Từ 191 Đến 200
Chương 191: Thư Nhà
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Mở tiếp phong thư thứ hai, y cẩn thận giở tờ giấy ra, một hàng chữ liền đập ngay vào mắt: "Phu quân đại nhân ở trên cao, Liên Nhi xin vái người trăm lạy."
Dương Lăng vừa xem thấy thì bật cười to, cô bé đã chính thức gả thân cho mình này thật đúng là đã thay đổi rồi. Liên Nhi như thớt ngựa hoang cao ngạo bất thuần nay cũng ngoan ngoãn nhũn nhặn hơn rồi đây, cũng đã hiểu lễ nghi, biết kính trọng mình ba phần rồi.
Nhưng khi xem xuống tiếp, nụ cười của Dương Lăng liền đông cứng lại: "Dương Lăng, huynh thực là lợi hại! Thực oai phong! Thực giỏi quá! Huynh sắp chóng có một tiểu Liên Nhi hoặc tiểu Dương Lăng hoành không xuất thế gọi huynh là cha rồi. Huynh có vui không hả đại nhân của muội? Liên Nhi thực muốn đợi thêm hai năm nữa mới đi gặp phu quân của mình, nhưng mà ý trời như vậy, chồng sẽ trả lời thế nào đây?
Đại nhân hãy nghĩ ra diệu kế mà đón lấy thiếp thân, hoặc là lệnh cho thiếp thân uống thuốc giết chết hậu nhân của họ Dương đi, Liên Nhi sẽ nghe theo an bài của phu quân hết. Đúng rồi, Quan Quan công tử mê Liên Nhi. Mê lắm lắm đó, thực là ghét quá.
Tái bút: Hình như có người nào đó mắc bịnh kín trên người mới mang theo người đẹp thần y xuống Giang Nam thì phải. Vụ án này cho gác lại chờ xử sau."
Trong đám thân quân thị vệ của Dương Lăng cũng chỉ có vài người biết được thân thế thực sự của Chính Đức, cho nên đa số thân quân trông thấy đại nhân nhìn chăm chăm một vị tiểu hiệu thì đều rất kinh ngạc.
Nhìn vị tiểu hiệu úy tuấn tú trẻ măng đó, rồi lại trộm nhìn ánh mắt chằm chằm của đại nhân, Lưu Đại Bổng Chùy, vừa mới trở thành thân quân thị vệ của Dương Lăng, liền bừng tỉnh ngộ.
Vào thời Minh, "nam phong(*)" rất được ưa chuộng, được xem là tục phong lưu thời thượng, không ai bài xích hoặc khinh thường. Song song với việc bầu bạn cùng mỹ nữ, phần lớn vua chúa công khanh và danh sĩ tài tử đều có nam sủng tuấn tú và dịu dàng kề cận, bình thường thì mang theo làm thư đồng, đến tối thì trở thành bạn nô giỡn trên giường. (*: đồng tính nam)
Thời đó, quan hệ tình dục giữa hai người đồng giới được gọi là "ngoại giao(*)", giữa đàn ông và đàn bà thì gọi là "nội giao". "Ngoại giao" chẳng những được đạo đức, pháp luật, phong tục và tập quán đương thời thừa nhận mà những ái nhi (luyến đồng) được sủng ái còn được hưởng quyền lợi như là thị thiếp: bình thường thì được trợ cấp tiền bạc, đến khi hơi lớn tuổi cần phải rời chủ nhân đi cưới vợ thì sẽ còn được chủ nhân tặng thêm cho một món tiền. (*: "giao" ở đây là giao phối)
Sớm đã nghe nói đến phong tục của thượng tầng xã hội này, Lưu Đại Bổng Chùy trông thấy Dương đại soái và viên tiểu hiệu úy da dẻ mịn màng như đại cô nương nọ mờ mờ ám ám, hơn nữa, lúc này tướng đi của Chính Đức lại hơi ngượng nghịu khiến hắn càng nhìn càng sởn gai ốc. Xem ra gã tiểu hiệu úy tuấn tú này ắt hẳn là nam sủng của đại soái rồi!
Xoa xoa bộ râu quai nón của mình, Lưu Đại Bổng Chùy không khỏi thầm cảm thấy may mắn. May mà được mẹ già đẻ ra mình mặt xấu tướng thô, bằng không một đại nam nhân như mình mà bị đại soái nhìn trúng thì sẽ chướng biết dường nào?
Dương Lăng không hề hay biết vị thuộc hạ khù khờ ngốc nghếch mới tuyển của y lại còn có sức liên tưởng phong phú đến như vậy. Y cũng mặc đám thị vệ không rõ nội tình đang suy nghĩ những gì, đợi Chính Đức đi đến bên cạnh liền lập tức nắm lấy tay hắn kéo vào trong thành lầu. Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau rồi cũng vội vã bước theo vào.
Đám Tham tướng, Phó tướng, Tì tướng bởi chức quan còn thấp nên chưa từng tận mắt nhìn thấy thiên nhan, mà cho dù mở rộng đầu óc ra gấp đôi thì bọn họ cũng không thể tưởng tượng được chàng trai trẻ mặt mày trắng trẻo này lại chính là thiên tử Đại Minh, là đương kim hoàng đế. Mặc dù bọn họ ai nấy đều nghi vấn đầy bụng, nhưng vốn từ một tiểu tốt lăn lộn đến chức vị ngày hôm nay nên cả bọn vẫn còn có đủ định lực, tất cả bèn giả tảng như chẳng có gì lạ thường, cùng thản nhiên bước theo vào.
Nhìn từ ngoài vọng lâu trông rất đơn giản, bên trong cũng chia ra làm ba gian là ngoài, giữa, và trong. Gian ngoài là nơi tiếp khách và chỉ huy chiến đấu hằng ngày. Gian giữa tương đối trống trải, ngoại trừ một tấm bản đồ lớn treo trên tường và một tấm sa bàn lớn đặt chính giữa phòng thì không còn thứ gì khác. Đây là nơi mà Tổng chế Tam quan Dương Nhất Thanh cùng các tướng bàn bạc quân vụ và hoạch định sách lược. Gian trong là thư phòng và phòng ngủ của Dương Tổng chế. Dương Lăng kéo hoàng đế Chính Đức bước băng băng vào thẳng gian trong, Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh cũng quýnh quáng chạy theo vào.
Các tướng vừa mới bước theo vào thành lầu thì Dương Nhất Thanh lại vụt ló đầu từ sảnh giữa, quát:
- Các tướng lĩnh đợi ở đây! Bản tướng có việc quan trọng phải thương nghị với hai vị khâm sai.
Nói đoạn hắn kéo tấm rèm nỉ dày cộp che lại, rồi đóng sập thêm cửa trong.
Mặc kệ chúng tướng bên ngoài trố mắt kinh ngạc, đằng sau cánh cửa Dương Nhất Thanh lật đật chạy thẳng vào gian trong, quỳ xuống trước mặt Chính Đức, nén giọng thưa:
- Thần Dương Nhất Thanh khấu kiến Hoàng thượng!
Chính Đức liếc sang Dương Lăng, thấy y mặt chảy xệ, không nói tiếng nào thì không khỏi bật cười hì hì. Hắn tuy nông nổi, song không phải là hôn quân không biết phải trái, đương nhiên hiểu rõ sự quan tâm và lo lắng của Dương Lăng đối với hắn, cho nên sắc mặt hắn không hề có vẻ bất cần.
Hắn ngồi lên chiếc ghế dựa mà Dương Nhất Thanh thường ngồi, cười bảo:
- Đứng dậy đi! Ở đây không cần phải đa lễ.
Dương Nhất Thanh vừa vội vã đứng dậy liền mở miệng hỏi ngay:
- Hoàng thượng! Sao ngài... sao ngài lại đến đây?
Mặt Trương Vĩnh cũng trắng bệch, giọng run rẩy:
- Phải đó Hoàng thượng! Ngài thực dọa chết nô tài rồi! Khi nãy bên ngoài còn có thiên quân vạn mã, may mà giặc Thát không mạnh bằng quân Nguyên năm đó, trong tay không có trọng pháo để dùng, nếu không ngộ nhỡ... ngộ nhỡ..., - lão nói đến đây thì không khỏi rùng cả mình.
Chính Đức cười nói:
- Lại nữa rồi! Trẫm biết, thân trẫm gắn liền với thiên hạ nên phải vì thiên hạ mà yêu tiếc lấy thân, thế nhưng già quá sẽ hóa non, mọi việc không thể lo quá nhiều. Đại Hãn của giặc Thát có thể đích thân lên ngựa chinh chiến sa trường, chẳng lẽ ngay cả dũng khí lên lầu trên tường thành xem giặc liệu trận mà trẫm cũng không có? Khanh muốn trẫm làm Hoàng đế thế nào?
Lời hắn tuy nói đùa, nhưng ý oán trách trong lời rất nặng, Trương Vĩnh nghe xong lập tức nín bặt, không dám nói thêm điều gì. Dương Lăng thấy vậy lại định dâng lời, Chính Đức trông thấy biết ý bèn nhảy tót dậy, sải bước đến sảnh giữa ngắm nghía tấm sa bàn lớn có sông ngòi đồi núi, sa mạc thảo nguyên.
Dương Lăng không biết phải làm thế nào, đành đi theo sang bên ấy. Dương Nhất Thanh vội vã bước theo y, thấp giọng hỏi dồn:
- Ôi trời ơi! Sao Hoàng thượng lại theo đến đây vậy? Hoàng thượng đến Đại Đồng làm gì? Dương đại nhân ơi, ngài hãy làm ơn mời Hoàng thượng mau trở về kinh sư đi. Mới vừa nhìn thấy Hoàng thượng mà tôi đã cóng hết cả chân tay, sợ đến muốn ngất rồi. Hoàng thượng mà ở đây, tôi thực sẽ không biết đánh trận như thế nào nữa đâu!
Dương Lăng cười khổ sở, nhất thời cũng không biết phải bắt đầu giải thích từ đâu. Chính Đức chắp tay đứng trước sa bàn, chăm chú quan sát một hồi, vui sướng khen:
- Tốt, địa hình, địa thế, địa mạo thật chi tiết! Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.
Nói đến quan ải thành trấn của Đại Minh thì ai nấy đều rõ như lòng bàn tay.
Thế nhưng đối với kẻ giặc lâu năm như là Thát Đát, chúng ta lại chỉ biết rằng bọn chúng chia làm sáu nhóm bộ lạc và địa hình đại khái của chúng, mà nói một cách cụ thể, cũng không ngoài một mảng sa mạc và thảo nguyên rộng lớn. Trong khi đó tấm sa bàn này lại thể hiện rõ cả sông ngòi, nếu giao phong cùng Thát Đát trên thảo nguyên, chỉ riêng tấm bản đồ này đã đáng giá mười vạn đại quân rồi. Dương khanh nghĩ sao?
Tính cách ham chơi và bốc đồng của Chính Đức che mắt rất nhiều người, đến nỗi rất nhiều bậc túc nho thầm đau xót vì thiên tử bất tài vô năng mà không ai thèm để ý đến trình độ về Phật học, âm nhạc và binh pháp của vị tiểu hoàng đế mới chỉ mười sáu tuổi này. Tuy rằng về mặt binh pháp hắn chỉ mới ở mức dụng binh trên giấy, nhưng không có nghĩa là hắn không có kiến thức tương ứng. Một tấm bản đồ tác chiến chi tiết, đặc biệt là tấm bản đồ đó lại ghi chú những khu vực, đồng núi, sông ngòi, thảo nguyên và ao đầm xa lạ một cách tỉ mỉ đến như vậy, tác dụng của nó nào chỉ mười vạn quân.
Không kịp trả lời Dương Nhất Thanh, Dương Lăng bèn vội gật đầu cười đáp:
- Lời của Hoàng thượng rất phải. Quan ải có kiên cố, Trường Thành có hùng vĩ và hiểm trở đến đâu, nếu chỉ biết thụ động chờ người Thát Đát lấn hiếp đến cửa, thì cũng có ngày sẽ bị công phá. Trường Thành được xây từ đời Tần, tuy rằng không phải không có tác dụng, nhưng dẫu cho triều này nối tiếp triều kia, chuyện man tộc xâm phạm trung thổ vẫn xảy ra liên miên. Chỉ khi nắm rõ nội tình của chúng, có một ngày lấy công thay thủ, tiêu diệt hoàn toàn con hổ dữ nằm ở đầu giường này thì mới là lẽ phải.
Chính Đức vỗ tay khen:
- Chính hợp ý trẫm! Dương tổng chế, tấm bản đồ này là do trinh sát của khanh vẽ à? Đáng được trọng thưởng!
Dương Nhất Thanh liếc sang Dương Lăng rồi đáp:
- Hồi bẩm Hoàng thượng, đó là... bản đồ do mật thám Nội xưởng dùng việc buôn bán đồ da, trà và ngựa làm vỏ bọc, đi khắp đại mạc vẽ ra, rồi giấu dưới yên ngựa mang về. Dương xưởng đốc trình bản đồ lên cho Bộ Binh, Lưu thượng thư sai biên quan chế tạo ra đấy ạ.
- Ồ? - Chính Đức có phần bất ngờ, hắn vui sướng nói với Dương Lăng: - Nhìn không ra! Thật là nhìn không ra! Trẫm còn tưởng Nội xưởng chỉ biết kiếm bạc cho trẫm thôi chứ. Ừm, làm rất tốt, so với mật thám Cẩm Y vệ thực mạnh hơn gấp trăm lần.
Dương Lăng mang máng nhớ đến chuyện này. Khi Ngô Kiệt trình giao tấm bản đồ cho y. lão cũng cao hứng một hồi, nhưng khi ấy công tác nghiên cứu chế tạo hỏa súng của Nội xưởng vừa được mốt số kết quả khả quan cho nên y đặt toàn bộ sự chú ý lên phương diện đó. Vả lại tạm thời Đại Minh cũng không thể đi đánh Thát Đát cho nên y bèn căn dặn Ngô Kiệt lưu giữ một bản, sao chép cho Bộ Binh một bản, không ngờ Lưu Đại Hạ đã đưa đến biên quan.
Y nhìn kỹ tấm bản đồ. Các quan ải dọc tuyến quân Minh đều được đánh dấu rõ ràng, nhưng ba phần tư hình ảnh trên tấm sa bàn là đại mạc thảo nguyên. Thiết nghĩ, hiện tại quân Minh là thủ, Thát Đát là công, hành tung của đại quân chẳng qua chỉ trong vòng trăm dặm, đặt một tấm bản đồ sa bàn của Thát Đát trong căn phòng Dương Nhất Thanh nghiên cứu chiến sự hằng ngày để làm gì?
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bỗng máy động trong lòng, trong đầu thoáng hiện lên một ý nghĩ. Lúc này Dương Nhất Thanh đã trả lời xong câu hỏi của Chính Đức, hắn tiếp tục khổ sở khuyên nhủ:
- Hoàng thượng! Mọi việc lớn trong thiên hạ đều cần có ngài quyết định! Một khi tin tức không có ngài tọa trấn kinh sư lan truyền ra ngoài, lòng dân ắt sẽ không yên. Thần nghĩ Hoàng thượng nên sớm hồi kinh mới phải ạ!
Chính Đức xua tay đáp:
- Không vội không vội! Trẫm đến đây cũng vì có đại sự phải làm. Việc ấy mà thành sẽ đáng giá như được năm mươi vạn quân vậy. Ha ha! Chốc nữa hãy bảo Dương khanh nói rõ cho khanh nghe. À đúng rồi, vừa nãy khanh bảo Miêu Quỳ đã đi làm việc gì?
Vừa nhắc đến việc này, sắc mặt Dương Nhất Thanh liền trở lên ngưng trọng, hắn bước lên thưa:
- Hoàng thượng! Bởi cần thực hiện gấp trước khi Bá Nhan Mãnh Khả lui binh, thời gian khẩn cấp, tấu chương đưa lên kinh thành lại cần đại thần các bộ thảo luận và thông qua, đi hết một vòng sẽ mất phải hơn nửa tháng, vuột mất thời cơ. Do đó thần đã lệnh cho đại quân xuất chinh.
Hoàng thượng đã âm thầm đến Đại Đồng, vậy ắt chưa nhận được tấu chương của thần, thần đành bẩm tấu với Hoàng thượng một lần nữa vậy.
Rồi hắn liếm môi, chỉ vào sa bàn diễn giải:
- Năm nay Thát Đát gặp phải tuyết to, cộng thêm Bá Nhan Mãnh Khả mang lòng báo thù cho con, cho nên hắn đã tập hợp các bộ lạc xâm phạm Trung Nguyên. Bảy vạn thiết kỵ đã là toàn bộ số tinh binh trên thảo nguyên.
Khi xưa tác chiến, đánh bại quân giặc xâm phạm, đuổi nó ra khỏi quan ngoại đã là đại thắng, nhưng thần nghĩ rằng, ta ở biên quan giết một vạn quân giặc sẽ không khiến lòng quân lòng dân của chúng bị đả kích bằng xâm nhập vào ngay bản thổ, ở ngay trong nhà chúng mà giết một trăm. Khi xưa chúng ta không nắm rõ tình hình lẫn địa thế của chúng ra sao, mạo muội xuất binh chẳng khác nào kẻ lòa dắt ngựa mù, nhưng nay thì không như vậy nữa.
Dương Nhất Thanh nhìn Dương Lăng với ý khen ngợi, rồi nói tiếp:
- Nội xưởng của Dương đại nhân hoạt động ở quan ngoại rất hiệu quả, thông tin tình báo đưa đến ùn ùn, vi thần nắm chắc mọi việc trong lòng mới dám to gan vạch ra kế này.
- Hoàng thượng ngài xem!
Dương Nhất Thanh vừa nói vừa trỏ vào bản đồ thảo nguyên nhấp nhô trập trùng. Chính Đức, Dương Lăng và Trương Vĩnh cùng nhìn chăm chú vào chỗ hắn trỏ:
- Chỗ này là nhóm bộ lạc Tích Lâm Quách Lặc, nhóm Sát Cáp Nhĩ Bộ, chỗ này là nhóm bộ lạc Y Lặc Hô Lý, nhóm Nhĩ Nhã Phạm, nhóm Ngạch Nhĩ Hoàn Nạp và nhóm Triết Lý Mộc, chỗ cắm cây cờ xanh này là nhóm bộ lạc Chiêu Ô Đạt.
Dương Nhất Thanh đắc ý nói tiếp:
- Phái một đội quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng giặc vốn là điều đại kỵ trong binh pháp. Nhưng theo tình báo mà chúng ta nhận được, lần này Thát Đát dốc toàn bộ tinh binh ra chiến trường, hậu phương cực kỳ trống trải, người còn lại của mọi nhóm bộ lạc đều là người già phụ nữ và trẻ con, số binh sĩ ở lại trấn giữ có khả năng chiến đấu ít ỏi vô cùng.
Người Thát Đát lấy du mục làm lẻ sống, không có thành trì. Trước đây, cho dù chúng ta biết doanh trại bọn chúng trống rỗng cũng không cách nào tìm được vị trí của chúng trên đại mạc thảo nguyên rộng mênh mông, nhưng hiện tại đã có tình báo chính xác. Ta lại dựa vào bản đồ chi tiết, trước hết định rõ một con đường rút lui rồi thu xếp đại quân tiếp ứng khi cần. Cái kế hoạch một vốn bốn lời đầy rẫy nguy cơ này đáng để mạo hiểm.
Trương Vĩnh rùng mình, kích động hỏi:
- Dương tổng chế phái một cánh quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng quân địch để tác chiến?
Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:
- Đúng vậy! Đó là một đạo khinh kỵ gồm năm nghìn người, hoàn toàn là quân tiên phong lấy phá hoại làm mục đích mà không lấy chém giết làm nhiệm vụ. Đạo quân đơn độc này không nhận được chi viện và cung ứng từ quân nhà cho nên nhất định phải cướp đoạt lương thảo và cấp dưỡng từ các bộc lạc của người Thát Đát, dùng chiến tranh nuôi chiến tranh.
Người Thát Đát kiêu dũng thiện chiến, nhưng những bộ lạc sâu tận trong thảo nguyên ở hậu phương của bọn chúng lại không hề có sức chiến đấu. Mệnh lệnh của bản quan là giảm thiểu việc tàn sát những người già phụ nữ và trẻ con đến mức thấp nhất, sự sống sót của bọn họ chính là đồng minh của chúng ta và là gánh nặng của Bá Nhan Mãnh Khả. Nhưng phải cố hết sức phá hủy mọi thứ.
Mỗi khi đến tháng chín tháng mười, giặc Thát lại bắt đầu cắt cỏ phơi khô và tích trữ một lượng lớn cỏ khô chất cao như núi, đến đông sẽ lấy cỏ khô để nuôi bò nuôi dê, lấy dê bò nuôi người. Mệnh lệnh của bản quan là: ăn hết dê bò của chúng, đốt sạch cổ khô của chúng, giống như một đàn châu chấu quét ngang thảo nguyên của bọn chúng vậy.
Điều này nhằm đẩy các nhóm bộc lạc này vào tình thế phải đến nhóm bộ lạc khác cướp bóc; để bọn chúng có giàu có nghèo, có người sống có kẻ chết đói. Dân tộc du mục coi cướp bóc là chuyện thiên kinh địa nghĩa, tin rằng khi Bá Nhan Mãnh Khả trở về thảo nguyên, trừ phi hắn có thể cung cấp đủ lương thực cứu tế nạn dân các bộ lạc, bằng không nội bộ bọn chúng sẽ nổi lửa chiến tranh bốn bề. Cho dù là hắn cũng không thể đàn áp nổi!
Dương Lăng nghe xong bèn liếc nhìn vị nho tướng này. Khuôn mặt đen đúa và gầy còm của Dương Nhất Thanh chứa đầy sát khí, dưới ngọn đèn mỡ bò mặt lão trông có phần nanh ác. Dương Lăng không khỏi thầm khen: "Hay cho một gã bại hoại trong vẻ nho nhã, một gã lưu manh trong lốt tướng tài!"
Chính Đức thoáng ngẩn người một lúc rồi đột nhiên hít sâu vào một hơi, hỏi:
- Chiến sách này là do khanh quyết định?
Dương Nhất Thanh không biết tâm ý của Hoàng thượng thế nào. Dứt khoát chiến pháp này sẽ giúp giảm nhẹ áp lực cho quân Minh rất nhiều: cho dù quân Minh không chủ động công kích Thát Đát, nhưng chỉ cần bọn họ nghiêm cẩn chống giữ, không để quân Thát Đát chiếm lợi thế thì vẫn có thể ngồi nhìn Thát Đạt bị nội loạn, ít nhất cũng có thể đảm bảo cho dân chúng vùng biên ải sống yên ổn được ba năm. Nhưng suy cho cùng, chiến lược này khó tránh có phần quá vô lại, động đến hòa khí của đất trời; cho nên Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám nói rõ chiến sách này do ai nghĩ ra.
Lúc này hắn trộm liếc thấy sắc mặt của Hoàng thượng bình tĩnh, không giống như tức giận. Với cá tính dễ kích động của tiểu Hoàng đế, nếu thật có điều gì bất mãn thì e rằng đã sớm biểu hiện ra bên ngoài rồi. Suy luậnnhư vậy nên hắn mới có can đảm thưa:
- Hồi bẩm Hoàng thượng! Đây là biện pháp do phó tướng Vương Thủ Nhân của thần sau khi nhận được tình báo chi tiết của Nội Xưởng đã nghĩ ra.
Thần cùng các tướng lĩnh trong quân lại cùng nghiên cứu kỹ lưỡng, cố sức hoàn thiện rồi mới cho thi hành. Vì để được ổn thỏa nên đòi hỏi toàn bộ thời gian hành động của bọn họ chỉ có hai mươi ngày, nhắm đến khi thư cầu viện đến tay Bá Nhan, đại quân Mông Cổ rút về cứu viện thì bọn họ đã theo con đường đã dự định sẵn mà trở về an toàn rồi.
Dương Lăng cười hắc hắc khen:
- Hay cho một kế sách hiểm độc, phản khách vi chủ, qua cầu rút ván!
Y là bầy tôi được Chính Đức yêu mến nhất, thấy y mở miệng khen Dương Nhất Thanh càng thêm vững tin, vội cười nói:
- Kế này có hay chăng nữa cũng là nhờ có tin tình báo chuẩn xác và tỉ mỉ của đại nhân. Bằng không năm nghìn nhân mã này sẽ như lấy bánh bao đi đánh chó, lạc vào trong đồng tuyết mịt mù, e là chưa tìm được bộ lạc nào thì đã chết đói, chết cóng ở đó rồi.
Chính Đức ngơ ngẩn một hồi, rồi chợt khẽ thở dài, lắc đầu nhè nhẹ. Dương Nhất Thanh hơi rét trong bụng, lúng túng thưa:
- Thần cũng biết kế này ác độc, tổn hại đến lẽ thuận hòa của thiên triều thượng quốc...
Hắn chưa nói xong, Chính Đức đã thở dài:
- Đáng tiếc! Chỉ tiếc là bảy vạn đại quân Thát Đát vẫn đang ngông nghênh trước quan ải, bằng không phải bắt hết đám vương tử, công chúa quý tộc Mông Cổ về làm thái giám và cung nữ.
Dương Nhất Thanh sững sờ nhìn vị thiên tử của Đại Minh còn vô sỉ hơn hắn đang lẩm bẩm, không biết phải nói gì. Vốn hắn định nịnh hót Hoàng thượng vài câu, nhưng khen ngợi Hoàng đế anh quân nhân đức như Tam Hoàng Ngũ Đế(1) hình như không thích hợp cho lắm.
Trong lúc Hoàng đế Chính Đức luôn ôm mộng làm cường đạo còn đang lắc đầu "nuối tiếc", Dương Lăng đã nhịn cười hỏi:
- Dương tổng chế! Lúc này đại quân đã xuất phát được mấy ngày rồi? Người nào dẫn quân?
- Hả? À ờm....,
Dương Nhất Thanh đang mãi lo tiểu hoàng đế chưa từng trải qua sự tàn khѣ của chiến tranh, được các vị đại nho một bụng Kinh thư bắt học theo sách thánh hiền sẽ không đồng ý với mưu kế này, nghe Dương Lăng hỏi mới sực tỉnh.
Hắn vội đáp:
- Đã đi được chín ngày. Vốn Vương phó tướng định đích thân cầm quân nhưng Miêu công công tự thẹn đốc quân không tốt đã phụ thánh ý, nên khăng khăng đòi đích thân chỉ huy, chỉ mong đoái công chuộc tội. Vì vậy bản quan đã phái tham tướng Hứa Thái cùng ông ấy dẫn năm nghìn tinh binh xuất phát.
Dương Lăng thoáng ngớ ra, liền đó minh bạch dụng ý của Miêu Qùy. Miêu Quỳ không bằng được mấy người Lưu Cẩn và Trương Vĩnh theo chăm nom thái tử gia từ nhỏ đến lớn, đôi bên rất yêu quí nhau. Mà Hoàng đế Chính Đức lại không phải là một vị vua vô cảm, hắn rất coi trọng tình cảm cá nhân, cho nên trừ phi phạm phải tội đại nghịch bất đạo, bằng không Chính Đức quyết sẽ không lạnh nhạt với bọn họ.
Song Miêu Quỳ thì khác, lão là bầy tôi được tiên đế tin yêu, lại không có tình nghĩa riêng gì với Chính Đức. Trong đám bát hổ, những kẻ chưa "mò vớt" được chức lớn gì như đám Khâu Tụ và Ngụy Bân vẫn luôn thèm rỏ dãi cái chức Đề đốc Tây Xưởng của lão. Lần này xuất binh chỉ huy không tốt, sau khi trở về nếu đám người đó hơi dâng lời gièm tấu, chẳng những lão không vớt được chút chiến công nào mà ngay cả quyền lực vừa có được cũng sẽ bị mất, cho nên lão mới bất chấp mạo hiểm mà theo quân xuất chinh.
Vốn cướp biển Tây Ban Nha ban đầu cũng là một đám Bá tước, tướng quân thất bại trong tranh chấp nội bộ, mạo hiểm chạy ra biển mưu cầu lối thoát mới. Bọn chúng cũng có dã tâm giống như Miêu Quỳ vậy, tuy cách thức khác nhau song mục đích thì giống hệt: nhằm vơ vét quyền lực. Hiện tại lão cũng vậy, nhoáng cái đã "lắc mình hoá thân" thành mã tặc thảo nguyên.
- Hứa Thái?
Chính Đức thoáng nghĩ ngợi rồi cười nói:
- Có phải là Hứa Thái đã đổ Võ trạng nguyên năm Hoằng Trị thứ mười bảy? Lúc võ cử trẫm còn là thái tử, khi ấy từng cải trang đến khoa trường để xem các bên tranh tài. Người này giỏi võ vô cùng, cũng cực kỳ tinh thông binh thư chiến sách. Dương Tổng chế dụng tướng rất thỏa, nếu hắn có thể đại thắng trở về, trẫm sẽ tấn phong hắn làm Tổng binh!
*****
Sau khi được Dương Lăng thuật lại chuyện mật nghị cùng Đoá Nhan Tam Vệ, Dương Nhất Thanh suy xét mấy lượt rồi cũng không khuyên Hoàng đế hồi kinh nữa. Nhưng sau khi phái thêm năm nghìn binh mã hộ tống và đích thân đưa đám người Dương Lăng về lại Đại Đồng, hắn lập tức phóng ngựa trở về bản doanh, triệu gấp Vương Thủ Nhân vừa trở về Thanh Ngưu quan đến họp gấp. Cả hai cùng thương nghị quyết định cải biến chiến lược, điều trọng binh trấn giữ các quan ải bên ngoài Đại Đồng; chiến công có lớn chừng nào cũng không bằng bảo vệ Hoàng đế được chu toàn.
Nghe tin Bá Nhan Khả Hãn dời trọng binh về vùng Bình Thuận, Hồ Quan, Vương Thủ Nhân lo ngại bọn chúng sẽ thừa dịp thoát ly khỏi chiến trường chính, trở về thảo nguyên Mông Cổ. Hiện tại đại quân của Miêu Quỳ và Hứa Thai đang di chuyển giữa các bộ lạc của Thát Đát, ngộ nhỡ không kịp rút về thì toàn quân sẽ bị tiêu diệt ở thảo nguyên, thế là hắn bèn tỏ lộ nỗi lo lắng của mình với Dương Nhất Thanh.
Dương Nhất Thanh liền lập tức bác đi mà không thèm nghĩ ngợi gì. Trước khi xảy ra buổi gặp gỡ kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ thì tin tức Hoàng đế đang ở trong quân càng ít người biết đến chừng thì càng hay chừng nấy. Tuy biết Vương Thủ Nhân tuyệt đối là người đáng tin cậy và còn là tâm phúc của chính mình, song Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám tiết lộ sự thật với hắn. Điều này khiến Vương Thủ Nhân cảm thấy hết sức nghi hoặc với chiến lược của Dương Nhất Thanh.
Có điều hắn không chỉ khâm phục Dương Nhất Thanh mà còn thật lòng kính trọng vị thượng quan này. Sau một lúc trầm tư, hắn liền đề xuất cho phép mình dẫn một đội quân bám theo đại quân của Bá Nhan Khả Hãn. Nếu quả Bá Nhan giương đông kích tây để thừa dịp thoái lui, hắn sẽ bám lằng nhằng, trì hoãn hành trình của bọn chúng nhằm tranh thủ thời gian cho Hứa Thái và Miêu Quỳ.
Sau thoáng cân nhắc, Dương Nhất Thanh bèn gật đầu chấp thuận, hạ lệnh cho tham tướng Đại Đồng là Lư Cương và du kích tướng quân Phạm Hữu Thời dồn binh với đội quân của Vương Thủ Nhân, tổng cộng là một vạn tám nghìn người, gấp rút chi viện cho Bình Thuận, Hồ Quan.
Được thoả tâm nguyện, trở về đến dịch quán Đại Đồng xong Chính Đức an phận hơn rất nhiều. Trải qua chuyện này Dương Lăng cũng không dám lơ là nữa, cả ngày ở trong dịch quán cùng hắn, chờ Ngũ Hán Siêu đem tin từ quan ngoại trở về.
Sợ tiểu Chính Đức ở trong dịch quán buồn chán, y bao gánh hát nọ diễn suốt ba ngày. Gánh hát dân gian này vố cũng có chút tiếng tăm ở đây, không những chỉ biết diễn hí khúc mà còn biết chút tạp kỹ và xiếc thú. Nghe đâu vào ngày Đại vương nạp trắc phi, ông mở tiệc lớn mời khách, khắp vương phủ chỗ nào cũng là sênh ca, có chín gánh hát lớn nhỏ cùng được mời đến hát hò biểu diễn tại phủ thì gánh hát này cũng nằm trong số đó. Chẳng qua là bọn họ chỉ có thể biểu diễn ở gian lạc viện thứ hai của vương phủ, không có tư cách vào sâu trong đại viện mà thôi.
Vở mà bọn họ diễn hôm nay là câu chuyện về Dương gia tướng. Năm xưa Dương gia tướng kháng Liêu đã để lại nơi đây rất nhiều truyền thuyết. Trăm họ không ngừng chế biến cho phong phú hơn, thay đổi và hư tấu nên thành rất nhiều câu chuyện thú vị. Màn đầu tiên là Xà lão thái quân dẫn đám nữ tướng Dương môn xuất chinh, ngay trước trận lại có một viên tiểu tướng đến nhận tổ quy tông, xưng là con của thất nương(*) Đỗ Kim Nga. (*cô bảy)
Năm xưa Đỗ Kim Nga cùng Dương Thất Lang chỉ làm vợ chồng có một đêm, chưa hề báo là có con, nhất thời khiến cho chị em bạn dâu trong nhà nghi ngờ. Viên tiểu tướng nọ đứng dưới quan ải rút ra bức huyết thư mẫu thân để lại trong tã lót, Đỗ Kim Nga mới nhớ lại chuyện xưa.
Năm đó quả thực bà từng mang thai, trên đường tìm Dương gia thì gặp phải phiên binh. Lúc giao chiến bị động thai, bà phải sinh con trong đám sậy rồi để nó ở đó, nén đau lên ngựa đánh tiếp. Sau khi đánh lui phiên binh quay lại thì không thấy con đâu nữa, bà ngỡ rằng con bị sói tha đi mất, bèn khóc to một hồi rồi bỏ đi. Bởi chuyện quá đau lòng nên bà cũng chưa từng báo với Lão thái quân.
Thời đó gánh hát toàn là đàn ông cải trang thành nữ. Sở dĩ "nam phong" thịnh hành thì do một là bắt nguồn bởi đi thuyền trên biển không cho phép chở phụ nữ, cho nên đất Mân Giang thịnh hành "nam phong" nhất, còn hai là bởi sắm vai thanh y hoa đán(2) trong gánh hát đều là đàn ông. Ai nấy đều diễn rất duyên, từng động tác đều phong lưu hết mực: má đỏ môi hồng, tôn lên cặp mắt hoa đào biết thu hồn hớp phách; chả trách có rất nhiều đàn ông đâm quàng vào đấy.
Trên sân khấu con hát sắm vai Đỗ Kim Nga vận phượng bào lớn màu đỏ, dáng người dịu dàng như cành liễu, diễn hát rất duyên, lúc Đỗ Kim Nga liếc mắt xuống dưới sân khấu liền khiến đám thị vệ bên ngoài la hét um lên. Hai ngày nay xem hí kịch, động một tí Chính Đức lại cầm đầu bọn họ hò hét om sòm làm bọn lính của y bị hỏng hết; đám đại nội thị vệ này hoàn toàn không còn vẻ cẩn trọng nghiêm túc như lúc ở trong cung nữa.
Dương Lăng ngồi hầu gần Chính Đức, bị cặp mắt lẳng đó liếc sa, trong lòng liền nổi sóng, không nhịn được thầm nghĩ: "Hình dáng diễn viên chuyên nghiệp này đúng là đặc biệt à, cặp mắt lẳng đó diễn thật tự nhiên, còn tự nhiên hơn bất cứ đại mỹ nhân chuyển giới nào khác nữa. Nếu đang ở thời hiện đại, nhất định sẽ là một đại minh tinh đây!"
Trên sân khấu vẫn tiếp tục diễn! Chàng kép sắm vai Đỗ Kim Nga đang cầm bức huyết thư nức nở vừa khóc kể vừa nhớ lại mối tình xưa, giọng hát trong trẻo êm tai, trên dưới sân khấu đều nghe rõ mồn một; xem ra đúng là đã được luyện giọng hát.
Con hát sắm vai Lão thái quân run rẩy bước lên sân khấu, thở dài rồi độc thoại:
- Bà già ta tưởng rằng cả nhà họ Dương đều là quả phụ, nam nhân không có lấy một người. Ha ha, thực tốt quá! Té ra trời già vẫn chưa vứt bỏ đám con dâu của bà già này.
Một tràng cười lại nổ ra dưới sân khấu, Chính Đức ngoái đầu cười hỏi Dương Lăng:
- Dương khanh! Nghe nói khanh là con cháu Dương gia tướng, không biết tổ tiên thuộc chi nào nhỉ. Chẳng lẽ chính là vị tiểu tướng bị bỏ rơi này?
Tuy Dương Lăng không biết gia phả nhà mình là thật hay giả, nhưng y lại biết nhân khẩu họ Dương rất vượng, con cháu đầy đàn, chưa từng có chuyện có một đám quả phụ mà hiếm nam đinh như trong hí kịch diễn. Nghe Chính Đức trêu, y không khỏi cười gượng, cũng không biết nên giải thích thế nào.
Trên sân khấu đang diễn đến màn nhận tổ quy tông. Dương Lăng ngồi sau rèm nửa bước hầu Chính Đức xem kịch. Sau lưng chợt có một phiên tử hộ vệ lặng lẽ bước vào, khẽ ra hiệu với Dương Lăng.
Dương Lăng hiểu ý, vội đứng dậy nói nhỏ với Chính Đức mấy câu rồi bước ra ngoài. Đi đến dưới hành lang sảnh, y liền hỏi viên phiên tử:
- Thế nào, có phải đã có tin tức từ quan ngoại rồi không?
Viên phiên tử thấp giọng thưa:
- Đại nhân! Không phải có tin từ quan ngoại mà là có một bức thư nhà do khoái dịch đưa đến cho ngài ạ.
Dương Lăng nghe xong thì trong lòng không khỏi run lên, "Trong nhà đã xảy ra chuyện gì? Ấu Nương đang có thai, chẳng lẽ là...?" Nghĩ đến đây, tim y không khỏi đập dồn dập.
Hàn Ấu Nương sống nội tâm và kín đáo. Vô luận nhớ nhung y thế nào đi chăng nữa, cô nàng thà đợi y trở về, sẽ vào khuê phòng tham lam ôm chặt lấy y trò chuyện suốt đêm; chứ lúc y còn ở bên ngoài, Hàn Ấu Nương quá ngượng ngùng để có thể viết một bức thư thổ lộ tình cảm. Nếu nàng viết thư thì hẳn trong nhà đã xảy ra chuyện lớn.
Dương Lăng vội vã xé bì thư, rút phong thư ra. Y lại thấy trong thư còn kẹp một phong thư khác được niêm kín, bên trên cũng ghi là "Dương Lăng thân khải (tự mở)". Y lấy làm lạ bèn giở thư ra xem trước, thấy nét chữ đúng là bút tích của Ấu Nương. Trong thư chỉ nói trong nhà mọi việc đều ổn, lại chúc y ở bên ngoài nhớ chú ý ăn uống mặc ấm, vùng biên tái chiến sự đang căng thẳng, ra vào y nhớ phải chú ý thị vệ này nọ. Suốt thư đều chỉ nhắc đến những việc bình thường, trong thư không hề có ý gì là làm nũng.
Cuối thư nàng mới nói rằng nhận được một bức thư mật của Mã Liên Nhi ở Kim Lăng nhờ phiên tử Nội xưởng mang hộ về. Bởi thư ghi "Dương Lăng thân khải" cho nên Ấu Nương không dám tự tiện chạm vào, vì vậy sai người chuyển giao ngay cho y, chỗ này thì đúng là có vẻ hơi hờn dỗi và ghen tị.
Dương Lăng cảm thấy ấm lòng, khoé môi không khỏi hé ra một nụ cười.
Y trầm ngâm suy nghĩ, dựa vào lộ trình bức thư này được đưa đến mà tính toán thì lúc Mã Liên Nhi nhờ người đưa thư hẳn là Thành Khởi Vận chưa tới Kim Lăng. Mã Liên Nhi chưa nhận được lễ vật Thành Khởi Vận đưa đến mà đã gửi một bức thư đi trước, có phải bởi vì nhớ mình không?
Trong lòng Dương Lăng thoáng xao động, bất chợt y lại nhớ đến một màn xuân sắc vô biên dưới tán phong lá đỏ. Trên phong thư như hãy còn vương mùi thơm nhàn nhạt trên người Liên Nhi, cũng có lẽ là ảo giác?.... Đúng là tiểu yêu tinh nhu mì quyến rũ chết người không đền mạng à.
Mở tiếp phong thư thứ hai, y cẩn thận giở tờ giấy ra, một hàng chữ liền đập ngay vào mắt: "Phu quân đại nhân ở trên cao, Liên Nhi xin vái người trăm lạy."
Dương Lăng vừa xem thấy thì bật cười to, cô bé đã chính thức gả thân cho mình này thật đúng là đã thay đổi rồi. Liên Nhi như thớt ngựa hoang cao ngạo bất thuần nay cũng ngoan ngoãn nhũn nhặn hơn rồi đây, cũng đã hiểu lễ nghi, biết kính trọng mình ba phần rồi.
Nhưng khi xem xuống tiếp, nụ cười của Dương Lăng liền đông cứng lại: "Dương Lăng, huynh thực là lợi hại! Thực oai phong! Thực giỏi quá! Huynh sắp chóng có một tiểu Liên Nhi hoặc tiểu Dương Lăng hoành không xuất thế gọi huynh là cha rồi. Huynh có vui không hả đại nhân của muội? Liên Nhi thực muốn đợi thêm hai năm nữa mới đi gặp phu quân của mình, nhưng mà ý trời như vậy, chồng sẽ trả lời thế nào đây?
Đại nhân hãy nghĩ ra diệu kế mà đón lấy thiếp thân, hoặc là lệnh cho thiếp thân uống thuốc giết chết hậu nhân của họ Dương đi, Liên Nhi sẽ nghe theo an bài của phu quân hết. Đúng rồi, Quan Quan công tử mê Liên Nhi. Mê lắm lắm đó, thực là ghét quá.
Tái bút: Hình như có người nào đó mắc bịnh kín trên người mới mang theo người đẹp thần y xuống Giang Nam thì phải. Vụ án này cho gác lại chờ xử sau."
Chuyện lớn kinh thiên, song ngữ khí lại thờ ơ như không; dí dỏm, đắc chí, lại thêm mấy phần hài hước. Dương Lăng đứng đờ tại chỗ, tai nghe ở phòng bên kia con hát đang nức nở nghẹn ngào: "Đứa con... tội nghiệp của mẹ, lần biệt ly đó... mười mấy năm rồi, mẹ giữ kín trong lòng, không biết lệ tuôn đẫm áo đã bao đêm..."
Chú thích:
(1) Tam Hoàng gồm Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng; Ngũ Đế có Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Xem thêm tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_Ho%C3%A0ng
(2) "thanh y" trỏ vai đào; "hoa đán" trỏ vai nữ có tính cách hoạt bát hoặc phóng đãng, đanh đá
Chương 192: Đại Vương Nạp Phi
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Một giọng nói dịu dàng mang theo nụ cười của một thiếu nữ từ bên cạnh cất lên:
- Đừng trách tỷ ấy! Vũ tỷ tỷ là thị nữ được yêu mến bên người Vương phi nương nương, ngay cả đại tổng quản cũng phải nhường tỷ ấy ba phần đó. Tuổi ngươi nhỏ như vậy, lại đã làm đến thân binh của đại tướng quân, tương lai nhất định sẽ có sự nghiệp. Anh hùng không sợ xuất thân kém, đợi khi ngươi làm tổng binh Đại Đồng rồi, khi ấy lại đến bái kiến vương gia, Vũ Nhi tỷ tỷ nhất định sẽ nhìn ngươi với con mắt khác đó.
Đừng nói là tổng binh Đại Đồng, cho dù là làm đại nguyên soái nắm binh mã cả nước, Chính Đức vẫn không để vào mắt. Có điều người con gái này hiểu ý người ta như vậy, hơn nữa lại không hề quan tâm đến xuất thân của hắn, khiến nghe được lời này hắn cảm thấy ấm áp trong lòng. Đây đúng là người con gái đầu tiên không biết hắn là đương kim Hoàng đế mà lại xem trọng hắn như thế.
Dương Lăng vừa đọc thư vừa nghe tiếng diễn viên vọng đến từ sân khấu, lòng y rối bời, chốc thì hoan hỉ, chốc lại lo âu. Mã Liên Nhi cư tang chưa đủ ba năm, nếu lúc này mà rước nàng về nhà sẽ không hợp với lễ tục, không tránh khỏi bị người ta chỉ trích.
Không biết giữ lễ tục thực chẳng phải chuyện nhỏ, đủ để trở thành công cụ nguy hiểm trong tay những kẻ hữu tâm, cho dù được Hoàng đế che chở nên không vì vậy mà bị bãi quan, song lúc nào cũng sẽ bị người ta lấy nhược điểm đó ra công kích, vô luận làm gì cũng sẽ khó tránh bị cản trở tay chân.
Còn nếu để mặc Liên Nhi sống một mình ở Giang Nam, tìm cớ giấu nàng ấy rồi lén sinh con thực không khó, có điều làm như vậy khó tránh quá bạc đãi nàng ấy. Phải sống một cuộc sống lén lút, mai danh ẩn tánh thêm hai năm nữa nhất định sẽ tạo thành tổn thương sâu sắc cho Liên Nhi.
Lòng rối như tơ vò, lúc thì Dương Lăng muốn bất chấp tất cả mà phái người đến Giang Nam đón Liên Nhi về phủ ngay lập tức, lúc thì lại nghĩ đến nay mình muốn lợi dụng quyền thế và địa vị của bản thân để làm một số chuyện cho Đại Minh, cho trăm họ, chứ không còn như lúc trước mà muốn làm gì thì làm không phải lo nghĩ gì.
Trầm ngâm một hồi lâu y mới sực nhớ hiện tại Liên Nhi mang thai chưa được ba tháng, đến khi bụng to dần không thể che giấu được nữa thì ít nhất cũng phải hơn hai tháng nữa, lúc đó mình đã trở về kinh thành. Chuyện này quả thực cần phải bàn tính kỹ lưỡng, không nên vội đưa ra quyết định ngay.
Y gọi viên phiên tử cùng vào trong thư phòng rồi vội vàng viết liền ba bức thư. Bức đầu viết cho Ấu Nương, trong thư không hề giấu giếm chuyện của Liên Nhi, căn dặn Ấu Nương thông qua Nội xưởng gửi cho nàng ấy một số bạc và vật phẩm bồi bổ. Bức khác y viết cho Mã Liên Nhi, nói với nàng rằng hiện tại mình đang bận tuần tra biên tái, khi trở về kinh thành nhất định sẽ mau chóng giải quyết ổn thoả chuyện nàng đi hay ở, nàng cứ yên tâm đợi ở Giang Nam, chăm sóc bản thân cho tốt.
Bức thứ ba y lại viết cho Thành Khởi Vận. Hiện tại nàng ta là đầu lĩnh tối cao của Nội xưởng tại Kim Lăng còn Liên Nhi đang sống một thân một mình trong nhà bá phụ, nếu không thu xếp thủ hạ đắc lực để săn sóc nàng chu đáo, y thực không yên tâm.
Dương Lăng niêm thêm xi đóng lên ba bức thư, căn dặn viên phiên tử cấp tốc giao cho dịch trạm quân sự chuyển về kinh thành. Vừa đưa mắt nhìn viên phiên tử bước ra khỏi cửa, y vừa thừ người nghĩ ngợi, rồi chợt bật cười thành tiếng:
Vốn dĩ chỉ lo không có con, giờ thì tốt quá rồi. Ấu Nương và Liên Nhi như thể đang thi nhau đẻ vậy. Ấu Nương thì đúng rồi, mình siêng năng "cày cấy" một tháng hơn, dẫu sao cũng phải trúng một lần. Nhưng còn Liên Nhi, "một tên trúng đích" hình như hơi quá may mắn rồi thì phải? Chẳng lẽ mình thật sự mang gien tốt của Dương gia tướng?
Chính Đức ban thưởng rất hậu hĩnh, trang phục biểu diễn và trống chiên chất đầy hết mấy chiếc hòm to, người của gánh hát cứ ngỡ là của khâm sai Dương đại nhân thưởng cho. Mấy ngày nay diễn hát trong dịch quán, thu nhập của bọn họ so với lúc dựng rạp ca hát ở đầu phố cao hơn không chỉ hai lần. Sau khi trở về mỗi người đều kiếm thêm được vài nén bạc, cho nên ai nấy cao hứng vô cùng.
Gánh hát thuê một cỗ xe ngựa lớn chở trang phục và đạo cụ về cổng chùa Phổ Độ nơi bọn họ đã thuê một dãy nhà trệt để trọ. Chủ gánh hát tên là Bình Đại Đầu ngồi xổm trên một chiếc cối xay đá, mặt mày hớn hở nói với mọi người:
- Mấy ngày nay đã cực khổ cho mọi người rồi! Ngày mai nghỉ hát một ngày, mọi người nghỉ ngơi cho khoẻ. Nhưng mà đừng quên luyện công đấy! Ngày kia biểu diễn tại phủ của Đại vương gia sẽ phải kéo dài đến tận năm ngày lận đó.
Đoạn lão cười tủm tỉm nói tiếp:
- Ai cũng bảo chúng ta là một gánh hát cỏn con. Đúng thật, nếu không phải do Đại Đồng đang lúc chiến tranh, khó mời được những đào kép danh tiếng thì phủ vương gia đời nào có chỗ cho gánh hát chúng ta đứng? Luận tài nghệ chúng ta thua kém bọn đào kép có tiếng sao? Chẳng qua chúng ta không có cơ duyên thôi. Lần này chúng ta đã hát ở phủ Dương đại nhân ba ngày, sau đó lại trở về từ phủ của Đại vương gia, thanh danh của gánh hát chúng ta sẽ tăng cao ngay thôi.
Trước đây khung cảnh lớn nhất mà chúng ta được gặp qua là hậu hoa viên của Huyện thái gia, nay chúng ta đã được gặp khâm sai giống như gặp thiên tử đích thân giá lâm; mấy ngày nữa cao quý như con rồng cháu phượng chúng ta cũng sẽ được gặp, cho nên mọi người hãy phấn chấn lên cho ta đi! Vương gia ban thưởng sẽ còn nhiều hơn khâm sai lão gia nữa đó.
Nghe thế, một người con gái trong đám người đang đứng chung quanh chợt chớp mắt, cặp mắt nhạy bén có thần liếc lão một cái thật sâu, đoạn chen người ra tới trước mặt lão, ôm quyền hỏi:
- Phải chăng ngài đây là chủ gánh hát?
Bình Đại Đầu hơi sững người đoạn quan sát cô ta một lượt: tuy người con gái trước mặt lão mặc áo quần giản dị bằng vải thô, nhưng với nhãn lực của mình, Bình Đại Đầu lại nhìn ra ẩn giấu dưới lớp áo quần thùng thình sơ sài này là một dáng người cực kỳ yểu điệu, dung mạo ngũ quan của cô nàng cũng quyến rũ vô cùng, đáng tiếc là trên làn da trắng mịn lấm chấm những vết rỗ làm hỏng vẻ đẹp của nàng ta.
Bình Đại Đầu nhảy xuống đất đánh xoạt, thân hình thấp tè của lão cao chưa đến vai cô gái nọ, rồi lão cũng chắp tay theo nghi lễ giang hồ đáp:
- Không dám! Tiểu lão nhi chỉ là người dẫn một đám nghèo khó đi kiếm miếng ăn mà thôi. Cô nương là?
Cô gái nọ hơi mỉm cười, đáp lời hết sự tự nhiên:
- Tiểu nữ chỉ là một tiểu thương đơn lẻ mới xông pha giang hồ mãi võ. Nay kiếm chút cơm ăn không dễ, thấy đại gia đây mặt mày phúc hậu, có thể chèo chống gánh hát lớn như vậy, ắt phải là người có nghĩa khí, có tài cáng đáng, nên tính gia nhập vào gánh hát của ngài. Không biết đại gia thấy thế nào?
Bình Đại Đầu cười nói:
- Nào có! Nào có! Chẳng qua gánh hát này của lão diễn hí khúc là chính, mà nữ nhân thì không thể bước lên sân khấu, tuy rằng có tạp kỹ và xiếc thú, bất quá là phần dạo trong lúc rỗi để đàn ông giải sầu thôi. Cô nương biết làm những gì?
Cô gái nọ cười lớn đáp:
- Cưỡi ngựa, bắn tên, đánh võ, món nào tiểu nữ cũng tinh thông.
Bình Đại Đầu lắc đầu:
- Không được, không được rồi! Gánh hát này của chúng ta không nuôi nổi ngựa, hơn nữa hiện đã có mối làm ăn ở phủ khâm sai và phủ vương gia, sau này thanh danh tăng vọt, những nơi đi đến nhất định sẽ đều là nhà cao cửa rộng. Mấy trò phóng ngựa bắn tên, vung đao múa thương sẽ không mang được vào nhà người ta đâu.
Cô gái nọ liền đảo mắt, cười nói:
- Đi trên dây thừng, nhào lộn trên sào cao, mấy trò mua vui cho người ta đó tiểu nữ cũng biết.
Bình Đại Đầu lại lắc đầu, chợt một giọng nói trong trẻo chen vào:
- Mấy trò này khách giang hồ mãi võ có ai mà không biết? Thấy một người phụ nữ như cô đi lại một mình trên giang hồ cũng không dễ, vậy cô hãy biểu diễn nhào lộn thử xem! Nếu làm tốt, ta sẽ làm chủ mà thu nhận cô.
Người này vẫn đang mặc đồ diễn rườm rà, ống lụa như mây, mày ngài má hồng, mắt hạnh long lanh, chính là Trình Tiểu Vân, diễn viên chính của gánh hát Bình gia. Tuy hắn là nam nhân nhưng đã quen sắm vai nữ, không chỉ nói chuyện dịu dàng mềm mỏng mà cử chỉ hình dáng cũng khá là thanh tú.
Trước mặt hắn, tuy là chủ gánh hát song Bình Đại Đầu cũng phải nể mặt mấy phần, bèn vội cười phụ họ
- Đúng rồi! Vậy cô hãy thử tài nghệ chút xem.
Đám nhạc công chuyên gõ chiêng, đánh trống, thổi sáo, khảy đàn nghe vậy đều hỉ hả kéo sang, quây lại thành một vòng tròn. Cô gái nọ mỉm cười gật đầu đồng ý:
- Vậy đa tạ chủ gánh và vị lão bản này, tiểu nữ tử sẽ lộ dốt đây.
Cô nàng thoải mái bước đến chính giữa sân, ôm quyền bước một bước tuồng, rồi chợt đứng sững lại hít sâu một hơi, liền sau đó búng người nhào lộn. Màn nhào lộn của cô không có gì là đặc sắc: lấy tay chống đất, hai chân liên tục đá ra sau, tuy thân thủ hết sức gọn gàng, song cũng chẳng có chỗ nào là kỳ diệu. Bình Đại Đầu và Trình lão bản không khỏi lộ vẻ thất vọng.
Không ngờ sau khi búng người nhào lộn mấy vòng, cô gái nọ đột nhiên tăng tốc lộn vòng vừa nhanh vừa dứt khoát, như thể biến thành một bánh xe tròn xoay tít; động tác mềm mại liên miên trông mỹ cảm cực kỳ; eo thon mềm mại mà có lực. Cặp mắt Bình Đại Đầu không khỏi sáng rực, bên cạnh đã có người thốt lên khen giỏi.
Xoay người trên không, lộn một vòng trên không rồi tiếp đất, búng người ưỡn thân vút lên cao rồi tiếp đất nhẹ nhàng,..., đủ loại động tác khó không ngừng được thể hiện, liên miên không dứt, không thấy lúc nào ngừng nghỉ. Giữa những tràng khen ngợi của đám đông, Bình Đại Đầu cười lớn bảo:
- Đủ rồi! Đủ rồi! Không cần nhào lộn nữa. Thu dọn một chút rồi ăn cơm cùng mọi người đi. Bắt đầu từ hôm nay, cô sẽ là người của gánh hát Bình gia.
Cô gái nọ lộn trên không thêm hai vòng nữa, rồi mỉm cười tiếp đất, mặt không đỏ, hơi vẫn đều. Nàng ta phủi bụi trên tay rồi chắp tay nói:
- Đa tạ chủ gánh!
Trình Tiểu Vân mỉm cười chào hỏi:
- Tại hạ tên là Trình Tiểu Vân, tỷ tỷ tên là gì?
Ánh mắt cô gái thoáng loé lên, nàng ta mỉm cười đáp:
- Ta tên Liễu Oanh Nhi, sau này vẫn mong Trình lão bản chiếu cố nhiều hơn.
Trình Tiểu Vân nhoẻn miệng cười nói:
- Ừm, Liễu Oanh Nhi, tên rất đẹp! Oanh oanh yến yến xuân xuân, hoa hoa liễu liễu chân chân, sự sự phong phong vận vận. Kiều kiều nộn nộn, đình đình đương đương nhân nhân(1). Với tư thái và dáng điệu như vậy, nếu tỷ tỷ lại mặc đồ diễn vào, vẽ mặt bôi son lên, trông sẽ rất đẹp đấy!
Hồng Nương Tử hoá thân thành Liễu Oanh Nhi nghe hiểu được là hắn đang khen tên mình hay, song lại không biết nó có nghĩa gì cho nên chỉ cười gượng gạo, không dám đáp lời.
Đám Dương Hổ vốn là đại đạo lục lâm. Bình thường nếu muốn bắt cóc kẻ nhà giàu thì cùng lắm là phái vài người đi dò xét tình hình, nắm rõ gia cảnh, thế lực và kết cục bố trí trong nhà con "dê béo", rồi mới thừa lúc đêm tối đến nhà bắt người. Bọn chúng chưa từng kiên nhẫn xây dựng và bố trí cơ sở thám tử lâu dài, nay muốn đối phó với Hoàng đế Đại Minh song hai mắt lại như mù, muốn biết hắn ở đâu nhưng lại không cách nào dò hỏi.
Hồng Nương Tử thấy trượng phu bị lợi che mờ mắt, biết rõ bị Di Lặc giáo lợi dụng song vẫn u mê không chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế, nên nàng không dằn được lửa giận trong lòng. Nhiều lần khuyên nhủ không kết quả, nàng bèn thổ lộ nỗi khổ với Ngũ thúc, song không ngờ Ngũ thúc lại đáp lại một thôi một hồi khiến lòng nàng hoàn toàn nguội lạnh.
Cho dù nói thế nào thì cuối cùng nàng vẫn là một người phụ nữ, trong mắt một thủ lĩnh thổ phỉ cực kỳ trọng nam khinh nữ như Thôi lão đại, đứa con rể Dương Hổ còn quan trọng hơn con gái mình nhiều. Thấy mấy năm nay Dương Hổ chiêu binh mãi mã khá giỏi, nhiệt huyết trong lòng Thôi lão đại cũng dâng trào. Lão lại bắt đầu trông mong con rể mình có thể đánh chiếm lấy giang sơn, một nhà họ Thôi cũng có thể được phong vương phong hầu.
Cho nên lần này mười mấy sơn trại bị tiễu trừ, thế lực Dương Hổ bị tổn thương lớn, huynh đệ những sơn trại cũ đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ về lời lan truyền "chân mệnh thiên tử" của hắn, mấy người tâm phúc của Thôi lão đại như Ngũ thúc đã thầm bàn riêng với lão về chuyện này. Thôi lão đại ngầm gợi ý rằng, vô luận lời đồn này là thật hay giả cũng phải dốc sức phò trợ con rể, thay vì làm sơn tặc đời đời kiếp kiếp chi bằng đánh một trận nhằm kiếm chút tước vương hầu công khanh mà hưởng.
Sau khi nghe Dương Hổ kể chuyện, Thôi lão đại biết được vì chuyện tập kích phủ Uy Vũ Bá mà con gái và con rể mình hục hặc với nhau. Do đó lần này lão chủ động sai người của mình đến giúp Dương Hổ, một mặt là để biểu lộ thái độ của chính mình; mặt khác cũng bởi e ngại con mình sẽ phác tác cơn giận đại tiểu thư mà làm khó Dương Hổ, nên mới phái cả Ngũ thúc đến để áp chế nàng.
Nghe biết thái độ của cha như vậy, Hồng Nương Tử không khỏi thất vọng vô cùng. Chỉ có điều tuy có vị trưởng bối là Ngũ thúc này áp chế nên nàng không thể gây lộn với Dương Hổ nhưng Hồng Nương Tử tính tình cứng cỏi, trong lòng đã có chủ ý rồi thì cho dù là Thôi lão đại cũng đừng hòng thay đổi. Nghe xong lời giải thích của Ngũ thúc, nàng không nổi nóng gây gổ tại chỗ mà chỉ quay về thu thập hành trang rồi lặng lẽ bỏ đi.
Nàng biết đám người Dương Hổ không có kế sách nào khác, bọn họ muốn tìm được Chính Đức thì chỉ có cách theo dõi Dương Lăng cho nên nàng cũng cải trang rồi chú ý mọi động tĩnh trong dịch quán. Gánh hát này mỗi ngày đều đến hành dinh quan khâm sai diễn hí khúc, nàng đã sớm lần tra tỏ tường. Trong suy nghĩ của nàng, Đại vương là vương thúc của Hoàng đế Chính Đức, ngày lão nạp phi nếu như Chính Đức còn ở Đại Đồng, thì chín phần mười hắn sẽ phải đến chúc mừng.
Vậy Di Lặc giáo và cả đám người Dương Hổ rất có thể sẽ hạ thủ vào lúc này. Nàng phải ngăn cản Dương Hổ bị kẻ khác lợi dụng, phá hỏng kế hoạch của Di Lặc giáo. Như thế nàng cũng phải nghĩ cách trà trộn để vào phủ, do vậy nàng mới cải trang làm người giang hồ mãi võ, trở thành một thành viên trong gánh hát Bình gia.
Ngày hai mươi hai tháng giêng, Đại vương nạp trắc phi.
Hay tin đại quân Bá Nhan đã dời sang vùng Bình Thuận, Hồ Quan, dân chúng Đại Đồng thở phào nhẹ nhõm. Từ nay, đêm ngủ không phải ăn mặc chỉnh tề, đặt sẵn túi hành trang bên gối để bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị trốn chạy. Trong phủ Đại vương tràn ngập một bầu không khí vui mừng, giăng đèn đón khách.
Từng chiếc kiệu xe, từng thớt tuấn mã chở quan văn tướng võ vùng Tuyên Phủ, Đại Đồng kéo đến phủ Đại vương gia để chúc mừng. Do Hoàng đế đang ở Đại Đồng nên Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh hết sức coi trọng việc phòng ngự biên quân. Vốn dĩ hắn đã đưa thư và lễ vật chúc mừng đến phủ Đại vương, tỏ ý rằng vì vướng bận việc quân nên không thể đích thân đến dự, điều này đã khiến cho lão Đại vương không vui trong lòng. Không ngờ hôm nay hắn bỗng nhiên đổi ý, vội vội vàng vàng dẫn theo ba trăm thân quân chạy đến phủ Đại vương chúc mừng.
Chung quanh phủ Đại vương vẫn đầy giáp sĩ kề vai san sát, song trong vương phủ lại ắp tiếng sênh ca, Hồng Nương Tử cũng theo gánh hát mới gia nhập mà tiến vào trong. Song nằm ngoài dự liệu của nàng chính là vương phủ rộng lớn hơn nhiều so với những gì mà nàng tưởng tượng, hơn nữa vương phủ cho gánh hát của nàng diễn ở hậu điện. Gánh hát lớn được vời tới thì diễn ở trung điện, tám gánh hát có quy mô như của nàng chỉ có thể dựng rạp biểu diễn trong sân khu ngoại điện quanh phủ, căn bản không thể tiếp xúc với khu vực trung tâm.
Cả phủ Đại vương lọt trong tiếng nói cười, tiếng chúc mừng rộn rã, những chỗ yên tĩnh hơn chỉ có Ngân An điện, Xã Tắc đàn, Phong Vân Lôi Vũ Sơn Xuyên đàn, Hoàng miếu, từ đường và Tích Thiện tự. Điển Thiện sở cung cấp rượu ngon và đồ ăn, Đại Phủ điếm tiếp đãi tân khách, đăng ký tiếp nhận lễ vật, còn những vị khách quan trọng sẽ do tổng quản vương phủ đích thân đón vào.
Chỗ gánh hát của Hồng Nương Tử biểu diễn nằm bên trong Đoan Lễ môn và phía ngoài Thừa Vận môn, đại thần các bộ ra vào đều không thoát khỏi mắt nàng. Trong sân, các rạp diễn đã sớm được dựng xong, trên sân khấu rèm giăng, màn hoa và đèn treo đã đâu vào đấy. Theo quy củ thì vở diễn đầu tiên khi diễn tại tư gia đều sẽ là "Thiên quan tứ phước" (lễ quan trời ban phước bốn phương).
Một lòng mong muốn biến gánh hát Bình gia thành gánh hát nổi tiếng nhất Đại Đồng, đợi khi biên cảnh bình định xong còn phải nêu chiêu bài đã từng được mời đến hành dinh của khâm sai và vương phủ Đại vương để được lưu diễn khắp cửu biên, Bình Đại Đầu đương nhiên cũng phải tuân theo quy củ này. Tuy rằng gánh hát của lão không chính quy lắm, vở này cũng chưa được học đầy đủ, nhưng cũng may xem kịch trong sân đều là thị vệ, thư đồng và gia bộc hạ nhân của đám quan văn tướng võ đến mừng lễ cưới, cho nên khi biểu diễn cũng không bị bọn họ soi mói gì.
Nhất là sau khi vở "Thiên quan tứ phước" được diễn xong, các vở hí kịch hơi "mặn" mà lại không phạm vào những điều kiêng kị của vương phủ như là "Lữ động tân tam hí bạch mẫu đơn", "Trương thiên sư đại họa phù" được trình diễn, thì càng được đám người hầu và gia tướng đó mê thích.
- Khâm sai phụng chỉ tuần biên kiêm Thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng kiêm Đại đô đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương đại nhân và Đốc quân Kinh doanh Trương công công đến!
Vừa mới biểu diễn giữa giờ nghỉ xong, nghe tiếng xướng sang sảng của quan xướng lễ, Hồng Nương Tử thoắt ngẩng đầu nhìn lại. Nàng thấy một vị thư sinh mặt như thoa ngọc mỉm cười bước vào. Y mặc một bộ áo dài lông chồn sang trọng, ngoài khoác áo choàng lớn lợp Cô nhung, thân hình cao thon, nổi bật vô cùng.
Mười hai viên hiệu úy trẻ tuổi anh tuấn dằn đao theo sát sau lưng y. Vị Trương công công Trương Vĩnh đi cạnh tuy mặc mãng bào chỉ vàng màu xanh da trời, song lưng vai hơi còng, bước chân lại nhanh, trông thực giống nô tài thân cận một vị công tử con vua cháu chúa.
Hồng Nương Tử thoáng nhếch môi, lộ ra một nụ cười nhàn nhạt. Hôm nay đến chúc mừng, vị tướng quân này lại không mặc quân trang, y phục nho nhã xứng với khuôn mặt thanh tú của y, áo choàng rộng bay, trên chiếc đai gấm ngũ sắc quấn hông cài một miếng ngọc bích đang đong đưa khe khẽ. Cái khí phái ấy... nếu hôm nay nàng đến nhằm bắt một con dê béo mang về thì chỉ cần nhìn vào dáng vẻ ấy, đương nhiên "con dê béo" chỉ có thể là y.
Được tổng quản vương phủ đưa vào, Dương Lăng và Trương Vĩnh đi qua khỏi cổng Thừa Vận, vừa đến cổng Sùng Tín, bước chân Dương Lăng hơi khựng lại, y ngoái đầu liếc về phía sau. Khi ánh mắt y chạm ánh mắt viên tiểu hiệu đứng giữa mười hai viên thị vệ của y, viên tiểu hiệu đó liền nở một nụ cười tinh nghịch. Dương Lăng kín đáo gật nhẹ đầu với hắn, rồi tiếp tục cùng Trương Vĩnh sóng vai đi vào.
Thị vệ của khâm sai cũng không được phép bước vào nội điện của vương phủ, sẽ có chấp dịch (người hầu, cấp cao hơn đầy tớ bình thương) dẫn bọn họ sang điện bên kế cổng Sùng Tín. Nơi đây bày dọc các mâm tiệc lưu thủy(2), rất đông người hầu của các tướng quân và quan văn đang ăn ham uống tục.
Bởi Đại Đồng là nơi trú quân trấn giữ biên thùy, cho nên ngay cả vương phủ cũng không chỉ chú trọng về vẻ nguy nga tráng lệ mà kiến trúc lẫn sân tường cũng đều được xây cao lớn và kiên cố. Trên bốn góc tường cao của vương phủ đều có thành lũy và thị vệ đồn trú. Có điều khi bước vào trong "yến tử cư" (tổ chim én), hoa viên vương phủ chốn phương bắc này vẫn có giả sơn uốn lượn quanh co, hành lang khúc khuỷu mái uốn cong cong; tuy nhỏ nhưng vẫn có đủ.
Men theo lối nhỏ quanh co xuyên qua "Yến tử cư", vừa bước vào điện Cẩn Đức tổng quản vương phủ liền khom người cười nói:
- Hai vị đại nhân! Lễ nạp phi của vương gia vẫn chưa cử hành, mời hai vị đến điện bên nghỉ ngơi trước. Đến giờ lành, cha gia sẽ dẫn đại nhân đến điện Ngân An tuyên đọc chiếu thư của Hoàng thượng, thỉnh mời vương gia và vương phi làm lễ.
Dương Lăng và Trương Vĩnh mỉm cười gật đầu, rồi xoay người đi vòng sang tòa điện ở chái bên. Trước cửa điện có hai tiểu thái giám đang đứng, thấy bọn họ đi tới bèn vội vén rèm nỉ nhung lạc đà lên. Hai người vừa bước vào liền sững người.
Ánh sáng trong điện hơi u ám , vừa bước vào liền lập tức cảm thấy không thoải mái . Khi khôi phục thị lực lại bình thường , hai ngườimới phát hiện trong điện đang có mấy vị đại nhân đang đứng: tuần phủ Hồ Toản của Đại Đồng , tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh , một vị quan văn đứng bên cạnh vận bổ phục(*) giống tuần phủ Hồ Toản; nhất thời y không nhớ Đại Đồng còn có vị quan văn nào có cùng phẩm hàm là tòng nhị phẩm như lão ấy . (*: xem lại chú thích chương 27)
Trong điện, phía bên trái là bộ bàn nhỏ uống trà và ghế dựa hình mũ quan, bên phải là một chiếc giường sưởi, trên giường đặt một chiếc bàn chân thấp. Chính diện ở trước điện là một bức bình phong, lúc này phía sau bình phong cũng có hai người chợt bước ra, một người vận hoàng bào hình mãng long, dáng người to béo, chính là chú rể Đại vương gia, trên khuôn mặt núc ních chứa đựng vẻ trang nghiêm hiếm thấy.
Vị đại nhân bên cạnh khoảng tứ tuần, dưới cằm lưa thưa mấy cọng râu, khuôn mặt gầy guộc, hai mắt sáng quắc như sao, thân vận một bộ bổ phục hình tiên hạc, không ngờ chính là đại học sĩ được gia phong nhất phẩm đương triều - Dương Đình Hoà.
Vừa trông thấy vậy, Dương Lăng và Trương Vĩnh liền nghĩ bụng: "Hỏng bét! Bữa yến tiệc mừng cưới hôm nay sắp biến thành Hồng Môn Yến rồi. Dương Đình Hoà mà đến, thể nào cũng sẽ có màn kiếm sương đao gió khóc lóc can gián hoàng thượng hồi cung đây."
Hai người đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đều có ý nói với đối phương: "Huynh đệ, ông (cậu) lên trước đi!"
*****
Chính Đức đang ngồi trên một chiếc băng ghế dài, tiện mồm ăn vài món. Hắn cảm thấy cải trang làm hiệu úy tuy cũng thú vị, nhưng trong vương phủ này có quá nhiều phép tắc, còn lâu mới bằng tự do xem kịch ở đầu phố. Hắn ngồi rảnh rỗi một hồi, nghe thấy bên ngoài không ngừng có tiếng reo hò, tiếng hát du dương trầm bổng như hớp hồn, nhịn không được bèn đứng dậy bước ra ngoài.
Mười một tay thị vệ kia đều là cao thủ nhất đẳng của đại nội, danh nghĩa là thị vệ của khâm sai nhưng kỳ thực chức trách chính là bảo vệ Hoàng đế. Vừa thấy hắn đứng dậy, đám người đó cũng đều lập tức kín đáo đứng dậy theo, lặng lẽ xúm lại quây lấy hắn.
Một viên thủ lĩnh thị vệ nhỏ giọng hỏi:
- Hoàng thượng, ngài muốn đi đâu vậy, có phải là đi ngoài không?
Chính Đức trợn to mắt, nén giọng mắng:
- Đi ra ngoài(*)! Ra khỏi cung rồi mà vẫn không được tự do, đi đến đâu cũng thấy mặt các ngươi hết. Nơi này là phủ Đại vương, còn có thể có giặc cướp hay sao? Đi cách xa ra một chút đi, đừng làm phiền trẫm, trẫm đi xem náo nhiệt một chút.
(*: nguyên văn là "xuất cung". Thị vệ hỏi Chính Đức có phải là muốn đi đại tiện, Chính Đức bảo là y muốn rời khỏi chỗ này (cung điện của Đại vương))
Dứt lời hắn bèn hừ một tiếng rồi đi vào mảnh sân đằng sau cổng Đoan Lễ.
Trình Tiểu Vân đang cất giọng ngâm nga trên sân khấu. Hắn mặc một bộ đồ trắng, trên mái tóc mềm đen như tơ mực cài một đoá hoa mẫu đơn tươi thắm; tay áo như mây, điệu múa nhẹ nhàng, mĩ miều hệt như một đoá mẫu đơn sống động.
Chính Đức đi đến dưới sân khấu, bên ngoài người đông như kiến, hai tay thị vệ đã tranh bước lên trước, thấy đông người nên âm thầm chặn không cho hắn đi qua. Chính Đức đang không biết làm thế nào, chợt thấy một cô gái vận đồ đoản đả (đồ chẽn của diễn viên võ) màu đỏ, thắt đáy lưng ong, một chân đạp lên chiếc ghế thấp, đang buộc chặt xà cạp lại thành nhiều vòng, bèn mỉm cười đi tới hỏi:
- Vị tỷ tỷ này, có phải tỷ biểu diễn võ công không?
Thôi Oanh Nhi ngẩng đầu lên. Chính Đức thầm tiếc rẻ, cô nương có vóc dáng đẹp mê người như vậy lại bị mặt rỗ. Khi thoa phấn lên sân khấu, mặt ngọc trông rất mịn màng óng ánh thì còn không thấy gì, song nhìn gần như vậy thực thấy kém quá đỗi.
Thấy hắn là hiệu úy quân đội, tuổi trông không quá mười lăm mười sáu, trên mép môi còn lún phún lông măng nhưng mặt mày ngũ quan trông mười phần anh tuấn, nói chuyện cũng khách khí thân thiện, không có vẻ bất lương giả dối như những tên lính bình thường nên Thôi Oanh Nhi tăng thêm mấy phần hảo cảm. Nàng quấn chặt xà cạp, đưa tay vén tóc mai, rồi cười duyên dáng đáp:
- Trong vương phủ, tỷ tỷ biểu diễn võ công cho ai coi đây? Chẳng qua chỉ là mấy trò tạp kỹ đi dây, leo sào, nhào lộn mà thôi.
Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, hắn hào hứng:
- Tạp kỹ hả? Vậy càng đáng xem hơn võ công rồi! Lúc nào thì tỷ tỷ sẽ biểu diễn tiếp vậy, tiểu đệ sẽ vỗ tay hò hét cổ vũ cho tỷ.
Cảm thấy hắn khá thú vị, Hồng Nương Tử không nhịn được cười khúc khích đáp:
- Tiểu huynh đệ, đệ thực vui tính đó! Vương phủ thưởng bạc có quy tắc cả, đệ có hét đến khản cổ cũng vẫn không tăng thêm tiền thưởng được đâu.
Chính Đức đáp bằng giọng không phục:
- Như vậy hả? Vậy để Dương... để khâm sai Dương đại nhân nhà đệ thưởng cho tỷ là được rồi. Đệ là thân binh của Dương đại nhân, nếu như tỷ diễn hay, đệ sẽ nói với đại nhân, người nhất định sẽ mời tỷ qua phủ biểu diễn và ban thưởng hậu hĩnh đó.
Hồng Nương Tử bị kiểu nói trẻ con của hắn chọc cho cười khanh khách, nàng ráng nhịn cười vái chào hắn, rồi bảo:
- Vậy tiểu nữ tử cảm tạ quan gia trước! Nếu thực được Dương đại nhân ban thưởng, tiểu nữ tử nhất định sẽ chia cho quan gia một nửa.
Chính Đức khoát tay ra vẻ hết sức trượng nghĩa:
- Không cần khách khí! Không cần khách khí! Tiểu đệ theo đại nhân ăn uống, không phải lao tâm lo lắng không có tiền tiêu.
Trên sân khấu vang lên tiếng chiêng "chập cheng", Trình Tiểu Vân lướt ra khỏi sân khấu như một đám mây, Lữ Đồng Tân (một trong Bát Tiên) và yêu đạo Hoàng chân nhân bước lên sân khấu trong tiếng chiêng trống vang rền. Nhận được sự reo hò của khán giả, Trình Tiểu Vân hiển nhiên cũng có vài phần đắc ý. Hai má đỏ bừng, hắn nhấc váy bước ống vũ đài tiến đến chiếc lều dùng để hóa trang và thay y phục được bắc phía sau sân khấu. Trình Tiểu Vân cất giọng gọi Hồng Nương Tử:
- Liễu đại tỷ, giúp tôi thay y phục với.
Thôi Oanh Nhi ừ một tiếng, rồi quay lại cười tươi tắn nói với Chính Đức:
- Tiểu huynh đệ, tỷ tỷ phải đi làm việc đây! Chốc nữa màn hát này xong, tỷ tỷ sẽ lên sân khấu biểu diễn nhào lộn, đệ nhớ đến xem nhé.
Chính Đức liền gật đầu đồng ý. Thấy người con gái áo đỏ này lách người tiến vào trong lều, hắn bèn nhìn đông ngó tây một lát, rồi xoay người đi về phía gian điện ở cánh phải cổng Thừa Vận. Đám đại nội thị vệ hầu hạ trong cung nhiều năm, không dám làm trái thánh ý cho nên không dám đi sát hắn quá, chỉ đồng loạt đi theo sang phía bên phải.
Một thị nữ vận cung trang dáng cao gầy, vẻ mặt cao ngạo, được hai thị nữ khác theo kèm đang vừa bước ra khỏi cổng Thừa Vận. Vốn Chính Đức tính nôn nóng, lại bởi dòng người trên đường nườm nượp, hắn lo tránh trái né phải để vòng qua đám người đi vào trong cổng nên vô ý giẫm phải vạt váy sau của cô thị nữ nọ.
Thị nữ đó la lên "ui da" một tiếng, liền vội nhấc váy lên, đỏ mặt quay lại. Thấy chẳng qua chỉ là một tiểu hiệu uý cỏn con, ả liền quắc mắt trừng hắn, mắng nhiếc:
- Mù cái mắt chó nhà ngươi rồi à? Đi đường trong vương phủ mà cũng không mang theo mắt sao?
Chính Đức bị người ta mắng té tát như thế song lại không hề nổi giận, chỉ cảm thấy cô ả lúc bước ra thì ngửa mặt ưỡn ngực, dáng vẻ cao ngạo, hiện tại lại lúng ta lúng túng không thôi thì thấy rất thú vị. Hắn bèn nén cười chắp tay thi lễ xin lỗi:
- Mong cô nương thứ lỗi! Là kẻ hèn lỗ mãng rồi, thực có lỗi quá.
Thị nữ giũ giũ váy, thấy vạt sau bị in một dấu chân thật to thì càng thêm nổi giận. Căm hận lườm Chính Đức, ả phỉ phui:
- Ta khinh, còn bày đặt kẻ hèn! Ngươi tưởng ngươi là công tử hay thiếu gia vậy? Chỉ là một tên lính, còn bày đặt kẻ hèn, đồ ngựa không biết mặt mình dài! Ngươi mà cũng là người có danh phận, có sự nghiệp sao? Hừ!
Dứt lời ả quay ngoắt đầu đi như một con công kiêu ngạo rồi lại nghênh ngang bước đi.
Bị ả mắng cho không nói được tiếng nào, hoàng đế Chính Đức chỉ biết rờ mũi cười khổ. Mấy tay thị vệ chạy qua thấy Hoàng thượng bị một thị nữ của vương phủ mắng mỏ, chế giễu cho một trận thì đều không nhịn được cười trộm.
Một giọng nói dịu dàng mang theo nụ cười của một thiếu nữ từ bên cạnh cất lên:
- Đừng trách tỷ ấy! Vũ tỷ tỷ là thị nữ được yêu mến bên người Vương phi nương nương, ngay cả đại tổng quản cũng phải nhường tỷ ấy ba phần đó. Tuổi ngươi nhỏ như vậy, lại đã làm đến thân binh của đại tướng quân, tương lai nhất định sẽ có sự nghiệp. Anh hùng không sợ xuất thân kém, đợi khi ngươi làm tổng binh Đại Đồng rồi, khi ấy lại đến bái kiến vương gia, Vũ Nhi tỷ tỷ nhất định sẽ nhìn ngươi với con mắt khác đó.
Đừng nói là tổng binh Đại Đồng, cho dù là làm đại nguyên soái nắm binh mã cả nước, Chính Đức vẫn không để vào mắt. Có điều người con gái này hiểu ý người ta như vậy, hơn nữa lại không hề quan tâm đến xuất thân của hắn, khiến nghe được lời này hắn cảm thấy ấm áp trong lòng. Đây đúng là người con gái đầu tiên không biết hắn là đương kim Hoàng đế mà lại xem trọng hắn như thế.
Chính Đức xoay người lại, định cất tiếng cảm ơn người con gái đó, nhưng mới vừa đưa mắt nhìn liền như thể ba hồn bảy vía của hắn đều bay mất sạch, cả người như được nặn bằng đất sét cứ đứng đực ra đó, cứng mồm cứng lưỡi không thốt được tiếng nào.
Người con gái trước mắt hắn không hề ăn vận giống như thị nữ trong vương phủ. Nàng mặc một chiếc áo chẽn da chồn lợp nhung màu xanh, trong mặc áo đơn màu xanh nhạt, trên chiếc eo thon thắt chiếc váy hồng màu xanh nhạt sáu mảnh phơi phới như nước sông Tương. Cho dù là tiểu thư khuê các, song lại xinh đến nỗi da trắng thịt thơm, hữu tình quyến rũ như nàng vẫn là rất hiếm. Vóc người thon thả lung linh, khuôn mặt sáng ngời rực rỡ, trên khóe môi cười mỉm yêu kiều chấm một nốt ruồi mỹ nhân. Nàng đang ôm trong lòng một con chim anh vũ lớn, lông đuôi sặc sỡ.
Thấy Chính Đức mấp máy cả buổi vẫn không ra tiếng, người thiếu nữ xinh đẹp trạc mười bốn mười lăm đó ngạc nhiên nhìn xuống người mình một lượt rồi cười hì hì, nghiêng đầu nói với hắn bằng giọng dí dỏm:
- Thế nào? Có phải là ta rất xinh đẹp không?
Chú thích:
(1) Người con gái đang độ xuân sắc, lả lướt diễm lệ như liễu như hoa, từng lời nói từng cử chỉ đều vô cùng thùy mị, mà thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp như vậy, thì ở chỗ nào cũng đẹp.
(2) mâm tiệc bày sẵn, ai đến lúc nào thì ăn lúc đó, ăn xong rồi đi, người hầu lại dọn lên tiếp cho đợt khách mới; bởi hình tượng như nước chảy nên xưa có tên này.
Chương 193: Tri Âm Khó Gặp
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Đường Nhất Tiên chợt vỗ tay la lên:
- Ta nhớ ra rồi! Ta cũng vậy đó, thứ gì cũng phải học, ăn thế như nào, mặc ra làm sao, đi đứng phải thế nào, hệt như con rối vải mặc cho người ta đưa đẩy vậy. Còn phải học nào là cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, rất là chán, ta lại không được đi thi Trạng Nguyên... Ui da, lại nhức đầu rồi. Ta chỉ có thể nhớ bấy nhiêu.
Chính Đức hào hứng nói theo:
- Đúng đó, tôi cũng vậy! Tôi thì lại không muốn thi Trạng Nguyên, học nhiều như vậy để làm gì, nhức đầu lắm!
Hắn càng nói càng thấy ăn ý, cảm thấy tri âm trong thiên hạ chỉ có Nhất Tiên cô nương mà thôi. Đoạn hắn ngẫm nghĩ, thấy nỗi khổ của một người đường đường làm vua như mình thế mà lại giống nỗi đau của một người kỹ nữ được thanh lâu bồi dưỡng để lấy sắc mua vui cho thiên hạ, thì lại cảm thấy dở khóc dở cười.
Cô nương đó vuốt ve bộ lông con chim anh vũ, thấy viên lính cứ đứng ỳ ra đó ngẩn ngơ nhìn mình chằm chằm thì không khỏi bật cười khúc khích, rồi bảo:
- Một chốc nữa sẽ rước Trắc vương phi vào phủ rồi, ngươi đừng có chạy lung tung đó! Nếu lại giẫm phải váy của vương phi thì sẽ không chỉ bị mắng một trận rồi thôi đâu.
Dứt lời, nàng nhoẻn miệng cười duyên dáng rồi xoay người đi về phía các tòa đình viện ở chái tây. Kiến trúc trong vương phủ nguy nga và lộng lẫy, hào hoa và tráng lệ; hành lang nối liền phòng ốc, nhà cửa đan xen; phía trước là nhà chính, phía sau là phòng ngủ, cung điện sâu hút bên trong. Các tòa đình viện ở chái tây này gồm cả thảy mười tòa nhà, là nơi ở của đám người hầu và tạp dịch, cho nên không có ai canh gác.
Chính Đức vừa giơ tay lên kêu "này" thì người thiếu nữ xinh đẹp đã bước qua khỏi cánh cửa cao cao, hắn bèn vội rảo bước đuổi theo. Thị vệ xung quanh đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ bụng rằng Hoàng thượng đã chấm người con gái xinh xắn này rồi, thế là nhất thời trở nên khó xử. Hoàng thượng theo đuổi con gái nhà người, bọn họ làm sao dám đuổi theo quá sát, nhưng dẫu gì thì nơi này cũng không phải là hoàng cung đại nội, ngộ nhỡ Hoàng thượng gặp phải chuyện gì thì biết làm thế nào?
Thế là mấy viên thị vệ chỉ đành cắn răng bám theo cách một khoảng. May mà khu vực này là chỗ ở của đám tôi tớ nên cũng không được trông giữ nghiêm ngặt lắm, vả lại hôm nay có nhiều gia bộc và thân binh của các vị tướng quân và đại nhân mới đến vương phủ lần đầu, chỗ nào cũng cảm thấy mới lạ nên thỉnh thoảng cũng có người chạy sang chỗ chái điện bên này ngắm nghía. Thêm nữa bởi hôm nay là ngày vương gia nạp phi, nô bộc đều ở bên ngoài đón khách nên chốn này cũng không có mấy người, vì vậy bọn họ có thể vào trong sân của khu nhà ngang một cách thuận lợi.
Chính Đức vội vã đuổi theo, hắn thấy người thiếu nữ bước khoan thai nhẹ nhàng đến trước một căn phòng, vừa lúc có một bà lão đi ra ngoài lấy mấy bó rau phơi ngoài khung cửa. Người thiếu nữ đó liền cất giọng thưa:
- Mẹ, con đã về.
Bà lão có vẻ mặt hiền hậu ngẩng đầu lên, trông thấy con mình liền lập tức nở một nụ cười vui vẻ, bảo:
- Lương Nữ đó à, nương nương lại thưởng cho chim anh vũ à? Mau đem nó vào phòng sưởi đi, đừng để nó bị lạnh. Mẹ làm một ít thịt heo hầm rau khô, chốc nữa nhớ gọi cha con về ăn nhé.
Người thiếu nữ dạ một tiếng giòn tan, đoạn rẽ sang một căn hầm sưởi nhỏ bé ở bên cạnh, mở cửa bước vào. Bà lão cũng mang mỠrau khô trở về phòng. Chính Đức thoáng ngừng bước: "Lương Nữ? Mẹ? Nàng ấy... nàng ấy không phải là Đường Nhất Tiên sao?"
Chính Đức cố nhớ kỹ lại. Tuy bình thường khi nhớ về vị cô nương này trong đầu hắn chỉ thấy một bóng hình xinh đẹp mờ ảo mang theo một chút ấm áp và hương thơm nhàn nhạt, nhưng khi vừa trông thấy nàng, Chính Đức lại nhớ rõ hình dáng của nàng ngay: tuổi tác, vóc người, giọng nói, còn cả nốt ruồi duyên trên mép môi nàng. Trên đời có sự trùng hợp đến vậy ư?
Chính Đức lại cất chân đuổi theo rồi cũng chui vào trong phòng sưởi. Đám thị vệ đưa mắt nhìn nhau, không nói mà ngầm hẹn tản ra, đứng vây lấy căn phòng sưởi đó lại. Bước vào căn phòng sưởi,người thiếu nữ nhón chân mở một cái lồng tre thả con chim anh vũ vào rồi cài chốt đóng lại. Nghe thấy tiếng cửa cót két, nàng vội quay đầu nhìn lại, ngạc nhiên hỏi:
- Là ngươi? Ngươi đuổi theo ta làm gì?
Hơi thở của Chính Đức có phần gấp gáp. Hắn định thần lại, đỏ mặt nói:
- Đường cô nương, cô có thể không nhớ ra ta, nhưng chắc cô phải nhớ Dương Lăng chứ? Y vẫn luôn phái người tìm cô suốt, sao cô lại đổi tên họ và vào phủ Đại vương vậy?
Người thiếu nữ vận bộ đồ trắng trang nhã, càng làm nổi bật vẻ xinh đẹp hữu tình. Nàng nghiêng người dựa cạnh một dãy lồng trúc, lấy tay vén tóc mai, hơi đảo mắt, mỉm cười:
- Dương Lăng? Ngươi nói đề đốc Dương Lăng của Nội xưởng hả? Ta biết chứ, con hát đạo tình(1) khắp Đại Đồng đều biên các câu chuyện của y thành từ khúc để hát, đương nhiên là ta từng nghe qua. Y tìm ta...
Nói đến đây, khuôn mặt xinh xắn đột nhiên biến sắc, nàng bước vội đến trước mặt hắn hỏi dồn:
- Ngươi nhận ra ta? Ngươi biết ta tên gì sao? Ngươi hãy mau nói cho ta biết đi. Ta là ai? Dương đại tướng quân tìm ta để làm gì?
Chính Đức ngơ ngác hỏi lại:
- Cô... cô không biết tên mình sao?
Người thiếu nữ nguýt một cái dài thượt rồi sốt sắng đáp:
- Ta mà biết thì còn hỏi ngươi à? Ta được vương phi nương nương cứu về, nương nương nói lúc tìm thấy ta thì ta đang nằm ven bờ sông, mặt mày đầy máu, sau khi tỉnh lại thì không nhớ gì cả. Ta cũng không biết mình là ai, không biết trong nhà có còn cha mẹ anh em gì không. Ngươi bảo... ngươi bảo ta họ Đường hả?
Nói đến khúc sau, giọng nàng đã trở nên run run. Mặc dù vợ chồng Lưu Lương đối xử với nàng như con ruột, song muốn tìm lại người thân máu mủ của mình là bản tính con người. Ai cũng nói nàng có lai lịch không rõ ràng, nay có cơ hội biết được xuất thân của mình thì sao tâm tình nàng không kích động và hưng phấn cơ chứ?!
Chính Đức lẩm bẩm: "Chứng mất hồn?" Hắn bỗng vỡ lẽ. Ngày đó khi Dương Lăng bẩm báo với hắn từng kể rằng trên vách núi phát hiện thấy một chiếc chuôi đao và và một tảng đá dính máu, bên trên còn bệt tóc và máu tươi. Ắt hẳn là do Đường Nhất Tiên bị đập mạnh vào đầu, lại rơi xuống nước nên mới mắc phải chứng bệnh mất hồn.
Biết người con gái trước mặt này đúng thật là Đường Nhất Tiên, Chính Đức mừng rỡ như điên. Hắn liền nắm lấy cổ tay Đường Nhất Tiên nói nhanh:
- Vậy thì đúng rồi! Quả nhiên cô là Đường Nhất Tiên. Cô chính là Đường Nhất Tiên, cô là... là...
Nói đến đây hắn chợt nghẹn lời. Hiện hắn đã không còn ngây ngô như khi còn làm thái tử, cũng biết phụ nữ chốn thanh lâu có thân phận rất thấp hèn, nếu hắn nói thật chỉ sợ sẽ khiến Đường Nhất Tiên xấu hổ và nhục nhã. Hắn ấp a ấp úng một lúc rồi buột miệng nói bừa:
- Cô là em... em gái của Dương Lăng Dương đại tướng quân.
Cái miệng chúm chím anh đào của Đường Nhất Tiên há ra tròn vo, cặp mắt sáng như sao trời ngây ra, nàng chăm chú nhìn Chính Đức thật lâu, vẻ vui mừng trong mắt bỗng dần biến mất. Nàng giật mạnh tay ra khỏi tay Chính Đức, lui về sau mấy bước, thuận tay quơ lấy một cây móc tre dùng để treo lồng chim rồi cảnh giác trừng mắt với Chính Đức, giận dữ bảo:
- Ngươi nói mấy lời ngon ngọt đó để làm gì? Tính gạt ta hả?
- Hả! Tôi gạt cô? - Chính Đức có phần hốt hoảng, - Chẳng lẽ tôi lại không có thiên phú nói dối đến như vậy sao?
Đường Nhất Tiên cười khẩy, mũi ngọc hếch lên, đắc ý như thể đã phát hiện được quỷ kế của hắn:
- Dương đại nhân họ Dương, vừa rồi ngươi lại bảo ta họ Đường, vậy còn không phải là buột miệng nói liều sao? Đồ lừa đảo, thấy sắc nổi lòng!
Đường Nhất Tiên vừa nói vừa tức giận vung mạnh cây gậy, "vù" một tiếng, cây móc tre quất trúng bắp đùi Chính Đức. Hắn la lên "ui da" rồi ôm chân nhảy lò cò tại chỗ. Đường Nhất Tiên thấy vậy thì không nhịn được bật cười phì. Dứt tiếng cười, nàng liền đanh mặt quát khẽ:
- Tiểu tử thúi, mau cút ra ngoài đi! Xui cho ngươi nghĩ ra cái cách láo khoét như vậy để gạt bản cô nương. Có điều... Đường Nhất Tiên... ừm, cái tên ngươi buột miệng nói liều lại nghe hay hơn Lưu Lương Nữ một chút. Hi hi!
Nghe thấy tiếng la oai oái của Hoàng thượng, hai gã thị vệ đang đứng sát ngoài cửa liền như mèo hoang bị giẫm phải đuôi, họ vội giật bung cả cánh cửa, cùng chen nhau xông vào, hốt hoảng gọi:
- Hoàng... Hoàng hiệu úy, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Chính Đức thẹn quá hóa giận, liền quát lên:
- Cút ra ngoài cho ta, không phải chuyện của các ngươi!
Hai viên thị vệ trông thấy tình hình liền biết Hoàng thượng tán gái không thành, đích thực là một chuyện cực kỳ mất mặt của vị nam nhân đứng đầu thiên hạ. Hai tay cao thủ nhất lưu võ công cao cường ngay cả rắm cũng không dám đánh liền lập tức chui trở ra ngoài, tiện tay xách cánh cửa ra luôn.
Đường Nhất Tiên tặc lưỡi khinh thường:
- Ơ này! Hoá ra ngươi nhỏ như vậy mà đã là quan hiệu úy à! Nhưng mà nơi đây là phủ Đại vương, không cho phép người làm càn, bản cô nương mà la lên là tiểu tử thúi nhà ngươi sẽ bị tống vào đại lao đó. Đi ra mau lên!
Chính Đức khổ sở trần tình:
- Đường cô nương, tôi không có gạt cô đâu! Cô là... cô là biểu muội của Dương đại nhân, đương nhiên không cùng họ với y rồi.
- Hả?
Đường Nhất Tiên nhìn y chằm chằm, bán tín bán nghi, một lúc sau mới từ từ hạ cây gậy tre xuống, ấp úng:
- Ngươi... ngươi nói có thật không? Ta... ta là biểu muội của Đề đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương tướng quân ư?
Chính Đức gật đầu lia lịa:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Cô thử nghĩ xem, đây là vương phủ, tôi sao dám nói càn? Cho dù tôi gạt cô đi nữa thì chốc nữa Dương đại nhân đi ra gặp cô, y cũng sẽ không giúp tôi gạt cô, đúng không?
Đường Nhất Tiên ngây người tại chỗ, hai mắt nhìn vào khoảng không, cũng không biết miệng nàng đang lẩm bẩm cái gì. Một lúc lâu sau nàng mới vứt cây gậy tre đi rồi reo lên:
- Mau, ngươi mau đưa ta đi gặp biểu ca! Hoá ra ta có biểu ca là đại tướng quân oai phong như vậy.
Đường Nhất Tiên vui sướng định chạy ra cửa, Chính Đức giật mình đánh thót. Nếu bây giờ đưa nàng đi gặp Dương Lăng, đảm bảo sẽ bị lộ ngay. Tuy rằng với quyền lực Hoàng đế của mình, không người con gái nào hắn muốn mà không thể triệu được vào cung. Nhưng hắn lại không muốn gây nên chuyện khiến Đường Nhất Tiên không vui. Huống chi hắn thà mong Đường Nhất Tiên cứ lớn giọng nói chuyện với hắn, chứ không mong nàng khép na khép nép như những người con gái khác.
Chính Đức vội tìm lời ngăn cản:
- Hiện tại hẳn là Dương đại nhân đang tham gia lễ nạp phi của Đại vương trên điện Ngân An, lúc này mà đi đến trước mặt vương gia sẽ thất lễ, Dương tướng quân cũng sẽ bị trách phạt. Tôi là thân binh của y, có dịp tôi sẽ đích thân đi gặp y. Các người li tán đã lâu như vậy, có lâu thêm một chút cũng đâu sao!
Trong lòng dạt dào niềm vui sướng, Đường Nhất Tiên gật đầu nhoẻn miệng cười tán thành:
- Ừm ừm! Ngươi nói cũng đúng. Đúng rồi, Hoàng... hiệu uý, cha mẹ ta đâu? Các vị đang làm gì? Nghe nói biểu ca là người Tuyên Phủ, ban sơ gia cảnh bần hàn, vậy cha mẹ ta chắc cũng là người dân bình thường hả?
- À... chuyện đó,... Mấy năm vừa rồi chiến loạn liên miên, lệnh tôn và lệnh đường sớm đã... Họ Đường hiện chỉ còn mỗi mình cô thôi, là... là Dương đại nhân nuôi dưỡng cô.
Chính Đức vừa trả lời vừa lén quệt mồ hôi trên trán.
- Ồ...!
Đường Nhất Tiên cảm thấy hơi mất mát, có điều trong ký ức của nàng không hề có chút ấn tượng gì về cha mẹ, cho nên cũng không thể nói là đau lòng.
- Ta lớn lên trong nhà của biểu ca sao? Đúng rồi, tại sao ta lại bị thương vậy. Ngươi là thân binh của biểu ca, ngươi có biết không?
- Khụ khụ! Chuyện này... nói ra thì dài lắm...
Chính Đức kể đến độ nước bọt văng tứ tung, bịa chuyện càng lúc càng quá đà. Hắn chợt cảm thấy hoá ra mình cũng có thiên phú tán hươu tán vượn đến thế.
*****
Vui sướng lâng lâng một lúc thật lâu, Đường Nhất Tiên chợt lưu luyến nói:
- Than ôi! Gặp biểu ca rồi, ta sẽ phải theo huynh ấy trở về kinh sư. Cha mẹ đối đãi với ta tốt như vậy...
Trông thấy vẻ mất mát của nàng, Chính Đức chợt mềm lòng liền vội dỗ dành:
- Dương đại nhân cũng đối xử với cô rất tốt! Chỉ cần cô nói một tiếng, nhất định y sẽ cho phép cô mang vợ chồng Lưu thị về kinh ngay.
- Thật không? - Đường Nhất Tiên mừng rỡ, - Vậy tốt quá rồi, cha và mẹ đối đãi với ta như con ruột của mình, ta thật không nỡ xa rời các vị. Chao ôi, có điều mấy con chim này đã bầu bạn với ta lâu như vậy, bọn chúng đều là bảo bối yêu của nương nương, sau này ta đi rồi sẽ không gặp lại chúng nữa.
Đường Nhất Tiên buồn bã ngước nhìn những chiếc lồng chim muôn hình muôn vẻ; từng con chim đang nhảy nhót líu lo ríu rít trong lồng.
Chính Đức say mê nhìn nàng đi đến bênừng chiếc lồng chim đang treo, chốc chốc lại chúm môi lại huýt sáo. Tiếng huýt sáo phát ra nghe êm tai hệt như tiếng chim hót, khiến đám chim nhảy chồm về phía trước vui hót không ngừng. Hai má nàng đỏ bừng; má đào da ngọc, cặp mắt lanh lợi, quyến rũ không nói nên lời.
- Nè, Hoàng hiệu úy! Giúp ta mang nước lại đây.
Như nhận được chiếu chỉ, Chính Đức liền vội xắn tay áo chạy đến góc tường xách một thùng nước to vui sướng mang lại cho Đường Nhất Tiên.
Đường Nhất Tiên ngoái đầu lại nhìn, thấy vậy thì bật phì cười, mắng:
- Ngươi thật là ngốc! Thật không biết sợi thần kinh nào của biểu ca bị bất thường nữa mà lại để cái tên ngốc nhà ngươi làm thị vệ. Mấy con chim này cộng lại cũng uống không hết một gầu nước, sao ngươi xách cả thùng qua đây làm gì?
Chính Đức cười ngây ngô mấy tiếng, chỉ cảm thấy người con gái này khi cáu gắt cũng có vẻ phong tình khác lạ, thế là hắn càng cảm thấy yêu thương hơn. Trong vườn thượng uyển của hoàng cung, hắn suốt ngày sinh sống trong ổ của đám nữ nhân, ngay cả lúc đi ngoài cũng có cung nữ xinh đẹp hầu hạ. Hắn lớn đến chừng này, ngoại trừ thái giám thì gặp nữ nhân là nhiều nhất; thái giám và nữ nhân vây quanh hắn thường xuyên như việc mặc quần áo mỗi ngày vậy. Hắn cũng đã quen đối xử với đám người đấy như một vật trang trí rồi.
Nhưng Đường Nhất Tiên lại tạo cho hắn một cảm giác hoàn toàn khác biệt. Ở trước mặt nàng hắn không cần phải giả đò ra vẻ cao quí, cả người thoải mái thong dong. Trong thâm cung đại viện, bề ngoài thì hắn luôn vui đùa không nghỉ, song khi tuổi tác lớn dần, hắn cũng thường xuyên cảm thấy rất ức chế và cô đơn.
Mỗi khi trên trời có chim ưng hay hồng nhạn bay qua, hắn liền bó tay vào tay áo mà ngữa đầu ngước nhìn bầu trời, ánh mắt dõi theo thật xa. Hắn vừa nhìn vừa hâm mộ, mãi đến khi không thấy bóng dáng con chim ấy đâu nữa. Mặt trời lặn trên sông dài, cuối thu giữa đại mạc, ... thật là thong dong biết bao,... còn trong tòa nhà to lớn, quanh co và hùng vĩ ấy, khắp chỗ đều là những cấm kị và lễ nghi; Hoàng đế còn không bằng cả một con chim tự do.
Đường Nhất Tiên trông bộ dạng lóng ngóng tay chân của hắn thì cười bảo:
- Xem ngươi kìa, sao giống như thường ngày không phải làm gì hết vậy?
Chính Đức liền đáp:
- Đúng đó! Từ nhỏ tôi ở trong một căn nhà lớn ơi là lớn, chỗ đó không cho đi lại, suốt ngày bị nhốt bên trong, quy củ nhiều ơi là nhiều. Mãi đến khi gặp được Dương... đại nhân, tôi mới được ra ngoài mở mang kiến thức.
- Ồ? Nghe ra vẻ ngươi còn là con cháu thế gia vọng tộc à?
Đường Nhất Tiên khẽ nhíu đôi mày thanh tú, đưa tay vin đầu như có điều suy nghĩ
- Ta nhớ... nhớ lúc nhỏ cũng ở trong một căn nhà lớn. Cả ngày ở đó cũng không được đi đâu, hàng ngày đều bị nhốt ở trong đó, chỉ có thể ngẩng đầu ngước lên nhìn một mảnh trời, bị nhốt đến mụ mị cả người. Lạ thật, sao ta lại có cảm giác này nhỉ?
Cặp con mắt Chính Đức sáng ngời:
- Vậy sao? Hoá ra cô và tôi đều thê thảm như nhau. Nhưng mà tôi thực sự đáng thương hơn cô nhiều! Chẳng những bọn họ không cho tôi ra ngoài, mỗi ngày còn bắt tôi học này học nọ, mặc kệ tôi thích hay không, luôn ép tôi phải học...
Đường Nhất Tiên chợt vỗ tay la lên:
- Ta nhớ ra rồi! Ta cũng vậy đó, thứ gì cũng phải học, ăn thế như nào, mặc ra làm sao, đi đứng phải thế nào, hệt như con rối vải mặc cho người ta đưa đẩy vậy. Còn phải học nào là cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, rất là chán, ta lại không được đi thi Trạng Nguyên... Ui da, lại nhức đầu rồi. Ta chỉ có thể nhớ bấy nhiêu.
Chính Đức hào hứng nói theo:
- Đúng đó, tôi cũng vậy! Tôi thì lại không muốn thi Trạng Nguyên, học nhiều như vậy để làm gì, nhức đầu lắm!
Hắn càng nói càng thấy ăn ý, cảm thấy tri âm trong thiên hạ chỉ có Nhất Tiên cô nương mà thôi. Đoạn hắn ngẫm nghĩ, thấy nỗi khổ của một người đường đường làm vua như mình thế mà lại giống nỗi đau của một người kỹ nữ được thanh lâu bồi dưỡng để lấy sắc mua vui cho thiên hạ, thì lại cảm thấy dở khóc dở cười.
Đường Nhất Tiên nghe xong thì bật cười, liếc nhìn hắn mỉm cười bảo:
- Này tên lười! Ta là nữ nhân mà, đương nhiên không cần thi Trạng Nguyên. Ngươi là nam nhân, đáng ra nên đọc sách cho tốt. Thấy chưa, không lo đọc sách cho tốt, giờ chỉ có thể làm thị vệ mà thôi.
Chính Đức cười khan hai tiếng rồi rờ mũi nói:
- Như vậy càng tốt, tự do tự tại. Làm trạng nguyên có gì hay chứ? Nhiều quy củ, lắm lễ nghi. Chậc, cô không biết đâu, cả ngày phải nói những lời giả dối với rất nhiều người, nghĩ một đằng nói một nẻo, giả vờ giả vịt, cho dù trong lòng không vui cũng phải ngoác miệng mà cười...
Đường Nhất Tiên kinh ngạc:
- Thật đó! Ngươi nói như vậy ta mới nhớ, hình như ta cũng vậy...
Vừa nói đến đây, nàng chợt biến sắc hỏi:
- Tại sao lại có những chuyện này? Có phải là biểu ca của ta đối xử với ta không tốt?
Chính Đức liền vội đáp:
- Không đâu, không đâu! Dương đại nhân rất yêu thương cô, những chuyện đó nhất định là xảy ra khi cô còn rất nhỏ, lúc cô còn ở trong nhà mình rồi.
Đường Nhất Tiên nghiêng đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu hài lòng:
- Ừm! Có lý, hình như là chuyện lúc ta còn rất nhỏ. Đúng rồi, ngươi nói cho ta biết trước biểu ca ta bao nhiêu tuổi, diện mạo thế nào đi. Hình như ta có một ít ấn tượng về anh ấy.
- Dương đại nhân ấy à?
Chính Đức ưỡn ngực, vuốt lại vạt áo, nghiêm mặt nói:
- Y năm nay mới tròn hai mươi, anh tuấn bất phàm, phong lưu lịch lãm, khí vũ hiên ngang , phong lưu phóng khoáng,. .. Đại để cô thấy bộ dáng tôi thế nào thì đại khái có thể tưởng tượng được bảy tám phần rồi đó. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực bên cạnh Hoàng thượng, mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng...
*****
Vào lúc này, vị Dương Lăng Dương đại khâm sai "mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng" trong miệng Chính Đức đang bị Dương Đình Hoà, Hồ Toản và vị tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ mà ban đầu y không nhận biết xô đẩy đánh đập mắng chửi trong điện Cẩn Đức, bộ dạng nhếch nhác khôn thôi. Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đứng một bên, mặt mày khó xử, cũng không biết nên khuyên ai cho phải.
Trương Vĩnh cũng biết võ, trong lúc hỗn loạn không biết bị ai đạp cho một phát nên lão định xông lên báo thù nhưng bị Đại vương gia quát bảo dừng lại, nên đành nhặt chiếc đai ngọc bị giật đứt từ dưới đất lên rồi căm tức đứng sang một bên.
Dương Lăng trẻ trung khoẻ mạnh, cộng thêm mấy ngày qua theo Ngũ Hán Siêu luyện tập võ công, được danh sư chỉ điểm cho nên y cũng biết chút kỹ xảo quyền cước thông thường. Nếu thực sự động thủ thì ba vị quan văn này cũng không phải đối thủ của y, nhưng mà người trẻ nhất trong ba vị này cũng đã bốn lăm bốn sáu tuổi rồi, sao y dám ra tay?!
Lần trước Dương Đình Hoà bị cái gã Lưu Đại Bổng Chùy của y lỗ mãng đánh gãy chân ngựa, đành đưa hai vị "thầy đồ" lo lắng ủ rũ trở về kinh thành. Lão lại bị ba vị đại mẫu nghi thiên hạ già lớn trẻ trách mắng cho một chập, thế là bèn vác một bụng tức khí đến bộ Binh, lấy giấy thông quan cho phép vượt quan ải, tiện đường qua Tuyên Phủ lại mang theo cả vị tiến sĩ đồng khoa là tuần phủ Tuyên Phủ Uông Dĩ Hiếu đi cùng.
Trước tiên lão bí mật gặp mặt Đại vương, nói rõ ngọn ngành việc Hoàng đế bí mật đến Đại Đồng, định tập hợp sức mạnh của chúng quan để đàn áp thói kiêu ngạo của Dương Lăng. Chính Đức đến được Đại Đồng đều là do Dương Lăng xúi bẩy, nếu như y cũng thay đổi ý kiến, chịu khuyên nhủ Hoàng đế hồi kinh thì Dương Đình Hoà cũng sẽ chẳng thèm so đo mối hiềm khích đánh gãy chân ngựa với y nữa.
Ai dè sau khi Dương Đình Hoà trần tình, thuyết phục hết nước hết cái mục đích đến đây của mình rồi, Trương Vĩnh lại bước lên. Trước tiên, lão phán một câu "Hoàng thượng có chỉ, nô tài không dám không theo", sau lại một câu "dưới khắp gầm trời không chỗ nào không phải là đất của nhà vua", rằng Hoàng thượng tuần tra xem xét giang sơn cũng là việc thiên kinh địa nghĩa, vừa nói vừa cười toe toét, đùn đẩy hết mọi thứ sang cho Hoàng thượng, hoàn toàn không hề nhượng bộ.
Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ nghe xong thì nổi giận đùng đùng. Lão không ở trong kinh thành, Trương Vĩnh lại mới nhậm chức đề đốc Kinh doanh mới được mấy tháng, tính tình lại không hống hách như Lưu Cẩn, nói một cách tương đối thì lão ta khá là khiêm nhường, cho nên Uông Dĩ Hiếu không biết sự lợi hại của lão. Thế là Uông tuần phủ bèn xông lên phía trước mắng cho một câu:
- Bề tôi chúng tao trực ngôn khuyên can báo quốc, cái tên hoạn mày nhiều chuyện cái gì?
Dứt lời liền cho mặt Trương Vĩnh ăn một quả đấm già.
Trương Vĩnh nào chịu bỏ qua, thế là hai người tức thì túm lấy nhau mà đấm đá. Dương Lăng vốn định nhẫn nhịn để đặng yên thân, tính bước lên khuyên giải cùng đám người Dương Đình Hoà, nào ngờ hai bên đều ôm đầy bụng lửa giận, chưa nói được mấy câu thì cũng đã lao vào tham chiến.
Đại vương giận đến run rẩy chòm râu, mắt trợn trừng. Lão sớm nghe kể quan viên kinh sư được Hoằng Trị lão gia tử nuông chiều đến độ hồ đồ, hở một tí lại xúm vào diễn vai võ phụ(*) trên triều đình, Lý Đông Dường còn từng giật lấy kim qua của võ sĩ mà rượt đánh Thọ Ninh Hầu trên kim điện. Chuyện này truyền đến kẻ sĩ trong dân gian lại được đám người đọc sách xem đó là giai thoại đáng được ca tụng mà cổ vũ cho cái tập tục đó. Nay xem ra quả nhiên là đúng thật. (*: vai quần chúng đánh nhau trong kịch)
Đại vương quát to:
- Lẽ nào lại vô lý như thế? Tất cả hãy dừng tay lại cho bản vương! Các ngươi đều là quan lớn nhất phẩm nhị phẩm của triều đình, nay ra tay đánh nhau ở đây thì còn ra thể thống gì nữa?
Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ chắp tay thưa với Đại vương:
- Vương gia! Hoàng thượng mới kế vị ngôi vua, chưa con nối dõi, thân quý nghìn vàng sao có thể xem nhẹ mà dấn thân vào nơi nguy hiểm? Trước kia cho dù thiên tử ở tại cấm cung, bốn phía cũng vẫn được canh gác cẩn mật. Dương Lăng luôn miệng vì xã tắc giang sơn, song lại coi Hoàng thượng như quân cờ của hắn, dẫn bừa đến vùng đất đao thương này. Ngộ nhỡ xảy ra bất trắc gì, cái họa người đánh chùy ở bãi Bác Lãng(2) hãy còn đó, hạ quan sao có thể không lo như có lửa đốt trong lòng?
Hôm đó Hồ Toản ở thế bị Hoàng đế và Dương Lăng ép buộc nên không thể không ngầm bằng lòng cho vua đến Đại Đồng, nhưng trong lòng vẫn hết mực phản đối chuyện này. Nay có chỗ dựa lớn là Dương Đình Hoà nên đương nhiên lão cũng muốn khuyên nhủ Hoàng thượng sớm ngày hồi kinh.
Lão giũ giũ chiếc quan bào nhăn dúm dó, cũng không thèm nhặt chiếc cánh chuồn bị vặt đứt vứt lăn lốc trên mặt đất, chỉ đội chiếc mũ một cánh mà thưa với Đại vương:
- Vẫn mong vương gia làm chủ chuyện này. Hoàng thượng là thiên hạ chí tôn, đáng nên chuộng chánh học(3), thạo ngôn lộ(4), giữ danh hiệu, cai vui chơi, bỏ tiểu nhân, tường kẻ nghịch; làm cả sáu điều thì mới có thể ngăn họa, mới có thể dẹp loạn vậy. Thay vì dấn thân tôn quý vào chốn hiểm nguy, chi bằng chuộng tích đức, dưỡng nhân tâm, thì mới rũ tay không làm mà vẫn yên trị.
Ở đây Đại vương có thân phận cao nhất, nhưng bởi thế lão nói chuyện càng phải kiêng dè nhất, không thể ăn ngay nói thẳng như mấy ngoại thần này. Lão là người trong hoàng tộc, nếu can thiệp vào quá sâu sẽ khó tránh bị Hoàng đế kiêng kị, song nếu bỏ mặc bàng quang, lỡ mà thật sự Hoàng thượng xảy ra chuyện gì trên đất của lão thì khi đó lão có muốn khóc cũng sẽ không kịp nữa.
Đại vương bèn ho khan mấy tiếng, vừa định trù liệu chút lời mềm mỏng để khuyên nhủ hai vị khâm sai, thì Dương Lăng đã cười khẩy nói:
- Dưỡng nhân tâm? Dưỡng nhân tâm như thế nào? Cái kiểu dưỡng nhân tâm giống như Lưu A Đẩu vui quên nước Thục(5) đấy ư? Hay là dưỡng nhân tâm như Lý Hậu Chủ vui vầy với trăng hoa gió tuyết(6)? Hai kẻ nhu nhược đó dưỡng nhân tâm đến mất cả nước đó!
Giặc mạnh ở ngay sát bên người, thiên tử không biết việc quân, không thạo việc võ, liệu có được không? Hoàng đế giặc Thát thì ở ngoài Trường Thành cưỡi ngựa bắn tên, dẫn đại quân tác chiến, thiên tử chúng ta hiện còn ở trong thành Đại Đồng mà các người đã run rẩy sợ hãi, đó là trung ái hay là chiều hỏng?
Uông Dĩ Hiếu cố cưỡng từ đoạt lý:
- Đại Minh ta quốc thái dân an, ca múa thanh bình, một đám rợ Hồ không biết nông canh ngẫu nhiên vượt qua biên cảnh mà là họa tâm phúc cái gì? Nó chỉ là mụn ghẻ, hà tất vì mong kết đồng minh mà Hoàng thượng phải hạ thấp thân phận đi đến biên thùy!
Lời này nói ra khiến Hồ Toản và Dương Đình Hoà không khỏi thoáng nóng mặt, cảm thấy có phần thẹn với lòng. Dương Lăng nghe xong thì cười lớn hai tiếng, đáp trả:
- Mụn ghẻ? Nói chi xa, chỉ nói mấy năm gần đây, năm Hoằng Trị thứ bảy, Thát Đát quấy nhiễu Tuyên Phủ, vây Xích thành, sát hại hàng trăm bá tánh, toàn bộ dân chúng trấn Phụng Nghĩa đều bị giết sạch.
Năm Hoằng Trị thứ tám, Thát Đát tập kích Ứng châu, cướp đi hơn ba trăm đinh tráng.
Năm Hoằng Trị thứ chín, chúng tấn công Kế châu, thiêu hủy hết hoa màu và rừng cây ngoài thành, phụ nữ bị bắt có đến chín trăm.
Năm thứ mười, chúng xâm lược Túc châu, Cam châu, lừa ngựa bò dê bị cướp có mấy nghìn, hơn năm trăm đinh tráng và phụ nữ bị bắt, người già trẻ nhỏ bị giết có gần ba nghìn, thây chất đầy đồng, nước xanh hoá đỏ. Cùng năm đó, chúng cướp Úy châu, thiêu rụi hơn nghìn thôn làng, nạn dân vô số.
Năm thứ mười hai...
Năm thứ mười ba...
Mặt Uông Dĩ Hiếu trắng bệch, mồ hôi túa ra đầm đìa. Thát Đát xâm lược biên cương là chuyện năm nào cũng có, hơn nữa năm sau luôn hung hãn hơn năm trước. Bò ngựa và phụ nữ bị chúng bắt đi cũng mỗi năm một nhiều hơn, quan binh bị giết hại cũng từ mấy trăm lên đến hàng nghìn, hàng vạn. Rõ ràng thế lực Thát Đát càng lúc càng lớn, thế mà lại trợn mắt nói mò, hồ đồ nói rằng bọn chúng bất quá chỉ là mụn ghẻ, sao mà chính mình lại cứ nhai nhải mãi như thế?
Trong lúc đó Dương Lăng vẫn chưa tha:
- Năm thứ mười bảy, Thát Đát tấn công Vạn Toàn vệ, Bạch Dương khẩu, Ninh Vũ quan và Hoa Mã trì, quân sĩ chết hơn mấy nghìn. Giặc Thát lại tập kích Tuyên Phủ, Đại Đồng, quân tiên phong vào đến sát kinh đô và vùng lân cận, giết hại và cướp mất vô số dân chúng và bò dê. Mà năm nay, chúng lại xua bảy vạn quân thiết kỵ, ồ ạt kéo sang xâm lược. Uông tuần phủ, những chuyện mà ông nhìn như không thấy này, chẳng lẽ không phải hại nước hại dân?
Dương Nhất Thanh thấy sắc mặt đám người Hồ Toản tím tái, bèn thở dài một hơi, mở lời hoà giải:
- Dương đại nhân! Ý của các vị đại học sĩ đây là Hoàng thượng là chủ của tông miếu xã tắc, nên coi nhẹ việc chinh phạt, mà xem trọng xã tắc. Ngự giá thân chinh là chuyện rất không ổn thỏa.
Dương Lăng biết vị Dương tổng chế này trong lòng tán thành việc Hoàng đế ra mặt kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ cùng phân hoá và làm tan rã thế lực Thát Đát. Hơn nữa hắn cũng thấy được lợi ích về lâu dài trong đó.
Nhất là Dương Nhất Thanh đã dùng một kế cực kỳ hiểm độc, phái một cánh quân đơn độc theo kế sách "gậy ông đập lưng ông" lẻn vào đất giặc. Giặc Thát không có thành cao tường vững để thủ, không có trăm vạn sĩ tốt để cậy nhờ, một khi bị người khác xâm nhập vào ngôi nhà không được phòng vệ, thiệt hại của chúng sẽ hơn xa dân chúng Đại Minh.
Hắn kìm chân Bá Nhan ở biên quan, tiêu hao lương thảo và binh mã bọn chúng, lại dựa theo kế sách của mình mà phân hoá quan hệ giữa Bá Nhan và Hỏa Sư. Chính quyền người Thát Đát như tuyết lạnh thêm sương, trải qua một cuộc chiến này nhất định sẽ đại thương nguyên khí. Lúc này việc kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ sẽ càng tỏ rõ tầm quan trọng của nó: có sự khống chế và phối hợp của bọn họ, Thát Đát sẽ suy yếu dần mà không có cơ hội và thời gian để khôi phục nguyên khí. Tầm quan trọng sâu xa của nó quả thực hấp dẫn vô cùng, vì vậy rất đáng để mạo hiểm.
Từ điểm này có thể suy ra Dương Nhất Thanh đang đứng về phía y. Có điều hắn là người thuộc phe Lý Đông Dương, mà lúc này Dương Đình Hoà đang đại diện cho ba đại học sĩ đến khuyên bảo Hoàng đế hồi kinh, cho nên hắn không tiện công khai đứng ra bày tỏ thái độ cá nhân mà thôi.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng dịu giọng lại, như thể nói chuyện với Dương Nhất Thanh nhưng thật ra là nói với đám người Dương Đình Hoà:
- Vương gia, các vị đại nhân! Vừa rồi hạ quan đã nói rõ tầm quan trọng của việc Hoàng thượng đến đây. Hoàng thượng năm nay mười sáu, có trải luyện nhiều một chút mới có thể trở thành minh quân thiên cổ.
Phàm là minh quân, có ai mà sợ chiến sự? Hán Cao Tổ ngự giá thân chinh dẹp loạn Trần Hi, Anh Bố. Đường Thái Tông ngự giá thân chinh chế ngự Cao Ly. Hồng Vũ của bản triều bắt Trương Sĩ Thành, diệt Trần Hữu Lượng, có lần nào mà không ngự giá thân chinh? Càng không nói đến việc Vĩnh Nhạc Hoàng đế tự mình năm lần chinh phạt đại mạc phương bắc.
Giờ đây thiên tử tự đến biên ải chỉ là để bày tỏ thành ý với Đoá Nhan Tam Vệ. Nếu không làm vậy, đừng nói gì đến hùng tài đại lược; nếu quan binh chỉ rút cổ sau Trường Thành mà lấy đó là sự quang vinh, Hoàng thượng trốn chui ở Tử Cấm Thành lại coi đó là lẽ phải, thì sao xứng danh minh chủ muôn đời?
Y chậm rãi thở ra một hơi, thành khẩn nói tiếp:
- Vương gia và các vị đại nhân lo cho an nguy của Hoàng thượng, hạ quan sáng tỏ trong lòng. Đợi khi nhận được thư hồi âm của Hoa Đáng rồi, tại hạ nhất định sẽ đích thân đến Bạch Đăng sơn dò thám địa hình, bày quân ổn thoả, đảm bảo cho sự an toàn của Hoàng thượng. Mong các vị đại nhân hãy giúp Hoàng thượng hoàn thành một mảnh hùng tâm này.
Dứt lời Dương Lăng vái Đại vương và mấy người Dương Đình Hoà một vái thật dài. Mấy vị này nghe xong thì đưa mắt nhìn nhau. Dương Nhất Thanh và Hồ Toản thì hơi động lòng, Dương Đình Hoà lộ thần sắc do dự, Đại vương lại có vẻ trầm tư, chỉ riêng Uông Dĩ Hiếu vẫn trợn trừng đôi mắt dữ.
Nếu kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ mà Hoàng đế dẫn theo mười vạn đại quân, tiền hô hậu ủng, cuồn cuộn ngút trời, cách Đại Đồng chỉ hơn mười dặm, thì đương nhiên bọn họ sẽ không thèm sợ quân Thát Đát đến tập kích. Khó là khó ở chỗ các tướng giữ biên ải đã nhiều lần thất tín với Đoá Nhan Tam Vệ lắm rồi, tín nghĩa và danh dự của Đại Minh hầu như chẳng còn sót lại chút gì trong mắt Bá Nhan Tam Vệ. Nếu tụ tập đại quân, Hoa Đáng và thủ lĩnh các bộ lạc dám đến gặp hắn sao?
Còn muốn Đoá Nhan Tam Vệ cũng mang theo vài vạn nhân mã? Một là bọn họ không có nhiều tinh binh đến như vậy, hai là dọc đường ắt sẽ khó giấu được tai mắt của Thát Đát; cho nên binh sĩ mang theo tuyệt không thể quá nhiều. Năm nghìn quan binh mà quân Minh có thể điều động lên núi đã là cực hạn để Đoá Nhan Tam Vệ không nảy lòng e dè mà bỏ kết minh.
Nhưng năm nghìn quan binh thì chẳng chống chọi nổi được bao lâu với đại quân Thát Đát. Chẳng trách bọn họ lo lắng như vậy.
Trong điện yên tĩnh đến độ có thể nghe rõ tiếng kim rơi. Dương Đình Hoà trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên trợn trừng mắt quát:
- Dương Lăng! Nếu Hoàng thượng xảy ra chút ít bất trắc gì thì ngươi đừng trách bản quan không nể tình riêng mà xin ý chỉ diệt cửu tộc ngươi đó!
Lời lẽ nghiêm khắc, song ý tứ trong đó đã chính thức đồng ý với chuyến đi Đại Đồng của Hoàng đế. Dương Lăng nghe xong nhẹ nhõm cả người, trên mặt không khỏi lộ nét vui mừng. Đúng vào lúc này, bên ngoài chợt có một tiếng gọi vào nho nhỏ:
- Vương gia, giờ lành làm lễ đã đến, mời ngài đến điện Ngân An làm lễ.
Chú thích:
(1) hình thức diễn xuất lấy hát làm chính, đệm bằng trống và phách, chuyên diễn các tích của đạo giáo
(2) xem tích Trương Lương và người lực sĩ cầm chùy hành thích Tần Thủy Hoàng ở bãi cát Bác Lãng.
(3) học thuyết được cho là phù hợp với "chánh đạo". Vào thời Tây Hán, Hán Vũ đế đã ra lệnh dẹp bỏ học thuật của nhiều nhà, tôn sùng mỗi học thuật Nho gia (bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật), từ đó coi Nho học là chánh học.
(4) lắng nghe lời phê bình và kiến nghị
(5) Hán Thục sau khi bị diệt vong, Hậu chúa là Lưu Thiện bị giam lỏng trong kinh thành Lạc Dương của Ngụy. Một hôm, Tư Mã Chiêu dò hỏi ông ta có nhớ Tây Thục không, Lưu Thiện đáp rằng :"Ở đây vui lắm, không nhớ gì Thục nữa".
(6) Lý hậu chủ Lý Dực người nhân hậu và khá nhu nhược. Ông thường bị anh Lý Hoằng Ký đố kỵ truy sát, phải trốn chạy nhiều lần, do đó ông tỏ ra không quan tâm đến chính trị, không muốn tranh chấp. Hằng ngày, Tòng Gia dành phần lớn thời gian ngao du sơn thủy và hoạt động nghệ thuật.
Chương 194: Hoa Đáng Đến Rồi
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Bị Đường Nhất Tiên mắng cho một trận trước mặt người khác, xương cốt Chính Đức tức thì nhẹ tênh, mặt mày hớn ha hớn hở như thể rất có tiềm chất khổ dâm!
Thấy Hoàng đế lão gia hứng chịu sỉ vả một cách sung sướng như vậy, bọn đại nội thị vệ liền tự giác vứt bỏ sứ mạng "bảo vệ an nguy cho Hoàng thượng, che chở tôn nghiêm của Thiên tử" sang một bên, rồi cứ thực hiện theo đúng nguyên tắc "không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy"(1), ai nấy cắm đầu đi nhanh, vờ như không thấy.
Trên điện Ngân An, các vị đại nhân rành nhìn sắc diện phát hiện thấy vẻ mặt của hai vị khâm sai, hai vị tuần phủ và cả Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang đứng hàng đầu rất xấu, ngay cả Đại vương thiên tuế trông thấy vị tân nương mười sáu mười bảy thướt tha cũng dường như không cao hứng lắm. Mấy quan lớn địa phương này không biết chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều cẩn thận không dám to tiếng nói cười.
Vương gia nạp phi khác hẳn người thường cưới vợ, nghi thức lại gần giống như là quan viên nhậm chức vậy. Đầu tiên tổng quản thái giám tuyên đọc thánh chỉ của Hoàng thượng, tờ thánh chỉ này là do Dương Đình Hoà thảo ra, Chính Đức chỉ việc đóng kim ấn lên mà thôi. Có điều vị đại học sĩ làm văn hộ người khác này lại không lộ diện. Mặc dù lão không giấu giếm việc mình đến Đại Đồng, nhưng kẻ biết tin cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay, vì lẽ đó nên lão tránh mặt ở hậu điện.
Hoàng thượng cũng đã đến Đại Đồng, trừ phi ngài tự nguyện trở về, bằng không sẽ không thể trói gô ngài lôi về được. Dương Lăng không chịu phối hợp nên lão cũng không còn cách nào khác đành ngồi trong hậu điện khổ sở suy nghĩ mãi. Dương Đình Hoà vẫn chưa nghĩ ra được phương cách gì thì đã nghe trên điện Ngân An tấu lên tiếng nhạc cung đình hân hoan, lão chỉ biết lắc đầu cười khổ.
Cử xong đại lễ nạp phi rườm rà, bái lạy Vương gia và Vương phi xong, được sự gợi ý của vương gia, tân nương chậm rãi đi đến, tay ôm tước ngọc(*), kính rượu hai vị khâm sai. Tuy đối với vương gia, phẩm hàm của bọn họ không tính là cao nhưng họ đã cầm thẻ bài phụng chỉ tuần biên thì vương gia cũng không thể thất lễ trước mặt hai người này. Cũng không phải là Đại vương kính trọng bọn họ, mà là cung kính Hoàng đế sau lưng bọn họ mà thôi. (*: chén uống rượu ba chân bằng ngọc)
Trắc vương phi tên là Trác Đình, dáng người thon gầy, vận áo dài đỏ, khăn quàng vai, đầu đội mũ phượng, rèm châu đong đưa trước khuôn mặt xinh xắn nhưng lại không đeo khăn trùm mặt. Dáng người cô nàng mềm mại lả lướt, tuổi tuy chỉ mười sáu mười bảy song lại chất chứa muôn vẻ phong tình, có đủ ý vị, trông thanh nhã thoát tục, tự nhiên trang nhã, dịu dàng thanh tú, rất khác với con gái trong đất liền. Khó trách Đại vương lại ưu ái cô nàng như vậy, đã bỏ công xin chỉ ban cho nàng ta danh phận trắc phi.
Trắc vương phi kính rượu khâm sai xong, lại nhận rượu kính của quan viên văn võ, rồi dìu vương phi nương nương trở về hậu điện. Tiệc rượu được bày ra, các quan viên bắt đầu ăn uống linh đình, lúc này không khí mới trở nên sôi nổi.
Hai vị tuần phủ Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu nâng chén kính rượu Đại vương gia, xong lại sánh vai đến bàn của Dương Nhất Thanh, Dương Lăng và Trương Vĩnh, tươi cười nói:
- Chưa hết tháng giêng mà hai vị khâm sai đại nhân đã phải đi xa đến Đại Đồng thay vua tuần thú, tuy vất vả nhưng công lao to lớn. Dương tổng chế đích thân ra trận, dụng binh như thần, khiến cho đầu lĩnh quân giặc là Bá Nhan liên tiếp thất bại. Trăm họ Tuyên Phủ Đại Đồng có thể được bình yên đều nhờ các tướng sĩ quên mình phục vụ. Quan viên địa phương chúng ta đáng nên kính các vị đại nhân một chén, tỏ chút lòng ngưỡng mộ vậy, nhé? Ha ha ha...
Các quan viên nghe vậy liền đồng loạt nâng chén ủng hộ:
- Đúng thế! Đúng thế! Chúng tôi kính hai vị khâm sai, kính Dương tổng chế, mời ba vị đại nhân uống cạn chén này.
Dương Nhất Thanh mặt mày rạng rỡ cười đáp:
- Nào dám nào dám! Nói đến việc Dương mỗ phụng mệnh trấn thủ tam quan thì từ nay về sau cũng sẽ là tướng thủ Đại Đồng, là thuộc hạ của Đại vương thiên tuế, đáng nên cùng các vị đại nhân kính hai vị khâm sai, chúc Hoàng thượng chúng ta thiên thu vạn tuế, vận nước thiên hạ Đại Minh được hưng thịnh.
Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đều mỉm cười, như thể hoàn toàn không có can hệ gì với mấy kẻ hồi nãy xúm lại đánh Dương Lăng và Trương Vĩnh ở hậu điện vậy. Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau cười khổ một tiếng, liền cũng vội trương bộ mặt cười vờ vịt, nâng chén đáp lại.
Quan viên văn võ kính rượu vương gia xong thì phải kính rượu hai vị khâm sai và ba vị văn võ biên quan có phẩm hàm cao nhất. Loại thù tạc quan trường này tuy nhàm chán, nhưng là chuyện nể mặt nể mũi, vì vậy hai người Dương Lăng cũng chỉ có thể tươi cười mà bồi tiếp.
Qua ba tuần rượu, một vị thái giám vương phủ lặng lẽ đi vào ghé tai nói mấy câu với Đại vương. Đại vương gật đầu, tên thái giám đó liền đi về phía Dương Lăng, ghé tai nói nhỏ:
- Khâm sai đại nhân, thống lĩnh thị vệ của ngài có chuyện quan trọng muốn bẩm.
Dương Lăng hơi ngẩn người. Tuy đội nghi trượng thị vệ y mang theo gồm ba trăm người, song được vào vương phủ lại chỉ có mười hai, ở đâu ra thống lĩnh thị vệ? Nếu có thể ra lệnh cho đám đại nội thị vệ này như thế thì cũng chỉ có thể chính là hoàng đế Chính Đức mà thôi. Y bèn đứng dậy cáo lỗi với vương gia rồi vội vã bước ra ngoài.
Đám người Đại vương tuy biết Chính Đức đang ở trong quân, nhưng có nghĩ tét đầu cũng không tưởng tượng ra Chính Đức đường đường là thiên tử sẽ lại cải trang thành thị vệ theo hầu Dương Lăng đi dự tiệc, hơn nữa còn ở một mình chung với đám hạ nhân, tạp dịch, gia bộc và thân binh ở ngoại điện nữa.
Cho dù là Hồ Toản từng tận mắt gặp Chính Đức vận trang phục thị vệ thì cũng chỉ nghĩ đó là trang phục nhằm che tai mắt trên đường. Lão không tin hoàng đế Chính Đức là con rồng cháu phượng hậu duệ của thiên hoàng sẽ cứ mặc đồ sĩ tốt thấp hèn mãi, càng không ngờ Dương Lăng dám đại nghịch bất đạo đẩy Hoàng thượng xuống địa vị thấp như vậy, cho nên mấy người bọn họ không chút nghi ngờ.
Dương Lăng đi cùng tên thái giám đó ra khỏi điện Ngân An, qua hàng loạt cánh cổng cùng hàng hàng lớp lớp căn nhà mới đến ngoài cổng Thừa Vận. Quả nhiên y trông thấy Chính Đức đang cùng hai tay thị vệ đứng trước cổng, hai mắt sáng ngời, mặt mày đỏ au, chừng như đã uống rất nhiều rượu.
Dương Lăng mỉm cười khách sáo với viên thái giám nọ, nói khéo:
- Đã làm phiền công công rồi! Còn xin công công đợi tạm ở chỗ này, bản quan ra ngoài một chốc.
Dương Lăng ra khỏi cổng điện, vòng ra sau cây cột cạnh cổng. Chính Đức liền nắm lấy tay y lắc lấy lắc để, giọng run rẩy vì hào hứng:
- Dương thị độc, trẫm không mơ, trẫm đã gặp được nàng ấy rồi. Ha ha ha, trẫm thật vui.
Dương Lăng thấy mặt hắn đỏ au lại nói chuyện không đầu không đuôi, liền vội đảo mắt nhìn quanh, thấy không ai chú ý mới ngạc nhiên hỏi:
- Hoàng thượng đã uống say rồi à? Ngài đã gặp được ai mà vui như vậy?
Chính Đức mặt mày hớn hở, cười toe toét nói:
- Đường Nhất Tiên! Trẫm đã gặp lại Đường Nhất Tiên! Nàng ấy đang ở trong vương phủ. "Vào cửa vương hầu sâu tựa biển", khó trách thám tử của khanh tìm khắp nơi đều không thấy nàng ấy.
Dương Lăng thoáng sững người, rồi cũng thoắt trở nên phấn chấn, giọng run rẩy:
- Đường Nhất Tiên? Cô ấy chưa chết sao? Cô ấy còn sống?
Dương Lăng nắm chặt tay Chính Đức, chợt nhắm mắt ngửa mặt lên trời, sau một hồi mới thở ra một hơi thật dài, giọng kích động:
- Cảm ơn trời đất! Cô ấy bình yên vô sự thì tốt rồi. Cô ấy đang ở đâu?
Dương Lăng vừa nói vừa đưa mắt tìm quanh. Ngày đó quen biết với Tô Tam, Đường Nhất Tiên và Tuyết Lý Mai ở Thì Hoa quán, chính nhờ vào mối quan hệ của Đường Nhất Tiên mà Mã Vĩnh Thành mới đem bạc tới để y chuộc thân cho ba vị cô nương, nhờ vậy mà Tô Tam và Tuyết Lý Mai mới trở thành ái thiếp nghĩa nặng tình thâm với y.
Mà vị tiểu cô nương Đường Nhất Tiên vì giúp y bảo vệ cuốn sổ làm bằng chứng phạm tội của Bào tham tướng lại bị người ta đánh ngã xuống vách núi, sống chết không rõ, khiến y vẫn cảm thấy hổ thẹn khôn thôi.
Đường Nhất Tiên chịu cảnh tai bay vạ gió đều do y mà ra. Trong khi ân nhân thật sự cứu vớt Đường Nhất Tiên ra khỏi chốn trăng hoa ấy lại là Chính Đức, còn bản thân y chưa hề bỏ ra công sức hay ơn huệ gì; ngược lại còn nhờ nàng hy sinh tính mạng mới bảo vệ được cuốn sổ ấy, nhờ có chứng cứ hùng hồn đó mà y đã lật đổ được Bào tham tướng, nhờ vào quan hệ của nàng ấy mà y mới có cơ duyên cưới được hai người con gái tư dung xinh đẹp, tính tình dễ thương là Tô Tam và Tuyết Lý Mai. Vì vậy mỗi lần nhớ tới cảnh ngộ bất hạnh của nàng, trong lòng Dương Lăng đều nặng như đeo đá, giờ nghe nói nàng không có chuyện gì, có thể tưởng tượng là y vui sướng lẫn kinh ngạc biết dường nào.
Chính Đức vội lo lắng bảo:
- Nói nhỏ chút đi! Nàng ấy đi gặp cha mẹ nuôi của mình rồi, chốc nữa dự xong tiệc khanh hãy đón nàng ấy về như thế nào? Nhưng mà... nàng ấy đã mắc phải chứng mất hồn rồi, có lẽ do lúc ngã từ trên vách núi xuống bị va đập, đã hoàn toàn quên hết những chuyện trước kia rồi.
Dương Lăng nghe vậy thì ngẩn người ra, cảm thấy hơi buồn. Y ngơ ngác hỏi:
- Mất... hồn? Mất trí nhớ sao? Sao lại như vậy được? Không còn nhớ bất cứ thứ gì ư? Vậy thần sẽ dẫn cô ấy về thế nào đây, mà cô ấy chịu tin lời Hoàng thượng à?
Chính Đức vò đầu cười gượng đáp:
- Việc đó... nàng ấy không tin trẫm lắm, còn nghĩ rằng trẫm là tên bịp. Đùi trẫm bị ăn một gậy chắc là bầm cả rồi.
Có điều nàng ấy không tin lời của một hiệu úy cỏn con như trẫm song lại không có lý do gì mà không tin lời của kẻ đường đường là Dương đại tướng quân, cho nên trẫm mới nói với nàng ấy rằng nàng là biểu muội của khanh, cha mẹ mất cả, từ nhỏ đã ở cùng với khanh. Chốc nữa gặp nàng ấy khanh vạn lần chớ nói toạc ra đấy. Đường cô nương đã quên những chuyện trước đây, trẫm... không muốn để nàng biết những quá khứ không vui đó.
Nói đến đoạn cuối sắc mặt Chính Đức trở nên hết sức chân thành, hết sức nghiêm túc, trong mắt có thứ gì đó sáng long lanh. Dương Lăng khẽ gật đầu rồi chợt vỗ nhẹ vai Chính Đức, tuy y không nói gì song khoé môi lại nở một nụ cười thấu hiểu.
Trên mái hiên nhà, gió thổi tuyết rơi, tuyết vẩy lên cổ nghe lành lạnh, hai người bọn họ lại cảm thấy ấm áp trong lòng. Nếu đám quan văn trong triều trông thấy cử chỉ kích động gần như vượt quá khuôn phép của Dương Lăng, chắc chắn sẽ khó tránh lại giống như lần trước Vương Quỳnh trông thấy Dương Lăng ngồi cùng với vua mà nổi cơn thịnh nộ. Nhưng Chính Đức lại chẳng hề để ý đến chuyện này, hắn đọc hiểu được vẻ tán thành và cảm kích trong mắt Dương Lăng, trong lòng không khỏi cảm thấy vui vẻ và sảng khoái vô cùng.
*****
- Biểu... biểu ca!
Đột nhiên có thêm một biểu ca vừa xa lạ vừa anh tuấn, Đường Nhất Tiên gọi mà vẫn có chút chưa quen, nên ngượng ngùng cùng bẽn lẽn, gò má cũng hơi ửng hồng.
- Sao? - Dương Lăng gò ngựa chậm lại, ngoái đầu nhìn Đường Nhất Tiên đang ngồi trong kiệu xe, mỉm cười dịu dàng - Có chuyện gì?
- Biểu ca, nhà chúng ta có lớn không? Biểu tẩu... có thích muội vào ở hay không?
Đường Nhất Tiên nhíu đôi mày xinh xắn lo lắng hỏi.
Dương Lăng cảm thấy buồn cười, song thấy Chính Đức đang đi cạnh y mỉm cười đưa mắt âu yếm nhìn Đường Nhất Tiên, y bèn đáp:
- Yên tâm đi! Biểu tẩu của muội rất tốt, hơn nữa... trước khi xảy ra chuyện cũng đã rất hoà thuận với muội rồi. Chừng gặp lại muội, không biết ba vị biểu tẩu của muội sẽ vui biết chừng nào đây?
- Oa! Ba vị biểu tẩu cơ à? - Đường Nhất Tiên giật mình lè lưỡi, cười dí dỏm - Biểu ca thật là lợi hại, ba vị chị dâu nhất định đều là đại mỹ nhân trong kinh sư phải không? Muội không nhớ nổi biểu ca, cũng không nhớ được các chị ấy, kinh sư có hình dáng thế nào muội cũng chẳng có ấn tượng gì cả.
Nàng tựa cằm vào cửa sổ xe ngẩn ngơ đưa mắt nhìn người đi đường trên phố, chợt hỏi:
- Biểu ca, cha mẹ ở đời ở kiếp tại nơi này, không nỡ rời xa thân bằng lão hữu, không muốn dọn đến kinh thành. Mấy ngày này... muội vẫn muốn thường xuyên đến thăm hai vị, có được không?
Chính Đức thấy nàng rụt rè xin ý kiến Dương Lăng, trong lòng rất đỗi lấy làm thương xót, liền thúc ngựa đến gần xe ngựa, vỗ ngực cao giọng cam đoan:
- Tiên Nhi cô nương, cô không cần lo lắng! Cô muốn về vương phủ, chỉ cần báo một tiếng, ta... thuộc hạ bảo hộ cô trở về là xong!
Đường Nhất Tiên lườm hắn, mắng:
- Không nói thì cũng không ai bảo ngươi câm đâu, chẳng biết cái gì cả! Nếu ta mà là biểu ca thì sẽ chẳng bao giờ cho ngươi làm thân binh, lo biết điều mà đi quét sân giữ cổng cho ta đi! Vương phủ là chỗ ngươi muốn vào thì vào à? Cho dù biểu ca là khâm sai cũng phải xin phép vương gia mới được, người ta lo là sẽ mang đến phiền phức cho biểu ca thôi.
Bị Đường Nhất Tiên mắng cho một trận trước mặt người khác, xương cốt Chính Đức tức thì nhẹ tênh, mặt mày hớn ha hớn hở như thể rất có tiềm chất khổ dâm!
Thấy Hoàng đế lão gia hứng chịu sỉ vả một cách sung sướng như vậy, bọn đại nội thị vệ liền tự giác vứt bỏ sứ mạng "bảo vệ an nguy cho Hoàng thượng, che chở tôn nghiêm của Thiên tử" sang một bên, rồi cứ thực hiện theo đúng nguyên tắc "không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy"(1), ai nấy cắm đầu đi nhanh, vờ như không thấy.
*****
Đường Nhất Tiên được thu xếp trọ ở nhà trên (phòng thượng hạng) của dịch quán. Thu xếp thoả đáng cho nàng xong, Dương Lăng lại chạy về thư phòng soạn một bức thư sai người đưa về kinh thành, một là để báo sớm cho bọn Ngọc Nhi cái tin mừng này, hai là để các cô chuẩn bị trước, tiện bề đón tiếp tiểu biểu muội về kinh.
Dương Đình Hoà bí mật đến gặp Chính Đức. Lão là thầy coi việc giảng sách cho Hoàng thượng nên vẫn được Chính Đức kính trọng vài phần. Hay tin lão đến, sợ rằng sẽ bị lão khuyên bảo mình trở về kinh thành, hắn bèn vội lôi hai ông thần giữ cửa(2) của mình là Dương Lăng và Trương Vĩnh đứng sau lưng để thêm phần can đảm, rồi mới cho vời Dương Đình Hoà vào.
Dương Đình Hoa quen quan sát thời cơ, cân nhắc tình thế, tuy dám ra tay đánh đập Dương Lăng và Trương Vĩnh vì tội xúi giục Hoàng đế rời kinh, nhưng khi đối diện với Hoàng đế thì lão lại ẩn nhẫn và bền chí hơn Lý Đông Dương vài phần. Khi đến trước cửa thư phòng, nhìn thấy trận thế được bày sẵn ở bên trong lão liền biết rõ quyết tâm của Hoàng đế, thế là lão không nói những câu chữ đã chuẩn bị sẵn nữa, tránh rước vạ vào thân.
Dương Đình Hoa thuật lại một lượt tình hình sau khi Chính Đức rời kinh: trong cung đã phong tỏa tin tức nghiêm ngặt, mọi thái giám và cung nữ biết chuyện đều nhận được nghiêm lệnh ai dám đồn xằng chuyện Hoàng đế cải trang xuất kinh sẽ lập tức bị xử tội chết, cho nên tin tức vẫn chưa bị loan truyền ra ngoài. Ngoại trừ Lục Bộ Cửu Khanh và tam đại học sĩ, văn võ cả triều đều nghĩ rằng Hoàng đế đã mắc bệnh, không thể lâm triều.
Thế nhưng Hoàng đế không lâm triều xử lí chính v堬iên tiếp mười mấy ngày thì nào phải là chuyện đùa. Hoàng đế là vua một nước, thể chế triều đình không phải là chuyện giỡn chơi, mấy ý tưởng hoang đường như tìm người giả mạo hoặc nói dối rằng tấu chương Đại học sĩ phê duyệt là của Hoàng đế phê duyệt đều không thể dùng được.
Cho nên trong mắt bá quan, chắc chắn Hoàng đế đã mắc bệnh nặng đến nỗi không thể phê duyệt tấu chương; chỉ cần suy đoán bệnh tình Hoàng đế nghiêm trọng thế nào cũng đã đủ khiến lòng người hoảng sợ, dù là ba đại học sĩ cũng không cách nào ứng phó nổi việc ấy. Lúc tường thuật việc này với Chính Đức, Dương Đình Hoà không khỏi lộ vẻ khổ sở.
Chính Đức nhíu mày suy nghĩ một chút rồi phán:
- Nếu đã như vậy, khanh hãy chọn những tấu chương quan trọng nhất, hằng ngày đưa khoái mã chuyển đến cho trẫm, trẫm xem và phê duyệt xong sẽ lại chuyển về kinh. Về đối ngoại thì cứ bảo trẫm đang khỏi dần, có điều vẫn chưa thể ra nắng gió nên chưa thể lâm triều, thiết nghĩ có thể ổn định lòng dân một chút vậy.
Dương Đình Hoà thở dài bảo:
- Kế này... cũng chỉ đành vậy!
Lão buồn lòng lo lắng đứng dậy tâu tiếp:
- Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và Hoàng hậu nương nương rất mong nhớ Hoàng thượng, Lục Bộ Cửu Khanh cũng đang ngóng tin ngài! Nếu như Hoàng thượng đã quyết chí ở lại Đại Đồng, thần cũng không dám trì hoãn thêm nữa, xin phép trở về kinh sư báo tin ngay vậy.
Thi lễ với Chính Đức xong, lão lại liếc sang Dương Lăng, nghiêm nghị bảo:
- Dương đại nhân! An nguy của Hoàng thượng và an nguy của Đại Minh đều giao cho ngài đó, mong đại nhân vạn lần để ý cẩn thận, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng chu toàn.
Dương Lăng trịnh trọng đáp:
- Đại nhân yên tâm, hạ quan biết cân nhắc nặng nhẹ, tuyệt sẽ không lơ là.
Dương Đình Hoà gật đầu, lại thở một tiếng rõ dài rồi mới chán nản lui ra.
Lại qua hai ngày, hằng ngày khi Chính Đức không có việc gì làm thì lại chạy đến cửa phòng Đường đại tiểu thư làm thân binh, cùng nàng đánh quay trong sân, lại rủ thêm hai đứa nha hoàn chuyên hầu hạ tiểu mỹ nhân họ Đường cùng chơi mã điếu(3), vừa giúp Đường Nhất Tiên giải sầu vừa thỏa tâm nguyện mình.
Mã điếu đã tồn tại từ lâu, nghe nói từ thời Hán-Đường đã có, từ triều đình đến dân chúng, bất luận vương hầu công khanh, danh sĩ tài tử, thục nữ nổi danh hay con buôn bình dân đều rất thích trò này, thậm chí nhiều tăng ni cũng rất thích chơi.
Mã điếu giống như mạt chược thời hiện đại, lúc rảnh rỗi Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và đám phi tần cũng rất thích chơi trò này, thi thoảng Chính Đức cũng chơi cùng. Hắn vốn thông minh nên chỉ cần học một chút là hiểu rõ.
Đường Nhất Tiên và hai nha hoàn nọ nào phải đối thủ của hắn, dần dần số bạc tiêu vặt mà Dương Lăng đưa cho Đường Nhất Tiên và số trang sức rẻ tiền của hai tiểu nha hoàn đó đều bị hắn ăn hết một đống. Chính Đức vui khôn kể xiết, cất giữ cái đống phế phẩm đó như của báu, mặc kệ hai tiểu nha hoàn đó đá mắt nheo mày thế nào, vị "lính ca ca" anh tuấn cũng không trả lại cho bọn họ.
Thân phận của hắn là thị vệ của Dương Lăng, song Đường Nhất Tiên không phải là loại người mê luyến quyền quý, không vì hắn có thân phận thấp hèn mà không thèm kết giao. Mặc dù nàng vẫn mắng nhiếc hắn như cũ nhưng ngữ khí đa phần lại khá thân thiết.
*****
Chiều hôm đó, một kỵ mã vội vã phi ngựa từ xa đến dịch quán, đến trước cổng thì nhảy xuống ngựa. Bình thường dịch quán chỉ có hai tay dịch tốt canh gác, nay bề ngoài thì có hai vị khâm sai, nhưng thực sự lại có thêm một Hoàng thượng, cho nên đám dịch tốt canh phòng đã được thay bởi đám thân quân của Dương Lăng, cả dịch quán được bảo vệ kín như bưng, hệt như một doanh trại vậy.
Người nọ đi đến trước cổng, rút trong người ra tấm ngân bài chứng minh thân phận Nội xưởng. Phiên tử gác cổng kiểm tra cẩn thận xong liền có một phiên tử khác dẫn hắn đi vào trong sân. Trên một quán rượu nhỏ treo một lá cờ cũ rách nằm đối diện với dịch quán, một vị tửu khách vụt ngẩng đầu khi thấy ngựa phóng đến trước cổng dịch quán, ánh mắt sắc bén lướt nhìn về phía kẻ mới đến.
Vị tửu khách này vận áo da chó ngắn, quần ấm ống suông, đầu đội một chiếc mũ lông sói màu nâu, dưới vành mũ rậm là một đôi mày kiếm toát lên vẻ khí khái hào hùng, không ngờ lại là một chàng trai vô cùng tuấn tú.
Lúc vào cổng dịch quán người cưỡi ngựa nọ thoáng nhìn quanh, người tửu khách thấy được một bên mặt của hắn thì không khỏi hơi giật mình, thầm nghĩ: "Ngũ Hán Siêu? Hừ, 'học được một thân văn võ, bán mạng cho bậc đế vương,' quả nhiên hắn đã nương nhờ Dương Lăng. Với võ công của hắn đáng ra phải là thị vệ cận thân cho Dương Lăng mới phải, nhưng trông bước chân ngựa mệt mỏi như vậy, hẳn là hắn vừa mới vượt đường dài tới đây. Dương Lăng không giữ hắn bên người, y đã phái hắn đi làm gì?"
"Chàng trai tuấn tú" nọ trầm tư một chốc, trong lòng mang máng cảm thấy dường như Dương Lăng sắp có hành động gì đó, trong mắt không khỏi loé lên vẻ hào hứng, ngay sau đó lại biến thành vẻ mù mờ.
"Hắn" đưa mắt nhìn quanh, cặt mắt trong veo lướt qua tốp người đang tụm năm tụm ba trên phố: "Nếu Di Lặc giáo tìm cách ra tay với Hoàng đế, nhất định sẽ giám sát dịch quán nghiêm ngặt. Nhưng bọn chúng đang ở đâu?
Còn tên khốn Dương Hổ đó nữa! Từ ngày mình bực tức bỏ đi, cũng không biết hắn và Ngũ thúc đã đi đâu rồi, chỉ mong bọn họ lạ nước lạ cái mà đừng lỗ mãng định ra tay với Dương Lăng. Nhìn tình hình dịch quán như vậy, bên trong hẳn có trọng binh bảo vệ, nguy cơ trùng trùng. Dương Lăng đi đâu một tí là có vài trăm cao thủ bảo vệ, muốn động thủ với y thì khác nào đưa dê vào miệng cọp?"
"Chậc!" "Chàng trai anh tuấn" khẽ thở dài, hàng mày hơi nhíu lại, thực có phần duyên dáng như con gái.
* * *
- Được! Rốt cuộc cũng đã đến rồi, Hoàng thượng nghe tin nhất định cũng sẽ rất vui!
Dương Lăng phấn khởi nói. Thấy Ngũ Hán Siêu mặt đầy vẻ phong sương, y liền bảo:
- Mau đi rửa ráy, ăn uống một tí rồi nghỉ ngơi đi! Tối nay bản quan sẽ lại bàn kỹ với ngươi.
Vốn Đoá Nhan Tam Vệ yêu cầu kết minh cùng Hoàng đế triều đình nhà Minh với một thái độ có cũng được không có cũng chẳng sao, do bọn họ cũng cho rằng Hoàng đế Đại Minh sẽ không hạ thấp dịa vị mà chạy tới gặp mặt bọn họ.
Bọn họ biết triều đình người Hán coi trọng nhất là mặt mũi và thích tiếm lợi kẻ khác, nhưng triều đình nhà Minh lại thà giữ thanh danh chứ không cần ích lợi, ngay cả khi thông thương với nước khác cũng đều đòi đối phương phải dùng phương thức triều cống của nước lệ thuộc mà tiến hành. Hoàng đế Đại Minh sẽ vì một thế lực còn chưa đáng được gọi là "quốc gia" như Đoá Nhan Tam Vệ mà từ bỏ tư thế cao ngạo của hắn ư?
Ai ngờ vị thiên tử của nước lớn phương đông này lại đến thật, khiến Hoa Đáng và các thủ lĩnh bộ lạc vừa thấy bất ngờ lại vừa mừng vừa lo. Hoa Đáng lập tức tuyển chọn bốn nghìn thiết kỵ, đi tối ngủ ngày, bí mật xuất phát tiến về phía Đại Đồng.
Trương Vĩnh nhìn theo Ngũ Hán Siêu lui ra ngoài, chợt cũng trở nên lo lắng. Lão nói với Dương Lăng:
- Dương đại nhân! Hoa Đáng đã đến thật rồi, nếu Bá Nhan mà biết tin ắt sẽ gây bất lợi cho Hoàng thượng. Chúng ta... chúng ta thật sự phải gặp mặt bọn chúng sao?
Dương Lăng cũng hơi lo, nhưng nếu y để lộ ra sự do dự và lo lắng há chẳng khiến kẻ khác càng thêm sợ hãi? Thế là y bèn đè nén sự hồi hộp lo âu trong lòng lại rồi gật đầu đáp:
- Phải gặp! Phóng lao phải theo lao thôi! Nếu lúc này mà lùi bước, chẳng những chúng ta sẽ bị người Mông Cổ chê cười mà nghìn đời sau cả ông, tôi lẫn Hoàng đế đều sẽ trở thành người bị người ta nhạo báng đó!
Đoạn y đứng dậy, tản bộ trong phòng mấy bước, rồi nói:
- Hoa Đáng chỉ mang theo bốn nghìn nhân mã. Số lượng người này nếu nói ít thì không ít, nhưng một khi tản vào trong đại mạc thảo nguyên sẽ như muối bỏ biển, không thấy bóng dáng đâu nữa. Huống hồ thám mã của Bá Nhan chỉ để ý đến hướng đi của quân đội Đại Minh ta, không lý do gì mà bố trí thám mã ở tại hậu phương của mình, vì vậy chưa hẳn là sẽ phát hiện.
Dương Lăng bước tới bàn, cầm lấy ấm trà rót cho Trương Vĩnh và chính mình mỗi người một chén trà nóng, rồi nói tiếp:
- Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến biên giới cướp bóc, cho dù Bá Nhan có biết tin bọn chúng di chuyển về biên giới cũng sẽ tưởng rằng bọn chúng thừa dịp mà đánh cướp. Người Thát Đát không thể biết được tin tức Hoàng đế rời kinh sư đi đến Đại Đồng đâu.
Nói đến đây Dương Lăng chợt nhớ đến lời mà người con gái cưỡi ngựa có bóng hình xinh đẹp rực đỏ như lửa trong gió tuyết đã nói với y. Y thầm nghĩ: "Quái lạ, đến đây lâu như vậy sao vẫn chưa thấy Di Lặc giáo có động tĩnh gì? Là Hồng Nương Tử gạt mình, hay là Di Lặc giáo không biết Hoàng đế đến Đại Đồng, hay là đã biết nhưng chưa có cơ hội ra tay?"
Hiện tại vẫn chưa đến lúc Di Lặc giáo công khai tạo phản, nhất là Đại Đồng hiện giống như một doanh trại quân đội, ngoài thành là lính, trong thành cũng là lính. Cho dù Di Lặc giáo có vọng tưởng giết Hoàng đế cũng sẽ không có cơ hội động thủ ngay tại chốn này.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng vứt bỏ mối uy hiếp không thể nào xảy ra giữa thiên quân vạn mã sang một bên rồi tiếp tục lo nghĩ về chiều hướng của Bá Nhan Khả Hãn. Hiện tại đại quân của hắn đang tấn công và cướp bóc vùng Hồ Quan, Bình Thuận, xem ra không hề hay biết gì về tin tức Hoàng đế đang ở Đại Đồng. Nhưng ngộ nhỡ có gian trá, đội thiết kỵ có thể phi về trong một ngày của hắn quả thực sẽ là uy hiếp lớn nhất.
Nghĩ vậy, Dương Lăng vỗ nhẹ tay, một tay phiên tử lặng lẽ bước vào. Dương Lăng nói:
- Đi, báo cho người của Nội xưởng tại bản địa tăng cường thu thập mọi tin tức, chú ý đến tất cả những kẻ khả nghi, khi có tin tức phải lập tức bẩm báo!
Phiên tử nọ dạ một tiếng rồi xoay người đi ra. Dương Lăng quay trở lại bàn, lấy giấy và nghiên mực ra, nói:
- Đại quân của Dương Nhất Thanh đóng gần trong gang tất, không cần vội báo tin cho y, đợi Hoa Đáng đến gần kề mới lại sẽ bảo Dương Nhất Thanh điều động quân đội. Bây giờ tôi sẽ soạn một bức mật thư, đóng kim ấn khâm sai, lệnh cho chỉ huy sứ Thái Nguyên đưa quân đến Đại Đồng làm quân dự bị. Sáng sớm ngày mai tôi sẽ đích thân mang người cải trang lên núi Bạch Đăng khảo sát địa hình, chuẩn bị trước.
Trương Vĩnh lo lắng hỏi:
- Cải trang? Đại nhân mang theo ít người rất có thể gặp phải nguy hiểm, hay là mang theo hai nghìn thiết kỵ vậy.
Dương Lăng lắc đầu cười bảo:
- Người biết địa điểm kết minh ít thôi. Nếu mang đại quân mấy nghìn người chạy lên Bạch Đăng sơn dạo xem phong cảnh, vậy chẳng phải nói cho kẻ khác biết khâm sai đến đây là có dụng ý sao? Yên tâm, nơi đó xưa nay yên tĩnh, lại ở gần thành, quân chủ lực của giặc Thát lại đã đi đến Bình Thuận. Việc tôi lên núi Bạch Đăng chỉ có tôi và ông biết, ai mà chờ sẵn ở đó chứ? Được vậy chẳng phải là thần tiên sống rồi à?
Ăn uống no nê trên lầu Bách Mị các xong, thương nhân buôn đồ ngọc Bao lục gia vừa xiêu vẹo bước xuống thang gác, vừa tươi cười ngâm nga một điệu hát dân gian. Hắn mới vừa bàn xong một vụ mua bán nữa, trong thời buổi binh mã loạn lạc thế này, làm được việc đó thực không dễ chút nào.
Gã xa phu người Mông Cổ kiêm bảo tiêu có dáng người khôi ngô, mặt mày chất phác tên A Man tận lực dìu một bên, giúp hắn khỏi va đụng với những tửu khách khác.
Ra đến hành lang ngoài cửa, tiểu nhị trông coi chuồng ngựa vội dắt xe ngựa của Bao lão gia lại. A Man cầm lấy dây cương, một tờ giấy được vo tròn cũng được bí mật chuyển vào trong tay gã. A Man thản nhiên dìu Bao lão gia lên xe, rèm xe vừa được buông xuống, xe ngựa liền phóng băng băng trên con phố lớn.
A Man lặng lẽ đặt mảnh giấy nhỏ lên đùi, giở ra xem. Bên trên chỉ có một hàng chữ nhỏ: " Lý Gia tập (*) dưới Bạch Đăng sơn có thóc gạo". Vẻ mặt thờ ơ, A Man vung roi quát: "Giá!", rồi vo tròn mảnh giấy, bỏ vào miệng, nhai kỹ nuốt đi.
(*) tập 集 ở đây là thôn trang không lớn lắm, nhưng buôn bán sầm uất, có tổ chức chợ phiên định kỳ.
Chú thích:
(1) Trích từ lời đáp của Khổng Tử khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân: PHI LỄ VẬT THỊ. PHI LỄ VẬT THÍNH. PHI LỄ VẬT NGÔN. PHI LỄ VẬT ĐỘNG. Nghĩa là: Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói, đừng hành động.
(2) Nguyên văn "Hanh Cáp nhị tướng", trỏ cặp thần giữ cửa miếu của đạo Phật; một người phun khí trắng từ mũi, một người phun khí vàng từ mồm.
(3) "Mã" trỏ thẻ ghi số đếm thời xưa; "điếu" trỏ xâu, trỏ một thể loại đánh bạc giống mạt chược thịnh hành vào thời Minh.
Chương 195: Tình Thế Nan Giải
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:
- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!
Tiếng vó ngựa dồn dập, hơn hai mươi người cưỡi những thớt ngựa tráng kiện băng qua sông Ngự đến dưới chân núi Bạch Đăng. Con đường đất vàng vốn được đầm chắc đã bị tuyết tan thấm nhão, lại bị những đoàn xe quân sự xuôi ngược nghiến qua tạo nên những dải đất cứng ngoằn ngoèo vệt bánh xe, thế nhưng tuấn mã vẫn thoải mái phóng qua, lướt đi băng băng.
Những người này đều cưỡi ngựa giắt đao, áo da ống bó, đầu đội mũ trùm da hươu da chó, vung roi thúc ngựa trông rất dũng mãnh tráng kiện. Nhìn bọn họ y như những kẻ thân hào giàu có ra ngoài săn bắn, nhưng vùng Đại Đồng quanh năm gặp nạn binh đao, trăm họ lân cận cũng biết một ít về quân sự, nếu trông thấy vũ khí của những kỵ sĩ này nhất định sẽ cảm thấy hơi quái lạ.
Vỏ đao hơi cũ, trên chuôi đao không hề có dải tua đỏ trang trí, thân đao dài hơn đơn đao mũi dẹp bình thường đến hơn một thước, cùng là một loại phác đao. Các bộ phận đồng thau nối lưỡi vào chuôi đao đều sáng loáng do ma sát với vỏ đao, xem ra tất cả đều là vũ khí tùy thân được sử dụng hàng ngày.
Nỏ ngắn và bao tên treo lệch một bên yên ngựa, trông khí phách này tuyệt không phải là những kẻ đạp tuyết săn thú bình thường. Lúc gần trưa trời vừa đổ một cơn tuyết nhỏ kéo dài, quá trưa thì vừa tạnh, vẫn còn sót lại một ít bông tuyết rơi rơi, không khí se lạnh sảng khoái, thấm tận ruột gan.
Không xa ở phía trước là ngọn núi Bạch Đăng, nằm dựa vào núi Phương về hướng bắc. Năm xưa Hán Cao Tổ là Lưu Bang dẫn ba mươi hai vạn đại quân viễn chinh Hung Nô, sau một trận đại thắng đã khinh địch liều lĩnh tiến bừa, bị bốn mươi vạn đại quân Hung Nô vây khốn trên Bạch Đăng sơn suốt bảy ngày bảy đêm, sau phải dùng diệu kế mới có thể thoát thân. Ngọn núi nhỏ bé này cũng nhờ đó mà vang danh thiên hạ.
Trời rét đậm giữa tiết trọng đông, hiếm có ai nhàn rỗi lên núi nên vừa đến lân cận vùng núi đã không còn thấy dấu vết con người. Hơn hai mươi kỵ sĩ ruổi ngựa lên đồi, phóng mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng tuyết nhấp nhô như sóng gợn nằm trơ trọi một ngọn núi nhỏ, cao không quá trăm trượng, cũng không tính là quá cao, thế núi thoai thoải. Lúc đầu nghe nói là "núi", Dương Lăng còn tưởng nó cao lớn hiểm trở thế nào, giờ trông thấy ngọn núi đồi và vùng đất khá bằng phẳng chung quanh, y mới cảm thấy yên tâm.
Ngọn núi này là một ngọn núi đồi đất vàng, căn bản không có chỗ nào hiểm trở để phòng thủ. Đương nhiên nếu trên núi bố trí trọng binh, chiếm lấy địa thế trên cao, thì với năm nghìn binh mã trở lên cũng đủ để chống lại sự công kích của mấy vạn đại quân. Từ nơi này đến Đại Đồng chỉ khoảng chục dặm, nếu thật sự gặp nguy hiểm, chỉ cần kiên trì chống đở nửa ngày là đủ để quân Minh kéo tới tiếp cứu.
Quanh núi là một mảng đồng hoang bát ngát. Nếu quân Minh bố trí sẵn phục binh, Đoá Nhan Tam Vệ đến kết minh cũng sẽ có thể phát hiện từ xa mà kịp thời xa chạy cao bay. Quả thật đây là chốn rất thích hợp để làm nơi đàm phán.
Tuy ngọn Bạch Đăng không cao nhưng chung quanh lại rộng rãi, chu vi chừng mấy dặm. Dương Lăng dẫn hơn hai mươi thân binh lên núi, ngước mắt nhìn xa, phía bắc chính là núi Phương trập trùng, cách chừng hai dặm là một thôn trang xem chừng cũng không nhỏ.
Dương Lăng ngồi thẳng trên lưng ngựa, quay đầu lại hơi nheo mắt nhìn về phía con đường trắng xoá đến nhức mắt, trông thấy từ đằng xa có mấy bóng đen đang đến gần. Với tốc độ đó, ắt hẳn bọn họ cũng đang cưỡi khoái mã.
Dương Lăng thả lỏng cương ngựa, cười sảng khoái:
- Quả nhiên không giấu được mắt kẻ hữu tâm.
Ngũ Hán Siêu đưa cương ngựa lên đẩy vành nón, hơi căng thẳng:
- Đại nhân! Phục binh của chúng ta đang ở Lý Gia tập, cách nơi đây hai dặm. Thuộc hạ vẫn cảm thấy bất an trong lòng, chúng ta có nên đến gần bên đó một chút nữa chăng?
Tuy Ngũ Hán Siêu tài cao gan lớn nhưng chàng cũng biết trong Di Lặc giáo có mấy tay cao thủ trùm đời. Chưa nói đến giáo chủ Lý Phúc Đạt của Di Lặc giáo, nội ba người con của lão cùng vài vị thiên sư trong giáo cũng võ nghệ không kém cạnh gì chàng ta. Nếu đơn thương độc mã thì chàng tự tin dù không địch lại cũng vẫn có thể tẩu thoát, song hiện tại có Dương Lăng ở đây, chàng không dám mạo hiểm. Nhược bằng Dương Lăng lại bị kẻ địch bắt đi mất, khi ấy chẳng cần người khác nói ra nói vào, bản thân chàng cũng sẽ chỉ còn có nước tự sát tạ tội.
Dương Lăng lại không nghĩ vậy. Không phải là y lơ là, có điều hôm nay hai mươi tay thân binh bên cạnh y không phải là quân lính "chuyển ngành" thành phiên tử Nội xưởng, mà là thị vệ đại nội y mượn của Chính Đức. Thuộc hạ chân chính thuộc về y thì ngoài Ngũ Hán Siêu ra chỉ còn gã Lưu Đại Bổng Chùy do y mới thu làm thân binh thị vệ.
Võ công những người này tuy không bằng Ngũ Hán Siêu, song cũng không thua kém bao nhiêu. Nhóm truy binh đã đuổi đến gần kề, xem ra chỉ có bảy tám người cưỡi ngựa, hơn hai mươi người này của mình chẳng lẽ còn không thu thập nổi? Xem ra mình đã vẽ to chuyện khi âm thầm bố trí bốn trăm tay phục binh ở Lý Gia tập sau khi nhận được tin tức do Hàn Lâm đưa đến hôm qua rồi.
Hai mươi tay thị vệ đại nội ngồi ung dung bình tĩnh trên lưng ngựa, hơi tò mò nhìn chằm chằm vào đội nhân mã đang đến gần. Những thị vệ này đều là những trang thiếu niên anh tuấn kiêm tài lẫn đức của các môn phái, rất ít kẻ làm việc trong cung. Chỉ cần dựa vào chiêu bài đại nội thị vệ, trên giang hồ còn kẻ nào dám đắc tội với bọn họ? Cho nên ai nấy cũng đều đặt mắt ở trên trán, mấy tên yêu nhân Di Lặc giáo còn chưa đáng để lọt vào mắt bọn họ.
Lưu Đại Bổng Chùy là kẻ duy nhất trong đám thị vệ này sử dụng côn sắt. Gã râu xồm này là kẻ võ biền, tuy côn pháp quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chiêu song lại rất hữu dụng để giết giặc trên chiến trường. Mặc dù so tài đo nghệ thì gã không bằng Ngũ Hán Siêu, nhưng một khi xông pha chém giết trên chiến trường thì vô luận là thanh thế hay số kẻ thù giết được thì Ngũ Hán Siêu đều kém xa gã.
Gã hồi hộp liếm môi, ồm ồm khuyên giải:
- Đại soái! Thuộc hạ nghĩ hay là chúng ta cứ đến Lý Gia tập đi. Mặc kệ nó là yêu đạo hay là giặc Thát, Đại Bổng Chùy tôi đều chả sợ chút nào. Nhưng mà có đại soái ở đây, nếu thật sự động thủ thuộc hạ sẽ bị bó tay bó chân lắm! Vừa phải để ý tới đại soái, vừa phải đánh yêu đạo, phiền phức lắm.
Tuy gã này nói chuyện thô lỗ, nhưng sự quan tâm lại biểu lộ rất rõ ràng, Dương Lăng nghe xong thì bất giác bật cười. Suy nghĩ một lúc, y bảo:
- Được, vậy chúng ta đi! Đến Lý Gia tập chờ bọn họ.
Lý Gia tập nằm kế Đại Đồng. Con đường truyền tin từ kinh sư đi qua đầu thôn kéo đến quan ải phương bắc, nối mọi nẻo đường nên khá là đông đúc. Thương nhân buôn lậu không dám để bò, dê, ngựa trong thành Đại Đồng mà phần lớn bọn họ sẽ nương nấu tạm ở đây, đợi mua bán xong xuôi rồi mới đồng loạt chuyển đi, cho nên đầu thôn còn mở một quán ăn lớn.
Nói là quán ăn nhưng chẳng qua chỉ là mấy gian chòi gỗ trét bùn, cung cấp nước nôi và vài món ăn đơn giản, để những người buôn bán vãng lai có chỗ nghỉ chân, lót dạ. Chung quanh quán được bao bọc bởi một hàng rào cây, không hề có cánh cửa gỗ nào cả, trông hết sức đơn sơ. Hiện đang là mùa đông, buôn bán tiêu điều, quán ăn chỉ mới mở một cánh cửa, bên trong vẫn chưa có khách.
Thấy đám đông hơn hai mươi người của Dương Lăng kéo đến, ông chủ quán không khỏi vui sướng ngất ngây, liền vội chạy ra nghênh đón, mặt cười toe toét nồng nhiệt đón tiếp:
- Chào các vị khách quan! Các vị dùng món gì vậy?
Lão lia mắt thật nhanh, nhận biết những người này không giống thương gia bình thường. Nhưng lão chỉ là ông chủ của một quán ăn nho nhỏ, là một tiểu nhân vật thấp hèn nhất, kiếm được hai văn đồng trinh đã là tốt rồi, sẽ không có ai lại hạ mình đi gây chuyện với những kẻ nghèo khổ như lão.
Lưu Đại Bổng Chùy buộc ngựa vào cột, lại nhanh nhẹn tiếp lấy cương ngựa của Dương Lăng buộc vào, rồi lớn tiếng dặn dò:
- Ông chủ! Trong quán có món gì ăn được thì cứ bưng lên là được rồi! Đồ ăn nóng càng tốt, đúng rồi, kiếm chút rượu trắng luôn.
Ông chủ vội đáp:
- Dạ! Trong quán có bánh bao không nhân, bánh nướng, còn có lợn béo vừa mới mổ đón tết nữa. Tuyệt nữa là có món thịt heo xắt vụn, các vị khách quan lại uống thêm bát canh dê, bảo đảm uống xong sẽ thấy ấm người.
Xắt vụn là cách gọi của người dân sứ Sơn Tây. Cách làm là ngâm heo hoặc dê cả vào nước, rồi lát mỏng, rắc gia vị như tiêu, gừng, tỏi, muối... vào, sau đó hầm thành một nồi. Dùng món thịt nguội này với rượu trắng, kết hợp cùng nước canh dê óng ánh, quả thực mùi vị rất không tệ.
Đám đại nội thị vệ vây quanh bảo vệ Dương Lăng đi vào chòi. Lau sậy được chất quanh chòi thành đống, bên trong kín gió nên khá ấm áp. Sáu viên thị vệ không cần căn dặn đã dằn đao chậm rãi đi loanh quanh trước cửa. Chiến mã được buộc kiểu thòng lọng ở một bên, giật một cái liền tuột ngay, có thể lên ngựa tác chiến bất cứ lúc nào.
Chủ quán bê một vại nước cốt ngâm trong một cái chậu to từ trên quầy đến; trời lạnh khiến mặt trên lớp thịt lợn xắt vụn đóng một lớp váng mỡ trắng tinh. Ôngg chủ vội vã chạy ra sau quán gọi lớn:
- Con mẹ nó Tam Nhi, mau đun lửa hâm đồ ăn đi! Tao nói thằng nhãi mày mau nhanh chân một chút đi, mặt trời đã chiếu tới đít rồi! Mau chạy đi lấy lúa mạch và trấu cám đem cho ngựa của mấy vị khách quan đây ăn đi!
Dương Lăng xát mạnh hai tay, cười nói:
- Chủ quán à, không cần phải lo cho ngựa đâu! Chúng tôi đến từ thành Đại Đồng, không xa mấy, chốc nữa còn phải chạy về. Ăn đại chút gì đó là được rồi.
Căn chòi lớn này xoay về hướng mặt trời, khi cuộn rèm lên ánh nắng sẽ chiếu thẳng vào, khiến nó ấm hơn khi che rèm lại. Dương Lăng ngồi ở bàn gần cửa, ánh nắng rọi lên thân y, bóng râm của chòi che khuất khuôn mặt nên y lại có thể nhìn thấy rõ bên ngoài.
Mặt đất sau mùa gặt phủ một lớp tuyết trắng mỏng manh, thấp thoáng lộ ra những gốc rơm rạ, sáu bảy thớt ngựa ở đằng xa dừng lại trên con đường dưới chân núi Bạch Đăng một chốc, chừng như đang do dự không biết có nên đuổi theo hay không. Dương Lăng thấy vậy không khỏi thầm cười nhạt. Đêm qua Hàn Lâm đã lặng lẽ phái người chuyển tin tức thám thính được sang chỗ y.
Do binh hoang mã loạn, thương nhân từ các nơi khác đến thành Đại Đồng không nhiều. Nhờ Hàn Lâm khổ tâm tổ chức ở Đại Đồng, mạng lưới tình báo của Nội xưởng dễ dàng nắm vững hành tung của bọn họ và truyền tin về.
Hàn Lâm biết nếu muốn giết Hoàng đế, quyết không thể chỉ vài ba nhân vật giang hồ võ công siêu đẳng mà đã có thể làm được; chỉ riêng việc theo dõi, cảnh giới, và dò la tin tức đã cần đến không ít người rồi. Vì vậy ông lại sàng lọc trong những tin tức được trình lên, chọn ra toàn bộ những nhóm dưới hai ba người, đặc biệt là những nhóm có phụ nữ và trẻ em, sau cùng chỉ còn lại mấy tốp nhân vật cực kỳ khả nghi.
Đám người Dương Hổ tự xưng là thương nhân hàng da, nhưng quản sự và gia bộc mang theo có đến bảy tám người. Năm mới bọn họ lại chạy vội chạy vàng đến thành Đại Đồng, chỉ ăn rồi ngủ, không chịu vội mua hàng rời đi, thật hết sức đáng ngờ. Thành thử ông đã phái thêm người bí mật giám sát bọn họ, đồng thời mau chóng truyền tin cho Dương Lăng.
Hiện Đại Đồng giống như binh doanh vậy, Dương Lăng cũng dự liệu nếu quả thật có thích khách thì nhân số cũng sẽ không quá nhiều. Trương Vĩnh nghe tin xong thì lập tức muốn mang người đi bắt bọn họ lại, mặc kể có phải là kẻ xấu hay không, cứ vứt vào đại lao rồi tính sau.
Đám người Đại vương, Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đã ngầm ưng thuận việc Hoàng đế gặp mặt Hoa Đáng, hơn nữa cũng đã ngầm hẹn không đến bái kiến Hoàng thượng, cho nên bề ngoài bọn họ cũng vờ như không hề biết chuyện Hoàng đế đang ở Đại Đồng.
Dương Lăng lo rằng nếu Nội xưởng giương cờ gióng trống bắt người trong thành, một khi tin tức lọt vào tai đám người Hồ Toản thì bọn họ sẽ lại đổi ý, lo lắng chạy ào tới khóc lóc can ngăn Hoàng thượng. Cho nên y quyết định lấy thân làm mồi, dụ rắn ra khỏi hang.
Đằng xa, đám sáu bảy kỵ sĩ cứ đi lòng vòng mà không tiến vào thôn nọ dường như đã bàn bạc xong, bỗng giục ngựa phi thẳng tới. Bọn thị vệ ngồi trong chòi cùng đứng dậy đánh soạt, tay đã án trên chuôi đao.
Dương Lăng bình tĩnh bảo:
- Ngồi xuống! Bọn chúng có thể xông thẳng vào trong chòi hay sao? Chuẩn bị kỹ hoả tiễn và pháo hiệu, một khi có sự liền lập tức gọi người. Quan binh bắt giặc không tội gì mà đơn đả độc đấu!
Đám thị vệ lại chậm rãi ngồi xuống, song tay vẫn dằn trên chuôi đao, mắt nhìn chằm chằm ra bên ngoài.
Đám người nọ tới gần, tổng cộng bảy người ngựa. Ngoại trừ một lão già trạc ngũ tuần, còn lại đều là tráng niên tuổi chừng ba mươi, trông khoẻ như cọp, đầu quấn khăn trùm, hông giắt Nhạn Linh đao. Ánh mắt của Dương Lăng thoáng lướt trên khuôn mặt của bảy người rồi dừng lại trên mặt một gã mặt sẹo.
Người này chính là Dương Hổ. Tuy gã đã cải trang, khuôn mặt đã được thay đổi qua loa nhưng thân hình vẫn vậy. Cái khí chất ngông cuồng ngạo nghễ vẫn khiến y nổi bật giữa đám đông như hạc giữa bầy gà, nghiễm nhiên là thủ lĩnh của cả bọn.
Ánh mắt của hai người chạm vào nhau trong tích tắc, mắt Dương Lăng hơi loé lên một tia kinh ngạc. Y đã mang máng nhận ra Dương Hổ, "Không ngờ kẻ đuổi tới lại là Dương Hổ mà không phải là người của Di Lặc giáo." Việc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của y.
"Sao Di Lặc giáo không thấy có động tĩnh gì mà lại là Dương Hổ đuổi tới đây?
Nếu cho rằng Hồng Nương Tử gạt mình thì thực khó hiểu. Dù sao thì mình cũng đã biết tin, bất luận thật hay giả ắt sẽ đều tăng cường cảnh giác. Nếu những gì Hồng Nương Tử nói là thật, thì sao Dương Hổ còn ngu xuẩn để mặc cho Di Lặc giáo lợi dụng? Chẳng lẽ gã và Hồng Nương Tử vẫn chưa gặp nhau, vẫn chưa biết chuyện này?"
Vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt Dương Lăng bị Dương Hổ lầm tưởng là do sợ hãi. Trên mặt gã loé lên vẻ khinh thường rồi quay đầu đi như không có việc gì. Gã vừa ngông nghênh bước vào chòi vừa gọi chủ quán:
- Ông chủ, xắt mười cân thịt bò, hâm một vò rượu nóng, mau dọn lên cho bọn ta!
Gọi món rồi gã sảng khoái ngồi phịch xuống bàn bên, gỡ thanh bội đao giắt hông vắt ngang lên bàn, hung hãn trừng mắt với Dương Lăng.
Chủ quán vội châm trà đưa lên bàn cho gã, thừa dịp liếc mắt nhìn đám người chung quanh. Ai nấy mặt mày hầm hầm, cộng thêm bầu không khí căng thẳng và lạnh lẽo khiến lão rét cả người, bèn lật đật lui ra sau quầy.
Dương Hổ cũng không thèm để ý đến lão, hai mắt gã vẫn nhìn Dương Lăng chằm chằm. Gã thực căm hận Dương Lăng đến tận xương tủy, hai trăm tâm phúc của gã bỏ mạng trước Cao Lão trang, mối thù này gã trút hết cả lên đầu Dương Lăng. Nay ái thê cũng vì bất đồng ý kiến mà giận dỗi bỏ đi, món nợ này gã cũng trút lên đầu Dương Lăng nốt, vì vậy gã càng coi Dương Lăng là cái gai phải nhổ.
Di Lặc giáo giao du với tầng lớp thượng tầng, biết rằng Hoàng đế cải trang không phải là chuyện đùa, nếu trọng thần bên cạnh hắn bị ám sát thì khi ấy muốn đụng đến hắn ắt sẽ khó như lên trời. Nhưng Dương Hổ - một tên mã tặc - thì lại suy luận rằng diệt trừ được vây cánh của Hoàng đế thì mới dễ xuống tay với hắn ta.
Chỉ mang theo vài người, gã ở Đại Đồng như kẻ mù dắt ngựa loà, không có kể sách gì cả, biện pháp duy nhất chính là phái người thay phiên dán mắt vào Dương Lăng, giúp y canh nhà giữ sân, âm thầm theo y tới lui giữa vương phủ và dịch quán. Sáng hôm nay nhận được tin Dương Lăng cải trang giả dạng thường dân ra ngoài thành, Dương Hổ mừng khôn kể xiết, liền lập tức dẫn người đuổi theo.
Sát khí bao trùm cả căn chòi, thớ thịt của mọi người đều trở nên căng cứng, ánh mắt âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào đối phương, đại chiến chực chờ bùng nổ. Dương Lăng nhón lấy chén trà, cẩn thận uống một hớp rồi lại nhẹ nhàng đặt xuống, chỉ sợ tiếng động lớn quá sẽ lập tức dẫn đến một hồi đại chiến.
Lão chủ quán khéo nhìn sắc mặt trông thấy tình hình không ổn, thế là không khỏi thầm kêu khổ. Lặng lẽ đẩy bàn tính ra, lão bắt đầu khe khẽ lui về phía sau, lặng lẽ đưa tay ra sau lưng rờ tấm rèm cửa.
Dương Hổ lặng lẽ quan sát một hồi, phát hiện trong và ngoài chòi chỉ có hơn hai mươi người. Sau khi ước lượng qua võ công của đám phiên tử Nội xưởng trong đêm công kích Dương phủ ngoài Cao Lão trang, gã liền có quyết định.
Hiện tại ngoại trừ gã còn có một cao thủ về Ưng Trảo công là Hoắc Ngũ Thúc, nếu muốn tập kích giết chết Dương Lăng giữa sự bảo hộ của hơn hai mươi tên thị vệ này thì phần thắng ít ra cũng có đến bảy thành. Gã đưa mắt nhìn Hoắc Ngũ Thúc ngồi đối diện, mắt hơi cụp xuống ra hiệu đã quyết định động thủ!
Lão chủ quán vừa mới vén rèm cửa, Dương Hổ đã chợt đứng bật dậy, các đại nội thị vệ ngồi chung quanh nhịn không được cũng đứng cả lên. Tiếng đao bạt khỏi vỏ xoàn xoạt nghe rợn người, đao quang loé khắp căn chòi.
Thủ hạ của Dương Hổ cũng đứng bật dậy, lật ngã một băng ghế dài xuống đất đánh "bộp". Chỉ có Hoắc Ngũ Gia vẫn ngồi trên ghế dài vững như bàn thạch, song trên mu bàn tay cầm chén trà nóng hổi của lão đã không chút cử động mà nổi vồng gân xanh.
Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu ngồi đối diện cũng không động đậy; Ngũ Hán Siêu một tay dằn lấy phối kiếm (*), một tay lặng lẽ lần vào trong chiếc túi giắt thõng dưới lưng, cầm lấy năm cây phi tiêu Kim Tiền được mài bén cạnh. Lưu Đại Bổng Chùy ngồi bên phải lại đã nhảy bật dậy, nắm chặt cây côn sắt đen thùi trong tay.
(*) một loại kiếm cổ có nguồn gốc từ Indonesia.
Xem thêm http://baike.baidu.com/view/3075016.htm
Dương Hổ liếc mắt nhìn quanh, rồi chợt ngửa mặt lên trời cười lớn. Tiếng cười liên miên của gã chưa dứt, Dương Lăng cũng chợt mỉm cười nói:
- Trước mặt hẳn là Dương Hổ Dương huynh phải không? Từ dạo chia tay nhau tại kinh sư, bấy lâu huynh vẫn khoẻ chứ?
Dương Hổ cười gằn đáp:
- Đa tạ đã quan tâm! Dương mỗ gặp nạn lớn không chết, vẫn mong được báo đáp ân đức của Dương đại nhân đây. Tiếc rằng thềm cửa nhà họ Dương quá cao, Dương mỗ chẳng dám bước vào. Giờ thì tốt rồi, đại nhân vậy mà rời xa kinh sư, thật đúng là cầu được ước thấy, ông trời có mắt đây.
Dương Lăng khẽ lắc đầu bảo:
- Vốn dĩ... chúng ta có thể làm huynh đệ tốt. Ngươi đuổi đến Đại Đồng, có phải là đã quyết tâm muốn tạo phản? Có chịu nghe ta khuyên nhủ một câu không? Lúc này buông đao, bản đốc có thể tha cho ngươi tội chết!
Dương Hổ cười hắc hắc, đang định giễu lại, chợt có tiếng vó ngựa gõ dồn, mọi người trong chòi đều vụt đưa mắt nhìn xa ra bên ngoài. Từ đằng xa có một người cưỡi khoái mã phóng như bay tiến đến. Kỵ sĩ khom lưng trên lưng ngựa, cùng ngựa tạo nên một đường thẳng tắp, nhìn từ xa trông không rõ tướng mạo, chỉ nhận ra được người đó vận một chiếc áo bào màu tro, là trang phục đàn ông, hông giắt một cây đao thép không vỏ, thi thoảng tia nắng quét ngang hắt ra những tia sáng chói mắt.
Chỉ trong chốc lát ngựa đã đến trước cửa chòi, kỵ sĩ ghìm cương, kiện mã hí một tràng dài, người nọ đứng thẳng dậy, vó ngựa đá tung cụm tuyết trước mặt. Chân ngựa còn chưa tiếp đất, kỵ sĩ đã nhẹ nhàng nhảy xuống, sải bước tiến vào trong chòi.
Hai bên đang ở thế giương cung bạt kiếm, không biết kẻ đến là địch hay ta, đều trừng mắt nhìn kẻ đó không nói tiếng nào. Người này mặt ngọc mày kiếm, mũi cao miệng nhỏ, thoạt trông khí khái tràn trề, tuy ăn vận như một chàng trai trẻ tuấn tú, nhưng Dương Lăng và Dương Hổ liếc mắt đều lập tức nhận ra cô nàng qua lớp dịch dung vô cùng đơn giản đó. Dương Hổ mừng rỡ gọi:
- Nương tử, nàng đến thật đúng lúc! Hãy liên thủ với vi phu giết chết Dương Lăng báo thù cho các huynh đệ!
Năm ngón tay của Hoắc Ngũ Gia bấu chặt lấy chén trà nóng hổi, vốn định ném về phía Dương Lăng, lúc này trông thấy nàng, lão cũng kinh ngạc lỏng tay, mừng rỡ đứng dậy gọi:
- Oanh Nhi? Cháu gái ngoan của thúc, thực khiến Ngũ thúc lo muốn chết. Mau qua đây, Dương Lăng chỉ mang theo hơn hai mươi tên thị vệ, chú cháu chúng ta liên thủ liền sẽ có thể giết y dễ như trở bàn tay!
Thôi Oanh Nhi đanh mặt đáp: ối
- Ngũ thúc, mục tiêu chính của chúng ta là Di Lặc giáo. Muốn báo mthù đó thì thật là chuyện chó đi bắt nhím, biết cắn chỗ nào*. Nếu vì trăm họ, chúng ta nào có bản lĩnh cai trị giang sơn. Nếu thật sự sát hại Hoàng đế và Dương Lăng, chính là giúp cho Di Lặc giáo toại nguyện, lại khiến cho giặc Thát ngoài quan ải thừa thế xông vào. Chúng ta gánh không nổi tiếng xấu mấy đời này đâu. (*: ý nói tìm kiếm Di Lặc giáo báo thù là chuyện vô vọng)
Cặp mắt như thu thủy của nàng liếc sang Dương Lăng, rồi chắp tay vái những tay thảo khấu, nói:
- Các vị huynh đệ, trong các vị có người là nhân mã trại cũ của Thôi gia ta, có người là huynh đệ khe Phi Hổ của tướng công ta. Thôi Oanh Nhi và các vị huynh đệ cùng tiến cùng lui, đồng sinh cộng tử, đã có bao giờ là kẻ sợ chuyện? Cho dù là vị khâm sai đại nhân này...
Nàng liếc ngang đôi mắt đẹp về phía Dương Lăng, ngạo nghễ nói tiếp:
- Ta cũng tự tay bắt y về, bình yên mà thoát khỏi vòng vây trùng trùng của mười vạn đại quân. Oanh Nhi không phải là kẻ sợ chuyện. Nhưng người giang hồ chúng ta coi trọng đạo lý oan có đầu, nợ có chủ. Dương phủ là con dê béo, chúng ta là kẻ bắt cóc, có đắc thủ hay không đều phải dựa vào bản lĩnh mỗi người. Chưa từng nghe chuyện bắt cóc thất thủ rồi lại coi con dê béo là kẻ thù; đó chỉ là bởi chúng ta học nghệ chưa tinh thông mà thôi!
Nhưng nếu như chúng ta đã bị kẻ khác lừa đi bắt người, đã trúng phải kế lùa hổ trị hổ của người ta, các vị nói thù này có nên trả không? Nay rõ rành rành Di Lặc giáo muốn đối phó với Dương Lăng, sơn trại chúng ta bị quan binh nhổ mất mà chúng ta lại cứ cố chạy đến làm tốt thí cho người ta, để người ta ăn ốc còn mình phải đổ vỏ, làm chuyện ngu xuẩn như thế xem có được không?
Đoạn nàng bất mãn trừng mắt với Dương Hổ, bảo:
- Thấy các người lục tục kéo ra khỏi thành thì ta ra theo thôi, không có ý gì khác cả. Ta không đồng ý với việc giết Dương Lăng vin vào lá cờ "Thế thiên hành đạo" của sơn trại chúng ta! Lý lẽ cần nói ta đã nói hết rồi, huynh đệ nào đồng ý với ta, mời đứng sang bên này!
Những người thuộc trại cũ của Thôi gia đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều là lứa cao thủ sơn tặc trẻ tuổi, trong mắt bọn họ, sức hiệu triệu của Thôi đại tiểu thư hơn xa Hoắc Ngũ Thúc đã qua thời đỉnh cao. Nghe xong những lời lẫm liệt của Thôi Oanh Nhi, bọn họ từ từ bỏ đao xuống, chần chừ bước sang bên cạnh Thôi Oanh Nhi.
Dương Hổ giận muốn rách phổi, trợn mắt mắng to:
- Thôi Oanh Nhi, cô điên rồi à? Cô là vợ ta hay là vợ tên Dương Lăng hả? Không ngờ cô lại nối giáo cho giặc! Cô không giúp ta thì thôi, còn muốn lôi kéo các huynh đệ đi, đấy là bổn phận làm vợ đó sao? Được lắm, được lắm!
Gã giận quá hóa cười:
- Xưa nay ta luôn nhịn cô, nhường cô, nhưng không sợ cô. Cô thật sự nghĩ mình là Dương Khóa Hổ ư? Trở về sơn trại ta sẽ mời tất cả các trại chủ các núi tới trước mặt nhạc trượng đại nhân hỏi cho rõ ràng. Lão dạy dỗ con gái mình thật giỏi!
Hoắc Ngũ Thúc cũng không nén được lửa giận. Tuy rằng lão yêu thương Thôi Oanh Nhi, thế nhưng con gái lấy chồng coi như nước đã đổ đi, không liên can gì đến Thôi gia nữa, đâu lại có chuyện vợ trái lời chồng, đó chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Hơn nữa lúc đi lão gia tử đã có lời yêu cầu lão áp chế Thôi Oanh Nhi, không để nàng can thiệp vào đại sự của Dương Hổ.
Hoắc Ngũ Thúc nghiêm khắc quát:
- Bọn khốn chúng mày! Lúc lão gia tử phái chúng mày đi đã nói thế nào? Hết thảy đều phải nghe theo sự an bài của cô gia, giờ lại theo Oanh Nhi làm loạn sao? Dương Lăng đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, ngoại trừ hôm nay, còn có cơ hội nào tốt như vậy nữa chứ? Nghe lời ta, cùng cầm lấy vũ khí, làm thịt cái tên họ Dương nó, bằng không chắc các ngươi cũng biết sơn quy của Thôi lão đại rồi đó.
Mấy gã cao thủ thuộc sơn trại nhà họ Thôi lưỡng lự nhìn nhau, cảm thấy khó xử, nhất thời không biết nên nghe ai. Khuôn mặt xinh xắn của Thôi Oanh Nhi thoáng trắng bệch, nói:
- Ngũ thúc, Dương Hổ bị lợi danh làm mê muội tâm can, thúc còn chống lưng cho gã sao?
Hoắc Ngũ Thúc hừ một tiếng, nghiêm khắc:
- Oanh Nhi, đừng trách Ngũ Thúc nói với con điều này: con đang làm chuyện quá hồ đồ khiến người ngoài nghe thấy chê cười rồi đó. Chúng ta là kẻ lăn lộn trên sơn trại, vậy mà con lại đến giúp quan binh, sau này cha con và chồng của con biết đứng trong giới lục lâm như thế nào?
Lưu Đại Bổng Chùy nhìn thấy màn đấu đá nội bộ này mà cả mừng, nhăn nhở cười nói:
- Thực có khí phách! Đấy gọi là thấu hiểu đại nghĩa. Cái... cái cô gái Hồng Phất nữ này(*), ừm, hẳn là một cô nương không còn thú vị gì lắm rồi, nếu không một nữ nhân hiểu lý lẽ như vậy, một tên thủ lĩnh mã tặc như hắn sẽ không nói bỏ là bỏ ngay đâu. Thôi thì theo đại soái của chúng ta ăn uống thoả thuê đi!
(*: Nhắc tích Hồng Phất Nữ là nữ tì của Dương Tố, nàng nhận ra Lý Tịnh, tuy đang hàn vi, là bậc anh hùng thao lược nên đang đêm bỏ phủ Dương Tố, trốn theo Lý Tịnh)
Thôi Oanh Nhi nghe hắn nói xằng thì giận đến nóng mặt, cổ tay thoáng run lên, một chiếc thiết tật lê (đinh sắt) bay vút về phía cái miệng đang thao thao bất tuyệt của Lưu Đại Bổng Chùy. Ngũ Hán Siêu đã đề phòng sẵn, một đồng tiền liền bay tới nghênh đón, "keng" một tiếng, hai miếng sắt chạm vào nhau bắn sang một bên.
Lưu Đại Bổng Chùy giật mình hoảng hồn, mắng lớn:
- Mẹ nó! Sơn tặc đúng là sơn tặc, trở mặt còn nhanh hơn cả lật sách!
Ngũ Hán Siêu cười nhạt nói:
- Hắn là kẻ thô lỗ, Dương phu nhân hà tất phải so đo? Dương đại đương gia định bắt nạt lúc chúng ta ít người sao? Thật ngại quá, nói thật với huynh đài, chỉ dựa vào mấy người chúng ta đây, các vị chưa hẳn đã đánh lại. Vả lại, đúng như vị Ngũ thúc đây đã nói, đại nhân chúng ta đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, há chỉ có bấy nhiêu người?
Đám người Dương Hổ, Hoắc Ngũ thúc và Hồng Nương Tử thoạt tiên là sững ra, rồi lập tức sực hiểu, sắc mặt không khỏi biến xấu. Một viên cao thủ đại nội đứng trước cửa mỉm cười, thấy Ngũ Hán Siêu nháy mắt với mình, liền lập tức lật cổ tay, một viên pháo hiệu bay thẳng lên trời, tiếng nổ vang đi rất xa. Trong khoảnh khắc, mấy trăm viên phiên tử cầm đao mang cung từ các ngõ hẻm hai bên thôn ùa ra, vây chặt lấy căn chòi.
Một số tay phiên tử rút từ trong thắt lưng ra chiếc dây xích dài đen thui, tung lên mái chòi rồi tất cả cùng kéo mạnh, "rầm" một tiếng, cả căn chòi bị kéo đổ thành mấy mảnh. Cũng may trên mái chòi toàn bộ là tuyết, không hề bị đóng bụi, mọi người trong chòi đều vung binh khí đập cho mấy tấm ván gỗ mỏng tang nát vụn, trên người chỉ dính một lớp tuyết xốp.
Nhờ có cây côn sắt to dài tám thước của Lưu Đại Bổng Chùy, chỗ Dương Lăng đứng cũng không gặp gì nguy hiểm. Trong nháy mắt cả căn chòi hoàn toàn biến mất, mọi người đều hiện rõ giữa mảnh đất trống, những mũi tên bén ngót dày đặc chung quanh đã ngắm vào bọn họ.
Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy che chắn trước người Dương Lăng, chầm chậm lui ra ngoài, nhóm đại nội thị vệ cũng cùng vừa lui ra vừa giữ cự ly để có thể phối hợp kịp thời. Dương Lăng lùi vào giữa đám thủ hạ, cất cao giọng hô:
- Hồng Nương Tử! Chính do lời của cô vừa rồi, bản quan sẽ cho các người thêm một cơ hội. Đâm vua giết chúa, hành thích đại thần, đều là tội đại nghịch phải chết! Nhưng chỉ cần các người vứt đao đầu hàng, bản quan sẽ bảo đảm các ngươi không bị tội chết!
Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:
- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!
Dương Hổ cười lớn:
- Hay lắm, thế mới là nương tử của Dương Hổ ta chứ! Các huynh đệ, cầm lấy vũ khí, lấy ván gỗ làm khiên, chúng ta xông ra đoạt lấy ngựa rồi rút lên núi Phương!
Đám sơn tặc vội vã lật bàn và lấy mảnh ván vỡ làm những tấm khiên đơn giản, quây lại bảo vệ chung quanh. Tiếng cung kéo rít lên rợn người, cung tên trong tay đám phiên tử đã kéo căng như mảnh trăng rằm.
Ngũ Hán Siêu đưa mắt nhìn Dương Lăng, xin lệnh:
- Đại nhân?
Dương Lăng binh tĩnh nhìn Thôi Oanh Nhi, "bắn người con gái này thành con nhím?" Con tim thoáng xao động, y quát:
- Dương Hổ! Thôi Oanh Nhi! Hẳn các người có thể thấy hôm nay các người sẽ không thoát được. Cho dù các người võ nghệ cao cường như thế nào đi nữa, liệu có thể giết hết bốn trăm thiết vệ của ta không? Còn không mau buông vũ khí đầu hàng?
Đám người Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi đều là những kẻ cướp cao ngạo bất kham, hung hãn không sợ chết, nghe y nói vậy thì chỉ cười nhạt tránh sau tấm khiên không đáp lời. Dương Lăng cắn răng, định quát lệnh bắn tên thì chợt có âm thanh rì rầm lúc trầm lúc bổng như có bầy dã thú đang kéo tới khiến Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên.
Y đưa mắt nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trên con dốc thoải trắng màu tuyết kéo dài từ sơn trang lên ngọn núi Phương xuất hiện một đội quân trông như một con dã thú khổng lồ đang chạy trên đồng hoang. Ngoài tiếng vó sắt nện xuống mặt ruộng hoang như sấm chính là tiếng la hét quái dị không ngừng của những kỵ sĩ trên lưng ngựa, thanh thế rất đáng sợ.
Tuy nhìn từ xa nên trông không rõ trang phục của bọn họ, nhưng chỉ cần nghe tiếng la hét quái dị thì Dương Lăng, quan binh và bọn mã tặc đã từng trông thấy quân đội giặc Thát liền biết đó chính là một đội quân Thát Đát không biết từ đâu chui ra, tràn đến cướp bóc xóm làng.
Quan binh giết cướp, cướp giết quan binh, ấy là cái lý bình thường như trời với đất; bọn họ là kẻ thù lâu năm không thể hoá giải. Thế nhưng cục diện quái dị hiếm gặp là: đám giặc Thát đến cướp giết thôn trang này sẽ giết quan hay là giết cướp? Bọn chúng há sẽ phân biệt hai nhóm người Hán này ư? E rằng đội quân giặc Thát này cũng vào khoảng nghìn người, nếu lúc này mà hai phe động thủ với nhau, đám giặc Thát đang phi như chớp giật sẽ đến ngay lập tức, bọn họ sẽ làm sao?
Dương Lăng và Dương Hổ, một kẻ có lòng tin giết cướp cùng một kẻ có lòng tin sẽ trốn thoát đều tròn xoe đôi mắt. Hợp tác cùng nhau chăng? Có thể sao? Hai người đưa mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt đối phương chỉ thấy có sự nghi ngờ, lòng hận thù và sự bất tín nhiệm.
Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới nhanh như một đàn châu chấu.
Chương 196: Quyết Phải Chém Đầu
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Nàng cảm thấy Dương Lăng quấn chặt lấy cơ thể đang treo lơ lửng của mình, hai tay cài vào nhau lần lên đến hông, người thoáng dịch lên trên, hai đùi tức thì kẹp chặt lấy chân mình, tiếp đến lại tới hai tay xích lên, cứ thế xen kẽ, vậy mà đã sắp ôm lên tới ngực mình. Hồng Nương Tử hốt hoảng gào lên:
- Ngươi làm cái gì vậy?
Thanh thế của giặc Thát khiến cho tất cả mọi người đều sững sờ ngay lập tức. Bọn chúng từ trên núi ùa xuống, vừa gào thét vừa tràn vào thôn xóm, những người dân kinh hoảng bỏ chạy tán loạn trên đường đều bị trường đao nương theo thế ngựa phi của bọn chúng vớt qua cần cổ không phí chút sức lực nào, đầu lăn lông lốc.
Dù chỉ là một tốp lính men theo đường mòn trong núi kéo đến đánh lén, cướp bóc lương thực, giặc Thát vẫn giữ nguyên thói quen công kích đối thủ như lúc ở trên thảo nguyên. Chúng không vội xâm nhập vào nhà dân cướp bóc tài vật mà xông thẳng liền một mạch, cậy vào thanh thế hung hãn và bạo ngược để phá vỡ đội hình đối phương, hòng đập tan mọi dũng khí phản kháng của kẻ địch.
Trước đó, nhận được tin tình báo thôn trang nhỏ bé này không hề có quan binh trú đóng nên bọn chúng định tràn xuyên qua thôn rồi bọc lại để phòng ngừa thôn dân chạy trốn, như vậy chiến mã xông đến cuối thôn sẽ liền lập tức quay lại, bắt đầu cướp giết từng nhà.
Song đám giặc Thát đi đầu xông đến cổng thôn phía đối diện lại ngạc nhiên trông thấy mấy trăm quan binh đang bày trận đón sẵn ở đó, giương cung lắp tên, tên kín như rừng.
Tuy bọn chúng không kịp phân tích tại sao trong thôn lại đột nhiên xuất hiện một đội quan binh, song bộ hạ của Hỏa Sư đều là những tên lính hung hãn nhất trong các bộ lạc Mông Cổ Thát Đát, đội quân nghìn người được phái đến cướp bóc lương thực này lại càng kiêu dũng thiện chiến nên chỉ sau thoáng kinh ngạc, chúng liền ngang nhiên hò hét múa tít vũ khí xông tới.
Giặc Thát phía sau trông thấy tình huống này cũng đều vọt ngựa tiến đến, vừa phi vừa lấy cung lắp tên. Người Mông Cổ rất giỏi kỹ thuật vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung, hết sức thành thạo việc kéo cung lắp tên trên lưng ngựa, trong nháy mắt bọn chúng đã tiến vào trạng thái sẵn sàng công kích.
Trông thấy tình hình như vậy Dương Lăng cũng không dám trì hoãn thêm. Trong thôn giấu không tới bốn trăm thớt ngựa khỏe để tránh tai mắt kẻ địch, đội quân này là lính đánh bộ, một trận mưa tên sẽ chỉ có thể ngăn chặn giặc trong chốc lát. Nếu để giặc Thát xông vào trong trận, e rằng mấy trăm người đều sẽ bỏ mạng tại chỗ.
Nơi đây gần Đại Đồng như vậy, phía trước lại có Trường Thành cách trở, giặc Thát chưa từng xuất hiện ở nơi này, thêm vào đó quân chủ lực của Bá Nhan đã chuyển hướng tấn công sang Hồ Khẩu, Bình Thuận nên Dương Lăng không hề nghĩ rằng trên núi sẽ lại đột nhiên xuất hiện một tốp giặc Thát. Thật đúng là "bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sau lưng".
Nếu giặc Thát muốn vòng qua Trường Thành để đột kích hậu phương quân Minh thì bọn chúng chỉ có nước lén lút đi xuyên qua mấy đoạn núi cao hiểm trở giữa những rặng núi non trùng điệp chưa được xây dựng Trường Thành phòng thủ. Nhưng những lối ấy khó đi vô cùng nên đại quân không thể đi qua, một ngàn người này hẳn đã là cực hạn.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng lập tức quyết định. Y quát lớn:
- Mặc kệ là quan hay cướp, tất cả đều là người Hán. Bắt cướp là chức trách mà giết giặc là trách nhiệm thiêng liêng, món nợ giữa chúng ta sau này sẽ tính. Hôm nay chỉ giết giặc Thát! Các huynh đệ, động thủ!
Tiếng cung ngân rền, dưới mệnh lệnh của Dương Lăng bốn trăm cung tiễn thủ lập tức chuyển hướng, hàng loạt mũi tên gắn đuôi lông chim như cơn mưa rào điên cuồng ập xuống đầu đám giặc Thát đang phóng tới như bay.
Đám giặc Thát đang thúc ngựa phi nhanh kêu la đau đớn rồi ngã rạp một mảng, mấy con ngựa lùn tráng kiện Mông Cổ trên lưng còn nhú đuôi tên hí lên đau đớn, quay đầu bỏ chạy, thi thể vẫn còn móc vào bàn đạp bị chúng kéo lê trên tuyết tạo thành một dải máu dài.
Mắt thấy hơn nghìn thiết kỵ trong thôn đang ùn ùn kéo tới, trong lòng Dương Lăng lại trở nên bình tĩnh cực kỳ. Mặc dù gần như y chưa từng đích thân cầm đao xông pha chiến trường nhưng lại đã tận mắt chứng kiến nhiều trận kịch chiến. Nay mấy trăm thị vệ đều chỉ tuân theo lệnh mình, y nhất định phải bảo toàn tính mạng của các huynh đệ. Đó là trách nhiệm của y.
Dương Lăng quét mắt một lượt, nghiêm giọng quát lớn:
- Cửa thôn chật hẹp, không có lợi cho kỵ binh giặc Thát xông tới. Thị vệ đại nội lên ngựa, chận cửa thôn lại cho bản quan! Những người khác lập tức lui về hướng núi Bạch Đăng, dựa núi mà thủ!
Sau thoáng kinh ngạc, đám thị vệ đại nội đã khôi phục dũng khí, nghe lệnh lập tức vịn yên nhún người lên ngựa, vung phác đao chuôi dài phi đến cửa thôn. Bình thường Lưu Đại Bổng Chùy vẫn nói giọng kinh sư, lúc này quá kích động, gã la lớn bằng giọng Sơn Đông quê nhà:
- Mẹ nó , cái con bà mẹ nó, sao lại có nhiều tên giặc Thát điên từ Lục Câu Lý tràn ra như thế này?
[*: câu chửi đổng cửa miệng của người Lai Dương vùng Sơn Đông, theo http://2011.cctcct.com/travel-guide/1-16/1310/46942.html]
Nói đoạn gã liền cầm côn sắt định nhảy lên ngựa. Ngũ Hán Siêu kéo gã lại, quát:
- Ngươi làm cái gì vậy? Cho dù ngươi giết một nghìn tên giặc Thát mà đại nhân có mệnh hệ gì thì ngươi cũng sẽ không có chỗ mà khóc đâu! Bảo vệ đại nhân rút về núi Bạch Đăng ngay!
Từ dạo bị người ta xỏ mũi suýt nữa hại chết Dương Lăng, đương nhiên Ngũ Hán Siêu luôn bảo hộ sát bên Dương Lăng không dám rời xa nửa bước. Ở cửa thôn người chết ngựa ngã, đánh đến không thể tách rời, người ngựa địch ta hòa quyện lẫn nhau. Giặc Thát cậy vào khoái mã xông lên, sức mạnh thế nhanh, còn hai mươi viên thị vệ phòng thủ cửa thôn cậy vào võ nghệ cao cường, cạnh bên lại có phiên tử không ngừng bắn tên chi viện, tạm thời vẫn có thể ngăn chận giặc Thát. Nhưng đám người Dương Hổ vẫn đứng nguyên tại chỗ, vẻ mặt do dự. Ngũ Hán Siêu sợ bọn họ sẽ đột ngột ra tay đả thương người mình nên đành phải chằm chằm để ý đến bọn họ, không dám lơ là.
Trông thấy Dương Lăng vẫn điềm tĩnh như không, Hồng Nương Tử vứt tấm ván gỗ trong tay rồi đi đến trước ngựa của mình, phóng người lên ngựa, đao thép nắm chặt trong tay, cất giọng trong trẻo:
- Họ Dương kia! Chỉ mong ngươi nhớ câu nói này: "Mặc kệ là quan hay là cướp, tất cả đều là người Hán." Hôm nay bọn ta sẽ giết giặc Thát trước.
Nói rồi nàng đưa mắt ra hiệu với Dương Hổ. Dương Hổ nhìn giặc Thát đang đằng đằng sát khí ùn ùn kéo đến, lại nhìn Dương Lăng ở gần ngay trước mặt, do dự chưa quyết. Thôi Oanh Nhi tức giận quát to:
- Đương gia! Ân oán cá nhân sau này hẵng tính! Giặc Thát là kẻ thù của tất cả người Hán chúng ta, ngài còn do dự cái gì?
Nói rồi nàng nổi giận đùng đùng trừng mắt với Dương Hổ, thúc mạnh bụng ngựa, vụt xông về phía cửa thôn. Hoắc Ngũ Thúc sợ cháu gái gặp chuyện không hay, thấy vậy cũng búng người nhảy lên lưng ngựa như một con đại bàng, giật dây cương, chúm môi huýt gió một tiếng chói tai, xông về phía giặc Thát.
Dương Hổ thấy vậy thì chỉ đành giậm chân, ra lệnh:
- Lên ngựa! Giết giặc Thát!
Sáu bảy tay cướp hung hãn nghe thấy lão đại mở lời, lập tức ào ào lên ngựa, cũng xông thẳng về phía cửa thôn. Hồng Nương Tử tinh thông thuật cưỡi ngựa, chỉ cần dùng hai chân để điều khiển chúng theo ý muốn một cách dễ dàng, tiến lui thoải mái; đúng là còn thành thạo hơn đám người Mông Cổ cưỡi ngựa suốt tháng quanh năm. Thanh đao thép trong tay nàng bay lên lượn xuống, trong khoảnh khắc liền đã có ba bốn tên giặc Thát bị nàng chém rơi khỏi ngựa. Thôi Oanh Nhi thúc ngựa xông vào trận địa của giặc, chận bốn thớt chiến mã không người đó lại, rồi quay ra đằng sau kêu to:
- Quan binh nào giỏi cưỡi ngựa hãy qua đây mấy người, đoạt ngựa giết giặc Thát!
Bọn quan binh thấy một người con gái mà cũng kiêu dũng như vậy, lập tức nổi lòng háo thắng, liền có bốn tên quan binh khoác cung giắt đao, tranh nhau lên ngựa. Giặc Thát ruổi ngựa xông ào ạt đến, tiếng hò hét biến thành tiếng gầm rống. Chỉ nghe tiếng cung bật liên tiếp, tên rít chói tai, giặc Thát cũng thả tay bắn tên đáp trả, ba mũi lang nha tiễn xé gió bay tới, dễ dàng xuyên qua giáp nhẹ, cắm vào thân người.
Không biết là cung thủ nào có cánh tay khỏe mạnh siêu quần, hẳn là mới vừa sử dụng cung ba thạch, một phát tên ghim chéo dưới xương sườn một viên thị vệ đại nội mới vừa chém chết hai tên giặc Thát, đẩy hắn văng ra khỏi ngựa, kéo bay hơn một trượng mới nặng nề rơi xuống đất.
Dương Lăng thấy vậy giận muốn rách mí mắt, gầm lên:
- Bắn tên! Bắn tên! Áp chế bọn chúng!
Lại một trận mưa tên được trút xuống. Nhân mã của song phương không ngừng ngã khỏi lưng ngựa, những dũng sĩ vừa rồi còn dồi dào sinh khí trong chốc lát đã biến thành một đống bùn nhão dưới vó ngựa. Không biết tự lúc nào, hơn hai mươi phiên tử mang theo hỏa súng lợi dụng sự che chắn của nhà cửa hai bên đường đã bắt đầu nổ súng bắn về phía giặc Thát.
Đoàng đoàng đoàng, một loạt tiếng súng vang lên, khói súng tức thời bao trùm khắp cửa thôn. Kinh hoảng bởi những tiếng nổ inh tai, những con chiến mã mất chủ bỏ chạy tán loạn. Sự dũng mãnh của giặc Thát quá nửa dựa vào sức ngựa, chiến mã vừa bị hoảng loạn lập tức dẫn tới đội hình rối loạn, nhuệ khí cũng vì vậy mà bị sút giảm.
Dương Lăng hồi hộp nhìn chằm chằm về phía cửa thôn. Y phát hiện những thị vệ đại nội nọ võ nghệ tuy cao, nhưng khi chém giết lại không nhanh nhẹn và gọn ghẽ bằng đám cướp chuyên nghiệp. Chỉ cần mấy động tác bổ, chém, đỡ, đập hết sức đơn giản đi kèm với những tiếng gầm thị uy, thanh đao trong tay bọn cướp xoay vần như dải lụa, nội trong ba đao, sau tiếng binh khí va chạm leng keng song phương ắt có một người ngã ngựa.
Mà võ công những thị vệ đại nội này tập luyện đều là tránh, xoay, nhảy, chuyển, kỹ xảo công kích có thực có hư. Nếu như đơn đả độc đấu, trong số mã tặc này ngoại trừ Dương Hổ, Hồng Nương Tử và Hoắc Ngũ Gia ra, hiếm có kẻ nào có thể đấu hơn mười hiệp với bọn thị vệ đại nội, nhưng trên chiến trường giết giặc, cách đánh của bọn sơn tặc lại hung mãnh và hữu hiệu hơn.
Trông thấy vậy Dương Lăng không khỏi máy động trong lòng. "Nếu quân đội chúng ta cũng có thể luyện tập phương pháp bổ, chém đơn giản mà hiệu quả như vậy, vứt bớt những động tác màu mè không thực tế, thì không những việc huấn luyện dễ dàng hơn rất nhiều mà sức chiến đấu hiệu quả cũng sẽ được nâng cao một cách mau chóng."
Hai trăm viên phiên tử ở hậu đội đã bắt đầu lật đật rút về phía núi Bạch Đăng. Ngũ Hán Siêu vội khuyên:
- Đại nhân, hãy mau rút về núi Bạch Đăng! Ngài mà không đi, đám huynh đệ sẽ không dám rút lui đâu. Đã có người chạy vào thành báo tin rồi, chỉ cần chúng ta lên núi cố thủ chừng nửa ngày là viện quân sẽ tới rồi!
Nếu theo ý riêng của Ngũ Hán Siêu thì chàng hận không thể bắt Dương Lăng cưỡi khoái mã tự chạy về thành một mình. Song đại soái lâm trận lại quay ngựa bỏ chạy trước, bỏ mặc sĩ tốt thì sau này đừng hòng chỉ huy quân đội được nữa, Dương Lăng quyết sẽ không đồng ý. Hơn nữa quân Minh có ít kỵ binh, nếu như giặc Thát nhanh trí sẽ biết ngay y là một nhân vật quan trọng mà giục ngựa đuổi theo thì chí nguy; chi bằng lên núi đợi viện binh còn an toàn hơn một chút.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, lên ngựa xong xuôi bèn ra lệnh cho một viên bách hộ:
- Cho bộ tốt lần lượt thoái lui, mau chóng tránh lên núi Bạch Đăng. Kỵ binh chận hậu, cốt phải giữ vững cửa thôn!
Y mới vừa nói đến đây, một cây giáo dài chừng năm thước đã rít gió bay tới, Ngũ Hán Siêu hét lên:
- Đại nhân cẩn thận!
Rồi chàng cố vung thanh kiếm trong tay chận lại. "Keng" một tiếng, kiếm và giáo cạ vào nhau tạo nên một tia lửa dài. Cây giáo bị đổi hướng cắm "phập" vào trong tuyết ngay trước ngựa Dương Lăng, sâu phải hơn một thước, đuôi giáo rung lên "vù vù". Sức lực ấy thực khiếp người.
Tuy Ngũ Hán Siêu dùng xảo kình để giảm lực vẫn bị lực va chạm chấn cho hổ khẩu tê rần. Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu thấy uy lực ngọn giáo mạnh mẽ như vậy đều sợ đến toát mồ hôi lạnh. Lúc này cây giáo thứ hai lại rít gió lao tới. Lưu Đại Bổng Chùy cười lớn vung cây côn sắt cứng chắc trong tay lên, "cạch" một tiếng, cây giáo nọ đã bị đập gãy làm hai.
Đằng xa, có mấy tên giặc Thát đang bảo vệ một gã cao to vạm vỡ khoác áo da thú lệch vai. Do khoảng cách xa đến mấy chục mét cộng thêm trong không trung vẫn còn khói súng chưa tan nên trông không rõ tướng mạo gã đó, nhưng Dương Lăng cảm giác hắn không phóng giáo bừa. Hắn đã phát hiện ra mình là thủ lĩnh của đội quân Minh này.
Ngũ Hán Siêu sốt ruột giục:
- Đại nhân, đi thôi! Tránh lên núi Bạch Đăng!
Chàng ta và Lưu Đại Bổng Chùy bảo vệ Dương Lăng quay đầu ngựa phóng như bay về phía núi Bạch Đăng. Đằng xa gã thủ lĩnh giặc Thát căn dặn với thủ hạ mấy câu, bọn tùy tùng bên cạnh liền quát hô to mệnh lệnh bằng tiếng Mông Cổ.
Hai đội thiết kỵ bắt đầu mau chóng chỉnh đốn đội ngũ, rồi phi vòng sang hai bên thôn trang; một số tên khác bắt đầu xông vào nhà thôn dân tháo dỡ cửa nhà và bàn trà làm khiên chắn đơn sơ nhắm tấn công quyết liệt vào cửa thôn.
Bốn trăm quan binh bộ binh đeo phác đao chuôi ngắn, chiến đấu trên bộ thì ai nấy đều là cao thủ nhất lưu, nhưng gặp phải nhóm dũng sĩ thúc ngựa xông tới như bão táp thì ắt đại bại không phải nghi ngờ, có thể chạy lên núi Bạch Đăng sớm được khắc nào thì sẽ có thêm cơ hội sống khắc nấy. Thế nên hai dặm đường tuyết mấp mô gập ghềnh đó bọn họ chạy như bị ma đuổi, khi đến dưới chân núi Bạch Sơn thì đã như nỏ mạnh hết đà, người nào người nấy đều thở phì phò như trâu.
Viên bách hộ trưởng đứng trên một tảng đá lớn, mặc dù tim cũng đập như trống làng nhưng hắn vẫn cố quát lớn:
- Lập tức lên núi, phòng thủ mọi nẻo đường! Viện quân sẽ chóng đến thôi. Nhanh lên, mau lên núi!
Đám phiên tử xốc lại tinh thần, trèo xuôi theo sườn dốc phủ tuyết lên núi. Sườn núi phía trước không dốc mấy, kiện mã phi vội cũng leo lên được, Dương Lăng phóng ngựa đến lưng chừng núi thì quay đầu nhìn lại xa xa về phía sau. Trên đồng tuyết trắng ngần, ba trăm kỵ binh đang phóng băng băng đuổi theo; hai cánh là hai đội giặc Thát đã vòng qua thôn trang để truy đuổi, quãng đường của bọn chúng trở nên xa hơn một chút, vốn hai dặm đường đã biến thành ba dặm. Phía trước bọn chúng, ở chính giữa con đường là đám thị vệ đại nội và bọn Dương Hổ đã từ bỏ phòng thủ rút lui, sau lưng là chủ lực giặc Thát đang đuổi sát không tha.
Dọc đường rút chạy Dương Hổ cảm thấy tức giận và khổ sở không thôi: "Thật là xui xẻo cái con bà mẹ nó quá đi. Sớm biết vậy thì đừng tới đây còn hơn, không chừng đã có thể mượn tay đám giặc Thát nhổ cái gai trong mắt này đi rồi.
Giờ thì hay rồi! Các huynh đệ thủ hạ tuy rằng có lúc cũng xuống núi cướp bóc dân chúng, là tử địch với quan binh, nhưng bọn họ lại căm ghét và hận thù giặc Thát hơn, càng có cảm giác bài xích dân tộc theo bản năng hơn. Gặp phải giặc Thát liền bỏ chạy mất dạng, đó là hành vi của Hổ Tử ca ngồi ghế trại chủ lục lâm phương bắc đấy ư? Huống hồ vợ mình đã xông lên, người của sơn trại Thôi gia cũ chắc chắn cũng sẽ không bỏ chạy, một mình mình có muốn trốn chạy cũng không chạy được."
Nhằm cướp bóc được nhiều, giặc Thát đều tranh thủ vận chuyển lương thảo về trước khi quan binh hay tin kéo đến, vì vậy ngựa của đám giặc tập kích Lý Gia tập này cưỡi đều là giống ngựa tốt. Do đó bọn chúng đuổi càng lúc càng sát đám người Dương Hổ, chỉ còn trong chốc lát nữa là bắt kịp.
Hai mươi viên thị vệ chỉ còn lại mười hai mười ba người, mã tặc Bá Châu cũng chết mất hai, giặc Thát dần đuổi tới, giáp công hai mặt. Đám người Dương Hổ và Hồng Nương Tử vung những cây đao dính máu chém trái bổ phải, vừa chạy vừa đánh.
Hồng Nương Tử đã đánh giết đến sôi máu, thanh mã đao trong tay hoá thành từng vòng sáng lạnh lẽo, chân thúc ngựa, đao phong rít xoay bốn bề, đánh mở một con đường máu. Qua khoé mắt nàng liếc thấy ở hai bên đường giặc Thát đang hò hét đánh thốc tới, lúc này mà rời khỏi quân Minh bỏ chạy vào đồng hoang sẽ chỉ rơi vào vòng vây trùng trùng của giặc rồi kiệt sức mà chết. Không còn sự chọn lựa nào khác, bọn họ đành phải cùng chạy lên núi Bạch Đăng.
Giặc Thát đuổi tới càng lúc càng đông. Một tên vượt lên trước mặt bọn họ, ghìm mạnh cương ngựa rồi xoay người, "vù" một tiếng, một đường sáng lạnh lẽo lướt qua không trung, trường đao bổ nhanh từ trên cao xuống như chớp giật, chém thật mạnh xuống đầu Hồng Nương Tử.
Thôi Oanh Nhi cả kinh. Ngựa đang phi rất nhanh, không kịp ghìm cương dừng lại, hơn nữa sau lưng vó ngựa như sấm, truy binh đuổi theo rất đông. Nàng liền giật cương, thúc ngựa trượt sang bên hai bước, cùng trong nháy mắt, thanh đơn đao trong tay được lật lên, quét ngang một nhát. Lưỡi đao bén ngót nương theo thân người, cắt bung chiếc áo da trước bụng gã Thát Đát vừa chém hụt một đao nọ, mũi đao nhọn hoắt đâm thủng bụng gã.
Hai ngựa lướt qua cạnh nhau trong nháy mắt, Thôi Oanh Nhi nhân mã hợp nhất, quất mạnh mặt đao vào đùi ngựa. Gã đó lảo đảo ngã từ trên ngựa xuống, đầu vừa tiếp đất, lập tức bị vó một thớt chiến mã đang phi tới không tránh kịp đạp lún vào trong tuyết, đã hoàn toàn không còn phản ứng gì.
Hồng Nương Tử giật ngựa tránh đao sang bên nên hơi thoáng khựng lại, sau lưng liền có hai thớt ngựa đuổi tới, hai ánh đao sắc lẹm và lạnh lẽo cũng bổ tới như hình với bóng. Hơn hai mươi thớt kiện mã này đang chạy một mạch về phía núi Bạch Đăng, khoảng cách giữa hai người vào tầm hai thân ngựa, cho dù là Dương Hổ và Hoắc Ngũ Thúc ở gần nhất cũng không kịp cứu viện.
Hoắc lão ngũ la lên:
- Oanh Nhi cẩn thận, phía sau!
Thôi Oanh Nhi chợt sử một chiêu "Đăng Lý Tàng Thân" linh hoạt trượt xuống bụng ngựa, hai đao nọ chém vào không khí, ba ngựa đã dàng ngang một hàng. Như một con cá, nàng dán sát thân hình vào thân ngựa, luồn xuống bụng ngựa đang phi nước đại rồi nhô lên từ phía bên kia, ngồi trở lại lên lưng ngựa đồng thời nhổm hơn nửa người ra khỏi lưng ngựa, đâm một đao vào sườn tên giặc Thát nọ.
Đến núi Bạch Đăng rồi!
Dương Lăng canh đúng thời cơ, quát hạ lệnh:
- Bắn tên!
Một loạt tên bắn cấp tập bay qua khỏi đầu đám thị vệ và Dương Hổ ở đằng trước, nhằm vào đám giặc đang Thát đuổi theo phía sau. Đám người Dương Hổ nhân cơ hội liền tăng tốc lên núi, mấy tên giặc Thát theo sau không dám đơn độc rượt theo bèn lập tức giảm tốc độ lại, trơ mắt nhìn bọn họ chạy thoát lên núi.
Xông được lên núi, đám người Dương Hổ ghì cương ngựa thở hổn hển, ngước đầu trông thấy Dương Lăng, vẻ mặt hai bên đều có phần quái dị. Mới vừa nãy còn là đối thủ sống chết với nhau, nay lại phải cùng chung kẻ địch, cùng chống giặc ngoài. Thế nhưng sánh vai tác chiến cùng mình lại là kẻ thù màphải là bằng hữu, tâm tình ấy thực khó mà diễn tả nên lời.
Dương Hổ và Dương Lăng bốn mắt nhìn nhau, tâm tình phức tạp vô cùng. Dương Hổ không nói gì, chỉ dẫn người phe mình lặng lẽ đi đến đứng sau lưng những cung tiễn thủ đang căng thẳng trụ vững vàng ở sơn khẩu rồi vẫn ngồi trên ngựa nhắm mắt lại điều hòa hô hấp, một hồi lâu sau mới thở ra một hơi thật dài.
Hồng Nương Tử nhìn Dương Hổ rồi lại ngó sang Dương Lăng, bất giác lộ một nụ cười khó xử nơi khoé môi.
Dương Lăng căng thẳng chăm chú quan sát dưới núi. Nhân mã quân Thát đã tập hợp lại, đứng ngay chính giữa, được vây quanh như muôn vàn tinh tú chầu trăng là gã trung niên tráng kiện khoác áo da thú lệch vai nọ. Tuy rằng bọn chúng trèo đèo lội suối đóng vai kẻ cướp, song đằng sau lại có một lá cờ giương cao.
Thông qua những tin tức tình báo mà Hàn Lâm đưa đến, Dương Lăng sớm đã thấu hiểu nhiều điều về thực lực của các nhóm bộ lạc Thát Đát và mối quan hệ giữa bọn họ. Trên lá cờ này tuy không có chữ, chỉ vẽ một biểu trưng, song y vẫn có thể nhìn ra một ít mấu chốt. Bá Nhan Khả Hãn là hậu duệ trực hệ gia tộc cao quí của Thành Cát Tư Hãn, cờ hắn lấy sói làm biểu trưng, mà lá cờ này lại vẽ một con phi ưng đỏ rực như lửa. Với sự hiểu biết của y, đây hẳn là tướng sĩ thuộc nhóm bộ lạc Hỏa Sư.
Dương Lăng không khỏi hơi biến sắc. "Đây là bộ đội tinh nhuệ nhất của Thát Đát, không phải là bộ lạc nhỏ lén đột nhập vào biên quan cướp bóc. Nếu như bọn chúng cướp xong tài vật lập tức trở về thì thôi, còn nếu tướng lĩnh đội quân này không ngốc mà lập tức hạ lệnh tấn công lên núi, binh sĩ phe mình mỗi người chỉ mang theo một ống tên thì sẽ có thể chống đỡ được bao lâu?"
Y ngoái đầu đưa mắt nhìn về phương xa, tuyết trăng mênh mông, viện binh vẫn chưa thấy bóng dáng gì. Trái tim Dương Lăng trĩu nặng, sắc mặt trở nên nghiêm trọng.
Tướng lĩnh Thát Đát dưới núi là bộ hạ của Hỏa Sư, tên Tác Lạp Địa. Một sĩ tốt vừa trình lên cho hắn một mớ cung nỏ và hỏa súng ngắn không mấy hữu dụng trên chiến trường do bọn chúng vừa thu được trong tay những quân Minh tử trận. Tác Lạp Địa nhìn những cung nỏ được chế tạo tinh xảo hơn cung nỏ biên quân hay dùng rất nhiều này, rồi lại cầm hỏa súng ngắn hiếm thấy lên ngắm nghía một lúc, khoé miệng lộ ra một nụ cười đắc ý.
Hắn ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ông trời phù hộ Thổ Mặc Đặc(1) Mông rồi! Đội quân Minh này tuyệt không phải là biên quân thông thường, thủ lĩnh bọn chúng nhất định là một nhân vật quan trọng của địch. Bá Nhan Đại Hãn hiện tại đang rất bất mãn với Quách Lặc Tân kỳ(*), các bộ lạc đều hoài nghi dũng khí của kỳ chủ chúng ta, nếu như chúng ta có thể giết chết đại nhân vật này của quân Minh, uy danh của Hỏa Sư sẽ lần nữa chấn động thảo nguyên đại mạc.
(*: như huyện, tỉnh)
Tác Lạp Địa giơ bội đao lên cao, hô lớn:
- Hỡi các dũng sĩ! Trên núi có một thủ lĩnh quan trọng của quân Minh, giết được hắn sẽ vinh quang hơn cướp hằng nghìn hằng vạn dê bò. Viện quân của chúng sẽ mau chóng kéo đến. Vì sự vẻ vang và sinh tồn của bộ lạc, chúng ta hãy xông lên giết chết bọn chúng!
Tiếng hét hò như sấm, giặc Thát reo hò ầm ỹ, đại đội nhân mã dưới mệnh lệnh của Tác Lạp Địa bắt đầu liều mạng xông lên núi. Tên trút như mưa, giặc Thát cũng không ngừng bắn tên đáp trả, nhất thời trời rợp mưa tên, không ngừng có người kêu la thảm thiết rồi ngã xuống. Hai viên bách hộ quân Minh căng thẳng thúc giục sĩ tốt áp chế đợt tấn công của giặc Thát.
Nhưng chỉ có mưa tên dày đặc mới có thể ngăn cản sức tiến công của bọn chúng, mà tên trong ống dùng một mũi thì ít đi một mũi. Khi từng thi thể ngã xuống trên sườn núi, thì túi tên của quân Minh cũng đã đồng thời trống rỗng. Hai viên bách hộ quyết đoán thật nhanh, lập tức thưa với Dương Lăng:
- Đại nhân! Ty chức xin dẫn binh ngăn trở bọn chúng, ngài hãy mau xuống núi từ phía khác, tin rằng viện binh cũng sắp đến thôi.
Dứt lời hai viên bách hộ liền bạt đao khỏi vỏ, quát lớn:
- Các huynh đệ, hãy xông xuống núi! Sườn núi không lợi cho chiến đấu trên ngựa, đừng để bọn chúng tấn công lên đỉnh núi!
Vừa nói vừa chạy dẫn đầu xuống phía sườn núi.
Trên trời, một con chim ưng đầu trọc đang lượn quanh kêu lên một tiếng thê lương, trận chiến giáp lá cà đã bắt đầu...
Mục tiêugiặc Thát là Dương Lăng. Theo phán đoán của Tác Lạp Địa, vị tướng lĩnh trẻ tuổi mà đội quân mấy trăm quan binh được trang bị vũ khí tinh xảo đang ra sức bảo vệ này nhất định là một nhân vật rất quan trọng của quân Minh, nói không chừng chính là hoàng đế nhà Minh mà Kỳ chủ từng nói tới. Nếu đúng là hắn, thì cho dù mình có cùng toàn quân bỏ mạng nơi đây mà kéo được hắn chôn cùng thì nào có hề gì?
Nhiệt huyết sôi trào, Tác Lạp Địa tổ chức một đội cảm tử trăm người, bất chấp thương vong xông qua sự ngăn trở của quân Minh, đánh thẳng về phía Dương Lăng. Bọn thị vệ đại nội cũng bạt đao xông lên trước, chiến trường lan rộng, đám người Dương Hổ cũng không thể không tham gia kiên trì chống đỡ.
Thanh bảo kiếm Ngũ Hán Siêu quen dùng đã gãy, chàng ta nhặt lấy một chiếc phác đao bảo hộ Dương Lăng vừa đánh vừa lui. Đỉnh núi lồi lõm gồ ghề, đất vàng đồi núi trộn lẫn với nham thạch bị bào mòn tạo thành nhiều hố nông lẫn hang động, khiến bọn họ không thể cưỡi ngựa, chỉ có thể rút lui từng bước một.
Càng lúc càng có nhiều thành viên đội cảm tử của giặc Thát để ý tới vai trò đặc thù của Dương Lăng nên lũ lượt kéo sang. Giặc Thát có trên nghìn người, lúc tấn công lên núi bị chết mất hơn hai trăm, nay còn khoảng tám trăm tinh binh. Quân Minh trên núi cộng lại không quá bốn trăm người, dù nhờ vào địa lợi, song vẫn bị mưa tên của đối phương bắn cho tử thương hơn trăm người. Mặc dù ai nấy đều ra sức liều mạng, song hoàn toàn không thể ngăn bọn chúng đến gần Dương Lăng được.
Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy cũng bắt đầu đại chiến với giặc Thát. Ngũ Hán Siêu sốt ruột đến toát mồ hôi trán, một đao quét ngang đón đỡ binh khí của mấy tên giặc Thát, quay đầu gầm lên:
- Đại nhân, mau rút đi! Lên ngựa mà chạy! Thuộc hạ không chiếu cố tới nổi đâu.
Đoạn chàng phi thân qua, một tay chộp Dương Lăng, tay kia cầm đao, mắt đỏ ngầu, tính cắp y xông ra khỏi vòng vây.
Có điều chàng mới vừa búng người mấy bước, mấy tên dũng sĩ Thát Đát can đảm không sợ chết đã nhào tới cản đường. Cầm cây phác đao nặng trịch bằng một tay, uy lực giảm mạnh, Ngũ Hán Siêu đành buông Dương Lăng ra, gầm lên một tiếng, hai tay cầm chắc thanh đao đánh văng mấy tên giặc Thát ra xa.
Nhác thấy chiến sự không ổn, Dương Hổ vừa chiến đấu cùng giặc Thát vừa tiến đến gần Thôi Oanh Nhi nói nhỏ:
- Tình hình không ổn. Giặc Thát đang nhắm vào tên họ Dương, chúng ta đi thôi. Mau! Nếu chậm trễ thì bất kể quan binh đắc thế hay giặc Thát thủ thắng cũng đều không phải là kết quả tốt cho chúng ta đâu.
Thôi Oanh Nhi hừ nhạt một tiếng đáp:
- Chạy đi đâu chứ? Trên đỉnh núi không cưỡi ngựa được, vừa đánh vừa lui thôi. Dương Lăng đang ở đây, quân thủ vệ Đại Đồng tất sẽ liều chết chạy lại.
Một chiêu chánh thủ đao(*) đỡ lấy cây thác thiên xoa của tên giặc Thát, nàng lại thuận thế bước lên, sử một chiêu phản thủ đao(**) chặt đứt tay gã, tung cước đá văng gã đi, đoạn quay đầu lại liếc Dương Hổ nói vội:
- Dương Lăng là khâm sai, đại diện cho Hoàng đế, đại diện cho triều đình. Hôm nay đứng trước mặt mấy trăm quan binh y đã mở miệng nói bất kể là quan hay cướp chỉ giết giặc Thát thôi thì quyết sẽ không nuốt lời. Quan binh đến thì sợ gì chứ?
(* và **: kiểu cầm vũ khí xuôi và ngược. Chánh thủ đao là cầm xuôi, mũi đao/kiếm chĩa về phía trước, thiện công; phản thủ đao là cầm ngược, mũi đao/kiếm chĩa ra sau, thiện thủ)
Dương Hổ thầm tức giận trong lòng, nhưng lúc này thật sự không phải là lúc để cãi cọ với thê tử, đành phát tiết lửa giận lên người bọn giặc Thát, khiến đao pháp càng trở nên mạnh mẽ. Trong mỗi tiếng gầm quát của hắn lại thấy đầu óc bay, chân tay cụt, thế như chẻ tre.
Thấy trượng phu mình oai phong như vậy, Thôi Oanh Nhi cũng không khỏi vui mừng mỉm cười. Nàng thoáng quay đầu trông thấy bọn Dương Lăng đang bị vây bởi hơn chục tên giặc Thát, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy thế như cọp điên, đỡ trái hở phải, liều mình chống đỡ. Bọn thị vệ chung quanh muốn sáp lại gần nhưng bọn chúng đều đang chém giết sinh tử cùng giặc Thát, sợ rằng vừa xoay người liền sẽ bị đao bén kề cổ, chỉ nóng lòng lo lắng mà lại không thể giúp gì.
Nàng vội quát một tiếng, phi thân phóng đến, nhún người mấy cái liền đã đáp xuống cạnh Dương Lăng, vừa kéo tay y vừa gắt:
- Là một đại nam nhân mà thực là vô dụng. Theo ta đi!
Nàng túm chặt lấy Dương Lăng, xoay người chạy về phí sau. Mặt đất trên đỉnh núi nhấp nhô cao thấp, khắp nơi tuyết trắng chất dày, với địa thế như vậy, nàng căn bản không thể mang Dương Lăng phi thân, chỉ có thể lôi y chạy như điên mà thôi.
Thôi Oanh Nhi vừa vung đao đỡ đòn mấy tên giặc Thát vừa kéo y chạy nhanh hơn. Vừa vượt lên mấy bước, nàng chợt cảm thấy đống tuyết dưới chân hơi bị hẫng, thầm kêu không hay. Nàng vừa định vặn người mượn lực hông để khỏi ngã thì Dương Lăng đang bị tay nàng kéo không kịp dừng lại đã va vào người khiến nàng bị trượt chân, cả người ngã vào trong hố tuyết. Tay phải nàng đang nắm chặt Dương Lăng không kịp buông ra khiến y cũng bị lôi ngã theo nàng xuống dưới.
Chỗ này thực chất là một cái hố sâu; do tuyết rơi nhiều, mà lại nhớp dính, nên mặc dù phía dưới trống trơn, tuyết đọng bên trên vẫn dần lấp miệng hố lại, khiến người ta không thấy có chút dị trạng nào. Những lúc tuyết lớn rơi đầy trời, những giếng nước dưới lòng đất trên vùng bình nguyên cũng sẽ xuất hiện loại hiện tượng này, dân bản xứ gọi nó là "quỷ phong tỉnh" (giếng ma lấp - ND). Người đi đường không nắm rõ địa hình, khi đi đường tắt ngang qua đạp phải sẽ ngã vào mà chết đuối.
Hồng Nương Tử vốn có thể dừng lại, nhưng bị Dương Lăng va đụng nên ngã xuống, vù cái đã rơi xuống hơn hai trượng. Nàng cũng mặc không thể tóm lấy Dương Lăng nữa, trong lúc khẩn cấp vội vứt đao mà cố bám víu vào chung quanh. Vách đá nham thạch bị nước mưa xói mòn nên nàng không thể bám chắc, thân hình chỉ hơi dừng lại một chút rồi lại tiếp tục rơi xuống ngay.
Cứ như vậy, rơi rơi dừng dừng, rơi xuống phải đến sáu bảy trượng sâu, rốt cuộc nàng cũng bấu được vào một khối nham thạch nhô ra. Hồng Nương Tử vừa thở phào một hơi thì Dương Lăng cũng đã rơi tới. Vừa đụng vào người nàng, Dương Lăng không hề suy nghĩ gì liền theo bản năng ôm chặt lại, thân thể trượt từ từ xuống người Hồng Nương Tử, hai tay y liền ôm chặt lấy đùi nàng.
Thân thể Hồng Nương Tử thoáng trĩu xuống, suýt nữa tuột tay, may mà lực tay nàng khoẻ, liền vội cố sức bấu lấy mỏm nham thạch. Trong cái bóng tối như bưng lúc này nàng mới giật mình phát hiện Dương Lăng đang ôm chặt lấy hai đùi, đầu ép vào mông mình, liền vừa giận vừa ngượng vội quát bảo:
- Vô lại! Buông ta ra!
Dương Lăng sợ đến độ tim đập thình thịch, cảm thấy Thôi Oanh Nhi đang vùng vẫy hai chân, y liền vội kêu lên:
- Không buông được! Không buông được! Buông ra ta sẽ ngã chết đó!
Mặc dù đang ngượng gần chết nhưng Thôi Oanh Nhi vẫn cảm thấy mắc cười không thôi. Nàng tức giận:
- Ai thèm quan tâm ngươi chết hay không? Còn không buông tay ta sẽ đạp ngươi xuống đó. Như... như vậy còn thành ra thể thống gì?
Tuy mặc áo bông rất dày, nàng vẫn rất nhạy cảm nhận biết được bộ ngực áp phía sau hai đùi mình đang đập như đánh trống. "Xem ra bỗng nhiên bị ngã thực đã khiến vị đại nhân này sợ lắm đây, mà không phải là y có ý vô lễ". Nghĩ vậy nàng bèn mềm lòng, ngữ khí dịu lại:
- Ngươi bám vào vách đá ấy, đừng ôm ta!
Dương Lăng sợ chọc giận nàng ta, bèn định thần lại một chút, rồi một tay bấu chặt cặp đùi chắc nịch thẳng tắp của Hồng Nương Tử, một tay sờ soạng chung quanh. Trái phải và trước sau đều trống trơn, chút ánh sáng le lói trên miệng hố không đủ để soi nhìn, cũng không biết cái hang này rộng bao nhiêu. Chỗ Hồng Nương Tử bắt trúng là khối nham thạch nhô ra, vách tường nham thạch phía đối diện lại hơi lõm vào một chút. Y quào thử lại bốc phải một nắm bùn, bùn đất rơi xuống dưới hố rào rào, sợ quá lật đật rụt tay về.
Do bận bịu tìm chỗ bám, y cảm thấy tay còn lại sắp không còn đủ sức ôm Hồng Nương Tử nữa, liền vội rụt tay về ôm tiếp, uể oải bảo:
- Chung quanh không thấy thứ gì có thể nắm lấy. Cô đừng cử động, để tôi trèo lên trên rồi cùng bám lấy mỏm đá là được.
Hồng Nương Tử sững người. Nàng cảm thấy Dương Lăng quấn chặt lấy cơ thể đang treo lơ lửng của mình, hai tay cài vào nhau lần lên đến hông, người thoáng dịch lên trên, hai đùi tức thì kẹp chặt lấy chân mình, tiếp đến lại tới hai tay xích lên, cứ thế xen kẽ, vậy mà đã sắp ôm lên tới ngực mình. Hồng Nương Tử hốt hoảng gào lên:
- Ngươi làm cái gì vậy?
Lúc này hai tay Dương Lăng đã lủi tới giữa ngực và bụng nàng, nghe nàng quát, hai tay y lại trượt xuống, ôm chặt lấy eo cô nàng. Từ nhỏ đến giờ ngoại trừ trượng phu ra, nàng có bao giờ từng bị người khác thân cận đến thế đâu? Thế là nàng lập tức ngượng đỏ chín mặt mày, vừa giận vừa xấu hổ mắng y:
- Vô lại, mau dừng tay!
Dương Lăng vội ngừng mọi "hoạt động" lại. Một lúc sau, y mới ngượng ngập nói:
- Sự cấp tòng quyền, tôi... dù sao thì cứ ôm như vậy cũng không phải là cách hay.
Thôi Oanh Nhi ngượng đến quẫn trí, mắng:
- Tòng quyền cái rắm á! Thực là đồ vô dụng, Đại Minh hết thời rồi mới đẻ ra cái thứ tướng quân bất tài như ngươi!
Dương Lăng thật sự sợ chọc cho nàng ta giận mà đạp mình xuống dưới hang sâu, đành thiểu não đáp:
- Vậy... vậy tôi không động đậy gì như vầy thì chắc được chứ?
Hai người đều mặc quần áo dầy cộm, da thịt không có mấy cảm giác, nhưng ôm chặt như vậy lại khiến trong lòng Hồng Nương Tử rất khó chịu. Hiện nay hai tay nàng đang bám lấy mỏm đá, Dương Lăng thì ôm chặt eo nàng, cho dù nàng thực có bản lĩnh thông thiên đi nữa thì chuyện đạp y xuống cũng đâu phải dễ dàng gì! Nhưng nếu cứ để y ôm lấy nàng như vậy thì thực không ra thể thống gì cả! Hồng Nương Tử không còn cách nào khác đành bảo:
- Ngươi đừng cử động, để ta kéo ngươi lên!
Nói đoạn nàng hít một hơi dài, bắt đầu lần mò dò một chỗ lõm hơn để bám chặt vào khối đá. Tiếp đó nàng vươn một cánh tay ra sau lưng tóm lấy áo Dương Lăng, dặn dò:
- Buông tay để ta kéo ngươi lên! Ngươi nhích sang bên này sẽ có thể bám được vào mỏm đá.
Buông tay ra, chỉ dựa vào một tay nàng ta túm áo mình? Tim Dương Lăng lại bắt đầu đập thình thịch. Nhưng bảo y cứ ôm người ta một cách vô sỉ như vậy, y lại không thể làm được (TJ: em làm được! :013:). Hết cách, Dương Lăng đành phải nắm lấy vạt áo nàng, quấn chặt trong tay rồi mới thả lỏng hai chân.
Hồng Nương Tử nín thở, vận sức kéo người y lên. Vừa kéo lên được nửa thước nàng liền phát hiện hai tay y đang nắm chặt vạt áo của mình, không khỏi dở khóc dở cười quay đầu lại bảo:
- Ta sẽ không ném ngươi xuống đâu, còn không b...
Lúc này nàng đã kéo Dương Lăng lên đến ngang tầm với mình, do sợ hơi thở nặng nề của mình sẽ phà vào mặt người ta nên Dương Lăng cũng đã nín thở lại. Hang tối như bưng, không nhìn thấy gì, Thôi Oanh Nhi không hề phát hiện mặt y gần kề đầu mình. Lúc này vừa quay đầu môi nàng đã vừa khéo lướt nhẹ lên má phải Dương Lăng, chạm nhẹ vào môi y.
Dương Lăng chỉ cảm thấy một vật gì mềm mại và ấm áp thoáng chạm vào môi mình rồi tách ra, trong nháy mắt liền sững người, liền biết ngay môi nàng vừa vô ý lướt qua, đây nào phải chuyện đùa! Nín thở hồi lâu nên y cũng không thể nín được nữa, hơi thở nặng nề không kiềm được mà phà lên má, lên cổ Hồng Nương Tử.
Bên ngoài tiếng chém giết đã bớt dần, cũng có thể... chỉ là ảo giác.
Trong hang yên tĩnh đến đáng sợ, trong bóng tối Dương Lăng cũng không nhìn thấy được Hồng Nương Tử đang có vẻ mặt gì. Y chỉ sợ Thôi Oanh Nhi thẹn quá hoá giận sẽ giết mình diệt khẩu, hai tay càng bám áo nàng đến chặt. Qua một lúc sau, y mới nghe tiếng Thôi Oanh Nhi lúc này đã quay đầu đi nói:
- Buông tay! Bây giờ ngươi vịn hai tay lên là sẽ có thể sờ được một khối đá rồi.
Âm thanh của nàng vẫn rất bình tĩnh, chỉ đến mấy chữ cuối cùng mới thấy hơi run run.
Dương Lăng cũng không dám nói gì khác, hai người rất ăn ý, nín thinh không nhắc đến sự đụng chạm vô ý khi nãy. Y cố lấy can đảm buông tay, lần mò lên trên từ từ, đầu tiên sờ phải một mu bàn tay mềm mại, liền vội dịch sang bên một chút, thử một lúc rồi mới bám chặt lấy mỏm đá đó, đoạn thở dài nói:
- Tốt rồi! Nhưng mà... sức lực tôi có hạn, sợ sẽ không cầm cự được lâu. Bên ngoài... cũng không biết thắng bại thế nào rồi.
Thôi Oanh Nhi đáp khẽ:
- Khi nào ngươi hết sức thì ta sẽ đỡ ngươi lên. Thắng bại bên ngoài... chỉ đành phó thác cho trời thôi.
- Ôi! - Dương Lăng thở dài, lo lắng ngước đầu nhìn lên - Nếu viện quân còn chưa đến, người của tôitoàn quân chết sạch thôi! Giặc Thát chỉ cần ném thêm vài tảng đá xuống, hai ta liền sẽ bỏ mạng ở...
Y vừa nói đến đây, khoé mắt chợt như thấy có vật gì rơi xuống, tiếp đó mũi chợt đau nhói, nước mắt lập tức tràn ra. Một hòn đá cỡ nắm tay từ trên rơi xuống đã đập trúng mũi y.
Dương Lăng không kịp trở tay, theo phản xạ đưa một tay xuống thoa mũi, cánh tay kia bám vào chốn ẩm ướt trơn trợt, khớp đốt ngón tay lại bị tê cóng nên không trụ được, cả người y vụt cái liền rơi xuống.
- Cái đ...!
Tiếng chửi còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, Dương Lăng chợt thấy miệng hang tối sầm, một giọng nói vùng Lai Dương xen lẫn tiếng khóc rưng rức đang gào thét bên trên:
- Đại soái! Bà mẹ nó sao ngài lại ngã chết thế này!
Chú thích:
(1) một trong hai kỳ (tương đương huyện) thuộc lãnh thổ đặc khu Tuy Viễn thuộc Nội Mông xưa, phiên âm từ Tumed.
Chương 197: Thằng Ngang Sợ Thằng Càn
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Dương Lăng quay đầu lại nhìn thấy Hồng Nương Tử Thôi Oanh Nhi đang nắm dây thừng bằng một tay đã được Dương Hổ kéo lên, toàn thân vẫn trong trang phục đàn ông, nhưng tóc tai tán loạn, hai má ửng hồng. Cặp mắt trong vắt xinh đẹp vừa ló khỏi hang vừa khéo chạm ánh mắt của y, bèn vội dời ánh mắt đi, nhún người nhảy lên miệng hang. Cử chỉ như thẹn như sợ, không ngờ lại rất có phong vị phụ nữ.
Nếu Kinh Kha thật sự hành thích vua Tần thành công, thì những kẻ kế thừa đớn hèn như Phù Tô(1) hay ngu đần như Hồ Hợi(2) liệu sẽ có thể thống nhất sáu nước? Nếu thời Hán Sở tranh hùng mũi tên bắn trúng ngực Lưu Bang đó nhích lên thêm ba tấc nữa, thì lịch sử sẽ phát triển như thế nào?
Nếu lúc Lý Thế Dân chinh phạt Vương Thế Sung không nhờ Uất Trì Kính Đức một mình một ngựa cứu chúa, thì lịch sử sẽ có cục diện ra sao? Nếu Triệu Tử Long chưa từng cứu sống A Đẩu ở đồi Trường Bản... Nếu ... chỉ có thể là nếu...
Lưu Đại Bổng Chùy hoàn toàn không hề hay biết lúc mình tranh chạy đến miệng hang khóc gào đã khiến cho một hòn đá nhỏ do hai tay gã vô tình chạm phải rơi xuống cũng suýt chút nữa đã làm thay đổi tất cả từ đây, song đôi chân khoẻ khoắn của Thôi Oanh Nhi trong nháy mắt đã kịp sửa chữa lại.
Lúc Dương Lăng trượt xuống, y đã quơ trúng nhưng không kịp giữ chặt lấy áo nàng. Nhưng ngay khi giật mình phát hiện, trong nháy mắt Thôi Oanh Nhi đã đưa hai chân ra kẹp chặt y lại.
Thân thể đang trượt xuống của Dương Lăng vì vậy mà giảm tốc, y liền vội lại ôm chặt lấy chân nàng. Hai bắp đùi của Thôi Oanh Nhi cực kỳ mềm dẻo và rất khoẻ, nàng cũng không ước lượng được y đã trượt xuống tới đâu, chỉ biết mình đã kẹp được người y, liền vội dồn thêm sức vào hai chân, hỏi vội:
- Ngươi làm sao rồi?
Dương Lăng thở gấp mấy hơi, màng nhĩ lùng bùng, khàn khàn đáp lại:
- Tôi bám được vào cô rồi, nhẹ... nhẹ chút, đùi cô kẹp cổ tôi... chặt quá, thở... thở không... nổi...
Hồng Nương Tử thoáng đỏ mặt, may mà hang tối như bưng mà cũng chẳng còn ai để nhìn thấy. Nàng hơi buông lỏng hai chân, Dương Lăng thừa dịp níu chặt lấy áo nàng rồi vội vã bò lên thêm chút, hai tay ôm chặt lấy vai nàng. Lần này y đã luồn vào phía trong Thôi Oanh Nhi, mặt đối mặt với nàng, tư thế rất là mờ ám.
Dương Lăng thở hổn hển nói:
- Đa tạ... đa tạ cô cứu mạng.
Mặt nóng bừng bừng, Hồng Nương Tử quay đầu đi, giọng căng thẳng:
- Không cần cảm ơn ta! Nếu như ngươi cứ như vậy mà chết đi thì cho dù giặc Thát có rút lui, mấy người chúng ta cũng đừng hòng sống sót rời khỏi nơi này. Chỉ mong đại nhân lời nói đáng giá nghìn vàng, chịu giữ lấy lời hứa là được.
Dương Lăng từng thấy Hồng Nương Tử trong trang phục phụ nữ, biết nàng hào sảng oai hùng, mặt xinh dáng đẹp, nhưng nàng không những là nữ tặc mà còn là vợ người ta, mình và nàng ta ôm nhau như vậy quả thực chẳng ra thể thống gì. Y nghe vậy bèn vội đáp:
- Cô yên tâm! Tôi là khâm sai triều đình, lời nói đại biểu cho đương kim Hoàng thượng và triều đình, sẽ không bao giờ thất tín.
Mặc dù âm thanh từ dưới hang truyền ra bên ngoài rất nhỏ, nhưng ở trên miệng hang Lưu Đại Bổng Chùy vẫn lờ mờ nghe thấy có chút động tĩnh, gã bèn vội chổng mông thò đầu vào trong hang nhòm nhòm, song chỉ thấy một mảng tối om, chả thấy gì khác. Lưu Đại Bổng Chùy bất giác có phần hoảng sợ.
Hắn ngẩng đầu nhìn chung quanh thấy toàn là binh sĩ cầm đao cầm kiếm, Ngũ Hán Siêu mặt mướt mồ hôi song vẫn mở to hai mắt đứng một bên, tư thế giống như muốn đá hắn một cú bắn xuống hố vậy. Lá gan Lưu Đại Bổng Chùy bất giác hơi to lên, hắn lấy hết sức gọi xuống dưới:
- Đại soái! Ngài còn sống hay là chết rồi? Ngài hãy kêu lên một tiếng đi!
Hai người Dương Lăng ở dưới hang nói chuyện nhỏ nhẹ còn không sao, hắn quỳ ở bên trên căng họng kêu lớn như vậy, âm thanh vang vọng tràn xuống ào ào như một hồi sấm sét, chấn động khiến cho bụi đất bám chung quanh vách hang rơi lả tả. Dương Lăng và Hồng Nương Tử vội nhắm nghiền hai mắt, cúi đầu dựa sát vào nhau để tránh. Đợi cho bụi bặm bớt rơi, Dương Lăng mới vội ngẩng đầu hét vọng lên:
- Con bà nó, đừng có hét nữa! Suýt chút nữa ta bị ngươi hét chết rồi, mau kéo ta lên đi!
Hét xong y lại vội nhắm nghiền mắt và cúi đầu, quả nhiên lại một đống bụi đất nữa rơi xuống. Ở bên trên Lưu Đại Bổng Chùy nghe rõ mồn một, thế là hắn bèn nằm bệt ra trước miệng hang, há miệng cười ha hả như một con ếch đang đớp lấy không khí, đồng thời nhìn ngang liếc dọc reo lên:
- Đại soái còn sống, ha ha ha! Ta đã nghe được rồi, đại soái vẫn còn sống, ta nghe thấy đại soái mắng ta rồi!
Nghe vậy Ngũ Hán Siêu mới khôi phục thần hồn, vội ra lệnh:
- Mau lên! Mau kiếm dây thừng cứu đại nhân lên!
Đám phiên tử đang mất hồn mất vía liền như gà mắc tóc, tên nào tên nấy hết nhìn đông rồi lại nhìn tây, nhìn cả buổi song lại không thấy có cái gì có thể dùng để cứu đại soái. Bởi vợ mình cũng bị rơi xuống hố, sống chết không rõ, nên Dương Hổ thực nóng lòng không thua gì bọn Ngũ Hán Siêu, trông thấy vậy thì không khỏi phát bực. Hắn sải bước vụt sang, chụp lấy sợi dây thừng quấn móc câu của một viên phiên tử giắt bên hông xuống, giật mấy cái thử độ dai rồi liền quát:
- Ai còn móc câu thừng chão lấy ra buộc vào nhau, nhanh chút đi!
Mấy viên phiên tử khi nãy dùng móc câu kéo sập chòi trong Lý Gia tập lật đật bước qua, lấy bốn sợi thừng móc câu tết lại thành một sợi dây dài khoảng tám chín trượng. Dương Hổ ngồi xổm trước miệng hang, vừa chầm chậm thả dây thừng xuống vừa lấy hơi gọi lớn:
- Nương tử! Nàng vẫn ổn chứ?
Hắn vốn biết bản lĩnh thê tử tài giỏi hơn mình, nếu cái tên Dương Lăng vô dụng đó mà còn sống thì thê tử nhất định sẽ không đến nỗi xảy ra chuyện gì. Quả nhiên dưới hang vọng lên tiếng Hồng Nương Tử:
- Trên đó thả dây xuống, dưới này sẽ không trông thấy rõ đâu. Hãy hơi đong đưa qua lại một chút!
Dương Hổ mừng rơn, liền vội vừa thả dây thừng xuống vừa đong đưa nhè nhẹ qua lại, móc câu buộc ở đầu dây thừng chạm vào vách đá dưới hang phát ra những âm thanh lanh lảnh. Ngũ Hán Siêu lật tay cầm kiếm, nhìn Dương Hổ chằm chằm, nếu trong lúc cứu người hắn dám có dị tâm thì chàng sẽ lập tức rút kiếm chém chết hắn ngay. Dương Hổ chỉ liếc mắt nhìn chàng ta cười khẩy.
Thôi Oanh Nhi nghe tiếng để nhận biết vị trí, đợi khi tiếng động phát ra ngay bên tai liền vội quơ tay tóm lấy. Nàng một tay vẫn bám chặt mỏm đá, một tay lấy dây thừng quấn quanh bụng Dương Lăng mấy vòng, sau đó đặt móc câu vào tay y rồi nói:
- Ngươi nắm lấy dây thừng mà lên!
Dương Lăng tự biết sở trường của mình không phải là võ nghệ cá nhân. Mặc dù đường đường là Xưởng đốc, song đến nơi này y lại như mãnh hổ xuống biển, hoàn toàn không có đất dụng võ, cho nên cũng không khách sáo với nàng, vội cảm ơn một tiếng rồi bám chặt lấy dây thừng để Dương Hổ kéo lên.
Thấy Dương Lăng ló đầu ra khỏi miệng hang, các phiên tử không kiềm được reo hò hoan hô ầm ĩ. Ngay khi Dương Lăng vừa ngã xuống hang, Ngũ Hán Siêu liền như phát điên, xông thẳng vào giữa đám giặc Thát, liều mình chém giết gần hai mươi tên Mông Cổ kiêu dũng, cả người như tắm máu. Bản thân chàng cũng bị thương vài chỗ song vẫn không hề hay biết gì. Giờ trông thấy Xưởng đốc thoát ra được rồi, chàng mới trút được một hơi trọc khí, gần như ngã gục xuống đất.
Lưu Đại Bổng Chùy toét cái miệng to đùng cười to, hai mắt tít lại như một đường chỉ. Dương Lăng mới được kéo ra hơn một nửa thì hắn đã liền nhảy bổ tới ôm lấy y kéo ra khỏi miệng hang.
Dương Lăng vội tháo dây thừng ra, Dương Hỏ lại thả dây xuống dưới. Lưu Đại Bổng Chùy trông thấy giữa sống mũi Dương Lăng sưng lên một cục đỏ tấy thì lấy làm lạ hỏi:
- Đại nhân! Ngài ngã xuống hang, thân thể không hề bị thương tích gì, cớ sao lại bị dập mũi thế?
Dương Lăng tức mình trừng mắt nhìn gã. Lúc này y mới chợt phát hiện chung quanh không ngừng có tiếng chém giết, không khỏi ngạc nhiên hỏi:
- Giặc Thát chưa lui sao? Sao bọn chúng không tấn công lên núi vậy, viện binh của chúng ta đã đến rồi ư?
Ngũ Hán Siêu kéo người y giữ lại, báo:
- Đại nhân hồng phúc tề thiên, quân cầu cứu đi đến nửa đường liền gặp được binh mã của Kinh thiên tổng dưới trướng Đỗ tổng binh đang trở về Đại Đồng. Giặc Thát thấy đại nhân rơi xuống hang cũng không còn hăng hái tiếp tục công kích núi Bạch Đăng nữa, hiện đang đại chiến cùng Kinh thiên tổng dưới núi!
Nghe nói đó là một vị thiên tổng, Dương Lăng lúc này mới hơi yên tâm. Dưới trướng thiên tổng ít nhất có đến hàng nghìn binh đinh, cộng thêm hơn ba trăm người trên núi, so nhân số với bên địch cũng không kém cạnh gì. Có điều không biết dưới trướng vị thiên tổng này có bao nhiêu kỵ binh, nếu đều là bộ binh thì nên sớm bảo hắn lên núi mới được, bằng không bộ tốt đấu với kỵ binh, thắng thì thắng nhỏ, bại sẽ bại lớn.
Dương Lăng quay đầu lại nhìn thấy Hồng Nương Tử Thôi Oanh Nhi đang nắm dây thừng bằng một tay đã được Dương Hổ kéo lên, toàn thân vẫn trong trang phục đàn ông, nhưng tócai tán loạn, hai má ửng hồng. Cặp mắt trong vắt xinh đẹp vừa ló khỏi hang vừa khéo chạm ánh mắt của y, bèn vội dời ánh mắt đi, nhún người nhảy lên miệng hang. Cử chỉ như thẹn như sợ, không ngờ lại rất có phong vị phụ nữ.
Dương Hổ hiếm khi thấy vợ mình lộ ra dáng vẻ như vậy nên không khỏi sinh nghi; hắn liếc sang Thôi Oanh Nhi với vẻ hoài nghi, rồi lại liếc nhìn Dương Lăng. Dương Lăng chỉ vì muốn sống sót nên mới gạt bỏ mọi kiêng kị giữa nam nữ, tự thấy không thẹn với lòng, vì vậy thản nhiên đón lấy ánh mắt hắn, rồi quay đầu bảo Ngũ Hán Siêu:
- Đi! Nhìn xem chiến cuộc thế nào.
Phần lớn phiên tử thủ ở rìa đỉnh núi, đi theo bên cạnh y chỉ có mấy chục thân vệ, mọi người nghe đại nhân mở lời liền vây quanh hộ vệ y đi quan sát trận địa. Hoắc ngũ gia và mấy tên mã tặc ngơ ngác nhìn nhau, lúc này có ý muốn chạy, nhưng vừa rồi hỗn chiến một trận, ngựa còn vứt dưới sườn núi, khắp dưới chân núi lại toàn là lính, biết chạy đằng nào?
Thôi Oanh Nhi tuy biết tình huống trong hang là bất đắc dĩ, song vẫn có phần hổ thẹn với trượng phu, cho nên vẻ mặt lúc mới ra khỏi hàng có hơi bối rối ngượng nghịu, lúc này cũng đã bình tĩnh trở lại. Nàng vén tóc mai, điềm nhiên nói:
- Dương Lăng đã nói rồi, hôm nay quyết sẽ không động thủ. Quan binh cũng không phải đều là hạng không giữ tín nghĩa, lời của người này muội tin tưởng được!
Dương Hổ bất mãn hừ một tiếng. Có điều nếu thật sự muốn đi, hiện tại gã cũng chẳng có chỗ nào để chạy, nay cũng chỉ còn đành tin tưởng Dương Lăng sẽ biết giữ chữ tín mà thôi. Tình hình chiến đấu dưới núi có quan hệ đến sinh tử của bọn họ, mấy người bọn họ cũng đi đến rìa núi tìm chỗ bằng phẳng để đứng rồi cùng nhìn xuống dưới.
Lúc này dưới núi đang triển khai một hồi đại chiến. Vị Đỗ Nhân Quốc này Dương Lăng chưa gặp bao giờ, nhưng lại đã nghe đại danh của lão từ lâu,vũ khí của lão là cây đại khảm đao sống dày, nặng phải sáu mươi cân hơn, nghe nói là đệ nhất dũng tướng của Đại Minh. Lão đã từng giữa chiến trường vung một đao bổ con ngựa đang phi nước đại làm đôi, được giặc Thát khiếp sợ coi là chiến thần.
Chỉ tiếc là vị "chiến thần" này chỉ coi trọng võ nghệ cá nhân, chưa từng suy tính gì đến mưu lược chiến trận, vừa gặp quân giặc liền xung phong lên phía trước, dẫn đại quân ùa tới như ong vỡ tổ. Tuy lão dũng mãnh không gì sánh được, một cây đại đao vừa được vung lên, đúng thực là người cản giết người, Phật cản giết Phật, oai phong rất mực, nhưng lại không có chút tác dụng nào với thắng bại của cả cuộc chiến, vì vậy lão đánh trận phần thắng thì ít phần thua thì nhiều.
Có điều sự sùng bái cá nhân của biên quân đối với lão lại lên đến đỉnh điểm, rất nhiều mãnh tướng coi lão là tấm gương vẻ vang của tam quan. Năm xưa huyện lệnh Mẫn Văn Kiến của Kê Minh từng là một thiên tổng dưới trướng lão, tác phong đánh trận cũng giống hệt lão ta.
Mà hiện tại vị Kinh thiên tổng dưới núi này lại là nghĩa tử của Tổng binh Đại Đồng Đỗ phong tử (lão Đỗ điên) nọ, tuổi vừa tam tuần, tính tình khát máu hiếu sát hệt như nghĩa phụ Đỗ Nhân Quốc của hắn. Giặc Thát do hắn tự tay chém chết không tới một nghìn cũng có tám trăm, được tướng sĩ tam quan xưng là Quỷ vương. Kinh thiên tổng lấy đó làm vinh dự, liền cho làm một lá cờ to, trên viết ba chữ "Quỷ Vương Kinh" thật lớn; thực là có hiệu quả người lạ tránh xa, quỷ ma ra hóng.
Hắn chạy tới vừa đúng lúc, tuy là trùng hợp song không phải không có nguyên nhân. Sau khi nhận được tin Đoá Nhan Tam Vệ đã khởi hành đi Đại Đồng, một mặt Dương Lăng cho tăng cường mật thám và trinh sát gián điệp trong thành, mặt khác lệnh cho Chỉ huy sứ Thái Nguyên Vệ là Trương Dần dẫn quân đi đến bãi Kim Sa chờ lệnh, đồng thời do quân chủ lực của Thát Đát đã chuyển hướng tấn công sang Hồ Khẩu, y bèn truyền lệnh điều đội quân tăng viện cho quan ải phía Bắc trở về Đại Đồng.
Sau khi nhận được quân lệnh, Kinh thiên tổng dẫn quân trở về, đi đến nửa đường thì gặp được viên phiên tử do Dương Lăng phái đến Đại Đồng cầu cứu. Vừa thấy có quan binh, gã phiên tử đó lập tức bỏ yên xuống ngựa, lật đật chạy đến báo tin và thỉnh cầu chi viện.
Không đợi nghe hết, Kinh thiên tổng liền đã hào hưng lên ngựa, dẫn đại quân rời khỏi quan đạo, thọc sườn đánh tới núi Bạch Đăng. Bộ hạ Quỷ Vương Kinh chỉ có ba trăm kỵ binh, khi tiền quân xông đến dưới chân núi Bạch Đăng thì bộ tốt ở hậu quân vẫn còn đang ở ngoài mấy dặm.
Kinh thiên tổng cũng chẳng thèm bận tâm đến đến binh pháp "cánh trái vu hồi, cánh phải bọc sườn, chủ lực hợp công trung lộ" gì cả, cứ thế mà dẫn hơn ba trăm kỵ binh phân tán rải rác ùa tới như một cơn gió, hò hét đánh vào trong trận địa quân giặc. Bọn họ cậy vào nhuệ khí mà tràn tới, xung phong vỗ mặt, đội quân cầm đại đao đánh thốc tới không gì cản nổi, tức thì mưa máu tóe tung, giặc Thát bị giết đến trở tay không kịp.
Dương Lăng đứng trên đỉnh núi, nhìn thấy một vị tướng quân vận đồ đen toàn thân đẫm máu, áo choàng sau lưng hệt như một đám mây đen, đại đao trong tay vung cao, ánh sáng lạnh lẽo vừa loé lên, liền có một tên giặc Thát cản đường bị một đao chém cho cả người lẫn binh khí thành hai khúc. Đội kỵ sĩ sau lưng hắn cũng đều hung hãn vô cùng, liều mình chiến đấu, dáng như loài cọp điên.
Dương Lăng kích động, hỏi:
- Người này thực là dũng mãnh, hắn chính là Kinh thiên tổng dưới trướng Đỗ tổng binh ư?
Một viên phiên tử đáp lời:
- Dạ! Đại nhân, người này chính là Quỷ Vương Kinh danh vang khắp tam quan!
Ngũ Hán Siêu khen ngợi:
- Một đao chém cho cả người lẫn binh khí thành hai khúc, cây đao trong tay hắn ít nhất cũng xấp xỉ năm mươi cân, thực là một viên mãnh tướng!
Dương Lăng quan sát chiến cuộc dưới núi, thấy giặc Thát đã không còn ham chiến, đang rút lui dần, xa xa còn có một toán quân Minh khôi giáp xiêu vẹo chạy lại, thì thoáng nhẹ nhõm trong lòng, cười nói:
- Ừ! Người này xông pha trận mạc quả thực là một viên mãnh tướng, không thẹn tên gọi Quỷ vương! Chỉ không biết mưu lược chiến trận thế nào, nếu như hắn ta hữu dũng hữu mưu, ấy thực là phước cho Đại Minh ta vậy!
Sách Lạp Địa nghe được tin báo rằng vị thanh niên nghi là tướng lĩnh trọng yếu của quân Minh đó đã rơi xuống hang núi. Hắn thấy ngọn núi tuy không cao lắm song cũng phải hơn trăm trượng, nếu rơi xuống sẽ không có hy vọng sống sót gì, thế là hài lòng thoả ý. Hắn vừa đang định cho quân rút nhanh thì bất ngờ bị một toán quân Minh đánh tới, mà toán quân địch đó còn không thèm dùng đến bất cứ binh pháp gì.
Đây đúng thật là "quyền cước lung tung, trúng thầy thầy chết". Tuy hắn cũng là một tướng lĩnh Thát Đát từng trãi cả trăm trận lớn nhỏ, thế nhưng quân đội mệt mỏi, lại bị đối phương xông vào làm rối loạn đội hình, nhất thời không có cách nào phản kích hữu hiệu. Thế là hai đoàn quân quấn chặt vào nhau, tức thì sa vào khổ chiến.
Quỷ Vương Kinh xung phong đi đầu, đại đao trong tay vừa vung lên, đầu người liền bay mất, một thân thể cường tráng ngã rầm xuống đất. Một tên giặc Thát trông thấy từ xa, bèn móc ra một sợi dây quăng quấn chân ngựa quay quay, nhắm chuẩn, buông tay ném tới.
Kinh thiên tổng đang thúc ngựa đuổi theo một tên giặc Thát đã bị chém gãy binh khí thì thình lình đôi chân ngựa bị quấn vào dây thừng, chiến mã ngã rầm xuống đất. Mấy tên giặc Thát lợi dụng thời cơ lập tức múa may binh khí thúc ngựa chạy tới.
Vị thiên tổng này phản ứng cực nhanh, trong chớp mắt ngựa vừa ngã xuống, hai chân hắn đã rời khỏi bàn đạp, hai chân giẫm lên lưng ngựa một cái, mượn lực búng của chân cộng lực đàn hồi của lưng ngựa mà nhảy vọt lên. Lúc chiến mã ngã rầm xuống đất khiến cho một mảng tuyết bắn tung thì hắn cũng đã từ trên không đáp xuống, vung một chiêu lực phách Hoa Sơn, sức mạnh và tốc độ kết hợp một cách hoàn mỹ, trường đao từ trên cao bổ xuống giữa tiếng quát kinh thiên!
Một tên giặc Thát đang thúc ngựa chạy ngang phía trước trông thấy một đao không thể đỡ được bổ xuống như sấm sét liền nghiêng người trượt nhảy khỏi chiến mã. Trong tiếng quát như sấm rền của Kinh thiên tổng, nhát đao của hắn đã bổ đứt yên ngựa, bổ gãy xương sống của nó. Một thớt ngựa lùn khoẻ mạnh của Mông Cổ cứ vậy mà bị bổ làm đôi, một cột máu phun lên, tức thì hắn biến thành một huyết nhân không rõ hình dáng.
Chỉ thấy tên huyết nhân này lau mặt, xoay bước vặn lưng, đại đao vút ngang. Trong một tiếng gầm dữ tợn, "vù" một cái, lưỡi đao như cái quạt gió đã chém xéo đến một con tuấn mã đang đứng chồm trên hai chân trước, hí dài vì sợ hãi...
Chú thích:
(1) Con cả của Tần Doanh Chính, tin vào thư giả mạo của Triệu Cao và Lý Tư mà rút kiếm tự vẫn.
(2) Con thứ mười tám của Tần Doanh Chính, là vị vua cuối cùng của nhà Tần, giết hại nhiều đại thần, tôn thất và là nguyên nhân Tần bị mất nước.
Chương 198: Đồng Sàng Dị Mộng
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Thôi Oanh Nhi giận lắm, muốn móc mắt Dương Lăng ra ngay lập tức. Nàng tính tình cao ngạo, thật không thể nào mở miệng yêu cầu Dương Lăng thả bọn họ đi cho nên chỉ gọi một tiếng, trông chờ Dương Lăng sẽ mở miệng thực hiện lời hứa của y. Giờ thấy Dương Lăng còn làm ra vẻ không hiểu, nàng không khỏi trợn mắt, cúi đầu oán hận mắng nhỏ:
- Ngươi... thật vô lại!
Hai xác ngựa đổ xuống, máu tươi phun khắp đầu khắp mặt Kinh thiên tổng, hắn khuỳnh hai chân, tay cầm chắc đại đao, mặt nanh mày ác, hệt như quỷ dữ giáng trần.
Đám giặc Thát tính tranh thủ thừa cơ xông lại tiêu diệt hắn nay trông thấy vậy thì sợ đến khiếp hồn, suýt nữa đã không cầm nổi cương ngựa. Ngựa chúng cũng kinh hãi hí lên điên cuồng, chồm hai vó trước lên không, chẳng dám bước tới một bước. Việc chỉ trong nháy mắt, song cũng đã đủ cho vị thiên tổng vung tiếp hai đao.
Quỷ Vương Kinh vẫn đứng trên mặt đất, hắn chùng người theo mã tấn, đại đao vung ngang một đường. Đao vừa chém ngang, bốn chân ngựa rụng xuống đất, con ngựa tội nghiệp biến thành một con ngựa "nhộng" hí thảm một tiếng rồi ngã bộp xuống đất, lăn lộn đau đớn, thuận đà đè tên giặc Thát ngã ngựa, kéo theo vệt máu đỏ tươi.
Kinh thiên tổng thuận đà giật ngược chuôi đao, thụi vào ngực một tên giặc Thát đang sững sờ khiến gã hộc máu ngã ngựa, tiếp đó hắn giật lấy dây cương, cướp ngựa xoay mình nhảy lên, máu nhuộm đỏ cả khuôn mặt, trông như quỷ sứ từ chín tầng địa ngục đến chốn trần gian, vừa cười gằn vừa xông trận chém giết tiếp.
Đám người Dương Hổ trông thấy tình hình đó cũng bất giác thầm tắc lưỡi, hóa ra trong quan binh cũng có chiến tướng hung hãn vũ dũng như vậy. Không chỉ riêng một mình Quỷ Vương Kinh, trên người mỗi kỵ sĩ trong đội quân của hắn phi đến đây đều nhuộm đỏ máu tươi, của giặc có, của mình có, của chiến mã cũng có, thậm chí lưỡi đao mũi giáo cũng loang lổ vết máu, sát khí ấy thực khác hẳn với đám quan binh vệ sở mà bọn họ từng gặp. Thấy vậy đám cướp dữ này cũng không khỏi rét run.
Lúc này từ xa vọng lại từng hồi tiếng vang như sấm rền, rõ là có một đại đội kỵ binh đang tung vó phi đến. Giặc Thát đang chiến đấu kịch liệt nghe thấy liền rét lạnh cả lòng, đó có thể là viện quân của ai? Lúc này, nơi này, quyết không thể là người của bọn chúng.
Đám người Dương Lăng ngoái đầu lại nhìn. Bên kia núi, vô số kỵ binh ùn ùn kéo tới, tiếng vó ngựa đinh tai nhức óc, cờ hiệu rõ là quân thủ vệ Đại Đồng. Phiên tử trên núi đồng loạt hoan hô, tướng sĩ liên quân dưới núi càng đánh càng hăng, khí thế càng tăng, quả là người như hổ, ngựa như rồng.
Tuy giặc Thát dũng mãnh không hề sợ chết nhưng lúc này cũng không khỏi vì vậy mà bắt đầu núng thế. Nhận thấy khi này mà không chạy sẽ không còn kịp nữa, Sách Lạp Địa bèn lập tức cho vẫy cờ ra lệnh cho toàn quân rút lui. Suy cho cùng đội quân của hắn xuất chinh đánh trận hàng ngày kinh nghiệm vô cùng phong phú, vì thế hoảng mà không loạn, bắt đầu tấn tốc co cụm lại, dần dần rút lui. Giặc Thát ở hậu trận giương cung lắp tên bắn ra không ngừng, ngăn cản quân Minh đang như những kẻ cuồng sát nổi điên tiến lại.
Tên phiên tử được cử đi cầu cứu nửa đường gặp phải binh mã của Kinh thiên tổng, chưa kịp tường trình xong thì đã bị hắn ta bỏ lại sau mông ngựa cho hít bụi. Trông thấy vị tướng quân đó vui sướng xông lên phía trước, chẳng thèm ngó ngàng gì đến quân sĩ của mình, viên phiên tử hơi ngớ người, cũng không biết viên tướng này có đáng tín nhiệm hay không. Suy tính một lúc, y bèn vẫn quyết định theo lệnh cũ, lên ngựa chạy gấp về Đại Đồng báo tin cho yên tâm hơn một chút.
Tham tướng thủ thành hay tin cả kinh. Vừa may lúc này Tổng binh Đỗ Nhân Quốc tuần thành đến đây, nghe nói khâm sai gặp phải tập kích ngoài thành, tức thì lão cũng hơi kinh hãi. Đây nào phải chuyện đùa, ví như khâm sai thay vua đi tuần thú mà bị giặc giết ngay trong khu vực phòng thủ của mình, vậy chẳng phải rất nguy cho mình ư?
Năm xưa Đỗ Nhân Quốc hiệu xưng Đỗ Phong Tử, tính nóng như lửa, giết người như ngoé, nhưng những năm nay tuổi tác đã cao nên tính tình cũng cẩn trọng hơn một chút. Lão định thần lại, hỏi rõ quân số giặc Thát rồi lập tức điểm đủ ba nghìn nhân mã theo lão đi cứu giá. Đại quân xuất thành, lúc này vừa mới tới.
Dẫn đầu là một đội khinh kỵ, khi xông đến gần liền bắn một loạt hoả lực trước, "đoàng đoàng đoàng" hạt sắt bay ra đầy trời, tức thì quân giặc ngã ngựa một mảng, song chết không nhiều, đa số biến thành người mặt rỗ, ôm lấy khuôn mặt đầy máu mà gào thét. Liền đó đội khinh kỵ tản ra, đại đội thiết kỵ hai tay cầm chắc trường mâu đâm tới, đội hình giặc Thát vừa mới co cụm lại lập tức bị đánh cho tan tác.
Lúc này thì giặc Thát cũng đã bừng lửa giận. Bọn chúng quanh năm chinh chiến với quân Minh, biết rõ thủ thắng chủ yếu dựa vào ưu thế kỵ binh, bằng không sức chiến đấu của từng binh sĩ cũng không hơn biên quân là bao. Nay quân số không bằng quân Minh, đội quân này lại toàn kỵ binh, bọn chúng hoàn toàn chẳng còn cách nào chạy thoát, xem ra hôm nay ắt phải chịu cảnh toàn quân bị diệt rồi.
Sách Lạp Địa vung đao hô lớn:
- Hỡi các dũng sĩ, Hỏa Sư vô địch sẽ báo thù cho chúng ta! Hãy xông lên, giết thêm được một quân Minh, máu chúng ta chảy ra sẽ càng thêm quang vinh, chói lọi!
Hơn năm trăm tên giặc Thát bị thương lẫn mệt mỏi tuyệt vọng nâng đao cầm thương, dưới sự lãnh đạo của Sách Lạp Địa xông lên nghênh đón đại quân của Đỗ Phong Tử, đằng sau là Quỷ Vương Kinh vẫn đang truy sát không ngừng. Chỉ trong khoảnh khắc năm trăm người ngựa đã bị chôn vùi trong "dòng thép chảy" cuốn trào...
Lưu Đại Bổng Chùy xem đến hớn hở mặt mày, xoa tay xắn áo một lúc rồi nhịn không được mà khẩn cầu:
- Đại soái! Tiêu hạ nhìn mà ngứa ngáy tay chân, xin cho tiêu hạ cũng đi giết mấy tên giặc Thát đi, trả thù một phần cho ngài!
Dương Lăng được hắn nịnh đến bật cười, bèn gật đầu. Lưu Đại Bổng Chùy lập tức chạy tới sơn khẩu dắt một thớt ngựa rồi xoay người nhảy lên, tay cầm cây côn sắt xông thẳng xuống núi.
Trông thấy tình hình như vậy, Hồng Nương Tử bèn cố lấy hết dũng khí bước đến bên cạnh Dương Lăng, ôm quyền nhắc:
- Xin thỉnh Dương tướng quân!
Dương Lăng quay người lại, thấy mấy người Dương Hổ đang nhìn mình chằm chằm, y buột miệng hỏi:
- Ồ, Dương phu nhân! Có chuyện gì vậy?
Thôi Oanh Nhi giận lắm, muốn móc mắt Dương Lăng ra ngay lập tức. Nàng tính tình cao ngạo, thật không thể nào mở miệng yêu cầu Dương Lăng thả bọn họ đi cho nên chỉ gọi một tiếng, trông chờ Dương Lăng sẽ mở miệng thực hiện lời hứa của y. Giờ thấy Dương Lăng còn làm ra vẻ không hiểu, nàng không khỏi trợn mắt, cúi đầu oán hận mắng nhỏ:
- Ngươi... thật vô lại!
Lời mắng tuy nhỏ song Dương Lăng lại nghe rõ mồn một. Y thoáng ngẩn người, liền lập tức sực nhớ lúc giặc Thát tấn công mình đã từng nói hôm nay chỉ giết giặc ngoài, không phân quan chia cướp. Lúc này khoé mắt y đã chú ý đến Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh mình đang lặng lẽ đưa một tay vào trong túi giắt lưng, hiển nhiên chỉ cần mình nói một câu không thả người thì sẽ lập tức ra tay đánh giết.
Thôi Oanh Nhi cũng trông thấy động tác của Ngũ Hán Siêu. Đôi mắt to tròn xinh đẹp của nàng tức thì nheo lại đầy vẻ uy hiếp, ánh mắt quét từ dưới lên trên người Dương Lăng, quan sát y kỹ càng một lượt, thoáng nhìn chằm chằm vào cổ họng y, rồi liếc sang Ngũ Hán Siêu khiêu khích. Ý bảo ngươi mà dám động thủ thì ta sẽ giết Dương Lăng trước.
Dương Lăng thu hết sự giao phong âm thầm của hai người vào trong mắt. Y suy nghĩ một chút rồi cao giọng bảo:
- Khi nãy giặc Thát cũng đã giết mất mấy huynh đệ của các người! Quý phu thê tinh thông võ nghệ, nếu muốn xuống núi báo thù cho huynh đệ thì cũng là dốc sức vì nước, bản quan sẽ không ngăn trở!
- Ớ?
Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người, rồi chợt hiểu y đang kiếm cớ cho bọn mình rút lui. Nàng nhìn Dương Lăng với ánh mắt kỳ quái, rồi mới chắp tay chào:
- Như vậy... Đa tạ tướng quân, dân nữ cáo từ!
Dương Lăng bỗng trầm giọng:
- Cô giết ta chỉ là chuyện búng tay, ta diệt lục lâm Bá Châu cũng chỉ là chuyện trong nháy mắt, hy vọng cô tự thu xếp cho ổn thoả.
Thân thể yêu kiều của Thôi Oanh Nhi thoáng run lên, vụt ngẩng đầu nhìn Dương Lăng, vừa vặn đón lấy ánh mắt nghiêm nghị của y. Giọng y vẫn trầm mà chắc nịch:
- Từ nay về sau hãy mai danh ẩn tính, thiên hạ rộng lớn có biết bao chỗ để đi. Nếu lại thấy vợ chồng cô làm điều ác, ta nhất định sẽ dùng vũ lực mà tiêu diệt. Đến lúc đó hoạ lây cửu tộc, hối hận không kịp đâu!
Tuy biết kẻ đứng trước mặt này luận võ nghệ thực không chịu nổi một đòn của mình, nhưng lúc này khí phách uy nghiêm của y lại sắc bén vô cùng, còn bén nhọn hơn cả đao kiếm, Thôi Oanh Nhi nhất thời không chịu nổi bèn cụp mắt xuống.
Hồng Nương Tử tự cảm thấy đối diện với y mà mình yếu thế như vậy, trong lòng buồn nản không thôi. Như nàng, Hồng Nương Tử danh truyền khắp chốn lục lâm phương bắc có mấy khi khuất phục cuối đầu trước mặt người khác như vậy. Nhưng vẻ mặt kiên cường chính trực của Dương Lăng lại khiến nàng lần đầu tiên cảm thấy mình kêu gọi tụ tập chốn núi rừng cũng vậy, mà khởi binh tạo phản cũng vậy, đều là lý lẽ không đúng, khí thế không đủ. Nàng mím môi, thấp giọng chào:
- Cách biệt từ đây, không hẹn ngày gặp lại!
Dứt lời nàng liền quay người rời đi, nhanh nhẹn bước qua đám phiên tử cầm đao, không hề quay đầu mà chạy thẳng đến nơi để ngựa trên đỉnh núi. Dương Hổ không biết hai người thì thầm to nhỏ những gì, trông thấy ánh mắt quái dị của mấy tên thủ hạ mình, trong lòng hắn cực kỳ khó chịu. Hừ một tiếng, hắn cũng đi theo Hồng Nương Tử.
Mấy tên mã tặc vặn mình lên ngựa, phóng đi, bụi tuyết cuốn tung dưới vó. Bọn họ xông thẳng xuống núi, không thèm ngoái đầu lại, phóng xa về hướng đông.
Dương Lăng đưa mắt dõi theo bóng hình bọn họ dần hoá thành một chấm đen, rồi mới khẽ thở dài một tiếng:
- Chỉ mong không gặp từ đây! Bằng không dẫu cho các người có muôn vàn lý do để tạo phản, lẽ trời có thể dung tha, quốc pháp cũng sẽ không thứ tội. Lúc đó ta chỉ còn nước giết các ngươi để trừ ác mà thôi!
Dương Lăng nói xong, vừa quay đầu lại đã thấy hai ông "quan công" rảo bước đến chỗ y.
Một vị tuổi trạc ngũ tuần, đầu beo mắt tròn vo, già mà sung khoẻ. Vị khác chưa tới ba mươi, mũ đen giáp đen, bước chân nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như beo, trông kỹ khuôn mặt rất là thanh tú, hoàn toàn không giống cái dáng dấp quỷ vương chém giết trên chiến trường, ngạo nghễ nhìn sinh linh bằng nửa con mắt khi nãy.
Bọn họ mỗi người xách một cây đại đao dính máu thịt bê bết, trên áo bào chiến giáp vẫn còn đang nhểu máu....
**************************
Tuấn mã phóng nhanh đến hơn mười dặm, Hồng Nương Tử đầy bụng phẫn uất mới ghìm mạnh cương dừng lại. Đằng trước tuyết trắng mênh mông, bốn cõi đều là non hoang đường vắng, không chút sức sống; chiến mã phả hơi phì phì, từng cụm hơi trắng lượn lờ toả ra trong không trung.
Hồng Nương Tử ngửa mặt thở ra một hơi thật dài, ngựa gõ móng lộp cộp, thân hình thoáng phập phù theo thân ngựa. Nàng khẽ vuốt ve bờm ngựa sơ cứng như dây thừng, mắt liếc sang Dương Hổ đã chạy lên bên cạnh đang nhìn nàng chằm chằm, không nói tiếng nào.
Những người khác phi đến cách vài thân ngựa thì đều gò cương chậm bước. Dương Hổ thúc ngựa đi quanh Thôi Oanh Nhi mấy vòng rồi mới dừng lại, hơi nhổm người thấp giọng hỏi:
- Nương tử, sao vậy?! Có phải... tên tiểu tử Dương Lăng đó đã vô lễ với nàng không?
Mày liễu dựng ngược song Thôi Oanh Nhi lại nén nhịn, nàng quay đầu đi, cất giọng lạnh nhạt:
- Y có bản lĩnh đó sao?
Thế nhưng chợt nhớ lại tình cảnh trong hang, nhớ lại nụ hôn xẹt qua môi như đá lửa, môi nàng không khỏi như muốn sưng lên; nhớ lại y ôm chặt lấy đùi mình, đầu áp vào mông liền cảm thấy mông như cũng hơi ngứa ngáy, cũng không biết là do tâm lý hay vì cưỡi ngựa.
Nàng lúng túng quay đầu nhìn hắn, chán nản nói:
- Hổ ca, chúng ta hãy trở Bá Châu có được không? Đừng nói gì đến giành giang sơn, trị thiên hạ nữa, hãy ở trong núi sâu mà sống một cuộc sống êm đẹp cho yên. Muội bỗng dưng rất chán ghét việc dùng vũ lực của mình, tự cho là đang thế thiên hành đạo, thực ra... chúng ta không thể thay đổi được gì.
Rồi giọng nàng trầm xuống:
- Gã Dương Lăng đó, chỉ một ngón tay là muội đã có thể giết chết y, nhưng thế thì đã sao? Y nói rất đúng, năng lực chúng ta chỉ có vậy. Chúng ta có thể giết tham quan, y có thể tạo nên quan tốt; ta có thể đoạt nhà giàu, cướp bạc đưa cho người nghèo, khiến nhà nhà đều hoá nghèo, y lại có năng lực khiến trăm họ có ăn có mặc, ai nấy đều hoá giàu. Ha ha!... Người ta mới thật sự có bản lĩnh! Chút bản lĩnh này của chúng ta thực ra chỉ là cái dũng của kẻ thất phu, chả được tích sự gì cả.
Dương Hổ vuốt ve cổ ngựa, hỏi với ánh mắt quái dị:
- Nương tử, nàng đang nói cái gì vậy? Nếu như để các huynh đệ biết ngay cả nàng cũng nghĩ như vậy, đại sự của chúng ta còn có thể thành hay sao? Họ Dương đó rốt cuộc đã nói với nàng những gì? Trước giờ nàng chưa từng nghe ai khuyên nhủ, vậy mà nay lại nghe theo lời y. Nàng...
Thôi Oanh Nhi ngắt lời hắn, lạnh lùng bảo:
- Y không hề nói gì cả, tự muội có mắt thì thấy thôi. Y mang mấy thứ hoa mầu nọ về cho trồng trọt khắp nơi sẽ còn cứu giúp được nhiều người hơn chúng ta cướp giàu giúp nghèo đó. Mà huynh... lại muốn giết người, hủy hoại hoa mầu!
Khi giặc Thát xông vào thôn, nếu y cho loạn tiễn giết chúng ta rồi bỏ chạy dưới sự bảo hộ của đám thị vệ, chỉ qua lộ trình mười dặm đã về đến Đại Đồng thì giặc Thát vị tất đã đuổi kịp y, nhưng y lại thả đám khâm phạm chúng ta, chỉ tập trung toàn lực giết giặc Thát. Thế thiên hành đạo? Rốt cuộc thì ai mới đang thế thiên hành đạo?
Dương Hổ bị ánh mắt sắc bén của nàng trừng cho rúm người lại, liền đó nổi giận vặn lại:
- Thiên hạ này là của bọn chúng, bọn chúng đương nhiên phải làm mấy chuyện này, kết quả không phải vẫn có rất nhiều người chết đói đó ư? Kết quả không phải vẫn là giặc Thát năm nào cũng đến đánh ư? Nếu để chúng ta đoạt được thiên hạ, hừ hừ!
Thôi Oanh Nhi cười khổ, hỏi:
- Hổ ca! Huynh lúc nào cũng nói đoạt thiên hạ này, đoạt thiên hạ nọ, vậy rốt cuộc huynh dựa vào cái gì để đoạt thiên hạ? Đoạt thiên hạ rồi sẽ lại dựa vào cái gì để cai quản, dựa vào những huynh đệ trên núi của chúng ta ư? Khi đó chúng ta đi cướp ai đây? Cướp dân chúng của chính mình sao?
Dương Hổ không đồng ý, bèn phản bác:
- Ơ hay! Mây theo rồng, gió theo cọp, đợi đến khi đại sự chúng ta đã thành rồi, tự nhiên sẽ có người tài đến dựa dẫm, cần gì lo lắng đến mấy chuyện đó vào lúc này?
Trông thấy hai người bọn họ đang đấu võ miệng, Hoắc ngũ gia vội thúc ngựa tiến đến, ho khan một tiếng tự xa, đến lúc ngựa tới gần lão mới hoà nhã cười hỏi:
- Cháu Hổ à, bây giờ chúng ta đi đâu đây? Nay đã bại lộ hành tung, đã không thể trở về Đại Đồng được rồi!
Dương Hổ cao giọng đáp:
- Ngũ thúc, bọn họ đoán chúng ta đã đi, chúng ta lại càng không đi! Tiêu gia trại có một vị hảo hữu đồng đạo lục lâm đã ẩn cư, chúng ta hãy tới đó tránh nạn một thời gian. Nếu tên hôn quân đó mà chết, chúng ta mưu đoạt thiên hạ sẽ càng dễ hơn nhiều. Huống hồ hôm nay chúng ta chết mất ba huynh đệ, không thể để bọn họ cứ chết uổng như vậy, món nợ này chúng ta nhất định phải tính hết lên đầu hôn quân, phải tính lên đầu cái tên Dương Lăng đó!
- Chúng ta đi!
Dương Hổ cất tiếng gọi đồng bọn rồi giục ngựa nhằm về hướng bắc phóng đi.
Trên khuôn mặt mịn màng như ngọc như sứ của Thôi Oanh Nhi tràn đầy vẻ thất vọng, nàng đưa mắt nhìn theo bóng lưng Dương Hổ, chợt cảm thấy thật xa lạ. Trước đây thấy hắn hào sảng nghĩa hiệp, uy vũ bất khuất, võ công tuy không bằng mình nhưng cũng là trang hảo hán quang minh lỗi lạc trong đám cường đạo, sao giờ mình lại chỉ cảm thấy hắn thật nông cạn đến thế, thật hám lợi như vậy?
Hôm nay nếu không phải nhờ có một tốp giặc Thát vô tình xông nhào tới thì nhóm bọn họ đã trúng kế của Dương Lăng mà bị loạn tiễn bắn chết rồi, còn muốn giết Hoàng đế ư? Nhìn thấy oai phong của quân Minh hôm nay, chỉ sợ ngay cả hình dạng Hoàng đế như thế nào còn chưa kịp nhìn thấy thì bản thân đã bị loạn đao chém thành đống thịt vụn rồi.
Hoắc ngũ gia thấy Thôi Oanh Nhi do dự không tiến, bất giác ghìm cương ngựa khuyên nhủ:
- Oanh Nhi! Không phải ngũ thúc muốn nhắc nhở con, nhưng con là vợ của cháu Hổ. Tục ngữ đã có câu cưới gà theo gà, cưới chó theo chó, nay cháu Hổ đã ngồi lên ghế giao ỷ (ý là làm lão đại) của lục lâm phương bắc, luận thanh danh hay địa vị đều không thua kém con đâu.
Toàn bộ tài sản tích góp của trại cũ đều dùng để mua vũ khí trang bị cả rồi. Lão gia tử rất hy vọng cô gia có thể cai trị giang sơn, mà con là khuê nữ duy nhất của lão gia tử, tương lai sẽ là Hoàng hậu nương nương. Lúc đó thúc thúc cũng sẽ cao hứng cho con. Đừng vì chút chuyện nhỏ mà đã nổi nóng! Cháu Hổ là đàn ông, trong nhà thì nhường con thế nào cũng được, nhưng ngoài cửa thì con cũng nên chừa chút thể diện cho vị đại ca lục lâm hắn với chứ, được không?
Thôi Oanh Nhi nhíu chặt cặp mày đen mướt, thở dài buồn khổ rồi lặng lẽ gật đầu. Nàng quất mạnh roi vào mông ngựa, phóng theo Dương Hổ.
Bông tuyết, không biết tự khi nào đã bắt đầu rơi lả tả...
Hoắc ngũ gia dõi nhìn theo bóng lưng cô quạnh của cô cháu gái, thở dài sườn sượt rồi cũng vung roi giục ngựa phi theo. Tuyết nhẹ nhàng rơi phủ đầy mặt đất, chỉ trong phút chốc đã xoá tan mọi dấu vết...
Chương 199: Phượng Hoàng Bắt Nạt Rồng Con
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
- Biểu ca lại nói gì đâu rồi, em nghe mà chẳng hiểu gì cả. Khi nãy em còn tính đợi đại ca về dẫn em và Tiểu Hoàng đi dạo phố, xem bộ dạng của anh bây giờ. Chậc! Chắc là em ở nhà với biểu ca rồi.
- Tiểu Hoàng? - Dương Lăng cúi xuống nhìn quanh, không thấy dưới chân nàng có con chó nhỏ nào đi theo, vội hỏi: - Tiểu Hoàng đâu? Trong dịch quán làm gì có chó? Em nhặt được ở ngoài đường à?
- Ớ?!
- Thông tri cho cửa hàng da biết thích khách Di Lặc giáo vẫn chưa lộ diện, hẳn là bọn chúng vẫn còn người trong thành, chú ý nghiêm ngặt đến mọi khuôn mặt lạ! Khoan, chờ đã! Đã lùng tra sai hướng rồi! Di Lặc giáo mở hương đường ở khắp nơi, tín đồ rất đông, Đại Đồng là thành lớn ắt sẽ có phân đà bí mật của bọn chúng.
Cho điều tra dân bản địa! Di Lặc giáo ở Thiểm Tây tạo phản thất bại là vào bốn năm về trước phải không? Vậy điều tra xem bắt đầu từ bốn năm về trước cho đến nay có hộ gia đình lớn nào từng có hành động khả nghi hoặc từng có người xứ khác trọ lại nhiều ngày trong nhà bọn họ hay không, đặc biệt chú ý những nhà từng có đạo sĩ ra vào.
- Dạ!
- Hôm trước mới vừa có người thu mua một mớ gia súc bỏ ở Lý Gia tập, hôm nay liền có giặc Thát trèo non lội suối chạy lại đúng lúc, nhất định là có mật thám báo tin, việc này cũng phải điều tra luôn! Đồng thời quan phủ cũng phải điều tra, cho họ điều tra qua lai lịch của tên thương gia đó, xem hắn từng qua lại với những ai, và trong đám bọn họ ai có thể xuất thành đi lên phương bắc.
- Dạ.
- Hôm nay thấy núi Bạch Đăng dễ công khó thủ, nhất là trên đỉnh núi lồi lõm gập ghềnh, làm sao để thiên tử kết minh với người ta ở đó được chứ? Ờ, phải tìm một lý do nào đó,... Rồi! Cứ bảo là quan binh Đại Đồng tiêu diệt hoàn toàn giặc Thát lẻn vào tấn công ở đó, vì tuyên dương công trạng này, bản quan muốn xây đình dựng bia trên đỉnh núi. Thừa dịp hãy cho san phẳng đất đai, ngầm bắc hỏa pháo chung quanh, còn trên dốc thoải hãy cho đào hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, chỉ giữ lại một con đường lên núi.
- Dạ!
- Trong khi chôn cất giặc Thát bị giết, phát hiện thấy giáp lót vai, yên ngựa, móng sắt đóng chân ngựa, mũ sắt,... thậm chí phần lớn binh khí đều có nguồn gốc từ trung nguyên, hiển nhiên có người lén tuồn lên phương bắc bán cho giặc. Buôn lậu trà muối kiếm tí tiền thì cũng không sao, nhưng đem bán quân nhu, khí giới cho địch là tội không thể tha. Điều tra cho bản quan!
- Dạ!
- Chủ lực của Thát Đát đã di chuyển về hướng Bình Thuận, Hồ Khẩu, thế mà Hỏa Sư, đệ nhất mãnh tướng của Thát Đát, lại ở lại không đi, còn phái người cướp bóc lương thảo, vẻ như muốn ở lại lâu dài. Khả năng lớn nhất chính là kế ly gián của chúng ta đã có hiệu quả, Bá Nhan đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ hắn.
Theo lý thì bọn chúng không thể biết chuyện Hoàng đế xuất kinh tuần thú, có điều an nguy của Hoàng thượng là chuyện lớn như trời, cẩn thận là hơn. Ra lệnh cho vị Chỉ huy sứ Thái Nguyên là Trương Dần cấp tốc xua quân lên bắc để tiếp ứng; thám mã trinh sát chú ý nghiêm ngặt hết thảy mọi động tĩnh của Hỏa Sư!
- Dạ!
- Đúng rồi, Trương Dần thông qua cửa của Vũ Định hầu Quách Huân mới làm quan, bản lĩnh thống lĩnh quân đội của người này thế nào? Tuy rằng quân thủ vệ Đại Đồng đủ để ứng phó với đại quân của Bá Nhan, nhưng hắn là quân cờ dự bị duy nhất của bản quan. Nếu hắn tài cán tầm thường, khó tránh sẽ làm lỡ chuyện lúc nguy ngập.
- Hồi bẩm Xưởng đốc đại nhân, dựa theo căn dặn của ngài, ti chức đã điều tra qua tất cả những tướng lĩnh quan trọng ở tiền phương. Trương Dần này là người Trương gia, một họ lớn tại Sơn Tây, tuy là chi họ xa, song trên gia phả thuộc hàng chữ Đức(1), vai vế rất cao.
Ông ta nguyên là Binh bị đạo(2) của Đại châu thuộc Sơn Tây, thao luyện hương quân, đào sửa thành trì, lập pháp trữ lương, sửa sang doanh trại, quản quân có phép, đạo tặc bốn phương không kẻ nào dám quấy nhiễu Đại châu, rất được người địa phương khen ngợi. Sau khi ông ta đến Thái Nguyên nhậm chức, việc chỉnh đốn quân kỷ và thao luyện sĩ tốt thực cũng có khuôn có phép lắm.
- Ừm, vậy thì tốt! Đúng rồi, hôm nay vị tướng trong quân Đại Đồng tên Kinh Phật Nhi được xưng là Quỷ vương đó quả là kiêu dũng thiện chiến, có thể nói là một viên mãnh tướng. Tiếc là bản quan thấy hắn cùng lắm chỉ là một vị thiên hộ, đánh trận chỉ biết xung phong lên đầu, binh sĩ bị hắn chỉ huy thành một đạo quân ô hợp.
Nhìn khí thế tác chiến của hắn đáng sợ như vậy, nhưng nếu thật sự đụng phải một vị tướng biết binh thư, chỉ cần bày ra chút kế nhỏ liền sẽ có thể dụ cho hắn trúng phải phục kích, toàn quân bị diệt. Người này đặt vào đúng chỗ thì là một nhân tài, đặt nhầm chỗ sẽ là một tai họa. Chốc nữa sai người đi dò hỏi qua ý tứ của hắn, xem hắn có chịu gia nhập Nội xưởng hay không. Nếu như có, bản quan sẽ đến gặp Dương tổng chế, Đỗ tổng binh đòi người.
- Dạ!
- Ngoài ra sai người chú ý đến hoạt động của đám người Dương Hổ. Nếu bọn hắn lên đường trở về Bá Châu thì tạm thời không cần đụng vào. Từ đây về sau nếu bọn họ chịu hối cải là tốt nhất; nếu lại tiếp tục dấn thân làm sơn tặc, vẫn giữ cái nghề không tiền đồ này thì cũng không sao, nhưng nếu không chịu trở về Bá Châu, nhất định lòng gian chưa hết, gặp phải giết ngay!
- Dạ!
- Huynh đệ nào bị thương thì mời lang trung chữa trị rồi cho nghỉ ngơi cẩn thận. Huynh đệ bị tử trận thì đưa vào hòm mai táng, ghi lại danh tính, về kinh rồi an ủi gia đình, cấp tiền tử tuất cho thật hậu.
- Dạ!
- Ừm! Cứ vậy đã, các ngươi lui xuống trước đi.
Nhìn đám bộ hạ từng người lui ra, Dương Lăng thở dài một hơi, bước đến ngồi trên ghế dựa, cầm chén trà dỡ nắp ra, đưa lên miệng thổi lay lay những lá trà xanh biếc trôi nổi trong nước.
Hơi nóng vờn quanh khuôn mặt y. Chợt nhớ lại cái chạm môi mềm mại mà tiêu hồn cùng Hồng Nương Tử, Dương Lăng bất giác gợn sóng lòng, trên mặt thoáng nở một nụ cười xấu xa.
Cái tên Dương Hổ đó đúng là chấp mê bất ngộ, năm lần bảy lượt muốn giết mình, rõ biết bị Di Lặc giáo lợi dụng thế mà còn không biết hối cải, lại cứ đuổi theo đến Đại Đồng, lần này coi như là vừa mất phu nhân lại thiệt quân rồi còn gì.
("bồi liễu phu nhân hựu chiết binh", các bạn xem Tam Quốc Chí, đoạn Tôn phu nhân qui Thục, ý là mất cả chì lẫn chài )
Hơi nước hơ nóng cục u trên trán khiến y cảm thấy đau tấy một hồi. Dương Lăng vội dời chén đi, xoa nhẹ cái trán sưng vù của mình, thầm nghĩ: "Vợ hắn tuy không đọc sách, song lại cũng hiểu chút lý lẽ. Chậc! Tiếc thật, một đoá hoa nhài cắm bãi..."
Ngay lúc đó, khung cửa chợt mở ra kêu két, một bóng người dịu dàng lách nhanh vào, lo lắng sốt ruột hỏi:
- Biểu ca, Đại Bổng Chùy nói anh bị thương, mau để em xem thử.
Dương Lăng ngước mắt nhìn lên, trông thấy một người thiếu nữ vận áo vải nhiều màu sặc sỡ, cài hoa, vội vội vàng vàng bước vào, khuôn mặt xinh xắn động lòng người đầy vẻ lo lắng. Theo sát phía sau là Hoàng đế Chính Đức, vua của một nước, đang thậm thà thậm thụt như đứa hầu nhỏ của nàng cùng chạy theo vào.
Dương Lăng mỉm cười vui vẻ. Hiện tại Đường Nhất Tiên không phải tuân theo nhiều quy củ như khi còn ở trong vương phủ nhưng không biết tại sao, chọn lụa tơ đoạn gấm cho nàng thì nàng không thích, lại cứ thích mặc áo quần đơn giản mà tiện nhẹ. Bộ áo vải ghép nhiều mảnh nhiều màu(*) này hệt như quần áo ăn mày thời nay vậy, rất hợp cho người con gái trong thời kỳ nổi loạn như nàng mặc, tuy không cao quý, song lại tăng thêm mấy phần anh tú. (* thủy điền y: tựa như áo cà sa, may ghép nhiều mảnh vải, nhiều màu sắc với nhau; là mẫu áo thời trang ở đời Minh).
Nhìn thấy một cục u sưng phù đỏ ửng trên trán Dương Lăng, Đường Nhất Tiên xót lòng chau mày lại. Nàng nâng nhẹ gương mặt Dương Lăng lên, bàn tay thon thả nhẹ nhàng xoa khuôn mặt y, chúm môi thổi nhè nhẹ, hỏi khẽ:
- Biểu ca, sao anh lại bị đập trúng ở đây vậy? Suýt chút nữa là mắt bị thương rồi, còn đau không? Có cần mời thầy lang không?
Giữ lấy cổ tay mềm mại của cô nàng, Dương Lăng cười đáp:
- Không sao đâu! Hôm nay đại ca định dụ một ông phật sống xuất hiện, không ngờ lại thả nhầm mồi, dụ nhầm một con hổ dữ. Nếu chỉ có thế thôi thì cũng chưa sao! Đại ca đang tính bắt hổ, tự dưng lại có một bầy sói đói chạy lại. Ui chao, thật là rối tinh rối mù lên. Còn về phần vết thương này, ha ha, không nhắc tới thì hơn.
Đường Nhất Tiên lương thiện trong sáng, lanh lợi đáng yêu. Thấy cô nàng quan tâm săn sóc mình như vậy, Dương Lăng thấy ấm áp trong lòng. Tuy không có quan hệ máu mủ, song hiện tại y lại cảm thấy giữa mình và Đường Nhất Tiên tồn tại một loại tình cảm thân thiết và khắng khít. Tình cảm này tuyệt không phải là cảm giác áy náy vì nàng ta giúp mình nên bị kẻ thù gây hại khiến phải gặp nạn, mà là niềm yêu mến xuất phát tự đáy lòng.
Đường Nhất Tiên bị y chọc đến bật cười, nàng dịu dàng mỉm cười:
- Biểu ca lại nói gì đâu rồi, em nghe mà chẳng hiểu gì cả. Khi nãy em còn tính đợi đại ca về dẫn em và Tiểu Hoàng đi dạo phố, xem bộ dạng của anh bây giờ. Chậc! Chắc là em ở nhà với biểu ca rồi.
- Tiểu Hoàng? - Dương Lăng cúi xuống nhìn quanh, không thấy dưới chân nàng có con chó nhỏ nào đi theo, vội hỏi: - Tiểu Hoàng đâu? Trong dịch quán làm gì có chó? Em nhặt được ở ngoài đường à?
- Ớ?!
Đường Nhất Tiên thoáng ngẩn ra, liền đó ngó sang Chính Đức cười ngặt nghẽo. Hoàng đế Chính Đức dở khóc dở cười, liếc Đường Nhất Tiên đang cười sằng sặc rồi chỉ vào mũi mình bảo:
- Hồi bẩm đại nhân, Tiểu Hoàng chính là tại hạ, tại hạ chính là Tiểu Hoàng.
Dương Lăng sợ giật nảy người, nhưng khi thấy hoàng đế Chính Đức đang rất lấy làm vui thích, y cũng không tiện nói gì thêm. Đường Nhất Tiên cười đến đỏ mặt đỏ mày, phất tay bảo Chính Đức:
- Đi, đến chỗ miệng giếng ở hậu viện đập lấy vài miếng nước đá vụn! Lấy thêm cái khăn mặt! Ta giúp biểu ca chườm một tí cho mau tan máu bầm.
- Ờ!
Chính Đức đáp, co giò định chạy đi, Dương Lăng vội gọi giật lại:
- Khoan đã, không cần đâu! Trán đã sưng rồi, chườm đá sẽ chỉ đau thêm thôi, để nó từ từ tự tan đi.
Chính Đức vừa dừng chân lại, Đường Nhất Tiên liền trừng mắt ngọc ra lệnh tiếp:
- Vậy thì đi tìm dịch thừa xin ít mỡ chồn* đi.
(*TheJoker: tra thấy con này giống con lửng, họ chồn núi, thôi thì gọi chung là chồn cho dễ hiểu)
Vừa định xoay người, Chính Đức nghe vậy lại vội chạy nhào đi. Dương Lăng vừa mới nhấc người lên, giơ tay, há miệng định nói gì thì hắn đã chạy mất. Y chưa biết phải làm sao thì Đường Nhất Tiên đã dìu y, khuyên bảo:
- Anh à! Anh ngồi xuống đi! Thật không biết anh kiếm ở đâu ra cái tên thân binh ngốc đó nữa, cái gì cũng không hiểu, cái gì cũng không biết, cái gì cũng phải để em dạy cho. Có điều... tính tình hắn cũng tốt, cả ngày cười hề hề, thực cũng không đáng ghét lắm.
Dương Lăng cười gượng mấy tiếng, thầm nhủ: "Không biết nói vậy có tính là báng bổ nhà vua không ta?"
Chính Đức nào biết dịch thừa đang ở chỗ nào, mà thật ra tất cả dịch thừa cũng đã bị đuổi đi từ trước rồi, trong cả dịch quán đều là người của Dương Lăng. Thế là hắn chạy một mạch về viện nhà mình, vừa hò hét một hồi thì ngay lập tức bọn thị vệ thủ hạ cuống cuồng chạy nháo nhào đi tìm thuốc, chỉ chốc sau liền đem về cho hắn sáu bảy lọ mỡ chồn. Chính Đức mừng rỡ lấy vạt áo bọc lại, lật đật chạy về thư phòng Dương Lăng.
Thuốc đưa thì chậm, nhưng mang đến lại nhiều, Đường Nhất Tiên lấy ngón tay vét một miếng mỡ chồn, vừa cẩn thận bôi lên trán Dương Lăng vừa cảm rảm càm ràm. Trước kia Đường Nhất Tiên được người ta dạy dỗ ở "Thì Hoa quán", Dương Lăng không hề biết cái miệng líu ríu này của nàng không hề được nhàn rỗi tí nào. Chính Đức đứng một bên gật đầu khom lưng, mặt mày tươi rói, bị nàng ta mắng mỏ mà lòng lâng lâng phơi phới, chả biết đến trời trăng mây gió gì nữa.
Dương Lăng thấy vậy, trong lòng vui mừng hết sức. Tuy rằng y phụng lệnh Chính Đức chuộc Đường Nhất Tiên ra khỏi "Thì Hoa quán", nếu vị cô nương này còn ở lại nơi đó, sớm muộn gì cũng sẽ là người mệnh khổ, trầm luân chốn khói hoa. Nhưng đã đích thân cứu cô nương này ra, y liền cảm thấy mình phải có một phần trách nhiệm săn sóc cô ta.
Thêm vào đó Đường Nhất Tiên đã vì mình mà rơi xuống vực mất trí nhớ, và nay lại có tình cảm như vậy với mình, nếu như Chính Đức chỉ chủ tâm đùa bỡn với nàng, hoặc Đường Nhất Tiên không thích Hoàng đế thì nhất định y sẽ tìm cách ngăn cản bọn họ gặp mặt. Song nay thấy Chính Đức yêu quý nàng như châu như ngọc, còn bên cạnh mình có nhiều thân binh như vậy nhưng Đường Nhất Thiên lại chỉ thích quở mắng đày đọa mỗi hắn, hiển nhiên giữa đôi thiếu nam thiếu nữ này đã hơi có tình cảm đặc biệt, chẳng qua bản thân nàng cũng chưa nhận ra mà thôi.
Dương Lăng nhè nhẹ thở ra một hơi dài, nghĩ thầm: "Trở về kinh phải bảo Văn Tâm nghĩ cách chữa trị cho nàng ấy xem sao. Dù sao thì mất kí ức vẫn là một điều phải nuối tiếc, chỉ còn lại thân xác, sao có thể xem là Đường Nhất Tiên trước kia được? Ái thê Tô Tam, Tuyết Lý Mai của mình cùng nàng ta tình như tỷ muội, kết giao với nhau từ nhỏ; nếu như không thể khôi phục lại trí nhớ của Nhất Tiên, hai nàng nhất định cũng sẽ hối tiếc suốt đời."
Đường Nhất Tiên bôi mỡ chồn xong xuôi một lượt, ngắm nghía kỹ lưỡng một hồi rồi chun mũi lại hết sức đáng yêu, cười khanh khách:
- Biểu ca! Giờ trán anh sáng ngời, ấn đường bóng loáng, ra đường nhất định sẽ nhặt được một thỏi vàng to.
Chính Đức cũng thích thú chen vào:
- Thỏi vàng thì có gì mà quí hiếm? Nhìn cái trán này ấy à, không luyện đến ba trăm năm đạo hạnh sẽ không có đâu. Lần này đại nhân ra ngoài, không biết chừng sẽ có thể nhặt được đại mỹ nhân về đây.
Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nhiếc móc:
- Ngươi suy nghĩ bậy bạ gì đó? Thật không biết lớn nhỏ gì cả! Nhặt mỹ nhân gì chứ, anh của ta mới tròn hai mươi thôi mà ta đã có tới ba biểu tẩu rồi.
Chính Đức bị bẽ mặt, ngượng ngùng im miệng. Đường Nhất Tiên nhướng đôi mày cong nhìn hắn tra hỏi:
- Sao? Ngươi không phục hả?
Chính Đức vội lắc đầu đáp:
- Không có! Đâu có! Nào dám! Ờm... Tôi đang nghĩ là... cả ngày ở riết trong dịch quán cũng không có chuyện gì làm, nếu ra ngoài đi dạo một chút thì... thật ra cũng không đến nỗi nào đâu.
Đường Nhất Tiên nghe vậy cũng hào hứng, tán đồng:
- Ừm, hai ngày trước ở trong vương phủ ta nghe nói ngày mai trên phố "Hoa lỗi" có trưng bày "Thập nhị cẩm bình". Bình phong có thể lấy ra cho người ta thưởng lãm như vậy, ắt hẳn đều là trân phẩm thượng hạng.
Khẽ cắn chiếc môi anh đào tươi tắn nghĩ ngợi một chốc, nàng giật nhẹ vạt áo Dương Lăng nài nỉ một cách đáng thương:
- Anh à! Ngày mai chúng mình đi xem một chút có được không?
Được?? Dẫn Đường Nhất Tiên đi đương nhiên là không thành vấn đề, nhưng "Tiểu Hoàng" sẽ chịu ở nhà sao? Mặc dù hiện trong thành Đại Đồng giống như binh doanh, có thể nói là đã rất an toàn rồi lại còn an toàn hơn nữa. Không ai có thể nhận ra Hoàng đế. Đừng nói là người trong Di Lặc giáo, thậm chí là quan viên toàn Đại Đồng đi chăng nữa, ngoại trừ mấy người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh ra, cho dù Chính Đức đi ngay trước mặt bọn họ, chỉ cần hắn không mặc long bào thì ai biết được hắn là Hoàng đế?
Chớ nói là người ở nơi đây, ngay cả quan lại trong kinh, mấy người phẩm hàm thấp phải đứng xa xa hoặc mấy lão cận nặng vẫn vào chầu tuy trông thấy Hoàng đế mỗi ngày, song chỉ cần hắn không mặc long bào thì vẫn không thể nhận ra vị đại gia này. Thế nhưng bớt được việc nào hay việc nấy! Chỉ trong vòng vài ngày nữa Đoá Nhan Tam Vệ sẽ đến rồi, đừng để xảy ra chuyện gì thì vẫn hay hơn.
Thế nhưng tiểu mỹ nhân như Đường Nhất Tiên đã mềm mỏng yêu cầu thì quả thực không nỡ cự tuyệt. Dương Lăng định dằn lòng lắc đầu, chợt thấy Chính Đức đang đứng sau lưng Nhất Tiên vừa gật đầu vừa dựng tay như đao vung ra ngoài cửa, thái độ kiên quyết, như thể thúc giục y ưng thuận.
Đường Nhất Tiên dõi theo ánh mắt Dương Lăng nhìn ra đằng sau, trông thấy vậy không khỏi ngạc nhiên hỏi:
- Ngươi đang làm gì đấy?
Tay của Chính Đức đứng sựng lại trên không như bị vọp bẻ, một chốc sau hắn mới ấp úng:
- Tôi là thị vệ của đại nhân. Nếu đại nhân muốn ra ngoài, tôi đương nhiên phải hộ vệ bên người, ờ... tôi đang luyện tập võ công.
Đường Nhất Tiên bất giác rên lên một tiếng chán nản, lập tức giơ tay lên cốc vào đầu hắn một cái, giọng không vui:
- Đồ ngu! Chưa thấy ai ngu gì mà ngu dữ như ngươi vậy đó! Nước đến chân mới nhảy thì trễ quá rồi còn gì?
Hoàng đế Chính Đức cười gượng gạo không thôi. Dương Lăng suy nghĩ một chút song vẫn thấy không ổn. Việc bản thân y bị bắt cóc ngay trên một con phố sầm uất của kinh sư, coi như là nhất thời sơ ý mà bị lật thuyền trong cống đi, không tính. Nhưng hôm nay vốn đã sắp đặt mọi thứ thoả đáng, cục diện tróc nã thích khách bám đuôi đi theo vốn mười phần chắc chín rồi, thế mà đột nhiên từ trên trời rơi xuống một đội quân giặc Thát đến đánh cướp kiếm ăn, suýt tí nữa thì đã sinh ra lắm chuyện, có thể thấy trên đời không có gì là tuyệt đối.
Y bèn lắc đầu, ậm ờ đáp:
- Việc này... biểu ca vẫn còn rất nhiều công vụ phải làm, ngày mai có thời gian rỗi hay không cũng chưa thể nói trước được. Đến lúc đó hẵn tính nhé.
Đường Nhất Tiên ngoan ngoãn gật đầu:
- Ừm, vậy biểu ca nghỉ ngơi cho khoẻ. Anh mới ở bên ngoài về, chắc còn chưa ăn cơm phải không?
Đúng vào lúc này, Ngũ Hán Siêu chợt mở nhẹ cửa phòng bước vào. Vừa thấy Chính Đức và Đường Nhất Tiên đều có mặt ở trong phòng, chàng không khỏi hơi ngẩn người, rồi ôm quyền thưa:
- Ti chức ra mắt đại nhân, ra mắt tiểu thư.
Chính Đức và Đường Nhất Tiên quen trò chuyện cười đùa với nhau; Đường Nhất Tiên cũng không cảm thấy luôn miệng quát nạt hắn thì có gì là quá đáng, nhưng nàng lại rất tôn trọng những thuộc hạ khác của Dương Lăng. Nghe vậy, nàng liền cũng vội nghiêm chỉnh đáp lễ:
- Ra mắt Ngũ đại nhân!
Dương Lăng hỏi Ngũ hán Siêu:
- Sao? Có chuyện quan trọng gì à?
Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp:
- Dạ, đại nhân! Có một chuyện quan trọng...,
Nói đến đây chàng ta thoáng ngừng lại. Đường Nhất Tiên hiểu ý, liền vội nói:
- Biểu ca bận bịu công vụ, để em đi làm vài món ăn thanh đạm, nấu một chén cháo tẻ xanh (*)cho anh.
(*: nguyên văn "bích canh": một loại gạo tốt, có màu xanh, nấu thơm; được sử dụng trong hoàng cung, nhà quý tộc)
Rồi như một chú chim én nhỏ, nàng nhẹ nhàng xoay người bước đi. Vừa đi được mấy bước, trông thấy Chính Đức vẫn còn đứng tại chỗ trong phòng, nàng liền gọi:
- Ngươi còn đứng ỳ ra đấy làm cái gì? Đi, giúp ta một tay! Đừng có làm vướng bận mọi người ở đây!
Chính Đức đành phải bất đắc dĩ bước theo nàng ra ngoài.
Dương Lăng vội hỏi Ngũ Hán Siêu:
- Có chuyện gì quan trọng vậy?
Ngũ Hán Siêu đến gần Dương Lăng thưa nhỏ:
- Binh mã của Miêu công công Tây xưởng và của tham tướng Hứa Thái đã trở về rồi.
Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, mừng rỡ:
- Tốt quá! Chỉ gần năm nghìn tinh kỵ mà dám thâm nhập đại mạc, Miêu Quỳ vì lập công mà mạo hiểm quá rồi, bản quan vẫn luôn lo lắng cho bọn họ, bọn họ trở về thì tốt rồi. Hiện tại bọn họ đang đóng quân ở nơi nào? Bản quan phải đi thăm bọn họ mới được.
Vẻ mặt Ngũ Hán Siêu trở nên có phần cổ quái, chàng đáp:
- Dương tổng chế phái người phi ngựa đến báo, chính là muốn mời đại nhân đi. Bởi vì... bởi vì khi đại quân của Miêu công công và Hứa tham tướng trở về còn cướp thêm một người phụ nữ mang về nữa.
Dương Lăng nghe vậy liền sững người ra, lông mày nhíu lại.
Quân đội đơn độc ngoài biên tái, lúc nào cũng đối mặt với nguy hiểm chết người, y vốn cũng không hy vọng những mãnh tướng biên quân này dọc đường đánh giết sẽ không cướp đoạt tiền bạc châu báu, không lăng nhục phụ nữ. Thế nhưng ngang nhiên mang phụ nữ về là đã vi phạm quân kỷ nghiêm trọng rồi.
Miêu Quỳ là thái giám, tuy rằng thái giám cũng có kẻ thích mỹ nữ, song hiển nhiên Miêu Quỳ hứng thú với quyền lực hơn nhiều. Tự ý dẫn đàn bà về doanh, tám chín phần mười là chủ ý của vị võ trạng nguyên Hứa Thái rồi.
Không biết người phụ nữ nọ xinh đẹp đến cỡ nào mà có thể khiến cho Hứa tham tướng có tiền đồ như gấm lại dám bất chấp mối nguy bị ngự sử hặc tội mà cướp mang về?
Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi giật đánh thót trong lòng. Dương Nhất Thanh trị quân rất nghiêm, nhưng hắn mới tới, vẫn chưa thể tạo được đủ ân uy với tướng sĩ tam quan. Hứa Thái là bộ hạ của Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, lại là chiến tướng của cánh quân đơnxâm nhập đất giặc lập được công to. Ắt hẳn bởi không tiện lấy quân pháp chế tài hắn, cho nên Dương Nhất Thanh mới nhờ đến mình, vị khâm sai đại nhân có trách nhiệm tuần thị biên quan tay cầm Thượng Phương Bảo Kiếm, ra mặt.
Trị quân nghiêm cẩn cố nhiên được mọi người ủng hộ, nhưng vết tì sao che được ánh ngọc? Hứa Thái tập kích các bộ lạc Mông Cổ, tắm máu mà về, hắn còn chưa kịp nghỉ ngơi thì mình đã tế Thiên Tử Kiếm giết công thần rồi! Làm vậy sẽ có gây ảnh hưởng xấu với nhuệ khí và lòng quân hay không?
Dương Lăng nhíu mày đi tới đi lui mấy bước, chợt hỏi:
- Người báo tin đang ở đâu? Đã kể những gì?
Ngũ Hán Siêu đáp:
- Thưa đang chờ ở ngoài cổng gác ạ. Hắn nghe nói ti chức là thị vệ tùy thân của đại nhân mới bẩm báo rằng lai lịch của người phụ nữ này hết sức đáng ngờ. Dương tổng chế mời đại nhân lập tức đến Cổ Điếm một chuyến.
Dương Lăng nghe nói không phải là do muốn chém Hứa Thái giữ nghiêm quân kỷ mà do lai lịch kỳ quái của người phụ nữ bị bắt về thì mới thở phào hỏi tiếp:
- Lai lịch đáng ngờ?
Ngũ Hán Siêu gật đầu đáp:
- Dạ! Người phụ nữ này rất kín miệng, không tiết lộ gì về gia thế mình. Nhưng mà lúc Hứa tướng quân bắt mụ về, thị nữ đuổi theo gào khóc ở phía sau lại không ngừng réo gọi mụ là Khả gì đấy...
- Khả Đôn? - Dương Lăng rùng mình, kinh hãi - Hoàng hậu của Khả Hãn Mông Cổ?
Y lập tức đi đến bên tường lấy áo choàng, vừa đi ra ngoài vừa kích động bảo:
- Đi! Lập tức tìm Trương công công đến, cùng đi đến Cổ Điếm.
Chú thích:
(1) chữ lót (tên đệm), để phân biệt vai vế trong họ tộc.
Ví dụ: Vua Minh Mạng làm riêng ch con cháu mình bài "Đế hệ thi" gồm 20 chữ dành cho 20 đời:
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thụy Quốc Gia Xương
Con vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh (Tuy Lý Vương).
Cháu nội vua Minh Mạng có tên đệm là Hường như Hường Nhậm (Vua Tự Đức).
Chắt nội có tên đệm là Ưng như Ưng Chân (Vua Dục Đức).
Không biết dòng họ Trương đặt tên đệm theo qui tắc nào, nhưng ý của tác giả là Trương Dần có vai vế rất cao, nghĩa là các người họ Trương khác chỉ còn ít người ngang vai vế với hắn, còn lại chỉ ngang vai con, cháu, chắt của hắn mà thôi.
(2) Chức quan chuyên trách việc chỉnh quân (rèn luyện, đào tạo, khen thưởng,...) ở những vùng trọng yếu, thời Minh.
Chương 200: Hoàng Hậu Của Thảo Nguyên
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
- Nhất Tiên cô nương! Cô hãy yên tâm, tôi sẽ không để cô thất vọng đâu! Tiểu Hoàng sẽ vĩnh viễn không chỉ là một tiểu binh! Rồi sẽ có một ngày, tôi sẽ đứng trước thiên quân vạn mã bình thản chỉ huy, sai khiến thiên quân, lập được chiến công lừng lẫy, lưu danh thiên cổ, làm đại tướng quân. Đúng! Làm một đại tướng quân vĩ đại nhất từ trước tới nay!
Đường Nhất Tiên bật cười khúc khích, chống cằm liếc hắn đáp lời:
- Ta thất vọng làm gì nhỉ?! Ngươi có tiền đồ vẻ vang hay không thì có liên can gì tới ta chứ?
Đường Nhất Tiên bước dồn, tay bưng chén cháo gạo tẻ nóng hôi hổi. Chính Đức đi theo ngay phía sau, tay cầm hai đĩa thức ăn trông rất tinh xảo, vội vội vàng vàng đi đến thư phòng trong ánh mắt áy náy của bọn đại nội thị vệ. Lại thấy trên giường không một bóng người, Đường Nhất Tiên bèn đặt chén cháo xuống, bước nhanh ra cửa hỏi bọn thị vệ:
- Anh của ta đâu?
Một tay thị vệ cung kính đáp rất lễ phép:
- Thưa tiểu thư! Đại nhân nhận được một tin tức quan trọng, đã vội vã chạy đi gặp Dương tổng chế rồi ạ.
Đường Nhất Tiên thất vọng quay trở vào phòng, phụng phịu ngồi xuống chiếc ghế chủ soái của Dương Lăng, hờn dỗi:
- Biểu ca đâu phải là người sắt, cơm cũng không chịu ăn, thật là! Hoàng đế không sai ông lính đói mà, đâu ra kiểu dùng người như vậy chứ?!
Chính Đức hơi chột dạ, rụt cổ cười khan mấy tiếng, tay vẫn cầm hai món ăn không biết nên bỏ xuống hay làm gì.
Đường Nhất Tiên trừng mắt với hắn, nạt:
- Để xuống đi! Ngươi tính cầm đến khi biểu ca ta về à?!
Chính Đức đặt đồ ăn lên bàn, giọng ngưỡng mộ:
- Mỹ nhân rửa tay nấu canh! Không biết sau này công tử nhà ai có phước được nếm tay nghề của cô nương cô đây.
Đương Nhất Tiên nằm nhoài người lên bàn, tay chống cằm, cặp mắt mơ màng:
- Chuyện đó... ta cũng từng nghĩ tới. Phu quân của Đường Nhất Tiên ta nhất định phải là một người đàn ông đầu đội trời chân đạp đất, hiên ngang, có chí khí. Y phải có bản lĩnh cao cường, có thể bảo vệ ta, bảo vệ con dân Đại Đồng khỏi bị giặc Thát ức hiếp, có thể lập nên chiến công lẫy lừng, lưu danh thiên cổ!
Chính Đức ngắm vẻ mơ màng ao ước của nàng, không khỏi gợn sóng trong lòng bèn thập thò trước mặt Nhất Tiên. Nào ngờ nói xong, Đường Nhất Tiên lườm rồi cất giọng răn dạy:
- Dù sao cũng không thể giống như ngươi được. Biểu ca thuộc giới thư sinh, lại ôm đồm mọi việc, dấn thân vào nơi hiểm cảnh cũng không sợ, còn ngươi thì sao?
Anh hùng không sợ xuất thân kém, chỉ sợ cả đời ôm mãi một nghề hèn. Những đại tướng quân đó không ai vừa sinh ra đã là tướng quân. Nhưng nếu ngươi cam tâm làm một tên tiểu binh cả đời, vậy thì sẽ không bao giờ có tương lai, chỉ có thể cả ngày chạy tới chạy lui hầu hạ người ta mà thôi.
Chính Đức đỏ mặt phản bác:
- Tôi đâu có tệ như vậy? Tôi cũng từng muốn kiến công lập nghiệp chứ bộ. Đây là bởi... là bởi đại nhân bảo tôi đi nghe cô sai bảo mà.
Đường Nhất Tiên khẽ hừ mũi, ngước mắt lườm hắn một cái, thấy hắn quẫn bách như vậy, không khỏi chợt mềm lòng bèn khuyến khích:
- Tiểu Hoàng à! Sáng nay ta thấy ngươi và đám thị vệ tỷ võ, tuổi ngươi dẫu còn trẻ song võ công lại rất khá. Sau này rảnh rỗi hãy đọc thêm một ít binh thư đi. Ngươi còn trẻ tuổi, sau này thành công, lập nên sự nghiệp, được bái tướng rồi làm một đại tướng quân tài kiêm văn võ sẽ tốt hơn nhiều.
Thật ra trước đây ta cũng vốn là kẻ hầu hạ người khác, hiện tại cũng không coi mình là đại tiểu thư. Thường ngày ta luôn mồm quát bảo ngươi chỉ bởi vì cảm thấy ngươi thật vui tính mà thôi, chứ không phải vì có ý muốn sai bảo ngươi đâu. Đàn ông các ngươi không thể so với đám phụ nữ chúng ta được, điều vinh quang của nam nhân nếu không là máu đổ sa trường thì là trị quốc an bang, tệ nhất cũng là làm một danh sĩ tài tử. Ngươi cần phải có một tí chí hướng mới phải!
Chính Đức nghe những lời nàng ấy nói xong thì cảm thấy xao động tâm tình. Hắn đỏ bừng khuôn mặt tuấn tú, im lặng hồi lâu mới trả lời, giọng chắc như đinh đóng cột:
- Nhất Tiên cô nương! Cô hãy yên tâm, tôi sẽ không để cô thất vọng đâu! Tiểu Hoàng sẽ vĩnh viễn không chỉ là một tiểu binh! Rồi sẽ có một ngày, tôi sẽ đứng trước thiên quân vạn mã bình thản chỉ huy, sai khiến thiên quân, lập được chiến công lừng lẫy, lưu danh thiên cổ, làm đại tướng quân. Đúng! Làm một đại tướng quân vĩ đại nhất từ trước tới nay!
Đường Nhất Tiên bật cười khúc khích, chống cằm liếc hắn đáp lời:
- Ta thất vọng làm gì nhỉ?! Ngươi có tiền đồ vẻ vang hay không thì có liên can gì tới ta chứ?
Nói xong nàng thu ánh mắt lại, trong lòng chợt xuất hiện cảm giác là lạ. Sóng mắt ngước lên, khéo chạm với ánh mắt si tình say đắm của Chính Đức, khuôn mặt xinh xắn chợt nóng bừng.
*****
Gió nổi, tuyết rơi bám đầy cung, đao.
Sáu mươi thớt chiến mã chạy ào ào qua khu phố thị thưa nhà, thẳng tới trấn Cổ Điếm ngoài thành bắc.
Đây là nơi trú quân, chỉnh đốn binh mã và nghỉ ngơi của Miêu Quỳ và Hứa Thái vừa tập kích Mông Cổ trở về.
Lần này Miêu Quỳ và Hứa Thái đã hoàn thành nhiệm vụ quấy rối sau lưng quân giặc một cách mỹ mãn, ý nghĩa của nó không thể nói là không lớn. Từ trước đến nay toàn là người Thát Đát vốn lấy du mục làm lẻ sống không ngừng xâm phạm biên cảnh cướp bóc. Lần này quân Minh chủ động xuất kích, xâm nhập vào thảo nguyên của giặc Thát, đả kích nhuệ khí và lòng quân của toàn thể bộ lạc Mông Cổ, khiến cho chúng hoang mang và sợ hãi hơn hẳn việc tiêu diệt mấy vạn thiết kỵ Mông Cổ trên đất Đại Minh.
Hơn nữa lần quấy rối này nhất định sẽ khiến các bộ lạc Mông Cổ vì sự sinh tồn mà sau kỳ vào xuân sẽ phát động một hồi nội chiến. Nếu như Đại Minh có thể nương theo xu thế mà đưa đẩy, giúp yếu diệt mạnh, lại tranh thủ thu lấy Đóa Nhan Tam Vệ vào tay, thì sẽ có thể khiến cho đại mạc mới hơi có dấu hiệu thống nhất lại tan thành nắm cát vụn, sa vào cái "loạn Chiến quốc". Nếu như Đại Minh lại thừa cơ mà xóa bỏ lệnh cấm, làm cho nước giàu, dân mạnh, luyện binh cường quân, thì mười năm sau, hai mươi năm sau sẽ...
Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nóng rực trong lòng. Phía trước là một tòa tửu lầu hai tầng, cờ phướn màu đỏ lẫn đèn lồng đều trông có phần cũ rách. Trên nóc lầu cắm sừng sững lá cờ quân bằng da dê to và đỏ rực như máu và lá cờ soái viết hai chữ Miêu và Hứa, biểu thị rõ đây là nơi đồn trú của Hứa Thái và Miêu Quỳ.
Thiết kỵ chạy đến trước lầu, Dương Lăng lật đật xuống ngựa, thân binh dắt ngựa buộc sang một bên, Dương Lăng giũ giũ tuyết bám trên áo quần, nheo mắt ngước nhìn bầu trời mênh mông, mờ mịt.
Tuyết rơi như sương mù, tửu lầu cổ kính chìm vào trong tuyết, trắng xóa một màu, chỉ có cờ phướn và đèn lồng khẽ lay lay mang theo chút sắc đỏ nhàn nhạt. Lều trại chung quanh có binh tốt ra vào không ngừng, vài ba con chiến mã chốc chốc lại hí lên khe khẽ.
Trương Vĩnh cũng xuống ngựa, lúc này bên trong tửu lầu hay tin liền có một đám người chạy ra. Người đi đầu vừa trông thấy Dương Lăng và Trương Vĩnh liền vội mừng rỡ chạy tới chào hỏi:
- Dương đại nhân! Trương công công!
Vừa nói vừa bước tới chụp lấy cánh tay Dương Lăng.
Dương Lăng quét mắt nhìn, theo sau là Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc, bên cạnh còn có một vị tướng quân tuổi trạc hơn hai mươi, thân vận trang phục Mông Cổ, mặt vương đầy vẻ phong trần chưa kịp tẩy rửa cũng đang mỉm cười với mình. Trong lòng Dương Lăng chợt lóe linh quang, đoán ra người này ắt là Hứa Thái, Võ Cử trạng nguyên của hai năm về trước, nay là tham tướng Đại Đồng.
Khó trách bọn họ thuận lợi quét ngang đại mạc như vậy. Ngoài việc có được tin tức tình báo tỉ mỉ và bản đồ chuẩn xác do Nội xưởng cung cấp, binh sĩ kiêu dũng thiện chiến, xem ra việc dọc đường bọn họ cải trang giả dạng, ăn mặc thành người Thát Đát cũng là một trong những nguyên nhân thành công đây.
Dương Lăng không kịp nghĩ ngợi nhiều, lại nhìn kỹ Miêu Quỳ đang tràn đầy kích động đứng trước mặt. Vị xưởng công Tây xưởng vốn da mỏng thịt mềm đầy vẻ yếu đuối này nay cũng vận áo vải da thú thùng thình, mặt mày tay chân thô nhám, da dẻ đen nhẻm, nứt nẻ.
Bất chấp cái nguy hiểm giữa sự sống và cái chết mà xâm nhập vào đại mạc, nếm trải hết bấy nhiêu gian khổ, nói khó nghe một chút thì đó gọi là "tham cầu quyền thế", vậy phải tạo ra công lao gì, lập nên sự nghiệp gì mới được gọi là "kiến công lập nghiệp" đây? Ngay khoảnh khắc này, trong lòng Dương Lăng đã không còn bất cứ sự kì thị nào đối với vị Miêu công công này nữa.
Nắm chặt lấy tay Miêu Quỳ, y mỉm cười khích lệ:
- Xưởng công! Năm nghìn thiết kỵ càn quét sa mạc an toàn mà trở về, công lao to lớn của ngài nhất định sẽ được chép vào sử sách. Đại Minh mở mang bờ cõi, bình định giặc Thát là bắt đầu từ ngày hôm nay!
Miêu Quỳ nghe mà lệ nóng quanh tròng. Gần một tháng trời vào sinh ra tử, ngày ngày hành quân vào nơi chó ăn đá, gà ăn sỏi, nay sự cực khổ đó có thể nhận được sự đánh giá cao như vậy, có thể nhận được sự tôn trọng của người khác như vậy, khiến trong lòng lão xúc động khôn thôi.
Trương Vĩnh vốn là bộ hạ Tây xưởng, gặp lại thượng ty cũ cũng bước lên an ủi mấy câu. Vị tướng quân vận áo quần Mông cổ nọ mỉm cười chờ hai bên hàn huyên xong mới bước nhanh lên trước, quỳ một gối xuống, cao giọng hô:
- Mạt tướng Hứa Thái, bái kiến hai vị khâm sai đại nhân!
Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng bước tới đỡ hắn lên, cười bảo:
- Tướng quân vất vả lập được công to, chớ nên khách sáo như vậy.
Dương Nhất Thanh cười to:
- Ha ha, nào nào! Bên ngoài trời tuyết lớn, chúng ta vào trong rồi nói tiếp.
Đám người vào trong lầu. Chính giữa căn phòng đặt một cái lò đất, chiếc nồi sắt trên lò đang sôi sùng sục, trong nồi đang ninh mấy miếng thịt dê lớn, bên cạnh là một chiếc bàn, trên bàn bày ra tỏi giã nhỏ, gia vị, một ít bánh nướng sữa, lương khô và vài chiếc bát to.
Dương Lăng không tiện hỏi ngay về chuyện vị Khả Đôn của Thát Đát nọ, bèn xoa xoa tay cười nói:
- Bát rượu to, miếng thịt lớn, được! Bụng tôi cũng thấy hơi đói rồi. Nào nào! Chúng ta hãy ngồi quanh lò uống rượu, vừa ăn vừa chuyện trò nào!
Đoàn người kéo đến đến ngồi vào bàn. Ngồi tại đây phần lớn đều là võ tướng, Dương Nhất Thanh tuy xuất thân là quan văn, nhưng ban đầu giữ chức Tây Lương dưỡng mã, tiếp đó làm trấn soái biên quan, nên cũng đã sớm bị "đồng hóa". Ngoại trừ Trương Vĩnh ăn uống còn hơi nhã nhặn, đám người này ai nấy đều như sói ăn hổ nuốt, không còn chút dáng vẻ nào là trọng thần trong triều.
Miêu Quỳ lăn lộn trong đại mạc một tháng trời nên đã sớm quen với mùi vị tanh nồng, lấy dao chọc vào miếng thịt dê to còn đỏ au màu máu bên trong rồi cho ngay vào miệng nhai luôn, thỉnh thoảng lại bưng bát hớp một ngụm rượu nóng. Vẻ hào sảng ấy thực còn đàn ông hơn cả đàn ông.
Miêu Quỳ và Hứa Thái đã thuật lại cho Dương Nhất Thanh nghe kỹ càng quá trình xâm nhập đại mạc, lúc này lại kể cho Dương Lăng và Trương Vĩnh nghe, tâm tình đã không còn quá kích động như trước nữa. Tự chôn người dưới hố để trốn tránh bạo tuyết cuồng phong, bất ngờ gặp phải bầy sói đói hung tàn, ban đêm tập kích thiêu đốt cướp bóc bộ lạc Thát Đát, từng mẩu chuyện được liên tục kể lại. Bất kể là sự phiêu lưu giữa ranh giới của sự sống và cái chết, hay chém giết thỏa thuê, hoặc máu thịt tung tóe, giờ đặt mình trong căn phòng ấm áp và thoải mái này, bọn họ lại cảm thấy như đang kể về một câu chuyện trong quá khứ xa xăm.
Đợi cho hai người kể xong, Dương Lăng mới thở ra một hơi thật dài, hỏi thăm:
- Nghe nói các vị trên đường về bắt được một người phụ nữ, là một vị Khả Đôn, chẳng lẽ là... hoàng hậu của Bá Nhan?
Hứa Thái lắc nhẹ đầu đáp:
- Khó nói! Lúc chúng tôi trở về gặp phải bão tuyết, nhất thời không phân biệt được phương hướng, nếu tiếp tục ở lại đó thì toàn quân sẽ chết cóng, đành phải tìm chỗ chắn gió để ẩn náu, vô tình phát hiện trong một thung lũng bên sườn núi có một bộ lạc Mông Cổ nhỏ. Vốn định thuận tay cướp bóc bọn chúng cho nên chúng tôi chỉ phái ra một nhóm trăm người, không ngờ bộ lạc nho nhỏ ấy lại không có người già và phụ nữ yếu đuối, tuy không có đến năm trăm người, song lại đều là dũng sĩ thiện chiến.
Mạt tướng thấy thế tấn công bị cản trở bèn lập tức dẫn toàn quân tấn kích, lúc ấy mới tiêu diệt hết bọn chúng. Có một thị nữ người Mông Cổ quýnh quáng chạy đến một căn lều lớn gào kêu Khả Đôn trốn đi, lính trinh sát của mạt tướng hiểu tiếng Thát Đát, bèn lập tức dẫn mạt tướng đuổi theo. Mạt tướng phát hiện người phụ nữ này ắt hẳn có lai lịch không tầm thường, nên mới dẫn bà ta trở về.
Trương Vĩnh ngạc nhiên hỏi:
- Nếu đã gọi là Khả Đôn, chẳng lẽ Bá Nhan còn có hoàng hậu thứ hai hay sao? Sao vẫn không thể xác định lai lịch của người đàn bà ấy?
Miêu Quỳ mỉm cười giải thích:
- Lão Trương à! Người Mông Cổ khác với người Hán chúng ta, vợ của Đại Hãn Mông Cổ và vợ của mấy thủ lĩnh bộ lạc lớn đều được xưng là Khả Đôn, ngoài ra hậu cung của Đại Hãn Mông Cổ thi hành chế độ "Oát Nhĩ Đóa". "Oát Nhĩ Đóa" là cung điện dưới hình thức lều trại, mỗi "Oát Nhĩ Đóa" đều có thể cho lập một hoàng hậu, dưới hoàng hậu lại có một số phi tần.
Dương Nhất Thanh tiếp lời:
- Cho nên một hoàng đế Mông Cổ có thể đồng thời có một, hai, thậm chí vài hoàng hậu. Người phụ nữ này hết sức quật cường, mặc cho chúng tôi tra hỏi thế nào cũng không hề hé lộ nửa lời về lai lịch mình, cho nên rất khó để xác định. Có điều nhìn vào năm trăm thiết kỵ dũng mãnh thiện chiến canh gác bên người, có thể thấy địa vị của Khả Đôn này nhất định không tầm thường.
Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi:
- Bà ta đang ở đâu? Chúng ta đi gặp thử một tí.
Mọi người đã ăn gần xong, Dương Nhất Thanh đứng dậy:
- Bà ta đang bị nhốt trên lầu, đưa đồ ăn thì không cự tuyệt nhưng khi hỏi thì không chịu mở miệng, sợ rằng sẽ không tra hỏi được gì. Nhưng mà lai lịch người phụ nữ này không tầm thường, phải thu xếp thế nào cho ổn thỏa thì chúng tôi lại nghĩ mãi không ra.
Đoàn người bước lên dãy cầu thang kẽo kẹt đi lên lầu hai. Thị vệ gác cửa trông thấy các vị đại nhân đến, vội vàng thi lễ nhường đường. Hứa Thái đi trước dẫn đầu, đẩy cửa phòng mời các quan lớn vào. Ngồi bên giường là một bà lão ăn mặc theo kiểu người Mông Cổ, đầu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn. Nghe thấy tiếng động, bà lão quay ra, díp mắt lại quan sát bọn họ.
Dương Lăng rất đỗi bất ngờ. Bà lão này trông tuổi ít nhất cũng phải chừng sáu mươi, quần áo cũng hết sức bình thường, không giống phu nhân tù trưởng bộ lạc lớn có quyền có thế. Trong lúc bọn họ quan sát tỉ mỉ người phụ nữ già cả đó, bà ta cũng dùng cặp mắt sắc bén không tương xứng với tuổi tác quan sát kỹ bọn họmột hồi rồi chậm rãi dời ánh mắt đi.
Một thị vệ biết ngôn ngữ Thát Đát đứng bên cạnh quát lớn mấy tiếng với bà ta, bà lão liếc hắn một cách khinh miệt, không nói gì. Dương Lăng khẽ lắc đầu, thấp giọng nói với Hứa Thái:
- Bên người bà ta có vật gì có thể chứng minh danh phận không? Ví dụ như năm trăm thị vệ nọ, cờ xí có vẽ ký hiệu gì, thuộc về bộ lạc nào hay không?
Hứa Thái cũng thấp giọng đáp:
- Lạ là lạ ở chỗ đó. Trang sức trên thân ngựa, lều trại và quân giới của đám thị vệ đó đều hết sức tinh xảo. Theo lý thuyết thì trên đại mạc chỉ có đội thị vệ thân tín nhất của Bá Nhan Khả Hãn mới được trang bị như vậy, thế nhưng bộ lạc nho nhỏ năm trăm người này đều là chiến sĩ hạng nhất, được trang bị vũ khí tốt nhất.
Hơn nữa bọn chúng chừng như không phải đang bảo vệ bà lão này, mà là chịu trách nhiệm giám thị bà ta. Lúc chúng mạt tướng xông vào đại doanh, người thị nữ xông vào la bảo bà ta chạy đi lại bị quân Thát Đát canh giữ ngoài lều trại giết chết, ngay sau đó tên giặc Thát đó còn muốn giết bà lão này, mạt tướng phải bắn một phát tên giết chết hắn... Thật sự là kỳ quái.
Quả thật là kỳ lạ, vợ của nhân vật lớn nào lại phải dùng đến đội thiết kỵ tốt như vậy để bảo vệ? Phải biết rằng vào lúc bình thường, các bộ lạc muốn tập hợp một nghìn chiến sĩ trở lên đều không hề dễ; mà bộ lạc của bà lão này lại có đến năm trăm người bảo vệ, lại toàn bộ đều là chiến sĩ thuộc loại cang cường dũng cảm, hơn nữa trong bộ lạc không có đàn bà và trẻ em, hiển nhiên có người khác cung ứng mọi thứ cần thiết cho bọn họ. Vào lúc nguy cấp thị vệ lại dám tự ý giết bà ấy, rốt cuộc bà ta là ai? Là được bảo vệ hay là bị giam lỏng?
Được trang bị vũ khí, chiến giáp tinh xảo chỉ có ở đội hộ vệ cận thân của Bá Nhan Khả Hãn, một bộ lạc kỳ quái được tạo thành từ năm trăm tinh binh, thị vệ dám giết chủ vào lúc nguy cấp, phu nhân quí tộc Khả Đôn tuổi trạc lục tuần...
Hàn Lâm là thương nhân buôn lậu với người Mông Cổ lớn nhất ở Đại Đồng, thám thính được rất nhiều bí mật không mấy ai biết. Ngoại trừ những điều cơ mật về mặt quân sự, những tướng soái biên quan này không hề hay biết về những thứ khác, nhưng Dương Lăng lại biết rất rõ.
Y thoáng ngẫm nghĩ, chợt máy động trong lòng, bèn gọi viên thị vệ biết tiếng Thát Đát nọ nói nhỏ một hồi. Viên thị vệ nọ hơi ngẩn người, rồi xoay người thuật lại cho bà lão đó một lượt. Bà lão nọ nghe xong thì kinh hãi đến run lẩy bẩy. Bà lập cập đứng lên, gào thét mấy câu, hai mắt trợn trừng nhìn Dương Lăng như trông thấy quỷ dữ.
Thị vệ rất kinh ngạc, quay người lại khâm phục thưa:
- Đại nhân! Bà ta nói Bá Nhan là vua của thảo nguyên, là con cháu của Thành Cát Tư Hãn, sẽ không thể thất bại. Cho dù Hỏa Sư có dã tâm cũng quyết không dám phản bội hắn, y không có thực lực đó, không có danh vọng đó, nhưng lại có trí tuệ biết cân nhắc lợi hại. Bà ta bảo chúng ta nói xằng.
Hoa đèn chợt loé sáng, ánh mắt Dương Lăng cũng loé lên. Từ sự quan tâm chú ý và phản ứng dữ dội của bà lão này đối với lời nói của y, y đã xác định được lý lịch của bà lão này đến tám phần. Dương Lăng mỉm cười vỗ vai viên thị vệ nọ, thử thăm dò lần cuối:
- Nói với bà ta vừa rồi đích thực là ta nói xằng. Song Bá Nhan sớm muộn gì nhất định cũng sẽ thua vào tay ta, xin Mãn Đô Hải hoàng hậu bệ hạ hãy rửa mắt chờ xem!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro