Từ 101 Đến 110
Chương 101: Chiếu Chỉ Khám Lăng
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Trương Vĩnh vừa nghe liền bẩm ngay:
- Hoàng Thượng! Đúng là Thái Lăng vốn không thể tuỳ tiện động thổ, nhưng nay Hoàng Thượng muốn dời lăng, vậy là bỏ nơi đó rồi. Đừng nói là khảo sát một chút thôi, cho dù là khai quật mọi thứ lên cũng chẳng hề gì. Chi bằng Hoàng Thượng hãy phái người đi xem xét một chút; nếu chứng cứ xác thực, thì trong triều trên dưới cũng sẽ không ai có ý kiến gì nữa. Nếu như không có vấn đề gì, nếu phong thủy ở đó chưa từng bị phá hủy, mà chỉ mới động chạm một chút, không chừng mọi người sẽ nghĩ được một biện pháp nho nhỏ liền có thể tu bổ lại, vẫn có thể tiếp tục dùng làm Đế lăng. Lúc đó, Hoàng Thượng cũng sẽ không cần phải ra lệnh tăng thuế khiến cho bá quan khó xử nữa.
Trên kim điện, Hoàng Đế Chính Đức ngồi trên ngai vàng mà lòng dạ rối bời. "Lúc này chắc hẳn ở đầu chợ đã khai đao xử chém rồi thì phải?" Nghĩ đến đây, Chính Đức không khỏi cảm thấy phiền não.
Tiểu hoàng đế còn nhỏ, chưa có nhiều tâm cơ đế vương cho lắm. Cho nên y chỉ phản ứng đơn thuần về mặt tình cảm: y không thể nào chấp nhận được sự phản bội của Dương Lăng. Vừa nghe Dương Lăng cũng tham dự vào chuyện che giấu tin xấu về lăng tẩm của phụ hoàng mà y rất kính trọng, Chính Đức hận không thể tự tay giết chết gã bầy tôi mà y hết lòng đối đãi chân thành này.
Nhưng dù hận, y vẫn nhớ khi mình còn làm Thái Tử, rồi làm Hoàng Thượng, y luôn là một kẻ cô đơn, mãi cho đến khi Dương Lăng xuất hiện. Trong ánh mắt hắn nhìn y không có sự sợ hãi và nịnh nọt mà y thường thấy trên gương mặt của những kẻ khác, mà là một sự quan tâm chân thành. Do đó y cũng luôn coi Dương Lăng như một người bạn.
Nhưng... người bạn duy nhất của y lại đã phản bội y. Nghĩ đến đây, Chính Đức không nén được tiếng thở dài.
Ngự sử Lục Trọng Côn thấy Hoàng Đế không nghiêm túc nghe lão phát biểu, bèn cất cao giọng gọi lớn:
- Hoàng Thượng!
- Hả? Cái gì?
Chính Đức ngây người một chốc, thu lại ánh mắt lơ đễnh, ngạc nhiên nhìn lão ngôn quan ngự sử đã ê a dài dòng nửa ngày mà y vẫn chưa biết lão muốn nói cái gì.
Lục Trọng Côn cố nén giận, bẩm:
- Giờ đang là đại tang của Tiên đế, giỗ đầu (1) chưa lâu, mới bắt đầu kỷ nguyên của Hoàng Thượng, mà người đã ham mê lạc thú, thỉnh thoảng lại đến dự tảo triều muộn, ngọ triều thì trễ đến xế chiều; sinh hoạt vô thường, ăn ngủ trái bữa, khiến cho tinh thần bị tổn hao, hại lỡ chính sự. Đó không phải là việc làm của minh quân đâu. Thần nghe đêm qua mưa lớn sấm vang, đánh vỡ mỏ diều hâu (*) của điện Phụng Thiên và con thú trên nóc Thái Miếu, cây cối trong thành bị gãy hơn trăm gốc. Hoàng Thượng nên lấy cái tai hoạ do trời gây ra ấy mà cảnh tỉnh.
(*: vật trang trí hai đầu nóc nhà kiểu Trung Quốc)
Chính Đức thờ ơ đáp:
- Biết rồi! Trẫm đã phái Khâm Thiên giám nghiệm tính cát hung.
Lục Trọng Côn cảm khái:
- Hoàng Thượng! Chiếu theo thông lệ của triều trước, hễ gặp thiên địa kịch biến, đế vương phải giảm bữa bớt vui, hạ chiếu tự ngẫm. Hoàng Thượng nên lệnh cho bá quan văn võ dâng tấu thảo luận khuyên ngăn, chỉ điểm tệ nạn đương thời mới phải.
Hoàng Đế Chính Đức thoáng nhướng mày, thầm nổi giận trong lòng: "Thật là quá vô lý! Mưa to gió lớn thổi ngã vài gốc cây, sấm sét đánh vỡ mấy con thú đá trên mái điện cũng muốn nói vòng nói vo để trút lên đầu trẫm. Cái gì mà 'đó không phải là việc làm của minh quân' chứ! Chẳng lẽ ta là hôn quân sao?"
Nhưng đã là ngôn quan, nghĩa là có thể tấu mà không bị hạch tội; cho dù là cha y, vị hoàng đế Hoằng Trị mẫu mực ấy, cũng từng có lúc bị bọn ngự sử tấu đến chịu không nổi. Vì vậy Chính Đức đành nén giận, bảo:
- Vậy thì hạ chiếu, lệnh cho bá quan vào can gián đi!
Chính Đức ho một tiếng, nói tiếp:
- Các vị ái khanh! Hôm nay nghịch thần dối gạt chuyện Đế Lăng bị tươm nước đã bị giải đến pháp trường xử tử. Việc dời lăng của Tiên đế đã là chuyện bắt buộc. Có thể tháo dỡ một phần vật liệu từ chỗ cũ để xây dựng lại lăng mới, như thế ước tính hao tốn khoảng ba trăm vạn lượng. Trẫm muốn trưng thu thêm một chút thuế khóa, các vị ái khanh có kiến nghị gì để điều trần không?
"Quả nhiên là đến lúc rồi đây!" Ba vị đại học sỹ không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Hôm qua sau khi Chính Đức rời khỏi ngọ triều, Từ Quán đã vào cung bẩm báo chuyện khâm phạm đã cung khai nhận tội. Trong cơn giận ngất trời, Hoành Đế Chính Đức đã hất đổ bàn ngự (ngự trác), la hét ỏm tỏi muốn lập tức nghiêm trị đám nghịch thần tặc tử này. Ba vị đại học sỹ biết tin liền biết rằng chuyện dời lăng của Tiên đế đã ngã ngũ. Nhưng phí tổn khổng lồ này sẽ lấy từ đâu ra?
Kẻ khác có thể không biết tường tận, nhưng bọn họ còn chẳng biết mấy năm nay vì thiên tai liên miên không ngớt, tài chính của Đại Minh đã túng quẫn đến mức nào ư? Còn bọn Vương Quỳnh, Từ Quán, Hồng Chung chỉ hô hào giữ gìn bảo vệ vận mệnh Đại Minh nhằm để cho địa vị lẫn quyền thế bọn chúng sẽ tăng thêm một bậc; còn những uy hiếp trực tiếp khác đến địa vị lẫn vương quyền, bọn họ chỉ xem là thứ yếu.
Không còn cách nào khác, Lý Đông Dương đành liều mạng bước ra khỏi hàng tâu:
- Hoàng thượng! Thu nhập hằng năm của triều đình là bốn trăm vạn lượng, vừa đủ chi tiêu. Lăng tẩm tiên đế đã dùng hết ba phần tư, bộ Hộ đã cạn kiệt tiền bạc gom góp bấy lâu. Nếu di dời Hoàng Lăng, tất phải gia tăng thuế khóa. Dân chúng sẽ không chịu nổi cái khổ đâu.
Chính Đức nghe thế cả giận gắt:
- Bách tích Đại Minh có ức vạn (trăm triệu) người, chỉ thu mỗi người thêm một phần thuế, khanh không cần phải buông lời doạ nạt như vậy!?
Lý Đông Dương vội bẩm:
- Hoàng Thượng bớt giận! Hoàng Thượng có điều không biết, những năm gần đây thiên tai liên tiếp, Hà Nam Hà Bắc bị lũ lụt gây họa, Cam Túc Thiểm Tây hạn hán không mưa, ngay cả ở Giang Nam giá gạo cũng đã rất đắt đỏ, khiến cho khắp nơi đạo tặc hoành hành. May vì Tiên đế nhân từ, lấy thuế thấp nuôi dân, yêu thương dân chúng, trăm họ mới có thể miễn cưỡng vượt qua khó khăn. Nhưng dân chúng ở những vùng đất nghèo khổ đã phải mỗi ngày chỉ một bữa sống lay lắt qua ngày, nếu tăng thêm thuế má, sợ rằng sẽ gây nên biến loạn.
Lý Đông Dương chỉ lo Chính Đức không nghe lời khuyên can, gấp đến độ toát cả mồ hôi. Nếu không phải vì thời đó Đại Minh còn chưa biết đến truyện ngụ ngôn "Cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà", lão cũng sẽ bắt chước Tiêu Phương đi đường vòng khuyên nhủ rồi.
Tạ Thiên lập tức bước ra tâu:
- Hoàng Thượng! Hôm nay rợ Miêu không ngừng nổi loạn gây hại cho hậu phương. Thát Đát đang vì Tiên đế về trời mà đang lom lom nhìn ngó Đại Minh chúng ta như hổ đói. Trong nước tổn hao, lũ lụt hạn hán dồn dập, dự trữ biên phòng thiếu hụt, thật sự không thể gây thêm tai hoạ nữa đâu.
Chính Đức đập bàn đánh "chát", quát:
- Thái Lăng không tốt, chẳng lẽ muốn Tiên đế vẫn an táng ở nơi đó ư? Hay đường đường là thiên tử Đại Minh ta lại phải nằm lại trong áo quan cả chục năm không thể nhập thổ an nghỉ, chờ cho dân chúng nghỉ ngơi lấy lại sức sao?
Uy danh Hoằng Trị trong đám quần thần cực cao, Chính Đức lại dùng tôn nghiêm của đế vương và đạo hiếu của người làm con mà lý sự, nên mặc dù trong quần thần có khối người phản đối tăng thuế nhưng nhất thời cũng đành cứng họng.
Dưới điện im lặng một hồi lâu, Lưu Kiện hiên ngang bước ra khỏi hàng, quỳ phục xuống đất tâu:
- Thần liều chết nói thẳng! Hoàng Thượng ở trong cung rộng rèm xinh có hay dân đen nhà củi lều tranh khó chống được bão giông? Hoàng thượng ăn ngon mặc đẹp, có hay dân đen cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm? Tiên đế được khâm liệm về lăng, nghi lễ có định chế, bầy tôi như thần nào dám xem nhẹ. Thế nhưng việc cũng phân nặng, nhẹ, gấp rút và thư thả. Mạnh Tử nói: "Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc giang sơn vi trọng (*)", Đại Minh giữ nước là thuận theo thiên mệnh, thiên mệnh tức là bách tính. Đại Minh thuận theo thiên mệnh thì thuật phong thủy cỏn con sao đáng để e dè. Xây dựng Thái Lăng đã hao tốn của cải quốc gia, sao có thể dễ dàng nói hủy là hủy? Tiên đế nhân đức yêu thương con dân, tin rằng Tiên đế trên trời có linh, cũng sẽ xem trọng nhân dân chứ không xem nặng phong thuỷ. Cúi mong bệ hạ suy nghĩ kỹ lại.
(*: nguyên văn "Dân vi quýxã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là, trong một nước quý trọng nhất là dân, kế đó là đất đai và lúa gạo (xã tắc), còn vua thì chỉ được xem nhẹ. Bởi do vua là do dân đặt ra chứ không phải vua đặt ra dân.)
Nói rồi Lưu Kiện úp mặt quỳ sấp tại chỗ. Lời của lão tuy rằng rất khách khí, thật ra cũng không ngoài việc nói bách tính mới là gốc rễ của xã tắc giang sơn, thuyết phong thủy là vô căn cứ, không thật. Còn về phần Tiên đế thì cứ an táng ở Thái Lăng là được rồi, đừng phung phí tiền bạc một cách mù quáng.
Trên kim điện, văn võ bá quan nghe vậy đều nín thở. Cái tính nết mưa nắng thất thường của vị tiểu hoàng đế này bọn họ đã sớm thưởng thức qua. Nếu như y nổi giận, kêu người lôi Lưu đại học sỹ xuống đình trượng (phạt gậy)(*), không phải ông già cao tuổi như vậy sẽ bị đánh chết tươi sao?
(*: đình là triều đình, trượng là gậy dùng để đánh người. Phàm là chuyện ở trong cung thì gọi là đình, như đình nghị, đình đối)
Bọn người Vương Quỳnh, Từ Quán có lòng ra mặt tranh luận giùm Chính Đức, nhưng dân gian đã xôn xao truyền miệng tin triều đình tăng thuế rồi, hơn nữa còn chỉ thẳng chính là do bọn họ sàm tấu, thành thử danh tiếng của bọn họ đã sa sút lắm rồi. Lúc này bọn họ ra mặt há chẳng phải xác nhận chuyện xấu đó sao? Thế là bọn họ cũng không dám bước lên phát ngôn bừa bãi.
Chính Đức nhìn ngó một hồi, thấy văn võ bá quan không ai ra mặt phụ họa tán đồng y, không ngờ y lại cảm thấy vừa bực vừa buồn cười: "Cái đám đại thần chết tiệt này! Hôm qua còn ông ổng bảo vừa là ảnh hưởng đến quốc vận vừa tổn hại cho hạnh phúc mai sau. Thế mà hôm nay ba vị đại học sỹ vừa lấy nhân dân ra ngăn cản thì không có lấy một người giúp ta. Rốt cuộc các ngươi là trung quân hay là yêu quý cái danh tiếng của bản thân các ngươi?"
Chính Đức đang chống hai tay lên ngự án, bất chợt đứng thẳng dậy chỉ vào Lưu Kiện, vừa định mở miệng nói, bỗng nhiên tướng quân giữ điện hối hả chạy vào, quỳ xuống hô to:
- Khải tấu Hoàng Thượng! Thượng thư bộ Hình Hồng Chung cho người phi ngựa về báo. Người vợ của phạm quan (quan phạm tội) Dương Lăng là Hàn thị xông vào pháp trường, tay cầm tranh vẽ của Tiên đế che trên đầu phạm quan Dương Lăng. Hồng Chung không dám tự ý hành hình, sợ tổn hại đến di vật của Tiên đế. Khẩn xin Hoàng Thượng định đoạt!
Bá quan bèn rào rào sôi nổi bàn án. Có lẽ vì những buổi họp triều hằng ngày quá khô khan nhàm chán, cho nên vừa nghe tin vợ của Dương Lăng cầm tranh vẽ của Tiên đế xông vào pháp trường cứu chồng, văn võ bá quan liền như uống phải thuốc kích thích.
Đang quỳ sấp mặt ở dưới đất, Lưu Kiện nghe vậy cũng không khỏi mừng rỡ. Lão to gan nói thẳng, thật ra trong lòng cũng thấp tha thấp thỏm, tin vừa rồi đánh lạc sự chú ý của Chính Đức, lão sẽ không bị sao nữa. Lưu Kiện thầm thở phào, đưa ống tay áo lên lau mồ hôi lạnh trên trán.
Chính Đức nghe vậy thì đứng ngây tại chỗ, một lúc lâu mới lẩm bẩm lặp lại:
- Ngươi nói Ấu Nương, vợ của Dương Lăng xông vào pháp trường? Nàng cầm thủ bút của phụ hoàng đã ban thưởng cho nhà họ Dương từ đời nào rồi à? Trên đó vẽ gì?
Y lẩm bẩm với bản thân, âm thanh rất nhỏ, chỉ có tiểu thái giám ở trước bàn nghe được. Nhưng chưa được Chính Đức ra hiệu, hắn cũng không dám lớn tiếng hỏi thay cho y.
Chính Đức ngây người một hồi, rồi bắt đầu chậm rãi cất bước đi lại trên bệ rồng. Tất cả bá quan chăm chú dõi theo động tác của y, thấy Chính Đức lúc thì nghiến răng nghiến lợi, lúc thì lại ngơ ngẩn xuất thần. Mãi một lúc sau y mới quát:
- Truyền dụ! Sai Ngự mã giám Trương Vĩnh đến đó tra hỏi trước, thu hồi thủ bút của Tiên đế đưa cho trẫm xem. Bãi triều!
Ở đầu chợ, Hồng Chung hổn hà hổn hển đi đi lại lại trên đài hành hình. Mặt trời hừng hực trên cao, chói loà, nhưng lão vẫn không nhận ra mặt mình đã đầm đìa mồ hôi. Tuy vật mà Ấu Nương cầm không phải là thánh chỉ, và bức thư họa đó cũng không hề liên can gì đến vụ án này, nhưng đó chính là bức họa do tự tay Tiên đế vẽ. Ở trước mặt bao người, cướp thì không cướp được, làm hư hại cũng không xong, lão đành phải đực mặt đứng ở đây.
Chợt lão giậm chân quát:
- Hàn thị! Ngươi nghĩ kỹ đi, xông vào pháp trường cản trở hành hình chính là tội chém đầu. Chồng ngươi Dương Lăng vi phạm pháp lệnh, khi quân phạm thượng, là kẻ ác không thể dung tha. Hoàng Thượng chỉ giết một mình hắn là đã quá khai ân rồi. Ngươi tuổi hãy còn nhỏ, chẳng lẽ không tiếc mạng sao?
Đã nâng bức thư họa đến mỏi nhừ cả tay, Hàn Ấu Nương ngẩng đầu liếc xéo Hồng Chung rồi bảo:
- Ông không phải là người tốt!
- Cái gì?
Hồng Chung kinh ngạc sửng sốt, giận dữ quát:
- Dương Hàn thị, ngươi dám phỉ báng mệnh quan triều đình ư?
Hàn Ấu Nương quật lại:
- Tướng công ta là một nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, là vị quan tốt vì nước vì dân. Ông nói tướng công ta không phải là người tốt, vậy ông nhất định không phải là người tốt.
Dân chúng bu quanh xem náo nhiệt phần lớn là những kẻ quanh năm nghèo khổ, dựng sạp buôn bán sống qua ngày, vì chuyện tăng thuế nên đã hận mấy người Hồng Chung đến thấu xương, vừa nghe Hàn Ấu Nương nói vậy lập tức đồng loạt reo hò. Có kẻ lớn mật còn chen vào trong đám đông thừa cơ chửi lão ta, khiến Hồng Chung giận đến tím mặt.
Lão phất ống tay áo hầm hầm:
- Chỉ là đám tiểu nhân và đàn bà khó dạy, lão phu không thèm so đo với ngươi!
Hồng Chung giận đến líu lưỡi. Ngay vào lúc này, một người cưỡi khoái mã phi đến pháp trường, kỵ mã vận trang phục thái giám trong cung. Khoái mã chạy theo thông đạo tạo bởi hai sợi dây thừng bện bằng cỏ đến trước đài. Không ngờ lúc phóng người xuống ngựa, thân thủ người đó lại rất mạnh mẽ.
Dương Lăng biết Chính Đức có tình cảm quấn quýt như trẻ con quấn chị với Ấu Nương, vốn nghĩ rằng Chính Đức sẽ không vì chuyện của mình mà trút giận sang nàng. Nếu vẫn không ăn thua thì với tình cảm của Chính Đức đối với Tiên đế, khi thấy bức thư hoạ đó thì hắn cũng sẽ bỏ qua cho nàng. Nhưng hôm nay nàng đã gây ra chuyện náo loạn pháp trường, Dương Lăng thật không đoán được với tính nết bốc đồng, mưa nắng thất thường của hắn thì Chính Đức sẽ xử trí như thế nào.
Lúc này vừa thấy khoái mã trong cung chạy đến, tinh thần của y không khỏi phấn chấn hẳn lên. Hàn Ấu Nương cũng tròn mắt, căng thẳng dõi theo người vừa đến. Bốn bề tĩnh lặng, Trương Vĩnh phi thân xuống ngựa, bước lên đoạn đầu đài cao nửa thân người. Dương Lăng nhận ra lão, buột miệng gọi:
- Trương công công!
Trương Vĩnh bước đến gần nhưng không đáp lời Dương Lăng. Lão ra vẻ nhìn chăm chú bức thư hoạ một hồi, rồi cũng quỳ xuống đất cung kính bái lạy một lúc. Hồng Chung và Trình Văn Nghĩa trố mắt nhìn lão thong thả thi lễ xong xuôi, Hồng Chung mới không nhịn được bèn hỏi:
- Vị công công này, xin hỏi Hoàng Thượng có gì căn dặn?
Lúc này Trương Vĩnh đã gia nhập Ngự mã giám, chỉ huy Tả Tương mã, là một trong tứ đại thủ lĩnh dưới trướng Miêu Quỳ, chỉ là vẫn chưa có duyên gia nhập vào Tây Xưởng, lực lượng trung tâm của Miêu Quỳ. Nhưng thân phận và địa vị lão đã khác xa lúc trước, nói chuyện trước mặt Hồng thượng thư cũng có vài phần tự tin. Nghe Hồng Chung ra vẻ bề trên, Trương Vĩnh mỉm cười đáp:
- Đại nhân yên tâm chớ nóng! Chúng ta phụng thánh dụ hỏi Dương Hàn Thị mấy lời.
Nói rồi lão bước lên một bước, điềm đạm hỏi Ấu Nương:
- Dương Hàn Thị! Hoàng Thượng hỏi ngươi: Dương Lăng phạm tội khi quân phạm thượng, lý nên xử chém, ngươi thân phận nữ lưu lại xông vào pháp trường là muốn làm gì?" (TJ: là để cứu chồng bà, rõ thế mà cũng hỏi?!)
Hàn Ấu Nương phản đối:
- Tướng công ta bị nhục hình mà nhận, xin Hoàng Thượng hãy cho về xét xử lại.
Trương Vĩnh gật gù nói:
- Hiểu rồi! Các ngươi đợi đi, bức thư hoạ này của Tiên đế, ta muốn thỉnh về kinh đưa cho Hoàng Thượng xem qua. Dương Hàn Thị, xin hãy đưa bức thư hoạ đó cho ta.
Vốn Hàn Ấu Nương dựa cả vào bức thư hoạ này mới tạm thời bảo vệ được tướng công, nghe Trương Vĩnh nói vậy thì không khỏi chần chừ. Trương Vĩnh cười ha hả nói:
- Dương Hàn Thị! Ta đang phụng ý chỉ của Hoàng Thượng, chẳng lẽ còn có thể gạt ngươi sao?
Dương Lăng bèn trấn an nàng:
- Ấu Nương! Giao bức tranh vẽ của Tiên đế cho Trương công công đi, không cần phải hoài nghi.
Nghe y nói vậy, Hàn Ấu Nương mới nâng cao hai tay, cung kính dâng bức thư họa lên. Trương Vĩnh cẩn thận nhận lấy bức thư họa đã được bồi giấy trang trọng, cuộn lại, nhét chéo vào trong ngực rồi quay lại thượng thư Hồng Chung:
- Hồng đại nhân! Hoàng Thượng có khẩu dụ tạm thời đình chỉ hành hình, ở pháp trường chờ lệnh!
Nói đoạn lão xoay người bước xuống đài, nhảy lên ngựa phóng băng băng.
Trong điện Bảo Hoà, Chính Đức cầm bức vẽ nhẩm đọc: "Cây tùng trăm trượng um tùm, dẫu rằng sần sùi xấu xí, nhưng là vật liệu chính để xây nhà to." ("Sâm sâm bách trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài.")
Chính Đức đọc xong liền giận dữ đập bàn:
- Phụ hoàng! Người nghĩ rằng Dương Lăng lỗi nhỏ, trông đợi vào y rất nhiều. Thế nhưng hôm nay y phạm đại tội, còn có thể xem là một chút lỗi vặt sao?
Trương Vĩnh chợt đảo khoé mắt. Lão cẩn thận quan sát vẻ mặt Chính Đức rồi bẩm:
- Hoàng Thượng! Nô tài ngu dốt, nghĩ mãi không thông. Hoàng Thượng tín nhiệm Dương Lăng có thừa, tên Dương Lăng này có thể nói là tiền đồ như gấm, cớ gì chỉ đi xây lăng vỏn vẹn có mấy ngày mà đã ngu ngốc phạm vào tội lớn tày trời như vậy? Nô tài ít học, nhưng cũng biết nếu một kẻ phạm tội, thì nhất định là do kẻ ấy hám lợi. Nếu là tội khi quân thì món lợi càng phải lớn. Vậy thứ Dương Lăng mưu cầu chính là cái gì chứ?
Chính Đức chợt đổi sắc mặt, quay đầu nhìn lão nói:
- Lão Trương! Có gì thì nói, không cần quanh co với trẫm. Có phải khanh nói Dương Lăng không có lý do gì để khi quân?
Trương Vĩnh cười hùa đáp:
- Lão nô thật sự không dám nói như vậy. Có điều theo lý mà nói, cho dù công trình xây lăng có món lợi để y mưu cầu, cũng không thể tốt bằng đứng ra tố cáo chuyện này. Dương Lăng sao lại ngu xuẩn đến như vậy, lão nô thật nghĩ không thông.
Chính Đức hừ lớn một tiếng, nói:
- Có nhân chứng ở lăng chính miệng làm chứng, còn có những kẻ khác biết sự tình bị chết một cách kỳ lạ, như vậy vẫn chưa đủ để chứng minh sao? Huống chi bọn họ cũng đã nhận tội rồi.
Trương Vĩnh cười nịnh lấy lòng:
- Đúng đúng đúng! Cho nên lão nô mới nói mình ngu dốt. Kể ra mấy kẻ bọn họ thật chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, khi bị bắt giải về kinh không chịu nhận tội để bị phạt cho xong, phải đợi đến lúc bị dùng đến đại hình (tra tấn nặng) mới khai. Đấy chẳng phải là đê tiện sao?
Chính Đức nghe lão vẫn có hàm ý bọn Dương Lăng vì bị bức cung nên nhận tội, bèn quay sang liếc lão một cái. Đoạn y lại quay về xem xét tỉ mỉ bức thư hoạ của phụ hoàng thật lâu, nhớ lại lời ngày đó phụ hoàng đã nắm tay y dặn dò: "Hoàng nhi! Trong triều toàn là các vị lão thần, không thể trợ tá hoàng nhi cả đời. Dương Lăng là người trọng tình trọng nghĩa, có cái nhìn rất độc đáo về chính trị lẫn quân sự. Tôi luyện thật kỹ một phen, không chừng y sẽ có thể trở thành bề tôi đắc lực cho con đó."
Chính Đức nhớ đến đây, cảm thấy nụ cười và dáng điệu của phụ hoàng tựa như đang ở trước mặt, liền không kềm nén nổi đau thương. Y lưỡng lự một hồi lâu rồi mới bảo:
- Đáng tiếc Kim Tỉnh ở Đế Lăng không thể tùy tiện động thổ. Bằng không trẫm thật muốn sai người đến khảo sát qua, xem thử Dương Lăng có thật sự đã lừa gạt trẫm hay không.
Trương Vĩnh vừa nghe liền bẩm ngay:
- Hoàng Thượng! Đúng là Thái Lăng vốn không thể tuỳ tiện động thổ, nhưng nay Hoàng Thượng muốn dời lăng, vậy là bỏ nơi đó rồi. Đừng nói là khảo sát một chút thôi, cho dù là khai quật mọi thứ lên cũng chẳng hề gì. Chi bằng Hoàng Thượng hãy phái người đi xem xét một chút; nếu chứng cứ xác thực, thì trong triều trên dưới cũng sẽ không ai có ý kiến gì nữa. Nếu như không có vấn đề gì, nếu phong thủy ở đó chưa từng bị phá hủy, mà chỉ mới động chạm một chút, không chừng mọi người sẽ nghĩ được một biện pháp nho nhỏ liền có thể tu bổ lại, vẫn có thể tiếp tục dùng làm Đế lăng. Lúc đó, Hoàng Thượng cũng sẽ không cần phải ra lệnh tăng thuế khiến cho bá quan khó xử nữa.
Chính Đức vừa nghe xong bất chợt vỗ trán, buột miệng:
- Đúng thật! Trẫm cứ mãi nhớ là nơi đó không thể động thổ, lại quên mất bây giờ không giống khi trước nữa. Trương Vĩnh! Khanh hãy mau đi truyền chỉ áp giải đám người Dương Lăng trở về thiên lao, trẫm phải sai người thân cận đến Thái Lăng xét nghiệm.
Chính Đức nói xong cảm thấy vô cùng thích chí. Hôm nay trên triều ba vị Cố mệnh lão thần cùng lên tiếng phản đối, phê phán việc tăng thuế một cách nghiêm trọng như vậy, Chính Đức vẫn chưa thật sự có gan áp chế Tam công, cưỡng ép ban chỉ. Hơn nữa đã thấy nét bút của phụ hoàng, lại nghe được lời của Trương Vĩnh, trong lòng y cũng bắt đầu hoài nghi. Nếu thật quả như lời Trương Vĩnh nói, há chẳng phải cả nhà sẽ đều vui ư?
- Lão nô tuân chỉ!
Trương Vĩnh cười hì hì đáp lời, rồi xoay người vội vàng đi ra.
Lão vừa bước ra khỏi cửa liền thấy mấy vị đại thần Lưu Kiện, Tạ Thiên, Từ Quán, Tiêu Phương, Lưu Vũ, Dương Phương đi đến điện Bảo Hoà. Vì vội đi truyền chỉ nên Trương Vĩnh cũng không quan tâm nhiều đến bọn họ, vẫn vội vã bước đi.
Lý Đông Dương và Tạ Thiên đến là vì việc trưng thuế. Có vài lời không tiện nói thẳng trên triều nên cả hai muốn đến hậu điện lý luận kỹ thêm với Hoàng Đế. Còn đám người Từ Quán thì lại đến để khuyên Hoàng Đế tăng thuế. Có điều bọn họ đã nghĩ ra một biện pháp dung hoà, đó là trưng thu thuế theo vùng, vùng nghèo thì tăng thuế ít, vùng giàu có thì tăng nhiều. Như vậy, thuế má của vùng giàu có năm nay sẽ phải tăng gấp đôi, nhưng vùng nghèo chỉ tăng ba phần. Mặc dù vẫn sẽ gây ra tiếng oán than, song chỉ là sẽ làm cho vùng giàu nghèo đi, vùng nghèo nghèo thêm, biện pháp này dù sao vẫn tốt hơn là tăng thuế đều khắp cả nước.
Không ngờ bọn họ vừa mới bước vào điện, Chính Đức đã vui vẻ bảo:
- Các vị ái khanh đến thật tốt! Trẫm đang muốn sai người đi đến Thái Lăng khám nghiệm, để thẩm tra xem có phải đám người Dương Lăng đã khi quân phạm thượng hay không. Các khanh thấy phái ai đi thì ổn?
Vị tiểu hoàng đế này luôn có những ý nghĩ kỳ quặc quái đản, mỗi khi có một ý tưởng gì thì chỉ làm được một nửa liền vất qua một bên để là cái khác, những đại thần này sớm đã quen rồi. Tuy rằng đám lão thần này vẫn chưa bắt kịp lối tư duy của Chính Đức, nhưng cũng đã có thể tùy cơ ứng biến, điềm tĩnh giải quyết rồi.
Lý Đông Dương thoáng ngây ra rồi lập tức nói ngay:
- Thần tình nguyện đến Thái Lăng một chuyến.
Từ Quán biết lão phản đối tăng thuế, còn nghe Vương Quỳnh kể lão ta từng trực ngôn phản đối, bảo vệ Dương Lăng ở trước mặt vua Hoằng Trị; lão già này lại không tin phong thủy, không chừng sẽ vì tư tâm mà gỡ tội cho Dương Lăng. Vì vậy Từ Quán liền lập tức lên tiếng phản đối:
- Không được! Đường đường là đại học sỹ đương triều lại đi làm quan khám nghiệm sao?
Tạ Thiên phản bác:
- Từ thượng thư nói vậy là sai rồi! Chuyện của Thái Lăng, cho dù chúng ta không bàn đến phong thủy, nhưng lúc này liên quan đến việc tăng thuế cũng thật sự đã là chuyện can hệ đến vận mệnh quốc gia. Đó là chuyện trọng đại cỡ nào chứ? Lão thần cũng muốn xin Hoàng Thượng cho phép được đi.
Từ Quán là người tố cáo vụ án Đế Lăng thấm nước, để tránh hiềm nghi, đương nhiên lão không thể xin đi khám nghiệm được. Lão sốt ruột, vội nói:
- Đã là như vậy, chuyện này càng phải nên cẩn thận. Theo lão thần thấy, Hoàng Thượng nên tuyển chọn những triều thần không hề có lợi ích và thiệt hại gì với vụ án này đi đến đó mới ổn thoả.
Tiêu Phương bèn hỏi:
- Vậy theo Từ thượng thư, chúng ta nên cử ai đi?
Từ Quán thoáng trầm ngâm rồi bảo:
- Không bằng như vầy: Chọn một vị huân thích (hoàng thân quốc thích có công lao), một vị triều thần, một vị Hàn Lâm. Ba người cùng đi, lấy đất về đối chiếu với đất Kim Tỉnh mà bộ Lễ đã niêm phong cất giữ, có nhầm lẫn hay không liếc mắt sẽ thấy ngay. Ba bên kiềm chế giám sát lẫn nhau, cũng hết sức công bằng.
Lão tin chắc rằng Kim Tỉnh đã bị người động tay động chân, cho nên không út lo sợ. Trong ba người được đề cử, một người là bầy tôi trong triều, một người là huân thích chỉ có công danh lợi lộc mà không hề có thực quyền, một người là quan dự khuyết, chưa từng can dự triều chính, nên đương nhiên là thoả đáng nhất.
Dương Phương nghe vậy cười nói:
- Đã như vậy, thần xin đề cử Thành quốc công Chu Cương. Quốc công tuổi cao đức trọng, công chánh vô tư, đã là huân khanh, lại là quốc thích, có thể nói là nhân tuyển thích hợp nhất.
Hoàng Đế Hiến Tông từng nạp con gái của Thành quốc công làm phi, cho nên Dương Phương mới nói như vậy.
Tiêu Phương rất có hảo cảm với Dương Lăng, mà kẻ muốn "hạ" Dương Lăng lại là Vương Quỳnh, tử thù của lão, nên hiển nhiên lão rất muốn bênh vực Dương Lăng. Có điều Tiêu Phương không dám mạo hiểm tiến cử chính bản thân. Lão chợt nhớ khi Dương Lăng chờ xét xử tội kháng chỉ, từng có một sỹ tử thi Hội viết một bài văn chương gấm vóc lên tiếng ủng hộ y. Đại thần trong triều biết chuyện này không nhiều, nhưng Tiêu Phương thích nhất là sưu tập những bài kỳ văn chốn phường chợ, nên lại biết rất rõ việc này. Tiêu Phương thầm nghĩ: "Sỹ tử này chắc hẳn là có chút giao tình với Dương Lăng. Nay hắn đã được vào Hàn Lâm Viện, tuy chưa chắc hắn sẽ chịu xả thân vì Dương Lăng, nhưng đến lúc xét nghiệm Kim Tỉnh ở Đế Lăng, chỉ cần hắn có thể tiện tay làm qua loa, nhất định sẽ tạo thuận lợi cho Dương Lăng."
Nghĩ vậy Tiêu Phương vội tâu:
- Thần xin tiến cử Nghiêm Tung. Người này là tân khoa tiến sỹ năm nay, đã trúng tuyển làm Thứ cát sỹ Hàn Lâm Viện. Người này tài văn xuất chúng, lại đỗ đạt tiến sỹ tân khoa, chưa từng bước chân vào triều đình, có thể làm Khâm sai.
Chính Đức gật đầu nói:
- Được, vậy là hai người này đã được xác định. Còn trong các triều thần sẽ cử ai đi đây?
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, nhất thời không ai dám lên tiếng. Sau khi tân đế đăng cơ, vụ án này đã trở thành võ đài để Lục Bộ thậm chí là Tam Công phân phối lại quyền lực và đấu đá lẫn nhau. Chỉ cần nhúng tay vào nhất định sẽ đắc tội với một bên, ai dám tùy tiện trả lời chứ?
Chính Đức thấy không ai lên tiếng, bèn nhìn vào từng người một. Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, mấy nha môn này đều có liên quan đến vụ án, không dùng được. Chính Đức lắc đầu. Đột nhiên y nhìn thấy Thị lang bộ Binh Trần Hồng Mạc, bèn mừng rỡ nói:
- Bộ Binh không hề có liên can đến vụ án này, đại thần trong triều hãy do Trần khanh đại diện vậy.
Trần Hồng Mạc vừa nghe liền giật thót mình, lão nào có thể nhận nhiệm vụ làm kẻ đắc tội người ta này chứ. Lão cuống quýt thoái thác:
- Thần tạ ơn Hoàng Thượng tin cậy! Nhưng thần không dám giấu, tiến sỹ Khâm Thiên giám Hoa Phó là thân nhân của vi thần, mà vụ án này lại liên quan đến Khâm Thiên giám, thần nên lánh đi để tránh hiềm nghi mới phải.
Lão thấy Chính Đức lộ vẻ không vui, vội vàng nói thêm:
- Tuy nhiên vi thần xin tiến cử một người. Người này cũng là quan viên bộ Binh, thường ngày rất là cẩn trọng, hơn nữa hoàn toàn không có liên can gì đến vụ án này. Chỉ là quan chức hơi thấp kém một chút.
Chính Đức sốt ruột gắt:
- Trẫm muốn phái người đi, chỉ là muốn tìm vài người không liên can đến vụ án này để giúp trẫm kiểm tra rõ ràng mà thôi. Quan chức lớn hay nhỏ chẳng sao, người khanh nói là ai?
Trần Hồng Mạc vội đáp:
- Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân. Người này xưa nay có tiếng là người hiền, có thể đảm nhận trọng trách!
Chú thích:
(1) Nguyên văn "tiểu tường": giỗ đầu.
Thời cổ, sau khi Hoàng đế, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mất 12 ngày thì cúng tiểu tường.
Từ thời Hán Văn Đế, để giảm nhẹ tang kỳ, triều đình sử dụng một ngày thay cho một năm, nên sau 12 ngày xem như đã đủ năm, sẽ cúng tiểu tường; sau 24 hoặc 25 ngày thì cúng đại tường, giải tang cho quan lại.
Chương 102: Dương Minh Giấu Trời (1)
Dịch: TheJoker
Biên dịch: lht
Biên tập: X1999_vn
Nguồn: www.tangthuvien.com
Nếu muốn không tăng thuế thì chỉ có cách không dời lăng, nếu muốn không dời lăng thì chỉ có cách chứng minh Kim Tỉnh chưa từng bị người động tay chân. Hết cách, Lý Đông Dương đành mời bạn thân là Vương Hoa, nói rõ vì đại nghĩa quốc gia, cùng ông ta lập ra một kế hiểm: "Man thiên quá hải điều bao kế! (*)" (*: Giấu trời vượt biển để đánh tráo)
Dạng đất như dưới Kim Tỉnh có hiện đang được giữ trong bộ Lễ, mà Vương Hoa là quan lớn nhất chỉ đứng sau Vương Quỳnh ở bộ Lễ, nên mặc dù đất Kim Tỉnh này được trông coi rất nghiêm ngặt, nhưng với thân phận của Vương Hoa, muốn đánh tráo ít nhất cũng nắm chắc bảy phần.
Lý Đông Dương rảo bước ra khỏi cửa điện. Vừa chui vào trong kiệu, lão lập tức vén rèm, gọi một gia nhân lớn tuổi đi cùng lại, bảo:
- Nhanh, đến bộ Lễ một chuyến, mời Vương Hoa Thị lang đại nhân đến phủ của ta uống rượu thi thơ.
Thị lang bộ Lễ Vương Hoa, cha của Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân, là Trạng nguyên Thành Hoá năm Tân Sửu, là Thị giảng học sỹ Đông Cung thời tiên đế Hoằng Trị còn làm Thái tử, danh tiếng và địa vị không hề thua kém Vương Quỳnh.
Nếu không phải gặp lúc chiến sự thì bộ Binh là nha môn nhàn nhã nhất trong Lục Bộ. Ty phủ khố (đơn vị quản lý ngân khố một phủ) nằm ở dãy nhà thứ hai phía tây. Ngày hè hừng hực nắng, đóng cửa sổ thì không khí ngột ngạt oi bức thở không ra hơi, mở cửa sổ thì mặt trời lại chói chang gay gắt; rất nhiều sỹ tốt, tạp dịch đã trốn ra khỏi phòng, ngồi trên hành lang dưới mái hiên phe phẩy quạt hương bồ (*) tán gẫu. (*: loại quạt làm bằng lá cây hương bồ; quạt tròn dẹt, giống như cây mà Tế Công cầm.)
Một tên dịch tốt chỉ mặc áo cộc đang văng nước miếng tứ tung kể về cái việc lạ lùng xảy ra ở đầu chợ ngày hôm nay:
- Nghe nói Dương đại nhân của Thần Cơ doanh là con cháu của Dương gia tướng trung thần Bắc Tống đó. Phải nói con gái nhà họ Dương này còn lợi hại hơn cả đàn ông. Đoạn đầu đài cao bằng thân ngựa, ở ngoài một trượng còn ngăn bởi dây thừng, thế mà vị Dương phu nhân này chân đạp tiễn bộ thoắt một cái đã nhảy lên trên đài rồi, nhẹ nhàng hơn cả một con báo nữa. Hồng Thượng thư cả giận, đích thân lên đài sai chém. Hây! Dương phu nhân nọ liền mở một bức vẽ, là bức vẽ mà Hoằng Trị Hoàng thượng tự mình đề bút, kê trên đầu trượng phu. Đó là đồ vật do tiên hoàng ban thưởng, bất luận ngươi là vương hầu công khanh, đã có phúc trông thấy đều phải cung cung kính kính dập đầu, ai dám chém chứ? Cứ như vậy, bốn gã đao phủ đành giương mắt ếch ra mà nhìn.
Một tên binh sỹ nghe thấy thú vị bèn chen miệng vào, hỏi:
- Ồ, nhưng mấy vị đại nhân khác đâu có mặc bảo (bức vẽ thư pháp) hộ thân, Dương phu nhân lại không bảo vệ bọn họ, tại sao không chém họ trước nhỉ?
Gã hán tử mặc áo cộc trợn mắt lên, nói:
- Ngươi nói coi? Đó là vì sợ vô lễ với mặc bảo của tiên đế. Đâu phải là hạ thánh chỉ đặc xá cho một mình Dương đại nhân đâu, ai dám một bên nặng một bên nhẹ, chém một nửa chừa lại một nửa chứ? Người nhà của mấy phạm quan khác sẽ chịu bỏ qua sao? Người trong thiên hạ sẽ nghĩ như thế nào? Thượng thư bộ Hình còn không mất sạch mặt mũi à?
Bị quở trách một trận, binh sỹ kia đành ngượng ngập cười trừ không nói nữa. Bọn họ ngồi quanh một chiếc bàn vuông nhỏ, trên bàn đặt một ấm trà lớn và sáu bảy bát trà. Hán tử nọ nói đến chỗ cao hứng, bê một bát trà lên nốc ừng ực mấy ngụm mới phát hiện ra là mình đã cầm nhầm, bèn quay sang người bên cạnh, áy náy nói:
- Úi, xin lỗi Vương đại nhân, tiểu nhân đã cầm nhầm bát của ngài rồi.
Vị Vương đại nhân đó chính là Chủ sự Ty phủ khố của bộ Binh - Vương Thủ Nhân, tuổi chừng hơn ba mươi, mày trơn mặt nhẵn, tướng mạo có vài phần giống người phương Nam, cặp mắt tuy không to nhưng rất có thần.
Nghe hán tử xin lỗi, y xua tay, cười bảo:
- Uống thôi mà, có gì to tát chứ.
Nói rồi, cầm lấy ấm rót cho hán tử đó một bát nữa.
Vị Chủ sự này cũng mặc mỗi áo cộc, trông không giống dáng vẻ của một Tiến sỹ. Vị nhân huynh này và Đại Minh Thất Tử (bảy tài tử của Đại Minh), cầm đầu là Lý Mộng Dương, thường hay ngâm thơ vẽ tranh, nghiên cứu thơ văn cùng nhau, quan hệ rất thân thiết. Cho dù là gặp những kẻ bán dạo, bán rong, tạp dịch, nô bộc y cũng có thể chuyện trò rất là hợp ý. Các nha dịch cùng y đều đã rất quen với nhau, chưa từng coi y như quan viên cao cao tại thượng.
Vương Thủ Nhân cầm ấm rót đầy nước trà, mỉm cười liếc mọi người rồi từ tốn nói:
- Hoàng thượng long nhan đại nộ chính là vì phong thuỷ đế lăng không tốt, có thể tổn hại đến quốc vận. Nghe nói Hoàng thượng đã quyết chí dời lăng, vậy ắt muốn trưng thu thêm thuế. Hôm nay trên triều, ba vị Đại học sỹ tuy có thể tạm thời ngăn cản việc này, nhưng chuyện long mạch bị tổn hại còn nằm ở đó, e rằng tăng thuế cũng là việc bất khả kháng.
Một nha dịch nói:
- Đúng vậy! Chuyện phong thuỷ này sao có thể làm qua loa chứ! Long mạch liên quan đến vận mệnh Đại Minh, nếu thật bị tổn hại vậy không phải sẽ rất nguy ư?
Một nha dịch khác nghe vậy, tức giận chen vào:
- Phong thuỷ gì chứ! Bây giờ lão bá tánh sống còn không qua nổi ngày, còn lo nghĩ đến chuyện mấy trăm năm sau sao? Huynh đệ ta mở hiệu đánh ngựa (mã hành) nho nhỏ chuyên đi con đường kinh sư và Thông Châu này, y cũng nghèo lắm, tiền kiếm được mỗi năm chỉ có thể miễn cưỡng sống qua ngày. Lần này tăng thuế, thu nhập lại ít đi. Hơn nữa, thuế tăng mà lãi có hạn, thương nhân bộ hành chịu thuê ngựa tất nhiên cũng sẽ giảm bớt. Huynh đệ ta đang sầu não làm thế nào để sống qua ngày đây này, nói gì đến những bá tánh bình dân kia chứ.
Có nha dịch đang phe phẩy quạt hỏi:
- Nghe nói Dương đại nhân chính là vì để cho người dân trăm họ có con đường sống nên mới giấu chuyện đế lăng rỉ nước. Nói cho cùng đó cũng là vị quan tốt vì nước vì dân, nhưng mà chuyện phong thuỷ này cũng không thể làm qua loa lấy lệ. Vương Chủ sự, ngài thấy thế nào?
Vương Thủ Nhân thoáng trầm tư rồi nói:
- Theo ta thấy, thế gian vạn vật đều có đạo lý tồn tại của nó. Phong thuỷ là một loại tồn tại, bá tánh cũng là một loại tồn tại, cho nên phong thuỷ có đạo lý của phong thuỷ, mà bá tánh có đạo lý của bá tánh. Nếu nói chút đất đai bị hư hại sẽ ảnh hưởng đến quốc vận, vậy mạng sống của ngàn vạn bá tánh chẳng phải sẽ càng ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia ư? Chu Tử nói: 'Khử nhân dục, tồn thiên lý' (2). Ký thác hết thảy hoạ, phúc, thịnh, suy lên phong thuỷ, đó chẳng phải là 'nhân dục' sao? Vì 'nhân dục' mà bất chấp sinh tử của bá tánh, ấy là làm trái với 'thiên lý'. Đem hai thứ lên cân, bỏ cái nhỏ lấy cái to, đương nhiên sự sống và cái chết của bá tánh mới là đạo lý.
Mọi người nghe xong gật đầu lia lịa. Một nha dịch cười, nói:
- Vương Chủ sự đọc nhiều sách, lời nói ra cũng khiến người tin phục. Đúng là phong cách của kẻ đọc sách 'nhìn cây trúc bảy ngày', chúng ta không thể so bì.
Đám sai dịch nghe xong thì cười ầm lên. Nguyên là Vương Thủ Nhân thuở nhỏ hiếu học, thời niên thiếu sùng bái "tòng Đạo ngộ lý" (hiểu Đạo thì sẽ ngộ ra mọi lẽ), từng mời đạo sỹ đến nhà xin chỉ giáo. Nhưng các đạo sỹ đó nào có học hành gì, ngoài biết niệm mấy câu vô nghĩa trong kinh kệ ra, quả thật không nói được chữ nào khác chứ đừng nói gì đến học vấn.
Đạo giáo của Lão Tử là một trong Cửu lưu (3) xa xưa, tề danh tam giáo, là đại gia triết học chân chính. Nhưng những đạo sỹ hôm nay tuy là phụng thờ Lão Tử làm thuỷ tổ, thật ra đa số là có quan hệ sư đồ với Trương Đạo Lăng của Ngũ Đấu Mễ Giáo (4) thời Hán, đạo nghĩa hoàn toàn khác với của Lão Tử.
Vương Thủ Nhân học không có kết quả, về sau lại theo nhà đại nho là Lâu Lượng du học, bắt đầu tin vào thuyết 'cách vật tri lý' (5) của Chu Hy, đã từng đối mặt với một cây trúc ở trong nhà ngộ bảy ngày bảy đêm. Kết quả chưa ngộ ra được đạo lý thì đã nhiễm phong hàn ngã bệnh. Chuyện này được truyền thành chuyện cười trong kinh sư, ai nấy đều biết, vì thế mọi người nghe xong câu trêu đùa ấy đều hiểu ý cười rần. Vương Thủ Nhân tính tình phóng khoáng, không câu nệ, không thủ lễ một cách cứng nhắc, vả lại chuyện này đã nhiều lần bị người lôi ra trêu nên nghe xong y cũng cười to theo, không hề vì thế mà mất vui.
Chờ cho tiếng cười của mọi người ngưng lại, một tên quan sai nói:
- Nói như vậy là Vương Chủ sự tán thành với Dương Lăng Dương đại nhân rồi. Nghe nói ba vị Đại học sỹ trong Nội các cũng bảo vệ y. Nếu như khi đó Vương Chủ sự cũng đụng phải chuyện như vậy, ngài sẽ làm như thế nào?
- Ta ư?
Vương Thủ Nhân ngẩn người, rồi bắt đầu trầm tư.
- Quân vương, bá tánh, phong thuỷ, xã tắc.
Như đèn kéo quân, những hình ảnh này bắt đầu chuyển động trong đầu y. Qua một hồi lâu, ánh mắt khó xử của Vương Thủ Nhân dần dần trở nên kiên định. Tuy rằng đám quan sai nha dịch đang yên lặng trông chờ đáp án không nghe thấy lời đại nghịch bất đạo thốt ra từ trong miệng y, nhưng hiển nhiên đã nhìn thấy được câu trả lời. Trong nhất thời, bọn họ đã thu lại nét mặt cười đùa, vẻ mặt mọi người đều trở nên trang trọng.
Tin Dương Lăng vào ngục, đưa lên pháp trường, Nghiêm Tung đều đã nghe được từ trong miệng đám đồng liêu. Tuy hắn rất cảm kích Dương Lăng, nhưng lòng mang công danh lợi lộc của hắn rất nặng. Vụ án phong thuỷ của đế lăng biết bao trọng thần trong triều đều không thể chen miệng vào, hắn bất quá chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, cho dù dâng sớ cũng không cứu nổi Dương Lăng, có khi còn liên luỵ đến tiền đồ của chính mình. Những chuyện 'không cần chí tiến thủ, chỉ cầu khí phách thư sinh' hắn sẽ không làm. Bởi vậy, khi nghe nói Dương Lăng bị xử chém, mặc dù cảm thấy cực kỳ khó chịu, nhưng hắn lại thức thời, thậm chí không bén mảng đến pháp trường.
Nhưng tin tức về việc Hàn Ấu Nương dùng mặc bảo của tiên đế cản trở hành hình, Hoàng thượng giam giữ Dương Lăng để thẩm vấn lại vừa truyền ra, đầu óc của Nghiêm Tung liền trở nên linh hoạt. Cách đây ít lâu Dương Lăng kháng chỉ cứu thê, Hoằng Trị chậm chạp không bắt giam Dương Lăng, Nghiêm Tung đoán rằng thánh ý có lòng muốn gỡ tội cho y, vì vậy nên đã vội viết một bài văn chương tạo ra thanh thế lớn cho y.
Lần này Hoàng thượng ngưng hành hình để tái thẩm, hạ chỉ khám lăng, chẵng lẽ lại có thâm ý gì đó ở bên trong? Nghiêm Tung tiếp ý chỉ xong lập tức đóng cửa không ra, suy xét kỹ lưỡng đạo lý bên trong đó. Hắn nhíu mày ngồi ở trước bàn, ánh mắt bất động, trầm ngâm thật lâu. Phu nhân vừa được đón vào kinh của hắn là Âu Dương thị trông thấy phu quân hôm nay về sớm, vừa vào nhà liền ngồi đó chẳng nói chẳng rằng, bèn vội châm chén trà đem đến, nhẹ giọng hỏi:
- Tướng công, hôm nay đã gặp phải chuyện gì khó xử à?
Nghiêm Tung rất kính trọng vị thê tử kết tóc này. Thấy thê tử châm trà mang đến, vội vàng đưa hai tay ra đón rồi nhìn thê tử, gượng cười, nói:
- Ờ, không có gì. Hôm nay Hoàng thượng hạ chỉ khảo sát thái lăng, phái ba vị khâm sai, vi phu cũng là một trong ba người được Hoàng thượng khâm điểm. Ta chỉ cảm thấy kỳ quái, ta là quan viên mới vào làm quan, lúc thi Đình lại không có biểu hiện gì xuất sắc. Trong Hàn Lâm viện tài tử như mây, vì sao Hoàng thượng chỉ định mỗi ta?
Âu Dương thị nghe xong không khỏi hé miệng cười, trách:
- Chàng đó, lúc chưa làm quan thì nghĩ đến việc làm quan, làm quan rồi lại nghĩ đến thăng quan. Bây giờ Hoàng thượng trọng dụng chàng, chàng lại đi nghĩ quàng nghĩ xiên.
Nghiêm Tung liền lắc đầu, nói:
- Phu nhân không biết đó thôi, oai vua khó dò lắm. Nếu không đoán ra được thánh ý, Hoàng thượng muốn bảo nàng đi bên trái, nàng lại đi bên phải thì làm sao có ngày được vang danh chứ.
Âu Dương thị nghe trượng phu nói nghiêm trọng như vậy, cũng không khỏi nhíu mày. Thị trầm ngâm rồi hỏi:
- Tướng công, nghe nói hôm nay Dương Hàn thị cứu chồng nơi pháp trường là nhờ vào một bức tự hoạ của tiên đế. Không lẽ Hoàng thượng cũng biết được chàng và Dương đại nhân có giao tình, nên mới đem việc này giao cho chàng, ý bảo chàng gỡ tội cho y sao?
Nghiêm Tung giậm chân, nói:
- Chính vì vi phu không dò ra được có phải thánh thượng có ý này hay không nên mới hết sức khổ não. Nếu nói Hoàng thượng có ý để ta trợ giúp Dương đại nhân, nhưng người truyền chỉ lại không hề có chỉ bảo gì, truyền chỉ xong liền trở về cung ngay. Ta đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại về ý chỉ nhiều lần, nhưng nghĩ không ra trong đó có ngụ ý gì. Nếu như Hoàng thượng có ý gỡ tội cho y, ít nhiều cũng nên chỉ rõ chút gì đó cho ta mới phải chứ.
Âu Dương thị nói:
- Thiếp không hiểu việc nước, chỉ suy nghĩ từ phương diện tình lý. Chàng nói xem, một vị quan lớn giận một người, tìm tội danh để phạt gậy hắn ta. Nhưng hắn và cha của vị quan này có giao tình và thư từ qua lại. Vị quan này, vốn là một người con hiếu thảo, cho ngưng phạt gậy rồi kêu người tra lại vụ án. Vậy vị quan muốn gỡ tội hay là vẫn muốn trỠtội hắn ta?
Mắt Nghiêm Tung chợt sáng lên, nhưng hắn lại lập tức lắc đầu, cười nói:
- Ví dụ này không ổn, bức hoạ đó của tiên hoàng không thể so với thư từ. Tiên đế nhân hậu, những thần tử được ban thưởng lễ vật rất nhiều, lại không chỉ một mình Dương đại nhân. À! Không đúng, quả thực không giống nhau.
Nghiêm Tung chợt nhớ lại lời Thị lang Trình Văn Nghĩa đã nói qua, bức hoạ đó là vẽ vách núi và cây tùng hùng vĩ, trên bức vẽ có chữ đích thân tiên hoàng viết lên: 'Cây tùng trăm trượng um tùm, dẫu rằng sần sùi xấu xí, nhưng là vật liệu chính để xây nhà to.' Đây rõ ràng là một sự tín nhiệm mà tiên đế ủy thác, kỳ vọng Dương đại nhân sẽ trở thành bề tôi đắc lực mà.
Nghiêm Tung nắm lấy tay Âu Dương thị, hưng phấn nói:
- Vi phu ngu dốt, may mà có hiền thê nhắc nhở, giờ ta đã rõ thánh ý. Chỉ là... ba vị khâm sai, một vị là Chủ sự bộ Binh, còn một vị là Thành Quốc công đương triều, quan chức và địa vị đều hơn xa ta. Xét về công hay về tư, vi phu đều nên giúp Dương đại nhân mới phải, nhưng chỉ e một cây làm chẳng nên non.
Âu Dương thị cười hì hì, nói:
- Phu quân tốt của thiếp à, nếu như Hoàng thượng đã có ý gỡ tội cho Dương đại nhân, há sẽ chọn chàng làm chủ chuyện này, nói không chừng Quốc công gia và Chủ sự bộ Binh người ta đã sớm được mật chỉ của Hoàng thượng rồi. Chuyện chàng và Dương đại nhân từng có giao hảo tuy trong triều kẻ biết không nhiều, nhưng Hoàng thượng có Cẩm Y Vệ, có Đông xưởng, Tây xưởng; nghe nói bọn thám tử đó chỗ nào cũng nhúng tay vào, rất ư là lợi hại, Hoàng thượng có thể không biết sao? Chọn chàng chỉ là để bịt miệng đám đại thần đó mà thôi. Chuyến đi này, thiếp thấy chàng chỉ cần giả vờ câm điếc, sắm vai ông bồ tát bằng đất sét thì coi như đã hợp với thánh ý rồi.
- Bồ tát bằng đất sét à?
Nghiêm Tung cũng cảm thấy thê tử mình nói rất có lý. Có điều, nghĩ đến lý do Hoàng thượng dùng mình vốn chỉ vì hắn có giao hảo với Dương Lăng, không hề có điều xem trọng hắn, hắn không nén được có chút mất mát thất vọng. Niềm vui dò đoán ra được thánh ý lập tức phai nhạt đi nhiều.
oOo
Bên ngoài Ngọ Môn, đội nghi trượng của khâm sai đã xếp thành hàng ngũ chỉnh tề. Vương Thủ Nhân và Nghiêm Tung vì không quen biết nhau, cho nên gặp mặt chỉ chuyện trò vài câu rồi mỗi người ôm suy nghĩ riêng đứng đó chờ Thành Quốc công Chu Cương.
"Tình hình bây giờ, di dời đế lăng thì tăng thuế, bá tánh thì khổ mà xã tắc lại bất an. Năm xưa, Phương Hiếu Nhu (6) vì muốn duy trì chính thống bị tru di thập tộc mà không hề hối hận. Hôm nay, Vương gia ta vì giang sơn xã tắc chẳng lẽ lại tiếc đầu này?!" Lời của phụ thân Vương Hoa lại vang bên tai, Vương Thủ Nhân nghĩ đến kế hoạch đó, trong lòng chợt hơi khẩn trương.
Từ nhỏ y đã đam mê binh pháp, ham thích võ học, nhưng vẫn chưa từng ra trận giết địch, trải nghiệm chém giết; mà việc sắp làm ngày hôm nay, chẳng khác gì lấy kê trong lửa, phải đối mặt với nguy hiểm to lớn. Một khi thất bại, thì cả nhà Lý Đông Dương và Vương Hoa do mưu đồ chuyện này đều có thể sẽ bị xử chém. Với định lực của Vương Thủ Nhân, nghĩ đến chuyện này cũng không tránh khỏi thấp thỏm trong lòng.
Nếu muốn không tăng thuế thì chỉ có cách không dời lăng, nếu muốn không dời lăng thì chỉ có cách chứng minh Kim Tỉnh chưa từng bị người động tay chân. Hết cách, Lý Đông Dương đành mời bạn thân là Vương Hoa, nói rõ vì đại nghĩa quốc gia, cùng ông ta lập ra một kế hiểm: "Man thiên quá hải điều bao kế! (*)" (*: Giấu trời vượt biển để đánh tráo)
Dạng đất như dưới Kim Tỉnh có hiện đang được giữ trong bộ Lễ, mà Vương Hoa là quan lớn nhất chỉ đứng sau Vương Quỳnh ở bộ Lễ, nên mặc dù đất Kim Tỉnh này được trông coi rất nghiêm ngặt, nhưng với thân phận của Vương Hoa, muốn đánh tráo ít nhất cũng nắm chắc bảy phần.
Khó khăn nhất lại là Vương Thủ Nhân. Y là con của Vương Hoa, đồng thời cũng không phải là gã hủ nho, mê tín phong thuỷ. Lý Đông Dương dự liệu rằng để Vương Hoa ra mặt nhất định sẽ có thể khuyên được y đồng loã vào chuyện này, nhưng khó là khó ở chỗ khâm sai khám lăng có tới ba người mà không phải chỉ một mình Vương Thủ Nhân; muốn một tay che trời, tráo đổi đất lấy từ thái lăng về quả thực là việc cực kỳ khó khăn.
Lý Đông Dương bàn bạc cùng Vương Hoa, muốn để Vương Thủ Nhân tuỳ cơ hành sự, mang theo bên người một bao đất, đợi khi lấy được loại đất dưới Kim Tỉnh của đế lăng xong sẽ tìm cơ hội tráo đổi chúng, sau đó báo tin cho gia nhân thân tín trong phủ âm thầm đi theo cưỡi khoái mã gấp rút chạy về trước hồi báo cho Lý Đông Dương và Vương Hoa. Chỉ cần hai người nghe thấy tin Vương Thủ Nhân đắc thủ sẽ lập tức chạy đến bộ Lễ, Lý Đông Dương cầm chân Vương Quỳnh, còn Vương Hoa sẽ phụ trách tráo đất. Nơi đặt đế lăng lại không xa, có thể đi về trong ngày, nhưng thời gian cũng chưa hẳn sẽ dư dả.
Vì vậy, nhiệm vụ của Vương Thủ Nhân không những nguy hiểm mà còn vô cùng gian nan. Tình hình bên trong đế lăng rốt cuộc ra sao, ngay cả tài tử thông thái như Lý Đông Dương và Vương Hoa cũng không nắm rõ. Thời đó không cho phép tham quan đế lăng, lại không cung cấp bản vẽ để người ta tham khảo và nghiên cứu; cho nên, có thể tạm thời nghĩ ra được biện pháp này, Lý Đông Dương đã là cơ trí lắm rồi, thật không cách nào lập ra được kế hoạch tỉ mỉ hơn.
Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân không nén được thở dài. Thành Quốc công cả nhà trung liệt, từ triều Hồng Vũ đến nay đã có ba vị Quốc công sau khi mất đi được phong vương, rất được vua yêu mến. Thành Quốc công đời này tuổi tác tuy đã cao, nhưng không hề hồ đồ mà là một ông già thông thái, Vương Thủ Nhân quả thực không dám đảm bảo có thể qua mặt lão. Có điều, nếu như lão Quốc công không chịu làm ngơ cho qua, hy vọng thành công sẽ vô cùng mờ mịt. Thậm chí vị Hàn Lâm thân gầy như cây trúc ở trước mặt này, qua cử chỉ và ngôn từ của hắn, dường như cũng không phải là nhân vật đơn giản.
Vương Thủ Nhân nghĩ đến đây không khỏi quay đầu liếc trộm Nghiêm Tung một cái, không ngờ Nghiêm Tung cũng đang nhìn y. Ánh mắt hai người vừa chạm, bọn họ lập tức chột dạ, mỗi người đều ôm tính toán riêng của bản thân.
Chính vào lúc này, một chiếc kiệu lớn tám người khiêng đong đưa kẽo kẹt đi đến Ngọ Môn, theo sau là tám tên thị vệ. Kiệu được đặt xuống đất, quản gia liền vén rèm kiệu lên, dìu một lão già đầu tóc bạc phơ, người mặc áo mãng bào (7), lưng đeo đai ngọc, bước một bước thì lảo đảo đến ba lần, run run rẩy rẩy. Vương Thủ Nhân trông thấy vậy không khỏi thất kinh.
Tết năm nay y từng theo phụ thân viếng thăm vị lão công gia này. Khi ấy huyền tôn (cháu cố) thứ mười bốn của Chu lão công gia đốt pháo ở trong lầu các, ông già nổi giận cầm cây chổi lông gà đuổi đứa cháu chạy khắp đại viện, bước chân thật sự là rất dẻo dai. Làm thế nào mà mới có nửa năm lão đã già yếu đến nông nỗi này rồi?
Vừa nghi ngờ vừa kinh ngạc, Vương Thủ Nhân vội bước lên phía trước vái sâu một lễ:
- Thủ Nhân bái kiến Chu lão công gia. Thân thể lão công gia gần đây vẫn khoẻ chứ ạ?
- Hả?
Giọng vang như sấm, giọng nói của lão công gia thế mà lại khá lớn:
- Đừng có lí nhí như muỗi thế, lão nhân gia ta nghe không rõ! Úi chào, tuổi tác già rồi, năm nay cũng xấp xỉ tám mươi, mắt cũng đã mờ, lỗ tai cũng nghễnh ngãng cả. Giờ thì nhìn cũng nhìn không rõ, nghe cũng nghe không được... Này! Ngươi là con cháu nhà ai thế?
"Lão già này thậm chí không nhận ra cả mình à?" Vương Thủ Nhân ngạc nhiên ngước mắt nhìn Thành Quốc công. Chỉ thấy trong mắt lão già chợt loé lên sự giảo quyệt, nhìn kỹ lại, vẫn là một đôi mắt đùng đục già nua đang ngỡ ngàng nhìn y.
Vương Thủ Nhân thấy vậy trong lòng mừng rỡ: "Đại sự được định rồi!"
Mặt y vừa lộ vẻ vui mừng, chợt liếc thấy Nghiêm Tung đang đăm đăm quan sát vẻ mặt của bọn họ, Vương Thủ Nhân vội vàng thu lại tâm trạng, ngầm hiểu ý thi lễ lần nữa rồi lớn tiếng nói:
- Thủ Nhân hành lễ với lão công gia! Lão công gia vẫn luôn mạnh khoẻ chứ ạ?
Ghi chú của tác giả: Vương Thủ Nhân là người trùm nhất trong ba trăm năm lịch sử triều Minh, qua các triều đại đã được thần thánh hoá. Vân Trung Nhạc có thể nói là chuyên gia về sử Minh, viết mấy chục quyển tiểu thuyết đều lấy triều Minh làm bối cảnh vậy mà mỗi Vương Thủ Nhân là sót lại không dám viết, chỉ dám mượn miệng kẻ khác để đề cập sơ những chuyện liên quan đến ông chứ không dám viết theo ý mình. Tiểu Quan muốn tránh cũng không được, đành thấp thỏm không thôi. Nếu muốn chửi xin quý vị cứ chửi đi, tại hạ quyết sẽ không màng!
Chú thích:
(1) Dương Minh là tên hiệu của Vương Thủ Nhân; "man thiên" trích từ kế "man thiên quá hải" (giấu trời qua biển), lợi dùng tình thế (hoặc thời tiết) để gạt người.
(2) Trừ bỏ Vọng tâm thì sẽ có được Chân tâm.
(3) Cửu lưu thập gia là các trường phái học thuật chủ yếu trong thời kỳ Chiến Quốc ở Trung Quốc. Các trường phái này bao gồm: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia và Tiểu Thuyết gia. Trong đó, chín trường phái đầu được gọi chung là Cửu lưu.
(4) Trương Lăng (hay Trương Đạo Lăng) tự là Phụ Hán (trợ giúp nhà Hán) (34-156) được xem là người đã khai sáng giáo phái Ngũ Đấu Mễ Đạo (Đạo năm đấu gạo) trong Đạo giáo Trung Quốc. Ngũ Đấu Mễ Đạo, cũng gọi là Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220). Từ đời Đông Tấn trở đi, Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. (theo wiki)
(5) Nguyên là "cách vật trí tri". Cách là suy xét, tìm tòi. Vật là sự vật. Trí là tới cùng và Tri là hiểu biết. Cách vật trí tri là suy xét cho thấu suốt về sự vật để hiểu biết đến tận cùng cái lý của nó. (theo Cao Đài)
(6) Phương Hiếu Nhu (1357 - 1402), người Ninh Hải Chiết Giang, là đại thần triều Minh, và là nhà học giả, văn học, tản văn (văn xuôi) và tư tưởng trứ danh. Ông tự là Hy Trực, hiệu Tốn Chí, từng lấy tên "Tốn Chí" đặt cho thư phòng. Thục Hiến vương đổi lại thành "Chính Học", nên đời gọi ông là "Chính Học tiên sinh". Trong giai đoạn "tĩnh nan chi dịch" (cuộc chiến do Minh Thành Tổ Chu Lệ phát động nhằm chiếm ngôi của cháu là Kiến Văn Đế), ông đã cự tuyệt chiếu thư đăng ngai mà Yến vương Chu Lệ soán vị thảo ra. Cương trực bất khuất, hết lòng đơn độc cứu nước, ông bị tru di mười họ.
(7) Mãng bào: Lễ phục của quan viên thời cổ, thêu hình mãng xà, nay không còn. Còn gọi là "hoa y", "mãng phục". Phụ nữ được thụ phong cũng có thể mặc.
Chương 103: Dương Lăng Vượt Biển (1)
Dịch: TheJoker
Biên dịch: lht
Biên tập: nguyenthai
Nguồn: www.tangthuvien.com
- Minh quân! Minh quân! Tai trẫm nghe đến sắp chai hết cả rồi. Ông luôn miệng nói vạn thừa chi tôn, thế nhưng Hoàng thượng ta đây lại mặc cho ông khoa tay múa chân, chưa từng làm chủ được chuyện gì! Thiên hạ này là của ông hay là của ta hả?
Trước đó, vì đã được vợ nhà nhắc nhở nên Nghiêm Tung càng xác định rằng Hoàng thượng có ý gỡ tội cho Dương Lăng, như vậy có nghĩa là người đứng đầu trong ba vị khâm sai nhất định cũng đã sớm nhận được mật dụ, cho nên từ lúc lão công gia vừa xuống kiệu, Nghiêm Tung đã nhìn lão chằm chằm không chớp mắt. Lão hồ ly đó cũng không ngờ lớp trẻ ngày nay thật là đáng sợ, thần sắc mới chỉ hơi khác thường một chút thôi mà đã bị Nghiêm Tung nhìn thấy hết.
Lúc này Nghiêm Tung càng tin chắc rằng mình đoán không sai. Nhưng thật ra, nếu Hoàng đế Chính Đức muốn giúp Dương Lăng thoát tội, với tính tình của y, y sẽ không quan tâm đến kẻ khác nghĩ như thế nào mà sẽ miễn xá thẳng luôn, cần gì mà phải lòng vòng mấy thứ này. Vả lại lão công gia cũng chưa hề nhận được mật chỉ của Hoàng Đế.
Thật ra, việc Lý Đông Dương vừa rời khỏi cung liền gấp rút hẹn Vương Hoa gặp mặt hôm qua đã sớm bị vị Thành quốc công này biết được. Sở dĩ như vậy là vì trong số những người mà Lý Đông Dương hẹn, có một người tên là Vương Tự Văn, y là học sỹ Hàn Lâm được lão công gia mời đến làm thầy giáo cho mấy đứa cháu. Khi Vương Hàn Lâm đến phủ Thành quốc công thì vô tình đã để lộ một ít tin tức.
Thành quốc công có thể đứng sừng sững trong vương triều họ Chu vốn rất nặng tính đa nghi, nhưng lão lại bao đời nhận được quốc ân, đương nhiên là vì lão tự có bí quyết riêng. Những người đứng đầu họ Chu ai nấy đều có "trái tim bảy lỗ" (2), nhưng bề ngoài phần lớn lại giống như những kẻ võ biền thô lỗ không hề có cơ trí; hơn nữa bọn họ còn giỏi về quan hệ xã giao.
Đừng cho rằng Thành Quốc công không thượng triều mà nghĩ lão không biết gì, ngược lại, bất kể việc lớn việc nhỏ gì trong triều cũng đều không giấu được lão. Cộng với vô số sự tình phát sinh ở triều đình và trong dân chúng hai ngày nay, tuy rằng Thành quốc công đoán không chính xác trong đó có ẩn ý gì nhưng cũng không sai biệt lắm. Vì vậy, lão đã nghi ngờ việc Lý Đông Dương hẹn gặp Vương thị lang và việc Vương Thủ Nhân được chọn làm khâm sai tất có liên quan với nhau.
Nghĩ thông suốt điểm này, Thành quốc công không khỏi thầm bội phục lòng son dạ sắt của Lý Đông Dương và Vương Hoa. Mấy thần tử Đại Minh này, vì giang sơn xã tắc và bá tánh lê dân, dám bất chấp nguy hiểm có thể bị tịch biên gia sản, chém đầu cả họ. Nhưng phủ Thành quốc công bây giờ có hơn ngàn người, lão nhân gia không thể tự mình ra trận được nữa nhưng bản lĩnh giả ngây giả ngô thì lão vẫn còn. Thế là lão già có thể nhìn một con muỗi bay qua trước mặt thì biết ngay nó là cái hay đực này liền biến thành ông già mờ mắt nghễnh tai, đi đứng lảo đa lảo đảo.
Vương Thủ Nhân thấy Thành công đồng ý âm thầm tương trợ, trong lòng cũng yên tâm hơn nhiều. Vậy là cả ba người lên kiệu quan đến Thái Lăng, lúc này thái giám tổng quản của Ngự Mã Giám kiêm xưởng đốc Tây xưởng Miêu Quỳ và Tả thị lang bộ Công Lý Kiệt vội vàng ra chào đón, sau đó cùng ba vị khâm sai bước vào Đế Lăng.
Vương Thủ Nhân vừa đi vừa rờ bao đất vàng lớn nhét ở phía sau hông rồi trộm liếc lão công gia. Chỉ thấy Thành quốc công được quản gia dìu đỡ, vừa run run rẩy rẩy bước về phía trước vừa oang oang trò chuyện với Miêu Quỳ, như thể sợ người ta không biết lão vừa mù vừa điếc.
Vừa vào đến cửa điện bên trái, Miêu Quỳ liền dừng bước mỉm cười rồi quay sang Thành quốc công hành lễ, nói:
- Thành quốc công lão nhân gia! Ty chức sẽ đợi ngài ở đây.
Thành quốc công liếc y một cái có ý tán thưởng, hổn hển đáp một tiếng rồi đi vào. Riêng Lý Kiệt là công thần đứng đầu tố cáo vụ án này, nếu hắn lật đổ được bốn vị khâm sai kia thì hắn sẽ có công lớn giúp cho xã tắc, còn nếu như thất bại, thì nhẹ nhất cũng bị khép vào tội mưu hại đồng liêu, cho nên cũng mặc kệ lão công gia bất mãn, hắn vẫn lập tức bám sát theo sau, không rời nửa bước.
Ba vị khâm sai dừng lại ở trước bậc đá của Kim Tỉnh, Vương Thủ Nhân nói to:
- Lão công gia! Ngài đã cao tuổi rồi, xin mời ngài cứ đứng ở đây giám sát đi. Việc lấy đất này hãy giao cho chúng con, được không ạ?
Nói rồi y nhìn qua Nghiêm Tung. Kế hoạch mà Vương Thủ Nhân lập ra là, lấy đất xong, trên đường đi bọn họ sẽ đánh tráo. Nhưng hôm nay có Lý Kiệt đứng đó quan sát, bên cạnh còn có Nghiêm khâm sai, e rằng bọn họ sẽ khó lòng mà ra tay được. Chi bằng mình ra vẻ hào phóng, nhường cho Nghiêm Tung đi lấy đất sẽ không khiến người ta nghi ngờ.
Lúc này, Nghiêm Tung đứng gần Kim Tỉnh nhất. Khi nãy thông qua ánh sáng đèn, hắn liếc nhìn vào trong Kim Tỉnh trước, vừa nhìn thấy hình dạng của Kim Tỉnh, hắn liền không khỏi giật mình. Thì ra hình dạng Kim Tỉnh là như vậy, nếu muốn ra tay quả nhiên rất dễ dàng.
Hừ! Chỉ đáng tiếc cơ hội lập công như vậy lại đem biếu không cho vị Chủ sự Bộ Binh này. Nghiêm Tung trong lòng máy động, thầm cười khẩy nghĩ: "Để ta giả làm Bồ Tát bằng đất sét cũng được, nhưng không thể xem ta như thằng ngốc. Mưu kế của bọn họ mình đã đoán ra rồi, nếu như mình có thể nghĩ biện pháp nói cho họ biết, không lo bọn họ sẽ không thiếu mình một phần nhân tình nữa."
Nghĩ đến đó, Nghiêm Tung vội vàng khách khí nói:
- Đúng đúng đúng! Xin lão quốc công cứ đứng đây đôn đốc, công việc lấy đất này hãy giao cho vãn bối chúng con là được. Vương đại nhân, mời ngài, học sinh sẽ ở một bên coi giữ.
Vương Thủ Nhân nghe y nói xong cũng không khách khí nữa, lấy một cái xẻng con lúc vào lăng đã mang theo ra rồi bước lên chiếc giường bạch ngọc. Lý Kiệt lập tức trừng to hai mắt, nhìn chằm chằm vào động tác của y không chớp. Thành quốc công cũng không biết Vương Thủ Nhân sẽ lấy đất như thế nào để che giấu việc Đế Lăng thấm nước, nhưng lão thấy Lý Kiệt đứng đó như một con ưng già, hai tay căng thẳng quắp đến độ sắp biến thành móng vuốt.
"Dưới cặp mắt chằm chằm như hổ đói này, tiểu Vương sẽ hành động như thế nào đây?"
Lão công gia nhíu hàng mày trắng, thong thả đến bên cạnh Lý Kiệt, vỗ vai lão ta rồi cười lớn nói:
- Ngươi chính là Thị lang Bộ Công Lý Kiệt hả? Ừ, trông được đấy. Ngay cả việc lăng mộ tiên hoàng xảy ra vấn đề mà cái đám tặc tử đó cũng cả gan dám che giấu, tội không thể tha à. Nếu không phải nhờ ngươi, toàn thể triều đình đều đã bị giấu gạt rồi.
Lý Kiệt cười bồi nói:
- Lão công gia quá khen rồi, đó đều là bổn phận phải làm của thần tử.
Nói thì vẫn nói, nhưng cặp mắt lão vẫn nhìn chằm chằm vào Kim Tỉnh không chớp, chỉ lo có người sẽ giở trò.
Nghiêm Tung nhìn thấy lão như vậy thì trong lòng cả mừng. Cái tên thối tha không biết điều này thực đã giúp mình không ít. Gã đang băn khoăn không biết làm sao để Thành quốc công biết mình cũng là bảo vệ Dương Lăng, tên này lại tạo cho ông Bồ Tát bằng đất sét mình đây cơ hội lập công.
Hai chữ "kim tỉnh" này, nhiều người đã nghe đến nó, nhưng chưa tận mắt thấy thì không ai biết thật ra nó trông như thế nào Trong dân gian có vài công tượng (thợ thủ công) vì ôm lòng hư vinh đã tiết lộ đôi chút, song đại đa số cũng thổi phồng sự tráng lệ của Kim Tỉnh, cho nên đây là lần đầu tiên mấy vị này được nhìn thấy diện mạo thật sự của nó.
Vương Thủ Nhân lúc này đang quỳ trên bệ đá, đánh giá cái động đất có đường kính rộng nửa xích, sâu chừng một thước đó. Y lấy tay thăm dò một lát, bốn vách là hoàng thổ bị dính ẩm, nhưng khi sờ đến đáy, thì thấy đất đai nơi đó thấm nước gạo nhưng lại khô ráo bóng nhẵn. Vương Thủ Nhân giật bắn người thầm nghĩ: "Quả nhiên bọn họ đã động tay chân vào rồi".
Vương Thủ Nhân mới vừa nghĩ đến đây, câu nói bóng gió như lời độc thoại đó của Chu lão quốc công lọt vào tai y. Ngay lập tức, trong lòng Vương Thủ Nhân liền loé lên một ý nghĩ, khoé mắt y nhanh chóng liếc qua bên cạnh, chỉ thấy Lý Kiệt đang trừng hai mắt quan sát nhất cử nhất động của mình, thế là y cực kỳ thất vọng.
Không ngờ ngay vào lúc này, thân thể cao ráo gầy gò của Nghiêm Tung bỗng chợt xoay lại, lách đến trước mặt Lý Kiệt cúi người thi lễ, bộ dạng vô cùng kính cẩn:
- Học sinh thân là con dân Đại Minh, cũng nên tạ ơn đại nhân. Xin đại nhân hãy nhận của học sinh một lạy!
Cái "cây sậy" gầy đét này cao phải hơn một thước tám, vừa xoay người là chắn hết mọi thứ, thậm chí khi gã cúi xuống hành lễ cũng đã che khuất Lý Kiệt khiến lão ta không nhìn thấy gì. Lý Kiệt có ý muốn lách người tránh gã, nhưng sợ làm như vậy sẽ quá lộ liễu, rõ ràng là có ý bất kính với gã và có lòng nghi ngờ Vương Thủ Nhân. Nhân lúc lão chỉ mới hơi chần chừ, Nghiêm Tung liền kéo tay thân mật nịnh nọt lão:
- Bộ Hình dùng đại hình bức được khẩu cung, bá quan bất phục, cho nên bây giờ mới đem về phúc thẩm. Nếu bộ Hình có được bực trí giả như đại nhân đây, dùng lời nói bóng gió, dăm ba câu chữ nhất định sẽ có thể khiến cho mấy tên phạm quan đó cung khai!
Ngay đúng lúc này, chỉ nghe thấy tiếng xẻng sắt xúc đất sột soạt truyền nhanh lên trên, đúng vào lúc vừa hết thời gian một khắc thì nghe tiếng của Vương Thủ Nhân reo vui:
- Đã lấy được đất của Kim Tỉnh, hãy mau mang hộp vàng đến đựng đất!
...
Vương Quỳnh thong thả tản bộ bên trong thư phòng một lúc lâu, bỗng dừng chân cười nhạt nói:
- Đám nghịch thần gian xảo đó không chịu ngồi yên, ngông cuồng vọng tưởng dám lấy đất khám nghiệm. Hừ hừ, cái tên Thập trưởng nhỏ nhoi đó nếu không phải đúng sự thật há dám phỉ báng ư? Binh khoẻ trong quân nếu không có nội tình gì sao lại đột nhiên chết đi chứ? Ta đã sai người giữ hộp vàng đựng đất và huỷ hết mọi chìa khoá, chỉ còn chừa lại một chiếc này của ta. Chỉ cần đất trong hộp vàng không việc gì, để xem bọn chúng còn có thể giở được trò gì!
Từ Quán mừng rỡ nói:
- Khâm sai chắc hẳn cũng đã trở về rồi chứ nhỉ? Thắng bại được thua đều ở một lần hành động này đây! Tam Công trong nội các bao che tội phạm, chỉ vì chút lợi cỏn con mà không đếm xỉa gì đến việc long mạch bị tổn thương, vì vậy nhất định Hoàng Thượng sẽ không vui. Vụ án này kết thúc rồi, tiền đồ của bọn họ cũng sẽ tận thôi.
Vương Quỳnh chau mày nói:
- Từ thượng thư! chúng ta làm như vậy chính là vì giang sơn xã tắc của Đại Minh, không phải là vì tiền đồ cá nhân. Tam Công trong nội các đều là công thần vì nước, bọn họ lo lắng chuyện tăng thuế cũng là vì nghĩ cho triều đình Đại Minh ta, Từ công sao có thể nói những lời như vậy được?
Từ Quán vội cười bồi đáp:
- Phải phải phải, Vương thượng thư nói rất phải.
Song trong lòng lại thầm rủa: "Lão thất phu, nếu như ông quang minh chính đại, vì nước vì dân, sao lại xúi giục con mình đến bộ Hình tố cáo để chém đầu người ta và bôi nhọ thanh danh người ta chứ?"
Hồng Chung nói:
- Vương đại nhân, không bằng chúng ta hãy vào cung ngay, đem chuyện Dương Lăng phạm pháp bẩm báo cho hoàng thượng. Đợi đến khi hoàng thổ của Kim Tỉnh về rồi, chân tướng rành rành, sẽ có đủ lý do giết hắn!
Vương Quỳnh thoáng trầm ngâm rồi mỉm cười lắc đầu bảo:
- Chuyện này không cần nhọc đến ông và ta ra mặt, làm vậy chẳng phải sẽ thành chuyện bé xé ra to sao? Bảo Thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa dâng sớ, lấy danh nghĩa sỹ tử tố cáo dâng lên cho Hoàng Thượng là được.
Trong cung Càn Thanh, hoàng đế Chính Đức đang nghe đại học sỹ Tạ Thiên lải nhải với một tâm trạng bất an. Hôm nay y mượn cớ vấn an Thái hậu và Thái Hoàng Thái hậu nên đã miễn Ngọ triều, cả ngày ở trong cung chờ tin tức. Vừa vặn đúng lúc Lưu Kiện và Tạ Thiên có việc liên quan đến đại hôn của hoàng đế muốn bẩm báo và hội ý, nghe nói y muốn đi thỉnh an Thái hậu, thế là cũng vội vã theo vào.
Nào ngờ tiểu hoàng đế vốn không hề có lòng đi thăm Thái Hoàng Thái hậu và Thái hậu, hai vị đại học sỹ cũng biết thời gian rất quý giá, nên không chút lãng phí, lập tức ra sức khuyên can Hoàng Đế đừng sa đà vào chơi bời, đừng đi lại trong cung mà không mang thị vệ, đừng bỏ ra quá ít thời giờ đọc sách, đừng không mở Kinh Diên, tận tình khuyên bảo một phen khiến hoàng đế Chính Đức nhức hết cả đầu.
Khi Chính Đức đang bắt đầu mất kiên nhẫn thì một tên tiểu thái giám hấp tấp chạy vào bẩm báo:
- Khải bẩm Hoàng Thượng, Thị lang bộ Hình Trình Văn Nghĩa khẩn cấp dâng sớ, sự tình có liên quan đến vụ án Đế Lăng thấm nước.
Nghe vậy, hoàng đế Chính Đức giật mình, vội vàng bảo:
- Dâng sớ lên!
Chính Đức nhận sớ, giở ra xem. Trên sớ Trình Văn Nghĩa viết lưu loát hơn ba ngàn chữ, bỏ những câu sáo ngữ ra, đại khái ý nói phát hiện ra Dương Lăng bề ngoài tỏ vẻ thanh liêm, nhưng trong tối lại tham ô xa xỉ, bỏ ra nhiều tiền mua thiếp, hà hiếp tăng lữ vân vân, xin Hoàng Thượng cho phép thẩm tra cùng với vụ án Đế Lăng thấm nước một lượt.
Giống như con bạc đang đợi chờ con bài tẩy được lật lên, không biết hoàng thổ được mang từ Đế Lăng về rốt cuộc có bị người giở trò không, nhưng vừa nhìn thấy tấu chương này, lòng Chính Đức liền nguội đi một nửa. Vốn dĩ Trương Vĩnh vẫn nói Dương Lăng không có lý do tham ô, nhưng giờ đã có chứng cứ, sau khi xem những tội danh được liệt kê xong, Chính Đức cũng không còn tâm tư để xem tiếp những nội dung sau đó nữa.
Y tức tối vứt tấu chương lên long án, cơ mặt giần giật. Ngồi ngây ra trên ghế một hồi lâu, y bỗng nhảy phắt dậy, giận dữ quát:
- Mang tất cả những phạm nhân có liên can đến đây cho trẫm! Trẫm muốn đích thân xét xử vụ án này!
Lưu Kiện nghe thấy liền vội vã can ngăn:
- Khải bẩm bệ hạ, việc này vạn vạn lần không thể. Luật pháp có cơ quan hành xử riêng, hoàng thượng là vạn thừa chi tôn (3), há có thể vượt quyền can thiệp? Đế vương tự cổ trừ Hiến Văn Đế không biết tự trọng ra, thần vẫn chưa từng nghe nói có vị minh quân cao quý nào hạ cố đến đại sảnh bộ Hình ngồi cả.
Chính Đức nghe vậy nổi giận đùng đùng, đanh mặt chỉ lão ta hét:
- Minh quân! Minh quân! Tai trẫm nghe đến sắp chai hết cả rồi. Ông luôn miệng nói vạn thừa chi tôn, thế nhưng Hoàng thượng ta đây lại mặc cho ông khoa tay múa chân, chưa từng làm chủ được chuyện gì! Thiên hạ này là của ông hay là của ta hả?
Lưu Kiện nghe thế mặt mày tái mét, quỳ sụp dỡ mão run rẩy nói:
- Hoàng Thượng sao lại nói lời như vậy. Lão thần một lòng thành tâm tận sức, có trời đất chứng giám, nếu như lời của lão thần vô lễ xúc phạm đến Hoàng Thượng, thần nguyện xin Hoàng Thượng giáng tội!
Tạ Thiên thấy vậy vội lên tiếng giảng hoà:
- Hoàng Thượng, lấy địa vị đế vương đi thẩm tra xử lý phạm nhân, đích thực có điều không hợp lý. Hoàng Thượng thân là quân chủ của cả thiên hạ, đâu lại có đạo lý Hoàng Đế tự thân xử án chứ? Song nếu như Hoàng Thượng muốn nghe xét xử vụ án này, chi bằng ngồi phía sau đại sảnh của Hình Đường dự thính, Hoàng Thượng thấy thế nào?
Hoàng đế Chính Đức phất tay nói:
- Được! Nghe thẩm vấn thì nghe thẩm vấn, theo trẫm đến đại sảnh bộ Hình, ta muốn xem thử rốt cuộc y đã làm những chuyện xấu xa nào làm tổn thương đến lòng dạ của trẫm như vậy! Phái người báo cho Đô Sát Viện, Đại Lý Tự, khâm sai khám lăng, đợi khi thổ nhưỡng Kim Tỉnh đến kinh, lập tức tới ngay bộ Hình, Tam đường hội thẩm!
Hoàng Đế Chính Đức hùng hùng hổ hổ mang hai vị đại học sỹ và ba gã thái giám tâm phúc là Trương Vĩnh, Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành "đánh thẳng" đến Bộ Hình, khiến cho bọn Ngụy Thân và Trình Văn Nghĩa bị doạ đến nhảy dựng. Hai người lật đật phái người đến bộ Lễ mời Hồng Chung về. Vương Quỳnh, Từ Quán nghe tin cũng v㠄ѡXtheo.
Hoàng Đế Chính Đức không nén được sự sốt ruột, Hồng Chung vừa trở về, y lập tức hạ lệnh thăng đường xử án. Bởi vì vụ án này chỉ liên quan đến một nhà Dương Lăng, cho nên Ngụy Thân chỉ dẫn Dương Lăng, Hàn Ấu Nương, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm lên sảnh đường, giải Lý Đạc, Nghê Khiêm, Đới Nghĩa và nhân chứng Thập trưởng nọ xuống dưới sảnh đường, chờ nghe Tam ty hội thẩm. Đám người Hàn Ấu Nương lại không phải vừa khéo mà tới, bọn họ vì tự ý xông vào pháp trường, cho nên trước khi chuyện Đế Lăng được tra rõ, bọn họ cũng là người đợi xét xử tội, vì vậy hôm qua cũng bị giải vào nữ lao (ngục dành cho nữ) đợi sau án Đế Lăng sẽ xử lý tiếp.
Bên nguyên cáo chính là bảy văn sỹ bọn Dương Lâm, Triệu Ung, Vương Cảnh Long và nhân chứng Ngọc Đường Xuân.
Ngọc Đường Xuân vừa lên đến sảnh đường, đôi mắt tựa nước hồ thu liếc nhanh qua Dương Lăng, thấy y toàn thân vận đồ trắng, loang lổ vết máu, ngón tay bị cùm bê bết máu me, trong ánh mắt không nén được vẻ đau xót.
Sợ bị người khác nhìn ra sơ hở, nàng vội cụp mắt, rụt rè quỳ xuống phía trước, cất tiếng nhỏ nhẹ:
- Dân nữ Tô Tam, khấu kiến đại nhân!
Hồng Chung vuốt râu mỉm cười, ôn tồn bảo:
- Nhân chứng Tô Tam chớ nên sợ hãi, ngươi vốn là gia tẩu phủ họ Dương, nay có sỹ tử Trình Huy nói Dương Lăng dùng quan uy bức người, cưỡng bách Thì Hoa quán cưới ngươi về, hơn nữa khi chủ quán Nhất Xứng Kim không đáp ứng, Dương Lăng đã bỏ ra vạn kim. Ngươi hãy nói cụ thể và chi tiết ra đi.
Ngọc Đường Xuân theo sự phân phó của Vương Cảnh Long, ra vẻ chân thật đem chuyện Dương Lăng cưỡng ép Thì Hoa quán mua bọn họ về Dương gia, mang tiếng là tì nữ, thực chất là làm thiếp thị nói ra một lượt. Từ Quán và Vương Quỳnh ngồi sau sảnh nghe mà mở cờ trong bụng. Khi ấy Dương Lăng mới vừa vào kinh, nhiều lắm chỉ là Đông cung thị độc, vậy vạn lượng bạc trắng có được từ đâu?
Như vậy, số bạc này nhất định có lai lịch bất chính. Hơn nữa, nếu y đã vung tiền vô độ, thì nhất định ở Đế Lăng đã bị người khác cám dỗ, hiển nhiên cũng có lý do tham gia che giấu chuyện Đế Lăng thấm nước.
Nhưng Hoàng Đế Chính Đức càng nghe lại càng thấy buồn bực và khó hiểu. Vừa rồi ở trong cung xem tấu chương, y chỉ thấy Dương Lăng dùng số tiền lớn mua thiếp, nhưng lại không biết mua thiếp gì, bây giờ mới biết rõ đầu đuôi. Có điều lời khai này của Ngọc Đường Xuân có nhiều chỗ không thật. Vì để làm nổi bật sự ngang ngược vô sỉ của Dương Lăng, Vương Cảnh Long sai người chỉ dẫn cho Ngọc Đường Xuân thổi phồng thêm một chút. Vì vậy, Chính Đức nghe xong không khỏi lấy làm hoài nghi mà liếc sang Mã Vĩnh Thành.
Thấy vậy, Mã Vĩnh Thành vội kề tai Chính Đức, đem sự tình kể lại tường tận một lượt. Đích thân Chính Đức đầu têu vụ này nên hiển nhiên tin người của mình hơn một chút. Đừng nói Dương Lăng không hề cường quyền ép người, không hề bởi vì Nhất Xứng Kim không chịu bán mà sai người đánh đập doạ dẫm, cho dù có thật sự phạm pháp như vậy, cũng e rằng đó là bởi Dương Lăng vì mình mà ra sức làm việc.
Vừa nghe Ngọc Đường Xuân đổi trắng thay đen như vậy, Hoàng Đế Chính Đức mặt đỏ phừng phừng, cảm giác như là đang nói y, thật sự không nhịn được, bèn thẹn quá hoá giận mà nhảy dựng lên quát:
- Lời khai của nữ tử nhà ngươi có đúng mỗi câu đều là thật? Ngươi nên biết vu khống đại thần triều đình thì sẽ bị đánh chết đấy. Ngươi còn chưa chịu nói thật?
Ở phía trước, ngoài Hồng thượng thư, Ngụy Thân và Trình Văn Nghĩa ra, những người khác đều không biết phía sau còn có Hoàng đế Chính Đức đang ngồi. Đột nhiên nghe thấy có tiếng người quát bèn giật nảy mình, ngay cả đám sai dịch đang chống Thuỷ Hỏa côn cũng vậy.
Lúc này Chính Đức đã qua khỏi thời kỳ vỡ giọng, đám người Ngọc Đường Xuân không quen biết y, nên không nhận ra được tiếng của y cũng là chuyện bình thường, nhưng Dương Lăng và Hàn Ấu Nương thì lại nghe ra. Phu thê hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đồng thời hiện lên vẻ mừng rỡ. Có ông chủ nghe được vở kịch hay này, hai người lại càng có thêm chút hy vọng thoát hiểm rồi.
Ngọc Đường Xuân thất kinh hỏi:
- Đại nhân, phía sau sảnh đường là người nào hỏi vậy?
Nói đoạn nàng liếc nhanh đôi mắt ngọc nhìn qua phía Hàn Ấu Nương, đôi mắt to tròn biết nói ấy cũng tràn ngập sự nghi hoặc.
Kế sách mà hai người thương lượng ban đầu với nhau là đợi đến khi Ấu Nương phản bác thì nàng mới giả vờ "cùng đường đuối lý", hoang mang sợ hãi, nên nói ra sự thật, như thế mới càng dễ lấy được sự tín nhiệm của người khác. Nhưng bây giờ sau sảnh đường đột nhiên có người cất tiếng hỏi, hơn nữa ngữ khí rõ ràng không tin lời nàng nói, cho nên Ngọc Đường Xuân còn ngỡ là một ngày này không có liên lạc, Ấu Nương đã tìm thêm được người giúp đỡ rồi.
Hồng Chung nghe thấy Hoàng đế Chính Đức ở sau lưng lên tiếng, người trên sảnh, nhân chứng, phạm nhân lẫn ba nhóm nha dịch đều kinh ngạc như vậy thì lấy làm khó xử, bèn nói:
- Phía sau... phía sau sảnh là một vị lão đại nhân đang nghe dự thẩm, ngươi không cần hỏi nhiều, cứ trả lời thành thật là được.
Ngọc Đường Xuân thấy Hàn Ấu Nương đưa mắt ra hiệu thì trong lòng đã tỏ, nàng sợ sệt quỳ ở đó, bộ dạng xinh đẹp động lòng người, lo lắng nói:
- Đại nhân, dân nữ không dám trả lời. Sợ vị lão đại nhân đó sẽ dùng hình với dân nữ.
Thấy người con gái xinh đẹp này không hiểu biết, Hồng Chung vội mỉm cười an ủi:
- Chỉ cần ngươi lời ngay nói thật, thành thật trả lời, lão đại nhân sẽ không trách đánh ngươi đâu, thậm chí bổn đại nhân cũng sẽ làm chủ cho ngươi.
Lão liếc Dương Lăng một cái, rồi cười nhạt nói tiếp:
- Bất kể kẻ đó quyền cao chức trọng đến đâu, đã đến trước sảnh đường này đều phải nghe theo bổn quan... à không, nghe theo vị lão đại nhân đằng sau bổn quan xử trí. Ngươi có oan uất bất bình gì thì hãy cứ nói ra hết, có bổn quan và vị lão đại nhân đó làm chủ, không ai có thể làm hại đến ngươi đâu!
Ngọc Đường Xuân nghe đến đây vội vã dập đầu kêu:
- Đa tạ đại nhân, đa tạ lão đại nhân, dân nữ bị oan, dân nữ bị oan quá!
Hồng Chung mỉm cười bảo:
- Chớ nên sợ hãi, bổn quan tự sẽ làm chủ giải oan cho ngươi. Tô Tam, ngươi cứ việc mạnh dạn nói ra đi.
Ngọc Đường Xuân liền chỉ Vương Cảnh Long lớn tiếng khóc rống:
- Dân nữ bị oan, sở dĩ dân nữ hãm hại chủ cũ, đều là vì bị vị Vương tam công tử này đe doạ. Vị Vương tam công tử này nói đại nhân nhà dân nữ đã bị giam vào trong ngục, nếu dân nữ không làm theo lời hắn, hắn sẽ bán dân nữ vào ty Giáo Phường.
Ngọc Đường Xuân khóc như mưa, không ngớt nghẹn ngào nói:
- Vương tam công tử còn nói không tới mấy ngày, họ Vương nhà hắn sẽ chỉ dưới một người mà trên vạn kẻ. Nếu dân nữ chịu theo hắn, hắn sẽ mua dân nữ về phủ làm thiếp, hưởng mọi vinh hoa phú quý. Dân nữ chỉ là một đứa con gái yếu đuối, gia chủ chịu oan, bơ vơ không nơi nương tựa, do đó bất đắc dĩ mới hãm hại vu cáo chủ cũ, thật không phải là ý nguyện của dân nữ đâu. Xin đại nhân làm chủ cho dân nữ...
Ngọc Đường Xuân còn chưa dứt lời, hơn chục người trước và sau sảnh đường khi nãy còn không ngớt cười mỉa tất cả nghe vậy đều biến sắc!
Ngay vào lúc này, nghi trượng của ba vị khâm sai đã tiến vào trong kinh thành, mà Lý Đông Dương và Vương Hoa vẫn còn ngồi ở trong nhà, từ đầu chí cuối không thấy gia nhân hồi âm, đoán biết là chuyện đã không thể thực hiện được, thế là hai ngươi chỉ đành im lặng ngồi nhìn nhau, thất vọng thở dài.
Ngay đúng lúc này, gia nhân được phái đến Đế Lăng thám thính tin tức đã vội vội vàng vàng trở về, Vương Hoa vội vã nhảy dựng lên, run rẩy hỏi:
- Thủ Nhân bên đó đã có tin tức rồi ư?
Gia nhân đáp:
- Lão gia, lão bộc đuổi theo rất lâu, thuỷ chung không thấy công tử gia ra hiệu, bây giờ nghi trượng khâm sai đã về đến ngọ môn, nhưng chỉ ngừng lại một chút rồi đi đến thẳng bộ Hình. Lão bộc đành phải trở về báo tin.
Vương Hoa và Lý Đông Dương ngạc nhiên nhìn nhau: khâm sai không đến hoàng cung trả chỉ mà lại đi thẳng đến bộ Hình? Chẵng lẽ...
Lý Đông Dương vội nói:
- Mau, chuẩn bị kiệu... Không! Chuẩn bị ngựa, chúng ta lập tức chạy đến bộ Hình!
Hai vị đại nhân lật đật rời khỏi phủ môn, gia nhân vừa dắt ngựa đến, hai người đã vội vàng lên ngựa ra sức dồn roi phóng thẳng đến đại sảnh bộ Hình. Vừa chạy đến cổng sảnh đường, chỉ thấy một chiếc kiệu đặt chếch bên dưới cổng, trong kiệu chui ra một lão nhân độ năm mươi, dáng bộ đắc ý. Lý Đông Dương vẫn chưa xuống ngựa, trông thấy người đó không khỏi lấy làm kinh ngạc hỏi:
- Mạt giám chính (4), ông đến bộ Hình làm gì?
Giám chính Khâm Thiên giám ngẩng đầu, vừa thấy đó là Đại học sỹ Lý Đông Dương và Thị lang Bộ Lễ Vương Hoa thì vội chắp tay cười bồi nói:
- Ra mắt hai vị đại nhân. Hoàng thượng lệnh cho hạ quan nghiệm đoán báo hiệu của lôi kích (sét đánh), hôm nay đã có kết quả, hạ quan đến là để bẩm báo cho hoàng thượng.
Lý Đông Dương nghe vậy cả kinh hỏi:
- Hoàng thượng quả nhiên đã đến bộ Hình. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Hoàng Thượng muốn ngự giá đích thân xét xử sao?
Chú thích:
(1) Trích từ kế "man thiên quá hải". Chương trước Dương Minh giấu trời, chương này Dương Lăng vượt biển.
(2) nguyên văn "thất xảo linh lung tâm" hay "trái tim của Tỷ Can", trích trong Phong Thần truyện, chỉ người thông minh.
(3) thừa: xe tứ mã; tôn: tôn quý. Vạn thừa chi tôn chỉ sự tôn quý khác xa người thường của các bậc đế vương và vương hầu.
(4) chức quan trông coi Khâm Thiên giám.
Chương 104: Hoàng Đế Phát Biểu
Dịch: TheJoker
Biên dịch: lht
Biên tập: Mechichi
Nguồn: www.tangthuvien.com
Hoàng đế Chính Đức bước lên công đường, sắc mặt xám xịt, cũng chẳng quản ba vị quan chủ thẩm đang lật đật quỳ sụp xuống nghênh đón, y giành lấy vị trí chủ thẩm, chộp lấy phách gỗ đập loạn một trận, rống họng quát:
- Giải hắn đi, đỡ y dậy, dẫn bọn họ lên, ngươi cút xuống cho ta!
Đám đại thần ở bên dưới cũng không hiểu là Hoàng Thượng đang nói ai với ai. Vì thế trên công đường bỗng chốc trở nên náo loạn.
Vương Cảnh Long vừa kinh ngạc vừa giận dữ. Hắn ngỡ rằng mình tướng mạo tuấn nhã, nhân phẩm phong lưu, gia thế so với một võ tướng lại cũng cao hơn rất nhiều. Mỹ nhân Ngọc Đường Xuân xinh đẹp tựa như tranh vẽ và hắn chính là một đôi tài tử giai nhân, châu liên bích hợp. Cho nên hắn không hề nghĩ rằng nàng lại phản cung ở ngay trước mặt mọi người.
Vương Cảnh Long căm hận chỉ vào Ngọc Đường Xuân mắng:
- Con tiện tỳ nhà ngươi, bổn công tử có lòng cứu ngươi, ngươi lại vu tội cho ta. Ta đường đường là công tử của thượng thư bộ Lễ, sao có thể làm ra chuyện này? Ngươi nghĩ phản cung thì có thể hại được ta ư?
Vương Cảnh Long rút từ trong ống tay áo ra tờ giấy chuộc thân lấy từ chỗ Nhất Xứng Kim, cười khẩy nói:
- Trên đời này thực có chuyện bỏ ra vạn lượng bạc trắng mua con gái về làm tỳ nữ sao? Nếu nói Dương Lăng không hề đụng chạm đến ngươi, ai sẽ tin chứ?
Nhìn người con gái dung nhan kiều diễm không gì sánh được này, trong lòng mọi người đều hết sức tán đồng. Trừ phi vị Dương đại nhân kia đột nhiên mắc phải bệnh kín, nếu không thì làm gì có chuyện bỏ ra một vạn lượng bạc mua tiểu mỹ nhân xinh đẹp yêu kiều như vầy về chỉ để làm tỳ nữ.
Ở phía sau sảnh đường, Hoàng đế Chính Đức lại đang vô cùng cảm động. Nếu không phải vì vụ án Đế lăng thấm nước giống như một cái gai lúc nào cũng đâm vào lòng y, y thực muốn lập tức hạ chỉ miễn xá cho Dương Lăng. Đây mới là bề tôi trung thành này! Làm việc cho mình, gánh chịu ô danh thay cho mình, cho dù phải bị chém đầu cũng không hề hé lộ chân tướng. Người như vậy không phải là trung thần thì ai mới là trung thần?
Từ Quán vội ghé đến cạnh Chính Đức nói:
- Xin Hoàng thượng chớ tin lời nói bậy của nữ tử đó. Hoàng thượng người thử nghĩ xem, cho dù thượng thư đại nhân và tam công tử muốn thêu dệt tội danh cho Dương Lăng, cấu kết với tỳ nữ này để vu cáo hắn nhưng làm sao có thể nói ra lời phạm húy "dưới một người trên vạn kẻ" với một tỳ nữ mới mua về chứ?
Lời như vậy gần như là phản nghịch. Cho dù Vương Quỳnh thực có dã tâm cũng sẽ không nhắc với bất kỳ ai, đừng nói là Ngọc Đường Xuân biết được. Cho nên chẳng những Từ Quán, Hồng Chung không tin, ngay cả đám người Lưu Kiện và Tạ Thiên cũng không tin. Những người này đã lăn lộn trên quan trường lâu năm, mấy nữ tử như Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân sao có thể qua mắt được bọn họ.
Nhưng mấy vị này không tin, tự có người khác tin. Hoàng Đế Chính Đức chính là kẻ đứng sau giật dây chuyện chuộc người này . Vừa rồi Ngọc Đường Xuân được Vương Cảnh Long bày mưu đặt kế gán tội cho Dương Lăng, lời kể tội đó có quá nhiều chỗ không thật. Chính Đức nghe xong những "tội trạng" đổi trắng thay đen "hùng hồn" ấy thì nào còn có thể tin được lời này của Từ Quán nữa.
Hoàng đế Chính Đức liếc xéo Từ Quán và Vương Quỳnh, trong mũi phát ra một tiếng cười gằn không nhỏ, thậm chí không thèm tiếp chuyện.
Ngay vào lúc này, bên ngoài huyên náo một trận. Viên ngoại lang bộ Hình Quách Duy Thông chạy xồng xộc vào trong bẩm báo:
- Các vị khâm sai đại nhân Thành quốc công Chu Cương, Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân và Thứ cát sỹ Hàn Lâm Viện Nghiêm Tung phụng chỉ đã lấy được đất mẫu của Kim Tỉnh, nay đã đến đại sảnh bộ Hình...
Vì Chính Đức bí mật mặc thường phục đến, chưa công khai thân phận, cho nên vị Viên ngoại lang này ngỡ rằng ở đây chức cao nhất là hai vị Đại học sỹ và mấy vị thượng thư đại nhân. Lưu Kiện phất tay bảo:
- Biết rồi. Lui xuống đi!
Đợi cho tay Chủ sự đó lui xuống, lão xoay người về phía Chính Đức nói:
- Hoàng Thượng, người xem...
Vừa nghe nói đất mẫu ở Kim Tỉnh đã đến, Chính Đức bình tĩnh lại. Suy cho cùng, chuyện này mới là trọng yếu. Y liếc sang Đại Lý Tự khanh và Tả đô ngự sử, bảo:
- Vụ án này tạm gác sang một bên. Lập tức thăng đường Tam ty hội thẩm.
Vương Quỳnh đang âm thầm oán giận vì bị người ám chỉ tham quyền nhưng lại vô pháp thanh minh. Vừa nghe khâm sai đã về, lão tất nhiên là cao hứng vạn phần. Chỉ cần vụ đại án này được chứng thực, còn ai sẽ để ý đến những lời hồ ngôn loạn ngữ của Ngọc Đường Xuân chứ?
Lão liền mừng rỡ tâu với Chính Đức:
- Khải tấu hoàng thượng, thần đã ban xuống nghiêm lệnh, nếu không phải là đích thân vi thần, bất cứ ai cũng không thể đụng đến hộp vàng giữ đất đó. Cho nên thần phải lập tức trở về bộ Lễ, lấy đất mẫu được niêm phong của Kim Tỉnh.
Hiện tại Chính Đức nhìn Vương Quỳnh thế nào cũng không thấy vừa mắt. Y vẫn cảm thấy hai cha con người này không thành thật, cho nên nghe xong chỉ hừ nhạt một tiếng rồi bảo:
- Tạ đại học sỹ, khanh hãy đi theo Vương Quỳnh đến bộ Lễ lấy hộp vàng giữ đất, đi nhanh về gấp.
Tạ Thiên gấp rút rời đi cùng với Vương Quỳnh. Đằng trước Hồng Chung lệnh cho người dẫn một đám phạm nhân, nhân chứng, kẻ tố cáo đến hạ sảnh, rồi tự thân nghênh đón ba vị khâm sai vào công đường. Vương thủ nhân tay ôm hộp vàng đi theo sau Thành quốc công, Thị lang bộ Công Lý Kiệt cũng về kinh sư, theo sát bên y một tấc không rời.
Ba vị khâm sai theo Hồng Chung xuống hậu đường để bái kiến hoàng đế xong, chúng quan viên bộ Hình mới hiểu ra người thiếu niên vận cẩm bào ngồi sau sảnh đường đó chính là đương kim Thiên tử. Hoàng đế đích thân thẩm án, xưa nay hiếm thấy. Đám quan viên nha dịch ai nấy đều thấp thỏm lo âu, chỉ sợ thất thố lễ nghi, không ngờ ngược lại khiến cho tình hình càng trở nên hỗn loạn.
Vương Quỳnh đã cầm hộp vàng trở về. Thượng thư bộ Hình, Tả đô ngự sử, Đại Lý Tự khanh ngồi trên vị trí chủ thẩm. Hồng thượng thư cao giọng quát:
- Dẫn phạm nhân!
Đang bị hoàng đế thân lâm làm cho khiếp sợ đến lóng ngóng chân tay, gã quan quản lý ty vụ nghe vậy liền không dám chậm trễ, chạy vù đi áp giải toàn bộ bảy tên quân tử cùng đám mỹ nữ có liên quan đến bốn phạm quan Dương Lăng, Lý Đạc và gã nhân chứng Lục thập trưởng lên.
Hồng thượng thư thấy vậy thì giận tái mặt. Hôm nay thẩm vấn chính là vụ án đế lăng, giải đám người không có liên can lên sảnh đường thì phải làm thế nào? Hồng Chung nén giận nói:
- Giải những kẻ không có liên quan xuống. Bây giờ bổn quan và Đốc Sát Viện, Đại Lý Tự xét thẩm vụ án Đế lăng thấm nước.
Cao Văn Tâm trông thấy bên trái phía dưới Túc Tĩnh bài (1) có một võ quan đang đứng. Nàng nhận ra trang phục võ quan đó là trang phục Thập trưởng trong quân. Văn Tâm tức thì hiểu ra gã chính là tay tiểu quan đã tố giác Dương đại nhân. Nàng vội ghé tai Hàn Ấu Nương nói:
- Muội muội, tên võ quan đó chính là gã Thập trưởng đã tố giác đại nhân. Muội nghĩ cách tiếp cận hắn, tỷ sẽ có biện pháp khiến hắn không thể làm nhân chứng!
Hàn Ấu Nương nghe nói gã võ quan ấy chính là tên ác nhân hại cho tướng công mình thiếu chút nữa thì đã đầu rơi xuống đất, đôi mắt ngọc trợn trừng nhìn hắn cơ hồ muốn toé lửa. Nhưng những nhân chứng, phạm nhân, kẻ tố cáo trên sảnh đường đông lúc nhúc, bọn họ thì bị dồn lại ở tận rìa phải, phải làm sao để có thể tiếp cận hắn mà không gây ra động tĩnh nào đây?
Hàn Ấu Nương sốt ruột không yên. Tuyết Lý Mai thấy cơ hội sắp như bóng câu qua cửa, trong lúc cấp bách nàng vội kề vào bên tai Ấu Nương bày kế:
- Tỷ tỷ, khóc đi!
Nói đoạn nhảy bổ về phía tên Thập trưởng nọ, vừa khóc vừa mắng:
- Tên gian tặc ngươi, cớ gì lại vu cáo đại nhân nhà ta?
Hàn Ấu Nương liền tỉnh ngộ, lập tức cũng lao lên. Bị bất ngờ không kịp phòng bị, Lục Ân Lỗ bị bọn họ lôi kéo đến thảm hại. Nhưng hắn là nam nhân, lại không tiện tung ra quyền cước, đành phải lấy tay che chắn mặt mũi tránh né khắp nơi.
Quan quản lý ty vụ thấy mấy nữ phạm lôi kéo nhân chứng khóc lóc mắng chửi, bèn vội dẫn mấy tay nha dịch xông lên bắt lại. Thấy sự chú ý của đám người đều bị Hàn Ấu Nương và Tuyết Lý Mai thu hút, Cao Văn Tâm lập tức rút từ trong tóc ra ba chiếc châm bạc bỏ vào trong ống tay áo, rảo bước nhanh qua vờ khuyên bảo:
- Phu nhân, đừng làm đại nhân nổi giận, chúng ta hãy lui xuống hạ sảnh đi.
Tuyết Lý Mai và Hàn Ấu Nương vung hai ống tay áo thùng thình, trông như phụ nữ bình thường đang đánh nhau. Mười ngón tay thanh mảnh không vung lên thì đập xuống, khiến cho người khác cũng không thấy rõ mặt mũi của Lục thập trưởng. Cao Văn Tâm nhân cơ hội lật tay vung lên ba chiếc châm bạc, hết sức nhanh lẹ đâm vài châm vào mấy huyệt đạo sau gáy tên Lục thập trưởng.
Cây châm bạc mỏng như sợi tóc ấy một khi đâm trúng huyệt đạo thì chỉ cảm thấy hơi tê tê. Lục thập trưởng lại đang bị hai người Hàn Ấu Nương đánh đập, mặt mũi đau rát, nên càng không hề có cảm giác dị thường.
Cao Văn Tâm một tay y thuật xuất thần nhập hoá, bình sinh chỉ dùng để chữa bệnh cứu người. Đây là lần đầu nàng hại người cho nên trong lòng cũng vô cùng căng thẳng. May thay, tuy trong lòng hoảng loạn, song công phu dò huyệt kích huyệt lại không hề bị ảnh hưởng gì. Chiếc châm bạc này của nàng mảnh nhỏ như tơ, phá huỷ huyệt đạo kinh lạc trên đỉnh đầu xong, đối phương tạm thời sẽ không xuất hiện dị trạng. Nhưng kinh lạc bị máu huyết ứ đọng làm cho tắc nghẽn, chỉ sau thời gian ba chén trà, ngũ thức (chỉ năm giác quan) của kẻ đó sẽ bị huỷ hoại, thính thị mơ hồ, thần trí ngu si.
Đắc thủ xong Cao Văn Tâm vội vàng đưa mắt ra hiệu cho Hàn Ấu Nương và Tuyết Lý Mai. Hai người hiểu ý, giả vờ vừa khóc vừa mắng để đám quan quản lý ty vụ và nha dịch áp giải xuống.
Ở bên trên, Thành quốc công ngồi bó ống tay áo tủm tỉm cười xem náo nhiệt. Thấy ba người con gái và Vương Cảnh Long bị giải xuống hạ sảnh, lão mới chuyển ánh mắt lên mặt Hồng Chung, căng cổ nói lớn:
- Hồng đại nhân, xin hãy khai đường xử án thôi. Lão phu nhận ý chỉ của hoàng thượng, cùng hai vị khâm sai đã lấy được đất mẫu của Kim Tỉnh về. Mời thượng thư đại nhân nghiệm chứng ở công đường, lão phu còn phải báo cáo với Hoàng Thượng!
Hồng Chung khom người cười bứ đáp:
- Lão công gia nói rất phải, bổn quan sẽ khai đường xử án ngay!
Lão quay về ghế ngồi, rồi quay sang bốn người Đới Nghĩa và Dương Lăng cười nhạt nói:
- Các ngươi vì mưu cầu lợi ích của bản thân, giấu diếm chuyện Đế lăng bị thấm nước. Sau khi nhận được tố giác, bổn quan cùng với Đốc Sát Viện và đại nhân của Tả đô ngự sử, đại nhân của Đại Lý Tự khanh Tam ty hội thẩm. Giám phó Khâm Thiên giám Nghê Khiêm vốn đã sợ pháp mà cung khai, không biết các ngươi may mắn thế nào, lại được vợ của phạm quan họ Dương là Hàn Thị kêu oan nơi pháp trường...
Chính Đức hoàng đế ở sau sảnh đường nghe đến ba chữ Khâm Thiên giám, đột nhiên nhớ ra ban nãy lúc đám quan mất trật tự hành lễ với y, hình như Giám chính Khâm Thiên giám cũng đến. Chính Đức đưa mắt nhìn quanh, vừa thấy vị Giám chính Khâm Thiên giám Mạc Đạo Duy đang thậm thà thậm thụt lấp ló đằng sau đám thượng thư, y liền chỉ hắn bảo:
-Khanh, qua đây. Khanh đến đây để làm gì?
Giám chính Mạc Đạo Duy thấy Hoàng Đế Chính Đức gọi mình, bèn vội vã ba chân bốn cẳng chạy đến quỳ xuống, tâu:
- Hoàng Thượng lệnh cho vi thần nghiệm toán chuyện sét đánh tượng thú trên mái điện xem thiên ý có điềm báo gì, vi thần nghiệm toán xong, hôm nay đã có kết quả...
Mạc Đạo Duy vừa nói đến đây, trên sảnh đường Hồng thượng thư đã cao giọng nói:
- Mạng người quan trọng, Hoàng Thượng nhân đức, đã có ý lệnh cho ba vị khâm sai đại thần đi đến Đế lăng lấy đất, giờ sẽ đối chiếu với đất mẫu được cất giữ ở bộ Lễ. Nếu như đất mẫu có khác biệt, tội khi quân của các ngươi sẽ tăng thêm một bậc, chiếu theo luật sẽ bị xử lăng trì!
Hoàng đế Chính Đức nghe thấy sắp chứng nghiệm đất mẫu của Kim Tỉnh liền khẩn trương quát:
- Im lặng!
Nói rồi bỗng đứng lên khỏi ghế, hồi hộp đi đến bên vách tường ngăn phía sau sảnh đường, dỏng tai lắng nghe.
Vị Giám chính của Khâm Thiên giám đó đang há miệng thì thấy hoàng thượng đã chạy đến bên bức tường, đành phải ngậm miệng lại. Nhưng Hoàng Đế không kêu y đứng lên, y lại không dám động đậy, nên chỉ đành quỳ ở đó lắng nghe.
Theo mệnh lệnh của Hồng Chung, Tả hữu Thiêm đô ngự sử của Đốc Sát Viện mỗi người tay ôm một hộp vàng tiến lên thượng sảnh. Nhìn thấy hộp vàng, thân thể đám người Nghê Khiêm, Đới Nghĩa không kiềm được mà run lên từng chập. Lúc đầu ở trên pháp trường đao sắt kề trên đầu, bọn họ hận không thể tìm hết lý do mong sao có thể kéo dài mạng sống thêm một giờ nửa khắc. Nhưng bây giờ nghĩ đến hậu quả đáng sợ sống không bằng chết của việc phản cung kêu oan mà bị tra ra và chứng thực phán quyết ban đầu, sắc mặt xám ngoét như tro.
Ba người Hồng thượng thư, Tả đô ngự sử Đốc Sát Viện và Đại Lý Tự khanh đứng dậy, kính cẩn vái chiếc hộp vàng ba lạy. Sau đó Tả đô ngự sử bóc niêm phong, mở chiếc hộp vàng cất giữ ở bộ Lễ đó ra. Đại Lý Tự khanh cũng mở chiếc hộp vàng mà ba vị khâm sai đem từ thái lăng về, rồi đẩy hai chiếc hộp đó đến trước mặt Hồng thượng thư.
Trong nhất thời, trên sảnh dưới đường là cả một mảng trang nghiêm yên tĩnh, đến độ một chiếc kim rơi cũng cơ hồ có thể nghe được. Nhìn thấy đám người Nghê Khiêm mặt vàng như nghệ, Hồng Chung không khỏi mỉm cười. Lão có chủ tâm đùa bỡn, nên không hề vội vã lấy đất ra ngay. Lão bưng chén trà lên hớp một ngụm trước, sau đó chậm rãi đặt xuống, đưa hai tay ra, mỗi tay bốc lấy một nắm đất, rồi cầm quan sát kỹ lưỡng ở trên tay.
Đám người Đới Nghĩa và Nghê Khiêm căng thẳng nhìn chằm chằm vào sắc mặt của lão, vẻ mặt cực kỳ hoảng sợ. Nhưng một lúc lâu sau, chỉ thấy cặp mắt Hồng thượng thư càng lúc càng trợn tròn, sắc mặt cũng bắt đầu tái nhợt lại. Vẻ tươi cười khi nãy đã ngưng lại trên khuôn mặt, trong mắt biểu lộ vẻ kinh ngạc không dám tin.
Hồng thượng thư ngây ra một hồi lâu rồi mới khó nhọc cất tiếng:
- Thổ nhưỡng Kim Tỉnh này... này... này...
Thành quốc công đột nhiên đưa một tay lên che sau vành tai, cả tiếng:
- Hồng thượng thư, loại đất này đã kiểm nghiệm ra rồi chứ?
Cánh tay Hồng Chung thoáng run lên, đất vàng thuận theo kẽ hở ngón tay mà rơi xuống bàn. Hai chân mềm nhũn, lão ngồi phịch xuống ghế. Tả đô ngự sử và Đại Lý Tự khanh phẩm tước kém hơn lão, vốn đều đang đợi lão tuyên bố, lúc này thấy lão ngồi ngây ra trên ghế như người mất hồn, Tả đô ngự sử đành phải đằng hắng một tiếng rồi nói:
- Bẩm Thành quốc công gia, loại đất Kim Tỉnh này không hề có gì khác biệt...
Ông ta vừa nói đến đây, Hồng Chung đột nhiên như sực tỉnh đứng phắt dậy, cầm lấy phán gỗ đập "bốp" một tiếng, khiến cho Tả đô ngự sử sợ run cầm cập, nửa câu sau kia tức thời lại bị nuốt vào trở lại. Chỉ thấy Hồng Chung vung tay chỉ vào Lục thập trưởng, không nén được cơn giận quát:
- Lục Ân Lỗ thật to gan! Không phải ngươi nói chính mắt ngươi thấy Kim Tỉnh thấm nước sao? Ngươi có biết hãm hại mệnh quan triều đình, đó là tội lớn như thế nào không?
Lão vì nóng giận vung tay đột ngột, ống tay áo hất chén trà văng xuống đất "choang" một tiếng, vỡ tan tành.
Từ lúc Hồng thượng thư nói chuyện với bốn phạm quan vừa rồi thì gã Lục thập trưởng đáng thương đó đã cảm thấy buồn nôn từng đợt, cảnh vật trước mắt bay tới bay lui, giống như bị uống say. Lúc này nghe Hồng thượng thư quát to một tiếng, gã quýnh quáng trong lòng, chỉ muốn lớn tiếng biện bạch. Nhưng khí huyết vừa vọt lên, trong đầu bỗng "ầm" một cái, cả người chợt thấy lâng lâng, đầu óc quay cuồng, vừa loạng choạng mấy bước thì đã ngã nhào xuống đất.
Ngã xong, thần trí gã đã hoàn toàn mơ hồ, gò má va xuống đất bị mảnh vỡ của chén trà cắt phải, máu chảy khắp mặt mà gã cũng không cảm thấy đau đớn gì. Môi vừa chạm vào nước trà trên nền gạch xanh, gã lại hết sức hưng phấn bò dậy, hai tay cố vốc lấy vết nước trên nền gạch trong vô vọng, phấn khởi kêu lên:
- Đại nhân, ta không có nói bừa, ta không có nói bừa. Ngài xem, ngài xem nè, thật nhiều nước, nước ở khắp nơi. Ha ha ha... Ta muốn thăng quan nè, ta muốn phát tài nè. Lý đại nhân, ta tìm ra nước rồi, tìm ra chứng cứ này. Hoàng Thượng đâu? Không phải ngài nói Hoàng Thượng sẽ thăng quan cho ta sao?
Hồng Chung thấy vậy sững ra một lát rồi lại ngã phịch xuống ghế: lần này xong hết rồi. Sớm không điên muộn không điên, thế mà lúc này hắn lại sợ quá hoá điên. Nhưng ai mà tin là bây giờ hắn mới điên chứ? Đường đường là thượng thư bộ Hình, tin vào lời nhảm nhí của một tên điên, bức cung khiến bốn trọng thần triều đình phải khai bừa. Việc này...
Lục thập trưởng điên điên khùng khùng ôm cứng Đới Nghĩa, xem y là Lý Kiệt đang đứng ở một bên. Có điều vì không ngừng xin quan đòi tiền, trong đầu hắn chợt ảo tưởng ra cảnh sau khi thăng quan phát tài, cưới về mấy cô vợ xinh đẹp như mấy mỹ nhân lúc nãy. Thế là hắn liền ôm lấy lão thái giám, vừa hôn vừa cắn, ngây ngô cười nói:
- Tiểu nương tử, đừng theo Dương Lăng nữa. Hắn đã bị Hoàng Thượng chém đầu rồi. Hoàng Thượng đã thăng quan cho ta, nàng hãy làm vợ của ta đi.
Đới Nghĩa bị hắn cắn dính đầy nước dãi, không chịu nổi bèn xô hắn ra, rồi thẳng lưng nhìn về phía Lý Kiệt cười lớn, bộ dạng trông cực kỳ đắc ý. Tuy lão không biết là ai đã ra tay, nhưng biết rằng cửa ải nghiệm thổ lần này đã vượt qua an toàn. Khí thế ngang tàng kiêu ngạo khi còn ở ty Lễ Giám ngày trước đó tức thời lại đã quay về với lão.
Đầu mướt đầy mồ hôi, mặt vàng như nghệ, Lý Kiệt lẩm bẩm:
- Sao lại như vậy? Chuyện này sao lại như vậy?
Lục thập trưởng bị Đới Nghĩa xô ra nhưng vẫn lầu bầu:
- Tiểu nương tử thật là thô lỗ. Nàng không tin hoàng thượng đã thăng quan cho ta sao? Hoàng thượng? Hoàng thượng, ngươi nói cho tiểu nương tử nghe, có phải là đã thăng cho ta làm đại quan hay không? Hi hi hi...
Ở phía sau, Hoàng Thượng Chính Đức đã sớm giận đến bốc khói: giỏi cho một đám thần tử, không ngờ lại xem lời của tên điên là thật, hại ta suýt phải giết hại trung thần, di dời Đế lăng, khuấy đảo khiến triều thần phản đối, bá tánh bất an. Những tội danh ngu muội này hết thảy đều đã đổ lên người trẫm.
Chính Đức nổi cơn tam bành. Vừa nhảy xuống ghế bước ra mấy bước, thấy vị Giám chính Khâm Thiên giám nọ vẫn còn quỳ ở trước mặt, y bèn cả giận quát:
- Ngươi thậm thà thậm thụt quỳ ở đây làm cái gì? Có chuyện gì quan trọng cần tâu?
Mạc Đạo Duy vắt hết óc nghĩ ra được mٴ lời quẻ tuyệt diệu, không kém hơn câu "Đào nguyên tam kết nghĩa, cô độc nhất chi" (2) dùng để đoán số cho người bao nhiêu. Lời bình tám chữ của lão là "Lôi kích cung đình, ứng tại thái lăng" (3). Giờ đây tình tiết vụ án đã rõ, "thầy bói" họ Mạc liền tuỳ cơ ứng biến, lập tức tâu rằng:
- Khải bẩm Hoàng Thượng, ban đêm thần xem thiên tượng, suy diễn ra được mười sáu chữ phê rằng 'Lôi kích cung đình, ứng tại Thái lăng, vô đoan đình công, cự sanh thiên tượng'. (4)
Chính Đức nghe xong sắc mặt tím lại, y nghiến răng kèn kẹt, rồi xông thẳng như bay ra tiền sảnh. Đám quan viên thấy vậy vội vã nối gót theo sau.
Hoàng đế Chính Đức bước lên công đường, sắc mặt xám xịt, cũng chẳng quản ba vị quan chủ thẩm đang lật đật quỳ sụp xuống nghênh đón, y giành lấy vị trí chủ thẩm, chộp lấy phách gỗ đập loạn một trận, rống họng quát:
- Giải hắn đi, đỡ y dậy, dẫn bọn họ lên, ngươi cút xuống cho ta!
Đám đại thần ở bên dưới cũng không hiểu là Hoàng Thượng đang nói ai với ai. Vì thế trên công đường bỗng chốc trở nên náo loạn.
Chú thích:
(1) Túc: nghiêm trang; Tĩnh: yên lặng. Chỉ tấm biển cấm đoán kẻ không phận sự lớn tiếng ồn ào.
(2) kiểu câu đoán mệnh hài hước như "sinh con đầu lòng không gái thì trai" của các ông thầy bói. Câu này tạm dịch thành "vườn đào ba cây kết nghĩa, lẻ loi/đi một cây", nghĩa là: nếu đối phương là con một thì thầy bói sẽ nói là trong mệnh y lẽ ra là có ba anh em, nhưng hiện giờ chỉ có một mình, vậy nên "cô độc nhất chi" (lẻ loi một cây). Nếu đối phương có anh hoặc em, hai người, vậy thầy bói sẽ nói rằng huynh đệ ba người "cô độc" (lẻ đi) hết một cây, cho nên chỉ còn lại hai... Cứ như vậy, bất luận đối phương có bao nhiêu anh em thì cứ dùng câu này mà "cô độc" bớt cho đủ số.
(3) nghĩa là "việc sét đánh cung đình ứng nghiệm với chuyện xảy ra ở đế lăng".
(4) nghĩa là "việc sét đánh cung đình ứng nghiệm với chuyện xảy ra ở đế lăng, vì dừng thi công vô cớ nên mới sinh ra thiên tượng" (thiên tượng là hiện tượng của đất trời).
Chương 105: Chính Đức Xử Án
Dịch: TheJoker
Biên dịch: lht
Biên tập: vandai79
Nguồn: www.tangthuvien.com
Đoạn y vui vẻ nói tiếp:
- Lần trước ở trong núi bắn pháo hoa trông thật đẹp, trẫm vẫn luôn mong muốn có thể xem lại. Chờ đến ngày đại hôn của trẫm sẽ không còn ai có thể mượn cớ ngăn trẫm nổi lửa đốt pháo nữa. Ha ha ha!!! Trẫm thật sự đã trông đợi lễ đại hôn này lâu lắm rồi. Ừm, đêm đại hôn của trẫm, khanh hãy vào trong cung giúp trẫm đốt pháo cho thoả thích.
Y vung tay, cười nói:
- Trẫm phải xem pháo hoa cả đêm, thâu đêm suốt sáng...
Sau khi Hoàng Đế Chính Đức chỉ trỏ loạn xạ một trận, có kẻ vội vã dập đầu hành lễ, có người thì muốn lấy lòng nhưng lại không biết Hoàng Thượng muốn dẫn ai lên, lôi ai xuống. Đang trong lúc hỗn loạn, Nghiêm Tung chớp được thời cơ, đột ngột đứng lên quát lớn:
- Tất cả yên lặng!!!
Tiếng quát này so với thanh âm Chính Đức đập phách gỗ "bộp bộp" còn có tác dụng hơn. Đám người đang chạy nháo nhào đều lập tức dừng lại, chỉ có gã Lục Ân Lỗ điên điên khùng khùng vẫn ôm cứng một vị Kiểm hiệu (1) của bộ Hình mà cười hì hì hà hà, la hét thăng quan phát tài.
Lúc trước Dương Lăng vẫn không kịp để ý tới mấy vị khâm sai đại nhân. Bây giờ thấy cái vóc cao kều, gầy gò của Nghiêm Tung thì y mới chợt nhớ ra hắn, liền nghĩ đến chuyện mình đã an toàn vượt qua vụ việc "nghiệm thổ đế lăng" một cách kỳ lạ, trong lòng Dương Lăng thấy ngạc nhiên và ngờ vực mãi.
Hoàng Đế Chính Đức đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, tán thưởng:
- Khanh làm tốt lắm! Người đâu! Mau dọn chỗ cho bốn vị ái khanh Dương Lăng. Bốn vị ái khanh, giờ đây chân tướng đã rõ, bốn vị ái khanh quan phục nguyên chức, đợi sau khi kết thúc hãy về phủ dưỡng thương, rồi tiếp tục đảm đương trách nhiệm kiến tạo Đế Lăng. Về phần những kẻ vu cáo hãm hại...
Chính Đức chỉ gã Lục Ân Lỗ vẫn đang nói cười lảm nhảm, lạnh lùng nói:
- Lôi cái tên điên này đi cho trẫm. Dẫn toàn bộ tất cả các nhân chứng, phạm nhân lên công đường. Hôm nay trẫm sẽ đích thân xử án!
Hoàn Thượng sắm vai quan Chủ thẩm lâm thời, bên dưới nào dám không ra sức tuân theo. Thế là lập tức có mấy nha dịch ba chân bốn cẳng khiêng gã điên đó ra, quăng cái "thịch" vào trong phòng hậu thẩm (2) đầu tiên, lại có người dẫn bảy vị công tử nổi danh kinh thành đang run lập cập cùng nhóm Hàn Ấu Nương và những kẻ có liên quan lên công đường.
Ba tốp nha dịch lấy sức hô vang "uy vũ" (3). Chính Đức ngồi thẳng trên chính đường, trước mặt là hai hộp đất vàng, bắt đầu tự mình thẩm án. Thị lang bộ Công là Lý Kiệt vừa thấy Chính Đức nhìn về phía lão, thân thể liền như thấp đi một nửa. Lão khóc lóc tâu:
- Hoàng Thượng, là thần nhất thời hồ đồ. Tên điên đó thường ngày vẫn nói năng tỉnh táo rành mạch, vi thần trong phút chốc đã không xem xét kỹ, lại do chuyện Đế Lăng trọng đại, quan hệ đến vận mệnh hưng thịnh của quốc gia...
Lão cũng biết bây giờ mà còn biện bạch thêm thì đơn giản là tìm chết, chi bằng cứ thẳng thắn nhận tội, dùng Đế Lăng để chứng minh rằng lão xem trọng lăng tẩm của Tiên đế. Một khi Hoàng Thượng mềm lòng thì tội trạng lão sẽ nhẹ đi nhiều.
Hắn nào biết vừa rồi ở hậu đường "thầy bói" họ Mạc đã bịa ra mấy câu đoán mò. Thế nên vừa nhắc đến Đế lăng, Chính Đức chợt nhớ lại mười sáu chữ "lôi kích cung đình, ứng tại Thái lăng, vô đoan đình công, cự sanh thiên tượng". Lời đó vừa thốt ra, trong lòng Chính Đức tức thì dấy lên sự oán ghét. Y vung ống tay áo, phách gỗ liền biến thành ám khí, bay "vèo" một phát về phía Lý Kiệt.
Lý Kiệt bị phách gỗ đập trúng trán kêu "bốp", bầm ngay thành cục, đau quá phải "ui da" một tiếng. Chính Đức mắng:
- Đế lăng, Đế lăng!!! Ngươi hại khiến Đế lăng phải đình công, thiên lôi cảnh báo đánh xuống hoàng cung của trẫm, giờ còn dám nhắc tới Đế lăng sao? Lột áo quan, tước mũ mão của hắn!
Lập tức có hai sai dịch nhanh nhẹn kéo Lý Kiệt lại, lột áo quan và mũ mão của hắn rồi đạp sau gối bắt quỳ xuống. Dương Lăng thấy vậy hơi có chút bất an. Dẫu gì thì Kim Tỉnh Đế lăng đích thực đã bị giở trò, Lý Kiệt không hẳn đã đổ oan cho y. Y lại lo lão ta bị ép đến cùng đường, chó cùng rứt giậu, một mực quả quyết Kim Tỉnh thấm nước là thật, không chừng sẽ mang phiền phức đến cho mình.
Thị lang bộ Lễ là Lý Đạc thấy mặt y có vẻ không nỡ liền rỉ tai nhắc khẽ:
- Dương đại nhân không thể mềm lòng. Cậu cho rằng hắn sẽ vì vậy mà cảm kích bỏ qua sao? Đánh rắn không chết sẽ hậu hoạn vô cùng!
Bình thường nếu nói ra câu này, Dương Lăng tất sẽ không để trong lòng. Nhưng vừa rồi mới dạo một vòng ở Quỷ Môn quan nên y đã rút ra được kinh nghiệm xương máu, hiểu được vài điều về sự nguy hiểm trên chốn quan trường "cười nói chuyện trò mà trên thân lăm lăm đao kiếm". Sau khi nghe Lý Đạc nói xong thì y khẽ gật đầu, nhớ lại vì chuyện này mà thiếu chút nữa y và Ấu Nương hai người đã âm dương chia cắt, ánh mắt không tự chủ tìm về phía nàng.
Hàn Ấu Nương vẫn xinh đẹp như vậy, chỉ có đôi mắt vốn trong veo như nước đã hơi sưng đỏ. Nhưng đôi mắt dịu dàng đó vẫn nhìn y chăm chú với một tình cảm nồng nàn. Dương Lăng cố mỉm cười trấn an.
Hàn Ấu Nương cũng nhoẻn miệng cười đáp lại, khuôn mặt xinh xắn ấy ngập tràn niềm hân hoan và thoả mãn. Dương Lăng nhìn thấy Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai ở sát bên cạnh Hàn Ấu Nương, nghĩ đến hai người con gái này trọng tình trọng nghĩa, thấy mình gặp phải đại nạn, không những bỏ mặc mà còn giúp đỡ Ấu Nương. Y lấy làm cảm kích liền gật đầu cảm tạ.
Không nghĩ tới Dương Lăng vừa gật đầu tỏ ý thì gò má hai người con gái lại bất chợt ửng đỏ lên, thẹn thùng nhìn đi chỗ khác khiến y không khỏi có chút lấy làm kỳ lạ. Dương Lăng vẫn chưa biết ngày đó vì cảm kích, Hàn Ấu Nương đã cùng tam nữ kết bái, thề rằng "đồng thuyền hợp mạng, họa phúc cùng chia".
Đồng chiếc thuyền nào? Đương nhiên là "chiếc thuyền" mang tên Dương đại lão gia này rồi. Hai nha đầu đó thông minh lanh lợi hơn người, nghe xong đã sớm hiểu được tâm ý của Ấu Nương. Chỉ có điều lúc đó bọn họ cũng ôm lòng tin chắc đại sự sẽ không thành, quyết tâm lấy thân phận thê thiếp của Dương Lăng mà cùng chết theo, thật sự không có mấy hy vọng sẽ cứu được y. Bây giờ Dương Lăng chết đi sống lại, phần tâm tư kia trỗi dậy, trong lòng mới thẹn thùng như thế.
Chính Đức trừng mắt nhìn Lý Kiệt, nhất thời không nghĩ ra được phải xử trí như thế nào, nhịn không được bèn quay sang Hồng Chung để hỏi:
- Hồng Chung! Lý Kiệt vu cáo đại thần, mưu hại khâm sai, bịa đặt chuyện Đế lăng thấm nước thì đáng xử tội gì?
Lúc trước Chính Đức quát Hồng Chung một câu, dọa cho Hồng lão thượng thư luôn biết thời biết thế này phải ngoan ngoãn lui xuống hạ đường, chạy đi trốn sau lưng Mạc Đạo Duy. Bây giờ vừa nghe Hoàng Thượng đích thân hỏi, Hồng Chung liền "thụ sủng nhược kinh" (được quan tâm mà nơm nớp lo sợ), còn tưởng rằng Hoàng Thượng không truy cứu tội của lão nữa.
Thế là lão lật đật chạy lên vài bước, tâu:
- Thần khải bẩm Hoàng Thượng, theo luật Đại Minh, nếu một khi bị tra ra sự thật thì kẻ vu cáo sẽ chịu phản tọa (4).
Chính Đức mất kiên nhẫn, giục:
- Bớt nói lời thừa thãi đi, rốt cuộc xử trí như thế nào?
Hồng Chung vội đáp:
- Hoàng Thượng minh giám, vu cáo bị phản tọa chính là, quan viên mà hắn vu cáo phải chịu hình phạt gì thì hắn sẽ chịu hình phạt ấy.
Hồng Chung nói tiếp:
- Quan viên mà hắn vu cáo bị phán tội "chém không tha". Người đâu, lôi hắn xuống, chém không tha!
Lý Kiệt quýnh quáng lên. Hắn còn tưởng Hồng Chung có thể cứu vớt, nào ngờ lão ta lại "giậu đổ bìm leo". Lý Kiệt chỉ mặt Hồng Chung mà mắng:
- Hồng thượng thư! Ta vu cáo đại thần ư? Nếu không phải do ông xin thánh dụ dùng hình thì há sẽ có chuyện bức cung mà khai sao?
Hồng Chung lật lọng, mỉa mai:
- Nếu không phải vì ngươi cố ý hại người thì lẽ ra sau khi nghe được tin tức sẽ phải bẩm báo với Hoàng Thượng để xin người kiểm tra, cớ gì lại tìm một tên điên giả làm nhân chứng chứ? Ta đã bị ngươi dối gạt mà thôi!
Lý Kiệt tức khí, hổn hển mắng:
- Ta cùng mấy vị đại nhân không thù không oán, cớ gì phải hại bọn họ? Ta nghe thấy chuyện Đế lăng thấm nước đã bẩm báo cho Từ thượng thư. Là do Từ thượng thư bảo ta chưa được công khai mà cần thu thập nhân chứng, vật chứng nên ta mới tạm thời không nói. Thượng thư đại nhân, có phải là vậy không?
Từ Quán vừa nghe hắn muốn kéo mình theo, lập tức lắc đầu quầy quậy:
- Nói xằng! Lão phu chỉ kêu Đế lăng thấm nước là chuyện lớn vô cùng, sao có thể tố cáo bừa bãi, cần sai ngươi điều tra sự thật rồi báo cáo tiếp chứ ai bảo ngươi thu thập nhân chứng, vật chứng? Ngươi và các vị đại nhân không có thù, chẵng lẽ lão phu lại có hay sao?
Mấy người Lưu Kiện, Tạ Thiên vốn còn muốn xin tha cho bọn họ, vừa thấy bọn họ vào thời khắc nguy cấp chỉ cố đùn đẩy trách nhiệm, không khỏi lộ vẻ khinh bỉ. Vương Quỳnh xem trò hề của ba người mà giận dữ đến cùng cực, quát lớn:
- Đủ rồi!!!
Lão quát ngăn ba người bọn họ cãi nhau xong, liền xoay người quỳ thẳng xuống đất, cất giọng lẫm liệt:
- Hoàng Thượng, hạ thần không tra xét kỹ, tố cáo sai lầm, có tội ngộ cáo, chỉ xin thánh thượng ân giảm!
Vương Quỳnh dỡ mũ mão đặt sang một bên, khấu đầu không dậy. Chiêu "lấy tiến làm lùi" này của lão thực cao minh hơn nhiều so với ba người Hồng Chung. Đầu tiên là cải biến tội danh thành "giám sát thiếu trách nhiệm và ngộ cáo", sau đó cột toàn bộ ba thượng thư và một thị lang chung vào một con thuyền, tin rằng tân hoàng mới đăng cơ, ngôi vị còn chưa ổn, liệu có dám tùy ý xử trí nhiều trọng thần như vậy không?
Chính Đức thấy bốn kẻ đang quỳ lại có đến ba người là thượng thư, thực sự có chút lúng túng. Y đưa mắt nhìn sang mấy vị đại học sỹ cầu cứu. Lưu Kiện thừa dịp liền tâu:
- Hoàng Thượng, thần cho rằng Hồng lão thượng thư lạm dụng trọng hình, bức cung ép khai, hại bốn vị khâm sai suýt trầm mình nơi tử địa. Hơn nữa, tin tức triều đình muốn dời Đế lăng truyền ra khiến dân tâm bất an, quả thực là có tội. Nhưng Hồng thượng thư cũng chỉ vì bị kẻ khác che giấu nên xử án không thoả đáng chứ không phải vì ham muốn cá nhân. Thần cho rằng bắt ông ta... bắt ông ta bãi quan hồi hương là được!
Hồng Chung nghe vậy bủn rủn cả người. Lão vất vả gian nan lắm mới leo lên vị trí quan nhất phẩm, giờ đây chỉ một câu nói mà hết thảy liền đã trở thành hư không. Cực khổ mấy mươi năm, không ngờ lại như giấc mộng.
Còn Lý Kiệt nghe mà ruột gan lại như muốn đứt rời. Lưu Kiện nói vậy là muốn "thí tốt" để "giữ tướng", ngay cả lão là người đứng đầu nội các mà cũng còn mang suy nghĩ như vậy thì hắn còn có thể sống được sao?
Chính Đức nghe xong, gật đầu bảo:
- Vậy làm theo lời tấu của đại học sỹ đi, Hồng Chung bộ Hình sẽ bị bãi chức hoàn hương.
Lưu Kiện lại nói:
- Thượng thư bộ Công là Từ Quán, nghe thấy công trình Đế lăng có sự cố nhưng lúc đó vì quá thận trọng, biết chuyện mà không báo, sau lại chưa tra thực hư mà đã tố cáo đại thần, quá đỗi trù trừ lười nhác, đã phụ chức phận. Thần thấy rằng nên cho...
Lưu Kiện vừa muốn nói "giảm lương phạt bổng" (bổng ở đây là bổng lộc), nhưng Chính Đức đã tự cho mình thông minh, cướp lời luôn:
- Được, cho bãi quan luôn đi.
Lưu Kiện tức thời nghẹn họng, mãi một hồi lâu không nói được gì. Chính Đức lấy làm ngạc nhiên, bảo:
- Kiến nghị của Lưu ái khanh rất có lý, khanh hãy nói tiếp đi.
Lưu Kiện hít sâu một hơi, nói tiếp rất nhanh:
- Thượng thư bộ Lễ là Vương Quỳnh, lấy thi lễ giáo hoá thiên hạ, đức cao vọng trọng, tài đức vẹn toàn, khiến cho lòng người cảm động (5). Ông ta vốn không liên quan đến vụ án này, chỉ bởi tin lầm lời người, vì muốn thanh trừng lại trị (6) nên mới giục xin Hoàng Thượng xử phạt quan viên tham ô, tội có thể tha thứ. Nhưng Vương Quỳnh không phải là ngôn quan lại đi nghe lời đồn mà dâng tấu, cũng nên bị trừng phạt, có thể phạt ba năm bổng lộc để cảnh cáo.
Lão sợ Chính Đức giữa chừng sẽ lại chen miệng vào, cho nên lần này nói vừa nhanh vừa gấp, rào rào như rang đậu. Chính Đức không vui, nói:
- Vương Quỳnh lạm quyền vượt quá chức vụ của mình, suýt nữa đã gây ra tội lớn. Lỗ mãng như vậy thì sao cai quản việc khoa cử, tế tự, lễ nghi, bang giao được? Phạt bổng lộc có phần quá nhẹ, vậy... chuyển làm thượng thư bộ Lễ ở Nam Kinh đi.
Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe xong đang muốn bước lên cãi lẽ cho Vương Quỳnh, không ngờ lão nghĩ rằng mình một lòng vì nước mà Hoàng Thượng lại hồ đồ không hay, không biết nên trong lòng tràn ngập bi thương cùng phẫn uất, dập đầu nói:
- Hoàng Thượng thương cảm lão thần, lão thần cảm kích không thôi!
Chính Đức nghe giọng điệu phẫn uất của lão thì cả giận, quát:
- Ngươi vẫn không phục sao? Ngươi cai quản bộ Lễ, giáo hoá thiên hạ, thế mà ngay cả con mình cũng dạy không xong. Hắn bức bách tỳ nữ người khác hãm hại gia chủ, đó cũng là việc mà đường đường phủ thượng thư bộ Lễ có thể làm sao?
Rồi y cười gằn, quay sang thị lang bộ Hình là Ngụy Thân hỏi:
- Ngụy thị lang! Dân tố quan, bịa chuyện hãm hại thì đáng bị phạt gì?
Nguỵ Thân vốn thiết diện vô tư, trong mắt chỉ có vương pháp không có nhân tình, nghe lời lập tức khom người, đáp:
- Hồi bẩm hoàng thượng! Dân tố quan, bịa chuyện phỉ báng, một khi tra ra sự thật thì tước công danh, đày đi biệt xứ. Song theo thần thấy, nghi án Đế lăng tuy rằng không đúng nhưng việc tố cáo Dương Lăng cưỡng ép mua tỳ nữ, nếu chỉ dựa vào lời nói từ phía nàng ta thì vẫn chưa đủ tin cậy, cần cho kiểm chứng mới có thể khép tội.
Chính Đức ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi lại cười nhạt nói:
- Không cần tra nữa, việc này trẫm biết rõ ngọn ngành. Chuyện này bắt nguồn bởi gia nhân của Thọ Ninh hầu ỷ thế hiếp người, mưu đoạt ba cô gái của Thì Hoa quán. Khi ấy trẫm vẫn còn là thái tử Đông cung, sau khi nghe chuyện đã sai thị độc Dương Lăng cứu giúp bọn họ. Số bạc của y cũng không phải tham ô mà có, mà là của trẫm cấp cho. Ngươi không phải là vẫn muốn tra xem lời trẫm nói là thật hay không đó chứ?
Nguỵ Thân lật đật quỳ xuống, thưa:
- Thần không dám. Nếu hoàng thượng đã làm chứng cho Dương Lăng, vậy tội danh vu cáo này đã xác thực.
Vương Quỳnh nghe Hoàng Thượng muốn tước bỏ công danh của con mình rồi lưu đày biệt xứ thì sắc mặt lập tức trắng bệch, cũng không còn dám ương bướng chống cãi nữa, chỉ dập đầu xin tha cho con. Mấy công tử hào phú cũng hoàn toàn mất sạch vẻ kiêu ngạo, chỉ quỳ mọp dưới đất mà run rẩy.
Lý Đông Dương nghe xong thì rất lo ngại. Bảy cậu công tử này tuy không tính là nhân vật gì, nhưng sau lưng mỗi người đều có cha già là trọng thần trong triều. Hôm nay Lục Bộ nhoáng một cái đã bãi chức một nửa quan viên, trong triều lòng người đã bất ổn, nếu như lại có thêm mấy vị đại thần ôm hận bất mãn thì bọn họ sẽ quản lý triều chính như thế nào đây?
Vụ án Đế lăng đã vứt bỏ một Lý Kiệt để giữ lại ba vị thượng thư. Hôm nay xem ra vụ án Dương Lăng cưỡng đoạt dân nữ chỉ có thể thí bỏ Vương Cảnh Long, cứu lấy sáu người còn lại thôi. Lý Đông Dương quyết định dứt khoát, lập tức nhanh miệng tâu:
- Hoàng Thượng! Mua chuộc nữ tỳ Dương phủ, hãm hại Dương đại nhân chỉ có một mình Vương Cảnh Long, những thư sinh khác nhỏ tuổi không hiểu chuyện, chỉ là ham muốn hư vinh, hùa theo náo nhiệt, không nên xử nặng.
Đám người Tạ Thiên, Lưu Kiện, Vương Hoa biết rõ nếu trừng phạt quá nặng sẽ không có lợi cho triều đình, vì vậy lần lượt quỳ xuống cầu xin. Chính Đức bực bội nói:
- Thôi được, sáu tên hùa theo trẫm có thể không so đo tính toán. Nhưng cái tên Vương Cảnh Long thêu dệt tội danh, nếu tha cho hắn thì thể diện triều đình vứt đi đâu? Lột bỏ công danh kẻ này, lưu đày Quý Châu, cả đời không được tuyển dụng!
Vương Quỳnh nghe thấy thế thì hoàn toàn tuyệt vọng. Vương Cảnh Long quỳ dưới đất mà như kẻ mất hồn, cuộc đời này của hắn coi như đã xong rồi. Một lúc lâu sau hắn mới dần tỉnh lại, tựa hồ nghe thấy Hoàng Thượng đã phán Lý Kiệt tội chết, sai người giải đi.
Vương Cảnh Long cười thê lương "Tội chết ư? Thà cũng phán mình một tội chết, còn hơn là đày đoạ như vậy. Mình vốn là con nhà thế gia, tiền đồ rực rỡ, nếu không phải do bị con tiểu tiện nhân đó lừa gạt thì sao có thể đến nông nỗi sống không bằng chết thế này?" Trong lòng Vương Cảnh Long đột nhiên nảy sinh một ý niệm ác độc "Tiểu tiện nhân! Không phải ngươi xu nịnh tên Dương Lăng đó mà tính kế ta sao, cho dù ta bị lưu đày đến Quý Châu thì cũng sẽ mua chuộc đám trộm cướp cố làm nhục ngươi cho đến chết, khiến ngươi phải hối hận về việc đã làm..."
Thái giám của ty Lễ Giám là Đới Nghĩa thấy Hoàng Thượng đã khâm phán xong vụ án mà Vương Quỳnh vẫn chưa chịu từ bỏ, vẫn còn quỳ ở đó để tận lời, kiệt sức cầu khẩn cho con trai của mình thì vội bước ra khỏi ghế, quỳ xuống tâu:
- Hoàng Thượng! Quý Châu hoang vu cằn cỗi, cách đó lại là quan ải trùng trùng, chướng khí khắp nơi, lưu đày đến nơi đó quả thực khó lòng sống được. Theo nô tài thấy, nếu các vị đại nhân đã thỉnh cầu, chi bằng Hoàng Thượng hãy đày hắn đến Thái Lăng làm một tên khổ dịch, sửa lăng lót đường cho Tiên đế để chuộc lấy tội nghiệt, vừa là trừng phạt hắn mà lại vừa thể hiện sự nhân hậu của hoàng thượng.
Vương Cảnh Long đang thầm cân nhắc cái ý nghĩ ác độc thì nghe người ta muốn đưa hắn đi Thái Lăng làm khổ dịch, mặc dù khổ thì có khổ một chút, nhưng dẫu sao nơi đó vẫn gần kinh sư. Phụ thân hắn tuy bị đày đi Kim Lăng làm quan nhưng môn sinh, bạn cũ còn rất nhiều, đến lúc đó hắn tìm người ra tay một chút thì còn sợ không được việc hay sao?
Nhưng lúc hắn vừa ngẩng đầu thì vừa vặn trông thấy Đới Nghĩa đang nhìn mình cười nham hiểm. Thấy nụ cười không có ý tốt lành đó, Vương Cảnh Long liền như bị dội một thau nước lạnh từ đầu đến chân, trái tim lập tức trở nên lạnh ngắt.
Chính Đức vui vẻ nói:
- Tốt lắm, cứ làm vậy đi!
Vương Quỳnh biết rõ con mình đi Thái Lăng nguy hiểm còn hơn đi Quý Châu bội phần, lo lắng đến độ muốn phát điên. Mấy người Lưu Kiện cùng lão làm việc chung với nhau đã lâu năm, thấy vậy trong lòng không nỡ, đành phải bước lên dìu dậy, sau khi nhỏ giọng nhận lời chiếu cố cho Vương Cảnh Long thì Vương lão phu tử mới rơi lệ lui xuống công đường.
Sau khi Chính Đức đuổi tất cả mọi người đi hết chỉ giữ lại một nhà Dương Lăng, hắn mới ngại ngùng đến bên người y, nói:
- Dương thị độc! Trẫm... trẫm suýt nữa đã phụ khanh rồi.
Trong lòng Dương Lăng cũng khá hậm hực. Y không tin phong thuỷ quan trọng hơn ngàn vạn tính mạng của bá tánh nên giúp bọn Đới Nghĩa che giấu chuyện Đế lăng thấm nước. Nhưng dù sao cũng đã giấu chuyện với tiểu hoàng đế này nên y vội khom người vái, đáp:
- Hoàng Thượng chớ nói như vậy. Bất luận lấy thân phận vua một nước hay con của Tiên đế thì người xử trí như vậy đều là làm theo trách nhiệm. Thần không lời oán hận.
Chính Đức cười thẹn nói:
- Ái khanh! Khanh hãy bớt muộn phiền mà dưỡng thương cho thật tốt, đợi khi thương thế lành lặn thì trẫm sẽ trọng dụng khanh. Khanh hãy trở về trước, ba lão già lắm chuyện đó vẫn còn đang chờ trẫm ở bên ngoài, khi nào về trẫm sẽ trốn đến phủ thăm khanh.
Dương Lăng vội nói:
- Đa tạ Hoàng Thượng quan tâm. Xin Hoàng Thượng hãy đừng tuỳ tiện rời cung kẻo ba vị đại học sỹ biết được sẽ lại dâng tấu sớ lên can gián. Giờ vi thần về đây.
Tuy y đã được tháo bỏ cùm tay, xích chân nhưng hai mắt cá chân vẫn bầy hầy máu thịt, muốn bước ra khỏi công đường dài dằng dặc này cũng đau như xát muối, đâm kim. Y được Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân một trái một phải dìu, lại thêm Tuyết Lý Mai cùng Cao Văn Tâm đi theo bên cạnh, sau khi hành lễ với Hoàng Đế xong liền xoay người bước đi.
Chính Đức thấy khuôn mặt xinh đẹp của Hàn Ấu Nương nghiêm lại, tuy chưa thất lễ nhưng không hề thân thiết như lúc trước đã đối đãi với mình. Trong lòng hơi cảm thấy khó chịu, Chính Đức bất chợt gọi giật lại:
- Khoan đã!
Dương Lăng ngạc nhiên quay người, chỉ thấy Chính Đức vừa bước tới vừa nói:
- Nếu không nhờ Ấu Nương tỷ tỷ cầm bức vẽ của phụ hoàng ngăn cản, trẫm suýt nữa đã mất đi một vị trung thần. Ấu Nương tỷ tỷ có công với xã tắc, trẫm nên phong thưởng.
Y hơi trầm ngâm rồi nói:
- Trẫm muốn hạ chỉ, khâm phong Ấu Nương tỷ tỷ làm "Cáo Mệnh phu nhân"(7), Ấu Nương tỷ tỷ đừng giận trẫm nữa nhé?
Hàn Ấu Nương thấy đường đường là thiên tử lại nhận lỗi với mình, cũng không dám được voi đòi tiên, vội cúi mình vái một vái rồi nói:
- Thần thiếp nào dám giận Hoàng Thượng chứ? Đa tạ Hoàng Thượng ban thưởng.
Thân phận là mối tâm bệnh của Hàn Ấu Nương. Khi trượng phu là tú tài, nàng vẫn luôn cảm thấy một cô con gái của gia đình thợ săn như mình đã không xứng với người ta. Bây giờ có được lệnh phong của Hoàng Thượng, trong lòng sao mà không vui chứ.
Thấy chân mày Hàn Ấu Nương hiện lên chút hân hoan, Chính Đức mới yên tâm, vui vẻ cười nói:
- Trẫm không những muốn thưởng tỷ tỷ, còn muốn thưởng Dương thị độc nữa. Chẳng phải là Vương Cảnh Long nói khanh bỏ ra vạn lượng bạc trắng mua tỳ nữ là không hợp tình hợp lý sao? Ha ha, số bạc đó là của trẫm bỏ ra, vậy coi như trẫm mua về tặng khanh làm thiếp là được rồi. Phủ nội vụ đã xác định Hoàng Hậu cho trẫm, còn tuyển chọn ra hai Hoàng Phi. Ừm... (hiện) đang định ngày đại hôn của trẫm. Đến ngày đó trẫm sẽ hạ chỉ ban thưởng hai người bọn họ làm thiếp của khanh rồi động phòng thành thân.
- Hả?
Dương Lăng nghe xong giật mình thất kinh, Hàn Ấu Nương cũng khá bất ngờ, còn Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thì ngạc nhiên pha lẫn mừng rỡ. Ánh mắt hai người vừa chạm nhau liền lập tức dời đi, gò má không kìm được mà đỏ lựng, nhưng trong đôi mắt trong veo lại đầy vẻ thẹn thùng và vui sướng không nói thành lời.
Cao Văn Tâm chỉ hơi cụp mi, thần sắc bình tĩnh, nhìn không thấy vẻ gì khác thường. Tuy rằng Hàn Ấu Nương đã ngầm chấp thuận cho phép chung chồng, nhưng nàng tự biết thân phận nô tỳ khó bỏ, trước giờ chưa từng ôm vọng tưởng này nên không suy tính thiệt hơn với hai người Ngọc Đường Xuân.
Tiểu hoàng đế vỗ vai Dương Lăng một cái, trịnh trọng nói:
- Ngày trẫm thành hôn sẽ chính là ngày khanh thành hôn. Trẫm nguyện thề cùng khanh cùng vui tiệc chúc, cả đời tin nhau, từ nay về sau vừa là vua tôi, vừa là bạn tốt.
Đoạn y vui vẻ nói tiếp:
- Lần trước ở trong núi bắn pháo hoa trông thật đẹp, trẫm vẫn luôn mong muốn có thể xem lại. Chờ đến ngày đại hôn của trẫm sẽ không còn ai có thể mượn cớ ngăn trẫm nổi lửa đốt pháo nữa. Ha ha ha!!! Trẫm thật sự đã trông đợi lễ đại hôn này lâu lắm rồi. Ừm, đêm đại hôn của trẫm, khanh hãy vào trong cung giúp trẫm đốt pháo cho thoả thích.
Y vung tay, cười nói:
- Trẫm phải xem pháo hoa cả đêm, thâu đêm suốt sáng...
Cao Văn Tâm nghe xong cái mệnh lệnh hồ đồ này, thiếu chút nữa thì đã cười phì. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai liếc mắt nhìn nhau, khoé miệng đang cười cũng không khỏi ngầm mang một nỗi thất vọng...
Chú thích:
(1) chức thẩm tra đối chiếu lời khai với sự thật.
(2) phòng chờ thẩm vấn.
(3) "wèi... wù..." tiếng hô kéo dài của nha dịch khi bắt đầu thăng đường xử án. Xem Bao Thanh Thiên sẽ rõ.
(4) phản tọa là thuật ngữ chỉ việc lấy tội danh và hình phạt của người bị vu cáo ghép cho kẻ vu cáo
(5) nguyên văn "đào lý thành hề" trích từ câu "đào lý bất ngôn, hạ tự thành hề". Đào và mận không cần biết nói để thu hút người khác (đào lý bất ngôn), nhưng hoa thơm quả ngọt của chúng đủ lôi cuốn người ta nườm nượp tới lui, tạo thành một con đường nhỏ dưới gốc của chúng (hạ tự thành hề). Câu thành ngữ này xuất xứ từ "Sử ký Lý tướng quân liệt truyện" này ví von rằng, chỉ cần là người chân thành và trung thực thì sẽ có thể cảm hoá người khác.
(6) tác phong và uy tín của quan lại.
(7) Người nào là vợ quan cũng được gọi là "phu nhân" cả, nhưng đó là "phu nhân danh phận", dựa theo chồng, không oai bằng tước "phu nhân" do vua ban thưởng. "Cáo Mệnh phu nhân" là tước do vua ban cho phụ nữ có công, tước này có bổng lộc, không có thực quyền.
Theo http://baike.baidu.com/view/597131.htm
thì từ ngũ phẩm trở lên mới gọi là "cáo", từ lục phẩm xuống cửu phẩm gọi là "sắc".
Chương 106: Giai Nhân Hầu Rượu
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Trên giường bổ dưa uống rượu, bên suối liễu rũ nghe đàn, nâng chén giơ đũa, mỹ nữ hầu quanh, người nào người nấy dung nhan xinh đẹp, có tình có ý với y. Đối với đám lão tử phong lưu ngày xưa, có phải đây là cuộc sống đáng mơ ước nhất không? Vậy đối với đàn ông hiện đại thì sao?
Ven con suối là liễu, du hòe, long lão mọc lẫn vào nhau. Do mấy ngày nay vừa phải hứng chịu cơn mưa lớn nên dấu vết cơn lũ vừa quét qua còn in rất rõ. Dòng suối đổ vào một con sông nhỏ nay đã cạn nước, còn rải rác vài thân cây khô, những búi rễ sần sùi của một vài gốc cây già ở mép sông trơ cả ra ngoài.
Bên gốc thùy dương liễu (*) là một tảng đá xanh nghiêng nghiêng chìm một nửa vào nước. Dưới tảng đá, nước sông trong vắt dồn về thành dòng chảy xiết, sâu hơn một đầu người, rộng khoảng bốn trượng. Trên triền núi bên trái là doanh trại do năm trăm thân quân của Tả tiêu doanh dựng lên. Từ sơn đạo có thể nhìn khắp cả Cao gia trang, thấy rõ từng đình đài lạc viện trong vườn nhà.
(*:loại liễu rủ, lá dài; khác với cây dương ở vùng biển có lá ngắn hơn.)
Cảnh vật thôn làng vốn vẫn u nhã tĩnh lặng nhưng đã vào trung tuần tháng sáu, khí trời oi ả lẫn tiếng ve sầu ra rả suốt ngày khiến người ta khó lòng an giấc. Lúc này, trên một chiếc giường tre làm bằng trúc Tương phi(1) đặt bên cạnh con sông nhỏ, Dương Lăng thảnh thơi nằm như một lão thái gia, ánh dương quang loang lổ vương rắc lên người khiến y lim dim muốn ngủ.
Hai tay hai chân y đều được quấn băng trắng, một chiếc cần câu dựng thẳng trước người, chiếc phao nhẹ đung đưa trên mặt nước, cá đã sớm thoát câu nhưng chẳng có ai thay mồi.
Từ kinh sư trở về được mươi ngày, những ngón tay bị nẹp gỗ kẹp nát, cẳng chân bị gông xiềng cứa bầm dập của Dương Lăng được sự chăm sóc tận tình của nữ thần y Cao Văn Tâm nên cũng sớm hồi phục được bảy tám phần. Tuy nhiên các cô nương Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân không dám chủ quan, thấy cổ tay lẫn mắt cá chân của y mới lên da non, sợ bị bong tróc nên vẫn quấn băng vải dày cộm bắt nghỉ ngơi tử tế.
Chiếc giường tre y đang nằm là lễ vật do Nghiêm Tung biếu tặng. Nơi quê nhà, gia đình họ Nghiêm cũng được xem là một tiểu địa chủ, nhưng ở kinh thành thì thực không có gì đáng để tự hào. Đã không thể biếu được lễ vật hậu hỉ, thôi thì gã cứ tặng chút nhã vật hợp thời, ấy vậy mà lại rất hợp lòng dạ Dương Lăng.
Đối với chuyện vì sao đất lấy từ Đế Lăng về lại khớp với đất do bộ Lễ đang giữ, Dương Lăng vẫn luôn ôm mối hoài nghi trong lòng.
Khi Nghiêm Tung đến viếng thăm, y đã quanh co dò hỏi thử. Vốn Nghiêm Tung luôn cho rằng Thành quốc công và Vương Thủ Nhân mới là những người phụng chỉ hành sự, không chừng Dương Lăng cũng biết rồi, mà gã lại không dám khoe công, nên ban đầu không dám kể sự thật, cứ quanh co vờ vịt một hồi.
Nhưng sau gã nghĩ mình đã phát hiện được bí mật, trong lòng lại đâm ra ngứa ngáy khó chịu, e rằng người ta không biết mình cũng đã góp sức giúp đỡ nên trong lời nói không khỏi để lộ một số tin tức.
Dương Lăng nghe biết được ba người Thành quốc công, Vương Thủ Nhân và Nghiêm Tung liên thủ giúp y vượt ải khó, đương nhiên đầy lòng cảm kích khó tả bằng lời.
Mấy ngày qua, hầu hết những người có giao tình và quan hệ với y như Tiền Ninh, Vu Vĩnh của Cẩm Y Vệ, phó quan ở Tam Ty và Thần Cơ Doanh, Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành của nha môn nội cung đều đích thân đến thăm; những ai không đi được cũng sai người đến tặng hậu lễ.
Những người này vung tay nào chỉ ngàn vàng. Dương Lăng ăn phải trận đòn, ra đến đầu chợ lại biểu diễn xuất sắc vai viên quan thanh liêm nên không những danh tiếng trung thành và nhân ái của y lan truyền khắp dân gian mà còn kiếm được vàng bạc tràn bồn đầy chén. Chẳng những mấy người Đới Nghĩa, Lý Đạc, Nghê Khiêm chẳng thể bì được mà bọn họ còn phải mua lễ vật đến nhà thăm hỏi Dương Lăng. Đến nước này, bọn họ cũng biết mình thoát chết là hoàn toàn nhờ vào Dương Lăng; do đó bọn họ đến thăm tất nhiên là để tạ ơn, chẳng qua trong lòng ai nấy đều rõ nhưng không nói ra thôi.
Dương Lăng từng nhậm chức đông cung thị độc, chịu sự cai quản của phủ Chiêm Sỹ(2), thế nên theo lễ tục thông thường, phủ Chiêm Sỹ cũng đã phái người đến thăm hỏi y. Giờ đây Dương Lăng đang là sủng thần của nhà vua, vuốt mặt cũng phải nể mũi cho nên phủ Chiêm Sỹ không dám qua loa chậm trễ, phái ngay một vị Hàn Lâm học sỹ đến thăm viếng.
Dương Lăng là tú tài trẻ tuổi nhất Tuyên phủ, mười sáu tuổi đã có công danh. Vị học sỹ được phủ Chiêm sỹ phái tới này lại càng không hề kém cạnh. Vị này là Thị giảng học sỹ của vua Chính Đức tên Dương Đình Hoà, mười hai tuổi đã là thần đồng nổi tiếng khắp Ba Thục. Vì học lực vượt trội đồng sinh (*) nên từ tú tài lão được thi thẳng lên cử nhân. Mười tám tuổi đỗ tiến sỹ, đến năm hai mươi tám tuổi được tuyển vào Hàn Lâm. Học bạ của Dương Lăng đem so với cái lý lịch chói lọi huy hoàng này thực như đom đóm so với ánh mặt trời.
(*): tên gọi thư sinh chưa thi tú tài hoặc chưa đậu kỳ thi tú tài, chữ đồng 童 nghĩa là nhỏ.
Được cái vị Dương học sỹ tuổi ngũ tuần này tính tình hết sức hiền hoà, bình thường trò chuyện cũng tuyệt đối không vì mình đọc nhiều Kinh Thư mà mở miệng ngậm miệng sặc điều hủ lậu. Hai người vừa chuyện trò một hồi, Dương Lăng bỗng nảy sinh hảo cảm với vị Thị giảng đại học sỹ này.
Vốn nể mặt mũi Hoàng Đế nên Dương Đình Hoà mới theo lệnh của phủ Chiêm Sỹ đến thăm hỏi sức khoẻ Dương Lăng. Trong lòng lão cũng xem thường vị sủng thần của Hoàng Đế thăng tiến như hoả tiễn nhưng lại có xuất thân tú tài này.
Song vừa mới bắt chuyện, Dương Đình Hoà đã phát hiện tuy vị tú tài này nói năng lung tung, không hề có một quan niệm mang tính hệ thống về các loại sự việc, nhưng mỗi khi y mở miệng, nếu không trúng vào trọng tâm thì cũng nói ra được lợi và hại trong đó. Còn như khi đưa ra cách giải quyết vấn đề, tuy rằng vài nhận xét và tư tưởng của y quá cấp tiến, chưa hẳn đã thích hợp để triều đình áp dụng, nhưng những kiến thức hiện đại hơn người này của y có rất nhiều bậc túc nho đầy bụng kinh thư cũng không thể nghĩ tới. Thỉnh thoảng y thờ ơ buông một câu tưởng chừng vô thưởng vô phạt, nhưng lão ngẫm nghĩ kỹ thì lại thấy rất có lý. Dương Đình Hoà không khỏi nhìn y bằng một con mắt khác, vẻ hờ hững lập tức không còn.
Cũng may Dương Lăng không hề biết uy danh lừng lẫy của vị "đồng tộc" (cùng họ) này, nên trong lúc chuyện trò y mới bạo gan nói thẳng những suy nghĩ của mình mà không hề kiêng dè gì cả. Tuy học vấn của y không sánh được với Dương Đình Hoà, nhưng thỉnh thoảng y thuận miệng nói một câu lại là những kết luận mà các bậc nhân sỹ có kiến thức ở đời sau quan sát các giai đoạn lịch sử sau đó mới đúc kết lại được. Vì vậy trong con mắt của Dương Đình Hoà, đương nhiên Dương Lăng là người nhìn xa trông rộng, kiến thức bất phàm.
Điều này cũng giống như là một thằng bé tinh quái và một võ lâm cao thủ. Mỗi lời nói, mỗi cử động vô tình của thằng bé đều chứa đựng cái gì đó chí lý, tuy rằng bản thân nó mù tịt không hay biết gì, nhưng trong mắt của người thạo nghề, đó lại là những gợi ý rất thích hợp.
Dương Đình Hoà cũng không ngờ là những quan điểm và kiến thức trước giờ lão chưa hề nghe tới, khiến cho người nghe phải giật mình tỉnh ngộ mà Dương Lăng phát biểu một cách không hệ thống đó, ngay cả bản thân Dương Lăng cũng không thấu đáo nội tình bên trong. Lão chỉ tưởng rằng y không chịu nói sâu, nói rõ thêm thôi.
Nhưng học vấn của lão vô cùng sâu rộng, chỉ cần tiếp thu những gợi ý này, kết hợp với học thức và kinh nghiệm của bản thân, đương nhiên lão có thể lập tức suy diễn, biến hoá thành những chính sách trị nước có thể được triều đình thi hành. Đến lúc này Dương Đình Hoà đã không còn xem Dương Lăng là kẻ viết không hay, nắm cày không thạo nữa, mà cho rằng y là người thâm tàng bất lộ, trong lòng không khỏi khâm phục và kính nể y.
Dương đại học sỹ là người không hề đố kỵ kì tài, từ đó về sau khi nhắc đến Dương Lăng lão đều không ngớt lời tán tụng. Dương Đình Hoà là tài tử cực kỳ có danh vọng trong Hàn Lâm viện, được lão khen ngợi cộng thêm việc gã Nghiêm Tung mới vào viện không tiếc lời tâng bốc, đám người Hàn Lâm vốn đọc sách bao năm mà vẫn phải lãng phí thời gian trong viện vẫn luôn bất mãn với việc Dương Lăng thăng chức vượt cấp ào ào cũng không còn dám quá ngông cuồng nữa. Những kẻ vốn thường xuyên công khai chỉ trích việc Dương Lăng chỉ xuất thân tú tài khó lòng đảm đương việc lớn cũng lập tức giảm bớt chê bai, biếm nhẽ rất nhiều. Chuyện tốt này khiến cho Dương Lăng rất đỗi bất ngờ.
Thực ra mấy người Lý Đạc và Đới Nghĩa đến thăm Dương Lăng xong thì hôm sau liền trở về Thái lăng ngay. Không phải vì thương thế của bọn họ khỏi nhanh hơn Dương Lăng, mà bọn họ còn ước gì ngày đó bị Hồng Chung đánh tàn nhẫn thêm một chút để bọn họ phải được khiêng về Thái lăng làm việc, có như vậy mới biểu lộ được sự trung thành của bọn họ với triều đình.
Lúc này Dương Lăng cũng đã khôn ra, y không dám chậm trễ việc công để người ngoài đàm tiếu nên cũng muốn theo về Thái lăng. Đới Nghĩa lại nghĩ là y chưa "yên tâm" với vị tam thiếu gia họ Vương đã vu cáo y, nên vội vỗ ngực tỏ ý trung thành, ra vẻ "ta đã làm thì cậu cứ yên tâm".
Thế nhưng nhìn cái vẻ cười gian của lão, vốn không muốn kết mối thâm thù với Vương Quỳnh, Dương Lăng lại càng không yên tâm. Vừa đúng lúc này, ân chỉ của đương kim Hoàng Đế Chính Đức lại đến.
Ý chỉ này trước hết tặng lại bức vẽ dốc núi và cây tùng do vua Hoằng Trị đã ban tặng cho Dương Lăng. Phỏng chừng Chính Đức cũng biết dù sao đi nữa thì trình độ hội họa của y cũng không thể bì được với Tiên đế, cho nên y cũng không dám tô vẽ, ghi chữ đề thơ gì gì lung tung lên bức hoạ đó, nhưng y lại đóng một cái ấn to đùng lên. So tranh chữ thì không thể hơn người cha quá cố, vậy so xem ấn của ai lớn hơn đi! Cái ấn của Chính Đức to gần bằng ngọc tỷ (ấn vua), một cái ấn lớn vuông vưng vức nằm chình ình chói lọi trên một bức tranh sơn thủy rất đẹp, trông như thế nào cũng chẳng ra ngô ra khoai gì cả!
Tiếp đó trên ý chỉ lệnh phong Hàn Ấu Nương làm tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân, căn dặn Dương Lăng dưỡng thương thật tốt, ở yên trong nhà đợi ý chỉ an bài. Thế là Dương Lăng, vốn không thật sự muốn đi sửa mồ sửa mả, đã có lý do chính đáng để ở lại trong nhà hưởng phúc.
Bận rộn đón đưa khách khứa hết mấy ngày, hôm nay yên tĩnh, Dương Lăng liền kêu người mang chiếc giường tre cùng Ấu Nương đến bên nơi khe sông hẻm núi này hóng mát, câu cá. Thấy tướng công mệt mỏi thiu thiu ngủ, Hàn Ấu Nương bèn khẽ rút bàn tay xinh xắn mềm mại ra khỏi tay y, kéo chiếc áo mỏng ở cạnh đắp lên người tướng công rồi lặng lẽ nhón chân rời khỏi.
Cử động nhẹ nhàng của nàng khiến cho Dương Lăng vốn chỉ hơi lim dim liền tỉnh dậy. Y nheo mắt, gạt nhẹ nhành cây nhìn theo Ấu Nương. Ấu Nương rón ra rón rén di chuyển một lát mới đi đứng bình thường trở lại. Nàng đứng dưới một gốc cây xoay hai vòng, ngửa mặt quan sát một hồi rồi lại lấm la lấm lét ngoái đầu nhìn về phía Dương Lăng.
Dương Lăng nổi lòng hiếu kỳ, không biết Hàn Ấu Nương định làm gì. Vừa thấy nàng quay đầu, y liền nhắm mắt vờ ngủ. Thấy Dương Lăng đã ngủ, Hàn Ấu Nương lại nhìn quanh thêm mấy lần, sau đó nàng vén nhanh vạt váy nhét vào hông, ắn hai ống tay áo, nhổ nước bọt vào bàn tay, rồi hai tay bám vào thân cây trèo soàn soạt lên cao. Nàng di chuyển nhanh nhẹn như một con khỉ lanh lợi, cặp mông tròn lẳn lắc lư.
Dương Lăng cả kinh. Ban đầu y còn sợ Hàn Ấu Nương té ngã, nhưng khi thấy thân thủ nàng khoẻ khoắn như vậy, y cũng không khỏi thán phục. Đứng trên cây, vẻ mặt Hàn Ấu Nương rất là hoan hỉ, như thể nàng đã không được chơi trò này từ rất lâu rồi.
Đây là một cây đào cổ thụ, cành cây bên dưới đã bị tiều phu chặt bỏ, chỉ để lại vài nhánh cây bén nhọn. Trong những tán lá xum xuê tươi tốt che giấu rất nhiều quả đào xanh, lông mềm, vị chát, to cỡ quả óc chó.
Hàn Ấu Nương nhón chân ngắt vài quả, lấy trong người ra một chiếc khăn tay bọc lại, nhét vào trong người rồi trèo xuống. Nàng chạy đến bên bờ sông mang quả đào xanh ra rửa, cắn rộp một quả ăn ngon lành, cũng mặc kệ quả đào đó chua hay chát.
Dương Lăng lặng lẽ đứng dậy, chậm rãi bước tới gần. Cổ chân y quấn băng vải dày nên đi đứng không được linh hoạt, y không cẩn thận đạp phải một cục đá. Một tiếng "sột" vang lên khiến cho Hàn Ấu Nương vừa mới đứng dậy giật thót mình. Nàng nhảy bắn người lên, một chân đạp xuống nước.
Ấu Nương cuống quýt rút chân lên. Quay đầu nhìn thấy tướng công đang đứng cạnh mình mỉm cười, nàng xấu hổ đứng yên, rụt cổ như một đứa trẻ đang đợi bị trách phạt, trong chiếc miệng xinh xắn còn đang ngậm một miếng đào xanh mang vị thơm chát.
Dương Lăng thấy Hàn Ấu Nương đứng ngây người tại chỗ, váy quấn trên eo, một chiếc giày thêu sũng nước, tay trái cầm khăn bọc sáu bảy quả đào xanh, tay phải cầm một quả đang cắn dở, khuôn mặt hơi ngăm đen thanh tú đỏ bừng, trên chóp mũi thẳng tắp xinh xắn còn lấm tấm vài giọt mồ hôi, thì không nhịn được bật cười phì, hỏi:
- Tam phẩm Cáo Mệnh phu nhân của ta ơi, nàng đang làm chuyện xấu gì đó hử?
Hàn Ấu Nương vẫn luôn dịu dàng hiền thục, suýt chút nữa Dương Lăng quên mất tuổi tác của nàng. Giờ thấy hình dáng này của nàng, y mới sực nhớ nàng là một cô nhóc từ nhỏ đã quen với cuộc sống hoang dã nơi núi rừng, bây giờ cùng lắm mới mười sáu tuổi, đang là tuổi tinh nghịch ham chơi, thế mà lại đã giúp chồng tề gia, sắm vai vợ hiền. Cũng may mà nàng có thể kiềm nén lâu như vậy.
Thấy Hàn Ấu Nương vẫn đứng nguyên tại chỗ, dáng điệu cực kỳ ngây thơ lẫn vẻ mặt ngốc nghếch hiếm thấy, Dương Lăng mỉm cười kéo xoã váy xuống hộ nàng, rồi nhẹ vuốt tóc bên má nàng, âu yếm:
- Thích ăn quả xanh thì về bảo gia nhân đi mua là được rồi. Trái dại như vầy hơi chát, ăn không được đâu!
Vốn tính tinh nghịch hiếu động, từ lúc cưới ông tú tài này thực không rõ Hàn Ấu Nương đã phải kiềm chế biết bao lâu. Hôm nay trở lại vùng rừng núi quen thuộc, trong lúc quá vui nàng đã trèo cây hái quả. Là một người phụ nữ đã có chồng, hơn nữa còn là Cáo Mệnh phu nhân, mà lại không giữ phong thái như vậy, nàng thực lòng lo ngại Dương Lăng sẽ quở trách. Đến khi thấy gương mặt đầy vẻ cưng chiều của y, Hàn Ấu Nương mới cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng vội vã nuốt miếng đào trong miệng, vứt quả đào đã cắn một nửa trong tay đi, rồi nắm chéo áo y bẽn lẽn:
- Tướng công, thiếp... thiếp... xin lỗi...
Dương Lăng cười, không đồng ý:
- Chỉ là trèo cây thôi mà! Trèo thì trèo thôi, nhà chúng ta không có những quy định lộn xộn kia.
Đoạn y choàng vai Ấu Nương đi đến giường tre, vừa đi vừa bảo:
- Nàng đừng có nghĩ ngợi quá nhiều! Mấy ngày nay ở nhà, ta chỉ thấy nàng ngồi luyện khí, công phu côn bổng đã lâu không đụng tới rồi. Ấu Nương! Luyện võ có thể cường thân kiện thể, tịnh không phải là hành vi thấp hèn gì. Cáo Mệnh quý phụ thì sao chứ? Nàng đừng quá để ý đến thái độ của người khác. Đừng quên là ngoài chợ ngoài phố hiện đang đồn rằng tướng công là con cháu Dương Gia Tướng. Con gái nhà họ Dương võ nghệ cao cường là điều đương nhiên. Ha ha! Trở về ta sẽ bảo lính dọn miếng đất ở hậu viên, sau này mỗi ngày nàng vẫn phải luyện võ, tướng công cũng sẽ theo nàng học võ.
Y ngồi lên giường tre, thuận tay kéo nhẹ, Hàn Ấu Nương liền ngã lên đùi y. Hàn Ấu Nương bẽn lẽn vùng vằng lấy lệ một chút rồi cười ngượng ngùng không lên tiếng nữa. Dương Lăng ôm chiếc eo thon của Ấu Nương, bàn tay xấu xa "tập kích" bộ ngực mềm mại của nàng, kề tai thì thầm:
- Ấu Nương! Chỗ này đã to lên không ít à.
Hàn Ấu Nương vừa qua tuổi trăng rằm, thân thể vẫn đang phát triển, ngực đã dần dần nẩy nở. Bộ ngực bé như chồi non muốn nở đằng sau chiếc yếm lót căng lên thấy rõ. Ban ngày ban mặt ở trên núi bị tướng công bạo gan sờ nắn như vậy, Hàn Ấu Nương ngượng đến nỗi mặt nóng hầm hập. Nàng giữ tay Dương Lăng, không nén được xấu hổ van nài:
- Tướng công! Đừng mà! Mình đang ở bên ngoài đó.
Dương Lăng cười khà khà (TJ: cười gian bỏ mẹ), không nỡ nhìn nàng khó xử bèn thuận thế bỏ tay xuống. Tay chạm đến những quả đào xanh đẫm nước, trong lòng Dương Lăng chợt máy động. Y kinh ngạc xen lẫn vui mừng kêu thất thanh:
- Ấu Nương! Có phải nàng đã cấn thai không? Sao lại... sao lại thích ăn đào chua vậy?
Nói rồi y không tự chủ rờ tay lên bụng dưới phẳng lì của Ấu Nương. Hàn Ấu Nương ngượng ngùng đẩy tay y ra:
- Không có mà, không có mà! Từ nhỏ người ta đã thích ăn đào xanh rồi.
Đoạn nàng quay mặt lại, sợ hãi hỏi:
- Tướng công! Có phải là Ấu Nương không thể sinh con không?
Dương Lăng bật cười:
- Sao lại thế được!? Chúng ta cứ tiếp tục cố gắng rồi sẽ có thôi. Vả lại, nếu như không có con được thì cũng chưa chắc là đã do nàng.
- Hở?!
Hàn Ấu Nương lấy làm lạ lùng khó hiểu. Không phải là phụ nữ sinh con sao? Nếu sinh không được không phải là lỗi của phụ nữ vậy thì lỗi của ai đây?
Dương Lăng không muốn giải thích những thứ quá phức tạp với nàng. Trông thấy mắt ngọc xoe tròn, bộ mặt đáng yêu đang kinh ngạc nhìn mình, y không nhịn được hôn lên má nàng một cái rồi cười nói:
- Lại đây, cởi giày ra đi! Mang giày thấm nước không thoải mái đâu.
Nói rồi y giúp Ấu Nương cởi giày cởi vớ, để lộ đôi chân nhỏ nhắn trắng phau.
Chân của phụ nữ không thể để người khác thoải mái nhìn. Cho dù đó là tướng công của mình nhưng đang ở ngoài trời ban ngày ban mặt nên cũng khiến Hàn Ấu Nương rất ngượng. Nàng vội co chân lên giường, kéo chiếc áo khoác mỏng che phủ bản chân. Nàng vẫn bận lòng về vẻ mặt tràn đầy thất vọng của trượng phu vừa rồi: "Quả thực cũng đã gần nhau được bốn tháng rồi, sao cái bụng này lại không biến hóa gì vậy nhỉ?"
Cô nàng xoa bụng, không còn chút hứng thú ăn đào nào. Trề môi suy nghĩ một hồi lâu, nàng bỗng lắp bắp hỏi:
- Tướng công! Khi nào Hoàng Thượng làm lễ đại hôn vậy?
Dương Lăng giật thót mình, buông chiếc giày vừa mới cởi ra, ngập ngừng khó trả lời. Ngày đại hôn của Hoàng Thượng cũng chính là lúc mà y sẽ nạp thiếp, còn là phụng chỉ nạp thiếp, làm sao cự tuyệt đây?
Từ kinh trở về, y đã cố tránh không bàn đến chuyện này, nhưng người trên kẻ dưới trong phủ ai nấy đều đã thích ứng, cho rằng việc lão gia nạp thiếp là chuyện hết sức tự nhiên. Nhất là lão gia được Hoàng Thượng ban thưởng, nô bộc trong phủ khi ra ngoài kể chuyện với người khác đều đầy vẻ tự hào. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cũng sớm đã tự học dùng lễ thiếp mà hầu hạ y và Ấu Nương, bắt đầu gọi Ấu Nương tỷ tỷ, dường như cũng có ngụ ý khác.
Dương Lăng thoáng thừ người, ấp úng đáp:
- Hoàng Đế ban thưởng, tướng công cũng không biết phải cự tuyệt như thế nào nữa. Ngọc nhi, Tuyết nhi đều là những cô nương tốt, nhưng nàng cũng thấy đấy, quan trường hiểm ác, lần này mất đi ba vị thượng thư, trong triều không biết bao nhiêu đại thần bất mãn với ta. Đi theo ta... chưa hẳn đã là phúc đâu.
Hai tay ôm lấy gối, Hàn Ấu Nương bật cười như tiếng suối reo:
- Tướng công lúc nào cũng buồn lo vô cớ, Ấu Nương thật không biết rốt cuộc tướng công lo lắng về cái gì? Tướng công đừng trách Ấu Nương lớn mật, nhưng theo chàng thì phải đối đãi với bọn họ thế nào thì bọn họ mới sẽ vui vẻ, bọn họ mới sẽ hạnh phúc?
Rồi nàng thở dài, giọng xa xăm:
- Tướng công! Chàng không biết chứ, sau khi Hoàng Thượng hứa chuyện thành thân, trong lòng bọn họ rất là vui sướng, thiếp có thể cảm nhận được điều đó. Có lúc thiếp đã nghĩ, người ta đã bước vào nhà chúng ta, nếu không thể như vậy thì còn có thể làm thế nào đây? Ấu Nương biết tướng công thương thiếp, nhưng nếu để Ấu Nương mang tội ghen tỵ, Ấu Nương... thật sự sẽ không vui đâu. Đối với các cô Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, được đi theo tướng công chính là phúc khí của bọn họ. Tuy rằng bọn họ xuất thân đê hèn, nhưng trọng tình trọng nghĩa, lúc chúng ta lâm nạn đã chịu vứt bỏ mạng sống mà theo cùng.
Tướng công càng làm quan thì chức vị càng lớn, thê thiếp khắp nhà là việc mà Ấu Nương đã dự liệu. Nếu như thật sự phải đón vài tỷ muội vào nhà, Ấu Nương tình nguyện đón bọn họ. Phải nói thật sự Văn Tâm tỷ tỷ nặng ân tình với tướng công nhất. Nếu không phải tên Thập trưởng đó đã bị tỷ ấy ra tay, mấy vị Thượng thư đại nhân tuyệt sẽ không dễ dàng nhận tội như vậy đâu, không biết tướng công sẽ còn phải chịu bao trắc trở nữa mới thoát được.
Hàn Ấu Nương thấy y suy nghĩ đến nhập thần, còn tưởng tướng công hơi động lòng, bèn vừa thẹn thùng vừa "thêm dầu vào lửa":
- Ngọc Nhi muội muội bảo tướng Văn Tâm tỷ tỷ mắn con lắm đó! Không chừng tỷ tỷ sẽ sinh được thất lang bát hổ (bảy sói tám cọp, đại khái đông con cái khoẻ mạnh) nữa đó...
- Ừm! Hả?...
Dương Lăng định thần lại, không biết Hàn Ấu Nương đang nói gì. Y đang muốn hỏi lại thì từ trong bụi cỏ cao cỡ đầu người dưới khe suối phát ra một tràng tiếng cười trong trẻo, hai cô gái xinh đẹp hiện ra trên con đường nhỏ. Nhìn thấy hai người, bọn họ mừng rỡ kêu lên:
- Lão gia! Ấu Nương tỷ tỷ!
Dương Lăng ngước mắt nhìn, nhận thấy Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân đang tươi cười bước tới. Tuyết Lý Mai mặc một bộ đồ xanh, tay ôm một cây cổ cầm (2). Ngọc Đường Xuân cũng ăn mặc như thị tỳ, xách một chiếc giỏ. Do tập vũ nhạc nên tuy mặc trang phục thị tỳ, bước chân nàng vẫn nhẹ nhàng uyển chuyển, như thể đong đưa theo gió, dáng bộ hết sức dịu dàng.
Sau lưng hai người, Cao Văn Tâm vừa mới bước qua khỏi bụi cỏ, mái tóc đen được cột bằng khăn xanh, thần thái nhã nhặn trầm tĩnh.
Hai người Ngọc Đường Xuân đến trước mặt nhún người thi lễ với Dương Lăng. Hàn Ấu Nương vội vàng xỏ vớ, giày, bước xuống giường kéo tay Tuyết Lý Mai hỏi:
- Sao các cô đến đây vậy?
Tuyết Lý Mai cười đáp:
- Ngọc tỷ tự tay chuẩn bị rượu và thức ăn đưa đến cho lão gia và tỷ tỷ. Tiểu tỳ nghĩ lão gia câu cá buồn chán, nghe một vài bản nhạc cũng vui nên tiện thể ôm đàn đi theo luôn.
Ngọc Đường Xuân đặt chiếc giỏ bên cạnh giường, hơi thở có phần hơi gấp. Dương Lăng thấy nàng xách giỏ đi hơn hai dặm đường núi, trên khuôn mặt yêu kiều li ti những giọt mồ hôi thì buột miệng:
- Ngọc Nhi! Ta chạy đến đây hóng mát lại nhọc các nàng chạy đến chạy lui. Thật sự đã mệt cho nàng rồi.
Ngọc Đường Xuân đỏ mặt liếc y, khoé miệng mang theo một nụ cười ngọt ngào, nhỏ nhẹ nói:
- Lão gia không cần khách khí, đó là việc tiểu tỳ nên làm.
Cao Văn Tâm bước đến, dịu dàng chỉnh đốn trang phục thi lễ:
- Lão gia! Xin để tiểu tỳ xem lại thương thế của người một chút.
Nàng cẩn thận ngồi bên giường, gỡ băng vải quấn trên tay chân Dương Lăng xuống, nhẹ nhàng quan sát chỗ bị thương một lúc. Thấy lần này y lên núi mà vết thương không bong, da thịt non nơi bị kẹp nát đã bắt đầu dần dần cứng cáp lại, nàng không khỏi nở một nụ cười hài lòng.
Nàng lấy từ trong người ra một bao vải bày lên trên giường, rút ra một cây kim châm mỏng. Ngón tay trắng nõn ấn lên chân Dương Lăng vài cái, tìm trúng huyệt đạo rồi đâm xuống.
Chỗ da non mới mọc của Dương Lăng vốn đã ngứa, bị nàng vê kim châm, lúc đầu chỉ cảm thấy chân tê tê, sau đó vừa mỏi lại vừa ngứa, thế là theo phản xạ có điều kiện chợt duỗi thẳng chân ra, đá trúng vào đùi Cao Văn Tâm.
Dương Lăng cảm thấy đầu mũi chân chạm vào bắp đùi rất mềm dẻo của cô nương người ta, vội xấu hổ rụt lại, ngượng nghịu tìm một chủ đề nói lảng:
- Tiểu thư! Có phải chính cây kim châm nhỏ xíu này đã khiến cho Lục thập trưởng điên đảo thần hồn... Á! A, không phải, là mất thần trí không?
Tuyết Lý Mai phì cười, hào hứng trêu:
- Lão gia nói sai rồi! Lục thập trưởng là bị ba cây ngân châm khiến cho mất thần trí. Còn cây kim châm điên đảo thần hồn này... hình như là để dành cho người khác đó!
Cao Văn Tâm vẫn thờ ơ như không nghe thấy. Một mặt nàng chăm chú vê kim châm, một mặt khẽ giọng giải thích:
- Tiểu tỳ dùng cây kim châm này để kích thích huyết mạch, chỗ bị thương của đại nhân sẽ có thể mau lành hơn. Không phải hôm qua Thị lang bộ Lại Tiêu đại nhân nói vì thu xếp thượng thư của Lục Bộ nên trong triều quần thần đang không ngừng tranh chấp sao? Theo tiểu tỳ thấy, đại nhân sẽ không hưởng thụ được mấy ngày bình yên rồi.
Tuyết Lý Mai thu vẻ mặt của hai người vào mắt, không nhịn được bèn giả mặt quỷ, cười hi hi với Hàn Ấu Nương nói:
- Muội đã được kiến thức thần châm của Văn Tâm tỷ tỷ, chỉ không hiểu được có phải thật là y thuật có thể khiến cho người ta điên đảo thần hồn hay không. Nếu trên đời thật sự có công phu này, con gái trong thiên hạ đều nên đi học một chút. Gặp được đấng lang quân mình cảm mến liền đưa tay lên đâm một cái, ha ha ha...
Cao Văn Tâm đang vê kim châm, sắc mặt vẫn bình tĩnh như không. Nhưng Tuyết Lý Mai vừa nói "gặp được đấng lang quân mình cảm mến liền đưa tay lên đâm một cái", không hiểu sao tay nàng lại rối lên.
Dương Lăng cảm thấy đùi chợt nhói lên. Lúc ngẩng đầu nhìn, y thấy Cao Văn Tâm đang khẽ cúi đầu, cần cổ thanh tú tao nhã, da dẻ như ngọc, có điều hô hấp dồn nhanh, hơi thở thơm ngát như lan, thần sắc trong ánh mắt như mặt nước hồ lấp lánh, cũng không biết là đang thẹn thùng hay đang hờn giận.
Thấy vậy Tuyết Lý Mai le lưỡi, ôm hộp đàn đến bên cạnh, lấy đàn ra đặt trên đùi. Ngón ngọc khẩy đàn, tiếng đàn du dương ngân lên, nghe như một ca khúc có làn điệu cổ xưa.
Dương Lăng nghe không hiểu, nhưng trong bụng Cao Văn Tâm nào chỉ là y thuật, nàng biết ca khúc đó là "Khúc tương tư xưa". Nét mặt cố tạo ra vẻ bình tĩnh thật lâu kia rốt cuộc đã không kiềm nén nổi ửng lên một đám mây hồng. Dương Lăng cảm thấy đùi lại nhói lên, bất giác nhăn mặt khổ sở:
- Cô nương nhẹ một chút... đau...
Cao Văn Tâm cắn môi, đôi mắt đen láy khẽ nguýt y. Khuôn mặt thanh tú đỏ bừng chợt như tràn trề mùi vị quyến rũ của nữ nhân. Nàng mất tự nhiên đưa tay vén mái tóc che lấp hoàn toàn khuôn mặt đỏ bừng của mình, giữ chặt lấy bắp đùi của Dương Lăng không ngừng vê kim. Nửa bên người Dương Lăng đau tê không thôi, nhưng y lại không dám la lên nữa, trong lòng không khỏi thầm kêu khổ.
Cuối cùng Cao Văn Tâm kịp thời tỉnh lại, nhìn thấy đùi Dương Lăng đang run rẩy như đang kìm nén đau đớn, nàng liền vội vàng rút châm, đổi qua chân kia. Đợi nàng châm xong, Ngọc Đường Xuân mới xách giỏ qua mời Dương Lăng và Ấu Nương dùng bữa.
Khó trách vì sao Ngọc Đường Xuân lại mệt đổ mồ hôi. Chiếc giỏ đựng một quả dưa hấu, bốn món ăn bắt mắt, hơn mười miếng bánh kẹo ngọt ăn nhẹ, dùng khăn bọc mấy cục đá lạnh đè giữ hũ sứ, thật chứa không ít đồ.
Trời tháng sáu uống Trúc Diệp Thanh ướp đá! Dĩ nhiên cách thưởng thức rượu này là do Cao Văn Tâm nói lại; cho dù Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vốn vẫn thết đãi rượu ở Thì Hoa quán cũng chưa hề cầu kỳ như vậy. Người cha già của Cao Văn Tâm mê rượu nên trong nhà bố trí hầm trữ băng, bây giờ Dương Lăng hoàn toàn được hưởng lợi.
Trên giường bổ dưa uống rượu, bên suối liễu rũ nghe đàn, nâng chén giơ đũa, mỹ nữ hầu quanh, người nào người nấy dung nhan xinh đẹp, có tình có ý với y. Đối với đám lão tử phong lưu ngày xưa, có phải đây là cuộc sống đáng mơ ước nhất không? Vậy đối với đàn ông hiện đại thì sao?
Dương Lăng cầm đũa lên nhìn quanh, lòng dạ rối bời. Ài! Có phải việc mình quyết tâm tận tình hưởng thụ mọi thứ có được hiện nay mới là chân thực đối mặt với cuộc sống, và cũng là để mình và những người bên cạnh vui vẻ vượt qua không? Bất kể đó có phải là ý định ban đầu của mình hay không, nhưng hết thảy mọi thứ này đều đã đến bên mình. Địa vị như là một lực từ trường, khi anh thăng tiến đến một độ cao nhất định nào đó thì mặc kệ bản thân anh có muốn hay không, cái gì phải tới thì chắc chắn cũng sẽ tới.
Hàn Ấu Nương ngồi đối diện với Dương Lăng, chiếc miệng nhỏ nhắn cắn chiếc bánh nướng mềm, ngọt ngào gắp thức ăn cho y. Ngọc Đường Xuân vén tay áo xanh biếc lên, rót đầy chén cho y. Rượu trong chén óng ánh sắc vàng lẫn xanh biếc, hương thơm nức mũi. Cao Văn Tâm đứng cạnh giường tre nói khẽ:
- Lão gia! Trong Trúc Diệp Thanh đã cho thêm sa nhân, tử đàn, lục quy, trần bì và đường phèn, lòng trắng trứng, có công dụng cân bằng và làm ấm dạ dày, thông máu bổ huyết, rất có ích cho thương thế của lão gia.
Trong tiếng đàn du dương tao nhã, Ngọc Đường Xuân hai tay nâng chén, ngọt ngào ngâm:
- Điền gia túc nhàn hạ, sĩ hữu tạm lưu liên. Tam xuân trúc diệp tửu, nhất khúc côn kê huyền (4).
Mời lão gia uống hết chén này!
Chịu hết nổi rồi! Chịu hết nổi rồi! Dương Lăng cả người mất tự nhiên. Loại cuộc sống "sa đoạ trụy lạc" của bọn sỹ phu phong kiến này cũng không phải là thứ mà những người chưa từng được "bồi dưỡng" và "rèn luyện" như y có thể chung sống thản nhiên với nó à!
Y đón lấy chén rượu, nét mặt căng thẳng. Vừa đang tính đáp lời, y bỗng nghe xa xa có người cao giọng gọi lớn:
- Dương đại nhân! Dương đại nhân có ở đó không? Ta là Cốc Đại Dụng, nếu nghe được thì đại nhân hãy trả lời một tiếng đi!
"Cốc Đại Dụng?" Hai ngày trước Mã Vĩnh Thành xuất cung mua sắm đã đến thăm y. Còn Cốc Đại Dụng theo hầu nhà vua, không dễ gì rời khỏi cổng cung. Nếu gã đã đến, vậy Hoàng Thượng...
Dương Lăng nghĩ đến đây liền vội vàng từ trong chốn hương sắc dịu dàng nhảy lên, vội vã mang giày vào. Y vừa mới đứng dậy đã thấy hơn chục gã đàn ông lực lưỡng mặc áo xanh bó ống (5) từ con lộ khuất sau bụi cỏ chợt hiện ra, phía sau là một công tử nhà giàu đang thong thả bước. Công tử này mặc một bộ đồ bó ống thêu hoa màu nhạt, bên dưới mặc quần rộng ống xanh, ống quần nhét cẩu thả vào trong đôi giày da dê cổ ngắn, trông như cái đèn lồng. Đây là trang phục phong lưu nhất của giới quần là áo lượt trong kinh sư tháng này.
Vị công tử có diện mạo trông rất tuấn tú, tay đeo một cây roi ngựa nhọn đầu đen sì. Từ xa trông thấy Dương Lăng y liền cười ha hả, nói to:
- Dương thị độc! Trẫm bày chút kế mọn thì đã chạy thoát ra khỏi cung rồi. Thương thế của khanh đã khá hơn chưa?
Dương Lăng vội chạy đến trước mặt làm lễ nghênh đón rồi hỏi:
- Sao Hoàng Thượng lại đến vậy? Làm bệnh thần không biết, không kịp nghênh đón từ xa...
Hoàng Đế Chính Đức cười hì hì giơ cây roi ngựa lên khẽ đánh lên vai y, vờ mắng:
- Bớt khách sáo với trẫm đi!
Đoạn hắn nhìn lướt ra đằng sau vai Dương Lăng, rồi tặc lưỡi nói tiếp:
- Trẫm thật hâm mộ khanh đó! Khanh muốn câu cá thì câu cá, muốn ăn dưa thì ăn dưa, muốn chạy lên trên này ngủ cũng có người khiêng giường trúc đến. Trong khi đó ở trong cung trẫm muốn làm gì cũng đều có người ỉ ôi can gián, bị người ta quản đến nỗi thở không ra hơi. Ài! Khổ quá, thật muốn đổi với khanh một chút để thư thái hưởng thụ mấy ngày.
Dương Lăng nghe xong giật thót mình. Tuy là Chính Đức nói đùa, nhưng từ dạo suýt ăn đao lần trước, Dương Lăng đã không còn dám bất cẩn với những tiểu tiết mà xưa nay y không hề đề ý đến. Y không để ý, Chính Đức không để ý, thì có kẻ khác để ý. Trong mắt một số người thì những thứ này lại là những nghi lễ mà quân thần phụ tử nhất thiết phải tuân theo, nếu không thì sẽ là bất quân bất thần, bất trung bất nghĩa. Dương Lăng thực không dám để cho kẻ khác mượn cớ hạch tội nữa.
Y vội cười theo rồi nói:
- Hoàng Thượng là vua của một nước, bá quan dĩ nhiên hết sức trông mong vào Hoàng Thượng. Bọn họ làm vậy cũng là vì muốn tốt cho Hoàng Thượng thôi.
Chính Đức hậm hực hừ một tiếng. Lúc này Cốc Đại Dụng đi đến bờ sông giặt một chiếc khăn tay, chạy về đưa cho Chính Đức. Chính Đức cầm lấy lau khắp mặt, sau đó kéo tay Dương Lăng lại nhìn nhìn ngó ngó, rồi vui vẻ bảo:
- Ái khanh đã khoẻ, vậy thì tốt, thật tốt! Trẫm khó có được dịp rời cung, mấy cái chuyện rộn tâm này không ai nói với các lão, khanh cũng không cần giả vờ khuyên ngăn nữa. Trẫm biết khanh không giống mấy con mọt sách đó, ha ha... Đi thôi! Đi du ngoạn một chuyến với trẫm cho thật thoải mái, trở về trẫm còn có đại sự muốn thương nghị cùng khanh.
Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhanh chóng đưa mắt ra hiệu cho đám người Ngọc Đường Xuân rời khỏi, sau đó ngần ngừ hỏi:
- Vậy..., nếu Hoàng Thượng không ngại thì cùng đi nghe đàn uống rượu, cùng nhau câu cá có được không?
"Danh tiếng" háo sắc của vị Hoàng Đế Chính Đức trong lịch sử quá "lẫy lừng" đi. Tuy Dương Lăng không thông thuộc chính sử nhưng đã đọc không ít giai thoại dã sử. Trong những giai thoại về Chính Đức, có giai thoại nói rằng ban đêm Hoàng Đế dạo chơi Tuyên phủ, thấy một hộ gia đình liền đi vào, tự mình kêu mấy nữ quyến vừa ý vào buồng, bảo đàn ông của gia đình đó chờ ở trong sân; sau khi chơi đã lại đi đến nhà khác chơi tiếp. Lúc Dương Lăng đọc đến đoạn cố sự này, ngoại trừ có đôi chút hoài nghi về quan điểm thẩm mỹ "bụng đói vơ quàng" và năng lực "siêu khoẻ" của Hoàng Đế Chính Đức, y không hề nghi ngờ tính thật giả về sự háo sắc của nhà vua. Dẫu sao thì lịch sử cũng là do "nhiều miệng một lời" mà ra.
Từ lúc khéo duyên quen biết Hoàng Đế Chính Đức đến nay, tuy trước mắt vẫn chưa thấy chút dấu hiệu háo sắc nào của hắn, nhưng hoàn cảnh hôm nay, tư tưởng này, ờ... thật sự rất dễ khiến cho người ta "no cơm ấm cật, dậm dật linh tinh" lắm. Hơn nữa Chính Đức đang dần trưởng thành, cũng đã sắp kết hôn, ngộ nhỡ đụng vào con gái rồi "đầu óc mở mang" thì sao? Không thể không đề phòng à nha!
Dương Lăng hơi cảnh giác, cho nên muốn điều nữ nhân rời xa, dụ Chính Đức đi câu cá. Không ngờ Hoàng Đế Chính Đức nghe xong cau mày, mất kiên nhẫn:
- Nghe nhạc, câu cá thì có gì hay mà chơi chứ? Đi! Nếu khanh đã khoẻ, đi điều thân quân của khanh đến, cùng trẫm đi vào trong núi diễn võ. Xem binh sỹ đánh trận, như vậy chơi mới vui.
Số thân quân hiện giờ Dương Lăng có thể cung ứng thao luyện chỉ có năm trăm người, nhân số tuy ít nhưng tinh, đạn dược cũng rất là sung túc, cho nên theo yêu cầu của Dương Lăng, hằng ngày vào núi luyện quân là chuyện bình thường. Dương Lăng không ngờ Chính Đức nói muốn đi chơi lại là chơi súng ống đạn pháo. Cái này thì dễ xử. Y thở phào một hơi, vội tâu:
- Nếu như Hoàng Thượng muốn xem luyện binh, vậy thì dễ. Có điều long thể quý trọng, khi lên núi Hoàng Thượng cần phải ở trong công sự quan sát, không nên khinh suất hiện thân.
Chính Đức mừng rỡ đáp:
- Điều này có gì là khó chứ! Đi, đi, đi!
Nói rồi hắn không nhẫn nại lôi tay Dương Lăng, quay về phía Ấu Nương gọi:
- Ấu Nương tỷ tỷ! Trẫm và Dương thị độc đi xem luyện quân đây, các người tự câu cá nghe nhạc đi nhé.
Mắt cá chân Dương Lăng mới lên da non nên y không dám đi quá nhanh. Y vẫy tay chào Hàn Ấu Nương rồi theo Chính Đức đang vui mừng khấp khởi đi trên con đường nhỏ trong núi. Thuận tay y ngắt một nhánh ngải xanh đậm mùi đưa lên mũi ngửi, thoải mái hỏi:
- Hoàng Thượng có đại sự gì muốn thương nghị cùng thần vậy? Là muốn thần đi đôn đốc kiến tạo Thái Lăng sao?
Chính Đức vẫn bước đi phía trước, thuận miệng đáp:
- Chuyện của Thái Lăng khanh cử một người nào khác đi là được. Hiện giờ mấy người Đới Nghĩa ra sức rất nhiều, trong triều cũng không thấy còn ai ồn ào nữa, những chuyện này không cần khanh bận tâm. Khanh không biết chứ, bây giờ Lục Bộ đã khuyết mất vài viên quan, trẫm không muốn lại dùng mấy lão già tóc bạc, muốn bổ nhiệm khanh làm thượng thư bộ Hình. Nhưng đám lão già không chịu, nói là uy đức và tài trí của khanh không đủ để đảm nhận trách nhiệm to lớn như vậy, làm trẫm tức mà không biết phải làm sao. Không ngờ Đại Dụng thông minh, đã hiến một biện pháp hay cho trẫm.
Vừa nghe mấy vị thái giám đại ca này lại đề xuất biện pháp giúp y, tim Dương Lăng không khỏi đập thình thịch. Y lại nghe Chính Đức hùng hồn nói tiếp:
- Không phải bọn họ nói khanh không đủ tài trí, không kham nổi trọng trách ư? Trẫm cho phép khanh tham dự Kinh Diên (6), khiến cho đám lão già đó phải chấn động. Đúng rồi... khanh biết Kinh Diên chứ?
Từ sau khi Chính Đức kế vị, bá quan không ngừng dâng sớ thỉnh cầu Hoàng Đế mở lại Kinh Diên, Dương Lăng sớm đã nghe qua, sao lại không biết Kinh Diên này là cái gì chứ? Y vừa nghe Chính Đức cho phép y tham dự Kinh Diên, đi đàm kinh luận đạo, nghị luận điển chương văn học, đại sự triều chính với những văn võ bá quan đầy bụng kinh thư, vị Dương tú tài mạo danh thế thân, hữu danh vô thực này liền sợ đến nỗi trong ngực lập tức như có mấy trăm con ếch ở trong giếng đang nhảy "bà thùm, bà thùm, bà thùm".
Chú thích:
(1) Trúc Tương phi: trúc đốm. Tương truyền Vua Thuấn đi tuần ở Thương Ngô rồi băng hà, hai vợ Vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh thương chồng than khóc ở khoảng giữa hai sông Trường Giang và Tương Giang. Nước mắt hai bà vẩy lên cây trúc, từ đó da trúc có đốm.
(2) phủ Chiêm Sỹ là cơ quan phụ trách trợ giúp Thái tử thời Minh. Phủ được bố trí một Chiêm sỹ hàm Chánh tam phẩm, một Thiếu chiêm sỹ hàm Chánh tứ phẩm, một Phủ thừa hàm Chánh lục phẩm. Phủ Chiêm Sỹ lập Tả hữu xuân phường, cục Tư Kinh, và ty Chủ Bộ.
(3) Cổ cầm: một loại đàn cổ. Theo truyền thuyết, cây đàn cổ cầm được sáng chế vào thời Nghiêu Thuấn, và chỉ có năm dây thôi nên được gọi là "ngũ huyền cầm". Về sau, mỗi vị hoàng đế Văn và Võ thêm dây vào làm thành cây đàn bảy dây hay "thất huyền cầm". Hai dây thứ sáu và thứ bảy được gọi là dây Văn và dây Võ.
(4) đây là những câu thơ trong bài "Xuân nhật li hợp" (Chia ly ngày xuân) của nhà văn học Dữu Tín (513-581) thời Bắc Chu.
Nguyên văn:
田家足闲暇,士友暂流连。
三春竹叶酒,一曲鹍鸡弦
Dịch nghĩa:
Cuộc sống nhà nông khá nhàn hạ,
Bạn bè lưu luyến đến chơi.
Ba tháng xuân ngồi uống rượu Trúc Diệp,
đàn một khúc tỳ bà.
Dịch thơ:
Nhà nông cuộc sống an nhàn,
Bạn thân lưu luyến hàng ngày sang chơi.
Ngày xuân rượu Trúc đem mời,
Đàn ca một khúc tỳ bà thêm vui.
(5) nguyên văn là "tiễn y" hay "tiễn tụ y", là loại trang phục mà ống tay áo được sít chặt. Xem hình http://imgsrc.baidu.com/baike/pic/item/b9d8b7018e2b29151d95831c.jpg
(6) nơi Hoàng Đế nghe quần thần đàm luận kinh sử gọi là "Kinh Diên". Xem hình http://imgsrc.baidu.com/baike/pic/item/109eb7ecc265ae1962d09f92.jpg
Chương 107: Mở lại Kinh Diên
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: mechichi
Nguồn: www.tangthuvien.com
Vì lẽ đó, Dương Lăng thân mặc khôi giáp, anh tuấn bất phàm, hai chân đứng nghiêm sừng sững, hai mắt tựa khép mà không khép, nét mặt trầm tĩnh như mặt hồ. Nếu lắp thêm một bộ râu xồm vào, thoạt nhìn nhất định sẽ tưởng rằng ai đó đã khiêng tượng đất của ông thánh Quan Công lên điện.
Dương Lăng chưa từng thống lĩnh quân đội. Tuy nhiên tướng lĩnh dưới trướng y đều là những kẻ kinh qua chiến trận mà lên chức. Dương Lăng chỉ cần truyền thụ cho họ những lý luận kiến thức nửa vời của mình rồi kết hợp với kinh nghiệm tác chiến của bọn họ vào mà thôi.
Từ khi thủ hạ chỉ còn năm trăm thân quân, y đã có thể tự mình đối phó. Để huấn luyện năm trăm thân quân này, Dương Lăng không sử dụng phương pháp huấn luyện binh sỹ mà dựa theo phương pháp huấn luyện quan quân (sĩ quan).
Trong những người này không thiếu nhân tài có năng lực quân sự khá cao. Được tướng lĩnh truyền thụ và sự ủng hộ mạnh dạn của Dương Lăng, bọn họ đã sử dụng nhuần nhuyễn các phương cách chiến lược và chiến thuật tiến công, phòng thủ, triệt thoái, mai phục, vu hồi (1), biến đội quân bên trong thành đội quân bên ngoài, bao vây bọc sườn, lấy hoả khí làm chủ ...
Tuy nhiên với tuổi tác của Hoàng Đế Chính Đức hiện nay, tạm thời hắn chưa thể lĩnh hội được nhiều đến như vậy. Trong thâm tâm, tiểu Hoàng đế hận không thể tự thân xông trận cầm đao giết giặc. Chơi như vậy mới đã. Quân đội của y hiện tại đang dùng hoả khí nên Dương Lăng sao dám để Hoàng đế mạo hiểm. Tuy nhiên tận mắt chứng kiến từng đợt tiếng súng, tiếng pháo nổ rền trời cũng khiến cho vị Hoàng đế chưa từng thấy cảnh này phải xoa tay, không kìm được hào hứng phán:
- Sau đại hôn trẫm muốn diễn võ trong cấm cung. Hoả khí quả thật lợi hại. Lúc đó điều lính đao thương ra, trẫm sẽ cùng khanh đối chiến.
Dương Lăng ậm ờ vâng dạ. Để tiểu hoàng đế tinh lực dồi dào này tập võ luyện binh chưa hẳn đã là chuyện xấu. Có lẽ lúc đầu phần lớn thời gian sẽ chỉ là nghịch phá, song lâu ngày chầy tháng hắn nhất định sẽ hiểu thêm vài điều về lĩnh binh, dụng binh. Lúc đó nếu mình lại cố ý đánh bại hắn mấy lần, với tính cách cứng đầu của tiểu hoàng đế, chắc chắn hắn sẽ nghiêm túc nghiền ngẫm binh thư.
Đột nhiên Dương Lăng lại suy tưởng lung tung nhưng bị chuyện Kinh Diên đè nặng trong lòng nên hiện giờ y không còn tâm tình nghĩ ngợi nhiều như vậy nữa.
Để mình tham gia Kinh Diên ư? Mình sẽ nói gì đây? Nếu anh biết thế giới năm trăm năm sau sẽ ra sao, liệu anh có dám đứng trên bục giảng đại học Thanh Hoa mà vung tay múa chân trước mặt đám giáo sư không?
Dương Lăng tạm nén mối lo âu này lại, cố nặn bộ mặt tươi cười tiễn vị Hoàng Đế Chính Đức đang rất cao hứng ra về rồi mới chau mày nhíu mặt quay về phủ. Lúc y bước vào hoa đình ở hậu viên, hai tỳ nữ trông thấy lão gia đã về liền vội vàng bước tới làm lễ. Tâm tư đang đặt ở nơi khác nên Dương Lăng hờ hững gật đầu rồi đưa mắt nhìn quanh, hỏi:
- Phu nhân đâu?
Cô thị tỳ này là Cao Văn Lan, nguyên là tiểu thư cháu nhà họ Cao, Dương Lăng cũng không nỡ để nàng làm mấy công việc nặng nhọc thấp hèn nên giữ lại nội viện làm Tổng quản thị tỳ. Nàng vội vã trả lời:
- Phu nhân và cô nương Tuyết nhi cùng tỷ tỷ Văn Tâm đã ra hậu viên hái rau, một lúc nữa sẽ quay về.
Hàn Ấu Nương không chịu an nhàn. Phía sau nội viên nhà họ Cao c mảnh đất trống, Ấu Nương thấy tiếc nên đã khai phá một mẫu để trồng trọt nhiều loại rau củ mới. Lúc đầu nàng cũng chỉ dám đứng ngoài chỉ trỏ, sau thấy Dương Lăng có ý làm ngơ như không thấy, thế là nàng liền thay bộ đồ thô, xắn tay áo tự thân "xông trận".
Trong việc đồng áng, nàng còn tinh thông hơn cả mấy nha đầu trong phủ. Dưới sự trông nom và làm việc chuyên chú của nàng, rau củ trên mảnh đất này phát triển rất tốt. Những rau củ tươi xanh trong phủ dùng mỗi ngày đều là mấy loại tự trồng.
Dương Lăng ờ một tiếng rồi bước vào thư phòng. Ngồi xuống nghế, nhìn những quyển sách đóng bằng chỉ (2) trên giá, y chợt nghĩ đến hai chồng bí tịch võ công dầy cộp mà khi Vi Tiểu Bảo tiến cung Trần Cận Nam đã bắt gã học.... "Giống như mình bây giờ!" Dương Lăng không khỏi cười khổ.
Ngoài cửa thấp thoáng một bóng áo xanh, tựa như có người nhẹ nhàng lướt qua, Dương Lăng cũng không chú ý. Ngay sau đó người nọ chợt quay lại, kinh ngạc mừng rỡ kêu lên:
- Lão gia về rồi!
Dương Lăng ngẩng đầu nhìn. Người thị tỳ xinh đẹp vận áo xanh đang đứng trước cửa chính là Ngọc Đường Xuân. Dường như nàng mới vừa đi phơi quần áo xong, tay áo vén lên một nửa để lộ hai cánh tay trắng muốt như ngó sen. Khuôn mặt trắng thuần chưa trang điểm nhưng vẫn đẹp ngời ngời.
Trông thấy Dương Lăng vẫn còn mặc giáp trụ, khuôn mặt không chút tươi cười, nàng lanh trí vội bước đến hỏi thăm:
- Lão gia đang có tâm sự phải không?
Làm sao Dương Lăng dám nói thật mình sắp đi thi chứ, doạ chết người à? Y vội gượng cười đáp:
- Ờ, không có gì! Vừa rồi lên núi hầu Hoàng Thượng diễn binh nên hơi mệt thôi.
Lúc này Ngọc Đường Xuân mới thư thái trở lại, không nhịn được cười yêu kiều một tiếng rồi nhẹ nhàng bước đến, nói:
- Thân thể lão gia khoẻ thật, cứ mặc khôi giáp nặng như vầy mà lên núi, thảo nào ...!
Vốn dĩ Dương Lăng phải quay về doanh trại thay khôi giáp. Chỉ vì trong lòng có tâm sự, vả lại đưa tiễn Chính Đức xong về nhà gần hơn cho nên y đã đi thẳng về nhà.
Ngọc Đường Xuân nói:
- Lão gia, để tiểu tỳ cởi giáp trụ cho người nghỉ ngơi một chút nhé.
Dương Lăng đứng dậy, nhíu mày bảo:
- Đã bảo không cần tự xưng là tiểu tỳ, sao vẫn cứ gọi như vậy?
Ngọc Đường Xuân đang giúp y cởi dây đai lụa (ti thao) trên giáp, nghe thấy thế khuôn mặt xinh xắn không hiểu sao chợt đỏ bừng. Nàng thẹn rũ rèm mi, lúng túng:
- Tiểu tỳ vẫn chưa... vẫn chưa... Hoàng Thượng còn chưa tổ chức đại hôn mà!
Cô nàng xấu hổ không dám nói thẳng ra bèn chuyển sang nhắc chuyện đại hôn của Hoàng Đế. Dù sao thì hiện giờ ai cũng đều biết đại hôn của hoàng đế chính là đại hôn của Dương Lăng. Dương Lăng nghe xong ngượng nghịu không nói thành lời.
Khôi giáp của y được chế tạo tinh xảo, không những oai vệ, tinh tế mà còn rất nặng. Trên các ngăn giữa của kệ sách đều là sách vở, Ngọc Đường Xuân tháo xong kiễng chân định để khôi giáp lên ngăn trên, song không đủ sức bèn ngồi xuống đặt nó ở dưới.
Dương Lăng nhìn bóng lưng nàng, đường cong lung linh, kiều diễm động lòng người, bộ đồ thị tỳ màu xanh vừa vặn ôm khít thân hình. Lúc này nàng ngồi xổm xuống, thấy rõ bờ mông tròn trịa đầy đặn như vẽ bằng com-pa, mê người khôn tả. Dương Lăng chột dạ, vội dời mắt, về chỗ mình ngồi rồi cầm bừa một quyển sách lên xem.
Chợt cảm thấy vai hơi trĩu xuống, Dương Lăng ngẩng đầu lên, chỉ thấy hai bàn tay thon thả đang đặt trên vai nhẹ nhàng xoa bóp cho mình, y bỗng nghĩ tới vận mệnh éo le của Tô Tam. Nguyên số mệnh đã định sẵn Tô Tam phải lưu lạc chốn phong trần. Đầu tiên là gả làm thiếp thương gia, trải qua họa lao tù, cuối cùng gả cho Vương Cảnh Long. Còn về phần sau khi trở thành thiếp thất của Vương Tam nàng có được hạnh phúc hay không là chuyện không thể biết được. Dù sao thì câu chuyện này cũng có một kết cục viên mãn.
Còn bây giờ thì sao? Ma xui quỷ khiến thế nào mà người con gái thông minh xinh đẹp này lại đến bên mình, Vương Cảnh Long thì gặp họa bị đày đi Thái lăng. Vận mệnh của nàng rồi sẽ như thế nà? Tương lai rồi sẽ lại lưu lạc nhà ai?
Dương Lăng bỗng cản bàn tay nàng lại, khẽ hỏi:
- Tô Tam, năm nay cô bao nhiêu tuổi?
Bị bàn tay y chặn lên mu bàn tay mình, Ngọc Đường Xuân không khỏi đỏ mặt, đáp:
- Lúc Nhất Xứng Kim mua tiểu tỳ về, khi đó tiểu tỳ mới bảy tuổi, bây giờ tiểu tỳ đã mười lăm tuổi rồi.
"Mười lăm...", Dương Lăng trong lòng máy động, liền hỏi:
- Người nhà của cô... Cô còn nhớ không? Nếu như có cơ hội gặp lại...
Ngọc Đường Xuân nhanh chóng ngắt lời y:
- Tiểu tỳ không có người thân!
Dương Lăng không nói được gì, lúc này mới ngẫm lại: "Nàng bị cha mẹ vì mấy trăm văn tiền mà bán cho kỹ viện, lúc đó nàng đã bảy tuổi, làm sao lại không nhớ chuyện đó? Làm sao có thể bảo trong lòng không hề oán hận được?"
Ngọc Đường Xuân dựa sát một chút, giọng khe khẽ:
- Tiểu tỳ xuất thân hàn vi, lại lưu lạc chốn phong trần, sớm đã quên mình đến như thế nào và sẽ đi về đâu. Từ khi vào nhà họ Dương, gặp được lão gia và phu nhân, tiểu tỳ như đã đến được chốn tiên, một ngày trôi qua còn vui vẻ hơn cả một năm. Hôm nay nhà họ Dương chính là nhà của tiểu tỳ, người và phu nhân chính là người thân của tiểu tỳ.
Nàng vừa dựa người lại gần, Dương Lăng chợt cảm thấy bờ vai đang khoác một lớp áo mỏng của mình có một cảm giác kỳ dị, loại cảm giác đàn hồi mà lại mềm mại tuyệt vời. Dương Lăng lập tức hiểu đó là bầu ngực của nàng. Tim y không kềm được bắt đầu đập thình thịch, dây thần kinh xúc giác trên khắp người trong nhất thời tựa hồ đều tập trung lên vai phải.
Y thả sức cảm thụ cảm giác mỹ diệu tiêu hồn, thứ cảm giác mềm mại, có tính đàn hồi đó. Nàng ấy mới mười lăm tuổi a! Chẳng lẽ vưu vật trời sinh đều phát dục sớm thế này ư?
Hnh như trời càng lúc càng nóng, những con ve sầu ngoài cửa sổ đã kêu đến phát phiền. Sao lại chẳng có một tí gió nào thế nhỉ?
Ngọc Đường Xuân càng nói càng xúc động, như thể đang kể chuyện trong vô thức:
- Ấu Nương tỷ tỷ đã từng kể cho chúng tiểu tỳ về nỗi lo âu của người. Lão gia, người suy nghĩ sâu xa cho chúng tôi đến như vậy, tiểu tỳ và Tuyết Nhi trong lòng cảm kích không biết bao nhiêu mà kể. Từ trước đến nay kẻ khác chỉ thích tướng mạo của chúng tiểu tỳ, nào có ai lo nghĩ cho chúng tiểu tỳ nhiều như vậy đâu chứ?
Dương Lăng cảm thấy mu bàn tay mát lạnh, từng giọt nước mắt trong vắt đã nối đuôi nhau lã chã rơi xuống:
- Cuộc đời như là một giấc mơ . Ngọc Nhi chỉ hy vọng rằng mình khổ lâu như vậy rồi sẽ có thể kết thúc bằng một giấc mơ đẹp . Mộng dài hay ngắn , ai có thể so đo chứ . Chẳng phải có câu 'Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng , tiện thắng khước nhân gian vô số' (đã chú ở chương 44): đó sao? Sao lão gia lại có thể có suy nghĩ kỳ quái như vậy? Lão gia không biết trái tim của Ngọc Nhi đã trao cho lão gia từ lâu rồi sao?
Được người đẹp như hoa như ngọc nỉ non bên tai như vậy, ai còn có thể giữ vững được "lòng son dạ sắt"? Dương Lăng đã tạm thời vứt bỏ cái bí mật phiền não chôn sâu tại đáy lòng, chỉ muốn quay người lại an ủi nàng mấy câu. Song y vừa cựa vai, Ngọc Đường Xuân phát giác mình kề sát như vậy thành quá đỗi ám muội, buột miệng kêu lên một tiếng thánh thót rồi rụt người lại.
Dương Lăng quay đầu lại, chỉ thấy mỹ nhân nổi danh trong lịch sử đang nồng nàn nhìn mình với một đôi mắt đẫm lệ, song trên khuôn mày ửng hồng thẹn thùng lại nở một nụ cười ngọt ngào như đường như mật, có một một vẻ dịu dàng đôn hậu như thể tuỳ tiện là có thể chiếm được.
Trong lòng Dương Lăng bùng lên hào khí nam nhân "Mỹ nhân lưu truyền thiên cổ này cũng có thể bị mình chinh phục, mình còn sợ gì nữa chứ? Chẵng lẽ Kinh Diên thì sẽ rất đáng sợ sao? Chẵng lẽ mình không chinh phục nổi mấy lão già cổ hủ ư?"
Y bỗng đứng phắt dậy, nắm lấy hai tay Ngọc Đường Xuân. Tay Ngọc Đường Xuân bị y nắm chặt, cặp mắt lập tức trở nên say đắm mông lung như đang ngấn nước. Chiếc miệng nhỏ nhắn đo đỏ cong cong cũng nửa khép nửa hở, toàn thân đã sắp nhũn ra.
Dương Lăng nắm lấy đôi bàn tay búp măng của nàng, gọi một cách thâm tình:
- Ngọc nhi...
Con tim Ngọc Đường Xuân đập thình thịch, một hồi lâu mới phát ra một tiếng rên rỉ từ cổ họng:
- Dạ? Lão... lão gia...
- Đi! Giúp ta soạn hết tất cả sách sử ra, lão gia ta hôm nay phải đọc sách thâu đêm!
Dương Lăng bừng bừng ý chí.
Ngọc Đường Xuân: "..."
...
Cuối cùng Kinh Diên đã được mở lại.
Những Hàn Lâm học sỹ, Đốc sát ngự sử mà hàng ngày dâng sớ tận lực can gián, thiếu điều viết cả huyết thư đều tung hô chúc tụng, vui mừng khôn xiết: một Hoàng Đế mà không mở Kinh Diên thì sao có thể gọi là Hoàng Đế tốt? Hôm nay thần phật khắp cõi trời đều đã bị tinh thần của bọn họ cảm hoá, cuối cùng thì thiên tử đã quay về với con đường chính đạo của minh quân rồi.
Thế nhưng tin tức tham tướng Dương Lăng của Thần Cơ doanh cũng muốn tham gia Kinh Diên lại khiến cho bọn họ kinh ngạc đến ngây người. Kinh Diên là nơi mà văn võ bá quan và Hoàng Đế giảng kinh luận đạo. Tuy Đại Minh chưa từng có quy định võ tướng không thể tham dự Kinh Diên, nhưng từ trước đến nay chưa từng có một võ tướng nào chủ động tham gia. Cho dù Dương Lăng là một nho tướng (3) đi, song mớ học thức ấy đủ tư cách để thi triển bản lĩnh ở Kinh Diên sao?
Hoàng thượng muốn trao binh quyền cho y, muốn tin yêu trọng dụng y, những thứ đó đều có thể nhẫn nhịn. Nhưng Kinh Diên này là thánh địa của quan văn chúng ta, thứ người như y mà cũng có thể đến sao? Đây chính là một sự khiêu khích nghiêm trọng bậc nhất!
Đây lại là hội Kinh Diên đầu tiên mà Hoàng Đế Chính Đức mở lại, vì vậy mọi con mắt đều đổ dồn vào nó.
Hàn Lâm viện, Đốc Sát viện, Chiêm Sỹ phủ, bao gồm tất cả quan văn trong triều đều như lần đầu vào kinh dự thi: trích dẫn kinh điển, tụng chữ thâu đêm, trải qua bao đắn đo rồi lại cân nhắc, xoá bôi rồi lại bôi xoá, sau cùng viết nên một bài văn chương gấm hoa rực rỡ, thuộc đến làu làu, quyết phải cất tiếng kinh nhân, khiến cho Dương Lăng thấy mà ủ ê chán nản.
Trên điện Văn Hoa, chưa đến giờ mà bá quan đều đã tụ tập, còn náo nhiệt hơn cả lúc thượng triều. Dẫu sao Hoàng Đế Chính Đức cũng đã mở kim khẩu: tất cả bá quan văn võ đều có thể tham gia Kinh Diên lần này, cho nên những kẻ không có việc gì cũng chạy đến xem náo nhiệt.
Ngày hôm nay Kinh Diên được mở lại, ba đại học sỹ của nội các rất xem trọng. Ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lý Đông Dương được cử làm Đồng tri Kinh Diên sự. Thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ, Thượng thư bộ Hộ Hàn Văn, Thượng thư bộ Lễ tân nhiệm Luân Văn Tự, tất cả đều có mặt. Giảng quan (4) là Chiêm Sỹ phủ Dương Đình Hoà, Triển thư quan (5) là Hàn Lâm viện Luân Văn Tự.
Hội Kinh Diên này có thể nói là xa hoa chưa từng có.
Đại thái giám ty Lễ Giám Vương Nhạc tự thân dẫn hai thủ lĩnh thái giám, tám tên tiểu thái giám (tiểu hoàng), bưng Kinh, Sử, Tử, Tập (6) đến đặt lên ngự án và giảng án (7). Vào đến điện Văn Hoa, trông thấy rất đông võ tướng, lão Vương Nhạc liền giật thót mình. Tuy lão đã theo hầu hạ bốn đời Hoàng Thượng mà chưa từng thấy đông đảo võ tướng đến tham gia Kinh Diên như thế này. Thực tế trong đám người này nhiều người chỉ có thể viết được mỗi tên mình, bọn họ chạy đến đây tụ tập náo nhiệt để làm gì?
Mặc dù Vương Nhạc này quyền cao chức trọng, đứng đầu Nội tướng (8), trong tay nắm giữ Đông xưởng và Tây xưởng, nhưng lại không hề có dã tâm, một lòng trung thành tận tụy. Tuy Đới Nghĩa là thân tín của lão, song sau khi nghe nói lão ta che giấu chuyện lăng tẩm Tiên đế bị thấm nước, Vương Nhạc đã phẫn nộ không kém gì vua Chính Đức. Cho nên đường đường là thủ lĩnh thái giám ty Lễ Giám bị hạ ngục nhưng lão lại không nghe không hỏi, thuỷ chung không hề đếm xỉa đến việc đó. Bởi vì lão có thái độ này, cho nên Đông xưởng Phạm Đình là người có giao hảo với Đới Nghĩa cũng không dám manh động, khiến cho Trương Tú cũng trở nên sợ bóng sợ gió trong việc cứu giúp Dương Lăng.
Giờ đây Đới Nghĩa thoát khỏi ngục tù, lão đã thầm ghi hận việc Vương Nhạc khoanh tay đứng nhìn vào trong lòng. Chỉ là lão già Vương Nhạc này tuy là tổng đầu lĩnh đặc vụ, song không ngờ tính tình lại rất trung thực nên không mảy may nhận thấy điều đó.
Điện Văn Hoa vốn là thế giới của quan văn, nhưng lần đầu kể từ khi Đại Minh lập quốc cho đến nay số lượng võ tướng trong kinh đến tham dự lại không kém hơn bọn họ. Vì thế văn võ bá quan liền theo quy củ thượng triều: quan văn đứng bên trái điện, quan võ đứng bên phải điện.
Phía quan văn tôn Lưu Kiện đứng đầu, bên võ tướng sắp Lưu Đại Hạ làm thủ lĩnh, nhưng lại đưa tham tướng tam phẩm nhỏ nhoi là Dương Lăng đứng ở trước điện. Tất cả võ tướng bất luận phẩm tước cao hay thấp hơn y đều ngầm lui về sau nửa bước, vây quanh y như sao quanh trăng sáng.
Thật xúc động! Thật vinh quang! Hôm nay võ tướng rốt cuộc đã có thể ưỡn ngực thẳng lưng mà bước vào điện Văn Hoa rồi. Còn về phần học vấn của Dương tham tướng... đừng nghĩ rằng những võ tướng này dốt chữ mà vô tri nhé. Trước đó bọn họ đã sớm nghe ngóng rồi. Thần đồng lão tử đại học sỹ Dương Đình Hoà cũng đã từng khen ngợi y, thế thì sao có thể kém cỏi được?
Dương Lăng vững vàng đứng đó, quyết định "nói nhiều không bằng nói ít", cái gì không hiểu kiên quyết sẽ không nói, bắt được cơ hội thì sẽ nói bừa. Nếu bàn luận về Sử, Điển, Đính (đính nghĩa là luận bàn) của Khổng Tử, y một khiếu chẳng thông, ngoại trừ vài câu kiểu "Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên" (9), "Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ" (10) ra thì y cũng chẳng thuộc được mấy câu. Đấu văn không được, huyên thuyên cả buổi cũng được mà!
Vì lẽ đó, Dương Lăng thân mặc khôi giáp, anh tuấn bất phàm, hai chân không xiên không vẹo đứng nghiêm sừng sững, hai mắt tựa khép mà không khép, nét mặt trầm tĩnh như mặt hồ. Nếu lắp thêm một bộ râu xồm vào, thoạt nhìn nhất định sẽ tưởng rằng ai đó đã khiêng tượng đất của ông thánh Quan Công lên điện.
Lúc trước mấy người thái giám Lưu Cẩn bị Dương Lăng lừa gạt, nghe y kể huyên thuyên về mấy kiến thức nước ngoài, đã thật sự tưởng rằng kiến thức học tập của y bao gồm cả Trung - Tây, không thứ gì không biết. Cho nên bọn họ đã tự tin đề ra chủ ý bao đồng này, làm Hoàng đế Chính Đức mù quáng nghe theo. Không ngờ vừa nghe thời điểm Kinh Diên mở, lần đầu tiên y lại tràn trề hứng thú lên thượng điện nghe giảng.
Hoàng đế Chính Đức bước lên điện ngồi, bá quan ba quỳ chín lạy xong, thị vệ mang đao (đái đao thị vệ) khiêng giảng án đến trước ngự án thư của Chính Đức, quan Hồng lư (11) truyền chỉ khai giảng. Vì đây là lần đầu vua Chính Đức mở Kinh Diên, cho nên Luân Văn Tự và Dương Đình Hoà không kể tràng giang đại hải mà chỉ kể về ý nghĩa quan trọng của việc vua Hồng Vũ mở ra Kinh Diên, đế vương lấy bá quan làm thầy mà học tập kinh điển Nho gia, rồi mỉm cười lui sang một bên, giao chiến trường lại cho bá quan văn võ.
Thượng thư tân nhiệm của bộ Công là lão thần Dương Tuỳ Thủ lập tức bước ra khỏi hàng, bắt đầu bàn về Tứ Thư Ngũ Kinh. Bài luận của lão đã được nghĩ ra từ sớm, bắt đầu nói liền trích dẫn kinh điển, trầm bổng du dương, mỗi khi nói đến chỗ hay, đám quan văn liền nở gan nở ruột, không ngớt lời khen.
Đám võ tướng đang giương to mắt trâu chờ xem đánh trận lại ngáp lên ngáp xuống, thậm chí hai mắt Hoàng Đế Chính Đức cũng dại đi.
Vương lão tiên sinh (tức Vương Ngao, Tả thị lang bộ Lại) lại quyết "truy đuổi tàn binh", đọc làu làu một bài văn bát cổ, thao thao bất tuyệt, khiến cho ngay cả Dương Lăng đang vểnh tai lên hòng moi ra chút đề tài trong đó nghe mà cũng thấy chán nản.
Dương Lăng bèn thầm thở dài một hơi: mấy cái 'hồ' với 'dã' của những người này, nói ra toàn bộ đều coi văn chương là nhất, thỉnh thoảng mới có điểm có thể liên quan đến những sự việc thực. Nhưng bố cục thế giới và phân bố thế lực mà thánh nhân của cả trăm, nghìn năm trước đối diện đã rất khác biệt so với hôm nay, sao chép một cách máy móc thực không có chút ý nghĩa. Cái gọi là Kinh Diên, thật sự cực kỳ nhàm chán, làm khó cho con cháu của lão Chu gia rồi. Làm sao mà bọn họ có thể chịu đựng được hơn cả trăm năm nay nhỉ?
Vương Ngao nói xong lui xuống, Dương Phương lại đã "mình trần xông lên". Con của y là Dương Lâm, cùng hội với Cảnh Long hãm hại Dương Lăng. Mặc dù có tam đại học sỹ cầu xin, nói rằng con y nhỏ tuổi không hiểu chuyện, ham mê hư vinh, hùa theo gây rối, cho nên Chính Đức cũng không trừng phạt, song đã hạ chỉ mắng nhiếc Dương Phương thậm tệ một trận.
Ai mà không tin con mình chứ? Huống chi Dương Phương vốn cho rằng Dương Lăng nịnh hót nhà vua, là một tên tiểu nhân văn dốt võ dát. Lạnh lùng trộm liếc Dương Lăng đang đứng thẳng hiên ngang, mắt chỉ nhìn thẳng, Dương Phương cau hai hàng lông mày lại, cất cao giọng:
- Vừa rồi Dương đại nhân và Vương đại nhân đã nói về Tứ Thư Ngũ Kinh và đạo thánh nhân. Kinh điển ấy đã kể xong, nay thần xin kể đến lịch sử một chút.
- Bệ hạ, từ xưa các bậc quân vương trị thiên hạ đều lấy đạo đức giáo hoá bốn phương, lấy văn võ làm cánh tay trị vì bách tính, thế nên tuyển hiền chọn đức, dụng kẻ anh tài, gần gũi hiền thần, xa lánh tiểu nhân, ấy mới thành thánh nhân; mà thân cận tiểu nhân, lánh xa hiền thần thì sẽ ham vui khoái lạc, bỏ bê chính sự, khiến cho tiểu nhân lộng quyền, triều chính hủ bại. Xưa Hán Linh đế mù quáng tin bọn Thập thường thị (12), Lương Vũ đế mê tín đạo Phật, Ninh Huy Tông sủng tin Đồng Quán, Thái Kinh mà sa vào ăn chơi, triều chính bị một đám gian thần lộng quyền nắm giữ, đổi trắng tay đen (lược dịch "âm mạo vu dương", đổi âm thành dương), tôi thần khi quân, tiểu nhân chuyên quyền, dưới thì phản trên, khiến cho nước mất nhà tan, đó nên là tấm gương cảnh báo cho đời sau.
Hoàng đế Chính Đức hả miệng ngáp to, cặp mắt lờ đờ bảo:
- Trẫm không mở Kinh Diên, các người la khóc đòi mở. Trẫm mở Kinh Diên rồi, chẳng lẽ để các ngươi kể lể những thứ gọi là kinh sử này sao?
(1) Vu: đi, Hồi: về. Thuật Vu hồi để chỉ một cách đánh vòng lại (sau lưng hoặc trước mặt), công thủ đều dùng được. Thuật này phụ thuộc vào địa hình, là một chiến thuật thường được áp dụng trong quân sự (và cả kinh doanh).
(2) một kiểu đóng sách truyền thống của Trung Quốc, sợi chỉ lộ rõ ra bìa ngoài. Xem hình: http://imgsrc.baidu.com/baike/pic/it...27349bf7c0.jpg
Hiện nay, những tiệm cho thuê sách vẫn đóng sách như thế.
(3) thường võ tướng thời ấy dốt chữ, nên những kẻ biết chữ thì được gọi là "nho tướng"
(4) vị quan giảng giải, thuyết minh trong hội Kinh Diên
(5) quan giở sách (trong Kinh Diên)
(6) "Kinh, Sử, Tử, Tập" là Kinh điển, Lịch sử, Chư tử, Văn tập
(7) bàn của Giảng quan
(8) Chỉ tất cả thái giám.
(9) nghĩa đen: trong ba người cùng đi ắt có một người là thầy ta. Nghĩa bóng chỉ sự quan trọng của tập thể.
(10) nghĩa là: học mà thực hành theo điều mình học há chẳng vui sao?
(11) hay còn gọi là "Tự khách", là quan trông coi lễ tân.
(12) chỉ bọn hoạn quan thao túng chính quyền thời Linh đế nhà Đông Hán.
Chương 108: Suýt Rơi Vào Bẫy
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Vandai79
Nguồn: www.tangthuvien.com
Dương Lăng nói một hồi xong, ai dám phản bác y chính là phản lại Đại Minh, phản Chu Nguyên Chương, phản tất cả người Hán! Nếu mở miệng không khéo, tương lai sẽ có thể trở thành đầu đề câu chuyện cho người ta. Kinh nghiệm quan trường của những người này phong phú biết dường nào, lời nói của Dương Lăng đâu đâu cũng là bẫy, ai lại nguyện ý chui vào.
Đồng Quán là một trong số "Lục tặc" thời Bắc Tống (1). Dương Phương nói Hán Linh đế tin sủng Thập thường thị, Lương Vũ đế mê tín đạo Phật, đều không hề nêu ra danh tính của bọn gian nịnh đó, duy chỉ khi nhắc đến thời Tống Huy tông thì mới nêu đích danh ra, lại còn đem đặt đại tướng quân Đồng Quán lên trước quyền tướng Thái Kinh, rõ ràng là có ngụ ý. Các võ tướng "dốt nát ngây ngô" nghe không hiểu, nhưng các quan văn đã sớm to nhỏ thì thầm ở bên dưới.
Dương Phương thấy mình khổ tâm một phen mà Hoàng Đế Chính Đức lại không hiểu ý, nên cũng không cố dùng lời ám dụ nữa, đành phải quỳ xuống tâu:
- Đọc sử chính là để răn dạy người sau, Hoàng Thượng nên thông hiểu đạo đức văn chương, chăm thờ quang minh chính nghĩa, kính thiện trọng đức, báo đáp công ơn, thì dù có chắp tay giũ áo (bỏ mặc không làm gì) mà vẫn khiến thiên hạ vẫn thái bình. Giờ đây Hoàng Thượng ham mê bắn cung, cưỡi ngựa, xao nhãng đọc sách. Nghe nói Hoàng Thượng đã nhiều lần tự ý rời khỏi hoàng cung đi Tây giao (ngoại thành phía tây) xem võ. Cứ trầm mê vào những trò vặt này thì không phải là việc làm của một vị vua tài đức đâu.
Dương Phương vừa dứt lời, trên điện chợt có một giọng nói ung dung cất lên:
- Hoá ra ham mê bắn cung cưỡi ngựa thì không phải là quân vương tài đức. Đại nhân đọc sách sử thật hay! À, hoá ra vua Tần và Hán Vũ cho diễn võ trong cấm cung, mở mang bờ cõi, đều không phải là những vị vua tài đức sao?
Dương Phương liền xoay người, thấy kẻ đáp lời là Dương Lăng thì lập tức nói ngay:
- Khổng Tử nói: ...
Dương Lăng lại nghe là "Tử viết (Khổng Tử nói)(*)" thì lập tức cướp lời luôn:
- Tử viết: "Ngươi đừng có nói câu nào cũng đều trích của ta hết!"
(*)Viết: từ cổ, nghĩa là nói.
- Ha ha ha ha...!
Lần này không những đám võ tướng không quản Hoàng Thượng đang ngồi trên, buột miệng lớn tiếng cười vang, thậm chí rất nhiều quan văn cũng không nhịn được mà che miệng cười. Về sau bọn võ tướng lấy câu "danh ngôn" này của Dương Lăng làm vũ khí có tính sát thương hữu hiệu để đối phó với quan văn, khiến cho một nửa số quan văn thường ngày luôn dùng "Tử viết" đành nghẹn họng, trợn trắng cả mắt.
Lý Đông Dương vội ho khan vài tiếng, giấu vẻ buồn cười, nghiêm giọng:
- Dương đại nhân! Trên triều đường, trước mặt Hoàng Thượng, không thể đem thánh nhân ra làm trò đùa!
Dương Lăng lia mắt nhìn, quả nhiên thấy rất nhiều quan văn đang vô cùng tức giận, bất mãn, liền quay sang Lý đại học sỹ cười nói:
- Đại học sỹ thứ tội! Hạ quan chỉ cảm thấy thời của Khổng thánh nhân là từ thời Xuân Thu chiến quốc. Bố cục, tình thế, nhân văn, triều chính và kinh tế của các nước thời ấy so với hiện tại hoàn toàn bất đồng. Qua nghìn năm bể dâu, người và vật đều đã không còn. Thánh nhân dạy mọi người "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", tất nhiên lúc nào cũng đúng, thiên thu không đổi. Nhưng quan điểm và nhận định của thánh nhân đối với triều chính lại chỉ nhắm vào nền chính trị đương thời. Nếu như người thời nay cứ trích dẫn lung tung, khăng khăng không sửa đổi, giả danh thánh hiền để nói xàm nói bậy, chẳng những sẽ hại nước hại dân mà còn bôi nhọ danh dự thánh nhân.
Thật ra, chỉ cần bước ra làm quan, chân chính tách rời khỏi đám văn nhân ôm sách vở, các quan viên nhà ta khi thực thi triều chính đều đã sớm cảm thấy nếu chỉ dựa vào thành tích học tập thánh nhân sẽ không đủ để trị thiên hạ, nên "Nửa bộ Luận Ngữ trị thiên hạ" chẳng qua chỉ là câu nói "tự sướng" mà thôi. Các đại hiền thần đều xưng là môn đồ của Khổng - Mạnh, nhưng phương châm quản lý triều chính đã sớm bóp nặn theo học phái của Hoàng lão rồi (3). Bọn họ ngoài miệng thì nói chuyện xúc động lòng người, nhưng trong lòng cũng không tin chỉ bằng mấy câu lưu truyền của thánh nhân là đã có thể giải quyết hết thảy mọi vấn đề.
Chính vì vậy, sau khi nghe y giải thích xong, Lý Đông Dương không nói gì tiếp. Dương Lăng quay sang Dương Phương hỏi:
- Dương đại nhân nói chỉ cần thông thạo đạo đức văn chương thì có thể chắp tay giũ áo trị thiên hạ, còn diễn binh tập võ lại là trò vặt. Vậy hiện nay Miêu Cương gây loạn, Thát Đát như hổ đói rình mồi, đây là hoạ lớn trước mắt cả trong lẫn ngoài Đại Minh, phải chăng chỉ dựa vào giáo hoá thì có thể bình ổn? Chỉ trọng giáo hoá, không trọng dân sự, không trọng quân sự, quốc gia có thể ổn định lâu dài sao?
Dương Phương nghe vậy thì khinh thường đáp:
- Một đám lưu vong gây loạn bất quá chỉ là thứ bệnh ghẻ mà không phải là cái hoạ của xã tắc. Người Thát Đát cậy vào địa thế hiểm trở của man hoang, không hề có chí lớn, sao đáng để lo. Chuyện bé xé to, bất quá chỉ là lớn tiếng hù dọa mà thôi.
Dương Lăng vỗ tay, cười nói:
- Diệu thay! Dòng nước lũ Trần Thắng và Ngô Quảng chỉ là thứ bệnh ghẻ, bọn người man dã Nguyên Mông không đáng để lo. À! Hẳn là Đại Tống năm xưa đã có rất nhiều "hiền thần" có suy nghĩ như ngài đấy.
Dương Phương đỏ mặt, giận dữ nói:
- Trần Thắng, Ngô Quảng phản bội là do sự bạo ngược, vì bạo Tần không am hiểu việc giáo hoá, hà khắc với dân, nên dân chúng mới nhất hô bá ứng cùng nhau nổi dậy.
Dương Lăng vặn hỏi:
- Vậy nhà Nguyên diệt Tống thì sao? Người Nguyên là nước chính nghĩa sao? Người Nguyên không đáng để lo sao?
Vương Ngao nhảy ra đáp:
- Đó là chuyện khác! Giờ đây người Nguyên chia năm xẻ bảy, chỉ đóng ở nơi hoang vắng, giống như dã nhân, có gì đáng sợ?
Dương Lăng phản bác:
- Vốn người Nguyên đến từ quan ngoại, không phải đã vào làm chủ Trung Nguyên sao? Nay họ lại quay về quan ngoại, vậy việc ngăn người Nguyên vẫn ở quan ngoại thì không đáng quan tâm à?
Thượng thư bộ Công là Dương Thủ Tuỳ bước khỏi hàng nói:
- Nay đã khác trước, giờ đây bốn bể yên bình, quốc thái dân an, vì vậy chỉ cần thực thi chính sách nhân đức cho dân là đủ. Người Thát Đát sinh sống ở vùng đất bần hàn, lấy du mục để sinh tồn, thông thạo cưỡi ngựa bắn cung, không sở trường về nông canh như ta, so võ với họ là không khôn ngoan. Cho nên chỉ cần lấy một đội quân ngăn bọn dã man này ở ngoài biên cương là đủ. Nội loạn không phát sinh thì bọn họ làm sao có thể thừa cơ?
Dương Lăng giơ một ngón tay lên, nói:
- Thứ nhất, "bốn bể yên bình, quốc thái dân an", nói một chút cho sướng miệng cũng không phải là không được, nhưng làm bề tôi thờ chúa, lúc nào cũng phải có ý thức lo toan. Không phải có câu nói "sống phải lo toan, chết mới được an nhàn" đó sao? Lúc này nền chính trị nhân từ của Đại Minh ta rất được lòng dân nhưng đáng tiếc mấy năm nay thiên tai không dứt, trong nước thỉnh thoảng có những kẻ cùng đường tụ tập làm bừa. Những chuyện này không chịu tâu cho Hoàng Thượng biết, ngài lại luôn miệng nói "bốn bể yên bình, quốc thái dân an" ở trước mặt Hoàng Thượng là có ý gì?
Dương Thủ Tuỳ giận vểnh cả chòm râu hoa râm. Câu nói đó của lão chính là kiểu nói sáo rỗng, kẻ nói không có tâm, người nghe không để ý, vậy mà Dương Lăng lại dùng nó để xoi mói câu chữ khiến cho ông lão này giận đến run người.
Dương Lăng lại giơ thêm một ngón tay, nói tiếp:
- Thứ hai, ngài nói "nay đã khác trước", như vậy cũng thừa nhận việc thực thi chính sách nên thay đổi tuỳ thời, tuỳ nơi, tuỳ tình thế đúng không? Vậy nếu cứ ôm khư khư lấy quy tắc cũ, không biết biến hóa thì cũng là điều mà thánh nhân dạy ngài đấy ư?
- Thứ ba!!!
Dương Thủ Tuỳ vừa tính mở miệng, Dương Lăng đã quát to một tiếng, chặn ngay lão lại. Nếu để lão già này thuyết một hồi tràng giang đại hải, Dương Lăng nào phải là đối thủ. Thừa lúc ở đây toàn các bô lão, đầu óc không nhanh nhạy bằng thanh niên, hơn nữa mỗi câu nếu không phải đỡ hộ Hoàng Thượng thì cũng đỡ hộ cho các vị Hoàng Đế các triều dựng nước, mất nước. Các vị lão gia này nói chuyện vốn cẩn thận, e sợ phạm huý, chỉ cần chần chừ để sắp xếp lại từ ngữ một chút, là y có thể nói tiếp.
Dương Lăng giơ ngón thứ ba lên, cất giọng đĩnh đạc:
- Chỉ cần nội chính thái bình thì không lo ngoại địch ư? Làm sao ngài biết được nội chính của giặc ngoài không thể phát triển, tiến bộ và thái bình như chúng ta chứ? Đang yên ổn mà vẫn phải lo nguy, cũng chỉ có hoàng đế Thái tổ, Thành tổ mới hùng tài đại lược như vậy. Những vị quân chủ anh minh có mắt nhìn xa trông rộng như thế mới có thể mấy lần dấy binh chinh phạt người Nguyên, phòng ngừa bọn họ ở quan ngoại phát triển lớn mạnh.
Dương Thủ Tuỳ, Dương Phương, Vương Ngao tức giận đến muốn sung huyết não. Y lôi Thái tổ, Thành tổ ra trợ chiến thì làm sao mà tranh biện đây? Kẻ này cũng vô sỉ quá đi!
Những bá quan khác có lòng trợ giúp cũng không dám ra mặt, có người cũng đã không nhớ nổi chủ đề lúc nãy là gì, bàn luận như thế nào mà lại nhảy qua vấn đề quân sự và đối ngoại rồi.
Dương Lăng không dám cho bọn họ thời gian suy nghĩ, lại nói tiếp:
- Thứ tư!
Chính Đức nghe mà sướng rơn. Hắn quay đầu nhìn khắp nơi, không khỏi có phần hối tiếc đã không dẫn bọn Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng, mấy nhân tài có mắt nhìn người đó đến đây. Nghe Dương thị độc nói chuyện thật sướng tai, dễ nghe hơn cái thứ kinh thư mà bọn kia tụng nhiều.
Dương Lăng bước lên một bước, quay đầu nhìn đám võ tướng đang nghe đến nhập tâm, y không khỏi cảm thấy hơi xấu hổ "Tri thức này của ta cũng chỉ gạt được cái đám quê mùa các ông thôi," rồi xoè ngón tay ra:
- Thứ tư! Ngài nói người Nguyên thiện xạ, mà người Trung Nguyên ta không lấy võ lực làm sở trường, vậy ngài giải thích thế nào về thời Hán, Đường nhiều lần đánh bại Hung Nô, Đột Quyết, những dân tộc du mục cực kỳ hùng mạnh đây? Truyền thuyết nói rằng quân Kim (là Nữ Chân) không đủ vạn người, nếu quá vạn người thì không ai địch lại, thế nhưng người Kim giáp mặt với quân đội của dân tộc nông canh của Nhạc gia lại liên tiếp chiến bại, phải hoảng sợ mà thốt lên rằng "Lay đổ núi dễ, xô ngã quân Nhạc gia khó!" Điều này giải thích như thế nào? Tạ An (Tạ An Thạch) lấy tám vạn người phương Nam đánh bại hai mươi bảy vạn kỵ binh cùng hơn sáu mươi vạn bộ binh của Phù Kiên nhà Tiền Tần phương Bắc thì giải thích như thế nào?(4) Thái tổ hoàng đế và Thánh tổ hoàng đế của bổn triều mấy lần chinh Bắc, đánh cho người Nguyên vừa nghe tiếng đã chuồn, có lúc đại quân vừa đến, bọn chúng đã chạy mất bóng, điều này giải thích ra sao? Tôi nói cho ngài biết, thời Đông Hán, người Hán ta chỉ phái ra một cánh quân lớn thì đã diệt hết nửa số quân Hung Nô, đuổi chạy nửa còn lại. Thậm chí đám tàn binh bại tướng này trên đường tháo chạy về hướng Tây đã liên tục chinh phục người Ca Đặc (Visigoth), Nhật Nhĩ Man (Đức) gì đó... khiến cho đế quốc của một lãnh thổ quốc gia khổng lồ xa xôi ở phương Tây phải diệt vong. Ông có thể tưởng tượng võ công người Hán ta năm xưa oai phong cỡ nào!
Dương Lăng cũng không biết những lão già này có bao nhiêu lý lẽ muốn luận bàn với y, nhưng tóm lại y sợ lôi đứa trẻ chăn bò Chu Trùng Bát (5) và tên đồ tể Chu Lệ tiêu diệt thập tộc vẫn chưa đủ, cho nên cứ lôi tất cả người Hán vào. Chủ nghĩa dân tộc thời đó so với bây giờ còn phải mãnh liệt hơn gấp trăm lần nên y vừa nói xong thì các võ tướng sôi trào nhiệt huyết liền hô to:
- Hay!!!
Còn Chính Đức như thể đang nghe kể chuyện, mặt tươi roi rói, vung tay múa chân.
Dương Lăng nói một hồi xong, ai dám phản bác y chính là phản lại Đại Minh, phản Chu Nguyên Chương, phản tất cả người Hán! Nếu mở miệng không khéo, tương lai sẽ có thể trở thành đầu đề câu chuyện cho người ta. Kinh nghiệm quan trường của những người này phong phú biết dường nào, lời nói của Dương Lăng đâu đâu cũng là bẫy, ai lại nguyện ý chui vào.
Thế nhưng... nếu không phản bác, vậy không phải sẽ đại biểu cho việc y đã chiến thắng sao?
Nhiều đại thần lặng lẽ lục lọi lại những bài văn chương mà bọn họ đã chuẩn bị cả đêm, rồi thở dài ảo nảo. Tài liệu mà bọn họ chuẩn bị đều là những đạo đức và lý tưởng viển vông, xa rời thực tế, căn bản không dính dáng tới những thứ mà người ta đang nói.
***
Dương Đình Hoà nhìn xung quanh, chỉ thấy các võ tướng thích chí xoa tay, Lưu Đại Hạ lấm lét đưa mắt nhìn, các văn thần nhìn nhau ngơ ngác, ba vị học sỹ im lặng không nói gì, còn Chính Đức ngồi sau ngự án thì khoái chí đến ngả nghiêng, không có chút dáng vẻ của hoàng đế... nên y quyết định cho qua.
Ba vị Kinh Diên sự không mở lời, thân là giảng quan, Dương Đình Hoà đành phải ra mặt phát biểu tổng kết. Lão hắng giọng, mỉm cười nói:
- Chỉ giữ mà không buông, không thể đương văn võ; chỉ buông mà không giữ, văn võ chẳng thể làm; vừa giữ lại vừa buông, ấy đạo văn võ vậy. Lý luận trị nước phải có văn có võ, có chính trị có kinh tế, đích thực không thể dùng một phương cách mà thông hiểu mọi chuyện. Có điều... theo như lời của Dương đại nhân, không lẽ cho rằng việc binh có thể quyết định hết thảy hay sao?
Dương Lăng nghe vậy mừng lắm, Dương Đình Hoà đang muốn y phát biểu tổng kết đây. Rốt cuộc cơ hội đã tới, y vội vàng mỉm cười, vòng tay đáp:
- Không phải! Như lời các vị đại nhân khi nãy đã nói, quyết định mọi thứ vẫn là nội chính. Chính lệnh được thông suốt, lại trị thanh liêm, dân chúng giàu có, thì mới bàn đến cường quốc cường binh. Những ví dụ mà hạ quan đã nêu lên, những quốc gia đó không đâu không có vua tài tôi giỏi, quốc gia giàu có mới có thể luyện ra hùng binh. Nhưng làm kẻ quân vương chớ nên xem thường quân sự. Hạ quan chỉ vì nghe Dương Phương Dương đại nhân có điều thiên vị, nên mới to gan nói thẳng. Việc binh luôn phải sẵn sàng, ấy gọi là "nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một lúc". Việc binh là bổ sung và bảo đảm cho sự cầm quyền, bình thường không thể bỏ bê, đợi đến nước đến chân mới nhảy. Hạ quan là võ tướng, cho nên trong quân nói việc lính, luận đàm cũng chỉ là chút quốc chính mà thôi. Ha ha!!! Kinh Diên mà, chính là rộng đường ngôn luận, không bó buộc theo một khuôn mẫu nào. Còn về phần nói có đúng hay không, có thể dùng được hay không, đó không còn là việc của hạ quan nữa.
Dương Đình Hoà mỉm cười đang tính nói thì Chính Đức đã vỗ bàn, khoái chí kêu:
- Hay lắm, rất hợp ý trẫm! Trẫm cũng mệt mỏi rồi, còn phải đi thỉnh an Thái Hoàng Thái Hậu và Thái Hậu nữa. Dừng lại ở đây thôi!
Dương Đình Hoà khom người tuân lệnh, rồi tuyên bố Kinh Diên kết thúc. Bá quan lui xuống điện. Chính Đức đứng lên, thấy Dương Lăng bị các võ tướng vây chung quanh, vội cất cao giọng gọi:
- Dương ái khanh! Khanh hãy trở về Đông Noãn các, trẫm có chuyện muốn nói cùng khanh.
Hoàng Thượng ra lệnh xong, đám võ tướng cũng không dám dây dưa quá lâu. Một lúc sau, Dương Lăng bị lắc, bị vỗ đến tê cả hai vai cũng đã rời khỏi điện Văn Hoa, chạy đến cung Càn Thanh.
Cung Càn Thanh là chính điện của cung đình, bề ngang có chín phòng, phía trong năm phòng, hai đầu là Đông Noãn các và Tây Noãn các. Vì Hoàng Đế Hoằng Trị trước đây thường xử lý tấu chương, giải quyết chính sự ở Đông Noãn các nên sau khi kế vị Chính Đức cũng thường làm việc ở đây.
Dương Lăng đi theo ngự lộ trước chính điện cung Càn Thanh, vừa tính vòng sang Đông Noãn các, đột nhiên Kim Đình Tử kêu "két" lên một tiếng, hai tiểu thái giám đẩy cửa điện, một hàng người từ bên trong bước ra ngoài.
Hai bên sân trước cung Càn Thanh dựng hai mái đình đúc đồng mạ vàng nằm trên bục đá, gọi là "Giang Sơn Xã Tắc Kim Điện" (đúng hơn là Đình) (6). Bốn mặt đình mỗi mặt lắp bốn cánh cửa ngăn, đặt trên mái hiên kiểu hình tròn chóp nhọn này là bảo đỉnh đúc đồng tao nhã, tượng trưng giang sơn xã tắc nằm chắc trong tay hoàng đế. Người trong cung đều gọi nó là Kim Đình Tử.
Nơi này xưa nay không cho phép người vào ngoại trừ thái giám quét dọn. Dương Lăng không khỏi chú ý liếc mắt nhìn. Y thấy hai tiểu thái giám cầm phất trần bước ra khỏi điện, đứng ở hai bên, theo sau là hai cung nữ phò tá một mỹ nhân thanh tú từ trong điện thong thả bước ra. Mỹ nhân này trán rộng eo thon, đôi mắt tinh xảo vừa vặn nhìn tới một thân quân phục của Dương Lăng.
Vừa nhìn thấy Dương Lăng, mỹ nhân vận cung trang đó liền ngẩn ra, sau đó trong ánh mắt loé lên một sự vui mừng, cặp mày ngài nhẹ tựa vầng trăng non trong phút chốc cũng nhướng cong lên. Dương Lăng nhận ra đây là Vĩnh Phúc công chúa, vội vàng bước lên một bước, đứng dưới thềm khom người bẩm:
- Thần Dương Lăng ra mắt công chúa điện hạ!
Hiện giờ hoàng huynh của Vĩnh Phúc công chúa đã làm Hoàng Đế, theo lễ nghi thì phải đổi lại gọi là trưởng công chúa nên Dương Lăng mới xưng hô như vậy. Trái tim của công chúa Vĩnh Phúc đập nhanh hơn. Nàng vốn giữ trong lòng một thứ tình cảm diệu kỳ với người thanh niên có thể xem là người đàn ông đầu tiên ở ngoài cung mà nàng gặp mặt này. Sau khi vào kinh Dương Lăng không bao giờ yên tĩnh, tin tức của y luôn được đám tiểu thái giám truyền vào hậu cung, rồi lại thông qua bọn cung nữ nhanh mồm nhanh miệng bên người nói cho nàng biết, cho dù muốn quên cũng không thể quên.
Những ngày trước, nghe nói vì vụ án đế lăng mà y phải vào ngục, công chúa Vĩnh Phúc thật sự hao tốn không ít tâm tư lo lắng. Chỉ có điều bất luận từ phương diện nào, nàng cũng không tiện và cũng không thể ra mặt nói lời cầu xin, chỉ có thể thầm mong ông trời phù hộ, có thể giữ lại tính mạng của y. Về sau Dương Lăng quả nhiên đại nạn không chết, thực khiến tiểu cô nương này vui sướng rất lâu.
Không ngờ hôm nay lại có thể gặp được người vốn nghĩ rằng khó có thể thấy mặt. Công chúa Vĩnh Phúc ngây ra một lát, rồi mới vui vẻ nở một nụ cười tươi, nói:
- Hoá ra là Uy vũ bá Dương đại nhân. Miễn lễ, bình thân!
- Tuân lệnh!
Dương Lăng đứng thẳng người lên, bộ dạng cung kính, không dám ngẩng đầu nhìn nàng. Công chúa Vĩnh Phúc thấy vậy trong lòng hơi mất mát. Gặp rồi thì sao chứ? Hai người tuy gần trong gang tấc nhưng lại như xa cách tận chân trời. Niềm vui trong mắt Vĩnh Phúc bất chợt ảm đạm đi một chút.
Ngay lúc này, một đạo sỹ bước ra sau lưng công chúa Vĩnh Phúc. Tiểu đạo sỹ này cùng lắm mới mười sáu mười bảy tuổi, ấy vậy mà mặc đạo bào của quan lại, đó là áo quan của triều thần có phẩm tước. Trên búi tóc đạo sỹ cài một chiếc móc bằng gỗ tử đàn, đầu đầy tóc đen như nhuộm, dung mạo thanh tú bất phàm, nhưng vì trẻ tuổi khôi ngô, nên trông không có chút vẻ tiên phong đạo cốt.
Gã vừa bước ra, sau lưng lại có một tiểu đạo đồng bước theo, trông nhỏ hơn gã tầm hai tuổi, mũi hình trái mật treo (7), mắt sáng như sao, xinh đẹp một cách kỳ lạ. Có điều y lại chỉ mặc đạo bào bình thường màu xanh tro.
Đạo sỹ lớn tuổi hơn liếc thấy dưới thềm là một vị tướng quân đang đứng thì cười mỉm dò hỏi:
- Vĩnh Phúc điện hạ, vị tướng quân đây là...?
Công chúa Vĩnh Phúc vội đáp:
- Vị này là Thống lĩnh thị vệ thân quân của hoàng thượng, Dương Lăng Dương đại nhân. Dương tướng quân, vị này là Hoằng Chiêm chân nhân.
Thấy công chúa Vĩnh Phúc đối đãi với gã thiếu niên này có phần cung kính, Dương Lăng vội khom người nói:
- Mạt tướng Dương Lăng ra mắt chân nhân.
Nhưng trong lòng y lại không khỏi lầm bầm "Chẳng phải từ sau khi hoàng đế Hoằng Trị xua đuổi phiên tăng, thuật sỹ thì đã không còn tin vào Phật lẫn Đạo nữa sao? Ai còn kiếm ra tên tiểu tử ranh này về giả thần giả quỷ thế nhỉ? Không ngờ dám đi thẳng vào nội cung, cùng công chúa đi vào Kim Đình Tử, xem ra rất được sủng ái."
Công chúa Vĩnh Phúc thấy vẻ mặt Dương Lăng bình thản, biết y vẫn chưa biết thân phận người thiếu niên này, không nén được mỉm cười. Nàng khẽ nâng váy, thong thả bước xuống. Hai đạo sỹ, tiểu thái giám và đám cung nữ liền đi theo sau xuống thềm đá.
Công chúa Vĩnh Phúc đến trước mặt Dương Lăng, cất giọng mềm mại:
- Dương tướng quân! Vị chân nhân này là Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Chiêm chân nhân, chưởng quản việc đạo giáo của thiên hạ, là đại Thiên sư thứ bốn mươi tám của Long Hổ sơn. (8)
Dương Lăng giật thót mình "Hoá ra là quốc sư, thảo nào công chúa Vĩnh Phúc lại trọng đãi như vậy."
Y không ngờ đường đường là quốc sư mà lại trẻ như vậy, thế là lại vội vàng quay sang Quốc sư làm lễ.
Sau lưng Quốc sư, tên tiểu đạo sỹ mặt như dát ngọc đó chen vào đứng cạnh công chúa Vĩnh Phúc, dùng cặp mắt đen láy tò mò đánh giá Dương Lăng trên dưới một lượt, sau đó nhíu cặp mày cong có phần giống như con gái, ngờ vực hỏi:
- Ngươi tên là Dương Lăng à? Là Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ phải không?
Vị Hoằng Chiêm chân nhân tuổi tuy không lớn, song lại rất có khí thế. Y khẽ nhíu mày, mắng:
- Phù Bảo, lui xuống! Không được vô lễ.
Tiểu đạo sỹ nọ thè lưỡi, rồi lại thoắt lui về sau lưng y. Dương Lăng thấy tên tiểu đạo sỹ tên là Phù Bảo đó tùy ý đến gần cạnh công chúa, mà công chúa Vĩnh Phúc lại không hề tỏ vẻ tức giận thì không khỏi thầm lấy làm lạ. Thực ra, tuy vị thiên sư này phẩm quan không cao, cũng như ba vị đại học sỹ nội các đều là quan ngũ, lục phẩm nhưng quyền lực lại lớn vô cùng, không phải là những người có thể đắc tội bừa.
Y vội cười đáp:
- Đúng vậy! Kháng chỉ thì không dám, chỉ là dân gian đồn đại bừa bãi mà thôi. Điện hạ! Hoàng Thượng triệu kiến, muốn thần đi Đông Noãn các gặp người, thần phải đi đây.
Trong mắt công chúa Vĩnh Phúc vụt loé chút bịn rịn. Nàng hơi gật đầu, nhìn theo bóng lưng Dương Lăng rời đi, có phần ngẩn ngơ. Thế nhưng không ngờ vị Trương thiên sư kia nhìn theo bóng lưng Dương Lăng cũng đứng ngẩn ra, lông mày nhíu lại, dường như có chút đăm chiêu.
Công chúa Vĩnh Phúc rất nhanh phát giác ra sự thất thố của mình, khuôn mặt như bạch ngọc ấy không tự chủ nổi lên một áng mây hồng. Nàng chợt xoay người nói:
- Thiên sư đã cầu phúc xong rồi, có phải trở về hậu cung gặp mẫu hậu không?
- A?
Thiên sư Trương Ngạn Thạc đang gập ngón tay trong ống tay áo bấm đốt, nghe thấy công chúa Vĩnh Phúc dò hỏi, vội đáp:
- Không! Đến ngày đại hôn của Hoàng Thượng, tiểu đạo sẽ lại vào cung cầu phúc, hôm nay đến kinh sư đã lập tức đến bái kiến Hoàng Thượng và Thái Hậu trước rồi. Tiểu đạo muốn nhân dịp đi đến phủ Thành quốc công thăm viếng.
Đại thiên sư thứ bốn mươi bảy là Trương Nguyên Khánh phụng thánh dụ cưới con gái của Thành quốc công, được khâm thưởng mãng bào (9) đai ngọc, bản thân đã là quốc sư, lại là hoàng thích. Vị tiểu thiên sư này là con một của Trương Nguyên Khánh, cháu ngoại của Thành quốc công, cho nên đã đến kinh sư đương nhiên y sẽ phải đi thăm ông ngoại một phen.
Công chúa Vĩnh Phúc duyên dáng cười nói:
- Nếu đã như vậy, bổn cung sẽ về vậy. Tiểu An Tử, tiễn quốc sư rời cung.
Hoằng Chiêm chân nhân chắp tay vái công chúa Vĩnh Phúc, rồi đi theo một thái giám ra ngoài. Tiểu đạo sĩ tên là Phù Bảo nọ chạy lên sánh vai với gã, nhỏ giọng nói:
- Ca ca! Huynh vừa mới bấm đốt tính gì vậy? Có phải là tướng mạo của tên Dương Lăng đó có chút cổ...?
Hoằng Chiêm chân nhân bất chợt dừng chân, bịt lấy miệng y, nghiêm mặt trừng mắt, thấp giọng mắng:
- Im miệng, hoạ từ miệng mà ra đó!
Y nhìn lướt tên tiểu thái giám ở đằng trước, thấy gã không chú ý, mới thở phào một hơi, đoạn bỏ tay ra nói:
- Về rồi hẵng nói! Muội còn tiếp tục gây chuyện, huynh sẽ không dẫn muội ra ngoài nữa đâu!
Nói rồi y vội vã đuổi theo tên tiểu thái giám đi về phía trước.
Phù Bảo đứng ngây ra, bấm đốt ngón tay một lát, gãi gãi đầu ra vẻ khó hiểu rồi bước vội đuổi theo.
-----------
Chú thích:
(1) chỉ lục đại gian thần những năm cuối Bắc Tống, bao gồm: Thái Kinh, Vương Phủ, Đồng Quán, Lương Sư Thành, Chu Miễn, Lý Bang Ngạn, trong đó Thái Kinh đứng đầu.
(2) nguyên văn "nhân vật lưỡng phi"
(3) học phái Hoàng lão (Hoàng lão chi học) xuất hiện vào giữa thời Chiến quốc, là một học phái của Tắc hạ học cung ở nước Tề, với đại biểu là "Lão tử", kết hợp đạo gia và pháp gia.
(4) Dương Lăng muốn nói đến trận Phì thủy (Phì thủy chi chiến), một trận đánh nổi tiếng, đại diện cho tình thế dùng quân số ít đại thắng đội quân đông hơn.
Xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Trận Phì Thủy
(5) tên của Chu Nguyên Chương thuở nhỏ
(6) xem hình để rõ thêm http://img8.zol.com.cn/bbs/upload/8484/8483619_0800.jpg (mất rồi!)
(7) trong tướng pháp, đàn bà mũi trái mật treo (huyền đảm tị) có tướng vượng phu ích tử, thành danh và có tài quyền. Ở đây ý chỉ mũi đẹp.
(8) theo tra cứu, vị này hẳn là Trương Ngạn Vũ (trên wiki ghi là Trương Ngạn Phiến, nhưng phiên âm là yu3, không phải shan, pian, hay fan phải đọc Vũ chứ nhỉ), tự Sĩ Chiêm (1490 - 1550). Năm 1501, được Minh Hiếu Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân. Năm 1526, được Minh Thế Tông gia phong là Chính Nhất Tự Giáo Hoài Huyền Bão Chân Dưỡng Tố Thủ Mặc Bảo Quang Lý Hoà Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân.
(9) một loại áo bào thêu con vật giống rồng nhưng chỉ bốn vuốt, kém rồng một vuốt. Xem hình http://a0.att.hudong.com/57/29/01300...98571535_s.jpg
Chương 109: Chuyện Nhà Của Đế Vương
Dịch: TheJoker
Biên dịch: Ba_Van
Biên tập: Ba_Van
Nguồn: www.tangthuvien.com
Công chúa Vĩnh Thuần chợt chụp hộp mứt ném úp về phía Mã Vĩnh Thành, giậm chiếc hài cong giận dữ la lên:
- Được, được lắm! Huynh là Hoàng Thượng, huynh giết ta đi!
Nói rồi nàng nâng váy định lao ra ngoài.
Trương Thiên sư đến từ Long Hổ sơn, mang theo ba mươi sáu đệ tử.
Một cỗ xe ngựa to lớn dừng bên ngoài cổng cung, Trương Ngạn Thạc leo lên xe, tiểu đạo đồng cũng tót lên theo. Vừa vào trong xe gã liền hạ rèm kiệu, dỡ mũ đạo sỹ ra, một mái tóc đen nhánh mượt mà trút xuống như thác, khuôn mặt anh tuấn lập tức tăng thêm vài phần dịu dàng xinh đẹp.
Vị tiểu đạo đồng này mắt như thu thuỷ, mày tựa tranh vẽ, tóc dài buông xoã, thì ra là một thiếu nữ.
Nàng căng thẳng nhìn anh trai, thấp giọng:
- Ca ca! Gã Dương Lăng đó có vấn đề à nha! Xem tướng mạo y là kẻ bạc phước chết yểu, thế nhưng giờ đây chẳng những hợp với mệnh cách cao sang khôn cùng, thọ phước còn rất cao, há chẳng kỳ quái ư?
Thiên sư Trương Ngạn Thạc cười khan vài tiếng rồi nói:
- Làm gì có chuyện đó? Có thể muội đã tính sai, hoặc cũng có thể là y đã làm được việc thiện nào đó khiến cho vận mệnh thay đổi. Bảo Nhi, chuyện này không nên nhắc đến nữa!
- Ồ?
Bảo Nhi đảo cặp mắt tròn xoe, ánh mắt quái dị mà đắc ý:
- Ý ca ca là đạo thuật mà cha truyền lại có vấn đề à? Thiên sư đạo của chúng ta đã được truyền lại hơn nghìn năm, chẳng lẽ đều là gạt người hay sao?
- Bảo Nhi!
Trương Ngạn Thạc nén giận, quắt mắc rầy em gái:
- Đừng khoe khoang chút đạo thuật đó của muội! Đại đạo thanh hư, thuật pháp tiểu kỹ (ý nói đại đạo rộng lớn khôn cùng, thuật pháp chỉ là tài vặt mà thôi). Thuật pháp của chúng ta chỉ dùng để tìm lành tránh dữ. Bậc minh triết (người thông thái, sáng suốt) hãy còn chưa thể tự bảo vệ mình; cải thiên nghịch vận, nhận biết quốc thế càng là việc xưa nay không thể làm được. Muội nhìn vị Dương tướng quân đó mắt sáng lòng trong, tuyệt không phải là kẻ gian nịnh, vậy là đủ. Nếu thật sự có người nghịch thiên cải mệnh, duyên thọ tăng phúc (1) cho y, loại đạo hạnh đó muội và huynh có thể đối phó được sao? Không lẽ muội còn muốn cầm Đào Mộc kiếm (2) xông vào hoàng cung tróc nã yêu ma ư?
(1) duyên thọ tăng phúc nghĩa là kéo dài tuổi thọ và tăng thêm sự tốt lành.
(2) Kiếm trừ ma quỉ làm bằng gỗ đào. Người Trung quốc tin cành đào có thể trừ được điều bất tường nên đến tết, nhà nhà đều cắm cành đào trước cửa.
Tuổi tuy chưa cao, song tính tình Tiểu thiên sư lại hết sức thận trọng, y nén giọng bảo tiếp:
- Ta vốn là người nhàn tản giang hồ, cần gì chứ? Được vua ban thưởng ư? Họa phước không hình không tướng, tự người tác nghiệt mà ra (3). Chuyện của hoàng gia không cần phải chen vào, cũng không cần nhắc đến, đó không phải là thứ mà chúng ta chạm đến được.
(3) nguyên văn "hoạ phúc vô môn, vi nhân tự triệu" hay "hoạ phúc vô môn duy nhân tự chiêu" trích trong "họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu; thiện ác hữu báo, như ảnh tùy hình" (thiện ác đáo đầu, như bóng với hình)
Vương triều họ Chu trước nay khắc nghiệt vô cảm. Chu Nguyên Chương dựa vào tôn giáo lập nghiệp, rất sợ người khác cũng học theo cho nên lão ta rất kiêng kị hai giáo phái đạo, tăng.
Bất kể là người nào chiếm giữ được giang sơn đều rất là kính trọng Trương Thiên sư của Long Hổ sơn và Khổng thánh nhân của Khúc Phụ (*). Chu Nguyên Chương cũng không dám phá lệ, nhưng lại thi hành quốc sách hạn chế hai nhà Phật, Đạo phát triển thế lực. Do lo ngại thế lực bọn họ phát triển, đến cả quyền phát hành độ diệp (4) của Long Hổ sơn cũng bị đưa về Đạo Lục ty ở kinh thành quản lý. Tiểu thiên sư nào dám huênh hoang?
(*) Khúc Phụ là quê hương của Khổng Tử, nằm ở tỉnh Sơn Đông.
(4) thẻ chứng nhận là tăng lữ do nhà chùa phát hành, hoặc chứng nhận là đạo sĩ do đạo quán phát hành.
Huống chi chuyện quỷ thần thực sự rất mù mờ. Kẻ làm Hoàng Đế luôn luôn mong muốn người khác đều tin vào quỷ thần, như vậy mới có lợi cho y ngồi vững trên ngai vàng. Nhưng y lại không hề muốn có một người thật sự biết phép thuật xuất hiện ngay trước mặt, đó là thứ sức mạnh mà ngay cả vương quyền cũng không thể quản thúc, nên tất nhiên y sẽ nghĩ cách để loại trừ. Lý luận này dòng dõi Trương thiên sư đã sớm nằm lòng, cho nên bọn họ cố hết sức làm ra vẻ cầu phúc cho hoàng gia. Bọn họ không sợ bị Hoàng Đế khám phá việc mình cầu phúc là giả, nhưng lại không dám để cho ông ta phát hiện được chút bản lĩnh thật của mình.
Hơn nữa, tuy bọn họ có thể biết được vận mệnh của một người, nhưng cũng chưa hẳn là đã có thể thao túng được vận mệnh của kẻ đó. Mà vận mệnh quốc gia lại càng có nhiều biến số, quyết không phải là thứ mà đạo thuật có thể trộm biết được thiên cơ. Không ngờ người có tướng mạo quái dị như Dương Lăng lại xuất hiện trong triều đình, ai biết là họa hay là phước? Đương nhiên cứ tránh đi cho lành.
Bọn họ sống trên Long Hổ sơn ở Giang Tây. Mấy năm nay, Ninh Vương ở Giang Tây từng nhiều lần sai người đem ngày sinh tháng đẻ của con lên núi xin Trương thiên sư bói quẻ, tính toán vận mệnh cho con trai mình. Ninh vương là Vương gia thế tập, con y dĩ nhiên cũng là Ninh Vương, còn đoán số làm quái gì? Mặc dù sứ giả của Ninh Vương luôn miệng giải thích là con y từ nhỏ bệnh nhiều, bản thân làm cha vô cùng lo lắng nên phải mời thiên sư bói toán, nhưng dã tâm của y lại không qua mắt được vị tiểu thiên sư này.
Nếu không phải vì Dương Lăng mặt mày chính khí, Trương Ngạn Thạc cũng đã hoài nghi y là thám tử của vị Phiên Vương nào đó sai vào kinh. Tuy y là thiên sư, nhưng cũng không biết đám mây nào sẽ có mưa. Năm xưa Yến Vương Tĩnh Nan không phải đã thành công đó sao (5)? Ai biết bây giờ Dương Lăng thực sự là người của nhà nào! Đối với loại sự việc này, giả vờ ngu ngơ không dính vào là tốt nhất.
(5) tích xưa kể rằng Yến Vương Chu Đệ giả điên, âm thầm chiêu binh mãi mã để đánh lạc hướng Kiến Văn Đế, sau tuyên bố khởi binh, lật ngôi Chu Doãn Văn Kiến Văn Đế.
Có điều y rất yêu thương đứa em gái này. Thấy giọng điệu nghiêm khắc của mình đã gây nên không khí nặng nề, y vội vàng hoà nhã an ủi mấy câu.
Lại nói đến Trương Phù Bảo, tuy là con gái, lại do vợ lẽ của Trương thiên sư sinh ra, thế nhưng địa vị của nàng ở Long Hổ sơn rất là đặc biệt.
Đại thiên sư đời thứ bốn mươi sáu là Trương Vô Cát từng bị người ta tố cáo gây hại ở địa phương, cậy thế ức hiếp chiếm đoạt dân nữ, bị Hoàng Đế đày đi tha hương. Kế thừa chức vị của anh mình, Trương Nguyên Khánh luôn hành sự khiêm tốn, tuân thủ pháp luật, không dám làm bừa, cũng không dám khoe khoang tiên thuật, chỉ thật thà an phận đảm trách chức vị thiên sư.
Nhưng vào năm Hoằng Trị thứ tư, Hoàng Đế sai thái giám đến Long Hổ sơn ban ấn thưởng phù. Vị thái giám nhất thời cao hứng, mượn lời thánh dụ yêu cầu Trương Thiên Sư cầu cho tuyết rơi, hạc bay đầy trời để làm điềm cát tường. Muốn gọi trăm hạc đến lượn quanh, thiên sư tự có biện pháp của mình, nhưng nếu muốn trời đổ tuyết thì thật sự có phần làm khó lão.
Bất chấp khó khăn, Trương thiên sư chọn ngày lành tháng tốt, tổ chức lễ đàn niệm chú vẽ phù cầu khấn một phen. Cũng không biết là do lão biết khí tượng hay là do may mắn mà quả nhiên hôm đó trời đổ tuyết lớn, thật là nở mày nỠmặt.
Đến khi lão trở về Triều Thiên cung, mới hay người vợ lẽ thứ tư là Lưu Thị vừa mới hạ sinh một bé gái. Trương Nguyên Cát cho rằng đứa bé gái này đã mang may mắn cho lão nên hết sức yêu thương đứa con gái do vợ lẽ sinh ra này, đặt tên là Phù Bảo (nghĩa là bảo bối mang đến điềm tốt), thường xuyên dẫn theo bên mình, địa vị khác xa những đứa con vợ lẽ khác. Nàng và người anh trai này chơi thân với nhau từ nhỏ cho đến lớn, vì vậy rất quý mến nhau.
Nhưng lần này Trương Phù Bảo thấy anh trai mình nghiêm mặt mắng nàng không biết điều, chuyện này xưa nay chưa từng xảy ra nên Trương Phù Bảo cũng phát hoảng, không dám nói bậy bạ nữa.
Xe đến trước phủ Thành quốc công, sớm đã có người chạy đi báo tin trước. Trương Ngạn Thạc là cháu ngoại của Thành quốc công, tuy hắn là quốc sư nhưng lại dùng thân phận thân thích đến viếng thăm, không có lý bề trên lại ra nghênh tiếp, nên lão cử hai người anh họ của hắn là Chu Hạ Nghĩa và Chu Hạ Lễ làm đại diện ra đón.
Thành quốc công càng già càng dẻo càng dai nên tuổi tác con cái chênh lệch nhau rất nhiều, người lớn nhất cũng đã sáu mươi còn đứa nhỏ nhất chỉ mới mười bốn. Con gái gả cho Trương thiên sư năm nay mới vừa ba mươi ba.
Hai vị biểu ca nghênh tiếp huynh muội thiên sư vào phủ, vừa đi vòng qua bức bình phong đã thấy một người đàn ông mặt mày đỏ au nồng nặc mùi rượu, được người dìu thất tha thất thểu bước ra, suýt nữa đâm sầm vào người Trương Ngạn Thạc.
Chu Hạ Nghĩa chau mày, hỏi người đàn ông trạc ba mươi đang dìu gã say đó:
- Lục ca! Tiết huynh lại uống say nữa à?
Vị Lục ca "À" một tiếng rồi cười nói:
- Lúc nào y về mà chẳng say? Không cần lo đâu, ta sẽ đưa y về.
Nhìn thấy huynh muội Trương Ngạn Thạc bận đạo bào, biết là biểu đệ và biểu muội vừa tới, y bèn tươi cười:
- Huynh đưa vị bằng hữu này về phủ, biểu đệ biểu muội hãy lên chính sảnh, gia gia đang chờ gặp hai người đó.
Trương Ngạn Thạc chắp tay mỉm cười, đưa mắt tiễn hai người bọn họ. Trương Phù Bảo đưa tay vào chậu hoa cạnh bờ tường ngắt một đoá hoa to bằng cái chén lên ngửi, rồi hỏi:
- Biểu ca! Ông ngoại là võ tướng nên những người mà các huynh kết giao cũng đều thật là hào sảng đó. Mỗi lần bạn bè các người đến phủ đều uống đến say bí tỉ như vậy sao?
Chu Hạ Lễ bật cười đáp:
- Tiết huynh không phải là võ tướng, mà là tiến sỹ Đầu Giáp (6) năm Hoằng Trị thứ sáu, là một đại tài tử.
(6) Đầu giáp là đệ nhất giáp. Tiến sỹ sau khi thi Đình chia ra làm ba loại là Đệ Nhất Giáp, Nhị Giáp và Tam Giáp. Đệ Nhất Giáp chỉ có ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, được gọi là "Tam khôi".
Chu Hạ Lễ vừa nói vừa lắc đầu một cách bất đắc dĩ, đoạn thở dài nói:
- Chỉ là từ dạo cưới Ninh Thanh công chúa, làm Đô uý phò mã, than ôi... Thôi không nhắc đến chuyện này nữa! Vào thôi!
Huynh muội Trương Ngạn Thạc kinh ngạc nhìn nhau, rồi nối gót bọn họ vào trong.
* * *
Dương Lăng vào đến Đông Noãn các. Cốc Đại Dụng tinh mắt, vừa thấy y đến vội vàng cười hềnh hệch ra đón:
- Dương đại nhân đến rồi! Hoàng Thượng đang chờ đại nhân đó, nhanh lên nhanh lên!
Cái chủ ý để Dương Lăng tham dự Kinh Diên là do lão đưa ra. Quả nhiên hôm nay Dương Lăng đã làm cho một đám quan văn rúng động, khiến Hoàng Thượng Chính Đức khoái chí mặt mày tươi rói, đương nhiên lão cũng hết sức phấn khởi, mình cũng được thơm lây vậy.
Chính Đức vừa thấy Dương Lăng, khuôn mặt anh tuấn liền đỏ bừng hào hứng. Y hồ hởi:
- Dương thị độc! Đến đây, đến đây, ban cho ngồi. Ha ha ha, hôm nay trẫm thực là vui, thấy mấy lão già ngày thường như một đám ruồi nhặng bâu trước mặt trẫm nay lại không nói được một câu nào, thực sự khiến trẫm mắc cười gần chết. Lần này trẫm muốn thăng quan cho khanh, ta xem còn ai dám phản đối.
Dương Lăng mỉm cười làm lễ với Hoàng Thượng rồi đáp:
- Nhờ hồng phúc của Hoàng Thượng, vi thần cũng chỉ là may mắn vượt ải mà thôi. Hoàng thượng yêu mến vi thần, vi thần ghi khắc trong lòng. Nhưng thần trẻ tuổi, kiến thức hạn hẹp, nếu cứ thăng bừa làm công khanh ở Lục Bộ, quả thực sẽ như trò đùa. Chỉ dựa vào một hội Kinh Diên thôi, các đại thần sẽ không chịu phục. Cho dù là thần tiếp nhận đi chăng nữa, cũng không dám khẳng định mình cáng đáng nổi trách nhiệm này.
Y vừa nói xong, chẳng những Chính Đức mà cả Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn, ba người hầu bên cạnh Chính Đức cũng sững người. Lưu Cẩn dẫu gì cũng đọc qua dăm ba quyển sách, vội vàng lên tiếng khuyên nhủ:
- Cam La mười hai tuổi đã được bái làm Thượng khanh, sao Dương đại nhân không thể làm thượng thư bộ Hình chứ? Có đương kim hoàng thượng hộ giá cho đại nhân, chỉ mấy quan văn phản đối thì có gì mà phải sợ?
Cày cuốc ôn luyện cả đêm, thực sự Dương Lăng đã thu được không ít tiến bộ về tri thức lịch sử này, biết câu chuyện về "Cam La bái tướng" (7). Y thầm nhủ: "Cam La mười hai tuổi được bái Thượng khanh à? Y mười hai tuổi bị chém đầu thì có. Ông đưa ví dụ này ra khiến ta không thoải mái tí nào."
(7): Cam La bái tướng: Tích thời Đông Châu Liệt Quốc (xem Đông Châu Liệt Quốc , chương 104): Cam La 12 tuổi đã được phong thượng khanh (thời đó , chức thượng khanh gần bằng Thừa Tướng nên mới có câu "Cam La (được) bái tướng") , sau đó không bệnh mà mất sớm .
Nhưng lại có thuyết Cam La bị giết trong một vụ biến loạn cung đình.
Đối với việc được tùy tiện tấn phong làm Thượng khanh, Dương Lăng vẫn lo lắng do dự. Hôm nay thấy rõ thái độ của văn võ bá quan trên triều, y càng kiên quyết giữ vững ý mình.
Nếu chỉ luận thanh danh, Dương Lăng giờ đây thật như mặt trời đứng bóng. Hơn nữa trong đại nội có Hoàng Thượng, ngoài cung có Cẩm y vệ làm hậu thuẫn, giờ lại chiếm được sự tin cậy của một đám võ tướng, Dương Lăng cho rằng dù bản thân có chết đi, được những mối quan hệ giao tiếp này chiếu cố, có bổng lộc của Uy vũ bá, cũng đủ để Ấu Nương... và hai người Tuyết Nhi, Ngọc Nhi mà y phụng dụ cưới về không phải lo lắng cái ăn cái mặc nữa.
Nhưng nếu như thật sự làm thượng thư, y liền sẽ bị cuốn vào giữa vòng tranh chấp quyền lực cùng đám quan văn. Qua một năm, quan hệ cũng vừa thiết lập xong thì mình cũng ra đi rồi, Ấu Nương sẽ làm sao đây? Người cầm bút không phải đều là hạng thiện lương, nếu khi đó lại có kẻ đến đâm bị thóc chọc bị gạo, thánh quyến (*) có còn được như xưa không?
(*) được vua yêu quý thì gọi là thánh quyến
Mang nỗi lo canh cánh trong lòng, Dương Lăng đã quyết định bất kể Kinh Diên hôm nay biện luận hay dở ra sao, y phải kiên quyết từ chối không nhận chức vụ thượng thư bộ Hình.
Từ khi tân hoàng đăng cơ, tiếng tăm và quyền lợi của đám người Lưu Cẩn đều đã cao hơn lúc trước rất nhiều. Mấy tên vốn không có chí lớn này cũng đã rất là thoả mãn. Có điều chặn ngang trên đầu bọn họ là một lão già Vương Nhạc. Thấy bọn họ bầy trò mua vui khiến cho Hoàng Thượng hư hỏng, thỉnh thoảng lão lại đi mắng bọn họ một trận, thành ra bọn họ rất khó chịu.
Cả bọn thầm tính nếu như được một người ngoài cung có quan hệ mật thiết với bọn họ như Dương Lăng làm Thượng khanh, giữ chức thượng thư, cuộc sống của bọn họ cũng có thể dễ thở hơn. Cho nên vừa nghe Dương Lăng không muốn làm quan thì cả bọn lập tức nhao nhao lên khuyên bảo không ngừng; thật khớp với câu ngạn ngữ "Hoàng Đế còn chưa vội, thái giám đã quýnh lên".
Không thể nói rõ những tính toán của mình, Dương Lăng đành phải làm ra vẻ thành thật tâu với Chính Đức:
- Hoàng Thượng! Người vừa lên ngôi báu, lúc này nên nghĩ cách giành lấy sự ủng hộ của bá quan mới phải. Trước đây Hoàng Thượng vì vi thần mà đã giáng chức ba vị thượng thư. Chỗ tốt là nhờ thế Hoàng Thượng đã lập uy, chỗ xấu là Hoàng Thượng vừa mới lên ngôi chí tôn, liền đã giáng chức đại thần, khó tránh bá quan không phục. Giờ đây nếu lại phá lệ đề bạt vi thần, các đại thần sẽ nghĩ sao? Không chừng bọn họ sẽ lo rằng Hoàng Thượng muốn đổi hết toàn bộ cựu thần, như vậy sẽ bất lợi cho triều chính đó.
Chính Đức nghe Dương Lăng nói hợp tình hợp lý như vậy, trong lòng vô cùng cảm động: "Phụ hoàng quả nhiên mắt sáng như sao (nv: tuệ nhãn như cự), Dương thị độc này không hề có chút dã tâm. Mang đến cho y chức quan lớn như vậy mà y cũng không đoái hoài, chỉ một lòng một dạ lo nghĩ cho trẫm."
Tâm tính trẻ con là vậy, ai đối xử tốt với nó, đương nhiên nó sẽ nóng lòng muốn trao hết tất cả lợi ích cho người ta. Dương Lăng vừa nói xong, hắn càng cảm thấy nếu không phong cho y chức quan thật to thì sẽ không khỏi có lỗi với trung thần của mình. Nhưng Dương Lăng nói cũng rất có lý, vậy trao cho y chức quan nào mới thích hợp đây?
Đang lúc Chính Đức nhíu mày suy nghĩ cân nhắc, một tiểu cô nương xinh đẹp mặc váy xanh đã nổi giận đùng đùng xông vào, không thèm liếc xem người đứng ở bên là ai, nàng chỉ sấn sổ nói với Chính Đức:
- Hoàng huynh! Ai đời Công chúa Ninh Thanh bị một tên gia nô ức hiếp phải khóc lóc không ngừng, thực đâu lại có chuyện như vậy được!?! Hoàng huynh không thể bàng quan với cái kết cục đáng xấu hổ này được!
Vừa nhìn thấy người con gái váy xanh lỗ mãng xông vào chính là công chúa Vĩnh Thuần, Dương Lăng vội vàng bước lên làm lễ, mấy người Lưu Cẩn cũng thi nhau quỳ xuống. Khuôn mặt xinh xắn đang đỏ bừng vì giận, công chúa Vĩnh Thuần cũng không thèm để ý đến bọn họ, cặp mắt tròn xoe đầy uất ức nhìn chằm chằm vào Chính Đức không rời.
Chính Đức rất yêu mến người ngự muội tinh nghịch hoạt bát này. Thấy nàng giận đến thở hổn hển thì hắn vội vàng đứng dậy cười ha hả, nói:
- Công chúa Ninh Thanh à? Đã xảy ra chuyện gì vậy? Xem muội giận kìa! Lại đây, hoàng huynh mới có mức táo Kim ti của Thương Châu vừa dâng tới, muội lại nếm thử đi! Có gì thì từ từ hãy nói.
Bản thân Hoàng Đế Chính Đức không có điểm nào ra dáng hoàng đế, tiểu công chúa Vĩnh Thuần cũng không giác ngộ mấy về thái độ của thần tử đối với người hoàng huynh vừa mới đăng cơ này. Nàng dẩu cái miệng xinh xắn, hầm hầm bước qua ngồi lên chỗ cao hơn vị trí của Chính Đức (*), rồi vỗ bàn nói:
- Ninh Thanh cô cô từ nhỏ đã rất yêu thương chúng ta, bây giờ hoàng huynh đã làm tới Hoàng Đế, phải đỡ lưng cho người.
(*) Theo lễ nghi, người có vai vế thấp hơn phải ngồi ở phía dưới.
Hôm nay Tiết phò mã vào cung thăm hoàng cô, không ngờ bị nữ quan phủ công chúa đuổi đi, khiến cho cô cô giận đến trào nước mắt. Nhưng khi người tìm đến Thái hoàng thái hậu kể khổ, Thái hoàng thái hậu lại mắng người không biết giữ lễ. Muội thật tức quá đi.
Kể xong, Công chúa Vĩnh Thuần nhón lấy một miếng mứt táo ở trong hộp cho vào miệng tức tối nhai.
Mã Vĩnh Thành nay đã làm tổng quản đại nội, nghe công chúa Vĩnh Thuần kể lại như vậy xong, sắc mặt lão không khỏi có chút hoảng sợ. Lão liền đảo mắt, ghé bên tai Chính Đức nói nhỏ mấy câu.
Chính Đức nghe xong bèn góp ý với công chúa Vĩnh Thuần:
- Ờ... Hoá ra chuyện là như vậy! Trong cung có quy củ của trong cung, cho dù là phò mã cũng không thể phá bỏ quy củ được, nếu không sao Thái hoàng thái hậu lại có thể trách mắng hoàng cô chứ? Đúng là chuyện bé xé ra to.
Công chúa Vĩnh Thuần đứng phắt dậy, chỉ tay vào Chính Đức, giọng run rẩy:
- Huynh... huynh...
một hồi, rồi trào nước mắt không nói thành lời.
Mã Vĩnh Thành ở bên cạnh đằng hắng một tiếng, giọng âm hiểm:
- Điện hạ! Hoàng Thượng là hoàng huynh của người, cũng là quân thượng của người, mong người hãy để ý đến lễ nghi của thần tử.
Công chúa Vĩnh Thuần chợt chụp hộp mứt ném úp về phía Mã Vĩnh Thành, giậm chiếc hài cong giận dữ la lên:
- Được, được lắm! Huynh là Hoàng Thượng, huynh giết ta đi!
Nói rồi nàng nâng váy định lao ra ngoài.
Thấy Mã Vĩnh Thành mặt mũi dính đầy mứt hoa quả, trên đầu còn đội mấy miếng mứt, cặp lông mày và đôi ngươi Chính Đức đảo tới đảo lui, cố nén không cười thành tiếng. Hắn thấy tiểu hoàng muội giận đến run người, vội hoà giải:
- Được rồi, được rồi! Để hoàng huynh giúp muội, được chưa?
Ngoái đầu nhìn thấy Dương Lăng, hắn không khỏi mừng rỡ gọi:
- Dương thị độc! Khanh cùng đi với hoàng muội một chuyến, xem thử đã xảy ra chuyện gì. Chỉ cần làm cho hoàng muội vui vẻ là được, để nàng ấy khỏi phải ném đồ của trẫm nữa.
Dương Lăng giật mình, vội đáp:
- Vi thần là ngoại thần, đây hình như là tránh nhiệm của phủ Nội Vụ mà?
Chính Đức bực mình phán:
- Không sao đâu, không sao đâu! Dù sao trẫm cũng đã bẩm với Thái hoàng thái hậu rồi. Đại hôn của trẫm sẽ do bộ Lễ và phủ Nội Vụ cùng tổ chức, việc tuyển dụng nhân sự này sẽ do Hồng Lư Quan, Ôn Tắc An của bộ Lễ và khanh đảm nhiệm. Bây giờ khanh sẽ phải thường xuyên ra vào đại nội hoàng cung đó.
Nói đến đây như chợt nhớ ra điều gì, Chính Đức bèn tháo chiếc ngọc bội hình rồng giắt ở bên hông xuống đưa cho y, rồi bảo tiếp:
- Nội cung không như ngoại cung, thẻ bài bình thường không thể vào được. Trước tiên khanh hãy mang miếng ngọc bội này của trẫm đã.
Công chúa Vĩnh Thuần vẫn chưa khô nước mắt, bờ mi mượt mà, cặp mắt to tròn trong veo chớp chớp nhìn Dương Lăng một hồi, rồi chợt kêu lên:
- Ta nhận ra ngươi rồi! Sao ngươi lại mặc khôi giáp vào cung Càn Thanh vậy?
Tiểu công chúa Vĩnh Thuần chỉ cao tới ngang ngực Dương Lăng. Cũng không biết là vì tuổi còn nhỏ chưa hiểu cái gì là nam nữ cách biệt hay là vì bị người cha tốt bụng đó của nàng chiều hư, không ngờ nàng đến sát trước mặt Dương Lăng rờ rờ mảnh giáp trên ngực y một hồi, rồi tặc lưỡi khen:
- Nhìn không ra, thật là rắn chắc, chịu hai mươi gậy nhất định sẽ không sao. (B_V: Chà, hai mươi gậy không sao, còn ba mươi gậy??!:012:)
Tiểu cô nương vừa đến sát bên, hương thơm mê người liền ùa tới, Dương Lăng không khỏi lúng túng lui lại một bước. Cốc Đại Dụng há hốc miệng ra, vừa tính nhắc nhở "Vĩnh Thuần điện hạ hãy chú ý đến khuôn phép của công chúa", nhưng nhìn thấy miếng mứt khô trên đầu Mã Vĩnh Thành, còn vị Hoàng Đế ca ca nóng tính của nàng cứ như là một kẻ bàng quan, vẫn bình chân như vẠkhông hề phản đối, lão bèn thức thời không lên tiếng nữa.
Lần trước Dương Lăng bị chính cô nhóc này ép chui ra làm con dê thế tội cho công chúa Vĩnh Phúc, bị Hoàng Đế Hoằng Trị nổi trận lôi đình kéo ra ngọ môn đánh cho ba mươi gậy. Nay hoàng đế "già" đã đổi thành hoàng đế "trẻ", vị tiểu công chúa này lại càng không kiêng nể ai; nhìn thấy cô nhóc ranh này, thật sự y cảm thấy hơi sợ.
Công chúa Vĩnh Thuần duỗi tay ấn lên ngực y một cái, hài lòng:
- Tốt lắm! Ngươi hãy mặc bộ đồ liền thân này, cùng bổn công chúa đến phủ Thập vương dạy dỗ cái đám gia nô càn quấy đó.
Chính Đức đưa cây quạt tròn lên che miệng, ho khan hai tiếng, nháy mắt với Dương Lăng, ra hiệu y mau đưa tiểu sát tinh này đi, song khoé miệng lại ậm ờ nói:
- Sự việc quan hệ đến thể diện hoàng gia, đi xem thử chuyện gì đã xảy ra, mọi việc đã có trẫm làm chủ.
Rốt cuộc ở phủ của vị công chúa Ninh Thanh này đã xảy ra chuyện gì thế?
Thì ra sau khi lấy chồng, công chúa triều Minh không được ở cùng một chỗ với chồng mà phải dời vào phủ Thập vương ở trong cung, một mình một điện. Hoàng Đế chỉ phái một nữ quan trong cung phụ trách ăn uống ngủ nghỉ cho công chúa, cho dù công chúa muốn gặp phò mã cũng phải được sự đồng ý của vị nữ quan này, bằng không đừng hòng phò mã bước qua được cửa cung.
Vì viên nữ quan này do Hoàng Đế sai phái, đồng nghĩa với việc phụng chỉ khâm sai, nên cho dù là công chúa cũng không dám đắc tội với ả, lại càng không tiện đi nói với Hoàng Đế là mình muốn gặp trượng phu. Cho nên khi chưa kết hôn thì công chúa là một cánh phượng hoàng, nhưng một khi đã cưới phò mã rồi thì lại phải chịu rất nhiều uất ức. Để phu thê có thể gặp nhau được một lần, rất nhiều công chúa phò mã phải bỏ ra rất nhiều vàng ròng bạc nén hối lộ nữ quan, thành thử nữ quan càng lúc càng kiêu ngạo.
Vào thời Minh, bất luận anh có học vấn cỡ nào, một khi cưới công chúa trở thành phò mã, anh sẽ phải chấp nhận từ bỏ mọi chức quan mà sống một mình tại phủ phò mã. Một số còn có thể được nhận làm công việc lặt vặt ở phủ Tông Nhân (8), nhưng đại đa số lại chỉ có thể lĩnh bổng lộc mà không được chức quan nào. Thực là sống như kẻ goá vợ: đã không được nạp thiếp lại không dám ra vào chốn lầu xanh (không phải lauxanh.us a hèm:045:).
(8) phủ Tông Nhân (Tông Nhân phủ) là tên một phủ trong cung đình, chuyên quản lý gia phả dòng họ hoàng thất.
Hơn nữa, một khi công chúa qua đời, hoàng gia sẽ thu hồi toàn bộ tài sản và phủ đệ đã ban tặng. Quyền thế của những vị phò mã này thậm chí không bằng của một tên quan nhỏ, mà phần lớn những nữ quan đó lại thường xuyên biếu tặng tiền tài cho những đại thái giám có quyền trong cung, được người chống lưng, thế nên phò mã cũng không làm gì được bọn họ.
Mã Vĩnh Thành đã nhận tiền đút lót của nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh. Lão biết nữ quan này chê tiền đút lót của vợ chồng công chúa ít nên cố ý làm khó việc phu thê người ta gặp nhau, vì vậy vừa nghe công chúa Vĩnh Thuần muốn tìm nữ quan đó kiếm chuyện, lão liền nói nhỏ với Chính Đức mấy câu. Lão bảo Tiết phò mã thường xuyên chưa được phép đã tự tiện ra vào hoàng cung, làm tổn hại đến thể diện hoàng gia, rằng nữ quan nọ chỉ làm theo luật lệ, khuyên Hoàng Đế không cần xen vào chuyện giữa những người phụ nữ trong cung này.
Vĩnh Thuần tính tình tinh quái, sao lại không hiểu ý tứ trong lời hoàng huynh. Nàng chun mũi, cũng chẳng phản bác, vừa thầm nghĩ cách vừa hừ nhạt một tiếng, nói:
- Đi thôi! Theo bổn công chúa đến phủ Thập vương.
Dương Lăng không thể thoái thác, đành phải đi theo nàng xử lý chuyện nhà hoàng đế. Công chúa Vĩnh Thuần bước ra khỏi cung Càn Thanh, uyển chuyển men theo hành lang uốn khúc đến một nơi vắng vẻ. Nàng đưa mắt khẽ liếc chung quanh rồi chợt dừng chân, xoay người lại, nhìn Dương Lăng mỉm cười, hỏi:
- Bổn công chúa nghe nói... mấy ngày trước suýt nữa thì ngươi đã bị hoàng huynh chém đầu hả?
Nhìn thấy vẻ mặt của cô nàng, Dương Lăng không nhịn được phải cẩn thận lui lại một bước, thận trọng đáp:
- Dạ, vi thần bị người hãm hại, nhất thời không cách nào biện bạch. May mà Hoàng Thượng thánh minh, vi thần mới có thể thoát ngục.
Công chúa Vĩnh Thuần chắp tay sau lưng, gật gù ra vẻ bà cụ non:
- Ừ, tự cổ có câu "làm bạn với vua như đùa với hổ", Dương đại nhân giờ chắc hẳn ã có thể lĩnh hội sâu sắc rồi nhỉ?!
Dương Lăng cảm thấy vẻ mặt của vị công chúa Vĩnh Thuần này hơi hơi kỳ quái, trong lòng lờ mờ cảm nhận mối nguy. Loại con gái được nuông chiều từ bé này vốn không dễ hầu hạ, mà cô nhóc này lại là công chúa. Dương Lăng thật sự nhức đầu khi giao tiếp với loại con gái như vầy.
Công chúa Vĩnh Thuần đảo tròn đôi mắt, đoạn chậm rãi nheo mắt lại, trên khuôn mặt ngây thơ hiện rõ chữ "ta muốn hãm hại ngươi", ranh mãnh hỏi:
- Bị người ta hãm hại đáng sợ lắm phải không? Mùi vị bị lôi ra đầu chợ có dễ chịu không?
Vĩnh Thuần cười gian xảo nói tiếp:
- Ngươi nghĩ rằng ta không hiểu được ý tứ vừa rồi của hoàng huynh ư? Ta nói cho Dương đại nhân hay, nếu như ngươi không giúp cô cô ta trút giận, ta không cần đưa ngươi ra đầu chợ, bổn công chúa sẽ trực tiếp gọi Cẩm y vệ bắt ngươi chém đầu tại chỗ!
Dương Lăng cười gượng gạo đáp:
- Công chúa điện hạ! Dù thế nào cũng phải để vi thần biết rõ nguyên nhân hậu quả mới đưa ra quyết định chứ? Vi thần chết không đáng tiếc, nhưng lạm sát đại thần, thật sẽ gây trở ngại đến tiếng thơm của công chúa đó.
Miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng Dương Lăng không khỏi thầm kêu khổ: "Thật đúng là anh em ruột cùng cha cùng mẹ mà. Anh của cô nàng xách bảo kiếm đuổi giết Thọ Ninh hầu khắp cung, bây giờ vị tiểu công chúa này lại muốn truy sát Dương tham tướng mình hay sao?"
Công chúa Vĩnh Thuần chợt cười "phì" một tiếng như hoa xuân nở rộ. Tuy cô nàng tuổi còn nhỏ, nhưng lúc này đắc ý cười, trông lại hết sức tao nhã, cử chỉ cũng cực kỳ đáng yêu. Cô nàng cười mím chi hỏi lại:
- Trở ngại cái gì mà trở ngại? Nếu như ta bảo ngươi gan lớn trùm trời, vô lễ với bổn công chúa, ngươi nghĩ xem có đủ tội chém đầu không?
Dương Lăng vừa nghe liền giận tím mặt. Đột nhiên thấy Dương Lăng quắc mắt, khí thế giận dữ bộc phát ngút trời, cô nàng tiểu công chúa sợ hãi phải lui lại một bước. Nàng biết Dương Lăng quan hệ thân thiết với những nội quan nọ, e rằng y sẽ hành động theo tư tâm nên mới giẠbộ doạ nạt y. Nào biết vừa nói lời này, Dương Lăng đã xem cô nàng như mỹ nhân độc địa coi mạng người như cỏ rác.
Cố dằn cơn giận, Dương Lăng khép hờ mắt, điềm nhiên đáp:
- Công chúa điện hạ là lá ngọc cành vàng, con rồng cháu phượng. Vi thần đã là gì chứ? Hoàng thượng đã phái thần đi làm chuyện này, vi thần đương nhiên sẽ xử lý công bằng. Nếu như lẽ phải không nằm bên phía điện hạ, chỉ mong công chúa điện hạ có thể lượng thứ cho vi thần.
Công chúa Vĩnh Thuần thấy Dương Lăng điềm nhiên như vậy, không khỏi có phần ngượng nghịu, nói:
- Ta... ta cũng không phải là kẻ không biết lý lẽ, đương nhiên là ta có lý nên mới yêu cầu ngươi giúp ta trút giận...
Nàng thấy Dương Lăng tuy cung kính hành lễ đứng nghiêm, nhưng cặp mắt lại nhìn thẳng xuống chân, không thèm liếc nàng lấy một cái, thế là cũng không kiềm được cơn giận của thiếu nữ, thầm nghĩ: "Ta đường đường là một công chúa Đại Minh, dựa vào cái gì mà phải xuống giọng khép nép giải thích với ngươi như vậy chứ?"
Nàng phất tay áo, nghiêm mặt nói:
- Hãy nhớ lấy lời ngươi nói: xử lý công bằng! Bằng không, ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu, hừ!
Nói đoạn nàng xoay người, đùng đùng bỏ đi.
* * *
Trong cung Càn Thanh, thái giám Ti Lễ phụ trách công trình Thái lăng là Đới Nghĩa vừa mới long đong mệt mỏi chạy về.
Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng địa vị thấp kém, ở trước mặt lão vốn chỉ có thể vâng vâng dạ dạ. Nhưng từ khi nảy sinh hiềm khích với Vương Nhạc, Đới Nghĩa cũng biết, luận quan hệ hay địa vị lão đều không bì được với Vương Nhạc, trong khi đám người Lưu Cẩn tuy hiện giờ có thế lực mà không có thực quyền, nhưng lại là những thái giám đang được đương kim hoàng thượng vô cùng tin tưởng và thương yêu, do đó lão nảy tâm muốn kết nạp bọn họ. Cho nên lúc gặp mặt, lão cũng tỏ ra vui vẻ hoà nhã, thực khác xa với vẻ coi rẻ trước kia, khiến bọn người Lưu Cẩn vui sướng không thôi.
Chính Đức trông thấy Đới Nghĩa liền bảo:
- Đới Nghĩa! Trẫm có một chuyện muốn trao đổi với khanh cho nên mới vội gọi khanh về gấp.
Đới Nghĩa vừa mừng vừa lo, vội tâu:
- Hoàng Thượng có chuyện gì chỉ việc phân phó, nô tài nào dám không nhận lời?
Chính Đức trầm ngâm rồi hỏi:
- Chi phí cho công trình Thái lăng thế nào rồi? Có còn thiếu bạc không?
Từ khi vụ án Đế Lăng thấm nước kết thúc, dù sao thì sổ sách chi tiêu ở Thái Lăng đã ít nhiều được triều thần chú ý hơn. Hiện giờ, Đới Nghĩa không dám vơ vét nhiều bạc trong đó nữa mà thật sự dốc rất nhiều công sức, coi nó như công trình điểm cho sự nghiệp của chính mình, cho nên số bạc triều đình phân bổ dành cho việc chi tiêu công trình khá là dư dả. Nghe Chính Đức hỏi, Đới Nghĩa vội đáp:
- Hồi bẩm Hoàng Thượng! Chi phí của công trình Thái lăng đã đủ dùng rồi.
Chính Đức gật đầu nói:
- Ừm, vậy là tốt rồi! Đã sắp đến đại hôn của trẫm, số bạc cần cho đại hôn và tặng thưởng là một trăm tám mươi vạn lượng. Trẫm yêu cầu bộ Hộ xuất kho, Hàn Văn lại muốn trẫm lấy trong nội khố (kho nội cung) để chi trả. Nhưng Mã Vĩnh Thành nắm giữ nội khố, sau khi kiểm tra qua, lão cho biết bây giờ trong kho cũng không dư dả, nhiều nhất chỉ có thể lấy một trăm vạn lượng, tám mươi vạn lượng còn lại thì không cách nào thu xếp được. Trẫm hỏi thêm tám mươi vạn lượng nữa, cuối cùng bộ Hộ đã phải chấp thuận, nhưng Hàn Văn chỉ chịu cấp cho trẫm ba mươi vạn lượng, số còn lại y muốn trẫm dùng bạc giấy (nguyên văn: ngân sao) để ban thưởng thay cho ngân lượng. Hừ! Trẫm nhất thời hồ đồ suýt nữa thì đã nhận lời, may nhờ Lưu Cẩn nhắc nhở, trẫm mới vỡ lẽ ra. Lễ đăng cơ và đại hôn của trẫm cùng cử hành trong một năm, đó là song hỷ lâm môn, muốn trẫm phân phát bạc giấy cho bầy tôi và tướng sỹ canh giữ biên cương, đây không phải là làm xấu mặt trẫm à? Vì vậy...
Chính Đức nhìn Đới Nghĩa, trong lòng hơi lưỡng lự: "Ta bảo Đới Nghĩa giả vờ báo số bạc dành cho công trình Thái Lăng không đủ để đòi bạc với triều đình, làm như vậy có phải là quá bất kính với Phụ Hoàng hay không?"
Đới Nghĩa thấy vẻ mặt Chính Đức do dự, lại tưởng rằng Hoàng Thượng muốn "vắt" bạc từ công trình Thái Lăng ra. Lúc này lão đang rất muốn lấy lòng Chính Đức nên bèn tính toán nhanh trong bụng: nếu kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, không cho phép bất kỳ đốc công nào vơ vét bòn rút, lúc mua sắm vật liệu cũng dè sẻn lại một ít, thì hẳn sẽ có thể cố gắng tích góp được bốn năm chục vạn lượng bạc.
Tính toán xong, Đới Nghĩa vội quỳ xuống tâu:
- Hoàng Thượng yên tâm! Vốn công trình Thái Lăng được dự toán là ba trăm tám mươi vạn lượng bạc. Nô tài và mấy vị đại nhân làm việc cho Hoàng Thượng không dám lười biếng sơ suất, tiến độ công trình cũng rất mau, phỏng đoán ba trăm ba mươi vạn lượng đã đủ để chi dùng. Vậy năm mươi vạn lượng còn thiếu đó, Hoàng Thượng hãy lấy từ Thái Lăng ra chi dùng đi.
Chính Đức nghe vậy cả mừng, không nhịn được đứng bật dậy hỏi:
- Gì hả? Công trình Thái Lăng có thể nhín ra năm mươi vạn lượng à?
Y thoáng trầm tư, rồi tái mặt nghi hoặc hỏi:
- Không lẽ ngươi vì lấy lòng trẫm, muốn ăn bớt ăn xén lăng tẩm tiên vương hay sao?
Đới Nghĩa vừa nghe vội bẩm ngay:
- Hoàng Thượng, nô tài nào dám làm vậy chứ! Thật sự là khi đưa ra khái toán, áng chừng nguyên liệu đã có dư. Bây giờ công trình đã hoàn thành được một nửa, nô tài đã tính kỹ qua: chỉ nội cung lăng (cung của lăng tẩm) trên mặt đất xây xong thôi hẳn đã có thể tiết kiệm được mười mấy vạn lượng bạc. Nô tài không dám giấu giếm, vốn đã muốn bẩm báo với Hoàng Thượng, vừa may Hoàng Thượng cần dùng bạc, nô tài nào dám không vì Hoàng Thượng mà lo nghĩ chứ?
Lúc này Chính Đức mới chuyển giận thành mừng, nói:
- Vậy thì tốt, vậy thì tốt! Chỉ cần không tổn hại gì đến lăng tẩm của phụ hoàng là được. Trẫm vì chuyện này mà đã ưu sầu lâu nay rồi. Vương Nhạc nắm giữ cung điện to như vậy mà trẫm hỏi ý kiến của lão ta, lão lại chẳng có biện pháp gì, không ngờ khanh lại có bản lĩnh giúp trẫm tháo gỡ lo âu.
"Vương Nhạc?" Đới Nghĩa là một kẻ "có thù tất báo". Vốn lão một lòng trung thành với Vương Nhạc, nhưng khi lão nằm ngục chờ chết thì Vương Nhạc lại khoanh tay đứng nhìn nên bây giờ Đới Nghĩa hận Vương Nhạc đến thấu xương. Lão đưa mắt nhìn quanh, thấy trước mặt chỉ có ba người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành, đều là những thái giám mà Vương Nhạc không sao ưa thích. Đới Nghĩa bèn lấy dũng khí cười nịnh tâu:
- Đương nhiên rồi! Cho dù có biện pháp, e rằng Vương công công cũng sẽ không nỡ đưa ra đâu.
- Hử?
Vừa hiểu ẩn ý trong lời, Chính Đức không khỏi ngờ vực liếc mắt nhìn lão, hỏi:
- Nói rõ ra đi! Ngươi hãy thành thật nói cho trẫm biết!
Đới Nghĩa lật đật dập đầu bẩm:
- Nô tài không dám, nô tài không dám! Vương công công nắm quyền Đông xưởng, Tây xưởng. Nô tài mà nói một câu khiến cho ông ấy không vui, ông ta muốn nô tài chết thì lập tức sẽ nghiền nát nô tài như một con kiến, nô tài thực không dám nói.
Chính Đức vừa nghe liền phẫn nộ, đập bàn "bốp" một cái, giận dữ quát:
- Chẳng lẽ Vương Nhạc còn lợi hại hơn cả trẫm ư? Ngươi sợ Vương Nhạc thì không dám nói thẳng với trẫm sao?
Hiểu ẩn ý trong lời nói của Đới Nghĩa, Lưu Cẩn bèn cười nham hiểm:
- Đới công công! Ở đây trừ Hoàng Thượng ra chính là ba nô tài bọn ta, đều một lòng trung với Hoàng Thượng, có chuyện gì cứ việc nói với Hoàng Thượng đi! Bất kể đúng hay không, Hoàng Thượng biết là được rồi. Trừ mấy người chúng ta trong điện ra, tuyệt đối sẽ không để người ngoài biết được.
Đới Nghĩa mừng thầm trong bụng, vội tâu:
- Đúng rồi! Phải phải! Nô tài đã hồ đồ rồi! Nô tài không dám nói, không phải là vì không sợ Hoàng Thượng mà thực ra là lời nói vu vơ, không chứng không cứ, sợ sẽ khiến cho Hoàng Thượng phiền lòng không đáng.
Lão vừa tâu vừa thấp thỏm ngẩng đầu lên:
- Hoàng Thượng! Đông xưởng giám sát bá quan và Cẩm y vệ, quyền lực ngút trời, bình thường chỉ riêng số bạc biếu tặng đã nhiều không biết bao nhiêu. Còn như Tây xưởng, giám sát Đông xưởng ấy, lợi ích càng thêm ngất ngưỡng, tiện tay bóp ra một chút cũng sẽ không để Hoàng Thượng phải lo sầu đến như vậy đâu.
Hơn nữa, Đông xưởng và Tây xưởng này là do ai cai quản chứ? Thái giám Ty Lễ Vương công công đó! Toàn bộ thuế giám (giám sát thuế), quặng giám (giám sát khai mỏ), diêm giám (trông coi muối ăn), châu giám (giám sát việc khai thác ngọc trai) trên cả Đại Minh đều do Vương công công phái ra từ ty Lễ Giám. Những giám sát nội cung này được quyền tự thiết lập nha môn trưng thu thuế má. Dân gian có câu: " Bộ Hộ chiếm ba phần quyền thu thuế, ty Lễ Giám lại đến bảy phần". Nếu nói ty Lễ Giám không xoay sở được chút bạc, vậy thực rất đáng ngạc nhiên.
Đúng là "thà đắc tội quân tử, chớ đắc tội tiểu nhân". Tuy đúng là Vương Nhạc nắm quyền ty Lễ Giám, và trong các triều đại, chính các đời Đại Minh cũng có vô số giám sát nội cung bị gọi là "Bác bì" (lột da), nổi danh khắp nơi, nhưng ở triều đại Hoằng Trị, bọn giám sát này vẫn còn tương đối an phận thủ thường.
Tuy rằng Vương Nhạc cũng ngăn cấm không nổi những chuyện bóc lột lớp lớp bên dưới (dù sao tai mắt lão cũng không thể linh hoạt đến mức ấy), nhưng số bạc mà lão nộp lên kinh phần lớn là đủ, đúng theo sổ sách kiểm tra chéo với bộ Hộ và nội khố; số dư trong tay lão quả thực không nhiều.
Nhưng bây giờ Đới Nghĩa lại nói như vậy, mặc dù tất cả đều là "có thể", "biết đâu", "phỏng chừng", thực chất vẫn chưa đủ trọng lượng để truy cứu, nhưng đã khiến Chính Đức nổi lòng nghi ngờ. Chính Đức nghe xong, vừa phẫn nộ vừa kinh ngạc kêu lên:
- Vương Nhạc dám lừa dối trẫm như vậy sao? Lời khanh nói có đúng không?
Đới Nghĩa vội vã dập đầu đáp:
- Hoàng Thượng đã hỏi tới, nô tài chỉ theo việc mà luận bàn, căn cứ theo lẽ thường để phỏng đoán mà thôi, thật sự không có bằng chứng.
Lưu Cẩn cũng sớm bất mãn với Vương Nhạc, nhưng Vương Nhạc là nguyên lão bốn đời, trong cung tai mắt cũng rất đông, nếu không nắm chắc lão thật chẳng dám mở mồm nói bậy. Lúc này, được cơ hội hết sức hiếm có, lão bèn thừa cơ tâu:
- Những chuyện này nếu thật sự có người rắp lòng tư lợi, làm sao Đới công công có thể biết được chứ? Mật thám giỏi thì chỉ có ở Đông xưởng và Tây xưởng, nhưng hai xưởng này lại đều dưới quyền của Vương công công, ai dám nói ra nói vào?
Nghe thế, nghi vấn trong lòng Chính Đức càng thêm sâu. Nhịn không được, y cả giận bảo:
- Tiên hoàng tin yêu Vương Nhạc, giao phó hết Đông xưởng và Tây xưởng cho lão ta, từ lúc trẫm lên nắm quyền cho tới nay cũng chưa từng hỏi đến. Vương Nhạc nắm giữ hai xưởng đã lâu năm, e rằng toàn bộ dây mơ rễ má đều là thân tín của lão ta, đương nhiên sẽ không lộ cho trẫm biết tin tức. Hừ! Xem ra trẫm phải tra xét bọn chúng thật kỹ một phen.
Đới Nghĩa mừng rỡ ra mặt, song lại cố làm ra vẻ lo lắng, nhíu mày tâu:
- Đông xưởng và Tây xưởng đều do Vương công công nắm giữ, Cẩm y vệ lại vốn chịu sự quản thúc của Đông xưởng. Nay Hoàng Thượng muốn tra xét, sợ cũng không tra ra được gì đâu!
Chính Đức đập bàn "bốp" một cái, không phục:
- Đông xưởng và Tây xưởng còn không phải là do Hoàng Đế cho bọn chúng thiết lập ư? Đông xưởng, Tây xưởng đều là người của lão ta à? Hừ! Chẳng lẽ trẫm không thể lập thêm một xưởng nữa sao... Đúng rồi! Trẫm sẽ thiết lập thêm một Nội xưởng, do trẫm đích thân cai quản. Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm y vệ, văn võ bá quan đều sẽ nằm dưới sự giám sát của Nội xưởng của trẫm, xem còn ai dám giấu gạt trẫm nữa không!
Bốn người Đới Nghĩa, Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành và Cốc Đại Dụng vừa nghe, tim đập một phát nhảy tót lên tới cổ họng. Hoàng Đế đích thân cai quản hả? Nói như đùa, Hoàng Đế làm gì có thời gian mà quản lý xưởng vệ, còn không phải chỉ là đứng tên rồi kiếm kẻ khác làm thay à!
Miếng bánh từ trên trời rơi xuống đó nha, nói không chừng bộp một cái liền rơi giữa bốn người bọn mình! Giám sát Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm y vệ, văn võ bá quan, ôi trời đất ơi...
Ngay khi bốn người đang nín thở đến độ ù cả tai vì thiếu dưỡng khí, thiên tử Chính Đức chợt vỗ bàn, phán ra một câu kinh thiên động địa:
- Đi gọi Dương Lăng về, bảo y tổ chức Nội xưởng cho trẫm!
- A!!!
Đám người Lưu Cẩn vừa nghe xong liền choáng váng mặt mày. Lâu nay các xưởng (Đông xưởng, Tây xưởng, nay thêm Nội xưởng) vẫn luôn do hoạn quan chấp chưởng, xưa nay chưa từng dùng ngoại thần, không lẽ Hoàng Thượng Chính Đức muốn Tiểu Lăng tử tiến cung(*) hay sao?
(*): ý là vung đao tự...:013::013::013:
Chương 110: Phó Sứ Đại Hôn
Dịch: TheJoker
Biên dịch: lht
Biên tập: Mechichi
Nguồn: www.tangthuvien.com
Dương Lăng biết buổi tối bọn họ thường thích hóng mát ngoài hành lang cong ở vườn hoa. Y men theo giàn nho bước được mấy bước, chợt nghe phía sau góc quanh hành lang có một giọng khe khẽ ngâm nga:
- Lão gia - lão gia thiếp yêu chàng, mong trời phật chở che cho chàng, cầu chàng có được một thân thể tốt, khoẻ mạnh và xinh đẹp...
Dương Lăng theo sau công chúa Vĩnh Thuần đi thẳng đến Thập Vương phủ. Cấm cung của nội cung vô cùng nghiêm ngặt. Ngoài cung, tuy y được công chúa Vĩnh Thuần dẫn theo, thị vệ trong cung vẫn bước đến ngăn lại. Chỉ đến khi thấy được ngọc bội hình rồng của Hoàng Đế thì mới kinh hoảng thi lễ lui ra.
Dương Lăng đang mặt mày ủ dột lẽo đeo theo sau cô nàng tiểu công chúa, đột nhiên nhìn thấy trước ao nước nơi có ngọn giả sơn ở phía xa hiện ra một bóng dáng màu vàng nhạt. Y nhận ra đó là công chúa Vĩnh Phúc đang dẫn hai cung nữ rắc đồ ăn xuống nước sau lan can mái hiên, trong lòng không nén được mừng rỡ. Như thấy được cứu tinh, y rảo bước nhanh tới, đứng cách thật xa cất tiếng gọi lớn:
- Vi thần Dương Lăng tham kiến trưởng công chúa điện hạ.
Công chúa Vĩnh Phúc kinh ngạc quay người, trông thấy Dương Lăng, đầu tiên lộ vẻ hân hoan, tiếp đó ngơ ngác hỏi:
- Dương tướng quân, sao ngươi lại ... vào hậu cung?
Nàng liếc sang hoàng muội, cả kinh thốt lên:
- Là muội dẫn Dương tướng quân vào ư? Còn không mau... mau đưa Dương tướng quân về đi. Chốn cung cấm này sao có thể tuỳ tiện bước vào.
Vĩnh Thuần đắc ý nói:
- Muội đến chỗ hoàng huynh cáo ngự trạng dùm Ninh Thanh cô cô. Là hoàng huynh sai Dương Lăng đến giúp cô cô trút giận đấy, Có phải vậy không Dương đại nhân?
Công chúa Vĩnh Phúc nhìn muội muội, lại ngó bộ dáng liên tục cười gượng của Dương Lăng, không khỏi vừa bực mình vừa buồn cười. Vị hoàng huynh này của nàng luôn làm việc cẩu thả. Bây giờ chuyện riêng của hoàng gia không giao cho phủ Tông Nhân xử lý lại phái vị tướng quân đến tra án. Không phải muốn đánh giặc chứ?
Công chúa Vĩnh Phúc lại nghĩ đến cảnh ngộ sau khi kết hôn của những công chúa trong hoàng gia, không khỏi thở dài, cất giọng xa xăm:
- Ôi, thanh quan khó xử việc nhà, quy củ tổ tiên truyền xuống thì ai có thể thay đổi được? Muội cần gì phải làm khó Dương tướng quân như vậy?
Công chúa Vĩnh Thuần ngạc nhiên nói:
- Sao tỷ tỷ lại nói vậy? Chẳng phải tỷ đã nói với muội tình cảnh hoàng cô hôm nay sẽ là tương lai của tỷ và muội sau này. Đến khi đó một mình đơn độc trong thâm cung, như chim trong lồng, đừng nói là nghĩ đến trời cao biển rộng, thậm chí ban đêm gối chiếc đơn côi khó bề nhắm mắt, ngay cả một người tri kỷ bầu bạn trò chuyện bên giường cũng không có đó ư? Giờ muội tìm hoàng huynh trút giận giúp cô cô, áp chế sự kiêu căng của bọn chúng, tránh có một ngày chúng ta cũng sẽ chịu những cơn cáu giận vô lối của chúng thì có gì là không phải?
Lời tâm sự riêng của con gái, giờ để cho cái "loa kèn nhỏ" lắm điều này rêu rao như vậy, công chúa Vĩnh Phúc vừa giận vừa thẹn. Nàng oán giận giậm chân, chỉ muội muội u uất nói:
- Muội... muội...
Dương Lăng nhìn hai tỷ muội cãi nhau, nén cười ho khan vài tiếng rồi thưa:
- Công chúa điện hạ, hoàng thượng lệnh cho vi thần đi đến chỗ của Ninh Thanh công chúa để thẩm tra sự tình. Nhưng... suy cho cùng đây là chuyện hoàng gia, vi thần thật sự không tiện xen vào. Nếu như công chúa thấy tiện, vi thần muốn mời công chúa đi đến đó làm chứng, vi thần cũng dễ bề thưa lại với hoàng thượng.
Công chúa Vĩnh Phúc liếc mắt nhìn Dương Lăng, thấy ánh mắt y ngó vội Vĩnh Thuần rồi nháy máy ra hiệu với mình, trong lòng lập tức hiểu ra mấy phần. Nàng cắn môi thoáng nghĩ ngợi, rồi giãn mày cười nói:
- Được thôi, bản công chúa cũng đang muốn đi gặp cô cô một lát, tiện thể đi cùng tiểu muội vậy.
Vừa nói nàng vừa bước đến kéo tay Vĩnh Thuần, quay đầu mỉm cười với Dương Lăng rồi đi trước dẫn đường. Có công chúa Vĩnh Phúc đi cùng, Dương Lăng không khỏi thở phào nhẹ nhõm. Tính tình của vị tiểu công chúa điêu ngoa giống hệt như người anh của nàng, bốc đồng lỗ mãng, bất chấp hậu quả. Nếu làm cho cô ả phiền lòng, có khi thật sự sẽ bị hãm hại cũng không chừng. Có công chúa Vĩnh Phúc đi cùng suốt hành trình, thật sẽ an toàn hơn nhiều.
Công chúa Vĩnh Thuần nắm tay tỷ tỷ hiên ngang đi vào cung điện của công chúa Ninh Thanh trong phủ Thập Vương. Vừa vào đến chính điện nàng liền lạnh giọng quát đám thị nữ ra đón:
- Gọi tổng quản ra gặp ta!
Công chúa Vĩnh Thuần rất có tình cảm với công chúa Ninh Thanh, thường hay qua lại phủ đệ nên người trong phủ công chúa đều nhận ra nàng. Vừa thấy tiểu công chúa đến, tất cả đều hoảng sợ hành lễ. Chỉ một lát sau, nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh nhận được tin liền thong dong bước ra nghênh đón. Từ xa nhìn thấy hai vị công chúa, mụ liền vội bước lên mấy bước, nhanh nhẹn quỳ sụp xuống hô:
- Nô tỳ bái kiến Đại trưởng công chúa, trưởng công chúa điện hạ. Hai vị điện hạ muốn gặp Ninh Thanh công chúa phải không?
Động tác đi đứng, bái lạy của nữ quan này liền mạch lưu loát, tựa nước chảy mây trôi, tư thế gọn gàng nhanh nhẹn, lộ vẻ tự nhiên tao nhã, hết sức dễ coi.
Vĩnh Thuần hừ mũi một tiếng, hất cằm xẵng giọng:
- Không cần vội gọi cô cô ra, bản công chúa hôm nay đến đây là để gặp ngươi.
Vị nữ quan đó vừa đứng dậy, nghe thế không khỏi kinh ngạc nói:
- Công chúa điện hạ muốn gặp nô tỳ? Điện hạ sao có thể nói lời này. Người có chuyện gì, chỉ việc gọi một tiếng, nô tỳ còn không vội vã chạy đến ư, nào dám nhọc công người. Nô tỳ thực không đáng được như vậy.
Vĩnh Thuần ngồi lên đôn gấm, cười gằn một tiếng nói:
- Ngươi có gì mà không dám chứ? Ngươi đuổi phò mã gia ra khỏi phủ, còn dám chạy đến chỗ Thái hoàng thái hậu cáo trạng công chúa, hại hoàng cô chỉ có thể nuốt lệ vào lòng. Bản lĩnh lớn như vậy ta nào dám gọi ngươi?
Dương Lăng vốn nghĩ vị nữ quan phủ công chúa này nhất định là một bà già xấu xí xảo trá. Nhưng nhìn vị nữ quan này, tuổi tác bất quá chỉ khoảng bốn mươi, da dẻ chăm sóc rất tốt, nõn nà khoẻ khoắn thướt tha, trông vô cùng đoan trang thanh tú, khi cười thì hoà nhã chân thành, không hề có chút ác độc xảo trá, bất giác hơi cảm thấy bất ngờ.
Nữ quan vừa nghe Vĩnh Thuần nói vậy thì hé môi cười, duyên dáng đáp lời:
- Nô tỳ đang lấy làm kỳ quái, công chúa điện hạ sao lại như đang bực bội ai, hoá ra là vì cho rằng nô tỳ lấy phận nô tài lấn át chủ.
Nói đoạn nữ quan thu lại nụ cười, quỳ xuống khấu đầu, mặt đầy vẻ oan ức:
- Nô tỳ năm tuổi vào cung, tập lễ nghi vũ nhạc cung đình, hầu hạ Thái hoàng thái hậu lão nhân gia người. Khi Ninh Thanh công chúa gả cho phò mã, tiên đế Hoằng Trị đã khâm mệnh cho nô tỳ nhậm chức nữ quan phủ công chúa, coi sóc cuộc sống thường ngày của công chúa, xử lý các sự vụ trong phủ. Nô tỳ quả thực đã chăm sóc cho công chúa từng li từng tí. Nói đến phò mã, chuyện của thiên tử gia nô tỳ vốn không nên lắm lời. Nhưng quy củ của người thực không thể đem so với dân gian. Hoàng thượng còn có Kính Sự phòng trông nom mọi việc, lẽ nào phủ công chúa có thể qua loa hay sao? Phò mã gia chưa được cho phép đã thường xuyên vào cung. Hơn nữa còn hay say rượu mà về. Nếu rêu rao ra ngoài, bị những thần tử nhìn vào há chẳng sẽ mất thể diện hoàng gia ư? Nô tỳ tuy là phận nữ lưu, nhưng cũng là phụng dụ. Tiên đế người đã tín nhiệm, giao cho nô tỳ chức vụ này, nô tỳ cũng biết đây là chức vụ đắc tội với mọi người, trong ngoài đều không ưa. Nhưng cho dù bị đánh chết cũng không dám giả câm giả điếc, nhắm mắt làm ngơ. Tiểu tỳ hầu hạ Thái hoàng thái hậu, lại hầu hạ Ninh Thanh điện hạ, vẫn luôn cẩn thận kỹ lưỡng, không dám qua loa chuyện gì. Nếu công chúa điện hạ cho rằng nô tỳ làm sai, vậy hãy đánh chết nô tỳ đi.
Nữ quan này vừa nói vừa rơi lệ, quay đầu nói với đám thái giám và cung nữ trong điện:
- Đi, lấy roi ra. Nô tỳ đã mạo phạm công chúa điện hạ Vĩnh Thuần, hôm nay hãy để công chúa điện hạ đánh chết đi. Thể diện hoàng gia quan trọng, các ngươi không được ra ngoài rêu rao bậy bạ.
Đám cung nữ thái giám đó nghe xong lập tức quỳ xuống, cầu xin không ngừng:
- Xin công chúa điện hạ tha mạng. Lư tổng quản một lòng hầu chủ, chúng nô tài đều tận mắt nhìn thấy, xin công chúa điện hạ hãy khai ân!
Công chúa Vĩnh Thuần nghe xong giận không nói nên lời. Vị Lư nữ quan này luôn miệng liến thoắng 'Thái hoàng thái hậu' và 'tiên hoàng', điệu bộ giống hệt như thủ đoạn của Dương Lăng trên Kinh Diên, khiến cho công chúa Vĩnh Thuần không tài nào gây được khó dễ cho mụ.
Dương Lăng vừa nhìn tướng mạo bộ dạng, lời nói ngữ khí của mụ, vốn thật sự tin mụ một lòng gìn giữ lễ nghi hoàng gia. Nói không chừng vị phò mã gia nọ thật sự có điều quá đáng. Đáng tiếc vị nữ quan này mặc dù trông thấy Dương Lăng, lại nghĩ đó là Cẩm y vệ do Vĩnh Thuần kiếm tạm đến để xử lý ả, mà không biết thân phận thật của y, thành thử diễn hơi quá lố.
Dương Lăng tỏ vẻ lạnh lùng thờ ơ quan sát, thấy ánh mắt của đám cung nữ và thái giám khi nhìn về phía nữ quan luôn mồm liến thoắng "nô tỳ" này "nô tỳ" nọ còn khiếp sợ hơn lúc nhìn công chúa Vĩnh Phúc, trong lòng y đã hiểu ra vài phần.
Y mỉm cười, chậm rãi bước đến trước mặt nữ quan họ Lư, cúi người nói:
- Xin Lư tổng quản hãy đứng dậy đi. Chỉ vì công chúa điện hạ nhìn thấy Ninh Thanh công chúa đau lòng, cho nên nhất thời nóng nảy. Ngươi vâng theo ý chỉ của tiên đế, giữ gìn tôn nghiêm, chẳng những không có tội, mà còn có công. Có điều... ngươi một lòng vì chủ, song cách làm lại hơi quá quyết liệt, sao không khiến Ninh Thanh công chúa mất thoải mái chứ? Trở về ngươi vẫn nên thỉnh tội với công chúa mới phải.
Lư tổng quản vốn tính làm bộ làm tịch, ra vẻ nô bộc trung thành để mắng vị quan quân Cấm quân này không biết tôn ti, tranh phát biểu trước mặt công chúa. Song khi nghe giọng điệu y dường như lại nói đỡ cho mụ, thế là nở ruột nở gan, vội nói:
- Đại nhân là thị vệ trong cung sao? Đại nhân nói rất phải, nô tỳ sợ Tiết phò mã phá hỏng quy củ, nhất thời nóng lòng nên đã kiên quyết đuổi người ra khỏi cung, thật đã làm tổn hại thể diện của công chúa điện hạ. Nô tỳ sẽ hướng tới công chúa điện hạ thỉnh tội ngay.
Nói rồi cũng không đợi công chúa Vĩnh Thuần cho phép, liền thuận thế đứng lên.
Khi mụ ta đứng lên, Dương Lăng ngửi thấy trên người mụ thoang thoảng có mùi rượu. Nhưng y cũng không vạch trần mụ ngay mà thẳng lưng lên, một mặt đưa tay ra sau lưng xua xua, ra dấu bọn họ đừng lên tiếng, một mặt nói:
- Bổn quan là Dương Lăng, Tham tướng Tả tiêu quân Thần Cơ doanh, không phải là thống lĩnh thị vệ trong cung. Hoàng thượng nghe nói việc này nên sai bổn quan đến tra rõ mà thôi.
Lư tổng quản nghe y xưng là Dương Lăng, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Quả nhiên là người mình. Nghe đâu quan hệ giữa mấy vị công công Mã tổng quản, Cốc tổng quản và y hết sức tốt đẹp. Hoàng thượng phái một ngoại thần như y đến tra xét chuyện này, khẳng định là vì Mã tổng quản đã dâng lời lên hoàng thượng rồi. Ha ha, có y nói đỡ cho mình trước mặt hoàng thượng, Thái hoàng thái hậu thì chỉ nghe lời phiến diện từ phía mình, cho dù có thêm bảy, tám công chúa nữa đến thì làm được gì?
Lư tổng quản không giấu được sự đắc ý trong lòng, liếc nhìn hai vị tiểu công chúa với ánh mắt khiêu khích. Công chúa Vĩnh Thuần thấy vậy lửa giận bốc lên ngùn ngụt, thiếu chút nữa đã bộc phát. Công chúa Vĩnh Phúc ở bên cạnh khẽ ngắt hông nàng một cái, lúc này Vĩnh Thuần mới sực tỉnh, nén giận hừ một tiếng.
Vừa rồi công chúa Vĩnh Phúc nhìn thấy Dương Lăng dùng tay ra hiệu, lại nghe y nói thì biết y ắt có dụng ý, nên sớm đã âm thầm căn dặn muội muội chớ nên hành động khinh xuất. Rõ ràng tất cả mọi người trên dưới phủ công chúa đã bị Lư tổng quản mua chuộc và khống chế, cho dù hoàng đế đích thân đến đi chăng nữa, e rằng cũng sẽ không có ai nói giúp cho công chúa Ninh Thanh. Vụ kiện cáo mơ hồ này căn bản là không thể thắng, nói không chừng vị Dương tham tướng này thật sự có biện pháp cũng nên.
Dương Lăng cười càng thêm tươi, chắp tay nói với Lư tổng quản:
- Hoàng thượng phái đến tra hỏi nên mong tổng quan đem đầu đuôi sự tình nói cho bản quan, bản quan cũng dễ bề thưa lại với hoàng thượng.
Lư tổng quản vốn không phải là kẻ cả tin như thế. Nhưng Dương Lăng và đám người Mã Vĩnh Thành có quan hệ rất tốt với nhau là chuyện mà trong triều ngoài phố ai ai cũng biết. Chuyện nhà Hoàng đế lại phái ngoại thần đến điều tra càng là chuyện xưa nay chưa từng có. Trừ phi vì hai vị công chúa cáo ngự trạng cho nên Mã Vĩnh Thành đã dâng lời trước mặt hoàng thượng, bằng không loại chuyện kỳ lạ này nói nghe không lọt. Cộng vào ngữ điệu lời nói của Dương Lăng lại công khai thiên vị cho mụ, Lư tổng quản đã sớm vứt sạch nghi ngờ. Thế là bèn thêm mắm thêm muối kể lại một lượt chuyện phò mã gia không giữ quy củ trong cung thế nào, thường xuyên ra vào cung đình khi chưa được ả cho phép ra sao. Thậm chí mụ còn dám bịa chuyện phò mã vào cung mượn rượu giả say đùa bỡn cung nữ trước mặt hai vị công chúa.
Dương Lăng nghe mà thầm cười nhạt: ngoại trừ vị phò mã gia này chán sống lắm rồi chứ khó khăn lắm mới được gặp thê tử một lần thì làm gì có tinh thần mà trêu ghẹo mấy cung nữ tầm thường bên cạnh vợ mình. Không lẽ ngoài cung không có gái đẹp sao?
Dương Lăng nén giận nghe mụ nói xong, lập tức cười bảo:
- Hoá ra là như vậy. Giờ bản quan sẽ về bẩm lại với Hoàng thượng. Có điều Lư tổng quản tận trung chức vị, cũng nên chú ý đến cách làm. Hoàng thượng trăm công nghìn việc, bận rộn vô cùng, đại sự triều chính còn chưa xử lý xuể, về sau đừng để mấy chuyện này làm cho công chúa nổi giận, khiến Hoàng thượng phải lao tâm theo.
Lư tổng quản hiểu ý liền cười, vội đáp ngay:
- Dạ, dạ, dạ, đại nhân cứ việc yên tâm.
Dương Lăng khoan thai xoay người, nháy mắt một cái thật nhanh với công chúa Vĩnh Phúc, sau đó hành lễ nói:
- Hai vị điện hạ, vi thần đã tra hỏi xong, giờ sẽ quay về bẩm báo với Hoàng thượng.
Công chúa Vĩnh Thuần tuy đầy bụng nghi hoặc khi nghe vậy vẫn giận tím mặt. Nàng đỏ bừng mặt la lên:
- Ngươi tra hỏi cái... cái... Ngươi chỉ nghe lời phiến diện của mụ ấy liền đã quay về bẩm báo với hoàng huynh sao?
Dương Lăng trừng mắt với nàng một cái, rồi vội quay sang nháy mắt với công chúa Vĩnh Phúc, nhếch nhếch môi, sau đó ra vẻ tự tin hùng hồn nói:
- Hoàng thượng phái vi thần đến tra xét việc này. Việc tra hỏi đương nhiên là hỏi người của phủ công chúa, vi thần sao dám mời Ninh Thanh công chúa ra đối chất? Bây giờ cung nữ, thái giám hầu hạ công chúa điện hạ đều là nhân chứng, sao có thể nói là lời phiến diện của Lư tổng quản chứ? Điện hạ, Hoàng thượng vẫn đang chờ vi thần, vi thần xin cáo lui.
Nói rồi Dương Lăng liền bước ra khỏi điện. Lư tổng quản thấy Dương Lăng không thèm để ý đến hai vị công chúa, trong lòng càng thêm đắc ý. Dương Lăng vừa ra khỏi điện, khuôn mặt thanh tú khoan thai nọ của mụ liền lộ ra vẻ mỉa mai. Mụ vờ kính cẩn nói:
- Công chúa điện hạ thực muốn gặp Ninh Thanh công chúa sao? Ôi chết, hai vị công chúa vừa vào cửa thì đã xông lên hỏi tội nô tỳ, nô tỳ hoảng quá, quên cả dâng trà cho hai vị điện hạ mất rồi. Mau, mau, cái thứ không biết điều chúng bây, mau đi dâng trà cho người!
Lần này thì ngay cả người hiền hoà là công chúa Vĩnh Phúc cũng nổi giận. Nàng phất tay áo, hừ một tiếng, rồi kéo tay muội muội mình bảo:
- Chúng ta đi!
Hai người xoay người ra khỏi đại điện, Lư tổng quản nhanh nhẹn như mây bay nước chảy đuổi theo đến cửa, quỳ xuống làm lễ thưa:
- Nô tỳ kính tiễn hai vị công chúa điện hạ, công chúa điện hạ đi thong thả.
Công chúa Vĩnh Thuần ức muốn rách phổi, vừa ra khỏi phủ Thập Vương lập tức ngóng mắt khắp nơi hét lên:
- Cái tên khốn khiếp Dương Lăng kia đâu? Cái tên khốn khiếp Dương Lăng kia đâu?
Phía sau một cánh cổng vòm, Dương Lăng bỗng ló đầu ra, cười đáp:
- Dương Lăng ở đây!
Công chúa Vĩnh Thuần giật ra khỏi tay tỷ tỷ, lao qua đốp ngay:
- Rốt cuộc vừa rồi ngươi nhấp nháy mắt với tỷ tỷ ta là có ý gì? Mau nói ngay! Nếu như ngươi thật sự dám giúp mụ Lư tổng quản đó hãm hại cô cô ta, bản công chúa quyết sẽ không tha cho ngươi.
Dương Lăng ló đầu nhìn ra phía sau bọn họ, ở trong phủ Thập Vương kín cổng cao tường này không chỉ có một vị công chúa, Lư tổng quản không thể phái người đuổi theo rình trộm, nhưng Dương Lăng vẫn cảnh giác bảo:
- Đi, chúng ta vừa đi vừa nói.
Dương Lăng bước cạnh hai vị công chúa, vừa đi vừa phân tích:
- Số bạc chi tiêu hàng tháng của toàn bộ phủ công chúa đều do Lư quản gia nắm giữ phải không? Ừm, thảo nào có thể khống chế cả phủ trong tay. Trong vụ này, bây giờ khắp phủ công chúa đều là nhân chứng của mụ ta, còn công chúa và phò mã thì ngay cả một người chịu nói lời công đạo cho bọn họ cũng không có. Lư quản gia lại cứ luôn mồm đưa ra quy củ tổ tiên và tiên hoàng, xử lý mụ ta thế nào đây? Cho dù hai người cầu xin để hoàng thượng đổi quản gia cho phủ công chúa, điện hạ cho rằng sẽ có thể tốt hơn chăng? Lợi ích của bọn họ vốn được xây dựng từ việc gây khó dễ cho công chúa. Vì vậy ở điểm này bọn họ tất nhiên sẽ 'cùng chung kẻ thù'.
Công chúa Vinh Phúc nhớ lại khi nãy Lư tổng quản mở lời thì vâng vâng dạ dạ, thật ra thái độ lại cực kỳ kiêu ngạo, trong lòng không khỏi nguội lạnh. Nàng buồn bã nói:
- Vậy... vì lẽ gì Dương tướng quân lại khua tay ra ý bảo chúng ta đừng mở miệng chứ?
Rồi nàng chợt dừng bước ngóng nhìn Dương Lăng hỏi:
- Tướng quân nhất định đã có biện pháp hay rồi phải không?
Dương Lăng khẽ cười đáp:
- Điện hạ thật là anh minh sáng suốt. Ha ha, quả thực vi thần đã có chủ ý, chẳng qua nhất thời vẫn chưa nghĩ thấu triệt tới như vậy.
Y thấy Vĩnh Thuần lại sắp sốt ruột, vội nói tiếp:
- Cách làm thì thần đã nghĩ ra rồi, nhưng thần vẫn chưa nghĩ ra làm sao để trước lúc đó không lâu có thể cho Hoàng thượng biết. Song biện pháp chỉnh đốn loại tiểu nhân tham lợi này thì thần vẫn có...
Dương Lăng thấp giọng giải thích tỉ mỉ một lượt, sau đó cười nói:
- Hai vị công chúa vốn thường hay ra vào phủ công chúa Ninh Thanh, cho nên thích hợp để làm chuyện này nhất. Vả lại dẫu gì cũng chỉ là một nô tỳ, cho dù bại lộ Hoàng thượng cũng sẽ không nổi giận.
Công chúa Vĩnh Phúc nhìn y bằng cặp mắt long lanh như nước thật lâu không chớp, rồi chợt cười phì một tiếng, yêu kiều nói:
- Phương pháp này của Dương tướng quân thật là... thật là... ờ... nhất định hữu hiệu.
Nét giận dữ trên khuôn mặt của công chúa Vĩnh Thuần đã sớm tan biến, nàng hớn hở gật đầu phụ hoạ:
- Đúng vậy, đúng vậy. 'Ác nhân phải lấy ác nhân trị'. Bây giờ bản công chúa đã bắt đầu tin lời Trương quốc cữu nói với mẫu hậu rồi. Cái tên nhà ngươi thật sự là một đại đại ác nhân!
************
"Đại ác nhân" Dương Lăng giúp hai đại, tiểu công chúa đề ra "chiêu thức" hại người xong, vô cùng đắc ý trở về cung Càn Thanh. Chẳng ngờ Hoàng đế Chính Đức đã sớm quên béng chuyện phái y đi điều đình việc nhà của công chúa, vừa thấy y liền hào hứng nói ra kế hoạch điên rồ của mình. Dương Lăng nghe xong lập tức ngây ra như phỗng.
Y đờ người một hồi lâu, nhìn bốn người Lưu Cẩn đang đỏ mắt vì hâm mộ, lại thấy Thiên tử Chính Đức mũi hất lên trời, bèn lấy làm kinh ngạc hỏi:
- Hoàng thượng muốn vi thần thành lập nội tập sự xưởng sao? Không phải Nội tập sự xưởng trước nay vẫn luôn do ty Nội Quan đảm nhiệm ư?
Chính Đức cười nói:
- Không hẳn. Chẳng qua đúng là vào thời Tĩnh Nạn nội quan đã dốc ra nhiều sức cho Vĩnh Nhạc đại đế cho nên Đông xưởng mới do nội quan nắm giữ. Vì vậy về sau khi thiết lập tiếp Tây xưởng cũng theo lẽ đó mà để nội quan nhậm chức xưởng đốc. Nhưng trẫm lại muốn thay đổi cách làm, ngoài mọi dự liệu. Như vậy mới có thể xuất thần nhập hoá, chiến thắng bất ngờ.
Hắn đắc ý:
- Nếu như nội xưởng của trẫm lại cử nội quan làm xưởng đốc, chẳng phải sẽ vẫn quy về dưới sự cai quản của Vương Nhạc ư? Hiện tại Cẩm y vệ là ngoại thần thân quân, được giám sát bởi Đông xưởng của Ti lễ giám, mà Tây xưởng thuộc ty Lễ Giám lại giám sát Đông xưởng. Nay trẫm lại điều ngoại thần thiết lập nội xưởng, giám sát ty Lễ Giám, như thế sẽ liền mạch không chút sơ hở. Cho nên nhất thiết phải dùng ngoại thần. Trẫm tin tưởng nhất là khanh, đương nhiên sẽ để khanh làm. Khanh không muốn làm thượng thư bộ Hình, trẫm đã phê chuẩn nên việc này không cho phép khước từ nữa.
Dương Lăng khổ sở nói:
- Nhưng mà thần... thật sự không có kinh nghiệm gì cả.
Y nghĩ bụng: mặc dù những kẻ đứng đầu hai xưởng một vệ mà không có được cái chết yên lành thực ra không nhiều, nhưng thanh danh vệ, xưởng thật sự không được tốt đẹp cho lắm. Hơn nữa Cẩm y vệ kết hợp với Đông xưởng hết lòng nâng đỡ mình như vậy, chính là sợ mất đi thánh quyến. Giờ đang tốt lành, mình lại thoát ly khỏi bọn họ tự lập môn hộ, Trương Tú và Phạm Đình liệu có chịu ngậm bồ hòn làm ngọt không?
Chính Đức lại không nghĩ vậy, y nói:
- Trẫm làm Hoàng thượng cũng chưa có kinh nghiệm đây, khanh xem trẫm chẳng phải đã làm rất tốt ư? Có trẫm chống lưng cho khanh, khanh còn sợ gì chứ?
Dương Lăng hít sâu một hơi, xấu hổ hỏi:
- Vậy... chẳng hay Hoàng thượng muốn thần thiết lập nội xưởng ở nơi nào? Nhân lực đó lấy từ đâu ra? Xây dựng nha môn phủ đệ, bố trí phòng ốc, mua gì cũng phải có bạc đúng không? Bộ Hộ chịu bỏ ra sao? Chức trách chủ yếu của nội tập xưởng là gì?
Chính Đức nghe thế ngẩn ra, một lúc sau mới nói:
- Việc này... việc này cũng phải hỏi trẫm sao? Nơi chốn thì khanh tự lựa lấy cho mình. Nhân lực thì khanh tự tuyển chọn. Bạc thì...
Hoàng đế Chính Đức nghĩ ngợi một chút, dường như có chút nhức đầu:
- Khanh thử nghĩ xem có thể lấy bạc từ đâu rồi nói cho trẫm nghe, trẫm chuẩn tấu được. Còn về phần chức trách, điều chủ yếu chính là thay trẫm trông coi hai xưởng một vệ, còn cái khác... Phải rồi, bạc... Quyền giám thuế của ty Lễ Giám nhất định phải thu hồi lại.
- Ừm...
Hoàng đế Chính Đức lại nghiêm túc nghĩ ngợi một lát, rồi nhún vai nói:
- Trẫm tạm thời chỉ nghĩ ra bấy nhiêu, nếu khanh nghĩ ra được gì thêm thì hãy nói với trẫm.
Dương Lăng trố mắt nhìn Chính Đức một hồi lâu, rồi mới thưa:
- Vậy... không phải là vi thần phải tham dự chủ trì đại hôn của Hoàng thượng sao? Hay là đợi sau đại hôn hãy xúc tiến được không? Bằng không vi thần e sẽ không cách nào để phân chia thời gian ạ.
Chính Đức cười:
- Chuyện này được thôi. Thế thì sau đại hôn của trẫm hãy tuyên bố thành lập nội xưởng vậy. Trước hết khanh hãy đến bộ Lễ, nghe nói quy củ của bọn họ rất là nhiều. Khanh là sứ thần thiên tử do trẫm đích thân tuyển chọn, chớ làm mất mặt trẫm đấy.
Dương Lăng đành phải đáp ứng:
- Dạ, vi thần tuân chỉ.
Y vừa mới rời khỏi cung Càn Thanh được mấy bước, Lưu Cẩn đã đuổi theo sau lưng, vừa đuổi đến nơi liền vội kêu lên:
- Dương đại nhân, thiết lập nội xưởng là việc vô cùng trọng đại, sao ngài không sốt sắng vậy. Nếu để hai xưởng một vệ biết được, nói không chừng sẽ ngấm ngầm thọc gậy bánh xe đó. Chuyện này phải nên nắm chắc mới được.
Chính Đức đã mở miệng rồng, nói rõ nội xưởng sẽ giám sát thái giám hai xưởng Đông Tây cho nên kiên quyết không dùng thái giám. Lưu Cẩn cũng đã hết hy vọng. May mắn thay vị xưởng đốc nội xưởng tân nhiệm này lại là huynh đệ tốt của lão, 'không cá thì tép tôm' cũng tốt. Dù sao cũng hơn là để người ngoài làm. Cho nên khi trông thấy bộ dạng thờ ơ hờ hững của y thì lão rất đỗi sốt ruột.
Dương Lăng thấy hoàng đế Chính Đức này làm việc bộp chà bộp chộp, sớm nắng chiều mưa, trong đầu còn mong sau lễ đại hôn thì hắn sẽ quên đi ảo tưởng về việc thiết lập nội xưởng, cho nên lần lữa được thì cứ lần lữa. Còn việc phòng bị hai xưởng một vệ, đơn giản là chuyện đùa. Việc này sao có thể sánh được với việc Hoằng Trị bí mật mở ra Tây xưởng, có ty Lễ Giám phối hợp, lại dùng Ngự mã giám làm nòng cốt thuyên chuyển tinh anh mà xây nên, cho nên mới có thể che giấu được nhất thời.
Trong khi mình, cần người chẳng có người, cần tiền thì không có một xu, cần chỗ thì không có chỗ, một chút cơ sở cũng không có. Chỉ cần bên này vừa khởi động, tin tức được giữ kín nhất định sẽ lập tức truyền đến tai hai xưởng một vệ. Thay vì giấu giếm khiến bọn họ nghi kỵ, chi bằng đến lúc mở ra cứ công khai cho bọn họ có thời gian chuẩn bị.
Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng chợt máy động nổi lên một ý nghĩ: nòng cốt của Cẩm Y vệ là thân quân Cẩm Y năm đó. Lịch sử của Đông xưởng lâu đời, nha sai và bộ đầu phần lớn được chiêu nạp từ dân gian, Tây xưởng thì lại lấy Ngự mã giám làm cơ sở. Nếu quả thực muốn thành lập nội xưởng, vậy năm trăm thân quân của Thần Cơ doanh, thậm chí là toàn bộ nhân mã của Tả tiêu quân mà mình đích thân mang ra...
Vừa nghĩ đến đây, Dương Lăng trong lòng tràn ngập hưng phấn. Vốn còn mù tịt chẳng biết phải làm sao, bây giờ ngược lại y đã hạ quyết tâm. Nếu lấy thân quân của mình làm thành viên nòng cốt, thì cả nhân thủ lẫn địa bàn đều đã có cả, nói là thành lập chẳng qua chỉ là treo biển hợp thức hoá thôi.
Chẳng phải Hoàng thượng đã nói cần người nào thì cho người ấy sao? Hoàng Kỳ Dận - huyện thừa Kê Minh, Thiên hộ Ngô Kiệt - Cẩm Y vệ trước giờ vẫn không được toại ý. Những người này đều là quan lại có kinh nghiệm phong phú nhưng quan trường lận đận. Nếu lôi kéo bọn họ vào, có bọn họ bày mưu vạch kế, chẳng phải mình sẽ có thể tiếp tục bon chen sao?
Nghĩ đến đây, Dương Lăng hớn hở vỗ vai Lưu Cẩn. Lần đầu tiên thấy y có động tác thân mật như vậy, Lưu Cẩn sững người ra, lại nghe Dương Lăng mỉm cười nói:
- Lưu công công quan tâm đến Dương mỗ, Dương mỗ trong lòng biết rõ. Có điều việc này có giấu cũng sẽ không giấu nổi. Vậy cứ để tự nhiên cho bọn họ biết đi. Có ý chỉ của thánh thượng, còn ai dám gây phiền toái sao? Ha ha ha...
Lúc này Dương Lăng đột nhiên cảm thấy trong lòng thoải mái, thầm nghĩ nếu Hoàng thượng khăng khăng muốn mở nội xưởng, không bằng tung tin này ra trước, lấy tĩnh chế động, xem thử phản ứng của hai xưởng một vệ. Vả lại mình trù trừ không hành động, thế nào cũng khiến bọn họ nghĩ năng lực mình có hạn, trầy trật tính toán tổ chức, cho dù thật sự có người nổi lòng kiêng kị, ắt cũng sẽ vì thế mà đâm ra xem thường. Khi đó chớp nhoáng thành lập nội xưởng, những trở ngại ngầm nhất định sẽ giảm đến mức tối thiểu.
Vì thế, Dương Lăng gạt bỏ tâm sự, hết sức phấn khởi chạy đến bộ Lễ làm người chủ trì hôn lễ. Lưu Cẩn vẫn đứng ngây ra ở đó thật lâu chưa tỉnh.
***********
Dương Lăng vẫn chưa biết trong đại hôn của hoàng đế thì kẻ chủ trì như mình đây phải làm những gì. Dù sao cũng có bộ Lễ và phủ nội vụ ở đó, mình chắc chủ yếu là thu xếp châm đèn đốt pháo đêm đại hôn là được. Ai ngờ lễ nghi đại hôn của Hoàng đế phức tạp rườm rà, thủ tục nhiều như lá mít. Tuy tác dụng của y ở trong đó có hạn, nhưng những chuyện cần tham dự thật sự cũng không ít.
Hiện nay thượng thư bộ Lễ là Vương Hoa. Vương Hoa lại không có thành kiến gì với y, nhất là khi Vương Hoa nghĩ rằng trong vụ án Đế Lăng Dương Lăng vì muôn dân trăm họ nên mới liều chết không dâng tấu, là trung thần có tâm huyết, vì vậy đối đãi với y cực kỳ khách khí. Thị lang bộ Lễ Lý Đạc và y thì lại "chung một giàn", vì thế quan văn trên dưới bộ Lễ không ai dám gây khó dễ cho y.
Hồng Lư Quan kiên nhẫn giảng giải tỉ mỉ từng bước một cho Dương Lăng về nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghênh (1), nghi lễ sắc phong hậu, phi, song song cùng với phương pháp "Tam thẩm" (Ba lần kiểm tra) dùng để tuyển nạp cung nữ mới, khiến Dương Lăng nghe đến độ hoa mắt nhức đầu.
Đến lúc cuối cùng Dương Lăng chỉ nhớ những hậu, phi này đều là các tiểu thư quan lại đọc sách hiểu lễ, thân thế thanh bạch. Có điều quá trình tuyển chọn so với việc sỹ tử vào kinh thi cử còn nghiêm khắc và quyết liệt hơn.
Các cô nương mà bọn thái giám tuyển chọn chẳng những phải được quan sát dung mạo, nghe giọng nói, còn phải được cung nữ kiểm tra kỹ lưỡng tóc tai, thân thể, ngũ quan của bọn họ. Bất cứ chỗ nào không hợp mắt đều là không hợp cách. Lúc "nhị thẩm" lại lấy thước đo cánh tay, eo, chân và vóc người, không đủ cân đối cũng không được. Đến "tam thẩm", nữ quan trong cung sẽ cởi đồ ra kiểm tra, nếu cơ thể có mùi, da dẻ trên thân có chỗ nào có sẹo cũng không xong. Tiếp đó dựa trên cơ sở này lại kiểm tra tiếp phong thái, dáng vẻ, rồi còn phải ở lại trong cung học phép tắc lễ nghi, quy củ trong cung. Trong quá trình này nếu phát hiện dáng ngủ bất nhã lại đuổi về một nhóm lớn. Sau cùng những tinh anh còn lại mới được Thái hoàng thái hậu, Hoàng hậu và phủ Nội vụ tiến hành tuyển chọn nhân tài.
Dương Lăng nghe xong âm thầm tặc lưỡi, quá trình tuyển chọn này còn nghiêm ngặt hơn cả tuyển chọn hoa hậu Hồng Kông, đủ biết nữ nhân được chọn ra sẽ đẹp đến cỡ nào rồi. Y không nhịn được bèn buột miệng hỏi:
- Có phải đã chọn được nhân tuyển làm Hoàng Hậu rồi không?
Hồng Lư Quan cười nói:
- Đúng vậy. Thái hoàng thái hậu và Hoàng thái hậu đã chọn trúng trưởng nữ của Đô đốc đồng tri phủ Hạ Nho Hạ đại nhân làm Hoàng hậu. Đồng thời cũng đã chọn ra hai người con gái của kinh quan làm phi tử, ngày đại hôn sẽ đồng thời nhập cung. À đúng rồi, ngày kia đại nhân sẽ phải đi nạp thái, vấn danh cùng với hạ quan. Đại nhân hẳn chưa quen với những lễ tiết này, cầm tạm những quyển sách này về xem một chút vậy.
Cầm lấy hai chồng sách dày cộp, Dương Lăng không khỏi trợn mắt hỏi:
- Những... những thứ này đều ghi chép nội dung đại lễ sao?
Hồng Lư Quan nói:
- Đúng vậy. Trong đó là những nội dung có liên quan mà ngài phụ trách. Đại nhân nhất định phải cẩn thận một chút, làm sứ giả cho thiên tử, chớ để mất lễ nghi.
Dương Lăng chỉ biết gật đầu vâng dạ rồi ôm lấy hai chồng sách lên kiệu chạy về nhà. Trong kiệu y tuỳ ý mở ra xem một chút. Những chữ li ti đều là viết dọc từ trên xuống dưới, ngay cả dấu chấm câu cũng không có. Ngày thường xem vài công văn còn có thể cố kiên nhẫn chứ mấy thứ cổ ngữ xem vốn đã choáng mắt, kiệu lại lắc tới lắc lui, Dương Lăng mới nhìn một chút liền thấy nhức cả đầu, thật sự không xem tiếp được nữa.
Dương Lăng ôm đống sách trở về đến phủ thì trời đã quá chiều. Để sách vào trong thư, thấy mấy người Ấu Nương không có ở trong phòng, y hỏi tỳ nữ mới biết mọi người đều đã ra hậu viên, bèn thay thường bào rồi lững thững bước ra hậu viên.
Sân này không nhỏ, chu vi vây quanh chừng ba mẫu, vốn không có dùng để làm gì, ngoại trừ mấy cây ăn quả, khắp nơi đều là cỏ dại. Nay được Dương Lăng phân phó, gian đầu của hậu viên đã được san bằng thành một mảnh đất chuẩn bị dùng làm diễn võ trường. Trên mặt đất được dãy cỏ còn chất vài gò đất vàng, xem chừng vẫn chưa làm xong.
Đi tiếp vào trong, bên phải chính là vườn rau mà Ấu Nương chăm bón. Đầu tiên là một dãy những giàn đậu mắc cao hơn đầu người, vào trong nữa là giàn dưa leo, sau cùng mới là các loại rau dưa hành tỏi.
Dương Lăng bước qua giàn đậu. Vừa bước qua hai giàn dưa leo liền trông thấy một bóng người đang khom nửa lưng xuống ruộng chăm bón mầm dưa non. Nhìn kỹ hoá ra là Ấu Nương. Y liền khấp khởi cúi người chui vào. Đám dưa này được chăm bón rất tốt, đã cho ra rất nhiều trái dưa leo mọng nước, trên đầu trái còn nở những đoá hoa rất đẹp.
Ấu Nương nghe thấy tiếng lá xào xạc, ngoái đầu nhìn thì thấy tướng công đã về, liền vội ngẩng đầu cười thật tươi:
- Tướng công, chàng đến đây làm gì? Đừng làm dơ quần áo đó.
Dương Lăng trông thấy Ấu Nương đã thay một bộ áo vải thô, tay cầm kéo, chắc hẳn đang cắt tỉa dưa non, thì cười:
- Nàng nhé, trời nóng như vầy, chui vào trong ruộng dưa kín mít không gió để bị nóng như vậy. Giờ đây tướng công đã có thân phận vương hầu rồi, nàng lại có phúc mà không hưởng.
Hàn Ấu Nương đưa ống tay áo lên quệt mồ hôi trên mặt, tươi roi rói nói:
- Ở không cũng khó chịu lắm. Tướng công bây giờ là tước gia chứ không phải là vương hầu. Chúng ta ở đây nói thế thì không sao, nhưng ở bên ngoài chàng ngàn vạn lần đừng nói như vậy, tránh để đám tiểu nhân bươi móc khuyết điểm của chàng.
Dương Lăng trừng mắt với nàng, trách:
- Ta chính là có ý như vậy đó, không nói vương hầu chẵng lẽ nói là công hầu, bá hầu à?
Nói đoạn y cũng không nén bật cười bảo:
- Nếu ta thật sự thăng đến công hầu, nàng chẳng phải sẽ là mẫu hầu (khỉ cái) đó ư?
Hàn Ấu Nương phát ngượng, không thèm nghe nói:
- Tướng công lại nói bậy nữa, lúc nào cũng thích trêu người ta.
Lúc này nàng bước tới phía trước. Dương Lăng sợ đụng phải dưa leo mà luống ruộng dưới chân lại xốp nên y đứng không vững, vừa ôm lấy người Ấu Nương liền "úi da" một tiếng, té phịch mông xuống bờ ruộng, đè dập mất một mầm dưa.
Hàn Ấu Nương bèn trách:
- Tướng công, nhìn chàng kìa. Chàng đó, trời sinh đã không phải là người vào ruộng rồi.
Dương Lăng đã ngồi bệt dưới đất, cũng không vội đứng lên. Y kéo tay Ấu Nương để nàng ngồi trên đùi mình, rồi cảm khái than:
- Ài, tướng công cũng biết, trong phủ nàng cũng không có chuyện gì làm. Nhưng với thân phận của tướng công bây giờ, đừng nói là nàng ra ngoài tìm việc, cho dù tuỳ ý đi lại trên đường cũng không dễ, cả ngày nằm dí trong phủ cũng thật khó chịu. May mà có mấy người Ngọc Nhi, bằng không nàng sẽ còn buồn hơn.
Nói rồi y mới sực nhớ là mình vẫn chưa thấy mấy người Ngọc Nhi, Tuyết Nhi và Cao Văn Tâm đâu, lấy làm lạ hỏi:
- Mấy người bọn họ đâu rồi?
Hàn Ấu Nương đáp:
- Bọn họ không cắt tỉa nên đã lên phía trước hái rau rồi.
Dương Lăng ừm một tiếng rồi hôn phớt lên vành tai Ấu Nương, nói:
- Nếu chúng mình có con sớm một chút thì đã tốt rồi. Con nít đứa nào cũng nghịch ngợm cả ngày không để ai nghỉ, như vậy cô vợ của ta sẽ không phải buồn nữa.
Khuôn mặt Hàn Ấu Nương thoáng đỏ lên, trong lòng lại hơi bất an. Nàng có chút chán nản liếc sang Dương Lăng, rụt rè nói:
- Tướng công thích có con, nhưng Ấu Nương giờ vẫn chưa...
Dương Lăng thấy đã chạm vào tâm tư của nàng, liền vội an ủi:
- Không gấp, không gấp, nàng còn nhỏ, vả lại...
Y kề sát vào tai Ấu Nương thủ thỉ:
- Chúng mình mới chung chăn gối bốn tháng mà, nương tử nhà ai lợi hại vậy chứ, một tên có thể trúng đích ngay? Ha ha.
Hàn Ấu Nương nghe vậy lúng túng vặn vẹo bờ vai, có phần mắc cỡ. Dương Lăng thấy vẻ ngượng ngùng của nàng, không khỏi hơi động tình. Nhìn quanh thấy không có ai, y bỗng kề sát vào tai Ấu Nương khẽ hát:
- Bà xã ơi bà xã ta yêu nàng, cầu trời phật chở che cho nàng, mong nàng có được một thân thể tốt, khoẻ mạnh và xinh đẹp. Bà xã ơi bà xã ta yêu nàng, cầu trời phật chở che cho nàng, mong nàng mọi sự đều như ý, chúng mình mãi không chia ly. Tình yêu của ta, chính là nàng, nàng có biết, ta yêu nàng lắm không... (2)
Vào thời đó, bài hát như thế bảo đảm có thể coi như bài dân ca ở thôn quê, nhưng ca từ của nó lại chan chứa cảm xúc ấm áp và ngọt ngào khiến Hàn Ấu Nương nghe mà hai mắt sáng rỡ. Nàng thích thú kéo tay Dương Lăng hỏi:
- Bài ca này nghe hay quá. Tướng công nghe được ca khúc hay như vậy từ đâu thế?
Dương Lăng cười:
- Nghe hay không? Tuy 'bà xã' là cách xưng hô dân dã, nhưng ta cảm thấy so với cách xưng 'nương tử' văn nhã nó càng tỏ rõ tình yêu của tướng công với nàng hơn. Chỉ cần đem đổi chữ này thành ông...
Dương Lăng chợt sực nhớ chữ "ông xã" hình như cũng là một cách gọi thái giám (trong tiếng Trung 'lão công' cũng có nghĩa là thái giám, như 'công công'), liền vội sửa lời:
- Chỉ cần đem đổi chữ này thành tướng công, nàng cũng có thể hát cho tướng công nghe. Tướng công dạy nàng, nàng hát cho tướng công nghe có được không?
Hàn Ấu Nương xấu hổ nói:
- Tướng công, người ta... người ta chưa hát bao giờ, sợ hát không hay đâu.
Dương Lăng khó có dịp ngồi cùng một chỗ với Ấu Nương chuyện trò thân mật như thế này, nên cũng không nề hà trong vườn oi bức ngột ngạt, y nắm lấy tay nàng nói:
- Dễ lắm, lại đây, ta sẽ hát trước vài lần, nàng nghe bài này nhiều lần sẽ quen thôi.
***********
Ăn tối xong, Dương Lăng chui vào thư phòng chăm chỉ xem nửa ngày trời. Hai chồng sách đều là nói chi tiết về những khâu nạp thái, vấn danh, nạp trưng, thỉnh kỳ. Từng hạng mục, cử hành giờ nào, đội nghi trượng cần bao nhiêu thái giám, bao nhiêu cung nữ, mấy chuyện vặt vãnh như chủ sứ giả và phó sứ giả ai cầm ấn tín, ai cầm chiếu thư vân vân, nhìn hoa cả mắt.
Dương Lăng thấy trong hai quyển sách dày như vậy, những thứ mà mình cần chú ý đến không nhiều lắm, nếu như chọn lọc chép ra cộng với ghi nhớ thì sẽ dễ hơn rất nhiều, bèn nghĩ đến chuyện đi tìm mấy người Ngọc Nhi, Tuyết Nhi đến giúp.
Dương Lăng biết buổi tối bọn họ thường thích hóng mát ngoài hành lang cong ở vườn hoa. Y men theo giàn nho bước được mấy bước, chợt nghe phía sau góc quanh hành lang có một giọng khe khẽ ngâm nga:
- Lão gia - lão gia thiếp yêu chàng, mong trời phật chở che cho chàng, cầu chàng có được một thân thể tốt, khoẻ mạnh và xinh đẹp...
Dương Lăng nghe xong suýt tý nữa thì đã té xỉu. Hồi chiều ở trong vườn dưa dụ dỗ cỡ nào Ấu Nương cũng không chịu mở miệng ra hát, không ngờ bây giờ lại chạy ra chỗ không người học hát, "bà xã" sửa lại thành "lão gia" coi như không tính đi, lại còn... "khoẻ mạnh và xinh đẹp"...
Dương Lăng dở khóc dở cười, vội vã chạy vòng qua. Trông thấy một bóng hình xinh đẹp đang ngồi bên lan can, tay cầm hòn đá nhỏ vứt xuống ao một cách nhàm chán, miệng vẫn đang ngâm nga, y vội đi tới gọi:
- Ấu Nương...
Bóng người đó vừa nghe thấy tiếng động liền giật bắn người như thỏ trúng tên, thét lên một tiếng chói tai, sau đó định thần lại mới run rẩy nói:
- Lão... lão gia?
Dương Lăng vừa nghe giọng nói, nhìn kỹ lại một lượt, thấy vị cô nương chúc mình "khoẻ mạnh và xinh đẹp" này không ngờ lại là Tuyết Lý Mai, thế là cũng không khỏi sững người.
Hồi chiều Tuyết Lý Mai bận rộn đến khát khô cả họng nên đã chạy qua vườn dưa hái dưa leo ăn, đúng lúc nghe được lão gia đang dạy phu nhân hát ở ngoài bờ ruộng. Vì y hát đến nhập tâm, âm thanh lại lớn, bị nàng nghe hai lượt đã nhớ hết. Bây giờ nhàn rỗi không gì làm nên thuận miệng hát một chút, không ngờ bị lão gia bắt gặp tại chỗ khiến nàng không khỏi ngượng chín cả người, hận không thể quay người lại nhảy ùm xuống ao chết phứt cho xong.
Xa xa trong góc đình, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Cao Văn Tâm nghe thấy tiếng thét vội vàng chạy lại, vừa thấy Dương Lăng và Tuyết Lý Mai đang đứng đó, Tuyết Lý Mai thì vẫn còn rụt rè sợ hãi, không khỏi lấy làm nghi ngờ hết nhìn người này một chút, lại ngó người kia một tẹo.
Dương Lăng thấy thế thì biết đã hỏng bét, sợ mấy người con gái này sẽ hiểu lầm, vội ho một tiếng nói:
- Ta đang có chuyện cần các nàng giúp đỡ cho nên đi hơi vội, không ngờ Tuyết Nhi cô nương đang đứng ở đây, nên đã doạ cho cô ấy giật mình.
Hàn Ấu Nương nghe xong mới thư thái trở lại, song Ngọc Đường Xuân lại không tin. Nhìn Tuyết Lý Mai trong đêm cả người đỏ bừng như sắp bốc lửa, còn lâu nàng mới tin đó là do bị doạ. Trong lòng cô bé này không khỏi dấy lên một sự chua xót. "Có phải là lão gia thích Tuyết Nhi hơn mình? Không lẽ... mình không đủ đẹp ư?"
Cao Văn Tâm liếc nhanh mấy vị cô nương đang mang những tâm trạng khác hẳn nhau này một cái, đoạn chỉnh đốn trang phục, hành lễ, rồi điềm đạm nói:
- Lão gia có gì phân phó cho tiểu tỳ làm sao?
Dương Lăng thở phào một hơi, vội nói:
- Là như vầy, Hoàng thượng sai ta làm sứ giả cho đại hôn, cầm chiếu thư đi đến phủ của Hoàng Hậu vừa tuyển để làm lễ nạp thái và vấn danh sách lễ tiết thật sự quá hỗn tạp, ta muốn sắp xếp những việc mà phó sứ của thiên tử cần chú ý và làm ở trong đó, ngày mai sẽ học cho thuộc, để tránh đến lúc đó lại xảy ra chuyện.
Mấy nữ tử vừa nghe có việc để làm, lập tức vứt chuyện vừa rồi qua một bên rồi theo Dương Lăng đến thư phòng. Loại sách đóng chỉ đó dễ tháo, Dương Lăng tháo ra thành bốn phần chia cho bọn họ sắp xếp lại, còn bản thân thì pha trà thảnh thơi nhấm nháp ngồi chờ.
Qua một hồi, Tuyết Lý Mai lại kinh hãi kêu lên một tiếng, ánh mắt mấy người không khỏi tập trung trên người nàng. Dương Lăng vốn còn hơi mất tự nhiên vì chuyện ban nãy thấy vậy không khỏi cả mừng. "Ha ha, thì ra cô ấy có tật như vậy. Lần này Ngọc Đường Xuân sẽ không vừa chép sách vừa ngó mình như ngó đặc vụ nữa đó chứ?"
Hàn Ấu Nương không nhịn được bèn cười hỏi:
- Tuyết Nhi, sao hôm nay lúc nào muội cũng kêu hoảng hốt lên thế, đang chép sách mà cũng bị hù dọa à?
Tuyết Lý Mai đỏ mặt, ngượng ngập đáp:
- Tỷ tỷ, muội... muội chỉ không ngờ phó sứ của thiên tử còn... còn phụ trách những thứ này, cho nên nhất thời ngạc nhiên...
Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân và Cao Văn Tâm nghe vậy đều lấy làm hiếu kỳ sáp gần lại. Không ngờ mới xem một chút, Cao Văn Tâm đã khẽ mỉm cười, trở về bên bàn chép tiếp phần của nàng. Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân chớp mắt xem một hồi, cũng đỏ bừng mặt mà lẩn ra.
Dương Lăng nổi tính tò mò, liền vội đứng dậy, hứng thú chen cổ qua hỏi:
- Có gì cần ta làm à? Để ta xem thử nào.
Dương Lăng giành lấy quyển sách ngó vào, chỉ thấy trên đó ghi "Phần nhân luân (luân lí làm người): trên phụng dưỡng tông miếu, dưới kế tục đời sau." Tiếp đó lại là mấy bức xuân cung đồ.
Phim cấp ba "súng thật ống thật" Dương Lăng cũng đã coi rồi nên thứ đồ "con nít" này đương nhiên không để vào mắt. Y khinh thường xem tiếp, nội dung hoạt động bên dưới lại nói đến việc thờ cúng trong cung có thờ Hoan Hỉ phật (3) có thể chuyển động được. Vào ngày nào tháng nào đó, phó sứ lễ đại hôn sẽ đi cùng thái tử đến đại điện thờ Hoan Hỉ phật, rồi dựa theo sự biểu thị của tượng phật, phó sứ sẽ giảng giải cho thái tử kiến thức về giao hợp.
Dương Lăng xem xong không khỏi cười lớn nói:
- Hoá ra là mấy thứ này. Dào, tưởng là thứ gì, cái này có gì đáng dạy chứ. Ai mà chẳng biết thứ này, nhớ hồi ta mười ba tuổi... ớ...
- Hử?
Bốn cặp mắt mang những vẻ mỹ lệ bất đồng lập tức đổ dồn lên người Dương Lăng. Bốn ánh mắt đều tràn ngập sự tò mò "hiếu học". Mặt Dương Lăng nóng bừng, y cố tạo ra vẻ uy nghiêm của lão gia, ho khan vài tiếng rồi cất giọng khô khốc:
- Sắc trời chưa tối, chúng ta không nói chuyện phiếm nữa. Ta thấy mọi người nên mau chóng sao chép cho tốt đi.
Chú thích:
(1) Cưới hỏi theo văn hoá Trung Quốc thời cổ đại có sáu bước (lục lễ), được phân ra như sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn" để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
Lễ nạp trưng (hay nạp tệ): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, minh chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.
Và sau cùng là lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang sính lễ đến để rước dâu về.
(2) những câu này được trích từ bài hát "Bà xã ơi bà xã anh yêu em" (老婆老婆我爱你) rất nổi tiếng. Mời nghe
(3) xem hình http://baike.baidu.com/image/5beeba0fb1c518d4ab6457dd
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro