Không Tên Phần 2
III
NHẬN THỨC LUẬN: LUẬN VỀ
TRI THỨC
Làm sao anh biết rằng anh biết thứ mà
anh nghĩ là anh biết? Loại bỏ phương án
trả lời "Đơn giản là tôi biết!" những gì
còn lại là nhận thức luận.
DIMITRI: Giờ tôi thấy dễ chịu rồi,
Tasso ạ. Nuốt trôi xong được món logic,
phần còn lại xem ra sẽ chỉ là một chuyến
dạo chơi trong Acropolis.
TASSO: Acropolis nào?
DIMITRI: Kia kìa! Ngay trước mặt
đấy! Có lẽ cậu nên làm một ly ouzo cho
dịu đầu óc, bạn ạ.
TASSO: Nhưng đó là Acropolis hay
chỉ là thứ mà cậu
tin
là Acropolis? Làm
sao cậu biết được nó là thật? Mà trong
chuyện này, làm sao cậu biết được một
cái gì đó
là thật?
DIMITRI: Đấy, cậu lại thế.
LÝ TÍNH ĐỌ VỚI THIÊN KHẢI
Vậy làm sao ta
biết
rằng mình biết
điều gì đó, nếu quả thực ta biết điều gì
đó?
Suốt thời Trung cổ, câu hỏi này đã
dẫn đến niềm tin coi thiên khải vượt trên
lý tính, là nguồn gốc của tri thức con
người, hoặc ngược lại.
Một người trượt chân rơi xuống giếng
sâu, lao thẳng đến mấy chục mét mới
dừng lại nhờ níu được vào một đoạn rễ
cây nhỏ. Nhưng bàn tay nắm đoạn rễ cứ
yếu dần, yếu dần, anh ta tuyệt vọng kêu
lên, "Có ai ở trên đó không?"
Anh ta nhìn lên, chỉ thấy một mảnh
trời tròn. Đột nhiên, những đám mây rẽ
ra, rồi một tia sáng chói lòa chiếu thẳng
xuống anh ta. Một giọng trầm sâu rền
vang, "Ta, Đức Chúa Trời đây. Con hãy
buông tay khỏi cái rễ cây, ta sẽ cứu."
Anh chàng gặp nạn thoáng nghĩ trong
tích tắc rồi gào lên, "Có ai khác ở trên
đó không?"
Bị treo trên một cái rễ cây, người ta
dễ có xu hướng nghiêng cán cân về phía
lý tính.
Ở thế kỷ mười bảy, René Descartes
đã chọn lý tính thay vì thần linh là nguồn
gốc của tri thức. Điều này sẽ được nhận
rõ khi đặt Descartes trước nguồn gốc ấy.
Có lẽ Descartes ước gì ông chưa từng
nói
"Cogito ergo sum"
(
Tôi tư duy vậy
tôi tồn tại
), bởi vì đó là tất cả những gì
mà mọi người nhớ về ông - câu nói đó và
chuyện ông đã thốt ra nó khi đang ngồi
trong một lò bánh mì. Dường như thế còn
chưa đủ tệ, mà "cogito" (tôi tư duy) của
ông thường xuyên bị hiểu sai thành
Descartes tin tư duy là đặc tính căn bản
của con người. Phải, thực sự ông đã tin
như thế, nhưng điều đó không liên quan
đến Cogito ergo sum. Descartes đi đến
cái cogito thông qua một thử nghiệm hoài
nghi triệt để nhằm phát hiện liệu có cái
gì mà ông có thể tin chắc; tức là, một cái
gì mà ông không thể nghi ngờ. Ông khởi
đầu bằng cách nghi ngờ sự tồn tại của thế
giới bên ngoài. Điều đó khá dễ dàng. Có
lẽ ông đang mơ màng hay đang bị ảo
giác. Rồi ông thử nghi ngờ sự tồn tại của
chính ông. Nhưng khi ông hoài nghi, ông
vấp phải thực tế rằng để hoài nghi cần có
kẻ hoài nghi. Đó là chính ông! Ông không
thể hoài nghi chính sự hoài nghi của
mình. Lẽ ra ông đã có thể tránh được
nhiều diễn giải sai lạc nếu chỉ nói,
"Dubito ergo sum." (Tôi hoài nghi vậy
tôi tồn tại).
Các quan tòa ở tòa án hình sự Mỹ
luôn yêu cầu bồi thẩm đoàn áp dụng
phương pháp tìm kiếm độ xác tín của
Descartes bằng cách xem xét bằng chứng
kết tội bị cáo dựa trên tiêu chuẩn khắt
khe gần như ngang với Descartes. Yêu
cầu dành cho bồi thấm đoàn không giống
như dành cho Descartes; quan tòa không
quan tâm liệu bồi thẩm đoàn có
bất kỳ
nghi ngờ nào về tội trạng của bị cáo, mà
quan tâm đến những nghi ngờ
xác đáng
.
Nhưng thậm chí tiêu chuẩn thấp hơn ấy
cũng đòi hỏi bồi thẩm đoàn phải tiến
hành những thử nghiệm trí não tương tự,
và gần như triệt để không kém Descartes.
Một bị cáo hầu tòa vì tội giết người.
Các chứng cứ buộc tội anh ta trong vụ án
đã rất rõ ràng, nhưng không có xác chết.
Kết thúc phần tranh biện của mình, vị
luật sư bào chữa quyết định phải dùng
mẹo. "Kính thưa quý bồi thẩm đoàn,"
ông ta nói. "Tôi có một điều ngạc nhiên
dành cho tất cả quý vị - trong vòng một
phút nữa, người bị cho rằng đã chết sẽ
bước vào phòng xử án này."
Ông ta ngó ra cửa phòng xử án. Các
vị hội thẩm sửng sổt, cũng hăm hở ngó
ra. Một phút trôi qua. Không có gì xảy
ra. Cuối cùng, luật sư nói, "Nói thật là
tôi đã bịa ra chuyện người chết sẽ bước
vào. Nhưng tất cả quý vị đều nhìn ra cửa
chờ đợi. Vậy, tôi có thể nói với các vị
rằng trong vụ này có một nghi ngờ hợp
lý, rằng có phải có người đã bị giết hay
không, do đó tôi phải yêu cầu các vị
quay lại phán quyết 'vô tội'.
Bổi thẩm đoàn giải lao để cân nhắc.
Vài phút sau, họ trở lại và ra phán quyết
"có tội."
"Nhưng sao các vị có thể làm thế?"
viên luật sư gầm lên. "Chắc chắn các vị
đã nghi ngờ. Tôi thấy tất cả các vị đều
nhìn chằm chằm ra cửa."
Chủ tịch bồí thẩm đoàn trả lời, "Ồ,
chúng tôi đã nhìn, nhưng thân chủ của
ông thì không."
CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM
Theo triết gia kinh nghiệm chủ nghĩa
người Ireland thế kỷ mười tám, giám mục
George Berkeley, thì
"Esse est percipi"
("Tồn tại là được tri giác")
, hay nói
cách khác thì cái gọi là thế giới khách
quan chỉ ở trong trí óc của chúng ta.
Berkeley lập luận rằng chúng ta chỉ nhận
được tri thức về thế giới này thông qua
các giác quan của mình. (Các nhà triết
học gọi loại thông tin này là "dữ liệu
giác quan.") Vượt khỏi các dữ liệu giác
quan này, Berkeley nói, ta không thể suy
đoán được bất cứ điều gì khác, chẳng
hạn như sự tồn tại của các vật chất ngoài
kia đang phát ra những rung động kích
thích các giác quan của chúng ta. Nhưng
vị giám mục đáng kính này lại tiếp tục
suy luận rằng những dữ liệu giác quan
phải
đến từ nơi nào đó, do đó
nơi nào
đó
phải là Chúa. Về cơ bản, tư tưởng của
Berkeley là Chúa ở trên kia đang gõ
những dữ liệu giác quan lên một Website
vũ trụ mà tất cả chúng ta đều cập nhật
được 24/7. (Thế mà chúng ta cứ nghĩ
Chúa chỉ làm việc 24/6!)
George Berkeley (1685-1753): giám mục
Ireland, nhà thần học và triết gia đề xướng
thuyết duy tâm chủ quan cực đoan với luận
điểm nổi tiếng:
"Esse est percipi aut
percipere"
(Sự tồn tại của các đối tượng là cái
được tri giác, còn sự tồn tại của các chủ thể là
sự tri giác.)
Có câu chuyện rằng người cùng thời
với Berkeley là tiến sĩ Samuel Johnson,
khi biết đến luận điếm "Esse est
percipi", đã đá vào một cái cột và la lên,
"Tôi bác bỏ giám mục Berkeley như thế
đấy!"
Đối với Berkeley, câu chuyện đó hẳn
giống như một trò cười. Cú đá ấy và
ngón chân bị đau sau cú đá chỉ chứng tỏ
rằng Chúa vẫn đang bận rộn với nhiệm
vụ của ngài là gửi các dữ liệu giác quan
đã được định vị đến với tiến sĩ Johnson:
đầu tiên là cảm giác cử động của chân bị
chặn, và ngay sau đó là cảm giác đau.
Tình huống phức tạp hơn nhiều khi
nguồn gốc dữ liệu giác quan của chúng ta
là một người khác:
Một người đàn ông lo vợ mình nghễnh
ngãng bèn tìm đến bác sĩ. Bác sĩ khuyên
ông ta thực hiện một bài kiểm tra đơn
giản ở nhà như sau: đứng phía sau vợ hỏi
một câu gì đó, đầu tiên cách sáu mét, rồí
ba mét, và cuối cùng đứng sát sau lưng.
Người đàn ông đi về nhà, thấy vợ
đang đứng nấu nướng, quay mặt vào bếp
lò.
"Tối nay nhà ta có món gì thế bà?"
ông ta hỏi từ ngoài cửa.
Không có câu trả lời.
Tiến lên cách vợ ba mét, ông ta nhắc
lại câu hỏi, "Tối nay nhà ta có món gì thế
bà?"
Vẫn không có câu trả lời.
Cuối cùng, ông ta đứng sát sau lưng
vợ và hỏi, "Tối nay nhà ta có món gì thế
bà?"
Đến lúc này, bà vợ mới quay lại đáp,
"Tôi bảo ông đến lần thứ ba rồi đấy nhé
- gà!"
A, đôi vợ chồng này đúng là có rắc
rối lớn với việc diễn giải dữ liệu giác
quan.
PHƯƠNG PHÁP KHOA HỌC
Ngày nay, có lẽ không cần thông minh
lắm ta cũng biết rằng toàn bộ tri thức về
thế giới bên ngoài đều được lĩnh hội
thông qua các giác quan của chúng ta.
Nhưng xưa kia thì không phải lúc nào
cũng vậy. Trong quá khứ, nhiều triết gia
cho rằng có những ý niệm bẩm sinh hiện
hữu trong trí óc chúng ta là
tiên nghiệm
(a priori) - tức là có trước kinh nghiệm.
Một số triết gia coi các ý niệm của
chúng ta về Chúa là bẩm sinh; nhiều
người khác khẳng định rẳng tư tưởng của
chúng ta về tính nhân quả cũng là bẩm
sinh.
Thậm chí bây giờ, khi ai đó nói, "Mọi
sự xảy ra đều có lý do", hay "Tôi tin vào
sự đầu thai", thì mệnh đề anh ta nêu lên
đều không thể khẳng định hay phủ định
bằng kinh nghiệm. Những phần lớn chúng
ta thừa nhận rằng bằng chứng xác tín nhất
về tình trạng thế giới bên ngoài là kinh
nghiệm thuộc cảm giác, và theo nghĩa đó
tất cả chúng ta đều là những nhà chủ
nghĩa kinh nghiệm. Tất nhiên, trừ phi
chúng ta là vua nước Ba Lan, một ngoại
lệ chứng minh cho nguyên tắc sau:
Đức vua Ba Lan cùng đoàn tùy tùng
toàn các vị vương hầu bá tước vào rừng
săn nai. Đoàn săn hoàng gia vừa đến gần
khu rừng, bỗng từ sau một thân cây có gã
nông nô chạy vụt ra, vẫy tay rối rít và la
lên, "Tôi không phải là một con nai!"
Nhà vua bèn rút cung tên, bắn thủng
tim gã nông nô, giết chết hắn trong tích
tắc.
"Tâu bệ hạ," một công tước thưa, "sao
ngài tại làm thế? Hắn đã kêu rằng hắn
không phải là nai kia mà."
"Trời ơi," nhà vua đáp. "Thế mà ta cứ
tưởng hắn nói hắn là một con nai."
Thôi được, giờ ta sẽ so sánh ông vua
ấy với một nhà khoa học có đẳng cấp.
Một nhà khoa học cùng vợ chạy xe về
nông thôn. Cô vợ nói, "ô, anh nhìn kìa!
Lũ cừu đã được xén lông."
"Ừ," nhà khoa học đáp. "Phía bên này
thôi."
Thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ rằng
người vợ chỉ nói ra một ý kiến dựa trên
kinh nghiệm thông thường, còn nhà khoa
học thì nêu quan điểm cẩn trọng và mang
tính khoa học hơn, từ chối sử dụng bằng
chứng không có trong cảm giác của bản
thân. Nhưng chúng ta đã lầm. Thật ra
chính câu nói của người vợ
mói là định
thức được đa số các nhà khoa học coi là
giả thuyết mang tính khoa học hon. "Kinh
nghiệm" của nhà kinh nghiệm chủ nghĩa
không hạn chế trong kinh nghiệm cảm
giác trực tiếp. Các nhà khoa học dùng
những kinh nghiệm
trước đó
của mình để
tính toán các khả năng và suy ra những
nhận định tổng quát hơn. Điều mà người
vợ nói thật ra là, "Thứ tôi nhìn thấy là
những con cừu đã được xén lông, ít nhất
là từ phía bên này. Từ kinh nghiệm trước
đây tôi biết rằng người nuôi cừu thường
không xén lông cừu chỉ một bên hông, và
ngay cả khi họ làm như thế, thì khả năng
để lũ cừu tự sắp xếp trên sườn đồi sao
cho phần đã xén lông của chúng quay ra
đường là vô cùng nhỏ. Nên tôi cảm thấy
chắc chắn khi nói rằng, 'Lũ cừu kia đã
được xén
sạch
lông."
Chúng tôi đồ rằng nhà khoa học trong
truyện cười này thuộc loại ngộ chữ.
Hoặc nói rõ hơn, chúng tôi cho rằng một
người không thể suy luận bằng kinh
nghiệm sẵn có của mình thì thật tối dạ,
hay đúng là một
Sardar
- theo cách nói
của người Ấn Độ.
Sardar là tước vị phổ biến trong cộng
đồng người Sikh (Ấn Độ). Trước khi người
Anh chiếm Punjab vào năm 1849, Sardar
được dùng để gọi các thủ lĩnh quân sự và đại
diện tầng lớp phong kiến người Sikh. Khi
châm biếm, hài hước, Sardar đồng nghĩa với
"tối dạ, ngốc..."
Một cảnh sát New Delhi tiến hành sát
hạch ba Sardar được huấn luyện làm
thám tử. Để khảo sát kỹ năng nhận diện
kẻ tình nghi của bọn họ, anh ta cho
Sardar thứ nhất xem một bức ảnh trong
năm giây rồi giấu đi. "Đây là một kẻ tình
nghi. Anh nhận ra hắn bằng cách nào?"
Anh chàng Sardar đáp, "Rất dễ, chúng
ta sẽ tóm được hắn ngay vì hắn chỉ có
một mắt!"
Viên cảnh sát nói, "Anh đúng là
Sardar! Đó là bởi vì bức ảnh tôi cho anh
xem là hình chụp nghiêng."
Sau đó, viên cảnh sát lại giơ bức ảnh
ra trong năm giây và hỏi Sardar thứ hai,
"Đây là một kẻ tình nghi. Anh nhận ra
hắn bằng cách nào?"
Sardar thứ hai mỉm cười và nói, "Ha!
Bắt hắn quá dễ, vì hắn chỉ có một tai."
Viên cảnh sát giận dữ, "Hai người các
anh làm sao thế? Tất nhiên chỉ có một
mắt và một tai lộ ra, vì đây là hình trông
nghiêng của hắn! Đó là câu trả lời hay ho
nhất mà các anh có được đấy rồi sao?"
Hết sức thất vọng, viên cảnh sát giơ
bức ảnh cho Sardar thứ ba, hỏi bằng
giọng gay gắt, "Đây là một kẻ tình nghi.
Anh nhận ra hắn bằng cách nào?"
Sandar thứ ba nhìn bức ảnh chăm chú
một lát rồi nói, "Kẻ tình nghi này mang
kính áp tròng."
Viên cảnh sát giật mình, vì chính anh
ta cũng không biết kẻ tình nghi có mang
kính áp tròng hay không. "Hay lắm, thật
là câu trả lời thú vị," anh ta nói. "Anh
đợi đây một lát để tôi kiểm tra lại hồ sơ
của hắn, rồi sẽ thông báo kết quả."
Anh ta về phòng làm việc của mình,
kiểm tra hồ sơ của kẻ tình nghi trong máy
tính, rồi quay lại mỉm cười. "Chà! Không
thể tin được. Đúng thế đấy! Kẻ tình nghi
này quả nhiên có mang kính áp tròng.
Giỏi lắm! Làm sao anh có thể quan sát
sắc sảo thế?"
"Dễ ợt," Sardar trả lời. "Hắn không
thể đeo kính thường bởi vì hắn chỉ có
một mắt và một tai."
Sự thắng thế của chủ nghĩa kinh
nghiệm trong nhận thức luận phương Tây
được phản ánh qua thực tế rằng chúng ta
mặc nhiên coi nó là phương pháp kiểm
tra mà mọi người đều sử dụng:
Ba phụ nữ đang thay quần áo trong
phòng thay đồ để chuẩn bị chơi bóng vợt
(Racquetball) thì có một người đàn ông
trần truồng trùm mỗi cái bao trên đầu
chạy qua. Bà thứ nhất nhìn mẩu xúc xích
của anh ta và nói, "Không phải chồng
tôi". Bà thứ hai nói, "Không, không phải
đâu". Bà thứ ba nói, "Hắn thậm chí
không phải thành viên câu lạc bộ này".
Tuy vậy, bất chấp sự thắng thế của chủ
nghĩa kinh nghiệm và khoa học, nhiều
người vẫn tiếp tục lý giải các sự kiện
khác thường như là những phép lạ chứ
không phải là kết quả của những nguyên
nhân tự nhiên. David Hume, triết gia kinh
nghiệm chủ nghĩa hoài nghi Anh, phát
biểu rằng niềm tin vào phép lạ có thể có
cách giải thích hợp lý duy nhất nếu tất cả
những phương án khác còn khó tin hơn.
Chẳng hạn, một người khăng khăng cho
rằng anh ta có cây cọ cảnh biết hát những
khúc aria trong vở Aida của Verdi. Điều
nào khó tin hơn đây: cây cọ cảnh có khả
năng phá vỡ quy luật tự nhiên hay anh
chàng này điên, bịa tạc, hoặc ăn phải
nấm độc? Câu trả lời của Hume: "Vớ
vẩn!" (Chỗ này chúng tôi quả tình có hơi
xuyên tạc lời ông ấy!) Do khả năng người
kể chuyện bịa đặt hoặc thổi phồng sự thật
cao hơn nhiều so với khả năng cây cọ
phá vỡ quy luật tự nhiên, Hume hẳn
không thấy có cái lý nào để kết luận rằng
đã có một phép lạ xảy ra. Ngoài ra, hầu
như ai cũng biết cây cọ cảnh thích
Puccini hơn Verdi.
Thật thú vị, trong câu chuyện dưới
đây, Bill, một người có vẻ giống môn đệ
của Hume, đã thẩm định cả điều coi là
phép lạ, nhưng rốt cuộc thì đi đến kết
luận rằng phương án giải thích khác thậm
chí còn khó tin hơn:
Một hôm Bill than phiền với người
bạn rằng khuỷu tay anh ta rất đau. Người
bạn khuyên anh ta đến gặp vị đạo sư
sống trong một cái hang gần đó. "Cậu chỉ
việc để lại chút nước tiểu ở ngoài cửa
hang, ông ấy sẽ quán tưởng về nó, sẽ
chẩn đoán chuẩn xác bệnh của cậu, và
nói cho cậu biết phải làm gì. Chỉ mất có
mười đô la thôi."
Bill nghĩ cũng chẳng tốn kém mấy, nên
lấy một ít nước tiểu vào bình rồi đặt
ngoài cửa hang cùng tờ mười đô la. Hôm
sau, anh quay lại, ở đó đã có mẩu giấy
viết sẵn cho anh: "Anh bị đau khuỷu tay.
Hãy ngâm cánh tay bằng nước ấm. Tránh
nâng vật nặng. Sau hai tuần sẽ đỡ."
Tối muộn hôm đó Bill mới sực nghi
ngờ rằng "phép lạ" của đạo sư chỉ là trò
bịp do anh bạn kia bày đặt ra, có thể
chính anh ta đã viết mẩu giấy và để ngoài
cửa hang. Nghĩ vậy, Bill bèn quyết định
chơi lại anh bạn kia. Anh khoắng một
chút nước vòi (robinet), một chút phân
chó, cùng nước tiểu của vợ và con trai.
Anh hoàn tất bằng cách thêm vào đó chút
chất thải của chính mình rồi để hỗn hợp
trước cửa hang cùng tờ mười đô la.
Xong xuôi, anh mới gọi người bạn để
bảo anh gặp vài vấn đề nữa về sức khỏe
và đã để một mẫu khác cho đạo sư.
Hôm sau, anh quay trở lại hang và
thấy một mẩu giấy khác ghi rằng, "Nước
vòi nhà anh quá nhiều tạp chất. Hãy kiếm
một chiếc máy lọc. Con chó của anh có
giun. Cho nó uống thuốc. Con trai anh đã
dính cocain. Đưa nó đi cai nghiện. Vợ
anh có song thai, con gái. Chúng không
phải con anh. Tìm một luật sư. Còn anh
nếu không chấm dứt tự sướng, cái tay
đau sẽ không bao giờ khỏi."
Nhưng thông thường trong truyện cười
cũng như trong triết học, những lý giải
gây hoài nghi vẫn phổ biến hơn.
Ông lang già Bloom, chủ một tiệm đồ
sắt trong vùng, nổi tiếng trị bệnh viêm
khớp rất thẩn tình, bệnh nhân xếp hàng
dài chờ ngoài cửa, trong đó có một bà
già lưng còng, chống gậy lê từng bước.
Khi đến lượt, bà già bước vào phòng,
nửa giờ sau đã bước ra, và thật kinh
ngạc, lưng thẳng băng, đầu ngẩng cao.
Một bà đang đợi đến lượt mình kêu
lên, "Kỳ diệu quá! Bà vào đây lưng còng
mà sau nửa giờ bước ra lưng lại thẳng.
Thầy lang đã làm gì vậy?"
Bà già đáp, "ông ấy cho tôi cái gậy
dài hơn."
Một người mù đương nhiên cũng có
thể là người kinh nghiệm chủ nghĩa, như
anh chàng sau đây, mặc dầu dữ liệu thị
giác không có trong kinh nghiệm của anh
ta:
Hôm ấy là lễ Quá hải, một người Do
Thái đang dùng bữa trưa trong công
viên. Chợt một người mù ngồi xuống bên
cạnh, người Do Thái bèn mời người mù
chia sẻ đồ ăn với mình - một miếng bánh
không men. Người mù đón lấy miếng
bánh, sờ sẩm một lát rồi hỏi, "Ai viết
nhăng cuội gì thế này?"
Bánh không men (matozh) mỏng như giấy,
do cách nướng đặc biệt nên nổi sần lên thành
hàng như những hàng chữ khiến người mù
tưởng là chữ nổi.
Còn anh chàng trong câu chuyện dưới
đây mắc sai lầm ngớ ngẩn khi tưởng rằng
người mù không thể kiểm tra thông tin
khi sử dụng những giác quan khác:
Một người dắt chó vào quán bar gọi
đồ uống. Người pha rượu nói, "ông
không được mang con chó đó vào đây!"
Người kia không hề bối rối, đáp, "Nó là
con chó dẫn đường của tôi đấy."
"Ồ, tôi xin lỗi!" người pha rượu nói.
"Đây, ly thứ nhất tôi mời nhé." Người kia
cầm lấy ly rượu đến ngồi xuống một bàn
gần cửa.
Lại có người nữa dắt chó đi vào quán
bar. Người dắt chó lúc nãy ngăn anh ta
lại khẽ nhắc, "Anh không được dắt chó
vào đây đâu, trừ phi anh bảo với anh ta
nó là chó dẫn đường." Người thứ hai nhã
nhặn cám ơn, tiếp tục đi đến quầy và gọi
đồ uống. Người pha rượu nói, "Này, ông
không được mang con chó đó vào đây!"
Người đán ông đáp, "Đây là con chó
dẫn đường của tôi."
Người pha rượu nói, "Không, tôi
không nghĩ thế. Không ai dùng Chihuahua
làm chó dẫn đường cả."
Người đàn ông thoáng khựng lại nửa
giây rồi kêu lên, "Hả?!?! Họ đưa cho tôi
một con Chihuahua?!?"
CHỦ NGHĨA DUY TÂM ĐỨC
Nhưng nếu để tâm suy nghĩ, thì dù sao
mỗi vật thể cũng phải gắn với một cái gì
đó khác nữa ngoài các dữ liệu giác quan
chứ! Ấn đâu đó ở đằng sau nó chẳng hạn.
Triết gia Đức thế kỷ mười tám
Immanuel Kant nghĩ vậy. Ông đọc các
nhà kinh nghiệm chủ nghĩa Anh, và như
ông diễn tả, họ đã làm ông thức tỉnh khỏi
cơn mê giáo điều. Kant từng cho rằng trí
óc của chúng ta có thể cho ta biết chắc
thế giới thực sự thế nào. Nhưng các nhà
kinh nghiệm chủ nghĩa đã chứng minh, vì
tri thức của chúng ta về thế giới bên
ngoài đến với chúng ta qua các giác
quan, nên ở một mức độ nào đó, nó luôn
không chắc chắn. Một quả dâu chỉ đỏ và
ngọt khi nó được kiểm tra bằng những
công cụ nhất định - mắt và các nụ vị giác
của chúng ta. Chúng ta biết một số người
có cấu tạo nụ vị giác khác thường có thể
không cảm thấy quả dâu ngọt. Vì vậy,
Kant thắc mắc, quả dâu "tự thân" là gì
mà có vẻ đỏ và ngọt - hoặc ở một trạng
thái khác - khi đi qua công cụ cảm giác
của chúng ta?
oOo
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cho
rằng khoa học có thể giúp ta biết một vật
tự thân thực sự là gì
, kể cả khi giác
quan của chúng ta bất lực. Nhưng nếu để
tâm suy nghĩ, ta sẽ thấy khoa học thực ra
không thể đưa chúng ta đến gần hơn với
quả-dâu-tự-thân. Thực tế thì khoa học
không giúp ta khẳng định được rằng một
cấu trúc hóa học nhất định của quả dâu
và một cấu trúc thần kinh nhất định của
con người kết hợp lại có thể quyết định
quả dâu sẽ ngọt hay chua - và rằng cấu
trúc hóa học này chính là cái mà quả dâu
tự thân "thực sự là". "Một cấu trúc hóa
học nhất định" mà chúng ta nói đến đó
thực ra là "hiệu quả mà ta quan sát được
khi ta cho quả dâu đi qua những thiết bị
nào đó". Cho quả dâu đi qua những thiết
bị nào đó chỉ cho chúng ta biết quả dâu
có vẻ như thế nào khi nó đi qua những
thiết bị ấy, cũng như cắn vào một quả dâu
cho chúng ta biết quả dâu có vẻ như thế
nào khi nó đi qua những nụ vị giác của
chúng ta.
oOo
Kant kết luận rằng chúng ta không thể
biết sự vật tự thân là gì.
Ding an sich,
vật-tự-thân, theo Kant là "bằng x" (ẩn
số). Chúng ta chỉ có thể biết
thế giới
hiện tượng,
thế giới của các biếu hiện
bên ngoài; chúng ta không thể biết gì về
thế giới bản thể, siêu nghiệm
ở
phía sau
các biểu hiện bên ngoài.
Với quan điểm đó, Kant đã thách thức
vô số các luận thuyết triết học. Lý trí
không thể cho ta biết về thế giới nằm bên
ngoài giới hạn các cảm giác của ta. Kể
cả vị Chúa-thư-ký-nhập-dữ-liệu của
Berkeley, lẫn tất cả các giải thích siêu
hình về thế giới đều không đem lại cho
chúng ta hình dung chân thực về thế giới.
Triết học từ nay không bao giờ còn như
trước nữa.
Thư ký: Thưa bác sĩ , có một người
vô hình trong phòng đợi.
Bác sĩ: Bảo là tôi không thể g
ặp anh
ta được. (*)
(*)Chơi chữ:I can't see him: không thể
nhìn thấy, hay từ chối gặp.
Có thể chuyện cười này không giúp
bạn hiểu được những lý giải phân biệt
thế giới hiện tượng và thế giới bản thể
của Kant. Đó là vì nó đã bị rơi rụng ít
nhiều khi chuyển ngữ. Đây là nguyên bản
chúng tôi nghe được trong quán rượu
tầng hầm của trường đại học Königsberg:
Thư ký: Herr Doktor (thưa bác sĩ), có
một
ding an sich
trong phòng đợi.
Bác sĩ tiết niệu: Lại một
ding an sich!
Nếu hôm nay mà tôi thấy thêm một gã
nữa thì tôi sẽ khóc thét lên mất! Ai vậy?
Thư ký: Làm sao tôi biết được?
Bác sĩ tiết niệu: Cô tả hắn cho tôi.
Thư ký: Ông đang đùa à!
Bạn có nó rồi đấy: một truyện cười
chính hiệu về
sich
(vật tự thân).
Câu chuyện này sâu sắc hơn ta thoạt
tưởng. Cô thư ký đã chọn, vì một lý do
nào đó chỉ có một mình cô rõ nhất, không
chia sẻ với bác sĩ dấu hiệu cô biết về
việc có một
ding an sich
trong phòng
đợi. Dù dấu hiệu đó là cái gì, nó phải là
mang tính
hiện tượng!.
(Nếu bạn vẫn
đang theo sat chúng tôi nói gì). Cái gì
mách nước cho cô? Phải là cái gì đó
trong phạm vi các giác quan, có thể là
giác quan
thứ sáu,
có thể chỉ là giác
quan từ một đến năm, nhưng chắc chắn
nó là một gíac quan theo nghĩa nào đó. Ở
đây có một câu chuyện ẩn phía sau. Là
cô thư ký đã hoàn thành luận án tiến sĩ về
Phê phán Lý tính Thuần túy
của Kant
trước khi phát hiện ra rằng lựa chọn sự
nghiệp thích hợp nhất với cô chính là
nghề thư ký và công việc với nồi xoong
bếp núc. Do đó, cô hiểu yêu cầu của bác
sĩ, "tả hắn cho tôi", không có nghĩa là
"Cô đang trải nghiệm hiện tượng cảm
tính nào?" mà là "hãy tả hắn như hắn vốn
là, đằng sau những biểu hiện bề ngoài".
Dễ hiểu vì sao cô phật ý với yêu cầu này,
mặc dù về sau cô đã bình tâm lại và
cưới Helmut, người em họ của bác sĩ, và
đã nuôi nấng ba đứa con đáng yêu.
Đối với Kant và những nhà nhận thức
luận sau ông, câu hỏi chúng ta có thể biết
cái gì và biết nó như thế nào có thể được
diễn giải thành: chúng ta có thể nói gì,
một cách đầy đủ ý nghĩa
, về việc chúng
ta biết cái gì và biết nó như thế nào.
Loại
mệnh đề nào
về
thế giới chứa đựng trí
thức về thế giới?
Kant bắt tay giải quyết nhiệm vụ trả
lời câu hỏi đó bằng cách chia các mệnh
đề ra làm hai phạm trù: phân tích và tổng
hợp. Mệnh đề phân tích là mệnh đề đúng
theo định nghĩa. Mệnh đề "Tất cả thú mỏ
vịt là động vật có vú" là mệnh đề phân
tích. Nó không cung cấp thêm điều gì
mới về bất kỳ con thú mỏ vịt có thật nào,
ngoài những gì mà ta có thể biết được
đơn giản bẳng cách tra từ "thú mỏ vịt"
trong từ điển. Trái lại, "Một số con thú
mỏ vịt bị lác mắt" là mệnh đề tổng hợp.
Nó cho chúng ta một thông tin mới về
thế
giới, bởi vì "bị lác mắt" không nằm
trong định nghĩa về "thú mỏ vịt". "Một
số con thú mỏ vịt "bị lác
mắt" nói với chúng ta thông tin về
những con thú mỏ vịt mà chúng ta không
thể tìm thấy bằng cách tra từ "thú mỏ vịt"
trong từ điển.
Tiếp theo, Kant phân biệt mệnh đề
a
priori
(tiên nghiệm) với
a posteriori
(hậu nghiệm). Các mệnh đề tiên nghiệm
là mệnh đề mà chúng ta có thể thiết lập
trên cơ sở thuần túy lý tính, không cầu
viện đến kinh nghiệm cảm tính. Mệnh đề
trên của chúng ta, "Tất cả thú mỏ vịt là
những động vật có vú", được coi là
mệnh đề
tiên nghiệm.
Chúng ta không
cần quan sát một đám thú mỏ vịt để thấy
điều đó đúng. Chúng ta chỉ cần tra trong
từ điển. Phán đoán
hậu nghiệm,
trái lại,
dựa trên kinh nghiệm cảm giác về thế
giới. Mệnh đề "Một số con thú mỏ vịt bị
lác mắt" chỉ có thể thiết lập được qua kết
quả quan sát nhiều con thú mỏ vịt
-
hoặc
của chính chúng ta, hoặc của người khác
mà chúng ta tin cậy.
oOo
Đến đây chúng ta đã thấy những thí dụ
về các mệnh đề phân tích
tiên nghiệm
("Tất cả thú mỏ vịt là động vật có vú")
và mệnh đề tổng hợp
hậu nghiệm
("Một
số con thú mỏ vịt bị lác mẳt").
Kant
hỏi,
"Liệu có loại mệnh đề thứ ba, tổng hợp
tiên nghiệm
không?" Chúng sẽ cho
chúng ta những tri thức mói về thế giới
bên ngoài nhưng chỉ có thể được biết
nhờ lý trí mà thôi. Các nhà kinh nghiệm
chủ nghĩa đã ngụ ý rằng không tồn tại tri
thức tổng hợp
tiên nghiệm,
vì
nguồn gốc
tri thức của chúng ta về thế giới bên
ngoài là những kinh nghiệm cảm giác của
chúng ta. Nhưng Kant nói, "Khoan đã!
Thế còn những mệnh đề như 'Mỗi sự
kiện đều có một nguyên nhân' thì sao?"
Nó là tổng hợp: Nó nói với chúng ta một
điều mới về thế giới vượt ra khỏi những
gì chứa trong định nghĩa về "nguyên
nhân" và "sự kiện". Nhưng nó cũng là
tiên nghiệm,
chỉ nhờ lý trí mà biết được,
không phải từ kinh nghiệm. Thế lả thế
nào? Kant nói, "Bởi vì nó
phải
được giả
định là đúng ngay cả nếu chúng ta
có
loại
kinh nghiệm chỉ có thể nhận thức được
bằng trí óc." Nếu chúng ta không giả
định rằng hoàn cảnh hiện tại có nguyên
nhân từ một chuỗi những sự kiện diễn ra
từ trước, chúng ta không thể cắt nghĩa bất
cứ điều gì. Như vậy sẽ giống như sống
trong bộ phim
Mulholland Drive,
trong
đó các sự kiện diễn ra theo một trật tự
không mạch lạc. Chúng ta phải quên đi
việc đưa ra
bất kỳ
loại phán đoán hoặc
mệnh đề nào về thế giới bởi vì chúng ta
không thể trông mong thế giới nhất quán
từ phút này sang phút khác.
Có hàng trăm truyện cười xoay quanh
sự nhầm lẫn giữa những mệnh đề phân
tích
tiên nghiệm
với những
mệnh đề tổng
hợp
hậu nghiệm
:
Một cách đảm báo trường thọ chắc
chắn: mỗi ngày ăn một viên chả băm
trong một trăm năm.
Cốt lõi của truyện cười này nằm ở chỗ
nó đưa một "giải pháp" phân tích
tiên
nghiệm
cho một vấn đề cần đến một giải
pháp tổng hợp
hậu nghiệm.
Câu hỏi về
một cách chắc chắn để sống lâu rõ ràng
cần đến một số thông tin về thế giới.
"Kinh nghiệm
cho thấy điều gì dẫn đến
trường thọ?" Chúng ta chờ đợi một câu
trả lời đại loại "bỏ thuốc lá" hay là
"uống 400 miligam Co-Enzyme Q-10
(
Chất bổ
sung
dinh dưỡng, có tác dụng chống
lão hóa, phòng chống bệnh tật
) lúc đi ngủ".
Nhưng ở đây câu trả lời là phân tích, với
một chút lạc đề về thịt băm viên làm trí
óc của bạn mù mịt. "Để trường thọ, hãy
sống một trăm năm, bởi vì một trăm năm,
theo định nghĩa thông thường, là trường
thọ. Ăn chút thịt viên nữa. Như thế không
gây hại cho bạn đâu." (Ờ, có lẽ tất cả
những chất béo chuyển hóa trong thịt băm
viên
có thể gây
hại, nhưng tất nhiên là
không hại, nếu bạn ăn được một trăm
năm).
Một truyện khác nữa:
Joe: Đúng là một ca sĩ huyền thoại,
nhỉ?
Blow: Ha! Nếu tôi mà có giọng của
anh ta, tôi cũng hát hay như thế.
Vẫn cùng một kiểu. Điều chúng ta
ngụ
ý
khi nói "ca sĩ huyền thoại" là người có
giọng hát tuyệt vời - thứ mà một nghệ sĩ
biểu diễn đương nhiên phải có. Do đó,
tuyên bố của Blow "Nếu tôi có giọng của
anh ta, tôi cũng hát hay như thế", không
cho chúng ta biết thêm điều gì mới về
khả năng ca hát của Blow. Câu nói của
Blow thực ra là: "Nếu tôi là một ca sĩ
huyền thoại, tôi sẽ là một ca sĩ huyền
thoại." Và nếu điều đó không đúng theo
định nghĩa, thì chẳng có gì đúng.
Còn đây là một minh chứng phức tạp
hơn khi người ta lẫn lộn mệnh đề tổng
hợp
hậu nghiệm
và mệnh đề phân tích
tiên nghiệm:
Một người thử bộ đồ đặt may và nói
với thợ may, "Tôi muốn ống tay áo nầy
ngắn bớt đi một chút! Nó dài quá đến
năm phân!"
Người thợ may nói, "Không cần đâu,
anh cứ gập khuỷu tay lại như thế này này.
Đấy, nó sẽ kéo ống tay áo lên."
Người kia nói, "Thôi được, nhưng
nhìn cái cổ áo xem! Khi tôi co khuỷu tay,
thì cổ áo xốc lên đến nửa đoạn gáy."
Người thợ may nói, "Vậy sao? Thế thì
anh hãy ngẩng cao đầu và ngửa ra sau.
Tuyệt lắm."
Người kia nói, "Nhưng bây giờ vai
trái thấp hơn vai phải đến bảy phân!"
Người thợ may nói, "Không thành vấn
đề. Anh lệch eo lưng qua trái một chút
nó lại bẳng ngay."
Người kia mặc bộ đồ ra khỏi tiệm
may, khuỷu tay phải gập, đầu ngả ra sau,
thân mình đổ nghiêng qua trái. Anh ta chỉ
có thể đi theo lối cà giựt, co quắp như
người liệt.
Đúng lúc đó, có hai người đi đường
để ý đến anh ta.
Người thứ nhất nói: "Trông anh chàng
tật nguyền tội nghiệp chưa kìa. Tôi thấy
thương quá."
Người thứ hai nói: "ừ, nhưng thợ may
của anh ta tài quá! Bộ đồ đó vừa khít với
anh ta không chê vào đâu được!"
Tổng hợp đối lập phân tích, phải
không? (Và ở đây chúng ta không bàn
đến vải.) Người lạ mặt đó nghĩ, "Người
thợ đã may cho anh ta bộ đồ vừa khít
không chê vào đâu được." Đây là một
mệnh đề tổng hợp
hậu nghiệm
có mục
đích thông qua quan sát để cung cấp
thông tin về người thợ may và tay nghề
của ông ta thế hiện qua bộ đồ. Nhưng đối
với người thợ may, "Bộ đồ tôi may là bộ
đồ vừa khít không chê vào đâu được"
thật ra là một mệnh đề phân tích. Với
người thợ may, câu nói đó không khác gì,
"Bộ đồ tôi may là một bộ đồ tôi may": vì
bất cứ
bộ đồ nào người đàn ông kia mặc
thử cũng sẽ vừa khít với anh ta, do người
thợ may đã làm cho người kia vừa khít
với bộ đồ.
C
HIẾC
ĐỒNG
HỒ
CỦA
K
ANT
Kant gán cho lý tính thuần túy tầm
quan trọng hàng đầu, đến mức ông thấy
kinh nghiệm cá nhân không mấy cần thiết
trong việc giải quyết các vấn đề về tri
thức. Vì thế, ông không bao giờ mạo
hiểm ra khỏi thành phố quê hương
Königsberg và sống một cuộc đời cô độc
với những thói quen cực kỳ đều đặn,
chẳng hạn đi dạo hẳng ngày sau bữa
chiều. Người ta nói rằng dân chúng
Königsberg đặt giờ đồng hồ của họ theo
vị trí mà Giáo sư Kant đến
ở
thời điểm
đó trong cuộc đi dạo hằng ngày ngược
xuôi trên cùng con phố (về sau nổi tiếng
với tên gọi
Philosophengang, Phố đi
dạo của Triết gia).
Một chuyện khác ít được biết hơn, (có
lẽ vì nó có thể không đúng) là người kéo
chuông nhà thờ lớn ở Königsberg cũng
chỉnh giờ đồng hồ trên tháp nhà thờ bằng
cách theo dõi khi nào Kant bắt đầu cuộc
đi dạo hàng ngày, và
Kant đến lượt mình
cũng
sắp
đặt thời gian đi dạo của mình
theo giờ
đồng hồ trên tháp nhà thờ.
Hãy bàn về sự lẫn lộn giữa phân tích
và tổng hợp! Cả Kant lẫn người kéo
chuông nhà thờ đều tin rằng họ đang nhận
thông tin mới bằng cách quan sát hành vi
của nhau. Kant cho rằng, nhìn đồng hồ
tháp ông sẽ biết giờ chuẩn chính thức của
Đức, mà giờ chuẩn chính thức của Đức
thì được xác lập tương ứng với vòng
quay của Trái Đất. Người kéo chuông
nghĩ rằng bằng cách quan sát cuộc đi bộ
hằng ngày của Kant, ông sẽ biết giờ
chuẩn của Đức, vì ông tin vào tính đúng
giờ cố hữu của Kant. Thực tế, mỗi người
đều đơn giản đi đến một kết luận phân
tích, đúng theo định nghĩa. Kết luận của
Kant: "Tôi đi dạo vào lúc 15:30 thực ra
là một mệnh đề phân tích "Tôi đi dạo khi
tôi đi dạo," - vì Kant xác định thời gian
là 15:30 nhờ một chiếc đồng hồ được
chỉnh theo cuộc đi dạo của ông. Kết luận
của người kéo chuông nhà thờ, "Đồng hồ
của tôi đúng," thật ra là "Đồng hồ của tôi
chỉ giờ mà đồng hồ của tôi chỉ," - bởi vì
tiêu chí để ông đánh giá độ
chính
xác
trên chiếc đồng hồ của mình là cuộc đi
dạo của Kant, mà cuộc đi dạo lại dựa
theo giờ khắc mà chiếc đồng hồ thể hiện.
TRIẾT HỌC VỀ TOÁN HỌC
Vậy còn nhận xét sắc sảo 2 + 2 = 4
của Dimitri nói lên điều gì? Có phải đó
là một mệnh đề phân tích, đúng theo định
nghĩa? Liệu có phải tổng của
2
với 2
thuộc về định nghĩa của số 4 không? Hay
nó là tổng hợp? Nó có cung cấp cho ta
hiểu biết mới về thế giới không? Có phải
chúng ta đạt tới kết luận đó bằng cách
đếm hai vật rồi lại đếm thêm hai vật nữa
và sau đó, đếm toàn bộ không? Thổ dân
bộ lạc Voohoona ở vùng núi hẻo lánh ở
Australia làm đúng như vậy.
Một người Voohoona nói với nhà nhân
loại học phương Tây: 2 + 2 = 5. Nhà
nhân loại học hỏi anh ta biết điều đó
bằng cách nào. Anh thổ dân đó đáp, "Tất
nhiên là bằng cách đếm. Đầu tiên tôi
buộc hai cái nút trên một sợi dây thừng.
Sau đó tôi buộc hai cái nút nữa trên một
sợi dây thừng khác. Khi tôi buộc hai sợi
dây lại với nhau, tôi có năm cái nút."
Triết học về toán học hầu như hoàn
toàn mang tính kỹ thuật và rất khó. Điều
duy nhất bạn thật sự cần biết là, khi nói
đến toán học, có ba loại người: những
người biết đếm và những người không
biết đếm.
CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG
Đối với một nhà thực dụng chủ nghĩa
theo tinh thần nhận thức luận như triết gia
Mỹ cuối thế kỷ mười chín William
James, chân lý của một mệnh đề nằm ở
hệ quả thực tế của nó. Theo James,
chúng ta
chọn
chân lý của mình bởi điều
khác biệt nó sẽ tạo nên trong thực tế.
Chúng ta nói định luật hấp dẫn của
Newton là đúng không phải vì nó phù
hợp với cái cách sự vật "thật sự là" mà
bởi vì nó đã chứng tỏ là
có ích
trong
việc tiên đoán hoạt động của hai vật thể
tương quan với nhau ở nhiều loại tình
huống khác nhau: "Này, tôi cá rằng
những quả táo sẽ rơi xuống ngay cả ở
New Jersey." Cái ngày mà một lý thuyết
không còn có ích nữa là ngày chúng ta sẽ
thay thế nó bằng một lý thuyết khác.
Một phụ nữ báo với cảnh sát rằng
chồng mình mất tích. Khi cảnh sát yêu
cầu mô tả, bà ta nói:
"Ông ấy cao một mét tám lăm, vạm
vỡ, tóc quăn, dày."
Bạn bà ta nói, "Bà đang nói cái gì
đấy? Chồng ba cao một mét sáu, hói đầu
và phệ bụng cơ mà?"
Ba ta đáp, "Ai cần cái người như thế
trở về
chứ?"
Đoạn đó thì nhiều người biết. Có thể
chính bạn cũng đã nghe rồi. Nhưng đoạn
đối thoại tiếp theo sau đây thì ít được
biết đến hơn:
Viên cảnh sát nói, "Thưa bà, chúng tôi
đang yêu cầu bà mô tả chồng phù hợp
với người chồng thật của bà."
Người đàn bà đáp, "Phù với hợp cái
gì! Sự thật không thể được xác định chỉ
dựa theo các tiêu chí nhận thức luận, bởi
vì các tiêu chí ấy không thể thỏa đáng
nếu được xác định mà không tính đến
mục tiêu được tìm kiếm và những giá trị
được nắm giữ. Tức là nói tóm lại, sự thật
là thứ mang lại sự thỏa mãn, mà thề có
Chúa, ông chồng tôi không được như
thế."
HIỆN TƯỢNG LUẬN
Sau khi bay lên những đỉnh cao trừu
tượng,
triết
học lại hạ cánh bằng cuộc
tiếp đất nhẹ nhàng xuống những kinh
nghiệm bình thường của đời sống thường
nhật. Điều này xảy ra với nhận thức luận
vào đầu thế kỷ hai mưoi, khi các nhà
hiện tượng luận tranh cãi "biết một cái gì
đó" thực sự nghĩa là gì. Là một phương
pháp luận hơn là tập hợp
các
nguyên lý
triết học, hiện tượng luận tìm cách hiểu
kinh nghiệm con người như nó đang sống
chứ không như những dữ liệu khách
quan. Cách tiếp cận này giống của một
tiểu thuyết gia hơn là của một triết gia
thiên về trừu tượng.
Từ tiếng Đức
einfühlung có
nghĩa là
"thấu cảm" hay "đồng cảm" được các
nhà hiện tượng luận như Edmund Husserl
dùng để nói về phương pháp nhận thức
tìm cách thâm nhập vào kinh nghiệm của
người khác để tri giác thế giới theo cùng
cách mà người đó tri giác; hay nói cách
khác là đặt mình vào vị trí của người
khác.
"Bác sĩ Janet," người phụ nữ bối rối
nói. "Tôi có vấn đề về tình dục. Chồng
tôi không thể làm tôi hứng lên được."
Bác sĩ Janet nói, "Thôi được, ngày
mai tôi sẽ khám kỹ. Hãy đưa cả chồng
chị đến nhé."
Hôm sau, người phụ nữ đến cùng với
ông chồng. "Xin hãy cởi quần áo ra, ông
Thomas," bác sĩ nói. "Bây giờ hãy xoay
một vòng. Tốt lắm, còn bây giờ xin hãy
nằm xuống. À-há, tôi thấy rồi. Xong rồi,
ông có thể mặc lại quần áo."
Bác sĩ Janet kéo người phụ nữ sang
một bên. "Chị hoàn toàn khỏe mạnh," cô
nói. "ông ấy cũng không làm tôi hứng lên
được."
DIMITRI: Phải công nhận, Tasso ạ,
cái món nhận thức luận này đáng để biết
lắm.
TASSO: Đáng? Về phương diện nào?
Cậu nói "đáng" ý là sao?
DIMITRI: Trước khi trả lời, tôi có
một câu hỏi cho cậu. Cậu có biết "nhọt
mông" nghĩa là gì không?
IV
ĐẠO ĐỨC HỌC
Phân định tốt xấu là lĩnh vực của
Đạo Đức học. Đó cũng là việc khiến các
bậc tu hành, học giả hay những người
làm cha mẹ bận rộn. Rủi thay trẻ em và
các triết gia cũng bận bịu: họ không
ngừng hỏi các vị tu hành, học giả hay
những người làm cha mẹ, "Tại sao?"
DIMITRI: Tôi đã suy nghĩ về câu hỏi
của cậu, "tốt" nghĩa là gì, và tớ đã có
câu trả lời: tốt là hành động theo nguyên
tắc đúng.
TASSO: Trời đất, Dimitri, ngạc nhiên
quá, cậu bắt đầu nói y như một triết gia
thực thụ rồi. Chỉ một câu hỏi cuối cùng
nữa: Làm sao cậu xác định được những
nguyên tắc đúng?
DIMITRI: À ừ! Thì cũng như mọi
người thôi, tôi học chúng từ mẹ.
TASSO (ngoảnh sang bên nói khẽ):
Sao Socrates lại có được toàn những
môn đệ hạng "A" nhỉ?
oOo
ĐẠO ĐỨC TUYỆT ĐỐI: LUẬT
CHÚA
Luật Chúa làm cho vấn đề đạo đức
học thành đơn giản: Nếu Chúa bảo cái gì
sai thì nó
là
sai, trọn vẹn và tuyệt đối.
Luật chỉ viết có thế. Nhưng ở đây lại nảy
sinh vấn đề phức tạp. Trước hết, làm sao
chúng ta có thế biết Chúa thật sự nghĩ gì?
Những tín đồ chính thống đáp: Kinh
Thánh nói
vậy.
Nhưng làm sao các nhân
vật trong Kinh Thánh biết dấu hiệu họ
nhận được thật sự là từ Chúa? Abraham
nghĩ ông được Chúa kêu gọi hy sinh đứa
con trai trên bàn thờ. Abraham suy nghĩ,
"Nếu Chúa nói thế, thì mình hãy làm như
thế." Nghi vấn triết học đầu tiên chúng ta
đặt ra cho Abraham là, "Ông sao thế,
điên à? Ông nghe 'Chúa' khiến ông làm
chuyện điên rồ, mà thậm chí ông không
cần hỏi để biết có thật là Chúa không?"
Một vấn đề khác của việc tuân theo
Luật Chúa nằm
ở
sự diễn dịch. Nên thể
hiện lòng tôn kính đối với cha mẹ như
thế nào cho phải? Một tấm thiếp nhân
Ngày của Mẹ? Hay kết hôn với anh
chàng tẻ nhạt con nhà nha sĩ vì cha mẹ
đáng kính của bạn
muốn
bạn làm vậy?
Những câu hỏi này hoàn toàn không phải
là đi quá sâu vào chi tiết, khi cậu con
nhà nha sĩ cao mét rưỡi và nặng tạ hai.
Đặc tính đầu tiên của Luật Chúa là
Chúa luôn luôn có tiếng nói cuối cùng.
Moses lê bước từ đỉnh Sinai xuống,
bảng đá trong tay, và loan báo với đám
đông đang tụ tập: "Ta có tin lành, và cũng
có tin dữ. Tin lành là ta đã khiến Người
rút xuống còn mười điều răn. Tin dữ là
'tội ngoại tình' vẫn còn đó."
oOo
Thánh Augustine trẻ trung và cường
tráng rõ ràng đã cố gắng có cuộc thương
lượng tương tự khi thốt lên câu nổi tiếng
này, "Lạy Chúa, xin hãy ban cho con sự
trinh bạch. Nhưng không phải
ngay lúc
này!" Rõ
ràng
Augustine đang hơi cố bắt
bẻ tỉ mẩn theo kiểu Talmud. "Con muốn
nói rằng, Chúa không nói chính xác
khi
nào
thì đừng phạm tội ngoại tình, phải
không?" Nghe như truyện tiếu lâm vậy.
ĐẠO ĐỨC KIỂU PLATO
Trong tác phẩm trứ danh của mình,
Cộng hòa,
Plato viết "Nhà nước chính là
một linh hồn". Bởi vậy để bàn về đức
hạnh cá nhân, ông đã viết một đoạn đối
thoại về phẩm hạnh của nhà nước lý
tưởng. Ông gọi các nhà lãnh đạo của nhà
nước này là các đấng Quân vương Triết
gia, điều này cho thấy tại sao Plato rất
được các triết gia ưa thích. Những ông
Vua Triết gia ấy dẫn dắt quốc gia như Lý
trí dẫn dắt linh hồn con người. Đức hạnh
hàng đầu, của cả Vua Triết gia và Lý trí,
là Thông tuệ - theo Plato định nghĩa là
hiểu được ý niệm về tính Thiện. Tuy
nhiên, tính thiện của người này lại là mồi
ngon của người khác.
Trong cuộc họp khoa của trường đại
học, bỗng có một thiên sứ xuất hiện, nói
với ông trưởng Khoa Triết: "Tôi sẽ ban
cho ngài một trong ba điều ước để lựa
chọn: Sự Thông tuệ, sắc đẹp hoặc mười
ngàn đô la."
Vị giáo sư lập tức chọn Thông tuệ.
Một ánh chớp lóe lên và vị giáo sư
dường như đã biến đổi, nhưng ông vẫn
ngồi đấy, đăm chiêu nhìn xuống bàn. Một
trong những đồng nghiệp cùa ông thì
thầm, "ông nói cái gì đi chứ."
Vị giáo sư nóí,
"Lẽ
ra tôi nên chọn đô
la."
THUYẾT KHẮC KỶ
Vấn đề đạo đức mà những nhà khắc kỷ
ở
thế kỷ thứ tư trước Công nguyên quan
tâm là phải phản ứng thế nào với xu thế
thổng trị của thuyết định mệnh, vốn là
đặc trưng cho cuộc sống trong một đế
chế bị kiểm soát ngặt nghèo. Họ không
thể thay đổi bất kỳ điều gì trong cuộc
sống hằng ngày, nên quyết định thay đổi
thái độ đối với chính cuộc sống. Họ chỉ
còn có cách kiểm soát cá nhân. Phái
Khắc kỷ lựa chọn chiến lược tách cảm
xúc khỏi cuộc sống. Họ gọi thái độ của
họ là
apathia
(vô cảm xúc), và đối với
người khắc kỷ, vô cảm xúc là đức hạnh,
mặc dù điều đó biến họ thành trò cười
trong các quán rượu địa phương. Những
người khắc kỷ tự nguyện chối bỏ một số
khoái lạc (tình dục, ma túy, và rượu chè)
để tránh những điều bất hạnh mà những
đam mê của bản thân mang lại (bệnh tình
dục, say xỉn, và nói năng bừa bãi). Họ
chỉ hành động theo lý trí, không bao giờ
theo đam mê, và coi mình là những
người duy nhất thực sự hạnh phúc - mặc
dù điều này chỉ nói lên rằng họ không-
bất-hạnh.
Trong câu chuyện sau đây, ông
Cooper thể hiện một dạng khắc kỷ hiện
đại: khắc kỷ qua ủy nhiệm.
Vợ chồng nhà Cooper tới tiệm nha
khoa,
ở
đây ông Cooper cho biết ông
đang rất vội.
"Khỏi
cần dùng mấy thứ
rườm rà đó, bác sĩ ạ!" ông yêu cầu.
"Không gây tê, không tiêm hay gì gì hết,
ông cứ nhổ cái răng ra là được rồi."
"Ước gì tôi có nhiều bệnh nhân khắc
kỷ như ông nhỉ," nha sĩ thán phục thốt
lên. "Đâu, ông nhổ chiếc răng nào?"
Ông Cooper quay sang vợ. "Há miệng
ra đi cưng."
oOo
G K. Chesterton từng viết: "Từ 'tốt'
có nhiều nghĩa. Chẳng hạn, nếu một gã
sắp bắn mẹ của hắn từ khoảng cách năm
trăm mét, tôi có thể gọi hắn là một tay
súng tốt, nhưng không nhất thiết là con
người tốt." Cái hạn định "nhất thiết" kia
chứng tỏ Chesterton sử hữu bộ óc triết
học thực thụ.
Gilbert Keith Chesterton (1874-1936): nhà
văn, nhà thơ, triết gia người Anh.
THUYẾT VỊ LỢI
Tất cả chúng ta đều biết lãnh tụ nổi
tiếng thể kỷ hai mươi Vladimir Lenin
từng nói, "Mục đích biện minh cho
phương tiện." Thật trớ trêu, câu này khá
gần với quan điểm của một trong những
triết gia yêu thích của nhóm vận động
theo Đảng Cộng hòa, John Stuart Mill.
Mill và những nhà vị lợi chủ nghĩa đề
xuất một thứ đạo đức học "vị kết quả":
Sự đúng đắn về mặt đạo đức của một
hành động chỉ được xác định bằng kết
quả của nó.
Nhân vật chính trong câu chuyện sau
đây rõ ràng là một người vị lợi:
Bà O'Callahan đề nghị ông họa sĩ
đã
vẽ xong chân dung mình vẽ thêm đôi
vòng vàng trên hai cổ tay, một chuỗi hạt
trân châu quanh cổ, đôi bông tai hồng
ngọc, và một mũ miện bằng kim cương.
Họa sĩ lưu ý bà rằng làm thế khác nào
nói dối.
Bà O'Callahan nói, "Anh biết không,
chồng tôi đang chạy theo một cô ả tóc
vàng. Sau khi tôi chết, tôi muốn nó phát
rồ lên mà đi tìm những món châu báu
này."
Lối biện minh này có thể khiến chúng
ta thỏa hiệp với những vấn đề nghiêm
trọng, nếu cảm thấy kỳ vọng được vào
những kết quả đủ "tốt".
Bà quả phụ Brevoort đang dạo vẩn vơ
bên hồ bơi ở câu lạc bộ thì trông thấy
một anh chàng đẹp trai đang tắm nắng.
Bà rụt rè đến gần anh ta và thốt lên, "Ổ,
tôi không nghĩ mình đã từng trông thấy
anh ở đây."
"Có lẽ vậy, ngưởi kia nói. "Tôi đã ở
tù ba mươi năm."
"Thật không? Vì tội gì?"
"Tôi giết
vợ
.
"A!" bà Brevoort vui mừng. "Có
nghĩa là anh đang độc thân!"
Triết gia vị lợi đương đại nổi tiếng
Peter Singer thường so sánh để tìm sự
giống nhau giữa các quyết định mà chúng
ta đều đồng ý là dẫn đến hậu quả
khủng
khiếp và các quyết định có vẻ nhân từ
hơn - về mặt đạo đức ông cho rằng chúng
như nhau. Trong một tiểu luận, ông đặt ra
tình huống trong đó một người có thể
kiếm tiền mua ti vi mới bằng cách bán
một đứa trẻ vô gia cư cho một nghiệp
đoàn thu mua nội tạng để cấy ghép.
Khủng khiếp, tất cả chúng ta đều nhất trí.
Nhưng Singer lại lập luận tiếp, rằng khi
một người lại đi mua ti vi mới thay vì
góp số tiền đó cho quỹ từ thiện bảo vệ
trẻ em vô gia cư, về bản chất hành động
của anh ta là y hệt người kia. Bạn có thấy
ghét khi ông ấy nói như vậy không? Đó là
một lập luận loại suy đi từ trường hợp
kịch tính cá biệt đến một tuyên bố đạo
đức chung, giống như trong truyện cười
kinh điển sau đây:
Chàng: Em có chịu ngủ với anh lấy
một triệu đô la không?
Nàng: Một triệu đô ư? Chà! Em nghĩ
là có.
Chàng: Thế hai đô la thì sao?
Nàng: Biến đi, ông kễnh! Anh nghĩ tôi
là hạng người nào chứ?
Chàng: Hạng người nào thì chúng ta
đã xác định xong rồi. Bây giờ chỉ là thỏa
thuận xem giá cả thế nào thôi.
MỆNH LỆNH TUYỆT ĐỐI TỔI CAO
VÀ
QUY TẮC VÀNG CỔ XƯA
Nguyên tắc bao quát của Kant, tiêu
chuẩn cho tất cả các châm ngôn đạo đức
khác, là cái mà ông gọi là "mệnh lệnh
tuyệt đối tối cao". Thoạt nghe qua, mệnh
lệnh này có vẻ như phiên bản tân trang
của một quy tắc vàng cổ xưa.
Quy tắc vàng: "Hãy làm cho người
khác điều mà anh muốn người khác làm
cho anh."
Mệnh lệnh tuyệt đối tối cao: "Hãy chỉ
hành động theo châm ngôn nào mà anh
đồng thời có thể muốn nó trở thành quy
luật phổ quát."
Tất nhiên, diễn đạt của Kant nghe nhất
định là lạnh lùng hơn. Bản thân thuật ngữ
"mệnh lệnh tuyệt đối tối cao" nghe đầy
chất Đức. Nhưng Kant không làm khác
được, ông
là
người Đức.
Tuy nhiên, mệnh lệnh tuyệt đối và quy
tắc vàng
thực sự
có chung một lãnh địa
khá rộng lớn trong triết học:
- Cả hai đều không phải là quy tắc cho
bất cứ hành động cụ thể nào, chẳng hạn
như "Hãy kính trọng cha mẹ!" hay "Hãy
ăn rau chân vịt!"
-
Thay vào đó, cả hai cung cấp các
nguyên tắc trừu tượng để xác định hành
động cụ thể nào là đúng và hành động
nào là sai.
- Trong cả hai trường hợp, các nguyên
tắc trừu tượng này nêu quan điểm mọi
người đều giá trị ngang với bạn và tôi,
do đó, về mặt đạo đức nên đối xử với tất
cả mọi người như đối với bạn và tôi...
đặc biệt là như đối với tôi.
Nhưng giữa mệnh lệnh tuyệt đối và
quy tắc vàng
có
một khác biệt cơ bản -
và nó đã được lột tả rất xuất sắc trong
câu chuyện cười ngắn sau đây:
Kẻ bạo dâm là một kẻ khổ dâm tuân
theo nguyên tắc vàng.
Khi làm đau người khác, kẻ khổ dâm
chỉ thực hiện điều mà nguyên tắc vàng
đòi hỏi: làm cho người khác điều y muốn
người khác làm cho y, với một ngọn roi
thì càng thích. Nhưng Kant có lẽ sẽ nói
rằng khó có kẻ khổ dâm nào dám thành
thực tuyên bố rằng mệnh lệnh đạo đức
"làm đau người khác", có khả năng trở
thành nguyên tắc chung cho một thế giới
đáng để sống. Thậm chí người khổ dâm
cũng thấy điều đó là phi lý.
Những kiến giải tương tự đã dẫn nhà
soạn kịch người Anh George Bernard
Shaw đến chỗ giễu nhại quy tắc vàng như
sau:
"Đừng làm cho người khác điều mà
anh muốn người khác làm cho anh; họ có
thể có sở thích khác."
oOo
Những biến thể của quy tắc vàng được
bắt gặp không chỉ
ở
Kant, mà cả trong
nhiều truyền thống tôn giáo trên khắp thế
giới:
HINDU GIÁO (khoảng thế kỷ mười
ba trước C.N): Đừng làm cho kẻ khác
những gì mình không muốn kẻ khác làm
cho mình...Đây là toàn bộ Dharma
(Pháp). Hãy nhớ kỹ.
Mahabharata
Trong triết học Ẩn Độ, Dharma (Pháp - luật
và giáo pháp nói chung) có nhiều tầng ý nghĩa,
được hiểu và giải thích từ những góc độ khác
nhau. Theo truyền thổng Hindu giáo, một người
thực hành đúng Pháp là thực hành theo những gì
đã được quy định trong các thánh điển. Trong
Mahabharata, thực hành Pháp là thực hành theo
tám nguyên tắc: sùng kinh thần linh, học hỏi, bố
thí, khổ hạnh, chân thật, tha thứ, từ mẫn và
không tham lam..
DO THÁI GIÁO (khoảng thế kỷ mười
ba trước C.N): Điều ngươi không ưa thì
chớ làm cho người bên cạnh; đó là toàn
bộ Torah (
Năm quyển đầu của bộ
Kinh Thánh
Do Thái
, thường gọi là
Luật Giao Ước
hay
Ngũ
Kinh của Moses
); phần còn lại đều là bình
chú; hãy học lấy điều này.
Talmud Babylone
HỎA GIÁO (khoảng thế kỷ mười hai
trước C.N): Bản tính con người chỉ là
thiện khi không gây cho kẻ khác bất kỳ
điều gì không là thiện đối với chính
mình.
Dadistan-i-Dinik
PHẬT GIÁO (khoảng thể kỷ sáu
trước C.N): Đừng gây cho người khác
nỗi đau mà chính anh cảm thấy là đau
đớn.
Dhamamapada Tây Tạng
(Kinh Pháp
Cú)
KHỔNG GIÁO (khoảng thế kỷ sáu
trước C.N): Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân
(Điều gì mình không muốn thì đừng làm
cho người khác).
Khổng Tử (Luận
Ngữ)
HỒI GIÁO (khoảng thế kỷ bảy):
Không ai trong các ngươi thành tín đồ
được cho tới khi các ngươi muốn cho
người khác những gì các ngươi muốn cho
chính mình.
"Sunnah", trích
Hadith
BAHÁ'Í (khoảng thế kỷ mười chín):
Chớ gây cho bất kỳ ai khác điều ngươi sẽ
không tự gây ra cho chính mình, và chớ
nói với bất kỳ ai điều ngươi sẽ không nói
với mình. Đây là mệnh lệnh của ta dành
cho ngưoi, hãy tuân thủ.
Bahá'u'lláh,
Ẩn Ngữ
THUYẾT SOPRANO (thế kỷ hai
mươi mốt) Hãy nện gã bên cạnh anh với
lòng kính trọng mà anh muốn được
hưởng khi bị nện, hiểu chưa?
Câu thoại của nhân vật Tony Soprano, một
tên tội phạm người Mỹ gốc Ý trong bộ phim
truyền hình nổi tiếng
The Sopranos
(đạo diễn
David Chase).
Ý CHÍ QUYỀN LỰC
Triết gia Đức thế kỷ mười chín
Friedrich Nietzsche liều lĩnh tuyên bố
rằng ông đang bắt đạo đức Cơ Đốc
truyền thống phải dỏng tai lên. Ông đã
bắt đầu nhỏ nhẹ, bằng cách loan báo cái
chết của Chúa. Chúa trả đũa bằng cách
loan báo, trên những bức tường ngăn vệ
sinh nam trong khu đại học, cái chết của
Nietzsche. Điều Nietzsche muốn nói qua
cái chết của Chúa là nền văn hóa phương
Tây đã lớn vượt lên những giải thích siêu
hình về thế giới cũng như nền đạo đức
Cơ Đốc song hành. Ông gọi giáo lý Cơ
Đốc là "luân lý bầy đàn", bởi vì nó
truyền dạy một thứ "đạo đức phi tự
nhiên" – rằng làm một con đực số một
thống trị bầy đàn là tồi tệ. Ông thay thế
đạo đức Cơ Đốc bằng thứ đạo đức sức
mạnh đã được khẳng định bởi cuộc sống,
mà ông gọi là ý chí quyền lực. Cá nhân
kiệt xuất,
Übermensch
hay siêu nhân,
đứng trên đạo đức bầy đàn và hoàn toàn
xứng đáng tự do thể hiện sức mạnh tự
nhiên và sự vượt trội của mình đối với
bầy đàn. Khi vấn đề liên quan đến quy
tắc vàng, Friedrich rõ ràng là thành viên
của trường phái Tony Soprano. Hệ lụy là
Nietzsche bị gán trách nhiệm cho đủ thứ,
từ chủ nghĩa quân phiệt cho đến món dưa
bắp cải Đức:
Vấn đề của thực phẩm Đức là, dù bạn
ăn bao nhiêu đi chăng nữa, sau một giờ
bạn đã đói quyền lực.
CHỦ NGHĨA DUY CẢM
Đến giữa thế kỷ hai mươi, phần lớn
các khuynh hướng triết đạo đức học đều
là siêu đạo đức học. Thay vì hỏi, "Hành
động nào tốt?" giờ đây các triết gia hỏi,
"Nói một hành động là tốt
có nghĩa
là
gì? Có phải 'x tốt' chỉ có nghĩa là 'tôi tán
thành x'? Hay phải chăng 'x tốt' biểu thị
một cảm xúc mà tôi có khi quan sát x
hoặc nghĩ
về x?"
Quan điểm
cuối này,
được biết dưới tên gọi
chủ nghĩa duy
cảm, biểu hiện qua câu chuyện sau đây:
Một người viết một bức thư cho Sở
Thuế rằng: "Tôi mất ngủ khi biết mình
gian lận thuế thu nhập cá nhân. Tôi đã
giấu giếm bớt thu nhập chịu thuế của
mình nên gửi kèm theo đây tờ séc 150$.
Nếu vẫn mất ngủ, tôi sẽ gửi tiếp số còn
lại."
ĐẠO ĐỨC HỌC ỨNG DỤNG
Ngay khi các suy tưởng siêu đạo đức
học về ý nghĩa của ngôn từ "tốt" bắt đầu
mất dần sức lôi cuốn, thì
thi hành
đạo
đức một lần nữa trở nên hợp mốt, và các
triết gia lại lần nữa viết về những hành
động cụ thể nào là tốt. Đạo đức sinh học,
đạo đức nữ quyền, và đạo đức về đối xử
đúng đắn với động vật đã trở thành bắt
buộc.
Một kiểu mẫu đạo đức ứng dụng rất
phát triển
ở
thế kỷ hai mươi là đạo đức
nghề nghiệp, chính là các chuẩn tắc điều
chỉnh mối quan hệ của những người làm
nghề đối với khách hàng và bệnh nhân.
Sau hội nghị đạo đức nghề nghiệp,
bốn bác sĩ tâm thần cùng nhau bước ra.
Một người nói, "Mọi người lúc nào cũng
mang theo gánh nặng tội lỗi và âu lo của
họ đến với chúng ta, còn chúng ta chẳng
có ai để bày tỏ những vấn đề của mình
cả. Sao lúc này chúng ta không dành chút
thời gian để lắng nghe nhau thổ lộ nhỉ?"
Ba người kia nhất trí.
Bác sĩ tâm thần thứ nhất thú nhận,
"Tôi gần như không thể nào kiểm soát
nổi ý muốn giết bệnh nhân của mình."
Bác Sĩ tâm thần thứ hai nói, "Tôi luôn
tìm cách lừa tiền bệnh nhân khi có dịp."
Người thứ ba, "Tôi dính vào buôn
bán ma túy và thường nhờ bệnh nhân bán
hộ."
Đến lượt bác
sĩ
tâm thần thứ tư thú
nhận, "Các ông biết không, dù cố đến
mấy, tôi hầu như không cách nào giữ kín
được một bí mật."
Mỗi chuyên ngành y khoa phát huy
những nguyên tắc đạo đức riêng của
mình.
Bốn thầy thuốc cùng nhau đi săn vịt
trời: một bác sĩ gia đình, một bác sĩ phụ
khoa, một
nhà
phẫu thuật, một nhà bệnh
lý học. Khi một
con
chim bay qua trên
đầu, bác sĩ gia đình định
bắn nhưng
lại
thôi vì ông không chắc liệu nó có phải là
chim vịt không. Bác sĩ phụ khoa cũng
định bắn nhưng lại hạ súng xuống khi
nhận ra ông không biết con chim vịt này
là trống hay mái. Trong khi đó bác sĩ
phẫu thuật đã kịp bắn chết
con chim và
quay
sang
nói với nhà bệnh lý học,
"ông
đi xem liệu nó có phải con vịt không."
Thậm chí các luật sư cũng có đạo đức
nghề nghiệp. Khi một khách hàng nhầm
lẫn trả cho luật sư 400$ thay vì 300$
theo hóa đơn, tự nhiên sẽ nảy sinh vấn đề
đạo đức là luật sư có nên nói cho khách
hàng biết điều đó không.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi giới
tăng lữ cũng có đạo đức nghề nghiệp hay
đạo đức của họ đi kèm với sự trừng phạt
của thánh thần.
Một giáo sĩ Do Thái trẻ rất mê chơi
golf. Thậm chí vào ngày lễ Yom Kippur
thiêng liêng nhất trong năm mà anh ta
cũng lén đi làm một ván chín lỗ chớp
nhoáng. (
Còn gọi là Ngày Chuộc tội, một
trong những ngày lễ thiêng liêng nhất của người
Do Thái, diễn ra sau lễ Rosh Hashanah, kéo dài
25 giờ, chủ yếu là ăn chay và tập trung cầu
nguyện, thường ở giáo đường.
)
Khi anh phát bóng lỗ cuối cùng thì
một cơn gió cuốn quả bóng đến ngay trên
miệng lỗ và thả nó vào lỗ.
Một thiên thần chứng kiến phép lạ đó
phàn
nàn
với Chúa, "Hắn choi golf trong
ngày lễ Yom Kippur mà Người lại giúp
hắn ăn cú một gậy trúng
lỗ
ư? Đây có
phải là hình phạt
không?"
"Tất nhiên rồi," Chúa mỉm cười nói.
"Hắn còn dám hé răng với ai về chuyện
này nữa?"
Điều khiến đạo đức học ứng dụng trở
nên thú
vị, nhưng cũng đánh đố, là các
quyết định đạo đức thường rơi vào thế
tiến thoái lưỡng nan, loay hoay lựa chọn
giữa hai điều tốt: "Tôi phải dành cho gia
đình bao nhiêu thời gian thay
vì cho
công
việc
của
tôi?
Cho các con tôi thay
vì cho
bản thân tôi? Cho đất nước tôi thay vì
cho nhân loại?" Chính những song đề
đạo đức học ứng dụng này đã đem lại
công việc bận rộn cho Abby và Ann
Lander suốt nhiều năm
và giờ đây đang
tiếp tục cung cấp tư liệu cho
mục "Nhà
đạo đức học" của Randy Cohen trên
tờ
The New York Times.
Câu hỏi đặt ra dưới đây, Cohen viết
cách đây không lâu trên trang slate.com,
là một trong mười câu hỏi hay nhất mà
chưa từng có ai đặt ra với ông:
"Mặc dù ta hạnh phúc với công việc
hiện nay của mình, gần đây ta mới
được phong tước (tôi là Phó vương mới
của Cawdor), nhưng điều đó không đủ
với vợ ta
vì
nàng luôn khao khát ta tiến
xa hơn. Ta không nói rằng ta thiếu
tham vọng, nhưng ta miễn cưỡng làm
những việc cần làm để có thể leo cao
hơn - những giờ khắc đăng đẳng,
những vụ giết người đẫm máu. Vả lại,
liệu ta có cái nghĩa vụ đặc biệt phải
lưu tâm đến những khát vọng của vợ ta
không? Dù sao hai chúng ta cũng là
một gia đình."
MACBETH xứ SCOTLAND
Macbeth, hay Vở bi kịch về Macbeth là vở bi
kịch ngắn nhất của William Shakespeare được
cho là viết vào khoảng 1603 và 1607, Macbeth
- ngay khi đang tỏa sáng trong vinh quang, danh
vọng đã nghe những lời tiên tri ghê gớm của ba
mụ phù thủy về một tương lai với vinh quang và
danh vọng còn to lớn hơn. Lời tiên tri rằng
Macbeth sẽ sở hữu ngai vàng đã đánh thức trong
Macbeth tham vọng quyền lực dữ dội. Cùng với
sự thúc giục và khuyến khích của vợ, Macbeth
phạm tội sát nhân khi vua Duncan (vua nước
Anh) đến thăm lâu đài của hắn. Sau đó Macbeth
đã lên ngôi vua theo đúng lời tiên tri, nhưng
luôn phải cố sức giữ ngôi vua, liên tục gặp ác
mộng, hồn ma hiện hình, hình ảnh con dao găm
nhuốm máu lơ lửng trong tâm hồn, và cuối cùng
bị giết chết.
TÁC
ĐỘNG CỦA PHÂN TÂM HỌC
ĐẾN ĐẠO ĐỨC HỌC TRIẾT HỌC
Sigmund Freud, mặc dù không phải
triết gia, nhưng đã có ảnh hưởng lớn tới
triết học đạo đức với tuyên bố rằng thật
ra chính những thôi thúc sinh học vô thức
xác định hành vi của con người chứ
không phải những phân biệt tỉnh táo, lý
trí và tốt đẹp. Dù chúng ta có cố gắng
đến mấy để khép cuộc sống của mình vào
vòng kiểm soát của lý trí theo lời khuyên
của các triết gia đạo đức học, thì vô thức
vẫn luôn
đột phá. Chẳng hạn sự lỡ lời
kiểu Freud - là tình
trạng khi chúng ta
"nhầm lẫn" nói điều gì đó bộc lộ mong
muốn từ vô thức, ví dụ ông ủy viên hội
đồng
thành
phố
giới thiệu vị chủ tịch xinh
đẹp của mình
là "một nữ công bộc
xuất
sắc
. (nguyên văn:
'a great public servant' -
nghĩa là 'một viên chức xuất sắc' cũng có thể
hiểu theo cách khá là khiếm nhã, vì trong tiếng
Anh, ''public house" nghĩa là 'nhà chứa'.
Nhà trị liệu tâm thần hỏi bệnh nhân về
cuộc viếng thăm mẹ của ông ta. Bệnh
nhân nói, "Tệ
quá
.
Tôi bị lỡ lời quá kinh
khủng kiểu Freud."
"Thật ư?" nhà trị liệu hỏi. "ông đã nói
gì?"
"Tôi định nói, 'Đưa hộ con lọ muối',
nhưng tôi lại nói ra thành, 'Đồ chó! Bà
đã lam hỏng cả cuộc đời tôi!' "
Theo Freud, toàn bộ triết học đạo đức
trên thế giới chủ yếu nói với chúng ta về
một giấc mơ đẹp hơn là về những kiểm
soát vô thức có thật điều khiển hành vi
của chúng ta.
Một anh chàng lao bổ vào phòng
khám của bác sĩ tâm thần lắp bắp xin lỗi
đã đến muộn vì ngủ dậy trễ.
"Nhưng trong mơ tôi đã có một bước
đột phá không thể tin nổi," anh ta hổn hển
kêu lên. "Tôi đang nói chuyện với mẹ thì
bỗng dưng bà ấy biến thành
ông
!
Đúng
lúc đó tôi thức giấc, mặc quần áo, tợp
vội một lon Coca với cái bánh rán rồi
lao đến đây ngay."
Bác sĩ tâm thần nói, ''Một lon Coca và
cái bánh rán? Anh gọi thế là một
bữa
sáng
đấy à?"
Mặt khác, ngay cả Freud cũng thừa
nhận rằng việc hạ thấp hành vi của con
người xuống thành những thôi thúc vô
thức đôi khi có thể bỏ qua những sự thật
hiển nhiên. Ông có một câu nổi tiếng,
"Đôi khi điếu xì gà chỉ đơn giản là một
điếu xì gà."
Một anh chàng đang cạo râu chợt con
dao tuột khỏi tay rơi xuống tiện đứt mất
của quý. Anh ta nhặt của quý lên, nhét
vào túi, lao ra đường chặn một chiếc
taxi, bảo lái xe chở gấp đến phòng cấp
cứu.
Tại đó, anh ta kể lại sự việc với bác
sĩ phẫu thuật. Bác sĩ nói, "Cần phải làm
thật nhanh. Đưa nó đây cho tôi."
Anh ta thọc tay vào túi và trao vật
nằm trong túi vào tay bác sĩ.
"Nhưng đây là điếu xì gà, có phải
dương vật đâu!" bác sĩ phẫu thuật nói.
"Ôi Chúa ôi," anh ta rên lên, "chắc tôi
đã hút hết nó trong taxi rồi."
ĐẠO ĐỨC HỌC TÌNH HUỔNG
Thập niên 1960 bỗng trở nên xôn xao
với cái gọi là
"đạo đức học tình
huống"
. Những người đề xuất trào lưu
tuyên bố rằng hành vi đạo đức thực hiện
trong bất
kỳ
tình huống nào cũng phụ
thuộc vào sự pha trộn đặc thù của các
nhân tố trong tình huống đó. Những
người cụ thể nào chịu sự tác động của
tình huống? Họ có cái lý gì khi gây ra kết
quả của tình huống? Kết quả ảnh hưởng
thế nào đển các tình huống tương lai? Và
nói cho cùng thì ai đang đặt ra những câu
hỏi này? Chẳng hạn trong trường hợp
ngoại tình, bên cạnh các thứ khác, các
nhà đạo đức học tình huống sẽ quan tâm
đến tình trạng hôn nhân và có thể đi tới
những đánh giá trái ngược, tùy thuộc vào
việc cuộc hôn nhân có diễn ra suôn sẻ
hay không. Những người phản đối đạo
đức học tình huống tỏ ra bất bình, họ cảm
thấy lối lập luận như thế có thể được
dùng để biện hộ cho bất cứ chuyện gì
người ta muốn làm. Một số người phản
đối giữ lập trường cực đoan: bội tín luôn
luôn sai, bất kể trong hoàn cảnh nào.
Nhưng thật nghịch lý, đôi khi vì
lờ đi
hoàn cảnh đặc thù, chúng ta đã tạo cơ hội
cho những hành động ích kỷ.
Bọn cướp có vũ trang đột nhập vào
một ngân hàng, bắt toàn bộ nhân viên
cùng khách hàng đứng dựa vào tường và
bắt đầu lột ví tiền, đồng hồ, nữ trang của
họ. Hai kế toán của ngân hàng đứng trong
hàng người chờ bị cướp. Một người đột
nhiên dúi thứ gì đó vào tay người kia.
Người kia thì thầm hỏi, "Cái gì thế?"
Người thứ nhất thì thầm đáp, "Đây là
năm chục đô tôi nợ ông."
oOo
DIMITRI: Tôi vẫn không chắc cái gì
là đúng cái gì là sai, nhưng có một việc
tôi biết chắc - điều quan trọng trong cuộc
sống là khiến thần linh hài lòng
.
TASSO: Như Zeus và Apollo.
DIMITRI: Đúng. Hoặc vị thần yêu
thích của tôi: Aphrodite.
TASSO: Ồ, cũng là vị thần tôi thích...
nếu nàng tồn tại.
DIMITRI: Nếu nàng tồn tại ư? Tốt
nhất là cậu hãy thôi bẻm mép đi, Tasso ạ.
Tôi đã chính mắt trông thấy có những
người bị sét đánh tan thây vì nói thế.
V
TRIẾT HỌC TÔN GIÁO
Thượng đế mà các nhà triết học tôn
giáo thích tranh cãi không phải là đấng
mà hầu hết chúng ta công nhận. Ngài có
xu hướng trừu tượng hơn, giống như
"Quyền năng"
trong phim
Chiến tranh
giữa các vì sao,
và
không mấy giống
đấng Chúa Trời vẫn thao thức hằng đêm
lo lắng cho ta.
DIMITRI: Hôm trước tôi trò chuyện
vói Zeus, và ngài nghĩ rằng cậu có ảnh
hưởng xấu đến tôi.
TASSO: Hay thật đấy, vì tôi cứ nghĩ
ông ấy ảnh hưởng xấu đến cậu.
DIMITRI: Bằng cách nào?
TASSO: Ông ấy khiến cậu tưởng
những giọng nói vang lên trong đầu cậu
là thực.
oOo
ĐỨC TIN VÀO THƯỢNG ĐẾ
Người theo thuyết Bất khả tri là người
nghĩ rằng sự tồn tại của Thượng đế không
thể chứng minh bằng những chứng cớ
hiện có, nhưng người đó không phủ nhận
khả năng Thượng đế có tồn tại. Người
bất khả tri chỉ đứng sau người vô thần
một bước, người vô thần coi nghi vấn về
sự tồn tại của Thượng đẽ đã chấm dứt.
Nếu hai người cùng phát hiện thấy một
bụi cây bốc cháy có tiếng kêu, "Ta là cái
mà ta là," người bất khả tri sẽ đi kiếm
cái máy ghi âm giấu trong bụi, còn người
vô thần chỉ nhún vai và lấy kẹo ra nhai.
Theo sách
Xuất hành
hay
Xuất Ê-díp-tô
(quyển sách thứ hai trong Cựu Ước), Thiên
Chúa đã hiện ra với Moses trong ngọn lửa giữa
bụi cây, lựa chọn Moses làm thủ lĩnh để đưa
dân Do Thái rời khỏi Ai Cập đến Đất Hứa.
Hai ông bạn Ireland đang nhậu trong
quán thì trông thấy một ông hói ngồi uống
một mình ở gốc cuối quán.
Pat: Này, kia chẳng phải là Winnie
Churchill đó sao?
Sean: Không. Không thể là ông ấy.
Winnie sẽ không đến những chỗ như thế
này.
Pat: Tớ không đùa cậu đâu. Nhìn kỹ
đi. Tớ thề đó là Winnie Churchill. Cá
với cậu mười đô là tớ đúng.
Sean: Cậu cứ thử đi!
Pat đi xuống cuối phòng và nói với
người hói, "Ông là Winnie Churchill
đúng không?"
Ông hói quát lên, "Biến ngay cho
khuất mắt tao, thằng ngu!"
Pat quay lại chỗ Sean và nói, "Hừ, có
lẽ chúng ta sẽ không bao giờ biết được,
đúng không?"
Winston Churchill (1874-1965): chính trị
gia người Anh, nổi tiểng nhất với cương vị Thủ
tướng Anh trong Thế chiến II. Ông từng là một
người lính, nhà báo, nhà văn, họa sĩ. Churchill,
nói chung, được coi là một trong những nhà
lãnh đạo quan trọng nhất trong lịch sử Anh và
lịch sử thế giới, ông là Thủ tướng Anh duy nhất
nhận giải Nobel văn học (1953).
Đó chính là tư duy của người bất khả
tri.
Người vô thần thì lại khác. Từ lâu các
nhà triết học đã nhất trí rằng thật vô ích
nếu để người có đức tin và người vô thần
tranh luận. Đó là bởi vì họ hiểu khác
nhau về
mọi thứ.
Để tranh luận được,
cần có một
cơ
sở chung, để cho một
trong hai bên có thể nói, "A ha! Nếu anh
đã công nhận X, thì anh cũng phải công
nhận Y!" Người vô thần và người có đức
tin không bao giờ tìm được một X mà họ
có thể nhất trí. Tranh luận không bao giờ
bắt đầu được, vì mỗi người nhìn
mọi thứ
từ điểm nhìn của riêng mình. Điều này
hơi trừu tượng, nhưng câu chuyện dưới
đây sẽ khiến nó gần với hiện thực, hay
nói đúng hơn là đến thẳng nhà láng giềng.
Một bà cụ bé nhỏ theo Cơ Đốc giáo
sáng nào cũng ra đứng trước cổng và kêu
lên, "Đội ơn Chúa!"
Và sáng nào người vô thần nhà hàng
xóm cũng hét lên đáp lại, "Làm gì có
Chúa!"
Cứ tiếp diễn như thế hàng tuần liền.
"Đội ơn Chúa!" bà già kêu lên. "Làm gì
có Chúa!" người hàng xóm quát lại.
Thời gian trôi đi, bà cụ dần trở nên
túng thiếu đến không có cả tiền mua thức
ăn. Một hôm, bà đi ra cổng và kêu xin
Chúa cứu giúp, rồi nói, "Đội ơn Chúa!"
Sáng hôm sau khi ra cổng, bà nhìn
thấy những đồ ăn đã cầu xin. Tất nhiên,
bà kêu lên, "Đội ơn Chúa!"
Người vô thần từ sau một bụi cây
nhảy ra và nói, "Ha ha! Thực phẩm ấy là
tôi mua đấy. Làm gì có Chúa!"
Bà già nhìn ông ta và mỉm cuời. Bà
kêu to, "Con cám ơn Chúa! Người không
chỉ ban thúc ăn cho con, Người còn bắt
quỷ Satan phải trả tiền nữa!"
Trong cuốn sách bán chạy năm 2005
của mình,
Sự cáo chung của đức tin,
Sam Harris đã chia sẻ về sự cố chấp của
đức tin tôn giáo dựa trên những quan sát
của cá nhân ông:
"Nói với một người Cơ
Đốc ngoan đạo
rằng anh ta đang bị vợ
lừa, hoặc sữa chua đông lạnh có thể làm
cho người ta tàng hình, thì như bất cứ ai,
anh ta nhất định sẽ đòi hỏi những chứng
cớ đủ thuyết phục. Còn nếu bảo rằng
quyển sách anh ta để ở đầu giường do
một vị thần vô hình viết ra, và vị thần
này sẽ trừng phạt anh ta bằng ngọn lửa
vĩnh cửu nếu anh ta không chấp nhận
những tuyên bố khó tin trong đó, thì
dường như anh ta không đòi hỏi bất cứ
bằng chứng nào."
Sam Harris không nhắc đến khía cạnh
bất lợi của người vô thần - anh ta không
có ai để kêu tên khi cực khoái.
Nhà toán học và triết học Pháp thế kỷ
mười bảy Blaise Pascal lập luận rằng
quyết định có tin Chúa hay không thực
chất là tham gia vào một cuộc cá cược.
Nếu chúng ta chọn hành động như thể có
một Đức Chúa nhưng rốt cuộc lại không
có, thì chúng ta không mất mát gì nhiều
lắm. Ờ, có thể chúng ta mất cơ hội tận
hưởng những lạc thú liên quan tới Bảy
Tội Trọng (
Tức giận, tham lam, lười biếng,
kiêu căng, dâm ô, ghen ghét, háu ăn
), nhưng
chuyện đó quá vặt vãnh so với những lựa
chọn khác. Nếu chúng ta tin không có
Chúa mà rốt cuộc lại có Chúa, thì chúng
ta sẽ mất phần thưởng lớn nhất là phúc
lạc vĩnh hằng. Do đó, theo Pascal, sống
như thể có Chúa là chiến lược tốt hon.
Các học giả gọi đó là "Canh bạc của
Pascal". Đối với phần còn lại chúng ta,
chiến lược đó được coi là bảo hiểm rủi
ro.
Nảy ra ý tưởng từ cuốn
Tư tưởng
(
Pensées)
của Pascal, một bà già nhỏ thó
ôm theo cái túi đựng 100.000$ tiền mặt
vào ngân hàng yêu cầu mở tài khoản. Ông
chủ ngân hàng thận trọng hỏi bà ta lấy
đâu ra số tiền ấy. "Đánh bạc," bà già nói.
"Tôi chơi bạc giỏi lắm."
Ông chủ ngân hàng tò mò hỏi tiếp, "Bà
hay chơi trò nào thế?"
"Ồ, đủ các trò," bà nói. "Chẳng hạn,
ngay bây giờ tôi cá với ông 25.000$ là
trưa mai mông bên phải của ông sẽ có
hình xăm con bướm."
"Được, tôi nhận vụ cá cược này," ông
chủ ngân hàng đáp, "nhung tôi thấy không
phải lẽ khi lấy tiền của bà trong một vụ
cá cược phi lý như thế này."
"Vậy để tôi nói với ông thế này," bà
già nói. "Nếu ông không nhận cá với tôi,
thì tôi phải tìm một ngân hàng khác để
gửi tiền."
"Ấy, ấy, đừng vội vã thế," chủ ngân
hàng nói. "Tôi nhận cá với bà."
Trưa hôm sau bà già quay lại ngân
hàng cùng luật sư để làm chứng, ông chủ
ngân hàng quay người đi, tụt quẩn ra để
hai người thấy rằng ông ta đã thắng cược.
Bà già nói, "Ô kê, nhưng ông cúi thấp
chút nữa để nhìn cho rõ được không?"
Ông chủ ngân hàng làm theo yêu cầu. Bà
già công nhận thua cuộc, chi ngay ra
25.000$ tiền mặt.
Trong khi đó, ông luật sư ngồi hai tay
ôm đầu. "Có chuyện gì với ông ấy thế?"
chủ ngân hàng hỏi.
"À, chẳng qua ông ấy bị thua đau," bà
già đáp. "Tôi cá với ông ấy 100.000$
rằng trưa nay ông sẽ phải vạch quần khoe
mông trong văn phòng của ông."
Có một đường ranh giới mong manh
giữa bảo hiểm rủi ro và ăn gian chênh
lệch cá cược. Hãy xem chiến lược
Pascal mới này:
Ngày đầu tiên của lễ Rosh Hashanah
(
Lễ năm mới của người Do Thái
), một người
mang con vẹt đậu trên vai bước vào
thánh đường. Anh ta cược với mấy người
rằng con vẹt có thể điều khiển buổi lễ
hay hơn trưởng ca đoàn. Tuy nhiên đến
thời điểm cần thiết thì con vẹt im lặng.
Sau đó về nhà, người ấy mắng mỏ con
vẹt và cứ than vãn mãi vì thua cuộc. Con
vẹt bèn nói, "Phải động não đi chứ, đồ
ngốc! Anh hãy nghĩ đến khả năng chúng
ta sẽ thắng trong lễ Yom Kippur!"
Ồ, biết đâu con vẹt này sẽ đúng. Có lẽ
chúng ta có thể ăn chênh lệch cá cược
trong canh bạc Pascal để vẫn được chơi
golf vào sáng Chủ nhật mà không làm
Chúa Trời nổi giận, nếu như ngài tồn tại!
Chúa biết tất cả chúng ta đều thử mánh
này.
THẦN LUẬN VÀ TÔN GIÁO LỊCH SỬ
Các triết gia thế kỷ mười tám, nếu
không phải là những nhà hoài nghi chủ
nghĩa, thì có xu hướng trở thành các nhà
thần luận - những tín đồ tin vào một
Thượng đế-của-các-triết-gia vô ngã và
xa xăm, một đấng Sáng tạo giống một
quyền năng hơn là một con người, giống
một người thợ đồng hồ hơn là một người
tri kỷ. Tín đồ Do Thái giáo và Cơ Đốc
giáo truyền thống bác bỏ điều đó. Họ
nói, Chúa của họ không chỉ là người thợ
đồng hồ. Ngài là Chúa của lịch sử, đã
hiện ra với dân của Ngài trong cuộc xuất
hành rời Ai Cập, lạc lối trong hoang
mạc, và định cư ở miền Đất Hứa. Nói
ngắn gọn, Ngài luôn hiện hữu
- "sẵn sàng cứu giúp trong khốn khó".
Một bà Do Thái đang trông thằng cháu
chơi trên bãi biển bỗng có cơn sóng dữ
bất thần ập vào cuốn thằng bé ra ngoài
khơi. Bà tuyệt vọng cầu xin, "Lạy Chúa,
xin hãy cứu sống thằng cháu duy nhất của
con. Con cầu xin Người, hãy đưa nó trở
lại."
Lập tức một cơn sóng lớn tràn vào,
ném thằng bé lên bờ, nguyên lành như
trước.
Bà Do Thái ngước lên nhìn trời và
nói, "Nó có cái mũ cơ mà!"
Hãy thử nói thế
với
một người thợ
đồng hồ
mà xem!
NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ MẶT THẦN
HỌC
Trong khi các triết gia về tôn giáo băn
khoăn với Những Câu hỏi Lớn, như "Có
Chúa không?" thì
các
nhà thần học có
con cá bé hơn để cho lên chảo, thường là
vào Mùa Chay.
oOo
Theo triết gia và nhà thần học thế kỷ
hai mươi
Paul Tillich, khác biệt giữa
một triết gia về tôn giáo
và nhà thần học
không
chỉ ở
kích
thước của con cá. Ông
nói, triết gia truy cầu sự thật về Chúa
và
những gì liên quan đến Chúa một cách
khách
quan
nhất có thể, trong khi nhà
thần học
hoàn toàn
"sống trong đức tin",
gắn bó và phó
thác mình cho
Thiên
Chúa. Nói cách khác, triết
gia tôn giáo
nhìn Chúa và tôn giáo từ bên ngoài, trong
khi nhà thần học nhìn từ bên trong.
oOo
Trong thần học, sự ly giáo đã khơi ra
những chủ đề bức thiết như "Chúa Thánh
Thần phát xuất từ Chúa Cha hay từ Chúa
Cha
và
Chúa Con?" Người ngoại đạo rõ
ràng cần được chỉ dẫn đơn giản về những
khác biệt thần học, và ơn Chúa, những
tay hài hước luôn sẵn sàng giúp đỡ. Té
ra, mấu chốt để xác định niềm tin tôn
giáo của một người là ở chỗ anh ta thừa
nhận hoặc không thừa nhận ai:
Người Do Thái giáo không thừa nhận
Jesus.
Người Tin lành không thừa nhận Giáo
hoàng.
Người Báptít không thừa nhận nhau
trong quán rượu.
Điểm cuối cùng trong các nhận xét ở
trên dẫn đến một số lời khuyên hết sức
thực tế. Nếu bạn định tổ chức đi câu cá,
đừng mời người Báptít; anh ta sẽ nốc
sạch bia của bạn. Nhưng nếu bạn mời hai
người Báptít, bia của bạn sẽ còn nguyên.
Một cách khác để phân biệt tín đồ các
tôn giáo khác nhau, là xét xem hành vi
nào xác định một người mắc tội báng bổ.
Đối với người Công giáo, đó là bỏ lễ
ban thánh thể. Đối với người Báptít, đó
là khiêu vũ. Đối với những tín đồ nhà thờ
Tân giáo, đó là dùng salad bằng chiếc
nĩa dùng để ăn bánh ngọt.
Nhưng nếu nghiêm túc thì, các bạn ạ,
các tôn giáo khác nhau có những khác
biệt giáo thuyết quan trọng. Chẳng hạn,
chỉ có người Công giáo tin vào sự Thụ
thai Trinh nguyên, thứ giáo thuyết cho
rằng để có thể hạ sinh Chúa, bản thân bà
Mary sinh ra đã vô nhiễm Nguyên Tội.
Jesus đang đi trên phố thì trông thấy
một đám đông quây lại để ném đá một
người đàn bà ngoại tình. Jesus nói, "Hãy
để kẻ nào vô tội ném hòn đá đầu tiên."
Bất chợt một hòn đá bay vụt qua trên
không trung. Jesus ngoảnh lại hỏi,"Mẹ
hả?"
Được ưa thích nhất trong mọi thể loại
truyện cười về các tôn giáo đương nhiên
là các truyện cười Chống Cải cách Tôn
giáo. Hẳn trong bộ sưu tập truyện cười
hay nhất về chủ đề này của bạn cũng phải
có câu chuyện dưới đây:
Một người trong tình trạng tài chính
cực kỳ ngặt nghèo cầu xin Chúa cứu giúp
bằng cách cho anh ta trúng xổ số.
Nhiều ngày, rồi nhiều tuần trôi qua
nhung anh ta vẫn chưa trúng lần nào.
Cuối cùng, anh ta kêu lên với Chúa trong
cơn khốn khổ, "Người đã bảo chúng con,
'Hãy gõ rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồ ngươi
sẽ thấy.' Con đã cùng đường rồi mà vẫn
chưa trúng xổ số được lần nào!"
Một giọng nói từ trên cao trả lời,
"Con mới đi nửa đường đến gặp ta thôi,
con yêu! Hãy mua một tấm vé số!"
Anh chàng trong câu chuyện chắc chắn
là theo Tin lành, giống Martin Luther,
cho rằng tất cả chúng ta được cứu giúp
chỉ nhờ ân sủng; chúng ta chẳng thể làm
gì để nhận được sự cứu rỗi. Mặt khác thì
Chúa, dẫu đã thốt lên hai chữ "con yêu",
lại đang bận tiếp sức cho phong trào
Chống Cải cách của người Công giáo.
Thật ra, câu chuyện trên có khả năng đã
ra đời từ Công đồng Trent năm 1545, khi
các giám mục quyết định rằng cứu rỗi
diễn ra thông qua sự kết hợp giữa ân
sủng và các hành động của chúng ta - đó
là cầu nguyện và mua một tấm vé số.
Tuy nhiên, tất cả các tôn giáo đều có
một điểm chung: tín đồ của tôn giáo nào
cũng tin rẳng chỉ có giáo lý của họ mới
là con đường nhanh nhất dẫn đến thần
linh.
Một linh hồn bay tới cổng thiên
đường. Thánh Peter hỏi, "Tôn giáo?"
Linh hồn đáp, "Giám Lý". Thánh
Peter nhìn xuống danh sách rồi nói, "Đến
phòng hai mươi tám, nhưng phải thật im
lặng khi đi qua phòng số tám."
Một linh hồn khác bay tới cổng thiên
đường. "Tôn giáo?"
"Báptít."
"Đến phòng mười tám, nhưng phải
thật im lặng khi đi qua phòng số tám."
Linh hồn thứ ba đến cổng thiên đường.
"Tôn giáo?"
"Do Thái giáo."
"Đến phòng mười một, nhưng phải
thật im lặng khi đi qua phòng số tám."
Lính hồn bèn hỏi, "Tôi hiểu rằng có
những phòng khác nhau cho các tôn giáo
khác nhau, nhưng tại sao tôi phải im lặng
khi đi qua phòng số tám?"
Thánh Peter đáp, "Các Chứng nhân
Jehovah ở phòng số tám, và họ nghĩ họ là
những người duy nhất trên thiên đường
này."
Nghe nói triết gia Đức thế kỷ mười
chín Arthur Schopenhauer đã khám phá
Phật giáo trên phương diện triết học.
Giống như Đức Phật Thích Ca cách đây
hai thiên niên kỷ, Schopenhauer cho rằng
toàn bộ cuộc sống chỉ là khổ đau, tranh
đấu và thất vọng, và con đường giải thoát
duy nhất là từ bỏ, vứt bỏ mọi ham muốn
và khước từ ý chí sống. Mặt tốt là cả hai
đều nghĩ rằng từ bỏ sẽ dẫn đến lòng từ bi
đối với chúng sinh và thánh thiện. Điều
này giống như một sự thỏa hiệp.
Có vô khối truyện cười Do Thái chế
giễu những người bi quan quá mức và ưa
than vãn theo lối Schopenhauer.
Hai phụ nữ ngồi trên ghế dài. Lát sau,
bà thứ nhất nói, "ôiii!"
Bà thứ hai đáp lại, "ôiii!"
Bà thứ nhất nói, "Thôi được, nói đến
lũ trẻ thế là đủ rồi."
Đối với cả Arthur Schopenhauer và
Đức Phật, cuộc sống là một cái vòng
quay bất tận của thất vọng và buồn chán.
Khi ta không có thứ ta muốn, ta thất
vọng. Khi có thứ ta muốn rồi, ta buồn
chán. Và đối với cả Arthur lẫn Thích Ca,
thất vọng tồi tệ nhất chính là khi chỉ thiếu
một bước nữa là đến được sự giải thoát.
Ngày xửa ngày xưa có một chàng
hoàng tử, mặc dầu chẳng có tội tình gì,
nhưng vẫn bị một mụ phù thủy độc ác
phù phép. Theo lời nguyền của mụ phù
thủy, mỗi năm hoàng tử chỉ được phép
nói một từ. Tuy nhiên, chàng có thể để
dành, và nếu trong suốt một năm chàng
không nói năng gì thì năm sau chàng có
thể nói hai từ.
Một hôm chàng gặp một nàng công
chúa xinh đẹp và yêu nàng chết mê chết
mệt. Chàng quyết định cố nhịn nói trong
hai năm để có thể gặp nàng và nói hai
tiếng, "Em yêu."
Hết hai năm chàng lại muốn nói với
nàng rằng chàng yêu nàng, nên quyết định
đợi thêm ba năm nữa, tổng cộng là năm
năm im lặng. Thế nhưng hết năm năm,
chàng biết rằng chàng phải ngỏ lời cầu
hôn với nàng, nên chàng cần đợi thêm
bốn năm nữa.
Khi năm thứ chín im lặng rốt cuộc
cũng trôi qua, chàng dĩ nhiên rất đỗi vui
mừng. Chàng dắt công chúa đến nơi lãng
mạn nhất trong vườn ngự uyển, quỳ
xuống trước mặt nàng thốt lên, "Em yêu,
anh yêu em. Mình cưới nhau nhé?"
Công chúa đáp, "Gì cơ?"
Đó chính là loại câu trả lời mà
Schopenhauer có lẽ đã chờ đợi.
Đầu thế kỷ thứ sáu và bảy Công
nguyên, người Trung Hoa và người Nhật
Bản đã phát triển một nhánh Phật học mà
ngày nay đang phục sinh, Thiền tông.
Trong nhãn quan của tư duy phương Tây,
triết học Thiền tông là một thứ phản triết
học. Đối với thiền sư, lý trí, logic, dữ
liệu cảm tính, tất cả những thứ là nền
móng để xây dựng triết học phương Tây,
chỉ là những ảo ảnh và làm ta xao lãng
khỏi giác ngộ tối hậu. Vậy một người trở
nên giác ngộ như thế nào?
Ta hãy xem xét hai câu hỏi sau đây:
- Một con vịt khác nhau thế nào?
- Tiếng vỗ của một bàn tay như thế
nào?
Cả hai câu hỏi cùng dẫn đến thứ phản
ứng phải kinh ngạc thốt lên "Cái giiiì
kia???" trong giới triết gia. Họ không thể
xem xét được. Chúng ta đơn giản không
nhận thức nổi câu trả lợi có thể là gì.
Nhưng trong khi câu hỏi đầu có vẻ ngờ
nghệch vô nghĩa thì câu thứ hai là một
công án
(
koan
) Thiền kinh điển.
Khoảng giữa thế kỷ 10, Thiền tông bắt đầu
dùng công án như phương tiện để giáo hóa, và
các thiền sinh sử dụng chúng làm đối tượng
quán tưởng
trong lúc thiền. Vì lời giải của công
án thường nằm ngoài lý luận, nên thiền sinh thấy
rõ giới hạn của tư duy và bị buộc phải chuyển
hóa tâm thức bằng một bước nhảy của trực giác,
nhảy qua khỏi sự mâu thuẫn của lý luận nhị
nguyên. Với tâm thức này, thiền sinh có một
kinh nghiệm trực tiếp về thể tính.
Công án trong tiếng Nhật gọi là
"koan",
tiếng Trung quốc gọi là
"Kung an"
Công án
là câu đố hay câu chuyện có
khả năng gây sốc, đưa môn đệ vào một
trạng thái ý thức gọi là
satori
(đốn ngộ)
mà thiền sư kể cho môn đệ của mình.
Trong trạng thái ý thức này, tất cả những
phân biệt thị phi và các giá trị của thế
giới thường hằng tan biến, để lại con
người một mình với một niềm cảm kích
sâu xa về tính đồng nhất của vũ trụ và tất
cả những trải nghiệm trong vũ trụ ấy. Đáp
án Thiền cho công án tiếng-vỗ-một-bàn-
tay không phải là cái gì đó có thể hiểu
theo nghĩa đen và khoa học, kiểu như
"tiếng động êm ái của không khí sinh ra
do một bề mặt phẳng chuyển động".
Không, đáp án Thiền giống với tiếng kêu
kinh ngạc "Ô!" hơn. Các công án đưa
thẳng chúng ta đến giác ngộ bằng cách
xáo tung tâm thức chúng ta với những ý
niệm không thể nào có được. Thoát ra
ngoài chúng, và, hốt nhiên, bạn
đã
đốn
ngộ.
Công án
ưa thích của mọi người là:
Trước khi tôi tìm ngộ, núi là núi và
sông là sông.
Trong khi tôi tìm ngộ, núi không là núi
và sông không là sông.
Sau khi tôi
đốn ngộ,
núi vẫn là núi và
sông vẫn là sông.
Người phương Tây có thể hiểu tư
tưởng chung rằng giác ngộ không phải là
vấn đề đạt tới một trạng thái ý thức xa
xăm nào đó. Điều mà chúng ta khó nhận
thức được, và cấu thành cốt lõi
công án
về núi, là làm sao trạng thái ý thức được
soi sáng lại có thể đồng thời vừa là bình
thường, vừa là siêu nghiệm. Bạn có thể
hoặc cảm nhận được trạng thái này, hoặc
không,
và
phần đông người phương Tây
không
cảm
nhận được.
Từ đây nảy ra câu hỏi là liệu câu đố
cổ về sự-khác-nhau-giữa-một-con-vịt có
thể được xem là một dạng
công án
phương Tây hay không. Nói cho cùng, nó
dựa trên sự phi logic và phi lý, nó làm
rối loạn lý trí. Nhưng xét những đáp án
cho câu đố này
-
một phép thử gay go để
nó trở thành
công án
- câu trả lời phải là
không. Chúng ta thấy người ta nhoẻn
cười, thậm chí cười ha hả, nhưng không
phải là
đốn ngộ.
Than ôi, đó có thể là một vấn đề văn
hóa, phần lớn người phương Tây thường
không lĩnh hội nổi cái ý niệm phương
Đông rằng nếu anh không thể lĩnh hội một
điều gì đó, anh đang trên đường đến giác
ngộ. Vì thế chúng ta đành bị bỏ lại với
thứ
công án
giả, khập khiễng như sau:
Nếu anh có một que kem, tôi sẽ đưa
nó cho anh.
Nếu anh không có que kem nào, tôi sẽ
lấy nó khỏi anh.
Đó là
công án
que kem.
oOo
Những công án đáng ghi nhớ nhất đã
trở thành một phần của tri thức Thiền,
truyền từ đời này sang đời khác. Chẳng
hạn, Huệ Năng, vị tổ thứ sáu của Thiền
ở
thế kỷ bảy, đã hỏi một
câu
nổi tiếng:
"Bản lai diện mục của ngươi trông như
thế nào lúc ngươi chưa sinh ra?" Phil
Jackson, huấn luyện viên của Los
Angeles Lakers, biệt danh "Thiền sư",
góp thêm: "Nếu các anh gặp Phật trên
đường biên, hãy cho ông ấy xơi bóng."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro