THẤT VỌNG
16
INEJ
Mọi thứ đều đau. Mà tại sao căn phòng lại di chuyển thế này? Inej dần dần tỉnh lại, các suy nghĩ như mớ bòng bong trong đầu cô. Cô còn nhớ cú đâm của Oomen, rồi cô leo lên mấy cái thùng hàng, người ta la hét trong lúc cô treo người trên không, đeo bám bằng mấy đầu ngón tay. Xuống đi nào, Bóng Ma. Nhưng Kaz đã quay lại với cô, để cứu khoản đầu tư của anh. Hẳn là họ đã kịp lên chiếc Ferolind.
Cô cố xoay người lại, nhưng cơn đau quá kinh khủng nên cô đành chỉ quay đầu. Nina đang ngủ gật trên một chiếc ghế đẩu nằm kẹt giữa góc phòng và cái bàn. Bàn tay chị nắm hờ tay cô.
"Nina," cô gọi với giọng khản đặc. Cổ họng cô giống như bị bọc len.
Nina choàng tỉnh. "Tôi đây!" chị thốt lên, rồi nhìn Inej với ánh mắt lờ đờ. "Em tỉnh rồi." Nina ngồi thẳng người lại. "Thánh thần ơi, em tỉnh lại rồi!"
Và Nina oà khóc.
Inej cố gắng ngồi dậy, nhưng chỉ nhúc nhích được cái đầu.
"Không, không," Nina nói. "Đừng cố gắng cử động, cứ nghỉ ngơi đi em."
"Chị có sao không?"
Nina bắt đầu cười qua làn nước mắt. "Chị ổn. Em là người bị đâm mà. Chị không biết mình bị sao nữa. Chỉ là hạ gục một người thì dễ hơn là chăm sóc họ." Inej chớp chớp mắt, rồi cả hai chị em cùng cười. "Ôi..." Inej rên lên. "Đừng có làm em cười. Tệ lắm."
Nina nhăn mặt. "Em cảm thấy thế nào?"
"Đau đớn, nhưng không kinh khủng. Em khát."
Nina đưa cho Inej một cái ca thiếc đầy nước lạnh. "Nước ngọt đấy. Hôm qua trời mưa."
Inej cẩn thận để Nina nâng đầu cô lên và nhấp từng ngụm. "Em đã mê man bao lâu rồi?"
"Hơn ba ngày, gần bốn ngày rồi. Jesper làm mọi người điên hết cả lên. Chị chưa bao giờ thấy anh ta ngồi yên hơn hai phút." Nina đứng bật dậy. "Chị cần phải báo cho Kaz biết là em đã tỉnh! Mọi người cứ nghĩ..."
"Khoan đã," Inej nắm tay Nina giữ lại. "Chỉ là... chúng ta báo cho anh ta sau được không?"
Nina ngồi xuống, hoang mang ra mặt. "Được chứ, nhưng..."
"Chỉ đêm nay thôi." Inej ngừng lời. "Đang là ban đêm ạ?"
"Phải. Vừa mới qua nửa đêm."
"Chúng ta có biết kẻ đã tấn công ở cảng là ai không?"
"Pekka Rollins. Lão ta đã thuê bọn Hắc Thủ và Chim cắt để ngăn chúng ta rời cảng."
"Làm sao lão ta biết chúng ta dự định ra khơi?"
"Mọi người chưa chắc chắn."
"Em đã thấy Oomen..."
"Oomen chết rồi. Kaz giết hắn."
"Thật ạ?"
"Kaz giết không ít người đâu em. Rotty thấy anh ta đuổi theo mấy gã Hắc Thủ đã dồn em vào thùng hàng. Hình như câu Rotty nói chính xác là, 'Máu chảy đủ để nhuộm đỏ cả một nhà kho'."
Inej nhắm mắt lại. "Chết chóc quá nhiều." Họ bị cái chết bủa vây khắp nơi tại Barrel. Nhưng đây là lần đầu tiên nó đến gần cô như vậy.
"Kaz rất lo cho em đấy."
"Kaz chẳng lo quái gì đâu."
"Em phải nhìn thấy khuôn mặt của Kaz lúc anh ta đem em xuống đây."
"Em là một khoản đầu tư đáng giá mà."
Quai hàm Nina trễ xuống. "Đừng có nói với chị là anh ta đã nói như thế chứ."
"Dĩ nhiên là anh ta đã nói thế. À, không có chữ 'đáng giá'."
"Ngu ngốc."
"Matthias thế nào rồi?"
"Lại một thằng ngu khác. Em nghĩ mình có ăn được không?"
Inej lắc đầu. Cô không hề cảm thấy đói.
"Cứ thử đi," Nina giục. "Em gầy còm quá."
"Lúc này em chỉ muốn nghỉ ngơi."
"Tất nhiên rồi," Nina nói. "Chị sẽ tắt đèn."
Inej lại nắm lấy tay Nina. "Đừng. Em chưa muốn ngủ lại ngay."
"Chị có thể đọc cho em nghe nếu chị có sách vở ở đây. Hồi ở Tiểu Điện, có một Độc Tâm Y có thể đọc vanh vách những đoạn sử thi trong nhiều giờ liền. Khi đó chị chỉ ước gì mình chết đi cho xong."
Inej bật cười, rồi nhăn mặt. "Chị ở lại đây đi."
"Được rồi," Nina đáp. "Vì em đang thích trò chuyện nên chị muốn hỏi vì sao em lại không xăm hình cái li và con quạ trên cánh tay."
"Bắt đầu với câu hỏi dễ thế ạ?"
Nina bắt chéo chân và đưa hai bàn tay đỡ cằm. "Chị đang đợi đây."
Inej im lặng một lát. "Chị đã trông thấy các vết sẹo của em." Nina gật đầu. "Khi Kaz thuyết phục được Per Haskell trả tiền chuộc em ra khỏi Vườn Thú, điều đầu tiên em làm là xoá hình xăm lông công."
"Kẻ thực hiện việc đó đã làm không có tâm."
"Anh ta không phải là Tâm Y hay thầy lang." Đó chỉ là một trong những tay đồ tể có chút am hiểu, chuyên lợi dụng những kẻ lâm vào đường cùng ở Barrel. Ông ta đã cho Inej nốc một ngụm whiskey, rồi đơn giản là lóc bỏ lớp da, để lại một vết sẹo nham nhở trên cẳng tay cô. Inej mặc kẹ. Nỗi đau là sự giải thoát. Ở Vườn Thú, người ta thích bàn tán về làn da của cô. Nó giống như màu cà phê sữa. Nó giống như màu caramel. Mịn như satin. Cô sẵn lòng đón mọi vết cắt cứa và những dấu sẹo mà chúng để lại. "Kaz đã nói với em rằng em không phải làm gì ngoại trừ làm cho bản thân có ích."
Kaz đã dạy cô phá két an toàn, móc túi, sử dụng dao. Anh đã tặng cho cô con dao đầu tiên, và cô gọi nó là Thánh Petyr. Con dao không đẹp bằng những bông hoa phong lữ dại, nhưng tiện dụng hơn, cô nghĩ vậy.
Biết đâu tôi sẽ sử dụng nó để chống lại anh, cô đã nói như vậy.
Anh thở dài. Giá như cô khát máu được như thế. Cô đã không thể xác định được anh nói đùa hay nói thật.
Giờ Inej cựa mình trên bàn. Cô vẫn cảm thấy đau, nhưng không quá mức. Căn cứ theo độ sâu của cú đâm, các vị thánh của cô hẳn đã hướng dẫn cho bàn tay của Nina.
"Kaz nói nếu em chứng minh được bản thân thì em có thể gia nhập băng Cặn Bã khi đã sẵn sàng. Và em đã làm được. Nhưng em không xăm mình."
Nina nhướng mày. "Chị tưởng chuyện đó là bắt buộc?"
"Về lí thuyết thì đúng thế. Em biết một số người không hiểu, nhưng Kaz bảo em... anh ta nói đó là sự lựa chọn của em, và anh ta không phải là người đóng dấu em một lần nữa."
Nhưng Kaz đã làm điều đó theo cách của riêng mình, bất chấp ý muốn của cô. Có cảm tình với Kaz Brekker là một sự ngu xuẩn khủng khiếp. Cô biết điều đó. Nhưng anh là người đã cứu cô, cho cô thấy tiềm năng của mình. Anh đã đặt cược vào cô, và điều đó có một ý nghĩa nhất định, cho dù anh làm thế vì những lí do ích kỉ cá nhân. Cũng chính anh đặt cho cô biệt danh Bóng Ma.
Tôi không thích nó, cô đã nói như thế. Nghe tôi giống như thây ma vậy.
Một bóng ma, anh sửa lại.
Sao anh không gọi tôi là con nhện của anh chẳng hạn? Sao không dùng chữ đó?
Bởi vì ở Barrel có cả đống nhện. Hơn nữa, cô muốn địch thủ của mình phải dè chừng. Chứ không phải để bọn họ suy nghĩ rằng họ có thể giẫm bẹp cô bằng mũi giày.
Địch thủ của tôi?
Địch thủ của chúng ta.
Kaz đã giúp cô xây dựng nên một huyền thoại, và Inej dùng nó như một thứ áo giáp, lớn lao và đáng sợ hơn con người trước kia của cô. Inej thở dài. Cô không muốn nghĩ đến anh ta nữa.
"Chị nói chuyện đi chứ," cô bảo Nina.
"Mi mắt em nặng trĩu rồi kìa. Em nên ngủ đi."
"Em không thích tàu thuyền. Kỉ niệm xấu."
"Chị cũng thế?'
"Vậy chị hát gì đi."
Nina bật cười, "còn nhớ chị nói gì đó đại loại là em thà chết còn hơn không? Em sẽ không muốn nghe chị hát đâu."
"Làm ơn đi mà."
"Chị chỉ biết mấy bài dân ca Ravka và những bài của dân nhậu ở Kerch."
"Bài của dân nhậu ấy. Một cái gì đó om sòm, đi mà chị."
Nina khịt mũi. "Chỉ vì em thôi đấy, Bóng Ma." Cố hắng giọng và bắt đầu hát. "Thuyền trưởng trẻ khoẻ, dũng mãnh biển khơi. Lính tráng và thuỷ thủ, không bệnh ăn chơi..."
Inej bắt đầu cười khúc khích và phải ôm lấy sườn. "Chị nói đúng đấy. Chị không hát được đâu."
"Đã bảo rồi mà."
"Hát tiếp đi chị."
Giọng hát của Nina thật kinh khủng. Nhưng nó giúp giữ Inej ở lại con thuyền này, trong khoảnh khắc này. Inej không muốn nghĩ tới lần đi biển gần nhất của mình, nhưng những kí ức về nó thật khó mà trấn áp được.
Lẽ ra cô không có mặt trên cỗ xe vào buổi sáng mà đám săn nô lệ bắt cóc cô. Lúc đó Inej mười bốn tuổi, và gia đình cô đang đi nghỉ hè ở bờ biển phía tây Ravka, vừa tận hưởng bãi biển vừa biểu diễn trong một lễ hội hoá trang ở ngoại vi Os Kervo. Lẽ ra cô phải giúp bố mạng lại tấm lưới an toàn. Nhưng cô lười và tự cho phép mình ngủ thêm vài phút bên dưới tấm mền mỏng bằng vải bông, trong tiếng sóng biển rì rầm.
Khi một bóng người xuất hiện ngoài cửa xe, cô thậm chí còn không nghĩ đến chuyện chạy trốn, cô chỉ nói: "Cho con thêm năm phút, bố ơi."
Và rồi bọn chúng túm lấy chân cô lôi ra khỏi cỗ xe. Đầu cô đập mạnh xuống đất. Có bốn gã đàn ông cả thảy. Dân đi biển, to cao. Khi cô cố gắng hét lên, chúng lập tức bịt miệng cô. Chúng trói tay cô lại, và một tên vác cô trên vai trong lúc cả bọn lao tới chỗ chiếc xuồng mà chúng đã để ở vũng biển.
Sau này Inej mới biết bờ biển đó là một nơi mà bọn săn nô lệ thường lui tới. Bọn chúng đã trông thấy đoàn xe Suli từ trên tàu, và chèo xuồng tiếp cận sau khi mặt trời mọc, lúc không có ai ở nơi cắm trại.
Phần còn lại của ngày hôm đó là một vệt mờ. Cô bị ném vào trong hầm tàu cùng với một nhóm trẻ con - có đứa lớn hơn, có đứa nhỏ hơn, đa số là con gái, nhưng cũng có vài đứa con trai. Cô là người Suli duy nhất, tuy nhiên có một vài đứa trẻ nói được tiếng Ravka, và chúng đã kể cho cô nghe mình bị bắt cóc như thế nào. Một đứa bị bắt đi khi đang ở trong xưởng đóng tầu của bố. Đứa khác thì đang chơi trong hồ và ở quá xa đám bạn. Có đứa bị chính anh trai mình bán đi để gán nợ cờ bạc. Đám thuỷ thủ nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mà Inej không hiểu, nhưng một đứa trẻ cho rằng cả bọn đang được đưa tới hòn đảo lớn nhất của Kerch, nơi chúng sẽ bị bán đấu giá cho các gia đình, hoặc những nhà chứa ở Ketterdam và Novyi Zem. Người mua đến từ khắp nơi trên thế giới. Inej nghĩ rằng buôn bán nô lệ là hành vi bất hợp pháp ở Kerch, nhưng rõ ràng nó vẫn tồn tại.
Cô không bao giờ thấy được sàn đấu giá. Khi tàu buông neo, Inej bị đưa lên boong và giao cho một trong những người phụ nữ đẹp nhất mình từng gặp, với vóc dáng cao ráo, đôi mắt nâu, và mái tóc vàng rực.
Người phụ nữ đã giơ cái đèn lên và săm soi từng li từng tí trên cơ thể cô - hàm răng, bộ ngực, thậm chí đôi bàn chân. Bà ta nắm chỗ tóc bù xù trên đầu cô và lên tiếng: "Cái này phải cạo đi." Rồi bà ta lùi lại. "Xinh," bà ta nói. "Gầy đét và phẳng lì như cái chảo, nhưng làn da của con bé hoàn hảo."
Bà ta quay sang trả giá với đám thuỷ thủ trong lúc Inej đứng đó, đôi tay bị trói đưa lên che ngực, chiếc áo vẫn còn phanh trần, váy bị vén lên tận eo. Inej có thể trông thấy ánh trăng phản chiếu trên những con sóng mặt vịnh. Nhảy đi, cô đã nghĩ như thế. Thứ ở dưới đáy biển sẽ còn tốt hơn nơi mà người phụ nữ này đưa mày tới. Nhưng cô đã không đủ can đảm.
Người con gái mà Inej trở thành sau này chắc chắn sẽ nhảy mà không cần suy nghĩ, thậm chí là lôi theo một gã săn nô lệ với mình. Cũng có thể là không. Cô đã sợ cứng người khi đụng độ Dì Heleen ở Tây Stave. Cô chẳng mạnh hơn, chẳng can đảm hơn, cô vẫn chỉ là đứa con gái Suli chết nhát, tê liệt và nhẫn nhục trên boong tàu ngày ấy.
Nina vẫn đang hát gì đó về một thuỷ thủ đã ruồng bỏ người yêu của mình.
"Dạy em đoạn điệp khúc đi," Inej nói.
"Em nên nghỉ ngơi."
"Đoạn điệp khúc."
Thế là Nina dạy hát cho Inej, và hai chị em cùng cất tiếng hát, vấp váp vì quên lời và chênh phô lung tung, cho tới khi những ngọn đèn lồng tắt dần.
17
JESPER
Jesper sẵn sàng quăng mình xuống biển chỉ để thay đổi sự nhàm chán này. Sáu ngày nữa. Sáu ngày nữa trên con tàu này, nếu may mắn và hướng gió thuận lợi, thì họ sẽ tới được đất liền. Bờ biển phía tây của Fjerda toàn đá ngầm nguy hiểm và những vách đá dựng đứng. Nó chỉ có thể được tiếp cận một cách an toàn ở Djerholm và Elling, nhưng vì an ninh ở hai hải cảng này rất chặt, họ buộc phải đi lên những hải cảng dành cho tàu bắt cá voi ở phía bắc. Jesper đã tưởng họ sẽ bị bọn hải tặc tấn công, nhưng con thuyền trông quá nhỏ để có thể chở thứ gì đó có giá trị lớn lao. Họ là một mục tiêu đáng khinh và êm thấm đi qua những tuyến hải trình nhộn nhịp nhất của Chân Hải, mang theo màu cờ trung lập của Kerch. Chẳng mấy chốc, họ đã tới vùng biển lạnh phương bắc, tiến vào Isenvee.
Jesper đi thơ thẩn trên boong, trèo lên cột buồm, cố gắng dụ thuỷ thủ đoàn chơi bài với mình, lau súng. Anh nhớ đất liền, thức ăn ngon và bia mát lạnh. Anh nhớ thành thị. Nếu muốn không gian rộng lớn và sự yên tĩnh, chắc anh đã ở lại biên giới và nối nghiệp bố trở thành một người làm nông. Trên thuyền chẳng có gì nhiều để làm ngoài việc nghiên cứu cách bố trí của Lâu Đài Băng, nghe tiếng càu nhàu của Matthias, và chọc phá Wylan. Cậu nhóc luôn bận rộn với việc tái dựng cơ cấu vận hành của các cổng thành.
Kaz đã tỏ ra khá ấn tượng với những sơ đồ được vẽ bởi Wylan.
"Cậu có cái đầu của một thợ bẻ khoá," Kaz đã nói với Wylan như vậy.
"Không hề."
"Ý tôi là cậu có thể nhìn thấy không gian theo ba cái trục đó."
"Tôi không phải là một tên tội phạm," Wylan phản đối.
Kaz đã nhìn cậu bé bằng một ánh mắt thương hại. "Không, cậu là một người thổi sáo đi cùng đám người xấu."
Jesper ngồi xuống bên cạnh Wylan. "Cậu học cách tiếp nhận lời khen đi. Kaz không thường xuyên mở miệng khen ai đâu."
"Đó không phải là một lời khen. Tôi chẳng có gì giống với anh ta cả. Tôi không thuộc về nơi này."
"Cái đó thì khỏi phải bàn cãi rồi."
"Anh cũng không thuộc về nơi này."
"Cậu nói gì vậy, thiếu gia?"
"Theo kế hoạch của Kaz thì chúng ta không cần tới một thiện xạ, vậy công việc của anh là gì? Ngoài đi tới đi lui và làm mọi người bực bội?"
Jesper nhún vai. "Kaz tin tưởng tôi."
Wylan khịt mũi và cầm cây bút lên. "Anh có chắc không?"
Jesper ngọ nguậy cơ thể một cách khó chịu. Tất nhiên là anh không hề chắc chắn về chuyện đó. Anh mất rất nhiều thời gian để phỏng đoán các suy nghĩ của Kaz Brekker. Và nếu như anh giành được một phần nhỏ niềm tin của Kaz, thì liệu anh có xứng đáng với nó không?
Jesper gõ gõ ngón cái trên khẩu súng lục và đáp: "Khi đạn bắt đầu bay vèo vèo, có lẽ cậu sẽ thấy mừng khi có tôi bên cạnh. Mấy bức vẽ xinh xẻo này không giúp cậu giữ mạng sống được đâu."
"Chúng ta cần những tấm sơ đồ này. Và nếu anh đã quên thì chính quả bom sáng của tôi đã giúp chúng ta thoát khỏi cái bến cảng đáng nguyền rủa đó."
Jesper thở hắt ra. "Chiến thuật hay ghê."
"Nó đã thành công, đúng không?"
"Cậu làm lóa mắt bọn Hắc Thủ lẫn người của chúng ta."
"Đó là một nguy cơ có tính toán."
"Cái đó gọi là ăn may đấy. Tin tôi đi, tôi hiểu chuyện đó mà."
"Ờ há."
"Thái độ vậy là sao?"
"Thì mọi người đều biết anh không thể tránh xa một cuộc tỉ thí hoặc một trò cá cược, dù tỉ lệ may mắn có thế nào đi nữa."
Jesper nheo mắt nhìn mấy lá buồm. "Nếu cậu không được sinh ra với đủ mọi lợi thế, cậu sẽ phải học cách nắm bắt cơ hội."
"Tôi không..." Wylan bỏ lửng câu nói và đặt cây bút xuống. "Tại sao anh cứ nghĩ là anh biết hết mọi chuyện về tôi nhỉ?"
"Tôi biết nhiều lắm, thiếu gia à."
"Tốt cho anh. Tôi thì luôn có cảm giác mình biết không đủ."
"Về chuyện gì?"
"Về bất cứ chuyện gì," Wylan lẩm bẩm.
Jesper đâm tò mò. "Như là gì chẳng hạn?" Anh hỏi dồn.
"Ờ thì, súng ống chẳng hạn," cậu ta đáp và chỉ tay vào những khẩu súng của Jesper. "Chúng có một cơ chế khai hoả khác thường, đúng không? Nếu tôi có thể tháo rời chúng thì..."
"Đừng có mơ tới chuyện đó."
Wylan nhún vai. "Hoặc là về cái hào băng này," cậu ta gõ gõ ngón tay vào sơ đồ Lâu Đài Băng. "Matthias đã nói là nó không bị đông cứng hết, mà chỉ có một lớp băng rất mỏng trên hào nước lạnh giá, hoàn toàn lộ liễu và không thể vượt qua."
"Vậy thì sao?"
"Chỗ nước đó từ đâu ra? Lâu đài nằm trên một ngọn đồi, thế thì mạch nước ngầm hoặc cầu máng dẫn nước nằm ở đâu?"
"Chuyện đó có gì quan trọng? Có một cái cầu. Chúng ta không cần phải vượt qua hào băng."
"Nhưng anh không tò mò sao?"
"Thánh thần ơi, không. Vẽ cho tôi cơ chế thắng bài poker hoặc vòng quay may mắn. Tôi chỉ tò mò mỗi mấy cái đó thôi."
Wylan quay về với công việc của mình, khuôn mặt lộ rõ vẻ thất vọng.
Không hiểu sao, Jesper cũng cảm thấy hơi thất vọng một chút.
•••
Jesper kiểm tra tình hình Inej mỗi sáng và tối. Ý nghĩ rằng vụ phục kích trên bến cảng có thể kết liễu cô khiến anh rúng động. Bất chấp những nỗ lực của Nina, anh vẫn không dám chắc Bóng Ma sẽ còn sống được bao lâu nữa.
Nhưng vào một buổi sáng nọ, khi Jesper xuất hiện, anh thấy Inej đã ngồi dậy, mặc quần ống túm, áo khoác chần bông, và áo thụng dài có mũ trùm đầu.
Nina đang cúi xuống, vất vả nhét bàn chân của cô gái Suli vào đôi giầy đế cao su kì lạ của cô.
"Inej!" Jesper thốt lên. "Cô không chết!"
Inej mỉm cười yếu ớt. "Cũng như mọi người thôi."
"Đối đáp khôn khéo thế này chứng tỏ tình hình của cô đã khá hơn nhiều."
"Đừng có đứng trơ ra đấy," Nina làu bàu. "Giúp tôi mang hai cái này vào chân Inej đi."
"Nếu mà chị để em tự làm thì..."
"Không được gập người," Nina gạt ngang. "Không được nhảy lên. Không được cử động đột ngột. Nếu em không hứa di chuyển nhẹ nhàng, chị sẽ làm chậm nhịp tim và để em mê man cho đến khi chị chắc chắn em đã hoàn toàn bình phục."
"Nina Zenik, ngay khi em tìm ra chỗ chị giấu bộ dao của em, chúng ta sẽ phải nói chuyện với nhau."
"Tốt hơn hết nó nên bắt đầu bằng câu Cảm ơn chị Nina vĩ đại, vì đã dành thời gian cứu vớt cuộc đời tồi tàn của em trong chuyến đi khốn khổ này."
Tưởng đâu Inej sẽ bật cười, Jesper bị bất ngờ khi cô khum hai bàn tay đỡ lấy khuôn mặt của Nina và nói: "Em cảm ơn chị vì đã giữ em ở lại với thế giới này, khi định mệnh dường như đã quyết chí lôi em sang thế giới bên kia. Em nợ chị ơn cứu mạng."
Nina đỏ bừng mặt. "Chị chỉ trêu em thôi mà, Inej." Cô ngừng lời một chút. "Chị nghĩ cả hai chúng ta đều đã nợ nần đủ nhiều rồi."
"Món nợ này thì em sẵn sàng chấp chận."
"Được rồi, được rồi. Khi nào chúng ta quay về Ketterdam, em dẫn chị đi ăn bánh waffle nhé."
Giờ thì Inej bật cười. Cô bỏ hai tay xuống và tỏ vẻ nghĩ ngợi. "Món tráng miệng để đổi lấy ơn cứu mạng à? Em không nghĩ như vậy là đủ."
"Chị chờ đợi những cái bánh xuất sắc thực sự nhé."
"Tôi biết một chỗ," Jesper xen vào. "Bọn họ có loại siro táo này..."
"Anh không được mời," Nina cắt ngang. "Giờ thì giúp tôi đỡ cô ấy đứng dậy nào."
"Em tự đứng được mà," Inej làu bầu trong lúc tuột xuống khỏi cái bàn và đứng thẳng người lại trên đôi chân.
"Cho tôi vinh dự nào."
Với một cái thở hắt ra, Inej nắm lấy cánh tay chìa ra của Jesper, và họ bước ra khỏi cabin để lên boong, Nina theo sau.
"Chuyện này thật tức cười," Inej nói. "Tôi khoẻ rồi."
"Ừ," Jesper đáp. "Nhưng tôi có thể vấp ngã bất cứ lúc nào, cô nên chú ý vào."
Khi họ đã lên đến nơi, Inej siết tay Jesper một cái để anh dừng bước. Cô nghiêng đầu, hít thở sâu. Đó là một ngày xám xịt, mặt biển âm u lạnh lẽo bị phá vỡ bởi những con sóng bạc đầu và các vầng mây dày xếp chồng chất lên nhau trên bầu trời. Cơn gió mạnh thổi căng cánh buồm, đưa con thuyền nhỏ lướt nhanh trên sóng nước.
"Thật dễ chịu khi được thưởng thức cái lạnh này," Inej thì thầm.
"Như thế này á?"
"Gió lùa trong tóc, hơi biển trên da. Cái lạnh của sự sống."
"Hai vòng trên boong thôi đấy," Nina cảnh báo. "Sau đó là quay vào giường."
Nói đoạn cô quay lại chỗ Wylan đang đứng ở đuôi thuyền. Jesper nhận ra Nina di chuyển đến điểm xa Matthias nhất trên thuyền.
"Lúc nào họ cũng như thế à?" Inej hỏi, mắt đảo từ Nina sang phía anh chàng người Fjerda.
Jesper gật đầu. "Y hệt như xem hai con mèo hoang vờn nhau."
Inej ậm ừ khe khẽ. "Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi họ lao vào nhau?"
"Cào cấu nhau đến chết?"
Inej đảo mắt. "Chẳng trách anh yếu kém đến thế trên bàn chơi bài."
Jesper đưa Inej tiến về phía lan can thuyền, nơi họ có thể đi dạo một chút mà không làm vướng chân ai. "Tôi chỉ muốn quăng cô xuống biển, nhưng Kaz đang quan sát chúng ta."
Inej gật đầu. Cô không ngước nhìn chỗ Kaz đang đứng phía sau Specht ở bánh lái. Nhưng Jesper quay lại nhìn anh ta và vẫy tay chào một cách vui vẻ. Nét mặt của Kaz không hề thay đổi.
"Thỉnh thoảng mỉm cười một cái thì anh ta chết ngay chắc?" Jesper thắc mắc.
"Dám lắm."
Các thành viên trong đoàn đều nói lời chào mừng và chúc sức khoẻ. Jesper nhận thấy Inej hếch cằm lên sau mỗi câu "Bóng Ma đã quay lại!" Ngay cả Matthias cũng gửi cô một cái cúi chào vụng về và nói: "Theo tôi hiểu thì cô chính là lí do khiến chúng ta rời khỏi hải cảng toàn mạng."
"Có nhiều lí do lắm," Inej đáp.
"Một trong số đó là tôi," Jesper thản nhiên chen vào.
"Dù thế nào thì, cảm ơn cô." Matthias tiếp tục, phớt lờ Jesper.
Hai người đi tiếp, và Jesper trông thấy một nụ cười thỏa mãn nở trên môi Inej.
"Cô ngạc nhiên à?" Anh hỏi.
"Một chút," cô thừa nhận. "Tôi đã dành quá nhiều thời gian với Kaz. Tôi nghĩ..."
"Cảm thấy được ghi nhận là một điều mới mẻ với cô."
Cô cười khẽ và ấn một tay vào cạnh sườn. "Tôi vẫn đau mỗi khi cười."
"Bọn họ mừng vì cô còn sống. Tôi cũng mừng."
"Tôi hi vọng thế. Tôi nghĩ mình chưa bao giờ cảm thấy thực sự phù hợp với băng Cặn Bã."
"Ờ, cô đúng là không hợp."
"Cảm ơn anh."
"Chúng ta là một băng nhóm có ít mối quan tâm, mà cô thì không đánh bạc, chửi thề, hoặc uống quá chén. Nhưng bí mật để được yêu thích là đây: liều mạng cứu những người đồng đội của mình khỏi mất xác trong một cuộc mai phục. Cách thức quá tuyệt vời để kết bạn."
"Miễn là tôi không phải tiệc tùng."
Khi họ lên tới boong trước, Inej nghiêng người trên lan can, đưa mắt quan sát chân trời. "Anh ta có xuống thăm tôi lần nào không?"
Jesper hiểu cô đang muốn ám chỉ Kaz. "Hằng ngày."
Inej chiếu đôi mắt đen vào anh, rồi lắc đầu. "Anh không thể đọc được suy nghĩ của người khác, và anh không thể lừa họ."
Jesper thở dài. Anh ghét phải làm người khác thất vọng. "Không," anh thú nhận.
Cô gật đầu và lại đưa mắt nhìn biển cả.
"Tôi không nghĩ Kaz thích giường bệnh," Jesper nói.
"Ai mà thích cơ chứ?"
"Ý tôi là, thật khó cho Kaz khi thấy cô bị như thế. Ngày đầu tiên sau khi cô bị thương... Kaz có hơi nổi khùng một chút." Jesper cảm thấy khá khó khăn khi phải thừa nhận điều đó. Liệu Kaz có nhỏ giọt lệ nào nếu người bị thọc dao vào sườn là anh không?
"Ồ, dĩ nhiên rồi. Đây là một phi vụ dành cho sáu người, và hình như anh ta cần tôi leo lên cái ống khói lò thiêu. Nếu tôi chết thì kế hoạch sẽ đổ bể hết."
Jesper không bác bỏ điều đó. Anh cũng không thể giả vờ thông cảm cho Kaz hoặc động cơ của anh ta. "Tiết lộ cho tôi biết một chuyện đi. Mối bất hoà giữa Wylan và cha của cậu ta bắt nguồn từ đâu vậy?"
Inej liếc nhanh về phía Kaz, rồi ngoái nhìn qua vai để bảo đảm không có người nào trong thuỷ thủ đoàn đang lảng vảng gần họ. Kaz đã nói rất rõ ràng rằng mọi thông tin dù chỉ liên quan một chút với công việc của họ đều không được để lộ ra bên ngoài. "Tôi cũng không biết chính xác. Ba tháng trước, Wylan dạt đến một quán trọ bình dân ở gần Thanh Gỗ. Cậu ta dùng một cái tên khác, nhưng Kaz luôn để mắt tới mọi khuôn mặt mới ở Barrel, thế nên anh ta đã cử tôi đi điều tra."
"Rồi sao?"
Inej nhún vai. "Đám đầy tớ nhà Van Eck được trả công rất hậu, nên khó mà mua chuộc được họ.Tôi không thu được nhiều thông tin. Nghe đồn Wylan đã bị bắt quả tang khi đang nô đùa quá giới hạn với một gia sư."
"Thật á?" Jesper ngạc nhiên hỏi lại. Thằng nhỏ này cũng có võ ghê.
"Chỉ là lời đồn thôi. Rõ ràng Wylan đã không bỏ nhà để đi xây tổ ấm với người tình."
"Thế thì tại sao cha cậu ta đuổi cổ thằng con ra đường?"
"Tôi không nghĩ ông ta làm thế. Van Eck viết thư cho Wylan hằng tuần, nhưng cậu ta thậm chí không buồn mở thư."
"Những lá thư viết gì?"
Inej cẩn thận tựa người vào lan can. "Anh tin rằng tôi đã đọc chúng à?"
"Không phải sao?"
"Tất nhiên là tôi đã đọc." Rồi cô nhíu mày, cố nhớ lại. "Những bức thư đó lặp đi lặp lại cùng một thông điệp: Nếu con đọc được lá thư này, con nên biết cha muốn con quay về nhà nhiều đến thế nào. Hoặc là: Cha cầu nguyện để con đọc được những dòng chữ này và nghĩ tới thứ con đã bỏ lại phía sau."
Jesper nhìn về phía Wylan. Cậu nhóc đang tán gẫu với Nina. "Cậu ấm bí ẩn. Tôi đang tự hỏi Van Eck đã làm chuyện gì tệ đến nỗi khiến Wylan rơi vào tay chúng ta."
"Giờ đến lượt anh cho tôi biết một chuyện, Jesper. Điều gì đã khiến anh chấp nhận làm phi vụ này? Anh biết nó rủi ro như thế nào, anh biết cơ may sống sót trở về của chúng ta là bao nhiêu. Tôi biết anh thích thử thách, nhưng cái này thì hơi quá, ngay cả với anh."
Jesper đưa mắt nhìn những con sóng xám xịt không ngừng kéo nhau về phía chân trời. Anh chưa bao giờ thích biển, cái cảm giác chông chênh dưới chân với một thứ gì đó háu đói miệng đầy răng đang chực chờ để lôi anh xuống dưới. Đó là cảm giác của anh dạo gần đây, ngay cả khi ở trên đất liền.
"Tôi đang mắc nợ, Inej à."
"Anh lúc nào chẳng nợ nần?"
"Không. Quả này nặng lắm. Tôi mượn tiền nhầm người. Cô còn nhớ bố tôi có một trang trại chứ?"
"Ở Novyi Zem."
"Đúng rồi, phía tây. Nó chỉ vừa bắt đầu sinh lời năm nay."
"Ôi, Jesper. Không thể nào..."
"Tôi cần tiền... Tôi đã bảo với ông ấy là mình cần nó để hoàn tất việc học đại học."
Inej nhìn Jesper trân trối. "Ông ấy nghĩ anh là sinh viên sao?"
"Chính vì thế nên tôi mới tới Ketterdam. Tuần lễ đầu tiên sau khi tới đây, tôi bám theo vài người bạn sinh viên khác tới khu Đông Stave. Tôi đặt cược vài kruge. Cái gì cũng muốn thử cho biết. Tôi thậm chí còn không biết luật chơi vòng quay may mắn. Nhưng khi người ta quay cái bánh xe, nó phát ra một âm thanh hay ho chưa từng thấy với tôi. Tôi thắng. Tôi thắng liên tục đêm đó. Cái đêm đẹp đẽ nhất cuộc đời tôi."
"Và kể từ đó anh chỉ chăm chăm tìm lại nó."
Jesper gật đầu. "Lẽ ra tôi phải ngồi trong thư viện. Tôi thắng bạc. Rồi thua. Thua hoài. Tôi cần tiền, và bắt đầu đi theo các băng nhóm. Có lần tôi bị hai thằng tấn công trong một con hẻm. Kaz đã hạ gục hai thằng đó, và bọn tôi bắt đầu cộng tác với nhau."
"Có thể Kaz đã thuê hai người đó tấn công anh, để anh cảm thấy mắc nợ anh ta."
"Không đâu..." Jesper khựng lại nửa chừng, rồi bật cười. "Mà cũng có thể lắm." Anh duỗi các ngón tay ra, quan sát những đường chỉ tay của mình. "Kaz đúng là... tôi không biết nữa, Kaz không giống bất cứ người nào mà tôi từng biết. Anh ta luôn làm tôi bất ngờ."
"Phải rồi. Giống như một tổ ong trong tủ quần áo của anh vậy."
Jesper cười khùng khục. "Ừ, giống như thế."
"Vậy chúng ta đang làm gì ở đây?"
Jesper quay lưng về phía biển, anh cảm thấy đôi má nóng bừng. "Hi vọng lấy được mật ong, tôi đoán thế. Và cầu nguyện để không bị chích."
Inej huých vai anh chàng thiện xạ. "Vậy thì ít ra chúng ta cũng ngu ngốc cùng một kiểu như nhau."
"Tôi không rõ lí do tham gia của cô là gì. Tôi mới là người chưa bao giờ thoát khỏi vận rủi."
Cô khoác tay anh. "Điều đó biến anh thành một con bạc khát nước, Jesper à. Nhưng anh là một người bạn tuyệt vời."
"Cô quá tốt đối với anh ta, cô biết không?"
"Tôi biết. Anh cũng thế."
"Chúng ta đi chứ?"
"Vâng," Inej đáp và bắt đầu bước đi bên cạnh Jesper. "Ngoài ra, tôi cần anh đánh lạc hướng chị Nina để tôi có thể đi tìm bộ dao của mình."
"Không thành vấn đề. Chỉ cần lôi tay Helvar vào cuộc là xong." Jesper liếc mắt nhìn về phía bánh lái trong lúc hai người đi tới cuối thuyền. Kaz không nhúc nhích. Anh ta vẫn đứng đó nhìn họ, với ánh mắt cứng rắn và khuôn mặt khó đoán hơn bao giờ hết.
18
KAZ
Phải đến hai ngày sau khi Inej bước ra khỏi cabin khoang dưới, Kaz mới tiếp cận cô. Inej đang ngồi một mình, hai chân bắt chéo, lưng dựa vào thành thuyền, nhấp một tách trà.
Kaz cà nhắc đi tới chỗ cô. "Tôi muốn cho cô xem cái này."
"Tôi khoẻ, cảm ơn anh đã hỏi thăm," cô đáp và ngước mắt nhìn anh. "Anh thế nào rồi?"
Kaz cảm thấy môi mình cong lên. "Tuyệt cú mèo." Anh vụng về ngồi xuống cạnh cô, để cây gậy chống qua một bên.
"Chân anh lại đau à?"
"Nó ổn rồi. Xem này." Anh trải rộng trước mặt họ bản sơ đồ nhà tù mà Wylan đã vẽ. Hầu hết các sơ đồ Lâu Đài Băng đều được vẽ từ trên cao, riêng khu vực nhà tù được vẽ theo mặt cắt ngang, cho thấy các tầng lầu chồng lên nhau.
"Tôi xem rồi," Inej đáp, và dùng ngón tay vạch một đường thẳng từ dưới hầm lên đến tận mái. "Sáu tầng lầu leo bằng đường ống khói."
"Cô có làm được không?"
Cô nhướng mày. "Có lựa chọn nào khác à?"
"Không."
"Thế nếu tôi nói là tôi không thể làm được, liệu anh có bảo Specht quay đầu con thuyền và đưa tất cả chúng ta về Ketterdam không?"
"Tôi sẽ tìm một lựa chọn khác," Kaz đáp. "Tôi không biết nó là gì, nhưng tôi sẽ không từ bỏ phần thưởng đó."
"Anh biết tôi có thể làm được, Kaz, và anh biết tôi sẽ không từ chối. Tại sao anh phải hỏi?"
Bởi vì tôi đang tìm một cái cớ để nói chuyện với em sau hai ngày.
"Tôi muốn chắc ăn rằng cô biết mình sẽ đối mặt với chuyện gì và cô đang nghiên cứu các sơ đồ."
"Tôi sẽ bị kiểm tra à?"
"Phải," Kaz đáp. "Nếu cô trượt, tất cả chúng ta sẽ bị mắc kẹt trong một nhà tù trên đất Fjerda."
"Hừm," Inej nhấp một ngụm trà. "Và tôi sẽ mất mạng." Cô nhắm mắt, ngả đầu tựa vào thành thuyền. "Tôi khá lo lắng về con đường thoát theo hướng hải cảng. Tôi không thích ý tưởng chỉ có một đường ra duy nhất."
Kaz cũng ngả người dựa vào thành thuyền. "Tôi cũng lo," anh đáp và duỗi cái chân yếu. "Nhưng chính vì vậy người Fjerda mới xây nó như thế."
"Anh có tin tưởng Specht không?"
Kaz liếc xéo cô. "Có lí do gì để tôi không nên làm thế à?"
"Không hề, nhưng nếu chiếc Ferolind không chờ sẵn ở cảng thì chúng ta..."
"Tôi đủ tin tưởng anh ta."
"Anh ta nợ anh à?"
Kaz gật đầu. Anh quét mắt nhìn quanh, rồi nói: "Hải quân đã đuổi cổ anh ta vì tội bất tuân thượng lệnh và không cho anh ta hưởng trợ cấp. Specht còn một người chị gái phải chu cấp sống ở gần Belendt. Tôi đã giúp anh ta có tiền."
"Anh thật tử tế."
Kaz nheo mắt. "Tôi không phải là một nhân vật bước ra từ truyện cổ tích với những trò chơi khăm vô hại và đánh cắp của người giàu chia lại cho người nghèo. Tiền thì vẫn phải kiếm, và thông tin vẫn phải mò. Specht thuộc các tuyến hải trình như lòng bàn tay mình."
"Anh chẳng cho không ai cái gì bao giờ," Inej nói với ánh mắt điềm tĩnh. "Tôi biết mà. Nhưng nếu chiếc Ferolind bị chặn lại, chúng ta sẽ không có đường nào thoát khỏi Djerholm."
"Tôi sẽ có cách. Cô biết mà."
Hãy nói là em biết đi. Anh cần nghe cô nói ra câu đó. Phi vụ này không giống với bất cứ thử thách nào mà anh từng trải qua trước đây. Mọi nghi ngờ mà cô nêu ra đều rất chính đáng, và chúng trùng khớp với nỗi sợ trong đầu anh. Anh đã gay gắt với Inej trước khi họ rời Ketterdam và bảo rằng mình sẽ đi tìm một người nhện khác cho công việc nếu cô không nghĩ anh có thể thành công. Anh cần biết cô tin rằng anh làm được, rằng anh có thể đưa họ vào trong Lâu Đài Băng rồi dẫn họ ra khỏi đó, hoàn toàn lành lặn, giống như anh đã làm với các nhóm khác trong những vụ khác. Anh cần biết cô tin tưởng anh.
Nhưng tất cả những gì cô nói là: "Tôi nghe đồn Pekka Rollins chính là kẻ đã thuê người tấn công chúng ta trên bến cảng."
Kaz cảm thấy nỗi thất vọng đột ngột dâng lên trong lòng. "Thì sao?"
"Anh đừng tưởng tôi chưa nhận ra sự thù hận dai dẳng của anh đối với ông ta, Kaz."
"Lão ta chỉ là một tay trùm như mọi tay trùm khác của Barrel."
"Ồ, không đâu. Khi anh đối đầu với các băng nhóm khác, đó là chuyện làm ăn. Nhưng với Pekka Rollins thì đó là vấn đề cá nhân."
Về sau Kaz không rõ vì sao anh lại nói ra. Anh chưa từng kể với bất kì ai, chưa bao giờ nói ra chuyện đó. Nhưng lần này, anh đưa mắt nhìn lên lá buồm và nói: "Pekka Rollins đã giết hại anh trai tôi."
Không cần phải nhìn, anh cũng biết Inej đang rất sốc. "Anh có một người anh trai à?"
"Tôi có nhiều bí mật lắm," anh lẩm bẩm.
"Tôi xin lỗi."
Anh muốn cô thông cảm à? Có phải vì thế mà anh kể với cô?
"Kaz..." Inej ngập ngừng, không biết nên làm gì bây giờ: đặt tay lên vai anh an ủi hay nói rằng cô thông cảm cho anh?
"Tôi sẽ cầu nguyện cho anh ấy. Cầu cho anh ấy tìm được ở thế giới bên kia sự bình an mà anh ấy đã không có ở thế giới này."
Kaz không ngẩng lên nữa. Anh đang ngồi rất gần cô, vai họ gần như chạm nhau. Đôi mắt cô có màu nâu sẫm gần như đen, và đây là một trong những lần hiếm hoi Inej xoã tóc. Cô luôn buộc túm nó ra phía sau một cách không thương tiếc. Ngay cả việc gần gũi đến thế này với ai đó lẽ ra cũng phải làm anh nổi gai ốc. Nhưng thay vào đó, anh chỉ nghĩ thầm, Liệu sẽ thế nào nếu mình nhích sát hơn nữa?
"Tôi không cần những lời cầu nguyện của cô," anh nói.
"Vậy anh cần gì?"
Kaz nhanh chóng nghĩ tới những câu trả lời xưa như trái đất. Tiền bạc. Báo thù. Giọng nói của Jordie trong đầu tôi im lặng mãi mãi. Nhưng một câu trả lời khác đã vang lên, ồn ào, nài nỉ, và lạc lõng trong đầu anh. Em, Inej, em.
Anh nhún vai và quay mặt đi. "Chết dưới đống vàng của tôi."
Inej thở dài. "Vậy thì tôi sẽ cầu cho anh ước gì được nấy."
"Lại cầu nguyện nữa à? Thế cô muốn gì nào, Bóng Ma?"
"Quay lưng đi khỏi Ketterdam và không bao giờ nghe cái biệt danh đó một lần nào nữa."
Tốt. Anh cần phải tìm một người nhện mới, nhưng anh sẽ không bị xao lãng như thế này nữa.
"Phần chia của cô trong khoản tiền ba mươi triệu kruge thừa sức biến mơ ước đó thành sự thực." Kaz đứng lên. "Thế nên hãy để dành những lời cầu nguyện cho việc khác. Đừng lôi tôi vào chuyện đó."
•••
Kaz đi cà nhắc lên mũi tàu, bực bội với bản thân và tức giận với Inej. Tại sao anh lại tìm đến cô? Sao anh lại kể cho cô nghe chuyện Jordie? Anh đã khó chịu và mất tập trung suốt mấy ngày. Anh đã quen với việc có Bóng Ma bên cạnh - cho lũ quạ ăn ngoài cửa sổ phòng anh, mài bộ dao của cô trong khi anh làm việc bên bàn giấy, ám anh với những câu thành ngữ Suli của cô. Đây không phải là Inej mà anh muốn. Anh chỉ muốn tìm lại nếp quen hàng ngày của họ.
Kaz dựa người vào lan can thuyền. Anh ước gì mình đã không hé răng về người anh trai. Chỉ vài lời thôi cũng đủ làm kí ức cũ quay lại, kêu đòi được chú ý. Anh đã nói gì với Geels ở Sàn giao dịch nhỉ? Tôi là loại con hoang mà người ta chỉ sản xuất ở Barrel thôi. Một lời nói dối khác, một mảnh nữa của huyền thoại mà anh đã xây nên cho mình.
Sau khi bố mất vì tai nạn máy cày thảm khốc, Jordie đã bán trang trại, số tiền thu được chẳng là bao vì phải trang trải các khoản nợ nần thế chấp, nhưng cũng đủ để hai anh em đi tới Ketterdam và sống tương đối thoải mái một thời gian.
Kaz khi đó mới chín tuổi, vẫn còn nhớ bố và chưa hết sợ sệt sau khi đi khỏi ngôi nhà duy nhất mình từng biết. Cậu cứ níu chặt bàn tay của anh trai trong lúc hai đứa băng qua nhiều dặm đường quê êm đềm uốn lượn, cho tới khi gặp một dòng sông lớn và nhảy lên tầu chở hàng để đi Ketterdam.
"Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta tới đó?" Kaz đã hỏi Jordie như thế.
"Anh sẽ xin vào làm chân chạy việc ở Sàn giao dịch, rồi làm thư kí. Anh sẽ trở thành nhân viên môi giới, thành một thương gia thực sự và kiếm cả gia tài."
"Còn em thì sao?"
"Em sẽ đi học."
"Sao anh không đi học?"
Jordie nhăn mặt. "Anh lớn quá rồi. Quá khôn nữa."
Mấy ngày đầu tiên ở Ketterdam trôi qua đúng như lời Jordie. Hai anh em đã đi dọc theo đường cong lớn của bến cảng mà người ta gọi là Lid, rồi đi xuống Đông Stave để xem các sòng bạc. Nhưng họ không đi quá xa về phía nam, nơi đường phố được cảnh báo có nhiều bất trắc. Hai anh em thuê phòng trọ trong một căn nhà nhỏ cách không xa Sàn giao dịch, và thử hết các món ăn mới mà họ bắt gặp, ních đến căng bụng món kẹo mộc qua. Kaz thích những quầy bán trứng chiên, nơi người ta có thể chọn những nguyên liệu bỏ vào trong trứng.
Sáng sáng, Jordie tới sàn giao dịch để tìm việc và bảo Kaz ở lại trong phòng. Ketterdam không phải là một nơi an toàn đối với những đứa trẻ con đi một mình. Đường phố đầy bọn trộm cắp, móc túi, thậm chí là bọn bắt cóc các bé trai rồi bán lại cho người trả giá cao. Thế nên Kaz ở trong nhà. Cậu đẩy một chiếc ghế tới chỗ bồn rửa mặt rồi trèo lên đó, để có thể soi gương trong lúc làm các đồng tiền biến mất, giống như tay ảo thuật gia mà cậu đã xem ở trước cửa một sòng bạc. Kaz có thể đứng xem anh ta hàng giờ nếu không bị Jordie kéo ra chỗ khác. Màn ảo thuật với các lá bài rất hay, nhưng chính những đồng xu biến mất mới là thứ khiến Kaz mất ngủ. Làm thế nào anh ta làm được điều đó? Chỉ một giây trước đồng xu còn ở đó trước mặt cậu, thế mà chớp mắt một cái, nó đã biến mất.
Thảm họa bắt đầu với một con chó vặn dây cót.
Jordie quay về nhà với cái bụng đói và bộ mặt cau có, bực bội sau một ngày phí công vô ích. "Họ nói là không việc gì cho một thằng nhóc như anh. Tất cả những người làm việc tại đó đều là con em hoặc bạn bè của con cái ai đó."
Kaz khi đó không ở trong tâm trạng có thể làm anh trai mình vui lên. Cậu giận dỗi sau nhiều giờ ru rú trong nhà, chỉ có mấy lá bài và đồng xu làm bạn. Cậu muốn đi tới Đông Stave để tìm tay ảo thuật gia.
Trong nhiều năm sau đó, Kaz luôn tự hỏi liệu chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Jordie không chiều ý em trai, nếu họ đi ra cảng ngắm thuyền bè hoặc chỉ đơn giản là đi dạo trên bờ kênh. Kaz muốn tin rằng mọi việc có thể đã khác đi, nhưng càng lớn, cậu càng thấy chuyện đó là tất yếu.
Hai anh em đã đi ngang qua đám đông xanh lè trước Cung Lục Ngọc, và ngay bên cạnh đó, trước cửa Điểm vàng, có một thằng bé ngồi bán những con chó nhỏ chạy bằng dây cót. Được lên dây nhờ một chìa khoá đồng, món đồ chơi đi lạch bạch trên những cái chân cứng nhắc, đôi tai ve vẩy. Kaz đã khom xuống, vặn tất cả những cái khoá, cố làm cho những con chó bước đi cùng một lượt, trong khi thằng bé bán hàng bắt chuyện với Jordie. Hoá ra nó tới từ Lij, cách quê nhà của Kaz và Jordie hai thị trấn. Thằng bé nói nó biết một người đàn ông đang cần tìm người chạy việc - không phải tại sàn giao dịch mà là ở một văn phòng ngay phía cuối đường. Jordie nên tới đó vào sáng hôm sau cùng nó để bàn công việc với người đàn ông kia. Thằng bé cũng đang muốn xin làm chân chạy việc.
Trên đường về, Jordie đã mua cho hai anh em mỗi người một cốc sôcôla nóng, chứ không chia nhau một cốc như mọi lần.
"Vận may bắt đầu mỉm cười với chúng ta rồi," anh nói trong lúc họ cầm hai cái cốc nóng bốc khói, chân đung đưa trên một cây cầu nhỏ, với ánh đèn khu Stave nhảy nhót dưới dòng kênh. Kaz đã nhìn cái bóng phản chiếu của hai anh em trên mặt nước lung linh và cảm thấy mình thật may mắn.
Thằng bé bán chó vặn dây cót tên là Filip, và người mà nó quen là Jakob Hertzoon, chủ một quán cà phê nhỏ nằm gần Sàn giao dịch, nơi ông ta thu xếp để các nhà đầu tư cấp thấp giao dịch cổ phần của những chuyến hàng ghé ngang qua Kerch.
"Em nên đến xem chỗ đó," Jordie nói với Kaz khi về nhà vào một buổi tối. "Ở đó lúc nào cũng đầy người nói chuyện trao đổi thông tin, mua bán các cổ phần và phần hùn, cả những người bình thường cũng đến đó, từ anh bán thịt, bác thợ làm bánh cho đến các công nhân bốc xếp. Ông Hertzoon bảo rằng bất kì người nào cũng có thể làm giàu. Tất cả những gì họ cần là vận may và những người bạn tốt."
Tuần lễ sau đó giống như một giấc mơ ngọt ngào. Jordie và Filip chạy việc cho ông Hertzoon, chuyển thư tín tới bến cảng và ngược lại, thỉnh thoảng còn đi đặt lệnh cho ông ta ở Sàn giao dịch hoặc những văn phòng kinh doanh khác. Trong thời gian họ làm việc, Kaz được phép ở lại quán cà phê. Người phục vụ tại quầy bar cho cậu ngồi trên mặt quầy luyện tập các trò ảo thuật và thoả thích uống sôcôla nóng.
Hai anh em được mời ăn tối tại nhà của ông Hertzoon. Đó là một ngôi nhà lớn nằm trên phố Zelverstraat, có cửa ra vào màu xanh và cửa sổ treo rèm ren màu trắng. Ông Hertzoon là một người đàn ông to béo với khuôn mặt hồng hào thân thiện và hai chùm tóc mai đã bạc. Bà Margit vợ ông véo má Kaz và cho cậu thưởng thức món hutspot được nấu với xúc xích hun khói. Kaz cũng được chơi trong bếp cùng với con gái ông bà. Saskia. Cô bé mười tuổi, và Kaz cảm thấy đó là cô gái xinh đẹp nhất mà mình từng gặp. Hai anh em ở lại đến khuya để hát hò trong lúc bà Margit chơi piano và chú chó to lông xám của họ đập đuôi thình thịch theo nhịp nhạc. Đó là khoảng thời gian đẹp nhất mà Kaz từng có kể từ khi bố mất. Ông Hertzoon thậm chí còn để cho Jordie đặt những khoản tiền nhỏ mua cổ phần công ty. Jordie muốn đầu tư nhiều hơn, nhưng ông luôn khuyên anh thận trọng. "Từng bước nhỏ thôi, nhóc à. Từng bước nhỏ."
Mọi chuyện càng tốt đẹp hơn khi người bạn của ông Hertzoon từ Novyi Zem trở về. Ông này là thuyền trưởng của một con tàu chở hàng, và tình cờ gặp một người trồng mía ở một hải cảng của Novyi Zem. Người trồng mía than phiền với ông ta bên li rượu về ảnh hưởng của lụt lội trên trang trại của mình và nhiều hàng xóm trong vùng. Ngay lúc này giá đường còn thấp, nhưng trong vài tháng tới, khi đường trở nên khan hiếm, giá cả sẽ tăng vọt. Bạn của ông Hertzoon định sẽ mua tất cả số đường có thể mua được, trước khi tin tức lan đến Ketterdam.
"Chuyện này giống như gian lận," Kaz đã thì thầm như thế với Jordie.
"Không phải gian lận," Jordie bác bỏ. "Cái đó gọi là làm ăn. Làm thế nào những người tầm thường thăng tiến được trong xã hội nếu không có một sự hỗ trợ thêm?"
Ông Hertzoon bảo Jordie và Filip đặt lệnh với ba văn phòng độc lập để việc mua một lượng đường lớn đến như vậy không lôi kéo sự chú ý của người khác. Tin tức về vụ mía thất bát lan tới, và ngồi trong quán cà phê, hai anh em phải cố giấu sự hả hê của mình khi thấy giá cổ phiếu leo thang trên bảng niêm yết.
Khi ông Hertzoon cho rằng giá cổ phiếu đã lên cao hết mức có thể, ông cử Jordie và Filip đi bán lại để thu lợi nhuận. Lúc họ quay về quán cà phê, ông đã lấy từ trong két sắt ra cho hai người một khoản tiền thưởng hậu hĩnh.
"Anh đã nói với em rồi mà," Jordie bảo Kaz khi hai anh em rời quán đêm đó. "Vận may và những người bạn tốt!"
Chỉ vài ngày sau đó, ông Hertzoon tiết lộ với họ về một tin mật khác mà ông nhận được từ ông bạn thuyền trưởng kia, về vụ jurda sắp tới. "Năm nay mưa làm tất cả mọi người đều bị ảnh hưởng nặng," ông Hertzoon nói. "Nhưng lần này, không chỉ có đồng ruộng bị phá huỷ, mà cả các kho bãi trên bến tàu ở cảng Eames cũng thiệt hại nặng. Lần này sẽ là một vố lớn, và ta muốn chơi mạnh tay."
"Vậy thì chúng tôi cũng theo ông," Filip nói.
Nhưng ông Hertzoon nhíu mày đáp: "Ta e rằng vụ này không dành cho các cháu, số tiền đầu tư tối thiểu quá cao so với cả hai đứa. Nhưng yên tâm, sẽ còn nhiều vụ đầu tư khác!"
Filip tỏ ra rất tức tối. Nó lớn tiếng với ông Hertzoon, bảo ông ta như thế là không công bằng. Nó nói ông Hertzoon cũng chẳng khác gì đám con buôn ở Sàn giao dịch, chỉ biết vơ vét làm giàu cho riêng mình. Nó gọi ông bằng những từ ngữ khiến Kaz cũng phải sợ. Khi Filip trút cơn giận xong và bỏ đi, tất cả mọi người trong quán đều nhìn khuôn mặt đỏ au và bối rối của ông Hertzoon.
Ông ta quay vào trong văn phòng và buông mình xuống chiếc ghế. "Ta... ta không thể làm gì để thay đổi chuyện đó được. Người giao dịch chỉ muốn các nhà đầu tư lớn, những người có thể gánh được rủi ro."
Jordie và Kaz đứng đó, không biết phải làm gì.
"Hai cháu cũng giận ta à?" Ông Hertzoon hỏi hai anh em.
Tất nhiên là không rồi, họ đã trấn an ông như vậy. Filip mới là người cảm thấy không công bằng.
"Ta hiểu vì sao thằng bé nổi giận," ông Hertzoon nói. "Những cơ hội như thế này không xuất hiện thường xuyên. Nhưng ta không thể làm gì được."
"Cháu có tiền," Jordie đáp luôn.
Ông Hertzoon nở một nụ cười bao dung. "Jordie, cháu là một chàng trai tử tế, một ngày nào đó, ta tin chắc cháu sẽ là ông vua của Sàn giao dịch, nhưng cháu không có đủ số vốn cần thiết mà họ yêu cầu."
Lúc đó Jordie đã hếch cằm lên. "Cháu có. Từ khoản tiền bán nông trại của bố."
"Và ta đoán số tiền đó là tất cả những gì mà hai anh em cháu có để sống. Nó không phải là một thứ để đem ra mạo hiểm, bất luận kết quả sẽ như thế nào. Một đứa trẻ ở tuổi cháu không thể..."
"Cháu không phải là một đứa trẻ con. Nếu đây là một cơ hội tốt thì cháu muốn có nó."
Kaz sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc đó, khi cậu chứng kiến lòng tham chế ngự anh trai mình. Nó giống như một bàn tay vô hình đẩy Jordie bước tới.
Nhưng ông Hertzoon không đồng ý ngay. Họ cùng nhau về nhà ông và tranh luận đến khuya. Kaz đã gối đầu lên con chó và ngủ thiếp đi, với dải ruy băng đỏ của Saskia trong tay.
Khi Jordie đánh thức Kaz dậy thì những ngọn nến đã gần tàn và trời đã sáng. Ông Hertzoon đã yêu cầu đối tác kinh doanh của mình đến nhà và thảo một hợp đồng vay tiền. Do Jordie chưa đủ tuổi, nên ông Hertzoon sẽ mượn tiền của anh để đặt lệnh giao dịch. Bà Margit dọn cho hai anh em món trà sữa và bánh pancake nóng hổi, dùng kèm kem chua và mứt. Sau đó mọi người đi tới ngân hàng mà Jordie đã gửi khoản tiền bán nông trại, và anh kí lệnh chuyển tiền.
Ông Hertzoon nhất định đưa hai anh em về căn nhà thuê, trước khi ôm từ biệt họ trước cửa. Ông đưa giấy tờ thoả thuận vay nợ cho Jordie và dặn anh giữ nó cho thật cẩn thận. "Nghe này, Jordie, xác suất thất bại của vụ này rất nhỏ, nhưng rủi ro luôn tồn tại. Nếu nó xảy ra, ta tin cháu sẽ không dùng tài liệu này để đòi lại khoản nợ. Chúng ta phải cùng nhau tiếp nhận rủi ro. Ta tin cháu."
Lúc đó mặt Jordie như bừng sáng. "Thoả thuận thế nhé," anh nói với ông Hertzoon.
"Thoả thuận thế nhé," ông Hertzoon đáp với giọng trịnh trọng, rồi hai người bắt tay như những thương gia thứ thiệt. Ông Hertzoon đưa cho Jordie một cọc dày tiền. "Để ăn mừng một bữa. Tuần sau cháu quay lại quán, chúng ta sẽ cùng nhau chứng kiến giá lên."
Tuần lễ đó, hai anh em đã chơi ridderspel và spijker ở các vòm cuốn của Lid, mua một chiếc áo khoác mới cho Jordie và một đôi giày da mềm cho Kaz. Họ ăn bánh waffle và khoai tây chiên, rồi Jordie mua tất cả những cuốn tiểu thuyết mà anh muốn đọc tại một hiệu sách trên phố Wijnstraat. Đúng một tuần sau, hai anh em dắt tay nhau đi tới quán cà phê.
Quán trống không. Cửa trước đã bị khoá chặt. Hai anh em áp mặt vào cửa sổ tối om và nhận ra tất cả mọi thứ đã biến mất - từ bàn ghế, những cái vại bằng đồng cho đến tấm bảng niêm yết các số liệu giao dịch trong ngày.
"Chúng ta có đi nhầm phố không vậy?" Kaz đã hỏi như thế.
Nhưng cả hai đều biết họ không nhầm.Trong sự im lặng căng thẳng, họ đi tới ngôi nhà nằm trên phố Zelverstraat. Không ai ra mở cửa.
"Chắc họ ra ngoài một lúc," Jordie nói. Hai anh em chờ trên thềm nhà hàng giờ, cho đến khi mặt trời bắt đầu lặn. Không có ai xuất hiện. Không một ngọn nến nào được thắp lên trong nhà.
Cuối cùng, Jordie đánh bạo gõ cửa một căn nhà hàng xóm. "Ai đó?" Một người hầu gái đội mũ trùm mầu trắng lên tiếng.
"Cô có biết gia đình ở nhà kế bên đi đâu không ạ? Gia đình Hertzoon ấy?"
Cô hầu gái nhíu trán. "Hình như họ chỉ lưu lại đây một thời gian. Họ đến từ Zierfoort."
"Không đâu,"Jordie đáp. "Họ đã ở đây nhiều năm rồi. Họ..."
Cô hầu gái lắc đầu. "Nhà đó bỏ không gần cả năm trời sau khi gia đình trước dọn đi. Nó chỉ mới được thuê vài tuần trước..."
"Nhưng..."
Cô ta đóng sập cửa lại ngay trước mũi Jordie.
Hai anh em không nói gì từ lúc đi bộ về nhà cho tới khi leo cầu thang lên tới căn phòng trọ. Họ ngồi trong bóng tối rất lâu.Tiếng người nói từ dưới kênh vọng tới họ khi con phố bắt đầu nhộn nhịp các hoạt động buổi tối.
"Có chuyện gì đó đã xảy ra với gia đình ông ấy," cuối cùng Jordie lên tiếng. "Một vụ tai nạn, hoặc chuyện gì đó khẩn cấp. Ông ấy sẽ sớm liên lạc. Ông ấy sẽ gửi thư cho chúng ta."
Đêm đó, Kaz lôi ra sợi ruy băng đỏ của Saskia mà cậu cất dưới chiếc gối của mình. Cậu cuộn chặt nó lại và nắm trong lòng bàn tay. Kaz nằm trên giường, cố cầu nguyện, nhưng tất cả những gì cậu nghĩ tới là đồng xu của tay ảo thuật gia: vừa mới đó đã biến mất tiêu.
19
MATTHIAS
Thật quá sức chịu đựng. Anh không nghĩ mình sẽ cảm thấy khó khăn đến thế này khi được trông thấy lại quê hương sau một thời gian dài. Anh có hơn một tuần lễ trên chiếc Ferolind để chuẩn bị tinh thần, nhưng đầu óc anh bận rộn với con đường mình đã chọn, với Nina và thứ ma pháp khủng khiếp đã đưa anh ra khỏi tù rồi đặt anh lên một con thuyền tiến thẳng về phương bắc dưới bầu trời vô tận. Anh cảm thấy nặng trĩu không chỉ vì xiềng xích, mà còn vì gánh nặng của việc mình sắp làm.
Matthias đã trông thấy đất liền ở phía bắc vào một buổi chiều tà, nhưng Specht quyết định chờ đến tối mới cập bến, với hi vọng ánh sáng nhá nhem sẽ che chở cho họ. Dọc theo bờ biển là những ngôi làng của dân đánh bắt cá voi, và không ai trong nhóm muốn họ bị phát hiện. Dù nấp dưới vỏ bọc của dân đặt bẫy, họ vẫn là một nhóm người đáng ngờ.
Đêm đó họ ở lại trên thuyền. Rạng sáng hôm sau, Nina bắt gặp Matthias loay hoay với những bộ đồ lạnh mà Jesper và Inej đã phân phát. Matthias rất ấn tượng với sự dẻo dai của Inej. Mặc dù còn hai quầng thâm bên dưới mắt, cô di chuyển không chút khó khăn, nếu có đau đớn thì cô che giấu nó rất giỏi.
Nina giơ một chiếc chìa khoá lên. "Kaz bảo tôi tháo xiềng cho anh."
"Đến tối cô có xích tôi lại nữa không?"
"Cái đó tuỳ ở Kaz. Và cả anh nữa, tôi nghĩ thế. Ngồi xuống đi."
"Cứ đưa cái chìa khoá cho tôi là được rồi."
Nina hắng giọng. "Kaz cũng muốn tôi thay đổi diện mạo của anh nữa."
"Hả? Tại sao?" Ý tưởng bị Nina dùng phép phù thuỷ biến đổi ngoại hình thật không thể chấp nhận được đối với anh.
"Chúng ta đã ở trên đất Fjerda rồi. Kaz muốn anh trông bớt giống... anh. Để đề phòng thôi."
"Cô có biết đất nước này lớn đến thế nào không? Cơ hội để..."
"Khả năng anh bị nhận ra tại Lâu Đài Băng khá cao, mà tôi lại không thể biến đổi anh ngay tức thì nếu có biến."
"Tại sao?"
"Tôi không phải là một Thợ May giỏi. Nó là một phần trong chương trình đào tạo Tâm Y, nhưng tôi không thích môn đó."
Matthias khụt khịt mũi.
"Sao nào?" cô hỏi.
"Tôi chưa bao giờ nghe cô thừa nhận mình không giỏi một thứ gì đó"
"Ờ, chuyện đó khá là hiếm gặp đấy."
Matthias kinh hoàng nhận ra môi mình đang uốn thành một nụ cười, nhưng để dập tắt nó thì quá dễ, anh chỉ cần nghĩ tới cảnh gương mặt mình bị biến đổi. "Brekker muốn cô làm gì với tôi?"
"Không có gì nghiêm trọng đâu. Tôi sẽ thay đổi màu mắt anh, mái tóc - hay đúng hơn là phần còn lại của nó. Sự thay đổi sẽ không mang tính vĩnh viễn."
"Tôi không thích chuyện này." Tôi không muốn cô đến gần tôi.
"Sẽ không mất nhiều thời gian, và cũng không đau đớn, nhưng nếu anh muốn tranh cãi về việc này với Kaz..."
"Thôi được," anh đáp, cố trấn tĩnh bản thân. Tranh cãi với Brekker chỉ tổ mất công, thằng quỷ đó chỉ cần nhắc đến vụ ân xá là xong. Matthias cầm lấy một cái xô, úp ngược nó lại, rồi ngồi xuống. "Giờ cô đưa tôi chìa khoá được chưa?"
Nina đưa nó cho Matthias, và anh mở còng tay, trong khi cô lục lọi cái hộp mang theo. Nó có một tay nắm và nhiều ngăn kéo nhỏ, bên trong chất đầy những cái hũ đựng bột hoặc phẩm màu. Cô lấy ra một cái hũ màu đen.
"Cái gì đây?"
"Antimon đen." Nina bước lại gần anh và dùng đầu ngón tay nâng cằm anh lên. "Đừng nghiến răng nữa, Matthias, không thì anh sẽ chẳng còn cái răng nào trong miệng đấy."
Matthias khoanh tay lại.
Nina bắt đầu rắc một chút bột antimon lên da đầu anh và thở dài đánh sượt. "Tại sao chàng drüskelle can trường Matthias Helvar lại không ăn thịt?" Cô hỏi với giọng cường điệu trong lúc làm phép. "Đó là một câu chuyện buồn lắm, cưng à. Răng của anh ta đã bị một Grisha ác độc vặt sạch, nên giờ đây chỉ có thể ăn được món pudding thôi."
"Thôi đi," anh làu bàu.
"Hả? Tiếp tục ngửa đầu ra nào."
"Cô đang làm gì vậy?"
"Nhuộm đen lông mày và lông mi của anh. Giống như bọn con gái vẫn làm trước khi đi dự tiệc ấy." Chắc Matthias nhăn nhó ghê lắm, vì cô cười phá lên. "Nhìn cái mặt anh kìa!"
Cô cúi xuống, suối tóc nâu cọ vào má anh trong khi cô rắc phẩm màu lên lông mày của anh. Bàn tay cô đặt trên má anh.
"Nhắm mắt lại," cô nói khẽ. Ngón cái của cô di chuyển trên lông mi của anh, và Matthias nhận ra mình đang nín thở.
"Cô không thơm mùi hoa hồng nữa," anh buột miệng, và lập tức cảm thấy muốn đá bản thân mình một cú. Lẽ ra anh không được để tâm đến chuyện đó.
"Chắc tôi toàn mùi tàu đánh cá."
Không, cô có mùi rất ngọt, tuyệt hảo giống như... "Kẹo caramel?"
Nina nhìn lảng đi nơi khác như người có tội. "Kaz đã bảo chúng tôi được đem theo những thứ cần thiết cho chuyến đi. Một cô gái cũng cần phải ăn." Nói đoạn cô thò tay vào túi và lôi ra gói kẹo caramel. "Anh muốn một chiếc không?"
Có. "Không."
Cô nhún vai bỏ một viên kẹo vào miệng, đảo mắt và thở dài khoan khoái. "Ngon ơi là ngon!"
Nói ra thì thật đáng xấu hổ, nhưng anh biết mình có thể nhìn cô ăn cả ngày. Đó là một trong những điểm mà anh thích nhất nơi Nina: cô tận hưởng mọi thứ, cho dù chỉ là một viên kẹo hay làn nước suối mát lạnh, hoặc một miếng thịt tuần lộc phơi khô.
"Giờ thì mở mắt ra đi," Nina nói lúng búng với viên kẹo trong miệng, tay lôi ra một chiếc lọ nhỏ từ cái hộp dụng cụ. "Anh sẽ phải giữ cho mắt mở đấy."
"Cái gì đây?" Anh hỏi với giọng căng thẳng.
"Loại cồn thuốc được phát minh bởi một Grisha có tên là Genya Safin. Nó là cách thức an toàn nhất để làm thay đổi màu mắt của anh."
Cô lại cúi xuống. Đôi má cô ửng hồng vì lạnh, miệng cô hơi hé mở. Đôi môi cô cách môi anh chưa đầy mười centimet. Nếu anh ngồi thẳng người lại, môi họ sẽ chạm nhau.
"Anh phải nhìn vào tôi," cô hướng dẫn.
Tôi đang nhìn đây. Ánh mắt hai người giao nhau. Cô nhớ bờ biển này chứ, Nina? Anh muốn hỏi như thế, mặc dù anh biết cô có nhớ.
"Cô định làm mắt tôi có màu gì?"
"Suỵt. Cái này khó lắm." Cô dốc vài giọt dung dịch ra ngón tay rồi đưa nó lại gần mắt anh.
"Sao cô không nhỏ nó vào?"
"Sao anh không ngừng nói được nhỉ? Anh có muốn tôi làm anh mù luôn không?"
Matthias im bặt.
Cuối cùng, cô lùi lại, đưa mắt nhìn tổng thể gương mặt anh. "Màu nâu," Nina đáp. Rồi cô nháy mắt. "Giống như màu caramel."
"Thế cô định làm gì với Bo Yul-Bayur?"
Nina ngồi thẳng người, mặt đanh lại. "Ý anh là sao?"
Matthias thấy hơi tiếc vì sự dễ chịu của cô đã biến mất, nhưng điều đó chẳng quan trọng. Anh liếc qua vai để bảo đảm không có ai đang lắng nghe họ. "Cô thừa biết tôi muốn ám chỉ điều gì. Còn lâu tôi mới tin cô để cho những người này giao nộp Bo Yul-Bayur lành lặn cho Hội đồng Thương buôn."
Nina cất cái lọ vào trong hộp. "Chúng ta sẽ phải lặp lại chuyện này ít nhất hai lần nữa trước khi tới Lâu Đài Băng, để màu mắt của anh đậm hơn. Thu dọn đồ đạc của anh đi. Kaz muốn chúng ta lên đường trong vòng một tiếng đồng hồ nữa." cô đóng sập nắp hộp đồ nghề, nhặt sợi xích lên, rồi quay gót bỏ đi.
•••
Lúc họ từ biệt thuỷ thủ đoàn, bầu trời đã ngả từ màu hồng sang màu vàng đồng.
"Hẹn gặp lại các bạn ở cảng Djerholm," thuyền trưởng Specht lên tiếng. "Không đổ lệ."
"Không quan tài," những người khác đáp lại. Đám người kì lạ.
Brekker đặc biệt kín tiếng về cách thức họ sẽ sử dụng để tiếp cận Bo Yul-Bayur và đem ông ta ra khỏi Lâu Đài Băng, nhưng cậu ta khẳng định rõ ràng rằng một khi đã đạt được mục đích, chiếc Ferolind sẽ là con đường thoát thân của họ. Nó có giấy tờ đóng dấu Kerch thể hiện rằng mọi lệ phí và đơn từ đều đã được nộp, cho phép đại diện của công ty Haanraadt Bay vận chuyển lông thú và hàng hoá từ Fjerda tới Zierfoort, một hải cảng nằm ở phía nam của Kerch.
Nhóm người bắt đầu từ dưới bãi biển men theo vách đá đi lên. Mùa xuân đang đến, nhưng băng tuyết vẫn còn đóng dày trên mặt đất, khiến cho việc leo trèo trở nên vất vả. Khi lên đến đỉnh vách đá, họ dừng chân lấy hơi. Chiếc Ferolind vẫn còn nằm trong tầm mắt ở phía chân trời, căng buồm đón cơn gió đang quất mạnh vào má họ.
"Thánh thần ơi," Inej thốt lên. "Chúng ta đang làm chuyện này."
"Từng giây từng phút trong chuỗi ngày khổ sở vừa qua tôi đều ao ước được rời khỏi con tàu đó," Jesper nói. "Sao tự dưng tôi lại nhớ nó thế này?"
Wylan vừa giậm chân vừa đáp: "Có lẽ là vì chân chúng ta đã bắt đầu tê cóng."
"Khi nào lấy được tiền thưởng, các cậu có thể đốt những đồng kruge để sưởi ấm," Kaz lên tiếng. "Đi thôi." Kaz đã bỏ lại cây gậy chống đầu quạ trên thuyền và thay thế nó bằng một cây gậy ít gây chú ý hơn. Jesper thì đau đớn giã từ những khẩu súng cẩn ngọc trai đáng giá để sử dụng một cặp súng thường, còn Inej cũng làm điều tương tự với bộ dao đặc biệt của cô và chỉ mang những con dao có thể vứt bỏ khi họ đã vào trong nhà tù. Những sự lựa chọn thiết thực, nhưng Matthias biết những vật hộ mệnh có quyền năng của chúng.
Jesper xem la bàn, rồi cả nhóm tiến về phía nam, tìm một lối đi dẫn tới con đường giao thương huyết mạch. "Tôi sẽ thuê người đốt tiền cho tôi."
Kaz sánh bước bên cạnh Jesper. "Thế sao cậu không thuê một người để anh ta thuê một người khác đốt tiền cho cậu? Dân chơi thứ thiệt toàn làm thế."
"Anh có biết các ông trùm thực sự sẽ làm như thế nào không? Bọn họ sẽ trả tiền cho ai đó để..."
Giọng nói hai người tắt dần khi họ tiến lên phía trước, còn Matthias và những người còn lại theo sau. Matthias nhận ra cả hai đều liếc nhìn lần cuối chiếc Ferolind đang dần xa khuất. Con thuyền là một phần của Kerch, một phần quê nhà đối với họ, và cái thứ thân thuộc ấy đang mỗi lúc một trôi xa.
Matthias cảm thấy hơi thông cảm đôi chút, nhưng càng đi, anh càng nhận ra mình thích thú khi lần đầu chứng kiến đám chuột cống kia run lẩy bẩy và vất vả đôi chút. Bọn họ tưởng đã biết thế nào là lạnh, nhưng cái rét phương bắc có cách để buộc những kẻ xa lạ phải đánh giá lại giới hạn của mình. Họ vấp váp, loạng choạng, vụng về trong những đôi giày mới, cố tìm cách bước đi trên lớp tuyết đã cứng lại, và chẳng mấy chốc Matthias đã vượt lên dẫn đầu, giữ nhịp cho cả đoàn, mặc dù Jesper vẫn liên tục xem la bàn.
"Mang cái..." Matthias khựng lại nửa chừng, anh phải dùng điệu bộ để diễn tả cho Wylan. Anh không biết chữ tiếng Kerch tương đương với "mắt kính bảo vệ", hoặc thậm chí là "tuyết". Những chữ đó không được nhắc đến trong tù. "Che mắt cậu lại, nếu cậu không muốn hư mắt vĩnh viễn." Người ta có thể bị mù ở cái xứ phương bắc xa xôi này. Họ có thể bị mất môi, tai, mũi, bàn tay và cả bàn chân. Hầu hết mọi người chỉ thấy sự cằn cỗi và khắc nghiệt, nhưng với Matthias nó thật đẹp. Băng tuyết mang tinh thần của Djel. Nó có màu sắc, hình dạng, thậm chí cả mùi hương nếu bạn biết cách phát hiện ra.
Anh tiếp tục dấn bước, cảm thấy thật yên bình, tựa hồ Djel có thể nghe thấy anh và xoa dịu tâm hồn đau khổ của anh. Băng tuyết gợi lại những kí ức thời thơ ấu, những chuyến đi săn với bố anh. Họ sống ở phía nam, gần Halmhend, nhưng vào mùa đông, nơi đó cũng chẳng khác chỗ này là bao, một thế giới của hai màu trắng xám, chấm phá bởi những đám cây rừng có thân màu đen và nhiều cụm đá tưởng như mọc lên từ thinh không, tựa những xác tàu nằm dưới đáy biển trơ trọi.
Chuyến đi bộ trong ngày đầu tiên với Matthias giống như một sự thanh lọc – rất ít tiếng trò chuyện, sự im lặng trắng xoá của phương bắc chào đón anh không chút phán xét. Anh đã chờ đợi nhiều lời phàn nàn, nhưng ngay cả Wylan cũng chỉ cúi đầu bước đi. Họ đều là những kẻ sống sót, Matthias đã hiểu ra. Họ thích nghi. Khi mặt trời lặn, họ ăn phần thịt bò khô và bánh quy của mình, trước khi lăn ra ngủ trong lều mà không nói tiếng nào.
Nhưng sáng hôm sau đánh dấu chấm hết cho sự thinh lặng và cảm giác yên bình mong manh của Matthias. Giờ đây, khi đã ở cách xa con thuyền và thuỷ thủ đoàn, Kaz sẵn sàng chia sẻ các chi tiết trong kế hoạch của mình.
"Nếu tính đúng, chúng ta sẽ đột nhập rồi thoát ra trước cả khi người Fjerda nhận ra tù nhân đáng giá của họ đã biến mất." Kaz lên tiếng khi cả nhóm khoác đồ đạc lên vai và đi tiếp về phía nam. "Lúc vào trong nhà tù, chúng ta sẽ được đưa tới khu vực chờ nằm bên dưới buồng giam của nam và nữ để đợi điểm danh. Nếu Matthias nói đúng và quy trình chưa bị thay đổi, đội tuần tra chỉ đi qua các phòng chờ ba lần mỗi ngày để đếm tù nhân. Một khi đã ra khỏi đó, chúng ta sẽ có ít nhất sáu giờ để đi sang toà đại sứ, định vị Yul-Bayur trên Bạch Đảo, và đưa ông ta tới hải cảng trước khi bọn họ nhận ra có người biến mất."
"Thế còn những tù nhân khác trong khu phòng chờ thì sao?" Matthias hỏi.
"Chúng tôi đã lo liệu chuyện đó."
Matthias nhíu mày, nhưng không quá ngạc nhiên. Một khi đã ở trong phòng chờ, Kaz và những người còn lại sẽ rất dễ bị tấn công. Chỉ cần Matthias báo với đám lính gác là kế hoạch của bọn họ sẽ đổ bể. Đó là điều mà chỉ huy Brum sẽ làm, lựa chọn của một người đàn ông có danh dự. Một phần trong Matthias đã tin rằng việc quay lại Fjerda sẽ giúp anh tỉnh ra, cho anh sức mạnh để từ bỏ phi vụ điên rồ này. Nhưng thay vào đó, nó chỉ khiến anh thêm quay quắt nhớ nhà, nhớ cuộc sống từng có với các huynh đệ drüskelle.
"Sau khi đã ra khỏi buồng giam," Kaz nói tiếp, "Matthias và Jesper sẽ đi lấy dây thừng trong chuồng ngựa, còn Wylan cùng với tôi giúp Nina và Inej thoát ra khỏi khu của nữ tù. Chúng ta sẽ gặp nhau ở tầng hầm. Đó là nơi có lò thiêu. Không ai ở lại trong xưởng giặt sau khi nhà tù đóng cổng vào ban đêm. Trong khi Inej leo lên, Wylan và tôi sẽ đi tìm trong xưởng giặt những thứ cậu ta cần để chế thuốc nổ. Để phòng trường hợp người ta quyết định nhốt Bo Yul-Bayur tại khu vực nhà tù và khiến công việc của chúng ta dễ dàng hơn, Nina, Matthias sẽ cùng Jesper đi tìm ông ta trong khu biệt giam ở tầng trên."
"Nina và Matthias?" Jesper hỏi lại. "Không phải tôi nghi ngờ tính chuyên nghiệp của ai cả, nhưng liệu đó có phải là một sự bắt cặp lí tưởng không?"
Matthias cố nuốt trôi cục tức trong cổ họng. Jesper nói đúng, nhưng anh ghét bị đem ra nói như vậy.
"Matthias biết các quy trình của nhà tù, còn Nina có thể xử lí đám lính gác mà không gây ồn ào. Công việc của cậu là ngăn không để hai người họ giết lẫn nhau."
"Bởi vì tôi là nhà ngoại giao của nhóm à?"
"Không có ai là nhà ngoại giao cả," Kaz đáp. "Nghe này, phần còn lại của nhà tù không giống với khu vực chờ. Việc tuần tra được thực hiện mỗi hai tiếng một lần, và chúng ta không muốn bất kì ai phát báo động, do vậy hãy khôn ngoan một chút, chúng ta sẽ căn chỉnh mọi việc theo tiếng chuông Đồng hồ Cả. Ngay sau sáu tiếng chuông, chúng ta sẽ ra khỏi buồng giam, rồi trèo ống khói lên mái lúc tám tiếng chuông. Không được có ngoại lệ."
"Sau đó thì sao?" Wylan hỏi.
"Chúng ta đi qua mái của toà đại sứ và từ đó tiếp cận cầu kính."
"Chúng ta đã ở phía bên kia chốt kiểm soát," Matthias nói, không thể giấu chút ngưỡng mộ trong giọng điệu của mình. "Lính gác trên cầu sẽ cho rằng chúng ta đã đi qua cổng của toà đại sứ và đã được kiểm tra giấy tờ tại đó."
Wylan nhíu mày. "Trong trang phục tù nhân sao?"
"Giai đoạn hai," Jesper đáp. "Cải trang."
"Đúng vậy," Kaz nói. "Inej, Nina, Matthias và tôi sẽ mượn tạm một ít trang phục của một phái đoàn nào đó, không quên lấy dư cho ông bạn Bo Yul-Bayur của chúng ta, trước khi ung dung đi bộ qua cầu kính. Chúng ta sẽ tìm Yul-Bayur và đưa ông ta quay lại toà đại sứ. Nina, nếu có thời gian, cô sẽ chỉnh sửa diện mạo ông ta nhiều nhất có thể, nhưng miễn là chúng ta không kích hoạt báo động, sẽ không có ai để ý đến chuyện trong đoàn khách bỗng dưng có thêm một ông người Shu."
Trừ phi Matthias tiếp cận tay khoa học gia trước. Nếu ông ta đã chết trước khi được tìm thấy, Kaz sẽ không thể quy trách nhiệm cho anh. Anh sẽ vẫn được ân xá. Nhưng nếu anh không tách nhóm được thì sao? Một tai nạn đường thuỷ vẫn có thể xảy ra với Yul-Bayur trên hành trình quay về.
"Như vậy, theo như tôi hiểu thì," Jesper nói, "tôi tiếp tục bị kẹt với Wylan."
"Trừ phi cậu đột nhiên có được một kho kiến thức tổng hợp về Bạch Đảo, khả năng phá khoá, leo những bức tường không thể leo, hoặc moi các thông tin mật từ những nhân vật cấp cao. Ngoài ra, tôi cần hai người chế tạo bom."
Jesper rầu rĩ nhìn hai khẩu súng của mình. "Thật phí hoài."
Nina khoanh tay lại. "Cứ cho là tất cả chuyện này sẽ suôn sẻ đi. Chúng ta sẽ rời khỏi đó như thế nào?"
"Đi bộ," Kaz đáp. "Cái hay của kế hoạch này nằm ở chỗ đó. Còn nhớ tôi đã nói gì về việc điều khiển sự chú ý của mục tiêu không? Tại cổng toà đại sứ, mọi con mắt sẽ đổ dồn vào các vị khách đang tiến vào Lâu Đài Băng. Những người đi ra ngoài không còn là nguy cơ an ninh nữa."
"Vậy bom để làm gì?" Wylan hỏi.
"Biện pháp đề phòng. Có mười hai cây số đường cần phải đi từ Lâu Đài Băng tới cảng. Nếu ai đó phát hiện Bo Yul-Bayur mất tích, chúng ta sẽ phải nhanh chóng cắt đứt con đường độc đạo." Kaz vạch một đường trên lớp tuyết bằng cây gậy chống. "Con đường cái băng qua một hẻm sông. Nếu chúng ta cho nổ cây cầu, sẽ không ai bám theo ta được."
Matthias ôm đầu, tưởng tượng sự tàn phá mà những kẻ hạ đẳng này sắp sửa gây ra cho đất nước của anh.
"Chỉ là một người tù thôi, Helvar," Kaz nói.
"Và một cây cầu," Wylan đế thêm.
"Và tất cả những gì chúng ta cần cho nổ giữa hai cái đó," Jesper phụ hoạ.
"Mọi người im đi," Matthias gầm lên.
Jesper nhún vai bình phẩm. "Đúng là dân Fjerda."
"Chuyện này không làm tôi thích chút nào," Nina lên tiếng.
Kaz nhướng mày. "Ờ, ít nhất cô và Helvar cũng có cái để đồng tình."
•••
Họ đi xa hơn về phía nam. Bờ biển đã khuất hẳn, băng tuyết càng lúc càng bị chọc thủng nhiều hơn bởi những vạt rừng, các vệt đất đen và dấu chân thú, bằng chứng của sự sống. Trái tim của Djel vẫn đập. Những người kia cứ hỏi mãi không dứt.
"Có bao nhiêu tháp canh trên Bạch Đảo?"
"Anh có nghĩ Yul-Bayur đang ở trong lâu đài không?"
"Trên Bạch Đảo có mấy trại lính. Nếu ông ta bị giam trong đó thì sao?"
Jesper và Wylan tranh luận về loại thuốc nổ có thể tổng hợp được từ các hoá chất trong xưởng giặt, và việc liệu họ có thể xoáy được ít thuốc súng trong khu vực toà đại sứ hay không. Nina thì cố giúp Inej ước lượng tốc độ leo ống khói cần thiết để có đủ thời gian buộc dây thừng và giúp những người khác lên được mái nhà.
Bọn họ liên tục ôn bài cho nhau về kiến trúc và các quy trình của lâu đài, cách bố trí của ba cổng thành, mỗi cái đều có kèm một sân trong.
"Chốt kiểm soát đầu tiên?"
"Bốn lính."
"Chốt thứ hai?"
"Tám lính."
"Cổng thành tròn thì sao?"
"Bốn lính khi không hoạt động."
Họ giống như dàn đồng ca điên rồ của những con quạ, cứ liên tục quàng quạc vào tai anh: Phản bội, phản bội, phản bội.
"Quy trình Vàng là gì?" Kaz hỏi.
"Khu vực có lộn xộn," Inej đáp.
"Quy trình Đỏ?"
"Khu vực bị đột nhập."
"Quy trình Đen?"
"Tất cả chúng ta tiêu," Jesper nói.
"Đúng đó," Matthias lên tiếng, tay xốc lại cái mũ trùm đầu và lê bước đi trước nhóm người. Bọn họ thậm chí còn ép anh bắt chước những kiểu đổ chuông khác nhau. Một sự cần thiết, nhưng anh cảm thấy thật ngớ ngẩn khi cứ phải ngâm nga: "Bing bong bing bing bong. Không phải, bing bing bong bing bing."
"Khi tôi có nhiều tiền," Jesper cất tiếng phía sau lưng anh. "Tôi sẽ đi tới một nơi mà tôi không bao giờ phải thấy tuyết nữa. Thế còn cậu, Wylan?"
"Tôi không biết."
"Tôi nghĩ cậu nên mua một cái đàn bằng vàng..."
"Sáo chứ."
"Và chơi nhạc trên một chiếc thuyền du lịch. Cậu có thể đậu nó trên đoạn kênh ngay trước nhà cha cậu."
"Nina có thể hát," Inej xen vào.
"Chúng ta sẽ song ca," Nina chỉnh lại. "Cha cậu sẽ phải dọn nhà đi nơi khác."
Cô ta đúng là có một giọng hát dở tệ. Anh thấy ghét chính mình khi biết điều đó, nhưng không thể không liếc nhìn qua vai. Mũ trùm của Nina đã tuột ra sau đầu, để cho mái tóc dày lượn sóng đổ xuống cổ áo.
Sao mình cứ làm chuyện này vậy? Anh bực bội nghĩ thầm. Ở trên tàu cũng thế. Anh đã dặn mình phớt lờ cô, nhưng mắt anh cứ đi tìm cô.
Thật ngu ngốc khi vờ như cô không tồn tại trong đầu anh. Anh và Nina đều từng cùng nhau đi qua khu vực này. Nếu anh tính đúng thì họ đã trôi dạt vào bờ cách điểm cập bến của chiếc Ferolind vài cây số. Mọi chuyện bắt đầu với một cơn bão, và theo cách nào đó cơn bão ấy chưa bao giờ ngừng lại. Nina đã đổ bộ vào cuộc đời anh mang theo mưa gió, làm chao đảo thế giới của anh. Anh mất cân bằng kể từ đó.
•••
Cơn bão từ đâu ập tới, xoay vần con tàu như một món đồ chơi trên sóng nước. Biển hùa theo cho đến khi phát chán và nhấn chìm con tàu của họ giữa một đống buồm chão cùng những con người la hét.
Anh còn nhớ sự tăm tối của làn nước, cái lạnh khủng khiếp, sự im lặng của đáy sâu. Điều tiếp theo mà anh nhớ là anh khạc nhổ nước mặn, hổn hển hít thở. Ai đó đã quàng tay quanh ngực anh, và cả hai trôi dạt theo dòng nước. Cái lạnh thật không thể chịu nổi nhưng không hiểu sao anh vẫn cầm cự được.
"Dậy đi, đồ cơ bắp vô dụng." Thứ ngôn ngữ Fjerda rõ ràng, chuẩn xác với âm sắc của giới quý tộc. Matthias quay đầu lại và sốc nặng khi nhận ra cô gái phù thuỷ mà họ đã bắt được ở bờ biển phía nam đảo Wandering đang túm lấy anh, miệng lẩm nhẩm nói chuyện với chính mình bằng tiếng Ravka. Anh đã biết trước cô ta không phải là người Kaelish. Không hiểu sao cô ta đã tự cởi trói và thoát ra khỏi cái lồng. Toàn bộ cơ thể anh rơi vào tình trạng hoảng loạn. Nếu không quá sốc và tê liệt, anh đã chống cự lại cô ta.
"Nhúc nhích đi," cô ta ra lệnh cho anh bằng tiếng Fjerda, giữa hơi thở hổn hển. "Thánh thần ơi, bọn họ nuôi anh ăn bằng gì vậy? Anh nặng như một cái xe chất đầy cỏ khô."
Cô gái cũng đang vất vả bơi để cứu cả hai người. Sao cô ta lại cứu mạng anh?
Anh ngọ nguậy người, đạp chân để giúp cô đưa cả hai tiến tới. Anh ngạc nhiên khi nghe thấy cô bật khóc. "Tạ ơn các thánh thần. Bơi đi, đồ to xác."
"Ta đang ở đâu đây?" Anh hỏi.
"Tôi không biết," cô đáp, sự sợ hãi lộ rõ trong giọng nói.
Anh quẫy chân tìm cách thoát ra.
"Đừng!" Cô la lên. "Đừng bỏ đi!"
Nhưng anh đạp mạnh, thoát ra khỏi vòng tay ôm của cô. Ngay lập tức, cái lạnh ùa vào. Cơn đau đột ngột bùng lên, và tay chân anh xuội lơ. Cô ta đã sử dụng ma thuật của mình để giữ ấm cho anh. Anh vươn tay tìm cô trong bóng tối.
"Drüsje?" Anh gọi, xấu hổ vì sự sợ hãi trong giọng nói của mình. Đó là chữ "phù thuỷ" trong ngôn ngữ Fjerda, vì anh không biết tên cô.
"Drüskelle!" cô la lên, và anh cảm thấy ngón tay mình chạm nhẹ tay cô trong làn nước tối đen.
Anh vội túm lấy cô, lôi cô về phía mình. Cơ thể cô không thật ấm áp, nhưng ngay khi họ chạm nhau, cơn đau ở tay chân anh lập tức dịu đi. Anh bị giằng xé giữa cảm giác biết ơn và sự kinh tởm.
"Chúng ta phải vào bờ," cô hổn hển nói. "Tôi không thể vừa bơi vừa giữ nhịp cho hai quả tim của chúng ta được."
"Tôi sẽ bơi," anh nói. "Cô... Tôi sẽ bơi." Anh ấp lưng cô vào ngực mình, và vòng tay ôm ngang người cô, giống như cách cô ôm anh lúc nãy. Như thể cô đang chìm. Mà đúng thế thật, cả cô lẫn anh đều đang chết đuối, hoặc sắp chết đến nơi, nếu họ không chết vì lạnh trước.
Anh khua chân đều đặn, cố không phung phí quá nhiều năng lượng, nhưng cả hai người đều biết có tiết kiệm sức cũng vô ích. Họ không ở quá xa đất liền khi cơn bão ập tới, nhưng lúc này quanh họ tối đen như mực. Có thể họ đang tiến vào bờ, mà cũng có thể đang ra ngoài khơi.
Biển đêm không có âm thanh nào khác ngoài tiếng thở của hai người, tiếng quẫy nước và những con sóng ì oạp. Anh tiếp tục giữ cho họ di chuyển - rất có thể là theo một vòng tròn - còn cô giữ cho họ thở đều. Không biết ai sẽ buông xuôi trước.
"Sao cô lại cứu tôi?" Cuối cùng anh hỏi.
"Đừng có phí sức. Không nói chuyện."
"Sao cô làm điều đó?"
"Vì anh là một con người," cô bực bội đáp.
Nói dối. Nếu họ vào bờ, cô sẽ cần một người Fjerda để sinh tồn, một người biết rõ vùng đất này, mặc dù rõ ràng cô nói được ngôn ngữ của nó. Dĩ nhiên rồi. Tất cả bọn cô đều là những kẻ lừa gạt, rặt một lũ gián điệp được huấn luyện để bắt những người không có năng lực siêu nhiên như anh. Bọn cô là loài thú săn mồi.
Anh tiếp tục đạp chân, nhưng cơ bắp của anh đang rệu rã, và anh có thể cảm thấy cái lạnh len lỏi vào cơ thể.
"Đã bỏ cuộc rồi sao, phù thuỷ?"
Anh cảm thấy cô lắc lắc cho tỉnh táo, và máu lại tràn vào các đầu ngón tay ngón chân của anh.
"Tôi sẽ theo nhịp của anh, drüskelle. Nếu chúng ta chết, chuyện này sẽ là gánh nặng anh phải mang ở kiếp sau."
Anh mỉm cười khi nghe cô ta nói như thế. Rõ ràng cô rất gan lì. Điều đó đã được chứng tỏ ngay cả khi cô bị nhốt trong lồng.
Cứ thế họ cầm cự suốt đêm, người này chế nhạo người kia mỗi khi một trong hai tỏ ra xuống sức. Họ chỉ thấy biển cùng băng, và thỉnh thoảng là những cú nhồi của sóng hoặc của một con vật đói mồi lao vào họ.
"Nhìn kìa," cô gái phù thuỷ thì thào khi bình minh ló dạng, hồng hào, tươi tắn. Phía đằng xa, anh có thể trông thấy đường nét lởm chởm của băng và vệt đen huyền diệu của một bãi đá. Đất liền.
Họ không phí thời gian để ăn mừng. Cô gái ngửa đầu ra sau, tựa vào vai anh, trong khi anh đạp chân, đưa họ nhích từng chút một. Sóng lôi họ lại, như thể biển cả không muốn buông tha. Cuối cùng, chân họ cũng chạm được đáy biển, cả hai nửa bơi nửa bò lết vào bờ. Họ tách nhau ra, và cơ thể Matthias cảm thấy khốn khổ tột cùng trong khi anh vượt qua những tảng đá đen để bước lên mảnh đất chết chóc băng giá.
Lúc đầu, việc bước đi là điều không thể. Hai người di chuyển từng chút một, cố gắng bắt tay chân nghe lời, run lẩy bẩy vì lạnh. Cuối cùng, anh đứng dậy trên đôi chân. Anh đã định cứ thế bỏ đi tìm một chỗ trú ẩn, mặc kệ cô. Cô ta đang bò bằng tay và đầu gối, đầu gục xuống, mái tóc ướt rối bù che hết mặt. Anh có cảm giác mơ hồ rằng cô sắp gục xuống và không gượng dậy nữa.
Anh bước một bước, rồi một bước nữa. Và anh quay lại. Dù có thế nào thì cô cũng đã cứu mạng anh đêm qua, không chỉ một lần, mà hết lần này tới lần khác. Đó là một món nợ máu.
Anh loạng choạng tiến về phía cô và chìa tay ra.
Khi cô ngước lên nhìn anh, khuôn mặt cô là một tổng hoà nhạt nhòa của sự ghê tởm và kiệt quê. Trong ánh mắt cô, anh thấy vẻ xấu hổ song hành với sự cảm kích, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, cô là tấm gương phản chiếu chính anh. Cô cũng không muốn nợ anh bất cứ điều gì.
Anh có thể quyết định thay cô. Anh nợ cô điều đó. Anh cúi xuống và đỡ cô đứng dậy, rồi hai người tập tễnh rời khỏi bãi biển.
Họ đi về phía mà anh hi vọng là hướng tây. Mặt trời phương bắc có thể đánh lừa sự định hướng của người ta, mà họ thì không có la bàn. Trời khá tối, và Matthias bắt đầu cảm thấy hoảng sợ thực sự, nhưng đúng lúc đó, họ trông thấy lều trại đầu tiên của những người săn cá voi. Nó trống vắng - những tiền đồn này chỉ hoạt động vào mùa xuân - và chẳng có gì ngoài một túp lều tròn làm bằng xương, đất và da thú. Nhưng một nơi trú ẩn đồng nghĩa với việc ít nhất họ cũng sống sót qua đêm.
Cửa lều không khoá. Họ gần như ngã nhào vào bên trong.
"Cảm ơn anh," cô rên rỉ trong lúc đổ gục xuống bên cạnh lò sưởi tròn.
Anh không đáp. Tìm được cái lều này thật đúng là may mắn. Nếu dạt vào bờ ở xa hơn vài dặm chỗ này, họ sẽ cầm chắc cái chết.
Những người săn cá voi đã để sẵn than bùn và củi khô trong lò. Matthias ra sức nhóm lửa, cố gắng để cho lửa bốc lên thay vì toả khói mù mịt. Anh vụng về, mệt mỏi và đói đến mức có thể ăn chính đôi giày của mình. Khi nghe thấy tiếng sột soạt phía sau lưng, anh quay lại và suýt đánh rơi thanh củi của mình.
"Cô đang làm cái gì thế?" Anh la lên.
Cô ngoái đầu qua đôi vai trần và đáp: "Thế anh tưởng tôi làm gì?"
"Mặc quần áo vào!"
Cô đảo mắt. "Tôi sẽ không chịu chết cóng chỉ để giữ thể diện cho anh."
Anh quắc mắt nhìn đống lửa, nhưng cô phớt lờ anh và tiếp tục cởi nốt những trang phục còn lại trên người - áo tunic, quần dài, thậm chí cả đồ lót - trước khi quấn mình bằng tầm da tuần lộc bẩn thỉu nằm chất đống gần cửa.
"Thánh thần ơi, cái mùi này," cô càu nhàu rồi đi tới đi lui, gom các tấm da và chăn mền lại thành một cái ổ bên cạnh đống lửa. Mỗi khi cô di chuyển, tấm da tuần lộc lại hở ra, để lộ một khoảng bắp vế, làn da trắng, khe ngực sâu. Rõ là cố ý. Anh biết mà. Cô đang tìm cách lung lạc anh. Anh cần phải tập trung vào đống lửa. Anh đã suýt chết, và nếu không làm cho lửa bùng lên được, anh vẫn có thể chết. Giá như cô không gây ồn ào nhiều như thế. Thanh củi rên kêu răng rắc trong tay anh.
Nina bật cười và nằm xuống cái ổ vừa làm xong, tựa người trên một khuỷu tay. "Thánh thần ơi, drüskelle à, anh bị làm sao thế? Tôi chỉ muốn được ấm thôi. Tôi hứa sẽ không cưỡng hiếp anh trong lúc anh ngủ đâu."
"Tôi không sợ cô," anh bực bội đáp.
Nụ cười của cô thật đồi bại. "Thế thì anh cũng ngu ngốc y như vẻ ngoài của mình."
Anh tiếp tục khom người bên cạnh đống lửa. Anh biết mình phải nằm cạnh cô. Mặt trời đã lặn và nhiệt độ đang hạ xuống. Anh vẫn đang cố giữ cho răng không đánh lập cập. Họ cần hơi ấm của nhau để sống sót qua đêm nay. Lẽ ra anh chẳng có gì phải bận tâm, nhưng anh không muốn gần cô. Bởi vì cô ta là một kẻ sát nhân, anh tự nhắc mình. Lí do là vậy đấy. Một kẻ sát nhân, một ả phù thuỷ.
Anh cố ép mình đứng lên và tiến về phía mấy tấm mền. Nhưng Nina đã giơ tay ra ngăn anh lại.
"Đừng có đến gần tôi trong bộ đồ đấy. Anh đang ướt sũng!"
"Cô có thể giữ cho máu chúng ta tiếp tục chảy."
"Tôi mệt rồi," cô bực bội đáp. "Và khi tôi ngủ thiếp đi, chúng ta sẽ cần đống lửa kia để giữ ấm. Tôi có thể thấy anh đang run lẩy bẩy. Không lẽ anh chàng Fjerda nào cũng e thẹn như thế này sao?"
Không. Có thể. Anh không biết. Drüskelle là một đội ngũ thiêng liêng. Họ phải sống chay tịnh cho đến khi lấy vợ - những người phụ nữ Fjerda tử tế, không quát vào mặt người khác và buộc người ta cởi đồ.
"Thế mọi Grisha đều táo tợn như cô à?" Anh hỏi lại.
"Con trai và con gái được huấn luyện cùng nhau trong cả Thượng Quân lẫn Hạ Quân. Thật sự không có chỗ cho sự thẹn thùng đâu."
"Phụ nữ đánh nhau là một chuyện phi tự nhiên."
"Thật phi tự nhiên là khi có một kẻ vừa cao vừa ngốc như cái người đang đứng trước mặt tôi. Anh bơi ngần ấy cây số để rồi chết rét trong cái lán này à?"
"Đây là một cái lều, mà làm sao cô biết chúng ta đã bơi bao nhiêu cây số?"
Nina bực bội thở hắt ra rồi co người nằm nghiêng, nhích lại gần đống lửa nhất có thể. "Tôi chẳng có hơi sức để tranh cãi với anh." Cô nhắm mắt lại. "Thật không thể tin nổi khuôn mặt anh lại chính là thứ tôi nhìn thấy sau cùng trước khi chết."
Cảm thấy như cô đang thách thức, anh đứng đó, căm ghét cô vì đã khiến anh có cảm giác mình thật ngu ngốc. Rồi anh quay lưng về phía cô và nhanh chóng trút bỏ bộ quần áo ướt sũng, trải chúng ra bên cạnh đống lửa. Anh liếc nhanh để bảo đảm cô không nhìn, rồi đi tới đống chăn mền và chui vào trong, cố giữ khoảng cách với cái lưng của cô.
"Gần nữa vào, drüskelle" cô dài giọng chế nhạo.
Anh quàng một cánh tay qua người cô, áp lưng cô vào ngực mình. Cô buột miệng kêu lên và khó chịu cựa mình.
"Đừng có nhúc nhích," anh lẩm bẩm. Anh đã từng gần gũi với các cô gái - không nhiều, phải thừa nhận như vậy - nhưng chẳng có ai giống như cô. Những đường cong của cô thật là khiêm nhã.
"Anh vừa lạnh vừa ướt," cô run rẩy phàn nàn. "Giống như tôi đang nằm cạnh một con mực vạm vỡ ấy."
"Thì cô bảo tôi xích vào còn gì!"
"Dịch ra một chút đi." Khi anh làm theo, cô quay người lại, đối mặt với anh.
"Cô đang làm cái gì vậy?" Anh hỏi và hốt hoảng lùi ra.
"Thư giãn nào, drüskelle. Đây không phải là nơi để tôi làm này làm nọ với anh đâu."
Đôi mắt xanh của anh nheo lại. "Tôi không thích cách ăn nói của cô." Có phải anh đang tưởng tượng ra sự đau đớn vừa vụt qua trên nét mặt cô? Như thể câu nói của anh có ảnh hưởng nào đó với cô phù thuỷ này vậy.
Cô xác nhận anh chỉ tưởng tượng khi đáp trả: "Anh tưởng tôi thèm bận tâm xem anh thích hay không thích cái gì à?"
Cô đặt hai bàn tay mình lên ngực anh, tập trung vào trái tim anh. Lẽ ra anh không nên để cô làm như vậy, không nên cho cô thấy sự yếu đuối của anh, nhưng khi dòng máu của anh chảy mạnh hơn và cơ thể nóng ấm lại, sự nhẹ nhõm dễ chịu mà nó gây ra thật khó cưỡng.
Anh thả lỏng một chút, dù miễn cưỡng, dưới bàn tay cô. Cô quay người lại và kéo tay anh vòng qua người mình. "Không có chi, đồ ngốc."
Anh đã nói dối. Anh thích cách nói chuyện của cô.
•••
Và bây giờ vẫn thế. Anh có thể nghe thấy Nina thì thào gì đó với Inej sau lưng anh. Cô đang dạy cho cô gái Suli vài từ Fjerda. "Không phải. Hring-kaaalle. Em phải kéo dài âm cuối ra một chút."
"Hringalah?" Inej thử lại.
"Khá hơn, nhưng là thế này... Tiếng Kerch giống như con linh dương nhảy từ chữ này sang chữ khác, còn tiếng Fjerda giống như chim mòng biển, hết chao liệng lại lao bổ xuống." Bàn tay Nina giống như cánh chim lướt trong gió. Đúng lúc đó, cô ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt anh.
Matthias hắng giọng. "Đừng có ăn tuyết đấy," anh đe. "Nó sẽ càng làm các cô bị mất nước và hạ thân nhiệt." Anh tiến tới trước, hăm hở leo lên quả đồi kế tiếp để gia tăng khoảng cách giữa họ. Nhưng ngay khi lên đến nơi, anh chết sững.
Matthias quay lại, giơ hai tay ra. "Dừng lại! Mọi người sẽ không m..."
Nhưng đã quá trễ. Nina đưa tay bịt miệng. Inej làm dấu thánh. Jesper lắc đầu, còn Wylan nôn khan. Kaz đứng im như tảng đá, khuôn mặt trơ lì.
Giàn thiêu được đặt trên một đoạn dốc. Kẻ làm ra nó đã tìm cách đặt đống lửa bên dưới một tảng đá, nhưng như vậy không đủ để giữ cho lửa khỏi bị gió thổi tắt. Ba cái cọc đã được cắm xuống mặt đất băng giá, và trên cọc là ba thi thể cháy đen, lớp da nứt nẻ đen ngòm vẫn đang cháy âm ỉ.
"Ghezen," Wylan văng tục. "Cái gì vậy?"
"Đây là điều mà người Fjerda làm với các Grisha," Nina đáp. Khuôn mặt cô chùng xuống, đôi mắt xanh lục nhìn trân trối.
"Chỉ có bọn tội phạm mới làm như thế này," Matthias nói, ruột gan quặn lên. "Hoả thiêu người là hành vi phạm pháp kể từ khi..."
Nina lao tới đẩy mạnh vào ngực anh. "Sao anh dám..." cô rít lên, sự phẫn nộ bùng cháy như một quầng sáng quanh cô. "Hãy nói cho tôi biết lần cuối cùng có ai đó bị xử tội vì thiêu chết một Grisha là khi nào. Các anh có gọi là sát nhân không khi các anh coi chuyện đó giống như giết một con chó?"
"Nina..."
"Anh có gọi nó là hành vi nào khác không, khi giết chóc với bộ quân phục trên người?"
Đúng lúc đó họ nghe thấy tiếng động - một tiếng rên, nhẹ như tiếng gió rít.
"Thánh thần ơi," Jesper thốt lên. "Một trong số họ còn chưa chết."
Âm thanh đó lại vang lên, nhỏ và ai oán, từ thi thể ngoài cùng bên phải. Không thể xác định được đó là một người đàn ông hay đàn bà. Mái tóc đã cháy trụi, bộ quần áo dính sát vào cơ thể. Những mảng da đen đúa bị bong ra ở nhiều chỗ, phơi bày lớp xương trắng hếu.
Tiếng nức nở bật ra từ cổ họng Nina, cô giơ tay lên, nhưng hai bàn tay quá run khiến cô không thể dùng năng lực của mình để chấm dứt sự thống khổ của nạn nhân. Cô quay đôi mắt rưng rưng lệ về phía những người khác. "Tôi... ai đó... xin làm ơn..."
Jesper là người đầu tiên hành động. Hai phát súng vang lên, và thi thể lặng phắt. Jespei- cất súng vào bao.
"Mẹ kiếp, Jesper," Kaz cằn nhằn. "Cậu vừa mới thông báo về sự hiện diện của ta ra cả cây số quanh đây."
"Thì họ sẽ nghĩ chúng ta chỉ là một toán thợ săn."
"Cậu nên để cho Inej làm chuyện đó."
"Tôi đâu có muốn làm," Inej đáp khẽ. "Cảm ơn anh, Jesper."
Quai hàm Kaz siết lại, nhưng cậu ta không nói gì nữa.
"Cảm ơn anh," Nina thốt lên. Đoạn cô lao tới trước trên nền đất lạnh cứng, lần theo dấu vết của con đường giữa lớp tuyết trắng. Cô sụt sịt khóc, vừa đi vừa vấp váp. Matthias vội bám theo cô. Ở đây có khá ít dấu mốc nên họ rất dễ bị lạc đường.
"Nina, cô không thể tách nhóm..."
"Anh quay lại vì điều này hả, Helvar?" cô nói với giọng gay gắt. "Đây chính là đất nước mà anh khao khát được phục vụ đấy. Nó có làm anh thấy tự hào không?"
"Tôi chưa bao giờ thiêu chết một Grisha nào. Họ được đem ra xét xử trong những phiên toà công bằng..."
Cô quay phắt lại, những giọt lệ đóng băng lấp lánh trên má cô.
"Vậy thì tại sao chưa từng có bất kì Grisha nào được tuyên vô tội sau những phiên toà mà anh coi là công bằng đó?"
"Tôi..."
"Bởi vì tội của chúng tôi là tồn tại. Tội của chúng tôi là bản thân chúng tôi."
Matthias lặng thinh. Anh bị giằng xé giữa sự xấu hổ vì điều mình sắp nói, và nhu cầu phải nói ra những câu chữ đã được dạy, những điều vẫn còn đúng đối với anh. "Nina à, cô có bao giờ nghĩ rằng có lẽ... các cô không nên tồn tại?"
Đôi mắt Nina nháng lửa. Cô bước một bước về phía anh, và Matthias có thể cảm thấy cơn giận ngùn ngụt toả ra từ cô.
"Có khi chính các anh mới không nên tồn tại đó, Helvar. Yếu đuối và nhu nhược, với cuộc đời ngắn ngủi và những định kiến đáng buồn của các anh. Các anh tôn thờ thần rừng và thần băng giá, những thứ chẳng bao giờ xuất hiện, trong khi bản thân lại chăm chăm đi xoá bỏ các năng lực có thực."
"Đừng chế nhạo những điều mà cô không hiểu."
"Sự nhạo báng của tôi làm anh bận lòng à? Dân tộc tôi sẵn sàng chào đón nụ cười của các anh thay vì những hành vi man rợ này." Một sự thoả mãn vụt xuất hiện trên gương mặt Nina. "Ravka đang được tái thiết. Hạ Quân cũng thế, và khi đó, tôi mong họ sẽ dành cho các anh một phiên toà công bằng mà các anh đáng được nhận. Tôi mong họ sẽ xích dám drüskelle các anh lại rồi bắt mấy người đứng nghe những tội ác đã gây ra, để cả thế giới này sáng mắt về sự độc ác của các anh."
"Nếu cô mong chờ sự trỗi dậy của Ravka đến thế, sao bây giờ cô còn chưa quay lại đó?"
"Vì tôi muốn anh được ân xá, Helvar. Tôi muốn anh ở đây khi Hạ Quân tiến lên phía bắc và càn quét từng tấc đất của cái xứ khô cằn sỏi đá này. Tôi mong họ sẽ đốt cháy những cánh đồng của bọn anh và rắc muối xuống đất. Tôi mong họ sẽ đưa bạn bè và gia đình anh lên giàn thiêu."
"Bọn họ đã làm điều đó rồi, Zenik. Mẹ tôi, cha tôi, em gái bé bỏng của tôi. Tiết Hoả Sư, đám binh sĩ Grisha yêu quý các cô, những kẻ tàn bạo đó đã đốt sạch ngôi làng của chúng tôi. Tôi chẳng còn gì để mất nữa.
Nina bật cười một cách cay đắng. "Có lẽ thời gian ngồi tù của anh ở Cổng Địa Ngục còn chưa đủ dài, Matthias. Anh luôn có thứ để mất.
20
NINA
Mình có thể ngửi thấy họ. Nina vỗ vào mái tóc và quần áo của mình trong lúc loạng choạng băng qua tuyết, cố gắng không nôn oẹ. Cô vẫn chưa thể xoá đi hình ảnh của những thi thể đó, chỗ thịt đỏ nhức nhối ló ra qua lớp vỏ cháy đen như những hòn than trong lò. Có cảm giác như cô bị quấn trong lớp tro của họ, trong mùi da thịt cháy khét. Cô không tài nào hít thở được.
Việc gần gũi Matthias khiến cô dễ quên đi con người thực của anh ta, cũng như suy nghĩ thực sự của anh ta về cô. Sáng nay cô lại vừa biến đổi anh ta, vừa chịu đựng ánh mắt trừng trừng và những tiếng càu nhàu. Không, cô thích thú mới đúng, cô vui vì có cớ được ở gần anh ta, và hài lòng một cách lố bịch mỗi khi làm cho anh ta suýt bật cười. Thánh thần ơi, sao mình lại bận lòng như vậy? Tại sao chỉ một nụ cười của Matthias Helvar cũng đủ cho cô cảm giác tương đương với năm mươi nụ cười của người khác? Cô cảm thấy tim anh ta đập dồn dập hơn khi bị cô ấn ngửa đầu ra để chỉnh sửa màu mắt. Cô đã nghĩ đến chuyện hôn anh ta. Cô muốn hôn Matthias, và cô dám chắc anh ta cũng có cùng suy nghĩ. Hoặc là anh ta chỉ đang nghĩ tới chuyện bóp cổ mình một lần nữa.
Cô chưa quên điều Matthias nói lúc ở trên chiếc Ferolind, khi anh ta hỏi xem cô định làm gì với Bo Yul-Bayur, và liệu cô có thực sự muốn giao nộp ông ta cho Kerch hay không. Nếu cô phá hỏng phi vụ của Kaz, liệu Matthias có còn được ân xá không? Cô không thể làm điều đó. Bất luận anh ta là thế nào, cô cũng nợ anh sự tự do.
Trong ba tuần lễ sau vụ đắm tàu, cô đi với Matthias. Họ không có la bàn, không biết mình đi đâu. Họ thậm chí còn không rõ đã dạt vào vị trí nào của bờ biển phía bắc. Họ dành những ngày dài đằng đẵng để nhọc nhằn băng qua tuyết, những đêm lạnh lẽo trong hốc trú ẩn sơ sài tự dựng, hoặc trong lều trại bỏ hoang của cánh thợ săn cá voi nếu gặp may. Họ ăn tảo biển nướng hoặc bất kì loại nấm và cây cỏ nào tìm được. Khi họ tìm thấy nơi cất giấu thịt tuần lộc khô ở dưới đáy của một cái balô trong một lều trại, nó giống như một phép màu. Hai người nhai thịt trong sự sung sướng câm lặng, gần như say sưa vì mùi vị của nó.
Sau đêm đầu tiên, họ đi ngủ với bộ quần áo khô và những tấm chăn mền tìm được, ở hai phía của đống lửa. Nếu thiếu củi, họ nằm co quắp cạnh nhau, gần như chỉ chạm hờ, nhưng đến sáng, họ áp sát vào nhau, hít thở cùng một nhịp, mơ màng trong giấc ngủ tựa một mảnh trăng lưỡi liềm.
Mỗi sáng Matthias đều phàn nàn rằng anh không tài nào đánh thức cô được.
"Cứ như cố dựng một xác chết đứng lên vậy."
"Cái xác xin thêm năm phút," cô đáp như thế và vùi đầu vào trong tấm da thú.
Anh cứ giậm chân đi loanh quanh, thu dọn chỗ hành lí ít ỏi của họ một cách thật ồn ào, miệng lẩm bẩm "Làm biếng, nực cười, ích kỉ..." cho tới khi cô ngồi dậy và bắt tay vào việc sửa soạn cho một ngày mới.
"Điều đầu tiên anh làm khi về nhà là gì?" Một hôm cô đã hỏi anh như thế trong lúc họ đi bộ trên tuyết, cố tìm dấu hiệu của nền văn minh.
"Ngủ," anh đáp. "Tắm. Cầu nguyện cho những người bạn đã mất."
"Phải rồi, những gã sát nhân cục súc kia. Mà này, làm thế nào anh lại trở thành drüskelle?"
"Đám Grisha bạn cô đã tàn sát gia đình tôi trong một trận càn," anh đáp với giọng lạnh lùng. "Chỉ huy Brum đã đỡ đầu tôi và cho tôi một mục tiêu để chiến đấu."
Nina không muốn tin, nhưng cô biết có khả năng đó. Trong những trận chiến, nhiều người vô tội vẫn thiệt mạng vì tên bay đạn lạc. Nhưng cô không thích nghĩ đến con quái vật mang tên Brum đó dưới hình ảnh của một người cha.
Tranh cãi hay xin lỗi đều không đúng, nên cô đã nói suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu mình.
"Jer molle pe oonet. Enel mörd je nej ajva trohem verret.'' Tôi được sinh ra để bảo vệ Người. Chỉ có cái chết mới ngăn tôi thực hiện lời thề này.
Matthias đã trố mắt nhìn cô một cách sửng sốt. "Đó là lời thề của các drüskelle đối với Fjerda. Làm sao cô biết được nó?"
"Tôi đã cố tìm hiểu về Fjerda nhiều nhất có thể."
"Tại sao?"
Cô hơi do dự một chút trước khi đáp: "Như thế tôi sẽ không sợ các anh."
"Cô có tỏ ra sợ hãi đâu."
"Vậy anh có sợ tôi không?" Cô hỏi.
"Không." Matthias có vẻ bất ngờ với chính câu trả lời của mình. Trước đó anh cũng đã tuyên bố như vậy. Lần này thì cô tin anh. Cô cố gắng nhắc nhở bản thân rằng đó không phải là một điều tốt.
Họ đã đi tiếp một lúc, trước khi anh hỏi: "Thế điều đầu tiên mà cô sẽ làm là gì?"
"Ăn."
"Ăn gì?"
"Mọi thứ. Bắp cải nhồi, khoai tây hấp, bánh phúc bồn tử đen, bánh kiều mạch vỏ chanh. Tôi rất nóng lòng muốn nhìn thấy khuôn mặt của Zoya khi bước vào Tiểu Điện."
"Zoya Nazyalensky?"
Nina khựng lại. "Anh biết chị ấy sao?"
"Tất cả chúng tôi đều biết. Cô ta là một phù thuỷ hùng mạnh."
Lúc đó cô mới hiểu ra rằng với các drüskelle, Zoya cũng gần giống như Jarl Brum - tàn nhẫn, bất nhân, rình rập người ta trong bóng tối với cái chết trên tay. Zoya là con quái vật trong mắt Matthias. Suy nghĩ đó khiến cô thấy không thoải mái.
"Cô thoát ra khỏi lồng như thế nào?"
Nina chớp chớp mắt. "Sao cơ?"
"Ở trên tàu ấy. Cô đã bị trói và nhốt trong lồng."
"Nhờ ca nước. Quai của nó bị gãy, nên chúng tôi dùng cạnh sắc lởm chỏm đó để cắt đứt dây trói. Một khi đôi tay của chúng tôi đã tự do thì..." Nina vụng về im bặt.
Matthias nhíu mày. "Các cô đã định tấn công chúng tôi."
"Bọn tôi định sẽ hành động vào đêm hôm đó."
"Nhưng cơn bão đã ập tới."
"Phải."
Một Tiết Khí Sư và một Sáng Chế Gia đã khoét một cái lỗ trên boong tàu, và bọn họ bơi ra ngoài. Nhưng liệu có ai trong số đó sống sót giữa làn nước lạnh giá hay không? Họ có vào được đất liền không? Cô rùng mình. Nếu không có cái ca nước, chắc cô đã chết đuối trong lồng.
"Thế các drüskelle ăn gì?" Cô hỏi và guồng chân bước nhanh hơn. "Ngoài các em bé Grisha?"
"Chúng tôi không ăn thịt trẻ con!"
"Mỡ cá heo hay móng tuần lộc?"
Cô thấy miệng anh cong lên và tự hỏi anh đang buồn nôn hay đang cố nín cười.
"Chúng tôi ăn rất nhiều cá. Cá trích, cá tuyết muối, và cả tuần lộc nữa, nhưng không ăn móng của chúng."
"Thế còn bánh ngọt?"
"Sao cô lại hỏi thế?"
"Vì tôi rất thích bánh. Tôi đang tự hỏi liệu chúng ta có tìm được điểm chung nào không."
Anh nhún vai.
"Ồ, coi nào, anh chàng drüskelle," cô nói. Họ vẫn chưa cho nhau biết tên, và cô không chắc là họ nên làm điều đó. Dẫu sao thì, nếu sống sót được, họ sẽ tới một thị trấn hoặc một ngôi làng, cô không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, nhưng anh ta càng ít biết về cô càng tốt. "Anh cứ làm như đang tiết lộ bí mật quốc gia không bằng. Tôi chỉ muốn biết tại sao anh không thích bánh ngọt thôi mà."
"Tôi thích chứ, nhưng chúng tôi không được phép ăn đồ ngọt."
"Mọi người hay chỉ các drüskelle?"
"Các drüskelle. Nó được xem như một sự buông thả. Giống như rượu hoặc..."
"Các cô gái?"
Hai má anh ửng đỏ, và anh vội tiến lên phía trước. Thật dễ để làm khó anh.
"Nếu các anh không được phép ăn đồ ngọt hoặc uống rượu, chắc anh sẽ rất thích pomdrakon."
Lúc đầu Matthias không nói gì mà chỉ bước tiếp, nhưng rốt cuộc im lặng trở nên quá sức chịu đựng đối với anh. "Pomdrakon là gì vậy?"
"Chén rồng," Nina đáp với giọng hào hứng. "Đầu tiên anh phải ngâm nho khô trong rượu brandy, sau đó anh tắt đèn và đốt nó."
"Để làm gì?"
"Để làm nó khó cầm giữ."
"Thế các cô sẽ làm gì với nó sau khi đã cầm được?"
"Chúng tôi ăn."
"Nó không làm các cô bỏng lưỡi à?"
"Có chứ, nhưng..."
"Thế thì tại sao..."
"Vì nó vui, anh ngốc ạ. Anh có biết 'vui' nghĩa là gì không? Từ đó có tồn tại trong tiếng Fjerda, chứng tỏ các anh phải quen thuộc với nó."
"Tôi có rất nhiều niềm vui."
"Ồ, anh hay làm gì để cho vui nào?"
Cứ thế, họ tiếp tục chọc ghẹo nhau, hệt như cái đêm đắm tàu, giữ cho nhau còn sống, từ chối chấp nhận rằng mình đang yếu dần, và nếu không tìm được một thị trấn đúng nghĩa thì họ sẽ không cầm cự được lâu nữa. Có những ngày cơn đói và ánh nắng phản chiếu trên mặt băng khiến họ đi thành vòng tròn, quay ngược lại, loạng choạng bước trên những dấu chân của chính mình, nhưng chưa bao giờ họ nói ra chữ lạc, như thể cả hai đều tin rằng chuyện đó đồng nghĩa với thừa nhận thất bại.
"Tại sao người Fjerda không để cho đàn bà con gái đi đánh trận?" Một đêm nọ cô hỏi anh trong lúc họ nằm co ro bên dưới một mái dốc, với cái rét xuyên qua những tấm da được trải trên mặt đất.
"Họ không muốn đánh nhau."
"Làm sao anh biết được? Anh có bao giờ hỏi họ chưa?"
"Phụ nữ Fjerda là để tôn thờ và bảo vệ."
"Có lẽ đó là một chính sách thông minh."
Matthias đã hiểu cô đủ rõ để ngạc nhiên trước câu nói đó. "Thật à?"
"Thử nghĩ mà xem, sẽ đáng xấu hổ đến thế nào nếu anh thua một cô gái Fjerda."
Anh ta hừ mũi.
"Tôi rất muốn được thấy anh bị một cô gái cho ăn đòn," cô nói với giọng vui vẻ.
"Kiếp này thì còn lâu."
"Ồ, tôi cũng nghĩ mình sẽ không thấy được cảnh đó. Nhưng tôi sẽ được trải nghiệm khoảnh khắc tôi đá đít anh."
Lần này thì anh bật cười, một nụ cười thực sự mà cô có thể cảm nhận được từ phía sau.
"Thánh thần ơi, này anh chàng Fjerda, tôi không biết anh có thể cười được đấy. Cẩn thận nhé, cười nhẹ thôi."
"Tôi thích sự ngạo mạn của cô, drüsje."
Đến phiên cô bật cười. "Có lẽ đây là lời khen tệ hại nhất mà tôi từng nhận được đấy."
"Cô không bao giờ nghi ngờ bản thân sao?"
"Luôn luôn," cô nói trong lúc bắt đầu thiếp ngủ. "Chỉ là tôi không thể hiện ra thôi."
Sáng hôm sau, họ vượt qua một cánh đồng băng đầy những khe nứt lởm chởm, men theo những dải đất cứng nằm giữa các vực sâu chết chóc, và tranh cãi về thói quen ngủ nghê của Nina.
"Sao cô có thể tự coi mình là một chiến binh được nhỉ? Nếu tôi không gọi chắc cô ngủ luôn đến trưa mất."
"Cái đó thì có liên quan gì?"
"Kỉ luật. Nề nếp. Cái đó không có nghĩa lí gì với cô sao? Djel ơi, tôi chỉ mong có cái giường ngủ riêng trở lại."
"Phải rồi," Nina đáp. "Tôi biết anh ghét ngủ cùng tôi lắm mà. Sáng nào tôi cũng cảm thấy như vậy."
Matthias đỏ mặt. "Sao cô lại nói những chuyện như thế?"
"Bởi vì tôi thích làm anh đỏ mặt."
"Bệnh quá. Cô không cần phải tỏ ra vô sỉ như thế."
"Nếu anh cứ coi như bình thường..
"Tôi không muốn thế."
"Tại sao? Anh sợ chuyện gì sẽ xảy ra? Anh sợ anh sẽ thích tôi à?"
Matthias không nói gì.
Bất chấp sự mệt mỏi của mình, cô vượt lên phía trước. "Ra là thế. Anh không muốn thích một cô nàng Grisha. Anh sợ rằng nếu cười với những trò đùa của tôi hoặc trả lời những câu hỏi của tôi, anh sẽ bắt đầu coi tôi là một con người. Điều đó khủng khiếp đến vậy hay sao?"
"Tôi có thích cô."
"Sao cơ?"
"Tôi có thích cô," anh đáp một cách giận dữ.
Mặt cô sáng bừng, một làn sóng sảng khoái trào dâng trong lòng cô. "Ồ, nói thật nhé, chuyện đó xấu lắm à?"
"Đúng!''Anh gào lên.
"Tại sao?"
"Bởi vì cô thật kinh khủng. Cô ồn ào, đồi bại và... bội bạc. Brum đã cảnh báo chúng tôi rằng các Grisha rất có sức quyến rũ."
"Ồ, tôi hiểu rồi. Tôi là một cô ả Grisha mồi chài nguy hiểm. Tôi đã mê hoặc anh bằng các chiêu trò Grisha của mình!"
Cô chọc vào ngực anh.
"Thôi đi."
"Không. Tôi đang mồi chài anh mà."
"Thôi ngay."
Cô nhún nhảy quanh anh, chọc vào ngực, vào bụng, vào sườn anh. "Trời ạ! Anh thật rắn chắc. Hẳn là anh tập tành dữ lắm." Matthias bật cười. "Thành công rồi! Chiêu trò đã phát huy tác dụng. Anh chàng Fjerda đã gục ngã. Anh không đủ sức cưỡng lại tôi. Anh..."
Câu nói của Nina tắt nửa chừng khi lớp băng dưới chân cô sụp xuống. Cô quơ tay, tìm cách bấu víu vào thứ gì đó để khỏi ngã, những ngón tay cô cào cấu mặt băng và đá.
Chàng drüskelle đã tóm lấy cánh tay cô, và Nina thét lên vì nó gần như long ra khỏi khớp vai.
Cô bị treo lơ lửng giữa không trung, những ngón tay quắp chặt của anh là thứ duy nhất ngăn cô rơi xuống miệng hố băng đen ngòm. Trong một thoáng, khi nhìn vào mắt anh, cô tin chắc anh sẽ buông tay ra.
"Làm ơn," cô đã nói như thế với đôi mắt nhoà lẹ.
Anh đã lôi cô lên khỏi mép vực, và họ chậm rãi bò vào chỗ vững chãi hơn. Hai người nằm ngửa ra, thở hồng hộc.
"Tôi đã sợ... tôi đã sợ anh sẽ buông tay," cô lắp bắp.
Anh đã im lặng một hồi lâu trước khi đáp: "Tôi có nghĩ tới chuyện đó. Chỉ trong một giây thôi."
Nina khẽ bật cười. "Không sao," cuối cùng cô nói. "Tôi cũng sẽ nghĩ tới chuyện đó nếu là anh mà."
Anh đứng lên và chìa tay ra. "Tôi tên là Matthias."
"Nina," cô đáp. "Rất vui được làm quen với anh."
•••
Vụ đắm tàu đã xảy ra từ cả năm trước, nhưng nó cho cảm giác giống như mới đây. Một phần trong Nina muốn quay lại với khoảnh khắc trước khi mọi thứ chệch hướng, với chuỗi ngày dài đằng đẵng bước đi trên băng tuyết, khi họ chỉ là Nina và Matthias, chứ không phải Grisha và thợ săn phù thuỷ. Nhưng càng nghĩ về nó, cô càng nhận ra khoảng thời gian đó không bao giờ tồn tại. Ba tuần lễ đó là một sự lừa dối mà cô và Matthias đã bày ra để sống sót. Sự thật chính là giàn thiêu kia.
"Nina," Matthias lên tiếng sau khi đã đuổi kịp cô. "Nina, nghe tôi nói đi. Cô phải đi cùng với những người khác."
"Để cho tôi yên.'"
Khi anh cầm lấy tay cô, Nina vùng ra và siết nắm đấm, tống một quả thẳng vào cổ họng anh. Một người bình thường chắc sẽ buông cô ra, nhưng Matthias là một drüskelle đã được tôi luyện. Anh nắm lấy cánh tay còn lại của cô và kẹp nó vào người cô, khoá chặt lại, khiến cô không thể sử dụng hai bàn tay. "Thôi đi," anh dịu dàng nói.
Cô vùng vẫy, quắc mắt nhìn anh. "Thả tôi ra."
"Tôi không thể, khi cô là một mối đe doạ."
"Tôi sẽ luôn là một mối đe doạ đối với anh, Matthias."
Khoé miệng anh nhếch lên thành một nụ cười rầu rĩ. Đôi mắt anh buồn rười rượi. "Tôi biết."
Thật chậm rãi, anh thả cô ra. Cô lùi lại.
"Điều gì sẽ chờ đợi tôi tại Lâu Đài Băng?" Cô hỏi.
"Cô đang sợ."
"Đúng," Nina đáp, cằm hất lên đầy thách thức. Không việc gì cô phải phủ nhận điều đó.
"Nina..."
"Cho tôi biết đi. Tôi cần biết. Phòng tra tấn ư? Giàn thiêu rừng rực cháy trên mái nhà hả?"
"Họ không còn sử dụng giàn thiêu ở lâu đài nữa."
"Vậy thì cái gì? Phanh thây à? Hay xử bắn? Cung điện hoàng gia có chỗ để xem giá treo cổ không?"
"Tôi phát chán với những võ đoán của cô rồi, Nina. Chuyện này cần phải chấm dứt."
"Anh ta nói đúng đó. Cô không thể tiếp tục hành xử thế này." Jesper cất tiếng, anh đang đứng trên tuyết cùng với những người khác. Họ đã ở đó từ lúc nào? Họ có thấy cô tấn công Matthias không?
"Đừng có xen vào chuyện này," Nina quát.
"Nếu cứ tiếp tục đấu đá, hai người sẽ làm cả nhóm bị lộ, mà tôi thì còn muốn chơi nhiều ván bài lắm."
"Hai người cần phải tìm cách làm hoà với nhau," Inej lên tiếng, "ít nhất là trong một thời gian."
"Đây không phải là chuyện của cô," Matthias gầm gừ.
Kaz bước tới với nét mặt đầy nguy hiểm. "Đây là chuyện của tất cả chúng ta. Anh ăn nói cho cẩn thận."
Matthias giơ hai tay lên trời. "Tất cả các người đều bị cô ta bịp rồi. Cô ta làm cho mọi người tưởng rằng cô ta là bạn, để rồi..."
Inej khoanh tay lại. "Để rồi sao?"
"Bỏ đi, Inej."
"Không, Nina," Matthias nói. "Nói cho họ biết đi. Cô đã từng nói cô là bạn của tôi. Còn nhớ chứ?" Anh quay sang phía những người khác. "Chúng tôi từng đi cùng nhau trong ba tuần lễ. Tôi đã cứu cô ta. Chúng tôi đã cứu lẫn nhau. Khi đến được Filing, chúng tôi... tôi đã có thể tố giác cô ta với những binh lính ở đó, bất cứ lúc nào. Nhưng tôi đã không làm thế." Matthias bắt đầu đi qua đi lại, cất cao giọng như thể bị những kí ức cũ chế ngự. "Tôi đã mượn tiền. Tôi đã tìm nơi nương náu cho cả hai. Tôi đã sẵn sàng phản bội lại tất cả những gì mình tin tưởng, vì sự an toàn của cô ta. Lúc tôi đưa cô ta tới bến cảng để vượt biển, có một đoàn thương gia người Kerch đang sẵn sàng ra khơi." Dường như Matthias đang quay lại bến cảng ấy, cô có thể trông thấy điều đó trong đôi mắt anh. "Hãy hỏi cô ta xem cô ta đã làm gì lúc đó, đồng minh đáng tin cậy của các người, kẻ luôn khăng khăng giữ sự phán xét của mình đối với tôi và đồng bào của tôi."
Không ai nói tiếng nào, nhưng tất cả đều quan sát, chờ đợi.
"Nói cho họ biết đi, Nina," anh yêu cầu. "Họ nên biết cô đối xử như thế nào với bạn bè của mình."
Cô nuốt khan, rồi thu hết sức lực để đối mặt với ánh mắt của bọn họ. "Tôi nói với tay người Kerch rằng anh ta là một gã buôn nô lệ, và anh ta đã bắt cóc tôi. Tôi đã van xin họ giúp tôi. Tôi có một dấu triện lấy được từ một con tàu nô lệ mà chúng tôi đã chặn lại gần đảo Wandering, và dùng nó làm bằng chứng."
Cô không thể nhìn họ được nữa. Kaz đã biết từ trước, tất nhiên rồi. Cô từng nói với anh về những lời tố cáo mà cô muốn rút lại khi cầu xin sự giúp đỡ của anh. Nhưng Kaz chưa bao giờ điều tra, chưa bao giờ hỏi tại sao, chưa bao giờ trừng phạt cô. Theo một cách nào đó, kể với Kaz là một sự an ủi. Một người như Tay Nhám thì không phán xét người khác.
Nhưng giờ đây sự thực đã phơi bày cho mọi người. Một cách kín đáo, Kerch biết các nô lệ đến rồi đi qua các hải cảng của Ketterdam, và hầu hết giao kèo làm việc là một hình thức nô lệ kiểu mới. Nhưng về mặt công khai thì họ phản đối nó, và buộc phải truy tố mọi kẻ buôn nô lệ. Nina biết chính xác điều gì sẽ xảy ra khi cô gán tội đó cho Matthias.
"Tôi đã không hiểu chuyện gì đang xảy ra," anh nói. "Tôi không biết tiếng Kerch, nhưng Nina chắc chắn biết. Bọn họ đã bắt và xích tôi lại. Họ tống tôi vào khoang tàu và giữ tôi ở đó trong chuyến hải trình nhiều tuần lễ. Tôi chỉ được thấy lại ánh sáng ban ngày khi họ đưa tôi ra khỏi con tàu đó tại Ketterdam."
"Tôi đã không có lựa chọn nào khác," Nina nói với giọng tắc nghẹn. "Anh không biết..."
"Tôi chỉ cần biết một điều thôi," Matthias nói. Trong giọng điệu của anh có sự giận dữ và cả một thứ gì đó khác, giống như lời khẩn nài. "Nếu có thể quay lại thời điểm đó, nếu có thể không làm điều đó với tôi, cô sẽ làm khác đi chứ?"
Nina đứng đối diện với mọi người. Cô có lí lẽ của mình, nhưng chúng liệu có quan trọng không? Họ là ai mà có quyền phán xét cô? Cô thẳng lưng lại, cằm hất lên. Cô là thành viên của băng Cặn Bã, nhân viên của Hồng Bạch, và thỉnh thoảng cô là một cô gái ngu ngốc, nhưng trên hết cô là một Grisha, một chiến binh. "Không," cô đáp rành rọt, giọng vang vọng trên mặt băng mênh mông. "Tôi sẽ lại làm chuyện đó."
Một tiếng ầm ầm làm mặt đất rung chuyển. Nina suýt nữa ngã nhào, và cô thấy Kaz phải dùng cây gậy chống để giữ thăng bằng. Mọi người nhìn nhau bối rối.
"Tận trên phía bắc này mà cũng có các rãnh nứt sao?" Wylan hỏi.
Matthias nhíu mày. "Theo tôi biết thì không, nhưng..."
Mặt đất dưới chân Matthias bỗng trồi lên, hất anh ngã nhào. Một tảng đá vươn lên ngay ở bên phải Nina, khiến cô ngã sóng soài. Xung quanh họ, những khối đất đá đóng băng mọc lên như thể mặt đất vươn mình đứng dậy. Một luồng gió mạnh thổi thốc vào mặt họ, những bông tuyết quay cuồng náo động.
"Chuyện quái gì thế này?" Jesper la lớn.
"Động đất!" Inej hét lên.
"Không phải," Nina đáp, tay chỉ vào một cái chấm màu đen dường như đang lơ lửng trên bầu trời, không bị tác động bởi trận gió vần vũ. "Chúng ta đang bị tấn công."
Nina co người lại để tự bảo vệ. Cô tưởng như mình đã mất trí. Có ai đó đang lơ lửng giữa trời, tít phía trên cao. Cô đang chứng kiến một người bay.
Tiết Khí Sư có thể kiểm soát gió trời. Thậm chí cô từng chứng kiến họ thay phiên tung nhau lên không trung tại Tiểu Điện, nhưng mức độ khéo léo và sức mạnh cần có để thực hiện một chuyến bay có kiểm soát là điều không thể tưởng tượng nổi - ít nhất là cho tới lúc này. Jurda parem. Cô đã không mấy tin lời Kaz. Thậm chí cô còn nghi ngờ anh đã nói dối về thứ mình đã chứng kiến để khiến cô chấp nhận tham gia phi vụ. Nhưng chuyện này là thật, trừ phi cô bị đập đầu lúc nào đó mà cô không nhớ.
Tay Tiết Khí Sư quay mình trên không, biến cơn gió thành một trận tố lốc, thổi những mảnh băng tuyết vào mặt Nina đau rát. Cô gần như không quan sát được gì. Cô ngã ngửa khi một tảng đá khác mọc lên. Họ đang bị bao vây, dồn lại thành một khối mục tiêu duy nhất.
"Tôi cần ai đó đánh lạc hướng!" Jesper hét lớn từ đâu đó trong gió lốc.
Nina nghe thấy một tiếng teng.
"Nằm xuống," Wylan gào lên. Nina vội dán mình xuống mặt đất. Tiếng bùm vang lên chát chúa trên đầu cô, ánh sáng bùng lên ở ngay phía bên phải tay Tiết Khí Sư. Gió lốc quanh họ bỗng lặng đi khi hắn ta bị chao đảo và phải tập trung lấy lại thăng bằng. Khoảnh khắc đó kéo dài trong đúng một giây ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để Jesper nhắm bắn.
Phát súng vang lên, và tay Tiết Khí Sư rơi thẳng xuống mặt đất. Một khối đá khác trồi lên, vào đúng vị trí. Họ đã bị quây kín lại như bầy gia súc chuẩn bị được đưa vào lò mổ. Jesper nhắm bắn vào một rặng cây phía xa qua khe hở giữa hai khối đá, và Nina nhận ra còn một Grisha khác đang đứng ở đó - một thằng nhóc có mái tóc đen. Ngay trước khi Jesper kịp khai hoả, thằng nhóc vung nắm đấm lên khiến một khối đất hất anh ngã nhào. Anh lăn tròn và nổ súng từ mặt đất.
Thằng nhóc kia hét lên và khuỵu một chân xuống, nhưng hai cánh tay của nó vẫn giơ lên, làm cho đất đá rung chuyển ầm ầm dưới chân họ. Jesper nổ súng một lần nữa, nhưng bị trượt. Nina giơ tay lên, cố tập trung vào trái tim của thằng nhóc Grisha, nhưng nó ở ngoài tầm khống chế của cô.
Cô trông thấy Inej ra hiệu cho Kaz. Không nói một lời, anh vào vị trí bên cạnh tảng đá gần nhất, hai bàn tay khum lại phía trước đầu gối. Mặt đất vẫn đang tròng trành lắc lư, nhưng anh giữ vững tư thế trong lúc cô gái đạp vào đôi tay anh nhảy bật lên theo một đường cong duyên dáng. Inej lao qua khối đá êm ru không một tiếng động. Giây lát sau, mặt đất yên tĩnh trở lại.
"Hãy tin tưởng ở Bóng Ma," Jesper thốt lên.
Họ đứng đó, sững sờ, trong bầu không khí thinh lặng lạ thường sau sự hỗn loạn vừa xong.
"Wylan," Jesper nói trong lúc nhỏm dậy. "Đưa chúng ta ra khỏi chỗ này."
Wylan gật đầu, đoạn lấy ra một cục dẻo dẻo từ trong balô, cẩn thận gắn nó vào tảng đá gần nhất. "Mọi người nằm xuống," cậu ra lệnh.
Tất cả kéo nhau ra xa nhất có thể và khom người lại. Wylan đập tay vào khối thuốc nổ rồi lao tới, lách vào giữa Matthias và Jesper trong khi tất cả mọi người bịt tai.
Không có gì xảy ra cả.
"Cậu giỡn mặt tôi hả?" Jesper lên tiếng.
Bùm. Khối đá vỡ tan. Nhưng mảnh băng và vụn đá rơi như mưa xuống đầu họ.
Người đầy bụi đất, Wylan tỏ ra hơi ngỡ ngàng đồng thời cực kì sung sướng. Nina bật cười. "Cố mà làm ra vẻ cậu biết nó sẽ nổ đi."
Bọn họ lục tục kéo nhau ra khỏi bãi quây bằng đá.
Kaz ra hiệu cho Jesper. "Đảo một vòng đi. Bảo đảm là không có bất cứ bất ngờ nào khác." Đoạn hai người đi về hai hướng ngược nhau.
Nina và những người còn lại tìm thấy Inej đang đứng cạnh một thằng nhóc Grisha run lẩy bẩy. Nó mặc bộ đồ màu olive, đôi mắt đờ đẫn. Máu trào ra từ lỗ đạn bắn ở đùi thằng nhóc, còn trên ngực phải ló ra phần chuôi của một con dao. Chắc Inej đã phóng dao trúng vào nó sau khi nhảy qua khối đá.
Nina quỳ xuống bên cạnh thằng nhóc.
"Tôi muốn một chút nữa," thằng nhóc Grisha lẩm bẩm. "Chỉ một chút thôi mà."
Nó tóm lấy bàn tay của Nina, và chỉ khi đó cô mới nhận ra nó là ai.
"Nestor?"
Thằng nhóc cựa mình khi nghe thấy cái tên đó, nhưng không tỏ ra biết cô.
"Nestor, là tôi đây, Nina đây." Cô từng học chung với cậu ta ở Tiểu Điện. Cả hai đã được đưa tới Keramzin trong chiến tranh. Sau lễ đăng cơ của vua Nikolai, hai đứa đã chôm một chai rượu champagne và uống say khướt bên hồ. Nestor là sáng Chế Gia, một trong những Giả Kim Hợp Gia có thể xử lí kim loại, thuỷ tinh và sợi. Chuyện này thật khó hiểu, sáng Chế Gia làm ra vải vóc và vũ khí. Nestor không thể làm được điều Nina vừa chứng kiến.
"Làm ơn đi," cậu ta cầu xin, mặt nhăn nhó. "Tôi cần thêm một chút."
"Parem?"
"Phải," cậu ta thổn thức. "Đúng rồi. Làm ơn đi."
"Tôi có thể chữa lành vết thương cho cậu, Nestor, nếu cậu nằm yên." Cậu ta bị thương khá nặng, nhưng nếu cô có thể cầm máu thì...
"Tôi không cần cô giúp," cậu ta nói với giọng tức giận và cố nhích ra xa.
Nina cố gắng làm cậu bình tĩnh và làm chậm nhịp tim của cậu, nhưng cô lại sợ mình sẽ làm ngưng tim. "Làm ơn đi, Nestor. Làm ơn nằm yên."
Lúc này cậu ta bắt đầu la hét, chống cự lại cô.
"Giữ cậu ấy lại," Nina la lên.
Matthias xông tới hỗ trợ, nhưng Nestor đã vung hai cánh tay. Mặt đất dâng lên như sóng, đẩy Nina và những người còn lại ra xa.
"Nestor, làm ơn đi! Hãy để chúng tôi giúp cậu."
Cậu ta đứng dậy, loạng choạng vì cái chân bị thương, tay kéo con dao cắm trên ngực. "Họ đâu rồi?" Cậu hét lên. "Họ đi đâu mất rồi?"
"Ai vậy?"
"Người Shu!" Nestor than vãn. "Họ đi đâu rồi? Quay lại đây!" Cậu khập khiễng bước tới một bước, rồi một bước nữa. "Quay lại đây!" Nestor ngã sấp mặt xuống tuyết và không nhúc nhích nữa.
Nina lao vội tới và lật cậu ta lại. Tuyết bám đầy mắt và miệng cậu. Cô đặt hai tay lên ngực cậu ta, cố làm hồi sinh trái tim cậu, nhưng vô hiệu. Nếu chưa bị chất gây nghiện tàn phá thì có lẽ cậu ta đã sống sót được. Nhưng cơ thể cậu ta quá yếu, chỉ có da bọc xương, một làn da tái mét trong suốt.
Chuyện này không đúng, Nina nghĩ thầm. Luyện tập thuật Điều Nhiên giúp cho một Grisha khoẻ mạnh hơn mới phải. Đó là một trong những điều cô thích nhất ở năng lực của mình. Nhưng cơ thể cũng có giới hạn của nó. Dường như loại thuốc kia đã làm cho năng lực của Nestor vượt quá giới hạn cơ thể cậu, và làm nó kiệt quệ.
Kaz và Jesper đã quay lại. Cả hai thở hổn hển.
"Có gì không?" Matthias hỏi.
Jesper gật đầu. "Một nhóm người đang đi về phía nam."
"Cậu ta đã gọi người Shu quay lại," Nina nói.
"Chúng ta đã biết phía Shu có thể cử một nhóm đi đòi lại Bo Yul-Bayur," Kaz nhận định.
Jesper nhìn xuống thi thể bất động của Nestor. "Nhưng chúng ta không biết họ cử Grisha đi. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn đây không phải là đám lính đánh thuê?"
Kaz giơ một đồng xu có hình con ngựa ở một mặt và hai chìa khoá bắt chéo ở mặt kia. "Cái này nằm trong túi của tay Tiết Khí Sư," anh tung đồng xu cho Jesper. "Nó là một đồng wen ye của người Shu. Một tín vật. Đây là một nhiệm vụ quốc gia."
"Làm thế nào họ tìm ra chúng ta?" Inej thắc mắc.
"Có lẽ những phát súng của Jesper đã đưa họ tới đây," Kaz trả lời.
Jesper nổi đoá chỉ tay về phía Matthias và Nina. "Hoặc có thể họ đã nghe thấy tiếng hai người này cãi cọ. Có thể họ đã bám theo chúng ta nhiều cây số rồi."
Nina cố gắng suy nghĩ từ những chi tiết thu thập được. Người Shu không sử dụng Grisha làm binh lính. Khác với Fjerda, họ không xem các năng lực của Grisha là phi tự nhiên hay đáng ghê tởm. Họ bị mê hoặc bởi chúng. Nhưng họ vẫn không coi các Grisha thực sự là con người. Chính quyền Shu Han đã bắt giữ và thí nghiệm trên các Grisha suốt nhiều năm trời để tìm cách xác định nguồn gốc năng lực Grisha. Họ sẽ không bao giờ dùng các Grisha như lính đánh thuê, hay ít nhất trước kia là như thế. Có lẽ parem đã làm thay đổi cuộc chơi.
"Tôi không hiểu," Nina lên tiếng. "Nếu họ đã có jurda parem thì còn đi tìm Bo YuL-Bayur làm gì nữa?"
"Có thể họ chỉ có một số lượng nhỏ và không thể tái sản xuất," Kaz đáp. "Đó là suy nghĩ của Hội đồng Thương buôn. Cũng có thể họ muốn bảo đảm Bo Yul-Bayur không thể trao công thức cho bất kì ai khác."
"Anh có nghĩ họ sẽ sử dụng các Grisha xài thuốc để thâm nhập Lâu Đài Băng không?" Inej hỏi.
"Nếu họ vẫn còn Grisha," Kaz nói. "Nếu là tôi thì tôi cũng làm như vậy."
Matthias lắc đầu. "Nếu họ có một Độc Tâm Y thì chúng ta đã chết chắc."
"Vừa rồi cả bọn đã suýt chết đấy thôi," Inej đáp.
Jesper khoác súng lên vai. "Wylan đã chứng tỏ vị trí của mình."
Wylan giật nảy người khi nghe thấy tên mình. "Thật ạ?"
"Ờ, cậu làm không tồi một chút nào."
"Ta đi thôi," Kaz nói.
"Ta cần chôn cất bọn họ," Nina đề nghị.
"Mặt đất quá cứng, chúng ta lại không có thời gian. Nhóm người Shu vẫn đang di chuyển về phía Djerholm. Chúng ta không biết bọn họ còn bao nhiêu Grisha, và nhóm của Pekka rất có thể đã vào được trong lâu đài."
"Ta không thể bỏ mặc họ cho lũ sói," cô nói, cổ họng nghẹn lại.
"Cô có muốn xây giàn thiêu cho họ không?"
"Cút xuống địa ngục đi, Brekker."
"Làm công việc của cô đi, Zenik," Kaz đáp trả. "Tôi không đưa cô tới Fjerda để cử hành tang lễ."
Cô giơ hai bàn tay lên. "Anh nghĩ sao nếu tôi bổ đôi hộp sọ của anh như một quả trứng chim?"
"Cô sẽ không muốn nhìn thấy thứ ở trong đầu tôi đâu, Nina thân mến ạ."
Cô tiến tới trước, nhưng Matthias đã cản đường.
"Thôi đi," anh lên tiếng. "Tôi sẽ làm chuyện đó. Tôi sẽ giúp cô đào huyệt." Nina nhìn anh trấn trối. Matthias lấy từ trong túi đồ ra một cái cuốc và đưa cho cô, rồi lấy cái cuốc khác từ túi của Jesper. "Đi thẳng về hướng nam kể từ chỗ này," anh quay sang nói với những người khác. "Tôi biết khu vực này, tôi bảo đảm chúng tôi sẽ bắt kịp các cô cậu khi đêm xuống. Chúng tôi sẽ di chuyển nhanh hơn so với lúc đi chung cả nhóm."
Kaz nhìn anh chàng Fjerda không rời mắt. "Đừng quên bản ân xá của anh, Helvar."
"Liệu có phải là một ý hay khi chúng ta để họ lại một mình với nhau không?" Wylan hỏi trong khi cùng với những người còn lại đi xuống dốc.
"Không," Inej đáp.
"Nhưng sao ta vẫn làm?"
"Trước sau gì chúng ta cũng phải tin họ thôi," Kaz đáp.
"Còn tiết lộ nho nhỏ của Matthias về sự trung thành của Nina thì sao?" Jesper hỏi.
Nina chỉ kịp nghe được câu trả lời của Kaz: "Tôi gần như chắc chắn không ai trong chúng ta có chữ 'trung thành' hay 'chân thật' trong lí lịch của mình." Mặc dù rất muốn đấm cho Kaz mấy cú, cô không thể không cảm thấy biết ơn anh một chút.
Matthias bước vài bước ra xa khỏi thi thể của Nestor. Anh bổ cuốc xuống mặt đất băng giá, giật nó ra, rồi lại bổ tiếp nhát nữa.
"Ở đây sao?" Nina thắc mắc.
"Thế cô muốn cậu ta ở đâu?"
"Tôi... tôi không biết." Cô đưa mắt nhìn miền đất trắng xoá, điểm xuyết bởi vài vạt rừng bạch dương thưa thớt. "Với tôi thì nhìn đâu cũng như nhau."
"Cô có biết các thánh thần của chúng tôi không?"
"Tôi biết một số," cô trả lời.
"Nhưng cô biết Djel chứ?"
"Suối nguồn."
Matthias gật đầu. "Người Fjerda tin rằng toàn bộ thế giới được liên kết với nhau thông qua nước của nó, từ các biển, băng tuyết, các con sông dòng suối, cho tới mưa và bão tố. Tất cả đều nuôi dưỡng Djel và được nuôi dưỡng từ Djel. Khi chúng tôi chết đi, chúng tôi gọi nó là felöt-objer, bám rễ. Chúng tôi trở thành giống như rễ của cây tần bì, uống nước từ Djel ở bất kì nơi nào chúng tôi nằm xuống."
"Có phải vì thế mà các anh hoả thiêu Grisha thay vì chôn cất họ?" Matthias khựng lại, rồi khẽ gật đầu.
"Nhưng anh lại giúp tôi chôn Nestor và người Tiết Khí Sư ở đây."
Anh gật đầu lần nữa.
Cô cầm lấy cái cuốc và bắt nhịp theo anh. Mặt đất rất cứng rắn. Mỗi nhát cuốc bổ xuống tạo ra chấn động chạy dọc cánh tay cô.
"Nestor không thể nào làm những chuyện như vừa rồi," Nina nói, đầu óc vẫn đang căng ra suy nghĩ. "Không một Grisha nào có thể sử dụng năng lực như vậy. Chuyện này quá sai."
Anh im lặng một lúc rồi nói: "Giờ cô đã hiểu chưa? Cảm giác khi phải đối mặt với một năng lực lạ lùng bản thân không hiểu rõ? Đối mặt với một địch thủ có sức mạnh siêu nhiên như thế?"
Nina nắm cái cuốc chặt hơn. Nestor dưới ảnh hưởng của parem cũng giống như một sự xuyên tạc tất cả những gì cô yêu thích nơi năng lực của mình, có phải đó là điều mà Matthias và những người Fjerda khác nhìn thấy nơi các Grisha? Năng lực nằm ngoài tầm giải thích, một sự thách thức đối với tự nhiên.
"Có thể." Cô chỉ nói được có thế.
"Cô bảo là cô không có lựa chọn khác ở cảng Elling," anh nói mà không nhìn Nina, tay vẫn đều đặn cuốc đất. "Có phải do tôi là một drüskelle? Cô đã tính toán như thế ngay từ đầu à?"
Nina còn nhớ cái ngày sau cùng mà họ thực sự ở bên nhau, nhớ cảm giác phấn chấn khi họ trèo lên một quả đồi cao và trông thấy thị trấn cảng biển trải rộng bên dưới. Cô đã bị sốc khi nghe thấy Matthias nói: "Tôi gần như phải xin lỗi cô, Nina."
"Gần như?"
"Tôi quá đói nên không thể xin lỗi thực sự được."
"Cuối cùng anh cũng chịu thua ảnh hưởng của tôi. Nhưng chúng ta sẽ đi đâu để ăn khi không có tiền?" Cô hỏi như thế trong lúc họ xuống đồi. "Tôi có thể phải bán đi mái tóc đẹp của anh để có tiền mặt."
"Đừng có hâm," anh đã nói như thế với một tiếng cười. Tiếng cười của anh vang lên ngày một dễ dàng hơn qua quá trình họ đi cùng nhau, như thể anh đã bắt đầu thông thạo một ngôn ngữ mới. "Nếu đây là Elling thì tôi có thể tìm được nơi nương náu cho hai chúng ta."
Khi ấy cô đã khựng lại, hoàn cảnh thực tế của họ ập vào cô với một sự rõ ràng khủng khiếp. Cô đang ở sâu trên đất của kẻ thù mà không có đồng minh nào ngoài một drüskelle, kẻ đã ném cô vào một cái lồng mới vài tuần trước đó. Nhưng trước khi cô kịp lên tiếng, Matthias đã nói: "Tôi nợ cô ơn cứu mạng, Nina Zenik. Chúng tôi sẽ đưa cô về nhà an toàn."
Cô đã ngạc nhiên khi thấy mình dễ dàng tin tưởng anh đến thế. Và anh cũng tin tưởng cô.
Còn bây giờ, cô bổ cuốc, cảm thấy chấn động lan dọc theo cánh tay tới vai, và nói: "Ở Elling có Grisha."
Anh khựng lại. "Gì cơ?"
"Họ là các gián điệp làm công việc do thám tại bến cảng. Họ đã trông thấy tôi đi tới quảng trường chính cùng với anh, và nhận ra tôi do quá trình học tập tại Tiểu Điện. Một người trong số họ cũng nhận ra anh, Matthias. Anh ta biết anh sau một cuộc giao tranh ở gần biên giới."
Matthias không nhúc nhích.
"Họ đã tiếp cận tôi khi anh đi nói chuyện với tay chủ nhà trọ," Nina nói tiếp. "Tôi đã thuyết phục họ rằng tôi cũng đang sử dụng một vỏ bọc. Họ muốn bắt anh, nhưng tôi bảo họ rằng anh không đi một mình, và bắt anh ngay sẽ rất rủi ro. Tôi đã hứa giao anh cho họ ngày hôm sau."
"Sao cô không nói cho tôi biết chuyện đó?"
Nina bỏ cuốc xuống. "Nói với anh chuyện có các gián điệp Grisha ở Elling á? Anh có thể đã hoà giải với tôi, nhưng anh không thể mong chờ tôi tin anh không tố giác họ."
Matthias quay mặt đi, quai hàm giật giật, và cô biết mình nói đúng.
"Sáng hôm đó," anh nói, "trên bến cảng..."
"Tôi phải đưa cả hai chúng ta rời khỏi Elling nhanh nhất có thể. Tôi đã nghĩ nếu mình có thể tìm cho chúng ta một con tàu để ra đi... nhưng các Grisha chắc chắn đã theo dõi khu nhà trọ và thấy chúng ta ra ngoài. Khi họ xuất hiện ở cảng, tôi biết ngay là vì anh, Matthias. Nếu họ bắt được anh, anh sẽ bị đưa về Ravka, thẩm vấn, thậm chí là xử tử. Thế rồi tôi trông thấy tay thương gia người Kerch. Anh biết luật chống buôn nô lệ của họ rồi đấy."
"Dĩ nhiên," anh đáp với giọng chua chát.
"Tôi đã tố giác anh. Tôi cầu xin họ cứu tôi. Tôi biết họ sẽ phải bắt giữ anh, và đưa cả hai chúng ta về Kerch. Nhưng tôi đã không biết, Matthias à, tôi đã không biết là họ sẽ tống anh vào Cổng Địa Ngục."
Đôi mắt anh đanh lại khi anh nhìn cô, các đốt ngón tay anh trắng bệch ra trên cái cán cuốc. "Tại sao cô không lên tiếng? Tại sao cô không nói ra sự thật khi chúng ta tới Ketterdam?"
"Tôi đã cố. Tôi thề đấy. Tôi đã cố rút lại lời tố cáo. Nhưng họ không để cho tôi gặp quan toà. Họ không để cho tôi gặp anh. Tôi không thể giải thích được về dấu triện của tàu buôn nô lệ, càng không thể giải thích lí do hoang báo mà không tiết lộ về mạng lưới gián điệp của Ravka. Nếu làm vậy tôi sẽ phản bội lại những Grisha đang còn hoạt động. Tôi sẽ đẩy họ tới chỗ chết."
"Thế nên cô đã bỏ mặc tôi mục xương trong tù."
"Tôi đã có thể quay về Ravka. Thánh thần ơi, tôi muốn lắm chứ. Nhưng tôi đã ở lại Ketterdam. Tôi dùng tiền nong kiếm được để đút lót, cầu cạnh toà án..."
"Cô đã làm mọi thứ, ngoại trừ nói ra sự thật."
Cô muốn tỏ ra dịu dàng, ăn năn, muốn nói với anh rằng ngày nào đêm nào cô cũng nghĩ tới anh. Nhưng hình ảnh giàn thiêu kia vẫn còn quá rõ rệt trong tâm trí cô. "Tôi đã cố gắng bảo vệ người của tôi, những người mà anh dành cả cuộc đời để đi tận diệt."
Matthias bật cười cay đắng, xoay xoay cái cuốc trong tay. "Wanden olstrum end kendesorum."
Đó là phần đầu của câu ngạn ngữ Fjerda: Nước nghe và nước hiểu. Có vẻ rất nhân hậu, nhưng Matthias biết Nina đã quá quen với phần sau của nó.
"Isen ne bejstrum," cô kết thúc câu nói. Nước nghe và nước hiểu. Băng thì không tha thứ.
"Vậy bây giờ cô sẽ làm gì, Nina? Cô có phản bội những người mà cô gọi là bạn một lần nữa, vì các Grisha không?"
"Sao cơ?"
"Đừng có nói với tôi là cô định để cho Bo Yul-Bayur sống nhé."
Anh biết cô quá rõ. Với tất cả những điều cô vừa được biết về jurda parem, cô thừa hiểu cách duy nhất để bảo vệ các Grisha là đoạt mạng nhà khoa học đó. Cô nhớ lại cảnh Nestor dùng hơi thở cuối cùng để cầu xin những ông chủ người Shu quay lại. "Tôi không thể chấp nhận việc những người đồng loại của tôi bị nô lệ hoá," cô thừa nhận. "Nhưng chúng ta có một món nợ phải thu xếp, Matthias. Lệnh ân xá là sự sám hối của tôi, và tôi sẽ không thể một lần nữa là người ngăn cản anh được tự do."
"Tôi không muốn nó."
Cô trố mắt nhìn anh. "Nhưng..."
"Có thể các đồng loại của cô sẽ bị biến thành nô lệ. Cũng có thể họ sẽ trở thành một lực lượng không gì chặn nổi. Nếu Yul-Bayur sống sót và bí mật của jurda parem được công khai, thì bất kì điều gì cũng có thể xảy ra."
Suốt một lúc lâu, họ nhìn vào mắt nhau. Mặt trời đã hạ thấp trên bầu trời, rải những tia sáng vàng rực xuống mặt tuyết, cô có thể thấy màu vàng của hàng lông mi Matthias lộ ra phía sau lớp antimon đen mà cô đã sử dụng để nhuộm chúng. Cô lại sắp phải biến đổi anh rồi.
Trong những tuần lễ tiếp nối vụ đắm tàu, cô và Matthias đã thoả thuận một sự đình chiến gượng gạo. Lớn lên giữa họ là một thứ gì đó mãnh liệt hơn sự cảm mến, một sự thông hiểu rằng cả hai người họ đều là chiến binh, và trong một kiếp sống khác, có lẽ họ đã là đồng minh thay vì đối thủ. Giờ cô lại cảm thấy điều đó.
"Nó có nghĩa là phản bội những người còn lại," cô nói. "Họ sẽ không nhận được tiền thưởng từ Hội đồng Thương buôn."
"Đúng."
"Và Kaz sẽ giết cả hai chúng ta."
"Nếu cậu ta biết được sự thật."
"Anh đã bao giờ thử nói dối Kaz Brekker chưa?"
Matthias nhún vai. "Vậy chúng ta coi như sống không bằng chết."
Nina nhìn cơ thể gầy mòn của Nestor, "vì đại nghĩa."
"Chúng ta thống nhất với nhau chuyện này," Matthias nói. "Bo Yul-Bayur sẽ không sống sót rời khỏi Lâu Đài Băng."
"Thoả thuận thế nhé," Nina nói bằng tiếng Kerch, ngôn ngữ của giao thương, không phải là tiếng mẹ đẻ của cả cô lẫn anh.
"Thoả thuận," anh đáp.
Matthias vung cuốc và bổ xuống theo một đường vòng cung, như một sự xác nhận. Cô cũng nhặt cuốc lên và làm tương tự. Không nói thêm tiếng nào, họ quay lại với việc đào huyệt bằng một nhịp độ quyết đoán.
Kaz ít nhất đã đúng ở một điểm. Matthias và cô cuối cùng cũng đã tìm được một thứ để đồng tình.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro