Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

môn kinh tế chính trị 9 10 11 12

Câu 9: Sự tồn tại khách quan và ý nghĩa của KTTT. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường hướng XHCN ở Việt Nam. Những giải pháp để phát triển.

Trả lời:

1.Sự tồn tại khách quan và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường:

Kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất. trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tất nhiên, chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, không thể nói kinh tế hàng hoá là sản phẩm của một hế độ kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quả trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.

Ở Việt Nam, trong thờikỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện chung để kinh tế hàng hoá xuất hiện vẫn còn tồn tại. do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hoá ở nước ta là một tất yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh tế hàng hoá xuất hiện và tồn tại là:

-Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay. Sự phát triển của phân công lao động xã hội thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chuyên môn hoá sâu. Điều đó,đã góp phần phá vỡ tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây và thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ hơn.

Vả lại, phân công lao động xã hội là cơ sở và là động lực để nâng cao năng suất lao động xã hội, nghĩa là làm cho nền kinh tế ngày càng co nhiều sản phẩm thặng dư dùng để trao đổi, mua bán. Do đó, làm cho trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường càng phát triển hơn.

-Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giã các chủ thể kinh tế độc lập cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta. Thật vậy, một khi còn tồng tại nhiều dạng sở hữu khác nhu về tư liệu sản xuất và về sản phẩm lao động sẽ tạo nên sự độc lập về kinh tế của những ngành chủ sở hữu khác nhau. Đó. Do đó, các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế khi cần sản phẩm của nhau tất yếu phải thông qua con đường thoả thuận, trao đổi mua bán.

Đại hội Dảng lần thứ Ĩ đã khẳng định mo hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Sự lựa chọn đó là xuất phát tù những lợi ích của việc phát triển kinh tế - xã hội đem lại cho nước ta. Phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta có lợi là:

-Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hoá, chuyên môn hoá lao động. quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. sản xuất càng xã hội hoá, chuyên môn hoá thì càng đòi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao đổi hoạt động kinh tế trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hoá giưaqsx các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác nhau.

-Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. kinh tế tự nhiên, do bản chất của nó, chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản xuất. sử dụng kinh tế thị trường là sử dụng quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hoá do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động. mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buọc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mí có được thu nhập.

-Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng cảu mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế thị trường và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nong sản đã làm cho hàng hoá bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã diễn ra ở thành phố, đối với những người lao động thành thị.

-Phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhièu cán bộ quản lý và lao động có trình độ cao. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế. qua cuộc cạnh tranh trên thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kinh tế.

Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cáp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mị tiềm năng của đất nước để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường kkhông đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội cảu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn.

Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triẻn lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm trong những năm 1990 -2000 là 7%. Trong đó nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, đưa Việt Nam trở thành nước đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu lương thực. giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường. đời sống của nhân dân được cải thiện, nâng cao tích luỹ xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển trong tương lai.

2.Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:

-Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã họi chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã họi, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên trong xã hội. phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuát mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.

-Về sở hữu sẽ phát triển thưo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nhước giữ vai trò chủ đạo. tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triẻn lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nống vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu qủ như trước đây.

-Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đòng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuát, phát huy tính tích cực và hạn chế những măt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể quần chúng nhân dân.

-Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn llực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu qủ hoật động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.

-Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.

Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hứơng xã hội chủ nghiã có sự quản lý củ Nhà nước thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuát với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. đây là mô hình kinh tế tổng quát cuả nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

3.Những giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.

b) Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.

c) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

d) Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.

e) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi.

f) Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Câu 10: Vai trò của nhà nước và các công cụ quản lý vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Trả lời:

1.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

Trước hết, thông qua tác động đối với nền kinh tế, Nhà nước, một mặt kiểm soát và hỗ trợ sự phát triển của bản thân nền kinh tế; mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc đảy tiến bộ xã hội. muốn vậy chúng ta phải tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Quan điểm về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hứng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách tác động đồng thời tới cả hai mặt kinh tế và xã hội để đảm bảo một sự phát triển cân đối nhất định và bền vững của toàn bộ xã hội và các cộng đồng dân cư khác nhau. Theo quan điểm này, việc đánh giá tác động của Nhà nước đối với nền kinh tế sẽ không chỉ dựa vào các chỉ tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế, mà còn dựa vào các kết quả về mặt xã hội.

Hai là, cơ chế tác động của Nhà nước vào nền kinh tế với ba tư cách chủ yếu là:

a)Với tư cách người lập kế hoạch, Nhà nước tác động một cách trực tiệp vào phương hướng đầu tư và phát triển kinh tế, coi thị trường như là đối tượng để kế hoạch hoá cấp vĩ mô của Nhà nước.

Kế hoạch của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có những tác dụng sau đây:

-Đề ra mục tiêu và những trật tự ưu tiên rõ ràng cho các chính sách.

-Phát hiện ra những vấn đề tồn tại cần khắc phục, những mối tương quan cần giải quyết một cách đồng bộ.

-Định hướng hoạt động cho mọi thành viên trong xã hội, trước hết cho cá doanh nghiệp.

-Tạo những ràng buộc đối với các cơ quan chính phủ trong việc thực hiện các phương hướng đã được kế hoạch hoá.

b)Với tư cách là người điều chỉnh, ngày nay ở mọi nước, nhà nước đều tác động vào cả hai lĩnh vực kinh tế và xã hội, tất nhiên với mức độ và phạm vi khác nhau.

Trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước tạo ra những điều kiện và môi trường chứa đựng mục tiêu mà Nhà nước muốn đạt tới.

Mặt khác, Nhà nước thông qua các chính sách ưu đãi cũng thực hiện một số hình thức hỗ trợ cho các lĩnh vực mà Nhà nước muốn ưu tiên phát triển.

Trong lĩnh vực xã hội, vai trò điều chỉnh của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.

c)Với tư cách là ngườiđầu tư kinh doanh, Nhà nước trực tiếp tham gia vào kinh doanh trong mótoos lĩnh vực sản xuất hàng hoá và dịch vụ công cộng, đảm bảo phát triển kết cấu hạ tầng, nắm "Các đỉnh cao chỉ huy", khai thác các ngành mới và tạo hiệu quả lan truyền cho khu vực tư nhân.

Sự quản lý nền kinh tế thị trừng của Nhà nước ta có đặc điểm:

-Về chính trị, có Đảng cộng sản lãnh đạo và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,do dân, vì dân, quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước nhằm mục tieu cao cả là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

-Về kinh tế, nền kinh tế thị trường có cơ cấu nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể phát triển dần trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân.

-Về mục tiêu, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường là nhằm từng bước giải phóng người lao động khỏi mọi áp bức bóc lột,làm cho mọi lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

2.Các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

a)Kế hoạch và thị trường.

Việc sử dụng hai cộng cụ này khong thể tchs rời nhau mà là sự vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch để điều tiết tác động của quy luật giá trị và vận dụng quy luật giá trị nhằm quản lý kinh tế phát triển theo kế hoạch.

Từ chỗ đối lập với thị trường, ngày nay chúng ta đã nhạn thức rõ, cả kế hoạch lẫn thị trường đều là công cụ để quản lý nền kinh tế, trong đó trị trường là căn cứ, là đối tượng và là công cụ kế hoạch hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần kế hoạch hoá phải bao quát được tất cả các thành phần kinh tế, tất cả các quan hệ thị trường, khong chỉ các quan hệ thị trường trong nước mà cả các quan hệ với thị trường ngoài nước.

Kế hoạch Nhà nước bao gồm kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. thong qua kế hoạch dài hạn, nhà nước cụ thể háo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ đó vạch ra các chương trình kinh tế có mục tiêu để định hướng đầu tư, điều tiết các hoạt động kinh tế và đề ra các chính sách kinh tế thích hợp.

b) Xây dựng kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác có hoạt động hiệu qủa.

Đây là những thành phần kinh tế có vai trò quyết định nhất đối với việc quản lý nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần phát triển theo định hưống xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế này có vai trò mở đường và hỗ trợ cho các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế. nhờ chúng mà Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thực hiẹn những mục tiêu kinh tế - xã hội do kế hoạch vạch ra.

c)Hệ thống pháp luật

Nhà nước phải sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ điều tiết hoạt động của các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực cà ngăn chặn mặt tiêu cực cảu cơ chế thị trường, điều tiết các hoạt động kinh tế đôi ngoại sao cho nền kinh tế không bị lệ thuộc vào nước ngoài.

Hệ thống pháp luật bao trùm mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, nhưng có thể khái quát lại trong năm lĩnh vực:

+Xác đinh các chủ thể pháp lý, tạo cho họ các quyền và hành động mang tính thống nhất.

+Quy định các quyền về kinh tế.

+Về hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật hợp đồng dựa trên cơ sở thoả thuận, trên cơ sở tự nguỵen của các bên, Luật hợp đồng quy định quyền hoạt động của các chủ thể pháp lý, tức là các hành vi pháp lý.

+Về sự đảm bảo của Nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế có các Luật bảo hộ lao động, luật môi trường, Luật về Cácten,...; các quy đinh vè mặt xã hội có Luật bảo hiểm xã hội ...

+Về mặt kinh tế đối ngoại phù hợp với thông lệ quốc tế.

d)Các công cụ tài chính

-Hệ thống thuế: chính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, điều tiết tiêu dùng, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế, thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài, khuyến khích việc đầu tư có hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

-Ngân sách nhà nước: ;Ngân sách nhà nước là công cụ rất quan trọng dể tác động vào nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và công băng xã hội, là hình thức cơ bản để hình thành và sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung nhằm mở rộng sản xuât theo định hướng xã hộ chủ nghĩa và thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.

e)Các công cụ tiền tệ

Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc thắt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thóng ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đeens tình hình kinh tế. bằng công cụ ntiền tệ, Nhà nước có thể hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn tính tư phát tư bản chủ nghĩa.

f)Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại

nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là: thuế xuất nhập khakảu hạn ngạch (quota), tỷ giá hối đoái, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, ...

Thông qua các công cụ này, Nhà nước có thể khuyến khích việc xuất khẩu; đồng thời lại bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài ngày càng nhiều, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Câu 11: Tính tất yếu khách quan và tác dụng của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. những hình thức kinh tế đối ngoại chủ yếu hiện nay. Liên hệ với Việt Nam.

Trả lời:

1.Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại:

Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu với hầu hết các nước. Tính khách quan và phổ biến của nó bắt đầu từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đều về trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật giữa nước này với nước khác, dẫn đến yêu cầu việc sử dụng sao cho có hiệu quả nguồn lực của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại càng trở nên sôi động. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại làm cho quá trình khu vực hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hướng tất yếu của thời đại.

Một mặt, cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ quốc gia để trở thành lực lượng sản xuất mang tínhquốc tế và đẩy nhanh quá trình khu vực háo, quốc tế hoá đời sống kinh tế, hình thành nền kinh tế thế giới như một hcỉnh thể có nhiều quốc gia tham gia, vừa hiệp tác vừa đấu tranh với nhau, hình thành thị trường quốc tế với giá cả quốc tế chi phối.

Mặt khác cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra các điều kiện để thúc đẩy quá trình khu vực hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế. Đó là sự phát triển nhanh mạnh mẽ của các phương tiện thông tin liên lạc và các phương tiện giao thông vận tải.

Quốc tế hoá đời sống kinh tế biểu hiện rõ rệt ở các khía cạnh sau:

-Một là, sự phân công và hiệp tác quốc tế giữa các nước, các khu vực ngày càng phát triển. Ngày nay, rất nhièu sản phẩm quan trọng dù được đăng ký ở mọt nước, nhưng tham gia chế tạo nó có hàng trăm công ty của hàng chục nước. Ví dụ, sản xuất máybay Bôinh có tới 650 công ty trên thế giới đặt ở 30 nước tham gia; sản xuất ôtô Pho có tới 165 công ty ở 20 nước tham gia.

-Hai là, sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các nước ngày càng tăng. Sự chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất làm cho các nước phụ thuộc vào nhau ngày càng chặt chẽ về nhiều mặt như: nguyên liêu, kỹ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao động, thị trường...

-Ba là, sự hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và chi phí sản xuất quốc tế.

Hệ thống giao thông quốc tế gồm có: đường biển, đường sông, đường ô tô, đường sắt và hàng không. Ngày nay mỗi dạng phương tiện đều có tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động. Các tiêu chuẩn của các phương tiện đó đã và đang được quốc tế hoá. Cùng với các phương tiện giao thông thì mạng lưới thông tin, liên lạc hiện đại cũng được quốc tế hoá.

Quốc tế hoá đời sống kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành chi phí sản xuất quốc tế, giá cả quốc tế. Mỗi nước do có các điều kiện sản xuất khác nhau nên sản xuất ra cùng một loại hàng hoá sẽ có chi phí sản xuất khác nhau. Dựa vào chi phí sản xuất quốc tế, các nước tìm cách khai thác các thế mạnh của mình để đạt hiệu quả kinh tế cao trong quan hệ kinh tế quốc tế. điều đó lại thúc đẩy quá trìh chuyên môn hoá và hiệp tác quốc tế phát triển.

Như vậy,khu vực hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế là một tát yếu khách quan, nó đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực quốc tế và trong nước. Đối với nước ta, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại không nhằm ngoài tính quy luật và mục đích nói trên. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nước ta sẽ khai thác được các nguồn lực bên ngoài vô cùng quan trọng để nhanh chóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đó là nguồn vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. đồng thời khai thác được các lợi thế trong nước, những ngành, những hàng hoá có điều kiện sản xuất nhiều, có lợi thế, nhưng thị trường tiêu thụ trong nước có giớihạn. điều đó, cho phép kkhai thác có hiệu quả các lợi thế, khắc phục những hạn hế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vượt qua nghèo nàn lạc hậu, thựchiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

2.Những hình thức kinh tế đối ngoại hiện nay:

a.Hợp tác trong lĩnhvực sản xuất.

Hợp tác trong lĩnhvực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế...

*)Nhận gia công.

Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức tốt, tận dụng được nguồn lao động, tạo nhiều việc làm và tận dụng công suất máy móc hiện có. Đối với nước ta trong những năm trước mắt, tăng cường việc nhận gia công là một phương hướng đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong nước.

*)Xây dựng những xí nghiệp chung với sự hun vốn và công nghệ từ nước ngoài.

*)Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.

b.Hợp tác khoa học - kỹ thuật.

Hợp tác khoa học - kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân.

c.Ngoại thương.

Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Đối với mỗiquốc gia đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển như nước ta, ngoại thương có tác dụng rất lớn:

-Góp phần làm tăng của cải và sức mạnh tổng hợp của mỗi nước.

-Là một động lực của sự tăng trưởng kinh tế quốc dân.

-"Điều tiết thừa, thiếu" của mỗi nước.

-Nâng cao trình độ công nghệ và ngành nghề trong nước.

-Tạo điều kiện giao dịch việc làm cho người lao động trong nước.

Đối với nước ta hiện nay, để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương cần hướng vào giải quyết các vấn đề sau:

-Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.

-Về nhập khẩu - chính sách mặt hàng nhập. Chính sách nhập khẩu phải tập trung vào việc hình thành và chuyển hoá cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phục vụ chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước.

-Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và chính sách bảo hộ thương mại.

-Hình thành tỷ giá hối đoái một cách chủ động, hợp lý.

d.Đầu tư quốc tế.

Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Một mặt làm tăng thêm nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý tiên tiến, tạo thêm việc làm, đầu tư tay nghề, khả năng tài nguyên, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Mặt khác đối với các nứơc kém phát triển, nhận đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm tăng sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt tài nguyên, làm ô nhiễm môi tường sinh thái, tăng tínhlệ thuộc vào bên ngoài.

Có hai loại đầu tư quốc tê: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

-Đầu tư trực tiếp (FDI) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thóng nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhận.

Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức:

+Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp động.

+Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai biên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung.

+Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.

+Hợp đòng xây dựng -dinh doanh - chuyển giao.

-Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tảchờiquyền sử dụng vốn đầu tư, tức là ngưốic vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điềuhành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay.

e.Tín dụng quốc tế

Tín dụng quốc tế được thể hiện dưới nhiều hình thức: hoặc vay nợ bằng tièn tệ, vàng, công nghệ, hàn hoá, hoặc có thể qua hình thức đầu tư trực tiếp.

Ưu điểm của hình thức này là vay nợ để có vốn đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng - những khu vực cần vốn đầu tư lớn thu hồi vốn chậm.

f.Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế.

*)Du lịch quốc tế.

Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ phát huy lợi thế của Việt Nam về cảnh quan thiên nhiên, vè nhiều loại lao động đặc thu mang tính dân tộc, truyền thống của Việt Nam.

*)Vận tải quốc tế.

Có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiẹm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.

Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế.

*)Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ.

Việt Nam với dân số đông, kinh tế chưa phát triển là một nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại lợi ích trước mắt và lâu dài.

*)Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác.

Như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn.

Câu 12: Mụctiêu, nguyên tắc, phương hướng và giải pháp mở rộng kinh tế đối ngoại ở Việt Nam.

Trả lời:

Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc, cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

1.Mục tiêu:

Đối với nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh theo định hướng xhcn.

2.Phương hướng:

Thứ nhất, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.

Thứ hai, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài nhằm két hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một cách có hiệu quả.

Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thị trường quốc tế đã và đang từng bước trở thành nền kinh tế thị trường hiện đại và thống nhất, đồng thời luôn luôn biến động, việc phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta vừa cần tôn trọng và tuân thủ cơ chế thị trường vừa phải hết sức chú ý củng cố và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3.Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

a)Nguyên tắc bình đẳng

Nguyên tắc bình đẳng trước hết phải thể hiện ở việc đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị của các bên.

b)Nguyên tắc cùng có lợi

c)Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia

d)Nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam.

Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

1.Đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế - xã hội.

Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài - hình thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại.

2.Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại.

Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Một mặt phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mạt khác phải sử dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại.

3.Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc giao thông vận tải.

4.Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với kinh tế đối ngoại.

Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đã khẳng định rằng nếu thiếu sự quản lý của Nhà nước, kinh tế đối ngoại sẽ không thể mở rộng và mang lại hiệu quả cao, thậm chí còn dẫn đến những hiệu quả khó lừơng trước không chỉ về kinh tế mà còn nguy hại hơn là hậu quả của chính trị. Vì vậy việc tăng cường sự quản lý của Nhà nước trở thành vấn đề cấp bách. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể đảm bảo mục tiêu, phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả cao. Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự thua thiệt về lợi ích...

5.Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại.

Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh có tầm cỡ quốc tế, đóng vai trò đầu tầu trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Song trong tương lai và lâu dài cần quan tâm đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn lực quốc tế lớn về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro