new bai thuc trang tin dung
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG:
2.1.1.Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Ngày nay, tín dụng được hiểu theo những định nghĩa sau:
- Định nghĩa 1: Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thái kinh tế hay hiện vật, trong đó người đi vay phải trả cho người cho vay cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
- Định nghĩa 2: Tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hóa.
- Định nghĩa 3: Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ - người cho vay) cấp tiền, hàng hóa, dịch vụ, chứng khoán… dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia.
Như vậy, “tín dụng” có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng nội dung cơ bản của những định nghĩa này là thống nhất. Chúng đều phản ánh một bên là người cho vay, còn bên kia là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên được ràng buộc bởi cơ chế tín dụng và pháp luật hiện tại.
Cụ thể hơn, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa một bên là các tổ chức tín dụng, còn bên kia là những chủ thể kinh tế khác trong xã hội trên cơ sở hoàn trả và có lãi.
2.1.2.Vai trò tín dụng:
2.1.2.1 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển
- Tín dụng là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng là một trong những công cụ tập trung vốn một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, thúc đẩy tích tụ vốn cho các xí nghiệp, tổ chức kinh tế.
- Cụ thể:
+ Đối với doanh nghiệp: tín dụng là cầu nối tiết kiệm và đầu tư.
+ Đối với toàn xã hội: tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng vốn.
2.1.2.2 Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả
- Trong quá trình thực hiện chức năng tập trung và phân phối vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế, từ đó làm giảm áp lực lạm phát, góp phần ổn định tiền tệ.
- Tín dụng cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đảm bảo và phát triển sản xuất kinh doanh, sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tạo ra ngày càng nhiều đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của toàn xã hội góp phần ổn định giá cả thị trường trong nước.
2.1.2.3 Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm, ổn định trật tự xã hội
- Khả năng cung ứng vốn của tín dụng tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng, thúc đẩy kinh tế phát triển, từ đó làm thỏa mãn và nâng cao đời sống của người dân.
- Tín dụng cung ứng vốn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó giúp giải quyết nạn thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
- Một xã hội phát triển lành mạnh, đời sống người dân được ổn định, ai cũng có công ăn việc làm là những tiền đề quan trọng để ổn định trật tự xã hội. Và tín dụng là một nhân tố tích cực tao ra những tiền đề đó.
2.1.2.4 Tín dụng góp phần mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại và giao lưu quốc tế
Nếu tín dụng không chỉ phát triển ở phạm vi quốc nội mà còn có thể mở rộng ra phạm vi quốc tế thì có thể giúp đỡ và giải quyết nhu cầu vốn lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng phát triển.
2.1.3 Phân loại tín dụng
2.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản vay có thời hạn đến 1 năm, thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân
- Tín dụng trung hạn: là những khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm; được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là những khoản vay có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn
2.1.3.2 Căn cứ vào đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động: được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hóa, mua nguyên vật liệu cho sản xuất…
- Tín dụng vốn cố định: được sử dụng để hình thành tài sản cố định.
2.1.3.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp phát tín dụng cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
- Tín dụng học tập: là hình thức cấp phát tín dụng để phục vụ việc học tập của sinh viên.
Ngoài ra, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn còn có thể có nhiều hình thức tín dụng khác.
2.1.3.4 Căn cứ vào chủ thể tín dụng
- Tín dụng thương mại:
+ Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
+ Đáp ứng nhu cầu vốn cho những doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hóa của mình.
- Tín dụng ngân hàng:
+ Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân.
+ Không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư, hàng hóa, trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng Nhà Nước:
+ Là quan hệ tín dụng mà trong đó Nhà Nước biểu hiện là người đi vay, người cho vay là dân chúng, các tổ chức kinh tế, ngân hàng và nước ngoài.
+ Mục đích đi vay của tín dụng Nhà Nước là bù đắp khoản bội chi ngân sách.
2.1.3.5 Căn cứ vào đối tượng trả nợ
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay cũng là người trực tiếp trả nợ.
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay và người trả nợ là hai đối tượng khác nhau.
2.1.3.6 Căn cứ vào tính chất của khoản vay
- Tín dụng có đảm bảo: các khoản vốn tín dụng phát ra đều có hàng hóa, vật tư, tài sản tương đương đảm bảo.
- Tín dụng không có đảm bảo: các khoản tín dụng phát ra không cần có hàng hóa, vật tư, tài sản đảm bảo mà chỉ dựa vào uy tín, sự tín nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân để cấp vốn tín dụng.
2.1.4. Một số chỉ tiêu tài chính thể hiện kết quả hoạt động kinh doanh:
2.1.4.1.Vốn huy động trên tổng nguồn vốn (%):
Vốn huy động trên tổng nguồn vốn (A): chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn có bao nhiêu tỷ lệ % là vốn huy động tại địa phương, tỷ lệ này càng cao càng tốt.
Tổng vốn huy động
Tổng nguồn vốn
A (%)= x 100%
2.1.4.2.Tổng dư nợ trên tổng vốn huy động (lần, %):
Dư nợ trên tổng nguồn vốn huy động (B): chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đầu tư vào hoạt động tín dụng của ngân hàng chiếm tỷ lệ bao nhiêu % so với tổng nguồn vốn huy động.
Tổng dư nợ
Tổng nguôn vốn huy động
B(%)= x100%
2.1.4.3.Tổng dư nợ trên tổng nguồn vốn (%):
Dư nợ trên tổng nguồn vốn (C): chỉ tiêu này phản ánh dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu % trong tổng nguồn vốn có thể sử dụng được của ngân hàng.
Dư nợ cho vay
C(%)= x100%
Tổng nguồn vốn
2.1.4.4.Hệ số thu nợ (%):
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ (D): chỉ tiêu này thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, nó biểu hiện khả năng thu nợ của ngân hàng hay khả năng trả nợ của khách hàng trong một kỳ. Hệ số thu nợ càng lớn thì càng tốt.
Doanh số cho vay
D(%)= x100%
2.1.4.5.Hệ số vòng vay vốn tín dụng (vòng):
Vòng quay vốn tín dụng (E): chỉ tiêu này phản ánh tình hình luân chuyển đồng vốn cho vay, thời gian thu hồi nợ vay nhanh hay chậm. Tỷ số này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Doanh số thu nợ
E(vòng) =
Dư nợ bình quân/năm
2.1.5.Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
a/ Phân tích thu nhập:
Tỷ trọng % từng khoản mục thu nhập = x 100%
Chỉ số này giúp nhà phân tích xác định được cơ cấu của thu nhập để từ đó có những biện pháp phù hợp để tăng lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời có thể kiểm soát được rủi ro trong kinh doanh.
b/ Phân tích chi phí:
Tỷ trọng % từng khoản mục chi phí = x 100%
Chỉ số này giúp nhà phân tích có thể biết được kết cấu các khoản chi để có thể hạn chế các khoản chi bất hợp lý, tăng cường các khoản chi có lợi cho hoạt động kinh doanh nhằm thực hiện tốt chiến lược mà hội đồng quản trị ngân hàng đã đề ra.
c/ Phân tích lợi nhuận:
Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá chất lượng kinh doanh của NHTM. Lợi nhuận có thể hữu hình như: tiền, tài sản… và vô hình như uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, hoặc phần trăm thị phần ngân hàng chiếm được.
Lợi nhuận = Tổng thu nhập -Tổng chi phí
Các chỉ số:
* ROA = Lợi nhuận ròng /Tổng tài sản (%)
Chỉ số này cho thấy khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản. Nói cách khác, ROA giúp cho nhà phân tích xác định hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tốt.
* Tổng chi phí / Tổng thu nhập
Chỉ số này tính toán khả năng bù đắp chi phí của một đồng thu nhập. Đây cũng là chỉ số đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Thông thường chỉ số này phải nhỏ hơn 1, nếu nó lớn hơn 1 chứng tỏ ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, đang có nguy cơ phá sản trong tương lai.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHTM
1.4.1. Nhân tố thuộc về phía khách hàng
- Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp: Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ
nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng
vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát
triển luôn là cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào cũng như
vậy. Do số lượng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có
những lúc nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp này không cao.
- Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện,
tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng: Để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro khi cho
vay, các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm
phân loại, chọn ra những khách hàng có thể hay không thể cho vay. Chỉ
những khách hàng nào đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ngân hàng thì mới
được xem xét cho vay. Rõ ràng khả năng của doanh nghiệp trong việc
đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không thể đáp
ứng được yêu cầu của ngân hàng, có thể do điều kiện đặt ra quá khắt khe,
không thực tế hoặc do khả năng của các doanh nghiệp quá thấp, thì ngân hàng
không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn bảo đảm an toàn tín dụng.
- Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng
khoản vay có hiệu quả: Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ
được lấy từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát
mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và
sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố cần thiết để đảm bảo cho
việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, trong đó có một số
nhân tố giữ vai trò quyết định như vị thế, năng lực thị trường của doanh
nghiệp, năng lực công nghệ, chất lượng đội ngũ nhân sự, trình độ quản lý của
doanh nghiệp.
1.4.2 Nhân tố thuộc phía ngân hàng.
- Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn NHTM: Muốn cho vay được
thì điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn thôi thì
chưa đủ, do yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các
khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi
nguồn vốn trung và dài hạn, bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở
lên và các nguồn vốn huy động có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn
định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng
chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, không ổn định thì không thể mở rộng cho vay
trung và dài hạn được. Các nguồn vốn mà một NHTM có thể sử dụng để cho
vay trung và dài hạn có quy mô và cơ cấu khác nhau trong tổng nguồn vốn
của ngân hàng. Quy mô các nguồn vốn này là một trong những nhân tố quyết
định quy mô cho vay trung và dài hạn của ngân hàng.
- Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định các dự án: Một
trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn và lãi
vay được hoàn trả đúng kỳ hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc
thực hiện dự án không đạt hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp
không có thiện chí, cố tình lừa đảo. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần
thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Vấn đề
đặt ra ở đây là thủ tục và các điều kiện, tiêu chuẩn được sử dụng làm căn cứ
để đánh giá khách hàng và dự án đầu tư có hợp lý hay không. Nếu thủ tục
rườm rà, các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với
thực tế thì sẽ có rất ít các doanh nghiệp bảo đảm thoả mãn được yêu cầu của
ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách
hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình điều kiện đặt ra
không chặt chẽ có thể sẽ khiến cho ngân hàng sai lầm trong việc ra quyết định
cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các
NHTM phải không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác thẩm định của mình.
- Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của ngân
hàng: Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được tiến hành
tốt, giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt, những dự án
khả thi có khả năng sinh lời cao song đó chưa phải là sự đảm bảo chắc chắn
để có được chất lượng tín dụng cao
- Chính sách tín dụng của ngân hàng: Chính sách tín dụng của
ngân hàng là một hệ thống các biện pháp nhằm liên quan đến việc mở rộng
hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong
từng thời kỳ.
Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn
đến chất lượng tín dụng của ngân hang.
Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp được hài hòa lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và của xã hội thì sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại, nếu việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng sẽ
không cao thậm chí rất thấp.
- Thông tin tín dụng: Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết
cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân
hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có
thông tin về dự án, về khách hàng đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho
vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận
lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng
vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ còn giúp cho
ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín
dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều
đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
- Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật:Một ngân hàng sử
dụng công nghệ hiện đại được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng
cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch,
đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng
thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ
thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác,
công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn.
- Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng: Cho dù khoa
học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa trong nhiều lĩnh vực song
nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò quyết định. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ
đơn thuần đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn bao gồm cả lương tâm,
đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng nói chung
và cán bộ tín dụng nói riêng. Bên cạnh chất lượng
nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý.
1.4.3.1 Môi trường kinh tế xã hội
- Môi trường tự nhiên : Nói chung môi trường tự nhiên không tác
động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện
qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp,
ngư nghiệp , do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Môi trường kinh tế :. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay
xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động
theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động
của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường
kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế
- Môi trường chính trị, xã hội:
Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một căn cứ quan trọng để ra
quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các nhà đầu tư
sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân
hàng trung và dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ tìm
cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín
dụng ngân hàng
1.4.3.2 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý không chặt chẽ nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ
hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa
đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng
khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng.
PHẦN II
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua 55 năm (6.5.1951-6.5.2006) xây dựng và phát triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng vẫn ổn định và phát triển tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến nay, chặng đường đổi mới căn bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng chính phủ) ký quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN (làm thử đầu tiên tại TP.HCM từ tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...), sau đó tổng kết và Chủ tịch HĐBT đã ban hành Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng VN, với sự ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên doanh.
hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu sự ra đời và phát triển khoảng trên 15 năm (từ 1990 đến nay).
Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những buớc phát triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước (Ngân hàng ngoại thương VN, Ngân hàng đầu tư và phát triển VN, Ngân hàng công thương VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 36 NHTM cổ phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân hàng liên doanh. Trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với hơn 100 chi nhánh cấp 1 và 2000 chi nhánh cấp 2-4 phủ khắp huyện và cả hệ thống ngân hàng lưu động.
Vốn điều lệ của các NHTM VN không ngừng gia tang
S&P: Chất lượng tín dụng ngân hàng Việt Nam có nguy cơ giảm sút
Xem tin gốc
Vietstock - 5 ngày trước 276 lượt xem 1 tin đăng lại
(Vietstock) – Cơ quan xếp hạng tín nhiệm Standard & Poor's (S&P) cho rằng lạm phát cao nếu không được kiểm soát đúng mức, có thể trở thành “con sâu làm rầu nồi canh” trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Facebook Twitter 0 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này
Áp lực lạm phát, tăng trưởng tín dụng cao và chi phí vay mượn gia tăng có nguy cơ làm giảm chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặc dù các ngân hàng đã vượt qua được cuộc khủng hoảng tài chính tại các nền kinh tế phát triển, nhưng S&P cho rằng sự kết hợp của 3 yếu tố trên có thể dẫn khiến chất lượng tài sản giảm sút nhanh chóng nếu không được quản lý đúng mức.
Trước đó, S&P đưa ra báo cáo đánh giá tín nhiệm ngân hàng Vietcombank, BIDV và Techcombank cũng dựa trên 3 yếu tố chính này, ngoài ra còn các rủi ro tín dụng khác có thể tác động xấu đến chất lượng tài sản.
Tín dụng ngân hàng ngày càng cao đã làm gia tăng các rủi ro trong hệ thống. S&P tin tưởng rằng Chính phủ sẽ hạ thấp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ngân hàng năm 2011 xuống 20%. Tuy nhiên, theo S&P, chỉ tiêu trên vẫn còn quá cao so với ước tính của cơ quan này khi cho rằng tín dụng ngân hàng tính đến ngày 21/12/2010 chiếm 120% GDP trong bối cảnh kinh nghiệm quản ý rủi ro tín dụng vẫn còn khá non trẻ và khuôn khổ pháp lý vẫn đang trong quá trình hoàn thiện.
Được biết, tín dụng ngân hàng năm 2010 tăng trưởng 28%, vượt mục tiêu 25% của Chính phủ. Bên cạnh đó, Việt Nam còn trải qua nhiều năm có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao như 2007 và 2009, trong đó có các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước lớn như Vinashin.
Ngoài những rủi ro tín dụng trong hệ thống, lạm phát tháng 1/2011 tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái từ mức 7.1% trong năm 2009.
Theo S&P, chính sách tiền tệ thông thoáng của Chính phủ trong nửa sau năm 2010 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giá cả hàng hóa toàn cầu leo thang chính là nguyên nhân khiến lạm phát tăng vọt.
Nếu lạm phát vẫn còn cao và chi phí kinh doanh tiếp tục tăng, khả năng thanh toán nợ của những người đi vay sẽ bị cản trở. Mặt khác, các biện pháp ngăn chặn lạm phát dồn dập của Chính phủ có thể gây ra sự mất ổn định và làm xói mòn niềm tin trong hệ thống ngân hàng, tương tự như năm 2008 khi lạm phát tăng cao lên 28%.
Chi phí vay mượn tại Việt Nam đã tăng đáng kể. Lãi suất cho vay VND đối với các khoản vay kỳ hạn 12 tháng tăng từ 12% lên 18%. Ngược lại lãi suất cho vay USD chỉ có 6%. Sự chênh lệch quá lớn này đã thôi thúc nhiều doanh nghiệp vay bằng USD. Những khách hàng này, đặc biệt là những người tạo ra doanh thu chủ yếu bằng VND, phải đối mặt với rủi ro tỷ giá.
Trong những năm qua, lạm phát cao đã làm giảm lòng tin vào VND, do đó người dân tìm kiếm các tài sản an toàn như vàng và USD. Trong tháng 2, NHNN công bố điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 20,693 VND/USD và thu hẹp biên độ giao dịch từ +/- 3% xuống +/- 1%. Điều này có thể làm gia tăng áp lực lạm phát.
S&P công nhận nỗ lực không ngừng của Chính phủ nhằm cải thiện quy định và tiêu chuẩn quản lý rủi ro có thể đem lại kết quả phù hợp với các chuẩn mực của quốc tế. Tuy nhiên, theo cơ quan này, những tiến bộ từ trước đến nay dù có gia tăng nhưng không bắt kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng và nhấn mạnh tầm quan trọng của các quy định tín dụng nghiêm ngặt nhằm giảm thiểu các tổn thất liên quan.
Theo S&P, hiện đang tồn tại sự chênh lệch giữa tỷ lệ nợ xấu được báo cáo và tình trạng thực của chất lượng tài sản trong hệ thống. Sự giảm tốc tăng trưởng tín dụng và việc hạ danh mục cho vay có thể phản ánh chất lượng tài sản thực.
S&P cho rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa đủ linh hoạt để ngăn chặn đà gia tăng của thua lỗ tín dụng trong trường hợp xảy ra các cú sốc hệ thống, như các chính sách sai lầm hoặc sự suy giảm theo chu kỳ.
S&P hy vọng Chính phủ sẽ chú trọng hơn đến sự ổn định thay vì tăng trưởng trong mục tiêu kinh tế vĩ mô 2011, trong đó có việc ưu tiên ngăn chặn lạm phát. Dù các biện pháp hiệu quả của Chính phủ có thể làm giảm tác động từ lạm phát và chi phí vay mượn cao, nhưng các ngân hàng sẽ phải cải thiện được hoạt động bảo lãnh phát hành và các tiêu chuẩn thẩm định nhằm tăng cường sự linh hoạt trước các cú sốc bên ngoài.
S&P chỉ ra 3 yếu tố có thể tác động xấu đến chất lượng tín dụng ngân hàng Việt Nam
Xem tin gốc
CafeF - 5 ngày trước 23 lượt xem 1 tin đăng lại
Áp lực lạm phát tăng, nhiều năm tăng trưởng tín dụng cao và chi phí cho vay tăng không ngừng đe dọa ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngành ngân hàng Việt Nam.
Theo cơ quan xếp hạng tín dụng S&P, dù các ngân hàng Việt Nam tránh được khủng hoảng ngân hàng tại nhóm nước phát triển, 3 yếu tố kể trên, nếu không được quản lý tốt, có thể ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của các ngân hàng.
S&P 500 đã xếp hạng các ngân hàng Vietcombank, BIDV và Techcombank đều ở mức BB-.
Tín dụng ngân hàng tăng trưởng nóng đã khiến rủi ro hệ thống của ngân hàng tăng cao. S&P cho rằng mục tiêu tăng trưởng tín dụng 20% vẫn còn cao bởi ở thời điểm 31/12/2010, tín dụng vẫn ở mức khoảng 120% GDP bởi kinh nghiệm quản lý rủi ro non trẻ và và khuôn khổ pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện.
Năm 2010, tín dụng tại Việt Nam đã tăng trưởng tới 28%, cao hơn mục tiêu 25% của chính phủ Việt Nam.
Lạm phát cao khiến hệ thống dễ chịu tác động hơn. Tháng 1/2011, lạm phát tại Việt Nam tăng hơn 12% so với cùng kỳ từ mức 7,1% trong năm 2009. Chính sách nới lỏng tiền tệ của chính phủ trong nửa sau năm 2011 và giá hàng hóa tăng cao đã dẫn đến lạm phát tăng mạnh. Nếu lạm phát duy trì ở mức cao, chi phí kinh doanh tăng sẽ tác động xấu đến khả năng trả nợ của người đi vay.
Chi phí vay tại Việt Nam đã tăng đáng kể. Lãi vay áp dụng đối với các khoản thời hạn 12 tháng lên tới 18% từ mức 12% cách đây 1 năm. Trong khi đó lãi vay USD mới ở mức 6%. Mức chênh lệch này đã khiến nhiều người vay bằng USD. Nhóm này, nhất là nhóm tạo doanh thu bằng tiền đồng Việt Nam, đã tự đưa họ đối với rủi ro tỷ giá lớn hơn.
S&P thừa nhận nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện khung điều tiết và tiêu chuẩn quản lý rủi ro sẽ mang đến kết quả phù hợp với chuẩn mực quốc tế, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều việc cần làm.
Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Việt Nam
Lo ngại về chính sách kinh tế, dự trữ ngoại hối và sức khỏe của hệ thống ngân hàng là lý do Fitch quyết định hạ xếp hạng tín dụng dài hạn của Việt Nam từ BB- xuống B+.
Theo báo cáo được Fitch công bố trong ngày 29/7, có 2 chỉ tiêu bị đánh tụt hạng, đó là định mức tín nhiệm đối với các khoản vay dài hạn bằng nội tệ, ngoại tệ và đối với trái phiếu ngoại tệ của Việt Nam, đều bị hạ một bậc từ BB- xuống B+. Trong khi đó, đánh giá đối với các khoản vay ngắn hạn vẫn được Fitch giữ ở điểm B.
Do bị tụt hạng tín dụng dài hạn, Việt Nam đã lùi 4 bậc so với điểm đầu tư (xếp hạng tín dụng quốc gia nằm trong khoảng BBB đến AAA được coi là có điểm đầu tư - investment grade). Đây cũng là trường hợp hiếm hoi trong số các nền kinh tế mới nổi bị hạ xếp hạng tín dụng trong báo cáo này của Fitch (Indonesia, Ukraine và một số quốc gia khác đều nhận được đánh giá lạc quan).
Chất lượng tín dụng tại Việt Nam chưa được đánh giá cao. Ảnh minh họa: Hoàng Hà
Theo Fitch, thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong năm 2010 nhiều khả năng sẽ được duy trì ở mức cao, khoảng 7,6% GDP trong khi chi tiêu Chính phủ vẫn phụ thuộc một phần vào nợ nước ngoài.
Dẫn lời bà Ai Ling Ngiam, Giám đốc Fitch khu vực châu Á, hãng tin Bloomberg cho biết, sở dĩ tổ chức này hạ xếp hạng tín dụng dài hạn của Việt Nam là do nhu cầu sử dụng vốn bên ngoài của nền kinh tế tiếp tục tăng trong khi nguồn cung yếu đi. Đại diện của Fitch cũng cho rằng khung chính sách kinh tế của Việt Nam hiện chưa thực sự nhất quán và hệ thống ngân hàng còn tồn tại nhiều yếu kém.
Về dự trữ ngoại hối, Fitch trích dẫn số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra tháng trước khi cho rằng lượng ngoại tệ dự phòng của Việt Nam đã giảm xuống mức 7 tuần nhập khẩu so với con số 10 tuần vào cuối tháng 12 năm 2009. Trong khi đó, thâm hụt cán cân vãng lai được dự báo ở mức 9,9% GDP cho năm 2010, giảm so với mức 10,4% của 2009.
Theo nguồn số liệu riêng, Fitch cho rằng dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt khoảng 13,8 tỷ USD vào cuối tháng 3/2010. Lượng dự trữ này hiện đã được cải thiện một cách tương đối. Sau những điều chỉnh hồi đầu năm, tỷ giá đồng Việt Nam so với đôla Mỹ hiện ổn định ở mức 19.075 đồng một USD.
Theo nhận định của một số chuyên gia quốc tế, tuy bị hạ một bậc tín nhiệm theo đánh giá của Fitch nhưng các khoản tín dụng của Việt Nam vẫn tương đối an toàn. Theo ông Matt Hildebrandt, chuyên gia kinh tế của JPMorgan Chase tại Singapore, việc quản lý nợ của Việt Nam tương đối tốt.
“Việc bị hạ bậc tín nhiệm là do chất lượng tín dụng của Việt Nam chưa tốt như những quốc gia láng giềng như Indonesia hay Phillipines. Tuy nhiên, tôi cho rằng sẽ không có chuyện Việt Nam tiếp tục tụt hạng trong những lần đánh giá tiếp theo của Fitch và độ rủi ro đối với các khoản vay tại thị trường này là rất thấp”, ông Hildebrandt cho biết.
Chất lượng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam đang bị đe dọa
Hệ thống ngân hàng của Việt Nam có nguy cơ phải đối mặt với những rủi ro tài chình do ảnh hưởng của lạm phát và chi phí vay tăng cao.
Công ty đánh giá tài chính S&P có trụ sở tại Singapore cho biết như vậy trong một báo cáo gần đây về Việt Nam.
Theo báo cáo của công ty này, mặc dù các ngân hàng của Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua tại các nền kinh tế phát triển, nhưng những nhân tố như lạm phát tăng cao, tăng trưởng vốn vay cao trong nhiều năm cùng với chi phí vay cao đang đe dọa chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Theo đánh giá cuả S&P thì ba ngân hàng gồm Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, và Ngân hàng công thương bị hạ mức tín dụng từ BB- xuống B.
Tín dụng ngân hàng của Việt Nam đã tăng 28% trong năm 2010 vượt mức chỉ tiêu của chính phủ đề ra là 25%.
Fitch cảnh báo chất lượng tín dụng ngân hàng
Tue,21/09/2010 - 08:50:53 AM
Vừa qua, Cơ quan xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings đã thực hiện xếp hạng tín nhiệm đối với 5 ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Á châu (ACB), Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB).
Theo đó, Fitch hạ mức xếp hạng tín nhiệm đối với VCB và ACB từ mức D xuống D/E và loại 2 ngân hàng này ra khỏi diện cần xem xét (RWN) trong thời gian tới. Đồng thời, Fitch xác nhận mức xếp hạng hỗ trợ của VCB là 4 và của ACB bằng 5. BIDV vẫn duy trì ở mức D/E và mức hỗ trợ ở ngưỡng 4 như năm ngoái. Nhìn chung, kết quả của Fitch cho thấy chất lượng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam vẫn là vấn đề cần bàn và xem lại.
Chất lượng khoản vay đẩy VCB tụt hạng
Việc hạ xếp hạng phản ánh quan điểm của Fitch rằng bảng cân đối kế toán của VCB đang yếu do tăng trưởng các khoản vay ở mức cao và chất lượng các khoản vay thấp. Tăng trưởng dư nợ tín dụng của VCB trong năm 2009 là 26% và trong giai đoạn từ năm 2006 đến giữa năm 2010 là 118%. Dù mức tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm nay có chậm lại, còn 12,7% so với cùng kỳ năm ngoái do nguồn vốn bị hạn chế, nhưng VCB sẽ tiếp tục đối mặt với nguy cơ tăng trưởng tín dụng mạnh trong 6 tháng cuối năm.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) của VCB ở thời điểm giữa năm 2010 đạt 8,45%, thấp hơn mức quy định 9%. Vào tháng 8/2010, Vietcombank công bố kế hoạch huy động hơn 1.000 tỷ đồng, thế nhưng Fitch cho rằng ngay cả sau khi hoàn thành kế hoạch tăng vốn trên cũng không đủ để ứng phó khi chi phí tín dụng cao và hỗ trợ tăng trưởng các khoản vay. Hiện chưa thể biết thời điểm hoàn thành và mức độ thành công trong kế hoạch tăng vốn của VCB khi nhu cầu các ngân hàng trong toàn hệ thống đều tăng.
Theo Fitch, hồ sơ tín dụng của VCB cũng tương đương với các ngân hàng quốc doanh có cùng mức xếp hạng D/E dù VCB có tỷ lệ Dư nợ tín dụng/Tiền gửi (LTD) thấp nhất trong số các ngân hàng này. Tỷ lệ LTD của VCB tăng từ 72% (cuối năm 2008) lên 84% vào giữa năm 2010 nhưng vẫn còn thấp hơn so với đa số các ngân hàng trong nước khác. Fitch ước tính, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ tăng đột biến trong nửa đầu năm có thể tác động xấu đến thanh khoản ngân hàng và chất lượng cho vay, từ đó khiến áp lực lạm phát gia tăng và niềm tin vào tiền đồng suy yếu.
Tính đến giữa năm 2010, tỷ lệ nợ xấu (NPL) và những khoản vay đặc biệt (SML) của VCB lần lượt đứng ở mức 4,15% và 15,9%. Hiện chưa có báo cáo đã kiểm toán theo Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS) nên Fitch dự báo khoản nợ có vấn đề của VCB theo IFRS sẽ cao hơn so với VAS. Hơn nữa, ngân hàng có thể chịu tác động xấu do đang chiếm tỷ lệ 16% trong tổng nợ tín dụng của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Ngoài ra, rủi ro về chi phí tín dụng ngày càng cao do chất lượng tín dụng thấp và nguồn huy động vốn bị giới hạn sẽ gây nhiều sức ép đến xếp hạng cá nhân của VCB.
Fitch sẽ xem xét hạ mức xếp hạng cá nhân của VCB nếu huy động vốn tiếp tục gặp khó khăn, chất lượng cho vay suy giảm và tỷ lệ LTD suy yếu đáng kể. Ngược lại, Fitch có thể nâng mức xếp hạng của VCB nếu ngân hàng này huy động đủ vốn để đáp ứng tỷ lệ tối thiếu theo quy định mới.
Dư nợ tín dụng của ACB "ép" thanh khoản
Đối với ACB, Fitch cũng hạ xếp hạng xuống mức D/E từ mức D và đưa xếp hạng của ngân hàng này ra khỏi ngưỡng tiêu cực. Fitch xác nhận ngưỡng hỗ trợ đối với xếp hạng của ngân hàng này ở mức 5. Việc hạ mức tín nhiệm này phản ánh bảng cân đối kế toán của ACB suy yếu đáng kể, do đà tăng trưởng quá mức trong hoạt động tín dụng. Fitch dự báo vào cuối tháng 9/2010, CAR của ACB sẽ thấp hơn mức tối thiểu theo quy định mới là 9%. ACB có kế hoạch tăng vốn lên 1.600 tỷ đồng (tương đương 16% vốn vào giữa năm 2010) và phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu ưu tiên thấp (subordinated bonds) vào cuối tháng 10/2010 nhằm khôi phục nguồn vốn hóa.
Tuy nhiên, Fitch dự báo ACB không đủ vốn để duy trì đà tăng trưởng cho vay mạnh với chi phí tín dụng cao. Fitch lưu ý rằng việc tăng trưởng cho vay quá mạnh sẽ tiếp tục tạo áp lực lên tính thanh khoản và chất lượng đối với các khoản vay dưới chuẩn của ACB. Được biết, ACB đã duy trì tăng trưởng dư nợ tín dụng trong nửa đầu năm 2010 ở mức 42% trong khi mục tiêu của cả năm là 54%. Theo ước tính, nếu mục tiêu này thành hiện thực thì tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn 2006 - 2010 của ngân hàng này lên đến 464%.
Hiện tốc độ tăng trưởng tín dụng của ACB nhanh hơn nhiều so với các ngân hàng quốc doanh khác. Đồng thời hệ số CAR theo VAS của ACB bị suy yếu đáng kể từ 12,4% (giữa năm 2008) xuống còn 9% vào giữa năm 2010. Đặc biệt, các khoản vay ngoại tệ của ngân hàng vào giữa năm 2010 tăng trưởng cao 125% (chiếm 34% tổng dư nợ cho vay) kể từ cuối năm 2009, làm gia tăng sức ép lên tính thanh khoản ngân hàng và chất lượng tín dụng. Ngoài ra, tăng trưởng dư nợ tín dụng quá mạnh của ACB khiến LTD tăng lên 74% vào giữa năm 2010, so với mức 54% hồi cuối năm 2008, mặc dù tỷ lệ này vẫn còn thấp hơn so với các ngân hàng khác trong nước.
Tỷ lệ nợ xấu của ACB tính đến giữa năm 2010 ở mức 0,37%. Theo Fitch, dù tỷ lệ này khá thấp nhưng chưa thể đánh giá đúng mức chất lượng các khoản vay của ACB vì chuẩn mực kế toán Việt Nam còn thông thoáng.
Fitch cũng xác nhận xếp hạng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ở mức D/E và mức hỗ trợ ở ngưỡng 4. Việc xác nhận xếp hạng của Fitch cho thấy thách thức đối với BIDV hiện đang rất nhiều, bao gồm từ bảng cân đối kế toán còn nhiều hạn chế do tăng trưởng các khoản vay, chất lượng tài sản yếu, các khoản vay tập trung cho lĩnh vực xây dựng và thanh khoản thấp. BIDV chịu nhiều áp lực vì rủi ro chi phí tín dụng tăng cao do chất lượng các khoản vay yếu và thanh khoản đi xuống.
Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng quản trị của BIDV, cho rằng: "Xếp hạng của Fitch năm nay đối với BIDV không có nhiều khác biệt so với các năm trước. Trong bối cảnh suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu, thì kết quả xếp hạng năm nay của Fitch đối với BIDV cũng là may mắn rồi…".
Tổng giám đốc Techcombank Nguyễn Đức Vinh, cũng tỏ ra hài lòng với đánh giá của Fitch, mặc dù xếp hạng sức mạnh tài chính ngân hàng của Techcombank được xếp hạng D-. "Trong điều kiện và hoàn cảnh hiện tại, thì những đánh giá của Fitch đối với Techcombank là hợp lý và xác đáng", ông Vinh nói.
Năm nay cũng là năm đầu tiên SHB mời tổ chức Fitch đánh giá xếp hạng. Một số hạn chế của SHB cũng được Fitch đề cập, đó là tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh, rủi ro về tập trung tín dụng cao, dự phòng rủi ro tín dụng còn thấp, và các đặc thù mang tính thách thức của môi trường hoạt động tại Việt Nam. Và những điều này cũng được SHB cho là xác đáng.
Hoạt động tín dụng ngân hàng tháng 12 năm 2010
Do nhu cầu huy động vốn trong 2 tháng cuối năm một số ngân hàng đã nâng lãi huy động bằng tiền Việt Nam lên trên 17%. Để bình ổn lãi suất huy động vốn trên thị trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ấn định lãi suất huy động vốn không vượt quá 14%/năm bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức. Mức lãi suất này được thực hiện kể từ ngày 15/12/2010.
Triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc bình ổn thị trường ngoại tệ, duy trì ổn định tỷ giá, góp phần hạn chế nhập siêu, Ngân hàng nhà nước tiếp tục thực hiện giám sát việc cho vay bằng ngoại tệ và thanh toán ngoại tệ để nhập khẩu của các tổ chức tín dụng đối với các mặt hàng thuộc danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu đối với các nhu cầu tiêu dùng hàng ngày.
- Vốn huy động trên địa bàn thành phố đến tháng 12 ước đạt 766,3 ngàn tỷ đồng, giảm 2,6% so cùng kỳ, tăng 27% so đầu năm. Vốn huy động của các NHTMCP chiếm 56,5%, giảm 5,5% so cùng kỳ. Vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 25,6% tổng vốn huy động, giảm 11,2% so cùng kỳ, tăng 2% so đầu năm. Vốn huy động VNĐ chiếm 74,4%, tăng 1,9% so cùng kỳ, trong đó tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu ước đạt 265,1 ngàn tỷ, tăng 0,6%, chiếm 34,6% tổng vốn huy động.
- Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 699,8 ngàn tỷ, tăng 0,6% so cùng kỳ, tăng 16,6% so đầu năm. Dư nợ tín dụng của các NHTMCP chiếm 45,7%, giảm 6,1% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ đạt 198,2 ngàn tỷ, chiếm 25,9% tổng dư nợ, tăng 16,3% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng bằng VNĐ giảm 4,4%; dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm 40,1% tổng dư nợ, tăng 6,1%; dư nợ tín dụng ngắn hạn giảm 3,3%.
(nguồn Cục TK.TPHCM)
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG VÀ HUY ĐỘNG VỐN
Tháng 3/2010
Đơn vị: %
STT
Chỉ tiêu
% thay đổi so với tháng 12 năm trước
% thay đổi so với cùng kỳ năm trước
% thay đổi so với tháng trước
1
Tín dụng
3.73
34.58
2.37
2
Huy động vốn
3.15
25.24
3.42
TỶ TRỌNG TÍN DỤNG, HUY ĐỘNG VỐN CỦA TOÀN HỆ THỐNG TCTD
THEO NHÓM TCTD
Tháng 3/2010
Đơn vị: %
STT
Loại hình TCTD
Tín dụng
Huy động vốn
Tổng số
VNĐ
Ngoại tệ
Tổng số
VNĐ
Ngoại tệ
Toàn hệ thống
100
100
100
100
100
100
1
TCTD Nhà nước
54.6
58.7
38.1
48.3
51.5
37.7
2
Ngân hàng thương mại cổ phần
31.2
32.4
26.1
42.6
41.9
44.9
3
NH liên doanh, Chi nhánh NH nước ngoài, NH 100% vốn nước ngoài
9.4
3.8
32.6
7.1
4.3
16.6
4
Công ty tài chính, cho thuê tài chính
3.5
3.6
3.2
0.9
1.0
0.8
5
Quỹ Tín dụng nhân dân
1.3
1.6
-
1.1
1.4
0.0
Ghi chú:
- TCTD Nhà nước: Số liệu được tổng hợp từ 06 TCTD, bao gồm: NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn VN, NH Đầu tư và Phát triển VN, NHTMCP Ngoại thương VN, NHTMCP Công Thương VN, NH Chính sách xã hội, NH Phát triển Nhà ĐBSCL.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Số liệu được tổng hợp từ 38 NH thương mại cổ phần trừ NHTMCP Ngoại thương VN và NHTMCP Công thương VN.
- NH liên doanh, Chi nhánh NH nước ngoài, NH 100% vốn nước ngoài: Số liệu được tổng hợp từ 05 Ngân hàng liên doanh, 36 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 05 NH 100% vốn nước ngoài.
- Công ty tài chính, cho thuê tài chính: Số liệu được tổng hợp từ 16 Công ty tài chính, 13 Công ty cho thuê tài chính.
- Quỹ tín dụng nhân dân: Số liệu được tổng hợp từ Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương và các Quỹ Tín dụng nhân dân cơ sở.
(nguồn: NHNN)
Tín dụng năm 2010 được tăng trưởng 25%, thấp hơn mức 37,73% của 2009
Đây là thông điệp được Ngân hàng Nhà nước chính thức gửi đi tại hội nghị tổng kết năm 2009 và kế hoạch năm 2010 diễn ra sáng nay (23/12) tại Hà Nội.
Theo đó, năm 2010, tăng trưởng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ, tốc độ tăng trưởng sẽ bị siết chặt và chỉ bằng khoảng 2/3 so với năm nay.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước sẽ khống chế tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng khoảng 25% trong 2010, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% năm nay.
Mức khống chế tăng trưởng tín dụng 25% trong 2010 chỉ cao hơn một chút so với 2008, năm thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh, năm tới sẽ tập trung điều hành cung ứng tiền mặt một cách chặt chẽ, kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng.
Tuy nhiên, để đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay; hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất.(Nguồn: VNN, 23/12)
II- MỘT SỐ TÌNH HÌNH TIỀN TỆ, TÍN DỤNG TRONG THÁNG 8/2010:
1- Lãi suất
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND trong tháng 8/2010 có xu hướng ổn định, trong đó lãi suất huy động VND dao động ở mức 10,6-11,2%/năm; lãi suất cho vay VND ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 12-12,5%/năm đối với nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và 12,5-13,5%/năm đối với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, lãi suất cho vay kinh doanh khác phổ biến ở mức 13-15%/năm. Lãi suất cho vay kinh doanh chứng khoán, tiêu dùng phổ biến ở mức 16-20%/năm.
Lãi suất huy động và cho vay bằng USD ít biến động so với tháng 7/2010.
2- Tỷ giá
Đầu tháng 8/2010, tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng mạnh, cao hơn nhiều tỷ giá niêm yết 19.100 VND/USD của các ngân hàng thương mại. Sau khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và Đô la Mỹ lên 18.932 VND/USD (ngày 18/8/2010), cung cầu ngoại tệ đã ổn định, tỷ giá trên thị trường tự do giảm và hiện đang ở mức 19.480-19.520 VND/USD. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại ở mức 19.475-19.500 VND/USD.
3- Huy động vốn
Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 8/2010 ước tăng 17,75% so với cuối năm 2009.
4- Cho vay nền kinh tế
Tín dụng đối với nền kinh tế đến cuối tháng 8/2010 ước tăng 16,27% so với cuối năm 2009.
5- Tổng phương tiện thanh toán
Tổng phương tiện thanh toán tháng 8/2010 ước tăng 16,31% so với cuối năm 2009; trong đó, tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tăng 8,37% .
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực hệ thống NHTM VN vẫn còn quá nhiều điểm yếu kém và tồn tại.
Kết luận
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới đã tạo ra một sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các chủ thể trong nền kinh tế nói chung và đối với Ngân hàng thương mại nói riêng. Do vậy để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay, các Ngân hàng thương mại cần nỗ lực không ngừng để nâng cao vị thế của mình bằng cách tự đổi mới, tự hoàn thiện, nâng cao năng lực tài chính, phát triển sản phẩm và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng...nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng.
Trong các mục tiêu trên thì nâng cao chất lượng tín dụng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất đối với tất cả các Ngân hàng thương mại. Tại vì hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro có thể đưa Ngân hàng đến bờ vực phá sản. Chính vì vậy việc nghiên cứu phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng mình, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng Ngân hàng là điều hết sức cần thiết, góp phần vào sự phát triển bền vững của Ngân hàng, nâng cao vị thế cũng như khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong thời kỳ hội nhập.
Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội Việt Trì tôi đã được khảo sát thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, kết hợp với lý luận đã được học, các chỉ thị, nghị quyết của đảng giúp tôi làm rõ phần nào nội dung của đề tài nghiên cứu. Từ mục đích của đề tài đã làm rõ và giải quyết được những vấn đề cơ bản sau đây:
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng và vai trò của tín dụng trong phát triển kinh tế xã hội, chất lượng tín dụng, các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng.
Phân tích một cách hệ thống và khoa học thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng cua cac NHTM, những kết quả đạt được, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế do cũng như các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại cac NHTM.
Tuy nhiên, do điều kiện phạm vi nghiên cứu và khả năng có hạn, nên chuyên đề khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót. Tôi rất mong nhận được từ các chuyên gia, các nhà học, nhà quản lý, thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp ý kiến đóng góp để chuyên đề được hoàn chỉnh, thiết thực hơn trong việc áp dụng vào thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê , 2004
2. Giáo trình Tín dụng ngân hàng- NXB Thống kê
3. PGS. TS Lưu Thị Hương, Tài chính doanh nghiệp, Thẩm định tài chính dự
án, NXB Thống Kê.
4. Các văn bản hướng dẫn Luật Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các
tỏ chức tín dụng.
5. Tạp chí Thông tin tài chính- Các số ra năm 2004, 2005, 2006.
6 . Tạp chí ngân hàng, Thời báo ngân hàng- Các số ra năm 2003, 2004, 2005,
2006.
7. Frederic s.Mishkin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa
học và Kỹ thuật, 2001.
8. Quyết Định 457/2005/QĐ-NHNN, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và các
văn bản pháp luật hiện hành quy định về hoạt động của tổ chức tín dụng.
9. TS. Nguyễn Hữu Tài, Lý thuyết tài chính và tiền tệ, NXB thống Kê,2002.
10. Sổ tay tín dụng NHCT Việt Nam.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHCT: Ngân hàng công thương
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro