ngocxit2912 - tieu luận thâm hụt ngân sách nhà nước
Mở đầu
Trong những năm gần đây, vấn đề bội chi ngân sách ngày càng được dư luận quan tâm, và luôn là chủ đề được bàn cãi trong các kỳ họp quốc hội. Chúng ta luôn cho rằng: Bội chi ngân sách nhà nước là “một căn bệnh” làm cản trở sự phát triển nền kinh tế, gây nên lạm phát, mất cân đối tài chính quốc gia, tuy nhiên bội chi ngân sách ở một mức độ nhất định, sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Có thể ví bội chi ngân sách như con dao hai lưỡi, quan trọng là “người cầm dao” sử dụng nó như thế nào? Nếu bội chi ngân sách hợp lí sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đáp ứng được sự thiếu hụt nguồn vốn đối với các dự án quan trọng. nhưng nếu không thực hiện tốt, điều tiết kịp thời thì bội chi ngân sách là một trong những nguyên nhân chính gây khủng hoảng nền kinh tế, gây lên lạm phát, nợ quốc gia. Tuy nhiên mức độ thâm hụt ngân sách ở nước ta đang có xu hướng gia tăng và ngày càng tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nói cách khác, đây chính là một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ. Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thế nào? Giải pháp để hạn chế và khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ra sao? Nhóm chúng tôi sẽ cùng các bạn giải đáp trong bài thảo luận về đề tài: ‘Trình bày các biện pháp mà chính phủ việt nam đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu thực tế làm vd minh họa trong 5 năm trở lại đây’’
Bài thảo luận có các nội dung chính như sau:
A Cơ sở lý luận
1 Thâm hụt ngân sách nhà nước
2 Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đến nền kinh tế
3 Các biện pháp thâm hụt ngân sách nhà nước
B Thực trạng
I Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước trong 5 năm trở lại đây
II Thực trạng việc áp dụng các biện pháp bù đắp thâm hụt ngân sách
1 Biện pháp tăng thu ngân sách nhà nước
2 Biện pháp giảm chi ngân sách nhà nước
3 Biện pháp vay nợ
4 Biện pháp in tiền
C Ưu, nhược điểm của các biện pháp bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước
Do đây là lần đầu tiên tiếp cận với đề tài môn học, trình độ nhận thức về đề tài có hạn. Mặc dù được sự chỉ bảo tận tình của thầy và đã cố gắng hết sức để hoàn thiện đề tài nhưng chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của thầy cô để em có thể hoàn thiện đề tài và rút kinh nghiệm cho những lần sau. Em xin chân thành cảm ơn!
A. Cơ sở lý luận
1 Thâm hụt ngân sách nhà nước
1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước
Có rất nhiều các quan niệm khác nhau về ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là bản dự trù thu chi tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước. Ngân sách nhà nước là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau. Vậy ngân sách nhà nước là gì? Thực chất, Ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
1.2 Khái niệm tham hụt ngan sach nhà nước:
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước. Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gianthâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.
1.3 Các dạng thâm hụt NSNN
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,... Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế
2 Tác đông của thâm hụt NSNN đến tăng trưởng kinh tế và xã hội
Ngân sách là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Thông qua ngân sách Nhà nước sẽ tham gia vào việc điều chỉnh những vấn đề lớn của nền kinh tế như: tích luỹ và tiêu dùng, xuất và nhập khẩu...
Thâm hụt ngân sách sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất thị trường, do đó cản trở nhu cầu đầu tư của các nhà kinh doanh làm giảm sự tăng trưởng kinh tế, lãi suất tăng làm giá trị đồng nội tệ tăng, dẫn đến tình trạng siêu nhập. Ngoài ra thâm hụt ngân sách còn ảnh hưởng tới tình trạng lạm phát, sự ổn định xã hội...
Vì vậy ngân sách và vấn đề thâm hụt ngân sách là mối quan tâm sâu sắc của mỗi quốc gia.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.
3. Giải pháp khắc phục
Thâm hụt NSNN tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải pháp nhằm bù đắp thâm hụt NSNN. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm xử lý thâm hụt NSNN như sau:
Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây “tăng trưởng nóng” và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ – trả lãi – bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ sau…
Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
B. Thực trạng
I. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ta trong 5 năm trở lại đây
Thâm hụt ngân sách liên tục cao, nợ công tăng nhanh. Theo Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách năm 2010 dự kiến giảm 0,4 điểm % GDP xuống còn 5,8% GDP (dự toán là 6,2% GDP), vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Do thường xuyên trong tình trạng thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua. Theo Bộ Tài chính, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng 44,3%, dư nợ quốc gia bằng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP. Mặc dù tỉ lệ nợ công Việt Nam được coi là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên cao hơn hẳn so với tỉ lệ phổ biến 30% - 40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác. Nếu xét mức nợ công bình quân đầu người bình quân đầu người trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009), mức nợ công bình quân đầu người đã tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới 548 USD, tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của cùng thời kì chỉ là 6%/năm#. Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao và kéo dài đã đe dọa tính bền vững của quản lí nợ công và gây áp lực lên lạm phát, đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp
Biểu đồ 13: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 - 2011
Nguồn: Bộ Tài chính
Giai đoạn 2005-2010: trong những năm gần đây, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP.
Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là thành tựu đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này đă góp phần to lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những năm 80. Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của những biện pháp cứng rắn như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ cấp qua giá, lương, trợ cấp cho xí nghiệp quốc doanh… Nhiều năm thâm hụt giảm xuống dưới 5% so với GDP – một kết quả đáng khích lệ.
Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm
Số Bội chi
Bội chi so với GDP
2005
40.746
4,86%
2006
48.500
5%
2007
56.500
5%
2008
66.200
4,95%
2009
142.355
6,9%
2010
119.700
6,2%
Biểu đồ 14: Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước chấu Á (2005 - 2009)
II. Các biện pháp chính phủ ta sử dụng để bù đắp thâm hụt NSNN
1. Biện pháp tăng thu
1.1 Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tham gia các hoạt động kinh tế bằng việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần. Số vốn đầu tư của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nói trên sẽ sinh lời và lợi tức thu được sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà nước, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Các khoản thu này phản ảnh hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước, bao gồm:
Thu từ việc bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh.
Thu từ việc bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê trước đây.
Thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách nhà nước.
Thu từ việc bán lại các cơ sở kinh tế của nhà nước cho các thành phần kinh tế khác.
Thu từ cho thuê hoặc bán tài nguyên thiên nhiên.
1.2 Thu lệ phí và phí
Lệ phí và phí là các khoản thu tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn thu của ngân sách nhà nước nhưng có ý nghĩa quan trọng vì nó liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
1.2.1. Lệ phí: là khoản thu mang tính chất thuế vì nó vừa mang tính cưỡng bách được qui định trong những văn bản pháp luật của nhà nước nhưng đồng thời nó lại mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về việc nhà nước thực hiện một số thủ tục hành chính nào đó.
Ví dụ: lệ phí trước bạ, lệ phí tòa án, lệ phí cấp giấy phép xây dựng, lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, lệ phí công chứng,…
1.2.2. Phí: là khoản thu mang tính chất thuế, là khoản thu mang tính bù đắp một phần chi phí thường xuyên và không thường xuyên về các dịch vụ công cộng hoặc bù đắp chi phí cho các hoạt động duy trì, tu bổ các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ cho người nộp phí.
Phí có hai loại:
• các loại phí mang tính phổ biến do chính phủ qui định. thứ hai, •các loại phí mang tính địa phương. Ví dụ: học phí, viện phí, phí giao thông, phí cầu đường….
1.3 Thu Thuế
*/Thuế thu nhập cá nhân
Hiện nay chúng ta đang giảm các loại thuế xuất khẩu do yêu cầu của thương mại hoá nên thuế thu nhập cá nhân trở thàng một nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước. Nhà nước ta đã đặt ra chỉ tiêu để thu thuế thu nhập cá nhân như sau:
Đối với thu nhập thường xuyên:
Đối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam có thu nhập bình quân tháng lớn hơn 5.000.000đ
Đối với những người cư trú tại Việt Nam và công dân Vịêt Nam lao động đang ở nước ngoài có thu nhập từ trên 8.000.000đ
Thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công được áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần theo quy định tại Điều 22 Luật Thuế thu nhập cá nhân, cụ thể như sau:
Biểu thuế lũy tiến từng phần được quy định như sau:
Bậc thuế
Phần thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất (%)
1
Đến 60
Đến 5
5
2
Trên 60 đến 120
Trên 5 đến 10
10
3
Trên 120 đến 216
Trên 10 đến 18
15
4
Trên 216 đến 384
Trên 18 đến 32
20
5
Trên 384 đến 624
Trên 32 đến 52
25
6
Trên 624 đến 960
Trên 52 đến 80
30
7
Trên 960
Trên 80
35
Loại thu nhập chịu thuế
Thuế suất
(%)
1. thu nhập từ đầu tư vốn
5
2. thu nhập từ tiền bản quyền, nhượng quyền thương mại, chuyển giao công nghệ vượt trên 10 triệu đồng/lần phát sinh thu nhập
5
3. thu nhập từ trúng thưởng xổ số, trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại trò chơi có thưởng vượt trên 10 triệu đồng/giải thưởng
10
4. thu nhập từ nhận thừa kế, nhận quà tặng trên 10 triệu đồng/lần phát sinh thu nhập
10
5. thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản
25
6. thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng vốn
25
Từ biểu thuế trên ta thấy thuế thu nhập góp phần làm giảm sự chênh lệch quá lớn về thu nhập và tiền lương giữa những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực hành chính sự nghiệp, an ninh quốc phòng, giữa những người sống ở thành thị, nông thôn, miền núi, hải đảo nhằm ổn định đời sống của các tầng lớp dân cư trong phạm vi của cả nước. Từ đó giảm thiểu một cách đáng kể sự di chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực khác, đảm bảo và cân bằng lao động giữa các vùng. Điều này góp phần đảm bảo nguồn nhân lực – một nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Đồng thời cũng góp phần đảm bảo sự phát triển kinh tế của các vùng, khu vực nói riêng và cả nước nói chung.
**/ Thuế đối với một số mặt hàng đặc biệt
a) mặt hàng thuốc lá
Bắt đầu từ tháng 1/2008 chính phủ đã có quyết định tăng thuế thuốc lá. Việc tăng thuế thuốc lá giúp bảo vệ cuộc sống cho người dân, đồng thời tăng ngân sách nhà nước.
Bắt đầu từ tháng 1\2008 chính phủ tăng thuế đối với tát cả các loại thuốc lá. Thúê tiêu thụ đặt biệt tăng lên 65% đối với ba loại thuốc lá là thuốc lá có đầu lọc chủ yếu sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu, thuốc lá có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu trong nước và thuốc lá không có đàu lọc. Thuế giá trị gia tăng (VAT) cũng được đánh vào cả ba loại thuốc lá này và được áp dụng với mức 10% cho đến nay
b) mặt hàng rượu bia
các mặt hàng rượu bia bắt đầu áp dụng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt 45% từ 2010 đến hết năm 2012. Từ 1/1/2013, thuế suất với mặt hàng này sẽ nâng lên mức 50%.
Tổng cục Thuế vừa có công văn gửi cục thuế các tỉnh, thành phố hướng dẫn việc triển khai Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt mới. Theo đó, các mặt hàng rượu, bia sẽ ấn định các mức thuế tiêu thụ đặc biệt mới theo 2 giai đoạn.
Đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở lên sẽ áp dụng mức thuế 45% cho giai đoạn từ ngày 1/1/2010 đến hết ngày 31/12/2012. Sau đó, mức thuế được nâng lên thành 50% từ ngày 1/1/2013. Riêng đối với loại rượu dưới 20 độ, từ ngày 1/1/2010, áp dụng thuế suất 25%.
Đối với mặt hàng bia, từ ngày 1/1/2010 đến hết ngày 31/12/2012, áp dụng thuế suất 45%. Sau đó, từ ngày 1/1/2013, mức thuế này cũng được nang lên 50%. Mức thuế cũ áp dụng trong năm 2008-2009 đối với mặt hàng bia phổ biến ở mức 40%-75%, tùy loại.
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia là giá chưa có thuế VAT không loại trừ giá trị vỏ bao bì. Cũng theo quy định này, mặt hàng bia lon sẽ không được trừ giá trị vỏ hộp theo mức 3.800 đồng một lít như trước đây nữa.
Đối với mặt hàng bia chai, nếu cơ sở sản xuất có đặt tiền cược vỏ, định kỳ hàng quý doanh nghiệp và khách hàng phải thực hiện quyết toán số tiền đặt cược vỏ chai. Số tiền đặt cược tương ứng giá trị số vỏ chai không thu hồi được phải đưa vào doanh thu tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt.
Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới
2. Giảm chi
Số liệu từ tổng cục thống kê: Đơn vị: tỉ đồng
STT
Chi NSNN
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
1
Chi NSTW
232.666
294,718
314,544
370,436
425,500
2
Chi NSĐP
124.734
175,415
176,756
211,764
300,100
3
Tổng chi
357.400
470,133
491,300
582,200
725,600
Các giải pháp giảm chi nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước:
· Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN:
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này khôn
Thất thoát lớn nhất nằm trong đầu tư phát triển và chi tiêu công. Chi ngân sách là lĩnh vực có những sai phạm trầm trọng, kéo dài và phổ biến nhất. Ngoài ra, những sai phạm trong các quyết định đầu tư, đầu tư sai mục đích, vượt thẩm quyền gây thất thoát lớn hơn cả.
Riêng con số thất thoát và phải cắt giảm ở lĩnh vực chi tiêu hành chính còn lớn hơn cả số ngân sách bị vi phạm trong đầu tư phát triển (661,8 tỉ đồng). Đáng lưu ý, năm 2005 riêng chi quản lý hành chính đã tới mức 18.762 tỉ đồng, vượt dự toán 42% (5.548 tỉ đồng). Mười hình thức làm thất thoát, gây sai phạm trong chi ngân sách thường xuyên là lấy ngân sách cho vay, tạm ứng; mua sắm tài sản công; tự chi các khoản vượt thu, tăng thu; sử dụng ngân sách dự phòng sai quy định; hỗ trợ không đúng chế độ..
· minh bạch hoá mô hình kiểm soát nợ quốc gia và hoàn thiện cơ chế tài chính trong sử dụng ngân sách nhà nước.
Phải căn cứ vào đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế của vùng để thực hiện đầu tư và phân bổ ngân sách. Quy trình giám sát đặc biệt việc sử dụng ngân sách phân bổ cần được cải tiến để tránh việc lạm dụng mục tiêu ưu tiên để làm thất thoát và tham nhũng. Có thể tiến tới thành lập ủy ban phân loại đầu tư trực thuộc Quốc hội để giám sát chặt chẽ các công trình trọng điểm và cơ chế phân bổ, kỹ thuật phân bổ vốn cho các công trình trọng điểm nhằm hạn chế đầu tư dàn trải, gây lãng phí ngân sách nhà nước và gây rủi ro, mất cân đối, thậm chí vỡ nợ quốc gia hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
· Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho an sinh xã hội; tăng chi có trong điểm cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn.
· Rà soát, xây dựng và hoàn thiện các định mức chi một cách khoa học và hợp lý, nhất là khoản chi cho các dự án, công trình nhà nước. cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước.
· Thưc hành tiết kiệm,chống tham ô, tham nhũng, hạn chế tình trạng thất thoát, lãng phí trong quá trình sử dụng quỹ ngân sách.
· Tinh giản và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức lập pháp, hành pháp, tư pháp, các mối quan hệ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức đó với nhau, tinh gọn tổ chức, bộ máy và biên chế; khắc phục sự trùng lặp, chồng chéo về chức năng làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, chính sách tài chính công, xây dựng chính phủ điện tử và từng bước hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước
Xây dựng đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh và phúc lợi xã hội. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược quy hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng các quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của sự phát triển của đất nước.
3. Vay nợ
a, Vay nợ trong nước
Theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, tính đến ngày 31/12/2010, tổng số dư nợ công ở mức 1.122 nghìn tỷ đồng, tương đương 56,7% GDP năm 2010 và dự kiến tổng số nợ công sẽ ở mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 58,7% GDP năm 2011. Cũng theo báo cáo này, ước tổng số dư nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 835 nghìn tỷ đồng, bằng 42,2% GDP năm 2010 và dự kiến nợ nước ngoài của quốc gia sẽ ở mức 44,5% GDP năm 2011. Như vậy, các chỉ số trên vẫn trong giới hạn an toàn như theo Quyết định số 211/2004/QĐ-TTg ngày 14/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2010. Ngoài ra, theo khuyến cáo của một số nhà kinh tế và kinh nghiệm của một số nước thì nợ công ở mức 60% GDP là giới hạn an toàn. Mặc dù vậy, xu hướng gia tăng các khoản nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia là đáng lưu ý, đặc biệt khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp trong những tháng đầu năm 2011 do chính sách tiền tệ, tín dụng trong nước thắt chặt, huy động vốn trong nước khó khăn.Cũng theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, đơn vị này đã và đang chủ động nghiên cứu để xây dựng khuôn khổ pháp lý, có các đề xuất về hoạt động quản lý rủi ro nhằm kiểm soát nợ công và nợ nước ngoài một cách hiệu quả.
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng.
Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Số tiền vay trong nước để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
Số bội chi
2010
98.700
119.700
2009
88.520
115.900
2008
51.200
66.200
2007
43.000
56.500
2006
36.000
48.500
2005
32.420
40.746
b, Vay nợ nước ngoài
Gánh nặng nợ nước ngoài ngày càng đè nặng lên nền kinh tế và người đóng thuế Việt Nam. Nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng lên hơn gấp đôi trong vòng 5 năm trong khi dự trữ ngoại hối lại giảm nhanh chóng, theo số liệu Bộ tài chính vừa công bố. Chốt số liệu của cả năm 2010, bộ này nói nợ nước ngoài của Việt Nam cho đến cuối năm 2010 đạt 32,5 tỷ đô la, tức là bằng 42,2% GDP. So với năm 2009 thì nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng 4,6 tỷ đô la trong vòng một năm. Tỷ lệ nợ 42,2% so với GDP trong năm 2010 cũng tăng hơn 3% so với năm trước đó và vượt mức dự kiến của Chính phủ là 38,8%. So với mức nợ 15,64 tỷ đô la vào năm 2006 thì hết năm 2010 nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng lên hơn gấp đôi trong vòng 5 năm. Ở một khía cạnh khác, cũng theo bản tin của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn. Đây là một tiêu chí đánh giá quy mô dự trữ ngoại hối, tỷ lệ càng lớn thì dự trữ được cho là càng dồi dào. Tỷ lệ này giảm đi rất nhiều so với 290% và 2.808% tương ứng trong các năm 2009 và 2008.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã bị bào mòn cùng nợ nước ngoài tăng lên nhanh để bù đắp bội chi ngân sách vốn liên tục vượt 5% trong 5 năm vừa qua.Điều đáng lưu ý là tuy lãi suất vay nợ nước ngoài của Việt Nam nói chung thấp, dư nợ ở các mức lãi suất cao lại đang gia tăng nhanh chóng. Bản tin của Bộ tài chính cũng lưu ý rằng lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện đang có xu hướng tăng lên. Theo các chuyên gia tài chính, điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình và uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng bởi những bất ổn kinh tế vĩ mô và vụ vỡ nợ của Vinashin.
Việt Nam hiện đang nợ 15 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế, chưa kể các ngân hàng thương mại và các cá nhân nắm các trái phiếu mà Chính phủ phát hành bằng ngoại tệ trị giá 1 tỷ đô la trong năm 2010. Trong năm 2010, Việt Nam đã trả các khoản nợ gốc, lãi và phí là gần 1,7 tỷ đô la, tăng gần 30% so với mức gần 1,3 tỷ đô la trong năm 2009.
Mặc dù tỷ lệ trả nợ nước ngoài của Việt Nam so với tổng thu ngân sách trong cùng năm 2010 chỉ vào khoảng 5,5%, thấp hơn nhiều so với giới hạn an toàn 12% do Ngân hàng thế giới quy định, mức tăng số nợ phải trả qua từng năm càng gia tăng sức ép lên việc thu thuế từ doanh nghiệp và người dân. Mức nợ Việt Nam phải trả dự kiến sẽ đạt đỉnh vào năm 2020 vào khoảng 2,4 tỷ đô la khi số trái phiếu Chính phủ phát hành vào năm 2010 với lãi suất 7% sẽ đáo hạn. Mặc dù tỷ lệ nợ của chính phủ Việt Nam chưa cao lắm nhưng chuyên gia kinh tế lưu ý rằng tốc độ tăng nợ luôn nhanh hơn tăng GDP. Đồng thời, nợ của doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ bảo lãnh cũng ‘rất cao và tăng nhanh” và hiện đạt khoảng 50% GDP. “Nếu cộng cả hai khoản mục nợ công và nợ của doanh nghiệp nhà nước thì nợ của Việt Nam đã trên 100% GDP,”. Hơn nữa, một bộ phận dân cư tiêu xài quá mức thu nhập của nền kinh tế cũng là tiêu dùng dựa vào vay nợ
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế...
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...
Năm
Số tiền vay nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
Số bội chi
2010
21.000
119.700
2009
27.380
115.900
2008
15.000
66.200
2007
13.500
56.500
2006
12.500
48.500
2005
8.326
40.746
b. Thực trạng phát hành tiền bù đắp thâm hụt ở nước ta
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta vô cùng yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách nhà nước luôn ở tình trạng cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Tuy nhiên, mức thâm hụt quá lớn khiến việc bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách
1984
0,4
1985
9,3
1986
22,9
1987
89,1
1988
450
1989
1.655
1990
1.200
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt của Ngân sách nhà nước được hệ thống ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Trong bối cảnh mà tỷ lệ tích lũy nội bộ của nền kinh tế còn rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn, tỷ lệ chi đầu tư phát triển lại quá lớn và nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách lại chủ yếu do phát hành tiền như trên chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát phi mã trong giai đoạn 1986-1990.
C. Ưu điểm và hạn chế của mỗi biện pháp trên
1. Tăng thu
Khi còn trong vùng có thể chịu đựng được,tăng thuế suất thuế thu nhập sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các đối tượng mở mang các hoạt động kinh tế,tăng khả năng sinh lời,một phần nộp ngân sách nhà nước, còn lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng thuế thu nhập có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước: Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, sự gia tăng các khoản thu đặc biệt là các loại thuế sẽ góp phần quan trọng vào việc tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Góp phần điều tiết ngân sách nhà nước, đảm bảo cán cân thương mại. Sự gia tăng các khoản thu đặc biệt là thuế góp phần bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước hơn, đảm bảo cán cân thương mại cân bằng hơn
Tuy nhiên, khi vượt qua giới hạn chịu đựng của nền kinh tế, tăng thuế suất trực thu sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước và thúc đẩy trốn thuế ,lậu thuế. Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không dễ áp dụng và rất tốn kém. Tăng thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế, phụ thuộc vào hiệu quả làm việc của hệ thống thu,phụ thuộc vào hiệu suất của từng sắc thuế. Trong thời kỳ kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì tăng thuế không những không khả thi mà còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh,trực tiếp làm tăng số lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách.
Ở Việt Nam, năm 2009 Chính phủ đã giải quyết thâm hụt ngân sách bằng cách: Tăng thuế thu nhập cá nhân và thuế bất động sản. Liên quan tới các ưu đãi về thuế TNDN: Từ 1-1-2009 thuế suất thu hẹp lại chỉ còn 10% và 20%, bỏ thuế suất ưu đãi 15%. Các ưu đãi miễn giảm thuế thu hẹp lại, không mặc nhiên áp dụng cho các DN mới thành lập hay đang đầu tư mở rộng nữa. Chỉ ưu đãi với các dự án đầu tư vào lĩnh vực mang tính chất nhà nước đặc biệt khuyến khích.
Ở lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư hạ tầng quan trọng, sản xuất phần mềm, các dự án đầu tư vào các khu kinh tế... Mức để miễn giảm thuế tối đa là miễn 4 năm giảm 9 năm.
Các doanh nghiệp đã thành lập trước ngày 1-1-2009 và đang được hưởngcác ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành sẽ tiếp tục được áp dụngthời gian ưu đãi như cũ.
Luật mới cũng khống chế cách xác định thời gian bắt đầu tính thuế ưu đãi: tính từ năm có thu nhập chịu thuế. Nếu doanh nghiệp nào lỗ trên 3 năm, thì năm đầu tiên tính ưu đãi là năm thứ 4. Thay đổi về thuế GTGT: Thu hẹp nhóm hàng hoá dịch vụ có thuế suất 5%. Đây là bước chuyển tiếp để tiến đến chỉ duy trì hai mức thuế suất là 0% và phổ thông 10%. Ví dụ, hiện nay qui định sản phẩm cơ khí phục vụ sản xuất là 5% còn phục vụ tiêu dùng là 10%, tuy nhiên rất khó phân biệt hai loại này nên sẽ chuyển hết sang 10%; sản phẩm luyện cán kéo kim loại cũng chuyển hết sang thuế suất 10%; hóa chất cơ bản, thông thường được chuyển qua nhóm 10%; máy xử lý tự động; than đá, đất đá sỏi, bốc xếp trục vớt cứu hộ…cũng vậy.
Hơn nữa, biện pháp này khó có được sự đồng tình của nhân dân , và biện pháp này luôn đi kèm với bài toán: tăng thu phải đi cùng với sự tăng trưởng kinh tế và lợi ích nhân dân. Ngoài ra, cũng cần phải có lộ trình để tăng thu rõ ràng (ví dụ tăng học phí) và có thể làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới
2. Giảm chi
ưu điểm: vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách tài khóa của chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là chính phủ chỉ thị: cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước, rà soát và cắt bỏ các hạ mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước( DNNN), cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư của ngân sách nhà nước( từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của toàn xã hội. Vì vậy, không nghi ngờ gì nếu nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư kém hiệu quả và thứ tự đầu tư thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi tiêu thường xuyên.
Theo ước lượng của bộ kế hoạch và đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3000 tỷ đồng chi hội họp và mua sắm xe ,tức giảm được khoảng 0,8 tổng chi ngân sách nhà nước
Tuy nhiên, việc thực hiện biện pháp này gặp không ít các khó khăn. Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề rõ ràng, nhất là khi các dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết đinh, đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương, đã được triển khai, và nhất khi chúng được gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự án. Thứ hai, nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN, một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành ngân hàng riêng. Thứ ba, với tốc đọ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữu được tổng mức đầu tư công theo dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể. Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm . Hơn thế với thực tế ở việt nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều . Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương ( chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên ),sau đó trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương ,chi chính sách chế độ ,tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc te, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện … Thứ năm, khả năng giảm chi cũng có giới hạn nhất định, nếu giảm vượt chi quá giới hạn thì cũng có ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển kinh tế xã hội. Do nền kinh tế ngày càng phát triển,vì vậy cần nhiều đầu tư, nhu cầu an sinh xã hội ngày càng lớn dẫn tới giảm cho rất khó khăn. Bộ máy quản lý nhà nước ở Việt Nam còn truyền thống, kồng kềnh nên gây lãng phí quỹ NSNN. Việc thay đổi cơ cấu phải mất thời gian thực hiện.
3. Biện pháp vay nợ
a, Vay nợ trong nước
Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát đồng thời tập chung được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư,tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài, dễ triển khai.
Tuy nhiên, biện pháp này chứa đựng nguy cơ kìm hãm sự phát triển của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Để vay được tiền chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay như phát hành trái phiếu, tín phiếu, công trái... Đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về thuế thu nhập... ngoài ra còn phải triển khai
các biện pháp khác, kể cả tuyên truyền, vận động... để huy động tối đanguồn tiền trong dân cư nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã định. Tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể có để cho chính phủ vay bị giới hạn trong tổng lượng tiết kiệm của xã hội. Nếu chính phủ huy động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở khu vực ngoài quốc doanhsẽ giảm đi. Như vậy, chưa biết chính phủ sẽ làm gì, làm như thế nào đối với lượng tiền huy động được, nhưng xã hội hay trực tiếp hơn là khu vực các doanh nghiệp và dân cư đó sẽ mất đi một nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu tư phát triển kinh tế. Nếu các biện pháp thu hút tiền vay của chính phủ và của ngân hàng càng có lãi suất cao thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinhdoanh.
Do vậy, vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn luôn chứađựng nguy cơ kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng kinh tế của chính phủ thông qua con đường phát hành trái phiếu, tín phiếu... bị chính bản thân giải pháp này cản trở ngay từ nguồn gốc.
Chính vì thế, trong thời kỳ kinh tế đình đốn, hầu như các nước đều tránh các biện pháp có nguy cơ làm giảm khẳ năng tự đầu tư của các thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh vàcác tầng lớp dân cư. Biện pháp tài trợ thâm hụt ngân sách này chỉ nên thực hiện trong trường hợp nền kinh tế là cường thịnh. Nếu ta tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, thì trái phiếu sẽ tạo ra cho công dân trách nhiệm nộp thêm thuế trong tương lai để trang trải lãi về các trái phiếu.
Thứ hai, việc trả lãi trong tương lai tạo ra một gánh nặng nợ cho chính phủ (trừ khi những thâm hụt ngân sách nhà nước này bắt nguồn từ việc chi tiêu cho các dự án đầu tư có sức sinh lời). Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau (điều này chưa xảy ra ở Việt Nam). Ngược lại, tức thực tế hiện nay, lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn không đáp ứng được lãi suất kỳ vọng của thị trường nên phát hành trái phiếu luôn bị thất bại. Hậu quả có khi cũng tệ không kém, thị trường gần như không có thanh khoản.
b) vay nợ nước ngoài
Đây là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, biện pháp này cũng có hạn chế. Đó là việc vay nợ nước ngoài sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Thứ hai, dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.Vay nước ngoài phụ thuộc vào đối tác cho vay và thường phải chịu những điều kiện ngặt nghèo về lãi suất và thời hạn vay trả. Hình thức vay thường qua các hiệp định song phương,nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay trên thị trường tài chính quốc tế. Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thường cho vay với các điều kiện ưu đãi, nhưng ngày càng hiếm hoi và do vậy có sự cạnh tranh gay gắt. Dù thế nào, thì vay nước ngoài cũng chịu sự ràng buộc của nhiều điều kiện vay áp đặt từ nước cho vay.
Ví dụ, Quỹ MIYAZWA của Nhật Bản quy định :Trong tống số vốn được cho vay tài trợ, phải có ít nhất 50% được sử dụng để mua hàng của Nhật hoặc các công ty Nhật đóng tại nước sở tại. Ngoài ra còn kèm theo các điều kiện, thủ tục không thành văn khác như phải qua khâu trung gian là Ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản (JEXIM) hoặc các trung gian tài chính khác của Nhật thì mới có thể vay được tiền từ MIYAZAWA Như vậy nếu ta vay được của Nhật 1 tỷ ta đã góp phần trực tiếp chấn hưng nền kinh tế Nhật tới trên 500 triệu, chưa kể các áp lực về thủ tục đấu thầu,giá cả,công nghệ...
Tính đến cuối năm 2000, mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng 12,8 tỷ USD, chiếm 40-45% so với GDP và vẫn còn nằm trong “giới hạn an toàn”. ( ngưỡng an toàn là 50% GDP).Năm 2008, nợ Chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên đến 40% GDP và năm 2010 khoảng 44% GDP.
4. Biện pháp in tiền
Ưu điểm của biện pháp này là nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
Nhưng đây là biện pháp mà hầu hết các quốc gia khai trừ vì tài trợ thâm hụt ngân sách theo phương pháp này thì xu hướng sẽ tạo ra một tổng cầu quá lớn trong nền kinh tế và làm cho lạm phát tăng nhanh
Như vậy, biện pháp này có nhược điểm lớn là chứa đựng nguy cơ lạm phát,gây tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Kinh nghiệm chua xót về việc phát hành tiền quá dễ dãi để bù đắp thâm hụt ngân sách gây ra lạm phát cao trong thập kỷ 80 đã cho chúng ta những bài học quý giá. Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ... Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
D. Tổng kết
Như vậy là có nhiều cách để chính phủ bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, nhưng phải sử dụng cách nào, nguồn nào thì còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế, chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia, bởi mỗi giải pháp bù bắp đều có những ưu nhược điểm làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Và hậu quả của thâm hụt ngân sách nhà nước là ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế xã hội của đất nước dù mức nào đi chăng nữa. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải tính toán kỹ lưỡng để đưa ra các giải pháp bù đắp phù hợp với thực trạng hiện nay, khi nền kinh tế của Việt Nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền tài chính quốc gia cũng được đổi mới .
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro