Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

me tong chi quoc

Một tổ chức thần bí, một nhiệm vụ bất khả thi

Kinh hoàng: Con đường U Linh bí ẩn trong lịch sử một lần nữa hiện ra trước mắt.

Kỳ quái: Máy bay không người lái bay lượn trong khe núi sâu.

Hung hiểm: Đỉa ăn thịt người bao vây thảm sát cả đoàn người.

Trong rừng rậm bí ẩn, bạn làm cách nào để chiến thắng nỗi sợ hãi và xoay chuyển vận mệnh?

Sự thật chôn vùi dưới lòng đất sâu, lời giải ẩn kín trong lớp sương mù.

Rút cục ai là kẻ cận kề Thiên quốc nhất? 

Đôi nét về tác phẩm 

“Mê tông chi quốc” là bộ tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm dài kỳ gồm 4 tập, kể về những chuyến đi đầy mạo hiểm của một đoàn thám hiểm gồm những kẻ trộm mộ chuyên nghiệp, những chiến sĩ chạy trốn sự truy đuổi của kẻ thù và những nhà khảo cổ dạn dày kinh nghiệm, họ bắt đầu hành trình với những nhiệm vụ khác nhau nhưng lại gặp nhau giữa rừng hoang núi thẳm và cùng chiến đấu để chống lại hiểm nguy, giành giật sự sống. Chuyến đi của họ là hành trình sinh tử đầy ly kỳ và mạo hiểm, vượt thời gian, vượt không gian với những khám phá kinh hoàng về một vương triều cổ đại, một đất nước bị lãng quên dưới lòng đất và những điều bí ẩn chưa ai từng biết đến. 

Đôi nét về tác giả: 

Thiên Hạ Bá Xướng được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc. Anh là tác giả của bộ truyện “Ma thổi đèn” - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Tác phẩm của Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới, từ đó in đậm dấu ấn của tiểu thuyết Trung Quốc trên văn đàn thế giới. 

Trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, điều tác giả quan tâm là những suy nghĩ và hành động của con người trong những hoàn cảnh kỳ lạ chưa bao giờ được biết đến. Bằng những câu chuyện tràn đầy sóng gió bão táp với những bí kíp cổ xưa, những di tích thần bí, bằng tình bạn cảm động giữa những người đồng đội sẵn sàng sống chết vì nhau và sự cảm nhận sinh tử vô thường, bằng ngôn ngữ hài hước tinh tế, những kiến thức dân gian phong phú nhiều màu sắc, Thiên Hạ Bá Xướng đã tự xây dựng cho mình một cõi “giang hồ” riêng biệt.

HƯƠNG I: BẢO VẬT TRONG HẮC ỐC

Hồi 1: Hắc Ốc

Đúng như Tư Mã Khôi vẫn thường nói: “Vận xui là một loại vậy may vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ lỡ”. 

Năm mười lăm tuổi, cha mẹ của Tư Mã Khôi đều bị buộc tội hữu khuynh, kẻ trước người sau lần lượt nhắm mắt xuôi tay vì bạo bệnh ngay trong lớp cải tạo, song thân ra đi vội vã đến nỗi chẳng kịp nhắn nhủ cậu con trai ở lại câu gì. Khi đó không có ai nói cho Tư Mã Khôi hay cậu nên đi đâu học, đến đâu ăn, cũng chẳng người nào thèm để mắt xem cậu sống hay chết. Đợi khi tất cả của cải trong nhà đều bị đem bán sạch trơn, từ trong ra ngoài chẳng có thứ gì đáng giá, cậu mới tỉnh ngộ từ nay về sau chỉ còn biết dựa vào chính mình mà thôi. Để tìm một con đường sống, cậu đành phải chạy đến nơi mà trước đây ngay cả nằm mơ cậu cũng không dám mơ đến – Hắc ốc để mưu sinh qua ngày.

“Hắc ốc” không phải là một tòa địa ốc màu đen mà đó là biệt danh của một xóm nhỏ ở vùng ngoại ô heo hút, con xóm nằm kẹp ngay giữa hai dải núi trọc, quanh năm mưa không thuận, gió không hòa, đất xấu dân nghèo, vô cùng xa xôi hẻo lánh. Thời chiến tranh, nơi đây từng bị máy bay thả bom dữ dội, sau đó xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, nhà cửa bị thiêu cháy sụp đổ, khắp nơi tang thương, khói lửa dày đặc hun tất cả những bức tường vỡ nát còn sót lại thành một màu đen xì xì, vì thế người dân ở đây gọi nơi này là “Hắc ốc”.

Suốt mười năm loạn lạc, khu vực “Hắc ốc” vẫn chưa được chính phủ trùng tu. Bao nhiêu năm đến giờ không hề có người dân chính thức nào của con xóm quay lại cố hương sinh sống. Nhưng ngay trong lòng thôn xóm hoang tàn lại có một con đường sắt xuyên qua, hàng ngày rất nhiều chuyến tàu chuyên chở hàng hóa chạy đi chạy lại, đã thu hút một lượng lớn số người ăn theo đường sắt đến đây trú ngụ. Ngày qua tháng lại, nơi đây dần dần trở thành cứ địa tụ tập của những cư dân thuộc tầng đáy xã hội.

Đương nhiên ở đây không tránh khỏi việc vàng thau lẫn lộn, cát bùn nhào trộn cả vào nhau. Trong xóm có rất nhiều thành phần, từ trẻ mồ côi không nhà không cửa đến những kẻ nhặt rác lưu lạc tứ phương, những nông dân từ nông thôn chạy lên thành phố kiếm sống, những người nhặt than vụn rơi trên đường sắt, phu khuân vác ở bến tàu, kẻ bán khoai lang dạo, thậm chí còn có cả những thanh niên trí thức không chịu được công việc lao động chân tay gian khổ nơi hoang vu hẻo lánh một mình chạy trốn về đây ẩn náu.

Bọn họ chia bè kết phái sống ở Hắc ốc, đa số đều mưu sinh nhờ vào công việc buôn bán lặt vặt trái phép hoặc đào hầm lấp hố, chẳng người nào có công việc tử tế để làm, đương nhiên trong số đó không thiếu những kẻ phá khóa trộm đồ, bò vào xe lửa ăn cắp, còn có cả bọn lưu manh vô lại chuyên đâm thuê giết mướn kiếm tiền.

Những kẻ rập rình ẩn hiện ở khu vực Hắc ốc hầu như tất cả đều là thành phần đã bị bài trừ ra khỏi hệ thống xã hội, những việc chính phủ nghiêm cấm không được làm chúng đều nhúng tay làm cả. Nhưng trong khi thế giới bên ngoài đang hừng hực đấu tranh chính trị một mất một còn giữa các đảng phái thì ở đây dường như bị đoạn tuyệt hoàn toàn với thị phi tranh chấp, ngay cả tin tức giật gân chữ to in đậm ngay trên bìa báo cũng không lọt đến được nơi này. Mỗi lần có cớm vào xóm truy quét lùng sục, bang Hắc ốc chỉ cần đánh động vài tiếng là cả hội đã rút gọn không còn vết tích, đợi khi sóng yên bể lặng, lại kéo nhau trở về tụ tập. Tất cả các thế lực trong chính phủ dường như đều bất lực, chẳng làm gì được chúng, đành phải nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua. Hơn nữa, chỉ cần bọn họ đừng gây ra trọng án kinh thiên động địa thì ai thèm để ý đến lũ “cặn bã của xã hội” sống ở khu ven thành phố bị bỏ hoang phế.

Băng đảng của Tư Mã Khôi là một nhóm gồm toàn những đứa trẻ khoảng tầm mười bốn mười lăm tuổi, trong đó có cả nam và nữ, đa số bọn chúng đều là con cái trong những gia đình có bố mẹ bị quy chụp thành phần cánh hữu, chúng lại chưa đến tuổi nhập ngũ để tham gia quân đội nên đành phải phiêu dạt nay đây mai đó, trôi nổi giữa xã hội, chúng không có việc làm cũng không được đi học, càng chẳng có bà con thân thích nào có thể nương tựa. Bọn chúng đúng là những kẻ “bà không yêu, cậu không chiều, thím nhìn thấy đá cho ba cái, ngay đến chó cũng nguýt dài quay mặt”.

Trong đám trẻ mới lớn này, tuy có một vài đứa cũng được nhận mấy đồng trợ cấp sinh hoạt phí, nhưng số tiền ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu, bản năng sinh tồn buộc chúng phải tập hợp lại thành băng nhóm tranh giành cơm áo với xã hội. Khi đó thường thịnh hành khẩu hiệu “Tư tưởng Mao Trạch Đông như luồng gió xuân thổi đến muôn nơi” nên hội Tư Mã Khôi quyết định đặt tên cho nhóm là “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” và còn nghiêm trang phát thệ trước tượng đài Mao chủ tịch: “Từ nay cả nhóm phải đoàn kết, đồng cam cộng khổ, cùng làm cách mạng”. Trên thực tế, khẩu hiệu này chỉ là cái cớ để chúng làm loạn, gây họa khắp nơi, quấy nhiễu an ninh khiến chó cắn gà kêu không ngày yên ổn, dân chúng cách mạng trong thành không người nào nhìn thấy chúng mà không muốn chửi mắng cho thỏa giận.

Tính chất của “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” có vài phần tương tự với nhóm “Đồng Đảng” trong lịch sử từng nhiễu nhương thành phố sương mù Luân Đôn ở Anh, tuổi đời các thành viên đều tương đối thấp, hoạt động của nhóm có tính chất nguy hại nhất định đối với xã hội. Chẳng bao lâu sau, “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” tự thấy rằng thành phố không phải nơi dễ kiếm cơm nên đành rút lui về khu vực gần Hắc ốc. Hội Tư Mã Khôi đánh mấy trận sống mái với bọn lưu manh bản địa, tuy chịu không ít thiệt thòi nhưng “không đánh bất thành bạn”, cuối cùng hai bên đã hóa giải được hận thù và đạt được nhận thức chung một cách không ngờ. Qua nhiều cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên đã phân định ranh giới địa bàn của mỗi bên rất rạch ròi, cục diện hỗn loạn từ đó tạm thời ổn định trở lại.

Trong “Nhóm chiến đấu Xuân Phong”, Tư Mã Khôi có một người bạn thân tên là La Đại Hải. La Đại Hải khí chất hào hiệp lại rất dũng cảm, cha cậu ta là La Vạn Sơn, từng là bộ đội chuyển ngành làm cán bộ trong tòa án địa phương, sau này do bị điều động công tác nên cả gia đình từ Đông Bắc phải chuyển xuống Hồ Nam. Trong chiến dịch bài trừ hàng ngũ cán bộ suy đồi, ông La Vạn Sơn bị áp giải vào trại cải tạo lao động, còn lại một mình La Đại Hải tứ cố vô thân đành phải phiêu dạt đầu đường xó chợ. Tên tiểu tử này trông khá khôi ngô tuấn tú, tướng mạo đường hoàng, chiều cao và thể lực đều hơn hẳn các bạn cùng trang lứa, cậu ta rất thích ngồi rỗi lo chuyện thiên hạ, hay ra tay dẹp chuyện bất bình, vì thế có sức hiệu triệu rất lớn đối với các thành viên trong nhóm. Chỉ có điều khi còn nhỏ ở Đông Bắc, La Đại Hải bị rét đến nỗi đóng băng hỏng cả lưỡi nên khi nói không mấy rõ ràng, lại thêm cái tật nói nhiều vì vậy bị mọi người ở đây đặt cho biệt danh Hải ngọng.

Vì từ nhỏ Tư Mã Khôi đã bái “Văn Võ tiên sinh” làm thầy nên cũng thủ thân được chút ít bản lĩnh lục lâm, cậu ta không chỉ thân thủ nhanh nhẹn, ra tay gọn gàng, gan to hơn người mà còn rất giỏi ăn nói giảo biện, lại hiểu được các quy tắc của giới giang hồ trước giải phóng, biết rằng “Hành bang các phái, coi nghĩa khí làm trọng”. Trong những kẻ chiếm cứ khu Hắc ốc có không ít tên xuất thân từ xã hội cũ, chỉ có Tư Mã Khôi mới giao lưu được với chúng. Bởi vậy Tư Mã Khôi và La Đại Hải tự dưng trở thành thủ lĩnh của nhóm “Xuân Phong”, cầm đầu cả hơn trăm thiếu niên nam nữ, suốt ngày náo loạn con đường sắt hoang phế, thoát ẩn thoắt hiện, di chuyển nhanh như lốc cuốn.

“Xuân Phong đoàn” tuy đã giao kèo được vấn đề lãnh thổ với “Hắc Ốc bang”, rằng lấy đường sắt làm ranh giới phân định, nhưng vấn đề sinh tồn của hội Tư Mã Khôi vẫn chưa được giải quyết. Cứ theo thành phần xuất thân mà xét, bọn họ tuyệt đối không cam tâm đi nhặt than rơi trên đường sắt hoặc làm các công việc lao động chân tay thấp hèn. May mà Tư Mã Khôi có nhiều tai mắt, lại nhanh trí, cuối cũng cũng nghĩ ra một kế mưu sinh thượng sách. Cậu bảo các thành viên trong nhóm khuân tất cả đồ đạc còn sót lại trong nhà chuyển đến lều trại dựng tạm ở đây để xây dựng cứ điểm hoạt động, đồng thời sai đám con nít nhỏ tuổi lợi dụng hoàn cảnh gia đình bi thảm trở về nhà bếp cơ quan nơi bố mẹ chúng đã làm trước đây để “thuận tay dắt bò”. Kế sách này được gọi là “Khổ nhục kế”. Kế hay ở chỗ cho dù lỡ bị người ta phát hiện cũng không sao, bởi vì thành viên được phái đi thực hiện nhiệm vụ chỉ là những đứa trẻ khoảng trên mười tuổi. Hơn nữa các nhân viên làm trong nhà bếp đa phần lại là đồng nghiệp cũ, quen biết với cha mẹ chúng, chẳng ai nỡ lòng nào tóm cổ chúng giao nộp cho chính quyền, ngược lại phần lớn họ đều lấy cơm thừa canh cặn trong nhà bếp mang ra chia cho đám trẻ.

Thử nghiệm được vài ngày, các nhà bếp quả nhiên đều tình nguyện để lại cơm thừa cho bọn trẻ. Tư Mã Khôi thấy kế này khả thi liền cho bắc mấy cái bếp ở chân tường đổ nát, rồi đi trộm vài chiếc nồi to. Khi thức ăn kiếm về không đủ liền thả thêm vào đó mấy cọng rau nát, đồ khô thì mang lên hấp, đồ có nước thì cho vào nồi nấu thành một thứ thức ăn hỗn hợp. Vì đây là những đồ ăn thừa ở các nhà bếp khác nhau nên khẩu vị mỗi món một khác, sau khi đổ lẫn vào nhau nấu lên, mùi vị lại hấp dẫn khác thường, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Cả nhóm đắc chí đặt tên cho nó mỹ danh “Khách sạn Lục Quốc”.

Có điều hội Tư Mã Khôi không thèm ăn mấy đồ đó mà bán lại cho bọn “Hắc Ốc bang” ở bên kia đường sắt. Đám người đó đều là dân lao động chân tay, cả năm quần quật làm những công việc nặng, bụng lúc nào cũng rống tuếch, hơn nữa cả đời chưa bao giờ được thưởng thức các món ăn ở nhà bếp cơ quan, chính phủ. Bọn họ nhìn đồ ăn trong nồi của “Khách sạn Lục Quốc” vô cùng phong phú, lại láng một lớp dầu hoa ở bên trên, thấy ngon hơn hẳn đồ ăn thường ngày của mình nên người nào người nấy lần lượt móc tiền trong hầu bao ra mua từng bát lớn. Họ đút cả cơm lẫn cháo vào miệng nhai nuốt ngon lành. Những kẻ không có tiền thì dùng vật để trao đổi. “Khách sạn Lục Quốc” do Tư Mã Khôi phát minh ra ngày nào cũng cháy hàng, nồi niêu sạch trơn, cung không đủ cầu.

Hành động lần này của hội Tư Mã Khôi đã nhiều phần hóa giải được ánh mắt thù địch lẫn nhau giữa hai bang phái bên đường sắt, hơn nữa lại mang đến khoản lợi nhuận không nhỏ giúp cả hội duy trì những nhu cầu của cuộc sống.

Cứ như vậy qua hết mùa xuân, ngày càng lúc càng dài, chớp mắt đã bước vào mùa hè oi bức. Những ngày này chẳng thấy bóng dáng của một giọt mưa, trời hanh vật khô, nóng bỏng như trên chảo lửa. Lúc sắp trưa cũng là thời khắc khu Hắc Ốc yên tĩnh nhất trong ngày, mọi người đều tản ra các ngả lao động kiếm cơm, chỉ có mấy cô gái ở nhà lo chuyện bếp núc, chuẩn bị nấu thức ăn thừa từ ngày hôm trước, để phần cho những người ở lại ăn. 

Buổi sáng ngày hôm đó, La Đại Hải đặt bẫy ở khu đất hoang và tròng cổ được một con lợn rừng cỡ nhỡ, liền mang về Hắc ốc giết thịt, mổ bụng lột da, xử lý hết nội tạng rồi ngoắc cả tảng thịt tiết rỏ ròng ròng lên móc câu, thuận tay vứt luôn cái đầu lợn vừa cắt ra khi nãy lên tấm gỗ để ngay bên cạnh, chuẩn bị nổi lửa nấu nồi thịt cải thiện bữa tối cho cả nhóm. Đợi đến buổi trưa mới xong việc, cậu ta liền ngồi phệt đít xuống tấm đá xanh đặt trước cửa trại ngồi nghỉ ngơi hóng mát.

Lúc này, Hải ngọng nóng bức đến nỗi mồ hôi ướt đầm lưng áo nhưng trên đầu vẫn đội khư khư chiếc mũ quân nhân rách nát đi cướp được từ đời thủa nào, miệng phì phèo điếu thuốc, vừa hút vừa thao thao bất tuyệt nói chuyện với Tư Mã Khôi, chủ đề vẫn quanh quẩn mấy chuyện đợi khi nào bố cậu ta phục chức trở lại làm việc như trước, bọn rác rưởi dám đăng tin việc nhà cậu lên trang nhất hãy chống mắt lên mà xem cậu đây trả thù như thế nào.

Tư Mã Khôi tuy tuổi còn nhỏ nhưng lại trải nghiệm không ít những gập ghềnh trên đường đời, điều đó khiến tâm lí phản nghịch xã hội của cậu trở nên vô cùng nghiêm trọng. Dường như cậu đã sớm dập tắt hết mọi hi vọng trong lòng nên nghe Hải ngọng nói vậy chỉ ậm ừ đáp bừa vài câu lấy lệ.

Đúng lúc này, cậu chợt nhìn thấy một lão già đi vào trong ngõ. Tư Mã Khôi vô cùng thính tai tinh mắt, bất kể gió lay cỏ động khẽ khàng thế nào cũng không lọt khỏi tầm mắt. Chững lại thầm ước lượng một lát, cậu cảm thấy kẻ mới đến có chút gì đó khá cổ quái.

Quay đầu nhìn kỹ, chỉ thấy lão già đó ăn mặc rách rưới, quê cục, hơn nữa trông mặt rất lạ, chắc chắn không phải là người sống ở bên khu Hắc ốc hoang phế này. Lão già xem chừng tầm hơn năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, mắt la mày lém, hai bên mép còn để hai chòm râu chó, cổ đeo chuỗi “bánh đả cẩu”, đầu đội chiếc mũ chóp cao rách nát, tay cầm bồ cào, vai cõng một túi vải đay phồng to cồm cộm, trên người mặc chiếc áo khoác bằng da trông khá cũ, trước ngực áo còn có một hàng séc, quần dài áo dài, chân đi đôi giày đen đế dày cộp đá bò bò chết, mũi giày há hoác miệng lòi ra góc tất trắng bên trong. Bây giờ đúng là ngày hạ chí, trời nóng như đổ lửa nhưng nhìn cách ăn mặc đông không ra đông, hè không ra hè của lão già khiến người ta không khỏi cảm thấy khác thường.

Lão già lạ mặt đó dùng cặp mắt cú vọ ngó đông nhìn tây một hồi, đợi lúc đi đến trước cửa căn lều gỗ của Tư Mã Khôi, hốt nhiên lão ta dừng lại, giả bộ quỳ xuống xách giày, đồng thời thò đầu vào trong lều ngó nghiêng dò xét.

Cử chỉ này của lão có thể che mắt mọi người nhưng không thể che mắt Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi quan sát hành động và cách ăn vận của người này, trong lòng cảm thấy vô cùng quái dị, lập tức đề cao tinh thần cảnh giác, đồng thời mở miệng dò hỏi một câu: “Xem lão gia không quen mặt, chẳng biết từ đâu đến thế?”

Lão già nghe hỏi lập tức đứng thẳng người dậy, đuôi mắt quét quanh một lượt, liền nhận ra Tư Mã Khôi và La Đại Hải chính là chủ nhân căn lều hoang phế này, lập tức ngoác miệng cố nặn ra một nụ cười trên khuôn mặt già nua. Lão ta nói với hai người: “Không dám nhận lão gia, mỗ đây họ Triệu, quê ở Quan Đông, từ trước đến nay không có biệt hiệu gì, những người quen biết đều gọi mỗ là Triệu Lão Biệt. Trước giải phóng mỗ lưu lạc đến đây, mấy năm nay phiêu dạt khắp nơi trong ngoài thành, dựa vào công việc đan làn cỏ, nhặt phế liệu sống qua ngày. Hôm nay đến vùng đất quý này là muốn đổi một số vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống”.

Tư Mã Khôi nghe lão trình bày khá rõ ràng, trong lòng ngầm giảm bớt cảm giác đề phòng, tiếp tục hỏi Triệu Lão Biệt: “Sao Triệu sư phụ lại ăn mặc như vậy? Trời hè oi bức, lão không sợ ủ thối người ra à?”

Triệu Lão Biệt mỉm cười nhẹ, trả lời ngay: “Bậc hậu sinh các cậu không hiểu đấy thôi, chiếc áo mỗ đây mặc được gọi là áo khoác anh hùng như ý, tứ bề thông thoáng, rất thoát gió đấy”.

Tư Mã Khôi nghe thấy mấy lời lão già nói có vài phần giống tiếng lóng trong giới giang hồ, người thời nay làm gì còn ai nói năng như vậy nữa? Lòng càng cảm thấy kỳ quái hơn, cậu bèn hỏi gặng: “Xem lão nói năng không phải hạng phàm tục, chân tay lại khá nhanh nhẹn nhưng sao đi vào nơi ngói vỡ gạch nát hoang tàn này, không sợ bị què chân, lạc đường ư?”

Triệu Lão Biệt hiểu ngay ẩn ý trong lời lẽ của Tư Mã Khôi, nhưng dường như không thể tin những lời ấy lại phát ra từ miệng một đứa trẻ ranh như cậu, nên liền nảy ý thăm dò lại. Lão ta bước lên một bước, chân trước chân sau đứng chéo nhau, không ra hình chữ đinh, cũng không ra hình chữ bát rồi nói: “Mỗ đây chân cứng, đế dày, đi chắc, đứng vững, cất bước tiêu dao hoạt bát”.

Đoạn đối đáp của hai người toàn bộ là ám ngữ của thế giới ngầm trong “Đáy biển giang hồ”, Hải ngọng đứng bên cạnh nghe chẳng hiểu gì, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, nhưng Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi thì ngấm ngầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường nên tuyệt đối không dám khinh xuất.

Triệu Lão Biệt dường như không có ý định bỏ đi ngay, lão nói trời nắng chang chang, trên đường đi vừa mệt vừa khát, muốn xin hai vị “đầu lĩnh” cho trú chân nghỉ ngơi giây lát uống ngụm nước chè. Miệng chưa nói xong, không đợi chủ nhà đồng ý, lão đã tự ý ngồi sụp xuống ngay trước lều.

Tư Mã Khôi cũng muốn xem rốt cục người này muốn làm gì cho nên cũng chẳng xua đuổi làm gì, ngược lại còn mang cho lão một chiếc bát, bên trong là nước trà “Lão Âm” vừa mới cắt ban sáng.

Triệu Lão Biệt chỉ “cảm ơn” hai tiếng rồi giơ tay đón lấy bát nước uống ực một hơi, cạn đến tận đáy, xong mới ngẩng mặt lên khen: “Loại trà Lão Âm có sâu trà quả đúng là thức uống giải khát bậc nhất”. Nói đoạn lão liền móc ra một tẩu thuốc, dốc ngược đáy xuống gõ mấy cái lên bàn, rồi nhét đầy sợi thuốc lá vào trong, châm lửa đầu tẩu thuốc, tí ta tí tách hút liền mấy hơi, vừa hút vừa chuyện trò mấy câu vô bổ cùng Tư Mã Khôi và La Đại Hải. Lòng vòng một hồi lâu cuối cùng lão cũng chịu đi vào chuyện chính.

Lão già Triệu Lão Biệt này tự nhận mình bước chân vào giang hồ mưu sinh từ rất sớm, thông thạo nhân tình thế thái, bây giờ lão ta có mối quan hệ rất tốt với một số đường dây đặc biệt trong thành, không những có thể hối lộ mà còn có thể lấy được rất nhiều đồ tốt trong thế giới ngầm. Cuộc nói chuyện khi nãy với Tư Mã Khôi khiến lão nhận thấy cậu tuy trẻ tuổi nhưng khá thông hiểu các quy tắc ngầm, chắc hẳn phải xuất thân từ một gia đình thế tộc, gốc gác không phải hạng vừa. Tục ngữ nói rất hay “Trọc đầu thì vào chùa, đội mũ thì làm quan”, nay người cao tay lại gặp bậc kỳ tài, thật đúng là duyên trời sắp đặt, vì thế lão tình nguyện để Tư Mã Thiên và La Đại Hải đi theo mình cùng hưởng phúc.

Giống như lão biết phép thần thông biến hóa vậy, lời nói vừa dứt thì lôi ngay từ trong túi vải đay rách nát của mình ra ba tút thuốc lá thơm hảo hạng, cười tít mắt bày cả lên mặt đất.

Gia thế nhà La Đại Hải cũng thuộc hạng có gốc gác, cậu ta lại là người khá trải đời nên vừa nhìn thấy liền biết loại thuốc lá này chỉ cung cấp hạn chế cho các cán bộ cấp cao, chứ lão bách tính thường dân hầu như chẳng bao giờ được nhìn thấy, cho dù ở chợ đen cũng khó lòng tìm ra, có tiền cũng không mua được. Lão già này xuất chiêu độc thật, một phát rút ra liền ba tút khiến Hải ngọng hai mắt vụt sáng, vội vã thò tay ra lấy, miệng còn nói: “Hôm nay, chúng ta coi như bèo nước tương phùng, lần đầu gặp mặt mà lão đã rộng rãi như thế, khiến anh em bọn tôi thấy xấu hổ vô cùng. Thế lão ở đơn vị nào? Lần sau anh em bọn tôi nhất định sẽ viết bức thư biểu dương, tỏ lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô tư và khẳng khái này của lão”.

Triệu Lão Biệt cũng nhanh tay không kém, liền giơ tay ngăn không cho La Đại Hải rờ vào mấy tút thuốc: “Người anh em xin đừng vội, thứ này mỗ đâu dễ kiếm nhưng bất kể nói thế nào chúng ta gặp được nhau đúng là có duyên, hôm nay kết giao thành bằng hữu, hai bên xem như không còn vấn đề gì khúc mắc nữa. Hai vị đầu lĩnh thử xem, mỗ có thể dùng ba tút thuốc lá hảo hạng này để đổi lấy một … một vật trong căn lều của hai cậu không?”

La Đại Hải cười to: “Lão Triệu ơi lão Triệu, chẳng giấu gì lão, anh em bọn tôi đúng là những kẻ “Sói vàng bị cắt mất đuôi – trên người chẳng còn nửa cọng lông đáng tiền”, chỉ cần lão không chê mấy đồ giẻ rách trong căn lều của chúng tôi, nhìn thấy vật gì thích hợp lão cứ thỏa sức mà lấy”.

Tư Mã Khôi nhìn thấy tình hình như vậy, trong lòng không khỏi ngầm cảm thấy kỳ lạ, tuy cậu cũng muốn giữ ba tút thuốc lá thơm nhưng đầu óc vẫn khá tỉnh táo, nên liền tiến đến cạnh ngăn Triệu Lão Biệt rồi nói: “Khoan đã! Cuộc trao đổi này e rằng chưa xong, trước hết lão phải nói rõ xem rốt cục muốn đổi lấy vật gì trong lều đã”.

Triệu Lão Biệt dường như không thể nhẫn nại thêm nữa, con ngươi đảo một vòng rồi thò tay vào túi vải đay lấy ra một hộp tai lợn kho tàu, bốn ống thịt bò hộp chất cả lên mặt đất, đoạn nói: “Muốn đổi lấy vật gì, thì phải vào lều chọn xem mới biết được. Nhưng Triệu Lão Biệt mỗ cũng nói trước, trong hai thứ đồ ăn và thuốc lá, các cậu chỉ được đổi lấy một món, tuyệt đối không được lấy hơn”.

Tư Mã Khôi nhận thấy Triệu Lão Biệt dường như có ý rất quyết tâm muốn lấy bằng được vật đó, chưa đâu vào đâu, lão đã chủ động nâng giá, có câu “Càng mời càng không mua, càng hối càng không bán, nếu hối thúc quá đáng, mua bán cũng bất thành”, lão đã không tiếc mang ra bao nhiêu đồ quý hiếm để đổi lấy thứ trong căn lều thì thứ đó chắc hẳn cũng không phải loại tầm thường, làm sao Tư Mã Khôi có thể chấp nhận trao đổi dễ dàng như vậy.

Hơn nữa Tư Mã Khôi còn nhớ lại một việc, trước đây khi cậu còn ở miền Bắc, từng nghe người ta kể về truyền thuyết “Man di biệt bảo”, trong đó nói những nơi phong thủy tốt đều chôn giấu báu vật, không những vậy báu vật ấy vô cùng quý giá do trời đất tạo hóa, được thần quỷ ngầm bảo vệ. Nếu ai tự tiện sờ vào khó tránh khỏi rước họa vào thân, muốn đoạt được tất phải dùng những bí thuật kỳ môn cổ xưa mới xong. Bởi vậy họ không thể nói với người ngoài mình là kẻ quật táng, trộm ngọc mà nói lóng thành “biệt bảo”.

Nghe nói bí thuật “biệt bảo” khởi nguồn từ khu vực Giang Tây, muốn học món bản lĩnh này tất phải luyện tập từ nhỏ, người ta mang đứa trẻ vừa mới sinh nhốt vào mật thất kín mít không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đợi đến ngày thứ 100 mới ẵm ra ngoài, từ đó nhãn lực của đứa bé trở nên khác biệt với mọi người, có thể phân biệt được mọi báu vật trên đời, họ gọi khả năng này là “Khai địa nhãn”, những loại truyền thuyết kiểu này là thật hay giả, người ngoài khó lòng mà biết.

Tư Mã Khôi thấy cách ăn vận và cử chỉ của Triệu Lão Biệt vô cùng kỳ quái, rõ ràng thần bí khó lường, không biết có trùng hợp với mấy truyền thuyết đó không, xem ra lão ta chắc hẳn là bậc kỳ tài hiểu biết về dị thuật biệt bảo. Chỉ có điều trong căn lều mà mình đang sống chỉ dặt đũa gẫy, bát sứt, bàn ghế chẳng cái nào còn nguyên lành, hoàn toàn không giống với dáng vẻ ngôi nhà để người ta sinh sống, quả đúng như lời La Đại Hải vừa nói, trong căn lều ngay cả chiếc bát uống trà tử tế cũng chẳng tìm thấy, thì làm gì có bảo vật gì đáng giá? Không biết thứ mà Triệu Lão Biệt muốn lấy rốt cục là thứ gì? Hơn nữa, lão ta lại vừa chân ướt chân ráo đến đây, làm sao phát hiện ra nơi này có giấu bảo vật dị thường?

Trong khi Tư Mã Khôi còn đang suy đoán mông lung thì Triệu Lão Biệt sớm đã thò đầu vào trong lều dò xét, ánh mắt nhìn chằm chằm vào một chiếc cọc gỗ lớn, đó chính là chiếc án dài cổ xưa, dùng để giết mổ gia súc, đã bị mục nát nhiều phần, ngày thường vẫn dùng để thái thịt, băm rau, nên mặt án trông nhớt nhát bẩn thỉu, bốc mùi tanh hôi, không hề bắt mắt. Ai ngờ thứ mà Triệu Lão Biệt nhìn trúng ý lại là vật này, ánh mắt tham lam của lão đậu mãi trên chiếc án, không chịu rời sang chỗ khác. 

Hồi 2: Biệt bảo

Tư Mã Khôi thấy cách hành xử của Triệu Lão Biệt vô cùng ngoài dự liệu, chẳng ngờ lão chịu mang thuốc lá hảo hạng và đồ hộp đáng giá để đổi lấy chiếc án mổ thịt mục nát, càng nghĩ càng thấy sự việc này rất kỳ lạ.

Trong đống đổ nát ở Hắc ốc chỗ nào cũng có vật vô chủ, ai nhặt được thì của người ấy, cái án này vốn là một trụ gỗ mục nát rỗng ruột, to bằng một vòng ôm, xung quanh buộc ba vòng dây thừng gai, quanh năm bị máu tiết dầu mỡ bám nhằng nhợ, màu sắc đã bị phai nhạt biến đổi từ lâu, sau khi nhặt về chủ yếu được dùng làm thớt thái rau, chẳng ai biết rõ lai lịch cụ thể của nó, xem ra ngoài việc thấy nó có niên đại sử dụng từ khá lâu thì chẳng thấy có điểm gì khác thường. Không hiểu sao vô duyên vô cớ lại có người quan tâm đến nó?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Cái án chặt thịt chắc chắn là một bảo vật, nếu bây giờ mình động lòng vì miếng lợi nhỏ mà dễ dàng trao đổi với Triệu Lão Biệt, bất kể lão già đó giơ ra vật gì thì mình cũng vẫn bị thiệt, trước tiên phải kiếm cớ để lão ấy thấy cái án này đúng là đồ quý cái đã”. Thế là cậu thuận miệng khua môi múa mép một hồi: “Triệu lão sư phụ này, lão không biết đấy thôi, thực ra gia đình mấy đời nhà tôi đều mở cửa hàng bán thịt dê ở Bắc Kinh để làm nghề mưu sinh, chiếc án mục này tuy rằng nhìn có vẻ bình thường nhưng lại là vật gia truyền mấy đời nhà tôi để lại, tôi không chỉ dùng nó quen tay mà còn “nhìn cương nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người”, mỗi khi nhìn thấy nó là tôi như nhìn thấy liệt tổ liệt tông đã quy tiên nhà mình. Cái án này cùng gia đình tôi trải qua những năm tháng dưới thời Quang Tự, rồi tới Nghĩa Hòa Đoàn bao vây tấn công khu đại sứ quán Đông Giao Dân Cảng khiến liên quân tám nước tràn vào thành Bắc Kinh. Đám quỷ tây này dặt là bọn man di từ nước ngoài dẫn xác đến, lũ bợm đó chẳng có nửa tên tốt đẹp, đến Trung Quốc chúng ta ngang nhiên đốt nhà giết người cướp của, chẳng tội ác nào chúng không dám làm, đánh đập người mù, mắng nhiếc kẻ điếc, cuối cùng chúng nó cũng ào vào nhà tôi, mấy tên lính tây ngắm thấy con mèo tam thể nhà tôi nuôi rất đẹp liền định cướp về, mang dâng tặng cho nữ hoàng điện hạ nhà chúng nó, ông tổ nhà tôi liền nổi giận lôi đình mắng chúng: ngày xưa lão phật gia Từ Hy thái hậu rất ưng ý con mèo này, định mang Thập Tam cách cách ra đổi lấy nó mà ông đây còn tiếc không nỡ đem đổi, tiên sư chúng mày chứ, chúng mày là thứ tép riu gì mà dám cướp trắng của ông hả?! Trong cơn thịnh nộ, cụ lao thẳng ra phố tham gia phong trào phục Thanh diệt ngoại xâm, trước lúc đi còn ôm theo chiếc án này, gặp tên giặc tây nào là lấy án đập chết tên ấy, không biết dưới gầm án đã chôn bao nhiêu mạng tướng tây lính tây. Sau đó chiếc án truyền đến đời ông nội tôi, nó lại cùng ông lưu lạc đến Giang Tây tham gia hồng quân công nông, cứ thế được mấy đời nhà tôi giữ gìn cho đến tận bây giờ. Có thể trong mắt người khác, khúc gỗ này chẳng đáng cái đinh gỉ nhưng đối với tôi nó chính là vật chứng chứng kiến cả gia đình tôi đã trải qua cách mạng cận đại Trung Quốc, là kỷ niệm không thể xa lìa, ngày nào tôi cũng phải bày nó ra trước mặt sáng thỉnh an, tối hồi báo, nếu ngày nào không nhìn thấy nó tinh thần tự nhiên trở nên hoảng loạn, đến nỗi ngay cả hướng bắc ở đâu cũng không biết, một ngày không gặp cách tựa ba thu, nếu lỡ ba ngày không gặp có khi lo lắng đến tẩu hỏa nhập ma vẫn là nhẹ. Lời tôi nói đây câu nào cũng là thật, nếu lão không tin thì cứ tìm một miếng đậu phụ về đây, tôi sẽ đập đầu vào đấy cho lão xem”. 

Hải ngọng đứng bên cạnh nghe, không nhịn nổi cười thầm trong bụng, cậu ta cũng nhân cơ hội để nâng giá cái án, bảo chí ít Triệu Lão Biệt phải thò ra thêm ba tút thuốc lá nữa thì mới đồng ý đổi.

Triệu Lão Biệt nghe hai người bọn họ kẻ tung người hứng mà trợn mắt á khẩu, lão còn cho rằng có khi mình nhìn lầm, liền quay lại đăm đăm ngắm nghía cái án một hồi lâu, sau đó lắc đầu tỏ ý không tin, đồng thời mở toang cái túi vải đay ra cho hai người nhìn, bên trong chẳng còn thứ gì đáng giá, đoạn lão nói: “Mỗ không thể trả giá thêm cho hai cậu được”.

Tư Mã Khôi thấy việc đã đến nước này thì cứ nói thẳng toẹt cho xong: “Bọn tôi và lão kẻ cắp gặp bà già, cóc cần sử dụng mấy chiêu thụt thò như bơi chó. Chẳng thà đừng ai giở trò với ai nữa. Mấy bài của lão bọn tôi biết tỏng từ khuya, trước đây cũng gặp nhiều rồi, nói chuyện cũng không cần vòng vo tam quốc, giấu giấu diếm diếm làm gì. Bọn tôi đã sớm nhìn ra Triệu Lão Biệt lão đích thị là tên biệt bảo, nếu không chẳng người nào đang sống nhe nhởn lại quàng trên cổ chuỗi bánh đả cẩu như lão.

Cái thứ “bánh đả cẩu” này thực ra là một loại bánh thuốc, dùng để xua đuổi chó mèo. Thời xưa, ở vùng nông thôn mỗi khi trong nhà có người chết, lúc đặt thi thể vào quan tài thường đeo lên cổ xác chết chuỗi vòng này để đề phòng bị lũ chó đói gặm nát thủ cấp hoặc bị mèo hoang nhảy qua khiến người chết nhập tràng sống dậy. Những kẻ biệt bảo thường xuất hiện ở những nơi rừng già núi thẳm hoặc mộ hoang, đất dữ, để tránh rắn độc, dã thú, họ cũng có thói quen đeo “bánh đả cẩu”.

Triệu Lão Biệt cũng nhận thấy cậu Tư Mã Khôi này tuy chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi đầu nhưng vô cùng tinh quái, hiểu biết rất nhiều chuyện và không dễ bị bắt nạt nhưng tuyệt đối không thể tưởng tượng tên tiểu tử ấy lại có thể nhìn xuyên thấu hành tung của lão, trong lòng không tránh khỏi thất kinh một phen, liền bội phần khâm phục nói: “Vị đầu lĩnh này đúng là nhãn lực hơn người, không ngờ thời thế này vẫn còn có người biết đến nghề biệt bảo của bọn mỗ”.

Việc đến nước này, Triệu Lão Biệt chỉ còn cách thẳng thắn thừa nhận mình quả thực là một tay biệt bảo, hôm nay gặp vận may lớn, khi vô tình đi ngang qua khu Hắc ốc hoang phế liền phát hiện ra chiếc án chặt thịt, đúng là “Đi mòn gót giày tìm chẳng thấy, đứng lại ngồi nhìn ở ngay đây”. Cuối cùng lão ta nói với bọn Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Lão mỗ đây chẳng nói sai với người ngay thẳng, có gì nói nấy, cái án gỗ cổ dùng để chặt thịt của hai cậu đích thị là một vật vô cùng quý hiếm, nhưng chỉ sợ trên đời này ngoại trừ Triệu Lão Biệt mỗ ra thì chẳng còn người thứ hai hiểu được giá trị của nó. Hôm nay trời đã muộn, chúng ta tạm thời cáo biệt ở đây, hai người các cậu cứ bàn bạc kỹ xem. Lời đã nói thẳng như vậy thì mỗ cũng chẳng để hai cậu phải chịu thiệt thòi quá đáng. Trong thành mỗ còn giấu một vật rất tốt, ngày mai sẽ mang đến đây. Nếu lúc đó các cậu vẫn khăng khăng không chịu đổi hàng, mỗ sẽ không nói đến câu thứ hai, cất bước đi luôn, đã đi là không quay trở lại, có câu nói xưa mỗ thấy rất hay “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, đến lúc đó hai cậu đừng có hối hận”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải gật đầu đồng ý, hai người nhìn Triệu Lão Biệt đi khỏi “Hắc ốc” liền lập tức trở lại lều, khêu to ngọn đèn dầu cho sáng, khênh chiếc án nhớt nhát dính đầy dầu mỡ đặt lên mặt đất, lật đi lật lại hồi lâu, nhưng cả hai xem tới xem lui mãi vẫn không phát hiện ra Tý Sửu Dần Mão gì ẩn chứa bên trong chiếc án, đầy bụng nghi hoặc. Đêm hôm đó, cả hai suy đi tính lại, nghĩ trước nghĩ sau, chập chờn mất ngủ suốt đêm.

Sáng sớm hôm sau, Triệu Lão Biệt quả nhiên lại tìm đến, lần này trong túi vải đay của lão có thêm chiếc áo lông da sáng bóng, mềm mại, lớp lông da màu đen pha lẫn ánh đỏ, có vài phần khá giống với da báo nhưng rất nhẹ và mỏng. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải đừng nói da báo, ngay cả lông chồn Đại Liên cũng chưa bao giờ nhìn thấy nửa cọng, bèn giả vờ am hiểu hỏi Triệu Lão Biệt: “Đây là da con gì vậy? trông lớp da bóng láng, sáng sủa cũng không tệ, là da xịn hả?”

Triệu Lão Biệt nghe xong càng thêm đắc ý, lão liền khoe khoang: “Lai lịch chiếc áo lông da này của mỗ đúng là bất phàm”. Sau đó liền kể lại lai lịch của nó cho hai người nghe. Lão bảo trước giải phóng thường đến núi Trường Bạch để đào nhân sâm, đêm đến tá túc ở một lâm trường gỗ bỏ hoang. Trong lâm trường có một con mèo già, lông vằn vện như lông hổ, to béo mập mạp, lại vô cùng linh hoạt nhanh nhẹn, lên cây bắt được chim, xuống đất vồ được chuột.

Triệu Lão Biệt ở trong lâm trường lâu dần cũng trở nên quen thuộc với nó, thường cho con mèo ăn thức ăn của mình. Về sau mỗi buổi sáng trước khi vào núi, lão đều nhìn thấy con mèo nằm rạp trên cành cây, thở hổn hển, trông có vẻ sức cùng lực kiệt, ngay cả đuôi cũng chẳng buồn động đậy, suốt nhiều ngày trời nó đều trong tình trạng như vậy.

Triệu Lão Biệt thầm thấy quái lạ, với con mắt cú vọ của kẻ biệt bảo, lão vừa nhìn là biết ngay con mèo này chắc chắn đã gặp kỳ ngộ gì đây, liền nảy ra ý định phải tìm hiểu ngọn ngành cho rõ. Thế là lão âm thầm quan sát theo dõi, phát hiện chỉ cần màn đêm vừa buông xuống, con mèo già liền chạy vào miếu Sơn Thần, nó luồn vào khe cửa rồi náu mình trong bóng tối nơi góc tường, mai phục ở đó án binh bất động.

Đợi đến khi đêm đã trở về khuya, không gian tĩnh lặng, trên chiếc kèo gỗ của miếu Sơn Thần bất ngờ phát ra một tiếng động nhỏ, trông lên chỉ thấy một con chuột khổng lồ to như con chó, hai mắt sáng quắc như đèn pha, đang bò từ trên kèo nhà xuống trước mặt các vị thần, đến nơi nó dùng đuôi ngoáy vào trong chiếc đèn dầu, ăn trộm dầu đèn mà người ta dâng cúng cho Sơn Thần, đồng thời ôm ngọn nến mỡ bò gặm nham nhở, phát ra âm thanh nghe “lọt cọt lọt cọt”.

Lúc này con mèo già đột ngột từ trên góc tường nhảy vọt ra, quyết đấu sống mái với con chuột. Con chuột tuy to người nhưng không hề đù đờ, chẳng những vậy còn vô cùng hung tàn hiểm ác, dường như không hề sợ sệt kẻ địch. Con mèo già di chuyển nhanh thoăn thoắt mà vẫn không làm gì được nó, hai con quái thú vật đi vật lại huỳnh huỵch, đánh nhau không biết mệt mỏi, đúng là chúng quyết chiến sống chết một phen, con nào cũng thần thông, khó phân định cao thấp.

Nhờ vào ánh trăng, Triệu Lão Biệt có thể nhìn rõ sự việc và hiểu được chân tướng. Thì ra đêm nào con mèo cũng phải đến đây quyết đấu với con chuột cho nên khi trời sáng nó mới mệt đến nỗi không lết nổi thân. Lão nhìn trộm trận ác chiến giữa hai kẻ địch mải mê đến độ quên hết mọi thứ xung quanh, toàn thân căng thẳng theo nhịp độ của trận đấu, vô tình lão chạm vào một cánh cửa bị hỏng khiến nó đổ rầm xuống đất.

Con chuột khổng lồ đang toàn tâm toàn ý tập trung vào trận ác đấu với con mèo già, đột nhiên nghe thấy âm thanh lạ từ đằng sau vọng đến liền giật nảy người, chỉ cần mấy giây mất tập trung cũng khiến nó lộ ra yếu điểm và bị con mèo già quật ngã, cắn đứt cổ họng, phút chốc máu trào ra như suối, nhuộm đỏ cả gạch ngói vương trên mặt đất miếu thần, giãy dụa một hồi cuối cùng cũng trợn ngược mắt, thở hắt ra mà chết. Đây đúng là “Tranh hùng quyết sống mái, phút cuối phân thắng bại”. 

Triệu Lão Biệt là tay sành sỏi trong nghề, vừa nhìn là biết con chuột này đã nhiều năm ăn dầu đèn, gặm sáp nến, chắc chắn đã thành tinh, đạo hành cũng không ít nên liền lấy dao lột da nó, mang về đem đi gia công làm thành một chiếc áo khoác da thú. Vào những ngày tháng chạp băng giá, Quan Ngoại rỏ nước thành băng nhưng chỉ cần khoác chiếc áo da chuột trên người, cho dù bên trong để mình trần thì trán vẫn đổ mồ hôi như thường. Chỉ có điều lão ta chưa bao giờ tiết lộ cho người ngoài biết đây là chiếc áo da chuột trăm năm mà chỉ gọi nó là “Xích long tuấn mã”.

Triệu Lão Biệt lại bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải, đừng thấy bây giờ là mùa hè nóng bức, mà cho rằng chiếc áo này vô dụng, đợi khi mùa thu đến, lá trên cây ngả sang màu vàng, hàng đàn chim ưng kêu “quang quác” bay về phương nam tránh rét, đến lúc ấy nếu các cậu vẫn sống trong căn lều rách khu Hắc ốc này chắc khó lòng chống chọi nổi với cái lạnh căm căm và không khí ẩm ướt, chẳng chóng thì chày cũng nhuốm bệnh vào thân. Lúc đó hai cậu không thể rời xa chiếc áo da “Xích long tuấn mã” của mỗ đây một bước đâu.

Tư Mã Khôi trong lòng tự biết chiếc áo khoác da này chắc chắn là cái giá cuối cùng Triệu Lão Biệt đồng ý trả, dù sao dựa vào nhãn lực và kiến thức của mình cũng không thể nhìn ra cái án chặt thịt mục nát đó rốt cục là bảo vật phương nào, chi bằng cứ đổi quách đi cho xong, bèn chấp nhận điều kiện trao đổi. Nhưng cậu vẫn giao kèo với Triệu Lão Biệt: “Vụ làm ăn này giữa bọn tôi và lão chắc không có vấn đề gì, nhưng xin lão sư phụ không ngại chỉ dạy cho, đừng để chúng tôi chịu thiệt một cách mù mờ, lão hãy nói cho bọn tôi biết rõ toàn bộ ngọn nguồn lai lịch của chiếc án chặt thịt, đồng thời nói luôn rốt cục lão làm cách nào phát hiện ra nó có điểm khác thường và mang nó đi để dùng vào việc gì? Nếu có chỗ nào giải thích không rõ ràng, Tư Mã Khôi tôi đây thả chẻ nó ra làm củi đun cũng tuyệt đối không chịu để cho lão hưởng lợi dễ dàng như thế đâu”.

Triệu Lão Biệt vô cùng khó xử, nhăn mặt nói: “Tư Mã đầu lĩnh, cái lý của cậu có phần không đúng cho lắm, người xưa có câu “Khăn thêu uyên ương, mặc người thưởng ngoạn. Kỹ nghệ kim chỉ, một mình mình hay”, hai bên chúng ta tiến hành giao dịch là lấy vật đổi vật, lại không để cậu thiệt thòi chút nào, sao nhất định phải ép mỗ nói ra gốc gác của nó?”

Tuy rằng Tư Mã Khôi và La Đại Hải phiêu bạt giang hồ đã nhiều năm nhưng rốt cục vẫn không thoát khỏi tâm lý hiếu kỳ của trẻ con, mọi chuyện đều phải biết rõ chân tướng mới thỏa mãn, nếu trắng đen mập mờ, cả đêm ngủ cũng không ngon giấc, hai người kẻ đánh người xoa, nằng nặc đòi bằng được Triệu Lão Biệt giải thích cặn kẽ, lại còn thề thốt sau này tuyệt đối không hối hận mà thay đổi quyết định, cũng không trở thành kẻ phản đồ tiết lộ bí mật cho người khác biết chuyện.

Triệu Lão Biệt gặp phải hai hòn đá tảng cứng đầu đành tự nhận mình đen đủi, buộc phải tiết lộ vài phần sự thực: thế gian đều nói bọn man di biệt bảo mắt sắc như dao, sự thực quả đúng như vậy. Trưa hôm qua khi đi ngang khu Hắc ốc hoang phế, Triệu Lão Biệt đảo mắt một cái liền phát hiện căn lều có điểm khác thường.

Nhãn lực nhận biết bảo vật là một môn công phu, hơn nữa còn là kinh nghiệm được tích lũy nhiều năm, nói sao được nhỉ? Kỳ thực phải nói trắng ra thế này, khả năng ấy không hề tà ma như dân gian vẫn truyền miệng, cũng không phải cái gì xa xôi giống như kiểu nhìn thấy ánh hào quang lấp lánh tỏa ra từ căn lều gỗ, chỉ đơn giản là người làm nghề biệt bảo rất giỏi quan sát, họ có thể phát hiện ra những chi tiết nhỏ bé mà người thường dễ dàng bỏ sót.

Triệu Lão Biệt liền đi đến căn lều thì phát hiện gần khu vực đó có rất nhiều hiện tượng khác thường. Theo lẽ tự nhiên, thời tiết oi bức thế này, khu vực Hắc ốc rác rưởi chồng chất như núi, La Đại Hải lại vừa mới cắt chiếc thủ lợn vứt quay lơ trên mặt án, khiến khắp nơi đều nhuốm mùi máu tanh, xung quanh lẽ ra phải có rất nhiều ruồi nhặng bay lượn vo ve không ngớt mới đúng. Thế nhưng xung quanh căn lều phía đằng sau Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại tịnh không thấy bóng dáng nửa con ruồi, đó chẳng phải chuyện rất lạ hay sao?

Triệu Lão Biệt đoán chắc gần đây có giấu bảo vật, liền lập tức dừng bước, giả bộ xin bát nước chè, nhân cơ hội này ngồi luôn xuống trước cửa lều, nhìn quanh bốn phía cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc án mục nát dùng để chặt thịt. Chiếc án chặt thịt là phần bên trên của một thân trụ gỗ, bốn phía buộc dây thừng gai, trên mặt án còn đặt một chiếc đầu lợn mắt trợn trừng không chịu nhắm, máu tươi nhỏ ròng ròng xuống, nhưng lạ một điều là không nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ngoài mà từ từ thấm ngược vào trong thân gỗ.

Triệu Lão Biệt liếc mắt một cái liền đoán định ra bên trong chiếc án gỗ nhuốm đầy dầu mỡ này hẳn phải có một kỳ vật. Khúc gỗ để làm chiếc án chắc chắn được lấy từ một thân cây cổ thụ. Trước khi bị người ta đốn chặt, trong thân nó có lỗ hổng do sâu đục, vừa vặn để một con rết cỡ nhỏ chui lọt. Con rết ở trong thân cây lâu ngày, cơ thể dần phình to, khó lòng chui ra ngoài thoát thân, đành chịu bị nhốt ở bên trong, gỗ mang tính âm, lại tiết ra dịch thông qua thớ gỗ, nuôi con rết nhiều năm không chết.

Sau này, cây cổ thụ bị đốn xuống làm nguyên liệu, khúc gỗ được bào thành chiếc án cắt tiết chặt thịt gia súc lại chính là khúc gỗ có con rết trốn bên trong. Con rết liên tục được hút tiết lợn, năm dài tháng rộng lâu dần cơ thể nó tiết ra một viên “Ngọc Định Phong”. Nghe nói vì viên ngọc có thể chữa trị bệnh thống phong nên người ta mới đặt cho nó tên ấy, chứ không phải đó là viên ngọc mà Tôn Ngộ Không năm xưa dùng để mượn quạt Ba Tiêu của mụ La Sát trên đường đi lấy tây kinh. Về sau chiếc án gỗ chặt thịt bị chủ hàng vứt bỏ, không biết lưu lạc thế nào lại đến được khu Hắc ốc hoang phế, con rết già nằm bên trong đã bị chết đói từ lâu, nhưng viên ngọc thì vẫn còn. Viên “Ngọc Định Phong” này là loại linh đơn được kết tụ bởi rất nhiều âm tà huyết khí, nên lũ ruồi muỗi mới không dám bén mảng đến gần. Vật mà Triệu Lão Biệt muốn có, chính là viên ngọc quý này.

Nhất thời Tư Mã Khôi không thể tin nổi, làm gì có chuyện chuẩn xác đến thế? Cậu lập tức đi tìm cái rìu bổ củi, bổ toang cái án chặt thịt ra làm mấy mảnh, trong đó quả nhiên có một con rết lớn, toàn thân đỏ au au nằm cuộn tròn người, bị rìu chặt ra làm hai đoạn, tuy nó đã chết nhưng trông vẫn sinh động như đang sống, trong miệng con rết ngậm một viên ngọc trắng phơn phớt, tròn vành vạnh, không hề tỏa ánh sáng bóng, mà nhìn giống như một cái “mắt cá” màu đùng đục.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời mắt, đến lúc này mới coi như thực sự tâm phục khẩu phục, có trách thì chỉ trách bản thân mắt mờ, ở bên cạnh bảo vật bao lâu nhưng không hề nhìn thấy, sau này muốn hối hận cũng không kịp, tối nay cứ việc nằm đợi mà nuôi muỗi.

Triệu Lão Biệt cười hì hì, trong lòng vô cùng đắc ý nhưng vẫn giả bộ khuyên giải hai người: “Có câu nói xưa thế nào nhỉ… “Số mệnh ba thước, khó cầu một trượng”. Hai vị đầu lĩnh tuổi trẻ xuất anh hùng, tuy rằng vô duyên với viên ngọc này nhưng ngày dài tháng rộng, hơn nữa còn đổi được chiếc áo da, thuốc thơm và nhiều đồ nhai sướng miệng nữa, thì cũng nên biết thỏa mãn. Hai bên chúng ta đều có được vật mà mình muốn có, chẳng ai thiệt thòi cả, núi không chuyển thì sông chuyển, sau này chắc chắn còn có cơ hội gặp mặt”. Nói đoạn lão nắm chặt viên “Ngọc Định Phong” trong tay, quay người định đi.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đang lúc hưng phấn, làm gì có chuyện buông tay bỏ qua dễ dàng như thế, hai người liền vội vàng ngăn Triệu Lão Biệt lại: “Lão vẫn chưa nói rõ hết mọi chuyện, sao nói đi là đi ngay được? Viên ngọc trông giống cái mắt cá này rốt cục có công dụng gì? Lão mang nó đi định dùng vào việc gì?”

Triệu Lão Biệt có vẻ hơi ngần ngừ một chút, lão vốn không định nói thêm nữa nhưng thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải gan to ngang trời, ngông cuồng chẳng biết sợ thần quỷ gì cả, bây giờ một mình lão vào núi biệt bảo lại đang cần trợ thủ, nếu được hai thiếu niên trẻ tuổi ở bên cạnh giúp sức thì chẳng phải công việc sẽ thêm phần suôn sẻ hơn sao? Nghĩ đến đây, Triệu Lão Biệt liền nheo mắt nhìn trời rồi thấp giọng bảo: “Xem cái thị trấn cổ trong Hắc ốc này địa hình không phải hạng xoàng, vốn là mảnh đất vàng, phong thủy thuận chiều “Phượng hoàng sải cánh, tung ngọc rải vàng”, nhưng bao năm nay không biết vì lý do gì mà đất đai trở nên cằn cỗi, người vật cùng kiệt?” 

Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy không thể lý giải nổi, liền hỏi: “Mấy cái thuật phong thủy địa lý cổ xưa, anh em bọn tôi cóc hiểu lắm nhưng nghe nói Hắc ốc từ trước đến nay đều nghèo xơ xác thế này, cỏ dại mọc um tùm, đất đai nứt nẻ, trồng cây gì chết cây đấy, thì làm sao có thể gọi là mảnh đất vàng được?”

Triệu Lão Biệt nói: “Lúc trước mỗ đã nói gì nhỉ, có trách thì chính là trách điều này, nơi đây tuy rằng địa lý vốn rất tốt nhưng lại nằm ở giữa hai dải núi, thiếu mất nguồn linh khí mà những mảnh đất vàng phong thủy tốt vẫn có, vì thế mỗ đây dám phỏng đoán rằng bên trong ngọn núi hoang vu phía tận cùng mạch đất, nơi con người chưa hề đặt chân tới chắc chắn có chôn giấu một cổ vật ngàn năm mang âm khí rất nặng nề, chính vật này đã hút cạn tinh hoa của trời đất, ám hại thổ nhưỡng sông ngòi nơi này. Nhưng vẫn có câu “Phải nhìn tận mắt mới hay thật giả”, rốt cục trong lòng núi cất giấu vật gì, bây giờ mỗ cũng không dám đoán bừa”. 

Triệu Lão Biệt tự nhận mình phải dùng trăm phương ngàn kế mới lấy được viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc án chặt thịt mục nát. Lão muốn mượn vật này để đi đào bảo vật chôn giấu dưới lòng núi. Trước khi đi, lão ta còn nhắn nhủ: “Này hai vị đầu lĩnh! Nếu hai cậu có gan thì giờ tý đêm nay đến chân cầu La Sư phía sau khu Hắc ốc đợi mỗ, tới lúc đó mỗ sẽ cho hai cậu mở rộng tầm mắt. Có điều hai cậu phải tuyệt đối nhớ kỹ, việc này không được tiết lộ với bất kỳ ai”

Hồi 3: Cầu La Sư

Triệu Lão Biệt dặn dò xong xuôi, hẹn mười hai giờ đúng đêm nay hai người đợi lão ở chân cầu La Sư cùng đi biệt bảo, sau đó liền nhét viên “Ngọc Định Phong” vào trong người, vội vàng bỏ đi mất dạng.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải từ lúc đó đứng ngồi không yên, hai người vô cùng ngứa ngáy chân tay, cảm giác mách bảo chuyện tối nay chắc hẳn vừa mạo hiểm vừa hấp dẫn, nói không chừng còn được chia không ít đồ tốt, thế là liền khởi động chuẩn bị chu đáo mọi việc.

Trước tiên hai người phân phát thuốc lá và đồ hộp cho mọi người trong nhóm, sau đó tìm một ngọn đèn dầu còn dùng được, lại lo lỡ đâu gặp phải bất trắc bên ngoài, mỗi người bèn thủ trong mình một con dao díp ba khía. Loại dao díp này có ba mặt lưỡi, rãnh sâu khoét trên khe, nếu xuyên vào gan tụy người nào thì vết thương không thể khép miệng, cho dù được đưa đến bệnh viện kịp thời vẫn không thể tránh khỏi cái chết do mất quá nhiều máu. Trong khu vực Hắc ốc không thiếu loại hung khí kiểu này. Hai người thu xếp gọn gàng đâu vào đấy, chỉ chờ màn đêm buông xuống là lập tức đến chân cầu La Sư tìm gặp Triệu Lão Biệt.

Đợi mãi mặt trời mới xuống núi, hai người liền đứng dậy chuẩn bị xuất phát. Ai ngờ đúng lúc này, một cô gái tên là Hạ Cần lại đến tìm gặp. Trước khi nghỉ học ở trường, Hạ Cần từng là bạn cùng lớp với Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng cô nàng không phải hạng xinh gái nhưng thân hình cân đối, khuôn mặt dễ nhìn, thành tích học tập cũng khá, quan trọng hơn là điều kiện chính trị của gia đình rất tốt, sớm muộn cô nàng cũng tham gia quân đội, con đường tương lai có thể nói vô cùng sáng lạn. Từ trước đến nay Hạ Cần rất ít khi kiếm chuyện thị phi với đám người La Đại Hải, thế mà hôm nay đột nhiên đến đây tìm gặp khiến Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy vô cùng ngạc nhiên.

Hạ Cần không đội mũ, hàng tóc mái Hỉ Nhi lòa xòa trước trán, đằng sau kết thành hai bím dài và nhỏ, trên người mặc bộ quân phục loại đắt tiền, quần kaki màu xanh da trời, ngực cài huân chương của Mao chủ tịch. Cô nàng vội vàng từ thành phố chạy đến đây, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dường như có chuyện gì quan trọng lắm muốn thông báo cho hội Tư Mã Khôi biết nhưng nhìn thấy bộ dạng ngang ngược, vô lại, bất cần đời của hai người bọn họ, liền cảm thấy vô cùng thất vọng. Hạ Cần thở dài bất lực, lời nói vốn dĩ sắp vọt ra khỏi miệng lập tức bị nuốt ngược vào trong, thay vào đó không ngừng trách mắng bọn họ một thôi một hồi, nói họ không nên cam tâm buông thả bản thân như vậy mà phải tìm cơ hội học tập nhiều thêm một ít, nếu không sẽ lãng phí mất tuổi thanh xuân quý giá.

Điều Tư Mã Khôi ghét nhất là phải nghe người khác lên mặt dạy đời, trong lòng thầm nghĩ: “Cái con nha đầu này sao lắm chuyện thế không biết, bây giờ là thời đại nào rồi mà còn học tập?”, tuy nghĩ vậy nhưng miệng vẫn điềm nhiên lấp liếm: “Cậu nghĩ bọn tôi muốn thế này à? Vì sao người ta phải học tập hử? Đương nhiên là vì muốn thể hiện giá trị cái tôi của bản thân. Nhưng tôi lại nghe có một nhà hiền triết nói thế này, người ta sinh ra trên đời nhất thiết phải lần lượt đi theo các tiêu chí: trước tiên là sinh tồn, tiếp đến là cảm giác an toàn, thứ ba là tình yêu, gia đình, thứ tư là sự tôn trọng, xếp hàng thứ năm mới là thể hiện cái tôi. Bây giờ bọn tôi ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống có hôm nay mà không có ngày mai, ngay cả tiêu chí đầu tiên cũng chẳng đạt được thì làm gì còn tâm trí mà nghĩ đến việc học hành nữa”.

Hạ Cần tự biết miệng lưỡi mình không thể thắng nổi Tư Mã Khôi, chỉ có quỷ mới biết nhà hiền triết nào đã nói với cậu ta mấy triết lý đó hay chính cậu ta thuận miệng nói nhăng nói cuội, cô nàng đành nói: “Bạn Khôi ạ! Chúng mình dù sao cũng là bạn cùng lớp với nhau, tớ nói thế chẳng qua là muốn tốt cho các cậu mà thôi!”. Cô nàng thấy điệu bộ Tư Mã Khôi và La Đại Hải có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện ở đây. Hai người bọn họ tay cầm chiếc đèn dầu, thắt lưng dắt theo hung khí, Hạ Cần lại tưởng hai tên này chuẩn bị ra ngoài đánh lộn với người ta liền vội vàng hỏi họ định đi đâu?

Đầu óc La Đại Hải không thể nhanh nhạy như Tư Mã Khôi nên nghe hỏi liền thuận miệng trả lời ngay: “Bọn tôi đến cầu La Sư…”. Cậu ta nói được nửa câu, tự biết mình lỡ lời, lập tức lấy tay bịt mồm lại.

Hạ Cần từng nghe nói đến cầu La Sư ở vùng ngoại ô hẻo lánh, đó là chiếc cầu bằng đá cổ xưa đã bị bỏ hoang từ lâu, đi qua cầu là rừng sâu núi thẳm và khu nghĩa địa rộng lớn, ở đó tịnh không có bóng người qua lại, không hiểu hai người bọn họ đến đó làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cô nàng không khỏi sinh nghi, trong lòng chắc mẩm bọn họ đến đó chỉ để gây họa mà thôi.

Tư Mã Khôi vội vàng giải thích, bọn họ đến đó tuyệt đối không phải để đánh nhau mà là… mà là để bắt chim cút. Khu vực gần cầu La Sư cỏ hoang mọc rậm rạp, cao ngút ngang thắt lưng, trong bụi cỏ có rất nhiều tổ chim cút.

Cậu ta nói vậy cũng không hoàn toàn sai sự thật, vì người ngoài mới vào khu Hắc ốc muốn đứng chắc chân ở đây thì buộc phải đánh nhau với bọn lưu manh vô lại bản địa. Trừ phương pháp hai bên mang quân lính đánh nhau lộn tùng bậy ra, cách tốt nhất chính là “chọi chim cút”.

“Chọi chim cút” là một hình thức cá độ, bắt nguồn từ cuối thời Minh và được lưu hành rộng rãi trong dân gian cũng giống như các trò “chọi chim, đấu chó, chọi dế”. Lúc đầu, khi mới đến đây, vì Tư Mã Khôi tìm được một con chim cút mỏ sắt, lông vũ tím biếc, trong vòng ba ngày nó liên tiếp hạ gục mười lăm con chim cút khác của bang Hắc ốc nên cục diện mới được thay đổi và hội Tư Mã Khôi mới giành được chỗ dung thân.

Sau sự việc ấy, mỗi lần hai bên có tranh chấp gì đều lấy phương thức “chọi chim cút” để giải quyết, nhưng chim cút không nuôi bộ được lâu nên Tư Mã Khôi phải tìm trăm phương nghìn kế ra bãi cỏ hoang bắt chim. Có điều nửa đêm nửa hôm thế này thì không thể bắt nổi, giờ lấy lý do đó quả thực chỉ là miễn cưỡng viện cớ mà thôi.

Hạ Cần nghe giải thích bán tín bán nghi, khăng khăng đòi đi theo bằng được mới chịu tin. Tư Mã Khôi khuyên giải thế nào cũng không được, nhìn lên thấy sắc trời đã nhá nhem tối, bây giờ cũng không thể đuổi cô nàng về thành phố nên đành phải chấp nhận cho bám đuôi.

Đêm hôm đó, vòm trời chi chít sao nhưng lại không có trăng, không gian chẳng có lấy một sợi gió mát, oi bức ngột ngạt đến khó thở. Ba người xách theo ngọn đèn dầu lặng lẽ rời khỏi khu Hắc ốc, bước thấp bước cao đi rất lâu trong khu đất vắng vẻ, cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc cầu đá đã bị sập mất một nửa, bắc ngang qua lòng sông khô cạn. Đây chính là cầu La Sư. Đối diện với cầu La Sư là một vùng hoang vu, gò đồi nhấp nhô lượn sóng, trong đó là đồng cỏ mênh mông không biết đâu là bờ và khu nghĩa địa cổ rộng lớn có từ ngàn năm trước, mộ phần chôn cất lộn xộn chẳng có lớp lang gì cả, phần lớn là mộ vô chủ, người bị chôn dưới đất đều là người nghèo, thậm chí có những mộ mấy khẩu chôn cùng một hố. Nghe nói ở đây ma quỷ hoành hành rất dữ nên ít người dám qua lại sau khi trời tối.

Trời vào hạ, lòng sông phía dưới gầm cầu tích đầy bùn cát, cỏ dại mọc um tùm, phía sâu bên trong lùm cây ếch ộp không ngừng cất tiếng kêu ộp ộp, bọ gậy nhung nhúc từng bầy bơi lội trong mấy vũng nước tù, những con ngài to hơn cả chim thỉnh thoảng lại liệng vèo qua trước mặt khiến người ta sợ đến vã mồ hôi lạnh. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải sống ở nơi hoang vu này đã quen rồi nên vẫn điềm nhiên như chẳng nhìn thấy gì. Xem chừng thời gian vẫn còn sớm, mấy người bọn họ liền ngồi bừa xuống một bãi đất dưới chân cầu, tắt đèn dầu, vừa hút thuốc vừa chờ đợi.

Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này, sợ rằng không thể giấu diếm thêm được nữa liền thuật lại việc gặp Triệu Lão Biệt cho Hạ Cần nghe một hồi, rồi bắt cô nàng hứa khi về tuyệt đối không được hé môi kể với bất kỳ ai.

Hạ Cần thấp giọng đồng ý: “Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không bao giờ thành kẻ phản đồ đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc thị phi này, chẳng sớm thì muộn cũng gặp phải đại họa. Mấy hôm trước tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát đã quyết định bài trừ tận gốc bang Hắc ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt vào tù thì phải sớm trở về thành phố mới được”.

Tư Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông qua sự tiếp xúc trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là “Bang Hắc ốc” thực ra là những con người rất thuần phát, họ chỉ là những người đẩy xe bán khoai lang, bánh hành dạo, nếu không thì là những kẻ lưu lạc không nhà không cửa, tất cả bọn họ đều sống nhờ vào con đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả, nếu quả thực bắt họ phải rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung thân?

Trái lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không thể sống trong Hắc ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc, ông già cậu ta trước đây gốc rễ trong quân đội sâu tận đâu cơ chứ, muốn quan hệ có quan hệ, muốn đường đi có đường đi, nói không chừng đợi khi đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân đội ấy chứ, việc gì phải cố kiết ở lại đây mà chịu uất ức.

Hạ Cần nói: “Đông Bắc thì có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh chết người đi được, chẳng phải lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng hỏng mất đấy sao?”

La Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: “Cậu thì hiểu gì? Đồ con gái tóc dài, trí tuệ ngắn!”, đoạn quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này, bố cậu sau này cũng đến Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy như thế nào nhỉ?”

Tuy rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền đồ mờ mịt, số phận khó đoán nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy thành an, sớm đã chẳng buồn quan tâm đến điều này nữa, bây giờ nghe La Đại Hải gợi lại chuyện Quan Ngoại, liền nói: “Tớ chưa bao giờ đến vùng Đông Bắc, trước đây chỉ nghe ông già kể, ở đó vào mùa đông đúng là tuyết bay ngập trời, khắp nơi đóng băng đông cứng, vạn vật đều chìm vào giấc ngủ, có người còn bị đóng băng cả mũi. Nhưng trong rừng già núi sâu, những việc quái lạ nhiều vô cùng, chỉ cần ngồi trong lâm trường nghe người già kể chuyện cổ xưa, nghe suốt cả mùa đông cũng vẫn không hết”.

Để giết thời gian, Tư Mã Khôi liền kể cho La Đại Hải và Hạ Cần nghe câu chuyện ly kỳ mà ông bố Trương Hồ Lô từng gặp ở Quan Ngoại. Ông bảo ở ngôi miếu hoang trong núi sâu vùng Quan Ngoại một hôm bỗng nhiên có lão đạo sĩ đến, lão ta thu nạp một đồ đệ ở dưới núi làm đạo đồng, đồng thời xây một tòa điện để thờ sư tổ. Hai thầy trò cùng nhau ở trong đó tháng nọ tiếp tháng kia. Trước cửa điện um tùm rậm rạp, bất kể ở đây chỉ toàn cỏ dại cây hoang nhưng hôm nào cũng nhìn thấy hai đứa trẻ hồn nhiên nô đùa ở ngoài hang núi. Mỗi ngày lão đạo sĩ gặp chúng đều thuận tay đưa cho hai đứa bé khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh. Thời gian lâu dần, hai bên trở nên khá thân thiết. Nhưng hai đứa trẻ đó tuyệt đối không dám lại gần cửa điện một bước.

Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, tất cả đều bình an vô sự, mãi cho đến một ngày, lão đạo sĩ từ dưới núi mang về mấy quả đào tươi ngon, trên cuống còn dính mấy chiếc lá, quả nào quả nấy căng mọng mỡ màng. Lão mang chúng bày lên hương án trong điện thờ, dâng lên sư tổ. Lão đạo sĩ đi suốt một ngày đường, vừa mệt lại vừa buồn ngủ, thần thái lờ đờ, cứ thế ngồi trong điện, ôm hương án, dần dần thiếp đi.

Lúc này, một trong hai đứa trẻ đứng thập thò ở ngoài, rồi bò lên bậu cửa nhòm vào bên trong. Nó nhìn thấy mấy trái đào tươi mọng, không nhịn nổi liền khe khẽ lẻn vào trong điện ăn trộm. Ai ngờ lão đạo sĩ đột nhiên hèm lên một tiếng, nhảy bật người dậy, giơ tay tóm lấy đứa trẻ, chẳng nói chẳng rằng kẹp mạnh nó vào dưới nách, ba chân bốn cẳng xông thẳng vào lò đốt hương phía sau điện, cuống quýt chân tay lột sạch quần áo của đứa trẻ, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi vứt sống nó vào miệng một nồi nước to, lấy nắp gỗ nắp chặt lại, rồi dùng tảng đá to chèn lên trên.

Lão đạo sĩ lại gọi tiểu đạo sĩ đồ đệ đến, ra lệnh cho hắn chất thêm củi vào lò, tuyệt đối không được ngớt lửa, cũng không được mở nắp vung xem bên trong là thứ gì, sau đó lão ta chạy đi tắm rửa thay quần áo, tế bái thần linh.

Tiểu đạo sĩ trong lòng thầm nghĩ, người xuất gia nên lấy thiện làm gốc mới phải, sao lại ăn thịt người tàn nhẫn như thế? Chỉ e rằng sư phụ đang muốn tu luyện môn công phu tà đạo nào đó. Tai hắn nghe thấy đứa trẻ bên trong nồi khóc thét giẫy giụa, lòng cảm thấy không nhẫn tâm, định mở vung nồi phóng sinh cho nó. Nhưng lại sợ lỡ đâu sư phụ chẳng ăn được thịt người, sẽ lấy dao mổ thịt hắn, thế nên lại không dám kháng lệnh.

Lửa càng cháy càng đượm, tiếng kêu thét càng lúc càng nhỏ, dần dần trở nên u tịch vô thanh, tiểu đạo sĩ nghĩ rằng đứa trẻ chắc đã bị đun chết. Hắn lo nước trong nồi bị cạn nên nhè nhẹ hé mở nắp vung, đang định nghé mắt vào xem, đột nhiên nghe thấy “bùm” một tiếng, đứa bé từ bên trong nhanh thoăn thoắt chui ra ngoài trốn mất dạng.

Vừa lúc đó, lão đạo sĩ đang ôm hộp thuốc chạy tới, trông thấy sự tình, vội vàng giục đồ đệ chạy ra ngoài cửa tìm kiếm, kết quả tìm khắp nơi mà đứa bé vẫn biệt vô âm tín. Lão đạo sĩ đành gạt nước mắt than dài: “Đồ nhi ngu ngốc, mi làm hỏng việc lớn của ta rồi! Ta ở bao nhiêu năm trong chốn rừng sâu núi thẳm này chỉ vì quả nhân sâm ngàn năm đó thôi. Nếu nấu nó thành nước uống cùng với thuốc, có thể trường sinh bất lão. Xem ra mệnh của ta không đủ phúc phận, ước nguyện thành tiên cũng vô vọng rồi. May mà nước canh trong nồi và quần áo của đứa trẻ vẫn còn giữ lại, đem luyện thành linh đơn uống cũng được thượng thọ, miễn nhiễm bách bệnh”. Nói xong, hai thầy trò liền gấp gáp quay trở vào trong điện.

Nhưng khi bọn họ trở về tìm kiếm quần áo thì phát hiện không biết chúng đã biến mất từ lúc nào, chẳng những thế nước trong nồi cũng bị một con chó hoang trụi lông uống cạn, một giọt cũng không còn. Lão đạo sĩ thất vọng quá mức liền bị đổ bệnh, mấy tháng sau thì âu sầu lìa đời. Còn con chó hoang, nghe nói về sau lông đen mọc kín toàn thân, óng mượt tuyệt luân, từ đó nó bỏ vào rừng sâu không bao giờ quay trở lại nữa.

Trên núi chỉ còn sót lại vị tiểu đạo sĩ, một mình ngồi thủ điện sư tổ trống toang hoang, sau này hắn rơi vào tình cảnh cùng quẫn, không kế sinh nhai, đành buộc phải gẫy cành thành cướp, theo chân ông Trương Hồ Lô làm thổ phỉ. Câu chuyện này do chính miệng hắn kể lại cho ông Trương Hồ Lô nghe.

La Đại Hải và Hạ Cần nghe Tư Mã Khôi kể với giọng rất quả quyết, như thể thực tế đúng là đã từng xảy ra việc ấy, trong lòng cảm thấy rất mơ hồ, không thể phân biệt nổi câu chuyện này là sự thực hay do Tư Mã Khôi bịa láo.

Tư Mã Khôi giải thích: “Đã là truyền thuyết thì đừng thắc mắc nó thật hay giả, nhưng các cậu có biết vì sao tôi kể chuyện này ra không? Là vì tôi cứ cảm thấy cái lão già Triệu Lão Biệt đi lùng bảo vật kia hao hao giống với tên đạo sĩ đi lùng bắt nhân sâm thành tinh”

La Đại Hải cũng gật đầu đồng ý: “Mẹ kiếp! mấy lũ bợm đó chẳng đứa nào ra gì! Cậu xem bây giờ là mấy giờ rồi mà lão già chết tiệt ấy còn chưa đến? Tớ thấy, chắc quá nửa là bọn mình bị lão cho leo cây rồi”.

Tư Mã Khôi gật gật đầu, lớn giọng sang sảng: “Là con người, ai chẳng có tính xã hội, mà xã hội lại là cái quần thể tạp nham đầy tính mâu thuẫn. Mấy năm kinh nghiệm mách bảo cho chúng ta rằng, bất luận thế nào cũng đều phải tin câu này – trên thế giới, loại khốn nạn nào cũng có”. Cậu nói xong liền nhổm người đứng dậy, định bụng nhìn quanh xem Triệu Lão Biệt đã đến chưa, không ngờ vừa ngẩng đầu trông ra phía xa thì giật nảy người. Cậu dường như không tin vào cảnh tượng mình đang nhìn thấy, vội vàng đưa tay dụi mắt rồi nhìn lại.

Lúc bấy giờ, mây đen u ám, che phủ mọi vì sao vốn chi chít trên nền trời, bóng tối bao trùm bủa vây khắp không gian. Chỉ duy phía đối diện với cầu La Sư, nơi tận cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là lung linh ánh đèn. Không thể ngờ ở đó lại có một thành trì trải rộng hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người, quy mô quả thực không nhỏ. Có điều do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và cỏ hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó chỉ thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành hiện rõ ma khí vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy sợ hãi.

La Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó, ba người đều cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ nghe nói trong khu nghĩa địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi đây tuy rất hiếm dấu tích của con người nhưng ban ngày thỉnh thoảng vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều chưa ai từng nhìn thấy người sống trong khu nghĩa địa, chẳng hiểu sao tự nhiên hôm nay lại nổi lên một tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm dị thường, lẽ nào đó là ma thành dưới âm phủ?

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma mãnh, hai người mau chóng định thần, thắp sáng ngọn đèn dầu, rút con dao díp ba khía ra, cầm lăm lăm trong tay, hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ tỏ như ma chơi rồi tiến từng bước đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần tuy rằng không muốn đi nhưng cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân cầu, nên đành níu áo Tư Mã Khôi, theo sát phía sau.

Ba người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng bước trong nghĩa địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất lâu trong bóng tối nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, bất luận tiến về phía đó bao xa thì trước sau vẫn không thể đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy.

La Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền khuyên Tư Mã Khôi: “Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái thiệt trước mắt, nếu tiếp tục đi không khéo lại lạc đường mất”.

Tư Mã Khôi nhìn thấy sắc trời đúng là tối quá, trong lòng cũng thầm cảm thấy lực bất tòng tâm, nên đành quyết định rút lui rồi tính tiếp. Ba người bèn quay đầu về phía sau, ai ngờ cánh đồng cỏ hoang rộng mênh mông, đêm đen bao trùm mịt mùng, chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ trong phạm vi ba bước. Ánh sáng le lói của ngọn đèn hiện lên giữa khu nghĩa địa hoang vắng này chẳng khác nào ánh lửa ma chơi. Tất cả những gì có thể nhìn thấy bây giờ chỉ là những nấm mồ nối tiếp nấm mồ. Ba người bọn họ đi không biết bao lâu nhưng vẫn không thể quay về lòng sông khô cạn dưới chân cầu La Sư, ngoái đầu nhìn lại, thấy khoảng cách giữa họ và tòa thành trì ẩn hiện ánh sáng ma quỷ đằng kia dường như vẫn không hề thay đổi.

Trên trời giờ đã không nhìn thấy bóng dáng nửa ngôi sao, nên cũng chẳng thể phân biệt đâu là hướng nam, đâu là hướng bắc. Mất vật tham chiếu, cảm giác không gian bồng bềnh như không tồn tại. Trong đêm hè oi bức, thời gian phảng phất như dừng lại, ngưng tụ tại một điểm.

Trán La Đại Hải đầm đìa mồ hôi lạnh, không nhịn được lẩm bẩm thành tiếng: “Thế này chẳng phải đang gặp ma à? nghe người ta đồn những hồn ma bị chết oan khuất thường xuất hiện trên đường vào ban đêm để dẫn lối cho lữ khách, bắt họ đi vòng vo một hồi rồi quay trở lại điểm xuất phát, cuối cùng khiến họ cùng quẫn mà chết, tục truyền con đường đó gọi là “Hẻm ma ám”. Chẳng lẽ hôm nay anh em bọn mình lại đâm vào con hẻm ma?

Tư Mã Khôi vẫn bình tĩnh hơn cả: “Cùng lắm thì lãng phí một đêm ở đây, sáng ngày mai đợi khi chim kêu trời sáng thì cô hồn, dạ quỷ gì cũng phải tiêu tan”. Cậu lại vung dao huơ huơ trước mặt: “Có thứ giết người này trong tay, bất kể trong nghĩa địa có vật gì không thanh sạch, ông đây cũng phanh thây chúng ra thành ba mảnh”.

Tuy cứng miệng như vậy nhưng thời khắc này dường như cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mỗi giây mỗi phút đều kéo dài đằng đẵng tựa ngàn thu, hoàn toàn không thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian. Ba người khó lòng át chế được sự phát tác của chủ nghĩa duy tâm, họ lo rằng bọn họ thực sự đang bị sa vào con hẻm ma ám. Đường ma đi, người không thể đi, ngộ nhỡ lạc bước vào trong đó, chỉ e vĩnh viễn không thể đợi đến thời khắc chim kêu trời sáng.

Hải ngọng đột nhiên nhớ ra một việc, cậu ta kể với Tư Mã Khôi và Hạ Cần, theo cách nói lưu truyền của dân gian vùng Đông Bắc, nếu một người đi lạc trong núi, thì thường lỡ bước vào nhầm thành cổ, trong thành chắc chắn chẳng có ai là người sống, chỉ có một lão già gầy gò như thanh củi khô, da dẻ nhăn nheo, đầu đội mũ chóp nhọn, khi nhìn thấy bạn thì tự nhận: “Đầu đội mũ hoàng kim, mình mặc áo lưu ly, bản quan là đại vương trong mộ, cưỡi thỏ ngọc đi tuần”.

Nếu gặp phải tình huống như vậy thì lão già đó tuyệt đối không phải là người, mà là con chồn tinh còn gọi là “Hoàng đại tiên” từ trong núi chui ra, nếu bạn còn muốn sống sót thoát ra khỏi hẻm ma ám, phải lập tức dập đầu cúi lạy và cầu xin nó dẫn đường.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: