Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Miền Thơ Ấu - Vũ Thư Hiên-Lời nói đầu-XII

Miền Thơ Ấu

 Vũ Thư Hiên

Lời nói đầu

Hồi ký

Tôi sung sướng được viết lời tựa cho ấn bản Miền Thơ ấu tại hải ngoại. Đối với tôi đây là một niềm vui bất ngờ. Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà hôm nay bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Lại càng không thể hình dung được rồi đây nó sẽ tới tay những người con bất hạnh của nước Việt đau thương giờ đây lưu lạc bốn phương trời. Đối với tôi, cuốn sách này có ý nghĩa đặc biệt. Một thời nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định. Tại Hỏa Lò Hà nội, một viên chấp pháp đã nói với tôi một câu thế này: "Anh bảo anh không sợ chết. Thế thì tôi phải nói để anh biết rằng có những cái còn đáng sợ hơn cái chết. ở đây lâu rồi anh khắc biết". Câu này tôi nhớ mãi. Càng ngẫm càng thấy anh ta có lý. Cái đáng sợ hơn cái chết mà anh ta muốn nói là sự ở tù vì tội chính trị. Anh cứ việc nằm xà lim dài dài, mà không bao giờ biết được ngày về. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, cũng như nhà cầm quyền ở bất cứ quốc gia cộng sản nào khác, rất khoái áp dụng cái chết từ từ cho các đối thủ chính trị. Người ta tuyên bố không một chút ngượng ngập rằng chuyên chính vô sản là thể chế không cần tới pháp luật. Trong thể chế này mỗi công dân là một người tù dự khuyết. Sinh mạng anh ta nằm gọn trong tay đảng cầm quyền. Cho tới nay, chưa có một thống kê nào đáng tin cậy về số người bị chết mòn mỏi trong nhà tù tại các quốc gia được gọi là xã hội chủ nghĩa. Xà lim có nhiều loại, nhiều kiểu, như mọi người Việt Nam đều biết, gián tiếp hoặc trực tiếp. Tựu trung, chúng giống nhau ở chỗ xà lim nào cũng là một căn phòng hẹp, nếu ta có thể gọi cái chuồng người này là căn phòng, với rất ít ánh sáng và rất nhiều hôi thối. Thêm một cái cùm sắt ở cuối phản nằm - biểu tượng khắc nghiệt của quyền uy. Tôi ở qua nhiều xà lim, tính ra gần bốn năm rưỡi liên tục. Những ngày đầu ở xà lim là những ngày tồi tệ nhất - từ khoảng không rộng rãi bên ngoài, đùng một cái, anh phải làm quen với sự sống chuồng cũi, với mấy bước cuồng cẳng trong mớ bùng nhùng những ý nghĩ lộn xộn về cuộc sống bị bỏ lại ngoài cửa nhà tù. Và bắt đầu một nỗi nhớ bâng khuâng về quá khứ, cho dù quá khứ mới là ngày hôm qua... Mùa đông năm 1967 là một một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà công nhân quét đường đốt lên để sưởi ấm, bên kia bức tường đá của nhà ngục. ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối không hạ xuống vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim bỗng dưng gây nên nỗi nhớ cồn cào, da diết. Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt, thả hồn về quá khứ, tự hứa với mình rằng thể nào cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ dược thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Người ta cần làm cho người tù ngu đi tối đa. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế. Thế thì còn nói chi tới viết sách. Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm dể biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không ngờ tới. ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Chúng tôi, những người một thời là người của Đảng (viết hoa), được Đảng đưa vào đây để giáo dục (!), trong một vụ án được coi là để trong nội bộ Đảng chứ không đưa ra trước pháp luật (sic) thì cứ nằm chết đấy cho tới ngày được Đảng "giải quyết". Không một ai có thể biết được bao giờ cái ngày ấy sẽ tới, và Đảng sẽ "giải quyết" vụ án của chúng tôi bằng cách nào cũng là điều không ai có thể đoán ra. May cho tôi, trong một lần "tiếp tế vợ tôi mang cho tôi một cây bút bi hai màu. Có lẽ vợ tôi định tặng tôi món quà này theo thói quen, tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút, chứ người trong gia đình tôi không thể không biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm này. Tôi tiếc rẻ phải kín đáo phá nát cây bút tuyệt đẹp để mang lọt được vào xà lim hai cái ruột bút nhét giữa hai đường chỉ áo bông. Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969. Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế, (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại những tờ giấy có in chữ). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra. Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì bí mật tuồn ra cho mẹ tôi, vợ tôi. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại cũng gây ra mối lo. Mà không phải gặp có kỳ có hạn đâu, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta cho thì được gặp, không cho thì cứ chờ. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo. Về sau này, trong xà lim Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một. Một lần bọn công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, chúng chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng do bình tĩnh đối phó hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt. Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc. Mẹ tôi đọc xong, bảo: - Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm? Bố tôi nhận xét: - Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam, vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn. Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe? Hồi ở Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày trở về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Trong cái sự tù đặc biệt của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ngu ngốc. ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký. Nhưng còn có một lẽ nữa, là vì nó giống tiểu thuyết. Trong cách viết, trong cách tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Những tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người làng tôi nhận ra người quen của họ trong khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì. Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta học được cách nhìn đời theo cách nghệ thuật. Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm hóa học, chạy di chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống của tôi hơn. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó kỹ thuật sản xuất các vật phẩm liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả. Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi, rồi đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Anh khen cuốn sách, tỏ ý muốn in nó. Tôi ngăn anh: - Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao? - Tôi biết. - Vậy mà anh vẫn quyết định in? Hà Mậu Nhai nói: - Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia. Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Năm sau Miền Thơ ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Việc trao giải thường năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì một thứ xướng ca vô loài, dưới con mắt các nhà lãnh đạo. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Nhân văn-Giai phẩm, một Xét lại hiện đại, chiếm hai giải thưởng trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói. Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai đã bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc nhà xuất bản cho tới khi qua đời, ba năm sau. Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không khác gì việc nó được in. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin. Tô Hoài đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải thưởng này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng và văn hóa của đảng cộng sản. Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà nội tái bản một lần, rồi hai lần... So với bản thảo, cuốn Miền Thơ ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm. Lần xuất bản này của Nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster in không thiếu giấy, nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã được tái bản tới lần này là lần thứ tư. Nó đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một chỗ khác. Miền Thơ ấu, câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bầng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thế cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy. Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant Couturier. Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!" Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nghe lời Chúa, biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại. Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, nơi miền đất tuổi thơ của mỗi chúng ta. Tác giả

Miền Thơ Ấu

 Vũ Thư Hiên

I

Hồi ký

Tôi tỉnh giấc vì những tiếng động mạnh. Quờ tay sang bên không thấy mẹ, tôi mắt nhắm mắt mở lồm cồm chui ra ngoài màn. Khi đã hết chói mắt vì ánh điện sáng choang từ phòng ngoài hắt vào, tôi nhìn thấy mẹ tôi đứng tựa lưng vào đố cửa nối liền hai phòng. Mặt mẹ tôi như hóa đá. Hai tay khoanh trước ngực, bà im lặng nhìn ra phòng ngoài, nơi thấp thoáng nhiều người lạ mặt. Tôi bước xuống đất, mãi mới xỏ được chân vào guốc. Loạng choạng vì ngái ngủ, tôi nem nép đi tới bên mẹ. Tưởng tôi định bước ra phòng ngoài, mẹ tôi giữ tôi lại, hai tay đặt nặng lên vai tôi Bố tôi ngồi trên một chiếc ghế tựa được lôi khỏi bàn ăn, ở sát tường. Vẻ bất cần, ông bình thản hút thuốc, không buồn nhìn đến đám người lạ mặt nhâng nháo đi lại và lục tung mọi vật trong phòng. Tiếng động làm tôi thức giấc là tiếng sách bị quăng xuống sàn. Ngôi nhà gia đình chúng tôi thuê hồi đó có hai phòng thêm một ngăn nhỏ chứa đồ tạp nham và bếp. Phòng ngoài được dùng làm phòng ăn, cũng là phòng làm việc của bố tôi. Một tủ sách lớn chiếm gần trọn bức tường. Bên cạnh tủ sách là cái giường nhỏ, khi nào làm việc mệt, bố tôi có thể ngả lưng tại chỗ. ông có thói quen đọc sách khuya. Chắc bố tôi bị bỏ dở công việc vì những người khách này. Trên bàn, một cuốn sách dày còn để mở. Trong đám mật thám tới khám nhà tôi đêm đó có một người Pháp. Hắn ngồi ở bàn ăn, đối diện với bố tôi ở một khoảng cách xa, mặt dửng dưng như thể hắn không có ý muốn tham dự vào công việc của đám thuộc hạ. Nhìn thấy tôi, bố tôi mỉm cười. Cái nhìn trìu mến, vỗ về. Tôi hiểu, bố muốn tôi đừng sợ. Không có gì đâu, cái nhìn nói: chuyện thường ấy mà, con đã biết thừa là chuyện gì rồi, phải thế không nào? Tôi không sợ. Bọn mật thám tới khám nhà tôi không phải đây là lần đầu. Có lần chúng khám chán rồi bỏ đi, có lần chúng bắt bố tôi, mang đi. ít lâu sau, chúng thả. Mật thám là loại người kỳ cục. Chúng chẳng giống ai, nhưng nếu để ý một chút là có thể nhận ra chúng, ngay giữa đám đông. Nét đặc biệt của chúng là không bao giờ đường hoàng, lúc nào cũng thậm thụt, cũng lấm lét, dường như chúng cố giấu đi cái vẻ ăn không ngồi rồi nghề nghiệp in dấu trên mặt chúng, trên hình hài chúng, cái dáng vẻ phân biệt chúng với những người bình thường, những người thế nào cũng phải bận bịu với một công việc lương thiện hoặc không lương thiện nào đó. Vào thời kỳ bấy giờ mật thám thường khoác áo các thầy ký nghèo sở tư, các tay thầu khoán long đong, các gia sư trẻ rạc người lê gót đi kiếm việc. Tùy theo vai phải đóng, những tên mật thám học mặc áo chùng thâm, quần trắng, đi ô, hoặc vận âu phục tàu tàu, giày tây tàng, mũ dạ. Cái chung của chúng là cặp kính râm đen kịt. Tại sao chúng cứ phải kè kè cái cặp kính tố cáo chúng ấy, tôi không hiểu. Dạo ấy, trong nhà tôi thường xuyên có bè bạn của bố mẹ tôi đến ở. Có người chỉ đến vài ngày, có người ở lại hàng tháng, trở thành người trong nhà. Nhà chật, họ dọn dẹp bàn ghế lại, nằm la liệt trên sàn gạch hoa. Những con người hiếu động, vui vẻ này lúc nào cũng làm ầm ĩ ngôi nhà nhỏ bé của chúng tôi bằng những bữa ăn đông đúc, những cuộc tranh luận ầm ĩ, rất nhiều cãi vã, nhưng không có giận nhau. Đột nhiên, họ biến mất, hầu như tất cả. Ngôi nhà vắng hẳn. Mẹ tôi có vẻ lo âu. Đêm, nhiều lần tôi tỉnh giấc thấy mẹ tôi vẫn chưa ngủ, mắt chong chong. Tuần trước, bố tôi sai tôi vẽ một con cò trên bức tường quét vôi vàng ở đầu phố, chỗ ngã tư. Tôi nắn nót vẽ bằng gạch non, rất rõ. Con cò khá đẹp, nhưng đáng tiếc, nó là con cò mù, bởi vì nó không có mắt. Tôi chỉ hiểu tại sao bố tôi lại bảo tôi vẽ con cò mà lại dặn kỹ không được vẽ nó có mắt khi chiều qua bố tôi sai tôi vẽ nốt cho nó con mắt còn thiếu. Thì ra con mắt báo cho những người đến nhà tôi biết có nguy hiểm, họ không được tới nữa, cần phải rẽ ngay sang đường khác. Mối nguy hiểm đó là số lượng mật thám quanh quẩn bên nhà chúng tôi tăng lên đột ngột. Rất có thể chúng sẽ úp một mẻ tại đây. Nhưng chúng tới muộn và đã úp trượt. Tên mật thám Pháp ngồi thẳng đuỗn, hai tay thả dài trên bàn, mặt bất động, bên trong hai tròng mắt là hai hòn bi ve lạnh lẽo. Điếu thuốc lá kẹp nơi bàn tay phải bốc khói, tàn đã dài nhưng hắn không vẩy đi, cũng không đưa lên hút. Hình như sau cái vẻ thờ ơ bề ngoài ấy, thính giác của hắn đang làm việc căng thẳng. Hắn chăm chú theo dõi tiếng dội lại của viên gạch hoa mỗi lần tên mật thám thấp, bé, mắt hấp háy, dùng ba-toong gõ vào đấy. Những tên khác lặng lẽ tiến hành việc lục soát. Sách báo trong tủ bị rỡ tung tóe, quăng bừa xuống sàn. Chúng cẩn thận gõ vào từng vách tủ, hi vọng tìm thấy một ngăn bí mật. Một số lục soát quần áo của bố tôi. Chúng lộn tung các túi sờ nắn từng nẹp áo, nẹp quần. Mẹ tôi bĩu môi trong nụ cười khinh bỉ. Cái lũ bẩn thỉu này ra điều sạch sẽ, chúng chỉ đụng tới quần áo bằng ba ngón tay - ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, hai ngón còn lại vểnh ra, nhất là ngón út cong lên với vẻ ghê tởm, dường như chúng sợ những quần áo mà chúng buộc phải đụng đến sẽ dây bẩn ra tay chúng. Sau phòng ngoài, bọn mật thám lần đến phòng trong. Tôi đọc thấy một thoáng lo ngại trong mắt mẹ tôi. Buổi chiều, có một nhà sư tới, ông đưa cho bố tôi một bức thư nhỏ xíu cuộn tròn như que tăm cài trong tấm khăn nâu quấn trên đầu. Bố tôi xem xong, cuộn bức thư lại như cũ và nhét vào kẽ nứt giữa đố cửa và tường. Thường bố tôi đốt thư đi sau khi xem xong, nhưng lần này ông để lại, chắc còn phải chuyển tiếp đi nơi khác. Tôi thấy tim mình như ngừng đập khi một tên đeo kính trắng lấy tay gõ gõ vào đố cửa. Nhưng ngón tay hắn đi lướt qua chỗ đó, chỗ giấu bức thư, rồi gõ tiếp trên những chỗ khác. Tôi thở phào, nhẹ nhõm. Bố tôi liếc mắt nhìn tôi, bình thản hút tiếp một hơi thuốc. Bọn mật thám làm việc trong im lặng. Chúng chỉ trao đổi với nhau đôi câu, khi thật cần thiết. Sau hai giờ lục soát từ trên nhà xuống bếp, chúng chẳng tìm được gì, ngoài mấy cuốn sách tiếng Pháp mà chúng thấy cần thu, coi như tang vật. Nhìn những cuốn sách của mình bị buộc lại, đặt lên bàn ăn, trước mặt tên mật thám Pháp, bố tôi nhún vai, nói bằng tiếng Pháp: - Hình như các ông lầm, đó là mấy cuốn sách tôi mua ở hiệu, đều là sách do các ông cho phép bán. - Rất có thể là như vậy- tên mật thám Pháp trả lời, hắn cũng chẳng buồn nhìn đến những cuốn sách ấy - Những cuốn sách có bán ở hiệu trong thời kỳ Mặt trận Bình dân đã trở thành không còn hợp pháp. Vào thời kỳ Mặt trận đó đã hết uy thế, ông hiểu chứ? - Không, tôi không hiểu. Nói chung, nền văn minh Pháp ở thuộc địa trước nay vẫn là một nền văn minh khó hiểu. Tên Pháp, đứng lên, hờ hững đỡ cái ba-toong từ hai tay tên thấp bé có cặp mắt hấp háy. Cuộc đối thoại ngắn ngủi đó tôi ghi lại theo lời mẹ, nhiều năm sau. Bà thường kể lại cho chúng tôi nghe những kỷ niệm vui buồn trong đời bà. Một tên mật thám trẻ nhất bọn, lực lưỡng, nước da đen sạm tiến về phía bố tôi, đôi mắt nhiều lòng trắng hắt ra những tia lạnh lẽo. - Xin lỗi! Tên Pháp nói, nhìn vào tay bố tôi. Bố tôi nhếch mép cười, đưa hai tay ra. Một tiếng cách khô khan, cái còng đã ngậm chặt hai cổ tay bố tôi. Tên mật thám Pháp bước ra cửa, những tên còn lại lục tục theo sau. Trong bóng đêm phố vắng, tôi nhìn thấy bố tôi bị du mạnh vào trong chiếc xe hòm màu đen đã mở máy chờ sẵn. Tên mật thám Pháp bước lên theo. Lũ thuộc hạ leo lên một xe khác. Tiếng động cơ nổ vang trong đêm. ánh đèn đỏ ở sau xe xa dần rồi tắt ngấm. Chị Tường, người trông chúng tôi, òa khóc. Mẹ tôi ôm lấy chị dìu vào trong nhà. - Quân Luy-xi-phe! Chúng nó làm tanh bành trong bếp, có vại dưa mới muối cũng làm đổ cả ra kia, mợ xuống mà xem! Đáng lẽ phải nguyền rủa quân Luy-xi-phe đã bắt bố tôi mang đi, chị lại không nói ra điều đó, mà oán trách chúng làm lộn tùng phèo cái bếp mà chị mất bao công phu giữ gìn cho nó luôn gọn gàng ngăn nắp. Tội nghiệp, chị là người bạn thời thơ ấu của bố tôi, và chị thương bố tôi biết mấy. Chúng tôi gọi chị bằng chị theo thói đời bấy giờ, vì chị là người nhà nhưng ở vị trí người làm. Gần bằng tuổi bố tôi, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ thuở còn thơ, chị được ông bà nội tôi đón về nuôi, chị lớn lên trong nhà ông bà tôi như một đứa con, nhưng không hiểu sao vẫn không được coi như con nuôi. Khi tôi ra đời, bố tôi đưa chị lên Hà nội, từ đó chị trông nom chúng tôi chẳng khác gì người mẹ thứ hai. Mẹ tôi không khóc. Bà ngồi thần ra một lúc, như thể bà không tin việc vừa xảy ra là có thật, và giờ đây bà cần phải khẳng định với chính mình rằng việc đó đã xảy ra, rằng bố tôi đã bị bắt thật, rằng ông sẽ không được ngủ đêm nay ở nhà mà phải chịu thức trắng với những cực hình mà ông đã từng nếm trải tại Sở Liêm Phóng. Rồi bà tần ngần nhặt từng cuốn sách lên, vuốt lại cho khỏi quăn mép và xếp vào chỗ cũ. Chị Tường ngồi bên cạnh, vừa khóc thút thít vừa giúp mẹ tôi thu dọn lại phòng ngoài. Hai người thức cho tới khi trời sáng. Điều đáng ngạc nhiên là không hiểu vì lẽ gì bọn mật thám chỉ xem qua loa phòng ngủ chứ không khám kỹ như trong bếp và phòng khách. Vì thế các em tôi vẫn ngủ say. Chúng chẳng biết chút gì về việc xảy ra trong đêm. Sáng dậy, chúng vẫn nô đùa, vẫn vòi mẹ. Bố tôi thường vắng nhà, chúng đã quen, thậm chí cũng chẳng buồn hỏi bố đâu. Tôi khác, tôi có một trí nhớ đáng nguyền rủa. Những gì tôi chứng kiến tôi nhớ rất lâu, đến từng chi tiết. Có một trí nhớ như vậy thật chẳng hay ho gì. Nó là một cái vạ.    

Miền Thơ Ấu

 Vũ Thư Hiên

II

Hồi ký

Tin tức từ trong tù báo ra cho biết: bố tôi sẽ bị đi an trí. Đó là số phận chung của những người bị tình nghi có dính líu tới những hoạt động chống lại Nhà nước Bảo hộ, nhưng là những người mà Nhà nước Bảo hộ không có đủ chứng cứ để có thể đem ra xử và kết án. Cách làm này thực dân Pháp học được của phát xít Đức. Trại an trí hay là "căng" (camp), theo cách gọi thời ấy, chẳng qua chỉ là một cái tên khác của trại tập trung (camp de concentration). Có nhiều "căng" cho tù chính trị, nhưng bố tôi sẽ bị đi "căng" nào thì chưa biết. Tạm thời, ông bị giam tại Hỏa Lò. Có nhiều người Hà nội chính gốc không biết lai lịch của Hỏa Lò. Phần nhiều chỉ biết nó là nhà tù, nó ở đâu, và chỉ thế thôi. Tôi biết Hỏa Lò quá sớm. Nó để lại cho tôi một ấn tượng nặng nề. Tên thật của Hỏa Lò là Lao Trung ương (Mai son Centrale). Cái công trình bằng đá hộc có bốn cạnh không đều này nằm lù lù giữa thành phố, bốn góc có tháp canh lính gác ngày đêm. Nằm sát bên nó là Tha Đại Hình, cách một con đường nhỏ. Tên Hỏa Lò là tên phố, đâu xưa kia ở phố này có nhiều cửa hàng bán Hỏa Lò đất. Nhưng cái tên phố được dành cho nhà tù lại gợi nghĩ đến một cái gì đó thiêu đốt, hành hạ bằng lửa, bằng sức nóng của thứ bếp rừng rực than hồng. Những người đã từng ở bên trong Hỏa Lò nói rằng bốn bức tường đá giăng quanh bị mặt trời hun nóng ban ngày, ban đêm tiếp tục nhả lửa vào các xà lim cá nhân tối tăm và ngột ngạt. Về mùa đông, Hỏa Lò tắt ngấm khí đá lạnh thấu xương. Nghe nói Hỏa Lò được xây dựng cùng thời với Nhà Bưu Điện, Đồn Thủy và các trại lính trong khu thành cổ. Nghĩa là khi có tín hiệu báo động, lính thủy và lính bộ của thực dân Pháp sẽ từ các trại lính xông ra đàn áp các cuộc nổi dậy, bắt được ai thì bỏ vào Hỏa Lò. Thật là tiện. Để được thăm bố tôi, mẹ tôi và tôi phải dậy sớm chầu chực ở chân tường bên phải cửa vào, sát đường Hàng Bông Thợ Nhuộm. Đến giờ vào thăm tù sẽ có một thầy ký ra gọi tên. Thầy ký này có vẻ mặt và dáng dấp trịnh trọng không lẫn vào đâu được, đến nay tôi còn nhớ rõ. Gầy và xanh, vận com-lê trắng, nếp là thẳng tắp, đeo kính trắng, đi đứng khụng khiệng, ông ta cao giọng gọi tên từng người được vào thăm tù theo cách riêng của ông ta: - Le Đin Khoi! - Tran Van Bik! - Nguyen Thi Mai! Cái lối gọi lơ lớ theo tiếng Pháp, không có dấu, của thầy ký làm cho nhiều người lầm lẫn. Đám đông lộn xộn hỏi nhau, quát gọi í ới, rồi bỗng ai đó chợt nhận ra người ta gọi đích tên mình chứ không phải người khác, vội tất tưởi chạy về phía cổng. Để vào tới chỗ thăm tù, chúng tôi phải qua ba lần cửa. Không kể lần cửa ngoài cùng, bên dưới vòng cung đắp nổi hai chữ MAISON CENTRALE, còn có một cửa sắt thưa, rồi một cửa sắt nữa, nhỏ hơn, dẫn vào một hành lang quét vôi xám. Rẽ sang trái, chúng tôi rơi vào một căn phòng tối mờ, ban ngày cũng phải thắp điện. Những người đi thăm tù ngồi đợi ngao ngán trên những ghế dài. Chỗ gặp là một tấm lưới thép chạy dài ngăn căn phòng thành một phòng nữa nhỏ hơn. Bên tấm lưới ấy, những người nhà pha (người tù) nói chuyện chõ ra với người nhà. Những mẩu đối thoại ngắn ngủi, tiếng gắt gỏng của những viên giám thị, tiếng đàn bà khóc nức nở, tất cả làm thành một tiếng ồn không dứt. Nền xi măng giội lên trần cao một lần nữa tiếng chân người sàn sạt, tiếng thì thào tiếng ho bị bịt lại của những người đang nóng ruột chờ tới lượt mình. Tất cả những cái đó đè nặng lên tôi. Tôi chỉ muốn mau mau thoát ra khỏi căn phòng này để tới với khoảng không rực nắng và thoáng đãng ngoài kia. Thậm chí tôi quên cả nỗi nhớ thèm được gặp bố, chỉ mong sao cho cuộc đi thăm này sớm kết thúc. Bầu không khí ngột ngạt làm cho đầu tôi váng vất. Sau nửa giờ chờ đợi, tôi nghe thấy một giọng hách dịch và lạnh tanh kêu tên bố tôi. Mẹ tôi đứng bật dậy, lật đật chạy tới tấm lưới thép, tôi chạy sau. Từ trong cửa ngách, bố tôi xuất hiện, mặt hốc hác, râu tua tủa nhiều ngày không cạo. Nhưng bố tôi cười. Trong những phút hiểm nghèo, những lúc khó khăn bao giờ bố tôi cũng cười, nụ cười làm cho người nhìn thấy yên lòng. Tôi đứng bên mẹ, ngẩng đầu lên nhìn bố. Nói chuyện với mẹ, bố thỉnh thoảng lại nháy mắt với tôi, có ý nói tôi đừng buồn, bố vẫn biết có tôi đứng đấy, nhưng vì có chuyện quan trọng phải nói với mẹ đã, cho nên bố chưa có thời giờ nói với tôi. Tôi hiểu, bố mẹ tôi dành những phút gặp gỡ hiếm hoi này để thông tin cho nhau những điều mà bên ngoài hoặc bên trong nhà tù cần phải biết, những chuyện khác chỉ là bề ngoài, để che giấu câu chuyện chính. Viên giám thị già, tay chắp sau lưng, đầu hơi cúi, đi đi lại lại dọc theo tấm lưới thép. Bên trong, sát chỗ bố tôi đứng, một viên giám thị khác, mập lùn, vẻ mặt ngán ngẩm, ngồi trên ghế tựa, luôn đổi chân vắt lên nhau và ngáp vặt. Chung quanh, những người đến lượt gặp người nhà nói chuyện nhao nhao cùng một lúc. Phần lớn tù được ra gặp người nhà là thường phạm. Có thể phân biệt được hai loại tù: chính trị phạm có dáng trí thức, phong thái đĩnh đạc. Thường phạm không thế - trong họ dấu ấn nguồn gốc bình dân rất rõ. ở góc xa có một chính trị phạm đang nói chuyện với mẹ. Tôi nhìn thấy bà cụ tóc bạc phơ này từ khi đứng đợi ở bên ngoài, rất sớm. Rồi cũng đến lúc mẹ tôi nhấc tôi lên cho tôi nói chuyện với bố. Tôi nhìn thấy bố rất gần. Mặt hai bố con gần chạm nhau, chỉ cách có tấm lưới. Bố tôi gầy quá, bây giờ tôi càng thấy rõ. Lưỡng quyền nhô cao, mắt trũng sâu, đôi môi khô, nứt nẻ. Chắc chúng nó đã tra điện bố tôi. Và ông đã rứt đứt cúc áo cắn chặt giữa hai hàm răng để khỏi cắn vào lưỡi. Những câu chuyện về mật thám tra điện thế nào tôi đã được nghe. Chỉ cần nghiến chặt răng chịu đựng cho tới khi ngất đi là xong, những người từng bị tra điện nói thế. - Mẹ sẽ vất vả lắm đấy, con hiểu không? - bố tôi nói, giọng xúc động. - Con hiểu ạ. - Con lên bảy rồi, con đã lớn. Bố định nói tiếp điều gì, rồi lại ngập ngừng. - Con sẽ chăm học. - tôi vội nói cho bố yên lòng. - ừ, con phải chăm học. Nếu con học dốt, bố sẽ buồn. - Con sẽ không chành chọe với các em. - Phải chiều các em, bởi vì chúng nó bé hơn con. - Vâng. Viên giám thị mập lùn đứng lên, ngáp một cái dài. Rút trong túi áo cái đồng hồ quả quít mạ bạc bóng loáng, ông ta bật nắp, nheo mắt lại để đọc giờ, rồi đậy nắp lại đánh tách: Hết giờ! Cánh cửa ghi-sê được mở ra cho mẹ tôi chuyển quà vào. Mẹ tôi đột ngột ôm chặt tôi, đút vội tôi qua ghi-sê. Tôi chỉ giãy mạnh chân một cái là đã nằm gọn trong vòng tay bố. Ông ôm ghì lấy tôi, hôn khắp mặt. - Ê, bỏ ra, không được phép! Bố tôi hôn tôi lần cuối, và đút tôi trở lại. Viên giám thị già giằng bố tôi ra xa ghi-sê. Đôi lông mày rậm như hai con sâu róm của ông ta cau lại. - Con về ở với cô Gái phải ngoan, con nhé! Bố tôi dặn với. Đó là điều bố ngần ngừ mãi mới nói được với tôi. Chắc chuyện này bố đã bàn với mẹ, nhưng tôi không nghe thấy. Mà cũng có thể ông chỉ nói quyết định của mình, đến lúc ấy mới nói ra. Không phải quyết định nào ông cũng bàn với vợ, tính ông thế. Quyết định của bố làm tôi choáng váng. Mẹ tôi ôm chặt tôi, mắt đỏ hoe. Bố tôi đi về phía cửa nách. Ông ngoảnh lại mất lần, kiễng chân lên để nhìn chúng tôi cho rõ hơn. ở cửa, ông dừng lại, đưa tay lên vẫy, gật đầu và mỉm cười. Một giọng hách dịch vang lên gọi tên một người nào đó. - Con về ở với cô Gái phải ngoan, con nhé? Trong đầu tôi văng vẳng câu nói của bố. Ngoài trời, nắng lóa mắt. Tôi bước theo mẹ, nhưng không còn thấy sung sướng được bước ra khỏi căn phòng tối mờ và ngột ngạt của Hỏa Lò như ít phút trước tôi còn ham muốn.      

Miền Thơ Ấu

 Vũ Thư Hiên

III

Hồi ký

Cô Gái là chị cả của bố tôi. ở trong họ tôi có lối xưng hô như vậy, chị của bố được gọi bằng cô. Đó là một người đàn bà dường như chưa bao giờ trẻ; đối với tôi, bà vĩnh viễn già kể từ khi tôi gặp. Vóc người cao lớn, xương xẩu, dáng đi thẳng đuột, bà có bộ mặt quàu quạu, cái nhìn chê bai và soi mói, giọng nói lạnh lùng. Bà ở nhà quê, thỉnh thoảng mới lên thăm các em trai ở Hà nội. Một hai năm một lần, bà xuất hiện ở nhà tôi với thúng quà đội trên đầu, bao giờ cũng vẫn những thứ ấy: bột sắn dây, trứng cáy, rượu bách nhật làm bằng nếp cẩm, gạo tám thơm, bánh quế, bánh đa khoai... Bà không mua một thứ gì trong những món quà cố hữu ấy, tất cả do bà làm lấy bằng sản vật thu hoạch từ ruộng nhà vườn nhà, là những thứ mà các em của bà đã quen hương quen vị từ thuở còn thơ. Những ông em đứng tuổi nem nép trước bà chị xét nét, các bà vợ ra sức chiều chuộng bà chị chồng lạnh lùng không bao giờ bỏ lỡ dịp chứng tỏ cái quyền uy gia trưởng mà bà mang giữ. Lũ cháu chúng tôi thích quà của bà, nhưng không yêu bà. Mà bà cũng chẳng quan tâm đến chuyện chúng tôi có yêu bà hay không. Đối với bà, con của các em là cháu bà, thế thôi. Một khái niệm không hàm cảm xúc. ở quê lên bà vẫy chúng tôi lại, gọi to tên từng đứa như tự nhắc mình cho khỏi quên, lẩm bẩm học những tên mới của những đứa cháu mới ra đời, ban phát quà bánh rồi lập tức quên bẵng, chẳng ngó ngàng tới chúng tôi nữa. Bà không biết tin đứa em út của mình ở tù. Bà chỉ được tin sét đánh khi mẹ tôi dẫn tôi về quê. - Giê-su, lạy Chúa tôi? Bà kêu lên và từ trong hai hố mắt sâu của bà lăn ra hai giọt lệ đục. Bố tôi là đứa em trai mà bà yêu quí nhất. Khi mẹ tôi nói lại quyết định của bố tôi cho tôi về ở với bà thì cô Gái tôi lau nước mắt và nhìn tôi bằng cặp mắt ráo hoảnh như thể bà không hề khóc một phút trước đó. Tôi đọc trong mắt bà sự do dự, sự suy tính. Rồi ánh mắt dịu đi, bà nói: - Thím cứ để nó cho tôi. Mẹ tôi kể cho bà nghe những tội của tôi ở Hà nội. Bà nghe với cái nhìn xa vắng. - Tôi sẽ trị cho nó bằng ngoan. Bà vẫy tôi lại gần, đặt bàn tay xương xẩu và lạnh giá lên đầu tôi. Mẹ tôi rơm rớm nước mắt từ biệt tôi. Sự vắng mặt người đàn ông trụ cột trong gia đình buộc mẹ tôi phải tuân theo quyết định của bố tôi. Tôi là một đứa trẻ hiếu động, bướng bỉnh và tôi luôn luôn gây ra tội lỗi. Lúc thì chành chọe với em, lúc thì đánh nhau với trẻ con hàng xóm, đi học thì mải chơi đánh mất cả dép lẫn cặp. Nói tóm lại, tôi làm mẹ tôi vất vả. Nhưng cái chính là đồng tiền trở nên khó kiếm, tôi cảm thấy điều đó qua những món ăn mỗi ngày một thêm đạm bạc, mà mẹ tôi thì ngoài việc kiếm sống nuôi các con còn có những công việc cách mạng của bà và những đồng tiền hiếm hoi chạy vào đó như chui vào một cái túi không đáy. Cô tôi phải do dự rồi mới quyết định nuôi tôi vì nhiều lý do. Trước đó, bà chưa bao giờ yêu tôi. Tôi đã nói, tôi chỉ là đứa cháu khái niệm của bà. Nhưng tôi là con của bố tôi, là cháu ruột của ông bà tôi, cho nên, như mọi đứa cháu khác, tôi cũng có quyền dự phần vào những gì mà ông bà tôi để lại ở trong làng, tôi cũng có phần ruộng công điền như mọi suất đinh khác và phần ruộng đó, tuy bé bỏng, nhưng đã nhiều năm cô tôi được hưởng. Vả lại, dù sao thì cũng còn dòng máu. Vì dòng máu đó, cô tôi phải nuôi tôi. - Thằng kia, lại đây. Cô Gái gọi tôi. Tôi rụt rè lại gần bà. Tôi không lại với bà như cách tôi đã lại với bà ở Hà nội, trong nhà tôi, khi bà lên thăm và cho quà. Còn bà, bà nhìn tôi xa lạ, soi mói, phán xét, như nhìn một con vật vừa mua. - Mày đã đi lễ bao giờ chửa? - Thưa cô, chưa ạ. Tôi đáp lí nhí trong họng. - Hỏng! - bà đặt tay lên vai tôi, bàn tay như được đúc bằng chì - Hỏng? Tôi run lên. Tôi muốn tan biến đi để cặp mắt hoay hoáy như hai mũi dùi nhọn không còn nhìn thấy tôi nữa. Bố mày bỏ đạo, - bà thở dài - mẹ mày là kẻ ngoại giáo. Lạy Chúa tôi, nhà đạo gốc mà con cháu giờ ra thế vầy. Mày có biết tên thánh của mày là gì không? Tôi ngớ ra. Tên thánh, nó là cái gì? - Không biết hả? Tôi lắc đầu. - Mày phải nói: thưa cô, cháu không biết ạ! Rõ con nhà mất dạy. Nghe tao nói đây, mày đã được làm lễ rửa tội, vậy mày là kẻ có đạo, hiểu chửa? - Thưa cô cháu hiểu rồi ạ. - Tên thánh của mày là Giu-se? - Là Giu-se! - tôi nhắc lại, như máy. - Giu-se là thánh quan thầy cầu bầu cho mày phần hồn cùng là phần xác. - Thưa cô, vâng ạ. - ừ thế mới được chứ. Con nhà gia giáo, phải biết thưa gửi tử tế, khi nói với người trên phải khoanh tay lại (tôi vội vã khoanh tay), nhớ lấy, con nhà gia giáo chứ không phải con nhà cáo tha. Tôi không biết con nhà cáo tha nó thế nào, nhưng không dám hỏi lại, tôi đáp vâng. Người có đạo là con chiên của Chúa - bà nói, giọng đã dịu xuống, nếu để ý, bà sẽ thấy cả con chiên nữa tôi cũng không hiểu là con gì - Khi chết đi, Chúa sẽ rước lên Thiên Đàng ở cùng Chúa đời đời. Kẻ vô đạo sẽ sa Hỏa Ngục bị quỷ sứ móc mắt, cắt lưỡi, quay trên lửa, luộc chín trong vạc dầu, khốn nạn vô cùng. Mày ở đây với cô, cô dạy cho thuộc kinh bổn. Người có đạo phải siêng năng cầu nguyện cùng là xưng tội chịu lễ. - Thưa cô, vâng ạ. Đột nhiên, bà kéo tôi vào lòng. - Giê-su Ma-ri-a! Tội nghiệp cháu tôi. Tôi òa khóc. Cuộc sống của tôi trong ngôi nhà của ông bà nội tôi bắt đầu  

Miền Thơ Ấu

 Vũ Thư Hiên

IV

Hồi ký

Ngôi nhà của ông bà nội tôi là của các cụ tôi để lại. Trong ngôi nhà đó, dấu vết của các thế hệ nối tiếp nhau được ghi lại khá rõ. Trước hết, phải kể một gian lớn và một gian nhỏ bằng lim đen bóng, rất chắc chắn, theo sự dẫn tích của cô tôi, là ngôi nhà có từ đời kị. Đến đời cụ, từ gian nhỏ lại nối dài thêm ra ba gian nữa, cửa, vách đều bằng gỗ, nhưng thuộc loại xấu hơn, chóng hỏng hơn. Khi tôi về ở với cô Gái, ba gian này đã mọt nhiều, có cột đã bị mọt ăn ruỗng phần dưới, phải vá lại. ở bên ngoài vách, thời gian để lại một lượt mốc mỏng màu trắng xám, khi sờ vào nó để lại trên tay một thứ bột nham nháp. Ba gian này bây giờ không người ở, nhưng cô tôi vẫn giữ nếp sáng mở ra, tối đóng lại như khi ông bà tôi còn sống. Cô tôi có thói quen lên nhà trên (tức là ba gian tôi vừa nói tới) ngồi một lát trước khi trời tối. Bà ngồi im phăng phắc như một pho tượng, thỉnh thoảng lại lẩm bẩm khe khẽ, như thể bà tự nhắc mình điều gì đó, mà cũng có thể bà đang nói chuyện với những người vô hình, những người đã sống trong ngôi nhà này, nhưng không thể nào biết được bà nói gì và nói với ai. Ngôi nhà (giờ đây chỉ là một phần nhà) của kị tôi có một cái giường rộng mà chiều dài của nó chạy suốt một gian nhà gọi là giường gian. Một cái màn nâu mắc trên cái giường đó. Nó dài và cao, xứng với giường, được gọi là màn gian. Vài năm một lần, cái màn được tháo xuống, đem ra ao nhúng nước, dập cho hết bụi bẩn rồi lại treo lên như cũ. Trước khi bước lên giường gian phải leo qua một cái giường giát nhỏ vừa dùng làm bàn ăn, vừa dùng làm nơi tiếp khách, còn tối đến thì trở thành nơi cầu nguyện. Cầm lòng cầm trí đọc kinh, - tối cầu nguyện bắt đầu bằng lời xướng cao giọng của cô tôi - Đức Chúa Lời thương cho chúng tôi... Hai cô cháu tôi xếp bằng tròn trên giường giát, ngẩng mặt nhìn lên bức vách đối diện, trên đó có tượng Chúa Giê-su Chịu Nạn bằng ngà gắn trên thập giá bằng gỗ mun, ảnh Đức Mẹ Lái Tim, ảnh ông thánh Giu-se ẵm Chúa Giê- su Hài Đồng, và cứ ngồi như thế đọc kinh cho tới khuya. Những hình người im lìm làm tôi chán, vừa đọc kinh tôi vừa theo dõi cái con lắc bằng đồng đã han rỉ đưa qua đưa lại. Cái đồng hồ đã cổ lắm. Tuổi già làm cho nó luôn ngừng chạy. Muốn cho nó chạy lại phải nín thở nhẹ nhàng xê dịch nó một chút sang phải hoặc một chút sang trái, tùy theo thời tiết thay đổi, theo mùa và tùy theo cả sự trái tính trái nết của nó. Chỉ vì cái đồng hồ này mà cô Gái ngăn cấm mọi sự nô đùa của trẻ con, bà sợ bước chạy thình thịch của các cháu hoặc tiếng la hét của chúng sẽ làm cho cái đồng hồ bực mình mà đứng lại. Từ ngôi nhà của kị còn mọc thêm một nhánh nữa, nhánh ngang, nên được gọi là nhà ngang hay nhà dưới. Nó gồm ba gian cột xoan, vách đất tềnh toàng. ở đây, cô tôi đặt cối xay lúa. Công việc sàng sẩy được làm tại đây. Ngày mùa nó là kho chứa lúa, nơi vò lúa. Cối giã gạo cũng nằm tại nhà ngang nhưng ở ngoài hiên. Từ nhà ngang quặt sang trái có một gian tồi tàn hơn nữa là bếp, với những cột soan cong queo. Bếp nối dài thêm một chái dùng làm chuồng lợn, là một cái cũi lớn bằng thân cau ghép. Tôi tả dài dòng ngôi nhà để bạn đọc thấy kiến trúc nhà ở vào thế kỷ trước đầu thế kỷ này rất thực dụng và tùy tiện. Tất nhiên, trừ nhà giàu. Ngày thứ hai của cuộc sống ở nhà quê của tôi, tôi được cô Gái dẫn đi xem nhà trên. Cuộc đi xem này, gọi là đi viếng thì đúng hơn, như về sau tôi được biết, là một nghi thức trang trọng và nhất thiết đối với con cháu. ở chính giữa nhà trên là bàn thờ Đức Mẹ. Hai gian bên kê hai cái giường rất hiếm khỉ có người nằm. ở hai cột ngăn bàn thờ và hai giường là một đôi câu đối, bên trên bàn thờ là một bức hoành phi, những chữ nho mạ vàng đã mờ. Bên dưới bàn thờ là một cỗ hậu sự sơn then. Trước bàn thờ là bộ tràng kỷ, trên mặt bàn còn để nguyên chiếc điếu bát và bộ đồ trà của ông nội tôi. Bàn thờ Đức Mẹ là một tủ nhỏ hình hộp có cửa kiểu "gô-tích" sơn son thếp vàng, che bằng một mảnh nhiễu đỏ. Dừng lại trước bàn thờ với nét mặt rất thành kính, cô tôi làm dấu thánh rồi mới trịnh trọng vén bức màn nhiễu lên. Từ bên trong hơi tối, một người đàn bà châu Âu tóc vàng, mắt xanh, vận áo dài thêu kim tuyến, ẵm đứa con trai kháu khỉnh nhìn xuống chúng tôi. Cúi sát xuống mặt tôi, cô Gái thì thào: - Cháu có biết ai đây không? Không suy nghĩ, và cũng muốn vội vã khoe hiểu biết của mình để chiều lòng cô, tôi nói ngay, rất vui vẻ: - Con mẹ đầm. - Lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng! Như bị một cái tát thẳng cánh, cô tôi bật ngửa, bà kêu lên một tiếng gọi Chúa thảm thiết, mặt trắng nhợt, con ngươi chực nhảy ra khỏi tròng. Tôi lạnh toát người, run lẩy bẩy trước hậu quả của việc làm dại dột. - Quân vô đạo! - cô Gái rít lên khi tỉnh trí lại, bà thẳng tay cốc cho tôi một cái trời giáng - Lu-xi-phe! Báng bổ! Người đàn bà, chính là Đức Mẹ Ma-ri-a mà trước đó tôi chưa được hân hạnh làm quen, dửng dưng nhìn cuộc trừng phạt diễn ra dưới chân mình. Cô tôi quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực, thành kính và van nài nhìn lên Đức Mẹ. - Xin Đức Mẹ lòng lành tha tội cho con trẻ. - bà khấn khứa, giọng đẫm nước mắt - Nó không được dạy dỗ nên trót dại báng bổ. Con xin Đức Mẹ khoan thứ, con xin gìn giữ phần hồn cho nó để nó khỏi sa chước quỷ dữ. Chắp tay lại thằng quỷ kia! Quỳ xuống. Nói: xin Đức Mẹ lòng lành tha tội cho con cùng? - Xin Đức Mẹ lòng lành tha tội cho con cùng. Tôi lí nhí lặp lại lời dạy của bà. Bà bắt tôi nói to hơn. Tôi cố nói to hơn, nhưng vẫn chưa đủ to như bà muốn. Tôi phải nhắc lại tới lần thứ ba. Chưa nguôi giận, cô Gái hầm hầm túm tóc tôi đẩy tới trước bức vách ngăn với phòng bên, trên đó dán la liệt những bức tranh mộc bản lòe loẹt. - Nhìn vào đây này, quân vô đạo, con cháu của Lu-xi- phe, của Sa-tăng! Hỏa ngục đấy. Quỷ sứ đấy. Kẻ nào sống phạm nhiều tội trọng, chết sẽ sa Hỏa ngục, bị nấu trong vạc dầu, chịu cho quỷ sứ phân thây... Những thằng quỷ sứ đen sì, mắt trắng dã nhìn tôi. Chúng có sừng như sừng dê, thay vào bàn chân, chúng có móng như móng ngựa. Với những chiếc đinh ba nhọn hoắt, chúng lôi xềnh xệch những con người trần truồng ném vào vạc dầu, chúng dùng mã tấu chặt chân tay những người nằm sấp trên mặt đất. Một thằng quỷ sứ hung tợn túm tóc một người nằm trên giường, miệng kẻ bất hạnh há hốc trong tiếng gào câm lặng. - Đây là kẻ mắc tội trọng, lúc sống ăn ở bất nhân, đến giờ lâm tử bị quỷ đến kéo xuống Hỏa Ngục. - cô tôi, giọng hăm dọa giải thích - Còn đây là kẻ dối trá, lọc lừa, bị chúng quỷ lấy kìm cặp lưỡi kéo ra, đoạn lấy dùi nung đỏ xiên vào. Tôi rùng mình. Cô Gái tiếp tục dẫn tích một cách ngon lành. - Mày đã thấy sợ chưa? - cô hỏi tôi sau khi kết thúc buổi đi thăm Hỏa ngục. - Thưa cô, cháu sợ rồi - tôi vẫn còn run rẩy, đáp. - Mày còn biết sợ là tốt - giọng cô Gái dịu xuống, mặt bà hiện lên vẻ hài lòng - Phải ăn ở như Chúa dạy "Hãy thương yêu người ta như mình vậy". Phải siêng năng cầu nguyện hàng ngày cùng là xưng tội, chịu lễ. Như vậy Đức Mẹ lòng lành chẳng cùng sẽ che chở cho. Người là thánh quan thầy của xứ đạo ta, trong nhà ta. Người là Rất thánh cầu bầu cho ta. Quỷ, chúng nó chẳng làm gì được người ngoan đạo sất. Người ngoan đạo là con chiên của Chúa, chết đi được Chúa rước lên nước Thiên Đàng sáng láng vô cùng... Bài giảng bằng giọng đều đều của cô tôi kéo dài cả giờ. Tôi mệt rũ. Tối đến, bà gọi tôi đi theo học cách đóng cửa nhà trên. Công việc này kể từ nay bà giao cho tôi. Cùng với những cánh cửa đóng lại, căn nhà mỗi lúc một tối thêm, cái căn nhà lạnh lẽo và mốc thếch trong đó có những con quỷ dữ tợn gớm ghiếc đang hành hình lũ người không còn sức chống cự và một con mẹ đầm hiền lành nhưng xa lạ mà tôi phải kính trọng tên là Đức Mẹ. Tôi ngồi một mình ngoài thềm. Cô Gái thổi cơm ở dưới bếp. Những tàu cau in nét sắc như cắt lên nền trời hoàng hôn đang ngả dần sắc tím. Những cánh chim hối hả bay về Không biết tôi còn phải sống bao lâu nữa trong ngôi nhà hoang vắng này với bà cô cổ quái của tôi? Không ai có thể trả lời cho tôi câu hỏi đó. Tôi muốn khóc. Sau bữa cơm, cô tôi thắp đèn lên, đặt tôi ngồi cạnh bà. - Lạy Cha chúng tôi ở trên lời, chúng tôi nguyện danh cha cả sáng nước. Cha trị đến, vâng ý cha dưới đất bằng trên lời vậy... - Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Lời cầu cho chúng tôi khi nay và trong giờ lâm tử. A-men. Cô tôi đăm đăm nhìn lên tượng Chúa, đọc kinh cầu hàng ngày, tôi lẩm nhẩm đọc theo để học. Mỗi lần thấy tôi đọc quá khẽ, bà lấy đầu gối huých tôi một cái. Tôi xếp chậu bằng tròn nhìn lên cái quả lắc đung đưa phản chiếu lửa đèn nhợt nhạt, mắt díp lại từng chặp, cố ngồi cho hết những bài kinh cầu nối nhau dài dằng dặc, tôi chìm vào trong tiếng rì rầm đều đều và buồn bã, đoạn đầu cao và rõ, đoạn sau thấp dần, mờ đi tới mức chẳng còn tiếng gì ra tiếng gì, trong tiếng tích tắc mệt mỏi của cái đồng hồ già lão, trong tiếng mọt nghiến gỗ cần cù. Bóng tối dày đặc vây quanh căn nhà của hai cô cháu, nơi những con quỷ đen đang rón rén đi lại, rình mò. Một con cú thỉnh thoảng lại rúc lên một tiếng buồn thảm ở đâu đó rất gần và rất xa. Vẳng đến tiếng ken két của những thân tre cọ mình vào nhau. Cô Gái tần tiện vặn nhỏ tim đèn xuống cho tới khi nó chỉ lớn không hơn con đom đóm. Ngọn đèn leo lét ngọn lửa xanh yếu ớt, không chiếu sáng được cho chính nó. Bóng tối lập tức luồn qua những khe cửa vào tới tận chân đèn. Tôi lẳng lặng theo cô tôi chui vào trong cái màn rộng và tối om.  

Miền Thơ Ấu

 Vũ Thư Hiên

V

Hồi ký

Những ngày đầu ở quê hương, tôi nhớ mẹ thì ít mà nhớ bà thì nhiều. Bà đây là bà ngoại, tôi không biết mặt bà nội. Nói tới bà nội, tôi hình dung ra cô Gái. Tôi nhớ bà ngoại nhiều như thế có lẽ vì bà là hình ảnh tương phản của cô tôi. Cô tôi trông ác bao nhiêu thì bà ngoại tôi trông hiền bấy nhiêu. Bà ngoại ở với bác Cả, anh ruột mẹ tôi. Thỉnh thoảng, bà đến chơi với chúng tôi. Đối với chúng tôi những buổi bà đến chơi thực sự là những ngày hội. Bà vừa bước vào nhà là sự vui vẻ vào theo. - Các cháu yêu của bà đâu nào? Lại đây với bà nào? - Bà ngân nga, giọng êm nhẹ và ấm, nếu sờ được giọng nói của bà chắc hẳn nó phải mượt như nhung - Lại đây nào! Chẳng cần bà gọi thêm, chúng tôi nhìn thấy bà đã chạy ùa lại, xô đẩy nhau ôm chặt lấy bà. Bà giang tay ôm chúng tôi vào lòng rồi lại đẩy chúng tôi ra xa hơn để ngắm nghía. Bà không hôn chúng tôi mà lấy đôi tay ấm áp vuốt ve chúng tôi, cười với chúng tôi, nụ cười hồn nhiên và phúc hậu, phô hàm răng đen nhưng nhức. Rồi bà đứng lên đi những bước chậm chạp và lúng túng vì vướng chúng tôi, đến bên giường, ngồi xuống. Ngày hội của chúng tôi bắt đầu. - Bà ơi bà, bà kể chuyện, bà nhá? - Bà ơi bà, bà ở đây thật lâu, bà nhá? - Bà đừng về, bà dẫn chúng cháu đi chơi với bà. Chúng tôi nhao nhao. Chúng tôi vòi bà đủ thứ. Bà cười. Bà bằng lòng tất. - ừ, rồi bà kể chuyện, bà ở đây lâu với các cháu, rồi bà dẫn các cháu yêu của bà đi chơi. Không có người lớn nào đến nhà chỉ cốt đến với chúng tôi, để chơi với chúng tôi. Thường những người lớn đến nhà chúng tôi vì họ có việc cần phải đến, họ đến với bố mẹ chúng tôi, và chỉ khi nào công việc đã xong xuôi họ mới xoa đầu chúng tôi vài cái, bông lơn vài câu ngô nghê mà họ tưởng là hợp với trẻ con lắm để tỏ ra mình yêu trẻ. Nhưng trẻ con tinh lắm, chúng tôi biết ai yêu chúng tôi thực lòng, ai làm ra vẻ yêu chúng tôi. Người già có sắc đẹp của người già. Bà ngoại tôi là một bà già đẹp, theo cách đánh giá thời bấy giờ. Mặt bầu bĩnh, phốp pháp, hợp với tuổi, cổ cao ba ngấn rõ rệt, đôi mắt hiền từ, tuy tuổi cao mà vẫn đen láy chứ không mờ đục, bà tôi có gương mặt mà người ta gọi là phúc hậu. Tôi yêu cái nhìn của bà ngoại, cái nhìn rất dịu dàng, rất âu yếm đối với tất cả Thậm chí con Ki-ki, bạn thời thơ ấu của tôi, con chó trắng và đen thấp bé, mỗi khi bà tôi đến cũng rít lên, vặn vẹo cả thân, cả đuôi, như nhảy điệu chào mừng độc đáo của riêng nó, chen lấn chúng tôi để tới với bà, chờ được bà nhìn tới, hỏi nựng nó một câu, vuốt nó một cái. Bà ngồi trên giường với chúng tôi, con Ki-ki thì nằm dưới đất hóng lên bằng cặp mắt ganh tị. Bà ngoại tôi có cả một kho chuyện để kể cho trẻ con, nhiều nhất là chuyện cổ tích. Một số truyện thơ bà kể ngân nga, câu chuyện trở thành một dòng sông thanh bình, những chữ trôi trên dòng sông đó dần dà gắn kết với nhau thành người, thành cảnh, thành cảm xúc. Đàn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa dưới hang mà về Đàn kêu hỡi Lý Thông mày Cớ sao bội nghĩa lại rầy vong ân Đàn kêu sao ở bất nhân Đã ăn quả lại quên ơn người giồng... Những nhân vật trong chuyện cổ tích của bà tôi sống động đến nỗi tưởng chừng họ có thật, họ đang ở đâu đó, không xa nhà chúng tôi lắm, chúng tôi có thể đến chơi với họ nếu như bà tôi hoặc mẹ tôi bằng lòng dẫn chúng tôi đi. Nhưng chúng tôi không gặp được họ, vì chúng tôi còn nhỏ quá, đi bộ nhiều chúng tôi sẽ mỏi chân. Tôi tin chắc rằng nếu chẳng may tôi có đụng con đại bàng hung dữ hoặc con chằn tinh gớm ghiếc thì anh Thạch Sanh dũng cảm và hồn hậu nọ sẽ chạy tới ngay để giải thoát cho tôi, chính cái anh Thạch Sanh nghèo khổ chỉ có manh khố che thân và cây cung thần kỳ. Cô Tấm tốt bụng mà gặp chúng tôi thì thế nào cô cũng dắt chúng tôi vào cung, nơi cô sống với chàng hoàng tử trung thành, ở đó cô sẽ cho chúng tôi xem các tòa lâu đài đẹp đẽ cho chúng tôi ăn rất nhiều mứt và kẹo. Về khoản mứt và kẹo thì bà tôi đoan chắc với chúng tôi rằng hoàng tử chẳng bao giờ thiếu. Bác Cả tôi có thời làm viên chức bưu điện ở phủ Điện Biên, cái huyện miền núi xa lơ xa lắc sau này danh tiếng lẫy lừng. Tất nhiên, bà tôi phải theo con trai lên đó. Cũng tất nhiên, bà tôi mang theo về xuôi đủ các thứ chuyện miền ngược, chuyện nào theo cách bà kể cũng mang máng chuyện cổ tích. - Nhà bà ở, chung quanh những núi là núi, các cháu ạ. - bà tôi bỏm bẻm nhai trầu, đôi mắt vời vợi nhìn về quá khứ - Nhấp nha nhấp nhô, cơ man nào mà kể. Sáng ra thấy núi, tối đến thấy rừng, cọp kêu à uôm, à uôm, buồn quá thể là buồn. - Núi nó thế nào hả bà? Em Phương tôi ngắt lời bà, hỏi. Nó chúa hay làm nũng, biết rồi vẫn cứ hỏi để bắt bà trả lời. - Núi hả? Nó to bằng mấy trăm mấy nghìn cái nhà này này, cơ mà toàn đá, cây cối xanh lét um tùm. - Còn con cọp? - Phương lại giật giật quần bà. - Cọp là con mèo rõ to. Lông cọp vàng, lại có vằn đen. - To hơn con Ki-ki nhà ta, bà nhỉ? - Hơn con Ki-ki là thế nào? - bà trợn mắt - Nó to nhiều. Bằng con bò kéo xe ngoài đường kia kìa! - Nó kêu thế nào hả bà? - Thế này này: "à uôm, à uôm, à uô...ôm?!!" Bà tôi nhại tiếng cọp. Phương cười ngặt nghẽo. - Im bà kể nào? Tôi quát Phương và thụi khẽ cho nó một quả. - Đừng bắt nạt em, - bà kéo tôi lại gần - Để bà kể cho mà nghe chuyện cái máy hát nhà bác Cả. Đó là cái máy hát chạy bằng cót, ống loa như miệng kèn tây bằng đồng mạ, có hình con chó ngồi chầu hẫu bên cái loa ấy, thứ máy bây giờ có lẽ chẳng còn ai biết tới. Để lên dây cót cho máy chạy phải khỏe tay, khi nào cót xổ ra gần hết thì bài hát vui nhất cũng trở thành rền rĩ, y như thể ca sĩ trong máy bị kiệt lực. - Dân ở trên Điện Biên ấy mà, các cháu ạ, họ không phải người Kinh ta. Gọi họ là người Thái. Có thứ Thái đen, có thứ Thái Trắng, cơ mà không phải da họ đen hay da họ trắng đâu, gọi thế là gọi theo màu quần áo của họ. Họ nói cứ líu lô líu lường, nghe buồn cười lắm - bà tôi cười, hàm răng đen bóng lên; chúng tôi cười theo bà, mặc dầu câu chuyện chưa có gì đáng buồn cười Ví thử họ nói "Chào bà, bà đi đâu đấy?" thì họ nói thế này (bà tôi nói một câu bằng thứ tiếng lạ tai làm chúng tôi lại cười khanh khách). Họ cũng nói được tiếng ta, cơ mà cứ lơ lớ lơ lớ, lắm lúc dỏng tai lên mà nghe chẳng hiểu được họ nói cái gì. Còn chuyện cái máy hát của bác Cả, nó thế này. Một hôm bác gái rỗi, mới vặn máy hát lên nghe. Vừa đúng lúc có mấy người Thái trắng đi qua đường, nghe máy hát i eo, họ mới xin vào xem. ờ thì cho họ xem, mình mất gì đâu Họ thì cái gì cũng lạ, cái gì cũng thích xem, cái gì cũng phải sờ mó, cũng phải hỏi. Mặc cho họ xem, bác gái mới chạy xuống bếp đun ấm nước, đang đun bỗng thấy cái máy hát câm tịt. Chạy lên thì thấy máy vẫn chạy, ờ a vẫn quay mà loa thì chỉ còn kêu ti tỉ ti tỉ. Quanh cái máy hát mấy người Thái, cả đàn ông lẫn đàn bà, đang há hốc mồm ra nghe, một ông lão thì cứ gục đầu xuống mà khóc, nước mắt dòng dòng... Bà tôi cười không thành tiếng, cả người run lên và một giọt nước mắt trong vắt chảy ra, lăn trên gò má hồng nhăn nheo. - Tại sao ông lão lại khóc hả bà? - chúng tôi chưa hiểu, nhao nhao hỏi bà. - Thế này, các cháu ạ. Chả là ông lão nghe cái máy nó hát, chẳng hiểu tai nghe thế nào mà lại thấy tiếng nó giống in giọng con trai ông ta vừa mới chết, thế là thương con, ông lão mới bù lu bù loa lên, rầm rĩ cả nhà. Có nắm xôi mang theo, ông ta đút luôn vào miệng loa, tưởng thế là cho con ăn, cái máy mới không hát được nữa. Đoạn cuối bà tôi kể bằng giọng đứt đoạn xen lẫn với tiếng cười không thể nào giữ lại, như tiếng nấc. Chúng tôi cười sằng sặc theo bà. Bà móc túi lấy khăn lau nước mắt. - Bà kể nữa đi bà! Xong rồi thì làm sao? - Còn làm sao! Bác gái phải moi bằng hết xôi ra, cái máy mới hát lại được. Thôi bà chả kể nữa, bà kể bà cười mệt cả người rồi đây này. Bà lạ thật, cười thì mệt thế nào được: chúng tôi cười cả ngày mà có bao giờ mệt đâu. - Bà kể chuyện con rồng đi? Tôi nhắc bà. Chuyện con rồng tôi đã nghe, nhưng lại muốn nghe bà kể nữa. - Bà kể cho cháu rồi đấy. Phương xuống đi, tê hết chân bà rồi đây này. Phương phụng phịu tụt xuống khỏi lòng bà. Nó ngồi thật sát vào bà, lấn cả chỗ của tôi. Tôi tức quá, chèn bật em ra để ngồi sát bà hơn nữa. Bà lườm tôi một cái rồi xếp chỗ cho cả hai anh em đều có phần. Tôi rất thích được bà cho ngồi lòng, nhưng bà bảo tôi lớn rồi, nặng bà. Tôi rất thích mùi của bà - đó là mùi thơm của quần áo sạch, mùi trầu không và mùi dầu cù là, tất cả quyện vào nhau làm thành cái mùi đặc biệt của bà, thanh sạch mà nồng ấm. - Bà kể nữa cơ, bà kể cho cả nhà! - tôi vòi, đưa tay lên sờ làn da nhăn nheo mát rượi nơi cổ bà. - ừ thì bà kể, - bà cầm tay tôi bỏ xuống - nhưng đừng sờ cổ bà làm bà buồn, bà có máu buồn. Đêm hôm ấy, các cháu ạ, trăng sáng như ban ngày. Trời thì nóng, ngột lắm, có dễ vào tháng bảy thì phải. Trên Điện Biên, các cháu ạ, mùa hè nóng ghê nóng gớm. Chỗ bà ở như cái lòng chảo, thành thử ắng gió lắm. Hôm ấy bà không làm sao ngủ được, tắm rồi mà vẫn như không, mồ hôi cứ túa ra lã chã, bà phải bắc chõng ra sân mà nằm cho mát. Nằm được một lúc thì thiu thiu ngủ. Bỗng tự đâu gió nổi lên đùng đùng, ngói trên mái nhà lạo xạo, lạo xạo, y như thể có con gì bò ở trên ấy. Bà mới mở mắt ra... Đến đoạn này bà ngừng lại, buộc chúng tôi phải nôn nóng chờ đợi, phải chú ý hơn nữa. - Bà ngỡ mình nằm mơ - bà ngả người ra, mắt chớp chớp nhìn lên, diễn tả lại - nhưng không phải, bà nhìn thấy bằng thật. Bà nhìn lên trời bà thấy... con rồng. Bà mở to mắt, sững sờ, như thể trong phút đó bà lại thấy con rồng lần nữa. Chúng tôi nhìn theo. Nhưng trên trần chỉ có một con thạch sùng đang rón rén bò lại gần một con bướm đêm. - Cha mẹ ơi, trông nó mới khiếp chứ, cái con rồng ấy. Tự thuở cha sinh mẹ đẻ, bà chớ hề nom thấy con gì giống cái con này, các cháu ạ. Mình nó to gấp mấy con trâu mộng, cơ mà dài, dài lắm, như thể con rắn, nhưng lại không phải là rắn hay là trăn, cũng chẳng có vẩy gì suất, cứ nhẵn thin thín. Nó bay tới đâu thì gió nổi lên tới đó, bụi mù mịt kín cả trời đất Mõm nó dài, có chân hẳn hoi mà chân lại lẫn với cánh... Người ta bảo: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng, nghĩa rằng to nhất là giống chim, con voi to là thế mà còn phải đứng hàng thứ tư, sau con cá, con rắn; cơ mà nhìn con rồng này bà chịu, không biết nó là cái giống gì? Rõ hình con rắn mà lại có vây, hay vây ấy là cánh chẳng hiểu... Chúng tôi há hốc mồm nghe bà kể. Tôi đã nhìn thấy con rồng bằng đá ở đền Hai Bà, nhưng con rồng của bà tôi, giọng bà tôi kể về nó, làm tôi sởn gai ốc. Tôi sợ con rồng bay trên bầu trời đêm ấy, và nhớ mãi câu chuyện về nó. Đoạn kết thúc câu chuyện về con vật bí ẩn bà tôi kể bằng giọng trang nghiêm như thể không phải bà đang kể cho mấy đứa cháu nhóc nhách của mình mà cho những người lớn. Tôi yêu bà ngoại cả vì lẽ đó. Bà đối xử với chúng tôi bao giờ cũng vậy, rất ngang hàng, y như thể bà bé bằng chúng tôi, hoặc chúng tôi lớn bằng bà. Đây không phải là nghệ thuật kể chuyện, như sau này, khi đã trở thành người lớn, tôi rút ra kết luận bằng vào kinh nghiệm bản thân. Đây là chuyện cốt cách tâm hồn, không học được, không bắt chước được. Mẹ tôi ngồi khâu, tủm tỉm cười nghe bà kể. Đến khi bà kể xong, mẹ tôi đặt đồ khâu xuống, nói với bà: - Làm gì có rồng, mẹ ơi? Mẹ kể thế các cháu chúng nó tưởng thật. Bà nguýt mẹ tôi một cái, bực bội: - Thì chính mắt tôi trông thấy mà. Dễ tôi bịa chắc? - ấy là con nói vậy - mẹ tôi vui vẻ nói bằng giọng lấy lòng - Nó là con gì không biết, nhưng khoa học bây giờ chứng minh rằng không hề có rồng. Nếu có, ít ra người ta cũng còn tìm thấy xương của nó. Các nhà khảo cổ đào được xương mọi giống vật đã sống trên trái đất vào những thời xa xưa, nhưng rồng thì không. Rồng chẳng qua là do trí tưởng tượng của con người ta dựng nên, mẹ ạ! - Khoa học! Vâng, các cô ngày nay tân thời lắm! - bà tôi sa sầm mặt - Các cô bây giờ ấy, các cô chẳng hơn mẹ mà thôi đâu, các cô còn hơn cả các cụ tổ nữa kia. Tôi về đây - Gớm, hơi tí là mẹ dỗi. - mẹ tôi lẩm bẩm, nói cách khác, đúng hơn, mẹ tôi phụng phịu - Biết thế con chẳng nói nữa. Bà tôi giận thật sự. Bà gỡ chúng tôi ra, hầm hầm vấn lại khăn, bỏ cơi trầu vào làn, rồi lẳng lặng bước ra cửa. Chúng tôi len lét theo sau. Cái khổ của trẻ con là thế. Trẻ con không dám công nhiên đứng về bên nào khi giữa người lớn có chuyện đụng độ. Mẹ tôi yêu bà tôi, sợ bà tôi, nhưng mẹ tôi tính bướng, đã thế cứ ngồi yên tại chỗ. ở ngoài đường, chúng tôi mới nhao nhao: - Bà ơi bà, bà đừng về, bà ở đây với chúng cháu. Bà ơi bà, bà chưa dẫn chúng cháu đi chơi mà. - Bà ơi bà, bà đừng đi, bà? Đến lúc ấy mẹ tôi mới chịu chạy ra, luống cuống giữ bà tôi lại bằng những lời xin lỗi ấp úng. Nhưng bà đã quyết về là về bà phẩy tay xua mẹ tôi quay trở lại. - Bỏ áo bà ra cho bà về nào. Mẹ các cháu hư, dám hỗn với bà, bà không ở nữa. Bà xoa đầu chúng tôi, gỡ tay chúng tôi ra. Bà vẫn chưa nguôi giận. - Bà đánh cho mẹ cháu một trận cho mẹ cháu ngoan, rồi bà ở lại với chúng cháu. Lời khuyên nghiêm trang của Phương cuối cùng đã làm bà phì cười. - Con ranh, ai lại đi xui bà đánh mẹ kia chứ? - bà véo yêu vào má Phương - Mẹ lớn rồi, bà không đánh nữa, bà đánh thì người ta cười. Mẹ mà còn bé ấy à, thế nào bà cũng cho một trận đáo để. Thôi, các cháu bỏ áo bà ra cho bà về. Rồi hôm khác bà lại với chúng cháu, bà nhá! - Bao giờ mẹ các cháu ngoan thì bà lại. Nhưng bao giờ mẹ cháu mới ngoan, ứ ừ, bà phải lại ngay cơ. - Hôm khác bà lại. - Hôm khác là bao giờ hả bà? - Mấy hôm nữa. - Lâu thế, mai bà lại cơ, mai cơ. - ừ để bà còn xem, bà rỗi thì bà mới lại được. Bà không được nói dối cơ, bà lại với chúng cháu, bà nhá? Chúng tôi mếu máo. Bà ngoại vẫy xe tay ngồi lên, tránh cái nhìn cầu khẩn của chúng tôi. Rõ ràng bà cũng chẳng muốn về, chỉ tại giận mẹ tôi nên bà mới về. Chúng tôi quay vào nhà, mặt nặng trịch. Đến lượt mẹ tôi tránh cái nhìn trách móc của chúng tôi Bà tôi lại đến với chúng tôi hôm sau. Bà không thể không đến, không đến thì bà nhớ. Chúng tôi reo ầm lên, vây chặt lấy bà. Bà ôm lấy chúng tôi thơm mỗi đứa một cái. - Bà dẫn các cháu bà đi chơi ngay bây giờ. Bằng lòng chưa nào? Có đứa nào lại ngu ngốc để không bằng lòng. Chị Tường mặc đồ diện cho chúng tôi. Mẹ tôi vui vẻ nhét vào túi bà một số tiền trinh, tiền xu. Đó là cái lệ. Chúng tôi lũn cũn chạy trước bà, nắm tay bà, bám vạt áo bà y như một lũ gà con theo mẹ. Tôi không thấy mấy ai đi chơi thật là đi chơi như bà tôi. Bà đi thong dong, thư thái, không một nét suy nghĩ gợn trên mặt. Bà nhìn mọi vật bằng con mắt âu yếm, như thể cái nhà nào cái cây nào, đám mây nào cũng là thân thiết đối với bà. Mọi vật dường như cũng vui mừng được đón bà, chúng niềm nở chào bà và được bà hồ hởi đáp lại. Cả hình hài, gương mặt, dáng đi của bà nói rằng dù bà có bận gì, dù bà có bận đến mấy, thì trong lúc này bà cũng mặc, bà nghỉ. Trong lúc chờ bà hàng bánh đa lật đi lật lại những tấm bánh mỏng lấm tấm vừng đang uốn éo phồng lên xẹp xuống trên những hòn than đỏ rục trong cái nồi đất vo, bà ngoại tôi tươi cười hỏi thăm bà hàng chuyện sinh sống, chuyện làm ăn, như thể với một người bạn lâu ngày mới gặp. Bà hàng hồ hởi bắt chuyện, than phiền chuyện này chuyện khác trong gia cảnh, kêu ca về nỗi bây giờ làm ăn chật vật, khi trao hàng lại thêm cho bà tôi một tấm bánh đa đường. Những tấm bánh đa ròn tan, ngon tuyệt, nhưng chúng tôi mỗi đứa chỉ được ăn một tấm thôi. Số bánh còn lại sẽ được dùng vào việc khác. Mấy bà cháu thủng thẳng đi từ phố Nhà Rượu qua Nghĩa địa Tây ra phố Huế. Vào thời bấy giờ ở phố Huế cứ đi một quãng ngắn là lại gặp ăn mày. Họ ngồi hai bên lề đường, sát chân tường, dưới những tủ kính choáng lộn hàng hóa với những hình nhân mặc quần áo đủ màu đủ kiểu kênh kiệu nhìn ra phố. Những người ăn mày quần áo tả tơi, có khi áo chỉ là một cái bao tải đục một lỗ thủng làm cổ với sợi dây chuối thay thắt lưng, đờ đẫn nhìn ra những chuyến xe điện đi ngang. Phần lớn là những người mù với chiếc khăn đỏ bạc phếch rách rưới từ trên trán rủ xuống che cặp mắt toét nhèm, đỏ ngầu hoặc mờ đục. Đi ngang họ là những toa tàu sơn đỏ, xinh xắn như thể chúng là đồ chơi của người lớn, vừa chạy vừa reo chuông vui vẻ, từ trên cần điện lóe lên ánh chớp xanh giữa ban ngày. Mùi thịt nướng của một gánh bún chả thơm lừng quyện trong khói bay mù trên phố. Khách bộ hành dửng dưng đi qua những cánh tay khẳng khiu xương xẩu chìa ra, chới với như muốn bám níu, những ngón tay đen đủi, cáu ghét giơ những cái đấu gỗ đã lên nước bóng huơ qua huơ lại. Giọng khàn khàn, rè rè, nheo nhéo, giọng đứt hơi như tiếng mèo ốm, những người ăn mày đủ mọi tuổi chờ đón, nài nỉ, đuổi theo họ: - Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại con cá nó sống vì nước, con sống vì ông vì bà... - Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay, xin ông xin bà thương con mù lòa đói khát, rón tay làm phúc... Nam-mô A-di-đà Phật, cứu một mạng người phúc đẳng hà sa, ông tu nhân, bà tích đức, thương lấy chúng con đui mù què quặt... Những bài bi ca của nỗi cơ hàn được đặt ra không biết tự thuở nào, nhưng được bộ lạc ăn mày đông đảo thuộc lòng, vang lên khắp nơi. ở bất cứ đâu những người ăn mày cũng gào lên đúng những bài ấy, cũng với những giọng ấy và tiết tấu ấy thỉnh thoảng mới thấy có đôi ba dị bản, mà những dị bản này cũng chỉ gặp được ở những người mới vào nghề hoặc trong lúc hết sức tuyệt vọng. Bà tôi dừng lại trước một người ăn mày. Móc túi lấy một trinh, hoặc một xu tùy theo cách mà bà cho là nên, bà tôi nhẹ nhàng đặt lên lòng bàn tay bẩn thỉu của người đó. Khi người ăn mày cảm ơn, bà tôi nói khẽ: - Mô Phật? Chúng tôi sung sướng nhận tiền của bà để đem đến cho những người ăn mày. Chúng tôi tranh nhau làm việc đó. Bà tôi nheo mắt lại, sung sướng nhìn theo lũ cháu mình xăng xái làm việc thiện. Bà cấm chúng tôi không được ném tiền xuống đất để bắt người ăn mày mù sờ soạng tìm, mà phải đặt tiền vào tận tay hoặc bỏ vào đấu, bỏ chứ không được ném. Bên cái chiếu rách của người ăn mày, thường có những đứa con của họ. Chúng bẩn thỉu, rách rưới chẳng khác gì bố mẹ, có đứa ở truồng tồng ngồng. Khác với bố mẹ chúng, những đứa con lười kêu xin; chúng đứng lặng lẽ, ngón tay trỏ trong miệng, mắt giương lên nhìn người qua lại. Đã đến lúc dùng đến những tấm bánh đa đường. Bà tôi giao bánh cho chúng tôi đem đến cho những người bạn khốn khổ. Chúng giằng ngay lấy khi chúng tôi vừa vươn tay về phía chúng. Những đứa trẻ giành nhau, đánh nhau, làm tấm bánh vỡ tan. Chúng liền xô đẩy nhau vồ lấy những mẫu vụn trên hè đút vào miệng, không cần thổi bụi. Nhìn cảnh đó bà tôi thở dài, đưa tiền cho chúng tôi mua thêm bánh. - A-di-đà Phật! Xin đức Phật đại từ đại bi phù hộ độ trì cho chúng sinh nơi bể khổ! Bà tôi thở dài, nhìn đi nơi khác và dắt tay chúng tôi tiếp tục buổi đi chơi của bà cháu. Mẹ tôi không đồng tình với lòng thương người của bà ngoại. - Cần phải có một xã hội khác để mọi người được sung sướng. Lòng thương đối với một số người, một ít tiền bố thí, như bà các cháu thường làm, đúng là muối bỏ bể. Đó là mẹ tôi nói với các bạn. Những người bạn mẹ tôi gật đầu tán thưởng. Bà tôi không nghe thấy, nếu bà nghe thấy bà sẽ giận lắm. ở nhà, bà ngoại kể cho chúng tôi nghe chuyện xưa kia Phật Thích Ca đã có lần giả hình dạng ăn mày để thử lòng người. Trong câu chuyện thú vị của bà, những kẻ ác bị Phật trừng phạt bằng quả báo nhỡn tiền, còn người tốt thì rồi trước sau cũng được hưởng phúc lớn. Câu chuyện của bà ngoại làm tôi nhìn những người ăn mày bằng cái nhìn e dè : biết đâu trong bọn họ lại chẳng lẫn vào một đức Phật Thích Ca trá hình  

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

VI

Hồi ký

Thành phố, bà ngoại, ngôi nhà nhỏ ở phố Nhà Rượu, các em tôi mẹ tôi, cả con Ki ki nữa... đã ở lại đàng sau, xa lơ xa lắc. ở đây nơi quê tôi, chỉ có cô Gái và tôi, không kể một con chó đen tên là Mực và con mèo già tên là Mướp; cả hai đều lảng tránh tôi, chúng không thích gần người. Thay vào những bài học của mẹ tôi dạy tôi, cô Gái bắt đầu dạy tôi học kinh bổn. Chẳng mấy chốc tôi thuộc làu (mà không hiểu được bao nhiêu) các kinh đọc hàng ngày, kinh ngắm các đường Thánh Giá. Những buổi rảnh rỗi, bà kể cho tôi nghe chuyện ông Nô-e đóng tàu để sống qua nạn hồng thủy, chuyện Đức Chúa Giê-su bị sa vào tay quân Phi-la-tô và quân dữ, sự tích các thánh. Trong số các bà già theo đạo mà tôi gặp, có dễ cô tôi đứng đầu về mặt am tường giáo lí, mặc dầu bà không biết chữ. Cô Gái biết tôi nhớ nhà, bà thương, nhưng lại lúng túng không biết làm thế nào cho tôi khuây. Bà cố nhớ ra những trò chơi trong thuở ấu thơ của bà để bày cho tôi chơi. Tiếc nỗi, những trò chơi của bà đâu có nhiều. Bà đập ruồi làm mồi cho kiến tha, giả cách như kiến làm đám ma ruồi, hai cô cháu đánh trống miệng thay cho nhà đám. Bà bắt những con bọ ngựa non cho chúng đấu kiếm, gấp thuyền giấy cho tôi thả xuống ao. Thường hơn cả hai cô cháu chơi trò câu công cống. Trên sân nhà tôi, sân đất, có vô vàn lỗ nhỏ. Nếu ta lấy nõn tre thả vào một lỗ rồi kiên nhẫn chờ thì sẽ thấy chiếc nõn tre động đậy khe khẽ. Rút nõn tre lên thật nhanh ta sẽ tóm được một chú công cống. Đó là một thứ sâu đất rất nhỏ, chỉ nhỉnh hơn que tăm, trắng nõn và yếu ớt vô cùng. Công cống không bám chắc vào được nõn tre; ra khỏi tổ là nó rơi xuống đất, nằm đứ đừ. Nằm một lúc thấy không có động tĩnh gì, công cống liền giãy giụa bò đi cho tới khi gặp một lỗ khác. Nó bèn chui tọt xuống lập tức, bất kể lỗ đó là của ai. Đáng ngạc nhiên là con công cống trong lỗ nọ không đánh nhau với nó để đuổi nó lên. Tôi đã hoài công chờ nhiều lần nhưng cái lỗ vẫn im phăng phắc. Chắc hẳn giống công cống không có ý thức về tài sản tư hữu, hoặc giả chúng giàu tình thương yêu đồng loại. Ngày xưa, - cô tôi vừa rãy cỏ trên sân vừa dẫn tích - hễ bố mày khóc là bà lại dẫn ra sân cho câu công cống, như hai cô cháu mình thế vầy. Bà ngồi đây, bố mày ngồi đây, hễ được con công cống nào là hai mẹ con lại cười rúc rích với nhau. Bố mày ngày xưa hay cười lắm, động thí là cười. Ai dè bây giờ khổ. Khốn nạn, không biết bao giờ em tôi mới được về? Bà đừng tay, thở dài. Mắt bà nhìn vào một điểm nào đó rất xa, vượt qua hàng rào dâu, vượt qua những mái nhà lè tè bên cạnh, vượt qua cả cái làng nhỏ bé quê hương. Bà nội hiền. Ông nội cũng hiền. Ông chiều bố mày vô cùng. Thấy bố mày tha thẩn một mình, có dáng buồn, là gọi vào nhà mở vò kẹo vừng cho một cái. Kẹo vừng ngày xưa to chứ không như kẹo vừng bây giờ. Thiên hạ mỗi ngày một điêu - kẹo gì bây giờ cũng bé hơn kẹo ngày xưa. Kìa, công cống nó cắn? Nghe cô tôi nói thì cái gì ngày xưa cũng to hơn bây giờ, đẹp hơn bây giờ, tốt hơn bây giờ. - Cháu được mấy con rồi? - Tám, cô ạ. - Chiều nay cô được có ba, cô không mát tay. Thôi, rãy cỏ với cô đi, tối rồi. Tôi vất đi những nõn tre còn lại, cầm lấy chép mai. Những con công cống câu được đã tìm đường chui xuống đất. Trò chơi của hai cô cháu tôi hoàn toàn vô tư. Không một con công cống nào bị giết. Cô tôi dạy tôi cách rãy cỏ của ông tôi - chỉ được đưa lưỡi chép mai lướt trên mặt đất chứ không được cày đất lên, có như vậy mới giữ được sân bằng phẳng. Trước khi đổ cỏ đi phải giũ đất cho bằng sạch, không được đổ đất đi cùng với cỏ. Ngồi bên tôi, cô Gái chậm chạp nhích từng bước. Chỗ nào cô đi qua, chỗ đó không còn sót một ngọn cỏ. - Khi ông còn sống - bà kể - nhà cửa cứ sạch như li như lau. Ai đi qua sân thấy cỏ mọc mà không cúi xuống nhổ lên, ông mắng. - Khách ông cũng mắng hả cô? - Bậy, ai lại mắng khách. ấy là nói người trong nhà. Hồi ấy, chứ bây giờ mỗi mình cô, chẳng sao dọn xuể - xong được góc này, góc kia cỏ đã mọc xanh rồi. - Bây giờ có cháu ở với cô, hai cô cháu dọn hàng ngày, cỏ chả mọc kịp đâu, cô nhỉ? - ừ bây giờ có thêm cháu, cũng đo... Hai cây hoa trà kia, cũng ông trồng đấy. Thấp thế mà hơn hai chục tuổi rồi. Cây trúc đào cũng ông trồng. Ông mang nó trên tỉnh về. Hồi ấy ông đi tỉnh luôn, chả ông phải đi cân thuốc mà. Ông chăm vườn tược lắm, cả nhà chẳng ai chăm bằng ông, đi đâu thì chớ, về đến nhà đã lụi hụi ngoài vườn. Vườn trước, vườn sau ông trồng đủ thứ: quít đấy, mít đấy, khế đấy một tay ông trồng ráo. - Cây sung nữa, cũng ông trồng, cô nhỉ? - Cây sung là cụ trồng. Ông còn sống, vườn trước này rặt hoa là hoa. Cả làng không nhà nào lắm hoa như nhà mình. Thế rồi ông mất, các bác, bố cháu đi ráo, chẳng còn ai chăm nom, cỏ mới át đi, hoa lụi sạch. Mình cô xoay xở, được vườn trước thì mất vườn sau... Vườn sau cỏ mọc dày. Một vạt tróc giong sống được với cỏ cũng trở thành hoang dại. Tôi có thể nấp trong đó để trốn cô Gái hàng giờ mà cô không tìm ra. Cô Gái đứng lên, quài tay ra sau đấm mấy cái vào lưng rồi đi vào thềm. - Nghỉ thôi, cháu. Hôm nay đủ rồi, cô mỏi. Tôi vào ngồi bên cạnh cô, hai cái chép mai đặt trước mặt. Cô Gái nhìn tôi rồi nhìn cái cột tôi dựa lưng. - Cái cột này ông tính thay mấy lần rồi mà chưa kiếm được cây gỗ nào ưng ý. Thế rồi ông mất, không kịp thay. Đó là cái cột già lão nhất trong hàng cột quân ở thềm. Tiếng là cột quân, nhưng nó lớn bằng cột cái của những ngôi nhà bình thường. ở chỗ tiếp với tảng đá mối đã đục gần ruỗng hết chân cột. Cô cũng tính thay nó đi, nhưng rồi lại thôi - Thay làm gì cô chết đi, liệu có ai về quê trông nom nhà cửa thay cô? Các bác không, bố mày không, chúng mày nữa, lại càng không. Nghĩ mà chán, con cháu hàng đàn hàng đống mà không một mống nào muốn ở quê để giữ lấy điền thổ, trông nom mồ mả tổ tiên. Bà kéo vạt áo lên lau nước mắt. Những phút ấy, tôi thương cô tôi lắm. Thực vậy, bà vất vả nhiều trong việc trông nom ngôi nhà các cụ để lại, bằng mọi cách níu lấy nó, không cho nó trôi tuột vào quá khứ, không cho nó mất đi dáng vẻ bề ngoài lúc ông bà tôi còn sống, khi chung quanh cô còn cả một đàn em huyên náo. Bà tủi thân khi thấy một mình bà phải cáng đáng công việc mà sức một người không thể làm xuể. Ngôi nhà mỗi năm một già, mọt đục ruỗng nó dần dần, mưa nắng và thời tiết thay đổi làm nó trở nên tiều tụy, rách rưởi, còn bà thì cứ chạy tới chạy lui chống đỡ cho nó. Bà bướng bỉnh lau quét, vá víu sửa sang, trong khi ý thức nói với bà rằng đó là việc làm vô ích, rằng bà bất lực, sức bà không thể đảm đương gánh nặng đó. Như người lính già cô đơn nhưng trung thành quyết bảo vệ đến cùng cái đồn ọp ẹp chống lại kẻ thù, cô tôi nghiến răng lại làm việc quần quật, không hề tiếc sức để giữ bằng được ngôi nhà cũ kỹ đã không còn cần thiết cho một ai. Đối với tôi ngôi nhà của ông bà là viện bảo tàng gia tộc Những cuộc đời đã chìm nghỉm trong dĩ vãng để lại dấu vết và bóng dáng của chúng trong mọi vật. Có những lúc tôi tưởng như tất cả những cái đã mất đi ấy sống dậy, thực sự sống dậy, nhưng đó là sự sống không tiếng động, mờ ảo, thấp thoáng, hệt như những câu chuyện của cô tôi. Những câu chuyện ấy thấm vào tôi từ từ, từng mẩu một, dần dà, để rồi làm lẫn lộn trong tôi cái thật trước mắt với dư ảnh quá khứ. Tôi nhìn thấy ông nội tôi, một ông già gầy gò nhưng quắc thước trong bộ quần áo trắng, đang nhàn tản dạo bước. Ông đi qua những bụi hồng, nhài, thược dược, qua mấy khóm hoa trà, ngắm cây trúc đào xanh tốt và dừng lại trước cây đại xương xẩu. Ông cúi xuống nhặt một bông đại rơi, đưa lên mũi ngửi mùi hương thanh sạch của nó. Trong nhà, các bác tôi ngồi gập mình trên những trang giấy bản, thỉnh thoảng lại chấm bút lông vào cái nghiên đá (giờ đây nó còn nằm lăn lóc dưới chân bàn thờ Đức Mẹ) nắn nót từng chữ tượng hình rối rắm. Bố tôi ngồi ngoài thềm, mặt ngẩng lên trời, ê a Tam thiên tự: - "Thiên - trời, địa - đất, tử - cất, tồn - còn, tử - con, tôn cháu, lục - sáu, tam - ba, gia - nhà, quốc - nước, tiền - trước, hậu - sau, ngưu - trâu, mã - ngựa, cự - cựa, nha - răng, vô - chăng, hữu - có... Bà tôi ngồi gần bố tôi. Bà bỏm bẻm nhai trầu, cạp lại chiếc rá rách. Những cuốn vở giấy bản của các bác tôi vẫn còn. Chúng được xếp thành chồng, buộc lại thành bó và cất trong hòm gian. - Bố mày chăm học, mà sáng dạ. - cô tôi kể - Kinh bổn cũng làu làu. Chẳng biết ma quỷ cám dỗ thế nào mà lại theo cộng sản? Giá như người ta, yên lành ở nhà giữ lấy cơ ngơi của các cụ có phải sung sướng không, đàng này... Tôi nín lặng. Tôi chưa hiểu nhiều thế giới của người lớn, nhưng tôi biết chắc một điều: bố tôi sẽ không nghe lời bà chị. Ông bao giờ cũng làm theo ý mình. Cô tôi thở dài, nhìn lên những đám mây. Chúng bay chầm chậm như bao năm trước chúng vẫn bay và chúng còn bay như thế khi bà không còn nữa. - Cháu sẽ ở với cô - tôi nói. Cô tôi mỉm cười buồn bã: - Thế thì cô mừng.            

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

VII

Hồi ký

Làng tôi theo đạo Thiên Chúa, hay đạo Ki tô theo cách gọi bây giờ. Cả làng theo đạo này, không trừ nhà nào, nên gọi là làng toàn tòng công giáo, để phân biệt với những làng mà dân lương dân giáo ở lẫn lộn gọi là xôi đỗ. Người làng tôi gọi làng mình là toàn tòng với vẻ hãnh diện. Người ta kể lại rằng vào đời cụ tôi, tức là khoảng nửa đầu thế kỷ thứ Mười Chín, vùng đất này đã chứng kiến cuộc tranh chấp dữ dội giữa hai thứ đạo: Thiên Chúa giáo và lương. Lương là từ chung chỉ cả người theo đạo Phật lẫn người chỉ biết thờ cúng tổ tiên. Khẩu mút-cơ-tông và hệ thống hành chính do thực dân Pháp lập nên đã giúp Thiên Chúa giáo thắng. Các nhà thờ gô-tích mọc lên như nấm trên châu thổ sông Hồng. Những kẻ chiến bại dè bỉu gọi những kẻ theo đạo là bọn "đi đạo kiếm gạo mà ăn". Trong một làng, những sự kiện lịch sử bao giờ cũng nhuốm màu truyền thuyết, còn những truyền thuyết thì lại tìm sự minh chứng cho tính hiện hữu của nó nơi các sự kiện lịch sử. Cũng theo các cụ già khọm trong làng kể lại thì cho tới đời ông tôi làng mới trở thành toàn tòng. Số đông người nhất định không chịu thỏa hiệp với tôn giáo mới lần lượt bỏ làng ra đi. Số yếu lòng ở lại, chịu theo đạo. Tuy nhiên, trong làng vẫn cứ còn Văn Chỉ, tức là miếu thờ Khổng Tử. Khi các bậc chức sắc tôn giáo đòi san bằng Văn Chỉ, nhiều bô lão đã chống lại. Ông tôi cũng ở trong số bô lão đó. Họ kéo nhau ra ngồi trước Văn Chỉ ngăn không cho những kẻ cuồng tín của đạo mới phá miếu. Nhưng họ chiếm số ít và yếu thế. Văn Chỉ bị san bằng. Chỉ còn lại mảnh đất ở ngã ba mang tên Ngã ba Văn Chỉ. Truyền thuyết nói rằng ngày Văn Chỉ bị đập phá và đốt trụi, trời u ám. Từ trong khói bay lên một hình người mang cân đai bối tử. Tiếp đó, mưa xuống rào rào rồi kéo dài tầm tã ba ngày. Trong ba ngày đó, người khởi xướng việc phá Văn Chỉ ngã bệnh, rồi chết, da xám ngắt như người thắt cổ. Ông tôi dạy chữ thánh hiền, xem mạch bốc thuốc, làm kẻ hàn sĩ cứu nhân độ thế. Ông gọi mọi người hợp sức làm lại những con đường lầy lội trong làng bằng cách lát những phiến đá hình chữ nhật, cái nọ nối với cái kia làm thành những con đường đá hẹp, đỡ hẳn cái nạn lội bùn. Ông khởi xướng việc lập hai nghĩa trang, gọi là Vườn Thánh. Trong hòm gian của cô tôi vẫn còn hai tấm bản đồ nghĩa trang với nét bút của ông tôi. Thế hệ ông tôi còn dính dấp nhiều với quá khứ lương. Quả chuông mà ông cùng các bô lão thuê thợ đúc để cúng vào nhà thờ giống hệt chuông chùa. Bây giờ quả chuông này được đặt trong nhà chung. Nó hiếm khi được lên tiếng. Người ta nói rằng tiếng của nó dài hai chục sải, nghĩa là nếu đánh chuông lên thì tiếng ngân của nó chỉ dứt khi hai chục người kịp dang tay đứng nối tiếp nhau lần lượt. Trên gác chuông nhà thờ bây giờ treo bộ chuông tây, gồm nhiều quả chuông to nhỏ khác nhau, khi kéo chuông chúng tạo thành một hòa âm gióng giả. Cô Gái tôi thì giáo hoàn toàn. Bà luôn khoe cái tính chất đạo gốc của gia đình, giữ kín việc bố tôi theo cộng sản và đang ở tù, là điều mà cả làng đều biết, nhưng cũng tảng lờ như không, vì lòng kính trọng đối với ông bà tôi và các bác tôi "làm quan" trên tỉnh, một ông làm thư ký tòa sứ, một ông làm thư ký cho luật sư Trần Văn Chương. Trên bàn thờ Đức Mẹ ở hai bên tòa có mấy cái hộp gỗ sơn son thếp vàng, mỗi cái to bằng cái gối mây. Một hôm, để thưởng công tôi chịu khó học kinh và thuộc những bài kinh dài, cô Gái dẫn tôi tới trước tòa Đức Mẹ. Sau khi trịnh trọng làm dấu thánh, bà hạ mấy cái hộp xuống, đặt chúng lên tràng kỷ. - Trong này là xương thánh, máu thánh. Cháu làm dấu Tôi làm dấu. - Giờ mở hộp này ra! Tôi ngạc nhiên nhìn bà, rồi thận trọng nâng nắp hộp lên. Trong hộp chỉ có mấy tờ giấy bản. Mở một tờ giấy bản ra, tôi thấy trên tờ giấy có một vòng tròn không rõ nét màu nâu thẫm và những đốm lấm tấm cùng màu ở bên cạnh. - Đây là máu các thánh tử vì đạo - cô Gái nói, giọng thành kính, gần như thì thào - Có máu bốn ông thánh cả thẩy. Tên các thánh là gì cô không nhớ, ông còn sống, thì ông nhớ. Thánh tử vì đạo là thánh dốc lòng tin Chúa, vua quan cấm đạo đòi chém đầu, thánh không sợ, vẫn làm dấu, vẫn kêu tên Chúa. Chúng bèn chém. - Từ bao giờ, hả cô? - Lâu lắm rồi, từ đời cụ đời kị kia, ông có dẫn tích cơ mà cô quên. Khi quân dữ chém đầu các thánh, bổn đạo ta mới xông vào lấy giấy bản thấm nơi cổ các người, giữ lấy hình tích làm vật thờ phượng. Còn đây là tóc thánh. Bên dưới những tờ giấy bản, trong hộp, là một gói giấy. Trong gói giấy là một món tóc dài như tóc đàn bà. Tôi gớm những sợi tóc khô xác ấy. Nhưng cô tôi gói lại, bỏ vào hộp. - Trong hộp này có cả răng thánh. Chả là quân dữ có tra khảo mấy, người vưỡn cầm lòng cầm trí đọc kinh. Quân dữ lấy kìm nhổ từng cái răng một, cho tới khi hết ráo. Bổn đạo mới nhặt lấy, đem về thờ, cháu xem nhá? Tôi rùng mình, lắc đầu. - Thánh ngẩng mặt lên trời mà rằng: "Tôi tin thật Chúa ba Ngôi, Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là con. Ngôi thứ ba là Thánh thần". Chúng nó bèn cắt lưỡi. - Chết, cô nhỉ? Cô Gái giảng giải: - Phần xác thì chết, phần hồn Chúa rước lên Thiên Đàng ở cùng Người, hiển vinh sáng láng. Thời bấy giờ vua quan giết giáo dân không biết cơ man nào mà kể, vậy mà sự đạo chỉ có rộng thêm chứ không hẹp đi, còn lại cho tới giờ. Những giáo dân có công tích trong việc bảo vệ đạo, lúc sinh thì được tôn lên làm thánh. - Sinh thì là gì hả cô? - Sinh thì là chết. Như khi Đức Chúa Giê-su hay là các thánh qua đời thì gọi là sinh thì. Cô tôi đứng lên, kính cẩn đặt từng chiếc hộp lại chỗ cũ. - Cả xứ này, chỉ mỗi nhà ta giữ được xương thánh, máu thánh thôi đấy, cháu ạ. Cô tôi kết luận với vẻ tự hào. Làng tôi thừa nhận niềm tự hào đó, bởi vì không nhà nào có xương thánh, máu thánh. Những ngày lễ cực trọng cha xứ vào tận nhà tôi để làm lễ trước tòa Đức Mẹ và trước bốn linh vật trên bàn thờ. Vào những phút trang trọng đó cô Gái tôi cứ đứng ngây như tượng, mặt đanh lại niềm tự hào hóa đá. Ngoài nhà thờ chính xứ, làng tôi còn có bốn nhà thờ họ lẻ. Những ngôi nhà thờ nhỏ nhoi với gác chuông thấp lè tè này, ít khi được cha đến làm lễ, trừ những ngày thánh quan thầy Vào những ngày lễ cực trọng, khi có rước lễ, các nhà thờ họ lẻ cũng trang hoàng lộng lẫy, cắm cờ hội thánh; đám rước lễ khi đi qua đều rẽ vào. Ngày thường, chúng giống như những ngôi nhà bỏ hoang, chim sẻ làm tổ trên mái kêu rộn rã. Chim sẻ đậu cả lên đầu ông thánh Phê-rô lẫn ông thánh Vi-xăn-tê và làm bậy trên đó không bị ai xua đuổi. Sân nhà thờ họ lễ được dùng làm sân phơi rơm, phơi lúa, nơi quạt thóc... Nghe nói trước đây các chánh trưởng, trùm trưởng các họ đạo ganh nhau dựng nên các nhà thờ này, không cần nghĩ tới chuyện chúng được sử dụng bao nhiêu lần một năm, bởi lẽ làng tôi chẳng lớn, giáo dân chỉ đi lễ ở nhà thờ chính xứ. Ngay cả việc đọc kinh cho kẻ chết, cũng không tiến hành trong nhà thờ họ lẻ. Việc đó người ta làm tại nhà. - Ngày mai giỗ cụ nội. Cô Gái, cuốn lịch sống trong họ, nói. Tôi ra vườn trước hái chè. Tối hôm sau, nhà trên chật ních người. Người đến ngồi tràn ra cả sàn gạch (phần sân còn lại là sân đất). Đó là những người đến đọc kinh, phần lớn là họ hàng. Cái mớ rối rắm những quan hệ họ tộc ấy chỉ có mình cô Gái tôi biết. Cứ ngồi nghe bà dẫn tích thì hầu như trong làng ai cũng có họ với tôi và ở ngoài đường, tôi nhất thiết phải chào họ hoặc họ nhất thiết phải chào tôi chứ không thể hờ hững đi qua mặt nhau như những người xa lạ. Nhưng trong làng tôi chẳng ai thuộc họ hàng như cô tôi và vì thế chỉ những người họ gần mới chào nhau. Những ngày đọc kinh ngôi nhà sống hẳn lại. Những cây tọa đăng bằng đồng được cô tôi đánh cát, đánh tro cho tới bóng loáng, tỏa ánh sáng rực rỡ khắp ba gian nhà trên. Bàn thờ Đức Mẹ rực rỡ ánh nến lung linh. Bức màn nhiễu điều được bỏ đi. Từ trên tòa Đức Mẹ và Chúa Giê-su Hài Đồng mắt xanh tóc vàng độ lượng nhìn xuống đám con chiên da vàng mũi tẹt trong những bộ cánh màu thẫm. Trong làng tôi, người lớn trẻ con thường mặc áo vải thâm trong những ngày trang trọng. Tiếng cầu nguyện rì rầm nổi lên theo sau một giọng lĩnh xướng trong trẻo của một trung binh. Rồi, như những đợt sóng dồi lên, hạ xuống, tiếng đàn ông người bay cao, vang xa trong đêm tối: - Xin Chúa thương xót chúng tôi! - Chúa Ki-ri-xi-tô cầu cho chúng tôi. - Cầu cho chúng tôi! Những người đàn ông đội khăn xếp, áo chùng thâm, lác đác có người mặc áo trắng, đôi guốc mộc đẽo lấy đặt bên cạnh, ngồi xếp bằng tròn, nghiêm nghị. Những người đàn bà chít khăn đen, tóc cắt ngang trán, tràng hạt trong tay, người hơi lắc lư theo điệu đọc kinh của riêng vùng tôi: - Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi, xin chúa hãy thẩm nhận nhời tôi kêu van, hãy lắng nghe tiếng tôi cầu xin... Họ nấc lên khi tới đoạn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!" Những nắm tay đồng loạt đập vào ngực thùm thụp. Tiếng thở dài tập thể của những nỗi niềm không nói dược thành lời thực, đành mượn kinh cầu để bộc bạch làm tôi ớn lạnh. Mới sống trong làng ít ngày, tôi đã mơ hồ cảm thấy rằng những kiếp người sống trong vòng vây của những lũy tre làng thực khốn khổ. Tôi nhìn những người đến đọc kinh cho cụ tôi và ngạc nhiên thấy họ có chung một gương mặt, gương mặt cam chịu kỳ lạ, không thấy ở bất cứ nơi nào. Những con người này sống yên phận trong một nỗi buồn heo hút, hiếm khi lóe sáng một niềm vui. Họ sống, họ phạm tội, rồi họ đọc kinh ăn năn tội, cứ thế cho tới hết đời. Con cháu của họ cũng sẽ như họ, nhưng vì có đạo, chúng sẽ đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn họ, chừng nào chính chúng chưa trở thành những linh hồn. Về sau này, tôi biết tôi lầm. Mỗi kiếp người có niềm vui của nó, dù cho niềm vui đó có bé nhỏ tới mấy. - Đêm ông về - Sáng ngày ra, cô Gái nói với tôi - Cô nghe ông lẹp kẹp dép ở nhà trên. Lúc ấy, cháu cựa mình. Mày có nghe ông ho húng hắng không? - Thưa cô, không - Tôi đáp và nép chặt vào cô. Tôi sợ. ăn sáng xong, cô Gái lấy ra hai cái cuốc đã mòn vẹt. Chúng cũng có một số tuổi đáng kính trọng như mọi vật trong nhà. Và như mọi vật trong nhà, chúng gắn liền với những kỷ niệm. - Cô chiêm bao thấy ông giục đi sửa mộ cho hai cụ; cỏ mọc quá sức lẽ mình. Hai cô cháu dắt nhau ra cánh đồng Ngàn Giữa, nơi an nghỉ đời đời của hai cụ tôi.                                       

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

VIII

Hồi ký

Ngay trước sân nhà ông bà nội tôi là một ngôi nhà dài tới bảy gian, nếu tính cả cái chái làm chuồng lợn. Nó quay cái lưng bằng đất nhồi rơm đã xơ xác, nhiều chỗ đã bục, về ba gian nhà trên. Đó là nhà bác Hai Thực. Cụ nội tôi sinh được ba con trai. Ông thứ hai sinh ra bác Hai Thực. Trái với vẻ tĩnh mịch và hoang vắng của ngôi nhà ông bà nội tôi, ngôi nhà rách đàng trước mặt ồn ào sự sống. Cối xay ù ì suốt ngày, cối giã gạo nện thình thịch cho tới tận đêm khuya. Khi tiếng giã gạo lắng xuống, tiếng xa quay lại nổi lên vè vè như tiếng ve sầu. Bác Hai Thực thuộc lớp nhà nho cuối cùng. Như mọi nhà nho thất thế, bác tôi không động tay động chân đến việc gì. Mọi việc bác phó mặc vợ con. Bác Hai Thực nghèo, thứ nghèo được gọi là "rớt mồng tơi. Rau mồng tơi nhớt (rớt), nhưng tại sao cái nghèo lại liên quan tới cái nhớt đó, tôi không hiểu. Chắc hẳn, người nghèo thường chỉ được ăn rau mồng tơi nên có câu ví đó. Nhưng nếu vậy thì nó cũng chẳng hoàn toàn đúng với nhà bác tôi. Bát canh mồng tơi nấu cua đồng cũng vẫn còn sang. Hèn nhất có dễ là canh sung nấu muối, món này là thường xuyên trong nhà bác, cũng như món sung muối vậy (người ta muối quả sung như muối cà). Không một thước tư điền, cả nhà trông vào mấy sào công điền bé bỏng, chẳng bao giờ đúng với kích thước được ghi trong sổ địa bạ, lại toàn là chân chuột với chân trũng. Như mọi nhà trong làng, nhà bác Hai Thực làm nghề hàng xáo và nghề dệt vải. Giữa nghề nông và hai nghề nói trên không có sự phân biệt chính phụ. Về sau này, cái sự nhập nhằng ấy còn làm khổ mấy ông cán bộ kinh tế của nhà nước quen nếp nghĩ rạch ròi, ưa bắt mọi sự chui vào trong những khuôn khổ do mình đặt ra. Họ ngẩn người: "Cái làng này là làng gì? Nông nghiệp hay thủ công nghiệp?". Hai nghề này, lúc cái này lên, lúc cái kia xuống, nhưng cả hai cộng lại cũng đủ nuôi sống con người vào lúc kinh tế ổn định. Nhưng kinh tế luôn luôn không ổn định. Bác giai đổ cho "kinh tế khủng hoảng", bác gái cam chịu "một sợi tóc rơi xuống cũng không ngoài ý Chúa". Ngay ngày hôm sau khi tôi về quê, anh Cu Nhớn đã mở cửa nách sang rủ tôi: - Chú Thư! Đi chơi đi! Anh Cu Nhớn hơn tôi một tuổi, nhưng chỉ cao bằng tôi, suốt ngày cởi trần, trên bộ ngực lép kẹp lủng lẳng một cây thánh giá mạ kền đeo vào một sợi tơ se cáu ghét. - Chơi gì! Tôi hỏi trống không, chăm chú nhìn bộ mặt đen đủi, lấm tấm rỗ hoa. - Trốn tìm. Chơi không? Tôi lắc đầu. - Ô ăn quan? Tôi lắc đầu. - Giải gianh? Tôi lại lắc. Nói chung, trò chơi của trẻ con nhà quê chẳng có gì thú vị. Thậm chí, chúng trầm trồ ngắm nghía một hòn bi ve, không biết thế nào là đồng xèng. Anh Cu Nhớn cắn móng tay một lúc rồi rủ tôi đi câu. Tôi gật đầu. Hóa ra cái trò chơi này thực là thú vị. Nhưng nó lại chẳng thú vị gì đối với anh Cu Nhớn. Anh dửng dưng. Anh rủ tôi là vì anh nghĩ đối với tôi nó là trò chơi, còn với anh nó là bổn phận. Anh phải kiếm cá cho bữa ăn của cả nhà. Nhà bác Hai Thực không phải hôm nào cũng có cơm. Có khi hàng mấy ngày liền cả nhà sống bằng hạt sản rang. Thứ cây này có lá giống lá me, hoa hình cầu trắng y hệt núm bông trong bộ đồ lấy ráy tai của thợ cạo, quả dài như quả bồ kếp, hạt tựa hạt đậu. Hạt sản rang lên có mùi thơm giống cám rang nhưng vị đắng, khó ăn. Tôi cho rằng hạt sản độc Có người nói nó trị được giun sán. Chỉ biết trong nhà bác Hai Thực chẳng có ai béo. Hết thảy đều rất gầy, bác gái thì chẳng khác gì một bộ xương biết đi. Thế nhưng, khi bác giai ra khỏi nhà, bao giờ bác cũng vận áo dài trắng, quần trắng, che ô trắng. Ông đi những bước chững chạc, tay giương thẳng ô, nghiêm trang đáp lễ những ai chào hỏi ông: - Đa tạ. Chúng tôi vẫn được bằng an trong tay Chúa. Cái sự bằng an sao mà khủng khiếp! Anh Cu Nhớn đi câu trong sự bằng an ấy. Cầu Chúa cho cá cắn, nếu không anh sẽ bị quở mắng, và tôi đi với anh cũng cảm thấy mình có lỗi; tôi len lét tránh mắt mọi người. Anh Cu Nhớn có cái nhìn thương xót đối với tôi. Anh thương tôi không được ở với bố mẹ mà phải ở với cô Gái. Cô Gái là người thế nào thì anh còn biết rõ hơn tôi nhiều. - Không được rủ nó đi nghịch đất, Cu Nhớn? - Thằng Cu Nhớn, tao cấm không cho mày rủ nó bơi ở ao, chết đuối có ngày! - Tao cấm tiệt... Lúc nào cô Gái cũng có một cái cấm nào đó dành cho anh mỗi khi anh muốn rủ tôi chơi cùng. Anh Cu Nhớn giương cặp mắt ngây thơ nhìn bà, hai tay khoanh lại, hứa đủ điều và xin phép bà cho tôi sang chơi bên bác Hai. Tôi có thể ngồi cả buổi bên anh Cu Nhớn để xem anh câu cá. Bờ ao nhà bác Cố Tuyển (người đứng đầu ngành cả) là cả một thế giới lạ mắt và thú vị. Những con chuồn chuồn ngô nhàn tản lang thang tìm chỗ nghỉ chân nhẹ nhàng hạ cánh xuống đậu nơi đầu cần câu của chúng tôi. Những con chuồn chuồn lửa lúc lắc hai con mắt to như hai hạt đỗ tương trầm ngâm trên những ngọn ý rĩ, thỉnh thoảng lại lấy chân lau mắt cho sáng thêm để thưởng ngoạn. Mấy bông súng trắng xinh xắn đung đưa gần mép ao. Những chiếc lá tre rơi lềnh bềnh trên mặt nước khẽ rùng mình mỗi khi có gió thoảng. Lũ thờn bơn với cặp mắt đen láy ngo ngoe trên mặt nước. Trên cao, một con bói cá xanh biếc ngồi yên lặng như một nhà hiền triết. Thỉnh thoảng, nó rời cành cây khô lao vút xuống nước như một mũi tên vừa rời cây cung, rồi lộn trở về đậu vào chỗ cũ, hai cánh xòe ra phơi gió. Trên làn nước gần như bất động, những con kéo vó lênh khênh nhẹ nhàng trượt qua trượt lại trong một điệu vũ khó hiểu. Tất cả thu hút tôi, còn anh Cu Nhớn thì thờ ơ, anh chỉ gắn chặt mắt vào những cái phao trắng muốt làm bằng cuống tỏi. - Kìa, một cái phao bắt đầu động đậy; nó chúi xuống rồi từ từ cắm đầu đi sâu vào làn nước xanh. - Nó cắn kìa? Tôi nhắc anh. Nhưng anh Cu Nhớn không vội vã nhắc cần câu. ở lưỡi câu là một con tôm to, đen xì. - Để làm mồi. Anh nói và tàn nhẫn ngắt luôn đầu con tôm. Những cái chân tí xíu vô vàn dưới bụng nó còn chuyển động hồi lâu. - Cái giống tôm chúa hay quấy. - Anh cằn nhằn - Mình định câu cá, y như rằng nó mò đến. Một cái phao khác động đậy. Nó nhắp nhắp khe khẽ. - Giếc! - Anh Cu Nhớn nháy mắt với tôi. Bất thần, cái phao hơi chúi xuống. Anh Cu Nhớn giật mạnh, giật ngang từ trái sang phải, bằng cánh tay, chứ người anh không hề chuyển. ở đầu dây, đúng như anh nói trước, lủng lẳng một chú giếc lực lưỡng. Nó giận dữ thở rốc bằng cả miệng và mang, dữ tợn quật qua quật lại cái đuôi cáu kỉnh. - Mồi tôm thì ngão thích. - Anh nhẩn nha giảng giải - Còn anh giếc này chỉ nghiện độc thứ mồi giun. Cuối buổi, anh được một xâu cá, phần lớn là giếc. Anh cuộn cần câu lại, hài lòng. Cái anh này kho khô ngon đáo để, cơ mà nấu canh sung bùi không chê được - anh nhúng cành tre non có những con giếc và ngão bị xâu từ mang ra miệng xuống ao cho sạch hết kiến lửa. - Nhưng tôi giao hẹn với chú, đi câu với tôi là phải im như thóc. Nói chuyện, cá nó nghe thấy đấy. Chẳng bao lâu sau anh Cu Nhớn đã chiếm được cảm tình của tôi hơn tất cả những người mà tôi gặp ở nhà quê cộng lại. Con người nhỏ bé này cư xử đĩnh đạc như một người lớn. Anh gọi tôi một điều chú hai điều chú với giọng tự nhiên và nghiêm trang của một người anh. Trong quan hệ đối với tôi, anh độ lượng và nhường nhịn. Anh cũng thuộc số những người rành lẽ đạo, nghĩa là thuộc kinh bổn, biết các sự tích trong Sấm truyền, cùng là các thứ linh tinh khác mà một con chiên lành không thể không biết. Nhưng cái mà anh am hiểu hơn cả là nghề câu, nếu ta coi việc đi câu những con cá chép về cho bữa ăn gia đình cũng là một nghề. Với loài cá nước ngọt, theo thứ bậc to nhỏ tính những con bản to chỉ ở mức từ ba ngón tay trở xuống, anh hiểu biết các thói quen và tính nết chúng như thể anh sống với chúng vài đời người. - Kỳ khu là anh chàng trôi - ta hãy nghe anh kể chuyện thế giới cá của anh - hắn ta thích mắm tôm vô cùng. Làm mồi cho hắn ta công phu nhất hạng. Phải giã gạo cho thật tơi bột, luyện bột với mắm tôm cho tới khi dẻo kẹo mới viên vào đầu lưỡi câu. Trôi không ăn mà cá khác đến rỉa là tan mất cái mồi, mồi bột không bền. Đại phàm ăn là anh giếc. Tôm ươn ư, mai cua ư, giun ư, tuốt tuột. Nhưng tôi đã nói với chú rồi đấy, nhất hạng đối với hắn ta vẫn là anh giun đỏ. Câu giếc chú phải có ý. Thấy phao mới nhắp nhắp hoặc chưa chúi sâu là giếc mới rỉa chứ chưa ngậm mồi... Nhìn phao biết cá gì cắn đã tài, nhưng anh Cu Nhớn của tôi còn thuộc cả tăm cá nữa. Nhìn tăm nổi lên mặt ao, anh biết ngay con cá nào đang đi dưới kia, dấu mình sau làn nước. - Tăm nhiều mà dày, bọt to bằng dầu mũ đanh ghim là tăm giếc. Tăm chép to bằng đầu đũa, thưa, mà không nhiều. Tôm cũng thi thoảng đùn tăm, làm ta nhầm, đấy nó đấy, cái thằng phá đám. Tôi phục lăn. Mấy cái ao của họ hàng ở gần nhà hiếm cá dần. Chúng tôi rủ nhau đi câu trộm. Câu trộm, hãy gạt bỏ tính chất phi đạo đức của nó, có cái thú đặc biệt. Nó giống như sự mạo hiểm, rất lôi cuốn đối với tuổi thơ. Để câu được kín đáo, có khi chúng tôi phải chui tọt vào một cái hang bằng rễ tre xúm xuê tua tủa trổ ra bờ ao (nước đã làm trôi đi, làm lở đi đất dưới chân bụi tre, nhưng những cây tre vẫn bám được nhờ sự quấn quít với những bụi khác) rồi thò cần ra mà câu. Khi giật được con cá to chúng tôi chỉ im lặng nhìn vào gương mặt rạng rỡ với đôi mắt sáng rực niềm vui của nhau mà biểu lộ sự khoái trá trong lòng. ấy thế mà, mặc dầu đã có nghệ thuật ẩn nấp cao, nhiều lần chúng tôi đã phải vác cần câu mà chạy như ma đuổi qua những vườn sau và ngõ hẻm giữa các nhà, trong tiếng chửi rủa té tát đuổi theo. May ở làng tôi người ta không chửi rủa quá chua ngoa, với những bài bản kinh khủng như ở phố Nhà Rượu. Người ta tránh không dùng những cách nói quá nặng nề hoặc dựng dậy những thế hệ cha ông đã nằm yên dưới mộ để bắt họ ăn những thứ không có bán ở chợ. Tôi đồ rằng họ sợ tội, họ sợ chết sa hỏa ngục nhưng họ phải chửi, bởi lẽ không chửi thì tức không chịu được Mà cũng rất có thể đó là do trong làng ngoài xóm với nhau, tính kỹ ra thì cũng họ hàng hang hốc cả lượt, chửi tổ tiên thằng câu trộm chửa biết chừng lại nhè đúng đầu tổ tiên mình. Lại có người đoán già đoán non biết kẻ câu trộm là ai, nhưng họ chỉ hét toáng lên, răn đe cho chúng tôi sợ, cho chúng tôi chừa. Vả lại, con cá mất bao giờ cũng là con cá to. Anh Cu Nhớn không hề khoe khoang tài câu cá của mình. Nhưng trong bọn trẻ con chúng tôi, anh cứ nổi tiếng sát cá. - Cái đứa sát cá là đứa nghèo suốt đời. Cô Gái nói như vậy. Hình như cô tôi đúng. Tôi chưa gặp ai sát cá mà giàu. Người đã sát cá thì không câu được cái khác trong cuộc dời. Tôi không thể dừng được mà không kể các bạn nghe về cái thú đi câu đêm. Tôi và anh Cu Nhớn, hai chúng tôi ngồi sát nhau, chăm chú căng mắt nhìn đốm lửa lân tinh của con đom đóm mắc vào phao. Mặt ao đen kịt như một hồ thuốc nhuộm. Những vì sao im lặng, khẽ xao động trong bầu trời thứ hai nằm dưới chân chúng tôi. Quanh chúng tôi, những con đom đóm sáng lên từng nhịp như mạch đập, bay vơ vẩn. Gió xào xạc trong những bụi tre. - Suỵt! Anh Cu Nhớn nhắc tôi khi tôi phát mạnh vào chân để giết một con muỗi. Bóng đêm ôm lấy chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ câu vào đêm có trăng. Trong tuần trăng cá không cắn, thảng hoặc có thì cũng lười biếng. Theo anh Cu Nhớn, khi trăng lên, cá đi nhởn. Chúng tôi im lặng giật lên những con cá trê đen như bóng đêm. Chỉ có thể nghe thấy tiếng ộp ộp giận giữ của chúng khi chúng quật mình trên cỏ. Trong đêm tối, phải sờ soạng để tháo chúng khỏi lưỡi câu. Công việc này đòi hỏi sự cẩn thận và thói quen của người câu đêm - những con cá trê điên cuồng có thể nẻ cho những cái đau điếng và vết đòn thù này có thể sưng tấy lên nhiều ngày. Anh Cu Nhớn không phải chỉ giỏi câu. Anh có những cần câu tuyệt vời, tự làm lấy. Hóa ra nghệ thuật làm cần câu chẳng đơn giản chút nào. Anh phải ngắm nghía, chọn lựa những cành tre đực thẳng và đẹp từ khi chúng còn ở trên cây, xanh rờn và mềm oặt. Phải chờ cho đúng đủ già, anh mới bắt, hơ lửa uốn cho thẳng rồi sau đó mới lấy dao thật bén mà gọt mấu. Gọt cũng phải nhẹ nhàng, không được phạm, nghĩa là vô ý để lưỡi dao ăn quá sâu vào thịt tre. Rồi gác cái cần câu đã được chế tạo lên ránh để cho khói và thời gian làm cho nó lên nước, sau đó hạ xuống đánh bóng bằng xơ tre, rồi ngâm xuống ao cho cần câu dẻo lại, khi ấy mới dùng được. Một cái cần câu như thế sẽ dẻo đến nỗi gặp cá to nó sẽ uốn mình cong vút tới tận cán nhưng không chịu gãy. Dây câu làm bằng tơ mảnh chập lại rồi se cho thật săn ngâm nước nâu chát xít vài lần. Lưỡi câu uốn bầng dây thép các cỡ tùy theo loại cá. Nghệ thuật uốn lưỡi câu của anh Cu Nhớn cũng hết chê luôn. Tôi không hề phóng đại, đường cong của lưỡi câu có cái đẹp riêng của nó mà chỉ những người đã từng tự tay uốn lưỡi câu hoặc những người mê câu nhiều năm mới biết. Thành thử, bây giờ tôi nghi ngại nhìn những người câu bằng dây cước cong queo với cái lưỡi câu thô kệch sơn đen - con cá ngốc nào sẽ đâm đầu vào ăn mồi của một tay câu như thế? Tôi không thể tự tay làm lấy bộ đồ nghề tuyệt vời như thế. Tôi có thể mượn anh Cu Nhớn vài lần, nhưng nhường tôi như vậy, số cá câu được hụt đi tỉ lệ thuận với số cần câu bị giảm sút. Tôi nóng được làm chủ vài cái cần câu như của anh Cu Nhớn. Tôi không dám xin anh, bởi vì tôi hiểu làm ra một cái cần câu tuyệt như thế anh phải tốn công thế nào. Tôi đưa cho anh hào bạc mà mẹ tôi giúi cho khi chia tay. Anh ngần ngừ đưa cho tôi cần câu đẹp nhất của anh. Cô Gái phát hiện ra việc mua bán đó. Bà hầm hừ: - Thằng Cu Nhớn thế mà hỏng, ăn dỗ của em. Anh Cu Nhớn trả lại tiền cho tôi. Tôi phải trả lại anh cần câu. Tôi tiếc hai cái cần câu đến phát khóc. Nỗi đau khổ của tôi làm cho cô Gái mủi lòng. Bà hạ lệnh cho anh chỉ được lấy tôi năm xu: - Năm xu là đắt rồi. Đáng lẽ mày phải cho em, nó bé. Đồ tồi! Anh Cu Nhớn bậm môi lại, nghe lời cô. Người lớn thường có cái tật là can thiệp vào lẽ công bằng của trẻ con. Năm xu hai cái cần câu như thế là quá rẻ. Bọn trẻ trong làng vẫn bán cần câu cho nhau và giá một cái cần câu bằng cái anh Cu Nhớn chế tạo ít nhất cũng phải một hào. Tôi lén lút đưa nốt năm xu cho anh Cu Nhớn. Anh không lấy. Nói thế nào cũng không lấy. ít lâu sau, anh còn cho tôi hai cái cần câu tôm nữa. Chắc anh nghĩ rằng cô Gái nói phải, nhưng có lẽ anh sợ cô thì đúng hơn. Có nhiều người không tin có sự câu tôm. Vậy mà nó có đấy. Cần câu tôm vót bằng mảnh tre đực già, cật nhiều, thịt ít hoặc giả bằng nứa ngâm loại tốt. Đầu cần phải vót rất mảnh, chỉ nhỉnh hơn đầu que tăm một chút. Vậy mà khi gặp cá lớn quá sức chịu của cần câu, nó hay gãy ở phần dưới chứ không gãy ở đầu. Dây câu tôm là thứ dây đặc biệt. Đó là một sợi tóc nguyên vẹn, rất dài, không được phép nối. Vào thời bấy giờ, tóc dài là một trong những vẻ đẹp của nữ giới. Có người tóc dài đến nỗi mỗi khi gội đầu phải đứng lên ghế để thả tóc mình vào chậu nước bồ kết. Thứ tóc tốt nhất là tóc đen, óng và mượt. Tóc rễ tre bề ngoài có vẻ mập hơn, chắc hơn, nhưng lại dễ đứt. Để có những dây câu tốt cho những cần câu tôm của mình, chúng tôi phải thuộc hết tóc của các cô gái làng. Trong việc đi sưu tầm tóc tôi quan sát nhiều loại tóc khác nhau và có một phát hiện lý thú là tóc người cũng nói về chủ nó chẳng kém gì đôi mắt, giọng nói, gương mặt hoặc dáng đi. Nhưng nói về phát hiện này thì quá dài, đành phải để dịp khác. Tôi ngạc nhiên về độ bền dai của tóc người. Nó mảnh mai là vậy, nhưng không hiếm lần tôi đã giải lên khỏi mặt nước những con mương bản lớn bằng hai ngón tay bằng thứ dây câu kỳ lạ ấy. Gặp cá to, tất nhiên là so với con tôm, tim tôi nhảy lên trong lồng ngực, tay tôi run lên, cái cần câu uốn cong tới tận cán, sợi tóc căng như dây đàn, tưởng chừng nó đứt đến nơi, rồi vụt một cái, con mương đã vật mình trên cỏ lấp lánh ánh bạc. Nhưng thú nhất đối với người câu hay sốt ruột như tôi là câu cá rô ron. Anh Cu Nhớn có cái nhìn khinh khỉnh đối với những ai thích câu dễ dãi. Tôi đành câu một mình. Mùa hè, ao nào cũng đầy cá rô ron. Chúng to bằng ngón tay cái, bằng ngón chân, màu vàng ngả sang xanh, với một chấm đen ở đuôi. Đó là lũ cá trẻ con, rất hiếu động và rất ngây thơ. Từ dưới đáy ao chúng ve vẩy cái đuôi tí xíu phóng vút lên mặt nước, đớp một ngụm không khí rồi khoái trá lặn xuống tung tăng đi chơi trong nước xanh. Những con rô mẹ vô tư, tưởng con mình đã lớn chúng mặc cho con cái vui chơi, không hề chăm sóc, không cần bảo vệ. Tôi vỗ một con ruồi đậu ở chân, mắc vào lưỡi câu rồi quăng xuống nước. Con ruồi nhẹ bổng cộng với cái lưỡi câu bé nhỏ bằng thép go nổi trên mặt nước, cả sợi dây câu bằng tóc cũng xếp ngoằn ngoèo bên cạnh. Tôi quên không nói, để câu cá rô ron tôi dùng cần câu tôm. Con ruồi không chết ngay, tôi cố ý vỗ nhẹ để cho nó chỉ bị ngất đi, nó vẫy cánh loạn xạ trên mặt nước. Cái vật động đậy liên hồi đó kích thích tính tò mò của một con cá rô ron, có khi cả hai ba con một lúc. Một con dạn nhất, hoặc tham ăn nhất, ve vẩy đôi vây mỏng tang, bơi bổng lên, lưỡng lự vài giây rồi lao tới con ruồi như một làn chớp vàng. Con ruồi đã bị đớp gọn; nó lao ngược trở lại, cũng nhanh như thế. Cái cung cách kiếm ăn như một tên cướp giật chẳng bao giờ cứu nó thoát cái giật nhẹ nhàng của tôi. Chỉ một lát ngồi câu tôi đã được vài xâu cá rô ron. - Chúng nó là trẻ con, chưa có trí khôn.. Anh Cu Nhớn không khen khi tôi câu được nhiều những con cá nhóc nhách ấy. - Được bữa rán đấy - tôi chống chế. - Ra cái gì? - anh nói. Tôi còn thích câu cá mương. Giống cá này có nhiều ở con ngòi chạy quanh co từ chợ vào sâu trong làng. Cá mương cũng thích mồi nổi như cá rô ron, nhưng mồi mỡ sống được chúng ưa nhất. Thứ mồi này tiện, bắt hàng chục con mà vẫn không phải thay. Cá mương cũng ham mồi, nhưng chúng đùa bỡn chung quanh mồi nhiều hơn ăn. - Câu mương làm gì, chú. Thịt nó nhão, mà tanh. - Anh Cu Nhớn nhận xét. Anh Cu Nhớn chê cá mương tanh, chứ nấu canh sung cũng ngọt. Anh không thích câu mương là vì anh chê cái sự câu dễ dàng, như anh chê câu cá rô ron vậy. Cá tanh nhất phải kể cá lằn đất. Nó to bằng cá ngão, hình dạng tựa cá ngão, nhưng dẹt mình, lưng có ánh xanh. Anh Cu Nhớn ghét thậm tệ cá lằn đất. Buổi câu nào mà giật phải hai con lằn đất là anh cuốn câu, đi về. - Cái giống này xúi quẩy nhất hạng. - anh giải thích - Nó cắn đầu buổi là đừng hòng câu, tôi nghiệm như vậy. Tôi trố mắt nhìn anh. Anh Cu Nhớn của tôi thực uyên bác, thực từng trải, thực sành sỏi. Trái với điều tôi chờ đợi, cô Gái tỏ ra hài lòng khi thấy tôi mang cá về nhà. Bà lăng xăng làm cá, rán ròn cá rô ron trong cái xanh đất, ăn béo ngậy. Nhưng rán thì tốn mỡ, bà kho khô trong niêu đất, vùi tro cho tới khi cá khô cong, xương mục ra, ăn bùi và ngọt lịm. Thế rồi, một hôm cô Gái bảo tôi ở nhà câu với bà. Hóa ra cô Gái cũng có một cái cần câu giắt ở chái chuồng lợn. Thế mà tôi không hề biết. Cô Gái câu rất vụng. Bà luôn làm vướng dây câu vào các cành cây ở bờ ao. Chốc chốc tôi lại phải lấy sào gỡ cho bà, có khi phải trèo lên để gỡ. Một lần bà giật quá mạnh, lưỡi câu mắc phải gộc tre hay cành củi nằm dưới ao, dây câu đứt luôn. Tôi đành bấm bụng hy sinh, lấy cho bà cái lưỡi câu dự trữ mà anh Cu Nhớn tự tay uốn cho tôi. Mà ao nhà tôi nào có cá. Đó là một ao tù phủ đầy bèo Nhật bản, cá cũng có nhưng chỉ có mấy con chuối, mấy con cá rô cụ. Thành thử sự hy sinh của tôi cũng bằng thừa. Bà câu được mấy con săn sắt. Tôi chỉ thích những con săn sắt trong lọ được vài buổi. Trong bộ cánh sặc sỡ, chúng bơi qua bơi lại trong phẫu đựng đường sứt miệng, ra cái điều hãnh diện, nhưng rõ ràng là những con cá háu ăn, ngu ngốc và đoảng vị. Có thể câu săn sắt bằng thứ dây câu tồi tệ nhất, tầm thường nhất, bằng chỉ trắng cũng xong, cả lưỡi câu cũng vậy, một cái đinh ghim uốn cong là đủ, chúng vẫn cắn như thường. Chẳng bù với những con cá rô cụ. Khi đã ở tuổi già, cá rô có đức tính thận trọng đáng kính phục. Cô Gái ghen tị nhìn tôi mang những con cá từ nơi khác về Bà biết tôi không muốn câu với bà. Mà bà thì muốn câu. Vì buồn, chứ không phải vì muốn được cá. Tôi vẫn lang thang với anh Cu Nhớn. Nếu biết tôi đi câu cô Gái chẳng cho tôi ngồi lâu. Có khi vừa tìm được một chỗ nấp kín đáo, cái phao đầu tiên vừa động đậy, anh Cu Nhớn đã huých tôi: - Cô Gái gọi chú kìa? Tôi lắng nghe. Từ phía nhà tôi vẳng lại tiếng réo của bà. Đã không gọi thì thôi, chứ đã gọi thì bà làm như hò đò sông cái: - Thư ơi, Ơ Thư? Thưuư ơơơiii! Tôi cuốn cần câu lại, thở dài. Cô Gái chờ tôi ở thềm, sừng sững như một cái phất trần: - Đi đâu mà tao réo hết hơi mới chịu dẫn xác về, thằng kia? - bà thét lên - Ngữ mày rồi hỏng, tao truyền đời báo danh cho mà biết. Bé đi câu, nhớn đi hầu, già đi làm khách nợ. Tôi cúi mặt xuống, nước mắt trào ra trước câu tiên tri tàn nhẫn về cuộc đời mình.                                                           

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

IX

Hồi ký

Cuối cùng rồi tôi cũng tuột khỏi bàn tay xương xẩu và rắn chắc của cô tôi, dù bà không hề muốn điều đó. Bà không thể cứ giữ rịt tôi ở nhà suốt ngày suốt tháng. Thực ra, cô Gái tôi không phải là người ác. Bên trong vẻ ngoài khắc khổ, nghiệt ngã, ẩn náu một trái tim tốt lành. Nhưng bà chỉ tốt vậy thôi, nghĩa là bà chẳng làm hại ai, chứ bà không hướng tới những việc làm tốt, cái đó quá sức bà. Hồi đó tôi không ưa bà, thậm chí ghét bà, hoàn toàn không ngờ rồi đây mình sẽ có lúc phải cay đắng mà nghĩ rằng được sống với những người không hại mình đã là một sự may mắn. Tôi bắt đầu lang thang trong cái làng quê nhỏ bé của tôi, vào sâu trong các xóm, làm quen với những người mà sau này trở nên thân thiết bởi một lẽ đơn giản - họ cùng chung với tôi một mảnh đất của tổ tiên. Tôi cũng bắt đầu yêu những mái tranh lè tè sau những hàng rào găng, hàng rào ruối, hàng rào dâm bụt, hàng rào xương rồng và biết bao loại cây khác có thể dùng làm địa giới của gia đình. Tôi thích nghe tiếng hát ru từ trong những mái tranh ấy bay ra cùng với tiếng xa quay ríu rít, tiếng khung cửi kẽo kẹt. Tôi thích ngắm nhìn đồng lúa với những cánh cò trắng muốt bay lên đậu xuống nhẹ nhàng như những mảnh lụa rơi. Tôi nhớ tiếng ru của mẹ: à ơi Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao... Buổi sáng, làng tôi rộn lên tiếng chày đập vải ở mọi ao to ao nhỏ, dọc theo ngòi. Trong các nhà những cái khung cửi bừng tỉnh đưa thoi tanh tách. Càng về trưa những tiếng động càng lắng dần, lắng dần, cho tới đêm thì tắt ngấm. Trong bóng tối lạnh lẽo, những con chó nhát gan tru lên từng hồi dài để tự trấn tĩnh. Lang thang trong các xóm một giọng khàn khàn kéo dài, theo sau từng hồi mõ khô khấc: Triềng... quan... viên... làng nước... Ai nấy... im... lặng... mà... nghe... ơ... ơ... ơ... Đó là tiếng của ông Bổng, ông mõ già, người bị khinh rẻ nhất trong làng, tuy cũng chẳng phải là người nghèo nhất. Ông bị khinh bởi nghề mõ. Ông là dân ngụ cư, tức là người từ nơi khác đến kiếm ăn. Trong làng tôi những người nghèo hơn ông nhiều cũng không chịu làm mõ. Thỉnh thoảng, lâu lắm, mới bùng lên một đám khao, một đám cưới, một đám ăn mừng nhà mới rồi cả làng lại ngủ lịm đi trong tiếng cầu nguyện không bao giờ dứt, trong tiếng chuông nhà thờ gióng giả gọi đàn chiên Chúa sáng đi lễ tối đi chầu. Những người con gái ít khi ra khỏi nhà. Một số làm hàng xáo. Số đông ngồi suốt ngày dưới con chim gỗ gật gù không biết mệt và luôn tay đưa thoi. Từ tấm bé đám con gái đã thạo nghề quay xa, đánh suốt, giáo vải, hồ vải, dệt vải Đi lấy chồng, họ chuyển từ cái khung cửi nhà mình sang ngồi ở khung cửi nhà chồng, trong khi những người chồng đi biền biệt hàng năm. Những người chồng lên rừng, làm nghề sơn tràng. Số may mắn trong bọn họ dần trở nên giàu có, đủ tiền của và nhờ tiền của mà có những lối gỗ riêng, trở thành ông lái. Nhà gạch của họ mọc lên san sát trong làng. Bè gỗ của họ đỗ kín con ngòi từ sông cái vào tới làng. Tên của họ được đệm thêm chữ lái, mà danh giá của nó có thể sánh bằng những chữ chánh, lý, phó, cửu... Những người số den vận rủi, không được trở thành lái ngậm ngùi làm thuê cho những người anh em cùng nghề mỗi ngày một trở nên xa cách. Họ đổ mồ hôi, có khi đổ cả máu, ngả cây, đưa gỗ ra sông, cốn thành bè. Bè xuôi, họ đứng chân áp giang. Trong khi các lái - ngày hôm qua còn là bạn họ - sát phạt nhau trong nhà bè (một căn nhà nhỏ làm ngay trên bè gỗ, bên trong thậm chí có cả sập gụ, tủ chè), họ thức thâu đêm đưa bè qua ghềnh qua thác. Có trường hợp một lái thua cháy túi qua một đêm lại rơi xuống hàng áp giang, phải ra đứng đầu bè cùng với người làm công cho mình hôm trước. ở làng tôi, khi người ta có tiền thì người ta đánh bạc. Hầu như đó là trò tiêu khiển duy nhất mà họ biết. Những người đi rừng cứ đi mãi, hết ngược lại xuôi, chạy theo cái mộng trở thành ông lái, theo không được thì trở về khi kiệt lực, tha theo cái bụng báng kỷ niệm của rừng thiêng. Những người đàn ông bị báng có nước da bủng beo, cái nhìn đờ đẫn, cái bụng to như bụng đàn bà chửa đi trước họ, lặc lè Đã bị báng là chắc chết, họ buồn bã đi lang thang trong làng như để lặng lẽ chia tay với quê hương. Khi không đi được nữa, họ nằm xuống, trút hơi thở cuối cùng vào một ngày nào đó, cũng lặng lẽ như thế, để lại người vợ bị cột chặt vào cái khung cửi và lũ con đói khát. So với phụ nữ các làng trong vùng, làng tôi có nhiều người chít khăn trắng hơn cả. Đến nỗi, có thể nhận ra người làng mình trong chợ căn cứ vào những chiếc khăn trắng. Những người lớn gặp nhau chung quanh những câu chuyện làm ăn và nỗi khốn khổ trong chuyện làm ăn gợi nên trong tôi cảm giác chán ngán. Tôi tìm đủ cách để khỏi phải ở nhà với cô tôi. Tôi bám chặt anh Cu Nhớn. Nhưng anh bận nhiều công việc. Có khi anh phải xay thóc giã gạo cả ngày để cả nhà có nồi cháo cám. Cháo cám dù sao cũng còn hơn hạt sản rang. Những khi thấy tôi lang thang một mình, chị Phương, con gái đầu lòng của bác Hai Thực, rủ tôi đi cất vó tép với chị. Những ngày con nước và những ngày gió bấc thổi, cá ít chịu cắn. Ngồi cả buổi cũng chỉ lôi lên được vài con cá bò nhỏ xíu, tròn lẳn với làn da vàng loang lổ và nhẵn thín, hoặc đôi con bống nâu rộng miệng, là thứ cá ít cắn câu nhưng lại chịu khó kiếm ăn trong mọi thời tiết. Những ngày ấy, cả đến tôm tép cũng không chịu vào vó. Nhưng chị Phương tôi là người nhẫn nại hiếm có. Khi tất cả những người cất vó tép ngồi nhà, thì chị vẫn lang thang bên các bờ ao với cây sào và cái rá. Đi cất vó tép rất thong dong, các chủ ao không bao giờ xua đuổi cái sự kiếm ăn lèm nhèm ấy. Hơn tôi chừng chục tuổi, chị gầy tới mức có đem cân cũng chỉ nhỉnh hơn tôi chút ít. Đen nhẻm, xương xẩu, chị có gương mặt dễ mến, hiền lành tới mức cam chịu, đôi mắt mở to không chớp, mắt của loài thỏ, ngây thơ và tin cậy. Tôi căng vó giúp chị, chị lấy sào móc vó đặt nhẹ nhàng xuống chỗ nước nông bên bờ ao, gõ vào đầu vó mấy cái cho nó khỏi nổi bềnh lên rồi lấy mồi cám rang giấp nước ném vào giữa vó một mẩu nhỏ. Mẫu cám tan ra thành bụi nâu trong nước, chìm dần. - Tôm nó không có mũi, vậy mà ngửi được, tài ra quỷ (tức là tài lắm, theo cách nói ở làng tôi). Chị Phương nhỏ nhẹ nhận xét. Chị nói bằng giọng rụt rè, nâng niu từng chữ, như thể chị sợ chị sẽ đánh rơi chúng xuống đất cứng và chúng sẽ vỡ tan thành từng mảnh. - Tôm nó cũng có mũi chứ. - Làm gì có. Đây này - chị đưa cho tôi một con tôm đang bật đuôi tanh tách - Mũi đâu nào? Mắt có, mồm có, mà mũi thì tịnh không. Tôi soi mói nhìn con tôm. - Có khi mũi nó liền với mồm, chị ạ. - Dễ vậy. Chị không sợ tôm nghe tiếng, vì thế đi cất vó tép với chị tôi có thể nói chuyện thoải mái. Chị hay đặt ra những câu hỏi, rồi lại tự trả lời. Rõ ràng đàng sau những câu hỏi lẩn thẩn ấy, chị Phương tôi muốn tìm kiếm một cái gì đó, một cái gì rất có ý nghĩa đối với chị. - Giá mà người ta có cánh như các thánh Thiên thần! - đột nhiên chị rẽ sang chuyện khác - Chú tính, nếu lấy lông ngỗng mà đan lại thực khéo làm cánh rồi buộc vào tay, mình có bay được không? - Lông ngỗng chắc không được. Ngỗng có biết bay đâu. - ờ nhỉ. Chị sực nhớ đến con ngỗng không biết bay, gật đầu. Một lát sau, chị lại sang chuyện khác. - ở Hà nội có bà sờ không chú? - Bà sờ là cái gì? - Là người nữ đi tu ấy. - Thế thì là bà sơ, chị lại gọi là bà sờ. Bà sơ mặc áo đen lụng thụng, có cổ áo trắng, phải không? - Phải. - Bà sơ ở Hà nội có mà ối. Họ đeo tràng hạt dài đến bụng, mà hạt to thế này này. Cái nhìn của chị trở nên xa vắng. - Tôi cũng muốn làm bà sơ. - Chị định đi Hà nội à? - Không. ở làng ta cũng có nhà sơ, gọi là nhà mụ. Tôi muốn vào trong nhà mụ. - Chị vào đấy làm gì? - Đi tu chứ còn làm gì. Có điều vào ở nhà mụ thì sướng cái phận mình, nhưng tôi lại thương thầy mẹ. Vào ở nhà mụ rồi thì không được về nhà mình nữa. - Thế thì đừng vào đấy, chị ạ. Tôi nghiêm trang khuyên chị. Chị đồng ý, dễ dàng như bất cứ lúc nào. ở nhà bác Hai Thực mọi người đồng tình trút mọi việc có thể trút được lên đôi vai gầy của chị Phương. Chị lẳng lặng hứng lấy, không phàn nàn, không oán thán, lúc nào cũng bị ai đó sai làm việc gì đó, suốt từ tinh mơ cho tới khuya. Chị tát nước, nhổ mạ, đi cấy, cắt cỏ cho trâu thuê, đưa cơm cho thợ cày, làm cỏ ruộng, xới vườn, xay thóc, giã gạo, đánh ống, đánh suốt, dệt vải, cất vó, đi chợ, làm cơm... Tưởng chừng một con người không thể nào cáng đáng nổi từng ấy công việc, ấy thế mà chị Phương làm được tuốt, lúc ở chỗ này thoắt cái đã ở chỗ khác. - Tội nghiệp con cái Phương? - cô Nhung, chị gái bác Hai Thực phải kêu lên - Làm nhiều quá, quắt cả người. Chẳng ai thương nó trong cái nhà này. Bác Hai Thực gái nguýt cô: - Bà thương nó thì bà đỡ cho nó. Con cái lớn thì phải làm. Không có cái phép ngồi giãi thải ra mà hốc. Tôi đỏ mặt thay cho cô Nhung. Bà già rồi, lại yếu, mắt kèm nhèm, chẳng làm dược gì, hôm nào khỏe bà cũng chỉ đánh mấy cái suốt, hoặc giã cố một cối gạo, tất nhiên là với sự giúp đỡ của lũ trẻ chúng tôi. Cô Nhung tủi thân, ra thềm ngồi khóc. Bác Hai Thực ở nhà trên nghe tiếng, đập mạnh tay xuống giát giừơng - Các bà. Có để cho người ta yên một thí không nào! Cảnh Cô Nhung là thế. Vậy mà chị Phương tôi không sợ Chị nói với tôi: - Tôi rồi sống trọn đời đồng trinh như các cô. Các cô đây là cô Oanh, cô Nhung và cô Gái. Ba người con gái ở ba ngành không lấy chồng, trở thành ba bà cô. Ngành cả giàu có nhất, xây được một cái nhà tây hai tầng và có một nhà ngang bằng gỗ tứ thiết chạy suốt chiều ngang cái sân nhà ông bà nội tôi. Đứng ở thềm nhà ông bà nội nhìn ra tôi có thể thấy cả cái nghèo nàn của ngành thứ với cái giàu sang của ngành cả. Nếu cửa liếp của ngành thứ thông sang nhà tôi thì cái cổng gỗ của ngành cả lúc nào cũng đóng chặt. Có lẽ ngành cả chỉ giữ lại làm phép cái cổng này để linh hồn tổ tiên khỏi đau lòng khi thấy con cháu mình rào dậu ngăn sân. Người thấp bé, lầm lì, cô Oanh không mấy khi sang chơi với hai bà em. Bà sợ bẩn. Là người sạch rởm, mỗi khi có khách tới nhà, bà vội vã bưng ghế ra cho khách ngồi kẻo họ suồng sã ngồi vào giường bà. Nếu họ vô tâm cứ ngồi vào đó thì bà nhăn nhó như người bị đau răng trong suốt buổi tiếp khách, khách vừa về là bà vội cuốn chiếu đem ra cầu ao giặt ngay. Khi cô Gái đưa tôi sang chào cô Oanh, bà nhìn tôi từ đầu đến chân, cái nhìn xa lạ: - Vậy nó là con ông Tư? - Dạ, nó về ở với em, em cho nó sang chào cô. - Nó sạch sẽ đấy. - cô Oanh nhận xét. Quên ngay tôi, cô Oanh quay sang hỏi chuyện với cô Gái câu chuyện tầm phào thủng thẳng. Cùng ở với cô Oanh còn có cô Nhất. Cô Nhất già khọm thấp tè, xấu xí một cách dữ tợn. Suốt đời bà bực dọc với một cái gì đó không ai biết, sống lặng lẽ như một cái bóng. Bà không mặc quần áo nào khác ngoài vài bộ đồ đen, bao giờ cũng vận áo dài, dù ở trong nhà. Bà sống gần như trọn đời đồng trinh. Chồng chết sớm, bà ở vậy cho tới khi trở thành bà lão. Cô Nhất không quát mắng chúng tôi, lũ cháu của bà, nhưng chúng tôi sợ bà, hệt như bà là một con ma sông. Cái nhà xây thường bỏ không. Người ăn thừa tự của ngành cả là bác cố Tuyển, nhưng ông đã qua đời, bà vợ và các con, những ông anh bà chị của tôi ít khi trở về quê. Họ đều thành đạt, trở thành những ông tham, ông phán. Con của những ông anh bà chị tôi cũng chỉ về quê vào dịp hè, ăn vận sang trọng hơn hẳn lẽ trẻ chúng tôi ở nhà quê. Chúng tôi chơi với nhau như bạn bè, và tôi có niềm hãnh diện nho nhỏ vì những đứa cháu bằng và hơn tuổi mình. Theo truyền thống gia tộc sự ngang hàng trong xưng hô bị coi như sự mất nết. Tôi cũng chỉ gặp bác cố Tuyển gái vài ba lần. Bác trai đã mất từ lâu, bà là người có quyền cao nhất trong ngành cả Bà bác giàu có không lạnh nhạt với tôi, nhưng cũng chẳng mặn mà. Dường như bà chẳng cần biết đến những đứa cháu họ bên chồng. Bà tiếp tôi như trong lễ triều kiến khi theo khuôn phép, tôi phải tới trình diện để chào bà. Bà hỏi tôi mấy câu lấy lệ, rồi hạch cô Gái: - Nó đã xưng tội lần đầu chưa? Thưa chị, chưa. - cô Gái đáp lễ phép. - Cô phải lo cho nó sớm việc này. - Thưa chị, vâng ạ.. Căn phòng rộng trên gác nhà tây với đủ thứ đồ đạc sang trọng - sa lông, tủ chè, sập gụ, mấy tấm gương lớn, hoành phi, câu đối, ảnh tượng Chúa, thứ nào thứ nấy bóng loáng và lạnh lẽo. Tôi mong cho buổi triều kiến mau kết thúc. May cho tôi, nó kết thúc sớm hơn dự kiến. Vẫn ngồi nguyên trên sập, bác cố Tuyển gái phán: - Cô cho cháu về. Tôi khoanh tay chào từ biệt bà. Cô Gái khép nép dắt tôi xuống thang. Bàn tay khô xác của cô tôi lúc đó sao mà ấm áp. Cô Oanh riết róng chẳng kém cô Gái. Bà ca cẩm chuyện anh Cu Nhớn câu hết cá ở ao nhà bà. - Cô Oanh rõ dở hơi - anh Cu Nhớn chằng mảy may quan tâm tới những lời phàn nàn hoặc mắng mỏ của cô Oanh - Ông bà bên ấy để của lại là cho con giai, ao là của bác cố Tuyển chứ đâu của cô mà cô giữ. Cô Oanh đối với tôi nhẹ nhàng hơn, cũng như đối với các cháu khác trong ngành út. Dù sao các ông em của bà ở ngành này cũng giàu có và danh giá hơn bác Hai Thực. Thậm chí, bà cho phép tôi được câu cá ở cầu ao nhà bà. Cái cầu ao mấy bậc bằng đá phiến xanh và nhẵn là chỗ ngồi câu thú vị. Không hiểu vì sao ở đây cá rất chịu cắn. Anh Cu Nhớn phát ghen với tôi, anh coi đó là chỗ câu lý tưởng. Có lẽ cô Oanh cho tôi câu vì cô biết tôi không sát cá. Vài con giếc không làm cho bà đau xót. Tôi cũng khôn ngoan dành cho bà vài con cá nhép cho con mèo tam thể béo tốt và lười biếng của bà. Ngồi ở cầu ao nhà bác cố Tuyển, tôi có thể vừa chờ cá cắn vừa ngắm người qua lại. Những người đàn bà đội cả chồng thúng, ngất nghểu từ chợ về, hai tay ve vẩy bên hông như múa. Vài con trâu đen nháy, béo mập đi những bước chậm chạp và lười biếng, thỉnh thoảng mới cúi xuống vặt một nạm cỏ non nơi vệ đường. Chiếc võng của cha xứ đung đưa trên vai hai người khiêng lực lưỡng. Họ choãi chân, đi lặc lè; cha xứ nằm trên, tay cầm cuốn kinh bìa đen thò ra ngoài màn che. Cha xứ chúng tôi nổi tiếng về đức siêng năng trong việc chăm lo phần hồn cho bổn đạo. Cô Oanh ngồi bên tôi thắc mắc: - Không biết cha đi đâu vậy? Dễ đến nhà ông lái Tòng. Ông ấy Chúa rước đến nơi. Mà có khi, cha đến ông trùm Thịnh. Nghe nói, ông ấy mấy bữa rày chẳng cơm cháo gì suất. Làng tôi nhỏ, mỗi sự kiện đều được truyền đi cho nhau biết, bằng đường báo tin chính thức thì ít mà qua sự ngồi lê đôi mách thì nhiều. Cô Gái vẫn dạy kinh cho cháu đấy chứ? - Dạ, vẫn dạy. - Cháu thuộc nhiều chưa? - Thưa cô, chưa nhiều ạ. - Phải học cho thuộc. Nhà ta đạo gốc. - Thưa cô vâng ạ. - Cháu nhớ sự tích bà thánh Ve-rô-ni-ca lột mặt Đức Chúa Giê-su không? - Không ạ. - Để cô dẫn tích cho mà nghe. Trời hỡi, thế này thì cá còn cắn gì nữa? Cô Oanh kể. Những cái phao ì ra, bất động. Tôi cuốn cần câu lại, lễ phép xin cô cho về. - Hôm nay dễ trở giời, cá không cắn. - cô Oanh ái ngại cho tôi - Để hôm khác vậy, cháu lại sang. Bà đóng hai cánh cổng hậu lại khi chân tôi vừa bước qua ngưỡng. Tôi ghét cay ghét đắng cái tiếng cài then hấp tấp sau lưng khách của cô Oanh. Và nói chung, tôi không thể ưa được những người vừa tiễn khách ra về là sập ngay cửa lại. Những ngày lễ, ngày tết, cô Oanh có cái thú gói bánh. Bao giờ bà cũng chỉ gói ba thứ: bánh gai, bánh gấc và bánh trắng. Nhà chỉ có hai chị em, gói bánh là chuyện xa xỉ. Bà gói bánh có lẽ chỉ vì muốn cho cuộc sống cô quạnh và đơn điệu của mình có cái gì giống như ở mọi người. Bánh bà gói được bao nhiêu cũng đem biếu cha xứ gần hết, số còn lại là dành thết khách, hy vọng sau khi ăn xong khách sẽ thết lại một lời khen. Mà có khen bánh của bà cũng không ngoa, bởi vì chúng ngon tuyệt. Lần gói bánh nào bà cũng dành cho tôi mấy chiếc. Bà gọi tôi sang, chỉ cho tôi cái ngưỡng cửa để mà ngồi, rồi đưa cho tôi tấm bánh. - Bóc đi cháu, cô cho đấy. Tôi bóc những lần lá chuối khô rồi cắn ngập răng vào cái màu đen ngọt lịm và béo ngậy của tấm bánh gai. Cô Oanh nhìn tôi với vẻ thèm thuồng như chính bà cũng muốn được ăn. Ngon không cháu? - Thưa cô, ngon lắm ạ. - Cô Gái làm cũng ngon vậy chứ? Tôi lúng búng trong miệng. - Thưa cô, không ngon bằng ạ. Đó là sự thật. Nhưng tôi không muốn nói sự thật ấy. Nó có gì giống như sự phản bội đối với cô Gái. Cô Oanh cười. Vẻ hài lòng thơ ngây hiện trên gương mặt già lão. Về bánh gói, cô Gái là địch thủ đáng gờm của bà. - Cô Oanh vừa cho mày ăn bánh phải không? Tôi bất giác đưa tay lên chùi miệng. Cử chỉ đó tố cáo tôi. Vả lại, tuy ngồi ở nhà mình, cô Gái biết mọi việc xảy ra bên nhà chị họ. - Thưa cô, vâng. - Đồ ăn chực! - cô Gái ném vào mặt tôi câu mắng tàn nhẫn. Tao cấm, hiểu chưa, tao cấm. Từ rày, không được sang bên ấy mà ăn chực. Cô Oanh cho mày thì cô ấy đem sang đây mà cho. Cứ cho dấm cho dúi, như thể tao bỏ đói mày không bằng. Vào đây. Tôi run lên. Thế giới thu nhỏ lại trong cái phất trần, mà tôi đã biết độ rắn của cái cán. Nhưng cô Gái không vớ lấy phất trần. Và ra hiệu cho tôi theo bà vào buồng. Cô Gái mở hòm gian, lấy cho tôi một cái bánh gấc. - Năm nay cô không gói bánh. Nhà mụ nhờ cô gói, nhân tiện cô gói cho nhà ta cả thể. - bà nói hiền lành - ăn đi? Tôi ăn chiếc bánh gấc của cô Gái. - Thế nào, ngon không? Cô Gái đợi tôi ăn xong, hỏi bằng giọng lo sợ và hy vọng. - Thưa cô, ngon ạ. - Ngon thế nào? Hơn hay bằng bánh của cô Oanh? - Thưa cô, ngon hơn ạ. Tôi nói dối. Tôi hiểu giữa hai bà có sự ganh đua ngấm ngầm và cả hai không bỏ lỡ dịp để hạ uy tín của nhau trước mặt con cháu. Cô Nhung là người khác hẳn cô Oanh và cô Gái. Người cao, to, ngộc nghệch ở tuổi già bà teo hết thịt, trở thành cái mắc áo. Mặt bà đầy nếp nhăn, làn da như một mảnh vải nhàu nát, nhưng trên gương mặt bị tàn phá đó luôn luôn có một nụ cười hiền hậu và trìu mến. Cô Nhung thương tôi. Bà thương bố tôi ở nhà pha phải giao con cho cô Gái nuôi, mà cô Gái là người hà tiện thế nào thì bà biết rõ. Kể ra, cô Nhung thương tôi vì cô nghĩ rằng tôi lẽ ra có thể được sung sướng hơn, chứ bữa ăn ở nhà bác Hai Thực còn tồi tàn hơn bữa ăn của cô Gái và tôi nhiều lắm. Cô Gái ăn khổ là do nếp nhà, như chính bà thường nói, cái nếp qui định không được vung tay quá trán. Cơm phải đủ no, nhưng nhất thiết không thừa. Vườn nhà đủ thứ rau, trứng gà do gà nhà đẻ, với cái cần câu của tôi, cá rồi cũng chẳng phải mua nữa; mươi con mương cũng đủ nồi canh cá nấu sung, vài chục con vừa rô con vừa bống là xong hai bữa có cá kho, tóm lại mùa nào thức ấy. Thỉnh thoảng cô cháu tôi đào một bụi tróc giong (giong riềng) hoặc rang vài lẻ thóc nếp cắn chắt những buổi tối ngót dạ. Tôi không phàn nàn về chuyện ăn uống. Vào tuổi tôi hồi ấy ăn gì cũng ngon. Cơm nguội rang bằng nồi đất, rắc vài hạt muối, nắm lại thành mấy nắm chim chim đã ngon tuyệt, chẳng cần phải có mỡ. Mỡ là của hiếm, cô Gái chỉ mua thịt ngoài chợ đôi ba lần một tháng, mỗi lần một hai lạng tây. Cô Gái bực bội khi biết cô Nhung, thỉnh thoảng lại dấm dúi cho tôi khi củ khoai lùi, khi bắp ngô nướng. Bà coi đó là sự phỉ báng lặng lẽ đối với bà. Nhưng tôi biết, khi cho tôi những món quà nhỏ bé đó cô Nhung chẳng nghĩ gì tới tác động của chúng tới bà em họ giàu trí tưởng tượng. Tối đến, thấy vắng mặt tôi, cô Gái biết ngay tôi ở bên nhà bác Hai Thực. Bà gọi tôi ồi ồi. Cô Nhung phải ra cửa nách nói chõ sang, giọng nịnh nọt: - Cô cho cháu nó đọc kinh bên này với tôi. Sau buổi đọc kinh tối, cô Nhung còn cà rầm cà rì kể chuyện cho lũ cháu tới khi chúng tôi lần lượt lăn ra ngủ khì trên ổ rơm của bà. Cô Nhung kể chuyện về những người đã chết trong ngôi nhà của bố mẹ bà. Cô Nhung kể dài dòng hơn cô Gái, kém mạch lạc hơn. Những người mà giọng nói hụt hơi của bà nhắc tới vừa sinh động, vừa đáng ngán. Họ là những người vui vẻ tinh nghịch, nhưng đáng ngán vì họ làm toàn những việc không đâu, chẳng nhằm mục đích gì, rồi biến mất khỏi thế giới này không để lại cái gì. Sáng ra, tôi trở về nhà với nhiều nốt muỗi đốt trên mặt. - Có màn không nằm, thích nằm ổ rơm - cô Gái lắc đầu- Mày rồi đi ăn mày, cháu ạ, mày không biết chọn cái sướng. Nhưng tôi vẫn bị cuốn hút sang nhà bác Hai Thực. Về mùa Đông, những buổi sáng có nắng ấm, cô Nhung gọi tôi sang: - Cháu đưa áo đây, cô bắt rận cho. - Để cháu bắt lấy. - ừ, ngồi đây mà bắt với cô. Gớm, chúng nó cắn quá sức lẽ mình, làm cả đêm cô không chợp mắt. Tôi cởi áo, ngồi xuống thềm. Cả nhà bác Hai Thực đã ngồi sẵn ở đấy thành một hàng. Chúng tôi chăm chú và say mê lùng bắt những con rận cụ đen như trâu, những chú rận nhép trắng trong với một chấm máu tí xíu giữa bụng. Chúng nép mình trong những nẹp áo, nẹp quần, bấu chặt vào các đường chỉ khâu sần sùi. Túm được một con là anh Cu Bé reo ầm lên: - Một anh kềnh. - Lại một nhép. Tiếng reo của anh Cu Bé làm cô Nhung sốt ruột. Cô ngừng bắt, hướng cặp mắt mờ đục lúc nào cũng rỉ nước về phía Cu Bé: - Mày được bằng nào rồi, Cu Bé? - Tính cả con này nữa là hai mươi bảy, cô ạ. - Vậy mà cô được có tám con. Cô Nhung thở dài, đặt cái áo xuống, quài tay ra sau đấm lưng Cô Nhung bắt rận chậm lắm. Đôi tay nhăn nheo như những đốt xương bọc trong chiếc găng da mềm màu vàng xỉn dò dẫm theo nẹp áo, chốc chốc lại chìa cái áo rách cho tôi: - Cháu tinh mắt, nom hộ cô có phải con nhép không? - Không phải đâu, cô ạ! Cái sợi chỉ lỗi nó gồ lên đấy. - Cô cứ ngỡ con nhép, gậy mãi gậy mãi không được. Anh Cu Nhớn được bằng nào rồi? - Ba mươi hai, cô ạ. - Còn cái Phương? - Cháu không đếm. Mà lắm lắm. - Cái tang rét năm nay rận ra nhiều quá thể. Năm ngoái năm kia ít hơn nhiều. Cô Nhung kết luận. Sự kiện này rồi sau sẽ nhảy vào trong những chuyện kể của bà. Bác Hai Thực giai sốt ruột, quay vào trong nhà lấy ra một cái chai, trải chiếc áo trắng đã hoàn toàn trở thành cháo lòng lên nền gạch, rồi dùng sức mạnh của đôi tay gầy guộc lăn qua lăn lại trên từng nẹp áo. Ngồi gần, tôi nghe thấy tiếng rận và trứng rận bị đè bẹp, nổ lép bép. Những người đàn bà đưa nẹp áo, nẹp quần lên nhằn từng đoạn một. - Thày kể cái đoạn Triệu Tử Long đi thày. Chị Phương cầm lấy cái chai bác Hai vừa đặt xuống, làm theo bố. Bác Hai Thực đằng hắng lấy giọng, để mọi người chú ý, rồi thủng thẳng: - Lúc bấy giờ Triệu Tử Long mới một mình một ngựa, tả xung hữu đột quay lại tìm A Đẩu... - A Đẩu là con Lưu Bị, thày nhẩy? - Lặng nghe thày kể nào. Thằng Cu Bé, cứ cắt ngang. - ừ, A Đẩu là hoàng tử, con trai của Lưu Bị - bác Hai Thực chiều cậu út, giảng giải - Cứu được A Đẩu rồi, Triệu Tử Long lại phải phá vỡ bảy lần trùng vi mới đưa được cậu cả nhà ta ra ngoài. Các người phải biết, vậy là khó vô cùng là khó. Thử ngẫm mà xem, phải cắp một thằng bé vào nách, lại vừa phải đánh nhau chí mạng. - Lạy Chúa tôi? - bác Hai Thực gái kêu lên - Kẹp vào nách thế thì có mà chết tiệt. - Bà rõ dở hơi? - bác giai bực bội - Kẹp phải có ý chứ, kẹp mà chết con người ta thì còn nói chuyện gì. Không có ý thì nằm ngủ với con cũng đè chết con. - cô Nhung bình phẩm - Như con dâu nhà Tám ở xóm Cố Hương đấy, ngủ say thế nào mà đè chết con bé thứ hai. - Triệu Tử Long mang được A Đẩu về dinh. - bác Hai Thực vội ngắt lời, biết rằng nếu ông không tiếp tục câu chuyện ngay lập tức, thì bà chị sẽ rẽ nó sang nẻo khác - Các người bảo rồi sao? Lưu Bị cảm ơn rối rít, ban ân, ban tứ chăng? Thăng chức cho Triệu Tử Long chăng? Đừng hòng nhá. Lưu Bị mới tóm luôn lấy cẳng thằng bé, phùng má trợn mắt quăng đi? - Lạy Chúa, chết tươi thằng bé chứ còn gì? Bác Hai Thực giai nguýt bà chị gái nói "Các người sao mà tối dạ làm vậy!". Rồi bác hạ cố giảng giải:. - Chết thế nào được mà chết. Các người chẳng có hiểu gì suất. Thế vầy: ở đời này, phàm đã có vua là phải có nịnh thần. Lưu Bị tính chán rồi, ném con đi, khắc có khối thằng đỡ. - Nhưng ném con đi như vậy để làm gì, thày? - Lưu Bị ném con đi rồi mới giậm chân mà rằng: "Chẳng há vì một thằng bé này mà ta mất đi một tướng tài ru!". Để làm gương cho các tướng, Bị ta sai tả hữu lôi Triệu Tử Long ra chém. - Ngữ ấy có đem trôi sông cũng đáng - bác gái chép miệng - Làm vua mà bất nhân quá. - Tội nghiệp cái anh chàng gì Long ấy. Rõ làm ân nên oán, làm bạn thiệt mình, dại ơi là dại. Bác Hai Thực giai lừ mắt nhìn bà chị. - Kể chuyện cho các người tức anh ách. Đang kể thì đâm ngang, đang kể thì đâm ngang. - Thày kể nốt đi thày - anh Cu Nhớn giật giật quần bố. - Thôi, chẳng kể nữa. Nói với các người bằng vạch đáu gối ra mà nói còn hơn. Rõ chán chuyện. Người ta ném con là để ra cái điều quí tướng. Người ta ra lệnh chém tướng cũng là để phô cái sự quí ấy. Quí thì thương, thương quá hóa giận, có vậy, chứ ai định chém thật. óc các người rõ bằng óc đất. Bác Hai Thực đứng lên, mặc áo rồi đi vào nhà. Giọng bác nói rằng bác không thèm kể thêm chuyện gì cho bọn óc đất nữa. - Vậy, cái giống vua nó thâm ra quỷ, chúng bay ạ. Cô Nhung nói to để ông em có thể nghe rõ lời khen của bà. ở trong nhà vang lên tiếng điếu ống tanh tách rồi một làn khói lam nhạt bay ra ngoài như một đám mây nhỏ, từ từ trườn vào trong nắng. Hồi ấy, những con rận chẳng làm phiền tôi bao nhiêu. Tất nhiên, chúng có làm tôi ngứa ngáy. Nhưng tôi ngứa đâu có phải chỉ vì rận. Tôi còn có cả chấy và đôi lần còn bị ghẻ nữa. Được cái ở làng tôi, người ta không coi cái đó là điều hệ trọng. Danh giá nhất trong làng có dễ là cha xứ. Vậy mà tôi đã thấy trong lúc đi làm phúc cho kẻ liệt, cha đã gãi sồn sột, và kín đáo thả xuống đất một con gì ông túm được. Bác Hai Thực trong mắt tôi là một người có học vấn uyên thâm. Hứng lên, bác có thể kể chuyện Tam Quốc hoặc Thủy Hử hàng tháng liền, mỗi tối một ít. Chúng tôi ngồi quanh bác, miệng há ra, thán phục và thích thú. Tôi chỉ bớt phục bác khi bắt đầu đọc những cuốn truyện được đóng lại từ những mảnh cắt ra trong các tờ báo, mà lúc bấy giờ người ta gọi là nhật trình. Bác Hai Thực cho tôi mượn những cuốn sách bìa giấy bản phất cậy với lời dặn: - Chớ có làm rách. Sách này còn quí hơn vàng. Tôi leo lên cây sung ở vườn sau, đọc trốn cô Gái. Cô Gái không biết chữ, nhưng đủ thông minh để phân biệt sách kinh với các thứ sách khác mà cô coi tuốt là nhảm nhí. Khi tôi đọc xong một cuốn, tôi trả bác Hai Thực để mượn cuốn tiếp. Bác tôi trân trọng và trìu mến quết những tờ bìa dày cộm mà nhựa cây đã làm cho nó cứng như mo, nhẹ nhàng đặt chúng vào trong tráp rồi đậy nắp lại. Cái tráp của bác lúc nào cũng ở trên giường, kể cả lúc bác buông màn đi ngủ. - Cái anh Tiều Cái với lại cái anh Tống Giang nào có ra quái gì! Bác bình phẩm - Việc gì cũng toàn đàn em làm ráo, vậy mà lại nghiễm nhiên hưởng tiếng thơm anh hùng. Ngẫm ra, thiên hạ nói cấm có sai: thần thiêng nhờ bộ hạ. ở đời này, thế mới biết, ít cái sự công bằng lắm thay! Bác rít một hơi thuốc lào cho tới khi viên thuốc cháy đỏ tụt hẳn vào trong nõ. Bác nhìn khói thuốc vật vờ trước mặt, không nhìn tôi. Bác không nói chuyện với tôi mà nói to ý nghĩ của bác. - Lưu Bị cũng vậy. Trương Phi mới thực là người giỏi, chúng bay ạ, phải cái nóng tính quá? Rồi thở dài, bác lắc đầu thương Trương Phi.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                              

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

X

Hồi ký

Nhà thờ làng tôi là một trong những nhà thờ đẹp thuộc địa phận Bùi Chu. Người ta đánh giá nó đẹp có dễ vì bề thế của nó, vì sự sang trọng bên trong của nó, nhưng quyết không phải vì kiến trúc. Đó là một ngôi nhà kiểu nhà ở nông thôn rất lớn và rất cao, chia thành nhiều gian, mỗi gian trổ ra một cửa gô tích. Hai đầu hồi phẳng lỳ dâng cao hẳn lên với những phù điêu, họa tiết đặc trưng cho Thiên Chúa giáo, chót vót trên cùng là cây thánh giá rườm rà bằng xi măng cốt sắt. Riêng gác chuông mang cốt cách châu Âu. Châu á không có thứ gác chuông nào giống thế. Trước lối vào nhà thờ, lối sau, có một ngôi nhà xây lớn, thềm cao, lúc nào cũng đóng im ỉm, gọi là hội quán. Bên phải hội quán là một ngôi nhà dài, cũng là nhà xây nhưng không có thềm cao, gọi là trường học. Nhưng nó không phải là trường học theo nghĩa thế tục. ở đây người ta dạy kinh bổn, đồng thời là nơi hội họp của một tổ chức thiếu nhi trong bổn đạo, gọi là nghĩa binh. Chao ơi, sao mà tôi thèm được trở thành một nghĩa binh đến thế? Nhưng tôi không thể vào nghĩa binh được chỉ vì một lẽ đơn giản: tôi không có áo dài trắng, quần trắng, mũ trắng đàng trước có một chữ thập đỏ. Những thứ đó là tiền cả. Cô Gái tôi muốn tôi trở thành một đứa trẻ ngoan đạo, nhưng phải bỏ tiền ra cho ý muốn đó thì bà tiếc. Tôi đành đứng nhìn đoàn nghĩa binh trong đám rước, những đứa trẻ cùng lứa vừa đi vừa nhảy nhót theo một điệu vui mắt vung những chiếc gậy ngắn và gõ chúng vào nhau theo nhịp trống, gọi là đánh rắc. Hoặc tôi phải đứng ở xa nghe những nghĩa binh đứng thành nhóm trong nhà thờ ngân nga trầm bỗng những bản thánh ca êm dịu. Để mau chóng trở thành con chiên lành của Chúa mà không tốn kém, cô Gái gửi tôi đến nhà trường để học kinh. Thầy dạy kinh tôi là một thày già. Thày già không hề già chút nào, đó là một cách gọi những học sinh lớp cao của chủng viện giúp việc cha. Thày già này, một thanh niên xanh rớt và đạo mạo, chộp lấy tôi, đúng như cách người ta bắt những con vật lạc đàn. - Bà cứ để cậu ấy cho tôi. Tôi khảo kinh xong, cậu tự về. Hóa ra tôi thuộc kinh vào loại giỏi. Tôi giỏi là nhờ cô Gái và cái phất trần của cô. Thầy già chỉ dạy tôi thêm một số kinh dài và khó. Một thời gian ngắn sau đó tôi đã có thể đi thi kinh toàn xứ. Ngày đi thi kinh là một ngày trọng đại. Tôi được mặc quần áo đẹp, được cô Gái nấu xôi cho ăn sáng và dẫn tới tận hội quán. Chủ khảo là một thày già khác, một ông già thật sự, nhạc sĩ duy nhất của cả xứ đạo. Thày già thường chơi đàn ác-mô-ni-um trong nhà thờ. Mặt ngửa lên trần, ông nhẩn nha thả những ngón tay xương xẩu nhưng lại rất mềm mại xuống dải phím ngà, và cả nhà thờ tràn ngập âm thanh du dương của khúc nhạc ngợi ca Chúa. Thày già chủ khảo hoàn toàn không khe khắt. Ông nghe tôi đọc kinh, đầu cúi thấp, mắt lim dim như buồn ngủ. Chỉ có một lần ông choàng tỉnh, nhắc tôi: - Vườn Giệt-xi-ma-ni chứ không phải Dệt-xi-ma-ni! Đó là lỗi của nhà in, không phải lỗi của tôi. Và lỗi của thày dạy kinh, ông đã không chú ý tới lỗi đó. Tôi đỗ cao trong lần thi kinh đó. Thày chủ khảo trịnh trọng trao cho tôi mấy quyển kinh và bổn bìa mỏng, một cuốn Phúc âm bìa da. Đó là phần thưởng của xứ đạo cho những đứa trẻ thuộc kinh nhất. Thi kinh chỉ có thưởng chứ không có phạt. Ai thi trượt thì học lại rồi thi lần khác. Mà để thuộc kinh chẳng cần trường lớp gì hết. Bằng chứng là cô Gái tôi thuộc làu làu mọi kinh, nhưng bà lại không biết chữ. Cô Gái cầm mấy cuốn sách tôi được thưởng, cảm động như chính bà là người được hưởng vinh dự đó. Trong khi tôi thi kinh, bà đi loanh quanh đâu đó và quay lại hội quán chờ tôi. Cô Gái không dắt tôi về lối cổng nhà chúng tôi mà đi lối nhà bác Hai Thực. Bà không dằn lòng được để không khoe với ông anh họ, người đàn ông duy nhất của cả ba ngành còn ở lại trên đất đai của các cụ tố. - Nhà đạo gốc, con trẻ trước nhất phải am tường lẽ đạo. Cháu nó thuộc kinh bổn được vậy là tốt lắm - bác nghiêm trang nói với bà em họ - Bao giờ cô tính cho cháu xưng tội lần đầu? - Em định đến mùa chay, được không bác? - Được Bác Hai Thực phán. Được phán là một cơ hội hiếm hoi, nhất là đối với bà em khinh khỉnh. Cô Gái tỏ ra sởi lởi. Cô cho tôi năm xu ăn quà. Tôi tự thưởng cho mình cái công học đến rát họng những bài kinh đáng ngán bằng cách đem cả năm xu mua sâu bà Cơ. Sâu là một thứ bánh rất độc đáo, có dễ chỉ ở làng tôi mới có. Nó là cái bánh rán tí xíu bằng quả trám hoặc củ ấu, làm bằng bột tẻ pha muối và rán trong chảo ngập mỡ. Sâu rất cứng, phải có bộ răng thật khỏe mới có thể nhai vỡ, sâu vỡ rồi phải nhai lâu mới tận hường được vị bùi và béo ngậy của nó. Nó là thứ quà rẻ tiền và là thứ quà tôi thích nhất trong quãng đời ở nhà quê của tôi. Bà Cơ, người sản xuất ra thứ sâu nổi tiếng đó là một bà lão nghèo, có căn nhà tí xíu ở sát cổng nhà bác Hai Thực. Mỗi khi chúng tôi đến mua, bà Cơ mở nút chĩnh, giốc vào lòng bàn tay nhăn nheo đến biến dạng của mình những con sâu vàng nhãy mỡ. Tôi không hiểu chính bà lão hay ai đó đã đặt tên cho thứ bánh nọ là sâu. Nó chỉ là tên gọi quy ước, bởi lẽ nó chẳng giống một con sâu nào. Bà lão đã lẩm cẩm, tôi hy vọng bà sẽ lầm lẫn khi đếm sâu cho tôi, nhưng cho tới khi tôi trở về Hà Nội bà lão chưa đếm nhầm tới một lần. Cô Gái tỏ ra yêu tôi hơn hẳn sau khi tôi thi kinh. Bà còn tự hào về tôi nữa. - Cháu nó thi kinh nhất xứ đấy? - bà khoe với họ hàng và những người mà bà quen, có thể khoe mà không trở thành lố bịch. Bây giờ sáng chủ nhật nào hai cô cháu cũng đi lễ cùng nhau. Trước đó, tôi hay đi với các anh Cu Nhớn, Cu Bé hoặc Chị Phương. Chúng tôi bao giờ cũng đi lễ sớm, từ khi còn tối đất, để còn về kịp buổi chợ. Cô tôi bán thuốc viên ở chợ làng. Tôi thích những buổi lễ sớm ấy, khi trong bóng đêm đang nhạt dần, con đường trước cổng nhà tôi bỗng nườm nượp bóng người và vang lên những lời chào hỏi niềm nở. Vào giờ ấy, thật đáng tiếc là chỉ vào giờ ấy, làng tôi bỗng trở thành một gia đình. Mọi người đều bộc lộ lòng yêu thương đối với nhau, và trong thâm tâm có dễ người ta chỉ mong cho nhau sự tốt lành. Chuông nhà thờ đổ hồi, vang vang, xua đuổi những mảng đêm cuối cùng còn cố thủ trong những ngõ hẻm, những tán lá rậm, những bụi cây thấp um tùm đầy gai góc. Nghe chuông gọi, ánh ban mai nhợt nhạt bay lên từ phương Đông, tô xanh dần bầu trời mỗi phút một mất đi màu tím. Những vì sao muộn chìm vào trong ánh sáng của một ngày mới. Trước gác chuông cao lồng lộng, những người đi lễ rẽ xuống những bậc đá rộng thênh thang dẫn tới mặt nước còn u tối của cái ao nhỏ để khỏa chân cho sạch trước khi bước vào ngôi nhà của Chúa. Mặt nước âm thầm nuốt chửng những bóng đen đi xuống với nó rồi lại nhả ra cho con đường lát gạch đang sáng dần lên dưới gác chuông. Bước mấy bậc lên thềm cao của nhà thờ, tôi thành kính khuỵu gối, đưa tay lên làm dấu. Bên mỗi cửa vào có một bông hoa đá trong đựng nước mát, có dễ là nước mưa, gọi là nước thánh. Nhúng mấy đầu ngón tay chụm lại vào đó, tôi đưa mấy ngón tay ướt lên trán, làm dấu lần nữa rồi bước theo cô tôi vào bên trong ngôi nhà của Chúa ở đó đàn chiên của Người đang rì rầm cầu nguyện. Cô Gái bỏ tôi đi tới khu vực dành cho các bà, còn tôi thì tìm tới khu vực trẻ con. Anh Cu Nhớn và anh Cu Bé đã ngồi đấy; hai anh không bao giờ đi muộn hơn tôi. Tôi ngồi xuống bên anh Cu Nhớn, chắp hai tay lại, ngước mắt nhìn lên ban thờ Chúa. Bóng tối mờ mờ ngự trị trong nhà thờ. ít phút sau một thày già cầm cây sào dài trên có mồi lửa chậm chạp đi thắp từng cây bạch lạp lớn trên bàn thờ, dưới chân các bức tượng, rồi đến các bức tượng trong các tòa gắn trên các cột, các ảnh thánh treo dọc nhà thờ, nhà thờ sáng dần lên cùng với mỗi ngọn bạch lạp được thắp và tiếng cầu nguyện cũng to dần khi đàn chiên Chúa đông thêm. Chuông nhà thờ lại đổ hồi báo tin lễ sớm bắt đầu. Trên bàn thờ to lớn chiếm gần hết đầu hồi của ngôi nhà Chúa, lộng lẫy ánh vàng của các tòa như nhẹ bổng bởi ánh sáng lung linh của lửa bạch lạp. ở chính giữa là Chúa Giê- su Ki-ri-xi-tô khắc khổ và ưu tư. Đức Mẹ hiền hậu và khoan dung đứng bên dưới, kế đến các thánh tông đồ: ông thánh Phê-rô với chiếc chìa khóa mở cửa Thiên đàng đeo trước bụng, ông thánh Giu-se đầu hói, người cầu bầu cho bộ lạc thợ mộc và chồng của Đức Mẹ, ông thánh Gia-cô-bê, ông thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta, ông thánh Ba-tô-lô-mê-ô... Các thánh tông đồ ngày một đông đảo, vì vậy ngoài vị trí trên bàn thờ chính, các vị còn phải đứng trong các tòa nhỏ hơn được đóng vào cột, được treo trên tường. Với vẻ mặt nghiêm trang đầy suy tư, các thánh có vẻ như không chú ý tới những lời nguyện cầu nhao nhao của đám con chiên đen đặc phía dưới. Các con chiên thì, để bắt các vị phải nghe cho rõ những lời van xin của mình, mỗi lúc một la to hơn nữa những bài kinh cầu của họ. Lễ bắt đầu với hai cậu (hai đứa con trai làm công việc giúp cha hành lễ) trong bộ áo đen thùng thình và áo khoác trắng viền đăng tèn bao bọc cả ngực và lưng, kính cẩn bưng bình hương và chén lễ, từ bên trong cửa nách ở đầu hồi bước ra. Theo sau hai cậu là cha già, hoặc cha xứ, trong bộ áo lễ màu tím lấp lánh kim tuyến với hình thêu thánh giá vàng óng rất lớn ở lưng. Hai cậu đặt bình hương và chén lễ lên bàn thờ rồi lùi lại quỳ xuống trong khi cha tiến lên làm dấu thánh. Ông ngẩng cao mái đầu đội mũ lễ cũng thêu kim tuyến, giơ hai tay hướng về tượng Chúa Giê-su và các thánh, nói một tràng dài bằng tiếng la-tinh rồi quay lại đám con chiên, làm dấu ban phước lành cho họ. Những từ la-tinh lạ tai nhưng rất trang trọng sang sảng bay lướt trên đầu đám đông lúc này im phăng phắc, đập vào mái nhà thờ, rơi xuống và lập tức chìm nghỉm trong tiếng cầu nguyện một lần nữa lại nổi lên như sóng cồn. Trong tuổi thơ, tôi đã say mê những buổi đi lễ. Chẳng bao lâu tôi đã trở thành một đứa trẻ siêng năng sự đạo đúng như lòng cô tôi nguyện ước. - Thôi thì bố mày hỏng, nhà này còn được mày, cháu ạ. Bà ôm tôi vào lòng, nói với tôi. Đó là khi nào bà yêu tôi lắm. Bình thường bà không ôm tôi vào lòng. Giữa hai cô cháu bao giờ cũng có một bức tường lạnh lẽo. Về sau này, tôi hiểu ra rằng tôi đã say mê đạo Chúa và trở thành đứa trẻ ngoan đạo chính là vì cái gì. Lễ diễn ra trong cảnh bài trí uy nghi lộng lẫy, trong tiếng ác-mô-ni-um trầm bổng, trong tiếng hát trong trẻo của những giọng đồng ấu ngân nga ngợi ca Chúa của muôn loài. Nhà thờ hơi mờ tối với vòm mái âm u được chiếu sáng bởi rất nhiều ngọn nến lung linh lửa ấm làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm và huyền bí của ngôi nhà Chúa Cứu Thế, nơi hoàn toàn chẳng có gì dính dấp với cuộc sống trần tục, với những bận rộn không đâu, những niềm vui nho nhỏ và những đau khổ vẩn vơ so với cái hạnh phúc vĩnh hằng trên nước Thiên Đàng mà Chúa hứa. Tôi mê tính chất sân khấu của đạo Thiên Chúa đến nỗi lập tức biến nó thành trò chơi. Cùng với anh Cu Nhớn và anh Cu Bé, tôi bày một bàn thờ ở góc nhà, trên cái bàn con, rồi đặt lên đó tượng Đức Chúa Giê-su Lái Tim cao bằng cút rượu mà tôi mua ngoài chợ làng. Đế tượng là một viên gạch, còn vật trang trí là đủ thứ hoa mà chúng tôi có thể kiếm được, dâm bụt hái ngoài hàng rào, hoa tróc giong từ vườn sau, hoa đại ở vườn trước và cả hoa cứt lợn ở vạt cỏ ven bờ ao. Là kẻ khởi xướng trò chơi, tôi được đóng vai quan trọng nhất và được biểu diễn nhiều nhất: vai cha đạo. Anh Cu Nhớn và anh Cu Bé quết nước bọt nhường cho tôi vai đó. Để trở thành cha, tôi lấy tấm chăn sợi đỏ có sọc đen ở hai đầu của cô Gái, khoác lên mình; anh Cu Nhớn khéo tay dán lên đó cây thánh giá bằng giấy báo xát nghệ. Mũ của cha là cái đấu đong gạo được dán lên trên đủ mọi thứ giấy màu lòe loẹt trông rất ngoạn mục. Hai cậu giúp lễ - anh Cu Nhớn và anh Cu Bé - cũng trong những quần áo tự tạo như thế, hai tay thành kính chắp trước ngực, cầm hai cây bấc trắng muốt giả làm bạch lạp. Y hệt như ở trong nhà thờ, thoạt đầu hai cậu trang nghiêm từ trong buồng cô Gái bước ra. Tôi theo sau, vừa đi vừa túm góc cái chăn sợi bướng bỉnh cứ nhất định xõa xuống lê lết trên mặt đất. Đứng trước bàn thờ, tôi trịnh trọng làm dấu thánh, hai cậu lui lại phía sau, quỳ xuống. Rồi quay lại với đàn chiên tưởng tượng, tôi giơ hai tay chĩa về Chúa trên trời, như một cha chính cống. - Miăn tôm kho càkhoo... cákhooo...! Miăn miho mihen mi chết bỏ kề nhà miii... A-me.e.e.n.n...! Tôi lấy giọng nghiêm trang trầm bổng để đọc câu kinh giả La-tinh mà tôi học mót ở những kẻ báng bổ đạo Chúa. Buổi lễ cũng kết thúc ở đó. Chúng tôi chưa kịp chia xẻ với nhau niềm vui thành công thì cô Gái không biết từ đâu đã nhảy bổ vào, cái phất trần lăm lăm trong tay. Chúng tôi không nghe thấy tiếng bà gọi cổng. Hoặc chúng tôi quá mải mê nên không nghe thấy, hoặc bà tự mở được cổng (bà biết cách tự mở nó), nhưng bà đã vào được nhà đúng vào lúc chúng tôi hành lễ. Giê-su Ma-ri-a? - nữ thần trừng phạt của chúng tôi hét lên, lạc giọng - Chúng mày chết với tao, quân báng bổ! Hai cậu giúp lễ rúm người lại, run như cầy sấy. Tôi lúng túng trong chiếc áo lễ định co cẳng chạy thì giẫm phải góc chăn, ngã lăn chiêng. Lập tức trận mưa phất trần đổ rào rào xuống người chúng tôi. Trận đòn của con chiên mẫu mực đánh con chiên ghẻ thực là khủng khiếp. Anh Cu Nhớn và anh Cu Bé cũng bị, nhưng nhẹ hơn tôi. Cô Gái còn để phần cho bác Hai Thực. Với tôi, bà đánh thẳng cánh. Khắp người tôi đầy lằn roi. Của đáng tội ở đoạn đầu trận đòn, cái áo lễ đã tỏ ra phép lạ của nó. Cán phất trần của cô Gái giáng xuống chỉ gây ra những tiếng bồm bộp. Nó giảm nhẹ rất nhiều hiệu quả của hình phạt. Nhưng cô Gái rồi cũng hiểu ra phép lạ của tấm chăn. Bà lột phăng nó ra và tiện thể cả cái quần của tôi. May cho tôi, cô Gái đã thấm mệt và những đòn giáng xuống mông cũng không còn được nặng tay. Cô Nhung nghe tiếng chúng tôi khóc, lật đật chạy sang. Đến khi bà giang cả hai tay ôm ba đứa cháu vào lòng để đỡ đòn và cũng khóc ré lên cùng với chúng tôi, cô Gái mới ngừng tay. Cô Nhung dắt chúng tôi về nhà bác Hai Thực. Cô Gái sang theo, mặt hầm hầm mách bác Hai Thực. Bác Hai Thực đỏ mặt lên, vớ lấy cái roi mây tiếp tục quần thảo với hai anh tôi. - Giê-su? Tội nghiệp cháu tôi! - cô Nhung thều thào, cái miệng không còn răng của bà trễ ra, mắt bà đỏ hoe - Ai lại dại vậy, cháu? Sao lại dám báng bổ như vậy? Cô Gái đánh cháu là phải, cháu hư thì phải đánh, nhưng đánh thế nầy thì quá sức lẽ mình. Yên, yên cô xoa cho nào. Bàn tay nhăn nheo của bà xoa đều trên người tôi. Mùi dầu quất thần hắc đến cay mũi. Một giọt nước mắt đục lăn ra khỏi con ngươi mờ tối của cô Nhung, rơi trên ngực tôi, làm dịu đi rất nhiều cảm giác đau đớn. Tôi thổn thức, ôm chặt lấy bà. - Lúc cô bé, cô có bị đánh không cô? Tôi hỏi bà khi cơn đau lắng xuống. - Có chứ! - cô Nhung chép miệng, tay vẫn không ngừng xoa cho tôi - Trẻ con bao giờ chả bị đòn. Bà sinh ra cô ấy, bà đánh luôn. Ông ít đánh, nhưng đã đánh thì đánh rất dữ. - Ông có đánh bác Hai không? - Bác cũng bị ông đánh. Có lần, ông đánh bác từ giường trên lăn xuống giường dưới. Lạy ông, ông cũng không tha. Lạy Chúa tôi, cái trận ấy ông đánh mới dữ làm sao! Giọng đều đều, như khi bà đọc kinh, cô Nhung dẫn tích về trận đòn mà bác Hai Thực phải chịu khi còn là trẻ con. Như mọi câu chuyện của bà, nó nhạt nhẽo, không có sinh khí, nhưng nó xoa dịu những vết đau, cả ngoài da và trong lòng. Tôi giận Đức Chúa Giê-su vô cùng. Trong trận đòn ghê gớm của cô Gái đổ xuống đầu chúng tôi ông có mặt ở đó, ông nhìn thấy hết, nhưng ông chỉ đứng ỳ ra, lặng lẽ và khoe khoang chỉ vào trái tim đỏ chói đang bốc lửa trên ngực ông mà chẳng hề làm lấy một nửa phép lạ nào để cứu tôi. Mà tôi đã tin tưởng ở ông biết mấy, tôi đã cầu nguyện biết bao nhiêu để xin được ông che chở phần hồn cũng là phần xác. Tôi giang thẳng cánh đập Đức Chúa Giê-su Lái Tim vào lưng vách. Bức tượng đất nung vỡ tan, để lại những vệt bụi đỏ trên vách và nhiều mảnh vỡ dưới đất. Mặc dầu tượng Chúa Giê-su là tượng chưa được cha làm phép, nhưng vì quá sợ hãi, anh Cu Nhớn đã làm một hành động phản bội đối với tôi - anh mách cô Gái. Nhưng trái với sự chờ đợi của anh Cu Nhớn, cô Gái khiếp sợ đến thất sắc, đến rụng rời chân tay. Bà ngồi bệt xuống ngay chỗ nghe được tin dữ, úp mặt vào đầu gối mà khóc hu hu. Anh Cu Nhớn trốn biệt. Nhưng cô Gái tìm ra anh. Không hề hỏi những chi tiết của vụ phạm tội, bà cởi hầu bao cho anh hẳn một hào. - Cháu chớ nói với ai nhá! - bà năn nỉ - Cả thày mẹ cháu, cả cô Nhung. Chớ. Im tắp, nghe chửa? - Thưa cô, vâng ạ. - Vậy cháu kêu tên Chúa mà thề đi! Trong mười điều răn có một điều cấm kêu tên Đức Chúa Lời vô cớ. Nhưng đây là một cớ lớn, trọng đại, chẳng thế mà cô Gái đã hành động khác hẳn thường ngày, anh Cu Nhớn liền làm dấu thánh mà thề sẽ giữ kín điều bí mật khủng khiếp nọ. Sau khi dàn xếp với anh Cu Nhớn, cô Gái cũng không quên cho tôi một trận. Trận này so với trận trước còn dữ hơn rất nhiều, nhưng cô Gái cẩn thận đã đánh tôi ở gần chuồng lợn, cách xa tai hàng xóm. Tôi không được phép ra khỏi nhà cả tuần. - Tao sẽ giả mẹ mày! - cô Gái rít lên, đay nghiến tôi - Thằng vô đạo đốn đời, thằng chết sa Hỏa Ngục, tao sẽ tống mày đi cho khuất mắt để khỏi ô danh nhà đạo gốc. Ôi, thằng quỷ, con cháu của Sa-tăng, của Luy~xi-phe! Bà đến quỳ hàng nửa buổi trước tòa Đức Mẹ để tạ tội vì trong nhà bà có một thằng cháu hư đốn đến thế. Vì chuyện đó, việc xưng tội lần đầu của tôi phải hoãn lại. Mặc dầu luật đạo cấm không được giấu giếm điều gì khi xưng tội, nhưng tội của tôi quá ứ gớm ghiếc, nên cô Gái quyết định để nó chìm vào quá khứ. Bà tin rằng mặc dầu cha có nghĩa vụ giữ kín tội lỗi mà con chiên xưng với mình, nhưng rất có thể ông sẽ nổi nóng đến mức ông sẽ lên tòa giảng mà rao to cho cả làng biết cháu bà Gái đã làm việc gì. Cô tôi không chịu đựng nổi mối nhục lớn đến như vậy. Anh Cu Nhớn đã giữ lời thề với cô Gái. Nhưng anh băn khoăn. - Chú phạm tội trọng. - anh nói, giọng đứng đắn, hệt như một người lớn - Cô Gái cho tôi một hào là để tôi đừng nói tội của chú cho ai biết. Tôi nể cô, nhưng như vậy là tôi cũng phạm tội. Khốn cô bắt tôi kêu tên Chúa mà thề rồi, tôi sẽ không nói ra đâu. Có điều, chú cầm lấy đồng hào cô đưa cho tôi đi. Tôi cầm, tội tôi nặng thêm. Anh đưa cho tôi đồng hào. Rõ ràng, anh Cu Nhớn đã phải trải qua một cuộc đánh nhau dữ dội với bản thân. Tôi nhìn thấy trong mắt anh nỗi buồn và sự tiếc rẻ. Nhưng anh cương quyết đưa nó cho tôi. Tôi rất thích đồng hào, nhưng cử chỉ của anh Cu Nhớn làm tôi lây cái sợ của anh. Sau một hồi lâu nhùng nhằng, cái đầu bị thịt của tôi đã cho ra một sáng kiến. Tôi rủ anh Cu Nhớn dùng một hào đó mua sâu bà Cơ và hai chúng tôi sẽ ăn chung. Tội thì đã tội rồi, không có cách nào gỡ lại được, anh Cu Nhớn cũng phải nhận như vậy, nhưng nếu chia nó làm hai thì hiển nhiên tội sẽ nhẹ hơn. Chúng tôi thết cả anh Cu Bé lẫn chị Phương số sâu bà Cơ, họ cũng sẽ gánh đỡ chúng tôi một phần tội cũng nên. Anh Cu Nhớn ngần ngừ. Nhưng rồi anh xiêu lòng trước lý lẽ của tôi. Và tất nhiên, trước cả sự cám dỗ của sâu bà Cơ Thời gian trôi qua, tôi không thấy mình bị Đức Chúa Giê-su trừng phạt. Hoặc giả ông độ lượng, không thèm chấp trẻ con, hoặc giả ông cũng không linh thiêng như người ta khẳng định. Dù sao thì sau vụ này, quan hệ giữa tôi và Chúa cũng đã bị rạn nứt.                                                              

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XI

Hồi ký

Theo cách phân chia của tôi, về đại thể tôi chia những người nịnh thành hai loại. Loại thứ nhất là lũ người xảo trá, quỷ quyệt, những kẻ coi sự nịnh là cái thang chắc, là con ngựa hay, dùng nó có thể trèo được cao và đi được xa. Những kẻ này hoàn toàn ý thức được sự nịnh bợ là xấu, nhưng vẫn dùng nó một cách khéo léo như thể sự nịnh của họ là rất tự nhiên, đúng lúc và đúng chỗ, hợp từng đối tương, để rồi bao giờ họ cũng thu được lợi cho mình. Bên cạnh sự nịnh trên, họ đòi dưới phải nịnh lại, coi đó là sự bù trừ hợp lý. Loại này đông đảo, chỗ nào ta cũng có thể gặp. Loại thứ hai ít hơn nhiều, gồm những người khiếp nhược đến tột độ trong cuộc sống chung với đồng loại. Những người này sử dụng sự nịnh nọt ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, thường khi chẳng phải vì cần thiết mà chỉ để phòng xa, cho cẩn thận. Đó thường là những người số đen vận rủi, những người liên tiếp chịu những đòn số mệnh giáng xuống tới tấp làm cho họ tối tăm mặt mũi, đến nỗi bò lê bò càng, thế là họ vội vã dùng sự nịnh nọt làm cái mộc để che, cái nệm để đỡ, để giảm nhẹ đòn kế tiếp sấp sửa giáng xuống, không chừng lúc nào. Những người này trông thấy ai cũng sợ, gặp cái gì cũng khiếp; trên đường đời họ đi những bước dò dẫm sau cái nhìn lấm lét, họ niềm nở, vồn vã chào bên phải, chào bên trái, sẵn sàng vâng lời, sẵn sàng nhận lỗi nếu ai đó đòi họ phải nhận lỗi, họ làm tuốt tuột mọi việc miễn sao gợi được lòng thương, hoặc ít nhất thì cũng sự lãng quên của đồng loại, để được yên thân, để khỏi có ai động tới mình. Cô Thiệp tôi thuộc loại thứ hai. Bà là em bà Gái, nhưng là chỉ bố tôi. Tại sao bà cũng bị gọi bằng "cô", tôi không hiểu. Có lẽ một khi bà Gái đã là "cô thì các bà đều bị gọi bằng cô tuốt. Người thấp bé, đậm chứ không gầy, cô Thiệp có gương mặt hiền tới mức không thể hiền hơn được. Trên mặt cô tôi nét gì cũng mềm mại, cũng yếu đuối, cũng nhẫn nhục, cũng đáng thương, cùng với năm tháng chúng chỉ ngày càng mờ nhạt chứ không đổi khác. Bà nhìn bất cứ ai, bất cứ cái gì cũng như cầu khẩn, van nài, sợ sệt; giọng nói cũng tội nghiệp, nó nhỏ nhẻ, run run, đứt quãng như bị chứng hụt hơi. Cô Thiệp tôi lấy chồng xa, cách làng quê nửa ngày đi bộ. Như mọi người con gái thời ấy, cô đi lấy chồng là cánh cửa gia đình lập tức khép lại sau lưng, trở thành người ngoài đối với chính gia đình mình. Lấy chồng, cô mất đi cái tên thời con gái, nhận tên chồng làm tên mình, đồng thời nhận luôn cả cái thân phận nô lệ cho chồng, cho nhà chồng, theo đúng câu "xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Tôi không nhớ rõ bác Thiệp, chồng cô tôi. Người lớn kể lại rằng ông là con một gia đình giàu có, do đánh bạc mà bán hết gia tư điền sản. Tôi có gặp ông đôi lần, một con người mờ nhạt, không có chân dung. Ông thoáng qua cuộc đời tôi như một nhân vật quần chúng trong phim, có xem mà không thể nhớ. Vào năm đầu tôi về ở với cô Gái, cô Thiệp từ quê chồng về thăm chị. Cô đứng ngoài cổng, đội thúng nặng trên đầu, một người con gái rụt rè đứng phía sau. Nghe tiếng gọi, tôi ra mở cổng thì cô Nhung đã cọt kẹt cửa nách gọi sang: - Ai như tiếng cô Thiệp? Phải cô Thiệp không vậy? Cô Nhung nặng tai nhưng lại rất thính trong tĩnh mịch. - Vâng, thưa chị, em chị về đây ạ? - Cô với các cháu vẫn được bằng an trong tay Chúa đấy chứ? Bác Thực giai cũng chào vọng bà em họ. - Thưa anh, ơn Chúa thương, em với các cháu vưỡn thường ạ. Tôi mở cổng. - Chao ôi, cháu tôi! - cô Thiệp của tôi ngồi thụp xuống, nhắc đôi thúng khỏi đầu, đặt xuống bên cạnh rồi kéo tôi lại gần, nhìn chằm chằm vào mặt tôi - Cháu về ở với cô Gái từ bao giờ vậy, cháu? Cái Liễu, nom em nó lớn nhanh không này? Chị Liễu vận áo dài thâm bên ngoài áo cánh trắng, hai vạt buộc chéo trước bụng, trên ngực lủng lẳng cây thánh giá bằng đồng nằm giữa cỗ tràng hạt bằng cườm xanh. - Chú còn nhớ chị không? Tôi lắc đầu. Tôi chỉ mang máng đã gặp đôi mắt ấy, nụ cười ấy, đã lâu lắm rồi. Cô Thiệp nhìn về phía trong nhà, cái nhìn lấm lét, sợ sệt: - Cô Gái không có nhà, hả cháu? - Cô đang ở bên cô Oanh ạ. Cô Thiệp đứng lên, lay lay cánh cổng gỗ, rồi chăm chú nhìn xuống dưới: - Cái chân quay này hỏng lâu rồi mà bà Gái chẳng bảo thợ chữa đi, nhớ nhắc cô Gái, nghe không cháu? Tôi nói vâng, nhưng biết trước rằng dù tôi có nhắc cô Gái cũng sẽ không gọi thợ. Cô sẽ chờ một người họ hàng nào biết nghề mộc sửa giúp, biết chắc rằng người đó không lấy tiền công. Tôi khép cổng. Cô Thiệp đội thúng lên đầu, đi cùng với chị Liễu vào nhà. Nghe tiếng lao xao, cô Gái trở về. - Lạy chị ạ! - cô Thiệp tôi cúi thấp, đon đả - Em chị về đây ạ Em về thăm chị nhân đọc kinh cho thày. Em cho cả cái Liễu về... - Lạy cô ạ! Chị Liễu lí nhí, mặt cúi gằm. Gương mặt bầu bĩnh, trắng hồng của chị ửng đỏ. - Phải! Cô Gái đáp. Bà nhìn soi mói vào mặt người em gái và đứa cháu. Bà muốn tìm ý nghĩa của sự xuất hiện không báo trước của hai người. - Chị vưỡn được bằng an chứ ạ? Cô Thiệp lúng túng trước cái nhìn lạnh lùng của bà chị. - ơn Chúa thương, tôi thường. - cô Gái nói, giọng bình thản - Hai mẹ con xếp thúng mủng vào nhà rồi ra ao rửa tay chân. Sau thủ tục chào hỏi, cô Gái dẫn hai người lên nhà trên viếng tòa Đức Mẹ. Việc đó là nhất thiết đối với bất cứ thành viên nào trong gia đình khi trở về thăm ngôi nhà của ông cha. Cô Thiệp làm dấu thánh, đôi mắt đỏ hoe. Rồi hai chị em lững thững đi bên nhau, hai đứa cháu theo sau, thăm các kỷ niệm xưa, thủng thẳng nhắc lại với nhau những mối ràng buộc máu thịt nay đã lỏng lẻo dần: - Chỗ này chị em mình thường ngồi bắt chí (chấy) cho nhau đây, chị nhẩy? Cái Liễu không biết chứ, chị em tao thương nhau lắm kia, không như chúng mày bây giờ, động thí là chành chọe. Cô Thiệp nói với chị Liễu nhưng không nhìn chị, mà nhìn cô Gái. Giọng cô run run, như thể cô đang nói về điều gì đó khó tin là có thật mà giờ đây cô phải khẳng định với chính mình. - Chị còn nhớ cái đận em bị mẹ cho một trận ở chỗ này không? Lạy Chúa tôi, cái đận ấy mẹ mới dữ làm sao! Không có chị, mẹ đánh em chết, chị nhẩy? - Dào, đứa nào mẹ chẳng cho ăn đòn, nhớ sao được. - cô Gái lững thững bước, giọng dửng dưng. Lại còn cái đận em đánh vỡ cốc thủy tiên của thầy nữa chứ. Thày sai em đi rửa, lóng ngóng thế nào, em để rơi cái cốc xuống bậc đá ngoài cầu ao. Chị cữ lăn xả vào chị xin, mẹ mới tha, mẹ vụt cả cán phất trần vào chị. - Cô cũng hậu đậu lắm kia. Cái cốc đựng thủy tiên của thày bây giờ bạc chục không tìm ra. Giọng cô Gái trở nên dịu. Kỷ niệm đánh thức tình cảm chị em ở trong bà, có dễ vậy. Lúc bấy giờ bố cháu mới lên bốn lên năm. - cô Thiệp nói với tôi, nhưng là nói với cô Gái - Thấy bà đánh cô rất dữ, bố cháu khóc ầm lên, bà xót cậu út, bà mới nhẹ tay cho cô nhưng vẫn còn đánh, cô Gái lăn vào che đòn cho cô, bà mới tha hẳn. Cháu ở với chị có ngoan không, chị? - Giê-su, thằng quỷ sứ đấy, dì ạ. Bảo không được, thích gì làm nấy, chẳng có trí khôn, đến khổ với nó. Môi bĩu ra, cô Gái nói về tôi, cô Thiệp nhìn xuống nháy mắt với tôi một cái. - Thôi không hóng chuyện nữa. - cô Gái bảo tôi - Đi lấy gạo cho chị Liễu thổi cơm, hai mẹ con cô đi đường mệt, chắc đói rồi. Tôi dẫn chị Liễu vào trong buồng cô Gái, vắt người lên miệng chum cao rồi thả đầu xuống cái vực tối om của nó, vốc gạo vào rá. Chị Liễu ước lượng số gạo bằng mắt, ném trả cho cái chum hai lẻ. - Ngần này đủ rồi. Nấu nhiều gạo cô Gái mắng đấy. - Cơ mà thiếu thì sao? - ăn ngon ngót bụng được rồi. ở với cô Gái chú có buồn không? - Cô hay mắng. - Cô có đánh không? - ít thôi. Thỉnh thoảng cô mới đánh. - Dữ không? - Dữ lắm. Chị Liễu ơi, chị về có lâu không? - Mấy hôm thôi. Đọc kinh cho ông xong, chị về nhà chị. - ứ ừ, chị ở lại với em. - Cô Gái có cho ở mới được ở chứ. Thì ra chị không có quyền ở lại ngôi nhà của ông bà nếu cô Gái không cho phép. Chị Liễu đem rá ra cầu ao vo gạo. Tôi xuống bếp. Hai chị em cô Gái và cô Thiệp vẫn nhẩn nha kể cho nhau chuyện cũ ở nhà trên. Tôi giúi một chét rơm nhỏ vào đống rấm, kiên nhẫn đợi cho lửa bén. Cô Gái ít dùng đến diêm. Thường cô để lửa bằng đống rấm. Nếu đống rấm tắt thì phải đi xin lửa. Tôi sang nhà bác Hai Thực hoặc nhà cô Oanh gắp lấy một hòn than củi tí xíu hoặc khều một ít than trấu còn đỏ bỏ vào búi rơm, túm lại cho khéo, rồi cầm búi rơm chạy về nhà. Có khi rơm nỏ, lại gặp trời hanh, chưa chạy về tới bếp búi rơm đã cháy đùng đùng. Ba nhà thường xin lửa của nhau, và đó là mối liên hệ thường xuyên, hàng ngày, cuối cùng, của đám cháu con cùng chung cụ kị. ở quê tôi mọi người đều tiết kiệm. Một que diêm cô Gái chẻ làm đôi. Bác Hai Thực tài hơn, khéo tay hơn, bác chẻ làm bốn. Đánh những que diêm chẻ mỏng manh ấy phải rất thận trọng, với tài nghệ của diễn viên xiếc. Bác Hai Thực nghiện thuốc lào, vì thế để tiết kiệm diêm bác còn phải dùng những đóm nứa rất mảnh, chặt vát, đầu nhọn được nhúng một chút diêm sinh. Châm đầu nhọn ấy vào than hoặc đống rấm âm ỉ nó sẽ cháy lên một ngọn lửa xanh leo lét. Tôi đang phùng má thổi lửa thì cô Thiệp xuống bếp, ngồi bên tôi. Vớ lấy que cời, bà vừa chạm tới đống rấm là rơm đã cháy lem lém. - Thày cháu đi nhà pha bao giờ thì về? - vừa đun bếp bà vừa thủ thỉ hỏi tôi. Tôi không thích những câu hỏi thăm bố tôi có dính tới cái nhà pha. - Thiên hạ đồn thày cháu đi cộng sản, phải không? - Cháu không biết. - ờ cháu biết thế nào được. Người ta bảo cộng sản là quân dữ, mà bố cháu thì lành, chắc người ta nói điêu ra vậy. Cô Gái có yêu cháu không? Tôi một lần nữa không trả lời câu hỏi của cô Thiệp. Tôi cảm thấy tình thương thực trong câu hỏi của cô, nhưng bản thân câu hỏi làm cho tôi buồn. Cô Thiệp lặp lại câu hỏi, như thể việc cô Gái có yêu tôi hay không là điều rất quan trọng đối với bà. - Cô Gái yêu cháu ít thôi - tôi đáp, miễn cưỡng. Cô Thiệp ôm lấy tôi, ôm chặt và một giọt nước mắt nóng hổi của bà rơi xuống má tôi. Mắt tôi cay cay, tôi tủi thân. Chịu khó vậy, cháu ơi, cô Gái yêu ai cũng ít, chẳng ai được cô yêu nhiều đâu, - cô Thiệp sụt sùi - Rõ máu mủ, mà lắm lúc hoá ra người dưng. Cô Thiệp kê lại mấy ông dầu rau cho thoáng bếp, bà làm vậy chẳng phải vì cần thiết, nồi cơm cho cả nhà chỉ nhỉnh hơn cái niêu của hai cô cháu chút ít. - Người ta bảo giá cô Gái lấy chồng, có khi tính nết người mát mẻ ra cũng nên. Ngày xưa khối đám hỏi đấy, nhưng cô Gái thích ở trọn đời đồng trinh. - cô Thiệp nói với tôi nhưng như nói một mình - Trong họ nhà mình, cháu ạ, riết róng nhất hạng là cô Gái, khó tính nhất hạng cũng là cô Gái. Mà này, chớ có nói lại với cô nhá? - Cháu chả nói lại đâu. Lửa rơm cháy phào phào. Vẳng tới tiếng cô Gái dặn chị Liễu hái rau giữa bè, rau quanh bè để cô hái, mà đừng có hái nhiều, hái vừa đủ ăn thôi, kẻo phí của trời. - Ai nghèo cô Gái khinh, ai giàu cô Gái trọng, vậy đấy, cháu ạ. Thày cháu tiếng rằng lên tỉnh làm ăn, nhưng cũng rớt mồng tơi, cô Gái không yêu cháu như yêu các anh đàng các bác được, các bác giàu - cô Thiệp kể lể điều tôi đã biết, giọng bà buồn rượi - Cô còn nghèo nữa, nghèo nhất họ đấy cháu. Thành thử mọi người rẻ cô. - Cháu không rẻ cô đâu. Cháu của cô thì khác họ rồi, cháu giống tính thày cháu, giống tính mẹ cháu, thày mẹ cháu đối ai cũng như ai, không khinh người nghèo. Các bác cũng thương cô, được mấy người ấy. - Cô đi buôn cho giàu cô ạ - tôi sốt sắng khuyên bà- Làng ta, các ông lái giàu lắm. - Việc đàn ông, cô làm sao được. - Cô bảo bác đi. Bà cười méo mó rồi thở dài, tránh nhìn vào mắt tôi. Tôi không biết rằng thời kỳ bấy giờ cô Thiệp tôi đang lâm vào cảnh túng quẫn nhất. Bác Thiệp trai đánh bạc cháy túi nhà đã bán đợ, và trong ngôi nhà đã không còn là của mình đó, cô tôi và các anh các chị tôi ăn bữa đói bữa no. - Chúa đã định thì ai tránh được cháu ơi. Cô cũng muốn giàu, nhưng Chúa định cô phải nghèo thì phải chịu vậy. Cô tôi lẩm bẩm. Tôi ân hận vì lời khuyên của mình. Chúa của chúng tôi thực khó hiểu, tôi nghĩ. Dường như Chúa định cho người này dư dật, kẻ kia bần cùng, người này hạnh phúc, kẻ nọ khổ đau chẳng vì mục đích gì hết, chỉ để chơi thế thôi, trong cái trò chơi một mình của Chúa. Chúa bắt người ta nghèo, rồi lại nói rằng Chúa thương kẻ khốn cùng. Chúa định cho người ta giàu rồi dè bỉu "kẻ giàu vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim". Y như một ông già lẩm cẩm vậy. Bữa cơm chiều, cô Gái sởi lởi bỏ ra cả niêu cá rô kho tương mà hai cô cháu vẫn ăn dè. Thay vào món rau luộc thường nhật, có cả một mớ rau xào lớn, tuy mỡ chỉ nhuếnh nhoáng, thêm nữa, còn hai quả trứng gà nhà mới đẻ bác mặn với tôi, nó là bữa thịnh soạn. Tiếc nỗi, nồi cơm hết quá nhanh. Giá chị Liễu đừng bớt gạo lại thì tôi có thể ăn thêm hai bát nữa. Để bù đắp cho sự lỏng lẻo của dạ dày, cô Thiệp bỏ quà trong thúng ra: mía và bưởi, kẹo bột và bánh đa. Tất cả cũng từ vườn nhà cô, trừ kẹo bột. Cô Thiệp muốn bà chị thưởng thức mía của mình phải róc mía bóc dầy và chẻ thành những mảnh nhỏ. Cô Gái rụng gần hết răng, bà chỉ có thể trệu trạo vài mảnh và nhả ra những bã đỏ quết trầu. Kể cả trầu, tôi cũng phải giã nhỏ cho bà trong một cái cối tí xíu màu vàng có vân nâu bằng răng voi, như bà thường khoe. - Chị thấy giống mía này ngon không, thịt nó mềm mà ngọt. Để hôm nào em mang ngọn về nhà ta trồng lấy vài khóm để chị ăn. - Dào, chị còn sống được mấy nả mà chờ ăn mía của dì - Cô Gái trưng ra số tuổi cao của bà, nhưng đó là bà khoe, chứ bà biết chắc bà còn sống lâu - Biết Chúa rước đi lúc nào? - Chị đừng nói dại, Chúa còn thương chúng em, Chúa chưa rước chị đi đâu, Chúa còn để chị sống chị trông nom chúng em. Cô Thiệp nói như thể cô còn là một đứa bé tí tẹo, mắt thành kính nhìn người chị cả, cây cột cái chống đỡ cả ngôi nhà. Cô Gái lẳng lặng cho phép người em gái tội nghiệp được ở lại ngôi nhà của bố mẹ tới ngày đọc kinh. Cho tới hôm ấy còn một tuần lễ. Suốt tuần lễ ấy tôi bỏ đi câu, bỏ bẫy chim, bỏ cất vó, lẵng nhẵng theo cô Thiệp rong chơi trong làng. Cô Thiệp, ngoài họ hàng phải tới chào, có rất nhiều bạn gái. Giờ đây, họ cũng như cô tôi, con cái lít nhít hàng đàn, giàu nghèo khác nhau nhưng không có ai quá xấu số như cô. Mà trong làng mọi người đều biết rõ nhau như trong một nhà lớn. Những người bạn gái của cô Thiệp tiếp cô Thiệp vui vẻ như thể họ không biết gì về nỗi khốn khó của cô, họ chọn lời nhẹ nhàng để khỏi chạm vào vết thương của cô, nói chung họ đối với cô bằng niềm thương ý tứ như đối với người bị tật nguyền. Nhiều người dấm dúi cho cô quà - Dì đừng có bêu xấu thày mẹ, bêu xấu tôi - cô Gái nổi trận lôi đình khi cô Thiệp khoe với chị chiếc khăn vuông đen mà một người bạn gái cho cô - Ngần ấy tuổi đầu, con cái đầy đàn mà chẳng ý tứ. Nhà này không phải nhà ăn mày, nhà này là nhà gia giáo, tao không cho phép mày đi ăn xin. - Em lạy chị - cô Thiệp rúm người lại, môi cô run lên và nước mắt cô ứa ra - em có xin nó đâu, cái Thìn với em thế nào thì chị biết, chỗ bạn bè ngày xưa, nó cứ dúi vào tay em bắt em phải cầm, nó nói chồng nó mua cho nó những ba cái, nó cho em, thật đấy. - Cho cũng không được lấy. - Chị đã dạy vậy thì để em mang trả nó. - cô Thiệp thổn thức - Nhưng chị mắng em thế thì chị rẻ em quá... - Tùy! Cô Gái buông xõng, hầm hầm bỏ đi. Cái khăn vuông rồi vẫn ở lại với cô Thiệp. Cô không trả lại bạn như cô nói với bà chị gái đành hanh. Cô Thiệp tốt nhịn. Hơn nữa, cô biết lấy lòng bà chị. Bằng cách kể cho tôi nghe những mẩu chuyện về ông nội bà nội, các cô, các bác và những kỷ niệm xa lắc xa lơ của họ khi họ còn là đàn con quây quần quanh bố mẹ, cô Thiệp làm cho cô Gái xúc động. Cô Gái nghe thêm vào những chỗ thiếu, nhắc cô Thiệp những gì cô đã kịp quên, dần dà câu chuyện kể cho cháu trở thành câu chuyện chung của hai người kể cho nhau về những kỷ niệm đầm ấm ngày xưa, rồi những giọt nước mắt chân thành bỗng ứa ra, chảy trên đôi gò má già lão và đang trở thành già lão. Hai bà quệt nước mắt, âu yếm nhìn nhau, lắc đầu nuối tiếc cái tuổi thơ đẹp đẽ và không được coi trọng đã biến mất từ lúc nào, đã mất tăm mất tích trong dòng thời gian, không cách nào giữ lại. Tôi muốn ôm chầm lấy cô Gái và cô Thiệp để nói với hai bà rằng tôi rất thích được nhìn thấy hai bà trong cảnh này, rằng tôi muốn hai bà yêu thương nhau như lúc này mãi mãi. Trong lòng tôi xốn xang một nỗi buồn không rõ nét. Rất có thể, chính vào lúc ấy, tôi đã mơ hồ cảm thấy rằng sẽ có một lúc nào đó, tôi cũng như các bà, sẽ nuối tiếc khóc tuổi ấu thơ của chính mình. - Để em kể cho cháu nó nghe chuyện con Vàng nhà ta - Cô Thiệp ngồi, hai tay khoanh hai đầu gối, người lắc lư, mắt chớp chớp liền liền như thể sắp khóc - Con Vàng ấy, cô cũng chẳng nhớ ông bà nuôi nó từ hồi nào. Nó ở nhà ta cho đến già, đến lúc bạc ráo cả lông, cả mi mắt cũng bạc nốt. - Răng rụng sạch, - cô Gái tiếp lời - không nhai được nữa, nó độc ăn cháo. - Ông không cho bán, không cho thịt, ông bảo con vật ở với người lâu thành cái nghĩa với nhau, thôi thì cứ để nó đấy cho đến khi nó chết. Con Vàng dễ phải hơn chục tuổi, chị nhẩy? - Hơn chứ. Phải đến mười lăm mười sáu ấy chứ không kém. Về sau nó có sủa được nữa đâu. - Cứ ư ư ư ư như người mất tiếng. - Vậy mà động dạng là nó khàn khàn nó kêu cho người nhà biết, trộm vẫn sợ. - Cô đã đi lấy chồng, - cô Thiệp kể tiếp - nhưng vừa về tới nhà là nó ra tận cổng nó đón, vặn cả người mà mừng, rồi chạy vào nhà cắn quần mọi người lôi ra, đòi mở cổng cho cô. Hồi ấy cô về luôn, chốc lại về, nhát lại về, nhớ lắm không chịu được, mà nhà thì xa chứ có gần gũi gì cho cam, bước rảo cũng gần ngày đường, cô về nhiều làm bà phải mắng cơ mà. - Nó cứ giật gấu quần cô là cô biết cô Thiệp về, khôn vậy- cô Gái cười móm mém. - Cô về bao giờ cũng mang quà cho nó, khi nắm bỏng, khi đồng bánh đa, ấy là hồi nó chưa phải ăn cháo kia, cháu ạ. Con Vàng nằm, hai chân trước kẹp nắm bỏng, nhai rau ráu. Nó thích quà y như trẻ con vậy. - Về sau, lúc ông gần mất, thì nó lẫn cẫn, cứ tha thẩn nơi vườn trước như thể ông lão ngắm cảnh. Tai nặng, gọi không nghe, phải đụng vào đầu làm hiệu mới biết, nó nhìn miệng mình lắp bắp thì hiểu mình gọi về ăn cơm, mới lững thững về. - ăn cũng cảnh giả, chỉ một hai miếng rồi bỏ. Ông phải bốc thuốc cho uống, thuốc bổ chị nhẩy? - Quy, thục, sâm - thôi thì đủ. - cô Gái xác nhận - ông dỗ mãi nó mới chịu uống. Uống được mấy thang, cũng khỏe lên được một thí. Nhưng vẫn ho. Ho thì không dứt. Mùa đông, nó cứ húng hắng như ông lão. Nửa đêm, cô thức giấc, lắng tai nghe mà không biết ông ho hay là con Vàng ho. Tôi nhìn cô Gái, nghĩ rằng bà sẽ mắng cô Thiệp vô tâm dám đặt ngang hàng con chó với ông nội tôi. Nhưng hai bà cùng cười, mắt ướt lệ. Tôi hình dung con chó già của ông tôi đang ho. Nó chống hai chân trước, vật đầu xuống từng hồi cùng với tiếng khục khặc trong cuống họng. - Ngày ông mất, nó khóc. - cô Gái kể tiếp, giọng bùi ngùi - Nó phủ phục dưới chân quan tài ông, hai hàng nước mắt cứ thế rỉ ra. Ai đến cũng lắc đầu, thương thay cho nó. - Nó cũng đi đưa ma ông - cô Thiệp lấy vạt hầu bao thấm vào đuôi mắt - Từ nhà ta ra đến Vườn Thánh (nghĩa trang lớn của làng tôi), nó cữ lẽo đẽo bên cạnh cô. Mệt quá, nó nằm bệt xuống một thí rồi lại lật đật chạy theo, vừa chạy vừa thè lưỡi ra mà thở. Đến khi hạ huyệt, nó cứ ngồi bên trên mà tru lên từng hồi... Cô Gái quệt nước mắt bằng mu bàn tay nhăn nheo: - Đưa ông rồi, mọi người về ráo, còn mỗi nó không về, gọi mấy cũng chẳng chịu về. Nó nằm phục trên mộ ông, mõm rúc sâu vào đất. - Ba ngày liền nó không ăn một miếng gọi là có. Thỉnh thoảng nó cũng đảo về nhà, ngửi ngửi hít hít chỗ này chỗ khác rồi chui vào gầm giường ông mà nằm. Nằm chán lại đi Lại ra mộ. - cô Gái giải thích cho tôi - Lạ vậy. - Được bốn ngày, nó chết, không phải, cô quên, ngày thứ năm chị nhẩy? - Ngày thứ năm - cô Gái gật đầu - Mả nó ở vườn sau. Chỗ nấm đất sau bãi tróc giong ấy, hôm nào cô chỉ cho mà xem. Năm nay mưa nhiều quá thể, mả nó lún, bằng địa cả. Một nỗi buồn mênh mang tràn ngập ngôi nhà. Trong yên tĩnh, vang lên tiếng mọt nghiến gỗ. Những con mọt vô hình kiên nhẫn làm việc ngày và đêm, không bao giờ nghỉ, như thể bằng công việc cần cù và liên tục của chúng, chúng quyết phá bằng hết chẳng những ngôi nhà mà cả kỷ niệm về nó. Nhiều lần cô Gái sai tôi lấy đất sét trét mọi lỗ mọt mà mắt có thể nhìn thấy để cho chúng chết ngạt, nhưng những con mọt bất tử không chịu thua bà, vẫn tiếp tục nghiến kèn kẹt, cay độc, dai hoi và lì lợm. Cô Gái chịu thua, bà phẩy tay, mặc cho lũ mọt muốn làm gì thì làm. Sau khi đọc kinh cho ông nội tôi xong, cô Thiệp về. Ngày cô về trùng với phiên chợ làng. Cô Gái đã bỏ một phiên để ở nhà với em gái, nay phải bỏ phiên nữa bà tiếc. Bà bán thuốc viên ở chợ, nhưng không phải chỉ có mình bà bán, nghỉ hai phiên liền, khách sẽ chạy sang hàng khác. Sáng sớm, bà gọi tôi ra đóng cổng. ở ngoài cổng, bà đặt thúng xuống đất, cởi nút ruột tượng, thọc tay vào lấy cho tôi hai xu. - Hôm nay cháu không đi chợ với cô. ở nhà phải tỉnh mắt coi cô Thiệp đấy nhá? - cô Gái dặn khẽ - Coi nhà cho kỹ, cô Thiệp đi một bước là phải theo một bước, kẻo cô tắt mắt, nghe chửa? Tôi cầm hai xu, đáp khẽ: - Vâng ạ. Bóng bà nhòe vào trong bóng tối của hàng rào dâm bụt bên nách nhà bác Hai Thực. Chợ làng tôi họp rất sớm, phải đi từ lúc nhọ mặt người. Tôi trở vào nhà. Cô Thiệp đã thức giấc, ôm lấy tôi: - Cô Gái dặn cháu ở nhà trông cô, phải không? Tôi yêu cô Thiệp hơn cô Gái, tôi thương cô Thiệp hơn cô Gái, vì thế tôi không nỡ nói dối bà. Nghe tôi nói xong, cô Thiệp ngồi phịch xuống giường, úp mặt vào hai bàn tay, nức nở. - Giê-su! - cô ảo não rền rĩ - Chị em ruột thịt mà giờ thế vầy, lạy Chúa tôi! Thày mẹ ơi, chị con khinh rẻ con quá chừng, ới thầy mẹ ơi! Tôi ngồi len lét bên cô Thiệp, choáng váng vì những sự việc xảy ra trong thế giới người lớn. Bỗng cô Thiệp ngừng khóc. Cô đứng lên, mắt quắc nhìn xung quanh: - Cô Gái có quyền gì mà khinh rẻ cô? Ông bà có cho cô Gái tự quyền vậy đâu? Cô cũng là con ông bà, phải không nào? Của cải đây ông bà để lại cho tất cả các con hay để riêng cho một mình cô Gái? Tại sao cô Gái dám vơ tất cả về tay mình? Mà cô hỏi cháu: cô Gái có ai? Chồng không, con không. Giữ khư khư của nả làm gì? Có phải cô Gái giữ cho cháu không? Tôi lắc đầu. Tôi sửng sốt trước một cô Thiệp khác hẳn. - Không hả? Hay cho anh Hiếu, anh Mai? Hay cho anh Túy, anh Trinh, anh Minh? Các anh ấy thì cần gì đến những thứ này. Các bác giàu có, các bác cũng chẳng để mắt tới những đồ ông bà để lại. Nhưng cô thì cô cần. Cô Thiệp nói đúng. Các anh con các bác tôi không cần tới những đồ vật cổ lỗ trong ngôi nhà này. Cái bút máy ở trên tỉnh đã từ lâu thay thế cho cả bút lông và nghiên mực rồi. Tôi ôm lấy cô Thiệp, thì thào: - Cô cần thì cô lấy đi, cô ạ. Cô Thiệp xiết chặt tôi trong tay, cũng thì thào: - Cháu không mách cô Gái chứ? - Cháu không mách đâu. - Cháu kêu tên Chúa mà thề đi. Tôi kêu tên Chúa mà thề rằng tôi sẽ không nói gì hết. ở vùng tôi, Chúa rất tiện lợi, người ta dùng Chúa vào bất cứ việc gì. Cô Thiệp nhanh nhẹn hẳn lên. Cô nhanh nhảu chạy ra ngoài sân trước nghe ngóng động tĩnh một lát rồi chạy vào nhà, thấp thoáng trong ánh bình minh mới rạng. Tôi đi ra cổng, ngồi vắt vẻo trên cái thanh ngang nối liền hai cột. Tôi buồn rầu hình dung cô Thiệp tôi đang lục lọi, đang lấy đồ của cô Gái. Khi cô Gái phát hiện vụ mất, cô Gái sẽ đánh tôi. Nhưng tôi không còn sợ những trận đòn của cô Gái như trước. Tôi đã dạn. Nếu cô đánh dữ, tôi sẽ vò lá dâm bụt xoa vào những lằn roi, chúng sẽ dịu đau mau chóng và lặn dần sau vài ngày. Tôi buồn vì tôi không thích hai bà đối xử với nhau như vậy. Một lát sau, cô Thiệp tất tưởi chạy ra. - Cô chẳng lấy được gì - bà hổn hển - Cô Gái khóa tuốt tuột trong hòm gian. Chỉ được mấy cái chai ở gầm giường. - Thế thì cô Gái biết ngay. - Cô xếp lại cẩn thận, cô có ý chứ. Trong gầm giường cô Gái đầy chai. Đó là một bộ sưu tập gồm đủ loại chai lọ mà bà nhặt nhạnh được ở nhà các ông em trong những chuyến đi Hà nội - những chai rượu tây với nhãn hiệu sặc sỡ, những chai bia ô-men màu nâu thẫm, những lọ sứ đựng chè Chính Thái, những lọ nước thơm, nước hoa lớn và bé, cao và gầy và vô số chai lọ khác không thể biết hết trước kia chúng dùng để đựng gì. Nhặt nhạnh là thú chơi của cô Gái, cô chỉ khác các nhà sưu tầm ở chỗ họ phải chọn lọc, còn cô tôi thì xô bồ, cốt lấy số nhiều. Thỉnh thoảng bà mới bán đi một số trong đống chai tạp nham, phải là những chai sứt miệng, nứt trôn hoặc quá xấu xí. Số còn lại, mỗi ngày một nhiều thêm, bà xếp ở gầm giường như trẻ con giữ đồ chơi, năm thì mười họa lại đem ra ao cọ rửa sạch sẽ rồi ngồi say sưa ngắm lũ chai lọ sạch bong, bóng nhãy phơi mình trong nắng. Số chai nhiều, tôi không nhớ xuể, nhưng cô Gái có thể biết mình đã mất gì, bà tinh lắm. Tôi hiểu tôi đã liều lĩnh. Tôi quyết định liều thêm nữa. - Để cháu mở hòm gian cho cô. - Sao? Cháu mở được? - Chẳng khó đâu, cô ạ. Hai cô cháu vào buồng cô Gái. Trong nháy mắt tôi đã mở được chiếc khóa chuông nặng chịch trước cặp mắt ngạc nhiên của cô Thiệp. Cái hòm lớn có chiều dài vừa đúng một gian nhà với bốn chân gỗ cao này được gọi là hòm gian. Cô Gái cất trong hòm các đồ quí giá của ông bà tôi để lại - những xống áo bằng lụa tốt vải tốt, những bát đũa cổ đắt tiền và đủ mọi thứ được gọi là của rả. Để bảo vệ kho báu này, bà dùng một cái khóa chuông, là thứ khóa bây giờ chẳng còn thấy ở đâu nữa vì nó quá sơ sài. Tôi đã mấy mò mở được khóa vì ngoài của rả mà cô tôi quí, cái hòm gian còn là nơi cất giấu hoa quả thu được của vườn. Ông tôi để lại một cây quít rất sai quả và quả của nó ngọt lịm. Khi quít chín, cô Gái hái tuốt bỏ vào hòm gian. Bà cho tôi ăn những quả xấu xí - những quả bị sần, vẹo trôn hoặc sâu đục. Những quả đẹp bà xếp vào trong một cái quả sơn son chờ ngày đi biếu Cha. Những quả quít vàng ươm, mọng nước được xếp vào thúng cùng với chuối tiêu, trứng gà, rượu bách nhật, bánh quế (tất cả đều của nhà) và cô tôi đội thúng lên đầu, mặt kiêu hãnh tới nhà Cha. Cha xứ tiếp cô tôi rất niềm nở, xoa đầu tôi, cảm ơn cô tôi rồi cho phép chúng tôi ra về với cái thúng đã rỗng không. Không thích để những quả quít đáng yêu rơi vào bàn tay mũm mĩm của cha xứ, tôi đã mở được khóa hòm. Tin ở cái khóa, cô Gái không ngờ thằng cháu bà đã chui hẳn vào trong đó lấy quít của bà. Tôi vụng trộm ăn ở vườn sau, vứt hạt ra đấy và cô Gái ngạc nhiên: - Ma quỷ, sao ở đây mọc lên lắm quít thế vầy? Cô Thiệp lục xục trong hòm gian hồi lâu. Chui ra, cô giơ lên cho tôi thấy những thứ cô lấy: - Cô không lấy tiền đâu. Lấy tiền cô Gái biết, cô đánh cháu chết mất. Mấy cái này từ khi ông bà mất chẳng ai nhìn nhõm đến, cô Gái chẳng để ý đâu. Cô mang về bán đi đong gạo cho các anh các chị ăn, cháu nhá? Đó là cái màn gió màu đỏ lấm tấm hoa, vài bộ quần áo cũ của ông bà nội, chính tôi cũng chưa thấy bao giờ. Tôi không nói gì. Tôi thích cô Thiệp lấy tiền hơn. Đồ vật của ông bà gắn liền với những gì là kỷ niệm về những người đã sống trong ngôi nhà này. Tôi khóa hòm lại. Cô Thiệp mang thúng chai lọ sang giấu bên nhà bác Hai Thực. Cái đầu cô Nhung ló ra ở cửa nách. Nhìn thấy tôi, cô Nhung thụt đầu vào. Tôi hiểu, ai đó trong nhà bác Hai Thực sẽ đưa cái thúng giúp cô Thiệp tới đầu làng. Tôi tiễn cô Thiệp tới chợ. Cô Thiệp rơm rớm nước mắt chào bà chị cả đang ngồi xổm trước thúng thuốc viên: - Em xin phép chị, em về. Sang năm em lại lên. - ờ, dì về. Cầm lấy hai đồng về đong gạo cho các cháu. Nhớ mua cho chúng nó thí quà - cô Gái tháo ruột tượng, thọc tay sâu vào trong rồi tần ngần lôi ra cuộn giấy bạc - Chị cũng chẳng có nhiều. Một mình trông nom nhà cửa cho thày mẹ, nay sửa cái vách ruỗng, mai giặm lại chỗ mái dột, tốn kém lắm. - Thưa chị, em biết thế chứ ạ. - Các chú ấy có gửi tiền về cho chị thật, nhưng tiền ấy chị để dành đấy, lỡ gặp cơn bão to tốc hết mái, hay nói dại cái nhà xiêu phải thay cột mà bắn lại... Thôi, dì về kẻo nắng. Liệu mà khuyên chồng tu chí làm ăn, cờ bạc thế mãi núi cũng lở. Em xin vâng lời chị dạy, em biết chị thương em... - ừ, về đi, trưa rồi. Cô Gái nhìn đi chỗ khác để giấu nước mắt. Cô Thiệp đội thúng lên, sụt sịt, rồi đi lẫn vào đám đông ngày chợ. Tôi ngồi xuống bên cô Gái, nhìn theo cái thúng của cô Thiệp cho tới khi nó chìm lẫn trong đám thúng mủng đông đúc của những người đi chợ. Chị Liễu được cô Gái thuận cho ở lại. Ngôi nhà của chúng tôi đông thêm một người.                                                                                                                                                                  

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XII

Hồi ký

Tôi có cảm giác ngôi nhà của chúng tôi biết mừng khi có ai đó trong số chủ cũ của nó trở về. Nó rạng rỡ hẳn lên, tươi tỉnh hẳn lên trong những ngày người đó lưu lại. Còn khi người đó vừa di là nó lại nhắm mắt, ủ rũ ngủ gà ngủ gật. Những tiếng động nhỏ và hiếm hoi lập tức bị yên lặng nuốt chửng và lắm lúc tôi không nghe thấy cả tiếng của cô Gái lẫn tiếng của chính mình. Chẳng riêng gì nhà chúng tôi. Những câu chuyện vui vẻ bùng lên trong ba nhà kể từ hôm cô Thiệp về, nay tắt ngấm. Chị Liễu lẳng lặng như một cái bóng. Cả ngày, chị chả nói một câu, trừ những lời vâng dạ với cô Gái. Cô Gái cân thuốc. Tôi ngồi trên bậu cửa, gò lưng đẩy chiếc bánh xe gang lăn qua lăn lại trong thuyền tán. Nếu tôi hỏi cô Gái về chiếc thuyền tán, chắc chắn cô sẽ kể cho nghe một câu chuyện dài dòng về lai lịch của nó. Những chuyện như vậy nghe riết rồi cũng chán. Khi hai tay đã mỏi, tôi đặt hai bàn chân lên tay nắm của bánh xe mà đạp tới đạp lui. Thoạt đầu, thấy tôi làm như vậy, cô Gái mắng tôi là đồ đại lãn. Sau thấy tôi có ý rửa chân sạch sẽ, đi guốc cho khỏi bẩn chân để làm việc đó, bà mới coi là sáng kiến. Tôi thích làm thuốc với cô Gái. Dưới đôi tay già lão nhưng khoẻ mạnh mẽ của bà, những tảng thuốc được nhào luyện thành một khối dẻo thơm phức, khối dẻo ấy được chia nhỏ thành những hòn, rồi vê thành giun, rồi ngất từng mẩu vê tiếp thành viên. Trên mẹt bên cô tôi chẳng mấy chốc đã xếp đầy những viên thuốc màu đen bóng, màu xám, hoặc nâu. Vừa làm, cô Gái vừa nhẩn nha kể chuyện: - Cháu phải biết, ông nội làm thuốc mát tay lắm. Cả vùng này biết tiếng ông. Nhưng ông không bằng cụ, cụ mới giỏi. Có người ốm sấp chết, tay đã bất chuồn chuồn, vậy mà cụ bốc cho một thang đã đánh rắm được, rồi khỏi. Phàm người nào ốm nặng mà đánh rắm được là y như rằng khỏi, cháu ạ... - Cô ơi cô, - tôi ngắt lời - tại sao người sắp chết lại còn đi bắt chuồn chuồn hả cô? Cô Gái bật cười, rồi cười sằng sặc. Khi cười, bà ngửa mặt lên, cái yết hầu cứ chạy lên chạy xuống nơi cổ, trông thật kỳ. Bà quài tay ra sau lưng, đấm mấy cái cho đỡ mỏi. Tôi nhanh nhảu đứng lên đấm cho bà. Như thế bà sẽ hứng thú kể chuyện. - Đấm mạnh hai bả vai cho cô, thế, mạnh nữa vào! - bà vẫn còn cười, mặt bà hiền hẳn đi và trở nên đáng yêu - Thằng ngốc ạ, bắt chuồn chuồn tức là hức, tức là không phải, hức, con chuồn chuồn thật, hức, mà tức là lúc con người ta sắp chết, hức, hai tay người ta mới thế vầy thế vầy. Bà ngả người ra, mất nhắm nghiền giả chết, những ngón tay xương xẩu động đậy, duỗi ra bóp vào. Đến khi cụ nội mất thì ông nối nghiệp - cười xong, cô Gái thủng thẳng kể tiếp câu chuyện về nghiệp nhà - Nhưng ông chuyên về thuốc viên. Ông bảo, thuốc viên là thuốc của người nghèo, người giàu đã có thuốc chén, mà thuốc chén thì đắt, mặc dầu có nhiều vị tốt. Thuốc viên của ông bán rẻ mà công hiệu, làm không kịp bán. Cảm mạo, nhức đầu, trúng phong hay là nhức nhối tay chân, đầu gối sưng phồng... cứ tới mua ít viên thuốc của cụ bá Tứ là dứt... Đang kể, cô Gái bỗng ngừng bặt. Rồi lẳng lặng tiếp tục viên thuốc, như thể bà chưa kể điều gì. Thường như vậy, bà đang kể, đang kể, bỗng im bặt, tựa bà đang đi thì bước hẫng, rơi xuống hố sâu kỷ niệm rồi không trèo lên được. Để nhấc bà, tôi cố ý cho bánh xe gang chạm vào thuyền tán gây nên một tiếng keng lớn. Cô Gái sực tỉnh. - Rồi sao nữa, hả cô? - ờ, cô kể đến đoạn nào rồi nhẩy? ờ, ông làm thuốc viên. Nhà ta có mấy bài thuốc quí lắm, gọi là gia truyền. Kị truyền lại cho cụ, cụ truyền lại cho ông, ông truyền lại cho bác Linh, nhưng bác Linh lên tỉnh, bỏ nghề thuốc. Cô tiếc, cô làm. - Thế cô cũng học nghề thuốc à? - Không, nghề thuốc ông chỉ truyền cho con trai thôi. Nhưng hồi xưa, cô phải làm giúp ông nên cô nhớ. - Cô có nhớ hết không? - Nhớ sao hết được. Nghề thuốc như rừng, cô chỉ nhớ những bài thuốc viên gia truyền mà cô làm nhiều, đã thuộc lòng. Ông có chép vào sách để lại đấy. Tôi đã thấy những cuốn sách thuốc bìa phất cậy để trong hòm gian. Sách viết bằng chữ nho. Cô Gái thì không biết cả chữ nho lẫn quốc ngữ. Cô Gái thở dài, ngừng tay vê, nhìn tôi: - Các cháu đông, nhưng chẳng có đứa nào chịu ở với cô để cô truyền lại cho nghề nhà... Cô chết đi, nghề thuốc nhà này vậy là hết. - Cô bảo anh Hiếu học làm thuốc đi. Anh Hiếu là con thứ của bác Cả Linh, đứa cháu mà bà yêu nhất. Tại sao bà yêu anh Hiếu chứ không yêu anh Mai, con cả của bác, không ai hiểu. - Thằng Hiếu không thích ở nhà quê - cô tôi trầm ngâm - chẳng đứa nào thích ở nhà quê suất. Thành thử nghề có mà chẳng truyền được cho đứa nào, hoài. Chẳng lẽ truyền cho người ngoài? Người năm bảy hạng, biết ai tốt ai xấu? Mình làm việc phúc đức, có lấy lãi cũng chỉ đủ độ thân, chứ không cốt làm giàu. Phải người xấu, nó lấy nghề mình bắt chẹt làng nước thiên hạ, mình hóa ra có tội. Trong chuyện này cô Gái không nói sai. Cô tôi không ăn lãi bao nhiêu trong những viên thuốc của bà. Đối với những người bệnh nghèo khổ, bà thậm chí cho không. - Như cháu đấy, cháu cũng chỉ về quê ở ít lâu rồi cháu đi. Bố cháu ở nhà pha về là đón cháu lên tỉnh ngay, cô biết. Nghe cô Gái nói bùi ngùi, tôi thương bà lắm. Tôi bỏ thuyền tán, ôm lấy bà: - Cháu không đi đâu, cháu ở lại với cô. - Thật nhá? - bà hỏi, ngờ vực, nhưng tội nghiệp thay, trong giọng bà có lẫn một chút hi vọng nhỏ bé. - Thật, cô ạ. Bà vòng tay ôm lấy tôi vào lòng, bàn tay xương xẩu vụng về vuốt trên lưng tôi. Rồi đột ngột bà đẩy tôi ra: - Tán đi, trưa mất rồi - giọng bà đuồn đuỗn - Mày cũng chỉ nói mép thôi, tao biết thừa, cả lũ chúng mày chẳng đứa nào muốn ở với tao đâu. Nhưng rồi dần dần bà cũng truyền cho tôi cái nghề phức tạp của bà. Bà bắt tôi nhận mặt các thứ lá, các thứ củ, các thứ rễ và các thứ linh tinh khác. Những tên gọi lạ tai quen dần với tôi: bạch linh, bạch truật, ý rĩ, sinh, địa, qui, thục, hồng hoàng, đảng sâm, liên nhục, quy bản, miết giáp... Tôi không hiểu tại sao người ta cứ phải cầu kỳ gọi gừng là sinh nhượng, lá tía tô là tử tô diệp, táo tầu là đại táo...? Nhưng thôi, đã phải gọi như thế thì cứ thế mà gọi, thắc mắc làm gì. Tôi máy móc làm theo lời cô tôi chỉ dẫn: sao, tẩm, cửu chưng cửu sái, khử hỏa độc, tán, luyện rồi bỏ những viên thuốc đã phơi khô vào lọ vào chai đem ra chợ bán. Trong tất cả các thứ thuốc cô Gái làm, tôi thích nhất thuốc tễ. Chẳng những tôi thích, nhiều người thích, mà cả cha xứ cũng thích nữa. Được luyện bằng mật ong rừng, thuốc tễ của cô Gái có vị ngọt và hương thơm đặc biệt. Cha xứ phải trả tiền hẳn hoi khi mua thuốc tễ. Cô Gái coi quít vườn nhà, trứng gà nhà đẻ dường như không phải là tiền, còn thuốc thì bà phải mua bằng tiền rút từ trong ruột tượng ra, thì không thể biếu không cha, mặc dầu bà có quí trọng ông đến mấy. Đối với những người đặt loại thuốc tễ giá rẻ, luyện bằng mật mía, cô Gái vừa luyện vừa cằn nhằn: Quân tối dạ, mật ong cũng là thuốc bổ, có mật ong thuốc tễ mới ra thuốc tễ, rẻ nhiều bổ ít, có vậy mà không hiểu! Khi nào viên thuốc tễ, cô Gái không rời mắt khỏi tôi. Nhưng bà không thể ngồi cả buổi mà không chạy đi đâu đó ít phút. Tôi không bỏ phí khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng quí báu đó. Cô tôi trở về, nạt tôi: - Đã lại ăn vụng hả? Giờ hồn. Bà chưa bao giờ bắt được quả tang tôi ăn vụng. Chỉ tới bữa cơm, thấy tôi ăn uể oải bà mới ngừng nhai, ngờ vực nhìn vào mặt tôi: - Đúng mày ăn vụng thuốc rồi. Hụt của người ta, tao lấy gì tao đền? Nhưng thuốc giao cho khách chẳng bao giờ hụt. Phải công nhận rằng thuốc tễ của cô Gái thật tốt. Trong đám các cháu chỉ có tôi và anh Hiếu con bác Linh ở lâu với bà hơn cả và vì thế được ăn nhiều thuốc tễ hơn cả. Hai chúng tôi lớn lên dai sức hơn hẳn các anh em khác trong cuộc đời không phẳng lặng của mình có dễ nhờ những viên thuốc den bóng và ngọt lịm đó. Cô Gái chẳng mất riêng thuốc tễ. Cô còn mất cam thảo, quế chi và táo tầu. Tôi cần phải xin lỗi muộn các vị khách hàng đã đặt thuốc tễ ở cô tôi: trong thuốc của họ vị táo tầu còn lại rất ít. Cái hòm gian được khóa cẩn mật đã không giữ nổi vị thuốc quí đó, cũng như nó đã không giữ được quít. Nhưng đó là khi tôi đã quen với ngôi nhà cô tịch nhưng đông đúc những linh hồn câm lặng. Chứ khi tôi mới ở Hà nội về, gian buồng của cô Gái đã một thời gian làm tôi chết khiếp. Gian buồng nhỏ, tối om của cô Gái, chỉ có một cửa sổ lúc nào cũng đóng kín. Cửa sổ này làm bằng những thanh gỗ xếp so le. Khi nào mở nó, tức là kéo cánh cửa cho những thanh gỗ chồng lên nhau, thì ánh sáng mới lọt vào, nhưng cũng chỉ lờ mờ. Trong ánh sáng lờ mờ đó, người bước vào buồng sẽ giật bắn mình nhìn thấy ở vách trong cùng có một ông lão mặt xanh lè đang quắc mắt nhìn mình. Định thần lại, ta thấy đó là hình một ông già cao bằng người thật bận áo the xanh, đội khăn xếp xanh, đang lom khom bước, tay giơ cao một cái chai nhỏ. Cái bức tranh quảng cáo dầu quất thần dữ dằn như thế chỉ có được trong những năm xa xưa ấy. Bây giờ tranh quảng cáo nhỏ nhắn và khiêm tốn hơn nhiều. Ông lão bán dầu quất thần đã gây nên một nỗi sợ hãi thật sự chẳng riêng ở trẻ con mà cả ở người lớn trong xóm ba nhà. Bộ mặt đần độn nhưng nham hiểm của người trong tranh, đôi mắt nhìn chằm chằm soi mói đầy thù hận và hiểm độc, tạo ra ảo giác về một con người ghê gớm đang chăm chú theo dõi từng bước chân kẻ nào dám cả gan bước vào lãnh địa của hắn. Người làng đồn đại với nhau rằng ở nhà bà Gái có ông lão bán dầu quất thần trong tranh đã thành tinh. Cô Nhung, người có trí tưởng tượng chẳng lấy gì làm phong phú, quả quyết rằng cô đã nom thấy, bằng chính mất mình, ông lão bán dầu quất thần đi lại trên thềm trong một đêm sáng trăng suông: - Giê-su, tôi hãi quá là hãi. - cô Nhung trợn mắt kể - Người tôi lạnh toát, chân muốn khuỵu xuống, tay run lẩy bẩy thế này này, cầm cái đèn hoa kỳ không vững, rơi tuột, may là đèn đồng, chỉ mất mỗn cái thông phong.. - Lão ta chỉ đi đi lại lại thôi hả cô? - lũ trẻ chúng tôi nổi da gà, hỏi bà. - Nào hắn ta có đi mà thôi. Thấy động, ấy là lúc cái thông phong vỡ, hắn ta mới quay lại nhìn cô, mắt xanh lè. Cô mới làm dấu, hắn ta bỏ chạy rồi biến mất. Trong các chuyện ma ở làng tôi, khi nào người gặp ma làm dấu thánh là y như rằng ma phải biến mất. - Tôi cũng vậy, cô có nói ra tôi mới nói, chính tôi cũng đã gặp hắn ta - cô Oanh ngập ngừng chêm vào. - Chị cũng thấy? - Như thật vậy. Sẩm tối hôm ấy, tôi sang tìm cô Gái hỏi vay cút dầu, không thấy cô Gái đâu, tôi mới vén màn gió dòm vào buồng thì... Giê-su lạy Chúa tôi. - Chị thấy làm sao? - bác Hai Thực gái hỏi dồn - Làm sao, hả chị? - Hắn ta đứng giữa buồng, loay hoay cầm cái chai như thể ta cầm đèn soi tìm vật gì. Thấy tôi định bước vào, hắn ta quay phắt ra, mắt cứ hoay hoáy xía vào tôi. - Lạy Chúa, rồi chị làm thế nào? - Tôi hãi quá, líu cả lưỡi lại, muốn gọi bà Gái mà không được, tôi ù té chạy về nhà, nằm bệt mấy ngày liền. - Vậy mà hôm ấy em cứ ngỡ chị bị cảm, - trúng gió - cô Nhung lắc đầu, chép miệng - Mới tháng trước chứ lâu lai gì đâu. Bác Hai Thực giai không bao giờ kể chuyện ma, cũng không nói tin hay không tin, phàn nàn: - Chẳng hiểu cô Gái để hình lão bán dầu ấy trong buồng cô làm gì? ích lợi đâu chẳng thấy, chỉ tổ để người ta xì xào. Đúng là việc cô Gái để bức tranh quảng cáo trong buồng cô là điều không nên thật, tôi nghĩ. Người ta đồn con ma ở nhà bà Gái tuy chưa nát ai, chưa làm hại ai, nhưng nó làm người ta hãi. Những đêm mưa thâm tối trời nó lang thang trên mái nhà, tay cầm cái chai. Có lần, nó mò ra đến đầu ngõ, người đi trên đường làng trông tỏ mồn một. Những lời xầm xì vốn không bao giờ là của hiếm trong làng, cuối cùng rồi cũng đến tai cô Gái. Nhưng cô bỏ ngoài tai. Ai chiều được miệng thế gian. Hơn nữa, bà không đành lòng từ bỏ người gác nhà độc đáo và trung thành của mình. Tiếng đồn về ông lão bán dầu quất thần đến tai cha xứ. Ông đến tận nhà để xem. Vừa vén bức màn gió để ngó vào buồng, ông đã giật mình, lùi lại, tay bất giác dưa lên làm dấu thánh. - Bà nên bỏ bức tranh này đi kẻo bổn đạo hãi. - cha xứ khuyên cô Gái - Người ta nói đến tai tôi nhiều lắm. Cô Gái ngoan đạo lần này đã ngoan cố không làm theo lời cha xứ. Ông lão bán dầu quất thần còn ở lâu trong ngôi nhà ông bà tôi, cho tới khi ngôi nhà bị dỡ đi, làm lại. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy ông lão ghê gớm nọ dưới ánh sáng ban ngày. Mặt ông ta bệch ra, áo quần cũng bạc phếch, khắp người đầy những vết thủng lỗ chỗ không rõ do mọt đục hay gián nhấm. Bức tranh bị đốt đi trước sự hiện diện của mọi người trong xóm ba nhà. Mặt ông lão nhăn nhúm lại trong vẻ đau đớn và căm giận khi những lưỡi lửa liếm tới. Tôi nói ông lão bán dầu quất thần là người gác nhà độc đáo vì trong làng tôi, luôn luôn xảy ra trộm đạo, không trừ cả nhà cha, vậy mà ngôi nhà không thể gọi là nghèo nàn của cô cháu tôi trộm chớ hề bén mảng. Bác Hai Thực quả quyết rằng các chú chích sợ ông lão bán dầu

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #tho#thu