Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

nghệ thuật...

Câu 1. Trình bày những đặc trưng cơ bản của ngữ văn dân gian? Phân biệt các thể loại ngũ văn dân gian?

BL

          Đặc trưng của nghệ thuật ngữ văn dân gian: văn học dân gian là 1 bộ phận của sáng tác dân gian,là thành phần ngôn từ của nghệ thuật dân gian nói chung.

Các đặc trưng của nghệ thuật ngữ văn dân gian:

+Tính truyền miệng: Văn học dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức truyền miệng

+Tính tập thể: Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.

+Tính dị bản: Văn học dân gian là sáng tác tập thể và nó không được cố định trong một văn bản nên khi lưu truyền sang các vùng không gian khác nhau thì nó dần dà thay đổi.

+Tính truyền thống: lặp lại những yếu tố, những hình thức quen thuộc sẵn có, mootips sẵn có)

+Tính dân tộc, tính địa phương và tính nhân loại.

+Tính nguyên hợp và tính đa chức năng :

Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở chỗ : Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Sự kết hợp này là tự nhiên, vốn có ngay từ khi tác phẩm mới hình thành. Một baì dân ca trong đời sống thực của nó , không chỉ có lời mà còn có nhạc, điệu bộ, lề lối hát...

Tính đa chức năng: Như  văn học nói chung, VHDG có các chức năng cơ bản:  nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, giải trí. Nhưng các chức năng đặc thù của VHDG là chức năng thực hành(  thực I hành tín ngưỡng, nghi lễ, lao động, vui chơi giải trí), gọi chung là thực hành đời sống. VHDG k chỉ là văn học nghệ thuật mà còn là lịch sử, khoa học thường thức, triết lý…là kho tàng trí khôn của nhân dân ở tất các các lĩnh vực đời sống.

Các đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Tạo ra nét đặc trưng của Văn học dân gian so với văn học viết.

Phân biệt các thể loại ngữ văn dân gian.

Các thế loại ngữ văn dân gian được chia làm 3 thể chính: thể tự sự dân gian, thể trữ tình dân gian, thể lý luận dân gian

Thứ nhất: Các thể tự sự dân gian bao gồm: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn. + Thần thoại ra đời và phát triển từ sớm nhất.- là truyện hoang đường, tưởng tượng về các vị thần hoặc con người, loài vật mang tính siêu nhiên.-Thần thoại phản ánh, lý giải các hiện tượng đời sống theo quan điểm vận vật hữu linh( tất cả mọi vật đều có linh hồn)- là thế giới quan của người cổ xưa.- nhân vạt là thần.+ Truyền thuyết ra đời sau thần thoại.- truyền thuyết ra đời đáp ứng nhu cầu nhận thức, lý giải, ghi nhớ lịch sử của nhân dân. Đối tượng của truyền thuyết là biến cố lịch sử và nhân vật lịch sử.nhân vật chủ yếu là người. + truyện cổ tích nảy sinh trong xã hội nguyên thủy nhưng phát triển trong xã hội có giai cấp.- phản ánh và lý giải những vấn đề xã hội, số phận con người khi đã có chế độ tư hữu, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai cấp và đấu trang giai cấp. nhân vật là người thuộc 2 phe thiện và ác.+ truyện cười phát triển nở rộ ở thời kỳ phong kiến suy tàn.- chứa đựng cái hài, dùng tiếng cười đẻ phê phán, châm biếm, đả kích cái xấu, cái phi lý và để giải trí.- đặc điểm về cốt truyện ngắn ngọn, kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ.+ truyện ngụ ngôn mang tính ngụ ý, nói bong, ám chỉ.- qua truyện mà nêu bài học luân lí, kinh nghiệm sống một cách kín đáo.- nhân vật là người, loài vật( chủ yếu).

Thứ 2: các thể trữ tình dân gian( thơ ca dân gian).+ dân ca là sang tác dân gian mang tính tổng hợp bao gồm:lời (ngôn từ), nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp với nhau trong diễn xướng. ví dụ các điệu hò, hát du, hát quan họ…+ ca dao là thành phần ngôn từ(lời thơ) của các bài dân ca.- bài dân ca đã bỏ đi phần âm nhạc, cách diễn xướng.=> chức năng chủ yếu của ca dao-dân ca là phô diễn tâm tình của nguwoif bình dân đối với mọi mặt cuộc sống( quê hương đất nước, gia đình, bạn bè, tình yêu đôi lứa…)

Thứ 3: các thể lý luận dân gian.+ tục ngữ là những câu nói có vần điệu, ngắn gọn chưa đựng nội dung kinh nghiệm( thiên nhiên, thời tiết, lao động, kinh nghiệm cuộc sống…).+ câu đố là những câu có vần điệu hoặc có hình thái thơ phản ánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng phương pháp dấu tên và nghệ thuật chuyển hóa nhằm thử đoán đề tài, suy đoán, kiêm rtra sự hiểu biết và giải trí.

Câu 2. Phân biệt các thể loại nghệ thuật ngôn từ của văn học trung đại và hiện đại.

Văn học trung đại và hiện đại có 6 loại nghệ thuật ngôn từ chính đó là: thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện nôm, ký và kịch.

Thứ nhất là thơ. A)Có đặc trưng- là hình thái văn học đầu tiên của loài người, xuất hiện sớm, tồn tại và phát triển đến ngày nay. Có thể nói thơ đồng hành với nhân loại.- thơ thiên về thể hiện tâm trạng, cảm xúc con người trước thực tại.- thơ cô đọng và hàm xúc.- ngôn ngữ thơ giàu nhịp điệu( dù có vần hay không có vần).B) phân loại tùy theo yêu cầu nghiên cứu có thể phân chia theo các tiêu chí sau:- dựa vào phương thức phản ánh, chia thơ thành: thơ tự sự và thơ trữ tình.- dựa vào thể luật chia thơ thành thơ cách luật và thơ tự do.- xét về mặt gieo vần chia thơ thành thơ có vần và thơ không vần.- dự vào nội dung chia thơ thành thơ tình yêu, thơ triết lý, thơ chính trị…-dựa vào thờ đại chia thơ thành thơ đường, thơ tống, thơ lý-trần…- dựa vào thể chia thơ thành thể lục bát, song thất lục bát, luật đường, thơ 7 chữ và 8 chữ.

Thứ 2 là tiểu thuyết.A) đặc trưng- là tác phẩm tự sự( kể truyện)cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian.-so với các thể loại khách của tự sự, dặc điểm tiêu biểu thứ nhất của tiểu thuyết  là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư, có thể kết hợp  với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc, nhưng yêu tố đời tư càng phát triển thì mức độ, tính chất tiểu thuyết càng tăng.- so với truyện thơ, trường ca, anh hung ca, chất văn xuôi ( tức miêu tả cuộc sống không thi vị hóa, lãng mạng hóa, lý tưởng hóa) là đặc điểm tiêu biểu thứ 2 của tiểu thuyết.- thứ 3. tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con người đang trưởng thành do cuộc dời dạy bảo.  nhân vạt được phân tích cặn kẽ diễn biến tình cảm, tiểu sử và quan hệ giữa nó và người khác, môi trường…B) phân loại lịch sử tiểu thuyết Việt Nam có thể có các thể loại: tiểu thuyết chương hồi( hoàng lê nhất thống chí) theo trung hoa. Tiểu thuyết hiện đại du nhập từ phương tây đầu thế kỷ 20.

Thứ 3. Truyện ngắn. đặc trưng.- là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, đặc điểm thứ nhất phải là ngắn.- đặc điểm thứ 2 khác với tiểu thuyết chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường khắc họa một hiện tượng, phát hiện 1 nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. do đó nhân vật thường ít.- đặc điểm thứ 3, cốt truyện thường diễn ra trong  một thời gian, không gian hạn chế, giúp ng đọc rút ra 1 điều j đó có ý nghĩa và sâu săc về cuộc đời…. –đặc điểm 4. Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là nhưng chi tiết có dung lượng ý nghĩa lớn, lối hành văn đày ẩn ý tạp cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. ví dụ:  đời thừa

Thứ 4. Truyện nôm là thể loại tự sự bằng thơ dài tiêu biểu cho văn học cổ việt nam, nở rộ vào cuối tk 18, đầu tk 19, do viết bằng chưc nôm nên gọi là truyện nôm.- chủ yếu được viết bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát.- Gồm 2 loại+ truyện nôm bình dân: Tống Trân Cúc Hoa, thạch sanh…+truyện bác học:  truyện Kiều, nhị độ mai…(có cốt truyện TQ), hoàng triều, lục vân tiên…( sang tạo mới)

Thứ 5. KÍ.- là thể loại văn học trung gian nằm giauwx báo chí và văn học.- kí tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, hạn chế hư cấu, sự việc cũng phải xác thực.- kí bao gồm: bút kí, hồi kí, nhất kí, phóng sự, tùy bút.

Thứ 6. Kịch (kịch bản văn học)- kịch được xây dựng trên cơ sở nhũng mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột mâu thuẫn mang tính toàn nhân loại( thiện- ác, thấp hèn- cao cả, ước mơ- hiện thực…)những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động và ngôn từ của các nhân vật.- về kết cấu, vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh nhằm tạo ra sự trùng khớp gữa thời gian, địa điểm và hành động kịch.-kịch gồm bi kịch, hài kịch, chính kịch. ở Việt nam, kịch ra đời vào những năm 20 của thế kỉ 20 với những tác phẩm: “chén thuốc độc” của vũ đình long, “kim tiền” của Vi huyền Đắc.- từ kịch bản văn học có thể + dựng thành vở diễn+ dựng thành phim qua vai trò đạo diễn sân khấu hoặc đạo diễn điện ảnh.

Câu 3. Trình bày những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật thanh sắc và nghệ thuật hình khối việt nam.

I.                  Nghệ thuật thanh sắc.

          1.Tính biểu trưng:

          Giống như nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật hình khối, nghệ thuật thanh sắc Việt Nam cũng có tính biểu trưng như một nét dặc thù tiêu biểu nhất: Mục đích của nghệ thuật ở đây là thông qua những biểu tượng để nhằm diễn đạt nội dung chứ không phải hình thức, cái cốt lõi chứ không phải các chi tiết phụ trợ. Điều này khác hẳn với truyền thống nghệ thuật phương Tây đi theo con đường tả thực

          Giống như trong nghệ thuật ngôn từ, tính biểu trưng, trong NGHệ THUậT THANH Sắc Việt Nam thể hiện trước hết ở nguyên lý đối xứng, hài hòa. Âm nhạc cổ truyền việt nam chỉ có nhịp chẵn (nhịp 2/4). Từng câu nhạc cũng chia thành các ô chẵn một cách cân đối (2,4,6,8,16,32). Sự cân xứng, hài hòa này thể hiện rõ rệt nhất trong nghệ thuật múa. Nghệ thuật múa Việt Nam tuân thủ luật âm dương rất chặt chẽ. Đội hình múa phổ biến là các đội hình hình tròn và vuông. Quan niệm về cái đẹp của người Việt múa nói chung và múa tuồng chèo nói riêng xây dựng trên cơ sở những mối tương quan cặp đôi giữa các bộ phận của cơ thể, các phần của động tác:Thượng hạ tương phù : động tác phải có trên có dưới, có gốc có ngọn, có đầu có đuôi, có tiến có lùi,... - các bộ phận này phải phù hợp với nhau tạo nên một chỉnh thể;Tả hữu tương ứng : động tác phải có phải có trái, có trước có sau,..

          Tính biểu trưng trong nghệ thuật thanh sắc Việt Nam còn được thực hiện bằng thủ pháp ước lệ, chỉ dùng một bộ phận, một chi tiết để gợi cho người xem nghĩ đến, hình dung ra sự thực ngoài đời. Bằng những động tác ước lệ với một cái roi, diễn viên có thể làm cho người xem hình dung dược dễ dàng cảnh cưỡi ngựa; với một mái chèo để hình dung cảnh đi thuyền; với một vòng tròn đề hình dung cảnh vượt hàng trăm dặm dường xa,...

          Tính biểu trưng ước lệ trong nghệ thuật thanh sắc còn được thực hiện một cách xuất sắc bằng thủ pháp mô hình hóa. Trong tuồng các nhân vật được phân thành các loại gọi là đào, kép, lão, mụ, vua, quan, tướng, soái ....Đào chia thành đào chiến là những nữ tướng cầm quân ra trận; đào thương là những có gái gặp nhiều đau khổ; đào lẳng là những cô gái ong bướm lẳng lơ (như Thị Màu); đào cảnh là những cô gái nhàn hạ loại tiều thư, công chúa,... Kép được chia theo cách vẽ mặt thành kép đỏ là những anh hùng trung dũng văn võ kiêm toàn, kép đen là những hảo hán bộc trực (như Hớn Minh trong vở Lục Vân Tiên): kép xanh là những hào kiệt nơi rừng núi, kép trắng đỏ lốm đốm là kẻ lòng dạ phản trắc, tráo trở... Lông mày, bộ râu cũng là những mô hình nói lên tính cách nhân vật: mày lưỡi mác là kẻ anh hùng; mày nhọn mũi dùi là kẻ nham hiểm; mày viền nét đỏ là kẻ nóng tính; râu quai nón lởm chởm là kẻ có sức mạnh; râu năm chòm dài là người trung dũng; râu ba chòm dài là người đôn hậu; râu chuột, râu dê là kẻ hèn hạ, ti tiện; râu cáo là kẻ quỷ quyệt ranh ma,... Loại hình cải lương xuất hiện vào những năm 20 của thế kỷ XX ở Nam Bộ – nơi chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sớm

3. Tính biểu cảm, tính tổng hợp và tính linh hoạt của nghệ thuật Thanh Sắc Việt Nam

          Bên cạnh tính biểu trưng, nghệ thuật thanh sắc Việt Nam với tính cách là sản phẩm của một nền văn hóa nông nghiệp trọng âm còn mang TÍNH BIỂU CẢM cao độ. Âm nhạc và các làn điệu dân ca Việt Nam đều mang đậm chất trữ tình với nhịp điệu chậm và chú trọng luyến láy, âm sắc trầm,... gợi nên tình cảm quê hương với những nỗi buồn man mác,... Không chỉ âm nhạc và dân ca, mà cả múa cũng không ầm ĩ, ồn ào. Múa của người Việt không có những động tác mạnh mẽ nhảy cao, nhảy dài, những bước xoạc cẳng rộng, những động tác quay tròn cho áo váy tung lên như ở phương Tây. Ngược lại, phổ biến là những đường nét tròn trĩnh, uốn lượn mềm mại, không gãy góc, đôi chân khép kín,.. . 

          Nét phổ biến trong múa nữ còn là sự kín đáo, tế nhị - kín đáo tế nhị trong cách ăn mặc; kín đáo tế nhị trong động tác : động tác che nửa mặt bằng chiếc quạt, bằng chiếc nón quai thao.. Khác với các dân tộc gốc du mục thiên về múa chân, người Việt nông nghiệp múa tay là chính.Sân khấu Chèo gần gũi với cuộc sống nông thôn, tính biếu cảm của nó thể hiện ở chỗ vai trò của người phụ nữ luôn được nhấn mạnh và tô đậm : từ bi như Thị Kính, lẳng tính như Thị Mầu (chèo Quan Âm Thị Kính ); hiếu thảo như Thị Phương (chèo Trương Viên); tiết hạnh như Châu Long (chèo Lưu Bình Dương Lễ) ; si tình và phụ bạc như Súy Vân ( chèo Ki m Nhan ) , . . .

          Tính Tổng Hợp của văn hóa nông nghiệp Việt Nam cũng bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật thanh sắc.Khác với sân khấu phương Tây, trong sân khấu truyền thống Việt Nam không hề có sự phân biệt các loại hình ca, múa, nhạc - tất cả đều có mặt đồng thời trong một vở diễn, một đêm diễn, một đoạn diễn. 

Không phải ngẫu nhiên mà người Việt Nam có cách nói tưởng chừng phi lí : xem hát chèo, xem hát tuồng, xem hát bội. Đây chính là cách nói tổng hợp để diễn đạt một khái niệm tổng hợp về một nền nghệ thuật tổng hợp có cả xem (diễn) và nghe (hát). Sân khấu truyền thống Việt Nam là sự tổng hợp của mọi thể thơ, mọi loại văn, mọi điệu hát, mọi phong cách ngôn ngữ - từ thơ, văn, phú cho đến ăn lối nói bằng văn xuôi và khẩu ngữ dân gian. Tất cả luôn đan xen vào nhau như trong thực tế ngoài đời .Sân khấu truyền thống Việt Nam còn tổng hợp các thể loại bi, hài..., trong khi sân khấu phương Tây phân biệt rành mạch từng thể loại. Trong tuồng chèo không bao gìơ thiếu yếu tố hài. Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, không có gì bi hơn là cuộc đời của Thị Kính, nhưng cũng không có gì hài hơn những cảnh Thị Mầu lên chùa, xã trưởng - mẹ Đốp,... Người xem khóc đấy rồi lại cười ngay đấy. Tất cả luôn đan xen vào nhau như trong thực tế ngoài dời.

           Nghệ thuật Việt Nam còn bộc lộ rõ TÍNH LINH HOẠT của văn hóa nông nghiệp. Nhờ thủ pháp biểu trưng ước lệ mà nghệ thuật thanh sắc Việt Nam có thể đưa lên sân khấu bất cứ cái gì - từ cảnh người đàn bà trở dạ đẻ cho đến con voi. Âm nhạc truyền thống không đòi hỏi mọi nhạc công chơi giống hệt nhau. Chỉ cần bắt đầu và kết thúc giống nhau và chơi đúng theo hơi quy định (ví dụ bắt đầu bằng chữ "xang", kết thúc bằng chữ "xê" theo hơi Nam hay hơi Xuân), còn ở các phách giữa thì mỗi nghệ nhân có thể bộc lộ hết tài năng của mình.

           Sân khấu truyền thống không đòi hỏi diễn viên tuân thủ chặt chẽ bài bản của tích diễn. Nắm vững cái thần của vở, người nghệ nhân tùy trường hợp có thể biến báo lời diễn cho thích hợp. ..Chính sự linh hoạt này là lí do cắt nghĩa tại sao một bản nhạc, một tích tuồng chèo của ta thường có nhiều dị bản.

Tính linh hoạt còn thể hiện ở sự giao lưu mật thiết giữa sân khấu với người xem . Sàn diễn thường là bốn manh chiếu giữa sân đình. Khác với phương Tây muốn tạo ra ảo giác thực nên phải đẩy người xem ngồi ra xa, sân khấu biểu trưng Việt Nam công khai coi mọi thứ trên sàn diễn đều là ước lệ nên để cho người xem ngồi vây kín sát tận mép chiếu. Người xem có thể bình phẩm khen chê hoặc chen vào những câu ngẫu hứng mà người diễn phải có phản ứng thích hợp. Quan hệ "diễn viên - khán giả" ở văn hóa nông nghiệp rõ ràng là mang tính dân chủ hơn nhiều so với quan hệ diễn viên - khán giả" ở các nền văn hóa phương Tây. 

Điều này dẫn đến sự hình thành một loại lời thoại đặc biệt trong sân khấu cổ truyền là tiếng đế. "Tiếng đế" trở nên mang tính nước đôi : nó vừa là tiếng nói của người xem ở ngoài vở diễn, lại vừa là một bộ phận của vở diễn. Với tư cách của người xem, thấy chỗ nào thắc mắc thì hỏi, chỗ nào vô lý thì bác lại, chỗ nào đáng cười thì cứ việc châm biếm, mỉa mai,...Tiếng đế làm cho không khí của vở diễn trở nên uyển chuyển linh hoạt - đang bi chuyển thành hài, đang nghiêm trang chuyển thành đùa cợt. Sự giao lưu của sân khấu với người xem còn thể hiện ở vai trò của người cầm chầu. Phường chèo, phường tuồng đến diễn ở một làng nào, làng đó sẽ cử ra một người cầm chầu, ngồi sát chiếu diễn với chiếc trống chầu trong tay, giữ chịch cho đêm hát. Đó phải là người sành nghệ thuật, thuộc nhiều tích, biết nhiều làn điệu để đại diện cho dân làng nói lên tiếng nói đánh giá thưởng phạt khen chê. Việc cầm chịch và khen chê thưởng phạt được thể hiện qua tiếng trống chầu. Trong trường hợp đặc biệt, người cầm chầu có thể cho hiệu lệnh đuổi diễn viên khỏi chiếu diễn, bác Thơ phải đưa người khác thế vào...Sự giao lưu của sân khấu với người xem còn bộc lộ trong múa rối nước. ở đây có những con rối chuyên lo việc giao lưu với khán giả (điển hình là nhân vật chú Tễu) : đi mời khán giả ăn trầu, dẹp trật tự, giáo trò, khép trò,...Lại cũng do kỹ thuật trên nước phức tạp, dễ xảy ra tình huống bất ngờ nên diễn viên rối nước thường có khả năng rất cao trong việc ứng diễn, ứng tác một cách linh hoạt.

II. Tính biểu trưng của nghệ thuật hình khối Việt Nam

Giống như nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật thanh sắc và hình khối Việt Nam cũng có tính biểu trưng như một nét dặc thù tiêu biểu nhất : Mục đích của nghệ thuật ở đây là thông qua những biểu tượng để nhằm diễn đạt nội dung chứ không phải hình thức, cái cốt lõi chứ không phải các chi tiết phụ trợ. Điều này khác hẳn với truyền thống nghệ thuật phương Tây đi theo con đường tả thực. Trong nghệ thuật hình khối thì chủ nghĩa tự nhiên (naturalisme) thống trị ở phương Tây : Ngay cả những đề tài tưởng tượng như thiên thần bay lượn, Thiên chúa giáng trần, v.v. người ta cũng vẽ một cách rất thực .

          1. Tính biểu trưng của nghệ thuật hình khối.

Trong NGHỆ THUẬT HÌNH KHỐI, biện pháp đơn giản nhất để thể hiện tính biểu trưng là nhấn mạnh. Đồng thời với nhấn mạnh là giảm thiểu và lược bỏ. Nhấn mạnh cái này thì giảm thiểu và lược bỏ cái kia.Nghệ thuật hình khối Việt Nam chú trọng diễn tả nội tâm, tình cảm nhân vật, do vậy mà sơ sài, giản lược về mặt hình thức; nếu dựa vào đó để đánh giá trình độ nghệ thuật của tác giả thì sẽ sai lầm. Chẳng hạn, hình người trong bức trai gái đùa vui ở đình Hương Lộc (Nam Hà, tk. XVII) được chạm bằng những nhát đục to, thô, tạo nên những mảng, khối; nhưng những hình hoa lá trang trí trên cây cột phía sau lại hết sức tinh tế. Hơn thế nữa, chính những nhát đục thô sơ ấy lại tạo nên bốn nhân vật với bốn thế giới nội tâm khác hẳn nhau.người bạn trai ôn cô gái thì bạo dạn, cô bạn gái thì tâm trạng ngập ngừng, vừa như muốn hất tay bạn ra, lại vừa như muốn níu giữ lại. Người bạn gái ngồi phía bên trái còn lúng túng khó xử. Người bạn trai ngồi bên phải thì, với tính cách bạo dạn phóng khoáng của đàn ông, anh ta khoái chí cười ngả cười nghiêng, hở rốn hở răng, tay chỉ vào hai bạn... Mỗi người một vẻ, tạo nên những thế đối lập phản ánh rất chính xác tâm lí nhân vật: đối lập nam - nữ, người trong cuộc - người ngoài cuộc...Nghệ thuật hình khối Việt Nam chú trọng làm nổi bật trọng tâm của đề tài với sự đầy đủ , trọn vẹn của nó , bất chấp yêu cầu về tính hợp lý của hiện thực - cái mà hội họa châu âu gọi là góc nhìn, là luật viễn thị. Trên trống đồng, hình chim bay ngang được vẽ với đôi cánh giang theo phương thẳng đứng như nhìn từ trên xuống.

Thủ pháp "nhìn xuyên vật thể" (chiếu X-quang) này ta cũng thấy trên bức chạm gỗ Chèo thuyền ở đình Phủ Lưu (Hà Bắc, đầu tk.XVll) : Nhìn con thuyền từ bên ngoài, ta thấy cả người cầm lái và chân của những người chèo thuyền lẽ ra bị che khuất trong lòng thuyền.Nghệ thuật hình khối Việt Nam còn chú trọng làm nổi bật nhân vật trung tâm hoặc phân biệt vị trí xã hội bằng cách phóng to hoặc thu nhỏ kích thước của chúng. Trên bức tranh Đám cưới chuột, con mèo (đại diện cho tầng lớp thống trị) được phóng to, con ngựa (vật cưỡi của con chuột) được thu nhỏ, thành ra con mèo to hơn con ngựa nhiều lần. Việc phóng to - thu nhỏ không chỉ áp dụng trong việc xử lí các các nhân vật mà còn áp dụng đối với cả các bộ phận của nhân vật. Bức chạm gỗ Tiên cưỡi hạc ở đền Hai Bà Trưng (Vĩnh Phú) đã khắc khuôn mặt và đôi cánh cô tiên to rõ (tiên phải đẹp và có cánh) còn thân mình chân tay thì thu nhỏ lại.

          Không chỉ dừng ở mức thu nhỏ, nghệ thuật hình khối Việt Nam còn áp dụng thủ pháp lược bỏ. Trên các tác phẩm hội họa, điêu khắc, từ truyền thống Đông Sơn cho đến sau này, không bao giờ có chi tiết thừa. Cảnh Đánh vật trên bức tranh dân gian Đông Hồ chỉ có hai chi tiết duy nhất cần thiết để tạo nên không khí hội hè là hai tràng pháo, ngoài ra không có cỏ cây, hoa lá, không có cả người xem (hai đô vật ngồi chờ lượt kiêm luôn chức năng người xem).

Rất phổ biến là các mô hình trang trí mang tính triết lý sâu sắc. Bộ Tứ LINH với Long (rồng) biểu trưng cho uy lực, cho nam tính; li (long mã) hoặc lân (kì lân, một con vật tưởng tượng đầu sư tử rất hiền lành, ăn cỏ, không hề làm hại một sinh vật nào) biểu trưng cho ước vọng thái bình, quy (rùa) biểu tượng cho sự sống lâu và phượng (phụng) biểu tượng cho nữ tính. Cặp rồng-phượng biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Tứ linh kết hợp thêm với 4 con vật nữa để thành BáT VậT. Bốn con vật đó là ngư - phúc - hạc - hổ. Ngư (cá) gắn với truyền thuyết "cá hoá rồng" biểu tượng cho sự thành đạt. Chữ "phúc" nghĩa là phúc đức viết gần giống với chữ "bức" nghĩa là "con dơi", vì vậy người xưa lấy con dơi để biểu tượng cho phúc đức.. Để tạo mô hình và biểu tượng, người Việt rất hay dùng thủ pháp liên tưởng bằng ngôn từ: người dân Nam Bộ bày mâm ngũ quả ngày Tết với 5 thứ trái cây ; mãng cầu (na), sung, dừa, đu đủ, xoài, để hiểu thành (do đọc chệch thành ) : Cầu sung túc ,vừa đủ xài.

Một trong những mô hình rất phổ biến là mô hình ý NGHĩA PHồN Thực. Dấu hiệu điển hình nhất của nó là số nhiều : Tượng cóc đàn, tranh gà đàn, lợn đàn,.v.v.. Biểu tượng âm dương cũng là một dấu hiệu điển hình không kém nói lên ý nghĩa phồn thực : hình âm dương thay các xoáy lông trên lưng lợn, hình âm dương trên trống, v.v.. Các biến thể của âm dương như rồng- phượng - mặt trời,... những thứ có liên quan đến mùa màng và tiếng sấm như bông lúa, con cóc, cái trống,... cũng đều trực tiếp thể hiện ước vọng phồn thực - con cháu đông đúc và mùa màng tốt tươi

Mọi nghệ thuật đều phản ánh khát vọng của con người vươn tới một cái gì khác với cái mà người ta đang sống. Loại hình văn hóa gốc du mục do trong cuộc sống thường ngày coi thường và chế ngự thiên nhiên nên trong nghệ thuật bộc lộ khát vọng trở về với tự nhiên. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do thường ngày sống hoà hợp với thiên nhiên nên trong nghệ thuật bộc lộ khát khao thoát khỏi tự nhiên trong chốc lát để vuơn tới cái biểu trưng ước lệ.

3. Tính biểu cảm, tính tổng hợp và tính linh hoạt của nghệ thuật Hình khối Việt Nam

Tính biểu cảm

          Người Việt Nam tuy phải chịu cảnh chiến tranh liên miên, nhưng với bản tính trọng tình cảm, hiếu hòa, nên hầu như trong suốt cả lịch sử nghệ thuật hình khối, không hề sáng tạo ra những tác phẩm hội hoạ, điêu khắc về đề tài chiến tranh với cảnh đầu rơi máu chảy rùng rợn là mảng đề tài khá thịnh hành ở các nền văn hóa trọng dương. Trong khi đó, tranh tượng thể hiện những tình cảm đằm thắm của con người thì lại rất nhiều. Cảnh trai gái đùa vui cùng một đề tài tình cờ có tới hai bức chạm với hai cách thể hiện khác nhau ở hai địa phương khác hẳn nhau Cảnh tắm ao cũng khá phổ biến, cảnh hứng dừa với cô gái nhí nhảnh và hớ hênh một cách đáng yêu trong động tác nâng vạt váy để đón cặp dừa do chàng trai trên cây thả xuống.

Khuynh hướng biểu cảm, tính trọng tình của người Việt Nam đã tạo nên con Rồng hiền lành từ nguyên mẫu là con cá sấu hung ác. Với bàn tay khối óc của các nghệ nhân Việt Nam, ông Hộ Pháp to lớn ngày đêm canh giữ nơi cửa Phật cũng rất hài hòa : cạnh ông ác có ông Thiện rất hiền lành; ngay cả quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa dưới thập điện Diêm vương dưới nét chạm khắc của các nghệ nhân cũng không hề ác độc.

Tính Tổng Hợp của văn hóa nông nghiệp Việt Nam cũng bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật hình khối .ở nghệ thuật hình khối, trong quan hệ giữa hình thức và nội dung, tính tổng hợp thể hiện ở sự tổng hợp của biểu trưng và biểu cảm. Có những tác phẩm mang hình thức biểu trưng còn nội dung thì biểu cảm : các bức chạm trai gái đùa vui, tắm ao là những ví dụ.

          Ngược lại, có những tác phẩm mang hình thức biểu cảm còn nội dung thì biểu trưng : những con rồng biểu trưng cho uy lực và quyền năng lại có hình dáng rất mềm mại dịu dàng.Về phong cách thể hiện, có sự tổng hợp của biểu trưng và tả thực. Tranh đám cưới chuột phá vỡ trình tự tuyến tính trước sau của đoàn rước mà cắt đôi để xếp theo thứ tự trên dưới, phá vỡ tỉ lệ kích thước thông thường của các con vật theo lối biểu trưng; nhưng lại vẽ 12 con chuột mỗi con một vẻ, tất cả đều rất chính xác, tỉ mỹ theo lối tả thực.Tính tổng hợp còn thể hiện trên nhiều phương diện rất đa dạng : tổng hợp không gian và thời gian (tranh Bản đồ canh nông của Hàng Trống); tổng hợp văn và võ, tiên và người (bức chạm Tiên - người cưỡi rồng ở đình Phù Lưu, Hà Bắc) ; tổng hợp sơn và thuỷ, lửa và nước, đất và trời, âm và dương (bức chạm đá Rồng lên ở bia Lam Sơn, Thanh Hoá); v.v.. Nghệ thuật Việt Nam còn bộc lộ rõ TÍNH LINH HOẠT của văn hóa nông nghiệp. Nhờ thủ pháp biểu trưng ước lệ mà nghệ thuật hội họa Việt Nam có thể diễn tả bất cứ cái gì từ cái nhìn xuyên vật thể đến sự tổng hợp của các góc nhìn, của không gian và thời gian.

Câu 4.  Trình bày những đặc trưng cơ bản và lịch sử hình thành của các loại hình nghệ thuật VIệt Nam: nghệ thuật sân khấu tuồng, chèo,

Nghệ thuật sân khấu tuồng

A, lịch sử hình thành:

 Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyền thuyết ghi rằng vào thời Tiền Lê năm 1005, một kép hát người Tàu tên là Liêu Thủ Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.

Sang thời nhà Trần, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn bắt được một tên quân nhà Nguyên tên là Lý Nguyên Cát vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở "Vương mẫu hiến đào" để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.

Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là Đào Duy Từ (1572-1634). Ở Miền Trung Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"...

Sang thế kỷ 20 với sự ra đời của cải lương và kịch nói thu hút nhiều khán giả, nghệ thuật tuồng suy yếu nhiều tuy có cố gắng phục hưng với loại tuồng xuân nữ, tức là tuồng diễn theo đề tài xã hội tân thời và hát theo điệu "xuân nữ". Loại tuồng này pha phong cách cải lương, đánh võ Tàu... Dù vậy giới hâm mộ tuồng càng ngày càng ít.

Ba trường phái lớn trong hát bội là:

1.     Tuồng Bình Định

2.     Tuồng Quảng Nam

3.     Tuồng Gia Định

b. Đặc trưng cơ bản

Tuồng thuộc dòng sân khấu tự sự phương Đông. Phương thức phản ánh đã đẻ ra thủ pháp và phương tiện biểu diễn Tuồng. Trong quá trình tái hiện cuộc sống Tuồng không có xu hướng tả thực mà chú trọng lột tả cái thần - biện pháp nhằm lột tả cái cốt lõi cơ bản, không đi sâu vào những chi tiết vụn vặt khi những chi tiết ấy không gây được hiệu quả nghệ thuật. Để lột tả được cái thần của nhân vật, Tuồng dùng thủ pháp khoa trương cách điệu tất cả những lời nói, động tác hình thể, sự đi lại trên sân khấu để trở thành những điệu hát, điệu nói, điệu múa có nguyên tắc và niêm luật cụ thể.

Tuồng có một hệ thống những điệu hát và những hình thức múa cơ bản mang tính chất khuôn mẫu. Cùng với khoa trương cách điệu, Tuồng còn dùng thủ pháp biểu trưng ước lệ nghĩa là thủ pháp lấy chi tiết để thay cho toàn thể, cuốn hút khán giả cùng tham gia vào sự tưởng tượng và sáng tạo của người diễn viên. Không gian và thời gian được gói gọn trong những câu hát, động tác múa với những đạo cụ thô sơ... nhờ đó mà khán giả có thể tưởng tượng ra núi, sông, sáng sớm, chiều hôm, trận mạc, đi ngựa, xuống thuyền...

Bởi vậy, khác với sân khấu hiện thực tâm lý, Tuồng rất ít bài trí sân khấu, không cần đến trang trí mỹ thuật phông màn cầu kỳ. Không gian sân khấu thường được bỏ trống, người diễn viên xuất hiện thì không gian, thời gian cũng xuất hiện. Nhân vật hành động trong không gian, thời gian nào thì sân khấu là không gian, thời gian đó. Thuở trước các gánh hát Tuồng chỉ cần chỉ có một chiếc chiếu trải giữa sân đình và đôi ba cái hòm gỗ đựng đạo cụ phục trang vậy mà họ vẫn diễn tả được không gian, thời gian khác nhau, khi là chốn cung điện nguy nga, lúc là nơi núi rừng hiểm trở...

Nghệ thuật Tuồng, với cách hoá trang tạo diện mạo cho nhân vật, không có gì là tả chân, mà hoàn toàn tượng trưng. Người diễn viên, ngoài khả năng ca xướng, vũ đạo, diễn xuất, còn phải biết vẽ mặt mình, khi thủ bất cứ vai nào.

Nhờ những gương mặt được hoá trang, khán giả biết ngay tâm lý, tính cách, giai cấp xã hội của nhân vật, khi mới vừa thấy diễn viên bước ra sân khấu. Ví dụ như: Màu đỏ son hay đỏ ngân là tượng trưng cho người anh hùng, trung trinh tiết liệt, có thể kể đến những nhân vật như Quan Công, Cao Hoài Đức, Địch Thanh... Nếu gương mặt được đánh nền là màu trắng mốc, thì đích thị là kẻ gian thần, xu nịnh, chẳng hạn như Bàng Hồng, Đổng Trác, Tào Tháo... Màu đen thì lại tượng trưng cho những người chất phác, bộc trực, nóng nảy, nhưng ngay thẳng và chân thực, đó là Trương Phi, Trịnh Ân, Uất Trì Cung... Người có tuổi, kẻ bần dân như lão chài, lão tiều thì mặt cũng có màu sắc biểu trưng: màu xám dợt. Tương tự, màu xanh được dùng cho khuôn mặt của những người mưu mô xảo quyệt, lũ yêu ma như Ngô Tôn Quyền, Cáp Tô Văn...

Tuồng vừa chứa đựng yếu tố của sân khấu cổ điển lại vừa chứa đựng những yếu tố của sân khấu hiện đại. Yếu tố cổ điển biểu hiện ở chỗ tất cả những điệu hát, điệu múa được đúc kết trở thành khuôn vàng thước ngọc, hiện đại ở chỗ người diễn viên biểu diễn trên sân khấu không cần cảnh trí, Tuồng là loại sân khấu tổng thể. Ở đây các yếu tố ca, vũ nhạc được phát triển một cách hài hoà trong nghệ thuật biểu diễn

1.     Chèo

a.      Lịch sử hình thành

Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật mà người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo

b.     Các đặc trưng của chèo

Nội dung

          Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.

Nhân vật trong chèo

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò..."Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn

Kỹ thuật kịch

Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó.

Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.

Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200.

nhạc cụ

Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: