mật mã tây tạng 6.2
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cũng là theo chỉ dẫn trong nhật ký à?” Trương Lập gật đầu: “Đúng vậy.” Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: “Nhà thám hiểm thì dùng gì đến thứ này chứ?”
Trương Lập mỉm cười nói: “À, tôi quên mất không nói với mọi người, Đường Thọ ghi trong nhật ký rằng, anh ta phát hiện ra rất nhiều dân tộc cổ xưa đã có chút hiểu biết về một số hiện tượng cảm ứng điện từ đặc thù. Tuy họ không biết nguyên lý bên trong, nhưng đã học được cách vận dụng cảm ứng điện trường này, giống như ở Cánh cửa Sinh mệnh, và cả lúc ở trong bụng tượng Phật khổng lồ nữa. Kỳ thực, tác dụng của Thiên châu cũng chính là một loại cảm ứng điện từ mà thôi. Dựa vào những ghi chép ấy, tôi suy đoán, dùng cái thứ này, có lẽ cũng có tác dụng giống như là Thiên châu vậy.”
“Được rồi, trước mắt có bấy nhiêu đây thôi,” Trương Lập xòe tay ra nói: “Nhưng chớ coi thường mấy món đồ nho nhỏ này, chúng tôi phải đi khắp mười mấy nước mới tìm mua được những sản phẩm tốt nhất đấy. Tôi đoán, chắc hội đội trưởng Hồ Dương còn phải đi kiếm đạn hấp lực, áo cứu sinh nữa. Ừm… những thứ đó chắc là cũng đắc dụng lắm đây.”
Pháp sư Tháp Tây
Ngày hôm sau, một mình Trác Mộc Cường Ba đáp máy bay đến Thâm Quyến. Trương Lập và Ba Tang đưa Sean đến cơ sở huấn luyện.
Trong căn biệt thự độc thân của Vương Hựu, Trác Mộc Cường Ba chỉ gặp một mình anh ta. Gã có cảm giác, mấy ngày không gặp, Vương Hựu dường như đã gầy hơn chút nữa, trên bàn nước đặt một cái lọ nhỏ, không biết bên trong đựng thuốc hay kẹo.
“Anh thắng rồi.” Trác Mộc Cường Ba vào chủ đề chính luôn. Vương Hựu vẫn giữ nụ cười nhã nhặn, nói: “Sau này nhờ anh chiếu cố cho.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu cảnh cáo: “Anh không có khả năng tự bảo vệ mình, đây vốn là hành vi tự sát. Tôi khuyên anh một lần nữa, hãy nghĩ kỹ trước khi hành động.”
Vương Hựu nói: “Nếu muốn nói những lời như vậy, tôi cũng không ngại gì mà cho anh biết, dẫu có chết, tôi cũng phải chết ở Shangri-la.” Nói đoạn, anh ta khẽ nhắm mắt, thở dài: “Đời người có được mấy chuyện như ý đâu, cái tôi theo đuổi, cũng chính là cái tôi thấy bất mãn. Những chuyện tôi đã xác định sẽ làm, nhất thiết phải thử cho bằng được, nếu không cố làm, thì cả cơ hội để thất bại cũng không có nốt, đó mới là thất bại thực sự đấy.” Tới đây, Vương Hựu quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói tiếp: “Tôi là một thương nhân, tuy rằng rất muốn rút ngắn khoảng cách, xây dựng tình bạn với anh, nhưng chung quy thì dùng phương thức của thương nhân giải quyết vấn đề vẫn đáng tin cậy hơn một chút. Trên bàn có một bản hợp đồng, anh chỉ cần ký vào, tấm gương sẽ là của anh.”
Trác Mộc Cường Ba cầm hợp đồng lên, đọc lại thật kỹ. Điều khoản hợp đồng quy định rất tỉ mỉ, rõ ràng là có bàn tay của chuyên gia ngành luật nhúng vào, tổng cộng có ba điều kiện lớn. Thứ nhất, tấm gương đồng là tài sản của tổ tiên Vương Hựu để lại, bọn Trác Mộc Cường Ba mượn với mục đích nghiên cứu, Vương Hựu có quyền sở hữu tuyệt đối với tấm gương đó, có thể thu hồi bất cứ lúc nào; thứ hai, trong vòng sáu tháng kể từ ngày ký hợp đồng, Vương Hựu thuê Trác Mộc Cường Ba làm vệ sĩ riêng, yêu cầu một ngày hai mươi bốn tiếng không được rời khỏi anh ta, trong thời gian này, nếu Vương Hựu bị tổn thương hoặc xuất hiện tình trạng gì bất thường, Trác Mộc Cường Ba sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp luật rất lớn; thứ ba, là phần miễn trách, Vương Hựu tự nguyện tham gia đoàn lữ hành của Trác Mộc Cường Ba tổ chức, sau khi đoàn chính thức xuất phát, tất cả các hiểm nguy mà cá nhân Vương Hựu gặp phải đều không liên quan gì đến cả đoàn, đồng thời cũng miễn trừ trách nhiệm pháp luật của Trác Mộc Cường Ba do điều thứ hai quy định.
Trác Mộc Cường Ba đọc xong bản hợp đồng, phản ứng đầu tiên là giật mình, tại sao Vương Hựu lại định ra kỳ hạn là sáu tháng, lẽ nào anh ta cũng biết tính mạng của gã không còn được bao lâu nữa? Nhưng gã không biểu hiện ra ngoài, ngược lại còn cười cười hỏi Vương Hựu: “Anh đưa ra bao nhiêu điều kiện như vậy, quy ra chỉ có ba nội dung này, nhưng tôi còn mấy điểm cần hỏi cho rõ đã. Tại sao phải ràng buộc tôi và anh lại với nhau như thế? Tại sao anh chỉ đề ra kỳ hạn có sáu tháng? Nếu trong sáu tháng chúng tôi vẫn chưa tìm được đường đến đó thì sao? Nếu tôi không tham gia đoàn tìm kiếm đó thì như thế nào? Thế chẳng phải anh mang giỏ tre đi gánh nước hay sao?”
Vương Hựu nói: “Những bí mật thương mại này tôi vốn có thể không tiết lộ với anh, nhưng nói cho anh biết cũng không vấn đề gì. Thực ra chỉ cần ba tháng là đủ để thực hiện tất cả các nghiên cứu đối với tấm gương đồng ấy rồi, tôi cho các anh thời gian gấp đôi, là để các anh có thêm phần linh động, nếu sáu tháng mà các anh vẫn chưa thể tìm được đầu mối gì từ tấm gương ấy, tôi nghĩ có cho thêm sáu tháng nữa, các anh cũng chẳng làm được gì đâu, tôi sẽ mời các chuyên gia khác đến nghiên cứu tấm gương ấy, quan hệ hợp tác chấm dứt. Còn vì sao tôi yêu cầu Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ở bên cạnh tôi à? Tôi nghĩ, nếu chính anh cũng có thể buông bỏ, thì tôi cũng nên buông bỏ chuyện này đi được rồi.” Nóiđoạn, anh ta nhoẻn miệng cười nhìn Trác Mộc Cường Ba, điệu bộ như thể muốn nói, lần đàm phán này anh thua là cái chắc rồi.
Nét mặt Trác Mộc Cường Ba kín bưng, gã chỉ hờ hững nói: “Tôi vẫn không thể chấp nhận điều kiện thứ hai được. Tôi không thể cả ngày ở suốt với anh, tôi còn phải đi tìm đầu mối, hơn nữa anh cũng phải tiếp nhận một đợt huấn luyện đặc biệt. Nếu anh không thể vượt qua đợt huấn luyện bồi dưỡng này, chúng tôi cũng không có cách nào đưa anh cùng đi đượcđâu.”
Vương Hựu lại cười cười: “Ồ, điều kiện thứ hai này ấy à, kỳ thực đây chỉ là một ràng buộc về mặt pháp luật thôi. Nếu mọi người hợp tác vui vẻ, tôi có thể coi như nội dung ấy không tồn tại, anh có thể đi làm bất cứ việc gì anh muốn. Chỉ có điều, nếu các anh muốn bỏ tôi lại một mình, tôi sẽ lập tức đi tìm nhà chức trách để kiện đó.”
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, nói: “Rất có kinh nghiệm.” Vương Hựu gật đầu nói: “Đây là kiến nghị của luật sư đó.”
“Anh vẫn đang uống thuốc à? Sức khỏe của anh…” cuối cùng Trác Mộc Cường Ba vẫn quyết định thử thăm dò một phen. Lần đầu tiên gã gặp lại Vương Hựu chẳng phải cũng ở trong bệnh viện đấy hay sao.
Vương Hựu ung dung cầm lọ thuốc lên, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Nhìn rõ chưa, tổng giám đốc Trác, đây là vitamin, thứ này là để đảm bảo thể lực tôi lúc nào cũng dồi dào, thói quen mấy chục năm nay rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nuốt đầy một bụng tức, cầm bút ký vào bản hợp đồng.
Vương Hựu làm xong mọi công tác chuẩn bị, hôm sau liền mang theo chiếc gương đồng cùng Trác Mộc Cường Ba trở về Tây Tạng. Giáo sư Phương Tân lập tức liên hệ với các chuyên gia trong giới học thuật để tiến hành nghiên cứu kỹ chiếc gương, gọi Vương Hựu đến hỏi han, đồng thời giới thiệu với Trác Mộc Cường Ba một vị pháp sư mới. Ông này cũng ở trong tôn giáo của pháp sư Á La, đến đây để trợ giúp họ, tên là Tháp Tây.
Pháp sư Tháp Tây thoạt nhìn chỉ khoảng chưa đến năm mươi. Nhưng Trác Mộc Cường Ba đoán, chỉ e vị pháp sư này còn cao tuổi hơn cả pháp sư Á La, vì ông có một đôi mắt như thể nhìn thấu sự đời, thoạt trông có vẻ mờ đục, nhưng lại thấp thoáng lộ ra tinh quang sáng ngời. Trác Mộc Cường Ba lịch duyệt đã lâu, gặp vô số người, nhưng cũng chỉ nhìn thấy ánh mắt ấy ở duy nhất một người, đó chính là cha gã. Gã cũng không hiểu sao thầy giáo lại nôn nóng muốn mình gặp mặt vị pháp sư Tháp Tây này như thế.
“Tôi đến để kiểm tra thân thể giúp cậu, có thể coi như là một nửa bác sĩ cũng được,” pháp sư Tháp Tây thân thiết nói. Trác Mộc Cường Ba dường như sực nhớ ra điều gì đó, kinh ngạc thốt lên: “Pháp sư Tháp Tây! Ngài là người của gia tộc Tháp Tây!”
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười không nói, đưa tay bắt mạch cho Trác Mộc Cường Ba. Bỗng ông biến sắc mặt, nói: “Nhịp thở và mạch đập này…” Ông đột nhiên nghiêm nét mặt hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Có phải Á La dạy cậu không?”
Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy giọng nói của pháp sư Tháp Tây hết sức rõ ràng, nghe như rót vào tai, còn giáo sư Phương Tân lại dường như không hề nghe thấy. Nhìn ánh mắt cảnh giác đảo khắp xung quanh của pháp sư Tháp Tây, gã lập tức có phản ứng. Ban đầu, để Lữ Cánh Nam mang cuốn sổ do pháp sư Á La viết cho gã, đồng thời cũng để cô truyền dạy phương thức hô hấp, chính là nhằm ứng phó với cục diện này đây.
Trác Mộc Cường Ba vẫn còn chưa trả lời, pháp sư Tháp Tây lại đã lên tiếng: “Chuẩn bị một gian phòng riêng, tôi muốn một mình kiểm tra thân thể của cậu ấy.”
Nhìn vẻ mặt nghiêm nghị của pháp sư Tháp Tây, giáo sư Phương Tân lo lắng hỏi: “Sao vậy? Có nghiêm trọng không?” Pháp sư Tháp Tây mỉm cười đáp: “Không đáng lo.” Trong phòng, pháp sư Tháp Tây bảo Trác Mộc Cường Ba nằm lên giường, bấm lên cổ tay gã, hồi lâu không nói gì.
“Pháp sư Á La không dạy tôi gì cả.” Thấy không có người, Trác Mộc Cường Ba vội trả lời, nói xong đã thấy tai mình nóng bừng lên.
“Ừm.” Pháp sư Tháp Tây chau mày nói: “Đây là phương pháp hô hấp mà chính bản thân ông ấy cũng chưa thể nắm bắt, chắc không phải là ông ấy dạy cậu, có điều…”
Hai tay pháp sư Tháp Tây nắm chặt hai cổ tay Trác Mộc Cường Ba, mắt nhắm lại, tựa hồ như đang cảm nhận những biến hóa vi tế nhất, ông lẩm bẩm: “Mạo hiểm quá. Chỉ sợ người dạy cậu cũng không biết hậu quả việc làm này.” Pháp sư Tháp Tây mở mắt ra nói: “Nhất định là họ muốn củng cố căn cơ, bồi dưỡng nguyên khí cho cậu, hòng làm chậm lại những ảnh hưởng xấu của cổ độc gây ra cho cơ thể cậu, nhưng làm như vậy, chẳng những không thể khiến luân xa trong người cậu chuyển động, mà còn bội phần hung hiểm nữa.”
“Không hiểu.” Trác Mộc Cường Ba thành thực đáp.
Pháp sư Tháp Tây lướt tay dọc theo mạch trên cánh tay gã, nói: “Lấy ví dụ thế này, thân thể con người giống như một ang nước, máu và các chất dịch khác là cá ở trong nước ấy. Hàng ngày, cậu ăn cậu uống cậu hít thở, chính là bỏ thức ăn cá vào ang nước, và thay nước sạch trong ang. Các thứ bài tiết ra, bao gồm cả mồ hôi và hơi thở, chính là nước bẩn trong ang được đổ đi. Mỗi một động tác của cậu, kể cả là động tác cơ bản như chớp mắt, cũng đều là tiêu hao một phần nước trong ang. Nước này, chính là do lũ cá đó vận chuyển đi. Mỗi ngày, số thức ăn một người ăn vào là có hạn, vì vậy nước ở trong ang cũng có hạn, số lượng cá trong đó cũng có hạn, bởi thế, các động tác và năng lực bộc phát của con người cũng có hạn. Nước, cá, thêm nước mới và đổ nước bẩn đi, bốn thứ này thiếu một cũng không được, đồng thời nhất thiết phải luôn giữ ở một trạng thái cân bằng nào đó, một khi để mất sự cân bằng này, thân thể người ta sẽ xuất hiện vấn đề.”
Pháp sư Tháp Tây bảo Trác Mộc Cường Ba nằm ngửa, giơ cao hai cánh tay lên, rồi lại sờ đến gót chân gã, nói: “Năng lượng cần để thân thể thực hiện các động tác, là do lũ cá ấy cung cấp, nhưng ở đây có một điều kiện, khi nước trong ang không đủ để lũ cá ấy có thể hoạt động, chúng sẽ không đưa nước đến cho cơ thể hoạt động nữa, đây chính là hiện tượng kiệt sức, dùng hết sức mà mọi người vẫn nói. Còn phương pháp hô hấp này của cậu, gần giống như là mở thêm một cửa van bên trong ang nước, có thể trực tiếp đưa nước đến các cơ bắp, không cần nhờ lũ cá nữa, bởi vậy, cậu có thể sở hữu sức mạnh cực lớn trong một thời gian ngắn, nhưng nước trong ang có hạn, nếu các cơ bắp dùng hết rồi, lũ cá trong ấy còn sống được hay sao?”
“Ồ, tôi hiểu rồi.” Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng hiểu được một chút về tình trạng cơ thể mình lúc từ Moscow trở về. Như vậy cũng có nghĩa là phương pháp hô hấp của gã hiện thời có thể kích phát toàn bộ tiềm lực của cơ thể, thậm chí là bất chấp bên trong thân thể ấy có như thế nào. Nếu chẳng phải gã và Ba Tang bị người mặc áo măng tô đen kia đánh bỏ chạy, chỉ sợ cứ tiếp tục đánh mãi như thế, cuối cùng chắc sẽ kiệt lực mà chết mất.
Pháp sư Tháp Tây tiếp tục nói: “Còn luân xa hay mạch luân, lại là một kiểu van khác. Nó là đường hầm nối liền cơ thể với thế giới bên ngoài, tác dụng của nó giống như là việc cậu ăn uống vậy, cung cấp cho cơ thể thêm nhiều nước sạch, càng mở nhiều luân xa, lượng nước đổ vào càng nhiều, chỉ khi nào lượng nước đổ vào và lượng nước chảy ra giữ ở mức cân bằng, môi trường bên trong cơ thể cậu mới giữ được trạng thái cân bằng. Giải thích như vậy cậu đã hiểu chưa vậy, Cường Ba thiếu gia?”
“Nhưng mà, chẳng phải pháp sư vừa nói, luân xa của tôi không thể khai mở hay sao?” “Không phải là không thể khai mở, mà là cực kỳ khó khăn…” pháp sư Tháp Tây bóp vào hai bên eo Trác Mộc Cường Ba, thở dài nói: “Quả nhiên đúng như tôi nghĩ, Cường Ba thiếu gia, cậu có biết trung ấm đắc độ không?”
“Không biết.”
“Trung ấm đắc độ chính là… Thôi bỏ đi, thế này nhé, chỉ trong tình trạng gần chết mà chưa chết, ý thức rời khỏi thân thể, mới có khả năng khiến luân xa chuyển động, cuối cùng còn phải sống dậy nữa. Ôi, có điều, người thực sự vượt qua được thử thách ấy đâu có mấy người.” Pháp sư Tháp Tây vừa cười khổ vừa lắc đầu, cởi bỏ áo ngoài ra, bên trong không ngờ còn mặc lót một chiếc áo da mềm nữa, cởi chiếc áo da ấy ra, thấy bên trong xếp đủ các loại dụng cụ y khoa.
Trác Mộc Cường Ba nhìn những dụng cụ kỳ quái mà mình không thể gọi tên ra ấy, trong lòng không khỏi hơi lo lắng, cất tiếng hỏi: “Tôi vẫn chưa hiểu lắm, pháp sư.”
Pháp sư Tháp Tây nhón lên một cây kim bạc, không để ý đến câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba, vừa châm vào da thịt gã vừa nói: “Một khi hô hấp đã hình thành, thay đổi nữa ngược lại chỉ khiến sức khỏe của cậu càng tệ hơn. Giờ tôi dùng kim bạc khóa huyệt, cố gắng hết mức có thể hạ cái van mở nước của cậu xuống, sau này sức lực của cậu sẽ dần dần khôi phục lại mức bình thường, hoặc có lẽ sẽ còn giảm sút phần nào, nhưng sẽ không bị nguy cơ kiệt lực mà chết nữa.”
Trác Mộc Cường Ba vẫn tiếp tục truy vấn: “Pháp sư,trung ấm đắc độ kia là…” Pháp sư Tháp Tây ngắt lời: “Đủ rồi, tôi đã nói hơi nhiều rồi. Kỳ thực, không nên nói cho cậu những chuyện này mới phải. Cậu không phải Mật tu giả, thậm chí cả Mật tu giả là gì cậu cũng đâu có biết.”
Trác Mộc Cường Ba lập tức cứng họng. Đúng vậy, pháp sư Á La đã từng nói với gã, những người không thông qua được khảo hạch thử nghiệm của Mật tu giả sẽ tuyệt đối không được họ thừa nhận, pháp sư Tháp Tây không truy cứu xem phương pháp hô hấp này gã học từ đâu đã là nương tình lắm rồi.
Pháp sư Tháp Tây dường như cũng không muốn dùng dằng mãi ở vấn đề ấy, lại nói: “Có điều, cổ độc trên người cậu cũng có chút khác biệt so với những gì tôi nghĩ. Xem ra các ghi chép trong thư tịch cũng có chỗ không khớp rồi, không biết có phải là trải qua nghìn năm, nên tính chất và trạng thái đã đổi thay hay không nữa? Đừng ngồi dậy, tiếp tục nằmđó.”
Pháp sư Tháp Tây lại kiểm tra khắp người Trác Mộc Cường Ba một lượt nữa, có điều lần này không phải lần theo các kinh mạch, mà giống với phương pháp của Tây y hơn.
Trác Mộc Cường Ba cũng lựa theo lời pháp sư Tháp Tây, hỏi: “Pháp sư, tôi không hiểu, những cổ độc đó đã được người xưa sử dụng từ hơn nghìn năm trước, tại sao, với trình độ khoa học kỹ thuật của y học ngày nay vẫn không thể chẩn đoán ra được? Lẽ nào, kỹ thuật y liệu của dân Tạng cổ chúng ta từ hơn nghìn năm trước còn tiên tiến hơn y học hiện đại bây giờ hay sao?”
Pháp sư Tháp Tây điềm đạm nói: “Về phương diện nào đó, có thể nói như vậy.” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc kêu lên: “Hả?”
Pháp sư Tháp Tây vừa bắt mạch, vừa nói: “Chuyện này liên quan đến lịch sử phát nguyên và phân kỳ của y học. Giới y học xưa nay vẫn cho rằng, thủy tổ của Trung y, chính là Kỳ Bá, người đã đối thoại với Hoàng đế trong Hoàng đế Nội kinh, còn thủy tổ của Tây y, là một nhà triết học tên là Hippocrates. Quan điểm của Trung y là kim, thủy, mộc, hỏa, thổ, kinh mạch và thiên địa nhân hòa, còn quan điểm của Tây y thời bấy giờ là nước, lửa, gió, đất; hai quan điểm này hết sức tương đồng, thậm chí có thể nói là tương thông với nhau, còn có học giả nêu giả thuyết rằng, thủy tổ Trung y Kỳ Bá và thủy tổ Tây y Hippocrates, kỳ thực chính là một người. Hai cái tên này phát âm cũng khá giống nhau, có phải vậykhông?”
“Ừm,” Trác Mộc Cường Ba đáp một tiếng. Không ngờ Trung y, Tây y lại có đoạn lịch sử phát nguyên như thế này, cũng không ngờ lý luận học thuật của Tây y lại tương đồng với Trung y đến thế, vậy tại sao Tây y ngày nay lại trở nên hoàn toàn khác hẳn với Trung y chứ?
Chỉ nghe pháp sư Tháp Tây tiếp tục nói: “Tại sao trong y học hiện đại, Trung y và Tây y lại xuất hiện sự phân hóa lớn như vậy, muốn giải thích điều này, cần phải bắt đầu từ tư tưởng triết học của Trung Quốc và phương Tây. Hệ thống tư tưởng triết học châu Á chúng ta lấy khái niệm nhân văn làm chủ đạo, chú trọng đến kết quả; còn hệ thống triết học phương Tây lại lấy logic làm chủ đạo, chú trọng đến mối quan hệ tương hỗ. Về điểm này, có thể nhận ra từ các tín ngưỡng tôn giáo và những câu chuyện thần thoại truyền thuyết. Đại đa số các vị thần của Trung Quốc đều tồn tại độc lập, mỗi vị đều có lãnh địa và phạm vi phụ trách riêng; còn thần thoại phương Tây lại chú trọng đến sự truyền thừa, ai là con của ai, ai kết hôn với ai, con đường truyền thừa của họ hết sức rõ ràng rành mạch. Khi đem những khái niệm triết học khác nhau ấy vận dụng vào y học, sẽ tạo ra những phương hướng phát triển khác nhau thôi.”
Pháp sư Tháp Tây bảo Trác Mộc Cường Ba lật người lại, sờ nắn các đường kinh mạch trên sống lưng gã, rồi nói tiếp: “Y học phương Đông chúng ta, chủ yếu coi trọng nghiên cứu xem thuốc nào trị được bệnh nào, từ thời Thần Nông nếm bách thảo, những dược phương đó đều là kết luận dựa trên cơ sở thử nghiệm cả trăm ngàn lần của những người đi trước, còn những vấn đề như giữa những loại thuốc đó đã nảy sinh phản ứng hóa học như thế nào, hoạt động trong cơ thể người ra làm sao, cổ nhân của chúng ta đều không quan tâm đến. Còn y học phương Tây lại khác, khi họ phát hiện ra một loại thuốc nào đó trị được bệnh, họ sẽ dùng đủ trăm phương ngàn kế để tìm hiểu xem sau khi loại thuốc ấy đi vào cơ thể, nó sẽ tác dụng ở vị trí nào, có tác dụng như thế nào, được cơ quan nào trong cơ thể hấp thu, vân vân. Vì vậy, y học phương Tây lấy môn giải phẫu học làm cơ sở, đồng thời tiếp tục phát triển trên cơ sở này, coi trọng nhất là quan hệ nhân quả, còn y học phương Đông chúng ta lại là sự tiếp diễn của môn nghiên cứu về kinh lạc ngũ hành, chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả thực chất và thử nghiệm. Nói một cách nghiêm khắc, Trung y coi nặng thử nghiệm và kết quả, còn Tây y lại xem trọng thử nghiệm và quá trình biến hóa để dẫn đến kết quả đó, cả hai quan điểm y học này đều chưa hoàn thiện, hoặc có thể nói là đi theo hai hướng cực đoan. Trung y cứ tiếp tục phát triển như vậy, sẽ trở thành một nền y học chỉ biết là thế, mà không thể giải thích tại sao lại như thế; còn Tây y, lại bị quan hệ logic làm giới hạn tư duy, khiến các nhà y học phương Tây không thể tiến hành những thử nghiệm y học thoải mái trên phạm vi rộng khắp. Phải biết là, rất nhiều thứ được cổ nhân phát minh hoặc phát hiện, đều là đem các yếu tố khác nhau hòa trộn lẫn lộn, rồi sau ngẫu nhiên phát hiện ra. Nhưng khoa học hiện đại lại chỉ dùng một câu, nói đây là phương pháp thử nghiệm không khoa học, rồi hoàn toàn phủ nhận.”
Trác Mộc Cường Ba nằm sấp trên giường, nói: “Nói thế thì cả Trung y và Tây y đều không hoàn thiện, vậy thế nào mới là hoàn thiện chứ?”
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Đó chính là quan điểm mới mà một số nhà y học đã đề ra trong những năm gần đây, gọi là Trung Tây y đại nhất thống. Hiện giờ ở trong nước đã có rất nhiều trường đại học mở khoa Trung Tây y tổng hợp rồi, đồng thời cũng xuất hiện cả bệnh viện Trung Tây y kết hợp. Quan điểm này chính là vận dụng những điểm khác nhau giữa hai trường phái y học bổ sung tương trợ lẫn nhau, để đạt tới mục đích cải thiện sức khỏe, trị lành cho người bệnh. Mà y học của dân tộc Tạng thuở xa xưa, sở dĩ có những mặt tiên tiến hơn y học hiện đại, chính là nằm ở quan điểm Trung Tây y kết hợp này.”
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra: “Vậy nghĩa là sao?”
Pháp sư Tháp Tây lại giải thích: “Trung y vốn cũng có ngành giải phẫu học, ngay cả trong Hoàng đế Nội kinh cũng có tri thức về giải phẫu, chỉ là về sau chịu ảnh hưởng của học thuyết Nho gia cùng sự thống trị của chế độ phong kiến, giải phẫu bị phán xét là hành vi cực kỳ vô đạo đức, vô luân lý, vì vậy đã bị cấm chỉ. Còn y học phương Tây thì bị hoàn cảnh và giai cấp thống trị kìm hãm, phát triển còn chậm hơn cả Trung y, mãi cho đến thời kỳ Phục hưng, mới đạt được một bước tiến dài. Nói ra lại phải cảm ơn người Tạng cổ xưa, bằng không cũng không biết y học phương Tây lạc hậu tới mức độ nào nữa. Giai đoạn trước thời kỳ Phục hưng, được gọi là một nghìn năm đen tối trong lịch sử y học phương Tây, y học phương Tây dừng lại ở giai đoạn nguyên thủy nhất, không những không phát triển, mà còn xuất hiện dấu hiệu thụt lùi nữa. Về Trung y, vì tính hữu hạn của việc tích lũy kinh nghiệm, nên chỉ phát triển đến một trình độ nhất định thì ngừng lại không tiến lên nữa, đồng thời chế độ truyền thừa theo gia tộc cũng khiến rất nhiều kết quả thử nghiệm bị thất truyền. Bởi thế, đến cuối thời nhà Minh, sự phát triển của Trung y đã không theo kịp y học phương Tây nữa rồi. Còn quan điểm Trung Tây y đại nhất thống mới được đưa ra khoảng gần hai ba chục năm nay, cũng có nghĩa là, Trung Tây y kết hợp trong y học hiện đại mới chỉ phát triển có khoảng hai ba chục năm nay. Nhưng tổ tiên dân tộc Tạng chúng ta thì từ thời Tùng Tán Can Bố đã bắt đầu phát triển Trung Tây y kết hợp rồi, kéo dài mãi cho đến khi vương triều Thổ Phồn sụp đổ. Mấy trăm năm phát triển đó, đã khiến thành tựu y học thời bấy giờ, xét về một số phương diện còn cao hơn trình độ y học hiện đại ngày nay nhiều.”
Pháp sư Tháp Tây đã kiểm tra xong toàn bộ cơ thể Trác Mộc Cường Ba, ra hiệu cho gã có thể ngồi lên được, rồi giải thích thêm: “Văn Thành công chúa vào đất Tạng, mang theo các kỹ thuật chữa trị trong thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của Trung y. Đồng thời, cả Bản giáo lẫn Mật giáo đều có rất nhiều nghi thức thần bí, xét về một khía cạnh nào đó, đã thúc đẩy sự phát triển của giải phẫu học, vi sinh vật học, sinh lý hóa học, dược tễ học và nhiều môn khoa học ứng dụng trong ngành y khác, cuối cùng đã hình thành nên một nền y học Tây Tạng đặc sắc. Kỳ thực, y học Tây Tạng hoàn toàn có thể được gọi là nguyên mẫu ban đầu của Trung Tây y kết hợp. Đáng quý hơn nữa là, những thử nghiệm y học cùng với kếtquả của chúng đều được bảo tồn dưới hình thức điển tịch của tôn giáo, vì vậy không giống như lối truyền thừa trong gia tộc của Trung y, nếu gia tộc bị tàn lụi, những kiến thức ấy cũng dần mai một theo thời gian.”
Nhìn ánh mắt nghi hoặc của Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Tháp Tây liền nói tiếp: “Thế nhưng, vì sự sụp đổ của vương triều Thổ Phồn, cùng với giai đoạn chiến loạn kéo dài sau đó, hầu hết các điển tịch ấy đều không thoát khỏi số phận bị hủy hoại, chỉ còn lại một số ítphục tàngvẫn còn được tồn lưu, vì thế y học Tây Tạng ngày nay chủ yếu vẫn là nền Trung y có nét đặc sắc của địa phương. Nhưng y học thời đó rốt cuộc đã đạt tới trình độ nào, ngày nay chúng ta không thể đoán định được, tôi chỉ biết trong các ghi chép ở Đôn Hoàng đã từng xuất hiện phẫu thuật ngoại khoa não, còn phẫu thuật đục thủy tinh thể mà ngày nay đã phổ cập rộng khắp thì từ thời vương triều Thổ Phồn đã phát triển thành thục lắm rồi; ngoài ra còn rất nhiều thành tựu về kinh mạch, kết hợp một cách hoàn mỹ luận thuyết về huyệt vị và giải phẫu học của Tây y với nhau, hình thành rất nhiều khoa đề mà y học hiện đại ngày nay vẫn chưa thể lý giải. Trong một nghi thức tôn giáo phức tạp, rất có thể bao hàm những thành tựu rất cao về vi khuẩn học, bệnh độc học, hóa sinh vật học, thậm chí là cả khoa học gene nữa, con người hiện đại không thể lý giải, y học hiện đại và khoa học kỹ thuật cũng không thể lý giải, vì vậy chỉ có thể tạm thời gọi đó là vu thuật, là thuật phù thủy, cổ độc. Giải thích như vậy, chắc là cậu có thể hiểu được rồichứ.”
Pháp sư Tháp Tây vừa kiểm tra thân thể cho Trác Mộc Cường Ba, vừa nói một số chuyện liên quan đến y học Tây Tạng, kiểm tra xong xuôi, liền vỗ mạnh vào lưng gã nói: “Không vấn đề gì, thân thể cậu còn cường tráng hơn tôi nghĩ nữa. Trước khi cổ độc phát tác sẽ không xuất hiện điều gì dị thường đâu.”
Ngày hôm sau, pháp sư Tháp Tây dẫn Vương Hựu đến cơ sở huấn luyện mới của bọn họ. Giáo sư Phương Tân bảo Trác Mộc Cường Ba cũng nên đi theo, tiện thể gặp mặt các thành viên mới trong đoàn luôn.
Nguồn gốc đối thủ
Trên đường, Vương Hựu cứ không ngớt hỏi han về những chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba từng trải qua, bộ dạng hưng phấn như đứa trẻ lần đầu được đi dã ngoại vậy. Trác Mộc Cường Ba giữ thái độ “kính nhi viễn chi” với người bạn trên thương trường này, những câu hỏi anh ta đặt ra gã chỉ trả lời câu được câu mất. Đi được nửa ngày đường, Vương Hựu cũng tự cảm thấy bẽ mặt, bèn cứ nói bóng nói gió mãi, nhất quyết muốn biết thêm nhiều nữa về những nơi bọn Trác Mộc Cường Ba từng đi qua.
Cơ sở huấn luyện mới cũng không xa xôi cách trở lắm, xuống xe rồi đi bộ thêm nửa ngày đường núi nữa là đến nơi. Cơ sở huấn luyện này tọa lạc trên bãi đất trống ở lưng chừng núi, chính giữa là một bãi cỏ lớn, bằng phẳng như mái nhà lợp cỏ tranh, vài thứ dụng cụ đơn giản nằm rải rác khắp xung quanh, phía dưới là dốc núi như ruộng bậc thang, nhưng cũng không dốc lắm, phía sau là vách núi thẳng đứng, phẳng như dao cắt, ước chừng cao khoảng trên dưới hai trăm mét. Phóng mắt nhìn ra, nơi này bốn bề đều có sơn cốc bao bọc, cây cối rậm rạp um tùm, bên ngoài sơn cốc gió lạnh bời bời, nhưng trong này ấm áp như tháng Hai mùa xuân, chim hót líu lo. Phòng ở là một dãy nhà đá đổ nát, thoạt nhìn như chòicanh, chủ yếu là dùng những miếng đá vụn cỡ lớn xếp lên mà thành. Nhìn vách đá phẳng như đao cắt phía sau nó, có lẽ dãy nhà này được xây bằng nguyên liệu thiên nhiên ở đây luôn. Lầu canh bên vách đá, bãi cỏ giữa núi non trùng điệp, cảnh vật tô điểm lẫn nhau, hết sức hài hòa tự nhiên. Dưới ánh tà dương đang ngả về Tây, nửa vách tường nhuốm thành sắc đỏ, cây cỏ rậm rạp um tùm mọc men theo dốc núi lại xanh thắm một màu, cảnh đẹp nơi đây thật chẳng khác nào tiên cảnh trong tranh vẽ.
Nghe pháp sư Tháp Tây nói, nơi này là do Lữ Cánh Nam tìm ra, Trác Mộc Cường Ba không khỏi thầm thở dài thán phục. Bản thân gã sinh ra ở Tây Tạng, lớn lên ở Tây Tạng, vậy mà tại sao gã chưa từng phát hiện ra cảnh đẹp nhường này chứ. Những vùng hoang dã hiếm dấu chân người ấy, từ lúc nào bỗng trở nên đẹp đến độ không thể tả xiết thành lời thế này?
Vương Hựu thấy cảnh tượng ở đây, cũng trào dâng lên một niềm xúc động như thể con chim yến được trở về rừng, chỉ muốn vứt ba lô xuống, sải bước chạy qua bên đó, miệng không ngớt xuýt xoa: “Ôi chà chà, đúng là một nơi tốt thật.” Lúc này, sau lưng ba người có một giọng nói cất lên: “Làm ơn nhường đường.”
Chỉ thấy phía sau có một thân hình khôi vĩ, vai gánh hai thùng nước lớn bước đi trên con đường nhỏ dẫn lên núi mà như đi trên đất bằng, Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Tháp Tây liền lui sang một bên, còn chỗ Vương Hựu lại có một cái gờ, tránh được thùng nước nhưng không tránh được thân hình to cao kia. Hai bên chạm nhau, Vương Hựu lập tức loạng choạng, lùi lại ba bốn bước liền mới trụ vững được. Người gánh nước lớn tiếng nói: “Anh không sao chứ, đường núi khó đi, phải cẩn thận.” Giọng nói người này vang vang như tiếng chuông đồng, nhưng là giọng Bắc Kinh chính gốc, nói xong, anh ta lại tiếp tục tiến lên phía trước.
Trong ba người, chỉ có pháp sư Tháp Tây là đã đến nơi này, có điều vừa mới ghé qua cho biết địa chỉ thì giáo sư Phương Tân đã gọi điện mời ông tới Lhasa, vậy nên cả ba đều không hề biết người nào trong đám người mới đang được huấn luyện ở đây, mà người đàn ông cao lớn vạm vỡ kia cũng không nhận ra bọn họ là ai.
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo bóng lưng người đó, thấy hơi thấp hơn gã một chút, nhưng tầm vóc to lớn hùng vĩ, toát lên cảm giác vững chãi mà mạnh mẽ. Người kia đi được mấy bước mới ngoảnh đầu lại, tuổi tác ước chừng ba bốn chục gì đó, môi dày mặt vuông, mắt to mày rậm, gương mặt đầy vẻ nghi hoặc: “Mấy người đến đây làm gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba để ý thấy môi trên người này không có ria mép, cổ họng không có yết hầu, giọng nói tuy oang oang thô lỗ, nhưng thanh điệu rất cao, không khỏi giật mình ngạc nhiên, hóa ra là một bà chị. Nếu ấn tượng đầu tiên của gã về Lữ Cánh Nam có thể dùng bốn chữ “cân quắc anh thư” để hình dung, thì bà chị này lại khiến gã lập tức nghĩ ngay đến bốn chữ “nữ trung hào kiệt”.
Lúc này, trên khoảng đất trống xa xa có người chạy tới, từ đằng xa đã kêu toáng lên: “Chị Trương, chị về rồi à!” Hóa ra chính là Nhạc Dương. Kế đó, anh chàng trông thấy ba người bọn Trác Mộc Cường Ba, tức thì hân hoan reo lên: “Cường Ba thiếu gia, mọi người đến sớm vậy à, ha ha!”
Anh chàng chạy mấy bước đến nơi, giật đòn gánh trên vai chị Trương, nói: “Để tôi, để tôi. Chị Trương, vị này chính là Cường Ba thiếu gia. Cường Ba thiếu gia, vị này là chị Trương, là người yêu thích các hoạt động thám hiểm, bạn của đội trưởng Hồ Dương, mọi người nói chuyện với nhau đi nhé.” Dứt lời là gánh liền hai thùng nước chạy về phía dãy nhà đá, lớn tiếng hô ầm lên: “Mọi người mau ra xem đi, Cường Ba thiếu gia đến rồi!”
Trác Mộc Cường Ba không khỏi dở khóc dở cười, nghe Nhạc Dương nói cứ như thể kêu người ta ra xem động vật quý hiếm trong vườn bách thú vậy. Gã thu ánh mắt lại, chỉ thấy trên gương mặt chị Trương này vừa có vẻ nghi hoặc, lại như đang cười cười, như thể muốn nói, “không giống trong tưởng tượng của tôi cho lắm.” Gã đang nghĩ vậy, đã thấy chị ta chìa tay ra nói: “Không giống trong tưởng tượng của tôi cho lắm. Trương Đình Hổ, đang làm việc tại công ty Thi Nhã.”
Trác Mộc Cường Ba chìa tay ra. Công ty Thi Nhã này gã cũng biết, đó là một công ty sản xuất đồ trang điểm, đa số các sản phẩm Mẫn Mẫn dùng đều từ công ty này mà ra. Quả là khó tưởng tượng nổi, quý bà có cái tên đầy nam tính, yêu thích mạo hiểm này lại làm việc trong công ty bán mỹ phẩm. Có điều, nhìn lại, chị Trương Đình Hổ này ăn mặc cũng hết sức khéo léo, không xăm môi tô mày bôi son trát phấn, lại khiến người ta có cảm giác dưới gương mặt thô hào kia vẫn còn mấy phần vẻ đẹp tự nhiên của phái nữ.
Hai người vừa bắt tay, Trác Mộc Cường Ba có cảm giác bàn tay ấy dày dặn mà mạnh mẽ, có thể nói là khác một trời một vực với bàn tay nhỏ nhắn của Mẫn Mẫn. “Trác Mộc Cường Ba, trước làm việc ở tập đoàn Thiên Sư, giờ đang thấtnghiệp.” Trương Đình Hổ ngửa mặt cười lớn nói: “Ông chủ Trác, bọn họ thường hay kể chuyện của anh lắm, nếu anh mà là dân thất nghiệp lang thang, thì đám lính lác như chúng tôi đây có thể gọi là Cái bang được rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Cường Ba, bạn bè đều gọi tôi như vậy. Vị này là pháp sư Tháp Tây… Vị này…” kế đó, gã liền giới thiệu pháp sư Tháp Tây và Vương Hựu với chị Trương.
“Qua đây nói chuyện, qua đây nói chuyện đi, mọi người đều đợi anh đến đấy.” Trương Đình Hổ kéo tay Trác Mộc Cường Ba về phía dãy nhà ở, nghiêng đầu liếc nhìn Vương Hựu một cái, nói: “Mặt anh trông quen lắm.”
Vương Hựu cười cười nói: “Tôi làm bất động sản.”
“Ồ, là anh!” chị Trương vỗ mạnh một phát, suýt chút nữa làm Vương Hựu khuỵu xuống. Cũng may chị ta nhanh tay lẹ mắt, nhấc ba lô của anh ta lên, nói: “Mọi người đi cả ngày đường chắc mệt rồi hả, để tôi giúp mang mấy thứ này vào.” Cánh tay hơi dùng sức một chút, đã nhấc cả người lẫn ba lô của Vương Hựu lên như xách con gà con vậy. Vương Hựu vội rối rít kêu lên: “Không cần đâu, không cần đâu.”
Ở phía bên kia, Nhạc Dương vừa kêu toáng lên, trong dãy nhà đá đã ùn ùn chạy ra cả đám người, đa phần đều không quen biết, nhưng Trương Lập và Mẫn Mẫn cũng đứng lẫn trong đó. Vừa trông thấy Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba đã nhoẻn miệng nở một nụ cười hiểu ý. Mẫn Mẫn chen ra khỏi đám đông, rảo bước chạy tới. Chị Trương liếc sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, nhe răng cười: “Tình nhân nhỏ của anh đến kìa, còn không mau mau lên.”
Trác Mộc Cường Ba cúi đầu mỉm cười, bước lên đón. Mẫn Mẫn lập tức bổ nhào vào lòng gã. Trác Mộc Cường Ba cũng hân hoan bế bổng cô lên xoay mấy vòng mới dừng lại. Hai người dụi cổ vào nhau, đứng giữa làn gió lồng lộng. Mấy người hiếu sự thấy thế liền rú ầm cả lên.
Kế đó, Nhạc Dương và Trương Lập lần lượt giới thiệu những người mới cho Trác Mộc Cường Ba, hơn một nửa trong số đó đều do đội trưởng Hồ Dương tìm về. Mọi người nói chuyện rất vui vẻ, chỉ có điều không thấy bóng Lữ Cánh Nam đâu. Trác Mộc Cường Ba biết, nhất định là cô đang ở trong phòng sắp xếp tài liệu, hoặc cố ý không muốn gặp gã. Không hiểu tại sao, trong lòng gã cứ thấy hụt hẫng như thiếu thiếu gì đó.
Nói chuyện loáng thoáng vài câu, Trương Lập liền đến bên cạnh gã, thấp giọng thì thào: “Cường Ba thiếu gia, giáo quan bảo anh vào nói chuyện.” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, đưa mắt nhìn chị Trương đang lớn tiếng nói gì đó. Không hiểu tại sao, gã cảm thấy chị Trương này vừa gặp mà như đã quen từ lâu, nói đủ thứ từ chuyện kinh doanh đến chuyện chó, rồi từ chó lại nói đến chuyện đi thám hiểm, thứ cảm giác hối hận vì đã gặp nhau quá muộn ấy thực hoàn toàn khác với lúc ở với Vương Hựu. Gã vỗ vỗ lên vai chị ta, nói: “Tôi đi một lát, Lữ Cánh Nam gọi.”
Trương Đình Hổ nói: “Đi đi, con bé ấy lợi hại lắm đấy. Cô nàng mà không đi huấn luyện bộ đội đặc chủng, ra thương trường làm ăn thì không có đối thủ đâu. Cả tôi và anh đều không phải đối thủ của cô ấy.” Trác Mộc Cường Ba đi được hai bước, chị ta lại lớn tiếng nói: “Này, Cường Ba à, tôi giúp anh dọn dẹp phòng ốc rồi đấy, tối nay uống rượu!”
Trác Mộc Cường Ba “ừm” một tiếng, rồi gọi Trương Lập: “Đi thôi.” Trương Lập lắc đầu: “Không, giáo quan chỉ gọi có một mình anh, có gọi tôi đâu.” Nói xong, anh chàng liền đưa mắt liếc nhìn Mẫn Mẫn, cùng với Nhạc Dương lộ ra một nụ cười hết sức gian xảo.
Phòng Lữ Cánh Nam ở cuối cùng bên trái dãy nhà đá. Còn chưa đi tới nơi, tiếng ồn ào huyên náo ở dãy bên phải đã nhỏ dần, trong hành lang yên tĩnh lạ thường, tựa như có thứ gì đó đã ngăn cách hai thế giới. Chỗ nào có Lữ Cánh Nam, chỗ ấy bao giờ cũng tĩnh lặng, lạnh lẽo dị thường.
Trác Mộc Cường Ba đẩy cửa phòng. Lữ Cánh Nam đang đứng một mình bên ô cửa sổ đá, vầng tịch dương hắt xuống mái tóc dài đen óng ánh, nửa gương mặt ánh lên sắc hồng, nửa kia lại hơi nhợt nhạt. Trác Mộc Cường Ba đứng ngoài cửa ra vào, Lữ Cánh Nam đứng dưới ô cửa sổ, bốn con mắt nhìn nhau trân trân. Hồi lâu sau, Lữ Cánh Nam mới lên tiếng: “Đến rồi à.”
“Ừm.” “Gặp những người ngoài kia chưa?” “Ừm.” “Ngồi đi.” “Được.”
Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn đống tài liệu nằm rải rác trên bàn, lật bừa mấy cái, như muốn tìm thứ gì đó mà nhất thời không tìm thấy. Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống chiếc ghế cách xa cửa sổ nhất, lẳng lặng quan sát cô. Lữ Cánh Nam sắp xếp lại mấy tập tài liệu trên bàn, ngẩng đầu lên nói: “Phải rồi, hôm qua nghe Ba Tang kể lại, hai anh ở Nga đã gặp phải một đối thủ cực kỳ lợi hại, về sau anh bị toàn thân thoát lực cũng là do cầm cự với hắn gây ra.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu, kể vắn tắt lại tình cảnh của bọn họ ở Nga. Gã biết Lữ Cánh Nam đã có được một phần thông tin từ chỗ giáo sư Phương Tân và Ba Tang, vì vậy chỉ kể một số chi tiết và nêu ra vài kiến giải của cá nhân.
Lữ Cánh Nam có vẻ không được tập trung. Cô không tỏ ra quan tâm lắm đến những tình tiết nhỏ lúc chiến đấu của TrácMộc Cường Ba, chỉ hỏi mấy câu, nhưng toàn bộ đều về tình hình sức khỏe của gã. Gã cũng không biết nên trả lời cô thế nào. Tuy pháp sư Tháp Tây nói sức khỏe gã không có gì đáng lo ngại, nhưng cụ thể là ra sao, pháp sư Tháp Tây lại không nói kỹ. Ngoài ra, pháp sư Tháp Tây đã nhìn ra hô hấp của gã có điều dị thường, nhất định ông cũng đoán được, ngoài pháp sư Á La ra, chỉ có Lữ Cánh Nam mới dạy được cho gã phương pháp hô hấp ấy. Gã liền kể chuyện về pháp sư Tháp Tây cho Lữ Cánh Nam, nhưng cô không tỏ vẻ gì, cũng không hiểu là đang nghĩ gì trong đầu nữa.
Hai người một hỏi một đáp, nhưng cứ nhát gừng nhát gừng. Nói chuyện được mấy phút, bầu không khí bắt đầu từ từ trở nên trầm lặng, Lữ Cánh Nam thôi không đặt câu hỏi nữa, tựa như đang chìm sâu vào suy tư. Trác Mộc Cường Ba cũng không nói gì, chỉ ngước mắt nhìn cô.
Lữ Cánh Nam suy nghĩ giây lát, rồi ngẩng đầu lên, đón ánh mắt Trác Mộc Cường Ba. Hai người đều cảm thấy bầu không khí có chút gì đó khác thường, bèn cùng lúc cất tiếng: “À, chuyện đó…” “Chuyện đó…”
Rồi cả hai lại cùng lúc im bặt, ngưng lại một chút, lại đồng thanh nói: “Cô nói trước.” “Anh nói đi.” Hai người đều mỉm cười gượng gạo. Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Cô nói trước đi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Tôi đã nghe Ba Tang kể về cảm giác lúc đối mặt với tên đó, giờ lại nghe anh nói thêm một lượt nữa, hai lần xác minh, có thể cho rằng người này là một cao thủ quyền cước, có điều chỉ có thể nói là cao thủ đối với người bình thường, chưa chắc y đã là đối thủ của pháp sư Á La đâu. So với cao thủ thực sự, y cũng chẳng đáng là gì cả, vì vậy anh không cần lo lắng về chuyện này làm gì. Đáng ngại hơn là sức khỏe của anh, cần phải chú ý nhiều hơn, không nên hấp tấp vội vàng. Tôi… tôi nói hết rồi.”
Trác Mộc Cường Ba khe khẽ gật đầu, thầm nhủ: “Người đó còn chưa được tính là cao thủ thực sự, vậy người như thế nào mới là cao thủ thực sự đây?” Đang suy nghĩ, chợt thấy Lữ Cánh Nam nhìn về phía mình, xòe tay ra, ý như muốn bảo: Tôi nói xong rồi, tới lượt anh đấy.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nghe nói lần này gọi chúng tôi trở về, là vì cô nhận được thông tin có một số tổ chức nước ngoài muốn gây bất lợi cho chúng tôi.”
“Ừm, phải.” Lữ Cánh Nam nói: “Tôi đang định nói chuyện này với anh đây. Chắc là giáo sư Phương Tân đã nói qua rồi. Ở bên Colombia, tài liệu về các anh hình như là do Merkin tiết lộ ra. Ngay từ lúc tiến vào rừng rậm, quân du kích Colombia đã nắm rõ tài liệu về bốn người trong nhóm các anh cả rồi. Tôi cũng mới nhận được thông tin rằng, bọn họ đã phát lệnh truy sát các anh trên toàn thế giới, còn may là lần này mấy anh đã bình an trở về đấy.”
“Merkin?” Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói: “Sao cô biết là hắn?” Lữ Cánh Nam nói: “Đây là kết luận từ một số lời ăn tiếng nói thường ngày của đám thủ hạ hắn.”
Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh ngạc, Lữ Cánh Nam làm sao mà biết được bọn thủ hạ của Merkin hàng ngày nói gì chứ? Lữ Cánh Nam đột nhiên dừng lại, hỏi: “Ai đấy?”
Cánh cửa gỗ “cót két” một tiếng, từ từ đẩy ra, Nhạc Dương trợn tròn mắt, hết sức nghiêm túc bước vào, trong tay cầm một tập các biểu bảng, nhìn Lữ Cánh Nam nói: “Giáo quan, đây là thành tích huấn luyện của những người mới trong tuầnnày.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy vẻ giảo hoạt trong ánh mắt Nhạc Dương, thầm nhủ thằng nhóc này chắc chắn đã đứng bên ngoài cửa nghe lén từ trước, bị phát hiện mới cầm tài liệu đã chuẩn bị từ trước đi vào, cố làm ra vẻ nghiêm túc, chỉ đáng tiếc mình và Lữ Cánh Nam không xảy ra tình huống như cậu ta tưởng tượng… Hả, tại sao lại đáng tiếc, lẽ nào, mình cũng muốn có chuyện gì xảy ra hay sao? Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba vội sắp xếp lại tư duy, trở lại với cuộc đối thoại ban nãy, cất tiếng hỏi: “Tôi không hiểu, ý của cô vừa nãy là thế nào? Làm sao cô biết được thủ hạ của Merkin nói gì? Lẽ nào, chúng ta có người ở bên cạnh hắn à?”
Nhạc Dương vốn đã đưa xong tài liệu, đang định đi ra, nghe Trác Mộc Cường Ba nói mình có người cài cắm bên cạnh Merkin, bất giác dừng bước lại.
Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn Nhạc Dương, thở dài nói: “Đúng vậy, từ mấy năm trước, khi Merkin mang hàm cố vấn quân sự của nước nào đó hoạt động ở dải Đông Nam Á, đã được nước ta rất để ý, vì vậy mới phái người thâm nhập vào nội bộ tổ chức của hắn. Về sau mới phát hiện ra, hắn chỉ dùng chức cố vấn quân sự ấy làm chiêu bài, còn thực chất là chuyên nghề buôn bán văn vật phi pháp. Nhưng theo tin tức của nhân viên chúng ta đưa về, ngay cả hoạt động buôn bán văn vật phi pháp ấy dường như cũng chỉ là một thứ để hắn che đậy, ngoài ra hắn còn đang kế hoạch làm gì đó. Có điều, con người này cực kỳ cẩn thận, người của ta không có cách nào tiếp cận đến trung tâm tổ chức của hắn, vì vậy, cứ phải theo mãi đầu mối này.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy thì, tất cả hành động của Merkin đều nằm trong tay chúng ta rồi phải không?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không. Anh coi thường Merkin quá rồi. Một kẻ có thể trở thành cố vấn quân sự của nhiều nước đâu có dễ đối phó như vậy chứ. Kẻ này tính tình đa nghi, cực khó tiếp cận, nhân viên của ta tuy đã thâm nhập vào nội bộ tổ chức hắn tiềm phục nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn chưa được hắn tín nhiệm, căn bản vẫn chưa thể tiếp xúc đến những bí mật bên trong, hơn nữa hành động cũng bị khống chế rất nhiều. Vì vậy, người của chúng ta rất khó khăn khi chuyển thông tin tình báo về, hơn nữa, số lượng thông tin cũng cực kỳ hữu hạn. Có điều, chúng ta có được bản đồ đi Mặc Thoát tìm Cánh cửa Sinh Mệnh và Đảo Huyền Không tự, phần nhiều là cũng nhờ vào người đồng chí này đó.”
Nhạc Dương gật gật đầu như đã ngộ ra điều gì đó, lời của Lữ Cánh Nam đã giải thích được một mối nghi hoặc lớn vẫn vướng mắc trong lòng anh bấy lâu nay. Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy các tư liệu về Merkin đó, cũng là do người đồng chí này cung cấp hả?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không, tư liệu về Merkin mà tôi đưa cho mọi người lần đầu tiên ấy, đều là phía chính phủ điều tra bề nổi, còn thân thế cá nhân của Merkin vẫn là một câu đố chưa lời giải đáp. Đây cũng là nguyên nhân người đồng chí kia tiềm phục bên cạnh hắn. Trên thực tế, chúng tôi không thuộc cùng một bộ phận, chuyện bên cạnh Merkin có người của chúng ta mãi đến gần đây tôi mới biết, hơn nữa người đó đã mất liên lạc với thượng cấp. Theo phán đoán ban đầu, e rằng thân phận của anh ấy đã bị bại lộ rồi.”
Nhạc Dương giật bắn mình, thân phận bại lộ có nghĩa là gì, người đã được huấn luyện làm nội gián như anh đương nhiên hiểu rất rõ. Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Sao lại thế được, chẳng phải đã tiềm phục suốt mấy năm rồi hay sao?”
Lữ Cánh Nam tiếc nuối nói: “Giờ có phải đã bại lộ thân phận hay không vẫn chưa thể nói được, chỉ có điều từ đó đến giờ anh ấy vẫn chưa được Merkin thực sự tin tưởng, mà theo thông tin nội bộ, cấp trên đã năm lần liên lạc thất bại với anh ấy rồi, trước đó người đồng chí kia cũng không ngầm báo rằng mình sẽ phải lặn một thời gian dài.”
Về điểm này, Nhạc Dương hiểu rất rõ, thân làm gián điệp nằm vùng, tính cảnh giác phải cực kỳ cao. Thông thường khi thân phận có khả năng bị nghi ngờ, dù là nhỏ nhất, họ cũng sẽ báo trước với tổ chức rằng mình cần phải nằm yên một thời gian dài, cắt đứt tất cả mọi liên lạc. Nếu không có ám hiệu như vậy, chỉ có thể nói rằng, trước khi bị phát hiện, người gián điệp ấy vốn không hề nhận ra mình đã bị phát hiện. Nếu liên lạc thất bại ba lần liên tiếp, sẽ bị nhận định rằng thân phận đã bại lộ.
Lữ Cánh Nam cầm hai tập tài liệu trên mặt bàn lên, nói: “Đây là những tài liệu cuối cùng được người đồng chí ấy gửi về. Tôi gọi anh đến, chính là để xem cái này. Đây là danh sách thủ hạ của Merkin.”
Thấy Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương cầm danh sách lên, Lữ Cánh Nam lại nói: “Hơi khác với những gì chúng ta nghĩ, Merkin không dùng đến bọn lính đánh thuê người Nga. Trước mắt hắn sử dụng hai lực lượng khác nhau, nhóm thứ nhất là những tên tù và tội phạm bỏ trốn hắn tụ tập được trong thời gian buôn lậu văn vật ở vùng Đông Nam Á mấy năm trước, còn nhóm thứ hai…”
Lúc này Trác Mộc Cường Ba đã mở tập tài liệu, lật ra tấm ảnh đầu tiên, người trong ảnh chính là Ngưu Nhị Oa, không khỏi giật mình kinh ngạc ngước lên nhìn Lữ Cánh Nam. Chỉ nghe cô nói tiếp: “Suy đoán của mọi người là chính xác, nhóm thứ hai chính là lũ Hồ Lang ở Khả Khả Tây Lý. Bọn săn trộm này có lẽ đã bán mạng vì tiền, chắc là Merkin đã liên hệ với chúng trong lần truy đuổi anh và Trương Lập đến Khả Khả Tây Lý ấy.”
Trác Mộc Cường Ba cúi xuống xem phần tư liệu về Ngưu Nhị Oa, chỉ thấy viết,Họ tên: Ngưu Nhị Oa; Tuổi: 35… Sở trường: mai phục, bắn tỉa.Ngoài ra không còn gì nữa.
Trác Mộc Cường Ba không kìm được, buột miệng hỏi: “Ít thế thôi à?”
Lữ Cánh Nam gật đầu: “Ừm, đây chính là chỗ cẩn trọng của Merkin, hắn cố ý không để hai nhóm người này lẫn lộn với nhau, mà chia làm hai đội, hơn nữa còn khoét sâu hố ngăn cách và tăng cường ý thức cạnh tranh giữa hai đội này, chỉ khi nào huấn luyện hai đội mới ở chung một chỗ, thoạt nhìn có vẻ lơi lỏng, mà thực chất hết sức nghiêm mật. Hai nhóm người này rất ít khi giao lưu, sau khi kết thúc huấn luyện lại được chia về đội của mình, chẳng thấy mặt nhau bao giờ, nên người ở nhóm này khó mà thăm dò được nhiều thông tin ở nhóm kia. Chẳng những thế, tổ chức của hắn còn sử dụng một cơ chế đào thải cực kỳ tàn khốc, một khi đã gia nhập, muốn rút lui chỉ có con đường chết, và những kẻ thành tích quá kém cỏi bị đào thải, cũng chỉ có một con đường chết mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, không khỏi nhớ đến ý thức cạnh tranh và cơ chế đào thải trong các công ty. Tên Merkin kia hẳn là đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng về phương diện này.
CHƯƠNG 42:
HITLER LẦN ĐẦU TIÊN PHÁI NGƯỜI VÀO ĐẤT TY TẠNG
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Không sai, tiểu đội Seifert chỉ là danh nghĩa, nhiệm vụ của bọn họ chính là che giấu mục đích thực sự của Đức Quốc xã khi cho người xâm nhập Tây Tạng. Cùng với năm người này vào Tây Tạng, còn tám thành viên khác, đây chính là nguyên nhân các bức ảnh không thể chụp đầy đủ. Làm như vậy là để đảm bảo rằng, tám người cùng đến Tây Tạng với bọn họ triệt để vô hình trên bất cứ tài liệu nào. Hơn nữa, ngoài các tài liệu đã được giải mật mà cậu và Ba Tang mang ở Nga về, chúng ta không thể tra ra được bất cứ thông tin nào liên quan đến tám người này ở những kênh khác. Từ điểm này, có thể thấy đảng Quốc xã đã bảo mật về tám con người này đến mức độ nào, có thể nói họ là tám con người hoàn toàn không hề tồn tại trên đời này vậy. Tài liệu ở đây, cậu xem thử đi.”
Suy đoán về Merkin
Sự chú ý của Lữ Cánh Nam tập trung dồn lên người Nhạc Dương, chỉ thấy tay trái Nhạc Dương không ngừng vân vê mép tập tài liệu, lật từng trang, từng trang một. Đột nhiên, ánh mắt anh dừng lại trên tấm hình của Đạt Kiệt, tay trái đột nhiên bóp chặt lại, như chỉ sợ bị ai giật mất tập tài liệu. Lữ Cánh Nam thoáng động tâm, thầm nhủ: “Quả nhiên là hắn.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà, hắn dùng thủ đoạn thống trị bằng sắt và máu ấy để khống chế cả một đám liều mạng, không sợ đám thuộc hạ đó tạo phản hay sao?”
Lữ Cánh Nam tạm gạt tâm tư về Nhạc Dương sang một bên, đáp: “Đây chính là điểm lợi hại và đáng sợ của tên Merkin này, cũng có nghĩa là, thuộc hạ của hắn đều cho rằng, năng lực và tư duy của chúng đều còn xa mới bì kịp được ông chủ lớn Merkin của mình. Muốn tạo phản hắn, trừ phi phải mạnh hơn hắn, hoặc ít nhất cũng phải có năng lực tương đương. Tôi nghĩ, mới ban đầu chắc chắn cũng có kẻ liều mạng bạo loạn, nhưng đến giờ Merkin vẫn sống rất thoải mái.”
Lúc này, Nhạc Dương đã lên tiếng: “Giáo quan, số tài liệu này, tôi có thể…” “Không được.” Lữ Cánh Nam ngắt lời: “Tài liệu này tạm thời vẫn chưa thể tiết lộ ra ngoài. Cậu biết quy củ rồi đấy, khi nào xác định được danh sách đội viên mới cuối cùng, mới có thể cho họ biết tư liệu về đối phương được.” Nhạc Dương trầm ngâm không nói gì nữa, lại nghe Lữ Cánh Nam lên tiếng: “Cậu có thể ra ngoài được rồi. À phải, mời pháp sư Tháp Tây đến đây giúp tôi.”
Nhạc Dương để lại tập tài liệu, xoay người đi ra cửa, trong lòng không đau nhói thấu tâm can, mà ngược lại còn trào dâng lên niềm sung sướng khôn tả xiết. Một giọng nói vẳng lên từ tận sâu thẳm đáy lòng, cứ không ngừng vang vang mãi trong óc, mỗi lúc một to hơn: “Tìm thấy hắn rồi, tìm thấy hắn rồi, tìm thấy hắn rồi!…”
Đạt Kiệt; Nam, 33 tuổi, người Tạng ở Thanh Hải; Sở trường: ngụy trang, phá cạm bẫy, giải phẫu. Mỗi một chữ đều in sâu rõ ràng vào trong óc Nhạc Dương, cả bút tích viết tay, thể chữ thế nào, hết sức rõ rệt, như đã khắc sâu vào xương vào cốt anh rồi vậy.
Đợi Nhạc Dương ra ngoài, Lữ Cánh Nam mới nói với Trác Mộc Cường Ba: “Trong bản tài liệu này đã chỉ ra rất rõ ràng, cần phải chú ý đến một người tên là Max. Kẻ này không có bản lĩnh gì, nhưng lại rất được Merkin tin tưởng, thường xuyên đi theo bên cạnh hắn, người đồng chí làm gián điệp kia có nhắc nhở chúng ta, muốn lấy được nhiều thông tin về Merkin hơn nữa, có thể bắt đầu ra tay từ kẻ này.”
Trác Mộc Cường Ba “ồ” lên một tiếng, lật tìm trong tập tài liệu, nhưng Lữ Cánh Nam đã nói: “Trong này không có tài liệu về Max đâu, thân phận của hắn cũng bí mật như là Merkin vậy. Dựa vào các tài liệu khác để phân tích, có thể thấy tên này là kẻ nhát gan ngại chuyện, bản lĩnh chẳng có gì hơn người, sở trường nhất cũng không ngoài tài nịnh hót lấy lòng ông chủ, nhưng hắn lại là người ở bên cạnh Merkin được lâu nhất đó.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ra là vậy. Nhưng nếu thường xuyên ở bên cạnh Merkin, chẳng phải cả hành tung hắn ra sao chúng ta cũng không nắm bắt được, thế thì làm sao hạ thủ với hắn được đây? Ừm, đây không phải là…?” gã lại lật một trang tài liệu mới, bên trên không có ảnh, chỉ viết:Hồ Lang; Sở trường: tất cả kỹ xảo sinh tồn nơi hoang dã và khả năng chiến đấu; Tuổi: không rõ, nghi ngờ là kẻ xuất thân từ lính đặc chủng cao cấp.
Lữ Cánh Nam giải thích: “Đây là Hồ Lang, chính là thủ lĩnh của tổ chức Hồ Lang ở Khả Khả Tây Lý, người này cực kỳ khó tiếp cận, tính cảnh giác rất cao, vì vậy không có cách nào chụp lén hình y được. Đồng chí nằm vùng của chúng ta đặt ra nghi ngờ hắn xuất thân từ lính đặc chủng cao cấp, chứng tỏ một điều, anh ấy cho rằng con người này, ít nhất cũng phải có năng lực của một đội trưởng trong quân đoàn đặc chủng.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Hoang đường quá, có thực lực của bộ đội đặc chủng mà lại ở Khả Khả Tây Lý săn trộm hay sao, không thể nào.”
Lữ Cánh Nam nói: “Đương nhiên, đây chỉ là kết luận của người nằm vùng kia, dựa theo lý giải của cá nhân anh ấy về bộ đội đặc chủng mà thôi. Thực ra tên Hồ Lang này chưa chắc đã có thực lực như thế, cũng rất có khả năng hắn không phải là quân nhân nước ta, nói không chừng là đội viên của một quân đoàn đặc chủng nước ngoài nào đấy…” Nói tới đây, cô bỗng ngừng bặt lại, liền thấy Trác Mộc Cường Ba cũng đang trợn tròn đôi mắt thô lố nhìn mình. Hai người cùng lúc liên tưởng đến mấy câu Ba Tang nói trong cung điện băng…
“Hắn tên là Tây Mễ, cũng là một con nhện.” “Lần cuối cùng đó, hắn không đi.” Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ nhiều hơn nữa. “Hừ hừ, đáng tiếc thay, một đám lính đặc chủng lại suy bại đến mức phải sống bằng nghề săn trộm…” Một hồi lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới lẩm bẩm nói: “Thế này thì trùng hợp quá, khả năng là rất nhỏ.” Lữ Cánh Nam nói: “Nhưng dù sao vẫn có khả năng này, phải không?”
Trác Mộc Cường Ba vẫn còn muốn nói thêm, Lữ Cánh Nam đã chặn lại: “Chuyện này ngừng ở đây, tạm thời chớ nên nói cho họ biết. Anh có thể cầm về nghiên cứu, dựa trên sở trường của đối thủ, đưa ra suy nghĩ của mình, xem có thể giúp ích gì cho đợt huấn luyện mang tính định hướng cho các thành viên mới hay không. Dẫu sao chúng ta cũng phải nói hết chân tướng cho những người qua được khảo hạch cuối cùng, để họ biết được đối thủ cạnh tranh của mình là người như thế nào. Giờ tôi còn chuyện khác muốn nói với anh. Nghe giáo sư Phương Tân kể, lúc anh nằm viện ở Thượng Hải, có một người thần bí đến tìm anh, hy vọng anh tiết lộ những đầu mối chúng ta tìm được trong hai năm vừa qua. Mới rồi anh sang Nga cũng gặp lại người này, hơn nữa còn đụng rất nhiều thế lực không rõ thân phận nữa, đúng không?”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu, đây cũng chính là thông tin mà gã rất muốn biết.
Lữ Cánh Nam cầm một tập tài liệu khác lên, nói: “Ban đầu, chúng tôi vốn cho rằng công tác bảo mật của chúng ta đã làm rất tốt, chắc là sẽ không xảy ra xung đột với các tổ chức quốc tế, vì vậy cũng không cần thiết phải chỉ mặt điểm tên từng tổ chức một cho mọi người làm gì. Nhưng, lần này không biết là người nào trong nhóm huấn luyện đặc biệt, vì nguyên nhân gì đó mà đã để lộ những việc chúng ta đang làm ra ngoài, khiến cho bọn họ để ý tới rồi. Đây là tài liệu về một số tổ chức nước ngoài chúng ta thu thập được cho đến lúc này.”
Trác Mộc Cường Ba cầm tập tài liệu, nói: “Lần này không phải là đã tìm rất nhiều thành viên mới hay sao, muốn người ta gia nhập, cũng phải cho người ta biết chút gì đó chứ? Có lẽ chính vì vậy nên mới thu hút sự chú ý của các tổ chức nước ngoài kia thôi. Chắc không phải tiết lộ ra vì mục đích nào đó đâu?”
Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không, tôi đã phân tích rất kỹ lưỡng thái độ và thời điểm tên béo đó đến tìm anh, hắn ta có vẻ khẳng định rất chắc chắn về những việc anh từng trải qua. Những tổ chức nước ngoài ấy cũng không phải mấy ngọn đèn cạn dầu đâu, nếu chỉ là tin đồn vỉa hè, thậm chí còn chẳng thể khiến bọn họ hứng thú nữa là. Tôi có thể khẳng định với anh rằng, người làm rò rỉ tin tức, nhất định ở trong nhóm của chúng ta, nhất định là một thành viên nào đấy đã từng vào sinh ra tử với chúng ta.”
Trác Mộc Cường Ba tay trái cầm tập tài liệu vỗ vào bàn tay phải: “Nói như cô, đó lại là tên thủ hạ của Merkin mà trước giờ cô vẫn cho rằng hắn tiềm phục ở trong đội chúng ta phải không? Vậy lần này là do Merkin lệnh cho hắn làm rò rỉ tin tức hay sao? Hay là, hắn lại đổi chủ mới, muốn tìm người mua?” Gã đột nhiên cảm thấy lồng ngực tắc nghẹn, khó chịu vô cùng, dường như lời của Lữ Cánh Nam đã chạm đến yếu huyệt chí mạng nào đó, nhưng nhất thời cũng không thể nghĩ ra được cô nói có điểm nào không đúng, chỉ là cảm thấy Lữ Cánh Nam nói như vậy, khiến gã tổn thương rất lớn.
Lữ Cánh Nam nói: “Chuyện này, cũng chưa thể nói chắc được, có lẽ vẫn còn khả năng khác…”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên cao giọng lên: “Hừ, đúng rồi, còn một khả năng nữa, đó là trong đội của chúng ta lại có thêm một tên phản bội, hắn ta làm việc cho một thế lực khác nữa! Ha! Giáo quan của tôi ơi, nhóm của chúng ta tổng cộng có bao nhiêu người nào? Đếm được trên đầu ngón tay đấy, hôm nay cô nghi ngờ người này, ngày mai lại nghi ngờ người khác, cứ như vậy thì còn ý nghĩa gì nữa chứ?”
Lữ Cánh Nam biết, mình lại chạm đến chủ đề Trác Mộc Cường Ba khó chịu nhất, tiếp tục nói nữa chắc chắn sẽ khó tránh khỏi một trận tranh cãi nảy lửa. Thấy gã đang giận dữ đùng đùng lật giở tập tài liệu, cô đành nói lảng sang chuyện khác: “Ừm, cái người đến tìm anh nói tổ chức của bọn hắn đứng vào hàng Top 10 trong các tổ chức đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu trên toàn thế giới, nhưng theo thống kê của chúng tôi, cả thế giới, chỉ có bảy tổ chức lớn, có thực lực thật sự mà thôi. Những tổ chức này lần lượt ẩn mình ở Đức, Pháp, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ý và Israel.”
“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba biết, Lữ Cánh Nam đã nhượng bộ mình, cảm giác giận dữ bất chợt dâng lên trong lòng ấy cũng từ từ xẹp xuống, tan biến đi. Gã bình tĩnh xem lướt qua tập tài liệu, tiện thể hỏi luôn: “Vậy Merkin thuộc về tổ chứcnào?” Lữ Cánh Nam nói: “Merkin không thuộc về tổ chức nào hết, hắn ta đột nhiên xuất hiện.”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn Lữ Cánh Nam, câu nói này của cô có thể giải thích theo hai cách, một là trước đây Merkin không hề biết đến Bạc Ba La thần miếu, gần đây, hắn ta mới đột nhiên hứng thú với nơi này; hai là Merkin trước giờ vẫn luôn theo đuổi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nhưng nguồn cung cấp thông tin của Lữ Cánh Nam lại không thể điều tra ra được.
Gã căn vặn: “Không thể nào chứ, tên Merkin này không phải chỉ dùng hai chữ ‘lợi hại’ mà có thể hình dung. Hắn chỉ đi một vòng quanh khu vực Đông Nam Á mà đã khiến cấp trên cao độ trọng thị, còn phái cả nhân viên đặc công ngầm bên cạnh nữa. Vậy mà, hắn bắt đầu hứng thú với Bạc Ba La thần miếu từ khi nào, tại sao lại tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chẳng lẽ… chẳng lẽ… không có bất cứ tư liệu nào hay sao?”
Lữ Cánh Nam xòe tay ra, lắc đầu, tỏ vẻ chính cô cũng không biết. Chợt bên ngoài có tiếng người vang lên: “Vấn đề này, để tôi trả lời cho cậu, Cường Ba thiếu gia.”
Hai người ngoảnh đầu lại, hóa ra pháp sư Tháp Tây đã đứng ở trước cửa. Lữ Cánh Nam đứng dậy nói: “Pháp sư Tháp Tây, ngài đến rồi.”
Pháp sư Tháp Tây ra hiệu cho Lữ Cánh Nam ngồi xuống. Không kịp thấy pháp sư làm động tác gì, tập tài liệu Trác Mộc Cường Ba đang đọc bỗng đã xuất hiện trên tay ông rồi. Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Tài liệu này là thống kê của phía chính phủ, những tổ chức được nêu trong này toàn bộ đều lộ mình ra ánh sáng, cho dù được liệt vào bảy tổ chức hàng đầu, chỉ cần điều tra cẩn thận là tra ra được hết, hơn nữa một số tổ chức nhỏ trong đây đã giải tán từ nhiều năm trước rồi, xem cũng chẳng ích lợi gì.” Nói xong, ông nhẹ nhàng đặt tập tài liệu lên bàn Lữ Cánh Nam, kéo một chiếc ghế gỗ ngồi xuống đối diện với Trác Mộc Cường Ba, lại nói: “Đối với các tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chúng tôichia ra làm ba loại lớn, một là tổ chức bí mật thuộc Tây Tạng, hai là tổ chức bí mật bên ngoài, ba là những tổ chức theo sau Morton Stanley. Trước tiên là nói đến các tổ chức thuộc Tây Tạng, khái niệm này chỉ các đại gia tộc biết được ít nhiều sự việc đằng sau tấm màn bí mật sau khi Đạo quân Ánh sáng đột nhiên biến mất. Tuy họ không biết đến cái tên Bạc Ba La thần miếu, nhưng lại biết về những báu vật chất chứa trong Tứ Phương miếu và chiến tích vô địch của Đạo quân Ánh sáng. Mặc dù được biết tin tức Đạo quân Ánh sáng biến mất rất muộn, lại thông qua nhiều con đường khác nhau, nhưng ngay từ lúc họ có được thông tin, họ đã bắt đầu tìm kiếm dấu vết của Đạo quân Ánh sáng để lại và những địa điểmcó khả năng chôn giấu kho báu rồi. Về sau khi vương triều Thổ Phồn sụp đổ, trải qua chiến loạn nhiều năm, các gia tộc ấy nếu không bị tiêu diệt trong chiến tranh, thì cũng chuyển biến thành các tôn giáo nhỏ không lưu danh trong lịch sử. Tóm lại, có thể gọi họ là những người đi đầu trong công cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Cho đến ngày nay, hầu hết bọn họ đã trở thành lịch sử, không còn tồn tại nữa. Nhưng xét một cách nghiêm khắc, chúng ta, và cả Cương Nhật Phổ Bạc mà cậu đã gặp, đều thuộc về loại này.”
Nghe tới đây, Trác Mộc Cường Ba liếc sang nhìn Lữ Cánh Nam, phát hiện thấy cô cũng đang lắng nghe rất chăm chú.
Pháp sư Tháp Tây tiếp lời: “Còn các tổ chức bí mật bên ngoài, gọi tắt là ‘ngoại bí’. Sự xuất hiện của bọn họ hết sức kỳ quái, đến giờ chúng ta không thể nào còn tìm được nguồn gốc của họ nữa, có điều nghĩ lại, đại khái chắc là do một số tổ chức nhỏ phân tán của Tây Tạng làm rò rỉ thông tin ra ngoài. Thời gian họ xuất hiện còn sớm hơn Morton Stanley nhiều, phải trước đó hai trăm năm, nhưng vì khoa học kỹ thuật bấy giờ không phát triển, đa phần đều chỉ như hoa quỳnh bừng nở trong đêm rồi biến mất, hiếm có tổ chức nào làm nên được trò trống gì. Tuy nhiên, bọn họ cũng là những tổ chức ẩn tàng sâu nhất, cơ hồkhông hề để lại chút dấu vết gì trong lịch sử. Đến cả chúng tôi, cũng chỉ mới nghe nói về sự tồn tại của bọn họ, có rất ít ghi chép bằng văn tự, thậm chí ngày nay, bọn họ vẫn còn tồn tại, nhưng phía chính quyền không hề nắm được bất cứ một chút thông tin nào về sự tồn tại này. Vì vậy, ‘ngoại bí’ mà chúng ta nói ở đây, là chỉ những tổ chức bí mật đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu mà tài liệu chính thức chưa thể thống kê được.”
Trác Mộc Cường Ba buột miệng: “Vậy thì, Merkin chính là…”
Pháp sư Tháp Tây ngắt lời gã: “Để tôi nói hết đã. Cuối cùng là các tổ chức theo sau Morton Stanley, kỳ thực cũng thuộc về ‘ngoại bí’ thôi. Có điều cái tay Morton Stanley này quả thực quá nổi tiếng, với điều kiện thiết bị thời đó, vậy mà ông ta có thể khai quật lên được bao nhiêu trân phẩm chôn giấu, xét trên cả chiều dài lịch sử khai quật kho tàng của Tây Tạng, có thể nói là một kỳ tích lớn. Đương nhiên, cũng rất đáng tiếc, bởi vì ông ta là người nước ngoài, nên những báu vật ông ta khai quật lên đều không thể giữ lại ở Tây Tạng của chúng ta, giống như kinh Phật Đôn Hoàng vậy, giờ đã tản mát đi khắp thế giới rồi. Nhưng mấu chốt không phải ở điểm này, mà là ông ta đã đem cái tên Bạc Ba La thần miếu này lưu truyền đi khắp nơi, đồng thời dùng những trải nghiệm của chính mình cũng như các báu vật khai quật được kích thích vô số tổ chức nước ngoài đến Tây Tạng tìm kho báu. Vì thế, thuở ban đầu, cụm từ ‘các tổ chức theo sau Morton Stanley’ dùng để chỉ những tổ chức hình thành thông qua sự tuyên truyền của Morton Stanley hoặc có liên quan đến con người này. Bởi vì họ sống trong thời đại công nghiệp hóa, nên rất nhiều tổ chức đã có thông tin xác thực và sử liệu để tra xét. Cho đến hôm nay, ‘các tổ chức theo sau Morton Stanley’, mà chúng ta nói, đã chuyển biến thành những tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chính thức có thể thống kê được.”
Trác Mộc Cường Ba “ồ” lên một tiếng, nói: “Cũng có nghĩa là, tất cả những tổ chức chúng ta biết được từ trước đến giờ, đều thuộc loại theo sau Morton Stanley này?”
Pháp sư Tháp Tây không khỏi bật cười, nói: “Chính xác hơn, trước mắt những gì mọi người biết đến, chỉ hạn hẹp ở một mình Morton Stanley mà thôi, không thể nói là đã hiểu biết về các tổ chức theo sau ông ta được, bằng không, khi một người trong số họ đến tìm cậu, cậu cũng đâu cần phải kinh ngạc đến thế.”
Trác Mộc Cường Ba thở dài một hơi, tự vấn bản thân, rốt cuộc, còn bao nhiêu bí mật mà gã hoàn toàn không hề hay biết như vậy nữa chứ? Gã lại không khỏi liếc sang phía Lữ Cánh Nam, nhưng cũng nhìn thấy nét mặt cô chẳng khác mình là bao nhiêu.
Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Cậu không cần phải nhìn Cánh Nam. Cô ấy, và cả pháp sư Á La, cũng giống như tất cả mọi người trong đội của cậu, đều hoàn toàn không hề hay biết gì cả.” Thấy nụ cười gượng gạo trên mặt Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Tháp Tây lại giải thích: “Cậu có biết rằng, dù là những tổ chức theo sau Morton Stanley ở ngoại vi nhất, bình thường nhất cũng đã tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đến hai ba chục năm rồi, còn các cậu chẳng qua mới tiếp xúc với những gì liên quan đến Bạc Ba La thần miếu được hơn hai năm, vì vậy, không thể chuyện gì cũng biết hết được.”
Nói đoạn, pháp sư Tháp Tây quay sang nhìn Lữ Cánh Nam, nói: “Còn nhà nước chúng ta, mới thực sự chú ý đến Bạc Ba La thần miếu kể từ sau năm 19…, vì lúc đó có quá nhiều tổ chức trong dân gian ùn ùn kéo về đỉnh Chomolungma, nên mới khiến chính quyền lưu ý. Tuy rằng dự án khảo sát do nhà nước thành lập đã thu thập được một lượng tư liệu rất phong phú, nhưng dù sao cũng bắt đầu quá muộn, trong lịch sử nghìn năm mất tích của Bạc Ba La thần miếu, không thể còn lại quá nhiều thông tin bề mặt để họ tra xét được. Hiện giờ, các tài liệu mà nhà nước ta đang có trong tay, đại khái cũng không hơn kém gì nhiều so với một số tổ chức lớn thuộc nhóm các tổ chức theo sau Morton Stanley đâu.”
Nói tới đây, pháp sư Tháp Tây lại quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba: “Vì vậy, thành tích mọi người đạt được hôm nay, gần như đã có thể nói là một kỳ tích rồi. Dường như…” Pháp sư Tháp Tây hít sâu một hơi, nói tiếp: “Dường như đức Phật vạn năng trong cõi vô minh đang chỉ đường dẫn lối. Từ khi nửa quyểnCổ cách kim thưkia xuất hiện trên thế gian, rồi đến sự xuất hiện của Qua Ba tộc, sự xuất hiện của địa cung Maya, từng bước, từng bước đều đi vào nẻo chính. Và tấm bản đồ dẫn đến Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự đoạt được của Merkin, càng khiến mọi người có những phát hiện xưa nay chưa từng có. Khi pháp sư Á La kể lại những gì mọi người đã trải qua, cả hội đồng trưởng lão thảy đều chấn động. Các vị trưởng lão đã nhất trí cho rằng, đây là lần tìm kiếm đưa chúng ta đến gần Bạc Ba La thần miếu nhất từ trước đến nay, vì vậy, đã phái tôi đến toàn lực trợ giúp mọi người.”
Vừa nghe thấy pháp sư Tháp Tây nói được hội đồng gì đó phái đến, Trác Mộc Cường Ba liền tỏ ra hết sức kính nể, thầm nhủ chức vị của pháp sư Tháp Tây trong tôn giáo của bọn họ nhất định phải cao lắm. Trong lòng nghĩ thế, gã liền hỏi luôn. Lữ Cánh Nam ở bên cạnh vội đánh mắt ra hiệu. Trác Mộc Cường Ba lúc ấy mới biết, nhất định là gã đã chạm đến vấn đề không nên hỏi.
Pháp sư Tháp Tây vẫn chỉ cười hiền: “Địa vị? Nói thế nào nhỉ, thực ra chúng tôi hoàn toàn không phải là một tôn giáo hoàn chỉnh, tất cả các Mật tu giả đều phân tán trong các giáo phái khác nhau, thậm chí trong đó còn có cả những người bình thường không có tôn giáo tín ngưỡng gì cả, chỉ tu hành một số thuật Du Già và phương pháp luyện khí. Cường Ba thiếu giamuốn hiểu rõ địa vị cao thấp của mỗi người e rằng hơi khó. Hơn nữa, thật đáng tiếc là, thân phận của tôi vốn không đủ để tham gia với mọi người đâu, chỉ vì Cường Ba thiếu gia đã trúng phải cổ độc, mà tôi vừa khéo lại biết một chút y thuật cổ xưa, các vị trưởng lão mới phái tôi đến thôi. Nếu nhất định muốn làm rõ địa vị của tôi, vậy… cứ coi như cỡ cỡ pháp sư Á La vậy.” Câu cuối cùng ấy, ông vừa nói vừa nhìn sang phía Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam liền lảng sang chủ đề khác: “Pháp sư Tháp Tây, phiền ngài cho chúng tôi biết thêm về tên Merkin đó với.” Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Đúng thế, vừa nãy nghe pháp sư nói vậy, chắc tên Merkin đó thuộc loại ‘ngoại bí’ rồi đúng không?”
“Đúng vậy,” pháp sư Tháp Tây nói: “Tên Merkin này, chính là một điển hình của ‘ngoại bí’. Trước khi xuất hiện, thân thế hắn là một dấu hỏi, sau khi xuất hiện, hành tung cũng hết sức ẩn mật, bất kể là dựa theo kênh nào, cũng rất khó thu thập được thông tin chuẩn xác về hắn. Thân thủ ấy, vốn liếng ấy, kiến thức ấy đều không thể một sớm một chiều mà có được, hắn cũng không phải vô duyên vô cớ mà tự dưng đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đâu. Sau lưng con người này, ít nhất cũng phải có một gia tộc, hoặc là một tổ chức nào đó. Dựa trên những thông tin được pháp sư Á La đưa về, các vị trưởng lão nghiêng về hướng kẻ này thuộc về một tổ chức ngoại bí, tên gọi là 13 Hiệp Sĩ Bàn Tròn.”
“13 Hiệp sĩ Bàn Tròn?” Trác Mộc Cường Ba mới lần đầu tiên nghe thấy tên tổ chức ấy. Lữ Cánh Nam cũng giật thót mình. Tuy đã nghe pháp sư Á La nhắc đến tổ chức này, nhưng cô cũng rất xa lạ với nó. Nghe nói, cả các vị trưởng lão cũng không rõ thực lực của tổ chức này như thế nào.
Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Đúng vậy, tổ chức 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn này, thời điểm thành lập cụ thể không rõ là vào thời gian nào, nhưng tóm lại chắc là được thành lập sau Thế chiến II, và cũng chỉ bắt đầu hoạt động mạnh từ hai ba chục năm gần đây. Nhưng chúng lại là tổ chức ‘ngoại bí’ có thực lực mạnh nhất, bởi từ khi tổ chức này xuất hiện, những tổ chức bí mật khác thuộc loại này đều lần lượt biến mất. Theo suy đoán của các vị trưởng lão, có lẽ 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn đã tiêu diệt đối thủ cạnh tranh, đồng thời đoạt lấy các tư liệu trong tay đối phương. Trong tổ chức này, tất cả đều có kỹ năng thámhiểm chuyên nghiệp cực cao, chúng ta đã từng giao tranh mấy lần với chúng, có thắng có thua. Nhưng, những Mật tu giả từng tiếp xúc với đám người này kể rằng, mỗi người bọn họ đều có một hai sở trường đặc biệt, có kẻ sở trường chiến đấu tay không, cải tạo súng ống, vũ khí, cải trang giả dạng, lại có kẻ nắm rõ các loại cơ quan, cạm bẫy như lòng bàn tay, có người lại sở hữu y thuật cực kỳ cao siêu. Từng có vị tiền bối của chúng ta tìm được xác chết của đồng bọn bị chúng bỏ rơi lại trên đường chạy trốn, phát hiện ra đám người này còn có thể thực hiện phẫu thuật cấy ghép chi giữa vùng hoang dã.Ngoài ra còn một số kẻ nắm rõ giá cả thị trường của các loại cổ vật, mỗi lần trộm cắp, đều lấy đi những thứ giá trị cao nhất.”
Lữ Cánh Nam thần người, lẩm bẩm nói: “Không ngờ lại có một tổ chức như vậy? Sao chúng tôi hoàn toàn không hề hay biết về chúng nhỉ?”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Nếu bọn chúng bị nhà nước để mắt đến, thì đã không gọi là ‘ngoại bí’ rồi. Hành tung của những người này hết sức bí mật, những Mật tu giả từng tiếp xúc nói rằng, mặc dù bọn chúng thống nhất dùng tiếng Anh trao đổi, nhưng khẩu âm mỗi người mỗi khác, vì vậy chúng tôi cho rằng, có khả năng các thành viên của tổ chức này đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới, chẳng những vậy, mỗi người đều có một thân phận xã hội làm vỏ bọc. Còn chuyện họ tiếp nhận huấn luyện ở đâu, rồi liên lạc với nhau như thế nào, đó đều là những câu đố chưa lời giải đáp. Có điều, theo những gì chúng tôi được biết, dường như biên giới giữa các nước hoàn toàn không hề tồn tại đối với đám người này. Bọn họ cũng không chỉ để mắt đến Bạc Ba La thần miếu, tất cả những nơi có khả năng xuất hiện lăng mộ lớn trên thế giới đều có đám người này thấp thoáng ẩn hiện, mỗi lần xuất hiện, đều là một nhóm mười ba người. Tôi phỏng đoán, danh xưng 13 Hiệp Sĩ Bàn Tròn hẳn cũng là từ đây mà ra.”
Gia tộc Bạc Ba La
“Phỏng đoán?” Trác Mộc Cường Ba thoáng sững người, rồi lập tức hiểu ngay, chức vị của pháp sư Tháp Tây quá thấp, ông cũng không có cách nào hiểu rõ được toàn bộ sự việc từ đầu chí cuối, hầu hết những gì ông biết đều là nghe các vị trưởng lão nói lại, còn những chuyện không biết, cũng chỉ còn cách phỏng đoán mà thôi. “Vậy thì, Merkin và 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn có quan hệ gì chứ?” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi tiếp.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Cậu không cảm thấy thân phận của Merkin và những thành viên khác của 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn rất giống nhau hay sao? Y đột nhiên xuất hiện, thân phận trước đó lại cực kỳ thần bí, hơn nữa còn có thân thủ cực cao cường, đã từng nghiên cứu tương đối về phương pháp tác chiến của bộ đội đặc chủng. Và quan trọng nhất là, từ lúc xuất hiện đến giờ, y vẫn ngấm ngầm làm nghề trộm báu vật trong các mộ cổ.”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Cũng có khả năng ngẫu nhiên trùng hợp mà.”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Còn một chuyện nữa, cậu nghe sẽ biết ngay. Từ khi xuất hiện trên cõi đời này, 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn lúc nào cũng hết sức hùng hổ, khí thế kinh người, thứ bọn chúng muốn là ắt phải giành cho bằng được, chưa từng có kẻ nào ngăn cản được bước chân chúng cả. Có điều, riêng đối với việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn lại liên tiếp gặp trở ngại. Tổ chức này cũng tương đối tài giỏi, càng bị ngăn trở, càng thất bại càng mạnh mẽ, nếu lần nào bị tổn thất về người, chỉ hai ba năm sau là bọn họ lại có thể tập hợp đủ mười ba người, trở lại Tây Tạng lần nữa. Lần nào đám người này cũng hết sức hung hăng, đột nhiên xuất hiện, mà hễ rời khỏi Tây Tạng là biến mất tăm mất tích, chúng tôi đã giao thủ nhiều lần với chúng, nhưng từ đó đến giờ vẫn chưa tìm hiểu được nội tình bên trong tổ chức này như thế nào, quy mô của họ ra sao, căn cứ huấn luyện đặt ở đâu, cơ cấu và phân bố người ra sao, tất cả đều là những câu đố chưa lời giải đáp. Nhưng đại khái khoảng tám chín năm trước, tổ chức này dường như đã hoàn toàn từ bỏ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, không thấy xuất hiện ở Tây Tạng nữa.”
“Tám chín năm trước…” Trác Mộc Cường Ba giật mình, “đó chẳng phải chính là…”
Pháp sư Tháp Tây tiếp lời: “Không sai, đó chính là khoảng thời gian Merkin đột nhiên xuất hiện. Cậu vẫn có thể nói đây là một sự trùng hợp, nhưng chớ quên rằng, bên cạnh Merkin còn có một người áo xám nữa, theo những gì pháp sư Á La báo về, rất có khả năng kẻ này là một thao thú sư. Mà trong 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, vừa khéo cũng có một tên thao thú sư. Các Mật tu giả từng đụng độ với đám người đó, cũng có không ít người đã bị tên thao thú sư này cho nếm mùi thiệt thòi rồi. Nếu thân phận vỏ bọc ngoài xã hội của tên thao thú sư này là nhà động vật học Soares Kahn, thì lần đầu tiên y công bố luận văn làm cả giới học thuật chấn động, cũng vào khoảng tám chín năm về trước. Trước thời gian ấy, y chỉ là một nghiên cứu viên tầm thường không hề nổi bật, thậm chí có thể nói rằng, chẳng ai biết y đang làm gì nữa.”
Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng nói: “Chuyện này…”
Pháp sư Tháp Tây lại tiếp lời: “Chúng tôi cũng cảm thấy hết sức kỳ quái, rốt cuộc trong nội bộ tổ chức 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn này đã xảy ra chuyện gì, tại sao chúng lại đột nhiên từ bỏ Bạc Ba La thần miếu? Mãi đến khi mọi người từ châu Mỹ trở về, chúng tôi mới có một kết luận giả định.”
“Kết luận giả định?” Trác Mộc Cường Ba lại thấy mơ hồ khó hiểu, gã lục lọi trong trí nhớ, cố nhớ trong rừng rậm châu Mỹ bọn gã đã gặp phải những gì? Điều đầu tiên lóe lên trong đầu gã, lại là lời cảnh cáo của Babatou, “kẻ địch không nhìn thấy mới là đáng sợ nhất”, cùng với đó, gã bắt đầu nhớ đến Babatou, đến làng của người Kukuer, đàn ong sát nhân, trận lũ, Bạch thành, nhưng những thứ đó, dường như chẳng hề có liên quan gì đến 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn và Merkin cả, sao có thể xếp chung vào với nhau được chứ? Gã tập trung tinh lực, chăm chú lắng nghe pháp sư Tháp Tây nói tiếp.
Nhưng những lời pháp sư nói tiếp sau đó, lập tức khiến Trác Mộc Cường Ba nhớ đến nhiều chuyện hơn nữa, đồng thời cũng bừng tỉnh ngộ. “Khi cuối cùng mọi người cũng đến địa cung Ahezt, tất cả châu báu trong đó đã biến mất, hơn nữa trên cánh cửa đá cuối cùng, có bảy lỗ khóa thì năm lỗ đã có chìa, điều này chứng tỏ rằng địa cung đã từng bị bọn trộm ‘ghé thăm’, có phải không? Trong đó có rất nhiều cơ quan, nghe nói đám quân du kích vào đó hầu như là chết sạch cả, bản thân cậu cũng từng đi qua đó, chắc hẳn cũng có cảm ngộ sâu sắc chứ, phải vậy không? Thế nhưng, cùng lúc đó, người áo xám bên cạnh Merkin lại có thể tìm ra trung tâm của địa cung một cách hết sức chuẩn xác, hơn nữa lại còn biết cách sử dụng chìa khóa mở cánh cửa cuối cùng ấy ra, tất cả những điều đó đều chứng tỏ một điều rằng, y đã từng đến đó rồi. Thậm chí y còn rất chắc chắn rằng, đằng sau cánh cửa cuối cùng vẫn chưa được mở ra ấy có thứ y muốn tìm.”
Thấy Trác Mộc Cường Ba mở miệng muốn nói gì đó, nhưng pháp sư Tháp Tây vẫn không ngừng lại: “Hơn nữa, người nô lệ được pháp sư Á La cứu ra khỏi bộ lạc ăn thịt người đã chứng thực thêm cho suy đoán của chúng tôi. Khoảng tám chín năm trước, y và mười hai người khác trong đội đã vượt qua trùng trùng hiểm nguy, tiến vào tòa địa cung nguy hiểm đó, nhưng những nguy cơ trong rừng sâu còn đáng sợ hơn nhiều so với những gì bọn y tưởng tượng, còn chưa đến được địa cung đã tổn thất mất mấy người. Bởi vậy, khi liên hệ tất cả các sự việc với nhau thì đã rất rõ ràng, không hiểu từ đâu mà 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn biết được thông tin rằng đầu mối để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu có khả năng xuất hiện ở Nam Mỹ,vì vậy chúng mới vội vã rời khỏi Tây Tạng, tìm đến địa cung của người Maya. Kết quả là, lần đó bọn chúng đã tổn thất cực kỳ nặng nề, rất có khả năng là chỉ còn hai người Merkin và Soares sống sót, hơn nữa rốt cuộc bọn chúng cũng không mở được cánh cửa đá cuối cùng. Lần hành động đó, chắc chắn đã cho bọn chúng một bài học đau đớn nhớ đời, đồng thời cũng khiến tổ chức đó không thể nào hồi phục trong cả một thời gian dài. Mãi cho đến hai năm trước, Merkin mới tự đứng lên, lại bắt đầu tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chỉ có điều, lần này đồng bọn của hắn không còn mười ba người nữa, mà chỉ còn có một người duy nhất.”
Những câu hỏi Trác Mộc Cường Ba đã sắp xếp sẵn trong óc giờ đã bị làm cho nháo nhào hết cả lên. Gã đành nhìn chằm chằm vào Lữ Cánh Nam, ánh mắt nghi hoặc rõ ràng như đang hỏi: “Chuyện này, sao tôi không biết gì cả vậy?”
Nét mặt Lữ Cánh Nam tỏ vẻ xin lỗi, như cười mà không phải cười.Pháp sư Tháp Tây lại nói: “Sự tình là như vậy đấy, cậu còn điều gì muốn hỏi nữa không, Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Nếu nói như vậy, Merkin là một trong 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, trong tay hắn chắc phải có rất nhiều tư liệu về Bạc Ba La thần miếu mới đúng, tại sao hắn lại để ý đến tôi? Trong mắt hắn, lẽ ra tôi phải là một kẻ vô danh tiểu tốt, nhỏ nhoi đến mức không đáng để mắt mới phải chứ?”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Trước mắt chúng tôi chỉ có thể cho rằng, có lẽ người Qua Ba ở Mông Hà đã gắn liền hai người với nhau. Hoặc giả, khi cậu tiếp xúc với người điên ở Mông Hà, Merkin đã ngấm ngầm phát hiện ra. Theo tư liệu chúng tôi có được, Merkin là một kẻ rất đa nghi, nhất định hắn muốn làm cho rõ, tại sao cậu lại đi tìm người điên ở Mông Hà đó, vì vậy mới theo dõi điều tra cậu. Hơn nữa trong cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu này, tổ chức 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn đã chịu tổn thất quá lớn, bọn chúng chắc chắn sẽ không chịu bỏ qua bất cứ đầu mối nào có liên quan đến thần miếu đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi vẫn muốn hỏi, tại sao hắn lại tìm được người Qua Ba ở Mông Hà đó chứ?” Các ý nghĩ không ngừng xoay chuyển trong đầu, nhưng trước sau gã vẫn không thể lần ra một đầu mối rõ ràng. Những lời của pháp sư Tháp Tây tuy bề ngoài có vẻ rất thông tình đạt lý, nhưng lại có rất nhiều chi tiết không thể không cân nhắc. Chuyện này thoạt nghe cứ như câu chuyện bịa vậy, hơn thế nữa, có rất nhiều điểm khiến gã không khỏi nghi ngờ. Có thể Merkin đúng là thành viên của 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn thật, nhưng tại sao hắn phải tìm gã làm gì? Từ khi ở Khả Khả Tây Lý hắn đã bắt đầu lùng theo gã, nhưng lúc đó chẳng phải gã thậm chí còn chưa nghe thấy ba chữ “Bạc Ba La” bao giờ hay sao? Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba thầm cười khổ một tiếng, rồi lại thở dài, khi gã tưởng mình đã nắm được rất nhiều tư liệu rồi, bỗng nhiên lại phát hiện ra, những thứ đó chỉ là một phần rất nhỏ, nhỏ đến không thể nào nhỏ hơn được nữa, rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu kia còn ẩn chứa bao nhiêu điều bí mật nữa đây?
Đúng lúc Trác Mộc Cường Ba bắt đầu tin rằng Merkin là một trong 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, điện thoại di động của Lữ Cánh Nam chợt đổ chuông. Cô bắt máy rồi nói với Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Tháp Tây: “Giáo sư ở trên mạng, bảo bật máy tính lên, ông có thứ này muốn cho chúng ta xem.” Nói rồi, cô với tay bật máy tính.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, hỏi: “Ở đây cũng có mạng không dây à?” Lữ Cánh Nam chỉ tay sang căn phòng bên cạnh: “Chúng tôi lắp hệ thống khuếch đại tín hiệu, chỉ cần nằm trong tầm che phủ của vệ tinh là có mà.”
Hệ thống webcam kết nối xong, giáo sư Phương Tân hỏi: “Cường Ba đến rồi hả?” Thấy Trác Mộc Cường Ba đứng một bên, ông liền cầm tập tài liệu lên nói: “Đây là tài liệu các cậu mang từ Nga về, mọi người xem cái này đi.” Trên màn hình máy tính xuất hiện một vật trông như bức thư, chữ viết tay, văn tự đều là chữ cái Latin, nhưng Trác Mộc Cường Ba không đọc được. Lữ Cánh Nam cũng không biết thứ tiếng này, liền hỏi: “Đây là tiếng nước nào vậy?” Lúc này, Trác Mộc Cường Ba bỗng trông thấy tên người viết thư ở phía dưới. Nhóm ký hiệu cuối cùng đó trông hết sức quen mắt, gã lập tức có phản ứng, tên của Merkin, ký hiệu này chính là biểu thị tên của Merkin.
Giáo sư Phương Tân nói: “Tiếng Bồ Đào Nha, tôi đã nhờ người dịch ra rồi, bản dịch đây. Bức thư này được viết từ thế kỷ mười bảy, do một nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha tên là Marcus Merkin viết cho một giáo sĩ Tây Ban Nha tên là Palacio Stanley.”
Trên máy tính xuất hiện bản dịch, mấy đoạn đầu đều là hỏi han xã giao và thảo luận về tôn giáo, từ đoạn thứ tư trở đi được giáo sư đánh dấu bằng bút đỏ, nội dung là người tên Merkin ở thế kỷ mười bảy kia hỏi về bản thảo viết tay của ông ngoại Palacio. Trong thư, Merkin nói, ông ta biết ông ngoại của Palacio đã từng đi Maya, đồng thời còn đọc rất nhiều thư tịch của họ, mong được xem thứ văn tự Maya đã được ông ngoại của Palacio giải dịch, và hỏi dò xem trong các ghi chép của người Maya có nhắc đến một nơi nào gọi là Bạc Ba La hay không. Bên cạnh bức thư còn có chú thích riêng của các chuyên gia, ghi rằng dịch âm có thể đọc là“mubala”hoặc“shamubala”.
Căn phòng xây bằng đá tĩnh lặng như tờ, không khí toát lên một vẻ kỳ dị khó tả, cả ba người nhìn chằm chằm vào bức thư đã được dịch ra trên màn hình máy tính, suốt một lúc lâu, không ai cất tiếng nói gì cả. Trác Mộc Cường Ba đọc đi đọc lại ba lần, xác định không bỏ sót một chữ nào, mới dè dặt lên tiếng: “Merkin này, và Merkin kia…”
Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Tôi xem nội dung bức thư trước, rồi sau mới chú ý đến cái tên này, không chỉ có Merkin thôi đâu, cậu nhìn rõ đi, đây là thư Merkin gửi cho Stanley, nếu cậu vẫn chưa chú ý, để tôi nhắc cho cậu nhé, chúng ta còn có một nhà thám hiểm tên là Morton Stanley đấy.” Cặp mắt vốn đã trợn tròn lên của Trác Mộc Cường Ba lại càng trợn to hơn nữa.
Giáo sư Phương Tân tiếp tục nói: “Sau khi phát hiện ra điểm này, tôi liền lập tức dùng máy tính tìm kiếm trong tất cả tài liệu mà cậu và Ba Tang đi Nga mang về những tổ hợp chữ cái tương tự, thì thấy cái tên Merkin này còn xuất hiện ở một nơi khác nữa. Trong một văn kiện khác, quân Đức có phái một nhân viên điệp báo quốc tịch nước ngoài tên là Hector Merkin đến tiềm phục tại Công viên Bletchley[13], nhưng sau khi thâm nhập vào đó thành công liền mất liên lạc. Văn kiện này là do tuyến trên của điệp viên mật ấy gửi đi cho cấp trên của họ, báo cáo rằng Hector Merkin rất có thể là gián điệp haimang. Sau đó không lâu, quân Đồng minh phá giải được mật mã Enigma của Đức. Thông qua một số nguồn khác nhau, tôi tìm hiểu được, người tên Hector Merkin ấy đã từng làm việc chung một tổ với Alan Turing, tham gia phá giải mật mã của quân Đức, nhưng khi Thế chiến II kết thúc, quân Mỹ lại che giấu thông tin về thân phận của người này. Về sau Liên Xô đã từng thử tìm kiếm người tên Merkin đó, nhưng cuối cùng cũng không có kết quả gì. Tuy nhiên, dựa theo hồi ức của một thành viên trong tổ phá giải mật mã ấy, tay Merkin này có giọng Bồ Đào Nha rất nặng. Còn Stanley thì ngoài Morton Stanley sau này ra, không phát hiện ra người nào khác nữa. Tôi cũng không biết đây rốt cuộc có phải trùng hợp hay không, vì vậy mới lập tức báo với mọi người ngay.”
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, nhìn Lữ Cánh Nam và pháp sư Tháp Tây, hỏi: “Đây, đây rốt cuộc là như thế nào?”
Gương mặt Lữ Cánh Nam không để lộ ra cảm xúc gì, nói như lẩm bẩm một mình: “Chắc không phải là trùng hợp, tuy Merkin trước sau đã có quốc tịch ba nước Mỹ, Anh, Pháp, nhưng quốc tịch gốc của hắn là ở Bồ Đào Nha, đây là thông tin chính xác đã được điều tra xác minh hết sức cẩn thận.”
Thần sắc pháp sư Tháp Tây lại phức tạp lạ thường, hồi lâu sau, mới thở dài cất tiếng: “Nói như vậy, hóa ra những suy đoán trước đây của chúng ta về Merkin là sai rồi? Không ngờ hắn lại là người của gia tộc Bạc Ba La!” “Gia tộc Bạc Ba La!” Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam và cả giáo sư Phương Tân trong máy tính cùng lúc thốt lên.
Pháp sư Tháp Tây nói: “Đúng thế, gia tộc Bạc Ba La, có thể nói là tổ chức ‘ngoại bí’ xuất hiện tương đối sớm, trong các tư liệu xưa cũng có nhắc đến một chút. Gia tộc này xuất hiện vào khoảng năm 1700. Vì thời bấy giờ ở Tây Tạng rất hiếm người nước ngoài tóc vàng mắt xanh, nên trong các thư tịch cổ mới có ghi chép về gia tộc này. Từ lúc xuất hiện ở Tây Tạng, những người này đã tuyên bố Bạc Ba La thần miếu là sản nghiệp của gia tộc nhà họ, họ đến Tây Tạng là để thu hồi tài sản. Gia tộc này xuất hiện còn sớm hơn cả Morton Stanley, nhưng họ đã đưa ra ba chữ ‘Bạc Ba La’ trùng khớp với cách gọi Bạc Ba La thần miếu trong sử thi Cát Đức Ni Mã Cổn. Có điều, dựa theo những ghi chép trong sách cổ, thành viên trong gia tộc này tự xưng là họ ‘Mục’ mới đúng.”
“Họ người nước ngoài thường ở phía sau, Mục hay Merkin chắc chỉ là vấn đề dịch âm thôi.” Giáo sư Phương Tân nói: “Có còn tư liệu gì khác về gia tộc này nữa không, pháp sư?”
Pháp sư Tháp Tây đáp: “Cũng không nhiều lắm, mới đầu gia tộc này còn xuất hiện tương đối nhiều. Đại khái cứ cách khoảng hai ba chục năm lại có một người tự xưng là thành viên gia tộc này đến Tây Tạng, nhưng về sau họ cũng dần dần biến mất. Trước khi Morton Stanley xuất hiện, bọn họ đã hoàn toàn không còn tăm tích gì nữa rồi. Nhưng còn lá thư này, lẽ nào từ thời đó, gia tộc này đã biết có đầu mối liên quan đến Bạc Ba La thần miếu bị đưa sang châu Mỹ rồi hay sao? Làm sao họ biết được? Không lẽ gia tộc họ và Bạc Ba La thần miếu thật sự có mối quan hệ gì đó hay sao?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Xem ra, tôi còn phải đọc thêm một số tài liệu nữa. E rằng những sự việc và con người liên quan đến tòa thần miếu nghìn năm này đều vượt quá những gì chúng ta suy tính rồi.”
Sau khi giáo sư ngắt tín hiệu, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam vẫn nhìn chằm chằm vào bức thư trên màn hình máy tính. Lúc đưa mắt nhìn nhau, cả hai người cùng lúc dâng trào một cảm giác, rằng đời người so với lịch sử, quả thực là quá ngắn ngủi.
Sau đó Lữ Cánh Nam và pháp sư Tháp Tây muốn bàn chuyện riêng, Trác Mộc Cường Ba ra ngoài trước, thậm chí gã còn không nhớ mình đã đi ra khỏi gian phòng đá ấy như thế nào, trong đầu đầy những dấu hỏi. 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, gia tộc Bạc Ba La, những thông tin chưa từng biết đến bao giờ ấy cũng cần một thời gian mới tiêu hóa được hết, mà những vấn đề kéo theo đằng sau chúng cũng mỗi lúc một nhiều. Rốt cuộc Merkin là thành viên của 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn hay của gia tộc Bạc Ba La? 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn đã tiêu vong thật chưa? Tại sao gia tộc Bạc Ba La kia lại tuyên bố rằng Bạc Ba La thần miếu là sản nghiệp của họ? Ban đầu, cứ cách hai ba chục năm lại có một người nước ngoài họ “Mục” đến Tây Tạng tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, cũng có nghĩa là, mỗi đời gia tộc Merkin đều có người đến Tây Tạng tìm kiếm, nhưng cuối cùng đều phải trở về không công, vậy về sau họ đã biến đi đâu mất? Làm sao họ biết được thông tin về Bạc Ba La thần miếu ở châu Mỹ? Những vấn đề này, Trác Mộc Cường Ba không hề có một chút đầu mối nào, càng không nói gì đến chuyện làm rõ quan hệ giữa chúng. Còn cả cảm giác tức giận khó hiểu đối với Lữ Cánh Nam lúc trước khi pháp sư Tháp Tây vào căn phòng đó nữa, tại sao gã lại đột nhiên tức giận như vậy nhỉ?
Trác Mộc Cường Ba vừa đi vừa nghĩ, tâm tư rối bời, định bụng bước thẳng ra ngoài hít thở chút không khí trong lành, đang ở chỗ ngoặt ra cửa thì đụng phải một người. Đúng lúc hai người va phải nhau, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ, lần đầu tiên tên béo đến tìm gã, gã đang ở Thượng Hải, làm sao hắn biết được địa chỉ của gã cơ chứ? Sự thực thì người có thể nghĩ ra được gã có khả năng ở Thượng Hải, lại biết gã đang đi tìm Bạc Ba La thần miếu, e rằng chỉ có một mà thôi… Đó chính là thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân!
Trác Mộc Cường Ba hiểu ra tại sao mình lại đột nhiên phẫn nộ như vậy. Lữ Cánh Nam đã ngầm ám thị, trực tiếp chỉ đầu mũi giáo về phía người gã tôn kính nhất. Trác Mộc Cường Ba thầm mắng mình một tiếng: “Nếu ngay cả thầy giáo cũng bị nghi ngờ, chuyện tìm kiếm Tử kỳ lân thử hỏi còn ý nghĩa gì nữa, chi bằng giải tán cho sớm đi còn hơn!”
Những ý nghĩ ấy chỉ lóe lên trong óc gã rồi lập tức tan biến, Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng không nghĩ đến nó nữa. Thấy người đụng phải mình kia ngã bổ ngửa ra đất, gã vội đỡ anh ta dậy. Người ấy có gương mặt vuông vắn, chắc khoảng hơn ba mươi, nhưng dung mạo hơi già cỗi, tay cầm một quyển sách, vừa thấy Trác Mộc Cường Ba, liền lập tức nở một nụ cười rạng rỡ ánh nắng “kiểu Nhạc Dương”: “Ồ, Cường Ba thiếu gia, anh ra ngoài tản bộ hả?”
Trác Mộc Cường Ba đang nhoẻn miệng mỉm cười, nói: “Anh…” đột nhiên bỗng đờ người ra. Gã nhớ rất rõ, vừa mới lúc nãy Nhạc Dương đã giới thiệu anh chàng này với mình rồi, nhưng bây giờ gã lại không thể nào nhớ ra nổi anh ta tên là gì nữa. Nhớ lại hồi hai năm trước, trong đại hội thương nghiệp hơn trăm người, mình chỉ nghe một lượt đã có thể nhớ hết toàn bộ tên những người bạn xa lạ đó, nụ cười của Trác Mộc Cường Ba không khỏi cứng lại, thầm nhủ: “Già rồi, già thậtrồi.”
Anh chàng kia hoàn toàn không để ý, gấp cuốn sách vào, rồi tự giới thiệu lần nữa: “Tôi tên là Trương Kiến, do đội trưởng Hồ Dương giới thiệu đến đây.” Anh ta vốn muốn bắt tay với Trác Mộc Cường Ba, nhưng thấy gã không đưa tay ra, lại thoáng ngần ngừ.
Thành viên mới (1)
“Rất vui được biết anh,” Trác Mộc Cường Ba chìa tay ra nắm lấy tay Trương Kiến. Gã chú ý đến cuốn sách anh ta đang cầm, một cuốn sách bọc bìa da màu vàng, đề sáu chữ Suối ngọt giữa lòng hoang mạc[14].
“Không ở chung với mọi người à?” Trác Mộc Cường Ba tiện miệng hỏi.
Trương Kiến đáp: “Tôi thích yên tĩnh, nên một mình ra ngoài đi dạo chút.”
“Vậy anh dẫn tôi đi quanh đây một vòng được không? Tôi cũng muốn xem xung quanh.” Trác Mộc Cường Ba nói. Trương Kiến gật đầu: “Được thôi.”
Hai người đi ra phía sau dãy nhà đá, vòng lên vách núi, qua khe sâu. Rừng sâu rậm rạp, suối nước róc rách âm vang, lũ chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi đã trở về. Nghe những tiếng chim ríu rít ấy, Trác Mộc Cường Ba có cảm tưởng như ban mai đang chầm chậm thả bước trong công viên vậy, chỉ có điều thay vì ánh nắng sớm là ráng chiều hoàng hôn rực rỡ.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh xem sách gì thế?” Gã thấy dọc đường Trương Kiến cầm cuốn sách ấy hết sức cẩn thận. Trương Kiến giơ cuốn sách lên, đưa tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba: “Giảng đạo…” nhưng rồi, hình như chợt nhớ ra Trác Mộc Cường Ba có thể không hiểu, liền đổi lại thành: “Một cuốn sách bồi dưỡng tâm linh.”
Trác Mộc Cường Ba đón lấy, lật qua phần giới thiệu và mục lục, đọc luôn vào trang đầu tiên, chỉ thấy viết: Ngày 1 tháng 1. Vùng đất các ngươi sẽ đến, là vùng đất có núi đồi, có thung lũng, có mưa thấm nhuần. Là vùng đất được Đức Jehovah chăm Vùng đất các ngươi sẽ đến, là vùng đất có núi đồi, có thung lũng, có mưa thấm nhuần. Là vùng đất được Đức Jehovah chăm. [15]
Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, bỏ qua một đoạn, lại thấy viết:
Có thể chạy nhảy trên đất bằng, không nên đã xem là đủ, chúng ta nên gắng sức đạt tới đỉnh cao nhất. Trên đỉnh núi, hạt sương thật sáng trong biết bao, đẹp đẽ biết bao, không khí thật trong lành tươi mới, cư dân nhàn hạ thanh thản, chỉ cần đẩy cửa ra là có thể thấy Jerusalem.
Có bao nhiêu tín đồ cam tâm tình nguyện sống cuộc đời như những người thợ mỏ, quanh năm không thấy mặt trời. Trên gương mặt họ lẽ ra phải là niềm vui hân hoan, nhưng lại phải gạt đi hàng nước mắt. Họ lẽ ra phải được tản bộ trên cung điện xa hoa, thưởng thức cảnh đẹp của Lebanon, nhưng lại thỏa mãn với sự khô cằn trong lao ngục. Tỉnh lại đi, hỡi các tín đồ, rời khỏi đất bằng của các ngươi, hãy nỗ lực vươn lên cao! Hãy vứt bỏ sự mệt mỏi, lười nhác, lạnh giá, và tất cả những gì ngăn cản ngươi theo đuổi Christ. Hãy để Người làm ngọn nguồn, làm trung tâm của ngươi, hãy đặt Người lên địa vị cao hơn tất thảy vạn vật. Chớ nên thỏa mãn với những gì ngươi đang sở hữu. Hãy khát khao một cuộc sống cao quý hơn, giàu có hơn.
Hãy hướng đến mùa xuân! Hãy đến gần Thiên đường hơn nữa, gần Chúa Trời hơn nữa! – Spurgeon[16].
Trác Mộc Cường Ba gấp sách lại, ngắm nghía bìa bọc màu cát sa mạc, rồi trả cho Trương Kiến, ngước mắt nhìn rừng núi màu xanh thẫm xung quanh, chậm rãi nói: “Anh tin vào… Thiên Chúa à?”
Trương Kiến đáp: “Cuốn sách này, khiến tâm hồn tôi được lấp đầy.” Anh ta hỏi ngược lại: “Cường Ba thiếu gia, anh không tin Phật à?”
Trác Mộc Cường Ba rảo chân bước lên hai bước, ra khỏi bóng râm, đứng bên mép con dốc, lặng lẽ nhìn rặng núi xa xa: “Không tin, Thần và Phật đều là những thứ do con người tạo ra mà thôi.” Nhưng tự sâu trong đáy lòng, lại có một tiếng nói hết sức nhỏ nhẹ cất lên: “Con à, con có tín ngưỡng đó…” Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, tựa hồ như muốn hất tung đập vụn những mảnh hồi ức ấy mà gạt ra ngoài tâm trí.
Trương Kiến bước lên, đứng sánh vai với Trác Mộc Cường Ba, đón ngọn gió chiều, chậm rãi nói: “Tôi từng bị ung thư, ung thư tế bào dạng vảy, một loại ung thư da ác tính, khi bệnh viện phát hiện ra thì đã di căn sang tế bào bạch huyết rồi, các bác sĩ nói, tỉ lệ sống sót của tôi rất thấp.”
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu liếc nhìn Trương Kiến, thấy người đàn ông rắn chắc có làn da ngăm ngăm đen này thoạt nhìn còn khỏe mạnh hơn cả Trương Lập, thật khó mà tưởng tượng anh ta đã từng bị ung thư.
Trương Kiến tự nói với mình: “Việc chữa trị đã tiêu sạch tiền của gia đình tôi tích lũy được, vợ tôi đòi chia tay, vậy là ly hôn luôn.”
Trác Mộc Cường Ba tròn mắt lên nhìn anh ta, chỉ nghe Trương Kiến lại nói tiếp: “Tôi không trách cô ấy, cô ấy vẫn còn trẻ, cần phải tiếp tục sống, cũng may là chúng tôi không có con. Có điều, sau khi cô ấy ra đi, chỉ còn lại một mình tôi nằm trên giường bệnh, trần nhà màu trắng, ga trải giường cũng màu trắng, tôi nghĩ, đời mình thôi thế là hết rồi, cảm giác cô độc khi bóng đêm về đó là thứ đáng sợ nhất trên đời. Đúng lúc ấy, các anh chị em trong giáo hội đã đến giúp tôi, họ cầu nguyện cho tôi, nói với tôi rằng Chúa sẽ không bỏ rơi bất cứ con người bất hạnh nào. Tin vào Chúa, cầu nguyện nơiNgười, Người sẽ gieo vào lòng mình hạt giống của Đạo, cứu rỗi linh hồn mình.”
Trác Mộc Cường Ba thầm giật thót mình, gã cũng vừa mới thoát ra khỏi nỗi cô độc tĩnh mịch đáng sợ ấy. Những lời của Trương Kiến khiến gã không khỏi hồi tưởng khách sạn nhỏ nơi gã bị dồn ép vào cửa. Nếu lúc đó có người vươn bàn tay về phía gã, giúp đỡ gã, liệu gã có giống như Trương Kiến hay không?
Trương Kiến không biết tâm tư của Trác Mộc Cường Ba, vẫn tiếp tục nói: “Lúc đầu, tôi cũng không sùng kính gì cho lắm, chỉ là hy vọng được giáo hội giúp đỡ cho phần nào mà thôi. Về sau, tất cả phí tổn nằm viện của tôi cũng đúng là được anh chị em trong giáo hội quyên góp lại mà trả giúp. Trong vòng năm năm, tôi làm hóa trị liệu bảy lần, bác sĩ nói, tôi sống được đúng là một kỳ tích. Giờ đây, trong cơ thể tôi đã không còn tế bào ung thư nào nữa. Có lẽ, anh nói rất đúng, thần thánh không hề tồn tại, nhưng có sao đâu, khi những người anh chị em đó của tôi chìa cánh tay họ ra, tôi có thể cảm nhận được sự ấm áp tồn tại xung quanh mình. Tôi yêu họ, cũng như họ yêu tôi, tôi cần đến họ, cũng như họ cần đến tôi, dưới ánh sáng của Chúa, chúng tôi lo lắng, thương yêu lẫn nhau, tương thân tương ái, đó mới là điều mà tôi tin thờ.”
Trương Kiến ngoảnh đầu lại nói: “Đội trưởng Hồ Dương từng nói với tôi, con người là một loài động vật có tính xã hội cao, sinh tồn trong cùng một môi trường, họ khát khao được giao lưu và chia sẻ, dựa dẫm lẫn nhau để sống sót. Một con người, nếu muốn sống một mình cô độc trên thế gian này, thực sự rất khó khăn đấy. Có nhìn thấy những ngọn núi kia không? Cường Ba thiếu gia,” Trương Kiến chỉ tay về phía rặng núi xa xa: “Tại sao chúng lại hình kim tự tháp chứ? Sở dĩ chúng cao như vậy, chẳng phải là vì chúng chồng chất lên nhau? Không có phần chân nền phía dưới, ngọn núi sao có thể nguy nga hùng vĩ? Nếu chỉ có một tảng đá lớn cao bằng cái gậy, liệu nó có thể cao được bao nhiêu đây? Một trăm mét, hai trăm mét? Làm sao có thể vút lên cả nghìn mét, chọc tới tận mây xanh? Con người cũng như vậy, sắt thép xi măng ở các thành phố khiến chúng ta trở nên xa lạ, nhưng trong lòng chúng ta trước sau vẫn khát khao được người khác tin cậy, được người khác cần đến, giống như một đại gia đình sống hòa thuận bên nhau vậy. Giáo hội của chúng tôi, chính là một đại gia đình như thế. Ở đó, ít ra anh cũng không cảm thấy cô độc. Khi tâm tình phiền muộn, tôi sẽ lấy Cựu Ước ra xem, bao nhiêu phiền não sẽ dần dần tan biến. Những lúc đối mặt với những lựa chọn khó khăn, tôi cũng tìm kiếm lời giải đáp trong Kinh Thánh. Trong đó, anh có thể tìm thấy lời giải cho tất cả mọi vấn đề.”
Trác Mộc Cường Ba không khỏi bật cười, dường như điển tịch của tất cả các tôn giáo đều như vậy cả. Cứ như có thể tìm thấy bất cứ đáp án nào trong đó, tất cả các vấn đề đều có thể giải quyết. Nếu thực sự có thể giải quyết tất cả các vấn đề, chỉ cần một tôn giáo, một cuốn kinh điển là đủ rồi, tại sao lại còn sinh ra nhiều giáo phái như thế, lại còn không ngừng tranh đấu với nhau nữa.
Trương Kiến nhướng mày nói: “Con người đều như vậy đó, những lúc nguy nan thì hy vọng được cứu rỗi, sống bình thường thì mong mỏi kỳ tích xuất hiện. Con người, cần phải có tín ngưỡng.”
Câu cuối cùng này đột nhiên lại trùng khớp với ký ức của Trác Mộc Cường Ba, âm thanh đó lại vọng lên từ nơi sâu thẳm đáy lòng gã: “Con à, con người, cần phải có tín ngưỡng.”
“Ê, Trương Kiến.” Phía xa xa có người gọi tướng lên. Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía có tiếng gọi, thấy hai bóng người đang từ bên kia dốc núi lại gần chỗ họ. “Cậu đang ngắm cảnh à!” Một người lớn tiếng hỏi. Trương Kiến cũng nói to đáp lời: “Hai người các anh, đi tuần xong rồi hả!”
Lúc hai người kia đến gần, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn rõ, một người trong đó tuổi tác lớn hơn hẳn, khoảng ngoài ngũ tuần, đầu đã hơi hói, trán hằn ba nếp nhăn vừa rộng vừa sâu, lại đeo thêm đôi kính tròn gọng nhựa đen khiến vẻ ngoài trông càng già nua, bước đi hết sức cẩn thận dè dặt; còn người kia, trông còn trẻ hơn Trương Kiến, đầu tóc bù xù, bước chân sải rộng, thoạt nhìn giống như một công nhân vừa ở công trình đi xuống, trước ngực đeo một chiếc máy ảnh kỹ thuật số dòng SLR to tướng, lúc bước đi, hai tay vẫn ôm khư khư cái máy ảnh, như thể sẵn sàng để có thể chụp bất cứ lúc nào.
“Uầy, Định Minh, đó là loài bướm gì thế? Đẹp quá!” Lúc Trương Kiến hỏi người tuổi tác tương đối lớn kia, Trác Mộc Cường Ba mới trông thấy, trên vai anh ta đang có một con bướm đậu vào, hai cánh chấp chới vẫy nhẹ, hiển nhiên là đã coi bờ vai người đó làm nơi dừng lại nghỉ ngơi. Chẳng trách anh ta lại bước cẩn thận như thế, hóa ra là sợ làm con bướm kinh động bay đi mất.
Người trung niên tên là Định Minh kia đáp: “… bên cạnh cậu là người mới đến hả?” Không đợi hai người họ bước lại gần, Trương Kiện đã hấp tấp giới thiệu: “Cường Ba thiếu gia đến rồi! Đây là Cường Ba thiếu gia!”
“Ồ!” Hai người liền guồng chân rảo bước lên, nhìn lom lom vào Trác Mộc Cường Ba ở khoảng cách gần. Người trẻ tuổi cười cười nói: “Đã nghe tiếng từ lâu!”
Còn người lớn tuổi hơn đã chìa tay ra, nói: “Tiền bối Trác Mộc Cường Ba, chào anh, tôi là Lê Định Minh, cũng là học sinh của thầy Phương Tân.” Con bướm đón gió bay lên, lượn quanh người Lê Định Minh một vòng, rồi vỗ cánh vút đi. “Vậy hả!” Trác Mộc Cường Ba vội nắm lấy bàn tay Lê Định Minh, cảm giác thân thiết hơn nhiều. Nghe anh ta gọi mình là tiền bối, gã liền hỏi: “Anh học khóa nào?”
Lê Định Minh đáp: “Sau anh một khóa. Tôi vẫn thường nghe thầy giáo Phương kể nhiều về anh.” Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Vậy năm nay anh…”
Lê Định Minh gượng cười đáp: “Qua mùa hè này là ba mươi tám rồi. Kha kha…” Anh ta sờ tay lên những nếp nhăn trên trán, nói: “Có lẽ trông tôi hơi già hơn một chút, đều do nghĩ ngợi lung tung cả đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy anh cũng học chuyên ngành động vật họ chó à?” Lê Định Minh lắc đầu: “Không, tôi chuyên nghiên cứu động vật lưỡng thê. Nghe thầy giáo nói, lần này mọi người đi thám hiểm, đã gặp được không ít loài động vật hiếm.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Rừng rậm nguyên sinh mà, chắc chắn là còn rất nhiều giống loài vẫn chưa được phát hiện.” Gã thấy người trẻ hơn kia nói chuyện với Trương Kiến mấy câu, rồi lặng lẽ đứng bên cạnh, liền nói: “Đây là…”
Trương Kiến đang chuẩn bị giới thiệu, người đó đã cướp lời anh ta, tự giới thiệu luôn: “Tôi ở cùng một đơn vị với Trương Kiến, đều do đội trưởng Hồ Dương giới thiệu đến. Tôi tên là Mạnh Hạo Nhiên, thời Đường có một nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên, ông ấy cùng tên cùng họ với tôi.”
Trương Kiến đứng bên cạnh nói đùa: “Cứ chém gió đi, có cậu cùng tên cùng họ với người ta ấy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Hai người làm ở đơn vị nào thế?”
Trương Kiến nói: “Tôi làm ở đại đội địa chất Tây Tạng, còn cậu ta thực ra không phải người của đơn vị chúng tôi, cậu ta là nhiếp ảnh gia núi cao, làm nghề tự do, còn cả bọn Nghiêm Dũng nữa, trước đây chúng tôi đều từng làm việc dưới quyền đội trưởng Hồ Dương.”
Mạnh Hạo Nhiên cười hì hì nói: “Nói dễ nghe một chút thì là nhiếp ảnh gia, thực ra chỉ là một tên nhàn rỗi hết chuyện, chỗ nào náo nhiệt là tôi tìm đến, phàm chuyện gì liên quan đến núi tuyết Tây Tạng là tôi đều khoái hết.” Nói rồi anh ta bật lại những bức ảnh mình vừa chụp được cho mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba xem.
Lê Định Minh nói: “Trở về thôi, chắc đến giờ cơm chay rồi.” Trương Kiến nhìn Trác Mộc Cường Ba, cười cười nói: “Hôm nay không ăn chay.” Ba người phá lên cười. Nhìn gương mặt vui vẻ của họ, trong lòng Trác Mộc Cường Ba cũng lấy làm cao hứng.
Bốn người cười cười nói nói trở lại dãy nhà đá. Thì ra Mạnh Hạo Nhiên cũng gần bằng tuổi Trương Kiến, vậy mà nhìn bề ngoài trông còn trẻ hơn cả Nhạc Dương. Anh ta hết sức đắc ý nói, đó là vấn đề bảo dưỡng thôi. Người đàn ông, cả ngày phơi sương phơi gió, cần giữ gìn nhất chính là gương mặt này.
Lúc về đến nơi, chị Trương đã sắp xếp ra một bàn đầy thức ăn. Các thành viên mới cứ ra ra vào vào, bận không ngơi tay. Thường ngày, việc ăn uống của những người này đều bị Lữ Cánh Nam khống chế nghiêm khắc, hôm nay nhân cơ hội Trác Mộc Cường Ba đến, bọn Nhạc Dương và Trương Lập đã xúi bẩy mọi người phá giới, ngấm ngầm bày cách, nói như đinh đóng cột rằng chắc chắn giáo quan sẽ không trách mắng, còn nguyên nhân tại sao lại như vậy, thì… hì hì hà hà, mọi người đều cười cười hiểu ý.
Thấy Trác Mộc Cường Ba trở về, ai nấy đều nhiệt tình chào hỏi, khiến gã có cảm giác như thể trở về buổi tiệc chiêu đãi doanh nghiệp thuở trước vậy. Mẫn Mẫn lại gần khẽ trách móc, căn vặn Trác Mộc Cường Ba sao mà nói chuyện lâu quá vậy. Trác Mộc Cường Ba cười gượng gạo, nói mình vừa ra ngoài tản bộ, nghĩ ngợi vài vấn đề. Hai người mới nói chuyện được hai ba câu, đã bị chị Trương kéo về phía bàn ăn. Nói theo kiểu của chị ta thì, đôi chim non nhà cô cậu thiếu gì thời gian chàng chàng thiếp thiếp, không cần phải nôn nóng làm gì, nghe nói Cường Ba của cô khỏe lắm, rất thích hợp làm cu li. Trác Mộc Cường Ba đỏ bừng cả mặt, cuống cuồng xua tay rối rít nói: “Nào dám, nào dám, sao so được với chịTrương.”
Chị Trương lại nói: “Ấy, cái gì mà chị Trương chị Trương chứ, gọi thế nghe già chết đi được. Cứ gọi tôi là Đình Hổ đi, tôi lớn hơn anh mấy tháng, gọi là Hổ Nhi thì không ổn lắm nhỉ.” Kế đó, chị lại gọi toáng lên: “Tiểu Nguyệt đâu, Nhạc Dương, cậu đi gọi mấy người nữa, mang thùng ra đây. Chúc Dật, cái đồ đần, còn ngây ra đấy làm gì hả, đi giúp bọn họ một tay nhanh lên. Mẫn Mẫn, vào bếp xem thử có đủ đồ ăn không.”
Một lát sau, Trương Lập và hai anh chàng trẻ tuổi khác đã khiêng vào một vò rượu to tướng. Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Còn có cả rượu à?”
Chị Trương nói: “Phải đấy, giáo quan nghĩ rất chu đáo, biết đám người chúng tôi đây gần như tên nào cũng là sâu rượu, nên đã đích thân chuẩn bị rượu thuốc sẵn đấy, mỗi ngày huấn luyện xong chúng tôi đều có rượu uống cả. Thứ rượu này mùi vị cũng không tồi, lát nữa anh phải uống nhiều một chút đấy, không sợ say đâu.”
Trác Mộc Cường Ba bất giác nhớ lại lúc bọn họ huấn luyện bị Lữ Cánh Nam bắt uống thuốc bắc, đắng không chịu nổi, xem ra đây đúng là xem người bốc thuốc rồi. Chị Trương lại quay sang sắp đặt sai phái mọi người dịch chuyển các thứ để đặt thêm mấy chiếc bàn nữa trong phòng.
Trác Mộc Cường Ba cười khen: “Chị Trương thật biết sắp xếp.”Trương Đình Hổ nói: “Đám lười nhác này, còn khó quản lý hơn nhân viên công ty nhiều, vẫn phải học theo Cánh Nam, dùng chút thủ đoạn sắt mới khiến họ phục được. À, phải rồi, nghe nói Lữ Cánh Nam thích anh, không biết có thật khôngvậy?” Trác Mộc Cường Ba: “…”
Bữa tối hôm ấy hết sức thịnh soạn, có thể nói là vượt xa tiêu chuẩn bình thường mà Lữ Cánh Nam quy định, nhưng quả nhiên cô chỉ phê bình một hai câu, chứ không nổi trận lôi đình. Chị Trương hướng về phía Trác Mộc Cường Ba chỉ chỉ trỏ trỏ, mọi người ai nấy đều ngầm hiểu, ánh mắt cực kỳ hàm ý, trong khi đó, hai kẻ gây chuyện là Nhạc Dương và Trương Lập lại giả bộ như chẳng hề trông thấy.
Cả một phòng đầy chật người, tổng cộng chia làm ba bàn, người nào người nấy đều tranh nhau kéo Trác Mộc Cường Ba lại ngồi bàn mình, nhưng tất nhiên là chẳng ai tranh được với chị Trương. Đối với Trác Mộc Cường Ba thì vừa kéo vừa lôi, còn người khác thì vừa đạp vừa quát, há miệng gầm lên một tiếng, khí thế chẳng khác nào sư vương Tạ Tốn ngày xưa. Có người nấp phía sau kêu lên: “Cướp chú rể đấy hả!” Cả đám lại cười ồ lên.
Bàn này thực ra chỉ có mình chị Trương là phụ nữ, còn lại toàn là đàn ông râu ria xồm xoàm, thân thể cường tráng, nhưng không một ai có cảm giác chị ta ngồi đây không thích hợp cả. Phải nói là quá thích hợp mới đúng. Tửu lượng của chị Trương này càng khiến Trác Mộc Cường Ba nhớ lại chính mình trong thời kỳ đỉnh cao nhất. Được ba tuần rượu, Ba Tang và một người râu ria xồm xoàm, mặt mũi rất hung hãn chơi oẳn tù tì uống rượu, tiếng qua tiếng lại, càng lúc càng ầm ĩ nhức óc. Chị Trương giới thiệu với Trác Mộc Cường Ba, người tướng mạo hung hãn ấy tên là Nghiêm Dũng, một chuyên gia leo núi rất có kinh nghiệm, anh ta cũng là bạn của đội trưởng Hồ Dương. Hai bàn còn lại cũng chè chén rất hăng say. Vương Hựu và Sean cũng đã hòa đồng được với những người khác, mỗi khi nói chuyện đến chỗ cao hứng lại phá lên cười ầm ĩ. Cả gian phòng ngập tràn trong một bầu không khí ồn ào náo động như thế.
Giữa buổi tiệc, Nhạc Dương đi sang bàn khác, dẫn hai thanh niên đến chúc rượu Trác Mộc Cường Ba. Vừa nhìn bước chân chuẩn xác của bọn họ, gã đã biết ngay hai anh chàng này xuất thân trong quân đội. Quả nhiên, Nhạc Dương giới thiệu, cả hai đều là chiến hữu cùng nhập ngũ với anh, người gầy tên là Triệu Trang Sinh. Nhạc Dương gọi luôn là Cu Gầy, còn đùa đùa bảo từ nhỏ Cu Gầy đã có tố chất của Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận trongThủy Hử, nên bạn bè đồng ngũ đều gọi cậu ta là Nhị Điều. Cậu này xuất ngũ xong còn sang Đức phát triển nửa năm, vừa trở về đã bị Nhạc Dương gọi đi luôn. Người còn lại tên là Lý Hồng, tướng mạo giản dị, ít nói. Trương Lập cũng dẫn theo mấy quân nhân đã giải ngũ đến, vì nhiều người nhiều miệng quá, thành thử Trác Mộc Cường Ba chẳng nghe rõ họ nói những gì nữa.
Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam ngồi chung một bàn. Ngồi ở bàn đó còn có mấy người phụ nữ nữa, Trác Mộc Cường Ba hỏi qua loa một lượt, biết một cô tên Lâm Tiểu Quyên, còn một cô tên là Phương Phương hay gì gì đó. Được một lúc, mọi người bắt đầu tùy ý nói chuyện phiếm. Trác Mộc Cường Ba và chị Trương tự nhiên là nói đủ thứ chuyện trời Nam bể Bắc, nói qua nói lại, rồi cuối cùng nói đến chuyện Mẫn Mẫn. Chị Trương nói với Trác Mộc Cường Ba, cảm giác đồ mỹ phẩm của Mẫn Mẫn dùng có mấy món đã nhạt mùi đi mất rồi, quá nửa là do để lâu quá, chắc chắn là Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ chọn đồ mỹ phẩm tặng cho người ta cả.
Trác Mộc Cường Ba nói, mấy chuyện đàn bà con gái ấy gã làm sao biết được. Chị Trương liền vỗ ngực nói, sau này muốn mỹ phẩm gì cứ bảo Mẫn Mẫn nói một tiếng, đảm bảo sẽ có hàng mới nhất, chất lượng tốt nhất.
Nói lung tung lang tang một lúc nữa, Trác Mộc Cường Ba lại bảo chị Trương cái gì cũng tốt, chỉ có mỗi cái tên nghe không ổn lắm. Nhạc Dương liền vặn lại, tên chị Trương thì có gì không ổn. Trác Mộc Cường Ba nói, đấy là tên đàn ông. Mấy người cùng bàn càng thêm hiếu kỳ, lại tiếp tục căn vặn. Tới khi Trác Mộc Cường Ba nói ra ba chữ “Trương Đình Hổ”, cả bọn lại cười phá lên. Trương Lập nói: “Cường Ba thiếu gia, tai của anh có vấn đề rồi, chị Trương tên là Trương Đình Phù, chữ đình trong câu ‘đình đình ngọc lập’, chữ phù trong ‘phù dung’ ấy, vậy mà anh lại nghe thành tên đàn ông, thật đúng là chỉ có anh thôi đấy!”
Nhạc Dương lại nói: “Cái tên Trương Đình Hổ này nghe cũng không tồi đâu, nghe rất oai phong, cảm giác như Ngự tiền đới đao thị vệ ấy.”
Nói chuyện một lúc nữa, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ ra một vấn đề, định hỏi Nhạc Dương thì phát hiện ra anh chàng đã không ngồi đấy nữa, ngoảnh sang hai bàn kia cũng không thấy đâu, liền hỏi chị Trương. Chị ta đáp: “Thằng nhóc ấy sợ uống rượu, trốn đi tiểu rồi. Nào, cạn ly!” Trác Mộc Cường Ba nâng ly lên cụng, liếc nhìn Đường Mẫn, thấy cô đang trợn mắt nhìn mình, liền gượng cười tỏ ý xin lỗi. Nhưng gã không nhận ra, Lữ Cánh Nam cũng không ngồi cùng bàn với Mẫn Mẫn nữa.
Rời khỏi gian phòng ồn ào huyên náo, đứng ngoài hành lang lặng lẽ tăm tối, ánh trăng từ ô cửa đá chiếu xuống, Lữ Cánh Nam nói: “Được rồi, cậu ngầm ra hiệu cho tôi ra ngoài là có chuyện gì vậy?”
Nhạc Dương nói như chém đinh chặt sắt: “Giáo quan, tôi có thể tin tưởng cô không?” Trong bóng tối, ánh mắt anh sáng rực lên, tựa như vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm vằng vặc.
Hồi lâu sau, Lữ Cánh Nam ngẩng đầu lên nói: “Thì ra là cậu!”
Thành viên mới (2)
“Không ngờ lại là hắn ta!” Merkin nhìn Max đang đứng trước mặt. Max gật đầu hết sức chắc chắn, nói: “Đúng vậy ông chủ, theo các đầu mối tôi nắm được, tôi dám khẳng định chính là hắn.”
Đầu ngón tay Merkin gõ khe khẽ lên tay vịn sofa: “Mày nói xem, tại sao hắn lại làm vậy nhỉ?”
Max đáp: “Cần tiền, bởi vì trong đội ngũ đó hắn không hề xuất chúng, nên trước đây chúng ta không hề chú ý đến con người này. Sau khi điều tra hết sức tường tận, tôi phát hiện ra một sự thực mà cả đồng đội của hắn cũng không hề hay biết. Kẻ này vẫn ngấm ngầm dùng ma túy, thực ra hắn là một con nghiện rất nặng. Lần này, hắn tham gia vào đội ngũ đó, cũng chính vì cấp trên của hắn hứa rằng, sau khi thành công sẽ có một khoản tiền thưởng rất lớn. Nhưng bọn chúng đã thất bại, tiền của hắn cũng tiêu sạch sành sanh, mới phải nghĩ ra cách rao bán tin tức này. Các tin tức hắn đang rao bán đều là sự thực cả. Hơn nữa, chẳng phải ông chủ cũng từng nói, mỗi người đều có một cái giá, chỉ cần đạt tới tiêu chuẩn của hắn ta, chẳng có ai là không thể mua chuộc được hay sao? Chúng ta cũng đã thành công…”
“Ừm…” Merkin xua tay ngắt lời Max, nói: “Chuyện này vẫn có điều gì đó rất lạ. Tại sao lại tự dưng xuất hiện bán tin tức vào lúc này chứ? Xem ra chúng ta vẫn chưa tìm hiểu đầy đủ về bọn chúng, cần phải điều tra sâu hơn nữa mới được.”
Max không hiểu, nói: “Ông chủ, hắn chọn thời điểm này để bán tin tức ra chẳng phải là rất hợp tình hợp lý hay sao? Đội của chúng đã bị giải tán, giờ chúng đã không còn quả núi chính phủ Trung Quốc chống lưng nữa, lại còn thiếu thốn tiền bạc, tôi thật không nhìn ra hắn làm vậy có gì không ổn cả.”
Merkin cười cười: “Nhìn bề mặt thì có vẻ rất hợp lý, nhưng mày đừng có quên, nếu hắn muốn bán thông tin, ít nhất cũng phải biết được nguồn gốc của bên mua thông tin là như thế nào, mà quan hệ tin cậy lẫn nhau ấy không phải một hai lần giao dịch mà có được ngay đâu. Nếu hắn nghiện rất nặng, thì từ trước khi đội ngũ đó giải tán, đã phải ngấm ngầm liên lạc với các thế lực khác rồi, chứ không phải đột nhiên tiến hành liên hệ với nhiều thế lực một lúc như vậy.”
Max lí nhí nói: “Nhưng, nếu không vì tiền thì hắn vì cái gì? Hơn nữa, nghiện ma túy không thể giả bộ được, hắn ta thực sự nghiện rất nặng mà.”
Merkin cười cười: “Nghiện rất nặng hả, hừ, mày còn điều tra ra được, chẳng lẽ các thành viên khác trong đội của hắn lại không nhận ra được hay sao?”
“…” Max ngưng lại giây lát, lúng túng nói: “Theo… theo những gì tôi điều tra được, những thành viên khác trong đội hoàn toàn không hề biết gì hết cả.”
Merkin lại hỏi: “Vậy sao, thế người của chúng ta có biết không?” Max khẳng định chắc chắn: “Không biết!”
Merkin nở một nụ cười thần bí: “Ừm, xem ra cả một đội viên bình thường dưới trướng Trác Mộc Cường Ba cũng không thể coi thường được rồi. Có điều, mày phải nhớ rõ, một số kẻ có ý chí cực kỳ kiên cường, dẫu là nghiện ma túy rất nặng đi chăng nữa, chỉ cần thần trí hắn vẫn còn chưa mất hẳn, hắn cũng vẫn trung thành với tổ chức của mình. Tao ngờ rằng tên này làm vậy là muốn trở thành gián điệp hai mang! Hừ hừ, nếu đúng là như vậy, tao sẽ dùng thực lực cho hắn tỉnh táo ra mà nhận thức được rằng, nếu không thật thà đi theo chúng ta, hắn chẳng còn một con đường nào khác nữa cả!”
Max hiểu ý, nói ngay: “Liên lạc với hắn hả? Ông chủ.”
“Phải, có điều không trực tiếp gặp mặt hắn, mà để hắn thông qua bên thứ ba liên hệ với chúng ta, bảo hắn chỉ cần tiết lộ thông tin là được rồi, sau đó hãy để hắn làm một số việc khó có thể vẹn toàn cả đôi bên, khiến hắn càng lún càng sâu, cuối cùng không thể không đi theo chúng ta.”“Tôi biết rồi, ông chủ,” Max đứng thẳng như cột cờ nói.
Merkin nở một nụ cười cao thâm khó dò, vẫy tay ra hiệu cho Max ra ngoài, tới khi tên thuộc hạ ra khỏi cánh cửa, nụ cười của y mới dần dần bị nét sầu não thay thế. Người kia có phải muốn làm gián điệp hai mang hay không, Merkin hoàn toàn không để tâm, điều y lo lắng là, tin tức này rốt cuộc sẽ gây chú ý cho bao nhiêu tổ chức, rốt cuộc nó sẽ khuếch tán bao xa, cấp trên trong tổ chức liệu có chú ý đến nó hay không, Người quyết sách liệu có chú ý đến nó hay không!
Lúc quay người lại đóng cửa, Max liếc mắt nhìn qua khe hẹp, vừa hay bắt được khoảnh khắc nụ cười của Merkin biến mất, lúc ấy hắn mới nở một nụ cười hài lòng, sải chân bước đi.
Đêm hôm đó, rượu cứ đong đầy mãi không hết, chị Trương cũng không uống nhiều lắm. Ngược lại người tên Nghiêm Dũng kia thì hình như rất muốn phân cao thấp với Ba Tang. Bên cạnh hai người đó còn một người ra sức hò hét trợ uy cho bọn họ. Người này mặt tròn tròn, lúc cười trông như Phật Di Lặc, hình như cũng là do đội trưởng Hồ Dương dẫn tới, tên là gì Trác Mộc Cường Ba không nghe rõ.
Uống đến khuya, mọi người nâng chén chúc nhau lần cuối, rồi Trác Mộc Cường Ba trở về căn phòng được chuẩn bị sẵn cho gã, nằm bò ra ngủ, trong lúc mê man chợt nghe có người nói: “Con à, con có tín ngưỡng đấy…”
Trong bóng đêm, Trác Mộc Cường Ba đáp lại: “Không có, số mệnh của tôi do tôi quyết định, không phải do ông trời!”
Lúc gã mở mắt ra, đã thấy mình đang ở một buổi tiệc rượu chiêu đãi doanh nghiệp, vô số nụ cười như được đổ ra từ khuôn đúc, ai ai cũng tỏ ra hết sức thân thiết, mọi người lần lượt giơ ly lên, hướng về phía gã chào hỏi. Trác Mộc Cường Ba cúi đầu xuống nhìn, thấy mình mặc đồ Tây, đi giày da bóng loáng, đang nghĩ sao mình không có rượu, thì trên tay đã xuất hiện một chiếc ly chân cao, bên trong là thứ rượu vang đắt tiền màu đỏ dìu dịu mà trong suốt. Trác Mộc Cường Ba cười tươi hớn hở, cùng mọi người chào hỏi chuyện trò, nhưng trong lòng không khỏi lấy làm lạ, tại sao gã lại ở đây chứ?
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, liền trông thấy Đồng Phương Chính, khuôn mặt vẫn giữ nguyên nụ cười quen thuộc. Chỉ thấy Đồng Phương Chính đứng sát sau lưng gã, Trác Mộc Cường Ba đưa ly về hướng nào, anh ta liền bước lên bắt tay chào hỏi người đó, nếu Trác Mộc Cường Ba bước đi giữa đám đông, anh ta liền vội vàng đi theo sau gã ngay, người bên cạnh rất khó để ý thấy. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nói: “Phương Chính, đứng lên phía trước một chút đi, đừng cứ ở mãi sau lưng tôi như thế, người ta sẽ hiểu lầm tưởng anh là thư ký của tôi mất.”
Đồng Phương Chính chỉnh lại gọng kính, nhẹ nhàng nói: “Khỏi cần, họ nhận ra anh là được rồi.” Anh ta lúc nào cũng giữ vẻ bề ngoài khiêm cung ấy, nhưng đột nhiên nụ cười hiền lành bỗng trở nên điên cuồng dữ tợn, xung quanh không biết từ lúc nào đã xuất hiện hai gã cốt đột cao lớn, một bên trái, một bên phải nhấc bổng cả Trác Mộc Cường Ba lên, khiến gã không nhúc nhích động cựa gì được. Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Phương Chính, anh làm gì vậy! Thả tôi ra!”
Đồng Phương Chính đẩy gọng kính lên sống mũi, cười như điên dại: “Xin lỗi nhé Cường Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi cả rồi!”
Trác Mộc Cường Ba ra sức giãy giụa, nhưng không sao nhúc nhích nổi. Sau mấy lần gắng sức, đột nhiên gã bỗng thầm nhủ, loại cốt đột thế này làm sao có thể khiến mình không nhúc nhích gì được như vậy, đây là nằm mơ sao? Nghĩ tới đó, gã liền mở bừng mắt ra, giật mình tỉnh giấc.
Hơi không khí đầu tiên hít vào đến phổi mang theo một luồng hương thoang thoảng thân quen, còn nơi bàn tay gã chạm phải lại trơn mềm như mỡ đặc. Trác Mộc Cường Ba hơi cúi đầu xuống, liền trông thấy Mẫn Mẫn đang ôm chặt eo mình như con rắn, đầu gối lên ngực, mái tóc phủ lên mặt gã. Trác Mộc Cường Ba cố gắng để hơi thở mình dịu bớt đi, tránh làm cô giật mình thức giấc. Cơn mơ vừa nãy, khiến gã nhớ đến rất nhiều chuyện, tâm trạng không khỏi có chút tức bực khó chịu, đồng thời cũng thấy hơi bất an. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ, bên ngoài sông Ngân chảy tràn, tinh tú lấp lánh, sắc đêm nồng đượm.
Sáng hôm sau, Trác Mộc Cường Ba dậy rất sớm, vươn người mấy cái cho dãn gân dãn cốt, cảm giác toàn thân thư thái dễ chịu, bèn ra ngoài chuẩn bị tập thể dục buổi sáng. Phía ngoài đã có mấy người bắt đầu chạy bộ, còn những người khác vẫn chưa ra khỏi giường. Một anh chàng trẻ tuổi chạy đến trước mặt gã, hỏi: “Cường Ba thiếu gia, sớm vậy à?”
Trác Mộc Cường Ba nhận ra, người này là chiến hữu của Nhạc Dương, tên là Triệu Trang Sinh, vì lúc giới thiệu anh ta với gã, Nhạc Dương có nói, vừa nghe đã biết, anh ta sinh ra ở Triệu Trang rồi. Triệu Trang Sinh đang đeo tai nghe, lúc nói chuyện liền gỡ xuống. Trác Mộc Cường Ba chạy song song với Trang Sinh, hỏi: “Chạy bộ còn nghe nhạc nữa hả? Ai hát đấy?”
Triệu Trang Sinh đáp: “Beyond, chắc là Cường Ba thiếu gia chưa nghe bao giờ.” “Beyond, người nước ngoài à?”
Triệu Trang Sinh cười ha hả nói: “Cường Ba thiếu gia quả nhiên là chưa nghe bao giờ rồi. Họ là ban nhạc Rock and Roll của Hồng Kông. Beyond có nghĩa là ‘Vượt qua’. Hát hay lắm, anh nghe thử xem.” Nói đoạn, Triệu Trang Sinh liền rút cả tai nghe lẫn máy nghe nhạc trong túi ra, đưa cho Trác Mộc Cường Ba, rồi nhét đầu tai nghe vào tai gã, một thứ âm thanh kim loại đập vào màng nhĩ, giọng ca khàn khàn cao giọng hát vang. Ca từ bằng tiếng Quảng, gã nghe không hiểu, nhưng Trác Mộc Cường Ba có thể nhận ra, dường như người ca sĩ kia đang xuyên qua cuồn cuộn sóng cồn, gió bụi dặm trường mà từ nơi xa bước đến. Giọng hát khàn khàn ấy gợi lên một cảm giác bể dâu từng trải, tiếng ca cao vút chói tai đầy kích động âm vọng giữa vùng hoang vắng. Trác Mộc Cường Ba vốn chẳng hứng thú lắm với thứ âm nhạc này, có điều trải qua bao nhiêu biến cố, gã lờ mờ cảm nhận được người sáng tác nhạc đang rất cố gắng kể lại một nỗi khổ nhọc. Mỗi bài hát, đều như một mầm mạ non nhỏ bé đang gắng sức vươn lên trong nghịch cảnh. Còn người diễn xướng, thì tựa như đã đem toàn bộ sinh mệnh của mình ra để hát, không có vẻ trữ tình du dương, cũng không phát tiết đến cùng cực, chỉ đang dùng tiếng hát của mình để bày tỏ, mong những con người bình thường đang theo đuổi mộng tưởng xin đừng dừng bước, dẫu gặp phải khó khăn gì, cũng chớ bỏ cuộc. Mỗi bài ca, mỗi câu ca, đều là tiếng gào thét của người diễn xướng, phải cố!Phải cố gắng nữa! Chạy bộ theo tiết tấu âm nhạc này, người ta như có cảm giác mỗi một bước chân đều đặt vào những trọng điểm chắc chắn, đồng thời trong tư thế sẵn sàng để đặt bước chân tiếp theo.
Cùng với thứ nhạc âm vang tiết tấu mạnh mẽ đó, Trác Mộc Cường Ba và Triệu Trang Sinh vừa chạy vừa nói chuyện phiếm. Qua Triệu Trang Sinh gã mới biết, thì ra hôm qua lúc gã đến, vừa khéo cũng đúng lúc mọi người mới hoàn thành một giai đoạn huấn luyện, được nghỉ ngơi hai ngày, một số người có khả năng sẽ bị đào thải, nên buổi tối Lữ Cánh Nam mới không ngăn cản mọi người mở tiệc quậy phá, vừa là tiệc mừng bọn Trác Mộc Cường Ba đến đây, đồng thời cũng là tiệc chia tay một số người bị loại. Trác Mộc Cường Ba đang thầm tự nhủ “ra là thế”, Triệu Trang Sinh đã quay sang nói, có điều nếu không phải đúng dịp Cường Ba thiếu gia đến, bọn họ cũng không thể ăn uống thả giàn như vậy được, xét cho cùng vẫn nhờ phúc ấm của Cường Ba thiếu gia mới được vậy. Trác Mộc Cường Ba nghe mà chỉ biết dở khóc dở cười.
Vốn là ngày nghỉ, nên những người chạy bộ buổi sớm cũng chia thành từng tốp hai ba người, người nào chạy đường người nấy. Trác Mộc Cường Ba và Triệu Trang Sinh chạy tương đối nhanh, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp người cao lớn hôm qua đấu rượu với Ba Tang, Nghiêm Dũng. Cả tay trung niên tối qua ở bên cạnh hò hét trợ uy cho bọn họ cũng chạy cùng. Trác Mộc Cường Ba thấy Nghiêm Dũng tinh thần phấn chấn, đưa mắt nhìn quanh lại không thấy bóng Ba Tang đâu, chỉ thấy chị Trương và mấy thanh niên khác từ trong dãy nhà đá đi ra. Gã tiến lên chào hỏi bọn Nghiêm Dũng một câu, rồi thả bước chậm lại chạy song song với họ. Nghe Nghiêm Dũng giới thiệu, người trung niên mặt tròn chạy bên cạnh anh ta tên là Chu Nghiêm, nhìn bề ngoài tròn ung ủng như phát phì, nhưng kinh nghiệm leo núi và thám hiểm tuyệt đối không hề kém Nghiêm Dũng. Hai người bọn họ đều đã từng nhiều lần theo đội trưởng Hồ Dương tiến hành khảo sát trên ngọnChomolungma.
Phía bên kia, chị Trương dẫn theo mấy thanh niên cũng hò hét chạy tới nhập hội. Ngày nghỉ nên mọi người đều tốp năm tốp ba, tùy ý chạy theo đường mình thích, nhưng không hiểu tại sao, ai nấy đều chào một tiếng rồi chạy theo phía sau cái nhóm đông đảo của bọn họ, chẳng mấy chốc đã kéo thành một hàng người dài thượt.
Lữ Cánh Nam đứng dựa người bên cửa sổ, nhìn Trác Mộc Cường Ba dẫn đầu chạy trước, sau lưng là một đám thành viên mới xa lạ, tựa như có một thứ sức mạnh vô hình đã tụ tập bọn họ lại với nhau, trên gương mặt bất giác nở ra một nụ cười.
Chạy được mấy vòng, thân thể bắt đầu nóng dần lên, Trác Mộc Cường Ba nghe thấy các thành viên chạy sau thở hổn hển nặng nề, bèn thả bước chậm dần, rồi từ từ dừng lại. Chị Trương nói: “Nghe nói anh bị thương, xem ra cũng hồi phục khá quá nhỉ, đám thanh niên phía sau không lại được với anh rồi.”
Trác Mộc Cường Ba chỉ vào ngực mình, cười cười nói: “Tôi bị nội thương. À, phải rồi chị Trương này, thời gian nghỉ thường thường mọi người làm gì vậy?”
Chị Trương nói: “Cũng nhiều thứ lắm. Ở đây là vùng hoang dã, chúng tôi có thể bơi ngược suối, chạy bộ, chơi gì cũng được. Có lẽ mọi người thích nhất là hai trò phá giải cạm bẫy với đánh trận giả bằng súng đạn cao su. Nhạc Dương và Trương Lập là cao thủ đó.”
Mạnh Hạo Nhiên đứng bên xen vào: “Có điều không thể chơi mấy trò trí tuệ, giáo quan Lữ nói, cái thứ rèn luyện thân thể này không tiến ắt sẽ lùi, gọi là nghỉ ngơi, tức là mỗi ngày không tăng cường độ huấn luyện lên mà thôi.” Nghiêm Dũng nói: “Cá nhân tôi cho rằng, có một số hạng mục huấn luyện quá phức tạp đối với những người mới, độ khó cao quá, những kỹ xảo với độ khó cao như thế, chúng ta cần phải dùng trong thực tế hay sao?”
Triệu Trang Sinh lập tức tiếp lời: “Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, nghe Nhạc Dương nói, trước đây mọi người từng vào cổ mộ, phá cơ quan cạm bẫy gì đó, trong các di tích cổ đại ấy có nhiều cạm bẫy vậy thật sao? Mọi người gặp phải những loại bẫy gì vậy? Kể cho chúng tôi nghe được không…”
Những người khác cũng đồng thanh phụ họa, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy gã đã kể đi kể lại chuyện này nhiều lần lắm rồi, hơn nữa, một khi đã bắt đầu kể, e rằng một hai tiếng đồng hồ cũng khó mà kể cho hết, vừa hay lúc đó thấy Trương Lập bước ra, gã liền lập tức gọi anh lại: “Trương Lập, cậu lại đây kể cho mọi người nghe những chuyện chúng ta gặp phải hồi trước đi.”
Trương Lập vừa nghe thế liền hăng hái hẳn lên, nước bọt văng tung bốn phía: “Nhớ năm xưa…”
Trác Mộc Cường Ba ở khu trại huấn luyện được ba ngày, hết sức hòa hợp với mọi người. Gã thấy Lữ Cánh Nam sắp đặt hết sức chu đáo nghiêm ngặt, cả Ba Tang cũng đã đảm nhiệm chức giáo quan hướng dẫn, còn giáo sư Phương Tân đang phải sắp xếp chỉnh lý một lượng lớn các tài liệu. Gã cũng nôn nóng muốn xem những tài liệu đó, bèn dẫn theo Mẫn Mẫn, trở về Lhasa giúp đỡ giáo sư một tay.
Trở về Lhasa, Trác Mộc Cường Ba gửi lời hỏi thăm của Lê Định Minh và bọn Nhạc Dương đến giáo sư, còn Mẫn Mẫn chào hỏi xong liền ngoan ngoãn đi vào trong thu dọn hành lý. Giáo sư Phương Tân hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Sao hả, các đội viên mới để lại cho cậu ấn tượng như thế nào?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Rất tốt, bọn họ… rất ưu tú, đều là những người có kinh nghiệm phong phú về nơi hoang dã. Nói thật, sau khi ở với họ ba ngày, tôi quả là không nỡ nhìn thấy bất cứ ai trong số họ bị đào thải cả.”
“Ừm,” giáo sư Phương Tân nói: “Cậu đã không nghi ngờ trong số họ có người đem thông tin tiết lộ cho các tổ chức khác cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu nữa rồi à?”
Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng: “Nếu đúng là vậy thì tôi cũng chẳng còn gì để nói nữa, bởi vì tôi thực không sao hiểu nổi, tiết lộ thông tin về chúng ta ra ngoài, rốt cuộc họ được ích lợi gì chứ.”
“Lợi nhiều lắm chứ…” giáo sư Phương Tân mới nói được nửa câu, thấy sắc mặt Trác Mộc Cường Ba không được tốt lắm, bèn mỉm cười: “Được rồi, tạm thời không nói chủ đề này nữa, đi theo tôi, cho cậu xem những phát hiện mới trong đống tài liệu mang từ Nga về.”
Trác Mộc Cường Ba ở phía sau đẩy xe lăn, nói với giáo sư Phương Tân: “Thầy giáo, còn một chuyện nữa, tôi vẫn không sao hiểu được. Mới đầu, khi biết đến Bạc Ba La thần miếu, tôi cảm thấy rất thần bí, nhưng vẫn luôn cho rằng chúng ta nắm được khá nhiều thông tin. Cho tới khi Lữ Cánh Nam lấy những tài liệu đó ra, tôi mới biết, hiểu biết của chúng ta về Bạc Ba La thần miếu chỉ hết sức nửa vời. Có điều, sau khi có được những tài liệu của Lữ Cánh Nam, chúng ta đã có thể nhận thức lại về Bạc Ba La một lần nữa. Thế nhưng bây giờ, tôi bỗng đột nhiên phát hiện ra, chúng ta mới chỉ biết được cái vỏ bề ngoài về Bạc Ba La thần miếu, nếu không có pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây, chúng ta hầu như là hoàn toàn không biết một chút gì về nơi ấy cả, ngay cả như Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, họ cũng chỉ biết một chút bề ngoài mà thôi. Sao tự dưng lại trở nên như vậy chứ?”
Giáo sư Phương Tân cười nói: “Là thế này, Cường Ba à, xem ra nhận thức của cậu về vị trí hiện tại của chúng ta vẫn hơi lệch lạc rồi. Trước giờ tôi vẫn luôn nhấn mạnh với cậu, chúng ta chỉ là một đội mang tính thử nghiệm, còn nghiệp dư hơn cả những tổ chức nghiệp dư nhất. Khi mới bắt đầu, các thông tin về Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta có thể nắm bắt sẽ không nhiều, chúng ta chỉ có thể dần dần lần theo các đầu mối, đi từ bên ngoài vào sâu bên trong, từng bước từng bước một. Không sai, Bạc Ba La thần miếu đã biến mất trong lịch sử cả nghìn năm rồi, nếu từ nghìn năm trước đã có người bắt đầu thu thập các tài liệu liên quan đến nơi ấy, thì tài liệu mà chúng ta nắm được trong tay so với người ta, chắc chắn là hạt cát so với sa mạc, không thể so được. Có điều, chúng ta vẫn không ngừng tiến bộ, không ngừng học tập, các tài liệu, thông tin họ thu thập được suốt một nghìn năm, vừa khéo để cho chúng ta học tập, hấp thụ. Hơn nữa, bọn họ đã có nhiều tài liệu, nhiều thông tin đến thế, tại sao vẫn không thể tìm được Bạc Ba La thần miếu? Tại sao?”
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm. Giáo sư Phương Tân bật máy tính lên, ngoảnh đầu lại nói: “Bởi vì họ thiếu mất những thứ quan trọng nhất, chẳng hạn như tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu phát hiện trong địa cung Maya, còn cả tấm bản đồ da sói tìm được trong Đảo Huyền Không tự nữa, không có những thứ ấy, các thứ tài liệu, thông tin khác có nhiều nữa cũng chỉ là nói suông mà thôi. Vì vậy mới nói, xét về những tư liệu quan trọng để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chúng ta và họ là tương đương. Tuy nhiên so với các tổ chức khác thì chúng ta tiếp cận với chân tướng sự việc sâu hơn nhiều. Đây cũng là nguyên nhân tại sao các tổ chức lại tìm đến cậu. Giờ đây, ai phá giải được bí mật ẩn giấu bên trong tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu và tấm bản đồ da sói trước, người đó sẽ có khả năng tìm được Bạc Ba La thần miếu trước. Còn các tư liệu khác, có thể cung cấp cho chúng ta các thông tin bên lề về Bạc Ba La thần miếu, nhưng để tìm thấy nơi ấy thì chúng lại không có giá trị gìnhiều lắm.”
Máy tính đã được bật lên, giáo sư Phương Tân vừa click chuột vừa nói: “Vì vậy, lần này cậu trở về đây, tôi sẽ giao toàn bộ công việc chỉnh lý tư liệu cho cậu và Mẫn Mẫn phụ trách, còn tôi sẽ tập trung lo việc liên hệ với các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực, hy vọng có thể tiến một bước đột phá trong việc phá giải bí mật của tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu và tấm bản đồ da sói, cậu xem cái này đi…”
Trên màn hình xuất hiện một tấm ảnh đen trắng, hình chụp một chiếc hộp hình chữ nhật, dạng thức rất cổ phác, bên dưới có một hàng chữ, hình như là chú thích ảnh chụp ở đâu. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây là gì vậy?”
Giáo sư Phương Tân không giải thích, chỉ nói với gã: “Nhìn bên ngoài cái hộp này, có khiến cậu liên tưởng đến thứ gìkhông?”
Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, tập trung tinh thần, cuối cùng đành thở dài nuối tiếc: “Không nghĩ ra.” Giáo sư Phương Tân lấy làm kỳ quái liếc nhìn gã, nói: “Cường Ba à, trí nhớ của cậu kém xa thuở trước rồi đấy. Sao hả, lẽ nào cả ông già như tôi mà cậu cũng không theo kịp nữa rồi à?”
Trác Mộc Cường Ba nghe nói thế mà thẹn mướt mồ hôi, nhưng, giáo sư Phương Tân đã mở một tấm hình khác. Tấm hình này thì Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ ra ngay, là do giáo sư Phương Tân chụp ở Cổ Cách, chiếc bàn đá trong gian thạch thất cuối cùng, cái hộp để tấm bản đồ da sói chính là đặt trên chiếc bàn đá này. Giáo sư Phương Tân bật đoạn video, chiếc bàn đá liền hiện lên rõ nét trên màn hình máy tính, bên trên có ba rãnh xếp thành hình chữ “phẩm”, hai rãnh hình vuông và một rãnh hình chữ nhật. Món đồ đặt trong rãnh hình chữ nhật và một rãnh hình vuông đã bị người ta lấy đi mất, trong rãnh còn lại có một chiếc hộp trông như làm bằng đồng, hay bằng sắt gì đó. Đó chính là chiếc hộp chứa tấm bản đồ da sói, hoa văn, dạng thức, chất liệu, đều giống hệt như chiếc hộp hình chữ nhật trong tấm ảnh đen trắng.
Trác Mộc Cường Ba lắp bắp: “Đây… lẽ nào đây là…”
Đảng Quốc xã lần đầu tiến vào Tây Tạng
Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, tôi cho rằng đây chính là một trong hai chiếc hộp đã bị Morton Stanley lấy đi khỏi mật thất Cổ Cách năm xưa, về sau lưu lạc nhiều nơi rồi cuối cùng lọt vào tay quân Đức. Hàng chú thích bên dưới là tiếng Đức, tôi đã hỏi chuyên gia tiếng Đức rồi, hình tam giác đó là dấu hiệu Lâu đài Ma thuật của Himmler, chứng tỏ rằng Himmler đã từng nghiên cứu nó trong Lâu đài Ma thuật của y. Ngoài ra, trong các tài liệu cậu mang về không có tiết lộ gì về tấm hình này nữa cả.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý thầy là, tài liệu của chúng ta không đầy đủ? Vậy có cần liên lạc lại với tay Aleksandrovich kia không?”
“Muộn rồi.” Giáo sư Phương Tân điềm đạm nói: “Anh ta chết rồi.” “Cái gì?” Trác Mộc Cường Ba giật mình kinh hãi.
Giáo sư Phương Tân nói: “Lẽ ra cậu phải nghĩ đến rồi chứ, giao dịch của Aleksandrovich với các cậu đã bị theo dõi, chắc chắn anh ta cũng khó mà thoát nạn, chỉ không biết đã khai ra những gì rồi thôi. Có điều, lộ ra cũng không ảnh hưởng lắm, nói không chừng những tổ chức lớn một chút đều đã tra ra hết các thông tin này từ lâu rồi. Hiềm nỗi, chúng ta mà muốn bổ sung thông tin về phương diện này thì không biết phải làm sao thôi. Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu các tài liệu này, trong đó có rất nhiều thông tin về Bạc Ba La thần miếu mà đảng Quốc xã nắm được trong thời kỳ Thế chiến II, bọn họ gọi là Shambhala. Ngoài ra còn rất nhiều thông tin tuy không liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, nhưng cũng rất đáng chú ý, chẳng hạn như nội dung về tay Hector Merkin kia, không hề liên quan gì đến Shambhala cả.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Giáo sư Phương Tân ngừng lại giây lát rồi tiếp lời: “Còn một vấn đề nữa, không biết cậu có chú ý đến hay không.” Ông tua lại đoạn phim ghi hình, chỉ nghe giáo sư trong đoạn phim ấy nói: “Ở đây có cánh cửa, dùng thuốc nổ dẻo nổ ra, đừng, đừng đặt nhiều thuốc nổ thế.”
Giáo sư Phương Tân chỉ vào màn hình, nói: “Có thấy không, lúc chúng ta vào thạch thất, cánh cửa này bị bít kín lại. Nếu là Stanley lấy đồ đạc ở trong đây đi, lúc ấy Cổ Cách vẫn còn là một vùng đất cằn cỗi không một bóng người, ông ta hoàn toàn có thể ung dung đĩnh đạc mà gồng gánh bảo vật bỏ đi, tại sao còn phải cẩn thận bít cánh cửa ấy lại làm gì nữa?”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi đáp: “Nói không chừng là đã thấy lời nguyền hay cảnh báo gì đó, chẳng hạn như nếu mở cánh cửa này, linh hồn sẽ bị nguyền rủa gì gì đó chăng?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu tán thưởng: “Không sai, tôi cũng nghĩ vậy đấy. Được rồi, chuyện này để sau có nhiều thông tin hơn chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu. Xem cái này nữa, đây là những tấm ảnh tôi đã in ra…”
Giáo sư Phương Tân giơ một tập ảnh đen trắng dày cộp lên. Trác Mộc Cường Ba đón lấy, chỉ thấy hầu như các bức ảnh đều có nền là núi tuyết hoặc thảo nguyên mênh mông, nhân vật trong ảnh đa số đều là những người dân tộc Tạng, còn có cả một số ảnh chụp trong các chùa chiền tự viện. Nhìn những bối cảnh và chùa chiền ấy, Trác Mộc Cường Ba lướt thoáng qua đã có thể nhận ra ngay những tấm ảnh này được chụp ở Tây Tạng. Gã lật xem từng tấm, từng tấm, nói: “Đâylà…”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đây là ảnh do đội thám hiểm Seifert chụp. Năm 1938, đội thám hiểm này được Himmler giới thiệu, Hitler đích thân phê chuẩn, là tiểu đội Quốc xã đầu tiên xâm nhập Tây Tạng.”
Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên thốt: “Tại sao đa phần đều là…”
“Đồng bào người Tạng, phải không?” Giáo sư Phương Tân tiếp lời. “Cậu chớ quên mục đích chuyến đi lần đó của họ, đội thám hiểm Seifert vì muốn tìm kiếm tổ tiên người Aryan của bọn họ nên mới đến Tây Tạng. Mục tiêu chủ yếu là nghiên cứu sự khác biệt giữa chủng người Tây Tạng và chủng người Aryan bọn họ, vì vậy mới chụp rất nhiều ảnh người dân tộc Tạng. Bọn họ còn tiến hành đo đạc vòng đầu, chiều cao, chiều dài cánh tay, quan sát màu tóc, màu da, võng mạc, đồng tử… thế nhưng, đây chỉ là những thứ trên bề mặt. Cậu thử xem kỹ lưỡng một lượt tất cả các bức ảnh, sẽ không khó nhận ra, tất cả những gì họ làm đều chỉ là làm cho có vậy thôi, hoàn toàn chỉ là hình thức, đây không phải là mục đích thật sự của đội thám hiểm này.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy sao?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Phía sau có rất nhiều ảnh, đều là ảnh chụp các thành viên trong đội thám hiểm hoặc ảnh chụp chung với những quý tộc thời bấy giờ, cậu xem kỹ những tấm ảnh đó đi.” Giáo sư Phương Tân ở bên cạnh đưa tay lướt qua xấp ảnh, chọn ra chừng mấy chục tấm cuối cùng, gật gật đầu với Trác Mộc Cường Ba.
Gã liền bỏ qua những tấm ảnh bên trên, quan sát kỹ ảnh các thành viên trong đội Seifert, chẳng mấy chốc đã nhận ra vấn đề: “Những tấm ảnh này, sao giống như đã bị người ta cắt đi vậy, có mấy tấm ở bên mép rõ ràng là vẫn còn có người nữa, nhưng lại chụp có một nửa, còn nữa, nét mặt những người này… cứ có cảm giác là lạ thế nào đó.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, không phải là nét mặt là lạ, mà là thị tuyến của họ, cậu có chú ý thấy không, lúc họ chụp ảnh hoàn toàn khác với chúng ta lúc thường, gần như không hề nhìn về phía người chụp, mà lại nhìn đi nơi nào đó khác, cả mấy tấm ảnh đều như vậy. Như tấm này, chụp chung với quý tộc người Sikkim, tấm này nữa, chụp chung với Thổ Ty, tấm ảnh chụp cả nhà này thì càng không cần phải nói nữa, ít nhất cũng có nửa số người không chú ý đến người chụp ảnh. Còn chuyện cậu nói mấy tấm ảnh này đã bị cắt cúp, tôi cho rằng không đúng lắm, mà là người chụp ảnh cố tình không chụp những người đứng ở bên rìa vào trong đó thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói: “Tại sao lại như vậy chứ?”
Giáo sư Phương Tân mỉm cười: “Nếu chỉ xem ảnh thôi e rất khó lý giải, nhưng cậu xem chỗ này sẽ hiểu ngay thôi.” Ông ấn mấy nút trên bàn phím, màn hình liền hiện ra một đoạn mật mã, phần dịch ra bên dưới đại khái là: “Ngoài ra, cử thêm năm người nhóm Seifert tiến vào Tây Tạng. Seifert làm đội trưởng, giả bộ điều tra nghiên cứu về sự giống nhau giữa người Tạng và tổ tiên người Aryan.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngoài ra cử thêm? Giả bộ? Lẽ nào…”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Không sai, tiểu đội Seifert chỉ là danh nghĩa, nhiệm vụ của bọn họ chính là che giấu mục đích thực sự của Đức Quốc xã khi cho người xâm nhập Tây Tạng. Cùng với năm người này vào Tây Tạng, còn tám thành viên khác, đây chính là nguyên nhân các bức ảnh không thể chụp đầy đủ. Làm như vậy là để đảm bảo rằng, tám người cùng đến Tây Tạng với bọn họ triệt để vô hình trên bất cứ tài liệu nào. Hơn nữa, ngoài các tài liệu đã được giải mật mà cậu và Ba Tang mang ở Nga về, chúng ta không thể tra ra được bất cứ thông tin nào liên quan đến tám người này ở những kênh khác. Từ điểm này, có thể thấy đảng Quốc xã đã bảo mật về tám con người này đến mức độ nào, có thể nói họ là tám con người hoàn toàn không hề tồn tại trên đời này vậy. Tài liệu ở đây, cậu xem thử đi.”
Giáo sư Phương Tân mở ra một văn kiện khác, đại ý được dịch ra như sau: phái tám … [ký hiệu] điều tra khu vực [ký hiệu tia chớp], tất cả hành động đều nghe [ký hiệu đầu tiên] chỉ huy, đồng thời cho [ký hiệu đầu tiên] quyền lực tuyệt đối, ở khu vực [ký hiệu tia chớp], [ký hiệu đầu tiên] có quyền như nguyên thủ, phía sau là chữ ký của Hitler.
Nhưng tám ký hiệu ấy vẫn để nguyên, dịch giả không thể dịch thành tám cái tên được. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên thốt lên: “Văn kiện đích thân Hitler ký cũng chỉ dùng ký hiệu đại diện cho thân phận thôi sao? Không thể tìm ra tám tên người này được à?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Tôi đã thỉnh giáo cả các chuyên gia ký hiệu học rồi, đây là tiếng Runic ở Bắc u, cũng là một loại sức mạnh cổ xưa thần bí mà Himmler sùng bái, nhưng dù dịch được những ký hiệu này ra chúng ta cũng không thể biết được tên thực của bọn họ, bởi vì tên mỗi người đều viết tắt bằng hai chữ cái đầu tiên, chẳng hạn như ký hiệu đầu tiênnày.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ngón tay của giáo sư Phương Tân, ký hiệu đó trông giống một chữ “mễ” (), có điều vạch ngang ở giữa lại thêm hai chỗ ngoặt, một lên trên một xuống dưới. Giáo sư Phương Tân nói tiếp: “Đây là ký hiệu biểu đạt hai chữ H và M.”
“H và M?” Trác Mộc Cường Ba thình lình thốt lên: “Hector Merkin!” Giáo sư Phương Tân nói: “Chuyện này, chỉ có thể nói là có khả năng xảy ra, chúng ta không có chứng cứ gì khác, không dám khẳng định.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy, còn tia chớp kia? Tia chớp kia đại diện cho Tây Tạng đúng không?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Tia chớp chính là chữ S trong tiếng Runic.” Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “S? Không phải Tây Tạng à?” Giáo sư Phương Tân cười cười, nói: “Cậu đừng quên, còn có một nơi bắt đầu bằng chữ S.”
Trác Mộc Cường Ba giật mình sực nhớ ra: “Shangri-la! Shambhala! Nói như vậy có nghĩa suy đoán của Sean là chính xác, các tài liệu chính thức về Thế chiến II mà chúng ta thu thập được hoàn toàn trái ngược với sự thực! Đức Quốc xã chính vì tìm kiếm Shambhala nên mới tiến vào Tây Tạng, việc điều tra vấn đề nhân chủng ở Tây Tạng chỉ là cái cớ; tất cả chuyện này, đều có khả năng là do người tên Hector Merkin kia sắp đặt ra, tên này rốt cuộc là ai!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Kỳ thực, còn có rất nhiều câu đố chưa lời giải đáp về Thế chiến II. Chẳng hạn như lần người của đảng Quốc xã tiến vào Tây Tạng này chẳng hạn, đã từng có rất nhiều học giả đặt ra các câu hỏi, ví dụ như nghi vấn về thân phận của Seifert chẳng hạn. Seifert được gọi là nhà bác vật học, rất nhiều học giả đã chỉ ra rằng, nhà bác vật học, là từ để chỉ những người có hiểu biết tinh thâm về rất nhiều ngành khoa học tự nhiên khác nhau, những người như vậy đếm trong lịch sử cũng chỉ có vài người, như là Da Vinci, Darwin, Newton… Họ tinh thông cả y học, vật lý, hóa học, thiên văn, địa lý, động thực vật học, đồng thời còn là người dẫn lưu cho cả dòng chảy khoa học kỹ thuật của thời đại mình. Nhưng năm đó Seifert mới hai mươi sáu tuổi, y có tư cách gì mà trở thành nhà bác vật học chứ? Có học giả suy đoán, nhà bác vật học đó là một người khác, đó mới là người thực sự phụ trách đội thám hiểm, còn Seifert chẳng qua chỉ là kẻ mượn danh mà thôi. Còn nữa, chuyên ngành của năm người thân phận công khai này cũng rất có vấn đề, tạm thời không nhắc đến Seifert nữa, nhưng hãy thử xem chuyên ngành của bốn người còn lại đi. Klose là nhà động vật học, Calvin nghiên cứu vật lý địa cầu, đồng thời cũng rất tinh thông địa chất và khí tượng học; Berger, trên các tài liệu thì người này là nhà nhân chủng học, về chuyên ngành này tôi đã tra xét rất kỹ, kỳ thực tiền thân của nhà nhân chủng học này chỉ là nhà giải phẫu. Trên thực tế, Berger là sinh viên chất lượng cao của đại học Heidelberg, về sau đã từng thí nghiệm trên cơ thể người trong các trại tập trung; còn cả Edmund Gustav này nữa, nghe nói người này là nhân viên quản lý thiết bị khí tài, nhưng theo các tư liệu chúng ta hiện có, y đã từng ở trong doanh trại huấn luyện của đơn vị đặc công thuộc lực lượng Waffen-SS, cũngtức là đội Bọ Cạp Đỏ một thời gian rất dài.”
Giáo sư Phương Tân cười nói: “Nhà động thực vật học, chuyên gia địa chất, bác sĩ, lính đặc chủng, thêm vào một nhà bác vật học nữa, cậu thử nghĩ xem, nếu chỉ nghiên cứu về chủng người, liệu có cần phái đi một tổ hợp như vậy hay không? Hay thử nói xem, một đội như vậy thì thích hợp làm việc gì hơn chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Giống như chúng ta, đây là một đội thám hiểm điển hình, có thể ra vào những chốn hoang dã không dấu chân người.”
Giáo sư Phương Tân lại nói: “Nếu thêm vào tám người bí mật kia, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nữa, HM thì không cần nói rồi, rất có khả năng y mới chính là người phụ trách thực sự của hành động này, lại là một nhà bác vật học nữa; ngoài ra còn có AFH, cũng là một bác sĩ, GK là chuyên gia cơ khí công trình; AL, nhà khảo cổ học; FF, nhà sử học; ngoài ra còn ba thành viên của đội Bọ Cạp Đỏ. Nếu nói bọn họ cùng hành động, vậy thì, một nhóm người như vậy sẽ đi đâu, làm gìchứ?”
Trác Mộc Cường Ba nghe mà lòng bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi, trầm giọng nói: “Bọn họ muốn tìm một nơi có khả năng tồn tại trong lịch sử, đồng thời cũng có thể có rất nhiều cơ quan cạm bẫy.”
Giáo sư Phương Tân tiếp tục di chuột, nói: “Danh sách vật tư này là một phần các thứ thiết bị máy móc họ mang vào TâyTạng.”
Trác Mộc Cường Ba đọc rất cẩn thận, thấy danh sách liệt kê rất tỉ mỉ nào là quần áo, giày vớ, lều bạt, ba lô, đồ đựng nước, đồ làm bếp, dao kéo, dụng cụ leo núi… chi chít phải đến mấy trang, đặc biệt là phần binh khí, vũ khí được kê ở đây đủ để mỗi thành viên trong đội vũ trang tới tận răng, thậm chí còn dư thừa ra nữa. Hơn nữa, dựa vào tư liệu phim âm bản, có thể thấy đây chỉ là một danh sách chưa hoàn chỉnh, phía sau còn rất nhiều thứ nữa vẫn chưa được kê ra. Trác Mộc Cường Ba càng xem càng tin tưởng rằng nhóm người này quyết không phải đến Tây Tạng để tìm kiếm tổ tiên của người Aryan. Gã ngạc nhiên hỏi: “Dù là đi tìm Shangri-la cũng không cần nhiều thứ đến thế chứ nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân thở dài: “Đúng vậy, nếu không hiểu về giai đoạn lịch sử ấy, khó mà lý giải được. Một phần vật tư ở đây là để chuẩn bị cho đồng minh của bọn họ.”
“Đồng minh?”
“Ừm, nước Anh, ngạc nhiên lắm phải không? Sự thực là, trước khi Thế chiến II nổ ra, quan hệ của hai nước Anh Đức vốn rất tốt. Sau Thế chiến I, nước Đức có thể nhanh chóng trỗi dậy như vậy, cũng là nhờ sự ủng hộ của hai nước Anh Mỹ. Nanh vuốt của Đế chế thứ ba từ từ vươn rộng, đồng thời trở nên sắc bén, nhưng trong toàn bộ quá trình ấy, nước Anh vẫn giữ thái độ mặc nhiên thừa nhận, nhẫn nại, nhượng bộ, cho đến cuối cùng không thể nhân nhượng được nữa mới thôi. Đội thám hiểm của Seifert đi qua chính khu vực do nước Anh kiểm soát để tiến vào Tây Tạng, bởi vì khi đó bọn họ đã hợp tác hành động. Ở đây tôi có một bản tài liệu, là nhật ký hành trình của FF viết. Tài liệu này không dài lắm, tôi đã in ra rồi đây, cậu thử xem qua đi.”
Trác Mộc Cường Ba đón lấy mấy trang giấy đó, đọc lướt qua ghi chép của FF. “17 tháng Một năm 1939, Thứ Ba.
Hôm nay, chúng tôi đến Tuca, HM nói chúng tôi sẽ men theo mạch núi tiến về phía Tây, nhưng lại ngấm ngầm hạ lệnh, phải cẩn thận đề phòng sự ‘hợp tác hữu hảo’ của đám người Anh và sự dòm ngó của các nước khác. Vì vậy, dọc đường, năm người bọn EF không thể không làm bộ điều tra đám người dân tộc Tạng, chụp đủ thứ ảnh. Thời tiết ở đây khô hanh, lạnh lẽo dị thường, khiến tôi nhớ đến vùng Interlaken[17]. Vậy mà chúng tôi vẫn phải lên núi nữa. Cũng may là còn có hơn hai chục tên nô lệ đi theo.”
“Ngày 23 tháng Hai năm 1939, Thứ Năm.
Sau khi hoàn thành công việc đo đạc của ngày hôm nay, bầu trời bỗng đổ tuyết, mới đầu còn là những hạt nhỏ như hạt muối, về sau thành những vạt lớn như lông ngỗng, hai bên bờ sông đã đóng băng từ lâu, chỉ còn lại ở giữa sông một dòng nước nhỏ như suối trên núi tuôn xuống, chảy ra vùng hoang nguyên bằng phẳng mênh mông, tựa như một con rắn đang không ngừng ngọ ngoạy thân mình, không thấy đầu không thấy đuôi.
HM nói, năm đó ông MS đã hoạt động ở vùng này và tìm được rất nhiều đầu mối quan trọng, chúng ta nên xây dựng một căn cứ địa ở đây, tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn. Nhưng tôi lấy làm lạ, dọc đường tới đây, tôi không hề phát hiện ra bất cứ dấu tích hoạt động nào của con người. HM nói, sẽ có, ở ngay phía trước kia thôi có một bộ lạc nguyên thủy. Sao anh ta biết được nhỉ? Có lẽ anh ta đã đến đây rồi, tôi có thể nhìn thấy điều đó trong ánh mắt HM.”
“Ngày 10 tháng Ba năm 1939, Thứ Sáu.
Tuyết lớn không ngừng rơi, theo lý thì không thể có tuyết rơi kéo dài như vậy được, ít nhất là trong lịch sử Tây Tạng mà tôi tìm hiểu được là không có. Hôm nay tôi mới biết, chỗ chúng tôi ở đây đã từng thuộc về cương thổ của một vương triều cổ xưa. Đáng tiếc là, tuyết lớn đã bít kín đường đi của chúng tôi, nên tôi chẳng thấy được dù chỉ một di chỉ hoang phế. Nhưng HM nói, trong khu vực này, có rất nhiều pháo đài không người còn sót lại. Phóng mắt nhìn ra xa, tuyết trắng dồn thành rấtnhiều gò đống nhỏ. HM nói, trông chúng rất giống nấm mồ kiểu Trung Quốc. Tôi thì chỉ cảm thấy gió lạnh buốt cả người, xem ra, HM hiểu rất rõ về Trung Quốc, trước nay tôi vẫn tưởng rằng anh ta chỉ biết về Tây Tạng, và dân tộc cổ xưa thần bí sống ở mảnh đất đó.”
“Ngày 29 tháng Ba năm 1939, Thứ Tư.
Đây là tòa thành thứ năm chúng tôi thăm dò, người nào người nấy đều đã mệt lử cả, lại chết mất hai tên nô lệ, thêm vào lũ muốn trốn chạy đêm qua, chúng tôi chỉ còn lại một nửa số nô lệ. Kurt hỏi chúng tôi có cần điều động thêm một đợt nô lệ nữa đến không, nếu vậy thì anh ta phải dẫn theo mấy người trở về Ấn Độ. HM đã từ chối, bọn họ đều có ý đồ riêng của mình cả. Tôi nhận ra được, chẳng ai là không có suy tính riêng của mình, kể cả đám nô lệ kia nữa. Có lẽ, giờ chỉ còn GK và AL là không có tâm tư gì, bọn họ gần như đã phát điên lên với những đống đổ nát mới khai quật được, cơ hồ như là không ăn không ngủ. Cảnh tượng chết thảm của bốn tên nô lệ hôm trước, tôi vẫn còn nhớ rõ như in, vậy mà GK lại nói đó là thành tựu lớn của môn Cơ quan học, thật khó mà tin được cổ nhân từ mấy trăm năm trước lại có kỹ thuật đến như thế. HM nói, đó chính là khoa học kỹ thuật thần bí của phương Đông, thời kỳ phát triển thành thục đã cách đây cả nghìn năm có lẻ. Những người dân Tạng xa xưa đã kế thừa thứ khoa học kỹ thuật ấy một cách hết sức hoàn hảo. Tôi không tin, nếu nói từ hơn nghìn năm trước người phương Đông đã phát minh và sáng tạo ra các máy móc thiết bị như thế, lẽ ra họ phải bước vào thời đại công nghiệp huy hoàng từ lâu lắm rồi, đó sẽ là một sức mạnh kỹ thuật mà bất cứ dân tộc hay quốc gia châu u nào cũng không thể theo kịp, chứ không phải lạc hậu kém cỏi như bây giờ. HM còn nói, từ hainghìn năm trước, người phương Đông đã dùng chất liệu gỗ chế tạo ra cỗ máy có thể bay lượn trên không trung, đó nhất định là thần thoại!”
“Ngày 7 tháng Bốn năm 1939, Thứ Sáu.
Sau khi khai quật đống đổ nát thứ bảy, sự việc không thuận lợi như trong dự kiến. TXT bị thương rất nặng, mặc dù ES và AFH đã dốc hết sức cứu chữa, nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn phải chôn anh ấy dưới đó. Trong mắt HM lộ ra vẻ thất vọng khôn cùng, anh ta bắt đầu than trách tài liệu của Kurt cung cấp không được chuẩn xác. Kurt nói tất cả tài liệu đều là thông tin xác thực của ông MS lưu lại, nếu ghép tư liệu của hai bên vào với nhau, có lẽ sẽ hoàn chỉnh. Anh ta còn bảo, nhất định là tư liệu của chúng tôi có vấn đề. Bọn họ cãi nhau rất lớn tiếng, nhưng không hề cho chúng tôi tham gia vào cuộc ‘thảo luận’ đó, họ đang nói đến tư liệu gì vậy? Đã rời nhà sắp được năm tháng rồi, tôi bắt đầu thấy hoài niệm về ngôi nhà xưa của mình rồi.”
“Ngày 5 tháng Sáu năm 1939, Thứ Hai…
Kurt và mấy người Anh khác đều đã chết cả rồi, tôi không tin đây là tai nạn. Dường như HM đã phát hiện ra điều gì đó, tôi nghe thấy anh ta thảo luận với AL rằng, vẫn còn những tài liệu khác chưa tìm thấy được, sau đó anh ta nói với chúng tôi, anh ta sẽ cùng EF trở lại Lhasa, dọc đường sẽ ghé thăm chào hỏi các quý tộc và quan viên địa phương, cuối cùng sẽ trở về nước Đức. Anh ta yêu cầu chúng tôi ở lại, trời đất ơi, những ngày tháng ấy đến bao giờ mới kết thúc đây. Trước lúc anh ta lên đường, tôi nói với HM nỗi lo lắng về người Anh, cả một đội ngũ cùng xuất phát, mà lại không có một người Anh nào sống sót trở về, điều này rất dễ khiến phía Anh kháng nghị. HM nói không cần lo lắng, sự việc sẽ được giải quyết. Anh ta cười rất thần bí, không, phải nói là rất quái dị mới đúng.”
CHƯƠNG 43:
HITLER BÍ MẬT PHÁI NGƯỜI LẦN THỨ HAI XM NHẬP TY TẠNG
Lúc nãy kể đến đoạn lần đầu tiên hai nước Anh, Đức phối hợp tiến vào Tây Tạng, cuối cùng HM giết hết tất cả người Anh, đồng thời để lại một bộ phận người Đức ở Tây Tạng, chúng ta có thể suy đoán, trong cả quá trình Thế chiến II, bọn họ vẫn đồn trú trong căn cứ địa ở Tây Tạng, thăm dò, đo đạc, tìm kiếm. Tiếp theo đây, tôi sẽ nói về lần thứ hai Đức Quốc xã phái người thâm nhập Tây Tạng như thế nào.
Suy đoán về 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn
Xem hết tập nhật ký hành trình, Trác Mộc Cường Ba nói: “Tản… tản mạn quá, sao ở giữa lại thiếu nhiều thế nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Lúc chúng ta nhận tài liệu đã như vậy rồi. Có hai khả năng, thứ nhất là sau khi Đức Quốc xã có được tập nhật ký này, đã hủy một số nội dung không thể xuất hiện trên đời này, thứ hai là sau khi Liên Xô thu được số tài liệu này, đã giấu các nội dung quan trọng đi, chỉ có những nội dung ngoài lề, người xem không ai hiểu thì mới được giải mật. Vì thời gian cách quãng quá lâu, thậm chí chúng ta còn không biết được cuối cùng có mấy người sống sót, và ở lại Tây Tạng. Nhưng chúng ta cũng không khó để nhận ra rằng, lần tiến vào Tây Tạng này, phía Đức và phía Anh đều nắm được một phần tài liệu của Morton Stanley, vì vậy mới triển khai hành động liên hợp, và cuối cùng HM đã giết tất cả đám người Anh, một mình nuốt hết các thứ họ phát hiện ra được.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng, cũng như người tên FF này đã viết, nước Anh chắc chắn sẽ không chịu khoanh tay đứng nhìn đâu.”
“Đúng vậy,” giáo sư Phương Tân nói. “Cậu biết không, theo các tư liệu chính thức, tháng Tám, đội thám hiểm Seifert trở về Đức, tháng Chín, nước Đức tấn công chớp nhoáng Ba Lan, đồng thời, Anh cũng tuyên chiến với Đức, bọn họ đã không chịu để yên, chỉ có điều, tất cả vấn đề đều đã bị che khuất đi trong cuồng phong bạo vũ của Đại chiến thế giới thứ hai rồi.”
Nhìn Trác Mộc Cường Ba miệng há hốc, mắt trợn tròn, nét mặt giáo sư Phương Tân lộ ra đôi phần lo lắng: “Kỳ thực, còn một vấn đề nữa, từ đầu tới giờ tôi vẫn chưa nhắc tới.”
Trác Mộc Cường Ba định thần lại, vội hỏi: “Vấn đề gì vậy?” Giáo sư Phương Tân nói: “Vấn đề 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn.”
“A!” Trác Mộc Cường Ba kêu lên khe khẽ. Tuy gã mới chỉ nghe pháp sư Tháp Tây nhắc đến tổ chức thần bí này một lần, nhưng ấn tượng của gã về nó lại vô cùng sâu sắc, đặc biệt là nét mặt và thái độ của pháp sư Tháp Tây lúc nói về tổ chức này, chứng tỏ hiển nhiên đó phải là một điều cấm kỵ không thể tùy tiện nói ra mọi lúc mọi nơi.
Giáo sư Phương Tân nói: “Lần đầu tiên đưa tài liệu về Thế chiến II cho cậu, trong đó có một số tài liệu liên quan đến Hitler mà tôi cho rằng không đáng tin cậy lắm, để tiết kiệm thời gian của cậu, tôi chỉ chọn ra một phần tương đối đáng tin thôi. Phần nội dung ấy nói rằng, trước khi phát tích, Hitler từng tiếp xúc với một tổ chức thần bí, còn có thông tin cho rằng tạp chí Viên ngọc Đông Phương có quan hệ nhất định với tổ chức ấy nữa. Chính tổ chức đó đã nói với Hitler rằng ông ta là kẻ bất phàm, vận mệnh đã định sẵn rằng ông ta sẽ trở thành người được cả thế giới tôn sùng. Hitler bị mê hoặc như vậy, cộng thêm lần đại nạn không chết trong Thế chiến I, cuối cùng ông ta mới tin tưởng rằng, số mệnh của mình là trở thành người khiến thế giới này phải nhìn lại. Tôi còn nhớ, một người bạn nghiên cứu về lịch sử Thế chiến II từng nói, ông ấy dám khẳng định, năm đó, chắc trăm phần trăm không chỉ có mình Hitler bị tổ chức thần bí ấy mê hoặc, mà còn rất nhiều thanh thiếu niên khác nữa, chẳng qua chỉ có Hitler là người thành công nhất mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tổ chức ấy lẽ nào chính là…” “Ừm,” giáo sư Phương Tân nhíu mày trầm giọng: “Vấn đề chính là ở đây, các thành viên của tổ chức ấy tự xưng là Hiệp sĩ dòng Đền, và tên của tổ chức ấy gọi là Đoàn Hiệp sĩ dòng Đền.”
“Đoàn Hiệp sĩ dòng Đền!” “Về sau tôi có đọc qua một chút, trong truyền thuyết phương Tây, Hiệp sĩ dòng Đền, chính là chỉ 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn.” “Hả?”
“Vì vậy mới nói, nếu đúng là thời thanh niên Hitler đã từng bị tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền thu hút, thêm vào các câu đố không thể giải đáp trước và trong Đại chiến thế giới thứ hai, tất cả đã trở thành một phần quan trọng trong học thuyết Con rối Hitler.”
Trác Mộc Cường Ba buột miệng: “Thầy giáo cũng biết thuyết Con rối Hitler à?” Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, có đọc qua trong lúc tìm tài liệu. Cậu cũng nghe nói đến học thuyết này à?” “À, Sean có kể với tôi. Nhưng… anh ta nói rất đơn giản.”
“Ừm, là thế này. Thực ra, vì các câu đố không lời giải trong Thế chiến II quá nhiều, mà Mỹ và Nga lại bảo mật các tài liệu liên quan đến chiến tranh rất nghiêm ngặt, vì vậy, để hoàn nguyên bộ mặt thật của lịch sử, các nhà sử học mới đưa ra một loạt học thuyết táo bạo, nhằm mục đích giải thích các sự kiện diễn ra trong Thế chiến II một cách hoàn chỉnh hơn nữa. Học thuyết Con rối Hitler chỉ là một trong số đó mà thôi. Theo học thuyết này, Hitler chỉ là một thành viên trong tổ chức thần bí kia, ông ta chỉ là nhân vật được đưa ra phía trước mà thôi. Không những thế, từ lúc ông ta vào đảng, cho tới khi phát triển đảng Quốc xã trở nên lớn mạnh, đều nhờ tổ chức thần bí kia ở sau lưng lên kế hoạch, sửa chữa, thiết kế. Còn nữa, việc nước Đức nhanh chóng vươn lên không thể tách rời khỏi sự ủng hộ rất lớn từ phía Anh và Mỹ. Có học giả đã chỉ ra rằng, mặc dù Hitler có danh tiếng rất cao trong nội bộ nước Đức, ảnh hưởng của ông ta trên trường quốc tế khi ấy không phải là lớn lắm. Mà lúc đó nước Đức cũng không có thứ gì để các cường quốc kinh tế như Anh Mỹ coi trọng cả. Nếu nói Anh Mỹ muốn nâng đỡ nước Đức trở thành quân bài đối chọi Liên Xô, lại càng không thể giải thích được chuyện tiếp tục cho Đức vay một khoản tiền lớn, viện trợ vật tư, đặc biệt là vật tư quân sự trong lúc chính bản thân hai nước gặp suy thoái tài chính, mà nước Đức lại đã tỏ ra hung hăng hiếu chiến như vậy. Do đó, các học giả đã đặt ra giả thiết, việc viện trợ nước Đức thời đó, cũng là do tổ chức bí mật kia ở phía sau một tay thao túng, bởi thành viên của họ ở khắp nơi trên thế giới, hơn nữa còn có nhiều thành viên đảm nhiệm chức vụ cao trong chính phủ các nước, vì vậy việc điều vận vật tư đối với họ thật vô cùng dễ dàng. Còn nữa, cậu có biết sự kiện cuộc tháo chạy Dunkerque nổi tiếng nhất Thế chiến II không? Khi Thế chiến mới nổ ra, liên quân Anh Pháp liên tiếp thảm bại, cuối cùng bị dồn vào đường cùng, ba trăm nghìn binh lính bị ép vào một góc, chỉ cần quân Đức khép vòng vây, bọn họ sẽ tuyệt đối không có đường sống. Nhưng đúng lúc đó, Hitler đã đích thân hạ lệnh, quân Đức ngừng truy kích trong 24 tiếng đồng hồ. Chính là 24 tiếng đồng hồ này, đã giúp liên quân Anh Pháp có thể chạy thoát theo đường biển. Nếu không sự kiện Dunkerque ấy, e rằng lịch sử Thế chiến II đã phải viết lại rồi. Nhưng tại sao Hitler lại hạ lệnh như thế, tất cả các nhà sử học nghiên cứu về Thế chiến II đều không tìm ra nguyên nhân, mà các quan chức cấp cao trong đảng Quốc xã thời bấy giờ cũng hết sức khó hiểu trước mệnh lệnhnày. Nếu giải thích theo học thuyết Con rối Hitler, thì là lãnh đạo của tổ chức kia đã ra lệnh cho Hitler, yêu cầu ông ta phải trì hoãn truy kích trong 24 tiếng đồng hồ. Còn Hitler, đương nhiên là không dám không tuân theo.”
Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rối mù, buột miệng hỏi: “Vậy, tại sao bọn họ lại ra mệnh lệnh như thế?” Giáo sư Phương Tân cười đáp: “Đến đây thì tôi cảm thấy đã đi quá xa khỏi chủ đề Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang tìm kiếm, nên không đi sâu nghiên cứu thêm nữa.”
Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Vậy tổ chức thần bí đã châm ngòi cho Đại chiến thế giới thứ hai, đến cả Hitler cũng không thể không phục tùng ấy, chính là 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn hay sao?”
“Phục tùng à? Tôi thấy cũng chưa chắc?” Giáo sư Phương Tân ngước nhìn về phía xa xa, nói tiếp: “Các nhà sử học đưa ra học thuyết Con rối Hitler này ban đầu cũng có một chút hàm ý đả kích những phần tử tàn dư của đảng Quốc xã vẫn còn mù quáng sùng bái Hitler. Theo tôi, dù là có một tổ chức như thế thật, thì giữa Hitler và tổ chức ấy quá nửa cũng là một thứ quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Đến thời kỳ sau của cuộc Thế chiến, đó tuyệt đối là một trận đại chiến diễn ra khắp toàn thế giới, không một tổ chức nào, không một con người nào có thể xoay chuyển được nữa. Huống hồ, có một tổ chức như vậy hay không vẫn còn rất khó nói. Đúng rồi, những người ủng hộ học thuyết này còn có một luận điệu nữa, chính là về sự bảo mật nghiêm ngặt của hai nước Xô Mỹ đối với các tài liệu trong Thế chiến II. Có rất nhiều tài liệu bị đặt thời hạn giải mật là một trăm năm, không những vậy, một số còn được bảo mật vĩnh viễn, cũng có nghĩa là, bất kể chế độ nào, những tài liệu ấy cũng phải chịu số phận phủ bụi, cho đến khi nhân loại biến mất mới thôi. Điều này hầu như nhà nghiên cứu nào cũng biết, chỉ có điều tại sao phải bảo mật vĩnh viễn thì thực khó hiểu vô cùng. Còn học thuyết Con rối Hitler chỉ ra rằng, chính vì tổ chức thần bí kia có rất nhiều quan chức cấp cao ở chính quyền hai nước Xô Mỹ, nên tất cả các tài liệu có đề cập đến tổ chức ấy đều bị bảo mật vĩnh viễn.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt của giáo sư Phương Tân, lẩm bẩm nói: “13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, thật sự đáng sợ đến vậy sao?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Nếu cậu cho rằng bọn họ có liên quan rất lớn đến Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang tìm kiếm… Hay là, để tôi tiếp tục tìm hiểu thêm?”
“Không cần đâu, thầy giáo!” Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Không cần thiết, nếu bọn họ thật sự đáng sợ như trong truyền thuyết, sao lại chú ý đến một nhóm nhỏ như chúng ta làm gì chứ, tốt hơn hết là cứ tập trung tinh lực vào chuyện Bạc Ba La thần miếu còn hơn. Ở đây còn bao nhiêu tài liệu như vậy, thầy còn phải phân tích tấm bản đồ và gương đồng nữa, những việc ở đây cứ giao cho chúng tôi làm là được rồi.”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, việc chỉnh lý sắp xếp tài liệu giao cho cậu và Mẫn Mẫn phụ trách, còn tìm chuyên gia thì cứ để tôi làm. Đừng nôn nóng, tư liệu nhiều lắm, vẫn còn chưa dịch ra hết, cứ từ từ thôi.”
Sau đó, Lữ Cánh Nam và Ba Tang, Nhạc Dương phụ trách huấn luyện các thành viên mới, Sean, Vương Hựu cũng đều tham gia huấn luyện. Pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương đi khắp thế giới mua sắm các trang thiết bị cần thiết, thỉnh thoảng lại gửi một số dụng cụ về Tây Tạng, rồi đưa thẳng đến trại huấn luyện. Trương Lập ở trại huấn luyện, chuyên lo việc tháo gỡ các dụng cụ ấy ra phân tích rồi lắp ráp trở lại. Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn được giáo sư Phương Tân hướng dẫn, đi sâu tìm hiểu Bạc Ba La thần miếu, tập trung phân tích các tài liệu mang từ Nga về. Giáo sư Phương Tân đã tốn rất nhiều tâm tư trong việc phân công điều chỉnh, sắp xếp kế hoạch. Mọi người phân tán, bình thường rất ít khi liên lạc với nhau để đảm bảo hành tung không bị kẻ địch phát hiện, mỗi tháng chỉ gặp nhau một lần để báo cáo tiến độ công việc. Cứ như vậy, nhóm người vì Bạc Ba La thần miếu mà tập hợp với nhau này bắt đầu phối hợp hành động một cách có quyluật.
Một tháng sau, Nhạc Dương và Trương Lập bí mật ghé qua, báo với giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba một chuyện lớn. “Cường Ba thiếu gia, dữ liệu máy tính của giáo sư Phương Tân lưu ở trong trại huấn luyện của chúng ta bị ăn trộm.” Trương Lập phẫn nộ nói.
“Rốt cuộc là chuyện gì?” Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hãi. Để tiện cho việc tra tìm nghiên cứu, họ đã sao lưu lại tất cả các tài liệu của giáo sư Phương Tân dùng máy tính ghi lại, để ở trại huấn luyện. Đó là những tài liệu đầu tiên họ dùng tính mạng đổi về, ngoại trừ một phần của nhà nước, chỉ có của họ là hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, nếu bị trộm, chẳng phải những tổ chức từ lâu đã tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu kia sẽ cùng đường chạy với bọn họ hay sao? Hơn nữa, họ sẽ còn phát hiện ra các bí mật về tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, và tấm bản đồ da sói nữa.
Nhạc Dương nói: “Đĩa cứng vẫn luôn được giữ trong máy tính đặt trong phòng làm việc của giáo quan, bị trộm lúc nửa đêm, tên gian tặc ấy không làm kinh động đến người gác đêm. Kẻ này hiểu rất rõ về bố cục phòng ngự của chúng ta, phán đoán bước đầu là do người bên trong, hơn nữa còn không chỉ có một người. Giáo quan đã tổ chức thanh sát nội bộ, nhưng không phát hiện ra phần tử nào khả nghi. Ngoài ra, giáo quan còn sợ các tổ chức khác có thành viên tiềm phục trong trại huấn luyện, chúng có khả năng sẽ phá hoại hoặc ăn trộm các thông tin truyền qua đường mạng máy tính, vì vậy công việc báo cáo tháng này và các tháng về sau đều sẽ phải thực hiện mặt đối mặt.” Ngữ khí của Nhạc Dương vẫn còn giữ được bình tĩnh.
Trác Mộc Cường Ba chau mày nói: “Lẽ nào cả một đối tượng khả nghi cũng không có?”
Trương Lập nói: “Tôi cảm thấy Vương Hựu là khả nghi nhất, anh ta không phải bạn bè do chúng ta tìm về, tại sao cứ nằng nặc đòi gia nhập? Còn nữa, anh ta lúc nào cũng mang theo một lọ thuốc, người khỏe mạnh cứ phải uống thuốc liên tục như vậy sao?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ồ, thuốc đó tôi biết, Vương Hựu nói là vitamin. Nhưng anh ta có lẽ không thiếu tiền, nếu đúng là anh ta, lẽ nào còn mục đích gì khác? Nhạc Dương, cậu thấy sao?”
Nhạc Dương nói: “Ừm, chúng tôi cũng từng rất nghi ngờ Vương Hựu, nhưng giáo quan nói, Vương Hựu chẳng có thân thủ giỏi như vậy, anh ta không thể là người hành động chính được. Còn thuốc kia thì cũng không vấn đề gì cả.” Trong đầu anh nhớ lại lúc mình báo cáo tình hình với Lữ Cánh Nam: “Giáo quan, thứ thuốc Vương Hựu đang dùng kia không phải vitamin, mà là ma túy.”
“Cái gì, ma túy? Cậu chắc chắn chứ?” “Đúng vậy. Có lẽ nồng độ không cao lắm, nhưng trong đó chắc trăm phần trăm là có thành phần chất gây nghiện.” “Ý cậu là, có thể anh ta bị người khác dùng ma túy khống chế, ngấm ngầm ăn cắp dữ liệu của chúng ta?” “Không loại trừ khả năng đó, có cần tôi giám sát anh ta không?” “Ừm, đừng làm kinh động, ngấm ngầm giám sát thôi.” …
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, nhất thời cũng không ra đầu mối gì, bèn nói: “Biết rồi, vậy các cậu phải thắt chặt huấn luyện nữa vào, chuyện này cũng ảnh hưởng khá lớn đến chúng ta đấy, phải không, thầy giáo?”
Giáo sư Phương Tân “ừm” một tiếng, như đang trầm ngâm suy nghĩ. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra, khoảng thời gian trước chẳng phải gã đã thương lượng với bọn Trương Lập, lập ra một kế hoạch làm rò rỉ thông tin, để chuyển hướng chú ý của các tổ chức muốn tìm bọn họ nghe ngóng bí mật về Bạc Ba La thần miếu hay sao? Sự kiện bị trộm dữ liệu lần này, có phải là kế hoạch đó đã bắt đầu đi vào thực thi rồi hay không? Nhưng mà, tại sao gã hoàn toàn không hay biết gì, hơn nữa, lấy tất cả tư liệu ghi hình trong quá trình tìm kiếm thần miếu của bọn gã ra làm mồi câu, kế hoạch rò rỉ thông tin này chẳng phải đã làm rò rỉ quá nhiều hay sao? Hay là, thật sự có nội gián ăn trộm tư liệu? Tại sao thầy giáo không lộ ra vẻ kinh ngạc như gã tưởng tượng, rốt cuộc chuyện này là thế nào đây?
Trác Mộc Cường Ba đang suy nghĩ theo chiều hướng xấu, bỗng nghe giáo sư Phương Tân đằng hắng một tiếng, nói: “Ừm, được rồi, chuyện này chúng tôi đã biết, Cánh Nam nhất định phải tăng cường quản lý, hạn chế các thành viên mới đơn độc hành động, tôi tin là sau này sẽ không xảy ra chuyện đó nữa đâu. Các cậu báo cáo tiến độ công việc của mình đi. Trương Lập, việc cải tiến dụng cụ làm tới đâu rồi? Một mình cậu có hoàn thành được không?”
Trương Lập nói: “Các thiết bị mẫu gửi về không nhiều lắm, gỡ ra và lắp lại một mình tôi làm được. Rắc rối là ở các thiết kế cải tạo, mấy bản vẽ tôi thiết kế ra đều không thể thực hiện được. Thợ ở công xưởng nói, dựa theo bản vẽ của tôi không thể nào gia công ra được cái gì cả.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Chuyện này đơn giản, cậu quét bản vẽ và các số liệu vào máy tính, tôi sẽ tìm chuyên gia hoàn thiện lại là xong.”
Trương Lập gật đầu: “Vậy thì không còn vấn đề gì nữa, tôi sẽ đưa cho giáo quan xem trước nữa, cô ấy cũng hiểu rất sâu về thiết kế máy móc.”
Kế đó, Nhạc Dương báo cáo tình hình “tân binh”, nói liền một mạch: “Tuổi bình quân của đám người này là 35, đang độ tráng niên, có kinh nghiệm thám hiểm nơi hoang dã, rất ưa thích các môn thể thao cạnh tranh, bản thân mỗi người đều có cơ sở nhất định về thể năng, quan trọng nhất là tố chất tâm lý của những người này tương đối ổn định. Trước mắt họ đã qua được giai đoạn huấn luyện mở rộng, tiếp theo đây sẽ là huấn luyện cực hạn. Vì hiện giờ chúng ta không tiện để lộ hành tung, chỉ có thể chọn một vài ngọn núi tuyết ở Tây Tạng làm nơi huấn luyện thực địa. Trước mắt chúng tôi đã có kế hoạch sơ bộ, bao gồm leo vách núi, leo vách băng, trượt tốc độ cao trên núi tuyết… Trong những người này, đáng nhắc đến nhất chính là anh Sean, người làm luật sư trí nhớ rất kinh người, các kiến thức về mặt lý luận hoàn toàn không có gì để nói nữa. Mà kỳ thực, từ hồi ở trong rừng rậm châu Mỹ, tri thức lý luận của anh ấy đã hơn cả chúng ta rồi, giờ chủ yếu là tiến hành huấn luyện kỹ năng thôi. Thân thủ của anh Sean này cũng không kém chút nào đâu, phong độ rất giống pháp sư Á La năm xưa, bất kể là hạng mục huấn luyện nào, cũng chỉ cần làm một lần là thành công. Nếu họ có thể thuận lợi hoàn thành đợt huấn luyện cực hạn, chỉ còn đợi các thiết bị mới của Trương Lập để hướng dẫn họ sử dụng nữa là xong.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Vậy còn cần bao nhiêu thời gian nữa mới đảm bảo họ có thể theo chúng ta?”
Nhạc Dương đáp: “À, giáo quan nói, nếu tất cả thuận lợi, chỉ cần hai tháng nữa là có thể huấn luyện họ đạt tới trình độ của chúng ta lúc sang châu Mỹ rồi. Đương nhiên, nếu như cần xuất phát sớm hơn, chúng ta có thể rút ngắn giáo trình huấn luyện, chỉ cần họ đạt đủ điều kiện lên đường trong thời gian ngắn nhất, vấn đề mấu chốt vẫn là đầu mối cuối cùng kiathôi.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, không sai, mấu chốt vẫn là ở chỗ chúng ta. Tôi cũng báo cho mọi người biết một số tiến triển về mặt này, các cậu đã biết rồi, tôi và Cường Ba, Mẫn Mẫn chia làm hai tổ chuyên nghiên cứu các đầu mối khác nhau. Tôi phụ trách việc nghiên cứu phân tích trên mặt khoa học kỹ thuật, Cường Ba phụ trách tìm kiếm đầu mối trong các văn kiện lịch sử. Ban đầu, bản đồ đã được pháp sư Á La mang về nghiên cứu, cả tấm gương đồng cũng được Lữ Cánh Nam mang về cho tôn giáo của họ, nhưng đến nay vẫn chưa ra được kết quả gì, giờ mới gửi về chỗ tôi, hy vọng có thể sử dụng các máy móc hiện đại mà có được bước đột phá gì đó. Chúng tôi sẽ gắng hết sức, dù không thể phục nguyên tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, thì tôi cũng vẫn còn một đám bạn bè đang bò ra nghiên cứu tấm bản đồ kia, nếu họ tìm được đầu mối gì thì chúng ta hãy còn hy vọng. Về phía Cường Ba, cậu ấy cũng có được khá nhiều đột phá quan trọng khi nghiên cứu các tài liệu lịch sử. Cường Ba à, cậu nói cho mọi người nghe đi.”
Merkin và Stanley
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, tôi sẽ đi vào trọng điểm trước. Tôi nghĩ chúng ta đã tìm ra được một số thông tin về Merkin và gia tộc của hắn trong các tư liệu lịch sử rồi. Merkin mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay, cùng với Morton Stanley mà chúng ta đã biết quá rõ, giữa tổ tiên của hai người này có một mối liên hệ nào đó.”
“A!” Trương Lập và Nhạc Dương cùng giật mình ngạc nhiên.
Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Đương nhiên, chúng ta không có chứng cứ lịch sử xác thực, mà chỉ có thể dựa vào suy đoán để đưa ra kết luận. Trước tiên, mọi người cần biết tới mấy cái tên này. Thứ nhất, là Diego de Landa, giáo sĩ người Tây Ban Nha theo quân viễn chinh tiến vào Maya, người này đã làm một chuyện lớn vô tiền khoáng hậu trong lịch sử văn minhMaya. Có thể nói, một nửa các di sản văn hiến của người Maya để lại đã bị hủy hoại trong tay giáo sĩ tên Diego de Landa này. Khi người Tây Ban Nha đặt chân lên châu Mỹ, nền văn minh Maya đã lụi tàn. Những người Maya bọn họ gặp toàn mặc da thú, không có chữ viết, xã hội vẫn còn ở hình thái nguyên thủy, trí lực thậm chí còn thấp hơn người nguyên thủy, vì vậy người Tây Ban Nha chẳng hề tốn chút công sức nào đã chiếm được châu Mỹ. Nhưng rồi sau đó, những người nguyên thủy ấy dẫn họ đến xem thành đá Maya, kiến trúc kỳ vĩ như là của người ngoài hành tinh xây nên, còn cả những đồ trang sức bằng vàng được chế tác hết sức tinh xảo, khiến đám người Tây Ban Nha thảy đều đỏ mắt thèm thuồng. Càng quan trọng hơn nữa là, những người nguyên thủy ấy đã lấy ra rất nhiều văn bản viết trên vỏ cây, đó có lẽ chính là tiếng Maya. Tuy họ đã quên hết ý nghĩa của văn tự, nhưng cũng biết đây là của tổ tiên để lại, nên đều cất giữ như bảo vật. Tất cả các ghi chép đó chỉ do một mình Landa đọc duyệt, nên các nhà nghiên cứu lịch sử Maya hiện đại hầu hết đều cho rằng, Landa hiểu tiếng Maya. Đáng tiếc, không hiểu vì nguyên nhân gì, ông ta đã đem tất cả tư liệu về Maya thu thập được thiêu rụi. Chính hành vi này của ông ta đã khiến người đời sau gặp phải vô vàn khó khăn trong việc nghiên cứu lịch sử Maya, đồng thời cũng khiến lịch sử Maya trở thành một câu đố đến nay vẫn chưa thể giải hết.”
Trác Mộc Cường Ba ngưng lại giây lát để đổi hơi, tiếp tục nói: “Còn lý do tại sao ông ta phải hủy hoàn toàn các dấu tích văn hiến Maya ấy, đồng thời gần như điên cuồng truy bắt, giày vò, giết chết những người đã dâng nạp những tài liệu tiếng Maya đó, hoặc những người biết ở đâu còn lưu giữ những dấu tích Maya khác, các nhà sử học đã đưa ra hai lối giải thích. Thứ nhất, là khi đó Landa muốn hủy diệt tín ngưỡng tinh thần của người Maya một cách triệt để, hòng khiến đám người nguyên thủy ấy tin theo Chúa, nên mới sử dụng những biện pháp cực đoan đó; ngoài ra còn một cách giải thích khác nữa là, từ những dấu tích văn hiến Maya có trong tay, Landa đã thực sự phát hiện ra điều gì đó mà ông ta cho rằng không thể tồn tại trên đời này, vì vậy mà Landa đã từng tuyên bố rằng, những tài liệu tiếng Maya đó đều là lời dối trá của ma quỷ, đồng thời gọi những người đã đọc, đã thấy qua những tài liệu ấy là giáo đồ dị giáo, còn nói nếu không thiêu chết bọn họ, những kẻ ấy sẽ trở thành người phát ngôn thay cho ma quỷ. Cũng vì chuyện này mà ông ta bị triệu hồi về Tây Ban Nha, đưa ra tòa án tôn giáo, đồng thời bị cầm tù ở Tây Ban Nha mười một năm. Về sau, Landa kháng án, một hội đồng bao gồm nhiều học giả đã xá miễn tội cho ông ta. Năm 1573, Landa lại trở về Maya đảm nhiệm chức Hồng y Giáo chủ. Nhưng trong lần trở lại này, thái độ của Landa lại quay ngoắt một trăm tám mươi độ, từ một kẻ điên cuồng hủy diệt văn hiến Maya, biến thành một kẻ sưu tầm và bảo vệ các tài liệu lịch sử ấy. Ông ta bắt đầu thừa nhận, trong các tài liệu tiếng Maya từng bị ông ta thiêu hủy, có rất nhiều ghi chép liên quan tới tập tục và khoa học của người Maya. Về sau, ông ta thu thập các tài liệu, viết ra cuốn sách nghiên cứu đầu tiên nền văn minh Maya, tên làRelación de las cosas de Yucatán (Phong vật Yucatan). Rất nhiều nhà nghiên cứu Maya hậu thế đều bắt đầu dựa trên nền tảng là cuốn sách này.”
Trác Mộc Cường Ba lại ngừng giây lát, rồi nói tiếp: “Sự việc của Landa tạm tới đây thôi, giờ tôi sẽ nói đến người thứ hai. Người này tên là Diego Garcia de Palacio, cũng là giáo sĩ người Tây Ban Nha, nghe nói ông ta và Landa có quan hệ thân thích. Landa chết năm 1579, nhưng từ khoảng năm 1576, vì tuổi tác đã cao nên ông ta không thể thực hiện công việc khảo sát và tìm kiếm các tài liệu lịch sử cũng như di tích cổ Maya trên phạm vi rộng được nữa. Lúc này, người tên Palacio này liền xuất hiện ở Maya, bắt đầu thâm nhập và tiến sâu hơn về phía Nam châu Mỹ, khảo sát thu thập các tài liệu về tổ tiên người Maya. Ông ta tập hợp các tài liệu mình sưu tập được, biến thành một tập bản thảo. Bản thảo này và cả bản thảo viết tay của Landa đều không được tiết lộ công khai, mà bị cất giấu ở một nơi bí mật đến tận thế kỷ mười chín mới lộ ra. Mọi người nhớ kỹ nhé, điểm này rất quan trọng.”
Trác Mộc Cường Ba đứng hẳn lên, nói tiếp: “Tiếp theo là vào chủ đề chính rồi. Trong số tài liệu chúng tôi mang từ Nga về lần này, có một phong thư viết từ khoảng cuối thế kỷ mười bảy. Một nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha tên là Marcus Merkin, viết cho một giáo sĩ Tây Ban Nha tên là Palacio Stanley, nội dung bức thư là người tên Merkin kia hỏi dò Stanley xem bản thảo viết tay của ông cố ngoại Stanley có còn không, trong đó có nhắc đến nơi nào tên là Bạc Ba La hay không.”
“Hả!” Nhạc Dương và Trương Lập kinh ngạc kêu lên thành tiếng.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Sau khi tìm kiếm ở nhiều nguồn, đối chiếu kỹ lưỡng, chúng tôi phát hiện ra ông cố ngoại của Palacio Stanley chính là Diego Garcia de Palacio. Mà trùng hợp hơn nữa là, Marcus Merkin và Palacio Stanley, hai người này vừa khéo lại trùng với họ của Merkin, và Morton Stanley. Mà số tài liệu này của chúng ta, là do Liên Xô đoạt được từ tay người Đức sau Thế chiến II. Có lẽ người Đức đã thông qua nhiều kênh khác nhau để thu thập tài liệu về Morton Stanley, đây rất có khả năng là một bức thư gia đình được Morton Stanley giữ lại. Càng trùng hợp hơn nữa là, Marcus Merkin và người tên Ben Merkin chúng ta đang đối đầu hiện nay, đều là người Bồ Đào Nha. Còn một điểm nữa, bản thảoviết tay của Palacio mãi đến năm 1840 mới lộ diện công khai, nhưng những nhà nghiên cứu Maya thời bấy giờ đã chỉ ra rằng, bản thảo này bị thiếu trang. Còn Morton Stanley, phán đoán dựa vào các tài liệu trước đây, cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng của Stephens nên đã điều tra Maya trước, sau đó mới đột nhiên chuyển hướng qua Tây Tạng, rất có thể là một suy đoán sai lầm. Có khả năng là, ngay từ đầu ông ta đã có kế hoạch như vậy rồi. Có lẽ ông ta đã phát hiện được một số bí mật trong những thư tín của gia đình, mà chúng ta chỉ mới được xem qua một bức, những thư từ văn kiện khác còn nhắc đến gì nữa thì không rõ. Ngoài ra, việc Morton Stanley nói rằng ông ta nghe được tên Bạc Ba La thần miếu từ bài sử thiA Lý Vươngđã thất truyền, quá nửa cũng là chuyện bịa đặt, bởi vì ngoài ông ta ra, đâu còn vị học giả nào từng nghe bài sử thi ấy đâu chứ.”
Nhạc Dương nói: “Tôi lấy làm lạ, tại sao Marcus Merkin có thể trực tiếp gọi ra cái tên Bạc Ba La, hơn nữa bản thảo viết tay ấy chẳng phải đã bị giấu kín rồi ư? Làm sao ông ta biết đến nó được chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Về chuyện này, không thể không nhắc đến lịch sử của Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha vốn thuộc Vương quốc Castilla, cũng chính là tiền thân của Tây Ban Nha. Năm 1140, Bồ Đào Nha thoát ly khỏi sự thống trị của Vương quốc Castilla, tuyên bố độc lập, đến năm 1143 được Giáo hoàng La Mã công nhận. Từ đó trở đi Bồ Đào Nha đã trải qua rất nhiều vương triều, cường thịnh nhất chính là vương triều Avis. Từ năm 1415 đến năm 1580, người Bồ Đào Nha đã mở đầu thời đại hải quyền, trở thành những người dẫn đầu thế giới về kỹ thuật hàng hải và thám hiểm thế giới. Nhưng khi vương triều Avis sụp đổ, quốc vương Tây Ban Nha đã dùng thế lực của mình ép buộc Bồ Đào Nha quy phục Tây Ban Nha trở lại. Cũng có nghĩa là, vào thời Palacio sống, Bồ Đào Nha từng là nước chư hầu của Tây Ban Nha. Chúng ta thậm chí có thể đặt giả thiết, tổ tiên của Marcus Merkin và Palacio có khả năng đã từng làm việc chung trong Giáo hội, vì vậy ông ta mới biết rõ những bí mật của họ. Ngoài ra, những vấn đề như rốt cuộc Landa đã đọc được gì trong các tài liệu lịch sử của Maya mà khiến ông ta có những hành động điên cuồng như vậy, Palacio nghiên cứu, điều tra những gì, tại sao lại bị giấu đi, đều không thể nào tra tìm lại được nữa.”
Trương Lập nói: “Vậy thì Marcus Merkin và Palacio Stanley có thể là tổ tiên của Ben Merkin và Morton Stanley rồi?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không những vậy, quan trọng hơn nữa là, chúng ta đã biết được từ đâu mà bọn họ thăm dò ra sự tồn tại của Bạc Ba La thần miếu.”
Nhạc Dương nói: “Tôi hiểu rồi, từ Cổ cách kim thư lưu lạc ở hải ngoại, chúng ta tìm hiểu được thông tin có thể từng có sứ giả đến châu Mỹ, và mang theo bí mật về Bạc Ba La thần miếu, vì vậy mới lên đường đến châu Mỹ tìm hiểu. Còn bọn Merkin thì vừa khéo ngược lại, bọn hắn biết được bí mật về Bạc Ba La thần miếu từ chỗ người Maya, vậy nên mới đếnTây Tạng thăm dò.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy, đây chính là một thông tin quan trọng mà chúng ta có được nhờ suy đoán, thêm vào tập tài liệu Cánh Nam cho cậu xem lần trước, chúng ta đã nắm được sở trường của đám thủ hạ đi theo tên Merkin đó rồi. Giờ đây, có thể nói là chúng ta và hắn đã đứng ở cùng một độ cao, sau này nếu có gặp lại, chắc chắn chúng ta sẽ không bị dồn vào thế bị động nữa rồi.”
Mẫn Mẫn thấy Trác Mộc Cường Ba nói có vẻ hơi mệt, liền rót cho gã và giáo sư Phương Tân mỗi người một cốc nước. Trương Lập thò tay ra xin, liền bị cô đập cho một cái, nói: “Tự đi mà rót,” kế đó cười nói: “Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện một số điều khác nữa, để tôi nói cho mọi người nghe nhé.”
Mẫn Mẫn xoa xoa tay, nhoẻn miệng cười ngọt ngào nói: “Tôi muốn nói đến quan hệ giữa đảng Quốc xã và Bạc Ba La thần miếu trong Thế chiến II. Trước tiên, tôi cũng phải nhắc đến mấy cái tên trước đã. Nhưng người đầu tiên mà tôi nói đến ở đây nổi tiếng hơn mấy vị của anh Cường Ba nhiều. Ông ta tên là Heinrich Himmler.”
Trương Lập và Nhạc Dương đồng thanh “ồ” lên một tiếng. Người này là thủ lĩnh của Gestapo trong Thế chiến II, đương nhiên là không ai không biết đến.
Mẫn Mẫn nói: “Himmler là kẻ ủng hộ cuồng nhiệt chủ nghĩa chủng tộc. Ông ta sùng bái siêu năng lực và tin rằng người Aryan là chủng người ưu tú nhất. Từ nhỏ Himmler đã ảo tưởng mình có thể chỉ huy một đội quân chiến đấu vô địch, đồng thời có dã tâm thôn tính cả thế giới. Nói ra thật buồn cười, nghe đâu tư tưởng này của ông ta bắt nguồn từ một cuốn sách dạng nửa khoa học viễn tưởng nửa tôn giáo mà hồi nhỏ ông ta từng đọc. Tác giả cuốn sách đó viết rằng, người Aryan đến từ ngoài vũ trụ, họ đã xây dựng trên địa cầu một vương quốc Atlantic hết sức giàu có xinh đẹp. Về sau vì nạn đại hồng thủy, nên mới buộc phải đào vong, lần lượt trở thành tổ tiên của người Tây Tạng và người Đức bọn họ ngày nay. Vì số lượng người sống sót rất ít, nên người Aryan không thể không tạp giao với các giống người bình thường trên trái đất, vì vậy về sau đã mất đi siêu năng lực của mình. Himmler hết sức tin tưởng vào điều này, đồng thời cho rằng, chỉ cần để người Aryan thuần chủng giao phối với người Aryan thuần chủng, sinh ra những người Aryan thuần chủng, họ sẽ có lại được siêu năng lực của tổ tiên. Tư tưởng này hết sức quan trọng. Một loạt sự kiện xảy ra sau này đều bắt nguồn từ đâycả.”
Trương Lập và Nhạc Dương đều cảm thấy tức cười. Bọn họ chỉ biết Himmler là một sát thủ trong Thế chiến II, đã giết hại rất nhiều người Do Thái, đồng thời xây dựng vô số trại diệt chủng ở khắp châu u, còn về nguồn gốc tư tưởng ấy của ông ta, đây mới là lần đầu tiên họ được nghe.
Mẫn Mẫn nói tiếp: “Chính vì tư tưởng điên cuồng này, Himmler đã tổ chức một loạt các hành động, trong đó, mấy việc trứ danh nhất đều hoàn thành trong năm 1935 cả. Năm đó, ông ta thành lập Quân đoàn Đen, chính là lực lượng SS nổi tiếng sau này. Nghe nói, chỉ người nào có huyết thống Aryan thuần khiết mới được tham gia SS. Ngoài việc bản thân có năng lực ưu tú ra, người đó còn phải có gia phả để tra xét. Huyết thống Aryan của binh sĩ phải tra ngược đến năm 1800, còn sĩ quan thì cần tra ngược lên đến năm 1750. Nhưng sự tuyển lựa nghiêm khắc này của ông ta vẫn đem lại hiệu quả nhất định, về sau chính đội quân này đã trở thành lực lượng đáng sợ nhất của nước Đức. Ngay cả sau khi Thế chiến II kếtthúc, người ta mới dần dần phát hiện ra, có rất nhiều kiến trúc sư, bác sĩ, luật sư, nhà khoa học… nổi tiếng thế giới, trước đây đều ở trong lực lượng SS.Nhưng bọn họ đã che giấu thân phận rất tốt, đồng thời có nhiều cống hiến sau chiến tranh, vì vậy vẫn được mọi người tôn kính. Chuyện một nhà văn Đức từng được trao giải Nobel văn học, đến lúc hấp hối mới tiết lộ thân phận thực sự từng là một thành viên trong lực lượng SS của mình chính là một ví dụ.”
Nói tới đây, Mẫn Mẫn ngừng lại giây lát, Trác Mộc Cường Ba biết cô lại nhớ đến những nghi vấn lúc vừa mới phát hiện ra đặc điểm của lực lượng SS. Lúc đó, Mẫn Mẫn nói: “Giáo sư, anh Cường Ba, hai người xem này, mỗi người trong lực lượng SS này đều tinh anh cả, hai người không cảm thấy, bọn họ rất giống với 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn lần trước giáo sư nhắc đến hay sao? Hai người xem đi, sau chiến tranh bọn họ đều trở thành chuyên gia và người có địa vị trong một lĩnh vực nào đó, nhưng ai có thể ngờ trong quá khứ họ lại là những sát thủ bàn tay nhuốm đầy máu tươi cơ chứ. Mỗi người bọn họ đều có một thân phận rất tốt đẹp để ngụy trang, đồng thời lại được tôn kính nữa. Thật đáng sợ quá đi mất. Chẳng những vậy, trong số họ vẫn còn một số người vẫn luôn sùng bái chủ nghĩa sắc tộc. Nhìn tay bác sĩ này mà xem, nếu không phải ông ta lén lút làm quá nhiều thí nghiệm trên cơ thể người, bị phát hiện ra, thử hỏi ai biết được ông ta lại là tàn dư của lính SS cơ chứ, trong lĩnh vực y học, ông ta vẫn luôn là một người có uy tín được cả giới học thuật thế giới công nhận kia mà.”
Có điều lúc này, dường như Mẫn Mẫn không có ý định đả động thêm đến quan điểm đó của mình, cô nhanh chóng tiếp lời: “Đương nhiên, đây chỉ là một đơn vị trong lực lượng đó. Himmler còn triển khai kế hoạch Nguồn gốc Sinh mệnh, cũng chính là kế hoạch nhân giống người thuần chủng mà tiếng thối đã đồn khắp năm châu. Ngoài ra ông ta cũng thành lập Hiệp hội Di sản Tổ tiên, cái hội đồng này chính là điểm trọng tâm mà hôm nay tôi muốn nói với mọi người. Himmler biên hết các chuyên gia huyết thống Đức thuần chủng vào lực lượng SS. Nhưng ông ta cũng không ngu, vì ngoại trừ người Do Thái, các chuyên gia có huyết thống không thuần chủng khác được ông ta xếp vào một chỗ, thành lập ra cái gọi là Hiệp hội Di sản Tổ tiên. Hội đồng này, đã quy tụ những chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực trên khắp thế giới mà Himmler thu nạp được. Ngoài chuyên gia các ngành khoa học thông thường như vật lý, hóa học, sinh học, động thực vật học, y học… ở đây còn có cả những nhà nghiên cứu kỳ dị cổ quái thuộc các ngành như linh học, chiêm bốc học, tinh tượng học… Theo các số liệu thống kê, Hiệp hội Di sản Tổ tiên ước chừng có khoảng mấy trăm thành viên, nhưng không có con số cụ thể rốt cuộc là bao nhiêu người, đến nay cũng chưa thể tìm hiểu rõ hơn. Về sau, khi nước Đức tổ chức đội thám hiểm Seifert đến Tây Tạng khảo sát lần đầu tiên, có một nửa thành viên trong đó là người của cái hiệp hội này, nửa còn lại của lực lượng SS. Còn một điều quan trọng hơn nữa là, trong cái hiệp hội đó, có một người mà chúng ta không thể không nhắc đến.”
Nói tới đây, Mẫn Mẫn bước tới bên cạnh giáo sư Phương Tân. Ông đã chuẩn bị sẵn từ trước, không đợi Mẫn Mẫn lên tiếng, lập tức hướng màn hình máy tính về phía mọi người, rồi ngước nhìn cô mỉm cười.
Mẫn Mẫn cũng nhoẻn miệng cười đáp lại, đoạn nói với Nhạc Dương, Trương Lập: “Hai người xem tấm ảnh này đi.”
Trên màn hình máy tính hiện ra một bức ảnh đen trắng chụp chung hai người, một người hơi lùn, mặc quân phục của Đức Quốc xã, miệng cười hớn hở, hai tay nắm chặt bàn tay người kia, thái độ hết sức vui vẻ cao hứng; người còn lại trông hết sức cao lớn uy mãnh, mặc áo choàng dài có thắt lưng của quân nhân, nhưng không đeo bất cứ phù hiệu gì, đầu cũng đội mũ quân nhân. Y mới chỉ đứng đó thôi, đã khiến người ta cảm giác thấy một luồng áp lực đè nén rồi. Cả hai người trong ảnh Nhạc Dương đều không nhận ra, nhưng Trương Lập tức thì giật mình kinh hãi. Người đàn ông cao lớn kia gần như là cùng một khuôn đúc với Merkin, cũng gương mặt như đao tạc ấy, cũng vẻ lạnh lùng tàn khốc ấy, giữa đôi hàng lông mày cũng ẩn chứa nét ngông cuồng hoang dã ấy, chỉ có điểm khác biệt là, người đàn ông này trông còn trẻ hơn, thâm trầm hơn Merkin, ánh mắt cũng âm hiểm tàn độc hơn hắn. Trương Lập chỉ vào người đàn ông rất giống Merkin ấy, lắp bắp nói: “Người… người này, y là…”
Mẫn Mẫn nói: “Người thấp hơn ấy, chính là Himmler, rất ít ảnh bắt được vẻ mặt hớn hở xun xoe ấy của ông ta, kể cả là lúc ở bên cạnh Hitler cũng không, duy chỉ có người đứng bên cạnh y đây mới khiến y lộ ra vẻ mặt ấy mà thôi. Nếu phán đoán của chúng tôi không lầm, tên của người này, chính là… Hector Merkin.”
“Hả!” Nhạc Dương nhảy dựng, ngạc nhiên thốt lên: “Lại là một tên Merkin nữa!”
Mẫn Mẫn gật đầu: “Đúng vậy. Ban đầu, tấm ảnh này nằm lẫn trong một đống tài liệu văn kiện về Thế chiến II, chúng tôi cũng không hề chú ý đến, là anh Cường Ba tình cờ phát hiện ra người này trông rất giống Merkin, nên bọn tôi mới để ý đến nó. Mọi người chú ý nhìn bàn tay trái của Merkin mà xem, chiếc nhẫn ở ngón giữa ấy, nhìn thấy chưa?”
Nhạc Dương chú ý quan sát chiếc nhẫn bạc trên ngón giữa bàn tay trái của Merkin, trong tấm ảnh, chiếc nhẫn đó phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Mẫn Mẫn phóng lớn bức ảnh trên màn hình máy tính, sau khi xử lý nhòe, chiếc nhẫn bạc liền hiện lên rất rõ nét. Chính giữa chiếc nhẫn là một hình đầu lâu kỳ dị, hai bên có hoa văn xoắn cuộn, sau phù hiệu ngôi sao sáu cánh ở bên phải là một hàng văn tự cổ. Mẫn Mẫn chỉ vào những chữ ấy nói: “Đây là tên dòng họ Merkin của y, được khắc bằng một loại văn tự hình chêm rất cổ xưa, cũng có thể coi như là tiêu ký của gia tộc. Chúng tôi tin rằng, tên của y được khắc ở mặt bên trong của chiếc nhẫn. Về sau, khi chế tạo nhẫn đầu lâu cho quân đội Đức, Himmler từng nói, ông ta có được linh cảm từ một người bạn. Tôi nghĩ, linh cảm đó của Himmler có quá nửa là đến từ người này. Tấm ảnh này không đề thời gian chụp, mà chúng ta lại chỉ có tài liệu trên máy tính nên cũng không có cách nào phán đoán được, chỉ có thể dựa vào trang phục trên người của Himmler để suy đoán đại khái. Có lẽ tấm ảnh này được chụp vào khoảng năm 1935. Mọi người chú ý xem bối cảnh phía sau đi, sau lưng hai người này chính là trụ sở Hiệp hội Di sản Tổ tiên thời điểm bấy giờ, sau năm 1935 thì đã đổi sang địa chỉ khác rồi.”
Nhạc Dương ngạc nhiên nói: “Nếu chỉ có mỗi tiêu ký của gia tộc Merkin, làm sao mà biết được tên đầy đủ của y chính là Hector Merkin cơ chứ?”
Mẫn Mẫn nói: “Có một tài liệu khác nhắc đến chuyện này, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn đánh đồng hai sự việc này với nhau, vì vậy đây mới chỉ là suy đoán.” Mẫn Mẫn quay sang nói với Nhạc Dương và Trương Lập về khả năng Hector Merkin làm gián điệp hai mang xâm nhập vào Công viên Bletchley.
Nghe xong chuyện về Hector Merkin, Trương Lập lấy làm lạ nói: “Nhìn tấm ảnh này, thì Hector Merkin đã được mời đến Hiệp hội Di sản Tổ tiên rồi, sao lại vào được Công viên Bletchley nữa nhỉ?”
Trác Mộc Cường Ba lên tiếng: “Chuyện này chúng ta cũng chỉ có thể suy đoán thôi. Không biết lúc đó Hector Merkin đã dùng thân phận gì để gia nhập Hiệp hội Di sản Tổ tiên của Himmler, nhưng từ tấm ảnh này có thể thấy, y đã được Himmler hoan nghênh nhiệt liệt. Chúng ta đặt giả thiết, y đã lợi dụng cục diện hỗn loạn của chiến tranh và sự cuồng nhiệt của Himmler đối với siêu năng lực, trình ra kế hoạch tìm kiếm hậu duệ của người Aryan thuần chủng ở Tây Tạng, vì vậy mới có chuyến khảo sát đầu tiên của quân Đức ở Tây Tạng năm 1938. Còn lúc gia nhập vào Công viên Bletchley, có lẽ nhiệm vụ của y là phá hoại hoặc làm chệch hướng công tác phá giải mật mã Enigma của quân Đồng minh. Nhưng lúc đó, trên chiến trường, quân đội Đức đang rơi vào thế yếu, nếu Hector Merkin đã nhìn ra quân Đức không thể nào vãn hồi chiến cuộc nữa, y hoàn toàn có thể lợi dụng cơ hội này, trở mặt giúp quân Đồng minh phá giải mật mã của người Đức. Như vậy, y đã tự tạo cho mình một con đường rút lui. Ngoài ra, từ năm 1938 đến năm 1945, quân Đức đã hai lần vào Tây Tạng nghiên cứu, rồi Lạt ma Tây Tạng cũng xuất hiện một cách thần bí ở Đức. Những sự kiện này rốt cuộc có quan hệ trực tiếp với Hector Merkin hay không, tất cả vẫn còn là câu đố chưa lời giải đáp. Hơn nữa, dựa theo những tài liệu chúng ta nắm được trong tay, người tên Hector Merkin này, rất có khả năng đã tham gia chuyến đi Tây Tạng lần thứ nhất.” Kế đó, gã lại nói về hành động liên hợp của hai nước Anh Đức cùng tiến vào Tây Tạng, và chuyện người thần bí được gọi làHM.
Trương Lập kêu lên: “Cường Ba thiếu gia, đợi chút đã, anh nói cái ký hiệu kia là tiếng Ru ru gì ấy nhỉ…” “Tiếng Runic.” “Đúng rồi, chính là cái đó. Anh nhắc lại hộ tôi với, chữ HM trong tiếng Runic viết như thế nào vậy?” Trác Mộc Cường Ba liền bật đoạn tài liệu ấy lên màn hình máy tính, nói: “Đây, chính là cái này…”
Trương Lập chỉ ký hiệu đó kêu lên: “Tôi thấy rồi! Để tôi nhớ lại xem nào! Chắc chắn là thấy rồi, trong lịch sử Thế chiến II thôi! Cái ký hiệu ấy nổi tiếng lắm, sao không nhớ ra được nhỉ…”
Vẻ mặt Trương Lập hết sức nghiêm túc, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều tạm thời ngừng nói chuyện, không quấy nhiễu anh nữa. Trương Lập đột nhiên vỗ mạnh vào trán mình, nói: “Điệp viên X, điệp viên thần bí nhất trong Thế chiến II! Tôi nhớ ra rồi!”
“Chuyện là thế nào vậy?” Nhạc Dương truy vấn.
Đảng Quốc xã lần thứ hai tiến vào Tây Tạng
Trương Lập nói: “Khi Thế chiến II mới bắt đầu, Đại sứ quán Anh ở Na uy có nhận được một bức thư nặc danh, nội dung thư hết sức kỳ quái, viết rằng, nếu nước Anh muốn biết thông tin tình báo của quân Đức, thì đài BBC của Anh trong chương trình phát đến nước Đức hãy thêm vào một câu, ‘Xin chào, đây là London’. Sau khi bức thư này chuyển về nước Anh và được các cơ quan tình báo nước này nghiên cứu kỹ, đài BBC liền bắt đầu thử thêm vào chương trình phát thanh đến nước Đức câu ‘Xin chào, đây là London’ đó. Sự việc phát sinh như vậy. Sau khi thay đổi nội dung phát sóng được một tuần, lính tuần tra Đại sứ quán Anh ở Na uy đã phát hiện một cái bọc trên bậc cấp. Không ai có thể ngờ được, bên trong đó lại là các thông tin tình báo quân sự cơ mật nhất, về tên lửa đạn đạo V-1, V-2, máy bay không người lái… của quân Đức. Nguồn tin duy nhất lộ ra ngoài là qua tay binh sĩ đã nhặt được cái bọc đó. Anh ta nói trên cái bọc có một ký hiệu hết sức kỳ quái hình dạng giống như chữ X. Điệp viên X từ đó đã trở thành điệp viên thần bí nhất, đặc biệt nhất trong lịch sử Thế chiến II. Nghe nói cả cơ quan tình báo Anh quốc cũng không thể tra ra lai lịch con người này. Cũng có giả thiết nói cục trưởng Cục Tình báo Anh biết người này là ai, nhưng ông ta đã mang theo bí mật đó xuống mồ. Sau khi Thế chiến II kết thúc, binh sĩ kia đã vẽ lại ký hiệu đó, vì nó không hoàn toàn giống chữ X, nên rất nổi bật, đúng là ký hiệu ấy, không thể sai được!”
Giáo sư Phương Tân trầm ngâm nói: “Nếu là vậy…”
Nhạc Dương đã không chờ được nữa, hấp tấp kêu lên: “Là Hector Merkin! Ngay từ lúc Thế chiến II nổ ra, y đã để lại cho mình một đường lui rồi. Đến lúc đó, bất kể là nước nào chiến thắng, y cũng có thể tự xưng mình là công thần, vì vậy về sau y mới có thể dễ dàng trà trộn vào Công viên Bletchley như thế, nói không chừng là đã liên lạc từ trước rồi!”
Trương Lập lè lưỡi nói: “Lợi dụng tham vọng giành được thắng lợi của các bên tham chiến, dụ dỗ cả một đất nước phục vụ cho mục đích của mình, rồi khi đất nước ấy đối diện với nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, lại thành công hoán đổi thân phận, trở thành đại công thần bí mật của bên giành chiến thắng. Nếu tất cả những chuyện này đều do một tay người tên Hector Merkin đó làm, y thực quá đáng sợ, so với tên Merkin mà chúng ta phải đối mặt hiện giờ còn đáng sợ hơn nhiều.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Ba người tên Merkin này, đều có quốc tịch Bồ Đào Nha, vì vậy chúng ta có lý do để tin rằng, đây là một gia tộc đã tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu trong suốt một thời gian rất dài, mỗi đời bọn họ đều có người tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Nếu giả thiết này được xác thực, thì sẽ giải thích được rất nhiều nghi vấn mà chúng ta chưa tìm ra lời giải đáp. Nhưng vẫn còn một điểm cuối cùng không thể nào giải thích được, một gia tộc có lịch sử lâu đời như thế, đồng thời còn nắm trong tay một lượng thông tin khổng lồ, tại sao lại chú ý đến Trác Mộc Cường Ba, chú ý đến đội ngũ nhỏ nhoi hoàn toàn không đáng để mắt như chúng ta chứ?”
Nhạc Dương nêu ý kiến: “Tôi cho rằng đây có thể là trùng hợp. Ban đầu Cường Ba thiếu gia và mọi người không phải đã đi Mông Hà tìm người Qua Ba điên kia hay sao? Về sau, người điên đó bị bắt cóc đi mất, quá nửa là Merkin đã chú ý đến mọi người từ lúc đó rồi.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi ngược lại: “Tên Merkin đó làm sao biết được thông tin về người điên ở Mông Hà nhỉ?”
Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Có lẽ là thông tin từ nguồn nào đó thôi, xét cho cùng gia tộc bọn y cũng để ý đến Bạc Ba La thần miếu và bộ tộc Qua Ba đâu chỉ mới một hai năm. Còn chuyện anh biết được thông tin về người điên ở Mông Hà ấy, đó mới gọi là trùng hợp.”
Trác Mộc Cường Ba nghe xong, không nói gì cả. Cách nói của Nhạc Dương gần giống hệt như pháp sư Tháp Tây, nhưng giáo sư Phương Tân lại lắc đầu, giải thích kiểu như vậy rất khiên cưỡng. Nhạc Dương đã liên tiếp hai lần nhắc đến chữ “trùng hợp”, đây chính là một điều đại kỵ trong phân tích logic.
Trương Lập ngồi bên máy tính xem ảnh, vô ý ấn nhầm một cái, trên màn hình liền hiện ra một tấm hình khác, toàn là những đường diềm thẳng đứng tạo bởi các hoa văn hình vuông. Trương Lập lấy làm lạ hỏi: “Cái gì đây thế?” Mẫn Mẫn đáp: “À, đây là những thông tin vẫn chưa được dịch. Giáo sư đã liên lạc với các chuyên gia nhờ dịch giúp chúng ta rồi.”
Trương Lập lại hỏi: “Đây là văn tự gì thế?”
“Tiếng Bát Tư Ba.” Giáo sư Phương Tân mở lên một bức hình khác, cũng vẫn là thứ văn tự trông như hoa văn trang trí trên tường chùa miếu đó. Ông nói: “Đây là văn tự chính thức của Mông Cổ, do đại sư Tây Tạng Bát Tư Ba sáng tạo ra, nhưng vì nó không phù hợp với thói quen viết lách của người Mông Cổ thời bấy giờ, hơn nữa triều Nguyên tồn tại chẳng được bao lâu đã bị diệt vong, nên thời gian lưu hành của loại văn tự này rất ngắn. Bởi thế, về cơ bản chỉ có các văn thư chính thức của triều đình nhà Nguyên sử dụng loại chữ này, người biết đọc nó cũng không nhiều.”
Trương Lập nói: “Chuyện này liên quan gì đến Bạc Ba La thần miếu?” Nhạc Dương nói: “Nếu đã thu thập ở đây, thì chắc là có liên quan gì đó đến Bạc Ba La thần miếu rồi.”
Trương Lập “ồ” lên một tiếng, không hỏi tiếp nữa, nhưng Nhạc Dương lại hỏi tiếp: “Vậy, còn về Bạc Ba La thần miếu thì sao, Cường Ba thiếu gia có phát hiện gì mới không?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, tôi cũng đang định nói với các cậu đây. Tài liệu mang về lần này, hầu như đều có liên quan đến giai đoạn Thế chiến II, quân Đức thu thập thông tin tình báo của các nước về Tây Tạng, ngoài ra còn một số thông tin về thí nghiệm trên cơ thể người ở các trại diệt chủng. Các thông tin thực sự có liên quan đến Bạc Ba La thần miếu hay Shambhala kỳ thực rất ít, đại khái chỉ chiếm một phần ba trong số tài liệu, trong đó có rất nhiều tài liệu trùng lặp với những gì Lữ Cánh Nam đã đưa cho chúng ta từ trước, một số thư từ, bút ký gì đấy của Morton Stanley, chúng ta đều đã xem qua hết cả rồi. Thu hoạch lớn nhất của chúng ta, là đã vô tình phát hiện ra quan hệ giữa gia tộc Merkin và Bạc Ba La thần miếu. Đương nhiên, vẫn còn một số thứ chưa kịp phân tích, như là các tư liệu tiếng Bát Tư Ba này, đại khái chiếm khoảng một phần năm, có lẽ chúng ít nhiều cũng có quan hệ gì đó với Bạc Ba La thần miếu. Có điều, số tài liệu này có thể cung cấp cho chúng ta đầu mối để tìm được Bạc Ba La thần miếu hay không thì vẫn còn là ẩn số. Ừm, khoảng thời gian này, tôi và Mẫn Mẫn sẽ tiếp tục tìm kiếm thông tin về thần miếu trong các tư liệu lịch sử. Chúng tôi đang chỉnh lý sắp xếp và lập biên niên sử Bạc Ba La thần miếu, đã đi vào giai đoạn hoàn thiện rồi, không bao lâu nữa sẽ phát cho mỗi thành viên mới một bản, để mọi người biết chúng ta cần phải tìm kiếm thứ gì. Giờ tôi chỉ có thể cho các cậu biết thái độ của các nước trên thế giới đối với Bạc Ba La thần miếu trong thời kỳ Thế chiến II thôi, hoặc cũng có thể nói là, thái độ biểu hiện đối với Tây Tạng cũng được, có hứng thú muốn nghe không?”
Trương Lập và Nhạc Dương gật gật đầu.
Trác Mộc Cường Ba đổi giọng, lấy làm hứng chí nói: “Lúc nãy kể đến đoạn lần đầu tiên hai nước Anh, Đức phối hợp tiến vào Tây Tạng, cuối cùng HM giết hết tất cả người Anh, đồng thời để lại một bộ phận người Đức ở Tây Tạng, chúng ta có thể suy đoán, trong cả quá trình Thế chiến II, bọn họ vẫn đồn trú trong căn cứ địa ở Tây Tạng, thăm dò, đo đạc, tìm kiếm. Tiếp theo đây, tôi sẽ nói về lần thứ hai Đức Quốc xã phái người thâm nhập Tây Tạng như thế nào.
Năm 1941, nước Đức gặp phải một trận thảm bại xưa nay chưa từng có, tổn thất khoảng 500.000 binh sĩ dạn dày kinh nghiệm, 1.300 xe tăng, 2.500 khẩu pháo trong trận Moscow. Trong chiến dịch Stalingrad còn có khoảng 1.000.000 quân Đức phải chịu đựng mùa đông lạnh giá đói khát. Khi mới bắt đầu tấn công, không ai có thể dự đoán cục diện này sẽ xảy ra. Hitler nổi giận lôi đình, cả bộ tham mưu của ông ta cũng không nghĩ ra được phương sách nào, chỉ có thể hy vọng ông trời ban kỳ tích.
Các quan chức cấp cao của đảng Quốc xã nôn nóng muốn xoay chuyển cục diện trên chiến trường đã nghĩ đủ cách, có người đi cầu sự giúp đỡ của chiêm tinh thuật, có người làm phép phù thủy, Himmler cũng tích cực dự trù kế hoạch vì ngày mai tươi sáng của Đế chế thứ ba. Điều đầu tiên ông ta nghĩ đến chính là “trục trung tâm địa cầu” của Tây Tạng chúng ta. Chính vì vậy Himmler đã đến xin gặp Hitler, bí mật hội đàm sáu tiếng đồng hồ, đệ trình lên nhà độc tài một bản báo cáo dày hơn 2.000 trang, nghe nói trong đó còn có một tấm bản đồ đánh dấu vị trí suy đoán của Shambhala. Hitler đã trả lời rằng, phải lập tức tiến hành, tiến hành một cách trọng điểm kế hoạch này.
Himmler bắt đầu chuẩn bị cho chuyến thám hiểm Tây Tạng lần thứ hai. Ông ta tuyển lựa trong Hiệp hội Di sản Tổ tiên của mình đủ các loại kỳ nhân dị sĩ, đưa họ tới Tây Tạng qua nhiều đường khác nhau, hy vọng sử dụng năng lực kỳ dị của họ để phát hiện lối vào Shambhala, nhưng đám người đó hầu hết là lũ lừa gạt đường phố, làm sao có thể cung cấp nổi thông tin gì hữu dụng, thành thử kế hoạch này cứ thế bị kéo dài suốt một thời gian.
Đến năm 1943, tình hình trên chiến trường chuyển biến xấu hết sức nghiêm trọng, một bộ phận sĩ quan trong nước cũng đã bắt đầu nảy sinh cảm giác chán ghét chiến tranh, Hitler liền hạ lệnh, nhất thiết phải tìm được Shambhala, thay đổi trục trung tâm địa cầu, thay đổi vận mệnh của Đế chế thứ ba. Trước cơn giận dữ của Quốc trưởng, Himmler vội vàng thành lập một đội cảm tử, dự định để họ leo lên khảo sát những ngọn núi tuyết con người chưa từng chinh phục ở vùng Tây Tạng.
Quân đội Đức lần này đã huy động tất cả các chuyên gia leo núi có kinh nghiệm của cả nước, cầm đầu nhóm là một người tên Halle từng đoạt quán quân cuộc thi leo núi Alps. Mục tiêu nhóm là hội quân với các lính Đức đang đồn trú ở Tây Tạng, sau đó tiến vào khu vực không người trên núi tuyết để tìm kiếm Shambhala, nhưng nhóm chuyên gia do Halle dẫn đầu ấy không thể vượt qua được vùng kiểm soát của quân Anh trên đất Ấn Độ, toàn bộ bị bắt làm tù binh. Quân Anh thu được một lượng lớn tài liệu, tuy không phá được mật mã và dịch sang tiếng Anh, nhưng chính phủ Anh cũng đã lập tức biết mục đích của toán quân Đức này. Cục tình báo Anh MI6 đã đưa ra một phương án ứng phó, tạo cơ hội để Halle đào tẩu, sau đó bí mật theo dõi, hy vọng có thể thông qua người này để phát hiện nhóm quân Đức đóng ở Tây Tạng, từ đó nhắm đến Shambhala. Để bọn Halle không nghi ngờ, bọn họ còn cố ý tăng cường cai quản, khiến mấy lần vượt ngục trước của đám người Đức đều không thành công, sau đó mới cố ý sơ hở, khiến bọn Halle tưởng rằng mình phải khó khăn lắm mới thoát được ra ngoài. Nhưng sự việc này lại bị tình báo Đức tiềm phục ở Tây Tạng dò la được, thành ra phía Đức cũng lập tức đối phó, mật báo với Halle, để bọn họ cứ đi lòng vòng không mục đích ở Tây Tạng, khiến nhân viên tình báo Anh không biết đâu mà lần.
Tài liệu chúng ta có trong tay, chính là điện báo mà cơ quan tình báo Đức chặn được, từ đó họ biết được thông tin phía Anh đã bắt sống cả nhóm Halle và thu được một lượng lớn tư liệu, để có phản ứng trước đối sách của nước Anh. Vì vậy Halle không tìm thấy căn cứ của quân Đức ở Tây Tạng, người Anh cũng không thể tìm được Shambhala, nhưng quân Đức đồn trú ở Tây Tạng có đến được Shambhala hay không, nội dung tài liệu của chúng ta lại không nhắc đến, có lẽ phần này đã bị phía Mỹ lấy mất rồi. Sự thực là, trong Thế chiến II, hai nước Anh và Đức đã chiến đấu đến một mất một còn, sức cùng lực kiệt, mà vẫn không thể hoàn thành nhiệm vụ tìm kiếm Shambhala hay Shangri-la, ngược lại, kẻ đắc lợi thực sự lại là Liên Xô và Mỹ. Sau chiến tranh, bọn họ không những chia phần toàn bộ thông tin tình báo của quân Đức, mà cả trước và trong Thế chiến II, hai siêu cường này cũng chưa từng bỏ qua ý định tìm kiếm Shambhala.
Kỳ thực, thời điểm Liên Xô bắt đầu tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chỉ sau có Anh, Pháp. Từ năm 1870, nhà địa lý học lừng danh người Nga Nikolai Mikhailovich Przhevalsky đã biết thông tin về kho báu của Morton Stanley, lập tức nêu khẩu hiệu ‘muốn hiểu Tây Tạng, phải đến Tây Tạng’. Ông ta cũng trở thành người Nga đầu tiên tiến vào vùng đất này. Chúng ta không rõ ông ta đã đến những nơi nào, nhưng theo tài liệu tìm được, ông này rất không được hoan nghênh ở Tây Tạng, có lẽ là do ảnh hưởng tiêu cực của nước Anh và Morton Stanley thời bấy giờ. Nikolai Mikhailovich Przhevalsky còn chưa đến được Lhasa thì đã bị trục xuất rồi. Nhưng ông ta vẫn không bỏ cuộc, mấy lần qua nhiều đường khác nhau tìm cáchtiến vào thám hiểm Tây Tạng, cuối cùng đã chết trên đường xâm nhập vùng đất của chúng ta. Nhưng cái chết của Nikolai Mikhailovich Przhevalsky không hề chấm dứt hoạt động thăm dò Tây Tạng của nước Nga, mà tiếp đó Piotr Kozlov đã lập đội thám hiểm, xâm nhập thành công Tây Tạng, tiến hành rất nhiều hoạt động thám hiểm, rồi còn viết lại thành sách các trải nghiệm của mình, đặt nhan đề là Cuộc thám hiểm Tây Tạng. Từ sau đó trở đi, vô số người Nga đã theo bước tiền nhân bắt đầu nghiên cứu Tây Tạng. Vậy là, từ trước khi kho báu của Morton Stanley lộ ra, vùng đất Tây Tạng gần như ít ai chú ý đến ấy đã bắt đầu có mỗi lúc một nhiều bóng người Nga xuất hiện.
Nghiên cứu của Nga về Tây Tạng rất sâu sắc, rất tường tận, mấu chốt ở chỗ mỗi lần các nhà thám hiểm người Nga vào đất Tạng, đều có một phát hiện gì đó. Họ đã mang đi rất nhiều kinh văn, quyển trục cổ, vàng bạc châu báu, tượng đá… và cũng xuất bản rất nhiều sách về Tây Tạng.Tây Tạng và Lạt Ma, Người hành hương Phật giáo ở Thánh địa Tây Tạng, Nhật ký du lịch Tây Tạng, Tượng Di lặc ở kim điện La Bốc Lăng…đều là về thám hiểm Tây Tạng cả, hơn nữa còn toàn đề cập đến các phát hiện chùa miếu hoang phế, kinh văn cổ, vàng bạc châu báu. Những cuốn sách ấy đã thu hút thêm càng nhiều người Nga khác đến Tây Tạng thám hiểm, hoặc nói chính xác hơn là đến Tây Tạng tìm báu vật. Đương nhiên, tất cả đều ngấm ngầm có một mục tiêu chung… tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu!
Đến thời kỳ Liên bang Xô viết, người Nga đã thành lập một cơ quan chuyên nghiên cứu Tây Tạng, tên gọi đầy đủ là ‘Phòng nghiên cứu Ấn-Tạng thuộc phân viện Leningrad của Viện Đông Phương học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô’. Bề ngoài, cơ quan này chuyên nghiên cứu khu vực nói tiếng Tạng ở hai triền dãy Himalaya, bao gồm chế độ tôn giáo, phong thổ nhân tình, kiến trúc tự viện, đời sống của tăng lữ, sự chia rẽ của các giáo phái ở Tây Tạng, nhưng thực chất hướng nghiên cứu chính của họ lại là những khoảng trống trong lịch sử Tây Tạng, hành trình tiến vào Tây Tạng của Morton Stanley, khả năng tồn tại một nền văn minh thất lạc hoặc văn minh tiền sử trong những khu vực không người thuộcdãy Himalaya.
Sau năm 1922, Liên Xô đã nhiều lần đưa điệp viên vào Tây Tạng, một mặt đút lót mua chuộc quý tộc địa phương, bố thí quyên tặng chùa chiền miếu mạo, mặt khác lấy danh nghĩa đo đạc thăm dò, đi khắp nơi tìm kiếm dấu vết của Bạc Ba La thần miếu.
Ở thời điểm quan trọng nhất của Thế chiến II, trong cuộc tấn công Berlin, cũng là các sĩ quan thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô xông vào tòa nhà đế quốc trước. Bọn họ đã phát hiện ở đây một thi thể lạt ma Tây Tạng, cũng có ý kiến cho rằng đó không phải thi thể. Tình hình cụ thể lúc ấy như thế nào không ai biết được, nhưng có thể khẳng định, người Nga đã lấy được rất nhiều tài liệu trong tòa nhà này, số lượng chúng ta đang nắm trong tay đây so với đó chỉ là một phần rất nhỏ.
Còn nữa, trong cả thời kỳ Nga Xô, không thể không nhắc đến gia tộc này, gia tộc Borovsky. Đây là thông tin từ phía pháp sư Tháp Tây. Ông tổ của gia tộc này là Roman Borovsky từng theo Nikolai Mikhailovich Przhevalsky và Piotr Kozlov đến Tây Tạng thám hiểm, con cháu đời sau của gia tộc cũng không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu về Tây Tạng và Bạc Ba La thần miếu, hiển nhiên là họ đã đi xa hơn những người Nga khác rất nhiều. Thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, gia tộc Borovsky di cư sang châu u, cháu đời thứ tư của Roman Borovsky từng theo học rất nhiều nhà Tây Tạng học và Hán học nổi tiếng ở Paris, London, ngoài ra còn sang Mỹ học nữa. Năm 1923, ông ta và cha mình đã đến La Khắc, Hòa Điền, Liên Xô, Mông Cổ, rồi lại từ Tây Tạng đến Sikkim, trải qua năm năm, khai quật được rất nhiều kinh văn, quyển trục cổ, nghe nói còn phát hiện được một ngôi đền của Bản giáo bỏ hoang ở gần Hắc Hà, lấy được hai kinh Đan Châu Nhĩ và Cam Châu Nhĩ[18] hoàn chỉnh của Bản giáo, và vô số thanga. Sau này ông ta viết một cuốn sách, giới thiệu rất tỉ mỉ dấu tích lịch sử của Bản giáo Tây Tạng. Borovsky rất tinh, ông ta biết lịch sử Tây Tạng vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống, và thời đó có rất nhiều người nghiên cứu lịch sử Tây Tạng, gần như cực khó để có được những khám phá đặc biệt, vì vậy, ông ta chuyển hướng, chuyên nghiên cứu các bức thanga cổ đại và tượng Phật, bích họa trong các chùa chiền, hòng tìm kiếm dấu vết của Bạc Ba La thần miếu. Về điểm này, Borovsky rất giống với Giuseppe Tucci.”
Đến đó Mẫn Mẫn liền lên tiếng bổ sung: “Giuseppe Tucci là nhà thám hiểm người Italia, chuyên nghiên cứu các đồ trang sức kim loại của Tây Tạng, đặc biệt là Thiên thiết, Thiên châu để tìm ra đầu mối dẫn đến Bạc Ba La thần miếu. Giuseppe Tucci kiên trì cho rằng, Thiên thiết và Thiên châu cùng những trang sức bằng kim loại khác, đều có khả năng là đồ vật của thời đại bị trống trong lịch sử ấy lưu lại. Từ những món trang sức ấy, rất có thể sẽ tìm ra đầu mối đưa ta đến với Bạc Ba La thần miếu.”
Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Một phần các tài liệu của gia tộc Borovsky đã trở về Liên Xô, một phần khác có lẽ đã lưu lạc đến Mỹ. Có thể nói, Mỹ là siêu cường biết đến Bạc Ba La thần miếu chậm nhất, vì khoảng cách giữa Mỹ và Tây Tạng xa nhất, hơn nữa các nước kia đều tiến hành tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu một cách vô cùng bí mật. Nhưng mức độ coi trọng củangười Mỹ với Bạc Ba La thần miếu có thể nói là vượt xa so với các nước Anh, Nga, Đức, mà bản thân họ còn rất nhanh nhạy, hiệu suất làm việc cực cao. Năm 1939, họ mới biết thông tin về Bạc Ba La thần miếu, ngay cuối năm ấy, đã thành lập một cơ quan tình báo chuyên trách khu vực Tây Tạng, do người đứng đầu bộ phận Phân tích Chiến lược châu u thời bấy giờ, cũng là người sau này được xưng tụng là cha đẻ của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), William Joseph Donovan trực tiếp phụ trách. Cuối năm 1942, chính vào thời điểm nước Đức đang tích cực chuẩn bị tiến vào Tây Tạng lần thứ hai, William Donovan mặc dù bộn bề công việc vẫn không thể không tách một phần nhân lực để nghiên cứu tất cả các thông tin liên quan đến Tây Tạng. Người Mỹ tinh ranh hơn người Anh, họ không tiếp xúc thẳng với bọn Halle, và cũng biết nước Anh chiếm ưu thế ở khu vực Ấn Độ. Cơ quan tình báo Mỹ lợi dụng thời cơ chính phủ Quốc dân Trung Quốc đang muốn xây dựng một con đường nối liền Trung-Ấn xuyên Tây Tạng để tiện vận chuyển vật tư chiến lược, phái đi một nhóm đặc công ưu tú xâm nhập Tây Tạng, tiến hành tiếp xúc bí mật với các quý tộc Tây Tạng cũng như nhiều thế lực khác tại địa phương, hòng phát hiện Shangri-la trước người Đức một bước.
Ngoài mấy nước lớn nói trên, cả Pháp, Ý, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác cũng ào ào tiến về Tây Tạng. Trong Thế chiến II, tất cả đều phái gián điệp đến đây. Người ngoại quốc ăn mặc đủ kiểu, nói đủ loại khẩu âm khác nhau đi đi lại lại trên đường, Lhasa lúc bấy giờ thật chẳng khác gì một đô thị quốc tế lớn cả. Nhưng cũng không một người dân Tạng nào biết được, đám người nước ngoài qua lại tấp nập ấy rốt cuộc là đang tìm kiếm thứ gì.”
Ba nghi vấn lớn
Sau một thoáng trầm ngâm, Nhạc Dương lên tiếng: “Cường Ba thiếu gia, tôi có một nghi vấn. Nếu như nói, những đoàn thám hiểm đó đều lấy tiền làm mục đích, nên mới bất chấp tính mạng để đi tìm Bạc Ba La thần miếu thì tôi còn lý giải được. Nhưng cả một đất nước, đặc biệt là những cường quốc như Anh, Mỹ, Đức, Liên Xô… tại sao lại hứng thú với Bạc Ba La thần miếu đến thế chứ, e rằng không chỉ vì kho báu và văn vật thôi đúng không?”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Tôi hiểu ý cậu, hành vi của những quốc gia này đúng là khiến người ta rất khó hiểu, nhưng sự thực lịch sử là như thế. Chúng ta đều biết, Tây Tạng trước nay vẫn là lãnh thổ của Trung Quốc, vẫn luôn tồn tại lặng lẽ âm thầm trên cao nguyên Thanh Tạng từ bao đời nay. Trước khi Morton Stanley tới Tây Tạng, gần như không có lấy một người ngoại quốc nào đặt chân lên vùng đất này, nhưng từ sau khi ông ta lan truyền thông tin về Bạc Ba La thần miếu, dường như chỉ trong một đêm, Tây Tạng đã trở thành tiêu điểm chú ý của toàn thế giới. Những quốc gia kia, mặc dù cách xa Tây Tạng bao nhiêu, mặc dù thực lực đến đâu, lãnh thổ cương vực lớn nhường nào, cơ hồ đều muốn lấy Tây Tạng bỏ vào túi mình cả vậy.”
Giáo sư Phương Tân tiếp lời Trác Mộc Cường Ba: “Kỳ thực, theo chúng tôi lý giải thì thế này, đoàn thám hiểm là một nhóm nhỏ, tìm thấy một kho tàng, là đủ cho mười mấy con người ăn no mặc ấm cả đời, người ta có thể vì thế mà bất chấp đem tính mạng mình ra mạo hiểm. Còn đất nước, là một tập thể rất lớn, nếu phát hiện ra một kho tàng lớn, đủ để một đất nước ăn mấy chục năm, tại sao họ lại không phát động chiến tranh vì nó? Thực ra, chúng ta đều biết Bạc Ba La thần miếu là một kho báu lớn, nhưng rốt cuộc là nó lớn như thế nào? Về điểm này, trước tiên phải làm rõ xem Bạc Ba La thần miếu tượng trưng cho điều gì đã. Xét theo nghĩa hẹp, Bạc Ba La thần miếu tượng trưng cho toàn bộ tài sản của vương triều cường thịnh nhất của Hán tộc trong lịch sử, triều đại nhà Đường, cùng với vương triều cường thịnh nhất trong lịch sử người Tạng, Thổ Phồn! Nhớ kỹ, cường thịnh ở đây không đơn thuần chỉ thực lực quân sự của nó, mà là chỉ trình độ khoa học kỹ thuật, nông nghiệp, máy móc, y dược, thiên văn thuật số… đều ở thời kỳ đỉnh cao, thậm chí còn bao gồm những thành quả khoa học kỹ thuật đã bị lấp chìm trong lịch sử, đến cả người ngày nay cũng không thể nào đạt tới. Xét trên nghĩa rộng, còn phải kể đến cả những quốc gia tiến cống cho Đại Đường, Thổ Phồn nữa. Bạc Ba La thần miếu có thể coi là kho báu tích lũy tài sản của toàn bộ châu Á trong thời kỳ lịch sử ấy. Chỉ riêng về giá trị văn vật lịch sử thôi, với những tài liệu chúng ta nắm trong tay, cũng có thể khẳng định nó đáng giá ngang một trăm vườn Viên Minh. Mà theo con số thống kê, các văn vật bị liên quân tám nước cướp đi từ vườn Viên Minh, còn chưa tính những thứ bị phá hủy, tổn hại đã giá trị tương đương với tổng giá trị kinh tế của Trung Quốc trong một năm rồi. Như thế, mọi người chắc có thể đoán được, rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu là một kho báu lớn như thế nào hay chưa?”
Kết luận của giáo sư Phương Tân khiến Trương Lập và Nhạc Dương đều đờ người ra, chỉ bần thần nhẩm tính trong đầu xem “một trăm lần vườn Viên Minh” là khái niệm như thế nào.
Giáo sư Phương Tân quay sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba à, tôi có một chút kiến nghị với cậu.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Vâng.”
Giáo sư liền nói: “Mấy ngày trước Mẫn Mẫn có cho tôi xem biên niên sử về Bạc Ba La thần miếu mà hai người chỉnh lý và sắp xếp. Cá nhân tôi cảm thấy rằng, các tư liệu mà cậu tra tìm, quy nạp tổng kết đều là đi sâu vào chi tiết hơn những tài liệu trước đây chúng ta tập hợp được. Kỳ thực… nói thế nào nhỉ, cậu vẫn là cứ chỉ xoay quanh phạm trù tư liệu lịch sử để tìm kiếm đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của những người đi trước. Những tài liệu mà cậu có được hôm nay, e rằng có tường tận đến mấy cũng không thể hơn được các chuyên gia đã dùi mài nghiên cứu suốt mấy chục năm. Muốn phát hiện ra đầu mối mới, cần phải học theo Borovsky hay Tucci, cần phải tìm ra con đường người khác chưa đi qua.”
Trác Mộc Cường Ba chau mày, hỏi tiếp: “Thầy giáo, có thể nói kỹ hơn một chút được không? Tôi vẫn chưa hiểu lắm.”
Giáo sư Phương Tân cười đáp: “Cậu cần học theo Morton Stanley, bắt tay từ câu chuyện thần thoại còn lưu truyền đến ngày nay, vẫn chưa có sử liệu xác nhận tính chân thực, chẳng hạn như cuốn Ninh Mã cổ kinh chép rất nhiều câu chuyện thần thoại Phật giáo của gia đình cậu, ngoài ra còn có truyền thuyết về Shangri-la lưu hành rất rộng rãi ở Tây Tạng. Những truyền thuyết đó dù sao cũng là minh chứng duy nhất về sự tồn tại của kho báu mà đến ngày nay chúng ta vẫn còn ngheđược.”
Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng hỏi: “Việc này… có tác dụng không?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Muốn có phát hiện mang tính đột phá dựa trên nền tảng của người đi trước, cần phải tìm được điểm có thể đột phá. Tôi có thể cho cậu một con đường. Kiểu gì chúng ta cũng không có cách nào lấy được tài liệu mà các thế lực nước ngoài đang nắm giữ trong tay, chẳng hạn như là thư từ qua lại giữa Morton Stanley và bạn bè ông ta, nhật ký, tự truyện…, nên phải đi đường vòng xa hơn một chút. Thứ nhất, là thông qua các truyền thuyết lịch sử có liên quan đến Shangrila; thứ hai, điều tra xem người Đức tìm kiếm gì ở Tây Tạng, nói không chừng đầu mối này cũng có thể cho ta một số tư liệu; thứ ba, không thể coi thường các tài liệu ở Maya; thứ tư, đi sâu vào tìm hiểu thôn Công Bố, nếu cậu cảm thấy khó khăn, có thể đợi pháp sư Á La trở về rồi mới liên lạc với họ cũng được.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu, trầm ngâm suy nghĩ. Những điều thầy giáo nói cũng rất có lý, nếu không khám phá được gì từ các tư liệu lịch sử, chuyển sang tìm kiếm những nghi án lịch sử trong truyện cổ tích, thần thoại, nói không chừng sẽ có thu hoạch bất ngờ cũng nên.
Chợt nghe Mẫn Mẫn nói khẽ: “Thực ra, chỉ cần chúng ta có thể giải được ba nghi vấn lớn…” “Ba nghi vấn lớn?” Trương Lập ngạc nhiên thốt lên.
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm, đúng thế. Chúng tôi đã nghiên cứu và phân tích tất cả các tài liệu hiện có trong tay, phát hiện ra có ba vấn đề không thể nào giải thích nổi. Có lẽ đây chính là mấu chốt của việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Vấn đề thứ nhất, là nguyên nhân thực sự của việc Đạo quân Ánh sáng biến mất một cách thần bí.”
Nhạc Dương và Trương Lập đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, rồi cùng lắc đầu. Trác Mộc Cường Ba nói: “Với số tài liệu chúng ta đang có, thông tin về bộ tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh sáng rất ít ỏi, có thể nói họ còn thần bí hơn cả Bạc Ba La thần miếu nữa. Là người tạo ra Bạc Ba La thần miếu, họ từng là lực lượng quân sự đáng sợ nhất trong lịch sử, lựa chọn biến mất tập thể như thế, quả thực là một việc khiến người ta khó mà hiểu nổi. Lẽ nào chỉ vì để bảo vệ bảo vật trong Tứ Phương miếu không bị cuộc chiến Diệt Phật phá hoại mà họ phải chọn cách toàn quân bí mật hộ tống di chuyển hay sao? Giải thích như vậy thực là có hơi quá khiên cưỡng, còn vô số xương cốt trong Đảo Huyền Không tự rốt cuộc là thế nào, hơn một nghìn năm trước đã xảy ra chuyện gì đến nỗi đạo quân mạnh mẽ nhất đó phải chọn lựa như thế?”
Nhạc Dương “phì” ra một tiếng, vấn đề này, đúng là không thể dựa vào trí tưởng tượng hay khả năng suy đoán mà đưa ra đáp án được.
Chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Vấn đề thứ hai, là hành vi của sứ giả Cổ Cách, đặc biệt dựa vào nội dung Cổ cách kim thư đã được các chuyên gia dịch ra, có thể thấy rằng ban đầu vị sứ giả này dự định giao ba món tín vật cho ba người khác nhau. Thế nhưng, nguyên nhân gì đã khiến ông ta đột nhiên đổi ý, tách hai tín vật còn lại ra, đặt ở hai nơi xa xăm tít tắp? Ông ta đến châu Mỹ làm những gì? Tín vật đã giao cho người khác ấy rốt cuộc là thứ gì?”
Nhạc Dương lại “phì” thêm một tiếng nữa. “Còn vấn đề thứ ba là gì vậy?” Trương Lập nôn nóng hỏi.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vấn đề thứ ba, tổ chức của chúng ta vốn chỉ là một nhóm nhỏ không đáng nhắc đến, tại sao một nhân vật thế lực mạnh như Merkin lại bám chặt không buông, đặc biệt là trước khi thông tin bị tiết lộ ra ngoài. Điều này chứng tỏ hành động của chúng ta trước nay không hề bị các tổ chức quốc tế đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chú ý đến, vì vậy, sự quan tâm đặc biệt của Merkin dành cho chúng ta, không thể không đặt một dấu chấm hỏi? Có điều, đến giờ vấn đề này hình như đã được giải quyết rồi.”
Giáo sư Phương Tân cải chính: “Giải quyết được một phần thôi, thực ra chuyện về gia tộc Merkin vẫn còn nhiều điểm nghi vấn lắm. Trước tiên, nếu có thông tin về Bạc Ba La thần miếu từ các tài liệu ở Maya, tại sao bọn họ cứ nhất định phải rêu rao rằng thần miếu là tài sản thuộc về mình? Người đầu tiên sở hữu các tài liệu lịch sử của Maya cũng không phải tên Merkin, mà là Landa. Còn nữa, sau khi Ben Merkin xuất hiện, một loạt hành vi của hắn khiến người ta cảm thấy rất kỳ lạ, hắn đã bắt cóc người Qua Ba điên ở Mông Hà rồi, tại sao vẫn còn đeo bám Cường Ba cậu làm gì? Ở châu Mỹ, tại sao lũ buôn ma túy và cả quân du kích lại hứng thú với các cậu như vậy, có phải là do Merkin sắp xếp hay không? Tên thao thú sư đột nhiên xuất hiện kia, liệu có phải do ý đồ của Merkin hay không? Hắn làm vậy có mục đích gì? Chỉ để kéo dài thời gian các cậu tìm thấy Bạch thành thôi hay sao? Hay là để tiêu diệt nhóm của các cậu ở châu Mỹ? Còn ở Đảo Huyền Không tự, hành vi của hắn lại càng kỳ quái hơn nữa. Hắn tốn bao nhiêu công sức như vậy, chỉ là để dùng một tấm bản đồ giả hòng khiến chúng ta đi sai đường thôi ư? Hơn nữa, từ những lời kể của dân làng Công Bố về Merkin, chính xác là hắn có biết đến sự tồn tại của Đảo Huyền Không tự, hắn và bọn chúng ta, đều đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Ngoài ra, thân phận Thánh sứ kia của hắn nữa, có thể nói chỉ là một sự trùng hợp thôi, phải không? Còn cả lần cuối cùng chúng ta đi núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc…” Giáo sư Phương Tân ngưng lại giây lát, rồi tiếp: “Cũng không hiểu hắn có theo dõi chúng ta hay không nữa.”
Trác Mộc Cường Ba cười đáp: “E là không có khả năng này đâu, hắn cố tình nhả tấm bản đồ giả ra, chắc chắn là đã đến nơi ấy rồi, giờ theo chúng ta nữa phỏng ích gì chứ?”
Giáo sư Phương Tân trầm ngâm lắc đầu: “Chưa chắc, nói không chừng hắn cũng tin tấm bản đồ đó là chìa khóa để tìm ra Bạc Ba La thần miếu, tự hắn không tìm được, nên mới cố ý trao lại cho chúng ta, để chúng ta đi thử vận may, rồi lại theo dõi. Đây cũng là một khả năng.”
Trác Mộc Cường Ba nhận thấy trong ánh mắt thầy giáo mình thấp thoáng vẻ ưu tư, như đang che giấu điều gì đó, là gì nhỉ? Tại sao thầy giáo lại khẳng định Merkin theo dõi bọn gã như thế?
Mẫn Mẫn nói: “Được rồi, hôm nay mọi người cũng nói nhiều quá rồi, chi bằng nghỉ ngơi một chút đã.” Trương Lập lập tức duỗi đờ người ra ghế: “Đúng đấy, bọn tôi đi cả ngày hôm nay đã mệt lử ra rồi.”
Giáo sư Phương Tân cũng gật đầu: “Cũng được, hôm nay tới đây thôi, các cậu đi nghỉ đi, tôi còn phải chỉnh lý nốt các tài liệu mới gửi về.”
Trương Lập và Nhạc Dương nghỉ ngơi một ngày, hôm sau trở về trại huấn luyện, đồng thời mang khoe cả các tài liệu mới nhất do bọn Trác Mộc Cường Ba phát hiện. Nhạc Dương báo cáo các thông tin nghe được với Lữ Cánh Nam. Cô chỉ khẽ gật đầu một cái, tỏ ý đã biết rồi, nhưng trong lòng thì lấy làm kinh hãi và chấn động. Cô không thể ngờ, một tên Merkin mà lại ẩn chứa biết bao bí mật đến vậy, nếu không phải có đống tài liệu người Đức thu thập được trong Thế chiến II ấy, thật khó lòng truy được bí mật gia tộc của hắn. Nghĩ tới đây, cô không khỏi nhớ lại tình cảnh lúc mình mới nhận nhiệm vụnày…
“Cánh Nam, cô thực sự nghĩ kỹ rồi chứ? Cô muốn đích thân dẫn dắt đội ngũ ấy hả? Bọn họ là một đám tay ngang không biết gì cả đâu đấy, để bọn họ tự chơi với nhau là được rồi. Cô đi, chẳng phải là lấy đại pháo đi bắn muỗi hay sao?”
“Tin vào năng lực của tôi đi, trong vòng nửa năm tôi sẽ huấn luyện nhóm người đó thành một đội thám hiểm đủ tiêuchuẩn.” “Nếu cô nhất quyết muốn đi, vậy thì dẫn theo tổ chuyên gia có phải tốt hơn không?”
“Không, tôi vẫn đang điều tra người tranh đoạt Cổ cách kim thư với chúng ta, nhưng hắn ta che giấu thân phận rất giỏi, những gì tôi điều tra được về hắn toàn là từ các tài liệu công khai cả. Ngoài việc biết tên thật của hắn là Merkin, mọi chuyện khác chúng ta hoàn toàn không nắm được chút gì. Hơn nữa tôi phát hiện, hắn đã theo dấu kim thư đến tận Tây Tạng, nguyên nhân gì khiến hắn ta tốn bao công sức, nhất định phải có bằng được cuốn Cổ cách kim thư ấy như vậy? Chúng ta không thể không đề phòng, có khả năng hắn là thám tử của một tổ chức lớn nào đó ở hải ngoại phái đến cũng không chừng.”
“Thám tử? Ha ha, làm gì có tổ chức nào phái đi một thám tử ưu tú như vậy được chứ? Tôi đoán, có khả năng hắn ta là thủ lĩnh của một tổ chức nào đấy. Có lẽ từ một kênh nào đó, hắn biết được tầm quan trọng của kim thư, nên mới truy tìm đến tận Tây Tạng. Có điều, nói đi thì cũng phải nói lại, chuyện này có liên quan gì đến nhóm người nghiệp dư kia chứ?”
“Theo thông tin tôi nhận từ Tây Tạng, Merkin và nhóm người tôi muốn dẫn dắt kia đã có va chạm, mấy ngày nữa sẽ có thông tin cụ thể gửi về. Có điều, Merkin đã theo dõi người tổ chức đội ngũ này đi một mạch đến tận Khả Khả Tây Lý. Hắn bỏ cả theo dấu kim thư mà đuổi theo người này, nhất định là đã phát hiện được điều gì đó, nói không chừng, người tổ chức nhóm nghiệp dư này đang nắm trong tay bí mật gì đó mà cả chúng ta cũng không biết. Sự việc lại thật trùng hợp, bọn họ cũng vừa báo cáo lên, thỉnh cầu chúng ta giúp đỡ. Vì vậy, tôi đi là tốt nhất rồi. Cá nhân tôi cho rằng, ngoài tôi ra, người khác không thể dẫn dắt một nhóm người nghiệp dư như vậy đối đầu với Merkin đâu.”
“Thật sự chỉ là như vậy thôi sao? Không còn nguyên nhân gì khác nữa à?”
“Đúng vậy. Hy vọng anh có thể giúp đỡ một chút, nhất định tôi sẽ điều tra ra bí mật phía sau tên Merkin này.” “Ừm… được rồi.” “Cám ơn, tôi nợ anh một lần nhé…” Một tuần sau, thị trấn Tobemori, nước Anh.
Merkin dựa hẳn người nghỉ ngơi trong chiếc sofa bằng nhung đỏ dát vàng phỏng theo phong cách cung đình châu u, một con báo đen cuộn tròn trên đùi y như con mèo con lười nhác. Bức tường sau lưng y treo một bức sơn dầu khổng lồ, ngọn đèn treo bằng pha lê
tỏa ra những tia sáng chói mắt rực rỡ trong phòng khách hoa lệ.Max bước trên tấm thảm Ba Tư mềm mại, dè dặt lại gần ông chủ. Hắn có cảm giác ông chủ mình lúc này giống như một bậc quân chủ uy nghiêm, bất cứ loài dã thú hung tàn đáng sợ nào, trước mặt y cũng chỉ còn nước ngoan ngoãn quy phục. Max vẫn còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên hắn bước vào tòa nhà như cung điện này, lần đầu tiên trông thấy bức tranh sơn dầu khổng lồ ấy, cảm giác như thể bước vào Thánh đường của Giáo hoàng, hắn không sao tự chủ được đã quỳ xuống bái lạy.
“Ông chủ, cái đĩa cứng ấy đã bắt đầu lên đường rồi.” “Ừm.” Merkin vuốt ve tai con báo đen, nói: “Không ai nghi ngờ chứ?”Max nói: “Không, người đó và các tổ chức kia phối hợp rất tốt, chúng ta đã tạo ra ba lần hỗn loạn trong toàn bộ quá trình ấy, hiện giờ các tổ chức đó đều hết sức tin tưởng rằng người kia vì thiếu tiền nên mới liều lĩnh trộm ổ đĩa cứng. Vì cái đĩa cứng đó mà có mấy tổ chức nhỏ đã bị tiêu diệt rồi. Theo tôi, chẳng mấy nữa, cái đám dám liều mạng tranh đoạt tư liệu về Bạc Ba La thần miếu với ông chủ ắt sẽ loạn lên thành một đống lộn xộn cho xem.”Merkin kéo đuôi con báo đen, quấn thành từng vòng từng vòng trên ngón tay mình: “Không, chỉ có mấy tổ chức nhỏ bị tiêu diệt thôi, ngoài ra vẫn còn mấy đám thế lực rất lớn, quá nửa là ổ đĩa cứng ấy sẽ bị bọn chúng cướp vào tay.”“Ông chủ, thực tôi không hiểu nổi, cái ổ đĩa cứng ở trong tay chúng ta chẳng phải là tốt hơn sao, tại sao cứ phải giả bộ để các tổ chức bên ngoài cướp đi làm gì thế? Những đầu mối của bọn chúng vốn đã bị đứt đoạn từ lâu rồi, không thể tiến lên được nữa, giờ cho chúng cái ổ đĩa ấy, chẳng phải là khiến cho chúng cũng biết nhiều như chúng ta rồi hay sao?” Max làm ra vẻ vắt óc suy nghĩ lung lắm.Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro