ngon ngu hoc
Lời nói đầu "Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp"
• Nguyễn Văn Hiệp
Như tên gọi cho biết, cuốn sách này hướng đến việc tìm hiểu và xác lập những cơ sở ngữ nghĩa cho việc phân tích cú pháp.
Từ chỗ bị coi thường, không đáng tin cậy trong các trào lưu ngữ pháp mang tính hình thức, thì hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngữ pháp chức năng và ngữ pháp tri nhận, nghĩa lại là nhân tố đặc biệt được nhấn mạnh. Trong nghiên cứu ngữ pháp cần phải nói đến nghĩa, phải bàn đến ngữ pháp mang tính ngữ nghĩa.
Tuy nhiên, nghĩa lại là đối tượng hết sức trừu tượng, khó nắm bắt. Thật không dễ trả lời cho câu hỏi: "Những loại nghĩa nào có thể được một câu nói chuyển tải?"
Dựa trên giả định rằng bất kì những gì được biểu đạt trong câu cũng đều mang nghĩa, cuốn sách này cố gắng phân tích những lớp nghĩa có thể được chuyển tải trong câu nói. Sự phát triển vượt bậc của ngữ nghĩa học trong thời gian qua đã cho chúng ta những cơ sở đáng tin cậy để bàn đến những lớp nghĩa đó. Với quan niệm rằng cú pháp không mang tính tự trị, mà cú pháp là để tải nghĩa, chúng tôi cho rằng bóc tách được các lớp nghĩa mà câu nói biểu thị sẽ đồng thời là xác lập cơ sở ngữ nghĩa cho việc phân tích cú pháp. Các lớp nghĩa đó, theo chúng tôi, gồm có nghĩa miêu tả, nghĩa tình thái, nghĩa chủ đề, nghĩa mục đích phát ngôn.
Từ việc xác lập những cơ sở ngữ nghĩa như trên, chúng tôi đề nghị một cách tiếp cận mới cho việc miêu tả cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt.
Đường hướng của chúng tôi là xuất phát từ những kiểu nghĩa có thể được diễn đạt trong câu mà định dạng các phạm trù hình thức tương ứng. Đây là cách tiếp cận triệt để đi từ chức năng đến hình thức (a radical function-to-form), được nhà ngữ học người Bỉ Jan Nuyts diễn đạt một cách ngắn gọn như sau: "lấy phạm trù ngữ nghĩa làm điểm xuất phát mà tìm xem những biểu hiện ngôn ngữ học của nó" (taking the semantic category as its starting point, it looks into the range of its liguistic manifestation) [Nuyts 2001].
Đường hướng này vẫn còn khá mới mẻ đối với những người nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đây là đường hướng hứa hẹn nhiều kết quả khả quan, bởi chúng ta đã có quá nhiều kinh nghiệm về những tranh cãi bất tận suốt mấy chục năm qua trong cố gắng dùng tiêu chí hình thức để xác định các thành phần cú pháp của câu tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, không biến đổi hình thái. Xuất phát từ những kiểu nghĩa có thể biểu đạt trong câu nói, xem đó là những cơ sở ngữ nghĩa cho việc miêu tả cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt, chúng tôi chủ trương một lối phân tích câu giản dị, dựa trên những kinh nghiệm tri nhận của chúng ta về thế giới và cách tổ chức, trình bày những kinh nghiệm đó. Cách làm này dẫn chúng tôi đi đến nhận định rằng câu nói là một thực thể nhiều chiều kích, các thành tố cấu trúc tuyến tính của câu không đồng chất trong chức năng phản ánh thông tin thuộc những chiều kích khác nhau đó. Và hệ quả là, nếu chúng ta từ bỏ cách nhìn đơn tuyến để có một cách nhìn "lập thể" về câu thì chúng ta phải đi đến một lối phân tích mang tính mô-đun về các thành tố cấu trúc của nó.
Cuốn sách này hướng đến độc giả là những sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành ngôn ngữ học nói riêng và ngữ văn nói chung. Nó cũng cần thiết cho những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, bởi lẽ nghiên cứu tác phẩm văn học là nghiên cứu thông điệp mà tác phẩm chuyển tải đến người đọc, và cái đơn vị nhỏ nhất có thể chuyển tải thông tin đó chính là câu. Theo một góc độ nào đó, việc nắm vững những nội dung ngữ nghĩa của câu sẽ là cơ sở để khám phá thông điệp của chỉnh thể văn bản rộng lớn hơn. Chúng tôi hi vọng là cuốn sách sẽ cung cấp những tri thức ngữ nghĩa học đáng tin cậy và cập nhật, giúp xử lí những vấn đề đang còn nan giải trong phân tích và miêu tả cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt.
Trong cuốn sách này, khi trích dẫn, trong phần lớn trường hợp, chúng tôi ghi chú ba thông số: tên tác giả, năm xuất bản và số trang. Toàn bộ những thông tin có liên quan đến công trình trích dẫn sẽ được trình bày cụ thể ở mục "Tài liệu tham khảo", được xếp thứ tự theo họ của tác giả. Các mục sẽ được đánh số theo số của chương, kèm theo những phân biệt về tiểu mục, chẳng hạn, nếu gặp mục 5.3.2 bạn đọc sẽ biết là mục này nằm ở Chương 5, là tiểu mục thứ hai (tức sau 5.3.1) trong mục lớn 5.2.
Cuốn sách này là kết quả những bài giảng chuyên đề về ngữ nghĩa và ngữ pháp mà tôi đã trình bày ở bậc cao học và nghiên cứu sinh trong khoảng mười năm trở lại đây.
Nhân dịp cuốn sách được ra mắt bạn đọc, tôi xin trân trọng cám ơn các thầy cô ở Khoa Ngôn ngữ, Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trình bày chuyên đề này. Tôi cám ơn bạn bè đã không ngừng động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Tôi cũng xin cám ơn các anh chị em học viên cao học và nghiên cứu sinh đã theo dự chuyên đề của tôi và đã đóng góp nhiều ý kiến quý giá.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn Ban Tiếng Việt, Nxb Giáo dục đã tạo điều kiện tốt nhất để cuốn sách có thể ra mắt bạn đọc trong thời gian sớm nhất.
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ
• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa
1.0.Dẫn nhập
Trong chương này, chương được xem là cơ sở của toàn bộ Phần 1, ta đề cập đến những khái niệm cơ bản nhằm đặt ngữ nghĩa học trên một nền tảng lí thuyết vững chắc. Mặc dù đây là một trong những chương dài nhất của cuốn sách và lại bao gồm một số vấn đề đôi khi mang tính đòi hỏi khá cao đối với những ai chưa quen với ngữ nghĩa học, tôi cũng đã cố ý không chia chương này ra thành 2 chương (hoặc nhiều hơn), bởi vì tôi muốn nhấn mạnh đến một điều là các vấn đề được đề cập ở đây đan quyện vào nhau và trước sau đều quan yếu như nhau.
Những độc giả gặp một số vấn đề khó hiểu từ những trang đầu tiên không nên quá bận tâm về chúng. Họ có thể trở lại với chúng khi đọc ba phần tiếp theo của cuốn sách và sẽ thấy những phân biệt đa dạng về thuật ngữ nêu ra ở chương này được thực sự ứng dụng như thế nào. Quả thật, đây là cách duy nhất để chắc rằng ta hiểu chúng. Việc nêu ra từ đầu sách những phân biệt quan yếu về hệ thuật ngữ cơ sở và về quy ước trình bày sẽ giúp độc giả tham khảo chúng dễ dàng hơn. Điều này cũng giúp họ hiểu dễ dàng hơn bản chất của hệ khái niệm và khung thuật ngữ mà tôi sử dụng, nếu đem so sánh với những tác giả khác được dẫn ra trong mục 'Những gợi ý tham khảo tiếp theo'.
Ta bắt đầu và kết thúc chương này với câu hỏi cơ bản nhất, câu hỏi mà nghĩa học, cả ngôn ngữ lẫn phi ngôn ngữ, đều mong muốn tìm thấy một câu trả lời thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm: nghĩa là gì? Câu hỏi này được đặt ra một cách không chuyên môn trong mục 1.1; trong mục 1.7 ta điểm lại tóm tắt một vài trong số những câu trả lời khái quát mà các nhà triết học, ngôn ngữ học và các khoa học khác đã đưa ra trong quá khứ và gần đây.
Giữa hai mục này tôi chen vào mục 1.2, dành cho cái mà tôi gọi là siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học và mục 1.3, dành cho việc xác lập phạm vi của ngữ nghĩa học, ở một mức độ chi tiết hơn những gì mà tôi đã nêu trong Lời nói đầu. Việc nên có một mục riêng để xem xét mối quan hệ giữa ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ chỉ là một điều mong đợi. Điều quan trọng là độc giả thấy được rằng có nhiều cách, trong đó cái địa hạt của ngữ nghĩa học, một mặt được người nghiên cứu định nghĩa như một phần của nghĩa học rộng hơn và mặt khác, như một phần của ngôn ngữ học; và độc giả cũng nên thấy được ngay từ đầu cách định nghĩa về 'ngữ nghĩa học' của tôi là có khác so với các tác giả khác.
Thuật ngữ 'siêu ngôn ngữ' và tính từ tương ứng của nó, như ta sẽ thấy trong các chương sau của sách này, ngày nay được sử dụng khá rộng rãi khi thảo luận về những vấn đề cụ thể của ngữ nghĩa học. (Hai thuật ngữ này sẽ được giải thích đầy đủ trong mục 1.2) Tuy nhiên, các nhà lí thuyết và thực hành ngữ nghĩa học thường không thảo luận, một cách hiển ngôn và dưới hình thức những thuật ngữ chung, mối liên hệ giữa siêu ngôn ngữ hàng ngày của ngữ nghĩa học và siêu ngôn ngữ có tính chuyên môn hơn mà họ dùng trong các công trình của mình. Tôi dành ở đây một số trang để bàn về vấn đề này, bởi vì tôi nhận thấy tầm quan trọng của nó đã không được thừa nhận rộng rãi như đáng ra nó phải được thừa nhận.
Ba mục tiếp theo sẽ dành cho một số phân biệt, giữa ngôn ngữ và lời nói, 'langue' và 'parole', 'ngữ năng' và 'ngữ thi', giữa hình thức và nghĩa, giữa câu và phát ngôn, là những phân biệt mà hiện nay đều được thừa nhận, ở những mức độ chung nào đó, là thuộc vốn thuật ngữ của nhà ngôn ngữ học, mặc dù chúng thường không được định nghĩa theo một cách giống nhau. Một lần nữa, tôi phải dành thêm một số trang, nhiều hơn thường lệ, cho một số những phân biệt này. Tôi cũng phải tìm cách làm rõ những gì thường hay bị lẫn lộn, một mặt, khi thảo luận về câu và phát ngôn, và mặt khác khi thảo luận về ngữ năng và ngữ thi. Tất nhiên, tôi tìm cách giải thích những khác biệt này trong bối cảnh hiện nay, gắn với những ứng dụng cụ thể của chúng trong nghĩa học (và ngữ dụng học) và gắn với việc dùng chúng để tổ chức cuốn sách này
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa
• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp
2.0 Dẫn nhập
Như ta đã thấy trong chương trước, nói chung người ta nhất trí rằng từ, ngữ đoạn và câu của ngôn ngữ tự nhiên thì có nghĩa, rằng câu được cấu tạo nên bởi từ (và ngữ đoạn), và rằng nghĩa của câu là kết quả của các từ (và ngữ đoạn) tạo nên câu.
Song từ là gì? Và trên thực tế, có phải tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ không? Những câu hỏi này thật không dễ trả lời như ấn tượng ban đầu của ta về chúng. Một lí do là, thuật ngữ 'từ' là lưỡng nghĩa, cả trong cách dùng hàng ngày lẫn trong cách dùng mang tính kĩ thuật của nhà ngôn ngữ học. Từ có thể được xem thuần tuý là những dạng thức (forms), được nói ra hay viết ra, hoặc xem xét theo một cách khác như là những biểu thức (expressions) phức hợp, bao gồm dạng thức và nghĩa. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi mà trong ngôn ngữ học, thuật ngữ 'dạng thức' lại được dùng theo nhiều nghĩa khác biệt, mặc dù có liên quan với nhau. Một trong những mục đích chính của tôi trong chương này là xác lập những quy ước về cách trình bày và về thuật ngữ nhằm tránh sự mơ hồ và nhầm lẫn.
Một lí do nữa giải thích vì sao không dễ nói cái gì đấy là từ hay không phải là từ như người ngoài ngành có thể nghĩ - hoặc nói rằng liệu tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ hay không - đó là một số tiêu chí khác nhau đã tham gia vào việc định nghĩa từ, cả tư cách dạng thức lẫn tư cách biểu thức, và những tiêu chí này thường xung khắc với nhau. Thêm vào đó, một vài tiêu chí được nhà ngôn ngữ học sử dụng, xét riêng ra, là những tiêu chí không phân tách rõ ràng từ với cái không phải là từ.
Trong cuốn sách này, ta quan tâm chủ yếu đến tư cách biểu thức của từ, tức từ như là những đơn vị phức hợp vừa có dạng thức, vừa có nghĩa (chính xác hơn, như ta sẽ thấy, là những đơn vị điển hình có một tập hợp dạng thức và một tập hợp nghĩa). Mỗi khi thuật ngữ 'từ' được dùng mà không có thêm hạn định nào, đây chính là cái nghĩa mà nó được dùng. Thực tế thì, như sẽ được giải thích trong chương này, thuật ngữ 'từ' nói chung sẽ được dùng suốt cuốn sách này, đặc biệt trong Phần 2, để chỉ cái có thể được gọi, một cách không chuyên môn, là từ-từ điển (hoặc từ-vốn từ): tức theo cái nghĩa nó được dùng trong siêu ngôn ngữ thường ngày, ví dụ, khi người ta nói rằng một cuốn từ điển tường giải của ngôn ngữ đang xét nào đấy, lí tưởng là chứa đựng tất cả những từ có trong vốn từ của ngôn ngữ đó. Theo cái nghĩa này của thuật ngữ 'từ', tất cả các ngôn ngữ đều có từ.
Cái thuật ngữ chuyên môn mà ta sẽ dùng để chỉ những gì tôi vừa gọi là từ- từ điển đó, là 'từ vị'. Danh từ 'từ vị' tất nhiên có liên quan đến các từ 'từ vựng' và 'bộ từ vựng'. (Ta có thể quan niệm rằng 'bộ từ vựng' là có cùng nghĩa với 'vốn từ' hoặc 'từ điển'). Từ vị là đơn vị từ vựng: đó là một đơn vị của bộ từ vựng. Cấu trúc từ vựng của một ngôn ngữ là cấu trúc của vốn từ vựng hoặc vốn từ của nó; và thuật ngữ 'nghĩa từ vựng', được dùng để đặt đầu đề cho Phần 2, do vậy tương đương với thuật ngữ 'nghĩa của từ' vốn được dùng rộng rãi, ít mang tính chuyên môn (song lại mơ hồ). Lí do mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra những thuật ngữ chuyên môn hơn là 'từ vị' và 'nghĩa từ vựng' (phù hợp với các nguyên tắc đã phác hoạ trong mục 1.2) sẽ được giải thích trong chương này. Như ta sẽ thấy, không phải tất cả từ đều là từ vị và ngược lại, không phải tất cả từ vị đều là từ. Ta cũng sẽ thấy rằng, chẳng có gì mới mẻ hoặc kì cục, đây là điều mà bất kì ai tham khảo một cuốn từ điển quy ước cũng đơn giản mặc nhận, không nhất thiết phải suy ngẫm về những hệ luỵ của nó đối với lí thuyết ngữ nghĩa (và ngữ pháp).
Khi ta xem từ (và ngữ đoạn) như là những đơn vị có nghĩa, ta cũng sẽ phải xử lí cái thực tế là, một mặt, một dạng thức có thể gắn với vài nghĩa và mặt khác, cùng một nghĩa có thể gắn với vài dạng thức của từ. Thực tế này đã được ngữ pháp và từ vựng học truyền thống thừa nhận chính đáng và sẽ được thảo luận ở đây theo một quan điểm hoàn toàn truyền thống, dưới tên gọi của các khái niệm đồng âm (homonymy), đa nghĩa (polysemy) và đồng nghĩa (synonymy).
Cuối cùng, trong phạm vi chương này, ta sẽ xem xét sự phân biệt giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp, vốn phái sinh từ sự phân biệt được nêu ra trong truyền thống giữa vốn từ của một ngôn ngữ và ngữ pháp của nó. Cách thức mà sự phân biệt này được nêu ra và được hình thức hoá sẽ thay đổi tuỳ theo khung lí thuyết cụ thể được sử dụng. Ví dụ, sẽ có một phân biệt đáng kể giữa cách lập thức sự khác biệt thao tác theo một thứ ngữ pháp dựa vào hình vị với cách lập thức với thứ ngữ pháp dựa vào từ, mang tính truyền thống hơn (mà ta đang sử dụng). Song ở mức độ tương đối sơ đẳng mà ta thảo luận vấn đề trong cuốn sách này, sự khác biệt giữa hai mô hình, hay lí thuyết, về cấu trúc ngữ pháp khác nhau trên đây không gây ra ảnh hưởng nào nghiêm trọng; việc kiểm tra lại điều này và công thức hoá lại những gì tôi đã nói về dạng thức và nghĩa, liên hệ với hình vị (và tổ hợp hình vị) chứ không phải với từ sẽ là một bài tập hữu ích cho những sinh viên nào đã có kiến thức cơ bản về lí thuyết ngữ pháp truyền thống hay hiện đại.
Về tác động của việc chấp nhận một mô hình phân tích ngôn ngữ chủ trương nêu ra sự phân biệt giữa vốn từ (hoặc bộ từ vựng) và ngữ pháp ở một vị trí khác với cái vị trí được nêu trong ngữ pháp và từ vựng học truyền thống, thì điều này cũng chẳng có gì quan trọng trong bối cảnh của cuốn sách này. Những ai nắm rõ sự phát triển gần đây trong lí thuyết ngữ pháp có thể dễ dàng có những điều chỉnh. Điều thực sự quan trọng là, bất luận người ta nêu ra sự phân biệt giữa ngữ pháp và từ vựng trong lí thuyết ngữ học đại cương và trong việc miêu tả những ngôn ngữ cụ thể theo cách thế nào đi chăng nữa, thì hai thứ này cũng cần phải được xem là bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Điều này sẽ được làm rõ khi ta chuyển từ Phần 2 sang Phần 3.
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung
• Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến
8.0. Dẫn nhập
Đến đây, chúng ta chưa thật sự khai thác sự khác biệt về mặt thuật ngữ, đã được nêu ra trong chương 1, giữa 'câu' và 'phát ngôn'. Chúng ta cũng chưa làm rõ sự khác biệt có liên quan giữa cái mà Saussure gọi là 'ngôn ngữ' và 'lời nói', còn Chomsky thì gọi là 'ngữ năng' và 'ngữ thi', vốn là những khái niệm, như chúng ta đã thấy trong chương 1, cần được trình bày lại, với tư cách là những sự lưỡng phân không tương đương với nhau trong khuôn khổ tam phân hệ thống-quá trình-thành phẩm, nếu như chúng ta muốn tránh những ngộ nhận được gán cho sự phân biệt các thuật ngữ này trong hầu hết các sách giáo khoa.
Phần lớn những nghiên cứu trong nghĩa học hình thức (trong chừng mực nó được áp dụng để phân tích ngôn ngữ tự nhiên) đã dựa trên quan điểm cho rằng ngôn ngữ là tập hợp các câu, và các câu được dùng chủ yếu là, nếu không nói chỉ duy nhất, nhằm vào mục đích miêu tả. Do đó, nghĩa học hình thức thường không quan tâm đến sự khác biệt giữa ngữ nghĩa của câu và nội dung mệnh đề (tức nội dung miêu tả). Đây rõ ràng là một quan điểm rất hạn hẹp về bản chất ngôn ngữ (như chúng ta đã thấy ở chương 6) và về ngữ nghĩa của câu. Quan điểm này đã bị chỉ trích rất nhiều.
Một trong những người chỉ trích có ảnh hưởng nhất trong những năm gần đây là nhà triết học J.L Austin (1911-60) ở Đại học Oxford, người có những tư trưởng được tranh luận rất nhiều, không chỉ trong giới triết học mà còn cả trong giới ngôn ngữ học (và những đại biểu của nhiều ngành khoa học khác). Trong chương này, chúng ta sẽ sử dụng cái được gọi là lí thuyết hành động ngôn từ của Austin như là xuất phát điểm để phân tích nghĩa của phát ngôn trong các chương 9 và 10 tiếp theo.
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung (1)
• Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến
8.1. Phát ngôn
Như đã chỉ ra ở chương 1, thuật ngữ 'phát ngôn' mơ hồ giữa nghĩa quá trình và nghĩa ngôn phẩm (mục 1.6). (Ở đây từ 'quá trình' được dùng với nghĩa rộng hơn 'hành động' hay 'hoạt động': hành động là quá trình có chủ thể kiểm soát; còn hành vi (act) là đơn vị của hành động hay hoạt động). Thuật ngữ 'phát ngôn' có thể được dùng để chỉ hoặc chính quá trình (hoặc hoạt động) phát ngôn ra câu nói hoặc chính sản phẩm của quá trình (hoặc hoạt động) ấy. Phát ngôn, theo cách hiểu thứ nhất, hiện nay được dùng để chỉ các hành động ngôn từ; còn theo cách hiểu thứ hai thì có thể dùng để chỉ các phát-ngôn-thành-phẩm (inscriptions), theo một nghĩa đặc biệt của thuật ngữ này. (Thuật ngữ phát-ngôn-thành-phẩm, được nêu ra ở chương 1, không được giới ngôn ngữ học dùng một cách rộng rãi. Nó không nên được xem là phù hợp với ngôn ngữ viết hơn so với ngôn ngữ nói). Trong chương này, một trong những mục đích chính của tôi là làm rõ mối quan hệ giữa các hành động ngôn từ với các phát-ngôn-thành-phẩm và đồng thời với nó là làm rõ hơn sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn. Trong chừng mực có thể được, tôi sẽ thao tác với các thuật ngữ và khái niệm được lấy ra từ tác phẩm của J.L Austin, hiện đang được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ học và các khoa học có liên quan. Nhưng tôi thấy cần bổ sung một hoặc hai sự phân biệt của riêng tôi, nhằm làm chính xác hơn những gì mà Austin và các môn đệ đã làm về mối quan hệ phức tạp giữa các hành động ngôn từ và câu. Tôi cũng sẽ nêu thảo luận những điểm chưa được chú ý đúng mức trong phạm vi có thể gọi là truyền thống Anh-Mĩ, nếu so với việc xử lí chúng trong truyền thống Pháp điển hình, vốn bắt nguồn từ nghiên cứu của Emile Benveniste (1966, 1974).
Thuật ngữ 'hành động ngôn từ' có thể gây hiểu nhầm. Trước hết, nó dễ bị coi là đồng nghĩa với 'hành động phát ngôn ra câu nói' hơn là để biểu thị, như nó đã biểu thị (theo cái nghĩa mà nó được các nhà ngôn ngữ học sử dụng), một bộ phận cụ thể nào đó của sản phẩm nói năng. Thứ hai, nó quá nhấn mạnh vào cái bộ phận của sản phẩm nói năng ở khía cạnh là phương tiện ghi lại âm thanh. Tuy nhiên, bởi thuật ngữ 'hành động ngôn từ' hiện nay được dùng quá phổ biến, trong ngôn ngữ học và trong triết học, theo nghĩa chuyên môn mà Austin và cụ thể hơn, là J.R Searle đã cấp cho nó, tôi sẽ không tìm cách thay thế nó bằng một thuật ngữ khác thích hợp hơn. Có điều, cần phải nhấn mạnh rằng: (i) thuật ngữ 'hành động ngôn từ' được dùng nhất quán theo một nghĩa rất chuyên môn hoá; và (ii) thuật ngữ này, một mặt, giống như thuật ngữ 'phát ngôn', và mặt khác, giống như các thuật ngữ 'phát-ngôn-thành-phẩm' hay 'ngôn bản', được dùng để chỉ sản phẩm của ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết. Tất cả những gì được nêu trong chương này (và xuyên suốt cuốn sách) đều được định hướng nhất quán với những gì đã được nói ở chương 1, một mặt là về ngữ năng và ngữ thi, và mặt khác, là về hệ thống ngôn ngữ, về việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ, về sản phẩm của việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ đó và sẽ tỏ ra trung tính đối với một số khác biệt hiện được coi là đặc trưng để phân biệt trường phái ngôn ngữ học này với trường phái ngôn ngữ học khác. Chẳng hạn, nó trung tính giữa cách tiếp cận tạo sinh luận và phi tạo sinh luận đối với việc phân tích ngôn ngữ và đối với ngôn ngữ, giữa tri nhận luận (cognitivism) và phản tri nhận luận (anti-cognitivism), giữa chức năng luận và phản chức năng luận, giữa hình thức luận và phản hình thức luận. Thiết thực hơn, sự trình bày của tôi về những gì được gọi là lí thuyết hành động ngôn từ là nhằm đưa ra một cơ sở triết học cần yếu hơn so với những gì thường được nêu trong các sách giáo khoa ngôn ngữ học.
Bản thân Austin chưa hề trình bày lí thuyết được phát triển đầy đủ về các hành động ngôn từ. Di cảo cuối cùng là tập thuyết trình William James ông đọc ở Harvard vào năm 1955 và sau khi ông chết, được công bố với tên gọi How to do things with words (Nói là hành động) (1962). Trước đó, ở Đại học Oxford, trong một số năm, ông cũng đã thuyết trình chính đề tài đó và vào năm 1940, đã sớm có những bài viết có liên quan, nhưng về tập bài giảng William James của mình, ông đã không để lại bản thảo được sửa chữa đầy đủ và có thể công bố. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi chẳng hề có phiên bản được nhất trí và xác định nào về lí thuyết của ông. Sự thật, người ta không rõ ngay cả việc Austin có cố gắng xây dựng một lí thuyết về các hành động ngôn từ theo cách hiểu thuật ngữ 'lí thuyết' mà những người người theo tư tưởng của ông đã hiểu hay không. Ông là người thuộc về trường phái được gọi là trường phái triết học ngôn ngữ đời thường, mà thành viên của nó là những người có xu hướng hoài nghi chủ nghĩa hình thức và hoài nghi việc có thể vạch ra những phân biệt rạch ròi.
Mục tiêu chính của Austin, ít nhất ở buổi ban đầu, là xem xét lại điều mà ông nhìn nhận như là nguỵ thuyết miêu tả: quan điểm cho rằng chức năng của ngôn ngữ được quan tâm duy nhất về mặt triết học là chức năng xây dựng những phán đoán đúng hay sai. Cụ thể hơn, ông tấn công vào thuyết thẩm định chân thực, có liên quan đến thực chứng luận lô gích, tức cái thuyết cho rằng các câu chỉ có nghĩa khi chúng biểu thị những mệnh đề có thể kiểm tra được tính đúng hay sai. Chúng ta đã xem xét thẩm định luận (verificationism) khi nói về khái niệm khái niệm điều kiện chân thực (xem mục 5.4). Như chúng ta đã thấy, khi Austin đầu tiên quan tâm đến vấn đề này, những người theo thẩm định luận đã phải đối mặt với sự chỉ trích rằng tiêu chí về tính có nghĩa của họ đã loại trừ, không phải chỉ những cái được gọi là giả phán đoán của thần học hay siêu hình học, mà còn cả những phán đoán thuộc đạo đức học và mĩ học. Một sự đáp trả lại đối với chỉ trích này, nó sẽ được nhắc lại, là thừa nhận những câu như:
'Tục ăn thịt người là sai lầm'
hoặc
'Monet là hoạ sĩ tài năng hơn Manet'
không thể được dùng để biểu thị các phán đoán mang tính miêu tả, mà chỉ có thể được dùng để biểu cảm, tức biểu thị những cảm nhận của con người (xem mục 5.5).
Hoặc có thể cho rằng, mặc dù những câu như vậy có thể được dùng để biểu thị các phán đoán đúng hoặc sai thì cái mà người nói biểu thị, khi nói những câu đó, là những thái độ của riêng họ hoặc của ai đó hơn là hiện thực khách quan. Trong các bài viết tương đối sớm của mình, Austin đã phê phán cách hiểu thứ hai này. Sau đó, ông đã chỉ ra rằng trong số những phát ngôn thường ngày của chúng ta, số phát ngôn giả phán đoán là nhiều hơn so với số được thừa nhận bởi những người theo thẩm định luận hoặc những người chống đối họ. Ví dụ, theo Austin, nếu ta phát ngôn câu:
'Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng'
với mục đích là hứa (và báo cho người nghe biết là ta đang tạo ra một lời hứa), thì ta không phải là đang nói điều gì đó, có thể đúng hoặc sai, do ta nhận thức được mà chính là ta cam kết thực hiện một hành động cụ thể.
Đây, tóm lại, là bối cảnh triết học trong đó Austin lần đầu tiên nêu ra sự phân biệt mà nay rất nổi tiếng giữa phát ngôn tường thuật (constative) và phát ngôn ngôn hành (performative). Theo định nghĩa, phát ngôn tường thuật là phát ngôn nêu nhận định. (Austin thích dùng 'tường thuật' hơn là 'miêu tả', bởi vì ông cho rằng không phải tất cả những nhận định đúng hoặc sai đều là các phát ngôn miêu tả. Để giản tiện cho việc trình bày ở đây, hai thuật ngữ này sẽ được xem là tương đương). Phát ngôn ngôn hành, trái lại, là những phát ngôn mà khi nói ra chúng, người nói hay người viết chính là đã làm một điều gì đấy hơn là nói một điều gì đấy.
Sự phân biệt giữa nói và làm này (được phản ánh trong tiêu đề bài giảng của Austin ở Oxford là 'Ngôn từ và hành động') cuối cùng đã bị từ bỏ. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa phát ngôn tường thuật và phát ngôn phi tường thuật, như trên đây, thì vẫn được giữ lại. Điều đơn giản là, trong phiên bản muộn nhất mà chúng ta có về tác phẩm của Austin, các phát ngôn tường thuật chỉ được xem như là một loại phát ngôn ngôn hành. Tương tự, nói (saying), trong cái nghĩa nêu nhận định, hay xác nhận của động từ 'nói', cái nghĩa mà theo đó ta nói một điều gì đó đúng hay sai, sẽ được xem như là một kiểu hành động đặc biệt. Và như chúng ta sẽ thấy, Austin đã xem xét một cách khá chi tiết vấn đề nói và làm. Thực tế, đây là những gì mà lí thuyết hành động ngôn từ của Austin, trong chừng mực nó là một lí thuyết, quan tâm xem xét. Đó là một lí thuyết về dụng học (theo cái nghĩa từ nguyên của thuật ngữ 'ngữ dụng', là sự nghiên cứu về hành động).
Hơn thế nữa (mặc dù Austin không phát triển những vấn đề có liên quan của quan điểm này), đó là một lí thuyết dụng học mang tính xã hội: lí thuyết cho rằng nói là hành động trong khuôn khổ những thiết chế và những quy ước xã hội đã được giả định và chấp thuận bởi các thành viên (hay những người tham gia tương tác). Khía cạnh này trong lí thuyết của Austin không phải bao giờ cũng được nhấn mạnh một cách tương xứng.
Sự phân biệt thứ hai mà Austin nêu ra là giữa phát ngôn ngôn hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp. Về nguyên tắc, sự phân biệt này áp dụng cho cả phát ngôn tường thuật lẫn phi tường thuật. Ở đây, chỉ cần nói rằng phát ngôn ngôn hành tường minh là dạng mà phát-ngôn-thành-phẩm có chứa những từ ngữ dùng để biểu thị hoặc, bằng một cách nào đó khác, chỉ rõ loại hành động được thực hiện. Định nghĩa này cần được trau chuốt lại ở một vài phương diện. Để nguyên như vậy, nội dung của nó có thể rộng hơn so với dự định của Austin, nhưng lại hẹp hơn mức cần phải có. Nhưng chắc hẳn là nó bao quát tất cả những ví dụ mà Austin và những người theo ông đã dùng để minh hoạ cho loại phát ngôn ngôn hành. Đặc biệt, nó bao quát được các phát ngôn phi tường thuật của những câu như (3). Những câu như vậy có chứa một động từ gọi là động từ ngôn hành, và chính sự hiện diện của động từ này, ở đây là động từ 'hứa', ở dạng thức trực thuyết, thì hiện tại đơn giản, cùng với chủ ngữ ở ngôi thứ nhất số ít, sẽ chỉ rõ bản chất của cái hành động ngôn từ được thực hiện khi câu đó được nói ra để hứa.
Tất nhiên, người ta có thể hứa mà không cần dùng một phát ngôn ngôn hành tường minh như vậy. Ví dụ, ta có thể hứa bằng cách nói:
'Tôi sẽ trả anh/chị 5 Bảng'
Trong trường hợp này, ta đã dùng một phát ngôn mà Austin gọi là ngôn hành nguyên cấp (tức không tường minh). Xét theo định nghĩa được nêu trên đây, phát ngôn này là ngôn hành không tường minh, bởi lẽ tự thân phát-ngôn-thành-phẩm không chứa từ ngữ nào chỉ ra rằng nó là một lời hứa chứ không phải là dự báo hay nhận định.
Đó có thể xem là một sự trình bày đủ, mặc dù không chính thức và phần nào chưa chính xác, về những gì mà Austin suy nghĩ khi ông nêu ra sự khác biệt giữa phát ngôn ngôn hành tường minh và nguyên cấp. Cần lưu ý rằng chính các phát ngôn, chứ không phải là các câu, được phân chia thành tường thuật hoặc phi tường thuật, ngôn hành tường minh hoặc không tường minh. Khi các nhà ngôn ngữ dùng thuật ngữ 'câu ngôn hành', họ thường viện đến các câu như 'Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng', vốn chứa một động từ được gọi là ngôn hành và thường được nói ra với tư cách là những phát ngôn phi tường thuật tường minh.
Như những gì đã được nói về câu trần thuật và phi trần thuật ở chương 6 chỉ rõ, câu (4) là câu trần thuật, bởi lẽ nó thuộc về một loại câu mà các thành viên điển hình được dùng một cách đặc trưng để nêu nhận định. Ở điểm này, cần nhấn mạnh rằng nói như vậy không có nghĩa là mỗi thành viên hoặc bất kì tiểu lớp nào của loại câu này đều chỉ được dùng thông thường với mục đích đó. Cho dù (3) thậm chí không bao giờ được dùng để nêu nhận định mà chỉ để hứa hẹn, nó vẫn là một câu trần thuật bởi cấu trúc ngữ pháp của nó. Và (3) tất nhiên có thể được dùng (trong tiếng Anh chuẩn hiện nay) để nêu các loại nhận định khác nhau. Không cần thiết phải nhắc đi nhắc lại điều này ở đây. Nhưng nó cần phải được lưu tâm trong suốt chương này.
Trong phần tiếp theo, tôi sẽ dùng một số thuật ngữ của Austin. Nhưng không phải bao giờ tôi cũng giải thuyết chúng một cách hoàn toàn giống như Austin. Ở một vài trường hợp, cách giải thuyết của Austin không được rõ ràng, ở những trường hợp khác thì đủ rõ nhưng lại gây tranh cãi. Vấn đề đáng nói hơn là quan niệm của Austin về sự phân biệt giữa câu và phát ngôn là rất khác với quan niệm mà tôi chấp nhận trong sách này. Vì vậy, tôi sẽ giải thích lại lí thuyết hành động ngôn từ của Austin dưới ánh sáng của sự phân biệt này.
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung (2)
• Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến
8.2. Hành động tạo lời
Cái mà Austin gọi là hành động tạo lời chính là việc tạo ra một phát ngôn (tức phát-ngôn-thành-phẩm) với một dạng thức cụ thể và một ý nghĩa ít nhiều xác định.
Nhiều phát ngôn mà chúng ta dùng trong hội thoại hàng ngày, tức phần lớn các sản phẩm của hành động tạo lời, là sai ngữ pháp (ungrammatical); một số thì đúng ngữ pháp nhưng bị tỉnh lược (như: Ở đây lâu chưa?, Mùa đẹp trời của cả năm v.v...); một số thì vừa không đúng ngữ pháp lại vừa không sai ngữ pháp; một số khác, tất nhiên, vừa không đúng ngữ pháp vừa bất khả chấp, hậu quả của cái gọi là lỗi thể hiện: do sơ ý, nhớ nhầm hoặc những trục trặc này nọ trong việc tạo ra các tín hiệu ngôn ngữ.
Bởi lúc này chúng ta chủ ý giới hạn sự quan tâm đến các phát ngôn đúng ngữ pháp và không tỉnh lược nên chúng ta tạm thời tránh một loạt những phức tạp mà việc thảo luận đầy đủ hơn về các hành động tạo lời đòi hỏi. Đặc biệt, chúng ta tạm giả định rằng thực hiện một hành động tạo lời tất nhiên phải là phát ngôn ra câu nói. Tuy nhiên, ở điểm này, cần lưu ý một điều quan trọng là người ta có thể phát ngôn ra cùng một câu mà không nhất thiết phải nói cùng một nội dung, và họ có thể nói cùng một nội dung mà không nhất thiết phải phát ngôn ra cùng một câu.
Trong thực tế, có nhiều cách người ta có thể hiểu cụm từ được dùng hàng ngày 'nói giống nhau'. Lí thuyết hành động ngôn từ của Austin có thể được xem như là lí thuyết dành cho vấn đề này và giải thích (một phần nào) một vài ý nghĩa của động từ 'nói', theo đó nói là hành động. Chúng ta hãy bắt đầu với nhận xét rằng câu sau đây là mơ hồ, thể theo cái cách động từ 'nói' được dùng với nghĩa "xác nhận" hay "nói ra":
'John và Mary nói giống nhau'.
Theo một cách hiểu, sự giống nhau đó là giống nhau về các điều kiện chân thực và do đó, là biểu thị cùng một nội dung mệnh đề, như trong:
'John và Mary cùng xác nhận một mệnh đề'
Theo cách hiểu khác, câu trên đây có thể được khúc giải, theo siêu ngôn ngữ chuyên môn mà chúng ta đã kiến tạo, như là:
'John và Mary tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm'.
Cũng cần thấy rằng, mặc dầu từ 'điều nói ra' thường không bị coi là mơ hồ, vẫn có một khác biệt nổi bật và quan trọng về mặt lí thuyết giữa các kiểu loại 'điều nói ra'. Các mệnh đề, như chúng ta đã thấy, là những thực thể trừu tượng thuộc một kiểu loại đặc biệt. Trong khi đó, các phát-ngôn-thành-phẩm lại có những đặc tính vật lí, có thể được xác định bằng giác quan này hay khác: nghe, nhìn, sờ mó v.v...
Từ những gì đã nói trong những chương trước, rõ ràng là ta có thể xác nhận cùng một mệnh đề bằng cách nói ra những câu khác nhau. Ý này bây giờ có thể cần được làm rõ thêm. Thứ nhất, cùng một mệnh đề có thể được xác nhận (cho phép chúng ta giả định) bằng cách nói ra các câu trong những ngôn ngữ khác nhau, ví dụ, cùng một nội dung mệnh đề 'Trời mưa' có thể nói:
'It is raining' (tiếng Anh),
'Il pleut' (tiếng Pháp),
(10)'Es regnet' (tiếng Đức).
Thứ hai, cũng có thể xác nhận cùng một nội dung mệnh đề bằng cách nói ra hai câu trong cùng một ngôn ngữ, chẳng hạn dùng các câu chủ động và bị động tương đương, ví dụ như:
(11) 'Con chó cắn người đưa thư'
và
'Người đưa thư bị con chó cắn'.
Ngược lại, như chúng ta đã thấy ở chương 7, người ta có thể xác nhận những mệnh đề khác nhau bằng cách nói ra cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau và bằng cách gán những giá trị khác nhau cho các biểu thức quy chiếu trong câu đó. Ví dụ,
'Bạn tôi đang đợi tôi'
biểu thị vô số những mệnh đề khác nhau tuỳ thuộc vào giá trị được gán cho 'bạn tôi', 'tôi' và cái thời gian được quy chiếu bởi thì của động từ. Và như vậy, chúng ta đã thấy rằng có một sự phân biệt quan trọng được nêu ra giữa việc phát ngôn ra câu và việc xác nhận mệnh đề.
Cũng có một sự phân biệt được nêu ra giữa việc phát ngôn ra câu và tạo ra các phát-ngôn-thành-phẩm. Điều này có thể được thấy qua vài ví dụ đơn giản. Chúng ta giả định rằng John nói:
I'll meet you at the bank
Và Mary nói:
I'll meet you at the bank
Hoặc, một lần nữa, chúng ta giả định là cả hai cùng nói:
Flying planes can be dangerous.
Chắc chắn chúng ta có thể đồng ý rằng theo một cách hiểu nghĩa của động từ 'nói', ở mỗi ví dụ, John và Mary đều nói giống nhau: họ đã tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm. Chính xác hơn (như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây) họ đã tạo ra các hiện dạng (tokens) của cùng một kiểu loại phát ngôn. Chúng ta cũng hãy đồng ý rằng, ở mỗi trường hợp, cái mà họ nói ra là câu. Nhưng có phải cả hai đã nói ra cùng một câu không?
Điều quan trọng là thấy rằng chúng ta không thể trả lời được câu hỏi này nếu không biết những dạng thức nào đã được nói ra cũng như những cụm từ nào đã được họ tạo nên. Nếu bank trong phát ngôn của John là một dạng thức của 'bank 1' (nghĩa là "ngân hàng") còn bank trong phát ngôn của Mary là một dạng thức của 'bank 2' (nghĩa là "sườn dốc của một con sông") thì họ đã nói ra những câu khác nhau. Tương tự, nếu flying trong phát ngôn của John là một dạng thức của động từ nội động 'fly' (bay) (do đó 'flying planes' có nghĩa nôm na là "những máy bay đang bay") còn flying trong phát ngôn của Mary là một dạng thức của động từ ngoại động tương ứng 'fly' (lái) (do đó 'flying planes' có nghĩa nôm na là "lái máy bay") thì họ, một lần nữa, đã nói những câu khác nhau. Đáng tiếc là tồn tại quá nhiều lẫn lộn trong các văn liệu có liên quan đến điều vừa nói trên đây, do chỗ ngay từ đầu, câu đã được những nhà ngữ pháp tạo sinh định nghĩa (một cách không truyền thống) như là một chuỗi các dạng thức, vốn có thể hoặc không có cùng cấu trúc ngữ pháp. Ở đây và xuyên suốt cuốn sách này, tôi đã chấp nhận một quan niệm có tính truyền thống hơn về câu.
Sự thể rằng người ta có thể tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm mà không phát ngôn ra cùng một câu là một điểm khuất lấp trong rất nhiều công trình gần đây về ngữ nghĩa học và ngữ dụng học, do chỗ các thuật ngữ 'câu' và 'phát ngôn' được dùng một cách lỏng lẻo. Ta có thể đồng ý rằng Austin cũng là người thất bại trong cố gắng vạch ra một sự phân biệt đủ sắc nét giữa câu và phát ngôn. Nhưng ông chắc chắn đã lưu ý đến điều vừa được minh hoạ; và ông đã có sự hiểu biết sâu sắc hơn về mối quan hệ phức tạp giữa câu và phát ngôn so với những gì mà nhiều môn đệ hình như đã hiểu. Bởi sự phân tích của ông về các hành động tạo lời, mặc dù về một vài phương diện là không được rõ và ở một số phương diện khác là khiếm khuyết về kĩ thuật, nhưng rõ ràng đã dựa trên sự thừa nhận rằng các phát ngôn đồng nhất về mặt ngữ âm có thể khác nhau xét theo các từ ngữ thành tố và cấu trúc ngữ pháp của chúng.
Điều này dẫn chúng ta đến một luận điểm bổ sung: sự đồng nhất về ngữ âm không phải là điều kiện tất yếu để đồng nhất các phát ngôn. Nếu chúng ta yêu cầu Mary nhắc lại phát ngôn của John ở (14), chúng ta không mong gì cô ta bắt chước được chất giọng của anh ta hoặc tái tạo lại những đặc trưng kèm lời như nhịp điệu, tiết tấu. Chúng ta thậm chí cũng không mong cô ta nhại lại giọng của John, mặc dù nó có thể rất khác với giọng của cô ta. Chẳng hạn, nếu John là người Luân Đôn thuộc tầng lớp công nhân với giọng Cockey, còn Mary là một quý bà tầng lớp trên vùng New England thì họ sẽ phát âm câu 'I'll meet you at the bank' cũng như hầu hết các phát ngôn tiềm tàng khác của tiếng Anh theo những cách khác nhau. Thế nhưng trong nhiều trường hợp, nếu không nói là tất cả, các cặp phát-ngôn-thành-phẩm khác biệt nhau về ngữ âm sẽ được người bản ngữ xác định như là các hiện dạng (tokens) của cùng một điển dạng (type).
Điều này cho thấy sự đồng nhất ngữ âm không phải là điều kiện tất yếu cho việc đồng nhất điển dạng/hiện dạng của các phát-ngôn-thành-phẩm. Nó cũng minh chứng một điều rằng sự đồng nhất điển dạng/hiện dạng của phát ngôn, trong chừng mực nào đó, là độc lập đối với lí thuyết: nó có thể được xác lập trong những ví dụ cụ thể mà không cần tham chiếu đến những lí thuyết này nọ về cấu trúc ngôn ngữ. Nhưng sự độc lập về lí thuyết, theo cái nghĩa này, sẽ không còn nữa nếu tính đến đường nét ngữ điệu của phát ngôn. Trong cuộc sống hàng ngày, đơn giản là ta không rõ liệu hai cách phát âm phân biệt về ngữ điệu của câu 'I'll meet you at the bank' có được xem là chỉ hiệu của cùng một kiểu loại hay không. Trong cả hai trường hợp đều có chỗ để tranh luận liệu sự trọng âm và ngữ điệu có quan yếu hay không. Tuy nhiên, để đơn giản việc trình bày, ở đây tôi sẽ theo quan điểm cho rằng để hai người có thể tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm, chỉ cần họ phát ngôn những gì mà họ và những người khác thừa nhận là cùng một chuỗi các dạng thức, bất luận đường viền ngữ điệu và mô hình trọng âm trùm lên nó. Và tôi cũng sẽ theo quan điểm này khi xem xét câu .
Ví dụ, nếu John nói:
It's raining.
(Trời đang mưa)
với ngữ điệu đi xuống và mô hình trọng âm trung hoà, trong khi Mary nói:
It's raining.
(Trời đang mưa)
với trọng âm nhấn mạnh và ngữ điệu đi lên ở dạng thức raining (mưa), tôi sẽ cho rằng họ không những đã tạo ra cùng một phát-ngôn-thành-phẩm mà còn đã nói ra cùng một câu:
(19) 'It's raining'
Tôi cũng xem sự tương phản it is đối với it's và tất cả những hiện tượng tương tự là không quan yếu đối với việc đồng nhất điển dạng/hiện dạng các phát-ngôn-thành-phẩm. Đây không phải là vấn đề gì to tát về mặt lí thuyết và phương pháp luận. Nhiều nhà ngôn ngữ học có thể không đồng ý, trên cơ sở lí thuyết, với quan điểm mà tôi lựa chọn ở đây. Nhưng đến nay đã có một vài người quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này; và rất nhiều điểm thoạt nhìn tưởng như là bất đồng thật sự hoá ra có thể chỉ là bất đồng thuần tuý về thuật ngữ.
Bây giờ chúng ta có thể chia việc thực hiện một hành động tạo lời ra làm hai phần độc lập về lô gich: (i) sự tạo ra phát-ngôn-thành-phẩm theo một số phương tiện vật chất thích hợp; và (ii) sự cấu tạo nên một câu như thế nào đó. Chúng độc lập với nhau về mặt lô gich, bởi lẽ cùng một phát-ngôn-thành-phẩm có thể ứng với hai hoặc nhiều hơn các câu khá khác nhau và ngược lại, cùng một câu có thể ứng với hai hoặc nhiều hơn các phát-ngôn-thành-phẩm khá khác nhau. Sử dụng các thuật ngữ của Austin, chúng ta có thể nói rằng hành động tạo lời là sản phẩm của (i) một hành động ngữ âm (phonic act) để tạo ra một phát-ngôn-thành-phẩm (trong chất liệu âm thanh); và (ii) một hành động ngữ vựng (phatic act) để kiến tạo nên một câu cụ thể trong một ngôn ngữ cụ thể. Hành động đầu tiên trong số hai hành động này tất nhiên phụ thuộc vào việc sử dụng phương tiện là chất liệu này hay chất liệu khác. Việc tạo ra các phát ngôn bằng những chất liệu phi âm thanh, chủ yếu khi ta viết chứ không phải nói, sẽ liên quan đến các hành động phi cấu âm này hay khác. Như tôi đã nói từ đầu, thuật ngữ 'hành động ngôn từ' lẽ ra không nên được hiểu như là chỉ áp dụng cho việc tạo ra các phát ngôn lời nói. Điều này cũng đúng đối với thuật ngữ 'hành động tạo lời'.
Chúng ta vẫn chưa kết thúc việc phân tích các hành động tạo lời; chúng ta vẫn còn phải tính đến sự thể là các câu được nói ra trong những ngữ cảnh cụ thể và một phần ý nghĩa của phát-ngôn-thành-phẩm có được là phái sinh từ cái ngữ cảnh mà ở đó nó được hiện thực hoá. Đây chủ yếu là nói về sở chỉ của các biểu thức quy chiếu được dùng trong phát ngôn; và sở chỉ, như chúng ta đã thấy ở Phần 3, là một phần ý nghĩa của phát ngôn chứ không phải của câu. Thành tố thứ ba của hành động tạo lời, vốn bao gồm sự gán định sở chỉ và có thể được miêu tả một cách khái quát hơn như là quá trình ngữ cảnh hoá (contextualization) được Austin gọi là hành động ngữ chiếu (rhetic act).
Tôi sẽ không tiếp tục dùng các thuật ngữ 'ngữ âm', 'ngữ vựng', và 'ngữ chiếu' của Austin. Chúng không được dùng rộng rãi trong các tài liệu ngôn ngữ học và trong bất kì tình huống nào, tôi cũng đã hiểu chúng có phần khác so với Austin. Điều quan trọng chính là bản thân sự phân tích tam phân, như chúng ta đã thấy, vốn dựa một phần vào sự phân biệt giữa ngôn ngữ và phương tiện, một phần vào sự phân biệt giữa câu và các phát-ngôn-thành-phẩm.
Có thể cần nói thêm rằng, chiểu theo những lẫn lộn và nhầm lẫn tương đối phổ biến tồn tại ở khía cạnh này, sự phân biệt giữa câu và phát-ngôn-thành-phẩm không chỉ đơn giản là sự phân biệt giữa điển dạng và hiện dạng. Điều này xuất phát từ thực tế là hai phát-ngôn-thành-phẩm được tạo ra trong những ngữ cảnh khác nhau có thể được xem như là những hiện dạng của cùng một điển dạng mà không cần biết những câu nào đã được nói ra. Hơn thế nữa, như tôi đã nhấn mạnh trong mục này, các hiện dạng của cùng một phát-ngôn-thành-phẩm có thể là kết quả của việc nói ra các câu khác nhau và ngược lại, các hiện dạng của các phát-ngôn-thành-phẩm khác nhau có thể có được bằng cách phát ngôn cùng một câu trong những ngữ cảnh khác nhau. Đây là điểm cốt tử đối với bất kì lí thuyết về cấu trúc ngôn ngữ nào vận hành với khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống về cái đơn vị gọi là câu. Bất kì ai, khi đã chấp nhận quan điểm truyền thống về câu (như chúng ta chấp nhận trong cuốn sách này) đều cũng muốn có quyền nói rằng, ví dụ, hiện dạng của:
Tôi đã,
bất luận được nói ra hay viết ra, là kết quả của việc thể hiện vô số các câu. Họ sẽ cho rằng (20) là dạng tỉnh lược của bất kì câu nào trong tập hợp các câu bao gồm:
'Tôi đã rửa chén bát'
'Tôi đã đến California'
'Tôi đã có một cái máy tính cá nhân'
Ngược lại, họ cũng muốn cho (như tôi) rằng một câu như:
'Tôi đã rửa chén bát'
có thể được nói ra không phải chỉ như là:
Tôi đã rửa chén bát,
mà còn như là:
Tôi đã làm xong
Tôi đã
Tôi
(với một vài đường nét ngôn điệu thích hợp, nếu những phát ngôn này được thể hiện bằng phương tiện âm thanh). Như chúng ta sẽ thấy ở chương 9, sự phân tích hành động tạo lời được phác hoạ trong mục này cho phép chúng ta đi đến những nhận định như vậy theo một cách thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm. Nhưng bây giờ, khi tôi đã giải thích khá chi tiết những gì có liên quan đến sự thực hiện một hành động tạo lời, chúng ta có thể bàn đến điều được mọi người thừa nhận như là đóng góp đặc sắc nhất của Austin trong việc nghiên cứu ý nghĩa: sự phát triển của ông về khái niệm lực ngôn trung.
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung (3)
• Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến
8.3. Lực ngôn trung
Nói là hành động. Nhưng có nhiều nghĩa khác biệt nhau của động từ 'nói'. Theo một cách hiểu, nó có nghĩa nôm na là "nói ra" hoặc, nói theo thuật ngữ chuyên môn hơn, là "thực hiện một hành động tạo lời". Như chúng ta vừa thấy, theo cái nghĩa này, cái sự nói ra này liên quan đến 3 loại hành vi khác nhau:
- hành động tạo ra một phát-ngôn-thành-phẩm;
- hành động cấu tạo nên một câu;
- hành động ngữ cảnh hoá câu được tạo ra.
Nói ra một câu, trong tất cả những ngữ cảnh giao tiếp thông thường, là thực hiện một hành động phức tạp tích hợp ba loại hành động trên đây, và kết quả là thu được những tín hiệu ngôn ngữ xác định và có nghĩa, tức thu được một phát-ngôn-thành-phẩm. Tất nhiên, từ những gì vừa nói thì không thể xác quyết rằng trong cái phát ngôn thực tại được tạo ra đó, ba hành động này là dễ nhận biết về phương diện tâm lí và vật lí. Cho đến nay, ở cấp độ này, các nhà tâm lí học biết tương đối ít về các chi tiết của việc phát ngôn. Sự phân tích được chúng tôi trình bày ở đây là trung tính đối với những cách tiếp cận tâm lí học và ngữ âm học cụ thể.
Thế nhưng còn có một nghĩa khác của từ 'nói' mà theo đó, như tôi đã chỉ ra, có thể hai người nói giống nhau mà không hề thực hiện cùng một hành động tạo lời và không nói ra cùng một câu. Họ có thể khẳng định hay phủ định một điều gì đó theo cái nghĩa là cả hai đều xác nhận cùng một mệnh đề. Ví dụ, chúng ta giả định rằng John nói (hoặc viết)
Peter điên
còn Mary, trong một ngữ cảnh khác, thì nói (hoặc viết)
(29)Anh trai của bạn điên.
Chúng ta tiếp tục giả định rằng 'Peter' và 'anh trai của bạn' đều chỉ cùng một người và từ 'điên' được sử dùng với cùng một nghĩa (chứ không phải trong trường hợp này thì với nghĩa "bị dở người" còn trong trường hợp kia thì với nghĩa "giận dữ"). Miễn là John và Mary thực sự xác nhận một mệnh đề thì họ tất đã xác nhận cùng cái mệnh đề ấy, và do đó họ cùng nói giống nhau theo cái nghĩa khác của từ 'nói' này. Nhưng theo trình tự riêng từng người thì khi nói Peter điên và Anh trai của bạn điên, họ không nhất thiết là đã nêu ra một nhận định.
Nêu ra một nhận định, hay một sự xác nhận thì không phải là thực hiện một hành động tạo lời kiểu này chứ không phải là kiểu nọ; đó là sự thực hiện một hành động tạo lời mà sản phẩm của nó, tức một hiện dạng-phát ngôn, mang một lực ngôn trung này chứ không phải là một lực ngôn trung khác. Theo Austin, như chúng ta đã thấy, chức năng tường thuật hay miêu tả của ngôn ngữ chỉ là một trong số những chức năng của nó. Chúng ta cũng dùng ngôn ngữ để hỏi, nêu yêu cầu hay hứa hẹn; để đe doạ, sỉ nhục và tán tỉnh; và tất nhiên, để thực hiện những gì mà Austin thoạt tiên gọi là các hành động 'ngôn hành': đặt tên thánh cho một đứa bé, hứa hôn với ai, tuyên án một tội phạm hình sự v.v... Nói tóm lại, có nhiều chức năng khác nhau mà ngôn ngữ có thể thực hiện và tương ứng là có nhiều lực ngôn trung khác nhau.
Nhưng là bao nhiêu? Một cách trả lời câu hỏi này là xem thử có bao nhiêu động từ trong một ngôn ngữ cụ thể có thể được sử dụng trong các phát ngôn ngôn hành tường minh, theo cùng cái cách mà động từ 'hứa', lấy ví dụ, có thể được dùng theo lối phi tường thuật ở phát ngôn (3), thuộc mục 8.1 trên đây, và được nhắc lại ở đây như sau:
(31) 'Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng'.
Có hàng trăm, nếu không phải là hàng nghìn, các động từ như vậy trong tiếng Anh. Một số trong chúng ít nhiều đồng nghĩa, chẳng hạn 'implore' (van xin), 'beseech' (cầu khẩn). Số khác thì mặc dù rõ ràng là không đồng nghĩa, vẫn có thể được nhìn nhận, một cách cảm tính, là thuộc về những nhóm với những đặc trưng chung. Ví dụ, các động từ 'promise' (hứa) và 'undertake' (cam kết) có quan hệ với nhau về mặt ngữ nghĩa như vậy, khi chúng được dùng trong các phát ngôn ngôn hành tường minh thì người nói đã cam kết thực hiện một hành động cụ thể. Tất cả những động từ như vậy, và theo đó là cái lực ngôn trung cụ thể mà chúng chỉ ra tường minh, có thể được gộp lại với tư cách là những thành viên của một nhóm. Tình hình là tương tự đối với những tập hợp khác của các động từ ngôn hành có quan hệ với nhau về ngữ nghĩa; chẳng hạn như các động từ 'order' (ra lệnh), 'command' (yêu cầu), 'request' (đề nghị) v.v..., tất cả chúng đều có đặc trưng chung là, khi được dùng trong các phát ngôn ngôn hành tường minh, chúng biểu thị ý chí của người nói muốn những người khác, thường là người nghe, hãy thực hiện một hành động cụ thể. Những phát ngôn như vậy (ra lệnh, yêu cầu, đề nghị v.v...) hiện nay thường được quy chung là thuộc nhóm khuyến lệnh (directives).
Bản thân Austin đã đưa ra những phác hoạ về một sơ đồ phân loại như thế ở ngay phần cuối tác phẩm How to do things with words. Những sơ đồ phân loại khác, có thể bao quát hay thu hẹp hơn so với Austin, từ đấy đã được những môn đệ của ông nêu ra. Chính khả năng có nhiều cách phân loại khả dĩ để có thể lựa chọn đã gây rắc rối. Chúng ta làm thế nào để quyết định chọn cách phân loại này hay cách phân loại khác? Chẳng có cơ sở nào để cho rằng tập hợp các động từ ngôn hành trong tiếng Anh hoặc trong các ngôn ngữ khác chính là sự thừa nhận về mặt từ vựng đối với các kiểu loại lực ngôn trung có thể có. Càng ít có cơ sở hơn để cho rằng hẳn có những phân tích duy nhất đúng về các động từ đó, áp dụng cho mọi nền văn hoá và mọi ngôn ngữ. Trong thực tế, một số lượng rất lớn các động từ ngôn hành trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác rõ ràng phụ thuộc vào văn hoá. Chẳng hạn, ý nghĩa và cách sử dụng động từ 'thề', trong chừng mực phân biệt với 'hứa' và 'cam kết', hoặc mặt khác, phân biệt với 'thoả thuận', 'kí hợp đồng' và 'bảo đảm', chính là dựa trên cái thiết chế của việc thề bồi đã được xác lập theo văn hoá.
Hơn nữa, hiện nay người ta đã thấy rõ rằng việc gán cho các động từ ngôn hành một tầm quan trọng đặc biệt là không đúng. Không thể phủ nhận rằng, chúng có một vị thế đặc biệt trong sự trình bày ban đầu của Austin về sự phân biệt giữa phát ngôn tường thuật và phát ngôn ngôn hành. Nhưng đó là do lúc bấy giờ ông quan tâm chủ yếu đến việc phê phán nguỵ thuyết miêu tả. Nhìn từ quan điểm này, các câu như
(32) 'Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng'
rõ ràng là thú vị hơn về mặt lí thuyết so với những câu như:
(33) 'Tôi sẽ trả anh/chị 5 Bảng'
Theo khái niệm lực ngôn trung khái quát hơn mà về sau ông nêu ra trong How to do things with words, chúng ta chẳng có lí do gì để giới hạn sự quan tâm của mình đối với các câu trần thuật có chứa động từ ngôn hành.
Tại điểm này, cũng nên lưu ý rằng định nghĩa về 'phát ngôn ngôn hành tường minh' mà tôi nêu ra ở đầu chương này ("là dạng mà phát-ngôn-thành-phẩm có chứa những từ ngữ dùng để biểu thị hoặc, bằng một cách nào đó khác, chỉ rõ loại hành động được thực hiện") không hề ám chỉ các động từ ngôn hành như vậy. Ví dụ, cụm từ 'by Heaven' (có Chúa chứng giám) có thể được một nhóm người nói tiếng Anh nào đó sử dụng như là một cách thay thế tương tương và tường minh cho động từ 'thề', để chỉ ra rằng họ đang thề bồi. Trong trường hợp mà, với ngữ cảnh thích hợp, phát ngôn:
(34) Có Chúa chứng giám, tôi sẽ trả anh/chị 5 Bảng
được xem như là một phát ngôn ngôn hành tường minh thì chính cụm từ 'có Chúa chứng giám' đã góp phần làm tường minh, mặc dù nó không biểu thị, lực ngôn trung của phát ngôn. Đây là một bước ngắn để đi đến sự thừa nhận tiếp theo rằng người nói có thể làm rõ lực ngôn trung của phát ngôn này không phải bằng một từ ngữ đặc biệt mà bằng một tiểu từ tình thái đặc biệt, bằng một thức ngữ pháp đặc biệt, hoặc thậm chí bằng một kiểu ngữ điệu đặc biệt. Tôi sẽ trở lại với vấn đề này sau.
Thế thì, bởi những lí do khác nhau, dường như ít có cơ sở để nêu ra những cách phân loại tổng thể và được coi là phổ quát cho việc phân tích lực ngôn trung dựa trên sự tồn tại của một lớp các động từ ngôn hành riêng biệt trong những ngôn ngữ riêng biệt. Điều thậm chí còn vô lí hơn, là cố gắng xác lập một sự phân loại kín kẽ đối với tất cả các hành động ngôn từ có thể có, dựa trên các điều kiện cần và đủ để xét chúng là thuộc về nhóm này hơn là nhóm khác. Phần lớn các hành động ngôn từ, như tôi đã nói, là mang tính đặc thù văn hoá, thể hiện ở chỗ chúng phụ thuộc vào những quy ước về luật pháp, tôn giáo hoặc đạo lí và những hành xử đã được thể chế hoá trong những xã hội cụ thể. Nếu xã hội đó, như xã hội của chúng ta, là một xã hội với những luật lệ được xác lập vững chắc để phán quyết tại toà, ta tạm lấy ví dụ, thế nào là vi phạm hoặc không vi phạm cam kết, thì có thể khá dễ dàng nêu ra những điều kiện cần và đủ để quyết định các hành động ngôn từ nào là thuộc kiểu loại đặc biệt này. Nhưng chúng ta thật đang đánh lừa mình nếu cho rằng tất cả các hành động ngôn từ đều được điều chỉnh theo quy tắc như vậy trong những xã hội mà chúng được thể hiện. Ngay cả hành động hứa hẹn, thoạt nhìn tưởng như là được xác định một cách chắc chắn chiểu theo những điều kiện quy định nó, cũng hoá ra có vấn đề từ cách nhìn này. Chắc chắn không thể quan niệm một cách đương nhiên rằng hành động hứa, theo cái nghĩa mà chúng ta hiểu động từ 'hứa', là một hành động ngôn từ (tức một hành động tạo lời với lực ngôn trung cụ thể) có thể được thực hiện trong tất cả các ngôn ngữ và trong tất cả các nền văn hoá. Thế nhưng những giả định kiểu này vẫn được nêu thường xuyên trong một số các công trình chuyên biệt hơn về lí thuyết hành động ngôn từ.
Mặc dù phần lớn các hành động ngôn từ là mang tính đặc thù văn hoá, vẫn có những hành động được thừa nhận một cách rộng rãi, và có thể đúng, là mang tính phổ quát. Chúng bao gồm việc nhận định (hay xác nhận), hỏi và cầu khiến. Trên cơ sở triết học, người ta nhất trí rằng ba kiểu hành động tại lời này không những chỉ mang tính phổ quát mà còn mang tính cơ sở, theo hai nghĩa của từ 'cơ sở': thứ nhất là, không một xã hội loài người nào có thể tồn tại được nếu không dùng các hành động ngôn từ này; thứ hai là nhiều, nếu không nói là tất cả, hành động ngôn từ có tính đặc thù văn hoá, có thể được xem là thuộc về một tiểu nhóm chuyên biệt hơn của một trong ba kiểu cơ sở này. Ví dụ, như tôi đã nêu trên đây, việc thề thốt một điều gì đó rõ ràng là một hành động có tính đặc thù văn hoá. Nhưng thề một điều gì đó cũng là cách để nêu một nhận định mạnh mẽ; và như thế nêu nhận định được xem là có tính cơ sở và phổ quát.
Tôi sẽ không đi vào vấn đề về mối quan hệ giữa các hành động ngôn từ cơ sở và phi cơ sở. Tuy nhiên, tôi sẽ nhấn mạnh vào một điểm: ngay cả khi các hành động nêu nhận định, hỏi và cầu khiến được coi là cơ sở và mang tính phổ quát đi nữa thì chúng cũng chịu sự chế định, trong tất cả các xã hội, bởi những thiết chế, cách hành xử và xác tín ít nhiều mang tính đặc thù văn hoá. Trong phương diện này, một chiều kích được thừa nhận là lịch sự. Trong tất cả các xã hội, sẽ là bất lịch sự nếu không nói theo lượt lời: đó là, nói khi vị thế xã hội không cho phép nói và quyền ưu tiên nói, hoặc trong trường hợp khác, nói khi các quy tắc chi phối lượt lời không cho phép nói ở thời điểm đó. Trong một số xã hội, cũng là bất lịch sự nếu tỏ ra quá quả quyết khi thể hiện một hành động ngôn từ nào đó. Ví dụ, trong một số tình huống, người ta có thể bị coi là bất lịch sự khi đưa ra một nhận định không rào trước đón sau hoặc một mệnh lệnh thẳng thừng. Căn nguyên và những lối dùng đa dạng, ít nhiều được quy ước hoá của các hành động ngôn từ gián tiếp có thể được giải thích bởi những lí do như vậy, chẳng hạn, như trong tiếng Anh, câu Anh/chị có thể chuyển cho lọ đường được không? (nguyên là một câu hỏi và thường được chấm câu như vậy khi viết) được ưa dùng hơn so với câu Chuyển cho lọ đường (một mệnh lệnh trực tiếp).
Tính lịch sự, tuy nhiên, chỉ là một trong những chiều kích của sự đa dạng văn hoá quy định việc dùng các hành động ngôn từ được coi là cơ sở. Hơn nữa, mặc dù có một giá trị xuyên văn hoá nào đó, và theo một cách giải thuyết tương đối khái quát về 'tính lịch sự', có thể được coi là phổ quát thì tính lịch sự cũng không được thể hiện giống nhau trong tất cả các xã hội. Do đó, người ta phải cẩn thận để không cho rằng sự khái quát hoá được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm của một xã hội là có hiệu lực đối với tất cả các xã hội loài người. Điều này cần được quán triệt trong các phần tiếp theo. Về sự thảo luận và minh hoạ cho vai trò của tính lịch sự cũng như những nhân tố khác trong việc chi phối cách ứng xử ngôn ngữ trong các nền văn hoá khác nhau, có thể tham khảo các công trình nghiên cứu gần đây về ngôn ngữ học xã hội và ngữ dụng học.
Linguistic Semantics: An Introduction
Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung (4)
• Dẫn nhập • Phát ngôn • Hành động tạo lời • Lực ngôn trung • Nhận định, hỏi và cầu khiến
8.4 Nhận định, hỏi và cầu khiến
Chúng ta đang cho rằng tất cả các ngôn ngữ đều cấp cho người sử dụng những phương tiện để nêu nhận định, để hỏi và để cầu khiến, tức là để tạo ra những phát ngôn có các lực ngôn trung này. Tuy nhiên, từ giả định này, không thể nói được rằng tất cả các ngôn ngữ đều ngữ pháp hoá những sự khác biệt về lực ngôn trung này. Như chúng ta đã thấy ở chương 6, có thể có những câu tồn tại một cách trung tính xét về kiểu câu hay thức: đó là các câu (hoặc các clause), một mặt, không phải là trần thuật mà cũng không phải là nghi vấn; và mặt khác, không phải thuộc thức trực chỉ, giả định hoặc mệnh lệnh.
Tuy thế, có thể nhận biết được khá rõ hành động tại lời nào được thực hiện khi một trong số những câu này được nói ra. Hành động tại lời này có thể được nhận biết không chỉ từ ngữ cảnh mà còn từ cấu trúc ngôn điệu trùm lên phát-ngôn-thành-phẩm được tạo ra. Ví dụ, giả sử tiếng Anh không có câu nghi vấn, và giả sử đến mức mà
(35) 'The door is open'
không phải là câu trần thuật mà là trung tính về kiểu câu, thì có thể phát ngôn ra câu này (như The door is open) với đường nét ngữ điệu đi xuống, ta cứ cho là như thế, để nêu nhận định và đường nét ngữ điệu đi lên để nêu câu hỏi. Điểm này đã được nêu từ trước. Đến đây nó có thể được khái quát hoá ở dạng chi tiết hơn khi tính đến cả quá trình phát ngôn ra câu nói mà chúng ta đang phác hoạ trong chương này.
Nhưng trước đây ta cũng thừa nhận rằng nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, trong thực tế đã ngữ pháp hoá sự phân biệt các kiểu câu và thức; và hơn thế nữa, đã có một mối liên hệ thiết yếu giữa kiểu câu, một mặt, với thức, và mặt khác, với cái mà bây giờ chúng ta gọi là lực ngôn trung. Thực chất của mối liên hệ này là gì? Và làm thế nào mà các phát ngôn nhận định, hỏi và cầu khiến phân biệt với nhau về ngữ nghĩa? Tôi sẽ chỉ có thể trả lời một phần câu hỏi này theo quan điểm riêng.
Nêu một nhận định là biểu thị một mệnh đề và đồng thời bày tỏ một thái độ cụ thể đối với nó. Tôi sẽ gọi thái độ này, do những nguyên nhân sẽ được làm rõ khi chúng ta xem xét khái niệm tình thái, là sự cam kết nhận thức. (Thuật ngữ 'nhận thức', vốn bắt nguồn từ một từ Hi Lạp có nghĩa là "sự hiểu biết", được các nhà lô gich học dùng để chỉ một nhánh lô gich tình thái nghiên cứu tri thức và những vấn đề có liên quan). Bất kì ai, một khi đã nói ra một mệnh đề nào đó thì cũng đều cam kết nó, không phải theo cái nghĩa rằng trong thực tế họ phải biết hoặc tin nó đúng đắn, mà là theo cái nghĩa rằng những nhận định tiếp theo của họ, và bất kì những gì có thể suy ra một cách hợp thức từ những ứng xử đi kèm và tiếp theo đó của họ, đều phải nhất quán với sự tin tưởng rằng nó là đúng. Điều này giải thích tính bất khả chấp hoặc tính nghịch lí của câu
(36) Trời đang mưa nhưng tôi không tin là trời đang mưa
(được hiểu như là một nhận định). Khi nêu bất kì nhận định nào như vậy, người nói can tội vi phạm cam kết về nhận thức.
Khi ta nêu một câu hỏi trung tính (tức không có định hướng nhận thức), ta biểu thị một mệnh đề và đồng thời cho biết ta không cam kết về giá trị chân thực của nó. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Như đã được thấy ở chương 6, phát ngôn Cái cửa có mở không? -đó là câu hỏi mà tôi từ chối hỏi, là hoàn toàn khả chấp. Trong trường hợp này, một câu hỏi được nêu ra, nhưng không phải để hỏi. Thế thì hỏi một câu hỏi không phải chỉ là biểu thị sự không cam kết về mệnh đề, tức là nêu mệnh đề như là một câu hỏi, mà còn là, khi làm như vậy, ta biểu lộ cho người nghe thấy được, bằng ngôn điệu, những dấu hiệu kèm lời hay bằng những cách khác, rằng ta mong muốn người nghe giải đáp cho sự không chắc biết của ta bằng cách gán một giá trị chân thực cho mệnh đề đang xét. Hệ quả là, bởi lí do này và các lí do khác, về bản chất hỏi không phải là một tiểu loại của cầu khiến (như một vài tác giả đã từng gợi ý).
Thế thì mệnh lệnh, thỉnh cầu và những dạng cầu khiến khác là gì? Chúng phân biệt với nhận định và những câu hỏi thông thường (tức trung tính) ở chỗ chúng liên quan đến một dạng cam kết khác từ phía người nói: đó là cam kết đạo nghĩa. (Thuật ngữ 'đạo nghĩa' xuất xứ từ một từ Hi Lạp có liên quan đến sự áp đặt những nghĩa vụ bắt buộc. Giống như thuật ngữ 'nhận thức', nó được vay mượn từ lô gich tình thái). Khi cầu khiến, người nói cam kết không phải về tính chân thực, hay tính thực hữu, của mệnh đề mà là về tính tất yếu của việc thực hiện hành động. Nói theo cách nói truyền thống hơn thì người nói biểu thị không phải xác tín của họ về một điều gì đó mà là ý muốn của họ mong một điều gì đó xảy ra.
Khi thỉnh cầu (chứ không phải nêu mệnh lệnh hoặc ra lệnh), người nói biểu thị ý của họ muốn điều gì đó xảy ra, nhưng họ cũng thừa nhận một cách rõ ràng rằng người nghe có quyền không tuân theo. Trong khía cạnh này, thỉnh cầu giống với câu hỏi không trung hoà, loại câu hỏi được gọi là câu hỏi dẫn dắt hay có định hướng, những câu hỏi như:
(37) Cái cửa mở, phải không?
mà khi phát ngôn câu này, người nói biểu thị sự cam kết phỏng chừng hay tạm thời của mình về thực cách của mệnh đề "Cái cửa mở" nhưng đồng thời thừa nhận người nghe cái quyền bác bỏ nó (xem mục 6.7). Nói một cách khác, trong hỏi định hướng và thỉnh cầu, người nói thể hiện sự cam kết của họ đối với các thành tố "nó-là-thế" (it-is-so) và "nó-nên-thế" (so-be-it) của phát ngôn và ngỏ ý muốn người nghe cũng vậy.
Sự phân tích các phát ngôn nêu nhận định, hỏi, mệnh lệnh và thỉnh cầu vừa được phác hoạ ở đây gợi ý rằng lực ngôn trung của chúng có thể được phân tích thừa số hoá, trong mỗi trường hợp, thành hai thành tố: một mặt, là thành tố thể hiện sự cam kết ("Tôi nói vậy") hoặc sự không cam kết; và mặt khác, là thành tố có thể được coi là mang tính tình thái về tính thực hữu ("nó là thế") đối lập với tính mong muốn ("nó nên thế"). Tôi dùng thuật ngữ 'tình thái' trong mối liên hệ này (thay vì nêu thêm một thuật ngữ nào đó chuyên môn hơn) bởi hai lí do. Thứ nhất, sự phân biệt giữa tính thực hữu và các dạng không có tính thực hữu là thuộc phạm vi của cái mà các nhà lô gích truyền thống coi là phạm trù tình thái. Tôi đã chuẩn bị cho việc xem xét phạm trù tình thái, sẽ được nói đến sau đây, bằng cách cố ý nêu ra các thuật ngữ 'nhận thức' và 'đạo nghĩa' (mục 10.5). Thứ hai, những sự phân biệt đó thường được ngữ pháp hoá trong ngôn ngữ thông qua phạm trù thức (mood). Tuy nhiên, điều quan trọng là thấy được rằng thức trong ngôn ngữ tự nhiên cũng có thể ngữ pháp hoá những kiểu dạng hoặc mức độ cam kết khác nhau.
Không được nhầm lẫn phạm trù ngữ pháp thức với cái mà một số nhà lô gích viện đến như là thức của một mệnh đề, vốn dựa trên sự khách quan hoá cái thành tố cam kết thực chất mang tính chủ quan. Đây chỉ là một phần của cái được biểu thị bằng phạm trù ngữ pháp thức, vốn là phạm trù, như chúng ta sẽ thấy ở chương 10, luôn luôn biểu thị tính chủ quan. Nếu một ngôn ngữ có một phạm trù ngữ pháp thức, được dùng một cách đặc biệt và đặc thù để biểu thị sự cam kết hoàn toàn của người nói thì đấy là thức được truyền thống miêu tả là thức trực thuyết. Tương tự, nếu một ngôn ngữ có một thức ngữ pháp được dùng một cách đặc biệt và đặc thù để áp đặt ý chí của ai đó đối với người khác thì đấy là thức được truyền thống miêu tả là thức mệnh lệnh.
Như ta cũng sẽ thấy ở chương 10, có nhiều cách khác nhau theo đó người nói có thể định tính sự cam kết nhận thức hoặc đạo nghĩa của họ. Tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều cấp cho người sử dụng chúng những phương tiện ngôn điệu và kèm lời cho phép họ thực hiện điều đó trong lời nói. Nhưng chỉ có vài, chứ không phải là tất cả, ngôn ngữ tự nhiên ngữ pháp hoá các dạng khác nhau và các mức độ cam kết khác nhau thông qua phạm trù thức; một số ngôn ngữ từ vựng hoá hoặc bán từ vựng hoá chúng thông qua các phó từ hoặc tiểu từ tình thái.
Tất cả những điều này sẽ được xem xét sau, khi bàn đến khái niệm tính chủ quan. Ở đây tôi chỉ nhắc đến nó, mà không hề đi vào chi tiết hoặc nêu ví dụ, là để cho thấy làm thế nào mà một quan điểm hoàn toàn truyền thống về thức lại có thể được định dạng lại trong khuôn khổ lí thuyết hành động ngôn từ mà Austin và các môn đệ đã phát triển. Như chúng ta vừa thấy trong chương này, Austin đã bắt đầu bằng việc xác định các phát ngôn ngôn hành tường minh như là một loại phát ngôn khá đặc biệt mà khi tạo ra chúng, người nói thực hiện một điều gì đó hơn là nói một điều gì đó, bằng phương tiện ngôn ngữ. Sau đó, ông đi đến thừa nhận rằng tất cả những sự nói năng đều là hành động và tất cả các dạng nói năng, bao gồm việc nêu nhận định, đặt câu hỏi, cầu khiến, đều được điều phối bởi các khái niệm trung tâm về thẩm quyền và sự cam kết.
Bản thân Austin cũng thừa nhận cơ sở xã hội của những khái niệm này, mặc dù không đi sâu vào khía cạnh này của vấn đề, và ở điểm này ông đã gặp gỡ, dù không được hiển ngôn, một mặt là với Wittgenstein đã quá cố, và một mặt, như chúng ta sẽ thấy ở chương tiếp theo, là với Grice. Ông có thể cũng đã nhấn mạnh vào tính chất cá nhân, hoặc tính biểu cảm, của các khái niệm thẩm quyền và cam kết. Đây là những gì được ngữ pháp truyền thống bàn đến khi trình bày về thức, được diễn đạt dưới hình thức sự đánh giá và ý muốn của người nói. Ở đây, cũng như ở những chỗ khác, không phải chỉ trong việc sử dụng ngôn ngữ mà còn trong tất cả cách ứng xử giao tiếp, nhân tố biểu cảm hoà lẫn với nhân tố xã hội và cuối cùng không phân biệt với nó nữa.
Thực tình, như một số nhà triết học, nhân chủng học và tâm lí học xã hội đã thừa nhận, trong mối quan hệ này, còn có một sự phân biệt quan trọng được nêu ra, giữa con người và cá thể, thể hiện ở chỗ chính con người chứ không phải cá thể, mới là đối tượng được quan tâm trong sự thảo luận về giao tiếp. Người ta còn lập luận rằng con người (hoặc cái bản ngã) là một sản phẩm mang tính xã hội, tức sản phẩm của sự xã hội hoá, và xã hội hoá là một quá trình mà ở đó, sự thụ đắc và sử dụng một ngôn ngữ cụ thể trong một nền văn hoá cụ thể đóng một vai trò cốt tử. Luận điểm này cũng sẽ được trở lại khi bàn về khái niệm tính chủ quan (mục 10.6).
Bây giờ cần phải nói đến điểm cuối cùng. Lí thuyết các hành động ngôn từ đôi khi được biện hộ, hoặc phê phán, như thể là một loại lí thuyết thay thế cho nghĩa học chân thực có điều kiện. Từ những chương trước của sách này, cần thấy rõ một điều rằng hai lí thuyết này, về nguyên tắc, là bổ sung cho nhau. Nghĩa học chân thực có điều kiện, như nó hiện được áp dụng cho các ngôn ngữ tự nhiên, là lí thuyết về nội dung mệnh đề của câu; còn lí thuyết hành động ngôn từ, nếu chúng ta giả định nó là lí thuyết hoặc nếu nó muốn là một lí thuyết, thì nghiên cứu lực ngôn trung của phát ngôn. Đã có rất nhiều cuộc thảo luận của các nhà ngôn ngữ học và triết học xoay quanh vấn đề là Austin đúng hay sai khi ông nói rằng những phát ngôn kiểu như Tôi hứa trả anh/chị 5 Bảng, khi được dùng để hứa, thì không thể xét là đúng sai, mà là có hiệu quả (hoặc thành công) hay không mà thôi. Tôi đã không nói gì về cuộc tranh cãi này ở đây, bởi vì theo quan điểm của tôi, việc chúng ta xử lí vấn đề theo cách này hay cách khác không có gì là quan trọng; và việc ta xử lí nó thế nào không phụ thuộc nhiều vào thực tế bằng cái khung lí thuyết và triết học mà ta dựa vào đó để làm việc. Đối với mục đích của chúng ta, luận điểm quan trọng nhất là lực ngôn trung của những phát ngôn tường thuật miêu tả thường ngày như Trời đang mưa không thể được giải thích thoả đáng trong khuôn khổ của nghĩa học chân thực có điều kiện. Austin thống nhất với Frege khi nêu ra luận điểm này. Tôi cho
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro