạy, vừa chạy vừa không ngừng chộp những chậu hoa ném về phía Bào Tận Trung. Quyển sổ chết người đó vẫn đang được Đường Nhất Tiên giữ trong người nên Bào Tận Trung cứ như một con lừa vươn mõm về phía trước cố đớp lấy bụi cỏ, không chút nghĩ ngợi gì cứ cố bám đuổi theo nàng. (*: cổng tròn; cổng vòm)
Ngoài cửa Nguyệt Lượng là rừng núi hoang vu. Vị Ninh tham tướng tiền nhiệm mỗi sáng đều vào rừng tản bộ luyện tập, sớm đã giẫm thành một con đường mòn. Đường Nhất Tiên như một con nai nhỏ cùng đường, liều mạng chạy như điên trong rừng, may mà hôm nay nàng cải nam trang, nếu không sớm đã bị vấp ngã rồi. Dù thế, những cành lá và dây gai bên con đường mòn cũng đã cào nát quần áo của nàng, trên mặt cũng đã xuất hiện vài vệt máu.
Vì ngực bị thương nên Bào Tận Trung chạy không nhanh. Thấy nàng càng chạy càng xa, tai nghe thấy phía sau tiếng người huyên náo, đoán rằng đã bị thân binh của Dương Lăng phát hiện, lòng hắn không khỏi lo lắng. Hắn vừa truy đuổi vừa gầm lên:
- Tiểu nha đầu, giao cuốn sổ ra đây, ta tha chết cho ngươi, có nghe không? Ngươi không chạy thoát đâu.
Đường Nhất Tiên sờ quyển sổ trong lòng, tâm hồn thiếu nữ lại càng mừng vui khôn xiết.
Hắn đã quan tâm đến quyển sổ như vậy, xem ra quyển sổ này thật sự có chuyện rồi. Mấy ngày nay vào nhà họ Dương, Dương đại nhân chưa hề vào phòng các nàng, cũng chẳng nói chuyện gì nhiều với hai tỷ tỷ. Nhưng đại nhân lại luôn tươi cười chào hỏi có vẻ rất khách khí với nàng, Dương đại nhân nhất định là thích nàng rồi. Nếu đem quyển sổ này giao cho y, chẳng phải càng được y thích hơn sao?
Vừa nghĩ thế, Đường Nhất Tiên lại cảm thấy vui như trẩy hội, người như có thêm sức mạnh, càng chạy nhanh thêm. Cây cối xung quanh trại quân được bọn quan binh chặt phá khoảng trăm trượng để phòng hỏa hoạn, bởi vậy tất cả đều là một bãi đất bằng phẳng. Dưới ánh trăng sáng, cảnh vật hiện lên rất rõ, tiểu nha đầu không thể nào chạy thoát được. Bào Tận Trung thấy phía trước là cuối sơn đạo, chỗ có thể trốn được cũng không nhiều nữa, không khỏi mừng rỡ trong lòng.
Đường Nhất Tiên chạy đến thở không ra hơi, quay đầu lại thoáng nhìn, thấy đã chạy cách tên đại hán áo đen một đoạn khá xa, nhìn về phía trước thấy xuất hiện hai tảng đá to, trong bóng đêm đen kịt trông chúng như con quái vật muốn nuốt chửng người. Đường Nhất Tiên vội vàng chạy tới, vừa tới gần tảng đá, phía trước đột nhiên là khoảng không. Nàng hốt hoảng vung vẫy hai tay, hồi lâu mới đứng vững. Nàng nhìn kỹ, phía trước là một cái vực, dưới vực có ánh sáng lập lòe, dường như là một con sông.
Trước không còn đường, sau có truy binh, còn có thể chạy trốn nơi nào chứ? Đường Nhất Tiên vẫn nuôi một tia hy vọng, vội quay đầu lại nhìn, trong bóng đêm dày đặc chỉ thấy bóng đen đó đang vội vã men theo con đường nhỏ trong rừng đuổi đến. Nàng liền trở nên tuyệt vọng.
Lần đầu tiên thích Dương Lăng, nàng còn không biết y là ai! Chỉ nghe những tỷ muội trong kỷ viện kể về người thư sinh có tình có nghĩa, vì người con gái mình yêu đã dám đắc tội với cả người có sức mạnh cường đại nhất trên đời này. Trong tâm linh nho nhỏ của nàng đã khắc ghi một cái tên khiến nàng vô cùng sùng bái.
Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, trong ba người con gái, nàng là người lanh lợi và ngọt ngào nhất, thường ngày cũng là người có nhiều nhân duyên* nhất. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng nàng vui vẻ và tinh nghịch nhất, ai biết kỳ thật trong ba người, người có tâm lý trưởng thành, tính cách kiên cường nhất cũng chính là nàng? *(nhân duyên có nhiều nghĩa, ở đây chỉ sự "được lòng" của khách đến kỹ viện)
Thiếu nữ ôm ấp tình cảm, ai mà không có giấc mộng giống nhau? Nam nhân dám vì người mình yêu quí mà đối kháng với cả thiên tử, chính là người trong mộng của nàng. Nàng lặng lẽ vẽ một bức họa, người thanh niên trong bức họa có vẻ mặt từng trải, khí phách ngút trời. Y đứng trên đỉnh núi cao cao, những trận gió thốc tung tấm áo bào xanh của y, nhưng chẳng mảy may lay chuyển được y.
Đó là hình tượng Dương đại nhân mà nàng tưởng tượng trong lòng. Hẳn là y có bờ vai kiên cường nhất, có thể chống đỡ cho nàng cả bầu trời, hẳn là y có một đôi mắt sâu thẳm, khiến cho con tim nàng kích động vì y.
Khi nàng chính thức gặp được Dương Lăng, lại chẳng thấy y giống như người trong mộng đó của mình. Tướng mạo y cũng khá đẹp trai, nhưng hơi yếu ớt, cả ngày cứ nằm trong phòng dưỡng thương, thỉnh thoảng ra ngoài phơi nắng thì cũng là một bộ dạng uể oải. Bộ dáng đó thực khác quá xa so với người trong mộng của nàng.
Mãi đến hôm nay, y cưỡi ngựa cao vọt, thân vận một bộ khôi giáp oai vệ nhất, nhìn từ ngoài viên môn(1) vào, bóng dáng uy vũ oai phong của y dường như che lấp cả đất trời, sau lưng chỉ còn một bầu trời xanh thẳm. Cái bóng dáng đó chính là người trong giấc mộng của nàng.
Một khắc nhìn thấy người đại tướng quân anh tuấn oai phong đó đã khiến trái tim nàng thật sự rung động, đập nhanh như chưa từng nhanh như vậy. Cái tên Dương Lăng cùng hình tượng Dương Lăng bắt đầu so khớp lên nhau trong đầu nàng, tạo thành một hình ảnh rõ rệt.
Nàng mong mỏi có ngày có được y, được người anh hùng trong tâm trí của nàng, vị tướng quân thiếu niên anh tuấn này ôm vào lòng, rồi cứ ôm mình như thế mà giục ngựa phi nhanh, dù là phi đến chân trời góc biển, dù là phi đến mãi mãi.
Nhưng bây giờ, giấc mộng vẫn chỉ là giấc mộng, không còn có thể thực hiện được nữa. Hơn nữa, tình cảm này y vĩnh viễn sẽ không bao giờ biết được. Có lẽ không bao lâu nữa, y sẽ quên mất mình thôi?
Mũi Đường Nhất Tiên cay xè, cố nén lệ trong lòng, nàng lôi quyển sổ ra nhét vào kẽ đá. Ngẫm nghĩ một lát, nàng bỗng rút quyển sổ lại, chạy về sau vài bước, rồi dấu nó vào mặt khuất ánh trăng của một tảng đá cao bằng đầu gối, sau đó nhặt một cục đá lên, nấp vào sau tảng đá to.
Bào Tận Trung thấy cái bóng của nàng từ xa, không khỏi cả mừng. Thấy nàng xuất hiện ở cạnh tảng đá to rồi biến mất, hắn vội vàng chạy tới gần. Vừa mới vòng qua tảng đá lớn, Đường Nhất Tiên đã dốc hết sức ném cục đá tới.
Bào Tận Trung hoảng hốt, hấp tấp né qua một bên, tảng đá nện vào vai hắn, dường như đập trúng vào tai. Bào Tận Trung đau đến nỗi hét thảm một tiếng, chỉ cảm thấy nửa bên mặt nóng rát, màng nhĩ lùng bùng, nhất thời không nghe được gì cả.
Bào Tận Trung phẫn nộ điên cuồng gầm lên, vung đao bổ ra, thế đao như hổ dữ có thể chém người thành hai nửa. Nhưng hắn bị trọng thương, nên độ chính xác không đủ, hơn nữa màng nhĩ lại bị ném trúng, đầu hơi choáng, nhát đao này chỉ bổ xéo vào tảng đá kêu lên một tiếng "choang".
Đường Nhất Tiên tự biết mình khó lòng toàn mạng, nên chủ tâm lôi hắn chết chung, cục đá vừa nện xuống là lập tức nhào tới ôm chặt lấy hắn, kéo mạnh về phía sau. Bào Tận Trung đứng không vững, bị người con gái nhỏ con hơn hắn nhiều kéo tới vách núi. Nhìn tới thấy vực sậu hun hút dưới vách núi, Bào Tận Trung sợ tới mức hồn phi phách tán.
Hắn vội buông cánh tay đang ôm tai trái, gót chân ghì chặt vào đá, dùng vòng sắt ở chuôi đao đập vào vai Đường Nhất Tiên. Đường Nhất Tiên đau đến độ rên lên một tiếng, nhưng vẫn nghiến răng, ra sức lôi hắn tới vách núi, muốn kéo hắn xuống vực đồng quy vu tận.
Một lần, hai lần, bả vai non nớt bị cái vòng sắt có tua đỏ gắn ở chuôi đao đập vào đến sắp gãy cả xương, máu chảy ướt đẫm cả áo. Đường Nhất Tiên đau đớn không chịu được, đột nhiên quát to một tiếng, cắn chặt vào cái áo trước ngực Bào Tận Trung. Bào Tận Trung bị nàng kéo dần tới gần vách núi, sợ tới sắp phát điên, hắn hét lớn:
- Mụ đàn bà điên, buông ta ra, đồ...!
Bào Tận Trung hung tợn vung cánh tay lên, dùng chuôi đao nện thẳng vào đầu Đường Nhất Tiên. "Ong" một tiếng, mắt Đường Nhất Tiên chợt thấy tối sầm, một dòng nước tanh mằn mặn xuôi xuống gò má chảy vào trong miệng nàng. Nàng ngẩng đầu lên, căm giận nhìn Bào Tận Trung. Thấy ánh mắt khiến cho người ta sợ hãi đó, Bào Tận Trung lại đập thêm một cú lên đầu nàng. Máu trào ra ướt đầu ướt trán, che mờ cả mắt nàng.
Đường Nhất Tiên như đằng vân giá vũ, đầu óc choáng váng, buông tay lảo đảo vài bước, chân đạp vào khoảng không rồi rơi xuống. Thân hình cuốn vào không trung, vầng trăng mờ đo đỏ dưới trời đó là cảnh tượng cuối cùng mà nàng nhìn thấy, bên trong vầng trăng đỏ tươi đó, dường như nàng lại thấy được người tướng quân trẻ tuổi anh tuấn, giáp trụ trắng toát đang phi ngựa về phía nàng, chiếc tua đỏ trên mũ trụ phất phơ trong gió.
"Chàng... chắc chắn... sẽ báo thù cho ta! Chắc chắn sẽ như thế!"
Đường Nhất Tiên mỉm cười thầm nghĩ, thân thể mềm nhũn rơi thẳng xuống sông.
************************
Sắc trời đã sáng, cả phủ đệ tham tướng đã bị đốt thành đất bằng, vài làn khói đen lượn lờ bốc lên.
Dương Lăng ngây người nhìn đống hoang tàn hồi lâu. Ấu Nương cầm một cái áo choàng nhè nhẹ bước tới, kiễng chân mặc vào cho y, ôn nhu an ủi:
- Tướng công! Chàng đã đứng cả nửa đêm rồi, như vậy cũng không phải là biện pháp, hay là trở về nghỉ ngơi một chút đi.
Dương Lăng nhìn thấy chiếc áo cổ tròn của nàng dính đầy bùn đất lem luốc, còn bị rách vài nơi, không khỏi áy náy cầm tay nàng, đáp:
- Trở về? May mà nàng không sao, bằng không... ta sẽ sẵn sàng nhảy vào đám cháy. Ôi, nàng bệnh vừa khỏi, lại lên núi xuống núi tìm người, bôn ba nửa đêm rồi, cũng nên đi nghỉ đi. Hai vị cô nương Ngọc Tỷ Nhi đang rất đau lòng, nàng cũng đi khuyên giải hai nàng một chút đi.
Ấu Nương khẽ ngả vào vai Dương Lăng, thầm thì:
- Ấu Nương vừa mới gặp các nàng rồi. Tướng công, thiếp biết trong lòng chàng khó chịu. Hôm qua chàng phi ngựa chạy về, trông như sắp phát điên vậy, cặp mắt đỏ ngầu rất đáng sợ. Ấu Nương cũng sợ gần chết.
Dương Lăng thở dài một tiếng, nói:
- Trong bữa tiệc rượu ta đã cảm thấy không bình thường. Bào Tận Thẩm không phải là kẻ độ lượng, cho dù có chịu thua, cũng sẽ không có thần thái vui vẻ như thế. Còn nữa, tên Lưu Sĩ Dung có tâm trạng rất bồn chồn. Ta đã sớm cáo từ ly khai. Trên đường trở về, nhìn thấy trên núi bốc lửa, ta sợ nàng..., Ôi, nàng đi theo ta, đến cả vào kinh đô mà cũng phải chém giết! Biết khi nào mới có thể không khiến nàng phải chịu khổ nữa đây?
Hàn Ấu Nương cảm động:
- Tướng công..., chàng đừng tự trách mình. Ấu Nương gả cho chàng thì đã là người của chàng rồi. Cả đời phú quý cũng tốt, bần cùng cũng tốt, còn có thể rời bỏ chàng sao chứ? Cho dù bây giờ chúng ta ở Dương Gia Bình, chẳng phải cũng phải ăn uống khổ sở, vẫn phải chịu cảnh khổ sao? Vẫn phải đề phòng dã thú trên núi, giặc Thát ở tái ngoại, còn phải lo lắng về thu hoạch...
Những gì tướng công làm cho thiếp đã gấp trăm lần so với những gì mà thiếp bỏ ra. Trong thiên hạ có mấy người đàn ông vì vợ mà không tuân mệnh lệnh hoàng đế? Cho dù phải chết vì chàng, dù chết một vạn lần thiếp cũng không oán trách.
Hàn Ấu Nương lau nước mắt, nói:
- Chỉ là... Liên lụy tới các cô Tiên Nhi. Ấu Nương không thể bảo vệ các muội ấy chu toàn, trong lòng rất áy náy. Bây giờ lại để tướng công khó xử trước mặt Thái tử, thiếp... thiếp...
Dương Lăng xoa tay nàng, an ủi:
- Không phải tướng công đang lo lắng về Thái tử điện hạ Ta chỉ nghĩ, nếu không phải vì ta nhờ các nàng ấy hỗ trợ, cũng sẽ không khiến họ rước lấy họa sát thân. Bây giờ cô nương Tiên Nhi mất tích, e rằng là lành ít dữ nhiều, ta...
Y mới nói được tới đây chợt nghe tiếng bước chân, quay đầu lại thì thấy Dương Nhất Thanh đi tới ôm quyền chào:
- Ty chức ra mắt đại nhân, ra mắt phu nhân.
Dương Lăng lo lắng hỏi:
- Thế nào rồi? Có tìm được Đường cô nương chưa?
Dương Nhất Thanh thưa:
- Đại nhân! Ty chức dẫn người tìm suốt hai mươi dặm dọc con sông dưới chân núi , không thấy tung tích Đường cô nương đâu cả. Ngoài mười dặm hạ du đã là vùng dân chúng sinh sống. Nhưng ty chức đi hỏi dân chúng ven đường, lại không ai biết tin tức. Bây giờ huynh đệ Mãn Thương vẫn còn đang dẫn người tiếp tục tìm kiếm, ty chức lo đại nhân đợi lâu, nên trở về báo tin.
Nghe báo không tìm thấy thi thể của Nhất Tiên, Dương Lăng không khỏi dấy lên một tia hy vọng, ra lệnh:
- Tiếp tục tìm! Nếu cần thì cầm lấy lệnh bài của ta buộc quan phủ địa phương hiệp trợ. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác.
- Dạ, đại nhân!
Dương Nhất Thanh ôm quyền thi lễ. Dương Lăng lại hỏi:
- Bào Tận Trung như thế nào rồi?
Trên mặt Dương Nhất Thanh lộ ra một nụ cười giảo quyệt, hắn đáp:
- Ty chức đánh hắn ngất đi, cho hắn mặc y phục thân binh. Khi bọn người Bào Tận Thẩm giả vờ tới cứu hoả thì ty chức đã dẫn hơn trăm thân binh ngay trước mặt chúng công khai đưa người ra khỏi thành, hiện đã giam vào đại lao của Cẩm Y vệ.
Dương Nhất Thanh ngừng lại một chút, rồi tiếp:
- Đại nhân, người nào đã vào Cẩm Y vệ của chúng ta thì trong bụng hắn có cái gì là phải phun ra hết, cho dù bụng không có gì, muốn hắn nói gì hắn cũng phải nói theo. Tiền đại nhân nghe nói là người do đại nhân đưa tới, bèn bảo người khiêng tới tận nơi xem xét, rất hy vọng giúp được cho ngài chút việc đó.
Tuy Dương Lăng đang tràn ngập phẫn nộ và lo lắng, nghe xong những lời này cũng không kìm được nở một nụ cười, hỏi:
- Ta đã có thể cưỡi ngựa, vậy mà mông Tiền đại nhân vẫn chưa khỏi hay sao?
Dương Nhất Thanh cười gượng đáp:
- Tiền đại nhân thấy người tới tặng quà nườm nượp, sợ một khi mông khỏi, sẽ làm cho người ta không còn cơ hội biểu lộ tâm ý, do đó ông ta cũng định bệnh thêm vài ngày nữa.
Lúc này Dương Lăng mới tỉnh ngộ. Y còn tưởng rằng Tiền Ninh quí cái mông của mình, thì ra là có dụng ý khác. Y gật đầu nói:
- Ừm, việc khảo cung phải nhờ tới y, chứng cớ cũng phải tìm cho ra. Bào Tận Thẩm đường đường là một tên quan lớn tòng tam phẩm, ta không giết được hắn, Trương phó tướng cũng không giết được hắn. Ta muốn tìm chứng cứ đủ để có thể giết hắn, rồi trình lên cho người có thể giết hắn!
Dương Lăng sờ quyển sách trong người, buông từng chữ một:
- Xin nhờ Tiền đại nhân làm ơn tiếp đãi hắn thật kỹ. Một ngày chưa tìm được Đường cô nương, thì không được đánh chết hắn. Hừ! Lần này ta sẽ không lỗ mãng nữa, đánh rắn phải đánh giập đầu. Bào Tận Thẩm làm quan lâu như vậy, sẽ có không ít quan hệ cá nhân. Không nắm chắc hoàn toàn, ta sẽ không động tới hắn. Không nắm chắc hoàn toàn, sau này ta sẽ không gây thù chuốc oán với ai nữa!
Y nắm chặt bàn tay Ấu Nương, khẽ nói:
- Ta không muốn lại để người của ta phải vì ta mà nơm nớp lo sợ. Cũng không muốn lại làm cho người của ta vì ta mà bị thương. Về phần Bào Đại tướng quân, ta sẽ cho hắn tiếp tục tiêu dao mấy ngày nữa!
******************************************
Một đoàn ngựa xe rầm rộ đi trên đại lộ. Nhìn đội nghi trượng rợp bóng cờ xí, hẳn phải là thuộc loại vương hầu phô trương vào bậc nhất. Trời đã gần trưa, ánh dương gay gắt, rèm kiệu của một chiếc xe ngựa được vén lên, có tiếng người nói với tên trung quan cưỡi ngựa bên cạnh:
- Bách Thuận à! Tới gốc cây kia nghỉ một chút đi. Ta mệt rồi, muốn xuống kiệu đi lại một chút.
- Dạ, Vương phi nương nương!
Tên quan đó vội vàng cao giọng hô:
- Cho đoàn xe đỗ dưới bóng cây!
Đoàn xe từ từ dừng lại bên dưới cánh rừng bạch dương. Rèm kiệu được vén lên, một phụ nữ chừng bốn mươi, tóc đen tuyền, mặc áo dài chấm gót, khoác khăn quàng vai và mũ phượng cùng màu, bước xuống xe. Nàng nhè nhẹ vặn eo, nhìn đồng ruộng xanh mượt bên đường, nói:
- Ừm, vừa ra ngoài một chút đã thấy thoải mái hơn nhiều rồi. Lát nữa gỡ mũ phượng và khăn quàng vai cho ta đi, đường còn xa lắm, đội rất mệt.
Hai thị nữ sau lưng cúi người đáp:
- Dạ, nương nương!
Vương phi nghe thấy tiếng chim hót trên ngọn cây, không khỏi vui vẻ nói:
- Tiếng chim này rất dễ nghe! Mang Phi Nhi của ta ra, nó cũng chán lắm rồi.
Một tên thái giám cầm một cái lồng bằng tơ vàng vội vàng chạy tới. Vương phi cầm lấy lồng chim, lấy mồi chim từ tay tên thái giám dụ con chim hoạ mi, bộ dạng trông rất vui vẻ.
Lúc này một lão già lưng hơi còng đi tới. Vương phi nhìn thấy lão bèn cười nói:
- Lưu Lương, mấy con chim sáo của ta mua trong kinh thành sao rồi? Vẫn chưa nói à? Về đến nhà lão phải chăm sóc chu đáo. Lúc lột lưỡi lão phải cẩn thận một chút, đừng để chúng chết đó.
Lão Lưu Lương cười nịnh:
- Nương nương yên tâm! Nương nương thiện tâm như Quan Âm Bồ Tát, những con chim này theo bà, cũng coi như là có phước rồi.
Vương phi vừa nghe liền không khỏi cười lớn. Lưu Lương nhân cơ hội báo:
- Nương nương, cô nương mà chúng ta cứu được dọc đường giờ đã tỉnh lại rồi. Nhưng hình như bị đần độn, hỏi cô ta cái gì cũng không nhớ được, nương nương xem chúng ta nên làm sao đây?
Vương phi nghe xong khẽ chau mày, hỏi:
- Cô nương đó trông rất thông minh, sao lại đần độn được chứ? Đi, đi xem thử!
Mấy người trung quan, thị nữ và Lưu Lương cùng đi theo Vương phi đến bên cạnh một chiếc xe ngựa phía sau. Trên xe có một cô nương đang ngồi, hai tay ôm đầu gối hoảng sợ nhìn đám người đang đi tới. Trên đầu nàng băng trắng xóa, rỉ ra chút máu, khuôn mặt xinh xắn vì mất máu quá nhiều nên hơi tái nhợt.
Vương phi hỏi:
- Cô nương! Cô tên là gì, người ở nơi nào, sao lại mặc y phục nam nhân, đã gặp phải trộm cướp trên đường à?
Cô nương kinh hoảng nhìn bà ta, hỏi lại:
- Bà là ai, ta không biết bà, tại sao ta ở chỗ này?
Lưu Lương đáp:
- Đây là Lý nương nương của Vương phủ cai quản Sơn Tây. Nương nương thiện tâm, nhìn thấy cô ngất xỉu bên bờ sông, nên đã bảo ta cứu cô. Cô còn nhớ được tên mình không, là người ở đâu?
- Tên à?
Cô nương thốt lên ngây ngô, rồi đột nhiên bật khóc:
- Không nhớ! Ta chẳng nhớ rõ gì cả, ta là ai, sao ta ở chỗ này?
Vương phi khẽ nhíu mày, Lưu Lương thấp giọng nói:
- Nương nương, đầu cô nương này bị thương, bây giờ lại chẳng nhớ gì cả. Nương nương xem, có nên tới thị trấn phía trước, giao cô ta cho quan phủ không?
Vương phi ái ngại nhìn người con gái mặt đầy vẻ hoảng sợ, khom người nhỏ nhẹ hỏi:
- Cô nương! Cô cố nhớ lại đi, có thể nhớ được mình tên gì, nhà ở đâu không?
- Ta... Ta...
Cô gái chớp chớp mắt, đầu óc choáng váng, tựa hồ thấy một tướng quân thiếu niên anh tuấn bất phàm, cưỡi con ngựa trắng đang lướt tới, nét mặt nàng không khỏi lộ ra chút mừng rỡ, trong ý thức dường như bắt được một cái tên rất quan trọng. Nàng vừa muốn mở miệng gọi y, trong đầu đột nhiên lại trở nên trống rỗng, chẳng nhớ gì nữa.
Cô nương lại lắc lắc đầu, phiền muộn đáp:
- Ta không nhớ nổi, không nhớ nổi đâu...
Nàng lắc đầu lia lịa, làm động đến vết thương trên đầu, không kìm được đau đớn kêu lên một tiếng rồi ôm lấy đầu, nước mắt rơi lã chã.
Vương phi thấy cô nương này xinh đẹp vô cùng, cặp mắt đen láy như chim hoạ mi đang nhìn mình, không thể không mềm lòng, bèn nói:
- Trông cô nương này như thế, nhất định vốn là một nha đầu xinh đẹp đáng yêu, cũng không biết bị ai gây ra tai họa thành ra nông nỗi này.
Chà! Nàng ta đã không nhớ nổi điều gì, giao cho quan phủ, những người đó làm được gì chứ? Gặp kẻ táng tận lương tâm, có khi còn hại cả đời cô nương nhà người ta. Cứu người phải cứu tới cùng, tiễn phật thì tiễn đến Tây Thiên. Cô nương này chẳng nhớ được gì, vậy đưa nàng về Đại Đồng đi. Nha đầu nhỏ tuổi như vậy, ta vẫn còn nuôi được.
Đám người bên người dạ một tiếng, tên trung quan vẫn còn hỏi:
- Nương nương! Cô nương này thương thế lành rồi thì sẽ làm người hầu ở ngoại phủ hay đưa vào nội phủ?
Vương phi cầm lồng chim đưa cho Lưu Lương, đáp vẻ không vui:
- Phủ của ta còn thiếu a hoàn sai bảo à? Ta cứu người còn muốn người ta bán mình trả nợ là làm sao?
Nàng liếc mắt nhìn Lưu Lương, không khỏi vui vẻ:
- Lưu Lương! Không phải hai vợ chồng già các ngươi không có con sao? Vậy nhận cô nương này làm nghĩa nữ đi, thường ngày sẽ giúp ngươi chăm sóc cho đám bảo bối đó của ta. Không chừng khi chơi với đám tiểu gia hỏa lanh lợi đó của ta, đầu óc cô ta có thể nhớ lại một chút gì đó.
Nàng cười ha ha đi vài bước, rồi quay lại bảo:
- Cô nương xinh đẹp này, đến cả tên cũng không nhớ được, đáng thương quá. Trở về vương phủ, cần tìm lang trung giỏi khám bệnh kỹ lưỡng cho cô nương đó. Được rồi, cô ta vẫn chưa có tên, cũng không thể cứ gọi cô nương này cô nương nọ như vậy. Đã đưa vào nhà ngươi rồi, vậy gọi là... Lưu Lương Nữ* đi. (*: con gái của Lưu Lương, cũng có nghĩa cô gái ngoan họ Lưu)
Chú thích:
(1) Ngày xưa vua đi tuần ở ngoài, đến chỗ nào nghỉ thì xếp xe vòng xung quanh làm hàng rào, để một chỗ ra vào, hai bên để xe dốc xuống càng xe ngỏng lên để làm dấu hiệu, nên gọi là viên môn. Về sau cũng gọi ngoài cửa các dinh các sở là viên môn, có khi cũng gọi các dinh các sở quan là viên nữa. Các nhà trạm khi các quan đi công cán qua nghỉ chân gọi là hành viên.
Chương 84: Ngày hai mươi tám tháng tư
Dịch: workman
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: X1999_vn
Nguồn: www.tangthuvien.com
Dương Lăng nhìn vẻ mặt hưng phấn tin phục của họ, không khỏi thầm tiếc: "Đáng tiếc mình không ở trong quân đội, nếu không viết quyển 'Luận ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng cơ sở quân đội', tương lai không chừng có thể truyền lại thành bản 'Dương Tử binh pháp' chứ chẳng chơi."
Mồng bảy tháng tư, năm Hoằng Trị thứ mười tám, quan Đề đốc Vương Nhạc của mười hai đoàn doanh và Anh Quốc công Quách Huân tới kiểm tra Thần Cơ doanh, tra ra phó Tham tướng Tả Tiêu quân Bào Tận Thẩm của Thần Cơ doanh , quan Đô ty Lưu Sĩ Dung của đệ tam ty và các tướng tá lớn nhỏ, tổng cộng mười ba người tham ô lương bổng cùng lương thực của quân đội, đút vào túi riêng, còn có những chuyện phạm pháp khác đang điều tra. Hoàng đế tức giận, sai Cẩm Y Vệ bắt chúng vào kinh chờ xét xử.
Mồng tám tháng tư, Giám sát Ngự sử Vương Lương Thần của Giám Sát viện, Cấp sự trung Trần Đình của Binh khoa tố cáo Tham tướng Tả Tiêu quân Dương Lăng của Thần Cơ doanh đem đàn bà vào trong doanh, trọ lại trong quân. Vua hạ chiếu, Dương Lăng bị phạt hai mươi quân côn, giáng một phẩm nhưng vẫn giữ nguyên chức, phạt nửa năm bổng lộc.
Ngày sau, cho vời Dương Lăng vào cung, dùng lời lẽ nghiêm khắc để dạy dỗ và khiển trách, rồi lệnh cho Đề đốc Vương Nhạc chỉnh đốn quân kỷ, ban cho Dương Lăng Song Hổ phù, dẫn quân vào núi luyện tập võ nghệ.
Dưới sườn núi, những đội sĩ binh chia thành tổ tiến hành huấn luyện bắn khi di chuyển và bắn tại chỗ trong sơn cốc phía trước. Tiếng súng đì đùng, khói thuốc súng bốc lên mịt mù. Đến hôm nay, Dương Lăng đã dẫn đại quân vào núi huấn luyện khổ cực trên hai mươi ngày.
Binh lực của ba ty Tả Tiêu doanh có tổng cộng bốn ngàn năm trăm người, cộng với số thân binh và đội Đốc chiến trực thuộc Tham tướng, tổng cộng năm ngàn người. Trong đó bộ binh là ba ngàn sáu trăm người, một nhánh nhân thủ là bộ binh sử dụng súng hoả mai; pháo binh là bốn trăm người, được trang bị một trăm sáu mươi khẩu đại bác Đại Tướng Quân dã chiến, đồng thời mỗi người còn được cấp một khẩu súng tay phòng thân; năm trăm người khác được trang bị khá nhiều súng hoả mai.
Dương Lăng được vua ban lệnh tiễn, giao cho đặc quyền toàn quyền xử lý việc diễn binh tập võ, huấn luyện toàn quân dùng hỏa khí đạn dược. Lúc chỉ bảo huấn luyện nhóm binh sỹ này, y có cảm giác dường như mình đã vượt thời không quay về thời hiện đại. Ngoại trừ đội Đốc chiến thân binh của Dương Lăng là dùng khoái mã trường đao, có thể nói là toàn bộ quân đội hoàn toàn dùng súng ống.
"Đây là quân đội của triều nhà Đại Minh sao?" Nhất là khi đã từng thấy thời Mãn Thanh với những đại đao trường mâu hoàn toàn vô tác dụng, cảm giác kích động của Dương Lăng càng mãnh liệt hơn.
Dẫu rằng súng ống bây giờ tốc độ bắn chậm, tầm bắn gần, vẫn còn có khuyết điểm chí mạng nếu đơn độc chiến đấu với một đội kỵ binh lớn, nhưng nếu có thể bảo trì được cái thế này, tương lai không lâu sau khi thời đại hỏa khí phát triển mạnh, chúng ta sẽ không tụt hậu sau thế giới. Một quốc gia tiên tiến nhất, văn minh nhất, sẽ không trở thành chủng tộc ngu muội lạc hậu trong mắt người Tây phương, mặc cho người khi dễ chèn ép.
Cho dù có những khuyết điểm này, nhưng khi chiến đấu trong thành thị và rừng núi, loại súng này cũng vẫn phát huy uy lực vượt xa đại đao và trường mâu như thường. Nó căn bản không phải thứ mà thân thể bằng da, bằng thịt và võ nghệ cá nhân có thể chống lại được.
Khi ở Kê Minh dịch, Dương Lăng đã từng chứng kiến uy lực của pháo Đại Tướng Quân. Mặc dù thua xa vũ khí hiện đại, nhưng vì hệ thống phòng ngự lúc đó cũng rất bạc nhược, do đó sức tàn phá và lực sát thương của nó cũng không kém gì đại pháo bây giờ. Hơn nữa, với rất nhiều khẩu súng hoả mai, cũng đủ để tạo thành sát thương rất lớn trong nháy mắt khi hai quân giao phong.
Loại quân đội toàn bộ được trang bị hỏa khí này trước mắt tuy không phải là lợi khí tốt nhất để hành quân xa tác chiến, nhưng lại là trợ thủ đắc lực nhất để phòng thủ và dẹp loạn kinh sư. Dương Lăng biết, dựa vào quyền lực của y bây giờ và sự bố trí quân đội này, y cũng không cần phải lo lắng về những việc lâu dài. Việc bây giờ y muốn làm là trong thời gian ngắn nhất làm cho đội quân này trở thành quân tinh nhuệ nhất trong năm đại doanh của Thần Cơ doanh, thậm chí là lực lượng cường đại nhất trong số mười vạn đại quân của mười hai đoàn doanh ở kinh sư.
Muốn làm được điểm này quả cũng khá dễ dàng . Trải qua hơn mười ngày luyện tập đội ngũ chay , bây giờ bọn lính có thể chấp hành thuần thục phương pháp ba đội đối chiến và bắn theo ba hàng (*) . Tốc độ và mật độ bắn cũng nhiều hơn gấp ba lần trước đây . Đến lúc này , sức chiến đấu của Tả Tiêu quân lập tức tăng lên rất nhiều . (*: trong những đoạn cuối chương 26: có giải thích về hai phương pháp này - ND)
Thế là, những tướng lĩnh trong quân vốn còn ôm thái độ nghi ngờ về năng lực của y nhất thời hoàn toàn bái phục. Đến cả ánh mắt của Bành mập và Liên mặt rỗ khi nhìn y cũng tràn ngập kính phục. Dương Lăng cho đến lúc này mới làm rõ chế độ thăng chức và thưởng phạt trong quân. Huấn luyện năng lực tác chiến độc lập của Đội, Tiếu, Hỏa, những binh sỹ có biểu hiện năng lực xuất sắc có thể được đặc cách đề bạt, và cách chức tại chỗ đám quan quân lười nhác vô năng. Vì thế, sĩ khí quân đội lập tức dâng cao. Binh lính vốn lười nhác đều thay da đổi thịt, như beo như cọp, tinh thần hừng hực.
Dương Lăng đứng trên sườn núi quan sát đám sĩ binh diễn luyện. Hơn mười ngày huấn luyện, khuôn mặt vốn trắng trẻo của y bị sạm lại, nhưng tinh thần và khí chất lại kiên nghị và quả quyết hơn vài phần. Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ tỏ vẻ hài lòng. Sau khi y ra lệnh bỏ đi giáp trụ nặng khoảng bốn mươi cân, tốc độ tiến lên và năng lực ứng biến của đám binh sĩ rõ ràng đã được nâng cao lên rất nhiều.
Đám tướng lĩnh vốn rất bất mãn với việc bỏ mũ cởi giáp, nhưng khi thấy đám sĩ binh phản ứng nhanh gấp đôi so với lúc đầu, cũng không thể không thừa nhận năng lực tự vệ của bọn lính tuy nhìn hơi yếu bớt, nhưng lực sát thương quân địch và cơ hội tránh né thương tổn ngược lại thực đã tăng lên không ít.
- Con mẹ nó, ta cũng theo binh nghiệp nửa đời người rồi, nhưng không nghĩ tới có thể cho binh lính xếp thành ba hàng đứng, quì, nằm? Còn lập đội ba người, một tên nạp thuốc, một tên châm lửa, một tên phụ trách bắn? Ba người một khẩu hoả mai, bắn tới mưa gió cũng không lọt, so với kiểu bắn cứ như ong vỡ tổ trước kia mạnh hơn gấp trăm lần!
Bành Kế Tổ bội phục liếc nhìn Dương Lăng, nói với y:
- Đại nhân, nắng gắt rồi, vào lều nghỉ ngơi một chút đi.
Dương Lăng khẽ gật đầu. Hai người quay về chỗ tán cây mọc ở sườn núi. Liên Đắc Lộc xoa tay nói:
- Đại nhân, hai ngày qua nhìn đám thủ hạ luyện binh, ty chức cũng hơi dằn lòng không đặng. Người làm tướng phải làm gương cho binh sĩ, tại sao đại nhân không cho chúng ta xuống dưới chỉ huy sĩ binh luyện tập hành quân đánh nhau vậy?
Dương Lăng nâng chén uống một ngụm trà, nhìn đám tướng quân ngồi trong lều, cười hỏi:
- Ồ, vậy ngươi nói cho ta hay, người làm tướng phải làm sao mới làm gương cho binh sĩ được?
Liên Đắc Lộc đáp:
- Cái đó còn phải nói sao? Muốn tăng sĩ khí, khi đánh nhau ở chiến trường, thân là quan tướng phải xung phong lên phía trước. Tướng lĩnh của một đội quân, là linh hồn của toàn quân, tướng dũng binh tất dũng. Hắc hắc, không phải trước mặt đại nhân khoe khoang, chứ mạt tướng đánh trận rất dũng mãnh. Lúc dẹp loạn Miêu Cương, mạt tướng nhậm chức Bách hộ, tự mình dẫn ba trăm binh sĩ trong đêm đánh lên núi, liên tục đánh ba trại lớn, thừa dịp hỗn loạn còn giết được động chủ Miêu Cương vốn được bọn chúng xưng là Vạn Nhân Địch đó.
Dương Lăng gật đầu cười nói:
- Không tệ, quả nhiên dũng mãnh, đủ để làm chức Bách hộ.
Liên mặt rỗ nghe xong phấn khích cười ha hả, dương dương đắc ý liếc mắt nhìn các tướng khác. Lại nghe Dương Lăng nói:
- Nếu ngươi bây giờ vẫn có ý nghĩ như thế, cả đời ngươi cũng chỉ có thể làm Bách hộ, không có cơ hội lên chức.
Tiếng cười của Liên mặt rỗ bất chợt nghẹn lại. Bành Kế Tổ cười phì một tiếng, giảo quyệt liếc gã một cái, trong lòng thầm nghĩ:
- Ta biết ngay đại nhân nhất định có ý khác, nên không chõ vào, quả nhiên là đúng.
Liên mặt rỗ lẩm bẩm:
- Sao lại... Đại nhân cảm thấy mạt tướng dũng cảm xông lên là không đúng sao?
Dương Lăng nghiêm mặt nói:
- Đúng, có điều là đúng khi ngươi đang giữ chức Bách hộ. Tướng quân xung phong xông lên phía trước, quả có thể nâng cao sĩ khí toàn quân, khiến cho ai ai cũng dũng cảm giết giặc. Nhưng bây giờ ngươi đã là quan Đô ty, thủ hạ có một ngàn năm trăm quân binh. Ta hỏi ngươi, đao thương không có mắt, nếu ngươi xung phong lên phía trước, trong loạn quân bị địch nhân giết mất, thử hỏi một ngàn năm trăm huynh đệ của ngươi sẽ do ai chỉ huy? Khi rắn đã mất đầu, toàn quân có bị tiêu diệt không?
Liên mặt rỗ tuy thấy Dương Lăng hỏi có lý, nhưng người làm tướng chẳng lẽ vì vậy mà khi lâm trận lại sợ hãi sao? Trên mặt gã không khỏi hiện lên thần sắc không phục. Đám tướng cũng phần lớn lộ vẻ mặt kì lạ, chỉ có hai ba người xem ra có điều ngộ ra, có vẻ trầm tư.
Dương Lăng chỉ vào đám dũng sĩ dưới chân núi dưới sự chỉ huy của Bả tổng (Bả tổng còn được gọi là Bách tổng), Sáo trưởng, Thập trưởng lúc thì hợp, lúc lại tách ra, và nói:
- Đây là lí do ta không cho phép các vị xuống núi, mạnh tay để quan tá cấp dưới lĩnh binh độc lập.
Trước tới nay, trong mắt các ngươi, đám sĩ quan chỉ là một đám hò hét, phụ trách truyền đạt mệnh lệnh của các ngươi, chứ không có năng lực chỉ huy tác chiến độc lập, cũng không có can đảm chỉ huy tác chiến độc lập. Do đó, nhân vật từ Đại tướng trở lên cực kỳ trọng yếu trong quân đội, vì vậy mới có câu như "lâm trận không thể đổi tướng" hay "ba quân không thể mất soái".
Ta lại nghĩ rằng, một tướng quân chỉ dựa vào danh vọng và dũng khí cá nhân để cổ vũ sĩ khí toàn quân, là tướng quân thất bại nhất. Ngươi xem, ở trên này, liếc qua là có thể thấy hành tung, tiến thoái của các đội ngũ ngay. Ngươi thân là tướng quân, bất cứ lúc nào cũng có thể biết quân mình đang ở đâu, chỗ nào chiến thắng, chỗ nào chiến bại; bất cứ lúc nào cũng có thể phát lệnh, điều khiển hoặc điều chỉnh, phân phối sức mạnh toàn quân.
Nếu ngươi tự mình xông lên phía trước, đừng nói thân là người trong cuộc ngươi không thấy được biến hóa của cuộc chiến giữa hai phe địch ta, mà ngay cả thủ hạ của ngươi muốn xin ngươi đứng ra chỉ huy cũng không tìm thấy ngươi đâu. Một khi ngươi chết trận sa trường, toàn quân sẽ chia năm xẻ bảy, cho dù đông gấp mười lần địch quân, cũng chỉ có thể mặc cho người ta xâu xé. Đấy là do binh sĩ vô năng, hay là lỗi của tướng lĩnh?
Liên mặt rỗ lập tức nghẹn lời. Dương Lăng lại nói:
- Người làm Đại tướng, ta không cần ngươi phải "thiên nhân trảm, vạn nhân địch" (chém ngàn người, địch nổi vạn người). Chỉ cần ngươi có thể đứng giữa chỉ huy, biết cách điều động, ngươi có bản lĩnh bồi dưỡng quan tá, tiểu hiệu dưới quyền của ngươi ai nấy đều trở thành "thiên nhân trảm, vạn nhân địch" thì đó mới là cái tài của thượng tướng, đó mới là một đội quân bách chiến bách thắng.
Những đạo lý lẽ ra rất đơn giản này lọt vào tai đám tướng lĩnh vốn chưa từng ý thức được tác dụng của bọn tiểu tốt, thật sự đã trở thành thứ đạo lý mới mẻ vô cùng. Có mấy người từ lính trơn đi lên tướng quân lĩnh hội nhanh nhất, nghe xong không ngừng gật đầu lia lịa. Dương Lăng nhìn vẻ mặt hưng phấn tin phục của họ, không khỏi thầm tiếc: "Đáng tiếc mình không ở trong quân đội, nếu không viết quyển 'Luận ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng cơ sở quân đội ', tương lai không chừng có thể truyền lại thành bản 'Dương Tử binh pháp' chứ chẳng chơi."
Hắn uống ngụm trà, nheo mắt lại nhìn một mảnh rừng cây bên sườn núi đối diện. Nơi đó địa thế khá là thấp, cây cối trong rừng cũng không rậm rạp, nhưng nhìn hồi lâu lại chẳng thấy trong rừng có một bóng người nào, Dương Lăng không khỏi nở nụ cười hài lòng.
Dương Lăng điều ra ba trăm người trong đám thân quân và đội Đốc Chiến của mình, sai đám Dương Nhất Thanh, Hàn Lâm, Hàn Vũ dẫn những người này vào rừng huấn luyện. Trải qua hơn mười ngày huấn luyện khổ cực, xem ra đã có hiệu quả rồi.
Bản lĩnh lục soát, ám sát, và bố trí mai phục của Dương Nhất Thanh thuộc loại nhất lưu. Cha con nhà họ Hàn võ nghệ còn cao minh hơn Dương Nhất Thanh, hơn nữa quanh năm săn bắn trong núi, quả thực chính là cao thủ trời sinh để chiến đấu ở vùng núi cây cối. Bản lĩnh làm cơ quan mai phục, lần theo dấu vết quả là xuất thần nhập hóa. Có ba người bọn họ dạy, tin rằng không được bao lâu, có thể huấn luyện ra một đội tinh binh đặc chủng.
Dương Lăng đã yêu cầu Nam Trấn Phủ ty đặc biệt cung cấp một mớ quân giới chuyên dụng của Cẩm Y Vệ dùng để lùng bắt và ám sát. Hắn dụng tâm nhìn vào vùng núi, tiếp tục nói:
- Để quân sĩ luyện tập thêm hai ngày nữa, chờ bọn họ thuần thục thêm một chút, sẽ đến lượt các vị ra tay. Đến lúc đó, các vị lĩnh một đội, dùng đối phương làm quân địch giả, luyện tập hành quân bày trận như thế nào, điều binh khiển tướng ra làm sao, để bọn họ có kinh nghiệm chiến đấu thực tế nhiều hơn một chút.
Các vị tướng quân, muốn điều binh khiển tướng, chẳng những cần quen với binh tướng thủ hạ ngươi, còn phải hiểu rõ thực lực của quân địch và bản thân. Chiến đấu chính thức trên chiến trường không thấy được rõ ràng như chỗ này đâu. Do đó, tác dụng của trinh sát là không nhỏ chút nào.
Y nhớ tới trận đại hỗn chiến tại Hồ Lô Cốc ở Kê Minh Dịch, lần đó toàn quân suýt nữa bị tiêu diệt, không khỏi vô cùng cảm khái nói:
- Một trinh sát tốt, có khi có thể đáng giá cả thiên quân vạn mã, một tin tức của họ có thể quyết định thắng bại của một trận chiến. Trên đời, loại người liệu sự như thần, nhìn thấu tiên cơ như Gia Cát Lượng cũng chỉ có thể ngộ chứ không thể cầu được.
Quan thủ bị cười nói:
- Đại nhân nói rất đúng. Huống hồ, cho dù là Khổng Minh tiên sinh, cả đời cũng có lúc tính sai. Mấy người dốt nát như chúng ta lại càng kém hơn nhiều.
Các tướng nghe xong đều cười ha hả. Lúc này, một tên binh lính lao vào. Dương Lăng quay đầu nhìn, thấy đó là anh vợ Hàn Uy của mình. Y lập tức khẽ gật đầu với mấy vị tướng tá rồi đi theo Hàn Uy ra ngoài.
Hàn Uy sau khi đưa thê tử hồi kinh cũng gia nhập quân đội. Tuy nói thời này "trai tốt không đi lính", nhưng dù sao so với việc săn bắn hoặc làm dịch tốt thì địa vị vẫn cao hơn. Huống hồ, quân lương của doanh trại kinh sư chẳng những là cao nhất trong quân đội Đại Minh, mà chủ soái quân đội còn là em rể của y.
Dương Lăng đi theo y đến dưới một tàng cây, rồi hỏi:
- Đại ca, huynh đã nghe ngóng được gì rồi?
Hàn Uy nói:
- Chuyện này rất ư kỳ quái. Chứng cứ mà muội phu tra được có ghi Bào Tận Thẩm bán trộm súng và hỏa dược, thậm chí bán cho nhà nào, bán bao nhiêu cân lượng cũng đều ghi rõ rành rành. Rõ ràng đã trình vào cung rồi, nhưng bây giờ Bào Tham tướng và Lưu Đô ty bị giam vào ngục cũng chỉ công khai tội danh là tham ô, bọn chúng vẫn sống yên lành.
Người Dương Lăng thoáng run lên, vừa ngạc nhiên vừa phẫn nộ, nói:
- Cái gì? Chúng vẫn còn sống sao? Rốt cuộc bọn chúng đã chạy chọt cửa nào mà đến cả tội danh này cũng có thể che đậy thế?
Hàn Uy lắc đầu, nói:
- Tấu chương của muội phu là trình cho Hoàng Thượng, nhưng Ngự sử của Giám Sát viện Thập Tam Đạo và Cấp sự trung của Lục khoa chẳng biết dùng phương pháp gì mà biết được nội dung. Thế là ngươi một quyển ta một quyển, mỗi ngày đều dâng sớ, Hoàng Thượng cũng không có phản ứng gì.
Dương Lăng trầm tư hồi lâu, rồi quả quyết nói:
- Không được, ta phải hồi kinh xem sao. Đường cô nương sống chết chưa rõ, ta không thể nhìn hung thủ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật!
Hàn Uy giật mình nói:
- Lúc này mà về kinh, muội phu lại là chủ soái, tự tiện ly khai đại doanh nếu lại để người ta biết được, coi chừng sẽ bị hạch tội đó.
Dương Lăng nói:
- Không sao, hai ngày qua cũng sắp dùng hết đạn dược rồi. Hoàng Thượng ban cho đệ Song Hổ phù, muốn điều động đạn dược là có ngay, đệ tiện đường đi tới bộ Binh là được.
***
Đêm ngày hai mươi tám tháng tư, kinh sư chìm trong cơn mưa lớn.
Đây là cơn mưa lớn đầu tiên sau đợt hạn hán kéo dài, từ buổi trưa kéo đến tận lúc màn đêm phủ xuống. Mưa như trút nước. Trên đường mù mịt không một bóng người, những tảng đá lót đường được nước mưa rửa sạch bong, phản chiếu ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn lồng chập chờn dưới vài ba căn gác. Hai thớt thiết kỵ chạy nhanh như gió lốc, xuyên qua màn mưa vào kinh thành.
Hai kỵ sĩ trên lưng ngựa khoác áo tơi, khẽ cúi người né làn mưa như trút, con tuấn mã khoẻ mạnh xuyên qua làn mưa lướt trên đại lộ. Những gợn sóng nước do những chiếc vó ngựa to bằng cái bát bắn lên trong nháy mắt đã bị cơn mưa lớn xóa nhòa, rào rào chảy xuống, chẳng lưu lại chút dấu vết nào.
Đông An môn, Bắc Trấn Phủ ty, Thiên hộ Vu Vĩnh đang ngồi trên ghế uống trà, cười tủm tỉm nhìn chăm chú nước mưa xâu lại thành từng dòng trút xuống mái hiên, trông như một tấm rèm. Đầu năm nay gã đã mua được ba khoảnh ruộng tốt ở gần kinh thành. Năm nay mãi mà chưa có mưa to, còn tưởng rằng lúc này muốn thất thu rồi. Ông trời quả có mắt, nhìn trận mưa dầm dề này, mặt đất khô nứt nẻ được giải khát rồi.
Hắn đang cười tủm tỉm trầm ngâm tính toán, đột nhiên hai nam tử khoác áo tơi xuyên qua màn mưa vội vã xông vào đại sảnh. Nước mưa từ người hai người chảy xuống ròng ròng, thành một dòng suối nhỏ. Vu Vĩnh ngước mắt nhìn, thờ ơ hỏi:
- Chuyện gì mà gấp vậy? Trời mưa như trút nước mà cũng không được yên à?
Dương Lăng ngẩng đầu, nhìn thấy tên Thiên hộ mặc cẩm y cầu kỳ, chân bắt chéo chính làhậu duệ quí tộc tóc vàng người Đức mà mình gặp lần trước. Y vừa cởi áo tơi xuống vừa cười, nói:
- Hóa ra là Vu đại nhân. Ha ha, sao hôm nay lại là đại nhân trực thế?
Vu Vĩnh thấy người vừa cởi áo tơi xuống mặc một thân y phục của binh sĩ bình thường, khuôn mặt anh tuấn gầy gò, mấy lọn tóc còn dính nước mưa, khuôn mặt bị nước mưa làm ướt nhẹp, nhưng lại nhất thời không nhớ nổi y là ai, không khỏi nghi hoặc hỏi:
- Ngươi là người của bộ Binh à? Chuyện gì mà tự tiện xông vào Trấn Phủ ty nha môn của ta vậy?
Dương Lăng cười nói:
- Vu đại nhân đúng là quý nhân hay quên mà. Huynh đệ là Dương Lăng, đại nhân còn nhớ chứ?
Vu Vĩnh "a" lên một tiếng, thoáng cái đã nhớ ra. Nhân vật một thời phong vân gần đây, gã sao mà không nhớ chứ. Vu Vĩnh cười bồi, nói:
- Nguyên lai là Dương đại nhân. Thất lễ, thất lễ. Sao... sao đại nhân lại mặc trang phục như thế này?
Dương Lăng cười khà khà nói:
- Mặc bộ y phục này hồi kinh tiện hơn. Phải rồi, Mưu đại nhân có ở đây không?
Y hỏi chính là Bắc Trấn Phủ ty Trấn Phủ sứ Mâu Bân. Vu Vĩnh là người quen biết luồn cúi, biết người mặc trang phục binh sĩ Cẩm Y Vệ ở trước mặt là tâm phúc của Trương Đề đốc, Mâu đại nhân và chưởng hình Thiên hộ Tiền đại nhân cũng phải kính lễ ba phần, vội hỏi:
- Không may, sáng sớm Mâu đại nhân đã dẫn theo Tiền đại nhân ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở về. Chẳng biết đại nhân có chuyện gì sai phái, có lẽ ty chức có thể cống hiến sức lực.
Dương Lăng nghe xong hơi thất vọng. Việc này hắn không tiện nói với Vu Vĩnh, đành phải thuận miệng nói:
- À, cũng không có gì. Bản quan hồi kinh xử lý công vụ, thuận đường đến thăm hai vị đại nhân.
Vu Vĩnh cười hì hì nói:
- Đại nhân đã có lòng. Bây giờ mưa còn chưa dứt, hay là đại nhân ngồi xuống uống chén trà nóng, không biết chừng trong chốc lát hai vị đại nhân sẽ... Ồ, thật khéo, đại nhân đã trở về rồi.
Dương Lăng quay đầu lại, chỉ thấy hai chiếc kiệu đang được khiêng vào sân, mãi đến tận hành lang mới dừng lại. Hai người mặc trang phục Phi Ngư (cá chuồn) từ trong kiệu vội vã chui ra, bước nhanh vào sảnh. Dương Lăng vội tiến lên phía trước hành lễ:
- Ty chức Dương Lăng, ra mắt đại nhân.
Trấn Phủ sứ Mâu Bân thần sắc nghiêm trọng, căng thẳng sải bước đi vào, trông thấy Dương Lăng thì không khỏi ngẩn người, ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi sao lại hồi kinh? - Rồi không đợi y trả lời, lập tức bảo:
- Về đúng lúc lắm, mau theo ta vào phòng nói chuyện.
Dương Lăng thấy Tiền Ninh đi theo phía sau Mưu Bân cũng lộ thần sắc kinh hoàng, thậm chí quên cả chào hỏi y, không biết đã xảy ra chuyện lớn gì, tâm tình cũng vì vậy trở nên khẩn trương, liền vội khoát tay bảo Hàn Uy tạm thời nán lại, rồi đi theo Mâu Bân vào thẳng thư phòng.
Mâu Bân vừa vào thư phòng lập tức cầm lấy bút đặt trên án thư vội vàng viết vài hàng chữ, lấy ấn ra đóng lên, rồi đưa cho Tiền Ninh, nói:
- Nhanh, ngươi lập tức sai người dùng khoái mã chạy tới Thiên Tân vệ, mời Trương đại nhân lập tức hồi kinh!
Tiền Ninh dạ một tiếng, tiếp nhận tờ giấy rồi vội vàng chạy ra ngoài. Dương Lăng không khỏi vội kêu lên:
- Đại nhân, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, sao vẻ mặt lại căng thẳng như vậy?
Mâu Bân bồn chồn, lo lắng nói:
- Dương Đồng tri, tình hình cụ thể một hồi nữa sẽ nói sau. Đêm nay ngươi cần phải chạy suốt đêm về quân doanh, e rằng ý chỉ sai ngươi phải dẫn quân về kinh sẽ đến ngay đó. Hoàng Thượng... Trong lúc tảo triều, Hoàng Thượng đã ngất ngay trên triều, đến giờ mới tỉnh. Ta luôn chờ ở trong cung, xem tình hình. Lần này Hoàng Thượng người... người sợ là không hay rồi.
Chương 85: Đưa quân vào cung
Dịch: workman
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Shandian
Nguồn: www.tangthuvien.com
Nàng mở to hai mắt nhìn nhìn Dương Lăng, đột nhiên mừng rỡ lao tới, nắm lấy cánh tay y kêu lên đầy hưng phấn:
- Hóa ra là Dương tướng quân! Nhanh, nhanh, nhanh theo ta đi cứu người. Hoàng huynh đang đuổi giết quốc cữu gia đó!
Trong triều phòng*, ba vị lão thần Nội các, thượng thư sáu bộ và các đại thần túc trực đang lo lắng ngóng đợi tin tức từ Đông Noãn Các. Mưa lớn quật xuống đất ào ào như đang xát muối vào trái tim bọn họ. (*: phòng nghỉ cho quan lại trước khi thiết triều)
Đám lão thần này phần lớn tóc đã bạc trắng, ai nấy đều im lặng không nói gì, chỉ nhìn đăm đăm về phía cung Càn Thanh, mặt đầy vẻ lo âu, trong triều phòng chỉ còn tiếng mưa to gió lớn sấm vang chớp giật bên ngoài.
Đột nhiên một tiếng sấm vang nghiêng trời lệch đất, mấy vị đại nhân già cả không kịp đề phòng bị chấn động đến run rẩy cả người; lại một tia chớp nữa lóe lên rồi một bóng người chợt xuất hiện, cao giọng tuyên:
- Thánh Thượng có khẩu dụ!
Mấy vị lão thần nghe vậy cùng bật đứng lên, thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng kích động tới mức râu tóc run lên, hỏi dồn:
- Trương công công, Hoàng Thượng tỉnh rồi à? Hoàng Thượng sao rồi?
Đám người Lưu Kiện cũng rất kích động. Thân là người đứng đầu Nội các nên Lưu Kiện cố đè nén tâm tình, vái thái giám Ty lễ Trương công công rồi nói:
- Chúng thần tiếp chỉ .
Đám đại nhân lúc này mới tỉnh ngộ, cùng nhau vái theo. Trương công công cất giọng đọc:
- Hoàng Thượng khẩu dụ, thân thể trẫm không sao, các vị ái khanh chớ nên lo lắng. Các vị ái khanh là trụ cột của quốc gia nên không thể lao lực quá mức, phải quay về phủ nghỉ ngơi ngay, Ngự Mã Giám trong cung sẽ đánh xe đưa về. Ngày mai nghỉ chầu, mọi việc trong triều hết thảy sẽ do ba vị đại học sĩ quyết định.
Truyền ý chỉ xong, Trương công công xoay người định đi, Lưu Đại Hạ sốt ruột liền nhảy dựng lên ngăn Trương công công lại, nói:
- Trương công công, rốt cuộc long thể Thánh Thượng ra sao, thái y nói thế nào?
Lưu Đại Hạ là sủng thần của vua Hoằng Trị, Trương công công tuy là một trong bốn đại thủ lĩnh của Ty Lễ Giám nhưng cũng không dám đắc tội với ông ấy. Dù vậy, đây nào phải chuyện mà lão có thể nói tùy tiện, đành nói:
- Lưu Đại nhân, xin đừng làm khó ta, ông còn không biết những quy củ này sao?
Lưu Đại Hạ ngẩn người thất vọng, đành buông tay áo Trương công công ra, xem ra bệnh tình Hoàng Thượng không nhẹ, nếu không thì sao lại không gặp họ mà bảo về phủ nghỉ ngơi, lại phong tỏa tin tức nghiêm mật như thế?
Thấy Trương công công đã ra khỏi triều phòng, Mã Văn Thăng giậm mạnh chân, nói với hữu thị lang bộ Lại túc trực là Tiêu Phương:
- Lão Tiêu à, tối nay ông phải thường trực chờ tin tức từ Đông Noãn Các, nếu như Hoàng Thượng... Hoàng Thượng có việc gấp triệu kiến, ngàn vạn lần không thể để lỡ việc đâu đó.
Hoằng Trị đế thích dùng lão thần. Vị hữu thị lang bộ Lại Tiêu Phương này cũng là một ông già trên bảy mươi tuổi đầu tóc bạc phơ, có điều tinh thần quắc thước, thân thể rất cường tráng. Ông hiểu ý Mã thượng thư và cũng biết rõ tầm quan trọng của việc này. Nghe ông ta căn dặn xong, ông vội chắp tay đáp:
- Dạ, đại nhân cứ việc yên tâm, hạ quan sẽ luôn túc trực chờ đợi, không dám chậm trễ .
Mã Văn Thăng khẽ gật đầu, lúc này xa giá của Ngự Mã Giám đã đến trước cửa. Hoàng đế cho xe đưa về là ân sủng mà ngay cả những lão thần này trước kia cũng chưa từng có, song lúc này bọn họ nhìn thấy mà trong lòng lại chẳng vui sướng gì. Đội mưa lên xe, Lý Đông Dương đứng trên xe ngẩng đầu dõi mắt nhìn về phía cung Càn Thanh, chỉ thấy xa xa, những cung nữ, thái giám ra vào liên tục, không khí thập phần khẩn trương, ông không khỏi thở dài một tiếng.
Trương hoàng hậu, thái tử Chu Hậu Chiếu và hai công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần đều ở ngoài Đông Noãn Các, tuy chỉ cách một cánh cửa nhưng tình hình của người thân bọn họ, người quan trọng nhất trong lòng bọn họ như thế nào thì họ chỉ có thể thông qua thái giám và ngự y mới có được một chút tin tức, chưa được Hoằng Trị cho vào thì đến cả bọn họ cũng không được phép vào.
Trong Đông Noãn Các, Hoằng Trị đang dựa trên gối dựa, đờ đẫn nghe tiếng mưa trút rào rào bên tai không dứt. Ba người Vương Nhạc, Miêu Quỳ và Phạm Đình đang quỳ ở trước mặt, trán dán chặt trên nền đất, thở cũng không dám thở mạnh.
Năm ngoái Hoằng Trị đã gặp một cơn bệnh nặng phải dưỡng bệnh hơn một tháng mới khỏi. Còn lần này đột nhiên ngất xỉu ngay giữa triều đường, cứu trị suốt một ngày mới tỉnh. Ông tự biết thân thể của mình đã như đèn dầu sắp cạn, qua lần này thì đại hạn cũng không xa nữa.
Ông là người cực kỳ mê tín, sau cơn hạn lớn thì giờ đây ở kinh sư trời đột nhiên đổ mưa to và còn là ngay sau khi ông ngất đi không lâu cho nên ông đoán, đây là điềm báo rõ ràng nhất của ông trời dành cho ông: Trẫm là thiên tử, ông trời rơi lệ, mưa gió bão bùng, chẳng phải chính là muốn trẫm về chầu trời sao?
Ông thở dài một tiếng, trong lòng nghĩ đến đứa con luôn khiến ông không thể yên tâm. Thuở ông kế vị tuổi tác cũng không lớn hơn con ông là bao, thế nhưng bây giờ mặc dù đã mười lăm mười sáu rồi mà tính tình của đứa con ông vẫn láu táu khinh suất, lại không đủ thận trọng, quyết không phải là hình tượng quân vương hợp cách trong cảm thụ của các triều thần.
Đứa con này tinh lực dồi dào, thông minh hơn người, nhưng lại như một con ngựa hoang không chịu nổi chút câu thúc. Vốn tưởng rằng con mình lớn hơn chút nữa thì sẽ trở nên chín chắn, nhưng giờ đã đến lúc giao cả thiên hạ cho nó, nó... có thể làm được không?
Ông nhìn lướt qua ba nội quan tin yêu nhất đang run rẩy sợ hãi quỳ gối trước mặt. "Bọn họ đều trung thành với chính mình, tuyệt không dám gian dối, nhưng nếu đổi lại là thái tử tuổi còn nhỏ thì bọn họ còn trung thành được như vậy không? Hay sẽ dần dần cậy vào quyền cao chức trọng mà lấn ép chủ thượng? Trong tay bọn họ nắm ba đại doanh kinh sư tinh nhuệ nhất và tổ chức mật thám lớn nhất Đại Minh đấy."
Hoằng Trị không thể không lo lắng, Phiên Vương các nơi mặc dù sớm bị tước Tam Vệ nhưng vị tất không có dã tâm. Sổ sách tố giác Bào phó tham tướng tham ô mà Dương Lăng trình lên cho ông vài ngày trước càng làm cho ông cảm thấy phải cảnh giác. Trong triều cực kỳ hậu đãi các tướng lĩnh trong doanh trại kinh sư, một tên quan tam phẩm có thể vì chút lợi nhỏ nhoi mà cam lòng phạm vào quân pháp, vậy nếu Phiên Vương các nơi dùng châu báu mỹ nữ, chẳng lẽ không mua chuộc được ai sao?
Huống hồ việc chế tạo đạn dược và súng hỏa mai cho doanh trại kinh sư là chuyện cực kỳ cơ mật trong quân, tuyệt không phải thợ thuyền nào ở thời đại này cũng có thể tùy ý chế tạo ra được loại hỏa khí và đạn dược tinh xảo nhất. Những cường hào địa phương lấy danh nghĩa mua hỏa dược để diệt trừ giặc cướp, tự bảo vệ mình nhưng khi Cẩm Y Vệ tra ra thì tất cả đều là giả dối cả, rốt cuộc không rõ mớ đạn dược ấy đã đi đến nơi nào. Thật ra với số lượng vài hỏa khí như vậy thì không đáng lo, cái lo là lo có người tìm thợ thủ công để phỏng chế lại.
Súng hỏa mai tuy không địch lại kỵ binh phương bắc, nhưng ở phương nam nơi ruộng nước, cây cối, sơn dã thì lại là vũ khí cực tốt, và càng là sự lựa chọn tốt nhất cho những Vương gia bị tước đi Tam Vệ không thể công khai luyện binh để có thể nhanh chóng xây dựng một đội quân. Vậy kẻ mua hỏa khí có thể là ai đây? Là Sở vương, Ninh vương, hay Ngô vương? Những kẻ này đều không thể không đề phòng.
Hoằng Trị nghĩ tới xuất thần, hồi lâu mới thở dài, mệt mỏi nói:
- Soạn chỉ .
Thái giám chấp bút thuộc Ty Lễ Giám đứng chầu sau chiếc bàn dài làm bằng gỗ tử đàn vội đáp một tiếng rồi cầm cây bút lông sói lên. Chỉ nghe Hoằng Trị ho dồn dập một trận rồi mới nói:
- Ý chỉ thứ nhất, Ngụy quốc công Từ Phủ chưởng quản Thần Cơ doanh hai mươi năm song trị quân không nghiêm, quân kỷ bê bối, quan lại trong quân tham nhũng, bại hoại kỷ cương, nay cách chức quan doanh Thần Cơ doanh, hai phó tướng Thần Cơ doanh chờ hặc tội, tạm cử Anh quốc công Quách Huân chưởng lý quân vụ.
Ông ngừng một lát rồi nói tiếp:
- Ý chỉ thứ hai, bốn doanh Vũ tương, Đằng tương*, Tả vệ, Hữu vệ của Ngự Mã Giám điều ra ngoài hoàng cung, đóng giữ Cửu Thành. Tam Thiên doanh tuần tra canh gác kinh sư, Ngũ quân doanh, Thần Cơ doanh chia ra đồn trú hai bên kinh sư, điều Tả tiêu quân của Thần Cơ doanh vào đóng giữ trong cung. (*: ngựa ngẩng cao đầu phi nhanh gọi Đằng tương, ngựa ngẩng cao đầu phi nước kiệu gọi Vũ tương, ở đây chỉ tên riêng doanh trại kinh sư)
Miêu Quỳ cơ trí nghe xong liền rùng mình, thân thể càng quì thấp hơn nữa. Hoàng Thượng đột nhiên đổi nơi đóng quân, chắc chắn vì bốn doanh của Ngự Mã Giám đóng giữ cấm cung đã lâu nên đã có điều phòng bị, nhưng Hoàng Thượng lại hạ chỉ ngay trước mặt mình, hiển nhiên vẫn đang rất tín nhiệm mình, nhất thời Miêu Quỳ cảm thấy ngổn ngang trăm mối, cảm động nói không nên lời.
Hoằng Trị cảm thấy đầu óc choáng váng như thể muốn nôn, ông cố gắng gượng nói tiếp:
- Ý chỉ thứ ba, hiểu dụ cho Vệ Sở đóng quân các nơi, giữ nghiêm quan ải, toàn quân đề phòng, tất cả Phiên Vương không được tự mình ra khỏi đất phong, không được tiến kinh mà chưa có lệnh, bằng không sẽ xử theo tội mưu nghịch!
Mỗi khi ông truyền xong một ý chỉ thì tên thái giám chấp bút lại khấu đầu một cái, sau đó cầm bút lên vội vã chép lại. Hoằng Trị nghe thái giám chấp bút viết xong, đọc lướt lại một lần, ừm một tiếng rồi nói:
- Cứ như vậy đã, đi đóng dấu vào .
Nói rồi Hoằng Trị khoát tay bảo:
- Các ngươi đều lui xuống trước đi rồi gọi thái tử vào, trẫm muốn nói chuyện với nó một chút.
******************************
Dương Lăng bước vào triều phòng. Triều đường là một căn phòng rất dài, bên trong ánh sáng lờ mờ. Vì hoàng đế bệnh tình nguy kịch phải bãi bỏ họp triều, nên giờ triều phòng lạnh tanh, chỉ có một quan văn dáng vẻ lừ đừ đang nằm trên bàn quay lưng về phía y ngủ gà ngủ gật.
Dương Lăng cũng không kinh động người nọ mà đi đến một cái ghế ở góc tường ngồi xuống, dựa vào lưng ghế, chỉ cảm thấy lưng đau ê ẩm.
Ngày ấy sau khi ra khỏi Cẩm Y Vệ, Dương Lăng vốn định về thăm nhà trước một cái, nhưng khi ngựa đến phố Hộ Quốc Tự thì thấy trong viện đã tắt đèn, vì không muốn phiền nhiễu Ấu Nương nên y chạy trở vào núi suốt đêm. Cũng may là y không trì hoãn nên không lỡ ý chỉ của triều đình, y vừa vào soái trướng thì thánh chỉ đã tới ngay.
Dương Lăng lập tức dẫn đại quân về kinh, căn bản không hề được nghỉ một chút nào. Một chặng đường trở về này cực khổ và chậm hơn nhiều so với y cưỡi ngựa phi nước đại một mình. Năm ngàn quan binh đi đủ ba ngày hai đêm, đến hôm nay mới về tới kinh sư.
Dương Lăng phục thánh chỉ ở ngoài triều phòng, nhưng đợi mãi mà thái giám truyền chỉ vẫn chưa triệu y tiến kiến, y nghĩ bây giờ Hoàng Thượng đang có bệnh và xem ra chẳng biết khi nào thì mới có thể gặp mình, nên định trốn vào triều phòng nghỉ ngơi một lát trước. Y duỗi hai chân, thở phào một hơi rồi khép hai mắt bắt đầu lim dim ngủ.
Chẳng biết khi nào bỗng nghe một loạt những tiếng bước chân vang lên, Dương Lăng nửa mê nửa tỉnh mở mắt ra thấy có mấy người mình không quen biết đang đi đến. Có chừng năm sáu người đều là quan văn tam tứ phẩm, Dương Lăng thấy chẳng có ai quen nên lại nhắm mắt ngủ tiếp.
Mấy ngày qua ba vị đại học sĩ vẫn ở trong cung xử lý công vụ, các ty khi có việc cần quyết định sẽ trình vào cung. Mấy quan văn đó vừa mới trình công văn lên cho các đại học sĩ, vì trong đó có vài thứ cần chờ ý kiến phúc đáp cho nên bọn họ tạm tới triều phòng đợi.
Cặp mắt của các vị đại nhân này đều hơi kém cho nên không ai thấy ở trong góc tường mờ tối đó còn có một võ quan đang ngồi, bèn ngồi xuống băng ghế dài bàn tán công việc. Tả thị lang bộ Lại Vương Ngao lo lắng lên tiếng:
- Hoàng Thượng long thể bất an, mọi người cũng vì chuyện này mà chấn động. Đã mấy ngày rồi mà vẫn không thấy long thể tốt lên, trong khi đang có rất nhiều việc ba vị đại học sĩ lại không thể tự quyết, vậy biết phải làm sao bây giờ?
Chiêm sự Dương Phương an ủi nói:
- Vương Đại nhân chớ sốt ruột, nghe nói Hoàng Thượng đã hạ chỉ cho vời Đông cung cùng Tam công thảo luận chính sự. Thái tử là người kế vị, lúc này đây đã có thể thay bệ hạ làm chủ một số việc rồi.
Vương Ngao thở dài nói:
- Thái tử tuổi nhỏ, hãy còn chưa thấu hiểu nỗi khổi của dân gian, nếu chậm trễ một chút mới phê duyệt thì chẳng biết sẽ có bao nhiêu nạn dân gặp họa nữa .
Vị quan trực ban nghe tiếng đã tỉnh dậy, xoay người nhìn thì thấy đó là Vương Ngao, không khỏi cười nói:
- Nguyên lai là Tế Chi*, thảo nào nghe tiếng thấy quen tai . (*: Tên tự của Vương Ngao)
Vương Ngao lúc này mới thấy rõ vị quan trực ban ngủ gật trên bàn đó là Hữu thị lang Tiêu Phương, bèn vội chắp tay chào hỏi:
- Nguyên lai Tiêu đại nhân đang trực ban, long thể Hoàng Thượng thế nào rồi?
Tiêu Phương lắc đầu thở dài, vừa mở mồm định nói, chợt một thái giám già ôm một chồng sớ đi vào. Vị thái giám này chính là Lưu Cẩn - thái giám Chung Cổ ty hầu hạ Đông cung. Thái tử được lệnh thay cha phụ trách thảo luận chính sự cùng Tam công liền dẫn theo hết mấy thái giám đắc lực bên người. Đương nhiên công việc của bọn họ bất quá cũng chỉ là đưa tấu chương để ký duyệt, truyền gọi quan viên cần hỏi xin ý kiến chứ không phải là việc to tát gì.
Nhưng Lưu Cẩn vốn chỉ ở Chung Cổ Ty đánh chuông Cảnh Dương, gióng trống Ty Thần, là một thái giám vô danh, thế mà giờ đây trong tay lão lại cầm lệnh dụ của triều đình, truyền gọi đều là các đại thần trong triều, tuy chỉ làm một chân tiểu nhị sai vặt, nhưng vì những người mà lão tiếp xúc đều là những nhân vật nhất đẳng cho nên không khỏi cảm thấy đắc ý rằng 'trời đã sinh ra ta, tất sẽ có chỗ dùng'.
Đặc biệt lúc này đây Hoàng Thượng bệnh tình nguy kịch, Đông cung đăng cơ đã là chuyện sớm muộn, Lưu Cẩn lại là người được thái tử tín nhiệm, tiền đồ tương lai của lão tất sáng sủa vô cùng. Vừa nghĩ đến đây, lòng nhiệt tình trong công việc của Lưu Cẩn nhất thời tăng vọt, chạy tới chạy lui giữa điện Cẩn Thân, điện Văn Hoa nơi ba vị đại học sĩ xử lý công vụ và triều phòng suốt ngày mà lão cũng không cảm thấy khổ cực.
Lúc này lão ôm tới chính là tấu chương của hai quan viên bộ Công và bộ Hình. Hai người kiểm nhận xong rồi mở lời cảm tạ. Lưu Cẩn cười hì hì nhận lấy như thể lão chính là người ra phê duyệt, vẻ mặt rất đỗi vinh quang.
Vương Ngao hỏi:
- Công công, Tín Dương bị lũ lụt, tấu chương xin viện trợ vẫn chưa được phê chuẩn à?
Lưu Cẩn đáp:
- Ta chỉ nhận được tấu chương của bộ Công và bộ Hình, có lẽ là ba vị đại học sĩ vẫn chưa duyệt tới tấu chương đó.
Vương Ngao giậm chân nói:
- Ta đang sốt hết cả ruột mà sao vẫn chưa phê chuẩn chứ. Tín Dương ngập lụt, dân chúng không có áo cơm thì triều đình nên lập tức miễn thuế, cứu trợ thiên tai mới phải. Nếu chậm trễ khiến dân nổi loạn thì biết phải làm sao?
Lưu Cẩn nhớ tới lần mình nghe vài đại thái giám trong cung thảo luận về những báo cáo láo về thiên tai hàng năm để thoái thác việc nộp thuế, không khỏi cười huênh hoang nói:
- Đại nhân chớ sốt ruột. Bây giờ vừa mới vào tháng năm, làm gì mà có công văn cứu trợ sớm như vậy? Có khi là được mùa mà báo sằng là mất đó, nói không chừng những quan lại địa phương câu kết với triều thần quê ở Tín Dương trong triều để lấy lòng với địa phương nhằm tranh thủ kiếm chác thanh danh cho mình. Đại nhân phải tra xét cho kỹ lại mới được .
Vừa khéo Thị lang Vương Ngao chính là người Tín Dương, nghe Lưu Cẩn nói như thế lão làm sao có thể nhẫn nhịn, nhất thời lão giận tím mặt, vỗ bàn bộp một cái, đoạn mắng:
- Công công chớ ngậm máu phun người, lũ ở vùng Tín Dương sớm đã bẩm báo, chẳng lẽ chuyện thiên tai này còn giả được sao? Đại sự trong triều, ngươi biết cái gì? Đừng ăn nói bừa bãi!
Lưu Cẩn bị lão ta mắng cho đỏ bừng mặt đã hơi nổi cáu, không khỏi vừa thẹn vừa giận cười nhạt nói:
- Ta nói cũng chỉ là nói đến mấy thủ đoạn mà đám tham quan vô lại hay sử dụng, phải thì phải, không phải thì thôi. Đại nhân không cấu kết với kẻ gian làm việc xấu hà tất giận dữ như vậy, làm người ngoài nhìn vào còn bảo là đại nhân chột dạ nữa đó .
Chiêm sự Dương Phương bên cạnh cũng là tài tử xuất thân từ Tín Dương, nghe vậy lập tức cười khẩy nói:
- Nếu làm bậy thì phải đưa ra chứng cứ xác đáng, lẽ nào chỉ dựa vào ba tấc lưỡi bẩn thỉu của ngươi mà có thể vu tội được à?
Lưu Cẩn nổi giận:
- Hừ! Ta chỉ có lòng tốt nhắc nhở các ngươi đừng bị đám quan lại địa phương lừa bịp. Các ngươi ai nấy cũng đều già gần xuống lỗ rồi, lại lớn hơn ta không biết bao nhiêu tuổi sao đều như một đám con nít lỗ mãng thế, ta đã trêu chọc gì ngươi sao?
Nhất thời lão quên mất tôn ti cao thấp, lại tức giận nói:
- Nếu sai ta đi tìm chứng cứ vậy triều đình còn cần mấy người các ngươi làm gì? Ta chỉ nói có lẽ là quan chức cấu kết chứ có nói là nhất định đâu, nếu ngươi không chột dạ thì sao lại cuống lên như bị đạp nhầm đuôi thế? Ngươi nghĩ mình là cái thá gì?
Ông già Dương Phương cả giận, đứng lên mắng to:
- Ta đường đường là quan tam phẩm của triều đình, cái tên hoạn đến cả sách thánh nhân cũng chưa đọc như ngươi là cái thá gì mà cũng dám nói chuyện với chúng ta ở triều phòng chứ hả?
Lưu Cẩn bị người ta chửi thẳng vào mặt là "tên hoạn", chính là phạm vào chỗ cấm kỵ trong lòng lão nên nhất thời mặt đỏ bừng, rồi lão cũng bất chấp lợi hại tiến lên vung tay, tát thẳng vào mặt ông già họ Dương. Dương Phương rú lên một tiếng, thoắt người xông lên vung tay tát lại Lưu Cẩn, trên mặt Lưu Cẩn lập tức in dấu năm ngón tay. Một thư sinh già, một thái giám già gào rú xông vào đánh nhau túi bụi.
Đám hảo hữu Vương Ngao thấy hoạn quan dám ở trong triều phòng ẩu đả với mệnh quan triều đình liền lập tức xông tới đánh hôi, cũng có mấy người không quen với Dương Phương nhưng lại là quan văn nên không khỏi cùng chung mối thù bèn tiến đến giả vờ khuyên bảo, kỳ thật hai tay lại giữ chặt lấy tay Lưu Cẩn. Dương Phương được thể đánh tới làm Lưu Cẩn lại chịu thêm vài quả đấm.
Dương Lăng ngồi ở chỗ tối sớm đã bị cuộc tranh cãi của bọn họ làm bừng tỉnh. Y cũng thấy rõ tình hình tranh cãi, tuy rằng Lưu Cẩn trong lịch sử là một đại ác nhân không thể xấu hơn được nữa nhưng hôm nay trong việc này lão vốn cũng không nói gì quá đáng. Tín Dương có thể xảy ra lũ lụt thật, nhưng việc báo cáo láo mất mùa, lấy lòng địa phương để làm vốn mưu cầu thăng quan cho mình cũng không phải là không có. Nếu nói không đúng thì không để ý tới lão ta là được rồi, hà tất phải giận dữ như thế.
Vì chút chuyện nhỏ này mà bao nhiêu lão già hiếu chiến lại bu vào đấm đá như vậy, kể ra cũng thật rảnh quá đi. Dương Lăng vừa bực mình vừa buồn cười, xông lên kéo Lưu Cẩn ra khỏi đám người.
Các vị đại nhân nhìn thấy một võ quan xông ra cứu người, không khỏi cả giận nói:
- Ngươi là ai? Tên hoạn này dụng tâm hiểm ác, ăn nói bừa bãi, phỉ báng đại thần triều đình, ngươi lại dám nhúng tay vào cứu hắn à?
Dương Lăng nghe xong hơi giận, y nhíu mày nói:
- Các vị đại nhân, việc nhỏ như vậy không cần phải chụp mũ đến thế chứ? Chuyện hôm nay chẳng qua là bởi một câu vô tâm của Lưu công công mà thôi, mọi người lui một bước nhường nhịn nhau là xong, cớ chi hùng hổ dọa người thế?
Lưu Cẩn được kéo ra, tóc tai bù xù, lúc này mới nhìn rõ người cứu lão là Dương Lăng, thế là liền như thấy thân nhân, nức nở nói:
- Dương đại nhân, đại nhân nhìn xem, đại nhân nhìn xem, làm như vậy là sao? Ta có nói gì sai đâu, bọn họ thật khinh người quá đi.
Trong lúc bên này đang ồn ào, một tên tiểu thái giám tới cửa kêu to:
- Vị nào là Dương Lăng Dương đại nhân, Hoàng Thượng triệu kiến!
Nói xong nhìn vào triều phòng, trông thấy tình cảnh này tên tiểu thái giám cũng chết lặng.
Bọn người Dương Phương nghe tên Dương Lăng đã lâu nhưng lại không nhận ra y. Lúc này vừa nghe người này chính là Dương Lăng cho nên không khỏi giật mình lui lại. Dương Lăng nhân cơ hội này kéo Lưu Cẩn với vết bàn tay đỏ lựng in trên khuôn mặt ra khỏi triều phòng, an ủi lão một chút, Lưu Cẩn mới khóc thút thít cáo từ đi tìm Chu Hậu Chiếu để tố cáo.
Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám vào cổng Càn Thanh tới thẳng hậu cung. Vừa mới đi qua một khúc quanh ở cổng Nguyệt Lượng, một thiếu nữ đang dẫn theo đám thị nữ vội vàng từ phía sau cửa chạy tới. Hai bên không kịp tránh nên thiếu nữ đó lỡ đà lao vào lòng y.
Dương Lăng vội vàng đỡnàng. Thiếu nữ đó úi lên một tiếng, mặt đỏ bừng nhảy ra khỏi lòng Dương Lăng, xoa nhẹ cái mũi đau của mình, khi mắt vừa chạm với ánh mắt của nam nhân trước mắt thì thiếu nữ dung mạo xinh đẹp tuyệt trần đó đột nhiên sửng sốt.
Nàng mở to hai mắt nhìn nhìn Dương Lăng, đột nhiên mừng rỡ lao tới, nắm lấy cánh tay y kêu lên đầy hưng phấn:
- Hóa ra là Dương tướng quân! Nhanh, nhanh, nhanh theo ta đi cứu người. Hoàng huynh đang đuổi giết quốc cữu gia đó!
Chương 86: Hoằng Trị băng hà
Dịch: workman
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Dương Lăng khiếp đảm bừng tỉnh, hấp tấp quỳ phục xuống đất, rốt cục y đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra: "Hoàng đế... băng hà rồi!"
Dương Lăng nhận ra thiếu nữ đó chính là công chúa Vĩnh Phúc. Vừa nghe Thái tử đang đuổi giết quốc cữu, y cũng không kịp thi lễ với công chúa, vội vàng hỏi ngay:
- Thái tử ở đâu? Xin điện hạ mau dẫn thần đi.
Công chúa Vĩnh Phúc dẫn Dương Lăng vội vàng đi vòng qua cái giá bằng gỗ tử đằng ra ngoài. Tên tiểu thái giám truyền chỉ thấy Dương Lăng lại bỏ chạy đi, không khỏi choáng váng: "Sao vị đại nhân này khoái kháng chỉ vậy ta?" Nhưng công chúa điện hạ dẫn y ly khai rồi, nhất thời hắn cũng không biết phải làm gì, đành cũng chạy theo.
Xuyên qua một hành lang, Dương Lăng thấy trên mười thái giám lẫn cung nữ đang đứng với vẻ mặt kinh hoàng. Khuôn mặt tuấn tú của Chu Hậu Chiếu đỏ bừng bừng, tay hắn cầm một thanh kiếm sắc bén đứng trước một hòn giả sơn. Bên kia hòn giả sơn là một gã đàn ông trên ba mươi tuổi đang theo dõi hành vi của Chu Hậu Chiếu qua khe hở của cái núi đá. Chu Hậu Chiếu vừa đuổi theo là gã liền chạy vòng quanh ngọn 'núi' đó, cực kỳ buồn cười.
Công chúa Vĩnh Phúc vội la lên:
- Dương tướng quân mau ngăn Hoàng huynh lại. Thọ Ninh Hầu vừa tới thăm phụ hoàng, Hoàng huynh liền đoạt lấy bảo kiếm của thị vệ đuổi một mạch tới tận đây.
Nghe xong, Dương Lăng sốt ruột bước lên phía trước gọi:
- Thái tử điện hạ! Không nên kích động.
Chu Hậu Chiếu quay người, quát:
- Ai dám lắm chuyện, ta giết luôn...
Hắn liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, bất giác giật mình, thần sắc lập tức dịu lại, vui vẻ nói:
- Dương Thị Độc! Ngươi tới đúng lúc lắm, mau giúp ta bắt tên loạn thần tặc tử này!
Thọ Ninh Hầu đứng ở phía đối diện, nghe nói y là Dương Thị Độc cũng không khỏi mừng rỡ, đây là người mà Hoàng hậu nương nương từng cứu, dù sao y cũng nên trả ân tình cho ta chứ. Gã vội vàng hô to:
- Vi thần oan uổng! Dương Thị Độc cứu ta, ta là Thọ Ninh Hầu Trương Hạc Linh.
Chu Hậu Chiếu phì một tiếng, mắng:
- Tên tặc tử, dù ai cũng không thể nào cứu được ngươi. Ngoan ngoãn để ta trảm một kiếm là xong, nếu không bản thái tử sẽ giết cả nhà ngươi!
Dương Lăng khẽ kéo áo Chu Hậu Chiếu, nghi hoặc hỏi:
- Thái tử! Đường đường một Hầu gia mà bị người cầm kiếm đuổi theo, việc này mà lan truyền ra ngoài, e rằng đám triều thần sẽ không cam tâm đâu. Rốt cuộc Thọ Ninh Hầu đã phạm phải chuyện gì?
Chu Hậu Chiếu oán hận đáp:
- Dương Thị Độc! Mới vừa rồi ta lo cho an nguy của phụ hoàng, chạy tới thăm ngài. Tên súc sinh này vẫn không thèm để tâm tới phụ hoàng, đúng là gian tặc gan lớn! Phụ hoàng ta đang mê man trên giường, hắn dám đứng ở góc điện cười đùa láo lếu với Trương Duyên Linh. Như vậy cũng thôi đi, nhưng trong lúc nói cười hắn lại dám cầm vương miện tự đội lên đầu. Hắn dám làm việc đại nghịch bất đạo như vậy, ngươi nói xem ta có nên giết không?
Dương Lăng cũng giật bắn cả người. Tuy nói chỉ là đội cái mũ lên đầu, nhưng trong thời đại hoàng quyền là tối cao, vương miện chính là một biểu tượng. Chỉ bằng việc này, nếu gán cho Thọ Ninh Hầu cái tội mưu nghịch thì cũng không quá đáng.
Dương Lăng liếc nhìn Thọ Ninh Hầu, thấy gã sắc mặt tái nhợt, hai tay vẫn còn run rẩy, liền nói với Thái tử:
- Điện hạ! Nếu luận tội thì hắn quả là đáng chết, nhưng cũng nên xử phạt theo pháp luật của triều đình mới đúng. Nếu người ở ngay trong cung mà đuổi giết một vị Hầu gia như vậy, người ngoài không biết tất nhiên sẽ đồn đại linh tinh. Huống hồ bệ hạ vẫn bênh vực Hầu gia, nếu vì vậy mà ảnh hưởng tới bệnh tình bệ hạ, thì điện hạ phải tính sao? Hiện tại nên lấy bệnh của Hoàng Thượng làm trọng chứ!
Nghe y đề cập tới hoàng đế, Chu Hậu Chiếu đột nhiên tỉnh ngộ, nói:
- Đúng rồi! Hắn thấy ta thì lập tức bỏ chạy rồi, không biết chừng việc ta đuổi theo hắn đã làm phụ hoàng kinh động. Mau mau, về thăm phụ hoàng, để phụ hoàng khỏi phải lo lắng!
Chu Hậu Chiếu nói gió là gió, nói mưa là mưa. Hắn bỏ qua Thọ Ninh Hầu đang sợ tới mức gần chết, một tay cầm bảo kiếm, một tay kéo Dương Lăng, vội vàng chạy về Càn Thanh cung.
Thọ Ninh Hầu chẳng biết Thái tử và Dương Lăng nhỏ to cái gì, thấy Dương Lăng chỉ nói vài lời linh tinh mà đã khuyên Thái tử bỏ đi, xem ra mình vốn là cậu của Thái tử mà lại không được hắn coi trọng bằng ngoại nhân. Gã ngẫm nghĩ một lát rồi phất tay áo, lao về phía Khôn Ninh cung.
********
Lúc này Thái tử làm giám quốc, không cần phải thông báo mới được yết kiến. Dương Lăng bị hắn kéo một mạch, vội vội vàng vàng xông bừa vào Đông Noãn Các. Hoàng đế Hoằng Trị đang dựa vào gối nhìn ra cửa. Dương Lăng không dám nhìn nhiều, vội vàng quỳ xuống đất, cao giọng bẩm:
- Thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng!
Hoằng Trị vừa tỉnh lại, đúng lúc thấy Thọ Ninh Hầu và Thái tử vội vội vàng vàng ly khai. Lúc này thấy Dương Lăng yết kiến, ông cũng không vội hỏi chuyện Thái tử, mà nhìn nhìn đánh giá Dương Lăng vài lần, rồi mỉm cười nói:
- Bình thân! Dương khanh chỉ tham gia quân đội một thời gian ngắn thôi nhưng lại đã có khí phách oai hùng rồi, trẫm rất vui.
Dương Lăng khom người đáp:
- Tạ ơn bệ hạ khích lệ, thần phụng chỉ luyện binh, không dám lười biếng, chỉ là mãi đến hôm nay vẫn chưa có công trạng gì, phụ lòng thánh thượng kỳ vọng, thần thật sự xấu hổ.
Hoằng Trị cười khà khà nói:
- Dương khanh bất tất quá khiêm tốn, phương pháp luyện binh của ngươi rất hiệu quả. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủn mà đã có hiệu quả như vậy, trẫm rất lấy làm hài lòng. Ngươi đã đến đây thì tốt rồi, Miêu Quỳ, đưa Dương khanh tiếp nhận Cấm cung đi.
Dương Lăng hơi bất ngờ. Y vốn tưởng rằng Hoằng Trị nhất định còn phải kiểm tra y một hồi, do đó trên đường đã chuẩn bị tâm lý, không ngờ hoàng đế Hoằng Trị chẳng hỏi han gì đã cho y đi luôn. Dương Lăng thấy Miêu Quỳ tới cửa rồi, liền thi lễ cáo lui, theo Miêu Quỳ đi tới Cấm cung.
Chu Hậu Chiếu đứng bên cạnh giường Hoằng Trị kỳ lạ hỏi:
- Phụ hoàng! Người nói phải đối xử với bề tôi thật tốt, còn nói Dương Thị Độc có thể làm cánh tay đắc lực của con, vì sao chỉ nói vài lời linh tinh rồi đuổi y ra ngoài?
Hoằng Trị vỗ vỗ cái sạp, ra ý bảo con ngồi xuống, rồi nói với hắn:
- Hoàng nhi! Thưởng phạt phải chừng mực thôi, thưởng quá thì họ không biết ân, trừng trị nhiều quá thì chẳng biết sợ. Dương Lăng thăng chức nhanh chóng, đã khiến trăm quan phải tròn mắt; nếu ân sủng y nhiều quá thì cũng không phải là chuyện tốt đâu.
Ông cầm tay con trai, cười khà khà nói:
- Y là cựu thần Đông cung, bây giờ là thị vệ hoàng cung, sau khi hoàng nhi đăng cơ, lại có công theo phù tá, chẳng lẽ trẫm còn phải phong y làm bầy tôi được uỷ thác giúp tân vương sao? Ha ha, y là bầy tôi của con, phần ân huệ này cứ do con ban cho y đi.
Chu Hậu Chiếu nghe phụ hoàng nói thế, không khỏi lo sợ nói:
- Phụ hoàng! Làm gì phải nói những lời ấy, thân thể của cha...
Hoằng Trị thấy hắn đau lòng, vội ngắt lời:
- Hoàng nhi! Vừa rồi trẫm tỉnh lại, thấy con vội vội vàng vàng đuổi theo quốc cữu, có chuyện gì thế?
Chu Hậu Chiếu vừa nghe thế, mặt giận tới đỏ bừng, oán hận đem việc vừa xảy ra thuật lại. Hoằng Trị nghe xong không khỏi phì cười, ông khẽ lắc đầu, nói:
- Một việc nhỏ, hoàng nhi hà tất phải để ý! Thọ Ninh Hầu nói năng tuỳ tiện như thế, có thể là người làm được đại sự sao? Họa lớn, chà, không phải ở trong triều đâu.
********
Nghe Trương Duyên Linh chạy tới báo tin, Trương hoàng hậu vội dẫn đám cung nữ lật đật chạy đi cứu người, nhưng lại thấy Trương Hạc Linh mất hết hồn vía chạy về cung, lúc này mới yên lòng. Bà về ngồi lại trên chiếc đôn gấm, bảo các cung nữ:
- Tất cả lui ra!
Trương hoàng hậu đã trên ba mươi tuổi, nhưng vốn là một mỹ nhân mặt đẹp như hoa, hơn nữa lại chăm sóc nhan sắc rất chu đáo nên tuy đã sinh hạ vài người con nhưng nhìn vẫn như hai mươi, thần thái đoan trang, dung mạo kiều mỵ. Nếu bà đứng cạnh công chúa Vĩnh Phúc thì giống như một cặp chị em.
Hoàng hậu có tình vợ chồng với Hoằng Trị gần hai mươi năm, phu thê tình thâm. Thấy Hoàng Thượng không còn sống bao lâu nữa, mấy ngày nay trong lòng bà cũng bi thương vạn phần. Bây giờ hai người anh không biết điều còn gây thêm chuyện, trong lòng bà cũng hơi giận.
Kỳ thật việc này nếu xảy ra ở nhà một người bình thường thì cũng không phải là việc lớn, chẳng phải chỉ là việc anh trai đội mũ của em vợ sao? Nhưng đối phương là Hoàng Thượng, việc này phải xem ngươi giải thích như thế nào đây.
Hai người bọn họ vốn được muội muội chỉ điểm, nên tới thăm bệnh tình hoàng đế Hoằng Trị nhằm biểu hiện mình là bầy tôi trung thành. Nhưng tinh thần Hoằng Trị rất tệ, cùng bọn họ trò chuyện một hồi liền ngủ gật. Hai người không dám gọi hoàng đế tỉnh lại, nhưng nếu chẳng nói một tiếng mà đã lui ra thì không hay, nên đành đứng ở góc cung chờ đợi, nói chuyện phiếm với nhau .
Trương Duyên Linh tới nơi thấy bệnh tình Hoằng Trị ngày càng nghiêm trọng, lo lắng sau khi ông ta băng hà, quyền thế của Trương gia sẽ bị ảnh hưởng. Trương Hạc Linh lại không thèm để ý. Hắn cho rằng cho dù hoàng đế băng hà, tân hoàng đế vẫn là cháu trai của mình. Cháu trai là hoàng đế, muội muội là Hoàng thái hậu, vậy thì có gì phải lo lắng?
Hắn cười nói với Trương Duyên Linh:
- Nhị đệ bất tất lo lắng. Nếu như Hoàng Thượng băng hà, quyền lực của anh em ta chỉ sợ sẽ lớn hơn nữa cơ. Vua nào triều thần nấy. Tân đế đăng cơ đều phải phong tước rộng rãi cho quần thần, đến lúc đó để muội muội lấy danh nghĩa Thái hậu ban cho chúng ta một chức. Không phải Thần Cơ doanh vẫn còn chưa có quan chưởng quản chính thức sao? Chúng ta sẽ đi chưởng quản Thần Cơ doanh, ta làm doanh quan, ngươi làm phó tướng, vậy là có vài vạn hùng binh trong tay ấy chứ! Hơn nữa Thần Cơ doanh luôn luôn do vương công nắm giữ, ta từ Thọ Ninh bá thăng lên thành Thọ Ninh hầu đã vài năm rồi, chẳng phải lúc đó sẽ lên chức Thọ Ninh công sao?
Trương Hạc Linh nói với vẻ hí hửng. Nhìn thấy y phục của Hoằng Trị đặt trên án, hắn thuận tay lấy vương miện đội lên đầu, cười hì hì nói:
- Đến lúc đó, trước mắt thiên hạ, ngoại trừ hoàng đế thì còn lại là ngươi và ta. Lời nói của anh em chúng ta khác gì với lời của hoàng đế chứ?
Thật khéo làm sao, đúng lúc đó thái tử Chu Hậu Chiếu vừa tới Đông Noãn Các. Thái tử thấy hai vị quốc cữu đứng ở góc điện cười nói, trong lòng đã cảm thấy không vui, lại thấy hắn đội đế miện của cha mình, lập tức nổi giận. Thái tử thấy hắn mặt mày xám xịt chạy khỏi đại điện liền lập tức rút ngay bảo kiếm của tên thị vệ đuổi theo.
Trương hoàng hậu thấy ca ca không việc gì, không khỏi oán hận bảo:
- Hai vị ca ca thật không biết cao thấp. Các người nói năng tuỳ tiện không đâu vào đâu cả, tại sao dám đội vương miện chứ? Nếu bệ hạ phát hiện nổi giận, đến cả muội cũng không thể gỡ tội cho hai người.
Thọ Ninh Hầu mặt méo xẹo đáp:
- Là ca ca không đúng! Nhưng Thái tử là con ruột của muội, thế mà dám xuống tay với cậu ruột của hắn, đến lúc hắn kế tục sự nghiệp cha mình, huynh đệ chúng ta còn có đường sống không?
Trương hoàng hậu hậm hực nói:
- Hoàng gia không có tình cảm. Loại thiên tử nhân hậu như Hoàng Thượng quả là từ cổ chí kim cũng không được mấy người đâu. Các ca... chà, bây giờ Hoàng Thượng sắp đi rồi, các ca ca sau này phải cẩn thận một chút, đừng để bị đám đại học sĩ nắm đuôi, ai sẽ là chỗ dựa cho các người đây?
Bà nói rồi lại nhớ tới bệnh tình của Hoàng Thượng, không khỏi đau lòng rớm lệ.
Thọ Ninh Hầu vội la lên:
- Hoàng hậu! Đó chẳng khác nào bảo ta phải nhón gót mà đi sao, có vương hầu nào mà không oai phong cơ chứ? Mấy ca ca phải làm người cụp đuôi, muội làm hoàng hậu còn gì là oai phong nữa? Muội tử, muội không biết Thái tử lúc đó ác độc như thế nào đâu, chẳng còn chút thân tình nào với ca ca cả, nếu không nhờ có Dương Thị Độc cứu, ca ca bây giờ đã đầu một nơi mình một nẻo rồi.
Gã nói rồi không kìm được khóc lóc kể lể:
- Hoàng hậu! Lúc này Hoàng Thượng bệnh tình nguy kịch, chỗ dựa vững chắc của Trương gia cũng sắp đổ. Thái tử từ bé đã xa cách chúng ta, đến cả với em, nó cũng không tỏ vẻ là một đứa con hiếu thảo. Đợi khi Thái tử làm hoàng đế, có thể cả nhà họ Trương chúng ta lâm vào cảnh dao treo trên đầu, chẳng biết khi nào thì rơi xuống cả.
Trương hoàng hậu nghe hắn nói thế mà rối loạn tâm thần. Ngẫm lại đứa con của mình quả thật từ bé cũng không thân cận gì với mình, đặc biệt là sau khi có lời đồn nghi ngờ mình không phải là mẹ ruột của nó, cảm tình càng ngày càng ít đi. Trong lòng bà vô cùng đau khổ, cũng không khỏi châu lệ chảy ròng ròng, thương tâm nói:
- Phúc lộc của Trương gia chúng ta đã hết rồi à? Muội chỉ có một con trai, thế mà nó lại chẳng hề hiếu thảo gì với muội cả. Nếu hắn thật sự muốn chỉnh lý Trương gia, bản cung có thể làm gì được chứ?
Con ngươi Trương Duyên Linh đảo lia lịa, hắn vỗ đầu nói:
- Muội tử! Trương gia chúng ta dựa vào gì mà phát đạt? Là vì quan hệ thông gia: muội được gả cho Hoàng Thượng, Trương gia chúng ta mới có được vinh hoa phú quý bực này. Muốn tiếp tục thân cận với hoàng đế, chúng ta phải lập quan hệ thông gia.
Hoàng hậu giật mình, nghi hoặc nói:
- Quan hệ thông gia với Thái tử? Thái hậu vẫn còn tại thế, việc chọn lựa hoàng hậu không phải do muội làm chủ đâu.
Trương Duyên Linh đáp:
- Muội tử hiểu lầm rồi! Quan hệ thông gia mà ca ca nói không phải là quan hệ thông gia với Thái tử, mà là với đại thần rất được Thái tử tin yêu.
Hoàng hậu kinh ngạc hỏi:
- Với ai cơ? Lưu Kiện? Lý Đông Dương? Hay là... Nhưng cháu của mấy tên đại học sĩ mới thích hợp chứ nhỉ?
Trương Duyên Linh bĩu môi, khinh thường nói:
- Thái tử không muốn nhìn ta, cũng chẳng thèm quan tâm tới bọn họ, quan hệ thông gia với bọn họ thì ăn thua gì? Mới vừa rồi Thái tử đuổi giết ca ca, ta vốn định khuyên giải, Thái tử lại xoay tay đâm một kiếm, suýt nữa đâm thủng tim ta. Nghe ca ca kể lại, tên Dương Lăng chỉ nói vài lời linh tinh đã có thể khuyên can được Thái tử, không phải là sủng thần của Thái tử sao? Muội muội có ân cứu mạng hắn, lôi kéo hắn cũng rất dễ.
Trương hoàng hậu nghe xong sầm mặt xuống, phất tay áo đáp:
- Lẽ nào lại như vậy! Dương Lăng đã có vợ, đường đường là công chúa, há có thể làm thiếp người khác? Cho dù là làm vợ như nhau, công chúa cũng không thể làm cái việc chia sẻ chồng chung với người khác, quả thực là chuyện cười của hoàng gia!
Trương Duyên Linh vội vàng chỉ vào mũi mình nói:
- Là ta, là ta! Ai nói là phải gả công chúa chứ? Muội là người trong gia đình nên chúng ta không khách khí, nói thật nhé, làm Phò mã Đại Minh rất là khó chịu, ai mà thèm sắm vai đó? Y bây giờ đang rất vẻ vang, muội muội đem công chúa gả cho y, chưa chắc y đã nhận. Ta vừa nói là con gái của ta cơ.
Trương hoàng hậu ngạc nhiên nói:
- Chuyện gì? Con gái của ca ca? Vậy ca gả con cho ai thì tùy, cần gì phải hỏi muội? Nhưng... con gái của ca tốt xấu gì cũng là thiên kim hầu phủ, chẳng lẽ lại gả cho y, không sợ người ta cười à?
Trương Duyên Linh cười nói:
- Con gái ta nói là con do thiếp sinh ra, đâu có chuyện gì đâu. Tuy nhiên vẫn phải giữ thể diện của Hầu gia ta mà, nếu nghe chừng không ổn, vậy bảo là Hoàng hậu nương nương ban hôn đi, thế thì trở thành một câu chuyện mọi người ca tụng. Đã có ý chỉ, không ai còn nói ra nói vào, y cũng phải đối xử như vợ (*). Việc này sẽ thể hiện được sự tín nhiệm của Hoàng hậu với Dương Lăng, mà vẫn giữ được thể diện của chúng ta, chẳng phải hai bên đều vui sao? (*: bình thê: người vợ cưới sau, nhưng được đối đãi như vợ cả)
Trương Hạc Linh nghi ngờ nhìn người em vốn chưa chín chắn. Nhìn qua thì biện pháp này quả là một trò hay. Lôi kéo sủng thần bên người của tân đế đương nhiên là biện pháp tự bảo vệ rất tốt. Hơn nữa vừa rồi y chỉ nói nhỏ vài câu, Thái tử đã theo lời đi ngay. Ngoại trừ hoàng đế Hoằng Trị ra, chẳng có mấy ai có thể chi phối Thái tử như vậy, nhưng... Chỉ nhét cho người ta một đứa con gái là có thể khiến y bán mạng cho họ Trương được sao? Mánh lới kết giao kiểu này đã được bày ra cả ngàn năm nay, thật ra có mấy người khẳng định là thành công chứ?
Trương hoàng hậu có vẻ không vui nói:
- Thôi đi! Con trai của muội sẽ làm hoàng đế lại khiến hai ca ca kinh hãi đến nổi phải đem con gái mua vui cho sủng thần của hắn, bản cung quả thật nản lòng. Ca ca tự nguyện làm như vậy, muội cũng chẳng quản được ca ca, chỉ là việc mất mặt như vậy thì muội không thể ra mặt cho ca, ca ca muốn nói thì tự mình đi đi. Nếu y đồng ý thì bản cung ra mặt ban hôn cũng được, chỉ là... tên Dương Lăng đó rất yêu vợ, dám kháng cả thánh chỉ vì vợ, nếu con gái của ca ca không phải quốc sắc thiên hương thì việc này...
Trương Duyên Linh cười nói:
- Hoàng hậu yên tâm, tuy Dương Lăng nặng tình với vợ, nhưng y vẫn còn trẻ tuổi háo sắc. Ca nghe nói y vừa nạp vài cô thiếp xinh đẹp nữa. Tuy con gái ca không phải quốc sắc thiên hương, nhưng bộ dáng cũng rất xinh đẹp. Muội đồng ý làm như vậy là tốt rồi, ca ca sẽ tìm cơ hội nói với y, nhất định mã đáo thành công.
Trương Hạc Linh âm thầm lắc đầu, thất vọng thầm nghĩ: "Nhìn tình hình này, thì tất cả đều sẽ thành công cốc thôi. Đến cả hoàng hậu mà cũng chẳng nắm chắc đối với Thái tử, vậy ai có thể làm cho hắn phải kiêng kỵ đây? Muốn giữ gìn được cơ nghiệp Trương gia, không thể dựa vào người em không có đầu óc này được, còn có cây đại thụ nào khác có thể dựa vào đây? Có lẽ... "
********
Quản một đội quân rất lạ. Ai cũng biết cường quân nhất định phải có quân kỷ nghiêm minh, còn quân kinh thành là một thứ quái thai. Họ được trang bị tốt hơn biên quân nhưng chiến lực yếu hơn biên quân, song quân kỷ nghiêm minh lại trên hẳn biên quân.
Dương Lăng bố phòng binh mã ba ty của Thần Cơ doanh chung quanh các nơi hiểm yếu quanh cung, rồi mỗi ngày đều tự mình tuần phòng qua các các con đường trong cung điện, không hề dám lười biếng chút nào. Y sợ đám quan binh vừa vào Tử Cấm thành sẽ gây nên mấy vụ trộm lặt vặt, dụ dỗ cung nữ.
May mà việc này cũng chỉ là lo xa. Đám Liên Đắc Lộc, Bành Kế Tổ bây giờ y nói gì nghe nấy. Đô ty của Đệ tam ty là người được Dương Lăng đề bạt từ phó đô ti của Đệ tam ty ngày trước. Người này tuy không giỏi lắm, nhưng lại là người rất trầm ổn kiên định, thừa hành quân lệnh không hề cẩu thả, nên tuân thủ quân lệnh của Dương Lăng, ước thúc thuộc hạ cực nghiêm. Hơn nữa sĩ quan quân đội cấp dưới trong quân cũng cực kỳ ủng hộ Dương Lăng, do đó quân lệnh của Dương Lăng hiểu dụ ba quân khi suất binh tiến cung đều được mọi quân sĩ quán triệt, không ai dám vi phạm.
Liên tiếp tuần tra hai ngày thấy bọn quan binh dưới sự ước thúc của những tướng tá đó đều rất tận tâm, theo đúng qui tắc tuần tra, bố phòng, lúc này Dương Lăng mới cảm thấy thoải mái hơn nhiều.
Ngoại trừ vấn đề quân kỷ, y cũng không phải lo lắng gì nhiều. Hoàng đế Hoằng Trị chỉ có một con trai, đám hoàng tử hoàng tôn của họ Chu sớm đã bị đuổi ra khỏi kinh rồi. Việc thái tử đăng cơ cũng không có gì phải lo lắng, hoàn toàn không xảy ra tình huống các Vương đoạt ngôi. Hoằng Trị hoán đổi binh lính cũng chỉ là thủ đoạn dự phòng bình thường khi thay đổi giữa hai đời vua thôi.
Quân kỷ không vấn đề gì, nhiệm vụ đóng giữ hoàng cung cũng đã hoàn thành hơn phân nửa rồi. Chỉ là bệnh của Hoằng Trị một ngày chưa khỏi hoặc Thái tử một ngày chưa đăng cơ, thì trách nhiệm đóng giữ vẫn chưa được giải trừ. Các cửa cung thành đều phong bế, việc đại thần dâng và nhận bản sớ đều là do những người đặc trách đứng ở cửa bên xử lý, lúc này, y là chủ soái tam quân nên tuyệt đối không ly khai được.
Dương Lăng tới cửa ngọ môn, đám quan binh đóng ở đây thấy tướng quân tới, đều tới tấp thi lễ với y. Dương Lăng gật đầu ra hiệu chào họ, đến gần cửa cung, nghe thấy bên ngoài có tiếng lao xao, trong lòng y hơi cảm khái: rõ ràng hoàng đế Hoằng Trị rất được bầy tôi kính yêu. Từ khi ông bệnh nặng đóng cửa cung tới nay, mỗi ngày đều có hàng loạt quan chức tụ ở ngoài ngọ môn chờ tin tức Hoàng Thượng, mỗi khi có một thần tử lấy bản sớ ra ngoài, đều có một đám quan viên ùa lên hỏi đông hỏi tây, hơn nủa canh giờ mới đi được.
Y lắc lắc đầu, quay người đi về phía Kim Thủy kiều. Vừa mới đi ra cửa cung thành, y thấy Kiến Xương Hầu Trương Duyên Linh được một tiểu thái giám dẫn đường tới đón, cười rộng miệng:
- Dương đại nhân? Bản hầu là Kiến Xương Hầu Trương Duyên Linh, muốn tìm đại nhân có một việc muốn nói.
Thấy tướng mạo vị Hầu gia này hơi giống Thọ Ninh Hầu, Dương Lăng cũng chắp tay chào, kinh ngạc hỏi:
- Hầu gia tìm hạ quan có chuyện gì thế?
Kiến Xương Hầu cười khà khà:
- Một việc vui! Tới đây, mời Dương đại nhân sang đây vài bước nói chuyện.
Kiến Xương lôi Dương Lăng sang bên cạnh vài bước, rồi mỉm cười nói:
- Đại nhân tuổi trẻ đầy hứa hẹn, thanh danh chấn động cả kinh sư, tiểu nữ cũng rất hâm mộ nhân phẩm học thức của đại nhân. Vì vậy bản hầu xin được trèo cao, muốn mai mối cho cuộc nhân duyên này, hai nhà chúng ta kết làm tần tấn, vậy không phải là đại hỷ sự sao?
Dương Lăng nghe thế ngạc nhiên, bật cười ha ha:
- Hầu gia lỗ mãng rồi. Dương Lăng sớm đã có vợ, sao có phúc khí để cưới thiên kim nhà Hầu gia chứ?
Kiến Xương hầu ha ha cười đáp:
- Đương nhiên ta biết việc này chứ! Dương đại nhân đưa vợ tìm thầy thuốc đã rất nổi tiếng mà. Nhưng cũng chính là vì như thế nên tiểu nữ mới hâm mộ đại nhân. Đại trượng phu ba vợ bốn nàng hầu rất bình thường, cả hai người đều làm vợ cả là chuyện tốt xưa nay, có gì sai đâu?
Dương Lăng mỉm cười lắc đầu nói:
- Cảm ơn ý tốt Hầu gia, Dương Lăng cả đời này chỉ có một vợ. Ý tốt của Hầu gia Dương Lăng chỉ biết tâm lĩnh thôi.
Kiến Xương hầu có vẻ không vui nói:
- Dương đại nhân! Hoàng hậu nương nương cũng đã gật đầu đồng ý về việc này. Nương nương rất hâm mộ ngài. Chúng ta hai nhà kết thông gia, sau này có Hoàng hậu nương nương đỡ đầu, tiền đồ của ngài không cần nói cũng biết. Nếu không theo, ta thì không sao, chỉ sợ Hoàng hậu nương nương sẽ không vui đó.
Dương Lăng khẽ nhăn mày, hỏi:
- Hả? Đây có thể xem là ý chỉ của Hoàng hậu nương nương sao?
Trương Duyên Linh nghe ngữ khí của y, trong lòng không khỏi giận dữ: "Tiểu tử này thật không biết điều. Ngươi khoe khoang dám kháng thánh chỉ nên không để ý chỉ của nương nương vào mắt nữa à?"
Trương Duyên Linh đỏ mặt đang muốn chống chế, chợt nghe tiếng chuông trống thong thả cất lên, âm thanh vang vọng khắp hoàng thành. Tiếng chuông trống đầu tiên vừa vang lên, lập tức hắn đã phát giác có điều không ổn. Lúc này không phải lúc thượng triều, tại sao lại có tiếng chuông trống, hơn nữa tiếng chuông trống không đánh lần lượt mà là đồng thời cùng đánh?
Trong lòng hắn dâng lên cảm giác có điềm xấu, không khỏi ngẩng đầu nhìn về Càn Thanh cung, chỉ nghe tiếng chuông trống liên tục không ngừng, đánh chín lần, thanh âm truyền khắp trong ngoài cấm cung.
Tất cả đám quan binh, cung nữ, thái giám đang đi lại đều lặng im, quay người về phía hậu cung. Dừng lại một lát, cả hoàng cung vắng lặng không một tiếng động, đến cả những triều thần đang ầm ĩ ngoài cửa cung cũng lập tức nín im phăng phắc. Tiếng chuông trống ngừng lại, chỉ dừng trong khoảnh khắc, rồi tiếng chuông trống lại vang lên. Đầu tiên là một người, kế tiếp là vài người, sau đó tất cả mọi người đều quay về phía Càn Thanh cung, cúi người dập đầu.
Kiến Xương hầu hơi tròn miệng, nhất thời nói không ra tiếng, rốt cuộc hai gối mềm nhũn, hoảng sợ quỵ xuống. Dương Lăng đang không biết chuyện gì xảy ra, chợt nghe từ sâu trong hậu cung sau lưng có âm thanh như tiếng mưa rào, rồi cũng không biết có bao nhiêu người như đang phát điên đập vào cánh cửa cung dày nặng, tiếng gào khóc từ ngoài xuyên qua ngọ môn vọng vào.
Dương Lăng khiếp đảm bừng tỉnh, hấp tấp quỳ phục xuống đất, rốt cục y đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra: "Hoàng đế... băng hà rồi!"
Chương 87: Chính Đức Ban Chiếu
Dịch: workman
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: X1999_vn
Nguồn: www.tangthuvien.com
Chính Đức Hoàng đế hơi khựng lại, thấy các quan vẫn không thuận theo, cuối cùng hắn nổi giận đùng đùng, đứng bật dậy nhảy ra khỏi ghế nói:
- Chức Hoàng đế này là ta làm hay các ngươi làm, việc này không được, việc kia cũng không được, vậy làm Hoàng đế cũng như không.
Chu Hậu Chiếu nói rồi tháo đai ngọc xuống, muốn cởi long bào, làm hai Đại thái giám Vương Nhạc và Trương Thọ vội vàng chạy lên ôm lấy hắn. Văn võ bá quan đang khóc lóc ầm ĩ, Chính Đức vừa làm như vậy, khiến cả đám đều ngẩn người.
Dương Lăng chạy tới Đông Noãn các, đám cận thần bên cạnh Hoàng đế đã thay quần áo màu trắng.
Nhìn thấy Dương Lăng tới, Trương Vĩnh vội vàng ra đón. Trận đòn của Hoằng Trị Hoàng đế trong lần đình trượng đó, mấy người này đều bị đánh thật, phải nằm cả nửa tháng mới dám xuống giường đi lại. Do đó, bọn họ mấy hôm rồi không gặp Dương Lăng.
Hôm nay Hoằng Trị đế uống xong thuốc do thái y dâng lên thì đột nhiên chảy máu mũi, dùng mọi biện pháp cũng không cầm được. Máu chảy ướt đẫm trên mười chiếc khăn, không lâu sau thì đột ngột qua đời. Chu Hậu Chiếu nằm trên thi thể nức nở, ai khuyên cũng không nghe. Lưu Cẩn, Trương Vĩnh và mấy tên nội thị đang rất sốt ruột.
Cuối cùng, Hoàng hậu cũng phải lên tiếng, nhưng Thái tử vẫn không nghe, khăng khă không cho phép bất cứ kẻ nào chạm tới di thể của Hoàng đế. Đám thái giám ở ngoài cung đợi lau chùi thay áo cho thi thể Hoàng thượng, nhưng do không có ai dám nghịch ý Thái tử, nên bọn họ đều đang đứng chờ.
Lúc này thấy Dương Lăng tới, Trương Vĩnh như gặp được cứu tinh, vội vàng cầm theo mớ đồ tang ra đón. Dương Lăng vừa mặc, vừa nghe Trương Vĩnh lo lắng nói:
- Dương đại nhân, điện hạ thương tâm khóc mãi, lại không cho đám nội thị được động tới thân thể của Hoàng thượng. Ta đợi mãi cũng sốt ruột, lại nghĩ không ra lời nào có thể an ủi được Thái tử, ngươi mau đi xem một chút đi.
Dương Lăng đeo xong băng tang, cầm bảo kiếm đưa cho thị vệ đứng ở cửa cung, vội vàng đi vào Đông Noãn các. Chu Hậu Chiếu ngồi quỳ trước giường, vẫn đang lặng lẽ khóc. Trương Hoàng hậu, hai Công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần đều mặc đồ trắng, như ba đóa hoa lê dưới mưa, rơi lệ lã chã đứng ở phía sau.
Dương Lăng nhìn thấy Hoàng hậu và hai Công chúa, vội vàng khom người xuống. Trương Hoàng hậu phất tay, sau đó đưa mắt nhìn hắn, rồi quay đầu nhìn Thái tử một cái, khe khẽ thở dài, lôi hai Công chúa rời khỏi tẩm điện.
Dương Lăng thấy Hoàng hậu và Công chúa đã đi, liền lặng lẽ đi đến bên người Chu Hậu Chiếu quỳ xuống. Chu Hậu Chiếu vẫn ngây ngốc kéo bàn tay lạnh lẽo của Hoằng Trị, chỉ im lặng khóc, không hề nhìn người bên cạnh.
Dương Lăng thấp giọng an ủi vài câu, Chu Hậu Chiếu vẫn chẳng ừ hử gì. Dương Lăng thấy hắn thần sắc ngây ngốc, coi như không nhìn thấy người khác, nghĩ thầm mời tướng không bằng khích tướng. Tiểu Thái tử tuổi còn nhỏ, bảo rằng phải nén bi thương thì cũng không ăn thua gì, không bằng để hắn phấn chấn tinh thần lên một chút. Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Điện hạ, thần nhớ có giảng cho ngươi câu chuyện kể về một vị Hoàng đế rồi mà? Một đời đế vương tựa như mặt trời mọc và mặt trời lặn. Một ngày nào đó, mặt trời sẽ theo một vị đế vương vừa mất đi mà lặn xuống, nhưng lại theo tân thiên tử mà mọc lên. Quân vương mất đi hóa thành tinh tú trên bầu trời, ở trên trời nhìn người thừa kế mà chính mình lựa chọn, xem hắn có phụ lòng với sự phó thác của mình không.
Điện hạ, Hoàng thượng là một vị minh quân từ cổ chí kim khó tìm được. Ngươi là nhi tử duy nhất của Hoàng thượng, sắp trở thành đế vương của Đại Minh, trở thành tân thái dương, ngươi sẽ phụ lòng hi vọng của bệ hạ không?
Chu Hậu Chiếu nghe xong giật mình, hắn hít mạnh, nắm chặt tay Hoằng Trị, trên khuôn mặt ngây thơ hiện lên vẻ nghiêm túc, tuyên thệ nói:
- Ta quyết không phụ lòng kỳ vọng của phụ hoàng. Ta sẽ như phụ hoàng, trở thành một minh quân có đạo, một thiên tử đầy hứa hẹn.
Dương Lăng nói:
- Thần tin mỗi một triều đại, mỗi một vị Thái tử, khi hắn lên đế vị, lúc ngồi trên ngai vàng, đều sẽ nghĩ như vậy, đều từ trong tâm muốn làm một Hoàng đế tốt. Nhưng có người làm được, có người lại thành vua bình thường. Thậm chí, có người là hôn quân, là vua mất nước.
Chu Hậu Chiếu bỗng nhiên quay đầu lại, trừng mắt, phẫn nộ nói:
- Ngươi hoài nghi ta à? Ngươi nói ta không làm được sao?
Dương Lăng bình tĩnh nói:
- Thần tin lời điện hạ nói là phát ra từ bản tâm, tin rằng Thái tử không phải nhất thời tâm huyết dâng trào. Nhưng có hùng tâm tráng chí là chưa đủ, minh quân không phải chỉ nói, mà là phải làm. Dân chúng khắp thiên hạ vừa nghe mất đi một vị vua nhân hậu, đều đang trông mong để thấy tân hoàng sẽ làm gì. Nếu hắn chỉ biết khóc sướt mướt tại đây, hắn có thể trở thành một vị minh quân sao?
Chu Hậu Chiếu nghe xong sắc mặt vừa xanh lại vừa đỏ, đỏ rồi lại xanh. Hắn còn nhỏ, sao chịu được Dương Lăng kích thích như vậy, giận dữ một lát, rồi đột nhiên đứng bật dậy quát to:
- Người đâu, tẩm liệm thay đồ cho phụ hoàng.
Dương Lăng nhếch miệng, một chút tiếu ý khó nhận ra hiện lên.
Đám nội quan thái giám thiết lập linh đường, bố trí trong cung. Hỗn Đường ti (*) thì rửa ráy thay đồ cho Hoằng Trị đế, làm khăn tang, may đồ tang, nhuộm vải tang, chuẩn bị đủ thứ đồ tang cho các vương hầu công khanh, các quan chức các bộ. (*: một trong bốn ti của nhà Minh - ND)
Tướng sĩ Thần Cơ doanh trấn thủ cửa cung ở ngoài giáp trụ mặc thêm một kiện áo bào trắng, đến cả hỏa súng trong tay cũng phủ một tầng vải trắng. Đợi trong cung bố trí xong tất cả thì đã là đêm khuya, sương mù như lụa, khắp nơi trong cung điện treo cao những đèn lồng giấy trắng, đâu đâu cũng mang không khí buồn rầu thê thảm.
Linh đường dựng tại chính điện Càn Thanh cung. Trong điện nến trắng màn trắng, khói bốc lượn lờ, thập phần trang trọng. Giữa điện, bài vị Hoằng Trị đế được dựng thật cao. Khi Hoàng đế bệnh tình nguy kịch, Lễ bộ đã sớm định ra các hạng lễ nghi trình tự thiết thực cho tân hoàng. Quá trình nghe thì đơn giản, cũng chỉ là trước mặc đồ tang, rồi ban di chiếu, sau đó cử hành đại lễ đăng cơ, nhưng trong đó có đủ loại lễ nghi tạp nhạp rườm rà, làm cho người ta nghe mà hoa cả mắt.
Dương Lăng mù tịt về loại lễ nghi mai táng trong cung này, nhưng hắn cũng không cần phải lo lắng mình làm sai. Hắn tuy được tân cựu hai Hoàng thượng sủng ái, nhưng kỳ thật đến bây giờ cả những vỏ ngoài của triều đình cũng chưa được động tới, căn bản không có tư cách vào điện hành lễ khóc tang, chỉ đứng ở ngoài khống chế các ban thị vệ, duy trì cung điện là được.
Đám quan chức các bộ các đường đều lũ lượt vào Càn Thanh cung, ngay cả rất nhiều công hầu huân khanh rất ít bước vào cửa cung lúc này cũng đều lộ mặt. Dương Lăng đứng dưới điện, thấy Lục bộ Cửu khanh, ba vị Đại học sĩ từ trong cung đi ra, nhìn ra xa. Một lát sau, hai hàng thái giám vây quanh một cỗ kiệu, có người cao giọng hô:
- Hoàng Thái tử tới!
Trên mười vị cựu thần trong triều vội vàng chạy xuống đài, vén áo quỳ xuống. Lưu Kiện khóc, nói:
- Xin mời Hoàng Thái tử vào điện làm lễ!
Chu Hậu Chiếu không hiểu nhiều quy củ. Hai thủ lĩnh thái giám Tư Lễ giám là Vương Nhạc và Trương Thọ một trái một phải đỡ hắn, thỉnh thoảng nói nhỏ vài câu bên tai hắn, cách bước đi ra sao, hành lễ như thế nào, nói năng thế nào. Hoàng Thái tử Chu Hậu Chiếu thần sắc hốt hoảng, hoàn toàn không còn vẻ nghịch ngợm xưa nay, chỉ như một bức tượng gỗ, nhất nhất làm theo.
Dương Lăng đợi họ đều tiến lên điện, lúc này mới đứng lên. Một lát sau, đột nhiên nghe một tiếng khóc lóc ầm ĩ. Hàn Lâm đi đến bên người y, khẽ thở dài:
- Những đại nhân này khóc nhiều quá, nhóm quan chức không được tiến vào cửa cung tụ tập ngoài Ngọ Môn khóc nức nở. Lúc này không thể xuất hiện rắc rối, tướng quân có lẽ nên đi xem xét một chút.
Hàn Lâm dựa vào võ nghệ và thành tích tốt mà được thăng chức. Hắn làm người rất quy củ, tuy xưng hô Dương Lăng là Lăng nhi, nhưng việc công thì vẫn dùng thân phận thuộc hạ, tuyệt không vượt qua giới hạn. Dương Lăng khuyên mãi, nhưng Hàn Lâm vẫn khăng khăng không nghe, y cũng mặc kệ nhạc phụ.
Hôm nay Hoằng Trị đế băng hà, đủ loại quan lại khóc tang, túc trực bên linh cữu. Dương Lăng sợ xảy ra sơ xuất gì, do đó chỉ điều người được tín nhiệm nhất như phụ tử Hàn gia và Dương Nhất Thanh, Liễu Bưu dẫn theo trăm tên thân quân mang súng cài đao vây chặt Càn Thanh cung, phòng thủ không lọt một giọt nước. Nghe nhạc phụ nhắc nhở, Dương Lăng cũng khẽ gật đầu, thấp giọng nói:
- Nơi này nhờ nhạc phụ, Lăng nhi đi quanh thành một chút.
Trong Càn Thanh cung, xướng lễ quan của Hồng Lư tự hô xướng nghi thức. Ba đại thần được uỷ thác là Lưu Kiện, Lý Đông Dương, Tạ Thiên dìu Chu Hậu Chiếu ngồi trên ghế, các quan lại tiến lên, rồi quỳ lạy vua mới, những tiếng hô 'Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế' rung cả mái ngói.
Trong những tiếng hô đưa cũ nghênh mới, Dương Lăng đã rời khỏi Càn Thanh cung, hai thân vệ cầm đèn lồng đi dò xét quanh cung, chẳng biết trên đại điện đang tiến hành những lễ nghi bao đời về việc tuyên đọc di chiếu của tiên đế, tân đế hạ ân chỉ. Quy củ lễ nghi không hề thay đổi, không ngờ hôm nay lại lần đầu tiên xảy ra việc khác thường. Hắn còn chưa ra tới Ngọ Môn, trong Càn Thanh cung đã ầm ĩ như một cái chợ rồi.
Hoằng Trị biết thân thể mình khó qua nên đã an bài những việc về sau. Lúc này, chưởng ấn thái giám Tư Lễ giám Vương Nhạc đang cố cầm nước mắt đưa lên di chiếu của Hoằng Trị đế, giao cho Đại học sĩ Lưu Kiện truyền dụ di chiếu giáng đế, ban bố hỉ chiếu về tân đế đăng cơ, sau đó tuyên bố tân đế đại xá thiên hạ, khen thưởng thần tử có công.
Lưu Kiện cũng biết đương kim Thái tử khá là ngoan cố, ai biết được vị nhân huynh này chính là tổ sư của phái tùy ý sáng tạo chuyển thế, căn bản không dựa vào sách vở gì. Vị cựu thần này gạt nước mắt, trước hết tuyên bố di chiếu của tiên đế, sau đó định ra Chính Đức nguyên niên, rồi dẫn đầu văn võ bá quan ba quì chín lạy bái tân đế.
Việc này vốn đã được an bài rất tốt, nhất là ân chỉ của tân đế. Có Thái tử nào trước lúc chưa đăng lên hoàng vị mà dám bắt đầu lựa chọn những nhà lãnh đạo kế nhiệm chứ, thật ra thì cũng do Hoàng đế trước đó đã có chủ ý cho hắn rồi. Từ trước tới nay, khi thái tử đăng cơ đều theo lối như vậy cả.
Sau đó, lão mở thánh chỉ, lấy danh nghĩa tân đế đại xá thiên hạ: người nào không đáng tội chết, hết thảy những người đang đợi tra hỏi đều được đặc xá ra tù, chiếu lệnh miễn trừ nợ thuế ba năm cho nông phu, chiếu lệnh bãi bỏ những thứ dầu cá đặc biệt ngư dân phải cống nộp mà ba năm chưa nộp.
Sau khi ý chỉ biểu thị lòng nhân từ và sự sáng suốt của tân đế được tuyên xong, ân chỉ gia phong hậu cung và khao thưởng cho những thần tử đã ủng hộ và yêu mến tân đế lên ngôi - ân chỉ thứ ba - liền được ban xuống: gia phong cho ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lí Đông Dương làm Thái sư, Thái phó và Thượng quốc trụ, Thái hậu Kỷ thị tấn phong làm Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng hậu Trương thị tấn phong làm Thái hậu, Thái Kỷ Vương thị làm Thái Hoàng Thánh phi; Kim phi, Đới phi làm Thái phi; các Mã phi, Thường phi cũng tấn phong làm Thái Hoàng phi.
Phàm là tân đế đăng cơ, những cựu thần đắc lực đều được ban thưởng như vậy, đám thần tử cũng quen rồi. Dù chức vụ rất hay, nhưng đều là những hư chức có lộc không quyền thôi, cũng không ảnh hưởng gì tới việc phân bố quyền lực của triều đình hiện nay, do đó văn võ bá quan chỉ rửa tai lắng nghe, không ai lên tiếng. Trong đại điện, trên dưới một trăm người đều lặng như tờ.
Nhưng Chính Đức Hoàng đế Chu Hậu Chiếu bị Dương Lăng kích động, một lòng một dạ muốn có biểu hiện thật tốt, mặc dù chỉ nhiệt tình ba phút thôi, nhưng ba phút cũng còn chưa qua. Hắn lắng tai nghe rất chăm chú. Hắn nghĩ thánh chỉ này được ban ra dưới danh nghĩa của mình, nên càng nghe kỹ hơn.
Khi hắn nghe tới ban cho Thọ Ninh Hầu, Kiến Xương ngàn khoảnh hoàng điền, thụ song lộc thì hầu, lập tức từ trên ghế đứng lên, hầm hầm quát:
- Lưu Đại học sĩ từ từ, hai Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương tước lộc đã cao rồi, không cần thưởng thêm!
Hai vị Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương đang quỳ gối phía dưới, nghe Chính Đức nói thế, mặt xanh lè rồi trắng bệch. Vẻ mặt sợ hãi, xấu hổ, phẫn nộ, đủ loại thay đổi như bị nhuộm. Bác bỏ ân chỉ trước mọi người như vậy, quả thực làm cho người ta muối mặt, sau này hai người còn làm sao thấy mặt người khác chứ. Tiểu Hoàng thượng này làm việc quả là không chừa đường cho người ta đi.
Lưu Đại học sĩ cầm thánh chỉ cũng ngẩn người. Vị Đại học sĩ thông kim bác cổ này phụng dưỡng mấy đời đế vương, chưa bao giờ nghe nói qua là khi tân hoàng đăng cơ thì ngay đương trường nuốt lời hứa, triệt bỏ ân chỉ. Sao lại bỏ chỉ của mình được, việc này quả thực là một trò đùa, cũng là đại bất kính với Hoằng Trị đế. Nếu không đáp ứng, khẩu dụ đầu tiên của tân đế mà Đại học sĩ lại cự tuyệt, vậy thì còn gì mặt mũi Hoàng đế chứ.
Lý Đông Dương thấy lão đứng lặng người, vội vàng quì một chân, tâu rằng:
- Hai vị Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương là đương kim Quốc cữu, là chí thân của Hoàng thượng. Hoàng thượng hậu đãi người ngoài mà không quản người thân, không làm gương tốt cho mọi người, đám thần tử sao dám theo? Hôm nay là ngày quan trọng, ý chỉ đã hạ rồi, có rút về cũng hơi không ổn. Theo thần thấy, hai vị Hầu gia chỉ dâng biểu xin không nhận ân là hay nhất.
Hai huynh đệ Trương Hạc Linh, Trương Duyên Linh trong lòng thầm hận, bị tân hoàng ở trước mọi người làm mất mặt, còn phải chủ động xin không nhận ơn. Hoàng thượng thì có được thanh danh đối người khoan hậu, luật pháp nghiêm minh, tên Lý Đông Dương quả là biết cách nịnh nọt. Nhưng tình thế yếu hơn người, hai huynh đệ không thể làm gì được, đành phải theo ý mà làm.
Chính Đức rất kính Hoằng Trị cha mình, mắt thấy hai cậu chẳng hề bi thương trong lúc phụ hoàng sắp chết, còn cầm vương miện chơi đùa. Loại người này khiến hắn cảm giác người thân cận nhất cũng lừa mình, làm hắn căm thù hai người đến tận xương tuỷ, do đó lúc này mới ngăn cản, tước bỏ những gì ban cho họ ngay tại chỗ.
Nghe Lý Đại học sĩ an bài xong, Chính Đức cảm thấy chỉ cần không cho họ chút tiện nghi nào là được, làm gì khác cũng không quá để ý, vì vậy gật đầu nhận lời, về ngồi lại trên ghế. Các quan lại đang quỳ thấy vị tân thiên tử đưa ra ý chỉ ly kỳ, đều lộ vẻ kinh dị. Chính Đức Hoàng đế không biết là làm như vậy có gì không ổn. Cái gì kim khẩu ngọc nha, vua không nói đùa, chỉ cần cảm thấy không đúng là sửa, chẳng lẽ cứ phải giả vờ giả vịt mới là thể diện hoàng gia sao.
Lưu Đại học sĩ thấy tân hoàng sau khi có hành động kinh người đã về ghế ngồi, mới nơm nớp lo sợ đọc tiếp. Văn võ bá quan lúc này cũng đều căng thẳng, chẳng ai biết Chính Đức đế lại khai đao với ai nữa. Tiểu Hoàng đế Chính Đức nghe đọc đến cuối lại không phản đối gì nữa.
Lưu Kiện đọc xong thánh chỉ, trộm đưa tay áo lên lau mồ hôi trên trán, rồi thở phào một hơi. Chính Đức đế lại lên tiếng. Hắn cau mày, kỳ quái hỏi:
- Lưu Đại học sĩ, có phải là thiếu mất một người không?
Lưu Kiện giật mình, vội vàng trải thánh chỉ ra, đọc nhanh một lần; rồi quay đầu nhìn về phía hai thái giám của Tư Lễ giám là Vương Nhạc, Trương Thọ hỏi lại một lần, như trút được gánh nặng nói:
- Khải tấu bệ hạ, thần không thấy có chút sơ hở nào.
Chính Đức cảm thấy kỳ quái, nhớ tới phụ hoàng có nói Dương Lăng là thần tử đắc lực cho hắn, còn nói những ân huệ phải do hắn ban cho. Sao mà ân chỉ với danh nghĩa của mình ban xuống lại không có tên Dương Lăng?
Hoằng Trị đế đáng thương nếu thật sự có linh thiêng trên trời, lúc này nhất định sẽ hối hận khi mình dặn dò nhi tử về hậu sự đã không giải thích cụ thể lúc nào thì chấp hành. Chính Đức ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Không đúng, đúng là bỏ sót một người. Hắn là Dương Lăng, nguyên là Thị độc Đông cung, bây giờ là Tham tướng Thần Cơ doanh, trẻ tuổi đầy hứa hẹn, có tài lương đống. Đã là ý chỉ sót mất, vậy bổ sung thêm một ý chỉ, cho hắn là... ừm... cho hắn vào Lại bộ nhậm chức Thị lang đi.
Lưu Kiện nghe Chính Đức nói thế, chút nữa ngã lộn nhào từ trên đài xuống đất. Đưa một Tham tướng võ quan, một Đồng tiến sĩ chưa tới hai mươi tuổi vào Lục bộ làm chức Thị lang chủ nhiệm? Lưu Kiện vội vàng quì xuống, hô to:
- Hoàng thượng, vạn lần không thể!
Hai vị Đại học sĩ Tạ Thiên, Lý Đông Dương, Hộ bộ Hàn Văn, Lễ bộ Vương Quỳnh, cùng với Lưu Đại Hạ, Mã Văn Thăng và đám Thượng thư sáu bộ đồng loạt quỳ xuống. Lại bộ Thượng thư Mã Văn Thăng vội la lên:
- Hoàng thượng, thăng chức quan xưa nay là do thế tập, nạp tư, quân công, tiến cử, lang tuyển, cho tới phương pháp khoa cử. Cho dù là mặt nào Dương Tham tướng đều không đủ đức vọng, năng lực, lý lịch, đâu thể nhận chức bộ Thị lang chứ. Xin Hoàng thượng nghĩ lại!
Tả Thị lang Vương Ngao, Chiêm sự Dương Phương là mấy đại thần vài ngày trước đã gây gổ với Lưu Cẩn, nên cũng không có hảo cảm gì với Dương Lăng. Vừa nghe hắn còn trẻ tuổi mà đưa vào Lại bộ, ghế chỉ sau chỗ của Thượng thư, nhất thời đều la lên phản đối, đủ loại quan lại đều ồ lên xì xào.
Chính Đức rốt cuộc vừa mới làm vua, thấy đám thần tử phía dưới quỳ xuống hơn phân nửa, trong lòng cũng có chút luống cuống, nhưng nếu rút lại lời thì còn gì là thể diện. Chính Đức Hoàng đế đành phải nói với sắc mặt khó coi:
- Đã thế thì, ta... trẫm sẽ thu hồi đạo ý chỉ này, sửa cho Dương Lăng làm Uy Vũ Bá đi.
Lưu Kiện vừa nghe thấy Hoàng đế không phong quan cho Dương Lăng, nhưng lại sửa thành tấn tước, sao có thể đáp ứng chứ, lập tức cùng các quan quỳ xuống, liên tục dập đầu. Vương Quỳnh Vương Thượng thư đang nước mắt nhòe nhoẹt lại càng gào khóc lớn lên, đấm ngực giậm chân, liên tục nói thiên tử lạm dụng ân thưởng, sẽ làm mọi người bất mãn, các quan lại sẽ không phục.
Chính Đức Hoàng đế hơi khựng lại, thấy các quan vẫn không thuận theo, cuối cùng hắn nổi giận đùng đùng, đứng bật dậy nhảy ra khỏi ghế nói:
- Chức Hoàng đế này là ta làm hay các ngươi làm, việc này không được, việc kia cũng không được, vậy làm Hoàng đế cũng như không.
Chu Hậu Chiếu nói rồi tháo đai ngọc xuống, muốn cởi long bào, làm hai Đại thái giám Vương Nhạc và Trương Thọ vội vàng chạy lên ôm lấy hắn. Văn võ bá quan đang khóc lóc ầm ĩ, Chính Đức vừa làm như vậy, khiến cả đám đều ngẩn người.
Lý Đông Dương thấy thế vội vàng nghĩ: "Dương Lăng còn trẻ, tài cán phẩm đức cũng còn cần quan sát. Hắn làm võ tướng thì không nguy hại gì tới triều chính, phẩm trật có cao một chút cũng không có gì. Nhưng bây giờ nếu tới Lại bộ đảm nhiệm chức vụ quan trọng, với đức vọng của hắn thì há có thể làm các quan tâm phục chứ? Về phần phong tước, mặc dù qua loa một chút, nhưng cũng không phải làm hỏng tổ chế."
Vì vậy, Lý Đông Dương vội vàng cao giọng nói:
- Dạ, thần tuân chỉ. Thần nghĩ rằng, có thể phong Dương Tham tướng làm bất thế (*) Uy Vũ Bá, ban cho cáo sách, bệ hạ nghĩ được không? (*: không truyền cho đời sau - ND)
Chính Đức thấy có đại thần ủng hộ, vội nói:
- Được lắm, được lắm, để Lý Đại học sĩ thảo chiếu.
Chúng thần nghe Lý Đông Dương nói thế, lập tức hiểu ý lão, cũng không phản đối nữa, chỉ có Vương Quỳnh nức nở mãi không dừng được.
Hóa ra Đại Minh phong tước có mấy loại như thế tập, quân công, ơn trạch, ngoại thích. Dương Lăng thuộc loại ơn trạch. Vừa rồi Lý Đông Dương lớn tiếng bảo là Dương Lăng làm bất thế Uy Vũ Bá, ban cho cáo sách, chứng tỏ Dương Lăng được tước lộc không kế thừa, hơn nữa chỉ ban cáo sách, không ban khoán sách. Nhưng cái chính là có được tước hào dễ nghe, có thêm một chút bổng lộc. Việc này không đáng để đối nghịch với Hoàng đế, vì vậy thanh âm phản đối cũng yếu đi nhiều.
Trái tim Lưu Kiện thật sự không chịu nổi mấy trò của Chính Đức, cũng may bây giờ đã gần xong việc cử hành buổi lễ rồi. Vì vậy, Lưu Kiện vội vàng an bài văn võ bá quan túc trực bên linh cữu ở Càn Thanh cung, sắp xếp người đốt vàng mã, đảm bảo không còn sai sót gì nữa.
Nội quan Vương Nhạc thấy việc tân đế đăng cơ đã xong, vội sai người đi tới Khôn Ninh cung mời Thái hậu và hai Công chúa tới Càn Thanh cung cùng túc trực bên linh cữu.
Hiện tại, Dương Lăng còn chưa biết việc gì xảy ra, chỉ đi quanh một vòng, lập tức đã thành Bá gia rồi. Y nghênh ngang tuần sát các cửa cung, tùy tiện ăn cơm với những tướng sĩ trong cung cho no bụng, lúc này đã tới canh ba.
Đi quanh hoàng thành một vòng lớn như vậy xong, Dương Lăng đau chân muốn chết, nhưng trong cung lại không thể cưỡi ngựa, y rất vất vả lết từng bước về lại Càn Thanh cung, chân gần như muốn đứt. Bây giờ, thấy Đông Noãn các hoàn toàn yên tĩnh không còn bóng người nào liền đuổi hai thân binh đi, còn mình thì vào trong sảnh ngồi xuống, cởi ủng xoa chân.
Dương Lăng mở ủng ra, xoa chân cho lưu thông máu huyết, vừa định xỏ ủng vào, đột nhiên thấy vai mình bị người vỗ một cái. Vào nửa đêm, tuy nói trong cung đèn sáng trưng, nhưng cũng sợ hết hồn nhảy dựng lên. Dương Lăng khôn ngoan lắc người qua một chút. Nhìn người đó, y càng giật mình, không thể không kêu lên một tiếng.
Chương 88: Bốn Bề Gặp Địch
Dịch: workman
Biên dịch: lht
Biên tập: Shandian
Nguồn: www.tangthuvien.com
- Tên nịnh thần ngươi câm miệng. Lão thần bất kính với Hoàng Thượng nên chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng. Ngươi dựa vào sự sủng ái mà kiêu căng lại không theo lễ bầy tôi, đầu độc đế quân, sớm muộn gì cũng sẽ bị nghiêm trị!
Dương Lăng bị vỗ vai giật thót cả người, y liền quay phắt đầu lại thì thấy Chu Hậu Chiếu mặc áo trắng mũ rơm đứng sau lưng. Dương Lăng ai chà một tiếng rồi vội vàng xỏ ủng vào đứng lên, vừa mới định quì thì Chính Đức đỡ vai hắn rồi nói:
- Nhìn bộ dáng ngươi xem ra cũng mệt mỏi lắm rồi, thôi đừng quì nữa, hôm nay ta bị người ta quì lạy mệt lắm rồi, ngay bản thân cũng quì tới ê ẩm cả lưng.
Hắn uốn lưng vặn eo vài cái rồi bày ra vẻ mày ủ mày ê, Dương Lăng ở cạnh vị thái tử bình dị gần gũi, chưa từng có quan niệm tôn ti này tùy tiện quen rồi. Nhưng bây giờ Chu Hậu Chiếu đã là hoàng đế, thấy hoàng đế mà không thi lễ như vậy thì trong lòng y cũng thật sự hơi lo sợ bất an, chỉ là tay Chu Hậu Chiếu vẫn còn đặt trên vai hắn, Dương Lăng cũng không tiện tránh ra.
Dương Lăng đành phải cười khổ nói:
- Thần vừa đi tuần tra các cung điện xong. Hoàng Thượng, bây giờ ngài đã là cửu ngũ chí tôn, cách xưng hô cũng nên sửa lại đi thôi.
Chu Hậu Chiếu cười khổ một chút nói:
- Ta... trẫm còn chưa quen lắm, dù sao không có các loại quan lại trước mặt, ngươi và ta vẫn nên xưng hô như hồi ở Đông cung mới tốt.
Dương Lăng hỏi:
- Hoàng Thượng, ngài không phải ở chính điện Càn Thanh Cung để túc trực bên linh cữu tiên đế sao? Sao lại một mình tới đây?
Chu Hậu Chiếu khoát tay nói:
- Bị mấy người ở đó làm cho phiền muốn chết. Cả đám giống như đã thương lượng trước cùng nhau đóng kịch, cứ cách một lúc thì khóc lóc một hồi. Hoàn toàn là bắt ta tới chịu khổ, ta nhân dịp đi ngoài tranh thủ trốn tới đây.
Hắn hít mạnh một hơi, lưu luyến nhìn những vật trang trí quen thuộc trong Đông Noãn Các, nhẹ giọng thở dài nói:
- Nhớ phụ hoàng quá. Lúc vừa vào phòng, ta cảm giác phụ hoàng như vẫn còn ở đây, đang ở trong phòng phê tấu sớ, nhìn thấy ta đến liền vui vẻ bảo nội thị đem mứt trà, hoa quả tới...
Hắn vừa nói vừa rơm rớm nước mắt:
- Lúc còn bé, phụ hoàng ôm ta chính ở chỗ này, tự mình dạy ta viết chữ, dạy ta vẽ tranh, có khi người bận phê duyệt tấu sớ, bảo ta ở một bên luyện viết chữ. Nhớ có một lần ta thừa dịp ngài xuất cung liền cầm bút vẽ loạn xạ vào tấu sớ. Khi phụ hoàng trở về thấy thế đành phải cố ý lật cả nghiên mực, làm nhoè hết cả những bản sớ ấy mới giấu được triều thần. Tuy vậy cấp sự của sáu khoa cũng dâng mười mấy đạo tấu chương phê phán phụ hoàng.
Chu Hậu Chiếu nói đến xuất thần:
- Có một lần, ta làm phụ hoàng cực kỳ tức giận, người phạt ta chép Tam Tự kinh ba mươi lần. Ta chỉ chép được hai lần đã chán chết, sau đó bảo mấy tên thái giám biết chữ như Lưu Cẩn, Trương Vĩnh giúp ta. Họ kiên trì giúp ta chép phạt, tuy ta biết phụ hoàng nhất định nhìn ra được nhưng ngài vẫn ra vẻ chẳng biết gì cả mà tha cho ta. Bây giờ nhớ tới việc này ta thấy rất bứt rứt, ta chỉ mong phụ hoàng phạt ta thêm một lần, khi đó ta sẽ ngồi ngoan ngoãn bên cạnh ngài, chăm chú chép lại cho ngài xem.
Chu Hậu Chiếu nói mà lệ lã chã rơi, Dương Lăng nghe xong thầm cảm động. Từ xưa tới nay, cha con anh em trong hoàng thất luôn lục đục với nhau, có được tình cảm cha con sâu nặng như vậy liệu được mấy người?
Chu Hậu Chiếu nói đến đây thì nhếch miệng cười:
- Ta quỳ trên đại điện làm theo chỉ bảo của nội thị như một con rối, lúc cần thắp hương thì thắp hương, lúc cần dập đầu thì dập đầu, cần khóc thì mới có thể khóc. Ta cũng không biết đấy là tưởng niệm tiên đế hay là diễn cho ai xem, làm cho ta chóng mặt nhức đầu, cả người lờ đờ, đã thế có kẻ còn ra vẻ khóc thương tâm hơn người khác, làm ta bực mình muốn chết.
Dương Lăng thầm nghĩ mấy lễ nghi phô trương như vậy vốn chính là để cho người khác nhìn, nói lại thì cũng khó trách tiểu hoàng đế luôn luôn miệt thị lễ nghi này không quen chứng kiến. Y động tâm nói:
- Hoàng Thượng, ngài muốn tưởng niệm tiên đế mà lại không thích những lễ nghi phiền phức ấy vậy không bằng tối nay ở chỗ này chép sách, chép Tam Tự kinh thành ba mươi bản để tiên đế ở trên trời có linh thiêng chứng giám cho lòng ngài. Dùng cách này để thương tiếc tiên đế chẳng phải còn hơn ở trên đại điện ba quì chín lạy sao.
Chu Hậu Chiếu nghe vậy rất vui vẻ, khen rằng:
- Nói rất đúng, ta chép lại những bản sách do phụ hoàng mấy năm trước phạt chép, phụ hoàng trên trời có linh, thấy ta thật tình ăn năn thì người nhất định sẽ rất vui.
Lập tức Chu Hậu Chiếu xoa tay xoa chân, ngồi vào long án, lúc này trên long án cũng trải một tầng khăn trắng. Dương Lăng lấy từ chiếc bình sứ bên cạnh chiếc án ra một tờ giấy trải ra, dùng cái chặn giấy bằng thuý ngọc đè xuống, nhè nhẹ mài nghiên mực.
Chu Hậu Chiếu vừa đặt bút xuống lại nhìn thấy Dương Lăng đứng cạnh án, nhân tiện nói:
- Ngươi cũng lấy ghế ngồi xuống đi. Ta biết ngươi đi tuần các cung điện nhất định còn mệt hơn ta nhiều.
Thấy Dương Lăng lắc đầu không chịu, Chu Hậu Chiếu lại nói:
- Ngồi đi, bất tất phải câu nệ lễ thần tử. Bây giờ phụ hoàng đã đi rồi, người mà trẫm có thể nói những lời tri kỷ cũng chỉ có mình ngươi thôi. Từ lần đầu thấy ngươi thì ta đã cảm giác ngươi khác hẳn người thường. Khi ngươi nhìn ta, ngươi không có ý sợ hãi, không có ánh mắt lấy lòng như người khác. Ta thích loại cảm giác như người bình thường này. Ngươi nên ngồi đi, vừa mài mực vừa nói chuyện với ta.
Dương Lăng nghe hắn nói như vậy liền nhìn một vòng quanh điện không có ai khác thì lúc này mới đáp ứng, kéo ghế ngồi bên cạnh Chính Đức. Chính Đức chăm chú viết những chữ bách gia chư tử, Dương Lăng đứng một bên mài mực, cẩn thận vô cùng. Chính Đức xem ra viết chữ cũng rất đẹp.
Chu Hậu Chiếu bốn chữ một câu, viết tới 'Phong bảo sử đường' thì đột nhiên dừng lại. Hắn nhìn lại một chút, rồi dường như nhớ tới việc gì, ngẩng đầu nói với Dương Lăng:
- À, đến bây giờ ta mới nhớ, Đường cô nương ở trong phủ của ngươi có vui không?
Dương Lăng thấy hắn nhìn chữ Đường rồi ngẩn người ra thì đã cảm thấy không ổn, lúc này lại nghe hắn hỏi, trong lòng không khỏi loạn lên. Đã nhiều ngày nay Chính Đức vẫn không hỏi gì y, tuy nhiên bây giờ xem ra không thể gạt được rồi. Dương Lăng đành phải kiên trì đem việc Bào phó tướng giết người diệt khẩu, rồi việc Đường Nhất Tiên sinh tử chưa rõ nói với Chính Đức.
Chính Đức nghe xong thất vọng nhìn chữ Đường hồi lâu mà không nói gì, ánh mắt mờ đi, xem ra rất buồn khổ. Dương Lăng nhớ tới cảnh ngày đó mình suất binh tìm tới vách núi chỉ thấy chuôi đao đầy máu tươi, lại nhớ tới mới đầu ở hoa quán gặp được nữ hài nhi khéo léo, có nụ cười ngọt ngào tươi tắn, nhất thời trong lòng cũng đau lòng đến nói không nên lời. Hai người cứ như vậy ngây ngốc ngồi đó, chỉ nghe tiếng hoa đèn nổ lách tách.
Chu Hậu Chiếu chỉ là thiếu niên mười lăm tuổi, khi gặp Đường Nhất Tiên lần đầu thì sinh ra hảo cảm và tình cảm mông lung nhưng vẫn chưa tới mức sâu sắc không thể dứt bỏ. Cho dù vậy thì đó cũng là cô gái đầu tiên mà hắn thích. Hôm nay hoàng đế Hoằng Trị băng hà, tâm tình hắn vốn đã bi thương tới cực điểm lại nghe được tin tức này, trong lòng càng thêm mất mát.
Hắn cũng không hề giận cá chém thớt lên Dương Lăng, chỉ ngây ngốc suy nghĩ hồi lâu. Nét mặt Chu Hậu Chiếu đột nhiên hiện lên một sát khí lạnh lùng, cười lạnh nói:
- Đường cô nương trọng thương rơi xuống vách núi! Bào Tận Thẩm... Lưu Sĩ Dung... Bào... Tận... Thẩm, được, tốt lắm, ta nhớ rồi....
Chu Hậu Chiếu cầm bút thật chặt, dùng sức nhấn xuống, cây bút lông sói cán gỗ lim được cung cấp đặc biệt cho hoàng cung nhấn thẳng xuống giấy. Ngay lúc này, cánh cửa điện chợt kêu rầm một tiếng, một đám người tràn vào, lập tức một thanh âm già nua khàn khàn lớn tiếng kêu lên:
- Hoàng Thượng..., ngươi... ngươi lớn mật!
Dương Lăng giật bắn cả người,tự người nào lớn mật dám mắng Hoàng Thượng như vậy? Y nhảy dựng lên nhìn ra ngoài, đã thấy tám chín đại thần mặc đồ tang đứng trước mặt. Ba vị đại học sĩ Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương cũng có trong đó, dẫn đầu là vị lão đại nhân tóc bạc râu trắng, tuổi già sức yếu, mặt đỏ rực đang trợn mắt nhìn y.
Dương Lăng lúc này mới giật mình. Vừa rồi y cùng với Chính Đức ngồi sóng vai, Chu Hậu Chiếu không quan tâm gì tới tôn ty thì không sao, nhưng các thần tử khác mà thấy sẽ nghĩ gì? Chính Đức ngẩng đầu lên nhìn thấy vẻ mặt Vương Quỳnh, vô tình nói:
- Vương thượng thư hà tất phải kinh sợ, là ta... là trẫm muốn y ngồi cạnh. Tiên đế kính trọng chư vị cựu thần, lúc trò chuyện riêng cũng cho ngồi, cho hầu trà thì trẫm sao không thể đối xử với thần tử như thế?
Chư vị đại thần Lục Bộ Cửu Khanh thấy Dương Lăng vô lễ như thế, dám kề vai ngồi cạnh hoàng đế thì ai nấy vừa sợ vừa giận. Chu Hậu Chiếu tuy dựa vào mấy việc trước kia của tiên đế mà muốn bịt miệng họ nhưng Dương Lăng thì sao có thể so được với cựu thần của Hoằng Trị chứ. Huống hồ những cựu thần ấy dù được ban cho ghế ngồi, cũng không ai dám kề vai ngồi cạnh Hoằng Trị.
Vương Quỳnh bình sinh rất trọng lễ giáo, vẫn phẫn nộ nói:
- Hoàng Thượng ban ghế, đó là long ân của Hoàng Thượng. Nhưng làm thần tử mà sóng vai ngồi ngang hàng với Hoàng Thượng thì đó là tội khi quân phạm thuợng, làm trái cương thường, quả thật như cầm thú!
Sao chỉ nói vài câu mà ta đã biến thành cầm thú rồi? Dương Lăng nghe thế không hiểu ra sao cả, trong lòng cũng hơi giận. Nhưng nhìn vị lão đại nhân tóc trắng xoá, tuổi đủ để làm ông nội y nên y đành phải nén giận nhẫn nhịn.
Hoàng đế Chính Đức bực mình hỏi:
- Vương thượng thư, ngươi rốt cuộc có chuyện gì mà tới đây tìm trẫm?
Hắn vừa hỏi, lập tức nhắc Vương Quỳnh nhớ ra. Vương thượng thư trừng mắt nhìn Dương Lăng, xoay người bái Chính Đức nói:
- Hoàng Thượng, lão thần xin mời Hoàng Thượng di giá tới chính điện Càn Thanh Cung để túc trực bên linh cữu bệ hạ.
Chính Đức chau mày nói:
- Chính điện Càn Thanh Cung nhiều người ầm ĩ, trẫm thật sự rất khó chịu. Mấy năm trước tiên đế từng ở đây tự mình dạy trẫm đọc sách viết chữ. Đêm nay trẫm muốn ở đây soạn văn chương, để tỏ lòng thương tiếc tiên đế.
Vương Quỳnh nghe xong giật mình biến sắc, bối rối nói:
- Hoàng Thượng, làm con phải tận hiếu. Vô luận là thiên tử hay thứ dân, đều phải tận tâm tận lễ. Đại sự của tiên đế, Hoàng Thượng phải dẫn đầu văn võ bá quan túc trực bên linh cữu tiên đế, đây là di chế của thánh nhân, gia pháp của tổ tông, sao có thể bỏ được? Hoàng Thượng ở đây nghĩ tới tiên đế, tuy thật sự có dụng tâm, nhưng không hợp lễ. Thần xin Hoàng Thượng lập tức tới Càn Thanh Cung túc trực bên linh cữu, thái hậu, công hầu và các quan lại đều chờ Hoàng Thượng tới.
Chính Đức cả giận nói:
- Việc trẫm thương tiếc tiên đế, tự sẽ có chủ ý của trẫm. Các ngươi đi trước đi.
Vương Quỳnh giận dữ đứng dậy, sải bước già lên vài bước, chắp tay thi lễ nói:
- Hoàng Thượng là thiên tử, một lời sẽ làm gương cho người trong thiên hạ, sao có thể tự mình sửa lễ chế chứ?
Lão liếc mắt nhìn thấy mấy chữ Chính Đức viết, tuy đã được che đi, vẫn nhận ra là thiên Bách Gia Tính, trong lòng càng giận dữ. Lão chỉ vào tấm giấy còn ướt mực nói:
- Những văn tự này mà liên quan gì tới thương tiếc tiên đế à?
Những gì liên quan tới thánh nhân lễ chế, Vương Quỳnh nhất định sẽ không chịu thỏa hiệp với Chính Đức, ngữ khí lập tức trở nên hùng hổ. Lão là thượng thư bộ Lễ, chủ trì lo việc đại lễ tang ma Hoằng Trị. Những gì về chuyện này, dù là ba vị đại học sĩ như Lưu Kiện cũng phải nghe lão. Đám Lục Bộ Cửu Khanh đứng bên cạnh tuy không nói một lời, nhưng thần thái sắc mặt hiển nhiên cùng ý kiến với lão.
Dương Lăng thấy cựu thần hùng hổ như vậy, khiến cho Chính Đức thập phần khó chịu, lại muốn phát tác cơn giận của tiểu hài tử, vội hỏi:
- Vương Đại nhân, Hoàng Thượng tưởng niệ tiên đế, bởi vậy mới đến nơi tiên đế sống. Nhìn vật nghĩ tới người, cũng không có gì phạm vào hiếu tâm với người đã khuất. Đại nhân nên về đại điện trước, đợi Hoàng Thượng viết xong thiên văn chương này, sẽ lên điện túc trực bên linh cữu thôi.
Vương Quỳnh nghe xong những lời đại nghịch bất đạo với tiên đế như vậy, không khỏi giận tím mặt. Lão chụp lấy nghiên mực trên bàn ném về phía Dương Lăng, miệng phẫn nộ quát:
- Ngươi là nịnh thần tặc tử, trước dám ngồi với hoàng đế, mục vô quân thượng. Bây giờ thân là thần tử mà không tận tâm tận lực khuyên can Hoàng Thượng, còn muốn nói lời gièm pha, ở đây đâu tới lượt ngươi vung tay múa chân chứ?
Vương thượng thư chụp xuống, lôi cả xấp giấy ném lên, quẹt vào mặt Chính Đức. Tờ giấy chưa khô mực lập tức lưu lại trên mặt Chính Đức hai vệt màu đen. Dương Lăng lắc người né qua, nghiên mực đánh bộp vào cây trụ trên điện vỡ tan, mực bắn ra bốn phía.
Hoàng đế Chính Đức thấy Vương Quỳnh luôn mồm vua tôi phụ tử, nhưng bản thân lão lại làm vẻ như thế trước mặt hoàng đế, còn gì là giữ gìn lễ nghi vua tôi, hung dữ ngạo mạn hơn bất kỳ ai, không khỏi tức giận đến run cả người.
Hoằng Trị đối xử với thần tử rất dung túng hậu đãi. Ông khi nhỏ đã bơ vơ, làm người lại hơi mềm yếu. Thời gian lâm chính dài, đám cựu thần cũng quen rồi. Chỉ cần nói có lí, thì có thể trước mặt ông nói rất hùng hồn, trước giờ đều là nói thẳng không nể mặt. Huống chi bây giờ lại đối mặt với Chính Đức tiểu hoàng đế?
Tạ Thiên thấy Hoàng đế Chính Đức mặt tái nhợt, xem ra sắp phát tác rồi, vội vàng quỳ xuống nói:
- Xin Hoàng Thượng tuân thủ lễ nghi di chế, lập tức di giá tới Càn Thanh Cung.
Lão vừa quỳ, đám thần tử khác đều quỳ xuống, trăm miệng một lời nói:
- Xin Hoàng Thượng lập tức di giá!
Lục Bộ Cửu Khanh vừa quỳ xuống, thanh thế nhất thời ép cả Chính Đức, hắn cố nén tức giận, chỉ nói:
- Chúng khanh bình thân, trẫm... trẫm đi là được rồi.
Lưu Kiện thấy hắn chịu thua, trong lòng thầm thở phào nhẹ nhõm, không ngờ Chính Đức lập tức chỉ tay vào Vương Quỳnh, hỏi:
- Vương thượng thư, ngươi luôn mồm giảng cái gì vua tôi cha con vậy mà lúc này lại kiêu ngạo ngang bướng trước mặt trẫm như thế, có tính là thất lễ không?
Vương Quỳnh giật mình, nhìn thấy vết mực trên mặt Chính Đức, tự thấy vừa rồi mình vô cùng càn rỡ, đã thất lễ nghi quân thần rồi, lão liền quỳ xuống nói:
- Thần muôn lần đáng chết, nhất thời xúc động phẫn nộ, dám thất lễ trước mặt Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng trị tội.
Chính Đức cười lạnh một tiếng nói:
- Chỉ thất lễ số thôi à. Mực quẹt cả vào mặt trẫm, còn không phải là lỗi đại bất kính sao?
Vương Quỳnh ngẩng cao đầu, hiên ngang nói:
- Thần có tội, nguyện chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng, chỉ cần Hoàng Thượng lập tức di giá về Càn Thanh Cung, thần muôn lần chết cũng không dám chối từ!
Hoàng Đế Chính Đức lớn tiếng nói:
- Được, được lắm! Ngươi nhận tội là được rồi. Dương Lăng, lập tức bắt Vương Quỳnh vào thiên lao!
Các vị đại thần nghe thế tới tấp quỳ xuống cầu tình:
- Hoàng Thượng thứ tội, Vương thượng thư vô cùng trung thành, nhất thời nói năng vô lễ, xin bệ hạ khoan dung.
Dương Lăng cũng khuyên:
- Hoàng Thượng! Ngày đăng cơ là quan trọng, sao lại bắt giam đại thần trong triều chứ? Xin Hoàng Thượng đặc xá cho Vương đại nhân đi.
Vương Quỳnh nghe xong cười lạnh nói:
- Tên nịnh thần ngươi câm miệng. Lão thần bất kính với Hoàng Thượng nên chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng. Ngươi dựa vào sự sủng ái mà kiêu căng lại không theo lễ bầy tôi, đầu độc đế quân, sớm muộn gì cũng sẽ bị nghiêm trị!
Chính Đức nghe thế ngượng quá hóa giận, hắn đỏ mặt chỉ vào Dương Lăng giận dữ nói:
- Ngươi cũng không tuân ý chỉ của trẫm sao?
Dương Lăng thấy hắn giận dữ, không dám tiếp tục khuyên giải nữa, chỉ có nước quay sang sai mấy tên thị vệ áp giải Vương Quỳnh xuống dưới. Chính Đức lúc này mới hừ lạnh một tiếng, cũng không để ý tới quần thần, phất tay áo đi ra ngoài cửa phòng.
Chúng thần tới tấp đứng dậy, ánh mắt nhìn về phía Dương Lăng có rất nhiều vẻ phẫn nộ.
Lý Đông Dương nhìn Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: "Lúc người này thân là thị độc nho nhỏ mà đã dám vạch trần việc quyền thần ngoại thích của tiên đế phạm pháp, hẳn phải là thần tử trung thành thẳng thắn mới đúng. Tại sao khi thiên tử càn rỡ như vậy, y thân là cận thần được Hoàng Thượng sủng tín mà không mở lời khuyên can, ngược lại lại dung túng như thế? Nếu nói y tham quyền thế mà a dua theo Hoàng Thượng thì chỉ bằng vào việc y vì thê tử mà chịu tội kháng chỉ chém đầu cho thấy y cũng không phải người như vậy, rốt cuộc thì người này có tâm tư gì đây?"
Lão cố ý chầm chập đứng dậy đi cuối cùng, đợi những quần thần khác đều đi hết, mới nói với Dương Lăng vẻ thâm trầm:
- Người làm quan phải cẩn thân tu đức, phải yêu dân, thường thường tự xét lại những việc đã qua. Ngươi được đế ân rất dày, phải nghĩ đến việc trung quân đền nợ nước, chớ có kiêu ngạo tuỳ hứng mà làm hỏng tiền đồ.
Dương Lăng bất lực nói:
- Lý Đại nhân, hạ quan nào dám làm vua mê hoặc? Chà! Bây giờ Hoàng Thượng đang nổi nóng, đợi sau khi hết nóng, tìm được cơ hội, hạ quan nhất định sẽ nói vài lời cho Vương Đại nhân. Đại nhân bất tất phải lo lắng. Chẳng lẽ đại nhân đã quên đại học sĩ cầm chùy truy đánh Thọ Ninh Hầu ở kim điện rồi sao? Có lệ này từ trước, việc Vương thượng thư ở tẩm cung cầm nghiên mực ném Dương tham tướng thì đã sao?
Lý Đông Dương nghe y nhắc tới việc mình cùng Thọ Ninh Hầu đại náo kim điện, không khỏi mỉm cười, liếc nhìn y thật sâu nói:
- Như thế là tốt! Thiếu niên đắc chí, càng nên cẩn thận khiêm nhường, trung quân đền nợ nước. Dương đại nhân ngàn vạn lần phải tránh mình khỏi cùng bọn với Thọ Ninh Hầu mới tốt.
Lý Đông Dương dứt lời xoay người bỏ đi. Dương Lăng ngó theo lão, nhớ tới vừa rồi chư vị đại nhân lục bộ cửu khanh nhìn mình phẫn nộ, không khỏi cười khổ một tiếng:
- Hôm nay hoàng đế Hoằng Trị băng hà, quả là thời gian xui xẻo với ta, đầu tiên là đắc tội với với bên ngoại của vua, bây giờ lại đắc tội với Nội Các. Ngoại trừ Hoàng Thượng Chính Đức thì chỉ sợ là mình gây thù hằn khắp nơi rồi, nguy cơ trùng điệp!
Dương Lăng đang muốn bỏ đi, thì có bóng người thoáng qua ở cửa, một người lao vào trong. Vừa vào cửa đã cười nịnh y:
- Dương đại nhân thật có bản lĩnh. Lão thất phu Vương Quỳnh cậy già lên mặt, khắp nơi vung tay múa chân. Lúc chúng ta còn hầu hạ Đông cung thì lão nhiều lần dâng tấu chương cho Hoàng Thượng nói chúng ta dụ dỗ Thái tử chơi đùa, làm hại chúng ta và bọn người Trương Vĩnh, Đại Dụng bị tiên đế trách mắng. Lúc này lão lại bị bắt vào đại lao, quả thật là hả lòng hả dạ rồi!
Dương Lăng chăm chú nhìn người đứng trước mắt mặt mày hớn hở, chính là Lưu Cẩn.
Chương 89: Lưu Cẩn thảo luận chính sự
Dịch: workman
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
- Nếu gạo này thật sự hiệu quả, vậy là tuệ nhãn của Hoàng Thượng rất cao. Lúc đó thần xin dùng niên hiệu của Hoàng Thượng mà đặt tên, gọi là "gạo Chính Đức", như thế sẽ thiên thu muôn đời ai ai cũng đều nhớ tới Hoàng Thượng.
Ngày mười tám tháng năm, hoàng đế Chính Đức thân chinh lên Thừa An Môn (tức Thiên An Môn) hạ chiếu thông báo khắp thiên hạ: tân đế lên ngôi.
Hoàng đế đặt chiếu chỉ tuyên bố nắm giữ triều chính vào miệng một con phượng hoàng ánh vàng rực rỡ, tự tay thắt dây lụa vàng vào lưng kim phượng. Chính tay thái giám thủ lĩnh Lễ Giám ty dòng kim phượng từ đầu thành xuống, những quan chức bộ Lễ quì trên mặt đất trước cổng thành, hai tay nâng quá đầu một chiếc khay vàng có trang trí đám mây tiếp chỉ. Sau đó các quan viên phóng ngựa đưa đến bộ Lễ sao chép rồi đóng dấu, bố cáo khắp thiên hạ. Chính Đức chính thức trở thành thiên tử Đại Minh. Thủ tục ban chiếu đó gọi là "Kim phượng ban chiếu".
Sau đó hoàng đế Chính Đức được bá quan vây quanh trở về điện Kim Loan, ngồi lên ngai vàng để các quan bái lạy. Lúc này hạ sử (sứ giả đến chúc mừng) và hạ nghi (lễ vật) của các Phiên Vương cùng bốn nước chư hầu vẫn còn trên đường đi.
Chính Đức vừa lên ngôi nắm triều chính, lập tức tuyên bố ba đạo thánh chỉ. Các bộ, các địa phương phải lập tức chấp hành tuyệt đối.
Đạo thánh chỉ thứ nhất đã được chuẩn bị từ trước bởi Vương Quỳnh, thượng thư bộ Lễ, tổng chỉ huy nghi thức tang lễ, người mà vua cũ mới mất một ngày đã bị giam vào đại lao: "Đạt thiên minh đạo thuần thành trung chính thánh văn thần vũ chí nhân đại đức kính hoàng đế (nghĩa là vị hoàng đế đại nhân đại đức, thánh văn thần võ, thuần thành trung chính sáng rõ như trời) Hiếu Tông đã về trời, tổ chức quốc tang trên cả nước."
Toàn thể thần dân phải để tang, mũ viền vải trắng. Sau khi dự đại lễ tân đế lên ngôi, các quan vẫn phải để tang, không được đi ủng mà phải đi giầy rơm, bỏ hai cái cánh chuồn ở mũ sa để treo hai dải băng trắng rủ xuống.
Các chùa chiền to nhỏ cùng đánh vạn tiếng chuông, ngày đêm không dứt. Trong vòng ba ngày, các quan viên từ tứ phẩm trở lên phải từng nhóm một tiến về Càn Thanh Cung cử hành việc đưa linh, ai ai cũng phải khóc than mười lăm lần, do viên ngoại lang bộ Lễ chỉ huy. Cùng một lúc tất cả người tham gia phải than lạy nhịp nhàng theo lệnh, khóc cùng khóc, dừng cùng dừng, khiến cho Càn Thanh Cung trở nên như đang diễn tấu nhạc giao hưởng.
Đạo thánh chỉ thứ hai là do hoàng đế Chính Đức và ba vị đại học sĩ cùng Cửu Khanh của sáu Bộ trao đổi mặc cả khá lâu, cuối cùng trong tình huống không chống nổi sự uy hiếp của Hoàng đế mới thông qua. Chiếu chỉ hạ lệnh cho tả thị lang bộ Lễ Lý Kiệt, giám phó của Khâm Thiên Giám là Nghê Khiê, thái giám của Lễ Giám ty là Đới Nghĩa, tả thị lang bộ Công Lý Đạc, tham tướng Tả Tiêu quân của Thần Cơ doanh Dương Lăng cùng đôn đốc giám sát xây dựng Thái Lăng cho hoàng đế Hoằng Trị.
Mặc dù bị hoàng đế Chính Đức ép nên đám nội các đại học sĩ phải đưa Dương Lăng vào nhóm các quan viên phụ trách đôn đốc xây Đế Lăng, nhưng bọn họ lại cố ý nhét y vào cuối danh sách. Ngược lại, vốn chẳng có chí khí gì lớn (thật sự rất có lỗi với rất nhiều khổ tâm thu vén cho y của hoàng đế Chính Đức), Dương Lăng hoàn toàn chẳng để tâm đến việc này.
Đối với người khác thì việc đôn đốc xây Đế Lăng chẳng những là một công việc vô cùng quang vinh mà còn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho con đường làm quan sau này. Nhưng Dương Lăng lại chỉ ước gì mình được chỉ huy chút đỉnh gì đó, chỉ cần chạy loanh quanh dãn chân, dãn cẳng là tốt nhất. Muốn y mỗi ngày phải chủ trì đại lễ, phải bôn ba trong nghĩa trang, không nói y không có năng lực làm việc này, mà chính từ đáy lòng y cũng chẳng hứng thú gì.
Đám Đại học sĩ muốn làm khó dễ y nhưng lại thành ra giúp đỡ y. Bây giờ Dương Lăng chỉ chịu trách nhiệm chỉ huy trên vạn quan binh cung dịch từ tam đại doanh trong Ngũ Quân Đô Đốc Phủ điều tới. Khi đám nhân viên này vừa đến, bộ Lễ, bộ Công, Khâm Thiên Giám đã bắt đầu vung tay múa chân, Dương Lăng gần như thành người thừa. Người ta không muốn gặp y, y cũng không cần phải có mặt mỗi ngày, thành ra lại tiêu diêu tự tại vô cùng vui vẻ.
Đạo chiếu chỉ thứ ba của hoàng đế Chính Đức là vung đao giết người. Hắn mang hết toàn bộ uất ức với đám quan văn giáng xuống một đám quỉ xui xẻo. Vì hoàng đế Hiếu Tông vừa uống thuốc xong lại đột nhiên chảy máu không ngừng rồi thăng luôn, những người hầu hạ hoàng đế Hiếu Tông uống thuốc là thái giám Trương Du, Viện phán của Thái Y viện Lưu Văn Thái, ngự y Cao Đình Hòa đều bị xử trảm. Cách chức Thái Y viện của Sứ Thi Khâm, còn thiếu khanh Thái Thường Tự là Lý Tông Chu và các quan chức liên quan đều bị biếm ra quan ngoại.
Một việc khiến quần thần không hiểu ra sao cả chính là việc phó tham tướng Thần Cơ doanh Bào Tận Thẩm, quan đô ty Lưu Sĩ Dung, Thải Bạn quan (quan thu mua) Bào Tận Trung và trên mười tên võ tướng lớn nhỏ liên quan cũng bị lôi ra trước chợ chém đầu. Bào tham tướng và Lưu đô ty bị áp giải từ thiên lao, còn Bào Tận Trung thì lại được người của Cẩm Y Vệ đưa tới. Khi Giám Trảm quan kiểm tra, chứng thực nhân thân của hắn thì lão vô cùng kinh hãi.
Quả thực Tiền Ninh rất quan tâm tới Bào Tận Trung nên gã không dùng những hình phạt như kéo ruột, tôi luyện, huyền tích (treo xương sống lên), oan tất (đục vỡ đầu gối), xoát tẩy (cọ rửa) với hắn, nhưng hắn cũng đã bị đánh đập thê thảm tới mức không còn nhân dạng, ngay cả đường huynh (anh họ) Bào tham tướng cũng không nhận ra hắn.
Đến lúc chém, những phạm nhân trên pháp trường ai nấy đều mặt cắt không còn chút máu, chỉ có Bào thải bạn thì lại vô cùng khẳng khái nhanh chóng đưa cổ chờ đao, lập tức được dân chúng vây xem ồ lên ủng hộ.
Miêu Quỳ phụng mật chỉ của Tiên đế bí mật tra tìm những kẻ mua súng ống cùng đạn dược, xem rốt cuộc đó là vị Phiên Vương nào. Việc này quan hệ trọng đại, hoàng đế Hoằng Trị dặn lão nếu chưa điều tra được rõ ràng thì đừng vội thông báo với Chu Hậu Chiếu, do đó Chính Đức hoàn toàn không biết gì về việc này.
Đến khi Miêu Quỳ nghe thấy chiếu chỉ của hoàng đế Chính Đức được ban bố một cách đột ngột thì lập tức phi ngựa tới pháp trường muốn hô to "Đao hạ lưu nhân". Đáng tiếc khi lão tới nơi thì chỉ kịp nhìn thấy thân quyến của những người chết đang khâm liệm thi thể, chuẩn bị đem đi mai táng rồi.
********
Vua mới lên ngôi, quốc sự nặng nề, ba vị đại học sĩ bận tới mức không thể giải quyết hết việc. Họ cũng không hề quên đồng liêu đang bị giam ở thiên lao, nhưng dù họ nhiều lần cầu khẩn hoàng đế Chính Đức đặc xá tội bất kính cho Vương Quỳnh, nhưng Chính Đức lại hoàn toàn không thèm để ý.
Có chư vị đại nhân Lục Bộ Cửu Khanh chiếu cố, Vương lão thượng thư không hề chịu khổ sở gì trong ngục tối, nhưng một vị cựu thần mà bị giam trong ngục hơn mười ngày như vậy, khó tránh khỏi việc đám triều thần cũng nhao nhao bàn luận. Họ không dám phỉ báng hoàng đế nhưng không khỏi giận chó đánh mèo, căm ghét Dương Lăng ra mặt. Phần lớn đám quan văn gặp Dương Lăng đều lạnh mặt làm ngơ, khiến cho Dương Lăng cảm thấy rất xấu hổ.
Thật ra Dương Lăng cũng có nói giúp cho Vương Quỳnh nhiều lần. Chỉ là Chính Đức vừa nghĩ tới việc lão gia hỏa đó hung hăng trước mặt mình, phun cả nước bọt vào mặt mình, điệu bộ cực kỳ kiêu ngạo làm cho hắn cực kỳ căm hận, nên hắn rắp tâm muốn dạy cho lão một bài học. Vì vậy, cho dù Dương Lăng cầu xin cũng không được hắn xem xét.
Lúc này, Ngự Mã Giám vừa mới phụng chỉ tiếp quản hoàng cung, Dương Lăng cùng Miêu Quỳ bàn giao cung cấm. Sau khi để năm trăm thân vệ tạm ở lại hoàng cung, những quan binh khác lập tức được cử tới Thái Lăng đôn đốc việc xây dựng hoàng lăng. Tất cả mọi việc xử lý xong xuôi, Dương Lăng chạy về Càn Thanh Cung. Vừa mới đi đến cửa điện, y đã thấy hai vị đại nhân Vương Ngao, Dương Phương từ trong cung mặt mũi nặng chịch đi tới.
Dương Lăng thấy vậy vội dừng chân chắp tay thi lễ. Hai người thấy Dương Lăng làm vậy cũng không thèm để ý tới, chỉ cười lạnh một tiếng rồi phẩy tay áo bỏ đi. Dương Lăng biết những người đối xử với mình như vậy đều là những đại thần thẳng thắn trung trinh, do ma xui quỷ khiến thế nào mà họ lại cho mình là kẻ gian nịnh. Y chỉ có thể lắc đầu cười khổ, bước vào đại điện.
Tiểu hoàng đế đang lẩm bẩm đọc, phê các bản sớ, duyệt xong là tiện tay vứt sang một bên. Lưu Cẩn cắp phất trần đứng hầu bên cạnh. Lão vừa nhìn thấy Dương Lăng liền khẽ cười, đưa tay lên muốn chào hỏi.
Mấy ngày nay ở gần với nhau đã quen, Dương Lăng cũng biết tiểu hoàng đế cực kỳ hiền hoà, bởi vậy y ra hiệu cho Lưu Cẩn im lặng, rồi lặng lẽ đi tới bên người Chính Đức.
Trong những bản tấu đã được phê đang được đặt ở trên bàn, Dương Lăng thấy một bản phê rằng:
- Tiền khuyến học cũng cần thiết. Thế nhưng muốn sao chép mọi thứ từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế tới nay à? Nếu e thừa quá nhiều giấy mực, cứ đưa bớt cho trẫm.
Một bản khác thì viết:
- Những việc nhỏ như thế này thì quan viên địa phương có thể làm. Nếu cái gì cũng cần trẫm phê duyệt, vậy các ngươi để làm gì?
Dương Lăng nhìn bản tấu chương này thấy đầy những chữ cực nhỏ dày đặc. Y đã biết cho dù là tấu chương của ai viết đi nữa, những dòng đầu cũng đều chỉ nói vài lời vấn an ca ngợi khách sáo, gần như có thể bỏ qua không cần xem nên y vội liếc xuống phía dưới. Trong bản tấu chương viết đại ý là ở khu Bách Việt, có dân chúng lấy lúa nước của An Nam lai tạo với lúa của ta, sản xuất ra một loại gạo mới, có thể chịu hạn, chống côn trùng tốt hơn, sản lượng cũng tăng lên, xin Hoàng Thượng cho nhân giống, phát triển.
Dương Lăng đọc xong tấu chương đó, vội hỏi:
- Hoàng Thượng! Dân lấy ăn mặc là quan trọng, nếu giống gạo mới có thể tăng sản lượng, dù chỉ là một mẫu tăng mười cân, thì phần tăng thêm trên đồng ruộng cả nước đâu chỉ là ức vạn? Hoàng Thượng không nên xem thường.
Chính Đức vừa quay đầu lại, nhìn thấy là y bèn vui vẻ nói:
- Ngươi trở lại rồi à! Trẫm đang muốn bảo người đi tìm ngươi. Trẫm muốn lưu Tả Tiêu quân của ngươi ở kinh sư, đám đại học sĩ không chịu. Lưu Cẩn đưa ra một ý rất hay: xung quanh kinh sư qui hoạch một ngự trang bảy tòa, nhân mã của ngươi nhậm chức thị vệ thân quân cho trẫm, đóng quân trong ngự trang. Ha ha, sau đó họ không dám nói gì nữa.
Dương Lăng nghe xong không khỏi cả kinh. Chẳng phải làm như vậy thì mình sẽ càng trở thành mục tiêu công kích sao? Quy hoạch ngự trang, dân chúng trong ngự trang sẽ nộp thuế ruộng cao hơn dân chúng bình thường vài phần. Dân chúng khổ không nói ra được, phần tội lỗi này cũng sẽ đổ lên đầu mình rồi.
Y không khỏi tức giận liếc mắt nhìn Lưu Cẩn. Lưu Cẩn đứng bên cạnh Chính Đức với vẻ mặt vô cùng đắc ý, còn cảm thấy mình đã làm một việc rất tốt cho Dương Lăng. Lão vui vẻ xem cái liếc mắt của Dương Lăng là cái nhìn cảm ơn của Uy Vũ Bá.
Dương Lăng không khỏi thở dài, bỏ qua không nói về việc này nữa, y quay sang bản tấu chương:
- Hoàng Thượng! Hẳn là nên giao bản tấu chương này cho ba vị đại học sĩ bàn bạc một chút. Gạo đã kháng côn trùng, chống hạn tốt lại có thể tăng sản lượng, thật rất có lợi cho dân chúng Đại Minh. Bệ hạ nên giao cho một địa phương nào đó trồng thí nghiệm, nếu thật sự hiệu quả như vậy, sẽ nhân rộng ra. Dân chúng nhận được ơn huệ, ai mà không cảm động ân đức của Hoàng Thượng chứ?
Y thấy Chính Đức nghe mà không để tâm lắm, không khỏi linh cơ máy động, nói luôn:
- Nếu gạo này thật sự hiệu quả, vậy là tuệ nhãn của Hoàng Thượng rất cao. Lúc đó thần xin dùng niên hiệu của Hoàng Thượng mà đặt tên, gọi là "gạo Chính Đức", như thế sẽ thiên thu muôn đời ai ai cũng đều nhớ tới Hoàng Thượng.
Y vừa nói như vậy, quả nhiên khiến Chính Đức cao hứng. Hắn vui vẻ phán:
- Dương khanh nói có lý. Cứ như vậy đi! Những quan lại địa phương tự mình thí nghiệm loại này. Mỗi nhà không được ít hơn hai mẫu. Khi có kết quả khả quan sẽ nhân rộng ra.
Hắn vội vàng lấy lại bản tấu chương đó, viết lại ý kiến phúc đáp lên, rồi bảo tên tiểu thái giám bên cạnh:
- Lập tức đưa cho đại học sĩ duyệt rồi làm việc.
Chuyện này đã gợi lại chuyện vẫn trĩu nặng trong lòng Dương Lăng. Y nhớ lúc mình còn ở Kê Minh dịch, Hàn Lâm từng có mấy củ khoai lạ, người phương bắc đều rất quí trọng nó. Bây giờ đã là tháng năm rồi, rốt cuộc hiệu quả của giống lúa mới như thế nào, e rằng phải qua năm sau mới biết được. Trong khi đó mình biết mấy thứ khoai lạ nhất định sẽ cho sản lượng lớn. Lưu Cẩn khuyên hoàng đế mở ngự trang tuy là một chuyện xấu, nhưng nếu ta có thể thuyết phục Hoàng đế đồng ý nhân giống loại cây đó bên trong ngự trang thì khi mọi người đều biết chỗ tốt của nó, đương nhiên dân chúng sẽ tích cực ủng hộ. Kinh sư là căn bản của thiên hạ, dân chúng nơi đây đã trồng loại lương thực này thì chẳng bao lâu loại cây này sẽ được phổ biến khắp cả thiên hạ.
Dương Lăng càng nghĩ càng cao hứng, nhưng tính toán mãi mà chưa biết làm sao mở lời. Lưu Cẩn cười nói:
- Dương đại nhân! Đội quân của ngài cư trú ở kinh thành, chúng ta có thể thường xuyên gặp nhau trước mặt bệ hạ rồi. Ha ha, vừa rồi hai người Dương Phương, Vương Ngao cầm tấu chương về việc Tín Dương lũ lụt tới gặp Hoàng Thượng, nghe nói Hoàng Thượng muốn qui hoạch một ngự trang để cho ngài đóng ở kinh thành, cả hai còn đưa lời gièm pha ngăn cản nữa.
Dương Lăng biết đây là Lưu Cẩn muốn tốt cho mình, nhưng vừa nghe chuyện Tín Dương lũ lụt, còn có người dâng lên tấu chương, y không khỏi giật mình. Đã bao nhiêu ngày qua rồi mà triều đình vẫn còn chưa xử lý, nếu có người chết đói thật, chẳng phải dồn ép dân chúng tạo phản sao? Y vội vàng truy vấn:
- Sao vẫn còn chưa phát chẩn lương thực cứu trợ nạn nhân ở Tín Dương thế?
Chính Đức trả lời:
- Lưu đại học sĩ đã hạ lệnh phân phối thuế ruộng để cứu tế rồi, nhưng bọn hắn lòng tham không đáy, còn muốn trẫm miễn thêm cho Tín Dương ba năm thuế ruộng. Lũ lụt thôi, là đại nạn nhất thời thôi, lũ lui thì đâu có sao, cũng chẳng có gì to tát, cần gì phải miễn ba năm thuế ruộng chứ? Ta vừa rồi suýt nữa bị đám đó khóc lóc nỉ non lừa bịp, may mà có Lưu Cẩn nhắc nhở, mới không mắc bẫy họ.
Dương Lăng cảm thấy hơi không ổn, vội tâu:
- Hoàng Thượng! Hà Nam lắm tai nhiều nạn, dân chúng phần lớn không còn lương thực dư thừa, việc cứu tế chỉ giải quyết việc đói lạnh nhất thời cho họ mà thôi. Huống hồ sau lũ tất có ôn dịch, dân chúng đã túng lại nghèo, rất vất vả mới qua khỏi. Nếu có thể giảm miễn một vài thứ thuế ruộng để dân chúng còn tia hi vọng, nghỉ ngơi lấy lại sức, với nước với dân đều là chuyện tốt mà.
Mặt Lưu Cẩn hơi lộ vẻ bực bội, lão đáp:
- Dương đại nhân có lòng nhân hậu, thương cho dân chúng. Nhưng những quan chức làm tổn hại triều đình, lấy lòng địa phương thật sự không ít đâu. Một khi đã làm một lần, sau này chẳng biết sẽ có bao nhiêu quan chức nhân dịp thiên tai tới xin Hoàng Thượng miễn này miễn kia, như vậy triều đình chẳng còn thuế má gì cả à?
Chính Đức vừa nghe xong gật đầu nói ngay:
- Đúng rồi, đúng rồi! Lưu Cẩn nói có lý. Ta thấy bọn hắn báo cáo rất quá đáng, một lần lũ lụt là lũ lụt cả ngàn dặm được sao? Không thể dung túng cho bọn họ.
Lưu Cẩn lại nói tiếp:
- Trước giờ vẫn không có một quy chế nào về việc triều đình kiểm tra thuế ruộng tại địa phương, việc điều tra cũng không cẩn thận. Trong kho của phủ họ có tiền có lương thực, họ cũng vẫn cứ lên triều đình khóc than. Hoàng Thượng tuổi nhỏ, không thể nào để đám bầy tôi đó che mắt. Lão nô đề nghị Hoàng Thượng thiết lập quy định, hàng năm đều phải phái người tuần tra việc thu thuế ruộng các nơi, tự mình phải có tính toán mới không bị các quan lừa.
Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn lão, y không nghĩ tới tên Lưu Cẩn dốt nát, chỉ biết hại người này còn có cả những ý kiến sâu sắc như thế. Đời nay thông tin phát triển, quy định kiện toàn mà còn phải có những cơ quan kiểm toán hàng năm đi thẩm tra các nơi. Đại Minh lúc này giao thông không tiện, tin tức tắc nghẽn, nếu không tăng cường quản lý tài chính các nơi thì rất bất lợi cho triều đình.
Nhưng chuyện tốt này nếu chỉ cắt cử bọn thái giám nội quan đi chấp hành, chỉ sợ bọn họ ngoài mặt lấy lòng hoàng đế, bên trong thì trung gian kiếm lời bỏ phần lớn vào túi riêng. Lúc đó lại xuất hiện một đám chuyên lột da, vơ vét, chuyện tốt cũng thành chuyện xấu. Dương Lăng vội bổ sung:
- Chủ ý này rất tốt, phải tăng cường việc khống chế của triều đình với địa phương mới có lợi. Hoàng Thượng nên bảo bộ Hộ định ra quy tắc, để họ hàng năm phái người đi chấp hành.
Lưu Cẩn thấy y đồng ý với mình, lập tức mặt đỏ lên. Lúc này lão còn chưa nghĩ tới việc mưu tìm lợi lộc gì, chỉ muốn đứng trước mặt hoàng thượng khoe khoang bản lĩnh một chút. Dương Lăng là cận thần thiên tử, là Uy Vũ Bá, thi thư giỏi hơn lão vốn chỉ vò vè vài chữ không biết bao nhiêu lần. Thấy Dương Lăng tán thành quan điểm của mình, Lưu Cẩn chợt phát hiện mình không phải chỉ là người hầu hạ kẻ khác, hóa ra mình cũng có bản lĩnh thực sự.
Lão nhất thời cao hứng, lập tức đĩnh đạc tâu:
- Nô tài còn nghĩ rằng Dương Phương, Vương Ngao tỏ vẻ tận tâm cho Tín Dương như thế, là bởi vì bọn họ là quan chức gốc Tín Dương nên thiên vị quê nhà. Quan chức trong triều mà còn như thế, chắc chắn quan viên địa phương còn quá đáng hơn nhiều. Để phòng ngừa quan hệ ràng buộc, hoà hiếu kết giao rồi nhận hối lộ, quan viên địa phương cả nước không được nhậm chức ở tỉnh của mình. Cũng cùng lý do như thế, Ngự sử thủy vận không thể để cho người Giang Nam đảm nhiệm.
Dương Lăng nhướng mày, thầm nghĩ: "Lưu Cẩn không phải là người tốt, lão dùng tâm tiểu nhân để đo lòng quân tử, xem mọi người đều nghĩ như lão. Đâu phải các người làm quan đều là một lũ mưu lợi riêng làm rối kỉ cương chứ?" Nhưng y nghĩ lại, loại phương pháp này thật sự có thể phòng ngừa việc tư thông ở một mức độ nhất định.
Dương Lăng bèn tâu:
- Lưu công công tâu rất có lý. Nhưng phần lớn người có học trong thiên hạ đều tập trung ở vài nơi. Nếu khi cử quan chức mà không cho phép nhậm chức tại tỉnh của mình, sẽ có nhiều quan chức không thể phân bổ được. Không bằng quy định để tránh hiềm nghi, quan chức tỉnh giàu có không được nhậm chức tại tỉnh của mình, như vậy mới có thể còn rộng đường lựa chọn cắt cử hơn.
Sau khi lên ngôi, Chính Đức chưa nghĩ được cao kiến gì để có thể tuyên bố chiếu thư hiển thị bản lĩnh của tân đế. Vừa nghe Lưu Cẩn đề ra hai điều mà Dương Lăng đều đồng ý cả, còn bổ sung cho hoàn thiện, hắn liền cảm thấy hứng thú. Hắn nhấc bút lên chăm chú ghi lại, biến thành hai chính sách mới được ban bố ngay khi hắn vừa nắm triều chính.
***************
Chính Đức vừa làm hoàng đế nên còn khá là chăm chỉ, nhưng những bản sớ ấy viết vừa xấu lại vừa dài, nội dung lại cực kỳ khô khan vô vị. Hắn phê một lát thì cảm thấy bực mình, bảo Lưu Cẩn cùng hắn đi chơi.
Dương Lăng một mình đi ra khỏi Càn Thanh Cung, dừng chân chốc lát dưới mái đình trước cửa cung. Bây giờ, nhân mã tứ vệ Ngự Mã Giám đã hồi cung, y không cần phải ở lại trong cung nữa. Nhưng mới vừa rồi Hoàng Thượng chưa có ý cho y rời đi, mà y cũng chưa tìm được cơ hội mở lời.
Ngẫm lại từ khi y lãnh binh vào núi cho tới lúc vào đóng quân trong hoàng cung, nay đã hơn một tháng rồi. Y và Ấu Nương có thể nói là gần nhau trong gang tấc mà cách mặt cả biển trời. Cùng ở trong thành Bắc Kinh, đường đi cũng chẳng bao xa, nhưng lại không được gặp lại nhau, thật sự trong lòng y rất nhớ nhung.
Hôm nay không tiện đi, đợi vài ngày nữa là có thể về nhà rồi. Tiểu nha đầu đó có nhớ ta không, có gầy đi không? Dương Lăng nghĩ đến bé con yêu kiều đáng yêu, thân thể không khỏi nóng lên, hận không thể lập tức bay về, ôm lấy Tiểu nương tử yêu dấu đầy xinh xắn, đầy hiểu biết vào lòng hôn hít một phen.
Đầy tình ý phấp phới, y ngẩn người nhìn vào viện. Một vị quan văn đang đi vào cung, bắt gặp y đứng đờ người trước cửa cung vội băn khoăn bước tới. Người nọ liếc nhìn y, gương mặt dày như vỏ quít mang theo nụ cười khiêm tốn, chắp tay thi lễ:
- Vị này có phải là Uy Vũ bá Dương đại nhân không? Hà hà, quả nhiên là Dương đại nhân!
Dương Lăng đang ngơ ngẩn, quay đầu lại thấy đó là một vị quan văn hơi quen mặt. Tuổi người này sợ cũng phải bảy mươi rồi, trên quan phục có thêu một con gà, xem ra là quan nhị phẩm. Dương Lăng vội chắp tay chào:
- Hạ quan thất lễ, đại nhân là...
Lão đại nhân cười khà khà:
- Lão phu là Tiêu Phương, thị lang bộ Lại.
Dương Lăng vội đáp:
- Thì ra là Tiêu đại nhân! Tiêu đại nhân... muốn vào gặp Hoàng Thượng à?
Chương 90: Tiêu Phương Dùng Kế
Dịch: workman
Biên dịch: TheJoker
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Chính Đức nghe xong, không dám tin bật thốt:
- Hà Nam là nơi cằn cỗi như thế sao? Những bảo vật nơi ấy chỉ là ... chỉ là bò cạp, ve sầu, xâu tiền sao? Đáng thương! Thật là đáng thương!
Tiêu Phương cười nhẹ:
- Đúng vậy! Chỉ là... hai vị đại nhân Vương Ngao và Lưu Phương vừa mới bị hoàng thượng từ chối thẳng thừng, lão phu sợ mình cũng sẽ bị đuổi cổ ra thôi. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực trước mặt Hoàng Thượng, có chuyện này lão phu muốn nhờ đại nhân hỗ trợ dâng lời.
Dương Lăng chợt máy động trong lòng, giật mình hỏi:
- Đại nhân cũng là vì việc Tín Dương mà tới à? Không dối đại nhân, khi nãy hạ quan cũng đã khuyên Hoàng Thượng rồi...
Dương Lăng kể lại từ đầu chí cuối việc vừa rồi cho lão nghe, rồi khẽ thở dài:
- Hoàng Thượng ít tuổi, hãy còn chưa hiểu chuyện dân gian, có một số việc chưa chắc có thể trình bày rõ ràng được với Hoàng Thượng. Hiện nay hạ quan cũng chẳng còn biện pháp gì nữa!
Tiêu Phương không giống bọn người Vương Ngao, Dương Phương chú trọng đến khí phách thư sinh. Mặc dù tuổi quá thất tuần, râu tóc bạc phơ nhưng tấm lòng nhiệt tình mưu cầu danh lợi của lão lại chẳng hề giảm bớt. Bây giờ Dương Lăng đang là nhân vật được Chính Đức coi trọng nên lão đã có ý muốn kết giao, vì vậy tuy quan chức cao hơn Dương Lăng, nhưng lão lại có thái độ cực kỳ khiêm tốn với y.
Nghe Dương Lăng nói xong, Tiêu Phương cau đôi mày bạc trắng, suy nghĩ rất lâu rồi cẩn thận nói:
- Hoàng Thượng từ bé đã ở trong cung, chẳng biết nỗi khổ của dân gian cũng là lẽ thường. Không giấu gì Dương đại nhân, lão phu là người Bí Dương, Hà Nam, quê nhà cũng đang chịu phải tai ương, khắp chốn Hà Nam lúc này nạn dân kêu khóc đòi ăn, người bị nạn nào chỉ có ở một nơi. Bạn bè thân hữu ở Bí Dương và Tín Dương đều lên kinh nhờ vả, dù thế nào lão phu cũng phải cố gắng nói một lời trước mặt hoàng thượng. Nếu đã không thể can gián trực tiếp thì lão phu nghĩ nên đi đường vòng. Có điều việc này vẫn phải nhờ Dương đại nhân giúp đỡ, mong rằng Dương đại nhân sẽ tương trợ.
- Ồ! Nếu có thể giúp đỡ cho người dân đang khốn khó, Dương Lăng sẽ không chối từ. Không biết lão đại nhân có cao kiến gì?
Dương Lăng vội hỏi.
Tiêu Phương nghe y đồng ý, lập tức vui vẻ kề tai nói nhỏ với y một hồi. Dương Lăng nghe xong ngạc nhiên nhìn lão, thầm nghĩ: "Tuy rằng hoàng đế trẻ người non dạ, nhưng cũng đã là thiếu niên mười lăm sáu tuổi rồi; tuy y rất ham chơi, nhưng liệu y lại khoái mấy thứ trò chơi con nít này sao?"
Nhưng vị lão đại nhân này đã nói thế, mình cũng không ngại giúp lão một tay, nếu có thể thành công thì quả là công đức vô lượng rồi. Dương Lăng bèn gật đầu đáp:
- Cứ như vậy đi, ty chức đi đây. Ngày mai đại nhân chuẩn bị sẵn đồ vật cho tốt chờ Hoàng Thượng triệu kiến là được.
**************************
Kết thúc buổi triều sớm, hoàng đế Chính Đức bãi giá về điện Trung Hoà. Vừa vào cửa điện, hắn đã ngáp một cái rõ to, càu nhàu với Dương Lăng đang đứng đợi:
- Ngày nào cũng khởi giá sớm như vậy, thực mệt chết đi được. Đáng ghét nhất là cái ngai vàng. Ta có thể nói kẻ chế ra cái ngai vàng này nhất định có thù oán với hoàng đế. Cái bản ghế quá cứng, ngồi rất khó chịu; lưng ghế quá sâu, không dựa lưng được; tay vịn hai bên lại quá xa, muốn dựa vào một chút cũng không xong. Rõ là muốn người ngồi trên đó mệt bao nhiêu là cho mệt bấy nhiêu.
Dương Lăng nghe xong cảm thấy hơi buồn cười, chợt nhớ Đại Minh từng có vị hoàng đế làm thợ mộc, nhưng theo trí nhớ thì dường như không phải là hắn. Nghe hắn nói rõ ràng mạch lạc như vậy, chẳng lẽ con cháu họ Chu đều có thiên phú làm thợ mộc à?
Cốc Đại Dụng thấy hoàng đế nói về mấy chuyện này bèn vội đuổi đám cung nữ thái giám ra ngoài hết. Tuy Lưu Cẩn là người tâm phúc của hoàng đế Chính Đức, nhưng chức vụ hiện nay của lão vẫn còn chưa thay đổi, vẫn là thái giám thủ lĩnh của Chung Cổ ty. Khi bên này bãi triều, lão phải chỉ huy gõ chuông giống trống ở bên kia, bận rộn vô cùng, cho nên lúc này không có thời gian chạy tới hầu hạ hoàng thượng. Còn bọn Mã Vĩnh Thành và Trương Vĩnh thì ai nấy đều có công việc riêng, do đó bên cạnh hoàng đế chỉ có mỗi mình Cốc Đại Dụng hầu hạ mà thôi.
Chính Đức ngồi xuống sau long án, lấy từ trong hộp gấm trên bàn ra một chiếc bánh ngọt xốp giòn, vừa ăn nhồm nhoàm, vừa lúng búng nói:
- Được rồi! Ngươi nói Hà Nam có nhiều bảo vật, hôm nay muốn cho người đến tiến cống vài món đồ hiếm lạ. Vậy mau lấy ra cho ta coi.
Dương Lăng mỉm cười đưa mắt ra hiệu cho Cốc Đại Dụng. Sớm được y dặn dò, Cốc Đại Dụng vội đi ra trước điện, cao giọng gọi:
- Tuyên thị lang bộ Lại Tiêu Phương vào yết kiến!
Chỉ lát sau, Tiêu Phương đầu tóc tóc bạc phơ, tay tuồn vào trong ống tay áo, chạy chầm chậm từ trước điện lại. Đến cửa điện lão thở phì phò một hồi rồi mới rảo bước qua bậc cửa, quỳ sụp xuống, hô to:
- Thần Tiêu Phương ra mắt hoàng thượng!
Chính Đức uống một ngụm trà, cười toe toét bảo:
- Tiêu ái khanh hãy đứng lên! Trẫm nghe nói Hà Nam có nhiều bảo vật, khanh có đem theo không, mau lấy ra cho ta xem thử.
Tiêu Phương dập đầu tâu:
- Khải bẩm Hoàng Thượng, vùng Hà Nam không có vàng, không có bạc, không có ngọc ngà châu báu. Cái gọi là bảo vật chẳng qua là những sinh vật hiếm khi thấy được ở những vùng khác, thần sợ sẽ làm kinh động thánh giá.
Chính Đức vừa nghe lập tức mừng rỡ. Mấy thứ vàng bạc châu báu thì có gì mà xem? Vừa nghe lão nói là có những sinh vật hiếm lạ, khó thấy được nơi khác, trong lòng y càng ngứa ngáy hơn, tâm tính thiếu niên cũng lập tức nổi lên, Y bất chấp uy nghi hoàng thượng, vỗ bàn cười, sốt ruột giục:
- Mau lên! Mau lấy ra cho trẫm xem một chút, trẫm thích mấy thứ này lắm.
- Dạ, vi thần tuân chỉ!
Tiêu Phương ngẩng đầu liếc mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười, khẽ kín đáo gật đầu với lão, lúc này Tiêu Phương mới yên tâm.
Hôm nay lão lên đây hiến lời ngay, thực sự cũng rất phiêu lưu mạo hiểm. Nếu hoàng thượng nhìn thấy vật do lão trình lên, chẳng những không thích mà còn nổi giận, lão sẽ thành ra trộm gà không được mà còn bị ăn mất nắm gạo, không khéo phải vào thiên lao bầu bạn với Vương Quỳnh Vương đại nhân chứ chẳng chơi. Bây giờ có Dương Lăng gật đầu nhận hỗ trợ, nếu lát nữa chẳng may hoàng thượng phát hoả, có y bảo kê hẳn sẽ không sao.
Tiêu Phương lấy từ trong tay áo ra ba hộp nhỏ, cung kính dâng lên, nói:
- Quê nhà của thần không sản sinh ra bảo vật gì khác, chỉ có mấy thứ hiếm lạ này, mời hoàng thượng ngự lãm.
Chính Đức sốt ruột:
- Đưa lên đi! Mau đem qua cho trẫm xem.
Tiêu Phương đứng dậy bước tới trước, đặt ba chiếc hộp trên long án trước mặt Chính Đức rồi cẩn thận mở một hộp ra, nhè nhẹ đẩy tới trước mặt Chính Đức.
Chính Đức mở to hai mắt chăm chú nhìn. Hắn thấy trong hộp có một con vật có mấy cái chân màu vàng óng, gần như trong suốt, trên lưng là một lớp vỏ đen xì, dày cứng, cái đuôi giương cao quắp lại thành móc câu, trông như đại tướng quân uy vũ. Hắn không khỏi ngạc nhiên cười hỏi:
- Đây là con gì vậy? Trông thật thú vị!
Hắn vừa nói vừa thò tay vào định sờ, Dương Lăng vội giữ tay hắn lại, can:
- Hoàng Thượng cẩn thận! Con vật này gọi là bò cạp, là độc vật. Nếu bị cái móc trên đuôi nó chích trúng sẽ đau đớn không chịu được, chớ có đụng vào nó.
Chính Đức thích chí:
- Thì ra con vật đáng yêu này chính là bò cạp à, trông thật đẹp và oai vệ. Trẫm có nghe qua về 'Ngũ Độc'*, đáng tiếc lại chưa được thấy. Hôm nào tập hợp những độc vật này lại cùng một chỗ, cho chúng đánh nhau xem thử con nào độc hơn. Trong hộp đó còn có cái gì nữa, đem cả ra đây xem nào!
(*:gồm bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc)
Cốc Đại Dụng cầm nắp đậy cái hộp đó lại, rồi mở một cái khác ra. Trong hộp có một con gì đó trông mềm mềm, đen thui, bò tới bò lui trong hộp rất nhanh. Chính Đức thấy vậy không thích, nhíu mày hỏi:
- Đây là con gì?
Tiêu Phương đáp:
- Hồi bẩm Hoàng Thượng, con vật này tên là con xâu tiền*. Cuộc sống của dân chúng Hà Nam nghèo khổ, trên người không có tiền, nhìn thấy con vật này giống như một dây để xâu tiền, bèn dùng nó để trêu đùa, mong có ngày gia cảnh sung túc hơn.
(*: hay còn gọi là du diên, tên khoa học là Thereuonema tuberculata)
Chính Đức ờ một tiếng, nhạt nhẽo phán:
- Con xâu tiền trông chán chết! Còn hộp thứ ba là gì?
Tiêu Phương mở hộp cuối cùng. Nắp hộp vừa mở ra, chỉ nghe một tiếng vù, một con vật từ trong hộp bay ra, bay vòng quanh điện vài vòng, rồi kêu lên một tiếng bay vụt ra khỏi cửa điện.
Hoàng đế Chính Đức nhìn mà há hốc mồm, ngạc nhiên thích thú hỏi:
- Đây là vật gì, là chim à? Sao lại bay đi rồi?
Dương Lăng thấy mấy con vật bình thường như vậy mà hoàng đế Chính Đức đều chưa thấy qua, xem ra thật là đáng thương. Nhưng ngẫm lại có những đứa trẻ đô thị tới nông thôn, ngay cả cây ngô (bắp) non cũng không nhận ra, còn lấy làm lạ là tại sao lại có thứ cỏ dại trông thẳng tắp như vậy. Cho nên vị hoàng đế này không biết mấy thứ nọ cũng không có gì là lạ.
Dương Lăng bèn cười đáp:
- Hoàng Thượng! Con vật đó gọi là con ve, cũng được gọi là ve sầu. Vì tiếng kêu của nó như hai chữ 've sầu' (nguyên văn "tri liễu"). Con vật này ăn gió uống sương, lấy nhựa cây làm thức ăn.
Tuy Tiêu Phương đọc rất nhiều sách, nhưng xưa nay mọi người đều cho rằng con ve uống sương mà lớn, còn có người chuyên làm thơ phú để ca ngợi sự cao thượng của con ve. Đây là lần đầu lão nghe nói con ve hút nhựa cây nên không khỏi liếc mắt nhìn Dương Lăng, nhưng rồi lập tức phụ họa:
- Dương đại nhân nói đúng đó! Mấy năm nay Hà Nam nếu không hạn hán thì là lụt lội, đất đai không trồng trọt được lương thực, đến cả chim chóc cũng sắp chết đói, chỉ có những con vật không cần ăn gì thì mới có thể sống được.
Chính Đức nghe xong, không dám tin bật thốt:
- Hà Nam là nơi cằn cỗi như thế sao? Những bảo vật nơi ấy chỉ là ... chỉ là bò cạp, ve sầu, xâu tiền sao? Đáng thương! Thật là đáng thương!
Nhân cơ hội, Tiêu Phương bèn quỳ xuống tâu:
- Hoàng Thượng từ bi, dưới sự trị vì của tiên đế và hoàng thượng, vốn là quốc thái dân an, dân chúng an cư lạc nghiệp. Thế nhưng không hiểu sao mà mấy năm nay Hà Nam liên tiếp bị thiên tai, do đó đời sống dân chúng rất khổ cực, mặc dù chưa tới nỗi "đổi con cho nhau để ăn", nhưng có rất nhiều người dân không kiếm được ba bữa. Hai ngày trước, thần gặp vài người đồng hương chạy nạn tới đây, thần mới biết mức độ nghiêm trọng của tình hình thiên tai ở cố hương.
Thần là người Hà Nam, nhưng đồng thời cũng là bề tôi của Hoàng Thượng, do đó không dám thổi phồng việc này, e làm rác tai bệ hạ, đồng thời cũng không dám không báo cho Hoàng Thượng. Do đó thần mạo muội tâu lên, xin Hoàng Thượng làm chủ cho dân chúng Hà Nam.
Chính Đức lúc này mới rõ ý lão. Hắn nhìn các hộp gỗ trên bàn một lúc, rồi bật cười:
- Tiêu thị lang rất có thủ đoạn! Thôi được, trẫm sẽ chuẩn những tấu chương của những quan viên Hà Nam các ngươi, miễn thuế ruộng cho Hà Nam. Đã ban ân đức, phải ban nhiều một chút, vậy trẫm sẽ miễn... cho Hà Nam năm năm thuế khóa, khanh thấy thế nào?
Tiêu Phương vừa nghe liền mừng như điên. Lão quỳ sụp xuống đất, dập đầu lia lịa, liên thanh ca ngợi Hoàng Thượng thánh minh, rồi một loạt những từ ngữ ca ngợi thao thao bất tuyệt được tuôn ra như nước lũ tràn bờ, khiến cho cả Chính Đức nghe xong cũng chịu không nổi. Hắn bụm miệng cười ha hả rồi bảo:
- Đủ rồi! Đủ rồi! Khanh hãy lui xuống đi, lát nữa ngọ triều trẫm sẽ hạ chỉ là được.
Chính Đức đảo mắt nhìn thấy Dương Lăng đang đứng một bên cười tủm tỉm, không khỏi mỉm cười, giả vờ giận dữ trừng mắt nhìn y, nói:
- Khanh chớ đắc ý! Hôm nay trẫm tưởng có vật hiếm lạ để chơi, nhưng lại rất thất vọng. Chuyện này vẫn ở trên người khanh! Trong vòng ba ngày, khanh phải tìm mấy thứ đồ chơi thật tốt cho trẫm xem!
Dương Lăng cười hì hì vâng lệnh, rồi cùng thị lang bộ Lại Tiêu Phương dập đầu tạ ơn, cùng nhau lui ra khỏi đại điện. Tiêu Phương kéo tay Dương Lăng liên tục cảm ơn, cao hứng tới mức nói năng lộn xộn.
Dương Lăng nghe lão nói người Hà Nam nhất định sẽ đội ơn y lần này, bèn không khỏi cười nói:
- Việc này cũng không hẳn! Đại thần trong triều nhiều người hiểu lầm với hạ quan, e rằng... ngay cả hai vị đại nhân Dương Phương và Vương Ngao là người Hà Nam cũng vẫn xem tại hạ như giặc.
Tiêu Phương khoát tay khinh thường nói:
- Chớ để ý đến đám người đó. Dân chúng chỉ biết ai cho họ cơm ăn, ai cứu mạng sống của họ. Còn đám người chỉ biết lễ giáo, chẳng biết thực hành đó, đại nhân đừng để ý tới họ.
Tiêu Phương là tiến sĩ năm Thiên Thuận thứ tám. Đầu năm Hoằng Trị được điều tới Hoắc Châu làm Tri phủ, được đề bạt làm Đề học phó sứ ở Tứ Xuyên , rồi được điều tới Hồ Quảng, không lâu sau, lại thăng làm Hữu thông chánh ở Nam Kinh, sau lại được thăng làm Hữu thị lang bộ Lễ, cho đến giờ thì ngồi vào vị trí thị lang bộ Lại .
Để hiển thị tài hoa của mình, lão thường xuyên dâng thư tấu sự, đưa ra những kiến giải của mình đối với sự việc trong triều đình và địa phương, hy vọng có thể khiến cho hoàng đế Hoằng Trị coi trọng và trọng dụng.
áng tiếc quan viên khi ấy hoặc nhiều hoặc ít đều có địa bàn của mình. Lão lần lượt nhậm chức bộ Lễ và bộ Lại, hai thượng thư Vương Quỳnh và Mã Văn Sinh tuy rất trung thành với triều đình, nhưng về mặt đạo đức cá nhân cũng không thể thập toàn thập mỹ được: bản sớ của Tiêu Phương thường bị bọn họ gạt bỏ không trả lời. Vì phần lớn những quan viên này là người phương nam nên Tiêu Phương rất oán hận đám quan viên phương nam.
Lúc này trong triều ngoại trừ đại học sĩ Lưu Kiện, những người nắm quyền phần lớn là tài tử vùng Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây. Do đó quan viên trong triều mà lão nhìn vừa mắt cũng chẳng có mấy ai.
Dương Lăng đến từ Kê Minh, là đồng hương phương bắc, lại là cận thần của thiên tử, hơn nữa vừa rồi lại giúp đỡ nhiệt tình khiến lão có thể ăn nói với các phụ lão ở quê nhà, trong lòng Tiêu Phương tự nhiên cảm kích tới rơi nước mắt.
Nghe Dương Lăng nói y bị triều thần kỳ thị, Tiêu Phương nhớ tới những bản sớ của mình bị gạt bỏ, không khỏi dâng lên mối đồng cảm, lập tức chắp tay:
- Việc thiện hôm nay của Dương đại nhân sẽ cứu sống mấy chục vạn dân chúng Hà Nam. Sau này nếu đại nhân có gì sai khiến, chỉ cần nói một tiếng, lão phu nếu có khả năng, quyết sẽ không chối từ.
Dương Lăng cười cười cám ơn, rồi chắp tay tiễn vị đại nhân này đi. Lúc này y chỉ nghĩ mạng mình có hạn, cố sống sao cho vui vẻ một chút, nếu có thể tiện tay làm chuyện tốt thì cứ làm một ít. Mặc dù đây là cơ duyên người khác cầu cả đời cũng không được, nhưng y lại không có chí lớn gì, do đó y hoàn toàn không để tâm đến lời hứa của vị "phó bộ trưởng bộ khen thưởng" này.
Ngọ triều đã tan, Chính Đức thở phào nhẹ nhõm. Y trở lại Càn Thanh cung bỏ nghi trượng, vừa ăn chút đồ ăn vặt vừa bảo tên tiểu thái giám đi gọi mấy người Mã Vĩnh Thành tới, tìm tiếp mấy trò chơi mới mẻ giải buồn. Lúc này bên ngoài chợt có người cao giọng hô:
- Đại học sĩ Lưu Kiện của Vũ Anh điện, đại học sĩ Lý Đông Dương của Cẩn Thân điện và đại học sĩ Tạ Thiên của Hoa Cái điện cầu kiến Hoàng Thượng.
Hoàng Đế Chính Đức "a" lên một tiếng, lật đật kéo ngăn kéo, đút hộp mứt hoa quả vào. Lần trước hắn không để ý, lúc tiếp kiến Lưu Kiện vẫn còn bày trên bàn một hộp trái cây khô. Lưu Kiện trông thấy liền tức thì hùng hồn buông lời răn bảo một phen, phê phán Hoàng Thượng không quan tâm đến long thể, ăn uống lung tung, cơm nước không đúng giờ, làm cho Chính Đức lúc đó phải thề thốt đã biết lỗi, rằng sau này sẽ không ăn bậy uống bạ nữa, lúc đó Lưu Kiện mới bỏ qua. Nếu hôm nay lại bị bọn họ bắt gặp, ba vị đại học sĩ đồng loạt mở miệng thì làm sao hắn sống cho nổi?
Chính Đức giấu kỹ hộp mứt hoa quả rồi mới ngồi thẳng người dậy, bảo:
- Mời ba vị đại học sĩ vào điện!
Ngoài cửa điện, ba ông già cất tiếng đáp lời rồi đi vào điện. Hôm nay ba vị đại học sĩ cùng dắt tay nhau tới đây là vì một chuyện lớn. Tân vương kế vị, lục cung vô chủ, tuy hoàng đế tuổi tác còn nhỏ, nhưng việc này cũng phải thu xếp càng nhanh càng tốt.
Đương nhiên, việc nạp hậu là việc mà Chính Đức không tự làm chủ được. Bọn họ đến đây, cũng chỉ là theo lễ tiết xin sự đồng ý của hoàng đế, chỉ cần hắn gật đầu lập tức có người lo liệu toàn bộ, hoàng đế chỉ cần chờ vào động phòng là xong.
Việc tuyển lập hoàng hậu, sẽ là người trung cung* mẫu mực, tuân thủ điển lễ, là một việc to lớn vô cùng. Tuy tầm quan trọng không bằng việc hoàng đế tuyển chọn người thừa kế, nhưng tính công khai lại rất cao. Bậc mẫu nghi thiên hạ đứng đầu chánh cung phải do phủ Nội Vụ lựa chọn cẩn thận; sau khi chọn được ứng cử viên, nội quan, nội các cùng với Thái Hoàng thái hậu, Thái hậu tiến hành thương thảo quyết định. Diện mạo của người được chọn chỉ là thứ yếu, người đó nhất thiết phải là con nhà quan lại, thân thế trong sạch, hiền lương thục đức mới có thể làm mẫu nghi thiên hạ. (*: cách gọi khác của hoàng hậu)
Lúc này ngoại trừ chút tình cảm mơ hồ về Đường Nhất Tiên, đối với tình yêu nam nữ thì Chính Đức hoàn toàn không biết gì hết, những chuyện giường chiếu thì càng mù tịt. Do đó điều làm ba vị đại học sĩ mừng rỡ vô cùng chính là hoàng đế Chính Đức mấy ngày nay luôn luôn làm bọn họ đau đầu khi thương lượng bất kỳ chuyện gì, không ngờ hôm nay lại tỏ ra ăn ý vô cùng, không đưa ra bất cứ ý kiến phản bác gì cả.
Vốn ba vị đại học sĩ đang thẳng lưng vác một bộ mặt sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần Chính Đức phản đối, lập tức họ sẽ phát động cuộc đại chiến nước bọt. Nay thấy hoàng đế Chính Đức đồng ý mọi thứ như vậy, ba lão thần liền vui vẻ cáo từ, lao tới phủ Nội Vụ bàn việc tuyển hoàng hậu.
Hoàng đế Chính Đức vẫn chưa hiểu việc tuyển vợ cho mình có ý nghĩa gì cho lắm. Hắn lôi hộp mứt hoa quả dưới bàn ra, nhón lấy một miếng cắn vài cái, rồi nằm dài bên cạnh bàn suy nghĩ một hồi, song vẫn không cảm thấy việc này có gì quan hệ gì với mình.
Ngẩng đầu lên, thấy Dương Lăng đang đứng trước mặt, hắn đột nhiên vỗ trán nói:
- Trẫm mới nhớ ra, hình như ngươi lâu lắm rồi chưa về nhà thì phải? Hôm nay cũng không cần phải tuần thủ trong cung, về nhà đi! Dù sao ngươi cũng không phải tảo triều, mai cũng không cần tới sớm như vậy đâu.
Ha ha, trẫm nhớ lúc phụ hoàng bãi triều đều tới thăm mẫu hậu, lần nào không đi là mẫu hậu không vui. Ngươi đi lâu như vậy rồi, Ấu Nương tỷ tỷ nhất định cũng sẽ không vui, bảo nàng không được trách trẫm đó. Này, ngươi cầm hộp mứt hoa quả này về đi, làm lễ vật ta bồi tặng cho Ấu Nương tỷ tỷ.
Dương Lăng vừa nghe Chính Đức thả y về nhà, vui tới cả người lâng lâng bay bổng. Y cũng không cần khách sáo với hoàng đế Chính Đức, vội vàng cám ơn rối rít rồi vui vẻ cất hộp mứt hoa quả. Đầu tiên y chạy đi gặp Liễu Bưu dặn dò gã quản thúc quan binh cho tốt, ít ngày nữa sẽ phải dời quân vào đóng trong ngự trang.
Sau đó y xin một thớt khoái mã, vừa ra khỏi hoàng cung là xoay người phóng lên ngựa, lao đi như tên bắn về phía Hộ Quốc Tự. Lúc này dân chúng toàn thành vẫn sinh hoạt như thường, chỉ có điều quần áo mặc trên người đều đổi thành màu trắng, trên đầu quấn khăn tang. Dọc đường đi y loáng thoáng nghe tiếng chuông trầm bổng trong các chùa chiền bồng bềnh vọng lại.
Theo quy định do Vương Quỳnh soạn, các chùa chiền lớn nhỏ đều phải đánh ba vạn tiếng chuông, ngày đêm không nghỉ. Đến hôm nay đã là ngày thứ ba, phỏng chừng số lần đánh cũng không còn nhiều. Mặc dù không ai đếm, nhưng người đánh chuông cũng phải tận tâm, không ai dám qua loa tắc trách, nghe nói có một số chùa chiền đã đánh hỏng mất vài cái chuông rồi.
Dương Lăng phi ngựa chạy vội về phố Hộ Quốc Tự. Vừa vào ngõ, y đã thấy một chiếc kiệu đang đi về phía mình. Hai gia nhân áo xanh đi bên cạnh kiệu lướt sát qua người y.
Dương Lăng xoay người xuống ngựa, phấn khởi dắt ngựa đến trước cửa nhà, đưa tay đẩy. Cửa nhà không khóa, Dương Lăng lập tức đẩy rộng cửa sân rồi dắt ngựa vào.
Y vừa vào sân, liền nhìn thấy Tuyết Lý Mai đang khom lưng đứng ở góc sân, cần cổ thanh mảnh, da thịt trắng như ngọc. Bóng dáng xinh đẹp ấy chỉ nhìn từ phía trắc diện mà đã tao nhã mê người không nói nên lời. Chỉ là mỹ nhân khí chất bất tục này lại đang mặc áo vải, đeo tạp dề xanh, trên đầu quấn một dải lụa trắng, trên chiếc eo giắt một cái gàu nhỏ, đang lụi cụi rắc thức ăn vào một cái chuồng nhỏ được dựng bằng củi ở góc sân.
Nghe thấy tiếng động, Tuyết Lý Mai liền quay đầu lại. Vừa nhìn thấy kẻ bước vào là y, nàng lập tức vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, đặt chiếc gàu xuống, phấn khởi chạy ra đón, mở miệng gọi:
- Đại... ,
Dương Lăng lập tức ra hiệu cho nàng im lặng, khẽ giọng cười:
- Đừng kêu! Ấu Nương có ở trong nhà không? Ta sẽ len lén đi vào.
Trên gương mặt vui mừng của Tuyết Lý Mai hiện lên chút hâm mộ. Nàng vội gật đầu lia lịa, dịu dàng đáp:
- Ừm! Tỷ tỷ ở trong đó. Vừa rồi có người tới gặp đại nhân, mà đại nhân không có ở nhà, hắn còn nói là hai ngày qua đại lễ tân đế đăng cơ đã xong, đại nhân sắp về thôi. Ấu Nương tỷ tỷ và chúng tôi nghe thế đều rất vui. Hì hì, không ngờ hắn vừa mới đi, đại nhân đã về thật rồi.
- Ồ?
Dương Lăng vừa cột cương ngựa vào gốc hòe to, vừa thuận miệng hỏi:
- Ai tìm ta vậy? Tìm ta có chuyện gì?
Tuyết Lý Mai ngoan ngoãn theo tới bên cạnh gốc cây, vuốt những sợi tóc mai vương trên trán, hé miệng cười đáp:
- Vị công tử đó tựa hồ có tâm sự trong lòng, nhưng lại không kể với chúng tôi. Hắn chỉ nói hắn là tam công tử của thượng thư bộ Lễ, tên là Vương Cảnh Long, còn nói ngày mai sẽ lại tới tiếp kiến.
- Vương Cảnh Long?
Tên người này nghe rất quen. Dương Lăng đột nhiên nhớ ra "chẳng phải Vương Cảnh Long chính là chân mệnh thiên tử trong lòng Ngọc Đường Xuân trong lịch sử sao?" Vương Cảnh Long đến thăm, không cần phải hỏi cũng biết, chính là vì lão Vương Quỳnh bị giam hơn mười ngày rồi, ba vị đại học sĩ xin tha cho mà hoàng đế vẫn không chịu. Nhà họ Vương bồn chồn lo lắng nên đã gõ cửa nhà y nhờ vả.
Không nghĩ tới Vương Cảnh Long và các nàng Ngọc Đường Xuân rốt cuộc vẫn gặp nhau. Nếu nói đây là số mạng, không biết đôi tình nhân vốn được định sẵn từ trước này, sẽ vẫn có duyên đến với nhau hay không? Dương Lăng nhớ trong câu chuyện nọ cuối cùng cả Tô Tam lẫn Tuyết Lý Mai đều gả cho Vương Cảnh Long, trở thành sủng thiếp của hắn.
Dương Lăng vừa nghĩ thầm, vừa dùng ánh mắt quái dị đánh giá Tuyết Lý Mai vài lần. Tuyết Lý Mai không biết suy nghĩ của y, chỉ nhận thấy ánh mắt Dương tướng công cứ nhìn mình chằm chằm. Lần này quan sát cẩn thận, Dương tướng công mà nàng đã nhiều ngày không gặp đã trưởng thành thêm vài phần, có vẻ nam nhân uy vũ, làm tâm hồn thiếu nữ của nàng không khỏi rộn lên, trong mắt bất chợt dâng lên chút ngượng ngùng, khuôn mặt ngọc ngà ửng lên một lớp phấn hồng.
Dương Lăng sực tỉnh lại, việc này có suy tính cũng vô dụng. Dù sao ngày mai Vương Cảnh Long vẫn sẽ tới, nếu như Tô Tam và Tuyết Lý Mai đúng là có duyên với hắn thì y cũng không ngại chu toàn chuyện này cho họ. Nhà họ Vương là quan lại thế gia, dòng dõi Nho học, cũng sẽ không làm khó mấy người Tuyết Lý Mai.
Nghĩ thông suốt xong, Dương Lăng liền dứt bỏ tâm sự, đưa roi ngựa cho Tuyết Lý Mai, mỉm cười với nàng, rồi rón ra rón rén đi về phía cửa phòng mình. Cửa phòng khép hờ, xộc vào mũi y là mùi thịt kho thơm phức, trong lòng Dương Lăng tràn đầy cảm giác hạnh phúc được gặp lại người mình yêu.
Y lặng lẽ thò đầu vào nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang quay lưng về phía mình. Nàng ngồi ở trước bếp, mặc một chiếc váy màu xanh lơ, lớp vải lót bên trong chắc hẳn đã sờn, do đó bộ đồ đơn bạc làm cho thân thể nhỏ nhắn xinh xắn trông gầy hơn so với trước, eo thon uyển chuyển uốn lượn, cặp mông nhỏ vẫn săn chắc đẫy đà.
Trong lòng Dương Lăng nóng hầm hập, y liền sải bước đi vào vươn tay ôm ngang eo Ấu Nương, vỗ mạnh vào mông nàng, rồi cất tiếng cười vang trong tiếng kêu kinh hãi của nàng:
- Tướng công về nhà mà không ra đón! Vi phu phải chấp hành gia pháp, trước hết sẽ phát vào mông ba mươi cái.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro