Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ALL

Những người dưới chân núi rất thích có con trai. Những bé gái chẳng may được sinh ra đều bị giết rồi vứt vào hố chôn vạn người trên núi.
Thời gian trôi qua, thi thể trong hố nhiều đến mức tràn cả ra ngoài.
Nhưng mỗi khi gặp thiên tai hay tai họa, họ đều cho rằng đó là do linh hồn của các bé gái oán khuất đang tác quái nên vội vã đem hài cốt của chúng thiêu thành tro, rồi phong ấn dưới tượng đất của Tà Thần.
Mà ta, chính là vị Tà Thần đó.
Còn Sơ Nhất, là đứa bé gái duy nhất bị ném đến trước mặt ta mà vẫn còn sống.
Hỡi Tà Thần, hỡi Tà Thần, xin ngài hãy thu nhận nghiệp chướng này, đừng để nó tiếp tục gieo họa cho nhà chúng con nữa. Xin phù hộ cho chúng con lần tới sinh được con trai, nở mày nở mặt tổ tông, mưa thuận gió hòa, năm nào cũng dư dả.
Đôi phu thê mặc áo vải bông thô, cung kính quỳ lạy trước tượng đất của ta. Trông họ hiền lành, khuôn mặt phúc hậu, chẳng có chút gì đáng sợ.
Họ mỉm cười, đặt đứa bé gái đang say ngủ bên cạnh xuống rồi nắm tay nhau rời đi. Lúc đi còn tràn đầy sinh khí, chẳng hề có chút luyến tiếc hay khó xử nào.
Đứa bé đó có lẽ đã bị cho uống thuốc, hơi thở đều đặn nhưng vẫn ngủ mê man không tỉnh.
Ta đuổi theo xuống núi, cố gắng gọi họ quay lại mang đứa trẻ về.
Này, con bé vẫn còn sống.
Các người đâu có khốn khổ gì, sao lại bỏ nó đi.
Chẳng qua chỉ thêm một đứa con thôi, nuôi không nổi sao.
Nhưng đôi phu thê ấy chẳng thấy ta, cũng chẳng nghe thấy lời ta nói chỉ mải hân hoan với việc mình vừa làm.
Dù sao cũng đã nuôi nó mấy năm, giờ không ra tay giết, coi như chúng ta có lòng nhân từ rồi. Nó phải biết ơn mới phải, kiếp sau đừng đến nhà ta gieo họa nữa.
Phải đấy, nuôi nó hai năm qua chúng ta cũng chẳng bạc đãi. Nếu nó có chí, sớm đã phù hộ giúp nhà ta sinh được đứa nhi tử rồi, ai ngờ lại ngu ngốc như vậy. Cũng chẳng trách chúng ta đành bỏ nó.
Ừ, nó với nhà ta chẳng có duyên.
Nghe nói Tà Thần này rất linh, mong ngài trấn áp được nó, đừng để nó quay lại hại nhà ta nữa.
Tiếng họ dần xa, rồi mất hút.
Trên mặt đất, bóng hai người họ kéo dài ra, méo mó dữ tợn, giống như chính hình dạng của Tà Thần vậy.
Làm Tà Thần bao năm nay, ta vẫn luôn cảm thấy mình chẳng hề xứng với cái danh đó.
Ta không tà, những bé gái kia không phải do ta giết, cũng không phải do ta chôn, càng chẳng phải do ta thiêu.
Ta cũng chẳng phải thần, ta không có pháp lực, không biết hô phong hoán vũ, chẳng thể biến đá thành vàng, thậm chí bầy khỉ trên núi còn dám đánh cả ta.
Những người đến cầu xin ta ban phúc, thật ra là đã cầu nhầm rồi.
Cặp phu thê kia hẳn cho rằng ta có thể giết chết bé gái đó, khiến nó vĩnh viễn không được siêu sinh.
Nhưng ta thật sự không biết làm thế.
Khi bé gái ấy tỉnh dậy, nó ngồi trước ngôi miếu đổ nát của ta, ngẩng đầu lên liền thấy ta trên cây.
Tiểu thần tiên. Nó reo lên.
Đôi mắt nó đen láy, sáng long lanh, người thì nhỏ xíu nhưng nói năng lại rành rọt.
Đó là người đầu tiên nhìn thấy ta.
Ta giữ nó lại, đặt tên cho nó là Sơ Nhất.
Những kẻ vứt bỏ nữ nhi thường nói một câu. Thoát được mùng một, chẳng thoát được rằm, bỏ sớm thì sớm sinh được nhi tử.
Ta ngẫm nghĩ mãi, chọn trong câu ấy hai chữ Sơ Nhất làm tên cho con bé.
Còn nếu sau này nó lớn lên không thích, thì gọi là Thoát Được cũng hay, nghe vẫn là một cái tên tốt.
Ta lên núi tìm quả dại và trứng chim cho Sơ Nhất ăn, khiến chim chóc và khỉ trong rừng tức điên, ngày nào cũng kéo đến gây sự với ta.
Phải đánh nhau với khỉ, lại còn bị chim mổ, phiền chết đi được.
Núi Hoàng Cẩu này cây cối thì nhiều, nhưng thứ có thể ăn lại ít. Ta vốn chẳng biết con người ăn gì, đành nhìn xem lũ khỉ ăn thứ gì thì tìm thứ ấy cho con bé.
May mà nha đầu này chẳng kén chọn, cho gì ăn nấy, ngoan ngoãn vô cùng.
Ta không biết nói chuyện với con người, mà nó cũng ít lời. Mỗi ngày nó ngủ trong ngôi miếu đổ nát của ta, còn ta thì ở trên cây nhìn xuống trông chừng.
Cứ thế mà sống suốt hai năm.
Rồi dần dần, dưới chân núi, ngôi làng hoang tàn ngày nào lại có người trở về.
Người ta dựng lên những căn nhà đất mới, khói bếp bay lãng đãng giữa không trung.
Một bà lão lên núi nhặt củi, vô tình nhìn thấy Sơ Nhất. Bà cứ ngỡ như mình đã gặp lại đứa cháu gái chết mất trên đường chạy nạn năm xưa.
Vì thế, bà muốn dắt Sơ Nhất đi.
Sơ Nhất không chịu, giơ tay về phía ta trên cây, khóc gọi. Tiểu thần tiên. Tiểu thần tiên.
Ta chẳng động đậy, cũng chẳng lên tiếng.
Hai năm ở bên ta, nha đầu ấy hầu như chẳng lớn thêm, người vẫn gầy nhẳng, mặt vàng như sáp.
Nếu muốn trưởng thành, nó không thể mãi sống trên núi cùng ta.
Bà lão cũng nhìn về phía ta, nhưng bà không thấy gì.
Đứa nhỏ này, con nói gì thế. Đi với bà nào. Bà tuy già rồi, nhưng nuôi con thêm vài năm cũng không sao. Tội nghiệp quá, chắc năm đó đói kém nên mất phụ mẫu rồi hả. Sống được đến giờ cũng chẳng dễ dàng gì.
Cuối cùng, con bé vẫn bị dắt đi.
Ta đứng trên ngọn cây cao nhất, nhìn về phía ngôi làng, có thể thấy nó cùng bà lão đang khai hoang, trồng trọt.
Dưới chân núi năm xưa từng bị lũ lụt tàn phá, dân thì bỏ chạy, kẻ thì chết chỉ còn lại đất đai hoang vu.
Đất nứt nẻ, cứng như đá, một bà già và một đứa bé mới bốn tuổi, có thể khai khẩn được mới là chuyện lạ đời.
Con bé mệt đến phát khóc, vẫn cố cầm chiếc xẻng nhỏ đào từng chút một.
Khi ngẩng đầu lên, dường như nó lại nhìn thấy ta, liền vẫy tay cười. Tiểu thần tiên. Tiểu thần tiên.
Nha đầu thối, lại muốn ta giúp nó làm ruộng à. Mơ đi nhé.
Thế mà nửa đêm, ta vẫn mò xuống núi đào đất.
Một Tà Thần như ta, chẳng có phép tắc gì, phải dùng tay mà đào, mệt chết đi được.
Đám khỉ đứng bên ruộng chí chóe cười nhạo ta. Ha ha ha, đồ ngốc. Đồ ngốc.
Ta tức đến chửi um lên, suýt nữa bỏ mặc nha đầu ấy cho xong.
Sau nửa tháng liền dùng tay đào bới, cuối cùng cũng mở được bốn mẫu đất.
Đào đất thật sự quá khổ.
Hóa ra, làm người sống thôi đã là chuyện khó đến vậy.
Bà lão thấy ruộng đất đã được dọn sạch, mừng rỡ đến mức quỳ xuống đất, dập đầu khắp bốn phương. Đa tạ thần tiên. Đa tạ thần tiên phù hộ.
Hừ, thần tiên trên trời thì rảnh đâu mà để ý đến bà ta chứ.
Sơ Nhất chỉ tay lên ngọn cây nơi ta đang ngồi. Tiểu thần tiên. Tiểu thần tiên.
Bà lão vội vã vỗ nhẹ vào tay nó, nói nhỏ. Không được vô lễ với thần tiên. Không phải tiểu thần tiên, mà là đại thần tiên từ bi, phép tắc vô biên, nghe chưa.
Sơ Nhất chẳng quan tâm mấy, vẫn chỉ tay về phía ta nhưng lần này không dám gọi nữa.
Ta nhìn hai bà cháu cùng nhau cày cấy, nhìn mầm lúa non dần nhú lên, nhìn họ lên núi nhặt củi rồi lại mua về mấy con cừu con, gà con.
Nhưng cừu thì nghịch, có một con trốn mất.
Sơ Nhất lại lên núi tìm, đi ngang qua miếu đổ của ta, đặt một chiếc bánh ngô trước tượng đất rồi nói. Tiểu thần tiên, cho ngài ăn nè.
Sống cùng người, nha đầu ấy đã học nói được khá nhiều.
Ăn bánh ngô của nó, ta đành phải giúp nó tìm cừu, nha đầu này đúng là chẳng bao giờ chịu thiệt.
Mất một con cừu, mà ta lại tìm về được hai con. Con thứ hai chẳng biết từ đâu ra, nhưng thôi, đều đưa hết cho nó.
Bà lão dắt con cừu thừa đó đi khắp làng hỏi từng nhà, xác nhận không ai bị mất mới dám mang về nuôi.
Bà vui lắm, cười tươi đến rạng rỡ. Đợi đến Tết bán cừu đi, bà sẽ may cho Sơ Nhất một bộ áo mới thật đẹp.
Sơ Nhất vuốt vuốt đôi tất cũ mòn của mình, mỉm cười.
Nha đầu ngốc, chưa từng mặc đồ mới bao giờ nên chẳng biết thế nào là đẹp lại rất hân hoan.
Phụ mẫu thân sinh nó giàu có, vậy mà chẳng may cho nha đầu ấy lấy một chiếc áo lành lặn.
Ngày con bé bị bỏ trước miếu của ta, y phục rách nát, đến miếng vá cũng không có.
Còn bà lão, bản thân sống khổ cực, vậy mà đối với nó lại rộng lòng, chẳng tiếc gì.
Vụ mùa năm ấy, ruộng lúa cũng gặt được ít nhiều. Dù đất mới khai hoang, năng suất chẳng cao nhưng đủ để hai bà cháu ăn no bụng.
Họ cùng nhau làm việc trên ruộng, bà lão gặt lúa, còn Sơ Nhất chỉ biết nhặt bông rơi.
Sắp đến ngày mưa nhưng hai người sức yếu, làm chậm vô cùng.
Đêm đến, ta lại len lén xuống ruộng giúp gặt.
Trời ơi, gặt lúa khổ thật, râu lúa đâm vào da ngứa ngáy khắp người.
Ta tức điên, rõ ràng là Tà Thần, không có pháp lực đã đành mà ngay cả chút đau đớn này cũng không tránh được.
Đã thế, ta là Tà Thần cơ mà, sao lại phải đi giúp con người gặt lúa chứ.
Ta vừa cắt lúa vừa lẩm bẩm chửi thề, biết rõ việc tốt này chẳng được ghi công đức nào có khi còn bị trừ.
Ta làm đến tận lúc trời hửng sáng, thì thấy một nhóm người đi từ làng lại.
Giật mình, ta vội vàng bỏ chạy về núi.
Là trưởng thôn, ông ấy dẫn theo mấy thanh niên khỏe mạnh trong làng đang tiến lại gần.
Ơ, sao ở đây lại có nhiều lúa đã gặt sẵn thế này.
Ai làm vậy. Tuy gặt không được đẹp cho lắm, cọng gốc còn cao thế này này.
Ta đứng trên cây, vừa gãi chỗ ngứa vừa khinh khỉnh nghĩ. Làm được thế này là tốt lắm rồi, còn bày đặt chê bai.
Trưởng thôn dẫn đám thanh niên trong làng đến, chỉ chốc lát đã giúp gặt sạch đám lúa còn lại rồi mang hết về nhà bà lão.
Bà lão cảm kích không thôi, rối rít cảm tạ, định lấy gì đó mời họ nhưng vì nhà nghèo quá, chẳng có gì ra hồn.
Trưởng thôn xua tay, nói. Thôi, mau lấy rơm phủ lên lúa đi. Trời sắp mưa rồi, ướt là mốc hết đấy.
Chờ mọi người đi, bà lão liền che kín đống lúa rồi chậm rãi kéo từng bó vào nhà, ngồi tách hạt bằng tay.
Trời âm u thế này chẳng thể đem ra sân đập, chỉ đành dùng cách vụng về ấy, tách được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Bà đem hết chỗ trứng gà tích góp trong nhà ra, luộc chín, mỗi nhà biếu hai quả để cảm tạ.
Bà muốn cho nhiều hơn, nhưng thật sự không còn gì tốt hơn để tặng.
Mọi người nhận trứng xong, có nhà lại biếu lại vài quả táo khô, có nhà cho hai viên kẹo.
Đem cho Sơ Nhất ăn đi.
Ta nhìn cả ngôi làng này, thấy họ thật khác trước.
Ngày xưa, dân làng nơi đây chẳng bao giờ nỡ cho nữ nhi ăn thứ gì ngon.
Theo lời họ, nữ nhi là thứ của nợ, làm gì xứng đáng mà được ăn đồ tốt.
Giờ thì khác rồi.
Ngoài trời, mưa rào rào trút xuống.
Sơ Nhất ngồi trong nhà, vừa ngắm mưa vừa ăn táo khô, khuôn mặt nhỏ bé ánh lên vẻ thỏa mãn.
Còn ta, nhân lúc trời mưa, thoải mái tắm một trận, rửa sạch hết đám râu lúa dính đầy người.
Lại qua thêm mấy năm, lúc này Sơ Nhất đã sáu, bảy tuổi.
Nha đầu ấy cuối cùng cũng cao hơn chút, đi đường không còn xiêu vẹo, đã có thể tự lên núi nhặt củi.
Mỗi lần lên núi, nó đều ghé tìm ta, mang theo bánh ngô mà nó lén giấu cho ta ăn.
Ta thì đáp lại bằng trứng chim, quả rừng và ít dược liệu có thể bán lấy tiền.
Ruộng dưới núi được canh tác hai, ba năm, vụ mùa cuối cùng cũng khấm khá hơn, dân làng cũng bắt đầu có những ngày yên ổn.
Đến dịp Tết, trưởng làng dẫn mọi người cúng tế cúng thần linh, cúng tổ tiên và cả những người thân đã chết trên đường chạy nạn.
Họ quây quần ăn uống, vừa cười vừa khóc.
Tiền giấy đốt thành từng đống như núi, tro bay cuồn cuộn lên trời, vương cả lên đầu ta.
Ta phủi phủi tóc, khẽ làu bàu. Con người thật phiền phức.
Bà lão ôm lấy Sơ Nhất, dạy con bé dập đầu. Lạy phụ mẫu con đi, nói với họ rằng con đang sống rất tốt, bảo họ đừng lo, cứ yên tâm đầu thai đi nhé.
Sơ Nhất ngây ngô quỳ xuống, nhưng lại hướng về phía ta mà lạy ba cái.
Hừ, phụ mẫu nó nào có chết, chẳng qua là vứt bỏ nó thôi.
Nhưng con bé lạy ta cũng phải, ta chăm nó bao năm nay, coi như không uổng công.
Ta làm phụ mẫu nó, cũng dư sức rồi.
Chỉ là, những ngày bình yên đó chẳng kéo dài được bao lâu thì tai họa lại ập đến.
Đất của làng mình trồng tốt rồi, nên Tần viên ngoại ở huyện nói đó là đất của ông ta, không cho bọn họ trồng nữa. Muốn chuộc lại thì phải trả một nghìn lượng bạc.
Cả làng gom mãi cũng không có nhiều như thế, trưởng làng đang cùng mọi người nghĩ cách.
Nha đầu ấy nói đến đây thì bật khóc. Ruộng của con với bà cũng nằm trong đó. Nếu mất đất, mọi người bảo phải bán trẻ con đi, mong đổi được miếng ăn trong nhà giàu. Con không muốn đi, nếu con đi rồi thì bà lại phải sống một mình.
Nó không còn cách nào khác, đành tìm đến ta cầu xin, còn mang trứng gà đến cúng.
Ta ngửi mùi trứng, khẽ khinh thường.
Bản thân còn chẳng bảo vệ nổi mình, còn lo cho bà lão nữa sao.
Một quả trứng mà đòi ta giúp ngàn lượng, nha đầu ngốc này điên rồi chắc.
Con người thật tham lam.
Đất quanh làng Hoàng Ngưu đúng là có chủ thật, nhưng sau trận thiên tai năm ấy, tất cả đều bỏ hoang.
Người trong làng Hoàng Ngưu vốn là dân chạy nạn từ nơi khác đến, dần dần mới tụ lại thành làng này.
Lúc bọn họ vất vả khai hoang, chẳng ai ngó ngàng, cũng chẳng có ai nói rằng mảnh đất ấy đã có chủ.
Đến khi đất hoang được khai phá, canh tác thuận lợi, mùa màng tươi tốt thì cái lão họ Tần khốn kiếp ấy mới từ đâu chui ra, nói đất đó là của ông ta.
Thế chẳng phải coi dân làng như lũ ngu sao.
Nha đầu ấy vừa khóc vừa nấc, tiếng khóc the thé khiến ta nhức cả đầu.
Ta nào có bạc đâu.
Ta là một Tà Thần, người cúng bái ta bao năm, có ai từng dâng thứ gì ra hồn đâu.
Trên núi của ta cũng chẳng có bảo vật gì đáng giá.
Nếu trên núi này thật sự có bảo vật, thì cũng đâu đến lượt ta phải chui rúc ở đây.
Ta ngẩng đầu nhìn về dãy mây mù xa xa, nơi đó có bảo vật.
Ta nấp sau thân cây, giọng khàn khàn già dặn nói. Đừng khóc nữa, mười ngày nữa quay lại lấy bạc.
Nha đầu ấy lau nước mắt, ngẩng đầu nhìn ta. Tiểu thần tiên, đa tạ người.
Đôi mắt nó vẫn đen láy, sáng long lanh như ngày ta nhặt được nó.
Ta gói ghém hành trang, lên đường tới núi Vân Vụ.
Lúc ta đi, bầy khỉ trên núi la hét vang trời, vừa nhảy vừa hô. Đi chết ở ngoài đừng có quay về.
Tức chết ta mất.
Chẳng qua chỉ là trước đây có đánh nhau với chúng vài trận thôi, có cần nguyền rủa ta đến mức ấy không.
Núi Vân Vụ có bảo vật nhưng cũng có một con yêu lớn, ta đánh không lại.
Nhưng ta nhỏ bé, yếu ớt, vô dụng. nên ta có thể.
Xin ngài đấy, cho ta một củ nhân sâm thôi.
Ta quỳ sụp xuống trước Hổ Đại Vương.
Hổ Đại Vương nằm trên bãi cỏ mềm nhất, chẳng buồn mở mắt, càng không để ý đến ta.
Ta quỳ rạp người, nhích từng chút một lại gần. Hổ Đại Vương, cầu xin ngài, chỉ cần một củ thôi. Ta mang đổi được ngàn lượng bạc, nhiều hơn ta cũng không lấy. Ngài muốn ta làm gì cũng được.
Hổ Đại Vương giơ vuốt, hất ta bay ra xa. Cút. Dám gọi ta là Đại Vương lần nữa thử xem.
Cú vung ấy suýt nữa ném ta xuống nửa sườn núi, ta vội vàng bò ngược trở lại.
Hổ Tiên Nhân, Hổ Đại Nhân, Hổ Tôn Thượng, ngài đại lượng như trời biển, xin ban cho ta một củ nhân sâm thôi, chỉ một củ thôi mà.
Núi Vân Vụ linh khí dồi dào, nhân sâm linh chi chẳng thiếu gì nhưng tất cả đều là của Hổ Đại Vương, không ai được chạm vào.
Ta cũng chẳng dám tham, chỉ cầu một củ.
Hổ Đại Vương lại vung vuốt đè ta xuống đất.
Ta liền nắm lấy chân hắn, dịch sang một bên giúp ngài ấy đè cho thoải mái hơn.
Hổ Đại Vương lật ta qua lật lại, nhào nặn như nặn bùn, chơi chán mới thôi.
Ta mặc kệ, cứ để ngài ấy chơi, thỉnh thoảng còn rên rỉ vài tiếng cho có hứng.
Khi hắn chơi đủ rồi, ta lại cung kính dọn dẹp hang cho hắn, tìm cỏ khô mềm nhất, dọn sạch chỗ cũ, san phẳng đất, trải lớp mới thật êm.
Rồi xách nước, tắm rửa, chải lông, xoa bóp cho ngài ấy.
Phục dịch suốt tám chín ngày, Hổ Đại Vương cuối cùng cũng thấy hài lòng, thưởng cho ta một củ nhân sâm.
Này, ngươi chẳng phải là Tà Thần sao. Tà Thần sao lại giúp con người.
Ngài ấy cầm củ nhân sâm, hỏi ta.
Ta nghẹn lại, chẳng biết đáp thế nào.
Ta cũng không biết.
Ta nói khẽ. Chỉ là, ta cảm thấy người trong ngôi làng đó hình như không giống với những kẻ trước kia.
Hổ Đại Vương không nói thêm gì, chỉ nhìn ta thật sâu một cái rồi ném củ nhân sâm qua.
Cút đi.
Ta ôm chặt nhân sâm, lòng đầy biết ơn, khúm núm nói. Hổ Đại Vương, ngài đúng là vị đại vương tốt nhất trên đời này.
Ngài ấy liền vung vuốt hất ta bay thẳng xuống chân núi, từ xa còn truyền tới tiếng gầm giận dữ. Còn dám gọi ta là Hổ Đại Vương nữa, ta bóp chết ngươi.
Ta vội vàng dập đầu, lớn tiếng đáp. Vâng vâng. Hổ Tiên Nhân, Hổ Tôn Giả, Hổ Đại Nhân.
Khi ta trở về, đám khỉ thất vọng ra mặt.
Còn chưa chết à. Dai dẳng thật đấy.
Hắn vốn chẳng tính là sinh vật sống, đương nhiên không chết được.
Ta chẳng thèm để tâm, chỉ cẩn thận đặt củ nhân sâm trước pho tượng đất, chờ nha đầu ngốc đến lấy.
Nhân sâm trên núi Vân Vụ linh khí dồi dào, muông thú nơi đây đều biết rõ giá trị của thứ này nên trong bóng tối, bọn chúng lén lút rình rập.
Đám khỉ cố ý đến khiêu khích, muốn dụ ta rời đi nhưng ta nén giận, không đánh nhau, kiên trì canh chừng nhân sâm suốt hai ngày liền.
Thế mà nha đầu ấy lại không đến, nó thất hứa rồi.
Ta gãi đầu, ôm nhân sâm xuống chân núi.
Nha đầu ngốc, sao còn chưa đến.
Ta lại ôm nhân sâm chờ thêm một ngày nữa, vẫn chẳng thấy bóng dáng con bé đâu, cũng chẳng có ai lên núi.
Ngôi nhà cũ nát nơi nha đầu ấy ở, suốt một ngày không thấy khói bếp bốc lên.
Lẽ nào, có chuyện rồi. Hay lại giống mấy cô nương ở làng dưới núi trước kia, bị bán đi mất rồi.
Tiểu thần tiên.
Không phải nha đầu ấy, mà là ông trưởng làng.
Ông ta tuổi không lớn nhưng chống gậy, bước đi tập tễnh.
Mấy hôm trước bị người của lão Tần viên ngoại đánh, để lại thương tích.
Ta vốn không thích người lớn ở dưới núi, nên vội quay về miếu đổ nát của mình.
Trưởng làng lấy từ trong ngực ra hai quả trứng, đặt trước cửa miếu rồi dùng tay áo lau sạch bùn đất trên tượng thần.
Tiểu thần tiên à, Tiểu Sơ Nhất bị bệnh, không đến được. Con bé nhờ ta mang cho ngươi hai quả trứng, còn dặn rằng sau này có lẽ không thể thường xuyên đến thăm ngươi nữa, và còn.
Nói đến đây, ông ta dừng lại, lau khóe mắt. Hai, con bé ấy cứ nói gì mà có thần tiên, thần tiên ở đâu ra chứ. Thôi thì cứ coi như giúp nó hoàn thành tâm nguyện cuối cùng đi.
Phịch.
Củ nhân sâm trong lòng ta rơi xuống đất.
Tâm nguyện cuối cùng, là sao.
Nhân sâm rơi trúng đầu trưởng làng, khiến ông ta giật mình.
Đây là, nhân sâm. Thì ra thật sự có thần tiên sao. Tiểu Sơ Nhất nói đúng à.
Ông ta nhìn quanh bốn phía, ánh mắt vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ.
Ta nằm trên cây, vội hỏi. Tiểu Sơ Nhất sao rồi.
Nhưng ông ta không nghe thấy chỉ ôm chặt củ nhân sâm, dập đầu cảm tạ. Đa tạ thần tiên, cảm tạ thần tiên, thế này thì Tiểu Sơ Nhất và cả làng được cứu rồi.
Ta sốt ruột hét lớn từ trên cây. Ông chưa nói, Tiểu Sơ Nhất sao rồi cơ mà.
Thế nhưng lão già chết tiệt ấy ôm nhân sâm bỏ chạy, chẳng nghe thấy lời ta, càng chẳng buồn đáp lại.
Ta đứng trên ngọn cây cao nhất nhìn xuống, thấy cả làng đều đã ra ngoài, có người đang bế Tiểu Sơ Nhất.
Cánh tay của nha đầu ấy buông thõng, mềm nhũn, chẳng còn chút sức lực nào.
Bà lão run rẩy đi phía sau, vừa đi vừa lau nước mắt.
Họ, sẽ cứu được nha đầu ấy chứ.
Ta đứng ở chân núi, chờ ba ngày liền, lần đầu tiên cảm thấy thời gian trôi chậm như cả thế kỷ.
Cuối cùng, ba ngày sau, dân làng trở về và Tiểu Sơ Nhất cũng được đưa về.
Nha đầu ấy ngồi trên chiếc xe bò, trên xe chất đầy bao gạo, bao bột mì, cùng đủ loại đồ ăn.
Đám nam nhân cười hò reo vang, còn nha đầu ấy thì ôm một chiếc bánh bao to hơn cả khuôn mặt mình.
Xem ra, mọi chuyện đã được giải quyết rồi.
Ta xoay người, định quay lên núi.
Nhưng lũ khỉ lại ùa cả xuống chân núi, chúng thấy trên xe có đồ ăn ngon liền lao đi cướp.
Trong làng vang lên tiếng người lớn cười mắng xen lẫn tiếng khỉ chí chóe.
Khi có tiền có lương thực, giọng mắng của con người cũng bớt gay gắt hơn hẳn.
Chẳng bao lâu, đám khỉ quay lại.
Chúng chẳng cướp được gì nhưng vẫn cười đùa vui vẻ, chỉ cần gây náo loạn là chúng thấy vui rồi.
Ta ngồi trên cành cây đa trước ngôi miếu đổ nát, đung đưa hai chân.
Cơn gió nhẹ lướt qua sườn núi, phát ra tiếng vu vu, chẳng biết là tiếng khóc hay tiếng cười.
Tiểu thần tiên. Tiểu thần tiên ơi.
Là nha đầu ấy, nàng ấy lại đến rồi.
Mọi chuyện đã xong cả, vậy nàng ấy còn đến tìm ta làm gì.
Tiểu Sơ Nhất lảo đảo ôm chiếc bánh bao to tướng bước đến trước miếu.
Mấy hôm không gặp, nàng ấy lại gầy đi, cổ tay chỉ còn da bọc xương.
Ta thật muốn biết rốt cuộc nha đầu ấy đã trải qua chuyện gì nhưng ta chỉ là một vị thần tiên vô dụng, không nhìn thấu, cũng chẳng cảm nhận được.
Nha đầu ấy đẩy đẩy chiếc bánh bao về phía ta. Tiểu thần tiên, đa tạ người vì củ nhân sâm nhé. Xin lỗi, mấy hôm trước ta bệnh nên không lên núi được. Nhưng ông trưởng làng có lên, ông mang nhân sâm đi đổi lấy rất nhiều bạc đó.
Ông ấy còn mua lại hết ruộng đất quanh làng, cả ruộng của ta và bà cũng mua rồi. Giờ ông ấy còn mua thật nhiều gạo, bột, thịt, nhà nào cũng có phần, còn vui hơn cả Tết.
Cái bánh bao này là ông trưởng làng mua cho ta đấy, tiểu thần tiên ăn đi, ai cũng nói bánh bao ngon lắm. Nghe nói trong cung, Hoàng Thượng với nương nương ngày nào cũng ăn bánh bao đó.
Nha đầu ấy vừa sụt sịt, vừa dùng tay áo lau tượng thần của ta, vừa ríu rít kể chuyện.
Hương bánh bao thoang thoảng, thơm nức.
Ta nghĩ thầm, trong cung làm gì có ai ăn bánh bao, họ toàn ăn sơn hào hải vị thôi.
Hổ Đại Vương từng vào cung ăn cơm, những món ngon hắn thấy còn nhiều hơn cả đám khỉ trên núi Hoàng Cẩu nữa.
Vài ngày sau, trưởng làng dẫn theo dân làng cùng lên núi, ngôi miếu nhỏ đổ nát của ta chưa bao giờ náo nhiệt đến thế.
Họ mang theo đủ loại lễ vật, cảm tạ vì củ nhân sâm ta ban cho.
Tiểu thần tiên, cảm ơn ngài đã giúp làng Hoàng Ngưu của chúng ta. Sau này mỗi dịp lễ tết, chúng ta nhất định sẽ lên dâng hương cho ngài.
Cảm tạ tiểu thần tiên.
Có người đứng bên, khẽ thì thầm. Vị tiểu thần tiên này là thần gì nhỉ. Sao tượng lạ thế, chưa từng thấy bao giờ.
Không giống Thổ Địa, cũng chẳng phải Thành Hoàng, nhìn kỹ thì giống một đứa trẻ nhưng lại không phải là Đồng Tử Tán Tài.
Các người không thấy bức tượng này có vẻ dữ tợn sao.
Trưởng làng vội quát mọi người ngừng nói, sợ bất kính với thần linh.
Bọn họ là người từ nơi khác đến, không biết rằng ta vốn chẳng phải thần tiên gì cả, ta là Tà Thần.
Nếu họ biết rồi, liệu có giống như những người trong làng cũ trước đây, khi phát hiện ra thần là tà vật liền đem những bé gái không mong muốn giết chết rồi ném trước cửa miếu ta không.
Cuộc sống dưới chân núi ngày càng khấm khá, còn cuộc sống của ta thì ngược lại, bắt đầu trở nên tồi tệ.
Chuyện về củ nhân sâm lan truyền khắp nơi, có người từ xa cũng kéo đến núi, cầu xin ta ban cho họ nhân sâm.
Khi nhìn thấy tượng đất của ta, họ lập tức hiểu ra. Thì ra là Tà Thần chứ đâu phải thần tiên gì.
Dưới chân tượng Tà Thần này bị đè là hồn vía của những cô bé chết yểu, bảo sao pháp lực lại mạnh như vậy.
Thôi thì cứ bái đi, cầu phát tài, cầu đẻ được nhi tử.
Ta không muốn nhận lễ bái của họ nhưng ta chỉ là một pho tượng đất vô dụng, chẳng thể làm gì.
Có cả những người tị nạn từ phương xa đến, nghe dân địa phương nói xong, họ cũng hiểu ngay.
Có người sợ hãi nhưng cũng có kẻ ánh mắt rực sáng, càng quỳ lạy cung kính hơn.
Chẳng bao lâu nữa, dân làng dưới núi chắc cũng sẽ biết ta rốt cuộc là thứ gì.
Tiểu Sơ Nhất, cũng sẽ biết ta chẳng phải tiểu thần tiên, mà chỉ là một tà linh.
Nha đầu ngốc sẽ chán ghét ta và sẽ không bao giờ quay lại nữa, phải không.
Ngay lúc hương khói trước miếu ta thịnh vượng nhất, trưởng làng lại dẫn người lên núi, lớn tiếng quát. Các người đang làm gì đấy. Bái bậy bái bạ cái gì thế. Tiểu thần tiên của làng ta không phải Tà Thần. Mang hết mấy thứ đồ dâng kia đi, đừng làm ô uế đất của tiểu thần tiên.
Bọn họ xông lên, ném phăng những lễ vật xuống đất rồi ầm ĩ cãi vã với đám người từ nơi khác đến.
Đám người kia không chịu nhún nhường, lớn tiếng phản bác. Các người bái Tà Thần mà được nhân sâm, chẳng lẽ không cho chúng ta bái à. Lý lẽ gì kỳ vậy.
Đúng đó. Tà Thần này đâu phải của riêng các người, chúng ta ở huyện Bình Xương đời đời đều thờ cúng ngài, liên quan gì đến các người chứ.
Nói trắng ra thì, các người, lũ dân chạy nạn sau này cũng được hưởng phúc từ chúng ta đấy. Nếu trước kia chúng ta không cúng tế Tà Thần, chẳng có hương khói thì ngài đâu ban cho các người nhân sâm được.
Các người còn phải cảm tạ chúng ta mới đúng.
Trưởng làng tức đến đỏ bừng cả mặt. Các người nói linh tinh gì thế. Tiểu thần tiên của chúng ta nhân hậu hiền lành, ngài là vị thần tốt, nào có phải Tà Thần gì.
Còn các người, chính các người giết hại nữ nhi, sợ oán hồn báo thù nên mới quỳ lạy cầu xin, tự mang tâm địa đen tối của mình mà gán cho thần là Tà Thần.
Tâm các người mới thật sự đen bẩn, tiểu thần tiên tuyệt đối không bảo hộ hạng người như các người đâu.
Giữa đám đông, Tiểu Sơ Nhất cũng cất tiếng kêu lớn. Tiểu thần tiên là thần tốt. Ngài không phải Tà Thần đè lên hồn nữ nhi gì cả. Chính ngài đã nuôi lớn ta, đối xử với ta rất tốt. Ngài còn giúp ta và bà khai hoang, gặt lúa, bị dê con húc ngã mà vẫn giúp ta kéo nó về nữa.
Cái đoạn phía sau đó thật sự không cần thêm đâu mà.
Ta ngồi chồm hổm trên cây, nhìn bọn họ cãi nhau, thấy dân làng dần dần bị đám người ngoài vây quanh.
Lòng người vốn tham lam, nếu không vì chuyện nhân sâm, đám người tị nạn này đâu đến mức hung hăng như thế.
Nhưng một khi nhận ra trên người ta có thể kiếm được lợi, bọn họ lập tức trở nên liều lĩnh.
Hai bên sắp đánh nhau đến nơi thì.
Bốp.
Một quả trái cây thối rơi trúng đầu một gã trong nhóm người ngoài.
Gã kia bị ném trúng, mặt mũi toàn là bùn trái cây, ngẩng đầu nhìn lên cây với vẻ ngơ ngác, kinh hãi.
Ngay sau đó, quả thứ hai, quả thứ ba lại bay xuống.
Bầy khỉ như phát điên, cầm trái cây và đá ném loạn xạ vào đám người ngoài.
Chúng còn nhảy bổ xuống, xé rách y phục, cướp giật đồ đạc trên người họ.
Lũ chim cũng sà xuống, giương vuốt tấn công đám người kia.
Trưởng làng và dân làng chứng kiến cảnh đó, vui mừng đến mức vỗ tay rào rào. Nhất định là tiểu thần tiên đang trừng phạt bọn chúng đấy.
Đúng rồi, ta đã nói tiểu thần tiên không phải Tà Thần, mấy kẻ đó không tin, giờ thì đáng đời, báo ứng tới rồi.
Khi đám người ngoài bị dọa cho bỏ chạy, trưởng làng dẫn mọi người dọn dẹp lại ngôi miếu của ta thật sạch sẽ.
Tiểu thần tiên, đừng để bụng với bọn họ, đều là lũ tâm địa bất chính, lời nói chẳng đáng tin đâu.
Sau khi họ rời đi, ta liếc nhìn bầy khỉ và đàn chim.
Vua Khỉ lên tiếng trước. Đừng nghĩ nhiều, mấy kẻ đó suốt ngày leo núi quấy rầy, bọn ta chịu hết nổi rồi.
Vua Chim cũng bực bội nói. Gần đây trứng của bọn ta toàn bị trộm, thấy mặt chúng là đã ngứa mắt.
Thôi được, sau này ta sẽ bớt đánh nhau với bọn chúng vậy.
Vài ngày trôi qua, thời tiết lại khô hạn, chẳng chịu mưa lấy một giọt.
Dân làng cùng Tiểu Sơ Nhất lại lên núi tìm ta, ai nấy đều ủ rũ cúi đầu.
Tiểu thần tiên, ngài có thể làm cho mưa xuống không.
Ta, không thể, ta đâu biết gọi mưa.
Tiểu Sơ Nhất không cầu xin gì cả, chỉ mỉm cười nói với ta. Tiểu thần tiên, bà đang dạy ta may áo, thêu hoa. Khi nào học xong, ta sẽ may cho ngài một đôi giày thêu, rồi làm thêm một chiếc áo bông có hoa cho ngài nữa nhé.
Ta đung đưa đôi chân đất của mình, ta chưa từng đi giày, bức tượng đất của ta cũng chẳng có giày, có lẽ người nặn tượng khi ấy chưa từng nghĩ rằng một Tà Thần cũng cần mang giày.
Vài ngày sau, nha đầu ấy thật sự mang đến một đôi giày.
Tiểu thần tiên, ngài xem, có đẹp không. Đế giày là bà giúp ta khâu, còn hoa là ta tự thêu đó.
Đôi giày rất ổn, chỉ là hoa thêu xấu đến nỗi nhìn chẳng ra hình thù gì, một đám rối bời, chẳng biết tượng trưng cho cái gì.
Nha đầu ngốc còn hăng hái chỉ vào từng chỗ, nói với ta. Ngài xem, đây là con khỉ, còn đây là con chim. Chuyện trước kia ta vẫn nhớ hết, ngài hay chơi với khỉ và chim, ta biết ngài thích chúng mà.
Hừ, thích cái đầu ngươi. Ta với chúng là đánh nhau, hiểu không.
Nha đầu ấy chẳng buồn để ý, vẫn nói một mình rồi đặt đôi giày ngay ngắn trong miếu của ta.
Nàng ấy lớn nhanh quá, giày năm ngoái đã chật, đôi này chắc ban đầu bà định may cho nàng ấy đi, vậy mà cuối cùng, nàng ấy lại đem tặng cho ta.
Nàng ấy lau sạch cả ngôi miếu cũ lẫn pho tượng rồi tiếc rẻ nói. Tiểu thần tiên à, dạo này ta không có thời gian lên thăm ngài nữa. Ông trưởng làng bảo mọi người ra đào mương, dẫn nước về tưới đồng, còn định khoan giếng nữa, cả làng ai nấy đều bận rộn lắm.
Nói xong, nàng ấy đứng lên, ngẩng ngực tự hào nói rằng nàng không biết đào mương, cũng không biết nấu ăn nhưng có thể nhóm lửa giúp, vậy là đã thành người lớn có ích rồi.
Khi nàng ấy đi khuất, ta mới nhảy khỏi cây, chạm vào đôi giày ấy.
Đôi giày đầu tiên.
Ta thử xỏ vào chân, đế giày dày nhưng lại mềm.
Giày không vừa, nhưng ta vẫn thích.
Ta tìm một sợi dây, buộc chặt giày rồi treo nó lên cổ.
Vài ngày trôi qua, trời vẫn chẳng mưa, núi rừng khô khốc, lũ khỉ cũng ít ra ngoài chơi.
Trưởng làng dẫn mọi người đi đào mương để dẫn nước.
Ta biết trên núi có nguồn nước nhưng nước bị đá chắn lại ở cao, nằm trên miệng hang, khó mà đào tới.
Ta chẳng có tài cán gì ghê gớm nhưng không sợ độ cao, có thể trèo lên mà đào những tảng đá đó.
Thì đúng lúc đó, người lại kéo tới dưới làng.
Nhiều người xông vào trong làng, bắt đi hết tất cả các cô nương Tiểu Sơ Nhất cũng nằm trong số đó.
Họ bị lùa đi để tế thần sông, thần sông vui thì sẽ cho mưa.
Dân làng cầm cuốc xông lên đánh, bà lão chống gậy đuổi theo, vừa khóc vừa kêu. Tiểu Sơ Nhất. Tiểu Sơ Nhất. Các con mau chạy đi, chạy lên núi. Tiểu thần tiên sẽ phù hộ cho các con.
Tiểu Sơ Nhất cắn mạnh vào tay kẻ đang giữ mình rồi lao về phía ngọn núi.
Nhưng chưa kịp chạy được mấy bước, một gậy nặng đã quật mạnh xuống đầu.
Bộp.
Thân thể nhỏ bé của nàng ấy đổ rạp xuống đất, bất động. Đôi giày không vừa chân văng ra, bị đá bay đi.
Một gã nam nhân túm tóc nàng ấy, kéo lên xe ngựa.
Dân làng dù bị thương vẫn không chịu bỏ cuộc, đuổi theo chiếc xe.
Kẻ cầm đầu rút ra một tờ công văn. Nhìn cho rõ đi, đây là lệnh của quan huyện. Các ngươi định tạo phản à.
Dân làng sững sờ, không dám nhúc nhích.
Không thể nào.
Quan phủ sao lại cho bắt nữ nhi chúng ta đem tế thần sông.
Gã kia lại cười hô hố. Lão gia huyện nói rồi, các ngươi lập công lớn, dùng mấy đứa nữ nhi này tế thần, đổi lại được miễn thuế ba năm, chẳng phải là phúc sao.
Dân làng càng chết lặng, chẳng ai dám thở mạnh.
Không ai được đụng đến cháu gái ta.
Bà lão lao tới, nhưng bị một cú đá mạnh trúng ngực.
Bịch.
Bà ngã xuống đất, không bao giờ đứng dậy được nữa.
Kẻ đó cười lớn. Nha đầu ngươi nuôi bị bắt rồi, mang đi tế thần sông. Ha ha, cái thần sông ấy chỉ là một con cóc tinh thích ăn thịt người, thần thánh gì chứ.
Ta còn chưa kịp đào xong chỗ nước, một con quạ từ xa bay tới, lao vào hang, kêu lên the thé, cười nhạo ta là đồ ngu ngốc.
Khi ta chạy xuống núi, chỉ thấy dân làng đang khiêng thi thể bà lão trở về.
Gương mặt họ đầy vẻ tang thương, bất lực và đau đớn.
Ta nhìn bóng lưng họ, chợt nhớ tới những người từng nặn ra tượng của ta, những người cũng từng như thế.
Những cô nương bị bắt đi, không ai sẽ vì họ mà làm gì đâu.
Nữ nhi vốn chỉ là đồ thừa, chẳng đáng giá, chết thì chết thôi.
Chết thì chết, chẳng lẽ vì một ả tiện nha đầu mà cả nhà phải chết đói sao. Một đứa tiện nhân lại còn mắc cái bệnh nhà giàu ấy nữa.
Nha đầu đó có tướng hồ ly, bị người ta để mắt đến cũng là đáng đời, còn có thể đổi được ít bạc cho nhà.
Nếu không vì nó, đã chẳng đến nỗi tuyệt tự không sinh nổi nhi tử, chết sớm cũng phải thôi.
Những người từng nặn tượng cho ta, chính là đã nói như vậy, cũng hành động như vậy.
Không ai sẽ vì mấy đứa con gái mà mạo hiểm cả, dân làng Hoàng Ngưu chắc cũng thế thôi.
Quan phủ miễn cho họ ba năm thuế, hẳn là họ mừng đến phát điên rồi.
Ta quay đầu và đi về hướng huyện lỵ.
Tiểu Sơ Nhất ở đó.
Nha đầu ấy đã hứa sẽ giúp ta may áo mới, không thể nuốt lời.
Phía sau vang lên những tiếng gào thét của dân làng. Chẳng lẽ lại đứng nhìn nữ nhi ta đi chết như vậy sao.
Còn làm sao được, đó là lệnh của quan phủ mà.
Đời ta khổ cực lắm mới sống chạy được đến đây, chưa kịp hưởng ngày tốt đẹp bao lâu, con bé khổ thân từ khi sinh ra đã chẳng gặp ngày lành.
Giọng trưởng làng rõ nhất giữa đám đông. Ta đi giành lại lũ trẻ. Giành không được thì cùng chết ở đó. Sống chán rồi. Cùng đi với lũ trẻ, sang đường âm phủ cũng còn có nhau mà.
Ông hô to, hỏi xem có ai dám theo cùng không.
Trưởng làng tuy tuổi đã cao, bước đi run rẩy, thân mình còn đầy thương tích, máu dính trên đầu nhưng lúc này ông đứng thẳng như cây dương to nhất trên núi.
Dân làng nhìn nhau, lau máu trên trán rồi đồng thanh hô vang. Chúng ta là người chạy nạn, đã trải qua biết bao chuyện. Khó khăn lắm mới sống sót, những đứa trẻ đó toàn do chúng ta giành giật với thiên tai, sao lại để họ bắt đi để tế cái gì gọi là thần sông.
Đúng vậy, đó là con cháu của chúng ta, sao phải cho họ đem đi đổi lấy mưa.
Nếu thần thật có lòng thương thì cũng phải giống tiểu thần tiên của chúng ta chứ, sao lại đòi ăn con trẻ mới chịu ban mưa.
Nếu cái thần ấy đòi ăn nữ nhi mới cho mưa thì ta đập tượng nó đi cho rồi.
Họ vừa hét vừa vội thu xếp hành lý, lôi ra trong nhà những hũ gạo, miếng thịt ngon để ăn một bữa thật no.
Rồi họ tập hợp lực lượng, tiến thẳng về phía huyện lỵ.
Trưởng làng an táng thi thể bà lão xong, dặn dò những người nữ nhân còn lại dẫn con trẻ lên núi. Các người ra miếu tiểu thần tiên, nếu thấy chúng ta không trở về thì lại đi tiếp, đừng đợi chúng ta. Nếu còn sống, rồi ta sẽ gặp lại nhau.
Thê tử trưởng làng đỏ mắt hỏi. Phu quân, tiểu thần tiên có giúp ta giành lại con trẻ không.
Trưởng làng lắc đầu. Chúng ta là người, phải đánh với người, đâu thể suốt ngày xin thần được. Người xưa nói, con người có thể thắng số mệnh, nếu không tự ra tay, cứ mãi trông chờ người khác thì đời này chẳng khá lên được.
Vậy nên họ không đến xin ta gọi mưa, mà tự tay đi đào mương khoan giếng.
Họ khác với những người khác.
Ta là một vị thần vô dụng, không gọi được mưa, đánh nhau với lũ khỉ đã thấy vất vả, nói chi đến đánh mấy con yêu quái.
Nhưng trưởng làng nói đúng, phải cố gắng một phen chứ. Đâu thể chưa làm gì mà đã, từ bỏ.
Ta bám chặt lên lưng trưởng làng, theo họ xuống huyện lỵ.
Trước đây ta chưa từng rời khỏi núi Hoàng Cẩu, vì sợ hãi mà chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đi xa.
Giờ đã ra ngoài, mới thấy ngoài kia có biết bao người.
Có những người trông giống hệt mấy kẻ đã bỏ nữ nhi lên trên núi, có mặt mày hiền hậu, cũng có lúc nào cũng cau mặt, quỳ trước những miếu nhỏ bên đường mà van vái xin mưa.
Đời người thật éo le.
Trưởng làng cùng mọi người khí thế ngút trời, tay cầm cuốc tiến về bờ sông nơi tế lễ. Trên đường họ gặp những người khác, giống họ, cầm cuốc, cầm vũ khí, đều hét lên phải đem con trẻ về.
Mục tiêu như nhau, nên họ đi cùng nhau.
Cuối cùng chúng ta cũng tới bờ sông, từ xa đã ngửi thấy một thứ khí rất nhớp đó là khí của yêu quái.
Một sức mạnh ghê gớm, bốc mùi hôi thối và đẫm mùi máu.
Ta biết đó chính là con cóc tinh mà chim đã nói, nó mạnh hơn ta.
Nhưng đến cũng đã đến rồi, như trưởng làng nói, không thử sao biết.
Ta nhảy bổ xuống nước.
Chỉ cần giết được cóc tinh, để mọi người thấy rõ bản mặt thật của nó, họ sẽ thôi không đem nữ nhi ra tế thần sông nữa.
Nước không mát như tưởng tượng mà nhớp nháp, đục ngầu, lẫn đầy phù sa.
Ta lần theo mùi ấy và tìm thấy con cóc tinh.
Nó thật sự to, một cái miệng thôi cũng đủ nuốt chửng ta.
Nó ngồi xổm dưới đáy nước, người đầy mùi máu, dưới chân là những bộ xương trẻ con.
Những bộ xương ấy giống hệt xương trong hố chôn tập thể.
Tất cả đều bé nhỏ, chết trong cơn giằng co đau đớn, oán hận nhưng bất lực.
Khi chết, hồn phách của các bé không siêu thoát, lang thang trên miệng hố lâu lắm, chờ phụ mẫu đến rước.
Nhưng chẳng ai đến, thay vào đó là bị vùi, xương cốt bị thiêu thành tro, chôn lấp dưới nền của pho tượng ta.
Những bậc phụ mẫu tàn nhẫn ấy căm ghét đến muốn con cháu họ không được siêu sinh, sao họ còn rước các bé về nhà.
Họ bảo nữ nhi vô dụng, là tai họa, vậy mà lại đem chính những đứa vô dụng ấy đi tế thần sông. Sao có thể chấp nhận được.
Lòng ta bùng lên một cơn thịnh nộ, lao thẳng tới.
Giết. Phải giết nó.
Nó giống hệt những kẻ đã nặn tượng cho ta, tàn nhẫn, xem mạng người như cỏ rác.
Họ bắt ta phải đè nén hồn những bé gái ấy, nào ai hỏi ta muốn gì đâu.
Ta khóc đỏ cả mắt, đã không còn biết mình đang làm gì nữa, chỉ muốn trả thù, muốn bảo vệ Tiểu Sơ Nhất, muốn cố gắng một phen.
Ta chẳng có mấy sức mạnh, chỉ biết lao vào người cóc tinh, dùng tay xé, dùng răng cắn, lấy đôi giày Tiểu Sơ Nhất cho mà đánh thật mạnh.
Giết nó. Phải giết nó. Tiểu Sơ Nhất mới có thể sống.
Ta chưa từng sống thực sự bao giờ, nhưng Tiểu Sơ Nhất và mấy cô nương kia nhất định phải được sống.
Không biết trôi qua bao lâu, khi ta tỉnh lại, nước sông đã nhuộm đỏ.
Cánh tay ta rũ xuống bên vai, có cảm giác sắp rời ra.
Toàn thân đầy những vết thương, đầu như vỡ ra, thế nhưng lòng ta lại vui sướng.
Cóc tinh đã chết, Tiểu Sơ Nhất sẽ còn sống.
Ta nhìn xác con cóc trôi lên mặt nước.
Ta lặng lẽ nổi lên, núp sau tảng đá ven bờ quan sát.
Mọi người nhìn thấy xác cóc, họ la hét om sòm.
Trưởng làng gào lên. Nhìn kìa, đó là con cóc tinh, chứ nào phải thần sông. Nữ nhi chúng ta không thể đổi lấy mưa bằng cách này, thần thực sự sẽ không ăn thịt con người. Thả bọn trẻ ra. Thả bọn trẻ. Nếu thần cần ăn người mới cho mưa thì đó thần loại gì.
Dân làng khẩn khoản đứng ra tranh luận với những người xung quanh.
Nhưng có những người, vốn cũng là dân thường lại đứng về phía quan lại.
Các ngươi chẳng cần tiếc vài đứa nữ nhi đâu, mắt như chuột chỉ chăm lo lợi trước mắt. Nếu không tế thì không mưa, biết có bao nhiêu người chết đói không.
Đúng đấy, không tế thì mất mùa, ruộng vườn thế nào, gia đình chúng ta sống ra sao.
Cút đi, đừng làm hỏng lễ.
Trưởng làng và mọi người giận run, cố lao tới nơi cử hành tế lễ thì bị những kẻ đứng đó chặn lại.
Một tên huyện lệnh béo tốt, đầu to tai lớn ngồi trên đài cao, bên cạnh là Tần viên ngoại, cùng với một đám hào lý trong vùng giống hệt hắn.
Họ nói con cóc tinh ư. Đó tất nhiên không phải thần sông. Thần sông ở trong nước, ngài ấy đã giúp tiêu diệt yêu quái, các người phải biết ơn ngài ấy, còn chần chờ gì mà không đưa các thiếu nữ vào. Họ nói.
Họ vẫn không tin, cứ bắt mấy cô nương đi tế thần sông.
Cái tên huyện lệnh chết tiệt ấy, cái lý lẽ chó má ấy là gì chứ.
Sao ta đã cố gắng liều mạng mà vẫn chẳng thay đổi được gì.
Nếu đã vậy, thì giết hết họ đi, giết hết đi, cho họ chết hết.
Huyện lệnh giơ tay ra hiệu, Tiểu Sơ Nhất cùng rất nhiều cô nương bị lôi ra, đưa lên chiếc chum tế cao vút.
Chiếc chum nhô ra sát mặt nước. Họ sẽ bị đẩy xuống từng người một, rơi mạnh xuống sông, không có đường sống.
Ta đếm, đúng một trăm cô nương.
Lại là cảnh này nữa.
Mắt ta đỏ lên, chỉ thấy những huyện lệnh và bọn cản đường trưởng làng, bọn họ thực sự đáng chết.
Ta định lao tới thì đột nhiên bị một lực nâng lên.
Ta rơi xuống mây, ngơ ngác nhìn quanh, thấy nằm bên cạnh là Hổ Đại Vương.
Hổ Đại Vương.
Tức giận đến mức không thèm để ý người trước mặt. Hổ Đại Vương, sao ngài ngăn ta. Ngài cũng là đồng bọn của bọn họ sao.
Hổ Đại Vương phẩy một cái tát vào đầu ta. Đã bảo rồi, đừng gọi ta là Hổ Đại Vương. Với lại, nếu ta không ngăn, chắc là ngươi sẽ ra tay à.
Sau cú vỗ ấy, mấy vết thương trên người ta liền lành lại.
Ta gật đầu quyết liệt. Chúng xem mạng người như cỏ rác, bọn chúng đáng chết.
Hổ Đại Vương thở dài, lắc đầu. Dù giết hết bọn họ cũng chẳng giải quyết được căn nguyên. Ngươi có giết hết dân chúng được không.
Quả là nhiều người, ta không thể giết sạch.
Nhưng nếu không làm gì, sao ta có thể nhìn Tiểu Sơ Nhất và mấy cô nương kia chết được.
Hổ Đại Vương ngẩng nhìn trời, lại thở dài. Chỉ giải quyết được phần ngọn thôi, chưa phải gốc.
Hắn vuốt râu, gãi mũi, rồi bất chợt hắt xì.
Rầm. Rầm.
Ngay sau tiếng hắt xì, mây đen tụ lại nhanh chóng, theo sau là sấm chớp ầm ầm.
Những người đang tranh cãi đứng sững, huyện lệnh định truyền lệnh cũng ngẩn ra, tất cả đều nhìn chằm chằm lên trời.
Trời mưa rồi. Trời mưa rồi.
Trưởng làng cười ha hả. Không cần tế lễ, thần cũng cho mưa chứng tỏ ngài không muốn con trẻ của ta chết.
Đúng rồi, đúng rồi, ta đã nói, thần thật sự sẽ không ăn thịt nữ nhi.
Họ ùa về phía đàn tế, lần này không ai ngăn cản nữa.
Mọi người hồ hởi đón cơn mưa, reo cười khôn xiết.
Tiểu Sơ Nhất cùng các cô nương được cứu lên, người thân chạy đến ôm chầm lấy họ, khóc nức nở trong mưa.
Ta nằm trên tầng mây, ngơ ngác nhìn cảnh đó, lòng tràn đầy cảm xúc.
Hổ Đại Vương, thì ra ngài cũng biết gọi mưa à. Làm thần giỏi rồi thì ai cũng có thể khiến trời mưa sao.
Ta định nói thêm rằng, ta cũng là thần, ta cũng muốn học cách gọi mưa.
Nhưng rồi chợt sững lại, ta là Tà Thần, Tà Thần sao có thể khiến trời mưa được.
Hổ Đại Vương duỗi người, trên đầu dần mọc ra đôi sừng, dung mạo trở nên dữ dằn, oai phong hơn hẳn.
Ta chợt nhớ ra, giữa trán của Hổ Đại Vương hình như không có chữ Vương.
Thấy ta ngẩn ngơ, hắn vỗ nhẹ lên đầu ta.
Ngốc, thật coi mình là Tà Thần à. Ngươi tính là thần gì chứ. Cùng lắm chỉ là một pho tượng đất, bị người ta ép buộc mà sinh ra chút linh niệm thôi.
Ta sững người.
Ơ. Vậy, ta là gì.
Hổ Đại Vương cười khẽ. Ngươi muốn là gì. Muốn làm gì.
Ta suy nghĩ thật lâu, trong đầu dần hiện lên một ý niệm mơ hồ. Ta, ta chỉ muốn, sống một lần. Sống thật sự, với thân phận là chính ta.
Từ khi sinh ra, ta đã cho rằng mình là Tà Thần.
Nhưng trước khi tan biến, ta nghe thấy lời nguyện cuối của những cô nương bị tế sống, họ chỉ mong được sống một lần.
Ta luôn nghĩ, sống rốt cuộc là cảm giác gì.
Hổ Đại Vương có chút kinh ngạc. Ngươi muốn làm người sao. Nhưng làm người khổ lắm đấy.
Ta gật đầu. Đúng vậy, làm người rất khổ, ta cũng chẳng thích làm người. Chỉ là, ta muốn sống một lần thôi.
Chỉ muốn được sống, chứ chưa từng nghĩ mình sẽ sống để làm gì.
Ta chưa từng có kinh nghiệm sống, cũng chẳng biết sống thì phải làm gì nữa.
Hổ Đại Vương sai ta xoa vai cho hắn rồi trầm ngâm giây lát, bỗng thổi mạnh một hơi về phía đàn tế.
Chỉ nghe rắc một tiếng, cả đàn tế vỡ tan, hóa thành bụi vụn.
Trên trời có ai đó gọi ngài ấy, giọng vang vọng trong mưa.
Hổ Đại Vương ngẩng mặt cười lớn giữa cơn mưa như trút. Được rồi, vậy thì sống một lần đi.
Nhưng hãy đợi thêm ít lâu, thời thế này hỗn loạn quá, kẻ ở trên cao kia. sắp nên đổi rồi.
Khi rời đi, hắn nói với ta. Nhớ lấy, rồng sinh chín con, mỗi đứa đều khác nhau. Lão tử đây không phải hổ, ta là Bệ Ngạn.
Bệ Ngạn, là một trong chín người con của rồng trong thần thoại Trung Quốc, có tính cách thích lý lẽ, trượng nghĩa, ghét ác và thường được khắc họa trên cửa các nhà tù hoặc công đường. Nó có đầu rồng và thân hổ, tượng trưng cho sự công bằng, thị uy và thường được cho là để cảnh báo kẻ gian rằng đã vào đây thì không còn đường thoát.
Bệ. Ngạn. Tên gì kỳ lạ vậy.
Ta còn định hỏi cho rõ nhưng khi quay đầu lại thì ngài ấy đã biến mất giữa làn mưa trắng xóa.
Tiểu Sơ Nhất về lại làng, nhưng bà lão đã mất rồi.
Trưởng làng đã giúp an táng bà, và bảo Tiểu Sơ Nhất theo ông về.
Nha đầu ấy lại lên núi, nằm khóc ngoài miếu của ta.
Tiểu thần tiên, bà đã đi rồi. Trưởng làng bảo bà là người tốt, kiếp sau sẽ đầu thai vào nhà giàu. Có thật không ạ.
Ta không biết.
Ta chỉ từ trên cây xuống, vỗ nhẹ lên lưng con bé.
Nha đầu ấy ôm chầm lấy ta mà khóc nức nở.
Rồi thiên hạ loạn lạc, có người nổi loạn.
Nghe nói có người họ Tất mạnh lắm, dẫn quân đánh thẳng về kinh đô, chạm trán quân triều đình lần nào cũng chiến thắng vang dội.
Trưởng làng bảo, Vương Tất rất thương dân, mở kho gạo phát cho dân, giảm thuế, cho con nhà nghèo được ra làm quan, còn cấm giết nữ nhi, ai trái lệnh sẽ bị chém đầu.
Tiểu Sơ Nhất đã tám tuổi, đã thành tiểu cô nương nhưng vẫn thường xuyên lên núi nói chuyện với ta.
Ta mặc bộ áo hoa và đôi giày thêu nàng ấy may cho, trông như đóa hoa xấu xí nhất trên núi.
Nàng ấy lại kể. Quan phủ lại đòi thu thuế, nói là để dâng lên vua. Trưởng làng hy vọng Vương Tất mau đánh tới đây, để chúng ta cũng được sống khá hơn.
Nói vắn tắt một hồi, nàng ấy vội vàng về vì còn nhiều việc nhà.
Trưởng làng đối xử tốt với nàng ấy nhưng nhà ông ngày càng khốn khó. Quan phủ vẫn ghét ông vì dẫn người giành lại các cô nương, thường xuyên gây khó dễ cho làng Hoàng Ngưu, tăng thuế, bắt phu khiến cuộc sống dân làng khốn cùng.
Nhưng trưởng làng không bao giờ đến xin ta nữa.
Ông vẫn dẫn dân lên cúng, nhưng chưa từng nhắc đến việc xin nhân sâm.
Hổ Đại Vương không còn ở đây, ta cũng không thể lấy trộm nhân sâm của ngài ấy, giờ đây ngoài việc ra trận giết bọn ác, ta chẳng làm được gì khác.
Tiểu Sơ Nhất ngày càng bận rộn, ít có thời gian lên tìm ta hơn trước.
Lũ chim bảo, trong huyện đã bùng phát dịch bệnh rất nhiều người chết.
Tên huyện lệnh chỉ biết vơ vét của dân, chẳng thèm lo chữa trị khiến người chết ngày càng nhiều.
Dưới chân núi hỗn loạn vô cùng.
Không bao lâu, dịch bệnh lan đến cả ngôi làng.
Tiểu Sơ Nhất ngã bệnh, trưởng làng cũng bệnh, rất nhiều người lần lượt gục xuống. Họ không có tiền chữa, chỉ biết uống thêm nước, phơi nắng nhiều hơn, cố gắng cầm cự qua ngày.
Ta trèo lên núi Vân Vụ, lần đầu tiên trong đời đi trộm đồ.
Ta chỉ lấy một chút thôi, một chút xíu là được.
Ta cẩn thận nhổ vài sợi rễ nhân sâm, nghĩ rằng chỉ cần thế là đủ rồi.
Không ngờ lại bị tiểu hồ ly A Lê, người hầu của Hổ Đại Vương bắt gặp.
Nó tức giận đuổi theo ta, còn ta thì vừa chạy vừa hô. Xin lỗi. Xin lỗi mà, rồi như một làn khói bay vụt về núi Hoàng Cẩu.
Ta đặt mấy sợi rễ nhân sâm ấy lên bếp nhà trưởng làng.
Mọi người dùng nhân sâm nấu canh uống, ai nấy đều khỏi bệnh.
Trưởng làng lại dẫn dân đến tạ ơn ta.
Nhưng lúc ấy ta không có ở nhà, ta đang tìm A Lê để nói chuyện, hỏi nó xem khi nào Hổ Đại Vương trở về.
A Lê trừng mắt nhìn ta, giận đến nghiến răng. Nếu không phải vì giúp ngươi, Đại Vương của ta cũng chẳng đến nỗi phạm thiên quy mà tự ý làm mưa. Bây giờ ngài bị phạt xuống trần cứu dân chúng rồi. Hừ. Ngươi còn dám hỏi à. Còn có mặt mũi trộm nhân sâm của Đại Vương nữa không, đồ không biết xấu hổ.
Nó nói rằng Hổ Đại Vương là nhi tử thứ bảy của Long Vương, vốn không cai quản việc mưa gió.
Nhưng vì giúp ta mà ngài đã tự ý làm mưa khiến các vị thần trên trời trừng phạt, đày xuống nhân gian chịu khổ.
Chịu khổ, là dẫn người khởi nghĩa làm Hoàng Đế sao.
Đánh nhau dữ dội như thế, đúng là cực khổ thật.
A Lê gãi đầu nói. Cũng không hẳn. Trên trời phạt ngài làm người phàm nhưng Đại Vương nói, đã làm người thì phải làm cho ra dáng người, phải làm lớn một chút.
Ngài bảo, nhân gian loạn lạc như thế, tên cẩu Hoàng Đế và bọn quan lại kia nhìn đã chướng mắt lắm rồi. Tiện thể xuống đó, chém bọn chúng rồi tự mình làm Hoàng Đế chơi cho sướng.
Ta nghe mà tràn đầy khâm phục.
Đúng là phong cách của Hổ Đại Vương, đã nói là làm, cho dù bị ép làm người phàm cũng không chịu để mình chịu thiệt.
Hổ Đại Vương, thật là lợi hại.
Ta còn đang nói chuyện với A Lê thì bỗng cảm thấy thân thể bị thứ gì đó quấn lấy, cưỡng ép kéo bay về hướng núi Hoàng Cẩu.
A Lê hốt hoảng nhảy lên, muốn giữ ta lại nhưng không kịp.
Nó đuổi theo xuống núi, nhưng cũng chẳng thể cứu được ta.
Từ xa, ta nghe tiếng nó hét. Tên ngốc, chờ ta. Ta sẽ đi tìm Đại Vương, ngài nhất định có cách cứu ngươi.
Ta bị bắt đi rồi.
Ta nhìn thấy tượng đất của mình bị người ta trói chặt bằng dây đỏ, có người đứng trước đó lẩm nhẩm niệm chú gì đó.
Những chiếc bánh bột ngô đặt trước ngôi miếu đổ nát của ta đều bị hất văng sang một bên, giẫm nát thành bùn.
Nếu là trước đây, chắc ta đã nổi giận lắm rồi. Nhưng dạo này, tính khí ta lại tốt hơn, không còn dễ tức giận như trước nữa.
Chỉ là, bọn họ không định tha cho ta.
Họ mang tượng đất của ta đi, đưa đến huyện thành, dựng một đàn tế, giống hệt như lúc tế thần sông.
Chỉ khác là, lần trước họ tế bằng những cô nương như Sơ Nhất, còn lần này, vật tế chính là ta.
Dưới đàn chất đầy củi khô, còn tưới thêm dầu hỏa.
Rất nhiều dân chúng mặt mày tiều tụy vì bệnh tật đứng vây quanh, chỉ trỏ bàn tán.
Huyện lệnh khẽ gật đầu với lão đạo sĩ đã bắt ta.
Lão liền lớn tiếng hô lên với dân chúng. Chính tên Tà Thần này đã mang dịch bệnh đến. Mọi người nhìn đi, nơi nơi đều nhiễm bệnh chỉ có dân làng Hoàng Cẩu là vẫn khỏe mạnh, chẳng phải vì họ nuôi dưỡng Tà Thần này đó sao.
Lúc ấy ta mới nhận ra, dân làng Hoàng Cẩu cũng bị bắt đến, từng người đều bị trói cạnh đàn tế.
Sơ Nhất lo lắng nhìn ta, mấp máy môi bảo ta chạy đi.
Nhưng ta không thể.
Ta bị giam giữ, không thể thoát.
Dân chúng dưới đài đã tin lời lão đạo sĩ, họ gào thét. Giết Tà Thần đi. Thiêu chết nó, tan thành tro bụi, bệnh của chúng ta mới khỏi được.
Phải hủy diệt Tà Thần.
Bệnh của họ thì có liên quan gì đến ta chứ.
Ta nào có năng lực đó.
Sơ Nhất vẫn không chịu khuất phục, cất tiếng phản bác. Không phải. Tiểu thần tiên không phải Tà Thần. Ngài ấy đã dùng nhân sâm cứu chúng ta khỏi ôn dịch, sao có thể gieo rắc bệnh dịch được.
Nhưng giọng nàng quá nhỏ, bị đám đông điên loạn nuốt chửng.
Họ đã chịu đựng cơn bệnh quá lâu mà chẳng được chữa trị, lý trí từ lâu đã tan biến, giờ chỉ cần một chỗ để trút hận và chỗ đó chính là ta.
Lão đạo sĩ quát lên. Thiêu chết nó đi.
Hắn dán đầy bùa chú lên tượng đất của ta rồi châm đuốc, ném xuống đống củi bên dưới.
Lửa bùng lên, hơi nóng bỏng rát, thứ đau đớn ấy, ta từng thấy qua trong ký ức còn sót lại của những cô nương bị tế trước kia.
Đó là cái chết thống khổ nhất.
Ta vùng vẫy trên tượng đất nhưng ta quá yếu, làm sao chống lại con người.
Sơ Nhất đã thoát khỏi dây trói, lao lên đàn tế.
Nha đầu ngốc ấy lấy thân mình nhỏ bé đâm vào trụ đàn, cố gắng cứu ta ra.
Lúc ấy, trưởng thôn cũng dẫn người xông đến, cùng nhau hét lớn. Tiểu thần tiên, mau chạy đi. Mau chạy đi.
Dân chúng xung quanh ùa lên bắt họ, vừa la hét vừa chửi rủa rằng bọn họ cũng là yêu nghiệt, là đồng lõa với Tà Thần, phải bị thiêu chết cùng nhau.
Nhưng trưởng thôn, Sơ Nhất và dân làng chẳng ai chịu chạy.
Họ vẫn liều mạng lao vào đập cột đàn, cố phá nó để cứu ta.
Có người còn muốn ôm lấy tượng đất của ta, mang ta trốn cùng.
Bọn họ thật ngốc quá.
Luôn gọi ta là tiểu thần tiên, tin rằng ta pháp lực vô biên vậy mà hiếm khi cầu xin ta điều gì.
Họ xem ta là thần tiên nhưng giờ lại nghĩ ta cần được cứu, dùng chút sức mọn của phàm nhân để bảo vệ ta.
Bọn họ thật lạ, thật quá lạ.
Ta ra sức vùng vẫy trong tượng đất.
Ta muốn thoát ra, không muốn bị giam cầm nữa.
Ta muốn làm như lời trưởng thôn từng nói, liều một phen.
Tượng đất của ta vẫn chưa kịp bén lửa nhưng những lá bùa dán trên đó đã dần dần chuyển sang màu đỏ, rồi từng chút một bắt đầu cháy lên.
Lão đạo sĩ ấy quả thật có chút bản lĩnh, hắn lại định dán thêm bùa lên tượng ta.
Không ổn rồi, Tà Thần này sắp thoát ra rồi.
Mau, kéo hết bọn giúp nó làm ác đi.
Đám người ào lên, lôi kéo dân làng Hoàng Ngưu thảm thiết.
Trong lúc họ giằng co, ta cuối cùng cũng thoát ra khỏi tượng đất, lao thẳng lên bầu trời.
Lão đạo sĩ ngẩng đầu nhìn ta, ánh mắt đầy kinh hãi.
Còn Sơ Nhất cũng ngước lên, vui mừng hét lớn. Tiểu thần tiên, mau chạy đi.
Nha đầu ngốc, đến lúc này rồi mà vẫn còn lo cho ta.
Bọn dân làng kia sắp bị đám người phẫn nộ đó xé xác mất rồi.
Bọn họ, tất cả những kẻ đó đều là người xấu.
Ta từ trên không lao xuống, thẳng hướng huyện lệnh mà vút tới.
Không xong rồi. Tà Thần nổi giận. Nó muốn giết người, mau chạy.
Ta tóm lấy hắn, nhấc bổng lên.
Hắn hoảng hốt kêu thét. Đừng. đừng giết ta. Xin đừng giết ta.
Thì ra, hắn cũng sợ chết, nhưng lúc cướp đi mạng sống của người khác, hắn chưa từng mảy may do dự.
Dân chúng thấy cảnh đó liền sợ hãi, tán loạn bỏ chạy.
Có Tà Thần thật sao. Cứu mạng.
Đừng giết ta.
Ta chỉ thấy nực cười, hóa ra bọn họ chỉ biết bắt nạt kẻ yếu, sợ hãi trước kẻ mạnh.
Vừa nãy còn hô hào đốt ta, giờ thấy một chút pháp lực liền sợ đến hồn bay phách tán.
Đúng là một lũ người ngu xuẩn.
Ta túm lấy tên huyện lệnh, định ném hắn xuống cho xong.
Giết hắn đi, hắn đáng chết nhưng khi cúi nhìn xuống, ta thấy Tiểu Sơ Nhất.
Nha đầu ấy nhìn ta một cách sững sờ, như đang nhìn người lạ.
Chưa bao giờ nàng nhìn ta bằng ánh mắt thế này.
Ta sửng sốt một lát, vô thức buông lỏng tay.
Một mũi tên từ xa phóng tới, xuyên thẳng vào ngực huyện lệnh.
Bùm, huyện lệnh chết, không phải ta giết mà là trúng tên của quân nổi dậy do Vương Tất lãnh đạo.
Vương Tất cuối cùng cũng đã dẫn quân tới, nhanh chóng chiếm lấy thành, bởi lính trấn giữ đã kiệt sức vì đói khát và dịch bệnh, không còn sức kháng cự.
Đó chính là Hổ Đại Vương, dù lúc này đã thành hình người ta vẫn nhận ra, đúng là Hổ Đại Vương.
Ta lao xuống, ôm chặt lấy chân ngài.
Ngài liếc ta một cái rồi tiếp tục làm việc.
Hóa ra ngài vẫn còn nhớ ta.
Nghe ta nói đã, chẳng có Tà Thần nào hết, tất cả chỉ là trò đổ trách nhiệm của huyện lệnh này. Ta đã đến đây, sẽ cho người chữa trị cho các ngươi.
Các ngươi lên xếp hàng trước cửa phủ huyện, quân ta sẽ phát lương thực và thuốc sớm. Ai không nghe lệnh thì xử không khoan nhượng.
Với một cái vẫy tay, đã nhanh chóng trấn an đám dân hoảng loạn, sắp xếp việc quản lý thành trì thật ngăn nắp.
Hổ Đại Vương, cũng chính là Vương Tất bây giờ, khi gặp người dân làng Hoàng Ngưu liền khen ngợi trưởng thôn. Ngươi rất thông minh, lại có ý chí kiên định. Bổn vương đang thiếu người hiền tài, ngươi có muốn làm quan không.
Trưởng thôn sững người, lắp bắp nói. Thảo dân, lão hán, à không, ta chỉ là một nông dân, sao có thể làm quan được chứ.
Hổ Đại Vương bật cười sảng khoái. Ngươi biết chữ, hiểu đạo lý lại công bằng và có lòng nhân từ, chính là người thích hợp nhất để làm quan. Bổn vương giao cả huyện này cho ngươi quản, thế nào.
Trưởng thôn ngẩn ngơ, chẳng biết nói gì.
Một lát sau, ông hoàn hồn, đôi mắt trở nên kiên định.
Nếu Vương gia đã coi trọng kẻ hèn này, thì dẫu có tan xương nát thịt, ta cũng không chối từ.
Hổ Đại Vương cười lớn. Tốt. Bổn vương thích nhất ở ngươi điểm đó, không sợ hãi, đúng là một hảo hán.
Thế là trưởng thôn thật sự trở thành huyện lệnh.
Ông lập tức bắt tay cùng dân làng bận rộn lo việc tái thiết.
Tiểu Sơ Nhất cũng được giữ lại trong nha môn, giúp làm các việc vặt.
Cả huyện tiêu điều, việc gì cũng phải làm lại từ đầu.
Hổ Đại Vương giữ ta ở lại, hỏi một lần nữa. Giờ ngươi muốn làm gì.
Ta nhìn đám dân đang tất bật, lại nhìn Hổ Đại Vương giờ đã là con người.
Ngài mang thân người phàm, quanh năm chinh chiến, thân thể phủ đầy bụi đất, cơ bắp rắn chắc, chẳng còn dáng vẻ ung dung nơi mây mù sơn thượng thuở nào.
Tiên nhân bị phạt làm người, đủ để thấy làm người khổ biết bao.
Chỉ là.
Ta vẫn muốn được sống một lần. Làm người thật mệt, thật khổ, mà cũng thật đáng sợ. Trên đời có người tốt, nhưng cũng có quá nhiều kẻ xấu. Ta muốn làm người, nhưng cũng sợ làm người.
Ta sợ chính mình sẽ trở nên xấu xa.
Sợ gặp phải kẻ xấu, sợ nỗi khổ trần gian.
Hổ Đại Vương cười khẽ. Dù sợ đủ điều, ngươi vẫn muốn được sống một lần sao.
Ta ngượng ngùng gật đầu.
Đó là chấp niệm của ta, vì ta chưa từng được sống.
Hổ Đại Vương vỗ vai ta. Nếu muốn sống, thì hãy sống đi. Chỉ khi thật lòng làm người một lần, ngươi mới hiểu được, con người rốt cuộc là gì. Hãy làm chính mình là được.
Còn ta, Hổ Đại Vương, sẽ dọn sạch cõi đời này để khi ngươi làm người, thế gian ấy ít nhất sẽ không còn khổ như trước.
Ta trở thành một con người.
Khi đứng trước mặt Sơ Nhất, nàng ấy lập tức nhận ra ta.
Tiểu thần tiên.
Ta mỉm cười với nha đầu ấy. Giờ không được gọi là thần tiên nữa rồi, gọi là tỷ tỷ đi. Ta tên là Thập Ngũ, ngày rằm trăng tròn, người người sum vầy đoàn viên.
Trưởng thôn nhìn thấy ta thì giật mình. Cứ thấy quen quen, mà chẳng nhớ ra đã gặp ở đâu. Thôi kệ, giờ nhà ta đã đủ sức nuôi được nhiều đứa trẻ rồi, ngươi cứ ở lại làm bạn với Sơ Nhất đi.
Giờ ông đã là huyện lệnh, bận rộn trăm công nghìn việc lại có đủ tiền bạc để cưu mang thêm nhiều trẻ nhỏ.
Ta quay về núi một chuyến.
Lũ khỉ vẫn gọi ta là ngốc, nhưng lần này ta mỉm cười tạm biệt rồi xuống núi làm người.
Lũ khỉ hò hét bảo ta cút mau đi nhưng khi ta thật sự rời đi, chúng lại đứng trên cây, im lặng nhìn theo.
Lần này, tên ngốc ấy chắc chắn sẽ không quay lại nữa rồi.
Ta làm người, học cách sống như một con người.
Làm người thật phiền phức, mà làm nữ nhân lại càng rắc rối hơn nhưng đó lại chính là cảm giác của việc được sống.
Biết mệt, biết đau, biết giận.
Nhưng cũng được ăn cơm ngon, ngắm pháo hoa rực rỡ, ngâm mình trong dòng sông mát lạnh, đi dạo giữa những con phố tấp nập, nhìn hoa dại ven đường mà thấy lòng vui.
Trần thế muôn màu, có tốt có xấu, có vui có buồn.
Cuộc sống tưởng như chẳng đổi thay, nhưng thật ra mỗi ngày đều đang thay đổi.
Hổ Đại Vương chẳng bao lâu sau đã trở thành Hoàng Đế.
Ngài là một vị vua tốt, làm nhiều việc vì dân.
Ngài chia lại ruộng đất cho nông dân, cải thiện giống lúa, nâng cao sản lượng, đổi mới khung cửi, giúp nhiều nữ nhân có thể ra ngoài làm việc kiếm tiền lại lập học đường công, để cả nam lẫn nữ đều được học chữ.
Ngài đã giữ đúng lời hứa, dưới triều đại của ngài, làm người không còn quá khổ nữa.
Sau này, ta và Sơ Nhất đều trở thành nữ quan, được vào kinh thành, diện kiến ngài.
Thân thể con người của Hổ Đại Vương khi ấy đã già, không còn vẻ oai phong ngày trước nhưng ánh mắt vẫn cháy sáng, kiên định như xưa.
Ngài nói. Ta nhớ ổ cỏ trên núi Vân Vụ rồi.
Thân xác phàm trần của ngài ấy dần già nua rồi chết đi, linh hồn trở về núi Vân Vụ.
Lại qua thêm nhiều năm nữa, sau khi ta và Sơ Nhất thọ hết tuổi trời, cũng trở về nơi ấy.
Ngài ấy trao cho chúng ta mỗi người một quyển sổ.
Công đức của các ngươi tích tụ cũng không tệ. Đã học làm người rồi, vậy bây giờ hãy bắt đầu học làm thần tiên đi. Từ địa tiên mà học, được chứ.
Thế là, ta từ một Tà Thần, đã trở thành người rồi lại hóa thành một vị địa tiên thật sự.
Tuy chẳng có bao nhiêu năng lực nhưng lần này là tiên chân chính, có danh vị rõ ràng trong sổ trời.
Bầy khỉ trên núi vẫn nháo nhào kêu ầm lên. Đồ ngốc kia, cuối cùng cũng trở lại rồi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro