Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ngon ngu hoc 2

Mục lục "Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp"

• Nguyễn Văn Hiệp

LỜI NÓI ĐẦU

Chương 1: Những quan điểm khác biệt về vai trò của nghĩa trong phân tích và miêu tả cú pháp

1.1. Cách tiếp cận hình thức (Formal approach)

1.2. Cách tiếp cận chức năng (Functional approach)

1.3. Cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics)

1.4. Vai trò của nghĩa trong phân tích và miêu tả cú pháp

1.4.1. Một vài so sánh về các cách tiếp cận

1.4.2. Những khó khăn của cách tiếp cận dựa vào nghĩa trong phân tích và miêu tả cú pháp

1.4.3. Chọn lựa siêu ngôn ngữ trình bày và xác định các bước miêu tả nghĩa của câu

Chương 2: Nghĩa miêu tả

2.1. Cấu trúc vị từ-tham thể của câu

2.2. Vai nghĩa

2.3. Sự thể hiện của vai nghĩa và đánh dấu vai nghĩa

2.3.1. Sự thể hiện hình thức của vai nghĩa

2.3.2. Đánh dấu vai nghĩa

2.4. Phân loại các kiểu sự tình

2.4.1. Tiêu chí phân loại

2.4.2. Phân loại sự tình

2.5. Sự đồ chiếu (mapping) của cấu trúc vai nghĩa lên cấu trúc cú pháp

2.5.1. Tôn ti của chức năng ngữ nghĩa (Semantic Function Hierachy)

2.5.2. Vĩ vai (macrorole) và nguyên tắc mặc định về gán định Vĩ vai

Chương 3: Nghĩa tình thái

3.1. Tình thái với tư cách là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học

3.2. Những nghiên cứu tiền phong về tình thái

3.2.1. Jespersen

3.2.2. von Wright

3.2.3. Rescher

3.2.4. Searle

3.3. Tình thái trong đối lập với ngôn liệu

3.4. Tình thái trong lô gic và tình thái trong ngôn ngữ

3.4.1. Tình thái trong lô gic (tình thái khách quan)

3.4.2. Tình thái trong ngôn ngữ ( tình thái chủ quan)

3.5. Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ

3.5.1. Tính tương đối của sự phân loại tình thái nói chung và tính thái trong ngôn ngữ nói riêng

3.5.2. Một số đối lập chủ yếu của tình thái trong ngôn ngữ

3.6. Những phương tiện biểu thị tình thái

3.6.1. Các phương tiện biểu thị tình thái nói chung trong ngôn ngữ tự nhiên

3.6.2. Các phương tiện biểu thị tình thái trong tiếng Việt

3.7. Hiện tượng mơ hồ về tình thái

3.7.1. Mơ hồ giữa tình thái căn bản (bao gồm tình thái đạo nghĩa và tình thái trạng huống) với tình thái nhận thức

3.7.2. Mơ hồ giữa tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa

3.7.3. Mơ hồ về tầm phủ định

3.7.4. Mơ hồ về tình thái mục đích phát ngôn

3.8. Về tầm tác động lẫn nhau của các yếu tố biểu thị tình thái

3.8.1. Về sự quan tâm của ngôn ngữ học đối với vấn đề tầm tác động tình thái

3.8.2. Tầm tác động và sự tương tác, chế định lẫn nhau giữa các quán ngữ tình thái trong câu

3.3.3. Tầm tác động và tương tác giữa tiểu từ tình thái với các động từ ngôn hành.

3.3.4. Khả năng kết hợp giữa tiểu từ tình thái với các vị từ tình thái tính có ý nghĩa cầu khiến, khuyên bảo.

3.3.5. Sự kết hợp giữa các tiểu từ tình thái cuối câu với nhau.

Chương 4: Nghĩa chủ đề

4.1. Nghĩa chủ đề và kết cấu thông điệp của câu

4.1.1. Khái niệm «nghĩa chủ đề»

4.1.2. Quan hệ giữa thành tố chủ đề, cấu trúc thông điệp của câu và hành vi thuyết định

4.1.3. Bản chất của nghĩa chủ đề

4.2. Một số cách tiếp cận về nghĩa chủ đề

4.2.1. Tính xác định của chủ đề

4.2.2. Đồng cảm (Empathy) của người nói

4.2.3. Hàm ý phân cực đảo

4.2.4. Tương quan giữa "Hình" và "Nền"

4.3. Một số vấn đề cú pháp liên quan đến việc xác lập nghĩa chủ đề

4.3.1. Vấn đề bổ ngữ đảo trí

4.3.2. Phân biệt đề ngữ và chủ ngữ

Chương 5: Nghĩa mục đích phát ngôn

5.1. Lí thuyết hành động ngôn từ của Austin

5.1.1. Bối cảnh ra đời của lí thuyết

5.1.2. Cốt lõi của lí thuyết hành động ngôn từ

5.2. Phân loại các hành động ngôn từ

5.3. Đánh dấu mục đích phát ngôn và đánh dấu kiểu câu

5.3.1. Đánh dấu mục đích phát ngôn

5.3.2. Đánh dấu kiểu câu

5.3.3. Những biểu thức điều biến (modification)

5.4. Mối quan hệ giữa đánh dấu mục đích phát ngôn và đánh dấu kiểu câu: điển cứu 1 (case study 1) về các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt trong vai trò đánh dấu mục đích phát ngôn và đánh dấu kiểu câu

5.4.1. Những nhận xét mở đầu

5.4.2. Vai trò của các tiểu từ tình thái trong việc hình thành ngôn trung hay hiệu lực tại lời của phát ngôn

5.4.3. Xác lập một cách miêu tả các tiểu từ tình thái tiếng Việt

5.4.4. Phân loại tiểu từ tính thái tiếng Việt theo vai trò đánh dấu kiểu câu

Chương 6: Những yếu tố chủ quan tính được mã hoá trong câu

6.1. Tính chủ quan và vai trò của tác thể tạo lời

6.2. Nhấn mạnh và tiêu điểm thông báo

6.2.1. Nhấn mạnh (Emphasis)

6.2.2. Tiêu điểm thông báo

6.2.3. Phân đoạn thực tại câu

6.3. Những đánh giá mang tính lập trường

6.4. Những hình thức biểu hiện của tính chủ quan trong câu tiếng Việt

6.5. Điển cứu 3: Về hàm ngôn qui ước

6.5.1. Đặt vấn đề

6.5.2. Xác định hàm ngôn qui ước trong hệ thống các thông tin ngầm ẩn

6.5.3. Những cách sử dụng từ ngữ có thể tạo hàm ngôn qui ước trong tiếng Việt

6.5.4. Kết luận

Chương 7: Câu và diễn ngôn

7.1. Phân tích cú pháp và diễn ngôn

7.2. Những yếu tố trong câu có tác dụng liên kết trong diễn ngôn

Chương 8: Phác họa một khung miêu tả cú pháp tiếng Việt trên quan điểm ngữ pháp ngữ nghĩa

8.1. Nhìn lại những khuynh hướng nghiên cứu cú pháp tiếng Việt

8.1.1. Giai đoạn đầu tiên: cú pháp học tiếng Việt chủ yếu chịu ảnh hưởng tinh thần "Dĩ Âu vi trung"

8.1.2. Giai đoạn thứ hai: giai đoạn cú pháp tiếng Việt được giảng dạy và nghiên cứu sâu rộng, với những cố gắng nhằm phát hiện đúng bản chất của cú pháp tiếng Việt

8.1.3. Giai đoạn thứ ba: giai đoạn cú pháp học tiếng Việt chuyển mình theo khuynh hướng ngữ pháp chức năng và ngữ pháp ngữ nghĩa

8.2. Miêu tả cú pháp tiếng Việt theo quan điểm của ngữ pháp ngữ nghĩa

8.2.1. Đặt vấn đề

8.2.2. Khung miêu tả cú pháp tiếng Việt theo cách tiếp cận ngữ pháp ngữ nghĩa

8.3. Kết luận

Linguistic Semantics: An Introduction

Ngữ nghĩa học dẫn luận

• Tác giả: John Lyons

• Người dịch: Nguyễn Văn Hiệp

LỜI NÓI ĐẦU

CÁC KÍ HIỆU VÀ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY

PHẦN 1 - TỔNG QUAN

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ

1.0. Dẫn nhập

1.1. Nghĩa của 'nghĩa'

1.2. Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học

1.3. Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ

1.4. Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Ngữ ngôn' và 'Lời nói'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi'

1.5. Từ: dạng thức và ý nghĩa.

1.6. Câu và phát ngôn; văn bản, hội thoại và diễn ngôn

1.7. Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

PHẦN 2 - NGHĨA TỪ VỰNG

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa

2.0. Dẫn nhập

2.1. Dạng thức và biểu thức

2.2. Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp

2.3. Đồng nghĩa

2.4. Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư

2.5. Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

Chương 3: Định nghĩa về nghĩa của từ

3.0 Dẫn nhập

3.1. Sở thị và nghĩa hệ thống

3.2. Biểu thức cơ bản và không cơ bản

3.4. Điển mẫu ngữ nghĩa

Chương 4: Cách tiếp cận cấu trúc

4.0 Dẫn nhập

4.1. Nghĩa học cấu trúc

4.2. Phân tích thành tố

4.3. Cơ sở thực tiễn cho cách phân tích thành tố

4.4. Dẫn ý và thế giới khả hữu

4.5. Quan hệ về nghĩa hệ thống và định đề ngữ nghĩa

PHẦN 3 - NGHĨA CỦA CÂU

Chương 5: Câu có nghĩa và câu vô nghĩa

5.0. Dẫn nhập

5.1. Tính ngữ pháp, tính khả chấp và tính có nghĩa

5.2. Tính có nghĩa của câu

5.3. Tính khả chỉnh và tính chuyển dịch

5.4. Tính thẩm định và thẩm định luận

5.5. Mệnh đề và nội dung mệnh đề

5.6. Ý nghĩa phi thực tại và thuyết xúc cảm

5.7. Điều kiện chân trị

5.8. Trùng ngôn và mâu thuẫn

Chương 6: Nghĩa câu và nội dung mệnh đề

6.0. Dẫn nhập

6.1. Nghĩa chủ đề

6.2. Câu đơn và câu phức hợp

6.3. Hàm chân trị (1): phép hội và phép tuyển

6.4. Hàm chân trị (2): hàm ý

6.5. Hàm chân trị (3): phép phủ định

6.6. Kiểu câu, kiểu tiểu cú và thức

6.7. Nghĩa của câu nghi vấn và câu trần thuật

6.8. Những kiểu câu phi trần thuật khác: câu cầu khiến, câu cảm thán, câu ý nguyện v.v...

Chương 7: Hình thức hoá nghĩa câu

7.0. Dẫn nhập

7.1. Nghĩa học hình thức và ngữ nghĩa học

7.2. Tính hợp tố, đẳng cấu ngữ nghĩa và ngữ pháp, tiết kiệm dạng thức biểu hiện

7.3. Cấu trúc sâu và sự biểu diễn ngữ nghĩa

7.4. Quy tắc chiếu xạ và hạn chế lựa chọn

7.5. Ngữ pháp MONTAGUE

7.6. Thế giới khả hữu

PHẦN 4 - NGHĨA CỦA PHÁT NGÔN

Chương 8: Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung

8.0. Dẫn nhập

8.1. Phát ngôn

8.2. Hành động tạo lời

8.3. Lực ngôn trung

8.4. Nhận định, hỏi và cầu khiến

Chương 9: Ngôn bản và diễn ngôn; ngữ cảnh và văn cảnh

9.0. Dẫn nhập

9.1. Câu-ngôn bản

9.3. Nghĩa của phát ngôn và ngữ cảnh

9.4. Hàm ý và hàm ngôn quy ước

9.5. Hàm ngôn hội thoại

9.6. Ngữ cảnh là gì?

Chương 10: Tính chủ quan của phát ngôn

10.0. Dẫn nhập

10.1. Quy chiếu

10.2. Tính trực chỉ và trực chỉ

10.3. Phạm trù ngữ pháp thời

10.4. Phạm trù ngữ pháp thể

10.5. Tình thái, biểu thức tình thái và thức

10.6. Tính chủ quan và tác thể tạo lời

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.0.Dẫn nhập

Trong chương này, chương được xem là cơ sở của toàn bộ Phần 1, ta đề cập đến những khái niệm cơ bản nhằm đặt ngữ nghĩa học trên một nền tảng lí thuyết vững chắc. Mặc dù đây là một trong những chương dài nhất của cuốn sách và lại bao gồm một số vấn đề đôi khi mang tính đòi hỏi khá cao đối với những ai chưa quen với ngữ nghĩa học, tôi cũng đã cố ý không chia chương này ra thành 2 chương (hoặc nhiều hơn), bởi vì tôi muốn nhấn mạnh đến một điều là các vấn đề được đề cập ở đây đan quyện vào nhau và trước sau đều quan yếu như nhau.

Những độc giả gặp một số vấn đề khó hiểu từ những trang đầu tiên không nên quá bận tâm về chúng. Họ có thể trở lại với chúng khi đọc ba phần tiếp theo của cuốn sách và sẽ thấy những phân biệt đa dạng về thuật ngữ nêu ra ở chương này được thực sự ứng dụng như thế nào. Quả thật, đây là cách duy nhất để chắc rằng ta hiểu chúng. Việc nêu ra từ đầu sách những phân biệt quan yếu về hệ thuật ngữ cơ sở và về quy ước trình bày sẽ giúp độc giả tham khảo chúng dễ dàng hơn. Điều này cũng giúp họ hiểu dễ dàng hơn bản chất của hệ khái niệm và khung thuật ngữ mà tôi sử dụng, nếu đem so sánh với những tác giả khác được dẫn ra trong mục 'Những gợi ý tham khảo tiếp theo'.

Ta bắt đầu và kết thúc chương này với câu hỏi cơ bản nhất, câu hỏi mà nghĩa học, cả ngôn ngữ lẫn phi ngôn ngữ, đều mong muốn tìm thấy một câu trả lời thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm: nghĩa là gì? Câu hỏi này được đặt ra một cách không chuyên môn trong mục 1.1; trong mục 1.7 ta điểm lại tóm tắt một vài trong số những câu trả lời khái quát mà các nhà triết học, ngôn ngữ học và các khoa học khác đã đưa ra trong quá khứ và gần đây.

Giữa hai mục này tôi chen vào mục 1.2, dành cho cái mà tôi gọi là siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học và mục 1.3, dành cho việc xác lập phạm vi của ngữ nghĩa học, ở một mức độ chi tiết hơn những gì mà tôi đã nêu trong Lời nói đầu. Việc nên có một mục riêng để xem xét mối quan hệ giữa ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ chỉ là một điều mong đợi. Điều quan trọng là độc giả thấy được rằng có nhiều cách, trong đó cái địa hạt của ngữ nghĩa học, một mặt được người nghiên cứu định nghĩa như một phần của nghĩa học rộng hơn và mặt khác, như một phần của ngôn ngữ học; và độc giả cũng nên thấy được ngay từ đầu cách định nghĩa về 'ngữ nghĩa học' của tôi là có khác so với các tác giả khác.

Thuật ngữ 'siêu ngôn ngữ' và tính từ tương ứng của nó, như ta sẽ thấy trong các chương sau của sách này, ngày nay được sử dụng khá rộng rãi khi thảo luận về những vấn đề cụ thể của ngữ nghĩa học. (Hai thuật ngữ này sẽ được giải thích đầy đủ trong mục 1.2) Tuy nhiên, các nhà lí thuyết và thực hành ngữ nghĩa học thường không thảo luận, một cách hiển ngôn và dưới hình thức những thuật ngữ chung, mối liên hệ giữa siêu ngôn ngữ hàng ngày của ngữ nghĩa học và siêu ngôn ngữ có tính chuyên môn hơn mà họ dùng trong các công trình của mình. Tôi dành ở đây một số trang để bàn về vấn đề này, bởi vì tôi nhận thấy tầm quan trọng của nó đã không được thừa nhận rộng rãi như đáng ra nó phải được thừa nhận.

Ba mục tiếp theo sẽ dành cho một số phân biệt, giữa ngôn ngữ và lời nói, 'langue' và 'parole', 'ngữ năng' và 'ngữ thi', giữa hình thức và nghĩa, giữa câu và phát ngôn, là những phân biệt mà hiện nay đều được thừa nhận, ở những mức độ chung nào đó, là thuộc vốn thuật ngữ của nhà ngôn ngữ học, mặc dù chúng thường không được định nghĩa theo một cách giống nhau. Một lần nữa, tôi phải dành thêm một số trang, nhiều hơn thường lệ, cho một số những phân biệt này. Tôi cũng phải tìm cách làm rõ những gì thường hay bị lẫn lộn, một mặt, khi thảo luận về câu và phát ngôn, và mặt khác khi thảo luận về ngữ năng và ngữ thi. Tất nhiên, tôi tìm cách giải thích những khác biệt này trong bối cảnh hiện nay, gắn với những ứng dụng cụ thể của chúng trong nghĩa học (và ngữ dụng học) và gắn với việc dùng chúng để tổ chức cuốn sách này.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (1)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.1. Nghĩa của 'nghĩa'

Theo truyền thống, nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu nghĩa; và đây chính là định nghĩa mà ta chấp nhận ngay từ đầu. Nhưng có phải tất cả các kiểu loại ý nghĩa đều nằm trong phạm vi của nghĩa học, hay chỉ có một số trong chúng mà thôi? Trong ngữ cảnh như vậy thì 'nghĩa' biểu thị cái gì?

Giống như nhiều từ tiếng Anh khác, danh từ 'nghĩa' và động từ phái sinh 'có nghĩa, có ý' được dùng trong một loạt ngữ cảnh khác nhau và với vài ý nghĩa khác biệt nhau. Lấy ví dụ trường hợp của động từ, nếu ta nói

(1) Mary means well,

(Mary tỏ thiện ý)

ta hàm ý rằng Mary có chủ ý tốt, rằng cô ta có ý không gây hại. Tuy nhiên, hàm ý về chủ định này tất sẽ bị mất đi trong một phát ngôn như:

(2) That red flag means danger.

(Lá cờ đỏ ấy biểu thị sự nguy hiểm)

Khi nói câu này, người ta tất không hề hàm ý rằng lá cờ có ý gây nguy hiểm cho bất kì ai; người ta thông báo rằng lá cờ đó được dùng (thể theo một quy ước đã được xác lập trước đó) để chỉ ra rằng có sự nguy hiểm đâu đó chung quanh nó, chẳng hạn như có một đường nứt trên sườn đồi đầy tuyết hoặc có mìn sắp nổ ở công trường đá bên cạnh. Tương tự với cái cách dùng động từ 'có nghĩa' ở trường hợp lá cờ đỏ, ít nhất là ở một phương diện nào đó, là cách dùng nó trong phát ngôn sau:

(3) Smoke means fire.

(Có khói nghĩa là có lửa)

Trong (2) và (3) một cái gì đó được coi là tín hiệu (sign) của một cái khác: nhờ sự hiện diện của tín hiệu, là lá cờ hoặc khói, bất kì ai với hiểu biết cần thiết tối thiểu đều có thể suy đoán về điều mà tín hiệu đó biểu thị (signifies), tuỳ theo trường hợp, là sự nguy hiểm hoặc lửa.

Thế nhưng giữa (2) và (3) lại có một khác biệt quan trọng. Trong khi khói là một tín hiệu tự nhiên (natural) của lửa, liên hệ một cách có nguyên do với cái mà nó biểu thị, thì lá cờ đỏ là dấu hiệu quy ước (conventional) để biểu thị sự nguy hiểm: nó là một biểu trưng (symbol) được con người xác lập. Những sự phân biệt này, một mặt giữa cái có chủ định và không chủ định, mặt khác giữa cái có tính tự nhiên và cái do quy ước, hay có tính biểu trưng, từ lâu và cho đến hiện nay vẫn là trọng tâm của những khảo cứu lí thuyết về nghĩa.

Việc động từ 'có nghĩa, có ý' ('mean') được dùng với những nghĩa khác nhau trong phạm vi các ví dụ mà tôi vừa dẫn ra là một điều hiển nhiên, xuất phát từ cái thực tế rằng câu:

(4) Mary means trouble

là một câu nói mơ hồ: nó có thể được hiểu như trong (1) Mary means well (Mary tỏ thiện ý) hoặc như trong (3) Smoke means fire (Có khói nghĩa là có lửa). Quả thật, với một ít tưởng tượng, có thể nghĩ ra một ngữ cảnh, hay một tình huống trong đó động từ 'có nghĩa, có ý' trong phát ngôn (4) Mary means trouble có thể được giải thuyết một cách thoả đáng theo cách thường được hiểu ở (2) That red flag means danger (Lá cờ đỏ ấy biểu thị nguy hiểm). Và ngược lại, nếu ta tạm bỏ qua những giả định có tính bản thể (ontological assumptions) thông thường - nghĩa là những giả định của chúng ta về thế giới - để xem lá cờ đỏ được nêu ở (2) như là một thực thể sống có ý chí và chủ định riêng thì chúng ta cũng có thể giải thuyết phát ngôn (2) một cách không kém thoả đáng theo cách chúng ta thường giải thuyết phát ngôn (1).

Việc giải thuyết phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ, bất luận là được nói ra hay viết ra, đều phụ thuộc - ở mức độ ít nhiều nào đó - vào ngữ cảnh trong đó chúng được sử dụng. Và cũng không được quên rằng ngữ cảnh của phát ngôn bao gồm cả những xác tín có tính bản thể của các bên tham gia giao tiếp: một số lớn trong số chúng được xác định theo văn hoá và chúng, mặc dù thường được giả định mặc nhiên, vẫn có thể bị xem xét lại hoặc bị bác bỏ. Phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên, ở dạng thực tại hay tiềm ẩn, đều có nhiều nghĩa, hay nhiều cách giải thuyết hơn so với suy nghĩ ban đầu mà chúng ta dành cho chúng khi xem xét chúng tách rời khỏi ngữ cảnh. Đây là một điểm không phải bao giờ cũng được các nhà nghĩa học quan tâm đúng mức.

Xét theo khía cạnh này, các phát ngôn chứa động từ 'có nghĩa, có ý' (hoặc danh từ 'nghĩa') không khác gì so với các phát ngôn khác trong tiếng Anh. Và điều quan trọng cần nhớ là, xét ở các khía cạnh khác, động từ 'có nghĩa, có ý' và danh từ 'nghĩa' cũng chỉ là các từ bình thường của tiếng Anh. Không cần thiết phải cho rằng tất cả các ngôn ngữ tự nhiên, trong vốn từ vựng hàng ngày của chúng, đều có những từ tương ứng một cách chính xác với động từ 'có nghĩa, có ý' và danh từ 'nghĩa' cả về mặt ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa. Đây là điểm thứ hai đặc biệt cần nhấn mạnh và tôi sẽ trở lại với nó sau (mục 1.2).

Bây giờ chúng ta hãy xét một nghĩa hệ thống (hoặc nghĩa) khác của động từ 'có nghĩa, có ý'. Nếu ta nói:

(5) 'Soporific' means " tending to produce sleep".

('Gây ngủ' có nghĩa là "làm cho ngủ")

thì hiển nhiên là ta không hề gán ép sự chủ định nào cho cái từ tiếng Anh 'soporific'. Tuy nhiên, có thể cho rằng có một mối liên hệ mang tính bản chất, mặc dù là gián tiếp, giữa những gì mà người ta biểu thị hoặc chủ định biểu thị, với những gì được gán một cách quy ước cho các từ mà họ sử dụng. Luận điểm này được các nhà triết học ngôn ngữ thảo luận rất nhiều. Bởi vì nó không quan yếu đối với những quan tâm chính của cuốn sách này nên tôi không bàn đến ở đây. Tôi cũng không bàn đến một luận điểm liên quan, là cũng tồn tại một mối liên hệ bản chất, và có thể là trực tiếp hơn, giữa những gì mà người ta muốn bày tỏ và những gì người ta chủ định bày tỏ. Mặt khác, trong Chương 8 và Chương 9, tôi sẽ đưa ra một cách trình bày cụ thể về sự khác biệt giữa việc nói ra điều mà ta muốn nói và việc hiểu điều mà ta nói - đây là một phân biệt khác đã được tranh luận rộng rãi trong triết học ngôn ngữ.

Tính chủ định chắc chắn đóng một vai trò quan trọng trong bất kì học thuyết nào người ta có thể nêu ra về nghĩa của phát ngôn, cho dù nó không phải là đặc tính của các từ tạo nên phát ngôn. Tạm thời, ta hãy đơn giản lưu ý rằng chính cái nghĩa của động từ "có nghĩa, có ý" được nêu ví dụ ở (5) chứ không phải cái ý nghĩa được nêu ở ví dụ (6):

(6) Mary didn't really mean what she said.

(Mary đã thật sự không nghĩ như điều cô ấy nói)

mới là cái nghĩa được quan tâm trực tiếp hơn trong ngôn ngữ học.

Ta vừa lưu ý rằng danh từ 'nghĩa' (và động từ tương ứng 'có nghĩa, có ý') là có nhiều nghĩa. Nhưng luận điểm chính tôi muốn nói trong mục này không phải là về tính đa nghĩa, hay đa nghĩa hệ thống, của từ này, mà là việc những nghĩa này có liên quan với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều cách. Điều này giải thích tại sao việc nghiên cứu cái đối tượng được xem là nghĩa (theo một nghĩa này hay nghĩa khác của từ tiếng Anh 'meaning') lại là mối quan tâm của nhiều ngành và không hề là lãnh địa riêng của ngành nào. Theo đó, nếu nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu về ý nghĩa thì sẽ có nhiều phân nhánh khác nhau nhưng giao nhau của nghĩa học: nghĩa học triết lí, nghĩa học tâm lí, nghĩa học nhân chủng, nghĩa học lô-gic, ngữ nghĩa học v.v.

Chính ngữ nghĩa học (linguistic semantics) là đối tượng mà ta chủ yếu quan tâm trong cuốn sách này; và mỗi khi tôi sử dụng thuật ngữ 'nghĩa học' mà không có thêm định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu với nghĩa hẹp hơn, để chỉ ngữ nghĩa học. Tương tự, mỗi khi tôi dùng thuật ngữ 'ngôn ngữ' không kèm theo định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu là dùng để chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên (natural languages). Nhưng ngữ nghĩa học là gì và nó phân biệt với nghĩa học phi ngôn ngữ ra sao? Và cái gọi là ngôn ngữ tự nhiên thì phân biệt với các loại ngôn ngữ khác như thế nào về phương diện nghĩa cũng như các phương diện khác? Đây là những câu hỏi mà ta sẽ bàn đến trong mục 1.3. Nhưng trước hết, cần nói đôi điều về hệ thuật ngữ, cách thức sử dụng, và chung hơn, là về siêu ngôn ngữ (metalanguage) có tính chuyên môn và không chuyên môn của ngữ nghĩa học.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (2)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.2. Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học

Ta có thể tiếp tục dành nhiều thời gian để nêu ra và thảo luận những ví dụ về những nghĩa khác nhau của từ 'nghĩa' trong mục trước. Nếu ta làm như vậy và sau đó cố gắng dịch tất cả các ví dụ của ta sang các ngôn ngữ tự nhiên khác (tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga...) ta sẽ chóng đi đến chỗ đánh giá hiệu lực của một trong những luận điểm được nêu ra ở đây, rằng 'meaning' (và động từ mà từ đó nó được phái sinh) là một từ tiếng Anh không có từ tương ứng chính xác trong các ngôn ngữ gần gũi khác. Ta cũng sẽ thấy rằng có nhiều ngữ cảnh trong đó danh từ 'meaning' và động từ 'có nghĩa, có ý' ('mean') là không tương ứng với nhau. Nhưng đây không phải là một biệt lệ của tiếng Anh hoặc của hai từ này. Như sau này ta sẽ thấy, phần lớn các từ hoặc biểu thức (cụm từ) ngôn ngữ tự nhiên được dùng hàng ngày, không mang tính chuyên môn, đều giống với danh từ 'nghĩa' và động từ 'có nghĩa, có ý' ở chỗ chúng có một vài nghĩa vốn không có cách nào phân biệt với nhau một cách rõ ràng (hoặc giả là một loạt nghĩa trong đó một vài khác biệt có thể được chỉ ra) và các nghĩa này có thể khá là mơ hồ hoặc không xác định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất mà ta phải thực thi trong suốt cuốn sách này là trang bị cho ta một vốn thuật ngữ chuyên môn chính xác và không mơ hồ, ở mức cao nhất có thể được.

Để thực hiện điều đó, ta sẽ xây dựng cái mà các nhà ngữ nghĩa học gọi là siêu ngôn ngữ (metalanguage); tức là một ngôn ngữ dùng để miêu tả ngôn ngữ. Hiện nay, các nhà nghĩa học triết lí đều nhất trí một điều là các ngôn ngữ tự nhiên (đối lập với những ngôn ngữ hình thức, phi tự nhiên hoặc nhân tạo) đều chứa đựng siêu ngôn ngữ của riêng chúng: chúng có thể được dùng để miêu tả không những các ngôn ngữ khác (và ngôn ngữ nói chung) mà còn cả bản thân chúng. Cái đặc tính theo đó một ngôn ngữ có thể được dùng để nói về chính bản thân nó (toàn bộ hoặc một phần) sẽ được tôi gọi là tính phản thân (reflexivity). Những rắc rối triết học có thể nảy sinh từ tính phản thân kiểu này sẽ không thuộc vào số những vấn đề mà ta quan tâm trực tiếp ở đây. Song, có một số phương diện khác thuộc về tính phản thân, và chung hơn là thuộc về chức năng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ tự nhiên, cần được xem xét.

Siêu ngôn ngữ mà ta đã sử dụng đến bây giờ và sẽ tiếp tục sử dụng suốt trong sách này là tiếng Anh: chính xác hơn, nó chính là tiếng Anh Chuẩn (Standard English) ít nhiều mang tính thông thường (nhưng không phải thông tục) (vốn phân biệt với các loại tiếng Anh khác theo nhiều khác khác nhau). Những khi tôi dùng thuật ngữ 'tiếng Anh' không kèm theo bất kì định ngữ nào thì đấy chính là cái ngôn ngữ (hoặc phương ngữ) mà tôi muốn nói tới. Tiếng Anh thông thường (tiếng Anh Chuẩn) dĩ nhiên không phải là hoàn toàn đồng nhất trên phạm vi toàn thế giới hoặc xuyên suốt các nhóm xã hội ở các nước hoặc khu vực nói tiếng Anh, song những khác biệt trong từ vựng và cấu trúc ngữ pháp như đã tồn tại giữa một biến thể của tiếng Anh Chuẩn (British, American, Australian v.v...) với các biến thể khác là không quan trọng lắm trong bối cảnh những gì trình bày ở đây và sẽ không gây ra vấn đề.

Ta vừa chấp nhận một cách hiển ngôn tiếng Anh với tư cách là siêu ngôn ngữ của ta. Nhưng nếu ta nhằm đến một sự chính xác và rõ ràng thì, tiếng Anh, cũng như các ngôn ngữ tự nhiên khác, không thể được dùng như siêu ngôn ngữ để làm việc nếu không có sự điều chỉnh. Trong chừng mực ta quan tâm đến vốn từ vựng được dùng với mục đích siêu ngôn ngữ của các ngôn ngữ tự nhiên, có hai loại điều chỉnh là khả dĩ: đặt quy định (regimentation) và mở rộng (extension). Ta có thể dùng các từ hàng ngày như 'ngôn ngữ', 'câu', 'từ', 'nghĩa' hoặc 'nghĩa hệ thống' và bắt chúng tuân thủ một sự quy định chặt chẽ (tức quy định (regiment) việc sử dụng chúng), định nghĩa chúng hoặc tái định nghĩa chúng phù hợp với mục đích của chúng ta (cũng giống như các nhà vật lí định nghĩa lại các khái niệm 'lực', 'năng lượng' theo những mục đích riêng của họ). Hoặc giả, ta có thể mở rộng (extend) vốn từ vựng hàng ngày bằng cách thêm vào những từ chuyên môn, vốn thường không được dùng trong diễn ngôn hàng ngày.

Trong mục trước, ta đã có nhận xét rằng, từ 'meaning' (nghĩa) của tiếng Anh hàng ngày có một loạt nghĩa khác biệt nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Ở điểm này, ta có thể làm như các nhà ngữ nghĩa học tiếng Anh đã làm hiện nay: ta có thể đặt quy định (regiment) cho việc dùng từ 'nghĩa' bằng cách cố ý quy cho nó một nghĩa hẹp hơn, chuyên môn hơn so với nghĩa của nó trong đời sống hàng ngày. Rồi sau đó ta có thể dùng cái định nghĩa hẹp, có tính chuyên môn của từ 'nghĩa' này để giới hạn lại phạm vi của nghĩa học, chỉ để chỉ bộ phận thường được truyền thống ngôn ngữ học, triết học và các khoa học khác gọi là 'nghĩa học'. Trong cuốn sách này, chúng ta chọn giải pháp khác. Ta sẽ tiếp tục dùng cả danh từ 'nghĩa' và động từ 'có nghĩa, có ý' như là những từ không-chuyên-môn, với đầy đủ những nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống) hàng ngày của chúng. Và tạm thời chúng ta sẽ tiếp tục thao tác với cái định nghĩa rộng tương ứng về 'nghĩa học'; tức là cho đến khi được định nghĩa lại, nghĩa học vẫn được chúng ta tiếp tục xem là khoa học nghiên cứu về nghĩa. Tuy nhiên, cũng nên nhắc lại rằng hiện nay, một số tác giả đã chấp nhận định nghĩa có phần hẹp hơn về 'nghĩa học', dựa trên một sự quy định về cách dùng từ 'nghĩa' (hoặc một trong số các từ tương đương của nó) trong các ngôn ngữ khác. Tôi sẽ trở lại điểm này sau (xem mục 1.6).

Mặc dù từ 'nghĩa' của ngôn ngữ hàng ngày vẫn được giữ lại mà không cần định nghĩa lại trong siêu ngôn ngữ mà chúng ta đang xác lập, một vài biểu thức ngôn ngữ phức hợp, có chứa từ 'nghĩa' sẽ được nêu ra và được định nghĩa khi chúng ta xử lí các vấn đề, và sau đó sẽ được dùng với tư cách là thuật ngữ chuyên môn. Ví dụ, ở đoạn sau của chương này, sẽ có sự phân biệt, một mặt, giữa nghĩa mệnh đề (propositional meaning) và nghĩa phi mệnh đề (non-propositional meaning) và mặt khác, giữa nghĩa câu (sentence-meaning) và nghĩa phát ngôn (utterance-meaning); những khác biệt này, cùng với những khác biệt khác, tất sẽ liên quan đến sự phân biệt hiện đang được thừa nhận khá rộng rãi giữa ngữ nghĩa học (theo nghĩa hẹp) và ngữ dụng học. Trong Chương 3, nghĩa hệ thống (sense) và sở thị (denotation) sẽ được phân biệt với tư cách là những bình diện hoặc chiều kích phụ thuộc nhau thuộc về nghĩa của từ và ngữ đoạn. Quy chiếu (reference) sẽ được phân biệt với sở thị (denotation), thoạt tiên ở Chương 3 và sau đó, chi tiết hơn, ở Chương 10. Một lần nữa cần nhắc lại rằng, ba từ này (đặc biệt là từ 'nghĩa hệ thống') sẽ được dùng một cách phi kĩ thuật cho đến khi được định nghĩa hoặc định nghĩa lại một cách chính thức. Tình hình cũng tương tự đối với tất cả các từ và biểu thức khác của tiếng Anh thường ngày (bao gồm những danh từ 'ngôn ngữ', 'lời nói' và các động từ có liên quan về nghĩa như 'nói', 'phát ngôn', là những từ sẽ được xem xét chi tiết hơn ở mục 1.4).

Như sẽ được giải thích trong chương sau, trong những năm gần đây, các nhà ngôn ngữ học và lô gic học đã xây dựng những siêu ngôn ngữ phi tự nhiên (non-natural) khác nhau, mang tính hình thức hoá (formalized) cao (nghĩa là mang tính chính xác toán học) để có thể miêu tả các ngôn ngữ tự nhiên ở mức độ chính xác nhất có thể được. Trong cuốn sách này, điều quan trọng đối với ta là thấy được mối quan hệ giữa các siêu ngôn ngữ hình thức, phi tự nhiên của nghĩa học lô gic và thứ siêu ngôn ngữ, ít nhiều mang tính thông thường, được quy định và mở rộng mà ta đang sử dụng. Ngôn ngữ nào, nếu có thể nói như vậy, là ngôn ngữ cơ bản hơn? Và trong ngữ cảnh như vậy thì 'cơ bản' có nghĩa là gì?

Tất nhiên, đó là thứ tiếng Anh viết mà ta đang sử dụng với tư cách là siêu ngôn ngữ, và ta đang dùng nó để chỉ cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết, cũng như (trong trường hợp thích hợp) để chỉ các ngôn ngữ và các phát ngôn-ngôn ngữ được trừu xuất độc lập khỏi cái phương tiện (medium) mà chúng được hiện thực hoá. Trong quy định của ta về việc dùng tiếng Anh viết thông thường làm siêu ngôn ngữ, cần xác lập một số quy ước trình bày giúp ta có thể biểu thị chính xác những đơn vị ngôn ngữ học khác nhau. Những quy ước trình bày ít nhiều mang tính tầm thường như thế, như được sử dụng với tính cách siêu ngôn ngữ trong sách này (in nghiêng, dấu trích dẫn v.v...), sẽ được giới thiệu chính thức ở mục 1.5 (xin xem bảng kí hiệu và quy ước chữ viết ở trang xvii).

Trong chừng mực ngôn ngữ nói hàng ngày được dùng làm siêu ngôn ngữ, sẽ tồn tại một số quy luật và quy ước mà tất cả những người bản ngữ đều tuân theo, không cần phải học và không cần phải bận tâm. Nhưng chúng không phải hoàn toàn được pháp điển hoá và không thể ngăn ngừa được sự hiểu lầm trong tất cả ngữ cảnh. Các nhà ngữ âm học đã phát triển những hệ thống quy ước trình bày với độ chính xác cao về các phát ngôn được nói ra. Tuy nhiên, trong cách dùng phi thuật ngữ của tiếng Anh hàng ngày (và các ngôn ngữ tự nhiên khác), không có những hình thức trình bày dưới dạng viết, được quy ước chấp thuận, về ngữ điệu, nhịp, điểm nhấn và các đặc trưng phi ngôn ngữ khác, vốn là một bộ phận thông thường và cơ hữu của lời nói. Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, những đặc trưng như vậy mang nhiều chức năng giao tiếp và biểu lộ.

Ở đây, tôi muốn lưu ý là chúng cũng có thể thực hiện chức năng siêu ngôn ngữ. Ví dụ, câu:

(7) John said it was raining

(John nói trời đang mưa)

có thể được nói ra theo nhiều cách. Đặc biệt, nó có thể được phát ngôn ra với một sự chuyển tiếp đặc trưng về điệu tính giữa said và it, mà trong lời nói sẽ thể hiện sự khác biệt được quy ước trong ngôn ngữ viết giữa:

(8) John said [that] it was raining

(9) John said, "It was raining".

Trong trường hợp này, có một quy ước ít nhiều được thừa nhận chung, là việc sử dụng các dấu trích dẫn để phân biệt lời nói trực tiếp với lời nói gián tiếp trong tiếng Anh viết. Thế nhưng cũng có những khả năng lựa chọn khác được thừa nhận đối với việc sử dụng dấu trích dẫn. Và thậm chí khi các dấu trích dẫn được dùng thì những quy ước sử dụng chúng không phải là đã được pháp điển hoá hoàn toàn hoặc được mọi người thừa nhận, ví dụ các tác giả và nhà in khác nhau có những quy định riêng của họ đối với việc dùng các dấu trích đơn và kép. Như tôi đã nói, quy ước riêng của tôi về việc dùng các dấu trích đơn và kép với tính chất siêu ngôn ngữ (và cả việc dùng các chữ in nghiêng) sẽ được giải thích trong một mục sau (mục 1.5).

Có nhiều nhận định, dùng ngôn ngữ hàng ngày làm siêu ngôn ngữ, là không mơ hồ khi được nói ra, nhưng không hẳn như vậy nếu được viết ra. Ngược lại, bởi lẽ trong lời nói bình thường không có gì tương ứng một-đối-một với các dấu chấm câu và các dấu hiệu trình bày riêng(diacritics) của ngôn ngữ viết (gạch chân, in nghiêng hoặc in đậm để nhấn mạnh, dấu trích dẫn, viết hoa v.v...) nên có những nhận định, dùng ngôn ngữ hàng ngày làm siêu ngôn ngữ, là không mơ hồ khi viết ra nhưng lại có thể mơ hồ khi nói ra. Ví dụ:

(10) I can't stand Sebastian

khác với

(11) I can't stand 'Sebastian'

ở chỗ (10) có thể được hiểu như là nhận định về một người ngẫu nhiên có tên là 'Sebastian', còn (11) như là nhận định về chính cái tên 'Sebastian' đó (tức "Tôi không thể chịu được cái tên gọi Sebastian" - ND). Tuy nhiên, sự sử dụng quy ước về các dấu trích dẫn nhằm vào những mục đích như vậy trong tiếng Anh viết hàng ngày không phải là bắt buộc. Và như ta sẽ thấy ngay sau đây, sự sử dụng đó cần có những quy định thật chặt chẽ nếu ta muốn nó hành chức như là một bộ phận thuộc siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học.

--------------------------------------------------------------------------------

Đọc tiếp: 1.3. Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (3)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.3 Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ

Trong tiếng Anh, tính từ 'linguistic' là lưỡng nghĩa. Nó có thể được hiểu hoặc "gắn với ngôn ngữ", hoặc "gắn với ngôn ngữ học".

Thuật ngữ 'linguistic semantics' cũng theo đó mà lưỡng nghĩa. Giả sử nghĩa học (semantics) là khoa học nghiên cứu về nghĩa thì 'linguistic semantics' có thể được dùng để chỉ, hoặc là sự nghiên cứu nghĩa trong chừng mực nghĩa đó được biểu thị trong ngôn ngữ, hoặc là sự nghiên cứu nghĩa trong phạm vi ngôn ngữ học. Chính cái nghĩa thứ hai này được dùng ở đây và trong suốt cuốn sách này. Ngữ nghĩa học, vì vậy, là một phân nhánh của ngôn ngữ học, cũng giống như nghĩa học triết lí là phân nhánh của triết học, nghĩa học tâm lí là phân nhánh của tâm lí học v.v...

Bởi vì ngôn ngữ học được định nghĩa khái quát là khoa học nghiên cứu ngôn ngữ cho nên có thể nghĩ rằng, sự phân biệt mà tôi vừa nêu ra giữa hai cái nghĩa được dùng của 'linguistic semantics' là một sự phân biệt chẳng mang lại sự khác biệt nào. Tuy nhiên, sự thể không phải như vậy. Ngôn ngữ học không nhằm giải quyết mọi thứ nằm trong phạm vi của từ 'ngôn ngữ'. Giống như các bộ môn khoa học khác, nó xác lập bộ khung lí thuyết riêng của mình. Như những gì tôi đã giải thích với từ 'nghĩa', thì nhằm phục vụ những mục đích riêng của mình, ngôn ngữ học có quyền định nghĩa lại những từ dùng hàng ngày như 'ngôn ngữ' và không nhất thiết phải dùng chúng theo cái cách mà chúng được dùng bên ngoài ngôn ngữ học, bất luận là cách dùng có tính thuật ngữ hay phi thuật ngữ. Hơn thế nữa, như ta sẽ thấy trong mục tiếp theo, từ tiếng Anh 'language'(ngôn ngữ) là một từ lưỡng nghĩa, vì vậy ngữ đoạn 'nghiên cứu nghĩa trong ngôn ngữ' có thể được hiểu theo hai cách khác nhau đáng kể. Do đó, về nguyên tắc, tồn tại không phải hai, mà là ba cách hiểu thuật ngữ 'ngữ nghĩa học'. Tình hình cũng đúng hệt như vậy với ngữ đoạn 'nghĩa ngôn ngữ học' (bởi cùng một lí do). Điều này cũng sẽ được nói rõ hơn trong mục tiếp theo. Trong lúc này, tôi sẽ tiếp tục sử dụng cái từ 'ngôn ngữ' của tiếng Anh hàng ngày, mà không cần định nghĩa lại hoặc có sự chế định đặc biệt nào.

Trong số những bộ môn quan tâm đến nghĩa, có lẽ ngôn ngữ học là ngành quan tâm nhiều hơn cả. Tính có nội dung, hay tính có nghĩa (semanticity), nói chung thường được xem là một trong những đặc trưng dùng để định nghĩa ngôn ngữ; và điều này là không có gì để bàn cãi. Các nhà ngôn ngữ học nói chung cũng giả định rằng ngôn ngữ tự nhiên, về bản chất, là mang tính giao tiếp, có nghĩa là chúng phát triển hoặc tiến hoá -chúng đã được thiết kế, có thể nói như vậy- nhằm vào những mục đích giao tiếp và tương tác; và cái được gọi là những đặc trưng thiết kế (design-properties) của chúng -cụ thể hơn, cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của chúng- là khớp với mục đích này, nếu không như vậy thì chúng là mang tính huyền bí, không thể giải thích được. Gần đây, quan niệm này đã bị các nhà ngôn ngữ học và triết học xem xét lại. Đối với những mục đích của cuốn sách này, ta có thể giữ thái độ trung hoà về vấn đề này. Như phần lớn các nhà ngôn ngữ học, tôi sẽ tiếp tục cho rằng các ngôn ngữ tự nhiên được mô tả đúng bản chất như là những hệ thống giao tiếp (communication-systems). Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng không có hệ quả nào phụ thuộc vào điều giả định này. Mặc dù nhiều kiểu ứng xử có thể được mô tả như là có nghĩa nhưng quả thật so với phạm vi, sự đa dạng và phức tạp của các loại nghĩa mà ngôn ngữ biểu thị thì không một kiểu ứng xử giao tiếp nào, thuộc con người hoặc không thuộc con người, lại có thể sánh được. Một phần của sự khác biệt giữa giao tiếp bằng ngôn ngữ và các kiểu loại ứng xử giao tiếp khác bắt nguồn từ các đặc trưng về tính chủ định và quy ước, là những đặc trưng đã được nói trong mục 1.1.

Một sinh vật không phải là con người thường biểu lộ tình cảm hoặc thái độ dưới dạng những ứng xử có vẻ không chủ định và không quy ước. Lấy ví dụ, một con cua sẽ cho thấy sự giận dữ bằng cách giương cái càng to. Trong khi đó, con người sẽ hiếm khi biểu lộ sự giận dữ, dù có chủ định hay không, bằng cách giơ nắm đấm. Thông thường hơn, người ta sẽ thể hiện những tình cảm như tức giận bằng các phát ngôn như:

(12) Rồi mày sẽ ân hận về điều đó.

hoặc

(13) Tao sẽ kiện mày.

hoặc

(14) Sao mày dám làm thế!

Sự thật, âm sắc giọng nói khi phát ngôn những câu trên thường được nhận biết là biểu thị sự tức giận; và nó có thể được đi kèm với cử chỉ hoặc nét mặt giận dữ. Nhưng trong chừng mực ta quan tâm đến các từ được dùng thì rõ ràng là không có một liên hệ tự nhiên, phi quy ước giữa dạng thức và nghĩa: như ta đã nhận xét trong mục trước, các từ, theo cái nghĩa này, là mang tính võ đoán (arbitrary). Phần lớn cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên dùng để biểu thị ý nghĩa cũng vậy. Và, như chúng ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này, còn có nhiều rất nhiều điều để giải thích về tính có nghĩa của ngôn ngữ -tức khả năng biểu thị nghĩa của nó- hơn là chỉ đơn giản nói rằng mỗi từ có nghĩa gì.

Ở điểm này, cũng nên nhấn mạnh rằng, cho dù phần lớn cấu trúc các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên là võ đoán, hoặc mang tính quy ước, thì cũng tồn tại nhiều nhân tố phi võ đoán trong chúng. Một kiểu phi võ đoán hiện thường được viện dẫn là tính phỏng hình (iconicity). Nói nôm na thì tín hiệu có tính phỏng hình là tín hiệu mà hình thức của nó có thể được giải thích dựa trên sự tương đồng giữa hình thức của tín hiệu và nội dung mà nó biểu thị: các tín hiệu không mang đặc tính này đều là phi phỏng hình. Như các nhà ngôn ngữ học đã lưu ý từ hàng thế kỉ nay, trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều tồn tại những từ được truyền thống miêu tả là các từ tượng thanh (onomatopoeic), chẳng hạn các từ splash, bang, crash hoặc cuckoo, peewit v.v... trong tiếng Anh; ngày nay chúng được phân loại dưới một tên gọi chung hơn là 'từ phỏng hình'. Nhưng những từ như vậy là khá ít về mặt số lượng. Điều quan trọng hơn đối với ta là, mặc dù phần lớn cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên là võ đoán, chúng vẫn mang tính phỏng hình nhiều hơn so với mức mà các sách giáo khoa ngôn ngữ chuẩn mực có thể thừa nhận. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, theo cách nhìn như vậy, lại chính là tính phỏng hình bộ phận của cái thành tố phi lời (non-verbal) trong các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên.

Cụ thể thì các phát ngôn được nói ra, ngoài các từ cấu thành, sẽ còn mang một ngữ điệu và một mô hình trọng âm riêng: chúng được gọi theo thuật ngữ chuyên môn là các đặc trưng ngôn điệu (prosodic features). Những đặc trưng này là một bộ phận cơ hữu của những phát ngôn chứa chúng, và không được coi chúng, theo một cái nghĩa nào đó, là thứ yếu hay tuỳ nghi. Các đặc trưng ngôn điệu trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên, ở một mức độ đáng kể (mặc dù không phải là toàn bộ) là mang tính phỏng hình. Các phát ngôn nói ra cũng có thể được hỗ trợ bởi cái được gọi là những dấu hiệu kèm lời (paraliguistic features), vốn thường hay được gọi một cách thiếu chính xác là ngôn ngữ cử chỉ (điệu bộ, tư thế, ánh mắt, nét mặt...). Như thuật ngữ 'kèm lời' cho thấy, những yếu tố này không được các nhà ngôn ngữ học xem là một phần cơ hữu của những phát ngôn mà chúng có quan hệ. Xét theo khía cạnh này, chúng khác với các đặc trưng ngôn điệu. Nhưng các dấu hiệu kèm lời cũng mang nghĩa, và cũng giống như các đặc trưng ngôn điệu, chúng dùng để định dạng (modulate) và chấm câu (punctuate) cho các phát ngôn mà chúng đi kèm. Chúng thậm chí còn có xu hướng phỏng hình, hay nói cách khác là tính phi võ đoán, cao hơn các đặc trưng ngôn điệu. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, tính phi võ đoán của chúng được pha trộn với tính quy ước ở một mức độ cao không kém: nói như vậy nghĩa là các đặc trưng ngôn điệu của ngôn ngữ nói và những dấu hiệu kèm lời kèm theo phát ngôn trong những ngôn ngữ (hoặc các phương ngữ) cụ thể, thuộc các nền văn hoá (hoặc tiểu nhóm văn hoá) cụ thể thì biến đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác và cần phải được học với tư cách là một phần của quá trình thủ đắc ngôn ngữ bình thường.

Ngôn ngữ viết không có gì tương ứng trực trực tiếp với các đặc trưng ngôn điệu hoặc kèm lời của ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, các dấu chấm câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi v.v...) và chữ viết hoa, in nghiêng, gạch chân v.v... có thể xem là tương đương về chức năng. Vì vậy, tôi dùng thuật ngữ 'chấm câu' như là một thuật ngữ của ngữ nghĩa học cho cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết.

Một dạng khác của tính phi võ đoán mà các nhà ngữ nghĩa học rất quan tâm trong những năm gần đây là tính trực chỉ (indexicality). Một yếu tố trực chỉ (index), như tên gọi được định nghĩa ngay từ đầu, là một tín hiệu mà theo một nghĩa nào đó, hướng sự chú ý đến -tức chỉ ra (indicates) (hoặc là chỉ báo cho (or is indicative of))- cái mà nó biểu đạt (trong tình huống trực tiếp) và do đó hành chức với tư cách là một đầu mối, có thể nói như vậy, chỉ báo cho sự hiện diện hoặc tồn tại (trong tình huống trực tiếp) của bất kì cái gì mà nó biểu hiện. Chẳng hạn, khói là trực chỉ của lửa, lời nói lắp bắp có thể là dấu hiệu của say rượu, v.v... Trong hai trường hợp này, có một mối liên hệ nguyên nhân giữa yếu tố trực chỉ và cái mà nó chỉ ra. Nhưng điều này không được xem là cốt yếu. Trong thực tế, thuật ngữ 'trực chỉ ', như nó được định nghĩa ngay từ đầu, bao quát nhiều thứ vốn chẳng có gì chung ngoài việc hướng sự chú ý vào một khía cạnh nào đó của tình huống hiện thực trực tiếp. Một trong những hậu quả là tình trạng thuật ngữ 'tính trực chỉ' đã được dùng theo một số nghĩa xung đột nhau trong các văn liệu gần đây. Tôi chỉ chấp nhận một trong số các nghĩa này và sẽ giải thích nó trong chương 10. Từ đây cho đến lúc đó, tôi sẽ không dùng các thuật ngữ 'trực chỉ ', 'mang tính trực chỉ' hay 'tính trực chỉ' nữa.

Tuy nhiên, tôi sẽ sử dụng động từ 'chỉ báo' (và cũng dùng cụm từ 'là chỉ báo cho') theo cái nghĩa mà tôi đã dùng cho khói và lời lắp bắp trong đoạn văn trên. Khi người ta nói có khói nghĩa là có lửa hoặc lời lắp bắp là dấu hiệu của say rượu, người ta hàm ý rằng chúng không chỉ hướng chú ý đến sự hiện diện của lửa hoặc sự say rượu (trong tình huống trực tiếp), mà còn cho biết rằng lửa là nguyên do của khói và chính cái người nói lắp bắp ấy là kẻ say rượu. Nếu ta coi đây như là một điều kiện để định nghĩa hiện tượng trực chỉ (indication), theo cái nghĩa mà giờ đây tôi chấp nhận như là nghĩa thuật ngữ của từ này, thì ta có thể nói rằng nhiều thông tin được thể hiện trong phát ngôn khi nói ra chính là chỉ báo cho các đặc trưng sinh học, tâm lí và xã hội của người nói. Lấy ví dụ, giọng của một người nói chung sẽ là chỉ báo cho nguồn gốc xã hội hay xuất xứ địa phương của người đó; và đôi khi việc chọn lựa một từ ngữ này mà không phải là từ ngữ khác trong số hai từ ngữ đồng nghĩa theo cách nào đó cũng có tác dụng tương tự.

Vậy thì nhà ngôn ngữ học xử lí thế nào với nghĩa của các phát ngôn trong ngôn ngữ? Và bao nhiêu trong số đó được xếp loại là thuộc ngôn ngữ học (theo cái nghĩa là "nằm trong phạm vi của ngôn ngữ học") chứ không phải mang tính kèm lời (hoặc ngoại ngôn)? Nhà ngôn ngữ học, như những người nghiên cứu thuộc các bộ môn khoa học khác, sẽ thay đổi cách xử lí đối với bất kì vấn đề nào của đối tượng nghiên cứu tuỳ thuộc vào không khí học thuật đang thịnh hành. Thực tế, trong thời gian gần đây, đã từng có những thời kì, chủ yếu là ở Mĩ giai đoạn giữa năm 1930 và cuối những năm 1950, ngữ nghĩa học bị nhiều người né tránh. Một trong những nguyên nhân dẫn tới điều đó là: việc khảo sát ngữ nghĩa bị quy chụp là mang tính chủ quan (theo cái nghĩa xấu của từ này) về bản chất, và ít nhất thì cũng tạm thời bị coi là nằm ngoài phạm vi của khoa học.

Nguyên nhân đặc biệt hơn của sự né tránh ngữ nghĩa học chính là ảnh hưởng của tâm lí học hành vi đối với một số, mặc dù không phải là tất cả, trường phái ngôn ngữ học Mĩ. Nhờ có sự chỉ trích của Chomsky đối với hành vi luận vào cuối những năm 1950 và tác động mang tính cách mạng sau đó mà lí thuyết ngữ pháp tạo sinh của ông mang lại, không chỉ đối với các nhà ngôn ngữ học mà còn đối với các bộ môn khoa học khác, bao gồm triết học và tâm lí học, mà ảnh hưởng của hành vi luận không còn mạnh mẽ như nó từng có cách đây một thế hệ. Không chỉ có nhà ngôn ngữ, mà cả các nhà triết học lẫn tâm lí học, hiện nay sẵn sàng thừa nhận tư cách dữ liệu đối với những gì trước đây đã thẳng thừng bị chối bỏ vì bị xem là chủ quan (theo cái nghĩa xấu của từ) và không đáng tin cậy.

Cuốn sách này tập trung vào ngữ nghĩa học, và nó dựa vào những gì mà nhiều người coi là theo quan điểm truyền thống. Nhưng nó cũng chú trọng đúng mực đến những phát triển mới mẽ trong những năm gần đây, với tư cách là thành quả của sự hợp tác không ngừng tăng tiến giữa các nhà ngôn ngữ học và các đại diện của các ngành khoa học khác, bao gồm lô-gic hình thức và triết học ngôn ngữ, và nó xem xét những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của một số khái niệm quan trọng nhất mà ngữ nghĩa học hiện nay đang chia sẻ với những dạng nghĩa học phi ngôn ngữ khác.

--------------------------------------------------------------------------------

Đọc tiếp: 1.4. Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi'

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (4)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.4. Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi'

Từ 'langue' (ngôn ngữ) trong tiếng Anh, giống như từ 'meaning' (nghĩa), có một phổ rộng về nghĩa (hoặc nhiều nghĩa). Nhưng điều đầu tiên và quan trọng nhất cần nói về từ 'language' là, cũng như từ 'meaning' và một vài danh từ tiếng Anh khác, nó mang tính nước đôi về quy loại (categorially ambivalent) xét theo đặc trưng ngữ nghĩa quan yếu về số tính(countability); tức nó có thể được dùng (giống như 'thing', 'idea'v.v...) với tư cách là một danh từ đơn vị (nghĩa là, khi nó được dùng ở số ít, nó phải đi với một mạo từ, xác định hoặc không xác định, hoặc một loại định từ (determiner) nào đó khác); nó cũng có thể được dùng (giống như 'water', 'information'v.v...) với tư cách là một danh từ khối (tức không phải là danh từ đơn vị), vốn không yêu cầu một định từ và thường biểu thị không phải một thực thể riêng lẻ thuộc về một tập hợp hoặc biểu thị nhiều thực thể, mà là một khối không rõ ranh giới hoặc một kết tập nào đó của chất liệu hay vật chất. Số tính không có được một sự thừa nhận về ngữ pháp -tức không được ngữ pháp hoá (grammaticalized) (hoặc theo lối hình thái học hoặc theo lối cú pháp học)- trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên (xem mục 10.1). Và trong những ngôn ngữ mà nó được ngữ pháp hoá thì nó cũng được ngữ pháp theo nhiều cách khác nhau.

Điều ta quan tâm ở đây là khi từ 'ngôn ngữ' được dùng như một danh từ khối ở số đơn (không có định từ), biểu thức chứa nó có thể, nhưng không nhất thiết, được xem là tương đương về nghĩa với biểu thức chứa từ 'ngôn ngữ' ở dạng thức số nhiều, được dùng với tư cách là một danh từ đơn vị. Điều này dẫn đến một hệ luận là những nhận định có chứa từ 'ngôn ngữ' ở số đơn sẽ lưỡng nghĩa. Một trong những trường hợp như vậy (được điều chỉnh từ đoạn văn thứ hai của mục 1.2 trên đây) là:

(15) A metalanguage is a language which is used to describle language.

(Siêu ngôn ngữ là ngôn ngữ được dùng để miêu tả ngôn ngữ)

Một trường hợp khác là:

(16) Linguistics is the scientific study of language.

(Ngôn ngữ học là khoa học nghiên cứu ngôn ngữ)

Từng câu (15) và (16) liệu có cùng ý nghĩa với:

(17) A metalanguage is a language which is used to describle languages.

(18) Linguistics is the scientific study of languages.

hay không?

Không thể trả lời câu hỏi này nếu không dựa vào ngữ cảnh mà câu (15) và (16) xuất hiện, và thậm chí ngay cả trong ngữ cảnh thì câu hỏi này cũng có thể không có lời giải đáp. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ kĩ, nếu không phải là tức thời, thì cái cần thấy rõ là hai câu (15) và (16), như nội dung chúng biểu thị và ngoài ngữ cảnh, là lưỡng nghĩa tuỳ theo chỗ chúng có được hiểu như là tương đương về ngữ nghĩa lần lượt với hai câu (17) và (18) hay không.

Nguyên do của sự mơ hồ đặc biệt này là: bất kì lúc nào từ 'language' (ngôn ngữ) được dùng như một danh từ khối, như ở (15) và (16), biểu thức chứa nó có thể dùng để chỉ không phải là một tập hợp các ngôn ngữ mà mỗi thành viên là (hoặc có thể được miêu tả như là) một hệ thống (system) của các từ và các quy tắc ngữ pháp, mà là để chỉ những sản phẩm (products) (sự sử dụng của) ở dạng nói hay dạng viết của một hệ thống hay một tập hợp các hệ thống cụ thể. Cái có thể được nói đến như là sự lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm (system-product ambiguity) của nhiều biểu thức ngôn ngữ có chứa từ tiếng Anh 'language' chính là liên quan đến cái sự thể vừa được nhắc đến, rằng cái từ tiếng Anh 'language' (cũng như nhiều danh từ khác trong tiếng Anh) vốn nước đôi về mặt cú pháp: tức là nó thuộc về hai tiểu lớp danh từ phân biệt nhau về mặt cú pháp (danh từ đơn vị và danh từ khối). Và cũng có trường hợp, khi nó được dùng với tư cách là một danh từ khối ở số ít thì biểu thức ngôn ngữ chứa nó có thể dùng để chỉ ra hoặc là cái sản phẩm (sự sử dụng) của một ngôn ngữ, hoặc là cái tổng số (hay mẫu tiêu biểu) các ngôn ngữ.

Những biểu thức ngôn ngữ chứa các từ 'English', 'French', 'German' v.v... lại cho thấy một kiểu lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm có liên quan nhưng hơi khác, khi chúng được dùng như là những danh từ khối ở số ít (trong những ngữ cảnh nhất định). Ví dụ:

(19) That is English

có thể được dùng hoặc để chỉ một ngôn bản hay phát ngôn cụ thể, theo nghĩa chính xác của từ, hoặc theo một lối khác, để chỉ chính cái ngôn ngữ-hệ thống (language-system) sản sinh ra các văn bản và phát ngôn cụ thể. Sự mơ hồ này là hiển nhiên bởi theo một cách hiểu về câu (19), không tính cách hiểu khác, thì biểu thức từ đơn lẻ 'English' có thể được thay thế bởi ngữ đoạn 'the English language' (tiếng Anh). Rõ ràng là chúng ta không thể đồng nhất bất kì các phát ngôn tiếng Anh cụ thể nào với chính tiếng Anh. Và cũng rõ ràng, trong những trường hợp như vậy, tính nước đôi cú pháp làm nảy sinh sự lưỡng nghĩa, nói đúng ra, không phải giữa danh từ đơn vị và danh từ khối, mà là giữa các danh từ riêng (đơn vị) và các danh từ chung (khối).

Cái mà tôi đã nêu ra như là sự lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm có liên quan đến tính nước đôi về phạm trù của từ 'language' (ngôn ngữ) là tương đối rõ, như nó vừa được giải thích. Nhưng từ trước đến nay nó vẫn là, và tiếp tục sẽ là, nguồn gốc của rất nhiều lẫn lộn về lí thuyết. Có một cách tránh được ít nhất một vài trong số những nhầm lẫn như vậy, đó là cách không bao giờ, về phương diện siêu ngôn ngữ, dùng từ tiếng Anh 'language' (ngôn ngữ) như là một danh từ khối khi mà biểu thức ngôn ngữ chứa nó có thể được thay thế đồng nghĩa bởi một biểu thức chứa từ 'language', được dùng như một danh từ đơn vị. Cách giải quyết này sẽ được giữ nguyên nhất quán trong các phần trình bày tiếp theo; và các sinh viên được khuyên nên chấp nhận cách giải quyết giống như vậy.

Một cách khác để tránh né, hoặc làm giảm thiểu, sự mơ hồ và lẫn lộn gây ra bởi tính nước đôi về cú pháp (hoặc phạm trù) của cái từ tiếng Anh hàng ngày 'language' cũng như một vài ý nghĩa của nó là đặt ra những thuật ngữ đặc biệt hơn để thay thế nó. Đó là những thuật ngữ 'langue' (ngữ ngôn) và 'parole' (lời nói) nay được dùng rộng rãi, mà Saussure (1916) là người dùng đầu tiên với nghĩa thuật ngữ trong tiếng Pháp, 'competence' (ngữ năng) và 'performance' (ngữ thi), mà Chomsky (1965) đã nêu ra như là những thuật ngữ ngôn ngữ học.

Trong tiếng Pháp hàng ngày, phi kĩ thuật thì danh từ 'langue' (ngữ ngôn) là một trong hai từ mà nếu phối hợp với nhau thì sẽ có cùng phạm vi ý nghĩa hoặc các ý nghĩa tương đương với cái từ tiếng Anh 'language' (ngôn ngữ). Cái từ tiếng Pháp khác là 'langage'. Hai từ tiếng Pháp này phân biệt với nhau về mặt ngữ pháp và ngữ nghĩa ở một vài phương diện. Trong bối cảnh mà ta quan tâm, hai sự khác biệt quan trọng là: (i) 'langue', trong đối lập với 'langage', luôn luôn được dùng như một danh từ đơn vị; (ii) 'langue' biểu thị cái thường được coi là ngôn ngữ tự nhiên và, không giống như từ 'langage', nó thường không được dùng để chỉ: (a) những ngôn ngữ hình thức nhân tạo (tức phi tự nhiên) của lô gic học, toán học, tin học, (b) những hệ thống giao tiếp ngoài ngôn ngữ (extralinguistic) hoặc kèm ngôn ngữ như cái vẫn được gọi một cách phổ biến là ngôn ngữ cử chỉ, hoặc (c) những hệ thống giao tiếp không thuộc con người. Cái sự thể rằng tiếng Pháp (giống như tiếng Italia, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha và các ngôn ngữ Romane khác) có đến hai từ không tương đương với nhau về nghĩa, tự bản thân nó là rất thú vị. Nó khẳng định một luận điểm đã được nói đến từ trước về cái từ 'nghĩa' của tiếng Anh: cái siêu ngôn ngữ hàng ngày được lấy từ một ngôn ngữ tự nhiên này không nhất thiết tương đương về nghĩa, toàn bộ hoặc bộ phận, với cái siêu ngôn ngữ hàng ngày được lấy từ một ngôn ngữ tự nhiên khác. Nhưng điều này được nêu ra ở đây là gắn với sự phân biệt của Saussure về 'ngữ ngôn' và 'lời nói'.

Những biểu thức ngôn ngữ chứa từ tiếng Pháp 'langage' cũng chịu cùng một kiểu lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm như các biểu thức ngôn ngữ chứa từ tiếng Anh 'language' phải chịu. Nhưng những biểu thức chứa từ 'langue' thì không thế. Chúng luôn luôn chỉ cái mà tôi gọi là ngôn ngữ-hệ thống (và theo phạm vi hẹp của từ 'langue', đối lập với cái từ tiếng Anh 'language', chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên). Điều này luôn đúng, bất chấp cái sự thể là từ 'langue' trong tiếng Pháp có được dùng theo nghĩa thuật ngữ hay không.

Từ 'parole' (lời nói) trong tiếng Pháp hàng ngày có một số ý nghĩa liên quan hoặc chồng lên nhau. Trong cái nghĩa mà ta quan tâm ở đây, nó bao hàm một phần cái nội dung của từ tiếng Pháp 'langage' và từ tiếng Anh 'language' khi được dùng với tư cách là những danh từ khối. Nó biểu thị chính cái sản phẩm hoặc những sản phẩm mà việc sử dụng một ngôn ngữ-hệ thống đem lại. Tuy nhiên, không giống như các từ 'langage' và 'language', nó chỉ dùng để chỉ ngôn ngữ nói, tức chỉ cái sản phẩm lời nói. Hệ quả là, sự phân biệt mà Saussure nêu ra giữa 'langue' (ngữ ngôn) và 'parole' (lời nói) đã thường xuyên bị trình bày sai lạc, trong tiếng Anh cũng như một số ngôn ngữ Châu Âu khác, bao gồm tiếng Đức, tiếng Nga, với tư cách là một sự phân biệt giữa ngôn ngữ (language) và lời nói (speech).

Sự phân biệt mang tính bản chất, như ta vừa thấy, là giữa một hệ thống (gồm một bộ các quy tắc ngữ pháp và một vốn từ vựng) với cái sản phẩm của (sự sử dụng của) chính cái hệ thống đó. Lưu ý rằng ở đây, cũng như từ đầu mục này, tôi đã đưa ngữ đoạn 'sự sử dụng của' vào trong dấu ngoặc đơn. Điều này dẫn ta đến một luận điểm thứ hai, một luận điểm nhất thiết phải nêu ra, không chỉ về sự phân biệt của Saussure giữa 'ngữ ngôn' và 'lời nói', mà còn về sự phân biệt của Chomsky giữa 'ngữ năng' và 'ngữ thi', vốn cũng gây ra nhiều nhầm lẫn lí thuyết.

Khái niệm 'ngữ năng' (đầy đủ hơn, là 'năng lực ngôn ngữ' hoặc 'năng lực ngữ pháp') được Chomsky dùng để chỉ cái ngôn ngữ-hệ thống lưu trữ trong đầu của những cá nhân được cho là biết, hoặc có năng lực đối với cái ngôn ngữ đang xét. Năng lực ngôn ngữ, trong cái nghĩa này, luôn luôn là năng lực đối với một ngôn ngữ cụ thể. Những người bản ngữ thường có được nó ngay từ hồi thơ ấu (trong những điều kiện môi trường bình thường) nhờ sự tương tác của: (i) cái khả năng ngôn ngữ riêng của con người và được di truyền (cái khả năng này được Chomsky gọi bằng thuật ngữ 'ngữ pháp phổ quát') và (ii) một số lượng đủ các phát ngôn làm mẫu được trình bày thích đáng, vốn có thể phân tích (với sự trợ giúp của những tri thức bẩm sinh của đứa trẻ về những nguyên tắc và tham số của ngữ pháp phổ quát) với tư cách là những sản phẩm của cái ngôn ngữ-hệ thống đang phát triển. Có nhiều chi tiết trong lí thuyết của Chomsky về sự thủ đắc ngôn ngữ và về ngữ pháp phổ quát gây tranh cãi về phương diện triết học cũng như tâm lí học. Nhưng điều này không quan yếu đối với những quan tâm hiện thời của chúng ta. Lúc này, có một điều được thừa nhận, hoặc cần phải được thừa nhận: cái mà Chomsky gọi là ngữ năng trong những ngôn ngữ tự nhiên cụ thể, về phương diện vật lí thần kinh, là được lưu trữ trong não các thành viên của những cộng đồng ngôn ngữ cụ thể. Và khái niệm 'ngữ năng' của Chomsky, được giải thích như thế, xét theo mục đích hiện thời, có thể được đồng nhất với khái niệm 'ngữ ngôn' của Saussure.

Nếu Chomsky phân biệt 'ngữ năng' và 'ngữ thi' thì Saussure phân biệt 'ngữ ngôn' và 'lời nói'. Nhưng 'ngữ thi' không thể dễ đồng nhất với 'lời nói' như cái cách mà 'ngữ năng' được đồng nhất với 'ngữ ngôn'. Nói một cách nghiêm ngặt thì 'ngữ thi' biểu thị cái cách dùng ngôn ngữ-hệ thống, trong khi 'lời nói' biểu thị những sản phẩm của cái cách dùng đó. Tuy vậy, sự phân biệt về thuật ngữ này không phải bao giờ cũng được duy trì. Thuật ngữ 'ngữ thi' của Chomsky (giống như thuật ngữ 'cách ứng xử') thường được các nhà ngôn ngữ học sử dụng để chỉ một cách không phân biệt, hoặc lập lờ, cả cách dùng hệ thống lẫn những sản phẩm của cách dùng hệ thống. Ngược lại, thuật ngữ 'lời nói' hiếm khi, nếu có, được dùng để chỉ một cái gì khác ngoài sản phẩm của việc sử dụng những ngôn ngữ-hệ thống cụ thể. Cái ta muốn, bây giờ cần làm rõ, không phải là một sự phân biệt tay đôi giản đơn giữa một hệ thống và những sản phẩm của nó mà là một sự phân biệt tay ba, trong đó sản phẩm ('lời nói') được phân biệt không những với hệ thống mà còn với quá trình ('ngữ thi', 'cách ứng xử', 'cách dùng' v.v...). Cho dù chúng ta có dùng một vốn từ vựng siêu ngôn ngữ đặc biệt cho mục đích này hay không thì điều quan trọng vẫn là: cái sản phẩm thu được từ quá trình sử dụng một ngôn ngữ cần được phân biệt cẩn thận với bản thân quá trình ấy.

Nhiều danh từ tiếng Anh thường ngày phái sinh từ động từ là giống với từ 'ngữ thi' ở chỗ chúng có thể được dùng để chỉ cả quá trình lẫn sản phẩm của nó. Chúng bao gồm bản thân danh từ 'production' (sự tạo thành) và một loạt các danh từ có liên quan về ngữ nghĩa như 'creation' (sự chế tác), 'composition' (sự hợp thành), 'construction' (sự cấu tạo). Chúng cũng bao gồm những từ của ngôn ngữ thường ngày (tức siêu ngôn ngữ thường ngày) như 'speech' (lời nói), 'writing' (viết), 'utterance' (phát ngôn) và nhiều từ khác. Hai cái nghĩa hệ thống của các từ này không được lẫn lộn với nhau, như chúng đã và đang lẫn lộn, và tiếp tục bị lẫn lộn, trong nhiều giáo trình ngôn ngữ học. Điểm này, như chúng ta sẽ thấy, có tầm quan trọng đặc biệt khi xác định khái niệm 'ngữ dụng học'.

Rất nhiều điều được nói trong mục này có liên quan không chỉ đối với những vấn đề có thể nảy sinh nếu chúng ta không thận trọng trong cách dùng những từ ngữ hàng ngày như 'ngôn ngữ', 'lời nói' mà còn đối với một loạt những vấn đề khác sẽ được đề cập tiếp theo đây. Điều cốt tử là, những người mới làm quen với ngữ nghĩa học cần phải ý thức về cái mà tôi sẽ gọi ra đây như là sự tam phân hệ thống-quá trình-sản phẩm (system-process-product trichotomy). Những sinh viên đã quen với những nguyên tắc của ngữ pháp tạo sinh hiện đại và nghĩa học hình thức sẽ biết rằng, có những điều chỉnh được thực hiện đối với sự phân tích ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ theo cái trục hệ thống-quá trình-sản phẩm vừa được trình bày ở đây. Đặc biệt, các thuật ngữ 'quá trình' và 'sản phẩm' còn có một nghĩa trừu tượng hơn, mang tính chất toán học, theo đó người ta nói rằng các câu được tạo ra, hay sản sinh ra, bởi một ngữ pháp hoạt động trên một thành tố từ vựng hữu quan. Cái nghĩa trừu tượng hơn này của thuật ngữ 'quá trình' (giống như cái nghĩa trừu tượng hơn của thuật ngữ 'câu', là thuật ngữ dựa vào nó và sẽ được giải thích ở một thời điểm thích hợp), về phương diện lô gic, là độc lập với cách sử dụng cũng như ngữ cảnh và có thể được xem như là ở bên trong hệ thống. Nhưng tạm thời, chúng ta không quan tâm đến những câu hỏi mang tính kĩ thuật kiểu này. Ta có thể ngao du khá xa trong ngữ nghĩa học trước khi ta phải bàn đến những tiến triển gần đây trong ngôn ngữ học lí thuyết và lô gic hình thức.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (5)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.5. Từ: dạng thức và nghĩa

Đây là lúc thuận lợi để đưa ra những quy ước trình bày nhằm phân biệt dạng thức và nghĩa, cơ sở cho các thao tác của ta trong suốt cuốn sách này. Ngay từ ví dụ đầu tiên, đã có những giải thích về dạng thức và ý nghĩa của từ. Sự giải thích này sau đó có thể mở rộng, như chúng ta sẽ thấy, cho các ngữ đoạn, câu và các biểu thức ngôn ngữ khác.

Một trong những giả định ngầm ẩn mà ta đã tuân thủ và bây giờ có thể được làm rõ là các từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác, gồm ngữ đoạn và câu) thì có ý nghĩa. Chúng cũng có dạng thức (form): thực tế, trong tiếng Anh cũng như bất kì các ngôn ngữ tự nhiên khác, những ngôn ngữ gắn với một hệ thống chữ viết, bất luận là theo thứ tự bảng chữ cái hay không, và được dùng rộng rãi, thì từ có cả dạng thức nói lẫn dạng thức viết được chấp nhận theo quy ước. (Trong một số trường hợp, cùng một ngôn ngữ nói lại gắn với những hệ thống chữ viết khác nhau, cho nên cùng một từ được nói ra có thể có vài dạng thức chữ viết khác nhau. Ngược lại, và thú vị hơn, nhiều ngôn ngữ nói (spoken languages) khác biệt nhau về âm vị học lại có thể thể gắn bó với không chỉ cùng một hệ thống chữ viết mà còn với cùng một ngôn ngữ viết (written language), miễn sao, như trường hợp của cái được gọi là những phương ngôn của tiếng Trung Quốc hiện đại, tồn tại một mức độ thích đáng về tính đẳng hình (isomorphism) ngữ pháp và đẳng hình từ vựng trong số các ngôn ngữ nói khác nhau đó, tức là một mức độ đồng nhất được chấp nhận về cấu trúc ngữ pháp và từ vựng). Nói chung, chúng ta không cần phải nêu ra sự phân biệt giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, mặc dù để thực hiện điều đó, khi cần thiết thì một số quy ước đã được xác lập khá hoàn hảo trong ngôn ngữ học (bao gồm việc sử dụng các kí hiệu phiên âm quốc tế, được đặt trong dấu ngoặc vuông hoặc dấu nghiêng để biểu thị các dạng thức ngữ âm hay âm vị). Tuy nhiên, chắc chắn cần phải phân biệt cái đơn vị từ (được xem như là một đơn vị hai mặt) với cả dạng thức lẫn ý nghĩa của nó. Và để thực hiện điều này, ta có thể sử dụng cái dạng thức viết thường ngày của từ để biểu thị không chỉ bản thân cái từ đó như là một đơn vị có hai mặt hình thức và nội dung, mà còn để biểu thị hoặc dạng thức hoặc ý nghĩa, được coi là độc lập với nhau. Người ta đã làm như vậy khi dùng tiếng Anh và các ngôn ngữ thường ngày khác làm siêu ngôn ngữ trình bày. Tuy nhiên, để làm rõ chức năng nào trong số ba chức năng siêu ngôn ngữ khác nhau trên đây đã được cái dạng thức viết của từ thực thi trong một trường hợp cụ thể, ta cần xác lập những quy ước trình bày đặc biệt.

Đáng tiếc là, những quy ước trình bày được các nhà ngôn ngữ học sử dụng phổ biến nhất lại không thể phân biệt rõ ràng và nhất quán, một mặt, giữa các từ (và các biểu thức khác) và mặt khác, giữa các dạng thức hoặc ý nghĩa của chúng. Trong cuốn sách này, các dấu trích đơn (single quotation-marks) sẽ được dùng để biểu thị từ và các đơn vị hai mặt với cả dạng thức lẫn nghĩa khác; các chữ in nghiêng (italic) (không có dấu trích) để biểu thị dạng thức (bất luận ở dạng nói hay dạng viết); và dấu trích kép (double quotation-marks) để biểu thị nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống).

Với một chút ngẫm nghĩ, ta sẽ thấy rằng tất cả những gì được ta thực hiện cho đến bây giờ là hệ thống hoá và điển chế hoá (tức quy định) một số quy ước về tiếng Anh viết với tính cách là siêu ngôn ngữ đời thường, nhằm vào những mục đích riêng của chúng ta. Khi những người sử dụng tiếng Anh bình thường (hoặc những ngôn ngữ tự nhiên khác) muốn dẫn ra một từ, họ sẽ trích dẫn nó hoặc dưới dạng viết hoặc dưới dạng nói, tuỳ từng trường hợp. Ví dụ, họ có thể nói:

(20) Can you tell me what 'sequipdalian' means?

(Bạn có thể nói cho tôi biết từ 'sequipdalian' có nghĩa là gì không?)

và câu trả lời có thể là:

(21) I'm sorry, I can't: look it up in the dictionary

(Rất tiếc là tôi không thể: hãy xem nó trong từ điển)

ở đây, từ 'it' (nó) , trong ngữ cảnh, vừa chỉ ra lại vừa có thể được thay thế bằng từ 'sequipdalian'. Tương tự, những từ điển quy ước của tiếng Anh và các thứ tiếng khác gắn với một hệ thống chữ viết ghi âm tố sẽ đồng nhất từ với dạng thức của chúng, liệt kê chúng theo một trật tự chữ cái thuần tuý quy ước, vốn được dạy ở trường phổ thông nhằm vào chính mục đích này.

Ta vừa công khai chấp nhận một quy ước trình bày để phân biệt từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác) với cả nghĩa lẫn dạng thức của chúng. Nhưng trong nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, từ cũng có thể có hơn một dạng thức. Chẳng hạn, danh từ 'man' (người đàn ông) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp man, man's, men và man's; động từ 'sing' (hát) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp sing, sings, singing, sang và sung; v.v... Các dạng thức khác biệt về ngữ pháp của cùng một từ này được truyền thống miêu tả như là các dạng thức biến hình (inflectional): giống như phần lớn các danh từ đếm được trong tiếng Anh, danh từ 'man' biến đổi hình thái theo các đặc trưng ngữ pháp (chính xác hơn, là các đặc trưng hình thái-cú pháp (morphosyntactic) về số ít/số nhiều và sở hữu; giống như phần lớn các động từ trong tiếng Anh, động từ 'sing', biến đổi hình thái theo các phạm trù ngữ pháp về thời (thời hiện tại khác với thời quá khứ) v.v... Một số ngôn ngữ biến đổi hình thái ở mức độ cao hơn các ngôn ngữ khác. Tiếng Anh, khác với tiếng Nga hoặc tiếng Latin, hoặc thậm chí khác với tiếng Pháp, tiếng Italia... hay tiếng Đức, không có nhiều biến thể hình thái trong dạng thức của từ; và một số ngôn ngữ (được gọi là ngôn ngữ phân tích tính, hay ngôn ngữ đơn lập) đáng chú ý như tiếng Việt, tiếng Hán thì không biến hình. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa từ và dạng thức của nó là quan trọng, ngay cả khi từ không có các dạng thức biến hình phân biệt.

Đối với tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, trong số các dạng thức biến hình của một từ, một dạng thức sẽ được quy ước xem như là dạng trích dẫn (citation-form), nghĩa là dạng được dùng để trích, để chỉ ra chính cái từ mà nó đại diện với tư cách là một phức thể. Và đó thường là dạng trích dẫn thường được thấy, theo thứ tự bảng chữ cái, ở đầu mỗi mục từ trong các từ điển quy ước tiếng Anh và những ngôn ngữ gắn bó với hệ thống văn tự xếp theo bảng chữ cái khác.

Cái dạng trích dẫn thường ngày của một từ được chấp nhận theo quy ước không nhất thiết phải là cái dạng thức mà nhà ngôn ngữ học có thể xác định như là gốc từ hoặc thân từ. Nói chung thì trong tiếng Anh ngẫu nhiên mà dạng trích dẫn thường ngày của phần lớn các từ trùng với thân từ của chúng, trừ các động từ. Nhưng tình hình như vậy không xảy ra ở tất cả các ngôn ngữ. Trong cuốn sách này, đối với tất cả các ngôn ngữ khác tiếng Anh, chúng ta sẽ sử dụng bất kì dạng trích dẫn nào được thừa nhận rộng rãi nhất trong truyền thống từ điển học chủ lưu của các ngôn ngữ ấy. Trong tiếng Anh, khi xem xét động từ thì có hai cách quy ước để chọn lựa. Cách quy ước có tính thường ngày, đậm tính truyền thống hơn nhưng hiện nay ít được nhà ngôn ngữ học thừa nhận hơn, là sử dụng cái được gọi là dạng nguyên thể, vốn gồm tiểu từ to cộng với thân từ (hoặc trong trường hợp các động từ bất quy tắc, cộng với một trong các thân từ), ví dụ: 'to love', 'to sing', 'to be'... Cách quy ước ít mang tính truyền thống hơn, mà tôi chấp nhận, là sử dụng thân từ (hoặc một trong số các thân từ) không chỉ cho danh từ, đại từ, tính từ, trạng từ mà còn cả cho động từ, nghĩa là không chỉ dùng 'man', 'she', 'good', 'weel' mà còn 'love', 'sing', 'be'... Có những lí do xác đáng để chọn thân từ (hoặc một trong số thân từ) với tư cách là dạng trích dẫn trong những ngôn ngữ như tiếng Anh. Tuy nhiên, về nguyên tắc thì việc chọn một dạng thức này chứ không phải một dạng thức khác trong siêu ngôn ngữ để chỉ chính cái từ mà nó đại diện là mang tính võ đoán và chỉ là một vấn đề quy ước.

Phần lớn các từ tiếng Anh không phải chỉ có hơn một dạng thức. Chúng còn có thể có hơn một nghĩa; và xét theo khía cạnh này thì tiếng Anh là tiêu biểu cho các ngôn ngữ tự nhiên. (Mặc dù tồn tại những ngôn ngữ tự nhiên trong đó mỗi từ có một và chỉ có một dạng thức, nhưng gần như chắc rằng không có, và chưa hề có ngôn ngữ tự nhiên nào trong đó mỗi từ có một và chỉ một nghĩa). Ví dụ, từ 'food' (bàn chân) có một số nghĩa. Nếu chúng ta muốn phân biệt các nghĩa này khi trình bày, chúng ta có thể đánh số chúng và ghi kèm các số này như là chú dẫn cho các kí hiệu biểu nghĩa, ví dụ: 'food1', 'food2','food3'... Khái quát hơn, giả định rằng X là dạng trích dẫn của một từ, chúng ta sẽ biểu thị từ đó là 'X' và nghĩa của nó (tức tập hợp một hoặc hơn một các nghĩa của nó) là "X"; và nếu nó có hơn một ý nghĩa thì chúng ta có thể phân biệt các ý nghĩa này như là "X1", "X2", "X3" v.v...

Tất nhiên, việc dùng các chú dẫn như vậy chỉ là một công cụ trình bày giản tiện, không nói lên điều gì cả về nghĩa của từ. Khi nào cần phải xác định các nghĩa khác nhau chứ không phải chỉ là biểu diễn kí hiệu như trên đây, chúng ta có thể dùng lối định nghĩa hoặc khúc giải. Ví dụ, đối với từ 'foot', chúng ta có thể nói rằng "foot1" là "phần kết thúc của chân", rằng "foot2" là "phần thấp nhất của một ngọn đồi hay ngọn núi"... Làm thế nào để xác định được một định nghĩa hay cách khúc giải nào đó là đúng hay sai sẽ là vấn đề được thảo luận ở Phần 2. Ở đây tôi chỉ đơn giản quan tâm đến việc giải thích hệ thống siêu ngôn ngữ mà tôi đang sử dụng. Nhưng ở điểm này tôi cũng nên nói rõ là việc sử dụng hệ thống trình bày mà tôi đang xây dựng đây là dựa vào giả định rằng các nghĩa của từ đều mang hai đặc điểm sau: (i) tách biệt, và (ii) có thể phân biệt với nhau. Giả định này là điều thường được những người làm từ điển (và nhà ngôn ngữ học) định ra và được phản ánh trong kết cấu của hầu hết các từ điển chuẩn tắc.

Nhưng đối với những sinh viên trước đó chưa hề có kinh nghiệm về việc này thì việc lấy một số các từ tiếng Anh chung, như là 'foot', 'game', 'table', 'tree'... và tra chúng trong một vài từ điển tường giải có uy tín sẽ là một kinh nghiệm hữu ích. Họ sẽ phát hiện nhiều khác biệt chi tiết, không chỉ về các định nghĩa được đưa ra, mà còn cả về số lượng các nghĩa được gán cho mỗi từ. Họ cũng sẽ thấy rằng một số từ điển, chứ không phải là tất cả, thể hiện những phân biệt ở mức độ chi tiết hơn, chẳng hạn như không chỉ phân biệt "X1" với "X2", "X3"... mà còn phân biệt "X1a" với "X1b", "X1c" v.v... ít nhất thì việc so sánh một số từ điển khác nhau theo cách như vậy cũng sẽ giúp làm sáng tỏ một điều là thật không dễ xác định một từ có bao nhiêu nghĩa, như những suy nghĩ loáng thoáng ban đầu có thể tưởng tượng ra. Nó cũng sẽ khiến ta nghi ngờ cái quan điểm cho rằng mọi từ điển đều đáng tin như nhau, và cũng nghi ngờ cái quan điểm ngược lại rằng một từ điển cá biệt nào đó (từ điển tiếng Anh của Oxford, của Webster v.v...) là duy nhất đáng tin cậy. Thực tế, nó thậm chí còn gieo thêm nghi ngờ rằng trong nhiều trường hợp, việc xác định một từ có bao nhiêu nghĩa không chỉ là khó khăn về mặt thực hành, mà còn là bất khả thi về nguyên tắc. Nghi ngờ này, như ta sẽ thấy, được khẳng định bởi những thể nghiệm lí thuyết và thực hành từ điển học về sau.

Bây giờ cần nói đôi chút về hiện tượng các từ đồng âm (homonyms): các từ khác nhau nhưng có cùng một dạng thức (theo định nghĩa truyền thống). Phần lớn các từ điển phân biệt các từ đồng âm bằng cách gán cho chúng các chữ số (hoặc con chữ) phân biệt và cấp cho mỗi từ đồng âm một mục từ riêng. Chúng ta sẽ dùng các chú thích chữ số. Ví dụ, các từ 'bank1', có nghĩa là "tổ chức tài chính", và 'bank2', có nghĩa là "sườn dốc của một con sông", được xem là các từ đồng âm (xem hình 1.1). Việc chúng được các tác giả hoặc các nhà biên soạn của một cuốn từ điển nào đó phân loại là những từ đồng âm - tức những từ riêng biệt nhau (phần lớn các từ điển tiếng Anh đều phân loại chúng như vậy) - là quá rõ bởi chúng được cấp cho những mục từ riêng rẻ (bất chấp chúng có được đính kèm các con số hoặc con chữ phân biệt hay không). Một điều được giả định là những ai tham khảo từ điển đều có một hiểu biết cảm tính nào đó về khái niệm đồng âm truyền thống, thậm chí ngay cả khi họ không biết thuật ngữ truyền thống dùng để chỉ hiện tượng này, ví dụ, mặc nhiên là những người tham khảo từ điển sẽ nhất trí rằng 'bank1' là một từ khác biệt với 'bank2' và về mặt trực giác thìhiểu được rằng nói chúng là những từ khác biệt nhau thì ngụ ý gì. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy ở Phần 2, khái niệm truyền thống về đồng âm không thật rõ ràng như ấn tượng đầu tiên của ta về nó và cần được làm rõ hơn. Mặc dù ta tạm hoãn lại cuộc thảo luận đầy đủ hơn về từ đồng âm, thì vẫn có thể là hữu ích nếu ta trả lời trước một câu hỏi có thể đã xuất hiện ở bạn đọc, liên quan đến một hoặc hai ví dụ tôi vừa dẫn ra trong mục này. Nếu từ đồng âm là những từ có cùng dạng thức nhưng khác nhau về ý nghĩa thì tại sao chúng ta lại nói, ví dụ, "phần cuối của một cái cẳng chân" và "phần thấp nhất của một một ngọn đồi hay ngọn núi" là những nghĩa khác nhau của cùng một từ 'foot'. Phải chăng ta không nên nói, như đã nói về các từ 'bank1' và 'bank2',rằng hai từ khác nhau, 'foot1' và 'foot2',là có liên quan với nhau?

Hình 1.1

Nói một cách ngắn gọn thì có hai lí do để 'bank1' và 'bank2' được truyền thống xem là hai từ đồng âm. Trước hết, chúng khác biệt nhau về mặt từ nguyên (etymologically): 'bank1' được mượn từ tiếng Ý (so sánh với từ tiếng Ý hiện đại 'banca'); còn 'bank2' có thể được truy dấu vết từ tiếng Anh trung đại, và xa hơn là có nguồn gốc từ một từ Scandinavian (suy cho cùng thì có liên quan đến nguồn gốc German của từ tiếng Ý 'banca', nhưng khác biệt với nó trong quá trình phát triển lịch sử). Thứ hai, chúng được xem là không liên quan về ngữ nghĩa (semantically unrelated), tức người ta cho rằng không có mối liên hệ, chính xác hơn, là không có mối liên hệ được cảm nhận về mặt đồng đại nào giữa nghĩa của 'bank1' và 'bank2'. Trong khi đó, hai ý nghĩa (hoặc hơn) của từ 'foot' là có liên quan về từ nguyên và ngữ nghĩa; trật tự đánh số và liệt kê chúng trong từ điển nói chung phản ánh quan điểm của người biên soạn về mức độ quan hệ gần gũi nhau của chúng, hoặc về phương diện lịch sử hoặc về phương diện đồng đại.

Khái niệm về mối liên hệ ngữ nghĩa sẽ được chúng ta xem xét kĩ hơn về sau, độc lập với việc khái niệm đồng âm đóng vai trò như thế nào (hoặc thực sự là có vai trò gì không) trong ngữ nghĩa học hiện đại. Bây giờ, chỉ cần lưu ý rằng, một khi đã chấp thuận khái niệm đồng âm của truyền thống, thường chúng ta có thể xác định một nghĩa của từ như là cái nghĩa trung tâm hơn (hoặc, nói theo cách khác, như là cái nghĩa trội hơn về ngữ cảnh) so với các nghĩa khác. Đây chính là cái nghĩa mà tôi muốn độc giả nghĩ đến mỗi khi tôi viện đến nghĩa của từ (mà không hề nói gì thêm) bằng kí hiệu dấu trích kép đã được giới thiệu trên đây. Khi cần thiết, một nghĩa có thể được phân biệt với các nghĩa khác bằng các kí hiệu chú thích hoặc bằng cách đính kèm, trong dấu trích kép, một khúc giải hay một định nghĩa (bộ phận) phù hợp với mục đích của ta. Như ta vừa thấy, các từ đồng âm có thể được phân biệt với nhau theo cùng một cách. Ví dụ, ta có thể phân biệt 'sole1' với 'sole2' (với giả định rằng đây đích thực là hai từ đồng âm, ở đây trực cảm của các độc giả có thể rất khác biệt nhau), bằng cách nói rằng từ thứ nhất có nghĩa (nôm na) là "phần đáy của bàn chân hay giày" và từ thứ hai là "một loại cá". Tuy nhiên, phải thấy rằng kí hiệu trình bày, tự bản thân nó, chẳng qua cũng chỉ là một công cụ mà, như các công cụ khác, cần được sử dụng với một sự thận trọng và một kĩ năng thích hợp. Luận điểm này đáng được nêu ra ở đây, liên quan đến nhiệm vụ tương đối đơn giản - gần như là tầm thường - về những quy định đối với việc sử dụng chữ in nghiêng và các dấu trích cho các kiểu quy chiếu siêu ngôn ngữ khác nhau. Nó càng quan trọng hơn khi ta dùng đến các kí hiệu trình bày đặc biệt hơn, sẽ được giới thiệu trong các chương tiếp theo.

Như tôi đã nói từ trước, trong nhiều trường hợp hiện tượng đồng âm không thể được xác định chắc chắn như các trường hợp vừa được dẫn ra trong mục này khi nói về 'bank1' và 'bank2' hoặc 'sole1'và 'sole2'. Điều này sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương 2. Ta cũng làm như vậy đối với sự khác biệt giữa những biến thể ngữ nghĩa mà theo đó, thuật ngữ 'từ' được dùng theo cả nghĩa chuyên môn lẫn nghĩa thông thường hàng ngày. Cho đến lúc đó, 'từ' sẽ được sử dụng một cách lỏng lẻo và, như ta sẽ thấy ngay sau đây, mơ hồ (như nó thường được dùng trong đời thường). Trong lúc đó, độc giả nên lưu ý thường xuyên về tầm quan trọng của việc không được lẫn lộn các biểu thức ngôn ngữ tự nhiên, như từ, ngữ đoạn và câu, với dạng thức của chúng (hoặc bất kì dạng thức nào trong số các dạng thức của chúng). Muốn vậy, cần chú ý đặc biệt đến các quy ước trình bày đã được giới thiệu trên đây.

Cuối cùng, độc giả cũng nên chú ý là: (i) có thể có sự không ăn khớp nhau giữa dạng thức nói và dạng thức (hoặc các dạng thức) viết của từ (như đã được nêu ra nhưng không thảo luận ở đầu mục này); (ii) có nhiều cách khác nhau, theo đó các dạng thức có thể được coi là đồng nhất với nhau hoặc không. Việc dùng thuật ngữ 'dạng thức' (và cả cái từ phái sinh của nó 'thuộc về dạng thức') trong ngôn ngữ học đôi khi vừa lộn xộn vừa gây khó hiểu (xem Lyons 1968: 135-137). Tạm thời, về (i) và (ii), tôi thấy chỉ cần giải thích một cách vắn tắt các biến thể nghĩa hệ thống của thuật ngữ 'dạng thức' có quan hệ với nhau như thế nào và làm sao chúng có thể được phân biệt với nhau nếu cần phải phân biệt và khi cần phải phân biệt.

Ta đã bắt đầu từ sự phân biệt mang tính siêu ngôn ngữ, ít nhiều có tính đời thường, phi chuyên môn, giữa dạng thức và nghĩa bằng cách nói rằng từ (và các biểu thức khác) không phải là có dạng thức, mà là có một dạng thức. Sau đó ta thấy rằng, ở một số trường hợp và ở một số ngôn ngữ, từ (và các biểu thức khác) có thể có hơn một dạng thức, vốn thường - có điều không nhất thiết - phân biệt với nhau theo chức năng ngữ pháp. Ta hãy tạm thời bỏ qua cái thực tế là từ có thể có hơn một dạng thức phân biệt với nhau về ngữ pháp (hoặc về biến hình): nói như vậy tức cũng giả định rằng ta chỉ (tạm thời) quan tâm đến các ngôn ngữ đơn lập, hoặc phân tích tính, như tiếng Hán cổ (Classical Chinese) hoặc tiếng Việt.

Lợi dụng khả năng có thể dùng từ 'form' (dạng thức) vừa như một danh từ đơn vị, vừa như một danh từ khối (như tôi đã thực hiện trong đoạn văn trên và trong suốt mục này), bây giờ ta có thể nói rằng hai dạng thức là đồng nhất (theo một nghĩa nào đó về 'đồng nhất') nếu chúng có cùng một dạng thức. Ví dụ, hai dạng thức nói sẽ đồng nhất về mặt ngữ âm nếu cùng có cùng một cách phát âm; hai dạng thức viết (trong một ngôn ngữ dùng văn tự ghi âm tố) sẽ đồng nhất về chính tả nếu chúng có cùng cách viết. (Sự đồng nhất chính tả cần lập thức hơi khác đối với những ngôn ngữ dùng văn tự không ghi âm tố, nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng khái niệm đồng nhất chính tả cho những ngôn ngữ như vậy). Trong chừng mực ta quan tâm đến ngôn ngữ nói, một sự phân biệt xa hơn có thể được chỉ ra, giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất âm vị. Những sinh viên đã quen với sự phân biệt này sẽ thấy được các vấn đề liên quan trong những trường hợp cụ thể; còn những ai không quen với sự phân biệt này thì không cần bận tâm đến nó. Chính sự đồng nhất thông thường về âm vị là vấn đề gây tranh cãi trong ngữ nghĩa học. Nhưng để đơn giản cho việc trình bày, ở điểm này tôi sẽ không nói đến sự khác biệt giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất âm vị, tôi chỉ đơn giản đề cập đến những dạng thức đồng nhất hay không đồng nhất về ngữ âm (ở giọng điệu hay phương ngữ nào đó).

Tiếng Anh (ở hầu hết các phương ngữ) minh hoạ dễ dàng cho cái thực tế rằng hai (hoặc nhiều hơn) dạng thức viết có thể đồng nhất về mặt ngữ âm: so sánh soul và sole, great và grate, hoặc red và read (theo một trong số các cách phát âm khác nhau của nó). Tiếng Anh cũng cho thấy rằng hai hoặc hơn hai dạng thức khác nhau về ngữ âm có thể đồng nhất về mặt chữ viết: so sánh read ( trong have read đối lập với will read), blessed (trong The bishop blessed the congregation đối lập với Blessed are the peacemarkers). Kiểu đồng nhất mà ta vừa thảo luận và minh hoạ như vậy có thể được gọi là đồng nhất chất liệu (meterial identity). Như tôi đã giải thích, nó phụ thuộc vào cái phương tiện dùng để hiện thực hoá dạng thức. Có thể mở rộng và trau chuốt lại khái niệm về sự đồng nhất chất liệu, tuy nhiên sự trình bày phần nào sơ lược của tôi về vấn đề cũng đã đủ để phục vụ cho những mục tiêu được giới hạn có chủ đích của cuốn sách này.

Bây giờ ta hãy thảo luận cái thực tế là trong nhiều ngôn ngữ tự nhiên, bao gồm cả tiếng Anh, được gọi bằng tên chuyên môn là các ngôn ngữ phi đơn lập (non-isolating) hay tổng hợp tính (về mặt hình thái học), từ có thể có hai hoặc hơn hai dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp: so sánh man (số ít, phi sở hữu cách), man' s (số ít, sở hữu cách), men (số nhiều, phi sở hữu cách) và men' s (số nhiều, sở hữu cách). Như đã thấy qua bốn dạng thức của từ 'man', các dạng thức của một từ (hay các biểu thức khác) phân biệt về mặt ngữ pháp - cụ thể hơn, là các dạng thức phân biệt về biến hình của một từ - sẽ thường khác biệt nhau về chất liệu (phi đồng nhất). Nhưng sự đồng nhất về chất liệu không phải là điều kiện cần, cũng không phải là điều kiện đủ để đồng nhất các dạng thức về mặt ngữ pháp (và, cụ thể hơn, là đồng nhất về biến hình). Ví dụ, dạng thức come có thể hành chức như là một trong những dạng thức thời hiện tại của 'come' (they come), mà cũng có thể như là dạng thức được truyền thống gọi tên là quá khứ phân từ của nó (they have come). Phải chăng trong cả hai trường hợp này, ta có cùng một dạng thức come? Câu trả lời là: theo một nghĩa nào đó thì đúng như vậy, nhưng theo một nghĩa khác thì không đúng như vậy. Come trong they come cũng là come trong they have come theo cái nghĩa chúng đồng nhất về mặt chất liệu (trong cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết). Nhưng come trong they come và come trong they have come là những dạng thức biến hình (inflectional forms) khác nhau của động từ 'come'. Ngược lại, giả sử rằng có một số người thuộc cùng một biến thể tiếng Anh Chuẩn lại nói (hay viết) một cách trái khoáy là have learned trong khi những người khác nói (hay viết) have learnt (giữa hai cách nói này còn có những biến dạng khác) thì hai cái dạng thức learned và learnt khác biệt nhau về chất liệu này vẫn có thể được coi là đồng nhất (hay tương đương) về mặt ngữ pháp. Nói chính xác hơn thì: (trong biến thể tiếng Anh Chuẩn này) cùng một dạng thức ngữ pháp của từ 'learn' - hoặc cụ thể hơn trong trường hợp này, là cùng một dạng thức biến hình - đã được hiện thực hoá bởi hai dạng thức khác nhau về chất liệu (ngữ âm hoặc chữ viết).

Cuối cùng, những gì vừa được thảo luận về các kiểu đồng nhất khác nhau trên đây sẽ rất hữu ích cho những trình bày tiếp theo. Nó cũng củng cố cho luận điểm đã nêu ra trước đây về tầm quan trọng phải xác lập một bộ các thuật ngữ và các quy ước trình bày, hoặc bằng cách đặt quy định, hoặc bằng cách mở rộng, nhằm có được sự chính xác trong siêu ngôn ngữ trình bày. Nói chung, cái nghĩa mà tôi dùng cho thuật ngữ 'dạng thức' ở nhiều chỗ khác nhau trong cuốn sách này sẽ được ngữ cảnh làm rõ. Những lúc không có được một sự rõ ràng như vậy, tôi sẽ viện đến sự khác biệt vừa nêu ra ở đây giữa một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ thành phần chất liệu và một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ chức năng ngữ pháp của chúng.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (6)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.6. Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn

Ta đã giả định (và sẽ tiếp tục giả định) rằng tất cả ngôn ngữ tự nhiên đều có từ, cái đơn vị có cả hình thức lẫn ý nghĩa (1.5). Bây giờ ta hãy làm sáng tỏ thêm hai giả định mang tính thao tác, rằng: (i) tất cả ngôn ngữ tự nhiên đều có câu, vốn cũng có cả hình thức và nghĩa như vậy; và (ii) nghĩa của câu được xác định, ít nhất là một phần, bởi nghĩa của các từ trong câu. Không có giả định nào ở đây gây tranh cãi. Tuy nhiên, chúng cần được xem xét kĩ hơn trong các phần sau. Những điều chỉnh hoặc bổ sung về sau sẽ không ảnh hưởng lắm đến bất kì luận điểm chung nào được nêu trong các chương đầu tiên.

Nghĩa của câu được xác định không phải chỉ bởi nghĩa của các từ trong câu mà còn bởi cấu trúc ngữ pháp của câu. Điều này là rõ ràng: hai câu có thể được cấu tạo bởi đúng cùng một số từ (với cùng một cách giải thuyết nghĩa cho mỗi từ) nhưng lại khác biệt nhau về nghĩa. Ví dụ, hai câu (22) và (23) sau đây chứa cùng các từ (với cùng dạng thức) nhưng lại khác nhau về phương diện ngữ pháp. Một câu là câu trần thuật còn câu kia là câu nghi vấn tương ứng, và sự khác biệt về ngữ pháp giữa chúng là khớp với sự khác biệt tương ứng về nghĩa:

(22) 'It was raining yesterday'

(Hôm qua mưa)

(23) 'Was it raining yesterday?'

(Hôm qua mưa à?)

Các câu (24) và (25) cũng vậy. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cả hai đều là câu trần thuật và chúng không quan hệ với nhau với tư cách là các thành viên tương ứng của hai loại câu khớp với nhau và được xác định về ngữ pháp:

(24) 'John admires Mary'

(John ngưỡng mộ Mary)

(25) 'Mary admires John'

(Mary ngưỡng mộ John)

Lưu ý rằng tôi dùng dấu trích đơn cho câu (ngay cả khi chúng được đánh số và sắp chữ nổi bật), cũng như đã dùng đối với từ và các biểu thức có dạng thức và nghĩa khác. Điều này hợp với quy ước trình bày đã được nêu ra trong mục trước, vốn sẽ được tuân thủ suốt cuốn sách này. Trong Phần 1 và Phần 2, ta sẽ không quan tâm đến vấn đề liệu câu có phải là biểu thức ngôn ngữ theo cái nghĩa đã được dùng đối với từ và ngữ đoạn không.

Để đơn giản cho việc trình bày, tôi sẽ coi sự phân biệt giữa nghĩa của từ (word-meaning) (hoặc chính xác hơn, nghĩa từ vựng (lexical meaning)) và nghĩa của câu (sentence-meaning) là một trong những nguyên tắc chính để tổ chức cuốn sách này, dành Phần 2 cho nghĩa của từ và Phần 3 cho nghĩa của câu. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một điều rằng cách tổ chức này không hề có một hàm ý nào về tính ưu tiên của nghĩa từ vựng so với nghĩa của câu, xét theo khía cạnh lô-gic và phương pháp luận. Không cần thiết phải nêu vấn đề về tính ưu tiên của loại nghĩa nào so với loại nghĩa nào cho đến khi ta xây dựng xong khung lí thuyết và thuật ngữ. Và khi ta thực hiện được điều đó, ta sẽ thấy rằng, giống như những câu hỏi có vẻ đơn giản như vậy, vấn đề này không có chỗ cho câu trả lời dễ dàng, đơn giản.

Sự phân biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn (utterance-meaning) cho ta một nguyên tắc tổ chức khác. Sự phân biệt này không thể được giả định mặc nhiên theo cái cách có thể làm đối với nghĩa của từ và nghĩa của câu. Không phải chỉ là chuyện nó phần nào xa lạ đối với những ai không phải là nhà chuyên môn. Đây còn là vấn đề gây rất nhiều tranh luận giữa các nhà chuyên môn. Hầu hết các chi tiết của vấn đề có thể được gác lại cho Phần 4. Tuy nhiên, ở đây cần phải nêu một vài điểm khái quát.

Trong tiếng Anh thường ngày, từ 'utterance' (phát ngôn) thường được dùng để chỉ ngôn ngữ nói (cũng như các từ 'diễn ngôn' và 'hội thoại'). Trái lại, từ 'text' (ngôn bản) lại thường được dùng để chỉ ngôn ngữ viết. Trong suốt cuốn sách này, cả hai từ 'phát ngôn' và 'văn bản' sẽ được dùng một cách trung tính, tức không thiên vị về ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết.

Tại thời điểm này, có thể mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra một số thuật ngữ đặc biệt, trung tính về mặt phương tiện (medium-neutral). Một số thuật ngữ như vậy sẽ được nêu ra trong các chương tiếp theo. Tuy nhiên, tạm thời ta sẽ sử dụng các tên gọi của ngôn ngữ thường ngày như 'người nói', 'người nghe', cũng như 'phát ngôn', 'ngôn bản' và 'diễn ngôn' theo cái nghĩa trung tính về phương tiện.

Nhưng không được lẫn lộn ngôn ngữ với lời nói. Quả thật, một trong những đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ tự nhiên là tính độc lập tương đối của chúng đối với cái phương tiện (medium) dùng để hiện thực hoá nó. Ngôn ngữ vẫn là ngôn ngữ, cho dù nó được hiện thực hoá như là sản phẩm của lời nói hay của việc viết lách, và nếu nó là sản phẩm viết lách thì bất chấp việc nó được viết bằng chữ ghi âm bình thường hay chữ người mù, tín hiệu điện tín v.v... Do những nguyên nhân lịch sử và văn hoá, mức độ tương ứng giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói biến đổi đáng kể từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Nhưng trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác vốn gắn bó với hệ thống chữ ghi âm, thì hầu hết, nếu không nói là tất cả, các câu được nói ra đều có thể được đặt trong một quan hệ tương ứng với các câu được viết ra. Cái sự thể đây không phải là một quan hệ tương ứng một-đối-một sẽ được chúng ta bàn sau.

Ở điểm này, không cần nói thêm gì nữa về ngôn bản, diễn ngôn và hội thoại. Thực tế là tôi không có gì để nói về chúng cho đến khi chuyển sang chương 9. Trong lúc này, ta có thể nghĩ về phát ngôn như là những ngôn bản tối thiểu (được nói ra hoặc viết ra), nghĩ về diễn ngôn và hội thoại như là chuỗi kết hợp (một hoặt nhiều hơn) của các phát ngôn.

Nhưng như ta đã thấy, các thuật ngữ 'phát ngôn', 'diễn ngôn' và 'hội thoại' (không như thuật ngữ 'ngôn bản') vừa có nghĩa quá trình, vừa có nghĩa thành phẩm: theo nghĩa quá trình, chúng biểu thị một loại hành vi hay hoạt động đặc biệt; theo nghĩa thành phẩm, chúng biểu thị không phải bản thân cái hoạt động ấy mà là sản phẩm vật chất của cái hoạt động ấy (1.4). Hai cái nghĩa này hiển nhiên có liên quan với nhau; nhưng bản chất của mối quan hệ này lại không phải là rõ ràng, và nó sẽ được thảo luận trong Phần 4.

Còn bây giờ thì ta sẽ xác lập quy ước trình bày, rằng những khi thuật ngữ 'phát ngôn' được sử dụng trong sách này mà không kèm theo chú dẫn định tính và trong những ngữ cảnh mà cái nghĩa quá trình bị loại bỏ bởi những nguyên do cú pháp thì nó (tức 'phát ngôn'-chú thích của người dịch) bao giờ cũng được hiểu như là để biểu thị cái sản phẩm hay các sản phẩm của ngữ thi, gọi theo hệ thuật ngữ của Chomsky. Phát ngôn, trong cái nghĩa thuật ngữ như vậy, là cái mà một số nhà triết học ngôn ngữ gọi là thành phẩm (inscriptions), nghĩa là chuỗi các kí hiệu được ghi lại trong một loại phương tiện vật chất nào đó. Ví dụ, một phát ngôn nói thường được ghi lại (trong cái nghĩa chuyên môn của 'được ghi lại') bằng phương tiện âm thanh; một phát ngôn viết thì được ghi lại bởi một phương tiện thích hợp nào đó mà thị giác có thể xác định được. Trong chừng mực mà ngôn ngữ được sử dụng điển hình, nếu không nói là tất yếu, cho mục đích giao tiếp thì phát ngôn có thể được coi như là tín hiệu (signals) được truyền từ người nói sang người nghe-hay khái quát hơn, là từ người phát sang người nhận (theo một kênh thích hợp nào đó). Về cách thức trình bày, phát ngôn (tức các phát-ngôn-thành-phẩm hay phát ngôn-tín hiệu) sẽ được phân biệt với câu (cũng giống như các dạng thức của một từ được phân biệt với chính bản thân từ đó) nhờ dùng lối in nghiêng (cho phát ngôn) và dấu trích đơn (cho câu). Điều này cũng hàm ý rằng phát ngôn cũng là dạng thức; và đây chính là quan điểm về phát ngôn (theo cái nghĩa là phát-ngôn-thành-phẩm) được thể hiện trong suốt cuốn sách này. Như ta sẽ thấy ở Phần 4, trong nhiều trường hợp, cũng có thể biện hộ cái quan điểm cho rằng phát ngôn là dạng thức phụ-thuộc-văn-cảnh của câu cụ thể. Nhưng ở thời điểm này, đối với vấn đề gây tranh cãi về mối quan hệ giữa phát ngôn và câu, ta không cần phải nghiêng về quan điểm này hơn là quan điểm khác.

Cần phải nhấn mạnh rằng phát ngôn trong ngôn ngữ tự nhiên không chỉ là kết hợp, hay chuỗi (strings) dạng thức của từ. Như ta đã thấy, chồng lên trên cái thành tố ngôn từ (verbal component) của bất kì phát ngôn nói nào (chuỗi các từ tạo nên nó), bao giờ và tất yếu cũng có thành tố phi ngôn từ (non-verbal component), mà các nhà ngôn ngữ học chia làm tiểu thành tố ngôn điệu (prosodic) và tiểu thành tố kèm lời (paralinguistic) (1.3). Ở đây ta không cần quan tâm đến việc vạch chính xác ranh giới giữa hai tiểu thành tố này. Ta chỉ lưu ý rằng đường viền ngôn điệu của phát ngôn bao gồm ngữ điệu và có thể, cả mô hình trọng âm của nó; còn các đặc trưng kèm lời thì bao gồm những thứ như cách nói, âm lượng, tiết tấu, nhịp điệu v.v... Trong việc xác định nghĩa của phát ngôn, những đặc trưng phi ngôn từ này cũng quan yếu như nghĩa của các từ được dùng trong phát ngôn và nghĩa ngữ pháp của nó, cả hai đều được mã hoá (encode) trong thành tố ngôn từ của phát ngôn.

Chỉ có thành tố ngôn từ của phát ngôn nói thì mới không phụ thuộc vào cái phương tiện thể hiện nó và mang tính có thể sao chuyển (medium-transferable), theo đó về nguyên tắc nó có thể được giữ nguyên khi chuyển từ nói sang viết. Như ta đã thấy, một số hệ thống chữ viết chứa những nguyên tắc ít nhiều mang tính quy ước về cách chấm câu. Nhưng chúng không bao giờ ứng khớp với những khác biệt quan trọng về ngữ điệu trong ngôn ngữ nói. Ngay cả khi các quy ước chấm câu thông thường được bổ trợ bởi các phương tiện đồ hình như viết hoa, in nghiêng, in đậm, dấu nhấn v.v... thì có thể vẫn còn một bộ phận nào đó thuộc đường viền ngôn điệu của phát ngôn bị bỏ sót, không được thể hiện.

Đây là một điểm quan trọng. Hầu như mỗi phát ngôn viết được dẫn trong sách này và các sách ngữ học khác đều có thể đặt trong quan hệ tương ứng với những phát ngôn nói khác biệt đáng kể nghĩa. Chẳng hạn, phát ngôn viết Mary won't come (Mary sẽ không đến) có thể được phát âm, hay đọc thành tiếng, theo vài cách khác nhau, để chỉ sự chán nản, sự ngạc nhiên, sự đoán chắc v.v... Đối với cái vấn đề cụ thể được đem ra thảo luận, tôi sẽ cố gắng chọn các ví dụ của tôi sao cho, với một sự giải thích thoả đáng đúng lúc, việc độc giả chọn cách hiểu nào trong số vài phát ngôn nói khác biệt nhau về nghĩa cũng sẽ không gây ra vấn đề.

Trong lúc này, tôi giả định mặc nhiên về cái năng lực của độc giả có thể xác định các câu trong bất kì ngôn ngữ nào mà anh ta hay chị ta thông thạo, tức là phân biệt được câu với những kết hợp từ bất thành câu. Tôi cũng giả định tiếp tục rằng, một số kết hợp bất thành câu bởi chúng không đúng về ngữ pháp và số khác thì bất thành câu bởi chúng không trọn vẹn về ngữ pháp, hoặc bị tỉnh lược; và rằng, một lần nữa, những ai có thẩm năng về ngôn ngữ, bất luận họ có phải là người bản ngữ hay không, đều có thể xác định được hai tiểu loại kết hợp bất thành câu này. Như ta sẽ thấy sau đây, nhiều phát ngôn thường ngày là không trọn vẹn về ngữ pháp nhưng trong ngữ cảnh lại được chấp nhận và hiểu được. Trong khi đó, có những câu mặc dù trọn vẹn về ngữ pháp, do một lí do nào đó, lại không thể được nói ra một cách bình thường; sự khác biệt giữa tính đúng ngữ pháp và tính khả chấp (bao gồm tính khả chấp về ngữ nghĩa) là cực kì quan trọng trong ngữ nghĩa học và sẽ được thảo luận trong Phần 2 (5.2).

Trong suốt Phần 2 và Phần 3 của sách này, ta sẽ giới hạn sự quan tâm của ta vào những phát ngôn mà mối liên hệ của chúng với câu là tương đối hiển nhiên. Chúng ta sẽ dành Phần 4 để xác định biểu thức 'phát ngôn ra một câu' có nghĩa chính xác là gì và giải thích làm thế nào mà nó có thể mở rộng để bao gồm cả những phát ngôn đúng về mặt ngữ pháp nhưng lại không trọn vẹn, vốn làm thành một tiểu lớp riêng của những kết hợp không phải là câu. Như tôi đã nói, phần lớn phát ngôn hàng thường ngày có thể rơi vào cái tiểu lớp của các kết hợp bất thành câu này.

Sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn sẽ được bàn trong Phần 4. Lúc này đây, chỉ cần nêu hai ý khái quát. Thứ nhất, nghĩa của câu (ở một mức độ cao) là độc lập với văn cảnh (context-independent), trong khi nghĩa của phát ngôn thì không như vậy, có nghĩa là nghĩa của phát ngôn (ở một mức độ cao hay thấp nào đó) được xác định bởi chính cái ngữ cảnh mà phát ngôn đó được nói ra. Thứ hai, tồn tại một mối liên hệ mang tính bản chất giữa nghĩa của câu và cách dùng đặc trưng (characteristic use), không phải của một câu cụ thể nào đó mà là của cả cái kiểu câu mà cái câu cụ thể đó là thành viên, dựa trên tiêu chí về cấu trúc ngữ pháp của nó. Đối với kiểu câu, có thể công thức hoá mối liên hệ này theo cách như sau: câu trần thuật (declarative) là câu mà căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của nó, thuộc vào kiểu câu mà các thành viên được dùng một cách đặc trưng để nêu nhận định (statement) , như trong:

(26) 'Exercise is good for you'

(Rèn luyện thì tốt cho bạn)

(27) 'I prefer mine with ice'

(Tôi thích có đá)

Tương tự đối với kiểu câu khác, vốn phân biệt với câu trần thuật trong tiếng Anh và trong nhiều ngôn ngữ: câu nghi vấn (interrogative) là câu mà, căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của nó, thuộc vào kiểu câu mà các thành viên được dùng theo lối đặc trưng để hỏi (question), như trong:

(28) 'What time is lunch?'

(Ăn trưa lúc mấy giờ?)

và những câu tương tự. Trước đây, khi tôi nói về các câu (22) 'It was raining yesterday' (Hôm qua mưa) và (23) 'Was it raining yesterday?' (Hôm qua mưa à?) rằng nghĩa của chúng được xác định một phần bởi cấu trúc ngữ pháp của chúng, tôi đã ngầm gợi đến hiểu biết của độc giả về cách dùng đặc trưng của câu trần thuật và câu nghi vấn. Phần lớn hệ thuật ngữ của ngữ pháp truyền thống cũng hé lộ tương tự những giả định, bất luận là đúng hay không đúng, về cách dùng đặc trưng của các phạm trù và cấu trúc ngữ pháp cụ thể.

Cần lưu ý rằng khái niệm về cách dùng đặc trưng (vốn về bản chất cũng có quan hệ với khái niệm nghĩa đen) ở đây gắn với kiểu câu hơn là với từng thành viên của một kiểu câu cụ thể. Đây là điều quan trọng, cho dù có một số câu không bao giờ, hoặc rất hiếm khi, trong những hoàn cảnh bình thường, được dùng với chính cái chức năng đặc trưng cho kiểu câu của chúng; và như chúng ta sẽ thấy sau này, tuỳ theo tình huống mà tất cả các câu đều có thể được dùng để thực hiện cái gọi là hành động ngôn từ gián tiếp (indirect speech acts) (câu trần thuật được dùng để hỏi, câu nghi vấn được dùng để yêu cầu v.v...). Tuy nhiên, rõ ràng không thể cho rằng phần lớn câu trần thuật nên được dùng theo lối thông thường để hỏi, còn phần lớn câu nghi vấn thì để nêu nhận định, và đại loại như thế. Bởi vì, theo định nghĩa, câu trần thuật và câu nghi vấn là những câu với cách dùng đặc trưng được gắn với chúng. Nếu một ngôn ngữ không có một lớp câu phân biệt về mặt ngữ pháp gắn với một cách dùng đặc trưng nào đó trong số các cách dùng đặc trưng này thì nó sẽ tuỳ theo tình hình mà hoặc không có câu trần thuật hoặc không có câu nghi vấn.

Không nên nghĩ rằng tất cả các ngôn ngữ đều có cùng một cấu trúc ngữ pháp. Như ta sẽ thấy sau này, có nhiều ngôn ngữ tự nhiên không có câu nghi vấn hoặc trần thuật. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là trong các ngôn ngữ đó, không thể hỏi hoặc nêu nhận định. Với tư cách là phát ngôn, hỏi có thể được phân biệt với nêu nhận định bằng cách gán một đường viền ngôn điệu hoặc dấu hiệu kèm lời mang tính khu biệt lên cùng một chuỗi từ khi nói và các dấu chấm câu hoặc các kí hiệu khu biệt khi viết. Ví dụ, phát ngôn (29) - sản phẩm của việc phát ngôn ra câu (26) - có thể được nói ra với một mô hình ngữ điệu riêng, đánh dấu nó với tư cách là một phát ngôn hỏi (có thể cũng biểu lộ cả sự ngạc nhiên hoặc phẫn nộ v.v...) và được viết ra với dấu hỏi:

(29) Exercise is good for you?

(Rèn luyện thì tốt cho mày à?)

Nhưng cũng chính cái câu đó có thể được nói ra với một mô hình ngữ điệu khác trong ngôn ngữ nói, hoặc được viết ra với cách chấm câu khác (tức là với dấu chấm chứ không phải là dấu hỏi) trong ngôn ngữ viết, để nêu nhận định.

Như vậy, nghĩa của câu có quan hệ với nghĩa của phát ngôn thông qua khái niệm về cách dùng đặc trưng, nhưng lại phân biệt với nó ở chỗ: nghĩa của câu thì độc lập với cái ngữ cảnh cụ thể mà câu đó được sử dụng. Trong khi đó, để xác định nghĩa của phát ngôn, ta buộc phải tính đến các nhân tố tình huống. Điểm này sẽ được nói rõ hơn trong các phần sau. Nhưng những gì vừa được nêu ra ở đây sẽ giúp cho việc tổ chức nội dung Phần 3 và Phần 4 của cuốn sách này. Trước mắt, sự phân biệt về cách trình bày mà ta đã chấp nhận sẽ giúp ta duy trì được sự phân biệt giữa câu và phát ngôn, phân biệt được nghĩa tự thân của câu với nghĩa của phát ngôn vốn là kết quả của việc dùng câu đó trong một ngữ cảnh cụ thể.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (7)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.7. Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

Tồn tại một số lí thuyết triết học khác nhau và ít nhiều ai cũng biết, về nghĩa: đây là những lí thuyết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Nghĩa là gì? Trong số đó, có thể nêu ra các lí thuyết sau:

thuyết quy chiếu (referential) hay sở thị (denotational) ("nghĩa của một biểu thức chính là đối tượng mà biểu thức đó chỉ ra (hay biểu thị) hoặc đại diện; tức 'Fido' có nghĩa là Fido, còn 'chó' thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là cái đặc trưng bản chất chung của chúng");

thuyết ý niệm (ideational) hay tâm lí (mentalistic) ("nghĩa của một biểu thức là cái ý niệm, hay quan niệm, gắn với nó trong tư duy của những ai biết và hiểu được biểu thức đó");

thuyết hành vi (behaviourist) ("nghĩa của một biểu thức hoặc là cái kích thích gợi ra nó hay cái phản ứng mà nó gợi ta, hoặc là sự kết hợp của cả hai thứ này trong một tình huống phát ngôn cụ thể");

thuyết nghĩa-là-cách-dùng (meaning-is-use) ("nghĩa của một biểu thức được xác định bởi, nếu không nói là đồng nhất với, cách dùng nó trong ngôn ngữ");

thuyết thẩm định (verificationist) ("nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này được xác định bởi chứng cứ lấy từ cái câu, hay mệnh đề chứa biểu thức đó");

thuyết điều kiện chân trị (truth-conditional) ("nghĩa của một biểu thức là sự đóng góp của nó vào điều kiện chân trị của câu chứa nó").

Theo tôi, không có thuyết nào trong số kể trên tự mình làm thành cơ sở cho một lí thuyết ngữ nghĩa học toàn diện và giàu sức giải thích thực tiễn. Song mỗi thuyết như vậy đều có đóng góp theo cách nào đó, làm thành cái tri thức nền cho những ai đang nỗ lực xây dựng một lí thuyết như vậy. Tôi sẽ không đi vào chi tiết của bất kì lí thuyết ngữ nghĩa nào kể trên. Tuy nhiên, trong các chương sau, tôi sẽ đề cập đến một số khái niệm cơ bản tạo ra sự khác biệt giữa các lí thuyết này, và tôi sẽ giải thích những khái niệm này trong cái ngữ cảnh mà chúng được viện đến và áp dụng. Khuôn khổ giới hạn không cho phép tôi thảo luận mối liên hệ có tính lịch sử giữa một số lí thuyết và các vấn đề triết học hữu quan. Tôi cũng sẽ nói thêm rằng danh sách mà tôi vừa nêu không hề đầy đủ và trong một số trường hợp, những định nghĩa đặt trong ngoặc đã cố tình được đơn giản hoá.

Đến đây cần lưu ý rằng một cách trả lời khả chấp về mặt triết học cho câu hỏi Nghĩa là gì, đó là: Chẳng hề có cái gì như là nghĩa cả. Đây là cách trả lời, chẳng hạn, của Wittgenstein đã quá cố (1953); và nó cần phải được xem xét nghiêm túc. Rõ ràng việc tìm hiểu nghĩa của từ, của câu và của phát ngôn, cũng giống như việc hỏi xem chúng có nghĩa gì là những việc xác đáng. Trong khi thực hiện điều này, ta dùng các từ các từ tiếng Anh 'meaning' (nghĩa) và 'mean' (có nghĩa) theo một trong số những chức năng siêu ngôn ngữ thường nhật của chúng. Như ta đã thấy từ trước, danh từ 'meaning' (nghĩa) và động từ 'mean' (có nghĩa) cũng còn có các nghĩa, hay cách dùng thường nhật khác; một số nhà triết học ít ra là đã cho rằng các nghĩa này liên hệ chặt chẽ với nhau và có lẽ là cơ bản hơn so với cái nghĩa vừa được minh hoạ. Điều khá thú vị là không phải bao giờ chúng cũng tương ứng một-đối-một với cái nghĩa hoặc cách dùng của các biểu thức tương đương những biểu thị một cách khác trong những ngôn ngữ Châu Âu quen thuộc như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Nga hay tiếng Tây Ban Nha. Chẳng hạn, hai câu tiếng Anh sau đây:

(30) 'What is the meaning of 'concept'?'

(Nghĩa của từ 'concept' là gì?)

(31) 'What do you mean by the word 'concept'?'

(Bạn có ý nói gì với cái từ 'concept'?)

có thể được dịch sang tiếng Pháp lần lượt là:

(30a) 'Quel est le sens de 'concept' [en anglais]?'

(31a) 'Qu'est-ce que tu veux dire par le mots [anglais] 'concept'?'

(tương tự trong tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha); sang tiếng Đức là:

(30b) 'Was ist die Bedeutung von 'concept' [au Englisch]?'

(31b) 'Was meinst du mit dem [englischen] Wort 'concept'?'

sang tiếng Nga là:

(30c) 'Cto znacit [anglijskije slovo] 'concept'?'

(31c) 'Cto vy podrazumyvaete pod [anglijskym] slovom 'concept'?'

và vân vân.

Khi nêu ra các cách dịch trên đây, tôi đã không dịch cái từ 'concept' của tiếng Anh, bởi tôi đã giả định rằng tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga đang được dùng với tư cách là siêu ngôn ngữ cho tiếng Anh. Tất nhiên, còn có những khả năng dịch khác, đặc biệt trong các trường hợp (31 a-c). Trên thực tế, có một loạt khả năng mà bất cứ ai đã trải qua thực tiễn dịch đều cũng thấy được. Nhưng trong bối cảnh bây giờ ta không cần bàn đến chúng. Cái mà các ví dụ trên đây chỉ ra, trên cơ sở chỉ một vài cách dịch sang ngôn ngữ khác, là trong mỗi trường hợp, câu thứ hai trong số cặp câu chuyển dịch trên đây đã dùng một biểu thức mà, ít nhất là về mặt từ nguyên, đã cho thấy một nghĩa của động từ tiếng Anh 'to mean' (có ý, có nghĩa) - nghĩa thuộc người nói (utterer's meaning), như thỉnh thoảng nó được gọi như vậy - vốn hoặc liên quan đến ý định giao tiếp (từ tiếng Pháp 'vouloir dire', từ tiếng Đức 'meinen') hoặc liên quan đến cách hiểu và cách giải thuyết (từ tiếng Nga 'podrazumevatj'). Có một số tác giả đã coi nghĩa thuộc người nói, suy cho đến cùng, là cơ sở cho nghĩa trong ngôn ngữ.

Tuy nhiên, ở thời điểm này, tôi muốn nêu cái luận điểm đơn giản là ta không thể suy luận ra sự tồn tại của nghĩa từ sự tồn tại và tính có nghĩa của cái từ tiếng Anh thường ngày 'meaning' (nghĩa). Hơn thế nữa, cho dù có tồn tại cái gì đó như nghĩa (bất luận 'cái gì' nghĩa là gì đi nữa trong ngữ cảnh này) thì vị thế bản thể và tâm lí của nó rõ ràng là đáng ngờ hơn so với dạng thức. Ta sẽ trở lại vấn đề này sau.

Đó là phần dụng tâm của Wittgenstein quá cố khi nhấn mạnh vào sự đa dạng của những chức năng mà ngôn ngữ thực hiện. Khẩu hiện của ông "Đừng tìm nghĩa, hãy tìm hiểu cách sử dụng" (khẩu hiệu này không nhất thiết dẫn đến cái lí thuyết cho rằng nghĩa-là-cách dùng, có điều nó thường được giải thuyết như vậy) phải được hiểu gắn với dụng tâm này. Giống như các nhà triết học được gọi là trường phái triết học ngôn ngữ đời thường ở Oxford, chẳng hạn như J.L Austin (tác giả lí thuyết hành động ngôn từ (speech acts) mà ta sẽ xem xét ở Phần 4), Wittgenstein chỉ ra rằng câu hỏi Nghĩa là gì? có xu hướng tìm đến những câu trả lời hoặc quá khái quát, đến độ hầu như trống rỗng, hoặc quá hẹp trong cách định nghĩa về nghĩa đến độ bỏ qua phần lớn những gì mà người sử dụng ngôn ngữ bình thường nghĩ là quan yếu khi trả lời những câu hỏi riêng biệt hơn về nghĩa của biểu thức này hay biểu thức nọ trong ngôn ngữ của họ.

Trong sách này ta chấp nhận một quan niệm khá rộng về nghĩa. Ta cũng giả định rằng có một mối liên hệ bản chất giữa nghĩa và giao tiếp. Như đã được lưu ý từ trước, giả định này không phải là không gây tranh cãi. Nó, chẳng hạn đã bị Chomsky phê phán mạnh mẽ, nhưng nó lại chính là giả định được phần đông các nhà triết học, tâm lí học và ngôn ngữ học nêu ra. Nó giúp ta trình bày tốt mối liên hệ giữa dạng thức và nghĩa trong ngôn ngữ tự nhiên hơn bất kì quan niệm nào khác hiện nay. Và tôi nhấn mạnh rằng, mặc dù ở đây tôi đã nêu ra nhiều lí thuyết triết học khác nhau về nghĩa và sẽ viện đến chúng thường xuyên, tôi lại không quan tâm đến những vấn đề triết học theo đúng nghĩa của chúng, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề lí thuyết và thực tiễn nảy sinh trong việc miêu tả ngôn ngữ tự nhiên.

Đến đây ta đã đề cập đến, theo lối mào đầu, nghĩa của từ, câu và phát ngôn. Ta cũng đã thấy rằng có những nghĩa khác biệt nhau của cái từ tiếng Anh 'meaning' (nghĩa), vốn có thể tương ứng với những kiểu nghĩa khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Nhưng có bao nhiêu kiểu nghĩa? Phải chăng chúng đều được nhà ngôn ngữ học quan tâm? Và chúng tương ứng như thế nào với sự phân biệt mà ta đã nêu ra, một mặt, giữa nghĩa từ vựng và nghĩa của câu (mà như ta sẽ thấy, bao gồm nghĩa ngữ pháp) và mặt khác, giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn.

Trong sách này, tôi không cố gắng đưa ra một sự phân loại toàn diện về các kiểu nghĩa khác nhau mà một lí thuyết ngôn ngữ học về nghĩa (và về ngữ dụng) cần phải bao quát. Tuy nhiên, có thể sẽ là hữu ích nếu ngay bây giờ ta vạch ra một sự phân biệt khái quát mà ta sẽ làm rõ hơn về sau. Đó là sự phân biệt giữa nghĩa miêu tả (descriptive meaning) (hoặc nghĩa mệnh đề (propositional meaning)) và nghĩa phi miêu tả (non-descriptive meaning) (hay nghĩa phi nội dung mệnh đề (non-propositional meaning)). (Những thuật ngữ có thể thay thế khác, ít nhiều tương đương với 'miêu tả' và 'nội dung mệnh đề' là 'tri nhận' và 'theo quy chiếu'). Đối với nghĩa miêu tả, một điều được thừa nhận rộng rãi là ngôn ngữ có thể được dùng để nêu những nhận định đúng hoặc sai, căn cứ vào thực cách của cái nội dung mệnh đề mà chúng biểu thị. Điều này có một vị thế nổi trội đặc biệt trong lí thuyết nghĩa học hàm chân trị, là lí thuyết có vai trò rất quan trọng trong những năm gần đây.

Nghĩa phi miêu tả thì nhiều vẻ hơn, và theo quan điểm của nhiều nhà triết học và ngôn ngữ học, thì không quan trọng bằng. Nó bao gồm cái mà tôi sẽ viện dẫn như là thành tố biểu lộ (expessive). (Các thuật ngữ thay thế ít nhiều tương đương khác là 'nghĩa tác động', 'nghĩa thái độ' và 'nghĩa biểu cảm'). Nghĩa biểu lộ- tức kiểu ý nghĩa mà theo đó người nói biểu lộ, chứ không phải là miêu tả, niềm tin, thái độ, tâm trạng của họ - thường được cho là nằm trong phạm vi của phong cách học và ngữ dụng học. Tuy nhiên, như những gì trình bày ở Phần 3 sẽ cho thấy, một số kiểu nghĩa biểu lộ chắc chắc thuộc về nghĩa của câu. Điều đó dẫn đến một hệ luận rằng, đối với những ai chủ trương phân biệt nghĩa học và dụng học trên cơ sở sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn, thì nghĩa biểu lộ, ít nhất là một phần, sẽ nằm trong phạm vi nghĩa học. Một hệ luận khác là, như ta sẽ thấy ở thời điểm thích hợp, nghĩa của câu không hoàn toàn là nghĩa theo hàm chân trị.

Các ngôn ngữ tự nhiên khác biệt đáng kể theo mức độ ngữ pháp hoá nghĩa biểu lộ. Tiếng Anh thể hiện ở mức độ khá thấp. Ví dụ, nó không có một hệ thống phong phú về thức ngữ pháp (thức giả định, thức ước vọng, thức ngờ vực...) như ở nhiều ngôn ngữ. Tuy nhiên, giống như mọi ngôn ngữ tự nhiên, nó mã hoá ý nghĩa biểu lộ trong nhiều đơn vị từ vựng của nó và trong cấu trúc ngôn điệu của phát ngôn. Tất nhiên ta đang chấp nhận cái quan điểm (mà, như tôi đã nói, là không được thừa nhận rộng rãi) rằng nghĩa của câu (trong đối lập với nghĩa của phát ngôn) độc lập với điệu hình ngôn điệu của chúng khi được nói ra, tức cùng một câu có thể được nói ra với những điệu hình ngôn điệu đa dạng, khác biệt nhau đáng kể. Cũng có thể cho rằng rằng thán từ và các tiểu từ có tính chất ngữ cảnh hoá, như ta thấy trong nhiều ngôn ngữ, thì không phải là thành tố của câu, mà là của những phát ngôn có được do sử dụng câu đó. Nhưng như ta sẽ thấy, nghĩa biểu lộ cũng được từ vựng hoá gắn kết với nghĩa miêu tả trong nhiều danh từ, động từ và tính từ thường ngày.

Những kiểu ý nghĩa phi nội dung mệnh đề khác có thể được gác lại sau. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng chức năng biểu lộ của ngôn ngữ không thể tách biệt rành mạch với chức năng xã hội và chức năng công cụ của chúng. Con người là một thực thể xã hội với những mục đích được gán kết và chuẩn y về mặt xã hội. Họ có thể không phải bao giờ cũng phóng chiếu có ý thức một kiểu cái tôi nào đó; họ có thể chẳng hề cố tình biểu lộ cái tâm trạng và thái độ mà họ biểu lộ để lôi kéo người nghe và đạt được một mục đích này hay mục đích nọ. Tuy vậy, qua ngôn ngữ họ không thể nào biểu lộ tâm trạng và thái độ của mình, bất luận là tâm trạng và thái độ này có thể mang tính cá nhân và có ý thức đến đâu, một cách khác biệt với những phân biệt đã được mã hoá trong những hệ thống ngôn ngữ cụ thể. Như ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này, đặc biệt là trong Phần 4, nghĩa biểu lộ hoà nhập tất yếu với cái mà nhiều tác giả gọi là nghĩa liên nhân (interpersonal meaning), nghĩa công cụ (instrumental meaning), nghĩa xã hội (social meaning) hay nghĩa phát động (conative meaning). Nói cách khác, trong phạm vi về cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ tự nhiên mà ta quan tâm, sự biểu lộ tất nhiên mang tính biểu lộ-xã hội (socio-expressive) và cái cá nhân tất yếu mang tính liên nhân (interpersonal). Nếu không coi trọng nhân tố này, thậm chí ta không thể đưa ra một sự trình bày đúng đắn về nghĩa của các phạm trù ngữ pháp thông thường, cho dù không phải là phổ quát, như thời, đại từ hoặc thức.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.0 Dẫn nhập

Như ta đã thấy trong chương trước, nói chung người ta nhất trí rằng từ, ngữ đoạn và câu của ngôn ngữ tự nhiên thì có nghĩa, rằng câu được cấu tạo nên bởi từ (và ngữ đoạn), và rằng nghĩa của câu là kết quả của các từ (và ngữ đoạn) tạo nên câu.

Song từ là gì? Và trên thực tế, có phải tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ không? Những câu hỏi này thật không dễ trả lời như ấn tượng ban đầu của ta về chúng. Một lí do là, thuật ngữ 'từ' là lưỡng nghĩa, cả trong cách dùng hàng ngày lẫn trong cách dùng mang tính kĩ thuật của nhà ngôn ngữ học. Từ có thể được xem thuần tuý là những dạng thức (forms), được nói ra hay viết ra, hoặc xem xét theo một cách khác như là những biểu thức (expressions) phức hợp, bao gồm dạng thức và nghĩa. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi mà trong ngôn ngữ học, thuật ngữ 'dạng thức' lại được dùng theo nhiều nghĩa khác biệt, mặc dù có liên quan với nhau. Một trong những mục đích chính của tôi trong chương này là xác lập những quy ước về cách trình bày và về thuật ngữ nhằm tránh sự mơ hồ và nhầm lẫn.

Một lí do nữa giải thích vì sao không dễ nói cái gì đấy là từ hay không phải là từ như người ngoài ngành có thể nghĩ - hoặc nói rằng liệu tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ hay không - đó là một số tiêu chí khác nhau đã tham gia vào việc định nghĩa từ, cả tư cách dạng thức lẫn tư cách biểu thức, và những tiêu chí này thường xung khắc với nhau. Thêm vào đó, một vài tiêu chí được nhà ngôn ngữ học sử dụng, xét riêng ra, là những tiêu chí không phân tách rõ ràng từ với cái không phải là từ.

Trong cuốn sách này, ta quan tâm chủ yếu đến tư cách biểu thức của từ, tức từ như là những đơn vị phức hợp vừa có dạng thức, vừa có nghĩa (chính xác hơn, như ta sẽ thấy, là những đơn vị điển hình có một tập hợp dạng thức và một tập hợp nghĩa). Mỗi khi thuật ngữ 'từ' được dùng mà không có thêm hạn định nào, đây chính là cái nghĩa mà nó được dùng. Thực tế thì, như sẽ được giải thích trong chương này, thuật ngữ 'từ' nói chung sẽ được dùng suốt cuốn sách này, đặc biệt trong Phần 2, để chỉ cái có thể được gọi, một cách không chuyên môn, là từ-từ điển (hoặc từ-vốn từ): tức theo cái nghĩa nó được dùng trong siêu ngôn ngữ thường ngày, ví dụ, khi người ta nói rằng một cuốn từ điển tường giải của ngôn ngữ đang xét nào đấy, lí tưởng là chứa đựng tất cả những từ có trong vốn từ của ngôn ngữ đó. Theo cái nghĩa này của thuật ngữ 'từ', tất cả các ngôn ngữ đều có từ.

Cái thuật ngữ chuyên môn mà ta sẽ dùng để chỉ những gì tôi vừa gọi là từ- từ điển đó, là 'từ vị'. Danh từ 'từ vị' tất nhiên có liên quan đến các từ 'từ vựng' và 'bộ từ vựng'. (Ta có thể quan niệm rằng 'bộ từ vựng' là có cùng nghĩa với 'vốn từ' hoặc 'từ điển'). Từ vị là đơn vị từ vựng: đó là một đơn vị của bộ từ vựng. Cấu trúc từ vựng của một ngôn ngữ là cấu trúc của vốn từ vựng hoặc vốn từ của nó; và thuật ngữ 'nghĩa từ vựng', được dùng để đặt đầu đề cho Phần 2, do vậy tương đương với thuật ngữ 'nghĩa của từ' vốn được dùng rộng rãi, ít mang tính chuyên môn (song lại mơ hồ). Lí do mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra những thuật ngữ chuyên môn hơn là 'từ vị' và 'nghĩa từ vựng' (phù hợp với các nguyên tắc đã phác hoạ trong mục 1.2) sẽ được giải thích trong chương này. Như ta sẽ thấy, không phải tất cả từ đều là từ vị và ngược lại, không phải tất cả từ vị đều là từ. Ta cũng sẽ thấy rằng, chẳng có gì mới mẻ hoặc kì cục, đây là điều mà bất kì ai tham khảo một cuốn từ điển quy ước cũng đơn giản mặc nhận, không nhất thiết phải suy ngẫm về những hệ luỵ của nó đối với lí thuyết ngữ nghĩa (và ngữ pháp).

Khi ta xem từ (và ngữ đoạn) như là những đơn vị có nghĩa, ta cũng sẽ phải xử lí cái thực tế là, một mặt, một dạng thức có thể gắn với vài nghĩa và mặt khác, cùng một nghĩa có thể gắn với vài dạng thức của từ. Thực tế này đã được ngữ pháp và từ vựng học truyền thống thừa nhận chính đáng và sẽ được thảo luận ở đây theo một quan điểm hoàn toàn truyền thống, dưới tên gọi của các khái niệm đồng âm (homonymy), đa nghĩa (polysemy) và đồng nghĩa (synonymy).

Cuối cùng, trong phạm vi chương này, ta sẽ xem xét sự phân biệt giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp, vốn phái sinh từ sự phân biệt được nêu ra trong truyền thống giữa vốn từ của một ngôn ngữ và ngữ pháp của nó. Cách thức mà sự phân biệt này được nêu ra và được hình thức hoá sẽ thay đổi tuỳ theo khung lí thuyết cụ thể được sử dụng. Ví dụ, sẽ có một phân biệt đáng kể giữa cách lập thức sự khác biệt thao tác theo một thứ ngữ pháp dựa vào hình vị với cách lập thức với thứ ngữ pháp dựa vào từ, mang tính truyền thống hơn (mà ta đang sử dụng). Song ở mức độ tương đối sơ đẳng mà ta thảo luận vấn đề trong cuốn sách này, sự khác biệt giữa hai mô hình, hay lí thuyết, về cấu trúc ngữ pháp khác nhau trên đây không gây ra ảnh hưởng nào nghiêm trọng; việc kiểm tra lại điều này và công thức hoá lại những gì tôi đã nói về dạng thức và nghĩa, liên hệ với hình vị (và tổ hợp hình vị) chứ không phải với từ sẽ là một bài tập hữu ích cho những sinh viên nào đã có kiến thức cơ bản về lí thuyết ngữ pháp truyền thống hay hiện đại.

Về tác động của việc chấp nhận một mô hình phân tích ngôn ngữ chủ trương nêu ra sự phân biệt giữa vốn từ (hoặc bộ từ vựng) và ngữ pháp ở một vị trí khác với cái vị trí được nêu trong ngữ pháp và từ vựng học truyền thống, thì điều này cũng chẳng có gì quan trọng trong bối cảnh của cuốn sách này. Những ai nắm rõ sự phát triển gần đây trong lí thuyết ngữ pháp có thể dễ dàng có những điều chỉnh. Điều thực sự quan trọng là, bất luận người ta nêu ra sự phân biệt giữa ngữ pháp và từ vựng trong lí thuyết ngữ học đại cương và trong việc miêu tả những ngôn ngữ cụ thể theo cách thế nào đi chăng nữa, thì hai thứ này cũng cần phải được xem là bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Điều này sẽ được làm rõ khi ta chuyển từ Phần 2 sang Phần 3.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.0.Dẫn nhập

Trong chương này, chương được xem là cơ sở của toàn bộ Phần 1, ta đề cập đến những khái niệm cơ bản nhằm đặt ngữ nghĩa học trên một nền tảng lí thuyết vững chắc. Mặc dù đây là một trong những chương dài nhất của cuốn sách và lại bao gồm một số vấn đề đôi khi mang tính đòi hỏi khá cao đối với những ai chưa quen với ngữ nghĩa học, tôi cũng đã cố ý không chia chương này ra thành 2 chương (hoặc nhiều hơn), bởi vì tôi muốn nhấn mạnh đến một điều là các vấn đề được đề cập ở đây đan quyện vào nhau và trước sau đều quan yếu như nhau.

Những độc giả gặp một số vấn đề khó hiểu từ những trang đầu tiên không nên quá bận tâm về chúng. Họ có thể trở lại với chúng khi đọc ba phần tiếp theo của cuốn sách và sẽ thấy những phân biệt đa dạng về thuật ngữ nêu ra ở chương này được thực sự ứng dụng như thế nào. Quả thật, đây là cách duy nhất để chắc rằng ta hiểu chúng. Việc nêu ra từ đầu sách những phân biệt quan yếu về hệ thuật ngữ cơ sở và về quy ước trình bày sẽ giúp độc giả tham khảo chúng dễ dàng hơn. Điều này cũng giúp họ hiểu dễ dàng hơn bản chất của hệ khái niệm và khung thuật ngữ mà tôi sử dụng, nếu đem so sánh với những tác giả khác được dẫn ra trong mục 'Những gợi ý tham khảo tiếp theo'.

Ta bắt đầu và kết thúc chương này với câu hỏi cơ bản nhất, câu hỏi mà nghĩa học, cả ngôn ngữ lẫn phi ngôn ngữ, đều mong muốn tìm thấy một câu trả lời thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm: nghĩa là gì? Câu hỏi này được đặt ra một cách không chuyên môn trong mục 1.1; trong mục 1.7 ta điểm lại tóm tắt một vài trong số những câu trả lời khái quát mà các nhà triết học, ngôn ngữ học và các khoa học khác đã đưa ra trong quá khứ và gần đây.

Giữa hai mục này tôi chen vào mục 1.2, dành cho cái mà tôi gọi là siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học và mục 1.3, dành cho việc xác lập phạm vi của ngữ nghĩa học, ở một mức độ chi tiết hơn những gì mà tôi đã nêu trong Lời nói đầu. Việc nên có một mục riêng để xem xét mối quan hệ giữa ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ chỉ là một điều mong đợi. Điều quan trọng là độc giả thấy được rằng có nhiều cách, trong đó cái địa hạt của ngữ nghĩa học, một mặt được người nghiên cứu định nghĩa như một phần của nghĩa học rộng hơn và mặt khác, như một phần của ngôn ngữ học; và độc giả cũng nên thấy được ngay từ đầu cách định nghĩa về 'ngữ nghĩa học' của tôi là có khác so với các tác giả khác.

Thuật ngữ 'siêu ngôn ngữ' và tính từ tương ứng của nó, như ta sẽ thấy trong các chương sau của sách này, ngày nay được sử dụng khá rộng rãi khi thảo luận về những vấn đề cụ thể của ngữ nghĩa học. (Hai thuật ngữ này sẽ được giải thích đầy đủ trong mục 1.2) Tuy nhiên, các nhà lí thuyết và thực hành ngữ nghĩa học thường không thảo luận, một cách hiển ngôn và dưới hình thức những thuật ngữ chung, mối liên hệ giữa siêu ngôn ngữ hàng ngày của ngữ nghĩa học và siêu ngôn ngữ có tính chuyên môn hơn mà họ dùng trong các công trình của mình. Tôi dành ở đây một số trang để bàn về vấn đề này, bởi vì tôi nhận thấy tầm quan trọng của nó đã không được thừa nhận rộng rãi như đáng ra nó phải được thừa nhận.

Ba mục tiếp theo sẽ dành cho một số phân biệt, giữa ngôn ngữ và lời nói, 'langue' và 'parole', 'ngữ năng' và 'ngữ thi', giữa hình thức và nghĩa, giữa câu và phát ngôn, là những phân biệt mà hiện nay đều được thừa nhận, ở những mức độ chung nào đó, là thuộc vốn thuật ngữ của nhà ngôn ngữ học, mặc dù chúng thường không được định nghĩa theo một cách giống nhau. Một lần nữa, tôi phải dành thêm một số trang, nhiều hơn thường lệ, cho một số những phân biệt này. Tôi cũng phải tìm cách làm rõ những gì thường hay bị lẫn lộn, một mặt, khi thảo luận về câu và phát ngôn, và mặt khác khi thảo luận về ngữ năng và ngữ thi. Tất nhiên, tôi tìm cách giải thích những khác biệt này trong bối cảnh hiện nay, gắn với những ứng dụng cụ thể của chúng trong nghĩa học (và ngữ dụng học) và gắn với việc dùng chúng để tổ chức cuốn sách này.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (1)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.1. Nghĩa của 'nghĩa'

Theo truyền thống, nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu nghĩa; và đây chính là định nghĩa mà ta chấp nhận ngay từ đầu. Nhưng có phải tất cả các kiểu loại ý nghĩa đều nằm trong phạm vi của nghĩa học, hay chỉ có một số trong chúng mà thôi? Trong ngữ cảnh như vậy thì 'nghĩa' biểu thị cái gì?

Giống như nhiều từ tiếng Anh khác, danh từ 'nghĩa' và động từ phái sinh 'có nghĩa, có ý' được dùng trong một loạt ngữ cảnh khác nhau và với vài ý nghĩa khác biệt nhau. Lấy ví dụ trường hợp của động từ, nếu ta nói

(1) Mary means well,

(Mary tỏ thiện ý)

ta hàm ý rằng Mary có chủ ý tốt, rằng cô ta có ý không gây hại. Tuy nhiên, hàm ý về chủ định này tất sẽ bị mất đi trong một phát ngôn như:

(2) That red flag means danger.

(Lá cờ đỏ ấy biểu thị sự nguy hiểm)

Khi nói câu này, người ta tất không hề hàm ý rằng lá cờ có ý gây nguy hiểm cho bất kì ai; người ta thông báo rằng lá cờ đó được dùng (thể theo một quy ước đã được xác lập trước đó) để chỉ ra rằng có sự nguy hiểm đâu đó chung quanh nó, chẳng hạn như có một đường nứt trên sườn đồi đầy tuyết hoặc có mìn sắp nổ ở công trường đá bên cạnh. Tương tự với cái cách dùng động từ 'có nghĩa' ở trường hợp lá cờ đỏ, ít nhất là ở một phương diện nào đó, là cách dùng nó trong phát ngôn sau:

(3) Smoke means fire.

(Có khói nghĩa là có lửa)

Trong (2) và (3) một cái gì đó được coi là tín hiệu (sign) của một cái khác: nhờ sự hiện diện của tín hiệu, là lá cờ hoặc khói, bất kì ai với hiểu biết cần thiết tối thiểu đều có thể suy đoán về điều mà tín hiệu đó biểu thị (signifies), tuỳ theo trường hợp, là sự nguy hiểm hoặc lửa.

Thế nhưng giữa (2) và (3) lại có một khác biệt quan trọng. Trong khi khói là một tín hiệu tự nhiên (natural) của lửa, liên hệ một cách có nguyên do với cái mà nó biểu thị, thì lá cờ đỏ là dấu hiệu quy ước (conventional) để biểu thị sự nguy hiểm: nó là một biểu trưng (symbol) được con người xác lập. Những sự phân biệt này, một mặt giữa cái có chủ định và không chủ định, mặt khác giữa cái có tính tự nhiên và cái do quy ước, hay có tính biểu trưng, từ lâu và cho đến hiện nay vẫn là trọng tâm của những khảo cứu lí thuyết về nghĩa.

Việc động từ 'có nghĩa, có ý' ('mean') được dùng với những nghĩa khác nhau trong phạm vi các ví dụ mà tôi vừa dẫn ra là một điều hiển nhiên, xuất phát từ cái thực tế rằng câu:

(4) Mary means trouble

là một câu nói mơ hồ: nó có thể được hiểu như trong (1) Mary means well (Mary tỏ thiện ý) hoặc như trong (3) Smoke means fire (Có khói nghĩa là có lửa). Quả thật, với một ít tưởng tượng, có thể nghĩ ra một ngữ cảnh, hay một tình huống trong đó động từ 'có nghĩa, có ý' trong phát ngôn (4) Mary means trouble có thể được giải thuyết một cách thoả đáng theo cách thường được hiểu ở (2) That red flag means danger (Lá cờ đỏ ấy biểu thị nguy hiểm). Và ngược lại, nếu ta tạm bỏ qua những giả định có tính bản thể (ontological assumptions) thông thường - nghĩa là những giả định của chúng ta về thế giới - để xem lá cờ đỏ được nêu ở (2) như là một thực thể sống có ý chí và chủ định riêng thì chúng ta cũng có thể giải thuyết phát ngôn (2) một cách không kém thoả đáng theo cách chúng ta thường giải thuyết phát ngôn (1).

Việc giải thuyết phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ, bất luận là được nói ra hay viết ra, đều phụ thuộc - ở mức độ ít nhiều nào đó - vào ngữ cảnh trong đó chúng được sử dụng. Và cũng không được quên rằng ngữ cảnh của phát ngôn bao gồm cả những xác tín có tính bản thể của các bên tham gia giao tiếp: một số lớn trong số chúng được xác định theo văn hoá và chúng, mặc dù thường được giả định mặc nhiên, vẫn có thể bị xem xét lại hoặc bị bác bỏ. Phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên, ở dạng thực tại hay tiềm ẩn, đều có nhiều nghĩa, hay nhiều cách giải thuyết hơn so với suy nghĩ ban đầu mà chúng ta dành cho chúng khi xem xét chúng tách rời khỏi ngữ cảnh. Đây là một điểm không phải bao giờ cũng được các nhà nghĩa học quan tâm đúng mức.

Xét theo khía cạnh này, các phát ngôn chứa động từ 'có nghĩa, có ý' (hoặc danh từ 'nghĩa') không khác gì so với các phát ngôn khác trong tiếng Anh. Và điều quan trọng cần nhớ là, xét ở các khía cạnh khác, động từ 'có nghĩa, có ý' và danh từ 'nghĩa' cũng chỉ là các từ bình thường của tiếng Anh. Không cần thiết phải cho rằng tất cả các ngôn ngữ tự nhiên, trong vốn từ vựng hàng ngày của chúng, đều có những từ tương ứng một cách chính xác với động từ 'có nghĩa, có ý' và danh từ 'nghĩa' cả về mặt ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa. Đây là điểm thứ hai đặc biệt cần nhấn mạnh và tôi sẽ trở lại với nó sau (mục 1.2).

Bây giờ chúng ta hãy xét một nghĩa hệ thống (hoặc nghĩa) khác của động từ 'có nghĩa, có ý'. Nếu ta nói:

(5) 'Soporific' means " tending to produce sleep".

('Gây ngủ' có nghĩa là "làm cho ngủ")

thì hiển nhiên là ta không hề gán ép sự chủ định nào cho cái từ tiếng Anh 'soporific'. Tuy nhiên, có thể cho rằng có một mối liên hệ mang tính bản chất, mặc dù là gián tiếp, giữa những gì mà người ta biểu thị hoặc chủ định biểu thị, với những gì được gán một cách quy ước cho các từ mà họ sử dụng. Luận điểm này được các nhà triết học ngôn ngữ thảo luận rất nhiều. Bởi vì nó không quan yếu đối với những quan tâm chính của cuốn sách này nên tôi không bàn đến ở đây. Tôi cũng không bàn đến một luận điểm liên quan, là cũng tồn tại một mối liên hệ bản chất, và có thể là trực tiếp hơn, giữa những gì mà người ta muốn bày tỏ và những gì người ta chủ định bày tỏ. Mặt khác, trong Chương 8 và Chương 9, tôi sẽ đưa ra một cách trình bày cụ thể về sự khác biệt giữa việc nói ra điều mà ta muốn nói và việc hiểu điều mà ta nói - đây là một phân biệt khác đã được tranh luận rộng rãi trong triết học ngôn ngữ.

Tính chủ định chắc chắn đóng một vai trò quan trọng trong bất kì học thuyết nào người ta có thể nêu ra về nghĩa của phát ngôn, cho dù nó không phải là đặc tính của các từ tạo nên phát ngôn. Tạm thời, ta hãy đơn giản lưu ý rằng chính cái nghĩa của động từ "có nghĩa, có ý" được nêu ví dụ ở (5) chứ không phải cái ý nghĩa được nêu ở ví dụ (6):

(6) Mary didn't really mean what she said.

(Mary đã thật sự không nghĩ như điều cô ấy nói)

mới là cái nghĩa được quan tâm trực tiếp hơn trong ngôn ngữ học.

Ta vừa lưu ý rằng danh từ 'nghĩa' (và động từ tương ứng 'có nghĩa, có ý') là có nhiều nghĩa. Nhưng luận điểm chính tôi muốn nói trong mục này không phải là về tính đa nghĩa, hay đa nghĩa hệ thống, của từ này, mà là việc những nghĩa này có liên quan với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều cách. Điều này giải thích tại sao việc nghiên cứu cái đối tượng được xem là nghĩa (theo một nghĩa này hay nghĩa khác của từ tiếng Anh 'meaning') lại là mối quan tâm của nhiều ngành và không hề là lãnh địa riêng của ngành nào. Theo đó, nếu nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu về ý nghĩa thì sẽ có nhiều phân nhánh khác nhau nhưng giao nhau của nghĩa học: nghĩa học triết lí, nghĩa học tâm lí, nghĩa học nhân chủng, nghĩa học lô-gic, ngữ nghĩa học v.v.

Chính ngữ nghĩa học (linguistic semantics) là đối tượng mà ta chủ yếu quan tâm trong cuốn sách này; và mỗi khi tôi sử dụng thuật ngữ 'nghĩa học' mà không có thêm định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu với nghĩa hẹp hơn, để chỉ ngữ nghĩa học. Tương tự, mỗi khi tôi dùng thuật ngữ 'ngôn ngữ' không kèm theo định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu là dùng để chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên (natural languages). Nhưng ngữ nghĩa học là gì và nó phân biệt với nghĩa học phi ngôn ngữ ra sao? Và cái gọi là ngôn ngữ tự nhiên thì phân biệt với các loại ngôn ngữ khác như thế nào về phương diện nghĩa cũng như các phương diện khác? Đây là những câu hỏi mà ta sẽ bàn đến trong mục 1.3. Nhưng trước hết, cần nói đôi điều về hệ thuật ngữ, cách thức sử dụng, và chung hơn, là về siêu ngôn ngữ (metalanguage) có tính chuyên môn và không chuyên môn của ngữ nghĩa học.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (2)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.2. Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học

Ta có thể tiếp tục dành nhiều thời gian để nêu ra và thảo luận những ví dụ về những nghĩa khác nhau của từ 'nghĩa' trong mục trước. Nếu ta làm như vậy và sau đó cố gắng dịch tất cả các ví dụ của ta sang các ngôn ngữ tự nhiên khác (tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga...) ta sẽ chóng đi đến chỗ đánh giá hiệu lực của một trong những luận điểm được nêu ra ở đây, rằng 'meaning' (và động từ mà từ đó nó được phái sinh) là một từ tiếng Anh không có từ tương ứng chính xác trong các ngôn ngữ gần gũi khác. Ta cũng sẽ thấy rằng có nhiều ngữ cảnh trong đó danh từ 'meaning' và động từ 'có nghĩa, có ý' ('mean') là không tương ứng với nhau. Nhưng đây không phải là một biệt lệ của tiếng Anh hoặc của hai từ này. Như sau này ta sẽ thấy, phần lớn các từ hoặc biểu thức (cụm từ) ngôn ngữ tự nhiên được dùng hàng ngày, không mang tính chuyên môn, đều giống với danh từ 'nghĩa' và động từ 'có nghĩa, có ý' ở chỗ chúng có một vài nghĩa vốn không có cách nào phân biệt với nhau một cách rõ ràng (hoặc giả là một loạt nghĩa trong đó một vài khác biệt có thể được chỉ ra) và các nghĩa này có thể khá là mơ hồ hoặc không xác định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất mà ta phải thực thi trong suốt cuốn sách này là trang bị cho ta một vốn thuật ngữ chuyên môn chính xác và không mơ hồ, ở mức cao nhất có thể được.

Để thực hiện điều đó, ta sẽ xây dựng cái mà các nhà ngữ nghĩa học gọi là siêu ngôn ngữ (metalanguage); tức là một ngôn ngữ dùng để miêu tả ngôn ngữ. Hiện nay, các nhà nghĩa học triết lí đều nhất trí một điều là các ngôn ngữ tự nhiên (đối lập với những ngôn ngữ hình thức, phi tự nhiên hoặc nhân tạo) đều chứa đựng siêu ngôn ngữ của riêng chúng: chúng có thể được dùng để miêu tả không những các ngôn ngữ khác (và ngôn ngữ nói chung) mà còn cả bản thân chúng. Cái đặc tính theo đó một ngôn ngữ có thể được dùng để nói về chính bản thân nó (toàn bộ hoặc một phần) sẽ được tôi gọi là tính phản thân (reflexivity). Những rắc rối triết học có thể nảy sinh từ tính phản thân kiểu này sẽ không thuộc vào số những vấn đề mà ta quan tâm trực tiếp ở đây. Song, có một số phương diện khác thuộc về tính phản thân, và chung hơn là thuộc về chức năng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ tự nhiên, cần được xem xét.

Siêu ngôn ngữ mà ta đã sử dụng đến bây giờ và sẽ tiếp tục sử dụng suốt trong sách này là tiếng Anh: chính xác hơn, nó chính là tiếng Anh Chuẩn (Standard English) ít nhiều mang tính thông thường (nhưng không phải thông tục) (vốn phân biệt với các loại tiếng Anh khác theo nhiều khác khác nhau). Những khi tôi dùng thuật ngữ 'tiếng Anh' không kèm theo bất kì định ngữ nào thì đấy chính là cái ngôn ngữ (hoặc phương ngữ) mà tôi muốn nói tới. Tiếng Anh thông thường (tiếng Anh Chuẩn) dĩ nhiên không phải là hoàn toàn đồng nhất trên phạm vi toàn thế giới hoặc xuyên suốt các nhóm xã hội ở các nước hoặc khu vực nói tiếng Anh, song những khác biệt trong từ vựng và cấu trúc ngữ pháp như đã tồn tại giữa một biến thể của tiếng Anh Chuẩn (British, American, Australian v.v...) với các biến thể khác là không quan trọng lắm trong bối cảnh những gì trình bày ở đây và sẽ không gây ra vấn đề.

Ta vừa chấp nhận một cách hiển ngôn tiếng Anh với tư cách là siêu ngôn ngữ của ta. Nhưng nếu ta nhằm đến một sự chính xác và rõ ràng thì, tiếng Anh, cũng như các ngôn ngữ tự nhiên khác, không thể được dùng như siêu ngôn ngữ để làm việc nếu không có sự điều chỉnh. Trong chừng mực ta quan tâm đến vốn từ vựng được dùng với mục đích siêu ngôn ngữ của các ngôn ngữ tự nhiên, có hai loại điều chỉnh là khả dĩ: đặt quy định (regimentation) và mở rộng (extension). Ta có thể dùng các từ hàng ngày như 'ngôn ngữ', 'câu', 'từ', 'nghĩa' hoặc 'nghĩa hệ thống' và bắt chúng tuân thủ một sự quy định chặt chẽ (tức quy định (regiment) việc sử dụng chúng), định nghĩa chúng hoặc tái định nghĩa chúng phù hợp với mục đích của chúng ta (cũng giống như các nhà vật lí định nghĩa lại các khái niệm 'lực', 'năng lượng' theo những mục đích riêng của họ). Hoặc giả, ta có thể mở rộng (extend) vốn từ vựng hàng ngày bằng cách thêm vào những từ chuyên môn, vốn thường không được dùng trong diễn ngôn hàng ngày.

Trong mục trước, ta đã có nhận xét rằng, từ 'meaning' (nghĩa) của tiếng Anh hàng ngày có một loạt nghĩa khác biệt nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Ở điểm này, ta có thể làm như các nhà ngữ nghĩa học tiếng Anh đã làm hiện nay: ta có thể đặt quy định (regiment) cho việc dùng từ 'nghĩa' bằng cách cố ý quy cho nó một nghĩa hẹp hơn, chuyên môn hơn so với nghĩa của nó trong đời sống hàng ngày. Rồi sau đó ta có thể dùng cái định nghĩa hẹp, có tính chuyên môn của từ 'nghĩa' này để giới hạn lại phạm vi của nghĩa học, chỉ để chỉ bộ phận thường được truyền thống ngôn ngữ học, triết học và các khoa học khác gọi là 'nghĩa học'. Trong cuốn sách này, chúng ta chọn giải pháp khác. Ta sẽ tiếp tục dùng cả danh từ 'nghĩa' và động từ 'có nghĩa, có ý' như là những từ không-chuyên-môn, với đầy đủ những nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống) hàng ngày của chúng. Và tạm thời chúng ta sẽ tiếp tục thao tác với cái định nghĩa rộng tương ứng về 'nghĩa học'; tức là cho đến khi được định nghĩa lại, nghĩa học vẫn được chúng ta tiếp tục xem là khoa học nghiên cứu về nghĩa. Tuy nhiên, cũng nên nhắc lại rằng hiện nay, một số tác giả đã chấp nhận định nghĩa có phần hẹp hơn về 'nghĩa học', dựa trên một sự quy định về cách dùng từ 'nghĩa' (hoặc một trong số các từ tương đương của nó) trong các ngôn ngữ khác. Tôi sẽ trở lại điểm này sau (xem mục 1.6).

Mặc dù từ 'nghĩa' của ngôn ngữ hàng ngày vẫn được giữ lại mà không cần định nghĩa lại trong siêu ngôn ngữ mà chúng ta đang xác lập, một vài biểu thức ngôn ngữ phức hợp, có chứa từ 'nghĩa' sẽ được nêu ra và được định nghĩa khi chúng ta xử lí các vấn đề, và sau đó sẽ được dùng với tư cách là thuật ngữ chuyên môn. Ví dụ, ở đoạn sau của chương này, sẽ có sự phân biệt, một mặt, giữa nghĩa mệnh đề (propositional meaning) và nghĩa phi mệnh đề (non-propositional meaning) và mặt khác, giữa nghĩa câu (sentence-meaning) và nghĩa phát ngôn (utterance-meaning); những khác biệt này, cùng với những khác biệt khác, tất sẽ liên quan đến sự phân biệt hiện đang được thừa nhận khá rộng rãi giữa ngữ nghĩa học (theo nghĩa hẹp) và ngữ dụng học. Trong Chương 3, nghĩa hệ thống (sense) và sở thị (denotation) sẽ được phân biệt với tư cách là những bình diện hoặc chiều kích phụ thuộc nhau thuộc về nghĩa của từ và ngữ đoạn. Quy chiếu (reference) sẽ được phân biệt với sở thị (denotation), thoạt tiên ở Chương 3 và sau đó, chi tiết hơn, ở Chương 10. Một lần nữa cần nhắc lại rằng, ba từ này (đặc biệt là từ 'nghĩa hệ thống') sẽ được dùng một cách phi kĩ thuật cho đến khi được định nghĩa hoặc định nghĩa lại một cách chính thức. Tình hình cũng tương tự đối với tất cả các từ và biểu thức khác của tiếng Anh thường ngày (bao gồm những danh từ 'ngôn ngữ', 'lời nói' và các động từ có liên quan về nghĩa như 'nói', 'phát ngôn', là những từ sẽ được xem xét chi tiết hơn ở mục 1.4).

Như sẽ được giải thích trong chương sau, trong những năm gần đây, các nhà ngôn ngữ học và lô gic học đã xây dựng những siêu ngôn ngữ phi tự nhiên (non-natural) khác nhau, mang tính hình thức hoá (formalized) cao (nghĩa là mang tính chính xác toán học) để có thể miêu tả các ngôn ngữ tự nhiên ở mức độ chính xác nhất có thể được. Trong cuốn sách này, điều quan trọng đối với ta là thấy được mối quan hệ giữa các siêu ngôn ngữ hình thức, phi tự nhiên của nghĩa học lô gic và thứ siêu ngôn ngữ, ít nhiều mang tính thông thường, được quy định và mở rộng mà ta đang sử dụng. Ngôn ngữ nào, nếu có thể nói như vậy, là ngôn ngữ cơ bản hơn? Và trong ngữ cảnh như vậy thì 'cơ bản' có nghĩa là gì?

Tất nhiên, đó là thứ tiếng Anh viết mà ta đang sử dụng với tư cách là siêu ngôn ngữ, và ta đang dùng nó để chỉ cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết, cũng như (trong trường hợp thích hợp) để chỉ các ngôn ngữ và các phát ngôn-ngôn ngữ được trừu xuất độc lập khỏi cái phương tiện (medium) mà chúng được hiện thực hoá. Trong quy định của ta về việc dùng tiếng Anh viết thông thường làm siêu ngôn ngữ, cần xác lập một số quy ước trình bày giúp ta có thể biểu thị chính xác những đơn vị ngôn ngữ học khác nhau. Những quy ước trình bày ít nhiều mang tính tầm thường như thế, như được sử dụng với tính cách siêu ngôn ngữ trong sách này (in nghiêng, dấu trích dẫn v.v...), sẽ được giới thiệu chính thức ở mục 1.5 (xin xem bảng kí hiệu và quy ước chữ viết ở trang xvii).

Trong chừng mực ngôn ngữ nói hàng ngày được dùng làm siêu ngôn ngữ, sẽ tồn tại một số quy luật và quy ước mà tất cả những người bản ngữ đều tuân theo, không cần phải học và không cần phải bận tâm. Nhưng chúng không phải hoàn toàn được pháp điển hoá và không thể ngăn ngừa được sự hiểu lầm trong tất cả ngữ cảnh. Các nhà ngữ âm học đã phát triển những hệ thống quy ước trình bày với độ chính xác cao về các phát ngôn được nói ra. Tuy nhiên, trong cách dùng phi thuật ngữ của tiếng Anh hàng ngày (và các ngôn ngữ tự nhiên khác), không có những hình thức trình bày dưới dạng viết, được quy ước chấp thuận, về ngữ điệu, nhịp, điểm nhấn và các đặc trưng phi ngôn ngữ khác, vốn là một bộ phận thông thường và cơ hữu của lời nói. Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, những đặc trưng như vậy mang nhiều chức năng giao tiếp và biểu lộ.

Ở đây, tôi muốn lưu ý là chúng cũng có thể thực hiện chức năng siêu ngôn ngữ. Ví dụ, câu:

(7) John said it was raining

(John nói trời đang mưa)

có thể được nói ra theo nhiều cách. Đặc biệt, nó có thể được phát ngôn ra với một sự chuyển tiếp đặc trưng về điệu tính giữa said và it, mà trong lời nói sẽ thể hiện sự khác biệt được quy ước trong ngôn ngữ viết giữa:

(8) John said [that] it was raining

(9) John said, "It was raining".

Trong trường hợp này, có một quy ước ít nhiều được thừa nhận chung, là việc sử dụng các dấu trích dẫn để phân biệt lời nói trực tiếp với lời nói gián tiếp trong tiếng Anh viết. Thế nhưng cũng có những khả năng lựa chọn khác được thừa nhận đối với việc sử dụng dấu trích dẫn. Và thậm chí khi các dấu trích dẫn được dùng thì những quy ước sử dụng chúng không phải là đã được pháp điển hoá hoàn toàn hoặc được mọi người thừa nhận, ví dụ các tác giả và nhà in khác nhau có những quy định riêng của họ đối với việc dùng các dấu trích đơn và kép. Như tôi đã nói, quy ước riêng của tôi về việc dùng các dấu trích đơn và kép với tính chất siêu ngôn ngữ (và cả việc dùng các chữ in nghiêng) sẽ được giải thích trong một mục sau (mục 1.5).

Có nhiều nhận định, dùng ngôn ngữ hàng ngày làm siêu ngôn ngữ, là không mơ hồ khi được nói ra, nhưng không hẳn như vậy nếu được viết ra. Ngược lại, bởi lẽ trong lời nói bình thường không có gì tương ứng một-đối-một với các dấu chấm câu và các dấu hiệu trình bày riêng(diacritics) của ngôn ngữ viết (gạch chân, in nghiêng hoặc in đậm để nhấn mạnh, dấu trích dẫn, viết hoa v.v...) nên có những nhận định, dùng ngôn ngữ hàng ngày làm siêu ngôn ngữ, là không mơ hồ khi viết ra nhưng lại có thể mơ hồ khi nói ra. Ví dụ:

(10) I can't stand Sebastian

khác với

(11) I can't stand 'Sebastian'

ở chỗ (10) có thể được hiểu như là nhận định về một người ngẫu nhiên có tên là 'Sebastian', còn (11) như là nhận định về chính cái tên 'Sebastian' đó (tức "Tôi không thể chịu được cái tên gọi Sebastian" - ND). Tuy nhiên, sự sử dụng quy ước về các dấu trích dẫn nhằm vào những mục đích như vậy trong tiếng Anh viết hàng ngày không phải là bắt buộc. Và như ta sẽ thấy ngay sau đây, sự sử dụng đó cần có những quy định thật chặt chẽ nếu ta muốn nó hành chức như là một bộ phận thuộc siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (3)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.3 Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ

Trong tiếng Anh, tính từ 'linguistic' là lưỡng nghĩa. Nó có thể được hiểu hoặc "gắn với ngôn ngữ", hoặc "gắn với ngôn ngữ học".

Thuật ngữ 'linguistic semantics' cũng theo đó mà lưỡng nghĩa. Giả sử nghĩa học (semantics) là khoa học nghiên cứu về nghĩa thì 'linguistic semantics' có thể được dùng để chỉ, hoặc là sự nghiên cứu nghĩa trong chừng mực nghĩa đó được biểu thị trong ngôn ngữ, hoặc là sự nghiên cứu nghĩa trong phạm vi ngôn ngữ học. Chính cái nghĩa thứ hai này được dùng ở đây và trong suốt cuốn sách này. Ngữ nghĩa học, vì vậy, là một phân nhánh của ngôn ngữ học, cũng giống như nghĩa học triết lí là phân nhánh của triết học, nghĩa học tâm lí là phân nhánh của tâm lí học v.v...

Bởi vì ngôn ngữ học được định nghĩa khái quát là khoa học nghiên cứu ngôn ngữ cho nên có thể nghĩ rằng, sự phân biệt mà tôi vừa nêu ra giữa hai cái nghĩa được dùng của 'linguistic semantics' là một sự phân biệt chẳng mang lại sự khác biệt nào. Tuy nhiên, sự thể không phải như vậy. Ngôn ngữ học không nhằm giải quyết mọi thứ nằm trong phạm vi của từ 'ngôn ngữ'. Giống như các bộ môn khoa học khác, nó xác lập bộ khung lí thuyết riêng của mình. Như những gì tôi đã giải thích với từ 'nghĩa', thì nhằm phục vụ những mục đích riêng của mình, ngôn ngữ học có quyền định nghĩa lại những từ dùng hàng ngày như 'ngôn ngữ' và không nhất thiết phải dùng chúng theo cái cách mà chúng được dùng bên ngoài ngôn ngữ học, bất luận là cách dùng có tính thuật ngữ hay phi thuật ngữ. Hơn thế nữa, như ta sẽ thấy trong mục tiếp theo, từ tiếng Anh 'language'(ngôn ngữ) là một từ lưỡng nghĩa, vì vậy ngữ đoạn 'nghiên cứu nghĩa trong ngôn ngữ' có thể được hiểu theo hai cách khác nhau đáng kể. Do đó, về nguyên tắc, tồn tại không phải hai, mà là ba cách hiểu thuật ngữ 'ngữ nghĩa học'. Tình hình cũng đúng hệt như vậy với ngữ đoạn 'nghĩa ngôn ngữ học' (bởi cùng một lí do). Điều này cũng sẽ được nói rõ hơn trong mục tiếp theo. Trong lúc này, tôi sẽ tiếp tục sử dụng cái từ 'ngôn ngữ' của tiếng Anh hàng ngày, mà không cần định nghĩa lại hoặc có sự chế định đặc biệt nào.

Trong số những bộ môn quan tâm đến nghĩa, có lẽ ngôn ngữ học là ngành quan tâm nhiều hơn cả. Tính có nội dung, hay tính có nghĩa (semanticity), nói chung thường được xem là một trong những đặc trưng dùng để định nghĩa ngôn ngữ; và điều này là không có gì để bàn cãi. Các nhà ngôn ngữ học nói chung cũng giả định rằng ngôn ngữ tự nhiên, về bản chất, là mang tính giao tiếp, có nghĩa là chúng phát triển hoặc tiến hoá -chúng đã được thiết kế, có thể nói như vậy- nhằm vào những mục đích giao tiếp và tương tác; và cái được gọi là những đặc trưng thiết kế (design-properties) của chúng -cụ thể hơn, cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của chúng- là khớp với mục đích này, nếu không như vậy thì chúng là mang tính huyền bí, không thể giải thích được. Gần đây, quan niệm này đã bị các nhà ngôn ngữ học và triết học xem xét lại. Đối với những mục đích của cuốn sách này, ta có thể giữ thái độ trung hoà về vấn đề này. Như phần lớn các nhà ngôn ngữ học, tôi sẽ tiếp tục cho rằng các ngôn ngữ tự nhiên được mô tả đúng bản chất như là những hệ thống giao tiếp (communication-systems). Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng không có hệ quả nào phụ thuộc vào điều giả định này. Mặc dù nhiều kiểu ứng xử có thể được mô tả như là có nghĩa nhưng quả thật so với phạm vi, sự đa dạng và phức tạp của các loại nghĩa mà ngôn ngữ biểu thị thì không một kiểu ứng xử giao tiếp nào, thuộc con người hoặc không thuộc con người, lại có thể sánh được. Một phần của sự khác biệt giữa giao tiếp bằng ngôn ngữ và các kiểu loại ứng xử giao tiếp khác bắt nguồn từ các đặc trưng về tính chủ định và quy ước, là những đặc trưng đã được nói trong mục 1.1.

Một sinh vật không phải là con người thường biểu lộ tình cảm hoặc thái độ dưới dạng những ứng xử có vẻ không chủ định và không quy ước. Lấy ví dụ, một con cua sẽ cho thấy sự giận dữ bằng cách giương cái càng to. Trong khi đó, con người sẽ hiếm khi biểu lộ sự giận dữ, dù có chủ định hay không, bằng cách giơ nắm đấm. Thông thường hơn, người ta sẽ thể hiện những tình cảm như tức giận bằng các phát ngôn như:

(12) Rồi mày sẽ ân hận về điều đó.

hoặc

(13) Tao sẽ kiện mày.

hoặc

(14) Sao mày dám làm thế!

Sự thật, âm sắc giọng nói khi phát ngôn những câu trên thường được nhận biết là biểu thị sự tức giận; và nó có thể được đi kèm với cử chỉ hoặc nét mặt giận dữ. Nhưng trong chừng mực ta quan tâm đến các từ được dùng thì rõ ràng là không có một liên hệ tự nhiên, phi quy ước giữa dạng thức và nghĩa: như ta đã nhận xét trong mục trước, các từ, theo cái nghĩa này, là mang tính võ đoán (arbitrary). Phần lớn cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên dùng để biểu thị ý nghĩa cũng vậy. Và, như chúng ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này, còn có nhiều rất nhiều điều để giải thích về tính có nghĩa của ngôn ngữ -tức khả năng biểu thị nghĩa của nó- hơn là chỉ đơn giản nói rằng mỗi từ có nghĩa gì.

Ở điểm này, cũng nên nhấn mạnh rằng, cho dù phần lớn cấu trúc các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên là võ đoán, hoặc mang tính quy ước, thì cũng tồn tại nhiều nhân tố phi võ đoán trong chúng. Một kiểu phi võ đoán hiện thường được viện dẫn là tính phỏng hình (iconicity). Nói nôm na thì tín hiệu có tính phỏng hình là tín hiệu mà hình thức của nó có thể được giải thích dựa trên sự tương đồng giữa hình thức của tín hiệu và nội dung mà nó biểu thị: các tín hiệu không mang đặc tính này đều là phi phỏng hình. Như các nhà ngôn ngữ học đã lưu ý từ hàng thế kỉ nay, trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều tồn tại những từ được truyền thống miêu tả là các từ tượng thanh (onomatopoeic), chẳng hạn các từ splash, bang, crash hoặc cuckoo, peewit v.v... trong tiếng Anh; ngày nay chúng được phân loại dưới một tên gọi chung hơn là 'từ phỏng hình'. Nhưng những từ như vậy là khá ít về mặt số lượng. Điều quan trọng hơn đối với ta là, mặc dù phần lớn cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên là võ đoán, chúng vẫn mang tính phỏng hình nhiều hơn so với mức mà các sách giáo khoa ngôn ngữ chuẩn mực có thể thừa nhận. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, theo cách nhìn như vậy, lại chính là tính phỏng hình bộ phận của cái thành tố phi lời (non-verbal) trong các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên.

Cụ thể thì các phát ngôn được nói ra, ngoài các từ cấu thành, sẽ còn mang một ngữ điệu và một mô hình trọng âm riêng: chúng được gọi theo thuật ngữ chuyên môn là các đặc trưng ngôn điệu (prosodic features). Những đặc trưng này là một bộ phận cơ hữu của những phát ngôn chứa chúng, và không được coi chúng, theo một cái nghĩa nào đó, là thứ yếu hay tuỳ nghi. Các đặc trưng ngôn điệu trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên, ở một mức độ đáng kể (mặc dù không phải là toàn bộ) là mang tính phỏng hình. Các phát ngôn nói ra cũng có thể được hỗ trợ bởi cái được gọi là những dấu hiệu kèm lời (paraliguistic features), vốn thường hay được gọi một cách thiếu chính xác là ngôn ngữ cử chỉ (điệu bộ, tư thế, ánh mắt, nét mặt...). Như thuật ngữ 'kèm lời' cho thấy, những yếu tố này không được các nhà ngôn ngữ học xem là một phần cơ hữu của những phát ngôn mà chúng có quan hệ. Xét theo khía cạnh này, chúng khác với các đặc trưng ngôn điệu. Nhưng các dấu hiệu kèm lời cũng mang nghĩa, và cũng giống như các đặc trưng ngôn điệu, chúng dùng để định dạng (modulate) và chấm câu (punctuate) cho các phát ngôn mà chúng đi kèm. Chúng thậm chí còn có xu hướng phỏng hình, hay nói cách khác là tính phi võ đoán, cao hơn các đặc trưng ngôn điệu. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, tính phi võ đoán của chúng được pha trộn với tính quy ước ở một mức độ cao không kém: nói như vậy nghĩa là các đặc trưng ngôn điệu của ngôn ngữ nói và những dấu hiệu kèm lời kèm theo phát ngôn trong những ngôn ngữ (hoặc các phương ngữ) cụ thể, thuộc các nền văn hoá (hoặc tiểu nhóm văn hoá) cụ thể thì biến đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác và cần phải được học với tư cách là một phần của quá trình thủ đắc ngôn ngữ bình thường.

Ngôn ngữ viết không có gì tương ứng trực trực tiếp với các đặc trưng ngôn điệu hoặc kèm lời của ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, các dấu chấm câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi v.v...) và chữ viết hoa, in nghiêng, gạch chân v.v... có thể xem là tương đương về chức năng. Vì vậy, tôi dùng thuật ngữ 'chấm câu' như là một thuật ngữ của ngữ nghĩa học cho cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết.

Một dạng khác của tính phi võ đoán mà các nhà ngữ nghĩa học rất quan tâm trong những năm gần đây là tính trực chỉ (indexicality). Một yếu tố trực chỉ (index), như tên gọi được định nghĩa ngay từ đầu, là một tín hiệu mà theo một nghĩa nào đó, hướng sự chú ý đến -tức chỉ ra (indicates) (hoặc là chỉ báo cho (or is indicative of))- cái mà nó biểu đạt (trong tình huống trực tiếp) và do đó hành chức với tư cách là một đầu mối, có thể nói như vậy, chỉ báo cho sự hiện diện hoặc tồn tại (trong tình huống trực tiếp) của bất kì cái gì mà nó biểu hiện. Chẳng hạn, khói là trực chỉ của lửa, lời nói lắp bắp có thể là dấu hiệu của say rượu, v.v... Trong hai trường hợp này, có một mối liên hệ nguyên nhân giữa yếu tố trực chỉ và cái mà nó chỉ ra. Nhưng điều này không được xem là cốt yếu. Trong thực tế, thuật ngữ 'trực chỉ ', như nó được định nghĩa ngay từ đầu, bao quát nhiều thứ vốn chẳng có gì chung ngoài việc hướng sự chú ý vào một khía cạnh nào đó của tình huống hiện thực trực tiếp. Một trong những hậu quả là tình trạng thuật ngữ 'tính trực chỉ' đã được dùng theo một số nghĩa xung đột nhau trong các văn liệu gần đây. Tôi chỉ chấp nhận một trong số các nghĩa này và sẽ giải thích nó trong chương 10. Từ đây cho đến lúc đó, tôi sẽ không dùng các thuật ngữ 'trực chỉ ', 'mang tính trực chỉ' hay 'tính trực chỉ' nữa.

Tuy nhiên, tôi sẽ sử dụng động từ 'chỉ báo' (và cũng dùng cụm từ 'là chỉ báo cho') theo cái nghĩa mà tôi đã dùng cho khói và lời lắp bắp trong đoạn văn trên. Khi người ta nói có khói nghĩa là có lửa hoặc lời lắp bắp là dấu hiệu của say rượu, người ta hàm ý rằng chúng không chỉ hướng chú ý đến sự hiện diện của lửa hoặc sự say rượu (trong tình huống trực tiếp), mà còn cho biết rằng lửa là nguyên do của khói và chính cái người nói lắp bắp ấy là kẻ say rượu. Nếu ta coi đây như là một điều kiện để định nghĩa hiện tượng trực chỉ (indication), theo cái nghĩa mà giờ đây tôi chấp nhận như là nghĩa thuật ngữ của từ này, thì ta có thể nói rằng nhiều thông tin được thể hiện trong phát ngôn khi nói ra chính là chỉ báo cho các đặc trưng sinh học, tâm lí và xã hội của người nói. Lấy ví dụ, giọng của một người nói chung sẽ là chỉ báo cho nguồn gốc xã hội hay xuất xứ địa phương của người đó; và đôi khi việc chọn lựa một từ ngữ này mà không phải là từ ngữ khác trong số hai từ ngữ đồng nghĩa theo cách nào đó cũng có tác dụng tương tự.

Vậy thì nhà ngôn ngữ học xử lí thế nào với nghĩa của các phát ngôn trong ngôn ngữ? Và bao nhiêu trong số đó được xếp loại là thuộc ngôn ngữ học (theo cái nghĩa là "nằm trong phạm vi của ngôn ngữ học") chứ không phải mang tính kèm lời (hoặc ngoại ngôn)? Nhà ngôn ngữ học, như những người nghiên cứu thuộc các bộ môn khoa học khác, sẽ thay đổi cách xử lí đối với bất kì vấn đề nào của đối tượng nghiên cứu tuỳ thuộc vào không khí học thuật đang thịnh hành. Thực tế, trong thời gian gần đây, đã từng có những thời kì, chủ yếu là ở Mĩ giai đoạn giữa năm 1930 và cuối những năm 1950, ngữ nghĩa học bị nhiều người né tránh. Một trong những nguyên nhân dẫn tới điều đó là: việc khảo sát ngữ nghĩa bị quy chụp là mang tính chủ quan (theo cái nghĩa xấu của từ này) về bản chất, và ít nhất thì cũng tạm thời bị coi là nằm ngoài phạm vi của khoa học.

Nguyên nhân đặc biệt hơn của sự né tránh ngữ nghĩa học chính là ảnh hưởng của tâm lí học hành vi đối với một số, mặc dù không phải là tất cả, trường phái ngôn ngữ học Mĩ. Nhờ có sự chỉ trích của Chomsky đối với hành vi luận vào cuối những năm 1950 và tác động mang tính cách mạng sau đó mà lí thuyết ngữ pháp tạo sinh của ông mang lại, không chỉ đối với các nhà ngôn ngữ học mà còn đối với các bộ môn khoa học khác, bao gồm triết học và tâm lí học, mà ảnh hưởng của hành vi luận không còn mạnh mẽ như nó từng có cách đây một thế hệ. Không chỉ có nhà ngôn ngữ, mà cả các nhà triết học lẫn tâm lí học, hiện nay sẵn sàng thừa nhận tư cách dữ liệu đối với những gì trước đây đã thẳng thừng bị chối bỏ vì bị xem là chủ quan (theo cái nghĩa xấu của từ) và không đáng tin cậy.

Cuốn sách này tập trung vào ngữ nghĩa học, và nó dựa vào những gì mà nhiều người coi là theo quan điểm truyền thống. Nhưng nó cũng chú trọng đúng mực đến những phát triển mới mẽ trong những năm gần đây, với tư cách là thành quả của sự hợp tác không ngừng tăng tiến giữa các nhà ngôn ngữ học và các đại diện của các ngành khoa học khác, bao gồm lô-gic hình thức và triết học ngôn ngữ, và nó xem xét những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của một số khái niệm quan trọng nhất mà ngữ nghĩa học hiện nay đang chia sẻ với những dạng nghĩa học phi ngôn ngữ khác.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (4)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.4. Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi'

Từ 'langue' (ngôn ngữ) trong tiếng Anh, giống như từ 'meaning' (nghĩa), có một phổ rộng về nghĩa (hoặc nhiều nghĩa). Nhưng điều đầu tiên và quan trọng nhất cần nói về từ 'language' là, cũng như từ 'meaning' và một vài danh từ tiếng Anh khác, nó mang tính nước đôi về quy loại (categorially ambivalent) xét theo đặc trưng ngữ nghĩa quan yếu về số tính(countability); tức nó có thể được dùng (giống như 'thing', 'idea'v.v...) với tư cách là một danh từ đơn vị (nghĩa là, khi nó được dùng ở số ít, nó phải đi với một mạo từ, xác định hoặc không xác định, hoặc một loại định từ (determiner) nào đó khác); nó cũng có thể được dùng (giống như 'water', 'information'v.v...) với tư cách là một danh từ khối (tức không phải là danh từ đơn vị), vốn không yêu cầu một định từ và thường biểu thị không phải một thực thể riêng lẻ thuộc về một tập hợp hoặc biểu thị nhiều thực thể, mà là một khối không rõ ranh giới hoặc một kết tập nào đó của chất liệu hay vật chất. Số tính không có được một sự thừa nhận về ngữ pháp -tức không được ngữ pháp hoá (grammaticalized) (hoặc theo lối hình thái học hoặc theo lối cú pháp học)- trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên (xem mục 10.1). Và trong những ngôn ngữ mà nó được ngữ pháp hoá thì nó cũng được ngữ pháp theo nhiều cách khác nhau.

Điều ta quan tâm ở đây là khi từ 'ngôn ngữ' được dùng như một danh từ khối ở số đơn (không có định từ), biểu thức chứa nó có thể, nhưng không nhất thiết, được xem là tương đương về nghĩa với biểu thức chứa từ 'ngôn ngữ' ở dạng thức số nhiều, được dùng với tư cách là một danh từ đơn vị. Điều này dẫn đến một hệ luận là những nhận định có chứa từ 'ngôn ngữ' ở số đơn sẽ lưỡng nghĩa. Một trong những trường hợp như vậy (được điều chỉnh từ đoạn văn thứ hai của mục 1.2 trên đây) là:

(15) A metalanguage is a language which is used to describle language.

(Siêu ngôn ngữ là ngôn ngữ được dùng để miêu tả ngôn ngữ)

Một trường hợp khác là:

(16) Linguistics is the scientific study of language.

(Ngôn ngữ học là khoa học nghiên cứu ngôn ngữ)

Từng câu (15) và (16) liệu có cùng ý nghĩa với:

(17) A metalanguage is a language which is used to describle languages.

(18) Linguistics is the scientific study of languages.

hay không?

Không thể trả lời câu hỏi này nếu không dựa vào ngữ cảnh mà câu (15) và (16) xuất hiện, và thậm chí ngay cả trong ngữ cảnh thì câu hỏi này cũng có thể không có lời giải đáp. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ kĩ, nếu không phải là tức thời, thì cái cần thấy rõ là hai câu (15) và (16), như nội dung chúng biểu thị và ngoài ngữ cảnh, là lưỡng nghĩa tuỳ theo chỗ chúng có được hiểu như là tương đương về ngữ nghĩa lần lượt với hai câu (17) và (18) hay không.

Nguyên do của sự mơ hồ đặc biệt này là: bất kì lúc nào từ 'language' (ngôn ngữ) được dùng như một danh từ khối, như ở (15) và (16), biểu thức chứa nó có thể dùng để chỉ không phải là một tập hợp các ngôn ngữ mà mỗi thành viên là (hoặc có thể được miêu tả như là) một hệ thống (system) của các từ và các quy tắc ngữ pháp, mà là để chỉ những sản phẩm (products) (sự sử dụng của) ở dạng nói hay dạng viết của một hệ thống hay một tập hợp các hệ thống cụ thể. Cái có thể được nói đến như là sự lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm (system-product ambiguity) của nhiều biểu thức ngôn ngữ có chứa từ tiếng Anh 'language' chính là liên quan đến cái sự thể vừa được nhắc đến, rằng cái từ tiếng Anh 'language' (cũng như nhiều danh từ khác trong tiếng Anh) vốn nước đôi về mặt cú pháp: tức là nó thuộc về hai tiểu lớp danh từ phân biệt nhau về mặt cú pháp (danh từ đơn vị và danh từ khối). Và cũng có trường hợp, khi nó được dùng với tư cách là một danh từ khối ở số ít thì biểu thức ngôn ngữ chứa nó có thể dùng để chỉ ra hoặc là cái sản phẩm (sự sử dụng) của một ngôn ngữ, hoặc là cái tổng số (hay mẫu tiêu biểu) các ngôn ngữ.

Những biểu thức ngôn ngữ chứa các từ 'English', 'French', 'German' v.v... lại cho thấy một kiểu lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm có liên quan nhưng hơi khác, khi chúng được dùng như là những danh từ khối ở số ít (trong những ngữ cảnh nhất định). Ví dụ:

(19) That is English

có thể được dùng hoặc để chỉ một ngôn bản hay phát ngôn cụ thể, theo nghĩa chính xác của từ, hoặc theo một lối khác, để chỉ chính cái ngôn ngữ-hệ thống (language-system) sản sinh ra các văn bản và phát ngôn cụ thể. Sự mơ hồ này là hiển nhiên bởi theo một cách hiểu về câu (19), không tính cách hiểu khác, thì biểu thức từ đơn lẻ 'English' có thể được thay thế bởi ngữ đoạn 'the English language' (tiếng Anh). Rõ ràng là chúng ta không thể đồng nhất bất kì các phát ngôn tiếng Anh cụ thể nào với chính tiếng Anh. Và cũng rõ ràng, trong những trường hợp như vậy, tính nước đôi cú pháp làm nảy sinh sự lưỡng nghĩa, nói đúng ra, không phải giữa danh từ đơn vị và danh từ khối, mà là giữa các danh từ riêng (đơn vị) và các danh từ chung (khối).

Cái mà tôi đã nêu ra như là sự lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm có liên quan đến tính nước đôi về phạm trù của từ 'language' (ngôn ngữ) là tương đối rõ, như nó vừa được giải thích. Nhưng từ trước đến nay nó vẫn là, và tiếp tục sẽ là, nguồn gốc của rất nhiều lẫn lộn về lí thuyết. Có một cách tránh được ít nhất một vài trong số những nhầm lẫn như vậy, đó là cách không bao giờ, về phương diện siêu ngôn ngữ, dùng từ tiếng Anh 'language' (ngôn ngữ) như là một danh từ khối khi mà biểu thức ngôn ngữ chứa nó có thể được thay thế đồng nghĩa bởi một biểu thức chứa từ 'language', được dùng như một danh từ đơn vị. Cách giải quyết này sẽ được giữ nguyên nhất quán trong các phần trình bày tiếp theo; và các sinh viên được khuyên nên chấp nhận cách giải quyết giống như vậy.

Một cách khác để tránh né, hoặc làm giảm thiểu, sự mơ hồ và lẫn lộn gây ra bởi tính nước đôi về cú pháp (hoặc phạm trù) của cái từ tiếng Anh hàng ngày 'language' cũng như một vài ý nghĩa của nó là đặt ra những thuật ngữ đặc biệt hơn để thay thế nó. Đó là những thuật ngữ 'langue' (ngữ ngôn) và 'parole' (lời nói) nay được dùng rộng rãi, mà Saussure (1916) là người dùng đầu tiên với nghĩa thuật ngữ trong tiếng Pháp, 'competence' (ngữ năng) và 'performance' (ngữ thi), mà Chomsky (1965) đã nêu ra như là những thuật ngữ ngôn ngữ học.

Trong tiếng Pháp hàng ngày, phi kĩ thuật thì danh từ 'langue' (ngữ ngôn) là một trong hai từ mà nếu phối hợp với nhau thì sẽ có cùng phạm vi ý nghĩa hoặc các ý nghĩa tương đương với cái từ tiếng Anh 'language' (ngôn ngữ). Cái từ tiếng Pháp khác là 'langage'. Hai từ tiếng Pháp này phân biệt với nhau về mặt ngữ pháp và ngữ nghĩa ở một vài phương diện. Trong bối cảnh mà ta quan tâm, hai sự khác biệt quan trọng là: (i) 'langue', trong đối lập với 'langage', luôn luôn được dùng như một danh từ đơn vị; (ii) 'langue' biểu thị cái thường được coi là ngôn ngữ tự nhiên và, không giống như từ 'langage', nó thường không được dùng để chỉ: (a) những ngôn ngữ hình thức nhân tạo (tức phi tự nhiên) của lô gic học, toán học, tin học, (b) những hệ thống giao tiếp ngoài ngôn ngữ (extralinguistic) hoặc kèm ngôn ngữ như cái vẫn được gọi một cách phổ biến là ngôn ngữ cử chỉ, hoặc (c) những hệ thống giao tiếp không thuộc con người. Cái sự thể rằng tiếng Pháp (giống như tiếng Italia, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha và các ngôn ngữ Romane khác) có đến hai từ không tương đương với nhau về nghĩa, tự bản thân nó là rất thú vị. Nó khẳng định một luận điểm đã được nói đến từ trước về cái từ 'nghĩa' của tiếng Anh: cái siêu ngôn ngữ hàng ngày được lấy từ một ngôn ngữ tự nhiên này không nhất thiết tương đương về nghĩa, toàn bộ hoặc bộ phận, với cái siêu ngôn ngữ hàng ngày được lấy từ một ngôn ngữ tự nhiên khác. Nhưng điều này được nêu ra ở đây là gắn với sự phân biệt của Saussure về 'ngữ ngôn' và 'lời nói'.

Những biểu thức ngôn ngữ chứa từ tiếng Pháp 'langage' cũng chịu cùng một kiểu lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm như các biểu thức ngôn ngữ chứa từ tiếng Anh 'language' phải chịu. Nhưng những biểu thức chứa từ 'langue' thì không thế. Chúng luôn luôn chỉ cái mà tôi gọi là ngôn ngữ-hệ thống (và theo phạm vi hẹp của từ 'langue', đối lập với cái từ tiếng Anh 'language', chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên). Điều này luôn đúng, bất chấp cái sự thể là từ 'langue' trong tiếng Pháp có được dùng theo nghĩa thuật ngữ hay không.

Từ 'parole' (lời nói) trong tiếng Pháp hàng ngày có một số ý nghĩa liên quan hoặc chồng lên nhau. Trong cái nghĩa mà ta quan tâm ở đây, nó bao hàm một phần cái nội dung của từ tiếng Pháp 'langage' và từ tiếng Anh 'language' khi được dùng với tư cách là những danh từ khối. Nó biểu thị chính cái sản phẩm hoặc những sản phẩm mà việc sử dụng một ngôn ngữ-hệ thống đem lại. Tuy nhiên, không giống như các từ 'langage' và 'language', nó chỉ dùng để chỉ ngôn ngữ nói, tức chỉ cái sản phẩm lời nói. Hệ quả là, sự phân biệt mà Saussure nêu ra giữa 'langue' (ngữ ngôn) và 'parole' (lời nói) đã thường xuyên bị trình bày sai lạc, trong tiếng Anh cũng như một số ngôn ngữ Châu Âu khác, bao gồm tiếng Đức, tiếng Nga, với tư cách là một sự phân biệt giữa ngôn ngữ (language) và lời nói (speech).

Sự phân biệt mang tính bản chất, như ta vừa thấy, là giữa một hệ thống (gồm một bộ các quy tắc ngữ pháp và một vốn từ vựng) với cái sản phẩm của (sự sử dụng của) chính cái hệ thống đó. Lưu ý rằng ở đây, cũng như từ đầu mục này, tôi đã đưa ngữ đoạn 'sự sử dụng của' vào trong dấu ngoặc đơn. Điều này dẫn ta đến một luận điểm thứ hai, một luận điểm nhất thiết phải nêu ra, không chỉ về sự phân biệt của Saussure giữa 'ngữ ngôn' và 'lời nói', mà còn về sự phân biệt của Chomsky giữa 'ngữ năng' và 'ngữ thi', vốn cũng gây ra nhiều nhầm lẫn lí thuyết.

Khái niệm 'ngữ năng' (đầy đủ hơn, là 'năng lực ngôn ngữ' hoặc 'năng lực ngữ pháp') được Chomsky dùng để chỉ cái ngôn ngữ-hệ thống lưu trữ trong đầu của những cá nhân được cho là biết, hoặc có năng lực đối với cái ngôn ngữ đang xét. Năng lực ngôn ngữ, trong cái nghĩa này, luôn luôn là năng lực đối với một ngôn ngữ cụ thể. Những người bản ngữ thường có được nó ngay từ hồi thơ ấu (trong những điều kiện môi trường bình thường) nhờ sự tương tác của: (i) cái khả năng ngôn ngữ riêng của con người và được di truyền (cái khả năng này được Chomsky gọi bằng thuật ngữ 'ngữ pháp phổ quát') và (ii) một số lượng đủ các phát ngôn làm mẫu được trình bày thích đáng, vốn có thể phân tích (với sự trợ giúp của những tri thức bẩm sinh của đứa trẻ về những nguyên tắc và tham số của ngữ pháp phổ quát) với tư cách là những sản phẩm của cái ngôn ngữ-hệ thống đang phát triển. Có nhiều chi tiết trong lí thuyết của Chomsky về sự thủ đắc ngôn ngữ và về ngữ pháp phổ quát gây tranh cãi về phương diện triết học cũng như tâm lí học. Nhưng điều này không quan yếu đối với những quan tâm hiện thời của chúng ta. Lúc này, có một điều được thừa nhận, hoặc cần phải được thừa nhận: cái mà Chomsky gọi là ngữ năng trong những ngôn ngữ tự nhiên cụ thể, về phương diện vật lí thần kinh, là được lưu trữ trong não các thành viên của những cộng đồng ngôn ngữ cụ thể. Và khái niệm 'ngữ năng' của Chomsky, được giải thích như thế, xét theo mục đích hiện thời, có thể được đồng nhất với khái niệm 'ngữ ngôn' của Saussure.

Nếu Chomsky phân biệt 'ngữ năng' và 'ngữ thi' thì Saussure phân biệt 'ngữ ngôn' và 'lời nói'. Nhưng 'ngữ thi' không thể dễ đồng nhất với 'lời nói' như cái cách mà 'ngữ năng' được đồng nhất với 'ngữ ngôn'. Nói một cách nghiêm ngặt thì 'ngữ thi' biểu thị cái cách dùng ngôn ngữ-hệ thống, trong khi 'lời nói' biểu thị những sản phẩm của cái cách dùng đó. Tuy vậy, sự phân biệt về thuật ngữ này không phải bao giờ cũng được duy trì. Thuật ngữ 'ngữ thi' của Chomsky (giống như thuật ngữ 'cách ứng xử') thường được các nhà ngôn ngữ học sử dụng để chỉ một cách không phân biệt, hoặc lập lờ, cả cách dùng hệ thống lẫn những sản phẩm của cách dùng hệ thống. Ngược lại, thuật ngữ 'lời nói' hiếm khi, nếu có, được dùng để chỉ một cái gì khác ngoài sản phẩm của việc sử dụng những ngôn ngữ-hệ thống cụ thể. Cái ta muốn, bây giờ cần làm rõ, không phải là một sự phân biệt tay đôi giản đơn giữa một hệ thống và những sản phẩm của nó mà là một sự phân biệt tay ba, trong đó sản phẩm ('lời nói') được phân biệt không những với hệ thống mà còn với quá trình ('ngữ thi', 'cách ứng xử', 'cách dùng' v.v...). Cho dù chúng ta có dùng một vốn từ vựng siêu ngôn ngữ đặc biệt cho mục đích này hay không thì điều quan trọng vẫn là: cái sản phẩm thu được từ quá trình sử dụng một ngôn ngữ cần được phân biệt cẩn thận với bản thân quá trình ấy.

Nhiều danh từ tiếng Anh thường ngày phái sinh từ động từ là giống với từ 'ngữ thi' ở chỗ chúng có thể được dùng để chỉ cả quá trình lẫn sản phẩm của nó. Chúng bao gồm bản thân danh từ 'production' (sự tạo thành) và một loạt các danh từ có liên quan về ngữ nghĩa như 'creation' (sự chế tác), 'composition' (sự hợp thành), 'construction' (sự cấu tạo). Chúng cũng bao gồm những từ của ngôn ngữ thường ngày (tức siêu ngôn ngữ thường ngày) như 'speech' (lời nói), 'writing' (viết), 'utterance' (phát ngôn) và nhiều từ khác. Hai cái nghĩa hệ thống của các từ này không được lẫn lộn với nhau, như chúng đã và đang lẫn lộn, và tiếp tục bị lẫn lộn, trong nhiều giáo trình ngôn ngữ học. Điểm này, như chúng ta sẽ thấy, có tầm quan trọng đặc biệt khi xác định khái niệm 'ngữ dụng học'.

Rất nhiều điều được nói trong mục này có liên quan không chỉ đối với những vấn đề có thể nảy sinh nếu chúng ta không thận trọng trong cách dùng những từ ngữ hàng ngày như 'ngôn ngữ', 'lời nói' mà còn đối với một loạt những vấn đề khác sẽ được đề cập tiếp theo đây. Điều cốt tử là, những người mới làm quen với ngữ nghĩa học cần phải ý thức về cái mà tôi sẽ gọi ra đây như là sự tam phân hệ thống-quá trình-sản phẩm (system-process-product trichotomy). Những sinh viên đã quen với những nguyên tắc của ngữ pháp tạo sinh hiện đại và nghĩa học hình thức sẽ biết rằng, có những điều chỉnh được thực hiện đối với sự phân tích ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ theo cái trục hệ thống-quá trình-sản phẩm vừa được trình bày ở đây. Đặc biệt, các thuật ngữ 'quá trình' và 'sản phẩm' còn có một nghĩa trừu tượng hơn, mang tính chất toán học, theo đó người ta nói rằng các câu được tạo ra, hay sản sinh ra, bởi một ngữ pháp hoạt động trên một thành tố từ vựng hữu quan. Cái nghĩa trừu tượng hơn này của thuật ngữ 'quá trình' (giống như cái nghĩa trừu tượng hơn của thuật ngữ 'câu', là thuật ngữ dựa vào nó và sẽ được giải thích ở một thời điểm thích hợp), về phương diện lô gic, là độc lập với cách sử dụng cũng như ngữ cảnh và có thể được xem như là ở bên trong hệ thống. Nhưng tạm thời, chúng ta không quan tâm đến những câu hỏi mang tính kĩ thuật kiểu này. Ta có thể ngao du khá xa trong ngữ nghĩa học trước khi ta phải bàn đến những tiến triển gần đây trong ngôn ngữ học lí thuyết và lô gic hình thức.

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (5)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.5. Từ: dạng thức và nghĩa

Đây là lúc thuận lợi để đưa ra những quy ước trình bày nhằm phân biệt dạng thức và nghĩa, cơ sở cho các thao tác của ta trong suốt cuốn sách này. Ngay từ ví dụ đầu tiên, đã có những giải thích về dạng thức và ý nghĩa của từ. Sự giải thích này sau đó có thể mở rộng, như chúng ta sẽ thấy, cho các ngữ đoạn, câu và các biểu thức ngôn ngữ khác.

Một trong những giả định ngầm ẩn mà ta đã tuân thủ và bây giờ có thể được làm rõ là các từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác, gồm ngữ đoạn và câu) thì có ý nghĩa. Chúng cũng có dạng thức (form): thực tế, trong tiếng Anh cũng như bất kì các ngôn ngữ tự nhiên khác, những ngôn ngữ gắn với một hệ thống chữ viết, bất luận là theo thứ tự bảng chữ cái hay không, và được dùng rộng rãi, thì từ có cả dạng thức nói lẫn dạng thức viết được chấp nhận theo quy ước. (Trong một số trường hợp, cùng một ngôn ngữ nói lại gắn với những hệ thống chữ viết khác nhau, cho nên cùng một từ được nói ra có thể có vài dạng thức chữ viết khác nhau. Ngược lại, và thú vị hơn, nhiều ngôn ngữ nói (spoken languages) khác biệt nhau về âm vị học lại có thể thể gắn bó với không chỉ cùng một hệ thống chữ viết mà còn với cùng một ngôn ngữ viết (written language), miễn sao, như trường hợp của cái được gọi là những phương ngôn của tiếng Trung Quốc hiện đại, tồn tại một mức độ thích đáng về tính đẳng hình (isomorphism) ngữ pháp và đẳng hình từ vựng trong số các ngôn ngữ nói khác nhau đó, tức là một mức độ đồng nhất được chấp nhận về cấu trúc ngữ pháp và từ vựng). Nói chung, chúng ta không cần phải nêu ra sự phân biệt giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, mặc dù để thực hiện điều đó, khi cần thiết thì một số quy ước đã được xác lập khá hoàn hảo trong ngôn ngữ học (bao gồm việc sử dụng các kí hiệu phiên âm quốc tế, được đặt trong dấu ngoặc vuông hoặc dấu nghiêng để biểu thị các dạng thức ngữ âm hay âm vị). Tuy nhiên, chắc chắn cần phải phân biệt cái đơn vị từ (được xem như là một đơn vị hai mặt) với cả dạng thức lẫn ý nghĩa của nó. Và để thực hiện điều này, ta có thể sử dụng cái dạng thức viết thường ngày của từ để biểu thị không chỉ bản thân cái từ đó như là một đơn vị có hai mặt hình thức và nội dung, mà còn để biểu thị hoặc dạng thức hoặc ý nghĩa, được coi là độc lập với nhau. Người ta đã làm như vậy khi dùng tiếng Anh và các ngôn ngữ thường ngày khác làm siêu ngôn ngữ trình bày. Tuy nhiên, để làm rõ chức năng nào trong số ba chức năng siêu ngôn ngữ khác nhau trên đây đã được cái dạng thức viết của từ thực thi trong một trường hợp cụ thể, ta cần xác lập những quy ước trình bày đặc biệt.

Đáng tiếc là, những quy ước trình bày được các nhà ngôn ngữ học sử dụng phổ biến nhất lại không thể phân biệt rõ ràng và nhất quán, một mặt, giữa các từ (và các biểu thức khác) và mặt khác, giữa các dạng thức hoặc ý nghĩa của chúng. Trong cuốn sách này, các dấu trích đơn (single quotation-marks) sẽ được dùng để biểu thị từ và các đơn vị hai mặt với cả dạng thức lẫn nghĩa khác; các chữ in nghiêng (italic) (không có dấu trích) để biểu thị dạng thức (bất luận ở dạng nói hay dạng viết); và dấu trích kép (double quotation-marks) để biểu thị nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống).

Với một chút ngẫm nghĩ, ta sẽ thấy rằng tất cả những gì được ta thực hiện cho đến bây giờ là hệ thống hoá và điển chế hoá (tức quy định) một số quy ước về tiếng Anh viết với tính cách là siêu ngôn ngữ đời thường, nhằm vào những mục đích riêng của chúng ta. Khi những người sử dụng tiếng Anh bình thường (hoặc những ngôn ngữ tự nhiên khác) muốn dẫn ra một từ, họ sẽ trích dẫn nó hoặc dưới dạng viết hoặc dưới dạng nói, tuỳ từng trường hợp. Ví dụ, họ có thể nói:

(20) Can you tell me what 'sequipdalian' means?

(Bạn có thể nói cho tôi biết từ 'sequipdalian' có nghĩa là gì không?)

và câu trả lời có thể là:

(21) I'm sorry, I can't: look it up in the dictionary

(Rất tiếc là tôi không thể: hãy xem nó trong từ điển)

ở đây, từ 'it' (nó) , trong ngữ cảnh, vừa chỉ ra lại vừa có thể được thay thế bằng từ 'sequipdalian'. Tương tự, những từ điển quy ước của tiếng Anh và các thứ tiếng khác gắn với một hệ thống chữ viết ghi âm tố sẽ đồng nhất từ với dạng thức của chúng, liệt kê chúng theo một trật tự chữ cái thuần tuý quy ước, vốn được dạy ở trường phổ thông nhằm vào chính mục đích này.

Ta vừa công khai chấp nhận một quy ước trình bày để phân biệt từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác) với cả nghĩa lẫn dạng thức của chúng. Nhưng trong nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, từ cũng có thể có hơn một dạng thức. Chẳng hạn, danh từ 'man' (người đàn ông) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp man, man's, men và man's; động từ 'sing' (hát) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp sing, sings, singing, sang và sung; v.v... Các dạng thức khác biệt về ngữ pháp của cùng một từ này được truyền thống miêu tả như là các dạng thức biến hình (inflectional): giống như phần lớn các danh từ đếm được trong tiếng Anh, danh từ 'man' biến đổi hình thái theo các đặc trưng ngữ pháp (chính xác hơn, là các đặc trưng hình thái-cú pháp (morphosyntactic) về số ít/số nhiều và sở hữu; giống như phần lớn các động từ trong tiếng Anh, động từ 'sing', biến đổi hình thái theo các phạm trù ngữ pháp về thời (thời hiện tại khác với thời quá khứ) v.v... Một số ngôn ngữ biến đổi hình thái ở mức độ cao hơn các ngôn ngữ khác. Tiếng Anh, khác với tiếng Nga hoặc tiếng Latin, hoặc thậm chí khác với tiếng Pháp, tiếng Italia... hay tiếng Đức, không có nhiều biến thể hình thái trong dạng thức của từ; và một số ngôn ngữ (được gọi là ngôn ngữ phân tích tính, hay ngôn ngữ đơn lập) đáng chú ý như tiếng Việt, tiếng Hán thì không biến hình. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa từ và dạng thức của nó là quan trọng, ngay cả khi từ không có các dạng thức biến hình phân biệt.

Đối với tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, trong số các dạng thức biến hình của một từ, một dạng thức sẽ được quy ước xem như là dạng trích dẫn (citation-form), nghĩa là dạng được dùng để trích, để chỉ ra chính cái từ mà nó đại diện với tư cách là một phức thể. Và đó thường là dạng trích dẫn thường được thấy, theo thứ tự bảng chữ cái, ở đầu mỗi mục từ trong các từ điển quy ước tiếng Anh và những ngôn ngữ gắn bó với hệ thống văn tự xếp theo bảng chữ cái khác.

Cái dạng trích dẫn thường ngày của một từ được chấp nhận theo quy ước không nhất thiết phải là cái dạng thức mà nhà ngôn ngữ học có thể xác định như là gốc từ hoặc thân từ. Nói chung thì trong tiếng Anh ngẫu nhiên mà dạng trích dẫn thường ngày của phần lớn các từ trùng với thân từ của chúng, trừ các động từ. Nhưng tình hình như vậy không xảy ra ở tất cả các ngôn ngữ. Trong cuốn sách này, đối với tất cả các ngôn ngữ khác tiếng Anh, chúng ta sẽ sử dụng bất kì dạng trích dẫn nào được thừa nhận rộng rãi nhất trong truyền thống từ điển học chủ lưu của các ngôn ngữ ấy. Trong tiếng Anh, khi xem xét động từ thì có hai cách quy ước để chọn lựa. Cách quy ước có tính thường ngày, đậm tính truyền thống hơn nhưng hiện nay ít được nhà ngôn ngữ học thừa nhận hơn, là sử dụng cái được gọi là dạng nguyên thể, vốn gồm tiểu từ to cộng với thân từ (hoặc trong trường hợp các động từ bất quy tắc, cộng với một trong các thân từ), ví dụ: 'to love', 'to sing', 'to be'... Cách quy ước ít mang tính truyền thống hơn, mà tôi chấp nhận, là sử dụng thân từ (hoặc một trong số các thân từ) không chỉ cho danh từ, đại từ, tính từ, trạng từ mà còn cả cho động từ, nghĩa là không chỉ dùng 'man', 'she', 'good', 'weel' mà còn 'love', 'sing', 'be'... Có những lí do xác đáng để chọn thân từ (hoặc một trong số thân từ) với tư cách là dạng trích dẫn trong những ngôn ngữ như tiếng Anh. Tuy nhiên, về nguyên tắc thì việc chọn một dạng thức này chứ không phải một dạng thức khác trong siêu ngôn ngữ để chỉ chính cái từ mà nó đại diện là mang tính võ đoán và chỉ là một vấn đề quy ước.

Phần lớn các từ tiếng Anh không phải chỉ có hơn một dạng thức. Chúng còn có thể có hơn một nghĩa; và xét theo khía cạnh này thì tiếng Anh là tiêu biểu cho các ngôn ngữ tự nhiên. (Mặc dù tồn tại những ngôn ngữ tự nhiên trong đó mỗi từ có một và chỉ có một dạng thức, nhưng gần như chắc rằng không có, và chưa hề có ngôn ngữ tự nhiên nào trong đó mỗi từ có một và chỉ một nghĩa). Ví dụ, từ 'food' (bàn chân) có một số nghĩa. Nếu chúng ta muốn phân biệt các nghĩa này khi trình bày, chúng ta có thể đánh số chúng và ghi kèm các số này như là chú dẫn cho các kí hiệu biểu nghĩa, ví dụ: 'food1', 'food2','food3'... Khái quát hơn, giả định rằng X là dạng trích dẫn của một từ, chúng ta sẽ biểu thị từ đó là 'X' và nghĩa của nó (tức tập hợp một hoặc hơn một các nghĩa của nó) là "X"; và nếu nó có hơn một ý nghĩa thì chúng ta có thể phân biệt các ý nghĩa này như là "X1", "X2", "X3" v.v...

Tất nhiên, việc dùng các chú dẫn như vậy chỉ là một công cụ trình bày giản tiện, không nói lên điều gì cả về nghĩa của từ. Khi nào cần phải xác định các nghĩa khác nhau chứ không phải chỉ là biểu diễn kí hiệu như trên đây, chúng ta có thể dùng lối định nghĩa hoặc khúc giải. Ví dụ, đối với từ 'foot', chúng ta có thể nói rằng "foot1" là "phần kết thúc của chân", rằng "foot2" là "phần thấp nhất của một ngọn đồi hay ngọn núi"... Làm thế nào để xác định được một định nghĩa hay cách khúc giải nào đó là đúng hay sai sẽ là vấn đề được thảo luận ở Phần 2. Ở đây tôi chỉ đơn giản quan tâm đến việc giải thích hệ thống siêu ngôn ngữ mà tôi đang sử dụng. Nhưng ở điểm này tôi cũng nên nói rõ là việc sử dụng hệ thống trình bày mà tôi đang xây dựng đây là dựa vào giả định rằng các nghĩa của từ đều mang hai đặc điểm sau: (i) tách biệt, và (ii) có thể phân biệt với nhau. Giả định này là điều thường được những người làm từ điển (và nhà ngôn ngữ học) định ra và được phản ánh trong kết cấu của hầu hết các từ điển chuẩn tắc.

Nhưng đối với những sinh viên trước đó chưa hề có kinh nghiệm về việc này thì việc lấy một số các từ tiếng Anh chung, như là 'foot', 'game', 'table', 'tree'... và tra chúng trong một vài từ điển tường giải có uy tín sẽ là một kinh nghiệm hữu ích. Họ sẽ phát hiện nhiều khác biệt chi tiết, không chỉ về các định nghĩa được đưa ra, mà còn cả về số lượng các nghĩa được gán cho mỗi từ. Họ cũng sẽ thấy rằng một số từ điển, chứ không phải là tất cả, thể hiện những phân biệt ở mức độ chi tiết hơn, chẳng hạn như không chỉ phân biệt "X1" với "X2", "X3"... mà còn phân biệt "X1a" với "X1b", "X1c" v.v... ít nhất thì việc so sánh một số từ điển khác nhau theo cách như vậy cũng sẽ giúp làm sáng tỏ một điều là thật không dễ xác định một từ có bao nhiêu nghĩa, như những suy nghĩ loáng thoáng ban đầu có thể tưởng tượng ra. Nó cũng sẽ khiến ta nghi ngờ cái quan điểm cho rằng mọi từ điển đều đáng tin như nhau, và cũng nghi ngờ cái quan điểm ngược lại rằng một từ điển cá biệt nào đó (từ điển tiếng Anh của Oxford, của Webster v.v...) là duy nhất đáng tin cậy. Thực tế, nó thậm chí còn gieo thêm nghi ngờ rằng trong nhiều trường hợp, việc xác định một từ có bao nhiêu nghĩa không chỉ là khó khăn về mặt thực hành, mà còn là bất khả thi về nguyên tắc. Nghi ngờ này, như ta sẽ thấy, được khẳng định bởi những thể nghiệm lí thuyết và thực hành từ điển học về sau.

Bây giờ cần nói đôi chút về hiện tượng các từ đồng âm (homonyms): các từ khác nhau nhưng có cùng một dạng thức (theo định nghĩa truyền thống). Phần lớn các từ điển phân biệt các từ đồng âm bằng cách gán cho chúng các chữ số (hoặc con chữ) phân biệt và cấp cho mỗi từ đồng âm một mục từ riêng. Chúng ta sẽ dùng các chú thích chữ số. Ví dụ, các từ 'bank1', có nghĩa là "tổ chức tài chính", và 'bank2', có nghĩa là "sườn dốc của một con sông", được xem là các từ đồng âm (xem hình 1.1). Việc chúng được các tác giả hoặc các nhà biên soạn của một cuốn từ điển nào đó phân loại là những từ đồng âm - tức những từ riêng biệt nhau (phần lớn các từ điển tiếng Anh đều phân loại chúng như vậy) - là quá rõ bởi chúng được cấp cho những mục từ riêng rẻ (bất chấp chúng có được đính kèm các con số hoặc con chữ phân biệt hay không). Một điều được giả định là những ai tham khảo từ điển đều có một hiểu biết cảm tính nào đó về khái niệm đồng âm truyền thống, thậm chí ngay cả khi họ không biết thuật ngữ truyền thống dùng để chỉ hiện tượng này, ví dụ, mặc nhiên là những người tham khảo từ điển sẽ nhất trí rằng 'bank1' là một từ khác biệt với 'bank2' và về mặt trực giác thìhiểu được rằng nói chúng là những từ khác biệt nhau thì ngụ ý gì. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy ở Phần 2, khái niệm truyền thống về đồng âm không thật rõ ràng như ấn tượng đầu tiên của ta về nó và cần được làm rõ hơn. Mặc dù ta tạm hoãn lại cuộc thảo luận đầy đủ hơn về từ đồng âm, thì vẫn có thể là hữu ích nếu ta trả lời trước một câu hỏi có thể đã xuất hiện ở bạn đọc, liên quan đến một hoặc hai ví dụ tôi vừa dẫn ra trong mục này. Nếu từ đồng âm là những từ có cùng dạng thức nhưng khác nhau về ý nghĩa thì tại sao chúng ta lại nói, ví dụ, "phần cuối của một cái cẳng chân" và "phần thấp nhất của một một ngọn đồi hay ngọn núi" là những nghĩa khác nhau của cùng một từ 'foot'. Phải chăng ta không nên nói, như đã nói về các từ 'bank1' và 'bank2',rằng hai từ khác nhau, 'foot1' và 'foot2',là có liên quan với nhau?

Hình 1.1

Nói một cách ngắn gọn thì có hai lí do để 'bank1' và 'bank2' được truyền thống xem là hai từ đồng âm. Trước hết, chúng khác biệt nhau về mặt từ nguyên (etymologically): 'bank1' được mượn từ tiếng Ý (so sánh với từ tiếng Ý hiện đại 'banca'); còn 'bank2' có thể được truy dấu vết từ tiếng Anh trung đại, và xa hơn là có nguồn gốc từ một từ Scandinavian (suy cho cùng thì có liên quan đến nguồn gốc German của từ tiếng Ý 'banca', nhưng khác biệt với nó trong quá trình phát triển lịch sử). Thứ hai, chúng được xem là không liên quan về ngữ nghĩa (semantically unrelated), tức người ta cho rằng không có mối liên hệ, chính xác hơn, là không có mối liên hệ được cảm nhận về mặt đồng đại nào giữa nghĩa của 'bank1' và 'bank2'. Trong khi đó, hai ý nghĩa (hoặc hơn) của từ 'foot' là có liên quan về từ nguyên và ngữ nghĩa; trật tự đánh số và liệt kê chúng trong từ điển nói chung phản ánh quan điểm của người biên soạn về mức độ quan hệ gần gũi nhau của chúng, hoặc về phương diện lịch sử hoặc về phương diện đồng đại.

Khái niệm về mối liên hệ ngữ nghĩa sẽ được chúng ta xem xét kĩ hơn về sau, độc lập với việc khái niệm đồng âm đóng vai trò như thế nào (hoặc thực sự là có vai trò gì không) trong ngữ nghĩa học hiện đại. Bây giờ, chỉ cần lưu ý rằng, một khi đã chấp thuận khái niệm đồng âm của truyền thống, thường chúng ta có thể xác định một nghĩa của từ như là cái nghĩa trung tâm hơn (hoặc, nói theo cách khác, như là cái nghĩa trội hơn về ngữ cảnh) so với các nghĩa khác. Đây chính là cái nghĩa mà tôi muốn độc giả nghĩ đến mỗi khi tôi viện đến nghĩa của từ (mà không hề nói gì thêm) bằng kí hiệu dấu trích kép đã được giới thiệu trên đây. Khi cần thiết, một nghĩa có thể được phân biệt với các nghĩa khác bằng các kí hiệu chú thích hoặc bằng cách đính kèm, trong dấu trích kép, một khúc giải hay một định nghĩa (bộ phận) phù hợp với mục đích của ta. Như ta vừa thấy, các từ đồng âm có thể được phân biệt với nhau theo cùng một cách. Ví dụ, ta có thể phân biệt 'sole1' với 'sole2' (với giả định rằng đây đích thực là hai từ đồng âm, ở đây trực cảm của các độc giả có thể rất khác biệt nhau), bằng cách nói rằng từ thứ nhất có nghĩa (nôm na) là "phần đáy của bàn chân hay giày" và từ thứ hai là "một loại cá". Tuy nhiên, phải thấy rằng kí hiệu trình bày, tự bản thân nó, chẳng qua cũng chỉ là một công cụ mà, như các công cụ khác, cần được sử dụng với một sự thận trọng và một kĩ năng thích hợp. Luận điểm này đáng được nêu ra ở đây, liên quan đến nhiệm vụ tương đối đơn giản - gần như là tầm thường - về những quy định đối với việc sử dụng chữ in nghiêng và các dấu trích cho các kiểu quy chiếu siêu ngôn ngữ khác nhau. Nó càng quan trọng hơn khi ta dùng đến các kí hiệu trình bày đặc biệt hơn, sẽ được giới thiệu trong các chương tiếp theo.

Như tôi đã nói từ trước, trong nhiều trường hợp hiện tượng đồng âm không thể được xác định chắc chắn như các trường hợp vừa được dẫn ra trong mục này khi nói về 'bank1' và 'bank2' hoặc 'sole1'và 'sole2'. Điều này sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương 2. Ta cũng làm như vậy đối với sự khác biệt giữa những biến thể ngữ nghĩa mà theo đó, thuật ngữ 'từ' được dùng theo cả nghĩa chuyên môn lẫn nghĩa thông thường hàng ngày. Cho đến lúc đó, 'từ' sẽ được sử dụng một cách lỏng lẻo và, như ta sẽ thấy ngay sau đây, mơ hồ (như nó thường được dùng trong đời thường). Trong lúc đó, độc giả nên lưu ý thường xuyên về tầm quan trọng của việc không được lẫn lộn các biểu thức ngôn ngữ tự nhiên, như từ, ngữ đoạn và câu, với dạng thức của chúng (hoặc bất kì dạng thức nào trong số các dạng thức của chúng). Muốn vậy, cần chú ý đặc biệt đến các quy ước trình bày đã được giới thiệu trên đây.

Cuối cùng, độc giả cũng nên chú ý là: (i) có thể có sự không ăn khớp nhau giữa dạng thức nói và dạng thức (hoặc các dạng thức) viết của từ (như đã được nêu ra nhưng không thảo luận ở đầu mục này); (ii) có nhiều cách khác nhau, theo đó các dạng thức có thể được coi là đồng nhất với nhau hoặc không. Việc dùng thuật ngữ 'dạng thức' (và cả cái từ phái sinh của nó 'thuộc về dạng thức') trong ngôn ngữ học đôi khi vừa lộn xộn vừa gây khó hiểu (xem Lyons 1968: 135-137). Tạm thời, về (i) và (ii), tôi thấy chỉ cần giải thích một cách vắn tắt các biến thể nghĩa hệ thống của thuật ngữ 'dạng thức' có quan hệ với nhau như thế nào và làm sao chúng có thể được phân biệt với nhau nếu cần phải phân biệt và khi cần phải phân biệt.

Ta đã bắt đầu từ sự phân biệt mang tính siêu ngôn ngữ, ít nhiều có tính đời thường, phi chuyên môn, giữa dạng thức và nghĩa bằng cách nói rằng từ (và các biểu thức khác) không phải là có dạng thức, mà là có một dạng thức. Sau đó ta thấy rằng, ở một số trường hợp và ở một số ngôn ngữ, từ (và các biểu thức khác) có thể có hơn một dạng thức, vốn thường - có điều không nhất thiết - phân biệt với nhau theo chức năng ngữ pháp. Ta hãy tạm thời bỏ qua cái thực tế là từ có thể có hơn một dạng thức phân biệt với nhau về ngữ pháp (hoặc về biến hình): nói như vậy tức cũng giả định rằng ta chỉ (tạm thời) quan tâm đến các ngôn ngữ đơn lập, hoặc phân tích tính, như tiếng Hán cổ (Classical Chinese) hoặc tiếng Việt.

Lợi dụng khả năng có thể dùng từ 'form' (dạng thức) vừa như một danh từ đơn vị, vừa như một danh từ khối (như tôi đã thực hiện trong đoạn văn trên và trong suốt mục này), bây giờ ta có thể nói rằng hai dạng thức là đồng nhất (theo một nghĩa nào đó về 'đồng nhất') nếu chúng có cùng một dạng thức. Ví dụ, hai dạng thức nói sẽ đồng nhất về mặt ngữ âm nếu cùng có cùng một cách phát âm; hai dạng thức viết (trong một ngôn ngữ dùng văn tự ghi âm tố) sẽ đồng nhất về chính tả nếu chúng có cùng cách viết. (Sự đồng nhất chính tả cần lập thức hơi khác đối với những ngôn ngữ dùng văn tự không ghi âm tố, nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng khái niệm đồng nhất chính tả cho những ngôn ngữ như vậy). Trong chừng mực ta quan tâm đến ngôn ngữ nói, một sự phân biệt xa hơn có thể được chỉ ra, giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất âm vị. Những sinh viên đã quen với sự phân biệt này sẽ thấy được các vấn đề liên quan trong những trường hợp cụ thể; còn những ai không quen với sự phân biệt này thì không cần bận tâm đến nó. Chính sự đồng nhất thông thường về âm vị là vấn đề gây tranh cãi trong ngữ nghĩa học. Nhưng để đơn giản cho việc trình bày, ở điểm này tôi sẽ không nói đến sự khác biệt giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất âm vị, tôi chỉ đơn giản đề cập đến những dạng thức đồng nhất hay không đồng nhất về ngữ âm (ở giọng điệu hay phương ngữ nào đó).

Tiếng Anh (ở hầu hết các phương ngữ) minh hoạ dễ dàng cho cái thực tế rằng hai (hoặc nhiều hơn) dạng thức viết có thể đồng nhất về mặt ngữ âm: so sánh soul và sole, great và grate, hoặc red và read (theo một trong số các cách phát âm khác nhau của nó). Tiếng Anh cũng cho thấy rằng hai hoặc hơn hai dạng thức khác nhau về ngữ âm có thể đồng nhất về mặt chữ viết: so sánh read ( trong have read đối lập với will read), blessed (trong The bishop blessed the congregation đối lập với Blessed are the peacemarkers). Kiểu đồng nhất mà ta vừa thảo luận và minh hoạ như vậy có thể được gọi là đồng nhất chất liệu (meterial identity). Như tôi đã giải thích, nó phụ thuộc vào cái phương tiện dùng để hiện thực hoá dạng thức. Có thể mở rộng và trau chuốt lại khái niệm về sự đồng nhất chất liệu, tuy nhiên sự trình bày phần nào sơ lược của tôi về vấn đề cũng đã đủ để phục vụ cho những mục tiêu được giới hạn có chủ đích của cuốn sách này.

Bây giờ ta hãy thảo luận cái thực tế là trong nhiều ngôn ngữ tự nhiên, bao gồm cả tiếng Anh, được gọi bằng tên chuyên môn là các ngôn ngữ phi đơn lập (non-isolating) hay tổng hợp tính (về mặt hình thái học), từ có thể có hai hoặc hơn hai dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp: so sánh man (số ít, phi sở hữu cách), man' s (số ít, sở hữu cách), men (số nhiều, phi sở hữu cách) và men' s (số nhiều, sở hữu cách). Như đã thấy qua bốn dạng thức của từ 'man', các dạng thức của một từ (hay các biểu thức khác) phân biệt về mặt ngữ pháp - cụ thể hơn, là các dạng thức phân biệt về biến hình của một từ - sẽ thường khác biệt nhau về chất liệu (phi đồng nhất). Nhưng sự đồng nhất về chất liệu không phải là điều kiện cần, cũng không phải là điều kiện đủ để đồng nhất các dạng thức về mặt ngữ pháp (và, cụ thể hơn, là đồng nhất về biến hình). Ví dụ, dạng thức come có thể hành chức như là một trong những dạng thức thời hiện tại của 'come' (they come), mà cũng có thể như là dạng thức được truyền thống gọi tên là quá khứ phân từ của nó (they have come). Phải chăng trong cả hai trường hợp này, ta có cùng một dạng thức come? Câu trả lời là: theo một nghĩa nào đó thì đúng như vậy, nhưng theo một nghĩa khác thì không đúng như vậy. Come trong they come cũng là come trong they have come theo cái nghĩa chúng đồng nhất về mặt chất liệu (trong cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết). Nhưng come trong they come và come trong they have come là những dạng thức biến hình (inflectional forms) khác nhau của động từ 'come'. Ngược lại, giả sử rằng có một số người thuộc cùng một biến thể tiếng Anh Chuẩn lại nói (hay viết) một cách trái khoáy là have learned trong khi những người khác nói (hay viết) have learnt (giữa hai cách nói này còn có những biến dạng khác) thì hai cái dạng thức learned và learnt khác biệt nhau về chất liệu này vẫn có thể được coi là đồng nhất (hay tương đương) về mặt ngữ pháp. Nói chính xác hơn thì: (trong biến thể tiếng Anh Chuẩn này) cùng một dạng thức ngữ pháp của từ 'learn' - hoặc cụ thể hơn trong trường hợp này, là cùng một dạng thức biến hình - đã được hiện thực hoá bởi hai dạng thức khác nhau về chất liệu (ngữ âm hoặc chữ viết).

Cuối cùng, những gì vừa được thảo luận về các kiểu đồng nhất khác nhau trên đây sẽ rất hữu ích cho những trình bày tiếp theo. Nó cũng củng cố cho luận điểm đã nêu ra trước đây về tầm quan trọng phải xác lập một bộ các thuật ngữ và các quy ước trình bày, hoặc bằng cách đặt quy định, hoặc bằng cách mở rộng, nhằm có được sự chính xác trong siêu ngôn ngữ trình bày. Nói chung, cái nghĩa mà tôi dùng cho thuật ngữ 'dạng thức' ở nhiều chỗ khác nhau trong cuốn sách này sẽ được ngữ cảnh làm rõ. Những lúc không có được một sự rõ ràng như vậy, tôi sẽ viện đến sự khác biệt vừa nêu ra ở đây giữa một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ thành phần chất liệu và một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ chức năng ngữ pháp của chúng.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (6)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.6. Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn

Ta đã giả định (và sẽ tiếp tục giả định) rằng tất cả ngôn ngữ tự nhiên đều có từ, cái đơn vị có cả hình thức lẫn ý nghĩa (1.5). Bây giờ ta hãy làm sáng tỏ thêm hai giả định mang tính thao tác, rằng: (i) tất cả ngôn ngữ tự nhiên đều có câu, vốn cũng có cả hình thức và nghĩa như vậy; và (ii) nghĩa của câu được xác định, ít nhất là một phần, bởi nghĩa của các từ trong câu. Không có giả định nào ở đây gây tranh cãi. Tuy nhiên, chúng cần được xem xét kĩ hơn trong các phần sau. Những điều chỉnh hoặc bổ sung về sau sẽ không ảnh hưởng lắm đến bất kì luận điểm chung nào được nêu trong các chương đầu tiên.

Nghĩa của câu được xác định không phải chỉ bởi nghĩa của các từ trong câu mà còn bởi cấu trúc ngữ pháp của câu. Điều này là rõ ràng: hai câu có thể được cấu tạo bởi đúng cùng một số từ (với cùng một cách giải thuyết nghĩa cho mỗi từ) nhưng lại khác biệt nhau về nghĩa. Ví dụ, hai câu (22) và (23) sau đây chứa cùng các từ (với cùng dạng thức) nhưng lại khác nhau về phương diện ngữ pháp. Một câu là câu trần thuật còn câu kia là câu nghi vấn tương ứng, và sự khác biệt về ngữ pháp giữa chúng là khớp với sự khác biệt tương ứng về nghĩa:

(22) 'It was raining yesterday'

(Hôm qua mưa)

(23) 'Was it raining yesterday?'

(Hôm qua mưa à?)

Các câu (24) và (25) cũng vậy. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cả hai đều là câu trần thuật và chúng không quan hệ với nhau với tư cách là các thành viên tương ứng của hai loại câu khớp với nhau và được xác định về ngữ pháp:

(24) 'John admires Mary'

(John ngưỡng mộ Mary)

(25) 'Mary admires John'

(Mary ngưỡng mộ John)

Lưu ý rằng tôi dùng dấu trích đơn cho câu (ngay cả khi chúng được đánh số và sắp chữ nổi bật), cũng như đã dùng đối với từ và các biểu thức có dạng thức và nghĩa khác. Điều này hợp với quy ước trình bày đã được nêu ra trong mục trước, vốn sẽ được tuân thủ suốt cuốn sách này. Trong Phần 1 và Phần 2, ta sẽ không quan tâm đến vấn đề liệu câu có phải là biểu thức ngôn ngữ theo cái nghĩa đã được dùng đối với từ và ngữ đoạn không.

Để đơn giản cho việc trình bày, tôi sẽ coi sự phân biệt giữa nghĩa của từ (word-meaning) (hoặc chính xác hơn, nghĩa từ vựng (lexical meaning)) và nghĩa của câu (sentence-meaning) là một trong những nguyên tắc chính để tổ chức cuốn sách này, dành Phần 2 cho nghĩa của từ và Phần 3 cho nghĩa của câu. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một điều rằng cách tổ chức này không hề có một hàm ý nào về tính ưu tiên của nghĩa từ vựng so với nghĩa của câu, xét theo khía cạnh lô-gic và phương pháp luận. Không cần thiết phải nêu vấn đề về tính ưu tiên của loại nghĩa nào so với loại nghĩa nào cho đến khi ta xây dựng xong khung lí thuyết và thuật ngữ. Và khi ta thực hiện được điều đó, ta sẽ thấy rằng, giống như những câu hỏi có vẻ đơn giản như vậy, vấn đề này không có chỗ cho câu trả lời dễ dàng, đơn giản.

Sự phân biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn (utterance-meaning) cho ta một nguyên tắc tổ chức khác. Sự phân biệt này không thể được giả định mặc nhiên theo cái cách có thể làm đối với nghĩa của từ và nghĩa của câu. Không phải chỉ là chuyện nó phần nào xa lạ đối với những ai không phải là nhà chuyên môn. Đây còn là vấn đề gây rất nhiều tranh luận giữa các nhà chuyên môn. Hầu hết các chi tiết của vấn đề có thể được gác lại cho Phần 4. Tuy nhiên, ở đây cần phải nêu một vài điểm khái quát.

Trong tiếng Anh thường ngày, từ 'utterance' (phát ngôn) thường được dùng để chỉ ngôn ngữ nói (cũng như các từ 'diễn ngôn' và 'hội thoại'). Trái lại, từ 'text' (ngôn bản) lại thường được dùng để chỉ ngôn ngữ viết. Trong suốt cuốn sách này, cả hai từ 'phát ngôn' và 'văn bản' sẽ được dùng một cách trung tính, tức không thiên vị về ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết.

Tại thời điểm này, có thể mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra một số thuật ngữ đặc biệt, trung tính về mặt phương tiện (medium-neutral). Một số thuật ngữ như vậy sẽ được nêu ra trong các chương tiếp theo. Tuy nhiên, tạm thời ta sẽ sử dụng các tên gọi của ngôn ngữ thường ngày như 'người nói', 'người nghe', cũng như 'phát ngôn', 'ngôn bản' và 'diễn ngôn' theo cái nghĩa trung tính về phương tiện.

Nhưng không được lẫn lộn ngôn ngữ với lời nói. Quả thật, một trong những đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ tự nhiên là tính độc lập tương đối của chúng đối với cái phương tiện (medium) dùng để hiện thực hoá nó. Ngôn ngữ vẫn là ngôn ngữ, cho dù nó được hiện thực hoá như là sản phẩm của lời nói hay của việc viết lách, và nếu nó là sản phẩm viết lách thì bất chấp việc nó được viết bằng chữ ghi âm bình thường hay chữ người mù, tín hiệu điện tín v.v... Do những nguyên nhân lịch sử và văn hoá, mức độ tương ứng giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói biến đổi đáng kể từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Nhưng trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác vốn gắn bó với hệ thống chữ ghi âm, thì hầu hết, nếu không nói là tất cả, các câu được nói ra đều có thể được đặt trong một quan hệ tương ứng với các câu được viết ra. Cái sự thể đây không phải là một quan hệ tương ứng một-đối-một sẽ được chúng ta bàn sau.

Ở điểm này, không cần nói thêm gì nữa về ngôn bản, diễn ngôn và hội thoại. Thực tế là tôi không có gì để nói về chúng cho đến khi chuyển sang chương 9. Trong lúc này, ta có thể nghĩ về phát ngôn như là những ngôn bản tối thiểu (được nói ra hoặc viết ra), nghĩ về diễn ngôn và hội thoại như là chuỗi kết hợp (một hoặt nhiều hơn) của các phát ngôn.

Nhưng như ta đã thấy, các thuật ngữ 'phát ngôn', 'diễn ngôn' và 'hội thoại' (không như thuật ngữ 'ngôn bản') vừa có nghĩa quá trình, vừa có nghĩa thành phẩm: theo nghĩa quá trình, chúng biểu thị một loại hành vi hay hoạt động đặc biệt; theo nghĩa thành phẩm, chúng biểu thị không phải bản thân cái hoạt động ấy mà là sản phẩm vật chất của cái hoạt động ấy (1.4). Hai cái nghĩa này hiển nhiên có liên quan với nhau; nhưng bản chất của mối quan hệ này lại không phải là rõ ràng, và nó sẽ được thảo luận trong Phần 4.

Còn bây giờ thì ta sẽ xác lập quy ước trình bày, rằng những khi thuật ngữ 'phát ngôn' được sử dụng trong sách này mà không kèm theo chú dẫn định tính và trong những ngữ cảnh mà cái nghĩa quá trình bị loại bỏ bởi những nguyên do cú pháp thì nó (tức 'phát ngôn'-chú thích của người dịch) bao giờ cũng được hiểu như là để biểu thị cái sản phẩm hay các sản phẩm của ngữ thi, gọi theo hệ thuật ngữ của Chomsky. Phát ngôn, trong cái nghĩa thuật ngữ như vậy, là cái mà một số nhà triết học ngôn ngữ gọi là thành phẩm (inscriptions), nghĩa là chuỗi các kí hiệu được ghi lại trong một loại phương tiện vật chất nào đó. Ví dụ, một phát ngôn nói thường được ghi lại (trong cái nghĩa chuyên môn của 'được ghi lại') bằng phương tiện âm thanh; một phát ngôn viết thì được ghi lại bởi một phương tiện thích hợp nào đó mà thị giác có thể xác định được. Trong chừng mực mà ngôn ngữ được sử dụng điển hình, nếu không nói là tất yếu, cho mục đích giao tiếp thì phát ngôn có thể được coi như là tín hiệu (signals) được truyền từ người nói sang người nghe-hay khái quát hơn, là từ người phát sang người nhận (theo một kênh thích hợp nào đó). Về cách thức trình bày, phát ngôn (tức các phát-ngôn-thành-phẩm hay phát ngôn-tín hiệu) sẽ được phân biệt với câu (cũng giống như các dạng thức của một từ được phân biệt với chính bản thân từ đó) nhờ dùng lối in nghiêng (cho phát ngôn) và dấu trích đơn (cho câu). Điều này cũng hàm ý rằng phát ngôn cũng là dạng thức; và đây chính là quan điểm về phát ngôn (theo cái nghĩa là phát-ngôn-thành-phẩm) được thể hiện trong suốt cuốn sách này. Như ta sẽ thấy ở Phần 4, trong nhiều trường hợp, cũng có thể biện hộ cái quan điểm cho rằng phát ngôn là dạng thức phụ-thuộc-văn-cảnh của câu cụ thể. Nhưng ở thời điểm này, đối với vấn đề gây tranh cãi về mối quan hệ giữa phát ngôn và câu, ta không cần phải nghiêng về quan điểm này hơn là quan điểm khác.

Cần phải nhấn mạnh rằng phát ngôn trong ngôn ngữ tự nhiên không chỉ là kết hợp, hay chuỗi (strings) dạng thức của từ. Như ta đã thấy, chồng lên trên cái thành tố ngôn từ (verbal component) của bất kì phát ngôn nói nào (chuỗi các từ tạo nên nó), bao giờ và tất yếu cũng có thành tố phi ngôn từ (non-verbal component), mà các nhà ngôn ngữ học chia làm tiểu thành tố ngôn điệu (prosodic) và tiểu thành tố kèm lời (paralinguistic) (1.3). Ở đây ta không cần quan tâm đến việc vạch chính xác ranh giới giữa hai tiểu thành tố này. Ta chỉ lưu ý rằng đường viền ngôn điệu của phát ngôn bao gồm ngữ điệu và có thể, cả mô hình trọng âm của nó; còn các đặc trưng kèm lời thì bao gồm những thứ như cách nói, âm lượng, tiết tấu, nhịp điệu v.v... Trong việc xác định nghĩa của phát ngôn, những đặc trưng phi ngôn từ này cũng quan yếu như nghĩa của các từ được dùng trong phát ngôn và nghĩa ngữ pháp của nó, cả hai đều được mã hoá (encode) trong thành tố ngôn từ của phát ngôn.

Chỉ có thành tố ngôn từ của phát ngôn nói thì mới không phụ thuộc vào cái phương tiện thể hiện nó và mang tính có thể sao chuyển (medium-transferable), theo đó về nguyên tắc nó có thể được giữ nguyên khi chuyển từ nói sang viết. Như ta đã thấy, một số hệ thống chữ viết chứa những nguyên tắc ít nhiều mang tính quy ước về cách chấm câu. Nhưng chúng không bao giờ ứng khớp với những khác biệt quan trọng về ngữ điệu trong ngôn ngữ nói. Ngay cả khi các quy ước chấm câu thông thường được bổ trợ bởi các phương tiện đồ hình như viết hoa, in nghiêng, in đậm, dấu nhấn v.v... thì có thể vẫn còn một bộ phận nào đó thuộc đường viền ngôn điệu của phát ngôn bị bỏ sót, không được thể hiện.

Đây là một điểm quan trọng. Hầu như mỗi phát ngôn viết được dẫn trong sách này và các sách ngữ học khác đều có thể đặt trong quan hệ tương ứng với những phát ngôn nói khác biệt đáng kể nghĩa. Chẳng hạn, phát ngôn viết Mary won't come (Mary sẽ không đến) có thể được phát âm, hay đọc thành tiếng, theo vài cách khác nhau, để chỉ sự chán nản, sự ngạc nhiên, sự đoán chắc v.v... Đối với cái vấn đề cụ thể được đem ra thảo luận, tôi sẽ cố gắng chọn các ví dụ của tôi sao cho, với một sự giải thích thoả đáng đúng lúc, việc độc giả chọn cách hiểu nào trong số vài phát ngôn nói khác biệt nhau về nghĩa cũng sẽ không gây ra vấn đề.

Trong lúc này, tôi giả định mặc nhiên về cái năng lực của độc giả có thể xác định các câu trong bất kì ngôn ngữ nào mà anh ta hay chị ta thông thạo, tức là phân biệt được câu với những kết hợp từ bất thành câu. Tôi cũng giả định tiếp tục rằng, một số kết hợp bất thành câu bởi chúng không đúng về ngữ pháp và số khác thì bất thành câu bởi chúng không trọn vẹn về ngữ pháp, hoặc bị tỉnh lược; và rằng, một lần nữa, những ai có thẩm năng về ngôn ngữ, bất luận họ có phải là người bản ngữ hay không, đều có thể xác định được hai tiểu loại kết hợp bất thành câu này. Như ta sẽ thấy sau đây, nhiều phát ngôn thường ngày là không trọn vẹn về ngữ pháp nhưng trong ngữ cảnh lại được chấp nhận và hiểu được. Trong khi đó, có những câu mặc dù trọn vẹn về ngữ pháp, do một lí do nào đó, lại không thể được nói ra một cách bình thường; sự khác biệt giữa tính đúng ngữ pháp và tính khả chấp (bao gồm tính khả chấp về ngữ nghĩa) là cực kì quan trọng trong ngữ nghĩa học và sẽ được thảo luận trong Phần 2 (5.2).

Trong suốt Phần 2 và Phần 3 của sách này, ta sẽ giới hạn sự quan tâm của ta vào những phát ngôn mà mối liên hệ của chúng với câu là tương đối hiển nhiên. Chúng ta sẽ dành Phần 4 để xác định biểu thức 'phát ngôn ra một câu' có nghĩa chính xác là gì và giải thích làm thế nào mà nó có thể mở rộng để bao gồm cả những phát ngôn đúng về mặt ngữ pháp nhưng lại không trọn vẹn, vốn làm thành một tiểu lớp riêng của những kết hợp không phải là câu. Như tôi đã nói, phần lớn phát ngôn hàng thường ngày có thể rơi vào cái tiểu lớp của các kết hợp bất thành câu này.

Sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn sẽ được bàn trong Phần 4. Lúc này đây, chỉ cần nêu hai ý khái quát. Thứ nhất, nghĩa của câu (ở một mức độ cao) là độc lập với văn cảnh (context-independent), trong khi nghĩa của phát ngôn thì không như vậy, có nghĩa là nghĩa của phát ngôn (ở một mức độ cao hay thấp nào đó) được xác định bởi chính cái ngữ cảnh mà phát ngôn đó được nói ra. Thứ hai, tồn tại một mối liên hệ mang tính bản chất giữa nghĩa của câu và cách dùng đặc trưng (characteristic use), không phải của một câu cụ thể nào đó mà là của cả cái kiểu câu mà cái câu cụ thể đó là thành viên, dựa trên tiêu chí về cấu trúc ngữ pháp của nó. Đối với kiểu câu, có thể công thức hoá mối liên hệ này theo cách như sau: câu trần thuật (declarative) là câu mà căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của nó, thuộc vào kiểu câu mà các thành viên được dùng một cách đặc trưng để nêu nhận định (statement) , như trong:

(26) 'Exercise is good for you'

(Rèn luyện thì tốt cho bạn)

(27) 'I prefer mine with ice'

(Tôi thích có đá)

Tương tự đối với kiểu câu khác, vốn phân biệt với câu trần thuật trong tiếng Anh và trong nhiều ngôn ngữ: câu nghi vấn (interrogative) là câu mà, căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của nó, thuộc vào kiểu câu mà các thành viên được dùng theo lối đặc trưng để hỏi (question), như trong:

(28) 'What time is lunch?'

(Ăn trưa lúc mấy giờ?)

và những câu tương tự. Trước đây, khi tôi nói về các câu (22) 'It was raining yesterday' (Hôm qua mưa) và (23) 'Was it raining yesterday?' (Hôm qua mưa à?) rằng nghĩa của chúng được xác định một phần bởi cấu trúc ngữ pháp của chúng, tôi đã ngầm gợi đến hiểu biết của độc giả về cách dùng đặc trưng của câu trần thuật và câu nghi vấn. Phần lớn hệ thuật ngữ của ngữ pháp truyền thống cũng hé lộ tương tự những giả định, bất luận là đúng hay không đúng, về cách dùng đặc trưng của các phạm trù và cấu trúc ngữ pháp cụ thể.

Cần lưu ý rằng khái niệm về cách dùng đặc trưng (vốn về bản chất cũng có quan hệ với khái niệm nghĩa đen) ở đây gắn với kiểu câu hơn là với từng thành viên của một kiểu câu cụ thể. Đây là điều quan trọng, cho dù có một số câu không bao giờ, hoặc rất hiếm khi, trong những hoàn cảnh bình thường, được dùng với chính cái chức năng đặc trưng cho kiểu câu của chúng; và như chúng ta sẽ thấy sau này, tuỳ theo tình huống mà tất cả các câu đều có thể được dùng để thực hiện cái gọi là hành động ngôn từ gián tiếp (indirect speech acts) (câu trần thuật được dùng để hỏi, câu nghi vấn được dùng để yêu cầu v.v...). Tuy nhiên, rõ ràng không thể cho rằng phần lớn câu trần thuật nên được dùng theo lối thông thường để hỏi, còn phần lớn câu nghi vấn thì để nêu nhận định, và đại loại như thế. Bởi vì, theo định nghĩa, câu trần thuật và câu nghi vấn là những câu với cách dùng đặc trưng được gắn với chúng. Nếu một ngôn ngữ không có một lớp câu phân biệt về mặt ngữ pháp gắn với một cách dùng đặc trưng nào đó trong số các cách dùng đặc trưng này thì nó sẽ tuỳ theo tình hình mà hoặc không có câu trần thuật hoặc không có câu nghi vấn.

Không nên nghĩ rằng tất cả các ngôn ngữ đều có cùng một cấu trúc ngữ pháp. Như ta sẽ thấy sau này, có nhiều ngôn ngữ tự nhiên không có câu nghi vấn hoặc trần thuật. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là trong các ngôn ngữ đó, không thể hỏi hoặc nêu nhận định. Với tư cách là phát ngôn, hỏi có thể được phân biệt với nêu nhận định bằng cách gán một đường viền ngôn điệu hoặc dấu hiệu kèm lời mang tính khu biệt lên cùng một chuỗi từ khi nói và các dấu chấm câu hoặc các kí hiệu khu biệt khi viết. Ví dụ, phát ngôn (29) - sản phẩm của việc phát ngôn ra câu (26) - có thể được nói ra với một mô hình ngữ điệu riêng, đánh dấu nó với tư cách là một phát ngôn hỏi (có thể cũng biểu lộ cả sự ngạc nhiên hoặc phẫn nộ v.v...) và được viết ra với dấu hỏi:

(29) Exercise is good for you?

(Rèn luyện thì tốt cho mày à?)

Nhưng cũng chính cái câu đó có thể được nói ra với một mô hình ngữ điệu khác trong ngôn ngữ nói, hoặc được viết ra với cách chấm câu khác (tức là với dấu chấm chứ không phải là dấu hỏi) trong ngôn ngữ viết, để nêu nhận định.

Như vậy, nghĩa của câu có quan hệ với nghĩa của phát ngôn thông qua khái niệm về cách dùng đặc trưng, nhưng lại phân biệt với nó ở chỗ: nghĩa của câu thì độc lập với cái ngữ cảnh cụ thể mà câu đó được sử dụng. Trong khi đó, để xác định nghĩa của phát ngôn, ta buộc phải tính đến các nhân tố tình huống. Điểm này sẽ được nói rõ hơn trong các phần sau. Nhưng những gì vừa được nêu ra ở đây sẽ giúp cho việc tổ chức nội dung Phần 3 và Phần 4 của cuốn sách này. Trước mắt, sự phân biệt về cách trình bày mà ta đã chấp nhận sẽ giúp ta duy trì được sự phân biệt giữa câu và phát ngôn, phân biệt được nghĩa tự thân của câu với nghĩa của phát ngôn vốn là kết quả của việc dùng câu đó trong một ngữ cảnh cụ thể.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (7)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.7. Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

Tồn tại một số lí thuyết triết học khác nhau và ít nhiều ai cũng biết, về nghĩa: đây là những lí thuyết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Nghĩa là gì? Trong số đó, có thể nêu ra các lí thuyết sau:

thuyết quy chiếu (referential) hay sở thị (denotational) ("nghĩa của một biểu thức chính là đối tượng mà biểu thức đó chỉ ra (hay biểu thị) hoặc đại diện; tức 'Fido' có nghĩa là Fido, còn 'chó' thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là cái đặc trưng bản chất chung của chúng");

thuyết ý niệm (ideational) hay tâm lí (mentalistic) ("nghĩa của một biểu thức là cái ý niệm, hay quan niệm, gắn với nó trong tư duy của những ai biết và hiểu được biểu thức đó");

thuyết hành vi (behaviourist) ("nghĩa của một biểu thức hoặc là cái kích thích gợi ra nó hay cái phản ứng mà nó gợi ta, hoặc là sự kết hợp của cả hai thứ này trong một tình huống phát ngôn cụ thể");

thuyết nghĩa-là-cách-dùng (meaning-is-use) ("nghĩa của một biểu thức được xác định bởi, nếu không nói là đồng nhất với, cách dùng nó trong ngôn ngữ");

thuyết thẩm định (verificationist) ("nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này được xác định bởi chứng cứ lấy từ cái câu, hay mệnh đề chứa biểu thức đó");

thuyết điều kiện chân trị (truth-conditional) ("nghĩa của một biểu thức là sự đóng góp của nó vào điều kiện chân trị của câu chứa nó").

Theo tôi, không có thuyết nào trong số kể trên tự mình làm thành cơ sở cho một lí thuyết ngữ nghĩa học toàn diện và giàu sức giải thích thực tiễn. Song mỗi thuyết như vậy đều có đóng góp theo cách nào đó, làm thành cái tri thức nền cho những ai đang nỗ lực xây dựng một lí thuyết như vậy. Tôi sẽ không đi vào chi tiết của bất kì lí thuyết ngữ nghĩa nào kể trên. Tuy nhiên, trong các chương sau, tôi sẽ đề cập đến một số khái niệm cơ bản tạo ra sự khác biệt giữa các lí thuyết này, và tôi sẽ giải thích những khái niệm này trong cái ngữ cảnh mà chúng được viện đến và áp dụng. Khuôn khổ giới hạn không cho phép tôi thảo luận mối liên hệ có tính lịch sử giữa một số lí thuyết và các vấn đề triết học hữu quan. Tôi cũng sẽ nói thêm rằng danh sách mà tôi vừa nêu không hề đầy đủ và trong một số trường hợp, những định nghĩa đặt trong ngoặc đã cố tình được đơn giản hoá.

Đến đây cần lưu ý rằng một cách trả lời khả chấp về mặt triết học cho câu hỏi Nghĩa là gì, đó là: Chẳng hề có cái gì như là nghĩa cả. Đây là cách trả lời, chẳng hạn, của Wittgenstein đã quá cố (1953); và nó cần phải được xem xét nghiêm túc. Rõ ràng việc tìm hiểu nghĩa của từ, của câu và của phát ngôn, cũng giống như việc hỏi xem chúng có nghĩa gì là những việc xác đáng. Trong khi thực hiện điều này, ta dùng các từ các từ tiếng Anh 'meaning' (nghĩa) và 'mean' (có nghĩa) theo một trong số những chức năng siêu ngôn ngữ thường nhật của chúng. Như ta đã thấy từ trước, danh từ 'meaning' (nghĩa) và động từ 'mean' (có nghĩa) cũng còn có các nghĩa, hay cách dùng thường nhật khác; một số nhà triết học ít ra là đã cho rằng các nghĩa này liên hệ chặt chẽ với nhau và có lẽ là cơ bản hơn so với cái nghĩa vừa được minh hoạ. Điều khá thú vị là không phải bao giờ chúng cũng tương ứng một-đối-một với cái nghĩa hoặc cách dùng của các biểu thức tương đương những biểu thị một cách khác trong những ngôn ngữ Châu Âu quen thuộc như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Nga hay tiếng Tây Ban Nha. Chẳng hạn, hai câu tiếng Anh sau đây:

(30) 'What is the meaning of 'concept'?'

(Nghĩa của từ 'concept' là gì?)

(31) 'What do you mean by the word 'concept'?'

(Bạn có ý nói gì với cái từ 'concept'?)

có thể được dịch sang tiếng Pháp lần lượt là:

(30a) 'Quel est le sens de 'concept' [en anglais]?'

(31a) 'Qu'est-ce que tu veux dire par le mots [anglais] 'concept'?'

(tương tự trong tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha); sang tiếng Đức là:

(30b) 'Was ist die Bedeutung von 'concept' [au Englisch]?'

(31b) 'Was meinst du mit dem [englischen] Wort 'concept'?'

sang tiếng Nga là:

(30c) 'Cto znacit [anglijskije slovo] 'concept'?'

(31c) 'Cto vy podrazumyvaete pod [anglijskym] slovom 'concept'?'

và vân vân.

Khi nêu ra các cách dịch trên đây, tôi đã không dịch cái từ 'concept' của tiếng Anh, bởi tôi đã giả định rằng tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga đang được dùng với tư cách là siêu ngôn ngữ cho tiếng Anh. Tất nhiên, còn có những khả năng dịch khác, đặc biệt trong các trường hợp (31 a-c). Trên thực tế, có một loạt khả năng mà bất cứ ai đã trải qua thực tiễn dịch đều cũng thấy được. Nhưng trong bối cảnh bây giờ ta không cần bàn đến chúng. Cái mà các ví dụ trên đây chỉ ra, trên cơ sở chỉ một vài cách dịch sang ngôn ngữ khác, là trong mỗi trường hợp, câu thứ hai trong số cặp câu chuyển dịch trên đây đã dùng một biểu thức mà, ít nhất là về mặt từ nguyên, đã cho thấy một nghĩa của động từ tiếng Anh 'to mean' (có ý, có nghĩa) - nghĩa thuộc người nói (utterer's meaning), như thỉnh thoảng nó được gọi như vậy - vốn hoặc liên quan đến ý định giao tiếp (từ tiếng Pháp 'vouloir dire', từ tiếng Đức 'meinen') hoặc liên quan đến cách hiểu và cách giải thuyết (từ tiếng Nga 'podrazumevatj'). Có một số tác giả đã coi nghĩa thuộc người nói, suy cho đến cùng, là cơ sở cho nghĩa trong ngôn ngữ.

Tuy nhiên, ở thời điểm này, tôi muốn nêu cái luận điểm đơn giản là ta không thể suy luận ra sự tồn tại của nghĩa từ sự tồn tại và tính có nghĩa của cái từ tiếng Anh thường ngày 'meaning' (nghĩa). Hơn thế nữa, cho dù có tồn tại cái gì đó như nghĩa (bất luận 'cái gì' nghĩa là gì đi nữa trong ngữ cảnh này) thì vị thế bản thể và tâm lí của nó rõ ràng là đáng ngờ hơn so với dạng thức. Ta sẽ trở lại vấn đề này sau.

Đó là phần dụng tâm của Wittgenstein quá cố khi nhấn mạnh vào sự đa dạng của những chức năng mà ngôn ngữ thực hiện. Khẩu hiện của ông "Đừng tìm nghĩa, hãy tìm hiểu cách sử dụng" (khẩu hiệu này không nhất thiết dẫn đến cái lí thuyết cho rằng nghĩa-là-cách dùng, có điều nó thường được giải thuyết như vậy) phải được hiểu gắn với dụng tâm này. Giống như các nhà triết học được gọi là trường phái triết học ngôn ngữ đời thường ở Oxford, chẳng hạn như J.L Austin (tác giả lí thuyết hành động ngôn từ (speech acts) mà ta sẽ xem xét ở Phần 4), Wittgenstein chỉ ra rằng câu hỏi Nghĩa là gì? có xu hướng tìm đến những câu trả lời hoặc quá khái quát, đến độ hầu như trống rỗng, hoặc quá hẹp trong cách định nghĩa về nghĩa đến độ bỏ qua phần lớn những gì mà người sử dụng ngôn ngữ bình thường nghĩ là quan yếu khi trả lời những câu hỏi riêng biệt hơn về nghĩa của biểu thức này hay biểu thức nọ trong ngôn ngữ của họ.

Trong sách này ta chấp nhận một quan niệm khá rộng về nghĩa. Ta cũng giả định rằng có một mối liên hệ bản chất giữa nghĩa và giao tiếp. Như đã được lưu ý từ trước, giả định này không phải là không gây tranh cãi. Nó, chẳng hạn đã bị Chomsky phê phán mạnh mẽ, nhưng nó lại chính là giả định được phần đông các nhà triết học, tâm lí học và ngôn ngữ học nêu ra. Nó giúp ta trình bày tốt mối liên hệ giữa dạng thức và nghĩa trong ngôn ngữ tự nhiên hơn bất kì quan niệm nào khác hiện nay. Và tôi nhấn mạnh rằng, mặc dù ở đây tôi đã nêu ra nhiều lí thuyết triết học khác nhau về nghĩa và sẽ viện đến chúng thường xuyên, tôi lại không quan tâm đến những vấn đề triết học theo đúng nghĩa của chúng, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề lí thuyết và thực tiễn nảy sinh trong việc miêu tả ngôn ngữ tự nhiên.

Đến đây ta đã đề cập đến, theo lối mào đầu, nghĩa của từ, câu và phát ngôn. Ta cũng đã thấy rằng có những nghĩa khác biệt nhau của cái từ tiếng Anh 'meaning' (nghĩa), vốn có thể tương ứng với những kiểu nghĩa khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Nhưng có bao nhiêu kiểu nghĩa? Phải chăng chúng đều được nhà ngôn ngữ học quan tâm? Và chúng tương ứng như thế nào với sự phân biệt mà ta đã nêu ra, một mặt, giữa nghĩa từ vựng và nghĩa của câu (mà như ta sẽ thấy, bao gồm nghĩa ngữ pháp) và mặt khác, giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn.

Trong sách này, tôi không cố gắng đưa ra một sự phân loại toàn diện về các kiểu nghĩa khác nhau mà một lí thuyết ngôn ngữ học về nghĩa (và về ngữ dụng) cần phải bao quát. Tuy nhiên, có thể sẽ là hữu ích nếu ngay bây giờ ta vạch ra một sự phân biệt khái quát mà ta sẽ làm rõ hơn về sau. Đó là sự phân biệt giữa nghĩa miêu tả (descriptive meaning) (hoặc nghĩa mệnh đề (propositional meaning)) và nghĩa phi miêu tả (non-descriptive meaning) (hay nghĩa phi nội dung mệnh đề (non-propositional meaning)). (Những thuật ngữ có thể thay thế khác, ít nhiều tương đương với 'miêu tả' và 'nội dung mệnh đề' là 'tri nhận' và 'theo quy chiếu'). Đối với nghĩa miêu tả, một điều được thừa nhận rộng rãi là ngôn ngữ có thể được dùng để nêu những nhận định đúng hoặc sai, căn cứ vào thực cách của cái nội dung mệnh đề mà chúng biểu thị. Điều này có một vị thế nổi trội đặc biệt trong lí thuyết nghĩa học hàm chân trị, là lí thuyết có vai trò rất quan trọng trong những năm gần đây.

Nghĩa phi miêu tả thì nhiều vẻ hơn, và theo quan điểm của nhiều nhà triết học và ngôn ngữ học, thì không quan trọng bằng. Nó bao gồm cái mà tôi sẽ viện dẫn như là thành tố biểu lộ (expessive). (Các thuật ngữ thay thế ít nhiều tương đương khác là 'nghĩa tác động', 'nghĩa thái độ' và 'nghĩa biểu cảm'). Nghĩa biểu lộ- tức kiểu ý nghĩa mà theo đó người nói biểu lộ, chứ không phải là miêu tả, niềm tin, thái độ, tâm trạng của họ - thường được cho là nằm trong phạm vi của phong cách học và ngữ dụng học. Tuy nhiên, như những gì trình bày ở Phần 3 sẽ cho thấy, một số kiểu nghĩa biểu lộ chắc chắc thuộc về nghĩa của câu. Điều đó dẫn đến một hệ luận rằng, đối với những ai chủ trương phân biệt nghĩa học và dụng học trên cơ sở sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn, thì nghĩa biểu lộ, ít nhất là một phần, sẽ nằm trong phạm vi nghĩa học. Một hệ luận khác là, như ta sẽ thấy ở thời điểm thích hợp, nghĩa của câu không hoàn toàn là nghĩa theo hàm chân trị.

Các ngôn ngữ tự nhiên khác biệt đáng kể theo mức độ ngữ pháp hoá nghĩa biểu lộ. Tiếng Anh thể hiện ở mức độ khá thấp. Ví dụ, nó không có một hệ thống phong phú về thức ngữ pháp (thức giả định, thức ước vọng, thức ngờ vực...) như ở nhiều ngôn ngữ. Tuy nhiên, giống như mọi ngôn ngữ tự nhiên, nó mã hoá ý nghĩa biểu lộ trong nhiều đơn vị từ vựng của nó và trong cấu trúc ngôn điệu của phát ngôn. Tất nhiên ta đang chấp nhận cái quan điểm (mà, như tôi đã nói, là không được thừa nhận rộng rãi) rằng nghĩa của câu (trong đối lập với nghĩa của phát ngôn) độc lập với điệu hình ngôn điệu của chúng khi được nói ra, tức cùng một câu có thể được nói ra với những điệu hình ngôn điệu đa dạng, khác biệt nhau đáng kể. Cũng có thể cho rằng rằng thán từ và các tiểu từ có tính chất ngữ cảnh hoá, như ta thấy trong nhiều ngôn ngữ, thì không phải là thành tố của câu, mà là của những phát ngôn có được do sử dụng câu đó. Nhưng như ta sẽ thấy, nghĩa biểu lộ cũng được từ vựng hoá gắn kết với nghĩa miêu tả trong nhiều danh từ, động từ và tính từ thường ngày.

Những kiểu ý nghĩa phi nội dung mệnh đề khác có thể được gác lại sau. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng chức năng biểu lộ của ngôn ngữ không thể tách biệt rành mạch với chức năng xã hội và chức năng công cụ của chúng. Con người là một thực thể xã hội với những mục đích được gán kết và chuẩn y về mặt xã hội. Họ có thể không phải bao giờ cũng phóng chiếu có ý thức một kiểu cái tôi nào đó; họ có thể chẳng hề cố tình biểu lộ cái tâm trạng và thái độ mà họ biểu lộ để lôi kéo người nghe và đạt được một mục đích này hay mục đích nọ. Tuy vậy, qua ngôn ngữ họ không thể nào biểu lộ tâm trạng và thái độ của mình, bất luận là tâm trạng và thái độ này có thể mang tính cá nhân và có ý thức đến đâu, một cách khác biệt với những phân biệt đã được mã hoá trong những hệ thống ngôn ngữ cụ thể. Như ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này, đặc biệt là trong Phần 4, nghĩa biểu lộ hoà nhập tất yếu với cái mà nhiều tác giả gọi là nghĩa liên nhân (interpersonal meaning), nghĩa công cụ (instrumental meaning), nghĩa xã hội (social meaning) hay nghĩa phát động (conative meaning). Nói cách khác, trong phạm vi về cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ tự nhiên mà ta quan tâm, sự biểu lộ tất nhiên mang tính biểu lộ-xã hội (socio-expressive) và cái cá nhân tất yếu mang tính liên nhân (interpersonal). Nếu không coi trọng nhân tố này, thậm chí ta không thể đưa ra một sự trình bày đúng đắn về nghĩa của các phạm trù ngữ pháp thông thường, cho dù không phải là phổ quát, như thời, đại từ hoặc thức.

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.0 Dẫn nhập

Như ta đã thấy trong chương trước, nói chung người ta nhất trí rằng từ, ngữ đoạn và câu của ngôn ngữ tự nhiên thì có nghĩa, rằng câu được cấu tạo nên bởi từ (và ngữ đoạn), và rằng nghĩa của câu là kết quả của các từ (và ngữ đoạn) tạo nên câu.

Song từ là gì? Và trên thực tế, có phải tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ không? Những câu hỏi này thật không dễ trả lời như ấn tượng ban đầu của ta về chúng. Một lí do là, thuật ngữ 'từ' là lưỡng nghĩa, cả trong cách dùng hàng ngày lẫn trong cách dùng mang tính kĩ thuật của nhà ngôn ngữ học. Từ có thể được xem thuần tuý là những dạng thức (forms), được nói ra hay viết ra, hoặc xem xét theo một cách khác như là những biểu thức (expressions) phức hợp, bao gồm dạng thức và nghĩa. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi mà trong ngôn ngữ học, thuật ngữ 'dạng thức' lại được dùng theo nhiều nghĩa khác biệt, mặc dù có liên quan với nhau. Một trong những mục đích chính của tôi trong chương này là xác lập những quy ước về cách trình bày và về thuật ngữ nhằm tránh sự mơ hồ và nhầm lẫn.

Một lí do nữa giải thích vì sao không dễ nói cái gì đấy là từ hay không phải là từ như người ngoài ngành có thể nghĩ - hoặc nói rằng liệu tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ hay không - đó là một số tiêu chí khác nhau đã tham gia vào việc định nghĩa từ, cả tư cách dạng thức lẫn tư cách biểu thức, và những tiêu chí này thường xung khắc với nhau. Thêm vào đó, một vài tiêu chí được nhà ngôn ngữ học sử dụng, xét riêng ra, là những tiêu chí không phân tách rõ ràng từ với cái không phải là từ.

Trong cuốn sách này, ta quan tâm chủ yếu đến tư cách biểu thức của từ, tức từ như là những đơn vị phức hợp vừa có dạng thức, vừa có nghĩa (chính xác hơn, như ta sẽ thấy, là những đơn vị điển hình có một tập hợp dạng thức và một tập hợp nghĩa). Mỗi khi thuật ngữ 'từ' được dùng mà không có thêm hạn định nào, đây chính là cái nghĩa mà nó được dùng. Thực tế thì, như sẽ được giải thích trong chương này, thuật ngữ 'từ' nói chung sẽ được dùng suốt cuốn sách này, đặc biệt trong Phần 2, để chỉ cái có thể được gọi, một cách không chuyên môn, là từ-từ điển (hoặc từ-vốn từ): tức theo cái nghĩa nó được dùng trong siêu ngôn ngữ thường ngày, ví dụ, khi người ta nói rằng một cuốn từ điển tường giải của ngôn ngữ đang xét nào đấy, lí tưởng là chứa đựng tất cả những từ có trong vốn từ của ngôn ngữ đó. Theo cái nghĩa này của thuật ngữ 'từ', tất cả các ngôn ngữ đều có từ.

Cái thuật ngữ chuyên môn mà ta sẽ dùng để chỉ những gì tôi vừa gọi là từ- từ điển đó, là 'từ vị'. Danh từ 'từ vị' tất nhiên có liên quan đến các từ 'từ vựng' và 'bộ từ vựng'. (Ta có thể quan niệm rằng 'bộ từ vựng' là có cùng nghĩa với 'vốn từ' hoặc 'từ điển'). Từ vị là đơn vị từ vựng: đó là một đơn vị của bộ từ vựng. Cấu trúc từ vựng của một ngôn ngữ là cấu trúc của vốn từ vựng hoặc vốn từ của nó; và thuật ngữ 'nghĩa từ vựng', được dùng để đặt đầu đề cho Phần 2, do vậy tương đương với thuật ngữ 'nghĩa của từ' vốn được dùng rộng rãi, ít mang tính chuyên môn (song lại mơ hồ). Lí do mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra những thuật ngữ chuyên môn hơn là 'từ vị' và 'nghĩa từ vựng' (phù hợp với các nguyên tắc đã phác hoạ trong mục 1.2) sẽ được giải thích trong chương này. Như ta sẽ thấy, không phải tất cả từ đều là từ vị và ngược lại, không phải tất cả từ vị đều là từ. Ta cũng sẽ thấy rằng, chẳng có gì mới mẻ hoặc kì cục, đây là điều mà bất kì ai tham khảo một cuốn từ điển quy ước cũng đơn giản mặc nhận, không nhất thiết phải suy ngẫm về những hệ luỵ của nó đối với lí thuyết ngữ nghĩa (và ngữ pháp).

Khi ta xem từ (và ngữ đoạn) như là những đơn vị có nghĩa, ta cũng sẽ phải xử lí cái thực tế là, một mặt, một dạng thức có thể gắn với vài nghĩa và mặt khác, cùng một nghĩa có thể gắn với vài dạng thức của từ. Thực tế này đã được ngữ pháp và từ vựng học truyền thống thừa nhận chính đáng và sẽ được thảo luận ở đây theo một quan điểm hoàn toàn truyền thống, dưới tên gọi của các khái niệm đồng âm (homonymy), đa nghĩa (polysemy) và đồng nghĩa (synonymy).

Cuối cùng, trong phạm vi chương này, ta sẽ xem xét sự phân biệt giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp, vốn phái sinh từ sự phân biệt được nêu ra trong truyền thống giữa vốn từ của một ngôn ngữ và ngữ pháp của nó. Cách thức mà sự phân biệt này được nêu ra và được hình thức hoá sẽ thay đổi tuỳ theo khung lí thuyết cụ thể được sử dụng. Ví dụ, sẽ có một phân biệt đáng kể giữa cách lập thức sự khác biệt thao tác theo một thứ ngữ pháp dựa vào hình vị với cách lập thức với thứ ngữ pháp dựa vào từ, mang tính truyền thống hơn (mà ta đang sử dụng). Song ở mức độ tương đối sơ đẳng mà ta thảo luận vấn đề trong cuốn sách này, sự khác biệt giữa hai mô hình, hay lí thuyết, về cấu trúc ngữ pháp khác nhau trên đây không gây ra ảnh hưởng nào nghiêm trọng; việc kiểm tra lại điều này và công thức hoá lại những gì tôi đã nói về dạng thức và nghĩa, liên hệ với hình vị (và tổ hợp hình vị) chứ không phải với từ sẽ là một bài tập hữu ích cho những sinh viên nào đã có kiến thức cơ bản về lí thuyết ngữ pháp truyền thống hay hiện đại.

Về tác động của việc chấp nhận một mô hình phân tích ngôn ngữ chủ trương nêu ra sự phân biệt giữa vốn từ (hoặc bộ từ vựng) và ngữ pháp ở một vị trí khác với cái vị trí được nêu trong ngữ pháp và từ vựng học truyền thống, thì điều này cũng chẳng có gì quan trọng trong bối cảnh của cuốn sách này. Những ai nắm rõ sự phát triển gần đây trong lí thuyết ngữ pháp có thể dễ dàng có những điều chỉnh. Điều thực sự quan trọng là, bất luận người ta nêu ra sự phân biệt giữa ngữ pháp và từ vựng trong lí thuyết ngữ học đại cương và trong việc miêu tả những ngôn ngữ cụ thể theo cách thế nào đi chăng nữa, thì hai thứ này cũng cần phải được xem là bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Điều này sẽ được làm rõ khi ta chuyển từ Phần 2 sang Phần 3.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.0.Dẫn nhập

Trong chương này, chương được xem là cơ sở của toàn bộ Phần 1, ta đề cập đến những khái niệm cơ bản nhằm đặt ngữ nghĩa học trên một nền tảng lí thuyết vững chắc. Mặc dù đây là một trong những chương dài nhất của cuốn sách và lại bao gồm một số vấn đề đôi khi mang tính đòi hỏi khá cao đối với những ai chưa quen với ngữ nghĩa học, tôi cũng đã cố ý không chia chương này ra thành 2 chương (hoặc nhiều hơn), bởi vì tôi muốn nhấn mạnh đến một điều là các vấn đề được đề cập ở đây đan quyện vào nhau và trước sau đều quan yếu như nhau.

Những độc giả gặp một số vấn đề khó hiểu từ những trang đầu tiên không nên quá bận tâm về chúng. Họ có thể trở lại với chúng khi đọc ba phần tiếp theo của cuốn sách và sẽ thấy những phân biệt đa dạng về thuật ngữ nêu ra ở chương này được thực sự ứng dụng như thế nào. Quả thật, đây là cách duy nhất để chắc rằng ta hiểu chúng. Việc nêu ra từ đầu sách những phân biệt quan yếu về hệ thuật ngữ cơ sở và về quy ước trình bày sẽ giúp độc giả tham khảo chúng dễ dàng hơn. Điều này cũng giúp họ hiểu dễ dàng hơn bản chất của hệ khái niệm và khung thuật ngữ mà tôi sử dụng, nếu đem so sánh với những tác giả khác được dẫn ra trong mục 'Những gợi ý tham khảo tiếp theo'.

Ta bắt đầu và kết thúc chương này với câu hỏi cơ bản nhất, câu hỏi mà nghĩa học, cả ngôn ngữ lẫn phi ngôn ngữ, đều mong muốn tìm thấy một câu trả lời thoả đáng cả về lí thuyết lẫn kinh nghiệm: nghĩa là gì? Câu hỏi này được đặt ra một cách không chuyên môn trong mục 1.1; trong mục 1.7 ta điểm lại tóm tắt một vài trong số những câu trả lời khái quát mà các nhà triết học, ngôn ngữ học và các khoa học khác đã đưa ra trong quá khứ và gần đây.

Giữa hai mục này tôi chen vào mục 1.2, dành cho cái mà tôi gọi là siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học và mục 1.3, dành cho việc xác lập phạm vi của ngữ nghĩa học, ở một mức độ chi tiết hơn những gì mà tôi đã nêu trong Lời nói đầu. Việc nên có một mục riêng để xem xét mối quan hệ giữa ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ chỉ là một điều mong đợi. Điều quan trọng là độc giả thấy được rằng có nhiều cách, trong đó cái địa hạt của ngữ nghĩa học, một mặt được người nghiên cứu định nghĩa như một phần của nghĩa học rộng hơn và mặt khác, như một phần của ngôn ngữ học; và độc giả cũng nên thấy được ngay từ đầu cách định nghĩa về 'ngữ nghĩa học' của tôi là có khác so với các tác giả khác.

Thuật ngữ 'siêu ngôn ngữ' và tính từ tương ứng của nó, như ta sẽ thấy trong các chương sau của sách này, ngày nay được sử dụng khá rộng rãi khi thảo luận về những vấn đề cụ thể của ngữ nghĩa học. (Hai thuật ngữ này sẽ được giải thích đầy đủ trong mục 1.2) Tuy nhiên, các nhà lí thuyết và thực hành ngữ nghĩa học thường không thảo luận, một cách hiển ngôn và dưới hình thức những thuật ngữ chung, mối liên hệ giữa siêu ngôn ngữ hàng ngày của ngữ nghĩa học và siêu ngôn ngữ có tính chuyên môn hơn mà họ dùng trong các công trình của mình. Tôi dành ở đây một số trang để bàn về vấn đề này, bởi vì tôi nhận thấy tầm quan trọng của nó đã không được thừa nhận rộng rãi như đáng ra nó phải được thừa nhận.

Ba mục tiếp theo sẽ dành cho một số phân biệt, giữa ngôn ngữ và lời nói, 'langue' và 'parole', 'ngữ năng' và 'ngữ thi', giữa hình thức và nghĩa, giữa câu và phát ngôn, là những phân biệt mà hiện nay đều được thừa nhận, ở những mức độ chung nào đó, là thuộc vốn thuật ngữ của nhà ngôn ngữ học, mặc dù chúng thường không được định nghĩa theo một cách giống nhau. Một lần nữa, tôi phải dành thêm một số trang, nhiều hơn thường lệ, cho một số những phân biệt này. Tôi cũng phải tìm cách làm rõ những gì thường hay bị lẫn lộn, một mặt, khi thảo luận về câu và phát ngôn, và mặt khác khi thảo luận về ngữ năng và ngữ thi. Tất nhiên, tôi tìm cách giải thích những khác biệt này trong bối cảnh hiện nay, gắn với những ứng dụng cụ thể của chúng trong nghĩa học (và ngữ dụng học) và gắn với việc dùng chúng để tổ chức cuốn sách này.

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (1)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.1. Nghĩa của 'nghĩa'

Theo truyền thống, nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu nghĩa; và đây chính là định nghĩa mà ta chấp nhận ngay từ đầu. Nhưng có phải tất cả các kiểu loại ý nghĩa đều nằm trong phạm vi của nghĩa học, hay chỉ có một số trong chúng mà thôi? Trong ngữ cảnh như vậy thì 'nghĩa' biểu thị cái gì?

Giống như nhiều từ tiếng Anh khác, danh từ 'nghĩa' và động từ phái sinh 'có nghĩa, có ý' được dùng trong một loạt ngữ cảnh khác nhau và với vài ý nghĩa khác biệt nhau. Lấy ví dụ trường hợp của động từ, nếu ta nói

(1) Mary means well,

(Mary tỏ thiện ý)

ta hàm ý rằng Mary có chủ ý tốt, rằng cô ta có ý không gây hại. Tuy nhiên, hàm ý về chủ định này tất sẽ bị mất đi trong một phát ngôn như:

(2) That red flag means danger.

(Lá cờ đỏ ấy biểu thị sự nguy hiểm)

Khi nói câu này, người ta tất không hề hàm ý rằng lá cờ có ý gây nguy hiểm cho bất kì ai; người ta thông báo rằng lá cờ đó được dùng (thể theo một quy ước đã được xác lập trước đó) để chỉ ra rằng có sự nguy hiểm đâu đó chung quanh nó, chẳng hạn như có một đường nứt trên sườn đồi đầy tuyết hoặc có mìn sắp nổ ở công trường đá bên cạnh. Tương tự với cái cách dùng động từ 'có nghĩa' ở trường hợp lá cờ đỏ, ít nhất là ở một phương diện nào đó, là cách dùng nó trong phát ngôn sau:

(3) Smoke means fire.

(Có khói nghĩa là có lửa)

Trong (2) và (3) một cái gì đó được coi là tín hiệu (sign) của một cái khác: nhờ sự hiện diện của tín hiệu, là lá cờ hoặc khói, bất kì ai với hiểu biết cần thiết tối thiểu đều có thể suy đoán về điều mà tín hiệu đó biểu thị (signifies), tuỳ theo trường hợp, là sự nguy hiểm hoặc lửa.

Thế nhưng giữa (2) và (3) lại có một khác biệt quan trọng. Trong khi khói là một tín hiệu tự nhiên (natural) của lửa, liên hệ một cách có nguyên do với cái mà nó biểu thị, thì lá cờ đỏ là dấu hiệu quy ước (conventional) để biểu thị sự nguy hiểm: nó là một biểu trưng (symbol) được con người xác lập. Những sự phân biệt này, một mặt giữa cái có chủ định và không chủ định, mặt khác giữa cái có tính tự nhiên và cái do quy ước, hay có tính biểu trưng, từ lâu và cho đến hiện nay vẫn là trọng tâm của những khảo cứu lí thuyết về nghĩa.

Việc động từ 'có nghĩa, có ý' ('mean') được dùng với những nghĩa khác nhau trong phạm vi các ví dụ mà tôi vừa dẫn ra là một điều hiển nhiên, xuất phát từ cái thực tế rằng câu:

(4) Mary means trouble

là một câu nói mơ hồ: nó có thể được hiểu như trong (1) Mary means well (Mary tỏ thiện ý) hoặc như trong (3) Smoke means fire (Có khói nghĩa là có lửa). Quả thật, với một ít tưởng tượng, có thể nghĩ ra một ngữ cảnh, hay một tình huống trong đó động từ 'có nghĩa, có ý' trong phát ngôn (4) Mary means trouble có thể được giải thuyết một cách thoả đáng theo cách thường được hiểu ở (2) That red flag means danger (Lá cờ đỏ ấy biểu thị nguy hiểm). Và ngược lại, nếu ta tạm bỏ qua những giả định có tính bản thể (ontological assumptions) thông thường - nghĩa là những giả định của chúng ta về thế giới - để xem lá cờ đỏ được nêu ở (2) như là một thực thể sống có ý chí và chủ định riêng thì chúng ta cũng có thể giải thuyết phát ngôn (2) một cách không kém thoả đáng theo cách chúng ta thường giải thuyết phát ngôn (1).

Việc giải thuyết phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ, bất luận là được nói ra hay viết ra, đều phụ thuộc - ở mức độ ít nhiều nào đó - vào ngữ cảnh trong đó chúng được sử dụng. Và cũng không được quên rằng ngữ cảnh của phát ngôn bao gồm cả những xác tín có tính bản thể của các bên tham gia giao tiếp: một số lớn trong số chúng được xác định theo văn hoá và chúng, mặc dù thường được giả định mặc nhiên, vẫn có thể bị xem xét lại hoặc bị bác bỏ. Phần lớn các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên, ở dạng thực tại hay tiềm ẩn, đều có nhiều nghĩa, hay nhiều cách giải thuyết hơn so với suy nghĩ ban đầu mà chúng ta dành cho chúng khi xem xét chúng tách rời khỏi ngữ cảnh. Đây là một điểm không phải bao giờ cũng được các nhà nghĩa học quan tâm đúng mức.

Xét theo khía cạnh này, các phát ngôn chứa động từ 'có nghĩa, có ý' (hoặc danh từ 'nghĩa') không khác gì so với các phát ngôn khác trong tiếng Anh. Và điều quan trọng cần nhớ là, xét ở các khía cạnh khác, động từ 'có nghĩa, có ý' và danh từ 'nghĩa' cũng chỉ là các từ bình thường của tiếng Anh. Không cần thiết phải cho rằng tất cả các ngôn ngữ tự nhiên, trong vốn từ vựng hàng ngày của chúng, đều có những từ tương ứng một cách chính xác với động từ 'có nghĩa, có ý' và danh từ 'nghĩa' cả về mặt ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa. Đây là điểm thứ hai đặc biệt cần nhấn mạnh và tôi sẽ trở lại với nó sau (mục 1.2).

Bây giờ chúng ta hãy xét một nghĩa hệ thống (hoặc nghĩa) khác của động từ 'có nghĩa, có ý'. Nếu ta nói:

(5) 'Soporific' means " tending to produce sleep".

('Gây ngủ' có nghĩa là "làm cho ngủ")

thì hiển nhiên là ta không hề gán ép sự chủ định nào cho cái từ tiếng Anh 'soporific'. Tuy nhiên, có thể cho rằng có một mối liên hệ mang tính bản chất, mặc dù là gián tiếp, giữa những gì mà người ta biểu thị hoặc chủ định biểu thị, với những gì được gán một cách quy ước cho các từ mà họ sử dụng. Luận điểm này được các nhà triết học ngôn ngữ thảo luận rất nhiều. Bởi vì nó không quan yếu đối với những quan tâm chính của cuốn sách này nên tôi không bàn đến ở đây. Tôi cũng không bàn đến một luận điểm liên quan, là cũng tồn tại một mối liên hệ bản chất, và có thể là trực tiếp hơn, giữa những gì mà người ta muốn bày tỏ và những gì người ta chủ định bày tỏ. Mặt khác, trong Chương 8 và Chương 9, tôi sẽ đưa ra một cách trình bày cụ thể về sự khác biệt giữa việc nói ra điều mà ta muốn nói và việc hiểu điều mà ta nói - đây là một phân biệt khác đã được tranh luận rộng rãi trong triết học ngôn ngữ.

Tính chủ định chắc chắn đóng một vai trò quan trọng trong bất kì học thuyết nào người ta có thể nêu ra về nghĩa của phát ngôn, cho dù nó không phải là đặc tính của các từ tạo nên phát ngôn. Tạm thời, ta hãy đơn giản lưu ý rằng chính cái nghĩa của động từ "có nghĩa, có ý" được nêu ví dụ ở (5) chứ không phải cái ý nghĩa được nêu ở ví dụ (6):

(6) Mary didn't really mean what she said.

(Mary đã thật sự không nghĩ như điều cô ấy nói)

mới là cái nghĩa được quan tâm trực tiếp hơn trong ngôn ngữ học.

Ta vừa lưu ý rằng danh từ 'nghĩa' (và động từ tương ứng 'có nghĩa, có ý') là có nhiều nghĩa. Nhưng luận điểm chính tôi muốn nói trong mục này không phải là về tính đa nghĩa, hay đa nghĩa hệ thống, của từ này, mà là việc những nghĩa này có liên quan với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều cách. Điều này giải thích tại sao việc nghiên cứu cái đối tượng được xem là nghĩa (theo một nghĩa này hay nghĩa khác của từ tiếng Anh 'meaning') lại là mối quan tâm của nhiều ngành và không hề là lãnh địa riêng của ngành nào. Theo đó, nếu nghĩa học được định nghĩa là sự nghiên cứu về ý nghĩa thì sẽ có nhiều phân nhánh khác nhau nhưng giao nhau của nghĩa học: nghĩa học triết lí, nghĩa học tâm lí, nghĩa học nhân chủng, nghĩa học lô-gic, ngữ nghĩa học v.v.

Chính ngữ nghĩa học (linguistic semantics) là đối tượng mà ta chủ yếu quan tâm trong cuốn sách này; và mỗi khi tôi sử dụng thuật ngữ 'nghĩa học' mà không có thêm định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu với nghĩa hẹp hơn, để chỉ ngữ nghĩa học. Tương tự, mỗi khi tôi dùng thuật ngữ 'ngôn ngữ' không kèm theo định ngữ nào thì nó sẽ được hiểu là dùng để chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên (natural languages). Nhưng ngữ nghĩa học là gì và nó phân biệt với nghĩa học phi ngôn ngữ ra sao? Và cái gọi là ngôn ngữ tự nhiên thì phân biệt với các loại ngôn ngữ khác như thế nào về phương diện nghĩa cũng như các phương diện khác? Đây là những câu hỏi mà ta sẽ bàn đến trong mục 1.3. Nhưng trước hết, cần nói đôi điều về hệ thuật ngữ, cách thức sử dụng, và chung hơn, là về siêu ngôn ngữ (metalanguage) có tính chuyên môn và không chuyên môn của ngữ

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (2)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.2. Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học

Ta có thể tiếp tục dành nhiều thời gian để nêu ra và thảo luận những ví dụ về những nghĩa khác nhau của từ 'nghĩa' trong mục trước. Nếu ta làm như vậy và sau đó cố gắng dịch tất cả các ví dụ của ta sang các ngôn ngữ tự nhiên khác (tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga...) ta sẽ chóng đi đến chỗ đánh giá hiệu lực của một trong những luận điểm được nêu ra ở đây, rằng 'meaning' (và động từ mà từ đó nó được phái sinh) là một từ tiếng Anh không có từ tương ứng chính xác trong các ngôn ngữ gần gũi khác. Ta cũng sẽ thấy rằng có nhiều ngữ cảnh trong đó danh từ 'meaning' và động từ 'có nghĩa, có ý' ('mean') là không tương ứng với nhau. Nhưng đây không phải là một biệt lệ của tiếng Anh hoặc của hai từ này. Như sau này ta sẽ thấy, phần lớn các từ hoặc biểu thức (cụm từ) ngôn ngữ tự nhiên được dùng hàng ngày, không mang tính chuyên môn, đều giống với danh từ 'nghĩa' và động từ 'có nghĩa, có ý' ở chỗ chúng có một vài nghĩa vốn không có cách nào phân biệt với nhau một cách rõ ràng (hoặc giả là một loạt nghĩa trong đó một vài khác biệt có thể được chỉ ra) và các nghĩa này có thể khá là mơ hồ hoặc không xác định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất mà ta phải thực thi trong suốt cuốn sách này là trang bị cho ta một vốn thuật ngữ chuyên môn chính xác và không mơ hồ, ở mức cao nhất có thể được.

Để thực hiện điều đó, ta sẽ xây dựng cái mà các nhà ngữ nghĩa học gọi là siêu ngôn ngữ (metalanguage); tức là một ngôn ngữ dùng để miêu tả ngôn ngữ. Hiện nay, các nhà nghĩa học triết lí đều nhất trí một điều là các ngôn ngữ tự nhiên (đối lập với những ngôn ngữ hình thức, phi tự nhiên hoặc nhân tạo) đều chứa đựng siêu ngôn ngữ của riêng chúng: chúng có thể được dùng để miêu tả không những các ngôn ngữ khác (và ngôn ngữ nói chung) mà còn cả bản thân chúng. Cái đặc tính theo đó một ngôn ngữ có thể được dùng để nói về chính bản thân nó (toàn bộ hoặc một phần) sẽ được tôi gọi là tính phản thân (reflexivity). Những rắc rối triết học có thể nảy sinh từ tính phản thân kiểu này sẽ không thuộc vào số những vấn đề mà ta quan tâm trực tiếp ở đây. Song, có một số phương diện khác thuộc về tính phản thân, và chung hơn là thuộc về chức năng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ tự nhiên, cần được xem xét.

Siêu ngôn ngữ mà ta đã sử dụng đến bây giờ và sẽ tiếp tục sử dụng suốt trong sách này là tiếng Anh: chính xác hơn, nó chính là tiếng Anh Chuẩn (Standard English) ít nhiều mang tính thông thường (nhưng không phải thông tục) (vốn phân biệt với các loại tiếng Anh khác theo nhiều khác khác nhau). Những khi tôi dùng thuật ngữ 'tiếng Anh' không kèm theo bất kì định ngữ nào thì đấy chính là cái ngôn ngữ (hoặc phương ngữ) mà tôi muốn nói tới. Tiếng Anh thông thường (tiếng Anh Chuẩn) dĩ nhiên không phải là hoàn toàn đồng nhất trên phạm vi toàn thế giới hoặc xuyên suốt các nhóm xã hội ở các nước hoặc khu vực nói tiếng Anh, song những khác biệt trong từ vựng và cấu trúc ngữ pháp như đã tồn tại giữa một biến thể của tiếng Anh Chuẩn (British, American, Australian v.v...) với các biến thể khác là không quan trọng lắm trong bối cảnh những gì trình bày ở đây và sẽ không gây ra vấn đề.

Ta vừa chấp nhận một cách hiển ngôn tiếng Anh với tư cách là siêu ngôn ngữ của ta. Nhưng nếu ta nhằm đến một sự chính xác và rõ ràng thì, tiếng Anh, cũng như các ngôn ngữ tự nhiên khác, không thể được dùng như siêu ngôn ngữ để làm việc nếu không có sự điều chỉnh. Trong chừng mực ta quan tâm đến vốn từ vựng được dùng với mục đích siêu ngôn ngữ của các ngôn ngữ tự nhiên, có hai loại điều chỉnh là khả dĩ: đặt quy định (regimentation) và mở rộng (extension). Ta có thể dùng các từ hàng ngày như 'ngôn ngữ', 'câu', 'từ', 'nghĩa' hoặc 'nghĩa hệ thống' và bắt chúng tuân thủ một sự quy định chặt chẽ (tức quy định (regiment) việc sử dụng chúng), định nghĩa chúng hoặc tái định nghĩa chúng phù hợp với mục đích của chúng ta (cũng giống như các nhà vật lí định nghĩa lại các khái niệm 'lực', 'năng lượng' theo những mục đích riêng của họ). Hoặc giả, ta có thể mở rộng (extend) vốn từ vựng hàng ngày bằng cách thêm vào những từ chuyên môn, vốn thường không được dùng trong diễn ngôn hàng ngày.

Trong mục trước, ta đã có nhận xét rằng, từ 'meaning' (nghĩa) của tiếng Anh hàng ngày có một loạt nghĩa khác biệt nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Ở điểm này, ta có thể làm như các nhà ngữ nghĩa học tiếng Anh đã làm hiện nay: ta có thể đặt quy định (regiment) cho việc dùng từ 'nghĩa' bằng cách cố ý quy cho nó một nghĩa hẹp hơn, chuyên môn hơn so với nghĩa của nó trong đời sống hàng ngày. Rồi sau đó ta có thể dùng cái định nghĩa hẹp, có tính chuyên môn của từ 'nghĩa' này để giới hạn lại phạm vi của nghĩa học, chỉ để chỉ bộ phận thường được truyền thống ngôn ngữ học, triết học và các khoa học khác gọi là 'nghĩa học'. Trong cuốn sách này, chúng ta chọn giải pháp khác. Ta sẽ tiếp tục dùng cả danh từ 'nghĩa' và động từ 'có nghĩa, có ý' như là những từ không-chuyên-môn, với đầy đủ những nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống) hàng ngày của chúng. Và tạm thời chúng ta sẽ tiếp tục thao tác với cái định nghĩa rộng tương ứng về 'nghĩa học'; tức là cho đến khi được định nghĩa lại, nghĩa học vẫn được chúng ta tiếp tục xem là khoa học nghiên cứu về nghĩa. Tuy nhiên, cũng nên nhắc lại rằng hiện nay, một số tác giả đã chấp nhận định nghĩa có phần hẹp hơn về 'nghĩa học', dựa trên một sự quy định về cách dùng từ 'nghĩa' (hoặc một trong số các từ tương đương của nó) trong các ngôn ngữ khác. Tôi sẽ trở lại điểm này sau (xem mục 1.6).

Mặc dù từ 'nghĩa' của ngôn ngữ hàng ngày vẫn được giữ lại mà không cần định nghĩa lại trong siêu ngôn ngữ mà chúng ta đang xác lập, một vài biểu thức ngôn ngữ phức hợp, có chứa từ 'nghĩa' sẽ được nêu ra và được định nghĩa khi chúng ta xử lí các vấn đề, và sau đó sẽ được dùng với tư cách là thuật ngữ chuyên môn. Ví dụ, ở đoạn sau của chương này, sẽ có sự phân biệt, một mặt, giữa nghĩa mệnh đề (propositional meaning) và nghĩa phi mệnh đề (non-propositional meaning) và mặt khác, giữa nghĩa câu (sentence-meaning) và nghĩa phát ngôn (utterance-meaning); những khác biệt này, cùng với những khác biệt khác, tất sẽ liên quan đến sự phân biệt hiện đang được thừa nhận khá rộng rãi giữa ngữ nghĩa học (theo nghĩa hẹp) và ngữ dụng học. Trong Chương 3, nghĩa hệ thống (sense) và sở thị (denotation) sẽ được phân biệt với tư cách là những bình diện hoặc chiều kích phụ thuộc nhau thuộc về nghĩa của từ và ngữ đoạn. Quy chiếu (reference) sẽ được phân biệt với sở thị (denotation), thoạt tiên ở Chương 3 và sau đó, chi tiết hơn, ở Chương 10. Một lần nữa cần nhắc lại rằng, ba từ này (đặc biệt là từ 'nghĩa hệ thống') sẽ được dùng một cách phi kĩ thuật cho đến khi được định nghĩa hoặc định nghĩa lại một cách chính thức. Tình hình cũng tương tự đối với tất cả các từ và biểu thức khác của tiếng Anh thường ngày (bao gồm những danh từ 'ngôn ngữ', 'lời nói' và các động từ có liên quan về nghĩa như 'nói', 'phát ngôn', là những từ sẽ được xem xét chi tiết hơn ở mục 1.4).

Như sẽ được giải thích trong chương sau, trong những năm gần đây, các nhà ngôn ngữ học và lô gic học đã xây dựng những siêu ngôn ngữ phi tự nhiên (non-natural) khác nhau, mang tính hình thức hoá (formalized) cao (nghĩa là mang tính chính xác toán học) để có thể miêu tả các ngôn ngữ tự nhiên ở mức độ chính xác nhất có thể được. Trong cuốn sách này, điều quan trọng đối với ta là thấy được mối quan hệ giữa các siêu ngôn ngữ hình thức, phi tự nhiên của nghĩa học lô gic và thứ siêu ngôn ngữ, ít nhiều mang tính thông thường, được quy định và mở rộng mà ta đang sử dụng. Ngôn ngữ nào, nếu có thể nói như vậy, là ngôn ngữ cơ bản hơn? Và trong ngữ cảnh như vậy thì 'cơ bản' có nghĩa là gì?

Tất nhiên, đó là thứ tiếng Anh viết mà ta đang sử dụng với tư cách là siêu ngôn ngữ, và ta đang dùng nó để chỉ cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết, cũng như (trong trường hợp thích hợp) để chỉ các ngôn ngữ và các phát ngôn-ngôn ngữ được trừu xuất độc lập khỏi cái phương tiện (medium) mà chúng được hiện thực hoá. Trong quy định của ta về việc dùng tiếng Anh viết thông thường làm siêu ngôn ngữ, cần xác lập một số quy ước trình bày giúp ta có thể biểu thị chính xác những đơn vị ngôn ngữ học khác nhau. Những quy ước trình bày ít nhiều mang tính tầm thường như thế, như được sử dụng với tính cách siêu ngôn ngữ trong sách này (in nghiêng, dấu trích dẫn v.v...), sẽ được giới thiệu chính thức ở mục 1.5 (xin xem bảng kí hiệu và quy ước chữ viết ở trang xvii).

Trong chừng mực ngôn ngữ nói hàng ngày được dùng làm siêu ngôn ngữ, sẽ tồn tại một số quy luật và quy ước mà tất cả những người bản ngữ đều tuân theo, không cần phải học và không cần phải bận tâm. Nhưng chúng không phải hoàn toàn được pháp điển hoá và không thể ngăn ngừa được sự hiểu lầm trong tất cả ngữ cảnh. Các nhà ngữ âm học đã phát triển những hệ thống quy ước trình bày với độ chính xác cao về các phát ngôn được nói ra. Tuy nhiên, trong cách dùng phi thuật ngữ của tiếng Anh hàng ngày (và các ngôn ngữ tự nhiên khác), không có những hình thức trình bày dưới dạng viết, được quy ước chấp thuận, về ngữ điệu, nhịp, điểm nhấn và các đặc trưng phi ngôn ngữ khác, vốn là một bộ phận thông thường và cơ hữu của lời nói. Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, những đặc trưng như vậy mang nhiều chức năng giao tiếp và biểu lộ.

Ở đây, tôi muốn lưu ý là chúng cũng có thể thực hiện chức năng siêu ngôn ngữ. Ví dụ, câu:

(7) John said it was raining

(John nói trời đang mưa)

có thể được nói ra theo nhiều cách. Đặc biệt, nó có thể được phát ngôn ra với một sự chuyển tiếp đặc trưng về điệu tính giữa said và it, mà trong lời nói sẽ thể hiện sự khác biệt được quy ước trong ngôn ngữ viết giữa:

(8) John said [that] it was raining

(9) John said, "It was raining".

Trong trường hợp này, có một quy ước ít nhiều được thừa nhận chung, là việc sử dụng các dấu trích dẫn để phân biệt lời nói trực tiếp với lời nói gián tiếp trong tiếng Anh viết. Thế nhưng cũng có những khả năng lựa chọn khác được thừa nhận đối với việc sử dụng dấu trích dẫn. Và thậm chí khi các dấu trích dẫn được dùng thì những quy ước sử dụng chúng không phải là đã được pháp điển hoá hoàn toàn hoặc được mọi người thừa nhận, ví dụ các tác giả và nhà in khác nhau có những quy định riêng của họ đối với việc dùng các dấu trích đơn và kép. Như tôi đã nói, quy ước riêng của tôi về việc dùng các dấu trích đơn và kép với tính chất siêu ngôn ngữ (và cả việc dùng các chữ in nghiêng) sẽ được giải thích trong một mục sau (mục 1.5).

Có nhiều nhận định, dùng ngôn ngữ hàng ngày làm siêu ngôn ngữ, là không mơ hồ khi được nói ra, nhưng không hẳn như vậy nếu được viết ra. Ngược lại, bởi lẽ trong lời nói bình thường không có gì tương ứng một-đối-một với các dấu chấm câu và các dấu hiệu trình bày riêng(diacritics) của ngôn ngữ viết (gạch chân, in nghiêng hoặc in đậm để nhấn mạnh, dấu trích dẫn, viết hoa v.v...) nên có những nhận định, dùng ngôn ngữ hàng ngày làm siêu ngôn ngữ, là không mơ hồ khi viết ra nhưng lại có thể mơ hồ khi nói ra. Ví dụ:

(10) I can't stand Sebastian

khác với

(11) I can't stand 'Sebastian'

ở chỗ (10) có thể được hiểu như là nhận định về một người ngẫu nhiên có tên là 'Sebastian', còn (11) như là nhận định về chính cái tên 'Sebastian' đó (tức "Tôi không thể chịu được cái tên gọi Sebastian" - ND). Tuy nhiên, sự sử dụng quy ước về các dấu trích dẫn nhằm vào những mục đích như vậy trong tiếng Anh viết hàng ngày không phải là bắt buộc. Và như ta sẽ thấy ngay sau đây, sự sử dụng đó cần có những quy định thật chặt chẽ nếu ta muốn nó hành chức như là một bộ phận thuộc siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (3)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.3 Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ

Trong tiếng Anh, tính từ 'linguistic' là lưỡng nghĩa. Nó có thể được hiểu hoặc "gắn với ngôn ngữ", hoặc "gắn với ngôn ngữ học".

Thuật ngữ 'linguistic semantics' cũng theo đó mà lưỡng nghĩa. Giả sử nghĩa học (semantics) là khoa học nghiên cứu về nghĩa thì 'linguistic semantics' có thể được dùng để chỉ, hoặc là sự nghiên cứu nghĩa trong chừng mực nghĩa đó được biểu thị trong ngôn ngữ, hoặc là sự nghiên cứu nghĩa trong phạm vi ngôn ngữ học. Chính cái nghĩa thứ hai này được dùng ở đây và trong suốt cuốn sách này. Ngữ nghĩa học, vì vậy, là một phân nhánh của ngôn ngữ học, cũng giống như nghĩa học triết lí là phân nhánh của triết học, nghĩa học tâm lí là phân nhánh của tâm lí học v.v...

Bởi vì ngôn ngữ học được định nghĩa khái quát là khoa học nghiên cứu ngôn ngữ cho nên có thể nghĩ rằng, sự phân biệt mà tôi vừa nêu ra giữa hai cái nghĩa được dùng của 'linguistic semantics' là một sự phân biệt chẳng mang lại sự khác biệt nào. Tuy nhiên, sự thể không phải như vậy. Ngôn ngữ học không nhằm giải quyết mọi thứ nằm trong phạm vi của từ 'ngôn ngữ'. Giống như các bộ môn khoa học khác, nó xác lập bộ khung lí thuyết riêng của mình. Như những gì tôi đã giải thích với từ 'nghĩa', thì nhằm phục vụ những mục đích riêng của mình, ngôn ngữ học có quyền định nghĩa lại những từ dùng hàng ngày như 'ngôn ngữ' và không nhất thiết phải dùng chúng theo cái cách mà chúng được dùng bên ngoài ngôn ngữ học, bất luận là cách dùng có tính thuật ngữ hay phi thuật ngữ. Hơn thế nữa, như ta sẽ thấy trong mục tiếp theo, từ tiếng Anh 'language'(ngôn ngữ) là một từ lưỡng nghĩa, vì vậy ngữ đoạn 'nghiên cứu nghĩa trong ngôn ngữ' có thể được hiểu theo hai cách khác nhau đáng kể. Do đó, về nguyên tắc, tồn tại không phải hai, mà là ba cách hiểu thuật ngữ 'ngữ nghĩa học'. Tình hình cũng đúng hệt như vậy với ngữ đoạn 'nghĩa ngôn ngữ học' (bởi cùng một lí do). Điều này cũng sẽ được nói rõ hơn trong mục tiếp theo. Trong lúc này, tôi sẽ tiếp tục sử dụng cái từ 'ngôn ngữ' của tiếng Anh hàng ngày, mà không cần định nghĩa lại hoặc có sự chế định đặc biệt nào.

Trong số những bộ môn quan tâm đến nghĩa, có lẽ ngôn ngữ học là ngành quan tâm nhiều hơn cả. Tính có nội dung, hay tính có nghĩa (semanticity), nói chung thường được xem là một trong những đặc trưng dùng để định nghĩa ngôn ngữ; và điều này là không có gì để bàn cãi. Các nhà ngôn ngữ học nói chung cũng giả định rằng ngôn ngữ tự nhiên, về bản chất, là mang tính giao tiếp, có nghĩa là chúng phát triển hoặc tiến hoá -chúng đã được thiết kế, có thể nói như vậy- nhằm vào những mục đích giao tiếp và tương tác; và cái được gọi là những đặc trưng thiết kế (design-properties) của chúng -cụ thể hơn, cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa của chúng- là khớp với mục đích này, nếu không như vậy thì chúng là mang tính huyền bí, không thể giải thích được. Gần đây, quan niệm này đã bị các nhà ngôn ngữ học và triết học xem xét lại. Đối với những mục đích của cuốn sách này, ta có thể giữ thái độ trung hoà về vấn đề này. Như phần lớn các nhà ngôn ngữ học, tôi sẽ tiếp tục cho rằng các ngôn ngữ tự nhiên được mô tả đúng bản chất như là những hệ thống giao tiếp (communication-systems). Tuy nhiên, tôi phải nhấn mạnh rằng không có hệ quả nào phụ thuộc vào điều giả định này. Mặc dù nhiều kiểu ứng xử có thể được mô tả như là có nghĩa nhưng quả thật so với phạm vi, sự đa dạng và phức tạp của các loại nghĩa mà ngôn ngữ biểu thị thì không một kiểu ứng xử giao tiếp nào, thuộc con người hoặc không thuộc con người, lại có thể sánh được. Một phần của sự khác biệt giữa giao tiếp bằng ngôn ngữ và các kiểu loại ứng xử giao tiếp khác bắt nguồn từ các đặc trưng về tính chủ định và quy ước, là những đặc trưng đã được nói trong mục 1.1.

Một sinh vật không phải là con người thường biểu lộ tình cảm hoặc thái độ dưới dạng những ứng xử có vẻ không chủ định và không quy ước. Lấy ví dụ, một con cua sẽ cho thấy sự giận dữ bằng cách giương cái càng to. Trong khi đó, con người sẽ hiếm khi biểu lộ sự giận dữ, dù có chủ định hay không, bằng cách giơ nắm đấm. Thông thường hơn, người ta sẽ thể hiện những tình cảm như tức giận bằng các phát ngôn như:

(12) Rồi mày sẽ ân hận về điều đó.

hoặc

(13) Tao sẽ kiện mày.

hoặc

(14) Sao mày dám làm thế!

Sự thật, âm sắc giọng nói khi phát ngôn những câu trên thường được nhận biết là biểu thị sự tức giận; và nó có thể được đi kèm với cử chỉ hoặc nét mặt giận dữ. Nhưng trong chừng mực ta quan tâm đến các từ được dùng thì rõ ràng là không có một liên hệ tự nhiên, phi quy ước giữa dạng thức và nghĩa: như ta đã nhận xét trong mục trước, các từ, theo cái nghĩa này, là mang tính võ đoán (arbitrary). Phần lớn cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên dùng để biểu thị ý nghĩa cũng vậy. Và, như chúng ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này, còn có nhiều rất nhiều điều để giải thích về tính có nghĩa của ngôn ngữ -tức khả năng biểu thị nghĩa của nó- hơn là chỉ đơn giản nói rằng mỗi từ có nghĩa gì.

Ở điểm này, cũng nên nhấn mạnh rằng, cho dù phần lớn cấu trúc các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên là võ đoán, hoặc mang tính quy ước, thì cũng tồn tại nhiều nhân tố phi võ đoán trong chúng. Một kiểu phi võ đoán hiện thường được viện dẫn là tính phỏng hình (iconicity). Nói nôm na thì tín hiệu có tính phỏng hình là tín hiệu mà hình thức của nó có thể được giải thích dựa trên sự tương đồng giữa hình thức của tín hiệu và nội dung mà nó biểu thị: các tín hiệu không mang đặc tính này đều là phi phỏng hình. Như các nhà ngôn ngữ học đã lưu ý từ hàng thế kỉ nay, trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều tồn tại những từ được truyền thống miêu tả là các từ tượng thanh (onomatopoeic), chẳng hạn các từ splash, bang, crash hoặc cuckoo, peewit v.v... trong tiếng Anh; ngày nay chúng được phân loại dưới một tên gọi chung hơn là 'từ phỏng hình'. Nhưng những từ như vậy là khá ít về mặt số lượng. Điều quan trọng hơn đối với ta là, mặc dù phần lớn cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên là võ đoán, chúng vẫn mang tính phỏng hình nhiều hơn so với mức mà các sách giáo khoa ngôn ngữ chuẩn mực có thể thừa nhận. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, theo cách nhìn như vậy, lại chính là tính phỏng hình bộ phận của cái thành tố phi lời (non-verbal) trong các phát ngôn của ngôn ngữ tự nhiên.

Cụ thể thì các phát ngôn được nói ra, ngoài các từ cấu thành, sẽ còn mang một ngữ điệu và một mô hình trọng âm riêng: chúng được gọi theo thuật ngữ chuyên môn là các đặc trưng ngôn điệu (prosodic features). Những đặc trưng này là một bộ phận cơ hữu của những phát ngôn chứa chúng, và không được coi chúng, theo một cái nghĩa nào đó, là thứ yếu hay tuỳ nghi. Các đặc trưng ngôn điệu trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên, ở một mức độ đáng kể (mặc dù không phải là toàn bộ) là mang tính phỏng hình. Các phát ngôn nói ra cũng có thể được hỗ trợ bởi cái được gọi là những dấu hiệu kèm lời (paraliguistic features), vốn thường hay được gọi một cách thiếu chính xác là ngôn ngữ cử chỉ (điệu bộ, tư thế, ánh mắt, nét mặt...). Như thuật ngữ 'kèm lời' cho thấy, những yếu tố này không được các nhà ngôn ngữ học xem là một phần cơ hữu của những phát ngôn mà chúng có quan hệ. Xét theo khía cạnh này, chúng khác với các đặc trưng ngôn điệu. Nhưng các dấu hiệu kèm lời cũng mang nghĩa, và cũng giống như các đặc trưng ngôn điệu, chúng dùng để định dạng (modulate) và chấm câu (punctuate) cho các phát ngôn mà chúng đi kèm. Chúng thậm chí còn có xu hướng phỏng hình, hay nói cách khác là tính phi võ đoán, cao hơn các đặc trưng ngôn điệu. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, tính phi võ đoán của chúng được pha trộn với tính quy ước ở một mức độ cao không kém: nói như vậy nghĩa là các đặc trưng ngôn điệu của ngôn ngữ nói và những dấu hiệu kèm lời kèm theo phát ngôn trong những ngôn ngữ (hoặc các phương ngữ) cụ thể, thuộc các nền văn hoá (hoặc tiểu nhóm văn hoá) cụ thể thì biến đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác và cần phải được học với tư cách là một phần của quá trình thủ đắc ngôn ngữ bình thường.

Ngôn ngữ viết không có gì tương ứng trực trực tiếp với các đặc trưng ngôn điệu hoặc kèm lời của ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, các dấu chấm câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi v.v...) và chữ viết hoa, in nghiêng, gạch chân v.v... có thể xem là tương đương về chức năng. Vì vậy, tôi dùng thuật ngữ 'chấm câu' như là một thuật ngữ của ngữ nghĩa học cho cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết.

Một dạng khác của tính phi võ đoán mà các nhà ngữ nghĩa học rất quan tâm trong những năm gần đây là tính trực chỉ (indexicality). Một yếu tố trực chỉ (index), như tên gọi được định nghĩa ngay từ đầu, là một tín hiệu mà theo một nghĩa nào đó, hướng sự chú ý đến -tức chỉ ra (indicates) (hoặc là chỉ báo cho (or is indicative of))- cái mà nó biểu đạt (trong tình huống trực tiếp) và do đó hành chức với tư cách là một đầu mối, có thể nói như vậy, chỉ báo cho sự hiện diện hoặc tồn tại (trong tình huống trực tiếp) của bất kì cái gì mà nó biểu hiện. Chẳng hạn, khói là trực chỉ của lửa, lời nói lắp bắp có thể là dấu hiệu của say rượu, v.v... Trong hai trường hợp này, có một mối liên hệ nguyên nhân giữa yếu tố trực chỉ và cái mà nó chỉ ra. Nhưng điều này không được xem là cốt yếu. Trong thực tế, thuật ngữ 'trực chỉ ', như nó được định nghĩa ngay từ đầu, bao quát nhiều thứ vốn chẳng có gì chung ngoài việc hướng sự chú ý vào một khía cạnh nào đó của tình huống hiện thực trực tiếp. Một trong những hậu quả là tình trạng thuật ngữ 'tính trực chỉ' đã được dùng theo một số nghĩa xung đột nhau trong các văn liệu gần đây. Tôi chỉ chấp nhận một trong số các nghĩa này và sẽ giải thích nó trong chương 10. Từ đây cho đến lúc đó, tôi sẽ không dùng các thuật ngữ 'trực chỉ ', 'mang tính trực chỉ' hay 'tính trực chỉ' nữa.

Tuy nhiên, tôi sẽ sử dụng động từ 'chỉ báo' (và cũng dùng cụm từ 'là chỉ báo cho') theo cái nghĩa mà tôi đã dùng cho khói và lời lắp bắp trong đoạn văn trên. Khi người ta nói có khói nghĩa là có lửa hoặc lời lắp bắp là dấu hiệu của say rượu, người ta hàm ý rằng chúng không chỉ hướng chú ý đến sự hiện diện của lửa hoặc sự say rượu (trong tình huống trực tiếp), mà còn cho biết rằng lửa là nguyên do của khói và chính cái người nói lắp bắp ấy là kẻ say rượu. Nếu ta coi đây như là một điều kiện để định nghĩa hiện tượng trực chỉ (indication), theo cái nghĩa mà giờ đây tôi chấp nhận như là nghĩa thuật ngữ của từ này, thì ta có thể nói rằng nhiều thông tin được thể hiện trong phát ngôn khi nói ra chính là chỉ báo cho các đặc trưng sinh học, tâm lí và xã hội của người nói. Lấy ví dụ, giọng của một người nói chung sẽ là chỉ báo cho nguồn gốc xã hội hay xuất xứ địa phương của người đó; và đôi khi việc chọn lựa một từ ngữ này mà không phải là từ ngữ khác trong số hai từ ngữ đồng nghĩa theo cách nào đó cũng có tác dụng tương tự.

Vậy thì nhà ngôn ngữ học xử lí thế nào với nghĩa của các phát ngôn trong ngôn ngữ? Và bao nhiêu trong số đó được xếp loại là thuộc ngôn ngữ học (theo cái nghĩa là "nằm trong phạm vi của ngôn ngữ học") chứ không phải mang tính kèm lời (hoặc ngoại ngôn)? Nhà ngôn ngữ học, như những người nghiên cứu thuộc các bộ môn khoa học khác, sẽ thay đổi cách xử lí đối với bất kì vấn đề nào của đối tượng nghiên cứu tuỳ thuộc vào không khí học thuật đang thịnh hành. Thực tế, trong thời gian gần đây, đã từng có những thời kì, chủ yếu là ở Mĩ giai đoạn giữa năm 1930 và cuối những năm 1950, ngữ nghĩa học bị nhiều người né tránh. Một trong những nguyên nhân dẫn tới điều đó là: việc khảo sát ngữ nghĩa bị quy chụp là mang tính chủ quan (theo cái nghĩa xấu của từ này) về bản chất, và ít nhất thì cũng tạm thời bị coi là nằm ngoài phạm vi của khoa học.

Nguyên nhân đặc biệt hơn của sự né tránh ngữ nghĩa học chính là ảnh hưởng của tâm lí học hành vi đối với một số, mặc dù không phải là tất cả, trường phái ngôn ngữ học Mĩ. Nhờ có sự chỉ trích của Chomsky đối với hành vi luận vào cuối những năm 1950 và tác động mang tính cách mạng sau đó mà lí thuyết ngữ pháp tạo sinh của ông mang lại, không chỉ đối với các nhà ngôn ngữ học mà còn đối với các bộ môn khoa học khác, bao gồm triết học và tâm lí học, mà ảnh hưởng của hành vi luận không còn mạnh mẽ như nó từng có cách đây một thế hệ. Không chỉ có nhà ngôn ngữ, mà cả các nhà triết học lẫn tâm lí học, hiện nay sẵn sàng thừa nhận tư cách dữ liệu đối với những gì trước đây đã thẳng thừng bị chối bỏ vì bị xem là chủ quan (theo cái nghĩa xấu của từ) và không đáng tin cậy.

Cuốn sách này tập trung vào ngữ nghĩa học, và nó dựa vào những gì mà nhiều người coi là theo quan điểm truyền thống. Nhưng nó cũng chú trọng đúng mực đến những phát triển mới mẽ trong những năm gần đây, với tư cách là thành quả của sự hợp tác không ngừng tăng tiến giữa các nhà ngôn ngữ học và các đại diện của các ngành khoa học khác, bao gồm lô-gic hình thức và triết học ngôn ngữ, và nó xem xét những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của một số khái niệm quan trọng nhất mà ngữ nghĩa học hiện nay đang chia sẻ với những dạng nghĩa học phi ngôn ngữ khác.

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (4)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.4. Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi'

Từ 'langue' (ngôn ngữ) trong tiếng Anh, giống như từ 'meaning' (nghĩa), có một phổ rộng về nghĩa (hoặc nhiều nghĩa). Nhưng điều đầu tiên và quan trọng nhất cần nói về từ 'language' là, cũng như từ 'meaning' và một vài danh từ tiếng Anh khác, nó mang tính nước đôi về quy loại (categorially ambivalent) xét theo đặc trưng ngữ nghĩa quan yếu về số tính(countability); tức nó có thể được dùng (giống như 'thing', 'idea'v.v...) với tư cách là một danh từ đơn vị (nghĩa là, khi nó được dùng ở số ít, nó phải đi với một mạo từ, xác định hoặc không xác định, hoặc một loại định từ (determiner) nào đó khác); nó cũng có thể được dùng (giống như 'water', 'information'v.v...) với tư cách là một danh từ khối (tức không phải là danh từ đơn vị), vốn không yêu cầu một định từ và thường biểu thị không phải một thực thể riêng lẻ thuộc về một tập hợp hoặc biểu thị nhiều thực thể, mà là một khối không rõ ranh giới hoặc một kết tập nào đó của chất liệu hay vật chất. Số tính không có được một sự thừa nhận về ngữ pháp -tức không được ngữ pháp hoá (grammaticalized) (hoặc theo lối hình thái học hoặc theo lối cú pháp học)- trong tất cả các ngôn ngữ tự nhiên (xem mục 10.1). Và trong những ngôn ngữ mà nó được ngữ pháp hoá thì nó cũng được ngữ pháp theo nhiều cách khác nhau.

Điều ta quan tâm ở đây là khi từ 'ngôn ngữ' được dùng như một danh từ khối ở số đơn (không có định từ), biểu thức chứa nó có thể, nhưng không nhất thiết, được xem là tương đương về nghĩa với biểu thức chứa từ 'ngôn ngữ' ở dạng thức số nhiều, được dùng với tư cách là một danh từ đơn vị. Điều này dẫn đến một hệ luận là những nhận định có chứa từ 'ngôn ngữ' ở số đơn sẽ lưỡng nghĩa. Một trong những trường hợp như vậy (được điều chỉnh từ đoạn văn thứ hai của mục 1.2 trên đây) là:

(15) A metalanguage is a language which is used to describle language.

(Siêu ngôn ngữ là ngôn ngữ được dùng để miêu tả ngôn ngữ)

Một trường hợp khác là:

(16) Linguistics is the scientific study of language.

(Ngôn ngữ học là khoa học nghiên cứu ngôn ngữ)

Từng câu (15) và (16) liệu có cùng ý nghĩa với:

(17) A metalanguage is a language which is used to describle languages.

(18) Linguistics is the scientific study of languages.

hay không?

Không thể trả lời câu hỏi này nếu không dựa vào ngữ cảnh mà câu (15) và (16) xuất hiện, và thậm chí ngay cả trong ngữ cảnh thì câu hỏi này cũng có thể không có lời giải đáp. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ kĩ, nếu không phải là tức thời, thì cái cần thấy rõ là hai câu (15) và (16), như nội dung chúng biểu thị và ngoài ngữ cảnh, là lưỡng nghĩa tuỳ theo chỗ chúng có được hiểu như là tương đương về ngữ nghĩa lần lượt với hai câu (17) và (18) hay không.

Nguyên do của sự mơ hồ đặc biệt này là: bất kì lúc nào từ 'language' (ngôn ngữ) được dùng như một danh từ khối, như ở (15) và (16), biểu thức chứa nó có thể dùng để chỉ không phải là một tập hợp các ngôn ngữ mà mỗi thành viên là (hoặc có thể được miêu tả như là) một hệ thống (system) của các từ và các quy tắc ngữ pháp, mà là để chỉ những sản phẩm (products) (sự sử dụng của) ở dạng nói hay dạng viết của một hệ thống hay một tập hợp các hệ thống cụ thể. Cái có thể được nói đến như là sự lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm (system-product ambiguity) của nhiều biểu thức ngôn ngữ có chứa từ tiếng Anh 'language' chính là liên quan đến cái sự thể vừa được nhắc đến, rằng cái từ tiếng Anh 'language' (cũng như nhiều danh từ khác trong tiếng Anh) vốn nước đôi về mặt cú pháp: tức là nó thuộc về hai tiểu lớp danh từ phân biệt nhau về mặt cú pháp (danh từ đơn vị và danh từ khối). Và cũng có trường hợp, khi nó được dùng với tư cách là một danh từ khối ở số ít thì biểu thức ngôn ngữ chứa nó có thể dùng để chỉ ra hoặc là cái sản phẩm (sự sử dụng) của một ngôn ngữ, hoặc là cái tổng số (hay mẫu tiêu biểu) các ngôn ngữ.

Những biểu thức ngôn ngữ chứa các từ 'English', 'French', 'German' v.v... lại cho thấy một kiểu lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm có liên quan nhưng hơi khác, khi chúng được dùng như là những danh từ khối ở số ít (trong những ngữ cảnh nhất định). Ví dụ:

(19) That is English

có thể được dùng hoặc để chỉ một ngôn bản hay phát ngôn cụ thể, theo nghĩa chính xác của từ, hoặc theo một lối khác, để chỉ chính cái ngôn ngữ-hệ thống (language-system) sản sinh ra các văn bản và phát ngôn cụ thể. Sự mơ hồ này là hiển nhiên bởi theo một cách hiểu về câu (19), không tính cách hiểu khác, thì biểu thức từ đơn lẻ 'English' có thể được thay thế bởi ngữ đoạn 'the English language' (tiếng Anh). Rõ ràng là chúng ta không thể đồng nhất bất kì các phát ngôn tiếng Anh cụ thể nào với chính tiếng Anh. Và cũng rõ ràng, trong những trường hợp như vậy, tính nước đôi cú pháp làm nảy sinh sự lưỡng nghĩa, nói đúng ra, không phải giữa danh từ đơn vị và danh từ khối, mà là giữa các danh từ riêng (đơn vị) và các danh từ chung (khối).

Cái mà tôi đã nêu ra như là sự lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm có liên quan đến tính nước đôi về phạm trù của từ 'language' (ngôn ngữ) là tương đối rõ, như nó vừa được giải thích. Nhưng từ trước đến nay nó vẫn là, và tiếp tục sẽ là, nguồn gốc của rất nhiều lẫn lộn về lí thuyết. Có một cách tránh được ít nhất một vài trong số những nhầm lẫn như vậy, đó là cách không bao giờ, về phương diện siêu ngôn ngữ, dùng từ tiếng Anh 'language' (ngôn ngữ) như là một danh từ khối khi mà biểu thức ngôn ngữ chứa nó có thể được thay thế đồng nghĩa bởi một biểu thức chứa từ 'language', được dùng như một danh từ đơn vị. Cách giải quyết này sẽ được giữ nguyên nhất quán trong các phần trình bày tiếp theo; và các sinh viên được khuyên nên chấp nhận cách giải quyết giống như vậy.

Một cách khác để tránh né, hoặc làm giảm thiểu, sự mơ hồ và lẫn lộn gây ra bởi tính nước đôi về cú pháp (hoặc phạm trù) của cái từ tiếng Anh hàng ngày 'language' cũng như một vài ý nghĩa của nó là đặt ra những thuật ngữ đặc biệt hơn để thay thế nó. Đó là những thuật ngữ 'langue' (ngữ ngôn) và 'parole' (lời nói) nay được dùng rộng rãi, mà Saussure (1916) là người dùng đầu tiên với nghĩa thuật ngữ trong tiếng Pháp, 'competence' (ngữ năng) và 'performance' (ngữ thi), mà Chomsky (1965) đã nêu ra như là những thuật ngữ ngôn ngữ học.

Trong tiếng Pháp hàng ngày, phi kĩ thuật thì danh từ 'langue' (ngữ ngôn) là một trong hai từ mà nếu phối hợp với nhau thì sẽ có cùng phạm vi ý nghĩa hoặc các ý nghĩa tương đương với cái từ tiếng Anh 'language' (ngôn ngữ). Cái từ tiếng Pháp khác là 'langage'. Hai từ tiếng Pháp này phân biệt với nhau về mặt ngữ pháp và ngữ nghĩa ở một vài phương diện. Trong bối cảnh mà ta quan tâm, hai sự khác biệt quan trọng là: (i) 'langue', trong đối lập với 'langage', luôn luôn được dùng như một danh từ đơn vị; (ii) 'langue' biểu thị cái thường được coi là ngôn ngữ tự nhiên và, không giống như từ 'langage', nó thường không được dùng để chỉ: (a) những ngôn ngữ hình thức nhân tạo (tức phi tự nhiên) của lô gic học, toán học, tin học, (b) những hệ thống giao tiếp ngoài ngôn ngữ (extralinguistic) hoặc kèm ngôn ngữ như cái vẫn được gọi một cách phổ biến là ngôn ngữ cử chỉ, hoặc (c) những hệ thống giao tiếp không thuộc con người. Cái sự thể rằng tiếng Pháp (giống như tiếng Italia, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha và các ngôn ngữ Romane khác) có đến hai từ không tương đương với nhau về nghĩa, tự bản thân nó là rất thú vị. Nó khẳng định một luận điểm đã được nói đến từ trước về cái từ 'nghĩa' của tiếng Anh: cái siêu ngôn ngữ hàng ngày được lấy từ một ngôn ngữ tự nhiên này không nhất thiết tương đương về nghĩa, toàn bộ hoặc bộ phận, với cái siêu ngôn ngữ hàng ngày được lấy từ một ngôn ngữ tự nhiên khác. Nhưng điều này được nêu ra ở đây là gắn với sự phân biệt của Saussure về 'ngữ ngôn' và 'lời nói'.

Những biểu thức ngôn ngữ chứa từ tiếng Pháp 'langage' cũng chịu cùng một kiểu lưỡng nghĩa hệ thống-sản phẩm như các biểu thức ngôn ngữ chứa từ tiếng Anh 'language' phải chịu. Nhưng những biểu thức chứa từ 'langue' thì không thế. Chúng luôn luôn chỉ cái mà tôi gọi là ngôn ngữ-hệ thống (và theo phạm vi hẹp của từ 'langue', đối lập với cái từ tiếng Anh 'language', chỉ cái thường được gọi là ngôn ngữ tự nhiên). Điều này luôn đúng, bất chấp cái sự thể là từ 'langue' trong tiếng Pháp có được dùng theo nghĩa thuật ngữ hay không.

Từ 'parole' (lời nói) trong tiếng Pháp hàng ngày có một số ý nghĩa liên quan hoặc chồng lên nhau. Trong cái nghĩa mà ta quan tâm ở đây, nó bao hàm một phần cái nội dung của từ tiếng Pháp 'langage' và từ tiếng Anh 'language' khi được dùng với tư cách là những danh từ khối. Nó biểu thị chính cái sản phẩm hoặc những sản phẩm mà việc sử dụng một ngôn ngữ-hệ thống đem lại. Tuy nhiên, không giống như các từ 'langage' và 'language', nó chỉ dùng để chỉ ngôn ngữ nói, tức chỉ cái sản phẩm lời nói. Hệ quả là, sự phân biệt mà Saussure nêu ra giữa 'langue' (ngữ ngôn) và 'parole' (lời nói) đã thường xuyên bị trình bày sai lạc, trong tiếng Anh cũng như một số ngôn ngữ Châu Âu khác, bao gồm tiếng Đức, tiếng Nga, với tư cách là một sự phân biệt giữa ngôn ngữ (language) và lời nói (speech).

Sự phân biệt mang tính bản chất, như ta vừa thấy, là giữa một hệ thống (gồm một bộ các quy tắc ngữ pháp và một vốn từ vựng) với cái sản phẩm của (sự sử dụng của) chính cái hệ thống đó. Lưu ý rằng ở đây, cũng như từ đầu mục này, tôi đã đưa ngữ đoạn 'sự sử dụng của' vào trong dấu ngoặc đơn. Điều này dẫn ta đến một luận điểm thứ hai, một luận điểm nhất thiết phải nêu ra, không chỉ về sự phân biệt của Saussure giữa 'ngữ ngôn' và 'lời nói', mà còn về sự phân biệt của Chomsky giữa 'ngữ năng' và 'ngữ thi', vốn cũng gây ra nhiều nhầm lẫn lí thuyết.

Khái niệm 'ngữ năng' (đầy đủ hơn, là 'năng lực ngôn ngữ' hoặc 'năng lực ngữ pháp') được Chomsky dùng để chỉ cái ngôn ngữ-hệ thống lưu trữ trong đầu của những cá nhân được cho là biết, hoặc có năng lực đối với cái ngôn ngữ đang xét. Năng lực ngôn ngữ, trong cái nghĩa này, luôn luôn là năng lực đối với một ngôn ngữ cụ thể. Những người bản ngữ thường có được nó ngay từ hồi thơ ấu (trong những điều kiện môi trường bình thường) nhờ sự tương tác của: (i) cái khả năng ngôn ngữ riêng của con người và được di truyền (cái khả năng này được Chomsky gọi bằng thuật ngữ 'ngữ pháp phổ quát') và (ii) một số lượng đủ các phát ngôn làm mẫu được trình bày thích đáng, vốn có thể phân tích (với sự trợ giúp của những tri thức bẩm sinh của đứa trẻ về những nguyên tắc và tham số của ngữ pháp phổ quát) với tư cách là những sản phẩm của cái ngôn ngữ-hệ thống đang phát triển. Có nhiều chi tiết trong lí thuyết của Chomsky về sự thủ đắc ngôn ngữ và về ngữ pháp phổ quát gây tranh cãi về phương diện triết học cũng như tâm lí học. Nhưng điều này không quan yếu đối với những quan tâm hiện thời của chúng ta. Lúc này, có một điều được thừa nhận, hoặc cần phải được thừa nhận: cái mà Chomsky gọi là ngữ năng trong những ngôn ngữ tự nhiên cụ thể, về phương diện vật lí thần kinh, là được lưu trữ trong não các thành viên của những cộng đồng ngôn ngữ cụ thể. Và khái niệm 'ngữ năng' của Chomsky, được giải thích như thế, xét theo mục đích hiện thời, có thể được đồng nhất với khái niệm 'ngữ ngôn' của Saussure.

Nếu Chomsky phân biệt 'ngữ năng' và 'ngữ thi' thì Saussure phân biệt 'ngữ ngôn' và 'lời nói'. Nhưng 'ngữ thi' không thể dễ đồng nhất với 'lời nói' như cái cách mà 'ngữ năng' được đồng nhất với 'ngữ ngôn'. Nói một cách nghiêm ngặt thì 'ngữ thi' biểu thị cái cách dùng ngôn ngữ-hệ thống, trong khi 'lời nói' biểu thị những sản phẩm của cái cách dùng đó. Tuy vậy, sự phân biệt về thuật ngữ này không phải bao giờ cũng được duy trì. Thuật ngữ 'ngữ thi' của Chomsky (giống như thuật ngữ 'cách ứng xử') thường được các nhà ngôn ngữ học sử dụng để chỉ một cách không phân biệt, hoặc lập lờ, cả cách dùng hệ thống lẫn những sản phẩm của cách dùng hệ thống. Ngược lại, thuật ngữ 'lời nói' hiếm khi, nếu có, được dùng để chỉ một cái gì khác ngoài sản phẩm của việc sử dụng những ngôn ngữ-hệ thống cụ thể. Cái ta muốn, bây giờ cần làm rõ, không phải là một sự phân biệt tay đôi giản đơn giữa một hệ thống và những sản phẩm của nó mà là một sự phân biệt tay ba, trong đó sản phẩm ('lời nói') được phân biệt không những với hệ thống mà còn với quá trình ('ngữ thi', 'cách ứng xử', 'cách dùng' v.v...). Cho dù chúng ta có dùng một vốn từ vựng siêu ngôn ngữ đặc biệt cho mục đích này hay không thì điều quan trọng vẫn là: cái sản phẩm thu được từ quá trình sử dụng một ngôn ngữ cần được phân biệt cẩn thận với bản thân quá trình ấy.

Nhiều danh từ tiếng Anh thường ngày phái sinh từ động từ là giống với từ 'ngữ thi' ở chỗ chúng có thể được dùng để chỉ cả quá trình lẫn sản phẩm của nó. Chúng bao gồm bản thân danh từ 'production' (sự tạo thành) và một loạt các danh từ có liên quan về ngữ nghĩa như 'creation' (sự chế tác), 'composition' (sự hợp thành), 'construction' (sự cấu tạo). Chúng cũng bao gồm những từ của ngôn ngữ thường ngày (tức siêu ngôn ngữ thường ngày) như 'speech' (lời nói), 'writing' (viết), 'utterance' (phát ngôn) và nhiều từ khác. Hai cái nghĩa hệ thống của các từ này không được lẫn lộn với nhau, như chúng đã và đang lẫn lộn, và tiếp tục bị lẫn lộn, trong nhiều giáo trình ngôn ngữ học. Điểm này, như chúng ta sẽ thấy, có tầm quan trọng đặc biệt khi xác định khái niệm 'ngữ dụng học'.

Rất nhiều điều được nói trong mục này có liên quan không chỉ đối với những vấn đề có thể nảy sinh nếu chúng ta không thận trọng trong cách dùng những từ ngữ hàng ngày như 'ngôn ngữ', 'lời nói' mà còn đối với một loạt những vấn đề khác sẽ được đề cập tiếp theo đây. Điều cốt tử là, những người mới làm quen với ngữ nghĩa học cần phải ý thức về cái mà tôi sẽ gọi ra đây như là sự tam phân hệ thống-quá trình-sản phẩm (system-process-product trichotomy). Những sinh viên đã quen với những nguyên tắc của ngữ pháp tạo sinh hiện đại và nghĩa học hình thức sẽ biết rằng, có những điều chỉnh được thực hiện đối với sự phân tích ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ theo cái trục hệ thống-quá trình-sản phẩm vừa được trình bày ở đây. Đặc biệt, các thuật ngữ 'quá trình' và 'sản phẩm' còn có một nghĩa trừu tượng hơn, mang tính chất toán học, theo đó người ta nói rằng các câu được tạo ra, hay sản sinh ra, bởi một ngữ pháp hoạt động trên một thành tố từ vựng hữu quan. Cái nghĩa trừu tượng hơn này của thuật ngữ 'quá trình' (giống như cái nghĩa trừu tượng hơn của thuật ngữ 'câu', là thuật ngữ dựa vào nó và sẽ được giải thích ở một thời điểm thích hợp), về phương diện lô gic, là độc lập với cách sử dụng cũng như ngữ cảnh và có thể được xem như là ở bên trong hệ thống. Nhưng tạm thời, chúng ta không quan tâm đến những câu hỏi mang tính kĩ thuật kiểu này. Ta có thể ngao du khá xa trong ngữ nghĩa học trước khi ta phải bàn đến những tiến triển gần đây trong ngôn ngữ học lí thuyết và lô gic hình thức.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (5)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.5. Từ: dạng thức và nghĩa

Đây là lúc thuận lợi để đưa ra những quy ước trình bày nhằm phân biệt dạng thức và nghĩa, cơ sở cho các thao tác của ta trong suốt cuốn sách này. Ngay từ ví dụ đầu tiên, đã có những giải thích về dạng thức và ý nghĩa của từ. Sự giải thích này sau đó có thể mở rộng, như chúng ta sẽ thấy, cho các ngữ đoạn, câu và các biểu thức ngôn ngữ khác.

Một trong những giả định ngầm ẩn mà ta đã tuân thủ và bây giờ có thể được làm rõ là các từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác, gồm ngữ đoạn và câu) thì có ý nghĩa. Chúng cũng có dạng thức (form): thực tế, trong tiếng Anh cũng như bất kì các ngôn ngữ tự nhiên khác, những ngôn ngữ gắn với một hệ thống chữ viết, bất luận là theo thứ tự bảng chữ cái hay không, và được dùng rộng rãi, thì từ có cả dạng thức nói lẫn dạng thức viết được chấp nhận theo quy ước. (Trong một số trường hợp, cùng một ngôn ngữ nói lại gắn với những hệ thống chữ viết khác nhau, cho nên cùng một từ được nói ra có thể có vài dạng thức chữ viết khác nhau. Ngược lại, và thú vị hơn, nhiều ngôn ngữ nói (spoken languages) khác biệt nhau về âm vị học lại có thể thể gắn bó với không chỉ cùng một hệ thống chữ viết mà còn với cùng một ngôn ngữ viết (written language), miễn sao, như trường hợp của cái được gọi là những phương ngôn của tiếng Trung Quốc hiện đại, tồn tại một mức độ thích đáng về tính đẳng hình (isomorphism) ngữ pháp và đẳng hình từ vựng trong số các ngôn ngữ nói khác nhau đó, tức là một mức độ đồng nhất được chấp nhận về cấu trúc ngữ pháp và từ vựng). Nói chung, chúng ta không cần phải nêu ra sự phân biệt giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, mặc dù để thực hiện điều đó, khi cần thiết thì một số quy ước đã được xác lập khá hoàn hảo trong ngôn ngữ học (bao gồm việc sử dụng các kí hiệu phiên âm quốc tế, được đặt trong dấu ngoặc vuông hoặc dấu nghiêng để biểu thị các dạng thức ngữ âm hay âm vị). Tuy nhiên, chắc chắn cần phải phân biệt cái đơn vị từ (được xem như là một đơn vị hai mặt) với cả dạng thức lẫn ý nghĩa của nó. Và để thực hiện điều này, ta có thể sử dụng cái dạng thức viết thường ngày của từ để biểu thị không chỉ bản thân cái từ đó như là một đơn vị có hai mặt hình thức và nội dung, mà còn để biểu thị hoặc dạng thức hoặc ý nghĩa, được coi là độc lập với nhau. Người ta đã làm như vậy khi dùng tiếng Anh và các ngôn ngữ thường ngày khác làm siêu ngôn ngữ trình bày. Tuy nhiên, để làm rõ chức năng nào trong số ba chức năng siêu ngôn ngữ khác nhau trên đây đã được cái dạng thức viết của từ thực thi trong một trường hợp cụ thể, ta cần xác lập những quy ước trình bày đặc biệt.

Đáng tiếc là, những quy ước trình bày được các nhà ngôn ngữ học sử dụng phổ biến nhất lại không thể phân biệt rõ ràng và nhất quán, một mặt, giữa các từ (và các biểu thức khác) và mặt khác, giữa các dạng thức hoặc ý nghĩa của chúng. Trong cuốn sách này, các dấu trích đơn (single quotation-marks) sẽ được dùng để biểu thị từ và các đơn vị hai mặt với cả dạng thức lẫn nghĩa khác; các chữ in nghiêng (italic) (không có dấu trích) để biểu thị dạng thức (bất luận ở dạng nói hay dạng viết); và dấu trích kép (double quotation-marks) để biểu thị nghĩa (hoặc nghĩa hệ thống).

Với một chút ngẫm nghĩ, ta sẽ thấy rằng tất cả những gì được ta thực hiện cho đến bây giờ là hệ thống hoá và điển chế hoá (tức quy định) một số quy ước về tiếng Anh viết với tính cách là siêu ngôn ngữ đời thường, nhằm vào những mục đích riêng của chúng ta. Khi những người sử dụng tiếng Anh bình thường (hoặc những ngôn ngữ tự nhiên khác) muốn dẫn ra một từ, họ sẽ trích dẫn nó hoặc dưới dạng viết hoặc dưới dạng nói, tuỳ từng trường hợp. Ví dụ, họ có thể nói:

(20) Can you tell me what 'sequipdalian' means?

(Bạn có thể nói cho tôi biết từ 'sequipdalian' có nghĩa là gì không?)

và câu trả lời có thể là:

(21) I'm sorry, I can't: look it up in the dictionary

(Rất tiếc là tôi không thể: hãy xem nó trong từ điển)

ở đây, từ 'it' (nó) , trong ngữ cảnh, vừa chỉ ra lại vừa có thể được thay thế bằng từ 'sequipdalian'. Tương tự, những từ điển quy ước của tiếng Anh và các thứ tiếng khác gắn với một hệ thống chữ viết ghi âm tố sẽ đồng nhất từ với dạng thức của chúng, liệt kê chúng theo một trật tự chữ cái thuần tuý quy ước, vốn được dạy ở trường phổ thông nhằm vào chính mục đích này.

Ta vừa công khai chấp nhận một quy ước trình bày để phân biệt từ (và các biểu thức ngôn ngữ khác) với cả nghĩa lẫn dạng thức của chúng. Nhưng trong nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, từ cũng có thể có hơn một dạng thức. Chẳng hạn, danh từ 'man' (người đàn ông) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp man, man's, men và man's; động từ 'sing' (hát) có những dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp sing, sings, singing, sang và sung; v.v... Các dạng thức khác biệt về ngữ pháp của cùng một từ này được truyền thống miêu tả như là các dạng thức biến hình (inflectional): giống như phần lớn các danh từ đếm được trong tiếng Anh, danh từ 'man' biến đổi hình thái theo các đặc trưng ngữ pháp (chính xác hơn, là các đặc trưng hình thái-cú pháp (morphosyntactic) về số ít/số nhiều và sở hữu; giống như phần lớn các động từ trong tiếng Anh, động từ 'sing', biến đổi hình thái theo các phạm trù ngữ pháp về thời (thời hiện tại khác với thời quá khứ) v.v... Một số ngôn ngữ biến đổi hình thái ở mức độ cao hơn các ngôn ngữ khác. Tiếng Anh, khác với tiếng Nga hoặc tiếng Latin, hoặc thậm chí khác với tiếng Pháp, tiếng Italia... hay tiếng Đức, không có nhiều biến thể hình thái trong dạng thức của từ; và một số ngôn ngữ (được gọi là ngôn ngữ phân tích tính, hay ngôn ngữ đơn lập) đáng chú ý như tiếng Việt, tiếng Hán thì không biến hình. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa từ và dạng thức của nó là quan trọng, ngay cả khi từ không có các dạng thức biến hình phân biệt.

Đối với tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, trong số các dạng thức biến hình của một từ, một dạng thức sẽ được quy ước xem như là dạng trích dẫn (citation-form), nghĩa là dạng được dùng để trích, để chỉ ra chính cái từ mà nó đại diện với tư cách là một phức thể. Và đó thường là dạng trích dẫn thường được thấy, theo thứ tự bảng chữ cái, ở đầu mỗi mục từ trong các từ điển quy ước tiếng Anh và những ngôn ngữ gắn bó với hệ thống văn tự xếp theo bảng chữ cái khác.

Cái dạng trích dẫn thường ngày của một từ được chấp nhận theo quy ước không nhất thiết phải là cái dạng thức mà nhà ngôn ngữ học có thể xác định như là gốc từ hoặc thân từ. Nói chung thì trong tiếng Anh ngẫu nhiên mà dạng trích dẫn thường ngày của phần lớn các từ trùng với thân từ của chúng, trừ các động từ. Nhưng tình hình như vậy không xảy ra ở tất cả các ngôn ngữ. Trong cuốn sách này, đối với tất cả các ngôn ngữ khác tiếng Anh, chúng ta sẽ sử dụng bất kì dạng trích dẫn nào được thừa nhận rộng rãi nhất trong truyền thống từ điển học chủ lưu của các ngôn ngữ ấy. Trong tiếng Anh, khi xem xét động từ thì có hai cách quy ước để chọn lựa. Cách quy ước có tính thường ngày, đậm tính truyền thống hơn nhưng hiện nay ít được nhà ngôn ngữ học thừa nhận hơn, là sử dụng cái được gọi là dạng nguyên thể, vốn gồm tiểu từ to cộng với thân từ (hoặc trong trường hợp các động từ bất quy tắc, cộng với một trong các thân từ), ví dụ: 'to love', 'to sing', 'to be'... Cách quy ước ít mang tính truyền thống hơn, mà tôi chấp nhận, là sử dụng thân từ (hoặc một trong số các thân từ) không chỉ cho danh từ, đại từ, tính từ, trạng từ mà còn cả cho động từ, nghĩa là không chỉ dùng 'man', 'she', 'good', 'weel' mà còn 'love', 'sing', 'be'... Có những lí do xác đáng để chọn thân từ (hoặc một trong số thân từ) với tư cách là dạng trích dẫn trong những ngôn ngữ như tiếng Anh. Tuy nhiên, về nguyên tắc thì việc chọn một dạng thức này chứ không phải một dạng thức khác trong siêu ngôn ngữ để chỉ chính cái từ mà nó đại diện là mang tính võ đoán và chỉ là một vấn đề quy ước.

Phần lớn các từ tiếng Anh không phải chỉ có hơn một dạng thức. Chúng còn có thể có hơn một nghĩa; và xét theo khía cạnh này thì tiếng Anh là tiêu biểu cho các ngôn ngữ tự nhiên. (Mặc dù tồn tại những ngôn ngữ tự nhiên trong đó mỗi từ có một và chỉ có một dạng thức, nhưng gần như chắc rằng không có, và chưa hề có ngôn ngữ tự nhiên nào trong đó mỗi từ có một và chỉ một nghĩa). Ví dụ, từ 'food' (bàn chân) có một số nghĩa. Nếu chúng ta muốn phân biệt các nghĩa này khi trình bày, chúng ta có thể đánh số chúng và ghi kèm các số này như là chú dẫn cho các kí hiệu biểu nghĩa, ví dụ: 'food1', 'food2','food3'... Khái quát hơn, giả định rằng X là dạng trích dẫn của một từ, chúng ta sẽ biểu thị từ đó là 'X' và nghĩa của nó (tức tập hợp một hoặc hơn một các nghĩa của nó) là "X"; và nếu nó có hơn một ý nghĩa thì chúng ta có thể phân biệt các ý nghĩa này như là "X1", "X2", "X3" v.v...

Tất nhiên, việc dùng các chú dẫn như vậy chỉ là một công cụ trình bày giản tiện, không nói lên điều gì cả về nghĩa của từ. Khi nào cần phải xác định các nghĩa khác nhau chứ không phải chỉ là biểu diễn kí hiệu như trên đây, chúng ta có thể dùng lối định nghĩa hoặc khúc giải. Ví dụ, đối với từ 'foot', chúng ta có thể nói rằng "foot1" là "phần kết thúc của chân", rằng "foot2" là "phần thấp nhất của một ngọn đồi hay ngọn núi"... Làm thế nào để xác định được một định nghĩa hay cách khúc giải nào đó là đúng hay sai sẽ là vấn đề được thảo luận ở Phần 2. Ở đây tôi chỉ đơn giản quan tâm đến việc giải thích hệ thống siêu ngôn ngữ mà tôi đang sử dụng. Nhưng ở điểm này tôi cũng nên nói rõ là việc sử dụng hệ thống trình bày mà tôi đang xây dựng đây là dựa vào giả định rằng các nghĩa của từ đều mang hai đặc điểm sau: (i) tách biệt, và (ii) có thể phân biệt với nhau. Giả định này là điều thường được những người làm từ điển (và nhà ngôn ngữ học) định ra và được phản ánh trong kết cấu của hầu hết các từ điển chuẩn tắc.

Nhưng đối với những sinh viên trước đó chưa hề có kinh nghiệm về việc này thì việc lấy một số các từ tiếng Anh chung, như là 'foot', 'game', 'table', 'tree'... và tra chúng trong một vài từ điển tường giải có uy tín sẽ là một kinh nghiệm hữu ích. Họ sẽ phát hiện nhiều khác biệt chi tiết, không chỉ về các định nghĩa được đưa ra, mà còn cả về số lượng các nghĩa được gán cho mỗi từ. Họ cũng sẽ thấy rằng một số từ điển, chứ không phải là tất cả, thể hiện những phân biệt ở mức độ chi tiết hơn, chẳng hạn như không chỉ phân biệt "X1" với "X2", "X3"... mà còn phân biệt "X1a" với "X1b", "X1c" v.v... ít nhất thì việc so sánh một số từ điển khác nhau theo cách như vậy cũng sẽ giúp làm sáng tỏ một điều là thật không dễ xác định một từ có bao nhiêu nghĩa, như những suy nghĩ loáng thoáng ban đầu có thể tưởng tượng ra. Nó cũng sẽ khiến ta nghi ngờ cái quan điểm cho rằng mọi từ điển đều đáng tin như nhau, và cũng nghi ngờ cái quan điểm ngược lại rằng một từ điển cá biệt nào đó (từ điển tiếng Anh của Oxford, của Webster v.v...) là duy nhất đáng tin cậy. Thực tế, nó thậm chí còn gieo thêm nghi ngờ rằng trong nhiều trường hợp, việc xác định một từ có bao nhiêu nghĩa không chỉ là khó khăn về mặt thực hành, mà còn là bất khả thi về nguyên tắc. Nghi ngờ này, như ta sẽ thấy, được khẳng định bởi những thể nghiệm lí thuyết và thực hành từ điển học về sau.

Bây giờ cần nói đôi chút về hiện tượng các từ đồng âm (homonyms): các từ khác nhau nhưng có cùng một dạng thức (theo định nghĩa truyền thống). Phần lớn các từ điển phân biệt các từ đồng âm bằng cách gán cho chúng các chữ số (hoặc con chữ) phân biệt và cấp cho mỗi từ đồng âm một mục từ riêng. Chúng ta sẽ dùng các chú thích chữ số. Ví dụ, các từ 'bank1', có nghĩa là "tổ chức tài chính", và 'bank2', có nghĩa là "sườn dốc của một con sông", được xem là các từ đồng âm (xem hình 1.1). Việc chúng được các tác giả hoặc các nhà biên soạn của một cuốn từ điển nào đó phân loại là những từ đồng âm - tức những từ riêng biệt nhau (phần lớn các từ điển tiếng Anh đều phân loại chúng như vậy) - là quá rõ bởi chúng được cấp cho những mục từ riêng rẻ (bất chấp chúng có được đính kèm các con số hoặc con chữ phân biệt hay không). Một điều được giả định là những ai tham khảo từ điển đều có một hiểu biết cảm tính nào đó về khái niệm đồng âm truyền thống, thậm chí ngay cả khi họ không biết thuật ngữ truyền thống dùng để chỉ hiện tượng này, ví dụ, mặc nhiên là những người tham khảo từ điển sẽ nhất trí rằng 'bank1' là một từ khác biệt với 'bank2' và về mặt trực giác thìhiểu được rằng nói chúng là những từ khác biệt nhau thì ngụ ý gì. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy ở Phần 2, khái niệm truyền thống về đồng âm không thật rõ ràng như ấn tượng đầu tiên của ta về nó và cần được làm rõ hơn. Mặc dù ta tạm hoãn lại cuộc thảo luận đầy đủ hơn về từ đồng âm, thì vẫn có thể là hữu ích nếu ta trả lời trước một câu hỏi có thể đã xuất hiện ở bạn đọc, liên quan đến một hoặc hai ví dụ tôi vừa dẫn ra trong mục này. Nếu từ đồng âm là những từ có cùng dạng thức nhưng khác nhau về ý nghĩa thì tại sao chúng ta lại nói, ví dụ, "phần cuối của một cái cẳng chân" và "phần thấp nhất của một một ngọn đồi hay ngọn núi" là những nghĩa khác nhau của cùng một từ 'foot'. Phải chăng ta không nên nói, như đã nói về các từ 'bank1' và 'bank2',rằng hai từ khác nhau, 'foot1' và 'foot2',là có liên quan với nhau?

Hình 1.1

Nói một cách ngắn gọn thì có hai lí do để 'bank1' và 'bank2' được truyền thống xem là hai từ đồng âm. Trước hết, chúng khác biệt nhau về mặt từ nguyên (etymologically): 'bank1' được mượn từ tiếng Ý (so sánh với từ tiếng Ý hiện đại 'banca'); còn 'bank2' có thể được truy dấu vết từ tiếng Anh trung đại, và xa hơn là có nguồn gốc từ một từ Scandinavian (suy cho cùng thì có liên quan đến nguồn gốc German của từ tiếng Ý 'banca', nhưng khác biệt với nó trong quá trình phát triển lịch sử). Thứ hai, chúng được xem là không liên quan về ngữ nghĩa (semantically unrelated), tức người ta cho rằng không có mối liên hệ, chính xác hơn, là không có mối liên hệ được cảm nhận về mặt đồng đại nào giữa nghĩa của 'bank1' và 'bank2'. Trong khi đó, hai ý nghĩa (hoặc hơn) của từ 'foot' là có liên quan về từ nguyên và ngữ nghĩa; trật tự đánh số và liệt kê chúng trong từ điển nói chung phản ánh quan điểm của người biên soạn về mức độ quan hệ gần gũi nhau của chúng, hoặc về phương diện lịch sử hoặc về phương diện đồng đại.

Khái niệm về mối liên hệ ngữ nghĩa sẽ được chúng ta xem xét kĩ hơn về sau, độc lập với việc khái niệm đồng âm đóng vai trò như thế nào (hoặc thực sự là có vai trò gì không) trong ngữ nghĩa học hiện đại. Bây giờ, chỉ cần lưu ý rằng, một khi đã chấp thuận khái niệm đồng âm của truyền thống, thường chúng ta có thể xác định một nghĩa của từ như là cái nghĩa trung tâm hơn (hoặc, nói theo cách khác, như là cái nghĩa trội hơn về ngữ cảnh) so với các nghĩa khác. Đây chính là cái nghĩa mà tôi muốn độc giả nghĩ đến mỗi khi tôi viện đến nghĩa của từ (mà không hề nói gì thêm) bằng kí hiệu dấu trích kép đã được giới thiệu trên đây. Khi cần thiết, một nghĩa có thể được phân biệt với các nghĩa khác bằng các kí hiệu chú thích hoặc bằng cách đính kèm, trong dấu trích kép, một khúc giải hay một định nghĩa (bộ phận) phù hợp với mục đích của ta. Như ta vừa thấy, các từ đồng âm có thể được phân biệt với nhau theo cùng một cách. Ví dụ, ta có thể phân biệt 'sole1' với 'sole2' (với giả định rằng đây đích thực là hai từ đồng âm, ở đây trực cảm của các độc giả có thể rất khác biệt nhau), bằng cách nói rằng từ thứ nhất có nghĩa (nôm na) là "phần đáy của bàn chân hay giày" và từ thứ hai là "một loại cá". Tuy nhiên, phải thấy rằng kí hiệu trình bày, tự bản thân nó, chẳng qua cũng chỉ là một công cụ mà, như các công cụ khác, cần được sử dụng với một sự thận trọng và một kĩ năng thích hợp. Luận điểm này đáng được nêu ra ở đây, liên quan đến nhiệm vụ tương đối đơn giản - gần như là tầm thường - về những quy định đối với việc sử dụng chữ in nghiêng và các dấu trích cho các kiểu quy chiếu siêu ngôn ngữ khác nhau. Nó càng quan trọng hơn khi ta dùng đến các kí hiệu trình bày đặc biệt hơn, sẽ được giới thiệu trong các chương tiếp theo.

Như tôi đã nói từ trước, trong nhiều trường hợp hiện tượng đồng âm không thể được xác định chắc chắn như các trường hợp vừa được dẫn ra trong mục này khi nói về 'bank1' và 'bank2' hoặc 'sole1'và 'sole2'. Điều này sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương 2. Ta cũng làm như vậy đối với sự khác biệt giữa những biến thể ngữ nghĩa mà theo đó, thuật ngữ 'từ' được dùng theo cả nghĩa chuyên môn lẫn nghĩa thông thường hàng ngày. Cho đến lúc đó, 'từ' sẽ được sử dụng một cách lỏng lẻo và, như ta sẽ thấy ngay sau đây, mơ hồ (như nó thường được dùng trong đời thường). Trong lúc đó, độc giả nên lưu ý thường xuyên về tầm quan trọng của việc không được lẫn lộn các biểu thức ngôn ngữ tự nhiên, như từ, ngữ đoạn và câu, với dạng thức của chúng (hoặc bất kì dạng thức nào trong số các dạng thức của chúng). Muốn vậy, cần chú ý đặc biệt đến các quy ước trình bày đã được giới thiệu trên đây.

Cuối cùng, độc giả cũng nên chú ý là: (i) có thể có sự không ăn khớp nhau giữa dạng thức nói và dạng thức (hoặc các dạng thức) viết của từ (như đã được nêu ra nhưng không thảo luận ở đầu mục này); (ii) có nhiều cách khác nhau, theo đó các dạng thức có thể được coi là đồng nhất với nhau hoặc không. Việc dùng thuật ngữ 'dạng thức' (và cả cái từ phái sinh của nó 'thuộc về dạng thức') trong ngôn ngữ học đôi khi vừa lộn xộn vừa gây khó hiểu (xem Lyons 1968: 135-137). Tạm thời, về (i) và (ii), tôi thấy chỉ cần giải thích một cách vắn tắt các biến thể nghĩa hệ thống của thuật ngữ 'dạng thức' có quan hệ với nhau như thế nào và làm sao chúng có thể được phân biệt với nhau nếu cần phải phân biệt và khi cần phải phân biệt.

Ta đã bắt đầu từ sự phân biệt mang tính siêu ngôn ngữ, ít nhiều có tính đời thường, phi chuyên môn, giữa dạng thức và nghĩa bằng cách nói rằng từ (và các biểu thức khác) không phải là có dạng thức, mà là có một dạng thức. Sau đó ta thấy rằng, ở một số trường hợp và ở một số ngôn ngữ, từ (và các biểu thức khác) có thể có hơn một dạng thức, vốn thường - có điều không nhất thiết - phân biệt với nhau theo chức năng ngữ pháp. Ta hãy tạm thời bỏ qua cái thực tế là từ có thể có hơn một dạng thức phân biệt với nhau về ngữ pháp (hoặc về biến hình): nói như vậy tức cũng giả định rằng ta chỉ (tạm thời) quan tâm đến các ngôn ngữ đơn lập, hoặc phân tích tính, như tiếng Hán cổ (Classical Chinese) hoặc tiếng Việt.

Lợi dụng khả năng có thể dùng từ 'form' (dạng thức) vừa như một danh từ đơn vị, vừa như một danh từ khối (như tôi đã thực hiện trong đoạn văn trên và trong suốt mục này), bây giờ ta có thể nói rằng hai dạng thức là đồng nhất (theo một nghĩa nào đó về 'đồng nhất') nếu chúng có cùng một dạng thức. Ví dụ, hai dạng thức nói sẽ đồng nhất về mặt ngữ âm nếu cùng có cùng một cách phát âm; hai dạng thức viết (trong một ngôn ngữ dùng văn tự ghi âm tố) sẽ đồng nhất về chính tả nếu chúng có cùng cách viết. (Sự đồng nhất chính tả cần lập thức hơi khác đối với những ngôn ngữ dùng văn tự không ghi âm tố, nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng khái niệm đồng nhất chính tả cho những ngôn ngữ như vậy). Trong chừng mực ta quan tâm đến ngôn ngữ nói, một sự phân biệt xa hơn có thể được chỉ ra, giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất âm vị. Những sinh viên đã quen với sự phân biệt này sẽ thấy được các vấn đề liên quan trong những trường hợp cụ thể; còn những ai không quen với sự phân biệt này thì không cần bận tâm đến nó. Chính sự đồng nhất thông thường về âm vị là vấn đề gây tranh cãi trong ngữ nghĩa học. Nhưng để đơn giản cho việc trình bày, ở điểm này tôi sẽ không nói đến sự khác biệt giữa đồng nhất ngữ âm và đồng nhất âm vị, tôi chỉ đơn giản đề cập đến những dạng thức đồng nhất hay không đồng nhất về ngữ âm (ở giọng điệu hay phương ngữ nào đó).

Tiếng Anh (ở hầu hết các phương ngữ) minh hoạ dễ dàng cho cái thực tế rằng hai (hoặc nhiều hơn) dạng thức viết có thể đồng nhất về mặt ngữ âm: so sánh soul và sole, great và grate, hoặc red và read (theo một trong số các cách phát âm khác nhau của nó). Tiếng Anh cũng cho thấy rằng hai hoặc hơn hai dạng thức khác nhau về ngữ âm có thể đồng nhất về mặt chữ viết: so sánh read ( trong have read đối lập với will read), blessed (trong The bishop blessed the congregation đối lập với Blessed are the peacemarkers). Kiểu đồng nhất mà ta vừa thảo luận và minh hoạ như vậy có thể được gọi là đồng nhất chất liệu (meterial identity). Như tôi đã giải thích, nó phụ thuộc vào cái phương tiện dùng để hiện thực hoá dạng thức. Có thể mở rộng và trau chuốt lại khái niệm về sự đồng nhất chất liệu, tuy nhiên sự trình bày phần nào sơ lược của tôi về vấn đề cũng đã đủ để phục vụ cho những mục tiêu được giới hạn có chủ đích của cuốn sách này.

Bây giờ ta hãy thảo luận cái thực tế là trong nhiều ngôn ngữ tự nhiên, bao gồm cả tiếng Anh, được gọi bằng tên chuyên môn là các ngôn ngữ phi đơn lập (non-isolating) hay tổng hợp tính (về mặt hình thái học), từ có thể có hai hoặc hơn hai dạng thức khác biệt nhau về ngữ pháp: so sánh man (số ít, phi sở hữu cách), man' s (số ít, sở hữu cách), men (số nhiều, phi sở hữu cách) và men' s (số nhiều, sở hữu cách). Như đã thấy qua bốn dạng thức của từ 'man', các dạng thức của một từ (hay các biểu thức khác) phân biệt về mặt ngữ pháp - cụ thể hơn, là các dạng thức phân biệt về biến hình của một từ - sẽ thường khác biệt nhau về chất liệu (phi đồng nhất). Nhưng sự đồng nhất về chất liệu không phải là điều kiện cần, cũng không phải là điều kiện đủ để đồng nhất các dạng thức về mặt ngữ pháp (và, cụ thể hơn, là đồng nhất về biến hình). Ví dụ, dạng thức come có thể hành chức như là một trong những dạng thức thời hiện tại của 'come' (they come), mà cũng có thể như là dạng thức được truyền thống gọi tên là quá khứ phân từ của nó (they have come). Phải chăng trong cả hai trường hợp này, ta có cùng một dạng thức come? Câu trả lời là: theo một nghĩa nào đó thì đúng như vậy, nhưng theo một nghĩa khác thì không đúng như vậy. Come trong they come cũng là come trong they have come theo cái nghĩa chúng đồng nhất về mặt chất liệu (trong cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết). Nhưng come trong they come và come trong they have come là những dạng thức biến hình (inflectional forms) khác nhau của động từ 'come'. Ngược lại, giả sử rằng có một số người thuộc cùng một biến thể tiếng Anh Chuẩn lại nói (hay viết) một cách trái khoáy là have learned trong khi những người khác nói (hay viết) have learnt (giữa hai cách nói này còn có những biến dạng khác) thì hai cái dạng thức learned và learnt khác biệt nhau về chất liệu này vẫn có thể được coi là đồng nhất (hay tương đương) về mặt ngữ pháp. Nói chính xác hơn thì: (trong biến thể tiếng Anh Chuẩn này) cùng một dạng thức ngữ pháp của từ 'learn' - hoặc cụ thể hơn trong trường hợp này, là cùng một dạng thức biến hình - đã được hiện thực hoá bởi hai dạng thức khác nhau về chất liệu (ngữ âm hoặc chữ viết).

Cuối cùng, những gì vừa được thảo luận về các kiểu đồng nhất khác nhau trên đây sẽ rất hữu ích cho những trình bày tiếp theo. Nó cũng củng cố cho luận điểm đã nêu ra trước đây về tầm quan trọng phải xác lập một bộ các thuật ngữ và các quy ước trình bày, hoặc bằng cách đặt quy định, hoặc bằng cách mở rộng, nhằm có được sự chính xác trong siêu ngôn ngữ trình bày. Nói chung, cái nghĩa mà tôi dùng cho thuật ngữ 'dạng thức' ở nhiều chỗ khác nhau trong cuốn sách này sẽ được ngữ cảnh làm rõ. Những lúc không có được một sự rõ ràng như vậy, tôi sẽ viện đến sự khác biệt vừa nêu ra ở đây giữa một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ thành phần chất liệu và một đằng là các dạng thức được xem xét từ góc độ chức năng ngữ pháp của chúng.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (6)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.6. Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn

Ta đã giả định (và sẽ tiếp tục giả định) rằng tất cả ngôn ngữ tự nhiên đều có từ, cái đơn vị có cả hình thức lẫn ý nghĩa (1.5). Bây giờ ta hãy làm sáng tỏ thêm hai giả định mang tính thao tác, rằng: (i) tất cả ngôn ngữ tự nhiên đều có câu, vốn cũng có cả hình thức và nghĩa như vậy; và (ii) nghĩa của câu được xác định, ít nhất là một phần, bởi nghĩa của các từ trong câu. Không có giả định nào ở đây gây tranh cãi. Tuy nhiên, chúng cần được xem xét kĩ hơn trong các phần sau. Những điều chỉnh hoặc bổ sung về sau sẽ không ảnh hưởng lắm đến bất kì luận điểm chung nào được nêu trong các chương đầu tiên.

Nghĩa của câu được xác định không phải chỉ bởi nghĩa của các từ trong câu mà còn bởi cấu trúc ngữ pháp của câu. Điều này là rõ ràng: hai câu có thể được cấu tạo bởi đúng cùng một số từ (với cùng một cách giải thuyết nghĩa cho mỗi từ) nhưng lại khác biệt nhau về nghĩa. Ví dụ, hai câu (22) và (23) sau đây chứa cùng các từ (với cùng dạng thức) nhưng lại khác nhau về phương diện ngữ pháp. Một câu là câu trần thuật còn câu kia là câu nghi vấn tương ứng, và sự khác biệt về ngữ pháp giữa chúng là khớp với sự khác biệt tương ứng về nghĩa:

(22) 'It was raining yesterday'

(Hôm qua mưa)

(23) 'Was it raining yesterday?'

(Hôm qua mưa à?)

Các câu (24) và (25) cũng vậy. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cả hai đều là câu trần thuật và chúng không quan hệ với nhau với tư cách là các thành viên tương ứng của hai loại câu khớp với nhau và được xác định về ngữ pháp:

(24) 'John admires Mary'

(John ngưỡng mộ Mary)

(25) 'Mary admires John'

(Mary ngưỡng mộ John)

Lưu ý rằng tôi dùng dấu trích đơn cho câu (ngay cả khi chúng được đánh số và sắp chữ nổi bật), cũng như đã dùng đối với từ và các biểu thức có dạng thức và nghĩa khác. Điều này hợp với quy ước trình bày đã được nêu ra trong mục trước, vốn sẽ được tuân thủ suốt cuốn sách này. Trong Phần 1 và Phần 2, ta sẽ không quan tâm đến vấn đề liệu câu có phải là biểu thức ngôn ngữ theo cái nghĩa đã được dùng đối với từ và ngữ đoạn không.

Để đơn giản cho việc trình bày, tôi sẽ coi sự phân biệt giữa nghĩa của từ (word-meaning) (hoặc chính xác hơn, nghĩa từ vựng (lexical meaning)) và nghĩa của câu (sentence-meaning) là một trong những nguyên tắc chính để tổ chức cuốn sách này, dành Phần 2 cho nghĩa của từ và Phần 3 cho nghĩa của câu. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một điều rằng cách tổ chức này không hề có một hàm ý nào về tính ưu tiên của nghĩa từ vựng so với nghĩa của câu, xét theo khía cạnh lô-gic và phương pháp luận. Không cần thiết phải nêu vấn đề về tính ưu tiên của loại nghĩa nào so với loại nghĩa nào cho đến khi ta xây dựng xong khung lí thuyết và thuật ngữ. Và khi ta thực hiện được điều đó, ta sẽ thấy rằng, giống như những câu hỏi có vẻ đơn giản như vậy, vấn đề này không có chỗ cho câu trả lời dễ dàng, đơn giản.

Sự phân biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn (utterance-meaning) cho ta một nguyên tắc tổ chức khác. Sự phân biệt này không thể được giả định mặc nhiên theo cái cách có thể làm đối với nghĩa của từ và nghĩa của câu. Không phải chỉ là chuyện nó phần nào xa lạ đối với những ai không phải là nhà chuyên môn. Đây còn là vấn đề gây rất nhiều tranh luận giữa các nhà chuyên môn. Hầu hết các chi tiết của vấn đề có thể được gác lại cho Phần 4. Tuy nhiên, ở đây cần phải nêu một vài điểm khái quát.

Trong tiếng Anh thường ngày, từ 'utterance' (phát ngôn) thường được dùng để chỉ ngôn ngữ nói (cũng như các từ 'diễn ngôn' và 'hội thoại'). Trái lại, từ 'text' (ngôn bản) lại thường được dùng để chỉ ngôn ngữ viết. Trong suốt cuốn sách này, cả hai từ 'phát ngôn' và 'văn bản' sẽ được dùng một cách trung tính, tức không thiên vị về ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết.

Tại thời điểm này, có thể mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra một số thuật ngữ đặc biệt, trung tính về mặt phương tiện (medium-neutral). Một số thuật ngữ như vậy sẽ được nêu ra trong các chương tiếp theo. Tuy nhiên, tạm thời ta sẽ sử dụng các tên gọi của ngôn ngữ thường ngày như 'người nói', 'người nghe', cũng như 'phát ngôn', 'ngôn bản' và 'diễn ngôn' theo cái nghĩa trung tính về phương tiện.

Nhưng không được lẫn lộn ngôn ngữ với lời nói. Quả thật, một trong những đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ tự nhiên là tính độc lập tương đối của chúng đối với cái phương tiện (medium) dùng để hiện thực hoá nó. Ngôn ngữ vẫn là ngôn ngữ, cho dù nó được hiện thực hoá như là sản phẩm của lời nói hay của việc viết lách, và nếu nó là sản phẩm viết lách thì bất chấp việc nó được viết bằng chữ ghi âm bình thường hay chữ người mù, tín hiệu điện tín v.v... Do những nguyên nhân lịch sử và văn hoá, mức độ tương ứng giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói biến đổi đáng kể từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Nhưng trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác vốn gắn bó với hệ thống chữ ghi âm, thì hầu hết, nếu không nói là tất cả, các câu được nói ra đều có thể được đặt trong một quan hệ tương ứng với các câu được viết ra. Cái sự thể đây không phải là một quan hệ tương ứng một-đối-một sẽ được chúng ta bàn sau.

Ở điểm này, không cần nói thêm gì nữa về ngôn bản, diễn ngôn và hội thoại. Thực tế là tôi không có gì để nói về chúng cho đến khi chuyển sang chương 9. Trong lúc này, ta có thể nghĩ về phát ngôn như là những ngôn bản tối thiểu (được nói ra hoặc viết ra), nghĩ về diễn ngôn và hội thoại như là chuỗi kết hợp (một hoặt nhiều hơn) của các phát ngôn.

Nhưng như ta đã thấy, các thuật ngữ 'phát ngôn', 'diễn ngôn' và 'hội thoại' (không như thuật ngữ 'ngôn bản') vừa có nghĩa quá trình, vừa có nghĩa thành phẩm: theo nghĩa quá trình, chúng biểu thị một loại hành vi hay hoạt động đặc biệt; theo nghĩa thành phẩm, chúng biểu thị không phải bản thân cái hoạt động ấy mà là sản phẩm vật chất của cái hoạt động ấy (1.4). Hai cái nghĩa này hiển nhiên có liên quan với nhau; nhưng bản chất của mối quan hệ này lại không phải là rõ ràng, và nó sẽ được thảo luận trong Phần 4.

Còn bây giờ thì ta sẽ xác lập quy ước trình bày, rằng những khi thuật ngữ 'phát ngôn' được sử dụng trong sách này mà không kèm theo chú dẫn định tính và trong những ngữ cảnh mà cái nghĩa quá trình bị loại bỏ bởi những nguyên do cú pháp thì nó (tức 'phát ngôn'-chú thích của người dịch) bao giờ cũng được hiểu như là để biểu thị cái sản phẩm hay các sản phẩm của ngữ thi, gọi theo hệ thuật ngữ của Chomsky. Phát ngôn, trong cái nghĩa thuật ngữ như vậy, là cái mà một số nhà triết học ngôn ngữ gọi là thành phẩm (inscriptions), nghĩa là chuỗi các kí hiệu được ghi lại trong một loại phương tiện vật chất nào đó. Ví dụ, một phát ngôn nói thường được ghi lại (trong cái nghĩa chuyên môn của 'được ghi lại') bằng phương tiện âm thanh; một phát ngôn viết thì được ghi lại bởi một phương tiện thích hợp nào đó mà thị giác có thể xác định được. Trong chừng mực mà ngôn ngữ được sử dụng điển hình, nếu không nói là tất yếu, cho mục đích giao tiếp thì phát ngôn có thể được coi như là tín hiệu (signals) được truyền từ người nói sang người nghe-hay khái quát hơn, là từ người phát sang người nhận (theo một kênh thích hợp nào đó). Về cách thức trình bày, phát ngôn (tức các phát-ngôn-thành-phẩm hay phát ngôn-tín hiệu) sẽ được phân biệt với câu (cũng giống như các dạng thức của một từ được phân biệt với chính bản thân từ đó) nhờ dùng lối in nghiêng (cho phát ngôn) và dấu trích đơn (cho câu). Điều này cũng hàm ý rằng phát ngôn cũng là dạng thức; và đây chính là quan điểm về phát ngôn (theo cái nghĩa là phát-ngôn-thành-phẩm) được thể hiện trong suốt cuốn sách này. Như ta sẽ thấy ở Phần 4, trong nhiều trường hợp, cũng có thể biện hộ cái quan điểm cho rằng phát ngôn là dạng thức phụ-thuộc-văn-cảnh của câu cụ thể. Nhưng ở thời điểm này, đối với vấn đề gây tranh cãi về mối quan hệ giữa phát ngôn và câu, ta không cần phải nghiêng về quan điểm này hơn là quan điểm khác.

Cần phải nhấn mạnh rằng phát ngôn trong ngôn ngữ tự nhiên không chỉ là kết hợp, hay chuỗi (strings) dạng thức của từ. Như ta đã thấy, chồng lên trên cái thành tố ngôn từ (verbal component) của bất kì phát ngôn nói nào (chuỗi các từ tạo nên nó), bao giờ và tất yếu cũng có thành tố phi ngôn từ (non-verbal component), mà các nhà ngôn ngữ học chia làm tiểu thành tố ngôn điệu (prosodic) và tiểu thành tố kèm lời (paralinguistic) (1.3). Ở đây ta không cần quan tâm đến việc vạch chính xác ranh giới giữa hai tiểu thành tố này. Ta chỉ lưu ý rằng đường viền ngôn điệu của phát ngôn bao gồm ngữ điệu và có thể, cả mô hình trọng âm của nó; còn các đặc trưng kèm lời thì bao gồm những thứ như cách nói, âm lượng, tiết tấu, nhịp điệu v.v... Trong việc xác định nghĩa của phát ngôn, những đặc trưng phi ngôn từ này cũng quan yếu như nghĩa của các từ được dùng trong phát ngôn và nghĩa ngữ pháp của nó, cả hai đều được mã hoá (encode) trong thành tố ngôn từ của phát ngôn.

Chỉ có thành tố ngôn từ của phát ngôn nói thì mới không phụ thuộc vào cái phương tiện thể hiện nó và mang tính có thể sao chuyển (medium-transferable), theo đó về nguyên tắc nó có thể được giữ nguyên khi chuyển từ nói sang viết. Như ta đã thấy, một số hệ thống chữ viết chứa những nguyên tắc ít nhiều mang tính quy ước về cách chấm câu. Nhưng chúng không bao giờ ứng khớp với những khác biệt quan trọng về ngữ điệu trong ngôn ngữ nói. Ngay cả khi các quy ước chấm câu thông thường được bổ trợ bởi các phương tiện đồ hình như viết hoa, in nghiêng, in đậm, dấu nhấn v.v... thì có thể vẫn còn một bộ phận nào đó thuộc đường viền ngôn điệu của phát ngôn bị bỏ sót, không được thể hiện.

Đây là một điểm quan trọng. Hầu như mỗi phát ngôn viết được dẫn trong sách này và các sách ngữ học khác đều có thể đặt trong quan hệ tương ứng với những phát ngôn nói khác biệt đáng kể nghĩa. Chẳng hạn, phát ngôn viết Mary won't come (Mary sẽ không đến) có thể được phát âm, hay đọc thành tiếng, theo vài cách khác nhau, để chỉ sự chán nản, sự ngạc nhiên, sự đoán chắc v.v... Đối với cái vấn đề cụ thể được đem ra thảo luận, tôi sẽ cố gắng chọn các ví dụ của tôi sao cho, với một sự giải thích thoả đáng đúng lúc, việc độc giả chọn cách hiểu nào trong số vài phát ngôn nói khác biệt nhau về nghĩa cũng sẽ không gây ra vấn đề.

Trong lúc này, tôi giả định mặc nhiên về cái năng lực của độc giả có thể xác định các câu trong bất kì ngôn ngữ nào mà anh ta hay chị ta thông thạo, tức là phân biệt được câu với những kết hợp từ bất thành câu. Tôi cũng giả định tiếp tục rằng, một số kết hợp bất thành câu bởi chúng không đúng về ngữ pháp và số khác thì bất thành câu bởi chúng không trọn vẹn về ngữ pháp, hoặc bị tỉnh lược; và rằng, một lần nữa, những ai có thẩm năng về ngôn ngữ, bất luận họ có phải là người bản ngữ hay không, đều có thể xác định được hai tiểu loại kết hợp bất thành câu này. Như ta sẽ thấy sau đây, nhiều phát ngôn thường ngày là không trọn vẹn về ngữ pháp nhưng trong ngữ cảnh lại được chấp nhận và hiểu được. Trong khi đó, có những câu mặc dù trọn vẹn về ngữ pháp, do một lí do nào đó, lại không thể được nói ra một cách bình thường; sự khác biệt giữa tính đúng ngữ pháp và tính khả chấp (bao gồm tính khả chấp về ngữ nghĩa) là cực kì quan trọng trong ngữ nghĩa học và sẽ được thảo luận trong Phần 2 (5.2).

Trong suốt Phần 2 và Phần 3 của sách này, ta sẽ giới hạn sự quan tâm của ta vào những phát ngôn mà mối liên hệ của chúng với câu là tương đối hiển nhiên. Chúng ta sẽ dành Phần 4 để xác định biểu thức 'phát ngôn ra một câu' có nghĩa chính xác là gì và giải thích làm thế nào mà nó có thể mở rộng để bao gồm cả những phát ngôn đúng về mặt ngữ pháp nhưng lại không trọn vẹn, vốn làm thành một tiểu lớp riêng của những kết hợp không phải là câu. Như tôi đã nói, phần lớn phát ngôn hàng thường ngày có thể rơi vào cái tiểu lớp của các kết hợp bất thành câu này.

Sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn sẽ được bàn trong Phần 4. Lúc này đây, chỉ cần nêu hai ý khái quát. Thứ nhất, nghĩa của câu (ở một mức độ cao) là độc lập với văn cảnh (context-independent), trong khi nghĩa của phát ngôn thì không như vậy, có nghĩa là nghĩa của phát ngôn (ở một mức độ cao hay thấp nào đó) được xác định bởi chính cái ngữ cảnh mà phát ngôn đó được nói ra. Thứ hai, tồn tại một mối liên hệ mang tính bản chất giữa nghĩa của câu và cách dùng đặc trưng (characteristic use), không phải của một câu cụ thể nào đó mà là của cả cái kiểu câu mà cái câu cụ thể đó là thành viên, dựa trên tiêu chí về cấu trúc ngữ pháp của nó. Đối với kiểu câu, có thể công thức hoá mối liên hệ này theo cách như sau: câu trần thuật (declarative) là câu mà căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của nó, thuộc vào kiểu câu mà các thành viên được dùng một cách đặc trưng để nêu nhận định (statement) , như trong:

(26) 'Exercise is good for you'

(Rèn luyện thì tốt cho bạn)

(27) 'I prefer mine with ice'

(Tôi thích có đá)

Tương tự đối với kiểu câu khác, vốn phân biệt với câu trần thuật trong tiếng Anh và trong nhiều ngôn ngữ: câu nghi vấn (interrogative) là câu mà, căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của nó, thuộc vào kiểu câu mà các thành viên được dùng theo lối đặc trưng để hỏi (question), như trong:

(28) 'What time is lunch?'

(Ăn trưa lúc mấy giờ?)

và những câu tương tự. Trước đây, khi tôi nói về các câu (22) 'It was raining yesterday' (Hôm qua mưa) và (23) 'Was it raining yesterday?' (Hôm qua mưa à?) rằng nghĩa của chúng được xác định một phần bởi cấu trúc ngữ pháp của chúng, tôi đã ngầm gợi đến hiểu biết của độc giả về cách dùng đặc trưng của câu trần thuật và câu nghi vấn. Phần lớn hệ thuật ngữ của ngữ pháp truyền thống cũng hé lộ tương tự những giả định, bất luận là đúng hay không đúng, về cách dùng đặc trưng của các phạm trù và cấu trúc ngữ pháp cụ thể.

Cần lưu ý rằng khái niệm về cách dùng đặc trưng (vốn về bản chất cũng có quan hệ với khái niệm nghĩa đen) ở đây gắn với kiểu câu hơn là với từng thành viên của một kiểu câu cụ thể. Đây là điều quan trọng, cho dù có một số câu không bao giờ, hoặc rất hiếm khi, trong những hoàn cảnh bình thường, được dùng với chính cái chức năng đặc trưng cho kiểu câu của chúng; và như chúng ta sẽ thấy sau này, tuỳ theo tình huống mà tất cả các câu đều có thể được dùng để thực hiện cái gọi là hành động ngôn từ gián tiếp (indirect speech acts) (câu trần thuật được dùng để hỏi, câu nghi vấn được dùng để yêu cầu v.v...). Tuy nhiên, rõ ràng không thể cho rằng phần lớn câu trần thuật nên được dùng theo lối thông thường để hỏi, còn phần lớn câu nghi vấn thì để nêu nhận định, và đại loại như thế. Bởi vì, theo định nghĩa, câu trần thuật và câu nghi vấn là những câu với cách dùng đặc trưng được gắn với chúng. Nếu một ngôn ngữ không có một lớp câu phân biệt về mặt ngữ pháp gắn với một cách dùng đặc trưng nào đó trong số các cách dùng đặc trưng này thì nó sẽ tuỳ theo tình hình mà hoặc không có câu trần thuật hoặc không có câu nghi vấn.

Không nên nghĩ rằng tất cả các ngôn ngữ đều có cùng một cấu trúc ngữ pháp. Như ta sẽ thấy sau này, có nhiều ngôn ngữ tự nhiên không có câu nghi vấn hoặc trần thuật. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là trong các ngôn ngữ đó, không thể hỏi hoặc nêu nhận định. Với tư cách là phát ngôn, hỏi có thể được phân biệt với nêu nhận định bằng cách gán một đường viền ngôn điệu hoặc dấu hiệu kèm lời mang tính khu biệt lên cùng một chuỗi từ khi nói và các dấu chấm câu hoặc các kí hiệu khu biệt khi viết. Ví dụ, phát ngôn (29) - sản phẩm của việc phát ngôn ra câu (26) - có thể được nói ra với một mô hình ngữ điệu riêng, đánh dấu nó với tư cách là một phát ngôn hỏi (có thể cũng biểu lộ cả sự ngạc nhiên hoặc phẫn nộ v.v...) và được viết ra với dấu hỏi:

(29) Exercise is good for you?

(Rèn luyện thì tốt cho mày à?)

Nhưng cũng chính cái câu đó có thể được nói ra với một mô hình ngữ điệu khác trong ngôn ngữ nói, hoặc được viết ra với cách chấm câu khác (tức là với dấu chấm chứ không phải là dấu hỏi) trong ngôn ngữ viết, để nêu nhận định.

Như vậy, nghĩa của câu có quan hệ với nghĩa của phát ngôn thông qua khái niệm về cách dùng đặc trưng, nhưng lại phân biệt với nó ở chỗ: nghĩa của câu thì độc lập với cái ngữ cảnh cụ thể mà câu đó được sử dụng. Trong khi đó, để xác định nghĩa của phát ngôn, ta buộc phải tính đến các nhân tố tình huống. Điểm này sẽ được nói rõ hơn trong các phần sau. Nhưng những gì vừa được nêu ra ở đây sẽ giúp cho việc tổ chức nội dung Phần 3 và Phần 4 của cuốn sách này. Trước mắt, sự phân biệt về cách trình bày mà ta đã chấp nhận sẽ giúp ta duy trì được sự phân biệt giữa câu và phát ngôn, phân biệt được nghĩa tự thân của câu với nghĩa của phát ngôn vốn là kết quả của việc dùng câu đó trong một ngữ cảnh cụ thể.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 1: Những mở đầu về siêu ngôn ngữ (7)

• Dẫn nhập • Nghĩa của 'nghĩa' • Siêu ngôn ngữ của ngữ nghĩa học • Ngữ nghĩa học và nghĩa học phi ngôn ngữ • Ngôn ngữ, lời nói và phát ngôn; 'Langue' và 'Parol'; 'Ngữ năng' và 'Ngữ thi' • Từ: dạng thức và nghĩa • Câu và phát ngôn; ngôn bản, hội thoại và diễn ngôn • Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

1.7. Lí thuyết về nghĩa và các kiểu nghĩa

Tồn tại một số lí thuyết triết học khác nhau và ít nhiều ai cũng biết, về nghĩa: đây là những lí thuyết đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Nghĩa là gì? Trong số đó, có thể nêu ra các lí thuyết sau:

thuyết quy chiếu (referential) hay sở thị (denotational) ("nghĩa của một biểu thức chính là đối tượng mà biểu thức đó chỉ ra (hay biểu thị) hoặc đại diện; tức 'Fido' có nghĩa là Fido, còn 'chó' thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là cái đặc trưng bản chất chung của chúng");

thuyết ý niệm (ideational) hay tâm lí (mentalistic) ("nghĩa của một biểu thức là cái ý niệm, hay quan niệm, gắn với nó trong tư duy của những ai biết và hiểu được biểu thức đó");

thuyết hành vi (behaviourist) ("nghĩa của một biểu thức hoặc là cái kích thích gợi ra nó hay cái phản ứng mà nó gợi ta, hoặc là sự kết hợp của cả hai thứ này trong một tình huống phát ngôn cụ thể");

thuyết nghĩa-là-cách-dùng (meaning-is-use) ("nghĩa của một biểu thức được xác định bởi, nếu không nói là đồng nhất với, cách dùng nó trong ngôn ngữ");

thuyết thẩm định (verificationist) ("nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này được xác định bởi chứng cứ lấy từ cái câu, hay mệnh đề chứa biểu thức đó");

thuyết điều kiện chân trị (truth-conditional) ("nghĩa của một biểu thức là sự đóng góp của nó vào điều kiện chân trị của câu chứa nó").

Theo tôi, không có thuyết nào trong số kể trên tự mình làm thành cơ sở cho một lí thuyết ngữ nghĩa học toàn diện và giàu sức giải thích thực tiễn. Song mỗi thuyết như vậy đều có đóng góp theo cách nào đó, làm thành cái tri thức nền cho những ai đang nỗ lực xây dựng một lí thuyết như vậy. Tôi sẽ không đi vào chi tiết của bất kì lí thuyết ngữ nghĩa nào kể trên. Tuy nhiên, trong các chương sau, tôi sẽ đề cập đến một số khái niệm cơ bản tạo ra sự khác biệt giữa các lí thuyết này, và tôi sẽ giải thích những khái niệm này trong cái ngữ cảnh mà chúng được viện đến và áp dụng. Khuôn khổ giới hạn không cho phép tôi thảo luận mối liên hệ có tính lịch sử giữa một số lí thuyết và các vấn đề triết học hữu quan. Tôi cũng sẽ nói thêm rằng danh sách mà tôi vừa nêu không hề đầy đủ và trong một số trường hợp, những định nghĩa đặt trong ngoặc đã cố tình được đơn giản hoá.

Đến đây cần lưu ý rằng một cách trả lời khả chấp về mặt triết học cho câu hỏi Nghĩa là gì, đó là: Chẳng hề có cái gì như là nghĩa cả. Đây là cách trả lời, chẳng hạn, của Wittgenstein đã quá cố (1953); và nó cần phải được xem xét nghiêm túc. Rõ ràng việc tìm hiểu nghĩa của từ, của câu và của phát ngôn, cũng giống như việc hỏi xem chúng có nghĩa gì là những việc xác đáng. Trong khi thực hiện điều này, ta dùng các từ các từ tiếng Anh 'meaning' (nghĩa) và 'mean' (có nghĩa) theo một trong số những chức năng siêu ngôn ngữ thường nhật của chúng. Như ta đã thấy từ trước, danh từ 'meaning' (nghĩa) và động từ 'mean' (có nghĩa) cũng còn có các nghĩa, hay cách dùng thường nhật khác; một số nhà triết học ít ra là đã cho rằng các nghĩa này liên hệ chặt chẽ với nhau và có lẽ là cơ bản hơn so với cái nghĩa vừa được minh hoạ. Điều khá thú vị là không phải bao giờ chúng cũng tương ứng một-đối-một với cái nghĩa hoặc cách dùng của các biểu thức tương đương những biểu thị một cách khác trong những ngôn ngữ Châu Âu quen thuộc như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Nga hay tiếng Tây Ban Nha. Chẳng hạn, hai câu tiếng Anh sau đây:

(30) 'What is the meaning of 'concept'?'

(Nghĩa của từ 'concept' là gì?)

(31) 'What do you mean by the word 'concept'?'

(Bạn có ý nói gì với cái từ 'concept'?)

có thể được dịch sang tiếng Pháp lần lượt là:

(30a) 'Quel est le sens de 'concept' [en anglais]?'

(31a) 'Qu'est-ce que tu veux dire par le mots [anglais] 'concept'?'

(tương tự trong tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha); sang tiếng Đức là:

(30b) 'Was ist die Bedeutung von 'concept' [au Englisch]?'

(31b) 'Was meinst du mit dem [englischen] Wort 'concept'?'

sang tiếng Nga là:

(30c) 'Cto znacit [anglijskije slovo] 'concept'?'

(31c) 'Cto vy podrazumyvaete pod [anglijskym] slovom 'concept'?'

và vân vân.

Khi nêu ra các cách dịch trên đây, tôi đã không dịch cái từ 'concept' của tiếng Anh, bởi tôi đã giả định rằng tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Nga đang được dùng với tư cách là siêu ngôn ngữ cho tiếng Anh. Tất nhiên, còn có những khả năng dịch khác, đặc biệt trong các trường hợp (31 a-c). Trên thực tế, có một loạt khả năng mà bất cứ ai đã trải qua thực tiễn dịch đều cũng thấy được. Nhưng trong bối cảnh bây giờ ta không cần bàn đến chúng. Cái mà các ví dụ trên đây chỉ ra, trên cơ sở chỉ một vài cách dịch sang ngôn ngữ khác, là trong mỗi trường hợp, câu thứ hai trong số cặp câu chuyển dịch trên đây đã dùng một biểu thức mà, ít nhất là về mặt từ nguyên, đã cho thấy một nghĩa của động từ tiếng Anh 'to mean' (có ý, có nghĩa) - nghĩa thuộc người nói (utterer's meaning), như thỉnh thoảng nó được gọi như vậy - vốn hoặc liên quan đến ý định giao tiếp (từ tiếng Pháp 'vouloir dire', từ tiếng Đức 'meinen') hoặc liên quan đến cách hiểu và cách giải thuyết (từ tiếng Nga 'podrazumevatj'). Có một số tác giả đã coi nghĩa thuộc người nói, suy cho đến cùng, là cơ sở cho nghĩa trong ngôn ngữ.

Tuy nhiên, ở thời điểm này, tôi muốn nêu cái luận điểm đơn giản là ta không thể suy luận ra sự tồn tại của nghĩa từ sự tồn tại và tính có nghĩa của cái từ tiếng Anh thường ngày 'meaning' (nghĩa). Hơn thế nữa, cho dù có tồn tại cái gì đó như nghĩa (bất luận 'cái gì' nghĩa là gì đi nữa trong ngữ cảnh này) thì vị thế bản thể và tâm lí của nó rõ ràng là đáng ngờ hơn so với dạng thức. Ta sẽ trở lại vấn đề này sau.

Đó là phần dụng tâm của Wittgenstein quá cố khi nhấn mạnh vào sự đa dạng của những chức năng mà ngôn ngữ thực hiện. Khẩu hiện của ông "Đừng tìm nghĩa, hãy tìm hiểu cách sử dụng" (khẩu hiệu này không nhất thiết dẫn đến cái lí thuyết cho rằng nghĩa-là-cách dùng, có điều nó thường được giải thuyết như vậy) phải được hiểu gắn với dụng tâm này. Giống như các nhà triết học được gọi là trường phái triết học ngôn ngữ đời thường ở Oxford, chẳng hạn như J.L Austin (tác giả lí thuyết hành động ngôn từ (speech acts) mà ta sẽ xem xét ở Phần 4), Wittgenstein chỉ ra rằng câu hỏi Nghĩa là gì? có xu hướng tìm đến những câu trả lời hoặc quá khái quát, đến độ hầu như trống rỗng, hoặc quá hẹp trong cách định nghĩa về nghĩa đến độ bỏ qua phần lớn những gì mà người sử dụng ngôn ngữ bình thường nghĩ là quan yếu khi trả lời những câu hỏi riêng biệt hơn về nghĩa của biểu thức này hay biểu thức nọ trong ngôn ngữ của họ.

Trong sách này ta chấp nhận một quan niệm khá rộng về nghĩa. Ta cũng giả định rằng có một mối liên hệ bản chất giữa nghĩa và giao tiếp. Như đã được lưu ý từ trước, giả định này không phải là không gây tranh cãi. Nó, chẳng hạn đã bị Chomsky phê phán mạnh mẽ, nhưng nó lại chính là giả định được phần đông các nhà triết học, tâm lí học và ngôn ngữ học nêu ra. Nó giúp ta trình bày tốt mối liên hệ giữa dạng thức và nghĩa trong ngôn ngữ tự nhiên hơn bất kì quan niệm nào khác hiện nay. Và tôi nhấn mạnh rằng, mặc dù ở đây tôi đã nêu ra nhiều lí thuyết triết học khác nhau về nghĩa và sẽ viện đến chúng thường xuyên, tôi lại không quan tâm đến những vấn đề triết học theo đúng nghĩa của chúng, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề lí thuyết và thực tiễn nảy sinh trong việc miêu tả ngôn ngữ tự nhiên.

Đến đây ta đã đề cập đến, theo lối mào đầu, nghĩa của từ, câu và phát ngôn. Ta cũng đã thấy rằng có những nghĩa khác biệt nhau của cái từ tiếng Anh 'meaning' (nghĩa), vốn có thể tương ứng với những kiểu nghĩa khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Nhưng có bao nhiêu kiểu nghĩa? Phải chăng chúng đều được nhà ngôn ngữ học quan tâm? Và chúng tương ứng như thế nào với sự phân biệt mà ta đã nêu ra, một mặt, giữa nghĩa từ vựng và nghĩa của câu (mà như ta sẽ thấy, bao gồm nghĩa ngữ pháp) và mặt khác, giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn.

Trong sách này, tôi không cố gắng đưa ra một sự phân loại toàn diện về các kiểu nghĩa khác nhau mà một lí thuyết ngôn ngữ học về nghĩa (và về ngữ dụng) cần phải bao quát. Tuy nhiên, có thể sẽ là hữu ích nếu ngay bây giờ ta vạch ra một sự phân biệt khái quát mà ta sẽ làm rõ hơn về sau. Đó là sự phân biệt giữa nghĩa miêu tả (descriptive meaning) (hoặc nghĩa mệnh đề (propositional meaning)) và nghĩa phi miêu tả (non-descriptive meaning) (hay nghĩa phi nội dung mệnh đề (non-propositional meaning)). (Những thuật ngữ có thể thay thế khác, ít nhiều tương đương với 'miêu tả' và 'nội dung mệnh đề' là 'tri nhận' và 'theo quy chiếu'). Đối với nghĩa miêu tả, một điều được thừa nhận rộng rãi là ngôn ngữ có thể được dùng để nêu những nhận định đúng hoặc sai, căn cứ vào thực cách của cái nội dung mệnh đề mà chúng biểu thị. Điều này có một vị thế nổi trội đặc biệt trong lí thuyết nghĩa học hàm chân trị, là lí thuyết có vai trò rất quan trọng trong những năm gần đây.

Nghĩa phi miêu tả thì nhiều vẻ hơn, và theo quan điểm của nhiều nhà triết học và ngôn ngữ học, thì không quan trọng bằng. Nó bao gồm cái mà tôi sẽ viện dẫn như là thành tố biểu lộ (expessive). (Các thuật ngữ thay thế ít nhiều tương đương khác là 'nghĩa tác động', 'nghĩa thái độ' và 'nghĩa biểu cảm'). Nghĩa biểu lộ- tức kiểu ý nghĩa mà theo đó người nói biểu lộ, chứ không phải là miêu tả, niềm tin, thái độ, tâm trạng của họ - thường được cho là nằm trong phạm vi của phong cách học và ngữ dụng học. Tuy nhiên, như những gì trình bày ở Phần 3 sẽ cho thấy, một số kiểu nghĩa biểu lộ chắc chắc thuộc về nghĩa của câu. Điều đó dẫn đến một hệ luận rằng, đối với những ai chủ trương phân biệt nghĩa học và dụng học trên cơ sở sự khác biệt giữa nghĩa của câu và nghĩa của phát ngôn, thì nghĩa biểu lộ, ít nhất là một phần, sẽ nằm trong phạm vi nghĩa học. Một hệ luận khác là, như ta sẽ thấy ở thời điểm thích hợp, nghĩa của câu không hoàn toàn là nghĩa theo hàm chân trị.

Các ngôn ngữ tự nhiên khác biệt đáng kể theo mức độ ngữ pháp hoá nghĩa biểu lộ. Tiếng Anh thể hiện ở mức độ khá thấp. Ví dụ, nó không có một hệ thống phong phú về thức ngữ pháp (thức giả định, thức ước vọng, thức ngờ vực...) như ở nhiều ngôn ngữ. Tuy nhiên, giống như mọi ngôn ngữ tự nhiên, nó mã hoá ý nghĩa biểu lộ trong nhiều đơn vị từ vựng của nó và trong cấu trúc ngôn điệu của phát ngôn. Tất nhiên ta đang chấp nhận cái quan điểm (mà, như tôi đã nói, là không được thừa nhận rộng rãi) rằng nghĩa của câu (trong đối lập với nghĩa của phát ngôn) độc lập với điệu hình ngôn điệu của chúng khi được nói ra, tức cùng một câu có thể được nói ra với những điệu hình ngôn điệu đa dạng, khác biệt nhau đáng kể. Cũng có thể cho rằng rằng thán từ và các tiểu từ có tính chất ngữ cảnh hoá, như ta thấy trong nhiều ngôn ngữ, thì không phải là thành tố của câu, mà là của những phát ngôn có được do sử dụng câu đó. Nhưng như ta sẽ thấy, nghĩa biểu lộ cũng được từ vựng hoá gắn kết với nghĩa miêu tả trong nhiều danh từ, động từ và tính từ thường ngày.

Những kiểu ý nghĩa phi nội dung mệnh đề khác có thể được gác lại sau. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng chức năng biểu lộ của ngôn ngữ không thể tách biệt rành mạch với chức năng xã hội và chức năng công cụ của chúng. Con người là một thực thể xã hội với những mục đích được gán kết và chuẩn y về mặt xã hội. Họ có thể không phải bao giờ cũng phóng chiếu có ý thức một kiểu cái tôi nào đó; họ có thể chẳng hề cố tình biểu lộ cái tâm trạng và thái độ mà họ biểu lộ để lôi kéo người nghe và đạt được một mục đích này hay mục đích nọ. Tuy vậy, qua ngôn ngữ họ không thể nào biểu lộ tâm trạng và thái độ của mình, bất luận là tâm trạng và thái độ này có thể mang tính cá nhân và có ý thức đến đâu, một cách khác biệt với những phân biệt đã được mã hoá trong những hệ thống ngôn ngữ cụ thể. Như ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách này, đặc biệt là trong Phần 4, nghĩa biểu lộ hoà nhập tất yếu với cái mà nhiều tác giả gọi là nghĩa liên nhân (interpersonal meaning), nghĩa công cụ (instrumental meaning), nghĩa xã hội (social meaning) hay nghĩa phát động (conative meaning). Nói cách khác, trong phạm vi về cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ tự nhiên mà ta quan tâm, sự biểu lộ tất nhiên mang tính biểu lộ-xã hội (socio-expressive) và cái cá nhân tất yếu mang tính liên nhân (interpersonal). Nếu không coi trọng nhân tố này, thậm chí ta không thể đưa ra một sự trình bày đúng đắn về nghĩa của các phạm trù ngữ pháp thông thường, cho dù không phải là phổ quát, như thời, đại từ hoặc thức.

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.0 Dẫn nhập

Như ta đã thấy trong chương trước, nói chung người ta nhất trí rằng từ, ngữ đoạn và câu của ngôn ngữ tự nhiên thì có nghĩa, rằng câu được cấu tạo nên bởi từ (và ngữ đoạn), và rằng nghĩa của câu là kết quả của các từ (và ngữ đoạn) tạo nên câu.

Song từ là gì? Và trên thực tế, có phải tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ không? Những câu hỏi này thật không dễ trả lời như ấn tượng ban đầu của ta về chúng. Một lí do là, thuật ngữ 'từ' là lưỡng nghĩa, cả trong cách dùng hàng ngày lẫn trong cách dùng mang tính kĩ thuật của nhà ngôn ngữ học. Từ có thể được xem thuần tuý là những dạng thức (forms), được nói ra hay viết ra, hoặc xem xét theo một cách khác như là những biểu thức (expressions) phức hợp, bao gồm dạng thức và nghĩa. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi mà trong ngôn ngữ học, thuật ngữ 'dạng thức' lại được dùng theo nhiều nghĩa khác biệt, mặc dù có liên quan với nhau. Một trong những mục đích chính của tôi trong chương này là xác lập những quy ước về cách trình bày và về thuật ngữ nhằm tránh sự mơ hồ và nhầm lẫn.

Một lí do nữa giải thích vì sao không dễ nói cái gì đấy là từ hay không phải là từ như người ngoài ngành có thể nghĩ - hoặc nói rằng liệu tất cả các ngôn ngữ tự nhiên đều có từ hay không - đó là một số tiêu chí khác nhau đã tham gia vào việc định nghĩa từ, cả tư cách dạng thức lẫn tư cách biểu thức, và những tiêu chí này thường xung khắc với nhau. Thêm vào đó, một vài tiêu chí được nhà ngôn ngữ học sử dụng, xét riêng ra, là những tiêu chí không phân tách rõ ràng từ với cái không phải là từ.

Trong cuốn sách này, ta quan tâm chủ yếu đến tư cách biểu thức của từ, tức từ như là những đơn vị phức hợp vừa có dạng thức, vừa có nghĩa (chính xác hơn, như ta sẽ thấy, là những đơn vị điển hình có một tập hợp dạng thức và một tập hợp nghĩa). Mỗi khi thuật ngữ 'từ' được dùng mà không có thêm hạn định nào, đây chính là cái nghĩa mà nó được dùng. Thực tế thì, như sẽ được giải thích trong chương này, thuật ngữ 'từ' nói chung sẽ được dùng suốt cuốn sách này, đặc biệt trong Phần 2, để chỉ cái có thể được gọi, một cách không chuyên môn, là từ-từ điển (hoặc từ-vốn từ): tức theo cái nghĩa nó được dùng trong siêu ngôn ngữ thường ngày, ví dụ, khi người ta nói rằng một cuốn từ điển tường giải của ngôn ngữ đang xét nào đấy, lí tưởng là chứa đựng tất cả những từ có trong vốn từ của ngôn ngữ đó. Theo cái nghĩa này của thuật ngữ 'từ', tất cả các ngôn ngữ đều có từ.

Cái thuật ngữ chuyên môn mà ta sẽ dùng để chỉ những gì tôi vừa gọi là từ- từ điển đó, là 'từ vị'. Danh từ 'từ vị' tất nhiên có liên quan đến các từ 'từ vựng' và 'bộ từ vựng'. (Ta có thể quan niệm rằng 'bộ từ vựng' là có cùng nghĩa với 'vốn từ' hoặc 'từ điển'). Từ vị là đơn vị từ vựng: đó là một đơn vị của bộ từ vựng. Cấu trúc từ vựng của một ngôn ngữ là cấu trúc của vốn từ vựng hoặc vốn từ của nó; và thuật ngữ 'nghĩa từ vựng', được dùng để đặt đầu đề cho Phần 2, do vậy tương đương với thuật ngữ 'nghĩa của từ' vốn được dùng rộng rãi, ít mang tính chuyên môn (song lại mơ hồ). Lí do mở rộng siêu ngôn ngữ của chúng ta bằng cách đưa ra những thuật ngữ chuyên môn hơn là 'từ vị' và 'nghĩa từ vựng' (phù hợp với các nguyên tắc đã phác hoạ trong mục 1.2) sẽ được giải thích trong chương này. Như ta sẽ thấy, không phải tất cả từ đều là từ vị và ngược lại, không phải tất cả từ vị đều là từ. Ta cũng sẽ thấy rằng, chẳng có gì mới mẻ hoặc kì cục, đây là điều mà bất kì ai tham khảo một cuốn từ điển quy ước cũng đơn giản mặc nhận, không nhất thiết phải suy ngẫm về những hệ luỵ của nó đối với lí thuyết ngữ nghĩa (và ngữ pháp).

Khi ta xem từ (và ngữ đoạn) như là những đơn vị có nghĩa, ta cũng sẽ phải xử lí cái thực tế là, một mặt, một dạng thức có thể gắn với vài nghĩa và mặt khác, cùng một nghĩa có thể gắn với vài dạng thức của từ. Thực tế này đã được ngữ pháp và từ vựng học truyền thống thừa nhận chính đáng và sẽ được thảo luận ở đây theo một quan điểm hoàn toàn truyền thống, dưới tên gọi của các khái niệm đồng âm (homonymy), đa nghĩa (polysemy) và đồng nghĩa (synonymy).

Cuối cùng, trong phạm vi chương này, ta sẽ xem xét sự phân biệt giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp, vốn phái sinh từ sự phân biệt được nêu ra trong truyền thống giữa vốn từ của một ngôn ngữ và ngữ pháp của nó. Cách thức mà sự phân biệt này được nêu ra và được hình thức hoá sẽ thay đổi tuỳ theo khung lí thuyết cụ thể được sử dụng. Ví dụ, sẽ có một phân biệt đáng kể giữa cách lập thức sự khác biệt thao tác theo một thứ ngữ pháp dựa vào hình vị với cách lập thức với thứ ngữ pháp dựa vào từ, mang tính truyền thống hơn (mà ta đang sử dụng). Song ở mức độ tương đối sơ đẳng mà ta thảo luận vấn đề trong cuốn sách này, sự khác biệt giữa hai mô hình, hay lí thuyết, về cấu trúc ngữ pháp khác nhau trên đây không gây ra ảnh hưởng nào nghiêm trọng; việc kiểm tra lại điều này và công thức hoá lại những gì tôi đã nói về dạng thức và nghĩa, liên hệ với hình vị (và tổ hợp hình vị) chứ không phải với từ sẽ là một bài tập hữu ích cho những sinh viên nào đã có kiến thức cơ bản về lí thuyết ngữ pháp truyền thống hay hiện đại.

Về tác động của việc chấp nhận một mô hình phân tích ngôn ngữ chủ trương nêu ra sự phân biệt giữa vốn từ (hoặc bộ từ vựng) và ngữ pháp ở một vị trí khác với cái vị trí được nêu trong ngữ pháp và từ vựng học truyền thống, thì điều này cũng chẳng có gì quan trọng trong bối cảnh của cuốn sách này. Những ai nắm rõ sự phát triển gần đây trong lí thuyết ngữ pháp có thể dễ dàng có những điều chỉnh. Điều thực sự quan trọng là, bất luận người ta nêu ra sự phân biệt giữa ngữ pháp và từ vựng trong lí thuyết ngữ học đại cương và trong việc miêu tả những ngôn ngữ cụ thể theo cách thế nào đi chăng nữa, thì hai thứ này cũng cần phải được xem là bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Điều này sẽ được làm rõ khi ta chuyển từ Phần 2 sang Phần 3.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa (1)

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.1. Dạng thức và biểu thức

Một trong những giả định đã được làm rõ trong Chương 1 là nghĩa của câu phụ thuộc một phần vào nghĩa của các từ tạo nên câu (mục 1.6). Bây giờ, giả định này cần được cân nhắc kĩ hơn. Ta đã có nhận xét rằng thuật ngữ 'từ' vốn lưỡng nghĩa: từ có thể được xem xét hoặc với tư cách dạng thức, hoặc với tư cách biểu thức (mục 1.5). Thế thì, ta hãy bắt đầu bằng cách đặt câu hỏi: với nghĩa nào của 'từ' thì câu quả thật là được tạo nên bởi từ.

Trên thực tế, có đến hai sự phân biệt khá khác nhau được tính đến, khi ta nêu câu hỏi này. Điều quan trọng là không lẫn lộn cái này với cái kia. Thứ nhất là sự phân biệt mà nhà triết học Mĩ C.S Peirce (1839-1914) nêu ra giữa từ với tư cách là hiện dạng (tokens) và từ với tư cách là điển dạng (types). Dễ dàng giải thích điều này qua một ví dụ đơn giản. Xét câu sau đây:

(1)'He who laughs last laughs longest'

(Anh ta, người cười cuối cùng, cười lâu nhất)

Theo một quan điểm, có thể cho rằng câu này gồm sáu từ: nó có độ dài là sáu từ. Tuy nhiên, theo một quan điểm khác, có thể cho rằng nó chỉ gồm năm từ, bởi lẽ hai trong số các từ- từ thứ ba và thứ năm (laughs)- là đồng nhất, chúng là những hiện dạng (hoặc trường hợp cá biệt (instances)) thuộc về cùng một điển dạng. Trình bày như vậy, việc nắm bắt khái niệm điển dạng/hiện dạng là không khó. Nói chung, trong đời sống hàng ngày, lúc nào cũng có thể biết được khi nào thuật ngữ 'từ' được hiểu với nghĩa này chứ không phải nghĩa kia, xét theo sự phân biệt của Peirce.

Tuy nhiên, có một sự phân biệt thứ hai được tính đến, là sự phân biệt quan trọng hơn đối với những quan tâm bây giờ của ta. Sự phân biệt này cũng có thể được giải thích thông qua một ví dụ đơn giản. Có bao nhiêu từ trong câu sau đây:

(2) 'If he is right and I am wrong, we are both in trouble'?

(Nếu anh ta đúng và tôi sai thì cả hai chúng tôi gặp rắc rối?)

Một lần nữa, có đến hai câu trả lời đúng cho câu hỏi này. Song việc này không liên quan gì đến sự phân biệt điển dạng/hiện dạng (mặc dù đôi khi nó cũng bị nhầm lẫn trong những công trình đại cương về nghĩa học). Nó dựa trên sự khác biệt giữa từ với tư cách là dạng thức (forms) và từ với tư cách là biểu thức (expressions). Có mười ba dạng thức trong câu đang xét và mỗi dạng thức trong số này cụ thể hoá (instantiates) (là ví dụ, hoặc hiện dạng của) một điển dạng khác biệt. Tuy nhiên, từ quan điểm này, ba trong số các từ- is, am và are- sẽ được truyền thống xem là ba dạng thức khác nhau của cùng một từ. Do đó, theo một cái nghĩa của 'từ', câu (2) gồm mười ba từ; còn theo một cái nghĩa khác của thuật ngữ, cũng phổ biến và cũng đúng không kém, nó chỉ gồm mười một từ. Ta hãy diễn đạt sự khác biệt về nghĩa này của thuật ngữ 'từ' bằng cách nói rằng câu trên đây gồm mười ba từ-dạng thức (word-forms) và mười một từ-biểu thức (word-expressions). Chính từ-biểu thức, chứ không phải từ-dạng thức, là được liệt kê và định nghĩa trong từ điển quy ước. Và chúng được liệt kê, như ta đã thấy trong Chương 1, theo thứ tự bảng chữ cái ở dạng trích dẫn (citation-forms) của chúng, tức là dạng thường được dẫn như là mục từ (headword) trong danh mục của từ điển (mục 1.5).

Để gán nghĩa cho các từ- dạng thức tạo nên câu, ta phải xác định được chúng, không phải chỉ như là những hiện dạng, hoặc trường hợp cá biệt, của những điển dạng cụ thể, mà như là những dạng thức của những biểu thức cụ thể. Và những hiện dạng của cùng một điển dạng thì không nhất thiết là những dạng thức của cùng một biểu thức. Ví dụ, trong câu:

(3) 'They have found it impossible to found hospitals or charitable institution of any kind without breaking the law',

(Họ phát hiện ra rằng không thể lập bệnh viện hoặc viện từ thiện bất kì kiểu nào mà lại không vi phạm luật)

cái hiện dạng-từ thứ ba và thứ bảy là những hiện dạng của cùng một điển dạng, song không phải là những dạng thức của cùng một biểu thức.

Chính sự khác biệt giữa dạng thức và biểu thức, chứ không phải giữa dạng thức với tư cách hiện dạng và dạng thức với tư cách điển dạng, là đối tượng được nghĩ đến khi tôi chú ý đến tính lưỡng nghĩa của thuật ngữ 'từ'. Như tôi đã đề cập, trong suốt sách này, bất kì lúc nào được dùng mà không có thêm định ngữ hạn định, thuật ngữ 'từ' sẽ có nghĩa là "từ-biểu thức" chứ không phải là "từ-dạng thức".

Tuy nhiên, không phải tất cả biểu thức được liệt kê trong từ điển đều là từ. Một số trong chúng là những đơn vị mà truyền thống gọi là ngữ đoạn (phrases); và biểu thức ngữ đoạn, giống như biểu thức-từ cần phải được phân biệt về nguyên tắc với cái dạng thức hoặc những dạng thức mà chúng được coi là tương đương thông qua các quy tắc biến hình của ngôn ngữ. Ví dụ, 'pass muster' (được cho là xứng đáng) là một biểu thức ngữ đoạn, mà các dạng thức là pass muster, passes muster, passed muster v.v... Chính hiện dạng của các dạng thức này xuất hiện trong phát ngôn của tiếng Anh.

Các biểu thức của một ngôn ngữ rơi vào hai tập hợp. Một tập hợp, hữu hạn về số lượng, được tạo nên bởi những biểu thức đơn giản về từ vựng (lexically simply): đó là các từ vị. Đây là những biểu thức mà người ta chờ đợi được liệt kê trong một cuốn từ điển: chúng là những đơn vị trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, từ đó mà các thành viên của tập hợp thứ hai - những biểu thức phức hợp về từ vựng (lexically composite) - được kiến tạo thông qua các quy tắc ngữ pháp (tức quy tắc cú pháp học và hình thái học). Theo sự phân biệt này, 'pass muster' là một từ vị, trong khi 'pass the examination' ('thi đỗ') là một biểu thức phức hợp về từ vựng. Phần lớn từ-biểu thức, trong tất cả những ngôn ngữ có từ, là đơn giản về từ vựng. Tuy nhiên, trong nhiều ngôn ngữ, có những quy tắc sản sinh (phái sinh (derivational)) cho cái mà truyền thống gọi là phép cấu tạo từ (word-formation), cho phép người sử dụng cấu tạo nên những từ-biểu thức mới xuất phát từ những biểu thức đơn giản hơn về từ vựng đã tồn tại trước đó. Ví dụ, 'politeness' ('lịch sự') được cấu tạo từ cái biểu thức đơn giản hơn về từ vựng là 'polite' thông qua một quy tắc sản sinh của cấu tạo từ tiếng Anh. Mặc dù trên thực tế nhiều từ điển thông thường đã liệt kê 'politeness' như là một đơn vị từ vựng (tức cấp cho nó một mục riêng với mục từ và định nghĩa riêng), nhưng không nhất thiết phải làm như vậy, bởi lẽ cả nghĩa của nó lẫn đặc trưng ngữ pháp của nó (cũng như cách phát âm của nó) đều có thể hoàn toàn được đoán trước theo quy tắc.

Phần lớn biểu thức ngữ đoạn, trái với biểu thức-từ, là những đơn vị phức hợp về từ vựng. Thực tế thì tất cả các ngôn ngữ tự nhiên hình như đều có quy tắc để cấu tạo nên một số lượng vô hạn những biểu thức ngữ đoạn phức hợp về từ vựng. Và, như ta sẽ thấy sau này, một nguyên tắc quan trọng của nghĩa học hình thức là nghĩa của tất cả những biểu thức phức hợp về từ vựng như vậy cần được xác định một cách hệ thống dựa trên cơ sở nghĩa của các biểu thức đơn giản hơn cấu thành nên chúng. Biểu thức ngữ đoạn đơn giản về từ vựng (tức những từ vị ngữ đoạn) bao gồm không chỉ những ví dụ như 'pass muster' được nêu trên đây (vốn không có biểu thức đồng âm phức hợp về từ vựng tương ứng, hình thành do các quy tắc sản sinh của tiếng Anh), mà còn cả những từ vị ngữ đoạn mang tính thành ngữ kiểu như 'red herring' ('đánh lạc hướng'), vốn đồng nhất về hình thức với cái ngữ đoạn phức hợp về từ vựng 'red herring' ('cá trích đỏ') (được tạo nên bởi các quy tắc sản sinh của tiếng Anh) với nghĩa "cá trích mà có màu đỏ". Nghĩa của cái ngữ đoạn đơn giản về từ vựng, mang tính thành ngữ (ta hãy gọi nó là 'red herring1'), giống như 'pass muster', song khác với các ngữ đoạn phức hợp về từ vựng, phi thành ngữ tính, là 'red herring2' và 'pass the examination', thì không xác định được một cách có hệ thống (theo quy tắc) từ nghĩa của các từ vị cấu thành nên nó.

Trên thực tế, sự phân biệt vừa được nêu giữa biểu thức đơn giản về từ vựng (từ vị) và những biểu thức phức hợp về từ vựng không được rõ ràng như tôi trình bày. Ngay cả việc sự phân biệt như vậy được nêu ra ở đâu cũng phụ thuộc vào cái mô hình hay lí thuyết ngữ pháp mà nhà ngôn ngữ sử dụng. Song bất luận sự phân biệt này giữa ngữ pháp của một ngôn ngữ và từ vựng (hay vốn từ vựng) của nó được nêu ra ở điểm nào đi chăng nữa, cũng sẽ luôn luôn có trường hợp giáp ranh của những biểu thức có thể được xếp loại như là biểu thức đơn giản hoặc phức hợp về từ vựng, với mức độ hợp lí ngang nhau. Song một sự phân biệt nào đó như vậy là được nêu ra, và phải được nêu ra, trong phân tích ngữ pháp và ngữ nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên.

Từ vị và nghĩa từ vựng sẽ là trọng tâm chú ý của ta trong chương này và hai chương tiếp theo. Song các dạng thức, trong chừng mực chúng là dạng thức của những từ vị cụ thể, cũng là mối quan tâm của người nghiên cứu ngữ nghĩa. Những dạng thức của cùng một từ vị nói chung là, có điều không tất yếu, khác biệt với nhau về nghĩa: chúng chia sẻ với nhau cùng một nghĩa từ vựng (lexical meaning), song khác nhau về nghĩa ngữ pháp (grammatical meaning). Ví dụ, các dạng thức girl và girls có cùng một nghĩa từ vựng (hoặc cùng nhiều nghĩa từ vựng); song chúng khác nhau về nghĩa ngữ pháp ở chỗ một đằng là dạng số ít (của danh từ thuộc về một tiểu lớp cụ thể), một đằng là dạng số nhiều (của danh từ thuộc về một tiểu lớp cụ thể); và sự khác biệt giữa những dạng thức số ít và dạng thức số nhiều, hoặc, lấy ví dụ khác, sự khác biệt giữa dạng thức thời quá khứ, thời hiện tại và thời tương lai của động từ, là sự khác biệt quan yếu về nghĩa: nó ảnh hưởng đến nghĩa của câu. Nghĩa của một câu, nó sẽ được nhắc lại, bị quy định một phần bởi nghĩa của các từ (tức là các từ vị) có mặt trong câu và một phần bởi nghĩa ngữ pháp của câu.

Như ta sẽ thấy trong Phần 3, mối liên hệ giữa nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp thay đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác: cái được mã hoá bằng con đường từ vựng (được từ vựng hoá (lexicalized)) trong một ngôn ngữ này có thể được mã hoá bằng con đường ngữ pháp (được ngữ pháp hoá (grammaticalized)) trong ngôn ngữ khác. Quá trình ngữ pháp hoá nghĩa, như ta cũng sẽ thấy sau này, không đơn giản, hoặc chủ yếu, chỉ là vấn đề biến tố (ngay cả trong những ngôn ngữ, không giống như tiếng Anh, có một hệ thống biến tố phong phú). Quan trọng hơn rất nhiều, là những khác biệt về cú pháp giữa một kết cấu ngữ pháp này so với một kết cấu cú pháp khác.

Tuy nhiên, tại điểm này, có thể nhận thấy một điều rằng, khi các từ-dạng thức được xem xét không chỉ với tư cách dạng thức mà là với tư cách dạng thức mang nghĩa ngữ pháp, thì xuất hiện một cái nghĩa khác của cả thuật ngữ 'dạng thức' lẫn thuật ngữ 'từ'. Ví dụ, xem xét các câu sau đây:

(4) 'That sheep over there belongs to the farmer next door'

(Con cừu ở đàng kia ấy là của người nông dân nhà bên cạnh)

(5) 'Those sheep over there belong to the farmer next door'.

(Những con cừu ở đàng kia ấy là của người nông dân nhà bên cạnh)

Phải chăng cái từ-dạng thức thứ hai của câu (4) đồng nhất với cái từ-dạng thức thứ hai của câu (5)? Bản thân sự phân biệt mà ta vừa nêu ra giữa dạng thức và biểu thức không đủ để trả lời câu hỏi trong trường hợp như vậy. Ta hãy giả thiết ngay rằng hai cái từ-dạng thức này đồng nhất về cả dạng ngữ âm (trong ngôn ngữ nói) và dạng chính tả (trong ngôn ngữ viết) của chúng: chúng đồng nhất về hình thức (formally identical). Song chúng không đồng nhất về ngữ pháp (grammatically identical). Do đó, việc ta cho rằng cái từ-dạng thức thứ hai của câu (4) có đồng nhất với cái từ-dạng thức thứ hai của câu (5) không sẽ phụ thuộc vào việc, khi nêu câu hỏi này, ta chỉ quan tâm đến sự đồng nhất dạng thức - tức đồng nhất về ngữ âm hoặc chính tả, tuỳ từng trường hợp - hay quan tâm cả sự đồng nhất về hình thức lẫn sự đồng nhất về ngữ pháp. Hai cái từ-dạng thức xuất hiện ở vị trí thứ hai của câu (4) và (5) là hai dạng thức đồng nhất về hình thức, song khác biệt về ngữ pháp, của cùng một từ vị. Chính xác hơn, chúng là những dạng thức khác biệt nhau về phương diện biến hình, hay hình-cú pháp (morphosyntactically) của cùng một từ vị. Cách thức theo đó hiện tượng này được các nhà ngữ pháp xử lí sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào cái mô hình ngữ pháp mà họ chấp nhận.

Những gì vừa được nói trong mục này về sự phân biệt của Peirce về điển dạng/hiện dạng, về các nghĩa khác biệt mà thuật ngữ 'từ' được dùng theo lối chuyên môn lẫn phi chuyên môn trong ngôn ngữ học, về sự khác biệt giữa dạng thức và biểu thức, về nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp đã là tạm đủ vào lúc này. Thoạt nhìn, trong mục này, có vẻ như tôi đã tỏ ra thông thái rởm một cách không cần thiết trong việc đặt quy định và mở rộng cái siêu ngôn ngữ thường ngày. Không phải như vậy. Dù ta có dùng thuật ngữ nào để nêu ra những sự phân biệt vừa được nêu ra ở đây đi chăng nữa, bản thân những sự phân biệt này nhất định cũng phải được nêu ra nếu ta muốn tránh sự nhầm lẫn và tình trạng lập lờ vốn gần như là phần tất yếu gắn với cái mà tôi đã dẫn ra trong Lời nói đầu như là sự đơn giản giả hiệu của cái gọi là tiếng Anh bình dị.

Tất cả những luận điểm tôi nêu ra có thể được phát triển chi tiết hơn, và cần được phát triển trong một sự trình bày đầy đủ hơn về những gì thường được dẫn ra (có điều không chính xác) như là nghĩa của từ. Chúng cũng cần được lập thức hơi khác đi, liên quan đến những lí thuyết cụ thể về ngữ âm, cú pháp và hình thái. Tôi đã cố tình chọn một quan điểm thiên truyền thống về cấu trúc ngữ pháp và từ vựng của ngôn ngữ. Có hai lí do khiến tôi làm như vậy. Lí do thứ nhất, quan điểm này chính là quan điểm được phản ánh trong các từ điển có uy tín được dùng rộng rãi nhất, trong các sách ngữ pháp tham khảo của tiếng Anh cũng như những ngôn ngữ khác, và cũng là quan điểm được dạy hoặc được mặc nhận trong hầu hết nhà trường: do đó, nó có thể được giả định như là quan điểm quen thuộc đối với hầu hết độc giả của cuốn sách này (ngay cả khi họ không nắm vững tất cả hệ thuật ngữ chuyên môn). Lí do thứ hai, mặc dù nhiều kiểu nhuận sắc và hạn định khác nhau đã được đưa ra cho quan điểm truyền thống nhờ vào những phát triển trong ngữ pháp học hiện đại, cái gọi là ngữ pháp truyền thống (với những nhuận sắc và hạn định tất yếu mà tôi đã dẫn ra) vẫn phục vụ tốt hơn bất kì thứ ngữ pháp đang hiện hành nào khác với tư cách là một hệ thống chuẩn, ổn định mà những hệ thống ganh đua khác có thể được chuyển dịch sang nó và li khai từ nó. Những sinh viên đã có một căn bản nào đó về ngữ pháp học hiện đại sẽ thấy giá trị giáo học pháp trong việc thực hiện bài tập chuyển đổi từ một hệ thống siêu ngôn ngữ này sang hệ thống một siêu ngôn ngữ khác khi ta theo dõi hết chương này và các chương tiếp theo.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa (2)

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.2. Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp

Cái mà truyền thống miêu tả là đồng âm (homonymy) đã được minh hoạ trong Chương 1 thông qua những ví dụ không kém tính truyền thống về 'bank1' và 'bank2', từ đầu tiên có nghĩa là "tổ chức tài chính" và từ thứ hai có nghĩa "bờ dốc của một con sông". Các ví dụ này là thoả đáng. Song cách định nghĩa truyền thống về đồng âm, nói một cách không chút cường điệu, thì là không chính xác.

Đồng âm được truyền thống định nghĩa là những từ khác nhau có cùng dạng thức. Ta có thể nhuận sắc ngay cho định nghĩa này, nhờ những gì đã được nói trong mục đi trước, bằng cách thay 'từ' bằng 'từ vị'. Song định nghĩa vẫn còn khiếm khuyết ở chỗ nó không tính đến cái sự thể rằng trong nhiều ngôn ngữ, phần lớn từ vị không phải có một, mà là một số dạng thức. Nó cũng không nói gì về sự tương đương ngữ pháp.

Do đó, ta hãy bắt đầu bằng cách xác lập khái niệm đồng âm tuyệt đối (absolute homonymy). Những từ đồng âm tuyệt đối sẽ thoả mãn ba điều kiện sau đây (ngoài điều kiện bắt buộc tối thiểu cho mọi kiểu đồng âm là giống nhau ít nhất ở một dạng thức):

(i) chúng không có quan hệ gì về nghĩa;

(ii) tất cả các dạng thức đều đồng nhất;

(iii) các dạng thức đồng nhất đều tương đương về ngữ pháp.

Đồng âm tuyệt đối khá phổ biến: so sánh 'bank1', 'bank2'; 'sole1' ("gan bàn chân hoặc đế giày"), 'sole2' ("một loại cá"); v.v.

Song cũng có nhiều loại khác mà tôi sẽ gọi là đồng âm không hoàn toàn (partial homonymy), tức những trường hợp mà: (a) có sự giống nhau (tối thiểu) về một dạng thức; (b) một hoặc hai, chứ không phải tất cả ba điều kiện trên đây, được thoả mãn. Chẳng hạn, các động từ 'find' và 'found' cùng chung nhau dạng thức found, song không chung nhau các dạng finds, finding hoặc founds, founding v.v.; còn found với tư cách là một dạng thức của 'found' thì không tương đương về ngữ pháp với found trong tư cách là một dạng thức của 'found'. Trong trường hợp này, cũng như nói chung trong tiếng Anh, việc không thoả mãn (ii) có liên quan đến việc không thoả mãn (iii). Tuy nhiên, điều quan trọng là nhận ra rằng hai điều kiện cuối cùng của hiện tượng đồng âm tuyệt đối được nêu rõ trong đoạn văn trên đây là phụ thuộc nhau xét về phương diện lô-gic. Chúng thường được mặc nhận mà không hề thảo luận trong cách trình bày của truyền thống về chủ đề này.

Việc lưu ý đến cái điều kiện tương đương về ngữ pháp và cái thực tế rằng đây là vấn đề của mức độ có tầm quan trọng đặc biệt. Mặc dù found với tư cách là một dạng thức của 'found' thì không tương đương về ngữ pháp với found trong tư cách là một dạng thức của 'found', song trong cả hai trường hợp, nó là một dạng thức ngoại động từ. Hệ quả là, có một số ngữ cảnh trong đó found có thể được phân tích, về mặt ngữ pháp, hoặc như một dạng thức của 'found' hoặc như một dạng thức của 'find'. Ví dụ (xin xem (3) trong mục 2.1):

(6) They found hospitals and charitable institutions

có thể được phân tích như là một câu ở thời hiện tại chứa một dạng thức của động từ 'found' ('thành lập') hoặc, phân tích theo một lối khác, như là một phát ngôn ở thời quá khứ chứa một dạng thức của 'find' ('tìm thấy'). Việc 'found' và 'find' là những động từ ngoại động - và là tương đương về ngữ pháp ở mức độ này (có điều không hoàn toàn) - cũng có nghĩa là cả hai đều chấp nhận một danh ngữ như 'hospitals and charitable institutions' làm bổ ngữ trực tiếp của chúng. Và bởi 'hospitals and charitable institutions' không chỉ khả chấp về mặt ngữ pháp mà còn khả chấp về mặt ngữ nghĩa với tư cách là bổ ngữ trực tiếp của cả hai động từ, nên phát ngôn (6) là phát ngôn lưỡng nghĩa.

Tính lưỡng nghĩa của (6) một phần mang tính từ vựng và một phần mang tính ngữ pháp. Nó là lưỡng nghĩa từ vựng trong chừng mực tính lưỡng nghĩa của nó phụ thuộc vào một sự khác biệt trong nghĩa từ vựng của hai từ vị đồng âm không hoàn toàn là 'found' và 'find'. Nó là lưỡng nghĩa ngữ pháp trong chừng mực tính lưỡng nghĩa của nó phụ thuộc vào sự không tương đương về ngữ pháp (quan yếu về nghĩa) của found, được hiểu như là một dạng thức của 'found', và của found được hiểu như là một dạng thức của 'find'.

Đối với nhà ngữ nghĩa học, lí do tại sao sự lưu ý về tương đương ngữ pháp lại có vai trò quan trọng chính là, nói chung, điều này quyết định hiện tượng đồng âm (hoàn toàn hoặc không hoàn toàn, tuỳ theo trường hợp) có gây ra hiện tượng lưỡng nghĩa không. Nếu have được chèn vào trước found trong (6), tạo ra:

(7) They have found hospitals and charitable institutions

thì tính lưỡng nghĩa biến mất. Tác dụng của việc đặt dạng thức have trước dạng thức found là thay đổi đặc trưng hình thái-cú pháp của found: dựa trên giả định rằng (7) quả thực hoàn toàn đúng ngữ pháp trong tiếng Anh, found bây giờ phải được hiểu như là quá khứ phân từ. Dạng quá khứ phân từ của 'find' ngẫu nhiên đồng nhất về hình thức với dạng thời quá khứ của 'find' (về ngữ âm lẫn chính tả). Dạng quá khứ phân từ của 'found', mặt khác, lại đồng nhất về hình thức với dạng thời quá khứ của nó: founded. (Về mặt này, 'found' giống với phần lớn các động từ khác trong tiếng Anh; còn 'find', trái lại, thuộc về một tiểu lớp cụ thể của những gì được truyền thống miêu tả như là động từ bất quy tắc, hay động từ không theo quy tắc.

Tính lưỡng nghĩa thấy trong (6) cũng biến mất nếu they được thay bằng he hay she:

(8) He/she found hospitals and charitable institutions.

Nguyên do bây giờ là, trong tiếng Anh, trong khi có sự đồng nhất về hình thức (ngoại lệ đối với động từ 'be') giữa dạng thức số ít và số nhiều trong tất cả dạng thức động từ ở thời quá khứ đơn giản, thì cái được truyền thống gọi là dạng thức ngôi thứ ba số ít và số nhiều lại khác nhau về hình thức ở thời hiện tại đơn giản, thức trực thuyết (ở tất cả động từ không phải là động từ tình thái kiểu như 'may' hoặc 'can'); so sánh: finds với find, founds với found. Hệ quả là, trong (8) found phải được hiểu như là một dạng thức của 'find' và do vậy là một dạng thức thời quá khứ. Trái ngược với (6), một đằng là:

(9) He/she founds hospitals and other charitable institutions.

và đằng khác là:

(10) He/she founded hospitals and charitable institutions.

Sự lưỡng nghĩa do đồng âm tuyệt đối không thể bị loại trừ bằng cách vận dụng môi trường ngữ pháp theo kiểu này. Song, rất có thể hiện tượng đồng âm không hoàn toàn của hai từ vị hiếm khi khi hoặc không bao giờ gây ra sự lưỡng nghĩa: sự lưỡng nghĩa được ngăn chặn trước, có thể nói như vậy, nếu những dạng thức chung không thể xuất hiện trong cùng một môi trường ngữ pháp. Ví dụ, hiện tượng đồng âm không hoàn toàn của tính từ 'last1' (như trong 'last week' ('tuần trước')) và động từ 'last2' (như trong 'Bricks last a long time' ('Bricks đủ dùng cho một thời gian dài')) hiếm khi gây ra sự lưỡng nghĩa. Cái dạng thức chung nhau duy nhất của chúng, last, hầu như luôn luôn dễ dàng được xác định là dạng thức của từ này hay từ kia nhờ dựa vào môi trường ngữ pháp mà nó xuất hiện.

Ta sẽ trở lại vấn đề lưỡng nghĩa trong chương sau. Khi đó, ta sẽ thấy rằng kiểu lưỡng nghĩa ngữ pháp (kết hợp với lưỡng nghĩa từ vựng) vừa được minh hoạ bằng ví dụ ở đây gắn với khái niệm truyền thống về đồng âm chỉ là một kiểu lưỡng nghĩa ngữ pháp. Nó được nêu ra ở điểm này bởi lẽ nhiều công trình trình bày khái quát về đồng âm, cả truyền thống lẫn hiện đại, đã không chú ý đến sự phức tạp và tính đa dạng của các môi trường ngữ pháp, vốn phải được thoả mãn để cho hiện tượng đồng âm hoàn toàn có thể gây ra sự lưỡng nghĩa.

Nhiều sự trình bày về đồng âm cũng không chỉ ra được rằng đồng âm không hoàn toàn không nhất thiết phải liên quan đến sự đồng nhất hoặc về dạng trích dẫn hoặc về dạng cơ bản của các từ vị được xét. Ví dụ, danh từ 'rung' (thanh ngang của cái thang) và động từ 'ring' (reo) là đồng âm không hoàn toàn:

(11) A rung of the ladder was broken;

(Một cái thanh ngang của cái thang đã gãy)

(12) The bell was rung at midnight.

(Chuông reo vào lúc nửa đêm)

Lí do vì sao kiểu đồng âm không hoàn toàn này thường không được thừa nhận trong những xử lí thông thường, truyền thống hay hiện đại, là: cách xử lí truyền thống thì tập trung vào dạng trích dẫn, trong khi những nhà nghiên cứu hiện đại lại thường giới hạn sự thảo luận về đồng âm của họ chỉ ở dạng cơ bản. Tất nhiên, tình cờ mà trong tiếng Anh, các dạng trích dẫn lại trùng với dạng cơ bản trong tất cả những từ vị chuẩn mực về hình thái học. Song thực tế không được như vậy ở tất cả các ngôn ngữ, trong chừng mực các dạng thức trích dẫn mang tính ngôn ngữ thường ngày, truyền thống, của từ vị được quan tâm. Đối với ngữ nghĩa học, câu hỏi được nêu ra là liệu và là ở mức độ nào thì hiện tượng đồng âm gây ra sự lưỡng nghĩa. Xét từ quan điểm này, chẳng có gì đặc biệt hoặc về dạng trích dẫn hoặc về dạng cơ bản.

Bây giờ ta hãy chuyển sang hiện tượng đa nghĩa (polysemy). Trong khi đồng âm (bất luận là đồng âm hoàn toàn hay không hoàn toàn) là một mối quan hệ nằm giữa hai hoặc hơn hai từ vị khác biệt nhau, thì đa nghĩa ("nhiều nghĩa") lại là đặc trưng của một từ vị đơn nhất. Đây chính là sự phân biệt được truyền thống nêu ra. Song những ai nêu ra sự phân biệt này cũng sẽ thừa nhận rằng sự khác biệt giữa đồng âm và đa nghĩa không phải bao giờ cũng rạch ròi trong những trường hợp cụ thể. Đối với tiếng Anh, người ta đã cho thấy rằng trong phần lớn trường hợp, người bản ngữ dễ nhất trí với nhau về vấn đề cái gì được coi là từ này và cái gì được coi là từ khác. Song cũng có rất nhiều trường hợp mà người bản ngữ sẽ do dự hoặc không nhất trí với nhau. Thế thì, cái gì là sự khác biệt về lí thuyết giữa đồng âm và đa nghĩa.

Hai tiêu chí thường được dẫn ra liên quan đến vấn đề này đã được đề cập trong Chương 1: đó là tiêu chí từ nguyên (lai nguyên lịch sử của từ) và tính có liên hệ về nghĩa. Nói chung, tiêu chí từ nguyên ủng hộ cho cái trực cảm nguyên sơ của người bản ngữ về những từ vị cụ thể. Ví dụ, phần lớn người bản ngữ nói tiếng Anh sẽ có thể phân loại 'bat1' ("động vật có lông với cánh có màng") và 'bat2' ("dụng cụ để đánh quả bóng trong một số trò chơi") như là hai từ vị khác nhau; và hai từ này quả thật khác nhau về nguồn gốc lịch sử, 'bat1' phái sinh từ một biến thể khu vực của từ tiếng Anh Trung đại 'bakke', còn 'bat2' thì phái sinh từ tiếng Anh Cổ 'batt' có nghĩa "dùi cui, gậy tày".

Nói rằng từ nguyên học thường ủng hộ trực cảm của người bản ngữ thì không có nghĩa nói rằng nó luôn luôn đúng. Đôi khi có chuyện những từ vị mà người nói bình thường của ngôn ngữ cho là không liên quan gì về nghĩa lại xuất xứ từ cùng một nguồn gốc. Những từ đồng âm 'sole1' ("gan bàn chân hoặc đế giày") và 'sole2' ("một loại cá"), mà tôi đã dẫn trên đây, làm một cặp ví dụ hay được trích dẫn; và có những ví dụ khác, ít ấn tượng hơn, được tìm thấy trong các sách giáo khoa. Kém phổ biến hơn, là trường hợp ngược lại, khi mà những ý nghĩa không liên quan gì về mặt lịch sử lại được người bản ngữ cảm nhận là có cùng kiểu liên hệ như các nghĩa phân biệt nhau của một từ vị đa nghĩa đơn nhất. Song, có một số ví dụ về những hiện tượng, xét từ quan điểm lịch sử, là rõ ràng đồng âm hiện đang được thế hệ sau tái thuyết giải như là đa nghĩa. Nó nằm trong phạm vi của cái mà nhà ngôn ngữ học thường dẫn ra như là từ nguyên học dân gian (popular etymology).

Ví dụ, ngày nay, một số người nói tưởng rằng 'shock1' như trong 'shock of corn' (râu ngô) cũng chính là 'shock2' trong 'shock of hair' (mớ tóc bù xù). Song về mặt lịch sử, chúng có nguồn gốc khác nhau.

Thế thì, cả hai loại đều có ngoại lệ. Tuy nhiên, sự khái quát hoá mà tôi vừa nêu chắc chắn là đúng đắn: trong phần lớn trường hợp, từ nguyên học ủng hộ cái trực cảm của người bản ngữ bình thường về sự phân biệt giữa đồng âm và đa nghĩa. Và ta sẽ thấy ngay sau đây rằng có những lí do chính đáng giải thích tại sao lại như vậy. Một trong những tác nhân chính có hiệu lực trong sự thay đổi ngữ nghĩa là sự mở rộng theo lối ẩn dụ, như khi 'foot' có nghĩa là "phần dưới cùng của chân" thì cũng có nghĩa "phần thấp nhất của quả đồi hay ngọn núi". Và chính sự mở rộng nghĩa theo ẩn dụ với tư cách một quá trình đồng đại là vấn đề gây tranh cãi khi người ta dẫn ra các nghĩa có liên quan với nhau của một từ vị đa nghĩa. Tất nhiên, về vấn đề này còn có những kiểu liên hệ về ý nghĩa khác. Song sáng tạo ẩn dụ (trong cái nghĩa rộng nhất của thuật ngữ 'ẩn dụ') là bộ phận thuộc thẩm năng ngôn ngữ của mỗi người. Nói cho cùng, không thể nào vạch ra một sự phân biệt dứt khoát giữa sự mở rộng hay chuyển di ngữ nghĩa tự phát, do những người nói cá biệt thực hiện trong những tình huống cụ thể, với việc họ dùng các nghĩa của một từ vị được mở rộng và chuyển di, đã được thể chế hoá, tồn tại trước đó, được tìm thấy trong từ điển. Điều này có những gợi ý quan trọng để lí thuyết ngôn ngữ học thoát ra khỏi được cái vấn đề mang tính truyền thống, và có lẽ là không giải quyết được, về việc phân biệt đa nghĩa với đồng âm.

--------------------------------------------------------------------------------

Đọc tiếp: 2.3. Đồng nghĩa

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa (3)

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.3. Đồng nghĩa

Những biểu thức có cùng nghĩa là những biểu thức đồng nghĩa (synonymous). Có hai điểm cần lưu ý về định nghĩa này. Thứ nhất, nó không giới hạn quan hệ đồng nghĩa trong phạm vi từ vị: nó tính đến cái khả năng những biểu thức đơn giản về từ vựng có thể có cùng nghĩa với những biểu thức phức hợp về từ vựng. Thứ hai, nó cho rằng sự đồng nhất về nghĩa, chứ không phải chỉ là sự giống nhau, là tiêu chí của đồng nghĩa.

Xét ở cái khía cạnh thứ hai này, nó khác với cái định nghĩa về đồng nghĩa, được thấy trong nhiều từ điển thông thường và là định nghĩa mà bản thân các nhà làm từ điển vẫn thao tác lâu nay. Nhiều biểu thức được liệt kê như là đồng nghĩa trong từ điển thông thường hay chuyên biệt (bao gồm Roget's Thesaurus và những từ điển đồng nghĩa và trái nghĩa khác) là những gì có thể được gọi là các từ gần nghĩa (near-synonyms): đó là những biểu thức ít nhiều giống nhau, song không đồng nhất, về nghĩa. Hiện tượng gần nghĩa, như ta sẽ thấy, không nhầm lẫn với những kiểu khác nhau của cái mà tôi sẽ gọi là đồng nghĩa không hoàn toàn (partial synonymy), vốn đáp ứng tiêu chí đồng nhất về nghĩa, song vì những lí do khác nhau, không đáp ứng những điều kiện của những gì thường được nêu ra như là đồng nghĩa hoàn toàn. Những ví dụ điển hình về từ gần nghĩa trong tiếng Anh là 'mist' và 'fog', 'stream' và 'brook', 'dive' và 'plunge'.

Bây giờ cho phép tôi giới thiệu khái niệm đồng nghĩa hoàn toàn (absolute synonymy), đối lập không chỉ với khái niệm gần nghĩa, mà còn với cái khái niệm rộng hơn về đồng nghĩa, vừa được định nghĩa, vốn bao trùm cả đồng nghĩa hoàn toàn lẫn không hoàn toàn (tức là không tuyệt đối). Có một điều gần như là sự thật hiển nhiên : hiện tượng đồng nghĩa hoàn toàn là cực kì hiếm gặp (ít nhất với tư cách là mối quan hệ giữa các từ vị) trong ngôn ngữ tự nhiên. (Tất nhiên, nó sẽ không hiếm, với tư cách là quan hệ giữa các biểu thức phức hợp về từ vựng). Hai (hoặc hơn hai) biểu thức là đồng nghĩa hoàn toàn với nhau, nếu và chỉ nếu chúng thoả mãn ba điều kiện sau đây:

(i) tất cả nghĩa của chúng đều đồng nhất;

(ii) chúng là đồng nghĩa trong tất cả ngữ cảnh;

(iii) chúng tương đương về nghĩa (tức nghĩa hay các nghĩa của chúng đồng nhất) trong tất cả chiều kích của nghĩa, miêu tả và phi miêu tả.

Mặc dù một hoặc hơn một trong số những điều kiện này thường được đề cập trong văn liệu, khi thảo luận về đồng nghĩa hoàn toàn, người ta ít khi chỉ ra rằng chúng độc lập với nhau về phương diện lô gic; và đồng nghĩa không tuyệt đối, hay không hoàn toàn, không phải bao giờ cũng phân biệt rõ ràng với hiện tượng gần nghĩa.

Do vậy, tôi muốn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc: (a) không lẫn lộn hiện tượng gần nghĩa với đồng nghĩa không hoàn toàn; (b) không cho rằng việc không thoả mãn một trong những điều kiện đồng nghĩa hoàn toàn sẽ tất yếu dẫn đến việc không thoả mãn một điều kiện nào đó hoặc cả hai điều kiện còn lại. Ta hãy lần lượt xét từng điều kiện của hiện tượng đồng nghĩa hoàn toàn.

Những từ điển thông thường tiếng Anh cho các tính từ 'big' và 'large' là những từ đa nghĩa (mặc dù chúng khác nhau xét về số lượng nghĩa được gán cho mỗi từ). Theo một trong những nghĩa của chúng, minh hoạ qua ví dụ:

(13) 'They live in a big/large house'

(Họ sống trong một ngôi nhà lớn/rộng)

hai từ này thường được xem là đồng nghĩa. Tuy nhiên, dễ dàng chỉ ra rằng 'big' và 'large' không đồng nghĩa trong tất cả các nghĩa của chúng, tức chúng không thoả mãn được điều kiện (i) và do đó chỉ là đồng nghĩa bộ phận, không hoàn toàn. Câu sau đây:

(14) 'I will tell my big sister'

(Tôi sẽ kể cho chị tôi/ Tôi sẽ kể cho bà chị/cô em to béo của tôi)

là lưỡng nghĩa về mặt từ vựng, do tính đa nghĩa của từ 'big', theo một cách thức mà:

(15) 'I will tell my large sister'

(Tôi sẽ kể cho bà chị/cô em to béo của tôi)

lại không. Tất cả ba câu này đều đúng ngữ pháp và có thể hiểu được. Chúng cho thấy rằng, ít nhất, 'big' có một nghĩa không chia sẻ với 'large'. Có nhiều ví dụ như vậy về những từ vị đa nghĩa, những từ vị đồng nghĩa chỉ theo một hoặc hơn một nghĩa, chứ không phải theo tất cả các nghĩa của chúng.

Ta hãy chuyển sang điều kiện (ii). Vấn đề tranh cãi ở đây là tầm kết hợp (collocational range) của một biểu thức, tức cái tập hợp ngữ cảnh trong đó biểu thức đó có thể xuất hiện (kết hợp thường thấy (collocations) của nó). Có thể nghĩ rằng tầm kết hợp của một biểu thức hoàn toàn bị nghĩa của nó quy định, vì vậy các từ đồng nghĩa tất nhiên phải có cùng một tầm kết hợp. Song có vẻ không phải như vậy. Một lần nữa, 'big' và 'large' sẽ được lấy làm ví dụ. Có nhiều ngữ cảnh trong đó 'large' không thể thay thế cho 'big' (theo cái nghĩa mà 'big' chia sẻ với 'large') mà không vi phạm các giới hạn kết hợp của từ này hay từ kia. Ví dụ, 'large' không thể hoán vị với 'big' trong câu:

(16) 'You are making a big mistake'.

(Anh/chị đang phạm phải một sai lầm lớn)

Câu:

(17) 'You are making a large mistake'

rõ ràng là một câu không những đúng về ngữ pháp, mà còn có nghĩa nữa. Tuy nhiên, nó lại bất khả chấp xét về tầm kết hợp, hoặc không đúng với cách nói của người bản ngữ. Có điều trong câu (16), 'big' có vẻ có cùng cái nghĩa như cái nghĩa mà nó thể hiện trong những ngữ đoạn kiểu 'a big house', là ngữ đoạn mà ta có thể, như ta đã thấy, thay thế bằng 'a large house'.

Có lí do thôi thúc ta lập luận rằng, trong những trường hợp như vậy, chắc chắc có một sự khác biệt tinh tế nào đó về nghĩa từ vựng giải thích cho những khác biệt về tầm kết hợp, như vậy vấn đề ở đây không phải là đồng nghĩa, mà là gần nghĩa. Chắc rằng, thông thường thì những khác biệt về tầm kết hợp đều có thể được giải thích thoả đáng dựa trên những khác biệt về nghĩa có thể được xác định một cách độc lập. Song không phải bao giờ cũng như vậy. Do đó, ta phải cẩn thận để không cho rằng tầm kết hợp của một từ vị là có thể dự đoán được căn cứ vào nghĩa của nó. Trong thực tế, có những trường hợp có thể lập luận rằng các kết hợp thường thấy của một từ vị là một phần nghĩa của nó. Đáng tiếc đây lại là một trong nhiều khía cạnh của ngữ nghĩa học từ vựng mà ta không thể xem xét trong cuốn sách này.

Điều kiện thứ ba trong số những điều kiện của đồng nghĩa hoàn toàn được nêu trên đây là sự đồng nhất trong tất cả chiều kích ngữ nghĩa. Chiều kích được thừa nhận rộng rãi nhất có liên quan đến điều kiện này chính là nghĩa miêu tả (hay nghĩa mệnh đề) (xin xem mục 1.7). Thực tế, nhiều lí thuyết nghĩa học sẽ giới hạn khái niệm đồng nghĩa trong cái mà tôi sẽ gọi là đồng nghĩa miêu tả (descriptive synonymy), tức sự đồng nhất về nghĩa miêu tả. Chính xác thì đồng nhất về nghĩa miêu tả nghĩa là gì sẽ là vấn đề được bàn đến trong Phần 3. Tạm thời, chỉ cần nói rằng hai biểu thức có cùng nghĩa miêu tả (tức chúng là đồng nghĩa miêu tả) nếu, và chỉ nếu, những mệnh đề chứa biểu thức này sẽ tất yếu hàm ý những mệnh đề tương đương chứa biểu thức kia, và ngược lại. Vận dụng tiêu chí này (tiêu chí sẽ được tái lập thức trong Phần 3 dựa trên sự tương đương về hàm chân trị của câu), 'big' và 'large' là đồng nghĩa miêu tả (theo một trong những ý nghĩa của chúng và với một phạm vi ngữ cảnh nào đó). Ví dụ, người ta không thể không mâu thuẫn khi đồng thời xác nhận rằng ai đó sống trong một ngôi nhà lớn nhưng lại phủ nhận rằng người đó sống trong một ngôi nhà rộng.

Một trong những ví dụ kinh điển của đồng nghĩa miêu tả là mối quan hệ được thừa nhận (hoăc có thể, từng được thừa nhận) trong tiếng Anh giữa từ 'bachelor' (người độc thân) (theo một trong những nghĩa của từ'bachelor') và 'unmarried man' (người đàn ông chưa lập gia đình). (Hiện nay có người phủ nhận hai biểu thức này là đồng nghĩa miêu tả, lấy lí do rằng một người đàn ông đã li dị, dù chưa lập gia đình (lại), vẫn không phải là người độc thân. Quan điểm này có thể gây tranh cãi; và bởi vì nó có thể được khai thác cho những mục đích lí thuyết chung hơn nên tôi sẽ trở lại với nó trong một chương tiếp theo. Song cái nguyên tắc mà ví dụ này có ý minh hoạ thì là khá rõ). Trong trường hợp này, người ta kiểm chứng hiện tượng đồng nghĩa miêu tả bằng cách tìm hiểu xem liệu ai đó được miêu tả chân thật, hoặc miêu tả đúng đắn, là người độc thân sẽ có thể được miêu tả chân thật như là người đàn ông chưa lập gia đình hay không, và ngược lại. Rất có thể đối với một số người thì những biểu thức này là đồng nghĩa, đối với một số người khác chúng là không đồng nghĩa, và đối với nhóm người thứ ba thì tình hình là không rõ. (Những ai cho rằng biểu thức 'chưa lập gia đình' không đơn giản chỉ có nghĩa là "không lập gia đình" mà là "chưa bao giờ lập gia đình", và rằng biểu thức này không thể áp dụng đúng cho những người đã li dị- cùng với những ai, nếu có, vốn dễ dàng áp dụng cả biểu thức 'người độc thân' lẫn biểu thức 'chưa lập gia đình' cho người đã li dị - sẽ dễ dàng xử lí 'người độc thân' và 'người đàn ông chưa lập gia đình' như là những biểu thức đồng nghĩa miêu tả.)

Khi bàn đến nghĩa biểu lộ (expressive meaning) (hoặc biểu lộ-xã hội) - đây là loại nghĩa phi miêu tả duy nhất mà ta khảo sát ở đây ‐ thì chẳng có tiêu chí thật sự dùng được và tương đối khách quan nào cho phép ta phân xử được sự đồng nhất với sự khác biệt. Song, tuy vậy, trong những trường hợp cụ thể, vẫn có thể xác quyết được rằng hai hoặc hơn hai biểu thức đồng nghĩa miêu tả là khác nhau xét theo mức độ hoặc bản chất nghĩa biểu lộ của chúng. Ví dụ, về mặt cảm tính rõ ràng một tập hợp toàn bộ những từ gồm 'huge' (khổng lồ, to lớn, đồ sộ), 'enormous'(khổng lồ, to lớn), 'gigantic' (khổng lồ, đồ sộ) và 'colossal' (khổng lồ, to lớn) thì biểu lộ tình cảm của người nói đối với những gì chúng miêu tả nhiều hơn so với 'very big' (rất to) hoặc 'very large' (rất lớn), vốn có lẽ là những đồng nghĩa miêu tả của chúng. Việc so sánh 'huge', 'enormous', 'gigantic' và 'colossal' trong nội bộ của chúng theo mức độ của tính biểu lộ thì khó khăn hơn. Song người nói có thể có những cảm nhận rõ nét về hai hoặc hơn hai từ trong số này; và về nguyên tắc, vấn đề này có thể xác định được thông qua những trắc nghiệm tâm lí học tương đối khách quan.

Đối với những biểu thức phân biệt nhau về bản chất nghĩa biểu lộ của chúng, sự phân biệt rõ ràng nhất là giữa những biểu thức hàm ý tán thành hoặc không tán thành với những biểu thức trung tính xét về phương diện biểu lộ. Giáo trình ngữ nghĩa học đầy rẫy những ví dụ kiểu như 'stateman' đối lập với 'politician', 'thrifty' đối lập với 'mean', 'stingy' đối lập với 'economical', 'stink' đối lập với 'stench' đối lập với 'fragrant' đối lập với 'smell', crafty' đối lập với 'cuning' đối lập với 'skillful' đối lập với 'clever' v.v... Trong nhiều trường hợp, việc một biểu thức hàm ý tán thành hay không tán thành là dễ lĩnh hội hơn rất nhiều so với nghĩa miêu tả của nó (nếu nó có bất kì cái nghĩa tán thành hay không tán thành nào). Điều này là đúng, chẳng hạn, đối với những từ như 'bitch' (đồ chó đẻ) hoặc 'swine' (đồ tham ăn tục uống) được sử dụng theo cái nội dung có thời đã là nghĩa ẩn dụ của chúng, song có lẽ đã không còn nữa đối với hầu hết người nói tiếng Anh. Với những điều kiện nào thì người ta có thể miêu tả một cách đúng đắn ai đó là đồ chó đẻ hoặc đồ tam ăn tục uống? Trong những trường hợp như vậy, chắc chắn rằng thành tố nghĩa biểu lộ, chứ không phải thành tố nghĩa miêu tả, là thành tố nổi trội.

Phần lớn các từ vị được dùng hàng ngày đều có nghĩa miêu tả lẫn nghĩa biểu lộ. Quả thật, như một số nhà triết học ngôn ngữ đã chỉ ra khi xét vốn từ vựng chứa những nhận định về đạo đức và thẩm mĩ, rằng đôi khi, thậm chí là về lí thuyết, có thể không tài nào tách biệt nghĩa miêu tả ra khỏi nghĩa biểu lộ. Tuy nhiên, có thể là, việc nhận biết nghĩa biểu lộ (hoặc biểu lộ-xã hội) của một từ vị cũng thuộc cái thẩm năng ngôn ngữ của con người, ngang với việc nhận biết nghĩa miêu tả của nó. Luận điểm này cần được thường xuyên ghi nhớ trong suốt cuốn sách này, cho dù ta hầu như chỉ quan tâm độc một loại nghĩa miêu tả khi thảo luận về cấu trúc từ vựng ở Chương 3 và trong một vài chương tiếp theo.

Hiện tượng đồng nghĩa đã được thảo luận và minh hoạ một cách phong phú từ nhiều quan điểm, không chỉ trong những công trình theo đúng nghĩa là dành cho ngữ nghĩa học, mà còn cả trong những giáo trình về phong cách học, tu từ và phê bình văn học. Mục đích chính của tôi, trong sự trình bày ngắn gọn được nêu ra ở đây, là nhấn mạnh vào tầm quan trọng lí thuyết của việc phân biệt một số loại thuộc hiện tượng đồng nghĩa không hoàn toàn, hoặc không tuyệt đối với nhau và với hiện tượng gần nghĩa. Khi làm như vậy, tôi đã buộc phải che đậy một số khó khăn và phức tạp mà một sự thảo luận toàn diện hơn về hiện tượng đồng nghĩa sẽ bắt ta phải xử lí. Một số khó khăn và phức tạp như vậy sẽ được đề cập trong Chương 4, trong chừng mực nghĩa miêu tả được quan tâm, liên quan đến khái niệm dẫn ý.

--------------------------------------------------------------------------------

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa (4)

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.4. Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư

Từ-dạng thức của tiếng Anh, giống như từ-dạng thức của nhiều ngôn ngữ, có thể chia thành hai lớp. Một lớp bao gồm các dạng thực như man, came, green, badly; lớp kia gồm các dạng hư như the, of, and, to, if. Sự phân biệt giữa hai lớp không phải bao giờ cũng rõ ràng. Song về mặt cảm tính nó có thể được thừa nhận trong các ví dụ mà tôi vừa nêu ra. Và nó đã được các nhà ngữ pháp vạch ra dựa trên những cơ sở không cảm tính, bằng cách áp dụng một loạt tiêu chí khác nhau. Thực chất, sự phân biệt tương tự đã được nêu ra, hàng thế kỉ trước, trong truyền thống ngữ pháp Trung Quốc; vào cuối thế kỉ 19 bởi nhà ngữ pháp Anh Henry Sweet; ở giai đoạn cực thịnh của cấu trúc luận hậu-Bloomfield vào những năm 50 bởi nhà ngôn ngữ học Mĩ C.C Fries (1952). Về sau nó có mặt trong nhiều giáo trình ngôn ngữ học ứng dụng và ngữ pháp thực hành dạy tiếng của tiếng Anh và các ngôn ngữ khác vào thời kì trước khi ngữ pháp tạo sinh Chomsky nổi lên vào những năm 60. Nó ứng với sự phân biệt giữa những từ-dạng thức tập hợp mở (open-class) và tập hợp đóng (closed-class) đang được trình bày (theo những thuật ngữ này hoặc những thuật ngữ khác) trong nhiều trường phái ngữ pháp học hiện đại.

Những thuật ngữ mà tôi chọn, lấy từ truyền thống Trung Quốc, nhấn mạnh vào sự khác biệt cảm tính rõ ràng về nghĩa giữa những thành viên điển hình của lớp này với những thành viên điển hình của lớp kia. Từ-dạng thức hư có thể không hoàn toàn trống nghĩa (có điều một số trong số này là ở trong những ngữ cảnh nhất định). Song, trong cái nghĩa cảm tính rõ ràng của thuật ngữ 'có nghĩa', chúng nói chung là kém có nghĩa hơn so với những từ-dạng thức thực: chúng dễ dàng được dự đoán hơn trong các ngữ cảnh mà chúng xuất hiện. Do vậy mà chúng bị lược bỏ trong phần tóm tắt tin chính ở đầu bản tin, trong điện tín v.v. và cũng có thể trong phát ngôn của trẻ con lúc bọn trẻ trải qua giai đoạn đầu của quá trình thụ đắc ngôn ngữ. Từ-dạng thức thực trong tiếng Anh là dạng thức của các từ loại cơ bản, như danh từ, động từ và tính từ; từ-dạng thức hư (trong những ngôn ngữ có chúng) thuộc nhiều lớp khác nhau - như giới từ, mạo từ xác định và không xác định, liên từ, một số đại từ và trạng từ - vốn kết hợp với các từ loại chính trong những ngữ đoạn và câu đúng ngữ pháp và vốn (không giống như các từ loại cơ bản) có xu hướng được định nghĩa chủ yếu dựa vào chức năng cú pháp của chúng, chứ không phải dựa vào nghĩa.

Những thuật ngữ khác được thấy trong văn liệu, ít nhiều tương đương với thuật ngữ 'từ-dạng thức hư' là 'từ hình thức', 'từ chức năng', 'từ ngữ pháp' và 'từ cấu trúc'. Tất cả các thuật ngữ này đều phản ánh quan điểm cho rằng cái mà tôi đang gọi là từ-dạng thức hư thì khác với các từ-dạng thức thực về ngữ pháp và ngữ nghĩa. Chúng thường được định nghĩa trong khung ngữ pháp dựa vào hình vị của Bloomfield và hậu- Bloomfield (bao gồm Chomsky), trên cơ sở định nghĩa của Bloomfield về từ (theo cái nghĩa của 'từ-dạng thức') với tư cách là hình thái tự do tối thiểu. Trong suốt cuốn sách này, ta thao tác trong cái khung mang tính truyền thống hơn của cái được gọi là ngữ pháp từ-và-hệ hình. Song những gì tôi buộc phải nói ở đây, và thực tế trong suốt cuốn sách này, đều có thể tái lập thức mà không gặp khó khăn gì trong hệ thuật ngữ của bất kì trường phái nào trong số vài trường phái ngữ pháp khác nhau, cũ cũng như mới, và có ý trung tính về lí thuyết ở mức cao nhất có thể được. Tôi đã chọn dùng thuật ngữ 'từ-dạng thức hư' và 'từ-dạng thức thực' bởi vì những thuật ngữ này nhấn mạnh vào cái chiều kích ngữ nghĩa trong sự khác biệt giữa hai lớp này.

Nhìn từ quan điểm ngữ pháp, trong những ngôn ngữ không biến hình, hoặc biến hình ở mức độ thấp, từ-dạng thức hư có thể được coi là thực hiện cùng một chức năng giống như những tiền tố, hậu tố v.v... trong những ngôn ngữ biến hình ở mức độ cao. Ví dụ, một ngữ giới từ như to John (cho John) khi xuất hiện ở vị trí bổ ngữ gián tiếp sau động từ 'give' (cho) trong tiếng Anh, có thể tương ứng về ngữ nghĩa và ngữ pháp, trong nhiều ngôn ngữ biến hình ở mức độ cao như tiếng Latin và tiếng Nga (và nhiều ngôn ngữ khác, thuộc về nhiều họ ngôn ngữ khác nhau trên thế giới), với cái mà truyền thống thường dẫn ra như là dạng thức tặng cách (hoặc đích cách) của danh từ, vốn đối lập với những dạng thức khác biệt về cú pháp và/hoặc ngữ nghĩa khác của cùng từ vị khi mang hậu tố tặng cách (hoặc đích cách), chứ không phải là hậu tố danh cách, đối cách, sinh cách v.v... gắn với cái dạng thức cơ sở. Tình hình là tương tự đối với mạo từ xác định the. Phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới không có một từ-dạng thức riêng biệt có thể đồng nhất về ngữ pháp và ngữ nghĩa với mạo từ xác định trong tiếng Anh.

Thực tế, phần lớn các ngôn ngữ tự nhiên không hề mã hoá phạm trù xác định theo đúng nghĩa của từ, hoặc bằng con đường ngữ pháp hoặc bằng con đường từ vựng. Một số ngôn ngữ mã có mã hoá tính xác định (trong chừng mực phạm trù này có thể xác định và tách biệt với các phạm trù ngữ nghĩa khác qua các ngôn ngữ) thì thực hiện điều này bằng con đường biến hình từ, theo cái cách rất giống với cách mà chức năng bổ ngữ gián tiếp được biểu thị bằng con đường biến hình từ nhờ vào tặng cách trong tiếng Latin. Xét sự quan tâm mà các nhà lô gic học nói tiếng Anh của thế kỉ 19, bắt đầu với Russell (1905) dành cho việc phân tích những danh ngữ chứa mạo từ xác định, cần lưu ý đến tính phi phổ quát, không phải chỉ của mạo từ xác định, mà còn của bất kì những gì có thể được gọi là phạm trù ngữ nghĩa về tính xác định, trong ngôn ngữ tự nhiên. Song đây là vấn đề mà ta không quan tâm vào lúc này. Tôi đề cập đến mạo từ xác định trong tiếng Anh ở điểm này chỉ như là một ví dụ về lớp của những gì mà tôi gọi là từ-dạng thức hư.

Lưu ý rằng, mặc dù tôi đã nêu ra từ hư với tư cách là từ-dạng thức, tôi đã không nói rằng chúng là dạng thức của từ vị (như dog là một dạng thức của từ 'dog', ran là một dạng thức của 'run' v.v...). Một điểm có thể gây tranh luận là những dạng thức như the hoặc to (trong chức năng đánh dấu bổ ngữ gián tiếp hoặc ít nhất, chức năng tạo dạng nguyên thể) thì nên liệt kê trong từ điển của một ngôn ngữ hay giải thích trong phạm vi ngữ pháp. Vấn đề này không thể giải quyết được nếu không đặt trong khuôn khổ một lí thuyết ngữ pháp này hay lí thuyết ngữ pháp khác. Song dù có chọn lựa quan điểm nào đối với vấn đề này, thì cái luận điểm chính được nêu ra ở đây vẫn là: cho dù chúng được liệt kê trong từ điển của ngôn ngữ (bất luận là dựa trên lí do tiện dụng hoặc dựa trên cơ sở một khái niệm có thể bảo vệ được về lí thuyết nhằm phân biệt ngữ pháp và từ vựng), thì những từ-dạng thức hư, kiểu như the, of, and, to và if trong tiếng Anh, đều không có nghĩa từ vựng đầy đủ. Chúng có thể là từ theo cái nghĩa của thuật ngữ 'từ-dạng thức', song chúng không phải là từ theo cái nghĩa đầy đủ.

Từ-dạng thức hư không chỉ có xu hướng kém có nghĩa hơn từ-dạng thức thực. Nghĩa của chúng còn có vẻ khác biệt, và đa chủng hơn, so với nghĩa của từ-dạng thức thực. Sự khác biệt giữa hai loại từ-dạng thức này lộ ra tức thời khi liên hệ với một số lí thuyết nghĩa học đã nêu ở Chương 1. Chẳng hạn, có vẻ hợp lí khi cho rằng nghĩa của 'dog' là một loại quan niệm hay một loại hành vi phản hồi, vốn có thể được miêu tả hoặc làm rõ mà không cần viện đến cái ngữ đoạn hay câu tiếng Anh có chứa từ 'dog'. Song khó có thể thảo luận về nghĩa của the, of, and, to và if theo lối như vậy. Cũng có vẻ không hợp lí khi cho rằng nghĩa của chúng, dù ta miêu tả hay làm rõ nó bằng cách nào đi chăng nữa, là độc lập với chức năng ngữ pháp của chúng. Sự khác biệt giữa dạng thực và dạng hư phù hợp với cái thực tế là (như đã được đề cập trên đây) các từ loại cơ bản (đặc biệt danh từ và động từ) thì được truyền thống định nghĩa, hoặc toàn bộ hoặc chủ yếu, theo nghĩa của chúng và định nghĩa một cách độc lập với nhau, trong khi đó các từ loại phụ (các mạo từ xác định và không xác định, giới từ, liên từ v.v...) lại luôn luôn được định nghĩa theo chức năng ngữ pháp của chúng và liên quan đến khả năng kết hợp tiềm tàng của chúng với một từ loại nào đó trong số các từ loại cơ bản hoặc với những đơn vị ở cấp độ cao hơn như ngữ đoạn và tiểu cú.

Trên thực tế, sự phân biệt về ngữ pháp giữa từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư mà tôi vừa giải thích một cách không chính thức và không chuyên môn trong mục này là kết quả của một vài sự phân biệt mang tính chuyên môn hơn mà độc giả có thể tham khảo các sách giáo khoa được dẫn trong phần Thư mục tham khảo.

Bởi ở đây ta không quan tâm đến lí thuyết ngữ pháp vì bản thân nó cho nên ta sẽ không đi vào chi tiết. Điều thật sự gây tranh cãi, trong phạm vi những quan tâm của ta, là sự phân biệt giữa ngữ pháp (grammar) của một ngôn ngữ và vốn từ, hay bộ từ vựng (lexicon) của nó, và sự phân biệt giữa nghĩa ngữ pháp và nghĩa từ vựng, vốn phụ thuộc vào nó. Đây là chủ đề sẽ được bàn luận trong mục tiếp theo.

Tuy nhiên, trước khi tiếp tục, có một luận điểm mà ta có thể nêu ra một cách hữu ích, dựa trên cơ sở sự phân biệt đã được nêu trong mục này giữa từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư. Luận điểm này có liên quan đến một trong những câu hỏi đã nêu ra ở mục 1.6: thứ nghĩa nào, nghĩa của từ hay nghĩa của câu, là cơ bản hơn, hay được ưu tiên về mặt lô gic, so với thứ nghĩa khác? Một cách biện luận cho sự ưu tiên của nghĩa câu đối với nghĩa của từ, vốn thường được những người ủng hộ nghĩa học hàm chân trị đưa ra, là như sau:

(i)Cái nghĩa gắn với những từ như if, to, và and trong tiếng Anh không thể định nghĩa bằng cách nào khác hơn là sự đóng góp của chúng đối với những đơn vị lớn hơn chứa chúng, là ngữ đoạn, tiểu cú và câu. Nghĩa của những từ như vậy ít nhất là thứ yếu về mặt lô gic (tức phụ thuộc vào) so với nghĩa của các câu mà trong đó chúng xuất hiện.

(ii)Song nghĩa của một câu là tích của nghĩa các từ cấu thành nên câu. Vậy, tất cả các từ, cả từ hư lẫn từ thực, có thể (và phải) được đưa vào phạm vi của cái nguyên tắc chung, rằng nghĩa của một dạng thức là phần đóng góp của nó vào nghĩa của câu chứa nó.

(iii)Việc có một khái niệm đơn nhất về nghĩa của từ có thể áp dụng cho mọi từ là được ưu tiên về mặt phương pháp luận.

(iv)Nếu nghĩa của những từ như if, to, và and, những từ mà nghĩa được xem như là phần đóng góp của chúng vào nghĩa của câu chứa chúng, là thứ yếu về phương diện lô gic so với nghĩa của câu, thì nghĩa của tất cả các từ sẽ là thứ yếu về phương diện lô gic so với nghĩa câu, bởi nghĩa của tất cả các từ có thể (và về mặt xác quyết phương pháp luận là) được định nghĩa như là phần đóng góp của chúng vào nghĩa của câu chứa chúng.

Bây giờ, có thể đúng mà cũng có thể không đúng, rằng về mặt lô gic, nghĩa của câu là ưu tiên, hay cơ bản hơn, so với cái mà ở đây đang được nói đến như là nghĩa của từ. Song sự biện luận thường được đưa ra để ủng hộ cho kết luận này là một sự biện luận nguỵ tạo. Nó dựa trên một nguyên tắc phương pháp luận giả tạo, rằng cái gọi là nghĩa của từ thì thuần nhất: rằng cái nghĩa gắn với những từ-dạng thức hư như if, to và and, xét trong tất cả các khía cạnh có liên quan, là có thể so sánh được với nghĩa của những từ-dạng thức thực. Nó cũng lợi dụng cái thực tế rằng thuật ngữ 'từ' biểu thị cả dạng thức lẫn biểu thức, và rằng một số dạng thức tỏ ra, có thể nói như vậy, là từ thực hơn số khác. Tính thực và tính hư, theo cái nghĩa tôi đang dùng chúng trong mục này, trong mọi trường hợp, là vấn đề thuộc về mức độ. Những từ-dạng thức hư điển hình nhất, kiểu như if, the, và and trong tiếng Anh, chẳng hề là biểu thức và cũng chẳng hề là dạng thức của biểu thức: như ta đã thấy, chúng tương ứng về nghĩa, và trong chừng mực nào đó, về ngữ pháp với những tiền tố và hậu tố bị ràng buộc về hình thái học của những từ-dạng thức khuất chiết. Gọi chúng là 'từ' và sau đó tiến hành khái quát hoá về nghĩa của từ trên cơ sở sự phân loại này chỉ tổ làm rối vấn đề.

Sự rối rắm càng bị làm rối thêm bởi cái mà người ta ngờ rằng do lối dùng mập mờ của thuật ngữ 'nghĩa của từ' mang lại. Như ta sẽ thấy trong mục tiếp theo, 'nghĩa của từ' không nhất thiết đồng nhất với 'nghĩa từ vựng'. Nghĩa của những từ-dạng thức thực bao gồm cả nghĩa từ vựng lẫn nghĩa ngữ pháp. Từ-dạng thức hư có thể chẳng hề có nghĩa từ vựng; và đây là điều được hàm ý khi nói rằng, về phương diện nghĩa, chúng là những từ trống nghĩa. Cũng có thể nêu ra ở đây rằng, như ta sẽ thấy sau này, phần lớn cuộc thảo luận về tính ưu tiên lô gic của nghĩa câu so với nghĩa từ, được thấy trong những công trình nghĩa học cũng đáng tin cậy và có uy tín khác, truyền thống và hiện đại, đã tỏ ra càng bị rối hơn do không vạch ra được sự phân biệt giữa câu và phát ngôn. Ví dụ, thường có nhận định rằng câu, chứ không phải từ, ngay từ lúc ban đầu (trong giai đoạn thụ đắc ngôn ngữ cũng như trong giai đoạn trưởng thành) là đơn vị cơ sở của giao tiếp. Nhận định này chắc chắn phải bị xem lại. Phát ngôn, chứ không phải câu (theo cái nghĩa liên quan), là những đơn vị mà người nói và người nghe - người đối thoại - dùng để giao tiếp với nhau. Một số trong số các phát ngôn này, hoàn chỉnh và đúng ngữ pháp, được truyền thống gọi là câu, theo cái nghĩa thứ yếu và phái sinh của thuật ngữ 'câu' mà ta sẽ thấy trong Phần 3. Những phát ngôn có độ phức tạp tăng dần được trẻ con tạo ra khi chúng trải qua các giai đoạn có thể phân biệt được với nhau của quá trình thụ đắc ngôn ngữ; song phải mất một thời gian dài trước khi bất kì phát ngôn nào của đứa trẻ cũng có thể miêu tả hợp lí với tư cách là câu (theo cái nghĩa không quan yếu, trong mọi tình huống, của cái thuật ngữ lưỡng nghĩa 'câu').

Nghĩa từ vựng là đối tượng thảo luận của ta trong Phần 2. Nghĩa ngữ pháp, vốn không phải tất cả đều có thể gán cho từ-dạng thức, chủ yếu là vấn đề của nghĩa câu và do đó sẽ được xem xét trong Phần 3.

Linguistic Semantics: An Introduction

Chương 2: Từ với tư cách là đơn vị mang nghĩa (5)

• Dẫn nhập • Dạng thức và biểu thức • Đồng âm và đa nghĩa: lưỡng nghĩa từ vựng và lưỡng nghĩa ngữ pháp • Đồng nghĩa • Từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư • Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

2.5. Nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp

Như ta đã thấy trong mục đi trước, những gì ở đấy được dẫn ra như là từ-dạng thức thực đều là dạng thức của các từ loại cơ bản, như danh từ, động từ và tính từ. Trái lại, trong tiếng Anh (và trong những ngôn ngữ xét về khía cạnh này là tương tự về loại hình với tiếng Anh), những từ-dạng thức hư thì thuộc về một loạt những lớp dạng thức nhỏ hơn khác nhau, vốn được truyền thống định nghĩa theo chức năng cú pháp của chúng, chứ không phải theo nghĩa.

Chính vì lí do này mà từ-dạng thức hư được lô gic học truyền thống miêu tả không phải như những hạng tử hoặc phạm trù (categories) độc lập, mà là như những hạng tử đồng thuyết (syncategorematic), tức như những dạng thức mà nghĩa và chức năng lô gic bắt nguồn từ cách thức chúng kết hợp với (syn-) các phạm trù cơ bản được xác định một cách độc lập. Tôi cố tình giới thiệu cái thuật ngữ truyền thống 'phạm trù' ở đây (cùng với thuật ngữ phái sinh ít quen thuộc hơn của nó là 'đồng thuyết') bởi vì trong các chương sau tôi sẽ thường xuyên viện đến một lối giải thích được cập nhật của khái niệm truyền thống về nghĩa phạm trù (categorial meaning). (Thuật ngữ 'phạm trù' ở đây có cùng nghĩa như trong ngữ đoạn 'lưỡng nghĩa phạm trù', vốn đã được sử dụng trong chương trước.) Như ta sẽ thấy, nghĩa phạm trù là một bộ phận của nghĩa ngữ pháp: nó là bộ phận nghĩa của từ vị (và của những biểu thức khác) nảy sinh do là tư cách thành viên của phạm trù này chứ không phải phạm trù kia (danh từ chứ không phải động từ, động từ chứ không phải tính từ v.v...).

Sự phân biệt giữa từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư đã đáp ứng được yêu cầu của nó. Bây giờ tôi muốn nêu ra sự phân biệt giữa ngữ pháp (grammar) của một ngôn ngữ và vốn từ, hay bộ từ vựng (lexicon) của nó. Ngữ pháp và bộ từ vựng bổ sung cho nhau: mọi ngữ pháp đều tiền giả định một bộ từ vựng, và mỗi bộ từ vựng tiền giả định một ngữ pháp.

Ngữ pháp của một ngôn ngữ được truyền thống miêu tả như là một tập hợp quy tắc quyết định kết hợp các từ với nhau như thế nào để tạo thành ngữ đoạn (đúng ngữ pháp), các ngữ đoạn kết hợp với nhau như thế nào để tạo thành tiểu cú (đúng ngữ pháp), và các tiểu cú kết hợp với nhau như thế nào để tạo thành câu (đúng ngữ pháp). Những kết hợp của từ, ngữ đoạn và tiểu cú sai ngữ pháp - tức những kết hợp vi phạm các quy tắc của ngữ pháp - được truyền thống miêu tả như là những kết hợp phi ngữ pháp. Một trong những vấn đề chính chia rẽ những nhà lí thuyết của thế kỉ 20 khi họ thảo luận về mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và ngữ pháp chính là cái mức độ mà theo đó tính ngữ pháp (grammaticality) (kết hợp đúng về ngữ pháp) được xác định bởi tính có nghĩa (meaningfulness). Vấn đề này sẽ được bàn đến trong Chương 5.

Ngôn ngữ học hiện đại đã trình làng một số lượng lớn những cách tiếp cận có thể thay thế nhau, ít nhiều mang tính truyền thống, đối với việc phân tích ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên, những cách tiếp cận khác biệt nhau theo nhiều lối khác nhau. Một số thì dựa vào hình vị (chứ không dựa vào từ), ở chỗ chúng lấy hình vị làm đơn vị cơ sở của quy trình phân tích ngữ pháp (cho mọi ngôn ngữ). Một số thì không thừa nhận có sự phân biệt giữa tiểu cú và câu (và dùng thuật ngữ 'câu' cho cả hai). Một số thì tôn trọng sự phân tích lưỡng phân của truyền thống chia tất cả các tiểu cú thành hai phần là chủ ngữ và vị ngữ, một số thì không chia như vậy, hoặc nếu có, thì coi đây là vấn đề chỉ có vai trò thứ yếu chứ không phải là căn bản. Danh sách những khác biệt như vậy giữa những cách tiếp cận kình chống nhau có thể kéo dài hầu như vô tận. Các khác biệt này không phải là không quan trọng. Song phần lớn chúng không liên quan đến các vấn đề ta đối mặt trong cuốn sách này. Những khác biệt nào vừa quan trọng vừa có liên quan sẽ được nhận diện khi ta tiếp tục.

Bộ từ vựng có thể được xem như là bản đối chiếu lí thuyết của một từ điển, và nó thường được miêu tả như vậy. Xét từ quan điểm tâm lí, bộ từ vựng là tập hợp (hoặc hệ thống) của tất cả các từ vị trong một ngôn ngữ, được lưu trữ trong bộ não của những người nói có năng lực, với tất cả thông tin ngôn ngữ mà mỗi từ vị yêu cầu để sản sinh và thuyết giải các câu của ngôn ngữ. Mặc dù cái gọi là bộ từ vựng tinh thần đã được nghiên cứu sôi nổi trong những năm gần đây, cho đến nay ta vẫn biết không nhiều về cách thức nó được lưu trữ trong bộ não hoặc cách thức nó được truy cập khi ngôn ngữ được sử dụng. Tương tự, ta biết tương đối ít về cái ngữ pháp tinh thần mà rõ ràng tất cả những người nói một ngôn ngữ cũng đều mang trong đầu. Đặc biệt, không biết là liệu có tồn tại một sự phân biệt tâm lí dứt khoát được vạch ra giữa ngữ pháp và bộ từ vựng hay không.

Đến nay, các nhà ngôn ngữ học đã phát hiện ra rằng không thể vạch bất kì một sự phân biệt dứt khoát nào như vậy khi miêu tả những ngôn ngữ cụ thể. Và đây là một lí do của sự tranh cãi và sự thiếu đồng thuận hiện đang tồn tại trong giới ngôn ngữ về cách thức theo đó ngữ pháp và bộ từ vựng được tích hợp với nhau như thế nào đó để miêu tả ngôn ngữ một cách có hệ thống. Đây là một trong những vấn đề tranh cãi mà ta không cần phải quan tâm trong một cuốn sách như kiểu này. Tôi sẽ chấp nhận một quan điểm cố tình bảo thủ về mối quan hệ giữa ngữ pháp và bộ từ vựng: cái quan điểm được phản ánh trong những giáo trình ngôn ngữ tiêu chuẩn và trong những từ điển thông thường của tiếng Anh và những ngôn ngữ khác. Những điều chỉnh có thể dễ dàng được thực hiện bởi những độc giả nào quen với ngữ pháp học hiện thời (vốn, xét theo khía cạnh này hay khía cạnh khác, trong mọi trường hợp, không thay thế hoàn toàn ngữ pháp truyền thống và có thể còn dùng đến nó một cách hữu ích cho nhiều khái niệm mà nó đang tìm cách hình thức hoá và giải thích).

Mặc dù không quan tâm đến lí thuyết ngữ pháp theo đúng nghĩa của nó trong cuốn sách này, ta vẫn quan tâm đến cách thức theo đó nghĩa được mã hoá trong cấu trúc ngữ pháp (tức cú pháp và hình thái) của ngôn ngữ. Chính trong cái khía cạnh này mà trong mục trước tôi đã nêu ra sự phân biệt giữa cái mà tôi gọi là từ-dạng thức thực và từ-dạng thức hư. Một số, dù không phải tất cả, từ- dạng thức hư, trong tiếng Anh và những ngôn ngữ gần gũi về loại hình khác, sẽ có nghĩa ngữ pháp thuần tuý (nếu chúng có bất kì mảy may nghĩa nào). Tất cả từ-dạng thức thực, mặt khác, sẽ vừa có nghĩa từ vựng vừa có nghĩa ngữ pháp, và cụ thể hơn, có một nghĩa phạm trù. Ví dụ, child và children, những dạng thức của cùng một từ vị ('child'), có cùng một nghĩa từ vựng (mà tôi biểu thị, theo quy ước trình này, như là "child"). Trong chừng mực cái từ vị này có những đặc trưng ngữ pháp tương thích về nghĩa nào đó (nó là danh từ thuộc một kiểu cụ thể), hai cái từ-dạng thức này cũng chung nhau một bộ phận nghĩa phạm trù nào đó của chúng. Song tất nhiên chúng khác nhau về mặt ngữ pháp (chính xác hơn, về mặt hình-cú pháp) ở chỗ một đằng là dạng thức danh từ số ít còn một đằng là dạng thức danh từ số nhiều. Sự khác biệt giữa số ít và số nhiều (trong những ngôn ngữ mà nó được ngữ pháp hoá) là bộ phận khác của cái thành tố nghĩa ngữ pháp mang tính phạm trù. Dĩ nhiên, nó được truyền thống giải thích, về phương diện ngữ pháp lẫn ngữ nghĩa, theo cái có thể được xem là phạm trù ngữ pháp thứ cấp (secondary) về số (number). Những phạm trù ngữ pháp thứ cấp quan yếu về nghĩa khác như vậy (không phải tất cả đều được thấy trong tất cả các ngôn ngữ) là thời (tense), thức (mood), thể (aspect), giống (gender) và ngôi (person). Trong các chương sau, ta sẽ nhắc đến một số phạm trù này.

--------------------------------------------------------------------------------

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #gưag