Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

NAQ.CON DUONG

Put your story text here...Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

99

Nguyễn Ái Quốc với việc lựa chọn con đường cách mạng

và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam -

Một số đặc điểm chủ yếu

Đinh Xuân Lý*

Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Nhận ngày 28 tháng 4 năm 2008

Tóm tắt. Thông qua tư liệu lịch sử, bài viết phân tích một số đặc điểm chủ yếu trong quá trình

Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào những

năm đầu thế kỷ XX. Từ đó, góp phần làm rõ cơ sở hình thành con đường cách mạng Hồ Chí

Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong

việc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

*Từ năm 1911, Nguyễn Tất Thành

(Nguyễn Ái Quốc) rời Tổ quốc ra đi tìm

đường cứu nước, đến năm 1930 Người đã

hoàn thành hai nhiệm vụ lịch sử có ý nghĩa

quyết định đối với vận mệnh cách mạng Việt

Nam: tìm được con đường cứu nước đúng đắn

và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua 15

năm tiếp theo, dưới sự lãnh đạo của Người,

nhân dân Việt Nam đã đánh đuổi được phát

xít Nhật và lật đổ chế độ Quân chủ, lập ra

nước Việt Nam mới - Nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà.

1. Nhìn lại những năm đầu thế kỷ XX,

trước họa ngoại xâm, phong trào kháng chiến

chống Pháp của nhân dân ta diễn ra sôi nổi

dưới nhiều hình thức, nhưng cuối cùng đều

không đi tới thành công. Cách mạng Việt

Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về

________

* ĐT: 84-4-7548537

Email: [email protected]

đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Trước bối

cảnh đó, nhiều người Việt Nam ra đi tìm

đường giải phóng dân tộc, trong đó có

Nguyễn Tất Thành.

Trong hành trang của những người đi tìm

đường cứu nước lúc bấy giờ đều có một điểm

chung, đó là lòng yêu nước sâu sắc, với ý chí

quyết tâm đánh đuổi thực dân Pháp. Nhưng, ở

Nguyễn Ái Quốc tình cảm yêu nước gắn liền với

lòng thương yêu dân vô hạn. Đây là điểm khác

nhau cơ bản giữa Nguyễn Ái Quốc với các

nhà yêu nước đương thời. Điều đó dẫn đến

những hệ quả về nhận thức và việc lựa chọn

con đường cách mạng Việt Nam. Thực tế lịch

sử cho thấy, trong khi những người yêu nước

khác, đặt mục tiêu đánh đuổi thực dân Pháp

giành độc lập dân tộc, sau đó khôi phục lại

chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân

chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ

cộng hoà tư sản (các chế độ xã hội này đều

không mang lại tự do và hạnh phúc thật sự

Đinh Xuân Lý / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

100

cho nhân dân); thì, Nguyễn Ái Quốc ngay từ

đầu đã xác định mục tiêu nhất quán, xuyên

suốt trong cuộc ra đi của Người là phải tìm

con đường để vừa giành được độc lập cho Tổ

quốc, vừa mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân

dân.

Theo Trần Dân Tiên (tác giả cuốn sách

Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ

Tịch) thì, trong cuộc hành trình tìm đường

cứu nước "không có một phút nào ông

(Nguyễn Ái Quốc) quên Tổ quốc mình đang

bị giày xéo và đồng bào mình đang bị áp

bức"[1, tr.34]. Với lòng thương yêu đồng bào,

Nguyễn Ái Quốc từng phát biểu trong cuộc

tranh luận tại Đảng Xã hội Pháp "Tại sao

tranh luận nhiều thế? Trong lúc các bạn tranh

luận ở đây, thì đồng bào chúng tôi đang rên

xiết ở Việt Nam"[1, tr.43].

Và, khi nữ đồng chí Rô-dơ (tốc ký của Đại

hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp) hỏi: "tại

sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Đệ tam quốc

tế?", Nguyễn Ái Quốc trả lời: "Rất đơn giản.

Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược,

chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác.

Nhưng tôi hiểu rõ một điều Đệ tam quốc tế

rất chú ý đến vấn đề giải phóng dân tộc thuộc

địa. Đệ tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc

bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ.

Còn Đệ nhị quốc tế không hề nhắc đến vận

mạng các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu

tán thành Đệ tam quốc tế. Tự do cho đồng

bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả

những điều tôi muốn"[1, tr.44, 45].

Trên lập trường yêu nước, thương dân [2](1),

Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu sâu sắc các cuộc

cách mạng điển hình trên thế giới. Người đề

________

(1) Năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí

Minh nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là

làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được

hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai

cũng được học hành"

cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái

và quyền con người của các cuộc cách mạng

tư sản Mỹ và Pháp; nhưng mặt khác, Người

cũng phê phán bản chất không triệt để của

các cuộc cách mạng tư sản này. Về Cách

mạng Mỹ (1776), Nguyễn Ái Quốc nhận xét

"Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn

150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực

khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai.

Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư

bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách

mệnh đến nơi.

Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì

làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh

rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều,

chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới

khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới

được hạnh phúc"[3, tr.27].

Về Cách mạng Pháp (1789), Nguyễn Ái

Quốc cho rằng "Cách mệnh Pháp cũng như

cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,

cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà

và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công

nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa"[3, tr.31].

Đó là lý do dẫn đến việc Nguyễn Ái Quốc

không lựa chọn con đường cách mạng tư sản,

vì cách mạng tư sản là "cách mệnh không đến

nơi" - không đưa lại hạnh phúc thực sự cho

nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt

Nam nói riêng.

Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm

hiểu cuộc Cách mạng Tháng Mười - cuộc cách

mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo; tổ chức ra

Chính phủ công, nông, binh; phát ruộng đất

cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,

không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc

chủ nghĩa nữa [4, tr.280]. Liên hệ giữa cách

mạng Nga năm 1917 với yêu cầu, nhiệm vụ

của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc

rút ra kết luận: "Trong thế giới bây giờ chỉ có

cách mệnh Nga là đã thành công, và thành

công đến nơi"[3, tr.39].

Đinh Xuân Lý / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

101

Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc

bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương

về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của

Lênin đăng trên báo L'Humanité, Người

nhận ra: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta,

đây là con đường giải phóng chúng ta"[5,

tr.127]. Như vậy là, với lòng yêu nước,

thương dân sâu sắc Nguyễn Ái Quốc đã đến

với chủ nghĩa Mác-Lênin và quyết định lựa

chọn con đường cách mạng vô sản, con đường

đưa lại độc lập cho Tổ quốc và tự do, hạnh phúc

cho nhân dân - đó chính là con đường cách mạng

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

2. Từ lúc thực dân Pháp xâm lược Việt

Nam cho đến thập niên đầu của thế kỷ XX,

trước sự thất bại của phong trào đấu tranh

chống Pháp đã có những người Việt Nam ra

nước ngoài mong tìm sự giúp đỡ của chính phủ

các nước cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm,

giải phóng dân tộc: năm 1886, Tôn Thất

Thuyết sang Trung Quốc cầu viện; Phan Bội

Châu với quan niệm "đồng văn đồng chủng"

đã sang Nhật Bản - là nước vừa chiến thắng

trong hai cuộc chiến tranh Nhật - Trung

(1894) và Nhật - Nga (1905) để cầu viện và

tiếp theo là cầu học. Nguyễn Tất Thành mặc

dù rất khâm phục các vị cách mạng tiền bối,

nhưng Người không hoàn toàn tán thành

cách làm của họ "Ngay ở tuổi thanh niên,

trong lúc những thanh niên Việt Nam cùng

lứa tuổi say sưa với phong trào Đông Du

sang Nhật Bản thì Hồ Chủ tịch đã khước từ

sự lựa chọn của Phan Bội Châu đối với mình

và rời Tổ quốc ra đi về phía Tây"[6, tr.32]

Nguyễn Tất Thành xuất dương để tìm con

đường, cách thức (chứ không phải là cầu viện)

đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc,

giải phóng đồng bào. Người nói: "Tôi muốn

đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước

khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi

sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta"[1, tr. 14].

Thực tế cho thấy, từ năm 1911 đến năm

1920 là thời gian Nguyễn Ái Quốc tập trung

nghiên cứu, khảo sát, tìm kiếm, lựa chọn con

đường cách mạng cho dân tộc. Năm 1920 là

năm diễn ra các sự kiện đặc biệt trong cuộc

đời hoạt động cách mạng của Người:

Một là, vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc

đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận

cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa

của Lênin. Người tìm thấy trong Luận cương

của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng

cho nhân dân Việt Nam và lời giải đáp về vấn đề

cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ với phong

trào cách mạng thế giới [7].

Hai là, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp

(tháng 12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu

tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và

tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây

là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong trong

cuộc đời hoạt động của Người - từ lập trường

của người yêu nước đến lập trường của

người cộng sản; đánh dấu việc Nguyễn Ái

Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người

khẳng định:"Muốn cứu nước và giải phóng dân

tộc không có con đường nào khác con đường cách

mạng vô sản"[8, tr.314].

Từ năm 1921 đến năm 1930 là thời gian

Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính

trị tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam:

Một là, truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và

quan điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc vào

Việt Nam thông qua những bài đăng trên các

báo, xuất bản các tác phẩm và trực tiếp huấn

luyện cán bộ. Trong đó đặc biệt là tác phẩm

Đường cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ

bản của một cương lĩnh chính trị: chỉ ra

phương hướng phát triển đi tới thắng lợi của

con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo

quỹ đạo cách mạng vô sản; trực tiếp chuẩn bị

về chính trị tư tưởng cho việc thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam.

Đinh Xuân Lý / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

102

Hai là, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng

Thanh niên, một tổ chức cách mạng "đóng

vai trò tích cực về chuẩn bị tư tưởng và tổ

chức cho việc thành lập một Đảng Cộng sản

chân chính ở Việt Nam"[9, tr.10].

3. Trên hành trình tìm đường cứu nước,

Nguyễn Tất Thành làm mọi việc để sống và

để đi. Từ làm phụ bếp trên con tàu Pháp của

hãng "Vận tải hợp nhất" đến cào tuyết trong

một trường học, đốt lò, làm vườn, làm thợ

rửa ảnh... Thông qua lao động, Nguyễn Ái

Quốc gần gũi với cuộc sống của nhân dân lao

động, hiểu được nỗi thống khổ, hiểu được

nguyện vọng, ý chí, năng lực của họ và đồng

cảm với họ. Với tầm hiểu biết rộng lớn và vốn

thực tiễn phong phú, sâu sắc, ở Nguyễn Ái

Quốc đã sớm hình thành những nhận thức

mới so với các nhà yêu nước đương thời.

Trong đó có những vấn đề rất cụ thể và thiết

thực đối với cách mạng Việt Nam. Trước hết,

Nguyễn Ái Quốc nhận rõ đối tượng của cách

mạng thế giới là chủ nghĩa đế quốc thực dân

(không phân biệt màu da), vì ở bất kỳ đâu,

chúng cũng tàn bạo, bất công và độc ác.

Đương thời, có một số nhà yêu nước vì chưa

nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa đế

quốc, nên họ đã mắc phải những sai lầm "Cụ

Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực

hiện cải lương... điều đó là sai lầm, chẳng

khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan

Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi

Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì

"đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau"[1, tr.

14]; tiếp theo là việc Nguyễn Ái Quốc sớm

nhận thức rõ, nhân dân lao động thuộc địa

hay chính quốc đều bị chủ nghĩa đế quốc áp

bức, bóc lột. Họ là lực lượng cơ bản của cách

mạng thế giới.

Từ đó, Người hiểu rõ cách mạng là nhu

cầu tất yếu của nhân dân bị áp bức trên thế

giới; đồng thời nhận thức được khả năng và

điều kiện để nhân dân Việt Nam liên minh,

đoàn kết với các dân tộc bị áp bức trong cuộc

đấu tranh giải phóng dân tộc mình. Đây là

vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với cách

mạng Việt Nam, vì theo Nguyễn Ái Quốc,

nếu "Không có một sức mạnh thống nhất của

cả nước, không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của

bên ngoài, công cuộc vận động giải phóng

khó mà thành công được"[10, tr. 452]. Thực tế

cho thấy, trong hai cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thực

hiện quan điểm đoàn kết quốc tế của Hồ Chí

Minh, cách mạng nước ta đã tạo được một

mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết ủng hộ

cuộc kháng chiến của Việt Nam

4. Trên hành trình tìm đường cứu nước,

Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều nơi trên thế giới

để tìm hiểu, khảo sát. Người là một trong

những nhà chính trị đã đi nhiều nhất, có vốn

hiểu biết phong phú, sâu sắc về thực tế các

thuộc địa cũng như các nước tư bản đế quốc

chủ yếu trong những thập niên đầu của thế

kỷ XX. Đó là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc hiểu

rõ bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc, hiểu rõ

rằng những lời tuyên bố của các nước đế

quốc về quyền tự do của các dân tộc chỉ là sự

lừa bịp. Muốn được giải phóng các dân tộc

thuộc địa không có con đường nào khác

ngoài con đường đấu tranh.

Và, đó cũng là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc

trong khi khẳng định giá trị phổ biến của

những nguyên lý cơ bản chủ nghĩa Mác-

Lênin; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và

chế độ cộng sản có thể áp dụng vào cuộc cách

mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, thì

đồng thời Người cũng cho rằng "Dù sao thì

cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử"

của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào

đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không

thể có được"[7, tr.465]. Trong đó, trước hết

cần phải bổ sung học thuyết Mác bằng truyền

thống lịch sử, văn hoá của các dân tộc cụ thể.

Đinh Xuân Lý / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

103

Cùng với sự hiểu biết sâu sắc tình hình

kinh tế, chính trị, xã hội đất nước, Nguyễn Ái

Quốc khẳng định, cuộc đấu tranh giai cấp ở

Việt Nam không giống như ở phương Tây;

Người nhận thức đúng đắn sức mạnh của

tinh thần, ý thức dân tộc "Chủ nghĩa dân tộc

là động lực lớn của đất nước,...Phát động chủ

nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế

Cộng sản...nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ

biến thành chủ nghĩa quốc tế"[7, tr.466- 467].

Qua Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác-

Lênin được truyền bá vào Việt Nam không

phải với tư cách là một hệ thống hoàn bị gồm

triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội

khoa học, mà đã có sự lựa chọn, bổ sung "nội

địa hoá" cho phù hợp với thực tiễn xã hội,

con người Việt Nam. Điều đó được thể hiện

cụ thể trong cuốn Đường cách mệnh, tác phẩm

xác định phương hướng chiến lược cách

mạng Việt Nam. Trong tác phẩm đó, Nguyễn

Ái Quốc đặt bài Tư cách một người cách mệnh

vào đầu tác phẩm, đã chứng tỏ Người đặc

biệt coi trọng đạo đức - coi đạo đức là nền

tảng của người cách mạng, đồng thời cũng

thể hiện Người rất chủ động, sáng tạo trong

việc truyền bá quan điểm cách mạng vô sản

vào Việt Nam "Chắc chắn chúng ta không thể

tìm thấy một trường hợp nào truyền bá chủ

nghĩa Mác-Lênin giống như vậy. Phải chăng

Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm lớn:

phải có cái đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có

cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho

người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa

mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi

theo"[11, tr.340].

Chính nhờ sự sáng tạo trên đây, Nguyễn

Ái Quốc đã vận dụng thành công chủ nghĩa

Mác-Lênin vào Việt Nam: tập hợp và đoàn

kết được toàn dân tộc (Đại đoàn kết) và phát

huy được lực lượng tinh thần, vật chất của cả

dân tộc để giành chiến thắng trước những kẻ

thù có sức mạnh quân sự to lớn.

5. Quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về

tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành

lập Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu bằng

việc phê phán tội ác của thực dân Pháp, làm

rõ kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam

cần phải đánh đuổi; thức tỉnh tinh thần yêu

nước và truyền thống đấu tranh chống xâm

lược của nhân dân ta. Đây là bước đi mở

đường, có ý nghĩa quyết định sự thành công

của các bước tiếp theo. Bởi, muốn làm cách

mạng, theo Nguyễn Ái Quốc trước hết phải

biết "Ai là bạn ta? Ai là thù ta" và phải khơi

dậy, đề cao những giá trị tốt đẹp của truyền

thống dân tộc "Dân ta phải biết sử ta. Sử ta

dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên

ta... Sử ta dạy cho ta bài học này:

Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như

một thì nước ta độc lập, tự do.

Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì

bị nước ngoài xâm lấn" [10, tr.216-217].

Cũng chính vì vậy, mục đích đầu tiên

của tác phẩm Đường cách mệnh là "Nói cho

đồng bào ta biết rõ: Vì sao chúng ta muốn

sống thì phải cách mệnh"[4, tr.261]. Và, muốn

cách mạng thành công thì phải đoàn kết,

đồng tâm hiệp lực; muốn đoàn kết, muốn

đồng tâm hiệp lực "thì ai ai cũng phải hiểu rõ

vì sao mà phải làm, vì sao mà không làm

không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh

vác một vai, vì sao phải làm ngay không nên

người này ngồi chờ người khác. Có như thế

mục đích mới đồng, mục đích có đồng, chí

mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã

đồng, lại phải biết cách làm thì mới chóng"[4,

tr. 261].

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến

Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã gặp

tại đây "vài ba nhà cách mạng quốc gia An

Nam, trong số này có một người đã xa rời xứ

sở từ ba mươi năm nay... Ông không hiểu

chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức

Đinh Xuân Lý / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

104

quần chúng"[4, tr.8]. Trước tình hình đó,

Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng

Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn

đề nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp

tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ

chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân

tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản.

Trong quá trình huấn luyện cán bộ cho

cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không

chỉ truyền bá lý luận Mác-Lênin vào công nhân

mà cơ bản hơn là truyền bá vào các tầng lớp trí

thức yêu nước. Sau khi tầng lớp này được

huấn luyện, giác ngộ thì đưa họ vào nhà máy,

hầm mỏ để thực hiện "vô sản hoá". Với quy

trình như trên, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện

"trí tuệ hoá" những người cộng sản Việt Nam

từ rất sớm. Cách làm này của Nguyễn Ái

Quốc đã khắc phục được những hạn chế của

giai cấp công nhân Việt Nam lúc bấy giờ -

trình độ thấp. Và, thông qua quy trình sáng tạo

đó, Người đã tạo cơ sở giai cấp và dân tộc vững

chắc cho sự ra đời, phát triển của Đảng Cộng sản

Việt Nam.

Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình

chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho

việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ

vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát

triển học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng

sản. Và, vai trò to lớn của Hồ Chí Minh không

chỉ thể hiện trong việc chuẩn bị về chính trị, tư

tưởng, tổ chức và trực tiếp sáng lập ra Đảng, mà

những quan điểm, tư tưởng của Người về cách

mạng Việt Nam và Đảng Cộng sản đã trực tiếp

cấu thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện

Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991) chỉ rõ:

"Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của

sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong

trào công nhân và phong trào yêu nước của

nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là

hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là

tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và

dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc

với chủ nghĩa xã hội"[12, tr.127-128].

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt

Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có

cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con

đường cách mạng - giải phóng dân tộc theo

phương hướng cách mạng vô sản, đây chính

là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam sớm

nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách

mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng

khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai

cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ

XX; mở ra con đường và phương hướng phát

triển đúng đắn cho đất nước Việt Nam.

Tóm lại, những đặc điểm trên đây không

chỉ là cơ sở hình thành con đường cách mạng

Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội, mà còn là nền tảng để

Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Đảng Cộng sản

Việt Nam (một Đảng có bản lĩnh chính trị

vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng

và có trí tuệ tầm cao) - nhân tố quyết định

thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

[1] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt

động của Hồ Chủ Tịch, NXB Sự thật, Hà Nội, 1986.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 1995, 161.

[3] Đảng Cộng sản việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn

tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2002.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2002.

[6] Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Hội nghị khoa

học nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội,

1981.

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2002.

Đinh Xuân Lý / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 24 (2008) 99-105

105

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2002.

[9] Đảng Cộng sản việt Nam, Ban Chấp hành Trung

ương, Các tổ chức tiền thân của Đảng, Ban nghiên

cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội,

1978.

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 1995.

[11] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo

trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Tư

tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2003.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 1991.

Nguyen Ai Quoc with the choice revolutionary way and to

found VietNam Communist Party- several major fearture

Dinh Xuan Ly

Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam

Through history materials, the article analyses several major features in Nguyen Ai Quoc's

intinerary to look for a solution saving our country in early 20th century. The contributing to

bring out the basic to take form Ho Chi Minh's revolutionary way: Independence associates with

Socialism and the creativeness of Nguyen Ai Quoc in the foundation VietNam Communist Party.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: