➊ còn trẻ
Mùa qua nhanh năm ấy, Tuần Lang vừa tròn mười bảy. Tứ Khâm vừa tròn mười bảy. Hai người thường gặp nhau ở ngọn núi sau nhà. Hàng cây xanh xanh, mi dài ướt lạnh. Mùa qua nhanh năm ấy, Tuần Lang đón sinh nhật thứ mười tám của mình.
Cỏ trên đồi thơm ngát, xanh xanh.
Lần đầu tiên Tuần Lang gặp cậu thiếu niên nhà bên là một ngày sau khi rời biển. Đã hai tuần kể từ lúc anh chuyển đến thị trấn nhỏ này. Đáng lẽ tất cả đồ đạc phải được sắp xếp gọn gàng ngay từ lúc ấy, thế nhưng Tuần Lang lại quên đi. Căn nhà rộng lớn này kể ra cũng không cần thêm vào thứ gì. Vốn dĩ nó là món quà mà bố anh để lại sau cuộc ly dị lằng nhằng với người đàn bà đẻ ra thứ đáng sợ của nhà Tuần Thiên Lĩnh. Vốn dĩ nó đã được tất cả những đứa con ngoài giá thú của ông đặt chân vào và tổ chức những bữa tiệc linh đình lúc nửa đêm. Vốn dĩ nó đã ngủ vùi trong giấc mộng mười ngàn năm từ mùa xuân của rất lâu về trước. Cho đến khi ông đột ngột qua đời. Trong tờ di chúc, ông chỉ viết rằng căn nhà này là của anh thôi. Tuần Lang chẳng hứng thú gì với thứ quà kỳ quặc này. Nhưng bà bảo anh đi. Đời này cũng chỉ có một chút bất ngờ như thế.
Phải, lần đầu tiên Tuần Lang gặp cậu thiếu niên nhà bên là một ngày sau khi rời biển, hai tuần sau khi anh chuyển đến thị trấn nhỏ này. Một ngày, Tuần Lang đột nhiên có hứng đi khám phá căn nhà xa lạ ấy. Mỗi viên gạch lát sàn đều ẩn chứa những dấu tích gì đó. Hóa thạch của những hỉ nộ ái ố. Hóa thạch của đời buồn và thời vui. Tuần Lang men theo những bức vẽ phong cảnh trên tường và đi đến căn hầm khóa kín lỗi thời. Mùi rượu cũ nồng nàn tỏa ra. Chí ít nó gợi cho anh nhớ tới người chị đã lâu không gặp. Người nhà hay gọi chị là Thuần, một ánh mắt thoáng qua đủ làm người say đắm. Tuần Lang không biết, chỉ rõ dáng chị cao cao. Mỗi lần gặp mặt, Thuần luôn nghĩ đến một phương nào. Chị nhìn về phía cửa sổ xa xăm và lạnh vắng. Thuần thường bảo, đối ẩm với chị là cuộc đời. Chị muốn thưởng trà, dưới tầng trăng sâu uống rượu tìm vui. Thiết nghĩ, chị giống như một tiên nga đi lạc giữa đời. Tuần Lang biết trước mắt chị thế giới này mờ ảo dần rồi. Những cái thật trôi đi trong giấc mộng thảnh thơi. Anh vẫn tiếc rằng chị đã bỏ nhà ra đi mà không nói một lời. Chị lang thang đâu đó, thấy hoa xuân thì dừng chân nghỉ lại. Có lẽ những đêm ngủ trên đồi, chị sẽ thơ thẩn theo đàn đom đóm đi rong. Bước chân chậm dần, hồn hoang khẽ khóc.
Tuần Lang mở cửa, một lớp bụi phủ lên vết khắc hình con rồng. Dưới căn hầm, ngoài rượu và quầy pha chế ra còn có một cuốn sách về thực vật. Bố anh đã cẩn thận đánh dấu những loài hoa ông trồng trong khu vườn của mình. Linh lan, cẩm chướng, uất kim hương. Sinh thời, ông say những loài hoa ấy như điếu đổ. Mẹ anh có kể lại rằng ông ôm hoài bão lấy uất kim hương khắc lên gia huy. Thế rồi ông đổ bệnh, mộng xây không thành.
"Nếu vẫn còn thời gian, con hãy nhớ làm điều mình muốn."
Giấy nhòe thổn thức. Dù sao ông cũng một đời đa đoan. Tuần Lang lặng lẽ phủi mưa trăng bên ngoài cuốn sách. Nét chữ của bố chẳng có chút gì gọi là đẹp. Nó nghiêng nghiêng, lúc thì lại thẳng đứng. Ông thích viết ngược, cái kiểu mà người ta phải đặt một tấm gương bên cạnh để nhìn. Ông viết vào cuốn sách thực vật toàn những điều hiển nhiên. Mười ngày tưới nước một lần. Nếu đủ tuần hái tặng cho con rể. Những thứ bình thường như thế, Tuần Lang thường ghi trong đầu mình. Ai mà lại không nhớ được chút điều cỏn con.
Tiếng giấy lật nghe loạt soạt. Ngoài trời đang mưa. Dưới hầm rượu quyện mùi hơi đất. Tuần Lang vẫn đứng. Bóng đèn màu vàng trầm ấm như ôm trọn cả căn hầm. Cuốn sách về thực vật của ông vẽ đủ các loại bình cao thấp. Tuần Lang đã từng thấy những cái bình ấy một lần. Chúng được xếp ngay ngắn trên bàn ở phòng khách và tủ đựng hai bên. Thoạt tiên, anh nghĩ bố mình vốn mê bình. Ông mua cả trăm kiểu như thế cốt cũng để thỏa mãn ham muốn phù phiếm. Những giờ anh đã hiểu. Ông thế nào với những cái bình ấy, anh không bận tâm nữa. Chỉ biết rằng bố anh mua những cái bình ấy để cắm từng loại hoa. Ông cho hoa hồng vàng vào bình xanh ngọc, cắm hoa trà vào những cái bình thủy tinh. Sự giản dị của sen được gửi vào chiếc bình màu xanh ngọc. Trên bình khắc những rồng bay phượng múa, vẽ mây về núi, trăng lên đồi. Chiếc bình lộng lẫy kinh khủng. Và ám ảnh. Hẳn thế. Đủ ấn tượng để người ta khắc cốt ghi tâm.
Thế nhưng sự ngưỡng mộ không theo Tuần Lang đến cuối cùng. Những trang cuối của cuốn sách, anh không còn thấy dòng ghi chú nào nữa. Nó sạch sẽ đến phản cảm. Những trang giấy cứ trơ ra như thế. Những con chữ trần trụi lố lăng. Tuần Lang đoán bố anh đã không kịp mua những loại hoa này. Lưu ly, thủy tiên, hoa đào và diên vỹ. Thế thì có khó gì đâu nhỉ. Sao bố anh lại không mua hoa đào để cắm vào dịp tết hàng năm? Tuần Lang không biết. Anh thấy trong mình tràn đầy cảm giác bất lực và tuyệt vọng. Thứ chất lỏng chắt từ mạch ngầm thương xót muốn trào lên từ tận đáy lòng anh. Hôm qua, anh đã đi về phía biển xanh. Nằm trên mặt nước tĩnh lặng trôi về mười ngàn năm ánh sáng trong vũ trụ cô đọng. Mắt anh nôn nao thêm. Cỏ biển xôn xao vẫy vẫy. Hôm nay cũng là cảm giác não nề như vậy.
Tuần Lang muốn mua hoa.
Thế rồi trong đầu anh, hàng loạt câu hỏi hiện ra. Thị trấn này có chợ không nhỉ? Hoặc là tiệm hoa? Chắc là có. Mới nãy, anh vừa thấy tờ quảng cáo của tiệm hoa bay trên đường. Tiệm hoa tên Linh Nương, có câu khẩu hiệu là "nương tử hồn vương mùa hoa quế." Ở thị trấn này cái gì cũng kỳ dị vô cùng. Nương tử hồn vương. Nửa câu khẩu hiệu buồn tê tái phải chăng muốn khoe người đi chẳng muốn về? Thế thì rợn người quá. Âm dương cách biệt không dễ gì dung hòa. Nhưng nếu hoa quế có phần hồn thì có giúp người ta truyền đạt được điều gì đó đến phương xa không nhỉ? Người sống không đi qua sông, lời thành thì có. Tuần Lang vẫn thường nghĩ vạn vật trên đời này đều có linh. Chiếc đèn lồng trong ngôi miếu cổ gần nhà cũ của anh có lẽ đã say giấc đủ lâu để hóa thành thiếu nữ.
Tuần Lang muốn mua hoa. Ngay trong ngày hôm ấy, anh đi thực. Tiếng bước chân nhẹ nhàng và gương mặt đầy nghi hoặc. Anh ước gì trong tiệm đó có hoa thủy tiên. Mùa này mà tìm thủy tiên thì không hiếm, chỉ là gần cuối tháng, có lẽ những bông đẹp nhất đã được bán hết rồi. Thôi thì anh cũng mua để an ủi mình vậy thôi. Mà có lẽ chẳng phải. Anh mua để cho yên lòng bố. Không là nương tử, sự u mê cũng đủ để hồn người náu ở tiệm hoa.
Tuần Lang đẩy cửa bước vào. Chuông gió reo lên thích thú. Tiệm hoa nhỏ hôm nay vắng khách. Tuần Lang chỉ thấy những hàng cây cao và những khóm hoa tựa khu vườn nhỏ. Mọi thứ được sắp xếp tinh tế đến nỗi làm anh tưởng rằng nơi này đã bỏ hoang quá lâu. Thiên nhiên mượn tiệm hoang làm nơi buông mình và nảy nở biết bao tinh túy.
Chủ tiệm là một bà lão liên tục ho khùng khục. Hai mắt bà vẫn luôn nhắm từ lúc anh đến đây. Miệng già đáng lẽ sẽ tỏm tẻm nhai trầu, thế nhưng căn bệnh gì đó đã làm bà không thể dừng cơn ho lại. Bà làm mấy cử chỉ điên dại. Cây bút viết thư pháp lộn xộn trên bàn. Bà vừa viết chữ THỤY.
"Là gì thế ạ?"
"Sao cơ?"
"Chữ bà vừa viết ấy."
"Lão chẳng biết."
Bà cụ run run chống gậy treo chữ lên bức tường xanh.
"Điềm lành hoặc là giấc ngủ. Hay là có lẽ nó muốn nói một khi cậu tỉnh giấc thì sẽ không còn điềm lành. Những thứ tốt đẹp chỉ xuất hiện trong giấc ngủ của cậu. Ừ, lão biết. Ai mà chẳng có điều mình hằng khát khao."
Tuần Lang chăm chú thưởng chữ. Tiệm hoa như bảo tàng nghệ thuật bị lãng quên. Bố anh thích tranh, bà lão ở đây lại dành trọn niềm đam mê của mình cho chữ. Viết xong, bà lặng lẽ đóng khung lại. Trên mỗi khung đều có ô để cắm một nhành hoa vào. Chữ thụy đặt cạnh nhành tầm xuân. Càng nhìn càng dễ làm người thảng thốt. Nó như cuốn anh vào giấc mộng. Đặt chân thì dễ, thoát ra thì khó biết bao. Tỉnh mộng là sự phản bội mê đắm. Tuần Lang không thể rời mắt khỏi nét bút có thần.
Cũng lúc ấy, chuông gió khẽ rung.
Chuông gió khẽ rung. Tiếng khoan thai và đầy hương trang nhã. Tuần Lang ngơ ngẩn thì cậu thiếu niên nọ bước vào.
"Vâng." Nét cười phảng phất. "Lại như cũ bà ạ. Cháu nghĩ ít ngày nữa mình sẽ lại đến đây."
Bà lão đặt bó hồng trắng vào tay cậu. Cánh hoa tinh khôi mang vẻ gì cổ kính. Tuần Lang đã thấy những bông hồng trắng được vẽ bằng cách ghép những loại đá lấp lánh trên mái vòm của nhà kính trong thành phố. Ánh nắng vỡ tan trên mặt kính. Mười ngàn tia sáng quyến rũ con người về từ thời Phục Hưng.
"Chào anh." Nhìn Tuần Lang, cậu thiếu niên bất giác cảm thấy vô cùng thoải mái.
"Chào cậu?"
"Tôi là hàng xóm của anh đấy."
"Vâng?"
Tuần Lang ngẩn cả người. Rõ là trong hai tuần chuyển đến ấy, anh cứ tưởng nhà bên không có người. Bầy chó hoang ngửa mặt đón trăng lên. Lũ mèo thì nô đùa cùng bầy se sẻ. Cây lê nhà bên được chăm sóc vụng về. Cỏ mọc cao không ai dọn. Thật sự không thể ngờ được anh đột nhiên lại gặp hàng xóm mình ở đây.
Tuần Lang cố nặn ra một nụ cười xã giao.
"Rất vui được gặp lại."
"Tôi cũng rất vui. Thật đấy."
Lần đầu tiên Tuần Lang gặp cậu thiếu niên nhà bên là một ngày sau khi rời biển, hai tuần sau khi anh chuyển đến thị trấn nhỏ này. Trong tiệm hoa Linh Nương, hồn gió bay bay.
Kể từ đó về sau, không hiểu sao Tuần Lang lại hay gặp cậu thiếu niên ấy. Chỉ có điều không phải ở tiệm hoa nữa mà ở ngọn núi phía sau nhà. Cậu ta tên Tứ Khâm, khi ấy cùng tuổi với anh, sinh cùng ngày nhưng muộn hơn một tháng. Những cử chỉ của cậu ta vô cùng nho nhã, nói năng nhỏ nhẹ. Tuần Lang vốn tưởng cậu là hồn ma vất vưởng. Cậu có một nét gì giống người chị của anh. Tuần Lang không biết Tứ Khâm có phải một người đơn thuần, nhưng mỗi bước chân của cậu như trăm hoa đua nở.
Chuyện kể ra cũng dài. Buổi sáng hôm ấy, Tuần Lang quyết định phải tạo thói quen tốt cho mình. Anh quyết định sẽ dậy sớm và trèo lên ngọn núi sau nhà để ngắm bình minh. Lúc còn ở trên đời, bố anh đã nói về cảm giác thích thú khi dậy sớm. Ông có cảm giác như mình sáng suốt hơn. Nằm trên thảm cỏ dày và lạnh, hơi thở nhẹ chạm vào sương sớm. Người ta nghiện những thứ mộc mạc nhưng khó sở hữu. Thế rồi sáng hôm ấy, Tuần Lang làm theo lời bố mình. Trời bắt đầu đổ mưa.
Đường lên ngọn núi sau nhà lầy lội nhưng Tuần Lang thấy trong mình khoan khoái. Giày của anh dính đầy bùn đất. Cỏ hoa càng thêm rung động giữa cơn mưa. Tuần Lang mang theo cái ô màu vàng. Mưa từng lớp dội lên lá cây lộp độp. Gió thổi vi vu. Tuần Lang đoán có lẽ hôm nay không ngắm được bình minh rồi. Mây ngàn nơi đâu trôi về che sao trời hơn nửa. Gần lúc mặt trời mọc, cảnh vật ồn ào và hơi tối. Tuần Lang vừa đi vừa nghĩ đôi lúc mình đã ngủ quên.
Mười lăm bước nữa tới đỉnh núi. Cây thưa dần và mưa dày thêm. Trời ôm một nỗi ưu phiền xám xịt. Tuần Lang không biết bấy giờ là mấy giờ nữa. Các giác quan của anh thầm bảo lúc này mặt trời đã dần lên. Bình minh ở phía sau màn mây mờ. Sự sống vươn lên qua màn sương. Lặng lẽ.
"Chào nhé."
Tuần Lang nhận ra giọng ai đó quen thuộc. Hẳn thế. Chính là cái giọng mà anh từng nghe ở tiệm hoa Linh Nương. Cậu thiếu niên trẻ đi chân trần trèo lên đỉnh núi, cả người đẫm nước. Khóe mắt cậu có bụi cười. Dáng người ẩn trong chiếc áo khoác to.
"Xin chào."
"Chúng ta lại gặp nhau rồi nhỉ?"
"Ừ."
"Vẫn còn nhớ tôi là ai chứ?"
"Hàng xóm?"
"Vâng."
Từ đỉnh núi nhìn xuống, những cái cây bên dưới trông như vực trăng. Tuần Lang và cậu thiếu niên nọ cuối cùng cũng chỉ là con người nhỏ bé.
"Sao anh lại lên đây thế?"
Tuần Lang chẳng nói. Và rồi Tứ Khâm bắt đầu kể về câu chuyện của mình. Hôm ấy, cậu vừa tròn mười bảy. Buổi kiểm tra định kỳ ở lớp sẽ đến trong hai tiếng sau.
"Bây giờ là năm giờ rưỡi rồi."
"Vâng."
"Muốn nghe kể chuyện tiếp chứ?"
Tuần Lang gật đầu.
Tứ Khâm là đứa con duy nhất trong một gia đình nọ. Bố mẹ thường đi làm xa. Thường ngày đi học về cậu sẽ qua tiệm hoa Linh Nương giúp một người xa lạ. Bà lão đột nhiên nhận được sự quan tâm thì lấy làm lạ, nhưng sau cùng vẫn quyết định để cậu làm thêm và trả lương theo tuần. Tứ Khâm vốn làm việc rất chăm, nhưng dù có nài nỉ thế nào đi chăng nữa thì cậu cũng chỉ nhận một bó hồng trắng làm phần thưởng. Cậu bảo mình thích hoa hồng trắng chết đi được. Không hiểu vì sao.
"Tôi đã mơ về tang lễ của mình ba lần. Lần nào cũng thấy loài hoa ấy."
"Lạ thật nhỉ?"
"Ừ. Tôi thấy mình nằm yên lặng giữa những đóa hồng trắng. Mỗi lần nằm mộng, tôi lại thấy mình chết theo một cách khác nhau. Chỉ là tôi vẫn không nhìn rõ lòng mình. Cái người nằm ở kia – thể xác của tôi – rõ ràng hoàn toàn không phải là tôi. Cái xác đó lúc nào cũng nở một nụ cười thanh thản. Ôi cái xác. Khóe mắt ngấn lệ, hoặc cũng có thể là giọt mưa vô tình vướng phải một đời. Tôi chả biết. Cái xác nó kỳ lạ như thế. Không phải tôi. Linh hồn của tôi quan sát tang lễ của mình. Thật nực cười. Mọi người đều không khóc. Mọi thứ diễn ra trong tĩnh lặng. Mười năm về trước, khi tôi lên bảy, một ngày nọ tôi thấy có ai đó nhấn chuông cửa nhà mình. Tôi vội vã chạy ra. Anh ta bảo đây là tro cốt của tôi đấy, mời tôi ký nhận. Tôi chả biết. Thế quái nào lại có tro cốt cho dù tôi vẫn sống sờ sờ đây. Tôi thậm chí còn chẳng qua đời. Ôi. Thế rồi mẹ gọi tôi dậy. Hóa ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Tôi tỉnh giấc. Nhưng lúc tôi mở mắt, trước mắt tôi lại là lọ hoa hồng trắng được vẽ những hình thù quái đản như hũ đựng tro cốt của tôi. Nó như muốn nói gì đấy. Tôi không hiểu nổi."
Tứ Khâm có nhiều nỗi ám ảnh. Vì thế cậu muốn thoát khỏi giấc mơ của mình thật nhanh. Cậu ngủ muộn, dậy sớm đón bình mình. Lời nói của cậu làm Tuần Lang nghĩ đến một linh hồn tự kể về mình. Hồn vương mùa hoa quế.
Mỗi lần gặp gỡ, Tứ Khâm lại kể một câu chuyện về mình. Nhưng Tuần Lang vẫn thấy phần nhiều cậu thường kể về những giấc mơ. Nó rối loạn như một mê cung. Mỗi thứ xuất hiện trong mộng của Tứ Khâm đều có mối liên kết gì đó với thực tại. Sau những cuộc gặp gỡ như thế, cậu phải vội chạy về nhà. Tứ Khâm không học cùng trường với Tuần Lang. Hai người đi hai đường, giờ vào học cũng khác. Chỉ là những câu chuyện đó càng ngày càng in đậm trong lòng Tuần Lang. Quanh đi quẩn lại, nó cuốn anh vào chuỗi ngày nghĩ suy. Tuần Lang nhớ về những giấc mơ của Tứ Khâm mỗi giờ. Trên đời hóa ra vẫn còn chuyện để anh để tâm đến thế.
"Nhiều lúc, tôi không còn biết mình đang sống vì điều gì."
Tứ Khâm ngửa mặt nhìn thảm sao trên trời. Cá quẫy trong hồ đánh tan mặt trăng. Bất chợt, anh thấy trong lòng mình chơi vơi dưới bóng trời vàng óng.
"Cuộc đời này xa vời và mộng mị. Kiểu thế." Tứ Khâm nói, trên môi không giấu nổi nỗi buồn. "Nhiều lúc tôi không còn phân biệt được hiện thực và những giấc mơ. Nó trộn lẫn vào nhau. Ôi! Người ta còn kể gì những ranh giới nhạt nhòa năm xưa nữa."
"Mùa trôi qua nhanh quá nhỉ?"
"Vâng. Sau này anh có còn quay lại tiệm hoa ấy không?"
Có.
Có.
Không.
Không.
Tuần Lang mở mắt.
Đèn chùm sáng rực chiếu qua mặt trời mọc lúc nửa đêm. Vải đỏ phủ lên tấm gương rũ xuống, không hiểu vì sao lại chĩa thẳng về phía anh đang ngồi. Tuần Lang hốt hoảng. Có tiếng ai gọi vọng lên từ dưới nhà. Giọng thanh thanh. Mùa này có lẽ ngoài vườn hoa đang nở. Anh khoác vội chiếc áo ấm, chạy ào xuống nhà. Tứ Khâm đang đợi người mở cửa ra. Có lẽ vậy.
"Tối rồi, mình đi đâu đó chơi nhé?"
"Đi đâu cơ?"
Tứ Khâm bắt xe đến một quán ăn đêm bên ngoài thị trấn, rồi từ đó lại cùng nhau đi bộ đến công viên. Đã giờ này, ở đây chẳng còn mấy người nữa. Trên đường vang vang tiếng lá khô xào xạc. Tiếng chổi tre người quét rác nỉ non.
"Tôi muốn chơi mấy trò này lắm."
"Thế à?"
"Anh có biết trò vòng quay ngựa gỗ thú vị thế nào không?"
Không. Tuần Lang vốn chẳng ưa đến công viên tí nào. Một nơi nhốn nháo và đầy rẫy tai ương. Lần đầu tiên đến công viên vào năm bảy tuổi, anh đã lạc mất bố mẹ mình. Họ không cho anh khóc hàng giờ liền, chỉ được đứng yên và chờ ai đó đến. Tuần Lang ghét nơi đó. Ghét trò chơi vớ vẩn trong này. Người ta không cho anh chơi vòng quay ngựa gỗ vì lúc này anh lớn rồi. Có lẽ nào lại thế? Tuần Lang ghen tị. Anh đố kỵ với kẻ cứ luôn miệng cười đùa. Anh đố kỵ với cơn gió tự do chạy qua.
"Nghĩ gì thế? Sao anh không chơi đi?"
Tứ Khâm trèo lên. Vòng quay ngựa gỗ bắt đầu chạy. Chỉ mình nó sáng lên với thứ âm nhạc dịu hiền. Tuần Lang những tưởng mình hoa mắt. Cả cái vòng quay ngựa gỗ mà họ không vào phòng điều khiển vẫn cứ sáng lên. Ánh sáng lấp lánh nhiều màu. Ánh sáng của bình minh. Ánh sáng chiếu qua đèn chùm. Ánh sáng chiếu qua tấm kính hoa hồng trên mái vòm đâu đó. Vòng quay ngựa gỗ bắt đầu chạy. Một vòng. Hai vòng. Con bạch mã mà Tứ Khâm cưỡi đột nhiên cất tiếng hí. Vó ngựa trên thảo nguyên nghìn năm. Tượng thần nghìn năm.
Anh đang nghĩ điều gì thế?
Tuần Lang dụi mắt ngờ nghệch. Những con ngựa gỗ chạy nhanh. Trước mắt là trời, là gió, là biết bao con đường mòn dẫu lạ dẫu quen. Hai người băng qua đường chân trời. Vòng quay ngựa gỗ trôi dạt bên ngoài. Họ bay mười vòng quanh địa cầu xanh thẳm. Thời gian dừng trôi.
"Anh muốn đi đâu chơi?"
Tứ Khâm hỏi. Giọng trong như trời.
"Anh muốn đi đâu chơi? Sau này ấy. Paris, London hay gì nhỉ?"
"Tôi muốn..."
"Trăm năm sau này có lẽ chẳng còn tôi. Ước gì lúc nãy tôi ăn uống một bữa thật no nê rồi. Dạo này hoa sữa nở đấy. Không hiểu sao chủ quán lại bảo mùi hoa sữa thật hôi. Cái hương ngào ngạt, nồng nàn ấy đúng chuẩn tháng mười rồi."
"Tôi thích mùi hoa sữa."
"À, cái này tôi biết chứ. Lại còn hoa quế nữa cơ. Cũng sắp tới mùa hoa quế rồi. Mùa sẽ trôi qua nhanh thôi."
"Thật đấy. Tôi lấy làm tiếc."
Tứ Khâm không bận tâm. Cậu chỉnh lại khăn quàng, đung đưa xích đu theo tiếng sóng lừng cách nơi này vạn dặm.
Trời này thì vẫn còn xanh
Mai sau có thể chẳng còn anh
Muốn hát khúc lên đường cùng trời đất
Trên đường về bắn mặt trời đan với trăng thanh
Tôi bước đi nhanh
Cùng người
Cùng anh
Điệu nhảy xoay thành làm hoa đào nở
Người chơi cờ không chờ mây mở
Kiếm dài nghiêng nhạn cánh xẻ vành mây
Vui buồn là chút đó đây
Cỏ cây vẫn ngắm nước non hữu tình
Gánh hoa chở nợ làm thinh
Hồ xa rải ánh mắt xinh mơ màng
Sóng lòng có chút mênh mang
Du miên với kẻ lang thang trên đời
Quạt giấy tàn
Chén ngọc rơi
Chẳng so bì được ngàn lời thở than
Trời xanh
Mây ngàn
Mai sau có thể chẳng còn lang thang
Muốn hát khúc khải hoàn cùng trời đất
Cung đàn thánh thót chở nhành linh lan
Nương tử hồn vương mùa hoa quế
Đến lúc lên đường.
Công viên chẳng còn ai.
"Ngày mai sẽ là lúc chúng ta gặp lại."
"Ừ, ngày mai."
Nhưng mùa trôi qua nhanh quá.
Tuần Lang bước ra vườn, thầm đếm những tuần hoa. Trời vẫn còn âm u lắm, ấy cũng có nghĩa là chưa đến bình minh. Anh định sẽ đến tiệm hoa Linh Nương mua một bó cúc đáng yêu rồi lên ngọn núi sau nhà hóng gió. Trời mờ sương. Sau cơn mưa lất phất, mặt đường xuất hiện nhiều vũng nước hơn hẳn. Tuần Lang thích ngồi hàng giờ liền để ngắm bầu trời qua những chiếc ao nhỏ xíu này. Thế nhưng không phải hôm nay. Tuần Lang phải đi mua hoa. Dù là anh thật sự không biết tiệm Linh Nương bấy giờ đã mở cửa chưa nữa.
Thế là bà lão mất, cách lúc này một mùa hoa. Tiệm nhỏ suýt bị bán đi rồi lại suýt bị đập để mở đường, nay lại chuyển cho gã con trai xa lạ. Người trong trấn đồn gã giao du với những kẻ chẳng ra gì cả. Nhưng rõ ràng là tâm hồn người phải đẹp thì mới có thú thưởng hoa.
Chuông gió rung rinh. Tiệm hoa mới lắp thêm rèm sao lộng lẫy. Gã châm điếu thuốc ngồi một góc, hai tay mân mê bức vẽ của mình. Tuần Lang từng nghĩ có những thứ đúng là nhìn vào sẽ biết ngay họ là một gia đình. Bà lão viết thư pháp. Con trai bà lại vẽ tranh thủy mặc. Nét vẽ rõ ràng, âm dương hài hòa. Trên góc bức tranh có đề bài thơ nọ, rằng là:
Núi say giấc trăng non
Nương tử hồn vương mùa hoa quế
Đến lúc lên đường.
Đến lúc lên đường.
Gã ngẩng đầu nhìn anh. Vị khách vẫn mặc bộ quần áo như lần đầu vào quán ấy.
"Mày mua gì?"
"Hoa cúc ạ."
"Chà, như mấy bà lão ấy. Mày rõ là trẻ như thế cơ mà."
Khóm cúc nép mình trong lớp giấy bạc màu, lay nhẹ trong gió.
Mùa thu, đường lên đỉnh núi không hiểu sao lại có thêm một cây ngô đồng. Tuần Lang vô tình nhìn thấy nó đúng lúc rạng đông. Mặt trời từ từ rẽ mây bước đến bên nó. Ôi chao! Vạn vật đều có linh. Lạ gì cái cây ngô đồng. Có lẽ nó đã luôn ở đây từ những mùa thu trước. Có lẽ nó luôn nhìn thấy những năm dài trong tâm tưởng Tuần Lang. Bất giác, anh chợt nghĩ bố mình có lẽ đã trồng cái cây này trước khi ông rời đi. Hoặc nếu có thể, Tứ Khâm đã trồng cái cây đó.
Đỉnh núi bắt nắng. Một vạt cỏ vàng vàng, hồng hồng, xanh xanh. Đôi chân trần dẫm lên cỏ non. Theo gót chân, hoa dại bắt đầu nở. Tuần Lang nghe tiếng ai đó gọi mình.
"Anh vẫn còn trẻ."
Vâng. Người vẫn còn trẻ. Vẫn rót nhầm hoa cúc vào giữa suối trăng. Vẫn muốn hát khúc khải hoàn với trời đất.
"Bọn mình sẽ chơi vòng quay ngựa gỗ khi gặp lại nhé?"
Vâng. Khi mùa hoa quế xuôi dòng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro