Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Cảm nhận Tỏ Lòng

Việt Nam, đất nước tuy bé nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi anh hùng đã trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son ấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược của nhà Trần. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn kiệt xuất. Đặc biệt và nổi bật hơn hết cả là tác phẩm "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.


"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

(Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì loạn lạc với cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc đến nỗi bi giáo đâm vào đùi. Bên cạnh một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm "Thuật hoài" và "Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương" còn vang vọng mãi với non sông."Thuật hoài" là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai, là chiến đấu để bảo vệ non sông đất nước đồng thời thể hiện khí thế, sức mạnh và khát vọng chiến thắng của một thời đại anh hùng, hay nói cách khác bài thơ chính là bức chân dung tự họa của tác giả.

Hai câu thơ đầu thể hiện hào khí Đông A hào hùng qua hình tượng trang nam nhi và sức mạnh quân đội nhà Trần.

"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu


Tam quân tì hổ khí thôn ngưu."

Như vậy mở đầu bài thơ là hình ảnh người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo, dáng đứng đầy uy nghiêm, hùng dũng, kiên cường, tư thế sẵn sàng chiến đấu vì tổ quốc, không ngần ngại trước mọi giặc thù mưu đồ xâm lược. Thoắt chốc đã làm hiện lên một khí thế áp đảo, nguồn sức mạnh to lớn tiềm tàng trong hai chữ ngắn gọn "hoành sóc". Song, bản dịch thơ lại dịch "múa giáo", phần dịch tiếc thay đã làm mất đi vẻ oai vệ, chắc chắn của hình ảnh, có vẻ hơi thiên về phô diễn động tác, chưa lột tả được ý nghĩa cất chứa trong từ "hoành sóc". Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng đó không được đặt vào nơi chiến trường tan hoang, dữ dội, Phạm Ngũ Lão lại mang nó đặt vào không gian rộng lớn, bao la của giang sơn đất nước, vào chốn núi non trùng diệp, sông xanh nước biếc như tranh họa đồ. Lấy không gian kỳ vĩ, bạt ngàn ấy làm thước đo, ông đo ngọn giáo trên tay người tráng sĩ bằng chiều ngang của non sông, đo tầm vóc người cầm giáo bằng kích thước của đất trời. Có núi sông làm bức nền, hình ảnh ấy lại càng thêm lớn lao, nổi bật. Xuất phát từ tinh thần làm chủ đất nước vô cùng sâu sắc, ý chí bảo vệ đất nước rất mực kiên cường, tầm vóc của người tráng sĩ đã được Phạm Ngũ Lão nâng lên một tầm cao mới, sánh ngang với vũ trụ đất trời. Vẫn không dừng lại ở đó, tư thế hiên ngang, tầm vóc hoành tráng ấy lại được đo bằng thước đo khác, thước đo thời gian: "kháp kỉ thu" - trải qua mấy thu, đã bao lần thu đến rồi đi, hình ảnh kia vẫn không một chút suy dời, vẫn vững vàng như vậy, vẫn oai vệ như thế bởi nó đâu phải được gây dựng trong một phút chốc để dễ dàng tan biến như một thoáng qua, hình ảnh người tráng sĩ thời Trần đã được hun đúc từ bao cuộc chiến, bao thử thách chông gai. Song, dù có cam go đến mấy, bóng người cầm ngang ngọn giáo ấy vẫn vững vàng tư thế, vẫn bền bỉ mãi chẳng chuyển dời. Có ai tưởng tượng được, qua ngòi bút của một vị anh tướng, thế đứng và sức mạnh của người tráng sĩ, hình ảnh con người kì vĩ, không gian kì vĩ, thời gian kì vĩ, tất cả đã được Phạm Ngũ Lão lột tả trọn vẹn chỉ trong bảy chữ của một câu thơ. Nếu duy chỉ một người tráng sĩ đã mang tầm vóc cao rộng đến thế, thì hình ảnh toàn đội quân Sát Thát sẽ chứa đựng một nguồn sức mạnh áp đảo, vô địch đến nhường nào? Như ông đã miêu tả: "Tam quân tì hổ" - hình ảnh so sánh làm bật lên sức mạng tinh thần của khí ba quân. Như "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu cũng có viết:

"Thuyền bè muôn đội


Tinh kì phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói"

Tinh thần tự cường cùng con tim yêu nước đã cho toàn quân sức mạnh: nhanh như bão, khỏe như hổ, không ngần ngại trước mọi kẻ thù, với lòng trung quân ái quốc, giương cao ngọn cờ dân tộc, quyết chiến quyêt thắng vì một đất nước Đại Việt mãi mãi trường tồn. Khí thế ấy mạnh mẽ đến nỗi có thể nuốt trôi trâu, rực rỡ đến nỗi lấn át cả sao Ngưu trên trời: "khí sao ngưu". Mấy ai làm được như Phạm Ngũ Lão, chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi, ông đã khắc họa vô cùng thành công tư thế của nhân vật trữ tình - kẻ làm trai thời Trần và tư thế đứng sức mạnh của một dân tộc trong một trang sử đầy vẻ vang với tầm vóc lớn, một quyết tâm lớn. Câu thơ bộc lộ niềm tự hào về con người,về quân đội và thời đại. Tác giả nói về chính mình, vừa nói cho cả thế hệ. Mang âm hưởng hào hùng ngân vang, thể hiện hào khí mạnh mẽ - hào khí Đông A, hào khí thời Trần.

Hai thơ tiếp theo chính là nỗi lòng được cống hiến cho giang sơn xã tắc của Phạm Ngũ Lão:

"Nam nhi vị liễu công danh trái


Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu"

Bản dịch thơ có viết: "Công danh nam tử còn vươn nợ" - vẻ đẹp của người làm trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Đây không chỉ là lý tưởng riêng mỗi mình Phạm Ngũ Lão, chí làm trai đã trở thành một tư tưởng vô cùng tích cực của xã hội phong kiến đương thời, là lý tưởng của mọi trang nam tử. Nguyễn Công Trứ với "Chí làm trai" có viết:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất


Phải có danh gì với núi sông"

Theo quan niệm của Phạm ngũ lão đã làm trai thì phải để lại tiếng thơm cho đời. Song đã muốn được ghi danh thì phải lập công, dưới triều đại Đông A con đường lập công rõ ràng nhất chính là làm nên nghiệp lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trước sự xâm lăng của giặc Nguyên mông. Trong thời đại anh hùng mới sinh ra khát vọng anh hùng là vậy. Họ đang gánh vác trên vai sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của chính mình. Đây quả là một quan niệm nhân sinh cao đẹp của những con người chân chính, đặc biệt là của kẻ làm trai trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Xong Phạm Ngũ Lão viết "vị liễu" thức chưa trả xong. Theo quan điểm của chí làm trai mà nói, thứ chưa trả xong, thứ còn vương nợ không khác gì ngoài công danh. Công danh mà nhà thơ nói đến trong bài phải là thứ công danh làm nên bằng máu xương, bằng tinh thần quả cam và chiến công. Đó không phải thứ công danh bình thường đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng của trang nam nhi thời phong kiến. Nó cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao của cả dân tộc. Đặc biệt, cũng từ cái chí, cái nợ đó, ông đã nảy sinh trong tâm một nỗi thẹn: "luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu". Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng, vị quân sư mưu lược như thần của Lưu Bị thời Tam Quốc. vừa có tài, vừa có tâm. Các nhà thơ trung đại mang tâm lí sùng cổ (lấy giá trị xưa làm chuẩn mực), thêm nữa từ sự thật về Khổng Minh" Nỗi tự thẹn của Phạm Ngũ Lão là hiển nhiên. Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Đồng thời thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu của ông. Tựa Nguyễn Khuyến cũng từng bày tỏ cái thẹn của Đào Tiềm qua "Thu Vịnh":
"Nhân hứng cũng vừa toan chấp bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào"

Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Nó không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam.

Bài thơ thể hiện hào khí thời nhà Trần - Hào khí Đông A. Là tâm hồn khí phách, ai ai cũng có tư tưởng tự hào dân tộc, ý chí quyết thắng chống kẻ thù xâm lược. Nó còn là những tâm tư sâu kín của con người, là tâm sự đáng kính của kẻ làm trai đất Việt, là tâm trạng của cả một thế hệ trai tráng lúc bấy giờ. Thể hiện rõ nhất khi xuyên suốt bài thơ không hề có lấy một đại từ nhân xưng nào. Những con người suốt ngày canh cánh trong lòng thù nhà sợ nước, đặt trách nhiệm hách vác an nguy đất nước lên đôi vai mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng lưu danh sử sách.

"Thuật hoài" - Phạm Ngũ Lão là bức chân dung phản chiếu con người ông, cái chí và cái tâm của người làm trai thời đại. Bài thơ mang trong mình cái khí thế hào hùng của cả một thời đại, khát vọng, hoài bão lớn lao đang ngày đêm nung nấu trong lòng vị tướng trẻ. Phạm Ngũ Lão đã tái hiện lại một cách hoàn mĩ nhất hình ảnh trang nam nhi, sức mạnh và khí thế của quân đội nhà Trần, ngân lên một nốt thăng của hào khí Đông A mà cho đến ngày nay vẫn còn vang vọng.




Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro