Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Từ 300 Đến 349

 Chương 230: Nước cờ ẩn

Ngày Cát Tị tháng hai là ngày hoàng hậu cử hành lễ "thân tàm". Trên đàn tế tiên tàm nằm ở cuối đầu bắc của hồ Thái Dịch trong Tây Uyển, một chiếc lều vàng được dựng lên, trong lều thờ cúng bài vị của vị thần nuôi tằm là Luy Tổ, trên bàn thờ đã có các loại tế phẩm là bò, dê, heo và rượu.

Hoàng hậu ăn chay ba ngày, sau đó lại cùng đội nghi trượng ăn chay thêm một ngày trong Nữ cung. Đến ngày thân tàm, Hạ hoàng hậu đã phải rời khỏi giường từ lúc trời tờ mờ sáng, lấy đó làm gương cho chúng dân.

Đội Vệ binh nghi trượng tổng cộng một vạn người đã được bố trí xong xuôi: năm nghìn bảo vệ quanh đàn tiên tàm, năm nghìn người đi theo hai vị quý phi, các công chúa, các phu nhân gia đình quyền quý, cùng thê thiếp, chị em chưa xuất giá và con gái từ tuổi mười ba của các quan văn tứ phẩm và quan võ tam phẩm trở lên trong kinh.

Đoàn quý phụ do Hoàng hậu dẫn đầu, xếp thành bốn hàng, mỗi người mang theo một thị nữ, mỗi thị nữ ôm một sọt vuông đựng dâu. Đoàn người gấm hoa rực rỡ, hương thơm lan xa mấy dặm; đội ngũ phụ nữ mà cả Đại Minh khó lòng gặp lại được cuồn cuộn kéo về phía đền tế tiên tàm. Tiếc là suốt đoạn đường diễn hành đều đầy trọng binh bảo vệ, bá tánh bình dân nào có cơ hội được trông thấy cảnh này!

Ấu Nương vốn nhỏ nhắn mà khoẻ khoắn, nay tuy mang thai nhưng bụng lại không to lắm, trông không đến nỗi béo phệ, lại khoác thêm khăn quàng và áo dài của tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân khéo che dáng người, nên trông vẫn yêu kiều, quyến rũ.

Hôm nay là lần đầu tiên ba chị em Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Đường Nhất Tiên cùng dắt tay nhau xuất hiện. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cũng mặc áo dài Cáo Mệnh phu nhân, Đường Nhất Tiên mặc áo ngắn tay ống bó màu đỏ và váy dài màu vàng. Bốn người con gái bước đi uyển chuyển, trông cực kỳ nổi bật giữa đoàn người.

Bước dưới lọng hoa tít trên hàng đầu, Hoàng hậu nương nương cũng đoán rằng hôm nay là lễ thân tàm, biểu muội của Dương Lăng - ả con gái khiến cho Hoàng thượng điên đảo thần hồn đó - nhất định sẽ xuất hiện, cho nên thỉnh thoảng lại quay đầu tìm kiếm. Thế nhưng mệnh phụ như mây, trang sức lấp lánh, biết tìm đâu mà thấy?

Là bậc mẫu nghi thiên hạ, chủ nhân của sáu cung, cô nàng không thể lơ đễnh trong buổi lễ long trọng này nên đành kiềm nén ghen tuông trong lòng mà tự đi dẫn đầu. Khi đến trước đàn tế tiên tàm, Hạ hoàng hậu thân vận Cúc y, đăng đàn cung kính dâng lễ tế, được các mệnh phụ quỳ lạy, cuối cùng đi đến trước cây dâu, cầm móc đứng sẵn.

Các nữ quan cục Lục Thượng cung kính đứng hầu quanh, trong đó có một người cầm sọt liễu đựng dâu. Hạ hoàng hậu cầm móc hái xuống ba lá dâu, nữ quan nọ nhặt lấy bỏ vào trong sọt, xem như là đã thực hiện xong lễ Hoàng hậu "tự tay chăn tằm". Tiếp đó, hai mệnh phụ nhất phẩm, một mệnh phụ nhị phẩm, một mệnh phụ tam phẩm, tuỳ theo phẩm cấp mà hái năm, chín hoặc mười hai lá dâu.

Đại quân vạn người, mấy nghìn người con gái mang theo ba mươi bốn lá dâu đã hái sẵn ùn ùn chạy đến tế đàn thượng uyển, tìm lấy mệnh phụ khác để băm nhuyễn lá dâu đút cho tằm (*) ăn. Đến lúc đó, cả một buổi nghi thức rườm rà và tẻ nhạt mới được xem như là kết thúc.

(nguyên văn: tàm bảo bảo: silkworm: tằm cho tơ dệt lụa)

Được Khâu Tụ âm thầm thông báo từ trước, hai vị công chúa Vĩnh Phúc và Vĩnh Thuần hớn hở chuẩn bị sẵn từ sớm. Đến khi đại đội nhân mã chuyển hướng trở về cung, các mệnh phụ lần lượt chia tay tìm kiệu của mình đậu ở trước cung để hồi phủ, thì Dương Lăng đã dẫn theo một đội kỵ binh chạy tới. Y cho người mang kiệu mềm đưa ba vị phu nhân về phủ, còn Đường Nhất Tiên thì ngồi riêng trên một chiếc kiệu nhỏ theo sau đội ngũ của y.

Sau đó Dương Lăng đi đến trước thùng kiệu của công chúa, ngồi trên ngựa khom người hành lễ, rồi hô lớn:

- Phụng thánh dụ, Hoàng thượng muốn đến suối nước nóng Kế Châu du ngoạn một chuyến. Mời trưởng công chúa và Vĩnh Thuần công chúa điện hạ đi cùng.

Kiệu do hai vị công chúa ngồi khi xuất cung là loại kiệu tám người khiêng hết sức xa hoa, nghe y tuyên xong, cả hai liền lập tức rời kiệu. Lúc ngồi trong kiệu lớn hai vị công chúa đã thay cung trang rườm rà phức tạp bằng áo lụa cân vạt ống bó màu vàng nhạt và váy xếp nếp ôm thân. Hai vị công chúa mặc đồ giống nhau, dáng người tuy mảnh mai lả lướt song lại không quá gầy nên trông rất đẹp.

Váy lụa màu vàng lợt khiến làn da vốn trắng trẻo mượt mà của bọn họ trông càng xinh đẹp vô ngần. Hai vị công chúa đều chưa xuất giá nên không thể búi tóc, nhưng trưởng công chúa Vĩnh Phúc khéo đội một loại búi giả, hình dạng trông như kiểu búi ngã ngựa, vừa đẹp lại xinh tươi.

Dương Lăng vẫy tay, hai chiếc kiệu nhỏ gọn liền được khiêng đến trước mặt, hai vị công chúa lên kiệu khởi hành. Hành động này sớm đã kinh động đến những mệnh phụ triều đình còn túm tụm chưa về, bọn họ nhất thời bàn luận sôi nổi. Dương Lăng lập tức phô bày dáng điệu quyền thần ngang ngược không chút kiêng dè, thúc ngựa nghênh ngang phóng đi.

Đang đứng trước cổng cung, Hạ hoàng hậu hay tin vội phái người đến hỏi ngọn nguồn thì Dương Lăng đã mời xong hai vị công chúa, ba chiếc kiệu nhỏ đã giũ áo mà đi cùng đội ngũ. Hạ hoàng hậu giận đến tím mặt, cô nàng phẩy tay áo, rồi cũng không thèm để ý đến mấy vị mệnh phụ công hầu đang bắt chuyện cùng cô mình, lập tức chạy vào trong cung dâng cáo trạng.

Đại đội nhân mã của Chính Đức đã đợi ngoài thành từ trước, Dương Lăng hộ giá ba chiếc kiệu nhỏ đi đến. Đầu tiên y mời hai vị công chúa đổi sang kiệu ngựa, một tên tiểu hiệu trong đám người đến đón chính là hoàng đế Chính Đức. Hai vị công chúa sớm biết anh mình sẽ cải trang thành hình dạng này, nhưng khi gặp mặt thì vẫn thấy rất là mới lạ bèn không khỏi che miệng cười trộm.

Chính Đức trừng mắt với bọn họ, rồi vội ngoắc bọn họ lên kiệu, sau đó hắn đến trước kiệu Đường Nhất Tiên. Chính Đức đã không gặp Đường Nhất Tiên hơn mười ngày, lúc này sắc mặt rất là hào hứng, trông thấy Đường Nhất Tiên ăn mặc sang trọng với kiểu áo quần mặc xuân thịnh hành nhất của phụ nữ trong kinh thành tôn lên vóc người lung linh kiều diễm mê người, thì mắt hắn sáng rỡ.

Nghe nói lần này ra ngoài du hành có Hoàng đế lẫn hai vị công chúa, thành thử Đường Nhất Tiên cũng trở nên cẩn trọng thắc thỏm. Nhưng khi rời khỏi kiệu trông thấy trước mặt mình ngoài biểu ca ra thì hơn chục thị vệ kia đều là những người cùng đi với mình về từ Đại Đồng, hết sức quen thuộc, bất giác lòng nàng cũng nhẹ nhõm hơn. Nhất là khi thấy cái gã Hoàng hiệu úy đẹp trai anh tuấn đang nhìn mình đến ngây ngốc đó, lòng nàng vui sướng pha lẫn chút ngọt ngào.

Dương Lăng thúc ngựa phi tới phía trước, hạ lệnh:

- Khởi giá!

Xe đi lộc cộc, đại đội nhân mã hướng về phía Kế Châu.

Công chúa Vĩnh Thuần còn nhỏ tuổi, xe vừa đi được một đỗi liền đã cảm thấy buồn chán, thế là nàng bèn chui vào trong xe của Vĩnh Phúc. Hai người ngồi trong kiệu hàn huyên một hồi, Vĩnh Thuần mới vén rèm vẫy Dương Lăng, dịu dàng gọi:

- Dương đại nhân!

Dương Lăng thúc ngựa tới gần, cúi người hỏi:

- Công chúa có gì căn dặn?

Vĩnh Thuần tựa đầu vào khoang cửa, tò mò hỏi:

- Dương đại nhân, có vẻ như hoàng huynh rất thích biểu muội của ngài thì phải, nhưng vì sao huynh ấy lại phải cải trang làm thị vệ? Huynh ấy thích người nào thì chỉ cần hạ chỉ liền triệu được vào cung ngay, biểu muội của ngài muốn được phong làm hoàng phi cũng chẳng khó gì.

Dương Lăng nháy mắt, cười đáp:

- Bởi vì Hoàng thượng hy vọng Tiên Nhi sẽ thật sự thích chính bản thân ngài, mà không cần phải dùng oai quyền hoàng đế để nạp người mình thích vào trong cung.

Vĩnh Thuần thấy khó hiểu bèn quay đầu lại nhìn Vĩnh Phúc, song hai chị em vẫn không thể hiểu được. Dương Lăng ngước đầu, trông thấy có đôi chim đang vui hót trên cành cây bên vệ đường, bèn giơ roi ngựa lên chỉ, giải thích:

- Điện hạ, người hãy nhìn đôi chim nhỏ trên cành cây kia, bọn chúng đến với nhau không vì địa vị hay chức quan của đối phương, mà chỉ vì chúng thích nhau.

Nếu một người con gái có thân phận cao quý, thì việc người con gái đó thích ai, ai thích nàng ấy sẽ không còn quan trọng nữa, mà quan trọng sẽ là người nàng được gả cho có môn đăng hộ đối với nàng hay không. Nếu Tiên Nhi có người tình chung ý hợp, nhưng người đó đã có chính thê thì với địa vị của nó, bất kể thế nào cũng sẽ không thể gả cho kẻ ấy được; có lẽ sau này nó sẽ được gả cho người có danh phận và địa vị tương xứng nhưng nó không hề yêu thích. Tình yêu phải chịu khuất phục trước sự tính toán thiệt hơn của địa vị.

Còn việc được Hoàng đế hạ chỉ triệu vào cung trở thành Hoàng phi quang vinh rạng rỡ, dĩ nhiên là chuyện cầu còn không được trong mắt rất nhiều người. Nhưng đối với riêng người con gái ấy, việc nàng ấy có thích Hoàng đế hay không sẽ không quan trọng nữa; còn đối với Hoàng đế, ngài có được người con gái này cũng là nhờ vào quyền lực tối cao của mình. Ngài sẽ mãi mãi không bao giờ biết được người con gái đó có thật sự yêu thích mình hay không. Như thế chẳng phải đáng buồn lắm ư?

Dương Lăng cung kính nói tiếp:

- Con người là bậc tinh anh trên hết muôn loài, cao quý hơn loài chim này rất nhiều, nhưng hôn nhân của con người lại bị pha tạp bởi công danh lợi lộc và rất nhiều nguyên nhân khác.

Hoàng thượng yêu thích Nhất Tiên và hy vọng biểu muội cũng sẽ thích mình, thích mình với tư cách là một người đàn ông, cho nên ngài mới cải trang làm thị vệ có địa vị thấp hèn để làm một việc mà vốn dĩ một đế vương có thể dễ dàng hoàn thành. Đó chỉ là vì Hoàng thượng tôn trọng tình yêu, tôn trọng cảm giác của người con gái mà mình yêu thương. Từ cổ chí kim có mấy vị đế vương, có mấy nhân vật cao cao tại thượng thực hiện được việc như Hoàng thượng làm hôm nay? Thần rất khâm phục Hoàng thượng. Ngài là Hoàng thượng, song cũng là một người đàn ông chân tình!

Bánh xe vẫn lăn lộc cộc, khuất đằng sau Vĩnh Thuần, công chúa Vĩnh Phúc đang chìm vào suy nghĩ. Nhớ tới những vị hoàng cô đang sống tách biệt suốt quãng đời còn lại trong mười vương phủ, lòng nàng chợt dấy lên một nỗi bi ai. Những vị hoàng cô này hằng ngày đều trông ngóng được cùng phu quân gặp mặt, song lại bị quản gia và quan bộc trong cung ngăn cản. Nhưng giờ nghĩ lại, những kẻ đầu kề má ấp mà bọn họ ngày đêm trông ngóng, có bao nhiêu người thật sự yêu thích bọn họ? Chẳng qua những kẻ ấy đã không còn nhiều sự lựa chọn hơn mà thôi.

Sự bi ai của con gái nhà thường dân mà Dương Lăng vừa kể, chẳng qua chỉ là nỗi bi ai phải khuất phục dưới lợi danh, không thể lựa chọn người đàn ông mà mình thích. Còn con gái trong hoàng gia thì sao? Bọn họ chẳng những không thể lựa chọn người mình thích, mà thậm chí ngay cả với phu quân mà họ không hề thích thì cả hai cũng như Ngưu Lang và Chức Nữ - không thể thoải mái gặp nhau. Đằng sau sự quang vinh của dòng dõi vua chúa là biết bao bi ai?

Nàng khẽ sờ chiếc váy lụa dệt cống phẩm mềm mại cao quý mà mình đang mặc, rồi nhìn những trang sức cực kì xa hoa quanh xe, bỗng cảm thấy những người như mình mới là kẻ đáng thương nhất trên đời. Nàng không khỏi có phần hâm mộ Đường Nhất Tiên.

Công chúa Vĩnh Thuần buông rèm xuống, vô tư cười nói:

- Tỷ à, chẳng trách hoàng huynh lại tin yêu Dương Lăng mù quáng đến vậy, nghe y nói nhăng nói cuội một hồi mà đầu muội cũng muốn quay mòng mòng rồi đây. Cái gì mà người không bằng chim, chim không bằng người?! Muội thấy y mới không phải là thứ chim gì tốt lành đó! Hí! Hí!

Vĩnh Phúc cười yếu ớt, song sự hào hứng được đi du ngoạn đã phai nhạt dần...

*****

Suối nước nóng hoàng gia Kế Châu. Đội xa giá của Hoàng đế đã đến.

Tùy tùng và những người hầu trong hành cung lần lượt vận chuyển đồ dùng hoàng thượng mang theo vào các căn phòng.

Đằng xa, lọng vàng của vua di chuyển vào một cung điện rộng lớn nhất, sau đó thu xếp chỗ trọ cho hai vị công chúa.

Đường Nhất Tiên đã xuống xe, tò mò quan sát quang cảnh chung quanh. Nàng vừa đảo mắt, chợt thấy Chính Đức đang nhìn mình chằm chằm, liền mắng khẽ một tiếng:

- Nhìn cái gì mà nhìn? Đồ ngốc!

Miệng thì mắng yêu, song hai má đỏ au lại mang theo mấy phần thẹn thùng và đắc ý.

Chính Đức cười nói:

- Đại nhân đang thu xếp chỗ trọ cho Hoàng thượng và công chúa, bố trí canh gác. Mời tiểu thư đi theo tôi, nơi này sẽ là chỗ trọ của cô.

Chính Đức dẫn Đường Nhất Tiên bước vào một căn lầu hoa lệ nho nhỏ dựa núi. Đường Nhất Tiên vừa ngắm nghía chung quanh vừa nói:

- Hoá ra ngươi không phải là thị vệ của biểu ca. Mới nhỏ xíu mà đã làm đến chức đại nội thị vệ, giỏi thật đấy.

Chính Đức đắc ý khoe khoang:

- Đấy là lẽ đương nhiên! Cô không thấy những thị vệ này đều nghe lời tôi à? Tôi tuy chỉ là hiệu uý nho nhỏ, nhưng Hoàng thượng rất tin tưởng và yêu mến tôi đấy.

Đường Nhất Tiên bĩu môi đáp:

- Cứ khoác lác đi! Cẩn thận kẻo Hoàng đế lão gia tin yêu ngươi quá sẽ thiến ngươi, đưa vào cung làm thái giám đó!

Chính Đức cười gượng gạo, đang định đáp lời thì một giọng nói ngọt ngào giòn giã cất lên:

- Đường cô nương đấy à, trên đường tôi đã muốn gặp mặt cô rồi.

Theo giọng nói, công chúa Vĩnh Thuần tung tăng chạy lại. Cả người một màu vàng nhạt, mặt đẹp như hoa, như thể được tạc nên từ người ngọc, khuôn mặt mang đầy vẻ ngây thơ và hồn nhiên. Cốc Đại Dụng dẫn theo mấy cung nữ và thái giám bám theo sau với vẻ bất lực.

Chính Đức trừng mắt với cô nàng, rồi bất đắc dĩ bước lên vái:

- Bái kiến công chúa điện hạ Vĩnh Thuần!

Đường Nhất Tiên giật nảy mình, liền cũng vội uốn gối định vái lạy, song Vĩnh Thuần đã chạy qua giữ tay nàng, cười hì hì bảo:

- Không cần lạy! Không cần lạy! Đường cô nương quả nhiên xinh đẹp như hoa, tuyệt sắc nhân gian, chẳng trách hoàng... Hoàng huynh ra ngoài du ngoạn mà Dương đại nhân cũng dẫn cô theo bên người. Y thực là yêu quý cô lắm đó.

Chính Đức lầu bầu bực bội. Ngày thường đều là Vĩnh Thuần lạy hắn, hôm nay tiểu nha đầu đó được hưởng lây vinh quang của Đường Nhất Tiên, không ngờ cứ để mặc cho mình vái lạy, làm như không thấy, không thèm bảo mình đứng dậy. Chính Đức đành cố rống lên thật to:

- Tham kiến công chúa điện hạ!

Vĩnh Thuần liếc y cười đầy ranh mãnh, rồi mới khoát tay bảo:

- Miễn lễ! Bình thân!

Đoạn nàng kéo Đường Nhất Tiên ngồi lên ghế phủ gấm tán gẫu. Chính Đức trừng ánh mắt quở trách Cốc Đại Dụng, mắng thầm: "Cái tên nô tài ngu xuẩn này, sao lôi Vĩnh Thuần đến đây làm gì?"

Cốc Đại Dụng bó tay vào trong ống tay áo, bất lực trợn tròn mắt, thầm than: "Công chúa muốn tới thì một nô tài như lão nô làm sao mà ngăn được?"

Hai người Vĩnh Thuần và Đường Nhất Tiên hàn huyên được một chốc thì có thái giám trong hành cung mang mấy thứ hoa quả bánh trái đến dâng. Đi đường nhọc nhằn nên bọn họ vẫn cần phải ăn chút gì đó trước bữa ăn chính. Vĩnh Thuần cũng không khách sáo, bèn tự cầm lấy cùng Đường Nhất Tiên ăn chung.

Trà thơm nấu sẵn trong ấm bạc, canh sâm đã đun nóng trong bình Kê Minh(?), váng hạnh chuẩn bị sẵn trong chén, đều là những món ăn vặt mà công chúa Vĩnh Thuần và Vĩnh Đức hay ăn. Cô nàng vừa ăn vừa cười hì hì nói:

- Đường cô nương, tối nay chúng ta cùng đến suối nước nóng tắm rửa rồi sau đó chơi đánh bài đi!

Dẫu rằng Đường Nhất Tiên cũng tinh nghịch, hơn nữa Vĩnh Thuần nói năng rất ân cần, nhưng đây là lần đầu gặp được công chúa có thân phận tôn quý cho nên nàng vẫn còn hơi e dè, đành khom người mỉm cười đáp:

- Dạ, hết thảy nghe theo điện hạ thu xếp.

Vĩnh Thuần mở nắp chén vàng, nhìn thấy bên trong là sữa nai hấp, không khỏi trợn tròn mắt kinh ngạc. Chính Đức trông thấy không khỏi hơi chột dạ, đành cười gượng gạo. Nên biết rằng trong cung ăn gì uống gì cũng đều có quy tắc, sữa nai thì chỉ Hoàng đế mới được dùng. Trong toà hành cung này có nuôi mấy con nai già, mỗi ngày chiết ra chưa tới nửa chén; ngoại trừ Hoàng đế, ngay cả Hoàng hậu cũng không được phép dùng. Nếu như Hoàng đế không ra ngoài tuần du, thì dù có đổ bỏ cũng không ai được phép đụng đến sữa nai.

Đó là quy tắc trong cung, Vĩnh Thuần đương nhiên biết rõ. Lúc nhỏ không hiểu chuyện, nàng đường đường là công chúa cũng đã khóc lóc om xòm hồi lâu, phụ hoàng mới đành trái với quy chế đút cho nàng mấy thìa, mà còn phải nhỏ nhẹ nhờ vả, bảo quan Khởi cư đừng ghi chép lại. Nhưng nay hoàng thượng Chính Đức không ngờ lại hào phóng để lấy lòng Đường Nhất Tiên như vậy.

Tiếc là Đường Nhất Tiên không hề biết cái quy tắc này, thấy công chúa cứ nhìn chăm chăm chén vàng, ngỡ rằng đây là món nàng ấy thích, bèn vội lấy môi bạc múc đầy chén ngọc cho nàng. Vĩnh Thuần cười khì khì, vừa cầm lấy nhấp từng ngụm vừa liếc sang hoàng huynh đang đứng bên cạnh mình với vẻ mặt hả hê.

*****

Thu xếp chỗ ở cho Hoàng thượng ổn thoả và hỏi thăm tình hình bố trí các phòng ven núi xong xuôi, Dương Lăng vừa đi ngang qua chỗ ngụ của công chúa thì một đại nội thị vệ bỗng hấp tấp chạy tới tìm báo:

- Đại nhân! Bên ngoài hành cung có một người con gái mặc đồ đen cầm lệnh bài Nội xưởng xin được gặp đại nhân.

Dương Lăng nghe vậy thì lấy làm lạ, trong Nội xưởng làm gì có cô con gái nào? Y chợt giật thót mình, liền vội cầm ô nhấc áo, hệt như con gái Giang Nam mừng rỡ lướt đi trong nước, vội bước theo tay thị vệ nọ ra ngoài.

Đến chỗ ở của thị vệ bên ngoài chân núi, phía trước có bốn thớt tuấn mã đang đứng, có ba người là đàn ông tráng kiện to lớn mạnh mẽ, người còn lại là một cô gái áo đen. Vóc người nàng cũng khá cao, nhưng khi đứng chung với ba gã tráng niên đó trông lại nhỏ nhắn yêu kiều hơn nhiều.

Vừa thấy Dương Lăng, nàng liền nhẹ nhàng bước tới, quỳ xuống vái:

- Tiểu tì Sở Linh tham kiến Dương đại nhân.

Người con gái này vừa đến trước mặt, y liền ngửi được một mùi thơm ngọt ngào như nhụy hoa, thanh nhã mà không tan. Cô nàng mặc giáp mềm tay bó, giày Man vạt ngắn, dáng người mỹ miều, bộ đồ đen tôn lên làn da trắng ngần như ngọc đẹp, như mỡ dê.

Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngạc nhiên hỏi:

- Cô nương là ai? Sao lại cầm lệnh bài của Nội xưởng?

Sở Linh dịu dàng liếc y, tuy mang ý hờn trách song mắt mi như nước, vẻ phong tình ấy cực giống với Thành Khởi Vận. Dương Lăng chợt bừng tỉnh ngộ, không đợi nàng ta giải thích, mừng rỡ thốt lên:

- Cô là... cô là cô nương bên người Thành đáng đầu!

Sở Linh nhoẻn miệng cười, đáp:

- Chính là tiểu tì. Tiểu thư muốn tiểu tì đưa tin đến cho đại nhân.

Dương Lăng cả mừng, vội bảo:

- Chỗ này không phải là nơi để nói chuyện, cô hãy đi theo ta.

Tiến vào cửa không bao xa là nơi trú đóng của thị vệ. Thấy có mấy căn phòng trống, Dương Lăng đưa nàng vào một căn phòng yên tĩnh, rồi vội hỏi:

- Thành cô nương vẫn khoẻ chứ?

Sở Linh duyên dáng đáp:

- Đội ơ đại nhân quan tâm, tiểu thư vẫn mạnh khoẻ. Hơn nữa tiểu thư còn dặn dò... Việc lớn mà đại nhân cực kì quan tâm nọ đã được tiểu thư an bài thỏa đáng, quyết sẽ không có gì sơ xuất, cũng mong đại nhân yên tâm.

Dương Lăng thoáng đỏ mặt, vội chuyển đề tài:

- Thành cô nương phái cô đến, có phải là mọi thứ đều đã chuẩn bị ổn thỏa?

Sở Linh đáp:

- Dạ, đặc sứ của quốc vương Văn Quy Nhật Bản đã bí mật đến nơi, tiểu thư đang đưa bọn họ đi tới kinh sư. Tiểu tì đi trước một bước, đoán chừng trong vòng năm ngày tiểu thư sẽ có thể đến được kinh sư.

Thiên hoàng Văn Quy của Nhật Bản đã kế vị được bốn năm, mới vừa đổi niên hiệu thành Vĩnh Chính vào năm ngoái. Trung Nguyên tin tức tắt nghẽn, vẫn quen gọi là Văn Quy. Dương Lăng nghe xong thì thoáng ngẩn người. Đặc sứ của thiên hoàng Văn Quy? Không ngờ Thành Khởi Vận cẩn thận như vậy, ngay cả tì nữ tâm phúc của nàng ta cũng không biết sự thật? Có điều nàng ấy cẩn thận như vậy âu cũng có lý, chỉ cần một chút bẩt cẩn sẽ thành tội lớn tày trời, càng ít người biết thì càng thêm an toàn.

Nghĩ vậy, Dương Lăng ậm ờ đáp:

- Tốt lắm. Khi cô về hãy nói với Thành tiểu thư, dặn cô ấy tạm thời ở lại Thông Châu, đợi bên bản quan công thủ đến bước ngoặt cuối cùng rồi mới mời Thành tiểu thư khởi hành vào kinh, đột xuất kì binh, một trận quyết định thắng thua.

Sở Linh đáp:

- Dạ! Trước khi tiểu tì đi, tiểu thư có căn dặn, khoảng cách giữa hai kinh rất xa, rất khó mà nắm được tình hình gần đây của kinh sư. Tiểu thư không biết đại nhân trù liệu tình hình thế nào, vẫn mong dặn dò một hai để tiểu tì chuyển lời với tiểu thư, cũng dễ bề tính trước.

Dương Lăng chắp tay bước đi thong thả, trầm ngâm một lát rồi mới khẽ cười bảo:

- Mọi việc xong xuôi. Hai ngày sau bản quan hồi kinh, sẽ lập tức xin Hoàng thượng triệu tập "Đại triều hội", phát động quan viên dâng sớ thỉnh cầu giải trừ cấm biển.

Thấy Sở Linh chần chừ, y cười nói tiếp:

- Sở Linh cô nương! Nghe Thành cô nương nói hai người các cô cũng từng đọc qua binh thư, vậy bản quan hỏi cô một việc.

Nếu như bản quan dẫn quân tấn công, cô có bốn nơi hiểm yếu để thủ, một trong số đó đã bị bản quan âm thầm đánh chiếm, khiến cho phòng tuyến xuất hiện lỗ hổng, nếu chia quân đóng giữ, sức mạnh yếu đi rất có thể sẽ bị quân của ta lần lượt đánh chiếm. Nếu đổi là cô, cô sẽ làm sao?

Sở Linh nhíu mày, đáp:

- Vậy đơn giản thôi! Nếu tiểu tì là phe thủ, hơn nữa đã xuất hiện thế xấu, phòng tuyến đã xuất hiện lỗ hổng, vậy tiểu tỳ sẽ chủ động vứt bỏ những quan ải khác, tập trung quân lại nơi hiểm yếu nhất, quyết chiến trận cuối cùng.

Dương Lăng thở dài:

- Đúng vậy! Nhưng sở dĩ quan ải hiểm yếu này khó công là bởi cô có địa thế hiểm trở để thủ, hoặc là núi cao vạn nhận (khoảng sáu thước bốn tấc tám phân - ND) không thể trèo, hoặc nằm nơi sông to sóng lớn ngất trời. Nhưng nếu bỗng nhiên nơi hiểm trở này lại biến thành một vùng đất bằng phẳng, thì cô làm thế nào?

Sở Linh cười khổ:

- Không phải đại nhân đang nói đến binh pháp mà giống như hai thần tiên đang đấu phép rồi. Nếu như thật sự xuất hiện tình huống như vậy, thì nơi mà tiểu tì tập trung binh lính sẽ thành ra là chốn đem binh lực tập trung lại chờ đại nhân đến chém giết mà thôi. Như vậy chi bằng chia quân trấn giữ còn kéo dài được chút thời gian.

Dương Lăng cười nói:

- Cho nên cô trở về trả lời với Thành cô nương rằng, cứ việc yên tâm là được. Bản quan sẽ đứng trước ải này cho địch thấy họ yếu, khiến bọn họ coi nơi đó là nơi hiểm yếu duy nhất có thể cậy nhờ, tập trung toàn bộ lực lượng phản đối đến chỗ đó. Đến lúc đó, kì binh của các cô đột nhiên xuất hiện, nơi hiểm yếu liền sẽ biến thành đường bằng, bọn họ nhất định sẽ thất bại thảm hại, không còn sức phản kháng. Hiểu không?

Sở Linh khẽ lắc đầu, trả lời thật lòng:

- Tiểu tì vẫn không hiểu.

Dương Lăng bật cười:

- Không hiểu cũng không sao! Cô cứ trả lời với Thành cô nương như vậy, cô ấy nghe xong tự nhiên sẽ hiểu.

Sở Linh che miệng cười, đáp:

- Lúc tiểu thư dặn tiểu tì báo với đại nhân rằng việc lớn cực kì quan trọng đó đã được an bài thoả đáng, tiểu tì cũng không hiểu; tiểu thư cũng bảo chỉ cần thưa lại với đại nhân y như vậy, đại nhân nghe xong tự sẽ hiểu! Không ngờ bây giờ đại nhân cũng nói giống hệt như tiểu thư nhà tiểu tì.

Rồi nàng khẽ cười nói tiếp:

- Vậy tiểu tì sẽ chuyển lời y như vậy với tiểu thư.

Sau cùng tiểu tì còn có một câu bẩm báo. Tiểu thư nhà tiểu tì nói rằng: "Ngày mà tiểu thư vào kinh, sẽ còn có một hậu lễ tặng cho đại nhân. Đại nhân trông thấy nhất định sẽ nở ruột nở gan."

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Là lễ vật gì, quan trọng như vậy à?

Sở Linh mỉm cười đáp:

- Nô tì cũng không rõ.

Tiểu thư nhà tiểu tì từng bảo chuyện này có thể báo với đại nhân mà cũng có thể không. Nếu đại nhân đã nói những lời khiến tiểu tì không hiểu, vậy chi bằng tiểu tì cũng báo ra để đại nhân cũng không hiểu một chút luôn. Ha ha...

Đoạn cô nàng dịu dàng thi lễ, giọng đắc ý:

- Tiểu tì xin cáo từ!

Chú thích:

vị thần dạy dân nuôi tằm trong truyền thuyết cổ đại

vợ của Huỳnh Đế trong truyền thuyết, người khai sinh nghề nuôi tằm ở Trung Quốc

một trong sáu loại y phục của hoàng hậu thời cổ đại, có màu lá dâu non

nha môn trông coi việc thờ cúng trong cung

nguyên văn "Vân kế", là một loại trang sức hình tóc búi cao dành cho phụ nữ chưa chồng

búi tóc kiểu kị sĩ ngã ngựa (http://baike.baidu.com/view/1399887.htm)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 231: Minh tranh

Đã có tin tức chuẩn xác của Thành Khởi Vận rồi, Dương Lăng lập tức hành động ngay.

Thực ra những điều lợi hại được mất của việc giải trừ lệnh cấm biển y sớm đã cùng với đại học sỹ Lý Đông Dương thảo luận tường tận rồi. Từ sau khi hiểu ý đồ thật sự của bá quan khi phản đối giải trừ lệnh cấm, y cũng biết các quan viên phản đối chẳng phải là vì tầm mắt của bọn họ hạn hẹp. Có lẽ bọn họ không nhìn thấy ý nghĩa sâu xa của việc giải trừ lệnh cấm đối với sự phát triển của quốc gia trong tương lai, nhưng ít nhất bọn họ cũng biết rằng ngay trước mắt giải trừ lệnh cấm sẽ rất lợi cho triều đình.

Thế nhưng vì lợi ích cá nhân, rất nhiều quan viên bằng lòng với tình trạng hiện nay. Do đó, lý lẽ thì cố nhiên vẫn phải nói ra, nhưng chỉ dựa vào lý lẽ mà muốn bá quan hưởng ứng thì dứt khoát là không thể được. Nhất định phải áp đảo hoàn toàn bọn họ về mặt chính trị khiến bọn họ không thể tìm được bất kỳ cái cớ nào nữa.

Điều Dương Lăng muốn làm là đàng hoàng áp đảo tất cả các quan viên trên triều đường, chỉ có như vậy thì chính sách này mới có thể thực thi tốt đẹp.

***

Lúc này Đường Nhất Tiên vừa mới từ trong căn phòng tắm được dẫn nước từ suối nước nóng thiên nhiên trong ngôi lầu nhỏ đi ra. Do vừa tắm xong, khuôn mặt kiều diễm của nàng được nước nóng xông đỏ bừng. Nàng mặc một chiếc áo ngắn màu trắng bên trong, bên ngoài khoác chiếc áo lụa màu hồng, bên dưới là một chiếc váy dài có tua, mái tóc còn ươn ướt, xinh đẹp tự nhiên.

Chính Đức thấy vậy đôi mắt không khỏi sáng bừng, buột miệng khen:

- Đẹp quá...

Đường Nhất Tiên trừng mắt nhìn hắn, giận trách:

- Không được nói vậy!

Chính Đức hỏi:

- Khen một tiếng cũng không được sao?

Tròng mắt Đường Nhất Tiên xoay chuyển, nàng đáp:

- Không phải ngươi từng khoác lác rằng mình văn võ song toàn hay sao? Vậy hãy làm một bài thơ ca ngợi suối nước nóng ở Kế Châu này đi xem nào, bản cô nương rửa tai lắng nghe. Nhớ đấy, không được đọc mấy câu nhàm chán kiểu như "ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi" (Câu thơ trong bài Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị, tả về suối nước nóng - ND)!

Chính Đức nghe vậy thì như vâng thánh chỉ, chau mày nghiêm túc suy nghĩ hồi lâu, sau đó đọc:

- Thương hải long đông dã dị thường, băng trì hà tự noãn như thang? Dong dong nhất mạch lưu kim cổ, bất vi nhân gian tẩy lãnh tràng.

(Bài thơ miêu tả về suối nước nóng Tiểu Thang Sơn ở Kế Châu của Chu Hậu Chiếu, sử sách có lưu lại. Đại ý: Mùa đông ở vùng biển cũng thật lạ, một ao nước nhỏ sao mà lại ấm áp như thế? Một dòng dìu dịu chảy từ cổ đến kim, nhưng lại chẳng tẩy rửa cho cái lòng dạ lạnh băng của người đời - ND)

Đường Nhất Tiên mở to mắt ngạc nhiên nhìn hắn, một hồi lâu chợt "khúc khích" bật cười, khen ngợi:

- Không ngờ, thật sự là rất bất ngờ đấy! Ngươi tuổi còn nhỏ, lại chỉ là một thị vệ nhỏ nhoi, làm thơ không ngờ cũng... cũng tràn đầy khí thế như vậy.

Chính Đức được khen, lập tức mừng rỡ ra mặt. Lúc này Vĩnh Thuần công chúa dẫn theo hai cung nữ tâm phúc hào hứng đi vào, vừa vào phòng liền bảo ngay:

- Đường cô nương đã tắm rửa thay quần áo xong chưa? Tốt quá rồi, đến đây nào, bốn người chúng ta chơi bài giấy. Ta còn mang tới rượu nho ướp lạnh, ai thua sẽ bị phạt uống một chén.

Nàng cười nhìn Chính Đức, nói tiếp:

- Bản công chúa và Đường cô nương chơi bài giấy, nếu ngươi thích thì cũng có thể đặt cược theo.

Bài giấy cũng tương tự như mạt chược ngày nay. Đường Nhất Tiên vốn là chuyên gia của mấy trò tửu sắc tiền tài, được Thì Hoa Quán bồi dưỡng từ nhỏ, khi đến Đại vương phủ cũng thường chơi trò này với các cung nữ, rất ít khi thua. Nhưng lần này đối thủ là công chúa, Đường Nhất Tiên vốn thông minh lanh lợi nên tất nhiên là không dám thắng rồi. Nhưng nếu Chính Đức cũng đặt cược theo, mình vì giúp biểu huynh lấy lòng công chúa mà thua thì cũng không sao, nhưng chút bổng lộc ít ỏi kia của hắn há chẳng phải cũng sẽ bị thua mất hết hay sao?

Vì vậy Đường Nhất Tiên vội vàng ngăn:

- Điện hạ, chúng ta chơi bài là được rồi! Một gã hiệu ủy nhỏ bé thì có được bao nhiêu bổng lộc chứ, có lẽ chớ nên để gã đặt cược thì hay hơn chăng?

Vĩnh Thuần bật cười "phì", đáp:

- Cô cũng tốt bụng thật, sợ khiến hắn thua theo sao? Cứ để hắn đặt cược theo đi, nếu cô thua thì phạt một chén rượu, còn gã tiểu hiệu úy này... cứ phạt hắn mười hạt đậu là được rồi.

Đường Nhất Tiên nào biết hạt đậu mà cô nàng nói là đậu vàng, vì thế bèn nở nụ cười tươi:

- Được, mời công chúa ngồi! Dân nữ xin hầu công chúa đánh bài!

***

Dương Lăng ngẫm nghĩ sự tình kỹ càng một lượt, rồi viết một bức mật thư sai người mau chóng gửi cho đại học sĩ Tiêu Phương. Sau đó y mới nở một nụ cười mỉm, vươn vai thở phào, chậm rãi bước ra ngoài.

Buổi tối đầu xuân vẫn còn hơi lạnh, cây cối vừa nảy lộc còn chưa xanh tốt lắm. Gió núi nhẹ nhàng thổi qua, bên tai vang tới tiếng nước suối chảy róc rách, trên trời lấp lánh những ngôi sao dày đặc tôn lên vầng trăng hệt như chiếc đĩa bạc đang treo giữa bầu trời. Khắp mặt đất trải nhẹ ánh bạc lung linh.

Các thị vệ đang đứng lặng lẽ dưới ánh trăng thấy y thì vội vàng khom người hành lễ. Hiện giờ Dương Lăng đang có cương vị cao, chiếc áo choàng khoác chặt trên người, trong lòng y chợt trào dâng một niềm ngạo nghễ: "Vợ đẹp thiếp xinh, công danh lợi lộc, tất cả những thứ mà nam nhân mong cầu giờ đây ta chỉ cần đưa tay là lấy được. Đã từng có lúc ta chỉ là một nhân vật nhỏ bé xiết bao, nhưng lúc này việc ta làm lại có thể thay đổi cả lịch sử. Ai mà ngờ được, ta trong lúc vui chơi hưởng lạc lại đã ngầm vận trù sách lược cả rồi!"

Gió núi chợt đưa tới những tiếng đàn réo rắt, hòa lẫn với làn gió mát lạnh, thực êm tai vô cùng. Dương Lăng bước lần theo âm thanh, tiếng đàn dần trở nên rõ ràng hơn. Âm thanh đó tựa như một dòng suối nhỏ uốn lượn với cánh hoa rơi trôi nhẹ bên trên, róc rách róc rách chảy qua tảng đá làm bắn lên vô số hạt nước trong veo.

Dương Lăng thấy ngôi lầu nhỏ phía trước là nơi ở của Trưởng công chúa, không khỏi hơi ngạc nhiên. Vừa rồi nghe nói công chúa và Nhất Tiên đi chơi bài giấy với nhau rồi cơ mà, chẳng lẽ Trưởng công chúa còn chưa đi? Y dừng bước chân lại hỏi thị vệ bên cửa:

- Người nào gảy đàn vậy?

Thị vệ nhìn thấy Dương Lăng, vội hành lễ rồi thưa:

- Bái kiến Dương đại nhân, là Trưởng công chúa điện hạ đang gảy đàn.

Dương Lăng "ồ" một tiếng, xoay người định đi. Chợt tiếng đàn dừng lại, một cung nữ áo xanh từ bên trong bước ra, nhún người hành lễ:

- Trưởng công chúa mời Dương đại nhân vào điện.

Dương Lăng dừng chân, hơi do dự một chốc, sau đó xoay người bước vào bên trong.

Tiếng đàn lại vang lên, êm ả thanh nhã. "Là bản 'Phong nhập tùng (Tên một bản nhạc cổ - ND)?'" Dương Lăng không khỏi chậm bước chân. Gió theo người tới, khẽ vén rèm lên, rèm trong như nước. Phía sau bức rèm một ngọn nến đung đưa, công chúa Vĩnh Phúc vận đồ trắng ngồi xếp bằng tựa như một bông sen thủy mặc, trước mặt nàng là một chiếc cổ cầm.

Bức rèm trong suốt chỉ khiến mỹ nhân sau rèm có thêm chút vẻ huyền ảo mông lung. Đôi hàng lông mi cong cao vút của công chúa Vĩnh Phúc hơi rủ xuống, đôi tay lướt trên dây đàn, bàn tay trắng nõn còn có phần mịn màng lung linh hơn chiếc núm bạch ngọc lên dây đàn.

Nàng dường như cũng vừa tắm suối nước nóng xong, trên người mặc một chiếc áo trắng ngần thanh khiết, quần áo mềm mại, tuy có phần hơi rộng, nhưng từ nếp uốn gồ lên trước ngực vẫn có thể loáng thoáng nhìn ra những đường nét động lòng người. Ống tay áo được xắn lên mấy vòng, cổ tay nõn nã như ngọc nhẹ nhàng di chuyển theo những tiếng đàn dìu dặt.

Mái tóc của Vĩnh Phúc được bó lại, để buông qua bầu ngực trái hơi nhú lên, tựa như một dòng sông màu đen đang chảy qua vùng núi non phủ đầy tuyết trắng. Trưởng công chúa xưa nay chỉ vận cung trang hoa lệ, trước mặt người ta luôn toát ra một vẻ cao quý vô ngần, nhưng giờ đây trong bộ quần áo màu trắng không hề có chút trang sức nào lại không ngờ đầy vẻ quyến rũ đáng yêu, không gì so được.

Thế nhưng tuy yêu kiều xinh đẹp là vậy, khí chất của nàng lại vẫn cao quý vô cùng. Một công chúa từ nhỏ đã sinh sống trong gia đình đế vương, từng cử chỉ từng vẻ mặt được hun đúc ra tuyệt đối chẳng phải thứ mà một diễn viên có thể mô phỏng được. Cho đến bây giờ, cũng chỉ có gã Chính Đức kia là hạng quái thai trong gia đình đế vương ấy mà thôi.

Dương Lăng đứng lặng yên, đợi công chúa Vĩnh Phúc gảy đàn xong mới vái một vái thật sâu, thưa:

- Tham kiến trưởng công chúa điện hạ!

Công chúa Vĩnh Phúc nhìn y một lát bằng đôi mắt long lanh trong sáng, sau đó xua tay bảo:

- Các ngươi lui xuống đi!

Dương Lăng lúc này mới chú ý trong bóng tối sát bức tường sau lưng nàng có hai cung nữ đang đứng lặng lẽ chẳng hề động đậy. Công chúa Vĩnh Phúc xinh đẹp vô ngần, bọn họ lại đứng trong chỗ tối nên vừa rồi Dương Lăng không hề chú ý đến sự tồn tại của bọn họ.

Đợi hai cung nữ lùi ra hẳn, Vĩnh Phúc mới nói:

- Dương đại nhân! Tiên hoàng và hoàng huynh trước giờ luôn tin tưởng đại nhân, bản công chúa đối với đại nhân cũng rất có hảo cảm, do đó mới mạo muội mời đại nhân vào đây, có một số lời thành khẩn muốn nói. Vốn dĩ... phận nữ lưu không nên tham gia vào việc chính sự, đại nhân cứ coi đây như là những người hảo hữu tri giao bàn luận riêng tư với nhau, vậy có được chăng?

Dương Lăng nhìn nàng với vẻ ngạc nhiên, thấy đôi mắt trong sáng đó cũng đang nhìn mình, y vội vàng đáp:

- Xin công chúa cứ nói, thần không dám giấu giếm điều gì!

Công chúa Vĩnh Phúc hít vào một hơi dài, đột nhiên bảo:

- Hoàng huynh trước nay luôn bừa bãi, may có đại nhân tính tình trầm ổn. Hoàng huynh được đại nhân phò tá, trong lòng bản công chúa cũng rất mực yên tâm. Nhưng lần này sau khi đại nhân về kinh lại trở nên bồng bột nông nổi, vào buổi lễ 'Thân Tàm' bản công chúa từng nghe các mệnh phụ bàn luận, hoàng huynh gần đây mười phần càn quấy, còn đại nhân cũng...

Nàng cắn chặt môi, lại nói tiếp:

- Ân huệ mà đại nhân được nhận đã là số một trong triều, bản công chúa lại nhận thấy hoàng huynh đối với biểu muội của đại nhân cũng mười phần yêu quý. Nếu lệnh muội vào cung, địa vị của đại nhân sẽ lại càng cao hơn. Đại nhân quyền cao chức trọng, tay nắm đại quyền, thực nên hết sức cẩn thận, mỗi lời nói hành vi đều phải như bước trên băng mỏng... Đừng thấy bản công chúa chỉ là phận gái, những việc này ta đều hiểu hết. Nếu đại nhân ỷ vào sự tin tưởng của hoàng huynh, làm việc bừa bãi, sớm muộn...

Chẳng lẽ... đại nhân thật sự là thiếu niên đắc chí, do đó đã quên mất cả nhiệm vụ của mình rồi sao?

Dương Lăng do dự hồi lâu, không biết nên trả lời thế nào. Đôi mắt long lanh của công chúa Vĩnh Phúc dần lộ ra vẻ thất vọng. Nàng phất tay áo khiến dây đàn vang lên mấy tiếng nhẹ nhàng, sau đó buồn bã thở dài:

- Thôi! Coi như bản công chúa chưa nói gì, đại nhân... lui xuống đi!

Trong lòng Dương Lăng thầm xúc động. Hơi cân nhắc một lúc, rốt cuộc y cũng đành thú thật nỗi khổ tâm khi phải ẩn giấu bản lĩnh để tự giữ lấy thân của mình. Nghe xong, trong mắt ánh lên những tia sáng rực rỡ, công chúa Vĩnh Phúc vui mừng bảo:

- Thì ra là vậy!

Nghe xong lời của những mệnh phụ kia, điều nàng lo lắng nhất là Dương Lăng một mình nắm giữ đại quyền, làm điều xằng bậy, nếu cứ tiếp tục như vậy thì chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành người bị triều đình kiêng kị, cuối cùng rơi vào cảnh thân bại danh liệt. Lúc này biết y không tham quyền thế, còn có ý buông bớt quyền lực, những hành vi tùy tiện bừa bãi, tửu sắc vô độ kia chỉ là cho người ta cái cớ mà thôi, như thế vừa báo được cái ơn tin tưởng của hoàng huynh, lại khiến các quan trong triều bớt điều cố kị. Y có nỗi khổ tâm như thế, quả nhiên không phải là hạng người nông nổi bồng bột, tùy tiện phóng túng.

Sảng khoái trong lòng, Vĩnh Phúc đưa những ngón tay trắng ngần lướt nhẹ dây đàn, tư thái thực là dịu dàng tao nhã. Rồi một lát sau nàng lại chợt cau mày, ngẩng đầu lên nhìn Dương Lăng, giận dỗi trách:

- Bản công chúa còn đang hơi ngạc nhiên: con người ngài xưa nay trầm ổn, sao lần này lại đồng ý dẫn bọn ta đến hành cung vui chơi mà không cần thỉnh ý mẫu hậu, cũng không có phủ Nội vụ đi theo, thực là sảng khoái quá mức, thì ra... Hừ! Ngài muốn tự bêu xấu mình thì tùy ý, nhưng sao lại lôi cả bản công chúa vào như vậy?

Nàng công chúa khí chất cao quý, phong thái ung dung này nếu tạm bỏ danh phận cao quí qua một bên mà hờn giận trách cứ, phong tình ấy thực là càng thêm động lòng người. May mà Dương Lăng đang cúi đầu nhìn xuống đất, không dám một mực nhìn nàng. Nhưng chỉ nghe âm thanh ngọt ngào ấy thôi, trong lòng y cũng thầm xao động.

Dương Lăng vội vàng xin lỗi một hồi, lãng phí không biết bao nhiêu nước bọt. Công chúa Vĩnh Phúc nghe xong những lời xin lỗi ấy bèn bảo:

- Được rồi được rồi! Bản công chúa biết ngài ấm ức đầy bụng, dụng tâm vất vả, chỉ là...

Khuôn mặt nàng thoáng hiện vẻ bẽn lẽn:

- Chỉ là... ngài đường đường là một hầu gia, dù có tự bêu xấu mình thì cũng không nên thường xuyên lưu lại nơi... nơi đó! Vượt lễ mời công chúa xuất cung coi như là tuổi trẻ bồng bột bừa bãi, nhưng ra vào chốn trăng hoa thì sẽ lưu lại tiếng xấu, sau này ngài muốn rửa sạch cũng khó lắm thay!

Dương Lăng cười khan đáp:

- Vốn dĩ trong mắt mấy vị đại nho chính trực kia thần đã chẳng phải người tốt rồi, thêm một cái danh lãng tử nữa cũng chẳng tính là gì cả!

Khuôn mặt công chúa Vĩnh Phúc hiện lên nét như cười mà chẳng phải cười, nàng tinh nghịch:

- Ngài không để ý đến thanh danh thì thôi vậy! Lần này về kinh mẫu hậu nhất định sẽ gọi ngài tới trách phạt một phen. Dương đại nhân, ngài đã lừa cả bản công chúa như vậy, chớ trách lần này ta không nói giúp cho ngài đấy nhé!

***

Chuyến đi Kế Châu này, mấy người Chính Đức đều du ngoạn rất vui vẻ, tình hình "mỗi ngày một tấu" của bá quan trong kinh cũng tạm thời dừng lại. Hai vị công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần hiếm khi được gặp một cô gái vừa xinh đẹp vừa có tài như Đường Nhất Tiên, tính cách hai bên lại rất hợp nhau, thêm vào đó hai cô sớm đã nhận định đây nhất định sẽ là sủng phi tương lai của hoàng huynh rồi, do đó vô cùng thân thiết. Chỉ sau mấy ngày, bọn họ đã trở thành tri kỉ của nhau.

Đối với kế hoạch giải trừ lệnh cấm biển của Dương Lăng, hoàng đế Chính Đức sớm đã hết sức tán thành. Nếu không phải Dương Lăng lo rằng chuẩn bị không đủ sẽ gặp phải sự phản đối của toàn bộ quan viên, hắn sớm đã hạ chiếu khai mở cửa biển rồi. Giờ đây nghe báo Dương Lăng đã chuẩn bị ổn thỏa, trong lòng hắn cũng vui mừng khôn xiết.

Ngày đầu tiên Chính Đức về kinh, bốn vị quan viên bao gồm Thiêm đô ngự sử Lưu Quản của viện Đốc sát, Viên ngoại lang Nghê Nguyên Lục của bộ Hình, Thái bộc tự khanh Mã Ngô Đỉnh, Tề Hách của ti Thông chính sứ, đồng loạt dâng sớ tán thành chính sách khai mở cảng khẩu của Chủ sự bộ Hộ Nghiêm Tung, thỉnh cầu Hoàng thượng đưa việc này ra triều đình để bá quan thương nghị.

Những người này đều là đại thần có quan hệ mật thiết với một số đại gia tộc hào phú vùng duyên hải, Cẩm Y Vệ đã tra được việc gia tộc của bọn họ đều buôn lậu đường biển để mưu lợi lớn, rồi lấy đó mà uy hiếp. Lại có Nội xưởng đứng ra đảm bảo chỉ cần bọn họ đồng ý việc giải trừ lệnh cấm biển thì sẽ để gia tộc của bọn họ chuyển từ tối sang sáng, đường đường chính chính tham gia buôn bán đường biển, nhận lấy một phần lợi lộc. Bọn họ đã bị người ta nắm thóp rồi, đâu còn con đường nào khác để đi, chỉ đành phải đứng về phía Dương Lăng làm những viên lính tiên phong.

Chính Đức không để tâm tới, phê cho chuyển vào nội các. Chuyện này còn chưa thu hút được sự chú ý của phần lớn quan viên, việc mà bọn họ đang hứng thú vẫn là can gián. Chỉ có điều trong nội dung lại có thêm một tội trạng, đó là Dương Lăng vượt lễ, chưa được hậu cung cho phép mà đã tự tiện đưa công chúa rời cung, còn tùy ý mang dân nữ vào ở trong hành cung. Nhưng Dương Lăng lại cảm thấy hơi kỳ lạ: hậu cung chẳng hề có chút động tĩnh nào; chẳng ngờ Thái hậu và Hoàng hậu nương nương lại không đến gây phiền phức cho y.

Ngày thứ hai, tổng cộng mười một người bao gồm Giám sát ngự sử của Giang Nam, Quảng Tây, Thị giảng học sỹ của Hàn Lâm Viện, Tả xuân phường của Chiêm Sự Phủ, đồng loạt tán thành việc giải trừ lệnh cấm biển, xin Hoàng thượng đưa lên triều đường để xem xét. Đến lúc này thì sự việc đã thu hút được sự chú ý của các quan viên, nhưng đã không còn kịp nữa rồi. Chính Đức hoàn toàn không cho bọn họ có cơ hội liên lạc với nhau cùng bàn đối sách, sáng sớm hôm sau đã mở một buổi triều hội lớn, tập hợp hết bá quan văn võ toàn triều thương nghị việc này.

Hôm ấy, tám nhân vật nắm thực quyền như Thượng thư bộ Lễ Vương Hoa, Hữu đô ngự sử Lưu Vũ, Thị lang bộ Binh Tào Nguyên, Thị lang bộ Lại Trương Thải lần lượt dâng sớ trên Kim Điện tỏ ý ủng hộ việc giải trừ lệnh cấm biển. Thực là sét đánh không kịp bưng tai, động tác mau lẹ ấy thoáng chốc đã khiến cho quần thần ngây người. Đặc biệt là khi Hoàng đế trưng cầu ý kiến của ba vị Đại học sỹ Nội Các thì Lý Đông Dương và Tiêu Phương đều tỏ ý tán thành, Dương Đình Hòa cũng không phản đối. Việc này lập tức lôi kéo được một bộ phận quan viên vốn giữ thái độ trung lập trong triều, bọn họ cũng đều nhao nhao lên tiếng ủng hộ việc giải trừ lệnh cấm.

Trong tình huống như vậy, Thượng thư bộ Công, Thượng thư bộ Hình vừa mới nhậm chức, căn cơ còn nông, căn bản không dám tỏ rõ thái độ. Lưu Đại Hạ tức giận vô cùng. Ngay sau khi Dương Lăng nắm quyền đốc sát các quan và quyền tài vụ rồi lại nắm thêm cả binh quyền, ông đã cảm thấy cực kỳ không ổn. Dương Lăng vốn qua lại cực kỳ mật thiết với Nội Đình, lại có thêm quyền lực lớn như thế, đã xuất hiện tình trạng đuôi to khó vẫy, một khi y có ý phản thì chỉ e khó mà thu thập được. Nếu nay mà giải trừ lệnh cấm biển, phỏng theo chế độ của Trịnh Hòa năm xưa để Nội Đình chưởng quản thủy quân và việc vận chuyển thương mại, thiên hạ há chẳng phải đều rơi cả vào tay lũ hoạn quan gian xảo hay sao?

Do đó mấy người Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng liền lập hợp các vị lão thần cực lực phản đối. Hai bên tranh biện với nhau từ việc tiêu diệt giặc Oa cho tới buôn bán thu lợi, từ việc xây dựng thủy quân cho tới gánh nặng quốc khố, ảnh hưởng nông nghiệp, thực là kịch liệt vô cùng, còn không ngừng bêu xấu lẫn nhau. Đâu ngờ bên thỉnh cầu giải trừ lệnh cấm biển dường như sớm có chuẩn bị, mỗi khi nhắc tới một vấn đề nào, bọn họ đều lập tức đưa ra số liệu và kế hoạch tường tận để phản bác.

Hoàng đế Chính Đức ngồi trên ngai vàng nhìn quần thần như đám gà trống chọi nhau, trong lòng thực là sảng khoái vô cùng. Trước giờ Chính Đức hắn ta luôn là đối tượng bị bá quan trách cứ, hiếm hoi lắm mới có một lần được làm trọng tài như hôm nay. Hắn thực chỉ mong có thêm được mấy cuộc tranh biện trên triều đường như thế này nữa mới thú.

Lão thần Dương Thủ Tùy thấy đối phương thế công mãnh liệt, mà các vị lão thần rất có uy vọng như Hàn Văn hiện giờ đều không ở trong kinh, mới hay Hoàng đế Chính Đức đã sớm thu xếp sẵn: trong lúc vui thú hoang đàng hắn cũng đã ngầm điều các lực lượng chủ yếu phản đối việc giải trừ lệnh cấm biển rời khỏi kinh thành.

Giờ đây chỉ còn lại mấy người Lưu Đại Hạ, Mã Văn Thăng, chẳng qua là làm bộ cho có, chỉ e nếu cứ tiếp tục thế này, bọn họ sẽ trở thành vật hy sinh cho buổi tranh biện hôm nay. Nếu hai người này mà bị miễn chức, đợi đến khi mấy người Hàn Văn trở về triều thì vẫn là thế đơn lực bạc, khó còn sức để trở mình.

Dương Thủ Tùy bỗng nảy ra một ý tưởng. Lão bước lên trước một bước tâu với Hoàng đế Chính Đức:

- Hoàng thượng! Đại Minh ta là thiên triều thượng quốc, chính là trung tâm của tứ hải, các tiểu quốc phiên di thông thương với Đại Minh cũng như là Đại Minh ta ban ơn cho thiên hạ, vốn không có gì là không được. Còn về việc giặc Oa hoành hành, vừa rồi mấy người Lưu đại nhân Lưu Vũ đã đưa ra các chính sách như xây dựng thủy quân, đồng thời tiễu trừ và vỗ về, lấy cái lợi mà dẫn dắt, thần thấy cũng hoàn toàn có thể thực thi. Thế nhưng nếu Đại Minh thông thương bình đẳng với các nước phiên di đó, thực là trái với tổ chế "triều cống" của Đại Minh, như thế há chẳng phải là đặt đám man di phiên bang ấy vào địa vị ngang bằng với Đại Minh sao?

Quốc vương Nhật Bản kiêu căng ngạo mạn, đã nhiều năm không chịu nhận mình là phiên thuộc của Đại Minh, Đại Minh há lại có thể tự hạ mình? Phải biết rằng một khi giải trừ lệnh cấm, Nhật Bản ở gần nhất, sự thông thương giữa hai bên khó mà khống chế được, hơn nữa người Oa giảo hoạt, cũng có thể mạo xưng là thương nhân nước khác. Do đó thần cho rằng, nếu nước Nhật Bản không xưng thần triều cống, Đại Minh ta quyết không thể giải trừ lệnh cấm biển!

Biện pháp của Dương Thủ Tùy quả thực rất hay, có tổ chế này thì dù Chính Đức có bừa bãi hơn nữa cũng không tiện công khai làm trái. Chẳng lẽ hắn thân là thiên tử mà lại dám tự hạ danh phận, đi đặt mình vào địa vị bình đẳng với đám người lùn kia sao? Đưa ra lá cờ lớn này, quần thần lại càng không dám có điều dị nghị về di chế của tiên đế.

Người Oa vốn cuồng vọng, từ Túc Lợi (Người đứng đầu Nhật Bản khi ấy - ND) trở xuống đã rất lâu rồi không chịu xưng thần với Đại Minh, vấn đề này mà không được giải quyết, buổi tranh biện hôm nay coi như có thể dừng ở đây. Cho dù có thêm biến số gì nữa, lúc đó các vị Hàn Văn sớm đã hay tin mà trở về kinh sư rồi, chẳng lẽ còn không thể nghĩ ra đối sách để ngăn cản trò hề này sao?

Mấy người Mã Văn Thăng nghe vậy liền cảm thấy trong đầu bừng sáng. Vừa rồi chỉ để ý so đo từng chút với Lưu Vũ, Trương Thải, giờ đây có chiêu bài lợi hại này rồi, bọn họ còn có thể tìm ra cái cớ gì hay hơn nữa chứ? Lưu Đại Hạ lập tức cất tiếng vang như tiếng sấm tâu với Chính Đức:

- Hoàng thượng! Lời của Dương đại nhân rất có lý, giải trừ lệnh cấm thông thương tuy rằng có lợi, nhưng cái hại cũng khó mà trừ. Chuyện này có liên quan đến sự tôn nghiêm của Đại Minh, thực vô cùng quan trọng, Thiên tử há có thể vì chút lợi nhỏ mà đặt mình vào chỗ bất nghĩa ư?

Mấy người Mã Văn Thăng, Dương Phương vội vàng cất tiếng phụ họa, những quan viên ủng hộ việc giải trừ lệnh cấm thanh thế giảm hẳn, ý chí suy sụp. Chính Đức đang chống cằm nhìn thích thú, nghe xong mấy lời này liền uể oải ngồi thẳng người dậy, cười hì hì hỏi:

- Ồ? Vậy theo lời các vị ái khanh, trở ngại lớn nhất của việc giải trừ lệnh cấm thông thương chính là sự tôn nghiêm của Đại Minh ta sao? Nếu Oa quốc không chịu xưng thần thì sẽ không thể khai mở cảng khẩu thông thương, còn ngược lại thì sẽ có thể thương lượng tiếp rồi, đúng vậy chăng?

Lưu Đại Hạ trịnh trọng gật đầu, hai mắt mở tròn xoe đáp:

- Muôn tâu, chính phải!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 232: Binh quý thần tốc

Chính Đức và Dương Lăng sớm đã bàn luận tỉ mỉ với nhau, kế hoạch rất mực chu toàn nên lúc này hắn tựa như một diễn viên từng trải.

Ngay đến việc một khi có người đưa ra vấn đề hủy bỏ lệnh cấm biển thì sẽ thành ra hạ thấp thể diện mà thông thương với man di, trái với tổ chế "triều cống", làm nhục đến uy nghiêm của Đại Minh thì nên nói những gì, hắn cũng đã cùng mấy người Dương Lăng, Tiêu Phương, Nghiêm Tung bàn bạc từ trước, chuẩn bị sẵn lời đối đáp.

Thực ra Dương Lăng cũng không có tài thần cơ diệu toán như Gia Cát Lượng để có thể liệu trước được đối phương nhất định sẽ dùng lý do này để cản trở việc giải trừ lệnh cấm. Nhưng y đã thấy nhiều thủ đoạn của các chính khách thời hiện đại, nên y dùng một chút tâm cơ gợi mở cho đối thủ cũng không phải là chuyện khó.

Trong số các quan viên theo sau Lưu Đại Hạ lớn tiếng phản đối việc giải trừ lệnh cấm, biểu hiện cực kỳ hăng hái, thành khẩn, có bốn người vì gia tộc có liên quan đến việc buôn lậu đường biển nên đã phải hoàn toàn đứng về phía Dương Lăng. Trong khi những người khác dùng đủ loại lý do để phản đối, bọn họ lại không ngừng đề cập tới vấn đề "triều cống", "thể diện".... Mà mấy người Tiêu Phương, Lưu Vũ cũng mười phần phối hợp, đối với các lý do khác thì họ cực lực phản bác, duy có lý do này là né tránh không trả lời, dáng vẻ như thể cứ chạm đến "tổ chế" là họ chẳng còn chút tự tin nào.

Một ám hiệu xảo diệu như thế, các chính khách vốn sở trường nắm thóp đối thủ sao có thể không chú ý đến chứ? Đặc biệt là trong tình huống vừa bị đối phương tập kích khiến cho trở tay không kịp, các nhân vật có uy vọng phe mình thì phần lớn ở ngoài kinh thành nên hoàn toàn không thể tổ chức những cuộc phản kích hữu hiệu, đột nhiên phát hiện được một thành lũy có thể công phá dễ dàng như thế, bọn họ làm gì mà chẳng mừng rỡ lấy đó làm chỗ dựa cuối cho mình?

Một tiếng "chính phải" của Lưu Đại Hạ của vang lên, Chính Đức không khỏi cả mừng, nghĩ bụng: "Cái lão này lần đầu mới nói được một câu dễ nghe như thế, rốt cuộc đã đến lượt trẫm ra tay rồi!"

Mặt mày phấn chấn, Chính Đức đứng dậy cất giọng sang sảng:

- Các vị ái khanh vừa bàn luận, tuy mỗi người đều có ý kiến riêng, nhưng đều do suy nghĩ cho giang sơn xã tắc Đại Minh ta cả, trẫm rất mừng! Thực ra biển cả và đất liền thì có gì khác biệt chứ? Đất liền sản xuất bò dê hoa màu, thông tới cả dị vực phiên bang. Biển cả sản xuất cá tôm cua ốc, cũng thông tới cả Đông Dương, Tây Di. Chỗ khác biệt chẳng qua là trên biển thì phải đi thuyền, đất liền thì phải đi xe mà thôi. Các vị ái khanh thấy có đúng không?

Mấy người Lý Đông Dương dè dặt đáp:

- Hoàng thượng nói rất phải!

Đám Lưu Đại Hạ nghe lời của Chính Đức rõ ràng là có khuynh hướng đồng ý giải trừ lệnh cấm biển, nên chỉ lặng lẽ đứng im, chờ Chính Đức tỏ rõ ý kiến thì sẽ lập tức lấy món pháp bảo tổ chế, quốc uy ra mà phản bác.

Chính Đức lại nói:

- Năm xưa cấm biển quả cũng có cái nguyên nhân của nó, triều ta chính là vì muốn dùng kế vườn không nhà trống khiến giặc Oa không thể sinh tồn nên mới làm như vậy. Nhưng đã trăm năm qua đi, giặc Oa vẫn hoành hành trên biển, có thể thấy cách này thực giống như Đại Cổn trị thủy, dụng ý tuy tốt nhưng lại chẳng hữu hiệu. Cấm biển khiến dân nghèo, thuế ít; cũng khiến những tiểu dân phiên bang ngưỡng mộ thiên triều thượng quốc ta chỉ có thể nhìn biển thở dài. Thêm nữa, biển cũng là giang sơn của Đại Minh ta, năm xưa cấm biển chỉ là kế nhất thời để tiêu diệt giặc Oa, chẳng phải là bỏ mặc luôn một cõi giang sơn tốt đẹp như vậy. Thử hỏi nếu Thát Đát quấy nhiễu Đại Đồng, chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mặc Đại Đồng không quan tâm đến nữa hay sao?

Hoàng đế Chính Đức nhướng đôi mày kiếm, đằng đằng sát khí nghiêm giọng quát:

- Giặc Oa cỏn con, có bản lĩnh gì mà lại có thể ép cho đường đường Đại Minh ta sợ như sợ cọp, đem một vùng biển vô biên cho đám giặc cướp làm nhà, đem vạn dặm duyên hải làm Trường Thành ven biển, từ đó tự nhốt mình ở trên bờ chứ?

Tiếng hỏi ấy đột nhiên vang lên giữa Kim Điện, tựa như những gợn sóng tràn về phía quần thần. Cả một Kim Điện to lớn nhất thời trở nên vô cùng tĩnh lặng.

Chính Đức thở ra một hơi dài, nói tiếp:

- Do đó, giặc Thát ở Mạc Bắc sớm muộn cũng sẽ bị thiết kỵ của Đại Minh ta đánh đuổi, giặc Oa ở Đông Hải cũng chẳng phải cường địch có thể cản bước thiên triều ta. Biển, nhất định cần phải mở! Lệnh cấm, nhất định phải giải trừ!

- Có điều... - Hắn nhìn thấy Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng bước ra khỏi đám đông, giọng điệu lập tức thay đổi - Lời của Lưu ái khanh cũng rất có lý. Chúng ta không thể vì giặc Oa hoành hành mà sợ hãi việc khai mở cửa biển để làm giảm uy danh của Đại Minh, cũng không thể vì tham chút lợi nhỏ mà khai mở cửa biển để làm nhục đến thanh danh của Đại Minh. Nếu Oa quốc không chịu dùng lễ thần tử mà bái kiến thiên uy, lệnh cấm biển quyết không thể giải trừ!

Lưu Đại Hạ đã bước ra khỏi hàng đi về phía trước, nhưng vừa bước được hai bước thì đã nghe Hoàng đế nói ra những lời này. Thoạt tiên ông ta ngẩn người, sau đó liền cả mừng, nhưng đã bước ra rồi không tiện lui lại, hơi do dự một chút liền thuận thế khom người thật sâu, cao giọng hô lớn:

- Hoàng thượng anh minh, lão thần thán phục!

Quần thần lui khỏi điện, Lưu Đại Hạ nháy mắt ra hiệu với Mã Văn Thăng, lại bước nhanh hai bước tới nói nhỏ với Dương Thủ Tùy vài câu. Bên ngoài cổng Ngọ Môn, văn quan vào kiệu, võ quan lên ngựa lần lượt rời đi. Lưu Đại Hạ dẫn theo thân binh cố ý đi chậm lại, kiệu của mấy người Mã Văn Thăng, Dương Thủ Tùy cũng đều bám theo sau.

Nha môn của Lục bộ Tam ti thực ra cách nhau không xa, về cơ bản đều ở trên một con đường để tiện cho việc truyền chỉ ý của Hoàng đế. Lục bộ có trình tự trước sau là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công; tòa nhà nha môn các bộ cũng sắp xếp theo trình tự này. Mấy vị lão thần đi qua nha môn của mình mà không vào, cứ một mực theo Lưu Đại Hạ đi đến cửa nha môn bộ Binh.

Bộ Binh quản lý những việc như tuyển cử, xử phạt quan võ, xét hộ tịch và phát khí giới cho tướng sỹ, trông coi quan ải, điều hành dịch trạm. Từ sau thời Tùy, xét một cách tương đối thì bộ Binh có thể coi là thực quyền lớn nhất, nhưng ngựa xe đi lại trước nha môn bộ Binh so với các nha môn khác lại ít ỏi hơn nhiều.

Lưu Đại Hạ tới trước cửa nha môn, xuống ngựa chờ đợi một lát. Sau khi mấy vị lão thần như Mã Văn Thăng, Dương Thủ Tùy, Dương Phương, Vương Ngao tới nơi, ông ta bèn chắp tay mời bọn họ vào trong nha môn, dẫn tất cả đi qua trung đường, tới tận khu nhà nhỏ nơi mình thường ngày phê duyệt công văn và nghỉ ngơi luyện võ ở hậu viện.

Khu nhà không lớn, toàn bộ đều là ngói xanh tường trắng, bên dưới lát đá xanh mài nước, trên bức tường bình phong có khắc ba chữ "Phúc Lộc Thọ" cực kỳ tinh tế. Khu nhà này tuy nhỏ nhưng kết cấu đầy đủ, phòng chính, nhà phụ đông tây cùng với sảnh bắc mỗi nơi đều có ba gian, nóc phòng khá thấp, đơn giản cổ kính, trên các giá binh khí bên dưới mái hiên có đầy đao thương kiếm kích sáng choang.

Mấy vị này đều là lão hữu nhiều năm, có người còn là tiến sỹ cùng khoa nên Lưu Đại Hạ cũng không hề khách sáo với bọn họ, chỉ dặn binh đinh dâng trà rồi vén rèm lên đi vào bên trong. Mấy người Mã Văn Thăng đều quen tính ông ta, không khỏi nhìn nhau cười khẽ rồi tự tìm chỗ mà ngồi xuống.

Mã Văn Thăng khẽ thở dài một hơi nói:

- Hôm nay thực là nguy hiểm, mấy người Tiêu Phương rõ ràng là có chuẩn bị sẵn rồi. Ôi! Mấy ngày trước lão phu xem công báo (*)thì chỉ cười phì cho qua, thực không ngờ chuyện lớn thế này mà bọn họ lại sai một gã Chủ sự hộ Bộ nhỏ nhoi đi đầu, mà hơn nữa trong triều còn có nhiều quan viên tham dự đến như vậy.

(*) Hình thức sơ khai của báo chí, trên viết các thông tin về chính trị, phát cho các quan lớn trong triều)

Thị lang hộ Bộ là Trang Doãn tiếp lới:

- Khi Dương Lăng tuần du Giang Nam trở về đã từng nói qua với Hoàng thượng về việc giải trừ lệnh cấm thông thương, có điều lúc đó y chỉ tiện miệng nhắc đến, sau không hề có động tĩnh gì thêm, chẳng ngờ chúng ta lại không có ai chú ý tới. Càng không ngờ y tuổi còn trẻ mà đã bụng dạ sâu sắc đến thế, một mực nhẫn nhịn, cho đến hôm nay khi căn cơ đã đủ sâu dày mới bày kế rút củi đáy nồi, điều mấy người Hàn đại nhân rời khỏi kinh thành, sau đó đột ngột phát động thế công. Nếu không phải Dương lão đại nhân cái khó ló cái khôn, dùng tổ chế 'triều cống" để bức ép qua đó đánh động được Hoàng thượng, e rằng gian kế của y đã thành công rồi.

Dương Thủ Tùy mặt lộ vẻ đắc ý, vội vuốt râu khách sáo một phen. Chiêm sự Dương Phương tay cầm nắp chén trà, vừa gạt nhẹ lá trà trong chén vừa lạnh lùng nói:

- Ta sớm đã nói người này lòng lang dạ sói, giờ các vị đã thấy rồi chứ? Lão thất phu Tiêu Phương đó vốn cùng phe Dương Lăng, trước mặt y luôn tự nhận là môn hạ, xưa nay luôn nghe lời, việc hôm nay cũng không có gì là kỳ lạ. Nhưng giờ đây thế lực của y đã càng lớn hơn, Lý Đông Dương không ngờ cũng nịnh nọt bợ đỡ, Dương Đình Hòa thì giả bộ câm điếc, còn cái đám chuyên trở cờ theo gió chỉ nghĩ đến tiền đồ cá nhân trong triều thì lại càng a dua phụ họa theo.

- Năm xưa trong triều từng có Tam Các lão bằng giấy, Lục Thượng thư bằng bùn(*), chẳng lẽ hôm nay chuyện cũ lại tái diễn, để cho đám gian nịnh Dương Lăng đó nắm giữ triều chính hay sao?

Giọng nói vang rền ấy vừa mới dứt, Lưu Đại Hạ liền vén rèm bước ra ngoài.

(*: Việc xảy ra vào đời Minh Hiến Tông, triều đình nhà Minh vô cùng thối nát, các quan viên lớn nhỏ đa phần là lũ nịnh thần chỉ biết ăn chơi sa đọa.)

Ông ta đã thay bộ quan bào, mặc một chiếc áo gấm màu xanh, mái tóc bạc trắng được vấn lên cao, bện thành một búi tóc ở sau đầu, chân đi đôi dày vải có lót đế. Lưu Đại Hạ đi tới trước bàn, cầm chén trà lên nhấp một ngụm, đôi mày trắng như cước nhướng lên, ánh mắt sáng rực nói:

- Lão phu đứng bên quan sát, thấy Dương Lăng này hành sự trước giờ luôn khó phân chính tà, khó phân thiện ác, cho đến hôm nay cháy nhà ra mặt chuột, y mới coi như là để lộ sơ hở!

Năm xưa Trịnh Hòa từng bảy lần tới đại dương phía tây, đi theo đội thuyền có tới mấy vạn người. Thanh thế cỡ ấy thực như là một quốc gia trên biển, thế lực của nội hoạn gần như nắm giữ cả triều chính. Kẻ bị thiến thì cả tâm linh và hình thể đều tàn khuyết, tính tình ác độc tham lam, may mà Hoàng đế Vĩnh Lạc anh minh thần võ, trong thời của ngài lũ nội hoạn tuy thế lớn mà không dám làm điều ác. Nay đảng phái Dương Lăng lại cổ xúy việc giải trừ lệnh cấm, hẳn là có dụng ý khác, đến lúc đó chưởng quản ti Thị bạc (*) có thể là ai? Chưởng quản việc vận chuyển đường biển lại là ai? Chưởng quản thủy quân thì là ai nữa?

(*: Cơ quan quản lý việc buôn bán với nước ngoài thời cổ của Trung Quốc)

Thần sắc nặng nề, Lưu Đại Hạ nói tiếp:

- Chư vị đại nhân thử nghĩ mà xem! Đến lúc đó quân đội, tiền bạc, luật pháp đều nằm cả trong tay Dương Lăng và đám nội hoạn kia, nếu y mà có dã tâm... kết quả sẽ là như thế nào nữa?

Nghe xong, bất giác mấy người Mã Văn Thăng lạnh ngắt trong lòng.

Vương Ngao khá có hảo cảm với Dương Lăng. Học sinh của ông ta là Đường Bá Hổ gửi thư từ Tô Châu tới hồi tết cũng từng khen ngợi Dương Lăng rất nhiều, Vương Ngao thực vẫn tin vào cái khả năng nhìn người của vị đệ nhất tài tử đất Giang Nam ấy. Vì vậy ông bèn do dự hỏi:

- Lưu đại nhân! Người này xưa nay luôn khiêm cung hiểu lễ nghĩa, ngoài quãng thời gian gần đây khi tấn tước có hơi tùy tiện quá đáng, còn thường ngày cũng không có gì là phô trương xa xỉ. Nhìn hành vi của y, dường như không có dã tâm gì mới đúng chứ?

Dương Thủ Tùy chậm rãi đáp:

- Đường xa hay sức ngựa, ngày dài biết lòng người. Nhìn thủ đoạn của y hôm nay, thực là hành sự độc địa, bụng dạ thâm sâu, há có thể chỉ là một kẻ nịnh thần dốt nát, kém cỏi?

Dương Phương cũng nói:

- Dương Lăng chưởng quản Nội xưởng, tiền bạc trong tay thực nhiều không kể xiết. Vậy mà với tiền tài địa vị của y hiện giờ lại vẫn ở trong tòa phủ trạch của tội thần được Hoàng thượng ban cho khi trước, ngay đến một ngôi biệt viện cũng chưa xây dựng. Thứ y được ăn không chỉ có bổng lộc của triều đình, tiết kiệm như thế há chẳng kỳ lạ hay sao?

Hơn nữa, người này đang ở vào độ tuổi trẻ trung ham mê hào nhoáng. Thân là Hầu tước, Thượng tướng quân, Xưởng đốc Nội xưởng đốc sát trăm quan, vậy mà trong phủ lại chỉ có một thê hai thiếp, hai thiếp đó còn là do Hoàng thượng ban cho, ngoài ra chẳng có thêm thị thiếp nào khác. Một quyền thần trẻ tuổi tay nắm tài phú và binh mã của thiên hạ lại không đam mê tửu sắc, chẳng thích vàng ngọc lụa là, vậy chí hướng của y là gì đây? Muốn xây dựng sự nghiệp, lưu danh sử sách, hay là ý ở thiên hạ, lòng tại ghế rồng? Hoàng thượng tuổi trẻ bừa bãi, y không những không khuyên can, ngược lại còn thêm phần dung túng! Ta nhìn thế nào cũng không thấy y giống với một bầy tôi hết dạ trung thành!

Mã Văn Thăng cau mày bảo:

- Những việc này hiện không vội bàn đến, quan trọng nhất bây giờ là vấn đề giải trừ lệnh cấm biển. Rất rõ ràng, đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn muốn đàng hoàng giải trừ lệnh cấm, qua đó giành lấy quyền lực lớn hơn, rồi từ đó khống chế triều đình. Hôm nay tuy chúng ta lấy tổ chế ra đè nén được bọn chúng, nhưng khó mà đảm bảo sau này bọn chúng sẽ không tích lũy lực lượng mà quay trở lại. Liệu có nên lập tức gửi thư cho các vị đại nhân đã rời kinh, mời bọn họ lập tức trở về kinh thành để cùng bàn đối sách không đây?

Lưu Đại Hạ gật đầu:

- Ta mời các vị đại nhân đến đây chính là để bàn bạc việc này, xin các vị đại nhân hãy lập tức gửi thư cho những vị đã bị điều khỏi kinh thành, gọi họ mau chóng về kinh. Mã đại nhân có danh vọng rất cao trong triều, lại ở bộ Lại, quan viên chính tay ngài đề bạt rất nhiều, nên lập tức liên lạc với bọn họ để cùng dâng tấu, nhất định phải khiến Hoàng thượng hoàn toàn bỏ đi cái suy nghĩ vô lý này!

Còn lão phu...- Lưu Đại Hạ cười nhạt một tiếng, ánh mắt chớp động: - Lão phu sẽ trông chừng Dương Lăng, để xem xem tên tiểu tử miệng còn hôi sữa đó có thể giở trò gì trước mặt lão phu!

Lưu Đại Hạ vốn đã kiêng dè Dương Lăng từ lâu, chỉ e Dương Lăng dã tâm bừng bừng, một khi tay nắm binh quyền thì sẽ sinh lòng muốn chiếm đoạt thiên hạ, đến lúc đó sẽ tạo ra những cuộc giết chóc vô biên.

Ông ta ở bộ Binh nhiều năm, trong quân có không ít thân binh, tì tướng của ông ta năm xưa nay đã trở thành tướng quân một phương. Hoàng thượng muốn điều Tổng binh bốn trấn vào kinh, giao cho Dương Lăng thống soái. Lưu thượng thư sớm đã có kế sách đối phó: phải gài mấy người của mình vào, đến lúc đó sẽ gây ra chút chuyện không lớn không nhỏ. Thân là Thượng thư bộ Binh, ông ta có tư cách, và cũng có cái cớ để dẫn đầu các tướng dâng sớ xin Hoàng thượng thu lại quân quyền của Dương Lăng.

Những dự tính này cho dù là hảo hữu nhiều năm cũng không tiện nói rõ, do đó ông ta chỉ nhắc thoáng qua.

Vương Ngao cũng phản đối giải trừ lệnh cấm. Trong suy nghĩ của ông ta, giải trừ lệnh cấm thông thương sẽ chỉ tạo cơ hội cho lũ tham quan đục khoét, khiến triều đình trở nên hủ bại, dễ khiến các đại tộc giàu có ham mê đồ vật tinh xảo của nước ngoài, từ đó phát sinh trào lưu xa xỉ. Còn cấm biển căn bản chẳng tạo ra chút tổn thất nào cho Đại Minh, thiên triều thượng quốc thứ gì cũng phong phú, há lại cần đưa thêm về từ chỗ dị vực phiên bang?

Chỉ là thái độ của ông ta lại không hăng hái như các vị lão hữu. Nhất là khi thấy dáng vẻ như lâm đại địch của bọn họ đối với một tên tiểu tử còn chưa ráo máu đầu, trong lòng ông thực không đồng tình cho lắm, do đó ông chỉ thảo luận qua loa với mấy vị đại nhân này đôi câu rồi đứng dậy cáo từ.

Vương Ngao rời khỏi bộ Binh bước lên kiệu của mình, nhắm mắt trầm tư. Ông vẫn cứ luôn cảm thấy mấy vị thượng thư đối nghịch với thế lực của Nội Đình do Dương Lăng đứng đầu như vậy chủ yếu là vì sợ thế lực của hoạn quan bành trướng đến mức không thể khống chế nổi.

Trong lòng Vương Ngao thực ra cũng chẳng có chút hảo cảm nào với hoạn quan. Nhưng nghĩ đến việc nếu hai bên đem vấn đề giải trừ lệnh cấm biển ra làm vũ khí tranh chấp với nhau một trận, trong triều sẽ khó tránh khỏi cảnh gió tanh mưa máu, ông không khỏi thở dài một hơi não nề.

Ông ta vén rèm kiệu lên, thấy đã tới trước nha môn bộ Lễ rồi, trong lòng chợt động, bèn vội vàng đá chân mấy cái vào thành kiệu, gọi:

- Dừng kiệu, dừng kiệu!

Vương Ngao nghĩ tới việc Thượng thư Vương Hoa hôm nay cũng đứng về phía Tiêu Phương ủng hộ giải trừ lệnh cấm. Nhân phẩm và tài học của Vương Hoa ông ta mười phần tán thưởng, trong lòng nghĩ mãi không thông tại sao những bậc nguyên lão đức cao vọng trọng trong triều như Lý Đông Dương, Vương Hoa lại vì tình thế mà khuất phục trước áp lực của Dương Lăng.

Ông và Vương Hoa khá là thân thiết nên muốn thẳng thắn nói chuyện với học sỹ Vương Hoa một phen để hiểu được suy nghĩ thực sự của đối phương.

Hay tin báo, Vương thượng thư vội vã đích thân ra ngoài cửa đón Vương Ngao vào trong phủ. Sau khi sai người dâng trà, ông cười hỏi:

- Chấn Tế tiên sinh đã lâu lắm rồi chưa vào cửa. Hôm nay ông tới đây có phải là vì việc thương nghị giải trừ lệnh cấm biển trên triều không?

Vương Ngao cười hà hà:

- Thượng thư đại nhân! Tôi cũng không giấu ngài, lần này tôi tới đây chính là vì việc ấy. Việc giải trừ lệnh cấm kia có lợi mà cũng có hại; mở có cái lợi của mở, cấm có cái tốt của cấm, tôi cũng không quá để tâm. Chỉ là qua cuộc tranh biện trong triều hôm nay, ai cũng nhận thấy rõ ràng mấy người Tiêu đại học sỹ đã có chuẩn bị từ trước, Vương thượng thư hiển nhiên cũng là người biết nội tình. Hai chúng ta là hảo hữu tri giao, mong ngài có thể chỉ điểm cho tôi ra khỏi bến mê, kẻ ngu dốt này thực đội ơn lắm lắm!

Vương Hoa cười khà khà đang định trả lời, Hồng lư tự khanh Ôn Tắc An của bộ Lễ đã vội vàng bước vào. Vừa nhìn thấy Vương Hoa, ông ta liền lập tức khom người hành lễ:

- Khởi bẩm Thượng thư đại nhân! Hạ quan vừa nhận được tin đoàn đặc sứ của quốc vương Văn Quy nước Nhật Bản đã đến Thương Châu, trong thời gian tới sẽ tiến kinh đại biểu cho nước Nhật Bản bái kiện Hoàng đế thiên triều. Đặc sứ Nhật Bản đã nhiều năm không qua lại với triều ta vậy nên dùng lễ tiết thế nào để đối đãi, xin Thượng thư đại nhân chỉ cho!

Nghe xong, đột nhiên Vương Ngao đứng bật dậy, ống tay áo phất qua va phải chén trà khiến chén trà "cạch" một tiếng rơi xuống đất, vỡ vụn.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 233: Rút củi đáy nồi

Mặc áo vải nhẹ, Lưu Đại Hạ tiễn mấy vị lão hữu rời khỏi cửa. Vừa mới rảo bước trở về, còn chưa tới trung đường thì ông đã nghe phía sau có tiếng hô lớn vang lên:

- Thánh chỉ đến, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ tiếp chỉ!

Lưu Đại Hạ ngạc nhiên ngoảnh đầu lại. Ông thấy bốn gã Hiệu úy Cẩm Y vệ theo sau một gã đàn ông vạm vỡ eo hổ lưng gấu râu quai nón đầy mặt tay cầm thánh chỉ, khí thế bừng bừng tiến vào cửa lớn của bộ Binh. Không biết vừa dừng buổi triều hội xong, Hoàng thượng có ý chỉ gì mà lại vội vã đưa đến như vậy, Lưu Đại Hạ vội vàng tiến lên vài bước, vén vạt áo quỳ xuống đất, cung kính:

- Thần Lưu Đại Hạ tiếp chỉ.

Lưu Đại Bổng Chùy mở to cặp mắt tròn như hạt đậu xanh ra nhìn vị thượng cấp lớn nhất của mình, khẽ ho một tiếng, mở thánh chỉ ra làm bộ nghiêm trọng tuyên đọc:

- Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Lưu ái khanh, trẫm nghe nói hải đồ của Đại Minh năm xưa đã được chuyển từ Lăng Thiên đến kinh thành, đặt trong kho của bộ Binh. Trẫm muốn tăng thêm hiểu biết về vùng biển của Đại Minh ta, lệnh cho Lưu thị vệ đi lấy, nay thông báo cho ái khanh và các quan viên trong nha môn được biết.

Gã không biết chữ nhưng trí nhớ lại hơn người, chỉ cần nghe đọc qua một lần là có thể nhớ nằm lòng không sót chữ nào.

Lưu Đại Hạ nghe xong thì cả kinh. Sau khi hơi bình tĩnh lại, ông đáp:

- Bẩm đại nhân! Hải đồTrịnh Hòa đã bị xếp xó nhiều năm, khó lòng tìm được.

Lưu Đại Bổng Chùy cười hê hê đáp:

- Đại nhân yên tâm, Hoàng thượng cũng đoán rằng mấy bức hải đồ này muốn tìm nhất định là không dễ. Đại nhân công vụ bận rộn, chắc hẳn cũng không có thời gian để tìm kiếm cái thứ này nên việc này không phiền đại nhân ngài phải lo lắng.

Người đâu! Lập tức tiếp quản nhà kho của bốn thanh lại ti Võ tuyển, Xa giá, Chức phương, Vũ khố thuộc bộ Binh (*) cho ta. Nếu không tìm ra được hải đồ của Trịnh Hòa, đêm nay chúng ta sẽ ngủ lại đây.

(*): Thời Minh, Lục bộ đều được chia nhỏ ra làm các thanh lại ti để tiện quản lý, bộ Binh tổng cộng có bốn thanh lại ti kể trên.

Lời của Lưu Đại Bổng Chùy vừa dứt, từ ngoài cửa lớn của bộ Binh đã có một đám đông Cẩm Y vệ do bốn viên Thiên hộ dẫn đầu chạy xô vào, định xông thẳng vào trong. Lưu Đại Hạ thấy thế thì cả giận, trợn trừng mắt quát lớn:

- Ai dám? Bộ Binh là nơi trọng địa, trung tâm của binh mã trong thiên hạ nằm ngay tại đây, há có thể để cho các ngươi càn quấy?

Lưu Đại Bổng Chùy cười hà hà giơ thánh chỉ trong tay lên bảo:

- Thượng thư đại nhân làm trái lễ pháp rồi, thánh chỉ ngài vẫn còn chưa tiếp đấy. Bọn ta nào phải sơn tặc tự tiện xông vào nha môn của bộ Binh, bọn ta đang phụng thánh chỉ đến tìm hải đồ của Trịnh Hòa. Hoàng thượng thông cảm cho đại nhân, biết đại nhân công vụ bận rộn không có thời gian tìm, thế nên... ta phải tự mang người tới đây.

Lưu Đại Hạ nén giận đáp:

- Triều hội hôm nay Hoàng thượng đã nói trừ phi nước Đông Doanh tới triều kiến bằng không thì sẽ tạm không xét đến việc giải trừ lệnh cấm biển, tại sao lại đột nhiên muốn tìm hải đồ? Bản quan giờ sẽ tiến cung... À không, sẽ đến Báo Phòng gặp Hoàng thượng.

Người đâu! Thủ chắc nha môn bộ Binh, không cho bất cứ kẻ nào tùy tiện bước vào!

Một đội quan binh vội vã chạy ra, chặn trước cửa lớn của nha môn. Có điều nha môn bộ Binh chỉ là một nha môn thường trực ở kinh sư, binh sỹ đóng tại đó không quá nhiều, nhân số hoàn toàn không thể so được với đám người do Lưu Đại Bổng Chùy mang tới. Hơn nữa đối phương lại phụng lệnh Hoàng thượng, đám binh sỹ này không khỏi có chút sợ hãi, về mặt khí thế đã kém hơn vài phần.

Lưu Đại Bổng Chùy nghiêm giọng:

- Hoàng thượng có cả bốn biển, muốn xem thử hải đồ lãnh thổ của mình thì có gì là không được? Lưu đại nhân có điều không biết, quốc vương Văn Quy của Nhật Bản đã phái đặc sứ tiến kinh triều kiến, Hoàng thượng muốn xem hải đồ chính là để tiện cho những tính toán về sau. Bản khâm sai ngay đến chân ngựa của ba đại học sỹ còn dám đánh gãy, há lại sợ lũ sỹ tốt nha môn bộ Binh của ông cản đường hay sao? Mau tránh ra hết cho ta!

Lưu Đại Hạ nghe thế thì giật mình tỉnh ngộ: "Thôi trúng kế rồi! Thì ra việc này Dương Lăng đã mưu tính từ lâu, cuộc tranh biện kịch liệt hôm nay chẳng qua chỉ là danh nghĩa, mục tiêu chính là đưa bọn mình vào tròng, tổ chế 'triều cống' mới là đòn chí mạng mà bọn hắn mười phần nắm chắc."

Lưu Đại Hạ bi phẫn thổi phì phì bộ râu bạc trắng. Lúc này đại thế đã mất, đám người bọn mình ở trên triều đường thề thốt rằng chỉ cần Nhật Bản phái sứ thần đến triều bái thì sẽ giải trừ lệnh cấm thông thương, mở rộng bốn biển mà dung nạp vạn quốc; bây giờ thì còn lời gì để nói nữa đây?

Lưu Đại Hạ siết chặt hai tay, thầm nghĩ nếu giải trừ lệnh cấm nhất định cần phải có một lượng lớn thương thuyền cùng với thủy quân hùng mạnh, mà hơn trăm năm nay sau khi cấm biển Đại Minh đã chẳng còn bao nhiêu người thợ có thể chế tạo thuyền lớn nữa; nếu mình lại hủy hải đồ đi, có lẽ còn một chút hy vọng ngăn cản được Hoàng thượng.

Do đó ông ta lập tức có thái độ cứng rắn. Lưu Đại Hạ liếc nhìn Lưu Đại Bổng Chùy với vẻ khinh miệt, đoạn phất tay áo bước tới đứng chắn trước cửa nha môn, râu tóc bạc trắng uy phong lẫm liệt tựa như thần tướng trên trời, cười vang ha hả:

- Giải trừ lệnh cấm gây họa cho nước cho dân! Lão phu ở đây, ai dám tiến vào?

Lời thoại mà Lưu Đại Bổng Chùy nghe Dương Lăng nói đi nói lại cả một hồi lâu mới nhớ được rốt cuộc đã có chỗ dùng, gã lập tức quát lớn:

- Đánh rắm! Hoàng thượng từng chính miệng nói biển cả Đại Minh cũng là giang sơn Đại Minh, tướng sỹ Đại Minh có trách nhiệm giữ đất, cũng có trách nhiệm giữ biển.

Ông thân là Thượng thư bộ Binh, vậy mà lại một mực cổ xúy cấm biển, khiến Đại Minh ta từ này mất đi quyền lực trên biển, phải co đầu rụt cổ ở đất liền. Không ngờ đám cướp biển nhỏ nhoi lại khiến một vị lão tướng từng trải trăm trận như ông sợ như sợ hổ, thực là miệng hùm gan sứa, cơ hội cho đế quốc Đại Minh dương uy tứ hải đã vì thế đã trở thành bong bóng rồi. Nếu đợi thêm trăm năm nữa, công nhân của Đại Minh ta ngay đến thuyền ra biển vài dặm cũng không chế tạo được, ông sẽ là tội nhân thiên cổ. Còn tự cho mình là dốc sức vì dân, thực là ngu muội quá đỗi!

Trước bia của Nhạc Vũ Mục chính là bức tượng gian thần đã phải quỳ cả ngàn năm, ta thấy cũng nên đúc cho Lưu đại thượng thư ngài bức tượng, để ngài quỳ dài trước tượng của Tam Bảo thái giám (Tức Trịnh Hòa) cũng không có gì là quá!

Lưu Đại Hạ nghe thế thì tức giận đến nỗi mặt mũi tím tái. Đường đường là Thượng thư bộ Binh, dù hoàng đế Hoằng Trị gặp ông cũng phải khách sáo gọi một tiếng tiên sinh, giờ đây lại bị một gã Hiệu úy Cẩm Y vệ chửi mắng như vậy, thậm chí còn so ông ta với tên gian thần thiên cổ Tần Cối, thực là một mối nhục lớn.

Lưu Đại Hạ gầm lớn một tiếng, bước mạnh lên trước một bước, phùng mang trợn mắt quát lớn:

- Cái gan chó của ngươi lớn thật, không ngờ dám nhục mạ lão phu như thế, ngươi... ngươi... ngươi ngươi...

Thấy ông ta trợn trừng đôi mắt, râu tóc dựng đứng, trong lòng cũng có chút sợ hãi nên Lưu Đại Bổng Chùy vội vã hô lớn:

- Phụng thánh dụ tìm kiếm hải đồ của Trịnh Hòa. Lưu thượng thư kháng chỉ đứng ra ngăn cản, lôi ông ta sang một bên cho ta!

Lập tức có hai gã tiểu tốt cầm đao bước lên định bắt giữ Lưu Đại Hạ. Lưu Đại Hạ một thân võ nghệ, há lại chịu cho đối phương khống chế, hôm nay ông ta đã hạ quyết tâm phải kháng chỉ bằng được. Đâu ngờ hai tay ông ta vừa mới vung ra, cánh tay của một gã tiểu tốt mi thanh mục tú đã mềm mại như rắn tránh khỏi lực đạo của ông ta mà vươn tới, điểm nhẹ vào gân tê trên cánh tay ông ta. Cánh tay Lưu Đại Hạ lập bức mất đi khí lực.

Tuy thuần thục cung ngựa nhưng Lưu Đại Hạ chẳng biết gì đến công phu cận thân của người giang hồ, mà thân thủ của gã tiểu tốt này cũng thực cao minh. Người ngoài hoàn toàn chẳng thể nhìn ra điều gì khác lạ, chỉ thấy như thể ông tự động đưa tay ra chịu trói.

Gã tiểu tốt đó diễn lại bài cũ, cánh tay còn lại của Lưu Đại Hạ cũng mất đi khí lực. Đợi khi cảm giác tê rần bớt đi, hai cánh tay của ông ta đã bị cặp tiểu tốt kia vặn ngược ra sau, không thể động đậy.

Lưu Đại Hạ nào đã từng phải chịu loại đãi ngộ này, nhất thời lòng dạ nguội lạnh, chỉ cảm thấy mình một đời trung thành với triều đình Đại Minh, không ngờ thi thể tiên đế còn chưa lạnh, tân đế đã đối đãi với vị lão thần mình như thế này. Thử hỏi gã Hiệu úy lỗ mãng kia nếu không có khẩu dụ của Chính Đức, há lại dám đối xử với mình như thế?

Lưu thượng thư giàn giụa nước mắt, rầu rĩ nói:

- Thôi! Thôi! Buông lão phu ra! Lão phu sẽ lập tức đi gặp Hoàng thượng, cáo lão hoàn hương.

Lưu Đại Bổng Chùy dương dương đắc ý liếc mắt nhìn Ngũ Hán Siêu đang đóng giả làm gã tiểu tốt, ra sức thét lớn:

- Người đâu! Dốc hết toàn lực tìm kiếm bằng mọi giá cho ta!

***

Đãi ngộ mà Thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng phải chịu cũng chẳng tốt hơn Lưu Đại Hạ là bao. Vừa về đến phủ, ông viết ra một danh sách rồi sai người đi mời các vị quan viên được liệt trong đó đến phủ thương nghị đối sách. Sau đó ông lại ngồi xuống viết cho Hàn Văn một bức thư, kể lại tường tận mọi chuyện vừa xảy ra trong kình, bảo ông ta tạm gác lại việc ở biên cương phía bắc, lập tức về kinh.

Vừa thêm dấu hỏa tốc lên bức mật thư, còn chưa kịp phái người đưa đi thì thánh chỉ của Hoàng thượng đã tới rồi. Thánh chỉ nói đặc sứ nước Nhật Bản đến triều bái, Hoàng thượng hạ chỉ cho Hồng Lô Tự dựa theo lễ chế triều cống của các nước phiên thuộc như An Nam, Cao Li, Trảo Oa mà tiếp đãi. Đồng thời Hoàng thượng đã quyết định giải trừ lệnh cấm biển, đem việc hợp tác diệt giặc Oa và phái sứ thần qua đó ra bàn bạc với sứ giả Nhật Bản, còn đưa ra một danh sách các quan viên nội ngoại đình yêu cầu Mã Văn Thăng thay đổi chức vụ, để bọn họ làm sứ giả.

Mã Văn Thăng vừa nghe nói sứ giả Nhật Bản đến triều bái Đại Minh thì đã biết là không hay, chuyện mình lo lắng rốt cuộc đã trở thành sự thực. Lại nhìn danh sách quan viên được liệt ra trên thánh chỉ, toàn là những người theo phái Tiêu Phương tán thành việc giải trừ lệnh cấm. Có một đám người như vậy, há lại chẳng xảy ra những chuyện mất quyền nhục nước?

Mã Văn Thăng kiên quyết cự tuyệt việc tuân theo thánh chỉ mà điều động quan viên, muốn đi tìm Hoàng thượng đòi lại công đạo. Thái giám truyền chỉ kia cứ dùng giọng eo éo ở bên cạnh giễu cợt, Mã Văn Thăng cố nén một bụng tức giận đi tới Báo Phòng, ai ngờ lại bị cấm cửa, Hoàng thượng hoàn toàn không chịu gặp ông ta.

Mã Văn Thăng nổi giận đùng đùng, quát bảo tiểu hoàng môn truyền tin ở cửa:

- Xin báo với Hoàng thượng: "Thần là Thượng thư bộ Lại, khảo hạch điều động quan viên là chức trách của bộ Lại. Việc bổ quan viên của Hoàng thượng có chỗ không đúng, thần là Thượng thư bộ Lại có quyền thỉnh cầu Hoàng thượng xem xét lại. Nếu Hoàng thượng cho rằng ý kiến của vi thần không đáng nhắc tới, vậy cái chức Thượng thư bộ Lại này của thần còn có tác dụng gì? Lão thần gần đây luôn cảm thấy người yếu nhiều bệnh, vẫn phải cố gắng lo liệu việc nước, nếu như thế này xin Hoàng thượng chuẩn cho thần cáo lão hồi hương!"

Tiểu hoàng môn thấy Mã đại nhân nổi giận, vội vàng chạy biến vào trong. Sau một hồi gã thong dong trở lại, cất giọng the thé:

- Hoàng thượng nói: "Mã đại nhân tuổi tác đã cao, sức yếu nhiều bệnh, trẫm nghe thế lấy làm thương xót lắm, điều khanh tấu trẫm ân chuẩn. Xin đại nhân hãy về phủ, đợi bộ Lễ bàn việc quà tặng, rồi sẽ có người của sở dịch thừa hộ tống hồi hương!"

Mã Văn Thăng trợn mắt há mồm, không ngờ tiểu Hoàng đế này lại dứt khoát như vậy, quyết định cũng tuyệt tình. Các lão thần trong triều đều đi cả, hắn sẽ dựa vào ai để giữ giang sơn đây?

Đợi khi ông ta tỉnh táo trở lại, tiểu hoàng môn sớm đã xoay người rời đi. Trước cửa Báo Phòng chỉ còn tám viên Hiệu úy mang đao đứng nghiêm thẳng tắp, nhưng trong những cặp mắt tựa như chẳng nhìn nghiêng kia rõ ràng là mang theo một chút đồng tình và thương hại, chẳng khác gì những chiếc kim nhọn đâm vào lòng Mã Văn Thăng.

Mã Văn Thăng chậm rãi thở ra một hơi khí đục trong ngực. Ông biết không lâu sau ông ta cũng sẽ giống như Lưu Kiện, Tạ Thiên, đứng trên đình đưa tiễn cáo từ các cố hữu trong kinh, rời khỏi triều đường mà ông ta đã từng hô mưa gọi gió...

***

Dương Lăng nằm dựa người vào ghế, đôi mắt nhắm hờ, hơi thở nhè nhẹ, tựa như đã chìm vào giấc ngủ.

Ngọc Tỷ Nhi thân hình thon thả, ngồi ở một góc của chiếc ghế dựa kia, tựa như nhành liễu cắm xéo trên đó, đôi bàn tay nõn nà đấm nhẹ trên đùi Dương Lăng. Nắng xuân ấm áp chiếu vào qua khe cửa sổ khép hờ, chiếu lên thân thể Dương Lăng. Ngọc Đường Xuân quay lưng về phía ánh sáng, lại càng hiển hiện ra một thân thể lung linh không tì vết, thực là quyến rũ khôn tả.

Gã phiên tử về báo tin đã bẩm báo xong, đang lẳng lặng chờ nghe chỉ thị của đại nhân. Một hồi lâu sau Dương Lăng mới khẽ khoát tay, bảo:

- Ta biết rồi, ngươi lui ra đi!

- Vâng!

Gã phiên tử cung kính đáp, lặng lẽ lùi ra, tiện tay đóng cửa phòng lại.

Ngọc Đường Xuân thu thủy long lanh, tròng mắt xoay chuyển, đưa hai ngón tay nõn nà nhón lấy một viên quả ngâm đựng trong chiếc đĩa sứ, lặng lẽ đưa tới bên miệng Dương Lăng.

Dương Lăng chợt cảm thấy đôi môi mát lạnh, một mùi hương thơm ngát truyền vào trong mũi. Mở mắt ra nhìn, y thấy Ngọc Đường Xuân đang nhìn mình yêu kiều cười nhẹ, khuôn mặt toát ra một vẻ hiền dịu xinh đẹp vô ngần. Bất giác y cười nói:

- Đừng nghịch ngợm, còn quấy rối nữa thì ta sẽ dùng gia pháp đấy! Tưởng lão gia của nàng chỉ làm bộ thế thôi sao? Ôi! Vì chuẩn bị cho cuộc triều hội hôm nay, ta đã cả một đêm không ngủ rồi đấy!

Ngọc Đường Xuân dịu dàng đáp:

- Thiếp biết. Có điều thiếp thấy lão gia không chỉ mệt mỏi mà dường như còn hơi không vui.

Nàng mặc một chiếc áo khoác ngoài màu xanh nhạt, bên rìa có viền trắng, phía dưới là chiếc váy lụa mỏng, trên cổ đeo mỗi chiếc vòng trân châu lóng lánh, ánh mắt đầy vẻ quan tâm.

Dương Lăng cười nhẹ, đưa tay kéo tấm thân mềm mại thon thả của Ngọc Đường Xuân ngả xuống người mình, đoạn nhắm mắt lại nói:

- Nào, mớm quả ngâm cho ta đi!

Vầng má ửng hồng, nhưng Ngọc Đường Xuân vẫn nghe lời nhón một viên quả ngâm lên, bờ môi mọng nước nhẹ nhàng ngậm lấy, khẽ đưa tới bên miệng Dương Lăng. Dương Lăng cắn lấy viên quả ngâm, rồi lại thuận thế hút lấy bờ môi mỏng manh mềm mại của nàng, sau một hồi ngọt ngào nóng bỏng mới chịu buông tha cho Ngọc Đường Xuân lúc này đã bắt đầu thở dốc.

Dương Lăng nuốt viên quả ngâm xuống, khẽ thở dài nói:

- Nàng cũng thực tinh tế, có thể nhìn thấu tâm sự của ta. Ôi! Quả thực ta đang có chút không vui. Lưu Đại Hạ, Mã Văn Thăng đều là những vị lão thần một lòng trung thành, chỉ là bọn họ rõ ràng là đang làm sai nhưng lại cứ nghĩ mình đang làm chuyện tốt cho dân cho nước. Ôi, dùng thủ đoạn như thế này, vừa khích vừa gạt bọn họ cáo lão hoàn hương, quả thực trong lòng ta có chút áy này.

Dương Lăng khẽ vuốt ve cặp đùi thon dài cân đối của Ngọc Đường Xuân. Người ngọc dịu dàng nép người vào lòng y, làn da dưới chiếc váy mỏng mát lạnh như ngọc, thực là mềm mại thơm tho khó tỏ bằng lời, dường như so với đậu phụ hạnh nhân còn mịn hơn, so với mỡ dê còn bóng láng hơn, một cảm giác khoan khoái truyền từ đầu ngón tay Dương Lăng tới tận đáy lòng.

Y nhắm mắt lại như đã ngủ, trong đầu nhớ tới cái đêm trước lúc Thành Khởi Vận trở lại Giang Nam, hai người đã có một cuộc đối thoại trong thư phòng:

- Bọn họ cho rằng cuộc "đại triều hội" bất ngờ chính là cuộc quyết chiến cuối cùng mà chúng ta phát động. Nhầm rồi, đấy chẳng qua là kế "cho địch vào tròng", nguồn cơn dẫn đến chiến thắng chính là cái thành lũy cuối cùng mà bọn họ lấy làm chỗ dựa. Sau khi buổi triều hội kết thúc, sứ thần Nhật Bản đến triều bái, bọn họ mới coi như là thất bại hoàn toàn.

Nhưng dù như thế đại nhân cũng không được sơ suất, nhất định cần đề phòng họ ngóc đầu trở lại. Tốt nhất là nên đánh tan hoàn toàn lực lượng của bọn họ, do đó kế cuối cùng này chính là rút củi đáy nồi. Mặc cho những lão thần ấy đều là những cáo già, nhưng quyết cũng chỉ cho rằng chúng ta điều một bộ phận nhân vật đầu não của bọn họ rời kinh đã là rút củi đáy nồi rồi, đâu hay mục tiêu thật sự của chúng ta lại là những nhân vật đắc lực còn lưu lại trong kinh.

Thành Khởi Vận vén váy ngồi nghiêng trên ghế, thần sắc tự nhiên nói nói cười cười, tựa như một cô bé đang ngắt hoa bện mũ, vỗ tay vui cười, hoàn toàn đối nghịch với những lời nói lạnh lùng nhưng sắc bén kia. Ánh nến lấp lánh chiếu lên khuôn mặt xinh đẹp của nàng, làm toát ra một vẻ đẹp quyến rũ mà thần bí tột độ:

- Những quan viên này, có thể lôi kéo được thì lôi kéo, có thể đàn áp được thì đàn áp. Hai cách trên đều không được thì phải cho họ về quê thôi!

Thành Khởi Vật cười ngọt ngào nói tiếp:

- Trước giờ đại nhân thường mềm lòng, nhưng lần này thì quyết không thể mềm tay đâu đấy! Đợi đến khi những người bị điều khỏi kinh kia nóng lòng trở về thì đại sự đã thành, bè cánh cũng mất, bọn họ sẽ chẳng làm ra được trò gì nữa đâu.

"Không thể mềm tay..." Dương Lăng nghĩ tới đây liền thở dài một hơi, khẽ lẩm bẩm: "Hai vị lão gia Lưu, Mã này, một người bảy mươi tuổi, một người đã tám mươi. Ôi! Cũng nên về quê nghỉ ngơi rồi..."

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 234: Hoàng đế ham chơi

Hạ hoàng hậu khép đôi tay áo màu vàng thêu hoa văn rồng vào người, chiếc mũ phượng đính trân châu trên đầu khẽ đung đưa, đôi mày thanh tú dưới vầng trán trắng ngần hơi cau lại, thoáng hiện mấy nếp nhăn rất nhỏ. Phía sau bức màn màu xanh đậm vốn là một thiếu nữ ngũ quan tú lệ, thân hình yêu kiều, nhưng vẻ mặt nghiêm túc kia thì lại chẳng khác gì một người phụ nữ đã dạn dày phong sương.

Lưu Cẩn thấy nàng ta cố tỏ ra từng trải cũng chỉ dám cười thầm trong bụng, ngoài mặt thì rất mực cung kính hết mực tâu:

- Nương nương! Người là mẫu nghi thiên hạ, là tấm gương sáng của Lục cung, nếu các công chúa đều không giữ nghi lễ như vậy mà Nương nương lại không quản đến, sau này Hậu cung e cũng không dễ quản được nữa rồi.

Ôi! La Tường cũng là kẻ không hiểu chuyện, hiện hắn đang quản lý phủ Nội vụ mà làm việc lại vẫn lỗ mãng như cũ. Sao lại nói chuyện này với Nương nương cơ chứ? Khiến cho Nương nương dù có muốn làm bộ không biết mà buông tha cho bọn họ cũng không được nữa rồi.

Ngày đó Hạ hoàng hậu đã chứng kiến Dương Lăng đường hoàng mời hai vị công chúa đi du ngoạn mà lại chẳng buồn thỉnh ý của cô nàng. Đường đường là chủ Hậu cung, Hạ Hoàng hậu đã nổi giận trong lòng, nhưng khi chạy về cung kể lể với Thái hoàng thái hậu một hồi, Thái hoàng thái hậu lại đưa ví dụ Vạn quý phi phế Hoàng hậu ra mà khuyên bảo.

Tuy trong lòng căm phẫn, nhưng Hạ hoàng hậu nhớ đến việc Vạn quý phi xuất thân cung nữ, lại chẳng có chỗ dựa nào mà vẫn lật đổ được Hoàng hậu, nếu không phải bà ta tuổi tác quá lớn, khi đó Thái hậu kiên quyết không cho làm chủ Trung cung (trỏ nơi ở của Hoàng hậu), chỉ e bà ta đã được ngồi lên ghế Hoàng hậu rồi.

(Vạn quý phi sinh năm 1428 mất năm 1487, phi tử của Minh Hiến Tông, lớn hơn vua 19 tuổi.)

Hiện giờ Hoàng thượng bị con hồ ly tinh họ Đường mê hoặc đến thần hồn điên đảo, ả lại có một người biểu huynh đang nắm đại quyền. Tụ họp Tam cung lại gọi y vào trách mắng một phen thì cũng chẳng có gì là khó, nhưng thật sự động tới một thần tử Ngoại đình thì đâu phải là chuyện dễ dàng, do đó lòng báo thù của cô nàng cũng đã nhạt đi.

Nhưng lúc này nghe Lưu Cẩn nhắc đến, khuôn mặt cô nàng lập tức đỏ bừng, không nhịn được cất tiếng trách mắng:

- Có lúc nào bản cung phải giả bộ câm điếc kia chứ? Tuy nói là có chỉ ý của Hoàng thượng, nhưng không ngờ Dương Lăng lại dám chẳng để bản cung vào trong mắt, không thông báo cho bản cung và phủ Nội vụ mà đã dám đưa công chúa xuất cung, thực là hỗn láo, vốn phải phạt nặng mới được. Còn về hai vị công chúa...

Hạ hoàng hậu hơi khựng lại, do dự một chút. Hai vị công chúa là em ruột của đương kim Hoàng đế, là con đẻ của Thái hậu đương triều, nếu thật sự mình xử phạt nghiêm khắc, há chẳng phải bản thân mình sẽ đắc tội hết cả trong lẫn ngoài ư?

Lưu Cẩn thấy vậy thì bèn cười giả dối, thưa:

- Thực ra trong lòng lão nô hiểu hết. Nếu Nương nương không trừng phạt, sau này các vị công chúa, quý phi khác đều sẽ không chịu nghe theo hiệu lệnh, tự có chủ trương riêng, như thế Hậu cung này còn có luật lệ gì nữa chứ? Nhưng nếu trừng phạt nghiêm khắc, vậy lại sợ ảnh hưởng đến hòa khí trong cung. Nương nương thực đã phải khổ tâm quá!

Lão bước đến gần thêm một bước, thưa tiếp:

- Lão nô có một cách nhất cử lưỡng tiện, không biết Nương nương có muốn nghe không?

Đang cảm thấy khó xử, nghe vậy thì Hạ hoàng hậu cả mừng:

- Lưu công công mau mau nói đi!

Lưu Cẩn khom lưng tâu:

- Dạ. Lão nô thấy thế này: nếu không trừng phạt các vị công chúa thì ắt là không được, nhưng nếu làm quá nghiêm thì cũng không hay. Chi bằng Hoàng hậu kêu phủ Nội vụ cắt bớt chi tiêu trong cung của hai vị công chúa, lấy đó làm trừng phạt, rồi Hoàng hậu Nương nương lại truyền ý chí cẩm bọn họ ra ngoài trong vòng mười ngày, như thế cũng đủ để răn đe người khác rồi. Còn về Dương Lăng...

Lão đưa mắt liếc nhìn Hạ hoàng hậu, nhỏ giọng:

- Chuyện này có liên quan đến công chúa, không phải chỉ là quốc sự nữa, tổng quản phủ Nội vụ La Tường có trách nhiệm tố cáo. Nhưng La Tường địa vị thấp kém, nếu không có một vị đại thần đắc lực nào đó đồng thời dâng lời, Hoàng thượng quyết không chịu trừng phạt Dương Lăng đâu, như thế sau này y há lại chẳng càng ngang ngược hơn? Nếu có Hạ đại nhân đồng thời dâng sớ, Hoàng thượng cũng không thể không nể mặt. Dù thế nào thì cũng phải dạy dỗ y một phen. Y là một thần tử, há lại dám vì chuyện này mà căm hận Nương nương hay sao? Nếu Nương nương lo lắng...

Hạ hoàng hậu phất mạnh tay áo, đôi mày dựng ngược, trách mắng:

- Lo lắng cái gì? Mau! Truyền ý chỉ của bản cung, lệnh cho phủ Nội vụ cắt bớt chi tiêu trong cung của Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần! Lệnh cho nữ quan của ti Thượng cung giám sát, không cho hai vị công chúa ra khỏi cung trong mười ngày!

- Lão nô xin vâng theo ý chỉ của Hoàng hậu Nương nương!

Lưu Cẩn vội quỳ rạp xuống bái lạy.

Thấy người đứng đầu Nội đình cung kính như thế, sự tự tin của Hạ hoàng hậu cũng tìm lại được mấy phần. Cô nàng hừ lạnh một tiếng, dẫn theo sáu người cung nữ chậm rãi đi về phía Hậu cung. Lưu Cẩn bò dậy khỏi mặt đất, vẻ nịnh nọt tan biến hoàn toàn, bên khóe miệng là một nụ cười lạnh lùng âm hiểm.

***

Một ngày trước khi sứ giả Nhật Bản tiến kinh, đại giáo đường ở phía tây kinh thành của người Tây Dương đã được khánh thành.

Đó là một tòa kiến trúc hùng vĩ được xây bằng gạch đỏ, nóc có hình tròn, bốn góc vuông vức, trên đỉnh giáo đường là một cây thánh giá lớn màu trắng sữa. Mấy nhà truyền giáo như Nhã Các Tư, Hỏa Giả Á Tam đều mặc áo giáo sĩ mới tinh, đứng cạnh bồn nước hình cánh hoa trước giáo đường mà nước mắt chảy dài.

Vạn dặm đường biển, mười năm bôn ba, phải làm ăn mày suốt mấy năm đến mức gần chết đói, rốt cuộc bây giờ bọn họ đã có đại giáo đường của mình, xây dựng được nơi truyền bá giáo nghĩa của Thượng Đế đầu tiên ở Đại Minh. Tất cả những sự vất vả và mạo hiểm đều đã được hồi báo, Dương Lăng thật đúng là sứ giả của hạnh phúc mà Thượng Đế mang tới cho bọn họ.

Điều khiến bọn họ cảm thấy hưng phấn nhất là không ngờ Dương Lăng còn mời được đương kim Hoàng đế tới dự. Hoàng đế của đế quốc hùng mạnh nhất thiên hạ đến tham gia điển lễ khánh thành của đại giáo đường và lễ Mi-sa long trọng đầu tiên, nếu không phải đường sá xa xôi thì làm gì đến lượt bọn họ nghênh tiếp, đó phải là vinh dự đặc biệt của Giáo hoàng và các hồng y giáo chủ. Có thể tưởng tượng tin tức Hoàng đế đến thăm hôm nay mà truyền đi khắp nơi, việc truyền giáo của bọn họ ắt sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.

Khó trách các vị truyền giáo nhà ta lại nước mắt lưng tròng mà miệng thì cười toe toét không ngừng như thế. Cẩm Y Vệ đã vây kín xung quanh đại giáo đường, dân chúng bình thường chỉ có thể đứng nhìn từ xa. Chính Đức tò mò quan sát chăm chú tòa kiến trúc có phong cách đặc biệt này, cho tới khi Cốc Đại Dùng gọi liền mấy tiếng "Hoàng thượng" hắn mới tỉnh táo trở lại.

Đặc sứ tới bái yết thiên triều của nước Triều Tiên là Phác Ân Hi lạnh lùng đứng nhìn, bất giác lắc đầu nhè nhẹ, giữa đôi mày thoáng hiện nét ưu lo.

Thiên tử Đại Minh băng hà, tân đế kế vị, không lâu sau đó Lục bộ Thượng thư trong triều bị gạt bỏ một nửa, rồi ngay kế đó các vị đại học sĩ rường cột của Đại Minh cũng bị bãi miễn mất hai người. Những tin đồn về sự ngu độn của tân đế và sự nhiễu động của triều đình Đại Minh đã truyền đến tận Triều Tiên.

Quốc vương Triều Tiên hay tin thì hết mực lo lắng. Xưa nay Triều Tiên vốn là thuộc quốc của Đại Minh, quốc kế dân sinh phụ thuộc vào Đại Minh rất nhiều. Hơn nữa Nữ Chân, Nhật Bản ở cạnh bọn họ liên tục phát động những cuộc chiến tranh quy mô nhỏ, toàn là nhờ Đại Minh đứng ra điều đình. Nếu Đại Minh nội loại, Triều Tiên ắt sẽ gặp nguy, do đó quốc vương mới lập tức phái sứ thần đến Đại Minh xem xét tình hình.

Khi Phác Ân Hi tới kinh thành thì Chính Đức đang ở Đại Đồng. Phác đại sứ không có việc gì làm, thường đi thăm thú khắp nơi, mỗi ngày nghe thấy các lời đồn trong dân gian, sự thất vọng đối với vị Hoàng đế Đại Minh này lại càng tăng thêm. Nhưng chiến tích đánh bại Thát Đát, bắt tay với Ngột Lương Cáp mà Chính Đức nhắc đến sau khi về kinh đã khiến hắn thay đổi suy nghĩ. Trải qua một thời gian dò la hắn đã nhạy bén ý thức được giá trị bên trong.

Các bộ lạc Đóa Nhan Tam Vệ và Nữ Chân vắt ngang thảo nguyên, không phải do Đại Minh dùng thì sẽ do Thát Đát dùng. Nay hai bên thông thương với nhau, lại dùng lợi ích kiềm chế, ắt có thể khiến bọn họ trở thành đồng minh của Đại Minh.

Thát Đát đại bại, Bá Nhan khả hãn vừa thống nhất thảo nguyên, thế lực nhất định sẽ bị dao động, tình hình nội bộ cũng trở nên khó lường. Trong tình huống một bên mạnh lên một bên yếu đi, Đại Minh sẽ có khả năng biến phòng ngự thành tấn công. Nếu vì thế mà sự phân phối thế lực của cả thảo nguyên và Liêu Đông phát sinh biến hóa, chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Triều Tiên. Việc này đã khiến hắn nảy lòng hứng thú, chẳng lẽ vị hoàng đế Chính Đức luôn ham mê tửu sắc này lại muốn làm một bậc kiêu hùng như Sở Trang Vương hay sao?

Thế nhưng những hành vi hoang đường của Chính Đức trong Báo Phòng thời gian sau đó đã lại một lần nữa phá vỡ ảo tưởng của hắn. Quả thực hắn rất khó tin được cái gã mừng vui để lộ ra ngoài mặt, luôn nói cười tùy tiện chẳng có sự tôn nghiêm của bậc đế vương này lại có thể là một bậc minh quân lỗi lạc.

Sứ giả Đại Việt Nguyễn Đại Hựu bên cạnh thấy y trầm tư dừng bước, bèn kéo tay áo bảo:

- Hoàng đế đã đi rồi, mau đi theo!

Phác Ân Hi tới lúc ấy mới tỉnh táo trở lại, vội vàng cất bước đi theo vào trong giáo đường.

(Biên tập bỏ qua 3 đoạn nói xấu triều đình Việt Nam thời đó (đang có quốc hiệu là Đại Việt), mà cũng không ăn nhằm gì đến cốt truyện)

Chính Đức đang đi phía trước. Hắn đang nghe Hỏa Giả Á Tam giới thiệu, vừa tò mò hỏi mấy câu dùng để chào hỏi khi gặp mặt của nước đối phương vừa cười đùa định bước vào trong giáo đường. Nhã Các Tư đột nhiên nhúng hai ngón tay vào chiếc chậu nước sạch ở cửa rồi búng mấy giọt nước về phía Chính Đức.

Chính Đức ngẩn ra, mấy giọt nước đã bắn lên mặt hắn rồi, Nhã Các Tư lại đưa ngón tay ướt của mình ra khua qua khua lại trước mặt hắn như vẽ bùa. Lưu Cẩn cả kinh, lập tức quát lớn:

- Bắt thích khách!

Hai thị vệ đại nội vội vàng chạy tới, ấn ghì Nhã Các Tư xuống đất, tú xuân đao rời vỏ một nửa kề lên cổ ông ta. Nhã Các Tư hoảng sợ đến nỗi mặt mũi trắng bệch, miệng la bai bải không ngừng.

Dương Lăng thấy thế thì vội vàng bước tới ngăn cản:

- Chậm đã chậm đã, chớ có động thủ!

Y cười nói với Chính Đức đang ngẩn người kinh ngạc:

- Hoàng thượng! Đây là một nghi thức trong tôn giáo của người Tây Dương, gọi là "vẩy nước thánh", nó sẽ gột rửa thân thể và trái tim của người tiến vào giáo đường, đồng thời xin Thiên Chúa ban phúc cho người đó.

Nhã Các Tư tiên sinh đang chúc phúc Hoàng thượng, không hề có ý mạo phạm.

Chính Đức nghe vậy bèn cười lớn, nói:

- Trò này thú vị đấy! Chúc hay không chúc phúc tạm thời không nói, nhưng so với việc để người khác nhổ nước bọt vào mặt rồi đợi nó tự khô thì tốt hơn nhiều.

Chính Đức đẩy đao của thị vệ ra, đỡ Nhã Các Tư dậy, cười hì hì:

- Ngươi làm thế là lỗ mãng quá rồi, sao không nói trước một tiếng, giấu giếm làm cái gì chứ? Suýt chút nữa thì đã đánh mất cả cái đầu của mình rồi, ha ha ha...

Hắn xoay người lại nói với hai sứ giả Triều Tiên, Đại Việt:

- Trẫm hôm nay nghe nói miếu thờ của người Phất Lãng Cơ ở xa ngoài ngàn dặm khánh thành, thiết nghĩ nước các vị chắc cũng chưa từng nhìn thấy, do đó mới gọi các vịxem. Mấy vị thấy cái lễ chúc phúc này có thú vị, mới mẻ không nào?

Phác Ân Hi, Nguyễn Đại Hữu khom người đáp có. Chính Đức lại hào hứng bảo với Nhã Các Tư:

- Muốn ban phúc thì cần phải mặc chiếc áo màu đen thế này sao? Nào, cởi ra cho trẫm mặc! Các ngươi hãy xếp hàng tiến vào, trẫm sẽ ban phúc cho từng người các ngươi.

Mọi người đều dở khóc dở cười, hai vị sứ thần ngoại quốc lại càng thầm lắc đầu không ngớt. Các nhà truyền giáo như Nhã Các Tư thì lại không câu nệ nhiều như các nho sĩ hay hòa thượng Trung Nguyên. Tuy Hoàng đế cũng không có tư cách khoác áo giáo sĩ để ban phúc, nhưng bọn họ vì muốn có chỗ đứng ở Đại Minh, ngay đến bản đồ thế giới cũng dám sửa để Trung Quốc trở thành trung tâm của thế giới, thì việc Hoàng đế làm cha cố một phen thì có đáng là gì?

Nhã Các Tư có thân hình cao gầy. Ông ta gỡ chiếc thánh giá bằng bạc xuống, cởi chiếc áo dài màu đen ra, mặc áo rồi đeo thánh giá lên cho Hoàng đế. Cha cố Chính Đức trong bộ áo dài chấm đất chính thức bước lên vũ đài.

Nhã Các Tư chỉ dùng hai ngón tay để nhúng nước ban phúc, còn nước thánh của Chính Đức thì lại là dùng cả bàn tay. Thế rồi tất cả các thần tử, hai vị sứ thần ngoại quốc, ngay đến Dương Lăng và mấy nhà truyền giáo cũng không thoát, tất cả đều bị Chính Đức rửa mặt cho một phen rồi mới cả người ướt sũng bước vào đại giáo đường.

Thực ra giáo đường này tuy lớn nhưng cũng khá giản lậu, không có tượng điêu khắc đá, các bức bích họa và trang sức bằng vàng xán lạn như những giáo đường ở phương Tây. Chính Đức tràn đầy hưng phấn xem xong mọi thứ, bèn bước lên đài giảng đạo tuyên bố với mọi người:

- Cha cố Nhã... Các Tư? Cha cố Hỏa Giả Á Tam? Ừm ừm... Các vị từ vạn dặm xa xôi đến Đại Minh, trẫm rất vui mừng! Trong tương lai không xa trẫm sẽ lại chế tạo bảo thuyền có thể vượt qua vạn dặm đường biển, đến lúc đó các vị sẽ có thể ngồi thuyền trở về cố hương rồi, sau đó hãy đưa những người có lòng muốn tới Đại Minh ta tới đây, trẫm rất hoan nghênh!

Rồi hắn lại nói với hai vị sứ thần ngoại quốc:

- Hai vị sứ giả sau khi trở về có thể báo với quốc vương của mình: nước Nhật Bản đã phái sứ giả đến triều kiến, không lâu sau Đại Minh sẽ bỏ lệnh cấm biển; hơn nữa ngoài mấy loại hàng hóa mà triều đình hạn chế bán ra và mua vào, sẽ không có bất kỳ hạn chế gì khác, để cho dân gian tự do buôn bán qua lại.

Các vị có thể dặn dò quốc vương của mình sớm chuẩn bị sẵn, hãy chế tạo nhiều thuyền lớn một chút. Đại Minh ta không bài trừ di địch, người tới đều không cự tuyệt, người đi cũng không đuổi theo. Trăm sông cuối cùng đều đổ về biển rộng, Đại Minh ta cũng học theo cái lẽ này, phàm là quốc gia, khu vực, bộ tộc nào chịu triều cống, bất luận trước đây có hiềm khích hay không, ta đều tiếp nạp hết.

Phác Ân Hi nghe xong không khỏi chấn động. Hắn không ngờ lần này đến đây lại nghe được một sự thay đổi quốc sách lớn lao như thế. Triều Tiên và Đại Minh cách nhau rất gần, nếu Đại Minh bỏ lệnh cấm biển, lại cho phép dân chúng tự do thông thương, việc này sẽ có ảnh hưởng tới Triều Tiên lớn lao như thế nào chứ?

Để phù hợp với sự thay đổi này, nhất định nước Triều Tiên cũng phải thiết lập nha môn tương ứng, mau chóng tổ chức những đội buôn tương ứng, mau chóng giành lấy thị trường Đại Minh, sớm được chút nào thì cơ hội sẽ nhiều thêm chút ấy. Việc này nhất định phải lập tức thông báo với quốc vương.

Nguyễn Đại Hựu vốn đang suy nghĩ vu vơ cũng ý thức được tầm quan trọng của lời tuyên bố này, trong đầu lập tức xuất hiện suy nghĩ như Phác Ân Hi. Chính Đức lại kể đến những việc như nhập cây trồng của Tây Dương về, cải thiện sản lượng nông nghiệp, liên minh với Đóa Nhan Tam Vệ, mượn đất của bọn họ để nuôi chiến mã. Tuy hắn không nhắc đến chuyện phân hóa nội bộ Thát Đát nhằm sau đó tiến quân lên phía bắc, nhưng hùng tâm tráng chí trong lời nói của hắn đã thể hiện rõ ràng.

Thân là những nước phiên thuộc đời đời của Đại Minh, Phác Ân Hi và Nguyễn Đại Hựu đều chẳng hề lo Đại Minh hùng mạnh. Quốc gia của bọn họ đều nhỏ bé, chủ quốc càng hùng mạnh lợi ích mà bọn họ nhận được sẽ càng nhiều, do đó cả hai đều cảm thấy rất vui vẻ.

***

Chính Đức cùng quần thần nghe Nhã Các Tư giảng đạo mà cứ như vịt nghe sấm. Sau đó hắn bèn đi dạo khắp trong ngoài đại giáo đường một lượt, lại sai người thông báo cho bộ Lễ hằng tháng cần cung cấp một lượng củi gạo nhất định cho các vị cha cố, cuối cùng mới khởi giá rời đi.

Hoàng đế vừa khởi giá, hai vị sứ thần phiên quốc Phác Ân Hi và Nguyễn Đại Hựu cũng lập tức xin cáo từ, vội vã trở về chỗ ở do Hồng Lô Tự thu xếp cho bọn họ.

Phác Ân Hi trải một tờ giấy trắng ra, cất bút viết rằng: "Trung Tông đại vương: Thần phụng mệnh đến Đại Minh tìm hiểu tình hình, nay thấy Hoàng đế Đại Minh quyết không phải hạng hôn quân. Chỉ là tính hắn hiếu động tựa như đứa trẻ ương bướng, nhưng trong lòng lại có hoài bảo nắm cả thiên hạ, chí hướng không thể nói là không cao..."

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 235: Đại sứ lạp xưởng

Chính Đức đã đổi sang thường phục, xa giá vừa mới vào kinh thành liền lập tức rời đội ngũ, ra lệnh cho bọn Lưu Cẩn theo xa giá về cung, còn mình thì cùng Dương Lăng tản bộ ngoài đường. Đám Cẩm Y vệ cải trang thường dân bao quanh khắp bốn phía xung quanh làm nhiệm vụ bảo vệ.

Chính Đức hỏi:

- Ngày mai sứ giả Nhật Bản sẽ tới kinh thành phải không?

Dương Lăng đáp:

- Đúng thế, tâm phúc của thần đã theo bọn họ lên đường tới kinh sư, Hồng Lô Tự (*) cũng phái lễ quan đi nghênh tiếp rồi. Có điều Hoàng thượng không thể gặp được bọn họ nhanh như vậy đâu. Theo như lời Vương thượng thư của bộ Lễ, việc triều cống có những lễ nghi rất nghiêm ngặt, khi nào thì lên triều, mặc trang phục ra sao, động tác quỳ lạy và đứng dậy thế nào, rồi thì vị trí đứng, đường tiến đường lui cùng với các trình tự khi dâng cống phẩm đều phải được quy định rõ ràng. Quy định xong, sẽ huấn luyện sứ giả kỹ càng, nhất định phải đảm bảo rằng sẽ không để xảy ra sai lầm gì, tránh xuất hiện sơ suất trong buổi lễ tiếp kiến của Hoàng thượng.

(*鸿胪寺 [hóng lú sì]: Cơ quan lo việc tiếp đãi khách nước ngoài, giao tế với các nước)

Chính Đức thở dài than:

- Đúng là chàng nóng tính gặp ông lề mề.

Dương Lăng cười đáp:

- Hoàng thượng không cần phải nôn nóng. Những việc như xây dựng thủy quân, ti Thị bạc, nha môn hải quan cùng với tổ chức thương đoàn duyên hải,... rốt cuộc đều phải cần đến bệ hạ quyết định; những thứ khiến người phải bận rộn thật sự là nhiều lắm. Còn về sứ đoàn Nhật Bàn, khi đã đến đây thì sứ mệnh của bọn họ cũng xem như hoàn thành rồi. Chúng ta tiếp kiến thế nào, dùng quy cách gì để tiếp kiến, cứ giao cho bộ Lễ lo hết là được.

Bây giờ việc Hoàng thượng nên quan tâm là chọn ai cho chức thượng thư bộ Lễ và bộ Binh. Hai nha môn này một thì quản võ tướng, một thì quản văn quan, là những nha môn quan trọng nhất của triều đình. Văn võ là cánh tay phải tay trái của Hoàng thượng, nhất định không được qua loa.

Chính Đức cau mày hỏi:

- Theo như ái khanh thấy, trong triều những ai có thể đảm nhận được hai chức thượng thư này?

Dương Lăng đâu dám tùy tiện tiến cử, chỉ đành mập mờ trả lời:

- Ngày mai Hoàng thượng có thể triệu kiến ba vị Đại học sĩ. Bọn họ hiểu rõ các quan viên trong triều như lòng bàn tay, nhất định có thể chọn được những người thích hợp.

- Cũng tốt!

Chính Đức gật đầu đồng ý. Ngay sau đó hắn chợt khụt khịt mũi, mừng rỡ kêu lên:

- Đây là mùi gì ấy nhỉ? Thơm quá, đi, qua bên đó xem sao!

Nơi góc đường phía trước có một quầy hàng nhỏ. Trước quầy bày một chiếc nồi sắt, bên trong là những lát lạp xưởng đỏ tươi lóng lánh dầu mỡ khiến người ta nhìn mà phát thèm. Thì ra đây là quầy bán món lạp xưởng nổi tiếng của Bắc Kinh.

(*: 灌肠 guànchang Xúc xích kiểu Trung Hoa, còn gọi là lạp xưởng. Biên tập chọn từ "lạp xưởng" cho gần gụi.)

Món này bắt đầu thịnh hành từ đầu thời Minh. Trong lòng lợn được nhồi hơn chục loại nguyên liệu với gia vị như bột mì, bột gạo lên men, đinh hương, đậu khấu để lên mem tự nhiên cho chín. Khi ăn, luộc sôi rồi cắt thành từng lát rán trong mỡ heo, sau đó lại rưới lên trên một ít nước chấm, thơm ngát mà ngon giòn.

Chính Đức nào đã từng nhìn thấy món ăn thế này, vừa ngửi mùi thơm đã muốn nếm thử ngay. Mười mấy gã thị vệ vội vàng chạy đến giành chỗ ở quầy hàng, những người còn lại thì phân tán ra xung quanh, Chính Đức và Dương Lăng ngồi ở giữa, gọi lên hai đĩa lạp xưởng. Sau đó hai người vừa ăn vừa nói chuyện.

Dương Lăng sớm đã hiểu rõ tính cách của vị tiểu hoàng đế này rồi. Y tinh lực dồi dào, cũng có chí hướng lập sự nghiệp lớn một phen, chỉ là lòng ham chơi còn nặng, muốn bắt y ngồi lại một chỗ nghiêm túc suy nghĩ chuyện gì đó thì khó khăn vô cùng. Cứ vừa đi chơi vừa bàn bạc thế này, hiệu suất lại còn cao hơn hẳn.

Các vị lão thần trong triều đều cho rằng đã làm Hoàng đế rồi, lẽ dĩ nhiên phải là một bậc thánh nhân trời sinh, trước giờ chưa có ai coi Hoàng đế như một thiếu niên ham chơi bình thường cả.

Sở dĩ Dương Lăng có thể làm việc thuận lợi với Chính Đức là vì Chính Đức cực kỳ tín nhiệm y, sau mấy lần xảy ra chuyện lớn, hắn càng ngày càng coi Dương Lăng như là người mình có thể tin cậy nhất; nhưng hơn hết, Dương Lăng còn rất biết cách lợi dụng đặc điểm tính cách của người trẻ tuổi, từ đó bốc thuốc đúng bệnh, hai người rất hợp ý.

Thế là hai vua tôi cứ thế ngồi bên đường nhìn dòng người qua lại nườm nượp, vừa ăn lạp xưởng vừa nói về chuyện triều đình. Dương Lăng chậm rãi nói về các biện pháp để xây dựng thủy quân, chẳng hạn như tướng lĩnh thủy quân phải được thay đổi luân phiên theo định kỳ, thủy quân thì chia thành bốn hạm đội Bắc Hải, Đông Hải, Nam Hải và Nội Hải để kiềm chế lẫn nhau. Sau đó y lại nói đến việc xây dựng ba xưởng đóng thuyền lớn ở Kim Lăng, sông Tùng Hoa và Tuyền Châu, rồi thì thiết lập ti Thị bạc và nha môn hải quan, một cái để thiết lập chế độ thuế má và kiểm tra việc thu thuế, một cái thu thuế. Qua đó các quan niệm về thuế khóa lặng lẽ được truyền vào đầu Chính Đức, khiến trong đầu hắn dần dần hình thánh khái niệm rõ ràng về nguồn lực của quốc gia.

Lúc này trong Báo Phòng, Giải Ngữ, Tu Hoa đang đứng trên đài Hổ Trì vứt một con gà trống xuống dưới hố. Bốn con hổ đang uể oải nằm dài đột ngột nhảy bật dậy gầm lên thật lớn, lao thẳng về phía con gà trống.

Con gà trống đáng thương chỉ kịp vỗ cánh kêu lên một tiếng đã bị một con hổ nhảy vọt lên ngoạm chặt. Mấy con hổ còn lại hậm hực quay đầu bỏ đi, rồi lại tiếp tục nằm bò xuống đất sưởi nắng.

Giải Ngữ ngạc nhiên hỏi:

- Con hổ này là vua trong đám hổ ư? Sao mấy con kia đều không tranh giành với nó vậy?

Một thái giám nhỏ tuổi đứng cạnh cười hì hì trả lời:

- Cô nương có điều không biết, hổ là vua của muôn thú, tính tình cực kỳ cao ngạo. Con mồi đã vào đến miệng con hổ khác rồi, cho dù bọn chúng có đói bụng cũng không thèm để ý đến đâu.

Tuy Giải Ngữ, Tu Hoa đã lang bạt giang hồ nhiều năm nhưng dù sao cũng chưa từng nuôi loài dã thú to lớn thế này bao giờ, trong gánh xiếc hồi trước cùng lắm cũng chỉ nuôi mấy con ngựa, mấy con khỉ mà thôi. Hai người tò mò nhìn xuống phía dưới, quả nhiên, con hổ vừa giành được chú gà trống vẫn đứng nguyên tại chỗ ăn tươi nuốt sống con mồi, lũ hổ còn lại đều chẳng thèm nhìn ngó đến chút nào.

Giải Ngữ không kìm được thoáng nhếch mép cười giễu cợt:

- Chỉ là loài thú hoang mà cũng bày đặt để ý đến uy phong của bậc vương giả này nọ! Nếu để chúng đói đến mức cả cọng cỏ cũng không có mà ăn, rồi xẻ thịt cốt nhục thân sinh của nó bỏ vào nồi nấu cho nó ăn, nó còn giữ được cái thứ gì là sự cao ngạo của vua trong muôn thú nữa không? E là đến lúc đó mãnh hổ cũng sẽ biến thành một con chó thôi!

Chú thái giám trẻ con nào ngờ cô gái thường ngày vẫn luôn tươi cười ngọt ngào này lại có thể phát biểu những lời đáng sợ như vậy, không kìm được hơi ngẩn người. Tu Hoa nhân lúc xoay người, khẽ hích nhẹ vào vai Giải Ngữ, Giải Ngữ lập tức im miệng không nói gì thêm.

Trên con đường nhỏ dẫn vào khu rừng phía trước có một người hầu xách thùng nước đi ra. Nhìn thấy, Tu Hoa lập tức sáng rực đôi mắt, vội vàng yêu kiều kêu lên:

- Ngươi dừng lại một chút, bản cô nương muốn rửa tay. Ấy, mấy người các ngươi cứ đợi ở đó thôi, không cần hầu hạ nữa!

Rồi ả kéo Giải Ngữ, hai người vội vã chạy tới. Bọn họ vừa cầm chú gà trống, trên tay hơi có mùi, muốn rửa tay cũng là chuyện bình thường, những thái giám tùy tùng đều dừng lại chờ đợi bên cạnh Hổ Trì.

Hai người đi đến bên con đường nhỏ, khom người xuống vốc nước rửa tay. Gã tạp dịch xách nước ngó nghiêng thấy bên cạnh không có ai, liền thấp giọng nói:

- Tiểu nhân tới báo tin. Trong cuộc chiến ở trạm Kê Minh, Dương Gia Bình đã bị người Thát Đát càn quét sạch bách, người già còn lại trong tộc không nhiều, đến tộc phổ cũng đã bị mất.

Nghe những người nhà họ Dương còn sống nói bọn họ cũng có hai nhà bà con xa họ Đường, có điều không hề liên quan gì đến chi của Dương Lăng. Ả Đường Nhất Tiên này mười phần đáng nghi, không chừng là mỹ nhân kế mà Dương Lăng bày ra nhằm khống chế Hoàng đế. Tam thiên sư bảo Hoàng đế hết sức say đắm cô gái này, một khi ả vào trong cung thì sẽ rất bất lợi cho các cô, còn địa vị của Dương Lăng thì sẽ vì thế mà càng thêm vững chắc, có hại rất lớn cho bản giáo.

Tu Hoa vừa nhẹ nhàng vốc nước rửa tay, vừa lén cất tiếng hỏi:

- Tam thiên sư định thế nào đây?

Gã tạp dịch kia khẽ liếc ngang dòm quanh, rồi hạ thấp giọng:

- Chúng ta không thể tiếp cận Dương phủ, không cách nào ra tay. Hoàng thượng đã thích ả như thế, vậy các cô hãy nghĩ cách bảo Hoàng thượng đưa ả tới Báo Phòng, sau đó dùng... Chỉ cần moi ra được lý lịch của ả, nếu đúng như dự đoán của chúng ta thì trong giáo sẽ có người xúi giục đám Quách Huân dâng tấu lên triều đình.

Tìm một cô gái có lý lịch mơ hồ mạo nhận là thân quyến để tiếp cận Hoàng thượng, mưu đồ hiểm ác. Dù y quyền thế nghiêng trời đi chăng nữa, tội danh này ít nhất cũng phạm vào hai tội là khi quân và mê hoặc Hoàng thượng. Dù y không chết cũng sẽ bị lột mất một lớp da.

Thấy mấy tiểu thái giám đã không chờ được nữa sốt ruột đi tới, hắn lại vội vàng xách thùng nước lên, cao giọng chào:

- Tiểu nhân đi đây!

Nói xong liền vội vã đi thẳng. Giải Ngữ, Tu Hoa hơi đưa mắt nhìn nhau, rồi cũng thản nhiên rẩy những giọt nước trên tay đi, xoay người đi ngược trở về.

* * *

Từ sau khi rời hoàng cung, đúng thực Chính Đức rất tiêu dao tự tại, hết sức thoải mái. May mà tuy ham chơi nhưng hắn cũng biết việc nước không thể chậm trễ, mỗi ngày vẫn sai ti Lễ Giám đem những tấu chương quan trọng tới Báo Phòng để phê duyệt.

Thấy trời đã sắp tối, Chính Đức cũng hết hứng dạo chơi, lại nhớ hôm nay còn có tấu chương chưa phê duyệt, nên liền đứng dậy quay về Báo Phòng, Dương Lăng đi theo hộ tống hắn đến tận nơi. Y lại nhớ ngày mai sứ đoàn của Nhật Bản sẽ vào kinh, Thành Khởi Vận cũng đi theo sứ đoàn trở về, hơn nữa chuyện này còn là do một tay mình xúc tiến mà nên, đến lúc đó nhất định phải nghênh tiếp, cứ nên nghỉ ngơi sớm một chút thì hơn. Vì vậy y bèn lập tức cáo từ rời đi.

Dương Lăng đi đến hành lang phía trước cửa chính của Báo phòng, còn chưa ra khỏi cửa đã gặp một tiểu thái giám đang đi tới. Tiểu thái giám đó nhìn thấy y thì không khỏi mừng rỡ gọi:

- Dương đại nhân!

Dương Lăng thấy y lạ mặt, không kìm được nghi hoặc hỏi:

- Vị công công này là?

Tiểu thái giám đó vội vàng thi lễ, đáp:

- Nô tì là Tiểu Đinh Tử ở phủ của Công chúa Vĩnh Thuần, từng gặp đại nhân mấy lần trong cung. Ngày đó Hoàng hậu nương nương "thân tàm", người đỡ Công chúa xuống kiệu ngoài cửa cung chính là nô tì.

Dương Lăng làm sao nhớ nổi một tiểu thái giám đỡ Công chúa xuống kiệu từ tít hôm nào đó, nhưng vẫn cười bảo:

- À... Bản quan nhớ rồi, sao công công lại tới Báo Phòng vậy? Là điện hạ bảo công công tới sao?

Dương Lăng vừa mới hỏi như vậy, thái giám Tiểu Đinh Tử lập tức tỏ ra giận dữ. Gã là người hầu theo sát bên cạnh Vĩnh Thuần, mấy lần gặp Dương Lăng đều thấy vị đại nhân này và Công chúa điện hạ có nói có cười, mà việc đón Công chúa đi Kế Châu du lịch cũng là do y sắp đặt, quan hệ giữa hai bên hiển nhiên cực tốt. Huống chi Vĩnh Thuần vốn đã dặn gã nếu có nhìn thấy Dương Lăng thì cũng phải dặn dò y một phen.

Tiểu Đinh Tử xắn tay áo lên, hậm hực đáp:

- Dương đại nhân, hai vị Công chúa theo thánh giá đến Kế Châu vui chơi, nào ngờ sau khi trở về La tổng quản của phủ nội vụ lại đi tố cáo với Hoàng hậu nương nương, nói rằng hai vị Công chúa không tuân theo quy định mà tự động xuất cung, cần trừng phạt thật nghiêm. Bây giờ phủ Nội vụ đã cắt bớt tiền chi tiêu hàng tháng của Công chúa, số người hầu trong phủ giảm một nửa, đến lượng nến thắp mỗi tối cũng nói rõ là chỉ được thắp mấy cây, Công chúa đã tức đến phát khóc rồi đấy.

Nhưng Hoàng hậu nương nương lại phái nữ quan của ti Thượng cung tới, không cho công chúa ra ngoài, nói là phải cấm túc mười ngày. Công chúa bèn phái nô tì ra ngoài đi tìm Hoàng thượng để tố cáo.

Đúng rồi, Công chúa còn dặn đại nhân phải cẩn thận, không chừng La tổng quản sẽ còn gây phiền phức cho ngài nữa đấy.

La Tường ư? La Tường là kẻ làm mọi việc vì lợi ích, lá gan lại nhỏ, sao hắn dám chủ động yêu cầu trừng phạt Công chúa nhỉ? La Tường và Lưu Cẩn đi lại rất gần, phủ Nội vụ lại nằm dưới quyền quản hạt của ti Lễ Giám...

Dương Lăng chợt hiểu ra, trong lòng không khỏi cảm thấy có chút tức cười: "Cái lão Lưu Cẩn này vì đố kỵ mà sinh ra căm hận mình, bây giờ ngay đến người trong hoàng tộc qua lại gần gũi với ta cũng căm hận luôn, đúng là tầm nhìn hạn hẹp. Lần này ngoài việc lão ta đắc tội với hai vị Công chúa và khiến Thái hậu sinh lòng chán ghét ra, thì còn có tác dụng gì nữa nhỉ? Tạo được quan hệ với cô bé Hoàng hậu kia sao?"

Y khẽ lắc đầu với vẻ không tán đồng cho lắm, trong lòng thầm đoán Chính Đức hay tin rồi cũng sẽ không vì chuyện này mà quay về tìm Hoàng hậu gây rối làm gì. Bản thân Chính Đức cũng thường xuyên bị bá quan mắng cho tơi tả, bây giờ chẳng qua Công chúa chỉ bị cấm túc mười ngày, cắt bớt tiền chi tiêu hàng tháng, gã ắt sẽ chẳng buồn để chuyện này vào lòng.

Dương Lăng vừa nghĩ như vậy, đang định xua tay bảo tiểu thái giám đó đi vào, trong lòng chợt giật thót mình: Không đúng, Lưu Cẩn tuy quả thực không phải kẻ đại tài, nhưng dù gì thì cũng không đến mức không nhìn ra được sự được mất trong chuyện này như thế, huống chi bên cạnh hắn còn có mấy tên quân sư quạt mo, há lại đi một nước cờ thối như vậy?

Hắn làm thế này rõ là một mũi tên trúng hai đích!

Công chúa là do mình đưa ra ngoài, bây giờ Công chúa bị Hoàng hậu trừng phạt nặng, còn mình thì bó tay chẳng có cách nào, người khác nhìn vào sẽ có suy nghĩ thế nào chứ? Mấy người Khâu Tụ, Ngụy Bân, Cao Phượng kia tuy chẳng được Chính Đức coi trọng lắm, nhưng chút quyền lực nắm trong tay ít nhiều cũng có chút tác dụng, một khi tụ tập lại quyết không thể coi thường.

Mình và Lưu Cẩn hiện đều đang cố gắng lôi kéo những người này, nếu mình để mặc cho Công chúa bị trách phạt và coi đó là một chuyện nhỏ không đáng nhắc đến, những người kia sẽ có suy nghĩ như thế nào chứ? Liệu bọn họ có nghiêng về phía Lưu Cẩn không đây?

Mà càng âm hiểm hơn là nếu việc đường đường Công chúa Đại Minh, em gái của Hoàng thượng chịu trừng phạt biến thành sự thực, vậy chứng tỏ rằng lần ra ngoài vui chơi này của bọn họ là vượt ra ngoài qui định. Đến Công chúa cũng đã bị trừng phạt rồi, mình lại có thể không bị phạt được hay sao?

Vốn việc mình phong lưu háo sắc, khinh nhờn lễ chế cung đình được xây dựng dưới tiền đề là bá quan chỉ tố cáo một mình mình, nhằm mục đích mình buông dần quyền lực trong phạm vi bản thân vẫn có thể khống chế một cách có kế hoạch. Nếu bây giờ tội danh của Công chúa biến thành sự thực, như vậy quyền chủ động sẽ không còn nằm trong tay mình nữa, đến lúc đó thứ phải nhường ra có lẽ không chỉ là quyền thu thuế nữa, mà sẽ còn bao gồm cả binh quyền.

Dương Lăng không khỏi bừng bừng lửa giận, đến La Tường mà cũng dám có gan ám hại mình, thật đúng là người tốt dễ bị ức hiếp. Không cho hắn một bài học nhớ đời khiến hắn tơi bời hoa lá thì lũ tôm tép đang rục rịch muốn hành động chỉ sợ sẽ càng ngày càng nhiều. Ai mà dư thời gian để ngày ngày đi ứng phó với quỷ kế của bọn chúng chứ!

Thủ đoạn dạy dỗ mấy kẻ tiểu nhân như thế này mà Dương Lăng y lại thiếu hay sao? Không phải không có, mà là không muốn làm. La Tường đã tự đưa mình đến cửa để thử đao như vậy, cứ coi hắn như con gà dùng để dọa khỉ cũng tốt!

Dương Lăng ngẫm nghĩ xong xuôi, không khỏi cười lạnh một tiếng, gọi Tiểu Đinh Tử lại dặn dò mấy câu. Tiểu Đinh Tử nghe xong liền gật đầu lia lịa, tạm thời tránh vào căn phòng nhỏ ở ngay cạnh hành lang, còn Dương Lăng thì xoay người đi ngược trở vào.

Y biết Hoàng thượng đã dọn đến Báo Phòng, trở nên xa xôi khó gặp với rất nhiều nha môn quan lại trong cung. Vì để tránh việc lâu ngày không gặp Hoàng thượng mà bị xa lánh, mỗi ngày La Tường đều vin mấy cớ như tâu trình về việc chi tiêu cho ngự thiện và Báo Phòng để đến gặp Hoàng thượng, hỏi han ân cần một hồi.

Tập công công, tổng quản phòng Ngự thiện phục dịch Hoàng thượng, là thân tín của Miêu Quỳ, biết rõ quan hệ giữa Miêu Quỳ và y. Người này cũng theo Hoàng thượng dọn đến Báo Phòng, chuyên phụ trách vấn đề ăn uống của Hoàng thượng. Dương Lăng đi thẳng đến ngự thiện phòng gặp Tập công công, cùng hắn mưu tính bàn bạc một lúc lâu rồi mới đi tới chỗ Hoàng thượng.

Lúc này La Tường cũng đã tới, nhìn thấy Dương Lăng thì không khỏi hơi chột dạ. Tuy sau lưng hắn còn có chỗ dựa là Lưu Cẩn, nhưng thủ đoạn cùng với địa vị trước mặt Hoàng thượng của Dương Lăng hắn biết rất rõ ràng, nếu Dương Lăng biết hắn đang có ý xấu với y, hậu quả thực khó mà tưởng tượng được.

Dương Lăng liếc nhìn hắn cười tủm tỉm, giọng hết sức thản nhiên:

- La công công, lâu lắm không gặp rồi nhỉ!

Chính Đức đang ngồi vừa ăn vặt vừa xem tấu chương, thấy Dương Lăng quay trở lại thì không kìm được ngạc nhiên hỏi:

- Sao Dương khanh còn quay lại làm gì thế?

Dương Lăng mỉm cười trả lời:

- Hoàng thượng, ngày mai là sứ đoàn Nhật Bản sẽ vào kinh. Việc lựa chọn đại sứ vốn là do bộ Lễ phụ trách, nhưng nghe nói người Oa dã man, sứ đoàn vào kinh có mang theo rất nhiều võ sĩ. Năm xưa Túc Lợi Nghĩa Mãn (Ashikaga Yoshimitsu) mấy lần phái sứ đoàn đến nước ta, từng xảy ra chuyện võ sĩ Nhật Bản say rượu gây sự, chúng ta bắt lại cũng khó mà thả ra cũng khó, hết sức phiền phức. Thần nghĩ, có lẽ trong đội ngũ nghênh tiếp chúng ta nên cấy vài vị thị vệ đại nội võ công cao cường vào, một khi có kẻ gây chuyện là lập tức có thể bắt lại, đề phòng chuyện trở nên rắc rối.

Chính Đức cất tiếng khen:

- Khanh suy nghĩ chu đáo lắm, cứ làm như vậy đi! Người bên cạnh trẫm khanh thích chọn thế nào cũng được.

- Vâng!

Dương Lăng đáp lời đoạn lùi sang bên cạnh.

Y nhìn tên La Tường n cần hỏi han Hoàng thượng xem ăn uống có hợp khẩu vị không, còn cần phủ nội vụ làm thêm những món gì, rồi y chợt hờ hững chen vào một câu:

- La công công vừa nhắc đến vấn đề ăn uống, bản quan lại chợt nhớ đến chuyện này. Có một loại đồ ăn tên là lạp xưởng rất ngon, thơm mà lại giòn. La công công nên phái người chuẩn bị thường xuyên cho Hoàng thượng dùng.

Chính Đức vừa nghe thế liền nhớ lại ngay, vội vàng bảo:

- Đúng đúng đúng! Cứ làm như vậy đi, không chừng lúc nào đó trẫm lại muốn ăn đấy.

La Tường cũng biết là có loại đồ ăn vặt này, chỉ là không ngờ Hoàng thượng cũng thích ăn, liền vội vàng cung kính "vâng" một tiếng. Vì có Dương Lăng ở trong phòng nên hắn không khỏi chột dạ, cứ luôn cảm thấy thiếu tự nhiên, sau khi cười trừ mấy tiếng liền mượn cớ bận việc cáo từ lùi ra.

Sau khi ra ngoài La Tường lập tức đi tới ngự thiện phòng tỉ mỉ dặn dò lại việc mà Hoàng thượng vừa yêu cầu. Vốn dựa vào sự tin tưởng của Hoàng thượng nên hắn mới có vị trí hôm nay, đối với việc hầu hạ Hoàng thượng tất nhiên không dám sơ suất chút nào.

Vị Tập công công đó béo ục béo ịch, nhưng đầu óc lại rất nhạy bén. Việc quan viên phủ nội vụ ăn chẹt tiền của Hoàng thượng vốn đã thành lệ, thường ngày La Tường cũng chấm mút được không ít. Lúc này nghe nói Hoàng thượng muốn ăn lạp xưởng, dưới sự dụ dỗ của Tập công công, vô hình trung La Tường đã rơi vào cạm bẫy được bày sẵn cho hắn. Rốt cuộc, sau khi nghe tới số bạc có thể ăn bớt được, La Tường không khỏi cả mừng, vỗ vai Tập công công khen:

- Lão Tập này, khá lắm khá lắm! Ngày mai ta sẽ cho điều bạc tới, chuyện này quyết định như vậy đi.

Tiểu Đinh Tử vốn nấp trong căn phòng gần cổng, vừa thấy La Tường đã rời đi liền lập tức nhảy ra, chạy vụt đến tẩm cung của Hoàng thượng.

Vị tiểu thái giám này vốn có sở trường nói năng phóng đại, thêm vào đó bên cạnh còn có một gã kiếp trước chuyên nghề xúi người ta móc tiền dưỡng lão ra mua bảo hiểm như Dương Lăng, thảm trạng của hai vị Công chúa lập tức được miêu tả đến là thê thiết, khiến người nghe không thể kìm được nước mắt lã chã tuôn rơi.

Thoạt tiên Chính Đức còn cười khì khì chẳng hề để tâm. Dù sao hai vị muội muội thường ngày cũng đều ở trong cung cấm chẳng có chốn nào mà đi, muốn cấm túc mấy ngày thì cứ cấm mấy ngày, có ảnh hưởng gì đâu? Nhưng sau khi nghe nói quan viên của phủ Nội Vụ chạy đến chỗ hai vị ngự muội "ngông nghênh ngang ngược" mang đi một nửa số thị tì cung nữ, còn cắt bớt tiền chi tiêu hàng tháng, hại cho hai vị muội muội thương tâm tột độ, sắc mặt hắn đã dần dần biến đổi.

Cuối cùng khi nghe nói bây giờ sắc trời đã tối mà trong cung của ngự muội bị hạn chế số nến được thắp, nghĩ tới cảnh muội muội phải ngồi trong một tòa cung điện tối tăm u ám, đến việc dùng bữa cũng có nhiều điều bất tiện, mối tình thủ túc lập tức trào dâng, sống mũi đã cay cay từ lúc nào chẳng rõ.

Dương Lăng đứng bên cạnh thở dài, đế thêm:

- Ôi, không nhìn mặt sư thì cũng phải nhìn mặt phật chứ! Hoàng hậu nương nương muốn chấp hành quy củ trong cung chẳng qua chỉ là làm ra vẻ một chút, tránh cho các vị Hoàng phi, Công chúa khác học theo. Câu nói cắt giảm chi tiêu ấy vốn còn cần ngẫm nghĩ, cắt giảm bao nhiêu, cắt giảm thế nào, kẻ làm nô tì còn không hiểu hay sao? Phủ nội vụ lại cáo mượn oai hùm, thế này rõ ràng là biến tướng thành gây khó dễ cho Hoàng thượng. Ai bảo lần này Công chúa là do Hoàng thượng dẫn ra ngoài, chưa có sự phê chuẩn của Hoàng hậu và phủ Nội Vụ chứ?

Chính Đức nghe thế lập tức bừng bừng nổi giận, đập mạnh xuống bàn đánh "bộp" một cái, mắng lớn:

- Tên khốn La Tường này, ở trước mặt trẫm thì ngoan ngoãn như một con chó, không ngờ ở sau lưng trẫm lại ngang ngược như vậy, đến cả ngự muội của trẫm mà cũng dám ức hiếp, nội khố của trẫm lại khốn cùng đến mức ấy rồi hay sao? Bắt ngự muội trẫm phải chịu cảnh khổ sở như vậy! Uổng cho trẫm còn... còn tin tưởng hắn như thế!

Chính Đức mắng lớn không ngừng, đúng lúc ấy Tập đại tổng quản của ngự thiện phòng chợt vác cái bụng lớn tươi cười chạy vào, xoa xoa đôi tay béo núc ních đầy mỡ thưa:

- Hoàng thượng! La tổng quản vừa dặn dò rằng Hoàng thượng thích ăn lạp xưởng, nhưng nô tì không biết lúc nào thì Hoàng thượng muốn ăn. Nếu là hôm nay nô tì sẽ lập tức phái người ra ngoài quầy hàng phía trước Báo Phòng mua một ít về đây, thứ đó tuy chỉ chừng mười văn tiền một cây, nhưng lại không để lâu được. Nếu Hoàng thượng muốn ăn xúc xích do ngự thiện phòng làm, chắc còn phải đợi thêm một chút, chỉ chừng gần nửa tháng nữa là xong thôi.

- Hả? Gần nửa tháng ư? Tập công công, các vị mua ít nguyên liệu về làm mà cần phải tốn thời gian như vậy hay sao? Việc của Hoàng thượng chớ nên chậm trễ như vậy chứ!

Dương Lăng cố ý hỏi.

- Nào nô tì có dám! Dương đại nhân không biết, La tổng quản đã dặn dò rồi, cầnxây thêm một ngự thiện phòng mới để chuyên làm lạp xưởng, lại cần bố trí hai vị tổng quản và phó tổng quản rồi tìm thêm một đám đầu bếp tạp dịch, dù thế nào thì cũng phải gần nửa tháng mới xong được. La tổng quản nói ngày mai sẽ điều tạm ba vạn lượng bạc đến để chuẩn bị...

Vốn Chính Đức chẳng biết mấy về chuyện nấu nướng, cũng chẳng có khái niệm gì vật giá thị trường, nhưng vừa nghe Tập công công nói một cây xúc xích có mười văn tiền, vậy mà gã súc sinh kia lại đòi tốn những mấy vạn lượng bạc để xây dựng rồi còn tìm thêm đầu bếp. Chỉ là mấy cây xúc xích mà thôi, có cần phải lãng phí như vậy hay không chứ? Đây rõ ràng là tham ô một cách trắng trợn!

Chính Đức nghe xong thì đùng đùng nổi giận, tiện tay cầm cái chặn giấy trên bàn quăng mạnh xuống đất, một khối ngọc đẹp cứ như thế vỡ tan thành từng mảnh vụn. Hoàng đế nhà ta trợn trừng mắt gầm lên:

- Hay cho tên La Tường, đúng là giỏi lắm! Truyền chỉ! Truyền chỉ! Lập tức cách chức tổng quản phủ nội vụ của của La Tường, điều tra triệt để tất cả sổ sách phủ nội vụ. Cái tên... cái tên khốn này, trẫm sẽ phong cho hắn chức đại sứ lạp xưởng, sau này chỉ chuyên đảm nhận việc chạy ra quán cơm trước cửa mua lạp xưởng về cho trẫm thôi!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 236: Khởi Vận trở về

Ý chỉ Hoàng hậu trừng phạt hai vị công chúa vừa được truyền khắp hậu cung, đám công chúa, phi tần, thái giám và cung nữ trông thấy lầu gác trong cung điện của công chúa Vĩnh Thuần và Vĩnh Phúc đèn đóm ảm đạm, có kẻ lắc đầu thở dài, có kẻ hả hê vui sướng. Nhưng chẳng mấy chốc, một ý chỉ khác của Hoàng thượng lại được truyền tới, phủ công chúa lại rực rỡ sáng trưng, mọi chi tiêu bị cắt giảm và thị tì bị rút đi đều được trả lại, còn đại tổng quản La Tường của phủ Nội vụ thì bị người của thống lĩnh thân quân Hoàng đế là Dương Lăng bắt đi, cách chức để điều tra.

Không ai nghĩ ra được Dương Lăng đã dùng cách nào mà phản kích nhanh như vậy. Nhưng khắp trên dưới hậu cung đều biết rằng hai vị công chúa và Uy Vũ hầu gia của ngoại đình qua lại thân mật, mà Uy Vũ hầu gia là tâm phúc số một của Hoàng thượng. Vì vậy trong trận đấu này, Hoàng hậu đã thua.

Sai người tức tốc vào cung truyền chỉ xong, Chính Đức vẫn chưa nén được giận, hắn căm hận mắng tiếp:

- Đồ khốn kiếp! Ngự muội của trẫm muốn dùng mấy ngọn nến đều phải đếm lên đếm xuống, vậy mà mấy vạn lượng bạc hắn nói tham ô là cứ tham ô, uổng cho trẫm luôn coi hắn là người tốt.

Dương Lăng vội khuyên nhủ:

- Hoàng thượng! Ngài cũng không cần phải quá tức giận. Hai vị công chúa bị nhốt trong cung nhiều năm, nỗi buồn khổ ấy Hoàng thượng ngài là người hiểu rõ nhất. Hoàng thượng thương cảm công chúa, dẫn các ngài ra ngoài giải khuây vốn là có ý tốt, cũng do thần không để ý đến những lễ nghi rườm rà dẫn đến việc vi phạm luật lệ trong cung...

Chính Đức vẫn chưa hết giận, khoát tay bảo:

- Chuyện này không can hệ gì tới khanh, chính là Hoàng hậu muốn làm trẫm bị mất mặt thôi. Cũng tốt, không làm vậy thì trẫm đã không nhìn thấy được lòng muông dạ thú của La Tường!

Dương Lăng thừa dịp vội thưa:

- Hoàng thượng! Hoàng hậu nương nương mới vừa hạ ý chỉ liền bị bác bỏ như vậy, mặt mũi nhất định sẽ rất khó coi. Nương nương là bậc mẫu nghi thiên hạ, là chủ nhân của sáu cung nên cũng không thể khiến Hoàng hậu nương nương bị khó xử được. Lúc thần cung thỉnh hai vị công chúa, vì ngại Hoàng thượng phải đợi lâu, đằng trước cổng cung lại đông mệnh phụ, trong lúc lo vội nên thần đã sơ sót chưa kịp xin phép nương nương, chung quy vẫn là lỗi ở thần.

Vả lại, mấy ngày nay tấu chương tố cáo thần cũng không ít, hai vị đại nhân Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng bị mất chức, số người bất mãn trong quần thần nhất định rất nhiều. Chi bằng Hoàng thượng hạ chỉ trách phạt vi thần, một là giữ được thể diện cho nương nương, hai là có thể dẹp yên cơn giận của quần thần một chút, ba...

Chính Đức vừa nghe liền nổi ngạo khí, trợn mắt bảo:

- Đâu lại có lý lẽ như vậy! Trẫm đưa ngự muội ra ngoài du ngoạn, cô ta làm khó trẫm mà trẫm lại phải cẩn thận bồi thường ư? Phạt cái gì mà phạt?! Trẫm sẽ không phạt, ngược lại trẫm muốn xem coi ai dám động vào khanh!

Dương Lăng vội khuyên:

- Hoàng thượng, ngài đã quên rồi sao? Đợi khi tổng binh tứ trấn dẫn quân vào kinh, thần còn phải theo hoàng thượng diễn võ luyện binh nữa đó! Hoàng thượng tín nhiệm vi thần, giao phó cho thần rất nhiều chức vụ, nhưng như vậy một khi công việc bộn bề khó tránh sẽ xuất hiện sai lầm, vậy chẳng phải sẽ phụ lòng tín nhiệm của Hoàng thượng, khiến người ngoài nhìn thấy mà chê cười sao? Ý của thần là... giao ti Thuế Giám ra, để Bộ Hộ và ti Lễ Giám cùng cai quản, điều thứ ba đó... là để thần mới có thể theo Hoàng thượng luyện binh, phò tá Hoàng thượng hoàn thành bá nghiệp chứ.

Nghe y nói xong, Chính Đức chuyển giận thành mừng, bảo:

- Nói đúng lắm! Ta thực quên mất. Nếu để Dương khanh bận tâm đủ chuyện thì sẽ không có thời gian giúp trẫm luyện binh. Nhưng mà... ti Thuế Giám vốn thuộc sự quản hạt của ti Lễ Giám, trước đây vì lão thất phu Vương Nhạc lừa trên gạt dưới, trẫm không yên tâm mới chuyển giao cho khanh, nay cớ gì cần có Bộ Hộ nhúng tay vào, chẳng lẽ Lưu Cẩn cũng không đáng tin sao? Ái khanh có điều không biết, mỗi lần trẫm đòi tiền ở chỗ Hàn Văn, lão ấy lúc nào cũng than nghèo tố khổ với trẫm, trẫm thật không muốn để ý tới lão ấy.

Lúc này vẫn chưa phải là thời cơ để lật đổ Lưu Cẩn, từ chuyện Chính Đức xử lý Cốc Đại Dụng là có thể thấy ngay. Mối họa mà Cốc Đại Dụng gây nên còn lớn gấp mười lần La Tường mà chẳng phải tiểu hoàng thượng còn muốn che chở lão ta sao? Vị hoàng đế này trọng tình hơn là trọng lý, trừ khi anh làm tổn thương đến người thân thiết và tin cậy nhất của hắn, phản bội sự tín nhiệm của hắn, bằng không với tính tình của hắn, cho dù anh có phạm phải tội lỗi tày trời hắn cũng sẽ gánh vác thay cho anh.

Biết rõ điểm này, Dương Lăng bèn nghiêm mặt đáp:

- Thần không dám cam đoan cho mai sau, nhưng có thể khẳng định rằng hiện tại Lưu công công hết dạ trung thành làm việc cho Hoàng thượng. Thần có gì mà không tin ông ấy chứ? Thần làm vậy là để đôi bên cân bằng và kềm chế lẫn nhau, phòng tai họa mai sau thôi.

Cái gốc của việc trị nước nằm ở chỗ pháp luật công bằng, chế độ nghiêm minh, chính sách rõ ràng, cân bằng chu đáo. Thần hi vọng Hoàng thượng làm vậy, không phải là vì Lưu công công không đáng tin, mà do cần tính toán cho lâu dài mai sau mà hình thành chế độ kềm chế nhau. Như vậy mai sau sẽ không xảy ra chuyện lỡ việc do người, cũng không sợ có kẻ dối gạt Hoàng thượng, lại xuất hiện những kẻ như La Tường vậy.

Rồi y mỉm cười nói tiếp:

- Cứ lấy thần ra làm ví dụ, Hoàng thượng ăn thịt, thần cũng muốn húp được chút canh. Chúng thần phò tá Hoàng thượng đến lúc đầu bạc chân run, có con, có cả cháu rồi, không chừng cũng sẽ nảy lòng tham, không chừng cũng sẽ ăn chặn tiền bạc của Hoàng thượng, xà xẻo trên người Hoàng thượng. Nhưng nếu như có một đám người cứ nhìn thần trừng trừng, lúc nào cũng chuẩn bị tố cáo với Hoàng thượng thì thần làm sao còn dám làm bậy chứ?

Chính Đức bị y chọc cười, cười nói:

- Đừng làm ra vẻ đáng thương với trẫm, con của khanh cũng là con nuôi của trẫm đó, còn lo nó sẽ chịu uất ức hay sao? Ừm... Có điều khanh nói vậy cũng có lý, Bộ Hộ của ngoại đình và ti Lễ Giám của nội đình giám sát lẫn nhau, thuế khoá của thiên hạ sẽ không chảy vào túi của riêng ai, sau này có giao công việc này cho người khác, khi trao lại giang sơn này cho con cháu cũng sẽ không sợ có kẻ thủ lợi từ trong ấy. Cứ làm như vậy đi, ngày mai giao cho nội các thương nghị, xem thử quyền bính này phân chia như thế nào. Có điều...

Chính Đức áy náy nhìn Dương Lăng, rồi vỗ vai y an ủi:

- Có điều ái khanh chịu tội thay trẫm. Ôi! Thật uất ức cho khanh rồi.

*****

Dương Lăng và Tiêu Phương ngồi cùng xe ngựa đi đến Ngọ môn.

Sắc trời chưa sáng, xuân lạnh se sắt. Chiếc xe được chăm sóc cực tốt, trục xe chỉ hơi phát ra tiếng cút kít, đi trên con đường rộng lớn và bằng phẳng của kinh sư không hề bị xóc nảy.

Tiêu Phương vận chiếc quan bào màu đỏ thắm, ngồi trên chiếc đệm lót mềm, vân vê chòm râu:

- Đại nhân! Hôm qua môn hạ cũng không được ngủ ngon, tuy rằng rất nhiều việc hiện vẫn đang trong giai đoạn bàn bạc, nhưng có quá nhiều việc cần làm, tỉ như việc giao dịch thông thương cùng Đoá Nhan Tam Vệ, nuôi ngựa, tiếp đãi sứ giả Nhật Bản, chọn người thương nghị cùng sứ giả. Ngoài ra, những việc như vạch kế hoạch thành lập thủy quân, ti Thị bạc và hải quan, chọn người phụ trách cùng với những việc như thiết lập nha môn, xây dựng xưởng thuyền, vân vân..., đại nhân giao gửi xuống, môn hạ chỉ lo chỗ nào đó có sơ suất, cho nên không dám qua loa chút nào.

Dương Lăng đã thấy vẻ mệt mỏi trên mặt lão, trong mắt lão cũng đã hơi đo đỏ do thiếu ngủ, nghe xong bèn khuyên nhủ:

- Các lão phải biết bắt lớn thả nhỏ, lấy nặng bỏ nhẹ. Ôm đồm tất cả mọi việc là bầy tôi hiền, nhưng tuyệt không phải là bầy tôi tài giỏi. Nếu muốn thúc đẩy chính sách này của chúng ta, để quan viên địa phương đừng đi lạc hướng, thì phải dựa vào một đám quan viên đáng tin cậy.

Dương Lăng khẽ liếc Tiêu Phương, mỉm cười nói:

- Nghiêm Tung có chính tích xuất sắc, sớm nên được thăng chuyển. Lần này dâng sớ lập thêm công to, nhưng Các lão lại vẫn không trọng dụng hắn. Ha ha... phải chăng bởi hắn là người Giang Tây?

Tay Tiêu Phương chợt cứng đờ, khuôn mặt già nua đỏ lên, lão ấp úng:

- Đại nhân, môn hạ...

Dương Lăng vỗ nhẹ lên tay lão, khuyên giải:

- Bản quan cũng có nghe chuyện hoạn lộ của Các lão ba chìm bảy nổi, uất ức lâu năm. Phương nam vốn đông tài tử, kẻ làm quan cũng rất nhiều, đúng lúc gặp phải mấy đại thần đố kị kẻ hiền tài, thích chọn dùng người đồng hương, cũng khó trách Các lão căm phẫn. Nhưng Các lão đã trải nghiệm sâu sắc sự việc tai hại ấy, cớ gì hôm nay quyền cao chức trọng lại cũng làm giống những kẻ mà mình khinh thường và căm hận năm xưa?

Đoạn y mỉm cười nói tiếp:

- Các lão là tể tướng đương triều, thì nên mang lòng dạ của tể tướng. Nay chính là lúc dùng người, đừng nói Nghiêm Tung là người của chúng ta, cho dù không phải đi chăng nữa, chỉ cần hắn hết lòng vì nước, một lòng vì dân, nghiêm túc chấp hành nghiệp lớn của chúng ta, thì Các lão cũng nên trọng dụng hắn.

Y dừng lại, thoáng trầm ngâm, rồi nói tiếp:

- Theo ý bản quan, việc xây dựng xưởng thuyền và thủy quân có thể mạnh dạn giao cho bộ Công, bộ Binh và ti Nam trấn phủ phụ trách, chỉ cần chọn lấy một người đáng tin cậy làm thượng thư bộ Binh. Còn việc chọn chỗ, dùng người, thiết lập nha môn quan lại, đặt ra điều lệ quy định này nọ, Các lão hoàn toàn có thể buông tay, chỉ cần nắm lấy đại cục là được, bằng không sẽ tự khiến mình mệt đến thổ huyết thôi. Cho dù là kế hoạch được vạch ra cẩn thận đến đâu, nếu không có quan lại tài giỏi thúc đẩy thì cũng khó mà làm đến nơi đến chốn.

Y tự tin mười phần:

- Xưởng thuyền Tùng Hoa Giang liền kề rừng rậm nguyên sinh, xưởng thuyền Kim Lăng đã trồng nghìn mẫu cây to hơn trăm tuổi, hai nơi ấy đều có thể sử dụng vật liệu tại chỗ. Còn khung thuyền cỡ lớn cho xưởng thuyền Tuyền Châu có thể sẽ cần phải vận chuyển từ phương bắc về. Những việc này cứ giao cho bộ Công đi làm, Các lão cũng không cần lo lắng.

Dương Lăng có thể định liệu trước như vậy là vì y đã xem qua bản đồ hàng hải của Trịnh Hoà mà Lưu Đại Bổng Chùy lục được từ kho vũ khí của bộ Binh.

Ban đầu y tưởng rằng bản đồ hàng hải của Trịnh Hoà chỉ là mấy tấm giấy ghi lại những tuyến đường biển đi đến Tây Dương mà thôi, nào ngờ tài liệu mà Lưu Đại Bổng Chùy tìm được từ bộ Binh lại chứa đầy trong chín rương to. Sau khi xem xong tư liệu trong mấy cái rương đó, Dương Lăng mới biết rằng Lưu Đại Bổng Chùy đã đào được một núi vàng đem về.

Ban đầu y đã suy nghĩ quá đơn giản về việc xây dựng thủy quân, hơn nữa còn hăng hái một cách hồ đồ. Nếu không nhìn thấy những tài liệu này, không hiểu biết được về kết cấu công năng của từng chiến hạm và chiến đội phối hợp, thì có thể thấy trước được rằng cái gọi là thủy quân của y một khi tạo thành sẽ phải đổ biết bao xương máu và thậm chí là có nguy cơ dẫn đến toàn quân bị diệt mới có thể trưởng thành và hoàn thiện.

Trong chín cái rương đó, ngoại trừ bản đồ những tuyến đường hàng hải, tài liệu trân quý về điều kiện tập quán, chính trị và khu vực của các quốc gia dọc đường, còn có cách chế tạo các loại bảo thuyền (*), thuyền đô đốc, thuyền chở ngựa, thuyền chở lương thực, chiến thuyền, thuyền canh gác, thuyền truyền lệnh cho cả một hạm đội tàu chiến khổng lồ có các công năng chỉ huy, chiến đấu, cấp dưỡng lẫn vận chuyển. Ngoài ra còn có các bản vẽ chi tiết cho các loại khí giới cho thủy chiến và lục chiến, cùng với các kiều phối hợp bộ đội tác chiến và phương thức liên lạc thông tin ban ngày lẫn ban đêm khi tác chiến trên biển.

(*):宝船 [bǎo chuán]: loại thuyền buồm lớn nhất trong hạm đội vượt biển của Trịnh Hòa.

Hiện tại không những Đại Minh không có nhân tài toàn năng để có thể chế tạo một hạm đội tàu chiến đủ các loại công năng, và cũng không có một tướng lĩnh thủy quân hiểu rành mạch toàn bộ các loại tàu chiến mà hạm đội cần để ra khơi tác chiến. Song thông qua những bản vẽ về các loại tổ chức hạm đội và trang bị, một tướng lĩnh chỉ huy có kinh nghiệm sẽ có thể dễ dàng đoán ra tác dụng của chúng, và có thể mau chóng nắm bắt kinh nghiệm tác chiến ngoài khơi đã được tích lũy một cách phong phú. Nếu như hết thảy những thứ này phải bắt đầu từ con số không tròn trĩnh, phải học từ đầu, thì phải bỏ ra biết bao xương máu mới có thể tích lũy được những kinh nghiệm và tri thức như thế này?

Thế nên Dương Lăng thực vui mừng quá đỗi. Trong những tài liệu này thật sự có quá nhiều những kỹ thuật mà chỉ cần thay đổi một chút là có thể sử dụng được. Vốn dĩ y đã đánh giá thấp tính phức tạp trong việc xây dựng thủy quân. Sau khi xem xong kỹ lưỡng những tài liệu này y mới biết rằng nếu không có những tấm bản vẽ, sơ đồ hàng hải này, thì việc chế tạo từ đầu một đội thủy quân có thể ra khơi tác chiến và huấn luyện những nhân viên thích hợp sao cho kỹ thuật, thông tin và chỉ huy hàng hải cùng với việc tạo đội hình chiến thuật đạt tới mức độ khoa học sẽ phải cần tới ít nhất cả chục năm mò mẫm mới có thể hoàn thiện.

Điều mà y không biết là, vào trăm năm trước những kỹ thuật này đã đi trước thế giới bảy tám mươi năm, cho dù hiện tại đem ra sử dụng y nguyên, tuy không dám nói là tiên tiến hơn, nhưng quyết không lạc hậu hơn so với thế giới. Có được những tấm bản đồ bị "đánh mất" này sẽ tiết kiệm được cho Đại Minh ít nhất mấy nghìn vạn lạng bạc trắng. Hiện Dương Lăng đang tập trung bộ Công, cục Quân Khí cũng như một số nhân viên Nội xưởng tham gia vào việc sửa sang, phân loại sổ sách đồng thời sao chép lại từ đầu.

Nhờ có những tài liệu đầy đủ và chi tiết này, Dương Lăng mới tự tin nói chuyện với Tiêu Phương như vậy.

Y suy nghĩ một chút, rồi nói:

- Các lão nên nhớ kỹ rằng, ngài chỉ cần nắm chắc ba chuyện, hơn nữa tuyệt đối không được buông tay: một là nhân sự cho thủy quân, ti Thị Bạc, ti Thuế Giám, hải quan, và nha môn buôn bán; nhất thiết phải có người chúng ta tin tưởng được, dùng được và đứng vững được!

Hai là về ti Thuế Giám. Trách nhiệm thiết lập quy định thuế khoá, luật về thuế, các loại thuế, giám sát thu thuế nhất định phải giao cho bộ Hộ, còn việc thu thuế và nộp thuế thì giao cho ti Lễ Giám; việc xử lí tố tụng trong giao dịch, hàng hải và thu thuế thì giao cho bộ Hình. Ba bộ phận này sẽ kiềm chế lẫn nhau, quyền hạn cân bằng.

Thứ ba, đối với thuế giao dịch. Có thể áp theo hạn ngạch giao dịch, số lượng giao dịch và sản phẩm đặc thù của từng vùng hoặc có quan hệ đến quốc kế dân sinh mà phân định ra một phần do quan phủ nơi đó trưng thu sử dụng trực tiếp mà không cần phải nộp lên triều đình rồi mới phân phát trở lại. Một là tránh khỏi sự phiền phức trong việc thu nạp và vận chuyển; hai là có thể đạt được sự ủng hộ và yêu thích của quan viên vùng ấy, để bọn họ tận sức mà làm, tránh cho quan phủ địa phương bằng mặt mà không bằng lòng; ba là thông qua việc chia tách trưng thu thuế khoá cho các loại hàng hoá khác nhau mà dẫn lối cho quan phủ địa phương phát triển hàng hoá sản phẩm tương ứng, do đó việc thực thi chính sách tại nơi ấy đều sẽ phát sinh ảnh hưởng tương đối.

Làm được việc này, sẽ nắm được toàn cuộc, nắm được bánh lái con thuyền. Nắm được bánh lái con thuyền, thì mặc sóng to gió lớn, thuyền cũng sẽ khó mà chệch hướng.

Tiêu Phương nghe mà tinh thần chấn động, trong lòng rất đỗi ngạc nhiên. Có lúc vị Dương đại nhân này trên quan trường hết sức ấu trĩ, có những cạm bẫy mà chỉ cần lăn lộn trên quan trường vài năm liền thấy được lợi-hại, thiệt-hơn, thậm chí có thể nhận thấy bẫy rập rất rõ ràng, song vị đại nhân này lại hết sức ngây thơ; nếu không nhờ Hoàng thượng không bớt tin yêu, thì y sớm đã bị người ta hại đến ngóc đầu lên không nổi. Nhưng có lúc chính kiến, tính toán mà y thuận miệng nói ra lại có tầm nhìn rất xa, nói trúng trọng tâm, chú ý đến rất nhiều khía cạnh, suy xét tỉ mỉ không chút sơ hở, ngay cả bầy tôi lâu năm như lão cũng tự thẹn không bằng.

Tiêu Phương liên tục gật đầu khen phải. Không lâu sau xe đến ngự đạo, Dương Lăng xuống kiệu, cưỡi ngựa rồi cùng đi đến trước cổng Ngọ môn. Trước cổng Ngọ môn đã có không ít quan viên đang đứng tụm ba tụm bảy nói chuyện trên trời dưới đất trong lúc chờ vào chầu.

Trời vừa tờ mờ sáng, không biết ai nhanh nhẩu thạo tin đã nghe nói đêm qua trong cung Hoàng hậu nương nương vì rung cây nhát khỉ, sai khiến La Tường trong nhóm Bát hổ chế tài hai vị công chúa, Dương Lăng phản kích lột bỏ chức vụ của La Tường, nhưng bản thân cũng không ngăn nổi nội đình và ngoại đình đồng thanh chỉ trích, bất đắc dĩ đành giao trả đại quyền khống chế thuế khoá của thiên hạ.

Tin tức lập tức được rất nhiều quan viên nhanh chóng truyền bá ra ngoài. Việc này khiến cho đám quan viên đang ủ rũ bởi hai vị thượng thư bị miễn chức cũng như quốc sách mở biển thông thương được thi hành đã trở nên phấn khởi, cực kì sảng khoái trong lòng.

Thế nhưng ngay cả nguyên lão bốn đời như Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng cũng đều bị bãi quan miễn chức cho nên bọn họ ít nhiều cũng kiêng kị, trông thấy Dương Lăng cưỡi ngựa tới, Tiêu Các lão cũng từ trong kiệu bước ra, bọn họ bất giác thu lại vẻ tươi cười, âm thanh trò chuyện cũng nhỏ đi.

Hôm nay Dương Lăng vào triều là để đi cùng Thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ ra ngoài thành nghênh tiếp sứ thần quốc vương Nhật Bản, cho nên y cũng đến rất sớm. Dương Lăng phát hiện ra rằng quan viên sĩ tử Đại Minh đều có một tâm lý hết sức lạ lùng, một mặt bọn họ tự cho mình là thiên triều thượng quốc, bốn rợ (gọi chung Nhung Di Man Địch - ND) đều là dân tộc biên hoang, nhỏ bé và thấp hèn trước mặt thiên triều, như thể vốn không đáng để được xem trọng, thế nhưng bọn họ lại đối đãi phiên bang đến triều cống hết sức lễ phép: bất kể là chỗ ở, ăn uống, hay lễ vật biếu tặng đều gấp mười lần số triều cống, nhằm biểu thị sự giàu sang sung túc và đại nghĩa của thiên triều.

Bọn họ thà chịu vì chuyện sứ giả phiên bang nên quỳ hai gối hay một gối mà tranh luận đến đỏ mặt tía tai, quyết không nhượng bộ, nhưng lại ngại không muốn so đo với những yêu sách của sứ giả đòi tăng quà biếu lên đến mấy lần.

Khi lật xem tiền lệ tiếp đãi sứ giả các nước An Nam, Lưu Cầu và Cao Ly và thấy thái độ ngoại giao của những nước này đối với Đại Minh "thực dụng" như vậy, Dương Lăng thật sự nghĩ nát óc cũng không biết bọn họ đã suy nghĩ như thế nào, bèn vịn cớ rằng do sau này dân chúng được tự do buôn bán giữa các nước, phái đoàn sứ giả mai kia đến viếng ắt hẳn là vì mục đích mậu dịch thương mại. Nếu đã không phải là kỳ hẹn triều cống do Đại Minh quy định, nhân số sứ giả không theo quy định triều cống, vậy hết thảy không thể lấy lễ quốc khách mà tiếp đãi.

Vương Hoa cũng không phải là kẻ ngu dốt hủ lậu, cũng biết rằng một khi Dương Lăng trình kiến nghị lên ắt sẽ được Hoàng thượng chấp thuận, bèn sảng khoái đồng ý. Có điều vì để có chứng cứ khi tra xét, lão vẫn lấy danh nghĩa bộ Lễ dâng sớ lên cho Hoàng thượng.

Đến trước cổng cung, trông thấy Vương Hoa đang đứng ở một góc trò chuyện cùng mấy vị đại thần, Dương Lăng vừa định bước sang chợt thấy tình hình bỗng dưng khác thường. Quan viên đứng rải rác khắp nơi đều cảm nhận thấy không khí chợt nhiên yên tĩnh lại, ánh mắt đồng loạt hướng về một phía.

Dương Lăng chăm chú nhìn theo. Y thấy một lão già áo vải tóc bạc, thân thể cường tráng hiên ngang bước về phía Ngọ Môn.

Trong đám quan viên đang đứng bên cạnh to nhỏ thì thầm có người khẽ thốt:

- Là Thượng thư bộ Binh Lưu đại nhân.

- Ông ấy vẫn chưa rời kinh ư? Chẳng phải nghe nói Hoàng thượng hạ chiếu rất nhanh, bộ Lễ đã đặt lệnh ban ơn, hôm qua đã sai sở Dịch thừa đưa về quê nhà rồi sao?

- Xì! Biết ngay là ông không đi đưa tiễn rồi. Đó là Mã đại nhân. Mã đại nhân tuổi đã bát tuần, vốn không được khỏe, mấy ngày nay phiền muộn mà sinh bệnh. Nghe nói lúc đến trường đình nghỉ chân cũng không xuống xe, chỉ trò chuyện với mấy người bạn tri giao vài câu qua rèm rồi giũ áo đi luôn. Than ôi, thượng thư đứng đầu lục bộ đó, chậc chậc chậc!

- Cũng phải, với phẩm trật và chức hàm này của tôi, hơn nữa lại không phải là quan viên do Mã đại nhân đề bạt, tôi đi làm gì, có đi người ta cũng sẽ chẳng thèm để ý tới tôi. Ôi! Nói vậy ông có đi à?

- Tôi...., suỵt! Lưu đại nhân tới rồi, đừng ồn ào, có trò hay xem đây! Không chừng lão đại nhân sẽ cùng Dương đại nhân... hừm hừm...

Quần thần rầm rì bàn tán.

Dương Lăng chăm chú nhìn Lưu Đại Hạ. Ông lão này vận áo vải, chân mang đôi giày mũi tròn đế vải, râu tóc bạc trắng, mặc cho hai bên có không ít đồng liêu hảo hữu gật đầu chào hỏi, ân cần hỏi thăm, lão vẫn chăm chăm nhìn thẳng, không nói lời nào.

Lão rảo bước tới trước cổng cung, nheo mắt ngẩng đầu nhìn lên, cung điện nguy nga, tường cung lầu điện nối nhau san sát, một tia nắng sớm vén mây hiện ra, rọi lên bức tường và nóc cổng cung điện màu đỏ ở phía trước. Ngói lưu ly vàng, bình phong và đầu thú bằng đồng lấp lánh ánh vàng rực rỡ dưới ánh mặt trời ban mai, huy hoàng chói lọi.

Lưu Đại Hạ sụp người quỳ xuống, vái lạy trước cổng cung to lớn, đầu chậm chạp chạm xuống bụi đất...

Thực hiện xong đại lễ ba quỳ chín lạy, Lưu Đại Hạ chợt trào lệ, khóc không ra tiếng:

- Tiên hoàng...

Quỳ sấp người nức nở hồi lâu, Lưu Đại Hạ mới cất cao giọng:

- Tình cảm và ơn nghĩa của tiên đế to lớn biết dường nào, lão thần có dốc hết mạng này cũng khó mà báo đáp một phần. Sao mà trời không toại lòng người, tiên hoàng ơi...

Rồi lão gạt lệ đứng lên, cung tay nói:

- Các vị đồng liêu! Lão phu tiết tháo trung trinh, người và trời cùng chứng giám, mà sao nay không đường báo quốc? Lão phu nay chỉ là một kẻ áo vải mà thôi, nhưng một kẻ áo vải vẫn có thể nói có đầu có đuôi, làm tới nơi tới chốn, nghèo hèn không đổi thay, vinh nhục không sợ hãi. Các vị đồng liêu hãy tự giải quyết cho ổn thỏa, lão phu đi đây!

Lưu Đại Hạ vái chào một vòng, quắc mắt nhìn Dương Lăng, mày ngài xếch ngược, chợt nạt lớn:

- Mọt nước sâu dân, đất trời không dung thứ. Thiện ác đều có quả báo, nhân quả tuần hoàn, lão phu sẽ mở to hai mắt xem ông trời trừng trị ngươi như thế nào!

Dương Lăng nghe vậy chỉ biết cười gượng gạo. Mọi việc làm, hành động lẫn suy nghĩ của ông lão ở trước mặt y đây thật khiến người ta không biết nên khóc hay nên cười. Nhưng thái độ và tính cách của lão lại khiến người ta hết sức tôn kính. Mưu tính sâu xa khổ sở của mình, lão ấy hiểu được sao?

Cái sách lược chính trị của mình mà trong mắt lão ấy là đại nghịch bất đạo, hại nước hại dân ấy, có lẽ phải mất rất nhiều năm sau mới có thể nhận được sự nhất trí công nhận của dân chúng Đại Minh. Có lẽ suốt cuộc đời này, trong mắt Lưu Đại Hạ, cụ già đáng nhận được sự tôn kính tự đáy lòng của mình song lại bất đắc dĩ bị mình trục xuất khỏi triều đình để ngăn trở hành vi ngu xuẩn của lão, mình sẽ mãi là một tên nịnh thần lộng quyền.

Ánh nắng rắc lên người Dương Lăng, sắc mặt của y vẫn điềm đạm nhưng trong lòng lại hơi hiu quạnh. Y khẽ cụp đôi mi không nhìn thẳng vào lão, chỉ khẽ đáp lại:

- Độ hết chúng sinh, mới chứng cõi Phật. Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật. Thiên đường, không đi cũng được! Lưu đại nhân, dụng tâm sâu xa của bản quan, thật sự khó lòng bộc bạch trước mặt đại nhân... Ôi! Đại nhân đi đường bảo trọng.

Dương Lăng chậm rãi chắp tay vái thật sâu, thật lâu sau mới thẳng lưng lại. Trước mặt y trống trơn, chung quanh bá quan thinh lặng, Lưu Đại Hạ đã giũ áo bỏ đi.

Gió mát thong thả tiễn đưa, tiếng chuông Cảnh Dương khoan thai vọng lại...

*****

Dương Lăng và Vương Hoa ngồi trong trường đình chờ đoàn sứ giả. Tuy có kẻ cho rằng nghi thức nghênh tiếp như thế này quá long trọng, nhưng xét thấy sứ giả là đại biểu cho quốc vương của một nước, vả lại lần triều cống này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Chính Đức. Từ khi hắn chính thức kế vị đến nay đã một quốc gia từ lâu không thần phục nay đến triều cống trở lại, thừa nhận địa vị mẫu quốc của thiên triều; đây chính là thành tích chính trị trọng đại của hoàng đế Chính Đức, khó trách hắn rất đỗi hài lòng và coi trọng.

Thám mã hồi báo rằng phái đoàn sứ giả đã đến ngoài hai mươi dặm, Dương Lăng vung tay bảo lui, cười nói với Vương Hoa:

- Thượng thư đại nhân, đại sứ của Nhật Bản đã sắp tới rồi. Lần này nhờ thượng thư đại nhân hết sức chống đỡ mà việc dỡ bỏ cấm biển mới có thành quả ngày hôm nay. Dương mỗ thật phải cảm tạ ngài.

Vương Hoa cười đáp:

- Dương đại nhân chớ nên khách sáo. Lão phu nhà ở Giang Nam, biết rõ tuy triều đình cấm biển cả trăm năm nay, nhưng thế gia vọng tộc hai tỉnh Chiết-Mân cùng Nhật bản đã buôn bán qua lại từ rất lâu. Sau khi triều đình ngưng việc cấp phép mậu dịch, nạn buôn lậu ở dân gian càng hoành hành thêm tợn, cấm biển sớm đã không còn giá trị gì, ngược lại chỉ khiến cho lượng lớn thuế khoá triều đình rơi vào tay các gia tộc phú hào địa phương mà thôi.

Vương Hoa thở dài nói tiếp:

- Chỉ có điều... Vương mỗ tự biết một cây làm chẳng nên non, không cách nào xoay chuyển được lệnh cấm; chỉ mong có ngày thời thế thay đổi, phát triển để triều đình có thể hưởng ứng ý dân mà dỡ bỏ cấm biển. Không ngờ đại nhân lại có sự kiên quyết như vậy, lão phu đương nhiên dốc sức giúp đỡ.

Dương Lăng biết vị Vương học sĩ này mặc dù bác học đa tài nhưng tính tình đạm bạc, có phần an phận. Tuy nhiên những điều ông nói cũng là sự thật, nếu không phải vì mình phải giở ra muôn vàn thủ đoạn, mà để cho một vị "quân tử thanh cao" như ông đi đầu đề xuớng bỏ cấm mở biển, thì mười phần hết chín sẽ không thành công, không khéo lại sẽ giống như Hoàng Kỳ Dận năm xưa, bị giai cấp thống trị hiện tại vứt bỏ.

Vương Hoa mỉm cười:

- Những nhu yếu phẩm mà Nhật Bản cần đều phần lớn được sản xuất từ triều ta. Tỉ như đồ gốm ở Nhiêu Châu, bông tơ ở Hồ Châu, mũ ô sa ở Chương Châu, vải bông ở Tùng Giang, cùng với sách vở, tiền đồng, tranh chữ, buôn tới Nhật Bản thu được lãi lớn, so với giao dịch cùng Lữ Tống(*) phải cao hơn gấp bội, quả thật là chuyện tốt cho nước cho dân.

(*): Đảo lớn thuộc quần đảo Philippin. Xưa, người Trung quốc gọi Lũ Tống thay cho Philippin.

Vì để chuẩn bị cho việc mở biển, không biết Dương Lăng đã thực hiện biết bao cuộc điều tra và chuẩn bị, cho nên y rất tường tận những chuyện này. Nghe vậy y bèn cười đáp:

- Đúng vậy! Nhật Bản chỉ có lác đác mấy loại hàng hoá như đao, kiếm, lưu huỳnh và quạt giấy để giao dịch với Đại Minh ta, còn lại đều chỉ có thể dùng bạc mà đổi lấy. Triều ta thiếu hụt bạc trắng, lượng lớn vàng ròng bạc trắng mà Nhật Bản sản xuất sẽ có thể vì vậy mà chảy vào triều ta, làm dịu nhu cầu dùng bạc của dân chúng. Hơn nữa vàng thật và bạc trắng tự có giá trị của nó, có thể lưu hành khắp thiên hạ, hết sức có ích trong việc tích góp sức nước cho triều ta đấy.

Hai người nói chuyện hết sức hợp, sau khoảng hai nén nhang mới trông thấy một đội nhân mã thong dong đi tới. Thấy thế, Dương Lăng nhíu mày:

- Người đưa tin của bản quan không nói cho bọn họ là thượng thư Bộ Lễ và bản quan nghênh tiếp ở đây hay sao? Sao lại chậm trễ như vậy?

Vương Hoa liếc đội kị mã hơn sáu chục người trước mắt, mỉm cười:

- Bọn lùn vẫn luôn tự cao tự đại, tự coi mình là cao quý, xưa nay đều vậy. Hơn nữa còn hết sức hám lợi, tâm cơ xảo quyệt, chớ cho bọn chúng cậy nhờ triều ta nên từ xa đến để triều cống; đến dưới chân thiên tử rồi mà bọn chúng vẫn còn muốn ra vẻ ngạo mạn đấy.

Đám người Nhật Bản ra vẻ cao quý, cố ý đi thật chậm rãi, Dương Lăng và Vương Hoa cũng không đứng dậy thu xếp đội nghi trượng chuẩn bị nghênh đón mà vẫn ngồi đó trò chuyện cười đùa. Vương Hoa liếc đội kị mã, hậm hực:

- Ắt vì triều ta thiếu hụt thuỷ quân, để giặc lùn hoành hành trên biển khiến ta bó tay chịu thua nên mới khiến đám lùn này mang lòng khinh rẻ.

Năm xưa bọn lùn sai trình quốc thư cho sứ giả nhà Tùy, từng tự xưng là "Thiên tử nơi mặt trời mọc" mà gọi vua Tùy là "Thiên tử nơi mặt trời lặn", ngoài mặt là để phân chia hai vùng đông tây, còn xem như đối đãi bình đẳng. Nhưng đến lần sau lại tự xưng là "Đông thiên hoàng" mà gọi vua Tùy là "Tây hoàng đế". Ha ha, một kẻ là Thiên hoàng, một người là Hoàng đế, chỉ đổi có một chữ liền đã đè lên đầu vua Tùy rồi.

Về sau nhà Đường phù trợ Tân La, còn nước chúng thì phù trợ Bách Tế. Hai bên đánh một trận lớn, hơn nghìn chiếc chiến thuyền lớn nhỏ của chúng lại bị một trăm bảy mươi chiếc tàu chiến của thủy quân Đại Đường đánh cho đại bại, từ đó chúng cam tâm xưng thần. Đại Đường lấy vị thế thượng quốc mà ban cho chúng quốc hiệu là "Nhật Bản", chúng cũng vui vẻ tiếp nhận, đủ thấy người nước chúng chỉ biết ức hiếp kẻ yếu mà e sợ kẻ mạnh.

Dương Lăng nghe vậy bật cười. Hoá ra sự thù ghét giữa hai bên đã bắt nguồn từ xa xưa chứ không phải đến thời cận đại mới có.

Lúc này đội kị mã đã đến gần, trong đội ngũ có vài chiếc xe ngựa chở lễ vật. Biết Thành Khởi Vận có mặt trong phái đoàn sứ giả, Dương Lăng bèn căng mắt lên nhìn. Y thấy trên mấy thớt ngựa dẫn đầu có hai vị là quan viên do Bộ Lễ phái ra, mà hình dáng của một vị thư sinh vận áo dài trắng đi bên cạnh lại vô cùng quen thuộc, liền không khỏi mừng rỡ.

Những người trong đoàn sứ giả theo hai quan viên bộ Lễ xuống ngựa bước tới. Khi còn cách tầm hơn chục trượng, Dương Lăng và Vương Hoa mới đứng dậy bước ra khỏi trường đình, mỉm cười nghênh đón.

Dương Lăng không nhìn về phía sứ giả Nhật Bản đi về phía mình, ánh mắt của y bất giác hướng về phía thư sinh áo dài trắng ở phía sau. Tuy người ấy bận nam trang, nhưng cặp mắt đa tình dịu dàng thật thân thuộc xiết bao.

Dương Lăng bỗng phát hiện thấy trong mắt nàng hiện lên hai đốm sáng trong vắt, là ánh nắng phản chiếu trong mắt nàng ư?

Dương Lăng đang chờ để nhìn cho kỹ thì Thành Khởi Vận chợt cúi đầu, ngón tay thon dài láng muốt như ngọc nhón lấy góc áo trắng tinh phẩy nhẹ lên má và dừng lại bên môi. Dương Lăng không nhìn thấy môi nàng, nhưng từ biểu hiện trên khuôn mặt nàng y lại có thể cảm nhận rõ cánh môi xinh đẹp của nàng khẽ nhếch lên cười ngọt ngào với y. Bất chợt một cảm giác choáng ngợp chạm vào tâm hồn như một hòn đá ném xuống mặt nước hồ; mặt hồ chợt lăn tăn gợn sóng.

Chú thích:

Tân La (Silla) và Bách Tế (Baekje) là hai trong số ba nước Hàn Quốc xưa. Nước còn lại là Cao Câu Li (Koguryo)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 237: Niềm vui bất ngờ

Lúc này đoàn sứ giả Nhật Bản đã đi đến trước mặt, Dương Lăng dời ánh mắt về phía những kẻ đi đầu. Người đi đầu cao hơn những kẻ khác khá nhiều, chỉ thấp hơn Dương Lăng độ nửa cái đầu, dung mạo đoan chính, khí chất trang nghiêm. Gã mặc một bộ y phục trang trọng bằng chất liệu sang trọng với màu tím lợt làm chủ đạo, cổ áo và tay áo thêu đầy hoa văn hướng dương màu vàng lợt, tóc tết ra sau buộc bằng dây vải màu tím lợt; thật là một bộ trang phục võ sĩ đúng chuẩn.

Mặc dù gã ăn vận nho nhã nhưng khắp người, từng cử chỉ và hành động của gã không chỗ nào không toát ra một áp lực khiếp người. Dương Lăng quét mắt, chợt chú ý đến thanh Dã Thái Đao giắt bên hông gã, có thể sử được thanh trường kiếm cỡ lớn như thế này ắt hẳn phải có cánh tay rất khỏe, võ nghệ siêu quần.

Nhìn khí thế thì hắn ta hẳn là thủ lĩnh đoàn sứ giả, song lại có một võ sĩ trẻ tuổi khôi ngô tuấn tú khác đứng ngang hàng cùng gã, xem ra địa vị cũng không kém gì.

Người thanh niên đó mặc áo chẽn lụa hai lớp màu trắng thuần, lưng thắt đai gấm, bên hông giắt chéo một thanh ka-ta-na (kiếm Nhật) và một thanh kiếm ngắn, mặc dù vóc người không cao nhưng bởi tứ chi cân đối, ăn mặc vừa người, nên trông cũng cao lớn rắn rỏi.

Khi còn cách nhau tầm một trượng, Vương Hoa chợt dừng bước lại, mỉm cười đứng yên, không lạnh nhạt mà cũng không quá nhiệt tình. Dương Lăng cũng từng đọc và biết rõ kiểu ứng đối ngoại giao không lời này qua những truyện ký của chính trị gia thời hiện đại, bèn cũng khẽ mỉm cười đứng lại.

Tước vị và quan chức của y không dưới quan lớn của lục bộ, nhưng dẫu sao Vương Hoa cũng là lãnh đạo cao nhất của bộ Lễ, là quan đón khách chính, cho nên y phải biểu thị sự tôn trọng đúng mực. Hai gã võ sĩ đó quả nhiên có địa vị tương đương, hai người đồng thời giơ tay ra hiệu cho cận vệ đằng sau ngừng lại, sau đó cùng sóng vai bước đến. Hai quan viên bộ Lễ cùng đi theo hai bên.

Lang trung bộ Lễ là Tả đại nhân vượt lên trước giới thiệu:

- Vị này là Thượng thư bộ Lễ của Đại Minh ta, Vương Hoa đại nhân; vị này là Trụ Quốc tướng quân Dương Lăng đại nhân.

Hai sứ giả Nhật Bản sớm đã nghe nói hoàng đế Hoằng Trị thích dùng lão thần, nhưng vẫn không rõ tác phong của tân đế. Vừa thấy Dương Lăng trẻ tuổi lại đứng sau người mà lễ quan gọi là Thượng thư Bộ Lễ này nửa bước nên hiển nhiên vị thượng thư này có chức vị cao nhất, hẳn là thủ lĩnh nghênh đón sứ giả hôm nay. Cả hai liền vội chống hai tay lên gối, khom người vái thật sâu:

- Ra mắt thượng thư đại nhân!

Lời thốt ra không ngờ lại là Hán ngữ.

Chưa kịp ngước đầu lên chợt nghe thấy hai chữ "Dương Lăng", thân thể cả hai người thoáng run lên, cứng đờ, sau đó mới đứng thẳng lưng lên, đánh giá Dương Lăng với ánh mắt kinh ngạc, song cũng không quên mất lễ nghi mà khom người vái chào lần nữa. Vương Hoa và Dương Lăng cũng ôm quyền đáp lễ, sau đó hai người cùng bước lên đỡ tay bọn họ dậy và cười bảo:

- Sứ giá hãy bớt lễ tiết, xin hãy mau đứng dậy!

Tả đại nhân trỏ vào người trạc ba mươi tuổi, mặt mày đoan chính, nét người cương nghị mặc đồ tím giới thiệu:

- Vị này là sứ thần tiến cống của quốc vương Vĩnh Chính điện hạ nước Nhật Bản, Đại Nội Nghĩa Dũng (Yoshitake Dainai?),- rồi lại trỏ vào thanh niên mặc áo dài trắng giới thiệu tiếp - Vị này là sứ thần tiến cống Tế Xuyên Trừng Minh (Choumei Hosokawa).

Dương Lăng lấy làm lạ, làm thế nào mà Thành Khởi Vận tìm được hai vị sứ giả này? Y vừa cùng Vương Hoa chắp tay khách sáo vừa liếc sang Thành Khởi Vận. Như thể sớm biết y sẽ nghi ngờ, khi thấy ánh mắt y hướng về phía mình, khoé môi Thành Khởi Vận khẽ vểnh, mi mắt hơi cong, nửa như đang cười nửa như không phải; vừa mang vẻ nghịch ngợm khó tả thành lời lại lộ vẻ cao thâm đắc ý.

Dương Lăng thầm hừ một tiếng: "Nha đầu này, lại sắp khoe khoang đây". Tuy rằng Thành Khởi Vận lớn hơn y mấy tuổi nhưng tuổi tác thật của y lại lớn hơn nàng, thêm vào Thành Khởi Vận khôn lanh hoạt bát không hề giống một thiếu phụ nhã nhặn thanh tao, cho nên lúc nào Dương Lăng cũng vô thức thầm gọi nàng hai tiếng "nha đầu" mà không nhận ra rằng ngữ khí đó mang theo mấy phần trìu mến.

Biết rằng tám chín phần mười thứ mà Thành Khởi Vận khoe khoang là để lấy lòng y, cho nên y cũng không coi hành động đó là ngỗ nghịch, chỉ định bụng chờ sau khi về rồi hỏi nàng là được. Nào ngờ khi đưa ánh mắt lướt qua người những võ sĩ mặc áo chẽn xanh, y chợt cảm có cảm giác hơi quen quen.

Những võ sĩ nọ đều mặc áo chẽn hai lớp màu đen hơi rộng, tóc dài tết thành đuôi ngựa, đa số đều là thiếu niên mười sáu mười bảy, ai nấy tuấn tú bất phàm. Từ tư liệu do Nội xưởng và Cẩm Y Vệ trình đưa y biết được rằng nước Nhật "nam phong" đang thịnh, hơn cả Trung Hoa, có thể nói là "cúc nở khắp nơi, muôn hồng nghìn tía."

Phần lớn các tướng quân, lãnh chúa và những võ sĩ có địa vị nuôi dưỡng rất nhiều thị đồng mười bảy mười tám, thậm chí là mười lăm mười sáu. Người Nhật gọi chúng là "tiểu tính", thực tế cũng chính là luyến đồng. Những luyến đồng này là tử sĩ bên người chúa công đồng thời cũng là nam sủng của chúa công bọn họ, thế nên bọn họ trẻ tuổi tuấn tú cũng chẳng có gì là lạ.

Nhưng khi ánh mắt Dương Lăng lơ đãng lướt qua khuôn mặt của những "bông hoa cúc" đó, y chợt phát hiện một thiếu niên đang đứng đằng sau đám người, thân mặc áo chẽn võ sĩ, bụng hơi to, nhưng da như ngọc, mặt như hoa, thuần khiết mà xinh đẹp, quyến rũ mà nhu mì. Tuy chàng ta chỉ đứng yên một chỗ, không hề có dáng vẻ rụt rè, song khắp người lại dào dạt một vẻ kiều mị không nói nên lời.

Thiếu niên xinh đẹp phong lưu thế, trên đời thật hiếm xiết bao!

Ánh mắt Dương Lăng vừa chạm với đôi mắt nóng rực ấy, liền chợt thấy như nắng trời rực rỡ, lòng vụt ấm lên... Liên Nhi! Đó là Liên Nhi!

Thành Khởi Vận đã dùng cách nào mà có thể mang nàng ấy theo đến đây vậy? Trong khoảnh khắc hàng vạn cảm xúc dâng trào trong lòng y. Ánh mắt Dương Lăng không thể rời đi, trong mắt Liên Nhi cũng trào ra những giọt lệ vui mừng.

Nhất thời Dương Lăng như rơi vào cơn say, mặc dù y cố tập trung sự chú ý lên hai vị sứ thần Nhật Bản nhưng cũng chỉ ậm à ậm ừ khi nghe những lời tâng bốc về công tích diệt trừ hải tặc của y khi thủy triều rút ở Tiền Đường, bộ dạng không hề quan tâm. Điều này khiến cho Vương thượng thư không biết nội tình thầm lấy làm hổ thẹn: " Vị Dương đại nhân này xem ra còn chuộng sĩ diện hơn cả mình. Phải chăng vừa rồi mình đã biểu hiện lễ độ quá mức với các vị sứ giả này?"

****

Trên đường cưỡi ngựa vào thành, trông thấy bến tàu rộng lớn xa hoa của kinh sư, trong đội ngũ sứ thần tiến cống thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng khen. Dương Lăng chỉ đặt ánh mắt về phía sau, phát hiện lúc đoàn xe khởi hành Mã Liên Nhi liền chui vào trong xe ngồi chứ không cưỡi ngựa thì y mới yên tâm.

Hồng Lô Tự đã chuẩn bị chỗ ở rộng rãi cho sứ thần tiến cống Nhật Bản từ sớm. Khi đến nhà trọ, Vương Hoa và Dương Lăng liền niềm nở bố trí cho đám sứ thần đi vào. Danh phận công khai của Thành Khởi Vận là thông dịch viên kiêm hướng đạo viên do phái đoàn sứ giả Nhật Bản thuê mướn, vì ở kinh sư đã có thông dịch viên do Hồng Lô Tự bố trí riêng cho nên sứ mạng của nàng cũng đã hoàn thành.

Mặc dù mọi sự việc đều có Thành Khởi Vận âm thầm sắp xếp và thảo luận, nhưng Đại Nội Nghĩa Dũng và Tế Xuyên Trừng Minh đều hết sức nhanh nhạy, cả hai không hề tiết lộ lai lịch thật sự của Thành Khởi Vận, thậm chí còn trả tiền thuê cho nàng như thật. Thành Khởi Vận leo lên một chiếc xe ngựa, một mình rời khỏi quán trọ của sứ thần đi ngay, bộ dạng trông như muốn tự tìm chỗ trọ, chọn ngày trở về Giang Nam.

Nhìn gã đánh xe lẫn hai tên to con đi theo trên xe của nàng toát ra khí thế hung hãn, Dương Lăng cũng không biết bọn họ là phiên tử của Nội xưởng hay là hải tặc Giang Nam được Thành Khởi Vận thu phục cho nên cũng không tiện biểu lộ điều gì khác lạ trước mặt mọi người. Y đành làm thinh để cho nàng rời đi, song cũng đoán ắt hẳn Thành Khởi Vận sẽ trở về phủ hầu tước. Bởi sứ thần tiến cống đến từ phương xa cho nên Dương Lăng còn phải ở lại tham dự bữa tiệc chào khách xã giao. Kiên nhẫn ngồi hầu rượu hai vị sứ thần mà tâm trí y lại đã chắp cánh bay về nhà tự bao giờ.

- Đằng trước đã là... là nhà của muội rồi đó, Uy Vũ hầu phủ... Chao ôi, lúc tỉ rời kinh thành y vẫn còn là bá tước, thế mà nay đã được phong hầu, được gọi là Trụ Quốc thượng tướng quân rồi.

Vừa vào đến thôn, Thành Khởi Vận liền xuống xe ngựa, vừa thong thả cất bước giữa thôn xóm đang chìm trong sắc xuân vừa cảm khái nói với Mã Liên Nhi.

- Tỷ tỷ đang cảm khái hay là đang thấy hài lòng thỏa dạ thế?

Bước đi chầm chậm bên cạnh, Mã Liên Nhi nghe vậy liền đảo mắt, nụ cười tuy ranh mãnh song vẫn mang theo vài phần quyến rũ yêu kiều.

- Tỷ... hài lòng thỏa dạ gì chứ? Ồ... ha ha, thân là thuộc hạ của đại nhân, tỷ đương nhiên là thấy vinh quang rồi.

Thành Khởi Vận chợt cảm thấy gò má nóng rần: "Tiểu hồ ly này thực không dễ đối phó đây! Trong mấy vị phu nhân của Dương Lăng, e rằng cô nàng này chính là người thông minh nhất. Đôi mắt sắc sảo đó..., sao cả tâm sự của mình mà cô ả cũng đoán ra được mấy phần nhỉ?"

Mã Liên Nhi nhoẻn miệng cười duyên muôn phần xinh đẹp:

- Hôm nay sứ thần đến triều cống, mọi việc diễn ra êm thắm như nước chảy thành sông, song mấy ai biết tỷ tỷ bôn ba vất vả ở Giang Nam, đã trải qua biết bao gian khổ? Tỷ tỷ tài cao như vậy, thế gian có mấy người đàn ông sánh bằng? Ôi! Chàng chỉ mới bấy nhiêu tuổi nhưng chức quan đã mỗi lúc một cao, nguy hiểm cũng vì vậy mà càng lúc càng lớn hơn.

Tỷ tỷ bụng chứa binh thư, tài cao mưu lớn, là trợ thủ đắc lực của chàng. Thảng như Khởi Vận tỷ tỷ thật sự chỉ vì vị trí đáng đầu của Nội xưởng mà không có mưu cầu nào khác, vậy chốc nữa muội muội có thể sẽ góp chút lời với chàng.

- Muội muội định góp lời gì?

Lúc này đây, trước mặt cô nương Liên Nhi mà bất luận sánh về dung nhan hay cơ trí đều ngang sức ngang tài với mình, Thành Khởi Vận mỗi lúc mỗi thêm chột dạ. So với nàng, thứ mà con bé thiếu chỉ là lịch duyệt và kinh nghiệm mà thôi, thực không thể xem thường.

Mã Liên Nhi duỗi bàn tay ra, bàn tay nhỏ nhắn như búp non lộ ra khỏi ống tay áo trong suốt dưới ánh dương quang. Nàng khẽ siết nắm tay lại, khéo cười xinh đẹp:

- Muội sẽ nói với chàng rằng, nếu không thể nắm giữ lấy tỷ tỷ hoàn toàn thì thứ nhất không thể kết oán với tỷ, thứ hai quyết không thể để tỷ bị phe đối đầu đoạt được. Bằng không... chỉ đành trừ khử tỉ để tránh họa hoạn về sau.

Thành Khởi Vận giật mình thất kinh, gượng cười bảo:

- Liên Nhi muội muội, muội... thực đánh giá tỷ quá cao rồi đó.

Mã Liên Nhi kéo nhẹ tay Thành Khởi Vận, dịu dàng:

- Tỷ tỷ cùng muội xưa nay không hề quen biết. Nếu việc đưa đón và hộ tống muội còn có thể bảo là chịu mệnh lệnh của chàng, nhưng dọc đường tỷ hết lòng trông nom, chăm sóc; sự che chở ấy rõ xuất phát từ tấm lòng chân thành, tuyệt không có nửa điểm giả tạo. Do tỷ và muội đã chẳng phải bạn bè, vậy nó hiển nhiên là vì "yêu ai yêu cả đường đi lối về" rồi. Có gì mà muội còn nhìn không hiểu chứ?

Dọc đường nghe được nhiều chuyện của chàng, có chuyện nào mà không khiến người ta hãi hùng khiếp vía? Quan trường chìm nổi, nguy hiểm trùng trùng, muội thật không hiểu chàng làm thế nào mà vượt qua những khó khăn trắc trở đó! Chàng đã bước trên con đường này, nếu bên cạnh không có mưu sĩ như tỷ tỷ vậy thì sớm muộn cũng sẽ bị người ta chèn ép. Tỷ bảo muội sao có thể yên tâm đây?

Đoạn nàng khẽ thở dài, rồi chợt nhoẻn miệng cười nói tiếp:

- Liên Nhi từng kể với tỷ nghe chuyện cũ của muội và chàng. Tính cách người ấy như thế nào tỷ cũng đã biết rồi đó, chàng thuộc loại lừa cứng đầu, dắt chẳng chịu đi, lại còn đá ngược! Cho dù tỷ tỷ có đốt ba nén nhang mỗi ngày, chàng vẫn sẽ chỉ là bồ tát bằng gỗ, mãi mãi không bao giờ hiển linh. Tỷ mà không vứt bỏ thẹn thùng, chủ động xuất thủ thì sẽ còn phải chờ đợi dài dài.

Thành Khởi Vận thoáng nhướng mày, chực nói lại thôi, má hồng chợt ửng đỏ, tựa như ngấm sắc hoa đào, rực rỡ mà thơm ngát.

Lúc rời phủ, Dương Lăng từng báo hôm nay Thành Khởi Vận sẽ trở về Dương phủ. Thành Khởi Vận thủ đoạn vô cùng cao minh, cho dù nàng không cần phải cố ý ra vẻ, song lúc ở trong Dương phủ vẫn giữ được hoà khí cùng với mọi người, huống hồ nàng vì chuyện của tưóng công nhà mình mà bôn ba nam bắc, lao tâm khổ trí.

Cho nên khi hay tin nàng tới, các cô Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi và Cao Văn Tâm rất đỗi cao hứng. Ấu Nương căn dặn nhà bếp chuẩn bị rượu và thức ăn, lại hạ lệnh cho người đứng đón trước cổng. Trong phủ chỉ có mỗi Đường Nhất Tiên không biết người sắp đến là thần thánh phương nào, rất lấy làm hiếu kì trong bụng.

Ấu Nương nghe người truyền báo Thành Khởi Vận đã đến, liền vội dẫn mọi người ra ngoài nghênh đón. Bọn họ sớm đã quen với việc Thành Khởi Vận cải trang bán nam bán nữ cho nên liếc mắt liền nhận ra ngay. Hàn Ấu Nương lộ rõ vui mừng, đương định mở miệng gọi, chợt trông thấy người thiếu niên đứng cạnh Khởi Vận. Nàng không khỏi ngẩn người, sau thoáng kinh ngạc liền mừng rỡ kêu lên:

- Liên Nhi!

Mã Liên Nhi cũng vội bước tới, ôm chầm lấy Hàn Ấu Nương, mừng rỡ thút thít:

- Ấu Nương...,

Hai người ôm nhau một chốc, Mã Liên Nhi mới quệt nước mắt, rưng rưng cười nói:

- A! Tỷ... sao tỷ lại... Phải là ra mắt phu nhân chứ!

Hàn Ấu Nương trừng mắt với nàng, hờn trách:

- Tỷ nói những lời gì vậy, lúc ở Kê Minh chúng ta đối đãi với nhau như thế nào thì sau này vẫn sẽ như thế nấy. Nếu như tỷ xem muội như người ngoài, thực sẽ khiến muội không biết phải làm thế nào đây.

Mã Liên Nhi khẽ mỉm cười, gọi lại:

- Ấu Nương muội muội!

Hàn Ấu Nương mới đổi giận thành mừng, lại bước tới nắm tay thân thiết với Thành Khởi Vận. Trông thấy cảnh tượng này, cặp mắt của Đường Nhất Tiên đảo tới đảo lui, nàng hỏi thầm Ngọc Đường Xuân:

- Liên Nhi? Chính là vị tẩu tẩu của muội ở Kim Lăng đó hả? Đẹp thật, nếu đeo nữ trang vào, thật sự sẽ như hoa thơm thêm sắc. Vả lại... hì hì...

Mã Liên Nhi và Thành Khởi Vận đều chưa gặp Đường Nhất Tiên bao giờ. Dương Lăng lo toan bao nhiêu chuyện song lại quên dặn trước bọn họ mỗi chuyện này. May mà Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi đều không hiểu rõ lắm về thân quyến của Dương Lăng, cho nên sau khi nghe giới thiệu về Đường Nhất Tiên xong cũng không biểu lộ điều gì khác thường.

Dặn dò Cao quản gia bố trí chỗ ở cho mấy thị vệ và thị nữ Sở Linh xong xuôi, Hàn Ấu Nương phấn khích tự mình dắt tay Mã Liên Nhi và Thành Khởi Vận đi vào phòng khách sau nhà, hớn hở bảo Vân Nhi:

- Em hãy mau dọn đồ trong thư phòng choThành tỷ tỷ, dọn đồ căn phòng đầu chái đông trong sân của chị ra cho Liên Nhi tỷ tỷ ở.

Mã Liên Nhi kéo tay nàng, cười tươi nói:

- Không vội không vội! Lâu rồi không gặp nhau, tỷ nhớ em lắm. Đêm nay tỷ muốn chung giường với muội, thắp nến trò chuyện thâu đêm.

Hàu Ấu Nương mừng rỡ:

- Chuyện đó đương nhiên là được. Có điều phòng ốc vẫn cần phải dọn dẹp.

Đoạn nàng bảo nhà bếp đun nước chuẩn bị cho hai người tắm rửa. Sau đó mọi người tập trung ở phòng khách, kể lại những chuyện xảy ra sau lúc chia ly; khu nội viện nhà họ Dương ríu rít tiếng cười đùa, quả thật hết sức náo nhiệt.

*****

Vương Hoa và Dương Lăng chiêu đãi sứ thần tiến cống của Nhật Bản ở ty Nghênh Tân. Cáo từ xong y lại đến bên ngoài Hồng Lô Tự vội vã thương thảo, gấp rút bố trí cho quan viên ty Lễ Nghi huấn luyện sứ thần Nhật Bản những nghi lễ liên quan đến việc bái kiến Hoàng đế và dâng hiến lễ vật, cùng lịch trình đàm phán cụ thể về việc hợp tác quân sự diệt trừ hải tặc và thông thương của hai nước. Xong xuôi y liền phóng ngựa phi như bay về phủ.

Dương Lăng dự tiệc hơi lâu, lúc trở về nhà thì đèn lồng đỏ đã treo cao, trời sao lấp lánh.

Dương Lăng vội vã chạy vào nhà trong, trông thấy trong sảnh chỉ có Vân Nhi và hai nha hoàn đang quét dọn, y liền vội hỏi:

- Thành cô nương đã đến rồi chưa?

Vân Nhi là tiểu nha đầu do chính tay Dương Lăng mua về, luôn ở bên hầu hạ Ấu Nương. Tuy tuổi còn nhỏ nên không được xem là quản sự khu hậu viện, song vì được Ấu Nương sủng ái nên bình thường đám nha đầu các phòng cũng chỉ nghe lệnh nó. Thấy lão gia sốt sắng truy vấn, hai nha hoàn đều nhìn sang phía cô nàng.

Vân Nhi vội cúi người vái chào, rồi mỉm cười đáp:

- Thành cô nương đã đến từ hồi chiều, Liên Nhi phu nhân cũng đến cùng. Hai vị đã cùng đại phu nhân trò chuyện rất lâu, dùng bữa tối xong thì đều về phòng tắm rửa. Vừa nãy tiểu tì trông thấy mấy người Thúy Nhi tỷ mang thùng nước ra, hẳn là đã thay đồ xong rồi.

Dương Lăng ồ một tiếng, hỏi tiếp:

- Hai cô hiện đang ở đâu? Đã thu xếp chỗ nào vậy?

Vân Nhi đáp:

- Thành cô nương vẫn ở trong nội thư phòng; phu nhân Liên Nhi thì được thu xếp ở trong viện của đại phu nhân, căn phòng đầu chái đông. Lão gia tính đi gặp Liên Nhi phu nhân sao?

Dương Lăng hơi ngần ngử, đoạn phẩy tay đáp:

- Không, ta đi thăm Thành cô nương trước. Các em cứ làm việc đi.

Tuy rằng trong lòng y rất nhớ Mã Liên Nhi, nhất là nay nàng đang mang thai, nhưng dẫu gì thì đó cũng là chuyện nhà. Thành Khởi Vận đã bôn ba xuôi ngược, vất vả lo liệu đại sự của y. Sao lại có chuyện đi gặp nương tử trước mà gác việc thăm viếng thuộc hạ tâm phúc đã hoàn thành một công việc trọng đại như vậy sang một bên chứ?

Đến nội thư phòng, Dương Lăng vén rèm cửa, nhìn thấy Thành Khởi Vận đang ngồi trước bàn dài, trước mặt là chiếc đèn phủ lụa mỏng; quầng sáng của ngọn đèn rọi lên dung nhan sau khi tắm đẹp đến rạng ngời.

Thấy y bước vào, Thành Khởi Vận vội uyển chuyển đứng dậy, ôm quyền thi lễ rồi cười duyên dáng chào:

- Ti chức tham kiến đại nhân, ti chức cũng đoán ắt đại nhân sẽ đến.

Thành Khởi Vận mặc chiếc áo cân vạt bằng vải lĩnh trắng, cổ áo màu tím lợt, phía dưới là váy ngắn đai trắng ôm eo, sóng mắt đong đưa, dung quang phơi phới, đôi mắt hạnh long lanh sóng nước trên khuôn mặt xinh đẹp tuyệt trần thực khiến người ta phải rung động trong lòng.

Dương Lăng dằn lòng, bật cười hỏi:

- Sao? Nữ Gia Cát của ta lại đoán trúng nữa à? Ha ha, tại Liên Nhi đang tắm, nếu không thì... ngày mai bản quan mới tới.

Thành Khởi Vận gặp lại được y, trong lòng mừng vui khôn xiết, một loại cảm giác thỏa mãn kì diệu tràn ngập khắp tâm hồn, một cảm giác thực thư thái và yên bình. Nghe Dương Lăng nói dối, nàng không hề chớp cặp mi cong vút, chỉ nhoẻn miệng cười nói:

- Giang sơn dễ đổi, nhưng mới qua một hai tháng trời, đại nhân sẽ không thay đổi. A! Ti chức nói sai rồi.

Thành Khởi Vận che miệng cười, nói tiếp:

- Ít nhất thì quan chức của đại nhân lại đã đổi. Chúc mừng đại nhân tấn thăng tước hầu, vinh dự nhận được chức Trụ Quốc Long Hổ thượng tướng quân.

Dương Lăng chỉ biết lắc đầu cười trừ:

- Nha đầu nhà cô này...

Thành Khởi Vận khẽ nhíu đôi mày xinh, lấy làm lạ hỏi:

- Cớ sao đại nhân... đại nhân đôi lúc nói chuyện lại ra vẻ cụ non như vậy? Ha ha, nha đầu hử? Ti chức thế mà lớn... lớn...,

Chợt nàng mím môi, rốt cuộc vẫn không nguyện nói ra mình hơn tuổi Dương Lăng.

Dương Lăng cười hì hì đáp:

- Ta gọi cô là nha đầu, đương nhiên là vì cô nhỏ hơn ta. Cô đừng hỏi, ta sẽ không giải thích đâu. Tóm lại là cô nhỏ hơn ta.

Đại sự y muốn làm từ trước đến giờ nay đã đâu vào đấy, Mã Liên Nhi mà y vẫn luôn canh cánh trong lòng cũng đã rước về phủ, lại có chút rượu trong người, lúc này trông thấy vẻ nửa hờn nửa vui khiến người khác rung động của Thành Khởi Vận, Dương Lăng không kìm được lòng nên đã tiết lộ một ít bí mật vốn nàng không thể nào nghe hiểu được.

Quả nhiên Thành Khởi Vận nghe mà không hiểu ý của y. Nhưng nàng lại nghe lầm, cũng không biết hiểu lệch đi thế nào mà nhất thời gò má đỏ bừng, lòng hoa phơi phới. Nàng vội thở gấp một hơi dài, chậm rãi ngồi vào sau bàn, chống cằm cười nói:

- Đại nhân muốn gặp ti chức, ắt có chuyện muốn hỏi. Không biết đại nhân muốn hỏi chuyện công trước, hay là chuyện tư trước đây?

Lúc mà vưu vật trời sinh này muốn quyến rũ kẻ nào, thì quả thực từng cái giơ tay nhấc chân, từng cái nhăn mày nhíu mặt đều mang những vẻ gợi cảm khác biệt. Động tác lúc này lại có phần ngây thơ của thiếu nữ, nhưng ống tay áo trượt xuống, lộ ra cánh tay thon dài như cổ hạc, ngón ngọc xinh xinh chống nhẹ dưới cằm, vừa nhã nhặn vừa đáng yêu, lại có cả sự gợi cảm của thiếu phụ thành thục.

Dương Lăng đưa mắt nhìn rồi dời ánh mắt đi:

- Chuyện riêng thì... tôi có thể hỏi Liên Nhi, hỏi xong liền sẽ biết cô đã dùng cách nào để mang nàng ấy từ họ Mã về. Nói chuyện công trước đi!

Dương Lăng quay lại nhìn nàng, rồi trầm giọng hỏi:

- Cô tìm đâu ra những kẻ gọi là sứ thần tiến cống này vậy? Trông cử chỉ hành động và phong thái của bọn họ quả thực bất phàm. Có cô lo liệu tôi nghĩ hẳn mọi thứ sẽ đều được sắp xếp thỏa đáng, không gì sơ suất, nhưng mà... tìm vài ba sứ thần ra để làm gì? Không sợ đông người sẽ lộ chân tướng sao?

Thành Khởi Vận đáp:

- Đại nhân! Lúc Sở Linh về gặp ngài, chẳng lẽ chưa từng báo rằng ti chức muốn dâng tặng cho ngài một lễ vật cực lớn hay sao? Ha ha, xem ra lễ vật này lớn quá, đại nhân không đoán nổi hay là không dám đoán?

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Lễ vật lớn à? Tôi đã đoán được rồi mà, chẳng phải là cô mang Liên Nhi... Ý cô nói không phải là nàng ấy? Chẳng lẽ lại có liên quan đến những sứ thần này?

Trong lòng hơi chua chát, Thành Khởi Vận hứ yêu một tiếng rồi nói:

- Mang Liên Nhi cô nương về đây thì có gì mà khó, ngược lại nếu ngài muốn danh chính ngôn thuận mà cưới cô ấy về mới khó xử đấy. Còn lễ vật to lớn mà ti chức nói đến là đại nhân hồng phúc tề thiên, cát tinh chiếu trúng, ngài muốn làm gì ông trời cũng đều giúp cả.

Thành Khởi Vận kéo chén trà lại gần rót mời Dương Lăng, rồi mới kể đầu đuôi ngọn nguồn câu chuyện.

Hóa ra Trung Nguyên vốn không biết rõ lắm về nước Nhật. Năm xưa có khi giặc Oa làm loạn, Chu Nguyên Chương cả giận, phái sứ giả thiên triều đi đến Nhật Bản để mắng nhiếc quốc vương nước ấy, đã nhầm một thân vương được Thiên hoàng phong đất thành ra quốc chủ của Nhật Bản. Quốc thư hai nước qua lại nhiều lần mà vẫn không hay biết nội tình. Về sau Nhật Bản xuất hiện Nam-Bắc triều, lúc đó ngay cả ai là quốc vương thì Đại Minh lại càng không rõ, đến nỗi khi tướng quân Mạc phủ là Túc Lợi Nghĩa Mãn (Ashikaga Yoshimitsu) sai sứ giả đến triều cống, Đại Minh lại coi hắn là kẻ thống trị tối cao của Nhật Bản.

Cho đến hiện tại, Nhật Bản đang gặp loạn Ứng Nhân. Chẳng những địa vị của Thiên hoàng đã rơi xuống nghìn trượng mà ngay cả tướng quân Mạc phủ cũng đã không thể khống chế được cục diện, lãnh chúa các nơi đồng loạt phát động chiến tranh, bước vào thời kỳ chiến quốc, Đại Minh tìm ra được ai là quốc chủ Nhật Bản mới lạ. Cho nên Thành Khởi Vận mới to gan hiến kế "lý đại đào cương (mận chết thay đào)" và "man thiên quá hải (giấu trời qua biển)" với Dương Lăng.

Lực lượng trong triều do bọn họ dùng lợi ích để phân hóa và mua chuộc để mở biển thông chợ đã có hiệu quả khổng lồ, chỉ cần Dương Lăng đồng ý chia chác cho đám người đó một chén canh, sẽ không khó để biến bọn họ thành trợ thủ cho bản thân y. Thế nhưng đám hủ nho khăng khăng ôm lấy định kiến Đại Mình là thiên triều thượng quốc duy ngã độc tôn và xem những thương nhân là bọn thấp hèn đê tiện lại chính là những kẻ chân chính không dục vọng, không sa ngã; căn bản y không có cách nào lay động được bọn họ.

Thứ mà bọn họ muốn chỉ là cái tiếng "triều cống thượng quốc", còn lợi ích kinh tế thì có bị thiệt thòi bao nhiêu đi chăng nữa cũng chẳng quan tâm. Cho nên Thành Khởi Vận mới đề nghị cung cấp cho bọn họ một danh nghĩa: loạn chiến quốc ở Nhật Bản khiến cho dân chúng lầm than, địa bàn thống trị của rất nhiều lãnh chúa đang hết sức khốn cùng, cho nên bọn họ rất muốn mua bán cùng Đại Minh, tiếc là Đại Minh ngoảnh mặt làm ngơ. Nếu như nay Đại Minh có người chủ động liên hệ bọn họ, yêu cầu bọn họ cử sứ giả lấy danh nghĩa nước Nhật Bản tiến cống thiên triều để khai thông mậu dịch thì bọn họ nhất định sẽ vui mừng đồng ý. Chính Thành Khởi Vân sẽ liên lạc với một vài lãnh chúa Nhật Bản khai thông bế tắc, lấp được mồm miệng của đám hủ nho trong triều.

Thật ra trong quá khứ, hai bên cử sứ giả tới lui lắm phen và cũng đã từng xảy ra việc có kẻ giả mạo sứ giả Nhật Bản gạt lấy quà biếu của Đại Minh. Có điều lần này là trong ngoài cùng nhau tính kế để vượt qua ngọn núi "chế độ triều cống" cheo leo không thể vượt qua đang chẹn ngang công cuộc giải trừ cấm biển. Thế nên một khi sự tình bị lộ, nếu y không thể thoát khỏi trách nhiệm thì sẽ phạm tội khi quân. Do đó tuy Dương Lăng đồng ý mạo hiểm thử một phen song trong lòng cũng hơi lo âu thắc thỏm.

Nghe Thành Khởi Vận nói vậy, Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Cô nói hồng phúc tề thiên gì đó, vậy đội sứ giả tiến cống này là do vị lãnh chúa nào phái tới?

Thành Khởi Vận bật cười khanh khách, rồi nhoẻn miệng cười đáp:

- Là Văn Quy (Kameyama)... à không, hiện tại đã đổi quốc hiệu lại thành Vĩnh Chính (Eishou) rồi, là đặc sứ của quốc vương Vĩnh Chính ạ.

Dương Lăng cả kinh:

- Cô liên lạc được với thiên hoàng chân chính của Nhật Bản?

Thành Khởi Vận mỉm cười đáp:

- Vâng! Thế nên mới nói đại nhân được cát tinh chiếu trúng đó. Thông qua hải tặc Đông Hải ti chức quen biết được một thương nhân, lại thông qua hắn mà liên lạc được với một vị lãnh chúa ở Cửu Châu. Vị lãnh chúa này đang bị nền kinh tế suy kiệt nơi mình quản hạt hành cho sứt đầu mẻ trán, hay tin liền mừng rỡ khôn xiết, lập tức đồng ý ngay.

Lãnh chúa này lại có quan hệ cực tốt với một vị thân vương, cho nên cũng không giấu giếm vị thân vương đó, lúc vị thân vương đến viếng liền nhắc đến chuyện này. Đương nhiên nguyên nhân chính là vì lúc này sức ràng buộc của hoàng thất đối với các lãnh chúa cực kì có hạn, cho nên căn bản hắn không sợ Thiên hoàng phản đối. Nào ngờ sau khi vị thân vương đó đề cập chuyện này với Thiên hoàng Vĩnh Chính, liền như ánh sớm ban mai rọi xuống đầu giường, vị Thiên hoàng ấy liền hành động quyết đoán. Vị này liền qua mặt các thế lực lãnh chúa địa phương mà phái luôn đặc phái viên tìm đến người liên lạc do ti chức phái đi, chủ động kết giao cùng Đại Minh.

Hóa ra kinh tế của hoàng thất Nhật Bản cũng đã túng bấn đến cùng cực, Hậu Thổ Ngự Môn (Go-Tsuchimikado) thiên hoàng tiền nhiệm tạ thế đã mấy năm mà vẫn không có tiền bạc để thu xếp an táng. Thiên hoàng Vĩnh Chính đăng cơ đã năm năm mà thậm chí cả nghi thức đăng cơ cũng lo liệu không nổi. Rất nhiều nghi thức triều đình đều bị ép buộc phải hủy bỏ. Nếu Đại Minh đã có ý định kết giao, bọn họ đương nhiên vui lòng liên lạc cùng Đại Minh.

Dương Lăng nghe thế cả mừng, vậy là lần này ngay cả chuyện triều cống cũng thành danh chính ngôn thuận, hàng thật giá thật rồi, sau này không cần phải lo nghĩ gì nữa. Thành Khởi Vận nói tiếp:

- Theo tình hình mà ti chức nắm bắt được, thì ngày nay ở Nhật Bản tướng quân Mạc phủ đã trở thành cờ hiệu. Hai thế lực lãnh chúa lớn nhất là dòng họ Đại Nội (Dainai) và dòng họ Tế Xuyên (Hosokawa).

Bọn họ đều có mật thám riêng của mình trong triều. Khi nghe nói Thiên Hoàng định cử sứ giả đến Đại Minh, hơn nữa còn hủy bỏ cấm biển toàn diện, cho phép bá tánh tự do buôn bán, đều là lợi ích khổng lồ của việc thông thương cùng Đại Minh. Do đó, cả hai vị lãnh chúa liền tranh nhau làm đại diện quốc vương để yết kiến thiên triều nhằm tranh thủ kiếm lấy lợi ích lớn nhất cho vùng đất mà bọn họ quản hạt.

Theo ti chức nghĩ, nếu đại nhân xây dựng thủy quân, phối hợp cùng thủy quân Nhật Bản để bắt tay diệt trừ giặc Oa, mau chóng quét sạch hải cương, hoàn thành đại kế mở biển thông thương, giao lưu vạn quốc, tất phải tìm đến những lãnh chúa có năng lực thì bọn họ mới có thể thật sự phát huy tác dụng.

Hai vị lãnh chúa đó đều có quân lực mạnh nhất, hơn nữa do tranh nhau làm sứ giả tiến cống mà cãi nhau túi bụi, cho nên ti chức đã kiến nghị bọn họ cử ra hai vị chánh sứ. Hì hì!

Thành Khởi Vận cười xảo quyệt nói tiếp:

- Đã là làm ăn, mà có hai người mua, vậy chúng ta sẽ có thể nâng giá. Nếu có hai người bán, vậy chúng ta sẽ có thể ép giá. Buôn bán mà đảm bảo không lỗ như thế, cớ sao lại không làm?

Dương Lăng nghe nàng nói xong, trong lòng mừng rỡ vô cùng, hiểu được những nội tình này sẽ nắm được quyền chủ động trong lúc đàm phán. Như chuyện ở Liêu Đông, vì cùng chống Thát Đát nên triều đình không thể không ban ơn với Đóa Nhan Tam Vệ để tính kế lâu dài. Nay xem ra bọn họ sẽ không cần phải nhượng bộ gì với sứ giả Nhật Bản sất.

Y lắc đầu cười, khen:

- Đáng sợ thật! May mà bản quan không phải là địch thủ của cô. Bằng không thì quả thực đã bị cô bán đi rồi còn phải kiếm tiền mang về cho cô nữa.

Thành Khởi Vận hé môi cười duyên:

- Vậy cũng không hẳn, ngay cả tường thành còn không đỡ nổi số đỏ của đại nhân nữa là! Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đại nhân có ông trời chống lưng cho, nói không chừng kẻ tự bán thân giúp đại nhân kiếm bạc mới là thuộc hạ đó.

Dương Lăng cười to, bảo:

- Cô là nữ Gia Cát của tôi, có cho tôi nghìn vàng tôi cũng sẽ chẳng nỡ buông tay đâu!

Nghe vậy Thành Khởi Vận liền đảo tròng mắt, cũng duyên dáng đáp lại:

- Đại nhân cũng là tri kỷ Bá Nha của ti chức. Dẫu cho có người dốc cả thiên hạ ra mua, ti chức cũng sẽ không nỡ buông tay.

Hai người bốn mắt nhìn nhau, rồi bất thình lình đều đỏ mặt.

Ngày trước Thành Khởi Vận lõa thể gặp mặt Dương Lăng cũng vẫn mỉm cười thoải mái, tự nhiên như không, thế mà lúc này lại e thẹn bối rối không nói nên lời.

Nàng đứng dậy giấu thẹn, thướt tha đi đến bên giá sách tùy ý rút ra một quyển rồi ngồi xuống ghế dựa bên tường. Chân phải vắt nhẹ lên gối trái, hênh hếch chiếc giày thêu màu đỏ xinh xinh, nàng đằng hắng giọng:

- Đại nhân đã biết những gì muốn biết rồi, cũng nên đi gặp Liên Nhi cô nương đi. Bằng không e rằng Liên Nhi sẽ oán hận trong lòng, nghĩ sao ti chức lại không biết điều đó!

Nàng yêu kiều ngồi, nửa như lẳng lơ, nửa như nhàn nhã, ánh đèn dịu dàng như nước thấm vào, càng làm tôn lên bờ eo như thắt lụa của nàng. Dung nhan không tô điểm, thùy mị lả lơi, quyến rũ không lời tả xiết.

Nhớ lại cảnh tượng kiều diễm và lãng mạn cùng Mã Liên Nhi dưới tàn cây phong lá đỏ trên núi Tê Hà, trong lòng Dương Lăng không khỏi nóng bừng. Vị cô nương si tình đó, quả thực đã vì mình mà hy sinh rất nhiều. Mình thì xuôi nam ngược bắc, để lại người con gái đang mang thai như nàng ấy ở lại Kim Lăng một mình, quả thực cũng quá phụ bạc rồi. May mà nàng ta thấu tình đạt lý, người con gái cao ngạo đó vẫn trước sau không lời oán hận.

Ngữ khí tròng ghẹo của Thành Khởi Vận lại dường như hơi mang theo chút ghen hờn, nhưng gặp lúc Dương Lăng lại đang nghĩ đến Liên Nhi nên không cảm nhận được. Y mỉm cười, đứng dậy bảo:

- Đi đường xa về, chắc cô cũng đã mệt rồi, nghỉ ngơi sớm một chút đi. Ngày mai tôi sẽ đãi tiệc tẩy trần cho cô lần nữa.

Thành Khởi Vận gật đầu cười yếu ớt. Dương Lăng xoay người bước ra khỏi phòng, rèm châu đong đưa, nụ cười yếu ớt trên khuôn mặt của Thành Khởi Vận vụt tắt. Nàng đăm chiêu ngắm nghía lọn tóc rũ xuống trước ngực, thở dài ai oán: "Chờ thì vẫn phải chờ, còn hơn là ngay cả cơ hội để đợi chờ cũng không có. Ôi, thật là hận không thể bổ cái đầu gỗ của Dương bồ tát chàng ra làm củi đốt cho rồi..."

Góc tường mờ ảo ánh đèn, ánh sáng mờ ảo tạo nên một quầng sáng vàng nhạt mông lung. Dưới quầng sáng, Thành Khởi Vận xoa nhẹ cánh tay trắng muốt như lược ngà; thân thể mềm mại đang ngồi trông đặc biệt lung linh...

Chú thích:

là loại kiếm nhật rất dài

còn gọi là Chiến tranh Ōnin, là cuộc nội chiến từ năm 1467 đến năm 1477 thuộc thời kỳ Muromachi ở Nhật Bản. Nguyên cớ là cuộc tranh chấp giữa Hosokawa Katsumoto và Yamana Sōzen nhưng sau leo thang thành cuộc nội chiến, lôi cuốn theo Mạc phủ Ashikaga và rất nhiều lãnh chúa (daimyo) khắp nước Nhật. (trích từ wikipedia)

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 238: Đại trượng phu vô vi mà trị

-----

Như một cô chim khách hạnh phúc, Mã Liên Nhi vừa ngâm nga một khúc hát vừa bận bịu lôi quần áo lót vốn để cho tôi tớ dọn dẹp ra khỏi bọc đồ, xếp ngay ngắn rồi đặt ở đầu gường.

Trong phòng bao phủ bởi một mùi thơm nhàn nhạt, Dương Lăng khép lại cửa phòng, mỉm cười ngắm bóng lưng nàng. Dáng người Mã Liên Nhi thon thả thướt tha, vai và lưng vẫn nhỏ nhắn, mặc dù đã cấn thai rất lâu song vẫn không mất được dáng người mảnh khảnh. Rõ ràng nàng mang thai trước Hàn Ấu Nương cả nửa tháng, ấy vậy mà khi nhìn từ phía sau lại không thấy bụng gồ lên lắm.

Người ta nói phụ nữ mang thai như mang lò lửa trên người, quả thật không sai chút nào. Cái rét đầu xuân chưa tan, vậy mà nay Mã Liên Nhi lại chỉ mặc độc một chiếc áo dài sốp nhẹ. Nàng khom người thu dọn quần áo, chiếc áo dài mềm mại ép sát vào người lộ bờ mông khá tròn trịa và săn chắc, chính giữa lõm vào một rãnh lờ mờ, như thể ẩn dưới lớp áo là một quả đào mật chín mọng trắng ngần đang chực phá lớp vỏ mỏng, ứa mật thơm lừng.

Dương Lăng nhìn mà thấy rung động trong lòng. Y nhỏ giọng gọi:

- Liên Nhi!

Thoáng run lên, Mã Liên Nhi thoắt xoay người lại, mừng rỡ nhìn Dương Lăng rồi chợt chạy ào tới sà vào lòng y, nước mắt không kìm được cứ trào ra.

Thấy nàng ôm cái bụng bầu chạy ào tới như vậy, Dương Lăng sợ giật nảy cả mình, liền vội kêu:

- Đi chậm thôi, đi chậm thôi! Nàng đang mang thai sao lại còn nhảy nhót lung tung như con nít thế, chẳng chín chắn chút nào cả!

Mã Liên Nhi ngừng khóc gượng cười, nhẹ nhàng đứng thẳng người lên, nguýt yêu y rồi nói:

- Chàng thật là vô tâm, người ta trông ngóng đến mòn con mắt chàng mới sai Thành tỷ tỷ tới. Nếu không chủ động dâng đến tận cửa thì không biết đến khi nào Dương đại hầu gia chàng mới chịu đi thăm thiếp đây.

Dương Lăng cười áy náy:

- Nàng tưởng ta không nhớ nàng sao? Chẳng qua vừa về kinh ta liền bận rộn bao việc, có mấy việc mà giao cho người khác thì ta thật không yên tâm. Còn ở bên Giang Nam đã có Thành đáng đầu chủ trì, ta không tin có việc gì có thể làm khó được cô ấy. À đúng rồi, Thành đáng đầu làm thế nào mà đưa nàng đi được vậy?

Dương Lăng nắm tay dìu Mã Liên Nhi đến ngồi xuống bên giường. Mã Liên Nhi khẽ dựa vào lòng y, kể lại sự tình đã qua. Thì ra sau khi nhận được truyền tin của Dương Lăng, Thành Khởi Vận liền giả làm bà con của hải tặc Vương Bành lão thái gia mà dời đến ở Trường Can Lý, âm thầm gặp mặt Mã Liên Nhi, sau đó công khai kết bái làm tỷ muội.

Thành Khởi Vận sắm một tòa trạch viện rộng lớn dưới chân núi Tê Hà. Lúc này bụng Mã Liên Nhi đã bắt đầu gồ lên, sắp giấu không nổi những người bên cạnh, Thành Khởi Vận bèn vịn cớ mời tỷ muội kết bái đến tiếp đãi để đưa Mã Liên Nhi về nhà. Lúc này Mã Ngang cũng đã được điều về Kim Lăng làm quan dưới trướng quan thủ bị, có hắn giúp đỡ che giấu càng khiến cho người khác không nghi ngờ gì. Lần này Thành Khởi Vận trở về kinh thành, Mã Liên Nhi khăng khăng đòi theo, nghĩ thấy cả đi lẫn về cùng lắm chỉ mất khoảng một hai tháng, Thành Khởi Vận bèn tự làm chủ mà đưa nàng theo. Song kế tiếp an bài thế nào thì nàng ta không dám tự quyết mà để cho Dương Lăng quyết định.

Nghe kể xong Dương Lăng cũng cảm thấy có phần khó xử. Liên Nhi vẫn phải chịu tang cha thêm gần hai năm, chẳng lẽ đến lúc đó để nàng dẫn thằng nhóc biết gọi "ba ba" đến kinh thành tìm chồng? Nhưng nếu kiên quyết giữ nàng lại, ở thời đại cực kỳ xem trọng đạo hiếu này y sẽ khó tránh bị hặc tội.

Tuy rằng Dương Lăng hiện đã quen với việc bị hặc tội, kiểu như lợn đã chết thì sợ quái gì nước sôi, song thật ra mỗi lần bị hặc tội y đều đã có sẵn kế sách để phản kích. Nay chuyện này tuy nhỏ nhưng những kẻ đang nhòm chằm chằm vào y lại đều đứng trên quan điểm đạo nghĩa cao vút. Đứng trước đạo hiếu vốn chỉ xếp sau "trung với vua", đối diện với mồm miệng văn chương lê thê và ngòi bút công kích mãnh liệt y sẽ hoàn toàn rơi vào thế bị động.

Dương Lăng không tin sóng to gió lớn gì y cũng đ vượt qua mà lại không bước qua được cái hố cỏn con này. Hai người mới gặp lại nhau nên y không muốn nói tới những chuyện phiền lòng này, bèn ôm lấy vai Mã Liên Nhi, xoa nhẹ bụng nàng, cười nói:

- Xem nàng đi đứng nhanh nhẹn khoẻ mạnh, tám chín phần mười sẽ sinh cho tướng công một thằng nhóc rồi.

Mã Liên Nhi dẩu miệng cười duyên:

- Chàng thật! Chẳng lẽ chàng biết xem tướng à? Thiếp thì lại nghe nói rằng bụng nhọn sẽ sinh trai, còn bụng tròn sẽ sinh con gái. Thế nhưng thiếp nhìn tới nhìn lui mà vẫn không nhìn ra được nó nhọn hay là tròn, còn phu quân thấy sao?

Nếu như Thành Khởi Vận muôn vẻ phong tình thì Mã Liên Nhi lại là trời sinh quyến rũ, bất kể là nàng thẳng áo ngồi ngay hay tẩy son xoá phấn thì vẫn không thể xoá bỏ được cái vẻ dịu dàng đáng yêu toát ra từ tận bên trong. Chỉ cần nàng đứng yên một chỗ, dịu dàng và thướt tha, thì khắp người nàng không chỗ nào sẽ không lập tức toát ra vẻ kiều mị ấy. Lúc này hai mắt rơm rơm chực trào trông càng tươi đẹp như thiên nhiên sẵn có.

Khuôn mặt kiều diễm áp gần đến nỗi mọi đường nét trở nên lờ mờ, chỉ có làn thu ba yêu kiều ập vào trong tầm mắt. Dương Lăng rung động trong lòng, chậm rãi kề mặt đến gần. Liên Nhi không hề cử động; bộ ngực phập phồng, bờ môi đầy đặn hé hờ.

Bốn môi chạm nhau, ngọt ngào, mềm mại. Hai người cứ dịu dàng tiếp xúc với nhau như vậy. Chốc sau Dương Lăng khẽ tách người ra, Mã Liên Nhi vẫn ép người theo, nhắm mắt rên lên một tiếng rồi lại nhào vào lòng y, hai cánh tay trắng nõn vuốt ve khắp người Dương Lăng, thì thầm:

- Phu quân, Liên Nhi nhớ chàng lắm. Lúc không gặp được chàng, thiếp chỉ hận không thể trừng trị được chàng một phen, nhưng khi gặp chàng rồi, thiếp lại chỉ muốn... chỉ muốn chàng thật yêu thiếp...

Dương Lăng nhẹ nhàng xoa nắn ngực lẫn mông nàng. Tay ngọc của Liên Nhi cũng vuốt ve khắp người y, rồi luồn xuống dưới đáy áo, nắm lấy một vật đang "nghểnh cao". Dương Lăng cứng đờ người, cảm thấy kích thích không thôi. Y run giọng bảo:

- Liên Nhi, đừng đùa nữa! Nàng... nàng chịu không nổi đâu. Muộn rồi, nàng đi ngủ trước đi...

Mã Liên Nhi chợt mở mắt ra, ánh mắt mê ly ngước nhìn y đầy trìu mến:

- Phu quân có muốn không? Liên Nhi đi ngủ, vậy còn phu quân thì sao?

Âm thanh của nàng như nỉ như non, khiêu gợi động lòng người. Tay ngọc chợt siết nhẹ, bộ phận mẫn cảm của Dương Lăng bất ngờ bị bàn tay mềm mại láng mịn của nàng bóp nhẹ, y bất giác rên lên một tiếng; lửa dục càng sôi lên sùng sục.

Mã Liên Nhi cười quyến rũ, thỏ thẻ:

- Phu quân định đi tìm hai nàng ái thiếp hoàng thượng ban thưởng cho chàng ư? Là Ngọc Nhi... hay là Tuyết Nhi... Còn lâu Liên Nhi mới cho chàng đi!

Hai má ửng lên như tô phấn, trong mắt đã lờ mờ hơi nước, nàng khẽ khàng đẩy nhẹ y xuống. Sợ nàng bị động thai, Dương Lăng không dám chống cự nên bèn thuận thế nằm dựa xuống lớp chăn gấm đã được xếp lớp. Mã Liên Nhi thè lưỡi liếm môi như một chú mèo, rồi chợt cuối người xuống, vùi trán vào trong đáy áo y.

Một tiếng xuýt xoa khẽ cất lên. Sau chút đùa nghịch, "con rồng trọc" căng mình chui vào trong một nơi ẩm ướt và chật chội, âm ấm, mềm mại, gấp gáp... mười ngón tay thon lúc thì như gảy đàn, lúc thì như thổi sáo. Dương Lăng chỉ cảm thấy giữa cặp môi mỏng manh đó như đang có những chú lươn lẫn cá chạch chen nhau nhảy lên, đớp mút nghịch đùa, khiến người ta không nhịn được mà bật ưỡn lưng cong, tê sướng.

Không biết bao lâu, tiếng thở hổn hển dịu lại, căn phòng ngập tràn một bầu không khí kiều diễm. Dương Lăng ôm giai nhân phơi phới trong lòng, cùng nằm song song trên chiếc chăn gấm, mỉm cười bảo:

- Giang Nam phong tục xa hoa, quả thật không sai chút nào. Nha đầu nàng cũng nhiễm thói hư rồi...

Mã Liên Nhi đã súc miệng xong, nghe vậy liền bĩu môi đáp:

- Mấy thứ sách truyện và tranh vẽ đó còn không phải do những kẻ đọc sách trang nghiêm và đạo mạo các chàng soạn ra ư? Chàng không thích à? Uổng công người ta bỏ sức lấy lòng hầu hạ phu quân chàng đây.

Dương Lăng vội đính chính:

- Thích mà, thích mà! Sau này nó sẽ là tiết mục làm vốn của chúng ta nhé?!

- Hử?

Mã Liên Nhi chớp chớp mắt, Dương Lăng đành cười hề hề, lướt qua chuyện đó.

Nằm kề tai nhau một lúc, Dương Lăng nhớ ra hôm nay nàng mới về tới, bèn bảo:

- Nàng nghỉ ngơi sớm đi! Ngựa xe cả một chặn đường dài, nhất định là rất mệt.

Mã Liên Nhi "ưm" một tiếng, uể oải ngồi dậy, tinh nghịch cười nói:

- Giờ phu quân muốn đi đâu ngủ thì đi đi. Đêm nay Liên Nhi phải hầu chuyện Ấu Nương muội muội. Lâu ngày không gặp, Liên Nhi có rất nhiều chuyện muốn nói, lúc nãy đông người nên có điều bất tiện.

Sớm muộn gì cũng sẽ đều là người một nhà, thấy nàng và Ấu Nương thân mật như vậy, tất nhiên là Dương Lăng mừng còn không được, nên lập tức đứng dậy đưa Liên Nhi đến phòng Ấu Nương. Cùng hai nàng trò chuyện một lúc, đưa hai vị ái thê lên giường ngủ xong Dương Lăng mới đi ra, tiện tay đóng cửa lại.

Lúc này sắc trời đã tối, các phòng đa số đều đã tắt đèn, chỉ còn mấy ngọn đèn treo dưới hành lang vẫn còn đong đưa, Dương Lăng tiện chân bước về phía phòng Ngọc Đường Xuân. Vừa mới đến dưới chái hiên, chợt y thấy một bóng người xinh đẹp từ trong phòng Ngọc Đường Xuân bước ra. Dương Lăng vẫn đứng tại chỗ, nhận thấy người đang lững thững đi đến là Đường Nhất Tiên, y bèn cười hỏi:

- Muộn như vậy rồi mà em còn chưa ngủ, lại đi tìm Ngọc Nhi để nói chuyện à?

- Biểu ca? - Đường Nhất Tiên cũng hơi bất ngờ, lấy làm lạ hỏi: - Sao anh lại đến vậy? Chẳng phải anh ngủ trong phòng đại tẩu sao, anh cũng nên bầu bạn với Liên Nhi tẩu tẩu mới phải chứ.

Dương Lăng cười đáp:

- Liên Nhi cách biệt Ấu Nương lâu ngày, nay mới được trùng phùng. Có chút chuyện riêng muốn tâm sự nên hôm nay chị ấy dọn sang ngủ chung với Ấu Nương rồi.

Đường Nhất Tiên xoay chuyển tròng mắt mấy lượt, chợt hừ khẽ một tiếng, lầu bầu:

- Tiên Nhi không thích Liên Nhi tẩu tẩu, chị ấy quá mưu mô.

- Ồ? - Dương Lăng chớp mắt, hỏi: - Hiếm khi thấy Tiên Nhi hằng ngày chỉ biết cười đùa nay cũng dẩu miệng chê bai à nha! Liên Nhi ức hiếp em à?

- Cái đó thì chưa, - Đường Nhất Tiên tức tối đáp - Dù sao cũng... cũng là Tiên Nhi không thích. Lẽ ra... đây là chuyện gia đình biểu ca, em không nên xía vào; chẳng qua em thấy chị ấy tính kế hai chị Ngọc Nhi và Tuyết Nhi nên cảm thấy bất bình thay cho hai chị mà thôi.

Dương Lăng bị tính khí trẻ con của nàng chọc cười, bèn ngồi xuống băng ghế đá dài dưới mái hiên, vỗ vỗ lên băng ghế bảo:

- Đến đây, ngồi xuống nói cho biểu huynh nghe, chuyện gì khiến cho em không vừa mắt vậy?

Đường Nhất Tiên bước đến ngồi xuống cạnh y, lẩu bẩu lầu bầu:

- Em nói ra rồi anh không được giận, nói là em đâm bị thóc chọc bị gạo đâu đó! Em có cảm giác là từ khi chị dâu Liên Nhi vào nhà chúng ta, chị ấy tỏ ra hết sức thân thiết với chị dâu cả, dường như cố ý lạnh nhạt với Tuyết Nhi và Ngọc Nhi vậy. Chị ấy đường xa mà tới, nếu nói nhớ thì cũng nên nhớ anh nhất chứ, cho dù anh ngủ lại trong phòng chị ấy thì cũng là lẽ đương nhiên. Chị ấy còn chạy sang phòng đại tẩu trò chuyện, vì sao? Còn chẳng phải là để thị uy với Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, nói cho bọn họ biết rằng quan hệ giữa mình và đại phu nhân là thân thiết nhất hay sao? Hừ! Gia đình người ta vốn vui vẻ thuận hoà, em... không thích! Anh nên nói với chị ấy một tiếng đi, tránh để xảy ra chuyện.

Dương Lăng đánh thịch trong lòng. Liên Nhi chí tình chí nghĩa, điều đó không sai, có điều với cá tính cao ngạo của cô nàng, nếu cô nàng giở chút trò ranh cũng không phải là không thể. Y lại nghĩ đến đêm nay Liên Nhi có dũng khí và nhiệt tình không kém gì lúc ở trên núi Tê Hà...

Dương Lăng khẽ cười, hỏi:

- Là Ngọc Nhi nói với em hả?

Đường Nhất Tiên cuống quít lắc đầu quầy quậy:

- Không phải! Không phải! Tính tình chị Ngọc Nhi điềm đạm nhất nhà, chị ấy mới là người không nói gì. Là em tự nhìn thấy thôi.

Dương Lăng bật cười:

- Vậy em nói thử xem Ngọc Nhi với em, ai thông minh hơn?

Đường Nhất Tiên thè lưỡi, cười hì hì đáp:

- Chị Ngọc Nhi thông minh hơn em nhiều lắm. Còn chị Tuyết Nhi ấy hả, cũng không kém hơn em là bao, có điều biểu muội em mới là người nhanh mồm nhanh miệng nhất.

Dương Lăng vuốt mũi nàng, mỉm cười nói:

- Cái tật nhanh mồm nhẩu miệng đó em nhất định phải sửa. Em đã sắp lớn rồi, không còn con nít con nôi nữa! Mai đây gả vào nhà chồng, nếu lúc nào cũng bốc đồng lỗ mãng thì sẽ tự hại chính mình đó! Ý anh không phải là muốn em là người suốt ngày giả lả vui cười, nhưng làm gì cũng nên suy xét, đứng dưới góc độ của đối phương mà suy nghĩ dùm người ta một chút, thì sẽ có lúc em cũng không để tâm vào những chuyện vụn vặt nữa.

Một cơn gió mát thổi qua, ánh đèn lay lắt, thoắt mờ thoắt tỏ.

Dương Lăng hít vào một hơi, nhỏ nhẹ giảng giải:

- Trước đây Liên Nhi vốn cởi mở hoạt bát, có tính cao ngạo của tiểu thư nhà quan, tiếc là thời vận không tốt. Ôi, cũng là do anh cả, nay nàng ấy còn chưa thành thân mà đã bụng mang dạ chửa, đến giờ anh vẫn chưa nghĩ ra làm thế nào để rước nàng ấy vào Dương phủ, lúc nào thì nàng mới có thể trở về đây? Cũng thật khổ cho nàng ấy.

Đoạn y vỗ nhẹ lên vai Đường Nhất Tiên, giải bày:

- Liên Nhi và anh quen nhau từ rất lâu, sớm đã có đính ước chung thân, kết quả nay Ngọc Nhi và Tuyết Nhi đều được cưới trước nàng ấy, hơn nữa còn được ban cho danh phận Cáo Mệnh. Tuy ngoài miệng nàng ấy không nói ra, song trong lòng sao có thể không lo lắng? Cô ấy hoàn toàn không biết gì về tính tình của Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, chẳng lẽ không sợ vào nhà họ Dương rồi sẽ bị người ta ức hiếp sao?

Chuyện trong nhà ấy mà, khi mà thị phi chưa rõ ràng, chủ nhân gia đình có lúc phải nên khoan dung, có lúc cần giả bộ hồ đồ. Chỉ cần cân bằng sao cho khéo, đừng để xảy ra chuyện gì lớn, thì sẽ hoà hợp ấm êm thôi! Hà hà, đó gọi là vô vi mà trị.

Liên Nhi là người con gái thông minh, vả lại không hề ngang ngược. Đến khi nàng ta hiểu rõ về tính cách của Ngọc Nhi và Tuyết Nhi rồi, tự nhiên sẽ dẹp bỏ được dè chừng thôi, em hiểu không? À, anh thì tin rằng, với sự thông minh vượt trội của bọn họ, ai lại không biết cái gì nên tiếp thu và cái gì nên bỏ qua, cho nên đương nhiên sẽ đối xử với nhau rất tốt. Ngọc Nhi không nói gì là bởi nàng ấy nhìn ra được điểm này, nha đầu ngốc ạ!

Đường Nhất Tiên há miệng muốn đáp nhưng chẳng nói được gì, mãi sau mới thiểu não:

- Hèn chi mà khi em nói với Ngọc Nhi, chị ấy chỉ cười mà không nói gì hết. Đáng ghét! Cả nhà mấy người đấu đá với nhau, kẻ này lại ranh ma hơn kẻ kia, hại em biến thành tiểu nhân đi châm ngòi thị phi rồi. Hôm nay may mà được nghe anh giải thích, bằng không về sau em tỏ ra bất mãn, đến khi người một nhà của các anh thân thiết nhau rồi thì em sẽ lại đắc tội với mọi người mất!

Nhìn thấy bộ dạng cười như kẻ trộm của Dương Lăng, Đường Nhất Tiên càng thêm tức giận. Nàng hừ lớn một tiếng, đứng phắt dậy, chống nạnh:

- Đương nhiên biểu ca vui rồi! Bọn họ thông minh nên mới sẽ không kèn cựa lẫn nhau, mới sẽ thi nhau lấy lòng biểu ca. Rốt cuộc em đã biết vì sao đám vương phi trong phủ Đại vương thì ai nấy lạnh nhạt với nhau như đá, còn cả phủ nhà anh đây lại trên dưới hoà đồng rồi.

Anh đó, giống hệt như cáigiặc tai to Lưu Bị vậy. Văn võ chả thấy có bản lĩnh gì đặc biệt, song đều có kĩ năng như nhau, bất kể là quan văn tướng võ lợi hại tới đâu, vẫn cứ bị gạt cho ngoan ngoãn nghe theo, ai nấy đều hết mình phục vụ.

Thời đó "Tam quốc bình thoại" và "Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa" sớm đã được lưu truyền rộng rãi, Đường Nhất Tiên nghe riết nên quen. Nàng trừng mắt hạnh, tiếp tục cáu trách Dương Lăng:

- Hừ, uổng cho em còn lo lắng, lo lắng một khi vị Liên Nhi phu nhân này đến rồi, cuộc sống sau này của biểu ca sẽ gian nan vất vả. Cái đồ giặc tai to gian trá như quỷ nhà anh, thứ gì cũng đều không biết, chỉ biết làm cho người ta sợ thiên hạ chưa đủ loạn mà thôi!

Đoạn nàng chắp hai tay ra sau lưng, vùng vằng bỏ đi. Biểu cảm hồn nhiên và đáng yêu của Đường Nhất Tiên khiến Dương Lăng bò lăn ra cười.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 239: Dương tướng quân tái tế đồ đao (Dương tướng quân lại rút dao mổ)

- Nếu như xóa bỏ mua bán triều cống, không hạn chế cống sứ và số lượng cống phẩm, để dân chúng tự do đi lại, tăng cường giao dịch giữa triều đình của ta và Thiên triều, thẳng thắn mà nói, chúng ta vô cùng tán đồng, nhưng có một số việc chúng ta vẫn đang lo lắng

Đại Nội Nghĩa Dũng bưng chén lên nhấp một ngụm: - Hôm nay ta và hai vị đại nhân thẳng thắn với nhau, tại hạ ăn ngay nói thật. Ta lấy một ví dụ, việc hợp tác mua bán trước kia, triều đình Đại Minh luôn ban cho triều đình ta thực sự là hậu hĩnh, nhưng còn lâu mới có thể thỏa mãn nhu cầu của triều đình chúng ta.

Suy xét vấn đề này, khi chúng ta triều cống cho Đại Minh, cống sứ thường thường mang theo rất nhiều hàng hóa, bán cho phú thương ở các vùng như Tô Châu, Hàng Châu, Kim Lăng, nhưng những phú thương này lại lấy đủ loại lý do để khất không trả các khoản nợ. Vì để đòi lại tiền nợ, triều đình của ta không thể không dùng thuyền để đi lại, thậm chí còn kiện lên cả Sứ ti nha môn, nhưng vẫn không nhận được quyền bảo hộ. Tại hạ muốn hỏi, nếu như để dân chúng tự do thông thương, Đại Minh sẽ làm thế nào để bảo vệ quyền lợi của thương nhân nước ta?

Dương Lăng thản nhiên cười với Đại Nội Nghĩa Dũng: - Vấn đề này, chúng ta đã nghĩ tới. Trên thực tế, một khi tự do thông thương, thì số lượng thương nhân của Đại Mi đi Đông Doanh cũng nhất định không ít, cho nên chúng ta quyết định: Thứ nhất, xây dựng hệ thống quan lại nha môn chuyên trách, lập ra luật chuyên về hàng hải, luật thông thương để đảm bảo quyền lợi cho thương nhân hai nước. Đương nhiên, quý quốc cũng phải thiết lập bộ nghành như vậy để che chở, bảo vệ lẫn nhau, mà pháp luật được đưa ra cũng đều cần có sự thống nhất của các nhà lập pháp hai nước.

- Còn nữa! Vương Hoa cũng hạ thấp người, nói: - Để đảm bảo quan lại và nha môn chấp pháp theo lẽ công bằng, quý quốc có thể phái ra sứ thần thường trú, đóng tại kinh sư của chúng ta cũng như hai bên cùng nhau cam kết giám sát chặt chẽ nha môn chấp pháp. Nếu như có hành vi xử sự bất công, thì người làm sứ thần có quyền tố cáo lên nha môn cấp trên, có thể là Tam ti nha môn, thậm chí cũng có thể tố cáo với hoàng đế bệ hạ. Đương nhiên, chúng ta sẽ phái ra đặc sứ trú tại quý quốc, phụ trách công việc quan sát, đảm bảo quyền lợi bình đẳng giống như vậy.

Vương Hoa nói xong, cùng Dương Lăng nhìn nhau và cười. Kinh tế, vĩnh viễn phải có chính trị và luật pháp làm chỗ dựa, ý kiến này của Vương Hoa hợp tình hợp lý, Đại Nội Nghĩa Dũng trong lòng rộng mở, không khỏi gật đầu liên tục.

Hắn lại không biết, Thiên triều Đại Minh với ánh mắt luôn để cao quá đầu, vốn không để những nước nhỏ vào mắt, khi đưa ra đề nghị này kì thật còn có mục đích khác. Đại Minh hoàn toàn không biết tình hình của hoàng thất Đông Doanh, sự hưng suy của Mạc Phủ cũng như năng lực khống chế cả nước của họ, còn có thái độ chính trị của một vài bá chủ hùng mạnh của Cửu Châu nữa. Đây căn bản chính là kiến thức nông cạn.

Trong tình hình như vậy, ngay cả chính chủ đều tìm không chính xác, muốn hợp tác, nhất là hợp tác về quân sự, căn bản chính là ảo tưởng. Dương Lăng đề xuất phái ra đại sứ thường trú, lấy quan lại của lục bộ làm quan văn, xưởng vệ Đông Xưởng làm quan võ, trú tại Đông Doanh, thu thập tin tức tình báo toàn diện trên phương diện chính trị, quân sự, kinh tế. Biết mình biết ta mới có thể bảo đảm bắn tên có đích, đảm bảo chính sách quốc gia có thể thực hiện có hiệu quả.

Tế Xuyên Trừng Minh mỉm cười nói: - Đề nghị của Vương đại nhân rất hay, hai nước một khi tự do thông thương, thương nhân nhiều như mây, buồm giương như cờ xí, khó tránh khỏi sẽ sinh ra nhiều tranh cãi, nếu như không có một bộ phận chuyên trách để bảo đảm công bằng, chắc chắn quần chúng sẽ có nhiều khúc mắc.

Mặt khác, triều đình ta cần hàng hóa của Đại Minh rất nhiều, bất kể tơ tằm, thủy ngân, từ khí. Các loại như dược liệu, gia vị, tranh chữ, kinh phật một khi tiêu thụ ở nước ta, giá cả chắc chắn tăng gấp mười.

Mà thương phẩm của bọn ta ở Đại Minh ngoại trừ một ít bình phong, quạt, hòm rương, đao kiếm thì phần lớn là đồng, lưu huỳnh, gỗ vang, trân châu và nguyên liệu, giá tiền tăng lên cũng không được bao nhiêu, như vậy có phải là bất công không chứ?

Dương Lăng cười nói: - Mấy thứ này còn phải dựa vào nhu cầu của dân chúng, huống hồ khi đám nguyên liệu này được đưa đến, thợ thuyền của Đại Minh còn phải tiến hành gia công một lần nữa, nói chung cũng phải cho bọn hắn bù lại một ít lợi nhuận. Tế Xuyên ngài còn có ý kiến gì hay nữa chăng?

Tế Xuyên Trừng Minh thần sắc vui vẻ: - Đại Minh có thể cho phép dân chúng nước ta xây dựng công xưởng hay không. Cũng như mời thợ thủ công của Đại Minh về để học tập công nghệ chế tạo. Nguyên liệu một khi chuyển đến có thể chế thành thương phẩm, sau đó bán ra luôn.

Hắn lại phàn nàn nói:

- Một cái khác nữa, như trân châu, việc mò xuống biển nhặt trân châu cũng vô cùng nguy hiểm, nhưng khi buôn trân châu đến Đại Minh, lợi nhuận cũng không tăng lên bao nhiêu, mà thương nhân của Đại Minh sau khi đem đi gia công lại có thể thu lợi gấp bội. Chân báu mà nước ta gia công xong luôn bị hàng của Đại Minh cạnh tranh, không thể lúc nào cũng bán ra được, như vậy có phải là quá bất công không?

Vương Hoa cất tiếng cười to, phất tay áo nói: - Lời ấy của Tế Xuyên cống sứ sai rồi, tơ lụa gấm vóc của Đại Minh muốn có được cũng phải trải qua lựa chọn loại cây dâu, nuôi tằm, kéo tơ, chế gấm đủ loại công đoạn, vất vả không lẽ còn ít sao? Đại Minh cũng chỉ bán tơ lụa cho quý quốc chứ đâu phải là những bộ kimono đã làm xong.

Dương Lăng cười dài, nói: - Đông Doanh muốn đặt công xưởng tại Đại Minh, thuê thợ thủ công đương nhiên cũng có thể, nhưng nếu chúng ta yêu cầu quý quốc cho phép Đại Minh tới đó để mời thợ thủ công, học tập phương pháp tinh luyện bạc trắng, học tập kĩ thuật rèn kiếm nhật, liệu quý quốc có bằng lòng hay không?

Tế Xuyên Trừng Minh nghe xong bất giác sững người lại, được có vài cái bản lĩnh hơn người thôi, nếu như bị người Minh học được, lấy vốn liếng cùng thực lực của họ, thì nước mình xoay sở làm sao?

Dương Lăng lại nói: - Đương nhiên, cũng chỉ vừa mới mở rộng thông thương trên biển, rất nhiều chuyện không phải cứ muốn là được ngay. Xây dựng nha môn thường trú, cũng là để kịp lúc thông thương, để hai bên có thể không ngừng hoàn thiện luật pháp, đợi nếu như có điều kiện thích hợp, ta nghĩ đề nghị của ngài có lẽ sẽ được xem xét, chỉ cần có lợi cho dân chúng hai bên, có lợi cho hai triều đình thì mọi thứ đều dễ dàng thôi.

Vương Hoa ho nhẹ một tiếng, nói: - Đúng vậy, việc này không thể nói là làm luôn được, còn phải bàn bạc kĩ lưỡng. Ta nghĩ nhiệm vụ hàng đầu bây giờ là làm thế nào để giải quyết chướng ngại lớn nhất của thông thương trên biển: Hải tặc! Bọn chúng quanh năm lang thang trên biển, nhắm người mà cắn, chỉ vì bọn chúng mà bỏ lệnh cấm thông thương là không thể. Thủy sư của Đại Minh và thủy sư của quý quốc phối hợp tiêu diệt hải tặc là việc hàng đầu, không biết quý sứ đã có phương án để thương nghị hợp tác chưa?

Đại Nội Nghĩa Dũng và Tế Xuyên Trừng Minh nghe vậy, thần sắc đều căng thẳng, đều liếc quá nhìn nhau cẩn thận, thân thể không tự chủ được nghiêng về phía trước một chút. Mới vừa rồi là thông thương với nhau, đó là đường ai nấy đi, không quấy nhiễu lẫn nhau, nhưng cùng Đại Minh phái ra thủy sư, phối hợp tiêu diệt hải tặc, cái này lại liên quan đến quân sự.

Hiện nay các thế lực đều nổi lên, là thời đại mà các phương đều tự xưng hùng, một chi thủy sư hùng mạnh có tác dụng rất lớn đối với việc thống nhất Đông Doanh của bọn hắn. Tộc Tế Xuyên và tộc Đại Nội hiện giờ là hai thế lực lớn mạnh nhất, nếu ai có thể nắm giữ đội thủy sư này, làm nó không ngừng lớn mạnh trong quá trình tiêu diệt đám cướp tứ hải, thì sẽ có tác dụng lớn nhất đối với tương lai độc bá thiên hạ. Hai vị sứ giả tự nhiên đều muốn biết ý kiến từ phía Đại Minh, muốn đoạt được sứ mệnh ngon lành này.

Dương Lăng thu thần sắc của hai người kia vào trong mắt, nhớ tới Thành Khởi Vận từng nói: "Người mua có hai, chúng ta có thể nâng giá. Giá bán có hai, chúng ta có thể ép giá" liền không khỏi lộ ra ý cười. Hắn đương nhiên sẽ không tùy tiện để cho một trong hai thế lực thừa cơ phát triển an toàn, dù sao Đại Minh cũng phải tổ chức và thành lập bốn tổ Thủy sư, đề nghị các tổ thủy sư của đối phương lần lượt hợp tác với Đại Minh, duy trì sự cân bằng trong thế lực của họ.

Vì vậy, hai bên vừa thành lập tổ thủy sư để hợp tác lại vừa giương đao múa kiếm, cò kè mặc cả với nhau.

Dương Lăng cực kì coi trọng đối với việc này bởi hắn tự có nguyên nhân của mình. Biển cả mênh mông, các thế lực như Triều Tiên, Lưu Cầu, Lã Tống, Bành Hồ, Đài Loan nhiều như cờ như sao, cùng với Đại Minh kiếm chế lẫn nhau. Trong khu vực và trong các bộ tộc của Đông Danh, cho dù các thế lực thi nhau nổi lên tranh bá nhưng đến hiện tại thì Đông Doanh vẫn là cường đại nhất.

Dương Lăng dự định để Đại Minh bỏ cấm vận trên biển, giao thông với nhiều quốc gia, tăng cường tiếp thu tiến bộ khoa học kĩ thuật và chế độ tiên tiến của các quốc gia, duy trì vị thế đi trước của Đại Minh trên thế giới. Muốn duy trì một vùng vùng biển an toàn, lực lượng thủy sư mới xây dựng của đại mình còn lâu mới đủ sức, do đó việc này còn cần có sự phối hợp của phía Đông Doanh nữa.

Huống chi giặc Oa đi rồi thì vẫn còn hải tặc. Dương Lăng còn nhỡ rõ khi đi du lịch trên biển đã từng đọc qua một ít tư liệu, nói các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha tới Đại Minh từ xa ngàn dặm, đã lấy Bành Hồ, Đài Loan làm cơ sở để cắm rễ, liền một mạch là mấy trăm năm, chính là dựa vào buôn lậu để tồn tại.

Bọn chúng lợi dụng tình thế cấm vận trên biển, không thông thương với nước ngoài của Đại Minh, ở giữa trở thành trùm buôn lậu, nhờ đó phát triển ngày càng lớn mạnh, cho đến khi thu hút được sự chú ý của các nước phương Tây đối với mảnh đất màu mỡ phương Đông, hơn nữa dã tâm của chúng không ngừng bành trướng, luôn có ý định dùng vũ lực để chiếm lấy thượng phong.

Hiện giờ Đại Minh chủ động gỡ bỏ cấm vận trên biển, hải tặc phương Tây lấy việc buôn lậu sống qua ngày đã không còn. Nhưng những đội tàu của phương Tây lúc đầu khi chu du thế giới thì phần lớn mang tính chất là hải tặc, trong tình huống không có lợi thế, bọn chúng có thể tùy thời biến hóa nhanh chóng, từ bọn buôn lậu hóa thân thành hải tặc, như vậy dù giặc Oa không có, thì cũng sẽ xuất hiện hải tặc.

Nếu chỉ trông vào một phương Đại Minh đến tiêu diệt giặc Oa và hải tặc, không biết sẽ phải trả bao nhiêu xương máu, tiền của. Nếu trong quá trình này có cả lợi ích của cả hai nước, như vậy sao không để bọn họ phải xuất một phần lực lượng? Chỉ có quét sạch, quét gọn đám hải tặc mới có thể làm cho bên kia từ bỏ dã tâm cường đạo, thành thành thật thật buôn bán cùng Đại Minh.

Về phần cơ hội phát triển của Thủy sư Đông Doanh, Dương Lăng ngược lại không hề thấy lo lắng, trước mắt lấy thực lực và cơ sở mạnh mẽ của Đại Minh, trong quá trình phát triển khẳng định còn nhanh hơn bọn họ nhiểu.

Trong một ngày tất nhiên không thể giải quyết hết thảy công việc, nhưng hiển nhiên Đại Nội Nghĩa Dũng và Tế Xuyên Trừng Minh đều vô cùng có thành ý, song phương đều thống nhất ý kiến trong rất nhiều chuyện. Mở cửa thông thương trên biển là việc mà Dương Lăng dốc hết sức để xúc tiến, đây cũng là việc chính quan trọng nhất của hắn.

Hiện tại một phương phản đối mở rộng thông thương trên biển chỉ đang tạm thời thất bại, bọn họ một mặt chờ đợi những người đứng đầu hồi kinh, một bên luôn chú ý tất cả những cuộc thương nghị về mở rộng thông thương. Chỉ cần xuất hiện chỗ sơ hở, bọn họ sẽ nhanh chóng nắm bắt để đánh ra một kích cuối cùng, cho nên Dương Lăng tất nhiên sẽ không dám khinh thường, mắt thấy hiện tại có hiệu quả không khỏi mừng thầm trong lòng.

Song phương đàm phán từ sáng tới trưa, cùng nhau ăn trưa xong Dương Lăng và Vương Hoa mới cáo từ đi về. Nội dung đám phán hôm nay Vương Hoa còn muốn cầm về sửa sang lại, đồng thời để chuẩn bị bàn bạc công việc vào ngày mai cho nên vội vàng chắp tay cáo từ với Dương Lăng, quay trở về Lễ Bộ.

Dương Lăng cũng nhanh trở về kể lại việc thương nghị hôm nay cho mưu sĩ thiếp thân Thành Khởi Vận để có tính toán cho bước tiếp theo. Nắng xuân nhẹ nhàng, ấm áp chiếu vào thôn trang, những người nông dân đang cần cù lao động trên những bờ ruộng thẳng tắp, vài người dắt trâu kéo cày, thợ thủ công trong nhà xưởng đang học cách gieo hạt ngô; ở triền núi trồng đầy những dưa chuột, khoai tây đang đúng mùa thu hoạch Khung cảnh này gợi cho người ta một cảm giác phồn vinh, sung túc..

Dương Lăng chạy về sân, trong viện yên tĩnh, hơi gió nhẹ nhàng phảng qua. Vân nhi đang ngồi dưới hành lang, tay cầm khung thêu, đã dựa vào cột gỗ ngủ say từ bao giờ. Ngoài kia vài con chim sẻ lười biếng ngẫu nhiên đi tới đi lui trên con đường nhỏ rải đá vụn.

Dương Lăng cũng không đánh thức nàng, nhẹ nhàng bước qua, trực tiếp rẽ về hướng nội thư phòng, Thành Khởi Vận mặc một bộ áo bào trắng thủy mặc, môi hồng răng trắng, phát ra vẻ phong tình vô hạn. Áo choàng kia không có đai lưng, có vẻ vừa rộng vừa túy ý, ngẫu nhiên vừa động, áo choàng phiêu đãng liền có thể cảm nhận được eo thon nhỏ nhắn cùng ngọc thể duyên dáng của nàng.

Thấy Dương Lăng tiến vào, Thành Khởi Vận lả lướt đứng dậy, nhẹ nhàng tiến lên chào đón, nở nụ cười nói: - Đại nhân, hôm nay nghị sự thế nào rồi?

Dương Lăng nói: - Ta thấy những vẫn đề quan trọng được đưa ra, cả hai bên cũng không có quá nhiều ý kiến phản đối. Chỉ có điều ở một vài chỗ còn liên quan đến việc phân chia nội bộ của bọn họ, có lẽ còn phải thương nghị thêm, phỏng chừng phải qua thêm hai, ba ngày mới có thể mời Hoàng thượng triệu kiến cống sứ được.

Thành Khởi Vận vui mừng động nhan sắc, đầu lông mày giương lên nói: - Như thế càng tốt, ta thấy ngài làm việc, cứ nhấp nhổm không yên. Gần như mọi chuyện đều phải liên quan đến đao kiếm, không thấy máu là không phân cao thấp, lúc này cuối cùng cũng bình an, thuận buồm xuôi gió rồi.

Dương Lăng bật cười nói: - Nói gì vậy? Cứ như bản quan giống như sao chổi vậy.

Hắn vừa dứt lời, Vân nhi đã vội vàng chạy vào, hấp tấp nói: - Lão gia quả nhiên đã trở lại rồi.

Dương Lăng cau mày nói: - Sao không gõ cửa một tiếng đã vào rồi? Ta về phủ thì có gì ngạc nhiên chứ?

Vân nhi lắp bắp nói: - Không phải, lão gia, là lão quản gia bảo ta đi mời lão gia tới tiền sảnh, có Binh bộ Thị lang Lưu Vũ, Lưu đại nhân xin gặp.

- Hử? Dương Lăng và Thành Khởi Vận không khỏi liếc nhìn nhau một cái. Lưu Vũ nguyên là Đô ngự sử. Sau khi Lưu Đại Hạ bãi quan, Tiêu Phương liền bố trí hắn vào Binh bộ, tạm thời đảm nhiệm chức vụ Thị lang, mục đích cuối cùng là muốn hắn tiếp nhận chức vụ Thượng thư. Người này có thể xem như cùng phe với Dương Lăng, hắn vội vàng tới là có chuyện gì quan trọng?

Dương Lăng vội nói: - Ta đi xem một chút.

Thành Khởi Vận trở về bên cạnh bàn, nhặt lên một cái đai lưng màu tím từ trên ghế, rồi nhanh chóng buộc ở bên hông, vừa nói: - Dù sao cũng là khách đến chơi nhà, lại không phải người ngoài, ta đi cùng đại nhân vậy.

Hai người vội vàng đi tới phòng chính, chỉ thấy Lưu Vũ thỉnh thoảng xoa xoa hai tay, mồ hôi đầy đầu, đi đi lại lại, vừa thấy Dương Lăng đi ra liền mừng rỡ nói: - Đại nhân, đại sự xảy ra rồi. Đại nhân phái ra thị vệ đại nội, đã dặn đi dặn lại, nhưng đám đại gia hầu hạ hoàng thượng này đâu có để đám Oa nhân trong mắt chứ

Hắn còn chưa dứt lời, Dương Lăng đã động dung:

- Làm sao vậy? Thị vệ đại nội phát sinh xung đột với người trong sứ đoàn sao?

Lưu Vũ dậm dậm chân nói: - Đâu có, sứ đoàn của Oa nhân du ngoạn trên phố, những tên lãng nhân bình thường này bọn thị vệ đâu có để trong mắt, nên chả có ai đi theo để coi chừng cả. Cái đám Oa nhân này, từ lúc triều đại sơ lập, mỗi lẫn tới triều cống phải làm náo loạn một phen mới chịu về thì phải! Có một tên Oa nhân lên là Hà Dã Quy Tứ Lang, một mình uống say trên phố, mượn rượu giả điên, chọc ghẹo con cái của chủ tiệm, kết quả nảy sinh cãi vã với chủ tiệm, lúc đánh nhau tên Oa nhân lại đẩy lão chủ tiệm vào trong nồi đun canh, hầm tươi... tươi tươi sống luôn.

Sắc mặt Dương Lăng chợt biến đổi, con ngươi Thành Khởi Vận vừa động, liếc mắt nhìn Dương Lăng một cái, vội hỏi: - Vậy hung thủ đâu?

Lưu Vũ nói: - Tên Oa nhân này tưởng say nhưng thật ra lại rất tỉnh táo, một mạnh chuồn về Tứ Di quán, trốn bên trong. Bởi sự việc này có liên quan đến vấn đề ngoại giao nên ngự sử tuần thành không dám tự tiện chủ trương, hắn phái binh trước tiên vây quanh Tứ Di quán, sau đó trình lên Thuận Thiên Phủ doãn, xin được bắt hung thủ, nhưng Thuận Thiên Phủ doãn Trương Hữu Trương đại nhân cũng không dám làm chủ, lại trình lên Tam Pháp Ti

Chư vị đại nhân của Tam Pháp Ti cho rằng man nhân từ trước đến nay không học tập lễ nghi, hơn nữa là say rượu lỡ tay, mặt khác cũng là vì ngưỡng mộ thiên nhan mà đến triều cống, nếu nghiêm trị sẽ rời xa nhân tâm. Năm Thành Hóa, khi Oa nhân đến triều bài cũng từng bên đường đâm chết người, Hoàng thượng lấy cái cớ "Viễn di" để miễn tội cho hắn, vì vậy theo thông lệ chỉ có thể xin ân xá cho hắn.

Có người thì kiên quyết phản đối, cho rằng phải nghiêm trị hung thủ, cuối cùng làm loạn đến cả nội các, Lục bộ Cửu khanh đều trù trừ, nhất thời không dám quyết định, rồi chuyện này lại truyền đến tai Hàn Lâm Viện, Thái Học Viện, quần chúng bức xúc kích động, hiện tại chuyện này chuyện này động tĩnh quá lớn rồi.

Tiền nhiệm của Thuận Thiên Phủ doãn là Mưu Bân, bị Lưu Cẩn hại chết, sau đó đổi lại thành thân tín của hắn là Trương Hữu. Việc bỏ lệnh cấm thông thương trên biển có lợi đối với Ti Lễ Giám, y tự nhiên không muốn vì cái chết oan uổng của một ông lão bán hàng đầu đường mà cản trở con đường của Lưu Cẩn.

Về phần Tam Pháp Ti và Lục bộ Cửu khanh hiện tại có người của Dương Lăng, của Lưu Cẩn và một số lão thần của thời Hoằng Trị, ngoại trừ những lão thần này, bất kể là phe của Dương Lăng hay là phe của Lưu Cẩn, tự nhiên cũng muốn kiệt lực bảo vệ chủ tử, không muốn bởi vậy mà cùng sứ đoàn Oa nhân kết oán, bị hủy đại kế hợp tác.

- Say rượu mất chất là có thể vứt người sống vào nối nấu canh sao? Sắc mặt Dương Lăng trở nên xanh mét.

Lưu Vũ chần chừ một chút nói: - Dương đại học sĩ đã ra mặt đàn áp, yêu cầu Hàn Lâm Viện, Thái Học Viện tạm thời ổn định lại, Tiêu đại học sĩ phái ta tới xin ý kiến của ngài.

Hắn cũng biết Dương Lăng đối với việc thông thương trên biển đã bỏ ra rất nhiều tâm huyết, từ xưa có câu nhất tướng công thành vạn cốt khô, vì làm được một chuyện lớn, cầu được lợi ích lâu dài, hi sinh vô số tính mạng thì có tính là gì, muốn làm một chính khách có đủ tư cách, nhất định phải có máu lạnh.

Nghĩ đến đây, Lưu Vũ không kìm nổi, nhắc nhở một câu: - Đại nhân, năm Hoằng Trị thứ chín, Đông Doanh cử hòa thượng Nghiêu Phu Thọ Minh làm chính sứ, từng tiến cống triều đình ta, khi quay về, đi đến địa phận Tế Ninh tỉnh Sơn Đông thì có võ sĩ trong đoàn cầm đao giết người, triều đình của ta cũng hạ chỉ đặc xá, để sứ giả của Đông Doanh mang về nước nghiêm trị.

Hắn nói tới đây liền không nói nữa, ý tứ trong đó cũng rõ ràng, các đời hoàng đế trước giờ đều là áp dụng một quốc sách này, đại nhân ngài coi như vì làm đại sự mà tha cho lãng nhân của Đông Doanh kia, có thông lệ của tiên đế khi trước, mặc cho đủ loại bá quan khác có phẫn nộ thế nào, cũng đâu dám làm gì ngươi.

Thành Khởi Vận thuở nhỏ đã nếm trải đủ bất hạnh, không người trợ giúp, sớm đã dưỡng thành tính cách lòng lang dạ sói, nếu không phải là người mà nàng thật lòng trân trọng, yêu quý thì đừng mong tưởng nàng tỏ lòng thương hại, nhưng bởi nàng cùng Dương Lăng kết giao đã lâu, hiểu rất rõ đối với hắn, nên tất nhiên biết được tính tình của Dương Lăng.

Nàng có lòng khuyên Dương Lăng tạm thời ẩn nhẫn, đợi sau khi hiểu được ý đồ của sứ đoàn Oa nhân rồi mới quyết định có nên bắt cái tên Hà Dã Quy kia hay không, đây là phương pháp xử lí có lý trí nhất, dù sao những tính toán của Dương Lăng cũng liên quan đến lợi ích của cả ngàn vạn con người. Nhưng lời nói đến miệng, nàng lại chỉ mấp máy môi, rồi lại ngậm miệng không nói.

Nhìn ánh mắt như phun lửa của Dương Lăng. Thành Khởi Vận yên lặng không nói gì, thầm nhủ: "Nếu việc này thật sự bị tất bại chỉ bởi chuyện trừng phạt tên Hà Dã Quy, ta sẽ một lần nữa tận lực. Hắn hiện tại muốn làm cái gì, ta cũng sẽ theo hắn, bất kể đúng hay sai"

Dương Lăng cảm thấy cực độ phẫn nộ, nhưng cũng không phải không tỉnh táo suy xét khả năng ảnh hưởng đối với sứ đoàn Đông Doanh. Nhưng cho dù Đại Minh đặc xá cho bọn chúng, cho dù hắn có bỏ qua việc này, vua và dân ai cũng không làm thay đổi được ý kiến của hắn. Mặc dù hắn đã dần dần dung nhập vào Minh triều của thế giới này, nhưng trong chuyện này hắn bất kể thế nào cũng không thể dùng tư duy của một chính khách triều Minh để tự suy xét được.

Dương Lăng bỗng nhiên ngẩng đầu lên, nhìn thẳng Lưu Vũ, từng chữ rành rọt: - Nhanh đi, thông báo cho Tiêu các lão, lập tức bắt giữ hung thủ, sao đó chuyển giao cho Đông Xưởng. Người này, nhất định phải giết! Hơn nữa phải giết một cách công khai! Giết theo mức xử phạt cao nhất! Giết kiểu ăn miếng trả miếng! Ta sẽ đi gặp Hoàng thượng ngay bây giờ.

Quần thần tụ tập hết thảy bên ngoài Báo Phòng, còn có mấy trăm học sinh của Thái Học Viện đang tranh cãi ấm ĩ, Đại Nội cấm quân và cẩm y vệ vây quanh Báo Phòng đến mức gió mưa không lọt.

Quan viên của Lục bộ Cửu khanh trong kinh thành, tam đại học sĩ của nội các cùng với vài vị lão thần đức cao vọng trọng đã tiến vào Báo Phòng, mãi mà không thấy đi ra, bởi vậy quần thần và đám học sinh của Thái Học Viện bắt đầu náo động.

Dương Lăng cưỡi ngựa tới, bốn phía yên tĩnh lại, dưới sự yểm trợ của thân binh tách ra một con đường riêng, Dương Lăng và Lưu Vũ cùng sánh vai mà đi, phía sau là một đám thị vệ.

Đám người sau một hồi an tĩnh, đột nhiên có người hô to lên: - Oa nhân hung tàn, giết người trên đường, không trừng phạt hung thủ, trời đất không dung.

Sau tiếng hô này, đám người lại xôn xao hẳn lên, Dương Lăng lạnh lùng nhìn lại, chỉ thấy đám Thái Học Sinh gương mặt đỏ gay, tâm lý quần chúng dâng cao, đám quan viên còn lại tuy sắc mặt giận dữ, tiếng quát cũng cao cút, nhưng ánh mắt vẫn bình tĩnh, căn bản không giống với đám Thái Học Sinh vốn không hỏi thế sự, bị kích động bởi cảm xúc oán giận, trong lòng hắn cũng đã có chút minh bạch.

Nói cho cùng, ở thời đại này một tên dân đen chết đi, rất khó để thực sự đánh động được đám đại nhân vật cao cao tại thượng này, trong đó tuy rằng cũng có một số quan viên thật sự bức xúc phẫn nộ, nhưng phần nhiều chạy tới đây gây rối vẫn là vì có những ý đồ khác.

Không giết sứ thần Đông Doanh, cứ theo lệ ngày trước mà làm, hơn nữa lại là thông lệ có từ tiền triều, bọn họ căn bản không làm gì khác được, ai dám ra mặt hạch tội? Như vậy chẳng khác nào không coi liệt đại tiên hoàng vào đâu, điều này cũng giống như khi nghị triều, Dương Thủ Tùy đưa ra tổ chế về " Triều cống" như là một lợi khí hộ thân.

Nhưng mà thông qua chuyện này, lại cũng sẽ tạo áp lực rất lớn cho bản thân về vấn đề đạo nghĩa, phát động toàn bộ sĩ tử và bách tính trong thành, đủ để biến mình trở thành kẻ bị ngàn người chỉ trích, là đối tượng mà mọi người thóa mạ, thanh danh tốt đẹp trước đó cũng theo đó mà trôi đi mất.

Một ngự tiền hồng nhân quyền cao chức trọng nhưng tiếng xấu đồn xa như vậy, bọn họ trong quá trình đối đầu cũng sẽ tiện hơn rất nhiều.

Nếu tự mình bức bách mà giết sứ thần Đông Doanh, khi bọn hắn muốn sẽ có thế phá hư mọi cố gắng của mình trong việc gỡ bỏ lệnh cấm thông thương trên biển, từ đó gián tiếp thắng lợi.

Tính toán của bọn họ cũng không tệ, mục tiêu rõ ràng, thủ đoạn cũng không hề ngu xuẩn, bởi Oa nhân, từ sáu lần triều cống thời đại Vĩnh Lạc tới nay ngày càng kiêu căng, đã không cam lòng xưng thần với Đại Minh như trước nữa. Lần này bọn họ đến triều cống cũng đã nằm ngoài dự liệu của mọi người rồi.

Nếu như Đông Doanh còn là lúc nhỏ yếu, triều đình Đại Minh tất sẽ miễn tội cho những sứ giả quấy rấy sinh sự, giết người làm loạn, nhưng hiện tại xử trí bọn chúng bằng pháp luật, như vậy đ㴠triều cống này còn có thể tiếp tục nữa sao?

Dương Lăng bên môi không khỏi hiện lên một nụ cười lạnh. "Bất kể thế nào, xử hay tha, thì chuyện Oa nhân giết người cũng gây ra cho mình tổn thất cực lớn, hoặc là về danh dự chính trị, hoặc là tiền đồ chính trị.

Chỉ tiếc bọn họ biết một không biết mười, Thiên Hoàng của Đông Doanh đã mất, ngay cả kinh phí an táng đều không có, các thế lực giống như thiên hạ thời Hán mạt, coi Thiên Hoàng cũng giống như Hán Hiến Đế, mỗi người đều mang dã tâm, bằng mặt không bằng lòng. Thiên Hoàng kế nhiệm thậm chí còn phải lấy việc bán tranh chữ để kiếm sống, ở những nơi các thế lực tranh dành nhau, quân đói dân khổ, những tình huống này bọn họ biết sao chứ?

Ta cũng cần phải lựa chọn sao? Căn bản không cần thiết! Hiện tại, đám này vốn là mềm nắn rắn buông, hẹp hòi tự lợi, ý đồ bắt ta phải lựa chọn quyết định đúng đắn. Hoặc là tôn nghiêm! Hoặc là lợi ích! Bọn họ sẽ lựa chọn như thế nào?" Dương Lăng trên lưng ngựa ngẩng đầu lên thật cao.

Cửa chính Báo Phòng từ từ mở ra, cẩm y vệ khom người thi lễ với Dương Lăng, chúng quần thần đứng ở cửa, Dương Lăng cưỡi ngựa hiên ngang mà vào, Lưu Vũ lại nhảy xuống ngựa, bước nhanh vào theo. Mấy người Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh được hưởng đặc quyền cưỡi ngựa trong cung. Ở Báo Phòng cũng không ngoại lệ, nhưng Lưu Vũ cũng không được hưởng loại đãi ngộ này.

Bên trong Báo Phòng cực kì rộng lớn, Chính Đức ngồi ở giữa, quần thần phía trước đang cực lực dùng lí lẽ phân tích, nhân cơ hội này muốn đả kích chính sách thông thương trên biển, cực lực yêu cầu nghiêm trị hung thủ, đi theo phe Lưu Cẩn, quy tắc của Dương Lăng trở thành đề tài bị phản bác.

Bất ngờ nhất chính là vài vị ở Hàn Lâm Viện, vài vị nguyên lão Ngự Sử Đài vốn căm thù Dương Lăng đến tận xương tủy, không ngờ lại dốc hết sức chủ trương đối xử khoan dung, lại cũng muốn đem chuyện này truyền đi khắp các nước chư hầu, thể hiện trái tim bao dung, tấm lòng bác ái của Thiên triều Đại Minh.

Bọn họ làm như vậy hoàn toàn không có tư tâm, mà là do tư tưởng vị thế Thiên triều cùng lễ nghi quốc gia khắc sâu vào tận xương tủy. Cái cảm giác ưu việt sâu sắc này, khiến bọn họ cho rằng lấy ơn báo oán, không chấp nhặt cùng đám man nhân nước chư hầu mới chính là đại trí đại tuệ, bởi vậy không ngờ cũng bỏ qua tư thù cá nhân với Dương Lăng mà cực lực khuyên bảo nên đối xử hậu đãi.

Cốc Đại Dụng vẫn một mực mong chờ việc thông thương trên biển sớm triển khai, tự mình có thể đến hô phong hoãn vũ vùng duyên hải. Nếu như có thể dẫn hạm đội khổng lồ của Thiên triều đi tung hoàng thiên hạ giống như Trịnh Hòa - Trịnh công công, thì chẳng những tư lợi, quyền lực có thể như ý, mà cho dù không có con cháu cũng có thể lưu danh thiên cổ, đó là khoái ý bậc nào chứ?

Mắt thấy quần thần đều nghị luận, Cốc Đại Dụng lòng nóng như lửa đốt, chỉ sợ vị Chính Đức Hoàng Đế vốn luôn muốn nổi bật này, không theo tiền lệ của tổ tiên mà thật sự giết luôn sứ giả. Nhưng hiện tại hắn cũng không có chức quyền, quần thần nghị sự không có chỗ cho hắn chen vào, đúng lúc sốt ruột khó chịu, chợt thấy Dương Lăng đi vào, trong lòng không khỏi cảm thấy mừng rỡ, lấy thân phận của Dương Lăng đủ để hoàng thượng phải coi trọng, vấn đề này coi như an toàn rồi.

Cốc Đại Dụng vội vàng cao giọng hô: - Uy Vũ Hầu, Trụ Quốc thượng tướng quân Dương Lăng yết kiến.

Quần thần nghiêm túc hẳn, Dương Lăng vội vàng đi tới hành lễ bái kiến Chính Đức, sau đó hỏi: - Hoàng thượng, thần nghe nói Oa nhân ở giữa phố đông người hành hung giết người, một nửa binh lính của Binh Mã Ti đang vây Tứ Di quán, hiện tại quân tình phẫn nộ, cho nên vội vàng đến đây cầu kiến Hoàng thượng, không biết chư vị đại nhân nghị luận đã có kết quả thế nào rồi?

Chính Đức bất đắc dĩ nói: - Chư vị ái khanh lo lắng đều có đạo lí, vì vậy trẫm cũng đang lo lắng không yên, Dương khanh tới thật đúng lúc, mau nghĩ giúp trẫm. Oa nhân thô lỗ dã man, không ngờ giết người giữa phố, theo lý mà nói thì giết người đền mạng, vốn nên trừng phạt thật nặng, nhưng

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 240: Luộc sống Hà Dã Quy

Chính Đức do dự một chút nói: - Theo thông lệ của tiên triều, triều đình của ta từ trước đến nay khi hậu đãi triều cống, chưa từng xử lý sứ thần theo pháp luật. Thời tiên hoàng tại vị, sứ giả Oa nhân giết người ở Tế Ninh cũng được miễn tội chết, hiện tại nếu như trừng trị sứ giả sẽ khiến các nước chư hầu tâm ý nguội lạnh, lại trách thiên triều ta khí lượng hẹp hòi.

Lại bộ Thị lang Trương Thái là người của Lưu Cẩn nhất mạch, thấy Dương Lăng đến không khỏi tinh thần đại chấn, chậm rãi nói: - Hoàng thượng, thánh nhân từng dạy "Thiên sinh dân tính hữu thiện chất, nhi vị năng thiện, vu thị vi chi lập vương dĩ thiện chi, thử thiên ý dã.

Hoàng thượng là người đứng đầu bốn bể, chư hầu triều phục, cũng khao khát nhìn thấy thiên nhan, có trái tim hướng thiện. Hoàng thượng thánh đức cương minh, nếu như lấy nhân hậu để trị thiên hạ, dung hợp bốn bể thì thiên hạ đều cảm tạ ân đức, như nhiên sẽ có thể cảm hóa những thứ bướng ác.

Lão thần Dương Thủ Tùy luôn trung thành và tận tâm, tuy nói rằng mở thông thương trên biển là chủ trương của Dương Lăng, nhưng hắn cũng không muốn giết sứ giả Oa nhân rồi các nước phiên bang sẽ âm thầm nhạo bang thiên triều, nên cũng ra tấu, nói:

- Truyền bá thanh danh tới bát phương, để cho nhân đức bao trùm thiên hạ luôn là quốc sách của Thiên triều, cũng là quốc sách của mọi triều đại, chư vị tiên hoàng ai cũng lấy khoan dung, độ lượng mà đối đãi, thể hiện khí độ vô song của triều đình ta. Kính xin Hoàng thượng xem xét kĩ lưỡng.

Lý Đông Dương phản đối nói:

- Hoàng thượng, lời của Dương đại nhân cố nhiên có lý, nhưng Oa tộc mặt người dạ thú, mềm nắm rắn buông, không biết nhân nghĩa, ăn cháo đá bát, đây chính là thiên tính.

Bọn chúng mỗi khi triều cống Đại Minh ta từ trước tới nay đều gây chuyện, có thể thấy được giáo hóa ban ơn cũng không có tác dụng. Đức để trị trong nước, Hình là để dọa tứ di (các nước chư hầu xung quanh), thần cho rằng tội chết có thể miễn nhưng tội sống khó tha.

Với đề nghị trừng trị hung thủ của Lý Đông Dương, hóa ra cũng không thật sự dám động tới chữ "giết", Dương Lăng nghe đến đó không khỏi than thầm một tiếng. Rộng rãi, bác ái với giống man di quả nhiên là truyền thống từ trước đến nay của Trung Hoa.

"Chớ nói lúc này Oa nhân chưa có uy hiếp với Đại Minh, cho dù đời sau này Oa nhân có là đao phủ, hai tay nhuốm máu tươi, trở thành quốc thù của người Hoa, thì không phải chúng ta vẫn phải nuôi chúng ăn ngon mặc đẹp, lấy nhân tính vượt qua cả phạm trù " bác ái" để hi vọng cảm hóa được đám cầm thú này sao?

Nhưng khổ tâm là thế, nhưng kết quả thì thế nào? Đại bộ phận trong đó được thả về nước, nhưng vẫn cực đoan thù hận người Hoa, ý đồ hung tàn xâm lược chưa từng giảm đi."

Dương Lăng nghĩ đến đây, tiến lên một bước, vái thật dài, cung kính nói: - Hoàng thượng, thần mạo muội góp lời. Thần cho rằng lời của Trương đại nhân, Dương đại nhân là sai rồi. Lời của Dương đại học sĩ cũng không thỏa đáng.

- Hử?

Quần thần lập tức dựng lỗ tai lên, muốn hiểu rõ lời hắn nói. " Khoan thứ", " nghiêm trị" hai phe tranh đấu nãy giờ, hắn muốn nói thêm gì đây?

Dương Lăng xúc động nói: - Oa nhân khi ôn hòa thì như xử nữ, khi tàn bạo thì như dã thú, đủ loại biểu hiện kì thật chẳng qua là mềm nắm rắn buông mà thôi.

Lời nói đầy khí phách của hắn không ngừng vang vọng trong đại sảnh yên lặng: - Muốn cảm hóa để bọn chúng nghe lời, chẳng khác nào đàn gảy tai trâu, thường sẽ khiến cho chúng thấy thụ sủng ái mà kiêu căng, chẳng những không biết dụng tâm khổ sở của thiên triều ta, ngược lại còn xem chuyện giao hảo với thiên triều là một loại thủ đoạn, làm nghiêm trọng hơn, lại không có chỗ nào cố kị, một khi phạm lỗi sẽ mang cái gọi láng giềng hữu hảo, hòa thuận để làm bình phong, cò kè mặc cả.

Cho nên thần cho rằng, thay vì cảm hóa bọn xấu, chẳng bằng hành hình để thị uy.

Dương Thủ Tùy thiếu kiên nhẫn nói: - Đại nhân, dựa theo tổ chế

Dương Lăng nói tiếp: - Như vậy cũng không vi phạm tổ chế, nên hiểu hiện giờ hai nước sắp mở rộng thông thương, cùng với tình hình triều cống đơn thuần trong quá khứ hoàn toàn không giống nhau, sau này dân chúng đi lại thường xuyên, tất nhiên có man nhân gây chuyện sinh sự, cũng có con dân của Thiên triều hám lợi mà lừa gạt, việc đảm bảo thực hiện luật pháp vô cùng cấp bách.

Lúc này, bất kể là thần tử thiên triều ta hay là sứ thần đến triều cống, càng nên làm gương để cho dân chúng sau này còn đi lại, nếu không trên làm dưới theo, về sau tất nhiên sẽ không thể vãn hồi, vì vậy ta nghị chẳng những phải trừng trị, hơn nữa phải nghiêm trị thật nặng để răn đe.

Dương Lăng nhướng mày, lầm lẫm nói: - Thần xin Hoàng thượng hạ chỉ, lập tức bắt thủ phạm hành hung, giao cho Tam Ti Pháp xử lý theo mức hình phạt cao nhất, Thiên triều lộ rõ nhân đức, nhưng cũng không thể làm giảm oai nghiêm.

- Hoàng thượng, mẹ chiều con hư, đòn roi con ngoan! Một đứa nhỏ dạy mãi không hiểu đạo lý, chỉ có thể cho nó chịu đau thì về sau mới biết nghe lời.

Tiêu Phương già đời giảo hoạt, vừa thấy Dương Lăng xuất hiện, chỉ biết những kế sách của mình không được dùng đến, hết thảy chỉ nghe mọi người tranh luận, cho nên nãy giờ vẫn không tỏ rõ thái độ, lúc này nghe được lời Dương Lăng lập tức đớp lời nói: - Thần tán thành!

Đám người Lưu Vũ cũng không ngớt phụ họa, Lý Đông Dương và Dương Đình Hòa liếc nhau, cũng đều gật đầu vuốt cằm.

Chính Đức hoàng đế nhìn phản ứng của mọi người, nhếch miệng cười nói: - Nói rất đúng! Cứ làm thế đi, Binh Mã Ti lập tức bắt hung thủ, giao phó Tam Ti hội thẩm, đem cái tên Dã Quy gì đó phá phách hàng ăn phạt ở khung hình cao nhất.

Lúc chính ngọ, ngũ thành Binh Mã Ti nhận được thánh chỉ, xông vào Tứ Di quán bắt sống tên Hà Dã Quy Tứ Lang đi, căn bản không thèm để ý sự kháng nghị và cản trở của đám người Đại Nội Nghĩa Dũng.

Đại Nội Nghĩa Dũng và Tế Xuyên Trừng Minh bừng bừng giận dữ, ngồi nghiêm chỉnh chờ Vương Hoa và Dương Lăng ra mặt giải thích, không ngờ ngồi suốt đến trưa, ngay cả một tên quan Lễ Bộ cũng không được phái đến.

Mãi cho đến ngày thứ hai. Bọn họ mới nghe nói Dương Lăng và Vương Hoa tới Tứ di quán, hai người vội vàng đi đến Hội Tân lâu, đợi một lúc lâu mà không thấy người tiến vào, buồn bực phái võ sĩ tâm phúc hiểu được tiếng Hán đến thăm dò, thấy báo lại là Đại Minh Lễ bộ Thượng thư Vương Hoa và Dương Lăng tướng quân đang ở một phòng khác gặp sứ thần Phác Ân Hy của Triều Tiên.

Hai người đầy một bụng hồ nghi, chén trà uống cạn mấy lần mới thấy Dương Lăng và Vương Hoa ý cười đầy mặt, thản nhiên đi đến. Hai người sắc mặt không vui, miễn cưỡng nghênh tiếp Dương Lăng và Vương Hoa vào trong.

Sau khi phân chủ khách, Đại Nội Nghĩa Dũng nén tức giận, cúi đầu thi lễ nói: - Hai vị đại nhân, gia tướng của tại hạ Hà Dã Quy uống rượu say, lại cũng bởi ngôn ngữ bất đồng mà phát sinh xung đột với người ta, đến nỗi lỡ tay hại chết người, tại hạ thật sự thấp thỏm lo âu, nay hướng hai vị đại nhân thỉnh tội.

Dương Lăng mặt cười mà lòng chán ghét, nói: - Đại Nội tiên sinh xin mau mau đứng lên, luật pháp Đại Minh nghiêm minh, có tội thì phạt, không tội thì tha, Đại Nội tiên sinh không cần phải quá lo lắng, nên thỉnh tội với quốc vương quý quốc. Làm đại sứ, ta thật không tiện xen vào.

Dương Lăng đưa mắt nhìn qua, thấy thần sắc hai người bất đồng, trong lòng âm thầm tính toán.

Đại Nội Nghĩa Dũng trên mặt hiện lên chút thần sắc vui mừng, nho nhã lễ độ thở dài: - Thiên triều thượng quốc quả nhiên khoan thứ nhân hậu. Tại hạ vui lòng phục tùng. Hà Dã Quy bị Ngũ thành Binh Mã Ti bắt đi, đại nhân phải chăng nên theo lệ cũ giao phó hắn cho tại hạ để xử trí.

Đương nhiên, vốn muốn giải thích cho Hoàng đế bệ hạ cùng dân chúng Đại Minh, bản sứ hẳn là nên lập tức nghiêm trị hắn theo luật phát Đông Doanh, tuy nhiên chấp hành luật pháp của Đông Doanh ở Đại Minh, có phần vô lễ với Hoàng đế bệ hạ, như vậy bản sứ sẽ đưa hắn về nước, thỉnh tội với đại vương, nghiêm trị theo luật pháp.

Dương Lăng kinh ngạc nói: - Gia tướng của các hạ giẫm lên chính là thổ địa Đại Minh, giết chính là người của Đại Minh, xúc phạm luật pháp Đại Minh, tự nhiên hẳn là dựa theo luật pháp Đại Minh để trừng trị, nay lại muốn dẫn về Đông Doanh để xử lý, đây là đạo lý gì?

Tế Xuyên Trừng Minh trong mắt chợt lóe, không khỏi liếc mắt nhìn Đại Nội Nghĩa Dũng một cái, sắc mặt Đại Nội Nghĩa Dũng biến đổi, liền cười nói: - Như vậy... Đại nhân muốn xử lý như thế nào?

Dương Lăng hời hợt nói: - Bản quan cũng không phải là hình quan, không rõ việc này cho lắm, tuy nhiên giết người thì đền mạng, thiên hạ đâu cũng vậy, ta nghĩ đại khái như thế đi.

Đại Nội Nghĩa Dũng giận giữ:

- Dương đại nhân, Hà Dã Quy Tứ Lang là gia tướng của ta, hắn mang thân phận võ sĩ, giết chết bình dân cũng đâu cần phải đền mạng.

Vương Hoa vỗ tay nói: - Đại Nội các hạ an tâm chớ nóng vội, mới rồi Dương đại nhân đã nói, hắn hành hung ở Đại Minh ta, tự nhiên phải bị xét xử theo luật pháp của Đại Minh, Trung thổ thượng quốc, từ trước đến nay vương tử phạm pháp, xử như thứ dân. Võ sĩ của quý quốc, ở Đại Minh ra chả lẽ cũng được hưởng đặc quyền sao?

Hắn cười ha ha: - Hôm qua Đại Nội tiên sinh có nhắc đến vấn đề thương nhân quý quốc khi trước không được luật pháp Đại Minh bảo hộ, hành động này của chúng ta chính là để thể hiện quyết tâm mở rộng thông thương trên biển, bất kể là người nước ta hay nước ngài, đều sẽ đối xử bình đẳng như nhau.

Người của quý quốc tới đây, muốn được luật pháp bảo hộ thì đồng thời cũng phải chịu luật pháp trói buộc. Hôm nay Hà Dã Quy Tứ Lang phạm pháp phải đền tội, tin rằng sau này đám người muốn làm loạn sẽ biết kiềm chế hơn, như vậy đối với việc hợp tác của chúng ta sẽ càng có lợi.

Dương Lăng cười dài nói: - Đúng vậy, Hoàng thượng vốn nhân hậu, muốn xử lý khoan dung với hung thủ, định dùng hình rồi đưa hắn đi đày làm nô dịch ở Mã Đa, nhưng ta tin tưởng Đại Nội tiên sinh không muốn bao che hung thủ, nhận ơn huệ nằm ngoài pháp luật của hoàng thượng, cho nên mới muốn hoàng đế ta nghiêm trị.

Mã Đa: một huyện thuộc châu tự trị dân tộc Tạng Golog (Quả Lặc), tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc.

Dùng hình, hơn nữa lại còn đi đày làm nô ở Mã Đa?... Đó là nơi nào? Như thế nào chưa từng nghe đến? Là đi khai hoang hay là đi chăn dê? Đây là ơn huệ ngoài vòng pháp luật của Hoàng đế Đại Minh sao? Đại Nội Nghĩa Dũng nghe mà trong lòng khó chịu, miệng phát khổ.

Sĩ khả sát bất khả nhục, nếu rơi vào kết quả như vậy, toàn bộ Đông Doanh cũng sẽ phải hổ thẹn, như vậy không bằng để hắn chết đi là xong chuyện. Đại Nội Nghĩa Dũng tuyệt đối không thể tưởng tượng được triều đình Đại Minh hiện giờ lại cường thế đến vậy.

Hắn cắn chặt răng, trầm giọng uy hiếp: - Quốc vương Vĩnh Chính triều ta mộ thiện, có lòng muốn giao hảo với Đại Minh, nhưng hiện giờ nghị đàm chưa định, vậy mà lại chém sứ thần trước, chỉ sợ điện hạ sẽ không vui, nếu như vậy, vấn đề có liên quan đến triều cống và hợp tác, bản sứ cần phải chờ thêm chỉ thị từ trong nước nữa.

Dương Lăng mặt mày hớn hở nói: - Như vậy càng tốt, bản quan đồng thời tiếp đón các nước, thật sự là bận quá, nếu quý sứ cần chờ thêm một thời gian nữa, ta cũng vừa lúc phải nghị sự với các nước Triều Tiên, Lưu Cầu, Lã Tống, An Nam. Đại Nội tiên sinh không cần sốt ruột, cứ từ từ xin chỉ thị của quốc vương ngài cũng được.

Tế Xuyên Trừng Minh nghe vậy trong lòng vừa động, vội nói: - Cái này xin mạo muội hỏi một chút, các nước đó cũng đến đây là vì dỡ bỏ cấm vận trên biển, mở rộng thông thương với nhau sao?

Vương Hoa tiếp lời: - Đúng vậy, các nước nghe hỏi đều rất vui mừng, hiện giờ cũng đang có đặc phải viên ở kinh sư, đang tìm hiểu sách lược thông thương trên biển của triều đình ta.

Hôm qua, sứ giả của quốc vương Lưu Cầu có đến nói, bởi nước nhỏ lực yếu, khó có thể đảm bảo hải vận an toàn, cho nên thỉnh cầu Thiên triều phái binh đến chiếm giữ cảng biển Lưu Cầu, hiệp trợ thông thương trên biển với Đại Minh, ha ha, bọn họ sớm không chịu nổi hải tặc quấy nhiễu, liên tiếp tấu lên hi vọng Thiên triều nhanh chóng phái binh tiến vào chiếm giữ, hiện tại bất quá là lại thêm một cái lí do nữa thôi.

Dương Lăng cũng nói: - Mới vừa rồi đặc phái viên của Triều Tiên xin gặp, cũng hi vọng Thiên triều tăng số lương trú binh, cùng nhau giữ yên hải cương để tránh ảnh hưởng tới cơ hội buôn bán tốt đẹp này.

Đại Nội Nghĩa Dũng và Tế Xuyên Trừng Minh nghe xong không khỏi chấn động, bọn họ không biết kế sách khai hải của Đại Minh cũng phải gần hai ngày mới giải quyết dứt khoát, các nước còn không kịp phản ứng, trong lòng chỉ nghĩ: "Thủy sư Đại Minh hiện tại có năng lực viễn chinh? Thậm chí còn phái binh tiến vào chiếm giữ hải ngoại sao? Nhìn bộ dáng chắc chắn của họ như thế, nếu như Thủy sư Đại Minh quả thực có năng lực tiến vào chiếm giữ Lưu Cầu và Triều Tiên, như vậy ưu thế của Đông Doanh chắc chắn sẽ mất hết.

Khi đó Đại Minh còn cần gì phải hợp tác với Đông Doanh? Hai nước này gần trong gang tấc, chỉ sợ trong một thời gian ngắn, Đại Minh sẽ luyện đươc Thủy sư dũng mãnh, một Nam một Bắc, kiềm chế Đông Doanh ở chính giữa, chẳng những không có được lợi lộc gì từ việc thông thương trên biển, mà còn bị người khống chế, mọi hành động đều phải nhìn sắc mặt Đại Minh mà làm."

Sắc mặt Đại Nội Nghĩa Dũng cứng đờ, Tế Xuyên Trừng Minh vội nói: - Vĩnh Chính điện hạ trước khi ta đi sứ cũng đã từng nghiêm dặn, nói phải tuân thủ luật pháp của Thiên triều, không được tùy ý làm bậy, rối loạn luật pháp, chỉ cần Đại Minh có thể công chính phá án, ta nghĩ điện hạ nghe được chuyện của Hà Dã Quy Tứ Lang cũng sẽ không có ý kiến gì.

Dương Lăng nghe xong khẽ mỉm cười, hắn sớm đoán được Tế Xuyên Trừng Minh sẽ tuyệt đối không vì một người ngoại tộc mà làm mất đi cơ hội tăng thêm thế lực của đại gia tộc. Ngay cả Đại Nội Nghĩa Dũng hẳn cũng đang so cứng với triều đình, nghĩ lại chút phong thanh về chuyện hôm qua quần thần tranh luận kịch liệt, có người tán thành biện pháp khoan thứ, hắn chắc cũng nghe được chút phong thanh rồi.

Tuy nhiên, có được lợi ích lớn từ việc mở thông thương trên biển, hơn nữa vừa rồi lại còn cố ý tiết lộ tin tức cho hắn. Chỉ cần Đại Nội Nghĩa Dũng không phải dạng vũ phu ngu xuẩn, hắn sẽ đưa ra một lựa chọn sáng suốt. Quả nhiên, Đại Nội Nghĩa Dũng chỉ có một con đường, đành nhẫn khí nói:

- Một khi đã như vậy, tại hạ còn có một yêu cầu hơi quá đáng, hi vọng có thể được cho phép.

Dương Lăng mỉm cười: - Các hạ mời nói, chỉ cần là việc nằm trong khả năng, nhất định sẽ không từ chối.

Đại Nội Nghĩa Dũng nói: - Nếu phải trừng trị Hà Dã Quy, lấy mạng đền mạng, xin đại nhân giao hắn cho tại hạ, bản sứ sẽ bắt hắn phải mổ bụng tạ tội, cũng tự mình chấp hành giới thác.

Dương Lăng không chút nghĩ ngợi, lập tức lắc đầu nói: - Thật đáng tiếc, Đại Minh không có quy định về dùng hình phạt riêng, mức xử phạt cao nhất là để răn đe, sợ rằng tự sát sẽ chẳng mang lại ý nghĩa gì.

Hắn liếc mắt sang Tế Xuyên Trừng Minh rồi lại nói: - Đại Nội tiên sinh cứ yên tâm, lúc hội thẩm còn có thể mời hai vị sứ giả lên Tam Ti Pháp để giám sát công chính. Hôm nay trước khi đến đây, chúng ta muốn tiến thêm một bước hiệp đàm liên quan đến tổ chức thủy sư, hợp sức tiễu trừ hải tặc, hợp tác quân sự giữa thủy sư hai bên, cấp dưỡng bến tàu. Về phần Hà Dã Quy, bất quá chỉ là một phạm nhân đợi chết, có gì đáng tiếc chứ?

Tế Xuyên Trừng Minh nghe tới đây, tập trung tinh thần, giành nói trước: - Về việc này, quản lĩnh đại thần của gia tộc Tế Xuyên trước khi chúng ta đi sứ vẫn luôn nhắc nhở, phi thường nguyện ý hợp tác cùng Thủy sư Đại Minh, tự bắc mà nam, dọn sạch hải tặc trên biển.

Theo chúng ta biết, ngoại trừ một vài kẻ liều mạng kêu gọi nhau tụ họp trên hải đảo của Đại Minh và Đông Doanh, bây giờ còn có hải tặc đến từ phương Tây, thường xuyên quấy nhiễu hải cương, thế lực bọn chúng còn đang ở góc tây nam, chắc hẳn vẫn chưa dám trực tiếp công kích quấy rối Đại Minh.

Tuy nhiên cường đạo luôn nặng về tiền tài, lòng tham không đáy, đám cường đạo từ xa tới ngày càng nhiều hơn, thế lực đang mở rộng dần lên phía bắc. Vì tĩnh thanh hải cương, càn quét giặc cướp, Tế Xuyên gia tộc chúng ta nguyện chung sức hợp tác cùng Thủy sư Đại Minh, xin Vương đại nhân, Dương đại nhân xem xét nhiều hơn.

Đại Nội Nghĩa Dũng gặp phải chuyện của Hà Dã Quy Tứ Lang, lại là cho Tế Xuyên cơ hội, trong lòng âm thầm sốt ruột, gấp gáp nói: - Đại Nội gia tộc vốn có một chi Thủy sư, vì để bảo đảm đội tàu triều cống mậu dịch, nhiều lần hộ tống hộ giá, đả kích hải tặc, phi thường quen thuộc hải chiến, nếu Đại Minh muốn hợp tác cùng chúng ta, chúng ta nguyện ý toàn lực hợp tác với Đại Minh trên các phương diện kỹ thuật hải chiến, kỹ thuật chở hàng, trang bị quân giới.

Trong lòng Dương Lăng kì quái: - Chẳng lẽ hải tặc Tây Ban Nha hiện tại đã xuất hiện ở Biển Đông rồi hả? Trước kia lại chưa chú ý đến tình báo phương diện này, manh mối này vô cùng trọng yếu, xem ra trở về, khi vào triều phải chú ý hơn nữa.

Nguyên văn là Nam Hải, Khựa nó gọi Biển Đông mình - Nam Hải.

Hắn và Vương Hoa cười ăn ý, cúi người về phía trước, cùng bọn chúng bắt đầu nghị sự việc hợp tác Thủy sư.

Gia tướng Hà Dã Quy Tứ Lang của sứ thần Đại Nội Nghĩa Dũng thuộc đoàn cống sứ Đông Doanh giết người trên đường, hội thẩm ở Tam Ti Đại Lý tự, đặc sứ Đông Doanh Đại Nội Nghĩa Dũng, Tế Xuyên Trừng Minh đến tham gia hội thẩm.

Người phạm tội bởi liên quan đến vấn đề ngoại giao, vụ án trọng đại, cho nên thẩm vấn ở Tam Ti Pháp, giam giữ cũng tại Đông Xưởng, có Đới Nghĩa chủ trì tại đó, Hà Dã Quy Tứ Lang hẳn đã chịu không ít giày vò, nhưng khi thẩm vấn lại nhìn không ra đã bị chịu loại khổ hình nào rồi.

Hà Dã Quy Tứ Lang giết người trên đường, có rất nhiều nhân chứng, cũng không cần điều tra quá mức, Tam Ti Pháp vội vàng hội thẩm, tấu lên Hoàng đế. Đại Nội Nghĩa Dũng, Tế Xuyên Trừng Minh mắt thấy Hà Dã Quy đã không thể cứu được, cũng đành phải tùy theo đó mà tấu lên trên, vờ vịt thỉnh cầu nghiêm trị hung thủ để an ủi người chết, giữ sạch pháp luật kỉ cương.

Hoàng đế Chính Đức chấp nhận ý kiến của hai vị đặc sứ, lập tức hạ chỉ, trọng hình phạt ác, luộc chính hung thủ, cũng nghiêm dụ hai vị sứ giả chuyển cáo quốc vương Đông Doanh, sau này phái sứ giả phải dùng người cẩn thận, chớ dùng loại dã man.

Nhị sứ trợn mắt há mồm, vốn bọn họ chỉ theo lệ làm chút màu mè văn chương, từ trước tới nay Đông Doanh đặc sứ tới triều cống có rất nhiều người làm loạn, bọn họ theo lệ đều phải tấu lên trên để thỉnh tội, Hoàng đế cũng theo thường lệ mà ân miễn, chỉ có xá tội, chưa từng thêm tội. Hôm nay hành vi của vị tiểu Hoàng đế này cũng thật sự làm bọn hắn mở rộng tầm mắt, hai vị đặc sứ Đông Doanh lần này thật sự phải ngậm bồ hòn làm ngọt, có khổ không nói nên lời.

Đông Xưởng và quan lại Hình bộ áp giải Hà Dã Quy Tứ Lang ra đầu chợ bán hàng ăn. Đại Nội Nghĩa Dũng, Tế Xuyên Trừng Minh, toàn thể sứ đoàn cũng như Phác Ân Hy đang chờ tin tức trong nước, rồi cả đặc sứ An Nam Nguyễn Đại Hữu không có việc gì làm cũng được mời đến xem hành hình

Việc Oa nhân hành hung giết người đã truyền khắp kinh thành, dân chúng oán giận cực điểm, ý chỉ của Hoàng đế Chính Đức vừa ban xuống, vạn dân reo hò hả dạ.

Khổ hình của Đại Minh rất nhiều, chém eo, lột da, lăng trì, điểm thiên đăng đủ loại, đa dạng không cái nào giống cái nào, nhưng ngoại trừ đối phó với tà giáo loạn phỉ, phần lớn là hình phạt chém đầu. Về phần khổ hình như bỏ vào vạc dầu từ sau thời Vĩnh Lạc Hoàng đế Tĩnh Nan đoạt vị còn chưa dùng đến. Hôm nay Hoàng đế Chính Đức hạ chỉ dùng hình phạt đó, hơn nữa còn là dùng nước luộc chín, dân chúng kinh sư thứ nhất là giải hận, thứ hai là tò mò, đầu đường bán hàng ăn đã sớm tấp nập, vạn người chen chúc, một giọt nước cũng không lọt.

1. Minh Thành Tổ (chữ Hán: 明成祖, 2 tháng 5 năm 1360 12 tháng 8 năm 1424), tên thật là Chu Lệ (hay Đệ) (朱棣), dân tộc Hán, là vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị 1402 1424, tại vị 22 năm, niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂). Ông được coi là vị vua kiệt xuất nhất của triều đại nhà Minh, và là một trong các hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử của Trung Quốc. http://vi.wikipedia.org/wiki/Minh_Thành_Tổ

Đầu chợ bán đồ ăn dựng tạm lều hành hình, ba thước phía trước là đài cao đắp bằng đất đỏ, một cái nồi sắt to tướng được đặt ở chính giữa, thành nồi dày bằng cái miệng chén, nồi lớn trên rộng dưới hẹp, đường kính bốn thước, sâu hơn hai thước, bên trong đổ đầy nước, phía dưới chất đầy củi tẩm đầu. Quan hành hình cao giọng đọc tóm tắt nội dung vụ án, sau đó tuyên đọc ý chỉ của Chính Đức Hoàng đế.

Hàng nghìn, hàng vạn dân chúng đồng thời quỳ xuống, sứ giả các nước cũng quỳ xuống đất nghe chỉ, quan hành hình đọc xong thánh chỉ, từ trong hộp lấy ra một lệnh tiễn nửa đỏ nửa đen, hung hăng ném về phía trước, quát: - Đến giờ, đưa phạm nhân ra, lập tức hành hình.

Trên người Hà Dã Quy cuốn một sợi dây thừng thô to, rắn chắc, hai tay hai chân bị buộc chặt cùng một chỗ sau lưng, nằm trên một chiếc xe lừa, bốn đại hán mặc áo đỏ để hở bụng, khăn đỏ trùm đầu khống chế bốn góc dây từng, nâng Hà Dã Quy lên đài cao rồi ném vào trong nồi sắt.

Hà Dã Quy Tứ Lang sợ đến vỡ tim nát mật, nhưng miệng hắn bị đút vải bố, tứ chi bị trói xoắn lại sau lưng, hô cũng không hô được, động cũng không động được, vì sợ nước chảy vào lỗ mũi, hắn không thể không dùng sức mà nâng cái đầu lên, trợn tròn đôi mắt hoảng sợ, cầu xin thương xót, ánh mắt hối hận chìm nổi trong nước

Ngọn đuốc ném vào, liệt hỏa bùng lên, nước ấm dần dần được đun nóng, khổ hình dần dần thấm vào xương tủy, so với tư vị bị ném vào vạc dầu sôi, một cỗ khói nhẹ bốc lên, da thịt bị thiêu đốt cháy sém, trong khoảnh khắc mất mạng lại hoàn toàn bất đồng, đám sứ thần đến xem đều hết hồn, sắc mặt thảm biến.

Khổ hình của Đại Minh bọn họ sớm đã nghe thấy, cùng từng nói chuyện qua, chỉ có điều khổ hình này luôn chỉ áp dụng với người Đại Minh, đây là lần đầu tiên có người ngoại quốc bị dùng hình.

Sứ thần đến triều cống xưa nay đều ngang ngược kiêu ngạo hống hách, làm việc vốn không kiêng nể gì, căn bản không để mạng người trong mắt, như khi bọn họ nhìn thấy người mình phải chịu loại khổ hình này, khi bọn họ nghe được tiếng gào thét từ lỗ mũi, từ yết hầu của Hà Dã Quy truyền ra ngày càng thảm thiết, ngày càng thê lương, từ trong lòng họ bỗng nhiên nảy sinh một loại cảm giác kính sợ từ đáy lòng đối với mảnh đất này cùng với những con người nơi đây.

Từ nay về sau, cho đến hết đời, với đám sứ thần đầu tiên đến Đại Minh để mở rộng thông thương trên biển này, bọn họ cho dù là tới đây làm thương nhân hay làm sứ quan trú tại Đại Minh, thì thủy chung vẫn luôn yên phận, không một kẻ dám dám xúc phạm vào luật pháp Đại Minh.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 241: Bừng tỉnh đại mộng

Mùng 9 tháng 3 năm Minh Chính Đức, sứ thần Đông Doanh Đại nội Nghĩa Dũng, Tế Xuyên Trừng Minh phụng mệnh Đông Doanh Vĩnh Chính quốc vương, triều kiến Đại Minh thiên tử.

Măt trơi mơi lên phía đằng đông, ráng màu vạn dặm, đặc phái viên các quốc gia đứng trang nghiêm trước Thái Hòa điện, lộ xa, bộ liễn, long đình, đại tượng, tuấn mã trưng bày trong ngoài Ngọ môn. Trong đình Thái Hòa điện, đan bệ hạ tới nội Thái Hòa môn, tinh kỳ phất phới, đao thương san sát, các tướng quân Đại Hán ngạo nghễ đứng thẳng.

Sau khi Lưu Đại Hạ từ chức, Lưu Vũ lấy thân phận Binh bộ Thị lang tạm thời thay quyền Thượng thư, điều động kinh quân và biên quân thay quân, ít ngày nữa bốn trấn Đại Đồng, Tuyên Phủ, Diên Tuy, Liêu Đông sẽ suất quân vào kinh đóng giữ kinh sư, Dương Lăng bây giờ là Trụ Quốc Long Hổ Thượng Tướng Quân, Thống soái tổng binh bốn trấn, tước lộc tới Uy Võ Hầu, tự nhiên có quyền lên cung vàng điện ngọc thảo luận chính sự, cho nên cũng áo mãng bào đai ngọc, quần áo chỉnh tề tới trước cửa cung.

Lục bộ Cửu khanh và huân tước hầu tước trở lên đứng ở nhóm thứ nhân, Hàn Văn đứng ở trong đó, sắc mặt âm trầm không rõ vui mừng. Y ở Bắc Cương nghe nói trong kinh có biến, tức giận hổn hển chạy về kinh đến, thế nhưng đại thế qua rồi, lục bộ cửu khanh trong kinh trừ y ra hoặc là phái Lưu Cẩn hoặc là phái Dương Lăng, lấy lực lượng một mình hắn, một bàn tay không vỗ nên tiếng, không sinh ra chuyện gì.

Giờ mẹo canh ba, hai tiếng trông vang, văn võ bá quan, huân thần công khanh theo cửa Ngọ môn từ từ tiến vào Tử Cấm thành, ấn thân phận, cấp bậc, nha môn, đứng trang nghiêm trong đình viện Thái Hòa điện.

Tiếng ba cây roi vang lên, trống đập một lần, nhạc tấu "rồng bay uốn khúc", Chu Hậu Chiếu cưỡi voi điều khiển liễn, hổ báo mở đường, được các quan dẫn đường ngự Thái Hòa điện, ngồi lên ngai vàng. Văn võ bá quan quỳ xuống lễ bái, tung hô vạn tuế.

Thời khắc nghiêm túc như thế, Chính Đức Hoàng Đế vẫn cười cười không hề tỏ vẻ trang trọng, tuy nhiên hai đầu lông mày toát khí thế hăng hái, cũng rất có khí oai hùng. Y từ từ ngồi xuống nói: - Các khanh bình thân!

Văn võ bá quan đứng lên. Phân loại tả hữu, Lưu Cẩn cầm phất trần đứng một bên, cất giọng nói: - Tuyên sứ giả đại nội Đông Doanh Quốc triều cống Thiên triều Nghĩa Dũng, Tế Xuyên Trừng Minh yết kiến!

Chi tiết về Đại nội Nghĩa Dũng, Tế Xuyên Trừng Minh, Dương Lăng đã sớm rõ đồng thời cũng đã tiêu tan sớm toàn bộ ngạo khí, từ ngoài Ngọ môn đi tới, nhìn thấy hoàng gia khí thế bậc này liền sinh ra kính sợ. Hai người một cầm tiến biểu, một cầm lễ thư, được lễ quan dẫn đường tiến vào đại điện, tới vị trí được an bài dừng lại, cung kính quỳ xuống thiên tử Đại Minh.

Đại nội Nghĩa Dũng dâng tiến biểu, dùng Hán ngữ cao giọng tuyên tụng: - Đông Doanh Quốc Vương Thần Thắng Nhân kính thượng minh Chính Đức Hoàng Đế bệ hạ, hoàng thiên hậu thổ, tề tụ về Trung Hoa, cam lộ khánh vân, đời đời ca tụng. Bởi vậy Thiên Khải Đại Minh, Vạn bang tất bị quang bị, biển không gợn sóng, Trung Quốc giờ đây thái bình. Phàm là dẫn suất, ai không những dựa vào.

Khâm duy bệ hạ là thánh là thần, duy văn duy võ, hào quang Nghiêu Thuấn nhị điển. Hơn Hán Đường phục hưng. Thiên hạ Đại Minh bố khắp thiên hạ, xa gần đồng nghiệp ngắm vọng Trường An, thủy chung một tiết. Tư Đặc sứ giả Đại nội Nghĩa Dũng cúi mình trước đình khuyết, nhìn lên thánh từ. Khúc xét trung tố, kính cẩn nghe ngóng. Thần Thăng Nhân kinh sợ, khấu đầu cẩn ngôn.

Đại nội Nghĩa Dũng tuyên xong tiến biểu, Tế Xuyên Trừng Minh lại nâng lễ thư nói: - Thần Thắng Nhân kính thư tới Hoàng Đế bệ hạ: Đông Doanh Quốc khai mở tới nay, đều thông thăm viếng tới thượng bang. Đạo Nghĩa Hạnh nắm quân đội triều chính, trong nước không lo. Đặc biệt tuân quy pháp từ thời cổ, mà cùng người Tế Xuyên Trừng Minh qua lại giao hảo.

Hiến phương vật: Tán kim vỏ, cán đại đao 2 thanh, vỏ sơn đen vỏ cán đại đao 100, thương 100, trường đao 100, kiếm 10, áo giáp 1 chiếc, đồng hoàn 1 chiếc, lưu hoàng mười ngàn cân, mã não lớn nhỏ hai mươi khối, thiếp vàng bình phong ba bộ, nghiên mực một hộp, Đồng Văn đài một. Thắng Nhân kinh sợ, khấu đầu cẩn ngôn.

Chính Đức Hoàng Đế nghe xong, trong lòng âm thầm tính toán, tuy rằng những lễ vật này y cũng không để vào mắt, tuy nhiên quy mô so với năm đó khi tiến phụng lễ vật lên Vĩnh Lạc đế còn quý trọng hơn, xem ra Dương khanh nói không sai, Đông Doanh Quốc Vương thật đúng đã hạ vốn gốc, đem toàn bộ của cải hoàng thất vét sạch rồi.

Trong lòng Chính Đức sảng khoái, mặt mày rạng rỡ nói: - Lai sử xin đứng lên. Lưu Cẩn tiếp nhận quốc thư Đông Doanh. Vương Hoa thay trẫm tuyên chỉ.

Lưu Cẩn vội chỉ huy điều hai tiểu hoàng môn tiếp hai vị sứ giả, lễ thư hiện lên trước mặt Chính Đức.

Vương Hoa chậm rãi tiến lên, trước hướng Chính Đức thi lễ. Sau xoay người hướng quần thần tuyên: - Phụng thiên thừa vận Hoàng đế chiếu viết: Cống phú lực dịch, biết lễ nghi, đạt đến luân thường quân thần phụ tử, hiệu viết Trung Quốc. Mà ở ngoài Trung Quốc có thể mộ nghĩa mà đến vương giả. Tư Nhĩ Đông Doanh Quốc Vương Thắng Nhân, trong lòng còn có vương thất, hoài yêu quân chi thành, vượt qua ba đào, hàng ngày triều bái, trẫm rất ngợi khen...

Đại Minh trước đây, các nước triều cống lễ vật luôn luôn hơn gấp mười lần, ra tay cực xa xỉ, Dương Lăng suy nghĩ có ăn hết cũng không chiếm tiện nghi, chế độ triều cống lập tức sẽ danh nghĩa, sửa thành dân gian thông thương, lúc này đây phục lễ cũng không cần quá phóng khoáng.

Hơn nữa Chính Đức Hoàng Đế nghe Dương Lăng kể rõ Đông Doanh Quốc Vương thậm chí còn cần phải bán tranh chữ duy trì chi phí vương thất liền cảm thấy người đứng đầu quốc gia này cũng quá đáng thương, thể nên ban thưởng lễ vật khá dày, lăng la tiền tài, tranh chữ điển tịch, thậm chí cả đồng tiền thập vạn thù, cũng chính thức tuyên bố giải trừ cấm biển, các nước tự do thông thương.

Dương Lăng đứng ở trên điện, nghe toàn bộ ý chỉ tuyên bố xong liền thở ra một hơi, nhìn ánh mặt trời bên ngoài, trong lòng của hắn kích động không ngừng: Chuyện quan trọng nhất trong chuyện đại sự rốt cục đã hoàn thành!

Từ thời Chu Nguyên Chương hùng tài đại lược, nhưng đối với biển rộng lại không biết chút nào, Hoàng đế lần đầu làm ra việc cấm hải từ trước tới nay chưa hề có đã làm đứt quãng tới toàn bộ người Hán, lịch sử quốc sách cứ như vậy kết thúc.

Không có thông thiên vật liệu thông thiên vĩ địa, lạc quan mơ hồ, nhưng ta hoàn thành đại sự này liền giống như bắt đầu xuất hiện cục diện đáng buồn, tương lai con đường đi như thế nào, tin tưởng sáng tạo ra điều vĩ đại nhất, dài lâu nhất trong lịch sử văn minh Trung Quốc, có thể đưa ra một lựa chọn chính xác...

Ấu Nương làm thêu thùa, Liên nhi và Cao Văn Tâm cũng hiểu nữ công nhưng cũng không quá tinh thông, liền ngồi bên cạnh cùng nàng trò chuyện, khi thì đưa qua kim khâu và vải, không biết ba người tán gẫu gì mà thỉnh thoảng lại phát ra tiếng cười.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên ở một cửa sổ khác trong sảnh, ngồi ở trên giường La Hán, tay cầm tranh tiêu quản, khúc nhạc u nhã thỉnh thoảng vang lên.

- Thị trường mậu dịch Tái Bắc đã mở, trong quân mua sắm vào rất nhiều lương mã Mông Cổ, dân gian giao dịch thường xuyên, thế không tồi. Ý của ta là đợi cho dân chúng có lợi nhuận. Đồng ý buôn bán với phương Bắc thậm chí ngay tại chỗ định cư sẽ tăng lên nhiều.

Nghĩ như vậy là do, tửu quán, tiệm ăn, quán đánh bạc, kỹ viện, nhà trọ, phiếu hành, xa mã đều phải mở, đều phải dùng người, có thể thuê lừa người và người Nữ Chân, đương nhiên cũng sẽ có rất nhiều người Hán có sở trường. Hơn nữa phái người đi chăm ngựa đấy, giáo dục người Mông Cổ và người Nữ Chân học tập cày ruộng như người Hán...

Đóa Nhan tam vệ và Nữ Chân tam bộ nhân số không nhiều, bên trong bộ tộc cũng vô cùng hỗn độn. Bởi vậy thường dùng quan hệ thông gia để liên kết hai bộ tộc, cứ như vậy, ty chức nghĩ chỉ cần mười năm là có thể không đánh mà thắng, đồng hóa toàn bộ khu vực Liêu Đông khu vực.

- Ừ! Dương Lăng nửa nằm trên ghế trúc trong thư phòng, khẽ vuốt cằm nói: - Ta đã cùng Hình Bộ nói qua, sau này có phạm nhân thì không được sung quân Thanh Hải, Quý Châu, Vân Nam, hết thảy chuyển tới Liêu Đông.

Cày ruộng buôn bán đều có thể. Ngoại trừ người tội ác tày trời, dùng hình phạt định cư giảm tội, cứ như vậy, họ có thể mang theo không ít người nhà, hàng năm số dân di dời có thể đạt tới trên vạn người. Lợi dụng địa phương hợp pháp giữ lại thuế phú cho bọn họ vay, cho trâu cày, cung cấp chút phương tiện, bọn họ có thể ở có an tâm khai phá.

Thành Khởi Vận tự nhiên cười nói. - Đại nhân kế này tuy rằng thong thả, nhưng cũng là kế quá cơ bản, dù sao đó là nơi dị tộc định cư, nếu cưỡng ép chiếm giữ, trừ khi giết toàn tộc, nếu không, căn bản không thể ở cưỡng chế dị tộc nhân tâm quy phục.

Nhưng cứ thay đổi một cách vô thức, khi bọn họ mặc hán y, nói tiếng Hán, mà ngay cả ăn cơm ngủ nghỉ đều học tập người Hán. Mở to mắt nhìn quanh đại bộ phận đều là người Hán. Bọn họ không ý thực được mình đã bị người Hán chinh phục. Ha ha. So với kế động đao, lực sát thương còn đáng sợ hơn quân lực trăm vạn người.

Dương Lăng khẩn trương mở mắt ra nói: - Không cần nói nữa, ngàn vạn lần không cần nói nữa, mấy hôm trước nàng mới khen ta không động việc binh đao, ở cửa chợ bán đồ ăn, ta cẩn thận ngẫm nghĩ một chút, khá là tà môn đấy, mỗi lần xử lý một chuyện đại sự, dù sao cũng phải thương lượng với vài người, chỉ mong Liêu Đông không gặp chuyện gì xấu, nếu không...

Thành Khởi Vận phì cười, che miệng nói: - Đại nhân cũng có lúc sợ hãi sao? Người ta thật không nhìn ra, đại nhân nhã nhặn như vậy mà thủ đoạn quá tàn nhẫn, một đám người sống cứ thế chậm rãi luộc thành mục nát. Ôi, thủ đoạn ác liệt như vậy không ngờ lại được dân chúng kinh sư thổi phồng thành vạn gia sinh Phật.

Thành Khởi Vận mặc áo hoa tiêu màu tím, áo khoác sa sam hoa văn bong bóng cá màu trắng, bên ngoài quần lụa trắng là một lớp váy lụa thêu hoa bách hợp làm bằng tơ tằm, dưới chân là một đôi giầy thêu, mái tóc đen quấn kiểu 'Nga đảm tâm kế" gương mặt như phù dung, da như tuyết, không chỉ có dung nhan xinh đẹp mà mỗi một cái nhăn mày một nụ cười ở trước mặt Dương Lăng càng thêm xinh đẹp đáng yêu, thực sự trông như tiểu cô nương kém hắn tới vài tuổi.

Dương Lăng nói: - Đây vẫn chưa là gì, nếu chậm thêm năm trăm năm làm ra chuyện như vậy, chỉ sợ không chỉ có dân chúng kinh sư hoan hô nhảy múa.

- Cái gì? Ánh mắt Thành Khởi Vận lóe sáng, nghi hoặc hỏi.

Dương Lăng bỗng nhiên cười nói: - Lúc này là lễ hoa nở rồi, lệnh cấm biển cũng mở, ta nghĩ tương lai sẽ khác đi, ha hả, nếu như vậy, năm trăm năm sau dân chúng cũng sẽ không có loại thù hận này.

Thành Khởi Vận không biết hắn đang nói chuyện gì, tuy nhiên nàng thông minh ở chỗ biết muốn lấy lòng nam nhân thì phải giả bộ hồ đồ, nàng quyết không đi sâu vấn đề mà chủ động nói tránh đi: - Tình hình bên Bá Nhan thế nào?

Dương Lăng nói: - Chính như chúng ta sở liệu, Hỏa Si đã cùng bộ tộc Ngõa Lạt kết minh, bắt đầu vọng động, bọn họ khống chế bộ lạc hai lần khiêu khích bộ lạc Bá Nhan của Khả Hãn, nhưng Bá Nhan cũng không ngu xuẩn, nín nhịn tránh việc tình huống lan rộng, nhưng cũng không thể tránh né, uy danh của y bị làm nhục, bộ lạc chư hầu đã nhiều có bất mãn, chỉ la do y là hậu duệ trực hệ của Kim gia tộc, là Khả Hãn danh chính ngôn thuận, mặc dù đại bại nhưng hiện tại vẫn chưa có người nào dám công khai tạo phản.

Thành Khởi Vận sóng mắt duyên dáng uyển chuyển, bật cười nói:

- Đông Xưởng trong triều không phải ngồi không chứ? Nghĩ đến đang lúc chế tạo đủ loại lời đồn, khi nào Hải hoàng sau mới xuất hiện?

Dương Lăng cười nói: - Không thể gạt được ngươi, ta đang muốn bọn họ làm bại hoại danh dự của Bá Nhan, bây giờ vẫn chưa phải lúc, nếu giờ đại chiến với cục diện mậu dịch và Liêu Đông sẽ chịu ảnh hưởng. Hơn nữa ta đánh giá bộ tộc Hỏa Si và bộ tộc Ngõa Lạt Địa hiện tại vẫn chưa phải đối thủ của Bá Nhan.

Có khi nhẫn nại cũng là một loại bản lĩnh, ta phải chờ tới khi nội bộ Bá Nhan lục đục, các bộ lạc đều bắt đầu sinh ý mới giao cho Hỏa Si, cho y một cái cớ thảo phạt Bá Nhan.

Thành Khởi Vận ngồi trên ghế nằm, hơi đầu lên nhìn vẻ mặt thản nhiên của Dương Lăng. Trong mắt mơ hồ lộ ra thưởng thức và vẻ ái mộ: - Hiện tại quan binh tứ trấn lục tục điều động quay về kinh sư, đại nhân chuẩn bị huấn luyện lính mới rồi sao?

- Không phải ta, mà là Hoàng đế, nhớ kỹ, điểm này ngàn vạn lần không thể sai, là Hoàng Đế bệ hạ phải huấn luyện lính mới Dương Lăng cải chính.

Hai người cách xa nhau chưa đầy ba thước, ngẩng đầu nhìn thấy dung nhan của mỹ nhân sông nước Giang Nam Thành Khởi Vận, gương mặt bạch ngọc với đôi mắt ngập nước ẩn chứa vô hạn tình ý, trong lòng Dương Lăng không khỏi rộn ràng.

Thành Khởi Vận hiểu ý cười nói: - Súng của giáo sĩ Nhã Các Tư Đẳng đã có tiến triển lớn. Súng kíp tầm bắn đạt đến sáu mươi trượng, xạ tốc so với truyền thống nhanh hơn vài lần, hơn nữa độ chính xác được đề cao, không sợ thời tiết như mưa. Đại nhân chuẩn bị trang bị mới toàn diện sao?

Dương Lăng lắc đầu nói: - Không thể phối hợp cùng với kỵ binh, cung binh, hơn nữa trước mắt xem ra còn chỉ dùng để thủ thành mới có tác dụng lớn, nhưng có tiến bộ lớn hơn nữa, súng kíp vẫn không thể đơn độc cùng kỵ binh tác chiến, hơn nữa chế tạo cũng không thể nhanh như vậy.

Nếu như có thể chế tạo lượng lớn loại pháo nhẹ, lực sát thương kinh người thì đó mới là binh khí sắc bén. Ngẫm lại xem, gặp quân địch đầu tiên là đạn hỏa dày đặc, sau đó kỵ binh hạng nặng xung phong, rồi tới bộ binh, xe binh phối hợp yểm trợ, như vậy đối phó với kỵ binh Mông Cổ mới bảo đảm phần thắng.

Đáng tiếc là tuy giờ nơi sản sinh ngựa đã được đảm bảo, huấn luyện xe binh, bộ binh, kỵ binh đều không có vấn đề, chỉ là hiện tại số pháo cồng kềnh, tốc độ bắn chậm, rất khó dùng để tiến công. Không có cách nào truy đuổi kỵ binh Mông Cổ. Ta vẫn chú trọng huấn luyện quân đội truyền thống hơn.

Hắn im lặng rồi chợt nói: - Theo ta được biết pháo Tây phương có sở trường này. Nếu như có hàng nhái tham khảo một chút thì tốt rồi, ta đã gọi người điều tra hồ sơ Binh bộ, Lễ Bộ, Hoằng Trị năm mười sáu ở Quảng Tây từng có một tên hải tặc phương Tây mắc cạn, trang bị pháo trên thuyền khác với Trung thổ ta, chỉ tiếc là không ai coi trọng, giờ pháo bị tháo thành các linh kiện không tìm được, ta đã hạ lệnh chú ý, nếu có hải tặc phương Tây lui tới, nhất định phải nghĩ các kiếm được pháo lên.

Thành Khởi Vận nhẹ nhàng nói:

- Thiên Tân, Ninh Ba, Tuyền Châu đã bỏ lệnh cấm mở biển, phân biệt thiết lập thuyền ti, hải quan nha môn, trong ba nơi, quy mô lớn nhất và giao dịch nhiều nhất chính là bến cảng Ninh Ba, Cốc Đại Dụng đã phụng chỉ xuôi nam chủ trì chuyện lạ phát sinh, tứ đại Thủy sư vốn là nội hải Thủy sư đang gây dựng cơ sở, hoa mầu tươi tốt... Nguyện vọng của đại nhân gần như đều thực hiện được hết, thật đáng mừng.

Dương Lăng tĩnh lặng, nhẹ nhàng nói: - Việc này, rất nhiều thứ dựa vào ngươi giúp ta bày mưu, nếu không chỉ dựa vào một mình ta chưa chắc đã làm được, thật sự đa tạ ngươi, việc này công đức thiên thu muôn đời, ta già rồi nhất định sẽ viết sách để hậu nhân ghi nhớ, có một vị nữ tử, xuất hiện lập nhiều công lao.

Thành Khởi Vận trong lòng đau xót: - Nguyện vọng của ngươi tất cả đều được thực hiện, nguyện vọng của ta ngươi có thể giúp ta thực hiện sao? Ta là một nữ tử, đâu muốn cái gì là lưu danh thiên cổ, hậu nhân nhớ rõ? Ta không thèm, chỉ thầm mong người trong lòng nhớ đến ta.

Nàng vừa nói đến đây thì bỗng nhiên cảm thấy tự ti cực độ, địa vị của Dương Lăng càng cao, nàng càng cảm thấy khoảng cách hai bên xa không thể chạm tới, hiện giờ chỉ có thể mong ngóng ở lại bên cạnh hắn, ngày ngày nhìn thấy hắn, trong lòng cũng đã thấy đủ rồi.

Nhưng hôm nay đại nhân cho gọi một mình mình là có ý gì đây?

Dương Lăng nam bắc đồng thời bắt đầu song song khởi động bỏ vốn lớn, triều đình vừa mới đã trải qua chiến sự trúc hoàng lăng và đại đồng, căn bản không thể gánh vác khoản chi nặng như vậy, mà bất kể là thu hoạch cải tiến hay thông thương lẫn nhau, ít nhất cũng phải sang năm mới có thể thấy hiệu quả, bởi vậy phải trù tính biện pháp khác.

Tổ chức và thành lập đội tàu viễn dương, lôi kéo sĩ tộc Giang Nam, tham gia nhà quyền quý, lấy ích lợi cộng đồng hình thành một ích lợi thể khổng lồ, lấy thành quả củng cố giải hải thông thương ở Giang Nam thậm chí toàn bộ Đại Minh, lợi dụng tài lực và mạng lưới quan hệ khổng lồ của họ để giảm bớt gánh nặng cho triều đình. Khiến cho tạo thuyền, thương vận, Thủy sư mượn dùng sức dân tiến hành, để tránh ngân khố quốc gia phải gánh quá nặng khiến kế hoạch thất bại, là nơi trước mắt Dương Lăng cực kỳ coi trọng, chả lẽ y muốn phái mình về Giang Nam sao?

Trong lòng Thành Khởi Vận bối rối, mi mắt rũ xuống, thử nói: - Chỉ cần đại nhân đạt được chí nguyện là tốt rồi, ty chức muốn biết... Đại nhân chuẩn bị an bài Liên nhi cô nương thế nào, còn nữa, ty chức ở lại trong triều hay về Giang Nam?

Dương Lăng suy nghĩ một chút nói: - Về Giang Nam đi.

Thành Khởi Vận sớm đoán được vài phần. Nhưng nghe Dương Lăng nói tuyệt tình không hề giữ ý, trong lòng không khỏi đau khổ, ảm đạm cúi đầu nói: - Vâng, ty chức hết thảy nghe đại nhân an bài.

Dương Lăng vô cảm nói:

- Thần lén hỏi qua Tiêu Các Lão, trung hiếu trung hiếu, nam nhân nhậm chức cho triều đình còn có thể để ý tới trung hiếu lưỡng toàn sao. Như đoạt tình sĩ công vụ, Liên nhi hiếu kỳ chưa biết, nếu để nàng biết, lấy hiếu đạo ngày thường trói buộc, tiên hoàng lại cực chú ý hiếu đạo. Ta sẽ cực kỳ bị động.

Giang Nam quá trọng yếu, Cốc Đại Dụng ta không yên lòng, sau này hai kinh phải thường thường lui tới, dù sao Liên nhi cứ cách thời gian phải xuất hiện trước mặt hàng xóm láng giềng. Mà công việc Giang Nam trừ ngươi ra ta lại không yên lòng giao cho người khác, không bằng quay về Giang Nam.

Hoá ra Dương Lăng cũng thường xuyên lui tới Giang Nam, vậy... chẳng phải là có nhiều hơn cơ hội một mình tiếp xúc? Thành Khởi Vận mở cờ trong bụng, gương mặt mỉm cười ngọt ngào.

Trương Vĩnh hùng hồn khí phách hiên ngang đứng trước mặt Chính Đức, hai đấm nắm chặt, gương mặt đỏ lên, lồng ngực phập phồng khiến Chính Đức nhìn muốn bật cười. Vội vàng khuyên giải nói: - Ngươi đừng vội, có gì gọi y tới hỏi là được, các ngươi đều là phụ tá đắc lực của trẫm, làm loạn cái gì chứ?

Trương Vĩnh tức sùi bọt mép, uyển chuyển vạn phần nói: - Thằng nhãi Lưu Cẩn càng lúc càng khốn khiếp, tự Hoàng thượng quyết định tứ trấn tổng binh vào kinh thành sư, quân tiền do trong triều trích cấp, Lưu Cẩn lại giả ngây giả dại. Không ngờ từ chối thánh ý. Đoạn tuyệt quân lương kinh doanh, muốn lão nô phải đi tìm Dương đại nhân bàn bạc. Cái gì có thể nhẫn nhịn được chứ cái này thì không thể?

Chính Đức suy nghĩ một chút liền đoán lời này quả là Lưu Cẩn nói, đó cũng là nói nhảm, bắt đầu từ kinh doanh quan binh dời trú biên cương, quân tiền vẫn do Hộ bộ đẩy Binh bộ, Binh bộ đẩy Ti Lễ Giám, rồi quay lại kinh doanh, nói cách khác, những người này còn đang dưới sự khống chế của Trương Vĩnh, nơi dừng chân làm điều động.

Tứ trấn tổng binh vào kinh, ngoại trừ hành chính vẫn trực thuộc ở ngũ quân phủ đô đốc, kỳ thật đồng đẳng với tư binh của Hoàng đế, cũng không thuộc Binh bộ, ngũ quân phủ đô đốc quản hạt, mà là trực tiếp cống hiến cho Hoàng đế, do Dương Lăng đảm nhiệm Thống soái. Cho nên trong triều xúc động quyết định, quân tiền của những người này do trong triều trả, cứ như vậy cũng tăng cường quan hệ giữa tứ trấn tổng binh và Hoàng đế, Chính Đức đương nhiên cao hứng, không thể tưởng được Lưu Cẩn nhìn tứ trấn tổng binh bị khống chế, mà chưa tức lồng lên.

Chính Đức ha hả cười nói:

- Lão Lưu là nhất thời nói nhảm, kinh doanh quan binh Ti Lễ Giám không đẩy bạc thì ai đẩy? Huống chi hiện tại ti thuế giam đã giao trả lại cho y cùng Hộ bộ, lão Lưu làm việc vẫn rất nghiêm túc....

Y nói đến đây, Lưu Cẩn đã kích động chạy đến. Hiện tại tuy nói cùng là Hộ bộ chưởng quản ti thuế nhưng dù sao cũng cảm thấy lưng cứng ngắc, so với cung vua không có tư vị gì.

Lưu Đại Hạ, Mã Văn Thăng tạm rời cương vị công tác, kinh sư xuất hiện một chỗ trống quyền lực lớn, rất nhiều quan viên đều băn khoăn xem chừng, không biết sẽ quăng đến môn hạ nhà ai, nếu chẳng may bái sai bến tàu, con đường làm quan nhưng sẽ chịu ảnh hưởng lớn.

Tâm phúc của Lưu Cẩn, Tùng Giang tài tử, tú tài thi rớt Trương Văn Miện thấy Cử Dương nhập phủ, thấy mưu kế dẫn lửa hồng không hiệu quả liền quyết định thay đổi sách lược, đóng vững đánh chắc, củng cố quyền sở hữu ruộng đất của Lưu Cẩn, dùng thế đè Dương Lăng, lúc này đem quyền lực các phái trong kinh tận lực quấy nhiễu Lưu Cẩn chính là việc cấp bách.

Nhưng có Dương Lăng ở trong kinh thành, chỉ cần bên này vừa thoáng động, mưu sĩ tài ba dưới tay y sao có thể không chú ý? Huống chi còn có phái Trương Thái, Lưu Vũ, Dương Lăng và Lưu Cẩn gió chiều nào xoay chiều đó, ủy quyết không được, trong bọn họ cũng khó có người không để lộ tin tức với Dương Lăng, vì thế Trương Văn Miện noi theo Dương Lăng, cũng chuẩn bị kế điệu hổ ly sơn, dụng kế Tương Dương lăng để dời kinh thành.

Y đem chủ ý này tiết lộ cho Lưu Cẩn, Lưu Cẩn cũng biết là không tồi. Chỉ có điều nhất thời chưa thể tìm được ngự tiền tâm phúc, Uy Võ Hầu, Thượng Tướng Quân dời kinh sư, cho nên hắn đã dặn tâm phúc bắt đầu sưu tập tình báo ở các nơi trọng yếu, xem có cơ hội thừa dịp.

Lưu Cẩn ở trong nhà nghị vui vẻ, dường như bản kế hoạch tốt nhất đã bày ra trước mắt, giờ nghe Hoàng thượng tìm mình thì vui vẻ chạy tới. Ai ngờ mới tới bên ngoài phòng thì vừa lúc nghe thấy câu khen ngợi "Lão Lưu làm việc khá nghiêm túc" khiến y vô cùng vui mừng, kích động xông tới, cười nói: - Lão nô tham kiến Hoàng thượng, vừa nghe Hoàng thượng kêu lão nô nên lập tức đến đây, ngài....

Hắn còn chưa dứt lời, Trương Vĩnh đã tiến vào, "YAA.A.A.." Một tràng tiếng thét chói tai, như "Đại bàng giương cánh" nhảy lên cao tới một thước. Hung hăng vung một quyền đến, "Phanh" đánh thẳng đến quai hàm y. Lưu Cẩn đặt mông ngồi dưới đất, mặt tím tím xanh xanh, vừa thấy là Trương Vĩnh đánh mình, hai mắt mở trừng trừng còn muốn đột kích. Lập tức một thế "Hầu tử hái đào", nắm tay phản kích trở về.

Hai tên thái giám áo mãng bào đai ngọc, quyền thế ngút trời ở trước mặt Chính Đức đánh nhau, Trương Vĩnh biết võ, lại đoạt tiên cơ liên tục đánh Lưu Cẩn, Chính Đức thấy vậy giận dữ, vỗ bàn quát to: - Dừng tay! Tất cả dừng tay! Còn ra thể thống gì?

Tuy nói phần lớn thời gian Chính Đức không thể tự mình giảng thể thống, khiến thần tử không thể không nói, vừa thấy Chính Đức thực sự nổi giận, Trương Vĩnh dùng đầu gối đập vào bụng Lưu Cẩn, sau đó bò lên.

Lưu Cẩn nheo đôi mắt sưng đỏ, "Xoẹt" một tiếng giật áo choàng xuống. Trương Vĩnh thấy áo bị xé rách, đau lòng đá một cước, Chính Đức cả giận nói:

- Trương Vĩnh dừng tay, không được đánh nữa.

Trương Vĩnh quay đầu, uyển chuyển nói: - Hoàng thượng, lão nô còn chưa nói xong, lão nô đi tìm hắn lý luận. Không ngờ hắn ở bên trong đình dán thông báo. Hiểu dụ các vệ sĩ cấm cung từ nay về sau không theo lão nô tiến cung. Lão nô là Kinh doanh thống lĩnh, phụ trách tùy tùng bảo vệ an nguy của Hoàng thượng, nhưng ở Tử Cấm thành lại bị hắn làm nhục như thế, mặt mũi cũng mất hết rồi.

Chính Đức thấy y xúc động phẫn nộ, vừa nói vừa trẹo quai hàm, tiếng động ba ba vang lên cũng hơi quá mức, không khỏi trừng mắt nhìn Lưu Cẩn, quát: - Tất cả đứng lên, không cần đánh, đã bao nhiêu tuổi rồi, vì chút chuyện như vậy mà cả ngày cãi nhau, không sợ người khác chê cười.

Chính Đức gọi hai người lên, khuyên giải an ủi một phen, trong lòng hai người nén giận, nhưng trước mặt Chính Đức lại không dám biểu hiện ra ngoài, chỉ có trợn tròn hai mắt, giống như gà trống nhìn nhau.

Chính Đức nhìn mà bất đắc dĩ, chợt nhớ tới Nhật sứ tiến cống, sau khi tuyên bố bỏ lệnh cấm mở cửa biển thì đã nhiều ngày lục bộ như không ngừng gửi báo cáo lên Báo Phòng xin chỉ thị, nhất thời không thoát nổi thân, thực tưởng nhớ Đường Nhất Tiên. Thừa dịp hôm nay vô sự, không ngại để Dương Lăng đưa nàng tới Báo Phòng, bồi nàng đi xem hổ báo.

Về phần hai kẻ dở hơi này, Chính Đức nhìn hai người, nói: - Các ngươi đều là người thân cận của trẫm, một lòng vì trẫm làm việc, sao lại nhất thời hành động theo cảm tính tổn thương hòa khí? Như vậy đi, thừa dịp cảnh xuân vừa đến, các ngươi đến đây cũng không cần đi nữa, ta gọi Dương Thị Độc mở tiệc tiệc rượu, các ngươi nở nụ cười xóa bỏ thù hận đi.

Lưu Cẩn và Trương Vĩnh đều dùng mắt gấu mèo khinh miệt nhìn sang, sau đó du quay đầu đi chỗ khác, mở miệng, bật hơi, nhẹ nhàng "Phì" một tiếng.

- Có phải Hoàng thượng gọi vị Đường cô nương kia đến Báo Phòng? Giải Ngữ vội hỏi.

- Ừ, xem ra Hoàng thượng vô cùng để ý tới nàng ta, tự mình dặn trên dưới Báo Phòng không được để lộ thân phận, nói hắn phải cùng Đường cô nương xem hổ xem báo. Tu Hoa thản nhiên nói.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 242: Mâu quang tái hiện

Giải Ngữ đảo mắt, nói: - Đúng vậy, đó là một cơ hội, đến lúc đó làm việc tùy theo hoàn cảnh, nghĩ biện pháp tách bọn họ ra, tìm vị Đường cô nương này xem nàng rốt cuộc là thần thánh phương nào.

Nói tới đây, đầu mày nàng nhíu lại nói: - Chỉ có điều, nhiếp hồn thuật dùng qua rồi trong nội tâm nàng sẽ lưu lại trí nhớ, đến lúc đó giải thích như thế nào lại là một vấn đề khó khăn.

Tu Hoa định trước cười nói: - Chuyện nào có đáng gì? Hai người chúng ta vốn là mãi võ giang hồ, đến lúc đó coi như là khoe khoang bản lĩnh nhiếp hồn thuật, thân phận nàng không thể nghi ngờ, nói ra sẽ không đau khổ, đương nhiên sẽ không so đo, nếu quả thật thân phận của nàng khả nghi, hừ!

Tu Hoa lạnh lùng cười nói: - Nếu nàng có chủ ý với Hoàng thượng thì dám lộ ra sao? Đến lúc đó chúng ta sẽ đem tin tức truyền ra ngoài, phát tán trong triều, chính là đại công!

Đường Nhất Tiên thường xuyên theo Dương Lăng ra ngoài, chỉ cho là biểu ca sủng ái mình chứ không hoài nghi gì, tên Báo Phòng nàng cũng đã nghe nói qua, khi đó bình dân trăm họ thường nghe nói sài lang hổ báo, nhưng chân chính gặp qua rất ít, Đường Nhất Tiên nghe nói có cơ hội nhìn thấy mãnh thú thú trong nói liền nhảy nhót không ngừng.

Dương Lăng đem nàng đưa tới Báo Phòng, Chính Đức đã thay quan phục Giáo Úy, một đám cung nữ, thái giám ở trong viện chờ, Giải Ngữ, Tu Hoa cũng dựa theo Chính Đức căn dặn mà mặc thường phục, hai nàng xuất thân dân gian, không có chút sơ hở.

Đường Nhất Tiên thấy Chính Đức cũng thập phần vui vẻ, cười chào hỏi nói: - Tiểu Hoàng, "Sát biên nhạc"của ngươi như thế nào?

Chính Đức vui mừng nói: - Đã viết được một nửa, lát nữa tìm cơ hội đàn cho nàng nghe. Giải Ngữ Tu Hoa cẩn thận đánh giá, thấy Đường cô nương quần áo lụa mỏng, ủng đỏ thêu kim thạch, rõ ràng là màu đỏ tục tằn mặc lên người nàng lại diễm lệ vô trù, quả nhiên là tiểu mỹ nhân hiếm có.

Hai nàng cũng coi như có tư sắc, ngàn người chọn một, nếu không cũng sẽ không bị đưa vào cung, nhưng so với Đường Nhất Tiên thì bất kể tư sắc, khí chất, lập tức rơi xuống tiểu thừa.

Dương Lăng nói với Đường Nhất Tiên: - Nơi này là hành cung của Hoàng thượng, muội theo những cung nữ này tới hổ báo viên, đừng có chạy loạn khắp nơi, biểu ca xong xuôi công sự sẽ đón muội về.

Đường Nhất Tiên mỉm cười, Dương Lăng đi lên vài bước, ra hiệu Chính Đức tới gần, kéo khoảng cách với mọi người, nhẹ giọng hỏi: - Thần nghe nói Trương công công và Lưu công công nảy sinh hiềm khích?

Chính Đức không hề để ý nói: - Tất cả đều là ăn no rỗi việc, hai người này trước kia còn hoàn hảo một chút, từ lúc tự chưởng nội ti nha môn, thường phải cãi vã vài câu, lão Lưu muốn trông coi hắn, Trương Vĩnh lại không phục, trẫm cũng thấy phiền. Ngươi cùng bọn họ đều có quen biết, hôm nay đặt tiệc rượu, ngươi thay trẫm đi khuyên bọn họ một chút.

Dương Lăng hiểu rõ, gật gật đầu, theo tiểu thái giám đi.

Đi đến trắc sương phòng của Chính Đức, tiểu Thái giám đứng ở cửa nhỏ giọng nói: - Đại nhân, hai vị công công đều ở trong phòng. Mời ngài vào.

Dương Lăng thấy y sợ hãi, không nhịn được cười một tiếng, giơ tay đẩy cửa bước vào. Vượt qua bình phong, phía trước là một cái bàn vàng lớn, bên trên bày biện bát trân, món ăn quý và mỹ vị, Lưu Cẩn và Trương Vĩnh ngồi cách thật xa, đối diện trừng mắt với đối phương.

Dương Lăng đi vào trong phòng. Hai cặp mắt giật giật, nghiêng mắt nhìn thấy hắn, thấy đối phương không nói tiếng nào, sợ khí thế yếu đi cho nên cũng không nhúc nhích. Vẫn gắt gao nhìn chằm chằm đối phương.

Dương Lăng nhìn hai bên, giữ im lặng ngồi ở giữa, cầm đũa gắp món ăn chậm rãi nuốt xuống, sau đó nâng chén ngọc uống rượu cống, cười nheo mắt nói: - Lưu công, Trương công, hai vị đều là người hầu khi đương kim Hoàng thượng còn làm Thái Tử, coi như là bằng hữu nhiều năm, hiện giờ thăng chức, đều là người trên người rồi, ăn toàn sơn hào hải vị, mặc toàn lăng la lụa đoạn, vinh hoa phú quý vô cùng, hai mươi bốn ti nha môn ở trong tay hai vị. Có thể nói là mọi chuyện viên mãn, sao tự dưng lại nháo lên như thế?

Trương Vĩnh nâng chén uống cạn sạch, nheo mắt cười lạnh nói: - Ngươi hỏi hắn!

Dương Lăng chuyển hướng sang Lưu Cẩn, Lưu Cẩn vuốt ve hai má sưng đỏ, bĩu môi nói: - Mười hai đoàn doanh đều ở Ti Lễ giám, nhưng ngươi có coi chưởng quản Ti Lễ Giám như ta vào mắt? Lúc ngươi cầu ta cho lệnh huynh một chức quan mà bị từ chối liền ghi hận trong lòng, chúng ta bắt đầu bằng mặt không bằng lòng. Chuyện thối tha như vậy mà cũng ta nói ra sao?

Trương Vĩnh đỏ mặt, căm hận nói: - Ngươi là chỉ cho phép quan phóng hỏa mà không cho dân đốt đèn à! Ca ca ngươi bây giờ còn không phải ở Thiểm Tây làm Bố Chính Sứ sao? Cái này không tính, ta hỏi ngươi, đoạn quân tiền của ta, đòi quân tiền của Dương đại nhân là đạo lý gì?

Hiện tại Dương Lăng đang ở trước mắt, Trương Vĩnh nói như vậy khiến Lưu Cẩn không nhịn được, y ngượng ngập cả giận nói: - Trúc tạo hoàng lăng, tân đế đăng cơ, Hà Nam chẩn tai, biên quan đại chiến, Bắc Cương hỗ trợ, Nam Cương mở hải, chỗ nào không cần tiền? Hàn văn lão thất phu phát tới toàn bộ lục bộ quan viên, giờ muốn chi bạc cũng phải đợi tới sang năm!

- Chúng ta chỉ mới trì hoãn, ngươi đã lập tức mỉa mai ta đây là tổng quản Ti Lễ Giám vô dụng chỉ để bài trí, bọn ta thuận miệng nói nhảm một câu ngươi liền cho là thật?

Lưu Cẩn càng nói càng giận, "Ầm" vỗ bàn nói: - Dương đại nhân ở đây, chúng ta cũng dám nói như vậy, họ Trương ngươi đừng có coi lông gà coi như lệnh tiễn, thứ chỉ biết kinh doanh như ngươi chưa đáng để vào mắt gia.

Dương Lăng giờ mới hiểu được ngọn nguồn, Lưu Cẩn bất mãn với hắn, thậm chí đang âm thầm đối phó hắn cũng không giả, tuy nhiên trước mắt chuyện chi phí triều đình khẩn trương cũng là sự thật, đều là đại sự Hoàng thượng quan tâm nhất, Lưu Cẩn vô cùng thông minh, đương nhiên biết chia ra nặng nhẹ, có thể làm Hoàng thượng vui...

Tuy nhiên, Dương Lăng cũng không có trung hậu hảo tâm như vậy, đi một lòng một dạ vun đắp thực quyền cho hai đại thái giám hòa hảo để một ngày nào đó họ quay ra đối phó mình sao. Hắn giơ hai tay lên, tả hữu trấn an nói: - Hai vị công công bớt giận, bớt giận bớt giận, Lưu công có phiền não của Lưu công, Trương công cũng có chỗ khó xử, chúng ta chỉ có thể chậm rãi thương lượng thôi.

- Lưu công cao cao tại thượng, phải điều hành ngân lượng, phối hợp các bộ phận, hiện tại không chỉ cung cấp cho nội đình, mà ngay cả lục bộ cùng phải dựa vào Lưu công, những chuyện ngoài nội đình liên quan đến thiên hạ, đương nhiên phải bận tâm nặng nhẹ. Trương công sốt ruột cũng đúng. Tuy hoàng đế nói không để binh đói, nhưng mười vạn huynh đệ dưới tay Trương công mà không có bạc, có thể không buồn sao?

Lưu Cẩn thấy Dương Lăng nói cũng có tình có lí, vô cùng công bằng, khen mình vất vả công lao lớn, quyền thế thông thiên, tiếc nuối duy nhất chính là Hoàng thượng không ở đây nghe đánh giá này, gương mặt mỉm cười, ngực cũng ưỡn ra.

Ai ngờ Trương Vĩnh vừa nghe, như lửa cháy đổ thêm dầu, trong phút chốc tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều nguyên: - Được lắm, ngươi cao cao tại thượng, lục bộ cửu khanh phải nhìn sắc mặt ngươi, tươi cười cầu ngươi đẩy bạc, ta thì sao? Không có quân tiền ta liền bị hơn mười vạn đại quân mắng cho xói đầu, đều là kẻ cực khổ hầu hạ Thái tử gialăn lộn cho tới hôm nay, dựa vào cái gì ta phải xui xẻo như vậy?

Trương Vĩnh lập tức vỗ bàn một cái, lớn tiếng nói: - Được! Coi như ngươi có chỗ khó, ta chỉ hỏi ngươi, khi nào thì cho ta đẩy bạc?

- Ôi, còn có kiểu cầu cạnh như vậy sao? Lưu Cẩn bị chọc cười nói: - Khi nào thì cấp bạc chúng ta cũng không thể nói chính xác, Sơn Đông áp thuế ngân đến, phụng thánh dụ đã trực tiếp vòng qua xưởng đóng tàu Tùng Hoa giang rồi, quân tiền phát muộn cả tháng không phải bây giờ mới có, năm Thành Hoá, năm Cảnh Thái...

Trương Vĩnh tạt chén rượu qua, mắng:

- Ngươi thối lắm! Thuế Sơn Đông vào Tùng Hoa giang, vậy Lưỡng Quảng thì sao? Tứ Xuyên thì sao? Một cái là hôm trước, một cái là ngày mai vận đến, ngươi tưởng ông đây không biết hả?

Lưu Cẩn cầm chén ném qua, quát: - Đồ khốn khiếp! Ti Lễ Giám do ngươi là đương gia hay ta là đương gia?

Trong lúc nhất thời chén đĩa bay loạn, Dương Lăng cầm khăn trải bàn che trước mặt, cười nói: - Nhị vị đừng vội. Việc này có thể bàn bạc kỹ hơn, có thể bàn bạc kỹ hơn....

Trên móc sắt treo một mẻ thịt heo mới, một con báo gấm nhanh nhẹn nhảy lên ngậm lấy làm móc sắt lắc lư. Đường Nhất Tiên vỗ ngực nói: - Làm ta sợ muốn chết, làm ta sợ muốn chết, móc kia quá sắc bén. Mà con báo kia một ngụm nuốt gọn như con cá cắn mồi vậy.

Chính Đức cười nói: - Không đâu, con báo này thích ăn đồ tinh khiết, thịt dính bùn nó không thích ăn, hơn nữa nó cực tỉnh táo, một móc sắt sẽ không có gì đáng ngại.

Đường Nhất Tiên "Ừ" một tiếng, chau đôi mi thanh tú nói: - Trước kia chỉ nghe nói hổ nha báo, cho tới bây giờ chưa thấy qua. Hôm nay cuối cùng cũng được mở mang kiến thức rồi, nhưng mãnh thú này chung quy vẫn không bằng hoa cỏ chim thú, vừa thấy có máu chảy đã không thoải mái, đúng rồi, ngươi ߠđâu? Nửa khúc "Sát Biên Nhạc" đã làm xong sao? Ta đi xem ngươi diễn tấu một chút.

- Được! Chính Đức mừng rỡ muốn kéo bàn tay nhỏ bé của nàng, đột nhiên nhận ra không ổn liền ha hả cười nói: - Đi theo ta. Chính Đức dẫn Đường Nhất Tiên quẹo trái quẹo phải. Xuyên qua rừng cây nhỏ đi vào một chỗ yên tĩnh. Trong Báo Phòng hoàn toàn không có kỳ hoa dị thảo, tường vàng huy hoàng. Hoàn toàn theo đuổi tự nhiên và dã tính, cho nên nhiều địa phương vẫn bảo trì nguyên dạng.

Trước mắt là một trảng cỏ yên tĩnh, vài cây đu, cây hòe cao lớn đầy những quả du, hoa hòe nở đầy, hương thơm ngát xông vào mũi.

Chỉ có Giải Ngữ Tu Hoa và hai tiểu Thái giám theo sau, Đường Nhất Tiên thấy nơi này yên tĩnh liền hoài nghi nói: - Đây là nơi ở của ngươi?

Chính Đức cười nói: - Đâu có, chỗ này là nơi diễn nhạc do Hoàng thượng chuẩn bị, nhưng Hoàng thượng chưa bao giờ đến đây một chuyến, Hoàng thượng biết ta am hiểu nhạc khí nên an bài ta chiếu cố nơi này.

Đường Nhất cười nói: - Thì ra là thế, ngươi có thể tiện cả việc công và việc tư.

Trong nhã nhất bố trí tuy đơn giản nhưng không phàm trần. Chính Đức ngồi trước đàn cổ, hai tay nhẹ nhàng xoa dây đàn, gương mặt biến thành nghiêm nghị, ánh mắt trong suốt, mang theo một khí chất bình thường khó có được.

Ngón tay thon dài lướt qua, tiếng đàn du dương dừng lại. Lập tức, một loạt âm mới khiêu động, một loạt sát khí như lướt tới mặt, giống như gió bồng qua cây cỏ, giống như cát vàng quất vào mặt, giống như vỗ nhạn vỗ cánh về trời bắc...

Trong mắt Đường Nhất Tiên hiện lên tia sáng kỳ dị, lập tức nhẹ nhàng nhắm hai mắt lại, từ tiếng đàn của Chính Đức cảm nhận được ý cảnh của hắn: Trong biển sa mạc có một cột khói báo động cao ngất dựng lên, mặt trời ở thượng tây Hoàng Hà đỏ tươi như máu. Nhạn bay lượn về phương Bắc, chỉ thấy đại mạc cát vàng mênh mông, trong hoang vắng kia có một phong hỏa đài cô linh tuôn khói phá lệ bắt mắt.

Đường Nhất Tiên lẩm bẩm nói: - Trong lúc say dưới đèn xem kiếm, lúc tỉnh mộng thổi sừng liên doanh. Tám trăm dặm dưới trướng, năm mươi dây cung trở mình tái ngoại. Sa trường thu điểm binh. Ngựa giục giã phi nhanh, cung như tiếng sét đầy kinh sợ. Giải quyết xong chuyện quân vương thiên hạ, thắng được cái danh truyền hậu thế. Đáng thương một đầu bạc sinh....

Nàng bỗng nhiên cắn môi mà rít gào, tiếng tiêu thê lương vang lên theo, đại mạc bốc khói, mặt trời lặn bên trường hà, tinh kỳ xa xa từ chân trời đánh tới..., trong yên tĩnh đó truyền tới tiếng hổ gầm báo ngâm, càng thêm tiêu sát...

Âm thanh đột nhiên dừng lại. Qua một lúc lâu, Chính Đức bỗng nhiên mở hai mắt, mở miệng cười, mang theo khí chất nghịch ngợm và lỗ mãng hỏi: - Thế nào?

Đường Nhất Tiên vỗ tay hoan nghênh tán thưởng nói

- Hay!

Trong mắt Chính Đức tràn đầy tình yêu say đắm nói: - Tiêu của ngươi âm xứng rất tốt, vốn có vài chỗ vẫn hơi cứng, nhưng ta còn chưa nghĩ ra sửa như thế nào, nhưng có ngươi hòa cùng tiêu âm. Nửa khúc này không cần phải sửa lại.

Đường Nhất Tiên cười nói: - Vậy nửa cuối sẽ diễn tấu loại ý cảnh nào?

Chính Đức nhướn mày nói: - Đương nhiên là tư thế hào hùng, khí nuốt ngàn dặm như hổ. Đại Minh thiên quân khu trừ giặc thát, dương oai khắp thiên hạ, khiến tứ hải đều biết: Dám xâm phạm, dù xa cũng giết!

Chính Đức vừa mới nói xong, một tiểu Thái giám vội vã chạy tới: - Hoàng Giáo Úy, Dương đại nhân mời... Muốn người lập tức qua đó. Y còn chưa quen nói Hoàng thượng như vậy. Không khỏi toát mồ hôi, Chính Đức vội đứng dậy bước lên trước nói: - Xảy chuyện gì sự?

Tiểu Thái giám cúi đầu nói vài lời, Chính Đức dừng chân quay đầu lại nói: - Đường cô nương, Dương đại nhân có việc cần nghị sự, có công văn trọng yếu do ta cất giữ không tìm thấy. Ta đi một chút sẽ trở lại.

Đường Nhất Tiên đồng ý, Chính Đức mang theo tiểu Thái giám vội vàng đi.

Tu Hoa thấy Chính Đức với Đường Nhất Tiên như hình với bóng, đang vô cùng lo lắng không biết nên điều y đi thế nào, không thể tưởng được trời chiều lòng người. Nàng trong lòng vui vẻ, vội vàng nhìn Giải Ngữ ra hiệu.

Giải Ngữ hiểu ý, cười nói với hai tiểu thái giám ngoài cửa: - Làm phiền hai vị công công đi lấy chút nước sôi đến ngâm trà cho Đường cô nương uống, đi đường mệt mỏi, chúng ta cứ ở đây nghỉ ngơi một chút.

Hai người tuy ăn mặc theo lối cung nữ nhưng hai thái giám đều biết đây là hai nữ nhân Hoàng thượng cực sủng ái, mà vị kia Đường cô nương... Xem thái độ của Hoàng thượng chỉ sợ tương lai còn cao hơn cả Hoàng hậu nương nương, vốn đang định tới nịnh bợ, vừa nghe hai người lên tiếng liền bỏ đi như bay.

Hai người quay về phòng, Giải Ngữ ôm đàn qua một bên, ba người lần lượt ngồi xuống, Tu Hoa cười nói:

- Đường cô nương xin mời ngồi, chốc lát trà đến chúng ta tâm sự, nghỉ chân một chút.

Đường Nhất Tiên vội hỏi: - Hai vị tỷ tỷ không cần phải khách khí. Nơi này là hoàng gia uyển lâm. Có thể tới chơi, đã là vinh hạnh.

Giải Ngữ nói: - Dương đại nhân là Hầu gia. Cô nương là biểu muội của Dương đại nhân, thân phận vượt xa kẻ hầu người hạ chúng ta, còn khách khí như vậy, thật sự là... Đúng rồi, dù sao nhàn rỗi cũng không có việc gì làm, tỷ muội chúng ta có một trò chơi nhỏ, bình thường không có việc gì cũng thường lấy ra vui đùa, cô nương có muốn thử một lần?

Đường Nhất Tiên tò mò nói: - Là trò gì vậy?

Tu Hoa nhìn muội muội, giải thích: - Trò chơi này lúc xưa thường cùng muội muội dùng để giải sầu, nếu cô nương muốn mở mang kiến thức thì để muội muội biểu diễn một phen.

Đường Nhất Tiên cười nói: - Được... Nhưng phải làm như thế nào đây?.

Giải Ngữ cười cởi xuống một dây chuyện mặt ngọc Phật, dùng sợi dây nhẹ nhàng đong đưa, mềm mại nói: - Cô nương, coi như mình đang ngủ, toàn thân buông lỏng chớ dùng lực, ánh mắt nhìn này khối ngọc bội, nhẹ nhàng...

Chính Đức vội vàng chạy về sương thính, chỉ thấy Trương Vĩnh và Lưu Cẩn đang đánh nhau, dưới đất mâm bát la liệt, Dương Lăng đứng ở một bên dậm chân, trên người đầm đìa nước, lập tức hét lớn: - Dừng tay!

Lưu Cẩn và Trương Vĩnh dừng bước, thở gấp trợn mắt nhìn nhau, Chính Đức cả giận nói: - Các ngươi có thôi không? Là ai động thủ trước?

Lưu Cẩn và Trương Vĩnh cướp lời nói: - Y....

Chính Đức quát: - Câm miệng! Dương khanh, ngươi nói.

Mục đích của Dương Lăng chỉ là khiến hai vị nhân huynh hoàn toàn cãi nhau mà trở mặt, cũng không muốn bởi vậy mà làm trễ nải quốc sự, bởi vậy hắn công bằng nói ra tình hình thực tế, lại thay hai người cầu tình, sau đó thấp giọng nói: - Hoàng thượng, hiện tại khắp nơi đều dùng bạc, ngân khố quốc gia quả thật như trứng chọi đá, chỉ cần sống qua một năm nay, tiền lời sẽ về liên tục không ngừng, cũng không làm cả hai người bọn họ mất hứng.

- Trong triều đẩy bạc đi Thiểm Tây mua lương thực đề phòng mất mùa chiếm hơn phân nửa, hiện giờ Giang Nam mở biển. Khoản này không thể bớt phần của hoàng gia, cho nên bạc dư lại toàn bộ lấy danh nghĩa thất xây dựng thương đoàn, cứ như vậy gia nhập cổ phần của quyền thế Giang Nam cũng an tâm hơn, Kinh doanh quân tiền... Tháng sau là có thể quay vòng mở ra, tháng này không bằng mượn đỡ tiền của vương hầu công khanh ở kinh sư xài đỡ một tháng, chư vị vương công có thể yên tâm, Lưu công công cũng đẩy bạc sớm hơn, ngài thấy thế nào?

Chính Đức đầu tiên răn dạy một phen, sau đó mới nói ra chủ ý của Dương Lăng, Trương Vĩnh nghe nói Dương Lăng dốc sức giúp y chuyển quân tiền, vô cùng cảm kích, y hùa theo Hoàng thượng nói cảm tạ Dương Lăng một phen mới cáo từ rời đi, từ đầu đến cuối không buồn nhìn Lưu Cẩn một cái.

Lưu Cẩn thấy thế phẫn nộ. Nghĩ thầm: - Nghĩ bám lấy Dương Lăng là rất giỏi rồi hả? Hừ! Đợi đưa hắn đi điều tra kinh thành, thu nạp đủ quan lại trong triều, dần dần sẽ qua qua điều khiển ngươi!

Đuổi hai kẻ dở hơi rời khỏi, Dương Lăng cười nói: - Thôi đi, thời gian lâu, bọn họ cũng bớt giận, khi đó thần sẽ lại thiết yến khuyên bọn họ giải hòa.

Chính Đức oán hận nói: - Tâm tình đang tốt, đều bị hai tên khốn kiếp này làm bực chết.

Y bỗng đổi giận thành vui nói: - Dương khanh, trẫm sáng tác khúc "Sát biên nhạc". Nhất tiên cô nương vô cùng thích, trình độ của nàng sâu hơn trẫm, thật muốn có cơ hội cùng nàng hợp khúc.

Dương Lăng nhẹ nhàng thở dài nói: - Tiên nhi và Hoàng thượng tính tình hợp nhau là tốt, thần nhìn ra được nàng thích Hoàng thượng, cách mấy ngày không thấy sẽ bảo thần dẫn nàng đi, chỉ có điều... Nàng khờ khạo ngây ngô, nhanh mồm nhanh miệng, với lại hậu cung đều xuất thân từ đại gia khuê khác, cách biệt rất lớn. Thần thật sự là lo lắng....

Chính Đức nghiêm nghị nói: - Lo lắng chuyện gì? Nếu Đường cô nương không thích trẫm, vậy trẫm không phản đối, cũng không miễn cường nàng. Nhưng nếu Đường cô nương nguyện ý cùng trẫm trải qua cả đời, vậy trong thiên hạ cũng đừng ai mong động tới nàng, trẫm là thiên tử, còn không bảo vệ được người trẫm yêu nhất sao? Ai cũng không thể!

- Nói cho ta biết, tên của ngươi gọi là gì?

- Ta tên Đường Nhất Tiên.

- Ta hỏi tên thật. Tên thật là gì?

- Ta tên Đường Nhất Tiên. Đường Nhất Tiên vẫn ngây thơ hồn nhiên, ánh mắt đăm đăm. Tim đập mạnh và loạn nhịp nói.

Giải Ngữ và Tu Hoa nhìn nhau, lại hỏi: - Được, Đường Nhất Tiên, nói cho ta biết, ngươi là ai, từ đâu tới, phải cẩn thận suy nghĩ, ngươi là Dương Lăng quan hệ thế nào? Ngươi từ đâu đến?

- Ta... Đường Nhất Tiên bỗng nhiên ôm đầu, mi tâm nhăn nhó, có vẻ hết sức thống khổ.

Tu Hoa nhìn Giải Ngữ nói: - Có cổ quái, nàng giãy dụa không trả lời, trong này nhất định có bí mật, hỏi lại nàng.

Giải Ngữ nhẹ nhàng đong đưa ngọc phật, dịu dàng nói: - Ngươi không phải biểu muội của Dương Lăng đúng không? Ngươi tên Đường Nhất Tiên nhưng ngươi không phải biểu muội của Dương Lăng, nói cho ta biết, ngươi từ đâu đến, ngươi rốt cuộc là ai, hắn sao lại nhận ngươi làm biểu muội?

Đường Nhất Tiên mí mắt giật giật, trán rịn mồ hôi, nàng muốn mở to mắt, nhưng vẫn giống như rơi vào ác mộng không thể thoát ra, trong đầu xuất hiện những hình ảnh vừa xa lạ lại vừa quen thuộc khiến nàng chóng mặt muốn ói ra.

- Ta là ai? Ta từ đâu đến? Đường Nhất Tiên bỗng rung mạnh, hai mắt mở ra. Giải Ngữ Tu Hoa thấy thế hoảng hốt, người trúng nhiếp tâm thuật, tâm chí bị mê hoặc, nếu không cho nàng tỉnh thì căn bản không có khả năng tự mình tỉnh lại, nàng sao có thể tránh thoát trói buộc?

Hai cô nương tuyệt đối không thể tưởng được lúc các nàng rắp tâm ép cô bé trước mắt thổ lộ bí mật trong lòng, đối với nàng, cũng đã chôn sâu vào chỗ sâu nhất trong trí nhớ. Cao Văn Tâm dù y thuật cao siêu, nhưng não người thật sự là quá phức tạp, lấy bản lĩnh của y cũng không thể cam đoan chữa khỏi, nhưng châm cứu cũng có tác dụng, Trí nhớ Đường Nhất Tiên chôn sâu bắt đầu xuất hiện một cái chìa khóa.

Mà Giải Ngữ, Tu Hoa dùng nhiếp tâm thuật, đã khiến chiếc chìa khóa này có tác dụng, vào thời khắc này, toàn bộ ký ức đều đã nhớ ra, chỉ là thần trí và ý thức bị phong tỏa, có thể cảm giác nhưng không thể mang ra. Thôi miên là một loại ảnh hưởng, tác động tới tâm lý, cho nên đoạn ý thức và thần trí này không có bị thôi miên.

Trí nhớ một khi khôi phục, đoạn thần trí bị tổn thương tỉnh táo lại, nàng tinh tường nhớ lại chuyện vừa phát sinh, cũng tự thoát khỏi thôi miên.

Tu Hoa tỉnh táo đầu tiên, lập tức đè ngọc phật trong tay Giải Ngữ cười nói: - Trò chơi này có phải rất vui không? Có thể khiến người ta choáng váng nặng nề đấy. Cứ như nói mớ vậy, ta và muội muội thường xuyên chơi, chỉ có điều hình như cô nương không quen, sắc mặt hơi trắng.

Đường Nhất Tiên dùng ánh mắt trong suốt nhìn thẳng khiến Tu Hoa có chút hốt hoảng, nụ cười trên mặt cũng dần dần cứng lại. Đường Nhất Tiên bỗng nhiên cười, trầm tĩnh mà nói: - Ừ, ảo thuật này đích xác cổ quái. Đầu choáng chóng muốn nôn quá, ha ha, ta là người không chịu được váng đầu.

Tu Hoa nhẹ nhàng thở ra, vội hỏi: - Đây là tỷ muội chúng ta lỗ mãng rồi. Thật không phải.

Lúc này hai tiểu thái giám đã trở về, nói: - Cô nương, chúng ta mang nước tới.

Giải Ngữ vội nói: - Mau ngâm trà cho Đường, Đường cô nương nghỉ ngơi một chút là được, hai chúng ta ở ngoài cửa chờ.

Thái giám ủ trà rồi rót trà cho Đường Nhất Tiên, sau đó lặng lẽ lui ra ngoài cửa, Giải Ngữ đừng ngoài khẩn trương nói với Tu Hoa: - Nàng có hoài nghi hay không?

Tu Hoa nói: - Vừa rồi không có Hoàng thượng, ngay cả nàng nhớ lại hết, chúng ta cứ nói đó là trò chơi. Nàng có thể làm khó dễ được ta sao? Huống chi, người bị nhiếp tâm khi tỉnh lại chỉ thoáng như một giấc chiêm bao, chỉ có thể nhớ lại một ít ấn tượng rời rạc, sẽ không rõ ràng chuyện gì đã xảy ra. Ta chỉ thấy kỳ quái, nàng làm sao có thể tỉnh lại?

Đường Nhất Tiên hai tay ôm đầu gối, cằm hạ xuống gối, ngồi trước kỷ trà mà trái tim còn thình thịch nhảy. Tứ chi có vẻ thật yếu ớt.

Nàng đều nhớ ra rồi. Tất cả trí nhớ giống như thủy triều tràn vào đầu óc nàng.

Thuở nhỏ bị bán vào "Thì hoa quán", trở thành một cây hái tiền. Học tập thi từ ca phú, cầm kỳ thư họa, mặc quần áo, thậm chí một cái nhăn mày hay một nụ cười, vốn tưởng nàng cả đời phải ở đó làm một danh kỹ.

Sau đó... Đợi khi qua tuổi xuân, bị tú bà ép bán làm thiếp cho người ta... Có thể được quan lại hay sĩ tử mua đi, đã là kết cục may mắn nhất.

Sau đó, có một buổi chiều, đại thương nhân Nghiêm Khoan muốn tới mua Ngọc nhi đi. Theo sát phía sau y, tới chỗ một công tử giọng khàn như vịt, sau đó có một đám người tiến vào, tỷ muội ba người vận mệnh từ đó cải biến.

Ta được chuộc thân, người chuộc thân là hắn, là anh hùng ta khâm phục nhất vì dám phản kháng thánh chỉ, hắn là sĩ tử, lại là quan, hơn nữa tuổi trẻ anh tuấn, trọng tình được nghĩa, có thể giao chung thân cho người như vậy, cho dù làm tiểu thiếp cũng là đốt đèn lồng khó thấy.

Thời gian đó rất vui vẻ, nhưng Dương đại nhân thật kỳ quái, hắn mua chúng ta, vì sao cũng không tính chuyện nạp thiếp, lại không coi chúng ta là nha hoàn sai khiến, chẳng lẽ cứ như vậy nuôi dưỡng cả đời? Sau đó... Hắn tăng quan, làm tướng quân, Bảo phó tham tướng muốn hại hắn, ta tìm được chứng cứ phạm tội của Bảo tham tướng.

Đuổi giết..., Tuyết Nhi chân bị thương, ta dùng quyển sách dẫn dắt kẻ cướp rời đi, rơi xuống vách đá, Vương phi nương nương đã cứu ta, sau đó... Gặp Tiểu Hoàng, đúng! Là Tiểu Hoàng nói ta là biểu muội của Dương đại nhân... Ta ngã bệnh, hắn một đường cực nhọc ngày đêm, không nghỉ ngơi chiếu cố ta. Nhưng vì sao hắn nói ta là biểu muội của Dương đại nhân.

Đường Nhất Tiên bỗng nhiên mở to hai mắt: - Là hắn... Tiểu Hoàng chính là tiểu công tử đi theo Nghiêm Khoan tới hoa quán, hắn xé thư mời, bị người đấm vỡ mũi, hắn... Lúc ấy cùng Dương đại nhân là huynh đệ tương xứng...

Hai vị công công Trương Vĩnh, Cốc Đại Dụng là quan lớn, nhưng lúc trước cùng hắn đi hoa quán lại gọi hắn là tiểu công tử, vì sao từ đại đồng trở về, hắn lại thành tiểu giáo, hắn... rốt cuộc là ai?

Nghiêm Khoan bị bọn họ đuổi đi, Tiểu Hoàng bị Nghiêm Khoan đấm tới đổ máu, ta đưa khăn tay qua, khuyên hắn đừng gây chuyện với loại người này, hắn nói:

- Ai nói ta đánh không lại hắn? Công phu của ta muốn giáo huấn vài tên tiểu tặc còn không phải dễ như trở bàn tay? Chỉ có điều mới vừa rồi... Mới vừa rồi ta lần đầu cùng người động thủ, nhất thời ngây dại.

- Được được, công tử gia một thân hảo công phu, ta tin là được chứ gì? Mũi công tử không sao chứ? Không sao thì sớm về nhà đi, nơi này ít đến vẫn tốt hơn.

- Ngươi không tin sao? Ta muốn trị tên vô lại kia dễ như trở bàn tay, còn có đống công văn chó má, hừ hừ, ta muốn mang tới, cũng chỉ cần một câu, ngươi không tin sao?

Hắn chỉ vào Dương đại nhân nói: - Không tin ngươi hỏi hắn, ta có thể làm được không?

Dương đại nhân nói: - Đúng vậy, vị công tử này nói không sai, đừng nói giáo huấn tên vô lại kia một phen, chính là thay cô nương chuộc thân cũng rất dễ dàng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 243: Thiên tử môn sinh

Đường Nhất Tiên nghĩ đến đây, bên môi đột nhiên lộ ra nụ cười như không, nhẹ nhàng dùng tay viết xuống gối từng chữ: - Hoàng Giáo Úy, Tiểu Hoàng, tiểu công tử, ngươi chính là... Chính Đức!

------------------

Chính Đức Hoàng Đế và Dương Lăng tới nhạc tĩnh quán, thấy Giải Ngữ và Tu Hoa đều ở dưới bóng cây, duy chỉ không thấy Đường Nhất Tiên, Chính Đức bước lên phía trước nói: - Đường cô nương đâu?

Tiểu thái giám vội vàng khom lưng cười nói: - Hoàng....

Chính Đức Hoàng Đế vừa trừng mắt, tiểu thái giám vội vàng sửa lời nói: - Hoàng Giáo Úy, Đường cô nương có chút không khoẻ, đang nghỉ ngơi trong phòng.

- Cái gì? Sao lại không khoẻ? Mới vừa rồi còn tốt mà? Chính Đức và Dương Lăng cùng vội hỏi.

Giải Ngữ tỏ vẻ sợ hãi: - Đều là lỗi của thiếp, thấy Đường cô nương phiền muộn nhàm chán, cùng nàng chơi trò chơi khiến Đường cô nương choáng váng đầu óc, thiếp đã cho nàng uống trà, đang ở trong phòng nghỉ tạm.

Chính Đức vừa nghe choáng váng đầu, còn tưởng nàng khoe khoang mấy loại công phu giang hồ cho Đường Nhất Tiên luyện thoe, không khỏi giận dữ nói:

- Cũng không phải ai cũng giống như ngươi, từ nhỏ luyện qua công phu, Đường cô nương lúc từ đại đồng về đã mắc bệnh, thân mình suy yếu, thật sự là càn quấy.

Dương Lăng liếc mắt một cái, cười nói: - Thôi đi, cũng không phải nhân nhi, ta luôn theo ngũ thị vệ luyện công phu, tự thấy có chút thành tựu, sau khi trở về chỉ điểm một chút cho các nàng, cả ngày buồn ở trong nhà, để các nàng rèn luyện cũng tốt.

Chính Đức nghe xong đẩy cửa vào nói: - Đường cô nương khá hơn chút nào chưa? Dương đại nhân tới đón nàng hồi phủ, khúc "Sát biên nhạc" càng lúc càng khó, có cơ hội sẽ tìm cô nương chỉ điểm.

Đường Nhất Tiên cằm chống trên gối, một đôi mắt đen hồi lâu mới chớp một lần, bất động không nhúc nhích.

Chính Đức luống cuống, vội đoạt trước một bước, hỏi: - Làm sao vậy, nàng không thoải mái sao?

Dương Lăng cũng gấp vội đuổi theo vào, ấm giọng nói: - Tiên nhi, có cần gọi lang trung đến xem không?

Đường Nhất Tiên chậm rãi ngẩng đầu, cười nói: - Muội không sao, vừa rồi chỉ là có chút mệt mỏi.

Nàng buông hai tay, nhanh nhẹn đứng dậy, bướng bỉnh lè lưỡi, nói: - Đi thôi.

Chính Đức và Dương Lăng lúc này mới nhẹ nhàng thở ra, hai người đều chưa chú ý tới, ánh mắt Đường Nhất Tiên luôn linh động trong suốt, từ khi rơi xuống vách đá đại đồng đã bị sự ngây thơ bướng bỉnh thay thế, mà bây giờ, thần thái trong suốt mà linh động đã lâu không thấy kia đang tái xuất hiện.

Kiệu nhỏ đi tới tây thành, Dương Lăng ngồi trên lưng ngựa, ngẫu nhiên quay đầu lại bắt gặp Đường Nhất Tiên nhấc màn kiệu, ghé vào cửa sổ si ngốc nhìn hắn bèn ghìm chặt cương ngựa lại cười nói: - Tiên nhi, có việc gì thế?

Đường Nhất Tiên vội vàng lắc lắc đầu, nói: - Mới vừa rồi còn có chút choáng váng, nằm sát cửa sổ hít thở không khí, hiện tại tốt hơn nhiều.

Dương Lăng nghe xong không nghi ngờ gì, cười nói:

- Đợi khi về bảo Văn Tâm giúp muội xem qua một chút Nói xong dặn kiệu phu: - Đi chậm một chút, tiểu thư không thoải mái. Sau đó hai chân thúc ngựa đi theo kiệu.

Đường Nhất Tiên nhẹ nhàng buông màn kiệu, thầm thở dài. Cùng Tiểu Hoàng... Hoàng đế ở đại đồng lần đầu gặp nhau, lại đến kinh thành gặp hai tỷ muội Tuyết Nhi, Ngọc nhi đã có chỗ tương xứng, thông minh như Nhất Tiên cũng đoán ra thân phận mình sẽ biến hóa nhanh chóng, thành biểu muội của Dương Lăng.

Hoá ra, không phải Dương đại nhân chọn trúng Ngọc Tỷ mà chuộc thêm mình tự mình và Tuyết Nhi, mà là Tiểu Hoàng nhìn trúng mình, nhân tiện thành toàn Ngọc nhi, Tuyết Nhi và hôn sự của Dương đại nhân, khó trách... Vừa mới chuyển vào Dương phủ, Dương đại nhân đối với mình so với Ngọc nhi, Tuyết Nhi còn khách khí hơn một chút.

Đường Nhất Tiên bỗng nhiên như ở trong mộng: Không lâu trước đó là tiểu cô nương mặc cho người định đoạt, hiện giờ biến thành biểu muội Đề đốc, nữ nhân đương kim Hoàng thượng thích. Nàng mở to mắt, mờ mịt không biết làm sao.

Vốn tưởng người chuộc thân cho mình là Dương đại nhân, hắn còn là anh hùng mình hâm mộ, nếu hắn thích mình, đối với một cô gái không thể lựa chọn vận mệnh thì còn kết cục nào tốt đẹp hơn? Nghĩ đến cả đời này sẽ ở Dương gia, ai ngờ...

Dương đại nhân chưa từng thích mình sao? Đường Nhất Tiên suy nghĩ miên man, hồi tưởng lại tất cả chuyện cũ, chợt phát hiện ngoại trừ mình tình nguyện ngưỡng mộ, hai người còn chưa nói qua một câu. Thậm chí cả một câu vui đùa cũng không có.

Trong lòng nàng bỗng nhiên hoảng hốt: Ở một trong lòng đã nhận định mình sẽ phó thác chung thân nơi hắn, rồi chợt phát hiện mọi chuyện chỉ là một bên ảo tưởng, nàng lập tức cảm thấy vắng vẻ. Về phần Chính Đức Hoàng Đế... Hắn là thiên tử cao cao tại thượng, hắn sẽ thật yêu thích ta sao?

Đúng lúc này, phía trước có khoái mã lao đến, bởi vì ngựa chạy quá nhanh, lướt qua xe ngựa mới ghìm chặt ngựa quay lại trước mặt Dương Lăng ôm quyền thi lễ nói:

- Đại nhân, trong triều cấp báo!

Dương Lăng vội hỏi: - Chuyện gì sốt ruột như vậy?

Kỵ sĩ trả lời:

- Đại đồng truyền đến tin tức, đại lao tuần phủ nha môn bị người cướp ngục, Di Lặc giáo phi Liễu Phi Vũ được người cứu đi rồi.

- Hử? Dương Lăng nheo mắt lại: - Được người cứu đi rồi? Nàng cũng không phải nhân vật trọng yếu, quan phủ sẽ không cứu nàng, về phần Di Lặc giáo, nếu có thể giết phụ thân của nàng chấm dứt đường lui, nàng một khi bị bắt liền trở thành tốt thí. Ai có thể mạo hiểm đi cướp ngục cứu nàng?

Dương Lăng kinh ngạc nghĩ, chợt nhớ tới khi mình ở đại đồng, khỏa thân ở "Diễm Lai lầu" đối diện với nàng, Liễu Phi Vũ giật mình há cái miệng nhỏ, sau đó nghiêng đầu. Nhớ lại cảnh lừa mình dối người khiến hắn có buồn cười: Một tiểu nha đầu không làm chuyện ác gì, ở trong lao quá tuổi già cô đơn cả đời cũng thật sự đáng thương. Chạy thoát được thì cứ chạy đi.

Vào lúc này trong đầu tự nhiên xuất hiện hình ảnh một bộ ngọc thể xinh đẹp, tiêu hồn khiến Dương Lăng rung động, vội lắc đầu đuổi hình ảnh kia ra khỏi óc, hắn thấy thị vệ kia còn đang nhìn mình, gương mặt không khỏi nóng lên, nói: - Hiện tại Đông xưởng tập trung tiêu diệt tà giáo. Việc này có Đông xưởng phụ trách, các ngươi không cần nhúng tay, còn có chuyện gì không?

Phiên Tử nói: - Còn có một chuyện, Cao đại nhân đã nghĩ ra cách đối phó với người trong tà giáo thụ hình hôn mê.

Dương Lăng thân hình chấn động, thấy xung quanh là thị vệ của mình, dân chúng đều trốn xa một bên, hỏi vội:

- Có biện pháp?

Cao đại nhân đương nhiên là Cao Văn Tâm, nàng là có phẩm bậc nữ y quan. Dương phủ đều gọi nàng là Cao tiểu thư. Trong triều cũng không dám rối loạn quy củ, lợi dụng chức quan tương xứng. Nàng giúp Đường Nhất Tiên trị liệu một thời gian ngắn, không thấy hiệu quả liền tạm thời ngừng lại, đi nghiên cứu bí mật Vương Long tự động choáng mê, không thể tưởng được nàng đã tìm ra biện pháp.

Phiên tử nói: - Vâng, Vương Long chịu hình đã khai, Cao đại nhân bảo tiểu nhân đến báo cho đại nhân biết.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:

- Mau, lập tức quay về.

Đoàn người vội vàng trở lại Cao lão trang, Dương Lăng nhìn Đường Nhất Tiên bước xuống kiệu nhỏ nói: - Tiên nhi, nói với biểu tẩu ta đi xử lý công vụ.

Đường Nhất Tiên nghe chứ "Biểu tẩu" thì có cảm giác lẫn lộn, nàng do dự một chút, cảm thấy tỷ muội Giải Ngữ Tu Hoa khả nghi, vẫn luôn truy vấn thân phận mình, tám chín phần mười là cừu gia của Dương đại nhân muốn nắm nhược điểm của hắn, việc này phải nói cho hắn biết, liền tiến lên một bước hạ giọng nói: - Biểu... Ca, ta có chuyện muốn nói cho huynh nghe.

Dương Lăng nghi ngờ nhìn nàng, Đường Nhất Tiên kéo hắn qua kể chuyện Giải Ngữ, Tu Hoa dùng tà thuật ép hỏi thân phận nàng, sau đó nói:

- Tuy rằng cảm giác mờ mịt nhưng vẫn nhớ được các nàng hỏi chuyện gì, lúc này mới thấy buồn nôn, Tiên nhi nghĩ... Hai vị cô nương kia tám phần không có hảo ý với biểu ca, huynh phải cẩn thận chút.

Dương Lăng nghe nàng kể nàng kia dùng ngọc phật thi thuật đã biết đó là thuật thôi miên, đầu Đường Nhất Tiên bị thương cho nên mới không bị mê hoặc.

Dương Lăng nhẹ nhàng thở ra cùng âm thầm đề cao cảnh giác: - Xem ra có người muốn làm lớn chuyện về thân thế của Đường Nhất Tiên, việc này bắt đầu vốn không đủ cơ mật, rốt cuộc không thể gạt được người có tâm.

Dương Lăng âm thầm suy nghĩ đối sách, một bên trấn an Đường Nhất Tiên nói: - Không cần phải lo lắng, trong triều có nhiều người muốn hại biểu ca, chút âm mưu quỷ kế này không làm gì được ta, muội đi về nghỉ ngơi trước, chờ ta xuống núi, dẫn theo Văn Tâm tới thăm muội.

Đường Nhất Tiên nghe lời gật đầu, theo tùy tùng trở về đình viện. Dương Lăng lên ngựa, đánh ngựa như bay chạy thẳng vào trong triều. Dương Lăng ở Bành Kế Tổ thiết kiến địa lao. Đây là địa lao dựa vào núi mà xây dựng cải tạo, ngoài cửa sắt chính là Đông Xưởng doanh địa, có thể nói chỉ cần vào địa lao này, căn bản có chạy đằng trời.

Dọc theo địa đạo u ám, rẽ vào một gian tù thất, Liễu Bưu, Cao Văn Tâm và vài tên Đông Xưởng đang ở trong phòng, thấy hắn vội đứng lên. Cao Văn Tâm một thân lụa trắng, dáng người lả lướt, thắt lưng nguyệt sắc ôm lấy váy lấy màu lam, tuy trong lao không có mặt trời nhưng vẫn thấy được làn da trắng như tuyết, phong lưu ý nhị.

Ai ngờ Dương Lăng thấy Cao Văn Tâm, lại nhíu mày, sẵng giọng: - Sao ngươi lại ở trong ngục? Chỉ bảo ngươi cân nhắc một chút xem có cách nào ngăn Vương Long không tự động choáng mê, chứ không gọi ngươi đến nơi này, đám người này bản lĩnh thi hình có thể làm cho thần khóc quỷ sầu, sẽ làm ngươi sợ.

Dương Lăng tuy rằng vừa thấy mặt đã trách móc không ngừng, nhưng trong lời nói không che dấu được ý săn sóc, Cao Văn Tâm nghe xong trái tim ngọt ngào, nhợt nhạt cười nói: - Đại nhân, bọn họ phản đối dụng hình với Vương Long.

- Không dụng hình? Không dụng hình thế nào...? Dương Lăng quay đầu vừa nhìn đã hoảng sợ.

Vương Long bị khóa bằng khóa sắt, quanh tường đều cắm đuốc, ngọn lửa phần phật chiếu rõ Vương Long. Vương Long vốn là đại hán ngang tàng cao tám thước, bị tra tấn đến kinh thành đã gầy đến xương bọc da, hốc mắt hõm sâu vô cùng dọa người, hiện tại tóc đen đều bị cạo sạch, cắm đầy ngân châm chói lọi. Bóng hắt lên tường không ngừng run rẩy, cũng là lòng Dương Lăng đang run lên.

Hắn dùng ánh mắt khác thường nhìn Cao Văn Tâm, tuy nói nàng tận tâm tận lực thay mình làm việc, nhưng mắt thấy một cô gái có thủ đoạn tàn nhân như thế, trong lòng hắn vẫn còn có chút không thoải mái.

Cao Văn Tâm đã có cảm giác, oán trách nhìn hắn rồi nhanh nhẹn rút ngân châm, giải thích: - Thân thể của hắn quá yếu. Đã không dùng được hình nữa rồi, hơn nữa loại này tâm tự miên này sử dụng rất thường xuyên, đã suy giảm tới đầu não của gã, ta nếu không dùng ngân châm khơi thông huyết lạc, người này sẽ biến thành ngu ngốc.

Dương Lăng giờ mới hiểu ra, không khỏi nhìn nàng áy náy cười, ngượng ngùng hỏi: - Hắn đã khai chưa?

Cao Văn Tâm "À" một tiếng từ chối cho ý kiến, Liễu Bưu thấy hai người khó xử thì vội giải vây nói: - Vâng. Lời khai đã chép ra, đại nhân mời xem.

Dương Lăng thấy Vương Long còn chưa tỉnh. Liền đến sát bàn, Liễu Bưu nâng đèn lại gần, Dương Lăng nhìn kỹ một lần, buông bản ghi chép nói: - Hắn biết tất cả, đáng tiếc, những thứ hắn biết cũng không khác biệt với chúng ta suy đoán, như việc hắn thú nhận địa vị của Liễu đại nhân cũng đã bị triều đình đào lên. Lúc này, Di Lặc giáo ở Đại Đồng, xem ra là thật sự bị trừ tận gốc rồi.

Dương Lăng tiếc nuối lắc đầu, đột nhiên nhớ tới Giải Ngữ Tu Hoa, không khỏi hai mắt sáng ngời, nói: - Liễu Bưu, chờ hắn tỉnh lại ép hỏi toàn bộ ámu của Di Lặc giáo, bản quan có việc cần dùng!

Liễu Bưu đồng ý, Dương Lăng nhìn Cao Văn Tâm cười nói: - Khổ cực cho nàng, chúng taxuống núi đi.

Cao Văn Tâm nghe hắn có lời mời, trong lòng rât mưng, Dương Lăng cầm hộ hộp châm, hai người ly khai nội xưởng, bỏ lại kiệu mà đi bộ xuống núi, mọi người đi ở phía xa, Dương Lăng nói: - Tiên nhi hôm nay có chút váng đầu, lát nữa muội xem giúp nàng, việc này....

Hắn quay lại nhìn gương mặt vốn vui vẻ của Cao Văn Tâm chợt lạnh xuống, vừa thấy hắn trông lại, Cao Văn Tâm vội vàng quay đầu đi chỗ khác, nhưng trong nháy mắt đó, Dương Lăng đã thấy ánh mắt nàng loang loáng, không khỏi ngạc nhiên nói: - Văn Tâm, muội làm sao vậy?

Cao Văn Tâm không kìm nổi u sầu nói: - Ta tình nguyện giống như trước kia, là một tỳ nữ ở Dương phủ, giờ mỗi lần đi Dương phủ đều cảm thấy mình như người ngoài, đại nhân... nếu không phải muốn ta tới làm việc thì cũng chẳng tiếp đón ta tới cửa.

Dương Lăng nghe xong không biết nên khóc hay cười, nói: - Nha đầu muội sao lại chỉ trích như vậy, muội vốn là tỳ nữ trong phủ, còn muốn ta tiếp đón muội tới cửa sao, muội không ở Dương phủ thì còn có thể đi đâu? Hiện giờ, chẳng qua là một mình ở một biệt viện, cả nhà có ai coi muội là người ngoài, chẳng những Ấu Nương mỗi ngày tiếp đón muội tới, Tuyết Nhi Ngọc nhi cũng như vậy.

Cao Văn Tâm quay đầu nhìn hắn, không phục nói: - Cái đó khác, các nàng cùng ta kết nghĩa kim lan, các nàng gọi ta cũng không phải ý tứ của ngươi.

Dương Lăng bất đắc dĩ nói: - Không phải ý tứ của ta, cho dù là kim lan tỷ muội, muội cho là mình có thể tùy tiện tới cửa sao?

Cao Văn Tâm ngẩn ra, trong đôi mắt đẹp đột nhiên xuất hiện niềm vui bất ngờ, lúng ta lúng túng nói: - Huynh... Huynh nói là...?

Dương Lăng dịu dàng nói: - Em họ muội là người đọc sách, người đọc sách đều có chỗ chấp nhất, có những đạo lý không phải cứ nói là có thể thuyết phục, phải đợi đến có một ngày nó nhận thức ra, lĩnh ngộ ra. Giờ ta không bức bách nó được.

Cái này gọi là mỗi người đều có một chí hướng của riêng mình, nếu giờ nó đang bất mãn với ta, ta mới không thể tìm một sân viện cho muội. Nhưng nếu giờ muội cũng không đến nhà khám bệnh, dựa vào chút bổng lộc của triều đình để nuôi sống hai tỷ đệ... Ôi! Muội xuất thân là Đại tiểu thư, hiện giờ bên người không có người hầu hạ, cũng chưa biết lo liệu gia vụ, Ấu Nương cũng là hiểu ý tứ của ta, thường xuyên mời con gái đã xuất giá của bà ấy đến. Chính là sợ ủy khuất muội.

Cao Văn Tâm chua xót rơi nước mắt, nàng che môi nghiêng đầu đi giữ im lặng một lúc lâu, rồi đột nhiên quay đầu nóng bỏng nhìn Dương Lăng, nhanh nhẹn cười nói: - Coi như huynh... có lương tâm, đến lúc đó... Người ta không khiến huynh quá mất mặt là được.

Nói xong, hai má nàng đỏ như bôi son. Trắng trắng hồng hồng, quyến rũ khó nói.

Dương Lăng ngạc nhiên nói: - Chuyện gì không cho ta quá mất mặt?

Cao Văn Tâm hừ một tiếng, chóp mũi hếch lên, đắc ý mà bướng bỉnh nói: - Chính là kỳ hạn huynh ước định, ta sớm nghe ngóng. Trương Thiên Sư bảo người ta bấm đốt ngón tay bát tự mệnh cách, còn chưa bao giờ bỏ qua, y nói huynh tụ mệnh phúc lộc thọ ba sao, cả đời quý không thể nói. Vậy quyết không thể sai, Dương đại nhân là thiên kim, đến lúc đó ta chờ huynh... Chờ huynh đội khăn voan gả vào Tây viện của ta.

Cao Văn Tâm càng nói càng xấu hổ, chưa nói xong đã đỏ mặt, vội vàng xuống núi trước. Mấy ngày nay Dương Lăng bận việc công sự, nàng ở một viện khác, tuy rằng ba người Ấu Nương nhu thuận. Hàng ngày mời nàng quá phủ, cuối cùng cũng không tiện, đến nỗi còn chẳng có cơ hội nói chuyện riêng với Dương Lăng.

Cho nên hai người dù đã có ước định trước, Cao Văn Tâm luôn thấy bàng hoàng, lo được lo mất, hôm nay thật vất vả mới có cơ hội một mình tiếp xúc, nhân cơ hội nhắc nhở hắn: Năm nay lúc bông tuyết rơi xuống, chính là ngày Cao Văn Tâm nàng mặc áo cưới gả vào Dương phủ.

Nàng vừa thẹn vừa mừng. Cảnh đẹp đó đã xuất hiện trong mộng của nàng không biết bao nhiêu lần rồi. Nếu có thể nắm lấy cơ hội nhắc nhở hắn về lời đã hứa, trong lòng cũng có cảm giác an ổn hơn. Đến nỗi vị tiểu thư khuê các này, dù đã là nữ thần y hơn hai mươi, cũng phải bất chấp sự kiêu ngạo của mình.

Dương Lăng nghe nàng nói, đột nhiên tỉnh ra, giờ đã là 'Xuân minh tháng ba ngắm Hạnh Hoa', dựa theo mình tính toán, chậm nhất là đến tháng 11 sẽ là kỳ hạn hai năm, mấy ngày nay cả ngày bận rộn, mấy tâm tư an nhàn trước kia cũng dần phai nhạt, liệu mình có thật sự vượt qua một kiếp này, biến nguy thành an sống lâu trăm tuổi?

Dương Lăng nhớ tới lời Trương Thiên Sư nói, hắn cả đời điều binh không ngừng, nghĩ lại từ lúc ở dịch trạm Kê Minh kia bắt đầu, thẳng đến kinh thành, đi Giang Nam, phó Đại Đồng, bất kể làm chuyện gì, thật đúng là sát phạt tùy thân, binh qua không ngừng, hơn nữa mỗi lần giết người, hoặc quan lộc, danh vọng, danh dự cao hơn một tầng, Trương Thiên Sư tính toán thực sự chuẩn như vậy sao?

Dương Lăng tim đập thình thịch: Nhưng có một đường sinh cơ, ai lại đi tìm chết, huống chi giờ hắn làm quan lớn, cưỡi tuấn mã, kiều thê thiếp đẹp, phúc lộc đầy nhà.

Dương Lăng không kìm nổi dừng bước, trong lòng vô cùng lo lắng, bức thiết, giống như năm đó thi vào trường cao đẳng, chân của hắn phát run, không tự chủ được niệm lại mấy câu hồi còn học tiểu học thường đọc trước cuộc thi: - Trên trời dưới đất, thế nội thế ngoại, hết thảy thần yiên phật thánh, yêu ma quỷ quái, tinh linh tiêu mị, hết thảy những có pháp lực, hữu ta!...

Đường Nhất Tiên ngồi ở ghế, Cao Văn Tâm nhẹ nhàng rút ngân châm sau cổ nàng ra, dịu dàng nói: - Thế nào, không đau chứ?

- Ừ! Văn Tâm tỷ tỷ là đệ nhất nữ thần y, có châm này thoải mái hơn rồi, Đường Nhất Tiên lộ vẻ vui mừng nhìn Cao Văn Tâm, thử nói: - Cao tỷ tỷ, tỷ rất thích đại... Biểu ca à?

- Ừ? Cao Văn Tâm tay cứng đờ, mặt cũng đỏ lên. Tình ý của nàng ai ở Dương phủ cũng hiểu, mà ngay cả con chó của Cao quản gia thấy nàng cũng như thấy nữ chủ nhân mà vẫy đuôi mong, nhưng tầng cửa sổ này dù sao cũng không ai dám đả động tới, con nha đầu này...

Đường Nhất Tiên cười: - Tỷ tỷ tốt. Không cần thẹn thùng, nơi này không có người ngoài, muội là biểu muội của huynh ấy, biểu ca giống như tên đầu đất, nói không chừng muội có thể giúp tỷ cổ vũ, trò chuyện mà.

Cao Văn Tâm nghe xong do dự một chút, xấu hổ, e sợ gật gật đầu, vội vàng nhìn sau lưng nàng. Không ở trong tầm mắt kia, bối rối cũng giảm bớt. Đường Nhất Tiên nhẹ nhàng chau mày, như thoáng chút suy nghĩ mà nói:

- Cao tỷ tỷ, nghe nói tỷ bị quan phủ trị tội, rất đáng thương, là biểu ca xuất thủ cứu tỷ, tỷ vì cảm kích biểu ca nên mới muốn lấy thân báo đáp sao?

Cao Văn Tâm không khỏi nghĩ tới đêm mình bị phán vào giáo phường ti kia làm cho hoảng sợ. Nàng nhẹ nhàng vân vê ngân châm, sau một lúc lâu mới nói: - Cảm kích một người thì phải lấy thân báo đáp sao? Hắn cũng không phải nam nhân không kiếm được vợ. Ta vốn... Thầm nghĩ ở Dương phủ làm một nha hoàn, cứ như vậy cả cuộc đời. Lúc trước... Thật sự không nghĩ sẽ thích hắn.

Cao Văn Tâm hạ giọng nói: - Huống chi bên cạnh hắn có Ấu Nương, Tuyết Nhi, Ngọc nhi, ai cũng khả ái như vậy, khả năng do hắn ở tòa nhà của gia phụ nên đối với ta vẫn rất khách khí. Sau đó thân thể hắn có bệnh kín, ta theo hắn từ Giang Nam, một đường sớm chiều làm bạn...

Dương đại nhân không có người luôn câu nệ tiểu tiết như người đọc sách, không có vẻ đạo mạo của quan trong triều, Ôi! Có lẽ do ta cũng có tuổi, khá hiểu tâm ý đại nhân, hắn cũng thích cùng ta nói chuyện phiếm, hơn nữa mỗi ngày châm cứu cho hắn....

Cao Văn cười ngọt ngào: - Đại nhân cũng không tán gẫu quốc gia đại sự, cũng không tán gẫu thi từ văn chương. Chỉ là những chuyện tầm thường, vì dụ dỗ ta nói chuyện, hắn rõ ràng không hiểu y đạo, còn thường giả bộ hỏi, ha ha... Khi hắn giải thích theo kiểu khó thể tưởng tượng, giờ ta cẩn thận nghĩ lại, thật đúng là có chút đạo lý....

Vô tình, ta đặc biệt thích cùng với đại nhân vừa chữa bệnh vừa nói chuyện phiếm, trong lòng sẽ có một loại... cảm giác ấm áp trôi qua như dòng nước. Thời gian dần qua... Ta ở trước mặt đại nhân thường lơ đãng vượt quá bổn phận nô tì. Hắn cũng không phiền.

Ta cảm thấy ta ở trước mặt hắn, không phải một nữ thần y, cũng không còn là con gái tội quan, vừa không tự cao tự đại, cũng không cần cẩn thận chặt chẽ, muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười, muốn giận thì giận, ở trước mặt hắn, ta sống thật dễ dàng....

Cao Văn Tâm hít vào một hơi, phát ra một tiếng rung động đến tâm can: - Nhất Tiên, đến lúc này, ta biết... là bản thân mình thích hắn.

Đường Nhất Tiên vẫn còn nhỏ, ngay cả thích một người cũng không có nhận thức sâu sắc như Cao Văn Tâm, nàng nghe mà ngây ngốc, sau một lúc lâu mới lẩm bẩm nói: - Là cảm giác như thế sao?

Cao Văn Tâm đã thổ lộ lời trong lòng, vừa nói hai người vừa đi dần về phía Nam: Dân chúng tấn công hành dinh khâm sai, hắn gọi người che chở mình đi trước, ở bên Thái Hồ không để ý người ngoài, không hề có vẻ đại nhân đi dỗ mình vui vẻ, càng nói càng vui vẻ, càng nói càng ngọt ngào.

Đợi châm cứu xong, Cao Văn Tâm nhẹ nhàng rút ngân châm, mặt mày hớn hở khẽ cười nói: - Được rồi, muội ngủ tiếp một đêm, tinh thần sẽ hoàn toàn khôi phục. Ta xuống bếp hơ qua ngân châm một chút.

"Sát" một thanh âm vang lên, Cao Văn Tâm bắt đầu mở cửa, ôm hộp châm ra ngoài, Đường Nhất Tiên nhẹ nhàng đong đưa hai chân, qua một lát, nàng nhẹ nhàng cuộn hai chân, ôm chặt đặt cằm lên trên, tự mình tâm sự: Nghe xong lời Cao Văn Tâm nói..., hiện giờ cẩn thận nghĩ ra, giữa nàng và Dương Lăng đúng là trống rỗng.

Nhưng thật ra hắn, cái kia tiểu Giáo Úy kia, thân ảnh của hắn thỉnh thoảng hiện lên trong đầu: Cùng mình chơi, kể chuyện xưa cổ quái cho mình vui vẻ, bị tự mình quát tới quát lui cũng không tức giận, ở trước mặt hắn cũng không cần che dấu hỉ nộ ái ố, ai người một đóng giả người hầu nam trẻ tuổi, một đóng giả tỳ nữ, ở 'Hâm thịnh lầu' tranh thủ lúc rảnh rỗi đấu miệng...

Lúc sinh bệnh, hắn cực nhọc ngày đêm, không nghỉ ngơi ngồi bên người, lúc nghiên thương, diễn tấu âm nhạc đầy ăn ý, còn có... Hắn ở trong miếu cầu phúc, vụng trộm viết tên mình trên lá, bị mình kéo tai ra cửa miếu, hô to gọi nhỏ...

Đường Nhất Tiên nghĩ đến đây, chợt thu lại nụ cười: Ta thích hắn sao? Vì sao rõ ràng hắn là quan lớn hơn Dương đại nhân, ta ở bên đại nhân chỉ thấy kích động và tự hào. Nhưng thấy hắn sẽ dễ dàng vui mừng. Nhưng hắn là Hoàng đế, sau này ta có thể đối với hắn như trước đây sao?

Đường Nhất Tiên ngẩng đầu, ánh mắt có chút mê man suy nghĩ...

Tuyết Lý Mai mở cửa phòng ra, thấy Đường Nhất Tiên hai tay ôm đầu gối, dáng vẻ như suy nghĩ thì không khỏi hoảng sợ: Từ nhỏ Đường Nhất Tiên đã có thói quen này, khi có tâm sự thường thích một mình ôm đầu gối suy nghĩ.

Tuyết Lý Mai khẩn trương chạy vào, thân thiết nói: - Tiên nhi, muội làm sao vậy? Đang muốn gọi muội đi ăn cơm, sao vậy... Có tâm sự sao?

Đường Nhất Tiên buông tay, nhìn Tuyết Lý Mai, thấy nàng chân tay luống cuống, Đường Nhất Tiên đột nhiên cười nói: - Tuyết Nhi biểu tẩu, muội không có việc gì, chỉ hơi mệt một chút, hiện tại đã tốt hơn nhiều, chúng ta đi thôi. Chớ để biểu ca... và các biểu tẩu đợi lâu.

Tuyết Lý Mai bị nàng nắm tay đi ra ngoài, nghi hoặc nói: - Không phải nói muội gọi ta Tuyết Nhi là được sao, gọi Tuyết Nhi biểu tẩu rất không tự nhiên.

Đường Nhất Tiên "Ừ" một tiếng, quay đầu sang. Dưới ánh đèn mỉm cười nói: - Vậy bỏ Tuyết Nhi, trực tiếp kêu biểu tẩu, bởi vì tỷ là phu nhân của biểu ca.

Nàng nhẹ nhàng nói: - Gọi Tuyết Nhi hay biểu tẩu đâu có quan hệ gì, dù sao chúng ta sẽ vẫn rất tốt, rất tốt, đúng không?

Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, tổng binh Diên Tuy tứ trấn suất quân vào kinh rồi.

Dương Lăng làm Thống soái, tiếp kiến tứ trấn tổng binh, sau đó dẫn bốn người tới Báo Phòng.

Đại đồng tổng binh dẫn năm nghìn kị binh nhẹ xâm nhập đại mạc. Lập nhiều công huân, năm Hoằng Trị mười sáu Võ Trạng nguyên Hứa Thái, tổng binh Liêu Đông Lưu huy, Tuyên Phủ tổng binh Hạ Tam Đàn, Diên Tuy tổng binh Phùng Lạc đều là tướng từ ba mươi tuổi tới bốn mươi, mỗi người đội mũ phục viên, một thân nhung trang, thoạt nhìn đằng đằng sát khí, uy phong lẫm lẫm.

Bốn người theo Dương Lăng đi vào Báo Phòng, năm người đồng loạt chào theo nghi thức quân đội, Chính Đức thấy mấy vị tướng quân long tinh hổ mãnh, không khỏi vui mừng khen với Dương Lăng: - Biên quân trải qua chém giết đẫm máu. Quả nhiên khác với kinh doanh rất nhiều. Cùng là nhung trang, trẫm từ trên người bọn họ có thể cảm nhận được sát khí.

- Dương khanh, tứ trấn tổng binh từ biên quan điều đến, khác với kinh doanh, trẫm ban tên cho là 'Ngoại Tứ gia quân" Dương khanh đảm nhiệm Thống soái, thao luyện chiến trận chém giết, tương lai cùng kinh doanh hoc võ, phát triển bọn họ.

Dương Lăng cúi người đáp ứng, sau đó hơi nghiêng nhìn Hứa Thái, Hứa Thái lập tức tiến lên một bước, quỳ một chân trên đất nói: - Thần Đại Đồng tổng binh quan Hứa Thái, giặc Thát Đát, thần thân gặp tiên hoàng chỉ huy, thao túng tam quân, lấy ít thắng nhiều, diệt địch hơn vạn, Bá Nhan Mãnh Khả trông thấy mà phải chạy trốn. Bọn thần đấu tranh anh dũng, không sợ sinh tử, nhưng chiến lược hành quân, điều hành ngàn quân, chỉ có hoàng văn trị vũ công, có thể nói là soái bất thế.

Bọn thần nguyện lấy biên quân dũng mãnh tôi luyện kinh doanh, cũng khẩn cầu Hoàng thượng đảm nhiệm đại thống soái Ngoại Tứ gia quân, huấn luyện tướng tá quan quân. Thần Hứa Thái, mạo muội lớn mật, xin được làm Thiên Tử môn sinh!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 244: Chính Đức không thể đại đăng khoa

Lưu Huy, Hạ Tam Đàn sửng sốt, lập tức kịp phản ứng lấy lòng, Hoàng thượng đồng ý không đồng ý chưa nói, mà là làm thế nào để khen Hoàng thượng, thua kém Hứa Thái rồi, không hổ là Võ Trạng nguyên, có đặt trên người chúng ta, chữ to như cái sọt cũng không đọc ra nổi.

Ba người lập tức quỳ xuống nói: - Ngã hoàng thần võ, bọn thần xin làm Thiên Tử môn sinh!

Dương Lăng cũng cười: - Hoàng thượng thượng võ thiên hạ đều biết, binh thư chiến sách hết sức quen thuộc đấy, có lão tướng ở sa trường, Hoàng thượng có thể đem sở học áp dụng vào, có vũ lược của Hoàng thượng thêm kinh nghiệm của các lão tướng, nhất định có thể luyện Ngoại Tứ gia quân và kinh doanh thành một đội bách chiến bách thắng, quét ngang thiên hạ!

Chính Đức vừa nghe mừng rỡ, thiên tử môn sinh? Hoàng thượng tự mình thu học sinh? Hay nha! Nhìn mấy Đại tướng quân uy danh lẫm lẫm, tương lai kiến công lập nghiệp, mở nhà xây phủ, ai cũng biết đó là mãnh tướng Hoàng thượng đào tạo ra, như thế rực rỡ thế nào?

Chính Đức không chút nghĩ ngợi, vỗ bàn nói: - Được! Trẫm làm Đại Thống soái Ngoại Tứ gia quân. Hắn chần chừ một chút nói: - Dương khanh, trẫm phong ngươi làm Uy Võ Tướng quân, phụ tá trẫm Thống soái tứ trấn quan binh, trẫm phong mình làm... Làm Uy Võ đại tướng quân, ha ha....

Chính Đức cười vỗ bàn nói: - Người đâu, người đâu, bảo Ngự Mã Giám Miêu Quỳ, tức tốc chế cho trẫm một hàm bài Ngự Mã Giám cao nhất, nhớ kỹ, phải to nhất, ha ha ha, nói là trẫm ban cho Đại thống soái Ngoại Tứ gia quân, lệnh Ti Lễ Giám hạ chiếu, ban thưởng Uy Võ đại tướng quân quyền cưỡi ngựa trong cung. Đúng rồi, bốn vị tướng quân cũng có quyền này.

Bốn vị tướng quân vừa nghe, không khỏi cười khổ. Hoá ra, Hoàng đế đặc biệt ban thưởng quyền cưỡi ngựa trong cung là một loại ân sủng lớn. Tuy vô cùng vinh quang, nhưng quy củ bất thành văn: Người chịu ban thưởng hàng năm phải dâng cho Hoàng thượng ngựa tốt cực phẩm.

Bốn vị này tướng quân là đại tướng lãnh binh đánh giặc, khác Dương Lăng thường ở trong cung, đặc quyền này gần như không dùng được, mà cũng không thể keo kiệt đưa ngựa cho Hoàng đế, xem ra sau này hàng năm phải thu xếp ngựa tốt dâng hoàng thượng.

Bốn người cúi mình tạ ơn, thái giám khác không hiểu, trong cung mỗi người đều đeo thẻ bài. Quy củ chế tác hắn hiểu, nên lại vội khom người nói: - Hoàng thượng, không biết vị Uy Võ đại tướng quân họ gì? Phải để khắc trên lệnh bài.

Chính Đức không cần nghĩ ngợi nói: - Đương nhiên là Chu..., tên hoàng thượng có kiêng kị, nhưng công khai gọi Chu Hậu Chiếu không khỏi đùa quá mức, Chính Đức đảo mắt nói: - Trẫm có chư vị ái khanh. Giang sơn Đại Minh vững chắc vạn vạn năm, trẫm liền gọi là... Chu thọ! Đúng, là Chu Thọ, cứ như vậy nói cho Miêu Quỳ.

Thái giám vừa nghe hoảng sợ, hóa ra Uy Võ đại tướng quân là đương kim Hoàng đế. Tiểu thái giám có rắm cũng không dám thả phải vội vàng đi truyền chỉ. Chính Đức cười nói: - Chu thọ, chu thọ Rồi bỗng nói với Dương Lăng: - Dương khanh năm nay vừa kịp nhược quán. Đã có tự chưa?

Dương Lăng vội nói: - Còn chưa có, thần đang muốn... Qua mấy ngày mời Lý Đông Dương Đại học sĩ hoặc là Tiêu Các Lão cho thần tự.

Chính Đức nói: - Bọn họ lấy được tên hay sao? Trẫm ban thưởng cho ngươi.

Chính Đức vung tay lên: - Ngươi gọi Vạn Niên đi, trẫm tên Chu Thọ, ngươi Vạn Niên, ghép vào là Chu Thọ Vạn Niên, ha ha.

Dương Lăng toát mồ hôi nói: - Hoàng thượng, thần mơ hồ nhớ có một thi nhân tên Dương Vạn Niên?

Chính Đức nói: - Đại Tống Dương Vạn Niên là thi nhân, Đại Minh Dương Vạn Niên là tướng quân. Rất khác biệt.

Dương Lăng không nói gì, hắn thấy Chính Đức hưng trí, nhẹ nhàng khoát tay áo, nói: - Bốn vị tướng quân tạm lui ra sau, bản quan có cơ mật muốn cùng Hoàng thượng thảo luận.

Bốn người lên tiếng lui ra, Chính Đức ngạc nhiên nói: - Có chuyện gì quan trọng như vậy?

Dương Lăng mắt nhìn hai thái giám sau lưng Chính Đức, thấp giọng nói: - Mời Hoàng thượng bảo hai người kia lui.

Trong lòng Chính Đức càng thêm tò mò, vội xua tay nói: - Đi xuống. Đi xuống, không thấy trẫm gọi các ngươi, không ai được đi vào.

Hai thái giám vội lui ra, Chính Đức tò mò nói: - Dương Thị Độc, chuyện gì quỷ bí như vậy?

Chính Đức tiến lên vài bước, thấp giọng nói: - Hoàng thượng, việc này dính đến người bên cạnh Hoàng thượng, nếu hai người này quả thực có ác ý, có thể ảnh hưởng tới an nguy của Hoàng thượng, sự tình trọng đại, thần không dám mạo muội bẩm báo....

Đại Minh Hoàng đế 'Hốt Tất Liệt' lại chơi trò gian trá, biến thành Uy Võ đại tướng quân Chu Thọ.

Giải Ngữ, Tu Hoa đứng dưới bóng rừng, nhìn sĩ tốt bận rộn hủy đi đại trướng, từng bầy cung nữ, thái giám theo sau bị sai hồi cung, nơi báo viên phong cảnh hoa lệ biến thành quân doanh.

Tu Hoa cười khổ nói: - Vị Hoàng đế ngoan đồng lại muốn đóng giả tướng quân? Lần tới đóng giả cái gì?

Giải Ngữ cười, thấp giọng nói: - Đóng giả Thánh giáo giáo chủ, vậy cũng thú vị, chúng ta một tả một hữu, thực là Thánh nữ phụng dưỡng giả thiên sư, ha ha....

Tu Hoa trừng nàng nói: - Không có đứng đắn, cẩn thận lộ chân tướng.

Giải Ngữ bĩu môi nói: - Tiểu Hoàng đế không đem lòng sinh nghi, ai dám hoài nghi hai người chúng ta? Đáng tiếc chúng ta không thể động thủ, bằng không Ninh Vương sẽ có cơ hội vào kinh rồi, nếu không Tiểu Hoàng đế sớm đã bị chúng ta... Hừ, coi hắn suốt ngày chỉ biết cn quấy, làm sao giống với một minh quân, giang sơn sớm nên đổi chủ, do Di Lặc Phật Tổ chủ thế.

Tu Hoa bỗng nhiên thở dài nói: - Hắn... Với chúng ta coi như không tệ, nếu không phải do ta và ngươi bị triều đình vô năng làm hại cửa nát nhà tan, thuở nhỏ hứa hẹn chung thân phụng dưỡng Di Lặc Phật tổ....

Giải Ngữ sẵng giọng: - Tỷ tỷ....

Tu Hoa lập tức ngậm miệng, sau một lúc lâu mới thở dài nói: - Không có chuyện gì... Hoàng thượng cũng quá càn quấy chút, cả cung nữ thái giám cũng đuổi đi rồi, báo viên đây quan binh. Như vậy chẳng phải chúng ta sẽ mất liên lạc với bên ngoài?

Giải Ngữ nói: - Tỷ tỷ lo lắng làm gì? Giáo chủ thần thông quảng đại, nhất định sẽ nghĩ cách phái người vào.

Hai người đang xì xào bàn tán, một tiểu giáo khiêng đại kỳ đi tới, cắm xuống mặt đất rồi buộc dây thừng lên cây, hai người vừa mới định tránh đi, chợt phát hiện tiểu giáo anh tuấn như đang lơ đãng làm thủ hiệu, Tu Hoa giả bộ vuốt ve trâm hoa trên tóc mai, cũng làm một thủ thế không để người khác chú ý.

Tiểu giáo từ từ đi qua, thấp giọng nói: - Phật Di Lặc hàng không, làm chủ thế giới.

Tu Hoa khẽ cười nói: - Phật tổ cứu kiếp nạn, tế độ muôn đời. Ta tin Phật, vị quan gia này cũng tin Phật tổ sao?

Tiểu giáo ngẩng đầu, mày kiếm vô cùng anh tuấn. Nghe vậy lại hạ giọng nói vài câu, Tu Hoa lúc này mới vui vẻ nói: - Các ngươi thật bản lãnh, Hoàng đế vừa mới thay đổi người trong viên, các ngươi đã đến. Phái ngươi tới chính là... Đại pháp sư sao?

Tiểu giáo nói: - Cô nương chỉ đã đoán đúng một chứ đại.

Giải Ngữ không nhịn được nói: - Một chữ đại? Chẳng lẽ là Đại thiếu chủ? Hắn đến kinh sư rồi hả?

Tiểu giáo đột nhiên mở miệng cười, nói:

- Không phải Đại thiếu chủ, là Đại tướng quân. Trụ Quốc Long hổ Thượng Tướng Quân, Dương Lăng Đại tướng quân!

Giải Ngữ chấn động, môi vừa hé ra, ngón tay tiểu giáo đã cách ngực dưới nàng ba tấc, nói: - Mạo phạm, không cần nói với Hoàng thượng.

Giải Ngữ trừng mắt nhìn lão Đại, thân mình đã mềm nhũn. Tu Hoa hoảng hốt, thân hình lao về phía trước. Giống như muốn cứu Giải Ngữ, nhưng thân hình vừa động, mũi chân lại quay ngược như tìm đường bỏ chạy.

Tiểu giáo rút từ hông ra một thanh Long Tuyền nhuyễn, thản nhiên cười nói: - Cô nương nếu như là người thông minh, biết có chắp cánh cũng không thể ra khỏi báo viên.

Tu Hoa quay lại. Xung quanh là binh lính đao ra khỏi vỏ, tên trên dây cung, trường thương san sát. Quả nhiên là lên trời xuống đất đều không có lối đi, sắc mặt lập tức biến thành tuyết trắng, tiểu giáo thấy nàng đã bỏ ý chạy trốn, thu kiếm, ôm quyền cười nói: - Võ Đang môn hạ Ngũ Hán Siêu, mời cô nương bó tay chịu trói.

- Cứ như vậy là thôi sao? Dương Lăng mặc nhung trang, ngồi trên ghế nhíu mi hỏi.

Lý Đông Dương cười nói: - Hoàng thượng lòng mềm yếu, không đồng ý dùng hình với hai vị cô nương kia, cũng không moi ra khẩu cung, tạm giam cũng không nghiêm, nhưng lại cho các nàng tìm cơ hội tự sát. Cẩm Y Vệ, nội vụ phủ đang điều tra tư liệu liên quan tới lai lịch các nàng.

Hai người này thân phận không thể bắt bẻ, các nàng là hồng bài trong đoàn kỹ nghệ Nam Xương, từ nhỏ đã sống ở đó, thời gian ở đoàn kỹ nghệ cũng bảy năm, gần Nam Xương không ai không biết các nàng. Vào mừng thọ Ninh Vương phi thì vào phủ chúc thọ, trùng hợp Ninh Vương thu xếp tiến lễ cho Hoàng thượng, biết Hoàng thượng khi còn là Thái Tử đã thích kỹ nghệ, liền đem đoàn kỹ nghệ này vào kinh.

Ninh Vương phái người vào kinh thu xếp, Dương Đình Hòa cũng thu Ninh Vương hậu lễ, hơn nữa cứ việc giờ chứng minh Giải Ngữ Tu Hoa là Di Lặc giáo nhân, nhưng Di Lặc giáo chỗ nào cũng nhúng tay vào, từ biên quan tướng lĩnh tới đoàn kỹ nghệ dân gian, lợi dụng Ninh Vương, cài người bên Hoàng thượng cũng không phải là không được.

Trong lòng Dương Đình Hòa vẫn đi theo suy nghĩ của hắn: Di Lặc giáo phản Đại Minh, phản Chu gia, cho dù Ninh Vương muốn phản, cũng không có khả năng cùng Di Lặc giáo hợp tác.

Cho nên Dương Đình Hòa tiếp lời nói: - Xem ra Di Lặc giáo đã mang các nàng vào kinh mới phát giác được đó là một cơ hội có thể lợi dụng, do đó bảo các nàng sắc dụ hoàng thượng, mê hoặc triều cương, Ninh Vương cũng có tội, nhưng Phiên vương lại rất khó động tới.

Tiêu Phương thấy Dương Lăng trầm tư bèn khuyên giải nói: - Đại nhân, bản quan và hai vị Đại học sĩ thảo luận, phiên vương không dễ động! Thiên hạ các nơi đều có phiên vương đóng quân, hơi có ngọn gió thổi cỏ lay sẽ dâng lên sóng to gió lớn, có thể biến động toàn cục. Huống chi Di Lặc giáo giỏi về luồn cúi, lại là bệnh cũ của Đại Minh, đủ loại dấu hiệu cho thấy Ninh Vương cũng chẳng hay biết gì, là người bị hại.

Dương Lăng nghe hắn giải thích, trong lòng đã rõ tam Đại học sĩ kiêng kị, từ xưa tước bỏ thuộc địa vốn là việc rất khó làm. Nếu chỉ dựa vào thông báo công bố nói hai nữ gián điệp biết nói vài câu ám hiệu của Di Lặc giáo, không người chứng nhận, không có vật chứng nhận, hai nữ nhân lại chết, không có bằng chứng mà bãi miễn phiên vương, chỉ sợ tất cả phiên vương sẽ như lâm đại địch nghĩ triều đình cố ý chế tạo cạm bẫy để tước bỏ thuộc địa.

Triều đình đại sự dù sao cũng không như ân oán giang hồ chém giết. Nghĩ đến đây, Dương Lăng bình tĩnh lại. Rốt cuộc mình vẫn thua kém đám lão thần trong triều, chưa biết bình tĩnh như họ, Dương Lăng hỏi: - Việc này giải quyết thế nào?

Lý Đông Dương nói: - Mới vừa rồi ba người chúng ta gặp mặt Hoàng thượng, đã nói ý tứ của mình, Hoàng thượng đã đồng ý rồi. Hạ chỉ khiển trách Ninh Vương, phỏng chừng không lâu nữa tấu chương thỉnh tội sẽ tới, sau đó lại mời Hoàng thượng hạ chỉ an ủi, lệnh Xưởng Vệ nghiêm mật chăm chú nhìn Giang Tây dò la động tĩnh là được.

Còn có. Nội đình Lưu công góp ý với Hoàng thượng, khôi phục Ninh Vương tam vệ, Hoàng thượng chưa đồng ý khôi phục tam vệ, nhưng hạ chỉ Nam Xương tả vệ chia làm Ninh Vương phiên vệ, sau việc này, đã phi ngựa phái người đuổi theo thu hồi thánh chỉ.

Dương Lăng gật gật đầu, nói: - Ba vị Đại học sĩ suy nghĩ cặn kẽ, thực bản quan không thể bằng.

Lý Đông Dương cười nói: - Còn may mà đại nhân tỉnh táo. Di Lặc giáo nữ không biết có chủ ý gì, các nàng ở bên Hoàng thượng lâu như vậy, nếu có ý giết vua... Ta nói là nếu, thì thực giật mình toát mồ hôi lạnh.

Hắn đứng lên nói: - Bản quan nghe nói Sơn Đông liệp hộ Thanh Châu thay mặt triều đình bắt giữ mãnh thú, tử vong nhiều người, triều đình không khỏi lo lắng cứ thế sẽ kích khởi dân biến, có hơn ba trăm thợ săn trong núi tụ họp dân chúng gây rối đã bị vệ sở trấn áp. Nhưng bản quan đối với chuyện này vẫn không yên lòng, muốn đi Hộ bộ, Hình Bộ thảo luận với hai vị thượng thư, chuẩn bị quan viên tới Thanh Châu xét hỏi một phen, để mau chóng bình ổn sự phẫn nộ của dân chúng. Dương đại nhân, cáo từ.

Tiêu Phương ở trước mặt người khác không tiện quá mức thân mật, cũng chăp tay cáo từ rời đi. Dương Đình Hòa đứng dậy muốn đi, lo nghĩ thế nào vẫn nói: - Đại nhân, bản quan có một lời khuyên, đại nhân xin chớ trách móc, Hoàng thượng dù sao cũng là thiên hạ cộng chủ, quan tâm võ bị cũng không sai, nhưng tự phong đại tướng quân, cả ngày ở ngoai ô diễn võ, tiếng pháo ù ù, âm thanh chấn động kinh ấp, cái này không ổn.

May mắn Hoàng thượng 'Đại tướng quân' không ra khỏi kinh sư nửa bước, chỉ ở ngoai ô diễn võ có thể xem như Hoàng thượng chơi đùa, ta còn có thể trấn an được quan viên trong triều, đại nhân... Ôi! Đại nhân là người bên cạnh Hoàng thượng, vẫn nên khuyên nhủ mới được.

Dương Lăng khác họ, tuy nhiên lời Dương Đình Hòa uyển chuyển hết sức chân thành, hắn rõ ràng noi theo Chính Đức, đủ loại quan góp lời, tai trái nghe tai phải bốc hơi là được, nhưng cũng không muốn cãi cọ với y, chỉ đành mỉm cười nói phải.

Dương Đình Hòa khẽ lắc đầu, chắp tay thở dài, bước chân trầm trọng rời đi.

Đã nhiều ngày Chính Đức vô cùng mê luyến chiến hỏa, chinh chiến, được tứ đại tổng binh chỉ điểm, Chính Đức gần như tinh tiến thần tốc.

Hắn phát hiện hoá ra chỉ huy tác chiến không chỉ suất quân xung phong đơn giản như vậy, trong đó có rất nhiều học vấn, sau khi trở về phê xong tấu chương liền xem binh thư, lại gọi Binh bộ và ngũ quân phủ đô đốc đến giảng giải, thái độ cần cù hiếu học.

Tiễn ba vị Đại học sĩ ra khỏi cửa, Dương Lăng rời khỏi phòng khách tới chỗ Chính Đức ở: - Thần Dương Lăng tham kiến Hoàng thượng, không biết Hoàng thượng đã phê xong tấu chương?

Dương Lăng chỉ yêu cầu Chính Đức Hoàng Đế mỗi ngày không được đọng lại tấu chương, nhất định phải xử lý xong tấu chương mới được đi ngoại ô diễn võ, Chính Đức cũng biết Dương Lăng vì tốt cho hắn, ngẫm lại tấu chương quan trọng cũng không nhiều, hơn nữa phần lớn nội các đã nghĩ ra ý tưởng, cũng không từ chối.

Chính Đức một tay nhấc bút son, một tay cầm tấu chương xem, nghe tiếng Dương Lăng liền ngẩng đầu cười nói: - Miên đi, Dương khanh tới thật đúng lúc, trẫm bị tam Đại học sĩ làm chậm trễ một lát, ở đây chỉ còn hai phần mà thôi.

Chính Đức đã mặc sẵn giáp trụ, hắn vội vàng duyệt tấu chương, bỏ thêm lời phê rồi cho thái giám để vào hộp, phân phó nói: - Lập tức đưa trở về Ti Lễ Giám. Sau đó vui vẻ nói: - Dương khanh, chúng ta đi thôi.

Đúng lúc này, một thái giám ôm một ngọc bài trong suốt tới, cung kính nói: - Hoàng thượng, hàm bài Ngự Mã Giám cao nhất đã xong, mời Hoàng thượng xem qua.

Chính Đức ngạc nhiên nói: - Hàm bài ở đâu? Ngươi đang cầm gì vậy?

Tiểu thái giám nói: - Đây... Đây là hàm bài Ngự Mã Giám phụng thánh dụ chế tác ở mức cao nhất, dùng ba con ngà voi, bốn lượng vàng. Mời Hoàng thượng khiển lãm.

Tiểu thái giám quân bài làm từ xương, chỉ thấy bên trên có một hàng chữ vànglớn: - Uy Võ đại tướng quân Chu Thọ

Chính Đức ngây người sửng sốt, ôm bụng cười nói: - Trẫm nói lớn nhất là muốn nói chữ và số trên quân bài, bọn họ như vậy... Như vậy...

Chính Đức bật cười, dù sao tấm bài khá tinh xảo nên khoát tay nói: - Thôi. Đã làm xong thì giữ đi, đi đến đâu ngươi cõng theo cho trẫm là được.

- Dương khanh lời nói luôn kinh người, chiến lược thủ thế giống như trong Tôn Tử binh pháp, không biết là chiến lược thủ thế gì? Chính Đức ngồi trên lưng ngựa hỏi. Vừa mới cùng tứ trấn tổng binh diễn võ bày trận, Chính Đức hưng phấn cũng Dương Lăng trở về. Ngồi trên lưng ngựa vừa đi vừa lãnh giáo.

Dương Lăng lại cười nói:

- Hoàng thượng, kỳ thật đây là binh pháp mà Tôn Tử binh pháp đề cập qua, chiến lược thủ thế và thủ kích hư thực có cách làm khác nhau nhưng kết quả lại giống nhau đến kì diệu, chủ yếu là chú ý trước tránh bất lợi. Đợi chiến cuộc có lợi với chúng ta thì thủy cầu quyết chiến.

Tuy nhiên nói dễ làm khó, một là tố chất quân sĩ, áp dụng chiến lược thủ thế, sĩ tốt phải hiểu được ý của tướng lĩnh, phải hiểu rõ trong lòng, nếu không sĩ khí đê mê, lòng người u ám. Vốn là có dự mưu nhượng bộ tránh né, nhưng binh sĩ không thể phối hợp, cuối cùng lại thành tan tác.

Vả lại, theo bề trên lý giải, tướng lĩnh ủng hộ tiền phương kế hoạch, nếu một viên Đại tướng cố ý yếu thế dụ địch xâm nhập, thực thi chiến lược lui bước, nhưng quan trong triều không hiểu được. Cho là hắn e sợ địch, ép hắn tức thời xuất binh, phá hủy kế hoạch. Thì dù có là Tôn Vũ tái thế, Vũ Mục tái sin, cũng chỉ có thể ngồi khóc nhìn thất bại.

Dương Lăng nói tới đây, nhớ tới tên Hùng Đình Bật khốn khiếp, biết rõ tất bại, lại bức bách lệnh vua, ở đầu thành khóc lớn một hồi, suất quân tuyệt vọng ra khỏi thành chiến cùng quân Thanh khiến cõi lòng ưu tư.

Chính Đức thấy vậy nói: - Trẫm hiểu, muốn mưu của tướng soái quán triệt cần trên dưới phối hợp, nếu không chỉ có hỏng việc.

Chính Đức ngẩng đầu, kêu: - Khởi cư quan, thư ký quan! Hai người vốn ở gần, nghe Hoàng thượng triệu tập, liền cùng thái giám ôm quân bài lớn nhất ruổi ngựa tới, Chính Đức dương dương tự đắc mà nói: - Nhớ kỹ, hôm nay trẫm chính miệng cho phép, ngày khác Dương Lăng ái khanh ở chiến trường có thể tùy ý làm, tướng ở bên ngoài mà không phụng quân mệnh, trẫm không trị tội!

Khởi cư quan cúi người xác nhận, Dương Lăng không biết nên khóc hay cười: - Hoàng thượng, thần chỉ nói ra tâm tình của kẻ làm tướng soái, chứ không có xin Hoàng thượng quyền to như vậy.

Chính Đức cười nói:

- Trẫm hiểu, chỉ có điều chiến sự trọng đại, chẳng lẽ không phải Uy Võ Tướng quân ngươi thay trẫm xuất binh? Quyền lợi cho ngươi, không phải biểu lộ trẫm quân thần một lòng, phối hợp tâm ý sao?

Dương Lăng nghe xong không khỏi bật cười lắc đầu, lúc này Hoàng đế đã gần kinh thành, trước sau tuy chỉ có ba dặm, thành trì nguy nga trước mắt, ven đường cây cỏ nở rộ, rất nhiều gia đình giàu có, cung nữ, tú sĩ đạp cỏ tìm hương, thấy gần ngàn tên binh sĩ phóng ngựa chạy tới, không khỏi nghỉ chân dừng xem.

Dân chúng chỉ biết ngoai ô có binh biên quan tứ trấn điều đến chỗ này diễn võ, Đại tướng quân Chu Thọ, tướng quân Dương Lăng cầm binh chứ không biết Chu Thọ chính là đương kim Hoàng thượng. Chính Đức nhìn dân chúng ven đường, vui sướng hết nhìn đông lại nhìn tây, nói với Dương Lăng: - Trẫm thấy dân chúng cũng rất vui vẻ, nếu mặc long bào, đỉnh đầu đội lọng vọng, dọc đoạn đường này cũng chỉ có thể thấy đỉnh đầu quỳ bái và mấy cái mông, thật sự không thú vị.

Dương Lăng phì cười, Chính Đức cũng cười nói: - Hiện tại vẫn còn sớm, trẫm thay quần áo theo ngươi hồi phủ. Gặp Tiên nhi.

Mấy ngày nay, Chính Đức mỗi lần gặp Đường Nhất Tiên đều có cảm giác nàng đối đãi mình, từ giọng điệu, ánh mắt hoàn toàn khác trước, có khi lộ ra dịu dàng chưa bao giờ thấy, có khi lại như thoáng chút suy tư nặng nề, nhưng ý vị nữ nhân càng thêm đậm đà khiến Chính Đức thần hồn điên đảo, hắn cũng cảm nhận được ám hiệu của Đường Nhất Tiên. Cảm giác ngọt ngào và khoái hoạt này thật quá kỳ diệu.

Chính Đức nói xong, ánh mắt nhìn qua dân chúng trên đường, đột nhiên thân mình chấn động, dây cương căng thẳng, ghìm ngựa đứng lại nơi đó. Hoàng thượng dừng ngựa, các tướng sĩ cùng đều ghìm ngựa đình cương, nhất thời đội ngũ ngàn người nghiêm nghị không một tiếng động.

Dương Lăng nhìn qua, lập tức cũng giật mình. Đường Nhất Tiên, Hàn Ấu Nương, Mã Liên Nhi và một đám mỹ nhân xinh đẹp đang đứng ở ven đường, Dương Lăng không khỏi âm thầm kêu khổ, cả nhà đều nhận ra Chính Đức, duy chỉ có Đường Nhất Tiên không thân phận thật của hắn, vốn mấy ngày nay thấy hai người tình đầu ý hợp. Đang chuẩn bị tìm cơ hội nói ra thân phận của Chính Đức, ai ngờ...

Đường Nhất Tiên nhìn từ từ bạch mã lên Chính Đức, nón bạc giáp bạc thắt lưng đeo trường đao. Sắc mặt nhìn không giống như giận, một trận gió thổi qua mũ soái của Chính Đức khiến chùm dây đỏ phất phơ, hắn cũng không khỏi giật mình tỉnh lại, quay đầu có chút cầu xin nhìn Dương Lăng.

Dương Lăng im lặng một lát, chợt nói: - Nhất tiên có thể thích một Giáo Úy nhỏ chứ không phải thích trang phục trên người hắn, Giáo Úy này có là tướng quân hay là Hoàng đế thì quan hệ gì? Sớm muộn gì cũng phải nói, Hoàng thượng tự nói rõ với Tiên nhi đi.

Chính Đức nghe xong chậm rãi quay lại, Đường Nhất Tiên lặng lẽ nhìn Chính Đức trong trang phục áo giáp anh khí bừng bừng, trong ánh mắt bỗng nhiên lộ ra một chút dịu dàng, Chính Đức bừng lên dũng khí, thúc ngựa đi tới bên Đường Nhất Tiên. Gương mặt thật sự nghiêm túc nói: - Tiên nhi, ta... Ta chính là....

Ý cười trong mắt Đường Nhất Tiên chợt lóe: - Ngươi là ai?

Chính Đức cắn chặt răng, lớn tiếng nói: - Ta chính là... Đại Minh Hoàng đế Chu Hậu Chiếu!

Hắn nói xong, vừa thoải mái vừa lo lắng, Nhất Tiên liệu có giận mình đã gạt nàng?

Đường Nhất Tiên duyên dáng hạ bái, nói: - Dân nữ Đường Nhất Tiên tham kiến ngã hoàng vạn tuế.

Trong lòng Chính Đức hoảng hốt, duỗi ra tay, chỉ thấy Đường Nhất Tiên chưa phụng chỉ dụ đã chậm rãi đứng dậy, hạ giọng nói: - Trong lòng Nhất Tiên vẫn hy vọng... Ngài là Hoàng Giáo Úy, cùng ta... Cùng ta hoàn thành nửa cuối "Sát Biên Nhạc".

Trong lòng Chính Đức mừng như điên, lớn tiếng nói: - Ta chính là Tiểu Hoàng, ở trước mặt muội ta vĩnh viễn chỉ là Tiểu Hoàng, là Tiểu Hoàng thích muội chứ không phải Đại Minh thiên tử.

Hắn vươn tay ra, ánh mắt nóng cháy nhìn Đường Nhất Tiên, kiên định nói: - Lên ngựa..

Hàn Ấu Nương và Tuyết Lý Mai mỉm cười đẩy nàng, Đường Nhất Tiên do dự một chút, đưa bàn tay nhỏ bé ra. Chính Đức nắm chặt, kéo nàng lên lưng ngựa, bả vai của hắn còn rất non nớt, nhưng mặc ngân giáp lại có vài phần khí thế của Đại tướng quân, điềm tĩnh và ung dung.

Hắn phóng tầm mắt nhìn quanh, bỗng nhiên thúc ngựa. Tuấn mã tung bốn vó, nhẹ nhàng chạy về phía trước.

Xuân phong quất vào mặt, trong lòng thư sướng dị thường. Bọn thị vệ nhanh chóng tránh sang hai bên, tạo ra một con đường, kỵ sĩ phía sau cũng đồng loạt thúc ngựa, đồng bộ chạy về phía trước, vây một ngựa hai người ở giữa.

- Nơi này chưa bao giờ tới sao? Phía trước... Chính là Ngọ môn Chính Đức ôm eo Đường Nhất Tiên, chậm rãi tới trước Ngọ môn, bọn thị vệ dừng ở phía sau.

Đường Nhất Tiên nhìn cửa cung màu đỏ thắm, thành cung màu vàng đồ sộ, hạ giọng nói: - Ừ, cửa cung đóng rồi.

Chính Đức nói: - Cửa chính rất ít khi mở, bình thường chỉ có ba loại người có thể từ cửa này vào hoàng cung.

Đường Nhất Tiên tò mò nói: - Người nào?

Chính Đức nói lỡ miệng, bất giác thầm hối hận, đành phải kiên trì đến cùng thấp giọng nói: - Một là Hoàng đế, chỉ có Hoàng đế xuất nhập cung đình phải đi cửa chính Ngọ môn. Một... Là Hoàng hậu, nàng... khi lần đầu tiên nhập cung, còn lại là... Ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn. Thám Hoa đứng đầu thi đình các năm.

- Ah... Đường Nhất Tiên nói: - Thủ vệ đang nhìn, chúng ta quay về đi.

Chính Đức nghe nàng thở dài, đột nhiên trong lòng nóng lên, bàn tay để bên hông nàng căng thẳng: - Ta dẫn muội đi xem!

Chính Đức đi vào Ngọ môn, ngang nhiên quát: - Mở cửa cung!

Thị Vệ Thống lĩnh nhận ra đương kim Hoàng đế, nghe vậy không dám chậm trễ, cửa cung ầm ầm mở ra, tòa điện Thái Hòa cùng lầu đài các vũ cũng theo hai cánh cửa mà chậm rãi hiện ra trước mắt.

Chính Đức thúc ngựa, nói: - Giá! Ngựa nhẹ nhàng phóng qua cửa cung. Đường Nhất Tiên luống cuống. Vội nói:

- Làm cái gì vậy? Mau cho ta xuống, như vậy không tốt.

Chính Đức không để ý, Bạch Mã dọc theo con đường tới thẳng trước Thái Hòa môn mới dừng lại. Tất cả thị vệ, thái giám, cung nữ đều quỳ xuống ngay tại chỗ.

Chính Đức dương dương tự đắc nói: - Tiên nhi, muội xem, Đông sương này là nơi sắc phong nội các, tra xét chỉ dụ. Tây sương là nơi bàn việc công, bên trong còn có phòng ăn. Sau Thái Hòa điện là Trung Hòa điện, Bảo Hòa điện, tổng cộng ba đại điện. Bên kia là là Thể Nhân các, Hoằng Nghĩa các, cùng với Ngân, Bì, Đoạn, Y, Từ, Trà và Tư khố...

Hắn bùi ngùi thở dài nói: - Tiên nhi, đây là nơi ta đã sống mười sáu năm.

Đường Nhất Tiên dựa vào lòng si ngốc thở dài: - Tráng lệ... Nhưng... Ta không thích nơi này, Tiểu Hoàng. Ta không muốn ở đây, ta... Có phải rất càn quấy?

Chính Đức mừng rỡ cười nói: - Làm sao có thể? Ha ha ha..., ta cũng không thích ở đây, nào! Chúng ta đi, trong thiên hạ, Hoàng đế không có cơ hội đại đăng khoa, nhưng vẫn phải có tiểu đăng khoa (lấy vợ) chứ?

Ta muốn dùng kiệu tám người khiêng, ở trong kinh, Báo Phòng chính là nhà của ta và muội. Chừng hai năm nữa. Ta muốn ở đại đồng xây dựng một phòng ở. Đưa cha mẹ nuôi của muội tới đó, chúng ta cũng tới đó ở. Còn hoàng cung....

Chính Đức giơ tay chỉ vào đám người đang quỳ nói:

- Người trong thiên hạ ai cũng coi nơi này là bảo bối, chỉ có ta và muội thấy nó không đáng một đồng! Hoàng cung lưu lại cho bọn họ, ngoài cung mới là nhà của ta và muội! Chờ chúng ta có con, nếu nó không thích, ta cũng không ủy nó tới chỗ quỷ quái này.

Đường Nhất Tiên đỏ mặt, xấu hổ gắt: - Ai muốn cùng ngươi sinh...! Mặt dày, nghĩ tai lại không biết đau....

Chính Đức cười ha ha, hai chân thúc ngựa, chạy thẳng tới cửa cung.

Bên ngoài cửa cung, là một không gian xanh thẳm, bồng bềnh những đóa mây trắng...

Trương Văn Miện lau mồ hôi, chắp tay nói:

- Lưu công.

Lưu Cẩn bước trong kiệu ra: - Vội vã như vậy, tìm chúng ta xuất cung có chuyện gì quan trọng?

Trương Văn Miện muốn nói lại thôi, theo sau Lưu Cẩn vào đại sảnh mới vội vàng nói: - Học sinh phụng mệnh Lưu công, sửa sang lại đám Ti Lễ Giám Vương Nhạc, phát hiện có món đồ này, tin rằng muốn điều Dương Lăng ra khỏi kinh đã không còn khó rồi.

Lưu Cẩn vừa mới ngồi xuống, nghe vậy hai mắt sáng ngời: - Cái gì vậy?

Trương Văn Miện thần bí cười, lấy trong tay áo ra một vật: - Lưu công mời xem.

Lưu Cẩn vội vàng mở ra, nhìn kỹ thêm một lần, lão văn hóa không cao, biết không nhiều chữ nên phải đọc lâu mới rõ, Lưu Cẩn xem hết, nhíu chân mày nói: - Thục vương? Là thật?

Trương Văn Miện nói: - Quản là thật hay giả, cho dù không có căn cứ, trình lên cũng bị Lưu công để ý, chỉ cần Lưu công khéo đưa đẩy, sự tình phiên vương ngay cả Hoàng thượng cũng không dám phái quan viên đi làm, trừ ngự tiền đệ nhất tâm phúc Dương Lăng, còn có thể chọn người thứ hai sao?

Lưu Cẩn vừa nghe, ngửa mặt lên trời cười to...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 245: Hỏa pháo có hi vọng

Thành Khởi Vận mặc y phục màu thủy lam, lông mày đen như vẽ, thần thái đẹp đẽ mềm mại như sương. Nàng bước nhẹ về phía cửa sổ, chậm rãi đẩy tấm cửa sổ khắc hoa, ngắm nhìn hoa đào dưới tàng cây, y bào nhẹ nhàng bay trong gió, tư thế thướt tha đẹp.

Dưới tàng cây phía sau tảng đá xanh, đàn cổ đặt trên đầu gối Chính Đức, trong tay Đường Nhất Tiên cầm một cây sáo tím, gió nhẹ thoảng qua, từng đóa hoa rơi rơi bay xuống, giống như tiên cảnh.

- Không có mấy ai nhận ra Đường cô nương, ngày xưa đại nhân dẫn nữ quyến tiến vào quân doanh, bởi vì Hoàng thượng ân sủng, nên việc này được xử lý qua loa, trong triều chỉ biết nữ quyến của đại nhân gặp chuyện không may, cũng không có mấy ai biết được nên của nàng đó. Chỉ điều này đã đủ rồi, người nào có thể ngờ được rằng, biểu muội của Dương tướng quân, chính là nữ tử ngày xưa rơi xuống vực mất tích cơ chứ?

Thành Khởi Vận nghe vậy chợt quay đầu lại, cười nhợt nhạt nói: - Cho nên phải trả nàng mọt thân phận trong sạch, đối với ty chức, chuyện này dễ như trở bàn tay. "Thi Hoa Quán", "Giáo Phường Ty" tất cả mọi thứ liên quan ty chức đều rõ như lòng bàn tay. Nếu chỉ dựa vào thế lực trong triều, thay mới bỏ cũ bản hồ sơ ghi chép, lại còn không sợ chết, chỉ cần kín miệng, ai dám nói nọ kia về ái phi của Hoàng thượng chứ?

- Chỉ có điều chỉ có điều Thành Khởi Vận sâu kín liếc mắt nhìn Dương Lăng một cái, chần chừ không nói gì.

Dương Lăng nghiêng người dựa vào bình phong bằng gỗ lim được khắc vân đá ở bên cạnh, giơ chén trà lên nhập một ngụm, cười mỉm nói: - Thế nào? Có điều gì khó nói hay sao?

Thành Khởi Vận cắn môi, thấp giọng nói: - Tiện thiếp chỉ sợ khổ tâm một phen, nhưng đại nhân lại không hiểu mà thôi.

Giọng nói của nàng hạ thấp mềm mại, khiến người ta nghe thôi cũng động tâm, Dương Lăng ngước mắt nhìn nàng, chỉ thấy nàng dựa lưng vào viền cửa sổ, lông mày khẽ nhíu, dường như thực sự đau buồn ẩn trong lòng, đặt chén trà xuống, thu lại nụ cười nói: - Khởi Vận, có chuyện gì cô cứ việc nói thẳng, đã đến hôm nay, với tuệ nhãn của cô nương, còn vẫn không nhìn ra Dương mỗ tin hay không tin tưởng cô sao?

Nghe vô cùng chân thành động tâm, nhưng lại thiếu một chút nhẫn nại tình ý trong lòng. Thành Khởi Vận giống như oán giận liếc mắt nhìn hắn, rồi cười một tiếng: - Ty chức chỉ lo lắng một chuyện, đại nhân thăng quan quá nhanh. Đại nhân vật một phương, ở nơi này, ở trong triều. Khổ tâm trong quân doanh nhiều năm, tạo ra mạng lưới quan hệ, quan liêu trung thành với hắn không ít, mà đại nhân lại có nhiều thiếu sót cơ bản như vây.

Chức cao thì cũng nguy hiểm, nếu đại nhân là công khanh nhiều thế hệ, hoặc khổ tâm hơn mười năm mới đạt được chức vị như ngày hôm nay, đưa một người thân thiết vào cung sẽ không có ai để ý, nhưng đại nhân vẫn còn quá trẻ tuổi, mà đã là đại nhân vật thế này rồi. Hiện tại lại có một biểu muội trở thành sủng phi của Hoàng thượng, ngàn người chỉ trích, cả nước đố kỵ. Tuy nói đại nhận được Hoàng thượng tín nhiệm, nhưng ba người thành hổ, tương lai làm sao đoán định được là họa hay phúc đều không thể quên đạo lý này. Dương Lăng nghe xong Thành Khởi Vận nói. Trong lòng cũng có chút xúc động, hắn ban đầu cảm thấy Chính Đức là một người nóng nảy làm việc theo cảm tính, nhận làm biểu muội của mình cũng tốt, có thân phận là biểu ca, hắn có thể chăm sóc cho Tiên nhi, nhưng lại chưa hề nghĩ tới hành động của mình, lúc này mới khoanh tay chậm rãi đi lại,càng nghĩ càng cảm thấy làm vậy quá mức lỗ mãng.

Dương Lăng trầm ngâm trong chốc lát, rồi nói: - Vậy theo ý kiến của cô, thì thế nào mới phải?

Sóng mắt Thành Khởi Vận vừa chuyển, nói: - Nàng đến từ Đại Đồng, ban đầu tên gọi là Lưu Lương Nữ, để cho Vương phi nhận nàng ta làm nghĩa nữ, như vậy chỉ là việc của vương phủ kia. Nếu có người muốn điều tra thân phận của nàng ta, thì có một lá chắn không thể qua được, quyết định như vậy đại nhân cảm thấy thế nào?

Dương Lăng dừng bước, nhìn chằm chằm mũi hài màu bạc vểnh lên của Thành Khởi Vận một hồi lâu không nói gì, Thành Khởi Vận có chút mất tự nhiên rụt chân lại, Dương Lăng gật đầu nói: - Có đạo lý, ta đi thăm Nhất Tiên, chuyện này cũng muốn nghe ý kiến của nàng rồi bàn sau.

Đường Nhất Tiên từ khi xác định được tình cảm của mình, vốn còn muốn trêu đùa một chút hai tỷ muội bọn họ. Sau đó lại nói ra bản thân mình đã khôi phục trí nhớ, vì từ khi Cao Văn Tâm chữa khỏi cho chứng bệnh thường xuyên mê man của Vương Long. Dường như có chút chắc chắn, mỗi ngày đều cầm hộp ngân châm tìm nàng khám chữa bệnh, Đường Nhất Tiên thực sự sợ hãi, chỉ còn cách xin khoan dung rồi nói ra chân tướng.

Nghe xong Ngọc Đường Xuân bất ngờ vui mừng, Tuyết Lý Mai chạy tới ôm chầm lấy hai người, ba người vừa khóc vừa cười, sau lại ôm đầu khóc rống lên, cuối cùng cũng nhận ra nhau lần nữa, đồng thời đều nhận Dương Lăng làm đại ca. Bởi vì nàng cũng biết thân phận mình, cho nên Dương Lăng cũng không lo lắng chuyện nhắc với nàng chuyện để Vương phi nhận nàng làm nghĩa nữ.

Dương Lăng đi ra khỏi phòng, chậm rãi bước tới bên cạnh hồ nước.

Đường Nhất Tiên đang cùng Chính Đức diễn tấu, nửa phần sau của "Sát Biên Nhạc", muốn hợp lực sáng tạo ra một bản hợp tấu tinh diệu. Bóng dáng mỹ lệ lẳng lặng đứng dưới tàng cây, hình bóng nàng in dưới hồ nước, Đường Nhất Tiên nhìn thấy Dương Lăng đi tới, vui vẻ tiến lên phía trước nghênh đón: - Đại ca.

Dương Lăng gật gật đầu, đứng ở dưới bóng cây tử đằng, nói lại chủ ý của Thành Khởi Vận cho hai người Đường Nhất Tiên nghe, sau đó nói: - Khởi Vận lo lắng cũng có đạo lý, lấy thân phận là nghĩa nữ của Vương phi tiến cung, có thể bớt rất nhiều rắc rối. Không giống như làm biểu muội của trọng thần, mọi biểu hiện của muội đều khiến cho trong ngoài triều chú ý, Tiên nhi, muội thấy thế nào?

Đường Nhất Tiên im lặng suy nghĩ trong chốc lát, quay đầu nhìn Chính Đức, Chính Đức đưa tay lướt trên dây đàn, nhìn thấy nàng quay đầu lại, liền khẽ mỉm cười với nàng. Đường Nhất Tiên khe khẽ thở dài nói: - Gả cho hoàng đế, bớt được rất nhiều chuyện cho với nhà bình thường, nhưng lại có thêm một chút phiền phức trong nhà đế vương, chuyện thiên hạ, không như ý người đến tám chín phần, Tiên nhi cũng hiểu được rồi.

Nàng cắn môi, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng thản nhiên nói: - Ca, muội thương lượng với chàng ấy một lúc được không?

Dương Lăng gật gật đầu, xoay người rời đi. Đường Nhất Tiên dõi theo bóng lưng hắn khuất dần, sau đó khoan thai đi đến bên cạnh Chính Đức, khoanh chân ngồi xuống bên cạnh hắn, thấp giọng thuật lại mấy lời Tương Dương Lăng vừa nói.

Hai tay Chính Đức đè chặt dây đàn, nghe xong Đường Nhất Tiên nói, không hề để ý chỉ cười nói: - Vậy cũng dễ dàng, ta sẽ hạ mật chỉ, để Đại vương nhận muội làm nghĩa nữ, thân phận thì có gì mà vội vàng chứ? Ta yêu là Đường Nhất Tiên, không phải là thân phận của nàng, thế nào cũng được, chỉ cần không để nàng phải phiền não là được.

Đường Nhất Tiên lườm hắn một cái, gắt giọng nói:

- Chàng là Hoàng đế, đương nhiên là cái gì cũng không để ý rồi. Ta hỏi chàng, xuất thân của ta có thế nào thì chàng thực sự đều không quan tâm?

Chính Đức bật cười nói: - Đương nhiên không quan tâm rồi.

Đường Nhất Tiên quả quyết nói: - Được, nếu đã vậy không cần phải lén lén lút lút nữa. Chính Đức Hoàng đế Đại Minh muốn nạp phi tử là Đường Nhất Tiên. Là thanh quan nhân của "Thi Hoa Quán", ta liền lấy thân phận này gả cho chàng.

Chính Đức hơi do dự, chần chờ nói: - Tiên nhi, làm gì phải tức giận như vậy, để Đại vương nhận nàng làm nghĩa nữ có gì không tốt chứ?

Đường Nhất Tiên hơi ngưng lại nhìn hắn, ánh mắt giống như đứa trẻ quật cường, dần dần đôi mắt như sao sáng tràn ra lệ quang, nước mắt tí tách rơi xuống: - Nói cái gì mà chỉ yêu con người của ta, chàng ghét bỏ thân phận của ta có phải hay không? Chính Đức luống cuống, vội cầm lấy tay nàng, nhưng nàng lạnh lùng hất tay hắn ra, Chính Đức đỏ mặt nói: - Ta thích ai, đó đều là chuyện của Hoàng đế, ai dám nói này nọ chứ? Ta sợ cái gì? Lại ghét bỏ nàng gì chứ?

- Tiên nhi, ta làm như vậy là muốn là muốn cho nàng danh phận Hoàng hậu, những đại thần kia có khi lại muốn chảy nước mắt khóc rống lên làm phiền trẫm, trẫm mặc dù không sợ bọn họ, nhưng dù sao vẫn là rất phiền toái. Cũng không phải như nàng nghĩ ta không hề ghét bỏ nàng.

Đường Nhất Tiên nghe hắn thổ lộ chân tình, không khỏi cúi đầu mỉm cười, nàng nhấc mũ bàn tay lau nước mắt, chậm rãi nói: - Ta không thèm làm Hoàng hậu, tương lai chàng muốn nam chinh bắc phạt, lập lên một phen sự nghiệp. Khi đó thân là Hoàng hậu, phải làm gương cho thiên hạ, phải trấn thủ lục cung, muốn gặp chàng một lần cũng khó.

- Hơn nữa, thân phận của ta cũng không phải không có ai biết. Giấu giấu diếm diếm, sớm muộn gì cũng có phiền toái lớn, ta cũng không muốn mỗi ngày đều sống trong lo lắng, hiện tại ta muốn để người trong thiên hạ đều rõ ràng, rành mạch. Từ trước tới nay, đế vương sủng ái nữ tử có thân phận thấp kém rất nhiều, làm như vậy ngược lại là để cho bọn họ nắm được điểm yếu của mình.

- Không thì chẳng lẽ chàng muốn, nếu thân phận ẩn giấu của ta bị người ta biết được, mà ta lại cùng ngoại đình nhà Dương Lăng đại nhân qua lại thân mật. Không có âm mưu cũng bị bọn họ nói thành có âm mưu, hậu cung Đại Minh chưa từng có chuyện hậu cung tham gia chính sự, nhược điểm này mà để người ta tóm được, đại ca của ta vì biểu lộ lòng trung thành thì chỉ còn cách từ quan, mà ta từ đó về sau cũng sẽ bị mấy trăm đôi mắt của văn võ bá quan nhìn chằm chằm, nếu đã như vậy, thà cứ nói hết ra từ đầu, sau này muốn bọn họ cũng không công kích được.

Chính Đức trầm ngâm suy nghĩ trong chốc lát. Đột nhiên đặt cầm xuống bên cạnh, giũ áo bào nói:

- Nói rất đúng, lợn chết không sợ nước sôi. Bây giờ nói hết ra, đỡ sợ sau này bọn họ lấy thân phận của nàng ra nói.

Đường Nhất Tiên làm bộ đanh đá,cười nói: - Thúi lắm! Chàng nói ai là chứ. Chàng đi đâu vậy?

Chính Đức nghiêm mặt nói: - Ta hiện tại muốn vào cung, bẩm báo mẫu hậu, thông tri Phủ Nội Vụ, lệnh Ti Lễ Giám ban kim thư.

Dựa theo quy củ, khi Hoàng hậu thành thân được ban thưởng kim thư, quý phi thì có chiếu chỉ chứ không có vàng bạc, còn bên dưới nữa thì ngay cả vàng và chiếu chỉ đều không có. Chính Đức rất yêu Đường Nhất Tiên, sao có thể đồng ý để nàng bị ủy khuất chứ.

Hắn đã quyết định rồi, trước tiên cứ sắc phong Đường Nhất Tiên làm hoàng phi, chỉ cần Đường Nhất Tiên có thể vì hắn mà sinh hạ long tử, liền theo lệ ban kim bảo, nhi tử lớn lên, liền lập làm Thái tử, khi đó đưa nàng lên ngôi Hoàng hậu, hai việc song song thực hiện. Tiến hàng từng bước như vậy, ngược lại càng thêm thỏa đáng, nghĩ thế hắn liền lập tức bắt tay vào làm.

Đường Nhất Tiên kinh sợ cười nói: - Chàng sao lại thiếu kiên nhẫn như vậy? Ai nói là hiện tại muốn muốn gả cho chàng chứ? Hừ, ta muốn cùng Tuyết nhi, Ngọc nhi, đợi Ấu Nương tỷ sinh cục cưng ra rồi mới mới gả cho chàng.

Chính Đức vừa đi vừa cười nói: - Nghĩ đến là phải làm, đó mới là trẫm. Nạp hoàng phi cũng phải chọn ngày mà, ta chỉ bảo Khâm Thiên Giám chọn ngày trong tháng tám sau khi trung thu, trong khoảng thời gian này, có kẻ nào đui mù, ta sẽ tiêu trừ nhuệ khí của hắn.

Hoàng đế nạp phi, trừ việc sắc phong mẫu nghi thiên hạ đứng đầu lục cung là quần thần có quyền xen vào, phi tử bình thường khác thì họ đều không có quyền hỏi đến. Mặc dù là như vậy, nhưng Hoàng đế nạp một nữ tử lớn lên trong thanh lâu làm phi, hơn nữa vừa vào cung đã sắc phong làm Hoàng quý phi, địa vị tôn quý gần sát với Hoàng hậu, vẫn đang khiến cho quần thần hết sức bất mãn, uyển chuyển dâng tấu khuyên can gửi tới Báo Phòng.

Chính Đức vẫn như cũ, đứng ngoài xem trò vui. Tấu chương cũng không thèm xem, hai ngày sau, gã lật ra vài trang liền đau lòng, lệnh một tiếng, Lưu Cẩn lại làm một kẻ ác nhân: Ngân khố quốc gia đang thiếu thốn, cắt giảm các chi phí, các bộ phận các ti lĩnh dùng giấy mực toàn bộ sẽ giảm xuống còn một phần ba, tấu chương dâng lên Hoàng thượng cũng phải đau lòng, vì thế sau đó, lượng tấu chương đúng là giảm đi hẳn.

Mấy ngày nay, Dương Lăng chỉ lưu lại một gã sai vặt trong Phùng Đường, lại đề bạt hai kẻ vốn là Doanh phó đô ti của Hoán Thần Cơ lên làm nhị đương đầu, hai viên tân phúc Bành Kế Tổ vào Đại Đồng, hai trấn Tuyên Phủ tổng binh dưới trướng làm phó tướng, đồng thời đề bạt hai người đảm nhiệm trạm canh gác quân phòng Nguyên Thần Cơ, hai trấn Liễu Đông tổng binh du kích tướng quân, truyền thụ chiến thuật kỹ xảo của hắn ở trong núi, quan niệm chiến tranh.

Dương Lăng có Thành Khởi Vận ở phía sau hắn bày mưu tính kế, hơn nữa hắn quyền cao chức trọng, cư xử hòa nhã, sớm chiều qua lại với tổng binh của bốn trấn, kết giao chặt chẽ. Lấy Kinh Phật Nhi làm đầu, bón vị lão tướng sa trường đều vui vẻ phục tùng Dương Lăng, lại thêm lần cắm thêm người này nữa, quân của bốn gia tộc đã nằm trong sự khống chế chặt chẽ của Dương Lăng.

Ngày hôm đó, Dương Lăng và Chính Đức đang luyện binh ở ngoại ô, đột nhiên nhận được bẩm báo từ Đông Xưởng, Binh bộ tả thị lang Lưu đại nhân có việc gấp cho mời, Dương Lăng cũng không hồi phủ, mà vội vã phi ngựa tiến vào Binh bộ.

Lưu Vũ vội vàng tiến lên nghênh đón Dương Lăng, dẫn hắn vào thư phòng, chắp tay cười nói: - Đại nhân hạ quan có tin tức của hải tặc, hạ quan không dám chậm trễ, mệnh Lưỡng Quảng có bất cứ tin tức gì đều phải mau chóng báo lên kinh thành, hiện giờ đã thu được một chút tin tức, nghĩ đại nhân là chỗ thân thiết, nên vội vã bẩm báo với đại nhân.

Dương Lăng vừa mới ngồi xuống, nghe vậy dứng bật dậy, kêu lên: - Có tin tức gì rồi? Mau nói cho ta nghe.

Lưu Vũ lấy ra hai phần mật báo dâng lên trước mặt Dương Lăng nói: - Mời đại nhân xem, đây là nước thư của một vị đại thần nước Malacca, nhờ chúng ta xuất binh viện trợ. Nói là trước đây không lâu, có rất nhiều hải tặc người Phiên tóc đỏ tới nước Malacca đánh hạ, bởi vì không phải công văn của quốc vương, nên Sứ ti Quảng Đông vẫn chưa dâng lên.

Tuy nhiên Đô chỉ huy Sứ ti hoảng sợ trốn trong đám đại thần hỏi thăm một chút tình hình, cảm thấy hải tặc và điều đại nhân căn dặn có liên quan, cho nên phái người thúc ngựa báo tới kinh thành.

Dương Lăng vừa nghe là nước Mãn Lạt Gia bị hải tặc đánh hạ. Không khỏi khiến người ta kinh hãi. Nếu điều hắn nói là sự thực, chẳng lẽ hải tặc Bồ Đào Nha thời này càn rỡ như vậy sao? Lại còn có đại quân ở phụ cận Minh triều.

Chớ có xem thường người Bồ Tịch hiện đại, phần lớn những người giữ cửa ở Tây Âu đều là người Bồ Tịch, thân hình béo núc, da thịt hồng nhuận. Dáng vẻ chân thành, vô cùng trung hậu. Không biết, có một thế hệ Phật Lang Cơ (Bồ Đào Nha) hải tặc cũng tung hoành tứ hải, vô cùng hung ác, biển chính là thiên hạ của bọn họ.

Dương Lăng không kịp nhìn kỹ, vội vã hỏi: - Nước Malacca bị vây hãm rồi hả? Vậy quốc vương của họ đâu? Vì sao không tự mình viết thư cầu viện? Đám hải tặc đó có chừng bao nhiêu nhân mã?

Lưu Vũ vội hỏi: - Theo đại thần kia nói, nước hoàng đế Malacca là Tô Đan Thương do quá sợ hãi nên đã trốn sang mộ hoang đảo Đãm Mã Tích (Singapore) ở Đông Nam Á, hiện tại ông ta cũng không tìm được. Đành phải chuyển hướng cầu cứu Đại Minh, hải tặc tràn vào thế rất lớn, có năm chiến hạm, hơn mười hỏa pháo, ước chừng có khoảng bốn trăm người.

Dương Lăng: -. Diệt quốc bốn trăm người

Dương Lăng im lặng một lát, rồi mới nói: - Bất kể thế nào chăng nữa, Malacca luôn phụ thuộc vào Đại Minh, nếu bỏ mặc, không khỏi khiến các nước chư hầu thất vọng. Chuyện này hẳn là phải nhanh chóng báo cáo với Hoàng thượng. Nếu đã không tìm được vị quốc vương kia, không thể tự mình cầu cứu viện binh. Thì chúng ta cúng nên nhanh chóng xác minh tình hình bên đó, lệnh thủy sư chuẩn bị, để trợ giúp Sudan phục quốc.

Hơn nữa hiện tại sắp mở biển, eo biển Malacca không thể để mất, nếu để bọn cướp chiếm cứ nơi đó, thì sẽ ảnh hưởng tới thông hành của thương đội. Nhất là pháo của bọn họ, nhất định phải nghĩ biện pháp mới được.

Dương Lăng vòng vo hai vòng, rồi mới gấp rút nói: - Mang theo quân tình bẩm báo, chúng ta cùng đi gặp Hoàng thượng, mấy chuyện này đều rất quan trọng, nhất định phải mời hoàng thượng lập tức hạ chỉ, không thể trì hoãn được.

- Vâng vâng. Lưu Vũ hạ thấp người nói: - Hạ quan còn có một chuyện quan trọng cần bẩm báo, cũng chính là bố chính sứ ti nha môn Quảng Đông giao nộp cho Hộ bộ, vì ngoại giao cần nhân lực mà tranh cãi, Hộ bộ lại vòng đến Binh bộ.

Lưu Vũ nói: - Chuyện này phát sinh lúc sứ thần nước Malacca chạy trốn tới Đại Minh mấy hôm trước. Có một đám người đi thuyền tới dịch trạm Hoài Viễn ở Quảng Châu, tự xưng là đặc phái ivieen của nước Malacca.

Bất quá bọn hắn tuy rằng đầu buộc khăn trắng, nhưng ai cũng mặc trường bào, mũi ưng mắt lõm, tóc vàng mắt màu xanh, phần lớn đều hôi nách. Dịch trạm Hoài Viễn đã từng gặp qua cống sứ nước Malacca, thấy bọn họ ngay cả lễ nghi của cống sứ cũng không biết, nên sinh lòng nghi ngờ, vì thế báo cáo lên Sứ ti nha môn. Bố chính Sứ ti nha môn đề ra nghi vấn, những người này không thể che giấu được, liền thừa nhận từ phương Tây xa xôi tới, đến từ một quốc gia tên là Phật Lang Cơ

Dương Lăng nghe xong, thân mình chấn động, hai mắt lập tức phát sáng, dường như thấy môn khẩu đại bác ở trước mặt hắn, hắn kìm chế hưng phấn trong lòng, vội hỏi: - Phật Lang Cơ? Bọn họ tới đây là gì?

Lưu Vũ nói: - Bọn họ nói là đến từ một nơi rất xa, nghe nói có một đế quốc khổng lồ là Đại Minh, nên muốn để mở mang kiến thức một phen, nhưng lại sợ không được Thiên triều tiếp đãi, mới mạo muội giả làm người của nước Malaccca. Bố chính Sứ ti yêu cầu bọn họ đưa ra quốc thư, nhưng mấy người đó không đưa ra được.

- Trong <Đại Minh hội điển> không hề có nước Phật Lang Cơ, bố chính Sứ ti cho rằng nhất định là một quốc gia ở tận phía chân trời đến. Liền lệnh cho dịch trạm bày tiệc khoản đãi bọn họ, sau đó sứ thần Malacca chạy tới Đại Minh cầu triều đình ta cứu viện, bố chính Sứ ti nghe xong mới biết được mấy kẻ đó là cường đạo, nên vội vàng lệnh tuần kiểm ti đi bắt người, không ngờ những kẻ đó có tốc độ rất nhanh, dùng hỏa súng đả thương và giết chết vài sai nha, sau đó vội vàng chạy đến bờ biển dùng thuyền chạy thoát.

- Bố chính Sứ ti tra xét, nhưng lại phát hiện vùng duyên hải từ vài năm trước đã xuất hiện người có tướng mạo tương tự người Phật Lang Cơ đến mua tơ lụa, đồ sứ. Bởi vì thứ nhất người cũng không nhiều, thứ hai là bọn họ cũng không xâm nhập vào sâu trong lục địa, hơn nữa vẫn còn theo khuôn phép cũ, cho nên trước đây cũng không có báo cáo lên trên.

Trong lòng Dương Lăng vừa động, nhìn những hải tặc này cũng muốn buôn bán đấy, bọn họ ở bờ biển mua đồ sứ Trung Quốc, tuy không coi là cực phẩm, nhưng mang tới các nước khác cũng được coi như báu vật xa hoa, có lẽ bọn họ chỉ là ít người, nên mới theo khuôn phép, không dám làm bậy, giờ đã hạ được Malacca, tự cho mình là có thể khiêu chiến quân uy Đại Mminh, mới phái người lên bờ tìm hiểu chúng ta?

Nếu là như vậy, như vậy nhóm Phật Lang Cơ này giả mạo người Malacca, lên bờ nhằm mục đích hò hỏi Đại Minh chúng ta thực rồi. Thủy sư rất ít có cơ hội gặp được quân đội ngoại quốc tác chiến, căn bản không hề có ý thức giữ bí mật, chỉ sợ Thủy sư chiến hạm, pháo hạm, bọn họ đều đã nắm hết được tình hình, chỉ cần bọn họ tính toán là có thể có cơ hội chiến thắng. Ngày tấn công Đại Minh chắc chắn cách đây không xa nữa.

Dương Lăng nghĩ đến đây, vôi vàng nói: - Mau đi đi, lập tức đi gặp Hoàng thượng, xem ra chẳng những phải phái thám tử tra xét tình hình Malacca, và những quốc gia khác, thủy sư cũng phải tăng mạnh đề phòng, chỉ sợ không lâu nữa sẽ có chiến sự.

Lưu Vũ không biết hắn căn cứ vào điều gì mà xác định chắc chắn như vậy, tuy nhiên thấy thần sắc của hắn ngưng trọng, cũng không dám hỏi nhiều. Hai người vội vàng ra khỏi đó, đi thẳng tới Báo phòng.

Lần lượt kiểm tra thẻ bài, sau đó hai người vội vàng đi vào phòng của Chính Đức, hai người vừa vào, chính là lúc Lưu Cẩn đang đứng hầu trong đó. Trên tay Chính Đức còn có một phần tấu chương đơn giản, sắc mặt ngưng trọng, vừa thấy Dương Lăng tiến vào, không khỏi vui mừng nói: - Dương khanh, đến thực đúng lúc. Trẫm có một việc quan trọng, trừ ngươi ra thực sự cũng không biết giao cho ai mới yên tâm.

Dương Lăng đang muốn nói mình có chuyện quan trong, nghe xong mấy lời này, giật mình nói: - Hoàng thượng có chuyện quan trọng gì vậy?

Chính Đức nhìn Lưu Vũ một cái rồi nói: - Ngươi lui xuống trước đi.

Lưu Vũ vừa mới bước vào cửa, còn chưa kịp tới thỉnh an. Nghe thấy vậy vội lên tiếng, lui lại ra ngoài cửa, hai cánh cửa màu vàng nhẹ nhàng khép lại.

Dương Lăng tiến lên vuốt cằm ra hiệu cho Lưu Cẩn, còn chưa kịp hỏi, Chính Đức đã đi vòng qua thư án, bắt lấy cánh tay hắn, thấp giọng nói: - Dương khanh, trẫm nhận được mật báo, Thục vương muốn mưu phản.

Dương Lăng chấn động, bật thốt lên: - Thục vương là một Vương gia giàu có nhất, cũng nổi danh là hiền vương, hắn... hắn muốn làm phản?

Chính Đức nhíu chặt hai hàng lông mày nói: - Việc này nếu là giả dối, tự ý xử lý phiên vương thì thiên hạ tất loạn. Việc này nếu là thật, của cải của Thục vương vô cùng lớn, Xuyên Thục có địa thế hiểm trở, độc lập như một quốc gia, không thể không đề phòng. Sự tình quan trọng, phải cẩn thận, trẫm càng nghĩ, cũng chỉ có Dương khanh đi thăm dò để nắm được tình hình, trẫm mới yên tâm được.

Trong ba tháng, Hoàng Đế Chính Đức phát ra thần uy, chân lượn khắp lục cung, quyền vòng ngoài đình bộ, vừa mới quyết định được chuyện lập Đường Nhất Tiên làm phi, lập tức hạ một đạo thánh chỉ rơi vào tay nội các: " Uy Võ Hầu, Đề đốc trong triều, Hữu trụ quốc Long Hổ thượng tướng quân Dương Lăng thay mặt đi tuần tra, qua Ký Lỗ, vòng qua Từ Dương, tới Nam Kinh, thị sát Tô Triết, đến Giang Hán, thăm Xuyên Qúy, qua Thiểm Tấn, tìm hiểu rõ trung nguyên. Khâm thử."

Ở bến tàu, ba chiếc thuyền lớn, Dương Lăng mang theo một ngàn tinh binh, bốn vị tướng quân mang theo ba nghìn binh sĩ, đã tới Kim Lăng trước đợi hầu. Chuyến đi xa này, gần như tuần tra khắp cả Trung Quốc, tuy chỉ là kế che mắt kẻ địch, mục đích thực sự chỉ có Giang Chiết, Quảng Tây và Tứ Xuyên. Tuy nhiên nhanh nhất cũng phải mất ba bốn tháng.

Vừa mới uống rượu tiễn biệt, trong nội đình đưa tiễn Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Dương Đình Hòa, Lưu Cẩn, Đới Nghĩa. Bên ngoài đình tiễn đưa một số quan viên, Dương Lăng đi tới bên cạnh Hàn Ấu Nương, nhẹ nhàng lau nước mắt trên má nàng, dịu dàng nói: - Ấu Nương, đừng thương tâm, lúc này cho dù Hoàng Thượng không hạ chỉ, tướng công cũng phải đi xin ý chỉ đấy. Ha ha, không phải ta đã nói với nàng từ trước rồi sao, vốn muốn đi Giang Nam một chuyến, đưa Liên Nhi trở về, đồng thời tuần tra Giang Nam, mở ngành hàng hải, hiện tại chỉ là đi thêm hai nơi nữa thôi mà.

Việc điều tra phiên vương mưu phản quá mức trọng đại, trong triều biết được chân tướng việc này cũng không nhiều, mà Dương Lăng cũng chưa từng nói qua với Ấu Nương. Hắn nắm lấy tay Ấu Nương, thủ thỉ nói: - Chuyến đi này chỉ sợ phải mất mấy tháng, tướng công tính toán rồi, trước khi nàng sinh ta sẽ kịp trở về, ta không có ở đây, nàng chính là chủ gia đình, đừng khóc nữa.

Dương Lăng nhìn ra phía sau Ấu Nương, thấy Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên ba vị cô nương xinh đẹp, phong tư yểu điệu đều đang đứng ở đó, một bên như bức tranh mặc thủy tương giang, một bên như phỉ thủy màu ngọc bích.

Dương Lăng nhướn mày, cười nói: - Xem bộ dạng của mấy người kìa, ta dù sao cũng chỉ là thay mặt Hoàng Thượng tuần tra thiên hạ. Khác xa so với mấy người tưởng tượng đấy, dù sao cũng chỉ đi có mấy tháng. Có cái gì mà phải thương tâm chứ? Sau khi giải quyết xong đại sự ở Giang Nam, về sau ta sẽ không phải rời kinh sư nữa rồi.

Hắn thấy Cao Văn Tâm một mình đứng ở phía xa, ánh mắt u oán, lại không tới gần đây, do dự một chút, cuối cùng bước tới. Cam Văn Tâm mặc trang phục giống với cung nữ, một bộ quần áo màu đỏ, vóc người cao gầy, gấu váy quét đất, màu đỏ tươi giống như hạt lựu vậy.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 246: Trấn Giang Kim Sơn

Dương Lăng đi đến trước mặt, thấp giọng nói: - Ta đi đây.

Cao Văn Tâm không nói gì, mi mắt hơi khẽ rủ xuống, hai hàng nước mắt như ngọc không tiếng động chảy xuống.

Từ lúc ở Giang Nam trở về, đúng thực l đã lạnh nhạt với nàng rất nhiều rất nhiều rồi, chẳng lẽ để cho nàng dọn ra khỏi Dương phủ, ránh cho tỷ đệ nảy sinh hiềm khích là sai lầm hay sao? Dương Lăng vừa thấy nước mắt của nàng, lòng không khỏi mềm nhũn. Nhấc tay muốn lau nước mắt cho nàng, khi ngón tay còn cách gò má nàng một chút, liền khựng lại.

Một nam nhân bình thường sợ nhất là điều gì? Một người làm say lòng người, một nữ nhân lặng lẽ khóc khiến người ta thương tiếc.

Ngực Dương Lăng nóng lên, dời ánh mắt đi chỗ khác nói: - Dương mỗ không thể làm chậm trễ tuổi xuân của cô nương, cnagf không thể phụ một mảnh thâm tình của nàng. Văn Tâm, lần tuần tra tứ hải này, thực sự không thể mang nàng đi cùng. Chờ ta trở lại, nếu Dương mỗ đúng như lời Trương Thiên Sư nói. May mắn vượt qua được kiếp nạn sinh tử, nàng nhất định là người của Dương gia!

Thân thể mềm mại của Cao Văn Tâm chấn động, trong nháy mắt, nàng lập tức cảm thấy tim đập thực nhanh, cặp mắt trong veo mở to sáng lấp lánh. Cuối cùng cũng đạt được ước nguyện, tràn đầy thẹn thùng, vui sướng, thỏa mãn kinh hỉ hiện lên trên mặt nàng.

Dương Lăng không nghe thấy Cao Văn Tâm nói gì, không kìm nổi cúi đầu nhìn xuống. Đúng lúc chạm phải ánh mắt của nàng.

Lông mày nhỏ như liễu xanh khóa lại đôi mắt trong như xuân thủy, con ngươi như một vầng trăng nằm giữa mặt nước hồ, ẩn chứa đủ các loại tình cảm. Đôi mắt mê người tới vậy, hai người nhìn nhau, nhất thời như si như mê. Hai người như đều nhớ tới lúc ở Thái Hồ, khói sương mênh mông, ngày ngày sóng vỗ, cứ vậy nhìn nhau, giống như trời đất đều đang dừng tại khoảnh khắc này.

Ánh mắt của Dương Lăng chẫm rãi chuyển qua đôi môi mềm mại của nàng. Không khỏi nghĩ tới nụ hôn mất hồn trên chiếc thuyền nhỏ kia, Cao Văn Tâm giống như cảm giác được. Đôi môi mím lại, mắt hơi ngước lên, lông mày khẽ hếch, ám chỉ đàn lang, trong lòng Dương Lăng không khỏi rung động.

Âm thanh Đường Nhất Tiên từ xa truyền tới, đánh thức một đôi đang si ngốc nhìn nhau, Dương Lăng quay đầu lại, Đường Nhất Tiên che miệng cười, đôi mắt cong cong nói: - Đại ca, Văn Tâm tỷ tỷ, hai người nếu cứ tiếp tục nhìn nhau như vậy, ta liền bồi Ấu Nương tỷ tỷ tới phường thêu dạo một vòng rồi mới quay trở lại, hai ngươi thấy thế nào?

Trong nhất thời, không chỉ Cao Văn Tâm sóng mắt lưu chuyển, mà hai gò má cũng đỏ hồng, ngay cả Dương Lăng cũng không khỏi nóng mặt, hắn trừng mắt nhìn Đường Nhất Tiên, sau đó nói với Cao Văn Tâm: - Đi thôi, chúng ta qua đó.

Dương Lăng bước đi, nhìn bóng lưng cao lớn của hắn, Cao Văn Tâm bỗng nhiên vội vàng nói:

- Phu quân, bảo trọng!

Thân mình Dương Lăng chấn động, Cao Văn Tâm vội vàng xẹt qua bên người hắn, cũng không quay đầu lại, mà đi thẳng về phía đám người Hàn Ấu Nương.

Đường Nhất Tiên tiến lên nghênh tiếp, nắm lấy tay Cao Văn Tâm, cười tươi nói: - Văn Tâm tỷ tỷ, cảnh vừa rồi thực là cảm động quá đi.

Cao Văn Tâm liếc nhìn nàng một cái, cũng không kìm nổi ngọt ngào trong lòng, cúi đầu cười cười, hai người nắm tay nhau, cùng đi về phía Hàn Ấu Nương. Nhìn bóng dáng của các nàng, quả thực đều giống như tiên nữ hạ phàm.

Gió xuân thổi vào vạt áo, váy áo phiêu phiêu, hai người Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi đều đứng ở hai bên Dương Lăng, đứng ở mũi thuyền nhìn về bến tàu càng lúc càng xa. Mặc váy đỏ là Cao Văn Tâm, váy xanh lam là ba người Ngọc Đường Xuân, màu tím nhạt là Hàn Ấu Nương

Bóng người cũng dần dần khuất xa khỏi tầm mắt, Dương Lăng thở dài, chợt thấy gió nổi lên, vội vàng nói: - Đi thôi, vào trong khoang nghỉ ngơi, trên này gió lớn, đứng ở đây lâu dễ bị nhiễm lạnh.

Dương Lăng cùng Mã Liên Nhi đi vào trong khoang thuyền, giúp nàng ta bóc một ít quả khô, hàn huyên một hồi thấy nàng thích ứng với sự rung lắc của thuyển, dặn nàng nghỉ ngơi cho tốt, sau đó mới trở về khoang thuyền của mình. Thành Khởi Vận đoan chính ngồi trong khoang, đang thưởng thức trà, Sở Linh nhu thuận dâng trà lên cho Dương đại nhân, sau đó mới lặng yên lui ra ngoài.

Thành Khởi Vận nghiêng đầu nói: - Đại nhân chuyến đi này nên an bài thế nào?

Dương Lăng không cần nghĩ ngợi nói: - Cái gì mà quan sát trung nguyên chứ, dù sao cũng chỉ là ngụy trang mà thôi, qua Ký Lỗ Từ Dương sẽ không dừng lại, thuận gió căng buồm, ngược gió dùng lá chắn, không quản ngày đêm phải tới được Kim Lăng rồi nói tiếp.

Thành Khởi Vận vội la lên: - Còn muốn xem trước chút tình hình, Hoàng Thượng đã hạ chỉ rời Tứ Xuyên sẽ đi thẳng hướng Kiều An. Điều đô chỉ huy sứ Lý Sâm làm đô chỉ huy sứ Tứ Xuyên, chỉ huy sứ thành Đô Vệ cũng thay người, vả lại đi thăm quan phủ Thục Vương đối với chuyện này có động tĩnh gì không, rồi đi cũng không muộn mà.

Dương Lăng xoa cằm nói: - Đây là điều tự nhiên, ba vùng một vệ đều bị đưa đi những đô phủ khác nhau, Đới Nghĩa, Miêu Qùy, Mưu Bân đối với yêu cầu của ta tất sẽ không dám qua loa, có khi bọn họ cũng thăm dò được chút tin tức ròi cũng nên.

Thành Khởi Vận nghiêng ngiêng đầu ngẫm nghĩ trong chốc lát, sau đó đột nhiên mỉm cười nói: - Lưu Cẩn này cũng thực cổ quái, chỗ dựa của gã ở nội đình. Chỉ cần trong coi nội đình chặt chẽ, bát hổ liên thủ, đủ để đối kháng với đại nhân, trong triều không ai có thể lay động. Nhưng gã ta lại chắp tay dâng lên ba vùng một vệ cho đại nhân, lại kết thù với Trương Vĩnh, lại vọng tưởng cấu kết với ngoại thần để nắm giữ triều chính, cách kết hợp này đã là sai lầm rồi. Tiền đồ thực sự

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Đừng xem thường sự tín nhiệm của Hoàng Thượng, trong bát hổ Lưu Cẩn là người được Hoàng thượng tin tưởng nhất, chỉ cần lòng tin của vua không giảm, ai cũng đừng hòng nghĩ tới chuyện lật đổ được gã, kỳ thực kế này của gã cũng không phải ngu xuẩn. Nếu như không phải gã có ý nghĩ muốn lung lạch quan viên trong triều, trùng hợp lại có đứa cháu trai Từ gia ở Giang Nam, mà bằng chứng Từ gia buôn lậu trên biển lại nằm trong tay bổn quan, đồng thời Từ gia cũng đã quyết định hợp tác với bổn quan. Để thuận tiện sau nau còn kiếm chác lớn hơn nữa, cho nên vụng trộm báo cho ta, ta còn thực sự không đoán ra đây là gã dùng kế điệu hổ lý sơn đấy.

Thành Khởi Vận cười đắc ý, mặt mày hớn hở nói: - Cái gì mà gọi là người hiền ắt sẽ gặp lành ý. Chúng ta tương kế tựu kế, nhượng ba vùng một vệ, chiếm các lão và Binh bộ, Lễ bộ, đám người Hình bộ, cố ý tỏ ra yếu thế phục tùng gã, trước kiêu binh, khiến cho gã càng hành động ngang ngược kiêu ngạo. Chờ cho gã bị người người oán trách, đại nhân lại tới xử lý tàn cục, tất có thể lật đổ gã, hì hì hì.

Dương Lăng liếc nhìn nàng một cái, bật cười nói: - Thật lâu không thấy nàng vui vẻ như vậy, ta phát hiện chỉ trong lúc chỉnh người khác nàng mới cười vui vẻ như vậy, đắc ý và gian trá.

- Ách Thành Khởi Vận cười khan, nàng trợn mắt nhìn Dương Lăng nói: - Đang khen hay đang chê ta vậy? Khụ. Vậy đại nhân cảm thấy, việc Thục Vương mưu phản có phải là kế của Lưu Cẩn phô trương thanh thế không?

Dương Lăng nhăn mày, ngẫm nghĩ một lát rồi nhẹ nhàng lắn đầu: - Gã muốn điều ta rời kinh, nhưng cũng sẽ không dám bịa đặt ra tin tứ như vậy, huống chi giấy trắng mực đen, đúng là do Phạm Đình tự tay viết. Ta đã từng hỏi Đới Nghĩa, gã trước kia cũng nghe qua việc này, nghe nói có người bỏ một số tiền lớn, ở ngoài thành Tô Châu thuê một đám thợ thủ công tạo mấy vạn kim gạch khối, sau đó chuyển về hướng Xuyên Thục.

Mà trên đời này chỉ có hoàng cung, hoàng lăng mới được dùng kim gạch xây dựng, nếu không phải có mộng làm Hoàng đế, bỏ ra số tiền lớn lại còn mạo hiểm sẽ bị chém đầu làm gì chứ? Ngự diêu do Ti lễ giám quản, xảy ra lỗ hổng lớn như vậy, bọn họ không đưa ra được chứng cứ xác thực là do Thục Vương gây nên, lúc đó Tiên đế lại nhất mực tin tưởng Thục Vương, nên đám người đó đã giấu tin tức này lại, vẫn là do Lưu Cẩn sửa sang lại hồ sơ của Ti lễ giám, mới phát hiện ra chuyện này.

Thành Khởi Vận vươn ngón tay thon dài như ngọc, nhẹ nhàng gõ vài cái lên mặt bàn, nhíu mày nói: - Thục Vương nhiều thế hệ hiền vương, chẳng lẽ thực sự đang nghỉ ngơi dưỡng sức, âm thầm phản nghịch?

Thục Vương là người con thứ mười một của Hoàng đế Chu Nguyên Chương, tên Chu Xuân được mọi người xưng tụng là "Thục tú tài". Đất phong của Chu Xuân là Tứ Xuyên, phát triển nông nghiệp, buôn bán, đầu tư học tập, củng cố biên phòng, người người an cư lập nghiệp, ngàng càng thịnh vượng giầu có.

Khi Yến Vương Tĩnh gặp nạn, Chu Xuân hướng Hoàng huynh Chu Lệ tương trợ, muốn tiền cho tiền, cần binh thì cấp binh, Chu Lệ tuy rằng tính tình tàn bạo, cũng nhiều nghi kỵ, nhưng đối với vị đệ đệ này lại vô cùng tín nhiệm và cảm kích.

Sau khi Chu Lệ lên làm Hoàng đế, đối với thập nhị đệ phong thưởng hậu hĩnh, lại phong đất cho vài phiên vương khác, Thục Vương từ đầu tới cuối đều tham dự chính sự, trung với triều đình, nhiều lần được Hoàng đế phong đất, hiện giờ Tứ Xuyên có sáu bảy phần là tư điền của Thục Vương, không cần phải cống nạp cho triều đình.

Hoằng Trị Hoàn đế nhiều lần khen ngợi Thục Vương nhiều đời hiền vương, cũng hạ chỉ dòng họ hoàng thất dùng chuẩn tắc giáo dục của Thục Hiền Vương làm chuẩn tắc giáo dục hậu thế. Dưới tình hình như vậy, nếu không có chứng cứ sát thực về tội mưu phản, thì ngay cả Dương Lăng sợ cũng phải áp chế việc này trước, rồi mới nói sau.

Hiện giờ Thục Vương đời thứ tám Chu Tân Hãn tại vị, có hai nhi tử một nữ nhi, thế tử là Chu Nhượng Hủ, phụ tử đều có tiếng hiền danh, cho tới bây giờ cũng không lộ ra chút dã tâm nào. Dương Lăng suy nghĩ một lúc lâu, cũng không nhớ lại năm Chính Đức có sự tích Thục Vương dự định mưu phản, nghĩ tới ngay cả khi Thục Vương đã từng có dã tâm, nhưng trong lịch sử thì chưa làm ra bất cứ chuyện gì lớn cả.

Dương Lăng nghĩ tới đây trong lòng cũng bình tĩnh, nói với Thành Khởi Vận: - Dù sao không thể trực tiếp đi Tứ Xuyên, việc này không vội được, trước hết ta cứ đi Giang Chiết thăm đồn điền, Bình Oa mở cửa biển và một số việc khác. Sau đó lại đi Quảng Đông xem có phải đám người tóc đỏ đó không quản ngàn dặm xa xôi đưa đại bác tới cho chúng ta.

- Có khoảng thời gian này ấm ngầm hành động, lại thêm Binh bộ âm thầm tác động, tin tưởng quân đội ở Xuyên Thục nhất định đã thay mới bỏ cũ hết rồi, ba vùng một vệ bí mật bị tra xét cũng đã có manh mối, lúc đó bản quan mới nhập Thục cũng chưa muộn.

Thành Khởi Vận nghe xong, trong lòng vừa động nghĩ thầm: "Trạm thứ nhất của đại nhân chính là Giang Chiết, bản thân đến Kim Lăng không thể tiếp tục đi cùng ngài ấy nữa, lần này đi Quảng Đông, sau lại tới Xuyên Qúy, Thiểm Tấn rồi mới hồi kinh sư. Đời này tốt nhất là ở trong vùng đất của mình, vĩnh viễn là "ty chức" của ngài ấy.

Trên đời làm gì có cái gì mà "ông trời tác hợp" chứ, dù cho trong lòng có ý, nếu như không có ai chủ động nói ra, nếu không chủ động đi tranh thủ, cuối cùng không phải chỉ là thoáng qua thôi sao?

- Ta Ta Thành Khởi Vận đột nhiên cảm giác được tim đập gấp gáp, yết hầu cũng khát khô. Nàng thực sự muốn bày tỏ hết tình ý của mình với Dương Lăng. Nhưng ngẩng đầu lên, nhìn thấy Dương Lăng, chợt nhớ tới thân phận của cả hai và quá khứ của mình, bất giác lại thấy chán nản. Chỉ yên lặng nâng chén trà lên nhấp một ngụm.

Ngụm nước trà khi nuốt xuống, nàng còn cảm thấy một cỗ chua xót nhàn nhạt.

Ban đêm, trên thuyền có chút lạnh, ngoại trừ vài tên lính ngẫu nhiên tuần tra đi lại, thì phần lớn mọi người đều đã ngủ.

Trên boong thuyền, một mỹ nhân búi tóc lười biếng đang ngồi, áo choàng cũng không khoác, chỉ mặc một bộ thanh sam mỏng, yên lặng ngồi đó. Vạt áo theo gió bay lên, bóng dáng bị che phủ, thực lâu không chịu đi vào giấc ngủ

Lá cờ của Dương Lăng là thay mặt thiên tử tuần tra, nhưng một đường gấp gáp, đi qua Ký Lỗ cũng không dừng lại, ngoại trừ dừng ở ven đường mua gạo thịt rau cỏ, còn lại toàn ở trên thuyền, ngày đêm không nghỉ, khiến cho chủ thành Ký Lỗ chuẩn bị nghênh tiếp khâm sai trở tay không kịp. Tri Phủ Sơn Đông Thanh Châu là Lạc Thiếu Hoa dùng khoái mã đuổi tới dịch trạm, vốn định mật tấu với khâm sai chuyện Ti lễ giám Lưu Cẩn hoành hành coi thường luật pháp, dân chúng Thanh Châu đã sớm không chịu nổi, nhưng y cũng không ngờ được hành trình của khâm sai lại vội vàng như vậy, khi gã đuổi tới nơi dịch trạm gần bến tàu, thì thuyền của quan khâm sai đã ở ngoài trăm dặm rồi, Lạc Tri phủ nhìn mặt nước thở dài, ảm đạm quay trở về Thanh Châu.

Thuyền tới Giang Tô Trấn Giang. Chuyến đi gấp gáp, khiến thân thể Mã Liên Nhi không khỏe. Dương Lăng thấy vậy đành phải tạm dừng ở Trân Giang, mời thầy lang tới bắt mạch cho nàng, kê đơn điều trị. Sau hai ngày, Mã Liên Nhi cảm thấy trong người bớt khó chịu, Dương Lăng nghe nói Trấn Giang có nhiều loài hoa nổi tiếng, phong cảnh cũng đẹp, liền dẫn Mã Liên Nhi, Thành Khởi Vận đi du ngoạn, nghĩ ngày mai lại tiếp tục khởi hành.

Tri phủ Trấn Giang Tiêu Hồng Chu là một người biết nhìn hoàn cảnh, thấy khâm sai trên đường vội vã, căn bản chưa từng nghỉ ngơi, nhưng mà lại ở Trấn Giang của gã nghỉ ngơ ba ngày. Gã mừng rỡ khoa chân múa tay vui sướng, tự mình dẫn các Huyện lệnh đến dịch quán yết kiến, sau đó mỗi ngày đều tới hỏi thăm về tình hình ăn uống nghỉ ngơi, có thể nói là quan tâm đầy đủ.

Y nghe nói Dương đại nhân muốn đi thăm quan Trấn Giang, nhưng không muốn khoa trương, liền thu xếp một thuyền lớn, lại phái người tới dẫn đường, đưa mấy người Dương Lăng đi du ngoạn.

Dương Lăng thuê người khiêng kiệu, Mã Liên Nhi ngồi kiệu, còn những người khác đi bộ lên núi. Vừa đi bộ vừa du sơn ngoạn thủy, tới Kim Sơn Tự. Kim Sơn Tự nằm ở dưới chân núi, hương khói quanh năm, vô cùng trang nghiêm, trong chùa có âm thanh gõ mõ vang ra, trên đại điện cũng có tiết đàn.

Dương Lăng thấy người đến quá mức ồn ào, liền dẫn Liên Nhi và Thành Khởi Vận đi vào hậu viện Kim Sơn Tự, nơi này có đình Vọng Hải là nơi cao nhất để ngắm cảnh, còn có Trường Giang phiếm lan, như giao long giữa trời, giao thoa trời và đất. Trong sương mù mênh mông mờ ảo, mơ hồ thấy có cánh buồm phía xa. Bên trái chùa là một tòa Điếu Ngoan Ki, cảnh sắc như họa, nhẹ nhàng xinh đẹp, khiến lòng người thoải mái.

Dương Lăng ăn mặc như công tử phú gia, Mã Liên Nhi, Thành Khởi Vận xinh đẹp như hoa, cải trang thành bộ dáng thiếu phu nhân sĩ tử, tuấn nam mỹ nữ xinh đẹp, đều có dung mạo xuất sắc hơn người. Nơi này du khách vốn không nhiều, lúc này cũng thực sự khiến người ta chú ý.

Dương Lăng, Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi dựa vào lan can ngắm biển, đột nhiên nghe thấy có người thốt lên: - Làm gì có chuyện như vậy, đình Vọng Hải này là do nhà các ngươi dựng lên hay sao? Tại sao ta lại không được lên?

Dương Lăng quay lại, chỉ thấy một thư sinh mặc áo bào xanh đang muốn đi lên Vọng Hải Các, nhưng bị đám người Ngũ Hán Siêu cải trang thành gia đinh, đứng ở chung quanh, thấy thư sinh có ý định tiến lên, liền lập tức nhảy ra vài người, ngăn gã lại.

Ngũ Hán Siêu đánh giá từ trên xuống dưới. Thấy thư snh khoảng tầm bốn mươi, da trắng nõn, trên mặt có chút nếp nhăn, hai đầu lông mày còn mang theo chút cuồng vọng, thoạt nhìn có chút giống với tú tài thi rớt, tong tay còn cầm một đống giấy trắng, liền khách khí cười nói: - Công tử xin đợi một chút, đình các cũng không lớn lắm. Công tử nhà ta dẫn theo nữ quyến, công tử là người đọc sách, nên biết có điều không tiện.

Thư sinh kia chính là từ xa nhìn thấy hai mỹ nữ, phiêu diêu trên Vọng Hải Các, nhất cử nhất động, đều toát ra phong tình mê người. Gã có một đôi mắt háo sắc chỉ nhìn mỹ nữ Giang Nam, nhưng ít khi được gặp, vừa gặp lập tức trong lòng ngứa ngáy khó chịu. Vội vàng đi tới muốn nhìn ngắm kĩ hơn, không cho gã lên Vọng Hải Các thì làm gì có chuyện gã bằng lòng chứ?

Lập tức thư sinh cười lạnh một tiếng, đang định rút thắt lưng tự mình xuất thủ khiển trách một phen, không ngờ gã vừa động, nhưng ngũ quan không vì Ngũ Hán Siêu mà ngăn cản gã. Dương Lăng thấy tướng mạo của gã, không khỏi giật mình kinh hãi, vội vàng kêu lên: - Ngũ Hán Siêu dừng tay, mau mau mời gã qua đây.

Dương Lăng nói xong, không kìm được vui mừng vội đi xuống Vọng Hải Các, tiến về phía người đó nghênh đón, cười nói: - Bá Hổ huynh, thực là hữu duyên thiên lý à nha, ha hả, huynh sao lại tới nơi này vậy?

Thư sinh áo xanh nghe vậy ngẩn người, cẩn thận quan sát Dương Lăng vài lần, đột nhiên trên mặt lộ vẻ kinh ngạc, chỉ vào hắn nói: - Ngươi ngươi là Dương

Dương Lăng biết rằng gã đi lại thân mật với Chúc Chi Sơn, thường xuyên gửi thư qua lại, nhất định đã sớm biết thân phận của mình. Bước lên phía trước kéo gã lại, chặn đứng lời gã lại, cười nói: - Đúng là tiểu đệ, ha hả, Bá Hổ huynh mời. Tô Châu, Hàng Châu phong cảnh vô cùng đẹp, còn chưa xem đủ sao, mà Đường huynh còn tới Trấn Giang ngắm hoa?

Đường Bá Hổ cười gượng hai tiếng nói: - Ách chuyện này một lời khó có thể nói hết được. Nói xong gã lấm lét nhìn hai nữ tử xinh đẹp thướt tha trong đình Vọng Hải.

Thằng nhãi này chuyên vẽ tranh xuân cung đồ làm kế mưu sinh, tranh vẽ vô cùng xinh đẹp. Mỹ nhân kia thần thái cực kỳ thướt tha, được phú hộ Giang nam vô cùng thưởng thức. Kỳ thực, mỹ nhân trong tranh cũng không phải hoàn toàn do gã bịa đặt ra, mà mỗi một nữ tử đều có một phong cách khác nhau. Bị đôi mắt háo sắc của Đường Bá Hổ nhìn chằm chằm, thần vận của các nàng gã cũng nhớ được tới bảy tám phần, sau đó có thể dùng khi vẽ tranh xuân xung. Cho nên thần vận mỹ nhân trong tranh của gã luôn đủ các loại màu sắc hình thái, không bao giờ lặp lại.

Đường Bá Hổ là học sinh của Vương Ngao Vương đại nhân, nhưng gã năm đó làm lộ đề thi, nên bị Hoàng đế hạ chỉ cả đời không được làm qan, đến lúc này đối với gã ngay cả Vương Ngao thân là đại thần trong triều cũng lực bất tòng tâm.

Hiện giờ bạn tốt của gã là Chúc Chi Sơn đã làm quan, lại nghe nói Dương Lăng là tâm phúc bên cạnh Hoàng đế, nên đã từ bỏ ý định tự mình đứng dậy. Nếu Dương Lăng chịu biện hộ cho gã, không chừng Hoàng thượng sẽ thu hồi lại ý chỉ của tiên đế, vì thế Đường Bá Hổ cải trang thành người du sơn ngoạn thủy, vẽ tranh kiếm tiền, một đường chạy tới kinh thành, muốn đi bái kiến ân sư Vương Ngao, hơn nữa cũng muốn gặp Dương Lăng một lần, nói không chừng Dương Lăng vì xúc động sẽ xuất tay tương trợ.

Gã sao dám nói ra là thấy nữ quyến Dương Lăng thần vận khí khái động lòng người, muốn vẽ người ta vào trong tranh xuân cung đồ để bán với giá cao, vì thế đảo mắt, cười mỉa nói: - Học sinh vốn muốn tới kinh sư bái kiến đại nhân, trên đường đi qua Trấn Giang, ở Vọng Hải Tự làm một bài thơ tiêu khiển, đang muốn vẽ lại tranh Vọng Hải, không ngờ gặp đại nhân ở đây, đại nhân sao lại tới Giang Nam vậy?

Dương Lăng nói: - Ta phụng thánh chỉ tuần tra thiên hạ, Đường huynh vào kinh gặp ta, có chuyện gì quan trọng hay sao? Nếu không bận việc gì, dù sao cũng đã gặp nhau rồi, uống rượu hội yến, khi đó nói chuyện cũng không muộn.

Hắn chỉ vào đống giấy trong tay Đường Bá Hổ hỏi: - Đây chính là thơ mà Đường Bá Hổ huynh vừa nói?

Bài thơ đầu của Đường Bá Hổ "Hoa đào ổ lý đào hoa am" vang danh thiên cổ, tiên khí phóng khoáng, mặc dù lúc trong mắt mọi người, Đường Bá Hổ cũng không có gì ghê gớm cả, nhưng gã trải qua tô đậm của văn nhân, trong mắt Dương Lăng, thực là kỳ tài, nếu như gã có bài thơ gì mới mẻ, thì bản thân mình chính là người đầu tiên được thấy, thực là một chuyện hay, cho nên hắn vội vàng hỏi thăm.

Đường Bá Hổ khiêm tốn nói: - Đúng vậy.

Hai người bước vào đình, Dương Lăng giới thiệu Thành Khởi Vân và Mã Liên Nhi với gã. Một đôi bích nhân rơi vào trong đôi mắt háo sắc của gã, hai người ở Giang Nam đã lâu, đều nghe nói qua về đại danh của Đường Dần, nghe nói thư sinh này chính là tài tử Giang Nam, hai người không khỏi cảm thấy kính nể.

Dương Lăng vội vàng rút giấy trong tay Đường Bá Hổ, từ từ mở ra. Đường Bá Hổ kiêu ngạo cười nói: - Đây là bài thờ mà học sinh vừa tùy ý viết, tán gẫu mà thôi, khiến đại nhân chê cười rồi.

Thơ của Đường đại tài tử, ai dám nói không hay? Mã Liên Nhi và Thành Khởi Vận cũng vội vàng đi tới, chỉ thấy bên trên viết: "Ta hỏi ngươi là ai? Ngươi vốn chính là ta. Ta vốn không quen ngươi. Ngược lại ngươi biết ta. Ý! Ta không thể thiếu ngươi. Ngươi có thể thiếu ta. Trăm năm sau ta ngươi. Có ngươi không có ta."

Bài thơ như khẩu lệnh này cũng được gọi là thơ? Lại là do tài tử Giang Nam làm? Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi bật cười. Nhưng Dương Lăng đã đọc qua nhiều bài thơ hiện đại, căn bản cũng không thấy kỳ quái, chỉ cảm thấy ngạc nhiên vì sự sáng tạo của Đường Bá Hổ, không ngờ có thể làm bài thơ giống như bài thơ bạch thoại năm trăm năm sau.

Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi ngưng cười, suy nghĩ một chút, đột nhiên cảm thấy không đúng, hai người tinh tế thưởng thức một phen, cảm giác được bài thơ này nghe thì dễ hiểu, nhưng ý tứ lại vô cùng, cang nghĩ càng có hương vị, hai người cũng không dám kinh thường, không khỏi thán phục nhìn Đường Bá Hổ.

Dương Lăng cũng thấy bài thơ này ý cực hay, hắn chợt nhớ tới một bài thơ hiện đại, lường trước cho dù Đường Bá Hổ có đổi mới, nhưng dù sao cũng là cổ nhân, bản thân còn trực tiếp hơn cả thơ của gã. Nhất thời hắn không tiếp thu được, không ngại trêu đùa, liền thuận tay sửa vài chữ, nghiêm trang nói với Đường Bá Hổ: - Không thể nghi ngờ, bài thơ của huynh, là đệ nhất thiên hạ, bài thơ hay nhất.

Đường Bá Hổ thấy hắn biết phân biệt tốt xấu, thụ sủng nhược kinh, lại nghe đánh giá cao như vậy, mừng rỡ vái vài cái: - Đại nhân khen nhầm rồi, học sinh thực không dám nhận.

Dương Lăng cười hì hì hỏi: - Huynh xem bài thơ này của ta thế nào?

- Ý? Đường Bá Hổ trố mắt, lắp bắp nói: - Bài thơ nào? Đại nhân làm thơ rồi hả? Mời đại nhân đọc xem, Bá Hổ rửa tai lắng nghe.

Dương Lăng vừa cười vừa nói: - Ta đã nói rồi mà, chính là câu vừa nãy "Không chút nghi ngờ, thơ của huynh làm, là bài thơ hay nhất thiên hạ".

Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhỉ bật cười thành tiếng, cười chảy cả nước mắt, Đường Bá Hổ cũng chỉ nghĩ hắn đang nói đàu, không khỏi có chút gượng gạo không biết nên khóc hay nên cười. Dương Lăng thấy gã là tài tử nổi tiếng, tính tình phòng khoáng không câu nệ, nhưng cũng không giống như người đời sau miêu tả, liền cười nói: - Chỉ nói đùa với Bá Hổ huynh thôi, hôm nay hạnh ngộ tài tử Giang Nam, thực là có duyên, chúng ta đang muốn xuống núi, mời Bá Hổ huynh cùng đi với chúng ta, chúng ta xuống núi lại nói tiếp.

Đường Bá Hổ vui vẻ nói: - Được được, đại nhân mời.

Đoàn người đi tới cửa núi, mã phu nâng kiệu Mã Liên Nhi lên, dưới sự của thị vệ mặc thường phục, cùng nhau xuống núi. Dọc đường xuống núi, người đi du ngoạn đi dâng hương như nước chảy, hai bên đường còn có người bán hàng rong từ đồ thủ công, đến đồ ăn vặt.

Ngũ Hán Siêu ở trong đám người, lia mắt nhìn ra xung quanh, tai nghe tám hướng, đột nhiên một âm thanh rất khỏ truyền vào tai gã, âm thanh đề cập tới hai chữ "sư công". Ngũ Hán Siêu là người trong võ lâm, đối với những từ này vô cùng mẫn cảm, không khỏi đi chậm lại nhìn theo hướng âm thanh vang tới, chỉ thấy một người mặc áo vải đi cùng với một đại hán mặc áo gấm đang vội vàng xuống núi, vừa đi vừa hạ giọng nói: - Ngũ sư công, Hồ Tiểu Nhị đi khắp nơi tìm ngài đó, mời ngài tối hôm nay tới truyền đạo cho hắn.

Đại hán áo gấm vừa xốc lại thắt lưng, vừa cau mày nói: - Con bà nó, đêm nay vốn định đi dạo trong thành, sao không nói sớm một tiếng?

Người áo vải vội cười xòa nói: - Ngũ sư công, mẫu thân của tân nương sắp chết vì bệnh, có lẽ nhà gái mà xử lý tang sự khi thành thân thì sẽ thành điềm xấu, phải qua bảy tuần, lại phải giữ đạo hiếu không được thành thân, nên mới vội vã xử lý.

Hai người đi quá nhanh, vội vã chạy xuống núi, âm thanh bọn họ tuy nhẹ, nhưng với thính lực của Ngũ Hán Siêu, thì lại nghe được rõ ràng rành mạch. Nhìn đám thị vệ bảo hộ đại nhân chu toàn, bước chân liền mau hơn, cũng đuổi theo hai người kia, liền nghe thấy đại hán áo gấm hừ một tiếng, vuốt vuốt râu hỏi: - Tân nương nhà nào vậy, có xinh đẹp không?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 247: Động phòng truyền đạo

Người mặc áo vải vội nói: - Là khuê nữ của Lý lão gia ở thôn Đầu Ngưu.

Áo gấm đại hán cười ha hả, nụ cười dâm đãng, bước chân lại càng mau hơn.

Trong lòng Ngũ Hán Siêu vừa động, đột nhiên nhớ tới một vị sư thúc từng nói qua một ít chuyện xưa trên giang hồ, bất giác nổi lên lòng nghi ngờ, gã thuận tay vỗ vào vai đội trưởng đội thị vệ được tri phủ Trấn Giang phái tới để bảo hộ đoàn người, chỉ về phía trước nói: - Ngươi mau nhìn theo hai người kia.

Từ đội trưởng ngẩng đầu nhìn, ngạc nhiên nói: - Quan chủ của Nghê gia võ quán? Tiểu tử này phạm vào chuyện gì vậy?

Ngũ Hán Siêu vừa nghe yên lòng, vui vẻ nói: - Ngươi nhận ra người này?

Từ đội trưởng gật đầu nói: - Nhận ra, người này cũng có chút danh khí. Là Quan chủ một võ quán dưới chân núi, họ Nghê tên Khắc, võ nghệ cũng khá.

Ngũ Hán Siêu đã biết thân phận của kẻ đó, nên cũng không vội vàng nữa, chỉ cười nói: - Thì ra là thế, không cần bám theo gã nữa. Chúng ta cứ xuống núi đã rồi nói sau.

Đoàn người xuống núi, tìm một quán rượu tao nhã gọi một bàn thức ăn. Dương Lăng và Đường Bá Hổ bắt đầu nói chuyện, lúc này hắn mới hiểu dụng ý tới kinh thành của người này.

Dương Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: - Cái này cũng dễ xử lý thôi. Triều đình sắp mở cảng thông thương đường biển, đồng thời liên kết với thủy sư của nước Đông Doanh tiêu diệt hải tặc, sau này kết giao cũng rộng, cần một người có thanh danh vang dội, bác học đa tài đến làm đặc phái viên giữa hai nước.

Đường huynh thi từ ca phú, cầm kỳ thi họa không chỗ nào không thông, là tài tử đứng đầu Giang Nam, mà người Oa đều ngưỡng mộ văn hóa nước ta, có huynh ra mặt, nhất định có thể chấn trụ được đám người đó. Ha ha, huống chi huynh còn tinh thông tiếng Oa, phù hợp để làm đặc phái viên giữa ta và Đông Doanh. Trở về ta sẽ dâng lên Hoàng thượng một đạo mật chỉ, đặc biệt ân miễn huynh, gia phong làm quan viên ngành hàng hải.

Đường Bá Hổ nghi ngờ nói:

- Học sinh khi tinh thông tiếng Oa lúc nào... Gã liếc nhìn Thành Khởi Vận một cái, lập tức hiểu ý, ha hả cười nói: - Vậy thì. Học sinh đa tạ đại nhân. Đại nhân nếu đã tới Giang Nam, học sinh sẽ về Gian Nam đợi đại nhân.

Dương Lăng cười nói: - Được. Bản quan trước tiên phải tới Kim Lăng, không thể mang theo Đường huynh đồng hành, sau khi ăn xong ta viết một lá thư, Đường huynh cầm thư giao cho trấn thủ Giang Nam giao cho Giang là thái giám Cốc Đại Dụng, để gã an bài cho huynh trong nha môn ngành hàng hải, làm quen trước một vài việc, đợi Hoàng thượng hạ ý chỉ, bản quan sẽ chính thức ban một chức quan.

Ăn uống tiệc rượu đã xong, Dương Lăng viết một lá thư, lại tặng lộ phí cho Đường Bá Hổ, Đường Bá Hổ cáo từ trở về Tô Châu, Hàng Châu. Khi Dương Lăng trở lại đi dịch trạm, đã là hoàng hôn, Thành Khởi Vận cùng Mã Liên Nhi đi vào hậu trạch trước, Ngũ Hán Siêu thấy trong sảnh không có người bên ngoài, lập tức nói: - Đại nhân, hôm nay dưới chân núi, ty chức gặp hai người đi ngang qua, rất khả nghi.

Dương Lăng nghi ngờ nói: - Người đi đường nào? Sao lại cảm thấy khả nghi?

Ngũ Hán Siêu kể lại đoạn đối thoại của hai người đó, Dương Lăng nghe xong, trầm ngâm một lát nói: - Gã đó là sư phụ võ quán, gọi sư gia sư công cũng không có gì kỳ lạ cả, nhưng hai từ "truyền đạo" thì giải thích thế nào?

Ngũ Hán Siêu ca ngợi:

- Đại nhân hoài nghi đúng trọng điểm đó, người ta thành thân, truyền đạo gì chứ? Ty chức ở dưới chân núi, từng nghe một vị sư thúc nói qua về một chút bí mật giang hồ, đạo mà hai kẻ kia nói, có lẽ là tà ma đạo giáo tương phù gì đó.

Ánh mắt Dương Lăng ngưng lại, hỏi: - Giáo phái gì?

Ngũ Hán Siêu nói: - Hồng Anh Hội. Là một nhánh của Bạch Liên giáo, thuộc Đường Trại Nhi của Sơn Đông, năm đó Đường Trại Nhi bị quan phủ bắt nhưng lại vượt ngục trốn thoát, như vậy liền mất đi dấu vết, đoán chừng là bị dọa sợ hãi nên trốn đi rồi.

Đồ tử đồ tôn của bà ta đều tung tin bà ta thần công vô địch, thủy hỏa bất xâm, xuất qủy nhập thần, tiến vào thiên lao như chỗ không người. Sau đó, mặc dù triều đình nghiêm khắc đàn áp, nhưng không ngờ bọn họ vẫn có thể tạo ra một môn phái tiếp tục gây họa. Sau khi ở đã đứng vững ở Sơn Đông, bọn họ lại tiếp tục vươn tay tới Nam Thiên, dần dần đã khiến người ta phải chú ý rồi.

Ngũ Hán Siêu nói: - Nghe nói gia nhập Hồng Anh Hội không phân biệt nam nữ già trẻ, chỉ cần nộp hai trăm văn tiền, đã được coi là đồ đệ của Hồng Anh Hội rồi, dân nghèo nhập hội, Hồng Anh Hội sẽ bỏ ra gạo trà, bị bệnh có thuốc chữa, mùa đông đưa quần áo, cho nên dân nghèo đến đông như hội, hơn nữa mỗi ngày còn truyền thụ thương thuật thiết bổng cho đồ đệ.

Dương Lăng cười lạnh nói: - Hồng Anh Hội trợ giúp bần dân, vậy tiền từ chỗ nào mà có? Chiêu nhập lượng lớn dân nghèo, mỗi ngày truyền thụ quyền cước, nhìn thế nào cũng nhìn không ra là hạng người thiện lương. Đêm nay vừa hay chúng ta nở nơi này, đi dò tra lai lịch của bọn họ.

- Vâng. Ngữ Hán Siêu cung kính vâng một tiếng, đúng lúc đó, tri phủ Trấn Trang là Tiêu Hồng Chu dù mưa gió cũng không sai hẹn, đúng giờ tới thỉnh an. Dương Lăng thấy gã đến, không khỏi cười nói: - Tiêu đại nhân đến thực đúng lúc, bản quan đang có chuyện quan trọng muốn thương lượng với ngươi.

Tiêu Hồng Chu thụ sủng nhược kinh, vội vàng siểm nịnh cười nói: - Khâm sai đại nhân khách khí rồi, ngài có chuyện gì cứ việc phân phó, hạ quan nhất định sẽ làm thỏa đáng.

Dương Lăng nói: - Nghe nói trong trấn có Nghệ gia võ quán, có thể là nơi ta ma đạo giáo, ý đồ mưu phản, bản quan đêm nay muốn đi thăm dò tột cùng là chuyện gì. Ngươi là tri phủ Trấn Giang, việc này vẫn phải thông báo với ngươi một tiếng rồi.

Tiêu Hồng Chu nghe nói nơi mình cai trị có tà giáo dưới danh võ quan công khai truyền giáo, lập tức bị dọa sắc mặt trắng bệch, lau mồ hôi lạnh trên trán, cười lớn nói: - Hạ qua mùa đông năm trước hạ quan mới tới đây nhận chức, lập xuân liền lãnh dân nuôi tằm, ngư nghiệp, vẫn chưa có thời gian làm rõ dân tình

Dương Lăng thấy gã bị dọa sợ hãi, vội an ủi: - Tiêu đại nhân không cần tự trách. Hương dân có nhiều kẻ vô tri ngu muội, tà giáo chỉ dùng chút ảo thuật dụ dỗ, bọn họ liền bị mắc lừa, còn liều mạng giúp đỡ che dấu tàl. Rõ ràng ngay tại ngay dưới mắt, nhưng quan phủ lại nằm mộng không biết, đại nhân lại vừa mới đến nhận chức, bản quan không trách cứ ngươi.

Tiêu Hồng Chu cảm động suýt rơi nướ nước mắt nói: - Đa tạ đại nhân châm chước, hạ quan vô cùng cảm kích.

Dương Lăng gật đầu, nói: - Ừ. Ta sẽ phái người thăm dò võ quán Nghệ gia, nếu chẳng may thực sự phải động thủ, còn phải cần người trong nha môn ra mặt đàn áp nữa.

Tiêu Hồng Chu tất nhiên không thể từ chối, lập tức đáp ứng, ba người lại tiếp tục thương nghị một hồi. Nghĩ Hán Siêu từ trong Đông Xưởng lựa chọn bốn mươi cao thủ võ nghệ cao cường, cùng Tiêu Hồng Chu đi tới nha môn Tri phủ.

Thành Khởi Vận từ trong hậu đường bước ra, vừa lúc nhìn thấy Ngũ Hán Siêu cùng Tiêu Tri phủ rời đi. Dương Lăng nói mọi chuyện với nàng một lần, Thành Khởi Vận cẩn thận suy nghĩ một phen, kế hoạch này, muốn bắt vài người trong tà môn đạo giáo, quả thực không chê vào đâu được, cũng không cần phải bổ sung thêm gì cả.

Tiêu Tri phủ trở về nha môn, lập tức kêu Thiên Áp phòng thông tri Chu thôi nhân dẫn người tới gặp. Chu thôi quan không biết Tri phủ đại nhân có việc gì, vội vàng dẫn theo hai vị tuần kiểm, tám mươi tên quan sai vội vàng tiến vào nha môn Tri phủ.

Ngũ Hán Siêu nghe nói võ quán Nghệ gia đã mở được tám năm, lo lắng trong quan phủ cũng có cơ sở ngầm của tà giáo, cho nên không nói chân tướng cho bọn họ biết. Về phần dân tráng cung binh, tuy rằng đạo tặc và quan phủ có chênh lệch lớn về chiến lực, có thể là bọn họ cùng, nhưng mà bọn họ lại có quan hệ chặt chẽ với thân hào tài chủ địa phương, cho nên Ngũ Hán Siêu lại càng không cho phép Tiêu Tri phủ công khai tập hợp.

Ngũ Hán Siêu cẩn thận dặn dò đám người mà mình mang từ Đông Xưởng tới, thấy thời gian cũng ổn rồi, mới kêu một đao phủ tới dẫn đường, tự mình dẫn theo mười người, lặng lẽ rời khỏi nha môn Tri phủ.

Hồ Tiểu Nhị ở trấn Kim Sơn hôm nay cưới tân nương, cách đó hai con đường chính là võ quán Nghê gia, Ngũ Hán Siêu lặng lẽ tới gần, muốn thăm dò một chút xem cái gì là truyền đạo. Từ khi bọn họ nghi ngờ gã, vẫn chưa xác định được gã có phải người thuộc tà giáo hay không. Ngũ Hán Siêu lệnh Đông Xưởng sau nửa canh giờ nữa liền dẫn người tiến vào võ quán, đồng thời phong kín con đường này, chỉ cần bên này động thủ, hai bền đồng thời hành động, bắt giữ toàn bộ nhân vật khả nghi.

Hồ Tiểu Nhị không tính là kẻ giàu có, một căn nhà có ba gian phòng, phía trước nhà có một hàng cây hạnh, phía sau có nửa mẫu đất trồng rau xanh, dùng đất đá và bùn trộn với nhau xây bức tường bao quanh nhà cao khoảng nửa người. Ngũ Hán Siêu dặn dò vài tâm phúc Đông Xưởng một phen, sau đó tự mình nương theo bóng đêm bay qua tường thấp, nhẹ nhàng tiến về phía gian nhà.

Mọi người cũng đã nháo động phòng, rượu mừng cũng đã uống đủ, trong viện chỉ còn vài người đang thu dọng bát đĩa. Nghê Khắc uống nhiều rượu, khuôn mặt đỏ bừng, gã vừa xỉa răng, vừa nheo mắt nhìn Hồ Tiểu Nhị: - Đều chuẩn bị đủ cả rồi chứ?

Hồ Tiểu Nhị là một tiểu hậu sinh tuổi tầm mười tám, nhìn có vẻ thật thà chất phác, cười nói: - Ngũ sư công, hương án, gà trống đều đã chuẩn bị thỏa đáng, hôm nay làm phiền ngài rồi.

Nghê Khắc khoát tay, chậm rãi nói: - Các ngươi đều là đồ hội của bản hội, Truyền đạo là trách nhiệm của bản sư công, cũng không cần phải tạ ơn. Được rồi, các ngươi đi ngủ đi. Ma Đại, Thảo Ngư hai người các ngươi thay bản sư công hộ pháp, nhanh nhẹn lên nào.

Ma Đại, Thảo Ngư là hai đệ tử chân truyền của gã, vẻ mặt cử chỉ đều tùy tiện ranh mãnh, uống có chút quá chén, nghe sư phụ dặn dò, vội vàng đứng lên vâng một tiếng.

Mẫu thân Hồ Tiểu Nhị mất sớm, trong nhà chỉ có phụ thân đã già, xem ra đứa nhỏ này cũng cực ỳ thành thật, chất phác. Không nói hai lời, Hồ Thực vội kéo gã, cảm tạ sư công, sau đó quay về gian phòng bên trái.

Khóe miệng Nghê Khắc nhếch lên, vứt bỏ côn mộc, đứng dậy đi tới phòng nghỉ ở giữa. Ma Đại và Thảo Ngư ha hả cười dâm một tiếng, ngồi ở trong phòng, lấy cá lấy gà, tiếp tục uống rượu.

Hồ Thực và nhi tử sau khi vào phòng, liền tắt đèn đi ngủ. Hóa ra bọn họ thực sự là gia nhập Hồng Anh Hội. Hồng Anh Hội thờ Thái Thượng Lão Quân, cực kỳ nghiêm khắc, trong hội có đệ tử sinh lão bệnh tử, cưới hỏi đều phải bẩm báo với sư công. Vị sư công cũng không phải như sư tổ của một môn phái trong giang hồ, mà chỉ là một cách xưng hô đặc biệt trong Hồng Anh Hội, ý chỉ người thủ lĩnh đứng đầu.

Dựa theo giáo quy, thời điểm cưới tân nương, nhà trai phải mời sư tổ đến hàng phúc. Mà vị sư tổ này là thần tiên, người trần mắt thịt tất nhiên không nhìn thấy, liền do vị sư công thay thế, mời thần hiện thân. Tân nương tử phải bày hương án, quỳ xuống tiếp đón sư công vào tân phong. Thi phái tiên thuật, cho tới tận bình minh khi sư công thi pháp xong, tân nương lại cúi xuống cung kính tiễn đưa sư công rời đi.

Trong quá trình này, tân lang cũng phải tránh xa tân phòng. Không được rình coi, nếu không sư tổ sẽ giáng tai họa xuống. Tiểu Vương Trang bên cạnh, từng có hai huynh đệ, khi đệ đệ thành thân nhất thời tò mò, bởi vì huynh trưởng và chị dâu cũng từng được sư tổ chúc phúc, liền lén chị dâu. Chị dâu mặt liền đỏ bừng lên, dù thế nào cũng không nói với gã chuyện gì xảy ra khi được sư tổ chúc phúc.

Tiểu tử này trong lòng thực rất tò mò, ban đêm liền vụng trộm chạy tới ngoài cửa tân phòng nhìn lén sư công thi pháp. Không ngờ bị đệ tử sư công phát hiện, trách cứ gã một phen. Vốn tưởng vậy là xong, nhưng ngày hôm sau gã vì cãi nhau với một người qua đường mà bị giết chết, nghe đồn là do đắc tội với sư tổ, mới rước vào họa sát thân. Từ đó trở đi, mọi người liền không dám rình coi khi sư công thi pháp nữa.

Thảo Ngư uống thêm hai chén, có chút mắc tiểu, liền lảo đảo đi tới sau phòng. Lúc này Ngũ Hán Siêu đã sờ vào cửa sổ, nghe thấy tiếng bước chân. Lập tức nhảy lên, chỉ trong chớp mắt người đã đứng trên mái hiên, như một con báo nhẹ nhàng vươn người.

Hôm nay trăng sáng, ánh trăng bang bạc tỏa xuống. Ngũ Hán Siêu nghe được tiếng rì rầm không rõ của một điệu khúc, gã nhấc tay, nhẹ nhàng chuyển người tới đỉnh gian phòng trung gian, cởi áo bào, trùm lên đầu, sau đó mới tiếp tục nhấc một viên ngói lên, nương theo khe hở nhìn vào bên trong.

Chỉ thấy trong phòng một màu đỏ rực, không khí hân hoan vui mừng, hai cây nến đỏ đã cháy hơn nửa, cạnh tường có đặt hương án. Kẻ tên là Nghê Khắc quán chủ võ quán đeo đai lưng đỏ, cắt cổ con gà, cho máu gà hòa với rượu, miệng lẩm nhẩm tụng kinh. Một lúc lâu sau, vẽ loằn ngoằn lên một tấm giấy vàng như bùa chú, giơ lên trên không trung, tờ giấy vàng bụp một tiếng sau đó bốc cháy.

Nghê Khắc múa múa trên không trung vài cái, sau đó mang lá bùa cũng máu gà và rượu trộn lẫn nhau. Tân nương đứng bên cạnh đã xốc khăn voan lên, thấy cảnh thần kỳ đó, không khỏi kinh ngạc khẽ kêu một tiếng.

Ngũ Hán Siêu mặc dù không phải đạo sĩ, nhưng đối với ảo thuật làm cháy giáy cũng không xa lạ gì, nhìn bộ dạng ra vẻ thần bí của kẻ đó, hắn không khỏi nhếch miệng cười.

Nghê Khắc nâng chén rượu lên, trang trọng nói: - Hồng Anh triệu sinh, nguyên tôn thủy sang, vô sinh lão mẫu, chân không gia hương, hữu nan tương tử, hữu hoạn tương cứu, cung tỉnh sư tổ, giáng xuống thân ta. Nói xong thân hình gã run rẩy một hồi, sau đó nhìn tân nương tử uy nghiêm nói: - Uống rượu thánh đi.

Tân nương tử mới mười sáu xuân xanh, là nữ tử một gia đình nông dân, làn da có chút đen, nhưng lông mi cong vút, cái miệng anh đào nhỏ nhắn, bộ dạng khá là xinh đẹp. Nàng thấy sư tổ nhập vào thân thể sư công, tuy rằng không biết uống rượu, nhưng không dám từ chối, vội vàng nhấc chén, uống một ngụm rượu.

Rượu là rượu gạo đặc sản của Giang Nam, rượu không nặng, chỉ có điều sau khi thấm máu gà giấy tro, tuy nói là rượu thánh, nhưng hương vị cũng không được tốt lắm, cô nương Lý gia vừa uống một ngụm rượu, đôi mắt liền ngập nước, Nghê Khắc thấy vậy sắc tâm nổi lên, cười hắc hắc nói: - Ngươi tên là gì?

Cô nương Lý gia ngập ngừng nói: - Bẩm ngũ sư công, tiểu nữ họ Lý, tên là Tiểu Vũ.

Nghê Khắc nhẹ giọng nói: - Tiểu Vũ à, bổn tọa hiện đã mời sư tổ nhập thân, mau thổi tắt đèn, cởi áo nằm lên trên giường, bổn tọa phải thi pháp chúc phúc rồi.

Tiêu Vũ giật mình kinh hãi, níu chặt áo nói: - Ngữ sư công, còn còn phải tắt đèn cởi áo sao?

Nghê Khắc trừng mắt nói: - To gan, hiện tại nguyên thần Quân pháp sư đang ở trong người bổn tọa, Hồng Anh Hội đón dâu đều chúc phúc như vậy, ngươi còn do dự chuyện gì? Còn không mau nghe lời?

Lý Tiểu Vũ hoảng sợ, ngẫm lại trong thôn có mấy vị tỷ tỷ, đại tẩu là do ngũ sư công thi pháp chúc phúc, cũng chưa thấy các nàng nói qua chuyện gì, thầm nghĩ hóa ra thiên thần thi pháp là như vậy. Nàng cũng không dám trái lời Nghê Khắc, vội vàng ngoan ngoãn thổi tắt nến, đi tới bên giường sột soạt cởi quần áo, chỉ mặc quần lót, xấu hổ bò lên giường.

Trong phòng bỗng nhiên tối sầm lại, Ngũ Hán Siêu không còn nhìn rõ tình hình bên trong, nhưng lúc này hắn cũng đã đoán được vài phần. Kẻ này giả thần giả thánh, lấy tà ma đạo giáo dụ dỗ cô nương, không ngờ cô nương này còn càng thêm tin tưởng gã, không có chút hoài nghi, chỉ nghe theo lệnh khiến Ngũ Hán Siêu cảm thấy bất ngờ.

Ngũ Hán Siêu từ nhỏ đã đọc thi thư, văn có võ có, hắc bạch lưỡng đạo. Ít nhiều cũng hiểu được một chút, hắn tất nhiên không hiểu được sự mê tín của một ngu phụ về thần quỷ. Phải biết ngay cả trăm năm sau, còn có hương dân bị kẻ giả thần giả quỷ lừa gạt tiền bạc, mất đi trong sạch, chứ đừng nói tới niên đại này.

Nghê Khắc vội vàng cởi quần ì bò lên giường, sờ lên người tân nương, không ngờ là một thân thể trơn mềm mịn. Tân nương giật mình hoảng hốt, kêu lên: - Ngũ sư công, ngươi ngươi làm gì thế? Đừng có chạm vào ta

Nghê Khắc cười dâm nói: - Sợ cái gì chứ? Bổn tọa thi pháp chúc phúc luôn như vậy, trong vòng mười dặm đều là tín đồ bản hội, thành thân đều như thế này, không phải bây giờ vẫn khỏe mạnh cả sao? Đây là bí pháp của bản hội, bất cứ kẻ nào cũng không được nói ra. Ngươi yên tâm, ngày mai bổn tọa sẽ dạy ngươi biện pháp, không để phu quân ngươi phát hiện ra ngươi thất thân là được.

Lý Tiểu Vũ nghe vậy vừa kinh vừa sợ, đồng thời lại có cảm giác toàn thân mềm nhũn. Mí mắt càng lúc càng nặng, ngay cả giãy dụa cũng yếu đi. Nàng không biết rượu kia vốn trộn lẫn thứ khác, vẫn cố gắng cầu xin: - Ngũ sư công, buông tar a làm gì làm gì có kiểu thi pháp chúc phúc như vậy chứ?

Ngũ Hán Siêu âm thầm nghĩ: - Nếu không phải tối nay tự mình đến, cô nương này sẽ bị tên này làm bẩn thân thể, mà vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Vì trong sạch và sợ mất đi trượng phu, nàng lại không dám nói ra, vô hình trung đã khiến càng nhiều cô nương nữa bị hại.

Hắn vốn muốn nhìn xem tên giả thần giả thánh này còn có ảo thuật gì nữa, hiện giờ xem ra ảo thuật cũng không được coi là một môn bí kỹ nữa, vì ngay cả tên này cũng biết sử dụng. Ngũ Hán Siêu giơ tay bẻ một góc mảnh gói, hướng về phía thân hình Nghê Khắc, bắn mảnh ngói ra.

Lý Tiểu Vũ vốn vô cùng tin tưởng sư tổ, hơn nữa nhiều tỷ muội đã trải qua chuyện này, tới hiện giờ cũng không thấy nói ra điều gì. Điều này khiến nàng bán tín bán nghi, nên không kịp thời kêu cứu. Hiện tại ngay cả muốn kêu cứu, nhưng không còn sức, mí mắt nặng nề, tứ chi mềm mại, không còn sức kêu lên.Thân thể Nghê Khắc trần truồng, đang bắt đầu cởi quần lót của nàng, bỗng nhiên mông gã tê rần, không khỏi ai ui một tiếng, hoảng sợ quay dầu quát: - Kẻ nào?

Sau đó gã ngẩn người ra: - Trong phòng này làm sao có thể có người được chứ?

Ngũ Hán Siêu khẽ mỉm cười, lấy ra mai kim tiền, bắn vào trong hậu viện, trong bóng đêm đột nhiên vang lên tiếng thét dài, trong ngoài hậu viện mười Đông Xưởng một nha sai thét lên, rút đao vọt qua tường xông vào.

Ngũ Hán Siếu xé áo bào trùm đầu ra, ánh trăng chiếu thẳng vào phòng, dưới chân hắn dùng lực một chút, rầm một tiếng đạp vỡ mái ngói rơi thẳng xuống.

Dưới bụi mù, ánh trăng chiếu xuống ánh sáng mờ mờ, Ngũ Hán Siêu cười nói: - Đệ tử Võ Đang Thông Vi Hiển Hóa chân nhân đời thứ bảy, tới chăm sóc đại tiên Hồng Anh Hội ngươi

Thông Vi Hiển Hóa là danh hiệu Anh Tông ban tặng cho Trương Tam Phong của Võ Đang, coi như bậc tiền bối, đời tiếp theo là Bối Minh Thế Tông, sẽ phong làm Chân Quân, đổi thành Thiên thượng địa thần tiên. Hắn thấy Nghê Khắc giả thần giả qủy, lấy ra danh hiệu sưu tổ, dưới khói bụi và ánh sáng mờ mờ, quả thực giống như tiên nhân hạ phàm vậy.

Nghê Khắc hốt hoảng, trần truồng nhảy từ trên giường xuống. Nhưng gã giả thần giả quỷ, mở võ quán mà công phu quyền cước thì kém xa Ngũ Hán Siêu, người lại trần như nhộng, công phu cũng phải giảm đi ba phần, làm sao có thể là đối thủ của Ngũ Hán Siêu. Sa ba đấm, hai đá liền bị Ngũ Hán Siêu đá ngã lăn trên mặt đất, một cước đá vào xương sườn, xương cốt muốn gãy làm đôi, đâm vào da thịt, đau đớn thấu tim, khiến gã không thể đứng dậy nổi.

Ngũ Hán Siêu lấy mồi lửa ra, thắp sáng ngọn nến, cười cười tới bên cạnh giường, chỉ thấy cô nương tên Tiểu Vũ đang mở to đôi mắt ngập nước, nhìn chằm chằm hắn, nhưng thân mình thì không động đậy nổi.

Ma Đại, Thảo Ngư uống tới mức say lờ đờ, nghe thấy trong phòng ầm một tiếng, còn nói đêm nay sư phục chúc phúc quá mãnh liệt, cười mờ ám. Sau đó chợt thấy khoảng hai mươi đại hán giơ đuốc vọt vào, không đợi bọn họ hiểu được chuyện gì, đã bị ấn đầu xuống đất.

Bên này vừa động thủ, đám người ở đầu đường nhận được tin lập tức bao vây võ quán, ba mươi cao thủ và tám mươi tuần kiểm địa phương ập vào. Trong võ quán mọi người đang ngủ say, như rắn mất dầu, không biết chuyện gì xảy ra, ngoại trừ năm ba kẻ phản kháng, bị Đông Xưởng ngang nhiên chém chết, không chút lưu tình, những người còn lại đều bị trói chặt.

Nha môn tri phủ nhận được tin, hiểu được võ quán này thực sự là Hồng Anh Hội ở Sơn Môn trá hình, Tiêu Tri phủ liền lệnh nha dịch toàn bộ xuất động, lại sai người triệu tập dân binh cường tráng. Dương Lăng xuất năm trăm binh hiệp trợ, bắt lấy toàn bộ người trong võ quán Nghê gia lẫn quan viên địa phương.

Dương Lăng và Thành Khởi Vận uống trà trong sảnh, đợi Ngũ Hán Siêu trở về, kể lại chuyện đã xảy ra. Dương Lăng vỗ tay hoan nghênh nói: - Được lắm! Người này là ngũ sư công, nói vậy bên trên gã còn có cá lớn hơn. Thông báo Tri phủ nha môn, mau chóng lấy lời khai, tốt nhất một lướt bắt hết Hồng Anh Hội.

Ngũ Hán Siêu cười nói: - Đại nhân yên tâm, Tri phủ vẫn đang ở nha môn thẩm vấn đám người võ quán Nghê gia, chỉ cần tra được quan viên liên quan, đều nhất loạt tống giam.

Thành Khởi Vận ngồi cạnh bàn quan, chợt nói: - Đại nhân, có một việc, ty chức cảm thấy đại nhân nên lập tức phân phó xuống dưới.

Dương Lăng vui vẻ nói: - Nghĩ ra chuyện gì vậy, mau nói đi.

Hắn biết Thành Khởi Vận có trăm kế sách, hắn cũng không thể sánh bằng, nghĩ tới Thành Khởi Vận có thể có diệu kế gì, liền vội vàng hỏi.

Thành Khởi Vận hạ giọng nói: - Đại nhân có thể mời ngũ công tử lại vất vả một chuyến, một nhà Hồ Tiểu Nhị, lại còn Tri phủ nha môn thẩm vấn quan sai, chuyện Hồng Anh Hội phạm pháp rất nhiều, có thể nhân cơ hội trị tội. Bí mật động phòng truyền đạo, có thể giấu thì hãy cứ giấu đi.

Dương Lăng a một tiếng, chỉ cảm thấy trên người khô nóng, lăng thấm ra một tầng mồ hôi, lập tức quát lên: - Hán Siêu, lập tức đi một chuyến, một nhà Hồ Thực, còn có quan sai, nha viên, ai dám nói ra chuyện cơ mật động phòng truyền đạo, lập tức nghiêm trị không tha.

Ngũ Hán Siêu lúc này mới cảnh giác, vội vàng vâng một tiếng, cưỡi ngựa, lao đi.

Thành Khởi Vận thở dài một tiếng: - Hồ Thực một nhà cũng bị bắt tới nha môn, chỉ cần đe dọa bọn họ, bí mật này không thể lộ ra ngoài, chỉ là triều đình sẽ ít đi một lý do nghiêm trị tà giáo.

Dương Lăng lắc đầu, hắn chậm rãi đứng dậy, đi tới trước mặt Thành Khởi Vận, vái nàng một cái thật thấp. Thành Khởi Vận luống cuống, xua xua tay nói: - Đại nhân, ngài ngài đang làm gì vậy?

Dương Lăng cảm kích nói: - Khởi Vận cô nương, ngàu mai toàn bộ Trấn Giang, thậm chí toàn bộ Giang Nam, có vô số gia đình chia lìa, vô số cô nương thắt cổ, nhiều hài nhi không có mẫu thân, tất cả đều nhờ có cô nương cứu giúp. Ta cũng vì chuyện đó có lẽ sẽ bứt rứt cả đời, Khởi Vận, thực lòng đa tạ cô.

Thành Khởi Vận nhận đại lễ của Dương Lăng, khuôn mặt xinh đẹp không khỏi nóng lên, cuống quit đứng dậy, cũng vái hắn một cái thật sâu rồi nói: - Nghĩ tới những điều đại nhân sẽ nghĩ, suy xét những thứ đại nhân chưa kịp suy xét, chính là chức trách của phụ tá, nếu nói tạ ơn, nên để Khởi Vận thay những phụ nhân Giang Nam vô tội bị lừa tạ ơn ân đức đại nhân mới đúng.

Dương Lăng kéo dài âm thanh nói: - Sai rồi, sau khi Dương mỗ rời Trấn Giang, để lại nơi chốn phụ nhân thắt cổ, người người nhảy giếng tự vẫn, một người chết, không biết phải có bao nhiêu gia đình bi thương. Nơi nơi sầu thảm, lương tâm sẽ bị gánh nặng cả đời, thực sự bản quan không đảm đương nổi.

Thành Khởi Vận đáp lễ, sâu kín thở dài: - Đám phụ huynh trượng phu của mấy phụ nhân đó toàn người vô tri, dẫn sói vào nhà nhiễm vẫn trong sạch, chứ cũng không phải do bản thân họ tạo thành. Rõ ràng chính là do phụ thân huynh trưởng trượng phụ cõng rắn cắn gà nhà, nhưng khi sự việc phát sinh, thì toàn bộ tội nghiệt lại phải do các những người vợ gánh vác toàn bộ, lấy cái chết tỏ ý chí, Khởi Vận chỉ là không nỡ nhìn cảnh con trẻ mồ côi.

Đột nhiên một tiếng cười vọng tới: - Phu quân và Thành tỷ tỷ khuya khoắt tại đây bái đi bái lại, là đang làm cái gì vậy?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 248: Long Giang tái hung

Dương Lẳng ngẩng đầu lên, thấy Mã Liên Nhi đang đi tới đây. Đã nhiều ngày nàng và Dương Lăng ở cùng một chỗ với nhau, đem khuya nằm ngủ, Liên Nhi không thấy Dương Lăng ở bên cạnh, nên khoác áo rời giường, thấy tiền sảnh vẫn sáng đèn, mới bước tới xem có chuyện gì.

Dương Lăng thấy tóc nàng có chút rối, mắt vẫn còn ngái ngủ, đôi mắt sáng như sao, thiếu phụ thướt tha động lòng người, vội vàng tiến lên đỡ nàng ngồi xuống, kể lại đầu đuôi sự tình cho nàng nghe. Mã Liên Nhi suy nghĩ một chút, rồi nói: - Một câu nói của tỷ tỷ, quả nhiên cứu vô số người đáng thương, thực là đại công đức, chỉ có điều Phu quân, người đứng đầu Hồng Anh Hội tự xưng là Ngũ sư công, tất nhiên dư đảng vô số, nếu không quét sạch dư đảng, chỉ sợ bọn họ lại chạy tứ tán khắp nơi, tiếp tục hại người thì phải làm thế nào?

Thành Khởi Vận cười nhẹ nói: -Ty chức cũng đang muốn nói tới chuyện này. Hồng Anh Hội không giống với các giáo phái khác, có một điểm vô cùng rõ ràng đó chính là nghi thức động phòng truyền đạo. Đại nhân nên lập tức truyền dụ ba vùng một vệ, nếu như có giáo phái nào có nghi thức kiểu như vậy, phải lập tức tróc nã, cố gắng hết sức bắt hết dư đảng Hồng Anh Hội.

Nàng ngồi trên ghế, uống một ngụm trà nói: - Bạch Liên giáo lưu truyền rộng rãi, chưa từng có giáo chỉ động phòng truyền giáo này. Rất rõ ràng đó là do người của Hồng Anh Hội bóp méo giáo lý, nhân cơ hội lừa gạt nữ nhân mà thôi. Lần này gặp hạn bị tóm, dư nghiệt chạy trốn tới nơi khác thay hình đổi dạng, thì làm sao có thể dùng thủ pháp cũ để quan phủ chú ý chứ?

Hơn nữa nếu nói tuyên truyền, đại nhân muốn triều đình dùng tài lực khổng lồ để in sách truyền bá cho đại đa số người dân không biết chữ, hay là muốn nha dịch đi tuyên truyền qua loa cho xong chuyện? Triều đình trước kia chịu sự đả kích của Bạch Liên giáo, đã có vô số gia tộc bị diệt vong, khổ hình vô số. Số ngu dân đi theo bọn chúng chỉ là vì bị tà giáo che mắt, bởi vì thủ đoạn mị dân của chúng vô cùng phong phú. Hơn nữa sự hấp dẫn của phú quý, mấy trăm năm quan phủ đã miêu tả Bạch Liên giáo là hóa thân của ác ma, chi nhánh của bọn họ vô số, chỉ cần sửa một cái tên, đổi là trò, tiếp tục đi lừa gạt dân chúng, thiếu gì kẻ tin theo chứ? Công bố việc này chỉ gia tăng vô số người phụ nhân bị hàm oan mà chết, chứ chẳng có lợi ích gì cả.

Ở Thiểm Tây có Di Lặc giáo, khi truyền giáo mê hoặc dân chúng quyên góp toàn bộ gia sản cho chúng, nhưng người dân vẫn không tỉnh ngộ. Những người ngoài chỉ cảm thấy không thể tưởng tượng được, ai mà biết được khi vào giáo sẽ bị bọn chúng dùng thủ đoạn tẩy não chứ?

Di Lặc giáo phạm tội bị bại lộ, chạy trốn khắp nơi, lại tiếp tục truyền giáo. Đám dân chúng biết rõ ràng ở Thiểm Tây có vô số người bị hại nhà tan cửa nát, nhưng Di Lặc giáo vẫn có vô số tín đồ đó sao? Bọn họ khi truyền giáo, căn bản sẽ không để lộ ra ý đồ thật. Dù ngươi có tuyên truyền tà giáo tà ác thế nào đi chăng nữa, thì đám dân chúng bị lừa cũng không tin rằng giáo phái họ gia nhập chính là giáo phái ngươi đang tuyên truyền là tà giáo, chỉ sau khi bọn họ bị tẩy não mới biết điều đó. Đối với vô số hành vi phi lý nhưng cũng chỉ cảm thấy bình thường, nên họ càng không nghe lời khuyên bảo hay tuyên truyền.

Dương Lăng nhớ tới bán hàng đa cấp ở hiện đại, thậm chí tà giáo ở các quốc gia khác, có âm, ảnh, sách báo, đủ các loại phương tiện tuyên truyền, nhưng nó vẫn phát triển mạnh mẽ, không khỏi thở dài.

Hồng Anh Hội tuy rằng làm việc bí mật, nhưng động phòng truyền giáo lại là mục tiêu quá rõ ràng, Tri phủ Trấn Giang điều động nha môn các huyện, tuần bổ, tráng binh đi lùng bắt tập nã các nơi hiểm yếu, bố trí các trạm kiểm tra. Các Sứ Ti ở Giang Tô cũng ban nghiêm lệnh, phân chia kiểm tra, nơi nào gặp phải người của Hồng Anh Hội phải diệt trừ lập tức.

Kênh đào bờ biển, một con thuyền bình thường neo ở bên bờ biển, theo sóng nước xô vào mà nhấp nhô, nhẹ nhàng dao động. Một thân hình cao lớn, tuổi khoảng chừng bốn mươi, mặt mày đoan chính, mặc áo bào xanh hai chân mở rộng, vững vàng đứng ở đầu thuyền, nhìn ra thuyền khâm sai ở phía xa, oán hận thở dài một tiếng.

Y chính là đại sư công Vương Tăng Vũ của Hồng Anh Hội, Hồng Anh Hội chỉ có y, nhị sư công Lý Tả Đồng, tam sư công Dương Thanh và mấy người thị vệ là trốn thoát. May mắn trong sáng ngoài tối cũng đoạt được một thuyền vàng bạc châu báu, toàn bộ đều mang theo hết, nếu không thì y đã mắt cả chì lẫn chài.

Dương Lăng ở một bên tức giận nói: - Đều là do lão tứ lão ngũ, hai kẻ ngu ngốc có ý nghĩ điên rồ, cái gì mà động phòng truyền đạo tương lai có thể làm cho đệ tử sinh sôi nảy nở, càng lúc càng lớn mạnh. Ta nhổ vào, toàn bộ đều là thỏa mãn tư dục, con mẹ nó lấy được tiền còn chưa đủ để chơi gái sao? Cái này chính là đưa mạng vào đánh bạc, cơ nghiệp mà bản hội vất vả lắm mới gây dựng đều đều bị hủy rồi.

Mặt Vương Tăng Vũ nóng lên, có chút không giữ nổi bình tĩnh. Hai năm trước nghe đám người Nghê Khắc nghĩ ra trò lừa dụ nữ sắc, Vương Tăng Vũ nghe xong sắc tâm cũng nổi lên, gật đầu khen hay, chỉ có điều y không giống đám người Nghê Khắc thiên về đám xử nữ, có chút tốt xấu chẳng phân. Y nếu nghe ngóng được cô nương nhà kia dung mạng xinh đẹp, thì mới chịu đến nhà truyền đạo chúc phúc. Nhà kia nghe nói đại sư công tới cửa truyền đạo, người ta cảm động tới rớt nước mắt, còn tưởng rằng mình ở trong giáo thành kính, nên mới được sư công quang lâm.

Hiện tại Dương Thanh ở trước mặt hòa thượng mắng ngươi hói đầu, rõ ràng là có điều bất mãn với y. Trong lòng Vương Tăng Vũ mặc dù giận, nhưng cũng biết mình như vậy là không nghiêm túc, hại cơ nghiệp của bản giáo, nhất thời nghẹn họng, không thể tiếp lời.

Lý Tả Đồng vội hòa giải nói: - Thôi thôi, núi xanh vẫn còn, sợ gì không có củi đốt. Chúng ta còn một thuyền vàng bạc châu báu, lo gì sự không thành? Lão tứ lão ngũ lưu luyến nữ sắc, bóp méo giáo lý, khiến bản giáo bị thất bại thảm hại, sau này phải học thuộc giáo huấn, làm theo giáo quy. Đại ca, tam đệ nay Giang Tô đã truyền tiếng gió ra ngoài, tiếp theo chúng ta phải làm thế nào để tránh gió?

Dương Thanh nghe thấy gã nói như vậy, thu lại cơn tức, trầm ngâm một chút liền nói - Hay là chúng ra tới Di Lặc giáo làm môn hạ của họ được không? Nghe nói bọn họ ở phương Bắc làm ăn thịnh vượng, cùng là càng lá của Bạch Liên giáo, bọn họ sẽ không thấy chết mà không cứu chứ?

Vương Tăng Vũ bắt lấy cơ hội, cười lạnh một tiếng: - Đích xác thì sẽ không, bọn họ thế lớn tiền nhiều. Trước tiên sẽ nuốt hết tài bảo của chúng ta, sau đó sẽ quăng mấy kẻ không có chỗ dựa như chúng ta ra đường, đợi đến ngày như vậy sông có dễ dàng không?

Dương Thanh ở Hồng Anh Hội xếp hạng thứ ba, võ nghệ lại là người cao nhất, là thương bổng tổng giáo đầu của Hồng Anh Hội. Gã không bao giờ sợ đại thủ lĩnh, nghe thấy y nói vậy, chỉ trợn trắng mắt, kỳ quái nói: - Đại ca có cao kiến gì sao?

Vương Tăng Vũ nheo mắt lại nói: - Qúy Châu có Bát Quái giáo cũng là môn hạ của Bạch Liên giáo, tuy nhiên người nghèo của hiếm. Trong giáo cũng không có nhân tài nào, với thực lực của ba người chúng ta, nếu gia nhập Bát Quái giáo, lại dùng vàng bạc âm thầm mua những nhân vật trọng yếu trong giáo, vậy thì Bát Quái giáo sẽ trở thành vật nằm trong lòng bàn tay chúng ta. Các ngươi thấy thế nào?

Dương Thanh cười giễu cợt, nhả giọng nói: - Đại ca cũng biết được nơi đó khỉ ho cò gáy, trà trộn vào rồi làm chủ thì thế nào? Dẫn bọn dã nhân xuyên núi đào thành động?

- Ngươi Vương Tăng Vũ nổi xung lên. Lý Tả Đồng vội hỏi: - Huynh đệ một nhà, có chuyện gì từ từ thương lượng. Vốn ta muốn đề nghị chúng ta đi Động Đình Hồ, đầu nhập Dương Tử Kiều, Đại Cẩu Tử đấy. Nghe đại ca nói mấy lời cũng cảm thấy lo lắng, hai vị này cũng không phải kẻ lương thiện gì, dưới tay có gần vạn người, bình thường gặp mặt thì nhiệt tình lắm, hiện tại chúng ta gặp rủi ro, khó bảo đảm bọn họ không đánh chủ ý lên chúng ta.

- Ta đưa ra đề nghị thế này được không? Đầu nhập vào người này, thứ nhất gã sẽ không đánh chủ ý lên tài bảo của chúng ta, thậm chí còn tặng thêm. Thứ hai, dưới sự bảo hộ của họ, chúng ta thay đổi cách thức, đổi tên thánh, sửa lại giáo lý, lần nữa thu nạp giáo dân, cam đoan vừa hô sẽ có trăm dân nghe theo, Đông Sơn tái khởi.

Vương Tăng Vũ vui vẻ nói: - Nhị đệ nhắc tới ai? Mau nói xem.

Lý Tả Đồng khẽ mỉm cười, giơ ngón cái lên nói: - Giang Tây này, chúng ta ở Giang Tô lăng lộn phát triển nhanh chóng, thuận buồm xuôi gió, đại ca hẳn đã quên năm ngoái gã từng phái người tới chiêu mộ chúng ta rồi sao?

Ánh mắt Vương Tăng Vũ sáng lên, quay đầu nhìn Dương Thanh. Dương Thanh cũng như bừng tỉnh, mạnh mẽ gật đầu, hưng phấn nói: - Được! Muốn lường gạt ngu dân nhập giáo dễ như trở bàn tay, thủ đoạn nhiều không kể xiết, chúng ta yếu chính là vì không có quan giao bao che, hiểu biết không nhiều, nên lần này mới bị thất bại thảm hại. Tới Giang Tây đầu nhập gã, hai nhà hắc bạch đều mở rộng, ta thấy kế này rất khả thi.

Vương Tăng Vũ vỗ mạnh một chưởng, vui vẻ cười nói: - Được, nếu đã như vậy chúng ta lập tức đi Giang Tây. Chúng ta bị hủy trong tay lão Chu gia, thì cũng phải để lão Chu gia khiêng chúng ta lên, ha ha ha, chúng ta đi.

Hôm nay xưởng đóng tàu Long Giang đông như nghịt, không vắng vẻ như ngày trước. Triều đình và sĩ tộc thân hào Giang Nam góp cổ phần vô số, trong triều lại giao xuống bản vẽ tường tận, xưởng đóng tàu đang ngày đêm đẩy nhanh tốc độ, chế tạo chiến hạm giao cho thủy sư sử dụng.

Dương Lăng, Thành Khởi Vận cùng quan viên trên dưới, tiền hô hậu ủng qua lại không ngớt. Từ Kinh, Ngô Tế Uyên và thân hào sĩ tộc Giang Nam cũng ở trong số đó. Ngô Tế Uyên là thủ phủ Tô Châu, cùng với Dương Lăng là chỗ quen biết cũ, cũng chính là kẻ đầu sỏ hại Đường Bá Hổ cả đời không được nhập sĩ làm quan.

Kỳ thực người này tuy là thủ phủ Giang Âm, nhưng trong nhà ruộng tốt bốn vạn mẫu, có kinh doanh các loại cửa hàng, là phú hào vô lượng. Nhưng cũng là người hào sảng, thích kết giao bằng hữu, đều không phải là hạng người tà ác. Lúc trước, gã cùng với Đường Bá Hổ vào kinh đi thi, bởi vì ngưỡng mộ tài văn chương của Đường Giải Nguyên, cho nên liền kết thành bằng hữu với người đó. Cộng phó kinh sư, một đường kiệu mã đón chào, chính là đối đãi cực kỳ lễ độ với Đường Bá Hổ.

Kết quả là sau khi gã trộm mua đề thi bị người ta tố giác, bởi vì Đường Bá Hổ cũng đứng đầu bảng, hơn nữa lại vô cùng thân cận với gã, cho nên kết quả là bị người khác ghen ăn tức ở, ghép cho tội danh đồng đảng kiển lên cấp trên, đều bị tống vào ngục. Từ gia trên dưới nhốn nháo, chuẩn bị vô số vàng bạc, cuối cùng cũng bảo vệ được bọn họ, giữ được mạng, chỉ có điều cả hai từ nay về sau đều vô duyên với con đường làm quan. Từ Kinh làm phú ông, còn Đường Bá Hổ thì lưu luyến bụi hoa, mượn rượu giải sầu.

Từ Kinh vang danh đời sau, một là vì gã ta là bạn tốt của Đường Bá Hổ. Một là do vị Tăng Tôn nổi danh Từ Hà Khách. Gã là thủ phủ Giang Âm, Ngô Tế Uyên là thủ phủ Tô Châu. Có hai nhà Ngô Từ đi đầu, vùng duyên hải thân hào cạnh tranh hợp lực đóng cổ phần, đối với những người này mà nói, lợi ích mà buôn bán trên biển mang lại, vượt xa lợi ích trên đất liền. Hiện tại có hai đại thế gia đi đầu, nghe nói ngay cả hoàng gia cũng đầu tư nhập cổ phần. Bọn họ còn cần gì phải lo lắng chứ?

Chớ xem thường đám sĩ tộc Giang Nam, của cải bọn họ lấy được, còn lớn hơn ngân khố quốc gia nhiều, không chỉ gấp mười lần thôi đâu. Xưởng đóng tàu Long Giang bốn phía mênh mông, có hàng dài các cây đại thụ trăm năm, có ngân lượng dư dả, lại thêm bản vẽ chặt chẽ tỉ mỉ, muốn người có người, cần vật có vật, nên tốc độ chế tạo không hề tầm thường chút nào.

Hiện tại Hàn Võ đã làm Thủy Sư Thiên hộ, một nhà Bành lão gia là mãnh tướng đi theo hắn nhiều năm trên biển đã gia nhập thủy sư, mỗi người đều có một chức quan. Chính là theo huấn luyện thủy sư để tố chiến.

Tiền Ninh cười dài mà nói: - Dương đại nhân, ngài xem phân công của hạ quan có hợp lý không ạ? Bà nội nó, trước kia ta còn chán nản, không ngờ có ngày hôm nay. Mắt thấy từng khối ván gỗ từ từ ghép thành chiến hạm khổng lồ,, trong lòng đúng là rất vui vẻ.

Nói xong y liền liếc nhìn Thành Khởi Vận, nuốt nước bọt. Ngực thì thình thịch nhảy loạn một trận: "Nữ nhân này trời sinh cũng quá đáng yêu rồi. Mỹ nữ y gặp cũng nhiều, nhưng nhìn thoáng qua liền nghĩ tới giường chiếu, thì cũng chỉ có yêu tinh trước mắt này thôi. Nhị đương đầu của xưởng? Ha hả, chỉ sợ là phu nhân nội phòng của Dương Lăng thì có, đáng tiếc, chẳng những không được chạm vào, con mẹ hắn chứ, ngay cả liếc mắt nhìn cũng không dám nhìn thoải mái."

Dương Lăng nhìn chiến hạm đang dần hình thành ở bến tàu, trong lòng kích động không thôi. Gật gật đầu, bỗng ghé sát vào tai Tiền Ninh thấp giọng nói: - Đám gia tộc quyền quý Giang Nam chỉ lọt một chút dầu ra kẽ tay, cũng đủ cho tiểu tử ngươi hứng mấy bình. Có thể tham, nhưng không thể quá mức, nếu làm trễ nải đại sự, ta sẽ hỏi tội ngươi.

Nghe thấy vậy, mặt Tiền Ninh hớn hở nói:

- Đại nhân, nghe lời này của ngài ta liền thấy thoải mái. Ngài cứ yên tâm, công bộ thủy ti Nam Kinh, Đề Cử Ti, Doanh Tác Ti, Công Tượng Ti Nam Trấn phủ. Mọi bên ta đều chăm sóc thỏa đáng cả rồi.

- Muốn tiền cho tiền, muốn người đưa người. Nhưng nếu mà có tên khốn khiếp nào muốn chơi không muốn sống, bà nội nó chứ, ta hạ cho cái tội danh ném vào nhà tù, không chỉnh chết hắn mới là lạ. Khiến kẻ đó tàn phế, xong thả ra cho làm kẻ thu bạc, tàn phế vẫn phải làm việc, xem đám khốn khiếp đó còn dám liều mạng hay không?

Dương Lăng nghe thấy vậy cũng không biết nên khóc hay cười, ác nhân khi làm việc tốt, vẫn có thủ đoạn của ác nhân. Nhưng vì thế người ta gọi gã là phủ viễn Hoài Ân, nhưng gã cũng không phải kẻ thích hợp, nhìn cái xưởng đóng tàu, tất cả các bộ phận đều gọn gàng, ngăn nắp, các ti không dám lười biếng trễ nải công chuyện, thực sự biện pháp hồ la bặc gia đại bổng của Tiền Ninh quả thực có hiệu quả.

Dương Lăng từ chối cho ý kiến, lên tiếng như cười như không, nói: - Đừng làm quá mức là được, đã giao bao nhiêu chiến hạm rồi? Hiện tại đều đang làm loại nào?

Tiền Ninh trố mắt nói: - Ngài hỏi ta thì ta hỏi ai? Ta chỉ quản lý việc ở đây, những chuyện này cũng không hiểu, đại nhân đợi đã. Gã hết nhìn đông lại nhìn tây, chỉ nói: - Người kia, ngươi lại đây, khâm sai đại nhân có chuyện muốn hỏi ngươi.

Dương Lăng thấy vậy cái mũi thiếu chút nữa không thở nổi, người nọ khuôn mặt thanh quắc, mặc quan bào màu lục, nhìn quan phục thì là quan ngũ phẩm, cùng cấp bậc với Tri phủ. Tiền Ninh cả ngày trấn thủ ở xưởng đóng tàu, nhưng ngay cả tên của người ta cũng gọi không ra, cứ như vậy ầm ầm gọi người, cũng quá không tôn trọng người ta chút.

Nhưng vị quan kia lại cố tình nghe lời, vừa thấy Tiền Ninh gọi liền vội vàng nhấc áo bào giẫm lên ván gỗ đinh sắt, vội vã chạy tới, cúi đầu khom lưng nói: - Hạ quan công bộ đô thủy ti Lạc Ân Viễn, không biết khâm sai có gì chỉ bảo?

Dương Lăng cười cười nói: - Hóa ra là Lạc đại nhân à, mời Lạc đại nhận giới thiệu về chiếc thuyền đó cho bản quan, ta chỉ muốn hiểu rõ hơn một chút.

Lạc Ân Viễn tuy nói giọng điệu hèn mọn, nhưng đối với thuyền vụ thật ra lại là người lành nghề, gã theo thứ tự chỉ vào từng con thuyền trên bến tàu nói:

- Đại nhân, vài loại này, đều là dựa theo tư liệu mà kinh sư đưa đến, sau lại mời Thủy sư nha môn quen lái thuyển trên biển là Bành lão gia tử chỉ điểm sửa chữa, tuy nhiên tên thì chúng ta vẫn tiếp tục sử dụng tên cũ.

- Chiếc thuyền này gọi la tiêu thuyền, cái này gọi là hải thương thuyền, chiếc kia là thương sơn thuyền, đều là thuyền biển đáy nhọn, thích hợp đi xa trên biển. Bên ngoài rìa chiến hạm to lớn kia gọi là đại phúc thuyền.

Vị này Lạc đại nhân vừa nhắc tới tạo thuyền, đã quên khiếp sợ lo lắng, chỉ trỏ hưng phấn không thôi mà nói: - Thuyền viễn dương vì an toàn và gặp địch phải có phản ứng rất nhanh, cho nên không thể quá lớn, bởi vậy chúng ta khi tạo thuyền phần lớn chỉ tạo thuyền biển hai ngàn khối, đại phúc thuyền làm to như chiến thuyền, có thể ở trấn thủ ở giữa các loại chiến hạm hộ vệ, vì vậy không cần chế tạo nhiều.

Dương Lăng nghe trong lòng bật cười, như thế nào nghe loại này thuyền có hàng ngũ này, hắn liền cảm thấy có chút giống mẫu hạm đội ở hiện đại. Thủy sư Đại Minh có trang bị như vậy, sau đó huấn luyện thêm một chút thủy sư, đừng nói bình định giặc Oa, tung hoành tứ hải cũng có gì khó?

Mắt thấy công trường chế tạo thân thuyền, dây cáp, cột buồm, mọi thứ đều san sát nối tiếp nhau, khí thế to lớn, mọi người đều khẩn trương bận rộn, Dương Lăng không khỏi vui vẻ gật đầu.

Lạc đại nhân lại nói: - Chúng ta đã giao phó cho thủy sư mười bảy tàu chiến hạm, ba mươi từ chiếc đáy bằng xà lan, trước mắt đám thợ thủ công tay nghề càng ngày càng thuần thục, tạo chiến hạm tốc độ hẳn là sẽ nhanh hơn.

Dương Lăng mặc dù không hiểu thuyền, nghe tên cũng biết đáy bằng xà lan hẳn không phải là thuyền dùng viễn hải, liền hỏi: - Thuyền có đáy bằng xà lan cũng là dùng cho viễn hải sao? Hay là có tác dụng khác?

Lạc đại nhân nói:

- Đại nhân, đáy bằng xà lan cũng có thể sử dụng cho viễn hải, nhưng càng lợi cho biển cạn, nhiều đá ngầm, khu hải vực thường lui tới tác chiến, dùng cho nội hà, gần biển, xung bãi đổ bộ vô cùng tiện lợi, tiêu diệt giặc Oa khi hải tặc nếu lùi bước vào hải đảo, ngoan cố chống lại, thuyền lớn không vào được khu đá ngầm, khi đó sẽ dùng tới xà lan rồi.

- Ừ. Dương Lăng gật gật đầu, chính là muốn hỏi một chút công dụng cụ thể của các loại thuyền, Thành Khởi Vận đi ở bên cạnh hắn, bỗng nhiên bước trên một tấm ván gỗ, thân mình nghiêng một cái, kinh sợ kêu một tiếng ngã quỵ sang bên cạnh.

Bên cạnh có vài vị đều là quan văn, văn nhân, tốc độ phản ứng có hạn, Tiền Ninh mặc dù tới kịp ôm lấy nàng, nhưng nữ nhân này quyến rũ tận xương, thấy thế nào như thế nào cũng giống như nội quyến của Dương Lăng, nên gã mới không muốn gây ra điều tiếng, nên Tiền đại nhân chỉ rất vô tội nhìn mỹ nhân hướng mặt ngã xuống đất.

Dương Lăng mỗi ngày đều theo Ngũ Hán Siêu luyện võ có danh sư chỉ dạy, lại luyện võ nghệ thượng thừa, nên so với thường nhân thì tiến bộ nhanh hơn rất nhiều. Hiện tại đã có chút thành tựu, ít nhất có thể coi là tai thính mắt tinh, thân thủ linh hoạt.

Hắn thấy tình thế không ổn, vội vàng nghiêng người, giơ tay ngăn cản, giữ được eo nhỏ của Thành Khởi Vận.

Eo của Thành Khởi Vận như dương liễu, nhưng cực kỳ mềm mại đẫy đà, cảm xúc dễ chịu, hơn nữa Thành Khởi Vận vì giật mình nên khuôn mặt đỏ bừng xinh đẹp, hơi thở gấp gáp động lòng người.

Dương Lăng nhớ tới lần đầu tiên nhìn thấy Thành Khởi Vận nhảy múa, chuông bạc buộc ở bờ eo thon, cơ thể dẻo dai, da thịt mềm mại, đúng là cảnh thượng kinh diễm, không khỏi rung động trong lòng, không tự chủ bàn tay đã nắm chặt lấy eo nàng, tham lam với cảm giác mất hồn này.

Động tác tuy rằng không rõ ràng, nhưng chỗ hắn nắm lấy eo Thành Khởi Vận nóng như bàn ủi, dường như cảm thấy bị hắn kinh bạc, cặp mắt ngập nước liếc nhìn hắn một cái, trong ánh mắt lại không hề có giận ý, giống như mang theo một tia cười mơ hồ, khiến Dương Lăng không khỏi nóng mặt.

- Ách.. vị cô nương này không sao chư? Đai nhân còn muốn đi xem thuyền không ạ? Lạc đại nhân bị kinh ngạc, mãi sau mới ngại ngùng lên tiếng.

Dương Lăng quay đầu lại nói: - Không cần, sau khi tới Thạch thành, bản quan lại tìm hiểu kỹ hơn. Nói xong cúi đầu, hạ giọng hỏi: - Chân của nàng bị thương sao? Ta đỡ nàng vào Thạch thành nghỉ ngơi một chút.

Thành Khởi Vận nghe giọng nói quan tâm của hắn, trong lòng bất giác ngòn ngọt, nàng cũng làm bộ, vốn cổ chân chỉ hơi đau một chút, chứ không có trở ngại gì, nhưng hiện tại thì không đứng lên nổi. Thân hình mềm mại không chút kiêng kỵ dựa sát vào người Dương Lăng, để mặc hắn lôi kéo, chậm rãi đi về phía Thạch thành.

Hai người đi vô cùng chậm, phía sau còn có một đoàn nhân sĩ theo chân, nhưng không ai dám vượt trước hai người. Một đoàn người áo bào đen, nhắm mắt theo đuôi hai người, nhìn đội ngũ từ từ tiến lên, trông lão thía gia dẫn theo đoàn người tới thăm viếng tổ tông vậy.s

Thành Khởi Vận dựa ở trong lòng Dương Lăng, không chút ngại ngùng ngẩng đầu, sóng mắt lưu chuyển chỉ nhìn chằm chằm Dương Lăng, trong lòng xuất hiện loại cảm giác lạ lùng. Chỉ thấy trong lòng tê dại, có chút ngọt, có chút chua, giống như chua tận răng nên thứ mềm nhũn cũng không dám cắn, sợ đụng một cái sẽ hóa thành một vũng nước.

"Trang bãi thấp giọng hỏi hôn phu, họa mị sâu cạn có hợp thời không", nếu hiện tại ta với chàng là ở trong giường thêu khuê phòng

Tim Thành Khởi Vận "thình thịch" nhảy loạn lên, nhất thời suy nghĩ lan man: Ta có thể may mắn, có được ân sủng như vậy sao? Nếu một ngày kia có thể cùng chàng âu yếu, được chàng ôm vào trong ngực, đồng sàng cộng chẩm, sáng sớm được cùng chàng vẽ mi khiêu tình. Được chàng ôm vào trong ngực thân mật thương yêu, trời ơi

Nghĩ tới đó, trái tim mềm mại non nớt như được tráng một lớp dầu, một cỗ nhiệt nóng như rong lòng chảy ra tứ chi. Khiến cho hai chân nàng không khỏi run rẩy, vốn là cố ý làm bộ, còn hiện tại là thực sự không đứng yên nổi.

Dương Lăng nào biết được cao nhân phong nguyệt, tình trường thánh thủ một khi động chân tình,còn mẫn cảm hơn so với nữ nhi bình thường nhiều. Hắn còn tưởng rằng mắt cá chân Thành Khởi Vận đau đớn, cho nên lại càng thêm cẩn thận nhẹ nhàng.

Hai người thực vất vả mới di chuyển được tới Thạch thành bên cạnh bến tàu, lúc này quan viên đi phía sau mới thở phào nhẹ nhõm, ngay cả Tiền Ninh cũng vụng trộm lau mồ hôi trán.

Dương Lăng hỏi han chút tình hình vết thương ở chân của Thành Khởi Vận, trong lòng Thành Khởi Vận ngọt ngào, đâu cảm thấy đau xót gì, Dương Lăng lúc này mới yên tâm ngồi xuống một bên. Tiếp đón quan viên, thân sĩ an vị, sau đó nhìn Lạc đại nhân vuốt cằm cười nói: - Lạc đại nhân, mời tiếp tục.

Lạc Ân ho nhẹ một tiếng, nói: - Vì giảm giá thành chế tạo, lầu trên thuyền, buồm, pháo và các chi tiết khác mỗi một xưởng đóng tàu nhỏ đều phải tự phụ trách một phần, nơi này chỉ phụ trách đóng thuyền chính, sau khi hoàn thành mới lại tiến hành lắp ráp bước cuối cùng.

Trong các con thuyền được tạo ra, phúc thuyền cao lớn như thành trì, hoành trangs, dễ dàng rẽ sóng biển cao tới hai trượng. Thuyền nước Oa từ trước tới nay đều thấp bé như thuyền nhỏ của nước ta, thuyền dễ dàng bị gió ép xuống. Giống như châu chấu đá xe, nếu giặc Oa không tránh né mà thẳng mặt đối địch, không cần quân lính, chỉ dựa vào thân tàu va chạm, thuyền của bọn chúng sẽ vỡ thành nhiều mảnh nhỏ.

Lạc đại nhân nói tới đây, vẻ mặt có chút tự đắc.

Dương Lăng lắc đầu nói: - Như vậy chưa đủ, nhất định phải tạo được thuyền tốc độ, chiến hạm đi được viễn hải, nếu không như vậy cũng chỉ là lực bất tòng tâm. Trên thuyền chuyên chở vòi rồng, đại pháo, hỏa tiễn phải để đám thợ thủ công không ngừng nâng cao kỹ thuật, người thợ thủ công nào đề cao được hỏa khí, hiệu năng của chiến hạm, Tiền đại nhân phải thăng chức trọng thưởng.

Hỏa khí đánh xa, đánh nhanh, mới có thể thắng được, không thể chị dựa vào thuyền to ép người được. Theo bản quan biết, hiện tại ở Nam Hải đã xuất hiện cướp biển châu âu, toàn bộ đều ỷ vào hỏa khí lợi hại, thuyền của chúng ta có lớn hơn nữa, nhưng nếu hỏa khí không phát triển, thì vẫn bị đánh chìm, nếu thế thì còn có tác dụng gì chứ?

Lạc đại nhân vội vàng hạ thấp giọng nói: - Dạ dạ dạ, hạ quan nhất định sẽ chú ý.

Bàn tới nhận thức về thuyền chiên, ưu khuyết điểm của hỏa khí, thì không phải là sở trường của Thành Khởi Vận rồi. Nàng ngồi ở một bên không lên tiếng, nhìn Dương Lăng chậm rãi nói, rất có phong thái đại tướng, trong lòng tự hào vui vẻ như chính bản thân mình vậy.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 249: Thiết giáp chiến hạm

Nàng không thể kìm lòng nhìn về phía Dương Lăng nhoẻn miệng cười, cười không phát ra tiếng, lông mày cong cong, khóe mắt như vầng trăng, bờ môi xinh đẹp nhếch lên, dung nhan trong phút chốc trở nên rực rỡ sống động, quả thực xinh đẹp dịu dàng tới tận xương tủy.

Lạc đại nhân cũng nhìn thấy mỹ nhân cười, đúng là nụ cười mỹ chân, làm điên đảo chúng sinh, Lạc đại nhân không phải là đối tượng Thành Khởi Vận quyến rũ, nhưng lại bị nụ cười của nàng khiến cho líu lưỡi, mãi sau mới giật mình tỉnh lại.

Ông ta vội dời ánh mắt, tiếp tục nói: - Ngoại trừ thuyền đại bảo, tiếp theo chính là mã khoái thuyền. Mã khoái thuyền có tám cột buồm, chiều dại ba mươi bảy trượng, chủ yếu dùng để vận chuyển chiến mã, quân nhu và binh lính, đồng thời cũng có trang bị pháo, hỏa súng, có thể dùng cho thủy chiến.

Hơn nữa là chiến thuyền, chủ yếu là dùng trên mặt nước, giáp mặt quyết chiến, nên trang bị vũ khí đều là hỏa khí, hơn nữa tốc độ nhanh nhất. Một con thuyền vừa dùng để chiến đấu, vừa dùng để đổ bộ. Cuối cùng chính là thuyền chở lương và thủy thuyền. Hai loại thuyèn này còn có thể tự chăn nuôi gia súc, gieo trồng củ quả, còn có ngư cụ, có thể đánh bắt cá tôm, là tàu viễn dương chinh chiến, khi cần thiết còn có thể làm tàu tiếp tế.

Mấy thứ này, thực sự Dương Lăng cũng chưa nghe qua bao giờ, hắn nhắm mắt lại, hít sâu một hơi, sau đó chậm rãi mở mắt ra. Sau đó hồi tưởng lại nói: - Thủy sư viễn dương cường đại như vậy, bất cứ kẻ nào có ý đồ phật ý thiên uy của ta, đại quân sẽ không chút lưu tình phát động một hồi hủy diệt.

Với hạm đội khổng lồ như vậy, lại thêm tiếp viện phiên quốc Nam Dương, quân đội thiên triều liên tục thua dưới tay phương Tây cũng là dễ như trở bàn tay, nếu lại lấy chiến dưỡng chiến, chiếm lĩnh được đường tiếp tế kia, thì Đại Minh sẽ giống như nước Nguyên ngày xưa, khiến toàn bộ thế giới đều phải run rẩy dưới chân của nó. Chỗ bất đồng chính là, bọn họ dùng đường bộ, còn chúng ta đi đường thủy. Ôi, ai ngờ tới được, chúng ta cũng có thể, nếu không có ngày hôm nay, tương lai làm sao có thể làm sao có thể

Dương Lăng chậm rãi nói, bên tai như vang lên tiếng quốc ca khiến người ta đau lòng kia:

Ai khiến uy phong ngươi mất sạch, ai khiến hỏa quang kia nổi lên bốn phía? Hận ý lên tận trời, ai mà không cảm thấy đâu buồn? Từng giọt máu bao nhiêu mồ hôi, mới đoạt được giang sơn. Dùng lòng ta xây dựng, truyền kỳ muôn đời vạn kỷ. Không ngờ mảnh đất này, nhục gia bang cũng nhục liễu môn Mong rằng lửa này có thể chấn động, có thể làm con cháu ta nhớ lại, thì sẽ tỉnh ngộ. Tại sao phải chịu đựng sự xâm lược, dùng lửa này để nhớ, nhắc lại thù cũ vì sao thiên triều bị áp bức

Dương Lăng chậm rãi thở dài, trong lòng dường như bất bình chua xót. Sẽ không có một màn như vậy phát sinh chứ? Chỉ mong tương lai mọi người lại mở ra trang sách lịch sử, chỉ thấy được bắt đầu là Tần Hán Vũ, thịnh thế huy hoàng Đại Đường. Sẽ nhớ, từ ngày hôm nay, dưới tất cả đều thay đổi.

Một đám quan viên đều không biết Dương Lăng đang nói tớ điều gì, vì sao trên mặt lại lộ ra đau đớn, đều ngơ ngác nhìn nhau, nhất thời không biết phải nói gì.

Lạc đại nhân nuốt một ngụm nước bọt, mới cẩn thận nói: - Đại nhân ngài ngài thay vua đi tuần, quang lâm tới xưởng đóng tàu Long Giang, là đại hạnh của bản địa. Phúc thuyền sắp hoàn thành, đây là chúng ta vì căn cứ Trịnh Hòa chế tạo ra hạm thuyền lớn, địa nhân có thể ban thưởng một cái tên cho bảo thuyền không?

- Ừ? Dương Lăng hồi hồn, nghiêm túc đánh giá Lạc đại nhân một phen: - Muốn lãnh đạo đặt tên? Nhìn không ra, cũng biết vỗ mông ngựa đấy, có tiền đồ, rất có tiền đồ.

Dương Lăng thực sự muốn đặt tên cho phúc thuyền, nhưng hắn bóp cằm cả nửa ngày, mơ hồ chỉ nhớ được mấy loại thuyền như Titanic mà lại chìm rồi. Coors cũng chìm rồi.

Hắn suy nghĩ mãi, cuối cùng tự mình soạn bậy, vỗ mạnh vào trán nói:

- Gọi là Phật đỗ xanh thuyền đi.

Lạc đại nhân kinh ngạc nói: - Phật đỗ xanh thuyền?

Dương Lăng cười nói: - Đúng thế, câu cửa miệng của tể tướng là bụng có thể chống thuyền, còn nói bụng của phật lớn như vậy có thể chứa cả thiên hạ. Phúc thuyền lại như ánh mặt trời, thủy sư viễn dương Đại Minh uy chấn tứ hải, thuyền này lấy bụng phật chống thuyền, tức là muốn thiên triều cống nạp, có thể hấp thụ từ các nước khác, chứ không mù quáng tự đại nhắm mắt làm liều.

Đồng thời thủy sư Thiên triều nếu kinh bạc sẽ bị trừng phạt, người lương thiện không được ỷ thế hiếp đáp người khác, phải có lòng từ bị. Về phần chữ phật này, ha hả, đi thuyền trên biển cần may mắn, chúng ta đi ở trong bụng phật, còn chưa đủ an toàn hay sao?

Lạc đại nhân gật gật đầu khen: - Diệu, quả thực là diệu. Cái tên này đúng là có ý nghĩa phi phàm.

Chúng quan viên thân sĩ thấy vậy đều cùng nhau khen hay, chỉ có Tiền Ninh và Dương Lăng quen biết đã lâu, mặc dù nữ nhân của Dương Lăng gã không dám đụng vào, nhưng nói giỡn vài câu cũng chẳng ảnh hưởng gì tới đại cục cả, mà ngược lại còn làm nổi bật quan hệ thân thiết giữa gã và khâm sai đại nhân. Nên cuối cùng suy tính một hồi, gã lập tức cười nói: - Phật đỗ xanh thuyền, tên này quả là tình hay ý đẹp. Con mẹ nó chứ, hạ quan vừa nghe xong, liền nhớ tới thịt sườn rồi. Ngô lão tiên sinh và Từ công tử mời tới tứ đại đầu bếp nổi danh nhất Kim Lăng, ở bờ sông đặt đại tiệc, chúng ta đi Phật đỗ xanh thuyền tới đó thưởng thức thịt rượu một phen, thế nào?

Mọi người bị gã trêu đùa đều cười ha hả, Ngô Tế Uyên và Từ Kinh chắp tay cười nói: - Hai người chúng ta vì cung nghênh khâm sai đại nhân, nên ở bờ sông bày tiệc mỏng, mời chư vị đại nhân tới thưởng thức. Hân hạnh đón tiếp, mời các vị

Hai nhà Từ Ngô quả nhiên không hô là phú hào Giang Nam, bọn họ chuyên môn làm chạm trổ rường cột trên thuyền, cực kỳ tinh mỹ. Còn mời tới ca kỹ vũ kỹ nổi danh Kim Lăng tới trợ hứng, mà ngay cả nhạc công đánh tỳ bà bên cạnh không chút nổi bật nào, cũng là đại gia nhạc lý nổi danh Giang Nam.

Bữa tiệc không hề nhỏ, đủ các loại món ăn trân quý mỹ vị, lại được làm dưới tay đầu bếp nổi danh, tư vị hình thức, đều khiến người ta muốn nuốt lưỡi vào bụng.

Quan viên dự tiệc đa phần đều chưa từng nếm qua kỳ trân mỹ vị như vậy, lúc này nhìn thấy không khỏi thầm kinh ngạc, hai vị hào phú thực sự quá rộng rãi.

Trong những người này chỉ có Dương Lăng là không biết, căn bản không biết rằng mỗi một món ăn ở đây đều phải khó khăn thế nào mới có được, cách thức chế biến phải phực tạp thế nào. Kẻ vô tri liền không thấy ngạc nhiên, còn quan viên kiến thức rộng rãi sống ở Giang Nam, mỗi khi ăn một món ăn đều trầm trồ thán phục một phen, duy chỉ có Dương Lăng là bộ dạng thấy thái sơn mà không biến thần sắc.

Bốn loại đặc sản miền núi, năm loại hải sản, lại thêm ba loại rượu ngon, trải qua chưng hấp của mười hai vị thuốc đông y, hơn bốn mươi bước mới chế ra được một món súp đơn giản nhất. Người khác đều hớp nhỏ nhấm nháp, chỉ có Dương Lăng uống cả một ngụm, còn ngại chưa đủ giải khát, chúng quan thấy vậy càng kính sợ không ngừng: Qủa nhiên là quan ở kinh thành, khí phách thật đó, chậc chậc

Dương Lăng uống vài chén rượu, cảm hứng dần tăng lên, hắn cùng vài quan viên nói chuyện trên trời dưới đất, ở giữa lại có Thành Khởi Vận nói mấy lời dí dỏm. Cảm xúc dần buông lỏng, mọi người dần buông ra, tiếng cười nói hoan hô vang khắp thuyền.

Dương Lăng đang cùng Tiền Ninh nói chuyện phiếm thì chợt nghe có người xì xào bàn tán, giọng nói to nhất vang lên: - Pháo xa nhưng khó trúng, trong vòng trăm trượng dễ trúng mục tiêu, nhưng pháo địch cũng có thể dễ dàng phá vỡ boong thuyền của ta.

Dương Lăng theo tiếng nói nhìn lại, thấy trên yến hội có hai quan viên trẻ tuổi ngồi ở cuối cùng, đang thấp giọng tranh cãi. Hai người bộ dạng tranh giành, đã gây nên âm thanh khá lớn, Dương Lăng cười nói: - Nhị vị là quan viên địa phương phải không? Dường như đang tranh luận về pháo, có thể nói chút cho bản quan nghe không?

Hai người quan viên trẻ tuổi vội vàng đứng dậy nói: - Bẩm khâm sai đại nhân, ty chức quân khí cục Nam Kinh Lục Trạch Giai, quấy rầy khâm sai thưởng rượu, xin đại nhân chớ trách phạt.

Dương Lăng ở kinh sư vì nghiên cứu súng kíp nên có quen biết với quân khí cục. Biết đại sứ là tiểu quan cửu phẩm, lẽ ra bọn họ không đủ tư cách lên thuyền ăn uống, nhưng do Tiền Ninh nghĩ có lẽ hắn còn có phương diện nào không rõ, có thể muốn hỏi, cho nên đưa hai gã quan khí cụ địa phương tới để đề phòng vạn nhất, nên hai gã này mới u mê đi theo lên thuyền.

Dương Lăng cười dài nói: - Không có sao cả, tiệc rượu cũng chỉ là tiệc đâu có câu nệ chức quan lớn nhỏ? Nhị vị mời ngồi đi, có lời gì hai vị cứ nói, bản quan cũng muốn nghe.

Hai người còn muốn khách sáo, Tiền Ninh liền không kiên nhẫn nói:

- Đại nhân bảo các ngươi ngồi, thì các ngươi cứ ngồi đi. Không nên lắm quy củ như vậy.

Hai người hoảng sợ, vội vàng tạ tội ngồi xuống, Lục Trạch Giai hạ thấp người nói: - Đại nhân, ty chức chuyên nghiên cứu pháp, ty chức nghĩ công là cách phòng thủ hữu hiệu nhát, lấy công để thủ có thể chiếm được lợi thế lớn. Hải chiến nếu có một phương không kiềm chế được trọng pháo, để mình ở ngoài tầm bắn của đối phương, liền có thể tiêu diệt đối phương. Kinh sư quân khí cục sau khi truyền tới kiểu hỏa dược, hỏa dược uy lực đại tăng, nhưng ty chức nghĩ tới nếu triều đình đồng ý trích nhân lực, vật lực, dốc lòng nghiên cứu, thì pháo của triều đình có thể đại tăng uy lực.

Dương Lăng không kìm được vui mừng, đánh giá trên dưới một phen:

Lục đại nhân là chuyên gia hỏa khí?

Lục Trạch Giai không hiểu hai chữ chuyên gia, nhưng đánh giá ý tứ Dương Lăng, liền cười nói: - Đại nhân quá khen, ty chức chính là người nghiên cứu pháo.

Chủ quẩn quân khí cục đứng lên nói: - Đại nhân, Lục Trạch Giai tuy còn trẻ tuổi, nhưng thực ra chính là chuyên gia chế taooj hỏa khí trong quân khí cục, có lòng học hỏi, khiến cho nhiều vị sư phó đều cảm thấy mặc cảm.

Dương Lăng gật đầu rồi nhìn vị kia cười nói: - Vậy à? Vậy Trình đại nhân cùng Lục đại nhân đang tranh chấp chuyện gì vậy?

Trình Bỉnh Hi cảm khái nói: - Đại nhân, ty chức nghĩ tới, trong hải chiến sóng mãnh liệt, thân tàu bị lay động, ngay cả việc nghiên cứu chế tạo ra pháo lớn đánh xa, nhưng vẫn khó trúng mục tiêu, cuối cùng vẫn phải tiếp cận trong vòng trăm trượng mới có thể quyết chiến. Mà ở khoảng cách này, thì ưu thế của pháo xa bên ta liền không rõ ràng, độ dày khoang thuyền là hai thước, trọng pháo của ta và hỏa pháo của thuyền địch lúc đó hiệu quả cũng giống nhau mà thôi.

Cho nên đầu tiên là ty chức nghĩ tới cách nghiên cứu để tăng độ chắc chắn cho thân tàu, vật liệu gỗ bất đồng sẽ tạo ra hiệu quả bất đồng. Ty chức còn phát hiện, tấm ván gỗ có góc nghiêng không giống nhau, thì chỉ số tổn hại cũng không giống nhau, tổn hại do pháo kích gây ra cũng khác nhau hoàn toàn, cho nên có lẽ đối phương cũng dựa vòa phương diện này, nghiên cứu như thế nào để gia cố thủy sư và chiến thuyền làm nhiệm vụ hàng đầu.

Dương Lăng lúc này mới kịp tỉnh táo lại, hình học lúc hắn còn trên ghế nhà trường, hiện tại còn chưa phát triển, ngay cả nghiên cứu chế tạo ra pháo xa cũng là pháo đánh muỗi, không có đất dụng võ, tuy nhiên nếu dùng đến chiến lực oanh kích mục tiêu cố định, vẫn có tác dụng đấy.

Còn nữa, xu thế này phát triển sớm hay muộn, trước khi nghiên cứu ra pháo xa, chỉ cần chờ có công cụ phụ trợ là lập tức có thể phát huy hiệu lực, nhưng nếu chờ nghĩ ra công cụ mới đi nghiên cứu đại pháo, như vậy thì cũng quá muộn rồi.

Tuy nhiên... Bất kể khi nào thì, gia cố tự thân chiến xa, chiến thuyền, đều là quân đội nghiên cứu khai thác, phát triển mục tiêu, khó được hai tiểu quan quân khí cục như thế này, tuy rằng ý kiến không giống nhau, nhưng dưới lĩnh vực nghiên cứu đều lộ ra kiến thức. Chỉ có điều ván gỗ đống thuyền, có thể kiên cố tới mức nào.

Hắn đùa nói: - Nếu như vậy, sao không phủ thêm áo giáp cho chiến hạm?

Hắn nối đến đây tiếng nhẹ một chút, trong đầu lóe lên một ý tưởng, đột nhiên nghĩ tới quân hạm sắt thép thời hiện đại, bởi vì khi đó kim loại dựa vào khoa học kỹ thuật không bị hạn chế bởi sức gió, nhưng nếu trên tấm ván gỗ trong vách thuyền trang bị thêm một tầng kim loại, có những khó khăn gì? Như vậy có phải là gia cố thân tày hay không?

Hắn vội vàng hỏi: - Nếu vậy, Trình đại hân nghĩ xem, nếu chúng ta ở bên ngoài thuyền, gắn thêm một tầng tấm thép, khiến cho ván gỗ biến thành thiết giáp, thì sẽ thế nào?

Trình Bỉnh Hi hai mắt lóe sáng, ca ngợi:

- Hay, phương pháp này không khó, chỉ cần nghiên cứu thêm một chút là được, chỉ có điều trang bị thêm thiết bản, chi phí lại quá lớn...

Dương Lăng cười nói: - Trang bị thêm thiết bản tuy chi phí có chút cao, nhưng so với việc điều chỉnh thuyền, cũng tiết kiệm bạc hơn nhiều,nếu thuyền bị đánh chìm, không còn thuyền, vậy số quan binh thủy sư chúng ta dày công huấn luyện cũng không còn tác dụng, tổn thất này phải lớn thế nào?

Hắn lại nói: - Tuy nhiên thuyền đều là lấy sức gió để di chuyển, nếu trang bị thêm thiết bản tất sẽ nặng hơn. Hiện tại chúng ta nên nghiên cứu một chút, chiến hạm chúng ta phân làm sáu loại, có thể nghiên cứu chế tạo ra thuyền thuyết giáp, coi như loại thứ bảy, chuyên môn dùng để phòng ngự gần biển.

Dương Lăng lại nói với Tiền Ninh: - Tiền huynh, hai vị đều là đại sứ quân khí cục, lại điều động thợ thủ công ở trong quân khí cục, sau đó điều động ngân sách.

Ha ha, Lục đại nhân ngài chuyên môn chế tạo thế nào để công, còn Trình đại nhân lại chuyên môn chế tạo thế nào để thủ. Không biết là công của Lục gia lợi hại, hay giáp của Trình gia lợi hại đây.

Trình Lục hai người trẻ tuổi, trên mặt tràn đây phấn kích, mặt đỏ ửng, bọn họ thoáng nhìn nhau, trong mắt đều toát lên vui sướng, cũng không có ý tứ cạnh tranh, Dương Lăng nhìn thấy vậy, trong lòng thầm vui mừng.

Đời sau nghiên cứu thủy quân, có người từng xừng thời Tống Tần chiến thuyền tường sắt miệng hoa, là chiến thuyền bọc thép sớm nnhatsa thế giới, nhưng loại chiến thuyền này chỉ có sắt thép vây ở hai bên mép thuyền. Cho nên cách nói thông thường, cho rằng Triều Tiên Thuấn Thần phát minh ra thuyền mai rùa, mới là thủy tổ của thuyền thiết giáp.

Nhưng mà hiện tại, bên bờ Trường Giang, trong một bữa tiệc rượu, giữa lúc chè chén, một câu nói đùa của khâm sai đại nhân lại làm cho thuyền thiết giáp xuất hiện sớm hơn Thuấn Thần mấy chục năm.

Có đôi khi, lịch sử thay đổi cũng chỉ bởi một câu nói tùy tiện của một vị đại nhân nào đó.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro