Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tính dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng thương mại nhà nước... Thống đốc hiện nay là ông Nguyễn Văn Giàu.
ð Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là người đứng đầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một thành viên của Chính phủ Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đề nghị trình Quốc hội Việt Nam chấp thuận bổ nhiệm. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (tức là Bộ trưởng) trong Chính phủ Việt Nam.
Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền thực dân Pháp đã quản lý và phát hành tiền tệ thông qua Ngân hàng Đông Dương, một ngân hàng có vai trò là ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại trên khu vực Đông Dương thuộc Pháp.
Sau Cách mạng tháng 8 (Thời kỳ 1951-1954), chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng bước xây dựng nền tài chính tiền tệ độc lập. Ngày 6 tháng 5 năm 1951: … ( slide ), thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.
Thời kỳ 1955-1975, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam.
- Ngày 21 tháng 1 năm 1960: ( slide )
Sau năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiếp quản và "quốc hữu hóa" Ngân hàng Quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa và thông qua danh nghĩa của chủ nhà băng này để thừa kế vai trò hội viên của Ngân hàng VNCH này trong các tổ chức tài chính quốc tế như: IMF,WB, ADB [1].
Thời kỳ 1986 đến nay: Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống Ngân hàng Việt Nam:
- Tháng 7/1987: ( slide )
- Tháng 3/1988: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh.
- Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân hàng ( Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính)..
- Tháng 10/1993, quan hệ hợp tác giữa Việt nam và cộng đồng tài chính quốc tế (Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á) được tái lập và khơi thông.
- Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998.
- Ngày 16/6/2010: ( slide ).
Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử… (slide).
Trong bất cứ một quốc gia nào, Ngân hàng trung ương đều giữ vai trò trọng yếu trong bộ máyquản lý và điều hành vĩ mô, bởi vì ngân hàng trung ương nắm trong tay những công cụ quản lývĩ mô, đặc biệt là những công cụ về chính sách tiền tệ. Vì vậy ngườ ta bố trí mô hình tổ chức
thích hợp để đảm bảo phát huy đến mức cao nhất hiệu lực của bộ máy quản lý vĩ mô này. Có hai mô hình tổ chức ngân hàng trung ương:
*Mô hình ngân hàng trực thuộc chính phủ:
Theo mô hình này, Ngân hàng trung ương là một bộ máy của Chính
phủ, là một cơ quan chức năng của Chính phủ, chịu sự kiểm soát toàn diện của Chính phủ và thực hiện mọi chính sách thể chế của chính phủ.
Sự đề xuất ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ xuất phát từ quan điểm cho rằng tiền tệ là một bộ phận của chính sách cai trị về tài chính, tiền tệ là phương tiện của chính quyền.
Mô hình này được áp dụng ở hầu hết các nước, ở Việt Nam cũng được áp dụng mô hình tổ chức Ngân hàng trung ương như trên. Điều 1 của pháp lệnh Nhà nước đã khẳng định: “Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính Phủ)…”
*Ngân hàng trung ương biệt lập với Chính phủ:
Mô hình này dựa trên quan điểm cho rằng nếu để Ngân hàng Trung ương trực thuộc Chính phủ sẽ bị lợi dụng công cụ phát hành để bồi đắp bội chi ngân sách nhà nước và do đó gây ra lạm phát, mặt cho Ngân hàng Trung ương mất hết tính độc lập về chức năng trong việc thực hiện chính sách
tiền tệ. Theo mô hình này, Ngân hàng trung ương không chịu sự kiểm soát của Chính phủ mà chịu sự kiểm soát và lãnh đạo của Quốc hội. Trên thế giới hiện có Mỹ và Đức là hai quốc gia áp dụng mô hình tổ chức nói trên.
Trong mô hình NHNN độc lập chinh phủ viêc dộc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động chính là cấp độ độc lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTW phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) thắt chặt. Bên cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi NHTW có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì NHTW mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra.
Ngoài các lý do về trình độ phát triển kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế- tài chính là rất khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, mức độ tự chủ này là không phù hợp với NHNN ít nhất là trong thời gian trung hạn.
(Về hệ thống tổ chức của Ngân hàng trung ương nói chung đều
được tổ chức bố trí theo kiểu hình chó hai cấp:
-Trụ sở ngân hàng trung ương đặt tại Thủ đô.
-Các chi nhánh đặt tại các Tỉnh, Thành phố, hoặc khu vực.
Tại trụ sở Trung ương sự bố trí thành lập các khấu để thực hiện chức năng nhiệm vụ có tính
chuyên ngành cao (hoạch định chính sách, phát hành, tín dụng…), tại các chi nhánh cũng bố trí
cơ cấu tổ chức thành các phòng ban để đảm bảo các nhiệm vụ trên địa bàn.
Tuy hệ thống tổ chức bố trí theo kiểu hình chop gồm trụ sở Trung ương và các chi nhánh, nhưng
ở mỗi nước lại bố trí các chi nhánh theo nhiều kiểu khác nhau.
-Ở Pháp: trụ sở Trung ương đặt tại thủ đô ở Paris, các chi nhánh đặt trên địa bàn các Tỉnh, thành
phố và khu vực. Phần lớn các nước và Việt Nam đều áp dụng tổ chức này.
-Ở Đức: Trụ sở Ngân hàng trung ương lại được đặt ở thành phố Frankfurt, một trung tâm thương
mại lớn chứ không đặt tại thủ đô, còn các chi nhánh thì được đặt ở các bang.
-Ở Mỹ: có mô hình khá riêng biệt so với các nước. Trong toàn nước Mỹ người ta chia làm 12
khu vực và ở mỗi khu vực thành lập một ngân hàng dự trữ liên bang, ngân hàng này đóng vai trò
quan trọng, là Ngân hàng trung ương của khu vực. Lanh đạo của 12 ngân hàng dự trữ liên bang
là hội đồng các Thống đốc đặt trụ sở tại thủ đô Washingtơn. Toàn bộ hợp thành ngân hàng trung
ương Mỹ.
-Ở Việt Nam: Điều 1 khoản 4 luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã chỉ rõ: Ngân hàng nhà nước
Việt Nam là một pháp nhân có vốn pháp định thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đặt trụ sở tại thủ đô
Hà Nội, có các chi nhánh ở những nơi cần thiết trong nước và văn phòng đại diện ở nước ngoài.) <= nói thêm nếu có time hoặc trả lời câu hỏi.
Vai trò và chức năng NHNN,công cụ cstt: đọc trong slides của cô và tập bài giảng của thầy Hoàng Văn Liêm hay searching google.
ưu nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
-tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng không phận biệt đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
-NHTW có thể tác động nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
-NHTW có thể sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tạo ra mối quan hệ phụ thuộc về vốn giữa NHTW với các ngân hàng thương mại, từ đó tăng khả năng quản lý, kiểm soát đối với hoạt động của ngân hàng thương mại
nhược điểm
-công cụ này tỏ ra thiếu tính linh hoạt, vì một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây ra sự bất ổn đến hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng có dự trữ thứ cấp thấp
-dự trữ bắt buộc giống như một hình thức thuế thu nhập vô hình đối với các ngân hàng vì các ngân hàng phải giữ lại một phần tiền gửi không được sử dụng vào mục đích sinh lời theo yêu cầu trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng gửi tiền
-công cụ dự trữ bắt buộc rất ít được ngân hàng trung ương sử dụng trong việc điều chỉnh nhưng thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ
Nhược điểm của công cụ thị trường mở là:
-Vì các ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở đến cơ số tiền tệ triệt tiêu bởi các tác động ngược chiều nên dự trữ của Ngân hàng thương mại không thay đổi tương ứng sau các hoạt động của mua bán chứng khoán.
-Lượng tiền cung ứng tín dụng hay đầu tư của Ngân hàng thương mại không phải lúc nào cũng tăng hay giảm dưới tác đọng của nghiệp vụ thị trường mở.
-Khi lãi suất thị trường giảm thì không phải lúc nào khối lượng tín dụng cũng tăng tương ứng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. (Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ) <= đọc thêm trả lời câu hỏi hoặc có time thì trình bày.
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệcủa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. (Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản.
lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 30 tháng 5 năm 2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ bản ở mức 7,2%/năm. Vào thời điểm tháng 6 năm 2008, lãi suất cơ bản là 14%/năm. Điều này có nghĩa là các tổ chức tín dụng có thể quyết định mức lãi suất cho vay của mình cao tới 21%/năm.) <= đọc thêm trả lời câu hỏi hoặc có time thì trình bày.
Ngày 29/11/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 2868/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm.
lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản tiền cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền.
( => Tác động của lãi suất chiết khấu
Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường:
Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ ngân hàng trung ương mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào.
Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.) <= đọc thêm trả lời câu hỏi hoặc có time thì trình bày.
Lãi suất tái cấp vốn là loại lãi suất mà ở đó NHTW áp dụng cho các nghiệp vụ tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng trung gian (bao gồm ngân hàng thương mại, sau đây gọi là ngân hàng thương mại - NHTM). Ở Việt Nam, NHTW tái cấp vốn cho các NHTM qua các hình thức: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay lại dưới hình thức cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn.
(Đều dễ nhận thấy là lãi suất chiết khấu phải thấp hơn lãi suất tái cấp vốn thông thường nhưng lãi suất hiệu dụng (Thông thường lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng thường có mức lãi suất theo thời hạn, thứ tự kì hạn càng dài thì số tiền lãi được nhận càng lớn.Ít người quan tâm đến mức lãi suất thực. Hiện nay, các ngân hàng đang phải cạnh tranh huy động vốn giải quyết tình trạng thanh khoản ngắn hạn, trong khi bị khống chế trần lãi suất. Chính vì thế, đã xuất hiện một nghịch lý là gửi tiền thời hạn ngắn hay dài đều mức công bố lãi suất như nhau. Nhiều người gửi tiền vẫn tưởng rằng số tiền nhận được là như nhau, nhưng thực tế, kì hạn ngắn hơn lại có lợi hơn.
Nguồn gốc của chênh lệch này nằm ở khoản “lãi gộp lãi”, tức là số lãi tính thêm cho những khoản lãi ban đầu được nhận. Số lần rút lãi càng nhiều trong kì thì chênh lệch càng lớn. Trong tài chính, người ta gọi đó là lãi suất hiệu dụng để phân biệt với lãi suất danh nghĩa ) thì phải cao hơn mức lãi suất chiết khấu công bố.
Lãi suất chiết khấu ở đây cũng chính là một hình thức của lãi suất tái cấp vốn.) <= đọc thêm trả lời câu hỏi hoặc có time thì trình bày.
Năm 2010, NHNN đã điều hành lượng tiền cung ứng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, cho nền kinh tế, tác động làm giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Hướng dẫn các ngân hàng thương mại cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận bằng VND, điều hành linh hoạt các mức lãi suất, kết hợp với các biện pháp để điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường phù hợp; thực hiện các giải pháp hỗ trợ khu vực nông nghiệp, nông thôn và gói kích thích kinh tế.
NHNN cũng điều hành tỷ giá và thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối chống suy giảm dự trữ ngoại hối, kiểm soát nhập siêu và ngăn ngừa nguy cơ rủi ro về thanh khoản ngoại tệ và tỷ giá.
Đối với thị trường vàng, NHNN đã tăng cường các biện pháp quản lý và điều tiết thị trường: Chỉ đạo các TCTD thực hiện nghiêm túc việc đóng cửa sàn vàng và tất toàn trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; cho phép xuất, nhập khẩu vàng khi cần thiết; ban hành thông tư thu hẹp hoạt động huy động và cho vay bằng vàng của các TCTD.
Nhìn chung, thị trường tiền tệ, tín dụng trong năm 2010 tương đối ổn định và diễn biến phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội.Tính đến 31/12, tăng trưởng tín dụng ước đạt 29,81%, tổng dư nợ tăng 27,6%; tổng phương tiện thanh toán tăng 25,3% so với cuối năm 2009. Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và các biện pháp điều hành tiền tệ linh hoạt của NHNN, lãi suất huy động và cho vay VND của các NHTM giảm dần. Hiện nay, các ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá 14%/năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm
"Năm 2011, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tăng trưởng kinh tế." - Đây là một định hướng chiến lược mới, thay cho hỗ trợ tăng trưởng của chinh sách tiền tệ năm 2010. Tổng phương tiện thanh toán tăng 21-24%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng khoảng 23%, tập trung tín dụng cho sản xuất.
“Các công cụ chính sách tiền tệ và các biện pháp điều hành sẽ được thực hiện phù hợp với nguyên tắc thị trường và điều kiện thực tế của nền kinh tế và thị trường tài chính- tiền tệ Việt Nam.” , Thống đốc NHNN cho biết.( slide)
Ngày 04/11/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 04/CT-NHNN về thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng góp phần ổn định giá cả và kinh tế vĩ mô trong những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011.( SLIDE )
Chỉ thị nhận định:Thời gian gần đây, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức cao; thị trường tiền tệ và ngoại hối chưa ổn định vững chắc; tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng có khả năng vượt mục tiêu.
Thực hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải pháp bình ổn giá cả thị trường những tháng cuối năm 2010 và đảm bảo an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng, trong những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011, Thống đốc NHNN yêu cầu các TCTD tập trung thực hiện 7 giải pháp chủ yếu.
Thứ nhất, tăng cường huy động vốn ở trong nước và nước ngoài thông qua các giải pháp phù hợp quy định của pháp luật; không áp dụng các hình thức cạnh tranh không lành mạnh để ổn định thị trường tiền tệ.
Duy trì cơ cấu vốn khả dụng (tiền gửi tại NHNN, tiền mặt…) ở mức hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán ở mức cao trong những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Kiểm soát tốc độ, quy mô và cơ cấu cho vay để cân đối với vốn huy động; thực hiện quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động. Thực hiện cho vay theo quy định của pháp luật; kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh để thanh toán ở trong nước và cho nước ngoài, các khoản cho vay để kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản và tiêu dùng.
Thứ hai, đáp ứng các nhu cầu vay vốn có hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhu cầu vốn để cung ứng hàng hoá và dịch vụ thiết yếu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng trong những tháng cuối năm 2010 và đầu năm 2011.
Đối với các tỉnh miền Trung bị thiệt hại do bão, lũ (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Khánh Hoà, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú Yên…) xem xét thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi tiền vay theo quy định của pháp luật và xem xét cho vay mới để khôi phục, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, kiểm soát chặt chẽ huy động và cho vay bằng ngoại tệ, không để rủi ro thanh khoản và lãi suất bằng ngoại tệ, tỷ giá; cho vay bằng ngoại tệ theo đúng quy định của pháp luật và yêu cầu của NHNN tại văn bản số 4496/NHNN-CSTT ngày 15/6/2010 về việc cho vay bằng ngoại tệ và văn bản số 4186/NHNN-CSTT ngày 4/6/2010 về việc cho vay để thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá.
Thứ tư, ấn định lãi suất huy động và cho vay, tỷ giá mua bán ngoại tệ phù hợp với quy định của pháp luật, chủ trương của Chính phủ.
Thứ năm, cung cấp đúng và kịp thời các thông tin về hoạt động kinh doanh của TCTD theo quy định của pháp luật và yêu cầu của NHNN.
Thứ sáu, xử lý kịp thời các trường hợp cho vay hỗ trợ lãi suất chưa đúng quy định của pháp luật, theo yêu cầu của Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, phát hiện của TCTD.
Thứ bảy, khẩn trương đầu tư, nâng cấp công nghệ, nâng cao khả năng quản trị và điều hành hoạt động kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu an toàn, hiệu quả.
Về định hướng nhiệm vụ ngân hàng năm 2011, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh, NHNN sẽ tiếp tục điều hành CSTT một cách thận trọng, chủ động và linh hoạt, theo nguyên tắc thị trường; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tổng phương tiện thanh toán tăng 21-24%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng khoảng 23%, tập trung tín dụng cho sản xuất.
Lãi suất và tỷ giá được điều hành ở mức phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN. Tỷ giá và quản lý ngoại hối linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường, phù hợp với diễn biến lãi suất, cân đối hài hòa cung – cầu ngoại tệ, tăng tính thanh khoản cho thị trường và thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, giảm dần tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán. NHNN sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan theo dõi, quản lý chặt chẽ thị trường vàng và thị trường ngoại tệ.
Tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo chương trình kế hoạch, trong đó tập trung vào các văn bản hướng dẫn hai Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng. Cùng với đó, NHNN tiếp thực thi các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của các TCTD; củng cố, sắp xếp lại các TCTD phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động ngân hàng; tăng cường thanh tra, giám sát, đặc biệt là giám sát từ xa, phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
NHNN cũng sẽ theo dõi, giám sát chặt chẽ và dự báo kịp thời diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến thị trường tài chính trong nước và quốc tế để phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động tiền tệ, ngân hàng; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015; tăng cường hoạt động thông tin tuyên truyền, chủ động trong việc cung cấp thông tin;...
Tín dụng là phương thức huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. Vì vậy sử dụng có hiệu quả phương thức này sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn đang là vấn đề cấp thiết cho sản xuất và đầu tư phát triển.
Hiện nay, tại Việt Nam xuất hiện nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Tuy nhiên, có 3 hình thức tín dụng chủ yếu là:
- Tín dụng Ngân hàng
- Tín dụng Thương mại
- Thuê tài chính
a. Tín dụng Ngân hàng
o Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong đó ngân hàng vừa đóng vai trò người đi vay ( nhận tiền gửi của các chủ thể khác trong nền kinh tế hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi : kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn), vừa đóng vai trò người cho vay ( cấp tín dụng cho các chủ thể khác trong nền kinh tế bằng việc thiếp lập các hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ…).
Tín dụng ngân hàng là loại hình tín dụng chủ yếu và phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường. Từ các đặc điểm của tín dụng ngân hàng có thể thấy được tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân.
o Các đặc điểm của tín dụng ngân hàng gồm:
- Chủ thế tham gia : một bên là ngân hàng, một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế như các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Đối tượng : chủ yếu là tiền tệ, có khi là tài sản.
- Thời hạn : rất linh hoạt bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Công cụ : cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các hợp đồng tín dụng…
- Tính chất : là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong đó ngân hàng là trung gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất kinh danh hoặc tiêu dùng.
- Mục đích : nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng qua đó thu được lợi nhuận.
o Ưu, nhược điểm của hình thức này:
- Ưu điểm:
+ Về chủ thể: Rất linh hoạt, rộng lớn bao gồm: doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức xã hội,…Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp, cá nhân.
+ Do là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau, do đó nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân.
+ Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì những doanh nghiệp này chưa có đủ điều kiện để tham gia vào thị trường vốn trực tiếp.
+ Góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
+ Còn được sử dụng như là một công cụ quan trọng để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của chính phủ.
+ Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng, việc thắt chặt hay nới lỏng cung tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình nền kinh tế.
- Nhược điểm:
+ Thủ tục cấp vốn cho vay còn chậm, rườm rà. mất nhiều thời gian và công sức của người đi vay.
+ Thông tin về tài chính của cá nhân, doanh nghiệp, của ngân hàng không được thông suốt và cập nhật, khối lượng thông tin chưa được đầy đủ, cho nên chưa đáp ứng được tốt nhu cầu thông tin của các bên để đánh giá, thẩm định khoản vay và kiểm soát chất lượng tín dụng còn hạn chế.
+ Việc quản lý không tốt năng lực trả nợ của người vay có thể dẫn tới tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi. Tình hình nợ xấu của các doanh nghiệp cổ phần có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây (tỷ lệ nợ xấu năm 2003: 1,77%, năm 2004: 2,13%, năm 2005: 7,72%, tháng 5 năm 2006: 6,51%)
b. Tín dụng thương mại
o Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Để thanh toán hoặc đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ này, nếu còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại.
Mua bán chịu hàng hoá là hình thức tín dụng, vì:
- Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định.
- Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là GIẤY NỢ - một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. GIẤY NỢ trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh phiếu.
Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.
Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại:
- Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng không chuyển nhượng cho người khác.
o Ưu nhược điểm của tín dụng thương mại:
- Ưu điểm :
+ Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.
+ Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
+ Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu.
- Nhược điểm :
+ Tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất ¬¬¬định - những doanh nghiệp cần đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc bán ra.
+ Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực hiện được giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau.
+ Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh cung cấp, vì vậy qui mô tín dụng chỉ được giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ có. Nếu doanh nghiệp vay vốn có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không thể đáp ứng được.
+ Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy ra.
+ Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.
c. Thuê tài chính
o Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê. (Điều 1- Nghị định 16)
Trong một giao dịch thuê, về pháp lý, bên cho thuê có quyền sở hữu tài sản, bên thuê không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian thuê.
Có nhiều lý do khiến việc lựa chọn hình thức thuê tài sản ngày càng trở nên phổ biến, trong đó lý do chủ yếu là lợi ích có thể mang lại từ việc thuê tài sản. Cụ thể:
+ Đối với bên thuê: khi mua một tài sản, người sử dụng phải đối đầu với rủi ro do sự lạc hậu của tài sản. Thuê là một cách để giảm hoặc tránh rủi ro này, bên cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ phải gánh chịu rủi ro về sự lạc hậu của tài sản. Với các hợp đồng thuê tài sản huỷ ngang, bên thuê có thể thay đổi tài sản một cách dễ dàng hơn so với việc sở hữu tài sản. Bên thuê cũng được hưởng một khoản lợi từ thuế so với việc vay để mua hoặc mua trả chậm, vì chi phí thuê (gồm khấu hao và lãi) được tính toàn bộ vào chi phí trước khi xác định lợi nhuận chịu thuế, vì vậy chi phí thực tế mà bên thuê chịu là chi phí thuê sau khi khấu trừ phần giảm thuế. Trong khi đó, nếu đi vay để mua hoặc mua trả chậm, thuế chỉ được tính giảm trên chi phí lãi, phần nợ gốc không được khấu trừ thuế. Ngoài ra, khi thuê tài sản, bên thuê sẽ có được tài sản sử dụng trong điều kiện hạn hẹp về ngân quỹ, không có tiền để mua tài sản hoặc không có vốn đối ứng cho các hợp đồng vay để mua tài sản; Hoặc khi công ty có tài sản cố định nhưng thiếu tiền để mua nguyên vật liệu, thanh toán lương, … thì cũng có thể thực hiện giao dịch “Bán rồi thuê lại”.
+ Đối với bên cho thuê: trong suốt thời hạn cho thuê, bên cho thuê vẫn có quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản, do đó bên cho thuê có quyền lấy lại tài sản nếu xét thấy bên thuê có biểu hiện vi phạm hợp đồng. Mặt khác, trong trường hợp bên thuê lâm vào tình trạng phá sản thì tài sản thuê vẫn không bị phát mãi mà vẫn bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của bên cho thuê đối với tài sản này.
o Ưu nhược điểm của hình thức tín dụng này:
- Ưu điểm :
+ Cho thuê tài chính cho phép bạn sử dụng linh hoạt đồng vốn của mình vào mục đích khác, nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì phải đầu tư vốn để mua tài sản cố định, giúp bạn tận dụng được cơ hội kinh doanh.
+ Sử dụng cho thuê tài chính sẽ không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng.
+ Cho thuê tài chính có phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt phù hợp với chu chuyển vốn của doanh nghiệp.
+ Phí thuê tài chính được hạch toán vào giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước.
+ Sử dụng tài sản thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.
+ Cho thuê tài chính giúp bạn có nhiều cơ hội chủ động trong lựa chọn thiết bị, dễ dàng đổi mới công nghệ, tiếp cận và sử dụng những máy móc, thiết bị hiện đại nhất.., từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh.
- Nhược điểm :
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 11 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 12 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau.
Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (thường là trên 1.000 tỉ đồng). Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì:
+ Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu.
Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại...
+ Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.
+ Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn.
Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính
ưu nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
-tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng không phận biệt đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
-NHTW có thể tác động nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
-NHTW có thể sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tạo ra mối quan hệ phụ thuộc về vốn giữa NHTW với các ngân hàng thương mại, từ đó tăng khả năng quản lý, kiểm soát đối với hoạt động của ngân hàng thương mại
nhược điểm
-công cụ này tỏ ra thiếu tính linh hoạt, vì một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây ra sự bất ổn đến hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng có dự trữ thứ cấp thấp
-dự trữ bắt buộc giống như một hình thức thuế thu nhập vô hình đối với các ngân hàng vì các ngân hàng phải giữ lại một phần tiền gửi không được sử dụng vào mục đích sinh lời theo yêu cầu trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng gửi tiền
-công cụ dự trữ bắt buộc rất ít được ngân hàng trung ương sử dụng trong việc điều chỉnh nhưng thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro