MẬT MÃ TÂY TẠNG 10 ff2
CHƯƠNG 76: TÂY TẠNG VẠN PHẬT CÁC
NGƯỜI Ở ĐÁY HANG
Đòn bổ nhào tấn công của đám người ở đáy hang cực kỳ nhanh, mạnh, hiệu quả, có điều chỉ dùng được với đám nhện hoang thôi. Lần này, bọn họ lại gặp phải hai cao thủ quyền thuật. Hai chân Trác Mộc Cường Ba bất động, thân trên ngả ra sau, tránh được bốn cánh tay dài thòng, kế đó hai tay gã cùng lúc vươn tới, tóm lấy đầu hai người đàn ông, đập mạnh vào nhau. Hai người lập tức gục xuống, không kịp kêu tiếng nào. Merkin hơi rùn người xuống, một chân móc ngược ra sau như đuôi bọ cạp, đá văng người đàn bà đi, kế đó vươn tay thuận theo cú chộp của người đàn ông kéo mạnh, ném hắn ra xa mấy mét, đoạn nói: "Đây là cái gì vậy!"
Trác Mộc Cường Ba nhìn hai người đàn ông nằm trước mặt mình, chỉ thấy năm ngón tay họ rất dài, bàn tay nổi chai sần sùi, bộ mặt gầy tóp gồ lên hai cục, chính là cơ hàm khỏe mạnh. Gã ngán ngẩm thở dài: “Họ là người có lẽ chính là người Qua Ba cổ đại!”
Một nam một nữ còn lại vừa thấy bốn đồng bạn đều ngã xuống, liền bỏ lại con mồi, mỗi người ngoạm một cái đùi nhện bỏ trốn. Họ chạy loạn dưới đất một lúc, rồi phi thân bám vào thanh gá trên cột, động tác leo trèo cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng kém gì lũ khỉ, thoắt cái đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
"Anh bảo cái gì?" Merkin trợn tròn mắt, nhìn chằm chằm đám "người" gầy như que củi, không thể tin nổi. Người đàn ông vừa bị Merkin ném văng ra muốn chạy trốn, nhưng bị y đuổi theo, chỉ mấy bước đã tóm lại được. Người đàn bà thân thể gầy gò bị Merkin đá cho một cước thì gần như đã ngất xỉu tại trận. Merkin giữ chặt hai tay người đàn ông, mặc hắn giẫy giụa liên tục, chân đá miệng cắn. Merkin bẻ ngoặt tay kẻ này ra sau lưng, bóp chặt vào cằm hắn cho mở miệng ra, nhìn vào bên trong. Người đàn ông ấy liền rít lên như lợn bị chọc tíết.
''Sao lại gầy thế này?" Merkin chau mày, một tay giữ chặt người đàn ông, tay kia luồn dưới eo người đàn bà nhấc bổng lên, áng thử trọng lượng, thấy nhẹ như bấc.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Chắc là họ quanh năm sổng ở dưới này, lấy lũ nhện làm thức ăn."
Merkin ném người đàn bà tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba, lăn lóc bên cạnh hai người bị gã đánh ngất, rồi giơ người đàn ông chưa hôn mê lên cho gã xem, đồng thời hỏi: "Vừa nãy anh nói gì? Anh bảo họ có thể là người Qua Ba ấy à?"
"Đúng thế," trán Trác Mộc Cường Ba nhăn tít lại, “ngoài người Qua Ba cư trú ở đây từ thời xưa, còn có thể là ai khác nữa? Chúng ta chỉ có thể suy đoán như vậy, không biết ở đây đã xảy ra chuyện gì, nhưng rõ ràng, những người này, những sinh vật giống hệt như con người này, đã không còn trí tuệ nữa, họ đã thoái hóa thành dã thú rồi, chỉ giữ lại được bản năng nguyên thủy nhất của sinh vật mà thôi.”
Merkin nghe mà lạnh cả sống lưng, lẩm bẩm nói: “Chuyện, chuyện gì đã khiến đám người Qua Ba ấy đến nông nỗi này?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không biết, có điều khả năng sinh tồn và thích ứng của con người thực đáng ngạc nhiên. Trong hoàn cảnh như vậy, không ngờ bọn họ vẫn có thể sống được."
Merkin lại nói: "Thế còn tóc của họ thì sao, cả lông nữa? Sống dưới lòng đất thì không mọc lông tóc hả?" Trác Mộc Cường Ba cẩn thận quan sát lại, chỉ thấy da người đàn ông đã trơn bóng nhẵn nhụi, không có lấy một sợi lông sợi tóc nào, đang không hiểu vì sao, bỗng thấy kẻ đó đột ngột ngoảnh đầu lại định cắn vào vai Merkin. Merkin buông tay ra, người đàn ông kia được thả lỏng hai tay, liền tiện đà chụp lên đầu Merkin một cái, giật đứt mấy sợi tóc vàng, bỏ tọt vào miệng.
Merkin cả giận, bàn tay to bè kẹp chặt vai người đàn ông, y chỉ hơi vặn sức một chút đã khiến đối phương trật khớp, kế đó dồn thêm hai phần sức đấm một cú vào bụng. Trác Mộc Cường Ba thấy vậy, liền sực hiểu ra: “Lông tóc của họ chắc đã bi họ tự ăn hết rồi.”
Merkin lạnh lùng nhìn người đàn ông đang há ngoác miệng ra, nói: "Để sinh tồn, bọn chúng ăn tất cả mọt thứ, sao vẫn gầy đến thế này?"
Người kia bị Merkin đấm cho một cú, lồng ngực chợt phình lên dữ dội, đường như không hô hấp được, có thể tắc thở bất cứ lúc nào. Merkin vội nới lỏng tay ra, đồng thời phân bua: "Tôi không hề dùng sức."
Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ lại, cảnh tượng này rất quen thuộc, dường như gã đã thấy ở đâu đó, phải rồi, Sean trước lúc chết cũng giống như thế này! Gã còn đang nghĩ ngợi, đã thấy người đàn ông kia oằn người xuống nôn ọe, dịch mật và chất dịch dạ dày ộc ra, kèm theo đó là vô số con giun nhiều chân, toàn thân trắng nhờ nhờ!
Lũ giun mình mẩy trơn bóng, chia thành nhiều đốt, dài chưa đến mười xăng ti mét, hai bên mọc hai hàng chân thịt, vừa chạm đất liền bò lung tung khắp nơi, có mấy con nhân lúc hỗn loạn đã chui ngay vào mũi miệng mấy người nằm dưới đất, đại đa số còn lại đều bị Trác Mộc Cường Ba và Merkin giẫm lia lịa một hồi, gần như chết sạch. Lúc này, hai người mới nhìn lại người đàn ông kia, càng lúc càng lấy làm quái dị, hắn ta nôn ra thứ sâu bọ gì thế này? Rốt cuộc chuyện này là thế nào đây?
Merkin sực nhớ đến một chuyện, vội nói: "Đây... đây là... dị thể noãn hóa! Ký sinh hai vật chủ! Rất nhiều ký sinh trùng sử dụng phương thức này để sinh sản!" Y nhớ lại, Soares từng nói, ví dụ điển hình nhất trong các loại ký sinh trùng hai vật chủ là ký sinh trùng sốt rét. Bào tử của ký sinh trùng sốt rét ký sinh, phát dục trong tế bào gan và tế bào hồng cầu của cơ thể người, sau khi trưởng thành liền phân tách thành rất nhiều giao tử đực cái xâm nhập vào máu. Sau khi muỗi hút máu của những người mang ký sinh trùng sốt rét, giao tử đực và giao tử cái sẽ kết hợp thành hợp tử trong cơ thể muối, rồi phát triển thành túi bào tử, trong túi là hàng nghìn hàng vạn bào tử, khi muỗi đốt một người khác, bào tử sẽ xâm nhập vào cơ thể người đó, cứ vậy tuần hoàn liên tục, sổ lượng ký sinh trùng sẽ ngày một tăng lên.
Đến lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới hiểu ra, chẳng trách đám người này lại gầy tong teo như vậỵ chắc hẳn đại đa số chất dinh dưỡng từ những thứ họ ăn vào đều bị thứ ký sinh trùng này hấp thu hết, người ăn nhện, nhện lại ăn người, thứ ký sinh trùng này truyền qua truyền lại giữa người và nhện, ba bên cứ như vậy hình thành một hệ thống cộng sinh phức tạp.
"Ngạ quỷ cổ!" Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng nhớ ra, trong cuốn sổ ghi chép ở thôn Công Bố có viết, kẻ nào phạm tội tham ăn tham uống, liền bị đày xuống Địa ngục đói khát, cấy Ngạ quỷ cổ vào cơ thế, người gầy giơ xương, bụng hõm vào như cái thuyền, cả ngày không ngừng ăn, vĩnh viễn bị cảm giác đói khát hành hạ.
Gã còn chưa kịp giải thích cho Merkin thì người đàn ông vừa ọc ra vô số ký sinh trùng kia đột nhiên kêu ré lên, tiếng rít nghe như tiếng chuột, nhức cả lỗ tai nhưng lại
truyền đi rất xa. Merkin giật mình kêu lên: “Ngăn hắn lại!”
Cùng lúc y mở miệng, Trác Mộc Cường Ba sớm đã nhảy tới, khép bàn tay thành lưỡi đao đánh cho kẻ đó ngất xỉu tại chỗ. Gã từng sống chung với đàn sói nhiều ngày, tự nhiên hiểu rất rõ ý nghĩa của tiếng rít này 1à gì. Tuy âm thanh của người đàn ông này phát ra khác với lũ sói, nhưng tiếng rít gào sắc nhọn truyền đi rất xa này khiến Trác Mộc Cường Ba lập tức nghĩ đến tiếng tru tập hợp của bầy sói.
Trác Mộc Cường Ra vội kéo tay Merkin nói: "Mặc kệ bọn họ, mau nghĩ cách rời khỏi chỗ này đi."
Cơ mặt Merkin giật giật, chỉ nghe y trầm giọng đáp: “E rằng hơi khó.” Phía ngọn đèn pha chiếu tới, đã thấy từng đôi mắt như mắt chuột ẩn hiện giữa đám cột đá, chớp sáng trong bóng đêm đen kịt.
Một nam một nữ vừa chạy đi lúc nãy quay lại, không biết đã dẫn theo bao nhiêu người sống dưới đáy hang sêu giống họ, người nào người nấy cao không đến mét rưỡi, nhưng tay chân thì cơ hồ dài cả mét. Đám người này leo bám nhảy nhót trên các thanh gá như đi trên đất bằng. Vì thân thể họ rất nhẹ, nên sức bật của cánh tay cẳng chân gầy nhẳng đó cũng đủ khiến họ nhảy được một quãng khá xa.
Song quyền nan địch tứ thủ, hai ba người thì Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn đối phó được, nhưng giờ đây đối phương kéo đến cả đám, khép chặt vòng vây, hai nguời bọn họ cũng không thể chống đỡ nổi. Hai người nắm tay lại, đứng dựa lưng vào nhau, đảo mắt nhìn khu vực tăm tối xung quanh. Merkin hỏi: “Tính sao giờ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: "Xông thẳng ra thôi."
Merkin lại hỏi: “Đi hướng nào?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Cứ men theo rìa vực, chắc chắn có đường!”
Đám người ở đáy hang nhao nhao bổ tới. Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Ra tay!” Hai người cùng lúc tay đấm chân đá như xua ruồi nhặng, đánh ngã những kẻ áp sát mình. Nhưng đám đáy hang ấy càng đánh càng mạnh, cứ bổ tới như thể bất cần cả tính mạng. Lấy răng và móng vuốt làm vũ khí, người nào người nấy gầm gừ như loài dã thú, trừng mắt giận dữ nhìn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đồng thời không ngừng tấn công hết đợt này đến đợt khác.
Xét về kỹ xảo chiến đấu, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cao hơn đám người này không biết bao nhiêu lần, nhưng đối mặt với cuộc tấn công của vô số hàm răng và móng vuốt sắc nhọn, mình mẩy hai người cũng đầỵ những thương tích, vết thương đa phần ở những chỗ lộ ra ngoài như mặt hay mu bàn tay. Hai người vừa đánh vừa tiến lên, men theo mép vực mờ mờ trong bóng tối, đi từ Tây sang Đông.
Một người đáy hang từ trên cao nhảy xuống, toan cưỡi lên đầu Merkin, song y đã kịp lách người né tránh. Người đó liền nhắm vào mũi y, há cái miệng đầy máu định cắn, một con cổ trùng bò ra khỏi khoang mũi hắn đeo lơ lửng phía bên ngoài, uốn éo thân thể. Merkin nhìn thấy phát lợm lên, liền vung tay tát một cú hất văng kẻ đó ra xa. Con cổ trùng bay lên, dính vào mặt Trác Mộc Cường Ba, hai hàng chân thịt nhung nhúc, thấy có lỗ hổng, nó liền ngọ nguậy định chui vào. Trác Mộc Cường Ba vội đưa tay tóm lấy nó, bóp nát, đồng thời lách người né tránh đòn tấn công từ bốn phía trước sau trái phải, đá bay người ở trước mặt đi, tiếp tục xông lên. Một lúc sau, trên trán Merkin đã bị cào rách ba vết, thịt tét ra, đau nhức khôn tả. Y bắt đầu cảm thấy không thể chịu nổi nữa, bèn đề nghị: “Dùng súng đi.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Nhưng bọn họ là con người!”
Merkin né tránh một đòn tán công, lẩm bẩm: "Như thế này còn có thể coi là người sao?"
Trác Mộc Cường Ba húc mạnh hất văng ba người trước mặt ra xa, lạnh lùng lừ mắt nhìn Merkin thầm nhủ: “Năm đó thực dân Tây Ban Nha chính vì không coi người Anh điêng là người nên mới dẫn đến vô số cuộc thảm sát và nạn buôn bán nô lệ kéo dài cả trăm năm.” Nghĩ tới đây, gã chợt thấy kinh ngạc: "Kỳ lạ thật, sao mình lại đột nhiên liên tưởng tới châu Mỹ, còn so sánh những người ở đáy hang này với cư dân nguyên thủy của châu Mỹ vậy chứ? Phải rồi, có lẽ vì họ đều từng sáng tạo ra một quá khứ huy hoàng, sau đó đột nhiên biến mất trong lịch sử, để lại một khoảng trống hư vô. Khi tái xuất hiện, họ đều trở thành những người nguyên thủy chưa được khai hóa, sống trong xã hội thị tộc nguyên thủy khép kín của riêng mình. Chẳng những vậy, những người ở đáy hang này có thể nói là không khác gì dã thú, phỏng chừng chỉ còn lại bản năng sinh tồn nguyên thủy điều khiển hành động mà thôi, thậm chí còn không có cả quan niệm đẳng cấp cơ bản nhất, chứ đừng nói gì đến hình thành thị tộc. Chuyện này rốt cuộc là sao chứ?"
Thình lình, một người đáy hang đập mạnh đầu vào đầu Trác Mộc Cường Ba. Người đó lập tức ngất xỉu sụm xuống, đồng thời, trong óc Trác Mộc Cường Ba cũng lóe lên một ý nghĩ: Đúng rồi! Số lượng của họ! Số lượng những người này không đủ, vẫn chưa đạt đến điểm tới hạn của trí tuệ tập thể! Vả lại, họ sống ở đáy hang sâu này, ngoài việc săn bắt nhện ra, e rằng không còn việc gì khác nữa, không đủ lực lượng lao động, cũng không thể khiến họ nảy sinh trí tuệ!
Trác Mộc Cường Ba lại nghĩ tiếp, vậy thì trước khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên vùng đất Maya, những người Maya còn sống sót sau thảm họa diệt quốc kia, phải chăng cũng đã trải qua một thời đại luân lạc thành dã thú, không có chút trí tuệ nào? Gã lại nhớ đến sử thi của bộ tộc Kukuer và những tư liệu về Maya mà bọn gã thu thập được.
Một khi máu tanh làm vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai họa sẽ liên tiếp giáng xuống khắp nơi như thể cơn mưa đá khủng khiếp, thành thị sẽ trở thành tòa thành chết, không người sống sót...
Tai họa đáng sợ sẽ như cơn hồng thủy nhấn chìm cả mặt đất, mặt trời biến mất, thế giới chìm vào bóng đêm, thiên hạ đại loạn, con người sống trong trạng thái hỗn độn, trần truồng như lũ dã nhân. Ngoài các hang động trên núi, họ không còn nơi nào để náu thân. Hàng ngày họ chui ra khỏi hang, đi khắp núi rừng tìm kiếm thức ăn...
Những ý nghĩ khiến người ta phải rùng mình ấy liên tục hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, lời nguyền của bộ tộc Qua Ba, sử thi của người Kukuer, lịch sử Maya, lịch sử Cổ Cách, sự biến mất của Đạo quân Ánh sáng, Đảo Huyền Không tự bị phong bế, dường như mọi thứ đang được xâu chuỗi lại. Một cảm giác lạnh lẽo dâng lên từ gan bàn chân gã, nơi này dường như ẩn giấu một bí rnật động trời, giờ đây, bí mật ấy sắp sửa phá kén chui ra rồi. Trác Mộc Cường Ba không dám nghĩ sâu xa hơn nữa, gã cuống cuồng chấn chỉnh lại tinh thần, chuyên tâm đối phó với cục diện trước mắt.
Chỉ nghe Merkin ở sau lưng gã nói: "Bọn này hình như không biết đau đớn gì, đánh ngã lại xông lên, chết tiệt thật, cứt! Cút hết cho tao!"
Trác Mộc Cường Ba chợt giật bắn mình: “Điều khiển vật chủ!” Gã tóm lấy cánh tay một người đáy hang, coi thân thể đối phương như một thứ vũ khí, vung mạnh mấy vòng, rồi buông tay ném ra xa.
"Anh nói cái gì!" Merkin tránh khỏi ba người đáy hang khác, vung nắm đấm đánh ngã hai người.
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại những lời Sean từng nói, bèn thuật lại: "Ông biết ký sinh trùng hai vật chủ mà không biết loại ký sinh trùng điều khiển vật chủ à? Có những người nghiện ăn các thứ quái lạ, như là đinh sắt, thủy tinh, bùn đất, thực ra không phải họ có vấn đề, mà là những ký sinh trùng trong cơ thể họ đòi hỏi bổ sung một số vật chất đặc thù. Bọn ký sinh trùng ấy tiết ra các chất ảnh hưởng đến não bộ con người, khiến những người ấy nảy sinh cảm giác thèm ăn những thứ quái đản kia, đây gọi là điều khiển vật chủ.” Trong lúc nói chuyện, gã đã đổi hơi hai ba lần, tránh được mấy lượt công kích, đồng thời đánh ngã bảy tám người đáy hang nhào tới.
Merkin kinh ngạc thốt: “Ý anh là... bọn chúng... bọn chúng cảm thấy đói khát, phát động tấn công, thực ra đều do ký sinh trùng trong cơ thể khống chế?” Y vừa ngẩn nguời ra một thoáng, đã suýt bị cắn phải.
Trác Mộc Cường Ba cân nhắc câu chữ, đoạn gật đầu: “Xét ở một khía cạnh nào đó... có lẽ... có thể nói là vậy.”
Merkin nói: "Hình như càng lúc... tránh xa tôi ra một chút... càng nhiều rồi!"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Là phúc không phải họa, là họa thì không tránh được." Gã vụt ngẩng đầu, bổ sung thêm: "Lần này, hình như không tránh được rồi!" Chỉ thấy trên không trung xòe ra vô số cái ô nhỏ màu trắng, lũ nhện từ trên cao nhảy xuống, ồ ạt gia nhập vào cuộc chiến.
Merkin bực bội oán trách: “Đã bảo dùng súng từ trước, giờ thì hay ho rồi.”
Trác Mộc Cường Ba quát: “Sao ông không dùng đi!”
Merkin hơi ngần ngừ một thoáng, rồi mới nói: “Ừm... truyền thống của gia tộc, chúng tôi tuyệt đối không giết người.” Mặc dù đang bận rộn ứng phó đòn tấn công từ mọi phía, Trác Mộc Cường Ba vẫn tranh thủ xoay người, trợn tròn mắt lên bày tỏ sự kinh ngạc cảu mình. Merkin nói y chưa từng giết người! Trác Mộc Cường Ba sao có thể tin được chuyện này chứ: “Vậy ai trong rừng chĩa súng vào bọn tôi?”
Merkin nói: “Ừm, lúc đó tôi chỉ muốn dọa các người, đồng thời tự bảo vệ thôi, không hề có ý muốn giết chết các người. Chạy mau...”
Bọn nhện trắng vừa tham chiến, tình thế lập tức trở nên hỗn loạn, đa số người đáy hang bỏ qua Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đua nhau xông lên nghênh chiên với lũ nhện, máu đỏ, máu xanh tung tóe khắp nơi, mùi tanh lợm nồng nặc bốc lên, khu vực dưới chân cột đá lập tức biến thành một lò giết mổ đẫm máu.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin thừa cơ bỏ chạy, tuy thỉnh thoảng cũng gặp kẻ cản đường, nhưng dù là nhện hay người cũng không gây được nhiều uy hiếp tới họ. Hai người cứ thế chạy một mạch từ đầu này sang đầu kia trận địa cột đá. Dọc đường, họ đã bàn tính, nếu vẫn không tìm thấy lối thoát nào, sẽ men theo vách núi chạy thêm một vòng nữa.
Có điều, rõ ràng họ không cần phải làm vậy, mặc dù cách khá xa, nhưng hai người vẫn nhìn thấy được ánh đèn đuốc rực rỡ chiếu ra từ ô cửa của đình đài lầu các nào đó ở đầu bên kia. Trong khi ở phía bên này, có một phiến đá treo lơ lửng bên mép vách đá, trông như con đò ngang chở khách qua sông. Hai đầu phiến đá có hai sợi kim loại to bằng ngón tay cái buộc chặt, đầu còn lại của hai sợi dây kéo dài lên trên rồi mất hút trong bóng tối thăm thẳm.
Trông thấy phiến đá này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin thoáng ngẩn người ra, đây chẳng phải một cái xích đu cỡ siêu lớn hay sao? Có lẽ phải nhờ vào cái xích đu này để vượt qua khe sâu rộng trên trăm mét trước mắt rồi. Chỗ họ đang đứng đã nằm ngoài phạm vi của trận địa cột đá, cũng không biết đầu kia của sợi dây kim loại buộc bàn du khổng 1ồ này gắn vào chỗ nào nữa. Bao nhiêu năm nay, bàn xích đu này vẫn luôn bị cố định ở rìa vách đá. Nó không bị người đáy hang đẩy ra, là bởi phần đáy phiến đá được tán vào rất nhiều vòng sắt lớn, to như cánh tay trẻ con, đồng thời trên vách đá lại đúc thêm hai vòng hình bầu dục, các vòng sắt và vòng bầu dục móc vào nhau, cố định phiến đá lại.
Kiểu móc nối giữa vòng sắt và vòng hình bầu dục, kỳ thực chính là kiểu cửu liên hoàn thời cổ, có điều người xưa đã tăng thêm số vòng, hai bên phiến đá đều cố định bằng mười tám vòng sắt. Thập bát liên hoàn, có lẽ không khó phá giải, chỉ cần tốn thêm chút thời gian và nhớ được trình tự gỡ vòng của mình là được. Những người đáy hang kia tuy cũng từng động tay động chân vào những vòng này, có điều đám dã nhân không có trí tuệ chỉ càng làm các vòng sắt rối loạn thêm, gần như không có dấu hiệu gì chứng tỏ có thể mở ra được. Merkin và Trác Mộc Cường Ba tuy đều có năng lực phá giải thứ đơn giản này, nhưng họ lại không đủ thời gian, cuộc chiến giữa đám người ở đáy hang và lũ nhện sắp kết thúc tới nơi, đám người ấy lại rú rít ầm ĩ nhao nhao xông thằng tới.
Merkin thấy không đủ thời gian, bèn liền lấy một thanh kẹo cao su cho vào miệng, nói với Trác Mộc Cường Ba: "Chặn bọn chúng lại!"
Trác Mộc Cường Ba cười khổ: "Ông cũng khéo chọn nhỉ. Chỉ sợ tôi không cầm cự được lâu đâu."
Merkin giơ ngón tay lên: "Một phút."
Trác Mộc Cường Ba bèn xông thẳng vào giữa đám người đáy hang, thầm nhủ kéo dài được giây nào thì hay giây ấy. Gã dồn thêm sức vào nắm đấm và cú đá, lần lượt hạ gục những kẻ lao tới trước mặt, nhưng đám người đáy hang vẫn ùn ùn kéo tới mỗi lúc một nhiều. Lần này, bọn họ dường như đã thay đổi sách lược, giở chiến thuật đàn kiến ăn sâu, hễ tiếp cận đượcc Trác Mộc Cường Ba lập tức ôm chặt, cắn chặt, hai tay hai chân kẹp chặt tay chân gã, nhất quyết không chịu buông. Động tác của Trác Mộc Cường Ba tức thì chậm lại, chỉ một thoáng sau đã lại có thêm mấy người đáy hang nhao tới đè lên. Trác Mộc Cường Ba như gánh cả ngọn núi trên vai, vận sức hất mạnh, ném văng mấy kẻ đang đeo bám trên người mình ra. Nhưng chỉ trong chớp mắt, những kẻ khác lại xông tới. Gã kêu lớn: "Xong chưa vậy, tôi không cầm cự nổi nữa đâu!"
Merkin vội vàng chạy trở lại, hiệp trợ Trác Mộc Cường Ba xua đám người đáy hang quanh bọn họ lùi ra xa, sau đó không chạy ra phía mép vách đá mà xông thẳng vào giữa đám dã nhân kia. Những người đáy hang ấy không ngờ hai con mồi này lại dũng cảm như vậy, vừa ngẩn ra một giây, hai người kia đã lướt qua bên cạnh.
Chạy được khoảng năm chục mét, Merkin nói: “Chúng ta lao trở lại, dùng tốc độ nhanh nhất của anh đi!” Nói đoạn, hai người lập tức chuyển hướng, xông thẳng về phía cái bàn xích đu bằng đá. Cả bọn người đáy hang vẫn chưa kịp định thần, phải một lúc lâu sau mới gầm gừ lên, người nào người nấy đua nhau truy kích hai kẻ ngoại lai.
Dọc đường chạy, Merkin nhấc cánh tay lên, hai khẩu súng đã nằm trên tay. Y bắn liên tiếp mấy phát, ánh lửa chớp lóe. Trong bóng tối, hồ quang ánh lên ven bờ vực, đá núi dưới chân rung lên khe khẽ, rồi tiếng ầm ầm như sấm lan tỏa dần ra theo các cột đá. Merkin can thời gian nổ hết sức chuẩn xác, hai người vừa khéo ở ngay bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của sóng xung kích, liền xông thẳng vào phạm vi sóng xung kích đã yếu đi, tung mình nhảy lên tấm ván xích đu đã rời khỏi vách đá, đu về phía cung điện dưới màn đêm đen kịt kia.
TẠM THOÁT NGUY CƠ
Hết vòng này đến vòng khác, Lữ Cánh Nam dìu pháp sư Á La đi theo người trẻ tuổi, không biết đi đã đi qua bao nhiêu vòng trong những bức vách quây thành hình tròn này. Các bậc thang không ngừng xuất hiện trước mặt họ, lên rồi xuống, xuống xong lại lên, có lúc lỗi ra lại lơ lửng tít trên cao. Bờ vai, thắt lưng, cánh tay, đầu gối các pho tượng cao lớn đó đều có khả năng trở thành thông đạo nối liền hai vòng tròn. Nếu không có người trẻ tuổi dẫn đường, hai người họ thực tình cũng không biết phải làm sao mới đi qua được mê cung quanh co vòng vèo này nữa.
Mỗi lần qua một vòng, người trẻ tuổi lại dừng chân nghĩ ngợi giây lát. Pháp sư Á La càng lúc càng chắc chắn, kẻ này chưa từng đến đây, nhưng tại sao y lại nắm được bí mật cảu nơi này, nhớ được mọi thông đạo ở đây?
Không biết bao lâu sau, người trẻ tuổi đã tìm được hơn nửa số lính đánh thuê, nối đuôi nhau thành một hàng dài. Trông đám người lố nhố, Lữ Cánh Nam lại trông thấy Mẫn Mẫn, từ khi thân phận bi vạch trần, cô luôn lặng lẽ đi phía sau đội ngũ. Lữ Cánh Nam nghĩ rằng Mẫn Mẫn sẽ một mình bỏ đi, không ngờ cô vẫn lẽo đẽo bám theo nhóm người này như thế. Bọn lính đánh thuê đã có tên không nhịn nổi, bước tới trêu đùa cợt nhả, nhưng Mẫn Mẫn chẳng khóc cũng chẳng cười, tựa như một cái xác biết đi vậy. Khi mới xác nhận thân phận của Mẫn Mẫn, Lữ Cánh Nam chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống Mẫn Mẫn ngay tại chỗ, nhưng nhìn bộ dạng sống mà như chết ấy, cô lại thấy hơi mềm lòng. “Nên để cho Cường Ba quyết định, cô ấy tuy đáng giận thật, nhưng cũng không thể để mặc cho bọn lính đánh thuê này làm nhục cô ấy được.” Nghĩ vậy, Lữ Cánh Nam liền đi về phía sau đội ngũ, tới bên cạnh Mẫn Mẫn, không nói một lời, đột nhiên giơ tay chỉ thẳng vào mấy tên vừa giở trò hạ lưu với Mẫn Mẫn, ánh mắt dữ dội, trong vẻ điềm tĩnh lại toát lên sự uy nghiêm khôn tả.
Mấy tên lính đánh thuê ấy ngượng ngập lùi lại, bọn chúng hiểu rất rõ, người phụ nữ này cực kỳ lợi hại, một khi người trẻ tuổi kia và Khafu không đứng ra, bọn chúng cũng không dám làm bừa. Mẫn Mẫn hướng ánh mắt cảm kích về phía Lữ Cánh Nam, song lại thất vọng nhận ra, từ đầu chí cuối, Lữ Cánh Nam không buồn liếc nhìn cô lấy một lần.
Lữ Cánh Nam trở về chỗ, tâm trạng lẫn lộn đan xen ba phần tức giận, ba phần oán than, cộng với ba phần mâu thuẫn. Pháp sư Á La nở một nụ cười từ ái gật đầu với cô, tỏ ý khen cô làm rất tốt. Lữ Cánh Nam vẫn không nói một lời, cẩn thận dìu đỡ ông. Pháp sư Á La biết cô vẫn chưa bình tĩnh lại, cũng không nói gì thêm nữa.
Người trẻ tuổi rót cuộc cũng từ bỏ việc tìm kiếm những tên lính đánh thuê bị thất lạc, y quay lại dặn dò đám còn lại: "Nhớ cho kỹ, nơi này không chỉ là một tòa cung điện hoa lệ, mà còn là một mê động đầy rẫy những cơ quan cạm bẫy. Mỗi gian đại điên đều ê hề châu báu, chỉ sợ chúng mày không mang đi hết được thôi, nhưng nhất định phải giữ lấy cái mạng nhỏ của mình thì mới có cơ hội tiêu tiền được, đừng có giống như lời cảnh cáo ngoài kia, chỉ nhìn thấy châu báu trước mắt, rồi chết không có đất chôn thây"
Dứt1ời, y lại quay sang bảo Khafu: "Phải quản chặt bọn chúng đấy." Nhưng lúc này, đã không còn ai đủ nhẫn nại nghe y nói tiếp nữa rồi, trong đầu tất cả mọi người chỉ còn bốn chữ “mỗi gian đại điện” bay lởn và lởn vởn. Bọn lính đánh thuê chấn động, Khafu kinh ngạc, ngay cả Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La cũng thầm rung động trong lòng. Mọi người vốn tưởng rằng, nơi này chính là chủ thể của thần miếu, là khu vưc hạch tâm lớn nhất, đẹp đẽ nhất rồi, nhưng nghe người trẻ tuổi kia nói, dường như đây mới chỉ là một gian điện đường trong Bạc Ba La thần miếu mà thôi. Rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu có bao nhiêu gian đại điện như thế này?
Trông thấy phản ứng của cả bọn, người trẻ tuổi kia nhếch mép cười khinh bỉ: "Có gì đáng ngạc nhiên đâu chứ? Đại điện này tuy lớn, nhưng cũng không đến nỗi mấy triệu con người, tổng cộng sáu đời tốn mất hơn trăm năm mới xây dựng xong, phải không? Đây chẳng qua chỉ là một gian đại điện bên trong thần miếu mà thôi, toàn bộ Bạc Ba La thần miếu là một tòa đàn thành. Đàn thành là cái gì? Pháp sư đại nhân, các người là Mật tu giả, chắc hẳn phải rõ hơn tôi chứ nhỉ?"
Pháp sư Á La tuy vẫn giữ vẻ trấn định, nhưng trong đầu cũng không khỏi "oong oong” một chập, tim đập gấp gáp. Đàn thành được chia làm rất nhiều loại, phổ biến nhất là đàn thành Mật tông, thường thấy nhất là Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la
(15)
, đều có hơn bốn trăm vị chủ tôn Phật, mỗi vị một gian điện đường, nếu gian nào cũng có quy mô gỉống đại điện này, vậy thì miếu phải lớn chừng nào? Đương nhiên, điều tiên ông nghĩ tới là Thời luân Kim cương đàn thành, nhưng pháp sư Á La cũng biết, đó là do người đời sau dựa vào các truyền thuyết về Shangri-la tạo ra. Khả năng lớn nhất là nơi này vẫn được xây dựng theo mô hình Thai tạng Mạn đà la hoặc Kim cương giới Mạn đà la được miêu tả trong Đại Nhật kinh và Kim Cương Đỉnh kinh.
Có điều, sau khi nghe người trẻ tuổi kia nói vậy, vẫn có không ít lính đánh thuê liếc mắt nhìn ba lô và túi của mình, trên mặt lộ rõ vẻ tiến thoái lưỡng nan. Hiển nhiên, bọn chúng đã thỏa mãn, tin rằng chỉ cần mình mang đống châu báu này trở về, mấy đởi sau cũng không phải lo thiếu thốn rồi. Những tên này muốn rời đi ngay lập tức.
Người trẻ tuổi cũng nhìn ra tâm tư ấy, lại nói tiếp: “Đương nhiên, những kẻ nào cảm thấy mình đã giàu có rồi, muốn rời khỏi đây thì cứ tự tiện. Nhưng tao vẫn muốn tiến vào sâu hơn nữa thăm dò, không thể dẫn đường cho chúng mày được. Ai muốn có nhiều hơn nữa thì đi theo tao.”
Bọn lính đánh thuê đã nếm mùi lợi hại của mê cung vòng tròn này, lại biết đường vào đã bị bít kín, nếu không có người trẻ tuổi dẫn đường, kẻ nào có thể ra khỏi đây được chứ? Đối mặt với kiểu uy hiếp biến tướng này, bọn chúng đành bất lực, hoàn toàn không thể phản kháng. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, rõ ràng, người trẻ tuổi này cũng giống như hai người họ, hoàn toàn không động tâm với những thứ châu báu rực rỡ chói mắt ở đây. Vậy y muốn tìm kiếm thứ gì? Chẳng lẽ mục đích của y cũng giống họ, muốn tìm kiếm Thánh điển ư? Nhưng Thánh điển có tác dụng gì với y chứ? Vả lại, nếu cũng muốn tìm kiếm Thánh điển, chắc chắn y sẽ không giữ hai người họ lại làm gì.
Khafu đứng bên cạnh hỏi: “Đàn thành rốt cuộc là thế nào?”
Người trẻ tuổi tiện tay vạch lên bức tường một hình “
”, đoạn nói: "Đàn thành trông như thế này, đã được vẽ rất nhiều trên các bức Thangka và bích họa, chỉ có điều, chúng đều là mặt phẳng nên không thể thể hiện hoàn toàn hình dáng của đàn thành thôi. Không biết bọn chúng mày đã thằng nào đến Thiên đàn ở Bắc Kinh chưa, đại điện của đàn thành cũng khá giống nơi đó, từng tầng từng tầng một, các giai tầng khác nhau thì bái phỏng các điện Phật khác nhau. Kết cấu của toàn bộ đàn thành và mỗi gian điện về cơ bản là giống nhau, trong vuông co tròn, trong tròn có vuông, bao la vạn tượng, hết thảy đều quán thông."
Khafu lập tức hiểu ra: "Giống như Kim tự tháp."
Người trẻ tuổi gật đầu: “Đúng thế, chỉ có một điểm khác biệt, phải nói là giống bánh ga tô nhiều tầng thì đúng hơn. Đàn thành là sự kết hợp giữa vuông và tròn, còn Kim tự tháp thì chỉ thuần hình vuông, pháp sư đại nhân, ông cảm thấy tòa đàn thành này sẽ thế nào đây nhỉ?”
Pháp sư Á La chắp tay bắt ấn không nói gì, ông vẫn chìm trong dòng suy tư. Chỉ nghe người trẻ tuổi kia tiếp lời: “Thực ra đạo vuông tròn của phật gia và đạo âm dương của Đạo gia có rất nhiều điểm tương đồng. Đại đạo trong thiên hạ, xét cho cùng đều quy về một mối. Vạn vật cấu thành đều là một âm một dương; quỹ đạo của vạn vật, đều là một cong một thẳng; luân hồi của vạn vật, thảy đều một vuông một tròn; đạo lý trên thế gian này cũng chỉ có thế mà thôi."
Pháp sư Á La giật mình sực tỉnh, bất giác ngẩng đầu lên nhìn người trẻ tuổi kia, thầm nhủ: “Mới chừng này tuổi không ngờ đã có thể nói ra những lời như thế, tâm tính và ngộ tính của người này cao hơn ta rất nhiều. Không đúng, nhất định là y đã đọc được câu này từ đâu đó, tuy giọng điệu ấy đượm vẻ khinh bạc, nhưng sự lĩnh ngộ của y với câu này rõ ràng vẫn cao hơn ta một bậc.”
Trong lúc pháp sư Á La ngẫm nghĩ, người trẻ tuổi đã dẫn cả đội ngũ tiến lên phía trước. Chỉ nghe loáng thoáng y nói với Khafu: “Thứ này... rất khó giải thích... chúng ta đang đi bên trong, không thể nhìn toàn bộ diện mạo của nơi này từ bên ngoài... mày coi nó như một quả thông vậy... đại khái là thế, một đàn thành, một bóng ngược, bóng ngược trong nước ấy, mày hiểu không? Đạo âm dương... thôi bỏ đi, có nói mày cũng không thể hiểu đươc đâu.”
“Đạo âm dương, bóng ngược.” pháp sư Á La cúi đầu trầm ngầm, đột nhiên thốt lên. “ta hiểu rồi.”
Lữ Cánh Nam bên cạnh vội hỏi: "Pháp sư đại nhân?" Pháp sư Á La vẽ thêm một hình “
” lên chỗ mảng tường người trẻ tuổi kia vừa vẽ, có điều hình này ngược hướng với hình phía trên, đầu nhỏ chúc xuống dưới, hai hình ghép lại với nhau thành một hình thoi. Pháp sư Á La chỉ tay lên tường nói: "Đây chính là toàn bộ diện mạo của đàn thành, một chính một phản, một âm một dương, chúng ta đang ở đây." Ngón tay ông dịch lên đầu nhỏ của hình phía trên, sau đó lại chỉ xuồng đầu mút của hình phía dưới nói tiếp: “Y muốn đến chỗ này.”
Lữ Cánh Nam bừng tỉnh ngộ, liền gật đầu rồi đỡ pháp sư Á La đi theo đội lính đánh thuê.
Cái xích đu khổng lồ chuyển trạng thái từ tĩnh sang động, từ từ tăng tốc, gió lớn dần, Trác Mộc Cường Ba và Merkin như thể đang đạp trên tấm ván lướt sóng, lao một mạch về phía trước. Nửa chặng đầu, cảm giác như lướt trên mây, nửa chặng sau, tim hai người đều trầm xuống, trọng tâm dồn hết xuống chân.
Mắt thấy vách đá ở ngay trước mắt, ánh đèn lấp loáng đã hiện lên rõ mồn một nhưng xích đu đã hết đà, bắt đầu lăng trở về phía bên kia. Merkin kinh ngạc hỏi: “Chuyện gì thế này?”
Theo thiết kế, bàn xích đu này lẽ ra phải trực tiếp đưa họ sang bình đài phía đối diện mới đúng chứ? Sao vẫn còn cách đến một hai chục mét, dây móc của Trác Mộc Cường Ba bắn ra cũng không tới, đã bắt đầu giật ngược trở về? Hai người vội tìm kiếm nguyên nhân, cúi đầu nhìn xuống, lập tức giật nẩy mình. Thì ra, khi hai người họ nhảy lên xích du, một đám người đáy hang cũng tung người bổ tới, tuy không kẻ nào lên được bàn đu, song lại chộp được vòng sắt ở phía dưới. Người đầu tiên nắm lấy vòng sắt, người phía sau lại ôm chặt hai chân người phía trước, cứ như bầy khỉ bám đuôi nhau đu qua khe núi, xâu thành một chuỗi dài.
Bàn xích đu này rất lớn, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lúc xông tới đã dùng hết toàn lực, sau khi lên được, tầm nhìn lại bị cản trở, thêm ánh sáng mập mờ nên vẫn không phát hiện ra. Đến khi đu sang phía bên này, đầy đủ ánh sáng, hai người mới trông thấy.
Mỗi chuỗi dài như vậy có khoảng bốn năm người đáy hang bám vào, dưới chân Trác Mộc Cường Ba có một chuỗi, bên phía Merkin có hai chuỗi. Đám người này làm thay đổi trọng tâm của xích đu, chẳng trách chưa sang đến bờ vực bên kia, nó đã bắt đầu văng ngược trở về rồi.
“Tính sao đây?” Merkin hỏi.
Nếu không xua những người đáy hang đang bám bên dưới xuống, sợ rằng xích đu sẽ càng lúc càng chậm lại, cuối cùng dừng lơ lửng giữa không trung. Có điều, phía dưới kia là vực thẳm sâu hun hút, những người này rơi xuống, e là cũng khó sống nổi. Tuy trước đây, Trác Mộc Cường Ba đã chiến đấu với quân du kích, bọn buôn ma túy, về sau lại nhiều lần xung đột với bọn lính đánh thuê dưới trướng Merkin, nhưng đó đều là kẻ địch, gã nã súng chỉ để tự bảo vệ mình, cũng không hổ thẹn với lòng. Nhưng đám người đáy hang này thì khác, trí tuệ của họ chẳng khác nào đứa trẻ sơ sinh, hành vi thì như loài dã thú, họ hành động chỉ vì miếng ăn, vì sinh tồn. Vả lại sức tấn công của họ cũng rất yếu ớt, nếu không chiếm ưu thế vế số lượng, có thể nói là hoàn toàn không uy hiếp gì được Merkin và Trác Mộc Cường Ba cả. Lúc này, họ cũng khó lòng leo lên được phía trên bàn xích đu để làm gì hai người bọn gã. Đồng thời, dưới ánh sáng từ phía bên kia hắt sang, Trác Mộc Cường Ba còn phát hiện có hai phụ nữ bụng hơi gồ lên, rõ ràng là đang mang thai. Lẽ nào, giết chết một người hành vi điên cuồng, trí lực thấp kém, lại không có năng lực phản kháng, không phải là giết người hay sao?
Có điều, đúng lúc ấy, những người đáy hang kia cũng không cầm cự được thêm nữa, người đầu tiên bám vào vòng sắt tuột tay ra, tất cả những người bám phía sau liền rơi xuống vực sâu, tiếng kêu thảm vang lên không khác gì loài dã thú. Bàn xích đu văng trở lại chưa được nửa chặng đường, ba chuỗi người bám bên dưới đều đã lần lượt rơi rụng, chỉ còn lại tiếng kêu rít văng vẳng trong không gian.
Người đáy hang bám bên dưới đã rơi xuống, song bàn đu vẫn mỗi lúc một chậm lại, lần thứ hai còn cách xa bờ đối diện xa hơn lần thứ nhất. Merkin và Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại nhìn nhau, cùng bật ra tiếng hỏi: “Anh... ông biết đu cái này không?”
“Anh cũng không biết đu xích đu à?”
Câu hỏi vừa thốt ra khỏi miệng, hai người lập tức tắc tị. Hai cao thủ am tường cơ quan cạm bẫy, không ngờ lại bị rnột cái xích đu vớ vẩn làm khó. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều hiểu rất rõ, cứ đứng trên phiến đá mà không có động tác gì, biên độ dao động của xích đu chắc chắn sẽ càng lúc càng thu hẹp lại. Nhưng khốn nỗi, cả hai đều không biết phải hành động thế nào. Thứ vô cùng đơn giản này rõ ràng không hề được đưa vào trong giáo trình huấn luyện của bọn họ.
Merkin còn đưa ra một vấn đề nghiêm trọng hơn: "Anh có phát hiện, lần áp mạn này vị trí của chúng ta cao hơn lần đầu một chút không?"
"Ý ông là, dây thừng có vấn đề?"
“Phía trên chắc chắn có thứ gì đó đang cuộn dây thừng buộc hai bên phiến đá này, biên độ dao động của bàn xích đu sẽ nhỏ dần, nếu không nghĩ ra cách, chúng ta sẽ bị kẹt ở giữa vực sâu đấy.”
“Thử xem, thế nào cũng có cách. Thử cách trượt tuyết xem.” Trác Mộc Cường Ba đề nghị. Merkin gật đầu đồng ý, khi bàn đu lên đến điểm cao nhất bắt đầu rơi xuống, hai người chia nhau nắm lấy một sợi dây thừng, đầu gối rùn xuống, dồn trọng tâm cơ thể ra phía trước, tư thế như đang trượt tuyết. Lực cản giảm đi, tốc độ rơi xuống của bàn đu tăng lên rõ rêt, nhưng sau khi qua điểm giữa, tư thế này dường như lại không ổn định. Hai người tiếp tục lần mò, cuối cùng cũng tìm ra cách tối ưu. Khi bàn đu lên đến điểm cao nhất, họ liền giậm mạnh chân, dồn sức đè mạnh xuống, sau đó giữ tư thế trượt tuyết đến khi qua điểm giữa, Lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba hét lớn: "Lên". Hai người lại cùng lúc bật người, dồn sức vào hai chân đẩy cho bàn đu lên cao hơn chút nữa. Họ cứ lặp đi lặp lại như thế, bàn đu rốt cuộc cũng tăng dần biên độ dao đông, đến lần áp ngạn thứ mười ba, bàn du đã đạt đến biên độ lớn nhất. Có điều, luc snayf, họ đã ở cao hơn bình đài kia đến mười mấy mét. Trác Mộc Cường Ba bắn dây móc ra, Merkin cũng lao bổ theo, tay người này bám chặt vào cánh tay người kia. Trác Mộc Cường Ba vung tay ném Merkin lên bình đài, còn mình thì trượt tường leo xuống.
Sau khi chạm đất, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện, đây không phải một bình đài, mà là một bệ hõm xuống ở giữa, kiểu như ban công chìa ra của tòa nhà vậy. Chỉ có điều, tỷ lệ được phóng to lên vô số lần, bọn họ chẳng qua chỉ đáp xuống thành lan can của ban công khổng lồ ấy, giống như hai con kiến nhỏ mà thôi.
Đứng từ đây nhìn vào bên trong, chỉ thấy đèn đuốc sáng trưng, không gian mở rộng ra vô hạn, ngước nhìn lên trên, chỉ thấy một mảng lam sẫm nhấp nháy như dòng ngân hà chảy trên bầu trời đêm. Một sáng một tối giao hòa vào nhau, như thể bọn họ đang nhìn hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Chỗ mép tường có cầu thang, hai người cẩn thận leo xuống chừng mấy chục mét, rồi bước vào khoảng không gian sáng sủa ấy, cùng lúc hít sâu một hơi, rồi lại cùng lúc cảm thán thốt lên: “A!” Hệt như nhóm người của pháp sư Á La lúc bước vào gian đại điện có ngàn vạn vị thần Phật, đang nghĩ ngợi về ý nghĩa của sự tồn tại kia, hai người đều có cảm giác lạc vào một vùng bát ngát, tầm nhìn đột ngột mở rộng ra tít tắp.
Một từ “rộng lớn” làm sao có thể hình dung được nơi này? Chỗ này không thể gọi là cung điện hay đại sảnh gì được. Trác Mộc Cường Ba có cảm giác như mình vừa lạc bứoc vào chốn đào nguyên tiên cảnh, chỉ thấy một vùng xanh mướt tràn ngập ý xuân, đập vào mắt toàn cây rừng tươoi tốt, tán lá xào xạc. Hai người dụi mắt liên tục không hiểu có phải mình gặp ảo giác hay không nữa. Chỗ này nằm sâu dưới lòng đất, chiếu sáng bằng ánh lửa, sao lại có rừng cây được? Rốt cuộc đây là một đại điện, hay là một mảng rừng rậm đây?
Dưới chân họ là một bãi cỏ xanh mướt, những đóa hoa nhỏ màu trắng, màu đỏ nở xen kẽ giửa cỏ xanh, mềm mại như tấm thảm trải dài. Cách đó không xa là những cây lớn san sát, cành lá rậm rạp, đường kính thân cây mấy người ôm, cao đến cả trăm mét, dường như còn có suối chảy qua bụi cỏ, chỉ nghe tiếng róc rách, không thấy dòng nước.
Merkin không dám tin vào mắt mình, liền ngồi xổm xuống, vân vê một cọng cỏ, ngay sau đó ngẩng đầu lên, cười khổ, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đồ giả.” Cọng cỏ ấy trơn nhẵn, bẻ mà không gãy, chỉ phát ra tiếng sột soạt như giấy bóng kính. Không biết những bông hoa trắng, hoa đỏ kia làm bằng thứ gì mà cũng giống hệt như thật, cũng không biết người xưa đi tốn bao nhiêu công sức mới cắt ra được hàng triệu cọng cỏ như vậy, phủ kín toàn bộ đại điện này.
Trác Mộc Cường Ba lặng lẽ gật đầu, những thứ này đương nhiên là đồ giả rồi. Nơi này ở sâu dưới lòng đất, nếu chẳng phải do cơ quan đã khởi động thì thậm chí còn không có cả ánh sáng, làm sao có rừng rậm được chứ? Trên các thân cây lớn kia, từ khoảng hai phần ba chiều cao trở lên, đều có gắn bồn lửa cháy bập bùng. Nếu 1à cây thật, làm sao có thể cho lửa cháy như vậy được?
Thế nhưng, làm giả mà có khí phách này, làm giả mà giống thật đến nhường này, khiến người ta như rơi vào giữa đám mây mù ảo ảnh, Trác Mộc Cường Ba cũng không thể không cảm thán trước kỹ thuật tinh xảo của các nghệ nhân nghìn năm trước. Suy nghĩ của họ thực kỳ diệu, khiến người ta chỉ biết thở dài thán phục. Gã ngẩng đầu nhìn lên trên, ở độ cao hơn trăm mét, nơi tường và vòm trần tiếp xúc, có vô số tượng thần Phật cúi xuống theo góc bốn nhăm độ, chân đạp mây lành, mắt nhìn chăm chú.
Merkin đứng choãi hai chân, chầm chậm đảo mắt một vòng. Sự biến đổi to lớn về không gian và màu sắc này khiến tâm thái con người lập tức từ chỗ nơm nớp nguy cơ chuyển thành hào hùng ngùn ngụt, như thể vừa lên đến đỉnh cao của ngọn núi. Chỉ một thế đứng đơn giản như vậy thôi, y đã có cảm giác mình đang sừng sững giữa đất trời bao la. Y từng đến vô số mộ cổ, ghé qua vô số di tích, nhưng chưa gặp nơi nào thế này bao giờ. Trong cung điện có hồ nước, trong cung điện có rừng sâu. Đây không đơn giản là một thứ nghệ thuật, mà là một thứ cảnh giới bao hàm tư tưởng chí cao vô thượng của Thiền tông. Hai người chậm rãi thả bước trong rừng, thả hồn theo gió, lớp cỏ dưới chân phát ra những tiếng rì rào như lời thỏ thẻ của tình nhân, như dòng suối ngầm hòa nhịp, tràn ngập thiền ý. Những cây lớn này không hiểu làm từ chất liệu gì, trong ánh lửa cháy hừng hực, trong không khí tràn ngập một mùi hương tươi mới, thoang thoảng như hương lan, lại hơi giống mùi đàn hương, khiến tinh thần người ta trở nên thư thái, từ đầu đến chân cơ hồ được tắm trong một vòng sáng thánh khiết.
Không rõ đi được bao lâu, Trác Mộc Cường Ba chợt ngẩn người, chầm chậm giơ tay lên chỉ ra phía xa. Không hiểu sao Merkin lại chợt thấy bồi hồi xúc cảm. sống mũi cay cay. Y vội vàng quẹt quẹt mũi, áp chế xúc cảm bất chợt dâng tràn ấy.
Cái cây lớn quá?
Thân cây tựa như đâm thủng bầu không, đội trời đạp đất, tán cây xòe rộng như cái ô khổng lồ che phủ mặt đất. Những cây lớn xung quanh chỉ tựa như đàn con cháu xúm xít quanh nó mà thôi. Những hình Phi Thiên
(16)
vẽ trên vòm trần đều đang chên lấn xô đẩy tràn về phía tán cây thần này.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên có cảm ngộ, một thứ cảm ngộ không thể nói bằng lời, gã chỉ thấy đất trời tĩnh lặng, giả là thật mà thật cũng là giả, tựa hồ như nghe thấy được cả tiếng của loài sâu kiến, bao nhiêu phiền não thảy đều tiêu tan.
Còn Merkin thì tựa như nhìn thấy cây cổ thụ trước căn nhà tổ của y, trong đầu hiện lên hình ảnh hai ông cháu đang ngồi dưới gốc cây luận đạo.
BẠCH TƯỢNG CHI CẢNH
Bên dưới gốc cây thần đó còn có một điềm trắng nhỏ, thoạt trông giống như chú ngựa con. Không hiểu sao, lúc ngước mắt lên nhìn cái cây ấy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều không hẹn mà cùng tiến đến gần gốc cây. Mới đầu, hai người còn đề phòng cơ quan, sau khi thấp thỏm đi được một đoạn, mới bắt đầu sải rộng bước chân, càng đi càng nhanh.
Lúc đến gần, họ mới phát hiện, thứ màu trắng kia hóa ra chẳng phải ngựa con, mà là một con voi trắng sáu ngà, cao mười mấy mét. Bên dưới cái cây cao chọc trời, những cây nhỏ hơn trong rừng xếp thành hai hàng, tựa hồ chừa ra một con đường cho voi trắng tiến bước, một dòng nước trong vắt như gương roognj chừng bốn, năm mét lặng lẽ dập dờn chảy qua phía trước mặt con voi.
Con voi trắng đó đầu đội mũ miện, lưng chở tòa sen không tâm, bộ dạng hân hoan sung sướng, tựa như đang nghỉ giấc trưa, lại giống như đang hút nước tắm rửa vào buổi sáng sớm, ở nó toát lên một vẻ khoan khoái nhẹ nhàng khó tả. Voi trắng, suối nước, rừng cây, kết hợp với nhau một cách hài hòa, hoàn toàn tự nhiên. Cảm ngộ phát xuất tự nội tâm Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng trở nên rõ rêt. Cảnh giới này, thật tự do tự tại, vô ưu vô lự biết bao!
Chợt nghe Merkin lẩm bẩm đọc: "Độc bộ thiên hạ, tâm ta sách trong, không cầu không dục, như voi trong rừng!"
Trác Mộc Cường Ba tức thì đốn ngộ trong khoảnh khắc, đúng vậy, chính là thứ cảm giác này, một mình sải bước giữa đất trời, không cầu không dục, con voi trắng và nơi này, tạo thành một không gian khiến người ta không còn ham muốn, không còn sở cầu gì nữa. Cảm giác nâng chén đứng trước gió, vinh nhục thấy đều quên, hẳn cũng chỉ như vậy mà thôi, thậm chí dường như cảnh giới ở đây còn cao hơn một bậc. Trác Mộc Cường Ba hơi ngạc nhiên nhìn Merkin, gã thực không thể ngờ, Merkin cũng đạt đến cảnh giới này, một lời đã chỉ ra được.
“Đây là một câu kệ trong Nam Truyền Ngũ Bộ kinh bằng tiếng Pali
(17)
, Merkin bị Trác Mộc Cường Ba nhìn như vậy cũng thấy ngượng ngùng, bèn giải thích: “Voi là thánh vật trong Phật giáo, trước nay vẫn được coi là thần thú có đại pháp lực và đại từ bi, chúng có thể hình to lớn, không dễ bị các sinh vật khác làm thương tổn, cũng không bao giờ chủ động làm tổn thương các sinh vật khác. Ngoại trừ con người, voi không có thiên địch, một mình một cõi trong chốn rừng sâu. Voi là loài động vật đầu tiên có tư cách ấy!”
Cách giải thích này của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ chấp nhận được phần đầu, còn câu cuối cùng lại cho rằng y đã lý giải hơi lệch lạc. Gã cũng nhớ lại một câu trong Đại Tạng kinh: "Tốt hơn sống độc hành, hơn chung bước bạn xấu, một mình không ác hạnh, sống tự tại thong dong, như voi giữa rừng già.”
(18)
Nghĩ đoạn gã bèn nói: “Voi có uy lực vô biên mà tính cách lại ôn hò, khi làm tọa kỵ cho Bồ tát, voi tượng trưng cho pháp thân có thể gánh vác trách nhiệm, khi làm hóa thân của Bồ tát, voi tượng trưng cho đại từ bi và đại thế lực. Phật có tám mươi tướng lành, tiến bước và dừng lại như Tượng vương, bước đi như Hạc vương, dung mạo như Sư tử vương, vô lậu vô nhiễm, tựa như thân voi trắng ngần tinh khiết. Sáu ngà biểu thị cho lục độ: bố thí, giữ giới, ẩn nhẫn, thiền định, tinh tiến, trí tuệ. Người nào có được lục độ, thời có thể vượt qua biển sinh tử, đến được bờ vĩnh sinh bất từ; đồng thời cũng chỉ sáu loại thần thông siêu độ nhân gian của Bồ tát.”
Merkin không hứng thú lắm với những thứ thuộc về kinh kệ đó, y hướng ánh mắt lên chiếc mũ miện đội trên đầu con voi trắng. Bên trên chiếc mũ miện đó khảm vàng dát bạc, châu ngọc bảo thạch gắn chi chít, viên nhỏ như trứng cút, viên lớn phải to bằng quả trứng gà. Merkin đã quen nhìn vàng bạc châu báu, vậy mà vừa liếc thấy chiếc mũ miện này, đã không thể rời được ánh mắt đi đâu được nữa.
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba cũng rời khỏi thân voi, dịch chuyển xuống dòng nước lặng lẽ phía trước. Nước suối sáng như gương, dòng chảy chậm rãi như dải lụa, chỉ gờn gợn lên một chút như nếp nhăn trên mặt. Lần ngược lên nguồn, Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nhận ra, dòng suối nông không ngờ lại chảy từ gốc cây thần kia ra.
Lúc này, do khoảng cách quá gần, thân cây thần đã không còn giống như thân cây nữa, mà giống một bức tường hơn. Bề mặt của thân cây, song hình dáng lại giống như tường, muốn đi vòng quanh bức tường này e phải mất mấy trăm bước. Lại gần nhìn kỹ hơn nữa, sẽ phát hiện ra, các cục u, các đốt cây, những chỗ gồ ghề lồi lõm trên thân cây, đều là các sinh vật khác nhau do người xưa điêu khắc, ngoài ra con có cả thần tiên chư Phật nữa. Họ hòa lẫn vào các đường vân trên vỏ cây, nhìn lướt qua sẽ thấy Phi Thiên hiện hình, nét mặt mỗi vị mỗi khác, nhưng nếu chăm chú nhìn, trước mắt sẽ chỉ thấy thân cây mà thôi.
Trác Mộc Cường Ba đi một vòng quanh thân cây, rốt cuộc cũng nhận ra chỗ ảo diệu của cây thần này. Khi nhìn lên thân cây, không thể tập trung vào một điểm, mà phải phóng mắt nhìn toàn thể, để tầm nhìn rộng mở, các vị thần Phật sẽ tự hiện lên trong chốn mông lung mờ ảo, cứ quan sát như vậy một lúc, những hình điêu khắc thần Phật và các loại sinh vật sẽ càng lúc càng trở nên rõ ràng, tựa như sống lại giữa chốn hư không, người quan sát cũng có cảm giác như thể mình đang ở giữa khung cảnh đó vậy. Nếu chớp mắt, hoặc tập trung tinh thần, những hình ảnh thần Phật và muông thú ấy sẽ lại đột nhiên biến mất, lẩn khuất vào trong thân cây.
Dòng suối trong vắt ấy chảy ra từ ngọn cây thần, nơi cành lá um tùm rậm rạp. Tổng cộng có bốn mạch suối, người xưa đã khoét bốn rãnh ngầm hình xoáy ốc trên thân cây, chĩa ra làm bốn hướng, cắt ngang cắt đọc toàn bộ đại sảnh. Hay là... những dòng nước này tạo thành một hình chữ vạn ngược khổng lồ? Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể suy đoán. Bốn đường rãnh ngầm này giống như bốn dòng sông chảy qua cây thần, hai bên bờ là đủ loại sinh vật ẩn hình. Kỳ quái nhất là những sinh vật ẩn hình này, người xưa không chỉ điêu khắc một loại hình thái duy nhất, mà đa số đều biểu thị bằng ba hình thái: sinh ra, lớn lên và già đi. Men theo dòng nước từ trên xuống, hình thái của các sinh vật càng lúc càng phức tạp Còn những hình khác thần Phật lại ở xa dòng nước hơn một chút, như thể lơ lửng giữa chốn hư không, lặng lẽ quan sát quá trình sinh lão bệnh tử của tất thảy sinh vật trên đời vậy. Có tượng trầm tư, có tượng hờ hững, có tượng thiền định, có tượng mỉm cười, hình thái đều rất phức tạp đa dạng.
Trác Mộc Cường Ba đến giờ vẫn chưa hiểu được ảo nghĩa của Mật tông, dĩ nhiên cũng không thể lý giải được hàm nghĩa mà những hình ảnh thoạt ẩn thoạt hiện này biểu đạt. Gã chỉ cảm thấy hết sức huyền diệu, không sao diễn tả được bằng lời.
Hai người đều tĩnh tâm ngẫm nghĩ về những gì trông thấy, đều chìm vào cảnh giới vô nhân vô ngã
(19)
, thậm chí quên cả sự tồn tại của thời gian, không biết bao lâu sau, một âm thanh đột nhiên bật lên từ tận sâu đáy lòng Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba, giờ không phải lúc mày mê đắm với kỹ nghệ tinh xảo của người xưa, việc quan trọng trước mắt là tìm thấy Pháp sư, Cánh Nam và Mẫn Mẫn!”
Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, lập tức không còn cảm giác ngờ ngợ như ngộ ra được điều gì đó nữa, nhìn lại gian đại điện, thấy hùng vĩ thì hùng vĩ thật đấy, song đã không thể đưa tinh thần gã vào thế giới cảm quan thần hồn phiêu diêu được nữa. Đây có phải nơi pháp sư Á La muốn tìm kiếm hay không nhỉ?
“Ông nói xem, chỗ nãy có phải là đại diện trung tâm của Bạc Ba La thần miếu không nhỉ?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.
Merkin lập tức phủ định: "Sao có thể được! Dù là thần thoại truyền thuyết hay ghi chép trong lịch sử, hoặc chỉ là chúng ta nghiên cứu suy luận ra, trong thần miếu phải chất đống như núi đủ thứ báu vật tuyệt thế, càng không cần nhắc đến những món vàng bạc châu báu thông thường, nhưng đây là thứ quái gì chứ?” Tuy châu ngọc gắn trên mình con voi trắng đều rất lớn, lại không chút tì vết, nhưng dù sao cũng là khoáng vật tự nhiên, chỉ được con người gia công mài giũa thêm một chút, so với những thứ báu vật trong long Merkin mơ tưởng vẫn còn kém xa. Vả lại, con voi trắng kia uy nghi tự tại, các thứ châu ngọc và tượng voi đã dung hợp thành một thể thống nhất, chỉ cần bong ra một viên thôi cũng đã khiến con voi trắng này có tì vết rồi. Merkin không muốn mà cũng không dám đụng vào những viên đá có sức hấp dẫn mê người ấy. Ngoài ra, đối với Merkin, đại điện này chỉ có một rừng cây rậm rạp, mà lại còn là đồ giả nữa.
Trác Mộc Cường Ba chau mày, lấy làm lạ tại sao Merkin không cảm nhận được sự huyền diệu của nơi này? Lẽ nào y không cảm thấy thần hồn phiêu diêu đặng như thoát ra khỏi thân thể giống gã? Nghxi đoạn, gã bèn hỏi: “Nếu nơi này không phải đại điện trung tâm,vậy còn nơi nào khác nữa ư?”
Merkin gật đầu, Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Vậy chúng ta phải tìm lối ra thôi, chắc chắn có cửa thông sang nơi khác nữa.”
Merkin thoáng do dự, nhưng rốt cuộc vẫn gật đầu nói: “Được.”
Mặc dù không trực tiếp nắm bắt được ý cảnh siêu phàm ấy, song Merkin cũng lờ mờ có chút cảm giác. Khi đứng dưới cây thần và tượng voi trắng, y chỉ thấy trời đất bao la, vạn vật nhỏ bé, dòng không khí lưu động chừng như hóa thành thực thể, từ đó cũng nảy sinh một tâm trạng khó tả, chỉ là cảm giác ấy của y không được rõ ràng như Trác Mộc Cường Ba mà thôi. Sợ rằng ngay cả pháp sư Á la và Lữ Cánh Nam cũng không ngờ được, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy, Trác Mộc Cường Ba lại có thể tự lĩnh ngộ được quá trình xuất thế và nhập thế.
Có rất nhiều chuyện, nói dễ hơn làm rất nhiều. Hai người rốt cuộc cũng đạt được sự đồng thuận, bắt đầu tìm kiếm lối ra khỏi rừng rậm bên trong đại sảnh dường như không có cạm bẫy này. Thế nhưng, vừa bắt đầu tìm kiếm, cơ quan liền lập tức hiện ra.
Hai người nhanh chóng phát hiện, dù họ đi thế nào thì cũng chỉ vòng vèo trong đại điện hoặc có thể nói là trong khu rừng này. Những cây cối bố trí so le nhau, ngăn cản tầm nhìn của họ, khiến hai người chỉ có thể quan sát được khoảng một hai chục mét phía trước. Họ vòng qua những thân cây lớn ấy, tự nhủ rằng mình đang đi theo đường thẳng, song dù đi thế nào, cuối cùng nhất định vẫn trở lại phía trước thân cây thần và tượng con voi trắng kia.
Merkin bắt đầu cáu tiết. Họ đã đánh dấu lên thân cây, song vẫn không thấy hiệu quả. Y định lấy lựu đạn ra cho nổ tung đám cây cối này lên, nhưng Trác Mộc Cường Ba đã ngăn lại: “Đừng lặp lại sai lầm, chúng ta không rõ tình hình ở đây, ông mà cho nổ, có trời mới biết sẽ dẫn dộng cơ quan cạm bẫy gì nữa.”
Merkin nổi giận gầm lên: “Tôi không tin, chẳng lẽ mấy cái cây này biết chuyển động? Dù là mê cung thì cũng có quy tắc tay phải chứ!”
Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm nghĩ ngợi, những thân cây lớn này và mặt sàn dưới chân họ là một thể, được điêu khắc từ nham thạch thiên nhiên, hai đầu trên dưới đều mọc rễ, chắc chắn không thể chuyển động được. Vấn đề mấu chốt là ở vị trí của những thân cây này, thoạt nhìn tưởng chừng như đi thế nào cũng có đường thênh thang rộng mở, song trên thực tế những cái cây này có lớn có nhỏ. muốn tiến lên nhất định phải đi vòng vèo qua các thân cây. Kỳ diệu nhất chính là, bọn họ đi kiểu gì thì cũng vòng một vòng trong rừng, cuối cùng lại trở về. Thêm vào đó, thân cây đều có hình trụ tròn, quy tắc tay phải trong mê cung căn bản không thể áp dụng ở đây được.
Mới đầu họ còn gửi gắm hy vọng vào bốn dòng chảy kia. Không ngờ mấy dòng nước đó chảy được nửa chừng liền lặn xuống đi ngầm dưới đất, không thấy bóng dáng đâu nữa. Merkin tự tin thính lực hơn người, liền dẫn đường theo tiếng động, khi nghe tiếng nước chảy thay đổi, y mừng ra mặt thốt lên: “Ra rồi!”, rồi ngước mắt nhìn lên, liền trông thấy cây thần uy nghi hùng vĩ, voi trắng ung dung tự tại lù lù trước mắt. Trác Mộc Cường Ba cũng chán chẳng buồn nói câu nào nữa.
Sau mấy vòng, Trác Mộc Cường Ba đề nghị nghỉ ngơi giây lát, đằng nào thì đi kiểu gì cũng vẫn trở lại dưới gốc cây thần này, tại sao không thử tìm đầu mối ở xung quanh đây xem, hà tất phải đi bừa trong rừng như thầy bói xem voi cho mất công. Merkin vui vẻ đồng tình, bắt đầu tìm kiếm manh mối xung quanh cây thần và tuợng voi trắng, tìm một hồi cũng không phát hiện được gì cả, một chữ hay ký hiệu để lại cũng không. Trác Mộc Cường Ba lại nói cho y biết cách làm cho hình ảnh thần Phật điêu khắc ẩn trên thân cây hiện hình, rồi chia nhau tìm kiếm đầu mối trên những hình ảnh phiêu hốt bất định đó. Hai người nhìn đến hoa mắt, cũng nhận ra được khá nhiều chủng loại sinh vật và tên các vị thần Phật, song đầu mối thì vẫn chẳng thấy đâu.
Merkin không khỏi cằn nhằn oán trách: “Không phải đến chỗ nào cũng có vài lời của người xưa để lại à? Ở đây sao không thấy có?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Những chỗ người xưa để lại lời cảnh báo đều là chốn hiểm nguy tột cùng, thà không có còn hơn.”
Merkin nói: “Tuy là hiểm nguy tột cùng, nhưng ít nhất chúng ta cũng dựa vào những lời đó mà suy đoán ra được một chút ý đồ của họ, còn thế này là thế nào? Chẳng lẽ bảo chúng ta ở đây mãi với con voi này à?”
“Voi trắng!” Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra điều gì đó, câu nói “nếu cậu muốn có thứ gì, cậu mới tìm thấy được thứ ấy.” của đội trưởng Hồ Dương chợt lóe lên trong óc gã. Gã bất giác hồi tưởng lại những phần liên quan đến voi trắng trong các tư liệu về Mật tông mấy năm nay gã và mọi người thu thập được, phần nào không nhớ ra nổi, gã liền mở máy tính của giáo sư Phương Tân ra tìm. Thập lực hương tượng
(20)
? Bạch tượng bồ tát? Hương tượng độ hà
(21)
? Thần trí tuệ của Ấn Độ giáo? Long tượng
(22)
? Cuồng tượng? Tượng chủ? Từng đoạn thông tin hiện lên trên màn hình máy tính, rồi lần lượt bị Trác Mộc Cường Ba loại bỏ, thình lình, một đoạn thông tin về Tượng vương đập vào mắt gã. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra lại rồi cả mừng reo lên: “Thì ra là vậy, tìm được đường rồi!”
Merkin vốn không hiểu ngữ nghĩa tiếng Trung cho lắm, đối với các thuật ngữ của Phật gia, Đạo gia lại càng dốt đặc cán mai, vội vàng hỏi gã: “Đường ở đâu vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đường ở dưới chân.”
Merkinc có cảm giác mình đang bị bỡn cợt, mặt hầm hầm tức giận, nhưng ngay sau đó Trác Mộc Cường Ba đã giải thích: “Trong Kinh Nghiêm hoa có một câu rằng ‘Tượng vương hành xứ hoa lạc hồng’
(23)
, chúng ta đã bỏ qua mất những bông hoa đỏ kia, ông nhìn phía sau lưng voi trắng xem.”
Merkin nhìn về phía đó, trên thảm cỏ hoa trắng hoa đỏ đan xen điểm xuyết, chỗ nào cũng có, thoạt nhìn chẳng có gì khác biệt, nhưng nếu nhìn kỹ lại sẽ thấy, ở sau lưng voi trắng, một số hoa đỏ dường như ghép lại thành hình hoa sen, từng đóa từng đóa, khoảng cách vừa khéo khớp với bước chân voi. Nếu Trác Mộc Cường Ba không nhắc, chẳng ai có thể nghĩ những bông hoa đỏ này lại có gì khác vớ những bông hoa đỏ khác ở quanh chúng cả.
“Thần đi tới đâu, mỗi bước đều có sen nở dưới chân.” Trác Mộc Cường Ba nói, "chính là đây rồi."
Hai người cẩn thận lần ngược theo những bông sen ấy, chỉ thấy từng đốm hoa đỏ khi ở bên trái, lúc lại ở bên phải, lúc thì theo hình chữ chi
(24)
, lúc lại quay ngoắt gần một trăm tám mươi độ, không lâu sau, rốt cuộc họ cũng ra khỏi khu rừng. Hai người đều ngấm ngầm lấy làm lạ.
Lúc này, trước mắt hợ, thảm cỏ đã biến mất, trên nền nham thạch xuất hiện một bàn cờ. Không phải là mặt đất nứt nẻ, rãnh ngang rãnh dọc như bàn cờ, mà là một bàn cờ khổng lồ thực sự. Trác Mộc Cường Ba và Merkin dùng bước chân ước lượng, bàn cờ này mỗi bên dài khoảng trăm bước, quân cờ sừng sững bên trên, nhưng chưa được điêu khắc, toàn là những hình khối lập phương mỗi cạnh dài chừng một mét. Bốn mặt dựng đứng của mỗi khối lập phương này đều có khắc ký hiệu biểu thị thân phận của chúng trên bàn cờ. Hai mặt phía trên và phía dưới cũng có ký hiệu tương đồng, chỉ khác là không đục lõm vào, mà lại chạm nổi gồ lên.
Hai người không biết bàn cờ khổng lồ này nằm ở đây để làm gì, bèn vòng qua tìm cửa. Cánh cửa lớn đó nằm ở ngay sau bàn cờ, đóng kín tựa như một bông sen đang khép, nhưng nhìn đường trượt ở hai bên cánh cửa và các cánh hoa sen, hiển nhiên cánh cửa này có thể mở ra được. Hai bên cửa vẫn là câu "một người trí tuệ tuyệt luân, một người thân thủ tuyệt thế” kia, nhưng lại thiếu mất câu đầu. Bên dưới hai hàng chữ ấy là một câu kệ khác.
Câu ở bên dưới hàng “một người trí tuệ tuyệt luân” được Trác Mộc Cường Ba dịch ra thành “mười loại thông minh”, còn câu bên dưới "một người thân thủ tuyệt thế” là “mười con voi lớn”. Sau đó, hai người đối chiếu với thông tin trên máy tính, mới hiểu ra, đó lần lượt là “thần chỉ thập lực” và “tượng chi thập lực” trong tôn giáo.
“Thần chi thập lục” là mười loại trí tuệ thần lực của Như Lai, gồm: biết cổ kim, hành vi không có sai sót, biết số mệnh, biết hết thảy mọi thứ trên đời..., còn “tượng chi thập lực” hẳn là chỉ sức mạnh của mười con voi, tượng trưng cho sự uy mãnh vô song. lần này, tư duy cả hai đều hết sức nhạy bén, không hẹn mà cùng thốt lên: “Bàn cờ kia có liên quan gì không?”
Hai người liền quay lại xem xét, chỉ thấy những đường ngang dọc trên bàn cờ đều thấp hơn mặt đất chừng mười xăng ti mét, cơ hồ có rãnh kim loại. ở một số chỗ các đường ngang dọc cắt nhau, còn có một khay kim loại hình tròn, xem chừng có thể chuyển động được. Trên khay tròn có ký hiệu được chạm lõm vào. Merkin vừa liếc nhìn những khay kim loại hình tròn ấy liền lập tức hiểu ra, lẩm bẩm: “Thì ra là vậy!”
Trác Mộc Cường Ba chư từng gặp loại cơ quan này bao giờ, vội hỏi: "Ông biết loại cơ quan này à?"
Merkin không đáp mà hỏi ngược lại: “Anh... đã bao giờ chơi trò đẩy thùng bao giờ chưa? Trò chơi điện tử ấy.”
“Đẩy thùng?” Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, rồi ngập ngừng nói, “ý ông là, cái trò trong điện thoại di động ấy hả?”
“Đúng, đúng.” Merkin gật đầu.
“Sao có thể
được? Từ xưa người ta đã chơi trò ấy rồi à?” Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó tin.
Merkin nói: “Tuy đẩy thùng là phần mềm trò chơi do người Nhật lập trình ra, nhưng anh có biết phần mềm này lấy cảm hứng từ đâu không? Nó là sự kết hợp của trò ‘Hoa Dung Đạo’
(25)
của Trung Quốc với một số trò chơi cổ khác. Mà trò ‘Hoa Dung đạo’ ấy, là một biến thể của Suy diễn Cửu Cung rồi. Chó chết, chẳng trách lại yêu cầu cái gì mà thập thần chi lực với cả thập tượng chi lực.”
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại, Lữ Cánh Nam đúng là đã từng nhắc đến sách Cửu Cung Suy diễn thời Đường, nhưng lúc đó cô cũng nói, vì Suy diễn Cửu Cung quá phức tạp, nên chỉ thịnh hành một thời gian rồi dần thất truyền. Hiện giờ, dựa vào sách vở điển tịch chưa thể hoàn nguyên được Suy diễn Cửu Cung. Đồng thời, các nhà khảo cổ học Trung Quốc đến nay cũng chưa phát hiện được hiện vật nào có giá trị tham chiếu, nên vẫn chưa thể khảo chứng.
Merkin giải thích qua loa cho Trác Mộc Cường Ba "Những khay kim loại trên các giao điểm này có thể chuyển động, nhưng chúng nằm ngang với rãnh kim loại, mà bên trong lại khắc lõm xuống, đường khắc trơn tuột, với sức hai tay của chúng ta, thực sự không thể nào chuyển động được các khay tròn này vì không dồn sức xuống được. Còn các hình lập phương kia, phần gồ ra ở mặt trên và mặt dưới..."
Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, bèn tiếp lời: “Phần gồ lên vừa khéo khớp với phần đục lõm trên mặt khay tròn, cũng có nghĩa là, chỉ cần chúng ta đẩy những khối lập phương này lên trên khay tròn, liền giống như dùng chìa khóa tra vào lỗ khóa vậy. Chúng ta chuyển động các khối lập phương, cũng bằng như chuyển động khay tròn! Thì ra đây chính là Suy diễn Cửu Cung!”
Merkin bổ sung thêm: "Làm gì có chuyện đơn giản như vậy chứ! Anh nhìn cho rõ đi, ký hiệu trên mỗi khay tròn đều khác nhau, một khay chỉ có thể khớp với một khối lập phương mà thôi. Một khi khối lập phương khớp vào trên khay tròn, nó sẽ chặn những đường rãnh cắt nhau trên bàn này lại, các khối lập phương ở phía sau cũng không thể đi qua điểm này được nữa. Đây mới chính là tinh yếu của Suy diễn Cửu Cung. Anh cần phải tính toán kỹ càng trước khi dịch chuyển những khối lập phương này, khối nào đẩy trước, khối nào đẩy sau, chỉ cần sai một bước thôi là phiền phức to rồi. Nếu may mắn, có thể chỉ bít kín 1ối đi này, nếu xúi quẩy, có thể sẽ khiến các cơ quan cạm bẫy khác khởi động cũng không chừng."
Trác Mộc Cường Ba hiểu ra, chẳng trách Merkin lại nói cơ quan này giống trò chơi đẩy hòm, quả đúng là như vậy.
Merkin lại tiếp lời: “Ở đây bao hàm lý luận về số đối chiếu trong tô pô học, đồng thời cũng chứa cả thuật vu hồi trong trò chơi Hoa Dung đạo, anh coi nó như phiên bản nâng cao của trò đẩy hòm và Hoa Dung đạo là thấy dễ hiểu ngay thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi hiểu rồi, chỉ là bàn cờ này lớn như vậy, chúng ta sao có thể nhìn được toàn cảnh, không nhìn được toàn cảnh thì biết bắt đầu từ đâu đây?”
Merkin chỉ vào cánh cửa như nụ sen chưa nở kia nói: "Chúng ta leo lên cánh cửa đó là nhìn được toàn cảnh thôi. Nhưng điều tôi lo là, dù nhìn được toàn cảnh, sợ rằng cũng khó lòng suy diễn ra được. Chính vì quá phức tạp nên suy diễn Cửu Cung chỉ thịnh hành một thời gian rồi sau đó thất truyền."
"Vậy sao ông lại khẳng định đây bàn cờ này phải áp dụng Suy diễn Cửu Cung mới giải được?"
"Ừm, chuyện này... chúng tôi từng gặp thứ tương tự trong một ngôi mộ cổ thời Đường.” Merkin vò vò mái tóc vàng, bộ dạng không được tự nhiên lắm: "Có điều, lần đó hết sức đơn giản, dù có năm sáu toán tử cần suy diễn, ừm, những khối lập phương kia gọi là toán tử, tạo hình của các toán tử mỗi nơi mỗi khác, nếu không tôi đã nhận ra ngay từ đầu rồi. Anh xem bàn cờ này đi, sợ rằng phải có đến mấy chục toán tử cần suy diễn ấy chứ, không khéo lên đến hàng trăm, dù chúng ta tính toán đến bạc đầu cũng chưa chắc ra được kết quả đâu."
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát. rồi nói: "Không ngại, chúng ta cứ trèo lên xem sao, nói không chừng lại rất đơn giản cũng nên." Dứt lời. gã vỗ vỗ lên ba lô, nói: "Dù chúng ta không tính toán ra được, thì vẫn còn máy tính mà."
BÁT TRƯỜNG AN VÀ VẠN PHẬT CÁC
Người trẻ tuổi lấy chiếc PDA ra, liếc nhìn chấm đỏ trên đó, “Có tín hiệu rồi, hả? Ở phía dưới chúng ta à? Hai tên này cũng nhanh thật. Không được, còn một số thứ vẫn chưa sắp xếp xong, phải nhanh lên vượt trước chúng mới được” Y thầm nghĩ, rồi rảo chân bước nhanh hơn.
Đi hết vòng này đến vòng khác, qua vô số cánh cửa và cửa sổ, người trẻ tuổi dẫn cả nhóm người đến đầu bên kia đại điện, một đường hầm hình tròn rộng rãi hiện ra trước mắt họ. Bên trong đường hầm tối om như mực, không biết là thông đến đâu.
Đi được một đoạn, đường hầm hoàn toàn đen kịt, đèn gắn trên mũ của bọn lính đánh thuê chỉ có thể chiếu sáng khoảng một hai mét trước mặt. Khafu đề nghị: “Hay là, bật đèn pha công suất lớn lên, ngài Thomas?”
“Không cần,” người trẻ tuổi cười khẩy, giơ tay lên vỗ vỗ hai cái. Lữ Cánh Nam ở sau lưng y, cảm giác âm thanh qua lớp bao tay không giống người đang vỗ tay, mà như thể một người đang đập bàn tay vào cọc gỗ vậy. Có điều, mỗi nghi hoặc của cô không có căn cứ gì cả, Lữ Cánh Nam nhanh chóng bị sự việc xảy ra sau đó làm cho sững sờ, nên cũng không nghĩ sâu hơn về vấn đề này.
Sau hai tiếng vỗ tay ấy, toàn bộ đường hầm bừng sáng như đã được lắp sẵn vô số ngọn đèn điều khiển bằng âm thanh vậy. Xung quanh họ, dường như có rất nhiều đèn neon uốn thành hình tròn. Không phải, chúng không sáng lên từng ngọn từng ngọn một, mà là từng đám từng đám như ngọn lửa, nhanh chóng lan xa.
Cả đường hầm lập tức nhuộm đầy ánh sáng rực rỡ đủ màu, hồng rực đỏ, xanh huỳnh quang, lam bảo thạch, ... từng vòng từng vòng sáng lan ra, nhấp nháy đây đó tựa ngàn sao trên bầu trời đêm, hay như mặt nước gợn sóng lăn tăn hắt lên ánh sáng lấp lóa.
Ánh sáng lan đến đâu, chỗ ấy liền vang lên tiếng trầm trồ kinh ngạc của bọn lính đánh thuê.
Khafu thở hắt ra đầy cảm thán: “Kỹ thuật thần kỳ thật, làm như thế nào vậy?” Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La cũng cảm thấy rất tò mò.
Người trẻ tuổi cười khẩy đáp: “Nói toạc ra thì chẳng đáng một xu nữa, cổ nhân đã nuôi dưỡng ở chỗ này một lượng rất lớn các vi sinh vật phát ra ánh sáng huỳnh quang, giống như thứ rong trong hồ nước kia vậy. Những vi sinh vật này khi chịu tác động của âm thanh, sẽ phát ra ánh sáng. Phỏng chừng hơn nghìn năm nay, những vi sinh vật này đã sinh sôi nảy nở rất nhiều, quả không hổ là kỹ thuật nuôi dưỡng sinh vật lợi hại nhất.” Vừa nói, y vừa thầm so sánh với năng lực của chính mình, lòng cũng không khỏi khâm phục trí tuệ và kỹ thuật của cổ nhân một nghìn năm về trước.
Mặc dù người trẻ tuổi đã nói vậy, song những người có mặt trong đường hầm vẫn trầm trồ kinh ngạc. Ánh sáng thần kỳ ấy tựa như một dòng điện lưu nhìn thấy được, lan truyền đi theo hình sóng, lại giống như kỹ thuật nhuộm màu trong tranh quốc họa
(26)
, khuếch tán ra bốn phía xung quanh. Một đợt sóng ùa tới, những màu sắc biến ảo qua đi, lại thêm một đợt sóng nữa, những màu sắc biến ảo khác cấp tập đuổi theo nhau. Bất giác, tất cả mọi người đều có chung một cảm giác đường hầm càng lúc càng rộng rãi ra. Bọn họ giống như đang men theo một đường xoáy trôn ốc từ bên trong vỏ ốc đi ra thế giới rộng lớn bên ngoài vậy.
Phía trước đã thấy có ánh sáng, những cái bóng so le vạch ra đường ranh giới nơi ánh sáng và bóng tối giao nhau.
Ánh sáng rất mạnh, tựa như mặt trời ban trưa chiếu thẳng vào cửa sổ. Người trẻ tuổi thầm ngạc nhiên, tự nhủ: “Sao có thể lấy được ánh sáng tốt vậy nhỉ?” Mặc dù tài liệu y sở hữu đã miêu tả khá nhiều, nhưng xét cho cùng, đây cũng là lần đầu tiên y tận mắt chứng kiến. Rất nhanh sau đó, y liền phát hiện ra, con đường dưới chân họ không phải là bề mặt nham thạch thô ráp xù xì nữa, mà thay vào đó là mặt đường trơn nhẵn phẳng lì như gương, lại hơi ẩm ướt. Hiển nhiên, người xưa đã đổ lên bề mặt nham thạch một lớp gì đó kiểu như sáp nến chẳng hạn.
“Đây có lẽ là một loại pha lê phản quang rất mạnh.” Người trẻ tuổi thầm nhủ, quả nhiên, vòng qua một chỗ rẽ, tuy không thấy nguồn sáng, nhưng cả đường hầm đã được chiếu sáng rõ như ban ngày.
Chỉ thoáng sau, mọi người liền phát hiện ra một chuyện kỳ quái. Ở hai bên đường hầm bắt đầu xuất hiện một số vật bày biện, có bình, có ấm, có bát, …, nhưng điều khiến người ta kinh ngạc là những thứ này toàn bộ đều lơ lửng giữa không trung, giống như bị ai dùng ma thuật ếm lên vậy.
Vài tên lính đánh thuê tò mò bước tới gần, định bụng xem cho rõ rốt cuộc là thứ ma thuật gì, nhưng mới đi được vài bước, đã nghe bọn chúng “a” lên một tiếng, dường như đụng phải một bức tường vô hình, tên nào tên nấy đưa tay lên ôm chặt mũi, có tên còn đau đến nỗi ngồi thụp cả xuống.
Lúc này, cả bọn mới phát hiện ra, các vật bày trên đó được đặt trên những kệ pha lê trong suốt. Những cái kệ này gần như lẫn vào không khí, nếu không lại gần nhìn thật kỹ thì chịu không tài nào phân biệt nổi. Liền sau đó, họ lại phát hiện, những chiếc kệ này gắn liền với mặt đất, mà không chỉ mặt đất, toàn bộ đường hầm này đều bị phủ lên một lớp vật chất giống như pha lê vậy. Ánh sáng, chính là được khúc xạ vào đường hầm thông qua thứ vật chất này.
Một tên lính đánh thuê dính đòn đau muốn trút giận lên cái bát khiến hắn bị thương ấy, giơ báng súng lên định phang, song giữa chừng lại bị ngăn lại. Pháp sư Á La đã vươn cánh tay khẳng khiu của ông ra đỡ lấy báng súng ấy.
Người trẻ tuổi đứng bên cạnh cầm cái bát trắng lên nói với tên lính đánh thuê định đập phá để trút giận ấy: “Mày có biết đập một cái thế này là đốt mất bao nhiêu tiền không?”
“Hả! Thứ này cũng đáng tiền sao?” Tên lính đánh thuê vốn không hiểu gì về đồ sứ, huống hồ cái bát sứ này chỉ trắng tuyền một màu, bên trên thậm chí còn chẳng vẽ bông hoa nào, mà cũng không đẹp cho lắm, tùy tiện mua một cái trên phố trông còn đẹp hơn.
“Hừ!” Người trẻ tuổi ngắm nghía cái bát trên tay, tựa như trong lòng bát có thể nở ra một đóa hoa vậy. Chỉ nghe miệng y khẽ lẩm bẩm đọc: “Mỏng như cánh ve nhẹ như lông hồng, chưa được Phật quang lẫn mộng phù sinh. Công nghệ thần kỳ này còn cao hơn cả công nghệ đồ sứ mỏng như giấy trong truyền thuyết một cảnh giới. Để tao mở mắt cho chúng mày vậy! Mang đèn lại đây!”
Một tên lính đánh thuê giơ chiếc đèn gắn trên mũ tới, người trẻ tuổi để cái bát lên ngọn đèn. Sau một tiếng “cách”, sự lạ liền xảy ra. Cái bát trắng ấy giống như một chiếc chụp đèn thủy tinh màu trắng sữa, ánh đèn hoàn toàn chiếu xuyên qua nó, không chỉ nhìn rõ được hình dáng bóng đèn bên trong, mà cả dây điện dưới bóng đèn cũng hiện lên rõ mồn một. Đó rõ ràng là một cái bát sứ kia mà.
Người trẻ tuổi cười khẩy nói: “Thấy chưa hả, kỹ thuật thấu quang này là tuyệt kỹ của lò gốm Hình Châu thời Tùy Đường, đến giai đoạn đầu của thời Đại Đường thịnh thế, kỹ thuật này đã được phát huy đến đỉnh cao, trở thành công nghệ trong truyền thuyết… là thấu quang hắt bóng. Chúng mày tản ra một chút!” Cả bọn liền xôn xao lùi lại, để trống ra một khoảng. Người trẻ tuổi tăng độ sáng của bóng đèn lên, những tiếng “ồ!” kinh ngạc lại đồng loạt vang lên.
Chỉ thấy ở chỗ ánh sáng không mạnh lắm trên vách đường hầm, ánh đèn hắt qua bát sứ trắng để lại trên tường pha lê một hình ảnh tương đối rõ nét khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam tưởng chừng như đang thấy lại hình ảnh của Hương Ba La mật quang bảo giám, chỉ có điều, hình chiếu này là hình đen trắng. Bóng ảnh hắt lên chỗ sáng chỗ tối, lần lượt phơi bày các kiến trúc cổ đại san sát cạnh nhau như bát úp, đường phố thênh thang rộng rãi, hàng quán đẹp đẽ rộn ràng, ngựa xe nườm nượp, nước chảy qua cầu… giống như một bức “Thanh minh thượng hà đồ”
(27)
được tạo thành từ bóng ảnh.
“Đây … ruốt cuộc là…”
“Không thể tin được!”
“Thần kỳ, ma thuật phương Đông!”
Trước những tiếng kêu đầy kinh ngạc ấy, người trẻ tuổi cũng không khỏi cảm khái trong lòng. Mặc dù y biết lai lịch của cái bát này, cũng biết sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng khi mọi thứ diễn ra, sự thực hiển nhiên trước mắt còn hơn cả những gì y tưởng tượng. Y lớn tiếng nói: “Trông thấy chưa hả? Đây chính là trung tâm của thế giới hơn một nghìn năm về trước… Trường An!” Ngừng lại giây lát, y tiếp lời: “Đây là kỹ thuật nung đồ gốm sứ cao nhất toàn thế giới thời bây giờ… Thấu quang hắt bóng. Tao sẽ cho chúng mày xem điều thần kỳ hơn nữa. Mang nước lại đây!”
Một bình nước được đưa tới tay người trẻ tuổi. Y cầm bình nghiêng đi, một dòng nước trong vắt chầm chậm đổ vào đầy bát, rồi dập dềnh tràn ra, phủ lên mặt bát như một lớp sa mỏng. Lúc này, nhìn lại bóng ảnh trên tường, cả bọn mới nhận ra, trên kỳ tích, lại có kỳ tích nữa. Khi nước tràn ra, cũng chính là lúc bóng ảnh trên tường sống dậy. Đột nhiên, toàn bộ bức tranh hắt bóng trên tường đang ở trạng thái tĩnh, tựa như trở mình sống lại. Những người tiểu thương, hàng rong chừng như đang đi dọc phố sá rao hàng; gã hầu bàn mới mở cửa tiệm dường như vừa thò đầu ra, ngó nghiêng quanh quất, một chiếc xe song mã cuối bụi đất lên, băng qua phố lớn; nước sông dưới chân cầu đang cuồn cuộn chảy.
Người trẻ tuổi vừa đổ nước, vừa nhìn cảnh tượng chuyển động, lẩm bẩm: “Công nghệ đã đạt đến tầm ma thuật, ngay cả khoa học kỹ thuật hiện tại cũng không thể phục nguyên tái hiện. Hơn một nghìn năm rồi, đây chính là trí tuệ của tổ tiên các người từ hơn một nghìn năm trước đấy.”
Lữ Cánh Nam quan sát sự thần kỳ của cái bát, rồi lại đưa mắt nhìn vị trí bày biện của nó. Cô cũng biết một số nghi thức tế bái của Mật giáo, bèn khẽ hỏi pháp sư Á La: “Cái bát này, chắc hẳn phải có lai lịch gì đó?”
Pháp sư Á La khẽ lắc đầu, ý bảo nhất thời ông cũng không nghĩ ra được nhiều.
Người trẻ tuổi ngoảnh đầu lại nói: “Khi Văn Thành công chúa vào đất Tạng, có mấy món đồ nàng mang theo không được ghi vào danh sách, các ngươi biết chuyện này chứ.”
Pháp sư Á La biến sắc, ông nhớ ra rồi, khi Văn Thành công chúa vào đất Tạng, có mấy món đồ cực kỳ tinh xảo, đều là vật phẩm tùy thân của nàng, bấy giờ không được ghi vào trong danh sách. Nhưng trong các truyền thuyết, mấy món bảo vật đó lại được miêu tả hết sức tỉ mỉ tận tường, chẳng hạn như có một chiếc Ma kính
(28)
, dọc đường Văn Thành công chúa gặp phải rất nhiều yêu ma quỷ quái cản trở, nàng chỉ cần dùng Ma kính chiếu một cái, đám yêu ma ấy sẽ lập hiện nguyên hình. Thần kỳ hơn nữa là, khi Văn Thành công chúa nhớ nhung người thân, nàng chỉ cần nghiêng tấm gương ấy đón ánh sáng từ các hướng khác nhau, trên tường sẽ hiện ra hình bóng những người thân khác nhau của nàng.
Chỉ nghe người trẻ tuổi ấy lại tiếp lời: “Văn Thành công chúa từ Trường An đến Thổ Phồn, đường đi vừa xa xôi vừa gian khổ, vì sợ nàng nhớ nhung quê hương, nên bấy giờ triều đình đã làm riêng cho nàng mấy món đồ đặc biệt. Ý tứ của mấy món đồ này chính là để khi nàng nhớ quê, có thể lấy ra xem, nhìn lại hình ảnh quê hương.”
Pháp sư Á La giật mình hiểu ra, thốt lên: “Đây chính là bát Trường An.”
Người trẻ tuổi không trả lời, giơ ngón tay chỉ vào mấy tên lính đánh thuê, bảo chúng: “Mày, mày, cả mấy đứa chúng mày, trong mắt các chuyên gia, có mười cái bao tải chứa đầy những thứ như ở trong ba lô chúng mày cũng không bằng một cái bát này đâu.” Nói thì nói vậy, nhưng y vẫn tùy tiện quăng cái bát đi, cơ hồ không nghĩ đến hậu quả, cũng có nghĩa là, trong mắt y, đã không còn để ý đến truyền thống văn hóa và giá trị lịch sử nữa, đồ vật đáng tiền mấy cũng chỉ như không mà thôi. Vậy thì, kẻ này đến Bạc Ba La thần miếu, rốt cuộc là muốn là gì chứ?
Một cái bát nhìn có vẻ tầm thường mà đã giá trị nhường ấy, vậy những thứ đặt trên kệ ngang hàng với nó, chắc chắn cũng không phải vật tầm thường. Người trẻ tuổi vừa quay người đi, bọn lính đánh thuê đã tràn lên quét sạch mấy món đồ còn lại. Có tên không cướp được món nào, đỏ mặt tía tai định xông vào liều mạng. Nhưng Khafu đã lập tức quát lên ngăn lại, bọn lính đánh thuê ồn ào huyên náo một hồi lâu rồi mới từ từ lắng xuống. Bấy giờ, bọn chúng mới nhận ra, người trẻ tuổi và pháp sư Á La đã đi qua chỗ ngoặt tiến vào đại điện.
Ánh sáng bập bùng biến ảo tỏa ra từ phía trung tâm đại điện. Đại điện này khác hẳn với gian trước đó. Gian điện họ vừa đi qua hình vuông, bên trong có vô số đường vòng tròn, còn nơi này lại là một đại điện hình tròn. Cảm giác đầu tiên của người bước vào đây là, chỗ này giống như một cái chụp đèn bằng giấy khổng lồ, hoặc có thể nói là một cái chuông lớn trong đền chùa nào đó, kết cấu dạng tháp, chiều cao lớn hơn đường kính đáy.
Trong đại điện có hai cây cột đá lớn, cao bằng nhau, trông như tim đèn của bóng đèn chân không. Từ đằng xa, cũng có thể thấy rất rõ, chính là hai cây cột này phát ra ánh sáng cực mạnh chiếu rọi toàn bộ đại điện. Ngoài ra, không cần bất cứ nguồn sáng nào khác nữa.
“Đây chính là Vạn Phật điện.” Tuy họ vẫn ở cửa đường hầm, bị ánh sáng mạnh che mất tầm nhìn, không thể nhìn rõ được toàn bộ điện mạo của Vạn Phật điện này, nhưng khí thế hừng hực tỏa ra cũng đủ khiến người ta tưởng tượng ra vô số thứ rồi.
Người trẻ tuổi đưa bàn tay lên che mắt, quan sát nguồn sáng qua các kẽ ngón tay. Chỉ thấy hai cột đá kia tựa như hai cây thông Noel, phân ra rất nhiều nhánh nhỏ, mỗi nhánh nhỏ lại phân ra rất nhiều nhánh con, ở chỏm đầu mỗi nhánh con ấy đều bùng lên một ngọn lửa cháy hừng hực. Không, không phải lửa, ngọn lửa phát ra ánh sáng đỏ, còn thứ đang cháy kia lại phát ra những tia sáng màu trắng bạc. Người trẻ tuổi cẩn thận xem xét một hồi, phát hiện chỗ bùng cháy còn cách đầu mút của nhánh cây nhỏ một khoảng. Tới đây, y đã hiểu được ánh sáng chói mắt ấy là từ đâu. Cổ nhân đã sử dụng kỹ thuật nào đó, làm nhiên liệu bốc hơi thành khí thể, sau đó sử dụng áp lực mạnh phun khí thể ấy ra. Cũng chỉ có chất khí bốc cháy, mới phát ra được ánh sáng chói mắt màu trắng bạc như thế. Hỏa thư ngân hoa
(29)
, dùng cụm từ này để miêu tả cảnh tượng trước mắt cũng thật hợp lý.
Sau khi dần thích ứng với ánh sáng mạnh mẽ ấy, đoàn người cũng bước ra khỏi đường hầm xoáy ốc, tiến vào bên trong gian đại sảnh hình dạng như cái chuông khổng lồ. “Chà chà”, những tiếng kêu kinh ngạc lại lần nữa vang lên dồn dập như nước thủy truyền. Ngoài nguồn sáng màu trắng bạc ở chính giữa, toàn bộ đại điện hình tròn này ánh lên sắc hoàng kim lấp lóa, chính là thứ màu sắc mà người phàm xưa nay vẫn ưa thích nhất.
Không biết người xưa đã đổ vào đại điện này bao nhiêu thứ vật chất dạng pha lê kia nữa, toàn bộ bức tường phủ kín một lớp pha lê trong suốt. Trên bức tường pha lê khảm vô số các khám thờ lớn nhỏ, mỗi khám thờ đặt một pho tượng Phật vàng. Màu sắc sáng rực đó, không thể nào sai được, ngay cả bọn lính đánh thuê không phải dân trong nghề cũng chỉ liếc qua là nhận ra ngay tức khắc, đó tuyệt đối là vàng nguyên chất. Bức tường pha lê trong suốt gần như dung nhập với không khí, nên các pho tượng trông như đang bay lơ lửng trên không vậy. Thoạt nhìn qua tưởng như bọn họ đang ở trong một gian đại điện đầy những pho tượng Phật bằng vàng bay lơ lửng, số lượng nhiều không kể xiết, khiến người ta nhìn mà mắt hoa đầu váng.
Pháp sư Á la ngẩng đầu ngước nhìn, phát hiện ra có đến quá nửa số tượng Phật đặt ở đây ông không nhận ra được, hiển nhiên nơi này không chỉ có tượng phật của Đại Đường và Thổ Phồn, cũng không chỉ có tượng Phật của Ấn Độ. Tạo hình và y phục của một số bức tượng còn có đặc điểm rất rõ rệt của vùng Trung Á, thậm chí là cả Tây Âu nữa.
Pháp sư Á La nhớ lại lịch sử, phải rồi, các tượng Phật ở đây hẳn còn có cả tượng do mấy chục quốc gia nhỏ ở Tây Vực thời bấy giờ thờ cúng. Người xưa không đem thánh vật của các giáo phái dị đoan ấy đi nung chảy đúc lại, mà còn bao dung, bảo lưu lại thánh vật của các tôn giáo khác. Mỗi pho tượng, mỗi vật phẩm, đều là một đoạn lịch sử của dân tộc, là những câu chuyện xưa phủ bụi thời gian.
Người trẻ tuổi cũng đưa mắt nhìn quanh quất, có điều thứ y nhìn không phải những pho tượng Phật bằng vàng ròng tinh xảo đẹp đẽ kia, mà y đang tìm kiếm lối ra và cơ quan cạm bẫy trong đại điện này. Trong tư liệu mà y nắm được, Vạn Phật các này dường như không có cơ quan cạm bẫy nào, chỉ có hai câu khắc trên Luận hồi đài: “ Những kẻ mê đắm trong tham lam, sẽ rơi vào vực sâu vô tận.”
“Đương nhiên, không có cạm bẫy là tốt nhất, nhưng lối ra đặt ở đâu nhỉ? Hay là ở phía sau cột đèn kia?” Người trẻ tuổi đang ngẫm nghĩ, đột nhiên liếc thấy mặt đất dưới chân không dưng nứt toác, chỉ cần bước thêm một bước nữa thôi, y sẽ rơi xuống vực sâu không đáy.
Thân hình người trẻ tuổi đột ngột sững lại, một chân như bị đinh ghim chặt lên mặt đất, bàn chân nhấc lên kia cũng chầm chậm thu về, đồng thời hai cánh tay dang ra, định ngăn cản đám lính đánh thuê ở sau lưng.
Nhưng bọn lính đánh thuê ngay từ đầu đã bị những bức tượng Phật ánh vàng chói lọi kia làm cho hoa mắt, đang ồ ạt ào lên, mặt đất lại trơn nhẵn, nhất thời làm sao có thể thu chân về kịp. Thấy trước mặt mình lù lù hiện ra một hang sâu không đáy đen ngòm, mấy tên đi trước lập tức rú lên thảm thiết.
Sau tiếng rú đó, mấy tên lính đánh thuê lại cảm thấy dường như mình không rơi xuống, ngạc nhiên ngoảnh lại nhìn đồng bọn đang đứng bên rìa vực. Bọn lính đánh thuê đứng bên bờ vực lại càng kinh ngạc hơn, mấy tên lẽ ra phải rơi xuống kia sao cứ ngây thộn mặt ra đứng lơ lửng giữa chừng không, chẳng khác nào những pho tượng Phật trên cao vậy. Cảnh tượng quả thực quái dị hết sức.
Người trẻ tuổi thầm thở phào, thì ra chỉ là lo hão một phen, ngay sau đó, y lại ngấm ngầm tán thưởng. Chơi sang thật, quả nhiên là rất bạo tay. Thì ra, người xưa không chỉ phủ thứ vật chất dạng như pha lê ấy lên bốn vách núi xung quanh, khiến tượng Phật trông như đang lơ lửng giữa chừng không, mà họ còn tạo ra một cái lồng pha lê trong suốt khổng lồ, chèn vào giữa lòng núi, phần đáy của cái lồng ấy, toàn bộ cũng đều bằng thứ pha lê trong suốt như không khí, khiến người ta có cảm giác cả đại điện này đang trôi nổi giữa không trung.
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau cùng lúc nhớ đến Nam Cực miếu ở giữa sông băng và những khe băng ở đó. Xem ra, thông đạo pha lê giữa các khe rãnh ấy không phải do hàn băng đông kết tạo thành mà được tạo ra bởi một công nghệ chế tác của người xưa.
Thấy đồng bọn không rơi xuống, lại có mấy tên khác bạo gan thử bước chân lên, cảm nhận cảm giác đứng lơ lửng giữa không trung. Sau khi người trẻ tuổi kia cũng đặt chân trên lớp pha lê trong suốt, những tên còn lại mới yên tâm tiếp tục cất bước.
Thân thể đứng giữa không trung, mắt ngước nhìn những tượng Phật trang nghiêm lơ lửng xung quanh, cảm giác của mỗi người đều cực kỳ lạ lẫm, tựa như đang đứng trong Đại Lôi Âm tự ở Tây Thiên, chỉ một bước đã lên Tiên giới vậy. Bọn lính đánh thuê hết sức hưng phấn, những pho tượng Phật bằng vàng ròng lấp lánh thoạt nhìn như gần trong gang tấc, chỉ cần vươn tay ra là với được. Trong tiếng hoan hô ầm ĩ, có mấy tên còn nổi hứng chơi trò trượt băng trên mặt sàn trơn bóng. Những tên còn lại đa phần chạy ùa ra chỗ chân tường pha lê trong suốt, nhao nhao lấy dây móc định trèo lên bức tường vô hình lấy xuống vài bức tượng không lớn lắm. Vách tường pha lê trơn nhẵn vô cùng, dây móc không sao bám vào được, thi nhau rơi xuống. Bọn lính đánh thuê vẫn không cam tâm, lại tràn sang một bức tường khác, rốt cuộc cũng có tên móc được vào mép khám thờ, tiếng hoan hô váng động cả đại sảnh. Bọn chúng bị sắc vàng chói lóa làm mê hoặc, sớm đã quên đi tình cảnh gặp phải ở Đại diễn Luân hồi đài rồi.
Thế nhưng, tiếng hoan hô không kéo dài được bao lâu, thoáng sau đó đã nghe trong tiếng reo mừng pha lẫn mấy tiếng rú thảm thiết không được du dương cho lắm.
MÊ CUNG VÔ HÌNH
Mới đầu, tiếng kêu thảm thiết còn hòa lẫn trong tiếng hoan hô, nghe không rõ lắm, nhưng văng vẳng mãi không dứt, lại được gian đại điện hình dạng như chiếc chuông khổng lồ này cộng hưởng, âm thanh càng lúc càng lớn hơn. Tiếng hoan hô nhỏ dần rồi tắt hẳn, nhưng tiếng kêu thảm vẫn lởn vởn bên tại tựa như âm hồn không tan.
Đến khi ai nấy dựng hết cả tóc gáy lên, bọn lính đánh thuê mới chịu an phận một chút. Khafu kiểm tra quân số, thấy thiếu mất ba người. Có điều, trong lúc chen chúc hỗn loạn, không ai trông thấy ba tên đó biến mất như thế nào, đúng là gặp ma giữa ban ngày.
Giữa lúc cả bọn còn đang ngờ vực lẫn nhau, lại có một tên lính đánh thuê đột nhiên khua chân múa tay rơi xuống, giây lát đã biến mất trong bóng tối mịt mùng, chỉ để lại tiếng rú gào thê thảm cứ vẩn vít mãi bên tai những người còn lại.
Bọn lính đánh thuê bắt đầu hoảng loạn, chuyện này là thế nào? Rốt cuộc mình đang giẫm chân lên sàn nhà bằng pha lê trong suốt, hay lơ lửng giữa không trung?
Khafu lớn tiếng ra lệnh cho tất cả bọn lính đánh thuê không được hành động bừa bãi, rồi cùng người trẻ tuổi đi xuống, cẩn thận xem xét mặt sàn trong suốt. Người trẻ tuổi đột nhiên đứng bật dậy, đấm tay nọ vào tay kia, chửi thầm trong bụng: “Chó thật!”
Thì ra, mặt sàn pha lê thoạt nhìn chẳng khác gì không khí này, lại không phải là một khối hoàn chỉnh, giữa sàn có rất nhiều lỗ hổng, hoặc vuông hoặc tròn, hoặc hình chữ nhật dài. Dưới ánh sáng chói lóa tỏa ra từ hai cây cột, nếu không ghé sát cẩn thận quan sát thì không thể nào phân biệt được những chỗ hổng bằng mắt thường. Người bước đi trong gian đại sảnh này, bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ hụt chân, rơi xuống vực sâu bên dưới.
Người trẻ tuổi thất vọng nhìn quanh, trong cuộc đấu trí với cổ nhân từ hơn nghìn năm trước, xét cho cùng, y vẫn thua họ một bậc.
Từ khi đặt chân vào Cánh cửa Chúng sinh, Bạc Ba La thần miếu này đã lẳng lặng thay đổi tâm thái, tiềm thức và các giác quan của mỗi người, khiến họ hưng phấn, khiến họ kinh ngạc, khiến họ run rẩy. Trong quá trình hết kinh hãi rồi lại đến mừng rỡ điên cuồng ấy, người ta không còn phân biệt được trời đất gì cả, mọi thứ nhìn thấy đều giống ảo giác, các giác quan trở nên không còn đáng tin cậy nữa.
Người trẻ tuổi nghiêm khắc cảnh cáo bọn lính đánh thuê: “Đừng nhìn tượng Phật nữa, tìm đường ra rồi tính sau.”
Kế đó, y điểm ra hai tên lính đánh thuê đi trước dò đường như lính dò mìn, cầm cây gậy, đi
một bước lại đập đập xuống đất một cái như người mù. Nhưng chúng nhanh chóng nhận ra, nếu cứ đi theo gậy dò đường như vậy, sẽ chỉ quay mòng mòng một chỗ, còn nếu ngẩng đầu lên nhìn các tượng Phật xung quanh, thì lại càng hoa mắt chóng mặt. Những tượng Phật đó, thoạt nhìn thì không sao, nhưng chỉ hơi tập trung một chút thôi, sẽ thấy mỗi bức dường như đang xoay chuyển theo những hướng khác nhau.
Thì ra những lỗ hổng ấy không phải tùy tiện mở ra, mà đã biến mặt sàn của đại điện thành một lối đi ngoằn ngoèo như mê cung, một mê cung vô hình! Sắc mặt người trẻ tuổi càng lúc càng khó coi hơn.
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhìn nhau mỉm cười, không ngờ người xưa có kỹ xảo cao minh đến vậy, lại tạo ra được một mê cung kỳ bí phức tạp nhường ấy. Nơi này không giống như mê cung băng ở Nam Cực miếu. Tòa mê cung băng kia cùng lắm chỉ khiến người ta đập đầu vào tường mà thôi, còn nếu rơi xuống khe sâu vô hình này, tỷ lệ sống sót hẳn là 0%. Cứ đi như vậy một lúc lâu, mấy tên đi trước dò đường phát hiện dường như chúng đã thích ứng hơn với ánh sáng mạnh ở đây, rất nhiều chỗ nhìn không rõ là lỗ trống hay là mặt sàn pha lê, giờ lại có thể phân biệt được bằng mắt thường. Một tên thậm chí còn mừng rỡ reo toáng lên: “Tôi nhìn thấy đường rồi, nhìn thấy đường rồi!”
Bọn lính đánh thuê liền tập trung quan sát, quả nhiên giữa chừng không xuất hiện rất nhiều cái bóng mờ mờ phác ra một con đường. Tên nào tên nấy mừng rỡ hết sức, chỉ có hai ba người vẫn giữ nguyên thái độ hờ hững, chẳng giận cũng chẳng vui.
“Tại sao lại thế? Không, không phải là thị lực đã thích ứng với ánh sáng mạnh.” Người trẻ tuổi ngẩng đầu lên, lập tức cảm thấy không ổn. Ánh sáng, vốn mầu trắng bạc như tuyết, lúc này ở đầu ngọn lửa lại bắt đầu chuyển sang sắc vàng nhạt. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu y, muốn chiếu sáng cho cả đại điện lớn nhường này, phải phun ra bao nhiêu khí thể, người xưa rốt cuộc tồn trữ bao nhiêu nhiên liệu ở đây? Từ khi Cánh cửa Chúng sinh mở ra, hoặc từ lúc lửa ở hồ tế được đốt lên, đã là bao nhiêu thời gian rồi? Lượng tiêu hao lớn như vậy, chắc chắn phải có lúc hết nhiên liệu, mà thứ nhiên liệu được hóa khí này hiển nhiên không giống với loại thông thường, hết là sẽ hết luôn.
Nghĩ đến đây, người trẻ tuổi biết không thể thong thả dò đường được nữa. Y xông lên phía trước, lớn tiếng hét: “Đi theo tao, một hàng nhiều nhất ba người, bằng không rơi xuống thì đừng trách!”
Khafu thắc mắc: “Ngài Thomas, sao phải gấp vậy?”
Người trẻ tuổi liếc nhìn hai cái cột đá giống như tim đèn: “Lửa sắp tắt rồi!” Ánh sáng quá mạnh và bóng tối tuyệt đối, ở mê cung pha lê vô hình đều là chí mạng, duy nhất chỉ có quá trình ngắn ngủi khi ngọn lửa tối dần rồi hoàn toàn tắt lụi là có thể dùng mắt thường để đi qua chốn này.
Ngọn lửa cháy bằng nhiên liệu khí thể tắt lụi rất nhanh. Ánh sáng màu trắng bạc trong chớp mắt đã biến thành vàng nhạt, vàng kim, vàng sẫm, da cam, đỏ sẫm, xanh lục, xanh thẫm… Mặt sàn pha lê phản chiếu ánh sáng biến đổi như bảy sắc cầu vồng, vô cùng đẹp mắt, nhưng
những người đi trên đó đều vội vội vàng vàng, chẳng ai có tâm tư dừng lại thưởng thức những màu sắc đẹp đẽ đó cả.
Ánh sáng càng lúc càng biến ảo rực rỡ, tốc độc của người trẻ tuổi càng lúc càng nhanh, ở phía sau, bọn lính đánh thuê chân trước giẫm chân sau, loạng choạng, rốt cuộc cũng có tên không thể theo kịp. Tiếng kêu thảm thiết bắt đầu vang lên cách quãng. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đi giữa đội ngũ, nhưng hơi thiên về phía trước. Nhìn ngọn lửa biến ảo, hai hàng lông mày pháp sư nhíu chặt lại. Chỉ từ việc một tên lính đánh thuê có thể mơ hồ nhìn thấy đường đi, đã liên tưởng đến ngọn lửa sắp tắt lụi, khả năng phản ứng của người trẻ tuổi này thực sự nhanh đến đáng sợ. Chẳng những vậy, nhìn bộ dạng đi trước dẫn đường của y, dường như tuyến đường ngoằn ngoèo như mê cung hoàn toàn không có tác dụng gì với kẻ này cả. Tầm nhìn của y, tầm nhìn của y rốt cuộc là xa đến chừng nào?
Khi người trẻ tuổi đặt chân đến đầu bên kia của con đường pha lê, ánh sáng trong đại điện đã mờ nhạt đến mức không thể phân biệt được đâu là mặt đất, đâu là hang sâu nữa. Những người sốt sót ngẩng đầu ngó quanh, bấy giờ mới nhìn rõ, vật thể giống cây thông Noel treo lộn ngược ở chính giữa đại điện kia, ở đầu mút mỗi nhánh cây, đều có một ngọn lửa màu lam đang nhảy múa, thướt tha uốn éo như những đốm lửa ma, diễm lệ nhưng lại khiến người ta dựng hết tóc gáy.
“Nhìn kìa! Tượng Phật!”
Cả đám người lại ồ lên xôn xao, những tượng phật nét mặt vốn nhân từ trang nghiêm, dưới ánh sáng hiu hắt của những đốm lửa màu lam ma quái đã biến thành màu tím sậm. Chẳng những vậy, trong ánh sáng mờ mờ, dung mạo hiền hòa của các bức tượng đã thành ra nhạt nhòa, đường nét chỉ còn lờ mờ đại khái. Mà những đường nét ấy, thoạt nhìn lại toát lên một vẻ hung dữ khủng bố lạ thường. Nhớ lại những đồng bọn vừa sẩy chân lọt xuống vực sâu, tiếng kêu thảm vẫn còn văng vẳng bên tai, bọn lính đánh thuê càng rởn gai ốc khắp người.
“Rốt cuộc là…” Tạo hình của tượng Phật trong bóng tối khiến cả Lữ Cánh Nam cũng phải ngạc nhiên. Khi nãy đèn đuốc sáng rực, rõ ràng là tạo hình đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh, sao khi bóng tối bắt đầu trùm lên, tất cả đều biến thành tạo hình phẫn nộ như hàng yêu phục ma vậy?
Pháp sư Á La ngập ngừng nói: “Lẽ nào, đây chính là … Quang ảnh song thân Phật trong truyền thuyết?”
“Quang ảnh song thân Phật?”
“Đúng vậy,”
pháp sư Á La nói, “con có biết chiếc cốc Moras không? Đó là lễ vật đại sư đồ gốm Moras tặng cho William III nhân kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới. Thoạt nhìn, nó chỉ là một chiếc cốc sứ thông thường, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ phát hiện, những đường nét trên chiếc cốc chính là phác ra gương mặt nghiêng của William III và phu nhân của ông ấy. Nếu nhìn cái bóng hắt ra bên ngoài chiếc cốc, sẽ trông thấy một đôi nam nữ đang ghé đầu thì thầm hoặc hôn nhau. Đại sư Moras với kỹ thuật tinh xảo của mình đã tạo ra được hiệu quả thị giác thần kỳ. Còn Quang ảnh song thân Phật cũng vậy, khi đủ ánh sáng, chúng ta nhìn thấy ngũ quan của tượng Phật, từ bi, nghiêm túc, còn khi ánh sáng nhạt nhòa, không nhìn rõ được nét mặt các pho tượng, sự chú ý của mắt người sẽ chuyển sang đường nét của cái bóng, lúc ấy, sẽ nhận ra sự tương phản rất lớn.”
Lữ Cánh Nam đã hiểu, nhưng Khafu đứng cạnh đó chỉ nghe hiểu lõm bõm tiếng Trung thì không sao lĩnh hội được. Y lấy làm nghi hoặc, hỏi: “Thật chẳng hiểu người phương Đông các ngươi nữa, tại sao phải bày lắm trò vậy làm gì? Tại sao lại làm cho tạo hình của tượng Phật khi bật đèn và tắt đèn toàn toàn tương phản?”
Người trẻ tuổi trả lời y: “Mày đã đến Maya, hẳn cũng biết các truyền thuyết thần thoại ở vùng đó, ý nghĩa của những tượng Phật này rất giống với thần thoại Maya. Khi thần đi lại ở nhân gian và thiên giới, họ là hóa thân của ánh sáng, từ bi và nhân ái. Khi họ ở chốn địa ngục, họ là hóa thân của Ma vương, điên cuồng và tàn bạo. Nói theo cách của Thiền tông bọn họ, thì gọi là bản ngã và siêu ngã. Bản ngã là dục vọng nguyên thủy của con người, chưa trải qua bất kỳ sự đè nén hay uốn nắn nào, cũng có thể gọi là thú tính. Chẳng hạn như giao phối, ăn uống. Mày thử nghĩ xem, không có sự ước thúc của văn hóa, đạo đức và lý tính, việc giao phối và ăn uống của nhân loại sẽ như thế nào? Vì vậy các bức tượng biểu thị bản ngã thông thường đều hung ác và dữ tợn. Còn siêu ngã, Đạo gia nói xuất thế nhập thế, Phật gia nói viên thông, viên mãn, đều là để chỉ cái siêu ngã này. Khi đạt đến cảnh giới đó, mỗi lời nói mỗi cử chỉ, mỗi nụ cười, mỗi cái nheo mắt của mày, toàn bộ đều trở thành tiêu chuẩn quy phạm, phù hợp với mọi hệ thống đạo đức và văn minh khác nhau, khiến người ta ngưỡng vọng, nảy sinh một tình cảm ngưỡng mộ tự nhiên. Vì vậy, hình tượng siêu ngã đều toát lên vẻ trang nghiêm, đại từ đại bi. Trong Thiền tông, bản ngã và siêu ngã giống như hai mặt của một đồng xu, không thể tách rời, tượng Phật của bọn họ cũng phân ra làm Bán tôn và Hiển thánh kim tôn, đại diện cho bản ngã và siêu ngã. Ở giữa bản ngã và siêu ngã, còn có tự ngã, cũng chính là bản thân loài người chúng mày. Chúng mày vừa muốn thỏa mãn dục vọng nguyên thủy của mình, lại vừa muốn chấp nhận sự ước thúc của đạo đức và pháp luật, vì vậy, mỗi người đều đang bước đi giữa bản ngã và siêu ngã. Đồng thời, cảnh giới tinh thần của một người cũng theo đuổi hai thứ này. Một là đi xuống, đọa lạc địa ngục, cũng tức là mặc kệ ước thúc, đạt đến bản ngã. Hai là hướng lên, thăng nhập thiên đường, cũng tức là yêu cầu bản thân đạt đến tiêu chuẩn của những kẻ thế tục gọi là thánh nhân, bỏ hết tạp niệm, một lòng hướng Phật. Cả đời con người luôn vùng vẫy quanh quẩn giữa ước thúc và tự do, vì vậy chúng sinh mới đau khổ, hy vọng được giải thoát. Đây chính là cái mà người ta vẫn gọi là phàm tâm.”
Nói một tràng dài những lời Khafu nghe nửa hiểu nửa không, người trẻ tuổi lại lấy chiếc PDA ra xem xét. Lữ Cánh Nam đã mấy lần thấy y nhìn vào chiếc PDA ấy, không khỏi lấy làm nghi hoặc: “Rốt cuộc đó là thứ gì? Chẳng lẽ là bản đồ số hóa của tòa thần miếu này ư?”
Đương nhiên, cô không thể ngờ rằng người trẻ tuổi ấy cũng đang ngờ vực: “Kỳ lạ thật, hai tên kia sao vẫn không chuyển động? Lâu như vậy rồi, chẳng lẽ chúng đang ngủ? Mặc kệ, đây là cơ hội tốt.” Nghĩ đoạn, y cất máy PDA, ra lệnh cho bọn lính đánh thuê xuất phát đến đại điện tiếp theo.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin không phải đang đứng im tại chỗ, mà ngược lại, đang chuyển động không ngừng. Hai người đang chơi trò đẩy hòm, đã đẩy đi đẩy lại đến phát ngán.
Hai người leo lên đỉnh cánh cửa hình nụ sen chưa nở, dùng máy ảnh chụp toàn bộ bàn cờ và bố cục các quân chờ vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba dùng chương trình tìm kiếm trong máy, tìm ra một phần mềm chuyên dùng để phá giải các cơ quan dạng sắp xếp theo trình tự này, bên trong đã cài đặt sẵn các mô thức mẫu để phá giải Hoa Dung đạo, Cửu liên hoàn, ma phương…
Tìm hiểu xong cách sử dụng phần mềm, Trác Mộc Cường Ba nhập vị trí của các quân cờ vào, máy tính bắt đầu mô phỏng tính toán, đẩy những khối vuông có khắc ký hiệu vào vị trí tương ứng, chỉ thoáng sau đã có kết quả. Máy tính đưa ra phương án tối ưu, tổng cộng cần chín trăm chín mươi chín bước.
Nhìn máy tính chỉ cần hai ba giây đồng hồ đã tính ra kết quả và các bước thực hiện, Merkin đang nơm nớp lo âu mới yên tâm phần nào. Chín trăm chín mươi chín bước, nếu tính bằng sức người, không biết phải bao lâu mới xong nữa. Vậy là, hai người bèn làm từng bước một, bắt đầu công cuộc đẩy hòm. Mặc dù bên dưới các khối đá là những rãnh kim loại trơn nhẵn, song trọng lượng của chúng và lực ma sát của hình khắc gồ lên cũng khiến hai người tốn rất nhiều sức lực. Trông cả hai như hai con trâu mộng cày ruộng, cắm đầu cắm cổ, bốn cánh tay lực lưỡng gồng lên, bốn cẳng chân đạp mạnh, mồ hôi túa ra như tắm trên trán, chảy thành dòng trên má, rồi nhỏ tong tong xuống cằm. Mỗi lần hoàn thành một bước, hai gương mặt nhem nhuốc mồ hôi lẫn máu lại cùng chụm lại trước màn hình máy tính xách tay, xem bước tiếp theo phải đẩy như thế nào. Về sau, Merkin nói làm kiểu này quá chậm, đề nghị mỗi người đẩy một khối đá, như vậy có thể cùng lúc tiến hành hai bước một. Trác Mộc Cường Ba đẩy bước trước, y đẩy bước sau, cứ được khoảng mười khối đá vào vị trí thì lại dừng tay nghỉ một lúc. Nói theo cách của Merkin thì đây không phải việc dành cho con người làm… Lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba mới nói cho y biết, câu “một người thân thủ tuyệt thế” cũng có có thể dịch thành “một người sức khỏe vô cùng”, cũng may sức lực hai người họ đều thuộc hàng khá, bằng không e khó lòng mà đẩy nổi mấy khối đá này.
Khi họ đẩy được năm trăm sáu mươi ba khối đá thì xảy ra sai sót. Họ nhận ra, bước tiếp theo của mình không khớp với máy tính, lúc cẩn thận đối chiếu lại mới biết, thì ra đã đẩy nhầm.
Vốn là Trác Mộc Cường Ba qua trước, rồi đến lượt Merkin, sau đó Trác Mộc Cường Ba sẽ đẩy một khối đá khác tới, đồng thời khối đá Merkin đẩy cũng có thể đến vị trí chỉ định. Nhưng quá trình đẩy của hai người lại là, khối đá của Merkin đã đến vị trí chỉ định, bị cố định tại chỗ đó mà khối đá của Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa đẩy qua, bị khối đá của Merkin chặn mất đường.
Hai gương mặt lem luốc thẫn thờ nhìn nhau, tính sao đây?
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba nghiến răng nói: “Lật nó ra!”
Merkin trố mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, cơ hồ không tin tưởng lắm. Đây không phải hòm gỗ, mà là một khối lập phương bằng đá mỗi cạnh dài một mét. Một khối đá lớn chừng này, e rằng trọng lượng phải đến một hai tấn, có điều, ngoài trừ cách nhấc nó ra khỏi đường ray, hình như cũng không còn cách nào khác nữa.
“Ày ah! Lên…” Cùng với tiếng gầm của Trác Mộc Cường Ba, cơ bắp trên cánh tay hai người gồ hẳn lên. Hai vị “mãnh nam” này không ngờ lại có thể lật cả tảng đá nặng nề ra khỏi đường ray. Sợ rằng cổ nhân nghìn năm trước khi bố trí bàn cờ này cũng không ngờ có người dùng cách trái lẽ thường như thế, quả là sức mạnh dời non lấp bể!
Có điều, sau khi bẩy khối đá ra khỏi đường ray, hai người phải ngồi dựa vào nó thở hồng hộc, Merkin xua tay lia lịa nói: “Việc này… không thể lặp lại nữa.”
Sau khi mọi khối lập phương đã vào vị trí, thể lực của Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng tiêu hao toàn bộ. Merkin đề nghị nghỉ ngơi tại chỗ một lúc. Dẫu sao, bọn họ cũng đã ở thế giới dưới lòng đất đèn đuốc sáng ngời này không biết bao lâu rồi. Từ đầu đến giờ, hai người vẫn luôn bị các loại cơ quan cạm bẫy làm cho chạy trối chết, khó khăn lắm mới được chút thời gian nghỉ ngơi, nếu không điều dưỡng hồi phục thể lực, có trời mới biết sau khi cánh cửa hoa sen kia mở ra sẽ có thứ gì.
Lúc này, bên ngoài địa cung đang ngập tràn ánh sáng. Hôm nay đã là ngày thứ ba kể từ khi bọn Trác Mộc Cường Ba xuống địa cung Bạc Ba la thần miếu. Một động vật linh trưởng toàn thân trần truồng đang
lao đi giữa rừng già, tắm mình trong ánh dương buổi sớm, hít thở bầu không khí tự do.
Toàn thân y nhằng nhịt vết thương và sẹo lồi màu đỏ thịt, đầu tóc bù xù rối loạn. Điều khiến người ta kinh hãi nhất là, phía sau y có hai con dã thú vốn chỉ cần thấy mặt nhau là sẽ lao vào cắn xé đến một sống một chết. Bên trái là một con sói xám trưởng thành, thể hình to lớn; bên phải là một người Lỗ Mặc, cao bằng một người trưởng thành.
Đúng vậy, y chính là Soares. Vì tầng bình đài thứ ba đã được xác nhận là không có người, y cũng lấy làm hoan hỉ ở lại đây, mang lòng thành ra đối đãi với thiên nhiên. Sau cuộc nói chuyện với Trác Mộc Cường Ba, y đột nhiên lĩnh ngộ được, thì ra, dù không có các loại thuốc và chất thông tin, không dựa vào cạm bẫy và khoa học kỹ thuật hiện đại, con người và các loài vật khác cũng có thể chung sống một cách hòa thuận.
Mấy ngày nay, y luôn quanh quẩn trong khu rừng rậm này, bất ngờ gặp được một con sói và con mãnh thú, sau mấy lần tiếp xúc mang tính thăm dò, Soares đã khiến con sói và con mãnh thú kia đồng thời chấp nhận sự tồn tại của mình. Y khác với Trác Mộc Cường Ba, thân là một Thao thú sư hiểu rõ đặc tính của các loài sinh vật, và lại còn rất giỏi nghiên cứu tìm tòi, y đã nhanh chóng phán đoán chính xác về trí lực và tập tính sinh hoạt của hai con vật này, đồng thời dẫn đạo chúng một cách thích đáng. Chỉ sau một thời gian ngắn, y đã khiến hai con dã thú nghe lệnh mình. Trong toàn bộ quá trình đó, Soares không sử dụng bất cứ loại thuốc hay kỹ xảo thao thú nào. Ở Trác Mộc Cường Ba, y đã học được sự trao đổi tâm linh giữa các loài động vật, dùng ánh mắt và ngôn ngữ cơ thể để biểu đạt ý nghĩa của mình, đồng thời cũng nhờ vào ánh mắt và ngôn ngữ cơ thể để đọc hiểu ý tứ mà đối phương biểu đạt.
Một người, một sói và một người Lỗ Mặc, tiểu đội săn bắt tổ hợp từ ba loài động vật khác nhau hợp tác với nhau hết sức vui vẻ. Có điều, Soares dần dần nảy sinh ý
muốn rời khỏi đây. Mỗi lần nhìn thấy những kiến trúc hùng vĩ lạ thường và môi trường hoang dã xung quanh, y liền cảm thấy run rẩy. Nơi này dẫu sao cũng là vương quốc của sinh vật hoang dã, mặc dù vẫn còn lưu lại rất nhiều ký hiệu của nền văn minh nhân loại, nhưng không có lấy một dấu vết của người sống. Nỗi sợ hãi và cô đơn phát xuất từ sâu thẳm nội tâm khiến y khao khát được trông thấy một người sống, cho dù là kẻ địch cũng được. Giờ đây, y đã hiểu sự cô độc mà Trác Mộc Cường Ba phải chịu đựng. Chỉ có điều, y cũng biết, với tình trạng hiện tại của mình, muốn vượt qua vùng sương mù bị băng tuyết bao phủ kia, thực không có chút hy vọng nào cả. Y cần phải chuẩn bị đẩy đủ hơn nữa.
Vì vậy, khi trông thấy cỗ thi thể và cái dù động lực còn chưa bị hư hại treo lơ lửng trên cành cây, Soares không sao nén nổi cảm giác kích động trào dâng trong tâm khảm.
“Đại Khôi, tao phải đi rồi.” Soares đặt tay lên đầu con sói, ngón cái vuốt nhè nhẹ dọc theo bộ lông nó, chạm vào trán nó, khiến con sói cảm thấy yên tâm và dễ chịu. Sói xám hài lòng nheo nheo mắt. Ý nói lời tạm biệt với người bạn bốn chân, rồi lại nắm chặt chi trước của người Lỗ Mặc, bắt tay một cách tượng trưng. Soares đứng ở mép tầng bình đài thứ ba, ngước nhìn màn sương mù mờ mịt, ngoái đầu nhìn về phía rừng rậm, lớn tiếng tuyên bố: “Tạm biệt, Shangri-la! Ta sẽ trở lại! Tạm biệt, Đại Khôi! Tạm biệt, Tiểu Cường! Trở lại cuộc sống vốn có của chúng mày đi, tao chỉ là một kẻ qua đường thôi.” Dứt lời, Soares tung mình nhảy xuống, biến mất dưới làn mây mù bao phủ. Y nhớ lại chuyện Trác Mộc Cường Ba kể, Nhạc Dương ngày đó cũng nhảy xuống dưới như thế này. Ta sẽ rơi xuống đâu? Có lẽ là tầng bình đài thứ hai, đến lúc đó có thể nghiên cứu một chút về cổ độc của người xưa, nếu rơi thẳng xuống tầng bình đài thứ nhất, vậy thì có thể nhìn thấy những loài sinh vật tiền sử kia rồi. “Bùng!” dù động lực mở bung ra, đưa Soares lướt về phía xa.
CHƯƠNG 77: ĐẾN TRUNG TÂM THẦN MIẾU
GẶP LẠI NHẠC DƯƠNG
Vượt qua khu vực sương mù, Soares mới phát hiện ra mình đang lơ lửng phía trên mặt biển, cách tầng bình đài thứ hai một khoảng rất xa. Bấy giờ, y mới hiểu, Tu Di giới này là một hình nón úp ngược, giờ có muốn lợi dụng dù lượn động lực cũng không được nữa rồi, y đành cố gắng khống chế phương hướng, lướt về phía đường bờ biển của tầng bình đài thứ nhất.
Trước khi tiếp đất, Soares bất ngờ khóa chặt một mục tiêu phía dưới, một con thuyền ba lá, phải chăng là thuyền của bọn Trác Mộc Cường Ba ? Không đúng, y còn nhớ Trác Mộc Cường Ba kể, con thuyền của bọn gã sau khi đến nơi này đã bị phá hủy rồi, đây có thể là thuyền của ai chứ ?
Soares hiểu rõ, nếu trên thuyền có người, mình lại từ trên trời nhảy dù xuống, trông cực kỳ nổi bật, chắc chắn đã bị đối phương trông thấy, bèn quyết định điều chỉnh dù đáp xuống gần con thuyền nhỏ ấy luôn.
Y vừa tiếp đất, liền nghe có người hỏi bằng tiếng Anh: “Ngươi là ai? Ở đâu đến?”
Soares ngoảnh đầu, trông thấy một lão già mặt đầy nếp nhăn, mái tóc hoa râm, nhưng tinh thần hãy còn quắc thước, có lẽ là một người gốc châu Á. Mức độ kinh ngạc của Soares hiển nhiên cũng không kém lão già ấy, y vốn nghĩ nơi này là vùng đất cách biệt thế gian, rồi lại nghe Trác Mộc Cường Ba kể, vượt qua biển ngầm đến đây càng gian nan nguy hiểm vạn phần. Tại sao ở đây lại có một lão già ở tuổi này, lão ta cũng vượt qua biển ngầm tới nơi này ư? Nhìn thần thái và giọng tiếng Anh của lão, hiển nhiên đối phương cũng giống như y, là người ở bên ngoài đến. Sao lão ta có thể làm được? Gượm đã, lão già này, dường như cũng hơi quen mặt thì phải!
Lão già thấy Soares chau mày không đáp, hiển nhiên là hiểu những được những gì mình nói mà không trả lời, bất thình lình nhún người lao lên, lướt qua đầu Soares, đồng thời rải xuống một nắm gì đó. Soares giật bắn mình, lão già này phỏng chừng còn cao tuổi hơn cả y, không ngờ thân thủ cũng linh hoạt hơn một bậc. Y vội ngã người lăn một vòng, tránh khỏi thế công của đối phương, đồng thời cũng sực nhớ ra, lớn tiếng gọi: “Ông Sasaki!”
Lão già quay đầu lại, gương mặt lộ vẻ nghi hoặc, bây giờ mới mở miệng nói bằng tiếng Nhật: “Anh là...”
Soares đáp: “Tôi ở tổ T, Soares Kahn, chúng ta từng gặp nhau một lần, trong lần hành động liên hợp ở Ai Cập’’ Vẻ mặt Soares trở nên cung kính, Sasaki là tổng chỉ huy của hành động lần đó, nghe nói, sự lý giải và lĩnh ngộ đối với thực vật của lão già diện mạo bình thường này đã đạt đến trình độ đại sư, thực rất đáng kính trọng.
Lão già cũng nhớ ra, gương mặt nhăn nheo nở nụ cười hòa nhã: “Soares phải không, thật không ngờ lại gặp anh ở nơi này, à, đúng rồi, anh... mau lên, lập tức làm theo tôi” Sasaki lấy tay bịt chặt mũi rồi đột nhiên thả ra, thở phụt ra ngoài kiểu như đang xì cục đờm trong khoang mũi, phát ra những tiếng ‘’khẹt khẹt’’
Soares không hiểu gì, nhưng vẫn làm theo động tác ấy, đến lần thứ ba liền phát hiện thứ gì đó bắn ra lòng bàn tay, xòe ra xem thử thì thấy đó là một thứ có hai cánh mỏng mỏng như chiếc lá, to cỡ chừng hạt gạo, bên trên còn dính tơ màu, hiển nhiên là ở trong khoang mũi mình phọt ra.
Sasaki vỗ vỗ lên vai Soares, nói: “Được rồi, giờ thì ổn rồi, vừa nãy không biết là địch hay là bạn, mới dùng một chút hạt giống Đại Hồng Liên.”
Soares không khỏi biến sắc, y từng nghe nói đến thứ Đại Hồng Liên này, tương truyền đó là một loại thực vật có thể trồng trong cơ thể người, hút sạch chất dinh dưỡng từ trong máu, sinh trưởng dọc theo mạch máu và xương tủy, cuối cùng sẽ phá vỡ đầu nạn nhân chui ra ngoài, khai hoa kết quả, có thể biến một người thành một cái cây.
Sasaki lại hỏi: “Sao anh lại có thể ở đây? Sao lại...” Ông ta chỉ tay vào thân thể trần truồng của Soares.
Soares cười khổ một tiếng, kể vắn tắt một lượt chuyện Merkin mời mình gia nhập, cuối cùng lại đuổi mình như thế nào, Sasaki cười cười, rồi nói: “Cáo lửa à, tôi cũng khá có ấn tượng với con người này.”
Soares hỏi: “Ông Sasaki, tại sao ông lại đến nơi này? Ông cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu sao?”
Sasaki nói: “Bạc Ba La thần miếu? Tôi chưa từng nghe nói đến, tôi tới đây chỉ để thu thập hạt giống của một số loài thôi. Nơi này có một số thực vật nguyên sinh chỉ có thể sinh trưởng ở đây, gieo trồng ở môi trường bên ngoài rất khó thành công. Lần trước tôi đến đây, hình như cũng được mười năm rồi. Tôi đã dùng phương pháp biến đổi gene gây trồng một ruộng thực vập tạp giao trong khu rừng ở trước mặt, lần này đến đây là để thu hoạch.” Soares ngẩn người, mười năm trước đã đến đây rồi ư? Y không khỏi cảm thán, vùng đất mà đám người bọn y tốn bao nhiêu công sức trải qua bao nhiêu gian khổ mới đến được, đối với những kẻ có thực lực cao cường như lão già trước mắt này chẳng khác nào như cơm bữa, muốn đến thì đến, muốn đi thì đi. Đây mới gọi là khoảng cách về thực lực chứ.
Dường như đọc được suy nghĩ của Soares, Sasaki cười cười nói: “Đương nhiên, nơi này cũng không phải nói đến là được, đoạn đường sông ngầm không có lấy một chút ánh sáng ấy đã mấy lần khiến tôi sém chút nữa là toi mạng. Lần này đến đây, tôi đã cảm thấy lực bất tòng tâm rồi, sợ rằng khó lòng có lần sau lắm.”
Sasaki vừa nói, vừa dẫn Soares đi tới chỗ ông ta neo thuyền.
“Vậy, ông có muốn đến Bạc Ba La thần miếu xem thử không?” Soares dò thử hỏi.
Sasaki cười cười đáp: “Tôi đến đó làm gì chứ? Tôi là một ông già, người cao tuổi rồi, không nên làm mấy việc leo trèo nguy hiểm như thế, anh không biết sao? Vả lại, tôi chẳng hứng thú gì với cái thần miếu mà anh nói đến cả, tôi chỉ tới đây xem các loại cây cối thôi, giống như anh thích thú với đám động vật vậy. Mỗi loài thực vật ở đây đều khiến tôi vô cùng hoan hỉ. Thêm nữa, riêng vùng ven biển này thôi đã rộng lớn lắm rồi, sợ rằng tôi cũng khó tìm hiểu hết được các chủng loài thực vật ở đây. Con người không nên tham lam quá, cứ làm tốt công việc mình cần phải làm trước đi đã.’’
Nói đoạn, hai người đã đi tới bên cạnh con thuyền ba lá, Sasaki nhiệt tình bảo Soares: “Anh là người khách thứ hai của tôi đấy.”
“Ông còn một người khách nữa?” Soares kinh ngạc hỏi.
“Đúng vậy, mấy ngày trước khi tôi vừa đến đây, một quả bóng lớn từ trên trời rơi xuống, đập mạnh xuống mặt nước, suýt nữa làm lật cả thuyền.” Sasaki nói, “Anh bạn trẻ này trông cũng khá phết, có phải đến cùng với các anh không?”
Soares nhìn gương mặt thanh tú điển trai nằm trong con thuyền nhỏ, lúc này, y đã không còn căm hận gương mặt ấy nữa, mà chỉ cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, lòng thầm tự giễu: “Có lẽ, đây chính là vận mệnh mà người Trung Quốc các cậu vẫn hay nói.”. Nghĩ đoạn, Soares ngoảnh sang phía Sasaki nói: “Là... bạn. Chúng tôi cứ tưởng cậu ta ngã từ trên cao xuống, đã hy sinh rồi, giờ cậu ta thế nào.”
Sasaki đáp: “Rơi từ độ cao đó xuống, tuy túi khí cứu sinh đã ngăn lại hầu hết xung kích, nhưng phần đầu cậu ta vẫn bị chấn động, nghiêm trọng. Mấy ngày nay, tôi đã dùng một số thực vật có tác dụng an thần để điều dưỡng cho cậu ta, song mãi vẫn chưa thấy tỉnh lại. Anh chàng này có vẻ nhanh nhẹn đáng yêu, tôi có một thằng cháu nội, chắc cũng tầm tuổi cậu ta. Anh biết đấy, ở nơi này chẳng có gì đáng sợ cả, chỉ sợ cô đơn. Một người dập đềnh nổi trôi trên vùng nước đen tối mịt đó mấy tháng ròng, điều khó chịu nhất chính là cảm giác cô tịch. Có người bên cạnh nói chuyện, mặc dù cậu ta không thể trả lời, song như vậy cũng là tốt lắm rồi. À, gần đây tôi cũng bắt đầu ít nói hẳn đi, không biết có phải là triệu chứng của tuổi già không nữa.’’
“Phiêu bạt mấy tháng trời!” Soares hít sâu một hơi khí lạnh, tuy Trác Mộc Cường Ba chỉ kể qua loa hành trình trên dòng sông ngầm của bọn gã, nhưng y cũng cảm nhận được tình cảnh hiểm nguy chừng như bất cứ lúc nào cũng phải giáp mặt với tử thần ấy. Vậy mà, ông già này phiêu bạt trên dòng sông đen tối đó mấy tháng ròng. Ngay sau đó, y liền hiểu ra, đúng vậy, ông già này không hề có bản đồ gì cả, ông chỉ xuôi theo dòng nước mà tiến tới, khống chế hướng đi của thuyền khi nước triều dâng lên, đi kiểu như vậy, đương nhiên là phải mất mấy tháng rồi!
Sasaki lại nói: “Anh đã đến đây rồi thì ở lại với tôi một thời gian nữa đi, chúng ta có thể đi xa hơn một chút, quan sát và thu thập thêm mấy loài thực vật, rồi cùng trở về.”
Soares gật đầu, rồi nhìn lại Nhạc Dương đang say ngủ, nhếch miệng mỉm cười.
Không biết ngủ được bao lâu, Merkin mới từ từ tỉnh giấc. Còn Trác Mộc Cường Ba, vì có tâm sự trong lòng nên chỉ ngủ một lúc đã tỉnh. Hai người hợp lực chuyển động mấy chục khối lập phương, mở cánh cửa hình hoa sen ra, kế đó, họ đi qua Tỳ Na Dạ Ca điện, Chuyển Kim Diệu điện, Ô Ba Na Nam Đà Vương điện, Ma Hầu La Gia điện... đến Uông Ba Li điện, Gia Du Đà La điện, Bảo Chàng điện... cũng không biết đã vòng vèo ở trong mất bao lâu, tóm lại là họ vẫn có thức ăn và nước uống, đồng thời đi qua những cung điện khiến người ta phải trầm trồ thán phục và những cơ quan cạm bẫy khó bề tưởng tượng nổi.
Nhóm người của pháp sư Á La thì đi từ Vạn Phật các tới A Nhĩ Đa điện, Nhã Gia điện, Nhật Diệu điện, Khẩn Na điện... đến Giáng Tam Thế Phẫn Nộ Minh Vương điện, Hư Không Tàng điện, Bất Không Thành Tựu Điện...
Có người trẻ tuổi dẫn đường, số lượng cơ quan cạm bẫy họ gặp phải dọc đường ít hơn hai người bọn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, nên có thể tập trung nhiều tinh lực hơn vào các món đồ thờ cúng. Sau một thời gian, đến cả bọn lính dánh thuê kia cũng bắt đầu kén chọn, không phải tinh phẩm thì không thèm đụng tay mó chân đến, những món vàng bạc binh thường mà chúng tranh nhau vét đầy trong ba lô kia sớm đã bị vứt hết đi đâu không biết. Dọc dường, câu bọn chúng hỏi nhiều nhất chính là tòa thần miếu này rốt cuộc lớn chừng nào. Người trẻ tuổi đã trả lời rằng: “Nếu không có cơ quan cạm bẫy và mê cung, mà chúng mày cũng không cần để ý đến mấy thứ đó, chúng ta đi kiểu cưỡi ngựa xem hoa thế này, chưa đến một tháng, chúng ta sẽ tham quan hết các gian đại điện ở tầng ngoài cùng thần miếu.”
Nghe y trả lời như vậy, cả bọn về cơ bản đã nắm được quy mô của Bạc Ba La thần miếu; pháp sư
Á Lá thầm tính toán, những ngày này bọn họ tổng cộng đã đi qua một trăm tám mươi gian đại điện. Tuyến đường người trẻ tuổi dẫn họ đi chắc hẳn là tuyến đường an toàn và ngắn nhất, bởi vậy, có thể khẳng định, bọn họ mới chỉ đi qua một phần nhỏ của thần miếu mà thôi. Những nơi họ đi qua, cả thảy đều nguy nga đẹp đẽ, điện đường hoa lệ, thiết kế xảo diệu, cơ quan phức tạp khôn cùng, dùng ngôn ngữ để biểu đạt lại quả thực không thể hình dung được đến một phần vạn.
Lại một ngày nữa trôi qua, người trẻ tuổi dẫn đội ngũ lính đánh thuê đi qua cánh tay dang rộng của Ma Kha Bát La Để Tát La Bồ Tát, nghe thấy tiếng ầm ầm ở phía trước tựa như một nhà máy đang hoạt động hết công suất, y liền lộ vẻ mừng rỡ. “Sắp đến trung tâm của thần miếu rồi.”
Cả bọn theo y đi hết con đường nhỏ tối tăm u ám, khoảng không trước mắt bỗng rộng mở. Mọi người đều biết, họ lại đặt chân vào đại điện tiếp theo rồi. Có người thở dài một tiếng: “Lại là mê cung...”
Phía trước là một không gian rộng lớn thông thoáng, đặc biệt, trong gian đại điện này không có tượng Phật nào cả, thay vào đó là vô số tấm ván treo. Những tấm ván treo rộng chừng năm mét, dài năm sáu mươi mét gì ấy, bốn góc đều được treo bằng dây kim loại chống gỉ to ngang cổ tay người lớn, đầu kia của dây kim loại buộc vào một thanh treo không ngừng nghịch chuyển qua lại, những tấm ván cũng liên tục thay đổi vị trí và phương hướng. Thoạt nhìn qua, đại diện này rất giống một bến cảng tập kết container nhộn nhịp chuyển hàng qua lại.
Người trẻ tuổi dẫn đầu bước lên một tấm ván treo, rồi lại nhảy sang một tấm khác. Vì thời gian các tấm ván giao nhau rất ngắn, lần nào cả bọn cũng phải đợi một lúc lâu mới lên được hết một tấm ván. Sau khoảng mười mấy lần như vậy, bọn họ đến được một bình đài treo lơ lửng trên không.
Người trẻ tuổi đưa mắt nhìn quanh, rồi gọi Khafu đến bên cạnh: “Khafu, nơi này dễ thủ khó công, mày dẫn theo một nhóm canh gác ở đây. Tao sẽ để lại một số ký hiệu trên tấm ván treo, nếu sau hai mươi tư tiếng đồng hồ sau mà bọn chúng chưa đến, mày hãy đi theo tìm bọn tao.’’ “Có cần giết chúng không?” Khafu hỏi.
Người trẻ tuổi lắc đầu: “Không, tao muốn mày cầm chân chúng, hai mươi tư tiếng, làm được không?”
Khafu nhe răng cười: “Ngài Thomas, ngài coi thường tôi quá rồi đấy.”
Người trẻ tuổi nắm tay Khafu: “Tự tin là tốt, nhưng đừng tự kiêu.”
Nói xong, y dẫn đám còn lại bước trên tấm ván treo đang chuyển sang một hướng khác, lại một tấm ván khác dịch chuyển tới trước mặt. Khafu ra lệnh: “Luc, Hughes, chúng mày lên đi, chiếm lĩnh cao điểm góc phía Nam. Pru, Chek, tao muốn chúng mày leo lên thanh ngang kia, làm được không? Anton...”
Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đi theo người trẻ tuổi bước từ tám ván treo này sang tấm ván treo khác, chỉ thấy khắp bốn phương tám hướng đều là lối ra, cấu trúc hoàn toàn không giống những gian Phật điện trước đó. Hai người thầm thấy làm lạ. Người trẻ tuổi nhìn thấu được ý nghĩ của họ, liền cười khẩy châm chọc: “Khu vực trung tâm này không giống với kiến trúc Mật tông mà các người tưởng tượng, phải không?”
Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Sao lại như thế này?”
Người trẻ tuổi liền đáp: “Toàn bộ Bạc Ba La thần miếu này có nhiều cơ quan như vậy, nhờ đâu mà chúng có thể hoạt động được?” Y ngừng lại một chút, rồi tiếp lời: “Cả một công trình lớn như vậy, mọi cơ quan cạm bẫy đều được kết nối với nhau. Kỳ thực, các người có thể coi nó như một cỗ máy khổng lồ, muốn cho nó hoạt động nhất thiết phải có một nguồn năng lượng lớn vô cùng. Khu vực trung tâm này chính là phân xưởng cung cấp động lực cho cỗ máy ấy. Nơi chúng ta đang đứng đây có thể xem là trạm trung chuyển, những thanh treo này đưa những người thợ đến những nơi khác nhau. Đối với chúng ta, những thanh treo chuyển qua dịch lại này chẳng khác nào mê cung, nhưng trong mắt những người thợ đã quen thuộc đường đi lối lại, chúng lại chính là con đường ngắn nhất, tiện lợi nhất.”
Di chuyển qua mấy tấm ván treo nữa, người trẻ tuổi
rốt cuộc cũng dẫn bọn họ đi vào một đường hầm. Sau khi ra khỏi đường hầm ấy, tất cả lại lại được một phen ngẩn người ra.
Phía trước xuất hiện một hố sâu hình tròn, giống như một tháp ống khói khổng lồ. Bọn họ đứng bên mép ống khói, có đường dốc thoai thoải hình xoáy trôn ốc đi xuống. Dưới đáy ống khói là một lò lửa, không khí nóng hừng hực lan tỏa trong ống khói. Đứng bên mép đường dốc nhìn xuống, có thể thấy rõ dòng nham tương màu vàng đỏ cuồn cuộn sôi trào. Khó tin nhất là, ở phía ngoài đường dốc là những cánh tay kim loại sừng sững chỉnh tề. Những cánh tay kim loại ấy đang vận động theo một quy luật dưới tác dộng của một nguồn lực nào đó, ngoài ra còn có vô số cánh tay nhỏ đang đưa qua đưa lại, động năng khổng lồ này chính là nhờ những cánh tay máy này mà được truyền đến từng ngóc ngách của Bạc Ba La thần miếu.
Mỗi người đều cảm nhận được, nơi này không phải điện đường thờ cúng, mà là một công xưởng, một công xưởng khổng lồ chưa từng có trong lịch sử. Giọng nói người trẻ tuổi toát lên một vẻ kính nể: “Kinh hãi lắm phải không! Đây chính là trung tâm thần miếu, một động cơ vĩnh cửu!” Thấy cả bọn đều há hốc miệng, nét mặt y thoáng hiện lên một nụ cười khinh khỉnh.
“Không thể nào!” Lữ Cánh Nam lập tức phản bác: “Khoa học đã chứng minh, động cơ vĩnh cửu không thể nào tồn tại được!”
“Vậy phải xem định nghĩa động cơ vĩnh cửu là thế nào đã,” người trẻ tuổi thong dong giải thích: “máy móc có thể vận hành vĩnh viễn không ngừng, điều đó là không thể, nhưng đối với sinh mạng hữu hạn của nhân loại, bao nhiêu lâu đã có thể xem là vĩnh viễn rồi? Mười vạn năm, mười vạn năm đã đủ chưa? Toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại, kể cả văn minh tiền sử, cũng chưa đến một vạn năm. Đám nhà khoa học kia không phải muốn chế tạo động cơ vĩnh cửu, mà muốn chế tạo một cái máy có thể sinh ra năng lượng từ hư vô, đi ngược lại định luật bảo toàn năng lượng. Một cỗ máy như thế, đương nhiên không thể có trong hiện thực. Trên thực tế, mấu chốt của việc chế tạo động cơ vĩnh cửu không nằm ở chỗ máy móc phức tạp thế nào, mà là có thể cung cấp cho nó một nguồn năng lượng vĩnh cửu hay không.”
Người trẻ tuổi dang rộng cánh tay, lớn tiếng nói như thể một giáo sư đang truyền đạo: “Thử nghĩ mà xem, tiền nhân của các người, tổ tiên của các người, từ thuở mình mới ra đời, đã học được cách lợi dụng những nguồn động năng vĩnh cửu rồi. Nước sông cuồn cuộn, trăm năm mới thay dòng, gió núi lồng lộng, vòng qua vòng lại, thứ bọn họ thiếu, chỉ là những linh kiện có thể chịu được sự ăn mòn thời gian mà thôi. Năng lượng thủy triều, một vạn năm không thay đổi, vậy có thể coi là năng lượng vĩnh cửu không? Năng lượng mặt trời, chiếu sang bốn tỷ năm, vậy có coi là lâu không? Chỉ cần lợi dụng những nguồn năng lượng đó làm nguyên động lực, về lí thuyết, khiến một cỗ máy hoạt động vĩnh viễn là điều hoàn toàn có thể.”
Người trẻ tuổi hơi nghiêng người ra phía trước, chỉ những máy móc đang hoạt động ầm ầm bên dưới: “Bánh răng, ròng rọc, ổ trục, đòn bẩy, những thứ này đã được người xưa phát minh ra từ rất sớm rồi, cho đến ngày nay, các máy móc hiện đại vẫn sử dụng những thứ ấy. Máy móc sở dĩ không thể duy trì hoạt động được lâu dài, vấn đề mấu chốt là do các linh kiện phụ bị tiêu hao trong quá trình sử dụng. Nếu nói có một cỗ máy, có thể tự động thay mới và tu sửa những phụ kiện bị hao mòn, đồng thời sử dụng một nguồn động năng vĩnh cữu, vậy thì, tại sao không thể gọi nó là động cơ vĩnh cửu chứ?”
Pháp sư Á La nhìn ngọn lửa bên dưới, ngần ngừ nói: “Ý anh là... nó luôn hoạt động? Không phải lúc mở cửa mới hoạt động cơ quan à?”
“Mở cửa, chẳng qua chỉ khởi động hệ thống phòng ngự của nó mà thôi. Trên thực tế, nó vẫn luôn hoạt động cả ngìn năm nay, nếu không phải vậy ông cho rằng sương mù bao phủ mấy trăm cây số vuông quanh khu vực này là từ đâu ra? Những con người thông minh ấy đã hàng phục núi lửa, lợi dụng trung tâm núi lửa làm nguồn năng lượng, chế tạo ra một chiếc máy điều hòa nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến khí hậu của một khu vực rộng lớn mấy trăm cây số. Đồng thời, cũng triệt để ẩn giấu vùng đất tựa như chốn Đào Nguyên thế ngoại này. Các người đừng quên, đây là công nghệ thời Đường. Công nghệ ấy đã siêu việt thời đại, thậm chí, có rất nhiều nguyên lí khoa học của thời đó đủ khiến các nhà khoa học hiện đại cũng phải thở dài ngao ngán. Nhưng sự thực là, những điều này, người xưa cũng chỉ học được từ thiên nhiên mà thôi. Trên thế gian, từ lâu lắm đã có động cơ vĩnh cửu rồi, vả lại, những động cơ vĩnh cửu ấy còn ở khắp mọi nơi nữa, các người có biết đó là gì không?”
Lữ Cánh Nam trầm ngâm suy nghĩ, rồi sực ngộ ra: ”Là con người!”
Người trẻ tuổi cười cười, rồi gật đầu nói: “Là sinh mệnh, trên thế giới này, bất kể là động thực vật hay sinh vật nguyên sinh, cũng đều có một đặc điểm chung. Đó là, bọn chúng có phương thức tuần hoàn trao đổi năng lượng, có phương thức sinh sản tiếp diễn riêng. Quá trình sinh trưởng, phát dục của chúng, đều có thể coi là một loại vận động. Vả lại các cá thể đời con đều có thể sao chép lại một cách hoàn mĩ những đặc trưng của đời cha, đồng thời tiến hóa lại khiến chúng có thể loại bỏ những gì không tốt, và chỉ để lại những cá thể thích hợp tồn tại với thế giới này. Đó không phải là động cơ vĩnh cửu thì là gì chứ? Con người tại sao lại phải chế tạo ra máy móc? Không phải là để bổ sung cho sự thiếu sót của thân thể hay sao? Mà máy móc được chế tạo căn cứ vào đâu chứ? Há chẳng phải là căn cứ vào những cá thể sống khác nhau đang không ngừng tiến hóa biến đổi trên thế gian này sao?”
KHAFU ĐẤU MERKIN
Chinh phục núi lửa, máy điều hòa nhiệt độ khổng lồ thay đổi khí hậu của cả khu vực rộng mấy trăm cây số vuông? Toàn là những điều các nhà khoa học mơ tới chứ không sao thực hiện, vậy mà từ thời Đường, tổ tiên chúng ta đã làm được rồi sao? Những sự thật khó tin được người trẻ tuổi ấy nói ra, khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam sững người kinh ngạc, chỉ biết ngây ngẩn nhìn những cánh tay máy khổng lồ nằm ngoài phạm trù thời đại này, bất giác không biết đã men theo con dốc thoai thoải đi xuống bao nhiêu vòng rồi.
Đột nhiên, người trẻ tuổi tức giận gầm lên, kéo bọn họ ra khỏi trạng thái trầm tư: “Chết tiệt! Quả nhiên là có thứ này!”
Lữ Cánh Nam ngước mắt nhìn, lúc này họ đã xuống đến hết con đường dốc hình xoáy ốc đó. Nơi này còn cách ngọn lửa bên dưới khoảng hơn nghìn mét, khắp trên vách đá là vô số bánh răng đang từ từ chuyển động, giống như ở bên trong một chiếc đồng hồ tinh xảo vậy. Bên cạnh vách đá có một sảnh đường lớn, bên trong cũng toàn các bánh răng cỡ lớn đang chuyển động. Một cây cầu kim loại bắc qua khoảng không phía trên đại điện, đầu bên kia là con dốc lớn, tạo thành một góc bốn mươi lăm độ so với mặt đất. Người trẻ tuổi ấy đang nhìn con dốc này lầm bầm chửi rủa, song Lữ Cánh Nam cũng không nhận ra có gì đặc biệt cả.
Cô đang nghĩ ngợi, bỗng nghe bên dưới con dốc vang lên những âm thanh nghe như thể một đoàn tàu hỏa vừa chạy qua, liền sau đó, một phiến đá trên con dốc thụt xuống, để lộ một miệng hang hình chữ nhật dài chừng hai mét, có ánh sáng từ bên trong lối ra.
“Xin mời.” người trẻ tuổi đưa tay ra hiệu với pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam, không ngờ lại yêu cầu bọn họ xuống trước. Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn pháp sư, ông khẽ gật đầu, hai người liền lần lượt lách người chui vào trong miệng hang hình chữ nhật đó. Tiếp theo, người trẻ tuổi cũng bảo Mẫn Mẫn: “Cô cũng xuống đi.”
Cuối cùng, y nhìn đám lính đánh thuê còn lại nói: “Cũng hết cách rồi, muốn tiến vào khu vực trung tâm thật sự, nhất thiết phải đi qua chỗ này, nghe theo mệnh trời vậy, thằng nào thích thì đi theo tao.” Nói đoạn, y cũng nhảy xuống miệng hang, có tiếng sột soạt vẳng lên, dường như sau khi nhảy xuống, sẽ phải trượt một đoạn dài theo con dốc.
Bọn lính dánh thuê không có chủ kiến, sau khi mấy tên bạo gan nhất nhảy xuống, lại có mấy tên khác nhảy theo. Những tên còn lại đang do dự không biết có nên nhảy xuống hay không, phiến đá vừa thụt xuống ấy lại từ từ khít lại, ngăn cách bọn chúng ở bên ngoài.
Lại mấy ngày trôi qua, Trác Mộc Cường Ba và Merkin rốt cuộc cũng đến được chỗ ván treo. Lúc này, bọn Khafu cũng đã rời khỏi đây từ lâu rồi.
Nhìn những tấm ván khổng lồ không ngừng chuyển động, Merkin trầm trồ cảm thán mãi không thôi. Y nói với Trác Mộc Cường Ba: “Xem ra chúng ta sắp đến được trung tâm điều khiển của cơ quan thần miếu rồi, anh xem nơi này đi, nó làm tôi nghĩ đến một công xưởng với trí năng nhân tạo...”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chỗ này đâu đâu cũng là cửa ra, chúng ta nên đi lối nào đây?”
Merkin đề nghị: “Chọn bừa một trong hai cánh cửa thử xem, không mở được thì quay trở lại.”
Hai người hoàn toàn không có mục đích, cứ thuận theo sự di động của ván treo, chọn lấy hai lối ra ngẫu nhiên, phát hiện chúng lại dẫn đến những gian điện khác, bèn quay trở về. Đến lần thứ ba trở lại gian điện toàn ván treo lơ lửng ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng chỉ vào một tấm ván treo: “Đây là...”
Merkin nói: “Là ký hiệu! Bọn chúng đã đến đây, xem chừngbọn chúng cũng đã bị tách ra, thế nên mới không thể không để lại ký hiệu đánh dấu đường.” Hai người lần theo những tấm ván treo có ký hiệu di chuyển một lúc, Merkin bỗng nhhiên sực nhớ ra gì đó, lại nói: “Liệu có gì gian trá ở đây không?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ là không, vì nguyên nhân gì đó, bọn chúng từng để lại đây một nhóm người. Những ký hiệu này chắc là cho bọn lưu lại đây lần theo nhóm đi trước.”
Merkin hồ nghi hỏi: “Sao anh biết?”
Trác Mộc Cường Ba cười nhạt, nói: “Tôi tự có cách.”
Merkin nhìn theo ánh mắt gã, cẩn thận quan sát kỹ một lượt, chỉ thấy bên cạnh ký hiệu đó, còn một ký hiệu khác rất mờ nhạt, như thể dấu móng tay ấn vào vậy, liền hiểu ra ngay: “Đồng bọn của anh cũng để lại ký hiệu.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Cũng không biết đã bao lâu rồi, chúng ta phải nhanh lên mới được.” Hai người đi theo những ký hiệu đó đến chỗ con dốc bên bờ miệng núi lửa. Khi thình lình trông thấy “ống khói” khổng lồ cùng dòng dung nham đỏ rực bên dưới, cả hai đều sững người kinh ngạc.
Người Qua Ba cổ đại đã đào khoét đường hầm trong lòng nham thạch, dẫn nước tuyết tan từ trên đỉnh núi xuống đây, đổ vào dung nham, tạo một lượng lớn hơi nước, thúc đẩy những cánh tay máy khổng lồ chuyển động như pít tông. Những tiếng “phù... phù...” vang lên liên tiếp, từng khối sương mù phun ra bên dưới các cánh tay kim loại.
Merkin trợn tròn mắt lớn tiếng nói: “Trời đất, máy hơi nước, không ngờ bọn họ đã phát minh ra máy hơi nước... thế này...
thế này... không biết là sớm hơn châu Âu bao nhiêu năm nữa, chỉ là... cỗ máy vẫn luôn bị giấu kín ở đây, không bị người đời phát hiện.”
Trác Mộc Cường Ba không có thời gian để cảm khái trước những cánh tay máy khổng lồ đó, trong đầu gã chỉ nghĩ đến việc tập hợp với pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam. Hai người chạy men theo con đường dốc, chỉ thoáng sau đã đến được đại điện đầy những bánh răng đang không ngừng chuyển động.
Vừa vào bên trong, Trác Mộc Cường Ba liền cảm thấy không ổn, liền vội kéo Merkin lùi lại một bước. Mặt sàn kim loại dưới chân họ bắn tóe lên mấy đóa hoa lửa.
“Ha ha ha ha,” một tràng cười điên dại vang lên từ trên cao, “Merkin, tao đợi mày lâu lắm rồi.”
Merkin ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Khafu đang ngồi trên trục giữa của một chiếc bánh răng, tay cầm súng. Xung quanh y, lấp ló mấy tên lính đánh thuê giương súng, dường như cũng giật mình phản ứng.
Merkin hít sâu một hơi, giận dữ gầm lên: “Khafu, tao không ngờ mày còn mặt mũi gặp tao nữa đấy!”
“Khục khục khục, ha ha ha,” Khafu cười rộ lên một tràng: “Tại sao không dám gặp mày, thắng làm vua, thua làm giặc, mày chẳng qua chỉ là một kẻ thất bại đáng thương mà thôi.”
“Khafu, tao không hiểu, từ đời ông nội, hai nhà chúng ta đã hợp tác rất vui vẻ, tại sao mày lại phản bội tao? Trước khi chết, tao cho mày một cơ hội giải thích!” Mặc dù các bánh răng khổng lồ chuyển động ngấu ngiến vào nhau phát ra những âm thanh ken két, nhưng những gì bọn họ nói vẫn nghe rõ mồn một.
Khafu nói: “Đúng thế, trước đây chúng ta hợp tác rất vui vẻ, nhưng mày cũng biết đó, đó chỉ là hợp tác mà thôi. Lần này, chẳng qua tao lựa chọn một đồng minh mạnh mẽ hơn, bởi thế đành phải khiến mày chịu thiệt thòi vậy.”
Merkin đáp: “Mày nhầm rồi, Khafu, tao sẽ chứng minh cho mày thấy, tao mới là mạnh nhất. Đáng tiếc, có lẽ này không thấy được lúc đó. Hẳn là mày hiểu rõ, tao không giờ khoan thứ cho kẻ phản bội. Hôm nay, cho dù làm trái lời thề của gia tộc, tao cũng phải kết liễu mày ở nơi đây!”
Khafu nói: “Câu này phải để tao nói mới đúng, tao cũng muốn chiến đấu với mày một trận đường đường chính chính từ lâu rồi. Cược bằng cái mạng của chính mình, Merkin, lên đi!” Dứt lời, y liền tung mình nhảy lên, trực tiếp đáp xuống mặt cầu phủ lưới kim loại, làm mặt cầu rung lên một chặp.
Merkin ngăn Trác Mộc Cường Ba đang định xông lên, nói với giọng thành khẩn: “Đây là cuộc chiến giữa tôi với hắn, anh đừng nhúng tay vào,”
Khafu cũng ra lệnh cho mấy tên lính đánh thuê: “Mấy thằng chúng mày không được ra tay lúc tao với nó chiến đấu, bằng không, tao sẽ tự tay làm thịt chúng mày!”
Merkin và Khafu song song bước lên mặt cầu kim loại chỉ cho phép một người bước qua, đứng mặt đối mặt. Hai người cao bằng nhau, chỉ khác là, thể hình Khafu to lớn hơn Merkin một chút, đồng thời, tuổi tác của y cũng lớn hơn Merkin nhiều. Nhìn mái tóc và số nép nhăn, phỏng chừng y cũng sáu mươi tuổi rồi.
Hai người nhìn nhau chằm chằm, ánh mắt lạnh lẽo, sát khí tỏa ra ngùn ngụt. Nhất thời, cả gian phòng tĩnh lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng những cái bánh răng chuyển động suốt ngàn năm phát ra những tiếng”két két, két két” theo một nhịp điệu nhất định.
Không thể phân biệt được ai ra tay trước, có lẽ là cả hai cùng động thủ. Merkin làm động tác như rút súng ra, Khafu liền vươn tay chộp tới, tức thì Merkin biến thế giương cánh tay lên đấm mạnh. Khafu lập tức nắm bàn tay lại, tóm lấy nắm đấm của Merkin. Liền ngay sau đó, nắm đấm còn lại của Merkin và đòn đánh chân cùng lúc phát động. Hai người đều hiểu rõ, đã đến tốc độ như họ rồi, chỉ cần hơi chậm lại một chút sẽ lập tức lộ sơ hở. Lúc rút súng ra, rất có thể đã ăn một cú đấm của đối phương rồi, vì lấy công đối công, dùng quyền đỡ quyền, dùng cước chặn cước. Chân hai người ngoắc vào nhau như hai cái cung, một tay giữ chặt tay kia của đối phương, sau đó gần như cùng một lúc, hai cái đầu thình lình ngửa ra sau đập mạnh tới trước. “Bốp” một tiếng, cả hai cùng lùi bước.
Lần này lấy cứng chọi cứng, không ai chiếm được lợi thế.
Nhưng Merkin dù sao cũng ở tuổi tráng niên, tốc độ phản ứng cũng nhanh lẹ hơn, vừa bị chấn động bật lùi về sau, y đã lập tức tỉnh táo lại. Ngay trong bước đầu tiên, y đã rút súng ra, còn Khafu phải đợi đến bước thứ hai mới bắt đầu rút súng. Lúc này, mặc dù vẫn ở trong trạng thái mơ hồ, song họng súng của Merkin đã nhắm vào thân hình của Khafu rồi.
“Roẹt... roẹt...” trên không trung lóe lên hai tia lửa, kế đó chỉ nghe thấy “pằng” một tiếng. Merkin đã giở ra bản lĩnh đặc biệt của mình... bắn nhanh, một khẩu súng bắn ra hai viên đạn, nhưng những người xung quanh chỉ nghe thấy một tiếng nổ.
Tiếc rằng đối phương là Khafu chứ không phải ai khác. Y đã cực kì quen thuộc phong cách chiến đấu của Merkin, tuy vẫn chưa kịp rút súng ra, nhưng cả người y đã bật lên không trung. Đang ngả người giật lùi thình lình lại xông tới phía trước, Khafu xoay ngang trên không, tựa như con cá măng quẫy mình trong nước, kế đó xoay tròn mấy vòng cực nhanh, tránh được hai viên đạn của Merkin trong gang tấc.
Có điều, Merkin một khi đã cầm khẩu súng trên tay thì tuyệt đối không dừng lại trước khi hết đạn. Vô số viên đạn lần lượt rít lên, như mọc mắt lao vun vút về phía Khafu, phong tỏa mọi đường tấn công và rút lui của y. Vấn đề này cũng không nằm tầm dự tính của Khafu, thân hình y xoay chuyển trên không trung, không ngờ đã nhảy ra khỏi phạm vi của mặt cầu kim loại, thả mình rơi xuống phía dưới. Bánh răng khổng lồ bên dưới cách mặt cầu treo này phải đến mấy chục mét, mắt thấy Khafu sắp rơi tự do, thì y lại khéo vươn tay, bám vào mép cầu, lợi dụng trọng lực đảo một vòng phía bên dưởi rồi lại lao lên từ phía mép cầu bên kia. Thật không ai có thể ngờ một lão già sáu mươi lại có thân thủ nhanh nhẹn nhường này.
Khafu lộn người lên, cũng là lúc Merkin bắn hết một băng đạn, đang chuẩn bị dùng kỹ thuật thay băng đạn trong chớp mắt đổi một băng đạn khác. Nhưng Khafu không chỉ lao lên, mà cùng với y là những tia lửa lóe lên liên tiếp. Trác Mộc Cường Ba chưa từng thấy Khafu nổ súng lần nào, nhưng vừa nhìn thấy những tia lửa đó, gã biết Merkin gặp phải kình địch rồi. Những tia lửa xẹt qua không trung ấy cơ hồ xuất hiện cùng một lúc, lại hoàn toàn song song nhau, cho dù dùng thước kẻ mà vẽ sợ rằng cũng không được thẳng như thế. Từ điểm này, có thể thấy độ trầm ổn của cánh tay cũng như kỹ thuật bắn súng của ông già này đều hết sức ghê gớm!
Kỹ thuật bắn súng đáng sợ khiến Merkin không kịp thay băng đạn, nhưng y cũng không hề hoảng hốt. Chỉ thấy cổ tay y rung lên, ném luôn cả khẩu súng ra, đánh chệch phát súng vốn dĩ đã nhắm vào người y của Khafu. Đồng thời, cú va đập ấy đã làm khẩu súng bật ngược trở lại. Merkin vươn tay bắt lấy, băng đạn mới cầm trên tay cũng được lắp vào trong chớp mắt. Tiếp sau đó, liên tiếp có những tia lửa lóe lên, hai người lao vào cận chiến, vừa vung tay múa chân đá, vừa vươn súng xạ kích, cùng lúc lại né tránh những viên đạn xẹt qua chỉ trong gang tấc.
Sau mấy lượt vừa tấn công vừa né đòn, trên người cả hai đã xuất hiện những vết đạn sướt qua với mức độ nặng nhẹ khác nhau, nhưng cũng đều không ảnh hưởng gì lắm. Bắn hết đạn, họ lấy súng làm vũ khí nện lên đối thủ, kế đó là lao vào vật nhau, rồi tách ra. Hai người như đang làm ảo thuật, không biết từ đâu lại rút ra một khẩu súng khác, lại bắt đầu so tài xạ kích cận chiến.
“Bốp”, hai người lại tách nhau ra, hai tay Merkin bám vào lan can cầu, lồng nhực phập phồng lên xuống. Khafu nhe răng cười nói: “Vô dụng thôi, những thứ mày biết đa số đều học của tao, từ nhỏ mày đã luôn muốn chiến
thắng tao nhưng chưa bao giờ thành công cả, trong lòng mày luôn sợ hãi tao! Mày vĩnh viễn không bao giờ thắng được tao đâu!”
“Vậy sao.” Merkin lạnh lùng cười gằn, bất ngờ ngửa cổ gầm như dã thú, bất chấp tất thảy lao tới chỗ Khafu, chỉ nghe tiếng chân giẫm lên mặt cầu kim loại “đang, đang, đang, đang, đang, đang...” cả mặt cầu rung lên bần bật.
Khafu đấm ngực đánh “thình” một cái, cũng gầm lên giận dữ, xông tới đón đầu Merkin. Hai người lại quấn rít vào nhau, nhưng vì thể lực đã tiêu hao gần hết, động tác của họ không còn nhanh nhẹn linh hoạt như lúc đầu, súng cũng đã hết đạn từ lâu, vốn là tỷ đấu kỹ xảo, giờ đây lại biến thành đấu sức. Nếu đã không thể đánh trúng đối thủ khi nghiêng người né tránh, vậy thì dứt khoát không né nữa, cứ ngươi một đấm, ta một đấm, lấy cứng chọi cứng trên cây cầu hẹp. Khafu đấm trúng mặt Merkin một cú, Merkin nghiêng đầu đi, lật cánh tay đấm lại một đấm. Khafu giơ tay lên chặn, kế đó là nhắm vào bụng Merkin, một đấm, một đấm, lại một đấm nữa.
Merkin gồng cơ bụng lên chịu đòn, lồng ngực phát ra những tiếng gầm gừ khe khẽ, hai tay kẹp chặt đầu Khafu, dồn hết sức mạnh xuống, đồng thời húc mạnh đầu gối lên. Khi Khafu lùi về sau, y lại bổ thêm một cú đấm giữa trán. Khafu chỉ lùi hai bước, rồi lại lao lên, đấm một đấm vào trán Merkin, kế đó tay kia ngoặt ra, tung một đấm nữa vào má đối thủ. Merkin bị đánh lệch cả đầu sang một bên, lập tức ngoảnh mặt lại, cũng trả một cú đấm cho Khafu lệch mặt.
Hai người đòn nào đòn nấy đều trúng đích, mồ hôi lẫn máu văng tung tóe, đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy hơi tàn khốc. Đúng lúc ấy, một biến bất ngờ xảy ra, Merkin gồng mình đón đỡ một đòn trời giáng của Khafu, cả người cong lại, rồi tựa như một con trâu điên ôm chặt lấy thân thể còn to lớn hơn cả y của Khafu, hai chân chống mạnh xuống sàn, vặn người phát lực, không ngờ dùng cách đánh ngọc đá cùng tan, muốn ôm Khafu nhảy xuống bên dưới.
Khafu dồn sức vào hai cánh tay vùng ra thoát được. Nhưng Merkin vẫn ôm eo y đẩy ra bên ngoài. Bàn tay to bè của Khafu liền nhằm vào hai bên tai của Merkin vỗ mạnh tới. Đây là chiêu cực kỳ tàn bạo nhưng cũng cực kỳ thực dụng trong chiến đấu cận thân. Bàn tay Khafu còn to hơn tay Merkin một cỡ, gần như hai cái quạt tai voi, sau cú vỗ mạnh đó, Merkin chỉ thấy choáng váng mặt mày, suýt nữa ngất xỉu tại chỗ. Có điều, y vẫn nghiến răng chịu đựng, dồn sức phát lực một lần nữa. Nửa thân trên của Khafu bị dồn ra ngoài lan can, lơ lửng giữa không trung, giờ lại bị thúc thêm lần nữa, liền bị mất thăng bằng ngay lập tức.
Một chút bất ngờ ngoài dự tính này không làm khó được Khafu, một tay y vươn ra níu chặt Merkin, tay kia rút dây móc đeo bên người móc vào lan can cầu. Hai người cùng lúc lộn ra ngoài, rơi xuống phía dưới. Nhìn bề ngoài có vẻ Khafu khống chế được Merkin, nhưng dù sao tay kia của y vẫn phải giữ lấy dây móc, Merkin liền lợi dụng ưu thế một tay rảnh rang, nhanh chóng triển khai thế tấn công với Khafu. Y dùng đầu, khuỷu tay, cánh tay nhiều hơn là nắm đấm, hai người cứ thế quấn chặt nhau mà rơi xuống. Đúng vào khoảnh khắc sắp chạm đất, Merkin nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh Khafu xuống dưới, rồi lợi dụng cơ hội, dùng sức nhảy vọt lên. Tuy phải ăn một đấm của Khafu, song Merkin giảm được phần lớn lực xung kích của đà rơi từ trên cao xuống, lộn vài vòng trên không, hơi loạng choạng, rồi nhẹ nhàng tiếp đất. Ngược lại, Khafu phải gánh cả trọng lực cộng với lực đẩy của Merkin, dây móc cũng không chịu được, sau khi căng hết cỡ liền đứt phựt một tiếng. Mặc dù đã cố gắng điều chỉnh thân hình trên không, nhưng y vẫn ngã vào bề mặt của bánh răng khổng lồ.
Khafu bật người dậy, chỉ thấy Merkin đang đứng ở đầu bên kia của bánh răng, hai người nhìn nhau chằm chằm, bánh răng chuyển động đều đều, cảnh tượng sau lưng không hề biến đổi. Đây là kết quả mà Merkin mong muốn. Y đem thân mình ra hứng đòn của Khafu, chính là để đổi lấy lợi thế địa hình. Y rất hiểu rõ, dầu Khafu đã hơn sáu mươi tuổi rồi, dù tinh thần và sức khỏe của y vẫn còn rất mạnh mẽ, nhưng giác quan cũng không thể tránh khỏi suy yếu. Cảm giác của Khafu tuyệt đối không thể bằng một người ở tuổi tráng niên được. Từ việc lúc nãy Khafu ngã xuống không thể đứng vững Merkin có thể nhận ra, ưu thế của mình chính là tuổi tác và sự nhạy bén của các giác quan. Đồng thời, thể lực y cũng phục hồi nhanh hơn Khafu, cho dù chỉ nhanh hơn một chút chút thôi thì trong cuộc đấu sinh tử này đó sẽ là nhân tố quyết định thắng bại. Vì vậy, y nhất thiết phải tranh thủ thêm thời gian và không gian để hồi phục, mà ở dưới này, nơi các bánh răng lớn nhỏ chuyển động theo các hướng khác nhau hoặc nhanh hay chậm, ưu thế ấy của y sẽ càng lớn hơn nữa.
Khafu cười điên loạn, bổ nhào đến chỗ Merkin. Nhưng lần này Merkin không lấy cứng chọi cứng nữa, y lách người sang một bước, lập tức đứng lên một bánh răng khác. Bánh răng này chuyển động ngược chiều, chỉ thấy Merkin xoay một vòng, chớp mắt đã ra phía sau trục giữa của bánh răng ấy. Khafu cũng giẫm một chân lên bánh răng đó, chẳng ngờ là bánh răng đó chuyển động ngược chiều khiến trọng tâm cơ thể thay đổi ngay lập tức. Khafu lảo đảo, suýt nữa là ngã nhào, khó khăn lắm y mới điều khiển được trọng tâm, trụ vững lại. Đến lúc này, y mới bắt đầu cảnh giác.
Phải biết rằng, dọc đường tới đây, số lượng cơ quan mà Merkin và Trác Mộc Cường Ba gặp ít nhất cũng nhiều gấp đôi so với bọn Khafu, nhất là sau khi Merkin học được kỹ thuật luồn lách của bộ đội đặc chủng Trung Quốc, lĩnh ngộ của y đối với kỹ thuật tránh né đầy màu sắc phương Đông này đã khiến kỹ xảo chiến đấu và né tránh của y tiến bộ một bước dài.
Cứ như vậy, thoạt nhìn Khafu có vẻ đang truy đuổi Merkin, nhưng kỳ thực Merkin đang dẫn dụ Khafu xông tới. Y nhảy từ bánh răng này sang bánh răng khác, như thể rảo bộ trong sân, thung dung tự tại, vận dụng bộ pháp biến ảo dẫn dụ Khafu. Thể lực Merkin đang từ từ hồi phục, ngược lại, thể lực Khafu lại dần dần tiêu hao sau mỗi lần đối mặt với sự thay đổi trọng tâm. Cứ kéo dài như vậy, sau khi Khafu nhảy qua mười mấy bánh răng, trọng tâm Khafu bắt đầu xuất hiện dấu hiệu bất ổn, y ngã nhào lên bánh răng. Y cũng nhận ra có điều không ổn, liền dứt khoát ngồi luôn trên đó, không đuổi theo Merkin nữa.
CỬU CUNG BIẾN (1)
Bán kính của những bánh răng này khoảng từ bốn đến năm mét trở lên, hoàn toàn có thể coi như là một sàn đấu. Chỉ là, Khafu vừa dừng lại, di động thuận theo vòng quay của bánh răng, Merkin thoắt đã biến mất khỏi tầm mắt. Khafu xoay một vòng, đảo mắt tìm kiếm Merkin một vòng, không phát hiện ra bóng dáng đối thủ ở đâu, liền giận dữ ra lệnh: “Ra đây, đồ chuột nhắt!” Merkin vẫn không lộ tăm tích.
“Đồ chết nhát, mày chỉ biết trốn thôi sao?” Merkin vẫn không hiện thân.
“Ha ha, còn nhớ năm ấy, tao với mẹ mày...” Merkin vẫn im lìm lặng lẽ.
“Ông già mày là một thằng hèn, một thằng hèn không được gia tộc thừa nhận, nó...”
Khafu bắt đầu dùng những ngôn từ độc ác công kích, nhưng Merkin dường như vẫn không hề tiếp chiêu, đột nhiên, Khafu nhớ ra một chuyện, lớn tiếng hét: “Tao nghe nói, gia tộc Merkin, thực ra không bằng cứt chó...” Lần này, lời còn chưa dứt, Merkin đột nhiên xuất hiện từ trên đỉnh đầu Khafu, bổ nhào xuống từ một trục bánh răng. Khafu đã có chuẩn bị trước, liền thuận thế tóm lấy tay Merkin, ném cả người y ra xa. Nhưng cũng trong khoảnh khắc ấy, Merkin đã tóm chặt cánh tay Khafu, đồng thời hai chân móc lại. Người y ngã lăn, đồng thời cũng kéo theo Khafu lăn tròn dưới đất, sau đó y đạp mạnh chân, đá văng Khafu qua đầu. Khafu kéo cánh tay Merkin giật mạnh, lại kéo thân thể Merkin lộn môt vòng.
Hai người cứ như vậy lăn lông lốc mấy vòng, đã đến mép bánh răng, Khafu thấy tình hình không ổn, liền dồn sức bật lên, kéo Merkin lăn về trục giữa. Hai người đồng loạt tung về phía đối thủ một đấm, bấy giờ mới tách ra. “Hây...
a...” Khafu gầm lên, bật người lao tới, khí thế cực kỳ hùng hổ. Merkin trầm tĩnh đối phó, trong mắt thoáng vẻ cười cợt, Khafu, lần này mày tiêu rồi!
Song phương lại lấy cứng chọi cứng, nắm đấm của hai người cứ nhắm vào nhau mà nện nhiệt tình. Ngươi đánh ra một cú, ta lùi một bước, dồn sức trả ngươi một đấm, ngươi không thể không không lùi một bước. Cuộc chiến của hai người đến cuối cùng đã không còn là so đấu thực lực nữa, mà biến thành một dạng so đấu ý chí. Nhưng trong cuộc đấu ngang tay này, Merkin vẫn còn giấu một chiêu sát thủ khác.
Merkin tích tụ sức toàn thân, lại đấm ra một cú thật mạnh, đẩy Khafu lùi hai bước. Khafu đang chuẩn bị công kích, đột nhiên cơ thể sững lại, kế đó liền nghe thấy một loạt tiếng “két két”. Y trợn tròn mắt lên nhìn Merkin, vẻ mặt tựa hồ không dám tin, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau. Cuối cùng, một tiếng “rắc”, y đã nghiến vỡ cả răng. Chỉ thấy chân sau của y đã giẫm vào khe hở giữa hai bánh răng khổng lồ. Lực nghiến khủng khiếp của hai bánh răng lập tức khiến cẳng chân y nát bét. Cảm giác đau đớn khi xương cốt bị nghiền thành bột vụn trong nháy mắt ấy lan truyền khắp thâu chân, dù là hạng người thép như Khafu, sau khi nghiến đến vỡ răng cũng không thể kìm nén được mà bật ra tiếng thét thật thê thảm: “Á... á...”.
Sau tiếng kêu thảm thiết, thân thể y lập tức nghiêng đi, cánh tay cũng bị nghiến vào trong. Bánh răng khổng lồ vẫn chuyển động đều đều, trong chớp mắt đã biến cánh tay Khafu thành vô số mảnh vụn, một chút lực cản nhỏ bé ấy hoàn toàn không thể ảnh hưởng đến chuyển động của bánh răng.
Sắc mặt Khafu tái nhợt, nhưng không ngờ y vẫn chưa ngất xỉu tại chỗ.
Merkin ngồi xổm xuống trước mặt Khafu, đồng thời chập hai khẩu súng lúc nãy họ đánh nhau làm rơi xuống lại, nhét vào khe hở của bánh răng. Thân súng lập tức bị nghiến cho oằn lại, nhưng chuyển động của bánh răng cũng chậm lại, cứ nhích lên rồi lại thụt xuống, như thể muốn lấy đà để tiếp tục vòng quay.
Mỗi bánh răng nhích lên nhích xuống như thế, thân thể Khafu lại run lên bần bật, cơn đau dữ dội khiến toàn thân y không còn chịu sự điều khiển của ý thức nữa. Y vẫn trợn mắt trừng trừng mắt nhìn Merkin, vừa run rẩy vừa nói: “Thằng nhãi, ha ha ha... tao... ha ha... không thua! Tao... haha... chỉ là kém may mắn... kém may mắn... ha ha....”
Merkin lạnh lùng nói: “Thật là kém may mắn sao? Tại sao tao lại chịu hứng đòn để đẩy mày xuống chứ? Kể từ khi mày rớt xuống dưới này, mày đã xác định phải đón nhận lấy nỗi đau mà người bình thường không thể chịu đựng được đó rồi! Tao ít nhất cũng có mười cách để mày kẹt vào trong bánh răng! Bây giờ, tao cho mày một cơ hội, nói ra kẻ hợp tác với mày là ai, tao có thể cho mày một cái chết nhẹ nhàng!”
“Ha, ha, ha” Khafu run giọng cười rú lên: “Mày không đấu lại được y... vĩnh viễn mày không bao giờ thắng được y.” Miệng Khafu đầy máu tươi, cánh tay còn lại đột nhiên vươn tay chộp lấy cổ áo Merkin, định kéo theo y vào khe bánh răng. Merkin giật mình lùi lại, Khafu liền thừa cơ hất khẩu súng Merkin kẹt vào giữa hai bánh răng.
Bánh răng tiếp tục chuyển động, chân còn lại của Khafu trầm xuống, cả nửa người y kẹt vào trong. Máu từ thất khiếu trên mặt y trào ra, trước lúc chết, y vẫn gào lên: “Mày không thắng được người đó đâu!” Merkin loạng choạng lùi lại, bấy giờ y mới nhận ra, chút sức lực cuối cùng của mình đã tiêu hao hết, thậm chí ngồi cũng rất tốn sức, chỉ thấy hông mềm nhũng ra, y ngã người nằm luôn xuống.
“Bang, bang.” Có người gõ vào lan can cầu kim loại, Merkin đảo mắt nhìn lên, thấy Trác Mộc Cường Ba đứng trên cầu, hỏi vọng xuống: “Có lên đây không?”
Merkin đảo mắt, chỉ thấy trên các trục giữa bánh răng vất vưởng mấy tên lính đánh thuê mềm nhũn. Thì ra, khi y và Khafu đối chiến, Trác Mộc Cường Ba cũng hoạt động một chút, tránh để xảy ra những chuyện ngoài tầm kiểm soát. Vốn dĩ, với biểu hiện lúc đầu của Merkin, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy y cũng khá được, nhưng biến cố bất ngờ nảy sinh vào phút cuối cùng kia, lại khiến gã cảm thấy người này thực sự quá tàn khốc. Vốn dĩ là cuộc đối đầu đường đường chính chính giữa hai võ sĩ, rốt cuộc lại không đường đường chính chính đánh bại đối thủ, Merkin, vẫn thích sử dụng những phương thức riêng của y để kết thúc.
Merkin buộc dây thừng vào thắt lưng để Trác Mộc Cường Ba kéo lên. Gã đỡ y đến chỗ con dốc, đoạn nói: “Tôi xem rồi, chỗ này không có lối ra nào cả, kỳ lạ thật, ký hiệu rõ ràng là chỉ đến nơi này, Khafu cũng ở lại đây canh gác, vậy mà không có đường nào để đi.” Merkin đẩy Trác Mộc Cường Ba ra, cả người mềm nhũn, lảo đảo ngã xuống con dốc. Con dốc bốn mươi lăm độ này dường như khiến y nhớ ra điều gì đó. Y áp tai xuống đất, tập trung toàn bộ tinh thần chăm chú lắng nghe.
“Sao rồi?” Trác Mộc Cường Ba cũng áp tai xuống sàn, chỉ nghe bên dưới dường như có rất nhiều máy móc đang hoạt động, còn có cả tiếng bánh răng chuyển động và những tiếng nghe như những vật thể khổng lồ đang cọ sát vào nhau.
Merkin lắng nghe một lúc, rồi bò lên thêm mấy bước, sau đó lấy ngón tay phủi bụi bám trên con dốc. Chỉ thấy y nhìn lên một nhúm bụi nhỏ, gầm gừ tức giận: “Chó chết, con bà nó, Cửu Cung biến!” Trên mặt y nở một nụ cười thê thảm.
“Cửu cung biến là trò gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, những ngày này gã và Merkin đã vượt qua vô số cạm bẫy trong Bạc Ba La thần miếu, những lần thập tử nhất sinh cũng nhiều không đếm xuể, thứ cơ quan cạm bẫy gì có thể khiến Merkin nở một nụ cười tuyệt vọng thế này, chắc chắn không thể tầm thường được.
Merkin lật người lại, ngửa mặt lên trần nhà, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Có biết khối rubic không? Chính là cái thứ bọn trẻ con hay chơi ấy, vặn qua vặn lại, biết phải không? Đặc điểm lớn nhất của nó chính là chiều dài, chiều rộng, chiều cao của nó đều là do ba khối lập phương nhỏ ghép lại mà thành, mỗi mặt đều là chín khối lập phương chồng lên ba tầng, tất cả hợp thành một khối lập phương lớn. Kết cấu như vậy, chúng ta gọi là Tam Cung biến. Sau đó, hãy tưởng tượng khối lập phương kết cấu Tam Cung biến đó là một khối lập phương nhỏ, chín khối lập phương như vậy hợp thành lại một mặt, chồng lên ba tầng, hình thành một khối lập phương lớn hơn, gọi là Lục Cung biến. Tương tự như vậy, chín khối lập phương Lục Cung biến lại hợp thành một mặt, chồng lên ba tầng, đây là Cửu Cung biến. Đây là một khối lập phương Cửu Cung biến hoàn chỉnh, cạnh đáy của nó do hai mươi bảy căn phòng nhỏ mà hợp thành, gồm hai mươi bảy tầng, tổng cộng một vạn chín ngìn tám trăm sáu mươi ba gian phòng, mỗi gian mở sáu cánh cửa, lần lượt là trước, sau, trái, phải, trên dưới!”
“Cũng có nghĩa là, đây là một mê cung lập thể do hơn một vạn gian phòng nhỏ hợp lại?” Trác Mộc Cường Ba dò hỏi.
“Không...” Merkin lắc đầu, “chỉ là hơn một vạn gian phòng thì vẫn còn đỡ! Vấn đề mấu chốt là chữ biến trong Cửu Cung biến cơ.” Merkin rất muốn giải thích rõ ràng cho Trác Mộc Cường Ba biết Cửu Cung biến là thế nào, nhưng lại không tìm được ngôn từ thích hợp, ngẫm nghĩ một lúc, liền giơ đám bụi mà mình vừa nhón được cho Trác Mộc Cường Ba xem, đồng thời nói: “Sờ thử coi!”
Trác Mộc Cường Ba nhón tay vân vê đám bụi ấy, chỉ thấy rất mịn, gã cũng không ngờ những hạt bụi ấy lại mịn hơn cả phấn trang điểm của phụ nữ nữa. Vì vậy, cổ nhân thường sử dụng loại cát này làm chất bôi trơn cho các cơ quan máy móc cỡ lớn, có thể giảm thiểu rất nhiều ma sát. Thông thường, ở trong các mộ cổ hay kiến trúc cổ của Trung Quốc, nếu xuất hiện loại cát này thì điều đáng lo nhất chính là gặp phải Cửu Cung biến. Bởi vì, loại chất bôi trơn này có thể khiến hơn một vạn căn phòng trong Cửu Cung biến chuyển động toàn bộ!” “Chuyển động?” Trác Mộc Cường Ba nhíu mày.
Merkin đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, vội nói: “Có rồi, thử tưởng tượng xem, trong một cái lu nước bịt kín, bỏ vào rất nhiều bóng bàn. Do tác dụng của lực nổi, bóng bàn sẽ nổi lên mặt nước đúng không?”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy.”
Merkin lại tiếp lời: “Nhưng vì lu nước này bị bịt kín, những quả bóng bàn ấy chất chồng lên nhau rất nhiều tầng, toàn bộ đều ngâm trong nước, phải không? Lúc này, nếu thêm một chút gì đó lên một trong những quả bóng bàn ấy, thay đổi trọng lượng ban đầu của nó, vậy thì sẽ như thế nào?”
“Nó sẽ chìm xuống.” Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát rồi trả lời.
Merkin lắc đầu: “Không đúng, nếu trọng lượng thêm vào quả bóng bàn không lớn hơn tác động của lực nổi lên nó thì sao? Nó sẽ không chìm xuống, mà chỉ thay đổi hướng chịu lực thôi. Vốn dĩ, những quả bóng bàn này chen chúc nahy trong vật chứa, lực tác động lên các phía đều đạt đến một dạng cân bằng. Nếu trọng lượng của một quả đột nhiên thay đổi, cân bằng này sẽ bị phá vỡ, nó có thể bị những quả bóng bàn xung quang chèn sang bên trái, cũng có khả năng bị đẩy sang mọi hướng. Mà một quả bón bàn này chuyển động, toàn bộ những quả bóng còn lại cũng sẽ chuyển động theo.
Trác Mộc Cường Ba chợt thấy lạnh cả sống lưng, lẩm bẩm: “Ý ông là, những gian phòng này...” Merkin lạnh lùng nói: “Đúng vậy, tuy bên trong còn các cơ quan và nguyên lý khác nữa, nhưng tôi không phải người chuyên nghiên cứu thứ này, cũng không thể giải thích rõ ràng hơn với anh được. Tóm lại, một khi chúng ta bước vào trong, dù rơi vào gian phòng nào chăng nữa, quỹ tích di động của các gian phòng cũng sẽ hoàn toàn ngẫu nhiên, đây chính là Cửu cung biến! Đây là cảnh giới cao nhất của thuật bố trí cơ quan cạm bẫy cổ đại Trung Quốc, à không, phải nói là thế giới mới đúng. Đến nay, tính cả anh nữa, thì những người biết đến sự tồn tại của nó cũng không quá con số chín. Chỉ cần biết được kết cấu và nguyên lý, ắt sẽ tìm ra được phương pháp phá giải bất cứ loại cơ quan cạm bẫy nào trên đời, chỉ riêng Cửu Cung biến, duy nhất có Cửu Cung biến, dù có nghiên cứu thấu triệt nguyên lý của nó, thì khi đối mặt, dẫu là vị đại sư phụ cơ quan thuật cao minh nhất cũng chỉ còn biết bó tay. Sau khi tiến vào, chỉ còn nước nghe theo mệnh trời mà thôi.”
Tới đây, Merkin méo miệng cười khổ một tiếng, nói: “Có biết tại sao tôi phải tìm đủ mọi cách để kiếm được loại thực phẩm nén mà người Mỹ mới nghiên cứu ra này hay không? Không chỉ để ăn trên đường thôi đâu, loại cơ quan như Cửu Cung biến này, một khi tiến vào trong, nếu may mắn thì không chừng chỉ cần xuyên qua mấy chục gian phòng đã thoát ra được rồi, còn nếu không may thì có ở trong đó đi vòng vòng cả năm trời cũng vẫn giẫm chân tại chỗ. Chính bởi sự khó lường này của nó, nên cổ nhân vẫn thường đặt Cửu Cung biến trên con đường nhất thiết phải đi qua nếu muốn tiến vào kho báu quan trọng nhất. Chúng ta đúng là xúi quẩy hết mức, tôi tưởng sẽ không đụng phải thứ này nữa chứ.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Sao ông biết rõ vậy? Đã từng gặp rồi à?”
Merkin gật đầu đáp: “Trước đây chúng tôi từng khai quật ba tòa kiến trúc dưới lòng đất thời Nam Bắc triều, đều gặp phải thứ này. Có điều, do hạn chế về địa thế, những nơi đó đều tương đối nhỏ, không đạt được yêu cầu của Cửu Cung biến. Mặc dù vậy, chúng cũng khiến chúng tôi nếm đủ mùi đau khổ rồi. Thứ này tương truyền do Gia Cát Lượng phát minh ra, trong các mộ cổ thời Tùy Đường đều không có, chứng tỏ tại thời điểm ấy nó đã thất truyền, mà trước thời Nam Bắc triều cũng không thấy có, nên chúng tôi có thể khẳng định điều đó đúng đến 70%. Không ngờ thứ đã thất truyền từ thời Đường này, lại xuất hiện ở nơi đây. Rốt cuộc bọn họ làm cách nào vậy? Với quy mô của Bạc Ba La thần miếu, giờ chúng ta chỉ có thể cầu nguyện, mong sao cổ nhân dựa theo đồ án thiết kế mà xây dựng nên Cửu Cung biến, chứ đừng làm ra thứ gì lớn hơn nữa mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu thứ này thực sự không có cách phá giải, nghãi là người thiết kế dường như không có ý định để bất cứ ai vượt qua nơi này, vậy tại sao không trực tiếp bít kín luôn đi cho đỡ phiền phức.”
Merkin nói: “Thực ra, cũng không phải không có cách phá giải. Chỉ là, phương pháp phá giải này vô cùng huyền bí, phức tạp, chúng ta không thể hiểu nổi. Anh có biết Gia Cát Lượng sở trường gì nhất không? Bát Quái, Bát Quái trận, Cửu Cung biến này cũng vậy, nghe nói, trong sự dịch chuyển ngẫu nhiên của các gian phòng cũng có quy luật của sự ngẫu nhiên, ngầm hợp với thiên ý, phàm là người tính thông quẻ tượng Chu dịch đều có thể phá giải. Mỗi khi tiến vào một gian phòng, phải quăng ra một quẻ, dựa theo thiên thời địa lợi nhân hòa và quẻ tượng để tìm kiếm lối ra. Mà Chu Dịch ấy rốt cuộc là trò gì chứ? Ném đồng tiền, lại còn phải thành tâm thành ý mới linh nghiệm, anh nói xem, chúng ta dựa vào căn cứ khoa học nào đây? Làm sao mà phá giải được?”
Trác Mộc Cường Ba lập tức nghẹn họng, mặc dù cơ quan cổ thuật cổ đại của Trung Quốc đa phần chịu ảnh hưởng của Chu Dịch, rất nhiều mê cung và bố cục kiến trúc dựa theo phân bổ trong Bát Quái đồ, nhưng những học vấn về bốc quẻ Chu Dịch này, bọn họ hoàn toàn không hiểu gì cả. Thêm nữa, đối với họ, thứ này đích thực không có căn cứ khoa học. Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm giây lát, đoạn nói: “Ra sao thì ra, tôi nhất định phải tiến vào. Thêm nữa, ông thấy đấy, chỉ có mấy tên lính đánh thuê ở lại bên ngoài canh giữ, còn phần đông đều đã vào trong rồi, nói không chừng trong đó cũng không đáng sợ như ông nói đâu.”
Merkin cười khan một tiếng, đột nhiên ngồi bật dậy, nghiêm sắc mặt nói: “Cửa sắp mở rồi.”
Chấn động ngầm bên dưới dần lan lên phía trên, một phiến đá ở chính giữa con dốc đột nhiên thụt xuống, rồi rụt vào bên trong, để lộ ra một cửa hang hình chữ nhật dài chừng hai mét, bên trong có ánh sáng hắt ra. Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn Merkin, nói: “Tôi sẽ xuống dưới đó, ông đi không?”
“Hừ!” Merkin cười chua chát, “hai người chết, dẫu sao cũng tốt hơn là một.”
Hai người lần lượt nhảy xuống cửa hàng, phía trước là một đoạn dốc, sau đó đến một chỗ rẽ ngoặt. Merkin nói, đoạn dốc ấy là đường nối, sau chỗ rẽ chính là Cửu Cung biến.
Hai người ngoặt qua chỗ rẽ rồi trượt vào một gian phòng nhỏ vuông vắn, dài rộng cao bằng nhau, đều khoảng chừng mười mét, nhưng đối với hai người họ, thế này vẫn là một gian phòng lớn lắm rồi. Bảy trong tám góc nơi ba mặt phẳng giao nhau có đúc hình đầu thú, hình dạng quái dị, mỗi đầu thú ngậm một viên đá phát sáng to tướng, có lẽ giống như dạ minh châu, chất liệu quái dị, lớn hơn nắm đấm nhưng nhỏ hơn đầu người. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều chưa từng thấy loại vật chất này bao giờ. nó phát ra ánh sáng nhàn nhạt, miễn cưỡng chiếu sáng được cho cả gian phòng.
Trác Mộc Cường Ba mắt sáng như đuốc, thoáng cái đã nhìn rõ kết cấu bên trong cả gian phòng, quả nhiên không khác gì những điều Merkin nói. Lối ra vào của gian phòng này đều mở ngay chính giữa bốn mặt tường xung quanh, chính giữa trần nhà và sàn nhà cũng mở ra hai lỗ hình vuông mỗi bề dài một mét. Giữa các lỗ vuông, đều có thang treo nối nhau. Ngoài chỗ có thang ra, cả gian phòng, bốn vách, trần nhà, sàn nhà, gần như đều phủ kín bằng những phiến đá hình vuông dài rộng năm mươi xăng ti mét, giống một thạch thất vuông vức không có gì đặc biệt, không có các hình trang trí hoa mỹ đẹp đẽ, cũng không có phù điêu phức tạp gì. À, không phải, có hình đầu thú ở bảy góc phòng, cả góc không có hình đầu thú kia cũng gồ lên một hình lập phương nhỏ, thoạt nhìn giống như cái bệ bếp lò trong gia đình nông dân bình thường.
Có điều, trong gian phòng Trác Mộc Cường Ba và Merkin rơi vào này, cái bệ bếp lò ấy lại đeo ngược trên góc mé phía Tây, ánh sáng quá ảm đảm, gã cũng không nhìn rõ được đó là thứ gì.
Sau khi rơi xuống, Merkin liền nhao thẳng tới cái lỗ hình vuông ở chính giữa sàn nhà, thầm tính toán khoảng cách giữa gian phòng này và gian phòng bên dưới, sau đó y cũng nhìn thấy cái bệ bếp lò đeo ngược ở góc mé phía Tây, sắc mặt liền trầm xuống, gượng gạo nhe răng ra cười chua chát: “Ha ha... Cửu Cung biến lồng ghép... khặc khặc... Cửu Cung biến lồng ghép... hắc hắc...” Dường như y muốn dùng tiếng cười để làm dịu bớt tâm trạng đang dậy sóng, chỉ có điều, điệu cười ấy thật đờ đẫn, dưới ánh sáng mờ mịt này, ngay cả Trác Mộc Cường Ba trông thấy cũng không khỏi rùng mình.
“Này!” Trác Mộc Cường Ba chộp lấy Merkin lắc lắc, hỏi: “Chuyện gì vậy? Cửu Cung biến lồng ghép có gì đặc biệt?”
“Đặc biệt... phải, rất đặc biệt,” Merkin nhìn chòng chọc vào cái bệ bếp lò kia, thẫn thờ nói: “còn nhớ ví dụ về quả bóng bàn mà tôi nói lúc trước không? Giờ đổi lại một chút, mỗi quả bóng bàn không đơn giản là một quả bóng bàn nữa, mà là một quả bóng bàn lớn, giờ đây chúng ta đang ở bên trong quả bóng bàn nhỏ nằm trong quả bóng bàn lớn ấy. Giữa quả bóng bàn lớn và bóng bàn nhỏ có một khoản gko. Anh biết làm vậy có tác dụng gì không?”
“Để làm gì?”
“Hừ hừ, nói cách khác, những gian phòng nhỏ này cũng giống các đại điện mà chúng ta đi qua, mỗi gian phòng đều có bố trí cơ quan!” Merkin nghiến chặt hai hàm, âm thanh rít lên qua kẽ răng, ngữ điệu âm u lạnh lẽo. Trác Mộc Cường Ba nghe mà thấy gai cả người.
CỬU CUNG BIẾN (2)
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt Merkin, nói: “Đó chính là then chốt của cơ quan hả? Treo ở tít trên cao kia, chúng ta không với tới, làm sao mà phá giải?”
Merkin nói: “Đây là may mắn của chúng ta, khi bệ cơ quan treo ngược phía trên, cổ nhân sẽ không để cơ quan cạm bẫy trong gian phòng này khởi động. Khi anh trông thấy cái bệ kia xuất hiện ở một trong bốn góc bên dưới, các loại cạm bẫy trong phòng sẽ nhất loạt khởi động.”
Trác Mộc Cường Ba nhất thời vẫn chưa hiểu ra, thầm nghĩ: “Kỳ quái thật, vậy đặt bệ cơ quan lên trần nhà để làm gì chứ? Chẳng lẽ dùng để chỉ đường ra khỏi gian phòng này sao?”
Nghĩ ngợi giây lát, gã lại bước đến quan sát lỗ vuông kia. Cái lỗ hình vuông nối liền hai gian phòng này không đơn giản chỉ là một lỗ hổng, mà là một thông đạo hình chữ nhật. Trác Mộc Cường Ba dùng ánh mắt áng chừng chiều dai của thông đạo, thấy ít nhất cũng phải tầm mười mét. Chẳng trách Merkin lại nói đây là Cửu Cung biến lồng ghép, cũng có nghĩa là, bên ngoài gian phòng nhỏ này, ít nhất còn một gian phòng lớn mỗi bề chừng hai chục mét nữa.
Trác Mộc Cường Ba leo lên cầu thang, nhìn vào lỗ hổng hình vuông phía trên, cũng thấy một thông đạo dài, đầu bên kia cũng chỉ thấy một lỗ vuông, bên trong lỗ vuông ấy lại là thông đạo, bên trong nữa cũng lại như thế, dường như kéo dài vô tận. Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống, nói với Merkin: “Còn
đợi gì nữa? Không sang gian phòng tiếp theo sao?”
“Đợi chút đãm anh xem chỗ kia kìa.” Merkin chỉ vào phần giữa thông đạo hình vuông dưới sàn nhà: “Khi các gian phòng chuyển động, sẽ có tấm ngăn chắn ngang những thông đạo này, nếu lúc này chúng ta đang xuống dở chừng, sẽ bị chia tách ra.”
Trác Mộc Cường Ba nheo mắt quan sát, quả nhiên, giữa hai cầu thang có một kẽ hở, xem ra đó chính là chỗ phân cách hai gian phòng. Gã bèn nói: “Bao lâu thì những gian phòng này sẽ di động một lần?”
Merkin nói: “Không biết, cái này phải xem quy mô của Cửu Cung biến, thời gian giữa mỗi lần di động càng lâu, chứng tỏ rằng quy mô của Cửu Cung biến càng lớn, vả lại kiểu di động này cũng không theo quy luật gì, có lúc chỉ di động trong một phạm vi nhỏ, cũng có lúc toàn bộ các gian phòng đều di động. Hẳn anh có thể tưởng tượng được, khi trọng lượng bên trong một quả bóng bàn thay đổi, nó sẽ chèn ép những quả bóng bàn xung quanh chuyển động như thế nào. Vì vậy, chúng ta ít nhất phải đợi ba lần di động mới có thể tính toán được một cách đại khải thời gian giữa các lần di động.”
Hai người đang nói chuyện, bỗng nghe “choeng” một tiếng, tựa như bảo kiếm rời vỏ, Trác Mộc Cường Ba cúi đầu ngó xuống dưới, rồi ngẩng đầu nhìn lên trên, chỉ thấy cả hai thông đạo đều bị hai tấm bảng kim loại sáng bóng bật ra chắn mất. Thiết tưởng, bốn thông đạo trên bốn vách tường cũng vậy. Nghĩ lại âm thanh vừa nghe thấy lúc nãy và tốc độ đóng kín thông đạo chỉ trong chớp mắt ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi giật thót người: “Nhanh như vậy sao!”
Merkin nói: “Vì vậy chúng ta mới phải đợi, sơ sẩy một chút là bị chém ngang lưng thành hai đoạn ngay.” Liền ngay sau đó, cả gian phòng bắt đầu run rẩy, nhè nhẹ đung đưa. Merkin bảo Trác
Mộc Cường Ba đứng sát vào một bên tường. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chuyện gì vậy?”
Merkin đảo mắt khắp xung quanh gian phòng, lẩm bẩm nói: “Cửu Cung bắt đầu biến đổi!”
Thoáng sau, Trác Mộc Cường Ba liền hiểu được ý nghĩa thực sự Cửu Cung biến. Ban đầu gã ngỡ rằng, chỉ là cả gian phòng thay đổi vị trí, nào ngờ, không chỉ thay đổi vị trí, mà toàn bộ gian phòng cũng đảo lộn, chẳng trách Merkin lại đem hình ảnh khối rubic ra để so sánh. Chỉ thấy sàn nhà bắt đầu chầm chậm nghiêng đi, nâng lên, gian phòng giống như một khối lập phương to lớn bị người khổng lỗ xoay chuyển, lăn về phía trước chín mươi độ, kế đó lại lăn thêm chín mươi độ về mé phía Tây, rồi xoay chín mươi độ theo phương ngang...
Cũng may sự thay đổi này diễn ra không nhanh lắm, hai người men theo sàn nhà nghiêng dốc đi về phía chân tường, rồi lại men theo tường dốc đi lên trần nhà, sau đó từ trần nhà bước sang một bức tường khác. Có điều, cứ xoay chuyển như vậy mấy lần, họ cũng không phân biệt được mặt nào là sàn nhà, mặt nào là tường, mặt nào là trần nhà nữa, đừng nói gì đến chuyện nhận biết được phương vị Đông Tây Nam Bắc. Đồng thời Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu ra, tại sao bệ cơ quan kia lại treo ngược ở trên cao. Tức làm khi cái bệ đó lăn xuống góc bên dưới, tất cả cơ quan sẽ khởi động. Có điều, gã và Merkin vẫn còn may, bệ cơ quan vốn ở góc phía trên hướng Tây Bắc, giờ đây đã chuyển sang góc Đông Nam, vẫn ở phía trên.
Đợi cho chuyển động dừng lại, Trác Mộc Cường Ba nôn nóng hỏi: “Rốt cuộc là thế nào vậy? Ông có nói cả gian phòng cũng lăn lông lốc thế này đâu?”
Merkin nhăn mặt nói với giọng bất lực: “Tôi đã bảo rồi, không ai có thể hiểu hết được các cơ quan và nguyên lý thiết kế trong Cửu Cung biến, tôi không chuyên nghiên cứu môn cơ quan học, chỉ có thể giải thích một cách đại khái cho anh hiểu thôi. Vả lại, những thứ này tôi nghe được từ các cao thủ chế tạo cơ quan cạm bẫy, bọn họ cũng chỉ có thể suy diễn ra một dạng thức gần với nguyên lý của cơ quan này mà thôi. nếu dễ dàng hiểu được như thế, thì nó đã không được gọi là cảnh giới cao nhất của thuật cơ quan cổ đại rồi.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Giờ tôi hoàn toàn không còn cảm giác phương hướng nữa, không thể biết chúng ta đã bị di chuyển đến chỗ nào rồi.”
Merkin nuốt nước bọt nói: “Dù cho căn phòng không xoay chuyển, anh ở trong không gian bít kín thế này cũng không thể biết được mình đã bị đẩy đến đâu đâu. Đây chính là Cửu Cung biến, mà mới chỉ là lần biến hóa đâu tiên thôi, thử tưởng tượng xem, nếu bị giam cầm ở nơi này nửa năm hoặc lâu hơn, mỗi ngày đều phải trải qua mấy chục, mấy trăm thậm chí mấy nghìn lần biến hóa như vậy, anh sẽ...”
Trác Mộc Cường Ba vội nói tiếp: “Tôi sẽ phát điên!”
Merkin sắc mặt nặng nề gật đầu, nói: “Đúng thế, trước đây bọn tôi cũng có người bị vây hãm trong Cửu Cung biến, đợi mấy tháng sau được giải cứu ra, đều phát điên cả. Những gian phòng thoạt nhìn hết sức bình thường, nhưng khi đi qua hơn một vạn gian phòng như thế, rất nhiều người sẽ tuyệt vọng. Đây là một khảo nghiệm cực lớn đối với sức mạnh tinh thần và ý chí của con người. Vì vậy, tôi mới nói, những người tiến vào Cửu Cung biến, chỉ có thể nghe theo mệnh trời mà thôi.”
Sau đó, hai người tiếp tục chờ đợi, căn phòng lại chuyển động và xoay mấy lần, Merkin âm thầm tính toán, thấy cứ khoảng trung bình hai mươi phút căn phòng mới thay đổi phương vị một lần, lần ngắn nhất là cách nhau mười lăm phút, cũng có nghĩa là, chỉ cần bọn họ di chuyển trong khoảng mười phút sau khi vách ngăn giữa các gian phòng mở ra, thì đại khái có thể an toàn.
Tiếp đó, hai người liền thương thảo đến vấn đề tiếp tục đi như thế nào. Merkin đã nói, từng gian phòng dịch chuyển không theo trật tự gì cả, sau khi chuyển động, người ở bên trong không thể phân biệt được trước sau phải trái, chỉ có thể xác định được hai phương vị trên và dưới. Nếu cứ đi mãi xuống dưới hoặc lên trên thì cũng không khả thi, vì khi các gian phòng dịch chuyển vị trí, chúng cũng có thể trồi lên hoặc thụp xuống, cứ đi theo một hướng, rất có khả năng chỉ giậm chân tại chỗ. Vì vây, phương pháp duy nhất chính là... dựa vào cảm giác, cảm thấy hướng nào thuận mắt thfi đi theo hướng đó!
Chặng đường phía trước đã cho thấy, cảm giác của Cường Ba thiếu gia thực sự quá :tốt”, cứ chỗ nào có bẫy là gã đâm đầu vào, vì vậy kết quả thảo luận của hai người là lần này để Merkin dẫn đường.
Đối với hai người có thân thủ cao cường như bọn họ, trong mười phút có thể nhẹ nhàng đi qua hai mươi gian phòng. Mặc dù thể lực của Merkin chưa hồi phuc, nhưng vượt qua mười gian phòng cũng không phải vấn đề lớn lắm. Y đi trước dẫm Trác Mộc Cường Ba lúc rẽ trái, lúc ngoạt sang phải, khi leo lên, lúc lại leo xuống, sau khi qua mười gian phòng họ liền dừng lại, chờ các gian phòng chuyển động. Họ cứ đi như vậy được ba lần, có thể nói, cảm giác của Merkin tốt hơn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, trong ba mươi gian phòng nayfm họ không gặp phải cơ quan nào cả. Chỉ là, muốn tìm được lối ra chính xác, họ nhất thiết phải xem xét toàn bộ các lỗ vuông ở cả sáu mặt trong gian phòng. Đây cũng là nguyên nhân khiến họ không thể di chuyển nhanh được, xem tình hình này, cửa ra vẫn còn ở xa xôi lắm.
Lần di chuyển thứ tư bắt đầu, sau khi qua ba gian phòng, đến gian phòng thứ tư, họ chui ra khỏi thông đạo mé bên trái, hai chân Trác Mộc Cường Ba vừa chạm đất, bỗng nghe “choeng” một tiếng, sáu tấm kim loại đồng loạt bật ra. Trác Mộc Cường Ba giật nẩy mình, thảng thốt hỏi: “Chuyện gì vậy? Vẫn chưa hết thời gian mà?”
Merkin ủ rũ chỉ vào góc tường, thở dài nói: “Vận may của chúng ta chấm dứt rồi.”
Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn theo hướng y chỉ, bệ cơ quan, bệ cơ quan đã xuất hiện ở góc phía dưới. Gã vội hỏi: “Sẽ xuất hiện cạm bẫy gì đây? Chúng ta cứ vậy tiến vào chứ?” Gã đưa mắt nhìn những phiến đá vuông vắn lát dưới chân, gã rất không thích loại đá lát sàn này, nó khiến gã nhớ lại thạch thất cơ quan trong Đảo Huyền Không tự.
Merkin cũng lấy làm khó xử, kiểu đá lát sàn này rất dễ khiến người ta liên tưởng đến hậu quả chỉ cần đặt chân sai một bước là cạm bẫy sẽ lập tức khởi động, nhưng nếu không bước qua thì thậm chí còn không nhìn rõ được bệ cơ quan trông như thế nào. Mà những tấm chắn kim loại kia có mở ra lần nữa hay không? Sau khi gian phòng này chuyển động liệu chúng có mở ra nữa không?
Đang suy tính, những âm thanh “lách cách lách cách...” đã từ trên đỉnh đầu vẳng xuống. Merkin ngẩng mặt lên nhìn, chỉ thấy trần nhà đang chầm chậm đè xuống với tốc độ thế này, chỉ sợ bọn họ khó mà đợi được đến lúc gian phòng chuyển dịch phương vị lần thứ hai.
Cơ quan đã khởi động, hai người cũng bớt đi nhiều điều e ngại, Trác Mộc Cường Ba sải bước chân chạy đến trước bệ cơ quan, bới cảnh tượng trước mắt không chỉ khiến gã nhớ lại lưỡi dao trong địa cung Maya, mà còn gợi lại trong tâm trí gã gian phòng đã vùi thây Đa Cát. Đấu trường hạn chế thời gian, hiển nhiên cơ quan cạm bẫy trong những gian phòng này cũng là loại hạn chế thời gian!
Bệ cơ quan là một khối lập phương nhỏ cao khoảng một mét, trên bề mặt là một bàn cơ dọc ngang chằng chịt, không xếp quân cờ, có điềum những hình vuông nhỏ trong bàn cờ ấy lại giống như bàn phím máy tính, một số ô lõm xuống, một số ô nhô lên, bên cạnh có một hàng chữ nhỏ chú giải. Trác Mộc Cường Ba dịch đi dịch lại hai lần mà vẫn thấy mâu thuẫn, không sao hiểu được, gã cuống lên, vội lấy máy tính ra tra, cách dịch hợp lý nhất có lẽ là: “Làm cho tất cả ô vuông lõm xuống, cơ quan sẽ tự động hóa giải.”
Merkin cũng đã đến bên cạnh bệ cơ quan, nghe Trác Mộc Cường Ba phiên dịch, y chợt nhớ ra điều gì đó, liền thò tay ấn một ô vuông lõm xuống, quả nhiên, những ô vuông này giống như công tắc điện vậy, ấn một cái thì lõm xuống, ấn thêm cái nữa nó lại tự bật lên. Có điều, kho ô vuông Merkin ấn tay vào bật lên, bốn ô vuông tiếp giáp với nó cũng đồng thời bật lên theo. Merkin liền gật đầu khẳng định: “Bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ đại!”
Trác Mộc Cường Ba lập tức thắc mắc: “Là thứ gì vậy?” Lữ Cánh Nam không truyền thị cho bọn gã nhiều kiến thức về cơ quan của nước ngoài. Merkin nói nhanh: “Bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ đại này nổi tiếng ngang với bài toán xoay vòng của Ai Cập cổ và bài toán xếp gạch của Trung Quốc cổ đại, nghe nói đều là nan đề trí tuệ có từ thời đại nô lệ. Thời bấy giờ, chỉ những người sở hữu đại trí tuệ mới phá giải được. Đề mục sớm nhất là, khi đèn trong một gian phòng được thắp sáng, thì có thể đồng thời chiếu sang cả bốn gian phòng tiếp giáp với nó, mà khi ngọn đèn tắt đi, bốn gian phòng kia cũng cùng lúc tối tăm. Vậy thì, trong ma trận vuông xếp bới số gian phòng, cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn mới có thể chiêu sáng toàn bộ các gian phòng ấy. Về sau, liền diễn biến thành ra như vậy, khi một ô vuông bị ấn xuống, bốn ô vuôn tiếp giáp với nó cũng sẽ lõm xuống theo. Tương tự như vậy, khi nó bật lên, bốn ô vuông quanh nó cũng sẽ bật lên. Đây thực ra là một câu đố logic, tôi cũng không biết nó được truyền vào Trung Quốc từ khi nào nữa. Dầu sao những trò chơi trí tuệ cổ xưa này cũng xuất hiện từ rất lâu rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng nói lảm nhảm nữa, giờ phải phá giải như thế nào đây?"
Merkin nói: "Cần phải có thời gian suy nghĩ, bên trên bàn cờ này vốn đã có các ô lồi lên và lõm xuống, chứng tỏ cổ nhân đã thiết định sẵn rồi, muốn phá giải cục thế này sợ rằng còn khó hơn là bàn cờ toàn lồi hoặc toàn lõm. Nhưng chẳng phải chúng ta vẫn còn máy tính sao? Dùng máy tính để giải câu đố logic nho nhỏ này, thực sự chẳng tốn chút công sức nào."
"Đúng vậy!" Merkin vừa nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba liền vội vàng quét hình dạng bàn cờ này vào, rồi tìm phần mềm phá giải. Merkin ngẩng đầu nhìn trần nhà, nói: "Với tốc độ này, chúng ta còn khoảng mười phút nữa, tôi lấy làm tò mò, bệ cơ quan này dường như không thể thụt vào trong tường được, vậy thì trần và sàn nhà còn cách nhau khoảng một mét, như vậy thì sao có thể làm gì chúng ta được nhỉ?"
Lời vừa mới dứt, một đám bụi đã lả tả rơi xuống, Merkin phẩy phẩy những hạt bụi lơ lửng trên không, nheo mắt nhìn lên, đột nhiên hai mắt bỗng trợn trừng: "Thì ra là vậy." Chỉ thấy trong khe hở giữa các phiến đá kia, lấp ló lộ ra những bánh răng cưa đang xoay chuyển với tốc độ cực nhanh. Trần nhà càng hạ xuống, những bánh răng ấy cũng lộ ra càng nhiều, khoảng cách giữa các bánh răng hiển nhiên không đủ cho một người né tránh.
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn, cũng trông thấy những lưỡi cưa ấy, song lúc này gã đã không cần lo lắng quá, chỉ buông một câu: "Xong rồi."
Theo thứ tự hiển thị trên máy tính, gã lần lượt ấn từng ô vuông, chỉ thoáng cái toàn bộ các ô vuông trên bàn cờ đã lõm xuống. Cổ nhàn rõ ràng không thể tiên lượng được hậu thế lại chế tạo ra cái thứ gọi là máy vi tính này, trần nhà mới chỉ hạ được chừng một hai mét rung rung nâng lên, vẻ vô cùng miễn cưỡng.
Nhưng Trác Mộc Cường Ba cũng thầm hiểu, nếu không có sự giúp sức của máy tính, chỉ dựa vào hai người bọn gã, trong mười phút đồng hồ, phá giải cho được bàn cờ lồi lồi lõm lõm thoạt nhìn có vẻ đơn gỉản này cũng là việc hết sức khó khăn. Gã bất giác tò mò với hai loại trò chơi trí tuệ cùng tề danh với bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ đại, liền hỏi Merkin: "Bài toán xoay vòng kiểu Ai
Cập cổ và bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc mà ông nói, rốt cuộc là thế nào vậy?"
Merkin nhìn trần nhà đang từ từ dâng lên, biết nguy cơ đã được giải trừ, bèn thở phào nói: “Bài toán xoay vòng kiểu Ai Cập cổ đại cũng giống thế này, trong một gian phòng, bốn bức tường có bốn hình vẽ khác nhau, sau đó dựng bốn ống tròn chuyển động được ở giữa phòng hoặc một mé tường, giống như chuyển luân kinh của Tây Tạng vậy, trên mỗi ống tròn ấy đều vẽ những hình giống với bốn bức tường, mỗi bức chiếm một phần tư ống tròn. Quá trình tiếp sau tương tự trò đốt đèn này, khi anh chuyển động một ống tròn, hai ống tròn tiếp giáp với nó cũng sẽ chuyển động theo. Mục đích đề ra là, hình vẽ trên ống tròn đồng nhất với hình vẽ trên bức tường đằng sau nó, tạo thành bốn cặp, cơ quan sẽ mở ra.”
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây 1át, rồi gật đầu tỏ ý đã hiểu. Merkin lại nói tiếp: "Còn bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc cổ thì tôi chưa gặp bao giờ, chỉ biết hình như đã có từ trước thời
Thương Chu, cũng là một dạng câu đố logic, hình như là... liên quan gì đó đến các con số thì phải."
Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Liên quan đến các con số? Chẳng lẽ là bài toán viên gạch logic mà Lữ Cánh Nam từng nhắc đến?” Tấm kim 1oại chắn giữa lối đi đã mở ra, hai người cũng không muốn mất quá nhiều thời gian, liền tranh thủ đi qua hai gian phòng nữa. Trác Mộc Cường Ba chợt nêu ý kiến: “Liệu có khả năng, khi hệ cơ quan trong phòng ở góc trên, gian phòng ấy sẽ an toàn, cứ men theo những gian phòng an toàn này mà tiến tới, sẽ tìm ra được lối ra chính xác?”
Merkin lắc đầu, y cho rằng khả năng này còn nhỏ hơn cả tỷ lệ trúng số độc đắc. Phải biết rằng, những gian phòng này đều có thể mặc tình xoay chuyển, cho dù thoạt tiên có vẻ an toàn, nhưng sau khi chuyển động, làm sao chắc chắn được bệ cơ quan sẽ không chuyển xuống góc dưới. Thêm nữa, nếu vào một gian phòng, mà ở đầu bên kia cả năm lối ra đều là các gian phòng có bệ cơ quan ở góc phía dưới thì tính sao? Lùi lại chắc? Nếu cũng vẫn không được, thì lạị lùi nữa chắc? Nếu Cửu Cung biến mà dễ dàng vượt qua như vậy, thì nó cũng không gọi là Cửu Cung biến rồi.
Trác Mộc Cường Ba ngần ngừ, cứ dựa vào cảm giác mà đi thế này, có khác gì con mèo mù đi loanh quanh xem có đụng chết con chuột nào không? Merkin cười nhạt đáp rằng đúng là chẳng có gì khác, có điều, vận động cũng có lợi cho sức khỏe, vả lại nếu cứ ở trong một gian phòng không chịu đi, bệ cơ quan sớm muộn gì cũng chuyển xuống phía dưới. Mà cũng đừng mong những cơ quan cạm bẫy ấy sẽ lặp lại, chẳng hạn như trò đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ kia, mỗi lần bệ cơ quan chuyển xuống góc dưới, vị trí của những ô vuông lồi lõm trên bề mặt nhất định sẽ thay đổi. Nếu hai người họ không có máy tính trợ giúp, chắc chắn không bao lâu sẽ bị loại cơ quan hạn chế thời gian này ép cho tâm trí suy kiệt.
Hai người vừa thảo luận vừa tiếp tục tiến lên, đi qua hai gian phòng nữa, họ liền phát hiện một số vết máu vẫn chưa khô, còn cả mảnh vụn quần áo, tóc... Merkin cảnh giác nói: “Đã có người đi qua những gian phòng này.”
Trác Mộc Cường Ba quẹt tay vào vết máu, gật đầu nói: “Mới đi qua không lâu.”
Merkin lần theo vết máu đến trước một cửa thông đạo, hỏi: “Có đi theo không?” Nói đoạn, y thò đầu vào bên trong lắng nghe.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không ích gì đâu, ông không chú ý thấy bề mặt bên trong thông đạo không hề bằng phẳng à? Cổ nhân đã đục những đường rãnh trên đó, chúng tôi gọi đây là vách giảm thanh, chúng có thể hấp thu tiếng nói của chúng ta một cách hết sức hiệu quả. Chỉ cách khoảng ba đến năm phòng, là ông không thể nghe thấy âm thanh gì đâu. Trên một số phương diện, trình độ nghiên cứu và vận dụng âm học của người Qua Ba cổ đại còn vượt qua cả khoa học hiện đại ngày nay ấy chứ. Không phải chúng ta đã bàn rồi sao? Cứ dựa theo cảm giác mà đi. Ông cảm thấy nên đi hướng nào, chúng ta sẽ đi hướng đó.”
Merkin nhảy xuống thang, nói: “Được, vậy đi bên này, tránh bọn chúng ra.” Y bước đến cửa một thông đạo ở mé bên, ngoái đầu nói tiếp: "Nhưng tôi cũng phải nhắc anh trước, mỗi gian phòng này áng chừng chỉ khoảng một trăm mét vuông, không thể chứa được toàn bộ đám lính đánh thuê, vì vậy tôi dám khẳng định, bọn chúng sẽ tách nhau ra, cả bọn đi bừa đi bậy trong này, sớm muộn gì cũng đến lúc chúng ta giáp mặt trực diện với chúng.”
Trác Mộc Cường Ba ở phía sau hỏi: “Vậy thì sao?”
Merkin nói: “Ý tôi là, bọn lính đánh thuê đó đều đã trải qua huấn luyện đặc biệt, giết người không chớp mắt, bàn tay ít nhiều cũng đã nhuốm máu người...Ý của tôi chính là, nếu chúng ta gặp phải bọn chúng, anh tuyệt đối không thể nương tay. Còn nhớ lúc tôi quyết đấu với Khafu, anh không hề giết một tên thủ hạ nào của hắn, nếu lúc ấy bọn chúng đột nhiên tỉnh lại thì hậu quả thật khó mà tưởng tượng.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn Merkin với ánh mắt cổ quái, thầm nhủ thế này là thế nào? Bản thân ông không giết người, lại cứ xúi giục tôi đi giết người? Nghĩ đoạn, gã lạnh lùng đáp lại: “Tôi tự biết cân nhắc.”
Merkin nhận ra thái độ khó chịu trong ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba, ngoảnh đầu lại lầm bầm: "Tóm lại, gặp kẻ địch thì phải thẳng tay, tôi có hại anh đâu."
Hai người tiến vào thông đạo, song song bò sang đầu bên kia, để đề phòng tấm ván kim loại đột nhiên chia cắt hai người ra, hoặc giết chết một trong hai bọn họ. Cần biết một điều rằng, ở nơi như thế này, đáng sợ nhất chính là chỉ có một mình, cho dù bên cạnh là kẻ địch khiến ta lúc nào cũng phải nơm nớp đề phòng thì cũng vẫn hơn một mình lẻ bóng.
Hai người vừa bò đến cửa ra, đột nhiên thấy trong phòng thấp thoáng có bóng người. Trong màn sáng mờ mờ, một tên lính đánh thuê đang chuẩn bị chui vào cửa thông đạo đối diện với họ. Kẻ này dường như cũng nghe được động tĩnh, ngoảnh đầu lại nhìn về phía này, ba cặp mắt giao nhau tại một điểm...
NGƯỜI LẠ
Trên tay tên lính đánh thuê đó có súng, hắn bất thình lình thấy Trác Mộc Cường Ba và Merkin 1ó đầu ra, liền thoáng ngẩn người. Trác Mộc Cường Ba và Merkin phản ứng cực nhanh, hai người cùng lúc ấn mạnh tay vào mép thông đạo, hai bóng nguòi "soạt" một tiếng lao vút ra bên ngoài, chỉ trong chớp mắt, đã đáp xuống mặt đất. Trong khi ấy, tên lính đánh thuê kia vẫn đang thần người ra.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau. Ý đang hỏi nhau xem có nên làm thịt tên này không thì tên lính đánh thuê ấy đã lập tức có phản ứng...
Chỉ thấy tên lính đánh thuê râu ria xồm xoàm cao lớn như con tinh tinh đột nhiên nước mắt đầm đìa, ném súng chạy tới, được nửa chừng liền quỳ sụp xuống, mượn đà trượt thêm một quãng dài đến trước mặt hai người, vừa ôm chân Trác Mộc Cường Ba vừa gào lên như một người đàn bà bị vu oan giá họa: “Đừng... đừng bỏ lại tôi... đừng bỏ lại tôi một mình ở đây...”
Vì tên này nói tiếng Nga, Trác Mộc Cường Ba nghe không hiểu, thêm nữa gã cũng không quen bị một người đàn ông tướng tá kềnh càng ôm chân khóc ròng thế này, liền giậm giậm chân, hất tên lính đánh thuê kia ra xa một chút.
Đối với biến cố bất ngờ này, hai người đều chưa chuẩn bị tâm lý, cũng may Merkin rất giỏi tiếng Nga, y lập tức hỏi tên lính đánh thuê kia: "Chúng mày vào đây bao lâu rồi? Chỉ còn lại một mình mày thôi à?" Tên lính đánh thuê bị Trác Mộc Cường Ba đạp văng ra, cứ thế quỳ một chân dưới đất, nước mắt nước mũi dầm dề nhem nhuốc. Hình như đã lâu lắm rồi không có ai nói chuyện với hắn, vừa nghe Merkin hỏi, hai cánh môi hắn không ngừng mấp máy, nói liền một mạch không nghỉ.
Sau khi nghe Merkin phiên dịch, Trác Mộc Cường Ba mới biết, tên lính đánh thuê này tên là Boris, hắn theo đội số 3 vào đây từ mười lăm ngày trước. Sau khi tiến vào nơi quỷ quái này, bọn hắn mới phát hiện có điều bất ổn, không thể nào liên lạc được với đội ngũ đi trước, mà những gian phòng này cái nào cũng giống cái nào, cứ lặp đi lặp lại vô cùng vô tận. Đội của hắn vốn có mười hai người, về sau đã bị chia tách ra, tưởng rằng khi cửa mở lại, những ngưởi khác có thể theo kịp, kết quả mới phát hiện hóa ra không phải. Những chiến hữu kia của hắn như thể bốc hơi vào không khí vậy. Tiếp sau đấy, bọn hắn lại gặp phải cạm bẫy. Đám lính đánh thuê bọn hắn, nếu bảo đánh trận giết người thì tên nào cũng là cao thủ, nhưng đụng phải cơ quan cạm bẫy, đặc biệt là loại yêu cầu phải động não, thì kết cục chỉ có...
Tóm lại, cuối cùng chỉ còn lại một mình Boris. Hắn ta thấy đồng bọn hết tên này đến tên khác ngã xuống, tinh thần lúc nào cùng nơm nớp lo âu, hơn một tuần nay, hắn chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy từ gian phòng này sang gian phòng khác. Hắn cũng phát hiện được một số quy luật, nên chỉ dám chui vào những gian phòng có bệ co quan treo ngược ở góc trên. Mỗỉ lần Cửu Cung biến hóa, hắn đều cực kỳ khủng hoảng, chỉ sợ bệ cơ quan kia
sẽ xoay xuống góc dưới. Chẳng những vậy, hắn lại chỉ có một thân một mình, mức độ căng thẳng và sự sợ hãi vì thế cũng tăng thêm một bậc nữa. Ngày nào Boris cũng khẩn cầu Thượng đế, cầu xin Thượng đế cho hắn gặp một người nào đó, dù là kẻ địch cũng được.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin im lặng lắng nghe, Boris kể một mạch, không giấu giếm chuyện gì. Sau khi lấy lại bình tĩnh, hắn đã có thể nói một thứ tiếng Anh đơn giản, ba người có thể đồng thời trao đổi. Hắn nói, hồi nhỏ đi học hắn cũng khá môn Toán, vì vậy mới mấy lần thoát hiểm, rồi hắn lại kể bà nội hắn rất hiền, bố mẹ hắn quen nhau như thế nào, tên ở nhà của hắn là Popo, Merkin và Trác Mộc Cường Ba có thể gọi hắn là Popo cho tiện.
Nghe Popo nói năng lung tung, Merkin bảo hắn trấn định lại, rồi dò hỏi xem kẻ nào là chủ sự của đội ngũ này, tướng mạo thân hình kẻ ấy như thế nào. Popo nói, vóc dáng người đó không hề nổi bật, trên mặt lại bôi dầu đen hóa trang rất đậm nên không nhìn rõ được tướng mạo. Bọn hắn chỉ biết gọi y là ngài Thomas. Merkin chau mày, y không biết có người nào như vậy! Trác Mộc Cường Ba cúi đầu không nói, âm thầm đưa ra một số suy đoán.
Trác Mộc Cường Ba cũng hỏi về tình hình của Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn. Popo nhất nhất trả lời đầy đủ. Lúc trước gã đã hỏi mấy tên lính đánh thuê ở gian phòng toàn bánh răng rồi, những gì Popo nói cũng gần như tương tự. Hắn chỉ biết Lữ Cánh Nam, pháp sư Á la và Mẫn Mẫn đều đi theo kẻ thủ lĩnh kia. Popo cứ trả lời được mấy câu là lại bắt đầu lảm nhảm, kẻ nào chết rồi, chết như thế nào, hắn sợ, thực sự rất sợ, rồi bắt đầu nói cả những chuyện hoàn toàn không liên quan.
Popo bắt đầu kể về lịch sử di cư của tổ tiên dòng họ nhà hắn, Trác Mộc Cường Ba và Merkin để mặc cho hắn nói một mình, ngấm ngầm bàn xem nên xử lý tên lính đánh thuê này thế nào. Merkin đánh mắt ra hiệu: "Chúng ta tước hết vũ khí trang bị, để hắn ở lại đây tự sinh tự diệt, không cho đi theo."
Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Popo, cao lớn, khoảng chừng một mét chín tám đến hai mét, lông mày rậm, mắt to, môi dày, khuôn mặt vuông vắn, bộ dạng ngốc nghếch. Gã lộ vẻ bất nhẫn:
"Vậy có tàn nhẫn quá không?"
Khóe miệng Merkin hơi nhếch lên, y trợn trừng mắt: "Anh điên rồi, hắn là kẻ địch, cho dù hiện giờ hắn hoàn toàn không có khả năng uy hiếp chúng ta, nhưng vậy thì sao chứ? Ai đi đường nấy, chúng ta không hạ sát thủ đã là tử tế với hắn lắm rồi."
Trác Mộc Cường Ba nhíu mày cúi mặt, lừ mắt nhìn Merkin: "Không, quan niệm của người Trung Quốc chúng tôi khác với các ông, dù là kẻ địch cũng không nhất định phải đuổi tận giết tuyệt, có lúc địch cũng có thể hóa thành bạn được."
Merkin ngoảnh mặt đi, ngón tay út khẽ nhếch 1ên chỉ về phía Popo: "Nhưng hắn là người nước ngoài, không hiểu quan niệm của người Trung Quốc các anh là cái quái gì đâu. Người Trung Quốc các anh, chẳng phải cũng có câu chuyện kiểu như ‘Người nông dân và con rắn’, ‘Đông Quách tiên sinh và con sói’
(30)
đấy sao?”
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba trở nên kiên nghị: “Tôi đã quyết định rồi, dẫn theo hắn, trong chốn tuyệt cảnh này, người với người phải dựa vào nhau mới sống sót được, hiện giờ chúng ta và hắn không có xung đột về lợi ích, mọi người đều chỉ muốn sống sót ra khỏi đây mà thôi. Ông cứ một mực bài xích kẻ khác, đến cuối cùng, kẻ bị cô lập lại chính là bản thân ông đấy.”
Merkin thoáng lộ vẻ giận dữ, nghiến răng: "Anh nghĩ vậy thì tôi cũng chẳng còn cách nào, đây là dẫn sói vào nhà, anh tự làm tự chịu đấy nhé."
Hai người lặng lẽ trao đổi bằng ánh mắt và động tác, Popo hoàn toàn không hề hay biết, y vẫn cúi đầu lẩm bẩm như đếm đồ quý trong nhà: “bấy giờ, bọn họ dẫn theo mười con trâu, ba cỗ xe ngựa, đi hơn một nghìn cây số...”
“Được rồi, Popo,” Trác Mộc Cường Ba vỗ vai hắn nói, “vừa đi vừa kể tiếp, chúng ta phải đi rồi.”
“Đi?” Popo ngẩng đầu lên, nét mặt hoảng hốt, điều hắn sợ nhất chính là bị Trác Mộc Cường Ba và Merkỉn bỏ lại đây, thà rằng bọn họ giết gã tại chỗ còn đỡ hơn là bỏ hắn lại đây một mình. Hắn không đủ dũng khí để tự sát, mà cũng không thể nào chịu đựng cuộc sống cả ngày phải lo âu nơm nớp thế này nữa.
Câu nói tiếp theo của Trác Mộc Cường Ba khiến quả tim đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực của hắn bình tĩnh trở lại: "Chúng ta cùng đi, vừa đi vừa kể lại xem các anh đã gặp phải những cơ quan cạm bẫy gì."
Trác Mộc Cường Ba và Merkin đi trước, Popo theo sát phía sau. Hắn bắt đầu tả lại những cơ quan mình gặp phải từ lúc tiến vào Cửu Cung biến. Nơi này có đủ loại cơ quan cạm bẫy khác nhau, có những sợi tơ kim loại mỏng mảnh mắt thường không thể nhìn thấy chạy từ tường bên này sang tường bên kia; có những lưỡi dao mỏng dính bắn ra từ cả sáu mặt trên dưới trái phải trước sau; có lúc toàn bộ mặt sàn xoay tròn ba trăm sáu mươi độ; cũng có gian phòng lại có nuôi dưỡng những động vật đáng sợ...
“Động vật?” Trác Mộc Cường Ba đang đi phía trước bỗng dừng lại, gã chưa bao giờ nghĩ, trong Cửu Cung biến này lại còn nuôi dưỡng động vật.
"Thật đấy," Popo vội nói, "tôi chưa từng gặp thứ nào đáng sợ như vậy, bọn chúng rất nhỏ, màu đen, trên trần nhà đột nhiên toác ra một cái lỗ, chúng nó giống như hạt thóc vãi ra trong kho, thằng Kiev không cẩn thận bị chúng bám vào, chỉ trong chớp mắt đã phủ kín toàn thân, cả người đen kịt... sau đó... sau đó... sau đó... những thứ đen đen ấy liền tách ra làm hai ngả, bò trở lại cái lỗ kia, còn thằng Kiev thì hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại mỗi khẩu súng của nó thôi!”
“Phu quét đường!” Merkin từ từ chui ra khỏi thông đạo, nghiêm mặt nói với Trác Mộc Cường Ba.
"Phu quét đường?"
"Phu quét đường là thứ mà người xưa dùng để giữ sạch các mộ táng hoặc công trình kiến trúc, chúng có thể là động vật, thực vật hoặc vi sinh vật gì đó. Đặc điểm của thứ này là số lượng nhiều, năng lực sinh sản mạnh mẽ; tốc độ ăn như gió cuốn mây tan, chúng có thể ăn mọi loại vật chất hữu cơ, kinh khủng hơn kiến sư tử hay cá hổ piranha nhiều. Anh đã nghe nói đến cát ác quỷ ở Inca bao giờ chưa? Những người Tây Ban Nha gặp phải thứ này kể lại rằng, chúng giống như những hạt cát lưu động, người hay động vật bị chúng cuốn vào hay phủ lên thì đến khúc xương cũng chẳng còn, toàn bộ đều bị phân giải trong chớp mắt. Về sau, các nhà khoa học nghiên cứu mới phát hiện được, đó là một loại vi sinh vật cực kỳ phàm ăn đồng thời có khả năng sinh sôi nảy nở cực mạnh. Còn nữa, vùng lưu vực Lưỡng Hà có một loại dây leo, bộ rễ của chúng tạo thành hình dạng như cái túi lưới, đồng thời khiến đất đai xung quanh trở nên xốp mềm. Chỉ cần con mồi lọt vào trong túi lưới đó, rễ cây sẽ tiết ra một loại axit còn mạnh gấp mười lần axit sunfuric, bất kể động thực vật gì, thậm chí cả kim loại cũng bị oxy hóa, biến thành dưỡng chất cung cấp cho thân cây."
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi tưởng trong kết cấu kiến trúc kiểu này, ngoại trừ cơ quan cạm bẫy ra, không thể có vật thể sống tồn tại được.”
Merkin cười khẩy nói: "Cơ thể người mà thiếu nước ắt sẽ chết trong bảy hai tiếng đồng hồ, anh hỏi Popo thử xem, hắn làm sao cầm cự được những mười lăm ngày vậy?"
Popo vội nói: “Có nước, một số gian phòng có nước.”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Merkin, y xòe hai tay ra nói: "Tôi cũng không biết bọn họ làm cách nào, nhưng đúng là cổ nhân có thể dẫn nước vào trong Cửu Cung biến. Có điều, không phải mỗi phòng đều có nước. Nước là nguồn gốc của sinh mệnh, chỉ cần có nước, bọn họ có thể nuôi dưỡng các sinh vật đơn giản rồi." Ba người lại xuyên qua mấy gian phòng nữa, đến một gian phòng nọ, Mcrkin và Trác Mộc Cường Ba đã nhảy xuống trước, Popo chỉ ở trong thông đạo thò đầu ra,
không chịu xuống. Hắn chỉ vào góc phòng kêu lên: "Có cạm bẫy, có cạm bẫy!”
Merkin ói: “Đúng vậy, chúng tao biết rồi, mày xuống đây đi.”
“Choeng!” một tiếng, thông đạo sau lưng đã bị tấm kim loại bật ra ngăn cách, Popo không còn cách nào khác, đành chui ra, ánh mắt hoảng sợ đảo tròn, rồi lại bần thần nhìn sang phía Trác Mộc
Cường Ba và Merkin. Merkin bắt đầu: “Qua đây, chúng ta xem đây rốt cuộc là cơ quan gì.”
Trác Mộc Cường Ba đã đứng trước bệ cơ quan nhỏ ấy xem xét một hồi, Merkin cũng ngó đầu vào quan sát, chỉ thấy mặt trên của bệ cơ quan là một bàn cờ giống hệt như bệ cơ quan có bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ. Chỉ có điều, số lượng các ô vuông nhiều hơn rất nhiều, mé bên trái và phía dưới bàn cờ dường như có chữ chú giải. Ngoài ra, mé bên phải và phía trên bàn cờ lại có rất nhiều những lỗ nhỏ hình dạng như chiếc lược be bé, phía trên một nét ngang, bên dưới bốn nét dọc song song, thoạt nhìn như những chữ “nhi”
(31)
xếp hàng ngang dọc. Chỉ là, những lỗ nhỏ này đẫ bị lấp kín, còn có thứ gì đó gồ lên. Merkin tò mò hỏi: “Đây là gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp loại cơ quan kiểu này, nhưng đã nghe nói đến. Gã trả lời Merkin: “Không phải ông từng nhắc đến bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc cổ đại sao? Tôi nghĩ chính là thứ này đấy."
"Vậy à?" Merkin xem chừng rất hứng thú với kiểu cơ quan chưa từng gặp này, vội hỏi tiếp:
“Những chữ này nghĩa là gì?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Những hình ở phía trên và mé phải này, 1à tổ hợp số biểu đạt bằng các toán tử cổ đại, mỗi tổ hợp số ứng với các ô vuông ở hàng dọc hoặc hàng ngang trên bàn cờ."
Nói đoạn, gã vẽ một hình chữ nhật dưới sàn nhà, vạch thêm mấy nét nữa, chia hình đó thành sau ô vuông nhỏ, giải thích: “Ông xem, chính là như vậy.” Chỉ thấy gã gạch ba đường chéo ở ô thứ nhất, thứ bà, thứ sáu, rồi nói: “Nếu là trạng thái này, bên cạnh sẽ chú thích là 1, 1, 1.” (xem H1) Tiếp đấy, gã lại gạch một đường chéo ở ô vuông thứ 4, và nói: "Nếu là trạng thái này, bên cạnh sẽ chú thích là 1, 2, 1, (Xem H2) ông hiểu chưa?"
( H 1)
( H 2)
Merkin nói: "Tôi hiểu rồi, phải đồng thời thỏa mãn các số ở hàng dọc và hàng ngang, đáp án là duy nhất, xem ra cũng không phức tạp lắm."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Nếu chỉ có sáu ô thì đúng là rất đơn giản, nhưng bàn cờ bên kia, hàng ngang hàng dọc đều có mười ô vuông đấy."
Merkin đứng dậy, liếc nhìn các tổ hợp số, chỉ thấy các tọa độ hàng ngang lần lượt là ”2, 4, 22, 212, 2112, 2221, 232, 22, 22, 3”, còn tọa độ hàng dọc là “2, 4, 22, 222, 2122, 2111, 222, 42, 22, 2”, y ngẫm nghĩ giây lát, rồi lập tức chữa lại: “Đúng là phải phân tích logic.”
Popo ở bên cạnh đã cuống quít cả lên, thấy hai người vẫn còn tâm trạng ngồi thụp xuống thảo luận về nguyên lý hoạt của cơ quan, liền rối rít thúc giục: "Khởi động rồi, cơ quan đã khởi động rồi kìa."
Trác Mộc Cường Ba an ủi hắn: "Không cần căng thẳng, chúng ta có cái này." Dứt lời gã liền lấy máy tính ra, nhanh nhẹn nhập số liệu, đồng thời sử dụng phần mềm phân tích. Chỉ trong giây lát, máy tính đã đưa ra đáp án. Merkin để ý thấy, trong mắt Popo thoáng lộ ra một tia nhìn kỳ lạ, ánh mắt này hết sức quen thuộc. Không biết cơ quan trong gian phòng này rốt cuộc là gì, bởi nó còn chưa kịp thể hiện uy lực thì câu đố trên bệ cơ quan đã được giải đáp, ba người lại tiếp tục tiến lên. Dọc đường, Merkin vẫn luôn nghĩ về bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc cổ đại này, càng nghĩ càng cảm thấy cao thâm, nếu số lượng ô vuông càng lớn, tổ hợp số được cho biết càng ít, vậy thì sẽ có càng nhiều biến hóa có khả năng xuất hiện.
Dọc đường, ba người còn gặp phải nhiều câu đố khó, chẳng hạn như bài toán chia ruộng của Trung Quốc, bài toán chia bò của Ấn Độ, vấn đề thiên văn và ảnh chiếu hình học của Ai Cập, đề toán Hy Lạp cổ đại..., nhưng với trợ thủ đắc lực là chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân, họ cũng không gặp quá nhiều khó khăn. Có điều, vấn đề lớn nhất của Cửu Cung biến chính là, bọn họ không thể nghỉ ngơi đầy đủ, mặc dù ánh sáng rất yếu, nhưng chỉ ngủ được vài phút, căn phòng đã bắt đầu chuyển động. Cứ như vậy, đến cả Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng rơi vào trạng thái gà gật lơ mơ. Đây cũng chính là một nguyên nhân quan trọng khiến người tiến vào Cửu Cung biến này rất dễ hóa điên.
Ba ngày sau, Trác Mộc Cường Ba gắng gượng ngăn không cho hai mí mắt díp tịt lại, sát khí tỏa ra hừng hực, thứ quái quỷ này đã khiến gã gần như phát điên đến nơi rồi. Thần sắc Merkin cũng ảm đạm, trên mặt như trát lên một lớp tro xám ngoét, còn Popo thì càng lúc càng lắm lời, cứ lẩm bà lẩm bẩm mãi không thôi, thực chẳng khác nào một đàn ruồi nhặng, khó chịu vô cùng.
Bọn họ đang chuẩn bị chui vào gian phòng cuối cùng trong khoảng thời gian giữa hai lần Cửu Cung biến hóa, Merkin chọn thông đạo đi xuống. Vì thang treo không rộng lắm, nên không thể cùng lúc để hai người đi qua giống như thông đạo nằm ngang, họ chỉ có thể lần lượt xuống từng người một.
Merkin mới xuống được một nửa, đầu vẫn còn ló ra bên ngoài, đột nhiên hướng về phía Trác Mộc Cường Ba nở một nụ cười thần bí. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn ra, nụ cười này là thế nào?
Lúc này, lại chợt nghe Popo nói: “Ông... ông xuống trước, tôi đi sau cho."
Trác Mộc Cường Ba lại ngẩn người, trước giờ Popo luôn sợ bị bọn gã bỏ lại, dù lên trên hay xuống dưới, luôn đòi đi giữa gã và Merkin, lần này rốt cuộc là sao vậy? Liên tưởng đến nụ cười thần bí của Merkin, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi: “Lẽ nào, hai người bọn hắn đã đạt được thỏa thuận gì đó? Tấn công mình? Ở nơi này sao, Merkin có ngu đến mức ấy không?” Gã là người thứ hai bám thang leo xuống thông đạo thẳng đứng, hầu như đang dồn toàn bộ sự chú ý vào Merkin, đột nhiên thấy trên lưng nhẹ hẫng, có người giật mạnh cái ba lô của gã. Trác Mộc Cường
Ba ngẩng đầu lên quát: “Popo! Anh làm trò gì vậy?”
Popo đứng bên ngoài thông đạo, căn bản không hề có ý định leo xuống. Lúc này, cặp mắt hắn trừng lên hung tợn, hai tay chộp lấy ba lô trên lưng Trác Mộc Cường Ba, miệng không ngừng gào thét: "Đưa máy tính đây! Đưa máy tính đây!"
Trác Mộc Cường Ba vươn tay hất mạnh khiến Popo ngã bổ chửng, gã đang định bò lên chất vấn hắn, chợt nghe thấy tiếng người nói chuyện, liền lập tức hiểu ra. Popo nghe thấy tiếng của đồng bọn, phỏng chừng đã quyết định không đi theo hai người bọn gã nữa, nhưng hắn cũng biết chiếc máy tính trong ba lô Trác Mộc Cường Ba là mấu chốt để hóa giải cơ quan cạm bẫy trong các gian phòng, bởi vậy nên mới xảy ra màn vừa rồi.
Trác Mộc Cường Ba không khỏi lấy làm thất vọng, đúng lúc này, gã lại cảm thấy tay nắm cầu thang treo hơi rung nhè nhẹ, đây là dấu hiệu Cửu Cung sắp sửa biến hóa. Merkin đã xuống gian phòng bên dưới rồi, Trác Mộc Cường Ba liền bỏ mặc Popo, buông người trượt nhanh, chớp mắt đã xuống được phòng bên dưới. Lúc người gã vừa lướt qua đoạn giữa thông đạo, liền nghe "choeng" một tiếng, tấm kim loại đã bật ra ngăn cách hai gian phòng, Popo ở phòng phía trên tuyệt vọng kêu gào: "Đừng mà!" Đồng thời, gã cũng nghe thấy tiếng hô hoán của một nhóm người khác từ đâu đó vẳng đến.
Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống, cùng Merkin đợi Cửu Cung biến hóa. Hành vi bất thường của Popo khiến gã hết sức ủ ê chán nản, chẳng buồn nói câu nào nữa. Merkin ở bên cạnh chợt lên tiếng:
“Tôi đã nói rồi, bọn lính đánh thuê này không thể tin được đâu!"
Gã lạnh lùng đáp trả: "Nếu không phải ông cười với hắn một cái, hắn làm sao lại đột nhiên giở quẻ như vậy chứ?" Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, lúc Merkin chui vào thông đạo, tiếng nói chuyện của bọn lính đánh thuê kia đã lọt vào tai y rồi. Nụ cười thần bí ấy không phải dành cho gã, mà là cười với Popo. Nụ cười ẩn chứa sự nghi kỵ và sát khí ấy, Trác Mộc Cường Ba nhìn còn thấy gai người, huống hồ là Popo. Mấy ngày nay, bản thân hắn đã như con chim sợ cành cong, lúc nào cũng lo lắng Trác Mộc Cường Ba và Merkin sẽ bất thình lình ra tay với hắn, lại càng sợ bọn họ bỏ hắn lại một mình. Nụ cười của Merkin khiến Popo cho rằng mạng hắn đến đây là chấm dứt. Đúng lúc đó, hắn lại nghe thấy tiếng nói của đồng bọn, bản năng cầu sinh bèn thúc giục hắn tìm kiếm cơ hội sống sót mới... Nhưng tại sao Merkin nhất định phải xua đuổi Popo đi như thế? Y sợ
Popo nhớ lại những thông tin bất lợi với mình sao? Lời cảnh cáo trước lúc chết của Nhạc Dương, gã thủy chung vẫn ghi nhớ trong lòng: "Merkin...
hắn không tin tưởng ai cả... những lời hắn nói, tuyệt đối không thể tin được...”
Cửu Cung biến bắt đầu chuyển động, hai người vẫn trầm mặc, trong lòng đều có suy tính riêng, tựa như hai người xa lạ gặp nhau trong thang máy, lại như đang ở trong một khoang thuyền lắc lư tròng trành giữa cơn mưa bão.
CHƯƠNG 78: BÁU VẬT CỦA NHÀ PHẬT
.
BÀN CỜ CHÍ MẠNG
.
Cửu Cung biến đã dừng, nhưng tấm kim loại ngăn cách thông đạo vẫn không mở ra, bệ cơ quan đã bị xoay chuyển xuống góc bên dưới.
Merkin sải chân bước tới trước, lấy làm lạ nói: “Đây là cái gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba cũng bước tới theo, chỉ thấy trên bệ cơ quan lại là một bàn cờ mỗi bề hai mươi lăm ô vuông, ở những chỗ hai đường thẳng ngang dọc cắt nhau xuất hiện nút ấn hình tròn, một số nằm ngang với bề mặt bàn cờ, một số gồ hẳn lên, song cũng có một số nút lõm xuống, thoạt trông rất giống một cuộc cờ.
“Mật mang?” Trác Mộc Cường Ba đọc chữ viết trên bệ cơ quan, sau khi hiểu được đại khái, gã liền giải thích với Merkin: “Đây là cờ Mig mang, được du nhập vào Thổ Phồn từ trước đời Đường. Lạ thật, tôi chưa từng thấy bàn cờ nào như vậy… Á, chết rồi!” Gã bật máy tính của giáo sư Phương Tân lên, chỉ thấy màn hình toàn một màu đen kịt. Gã cuống quýt khởi động lại thấy màn hình nhấp nháy một chút, rốt cuộc cũng lên hình, chắc là do va đập khi tranh giành với Popo ban nãy.
Merkin cũng bị một phen hú hồn, giờ đây chiếc máy tính này gần như đã trở thành pháp bảo giúp họ sinh tồn trong mê cung Cửu Cung biến, pháp bảo mà mất linh, Cáo Lửa y có giảo quyệt đến mấy cũng chẳng làm gì được.
Đợi khoảng hai ba phút đồng hồ, mãi vẫn không thấy Trác Mộc Cường Ba làm gì, Merkin lại thắc mắc: “Vẫn chưa được à?” Nói đoạn, liền ngó đầu qua xem, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đã nhập bố cục bàn cờ vào máy tính, phần mềm đang phân tích tính toán, những con số bên cạnh không ngừng nhảy lên, đã tính mấy triệu nước đi rồi mà vẫn chưa ra đáp án. Nếu những câu đố logic đơn giản như trước, máy tính sớm đã hoàn thành công việc từ lâu rồi.
Merkin lại quay sang nhìn bàn cờ, y vẫn có cảm giác cách sắp xếp loại cờ này dường như rất quen thuộc, bèn hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cờ Mig mang này, rốt cuộc là trò gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chính là cờ vây của Trung Quốc đó, có điều, xưa nay tôi chỉ thấy bàn cờ mười chín ô giảm xuống còn mười bảy ô, chứ loại bàn cờ lớn, kích cỡ mỗi chiều lên đến hai mưới lăm ô thế này thì chưa gặp bao giờ.”
Merkin sực hiểu ra, chẳng trách hình dáng bàn cờ này lại trông quen mắt đến vậy, thì ra chính là cờ vây. Nói vậy thì, đây chính là một tàn cuộc. Sự chú ý của Merkin giờ đã hoàn toàn tập trung lên bàn cờ. Lịch sử phát triển của cờ vây từng trải qua mười mấy lần biến hóa, từ bàn cờ 9x9 đến bàn cờ 13x13 rồi 17x17, cuối cùng mới hình thành bàn cờ 19x19. Số lẻ thỏa mãn được điều kiện hai bên thi đấu nhất thiết phải có một bên giành phần thắng, 19 lại là số đại diễn trong triết học cổ đại Trung Quốc, khi phát triển đến bàn cờ mười chín ô này, năng lực tư duy của con người đã đạt đến cực hạn, vì vậy mới không tiếp tục phát triển nữa. Nhưng giờ đây, ở trước mắt Merkin lại là một bàn cờ cỡ 25x25, lớn hơn rất nhiều. Nếu coi những nút ấn lõm xuống là quân đen, nút gồ lên là quân trắng, vậy thì cuộc cờ này tựa như hai con rồng khổng lồ đang quấn chặt vào nhau, ác đấu không phân thắng bại vậy.
Kỳ lạ là, cuộc cờ này thoạt nhìn tưởng rằng hạ cờ xuống đâu cũng được, những nghĩ kỹ lại, thì dù đi nước nào đối phương cũng có cách ứng phó, giống như hai cao thủ võ lâm đang đối đầu vậy, dù ai ra tay trước, xuất chiêu thức gì chăng nữa, đối phương cũng có thể lập tức nghĩ ra chiêu thức phá giải, chỉ có không xuất chiêu mới là cảnh giới cao nhất, một dạng cảnh giới vô chiêu thắng hữu chiêu!
Merkin tiếp tục chăm chú quan sát, chỉ thấy hai loại cờ dần dần biến ảo thành hai đạo quân đối đầu. Hai cánh quân đen trắng, quân tiên phong lao vào nhau, binh sĩ chia từng cặp chém giết điên cuồng, tiểu đội trưởng phối hợp hài hòa, đại đội trưởng bày mưu lập kế… bên tai y phảng phất vang lên tiếng gươm giáo khua nhau, trống trận rầm rầm như sấm dậy, mặt đất rung lên, người nghiêng ngựa ngả, tiếng chém giết, tiếng gào thét quện vào nhau. Merkin chợt thấy trước mắt tối sầm, suýt chút nữa là ngất xỉu tại chỗ. Y vội vàng nhắm chặt mắt, lùi lại một bước, cảm giác như thể bị người ta dùng búa tạ đập cho một cú vào ngực vậy, lùi một bước, rồi lại loạng choạng lùi thêm nửa bước nữa mới đứng vững.
Lúc này, máy tính của giáo sư Phương Tân vẫn đang chạy tính toán, Merkin liếc mắt nhìn thử, thấy đã tính đến bước thứ hai trăm triệu hơn rồi, vậy mà những con số bên cạnh vẫn đang nhảy với tốc độ mắt thường không thể nào phân biệt được. Y ủ rủ lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, không tính ra được đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tại sao?”
Merkin cười rầu rĩ: “Đây là một chân các.” Thấy Trác Mộc Cường Ba không hiểu, y lại giải thích thêm: “Chân các, là giai đoạn gần như kết thúc trung bàn, nhưng chưa thâu quan
(32)
trong một ván cờ vây, cục diện đột nhiên xuất hiện sự hài hòa tột độ, tiếp sau trừ phi xuất hiện một nước cờ cực diệu, bằng không một bên nhất định sẽ giành phần thắng. Tình huống như vậy, được gọi là chân các. Chân các trong phức tạp hơn, vì nước cờ của nó nhiều hơn, biến số cũng lớn hơn gấp bội. Tôi từng gặp qua một chân các giống như thế này, sau khi quân đen đi, quân trắng chỉ có một cách đối phó duy nhất, chỉ cần đặt sai là ắt sẽ đại bại; nhưng sau khi quân trắng hạ cờ, quân đen lại cũng chỉ có một cách ứng phó duy nhất, chỉ cần đặt sai chỗ sẽ thua chắc. Tiếp sau đó, cứ lặp đi lặp lại như vậy, một trăm hai mươi tám nước, nước nào cũng thế, chỉ có một cách ứng đối duy nhất, nhưng chưa một ai có thể nghĩ ra tình huống sau nước thứ một trăm hai tám, kể cả máy tính cũng không…”
Trác Mộc Cường Ba nhíu chặt hai hàng lông mày. Merkin tiếp tục nói: “Số lượng phép tính phải thực hiện quá lớn, mặc dù bộ nhớ máy tính này không tệ, bộ vi xử lý cũng khá mạnh, nhưng anh đừng quên, đây là bàn cờ lớn 25x25, tổng cộng có tới 625 điểm. Máy tính không thể tiến hành xử lý mơ hồ, vì vậy, để phá giải thế cờ, nó chỉ có thể dùng một trong hai cách: so sánh với các thế cờ có sẵn trong bộ nhớ, hoặc dùng phép thử thô bạo
(33)
. Loại bàn cờ lớn này, cổ kim đều chưa từng gặp, máy tính của anh chắc chắn không thể có sẵn thế cờ trong bộ nhớ, vậy thì chỉ có thể dùng cách thử lần lượt để tính toán nước đi chính xác, cũng có nghĩa là liệt kê ra mọi khả năng có thể xảy ra trong cuộc cờ. Anh có biết, với một bàn cờ như thế này, sẽ có bao nhiêu khả năng không? Số lượng những khả năng này sẽ tăng lên theo cấp số mũ, là một con số cực kỳ khổng lồ. Chỉ nói bàn cờ mười chín ô, nếu dùng siêu máy tính có tốc độ tính toán 100.000.000.000.000 phép tính một giây để phân tích thì cũng phải mất mười nghìn năm mới xong, nếu đổi thành bàn cờ 25x25 này …” Merkin lắc đầu.
Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt nhìn vào màn hình, trị số đã lên đến 12 con số. Vậy mà máy tính vẫn chưa đưa ra được nước cờ tiếp theo. Gã đành nói: “Vậy phải làm sao bây giờ?”
Merkin hít sâu một hơi, thở dài nói: “Chúng ta đành tự làm lấy vậy, cũng may vẫn chưa thấy cơ quan nào khởi động.”
“Không,” Trác Mộc Cường Ba nói, “Tôi thấy không ổn, tuy chưa biết là chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra thôi.”
“Cơ quan vô hình à?” Merkin nói: “Tôi chưa từng gặp qua thứ cơ quan cạm bẫy nào như vậy, trừ phi là sương độc hay khói độc?” Nói đoạn, y ghé mặt sát vào phía tường, phỏng chừng muốn nhìn rõ xem có làn khói sương mờ mịt nào lan ra không. Nhìn thì không thấy gì, nhưng Merkin dường như đột nhiên phát hiện được thứ gì đó, vội áp tay vào kẽ tường, kế đó chửi toáng lên: “Chết tiệt! Chó má thật!”
“Gì thế?” Trác Mộc Cường Ba cũng đưa tay lại chỗ mép tường đó, cảm thấy có lực hút, hút ngón tay gã dính lên tường.
Mặt Merkin xám như chì, y nói: “Áp suất âm, anh nói đúng, cơ quan đã khởi động rồi, chỉ là chúng ta không nhìn thấy thôi. Nó sẽ hút sạch không khí, biến gian phòng này thành môi trường chân không.”
“Nhưng máy tính không thể tìm ra nước đi chính xác, tôi cũng không biết chơi loại cờ này, làm sao bây giờ?”
Merkin nghiến răng nói: “Không ngại, để tôi thử!”
“Ông?...”
“Cờ vây rốt cuộc là gì?” Merkin đột nhiên hỏi một câu, nhìn vẻ mặt ngơ ngơ của Trác Mộc Cường Ba, rồi tiếp: “Đây là vấn đề đầu tiên ông nội hỏi tôi khi dạy tôi chơi cờ vây. Ông bảo tôi, cờ vây không chỉ là một trò chơi đơn giản, cũng không chỉ là đấu trí đấu lực giữa hai kỳ thủ. Hai loại quân cờ đen trắng, đại diện cho ánh sáng và bóng tối, chính và phụ, có và không, đây là tư tưởng triết học đơn giản nhất, đồng thời cũng cao siêu nhất. Nó biểu thị khởi nguyên và cấu thành của vạn vật, hết thảy biến hóa của sự vật trên đời đều không thoát ly khỏi tư tưởng này.”
Ngón tay Merkin bắt đầu đặt lên điểm nút đầu tiên. Ngay sau nút này bị ấn thụt xuống, liền có một nút khác tương ứng bật lên. Người xưa đã chuẩn bị sẵn nước cờ để đối phó, nếu y chọn sai, chắc hẳn gian phòng này sẽ không mở ra nữa, cho đến khi hai người chết mục, bị phu quét đường dọn dẹp sạch sẽ.
“Cảnh giới tối cao của cờ vây là sự hài hòa,” Merkin lại đi nước cờ tiếp theo, chậm rãi nói, “người mới học, thường hay tính toán sự được mất của một hai quân cờ phía góc; người hơi hiểu cờ vây một chút, liền học được cách phán đoán tình thế và thực địa; còn cao thủ đấu với nhau, lại là cuộc đọ sức về sự hài hòa.”
Mỗi khi đi một bước, Merkin đều hết sức dè dặt, tránh để bị mất đất. Y giống như người đang chơi cờ với chính
mình, dần dần tiến vào trạng thái vong ngã, quên luôn cả sự tồn tại của Trác Mộc Cường Ba. Y không ngừng lẩm bẩm, chừng như trước mặt có một cao thủ cờ vây đang ngồi chễm chệ, bọn họ không chỉ so đấu sức cờ, mà còn đang sửa chữa lý thuyết chơi cờ của nhau nữa. “Thời xưa đánh giá kỳ thủ, toàn dựa vào việc người đó có thể nhìn được bao nhiêu nước đi phía sau, ai nhìn được chừng bảy bước đã là cao thủ đẳng cấp quốc gia rồi. Nhưng cách thức đánh giá này, lại hoàn toàn không thích hợp với môn cờ vây. Con người sở dĩ là con người, là bởi lẽ, ngoại trừ những tính toán và suy đoán lý trí ra, con người vẫn luôn có một thứ trực giác siêu lý tính, cũng chính là cảm tính. Cảm tính khiến chúng ta có thể đưa ra những phán đoán mơ hồ, cảm tính cũng là công cụ để chúng ta phân biệt giữa đẹp và xấu.”
Merkin lại đi thêm một nước cờ, nút ấn hình tròn gồ lên liền trở lại vị trí ngang bằng với mặt bàn.
“Chúng ta lên đỉnh núi cao, chỉ để ngắm nhìn phong cảnh trải dài vô tận dưới chân; chúng ta đối mặt với biển lớn, chỉ để cảm nhận sóng biển cuồn cuộn dâng trào; chúng ta ngưỡng mộ lũ chim trời, bởi chúng ta thấy được tự do trong đôi cánh chao liệng của chúng. Thứ con người theo đuổi, thực ra là một sự cân bằng giữa cảm tính và lý tính. Vì sự theo đuổi này, mà cờ vây được sáng tạo ra, nó không đại diện cho việc vây sát chém giết, mà là sự cân bằng ở bên trong mâu thuẫn!”
Merkin hạ cờ mỗi lúc một chậm hơn, năng lực tính toán của y bắt đầu không theo kịp, những nước đi của bệ cơ quan liên tiếp dồn ép, sát cơ ẩn hiện, mỗi bước như một liều chất xúc tác, khiến hai con rồng đen trắng càng thêm cừu hận, sát khí nồng đậm. Còn Merkin lại như một vị chuyên gia đàm phán hòa giải, mỗi nước cờ đều ẩn nhẫn nhẹ nhàng, cơ hồ muốn làm nguôi lửa giận của hai con rồng, chuyển từ cục diện đang quấn lấy nhau không chết không thôi sang hòa bình yên ả.
Hai con rồng lúc thì nhe nanh múa vuốt hung tàn, lúc lại quấn chặt lấy nhau, dịu dàng nhu thuận, mà thứ khiến chúng nảy sinh biến hóa nghiêng trời lệch đất như vậy, chỉ là những nút Merkin bấm xuống và bàn cờ tự động bật lên đối ứng. Đi được khoảng hơn ba mươi nước cờ, không khí trong phòng không biết đã bị hút mất bao nhiêu, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa cảm thấy có gì bất thường, nhưng đầu Merkin đã bắt đầu xuất hiện những cơn đau nhói. Y hiểu rất rõ, đó ra do máu và ôxy không được cung cấp đầy đủ, đồng thời bộ não y lại đang tiêu hao một lượng lớn chất đường và ôxy trong cơ thể. Merkin không thể không day day chỗ giữa hai chân mày, cố gắng làm bộ não đang nóng bừng lên vì hoạt động quá độ bình tĩnh trở lại. Cũng có lúc, y nhắm mắt, diễn dịch lại toàn bộ quá trình chinh chiến sát phạt trên bàn cờ.
Thời gian trôi đi từng giây, Trác Mộc Cường Ba cũng tiến vào trạng thái minh tưởng, ngồi xếp bằng dưới đất. Gã cần phải giữ bình tĩnh cho Merkin, đồng thời cũng cố gắng giảm nhịp thở xuống, để Merkin hít được nhiều ôxy hơn. Hai người cứ vậy lặng lẽ phối hợp, nỗ lực giành mảnh giấy thông hành đến cõi người sống từ trong tay thần Chết.
“Khụ khụ …” Merkin đột nhiên cảm thấy nôn nao bất an, y đẩy khẽ vào Trác Mộc Cường Ba đang ngồi bên cạnh. Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, chỉ thấy khóe miệng Merkin rỉ máu, giọng nói cũng trở nên thều thào vô lực, “nhanh… tôi không xong rồi, dùng máy tính, mau lên!”
Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhìn thấy, trên bàn cờ vẫn còn khoảng bốn năm chục ô trống, vội vàng nhập vào máy tính, bắt đầu tính toán lại. Khi bắt tay thực hiện, gã mới nhận ra bàn tay mình đang run lên nhè nhẹ, rõ ràng là do không đủ ôxy, hệ thần kinh của gã cũng bắt đầu tê
liệt rồi.
Máy tính phân tích sắp xếp lại hơn năm mươi ô trống, rồi bắt đầu một lượt tính toán mới. Trác Mộc Cường Ba điều chỉnh lại hơi thở để giữ cho ý thức tỉnh táo, nhìn bộ dạng Merkin, chắc hẳn thần trí y đã rơi vào trạng thái mơ hồ, nếu cả gã cũng ngã gục ở đây, thì hai người chỉ có thể ở lại nơi này mãi mãi mà thôi.
Lại mấy phút nữa trôi qua, bàn tay Trác Mộc Cường Ba run run, ấn một nút nữa xuống. Sau đấy, tốc độ tính toán của máy tính mỗi lúc một nhanh hơn, cuối cùng, chỉ nghe “xì” một tiếng,
tựa như một cái túi lớn bị xì hơi. Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm, gã biết, mình lại có thể há miệng hít thở không khí một cách bình thường được rồi. Thần kinh đang căng như dây đàn được buông lỏng, Trác Mộc Cường Ba cũng không gắng gượng nổi nữa, mí mắt sụp xuống, loạng choạng ngã vật ra đất. Trong lúc thần trí vẫn đang mơ hồ, gã lờ mờ cảm thấy sàn nhà được nâng lên, gạch lát cuồn cuộn như sóng biển đưa gã đến một nơi khác. “Cửu Cung biến, lại chuyển động rồi sao?” Trác Mộc Cường Ba mang theo ý nghĩ ấy thiếp đi, hoàn toàn không còn tri giác.
Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra, gã thấy mình đang ở trong một đại điện rộng rãi, trần vòm có tranh vẽ thiên thần. Gã gắng sức ngẩng đầu lên, thấy chính giữa đại điện có bốn cây cột chống, hai bên là tượng Phật, phía trước là một hồ nước, ba dòng nước trong mắt phun ra từ miệng ba chiếc đầu thú kỳ dị
mà gã không biết tên đổ xuống hồ. Merkin đang ngồi trên bên bờ hồ, trầm tư nhìn xuống mặt nước, hơi nước mù mịt, không khí nóng bức dị thường.
Trác Mộc Cường Ba vươn mình ngồi dậy, cảm thấy gân cốt toàn thân mềm nhũn, nhưng lại hết sức dễ chịu, như vừa được ngủ một giấc sau khi massage vậy.
“Đây là nơi nào? Chúng ta đã thoát rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh.
Merkin nói: “Ừm, chắc là đã ra khỏi Cửu Cung biến rồi, tôi nghe nói, trong hơn một vạn gian phòng, có một gian được bố trí cơ quan phức tạp nhất, sau khi phá giải cơ quan, căn phòng ấy sẽ tự động dịch chuyển đến lối ra. Phỏng chừng, bàn cờ hai mươi lăm ô kia chính là cơ quan phức tạp nhất rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nhổm người đứng dậy bước đến gần Merkin, chỉ thấy hai bên trái phải đại điện này đều có cửa mở, nhìn qua khung cửa cỏ thể thấy hai gian bên cạnh cũng có hai hồ nước. Gã ngờ vực hỏi: “Đây chính là trung tâm thần miếu mà người Qua Ba cổ đại muốn bảo vệ sao?”
Gương mặt Merkin cũng lộ ra vẻ nghi hoặc, y nói: “Tôi cũng lấy làm lạ, nơi này giống như một phần của Cửu Cung biến hơn. Tôi đi xem thử rồi, những gian phòng này cũng có cùng kết cấu, chẳng qua chúng không di chuyển thôi. Có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến dưới một hình thức khác.”
“Dưới đáy của Cửu Cung biến?” Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên. “Chúng ta rơi từ bên trên xuống hả?” Merkin chỉ chỉ ngón tay, trong bức tranh trên trần đại điện có một lỗ hình vuông, khi phiến đá khép lại, đường rãnh ẩn vào trong tranh, nhìn thoáng qua không dễ phát hiện. Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy ông đã tìm được lối ra chưa?”
Merkin lắc đầu: “Tôi đi xem hết một lượt rồi, những gian đại điện này bố trí thành hình chữ hồi
(34)
, đi một vòng liền trở lại chỗ cũ. Vừa nãy tôi đang nghĩ, không biết liệu dưới hồ nước này có cơ quan gì không nữa.”
Trác Mộc Cường Ba thò tay xuống nước, giật mình thốt lên: “Nóng quá!”
Merkin nói: “Nhiệt độ ở đây rất cao. Chắc chúng ta đã ở rất gần mắt núi lửa toàn nham thạch nóng chảy rồi.” Tuy bọn họ mặc đồ liền thân, nhưng cũng không cảm thấy nóng bức gì, có điều phần đầu mặt lộ ra ngoài đã đầm đìa những hạt mồ hôi to như hạt đậu.
“Đi, tôi dẫn anh đi xem thứ này.” Merkin đi trước, dẫn Trác Mộc Cường Ba vòng sang một gian điện khác, chỉ thấy kết cấu gian đại điện này không khác gì những gian xung quanh, ở góc cũng có một hồ nước, hai bên là tượng Phật. Chỉ khác một điều là, diện tích gian điện này lớn hơn một chút, dài chừng hai mươi mét, rộng mười mét, đối diện với hồ nước là một hàng rào lớn, bên trong hàng rào dường như đặt mấy bức tượng Phật.
Merkin dẫn Trác Mộc Cường Ba tới trước hàng rào, bây giờ gã mới nhận ra, thứ xếp sát tường bên trong hàng rào kia không phải là tượng Phật, mà hình như là những bộ áo giáp, tạo hình giống võ sĩ thời cổ đại.
Gã hỏi: “Đây là cái gì vậy? Áo Giáp à?”
Merkin đáp: “Không giống, tôi chưa từng thấy áo giáp nào như vậy. Anh nhìn kỹ chỗ tiếp giáp ở phần đầu mà xem, bên trong không rỗng đâu. Tôi thấy chúng không giống áo giáp, mà giống những cỗ máy hơn. Còn cả hàng rào này nữa, cái lỗ dưới đất này chắc là do vật nặng rơi xuống khoét ra, tôi có cảm giác hàng rào này có thể nâng lên được, chỉ là chúng ta không đủ sức nâng nó lên mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh: “Có lẽ cơ quan ở ngay gian đại điện này đấy.”
Merkin lắc đầu nói: “Tôi đã thử tìm rồi, không phát hiện gì cả.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tìm lại lần nữa, chúng ta cùng tìm xem.”
Tìm kiếm thêm một lượt khắp đại điện, không thấy có cơ quan nào, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại phát hiện một số dấu vết khác, có người đã đi qua nơi này! Đám người ấy không chỉ đã tới đây, mà còn xóa sạch mọi dấu vết. Có điều, chắc do người đông quá, chúng vẫn để sót lại một số đầu mối mờ nhạt.
Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm khẳng định: “Cơ quan chắc chắn là ở đây, chỉ là đã bị che dấu đi thôi. Bọn chúng không muốn chúng ta phát hiện ra cơ quan, ừm …” Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến những món vũ khí từng bị người khác dịch chuyển ở Địa ngục nước và lửa trong Địa cung Ahezt. Gã lập tức nói: “Cơ quan ở trên tượng Phật kia.”
Hai người liền leo lên các tượng Phật, kiểm tra những thứ trên tay, đeo ở lưng các bức tượng, quả nhiên không ngoài dự đoán, họ phát hiện ra sự bất thường trên hai bức tượng gần hồ nước. Hai tượng Phật này có tạo hình phẫn nộ, nhưng trên tay mỗi bức tượng đều có một vật chứa. Một bức cầm bát nước lớn, giơ cao quá đầu, bộ dạng như đang chuẩn bị ném ra, trên bốn cánh tay khác đều có vũ khí; bức tượng còn lại ôm một vò rượu, áp sát vào ngực, như muốn nâng lên đổ vào miệng.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin không tốn sức mấy đã nhẹ nhàng lấy được hai vật chứa đó ra khỏi tượng Phật.
. .
XUYẾT THUẬT
(35)
, XẠ PHÚC
(36)
, GIẢI ĐỐ
.
Trác Mộc Cường Ba phát hiện, trong bát nước có khắc một hàng chữ nhỏ: “Khi cái Một phủ khắp cái Nhiều, cái Nhiều có thể chứa đựng cái Một; khi cái Nhiều phủ khắp cái Một, cái Một có thể chứa đựng cái Nhiều.”
(37)
Trác Mộc Cường Ba không hiểu câu thiền ngữ này cho lắm, dịch thế nào cũng thấy không ổn, bật máy tính ra xem thì chỉ thấy màn hình đen kịt, không thể khởi động được nữa. Merkin nói đùa: “Máy tính hoạt động quá độ, nên bãi công phản đối rồi.”
Không có sự trợ giúp của máy tính, hai người nhất thời cũng không biết phải làm sao. Merkin chợt phát hiện bên trong bầu rượu y đang ôm cũng có chữ, hai người liền cúi đầu vào xem xét thật kỹ. Sau một hồi vừa dịch vừa đoán, suy đi tính lại, hai người đại khái cũng hiểu được ý đồ của cổ nhân. Hai vật chứa này, một cái đáy nông miệng rộng, một cái cổ cao thân hẹp, trọng lượng và dung tích cũng hoàn toàn khác nhau, nếu muốn cơ quan khởi động, thì hai pho tượng này phải ôm vật chứa có trọng lượng bằng nhau mới được. Ngoài ra, cổ nhân còn cung cấp một con số cụ thể, yêu cầu hai vật chứa này đều phải nặng bằng đúng chín cân.
Nhìn yêu cầu nghiêm ngặt trong vật chứa, hai người cùng nhăn mặt không biết giải quyết thế nào. Trên tay họ lúc này không có công cụ cân đo đong đếm, vì vậy họ hoàn toàn không biết hai vật chứa này nguyên bản nặng bao nhiêu, làm sao có thể đong ra được trọng lượng chín cân một cách chuẩn xác chứ? Cổ nhân đã cho sẵn một loạt các con số, như đường kính miệng và đáy vật chứa, chu vi vòng lớn nhất, độ cong mặt gấp… hiển nhiên là yêu cầu họ phải tính toán một hồi. Khốn nổi, kiến thức toán học của cả hai đều có hạn, có một đống số liệu ấy rồi mà vẫn chẳng biết làm thế nào. Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ một hồi, đột nhiên buột miệng thốt lên: “Xuyết thuật!” “Cái gì cơ?” Merkin không hiểu.
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Tương truyền nhà toán học lớn của Trung Quốc thời cổ đại là Tổ Xung Chi cùng với con trai ông ta đã soạn ra một bộ sách toán học, tên là Xuyết thuật, trong sách nhắc đến các phương pháp tính toán khác nhau, tất nhiên có cả công thức tính thể tích của những khối hình học bất quy tắc, như hình cầu, hình bán cầu… chỉ có điều, nội dung bộ sách này quá sâu sắc, nên đến thời Tống thì đã thất truyền. Dụng ý của hai vật chứa này, hiển nhiên là muốn chúng ta sử dụng Xuyết thuật để tính toán thể tích của chúng, sau đó mới tính ra lượng nước cần thiết để nó đạt được trọng lượng chín cân.”
Merkin chưng hửng: “Thất truyền rồi? Vậy thì anh đừng nói còn hơn, giờ chúng ta phải nghĩ cách để hai cái thứ này đều nặng đúng chín cân đi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta có thước đo khảng cách bằng laser, có thể đo được độ dài chuẩn xác. Chúng ta có cọc tiêu, dây thừng, có palăng định hướng, có thể làm thành một cái cân, nhưng vấn đề là phải có vật tham chiếu trọng lượng làm quả cân…”
“Gượm đã, anh nói vật tham chiếu trọng lượng hả?” Merkin nói, “tôi…tôi biết trọng lượng của từng cây súng, chuẩn xác đến đơn vị gram!”
Trác Mộc Cường Ba chộp lấy hai vai Merkin nói: “Vậy là được rồi! Bắt tay làm thôi!”
Sau mấy phen thử đi thử lại, rốt cuộc họ cũng khiến hai vật chứa ấy đạt được cân bằng, sau đó lại đổ thêm vào mỗi bên mấy giọt nước, đặt về chỗ cũ, kiên nhẫn đợi cho nước sôi sùng sục bên trong bay hơi bớt đi.
Đầu tiên, cột nước phun ra từ ba cái đầu thú nhỏ dần, rồi biến mất. Kế đó, lại nghe một loạt tiếng “ào ào”, nước nóng trong hồ cuồn cuộn đổ ra, phần đáy hồ không ngờ lại nghiêng đi tạo thành một con dốc thoai thoải. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, gã bất giác thốt lên: “Lại phải đi xuống nữa hả? Rốt cuộc là xuống đến tận đâu đây?”
Merkin nói: “Chúng ta từ lúc vào trong thần miếu này, toàn là đi xuống, e rằng đã xuống đến tầng bình đài thứ nhất rồi cũng nên?”
“Không.” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói. Khác với bọn Merkin, nửa chừng mới nhảy dù xuống, nhóm người của gã leo lên đây từ tầng thấp nhất, nên hiểu được rất rõ ba tầng bình đài này rốt cuộc cao chừng nào. Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Chúng ta đang ở trong lòng núi, áng chừng đã xuống đến độ cao ngang với tầng bình đài thứ hai rồi, tiến lên thôi!”
Hai người giữ thăng bằng, trượt xuống con dốc vẫn còn ướt nước, rơi vào gian phòng phía dưới. “A!” Vừa chạm đất, Trác Mộc Cường Ba đã nhíu mày. Gian phòng này không có gì đặc biệt, giống hệt như gian phòng phía trên nó, cũng có hồ nước như thế, cũng những bước tượng như thế, chỉ là ở đầu phía bên kia không có hàng rào và những bộ áo giáp bên trong mà thôi.
Merkin nói: “Tôi nói không sai đúng không? Chúng ta vẫn đang ở trong Cửu Cung biến, chẳng qua chỉ đổi sang một dạng thức khác thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi gật đầu công nhận: “Ông nói đúng, có lẽ chúng ta đang ở dưới đáy của Cửu Cung biến thật. Tôi nghĩ, tôi đoán được kết cấu của Cửu Cung biến này là như thế nào rồi.”
“Hả?” Merkin tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông xem, chúng ta rơi xuống giữa gian phòng nhỏ này, mà phía bên trên lại là hồ nước ở sát tường. Những gian phòng này cũng quây lại thành hình chữ “hồi”, vậy có nghĩa là, các phòng bên dưới nhỏ hơn phòng bên trên một cỡ.”
Merkin nói: “Vậy thì sao?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Cửu Cung biến không phải một khối lập phương vuông vắn, ông có thể nói nó như một khối rubic khổng lồ, chỉ là, khối rubic này lại cắm một góc nhọn xuống, giống như con thoi vậy.”
Merkin hiểu được ý Trác Mộc Cường Ba, nhíu mày nói: “Ý anh là, giống như hai cái kim tự tháp một xuôi một ngược chập vào nhau?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu, Merkin lại biến sắc mặt tiếp lời: “Cũng có nghĩa là, chúng ta càng đi xuống, hành lang càng nhỏ, đến gian phòng cuối cùng, tức là đến được lối ra cuối cùng rồi.” Hai người đều không biết, không chỉ Cửu Cung biến này, mà toàn bộ Bạc Ba La thần miếu đều có kết cấu như vậy.
Sau khi biết được phương hướng đi tiếp, tinh thần hai người đều phấn chấn hẳn lên. Họ bắt đầu lần lượt tìm kiếm trong các gian phòng nhỏ xếp thành hình chữ “hồi” này, gian nào lớn hơn đồng thời có hàng rào sắt, chắc chắn là có cơ quan thông xuống tầng bên dưới.
Đi được nửa vòng, hai người đã tìm thấy căn phòng lớn hơn kia. Chỉ thấy phía trước hồ nước trong phòng có bày một bàn đá dài, nói liền hai bức tường. Mặt bàn phía bên bọn Trác Mộc Cường Ba có sáu đường rãnh, trên mỗi đường rãnh có một khối cầu bằng đá tròn nhẵn. Phía trước những đường rãnh này là bốn lỗ tròn, kích cỡ vừa khít với khối cầu đá. Phía bên hồ nước lại chỉ thấy có tám lỗ nhỏ. Bất thình lình trông thấy một thứ cổ quái như vậy, Merkin buột miệng hỏi: “Hả, đây là cái gì?”
Trác Mộc Cường Ba cẩn thận xem xét hàng chữ ở mé bên chiếc bàn đá, rồi giải thích: “Tôi hiểu rồi, cơ quan này tương tự với trò chơi xạ phúc rất thịnh hành thời Hán Đường, cũng là một dạng trò chơi giải đố. Quy tắc thời bấy giờ là giấu thứ gì đó dưới cái bát, đồng thời cung cấp một số gợi ý nhất định, người chơi sẽ dựa theo những manh mối đó mà suy đoán xem thứ giấu bên dưới cái bát là gì.”
“Vậy cái này thì sao?” Merkin hỏi.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu đá này kích cỡ giống hệt nhau, nhưng trọng lượng thì khác, chỉ có bốn quả là phù hợp quy tắc, chúng ta có bốn lần cơ hội, mỗi lỗ chỉ có thể bỏ một quả cầu vào, sau đó tám cái lỗ nhỏ ở phía trên kia sẽ cho chúng ta gợi ý. Trong tám lỗ ấy sẽ xuất hiện tám cọc báo hiệu, bốn đen bốn trắng, nếu anh chọn được quả cầu có trọng lượng phù hợp thì sẽ xuất hiện một cọc báo hiệu màu trắng. Nếu quả cầu có trọng lượng phù hợp ấy lại được bỏ vào đúng lỗ, thì sẽ xuất hiện một cây cọc báo hiệu màu đen. Chỉ khi chọn được quả cầu có trọng lượng phù hợp đồng thời bỏ nó vào đúng lỗ, cơ quan mới mở ra.”
Merkin nói: “Tổng cộng chỉ có sáu quả cầu đá, lấy đâu ra bốn lần cơ hội?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không biết, dựa theo những gì khắc trên đó mà dịch ra thì là như vậy.”
Merkin chăm chú quan sát hai bên đường rãnh, nói: “Ồ, tôi hiểu rồi, hai đầu đường rãnh này có cửa chập, sau khi bỏ bốn quả cầu đá vào lỗ, cửa chập sẽ mở để bốn quả cầu ấy lăn ra. Sáu quả cầu chọn bốn quả, sau đó lại phải xác định được thứ tự bốn quả cầu ấy, vậy mà chỉ có bốn lần cơ hội, có lẽ chúng ta phải dựa vào vận may rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Sáu quả cầu chọn ra bốn quả chính xác, ít nhất cũng phải mất hai lần, thứ tự của bốn quả cầu này, lại có hai mươi bốn loại tổ hợp…” gã gập ngón tay lại tính toán, hai hàng lông mày bắt đầu nhíu lại.
Merkin xua tay can: “Đừng tính nữa, tính thế nào cũng không được đâu, giờ máy tính cũng không dùng được, vậy thì cứ làm như tôi nói đi, dựa vào vận may vậy, may mắn thì bốn lần cơ hội cũng đủ rồi, không may thì khó nói lắm.”
Dứt lời, ý liền cầm một quả cầu đá lên.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi đã, loại cơ quan này có thể phá giải được, không cần phải đối chiếu từng cách một. Chúng ta chia sáu quả cầu này ra làm hai nhóm, mỗi nhóm ba quả, rồi chọn ra hai quả từ mỗi nhóm.”
Merkin và Trác Mộc Cường Ba lần lượt cầm quả cầu ở đường rãnh thứ nhất thứ hai và thứ tư thứ năm lên, bỏ vào các lỗ từ một đến bốn. Các lỗ nhỏ phía bên kia bàn hiện lên hai cọc báo hiệu màu đen. Hai người cả mừng, cảm thấy vận may của mình cũng không tệ lắm. Hai cọc màu đen có nghĩa là trong bốn quả cầu họ chọn có hai quả là chính xác, vả lại cũng đã được bỏ vào đúng lỗ của nó.
Chỉ nghe “cách” một tiếng, cửa chập bên mé phải đường rãnh mở ra, hai quả cầu còn lại lăn vào. Tiếp đó, cửa chập bên trái cũng mở ra, lại có đủ sáu quả cầu xếp ngay ngắn. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin có thể khẳng định, hai quả cầu còn lại nhất định là có trọng lượng phù hợp, chỉ là không biết bỏ vào lỗ nào mới đúng. Tiếp sau đấy, họ chọn quả số một và số hai trong bốn quả cầu ban đầu, vị trí cũng không thay đổi, cộng với quả số ba và số sáu. Lần này, cọc báo hiệu hiển thị hai trắng một đen. Trác Mộc Cường Ba chau mày, cũng có nghĩa là, trong quả số một và số hai chỉ có một quả phù hợp cả hai điều kiện, còn quả số ba và số sáu đều sai vị trí. Lần tiếp theo, bọn họ để lại quả cầu số một, chọn quả số năm, số ba và số sáu thì cho vào lỗ số hai và số ba.
Lần này xuất hiện hai cọc màu trắng, Merkin trầm ngâm giây lát rồi hoan hỉ nói: “Tôi biết cách phá giải rồi.”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu, gã cũng đã biết. Hai người bỏ các quả cầu đá vào lỗ, cơ quan chầm chậm mở ra, lại là một con dốc thoai thoải khác. Hai
người xuống tầng dưới, cứ lặp đi lặp lại như vậy, cuối cùng chỉ còn bốn gian phòng, xuống thêm một tầng nữa thì chỉ còn một gian phòng duy nhất.
Diện tích căn phòng này lớn hơn gian phòng có cơ quan ở tầng trên nhiều. Trác Mộc Cường Ba dùng mắt áng chừng, cảm giác cả bốn gian phòng ở tầng trên cộng lại cũng không lớn hơn gian phòng này là mấy.
Trong phòng không có tượng thần Phật, cũng không có hồ nước, dưới đất chỉ có một vũng nước đọng, nhưng vẫn còn hàng rào sắt và những bộ giáp bên trong. Bệ cơ quan được đặt ngay chính giữa phòng, cao chừng hơn một mét, trông rất giống bục diễn giảng. Trên bệ cơ quan khắc một câu đố logic: “Thần Hiệp Ốc Ương Cách nhìn thấy cây thần, dự kiến sau khi chiến tranh kết thúc sẽ đến Ngạn quốc, hy vọng có thể ngăn chặn được cuộc phân tranh giữa Ngạn quốc và Gia quốc. Ở cửa Ngạn quốc có bốn vị Đốn (một loại ma quỷ trong Bản giáo) và bốn Quán Ba (một loại ma quỷ chuyên rải bệnh dịch trong Bản giáo), nghe Hiệp Ốc Ương Cách trình bày ý định xong, bọn họ liền đưa ra một câu đố nhằm khảo nghiệm trí tuệ của Hiệp Ốc Ương Cách…
Vị Đốn thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói thật.”
Vị Đốn thứ hai nói: “Trong chúng ta có ít nhất ba kẻ nói thật.”
Vị Đốn thứ ba nói: “Trong chúng ta có ít nhất năm kẻ nói thật.”
Vị Đốn thứ tư nói: “Trong chúng ta có ít nhất bảy kẻ nói thật.”
Vị Quán Ba thứ nhất nói: “Trong chúng ta ít nhất có một kẻ nói dối.”
Vị Quán Ba thứ hai nói: “Trong chúng ta ít nhất có hai kẻ nói dối.” Vị Quán Ba thứ ba nói: “Trong chúng ta ít nhất có bốn kẻ nói dối.”
Vị Quán Ba thứ tư nói: “Trong chúng ta ít nhất có sáu kẻ nói dối.”
Hỏi: “Có mấy kẻ nói dối.”
Bên dưới đề mục là một hàng nút bấm hình dạng giống như chiếc lược nhỏ, hiển nhiên là yêu cầu phải chọn con số đúng. Các con số trong đề mục cũng là nút bấm, có thể biến động.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin nghĩ ngợi một lúc lâu, càng nghĩ lại càng thấy hồ đồ. Merkin thậm chí còn chất vấn Trác Mộc Cường Ba xem gã dịch có chuẩn xác không, Trác Mộc Cường Ba khẳng định như đinh đóng cột: “Chữ này nghĩa là ‘ít nhất’ thì đúng rồi, không thể sai được, còn lại toàn là số và những chữ đơn giản, không thể nhầm được.”
Merkin lẩm bẩm nói: “Thêm một chữ
‘ít nhất’ là cả đề mục hoàn toàn thay đổi đấy, một người nói thật và ít nhất một người nói thật, là hai ý nghĩa khác hẳn nhau.”
Đối với các câu đố mang tính logic kiểu này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin trước giờ đều dựa vào máy tính giúp sức, giờ máy tính đã hỏng, hai người nhất thời cũng chỉ biết gãi đầu gãi tai. Thêm vào đó, Merkin lấy làm đau đầu với thứ tiếng Trung mà Trác Mộc Cường Ba dịch ra, y bèn dứt khoát không nghĩ nữa, để một mình gã tự tính toán. Trác Mộc Cường Ba phân tích đi phân tích lại một hồi lâu, cuối cùng khẳng định, chắn chắn có bốn người nói dối.
Bốn nút gồ lên được nhấn xuống, một thoáng sau không thấy động tĩnh gì, không có cánh cửa nào mở ra, cũng không rung chuyển gì, Merkin bắt đầu có một dự cảm chẳng lành, y căng thẳng nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Này…”
“Cạch cạch…” Sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cơ quan chuyển động, hai người ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy hàng rào sắt kia đang từ từ dâng lên, đồng thời mấy “cỗ áo giáp” bên trong dường như cũng bắt đầu động đậy. Đúng lúc hai người quay đi đó, bệ cơ quan trước mặt bất thình lình “bùng” một tiếng, phun khói mù mịt. Hai người vội dùng một tay che kín mũi miệng, tay kia khua loạn xạ.
Khói
mù tan đi, Merkin đẩy mạnh Trác Mộc Cường Ba một cái: “Anh ấn sai rồi! Trời ạ! Đã đến gian phòng cuối cùng rồi, mà anh lại ấn sai! Ở đây chúng ta biết chạy đi đâu bây giờ!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ không phải là lúc oán trách, tôi không hiểu, những bộ giáp kia sao lại chuyển động được, nhân lúc bọn chúng còn chưa ra, mau nghĩ cách khác đi.”
Merkin xòe hai bàn tay ra nói: “Tôi còn cách gì nữa đây? Phải xem thứ kia là gì rồi tính tiếp!” Cả căn phòng rung lên một chập, cảm giác như chiếc thang máy bị kẹt giữa lưng chừng, đang rơi xuống từng chút từng chút một, tốc độ không nhanh lắm, cứ thụt một cái rồi lại dừng.
Mấy bộ áo giáp kia giống như những người máy đã được bật công tắc khởi động, đứng thẳng dậy. Thoạt nhìn gai góc gồ lên lởm chởm, những mảnh giáp sáng lấp lánh toát lên sát khí ngùn ngụt là biết chúng chẳng phải thứ tử tế gì.
“Nhanh lên, nhân lúc bọn chúng còn chưa hoàn toàn khởi động!” Merkin rút súng ra, gí họng súng vào khe hở trên hàng rào, bắn quét một loạt đạn. Chỉ nghe “tinh tinh tinh tinh…” như thể những hạt trân châu rơi xuống khay ngọc, ánh lửa bắn tóe khắp phòng, đạn bắn vào đều bị bật tung ra, sém chút nữa chính bản thân y cũng bị thương.
Bị hai viên đạn sượt qua mặt, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy má mình bỏng rát, gã vội kêu lên: “Giáp dày quá, không thủng đâu, đừng phí đạn nữa.” Dứt lời, gã rút hai quả lừu đạn cuối cùng, ném vào trong hàng rào.
Sau tiếng nổ, chỉ thấy ba bộ áo giáp ở mé bên phải đã bị hất ngã ngửa, bụi đất mù mịt, nhưng tay chân vẫn không ngừng chuyển động, hiển nhiên không bị tổn thương gì lớn lắm. Trác Mộc Cường Ba hất tay xua bụi xung quanh mình, vừa ho sặc sụa vừa nói: “Đây là cái thứ gì vậy chứ, khục khục …”
Lúc này, hàng rào sắt cũng hoàn toàn mở ra, ba bộ áo giáp bên trái đã đứng thẳng lên bước tới. Chúng dường như cảm ứng được sự có mặt của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, chầm chậm ngoảnh đầu lại phía hai người, phỏng chừng phần đầu bộ áo giáp là một khối đặc ruột, không có khe hở nào, cũng không có lỗ mở cho mắt mũi tai miệng. Sau khi hướng mặt về phía Trác Mộc Cường Ba và Merkin, ở bên dưới vị trí vốn là cái miệng đột nhiên bắn ra mấy cây đinh dài, nhằm thẳng vào chỗ hai người. Lúc này, Merkin không hiểu đã phát hiện ra điều gì, vẫn đứng bần thần ra đó.
“Tránh ra!” Trác Mộc Cường Ba bổ tới, đè Merkin ngã lăn ra đất.
Mấy cái đinh bắn xuống sàn, hoa lửa bắn tóe. Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đần thối mặt ra đó nghĩ cái gì vậy?”
Merkin chỉ tay vào chỗ gã vừa ném lựu đạn nói: “Hình như có đường ra!”
Trác Mộc Cường Ba vội nhìn theo hướng ấy, bức tường sau lưng mấy bộ áo giáp bị hất ngã ngửa ấy đã lung lay, trong các kẽ hở dường như có ánh sáng chiếu vào. Trác Mộc Cường ba ngạc nhiên thốt lên: “Bức tường này chỉ có một lớp mỏng thôi à!”
Hai người nhanh chóng tính toán, nếu ném một quả lựu đạn đã trông thấy ánh sáng chiếu vào, vậy chỉ cần ném thêm một hai quả nữa, nói không chừng có thể nổ ra một lối thoát. Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Nhanh lên!”
Merkin lấy lựu đạn ra, ngần ngừ nói: “Chỉ còn lại một quả cuối cùng thôi.” Lúc này mấy bộ áo giáp bên trái dường như đã khóa chặt vị trí của Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đang sải chân đi thẳng tới, đồng thời, mấy bộ bị ngã ngửa ra dưới đất cũng đã ngồi dậy được.
Merkin nhắm vách tường có ánh sáng hắt ra, ném quả lựu đạn vào đó, lại một tiếng nổ nữa, bức tường đã bị phá ra một lỗ thủng đường kính chừng một mét. Ánh lửa đỏ rực từ bên ngoài chiếu vào gian phòng, mấy bộ áo giáp đã ngồi dậy được kia lại bị vụ nổ làm cho ngã lăn ra đất lần nữa.
“Nhanh lên!” Merkin xông thẳng lên, nhân lúc thân thể nặng nề của bộ giáp còn chưa kịp phản ứng, nhẹ nhàng lướt qua bên cạnh mấy bộ giáp ở mé trái, rồi lại nhảy luôn qua bộ giáp nằm ngang dưới đất, lao thẳng ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba theo sát sau lưng y.
Vừa đến mép lỗ, Merkin chợt hét lên: “A!” Y không kịp dừng lại, vội quay người tóm lấy Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chạy phía sau, tốc độ hơi chậm, vừa nghe Merkin kêu lên cũng vội vàng phanh két lại. Liền ngay sau đó, chỉ thấy chỗ áo trước ngực bị thắt lại, thì ra đã bị Merkin tóm vào rồi.
. .
CON RỐI THÚ
.
Hai cánh tay Trác Mộc Cường Ba dang rộng, bàn tay vặn ngược bám vào mép lỗ hổng trên tường, Merkin bám vào vạt áo Trác Mộc Cường Ba, cả người lơ lửng giữa không trung. Bên ngoài lỗ hổng do lựu đạn phá ấy không phải là đất bằng, mà là vách núi cheo leo, chẳng những vậy… bên dưới vách núi đó còn là dung nham đang sôi sùng sục!
Nham thạch nóng trông như chất keo chảy chầm chậm, ánh lửa đỏ rực cả không gian xung quanh, những tiếng “ùng ục ùng ục” vang lên liên hồi kỳ trận, thoạt nhìn như thể chỉ cách trong gang tấc, cũng không biết khoảng cách thực sự giữa hố lửa và chỗ bọn họ là bao nhiêu nữa, Merkin có cảm giác như mình bị ném vào một lò lửa rực cháy.
Trác Mộc Cường Ba vừa trụ vững được thân hình, còn chưa kịp kéo Merkin lên, thì bộ giáp phía sau gã dường như đã lấy được đà, hùng hục lao thẳng tới. Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị dồn sức ngả về phía sau, chợt liếc thấy bộ áo giáp đó, gã liền vội vàng buông một tay ra, lách người né tránh.
Bộ giáp đó không hãm được đà lao, cứ thế húc thẳng vào tường, làm sụt ra một mảng lớn nữa rồi rơi thẳng xuống dưới, một lúc lâu sau mới hóa thành một chấm nhỏ, chìm trong dòng dung nham nóng bỏng, không còn tăm tích. Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhận ra, hố dung nham bên dưới kỳ thực còn cách họ rất xa, chỉ là nhiệt độ ở trên này thôi cũng đã vượt quá sức chịu đựng của da người rồi.
Không để Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều thời gian để suy tính ba bộ giáp ở mé bên trái đều lần lượt chạy tới. Gã đã buông một tay ra, mà bờ tường chỗ tay còn lại đang bám vào cũng bắt đầu lung lay, có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trước ngực lại đeo thêm Merkin, khiến gã phải hơi khom người ra phía trước. Gã có thể tránh được bộ giáp thứ nhất, nhưng hai bộ phía sau e rằng khó lòng thoát nổi.
Cũng may, đúng lúc này Merkin chợt buông tay thả mình rơi xuống, kế đó bám chặt vào mép vách đá cheo leo. Y đeo mình phía ngoài, nhìn rõ được tình huống xung quanh hơn Trác Mộc Cường Ba. Vách đá này hình dạng như cái lưỡi, đỉnh vòm phía trên cách bọn họ chừng bốn năm mét, cao bằng gian phòng kia. Vách núi đen đúa lơ lửng phía trên đỉnh đầu như thể Thái Sơn áp đỉnh, khiến người ta có cảm giác nặng nề khó tả. Ở vị trí này, Merkin có thể nhìn rõ bốn mặt của gian phòng kia kỳ thực đều chỉ có một lớp tường mỏng. Cả gian phòng này giống như được đẽo từ khối đá buông phía trên xuống, vừa khéo nằm ngay mép bình đài hình dạng như cái lưỡi thè ra này. Bọn họ đã nổ nhầm bức tường, nếu cho nổ bức tường phía sau, hai người có thể trực tiếp ra ngoài bề mặt bình đài rồi. Lúc này, họ chỉ có thể bám vào mép bình đài, vòng qua vị trí của gian phòng đá.
Bên trong gian phòng, Trác Mộc Cường Ba thấy trước ngực nhẹ bẫng, áp lực giảm đi đáng kể, lập tức lộn người sang một bên, tránh được bộ giáp nặng nề ục ịch. Bộ giáp kia chừng như cũng muốn giành lại, nhưng cơ hồ không thể vặn người, đành cứ thế bật người lên đè vào Trác Mộc Cường Ba dưới đất. Đã thấy bộ giáp đầu tiên tông đổ tường lao ra vách đá bên ngoài, Trác Mộc Cường Ba cũng biết thứ này cực kỳ nặng nề, liền lăn một vòng dưới đất tránh né, bộ giáp đập thẳng xuống, mặt đất rung lên bần bật.
Merkin ở bên ngoài hét lên: “Nhanh lên, xuống đây, vòng qua chỗ này là có thể leo lên được!”
Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang đối mặt với bộ giáp thứ ba. Gã cũng là kẻ tài cao gan lớn, bật người lên theo thế “Lý Ngư đả đỉnh”, kế đó chống tay lấy đà nhảy qua đầu bộ giáp thứ ba, lúc ở trên không lại xoay người mượn lực, đạp một cái lên vai bộ giáp, rồi thả người trầm xuống, bám vào mép bình đài.
Những bộ giáp kia hình như rất sợ ánh lửa, không dám đến gần miệng lỗ, cứ chạy vòng vòng lung tung trong gian phòng như lũ nhặng cụt đầu. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn thận treo mình bên ngoài vách đá, từ từ dịch chuyển vào mé bên trong của bình đài hình cái lưỡi.
Bên dưới chính là hố dung nham nóng chảy hai người không dám lơ là.
Nhìn từ dưới lên, Trác Mộc Cường Ba phát hiện, ở mé bên ngoài bức tường có mấy lỗ hình vuông nhỏ, mỗi bề chừng mười xăng ti mét. Vị trí của mấy lỗ vuông này hình như chính là chỗ các bộ giáp ngồi lúc đầu. Chẳng lẽ những lỗ hình vuông này và mấy bộ giáp trên kia có mối liên hệ gì đó?
Gã cũng không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, hai người vòng qua gian phòng đá, leo lên bề mặt bình đài. Merkin chỉ vào bức tường trước mặt, nói: “Nếu chúng ta cho nổ bức tường này thì có thể thoát ra luôn rồi. Nếu anh không đoán sai số, bức tường này chắc cũng đã mở ra rồi.”
Y ngẩng ngẩng đầu lên nhìn khe hở giữa bức tường và tầng nham thạch phía trên, hiển nhiên, bức tường này cũng giống như hàng rào sắt kia, có thể nâng lên trên.
Trác Mộc Cường Ba lại
ngoảnh đầu nhìn ra sau lưng, rốt cuộc bọn họ cũng thoát khỏi Cửu Cung biến, ở đầu kia của bình đài hình chiếc lưỡi này là một hang động, dưới ánh lửa hắt lên, chỉ thấy hai bên đều có một bức tượng, trông cổ phác mà trang nghiêm. Trác Mộc Cường Ba thoạt nhìn đã nhận ra, hai bức tượng này chính là Diệu thần giám thị công đức và tội ác trên thế gian, cùng với Trát Lạp, Thần bảo vệ của các chiến sĩ. Sâu bên trong hang động, thấp thoáng ánh lên những tia sáng màu vàng kim.
Trác Mộc Cường Ba chỉ mới nhìn lướt qua, Merkin đã ở đằng sau huých nhẹ vào cánh tay gã. Gã ngoảnh đầu lại, chỉ thấy y nói nhanh: “Này, không ổn lắm, đi thôi.”
“Ầm!” một tiếng, bức tường sau lưng hai người rung lên, bột phấn rơi lả tả, hiển nhiên là năm bộ giáp bên trong đang húc vào. Gã và Merkin đều cho rằng những bộ giáp ấy chỉ là cỗ máy vô tri, chẳng ngờ bọn chúng lại có thể khóa được vị trí của hai người ở cách một bức tường, còn biết phá tường xông ra. Cả hai tròn mắt ngạc nhiên nhìn nhau, không hẹn mà cùng quay người, chạy về phía hang động ở đầu bên kia bình đài hình cái lưỡi.
Vừa vào trong hang, hai người cùng lúc hít sâu một hơi, bầu không khí bên ngoài kia nóng bỏng mà vào đến trong này thì lạnh toát. Chỉ thấy đại điện điển nhã không màu mè này trông giống như La Hán đường ở những ngôi chùa bình thường vậy, trên bệ đá dài cao chừng một mét có vô số tượng kim thân La Hán ngồi dựa lưng vào nhau. Những vị La Hán này lớn hơn người thường một chút, dáng ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, dung mạo hoàn toàn không khác gì người thật, đồng thời tướng mạo mỗi bức mỗi khác nhau.
Cổ nhân đã dùng cách tương tự trên hành lang có các cột sáng ở tầng trên cùng để lấy ánh sáng. Họ dựng vô số tấm gương đồng trong đại điện, ánh sáng đỏ rực của nham thạch nóng chảy được gương đồng phản xạ, biến thành những tia sáng vàng kim chói lọi. Những cột sáng đan nhau tạo thành một tấm lưới, bao phủ lên vô số tượng Phật tựa như một chiếc lồng chụp khổng lồ. Những bức tượng kia vốn đã dát vàng dát bạc, được ánh sáng chiếu vào lại càng toát lên thần thái trang nghiêm, sống động như thật, tựa hồ như La Hán hạ phàm, Tôn Giả giáng thế.
Merkin ngước mắt quan sát, thấy những bệ đá dài ấy nối tiếp nhau san sát, bên trên toàn là tượng kim thân La Hán, số lượng phải lên đến hàng vạn, không khỏi tắc lưỡi nói: “Đây toàn là vàng ròng sao? Nhiều như vậy! Haha… chúng ta tìm được rồi! Chúng ta đến trước! Chúng ta đến trước rồi!”
Trước khi Merkin kịp hưng phấn đến nỗi ôm chầm lấy Trác Mộc Cường Ba nhảy cẫng lên, gã đã dội cho y một chậu nước lạnh vào đầu: “Sợ là ông phải thất vọng rồi, đây không phải tượng Phật bằng vàng ròng, mà chỉ là tượng dát vàng thôi, xem đi…” Gã chỉ
mấy pho tượng La Hán ở đằng xa, lớp vàng trên bề mặt đã bong tróc, lộ ra mầu nâu của bùn đất bên trong.
Trác Mộc Cường Ba bước lại gần, trên bức tượng ấy, không ngờ lại phát hiện đồ dệt may. Một ý nghĩ đáng kinh ngạc lóe lên trong đầu, gã vội vàng dùng ngón tay nhè nhẹ phẩy lên lướp bùn đất, quả nhiên, bên dưới lớp vải dệt đó, là một tầng vật chất dạng sừng khô cứng. Có thể khẳng định, đây là da người đã khô kiệt. Nhìn xa hơn một chút nữa, không sai, cả vạn pho tượng La Hán ở đây, kích cỡ tương đương nhau, đều chỉ lớn hơn người thật một chút. Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng khẳng định lại ý nghĩ trong đầu mình, gã kính cẩn đứng lên, nói với Merkin: “Tuy không phải tượng Phật bằng vàng ròng, nhưng còn quý giá gấp bội phần, những La Hán này, toàn bộ đều là nhục thân kim tượng đó!”
“Nhục thân kim tượng?” Merkin cũng chạy tới.
“Đúng thế,” Trác Mộc Cường Ba nhìn những bức tượng dát vàng đang ngồi xếp bằng trên bệ đá, thần thái nghiêm trang kính cẩn, chậm rãi tiếp lời, “không chỉ trong Mật giáo có ghi chép lại, mà cả Đại Thừa Hiển giáo cũng có cách làm tương tự. Một số vị cao tăng đại đức có tu vị Phật học đạt đến cảnh giới Đại Trí Tuệ, sau khi tọa hóa, nhục thân không bị thối rữa. Người đời sau kính ngưỡng, liền mang thân thể không thối rữa ấy làm phôi, bên ngoài trét thêm bùn đất, rồi sơn son thếp vàng để cúng tế.”
Merkin biến sắc thốt lên: “Ý anh là,
mỗi bức tượng ở đây …”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng, mỗi bức tượng La Hán kim thân ở đây, đều là nhục thân của một vị tiền bối đại sư sau khi tọa hóa.” Gã chợt nhớ lại những tượng nhục thân trong tư thế đứng ở Đảo Huyền Không tự, hiển nhiên, đây là mật pháp truyền thừa của các Mật tu giả.
Hai người xuyên qua đại điện xếp đầy kim thân La Hán, đi thẳng về phía trước, thấy một cánh cửa đá chặn ngang đường. Trên cửa có vẽ một con rắn được trừu tượng hóa, Merkin bảo nó giống rồng, còn Trác Mộc Cường Ba lại cho rằng đây là Na Tháp, con rắn vô biên, Đa Cát ở thôn Công Bố cũng từng nhắc đến một truyền thuyết tương tự. Merkin lại bảo chưa chắc, đây đã là con rắn vô biên gì đó, cũng có thể là rắn thần trong tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba. Gần như trong tất cả mọi tôn giáo, hình tượng rắn đều có địa vị rất quan trọng. Trong tín ngưỡng cổ, rắn tượng trưng cho tính dục, vương quyền, trường sinh và những mối nguy không thể dự báo.
Cho dù thế nào, khi đối diện với cánh cửa đá cong tựa như màn hình chiếu phim cỡ lớn này, hai người cũng hiểu rõ, chỉ dựa vào sức trâu hoặc chất nổ thì không thể nào mở nó ra được, cần phải xem cơ quan chốt lẫy ở đâu.
“Này, Cường Ba, lại đây mà xem!” Merkin chỉ vào miệng rắn đang ngoác rộng, ở chỗ chiếc răng sắc nhọn có một vết máu lờ mờ, lan dần lên phía trên rồi biến mất. Ở chỗ mắt rắn, những sợi tơ máu mờ mờ lại tản ra theo hình mắt lưới, khiến con mắt tròn ấy trở nên hung hăn dữ tợn lạ thường.
Trác Mộc Cường Ba đưa tay sờ vào mắt rắn, ở trung tâm nhãn cầu, một hình thoi dài hẹp có khe hở rất nhỏ với những bộ phận xung quanh. Những khe hở này khớp với đường nét trên bức phù điêu, không rờ tay vào thì khó lòng nhận ra được.
Merkin dùng ngón tay phác một nét trên vị trí của mắt rắn, đoạn nói: “Anh xem, cấu tạo này có giống một cái huyết trì cỡ nhỏ không?”
Nét mặt Trác Mộc Cường Ba đổi sắc, gã khe khẽ gật đầu. Merkin nói đúng, hút máu ở chỗ răng rắn, lan dần đến mắt rắn, đích thực rất giống một huyết trì. Bên này, Merkin bắt đầu hành động, ý rút dao ra, nhấn đầu mũi dao lên ngón tay mình, lẩm bẩm nói: “Có khi máu của tôi lại dùng được.”
Mũi dao đâm nhẹ vào, một giọt máu nhểu ra, Merkin đặt ngón tay vào chỗ răng rắn. Giọt máu chảy ra khỏi đầu ngón tay liền bị ống hút bên trong răn rắn chầm chậm hút vào. Huyết trì cỡ nhỏ này không cần nhiều máu lắm, Merkin chỉ khẽ nhấn ngón tay một cái, răn rắn đã không hút thêm máu nữa. Không lâu sau, từng sợi từng sợi tơ máu bắt đầu lan đến gần mắt rắn, rồi men theo vòng ngoài vươn dần vào bên trong, khi những sợi tơ máu rẽ nhánh chạm vào con ngươi hình thoi bên trong nhãn cầu, chỉ nghe “tách” một tiếng rất nhẹ, con ngươi ấy liền thụt vào bên trong. Đồng thời, dường như một lớp màng được mở ra, chính giữa con mắt lộ ra một cái lỗ nhỏ hình thoi màu đen, chỉ lớn hơn đầu ngón tay một chút, ngoài ra, toàn bộ đại điện đều không có gì thay đổi.
“Đây là cái gì vậy?” Nhìn cái lỗ nhỏ hình thoi ấy, hai chân mày Trác Mộc Cường Ba nhíu lại, hiển nhiên tác dụng của huyết trì này chỉ là mở ra một cái lỗ nhỏ. Từ độ sâu của cái lỗ nhỏ này, có thể thấy cần phải cắm thứ gì đó vào, họa may mới khởi động được cơ quan.
Merkin thấy cái lỗ nhỏ hình thoi ấy thì mừng ra mặt, cười cười nói: “Đây là lỗ khóa, cần có khìa khóa mới mở được, chúng ta có chìa khóa!” Y thấy Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, hoang mang không hiểu gì, liền lặp lại lần nữa: “Chỉ chúng ta mới có chìa khóa.”
“Chìa khóa?” Trác Mộc Cường Ba càng thêm ngờ vực, gã chưa bao giờ nhớ là mình có chìa khóa gì, rốt cuộc Merkin đang nói đến thứ gì vậy?
Ngay sau đó, Merkin liền giải đáp mối nghi hoặc của gã. Y thò tay vào sâu trong áo, lấy ra một thanh kiếm đồng nhỏ, gần như giống hệt với thanh kiếm gia truyền của Trác Mộc Cường Ba.
Vừa nhìn thấy kiểu dáng và hoa văn khắc trên thanh kiếm, Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: “Đây là…” Đồng thời, phản ứng đầu tiên của gã cũng chính là lần tìm thanh kiếm đồng trên người mình.
.
BÍ MẬT CỦA CHÌA KHÒA
.
Merkin cầm thanh kiếm đồng nhỏ trông như chiếc thập tự giá sáng lấp loáng, nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây chính là chìa khóa! Đây là thứ gia tộc nhà anh truyền qua không biết bao nhiêu đời, thứ mà dù trong trường hợp nguy hiểm nhất cũng tuyệt đối không thể đánh rơi, vậy mà anh lại không biết nó dùng để làm gì ư?”
Trác Mộc Cường Ba cũng lấy ra thanh kiếm đồng nhỏ giấu ở túi áo trong của gã ra. Hai thanh kiếm gần như giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ, chuôi kiếm của Trác Mộc Cường Ba là con Tỳ hưu ba sừng, bên dưới là bốn con thú sư tử, rồng, hổ, đại bàng, còn chuôi kiếm của Merkin lại khắc thành hình Kỳ lân, bên dưới là bốn con quỷ Si, Mị, Võng, Lượng.
Hai thanh kiếm đồng đặt cạnh nhau, kích cỡ giống hệt, chất liệu giống hệt, công nghệ giống hệt, chỉ cần nhìn lướt qua, bất cứ ai cũng có thể khẳng định hai thanh kiếm đồng này được làm ra ở cùng một nơi, cùng một thời điểm, thậm chí là bởi cùng một người thợ. Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào chúng, cơ hồ vẫn không dám tin vào mắt mình: “Đây là chìa khóa ư? Ông lấy ở đâu ra vậy?”
Merkin nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Giống anh thôi, đều là các tiền bối trong gia tộc truyền thừa xuống, chẳng lẽ anh thật sự không biết? Mặc dù anh không nói gì với những người trong nhóm của mình, nhưng tôi thấy anh coi trọng nó như vậy, cứ tưởng anh đã biết thanh kiếm đồng này là gì rồi chứ.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi coi trọng nó, chỉ vì nó là vật truyền thừa của gia tộc thôi. Trước nay tôi vẫn luôn nghĩ rằng, nó chỉ là một vật có ý nghĩa lịch sử đối với gia tộc mình.”
Merkin nghiêm nét mặt lại nói: “Đã vậy thì để tôi nói cho anh biết, chiếc chìa khóa này không chỉ là tượng trưng cho truyền thừa lịch sử, quan trọng hơn, nó là một sự chứng nhận đối với huyết thống và thân phận, mà quan trọng nhất, nó là một chiếc chìa khóa! Bao đời nay, gia tộc chúng tôi vẫn truyền lại cho đời sau rằng, không có chìa khóa này, cho dù có tìm được thần miếu cũng không thể mở được kho báu cuối cùng. Có điều, theo như truyền thừa của gia tộc chúng tôi, lẽ ra chỉ có một chiếc chìa khóa mới đúng. Tôi cũng lấy làm lạ, không hiểu tại sao anh cũng có một chiếc? Vả lại, hai chiếc chìa khóa này tuy rằng hình dạng tương tự, kỹ thuật chế tác cũng giống nhau, nhưng vẫn có những điểm khác biệt rõ rệt.”
Tâm tư Trác Mộc Cường Ba lúc này đang cuộn lên những đợt sóng lớn, vô số ý nghĩ cũng dâng trào lên trong óc gã. Trong gia tộc không hề lưu lại bất cứ ghi chép nào liên quan đến chiếc chìa khóa này, cha gã cũng không nhắc nhở gì đặc biệt, nhưng các trưởng lão thôn Công Bố lại nhận định gã là Thánh Sứ… Merkin là hậu nhân của Tây Thánh Sứ, vậy còn bản thân gã…? Rốt cuộc chuyện này ẩn chứa bí mật gì? Truyền thừa nghìn năm, rốt cuộc bị đứt đoạn từ khi nào? Đoạn lịch sử thất lạc ấy sao lại bị vùi chôn trong dòng chảy hỗn loạn của thời không? Thân phận của gã rốt cuộc là gì? Gia tộc của gã khởi nguồn từ đâu? Gã và Bạc Ba La thần miếu này có quan hệ như thế nào? Các trưởng lão thôn Công Bố nói gã sẽ thức tỉnh? Gã vốn chỉ muốn tìm Tử Kỳ Lân thôi mà, sau lại biến thành như vậy?
Merkin không phát hiện ra tâm trí Trác Mộc Cường Ba lúc này đang rối tơ vò, chỉ thấy ánh mắt gã hơi đờ đẫn, liền khẳng định: “Nếu vậy, chắc chắn anh cũng không biết phải mở cái chìa khóa này ra như thế nào rồi, đúng không?” Dứt lời, y liền ở trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cầm chuôi thanh kiếm đồng ấy vặn vẹo mấy cái, cũng không biết là ấn vào những chỗ nào, thoắt cái chuôi kiếm đã mở ra. Bên trong chuôi kiếm là một ống kim loại, miệng ống xòe rộng ra như cái bát. Chỗ miệng bát tuy đã được chà xát cho sạch, nhưng vẫn còn vương lại vết máu, một hai vệt đã chuyển thành màu xanh lục, không biết đã có từ mấy trăm năm trước. Nhìn chuôi kiếm đã mở hẳn ra, Merkin mới nói: “Tôi có thể khẳng định với anh, đây là một chiếc chìa khóa không thể phục chế, anh nhìn những ký hiệu totem chạm trổ trên thân kiếm đi, chúng không chỉ là những biểu tượng, mà thực ra là lò xo có thể co duỗi được. Bên trong chiếc chìa khóa này, cũng là một huyết trì cỡ nhỏ, chỉ cần một giọt máu… một giọt thuần huyết!”
Trước cặp mắt chăm chú của Trác Mộc Cường Ba, Merkin bóp nhẹ vết thương vẫn chưa khép miệng trên đầu ngón tay, lại một giọt máu nữa nhỏ vào cái lỗ nhỏ hình miệng bát. Một loạt tiếng “tách tách tách” rất nhẹ như sâu phá kén vang lên. Cùng với những âm thanh ấy, những hình chạm nổi trên thân kiếm lại bật ra những hình trụ tròn, to thì bằng đầu đũa, nhỏ thì như tăm xỉa răng. Không chỉ thế, xung quanh những hình trụ tròn ấy, lại bật ra những mũi gai nhọn li ti, trên thân mũi gai lại bật ra tiếp rất nhiều những răng nhọn nhỏ như sợi lông, hai bên răng nhọn ấy dường như cũng bật ra những sợi nhỏ hơn nữa, mắt thường không thể nào phân biệt nổi, đại khái chỉ có thể trông thấy trên bề mặt răng nhọn phủ một lớp màng như tơ nấm mốc mà thôi.
Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, kinh ngạc thốt lên: “Đây là…?”
Merkin nói: “Không cần nhìn kỹ thế đâu, chỗ nhỏ nhất phải dùng đến kính hiển vi phóng đại một trăm lần mới phân biệt được cơ. Chúng tôi có lý do để tin rằng, những sợi lông nhỏ li ti này đều là răng cưa của chìa khóa, nó là chìa khóa duy nhất ứng với những lỗ nhỏ ở vách bên trong cái lỗ hình thoi này.”
Trác
Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, đoạn nói: “Cho dù là vậy, với công nghệ ngày nay, muốn phục chế một chiếc chìa khóa như vậy chắc cũng không phải quá khó chứ?”
Merkin cười khẩy, nói: “Anh nghĩ đơn giản quá rồi, đầu tiên phải dồn nén vô số răng chìa khóa thành một vật thể hình thoi, đồng thời lợi dụng một lực nào đó để khiến những răng chìa khóa này hoàn toàn bật ra. Chẳng những vậy, còn giữ được cả nghìn năm không hề hư hao tổn hại chút nào. Theo tôi được biết, trình độ khoa học công nghệ hiện nay vẫn chưa làm được điều đó đâu. Gia tộc chúng tôi đã làm thống kê, phần bật ra này chiếm một nửa thể tích chiếc chìa khóa, nhưng diện tích bề mặt lại bằng một trăm ba mươi lần diện tích bề mặt chiếc chìa khóa ban đầu.”
Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Bọn họ làm cách nào vậy?”
Merkin đáp: “Sinh vật, giống như huyết trì vậy. Chúng ta có thể nói thế này, toàn bộ chiếc chìa khóa giống như một thể sống có vỏ ngoài bằng kim loại. Bên trong chìa khóa này có dấu vết của sự sống, tổ tiên của tôi đoán đó là một loại khuẩn niêm hợp hoặc chân khuẩn gì đó, phạm vi sinh tồn của chúng giới hạn ở bên trong chiếc chìa khóa này. Quan hệ của chúng và chìa khóa, cũng giống như san hô với rặng đá san hô vậy. Đồng thời, khi được máu tươi kích hoạt, chúng sẽ sinh ra lực hướng ngoại rất mạnh, làm các răng chìa khóa bật ra ngoài.”
Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Trác Mộc Cường Ba, Merkin lại mỉm cười nói tiếp: “Không chỉ có vậy, loại sinh vật này kén chọn máu nữa, cũng giống như bộ phận kết hợp của thụ thể
(38)
trong hệ thống miễn dịch ở cơ thể người vậy. Tôi đoán, có lẽ đã đi sâu vào phạm trù gene rồi.”
Trác Mộc Cường Ba không hiểu đống thuật ngữ chuyên ngành Merkin vừa xổ ra, lại thắc mắc: “Thế nghĩa là sao?”
Merkin giải thích: “Tức là, ngoại trừ tôi và những người mang huyết thống trực hệ trong gia tộc, máu của người khác hoàn toàn không có tác dụng gì với nó.”
Thấy hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại trợn tròn lên, Merkin nghiêm túc nói: “Chúng tôi đã thực nghiệm rất nhiều lần, sự thực chứng minh, ngoài máu của những thành viên nam còn sống trong gia tộc, máu hay chất lỏng nào khác trên cơ thể của bất cứ ai cũng hoàn toàn không có chút hiệu quả nào.” Y thoáng ngập ngừng một chút, rồi tiếp tục giải thích: “Sở dĩ tôi nói đã liên quan đến phạm trù gene, là vì cho dù thành viên nam giới trực hệ trong gia tộc chúng tôi, không phải người nào cũng có thể làm chiếc chìa khóa này bật ra được. Cha tôi là một ví dụ, ông ấy không thể làm chìa khóa bật ra, đến đời tôi, máu của tôi lại làm được, vì vậy…”
“Di truyền cách đời!” Trác Mộc Cường Ba lại biến sắc mặt.
“Đúng vậy,” Merkin gật đầu nói: “Chúng tôi cũng nghĩ thế, thông qua việc kết hợp với cá thể khác giới, một số gene di truyền có thể lặn hoặc trội, khiến cho trong gia tộc tôi cũng có người này người nọ, nhiều trường hợp dù là huyết thống trực hệ cũng không thể làm chìa khóa này bật mở ra được.”
Trác Mộc Cường Ba nén cảm giác ớn lạnh trong lòng xuống, lẩm bẩm: “Di truyền, cổ độc, Đông Tây y kết hợp…”
Merkin gật đầu lia lịa nói: “Đúng, đúng, tôi cũng cho rằng đây là một phương thức vận dụng cổ độc của người Qua Ba. Thật khó tin là trình độ sử dụng cổ độc của họ đã đến giai đoạn nghiên cứu lợi dụng gene di truyền rồi.” Y vừa dứt lời, chợt vang lên tiếng “xẹt xẹt xẹt xẹt”, sau đó những răng chìa khóa bật ra lại rụt trở về, tốc độ cực nhanh, chỉ chớp mắt vài cái chìa khóa đã trở lại hình dạng thanh kiếm đồng như lúc ban đầu.
Trác Mộc Cường Ba không kìm được, đưa mắt liếc nhìn y. Merkin lại nói: “Chúng tôi cho rằng, trong máu của những thành viên nam có gene trội trong gia tộc mình có một loại hoạt chất đặc biệt. Đối với thứ sinh vật bên trong chìa khóa, loại hoạt chất này giống như thuốc kích thích vậy. Hoạt chất trong máu có thể khiến sức lực của chúng tăng lên gấp bội, đủ để làm bật ra các răng chìa khóa. Sau khi hoạt chất này tiêu hao hết, chúng sẽ tự động rút trở về.” Không lâu sau đó, lại nghe “tách” một tiếng, lỗ nhỏ hình thoi bên trong mắt rắn lại đóng lại, con ngươi cũng bật trở ra, mọi thứ đều khôi phục trạng thái ban đầu.
“Hả?” Merkin quay sang chỗ mắt rắn, hân hoan kêu lên: “Xem ra nguyên lý của lỗ khóa này cũng giống như chìa khóa, lợi dụng hoạt chất trong máu của tôi làm nguồn động lực.”
Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nôn nóng, gã giục giã: “Đừng nói nhiều nữa, cho chìa khóa vào rồi thử xem sao, để xem sau cánh cửa này rốt cuộc có thứ gì?”
Máu ở đầu ngón tay Merkin đã khô, y bèn chọn một ngón khác, luôn miệng nói: “Được rồi, được rồi.” Răng rắn hút máu, mắt rắn mở ra lỗ nhỏ hình thoi, Merkin cắm thanh kiếm đồng vào trong. Trác Mộc Cường Ba bây giờ mới phát hiện, lỗ mở hình miệng bát ở chuôi kiếm có thể uốn cong. Merkin hướng miệng bát lên phía trên, nhểu vào một giọt máu, sau đó chăm chú lắng nghe động tĩnh bên trong lỗ khóa. Sau một loạt tiếng “tách tách”, y cho rằng đã được rồi, liền bắt đầu chuyển động phần chuôi của chiếc chìa khóa hình thập tự giá.
Dần dần, sắc mặt Merkin bắt đầu biến đổi, từ hân hoan trở nên nghiêm trọng, từ nghiêm trọng trở nên nặng nề, cuối cùng thì nhăn mặt cười khổ với Trác Mộc Cường Ba: “Không đúng, không xoay được.”
Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Liệu có phải cắm ngược không?” Dù sao thì cả bốn mặt của chiếc chìa khóa đều có thể hướng lên trên.
Merkin khẳng định: “Không đâu, anh xem…” Y chỉ vào thanh ngang trên chuôi kiếm, nói: “Theo như tổ tiên tôi truyền lại, chỗ này hướng lên trên là đúng rồi.”
Trác Mộc Cường Ba lẳng lặng gật đầu, thanh ngang đúng là đã hạn chế chìa khóa chỉ có thể cắm vào theo hướng này. Gã lại nói: “Hay là, để tôi thử xem?”
Merkin đành ủ rũ gật đầu: “Cũng được.”
Trác Mộc Cường Ba cầm thanh kiếm đồng gia truyền trên tay, nghĩ mãi không hiểu nổi, tại sao thứ này lại thành ra một chiếc chìa khóa? Gã cẩn thận quan sát vị trí Merkin vặn ra ở chuôi kiếm, rồi lại nhìn thanh kiếm trên tay mình, chẳng thấy kẽ hở nào, căn bản không nhìn ra chỗ nào có thể vặn
mở được. Gã thử vặn qua vặn lại một hồi, song đều vô hiệu. Merkin đứng bên cạnh thấy vậy liền lên tiếng: “Không đúng, không phải làm vậy.” Nói đoạn, y giật lấy thanh kiếm nhỏ trên tay Trác Mộc Cường Ba, bảo gã: “Có mấy chỗ này, yêu cầu thủ pháp phải khéo léo.” Chỉ thấy y ấn ấn, xoay xoay lên đầu, mình và chân con Tỳ hưu, không hiểu làm cách nào mà đã mở ra được. Cũng giống như chìa khóa của Merkin, chuôi kiếm mở ra xong, bên trong là một ống kim loại, miệng ống loe ra như miệng bát, cũng có vết máu, đã chuyển sang sắc xanh lục.
Nhìn những vết máu ấy, ánh mắt Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba càng thêm nghi hoặc, ý tứ rất rõ ràng, rành rành tổ tiên nhà anh cũng biết cách sử dụng chiếc chìa khóa này, tại sao đến đời anh lại quên hoàn toàn như vậy? Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ biết lắc đầu, tỏ ý mình chẳng biết gì cả. Merkin kéo kéo chiếc chìa khóa của y, thời gian chưa hết nên vẫn chưa rút ra được. Y đưa con dao cho Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã thử xem máu gã có thể làm chìa khóa bật ra hay không.
Trác Mộc Cường Ba có chút thấp thỏm bất an, lúc mũi dao rạch vào đầu ngón tay, tay gã hơi run lên, một giọt máu nhểu xuống. Gã cơ hồ không dám tin vào mắt mình, chiếc chìa khóa trong tay gã cũng “tách tách tách” biến đổi, thân kiếm bật ra những gai nhọn tua tủa, trên những gai nhọn ấy lại bật ra những mũi gai nhỏ hơn, hình dạng cuối cùng trông như một cây thông Noel.
Merkin mỉm cười quan sát quá trình biến đổi, lẩm bẩm nói: “Tôi bảo rồi mà.”
Trác Mộc Cường Ba chỉ khe khẽ lắc đầu, sao lại thế này nhỉ? Cha có biết hay không? Ông biết nhưng không nói với mình, hay là bản thân ông cũng không biết? Không, cha cũng không biết, từ thái độ của ông lúc giao chiếc chìa khóa này cho mình chắc chắn là cha không biết gì cả. Gia tộc nhà mình, đã để sự việc này chìm vào quên lãng từ khi nào vậy? Hậu nhân của Thánh sứ, không ngờ mình cũng là hậu nhận của Thánh sứ!
Một lát sau, Merkin rút chiếc chìa khóa của y ra, trong khi hai người chờ chiếc chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba hoàn nguyên trạng thái ban đầu, mắt rắn cũng đã đóng lại.
Cuối cùng, chìa khóa trong tay Trác Mộc Cường Ba cũng đã thu vào, gã thầm hít sâu một hơi, dùng máu mình mở mắt rắn ra, rồi cắm chìa khóa vào, nhỏ một giọt máu, sau đó chầm chậm xoay chuyển chuôi kiếm trong ánh mắt chăm chú và đầy kỳ vọng của Merkin. Một lần, hai lần… ánh mắt nóng bỏng của Merkin từ từ trở nên ảm đạm, Trác Mộc Cường Ba ủ rũ ngoảnh lại, lắc đầu, tỏ ý vẫn không xoay được. “Không thể nào!” Merkin cuống lên. “Không thể nào! Sao cả hai chiếc chìa khóa đều không mở ra được?”
So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba còn bình tĩnh hơn, gã giải thích: “Nếu tôi không lầm, chắc hẳn còn một chiếc chìa khóa nữa, đừng quên, bấy giờ sứ giả đã mang ra ba món tín vật, chia ra đưa cho ba người khác nhau. Nếu tôi và ông mỗi người đều có một chiếc chìa khóa, vậy hẳn phải còn một chiếc chìa khóa thứ ba nữa.”
Merkin thất vọng nói: “Ý anh là… chỉ có chiếc chìa khóa thứ ba kia mới mở được cánh cửa này?”
Merkin không cam tâm chút nào, nghe thấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba thu trở về trạng thái ban đầu, y lại nói: “Thử lại lần nữa, thử lại lần nữa xem sao!”
Đáp ứng yêu cầu của Merkin, Trác Mộc Cường Ba lại thử thêm lần nữa, sau đó Merkin cũng thử lại một lần, nhưng rất rõ ràng, chìa khóa của họ đều không mở được cánh cửa đá dày nặng này. Merkin lại rút chìa khóa ra, nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt gần như tuyệt vọng, nói bằng giọng van lơn: “Anh thử lại lần nữa xem sao?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Có lẽ số mệnh đã định sẵn chúng ta không thể đến được nơi sâu nhất của Bạc Ba La thần miếu, ông hà tất phải cưỡng cầu làm gì?”
“Vậy bây giờ tính sao đây? Chúng ta bị kẹt ở đây rồi? Không thấy gì cả, không tìm được gì cả, chỉ bị kẹt cứng ở đây chờ chết? Không! Tôi tuyệt đối không chấp nhận!” Merkin vung tay giằng lấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba, nhét vào lỗ khóa rồi tóm ngón tay gã nặn máu ra, hai người nhìn giọt máu từ từ biến mất trong miệng ống loe ra.
Vốn dĩ hai người cũng không ôm nhiều hy vọng lắm, nhưng đúng lần này, giọt máu vừa nhểu xuống, sau một loạt tiếng “tách tách tách”, đột nhiên có thêm một âm thanh khác, nghe như tiếng đàn đứt dây hay bảo kiếm rời vỏ, nhẹ mà rất rõ. Liền ngay sau đó, lại vang lên tiếng vật nặng rơi xuống đất, tiếng bánh răng, tiếng trục quay, tiếng ma sát kèn kẹt hòa trộn vào nhau. Không cần chuyển động gì thêm, mắt rắn đã tự xoay tròn, lỗ khóa xoay cùng với chìa khóa, cả con rắn khổng lồ chạm trổ trên cánh cửa như thể sắp sống dậy, một vài đường vân thụt vào, một số đường vân khác lại nổi gồ lên. Tiếp đó, cả gian đại điện bắt đầu thay đổi, bệ đá bên dưới kim thân của các vị tiền bối bắt đầu chuyển dịch vị trí, tiến trước lùi sau, hoặc sang trái hoặc sang phải, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp. Trong đại điện này, duy chỉ có hai người đàn ông đang trợn tròn mắt há hốc miệng trước cánh cửa đá là không phát ra bất cứ âm thanh nào.
. .
BÁU VẬT NHÀ PHẬT
.
Trong đầu hai người đều đang thắc mắc cùng một vấn đề, tại sao hai lần trước không được, mà lần này lại thành công như thế? Ngay sau đó, cả hai đều hiểu ra. Hai lần trước, họ dùng máu của một người để mở lỗ khóa và nhỏ vào chìa khóa, còn lần này, lại dùng máu của Merkin khiến mắt rắn mở ra, sau đó cắm chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba vào, trong chìa khóa lại nhỏ máu của Trác Mộc Cường Ba. Phỏng chừng, phải đồng thời sử dụng máu của cả hai người, mới có thể phát huy được tác dụng thực sự.
Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ xa hơn, mấu chốt không phải ở chìa khóa, cả hai chiếc chìa khóa ấy chỉ là vật dẫn, máu của hai người mới là thứ có tác dụng thực sự. Hai dòng máu thuần chủng đã truyền thừa hơn nghìn năm của các vị Thánh sứ. Bấy giờ, họ mới ngộ ra được ý nghĩa thực sự của hàng chữ “một người có huyết thống thuần chủng” được khắc nổi bật trên cánh cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.
Chỉ thoáng sau, bố cục của gian đại điện đã hoàn toàn biến đổi, đồng thời thân rắn trên cánh cửa cũng gồ lên vô số vảy, dưới bụng mọc thêm chân có móng vuốt, trông không còn giống rắn nữa … mà hơi giống … một con rồng?
Chỉ có điều, sau màn chấn động ấy, cánh cửa trước mặt họ vẫn đóng chặt. Trác Mộc Cường Ba khẽ lay nhẹ, rút chìa khóa ra. Vẫn là Merkin nhanh mắt hơn, y chỉ tay vào cây cột mới xuất hiện ở chính giữa đại điện, hỏi: “Đó là cái gì vậy?”
Hai người đến gần cây cột, chỉ thấy bốn mặt cây cột hình vuông mỗi cạnh dài chừng hai mét này đều có bậc thang, trên đỉnh hình như khoét rỗng, không gian có thể chứa được người. Hai người quyết định leo lên xem sao.
Cây cột đá này được thả từ đỉnh vòm của đại điện xuống, Merkin lên trước, phát hiện ở giữa cây cột là một trụ kim loại đường kính khoảng nửa mét. Một vòng xung quanh trụ kim loại ấy có thể đứng được năm sáu người. Sau đấy, Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên, Merkin cười lớn nói: “Ha ha, thì ra cánh cửa kia chỉ là vật che mắt, ai mà ngờ được lối vào thực sự lại ở chính giữa đại điện chứ, nếu không rõ chân tướng, cứ cố cho nổ hoặc phá hoại cánh cửa đá kia, nói không chừng phía sau chỉ là toàn là đá núi mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba vừa đứng vững, chưa kịp nói gì, cột đá đã được trụ kim loại ở giữa dẫn động, chầm chậm dâng lên. Thấy cột đá vẫn tiếp tục dâng cao, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ, chỉ sợ khi cột đá này trở lại vị trí ban đầu, dù là ai đến được đây, cũng sẽ chỉ nghĩ cách phá hoại cánh cửa kia hoặc đào sâu xuống dưới mà thôi. Có kẻ nào nghĩ ra được việc đào lên phía trên mấy chục mét chứ?
Dọc đường, có một quãng hoàn toàn tối đen, tuy rằng khoảng cách rất ngắn, nhưng trong không gian tối đen kín mít ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy ngạt thở. Không gian nhỏ hẹp này rõ ràng không đủ dưỡng khí cho hai người, đúng vào lúc cảm giác hoảng loạn manh nha xuất hiện, thì bọn họ đến được tầng trên. Thứ đầu tiên đập vào mắt hai người, là ánh sáng!
Ánh sáng này khác với thứ ánh sáng ở bên dưới, không phải sắc đỏ của dung nham và màu vàng cam của những pho tượng dát vàng, mà là một thứ ánh sáng mạnh đến chói mắt. Ánh sáng xuất hiện quá bất ngờ, quá mạnh mẽ, đến nỗi Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa ra khỏi vùng tối tăm không thể không giơ tay chắn trước mắt, quan sát hoàn cảnh xung quanh qua những kẽ ngón tay.
Qua kẽ ngón tay, tròng mắt họ dần dần mở to, không phải vì bị ánh sáng mạnh kích thích như lẽ thường… Trước mắt họ lúc này đây, toàn là những thứ đủ khiến những người bình thường phát điên phát rồ… Báu vật!
Cột đá càng lúc càng dâng cao, số lượng báu vật đập vào mắt họ cũng tăng lên theo cấp số nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ thấy vô số quầng sáng rực rỡ chói mắt, tựa như cầu vồng tan vào dòng nước cuồn cuộn, cơ hồ muốn vươn mình thoát ra khỏi những báu vật kia, chảy tràn đi khắp chốn.
Không gian rộng mở, lượng ôxy trong không khí cũng tăng lên, Trác Mộc Cường Ba hít vào một hơi, cả người liền nhẹ bẫng như thể muốn bay lên. Gã cũng từng nghe truyền thuyết về châu quang bảo khí, tương truyền trên bền mặt những món châu báu thực sự quý hiếm đều có một tầng linh khí, dù bị chôn vùi dưới lòng đất sâu, những món báu vật ấy vẫn phát ra ánh sáng rực rỡ, nhưng gã chưa từng gặp báu vật nào như thế. Cho dù trước đây, cũng từng có người nhờ gã cầm hộ những viên bảo thạch trị giá hàng chục triệu, nhưng trong mắt gã, đó chẳng qua cũng chỉ là mấy viên đá có màu sắc đặc biệt một chút mà thôi. Nhưng mỗi một món báu vật ở đây đều tỏa ra thứ ánh sáng lóa mắt, khiến Trác Mộc Cường Ba thậm chí không biết nên hình dung những gì gã đã nhìn thấy như thế nào nữa, cảm tưởng như trên bề mặt mỗi món phẩm vật ở nơi này đều phủ một lớp chân khuẩn có thể phát ra ánh sáng huỳnh quang, hoặc trên bề mặt kim loại mọc chi chít những sợi lông
mao phát quang vậy. Thứ ánh sáng đó mới đầu thì hơi chói mắt, nhưng chỉ thoáng sau gã đã phát hiện ra nó rất dịu dàng, chập chờn rung động, khiến ánh mắt người ta bất giác bị hút chặt không rời.
Merkin há miệng, hít thở từng ngụm không khí lớn. Đứng trước cả một kho báu mênh mông, y đột nhiên không biết mình nên cười hay nên rơi nước mắt, chỉ đờ người ra, cặp mắt đã bị ánh sáng các loại báu vật chiếm giữ, đầu óc hoàn toàn rỗng không. Đây mới thực sự là một gian đại điện huy hoàng rực rỡ. Ở nơi này, mặt sàn không biết được dát lên một lớp vàng mỏng, hay là những viên gạch bằng vàng ròng dày nặng nữa. Mỗi cây cột trong đại điện đều bọc một lớp áo vàng, điêu khắc hình trồng hình phượng giữa mây lành, ngay cả bốn bức tường và đỉnh vòm, cũng được bao phủ trong sắc vàng kim chói lóa.
Trước mắt hai người, là một hàng Phật tháp được xây bằng gạch xương, rất đậm đà bàn sắc dân tộc Tạng, mỗi tháp cao chừng một mét, bệ tháp và đỉnh tháp đều đúc bằng vàng ròng, thân tháp còn có một vành đai bằng vàng, đỉnh tháp khảm các loại bảo thạch, mỗi viên to như mắt rồng. Gạch xương màu trắng điểm xuyết trên ánh sáng màu vàng, trông như một hàng vệ binh hiên ngang chỉnh tề. Thân tháp đều mở ra, tạo thành một am thờ nhỏ, bên trong đặt các tượng Phật vàng lớn nhỏ, tạo hình khác nhau. Đằng sau
nhưng Phật pháp này là một số đồ trang trí bằng vàng. Họ có thể thấy tượng vàng của thập đại niên thần, một thứ trông như cái giường lớn kiểu cổ của Trung Quốc, cũng bằng vàng ròng, chất đầy ngọc ngà châu báu. Ngoài ra, còn một cái tủ bằng vàng trông như quan tài, điêu khắc thành hình một động vật họ chó. Xa hơn chút nữa, là những tượng Phật kích cỡ lớn hơn. Đáng chú ý nhất, phải kể đến hai bức tượng cỡ đại cao ít nhất cũng tầm bốn mét ở chính giữa đại điện, thoạt nhìn không giống tượng Phật, mà là một nam một nữ. Người nam tướng mạo trang nghiêm oai vệ, toát lên khí thế của kẻ ngạo thị thiên hạ, còn người nữ lại đoan trang từ ái, bờ môi hơi nhếch lên tựa như nụ cười của nàng Monalisa.
Trác Mộc Cường Ba lập tức bị hai pho tượng vàng lớn nhất này thu hút, đây nhất định là tượng vàng cao ba trượng của Tạng vương Tùng Tán Can Bố và công chúa Văn Thành mà sách sử ghi chép. Đơn vị đo lường thời đó và ngày nay có sự sai biệt nhất định, nhưng hai bức tượng này cũng xứng danh là những bức tượng vàng ròng lớn nhất thế giới rồi.
Ánh mắt Merkin lại hoàn toàn bị hút vào đống báu vật đặt trên thứ vật dụng giống như chiếc giường. Y thậm chí còn không dám chắc rốt cuộc nên gọi thứ đó là gì nữa, chỉ biết nó được chạm trổ bằng kỹ thuật chạm rỗng, bên trên có hình mây trôi và hoa lá, toàn bộ những viên bảo thạch đính xung quanh đều không tầm thường. Có điều, những thứ bày trên giường kia mới thực sự khiến tâm thần Merkin đắm say ngây ngất. Báu vật vô giá, mỗi một món trên giường đều là báu vật vô giá.
Không biết bao lâu sau, tâm trí hai người mới bình tĩnh trở lại. Họ chầm chậm đặt chân lên sàn đại điện màu vàng kim, men theo hàng Phật tháp tiến về phía trước.
Dọc đường, bất giác Merkin cứ không ngừng so sánh những thứ ở trước mắt với những thứ y lưu trữ trong ký ức, những món báu vật được phát hiện từ thuở nhân loại bắt đầu có lịch sử.
Chế phẩm bằng vàng ròng lớn nhất thế giới, phải đổi lại…
Kia là kim cương lam, không ngờ… không ngờ lại có viên kim cương màu lam lớn đến vậy!
Viên kim cương lớn nhất thế giới, phải đổi lại…
Viên hồng ngọc lớn nhất thế giới, phải đổi lại…
Viên ngọc mắt mèo lớn nhất thế giới, cũng phải đổi lại…
Kia là phỉ thúy sao? Sao lại có thứ phỉ thúy xanh mướt đẹp đến thế…
Viên phỉ thúy đẹp nhất lớn nhất thế giới, phải đổi lại…
Vương tọa, vương trượng, mũ miện khảm nạm nhiều châu báu nhất thế giới, đều phải đổi lại…
…
Sau mỗi bước chân, hơi thở của Merkin càng lúc càng thêm gấp gáp. Y đã không kiểm soát nổi cơ thể mình nữa, toàn thân run lên bần bật. Dọc đường bước tới, y gần như tuyệt vọng nhận ra, phàm là những món châu báu thiên nhiên hoặc nhân tạo được cho là nhất trong lịch sử mà y nhớ được, chỉ trong một chớp mắt, toàn bộ đều đã bị soán ngôi! Liếc mắt nhìn ngang, bên trái có một cái cây bằng vàng ròng, cao chừng mét bảy mét tám, cành cây chĩa nhánh, buông xuống những chuỗi bảo thạch long lanh như giọt lệ, không có gió cũng tự đung đưa. Không phải những chuỗi bảo thạch ấy đung đưa, mà là ánh sáng tỏa ra từ chúng.
Hơi dịch ánh mắt đi một chút, lại sẽ thấy một chiếc kim luân lớn, ở đầu mỗi tia hào quang chiếu ra đều gắn một viên bảo thạch tròn nhẵn trong nhờ nhờ giống như ngọc trai, nhìn kỹ hơn sẽ kinh ngạc phát hiện ra, những viên bảo thạch ấy, hóa ra chính là Ngọc thời gian trong truyền thuyết. Cứ cách một quảng thời gian nhất định, một trong các hạt châu này sẽ phát ra ánh sáng, kéo dài đến khi hạt châu tiếp theo sáng lên, lặp đi lặp lại như vậy, nghìn năm cũng không sai lệch.
Không cần dịch chuyển ánh mắt, chỉ cần nhìn xa hơn chút nữa, phía sau kim pháp luân ấy là một khay Mantra
(39)
cao hơn một mét rưỡi, do những viên trân châu to tướng ghép lại mà thành, từ trên xuống dưới tổng cộng có năm tầng, không biết rốt cuộc phải dùng đến mấy nghìn mấy vạn viên. Đặc biệt nhất là, mỗi viên đều to nhỏ bằng nhau, trắng ngần không tỳ vết.
Phóng tầm mắt ra chút nữa, trên bức tường màu vàng phía xa sừng sững một tấm vách màu ngọc bích, còn cao hơn cả Merkin, trông như một vầng trăng tròn màu xanh ngọc. Nhìn sắc xanh biêng biếc đặc biệt ấy, lẽ nào, đó lại là phỉ thúy? Một miếng phỉ thúy đường kính hơn hai mét, hoàn toàn không tỳ vết? Miếng phỉ thúy ấy có màu xanh như lá cỏ mới nhú lúc đầu xuân, lại thấp thoáng có thể nhìn xuyên qua, trông thấy phù điêu chạm nổi trên bức tường vàng phía sau nó. Phẩm chất của miếng phỉ thúy này thế nào, thiết tưởng không cần phải nói nữa. Thứ này còn thuộc về nhân gian nữa hay sao? Miếng phỉ thúy lớn thế, rõ ràng có thể dùng làm bình phong, thậm chí làm tường ngăn cũng được, đúng là lấy ngọc làm tường, lấy ngọc làm tường!
Cuối cùng, hai chân Merkin cũng không đỡ nổi trọng lượng của cơ thể nữa, y ngã nhào lên một bức tượng Phật vàng ròng ngồi trên đài sen. Bức tượng này kể cả đài sen bên dưới thì cao gần hai mét, gần bằng người thật, một chân khoanh lại, một chân hơi duỗi ra, bốn tay đều cầm pháp khí. Bộ cà sa khoác trên thân tượng Phật không phải được chạm nổi, mà đúng là một bộ áo Phật dệt bằng tơ vàng. Những sợ tơ vàng được se ra còn mảnh hơn sợi tóc, chạm tay vào, cảm giác mềm mại trơn bóng như lụa. Cả tấm áo cà sa lớn như vậy
mà cầm trên tay cảm giác nhẹ như lông hồng, áng chừng tổng trọng lượng cũng không quá một trăm gam, thực xứng là một tác phẩm thần kỳ. Những bảo thạch khảm nạm trên các pháp khí óng ánh rực rỡ, ánh sáng xuyên thấu, chiết xạ qua các pháp khí, Trác Mộc Cường Ba còn nhìn rõ được sự biến ảo của màu sắc và quỹ tích của chùm sáng. Bảo thạch trên các pháp khí kết hợp với những viên bảo thạch ở trán, ngực và bụng tượng phật, lợi dụng chùm sáng bảy màu, vạch ra trên không trung một ký hiệu tựa như hình Lục Mang tinh
(40)
.
Merkin
ngã bổ nhào lên tượng Phật, không nhúc nhích nữa, cục yết hầu không ngừng cuộn lên cuộn xuống, hít hà một cách tham lam, tựa như hít được mùi tỏa ra từ những món báu vật này có thể khiến y thư thái, sảng khoái lâng lâng toàn thân vậy. Cuối cùng, Merkin cũng hít đủ linh khí của báu vật, trông y lúc này như thể tên nghiện vừa được thỏa mãn, người mềm nhũn, mặt ngửa tựa vào lòng pho tượng, tay chân dang rộng, tạo thành một chữ “đại” lớn, cơ hồ bao nhiêu sức lực đã bị rút kiệt, chỉ còn lồng ngực phập phồng lên xuống không dứt. Hai mắt trợn trừng nhìn lên trần, thân thể như đang đắm chìm ngụp lặn trong ảo giác, miệng y lẩm bẩm nói mớ: “Ha ha… ta phát hiện ra rồi… toàn bộ đều của ta… báu vật vô giá… toàn bộ đều là báu vật vô giá… ông nội, cháu tìm được rồi! Ha ha ha… khục khục…”
Không biết bao lâu sau, Merkin mới sực nhớ ra vẫn còn một kẻ tên Trác Mộc Cường Ba ở bên cạnh mình, lý trí rốt cuộc cũng hồi phục phần nào, y khó nhọc ngẩng đầu lên, lập tức trông thấy Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba đang đứng cách đài sen nơi Merkin ngả ngốn chừng năm mét, lạnh lùng nhìn y chằm chằm. Merkin lại nằm xuống, cười lớn nói: “Anh đã thấy chưa, Cường
Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi!”
“Không!” Trác Mộc Cường Ba hờ hững trả lời, “Những thứ này, không phải của ông.”
“Cái gì!” Merkin giật bắn mình, nhảy dựng lên như một con báo hung hãn, trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba quát: “Ngươi … Nói cái gì?”
Sát khí! Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm nhận được sát khí ngùn ngụt tỏa ra từ Merkin, trông y lúc này chẳng khác nào một con dã thú đang liều mạng bảo vệ lãnh địa, trợn mắt nhìn kẻ ngoại lai xâm nhập, sát khí cuộn trào mãnh liệt.
Trác Mộc Cường Ba cảm thấy khó hiểu, cùng một con người, tại sao chỉ trong nháy mắt có thể thay đổi nhiều đến vậy. Những thứ châu báu này, thực sự có thể thay đổi linh hồn của một con người hay sao? Hay đây mới là bộ mặt thật của Merkin?
Nếu là trước khi vào thần miếu, Trác Mộc Cường Ba hẳn còn e dè khi đối mặt với sát khí ngùn ngụt ấy, có điều lúc này, gã thấy rất rõ, tâm lý của Merkin vừa trải qua một trận đại chiến dữ dội, cho dù về mặt thể lực y vẫn còn sung sức, nhưng tinh thần của y lại đang ở trong trạng thái cực độ yếu ớt. Bởi vậy, trước câu hỏi của Merkin, gã vẫn chậm rãi trả lời, nhấn từng chữ một: “Tôi nói, những thứ này, không thuộc về… ông…”
Chữ cuối cùng vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin đã hung hăng nhào tới, cặp mắt trần trụi hệt như dã thú săn mồi, thậm chí vẻ giảo hoạt như rắn vốn luôn thấp thoáng ẩn hiện trong đôi mắt ấy cũng biến mất. Trác Mộc Cường Ba không nhân nhượng, ngược lại còn xông thẳng tới nghênh đón…
Trước những cú đấm như trời giáng của Cường Ba thiếu gia, lí trí của Merkin dần dần hồi phục, y đau đớn phát hiện ra, gã đàn ông này đã mạnh lên rất nhiều so với lúc mới tiến vào Bạc Ba La thần miếu… Merkin vùng vẫy, y không can tâm. Y không hiểu nổi, suốt mấy tháng lang thang trong thần miếu, y và Trác Mộc Cường Ba ăn cùng một thứ, làm những việc giống nhau, nhưng tại sao đối phương dường như mỗi ngày một mạnh lên, càng lúc càng mạnh. Bản thân y lúc này đã không thể duy trì được cục diện cân bằng với gã nữa rồi! Đương nhiên, Merkin cũng hiểu, y đã phải gắng hết sức trong trận chiến với Khafu, thương thế vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, thêm nữa, lúc này y không thể điều chỉnh để tinh thần có trạng thái tốt nhất. Nhưng cho dù là vậy, y cũng không thể kém cỏi tới mức này chứ! Mỗi chiêu thức của Trác Mộc Cường Ba đều có xu thế chèn ép y, khiến y không thở nổi. Đối với sự thay đổi này, Trác Mộc Cường Ba cũng không hiểu rõ lắm, gã chỉ lờ mờ cảm thấy giữa hai chân mình có một vật thể hình bánh xe đang chầm chậm chuyển động, thân thể mình dường như mỗi ngày đều có biến hóa. Gã không biết dùng ngôn từ như thế nào để hình dung sự biến hóa này, chỉ khi đang quan sát, tiếp xúc, cảm tri
môi trường xung quanh, gã mới phát hiện ra những điểm khác biệt rất nhỏ.
Merkin lại dính thêm mấy đòn nặng, bắt đầu không giữ vững được trọng tâm, y vẫn còn vũ khí, nhưng một thứ bản năng nguyên thủy lại ghìm y lại, không cho y sử dụng, một tiếng nói cứ liên tục lặp đi lặp lại trong tiềm thức: “Đừng rút súng, rút súng là ngươi sẽ chết chắc!”
Cuối cùng, khi Merkin bị đánh cho ngã nhào vào một bức tượng Phật, loạng choạng mấy bước liền vẫn chưa đứng vững, y mới tỉnh hẳn, cuống quýt nói: “Đừng… đừng đánh nữa, Cường Ba…
Cường Ba thiếu gia… tôi, tôi là Merkin đây!”
“Hả? Ông tỉnh lại rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, tước vũ khí của Merkin. Lúc này, Merkin vẫn đang ở trong trạng thái cuồng bạo, có trời mới biết y sẽ làm ra những chuyện gì. Merkin không phản kháng, chỉ gật đầu lia lịa nói: “Tôi, tôi tỉnh lại rồi. Vừa nãy, vừa nãy không hiểu làm sao… giống như bị ma ám vậy. Ừm, chết tiệt, thậm chí tôi còn không biết rốt cuộc mình đã làm những gì nữa!”
Nghe câu trả lời của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt. “Đừng tin bất cứ chữ nào, câu nào của y,” gã vẫn còn nhớ rõ lời cảnh cáo cuối cùng của Nhạc Dương. Merkin chậm rãi bước đến, y đã sáng tỏ tình huống lúc này, chỉ cần y không ra tay, Trác Mộc Cường Ba cũng sẽ không tấn công. Y ngập ngừng giây lát, rồi mở miệng: “Nhìn đi, Cường Ba thiếu gia, đây mới là kho báu thật sự, mỗi một món đồ ở đây, chỉ cần mang ra ngoài kia, chắc chắn sẽ làm cả thế giới chấn động.
Những thứ này do chúng ta phát hiện, chúng là của chúng ta đấy!” “Chúng ta?” Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Merkin.
“Đúng vậy.” Ánh mắt Merkin đầy kích động. “Chúng ta, mỗi người một nửa…” y vừa nói, vừa nhìn Trác Mộc Cường Ba. Thoáng sau, y chợt biến sắc mặt: “Chẳng lẽ.. chẳng lẽ anh muốn… một mình… độc chiếm!” Mấy chữ cuối cùng, Merkin nói có vẻ rất khó nhọc, giờ đây vũ khí cũng bị đối phương đoạt mất rồi, sắc mặt y trở nên hết sức khó coi. “Anh… anh không thể mang hết đi được! Những thứ này, một mình anh, liệu, liệu có thể mang đi được bao nhiêu? Những món châu báu này, chỉ cần tiện tay vơ một nắm, cũng đủ khiến chúng ta trở thành người giàu nhất thế giới rồi, không phải anh
muốn độc chiếm tất cả đấy chứ?”
“Không.” Nghe thấy câu nói này, Merkin mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tiếp đó, Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Những thứ này không thuộc về chúng ta, chúng thuộc về nhà nước.” (Ôi! mẹ ơi! Cường Ba ơi là Cường Ba!!!)
CHƯƠNG 79: SỰ THẬT ĐÁNG SỢ
.
CÁNH CỬA THỨ HAI
.
“Nhà nước!” Giọng Merkin lạc đi, y nhìn Trác Mộc Cường Ba như nhìn một tên ngốc, rồi lập tức hỏi vặn lại: “Chúng thuộc về nhà nước nào chứ? Trung Quốc? Ấn Độ? Nepal? Buhtan? Chính chúng ta còn không biết mình đang đứng trên lãnh thổ đất nước nào, vậy anh định giao trả những thứ này cho chính phủ nước nào đây?”
Trác Mộc Cường Ba không trả lời câu hỏi của Merkin, gã đang nghĩ đến một vấn đề khác, liền hỏi: “Vừa nãy ông nói gì? Ông cũng không biết mình đang ở địa giới của nước nào? Nhưng hẳn ông phải rõ, các ông từ đâu tiến vào đây chứ?”
Merkin nói: “Phải, chúng tôi từ nước N, băng qua biên giới, sau đó tiến vào khu vực không người, xuyên qua hành lang gió Tây. Suốt dọc đường, chúng tôi cũng không thấy cột mốc biên giới nào của Trung Quốc, cũng không phát hiện cột mốc hay bộ đội biên phòng của bất cứ quốc gia nào. Toàn bộ tuyến đường của chúng tôi đều là khu vực không người, đi suốt mười lăm ngày trong vùng bị sương mù dày đặc bao phủ. Vì vậy, tôi cũng không biết chúng ta đang ở trong địa giới của nước nào nữa. Những thứ này, kỳ thực đều là vật vô chủ, không thuộc về quốc gia nào cả, theo công ước và quán lệ quốc tế, những thứ này, toàn bộ đều thuộc về người phát hiện ra chúng.”
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, vẫn lắc đầu nói: “Không được, đây không phải vật tàng trữ tư nhân, mà là tài sản thuộc về toàn bộ nhân loại. Năm đó, tổ tiên người Tạng chúng tôi vì không muốn những báu vật này bị hủy hoại trong khói lửa chiến tranh, đã trải qua không biết bao nhiêu khó khăn giản khổ mới đưa được chúng đến nơi này, bảo tồn hoàn hảo cho đến hôm nay. Những báu vật này phải thuộc về đất nước chúng tôi, phải trả về cho toàn nhân loại…”
“Trả về cho toàn nhân loại?” Merkin cười khinh bỉ, “Cũng được, vậy ai sẽ quản lý chúng? Ai sẽ đứng ra phân phối chúng? Ai cho ai cái quyền đó? Tổ tiên người Tạng… tôi hỏi anh, đây là cái gì, đây là cái gì?” Merkin xắn tay áo lên, cầm chặt chiếc chìa khóa tổ truyền trong tay, bức vấn Trác Mộc Cường Ba: “Tại sao Bạc Ba La thần miếu này lại bí mật như thế? Tại sao hơn nghìn năm nay không ai tìm được nơi này? Tại sao không phải ai cũng có thể tiến vào, ai cũng có thể mang những thứ ở đây đi? Tại sao chìa khóa lại ở trong tay tôi? Tại sao chỉ có máu của tôi mới có thể khiến chìa khóa phát huy được tác dụng thực sự? Tổ tiên người Tạng! Đây là tài sản tổ tiên của gia tộc tôi, còn cả tổ tiên gia tộc anh nữa, để lại cho chúng ta! Đây là tài sản của chúng ta, của gia tộc chúng ta!”
Không đợi Trác Mộc Cường Ba kịp phản bác, Merkin lại vội vã bổ sung: “Anh nghĩ thế nào thì mặc kệ anh, nhưng phần của tôi, phải để lại đấy. Hãy nhìn xem, nhìn những thứ ở đây mà xem, chưa nói gì khác, chỉ tính riêng vàng thôi, chỉ cần anh thích, muốn tổng trữ lượng vàng của Trung Quốc tăng gấp đôi, gấp ba, cũng không phải chuyện khó khăn gì, chỉ cần anh thích là được. Nhưng cũng đừng quên, gia tộc chúng tôi cũng đã khổ sở tìm kiếm những thứ này suốt một nghìn năm nay, anh không thể gạt bỏ sạch trơn nỗ lực của chúng tôi được. Tôi cần phải nhận được phần thuộc về gia tộc mình, trừ phi anh giết tôi. Anh muốn giết tôi sao? Muốn giết một người tay không tấc sắt, lại từng nhiều lần cứu mạng anh hay sao? Đến đi, tôi không còn sức phản kháng, tôi là kẻ yếu, anh giết tôi đi.” Nói đoạn, Merkin liền trưng ra bộ mặt lợn chết không sợ nước sôi.
Trác Mộc Cường Ba
nhìn bộ dạng ấy của Merkin, cũng cảm thấy không nhẫn nhịn được nữa, phỏng chừng, cả đời Merkin chắc chưa từng biểu lộ ra vẻ mặt này trước bất cứ ai. Những thứ báu vật ở đây, rõ ràng đã khiến chỉ số thông minh của y hạ xuống chỉ còn ngang với một đứa bé. Trác Mộc Cường Ba nhất thời không kìm được, bật cười thành tiếng, sau đó nói: “Xin lỗi, tôi nghĩ, ông và cả gia tộc của ông, hiển nhiên đều đã hiểu lầm rồi. Tôi không biết gia tộc của ông nhận được truyền thừa như thế nào. Tuy rằng vị tiền bối trong gia tộc tôi đã hoàn toàn không còn nhớ gì về sự kiện này nữa, nhưng tôi nghĩ, chúng ta có chìa khóa mở kho tàng, không có nghĩa ta là người sở hữu những thứ báu vật này, chúng ta chẳng qua chỉ là người canh giữ chúng mà thôi. Đây không phải thứ một hai vương triều có thể sở hữu, càng không thể thuộc về một hai gia tộc nào đó, ông có hiểu không? Ông hiểu được đạo lý này, phải không?”
Merkin nhảy dựng lên như mèo bị giẫm phải đuôi: “Anh cũng biết… anh cũng biết đây không phải những thứ một hai vương triều có thể sở hữu, hãy nhìn mà xem…”
Ngón tay y chỉ về phía một tác phẩm điều khắc từ ngà voi. Ngà voi trắng ngần như ngọc, mỗi chiếc dài hơn hai mét, bức điêu khắc ghép từ mấy trăm chiếc như vậy. Những người thợ khéo léo thời xưa đã dùng thứ ngà voi quý giá này để chạm trổ ra nhà cửa cung điện, đình đài lầu các, sau đó dùng kết cấu mộng để ghép thành một vương đô mang phong cách Ấn Độ cổ đại. Thậm chí, trong tác phẩm điêu khắc này còn có cả hồ nước và sông ngòi, có điều hiện giờ đều đã khô cạn. Phỏng chừng, người xưa đã dùng ngà voi để phỏng chế lại kinh đô của một vương triều Ấn Độ cổ đại nào đó. Trong những nhà cửa thuyền xe kia, còn có vô số người vàng lớn bằng ngón tay cái, cửa sổ và cửa ra vào có thể đóng mở, xe ngựa có thể chuyển động, thậm chí cuốn sách vàng đặt trên án thư của những người vàng tí hon kia cũng khắc chi chít chữ.
“Hãy nhìn những thứ này xem…” Merkin lại chỉ sang một chỗ khác, thứ ấy trông giống như một tòa cung điện bằng vàng cao chừng hơn một mét, chia làm hai tầng. Trước cửa tầng dưới của cung điện có hai vật trông như cái bàn đạp bằng vàng. Tầng trên có cửa mở ra ở cả bốn mặt, nhỏ hơn tầng dưới một vòng, dường như còn có thể độc lập chuyển động. Thứ này thì Trác Mộc Cường Ba biết, gã từng đọc trong các thư tịch cổ, tương truyền món đồ này do xảo tượng thời Đường tên là Mã Thị Phon chế tác, khi có người đặt hai chân lên bàn đạp, tầng dưới sẽ có người tí hon cầm dùi trống đi ra, xoa bóp các huyệt vị ở gan bàn chân và mu bàn chân người đó. Đồng thời, bốn cánh cửa trên tầng hai cũng mở ra. Cánh cửa thứ nhất, sẽ có người tí hon mang gương, mang lược, mang trâm cài tóc ra giúp người chỉnh trang; cánh cửa thứ hai mở ra, sẽ có người tí hon mang bầu rượu, tự động rót đầy ly; cánh cửa thứ ba mở ra, sẽ có người tí hon bước ra nhẹ nhàng ca múa, kèm theo tiếng đàn ca sênh sáo; cánh cửa thứ tư mở ra, sẽ có thần quan báo giờ, đến tối lại có người tí hon cầm đèn bước ra. Đây có thể nói là món đồ tự động hóa phức tạp nhất, tiên tiến nhất của Trung Quốc cổ đại, về sau đã được Đường Huyền Tông đem tặng cho Thổ Phồn như một món quốc lễ, rồi biến mất trong giai đoạn Lãng Đạt diệt Phật.
Merkin vung hai tay, lớn tiếng nói: “Đây là những gì? Là tích lũy tài sản gần ba trăm năm của hai vương triều mạnh nhất thời bấy giờ, không chỉ do họ tự sản xuất được, mà còn có cả tài sản cướp đoạt từ các quốc gia xung quanh, và cả những đồ tiến cống của các quốc gia xa xôi khác nữa. Tất cả mọi thứ ở đây, phần của Đông Thổ Đại Đường, chỉ chiếm một phần năm, của Thổ Phồn, cũng không thể nhiều hơn một phần năm, mười tám nước Tây Vực cộng thêm Ấn Độ, đại khái cũng chiếm một phần năm, ngoài ra còn có tài sản của những nước nhỏ ở Nam Dương, hay xa hơn nữa, đến tận Tây Âu, anh có thể đại diện cho ai, anh có thể giao hoàn những báu vật ở đây cho ai? Anh chỉ có thể đại diện cho chính mình, anh không thể đem ý chí của mình áp đặt cho tôi được. Nếu những báu vật này thuộc về toàn nhân loại, vậy thì phải đưa chúng đến đâu? Liên Hợp Quốc à?
Thật đúng là thứ logic nực cười. Nếu nói, tổ tiên tôi đã đảm nhận trách nhiệm bảo vệ báu vật, vậy thì, tôi sẽ tiếp tục bảo vệ những của báu này theo cách của mình. Vào lúc cần thiết, bán đi một số báu vật, dùng để làm chi phí duy trì việc bảo vệ cũng như khai thác kho tàng, như vậy mới là cách bảo vệ phù hợp với quy luật kinh tế.”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên không kìm được cảm giác tức cười, những điều Merkin vừa nói, cũng là logic điển hình của một tên cường đạo. Gã cười khẩy, đặt ra cho đối phương một câu hỏi: “Ông cho rằng, chúng ta có thể sống sót rời khỏi nơi này sao?”
Merkin lập tức ngẩn người, từ lúc đặt chân vào kho báu này, đầu óc y chỉ còn một vùng trống rỗng, sau đó y mới nhớ ra sự tồn tại của mình cũng như sứ mệnh của gia tộc, sau nữa, mới nhớ ra còn có sự tồn tại của Trác Mộc Cường Ba, về sau vì không đánh lại gã, mới chuyển sang tranh chấp lý lẽ, còn những vấn đề khác, nhất thời y chưa hề nghĩ đến. Nếu như hai người không thể sống sót rời khỏi đây, vậy thì vừa nãy chuyện bọn họ cãi nhau đỏ mặt tía tai thật đúng là vừa hoang đường vừa tức cười. Mà ngay cả khi họ có thể may mắn rời khỏi chốn này, rốt cuộc y có thể mang theo bao nhiêu báu vật chứ?
Đây cũng là điểm Trác Mộc Cường Ba cảm thấy tức cười nhất. Gã nhớ lại một câu chuyện rất nổi tiếng, ba thanh niên nhàn rỗi đi lang thang trên phố, vừa đi vừa bàn xem nếu
một ngày nào đó, một trong ba người nhặt được một triệu đồng thì sẽ chia chác thế nào. Hai người còn lại yêu cầu chia đều, còn người nhặt được tiền trong giả thiết ngay từ đầu đã nhất quyết không chịu. Vì chuyện này mà ba người bắt đầu cãi nhau to, cuối cùng còn lao vào ẩu đả. Đến khi cảnh sát đến kéo họ ra, hỏi xem chuyện gì, hai người trong bọn mới chỉ kẻ thứ ba kia nói: “Hắn nhặt được một triệu, nhưng nhất quyết không chịu chia cho chúng tôi!”
Cảnh sát giật mình, lại đòi người thứ ba mang tiền ra nộp, người thứ ba kia đần thối mặt một lúc lâu, rồi mới lầm bầm nói: “Chúng tôi giả sử như vậy thôi, đã nhặt được tiền đâu.”
Lúc này, tình cảnh của hai người rất giống ba thanh niên kia, bọn họ cùng lắm chỉ có thể tuyên bố, họ đã tới đích, họ đã trông thấy, những báu vật trong truyền thuyết kia đều thực sự tồn tại, kho báu này đích thực có thể thay đổi diện mạo của một hoặc thậm chí là mấy quốc gia lớn thuộc vào hàng siêu cấp.
Nhưng liệu bọn họ mang đi được bao nhiêu trong số những pho tượng Phật vàng nặng đến mấy tấn này? Rồi ở chốn cơ quan cạm bẫy trùng trùng điệp điệp, nguy cơ ẩn hiện khắp nơi này, liệu họ có thể sống sót trở ra thế giới bên ngoài hay không? Nếu không thể sống rời khỏi đây, thảo luận những chuyện ấy phỏng còn ý nghĩa gì nữa? Giả như có thể thoát ra ngoài, Trác Mộc Cường Ba nhất định sẽ báo cáo cụ thể tình hình lên trên, còn việc các quốc gia tranh giành hay hợp tác khai thác khối tài sản khổng lồ này thì không phải là chuyện bọn họ có thể chõ miệng vào thảo luận nữa.
Bấy giờ, Trác Mộc Cường Ba mới lên tiếng khuyên bảo Merkin: “Ông đã hiểu chưa? Chúng ta nãy giờ đang tranh luận những vấn đề vô nghĩa.”
Merkin bị đả kích nặng nề, sắc mặt tái nhợt đi, chỉ nghe y lẩm bẩm nói một mình: “Không… không phải vậy… không phải vậy!” Lúc này những trải nghiệm trong Bạc Ba La thần miếu lần lượt hiện lên trong tâm trí y, những cơ quan cạm bẫy, những loài sinh vật quái dị hung tàn đều hiện lên một cách rõ nét, mà đường lui của họ đã bị cắt đứt, thậm chí còn không thể trở về trong Cửu Cung biến, bốn bề chỉ có dung nham sôi trào nóng bỏng. Trong hoàn cảnh này, hai người muốn sống rời khỏi Bạc Ba La thần miếu, có thể nói là cơ hội gần như bằng không. Trong lòng Merkin đầy những tạp niệm rối bời: “Lẽ nào tôi phát hiện ra kho báu chỉ để chết ở đây?” “Không! Không!” Y gầm liên điên loạn: “Nhất định là có lối thoát, vẫn còn lối thoát khác!” Vừa gào thét, y vừa guồng chân chạy giữa những đống vàng bạc châu báu chất cao ngút. Trác Mộc Cường Ba không yên tâm, vội chạy theo sau y, hét gọi: “Này, ông chạy đâu đấy?” Gã loáng thoáng cảm thấy dường như mình đã để sót điều gì đó, nhưng Merkin khiến gã lòng dạ rối bời, đống châu báu lấp lánh lại làm gã hoa mắt chóng mặt, nhất thời không có cách nào tập trung suy nghĩ được.
Sau khi hai người dời đi, ở một góc bọn họ không thể phát giác, bên trong một bức tường vàng, cách mặt đất chừng năm sáu mét có một lỗ rất nhỏ, mắt thường gần như không nhận ra nổi. Trong lỗ nhỏ ấy, có một đầu dò đang chầm chậm rụt về.
Phía bên kia bức tường, không ngờ lại là một đường hầm nhân tạo được khoét ra bằng chất nổ, cao khoảng một mét, bên trong có hai hàng lính đánh thuê nửa ngồi nửa quỳ. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Mẫn Mẫn bị trói gô lại, miệng nhét đầy chặt thứ gì đó, khiến ba người không thể phát ra bất cứ âm thanh nào. Bọn họ đã đến đây trước cả Trác Mộc Cường Ba và Merkin, chỉ là người trẻ tuổi không cho phép họ tiến vào gian đại điện bày kim thân của các vị đại sư tiền bối, ngược lại còn bắt leo vách đá lên phía trên, khoét ra một đường hầm như vậy. Không ai biết ý đồ của y rốt cuộc là gì.
Người trẻ tuổi thu đầu dò hình mắt rắn đó lại, khẽ nói: “Chúng giữ được lý tính hơn là tao dự đoán, người không bị châu báu làm cho dao động như vậy trên đời này thực sự rất ít, chạy đi, chạy đi, chạy nhanh thêm chút nữa, tao đang đợi chúng mày đây.”
Hai người một trước một sau, chạy hùng hục giữa những tia sáng đủ sắc màu, đập vào mắt họ là từng đống từng đống ngọc ngà châu báu. Đống bên này là kim cương chử, nhân hình chử, tháp chử, bảo chử, yết ma chử, kim cương quyết, kim cương bàn, kim liên hoa, kim pháp luân, dù vàng, trướng vàng, bình vàng, chén vàng, roi vàng, áo trân châu, niệm châu mắt mèo, ngọc như ý, cây như ý, sa châu, chuột vàng phun báu, bát cáp ba la
(41)
… mang đậm phong cách dân tộc Tạng.
Đống bên này, là dây lưng khảm đầy bảo ngọc, dây đeo kiếm, vòng cổ, vòng tay, vòng cánh tay, xuyến tay, nhẫn, hoa tai, vòng tay hình rắn hổ mang thần, vòng chân, linga, tượng thần Brahma, Shiva, Visnu bằng vàng … theo phong cách Ấn Độ cổ.
Giữa những đống châu báu này, là các pho tượng Phật đúc bằng vàng ròng. Có trời mới biết ở đây rốt cuộc có bao nhiêu pho tượng Phật vàng như thế, lớn có, nhỏ có, cộng thêm sàn nhà và các bức tường, rồi cả cột trụ … nơi đây đã gần như một mỏ vàng khổng lồ rồi. Trong đại điện này rốt cuộc chứa bao nhiêu vàng? Mười nghìn tấn? Một trăm nghìn tấn? Hay còn nhiều hơn nữa? Merkin nói có thể khiến tổng trữ lượng vàng của Trung Quốc tăng lên gấp đôi, hoàn toàn không phải chỉ thuận miệng nói bừa, nếu thực sự có cách vận chuyển số vàng ở đây ra, giá vàng trên thế giới ít nhất cũng phải giảm đi một nửa chứ chẳng chơi. Đặc biệt khi chạy đến gần những pho tượng lớn cao đến bốn năm mét, Trác Mộc Cường Ba cũng xây xẩm mặt mày. Thật không ngờ, lại có người dùng vàng ròng đúc thành pho tượng lớn như vậy. Trước đây gã vốn tưởng rằng, vàng mà cổ nhân nói đến, kỳ thực chính là đồng vàng, nhưng lúc này, nhìn màu sắc, nhìn chất liệu, đây rõ rành rành là vàng ròng trăm phần trăm! Trác Mộc Cường Ba còn để ý thấy, trên bề mặt bức tượng có vết tích nung chảy. Rõ ràng người xưa cũng không thể nào vận chuyển được pho tượng lớn như vậy đến đây, họ phải cắt ra thành các mảnh nhỏ, sau đó mới nung chảy rồi ghép lại.
Không lâu sau, họ đã chạy từ đầu bên này tới đầu bên kia đại điện, Merkin ở phía trước gào rú lên như kẻ điên dại: “Này! Ở đây có một cánh cửa! Mau lên! Ở đây có cửa! Cường Ba!”
Chạy đến gần, Merkin mới thất vọng nhận ra, đây không phải
một cánh cửa, mà chỉ là một bức tường chắn, có điều, trên bức tường màu vàng kim này có chữ, những hàng chữ dọc đặt bên cạnh nhau, rất giống với mấy hàng chữ ở cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.
Chỉ có điều, bây giờ Merkin không có hứng thú với mấy thứ cổ văn loằng ngoằng này. Hùng hục chạy một mạch từ nãy đến giờ, y đã bắt đầu thở không ra hơi, hai tay chống xuống đầu gối, oằn mình thở dốc: “Tại sao, tại sao không phải là cửa chứ?”
Trác Mộc Cường Ba cũng dừng lại nghỉ chân bên dưới mấy hàng chữ lớn đó, một lúc sau, gã mới cất tiếng nói: “Tôi nghĩ, đây là một cánh cửa.”
“Cái gì?” Merkin lập tức phấn chấn tinh thần, truy vấn gã: “Bên trên đó viết gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba lần lượt dịch từng chữ một: “ Nơi tập trung của cải chân chính, phải dùng trí tuệ mới mở ra được, cánh cửa … dẫn đến … tự do…”
Merkin bổ nhào lại gần bức tường, lần mò khắp một lượt từ trên xuống dưới: “Là cửa hả? Cửa ở đâu? Cửa ở đâu?” Hai mắt y đột nhiên sáng bừng, nét mặt lỗ rõ vẻ hân hoan: “Không sai, đúng là cửa rồi, tôi thấy khe cửa rồi!”
Giữa bức tường và sàn nhà có khe hở, Merkin lần tìm men theo khe hẹp ấy, rốt cuộc cũng thấy được đường nét của một cánh cửa trên bức tường màu vàng kim. Khe hở giữa cửa và bức tường được giấu rất kỹ, Merkin nhíu mày, bởi chỉ có loại cửa thụt vào mới không lộ ra dấu vết thế này. Y và Trác Mộc Cường Ba không trông thấy quá trình cửa lớn Bạc Ba La thần miếu mở ra, vì vậy cũng không biết người xưa có thể chế tạo ra những cánh cửa dày tới chừng nào, nhưng y biết, loại cửa này là khó phá hoại nhất. Sau đó, y lại lần mò tìm kiếm trên mặt tường một hồi: “Làm sao
mở ra được? Phải có cơ quan để mở cửa ra mới đúng.”
Trác Mộc Cường Ba vẫn đang tiếp tục đọc: “Cái… vỏ kiên cố nhất? Bảo vệ tất thảy mọi thứ ở đây? Gã gõ gõ mấy cái lên chỗ cánh cửa, rồi lại gõ gõ vào cạnh đó, cũng không biết kiên cố đến mức nào. Trác Mộc Cường Ba lùi lại hai bước, ngẩng đầu lên đọc hàng cuối cùng: “Máu của Bản Ba, là chìa khóa duy nhất để mở cửa.” Phía sau lại có thêm một câu nữa: “Các ngươi, thật sự đã quyết định rồi chứ? Phá hoại, hay là gìn giữ?”
“Thế là ý gì nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm, dường như gã dịch vẫn chưa được chuẩn xác lắm, ừm, nếu có giáo sư Phương Tân ở đây, hoặc giả máy tính chưa hỏng thì tốt rồi.
Đang nghĩ ngợi, gã chợt nghe Merkin reo lên mừng rỡ: “Tìm thấy rồi, ở chỗ này!”
Trác Mộc Cường Ba bước tới, chỉ thấy Merkin đang đứng cách cánh cửa chừng hơn chục mét, chăm chăm nhìn vào một cái bồn kim loại, cao khoảng ngang lưng người, hơi giống như một cái đỉnh thời xưa.
Thấy Trác Mộc Cường Ba đi tới, Merkin hân hoan nói: “Tôi biết ngay mà, cơ quan để mở cánh cửa này chẳng ở đâu xa, bọn họ phải chôn dây ngầm, phải dùng huyết trì, khoảng cách xa quá sẽ tiêu hao rất lớn. Anh xem, đây là huyết trì, đây là hố trữ máu, đây là hố rửa máu, đây là rãnh chia, đây là bồn hoạt hóa, đây… đây là lỗ khóa!”
Trác Mộc Cường Ba bước đến gần quan sát kỹ hơn, cái đỉnh này giống như một cái chậu lớn mỏng dẹt đặt trên giá đỡ ba chân, đáy chậu chia làm ba khu vực, có những đường vân xoắn phức tạp, hoặc có thể nói đó là các ống dẫn, cuối cùng thông qua lỗ nhỏ ở rìa chậu dẫn xuống chân đỡ bên dưới. Thứ này rõ ràng được gắn liền với sàn đại điện, cũng may Merkin tinh mắt, chứ nếu không để ý sẽ rất dễ lầm tưởng nó là một món báu vật gì đó. Thân chậu có chạm trổ ba loại thú được trừu tượng hóa. Trác Mộc Cường Ba loáng thoáng nhận ra, một trong ba loại thú đó rất giống con thú lành khắc trên thanh kiếm đồng của gã, Tỳ hưu.
Merkin không chờ nổi nữa, bèn cắm chìa khóa của y vào khu vực có totem Kỳ lân, nhỏ máu vào, rồi vòng tay đo thử kích cỡ của hố trữ máu, lẩm bẩm nói: “Chắc cần khoảng mười mi li lít máu.” Y nghiến răng, tay cầm lưỡi dao rạch nhẹ, máu liền đổ tràn vào trong huyết trì.
Không ai biết chìa khóa của y và máu trong huyết trì đã xảy ra phản ứng như thế nào, chỉ thấy máu trong chậu chảy theo các đường ống chầm chậm lan đi, rồi một tách thành hai, hay hai hợp làm một, cuối cùng biến mất ở chỗ mở chảy xuống chân đỡ bên dưới, trong bồn vàng không còn lại chút dấu vết nào của máu tươi. Một lúc sau, đột nhiên cả đại điện rung chuyển, mặt đất dường như có thứ gì đó to lớn bị kéo đi, tiếng chuyển động của những bánh răng khổng lồ vang lên. Những bánh răng chỉ “cách cách cách” được mấy tiếng, rồi như bị thứ gì đó làm kẹt lại, phát ra một loạt tiếng “két két két” đay đi đay lại.
HIỆN THÂN
.
“Máu của một mình tôi không đủ.” Merkin lập tức có phản ứng, y nói với Trác Mộc Cường Ba: “Còn cần cả máu của anh nữa.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, anh không thấy hả? Tuy là một bồn chứa, nhưng đây là tổ hợp của ba huyết trì, cần có ba chiếc chìa khóa. Chỉ với hai người chúng ta, không thể mở được cánh cửa này đâu.” Gã ngoảnh đầu nhìn hàng chữ trên cửa “Các người, thật sự
đã quyết định rồi chứ? Phá hoại, hay là gìn giữ?” Gã có cảm giác câu này như một sự cảnh báo, hoặc một lời nhắc nhở, để người có năng lực mở cánh cửa này phải suy nghĩ cho kỹ càng, chớ nên đưa ra quyết định
một cách mù quáng.
Merkin nói: “Anh không thử thì làm sao biết được? Cánh cửa đầu tiên đó, không phải cũng dùng máu của hai chúng ta mà mở ra được đó sao? Nói không chừng, có hai trong ba là đã đủ chiếm đa số phiếu, xin anh đấy, thử một lần xem sao.” Ánh mắt y nhìn chằm chằm vào hàng chữ thứ nhất và thứ hai: “Cánh cửa dẫn đến tự do, rất có thể, đây chính là lối ra duy nhất dành cho chúng ta, anh không nghĩ đến chuyện… ra khỏi đây sao?” Kỳ thực, Merkin muốn nói: “Anh không nghĩ đến việc mang những thứ ở đây ra ngoài hay sao?” Có điều, khi cất tiếng y đã kịp thời ghìm lại, y thực không muốn nhắc đến chủ đề nhạy cảm này trước mặt Trác Mộc Cường Ba vào thời điểm hiện tại.
“Cánh cửa dẫn đến tự do”, cụm từ này là do Trác Mộc Cường Ba dịch ra, gã cũng biết mình dịch không chuẩn xác, nhưng sâu trong tiềm thức, gã vẫn hi vọng ý của cụm từ đó đúng là như vậy. Nhìn huyết trì ở trước mắt, Trác Mộc Cường Ba cũng hơi động tâm, gã không phải chiến sĩ vệ đạo một lòng kiền thành, đồng thời cũng âm thầm ôm mối hi vọng có thể mang những thứ báu vật ở đây ra thế giới bên ngoài. Tuy mục đích của gã khác với Merkin, gã không muốn chiếm làm của riêng, nhưng nếu để những kết tinh của trí tuệ nhân loại này phải vùi chôn trong lòng núi thì cũng thật là đáng tiếc.
“Được rồi, để tôi thử xem.” Trác Mộc Cường Ba cũng cắm chìa khóa của gã vào, cắt tay nhỏ máu, hỗ trữ máu trong huyết trì dần dần đầy lên. Nhìn từng giọt máu nhỏ xuống, trong đầu Trác Mộc Cường Ba không ngừng xuất hiện đi xuất hiện lại một câu hỏi: “Đã quyết định chưa? Các người đã quyết định chưa? Các người… đã quyết định chưa?” Có gì đó không ổn, nhất định có gì đó không ổn, nhưng theo lý mà nói, thì chẳng có gì không ổn cả. Ở đây chỉ có gã và Merkin, những người khác căn bản không thể mở được cánh cửa bên ngoài kia, phải chăng gã vẫn chưa yên tâm về Merkin? Tại sao cảm giác bất an trong lòng mỗi lúc một mạnh mẽ hơn vậy?
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng đè được cảm giác thấp thỏm không yên đó xuống. Gã ngẫm nghĩ lại một lượt, rồi dễ dàng nhận ra, cảm giác bất an này không phải là biểu hiện của sự nghi hoặc đối với hoàn cảnh xung quanh, mà dường như phát xuất tự bản năng của gã, giống như khi thỏ nhìn thấy chim ưng, chuột gặp phải rắn vậy. Nỗi bất an ấy đã khắc sâu vào trong gene di truyền. Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Merkin, sắc mặt y cũng rất căng thẳng, gã liền hỏi: “Có phải anh cũng cảm thấy điều gì đó không ổn? Lo lắng nhiều hơn là hưng phấn?”
“Không có gì!” Merkin dối dòng phủ định: “Tôi muốn ra ngoài đến sắp phát điên lên được ấy chứ, có gì không ổn đâu!” Trong lúc nói, y lại dùng một tay nắm chặt lấy tay kia, gắng sức che giấu những run rẩy rất khẽ. Trác Mộc Cường Ba gần như có thể khẳng định, cảm giác bất an của Merkin thậm chí còn mạnh mẽ hơn gã. Gã lập tức ngừng nhỏ máu, băng ngón tay lại.
Có điều, máu trong huyết trì đã bắt đầu phản ứng với chìa khóa, chảy tràn qua các ống dẫn với tốc độ kinh người, một phần đã biến mất ở lỗ mở chỗ chân đế. Hai người mang theo tâm trạng thấp thỏm, kính sợ nhìn cánh cửa màu vàng kim phía trước. Không ai biết đằng sau cánh cửa đó là gì, cũng không biết tới đây sẽ xảy ra chuyện gì. Gần như giống hệt quá trình sau khi Merkin nhỏ máu, đại điện cũng chấn động, như thể có vật thể khổng lồ gì đó bị hút đi, sau đó bánh răng khổng lồ bắt đầu chuyển động, lần này thì được lâu hơn, nhưng rốt cuộc vẫn bị kẹt lại. Cánh cửa lớn chừng như có dấu hiệu được nâng lên, có điều mỗi lần chỉ nhích động được chưa đầy một xăng ti mét lại đã nặng nề rơi xuống.
Không hiểu tại sao, nhìn thấy cánh cửa đó không thể mở ra, Trác Mộc Cường Ba lại có cảm giác nhẹ nhõm, tảng đá lớn đè nặng trong tim rơi xuống, nỗi căng thẳng và lo âu cũng biến mất.
“Vẫn không được, cần thêm chiếc chìa khóa thứ ba nữa.” Trác Mộc Cường Ba nói như thể vừa trút được gánh nặng.
“Chiếc chìa khóa thứ ba! Sao có thể được? Hơn một nghìn năm rồi, có trời mới biết Thánh sứ năm đó chết toi ở xó xỉnh nào! Hai người chúng ta gặp nhau, đã là kỳ tích trong kỳ tích rồi! Tôi không dám mơ có kỳ tích lớn hơn nữa xuất hiện đâu!” Merkin hằn học nhìn chằm chằm vào huyết trì, cơ hồ muốn phá tung vật thể bằng kim loại này ra.
Câu nói của Merkin chợt gợi lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba một ý nghĩ, tại sao hai người đều là hậu nhân của Thánh sứ, đều có chìa khóa, vừa khéo lại có thể mở được cánh cửa đầu tiên, thế này chẳng phải quá trùng hợp hay sao? Không, không thể dùng “trùng hợp”
để giải thích được. Nhất thời, vô số suy nghĩ dội lên trong tâm trí gã.
Thoạt đầu, giáo sư Phương Tân nói gã có thể tham gia đoàn khảo sát của nhà nước, vì nơi gã muốn đến, vừa khéo cũng là nơi đoàn khảo sát muốn đến; sau đó, ở thành bang Maya, trong cả một khu vực rộng lớn, bọn gã lại tìm được đúng Bạch thành; càng trùng hợp hơn nữa là bọn gã lại có trong tay chìa khóa cuối cùng của địa cung Ahezt; rồi qua Merkin gã biết được, Soares phát hiện ra bản đồ trong địa cung, bản thân Soares cũng nói, y tìm thấy tấm bản đồ đó bên trong cánh cửa cuối cùng của địa cung; lần theo dấu vết tấm bản đồ đó, bọn họ lại bất ngờ phát hiện được một tấm bản đồ khác ở Đảo Huyền Không tự, đó là lúc gã lần đầu biết được thân phận Thánh sứ của mình, gã còn tưởng ông trời muốn trêu cợt mình một phen nữa; rồi khi bọn họ gặp khó khăn trên núi tuyết, cuối cùng không tìm được đường đi tiếp, Vương Hựu lại mang theo Hương Ba La mật quang bảo giám anh ta tìm được trong địa cung Maya xuất hiện…. Trùng hợp, trùng hợp, trùng hợp, toàn bộ đều là trùng hợp sao? Trác Mộc Cường Ba bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, sao mình lại có những trải nghiệm như một nhân vật trong tiểu thuyết truyền kỳ vậy chứ? Tất cả mọi thứ, đều giống như một vở kịch, mọi người cầm kịch bản diễn theo vậy. Vấn đề là, ai đang đạo diễn tất cả? Trong vở kịch này, gã đóng vai gì? Còn Merkin, y được phân cho vai gì?
Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba lại không khỏi nhớ đến những gì xảy ra trong thần miếu, Merkin bị Max và Khafu bắt tay bán đứng. Hai kẻ này nghe lệnh ai? Tại sao Max đột nhiên mất mạng? Rốt cuộc đối phương muốn làm gì?
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên buột miệng thốt lên: “Không ổn! không thể mở cánh cửa đó ra được!” Gã muốn phá hủy huyết trì bằng kim loại này đi, hiềm nỗi vật này lại quá kiên cố.
Trác Mộc Cường Ba kéo ba lô, định lấy ra tất cả mọi thứ có thể nổ được, đúng lúc này, chợt nghe ‘oành’ một tiếng lớn, bức tường màu vàng kim sau lưng vỡ một lỗ toang hoác. Mười mấy tên lính đánh thuê tay cầm sung lần lượt bước ra, mấy người cuối cùng là Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn đang bị khống chế.
Merkin còn đang kinh ngạc trước hành vi khác thường và đột ngột của Trác Mộc Cường Ba, chợt tiếng nổ lớn vang lên khiến y giật bắn mình kinh hãi thêm một phen nữa. Trác Mộc Cường Ba vừa nghe thấy tiếng nổ, đã gắng sức rút chìa khóa ra. Không ngờ, chìa khóa cắm vào huyết trì lại bị ghim chặt, Trác Mộc Cường Ba làm biến dạng cả chuôi chìa khóa mà vẫn không sao rút ra được.
Bọn lính đánh thuê vừa tiến vào đại điện lập tức khống chế Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Trác Mộc Cường Ba vốn định phản kháng, nhưng khi thấy pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, gã liền bỏ cuộc. Merkin không có vũ khí trong tay, nên cũng không phản kháng, đồng thời y cũng muốn xem kẻ đứng sau lưng Max và Khafu rốt cuộc là người như thế nào.
Quả nhiên, một người thân hình không nổi bật lắm bước ra khỏi đám lính đánh thuê, y dường như đang mỉm cười, nói: “Merkin, Cường Ba thiếu gia, chúng ta lại gặp nhau rồi.” Y nói bằng một thứ tiếng Trung chuẩn mực.
Merkin nhíu mày, giọng nói này nghe sao mà quen vậy? Ngón tay út của y khẽ giật một cái, thế là phản ứng gì?
Trác Mộc Cường Ba chăm chú quan sát dáng điệu và đặc trưng hình thể của người này, cuối cùng nhìn chằm chằm vào gương mặt y, nhưng dưới lớp màu ngụy trang, không thể nhìn rõ được mặt mũi ra sao. Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn, trong lòng dường như đã đưa ra phán đoán.
Thomas không để bọn họ đợi lâu, y đón lấy một chiếc khăn bông đã thấm cồn từ tay lính đánh thuê đứng cạnh, nhẹ nhàng lau chùi. Một gương mặt trẻ tuổi góc cạnh xuất hiện trước mặt chúng nhân.
Đến thời điểm này, cuối cùng y cũng có thể xuất hiện với gương mặt thật của mình rồi. Toàn thân Merkin bất giác run rẩy cả lên, y sợ hãi nhìn chằm chằm vào người trẻ tuổi ấy: “Người … quyết sách!”
Trác Mộc Cường Ba cũng lạnh lùng nói: “Quả nhiên là anh, Đường Thọ!”
Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa mắt nhìn nhau, quả nhiên đúng như họ nghĩ, làm gì có ngài Thomas nào? Phải là ngài Đường
(42)
mới đúng.
Merkin vô cùng chấn động, y trố mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, hoàn toàn không thể ngờ đội trưởng của bọn y, kẻ được gọi là Người quyết sách, lại chính là Đường Thọ, anh trai của Đường Mẫn, đồng thời cũng là tên điên mà y ra lệnh bắt cóc.
Đường Thọ nhe răng cười, dường như có vẻ ngượng ngùng. Y đảo mắt nhìn bọn lính đánh thuê, mấy tên này sớm đã đỏ mắt thèm thuồng, hết nghiêng bên này lai ngó bên kia, khẩu súng cầm trong tay cũng đang run lên nhè nhẹ, cơ hồ có thể nhả đạn bất cứ lúc nào. Đường Thọ điềm đạm nói: “Này, tao biết chúng mày rất kích động, nhưng cần phải kiềm chế. Những thứ đã hứa với chúng mày, tao nhất định sẽ trả đủ, chỉ là lúc này vẫn chưa được. Ít nhất, chúng ta cũng phải mở cánh cửa sau cùng này ra đã, chúng mày biết trên kia viết gì không? Bên trong cánh cửa này mới là báu vật thực sự, những thứ bên ngoài không thể so sánh được. Huống hồ, muốn sở hữu những báu vật này, điều kiện tiên quyết là phải sống sót rời khỏi đây mới được.” Câu nói cuối cùng dường như có chút tác dụng, một vài tên đã lấy lại bình tĩnh, nhiều báu vật đến mấy thì cũng phải còn mạng, sống sót mới có thể hưởng thụ được; có điều, vẫn còn một vài tên không nghe lọt được chữ nào vào đầu.
“Bây giờ là lúc ta hoàn thành sứ mạng rồi.” Dứt lời, Đường Thọ để mặc đám lính đánh thuê ấy, chầm chậm lại gần huyết trì, lấy trong vạt áo ra một thanh kiếm đồng nhỏ, lại là một thanh kiếm đồng cùng chất liệu, cùng kiểu dáng với hai thanh của Trác Mộc Cường Ba và Merkin.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều kinh ngạc ngẩn người.
Trác Mộc Cường Ba ở gần hơn, loáng thoáng trông thấy trên chuôi kiếm là hình một con chim được trừu tượng hóa, thân kiếm có chạm khắc bốn hình thú kỳ quái, một cái giống con tằm, một cái nữa giống như cá, nhưng vây cá lại giống như tay chân của trẻ con chưa hoàn toàn phát triển thành hình, hai hình còn lại thì Trác Mộc Cường Ba không thể hiểu nổi.
Pháp sư Á La đứng sau lưng Đường Thọ, nhưng vẫn nhìn được thanh kiếm đồng qua khe hở, ông biết đó là Lục đạo tứ sinh, tượng trưng cho luân hồi, còn thanh kiếm đồng của Trác Mộc Cường Ba thì chạm khắc hình Tứ phương thụy thú, tượng trưng cho sự bảo vệ, nhưng ông không hề biết mấy thanh kiếm đồng này còn là chìa khóa, nên cũng hết sức chấn động.
Lữ Cánh Nam lại lấy làm kinh ngạc trước sự ung dung điềm tĩnh của Đường Thọ. Ở giữa đại điện vàng rực này, trước mặt là vô số châu báu lấp lánh hào quang, ngay cả pháp sư Á La và bản thân cô cũng không khỏi rung động, càng không cần phải nói đến những kẻ bị tài vật làm mê đắm đánh mất chính mình kia. Nhưng riêng Đường Thọ, vẫn giữ nguyên bộ dạng hờ hững như không đó, dường như tất cả mọi thứ ở đây đều chẳng liên quan gì đến y, ánh mắt y nhìn những người khác vẫn u uất như thế, tựa hồ đang trách trời thương dân vậy. Đường Thọ vừa cắm chìa khóa vào, vừa nói: “Như các ngươi đã thấy, chiếc chìa khóa thứ ba nằm trong tay ta, vì vậy cũng đừng kinh ngạc làm gì.”
Merkin không dám tin vào sự thực hiển nhiên trước mắt: “Anh… anh cũng là Thánh sứ?”
“Thánh sứ? Ừm, coi là vậy đi,” Đường Thọ khinh khỉnh trả lời: “Ta và ngươi giống nhau, đều là hậu duệ của Vu vương.”
Merkin bị câu trả lời này làm cho chấn động, loạng choạng lùi lại một bước, trong lòng thầm nhủ: “Hắn biết, hắn biết tất cả!”
Đường Thọ bắt đầu trích máu, mỉm cười nói: “Nói ra thì còn phải cảm ơn các ngươi nữa, không có hai người tương trợ, ta cũng không nghĩ được cách nào mở cánh cửa này ra.” Nói tới đây, y liếc thấy chiếc chìa khóa đã biến dạng của Trác Mộc Cường ba, liền quay sang nhìn gã nói: “Ngươi thông minh hơn ta nghĩ đấy.”
“Bên trong cánh cửa ấy rốt cuộc có gì?” Trác Mộc Cường Ba một mặt cố gắng chấn tĩnh, mặt khác bắt đầu xâu chuỗi toàn bộ các sự kiện lại với nhau.
“Kho báu!” Đường Thọ khẳng định chắc nịch. “Ta đảm bảo với các ngươi, bên trong nhất định là kho báu thực sự, chắc chắn có thứ các ngươi muốn.” Lúc nói câu này, ánh mắt y chầm chậm chuyển sang phía pháp sư Á La: “Trên cửa này viết gì, pháp sư đại nhân hẳn là hiểu rất rõ.”
Pháp sư Á La bấy giờ mới chú ý và bắt đầu xem xét mấy hàng chữ trên cửa, đồng thời dịch lại: “Kho báu đầy ắp trí tuệ, con đường mở ra bí ẩn của đại tự nhiên bên trong tòa tháp hình trứng kiên cố nhất này, hủy diệt hay tồn tại là do các ngươi quyết định.” Trác Mộc Cường Ba nghe ông dịch mà thẹn mướt mồ hôi, tuy chỉ sai có mấy chữ, nhưng ý nghĩa dịch ra lại thay đổi rất lớn.
“Câu này dành cho ba người chúng ta đấy.” Đường Thọ cười cười với Trác Mộc Cường Ba, bộ dạng có vẻ rất thân thiện. Y
trích máu xong , băng bó qua loa lại vết thương, rồi nhìn phản ứng máu của mình bên trong huyết trì. Đường Thọ chợt hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Tranh thủ còn chút thời gian, sao không nói cho mọi người biết vì cớ gì mà ngươi lại nghĩ ta là kẻ đứng sau mọi người mọi việc vậy Cường Ba thiếu gia?”
Trác Mộc Cường Ba không đáp mà hỏi ngược lại: “Tại sao anh không nói cho chúng tôi nghe trước, anh đã sắp đặt mọi thứ như thế nào, để tôi và Merkin biến thành quân cờ của anh?”
Merkin lại trợn tròn mắt lên, đến thời điểm này, y vẫn không dám tin mình lại trở thành quân cờ của kẻ khác. Đường Thọ đánh mắt ra phía sau một cái, lập tức có hai tên lính đánh thuê dùng mũi súng thúc mạnh vào Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn. Bấy giờ, Đường Thọ mới chậm rãi quay người lại, nở một nụ cười hết sức thân thiện: “Tình thế nghiêng về phía ta mà, Cường Ba thiếu gia.”
“Được rồi,” Trác Mộc Cường Ba để tâm trạng mình lắng xuống, liếc nhìn Mẫn Mẫn đang bị áp giải, Mẫn Mẫn cũng hướng ánh mắt đau khổ nhìn về phía gã. Trác Mộc Cường Ba cố dằn lòng, chầm chậm nói: “Là vì Mẫn Mẫn.” Sắc mặt Đường Mẫn lập tức tái mét.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Toàn bộ sự việc này, bắt đầu từ khi tôi tìm kiếm Tử kỳ lân cho tới lúc đặt chân đến Shangri-la, mỗi một sự việc xảy ra trong quá trình này dường như đều có một lời giải thích có vẻ rất hợp lý, nhưng trong đó lại nảy ra mấy vấn đề mà tôi thủy chung vẫn không sao hiểu nổi. Một trong số đó là Nhạc Dương.” Đường Thọ lộ vẻ mặt trầm ngâm, cơ hồ đã sắp nghĩ thông, nhưng những người còn lại phỏng chừng vẫn chưa thể hiểu được.
Trác Mộc Cường Ba nhìn Merkin, rồi lại nhìn Lữ Cánh Nam, nói: “Lúc đó, chúng tôi mới chỉ đề phòng Merkin và những thế lực khác đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, căn bản không hề nghĩ tới anh, mà uy hiếp lớn nhất đối với chúng tôi, lại chính là Merkin. Những trải nghiệm trước đó của chúng tôi, khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều tin chắc rằng, trong đội ngũ của chúng tôi có kẻ nằm vùng của Merkin. Đối tượng bị nghi ngờ nhiều nhất chính là Ba Tang, đồng thời sự thực cũng đã chứng minh nghi ngờ của họ là chuẩn xác.”
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều ngầm gật đầu, Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Để moi ra được kẻ nằm vùng của Merkin, đồng thời cũng để thăm dò xem Merkin rốt cuột nắm được bao nhiêu tư liệu, Cánh Nam đã quyết định dùng kế phản gián. Người được chọn cho vai trò gián điệp hai mang này chính là Nhạc Dương. Nhạc Dương là lính trinh sát xuất sắc do một tay Cánh Nam huấn luyện, hơn nữa cậu ta từng có kinh nghiệm làm gián điệp. Cậu ta cũng là một trong số ít người mà Cánh Nam có thể tin tưởng được. Nhưng khi thực hiện kế hoạch, Cánh Nam và pháp sư sợ tôi hành sự theo cảm tính hoặc quá manh động, không thể phối hợp tốt với Nhạc Dương, thậm chí còn làm lộ thân phận của cậu ấy. Vì vậy, họ đã giấu không cho tôi biết hành động này. Có lẽ, Cánh Nam và Nhạc Dương cũng chỉ giữ liên hệ một chiều.”
Lữ Cánh Nam gật đầu, rồi lại lập tức khe khẽ lắc đầu, vẫn còn một người nữa biết chuyện này.
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam, nhanh chóng hiểu ra người còn lại kia là ai, gã lại tiếp tục nói: “Quá trình Nhạc Dương xâm nhập vào nội bộ tổ chức của Merkin như thế nào, Merkin đã nói với tôi rồi. Tôi có thể lý giải được. Nhưng có một điểm duy nhất mà tôi không sao hiểu nổi, đó là khi chúng tôi trải qua muôn vàn gian khổ, khó khăn lắm mới đến được Shangri-la, chỉ cần Nhạc Dương không kích hoạt thiết bị phát xạ tín hiệu bằng tia laser, thì dù Merkin có nắm được bao nhiêu tư liệu chăng nữa cũng chẳng ích gì. Nếu Nhạc Dương là một gián điệp phản gián, tại sao cậu ta lại hành động như vậy?”
Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba ngưng lại giây lát, đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam. Cô hẳn cũng biết nguyên ủy của sự việc này, chỉ thấy trong mắt cô thoáng lộ ra vẻ hân hoan, cổ vũ Trác Mộc Cường Ba nói tiếp.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có một khả năng, đó là trước lúc Nhạc Dương kích hoạt thiết bị phát tín hiệu laser thì đã có người khác phát tín hiệu đi rồi. Nhóm người nhảy dù đầu tiên không phải do Nhạc Dương dẫn đến. Merkin không chỉ có một kẻ nằm vùng trong đội ngũ của chúng tôi, mà Nhạc Dương lại không thể phát hiện kẻ này là ai, vì vậy, cậu ta mới thay đổi sách lược. Nếu đã có người phát tín hiệu trước rồi, vậy thì tại sao cậu ta không làm, như vậy có thể tranh thủ tín nhiệm của Merkin, đồng thời cũng có thể kéo được nhóm người của Merkin vào khu vực chúng tôi đã thăm dò khảo sát. Đây chính là suy tính của Nhạc Dương.”
Lúc này, máu của Đường Thọ đã phát huy tác dụng, mặt sàn dưới chân rung lên nhè nhẹ, rồi mạnh dần lên, vật chặn cuối cùng đã bị rút ra, không còn gì ngăn cản bánh răng khổng lồ chuyển động nữa, trung tâm thần miếu say ngủ nghìn năm bắt đầu sống dậy, phát ra những âm thanh như núi long đất lở.
SỰ THẬT ĐÁNG SỢ
.
Đường Thọ cảnh cáo tất cả mọi
người có mặt trong đại điện: “Đứng xa cánh cửa ra một chút, tốt nhất nên tìm một vật nặng để bám vào, cần thận kẻo bị hút vào trong đó đấy.”
Cánh cửa khổng lồ chầm chậm nâng lên, đại điện rung lắc, vô số hạt bụi vàng nhỏ li ti rải xuống từ trần điện khiến toàn bộ đại điện đều ánh lên sắc vàng lấp lánh. Gương mặt u uất của Đường Thọ rốt cuộc cũng thoáng hiện lên vẻ hân hoan. Merkin vẫn nhìn chằm chằm vào Đường Thọ không chớp mắt, không hiểu đang nghĩ điều gì. Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn pháp sư Á La, hai người khẽ gật đầu, gã lại ngoảnh sang phía Lữ Cánh Nam, nhoẻn miệng mỉm cười. Ánh mắt Mẫn Mẫn từ đầu đến giờ vẫn không rời khỏi Trác Mộc Cường Ba.
Merkin rốt cuộc cũng quay đầu lại, nhìn về phía cánh cửa, bấy giờ mới phát hiện ra, cánh cửa này không thể dùng tính từ “dày nặng” để hình dung được. Lực kéo khổng lồ từ bánh răng kéo cánh cửa lên phía trên, ít nhất cũng đã nâng được mười mét rồi, vậy mà cánh cửa vẫn kẹt bên trong khung cửa. Đến khi giữa cửa và khung cửa hé ra một khe hở, đột nhiên xuất hiện một lực hút khổng lồ. Tất cả mọi người đều thấy rõ, lớp bụi vàng đang lơ lửng trên không trung chẳng khác nào một màn sương mù mịt phảng phất như bị một cái miệng khổng lồ há ra hút sạch. Gần như một nửa không khí trong đại điện cũng bị hút vào trong, đồng thời cánh cửa phát ra một tiếng “ầm” lớn. Không biết là cánh cửa đang chuyển động, hay cả bốn bức tường của đại điện này đều đang bị nâng lên nữa. Lực hút mạnh mẽ quấn lấy chân mỗi người, nếu Đường Thọ không nhắc nhở, chắc hẳn phần lớn đã đứng không vững mà bị hút vào trong đó rồi. May mà, bọn họ đều ôm chặt một bức tượng vàng lớn, mặc dù vậy, cả người lẫn tượng Phật cũng bị kéo trượt đi một quãng. May thay, lực hút này xuất hiện bất ngờ, biến mất cũng rất đột ngột, chỉ sau khoảng thời gian chừng một hơi thở là tan biến, cả bọn đều cảm thấy áp lực nhẽ bẫng, hai chân lại hạ xuống mặt sàn.
Cánh cửa khổng lồ rốt cuộc cũng được
mở ra, bên dưới là một rãnh dài chừng hai chục mét, sâu bảy tám mét, Merkin thầm tính toán, cánh cửa này có lẽ là một khối lập phương khổng lồ mỗi bề dài khoảng hai chục mét, nhưng phần lộ ra phía ngoài mỗi bề chỉ chưa đến năm mét mà thôi, cũng không biết được làm từ chất liệu gì nữa.
Trác Mộc Cường Ba lại đang nhìn bức tường ở mé bên, giờ đây kim loại đã bị hút hết, để lộ ra vách đá. Ở chính giữa hai bức tường đá hai mé bên cánh cửa, đều có một cầu thang dẫn lên trên, ở cuối cầu thang, dường như lại có một gian phòng khác. Sau lưng gã là vô số những lỗ thông khí to bằng đầu ngón tay, phía trước là bức tường có cánh cửa khổng lồ, vạch ra một đường ranh giới rất rõ ràng với vách đá ở hai bên, hiển nhiên là một kiến trúc khổng lồ khác, do một loại chất liệu khác xây nên.
Pháp sư Á La lại tập trung chú ý vào phía sau rãnh sâu, bên trong cánh cửa khổng lồ kia. Phỏng chừng ông muốn nhìn rõ xem bên trong đó rốt cuộc có thứ gì. Lúc này, cánh cửa đã được nâng lên, ánh sáng hắt ra từ mấy tấm gương đồng vốn dùng để thu sáng cho đại điện liền chiếu thẳng vào bên trong đó. Phía trong đã có sẵn những tấm gương khác, bột vàng vẫn lơ lửng trên không trung, khiến người ở bên ngoài có thể nhìn rõ được quỹ tích phản chiếu của những cột sáng ấy.
“Tháp hình trứng!”
pháp sư Á La khẽ thốt lên. Pháp sư Á La biết rõ kết cấu của tháp hình trứng. Đó là một dạng Phật tháp không có đường nối, hình dạng giống như quả trứng chim vậy. Lúc này, dưới ánh sáng hắt vào từ các tấm gương đồng, kết cấu ttrong tháp hiện lên rõ mồn một trước mắt. Bán kính của tòa tháp này khoảng hai mươi mét, chính giữa có một cây trụ đặc đường kính khoảng ba mét, thân trụ có đường rãnh hình xoắn ốc, dường như có thể đưa thứ gì đó trong tháp nâng lên hoặc hạ xuống. Trong tháp vẳng ra tiếng bánh răng và băng chuyền chuyển động, kèm theo tiếng “u u u” , tựa như có vật thể khổng lồ nào đó đang khuấy động không khí. Những hạt bụi vàng li ti xoay chuyển trong quầng sáng, như ngàn vạn ngôi sao trong dải Ngân hà. Đường Thọ đưa mắt nhìn đám người vẫn đang ngây ngẩn chưa biết phải làm gì tiếp theo, giải thích: “Vừa nãy là áp suất âm, người Qua Ba cổ đại đã biết, vật phẩm có thể bảo tồn lâu hơn trong môi trường chân không, vì vậy, bên trong tòa tháp hình trứng này đã bị hút sạch không khí.”
Sau đó, y lại lệnh cho bọn lính đánh thuê áp giải mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba xuống cái rãnh sâu mà cánh cửa nâng lên để lại. Hai bên rãnh sâu này có cầu thang xoắn ốc, sau khi cả bọn chầm chậm leo xuống, Đường Thọ nói: “Đây không phải đá, tuy nhìn giống đá, nhưng thực ra lại là một thứ có thể gọi là kim loại do cổ nhân nung luyện ra. Cụ thể nó là thứ gì thì đến giờ vẫn chưa phân tích ra được, nhưng thứ này chính là vật liệu xây dựng tuyệt hảo mà các nhà khoa học hiện đại bấy lâu nay vẫn không ngừng tìm kiếm. Nó nhẹ hơn nhôm, nhưng lại kiên cố hơn thép tinh luyện, dùng thuốc nổ mạnh cũng hầu như không bị ảnh hưởng gì, ngay cả nhiệt độ cao mấy nghìn độ cũng không có hiệu quả. Tốc độ dẫn nhiệt của loại chất liệu này nhanh nhất trong các loại kim loại đã được biết đến ngày nay. Trừ phi nung chảy toàn bộ tòa tháp hình trứng này, bằng không cách duy nhất để gây phá hoại cho nó là dùng nhiệt độ siêu đẳng, chẳng hạn như tia laser. Chỉ có điều, các loại máy bắn tia laser hiện giờ đều quá lớn, ta vẫn chưa đủ năng lực để mang loại máy móc cỡ lớn ấy đến đây.”
“Vì vậy, anh lợi dụng tôi và Merkin mở cánh cửa này, phải không?” Trác Mộc Cường Ba thẫn thờ hỏi.
“À, không.” Đường Thọ cố tình làm ra vẻ kinh ngạc: “Cánh cửa này chỉ
mở ra khi ý chí các ngươi mong muốn một cách mãnh liệt.” Y liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, rồi lại tiếp lời: “Chẳng nhẽ các ngươi không biết? Cho dù là máu của các ngươi, nhưng nếu khi nhỏ máu các ngươi có tâm trạng sợ hãi, co rút, đau đớn, thì cũng không thể khiến chìa khóa nảy sinh phản ứng được. Cơ thể con người là thứ hết sức kỳ quái, các ngươi bị tình cảm chi phối. Vui vẻ, kích động, sợ hãi, hoảng loạn, hân hoan… mỗi loại tình cảm đều sẽ khiến cơ thể sản sinh ra những vật chất khác nhau, được gọi là hormone. Những hormone này có thể nhanh chóng lan tỏa đi khắp toàn thân, khiến máu của các ngươi có những thay đổi hết sức lạ lùng. Ta thực sự khâm phục những người Qua Ba đó, không biết bọn họ đã nghiên cứu về cơ thể
người đến trình độ nào mới có thể tạo ra được chìa khóa thần kỳ như vậy.”
Lúc này, bọn họ đã đi qua được rãnh sâu, leo lên rìa bên kia. Ở đây có một bình đài rộng khoảng năm mét, dài mười mét. Đứng bên trong toà tháp hình trứng này, cả bọn chỉ biết trợn tròn mắt lên nhìn.
Tháp hình trứng là một tòa tháp, cũng có thể nói là hình dạng tương đối giống một tòa tháp, trên nhỏ dưới to. Phía trên còn chừng mười mét nữa là đến trần, bên dưới e rằng phải sâu đến cả trăm mét, bọn họ đang đứng ở phần đỉnh tháp, phía dưới là một bệ hình chữ T. Một đầu hình chữ T gắn với trục ở chính giữa, còn nét ngang trên đầu chữ T thì hơi cong cong, vừa khéo ăn khớp với thân tháp. Cả bệ này đang quay xung quanh những đường rãnh xoắn ốc trên thân trục, từ từ nâng lên. Kết cấu chỗ tiếp giáp giữa cái bệ hình chữ T và trục giữa giống như kết cấu của thang cứu hỏa, mấy tầng chồng lên nhau, có thể kéo dài hoặc thu gọn lại, như vậy có thể đảm bảo dù là ở phần đáy đường kính lớn nhất hay ở phần đỉnh tháp đường kính nhỏ nhất, đoạn cong trên đầu vẫn bám sát vào thân tháp.
Trác Mộc Cường Ba vốn tưởng rằng, tòa tháp mà Đường Thọ tốn bao công sức sắp đặt mới mở được này, hẳn phải có thứ gì đó đặc biệt dị thường, nhưng trước mắt gã đây, bên trong tòa tháp lại hoàn toàn trống rỗng. Chẳng lẽ, người xưa đã chuyển hết những thứ bên trong tháp đi rồi hay sao? Suy nghĩ của những người còn lại phỏng chừng cũng không khác Trác Mộc Cường Ba là mấy, bên trong tòa tháp này ngoại trừ bệ hình chữ “T” có thể chuyển động ra, chẳng còn gì khác nữa, làm sao hấp dẫn bằng đại điện lấp lánh ánh vàng bạc châu báu ngoài kia! Duy chỉ có pháp sư Á La là nhìn ra được manh mối gì đó. Thị lực của ông vốn tốt hơn những người khác một bậc. Ông nhận ra, mặt tường đằng sau những cột sáng đan xen kia không hề trơn nhẵn, mà có những đường nét do khe hở hình thành, chia thân tháp thành những ô nhỏ, trông giống như tủ đựng thuốc trong hiệu thuốc Bắc vậy. Toàn bộ đều là những ngăn kéo, tòa tháp này không ngờ lại do hàng nghìn hàng vạn cái ngăn kéo như vậy hợp thành, mà chiếc bệ hình chữ “T” có thể xoay chuyển này, chính là để những người đứng trên đó có thể dễ dàng tiện lợi đến bên cạnh và mở ra bất cứ ngăn kéo nào. Bên trong những ngăn kéo ấy rốt cuộc có thứ gì? Đường Thọ nói, vách tường của tòa tháp này dày đến hai mươi mét, vậy thì mỗi ngăn kéo phải lớn chừng nào? Có thể chứa được bao nhiêu thứ?
Đường Thọ cũng nhìn ra vẻ nghi hoặc trong ánh mắt những người còn lại, nhưng y không giải thích, mà lại quay về chủ đề lúc nãy: “Cường Ba thiếu gia, ngươi xem, chúng ta vẫn còn rất nhiều thời gian, tại sao không tiếp tục câu chuyện lúc nãy nhỉ? Ngươi nghi ngờ Merkin gài thêm một tên nằm vùng khác vào đội ngũ của mình, nhưng trong đội các ngươi còn rất nhiều người kia mà? Tại sao chỉ nghi ngờ có mình Mẫn Mẫn thôi?”
Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Thọ bằng ánh mắt chán ghét, tên này không ngờ lại bảo em gái ruột của mình làm ra những chuyện như vậy, so với Đường Mẫn, y càng không thể tha thứ hơn. Đường Thọ vẫn trưng ra bộ mặt hờ hững thản nhiên, giống như một thanh niên hiếu học khát cầu tri thức, khiến người khác không thể nào biết được trong lòng y rốt cuộc đang nghĩ điều gì?
“Đúng vậy, thoạt đầu tôi cũng không nghĩ đó là Mẫn Mẫn.” Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ nói: “Nhưng khi mạng của tôi và Nhạc Dương như ngàn cân treo sợi tóc, cậu ta đã nói với tôi rất nhiều vấn đề cần chú ý, chẳng hạn như quan hệ giữa Merkin và Soares sẽ xấu đi, trong bộ quần áo liền thân của Merkin chế tạo có thuốc nổ, Cánh Nam vẫn còn sống,… nhưng cậu ta lại không hề nhắc đến sự việc trong đội ngũ của chúng tôi còn một tên nội gián khác. Như vậy, chỉ có hai trường hợp, một là tên nội gián này đã chết, tất nhiên không cần phải nói ra nữa, trường… trường… trường hợp thứ hai, tên nội gián này có quan hệ đặc biệt với tôi, cậu ta không nỡ nhắc đến mà hi vọng tôi có thể tự phát hiện.” Nói tới đây, giọng Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thấp xuống, Mẫn Mẫn cúi gằm mặt, nước mắt chảy dọc theo gò má, rơi xuống bình đài dưới chân.
“Dù vậy, đó cũng chỉ là nghi ngờ của ngươi thôi, không có chứng cứ nào, đúng không?” Đường Thọ truy vấn.
Trác Mộc Cường Ba im lặng không đáp, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Nghi ngờ, chỉ là bước khởi đầu. Một khi đã xé rách lớp màng bọc đầu tiên, rất nhiều vấn đề anh không muốn nghĩ, không muốn đối diện đều bày ra trước mặt. Vả lại, tất cả những vấn đề không thể giải thích được, đều chỉ về cùng một hướng. Nói thực, tự trong đáy lòng tôi không hề muốn nghi ngờ Mẫn Mẫn, cô ấy là một cô bé thuần khiết nhường ấy, nếu đúng cô ấy đã làm ra những chuyện thế này, thì tôi quả thực quá thất vọng với nhân tính của con người rồi.”
“Ừm, nói cho ta nghe xem, có những vấn đề nào không thể giải thích được?” Đường Thọ lại hỏi.
“Vẫn bắt đầu từ tên nội gián mà Merkin cài cắm kia, sau này tôi gặp Merkin, có hỏi y rốt cuộc y đã gài những người nào vào đội ngũ của tôi. Merkin thừa nhận, có Ba Tang, và cả một người khác nữa, chỉ là người này đã chết trong quá trình vượt Minh hà. Mà trước lúc chết, Ba Tang đã nói với tôi, Merkin có tìm đến anh ta, nhưng sau lần từ rừng rậm châu Mỹ trở về, anh ta không giúp Merkin làm bất cứ việc gì nữa. Tôi tin Ba Tang, trong tình cảnh đó, anh ta không cần phải giấu giếm tôi điều gì nữa cả. Tên nội gián còn lại kia, đã chết trước khi đến Shangri-la, vì vậy kẻ phát tín hiệu nhất định là người khác. Thêm nữa, Lữ Cánh Nam đã ra lệnh cho Nhạc Dương phụ trách giám sát tất cả mọi người, khi không thể tìm ra người phát tín hiệu là ai, cậu ta mới tự mình phát tín hiệu. Tôi biết rõ năng lực của Nhạc Dương, vì vậy sau này lại rà soát thêm một lượt toàn bộ quá trình cho đến khi nhóm người nhảy dù đầu tiên xuất hiện. Thu nhận tín hiệu, leo lên đỉnh núi tuyết đều cần thời gian, theo suy đoán của tôi, có lẽ người đó đã phát tín hiệu lúc chúng tôi leo từ tầng bình đài thứ nhất lên tầng bình đài thứ hai. Nhưng lúc ấy, toàn bộ nhóm chúng tôi đều đang ở trên một khung treo lắp tạm lơ lửng giữa lưng chừng vách núi, muốn lắp đặt thiết bị phát tín hiệu trong hoàn cảnh đó mà không bị phát hiện là một việc rất khó khăn.”
Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, nhìn thẳng vào Mẫn Mẫn, chậm rãi tiếp lời: “Thế nhưng, tôi vẫn còn nhớ, hôm chúng tôi leo vách đá ấy, Mẫn Mẫn có đánh rơi một món đồ, đánh rơi trước mặt tất cả mọi người, vì vậy không ai sinh lòng ngờ vực gì cả. Dù là vô tình hay cố ý, đó cơ hồ là cơ hội duy nhất, đồng thời cũng nhạy bén nắm bắt được khoảng trống trong suy nghĩ của chúng tôi, ai bảo rằng kích hoạt thiết bị phát tín hiệu nhất định phải lén lén lút lút mới làm được chứ?” Mẫn Mẫn nãy giờ vẫn cúi gằm mặt, nước mắt lã chã tuôn rơi, không dám ngước lên nhìn Trác Mộc Cường Ba.
Âm mũi của Trác Mộc Cường Ba trở nên nghèn nghẹt, giọng gã hơi run run: “Đây chỉ là một trong số các vấn đề. Ngoài ra còn một việc mà tôi mãi không hiểu được, đó chính là lúc trước khi chúng tôi tiến vào địa cung Ahezt ở Maya. Giếng tế ở đó là một cái hang lớn đồ sộ trên mặt đất, lúc đó chỉ có Mẫn Mẫn và giáo sư Phương Tân ở đấy. Tôi được kể lại rằng, Mẫn Mẫn nghe thấy tiếng của tôi, liên đến đó tìm kiếm, bất cẩn rơi vào trong hang, nhưng cái hang đó lớn như vậy, nổi bật như vậy, thậm chí tôi còn nghi ngờ thầy giáo của mình, có điều về sau khi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, tôi đột nhiên nghĩ đến một kết quả đáng sợ… nếu Mẫn Mẫn không rơi xuống cái hang đó, tôi cũng sẽ không nhảy xuống. Nếu chúng tôi không xuống, tất cả những gì đã diễn ra trong địa cung cũng sẽ không xảy ra, chúng tôi sẽ không mở cửa đá cứu được Vương Hựu, Soases cũng sẽ không phát hiện được tấm bản đồ bên trong cánh cửa đá ấy! Nếu tất cả mọi chuyện ấy đều do Mẫn Mẫn gây ra…”
Tới đây, Trác Mộc Cường Ba không thể nói tiếp được nữa, Đường Thọ liền trả lời giúp gã:
“Không sai, là nó cố ý ngã xuống.” Mẫn Mẫn càng cúi đầu thấp hơn nữa.
Trác Mộc Cường Ba, tiếp tục nói nhanh hơn: “Còn nữa, khi chúng tôi ở Đảo Huyền Không tự, trong tế đàn Mạn Đà La cuối cùng, Merkin đã phát hiện ra một tấm bản đồ đó dưới đất. Đồng thời, Merkin cũng chính miệng chứng thực, tấm bản đồ ấy do y phát hiện ra trong lúc chiến đấu. Thế nhưng điều này hoàn toàn không phù hợp với những gì pháp sư Á La nói, bọn họ đến tế đàn Mạn Đà La đó trước, vả lại mục đích chính cũng là để tìm kiếm, đương nhiên đã lật tung từng tấc đất trong tế đàn lên rồi mới phải. Vậy mà họ lại không tìm được gì, đây cũng là một điểm khiến tôi nghi hoặc, tấm bản đồ ấy rốt cuộc ở đâu ra?”
Đường Thọ trả lời: “Đúng thế, bản đồ là do Mẫn Mẫn mang theo, bỏ dưới đất.” Y vẫn giữ nguyên nét mặt cười cười ấy, nhưng hoàn toàn không nhìn ra được dù chỉ một chút vẻ đắc ý nào cả. Lúc này, y lại giống như một vị giáo sư trẻ đang giải đáp các thắc mắc cho sinh viên. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Merkin nghe Trác Mộc Cường Ba và Đường Thọ một hỏi một đáp, đều không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, có một số vấn đề ngay chính bản thân họ cũng chưa từng nghĩ đến. Mấy câu hỏi đơn giản này, không ngờ đã phủ định toàn bộ những giả thiết của họ trước đây.
Đúng lúc này, “đang…” một tiếng, sau đó là một tràng những tiếng “cách cách cách, cách cách…” cái bệ hình chữ T bên dưới rốt cuộc cũng xoay tới trước mặt cả bọn, chầm chậm dừng lại. Khi nó đến gần, họ mới nhận ra cái bệ này rộng hơn lúc nhìn từ xa khá nhiều, ở hai bên còn có lan can chắn. Hơn chục người lần lượt bước lên trên, cái bệ phát ra tiếng ma sát nặng nề, bắt đầu chầm chậm chuyển động xuống phía dưới.
Đứng ở một đầu bệ hình chữ T, Đường Thọ lại gần Trác Mộc Cường Ba nói: “Tiếp tục chủ đề câu chuyện nào, đúng thế, ngươi phát hiện được rất nhiều điểm nghi vấn ở Mẫn Mẫn, có điều từ những điểm đáng ngờ này đâu thể trực tiếp xâu chuỗi đến ta? Ngươi không nghi ngờ Merkin sao?” Trác Mộc Cường Ba cười gằn nói: “Như anh nói, thoạt đầu, quả thực tôi nghi ngờ Merkin, bởi vì anh đã bố trí một màn kịch: hình như anh trai của Mẫn Mẫn, Đường Thọ, đã bị Merkin bắt cóc khỏi bệnh viện. Mà trước sự kiện này, Merkin từng bắt cóc người điên ở Mông Hà, đã có tiền lệ, y có bắt thêm anh nữa cũng không có gì là lạ. Merkin làm vậy, một là có thể moi từ miệng anh một số thông tin về Shangri-la, hai là có thể lợi dụng anh để uy hiếp Mẫn Mẫn, buộc cô ấy phải làm việc cho y. Chuyện này dường như rất hợp tình hợp lý. Thế nhưng, sau khi tôi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, màn kịch mà anh bố trí, lại khiến tôi phát hiện rất nhiều điểm bất hợp lý khác.”
Đường Thọ lấy làm hứng thú: “Ừm, nói nghe xem nào.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ba người, người điên ở Mông Hà, Ba Tang, còn cả anh nữa, ba người các anh đã đến nơi này, nếu như chân tướng sự thực chỉ có một, vậy thì lời nói của ba người phải khớp nhau mới đúng. Nhưng vấn đề ở chỗ, trải nghiệm của anh, Ba Tang, và người điên ở Mông Hà kia lại không giống nhau. Về sau chúng tôi biết được, người điên ở Mông Hà có lẽ ra khỏi đây theo đường sông ngầm, vậy thì chỉ còn anh và Ba Tang, hai người chắc hẳn đều đi đường núi tuyết. Nhưng như những gì Ba Tang nói và những gì chúng tôi đã trải qua, con đường ấy cực kỳ khó khăn, muốn tiến lên một bước cũng gian nan vô cùng, dù đầy đủ dưỡng khí thì cũng cần phải có thể năng vượt trên mức cực hạn của người bình thường. Nhưng lúc đó, Mẫn Mẫn lại kể với chúng tôi là, anh lái xe việt dã phóng từ trong này ra! Vả lại, còn chạy một mạch đến Khả Khả Tây Lý, chuyện này thật khó tin! Trước đây tôi luôn nghĩ rằng, cách giải thích duy nhất chính là, vùng đất anh và Ba Tang nói đến, không phải là một. Nhưng nếu thế, thì những sự việc khác lại không thể giải thích nổi. Hai đội viên đội khảo sát khoa học Khả Khả Tây Lý nhặt được cuốn nhật ký của anh, cuối cùng thi thể lại xuất hiện trên núi tuyết mà chúng tôi đi qua; còn ở Khả Khả Tây Lý nơi anh bị lật xe, chúng tôi gặp phải ba anh em sói xám, chúng chính là lũ sói sinh sống ở đây, chuyện này không phải trùng hợp. Như vậy thì không thể giải thích được làm cách nào anh lái xe từ đây đến tận Khả Khả Tây Lý được.”
Nét mặt Đường Thọ dãn ra, chỉ nghe y nói: “Chuyện này xảy ra cũng hai ba năm rồi, người vẫn còn nhớ sao?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu cách giải thích duy nhất không chính xác, vậy thì nhất định còn cách giải thích khác. Tôi nhớ trước đây, có người từng hỏi tôi một vấn đề thế này: ba con sâu róm, đầu đuôi nối nhau xếp thành hàng một bò về phía trước. Một con nói: ‘Trước mặt tôi chẳng có con sâu róm nào hết’, một con khác lại nói, ‘Trước mặt tôi có hai con sâu róm’, con cuối cùng cũng nói, ‘trước mặt tôi có hai con sâu róm’, hỏi thế là như thế nào? Đáp án của câu hỏi này là, trong ba con sâu róm có một con nói dối! Tương tự như vậy, trong ba người điên thoát ra khỏi Shangri-la, có một người nói không khớp với những gì hai người còn lại nói, ngoại trừ lý do nơi anh ta đi không phải là nơi hai người kia nói đến, thì còn một cách giải thích khác, đó chính là trong ba người điên ấy, có một người … đang giả điên!”
Gương mặt Đường Thọ cuối cùng cũng hiện lên vẻ khen ngợi.
Trác Mộc Cường Ba nói tiếp: “Tôi lại nghĩ đến một chuyện nữa, chính là khi tôi và Mẫn Mẫn đến bệnh viện tìm anh lần thứ hai, bác sĩ chủ trị của anh nói với chúng tôi, bệnh tình của anh rất nặng, thuốc bình thường gần như không có tác dụng. Thực ra, nếu nghĩ theo một hướng khác, giả sử anh không bị điên mà là một người khỏe mạnh, vậy thì những thứ thuốc kia cũng chẳng có tác dụng gì với anh cả, thậm chí anh có uống thuốc hay không cũng rất đáng nghi. Tôi không biết anh có mục đích và ý đồ gì, tóm lại, tất cả mọi chuyện xảy ra ở Khả Khả Tây Lý, chẳng qua chỉ là một vở kịch mà anh tự đạo diễn, tự diễn xuất mà thôi…”
NGƯỜI QUYẾT SÁCH
.
Đường Thọ cải chính: “Không, về điểm này thì ngươi nói sai rồi, lúc đó, đúng là ta đã lái xe tới Khả Khả Tây Lý, chỉ có điều xe của ta đậu ngay phía trên lằn ranh có tuyết, ở độ cao hơn bốn nghìn mét so với mực nước biển mà thôi. Vả lại lúc đó, đúng là ta đã làm một việc hết sức điên cuồng, ta đã nghĩ cách dụ bắt được ba con sói ở đây. Đó chính là việc kích thích nhất trong đời mà ta từng làm. Ngươi không thể tưởng tượng được ta làm thế nào để đưa chúng ra ngoài núi tuyết đâu. Mang ba con sói ra khỏi nơi này không dễ hơn việc lái xe ra khỏi đây chút nào. Hơn nữa, ta cũng không ngờ, lũ sói ấy lại đuổi ra tận bên ngoài núi tuyết, khiến ta suýt nữa chết trong xe. Ta đã phải lái xe quần thảo với đàn sói suốt ba ngày ba đêm mới thoát được đấy.”
Đường Thọ dường như vẫn còn rợn người khi nhớ lại tình hình lúc ấy: “Đó là một lũ chó điên, ta chưa từng gặp loài dã thú nào đáng sợ hơn bọn chúng. Khác biệt lớn nhất giữa chúng và các loại dã thú khác là ở chỗ, cách nghĩ và cách làm của chúng, đã gần giống với con người. Ngươi có thể tưởng tượng, khi hơn vạn tên thợ săn tinh thông các loại kỹ xảo săn giết khác nhau cầm theo vũ khí đuổi rát sau lưng ngươi, cảm giác sẽ như thế nào. Dưới sự săn đuổi của chúng, tinh thần và ý chí của ngươi lúc nào cũng ở trong trạng thái căng thẳng cao độ, không có cách nào nghỉ ngơi, cũng không thể ngủ được. Sang đến ngày thứ sáu, tinh thần ta bắt đầu xuất hiện dấu hiệu muốn suy sụp, lại đúng lúc này, ba con sói kia cơ hồ muốn phá lồng chui ra. Lúc ấy, ta chỉ còn lại hai bàn tay không, mọi vũ khí đều đã tiêu hao hết dọc đường, thể lực cũng ở trong trạng thái hư nhược nhất. Không còn cách nào khác, ta đành bỏ xe, cố định bàn đạp ga để nó tự động lao về phía trước. Hơn nữa, khi đội tuần tra núi phát hiện ra, đích thực là ta đang bị hôn mê, chỉ có điều, trước khi ngươi gặp ta, ta đã hồi phục hoàn toàn rồi. Về điểm này thì suy luận của ngươi đã sai, mọi việc xảy ra ở Khả Khả Tây Lý không phải do ta sắp xếp, chính vì chúng thực sự xảy ra nên mới có nhiều sơ hở như vậy. Không thể giải thích ư, thật tức cười, không ngờ ngươi lại tìm được điểm đột phá ở đó, nhất định ngươi vẫn còn chứng cớ khác, phải không? Chỉ dựa vào những điểm vừa nói, ngươi tuyệt đối không thể đưa ra kết luận chắc chắn được.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Thọ chằm chằm: “Anh còn nhớ cuốn nhật ký của mình không? Thứ đó cũng không nằm trong sắp xếp của anh, đúng vậy chứ? Vì vậy, trong đó mới xuất hiện rất nhiều sơ hở.”
Đường Thọ lắc đầu: “Ta không nghĩ rằng trong cuốn nhật ký đó lại xuất hiện sơ hở, mỗi lần ghi chép nhật ký, ta đều có biên tập lại.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi biết anh đã sữa chữa, anh biến hành động thám hiểm của một nhóm người thành hành động của một mình anh. Anh cũng đã thay đổi tên và địa danh thám hiểm, làm như vậy để giấu sự tồn tại của tổ chức các anh, đúng vậy không?”
Thấy gương mặt Đường Thọ thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Độc hành hiệp Đường Thọ, đây là biệt hiệu người ta đặt cho anh. Anh đã đi rất nhiều nơi, mạo hiểm rất nhiều, nghe nói anh luôn đi một mình, không có ai hỗ trợ, sự thực thì sao, như vậy cũng đồng nghĩa với việc, không ai biết rốt cuộc anh đã đi đâu, với ai, làm những việc gì. Nhưng điều đầu tiên tôi biết về anh, không phải qua lời kể của Mẫn Mẫn, mà là qua cuốn nhật ký của anh để lại. Nhờ có Trương Lập cực lực giới thiệu, tôi từng đọc đi đọc lại cuốn nhật ký của anh rất nhiều lần, mỗi chương mỗi đoạn, mỗi chuyến du hành… ấn tượng sâu sắc nhất để lại trong tôi chỉ có một, đó là anh rất mạnh… chẳng những vậy, cùng với thời gian, khi tôi nắm được càng lúc càng nhiều tri thức về thám hiểm và chiến đấu, tôi lại phát hiện thêm, anh còn mạnh hơn so với những gì tôi tưởng tượng rất nhiều. Từ lúc đó, tôi đã lờ mờ có cảm giác, e rằng ngay cả pháp sư Á La cũng không phải là đối thủ của anh. Sau này, tôi nhớ lại, khi tôi vừa gia nhập doanh trại huấn luyện, tiến sĩ Cổ từng nhắc đến anh như một người có tính sở hữu rất cao, thứ gì cũng muốn chiếm đoạt làm của riêng. Như vậy có nghĩa là, tiến sĩ Cổ đánh giá cao năng lực của anh, nhưng không xem trọng tư cách làm người của anh. Tiến sĩ Cổ là bậc trưởng thượng mà ngay cả thầy giáo tôi cũng hết sức kính trọng, tôi hoàn toàn tin vào năng lực phán đoán của ông ấy.”
Đường Thọ hừ khẽ một tiếng: “Ừm, vậy thì sao chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nhớ thời đi học, thầy giáo từng nói với chúng tôi, bất kể học cái gì, trước tiên cần phải học làm người đã. Một con người đạo đức bại hoại, nếu hắn ta lại càng thông minh, càng nắm bắt được nhiều tri thức, thì sự phá hoại gây ra cho xã hội sẽ càng lớn. Chỉ xét riêng điểm này, tôi đã không thể không nảy sinh nghi ngờ với anh. Vả lại, trong quá trình trao đổi với Merkin, tôi đã nhiều lần thăm dò gặng hỏi y, rất hiển nhiên, Merkin hoàn toàn không biết gì về những hành vi của Mẫn Mẫn khiến tôi ngờ vực. Merkin cũng là kẻ bị bít trong hũ nút mà thôi. Tôi không thể không nghĩ, nếu đúng là Mẫn Mẫn, thì rốt cuộc cô ấy làm việc cho kẻ nào? Vì vậy, sự kiện Merkin bắt cóc Đường Thọ cũng rất đáng để xét lại. Mà khi đó kẻ nhắc nhở Merkin rằng Mẫn Mẫn có một người anh trai đang ở trong bệnh viện, đồng thời được y phái đi chấp hành nhiệm vụ bắt cóc không phải ai khác, mà chính là Max. Kẻ này từng được Merkin tín nhiệm, nhưng cuối cùng lại phản bội y. Merkin cũng rất muốn biết, rốt cuộc là ai có thể khiến cả Max lẫn Khafu cùng phản bội lại y. Y chỉ biết rằng, người ẩn mình đằng sau toàn bộ sự kiện này rất mạnh, hơn nữa về cơ mưu lại chẳng thua kém y chút nào. Sự thực là, trong khi trò chuyện, bản thân Merkin cũng từng nhắc đến, trong số những người mà y biết, e rằng chỉ có đội trưởng của tiểu đội bọn y, Người quyết sách, mới có năng lực làm được những việc ấy. Khi xâu chuỗi tất cả những điều này với nhau, cuối cùng tôi đã nghĩ đến một giả thiết đáng sợ, Người quyết sách chính là Đường Thọ, Đường Thọ chính là Người quyết sách!”
Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba đưa mắt liếc nhìn Merkin. Y lúc này vẫn chưa hết chấn động trước sự thực Đường Thọ chính là Người quyết sách. “Không đúng!” Đường Thọ chất vấn: “Ta không cho rằng chỉ dựa vào mấy cuộc trò truyện với Merkin và Soares mà ngươi có thể đi đến kết luận như vậy, ngươi tuyệt đối không phải loại người có trí tưởng tượng phong phú. Vả lại, trước khi gặp Merkin và Soares, ngươi thậm chí còn không biết trên đời này tồn tại một kẻ gọi là Người quyết sách!”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng thế, dựa vào những gì hai người họ miêu tả về Người quyết sách, tôi chỉ có một ấn tượng mơ hồ rằng, đó là một người đàn ông gốc châu Á, trẻ tuổi, mạnh mẽ, biệt hiệu trong tổ chức là Chồn. Các người mỗi lần hành động đều không để lộ tên tuổi và thân phận thực sự, sau khi hành động kết thúc, lại tách ra trở về đất nước của mình. Chỉ với những thông tin như thế, tất nhiên không thể đi đến bất cứ kết luận nào.” Nhìn vẻ mặt như thể muốn hỏi “vậy ngươi làm sao biết được?” của
Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba lại tiếp tục: “Nhưng vẫn nhớ Sean chứ?
Anh ta chắc hẳn cũng là một quân cờ khác của anh, đúng không?”
Đường Thọ khe khẽ gật đầu, Trác Mộc Cường Ba trầm giọng nói: “Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, Sean là một vị quý tộc Anh quốc bác học đa tài, dù Cánh Nam và pháp sư Á La đều cho rằng thân phận của Sean rất có vấn đề, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy, Sean là một người bạn đáng tin cậy, cho đến khi anh ta bị anh giết chết.”
Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều nhìn sang phía Đường Thọ với ánh mắt ngạc nhiên.
Đường Thọ cũng thẳng thắn thừa nhận: “Đúng vậy, nhiệm vụ của hắn là dẫn dụ các ngươi đến Bạch thành trong rừng rậm Nam Mỹ, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, hắn không nên xuất hiện trước mặt các ngươi nữa. Lòng hiếu kỳ của hắn quá lớn, sớm muộn gì cũng phá hoại kế hoạch của ta. Vì vậy, từ khi hắn tham gia vào kế hoạch này, định nghĩa của ta dành cho hắn chính là… công cụ dùng một lần.”
“Công cụ! Các ngươi coi anh ta như một thứ công cụ thôi sao!” Trác Mộc Cường Ba không thể kiềm chế được cơn giận, nhưng trong mắt Đường Thọ, gã chỉ thấy một sự bình thản đến lạ thường, tựa như y đang hỏi ngược lại gã: “Chẳng lẽ không đúng sao? Các ngươi đều là công cụ, chỉ thế mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba sực hiểu ra, không thể dùng lý lẽ của người bình thường để nói chuyện với Đường Thọ được. Kẻ này coi mạng người như cỏ rác, tất cả mọi người ở đây đều bị y coi như quân cờ để đùa bỡn trên lòng bàn tay, thế nhưng y lúc nào cũng tỏ ra nho nhã lịch sự. Không hiểu tại sao, nhìn người trẻ tuổi này, trong lòng Trác Mộc Cường Ba chợt dâng lên một cảm giác lạnh lẽo. Nhưng Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều ở trong tay y, gã cũng đành nén cơn giận, lạnh lùng nói: “Trước lúc chết, Sean có nói một câu mà chúng tôi không ai hiểu… ‘Po li si – mei ke – ku te….’” Đường Thọ lập tức hiểu ra.
Trác Mộc Cường Ba tiếp tục nói: “Thoạt đầu tôi cũng không hiểu Sean rốt cuộc muốn nói gì, tới khi gặp được Soares, biết được bọn họ là một nhóm trộm mộ kỳ quái, người đứng đầu nhóm đó gọi là Người quyết sách! Khi ấy tôi mới liên hệ với tử trạng của Sean và đoán kỳ thực lúc đó điều anh ta muốn nói là ‘Người quyết sách, cổ độc’
(43)
. Kể từ thời điểm đó, tôi dần dần hiểu ra, sau lưng Merkin vẫn còn một kẻ gọi là Người quyết sách đang náu mình trong bóng tối. Sean được Người quyết sách phái đến gia nhập nhóm chúng tôi, vậy thì Max và Khafu ở bên cạnh Merkin, liệu có phải cũng vì kẻ này mà phản bội y? Mẫn Mẫn làm việc cho ai? Có phải cũng liên quan đến Người quyết sách? Vậy thì Đường Thọ mất tích kia, một người Trung Quốc rất mạnh, có quan hệ gì với Người quyết sách không? Tất cả các mắt xích được kết nối lại. Bởi vậy, khi anh xuất hiện trước mặt tôi, tôi không còn nghi hoặc nữa. Toàn bộ sự việc này là một âm mưu, tất cả mọi thứ đều được anh trù tính trước từ lâu. Chúng tôi chẳng qua chỉ là những quân cờ trên bàn cờ của anh, dù có nỗ lực đến mấy, thực ra cũng vẫn từng bước, từng bước đi về phía con đường anh đã bố trí sẵn mà thôi.”
Đường Thọ xoay người lại, chống hai tay lên lan can, nhướng mắt nhìn sang phía bên kia thân tháp, lẩm bẩm nói: “Quả không hổ là Cường Ba thiếu gia, tư duy tinh tế cẩn mật lắm. Ta vốn không thích xuất đầu lộ diện, mà thích ở một nơi không ai biết đến, lên kế hoạch kỹ càng cho tất cả mọi việc. Lâu dần, những người trong tổ chức, đặc biệt là người trong tiểu đội của ta, đúng thế, họ đã đặt cho ta một biệt hiệu mới, gọi là Người quyết sách, biệt hiệu thực sự của ta lại chẳng có ai gọi nữa. Đúng thế, đối với ngươi, đây là một âm mưu, từ khi nhìn thấy tấm ảnh đó, vận mệnh của ngươi đã bị ta sắp đặt rồi. Sau đó, mỗi một nơi ngươi đi, mỗi một việc ngươi làm, đều là do ta mong muốn ngươi làm. Hình như ngươi còn rất nhiều vấn đề muốn hỏi ta thì phải? Cứ hỏi đi. Ta sẽ giải đáp cho ngươi thỏa mãn.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Công ty của tôi phá sản như thế nào vậy?”
Đường Thọ ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ nghe gã nói tiếp: “Đồng Phương Chính đã hợp tác với tôi nhiều năm, tôi khá hiểu về con người anh ta, anh ta không thể làm được chuyện đó, nhất định là bị người khác cưỡng ép.”
Đường Thọ gật đầu: “Đúng thế, là do ta làm, có một số người là vậy đấy, không sống vì mình, mà luôn hết mình nỗ lực vì thân thích, gia đình, con cái gì đó, ta dùng tính mạng của cả họ nhà hắn uy hiếp, nên hắn buộc phải làm theo thôi.”
Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Mục đích của anh là muốn cắt đứt mọi đường lui của tôi, buộc tôi phải đến Shangri-la, tìm kiếm Tử kỳ lân và Bạc Ba La thần miếu, để rồi ngờ nghệch tự nguyện mở ra cánh cửa không thể mở ấy cho anh, đúng không?”
Đường Thọ thừa nhận: “Đúng vậy, chỉ là ta không ngờ ông trời cũng giúp ta một tay, ngươi lại trúng phải cổ độc, ngay cả khi công ty không bị phá sản, ngươi cũng phải đến đây.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi vẫn chưa hiểu, nếu anh chỉ cần huyết thống của chúng tôi, với sức mạnh của anh và thế lực của tổ chức, chỉ cần bắt tôi và Merkin đưa tới đây là đủ rồi, hà tất phải phiền phức như vậy, anh không sợ chúng tôi sẽ chết trên đường sao?”
Đường Thọ liếc nhìn pháp sư Á La, hỏi ngược lại: “Tại sao Mật tu giả do pháp sư Á La đại diện chỉ phái đi một vị pháp sư có danh vị Cách quả? Tại sao bọn họ không phái hẳn một vị Kham bố
(44)
đi?” Thấy Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ trầm tư, Đường Thọ lại tiếp lời: “Nói thực cho ngươi biết, ở nơi ngươi không thể biết được, có hai thế lực khổng lồ đang giao tranh quyết liệt, tựa như hai cơn bão lớn cuộn vào nhau, mà ngươi chẳng qua vừa khéo ở trung tâm của vòng xoáy ấy mà thôi. Mười ba kị sĩ bàn tròn quả thực rất mạnh, nhưng thế lực của Mật tu giả cũng không hề yếu, để tranh giành những đầu mối dẫn đến Bạc Ba La thần miếu, bọn họ đã tranh đấu không biết bao nhiêu lần rồi. Cuộc chiến giữa hai thế lực này, thậm chí còn bắt đầu từ trước khi ngươi ra đời nữa kia. Cả hai bên đều hiểu rõ, chỉ cần thế lực cấp cao của bên mình có động tĩnh, thì đối phương nhất định cũng xuất động theo, đến lúc đó, sự thể sẽ bị làm rình rang lên, nói không chừng cả thế giới đều biết chuyện này mất. Mà bọn họ không thể biết được, trên thế giới liệu có còn tổ chức nào đáng sợ hơn, lớn mạnh hơn, lại ẩn mình sâu hơn họ nữa không, vì vậy, thái độ của song phương đối với sự kiện này đều giống nhau. Nhìn bề ngoài, các ngươi chỉ là một nhóm nhỏ không đáng để mắt, nhỏ đến độ thậm chí không thể coi là một đội ngũ nghiệp dư được, nhưng thực ra, các ngươi lại nắm được rất nhiều đầu mối mà ngay cả các đội ngũ chuyên nghiệp nhất cũng không có. Đương nhiên, hầu hết những đầu mối ấy là do những thế lực ở đằng sau kia lần lượt cung cấp cho các ngươi. Mục đích của song phương như nhau, đều muốn dùng một quân tốt nhỏ bé để che trời vượt biển, nhân lúc tất cả các thế lực khác chưa kịp chú ý, để các ngươi đến được Bạc Ba La thần miếu trước tiên.”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhìn pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam, rõ ràng, sự thực này đã vượt quá sức tưởng tượng của gã. Đường Thọ nhìn pháp sư Á La với ánh mắt giễu cợt, thản nhiên nói: “Ta nghĩ đám người trong Trưởng lão hội nhất định đang ngấm ngầm sung sướng lắm đây, cuối cùng, cũng có một đội ngũ trong tay bọn họ thành công đặt chân đến Shangri-la, trở thành nhóm người đầu tiên tiến vào Bạc Ba La thần miếu. Và sự thực thì, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn cũng hy vọng Mật tu giả nghĩ như thế, các ngươi có hiểu không?”
Thấy Trác Mộc Cường Ba vẫn đang nghĩ ngợi, Đường Thọ lại bổ sung thêm; “Thế lực cấp cao của song phương đang ngấm ngầm giao chiến trong bóng tối, điều này ngươi không thể biết được. Nếu như bắt cóc có thể giải quyết được vấn đề, ngươi cho rằng ngươi có thể sống yên bình hơn bốn mươi năm trời như vậy sao? Không có những Mật tu giả âm thầm bảo vệ ngươi và người nhà trong bóng tối, ngươi sớm đã mất tích bao nhiêu lần rồi. Vả lại, trò bắt cóc này không phù hợp với quan niệm mỹ học của ta. Ta thích sắp đặt kế hoạch, để quân cờ như ngươi làm theo ý ta, cái cảm giác thao túng vận mệnh của người khác, tất thảy đều nắm trong lòng bàn tay ấy, loại người như ngươi không thể nào hiểu nổi đâu. Cách làm này đương nhiên vẫn có hệ số nguy hiểm nhất định, nhưng xét cho cùng, ta cũng không phải Thượng đế, không thể nào an bài số mệnh của người khác một cách tận thiện tận mỹ được. Trong toàn bộ quá trình thực hiện kế hoạch, quả thực cũng có một số sự việc nằm ngoài ý muốn mà ta không thể dự đoán, nhưng, xét về tổng thể, các ngươi vẫn đi theo tuyến đường mà ta đã vạch sẵn.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu như tất cả mọi thứ đều do anh sắp đặt, vậy thì, chuyến đi Khả Khả Tây Lý là ý gì? Lúc đó, anh đã lệnh cho Mẫn Mẫn dẫn chúng tôi tới Khả Khả Tây Lý ư?”
Đường Thọ nói: “Ta đã bảo rồi, ta không thể an bài mọi thứ một cách hoàn hảo, để đảm bảo ngươi không chết trên đường, ta đành phải làm ngươi mạnh hơn lên. Ta muốn ngươi nhận ra sự yếu kém của mình, nhận ra rằng ngươi cần phải được huấn luyện một cách chuyên nghiệp. Đám người pháp sư Á La khảo nghiệm ngươi hết lần này đến lần khác, trên thực tế cũng chính là ta đang khảo nghiệm ngươi hết lần này đến lần khác. Khả Khả Tây Lý chỉ là bước khởi đầu, môi trường tự nhiên khắc nghiệt ở đó, chắc hẳn có thể khiến ngươi ý thức được điểm này, chỉ là ta không ngờ được, các ngươi lại may mắn gặp được ba con súc sinh đã thoát khỏi tay ta ấy.”
Cảm giác lạnh lẽo từ từ dâng lên trong lòng Trác Mộc Cường Ba, người trẻ tuổi bộ dạng nho nhã thanh tú này, đang kể lại việc y khống chế và lợi dụng tất cả bọn gã với thái độ hờ hững như không vậy. Tất cả mọi thứ đều do y một tay sắp đặt, bắt đầu từ tấm ảnh đó, rồi chuyện gã quen với Mẫn Mẫn, đến Khả Khả Tây Lý, đến Maya, từ Cánh cửa Sinh mệnh đến Đảo Huyền Không tự, cho đến lúc đặt chân tới Bạc Ba La thần miếu, tất cả đều do y sắp đặt! Gã đột nhiên nghĩ đến một việc càng đáng sợ hơn, sau một thoáng do dự, rốt cuộc cũng cất tiếng hỏi: “Vợ tôi, Anh, có phải…”
Đường Thọ vẫn đáp bằng một giọng bình thản: “Là do ta làm, nếu không khiến người đàn bà ấy rời bỏ ngươi, ta làm sao có thể sắp xếp cho Mẫn Mẫn tiếp cận ngươi được? Cho dù tiếp cận được ngươi rồi, nó làm sao có thể nhanh chóng nắm được trái tim ngươi chứ?” Giọng Đường Thọ không cao cũng không thấp, tựa như đang kể lại một chuyện hoàn toàn không liên quan đến y vậy. Trong đầu Trác Mộc Cường Ba nổ “ầm” một tiếng, chỉ nghe Đường Thọ tiếp tục nói: “Ta đại khái mất khoảng hai ba năm quan sát và nghiên cứu ngươi, từ việc ăn ở đi lại, đến cuộc sống gia đình, môi trường làm việc và thái độ xử sự, thậm chí chỉ từ một động tác nhỏ của ngươi, ta cũng có thể biết được trong lòng ngươi lúc đó đang nghĩ gì.”
Toàn thân Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật, gã run rẩy chỉ tay vào mặt Đường Thọ nói: “Mày … mày…” Tên Đường Thọ thực chẳng khác nào một con ác quỷ, Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ tưởng tưởng nổi, kẻ này lại ngấm ngầm quan sát gã suốt hai ba năm trời mà gã hoàn toàn không hay biết. Chuyện này, chỉ nghĩ thôi cũng khiến người ta thấy kinh hoàng rồi.
Đường Thọ vẫn đang tiếp tục nói: “Không chỉ quan sát ngươi, ta còn quan sát cả gia đình ngươi nữa, quan sát mỗi một người trong gia đình ngươi. Có thể nói thế này, ta hiểu ngươi, và hiểu người nhà của ngươi còn hơn chính bản thân ngươi nữa. Ta biết con gái ngươi có nụ hôn đầu tiên lúc nào, ở đâu, với ai, ta biết nó giấu thư tình ở nơi nào trong nhà, ta biết mã số mở cuốn nhật ký của nó là bao nhiêu… những thứ này, kẻ làm cha như ngươi không thể nào biết được. Còn về vợ ngươi…” Đường Thọ cố ý dừng lại, nhìn vẻ mặt Trác Mộc Cường Ba. Lúc này, sắc đỏ đã dần lan khắp cổ gã.
Sắc mặt Đường Thọ vẫn thản nhiên như không, y lại tiếp lời: “Thời gian ngươi ở nhà không bằng một nửa thời gian ở công ty, ngươi chẳng những không để ý đến những việc nhà vừa vụn vặt vừa phức tạp, lại càng không chú ý đến tâm trạng của vợ mình, không biết thế nào là lãng mạn. Cuộc sống gia đình của ngươi nhạt nhẽo như một cốc nước lọc, khác một trời một vực với những thành công trong sự nghiệp mà ngươi đạt được. Ngươi có biết, bao lâu rồi vợ chồng ngươi không gần gũi nhau không? Không nhớ chứ gì, ta đã làm thống kê hộ ngươi rồi, kết quả… thực sự là khiến người ta không nỡ nói ra. Vợ ngươi mỗi ngày đều làm việc nhà, trông nom con gái học hành, còn ngươi căn bản không hề để ý đến họ. Ngươi không biết một người đàn bà như thế, rốt cuộc cần gì, muốn gì? Thành thử chuyện này cũng không tốn của ta nhiều công sức lắm, chỉ cần tìm một con bạc đã thua sạch ở Las Vegas, biến hắn thành một người trẻ tuổi thành công trong sự nghiệp, rồi sắp đặt một cuộc gặp gỡ lãng mạn… với sự xuất hiện của một người đàn ông lão luyện, lại hiểu rõ lòng dạ đàn bà hơn ngươi, ta chỉ cần tạo ra một số mâu thuẫn gia đình nữa, vậy là mọi thứ đều thuận lý thành chương…”
Sự nhẫn nại của Trác Mộc Cường Ba đã đến cực hạn, sắc đỏ phẫn nộ đã tràn qua cổ gã, lan dần lên trên như thể chiếc cặp nhiệt độ bị tăng nhiệt. Đúng vào khoảng khắc Trác Mộc Cường Ba không kiềm chế nổi, chuẩn bị xuất thủ, Merkin đột nhiên nhảy chồm tới, ôm chặt lấy gã. Trác Mộc Cường Ba vung mạnh cánh tay, suýt chút nữa hất văng Merkin ra khỏi bệ hình chữ T đang chuyển động. Lúc này, Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn cùng lúc kêu lên:
“Đừng, Cường Ba!”
“Bình tĩnh!”
“Đừng, đừng!”
ĐỀU DO TA LÀM CẢ
.
Bao gồm cả Merkin, mỗi người ở đây đều biết tên Đường Thọ này đáng sợ đến mức nào. Người trẻ tuổi nhìn bề ngoài có vẻ gầy gò yếu đuối này sở hữu sức mạnh của ác quỷ cùng một trí tuệ tà ác khôn cùng, vì vậy họ đều không hẹn mà cùng lúc lựa chọn cách ngăn Trác Mộc Cường Ba lại.
Đường Thọ như không nhìn thấy, vẫn bình tĩnh kể lại câu chuyện tựa hồ không liên quan gì đến y kia: “Trên thực tế, có lẽ ngươi cũng đã cảm nhận được phần nào rồi, phải vậy không? Mẫn mẫn gần như sinh ra để dành cho ngươi, hai người phối hợp hết sức ăn ý, suy nghĩ cũng giống nhau… sở dĩ nó hiểu ngươi như vậy, đều là do ta huấn luyện cả đấy, từ ngữ khí lúc nói chuyện, rồi đến ngôn ngữ cơ thể và nhiều thứ khác nữa. Trước khi nó gặp ngươi, ta đã buộc nó phải học thuộc mọi thứ về ngươi: ngươi thích màu sắc gì, thích ăn món gì, có thói quen gì, những nơi ngươi thích đi, những chi tiết nhỏ mà ngươi dễ dàng bỏ qua trong cuộc sống… nói nó là thứ hàng được đặt làm riêng cho một mình ngươi cũng không ngoa chút nào.”
Trác Mộc Cường Ba như con mãnh thú xổng chuồng, mấy lần muốn bổ nhào về phía Đường Thọ nhưng đều bị Merkin ghìm chặt lại. Xét về sức mạnh, hai người bọn họ gần như tương đương nhau, Trác Mộc Cường Ba tức giận gầm lên: “Mày đắc ý lắm hả! Hả? Mày là đồ khốn! Chỉ vì ngôi miếu rách nát này, mày đã hại tao phải tan cửa nát nhà! Đường Thọ! Tao phải giết mày! Khốn kiếp, bỏ tôi ra, còn kéo nữa tôi giết luôn cả ông đây, Merkin!”
“Đắc ý ư? Không hề.” Quả thực, thần thái Đường Thọ không có vẻ gì là đắc ý, y thản nhiên nói: “Ngươi đi trên đường trông thấy một đàn kiến đang bò, ngươi mới dùng một cành cây chắn ngang đường của chúng, khiến lũ kiến phải men theo con đường mới do ngươi vạch ra, khi ấy ngươi có cảm thấy đắc ý không? Trong rất nhiều kế hoạch mà ta đã vạch ra, việc này cũng không được coi là phức tạp lắm.” Y chỉ tay vào đầu mình, nói: “Cái này, được gọi là trí tuệ đấy!”
Đường Thọ nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang quan sát một động vật trong phòng thí nghiệm, không ngừng trêu chọc nó, xem nó phản ứng thế nào. Y lẩm bẩm nói: “Xem ra ngươi đã hỏi xong rồi, ngươi đã nghĩ ra một số điểm nghi vấn, có điều vẫn còn một số điểm khác ngươi chưa nghĩ đến, ta có thể nói cho ngươi mấy việc nữa. Ngươi vẫn còn nhớ chứ, sau khi từ Khả Khả Tây Lý trở về Tây Tạng, ngươi liền nhận được lời mời gia nhập đội khảo sát của nhà nước, đó chẳng phải là một kỳ tích hay sao? Ngươi có biết tại sao khi ngươi mong mỏi được huấn luyện để mình trở nên mạnh mẽ hơn, lại trùng hợp đúng lúc nhà nước muốn thành lập một đoàn thám hiểm, đồng thời chấp nhận những kẻ nghiệp dư như các ngươi hay không?” Không đợi Trác Mộc Cường Ba nói gì, Đường Thọ đã tiếp lời: “Đó là vì, nhà nước mua được một đầu mối quan trọng trong một cuộc đấu giá ở nước ngoài, nửa quyển Cổ Cách kim thư, có được đầu mối này, nhà nước Trung Quốc mới quyết định tổ chức một đội cảm tử tiên phong, cũng chính là các ngươi! Nửa quyển Cổ Cách kim thư đó, cũng là do ta ủy thác cho hãng đấu giá bán ra, chỉ cần nghiên cứu quyển sách cổ này, ắt sẽ phát hiện ra bí mật của Bạch thành ở Maya, vì vậy các ngươi nhất định sẽ đến châu Mỹ. Đây cũng là một bước mà ta đã xác định cho các ngươi ngay từ đầu.”
Đường Thọ ngẫm nghĩ giây lát, dường như nhớ ra một chuyện rất tức cười, lại nói: “Phải chăng, có một khoảng thời gian ngươi luôn cảm thấy đầu óc nặng nề trì độn, cảm giác… trí nhớ giảm sút rất nhiều, hơn nữa, tư duy cũng không được rõ ràng sáng suốt như hiện giờ mà cứ mơ mơ hồ hồ, các dòng suy nghĩ cứ rối lên như mớ bòng bong?”
Cơn giận của Trác Mộc Cường Ba đã dần dần bị nén xuống, thay vào đó là cảm giác lạnh lẽo tỏa ra từ sâu thẳm nội tâm. Đường Thọ nói không sai, trong quá trình tìm kiếm Tử kỳ lân, có một khoảng thời gian dài, trí nhớ của gã giảm sút một cách tệ hại. Gã vẫn luôn nghĩ rằng, đó là do tuổi tác và việc thay đổi thói quen sinh hoạt gây ra, nhưng giờ đây… gã nhìn chằm chằm vào Đường Thọ. Đường Thọ chập hai ngón tay trỏ vào nhau, chỉ về phía Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười gật đầu nói: “Đúng thế! Cũng là ta làm, ta đã bỏ thuốc cho ngươi, Mẫn Mẫn chính là vật truyền nhiễm, ngươi càng gần gũi với nó, trí nhớ, khả năng phán đoán, khả năng phân tích logic của ngươi sẽ càng giảm sút. Ta từng ở trong bệnh viện tâm thần Andrea một thời gian dài, vậy nên mới nói, khoa học kỹ thuật hiện nay thật là phát triển, thuốc gì người ta cũng chế tạo ra được. Đây chính là sức mạnh của trí tuệ đó.”
Trí tuệ? Trác Mộc Cường Ba thấy chỉ thấy rợn hết cả người, thật đáng sợ, tên Đường Thọ này thật quá đáng sợ. Đây chính là cái gọi là trí tuệ của nhân loại đó sao? Khi nó được dùng vào âm mưu và phá hoại, lại đáng sợ đến nhường này hay sao?
“Tại sao?” Trong họng Trác Mộc Cường Ba phát ra tiếng gầm gừ trầm đục.
Đường Thọ cười khẩy: “Tại sao? Khục khục, dù sao ta cũng đã quan sát ngươi suốt một thời gian dài, năng lực và trí tuệ của ngươi như thế nào, ta đều biết rất rõ. Mà trong tiểu đội của ta, Merkin lại là kẻ có trí lực chỉ thua có mình ta mà thôi. Hai người các ngươi được phân cho hai vai đối nghịch nhau trong vở kịch, nhưng cũng không thể tránh khỏi việc song phương có tiếp xúc, ta không mong muốn hai người đàn ông trí tuệ trác tuyệt lại dũng cảm quyết đoán như các ngươi chỉ tiếp xúc có vài ba lượt là đã có thể nhận ra được sự sắp đặt của ta. Vì vậy, người thông minh, chỉ cần để lại một tên là đủ rồi.”
Đường Thọ nhìn xuống bên dưới, đoạn ngoảnh đầu lại nói tiếp: “Vẫn còn một chút thời gian nữa, nhìn bộ dạng kẻ nào kẻ ấy ù ù cạc cạc của các ngươi thật phát chán lên được, để ta nói một cách đơn giản cho các ngươi biết vậy. Toàn bộ kế hoạch này bắt đầu từ tám năm trước…, à không, đã chín năm rồi, kế hoạch của ta, đã được vạch ra đồng thời thực thi từ chín năm trước. Năm xưa, Morgan Stanley lấy được nửa quyển Cổ Cách kim thưở Cổ Cách,
nhưng sau khi danh xưng Bạc Ba La thần miếu từ miệng ông ta lan truyền đi, nửa quyển kim thư ấy đã qua tay rất nhiều thế lực lớn có ý đồ tìm kiếm tòa thần miếu này. Cuối cùng, nó lọt vào tay Mười ba kỵ sẽ bàn tròn. Nhưng rất đáng tiếc, các ngươi cũng biết đấy, gần như không có ai hiểu được văn tự trên cuốn kim thư, vả lại có rất nhiều nội dung trong sách cũng cần có những tư liệu khác để khảo chứng. Vì vậy, sau khi có được Cổ Cách kim thư, Mười ta kỵ sĩ bàn tròn đã liên tiếp phái các tiểu đội đến Tây Tạng, đồng thời nhiều lần giao phong với Mật tu giả. Mục đích của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn lúc đó chỉ là tìm được thêm nhiều tư liệu nữa mà thôi. Tại thời điểm đó, bọn họ không giống như các ngươi, không có tổ chuyên gia nghiên cứu về Tây Tạng, không có nhiều tư liệu để khảo chứng, tất cả đều phải lần mò từng bước một. Họ lần mò tìm kiếm như vậy suốt mấy chục năm, cuối cùng, vào chín năm trước, Cổ Cách kim thư đã được dịch ra. Ta nhận được một nhiệm vụ tuyệt mật, dẫn tiểu đội của mình đến rừng rậm Amazon, tìm kiếm thần miếu chưa từng được phát hiện của người Maya, cũng chính là địa cung Ahezt. Đồng thời, còn một mệnh lệnh khác nữa, chính là yêu cầu ta tìm mọi cách lợi dụng các cơ quan cạm bẫy trong địa cung và những bộ lạc thổ dân trong rừng rậm, làm giảm số lượng thành viên của tiểu đội xuống mức thấp nhất.”
Nói tới đây, Đường Thọ liếc mắt sang phía Merkin, giọng điệu toát lên vẻ thương hại: “Bấy giờ, tổ chức đã chuẩn bị rút vào trong bóng tối rồi, một tiểu đội không còn đủ nhân số cho các vị trí quan trọng thì chẳng khác nào người tàn phế, chẳng những vậy, các thành viên còn lại cũng phải phân tán đi khắp thế giới. Như thế, có thể đảm bảo nó không bị các thế lực và tổ chức khác chú ý đến. Vì vậy, ta và Merkin đã biến mất khỏi tầm nhìn của những thế lực khác, đồng thời cũng biến mất trước mắt những tiểu đội khác trong nội bộ tổ chức. Trong địa cung Ahezt, những thành viên khác phụ trách tìm kiếm báu vật, còn ta thì chỉ lo tìm Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu. Đáng tiếc là, lịch sử đã quá lâu đời, chúng ta không thể thu thập được toàn bộ chìa khóa, nên không thể mở được cánh cửa cuối cùng. Có điều, vào thời điểm đó, những nét sơ khởi của một kế hoạch đã hình thành trong đầu ta rồi.”
Đường Thọ lại hướng ánh mắt sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Ta biết ngươi từ rất lâu rồi, Cường Ba thiếu gia, còn sớm hơn thời điểm ngươi nghĩ nhiều. Vả lại, ta vẫn luôn có chút đố kỵ với ngươi, cùng có thân phận là hậu duệ của Vu vương, nhưng ngươi và gia tộc của mình lại được Mật tu giả âm thầm bảo hộ một cách nghiêm mật. Mỗi nam đinh trong gia tộc, từ lúc sinh ra trên đời đã được hưởng thụ đãi ngộ cao quý, có kẻ sống gửi, bao nhiêu
kẻ nằm mơ cũng mong được sở hữu thân phận này đấy. Còn ta và Merkin, chúng ta cũng là hậu duệ của Vu vương, nhưng lại bị… ruồng rẫy, thậm chí còn ở trong phe cánh hoàn toàn đối lập với các người nữa. Vì vậy, ta đã lợi dụng chuyến đi đến địa cung Maya lần đó để sắp đặt nước cờ đầu tiên của mình. Ta không tìm thấy Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng ta đã phát hiện ra tấm bản đồ đó bên trong quan tài, chính là tấm bản đồ chỉ hướng đến Mặc Thoát đó. Ta đã âm thầm giấu nó đi, sau đó lợi dụng cơ quan cạm bẫy trong địa cung làm theo chỉ lệnh của tổ chức, lần lượt giết chết các thành viên trong đội, thậm chí ta còn làm triệt để hơn những gì tổ chức yêu cầu. Merkin, ngươi có biết, ta chỉ định giữ lại một mình ngươi thôi không? Soares đúng là một tên may mắn, khi hắn và ngươi cùng thoát ra khỏi địa cung, đến ta cũng thấy hơi ngạc nhiên nữa. Vì vậy, sau
nhiệm vụ thất bại lần đó, tiểu đội của ta cũng hoàn toàn xong đời, tổ chức biểu thị sự thất vọng và tiếc nuối đối với ta, nhưng bọn chúng không biết, kế hoạch của ta chỉ vừa mới bắt đầu. Sau này, ta lại một mình đến địa cung đó lần nữa, trả tấm bản đồ đã nghiên cứu xong xuôi vào chỗ khe cửa, đồng thời nghiên cứu lại một lượt toàn bộ cơ quan trong địa cung. Cuối cùng, ta phát hiện ra phiến đá lỏng lẻo thông đến giếng tế kia, thứ này khiến kế hoạch của ta càng thêm hoàn thiện. Sau khi rời khỏi địa cung, ta cũng bắt đầu tìm kiếm, bộ tộc Kukuer có một chiếc chìa khóa, điều này ta đã biết từ lâu, chẳng qua lúc đó kẻ ta phái đi lấy chìa khóa lại thất bại. Nhưng vẫn còn một chiếc chìa khóa nữa đang biệt tăm biệt tích, nếu không có chìa khóa mở ra cánh cửa cuối cùng, kế hoạch của ta sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Trong mấy năm đó, ta đã lần theo nhiều manh mối khác nhau, đi khắp thế giới, cuối cùng ta cũng tìm được, chẳng những vậy, còn phát hiện ra một thứ khác nữa.”
Nói đoạn, Đường Thọ liếc ánh mắt sang phía Đường Mẫn đầy ý vị, Mẫn Mẫn đau khổ cúi gằm mặt xuống, chỉ có cô mới biết, Đường Thọ đang nói đến thứ gì.
Đường Thọ tiếp tục nói: “Sau khi tìm được chìa khóa, ta liền bắt tay vào việc quan sát ngươi và thủ hạ của ta, Merkin, nghiên cứu đặc điểm tính cách và các thói quen của các ngươi, đồng thời soạn riêng cho mỗi người một kịch bản đặc biệt. Các ngươi được huấn luyện như thế nào vào thời điểm nào, đạt đến trình độ nào thì sẽ đi đâu… Tất cả những điều ấy đều được ta vạch sẵn từ trước khi các ngươi xuất phát hai ba năm rồi. Đây chính là số mệnh của các ngươi, các ngươi không thể thoát ra khỏi cái vòng đó đâu.”
Đường Thọ quét ánh mắt nhìn lướt qua gương mặt mọi người, nói: “Lạ thật, sao đều nhìn ta với ánh mắt đó vậy? Ừm, phải rồi, nhất định các ngươi đều lấy làm lạ, tại sao từ thời điểm đó, ta đã có suy nghĩ và những sắp xếp như vậy, đúng không? Vậy để ta nói cho các ngươi một bí mật nhỏ. Ta là tồn tại duy nhất trên thế gian này biết được chân tướng sự thật, ngay cả những nhân vật cấp cao trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn cũng không thể biết được nhiều như ta. Bởi xét cho cùng ta cũng là hậu duệ của Vu vương, đồng thời, là một trong những người đặt chân đến nơi này trước các ngươi. Tấm bản đồ dẫn đến núi tuyết của Morgan Stanley vẫn luôn nằm trong tay ta, cũng chính là tấm bản đồ mà sau
này ta bảo Mẫn Mẫn mang đi, bỏ vào Đảo Huyền Không tự cho các ngươi phát hiện đấy. Cách đây rất lâu, chúng ta từng lên núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc đó thăm dò. Kết quả, cũng giống như những kẻ thăm dò có tấm bản đồ ấy trước chúng ta; và cũng giống như các ngươi, chúng ta bị lạc trong màn sương mù dày đặc và gió lốc cuồng loạn trên đỉnh núi, căn bản không tìm được phương hướng chính xác. Lúc ấy, tất cả đều cho rằng, tấm bản đồ mà Morgan Stanley tìm được ấy là một thứ ngụy tạo của người xưa, chỉ có thể đưa người ta đến với vòng tay của thần Chết mà thôi. Duy chỉ có mình ta không nghĩ như vậy, vì trong tay ta còn nắm được nhiều thông tin khác. Sự xuất hiện của bọn Ba Tang chính là bước ngoặt của sự việc. Có thể nói, bọn chúng là những kẻ duy nhất đến được Shangri-la, đồng thời sống sót trở về trong suốt hơn một nghìn năm nay. Cuối cùng, tuy rằng bọn chúng đã chết gần hết, nhưng những kẻ sống sót thực ra không chỉ có Ba Tang và Tây Mễ. Ta thực sự rất may mắn, lại gặp được một trong số những kẻ đó. Thời điểm ta gặp hắn, thậm chí còn trước cả chuyến đi địa cung Ahezt. Mặc dù, tinh thần những kẻ sống sót này đều bị kích thích ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng ta vẫn có cách khiến hắn nhớ lại những sự việc chính bản thân hắn cũng không muốn hồi tưởng. Nhờ những gì hắn nói, ta có thể xác định được phạm vi đại khái, rồi so sánh lại với tấm bản đồ của Morgan Stanley, vậy là tuyến đường từ núi tuyết đến Shangri-la đã trở nên rõ ràng. Chỉ là hành vi của bọn chúng đã chọc giận bầy sói, nên ta đành phải đợi, tính ra đến khi bọn chúng rời khỏi đó khoảng mười mấy năm, đàn sói đã hoàn toàn chuyển giao thế hệ, ta mới thực hiện chuyến tìm kiếm đầu tiên vào ba năm trước.”
Nói tới đây, Đường Thọ khẽ thở dài một tiếng: “Thật đáng tiếc, ta lại không thể vượt qua được phòng tuyến của lũ sói này. Bọn sói ở đây thực sự quá giảo hoạt, thuật thao thú của ta không ngờ lại chẳng mấy hiệu quả với chúng, đến nỗi ta cũng không thể không nảy sinh ý định rút lui. Lúc đó ta nghĩ, bắt mấy con trở về, cẩn thận nghiên cứu đặc tính sinh vật của chúng, chuẩn bị tốt rồi mới trở lại, nào ngờ bị chúng truy đuổi ráo riết như thế, rốt cuộc ba con sói bắt được cũng chạy mất tiêu. Có điều, chuyến đi lần ấy không thể nói là hoàn toàn không có thu hoạch, ít nhất cũng có hai điều. Thứ nhất, ta phát hiện ra thủ lĩnh của lũ sói, có lẽ là một loại động vật gọi là ngao, ta biết ngươi rất hứng thú với loại động vật này, đây chính là cơ hội tốt trời ban; thu hoạch thứ hai chính là, dựa theo tấm bản đồ tìm thấy trong địa cung Ahezt, trước khi lên núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, ta đã tìm được thôn Công Bố. Ta phát hiện đây chính là nơi Morgan Stanley từng đi qua, nhưng cũng không làm kinh động đến người dân của thôn làng này. Ở đây, ta may mắn gặp được một tên điên khác, liền dẫn hắn rời khỏi thôn, sắp xếp cho hắn ở Mông Hà, làm quân cờ đầu tiên. Lúc đó, những công việc chuẩn bị khác cũng đã hoàn tất, vì vậy, ta quyết định bắt đầu kế hoạch.”
Đường Thọ cố ý ngừng lại, tất cả mọi người đều đang im lặng lắng nghe y kể chuyện. Y dường như lấy làm thỏa mãn với hiệu quả đó, lúc này, bệ hình chữ T cũng sắp xoay chuyển xuống phần đáy tháp, Đường Thọ liền tăng tốc nói nhanh hơn: “Đầu tiên, ta sắp xếp cho ngươi và Merkin gặp mặt. Lần đó, ta không nhằm vào ngươi, mà chủ yếu là Merkin. Merkin là kẻ cực kỳ đa nghi, có lần gặp mặt đầu tiên đó, khi các ngươi gặp mặt lần thứ hai, hắn sẽ nghĩ rất nhiều, suy tính rất nhiều, chính vì vậy hắn không dám tiếp xúc với ngươi một cách quang minh chính đại, mà sẽ áp dụng một số cách thức hắn quen dùng, chẳng hạn như âm thầm điều tra, cài cắm nội gián… Tiếp sau đó, ta bắt đầu chia rẽ gia đình ngươi, để vợ ngươi, con ngươi bỏ ngươi mà đi, làm bước chuẩn bị cho Mẫn Mẫn xuất hiện. Mà tính cách cũng như phản ứng sau khi ly hôn của ngươi, cũng không khác dự liệu của ta là mấy, ngươi càng lao đầu vào công việc như kẻ điên khùng, muốn dùng công việc để trốn tránh hoặc làm tê liệt cuộc sống cá nhân. Khi ngươi ở Mỹ tổ chức một cuộc triển lãm chó ngao quy mô lớn, ta cho rằng thời cơ chín muồi, vì vậy, Mẫn Mẫn mới mang theo những tấm ảnh đó xuất hiện bên cạnh ngươi. Cùng lúc đó, một việc khác của ta cũng tiến hành rất thuận lợi. Ta đã bán đấu giá được nửa quyển Cổ Cách kim thư, đưa nó trở về tay chính phủ Trung Quốc. Đồng thời, kẻ thất bại trong cuộc đấu giá ấy chính là Merkin. Với tính cách của hắn, nhất định sẽ không chịu buông bỏ, hắn sẽ theo đuổi nửa cuốn kỳ thư đó đến cùng, tra đến tận Tây Tạng. Mà ở Tây Tạng, ta đã bố trí cho Merkin một kịch bản khác, hắn sẽ tình cờ phát hiện ra một tấm huy chương của Đạo quân Ánh sáng, lần theo nguồn gốc của tấm huy chương đó, cuối cùng đầu mối sẽ chỉ về phía tên điên ở Mông Hà. Lúc này, ngươi cũng sẽ dò theo đầu mối từ bức ảnh và những lời ta nói, đi tìm tên điên ấy. Đây là lần đầu tiên các ngươi tiếp xúc, Merkin trong bóng tối, còn ngươi ở ngoài sáng. Đúng như ta nghĩ, Merkin bắt đầu điều tra thân phận và gia đình ngươi, ngấm ngầm theo dõi, xem rốt cuộc ngươi đang điều tra cái gì. Sau đó, hắn lại theo các ngươi đến nhà giam ở Lhasa, thuyết phục Ba Tang làm kẻ nằm vùng đầu tiên của hắn. Mà lúc này, Mẫn Mẫn lại dẫn ngươi đi Khả Khả Tây Lý, đó cũng là lần thử thách đầu tiên trên con đường thám hiểm của ngươi. Còn Merkin lại cho rằng các ngươi đã phát hiện ra đầu mối quan trọng gì, liền không chút do dự đuổi theo. Vả lại, lúc đó hắn cũng từ chỗ Ba Tang biết được sự tồn tại của Tây Mễ, bởi vậy, hắn đi Khả Khả Tây Lý có hai mục đích. Một là theo dõi ngươi, nếu có cơ hội, sẽ trực tiếp bắt cóc ngươi, moi thêm thông tin về Bạc Ba La thần miếu. Nếu lúc đó ngươi bị hắn bắt được thì thật không hay chút nào, bởi khi ấy, ngươi vẫn chưa biết gì cả. Mục đích thứ hai của Merkin chính là, hắn cũng muốn tìm gặp Tây Mễ, muốn có thêm nhiều thông tin hơn nữa về tuyến đường trên núi tuyết. Tuy hắn đã hứa với Ba Tang là sẽ dẫn Tây Mễ đến trước mặt Ba Tang, mặc cho y xử trí, nhưng cuối cùng, hắn lại thu nhận Tây Mễ vào dưới trướng hòng lợi dụng tất cả những nguồn tài nguyên có thể lợi dụng được. Về điểm này thì hắn rất giống ta.”
Lúc này, bỗng nghe “cách” một tiếng, bệ hình chữ T đã dừng lại, đoạn nằm ngang áp sát vào cầu thang hình xoắn ốc đi xuống phía dưới trên thân tháp. Đường Thọ là người đầu tiên bước xuống, ngoảnh đầu lại nói: “Những chuyện tiếp sau đấy, các ngươi đều đích thân trải nghiệm rồi, song phương cứ đấu qua đấu lại, tính kế lẫn nhau, về cơ bản cũng dựa trên kịch bản của ta lập ra. Kỳ thực, theo kế hoạch ban đầu, sau khi có được tấm bản đồ của Morgan stanley để lại, các ngươi đã có thể trực tiếp đi theo con đường trên núi tuyết đến Shangri-la rồi. Merkin và bọn lính đánh thuê của hắn cũng bám sát theo các ngươi. Chỉ có điều, không ngờ đến cuối cùng Ba Tang vẫn không nhớ ra được, mà bọn các ngươi cầm bản đồ cũng giống như chúng ta năm đó, vừa lên núi liền lạc đường. Cũng may, ta đã có chuẩn bị trước, dù lần đó thất bại, lần sau các ngươi cũng không thể không đi. Merkin cũng vậy, ta dã tốn mấy chục triệu thuê người làm hai món văn vật giả chất lượng cao, khiến hắn nhìn nhầm, lỗ vốn mất mấy trăm triệu đô. Sau thất bại ở núi tuyết lần đó, hai người các ngươi trở về đều kinh hãi nhận ra, mình đã trở thành một tên nợ nần chồng chất…”
“Sau lần thất bại đó, Đường Mẫn đã đến tìm ngươi, đúng không?” Lữ Cánh Nam đột nhiên chen miệng vào.
“A ha,” Đường Thọ bật cười: “Đúng vậy, điều này chứng tỏ, Cường Ba thiếu gia của chúng ta quả thực rất có sức hấp dẫn, các ngươi biết nó đến tìm ta làm gì không? Nó đến cầu xin ta, hy vọng ta có thể tha cho ngươi đấy! Cường Ba thiếu gia, Mẫn Mẫn đã diễn nhập tâm quá mức, không ngờ lại yêu ngươi mất rồi.”
Toàn thân Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật: “Rốt cuộc mày có nhân tính không hả! Cô ấy là em gái mày, em gái ruột của mày đấy!”
Đường Thọ khinh bỉ trả đáp: “Nhân tính? Hừ, ngươi làm gì có tư cách bàn luận vấn đề này với ta. Ta hiểu rõ cái gì là nhân tính thực sự hơn ngươi nhiều lắm. Có điều, nói đi thì cũng nói lại, ai bảo với ngươi, nó chính là em gái ruột của ta chứ? Là vì thông tin trên chứng minh thư và hộ khẩu hả? Xem ra, cần phải để các ngươi làm quen lại với nhau một chút rồi.”
Mẫn Mẫn đột nhiên vùng vẫy dữ dội, rít giọng hét lên: “Không!”
Đường Thọ không để ý đến cô, cười cười nói: “Nào, để ta giới thiệu lại, vị này là cô Bagawa
Fusako đến từ Nhật Bản, lý tưởng của cô ấy, chính là trở thành geisha đắt nhất nước Nhật.”
Mẫn Mẫn gào khóc thảm thiết: “Không… anh đã hứa với tôi sẽ không nói ra rồi… Anh, anh đã hứa với tôi rồi…” Hai hàng nước mắt cô tuôn như suối.
Đường Thọ nhìn sang phía Mẫn Mẫn nói: “Ủa, ta có hứa sao? Thật xin lỗi, ta quên mất rồi.” Sau đó, y lại cao giọng nới với mọi người: “Kỹ thuật diễn xuất của con bé rất khá, đúng không. Nó rất giỏi diễn bài khóc lóc, đã đạt đến cảnh giới không cần bất cứ nhân tố bên ngoài nào tác động, nói khóc là khóc luôn; tiếng Trung của nó do đích thân ta dạy đấy… Thậm chí, kỹ xảo lên giường của nó, cũng một tay ta dạy dỗ…”
Đường Thọ thao thao bất tuyệt nói những gì, Trác Mộc Cường Ba đã không nghe rõ được nữa, trong lòng gã không chỉ đang run rẩy, không chỉ đanh lạnh lẽo, khi gã biết Mẫn Mẫn không phải em gái ruột của Đường Thọ, mà là một kỹ nữ Nhật Bản, đầu óc gã chỉ còn một mảng trống rỗng, quả tim cơ hồ ngừng đập. Gã nghĩ đến một khả năng khác, đó là điều gã mong mỏi nhiều năm nay, nhưng ngay sau đó, gã lại nghĩ đến một vấn đề khác: nhân luân! Lẽ nào, tên ác ma Đường Thọ này còn gây ra chuyện kinh khủng như thế với gã?
Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, khóe môi run run, lắp bắp hỏi: “Mày… mày nói cô… cô ấy là người Nhật Bản? Vậy… cô… cô ấy…. Có…”
Gương mặt Đường Thọ vẫn nở
một nụ cười thân thiết hiền hòa: “Ta biết ngươi muốn hỏi điều gì, nhưng rất đáng tiếc, không phải. Lẽ nào ngươi hi vọng điều đó? Vậy thì đúng là không bằng cầm thú rồi, Cường Ba thiếu gia, nó sinh ra bên bờ biển Nhật Bản trong một làng chài nhỏ, từ bé đã ra biển đánh cá với anh trai, điều kiện gia đình cũng không được sung túc cho lắm…”
Trác Mộc Cường Ba nào còn nghe lọt tai những điều đó, gã vội truy vấn: “Mày biết tao muốn hỏi gì ư? Mày thật sự biết ư?”
CHƯƠNG 80: CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC
.
VỊ TÁNG
(45)
.
Đường Thọ nở một nụ cười nhiều ý nghĩa, nói: “Đương nhiên, ta đã nói rồi, cuộc chiến giữa hai thế lực lớn này bắt đầu từ rất lâu trước khi ngươi ra đời. Vả lại, ta nghĩ ngươi cũng phát hiện ra rồi, cặp mắt của nó, đặc biệt là ánh mắt ấy rất giống với một người nào đó, phải vậy không? Ở trên ta vừa mới nói xong, khi đi khắp thế giới tìm chìa khóa của địa cung Ahezt, ta đã phát hiện được một thứ không ngờ đến, thứ ấy, chính là con bé này. Ánh mắt của nó rất giống với người ấy, thoạt nhìn hết sức thuần khiết vô tội, tuyệt đối là dạng ai ai nhìn cũng thấy đáng thương hại hết.”
Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén nổi nữa, gã bật người lao vút tới như mũi tên, gầm lên quát hỏi: “Mày biết em gái tao? Nó ở đâu?” Lần này gã phóng tới rất nhanh, Merkin cũng không kịp ngăn cản, chỉ thấy thân hình Trác Mộc Cường Ba loáng lên một cái, đã tới trước mặt Đường Thọ.
Chẳng ngờ, gã nhanh, Đường Thọ còn nhanh hơn. Trác Mộc Cường Ba vươn tay phải ra, vốn định tóm lấy Đường Thọ, hoặc trực tiếp ra đòn tấn công, nhưng Đường Thọ chỉ khẽ nhấc tay trái lên, mu bàn tay hất nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba lên cao, kế đó cổ tay trầm xuống, trước khi Trác Mộc Cường Ba kịp áp sát người vào, y đã tóm lấy cổ áo gã với tốc độ nhanh khó bề tưởng tượng, rồi thuận đà nhấc lên, giơ cả người gã cao quá đỉnh đầu. Trác Mộc Cường Ba cao hơn Đường Thọ cả một cái đầu, vậy mà y bảo nhấc gã lên là nhấc bổng lên luôn, nhẹ như không vậy.
“Vấn đề cuối cùng!” Đúng lúc Đường Thọ vừa nhấc Trác Mộc Cường Ba lên, pháp sư Á La liền mở miệng. Từ khoảng khắc khi Trác Mộc Cường Ba xông về phía Đường Thọ, pháp sư và Lữ Cánh Nam đã kinh ngạc nhận ra, Đường Thọ ra tay rõ ràng còn nhanh hơn lúc y tấn công pháp sư Á La nữa. Mà y mới chỉ dùng tay trái, rốt cuộc tốc độ cực hạn của y có thể nhanh đến chừng nào? Lúc này, bọn họ đều đã đứng trên bậc thang xoáy ốc men theo bức tường, nhưng vẫn còn cách mặt đất khoảng hai ba chục mét, nếu Đường Thọ thực sự ném Trác Mộc Cường Ba xuống dưới, chắc chắn gã không chết cũng trọng thương. Vì vậy, trong khoảng khắc ngắn ngủi chỉ bằng một tia chớp lóe lên ấy, pháp sư Á La đã thốt lên một câu nói như thế, ông đã nắm được phần nào tính cánh của tên Đường Thọ này, y thuộc loại người lúc nào cũng mang tâm thái mình là kẻ cao cao tại thượng, ngạo nghễ nhìn xuống tất thảy mọi thứ trên đời. Y cho rằng mình đã giành được thắng lợi cuối cùng, nên lúc này y đang nôn nóng giải thích cho tất cả mọi người ở đây biết toàn bộ quá trình diễn ra như thế nào, nhằm thể hiện với người khác trí tuệ cũng như sức mạnh không thể kháng cự của mình. Với thân phận của pháp sư, nếu ông biểu thị vẫn còn việc mình chưa thể hiểu nổi, nhất định sẽ thỏa mãn được lòng ưa hư vinh của y.
Quả nhiên, pháp sư Á La vừa cất tiếng, cánh tay đang tóm Trác Mộc Cường Ba nhấc lên cao của Đường Thọ liền dừng lại, kế đó, y đặt Trác Mộc Cường Ba xuống mé bên kia cầu thang, bàn tay đặt lên ngực gã, nắm tay xòe rộng, đẩy một cái. Trác Mộc Cường Ba loạng choạng, lùi lại mấy bước mới đứng vững.
Không biết vì nguyên nhân gì, có lẽ Đường Thọ tạm thời không muốn giết Cường Ba thiếu gia lúc này, nhìn thấy cảnh tượng đó, tảng đá đè nặng trong lòng pháp sư Á La cững rơi xuống. Ông thở ra nhè nhẹ, hỏi: "Ta muốn biết tại sao? Ngươi tốn bao nhiêu công sức bố trí ra một kế hoạch lớn như vậy, rốt cuộc muốn có được thứ gì? Ta, chúng ta, mỗi một người đến nơi này đều có mục đích riêng. Ta và Lữ Cánh Nam là vì Thánh điển của Thánh giáo, Cường Ba thiếu gia vì tìm kiếm Tử kỳ lân, Merkin muốn tìm thấy nơi gia tộc y canh giữ, cỏn những thế lực khác đều bị báu vật trong Bạc Ba La thần miếu thu hút. Nhưng vừa nãy ta quan
sát ngươi, thấy ngươi không giống bất cứ người nào ở đây. Nói thực lòng, khi lần đầu tiên nhìn thấy những món châu báu tuyệt thế này, ngay cả ta và Cánh Nam cũng không khỏi thoáng động lòng, nhưng ngươi từ đầu chí cuối, thậm chí còn không thèm để mắt đến chúng lấy một lần. mà để bố trí được cục diện này, ngươi cũng đã bỏ ra không ít, vừa nãy chính ngươi cũng nói rồi, để làm hai món đồ ngụy tác, ngươi có thể tùy tiện bỏ ra mấy chục triệu, có thể khẳng định, ngươi không đến đây vì vàng bạc châu báu. Ta nghĩ, ngươi cũng không phải đến vì Thánh điển của giáo phái chúng ta, vậy... ngươi... rốt cuộc có mục đích gì?”
Lúc này, Đường Thọ vẫn mặt đối mặt với Trác Mộc Cường Ba. Y dịu giọng nhẹ nhàng khuyên giải Trác Mộc Cường Ba: “Đừng xung động, chúng ta làm việc bao giờ cũng phải nghĩ ngợi cho kỹ, phải có phong độ, phải đường hoàng quân tử, chớ nên động một chút là dùng bạo lực bừa bãi, Cường Ba thiếu gia, ta khuyên ngươi nên bình tĩnh, những kẻ xung động xưa nay đều phải chết trước, vả lại còn liên lụy đến đồng bạn của hắn nữa kìa.”
Trác Mộc Cường Ba đã bình tĩnh lại, từ giây phút bị Đường Thọ một tay nhấc bổng lên quá đầu, gã đã bắt đầu bình tĩnh lại. Bởi gã đột nhiên nhận ra, khi mình đối mặt với Đường Thọ, cảm giác cũng hệt như khi đối mặt với Lữ Cánh Nam lần đầu tiên lúc vừa gia nhập trại huấn luyện vậy, đó là một thứ cảm giác bất lực, mỗi động tác của gã, mỗi suy nghĩ của gã, dường như đều bị đối phương biết trước cả rồi.
Thấy Trác Mộc Cường Ba không có dấu hiệu cuồng nộ tiếp tục tấn công, Đường Thọ mới quay sang phía pháp sư Á La gật nhẹ đầu, lớn tiếng nói: “Hỏi hay lắm!”
Hành động tấn công của Trác Mộc Cường Ba khiến cả đội ngũ phải dừng lại, lúc này gã đã bị Đường Thọ đi trước đích thân áp giải, đoàn người lại tiếp tục đi xuống các bậc thang. Tranh thủ lúc pháp sư Á La hỏi Đường Thọ, Lữ Cánh Nam khẽ nhúc nhích bàn tau đặt sau lưng, từ chỗ eo hông ló ra ba ngón tay, đồng thời liếc mắt nhìn sang phía Merkin một cái, dùng ngón tay thể hiện loại mật mã mà chỉ có lính đặc chủng mới hiểu được: "Lúc này, chúng ta cần bắt tay chống lại kẻ địch chung."
Merkin thấy bọn lính đánh thuê không chú ý đếi y và Lữ Cánh Nam, mới đáp lại: "Hắn rất mạnh, chúng ta không phải là đối thủ." Đồng thời, khóe mắt y lại liếc về phía Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La, ngầm ám thị: "Nếu không có bọn lính đánh thuê này, bốn chúng ta liên thủ, may ra có thể liều với hắn một phen."
Lữ Cánh Nam nhíu mày, chìa ra ba ngón tay, ý bảo. "Chỉ có ba người, pháp sư Á La đã bị thương nặng."
Sắc mặt Merkin trở nên khó coi, y ngoảnh đầu thầm nhủ: "Người mạnh nhất đã bị thương nặng, vậy thì hết trò rồi. Tên Đường Thọ này đâu có cùng một bậc vớichúng ta."
Lữ Cánh Nam cũng đang nghĩ: "Hắn vừa ra tay liền làm pháp sư Á La trọng thương, chắc chắn từ đã cps tính toán từ trước, mưu kế của tên Đường Thọ này quả thực rất đáng sợ."
Đường Thọ đi trước nói: “Những thứ vàng bạc, châu báu, ngọc ngà ấy, giá trị của chúng, thực ra là do nhân loại các ngươi ban cho mà thôi..."
Pháp sư Á La nhíu mày không nói gì, tên Đường Thọ này, lại nói với cái
giọng đó, mở mồm ra là: “Nhân loại các ngươi, nhân loại các ngươi... “, nói như thể hắn không phải 1à con người vậy.
Đường Thọ không biết tâm tư của pháp sư Á La, 1ại tiếp tục dương dương tự đắc nói: “Rốt cuộc giá trị của chúng như thế nào chứ? Giả sử trên thế giới này không có người, giá trị của mấy cục đá vụn ấy trong mắt một con mèo, một con lợn rừng thậm chí còn không bằng một con chuột đồng hay một củ khoai tây. Tại sao phải để mắt đến chúng? Lại còn phải tỏ ra hân hoan sung sướng nữa chứ? Ngay cả trong gỉá trị quan của con người các ngươi, khi tiền tài tích lũy đến một mức độ nhất định, cũng sẽ biến thành một đống chữ số chẳng có ý nghãi gì cả, không phải vậy sao? Vả lại, lựa chọn giá trị của vật phẩm thực chất hay hư ảo, luôn luôn chỉ là tương đối, nếu nói bảo thạch có màu sắc đẹp mê hồn người, thủy tinh cũng thế, ta thậm chí có thể dùng thủy tinh tạo ra những màu sắc rực rỡ lung linh hơn nữa, vậy tại sao thủy tinh lại rẻ như thế? Vì nó nhiều. Thế nên, phán đoán giá trị vật chất của con người, nhân tố quyết định đầu tiên chính là số lượng, kế đó mới là sự kích thích nó mang lại cho các giác quan. Còn về chuyện lấy vật đổi vật và nguyên lý đồng giá, là chuyện sau khi con người có được thể chế văn minh rồi. Giá trị quan của ta, chính là hình thái nguyên thủy nhất của sinh vật. Thứ này, có thể nhét đầy bụng hay không, có thể khiến ta ngủ ngon giấc hay không, có thể làm vũ khí, săn bắt mồi được hay không... những thứ ấy, mới có giá trị. Ừm, ta nói xa quá rồi...”
Đường Thọ nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, đột nhiên hỏi: “Các có biết, trên thế giới này có một loại bệnh dịch, tỷ lệ tử vong là một trăm phần trăm, đáng sợ hơn nữa là, nó không thể dự phòng, càng không có vác xin gì cả, đến nỗi khi nhắc đến loại bệnh dịch này, người người đều phải biến sắc không?”
Nói tới đây, y nheo nheo mắt ngoái đầu lại, ánh mắt lướt qua tất cả mọi người, quan sát bộ dạng trầm ngâm suy nghĩ của họ. Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam mấy người đều không hiểu Đường Thọ tự dưng hỏi câu này là có ý gì, cả Merkin và Đường Mẫn cũng ngây người ra, không biết Đường Thọ rốt cuộc định nói gì.
Đường Thọ dường như đọc được suy nghĩ của mỗi người bọn họ, lần lượt phủ định: “Không phải bệnh AIDS, bệnh AIDS có thể dùng liệu pháp cocktail
(46)
để kéo dài sinh mạng; không phải bệnh chó dại, bệnh chó dại trong một khoảng thời gian nhất định vẫn có thể trị liệu, vả lại vắc xin bệnh này đã rất hoàn thiện rồi; bệnh dịch hạch cũng thế, Cái Chết Đen từng uy hiếp cả châu Âu giờ đây đã không thể gây sóng gió được nữa; cũng không phải bệnh ung thư, bệnh ung thư có quá nhiều loại, vả lại tỷ lệ sống sót của người bệnh cũng phụ thuộc vào chủng loại ung thu khác nhau. Để ta gợi ý cho các ngươi một chút vậy, thứ bệnh này bắt nguồn từ châu Âu, nổi danh là nước Anh, la do con người tạo ra.”
Thấy Merkin thoáng biến sắc mặt. Đường Thọ lập tức chỉ vào y, gật đầu nói: "Đúng rồi, chính là thứ mà ngươi vừa nghĩ đến đấy, bệnh bò điên. Nghiên cứu y học hiện nay đã chứng thực, đó là một loại bệnh gây ra bởi prion
(47)
. Prion thực ra không phải là virus gây bệnh, nó còn nhỏ hơn cả virus, đơn giản hơn, khó đề phòng và phát hiện hơn, nguyên lý hoạt động của nó lại càng phức tạp và khó lý giải hơn gấp bội. Các học giả nước ngoài phân nó vào 1oại hình á virus, còn học giả trong nước thì cho rằng gọi là virus cũng không chuẩn xác, nên gọi là hạt protein mang tính truyền nhiễm mới đúng. Kích thước của prion chỉ khoảng từ ba mươi đến năm mươi nanomet. không có axit nucleic, không có màng tế bào, thậm chí dùng kính hiển vi điện tử cũng không thể nhìn rõ kết cấu của nó. Nhưng nó có thể khiến protein biến đổi về chất, lại mang tính truyền nhiễm và di truyền. Cùng với việc đi sâu nghiên cứu, người ta phát hiện ra, loại vi sinh vật còn nhỏ hơn cả virus này có sức đề kháng kinh người đối với các nhân tố vật lý và hóa học, đồng thời cũng có sức chịu đựng rất cao đối với tia tử ngoại chiếu xạ, sóng siêu âm, bức xạ điện ly hay nhiệt độ trên một trăm độ C. Ngoài ra, nó cũng gần như vô hình trước các loại thuốc thử hóa học hay thuốc thử sinh hóa hiện nay. Còn về mặt miễn dịch học, tuy rằng đại thực bào
(48)
cũng có tác dụng phòng ngừa nhất định, nhưng trong prion lại không thể phát hiện được sự tồn tại của kháng thể dị tính, nó sẽ không kích hoạt các Interferon
(49)
, và cũng không bị ảnh hưởng bởi chúng. Điểm mấu chốt nhất là, vị trí mà chúng ảnh hưởng trên cơ thể sinh vật tương đối đặc thù, nó chủ yếu xâm chiếm, chỗ này!”
Đường Thọ co ngón tay lại thành hình khẩu súng lục, đầu ngón tay chỉ vào huyệt thái dương của mình, sau đó nói: “Nó ảnh hưởng đến não bộ và hệ thống thần kinh, sinh vật nào mắc phải loại bệnh này trước tiên sẽ biểu hiện qua trạng thái thần kinh, sợ hãi, dễ nổi giận, căng thẳng, điên loạn... Kế đó bắt đầu xuất hiện những động tác dị thường, mất thăng bằng, ăn uống bài tiết thất thường, cơ bắp run rẩy, cuối cùng là suy giảm chức năng của các giác quan, vị giác, khứu giắc, rồi thị giác, thính giác, xúc giác đều biến mất. Khi phát bênh, con bò vốn ngoan ngoãn hiền lành sẽ trở nên điên loạn, tấn công bừa bãi, nên mới gọi là bệnh bò điên. Danh pháp y học của nóm gọi là bệnh viêm não thể bọt biển ở bò. Đáng sợ nhất là, trước khi phát bệnh, còn có một thời kỳ ủ bệnh, vói trình độ khoa học kỹ thuật và y học hiện nay, gần như không thể phát hiện ra prion gây bệnh trong thời kỳ ủ bệnh này. Mà một khi đã xuất hiện triệu chứng của bệnh, đa số sinh vật sẽ tử vong trong vòng ba tháng, không thể chữa trị."
Sắc mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều sầm xuống, mặc dù họ vẫn chưa hiểu rốt cuộc Đường Thọ muốn nói điều gì, nhưng thứ mà y học và khoa học kỹ thuật hiện đại không thể phát hiện ra, ngoài prion gây bệnh kia ra, cổ độc không phải cũng vậy ư? Liệu hai thứ này có gì liên quan hay không?
Đường Thọ lại đổi chủ đè câu chuyện, hỏi: “Các ngươi có biết, bệnh bỏ điên bắt nguồn từ đâu hay không? Vào thế kỷ trước, kinh tế đang trong giai đoạn hồi phục, các chủ nông trường châu Âu vì muốn được lợi nhiều nhất, đã đem xương và nội tạng của những con bò bị giết lấy thịt nghiền thành bột, rồi dùng để làm thức ăn cho những con khác trong đàn. Đột nhiên người ta phát hiện, ở những con bò ấy xuất hiện các triệu chứng kỳ quái, đồng thời bắt đầu lây lan trên diện rộng, đây chính là căn nguyên của bệnh bò điên mấy năm trước. Thực ra, trước khi có bệnh bò điên, còn có bệnh dê điên, bệnh ngựa điên, bệnh hươu điên, chỉ là người ta không thể phát hiện ra cơ chế phát bệnh mà thôi. Đối với cơ chế phát bệnh cửa bệnh bò điên nảy, cũng có rất nhiều suy đoán và cách giải thích khác nhau. Có người nói, con người cưỡng chế thay đổi tập tính của động vật ăn cỏ, cuối cùng dẫn đến protein trong tế bào của loài động vật này bị biến dị, hình thành bệnh dịch truyền nhiễm; cũng có người nói, trong tủy và não bộ, có chứa vật chất gây thay đổi trật tự mã gene; ngoài ra, còn rất nhiều giả thuyết kỳ quái khác nữa. Nhưng nói thế nào, về cơ bản mọi người vẫn công nhận rắng, lũ bò phát bệnh là do ăn nội tạng và xương cốt của đồng loại. Nếu như, chủ thể của bệnh bò điên này đổi lại thành con người, người cảm thấy sẽ như thế nào?”
"Con người?" Lữ Cánh Nam thấy sống lưng lạnh toát, lẩm bẩm nói: “Ý ngươi là... người ăn thịt... người... “
Đường Thọ nói với giọng hơi bất mãn: “Đừng làm ra vẻ kinh hoàng như vậy chứ, ăn thịt người cũng đâu phải chuyện gì đáng sợ. Từ mấy vạn năm trước, khi tổ tiên loài người vẫn chưa đứng trên đỉnh của chuỗi sinh vật, con người thường xuyên trở thành thức ăn của các loài động vật ăn thịt khác. Khi thức ăn trở nên thiếu thốn, lại không thể săn bắt được các loại động vật khổng lồ, thứ bọn họ ăn nhiều nhất, chính là đồng loại của mình. Về sau, xã hội loài người trở nên văn minh hơn, nhưng trong những năm đói kém nhất, hoặc khi bị vây khốn bởi ngọn lửa chiến tranh, người ăn thịt người cũng là chuyện thường thấy. Vả lại, trong Trung y có một vị thuốc gọi là Tử hà xa
(21)
, chẳng phải đến bây giờ người ta vẫn ăn đều đều đấy sao?” Nói tới đây, y đột nhiên bật cười: "Có điều, trong quá trình truyền thừa và phát triển cửa loài người, cũng xuát hiện vài nhánh rẽ, phát triển ra một số dân tộc đặc biệt. Trên thế giới, đến giờ vẫn còn một số chủng tộc coi việc ăn thịt người như một tập tục, hình thành nên một văn hóa ăn thịt người độc đáo. Những dân tộc này, có một danh xưng thống nhất, được gọi là... những kẻ ăn thịt người'"
Đường Thọ lạnh lùng nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba đang thẫn thờ kinh ngạc, dí dỏm nói: “Kinh ngạc lắm sao? Bộ tộc Qua Ba mà các người trước nay vẫn nghiên cứu và kiếm tìm, chính là một bộ tộc ăn thịt người. Có điều, không giống với các bộ tộc ăn thịt người ở châu Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương, họ không phải loại bắt được người liền giết mổ ăn thịt, ngược lại, họ chỉ ăn một loại ngươi,
chính là thân nhân của mình. Sau khi người Qua Ba chết già hoặc chết bệnh, con cái họ sẽ chia thi thể ra ăn hết, ăn càng sạch sẽ thì càng tỏ được lòng hiếu thuận với cha mẹ. Giống như một nghi thức mai táng long trọng bây giờ, bọn họ cũng phải cử hành một nghi thức, đây chính là tập tục mai táng được tranh cái nhiều nhất trong truyền thuyết... vị táng. Trong tín ngưỡng của người Qua Ba, linh hồn và nhục thể của con người gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời, khi người thân qua đời, nhục thể sẽ từ từ thối rữa, một phần linh hồn của người chết bám trên nhục thể thối rữa ấy cũng sẽ bị cầm cố và giày vò, vì vậy, bọn họ liền xẻ thịt người thân ra ăn vào trong bụng. Như thế, linh hồn của người thân sẽ vính viễn ở bên linh hồn của họ, mà trên cơ thể những người thân đã qua đời ấy, lại cũng có linh hồn của tổ tiên họ. Vì lẽ đó, trên thân thể mỗi người trong bộ tộc Qua Ba đều có linh hồn của toàn bộ tổ tiên họ. Họ mang theo linh hồn của tổ tiên đi khắp thế gian, dù làm việc gì cũng đều có tổ tiên coi sóc, chúc phúc. Còn một phần linh hồn của người chết ở trên xương cốt, vì vậy họ đem xương cốt của người thân làm các dụng cụ, như bát, hộp đựng thức ăn, đồ trang sức đeo bên người, hoặc cácloại nhạc khí... Như vậy. linh hồn của tổ tiên luôn luôn ở bên cạnh họ. Còn chuyện tập tục này sinh ra từ đâu, truyền thừa xuống như thế nào thì không ai biết được nữa...”
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên một ý nghĩ, gã lập tức nói: “Sống chung với sói! Đây là tập tính của loài sói! Có lẽ tập tục này bắt nguồn từ lũ sói, còn về tín ngưỡng tinh thần kia... người Kukuer!” Gã nhớ đến bộ tộc Kukuer trong rừng rậm Nam Mỹ, nhớ đến những bộ lạc ăn thịt người ở đó, họ cũng có tín niệm tương tự như vậy, lẽ nào là sự trùng hợp? Hay chính vị sứ giả đến Cổ Cánh kia mang tín ngưỡng và quan niệm này đến châu Mỹ? Điều này phải chăng có liên hệ nào đó với sự suy tàn của nền văn minh Maya?
Đường Thọ vỗ vỗ tay nói: "Được rồi, lại nói lan man đi xa quá, thực ra điều ta muốn nói la, trước khi bệnh bò điên nổi tiếng toàn thế giới, loại bệnh này được phát hiện sớm nhất là ở một bộ lạc ăn thịt người trên một quẩn đảo ở châu Đại Dương. Bộ lạc này cũng có tập tục tương tự tập tục vị táng của người Qua Ba, nội tạng và thịt củn người chết đều bị họ hàng thân thích chia nhau ăn sạch. Trong bộ lạc ăn thịt người này, đôi lúc xuất hiện những người có bệnh trạng tương tự như bệnh bò điên, tinh thần căng thẳng cực độ, dễ nổi giận, cứ ham muốn tấn công rất mạnh, cơ bắp co giật, run rẩy, hành vi và ngôn ngữ dần trở nên thất thường, kế đó là đi lại không vững, phát âm kỳ dù ăn bao nhiêu cũng vẫn luôn cảm thấy đói khát, thân thể ngày một gầy guộc, dần dần không còn cám giác, cuối cùng thì tử vong. Khi có người mắc phảỉ bệnh này, những thổ dân ấy cho rằng kẻ đó đã bị thần Kuru bám vào, đồng thời họ cũng biết, một khi thần Kuru xuất hiện, thần sẽ hút đi linh hồn của kẻ xấu số, con người không thể nào kháng cự nổi. Về sau, loại bệnh này được liệt vào danh sách các bệnh con người có thể mắc phải, và được đặt tên theo cách phát âm của người địa phương, gọi là bệnh Kuru."
Pháp sư Á La điềm tĩnh cất tiếng: “Ý của ngươi là,, người Qua Ba cũng mắc bệnh Kuru?”
“Ừm, không phải,” ĐườngThọ nói: “Bệnh Kuru thực ra không đáng sợ, tuy không thuốc nào chữa được nhưng tính truyền nhiễm của nó rất thấp, ngay cả trong bộ tộc ăn thịt người, số người mắc bệnh này cũng chiếm số lượng rất nhỏ. Vả lại, chỉ cần không ăn thịt người mắc bệnh, không truyền máu hoặc cấy ghép cơ quan thì gần như không bị truyền nhiễm. Vả lại, ta cũng không có chứng cứ nào chứng minh rằng trong bộ tộc Qua Ba nhất định có người mắc bệnh Kuru. Ta chỉ nói rằng, bọn họ và bộ tộc ăn thịt người mắc phải bệnh Kuru kia có tập tục gần giống nhau, vì vậy có khả năng sẽ có người mắc chứng bệnh tương tự như vậy, chỉ thế mà thôi.”
Bọn Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc, nếu đã không thể khẳng định người Qua Ba có mắc bệnh Kuru hay không, vậy ngươi nói ra làm cái quái gì? Chợt nghe Đường Thọ đổi giọng, nói: “Nhưng các ngươi đừng quên rằng, người Qua Ba còn một thân phận khác, bọn họ chính là... đạo quân Ánh sáng!”
Gương mặt Đường Thọ lộ vẻ khao khát: “Chắc hản các ngươi đã tìm hiểu được phần nào về Đạo quân Ánh sáng rồi. Bọn họ chính là một dạng bộ đội đặc chủng trong quân đội thời xưa. Thực ra, gọi như vậy cũng không hoàn toàn chính xác. Đọa quân Ánh sáng là một đơn vị lớn, có lẽ gần tương đương với cơ quan chuyên nghiên cứu phát triển trong quân đội ngày nay hơn. Một loạt các kỹ thuật như cổ độc, kỹ thuật điều khiển và khống chế thú vật, thuật cơ quan, thuật sử dụng hóa dược và việc nghiên cứu chế tạo vũ khí nóng, thuật dự báo, điều khiển thời tiết, phẫu thuật ngoại khoa, thuật chiến đấu cận thân... đều là để phục vụ cho chiến tranh. Mục đích tồn tại của họ chính là để phục vụ mục tiêu thống nhất thiên hạ của quân vương. Năm đó, họ nắm trong tay tư liệu sản xuất cũng như các lý luận học thuật tiên tiến nhất thế giới thời bấy giờ, thậm chí một số kỹ thuật cổ xưa đã thất truyền cũng được Đạo quân Ánh sáng tìm lại nghiên cứu một cách thấu triệt. Trình độ khoa học kỹ thuật và các thủ đoạn phục vụ chiến tranh của họ đã vượt lên trên thời đại đó, nhiều lúc ta thử nghĩ...” Đường Thọ đột nhiên nở một nụ cười thần bí, nói: “Nếu như, chỉ là nếu như thôi, năm đó trong bộ tộc Qua Ba, vừa khéo cũng có người mắc phải bệnh Kuru. Vậy thì, Đạo quân Ánh sáng đầy tinh thần nghiên cứu kia, sẽ có thái độ như thế nào với căn bệnh này nhỉ?”
Bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều biến sắc, nói theo cách của Đường Thọ, Đạo quân Ánh sáng được lập nên vì mục đích thống nhất thiên hạ của quân vương. Vậy thì, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, điều đầu tiên bọn họ nghĩ đến sẽ là làm sao để lợi dụng được căn bệnh không thuốc nào chữa nổi này trong chiến trang. Lúc này, họ đã đi được hai phần ba cầu thang hình xoáy ốc, Đường Thọ nhìn xuống dưới, mỉm cười nói: “Để ta kể cho ngươi nghe một câu chuyện, nghe xong câu chuyện này, các ngươi sẽ hiểu được tất cả.”
.
HẬU DUỆ VU VƯƠNG
(50)
.
Nói tới đây, Đường Thọ ngừng lại một chút như thể đang sắp xếp lại ý tứ trong đầu, rồi chầm chậm tiếp lời: "Từ rất lâu, rất lâu trước đây, có một bộ lạc nhỏ, bọn bọ sống chung với bầy sói, kế thừa sự hung hãn và đoàn kết của loài sói. Họ có tín ngưỡng của mình, họ sùng bái bốn vị Vu vương, họ cho rằng, toàn bộ người trên cao nguyên này đều là hậu duệ của bốn vị Vu vương đó.
Bốn vị Vu vương, chính là thủy tổ của người cao nguyên. Vì vậy, hậu duệ trực hệ của bốn vị Vu vương ấy ở trong bộ lạc này luôn được hưởng đãi ngộ giống như Vu vương vậy. Vả lại, thủ lĩnh và lãnh tụ tinh thần của bộ lạc này cũng đều do bốn vị Vu vương luân lưu đảm nhận. Ban đầu, họ chỉ là một bộ lạc nhỏ ở vương triều Tượng Hùng, cũng không biết họ kiếm đâu ra bốn vị được gọi là hậu duệ trực hệ của Tứ đại Vu vương kia nữa, hoặc có thể đây chỉ là câu chuyện do bốn kẻ muốn làm thủ lĩnh bịa ra không chừng. Chuyện này dẫu sao cũng không còn quan trọng nữa. Tóm lại, có một bộ lạc như thế, thủ lĩnh của họ được gọi là Tứ đại Vu vương, các ngươi chỉ cần nhớ như vậy là đủ.”
“Vốn dĩ, nếu không có đại sự gì xảy ra, bộ lạc nhỏ này sẽ cùng với những người bạn sói của họ tiếp tục sống một cách bình lặng, đi săn bắn, trồng trọt, sinh con đẻ cái, hoặc giả đến một ngày nào đó, họ sẽ bị bộ lạc khác thôn tính, hay vì nhân khẩu mỗi ngày một ít đi mà tự biến mất khỏi thế gian. Thế nhưng, đúng vào lúc này, trên cao nguyên lại xuất hiện một người trẻ tuổi kiệt xuất, lập chí trong những năm tháng mình sống trên đời phải thống nhất toàn bộ cao nguyên về tay. kẻ địch lớn nhất của y chính là vương triều lớn mạnh nhất trên cao nguyên thuở bấy giờ, vương triều Tượng Hùng. Muốn đánh bại Tượng Hùng, y phải sở hữu một đội quân có thể đánh bại quân đội của Tượng Hùng. Khi ấy, một quý tộc phản loạn trốn chạy từ Tượng Hùng đã tiến cử bộ lạc nhỏ này với vị quân vương trẻ tuổi, nói với y rằng bọn họ sống chung với sói, thiên tính hung hãn, không sợ chết, lại không được vương triều Tượng Hùng coi trọng, nếu có thể khéo léo lợi dụng bộ lạc này một cách hiệu quả, ắt sẽ lập được một cánh quân mạnh mẽ nhất.”
“Nhất định các ngươi sẽ thấy rất kỳ quái, tại sao lại không phát hiện sự tồn tại của một đạo quân mạnh mẽ như vậy trong bất cứ ghi chép lịch sử nào? Có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất, đạo quân này được thành lập dựa trên kiến nghị của hai dòng họ quý tộc đã phản bội vương triều Tượng Hùng là Nương thị và Vi thị, sau này việc xây dựng đội ngũ, huấn luyện, thống lĩnh cũng do hau gia tộc này chia nhau đảm nhận. Vị quân vương của cao nguyên kia hiểu rất rõ, Nương thị và Vi thị trung thành với mình, khi mình còn sống, bọn họ tuyệt đối không dám có những hành vi bội phản, nhưng vạn nhất đến một ngày, mình không còn nữa thì sao? Đạo quân Ánh sáng là một thanh kiếm sắc bén tột cùng, dùng để dối phó kẻ địch thời đánh đâu thắng đó, nhưng nếu kẻ nào có dụng tâm chĩa con dao đồ tể này về phía hậu duệ của mình, hậu quả thật khó bề tưởng tượng. Lúc đó, cao nguyên vừa được bình định, việc kiến lập vương triều mới phải dựa rất nhiều vào hai thế lực lớn Nương thị và Vi thị, muốn xóa sổ hai gia tộc lớn này ngay thời điểm đó, dù là thời gian hay quân bị đều không cho phép. Vì vậy, khi thành lập Đạo quân Ánh sáng, vị quân vương trí tuệ siêu quần ấy đã đưa ra một quyết định cực kỳ sáng suốt: người ra lệnh là quân vương, thống lĩnh quân đội do người của hai nhà Nương thị và Vi thị thay nhau đảm nhận, tín ngưỡng và lãnh tụ tinh thần của bộ tộc Qua ba đều bảo lưu lại. Như thế, quân quyền, vương quyền và thần quyền hình thành cơ chế tam quyền phân lập, ước thúc lẫn nhau, đạt được một trạng thái cân bằng nhất định. Có lẽ, tính toán của vị quân vương kia là, sau khi hoàn toàn bình định cao nguyên, nghỉ ngơi dưỡng sức dần, đợi vương triều lớn mạnh, mới bắt tay triệt để giải quyết vấn đề quy thuộc của Đạo quân Ánh sáng, nắm lấy thanh kiếm sắc bén nhất này về tay vương tộc. Đáng tiếc, trời cao không cho ông ta nhiều thời gian như thế, vì vậy cơ chế tam quyền phân lập độc đáo của Đạo quân Ánh sáng vẫn được bảo tồn mãi. Đồng thời, hai gia tộc Nương thị và Vi thị cũng dần dần sinh sôi nảy nở, liên hôn với vương thất
Thổ Phồn, cuối cùng bén rẽ gắn chặt với cây đại thụ lớn nhất của vương triều Thổ Phồn, đến mức không thể tách rời. hai đại gia tộc này vẫn luôn là hai gia tộc lớn mạnh nhất vương triều Thổ Phồn, cho đến khi vương triều này bị diệt vong.”
“Chính vì cơ chế tam quyền phân lập này, dưới dụng tâm và tính toán của các bên khác nhau, Đọa quân Ánh sáng dần dần thoát ly khỏi chiến tranh chính quy, chuyển hướng thành một đội quân chuyên thực hiện nhiệm vụ ám sát. Hai đại gia tộc họ Nương và họ Vi đã nhiều lần dùng Đạo quân Ánh sáng như một con dao găm sắc bén để tiêu trừ vây cánh của các thế lực đối địch trên chính trường, thậm chí còn chĩa mũi dao vào nhau. Trong cuộc đấu tranh giữa Phật giáo và Bản giáo ở Thổ Phồn, việc thuyết giảng đạo lý là của các vị đại đức cao tăng Phật giáo và Bản giáo, còn ra tay lại là chức trách của Đạo quân Ánh sáng. Sau này, vô số cuộc khởi nghĩa của nông nô cũng do hai bàn tay nhuốm đầymáu tanh của Đạo quân Ánh sáng đi giải quyết. Lúc này, lãnh tụ tinh thần của Đạo quân Ánh sáng, Tứ đại Vu vương bắt đầu nghĩ lại về ý nghĩa tồn tại của cánh quân này? Lẽ nào Đạo quân Ánh sáng tồn tại để hủy diệt tất cả? Sinh ra vì chiến tranh, tồn tại vì chiến tranh, điều này thực ra lại mẫu thuẫn với tín ngưỡng nguyên bản của họ. Bọn họ theo đuổi đạo tự nhiên, sống chung vơi sói là vì họ coi sói như bạn, họ cho rằng, sói và người nên có địa vị ngang hàng, cả hai loài đều là những thợ săn ưu tú nhất, đều là những đoàn thể xã hội đoàn kết và hài hòa nhất. Mặt khác, quân vương và các thống lĩnh quân đội lại yêu cầu Đạo quân Ánh sáng phải không ngừng mạnh lên, những kỹ thuật tiên tiến nhất, những cổ thuật đã thất truyền của các nước đều tập trung về chỗ Đọa quân Ánh sáng, các phương pháp huấn luyện vô nhân đạo nhất đều được áp dụng lên bọn họ, thậm chí trẻ sơ sinh vừa ra đời cũng phải tiến hành những khảo nghiệm nghiêm khắc về thể chất, vừa mới học đứng đã phải ở giữa trời đất băng giá tiếp nhận khiêu chiến cực hạn sức chịu đựng của con người. Chẳng những vậy, họ còn được yêu cầu chế tạo ta các loại thuốc khác nhau, có thể biến cơ thể người trở nên mạnh mẽ hơn,cũng có thể khiến người ta biến thành kẻ điên cuồng. Do yêu cầu của các đời quân vương, Đạo quân Ánh sáng không ngừng nghiên cứu một loại vũ khí siêu mạnh, loại vũ khí này chỉ cần một người điều khiển, một khi ra tay liền gay ra cái chết của hàng nghìn hàng vạn người, thậm chí nhiều hơn nữa, tốt nhất là chỉ có ảnh hưởng đến cơ thể người, còn kiến trúc và vũ khí đều có thể giữ lại hoàn hảo. Đạo quân Ánh sáng từng nghiên cứu ra vũ khí nóng có thể gây sát thương trên diện rộng, nhưng vẫn không đạt yêu cầu của quân vương, bọn họ liền chuyển hướng sang những sinh vật nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy, đó chính là: cổ độc.”
“Không ai biết được rốt cuộc họ đã tiến hành nghiên cứu như thế nào, nhưng ta có thể khẳng định một điểm, cuối cùng họ đã thành công. Dựa theo miêu tả trong thư tịch cổ, đó là một thứ vật chất dạng bột phấn, có thể lan truyền qua không khí, dòng nước, thức ăn... Nước sôi, cường toan, chất kiềm mạnh đều không thể hủy diệt, cũng không có bất cứ phương pháp nào có thể trị liệu chứng bệnh do nó gây ra. Đặc biệt nhất là, nó là vật sống, khi xuất hiện một loại vật chất nào đó có thể gây hại với nó, nó sẽ tự thay đổi và điều chỉnh bộ máy phòng ngự, nếu sử dụng laoij vật chất kia với nó lần thứ hai, sẽ hoàn toàn vô hiệu. Chẳng những vậy, nhờ nỗ lực không ngừng nghỉ của Đạo quân Ánh sáng, loại vật chất này đã được chứng thực chỉ có hiệu quả với cơ thể người, hoàn toàn không gây hại với bất kỳ giống loài nào khác. Nhưng các loài động vật có vú sẽ trở thành kẻ mang mầm bệnh, có thể tiến hành lây lan truyền nhiễm trên diện rộng. Khi loại vật chất này xâm nhập vào cơ thể người, chúng sẽ lập tức biến cơ thể ấy thành môi trường để sinh sôi nảy nở. Sau vô số lần thực nghiệm và điều chỉnh, Đạo quân Ánh sáng đã khiến loại vật chất ấy trước tiên xâm nhập vào phổi và đường hô hấp của con người, như bậy, khi người nhiễm bệnh nói chuyện hay hít thở, đều có thể lây lan chúng sang cơ thể khác. Đồng thời, bài tiết, giao hợp, truyền máu... đều là những con đường lây nhiễm của loại vật chất này; sau khi xâm nhập, chúng sẽ tiến vào hệ thống thần kinh và sinh sôi nảy nở trong tế bào thần kinh, khiến các cảm quan của người mắc bệnh dần biến mất, cuối cùng xâm nhập đại não, khiến người đó trở nên điên loạn và chết trong đau đớn. Chẳng những vậy, dù kẻ mắc bệnh không chết ngay, thì đại não cũng bị tổn thương nghiêm trọng, biến kẻ đó thành một sinh vật hình người không còn chút trí tuệ nào. Tuy rằng, trong cơ thể loại sinh vật hình người này, vật chất kia đã mất đi đặc tính truyền nhiễm qua đường hô hấp và các con đường khác, nhưng nó vẫn có thể thông qua di truyền, khiến đời sau, đời sau nữa, thậm chí là sau sau nữa của người mắc bệnh cũng bị khiếm khuyết về trí lực.”
“Có điều, thành công này đã khiến họ phải trả một cái giá cực kỳ nặng nề. Vào thời điểm Đạo quân Ánh sáng thí nghiệm thành công, bọn họ cũng phát hiện ra khuyết điểm của loại vật chất này. Nó không phân biệt địch hay ta, cũng không thể đề phòng, chỉ cần là người là sẽ bị nó ảnh hưởng. Vì vậy, khi người đầu tiên nghiên cứu loại vật chất này xuất hiện triệu chứng căng thẳng thần kinh, dễ nổi giận, bắt đầu tấn công người khác... thảm kịch liền xảy ra. Một phần tư Đạo quân Ánh sáng đã bị xóa sổ trên thế gian này chỉ trong chớp mắt. Các ngươi phải biết rằng, với tư cách là một cá thể chiến đãu, mỗi một người trong Đạo quân Ánh sáng đều cực kỳ mạnh mẽ, ngay cả những người làm công tác nghiên cứu cũng không ngoại lệ."
“À, phải rồi,” Đường Thọ dường như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, giọng nói cũng phảng phất chút hoài niệm: “Không phải các ngươi từng đến Đảo Huyền Không tự đó sao? Ta thì không dám đến chỗ đó, vì theo ghi chép trong thư tịch cổ, đó là nơi Đạo quân Ánh sáng tiến hành huấn luyện và nghiên cứu. Khi tin tức có người xuất hiện triệu chứng của căn bệnh truyền đến tai Tứ đại Vu vương, bọn họ liền quyết đoán hạ lệnh cách ly toàn bộ Đảo Huyền Không tự khỏi thế gian. Nghĩ lại, cảnh tượng năm xưa chắc hẳn là thảm liệt lắm.”
Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba sau cùng đã hiểu ra, tại sao lối vào Đảo Huyền Không tự lạỉ bị chôn lấp dưới mấy chục mét đất sâu, dây xích vắt qua khe sâu dưới lòng đất cũng bị chặt đứt. Những bộ xương khô chất đầy như núi sau cánh cửa, những vết máu vương vãi, tất cả đều lặng lẽ lẽ thuật lại một đoạn lịch sử bị lãng quên. Nghĩ tới đây, cả mấy người đều cảm thấy không rét mà run.
Đường Thọ lại tiếp tục nói; ''Sau khi rút kinh nghiệm xương máu, các Vu vương của bộ tộc Qua Ba bắt đầu nghĩ lại, rốt cuộc vận mệnh của bộ tộc họ sẽ như thế nào? Vả lại, họ cũng cho rằng, những thành viên chưa xuất hiện triệu chứng trong Đạo quân Ánh sáng cũng nhất định đã bị truyền nhiễm, việc xuất hiện chứng trạng chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi. Vì vậy, bọn họ đã quyết định cách ly toàn bộ Đạo quân Ánh sáng, chuyển dời đến một nơi hoàn toàn cách biệt với thế gian mà họ tìm ra. Nơi ấy, chính là... Shangri-la trong truyền thuyết. Đồng thời, Tạng vương đời cuối Lãng Đạt Ma khi ấy cũng đang mài dao mài kiếm, chuẩn bị triển khai một cuộc đại đồ sát với Phật giáo, các vị Vu vương nhìn xa trông rộng sớm đã dự liệu được hậu quả của hành động này. Đồng thời, bọn họ cũng hiểu rõ, không có chỗ dựa cuối cùng là Đạo quân Ánh sáng, vương triều Thổ Phồn rốt cuộc có thể kiên trì được bao lâu trong cuộc đại biến động và xung đột sắp sửa bùng lên này. Một khi loạn lạc nổi lên, toàn bộ trí tuệ và văn minh từng tồn tại trên cao nguyên này nói không chừng sẽ bị hủy diệt trong lửa chiến tranh, tan thành tro bụi như vương triều Tượng Hùng thuở xưa vậy. Vì thế, thân làm người bảo hộ cho Tứ Phương miếu, các Vu vương đã đưa ra một quyết định khác, khi Đạo quân Ánh sáng rời khỏi thế gian này, họ cũng mang theo toàn bộ báu vật và các điển tịch văn hóa trong Tứ Phương miếu. Đây, chính là nguyên nhân Bạc Ba La thần miếu xuất hiện."
“Tứ đại Vu vương không chỉ tượng trưng cho trí tuệ của bộ tộc Qua Ba, mà còn là những cá thể mạnh mẽ nhất trong Đạo quân Ánh sáng, và trong toàn bộ tộc. Bấy giờ, họ đã ước định rằng, vị Vu vương đang đảm nhiệm vị trí lãnh tụ tinh thần tối cao sẽ dẫn theo toàn bộ Đạo quân Ánh sáng tiến vào Shangri-la. Ba vị còn lại, sẽ chia nhau trấn giữ ba phương hướng của vương triều, bảo vệ những phụ nữ, trẻ em và người già không rời đi cùng Đạo quân Ánh sáng trong bộ tộc. Họ không ở lại trong bộ tộc mà tránh xa tộc nhân, bởi xét cho cùng, bấy giờ có rất nhiều nhân vật cấp cao trong vương thất đều biết rằng Đạo quân Ánh sáng nắm trong tay bí mật bất bại, bảo vệ tài sản và tri thức tích lũy nhiều năm của vương triều. Vì những thứ này, những kẻ kiêu hùng thời loạn sẽ bất chấp sử dụng mọi thủ đoạn. Nếu họ ở cùng tộc nhân, lại không có Đạo quân Ánh sáng bên mình, cá nhân dù mạnh đến mấy cũng chỉ thu hút đại quân đến vây giết mà thôi. Còn khi họ phân tán đi, trở thánh cá thể độc lập, họ sẽ hòa mình vào bóng tối, trở thành vua ám sát, ắt hẳn không một vị thủ lĩnh nào không sợ hãi bọn họ. Mà khi đó, Đạo quân Ánh sáng ra đi một cách hết sức bí mật, cũng hết sức quyết đoán, ngay cả người trong bộ tộc, cha mẹ vợ con họ cũng hoàn toàn không hay biết. Sau đấy, chiến tranh quả nhiên đã bùng nổ, tuy rằng những vị Vu vương ở lại cho rằng bọn họ đủ sức uy hiếp những thế lực lớn mạnh kia, nhưng khi chiến loạn cập kề, tất cả đều trở nên rối ren hỗn loạn, bộ tộc Qua Ba không còn thanh niên trai tráng cũng không tránh khỏi bị chà đạp. Mà sự thật là, quân phiến loạn trước đây gần như đều đã bị Đạo quân Ánh sáng đuổi tận giết tuyệt, vì vậy dân chúng bình thường gần như không ai biết đến sự tồn tại của họ. Những người không biết Đạo quân Ánh sáng mạnh mẽ và đáng sợ nhường nào, dĩ nhiên cũng không biết Vu vương là ai. Ta đoán rằng, những đứa trẻ đã trải qua chiến loạn cửa bộ tộc Qua Ba kia ít nhiều cũng từng nghe nói đến sự vĩ đại của Đạo quân Ánh sáng, sau khi bị lăng nhục ức hiếp, tự nhiên chúng sẽ không ngừng phấn đấu. Không biết bọn chúng kiếm đâu ra một phần không đầy đủ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng, liền bước theo dấu chân tiền nhân, bắt đầu hành trình khổ luyện vượt lên cực hạn. Đám người này, về sau phát triển thành một quần thể đặc dị, chính là... Mật tu giả!”
Đường Thọ chỉ vào pháp sư Á La nói: “Các ngươi chỉ biết tổ tiên mình rất mạnh mẽ, không ngừng khiêu chiến cực hạn, vượt qua cực hạn nên, các ngươi cũng không ngừng lặp đi lặp lại những bài huấn luyện mà người thường không thể chịu đựng ấy, nhưng các ngươi đều không biết, tổ tiên của các ngươi năm xưa cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. E rằng bọn họ cũng không hề muốn dùng những cách thức phi nhân ấy để giày vò bản thân mình đâu. Giữa trời băng đất tuyết, để mình trần đi trên dây thép, ngồi xếp bằng trên ván đóng đầy đinh nhọn, mấy tháng liền không ăn không uống, đấy đâu phải là huấn luyện? Phải nói là đang tự dùng cực hình với bản thân thì đúng hơn.” Đường Thọ cảm khái một hồi, lại nói tiếp: “Thôi, không nói chuyện này nữa, chúng ta tiếp tục câu chuyện đang kể nhé. Ba vị Vu vương ở lại thế gian, một người lưu thủ phương Tây, bảo vệ Đảo Huyền Không tự đã bị phong tỏa, chắc là đề phòng bấy giờ có người tình cờ phát hiện ra đầu mối gì đó, không cẩn thận lại mở cửa Đảo Huyền Không tự; một vị khác ở phương Nam, đó vốn là nơi gần khu vực quần cư của người Qua Ba nhất, ông ta có thể cảnh cáo và áp chế một số thế lực tà ác có ý đồ với bộ tộc Qua Ba; vị Vu vương cuối cùng lại đến Trung Nguyên. Trong bốn vị Vu vương, ông ta là người duy nhất hu vọng có thể tiếp tục nghiên cứu loại vật chất đó, để có thể ứng dụng nó trong thực tiễn. Bởi vì, ông ta chính là người chỉ huy nghiên cứu và chế tạo ra loại vật chất kinh khủng ấy.”
Merkin và Trác Mộc Cường Ba giật mình chấn động, câu chuyện của Đường Thọ kể đã càng lúc càng gần với những gì họ biết rồi. Quả nhiên, Đường Thọ lại nói tiếp: “Vị Vu vương ở lại phía Tây, là Mạc Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Mạc, khi Cổ Cách bị tiêu diệt, hậu nhân của họ Mạc đã theo giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha di cư sang phương Tây, đổi thành họ Merkin. Đó chính là tổ tiên của ngươi, Merkin. Vị Vu vương lưu thủ tại phía Nam, là Trại Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Trại, đó chính là tổ tiên của ngươi, Cường Ba thiếu gia, vì vậy, tên đầy đủ của ngươi lẽ ra phải là Trại Trác Mộc Cường Ba; còn vị Vu vương tiến vào Trung Nguyên kia, là Đảng Bản Ba. Ông ta đến Trung Nguyên, nhập gia tùy tục, liền đổi chữ Đảng thành chữ Đường, đó chính là tổ tiên của ta. Ba người chúng ta, đều là hậu duệ của Vu vương.”
“Còn vị Vu vương dẫn đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la kia, là Đông Bản Ba. Bấy giờ, ông ta đã để lại một vị sứ giả ở Tam Giang Nguyên
(51)
. phụ trách truyền đạt tin tức giữa Shangri-la với thế giới bên ngoài. không cần phải nhìn ta với ánh mắt ngạc nhiên đó, đúng thế, bấy giờ bọn họ biết cách liên lạc với vùng đất cách biệt thế gian ấy. Thứ họ dùng để truyền tin, là loài hạc cổ đen, loài chim duy nhất có thể bay vượt đỉnh Chomolungma. Chúng có thể vận chuyển thư từ hoặc những món đồ không nặng lắm. Tổ tiên của chúng ta có trí tuệ vô biên, phàm nhân tầm thường sao có thể hiểu được chứ? Vị sứ giả ấy chính là tổ tiên của vị sứ giả sau này xuất hiện trong lịch sử. Khi đó, vị sứ giả ấy đã truyền đi một tin tức, nội dung thế nào thì ta không biết, tóm lại sau khi nhận được tin tức ấy, ba vị Vu vương còn lại đều nhất loạt lên đường đến đây. Vào thời điểm ấy, con cái họ đều đã thành niên, vì vậy, họ liền đem bí mật của gia tộc truyền lại cho con trưởng dòng chính. Vì những thông tin này được coi là tuyệt mật, bao giờ cũng chỉ truyền đạt miệng cho một người trước lúc lâm chung. Cứ truyền thừa như vậy, không biết đến thời điểm nào, liền thất truyền. Trên thực tế, bản thân việc ba gia tộc chúng ta trải qua nghìn năm vẫn duy trì được huyết mạch đã có thể coi là một kỳ tích rồi, còn chuyện bí mật của gia tộc bị thất truyền, lại là chuyện hết sức bình thường. Được ghi lại rõ nét nhất trong các ghi chép lịch sử là tổ tiên của Merkin. Năm đó, khi sứ giả xuất hiện ở vương triều Cổ Cách, vị tổ tiên đó của ngươi hiển nhiên đã hoàn toàn không nhớ gì về nguồn gốc của mình nữa, ông ta chẳng những không bảo vệ bí mật gia tộc, ngược lại còn dẫn tiến sứ giả đến gặp Cổ Cách vương. Vì vậy, ông ta không hề biết trước đó đã xảy ra chuyện gì, nhưng lại nhớ kỹ những thông tin mà sứ giả mang đến, đồng thời truyền lại cho con cháu đời sau các ngươi. Ông ta chỉ biết trên thế gian này có một nơi như thế, ở đó vàng bạc châu báu nhiều vô cùng vô tận, và ông ta có dòng máu của một nhân vật quan trọng ở nơi ấy. Còn tổ tiên của Cường Ba thiếu gia, cũng không ai biết họ đánh mất bí mật ấy từ bao giờ. Có điều, các tổ tiên của ngươi rõ ràng còn lãng quên triệt để hơn cả tiên tổ nhà Merkin, ngay cả bí mật mà sứ giả mang ra cũng không bảo tồn được. Tổ tiên của ta có thời gian truyền thừa dài nhất, tối thiểu khi vị sứ giả kia xuất hiện, bọn họ vẫn nhớ được bí mật ấy, còn chuyện khi nào bị thất truyền thì ta cũng không biết. Những bí mật hôm nay nói với các ngươi, đều là do ta đích thân tìm kiếm phát hiện ra, đời cha ta, ông nội ta, cụ nội ta, đều hoàn toàn không hay biết chút gì cả.”
“Còn các ngươi!” Đường Thọ ngoảnh đầu về phía pháp sư Á La vfa Lữ Cánh Nam nói, “những Mật tu giả các ngươi, cũng chỉ biết gia tộc nhà Trác Mộc Cường Ba có thân phận rất cao quý, người trong gia tộc này đời đời đều phải được các ngươi âm thầm bảo vệ một cách nghiêm mật, nhưng các ngươi lại không biết, thân phận cao quý này đối với các ngươi rốt cuộc có ý nghĩa gì? Bọn người các ngươi vốn là những nô bộc của Vu vương, không ngờ lại hoàn toàn quên lãng ta và Merkin, gia tộc chúng ta cũng là chủ nhân của các ngươi.”
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhất thời cũng không biết phản ứng thế nào, chuyện Đường Thọ vừa nói, họ hoàn toàn không hay biết.
Đương nhiên, cả pháp sư và Lữ Cánh Nam đều biết thân phận của Cường Ba thiếu gia. Đúng như Đường Thọ đã nói, họ chỉ biết Cường Ba thiếu gia có thân phận cao quý, nhiệm vụ của các Mật tu giả là bí mật tu hành, bí mật bảo vệ, nhưng họ chưa bao giờ biết, thân phận của gã rốt cuộc cao quý như thế nào.
“A ha!” Đường Thọ hình như sực nhớ ra một chuyện thú vị, quay đầu lại nói với Trác Mộc Cường Ba, “Ngươi vẫn không biết, đúng không? Trong các Mật tu giả có thuyết về ký chủ (vật chủ) và kẻ sống gửi. Bọn họ tự ví mình như một loại sinh vật ký sinh, ý ta, linh hồn của họ nương nhờ vào ký chủ để tồn tại, bọn họ sinh ra để bảo vệ ký chủ, ý nghĩa tồn tại của họ chính là bảo vệ ký chủ không bị tử vong bởi những lực lượng ngoài nhân tố tự nhiên.” Nói tới đây, Đường Thọ đột nhiên hạ thấp giọng xuống, ra vẻ thần bí: “Ta nghĩ, chắc chắn ngươi không thể biết, Lữ Cánh Nam, cô ta, chính là một trong những kẻ sống gửi vào ngươi.”
Trác Mộc Cường Ba giật nẩy mình, kinh ngạc hướng ánh mắt sang nhìn Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam mím chặt môi, nhìn thẳng về phía trước, không nói một lời. Đường Thọ vẫn khe khẽ thì thầm bên tai Trác Mộc Cường Ba: “Có lẽ, vào lúc ngươi khoảng bốn năm tuổi gì đó, cô ta đã biết sứ mệnh cả đời này của mình là gì, cô ta khắc khổ rèn luyện, chịu đựng những bài huấn luyện phi nhân tính là vì ai, cô ta sống vì ai, ý nghĩa tồn tại của cô ta là gì ? Mật tu giả, đúng là một quần thể kỳ quái, bọn họ... “
Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không còn biết Đường Thọ nói gì sau đấy nữa, trong đầu gã, mọi sự việc từ lúc gặp gỡ, quen biết Lữ Cánh Nam trong khoảnh khắc bỗng hiện lên một cách rõ nét. Người phụ nữ mạnh mẽ như loài chim ưng ấy, lần đầu tiên xuất hiện trước mắt Trác Mộc Cường Ba đã toát lên khí chất đặc biệt chỉ quân nhân mới có; lần đầu tiên tranh đấu vì một chiếc vòng cổ, khí thế cô hùng hổ chẳng kém gì đấng tu mi; trong phòng làm việc, thái độ nghiêm túc và cố chấp lúc cô vùi đầu vào đống hồ sơ; hết lần này đến lần khác, trong ánh hoàng hôn, cô đứng phía xa nhìn bóng gã và Mẫn Mẫn bên nhau, còn mình thì cô đơn lẻ bóng; để tìm kiếm đám người bị lạc lối trong rừng, cô đã một thân một mình xuyên qua rừng rậm Amazon, trên tay chỉ có một con dao săn; trong động băng trên núi tuyết, người phụ nữ kiên cường ấy dù bị đông thành đá cũng quyết không chịu mở miệng nhận thua, cô... cô ấy là kẻ sống gửi vào gã u? Còn gã, gã là ký chủ của cô sao?
Nhìn Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, Đường Thọ sốt ruột đẩy gã một cái, cưỡng ép gã rảo chân đi nhanh hơn. kế đó lại nói: "Sự việc đến đây vẫn chưa kết thúc. Loại vật chất mà Đạo quân Ánh sáng nghiên cứu ra ấy, về sau từng xuất hiện hai lần, mà hai lần này, đều liên quan đến vị sứ giả đã đến Cổ Cách kia. Dẫu sao thì lúc bấy giờ, tất cả đạo quân Ánh sáng đều đã bị cảm nhiễm, nhưng không phải tất cả bọn họ đều phát bệnh, chỉ có khoảng năm phần trăm số người xuất hiện triệu chứng rõ rệt thôi.”
Mấy người bọn Merkin đều thầm nhủ, vừa nãy chẳng phải ngươi nói một phần tư Đạo quân Ánh sáng đã biến mất rồi còn gì?
.
CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC
.
Đường Thọ dường như lại đọc được những gì bọn họ đang nghĩ trong đầu, bèn giải thích: “Ta biết các ngươi đang nghĩ gì, chuyện này có gì kỳ lạ đâu, chỉ có năm phần trăm Đạo quân Ánh sáng xuất hiện triệu chứng của bệnh, nhưng vì hệ thần kinh và cơ thể bọn họ đã bị vật chất đó biến đổi, để ngăn ngừa những người này, không thể không điều động hai mươi phần trăm nhân lực của Đạo quân Ánh sáng cùng chết với họ. Có điều, nhóm người di cư đến Shangri-la kia, sau khi đến nơi liền bắt đầu một đợt nghiên cứu mới. Xét cho cùng, đó cũng không phải là một nhóm người nhỏ, bọn họ đều có bản năng và khát vọng cầu sinh, vả lại, muốn khống chế được loại vật chất này, cũng cần phải nghiên cứu thấu triệt hơn về đặc tính sinh học của nó. Kết quả nghiên cứu đợt sau này cho thấy, quả nhiên những người ở Shangri-la cũng đã bị cảm nhiễm. Loại vật chất này đang ký sinh trong cơ thể họ, không phải họ không phát bệnh, mà là đang ở trong thời kỳ ủ bệnh. Khoa học ngày nay tuy đã chứng thực, dù là bệnh bò điên hay bệnh Kuru. cũng đều có thời kỳ ủ bệnh, thậm chí ở một số trường hợp thời kỳ này có thể kéo dài đến hơn 30 năm, có điều, một khi phát bệnh thì tỷ lệ tử vong sẽ là 100%, không thể cứu chữa. Sau khi nghiên cứu vô số lần, cuối cùng Đạo quân Ánh sáng đã có hiểu được thêm về loại vật chất ấy. Trong đợt tác dụng đầu tiên của nó, số lượng những người đột nhiên phát bệnh thực ra rất nhỏ, chỉ có một số người thể chất đặc biệt mẫn cảm mới xuất hiện các triệu chứng của bệnh thần kinh; còn đại đa số những người còn lại chỉ xuất hiện triệu chứng tương tự như bị viêm đường hô hấp, ho, hắt xì, sốt... ngắn thì năm bảy ngày, dài cũng không quá hai tháng, sau đó triệu chứng sẽ biến mất, mọi người có thể trở lại cuộc sống bình thường. Chỉ có điều, trong thời gian người nhiễm bệnh bị cảm mạo, loại vật chất kia sẽ sinh sôi một cách bùng nổ, đồng thời lan tỏa trên diện rộng. Con người gần như sẽ bị lây nhiễm 100%, nếu tiếp xúc với chúng. Sau đó, loại vật chất ấy sẽ tiềm phục trong cơ thể người nhiễm bệnh, bắt đầu dịch chuyển đến hệ thần kinh theo một phương thức mà hệ miễn dịch không thể nào phát giác được, cho đến khi phát bệnh lần thứ hai, thời gian kéo dài khoảng từ hai đến năm năm. Cũng có nghĩa là, từ lần đầu tiên xuất hiện triệu chứng cảm mạo, tùy theo từng cá thể mà thời gian ủ bệnh khác nhau, nhưng thời gian còn lại lâu nhất cũng không quá năm năm. Lần phát bệnh thứ hai này rất đáng sợ. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy, người bệnh đầu tiên là nguồn bùng phát lây lan loại vật chất đó, có thể truyền nhiễm cho người khác thông qua hô hấp, bài tiết và máu. Kinh khủng hơn nữa là, qua thời kỳ ủ bệnh kéo dài mấy năm, loại vật chất ấy gần như đã chiếm cứ hoàn toàn não bộ của người bệnh, vì vậy lần phát bệnh thứ hai này, người bệnh sẽ trở nên điên cuồng hung bạo, tấn công tất cả mọi sinh vật có thể chuyển động một cách vô ý thức. Vì cảm quan của những người này đã bị tổn thương nghiêm trọng, hệ thần kinh và cơ bắp không còn phối hợp hài hòa, nên động tác của họ cũng không được linh hoạt như trước. Nhưng cũng vì sự tổn thương của cảm quan và hệ thần kinh, bọn họ hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, vì vậy... cảnh tượng khi ấy, thực sự cũng hơi tanh máu và đáng sợ. Mà lần phát bệnh thứ hai này sẽ có hai kết quả hoàn toàn khác nhau. Thứ nhất, chính là như ta vừa nói, đau đớn cực độ, điên cuồng cực độ, cuối cùng nếu không kiệt lực mà chết giữa lúc điên cuồng tấn công bất cứ sinh vật nào trong tầm mắt thì cũng vì đau đớn mà mất dần các dấu hiệu của sự sống; ngoài ra, còn một trường hợp khác, chính là đại não bị tổn thương hoàn toàn, nhưng lại không ảnh hưởng đến công năng vận động của họ. Những người này có thể đi lại, ăn uống, sinh đẻ, sinh hoạt như người bình thường, điểm khác biệt duy nhất là không còn trí tuệ. Bọn họ chỉ còn giữ lại được những bản năng sinh tồn cơ bản nhất nguyên thủy nhất của động vật, đồng thời tiếp tục di truyền loại bệnh này đến đời sau, về thời gian di truyền kéo dài bao lâu, theo tính toán sơ bộ của ta, có lẽ vào khoảng... 300 năm.”
“Còn về khả năng truyền nhiễm, Đạo quân Ánh sáng cũng đã đi đến một kết luận tương đối, đại khái trong khoảng 1000 người, chỉ có một người không bị cảm nhiễm. Những người này có sức đề kháng tự nhiên, nhưng khả năng đề kháng này từ đâu mà có thì họ cũng không nói rõ được. Nhưng theo ta thì, có lẽ là do tổ tiên của người này từ thuở ở vùng man hoang đã ăn rất nhiều thịt người, vì vậy liền sinh ra kháng thể. Bằng cớ lớn nhất, chính là, Tứ đại Vu vương đều có khả năng đề kháng tự nhiên trước loại vật chất kia. Nói cách khác, ba người chúng ta, cùng với các thành viên trong gia tộc, đều có khả năng đề kháng trước loại vật chất ấy. Nó không có tác dụng gì với chúng ta. Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của ta thôi, rốt cuộc có chính xác hay không, chưa thử qua thì không ai dám đảm bảo cả.”
Đường Thọ dừng lại. Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng hỏi: "Câu chuyện của mày hết chưa?"
Đường Thọ cườỉ cười đáp: "Tất nhiên là chưa, ta vừa nói đấy, loại vật chất này về sau lại xuất hiện thêm hai lần nữa, vả lại cả hai lần này đều liên quan đến vị sứ giả truyền tống tin tức kia. Tình hình cụ thể thế này, năm ấy, sau khi Đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la, liền bắt đầu xây dựng lãnh thổ của riêng họ ở đây. Phải biết rằng, đại đa số cư dân sống ở Shangri-la này thời bấy giờ đều là các bộ 1ạc đã chiến bại trên cao nguyên, hoặc vô tình hoặc dựa vào truyền thuyết của tiền nhân mà tìm đến đây. Đối mặt với Đạo quân Ánh sáng vô địch, bọn họ hoàn toàn không có năng lực phản kháng. Đạo quân Ánh sáng đã trưng tập toàn bộ thanh niên trai tráng ở Shangri-la này đi xây dựng Bạc Ba La thần miếu, tốn hơn trăm năm mới hoàn thành. Đồng thời, họ cũng không ngừng cố gắng tìm cách khống chế loại vật chất kia, làm cách nào để phát hiện người sắp phát bệnh từ sớm, làm cách nào để khiến người đã xuất hiện triệu chứng của bệnh duy trì được lý tính, làm cách nào để kéo dài khoảng thời gian trước khi xuất hiện triệu chứng hoặc thời gian sinh tồn sau khi triệu chứng cảm nhiễm lần đầu xuất hiện... vân vân. Đông Bản Ba và hậu nhân của ông ta 1à lãnh tụ của toàn bộ nơi này. Đến khi Bạc Ba La thần miếu hoàn thành, hậu duệ của Đông Bản Ba cho rằng, trải qua trăm năm phân tranh, chiến loạn ở thế giới bên ngoài hẳn cũng đã kết thúc, vả lại, ông ta cảm thấy mình đã tìm được cách thức khống chế loại vật chất kia rồi. Nói theo cách của chúng ta ngày nay, thì họ đã phát hiện vắc xin sống giảm độc lực
(52)
hoặc vắc xin chết
(53)
. Vì vậy, ông ta quyết định thông báo cho sứ giả ở thế giới bên ngoài, mời hậu nhân của ba vị Vu vương còn lại đến Shangri-la, mở cửa Bạc Ba La thần miếu để lấy các báu vật và kinh văn của Tứ Phương miếu được Đạo quân Ánh sáng mang theo đến nơi này."
"Các ngươi nhất định lấy làm lạ, tại sao hậu nhân của Đông Bản Ba không thể trực tiếp lấy những món châu báu đó ra cho xong, mà nhất định phải mời hậu nhân của ba vị Vu vương còn lại. Chuyện này phải bắt đầu nói từ lúc xây dựng Bạc Ba La thần miếu. Năm đó, sau khi Đạo quân Ánh sáng tiến vào Shangri-la, liên tiếp có người phát bệnh, phá hoại rất nhiều. Đông Bản Ba lo lắng những người còn lại có thể phát bệnh bất cứ lúc nào, nói không chừng lại hủy hoại hết những đồ vật trân quý mà họ bảo vệ, vì vậy ông ta bắt đầu nghĩ đến việc xây dựng một kho tồn trữ bảo mật tuyệt đối để cất giấu báu vật. Cái kho ấy, chính là nơi này và tầng phía bên ngoài mà các ngươi vừa trông thấy. Lúc đó, Tứ đại Vu vương đã tề tựu về đây, vì vậy cơ quan huyết trì ở đây chẳng những yêu cầu có chài khóa, mà còn đòi hỏi phải dùng huyết mạch của ba vị Vu vương để khởi động. Đến khi cái kho tồn trữ này được xây dựng xong, Tứ đại Vu Vương mới lần lượt qua đời. Có lẽ, trước khi vị Bản Ba cuối cùng rời khỏi thế gian, ông ta đã nhắc nhở hậu nhân của Đông Bản Ba, phải xây dựng một thần miếu khổng lồ để bảo vệ kho tàng này, chớ nên để một kẻ tùy tiện cũng có thể dếnđược đây, dùng sức trâu phá hoại. Những thành viên còn lại trong Đạo quân Ánh sáng và những lao động bị họ trưng dụng đều có tín ngưỡng của riêng mình, bọn họ sinh con đẻ cái ở đây, không ngừng làm việc, từ đó Bạc Ba La thần miếu mới lấy kho tàng này làm trung tâm, bắt đầu mở rộng ra phía ngoài, quy mô càng lúc càng lớn, cuối cùng hình thành nên một tòa thần miếu như các ngươi thấy bây giờ.”
“Ta lại nói đi xa quá rồi, thời đó, các vị Vu vương đều là những người có đại trí tuệ và pháp lực vô biên, bọn họ lại đem phần lớn những trí thức mình sở hữu truyền thụ cho con cái. Lẽ đương nhiên, họ cho rằng, tất cả hậu duệ của mình cũng sẽ trở thành những người sở hữu đại trí tuệ và pháp lực vô biên. trong tín ngưỡng của người Qua Ba, chỉ cần ba vị Vu vương tề tựu là có thể quyết định bất cứ việc gì trên thế gian này. Có điều, e rằng các vị Vu vương cũng không ngờ được, một nghìn năm sau, đám hậu duệ chúng ta đây không còn tin vào điều đó nữa. Bởi vậy, năm đó, hậu nhân của Đông Bản Ba phái người mang chìa khóa và bản đồ chỉ đường đến Shangri~la ra ngoài, đồng thời mang theo một bản sao lục của bản tổng cương ghi lại toàn bộ kinh sách cũng như châu báu được tàng trữ trong Bạc Ba La thần miếu mà Tứ đại Vu vương lưu lại. Bản tổng cương đó, chính là thứ được các ngươi gọi là Đại Thiên Luân Kinh. Đại Thiên Luân Kinh bao la vạn tượng, không gì là không có, nhưng kỳ thực nó chỉ là một bản tổng cương, một vạn hai nghìn bài tụng, lần lượt bao hàm một vạn hai nghìn phân mục, tỷ như Phật học, Đạo học, Nho học, Nông nghiệp, Sinh vật, Thủy lợi, Luyện kim, Chế tạo vũ khí... đều chỉ có thể coi như một phân mục đơn lẻ mà thôi. Các ngươi hãy nhìn những ngăn kéo này xem, nhìn những thư tịch kinh sách chất đầy bên trong đó mà xem, một vạn hai nghìn phần mục đấy. Nơi đây gần như đã thu thập kết tinh toàn bộ trí tuệ từ thời Đường trở về trước trên toàn thế giới, có cả những thứ kỹ thuật cố xưa mà khoa học hiện đại ngày nay cũng chưa thể giải thích. Có câu, châu báu có giá, trí tuệ vô giá, vì vậy các kinh thư điển tịch ghi chép lại những kỹ thuật tiên tiến nhất của thời đại đó,
đều được để ở tòa tháp trung tâm này, đại điện ngoài kia chỉ cất giữ một số vàng bạc châu báu quý giá mà thôi.”
“Còn về ba chiếc chài khóa, chính là thứ để mở cánh cửa ngoài kia ra, nói ra cũng thật kỳ quái, tổ tiên chúng ta đều đã quên hết bí mật kia rồi, vậy mà vẫn giữ được ba chiếc chìa khóa này, truyền thừa đến tận ngày nay. Ta nghĩ, có lẽ là vì bản thân tạo hình của ba thanh kiếm đồng này tượng trưng cho sinh thực và truyền thừa cũng nên. Lại nói về bản đồ, bản đồ được chia làm ba phần, cũng chính là ba món tín vật mà các ngươi khổ công tìm kiếm. Món tín vật đầu tiên là hai tấm bản đồ da sói, lần lượt vẽ hai con đường thông qua sông ngầm dưới đất, và thông qua núi tuyết để đến Shangri-la. Tín vật thứ hai là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nó chính là bản đồ địa hình của toàn bộ vùng đất Shangri-la này đồng thời cũng ghi chú tuyến đường dẫn đến Bạc Ba La thần miếu sau khi từ thế giới bên ngoài tiến vào Shangri-la này. Còn món tín vật thứ ba bấy lâu nay vẫn luôn ở trong tay gia tộc chúng ta, các ngươi chưa từng thấy, ta gọi nó là Ngọc Xích. Thứ này ghi lại các cơ quan và tuyến đường bên trong Bạc Ba La thần miếu. Ba chiếc chìa khóa và ba món tín vật này được mang ra trong hai lần. Lần đầu tiên, sứ giả đưa chìa khóa đến tay tổ tiên của ba người chúng ta, nói thực lòng, ta cũng có chút khâm phục ý chí của người này. Tuy nói, ông ta biết được phương vị đại khái của hậu duệ ba vị Vu vương, nhưng phàm là con người, ắt sẽ có lúc phải di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, vả lại, tổ tiên của Merkin và ngươi bấy giờ chắc cũng đã quên hết bí mật và thân thế của gia tộc mình rồi, muốn tìm được tổ tiên các ngươi tuyệt đối không phải là chuyện dễ. Manh mối ta tìm được cho thấy, để đưa ba chiếc chìa khóa này đến tay tổ tiên của chúng ta, vị sứ giả kia ít nhất cũng tốn mười năm trời. Có điều, đến lần thứ hai khi mang bản đồ ra thì dễ dáng hơn nhiều, nhưng khi ấy lại nảy sinh một tình huống ngoài dự kiến. Khi đó, chắc hẳn tổ tiên của Merkin đã chẳng hứng thú gì với sứ mệnh của gia tộc nữa, ông ta đang lo bợ đít lấy lòng Cổ Cách vương, hy vọng có thể trở thành một vị quan quyền cao chức trọng. Bởi vậy, sau khi có được chìa khóa, ông ta đã nôn nóng đem đi tiến cống cho Cổ Cách vương. Một giọt máu có thể làm chiếc chìa khóa trông như thanh kiếm đồng hoàn toàn biến hình, đừng nói là Cổ Cách thời bấy giờ, cho dù nước Mỹ ngày nay cũng không thể tạo ra được sản phẩm công nghệ độc đáo như thế. Cổ Cách vương dĩ nhiên hết sức kinh ngạc, đồng thời, thân là hậu duệ của vương thất, Cổ Cách vương cũng biết bí mật về Đạo quân Ánh sáng, thế nên, khi sứ giả đến tìm tổ tiên của Merkin lần thứ hai... ông ta đã bị giữ lại Cổ Cách.”
Đường Thọ nheo nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Đại Thiên Luân Kinh và hai tấm bản đồ da sói lẽ ra phải được giao vào tay tổ tiên ngươi cũng bị giữ lại Cổ Cách. Đương nhiên, Cổ Cách vương chỉ lấy lý do muốn chiêm ngưỡng thần tích để giữ sứ giả lại, chứ không hề cưỡng chế câu lưu. Nguyên nhân thực sự khiến sự việc xoay chuyển hoàn toàn như vậy, bắt nguồn từ bên trong Shangri-la. Vốn dĩ, hậu nhân của Đông Bản Ba cho rằng, ông ta đã sáng tạo ra thứ tương tự như vắc xin sống giảm độc lực, có thể chữa trị được thứ quái bệnh kia rồi. Nhưng ông ta đâu biết, tri thức của ông ta so với Tứ đại Vu Vương quả thực cách biệt quá xa. Năm xưa, tổ tiên ta đã dốc hết tâ, lực nghiên cứu chế tạo ra loại vật chất này, loại vật chất mà ngay cả tổ tiên ta cũng không nghĩ được cách tiêu diệt, làm sao lại để bị chinh phục như thế? Chắc chắn tình huống mới mà họ phát hiện ra khi ấy là loại vật chất kia đã biến dị, khả năng tấn công mạnh mẽ hơn, càng dễ lây lan hơn. Hậu nhân của Đông Bản Ba cũng là một người thông minh, ông ta lập tức nhận ra rằng vẫn chưa đến lúc mở cửa Bạc Ba La thần miếu. Bởi lẽ, trước lúc làm chung, Tứ đại Vu vương từng cảnh cáo hậu nhân rằng, bên trong kho tồn trữ này không chỉ có toàn bộ châu báu của Tứ Phương miếu và thư tịch bao hàm văn minh cổ đại của toàn bộ thế giới, mà còn tồn lưu tất cả thành quả nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng, trong đó bao gồm cả thành tựu cao nhất, một mẫu nguyên thủy của loại vật chất kia. Vì vậy, ông ta liền truyền tin cho sứ giả, hy vọng sứ giả có thể thu hồi chìa khóa và bản đồ lại. Ta cũng không rõ thông tin này được truyền đến tay sứ giả bằng cách nào, có lẽ ở Tam Giang Nguyên vẫn còn người lưu thủ, từ Tam Giang Nguyên dùng các loài chim như bồ câu đưa thư hoặc chim ưng để truyền tin. Nhưng ông ta đã bỏ qua mất một vấn đề, sứ giả chỉ có thân phận người truyền tin, làm sao có thể đòi lại thứ đã giao vào tay chủ nhân được. Vị sứ giả ấy từng đến tìm tổ tiên của ta, phỏng chừng tổ tiên ta cũng không khác tổ tiên của Merkin là mấy, sau nhiều năm sống giữa những người bình thường, bọn họ sớm đã không còn nhớ gì về chức trách của mình nữa. Sau khi biết được trên đời này có một nơi như Bạc Ba La thần miếu, họ lại chẳng nôn nóng muốn đến đó xem sao, làm gì có chuyện giao trả tín vật trở lại chứ? Sứ giả không còn cách nào khác, đành giữ lại Đại Thiên Luân Kinh và tấm gương đồng chưa giao đi, đợi chờ mệnh lệnh tiếp theo của hậu duệ Đông Bản Ba.
"Ông ta không hề biết, vị hậu duệ của Đông Bản Ba ấy cũng đang lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nam, hậu quả của lần biến dị đó hết sức kinh khủng, vị hậu duệ đó đã gần như tuyệt vọng. Ông ta bắt đầu tin chắc rằng, từ khoảnh khắc loại vật chất ấy được sinh ra, số mệnh đã định sẵn con người không thể chiến thắng nổi nó. Thế nhưng, trong Bạc Ba La thần miếu là kết tinh của trí tuệ nhân loại suốt bao đời, nếu thu hồi bản đồ trở về, sợ rằng người ở thế giới bên ngoài sẽ không bao giờ tìm được nơi này nữa, vậy thì ngọn lửa trí tuệ của tổ tiên loài người sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong thần miếu. Song mặt khác, nếu người không biết chuyện lại mở chiếc hộp ma quỷ chứa đựng loại vật chất kia ra, thì cả nhân loại này, sợ rằng không cần phải nói đến trí tuệ làm gì nữa. Tồn tại hay la hủy diệt, đây có lẽ là vấn đề năm xưa vị hậu duệ của Đông Bản Ba suy nghĩ nhiều nhất. Nếu nhân lực đã không thể quyết định được, thì đành giao cho ông trời quyết định vậy, cuối cùng, ông ta hạ quyết định, phân tán bản đồ đến chân trời góc biển. Giả sử ý trời muốn loại vật chất kia được trở lại thế gian, vậy chứng tỏ rằng trời muốn tiêu diệt loài người, không ai có thể thoát được, còn trong trường hợp bản đồ và chìa khóa bị hủy hoại vì nguyên nhân nào đó, tức là ông trời muốn xóa sổ Bạc Ba La thần miếu, vậy thì cứ coi như nơi này chưa từng tồn tại là được. Đây chính là quyết định cuối cùng của vị hậu duệ Đông Bản Ba đó, đồng thời, ông ta còn làm ra một chuyện điên cuồng khác nữa. Ông ta giao một phần loại vắc xin sống giảm độc lực kia cho sứ giả, nói cho sứ giả biết toàn bộ nguyên ủy sự tình, sau đó yêu cầu sứ giả tìm một hòn đảo nhỏ cách ly với thế giới bên ngoài, tốt nhất chỉ có một hai bộ tộc lạc hậu trên đảo, khoảng chừng trăm người để thử nghiệm loại vắc xin này một lần nữa. Ông ta vẫn không cam tâm, khi đó, nhân khẩu trên tầng bình đài thứ ba đã điêu linh đến mức không thế tiến hành thử nghiệm một lần nữa rồi."
"Những chuyện sau này, chắc hẳn các ngươi ít nhiều cũng điều tra được một chút rồi, sứ giả không biết đã dùng cách gì thuyết phục được Cổ Cách vương để ông ta mang theo tấm gương đồng đến tận châu Mỹ xa xôi, đồng thời phái 21 đệ tử, chia tách Đại Thiên Luân Kinh ra, phân tán đi khắp thế giới. Nhưng Cổ Cách vương này cũng rất giảo hoạt, ông ta chia tách Đại Thiên Luân Kinh, nhưng giữ hai tấm bản đồ da sói lại, hơn nữa còn phục chế cả Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, hẳn là bấy giờ Cổ Cách vương đã có ý đồ với Bạc Ba La thần miếu rồi. Còn vị sứ giả kia, đã thực hiện đúng theo yêu cầu của hậu duệ Đông Bản ba, làm một cuộc thí nghiệm nhỏ ở châu Mỹ. Quá trình thí nghiệm thế nào ta không biết, chỉ biết kết quả của lần thí nghiệm đó đã làm vị sứ giả kia hoàn toàn suy sụp, đồng thời một nền văn minh gọi là Maya cũng từ đó biến mất khỏi địa cầu. Ta đoan chắc, vị sứ giả ấy đã được tận mắt chứng kiến cái gì gọi là địa ngục trần gian rồi. Sau khi sứ giả trở về Cổ Cách, không hiểu đã xảy ra chuyện gì mà Cổ Cách vương lại sở hữu được chiếc hộp đựng phần vật chất còn sót lại. Về sau, khi Cổ Cách gặp phải họa diệt quốc, vị vương cuối cùng của Cổ Cách một lòng quyết tử, đã mở chiếc hộp đó ra, vậy là Cổ Cách cũng biến mất trong lịch sử. Trong các văn thư chính thức của Lạp Đạt Khắc có ghi lại, bọn họ đã phát động chiến tranh chinh phạt Cổ Cách, đồng thời giành thắng lợi trong cuộc chiến đó, nhưng lại không hề thống kê đại quân của họ đoạt được bao nhiêu châu báu, nô lệ ở Cổ Cách. Bọn họ chiến thắng, song không hề thu được chiến lợi phẩm nào. Thành thị của Cổ Cách thảy đều biến thành những tòa thành chết, cảnh phồn hoa hóa thành hoang phế đổ nát, xác người ở khắp mọi nơi, cũng còn một ít người sống, nhưng bọn họ không biết mình là ai, từ đâu đến, có thể làm gì.”
“Michael Young
(54)
, người nước ngoài đầu tiên đặt chân đến vùng đất phía Tây Tây Tạng đã rất kinh ngạc trước mức độ lạc hậu và nguyên thủy của văn minh bộ lạc ở nơi này. Ông ta đã cảm khái thốt lên, tôi thật không ngờ, ở vùng đất cổ xưa thần bí phương Đông này vẫn còn lưu tồn một chủng tộc nguyên thủy như thế, bọn họ giống như đang sống trong thời kỳ Đồ đá cũ vậy, người người khoác da thú, sử dụng dụng cụ bằng xương, thậm chí còn không thể tự mình tạo ra một rnón binh khí bằng đá tử tế nữa. Thế nhưng, ông ta còn chưa biết, đây còn là kết quả sau khi bị văn minh ngoại lai can thiệp vào. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy, trước khi tác dụng di truyền của căn bệnh quái ác kia biến mất, có thể tiến hành can thiệp một cách thích đáng đối với những con người vô trí lực ấy. Nhưng kết quả của việc can thiệp là, những người đó chỉ có thể mô phỏng lại những hành vi đơn giản nhất, họ không thể phát âm, cũng không có ý thức tự ngã, huấn luyện họ đến mức độ cao nhất cũng không vượt qua được nhân loại ở thời kỳ Đồ đá cũ. Những người này chỉ mạnh hơn lũ khỉ một chút, thậm chí còn không so được với tinh tinh, sau này giải phẫu phát hiện, kết cấu đại não của những người bị di truyền căn bệnh kia khác với người bình thường. Đại não của họ hơi nhỏ hơn người thường, vả lại ở một số phần, tổ chức não đã bị suy thoái. Kỳ thực, ngày nay triệu chứng này cũng không phải hiếm gặp, chỉ có điều, không phải tầm tuổi nào cũng bị, mà thường chỉ có ở người già... chúng ta gọi là... bệnh Parkinson. Nói tóm lại, đây là một thứ vô cùng hay ho. Được rồi, chuyện đã kể xong, chắc hẳn các ngươi cũng biết ta đến đây vì thứ gì rồi phải không?"
Cuối cùng, Đường Thọ thở hắt ra một hơi dài, nhếch mép lên, nở một nụ cười thỏa mãn.
Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba không ai không tái mặt, nếu trên đời này có một thứ như vậy, nếu để thứ này lưu lạc ra bên ngoài thì hậu quả thực vô cùng đáng sợ. Hậu quả ấy, không phải một khu vực, hay một quốc gia nào có thể hứng chịu, nó sẽ làm thay đổi tương lai của toàn thể nhân loại. Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ lại bài thơ lưu truyền trong bộ tộc Kukuer và thôn Công Bố: “Một khi máu tanh làm vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai họa sẽ liên tiếp giáng xuống khắp mọi nơi như cơn mưa đá khủng khiếp, thành thị sẽ trở thành tòa thành chết, không người sống sót...” Đây há chẳng phải chính là hậu quả đáng sợ trong lời tiên tri đó hay sao?
Pháp sư Á La lên tiếng chất vấn: "Làm như vậy, rốt cuộc ngươi có lợi ích gì?"
“Lợi ích,” Đường Thọ nhếch mép lên cười khinh khỉnh: “Không, các ngươi căn bản không thể hiểu được ta, các ngươi không biết ta tồn tại vì cái gì. Ngươi thấy ta giống như kẻ tìm đến nơi này vì lợi ích sao? Ta chỉ muốn hủy diệt toàn nhân loại, nếu có thể khiến toàn nhân loại bồi táng cùng ta, cho dù ta chết đi, cũng coi như không tệ lắm.”
Bọn Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen giật mình kinh hãi, Merkin lắp ba lắp bắp hỏi: “Tại... tại sao?”
KẺ TỰ XƯNG LÀ THẦN
.
Đường Thọ cất tiếng, giọng đanh thép như một viên thảm phán đang tuyên án: "Loài người là kẻ thủ của toàn thế giới, mỗi một người các ngươi đều có tội! Những kẻ đang sống đều có tội, thế giới này vốn là một thế giới tự nhiên và hài hòa, mỗi loại sinh vật đều có đạo sinh tồn của riêng chúng, các chuỗi thức ăn xoắn bện lại với nhau, tạo thành một vẻ đẹp hòa hợp. Thế nhưng, kể từ khi sinh vật gọi là con người các ngươi xuất hiện, sự hài hòa ấy đã bị phá vỡ. Loài người là thiên địch của tất cả giống loài trên thế giới, còn bản thân các ngươi lại không có thiên địch. Các ngươi ngang nhiên chiếm cứ mắt xích cuối cùng của chuỗi thức ăn, cái gì các ngươi cũng ăn được, chuyện xấu xa gì các ngươi cũng làm được. Từ khi loài người xuất hiện, các giống loài trên thế giới biến mất nhiều hơn bất cứ giai đoạn nào trước đây. Lũ các ngươi lại không ngừng mở rộng lãnh địa, không ngừng cướp đoạt nguồn tài nguyên, thành thị của loài người càng lúc càng lớn, mà thành thị của các ngươi, ngoại trừ đối với bản thân con người và những loài sing vật do các ngưoi nuôi dưỡng, gần như không thích hợp cho bất cứ loại sinh vật hoang dã nào sinh tồn. Bản năng của các ngươi là tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên. Các ngươi tự cho mình có địa vị cao vời, có quyền đinh đoạt hết thảy. Đứng trước thiên nhiên, há chẳng phải các ngươi đã đặt mình vào vị trí của thần thánh rồi sao? Tài nguyên thiên nhiên phải trải qua mấy chục triệu thậm chí mấy trăm triệu năm mới hình thành, loài người chỉ cần máy năm là có thể vơ vét sạch trơn. Kỳ quan thiên nhiên mất hàng triệu năm mới thành hình, con người có thể san phẳng thành bình địa chỉ trong mấy phút đồng hồ ngắn ngủi. Vì loài người chia thành nhiều quốc gia và sắc tộc khác nhau, nên mỗi một quốc gia đều ra sức đề cao việc sinh sôi nảy nở, dân số càng lúc càng nhiều, nhưng họ vẫn lo lắng người nước mình chưa đủ đông, khiến dân sô thế giới bùng nổ. Mỗi một người sinh ra đều có ý thức xâm chiếm rất mạnh mẽ. Từ khi còn là đứa trẻ ẵm ngửa, các ngươi đã biết nắm chặt lấy thứ ở trong tay mình. Mỗi một con người đều phải ăn rất nhiều sinh vật khác mỗi một con người, đều muốn mở rộng không gian sống thuộc về riêng mình, những thứ này từ đâu ra chứ? Không tên nào là không vươn bàn tay về phía thiên nhiên Nhu cầu của các ngươi càng lúc càng lớn, đối với bất cứ nguồn tài nguyên nào, loài người cũng chỉ biết cướp đoạt mà không cần nghĩ đến hậu quả về sau. Cũng có một nhóm nhỏ ăn no rửng mỡ mới nhảy ra nói phải bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, thế nhưng thử hỏi, những lời bọn chúng nói, có tác dụng gì hay không? Loài nguời là loài sinh vật duy nhất không vì nhu cầu sinh tồn và bảo vệ lãnh địa cũng tàn sát lẫn nhau; loài người, là loài sinh vật duy nhất không vì sự tiếp diễn của chủng tộc mà điên cuồng sinh sản; loài người là loài sinh vật duy nhất chỉ biết lấy của thiên nhiên; mà không biết hồi báo lại thiên nhiên; loài người, là tồn tại quái dị duy nhất trên thế giới này."
Đường Thọ chợt đổi giọng châm biếm: "Loài người sánh được với châu cháu không? Những nơi đàn châu chấu bay qua, cọng cỏ cũng không mọc được, nhưng chỉ sau dăm ba năm, thiên nhiên sẽ hồi phục lại như xưa. Còn những nơi loài người các ngươi đi qua, thậm chí cả lớp đất bề mặt cũng biến mất, tất cả trở thành xi măng cốt thép, dù loài người có rời bỏ nơi đó mà đi, thì cả nghìn năm sau cũng không thể khôi phục.”
“Ta thường nghe các ngươi nói, trái đất là mẹ hiền, nếu trái đất cũng là bà mẹ hiền thật, vậy thì loài người các ngươi, chính là một thứ virus ký sinh trong thân thể bà mẹ ấy. Loài người là tế bào ung thư, các ngươi không ngừng tự nhân bản chính mình, không ngừng xâm chiếm những lãnh địa khác, đồng thời phá hoại vùng đất đó, cải tạo thành nơi chỉ thích hợp cho giống loài các ngươi sinh tồn."
“Tất cả các ngươi, đều lấy mình làm trung tâm, tỏa bức xạ độc hại của mình ra xung quanh; gần như mọi quốc gia đều đề cao nhân trị, không ngừng cải thiện phúc lợi của con người, tỷ lệ sinh đẻ hơi giảm xuống một chút là ra sức khuyến khích sinh đẻ. Nhu cầu của con người được thỏa mãn đến cực độ, vậy toàn thế giới thì sao! Nếu uy hiếp đến sự tồn tại của con người, thì dù có tiêu diệt toàn bộ sinh vật hữu cơ trên trái đất cũng không đáng tiếc chứ gì?”
“Thế giới này không phải thuộc về con người, mà hoàn toàn ngược lại, con người thuộc về thế giớỉ này. Con người các ngươi, luôn lấy mình làm trung tâm, mọi chuyện thị phi đúng sai, mọi tiêu chuẩn đạo đức, cũng đều xây dựng trên cơ sở lấy con người làm trung tâm. Vì nhu cầu của con người nên các ngươi có thể thỏa sức chém giết các giống loài khác, thậm chí còn tiến hành đánh bắt bằng những phương thức mang tính hủy diệt cả giống loài, vì nhu cầu của con người, các ngươi có thể vơ vét bóc lột tài nguyên thiên nhiên, hút máu địa cầu một cách vô độ, khiến sông hồ khô cạn, dầu mỏ kiệt cùng, rừng cây cháy trụi, mạch khoáng bị khoét rỗng; vì nhu cầu cảu con người, cần quái gì quan tâm đến trời long đất lở, hay giống loài khác bị hủy diệt. Khoa học kỹ thuật của con người càng phát triển, sức phá hoại của các ngươi càng lớn. Con người càng ngày càng thêm đông đúc, dục vọng của các ngươi sẽ vĩnh viễn không bao giờ ngừng lại. Mọi hành vi của loài người các ngươi đều đang hủy diệt thế giới này, vì vậy, muốn cứu toàn thế giới, nhất thiết phải tiêu diệt loài người trước tiên."
Đường Thọ nhắm hờ hai mắt, dang rộng cánh tay, cảm khái nói: “Ta thường nghĩ, tổ tiên chúng ta thực sự đã phát minh ra một thứ rất hay, với trình độ khoa học ngày nay, đừng nói là hai tháng, chỉ cần hai tuàn thôi, với tốc độ lây lan của loại vật chất này, chỉ cần hai tuần là đủ để nó lan truyền đến bất cứ nơi nào loài người có thể đặt chân đến trên thế giới. Sẽ chỉ còn một phần nghìn dân số đại cầu sống sót, trí thông minh nhất loạt đều trở về thời Đồ đá cũ, vậy là thế giới này sẽ trở nên hài hòa.”
Trác Mộc Cường Ba, Merkin, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn, thảy đều ngây người ra. Con người trước mắt họ đây, những chuyện y thừa nhận mình đã làm thoạt nghe đều hết sức tà ác xấu xa, khiến người ta rởn cả gai ốc. Nhưng giờ y lại đột nhiên nói, đó chỉ là đánh giá dựa trên tiêu chuẩn đạo đức của loài người, đồng thời y còn đề ra một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn, vượt qua phạm trù nhân loại, phóng tầm mắt nhìn rộng hơn, trên thế giới này con người mới là một loại động vật tà ác và đáng bị tiêu diệt.
Những mạch suy nghĩ trong đầu Trác Mộc Cường Ba trở nên hỗn loạn, gã biết rất rõ, những gì kẻ này nói là sai, chắc chắn có điểm nào đó không ổn, nhưng nhất thời gã lại không nghĩ ra điều gì để phản bác lại y. Dục vọng của loài người vĩnh viễn không có điểm dừng, tồn tại của loài người là một sự hủy hoại với toàn thế giới này, vì vậy... y... y... muốn hủy diệt loài người, để cứu lấy thế giới? Y nói, thế giới này không thuộc về loài người, loài người mới thuộc về thế giới này... rốt cuộc có gì không đúng nhỉ, nhất định phải có điểm nào đó không đúng! Đây, đây là tư tưởng kiểu gì vậy chứ? Cho dù là chủ nghĩa khủng bố cực đoan cũng không đến mức muốn hủy diệt toàn bộ nhân loại kia mà? Chỉ có những tà giáo theo thuyết Ngày tận thế trong truyền thuyết, mới tuyên truyền loại lý luận diệt tuyệt nhân loại này? Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, rốt cuộc là một tổ chức như thế nào, rốt cuộc bọn họ truyền bá loại tư tưởng gì cho các thành viên của mình vậy? Không, sợ rằng ngay cả các tà giáo theo thuyết Ngày tận thế cũng không đáng sợ bằng bọn họ, mỗi một câu một chữ đều điểm thảng vào nhược điểm của nhân tính. Loài người không cần thiết phải tồn tại? Sự tồn tại của loài người, chỉ mang đếi hủy diệt và phá hoại, không có bất cứ ý nghĩa gì sao? Không, nhất định là có gì đó không đúng ở đây.
Lúc này, Đường Thọ chợt vẫy tay với Trác Mộc Cường Ba, nhẹ nhàng dụ hoặc: "Gia nhập với ta đi, Cường Ba thiếu gia, ta và ngươi giống nhau, chúng ta đều có thân phận Vu vương, chúng ta mới là lực lượng đại diện cho chính nghĩa. Đương nhiên, chính nghĩa này không chỉ đối với loài người, mà ở phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều, là chính nghĩa của toàn thế giới Chúng ta có thể cùng nhau khai sáng một thế giới hoàn toàn mới, thế giới này không do ý chí của con người dẫn dắt nữa, tất cả đều phù hợp và thuận theo quy luật của đại tự nhiên. Mỗi một giống loài, đều có đạo sinh tồn của riêng chúng. Mỗi một giống loài đều có giá trị hợp lý của chúng, đến nơi cần đến, đi nơi cần đi, đó mới là một thế giới hài hòa và hoàn mỹ chứ. Đến đây, ngươi có muốn biết chân lý của vũ trụ hay không? Ánh sáng chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng."
Trác Mộc Cường Ba lại giật thót mình, câu nói cuối cùng của y, cha gã cũng từng nói qua, "Ánh sáng chỉ là một khoảng khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng.” gã còn nhớ rất rõ, nhưng bấy giờ. cha gã còn nói thêm một câu nữa, khiến cho ý nghĩa của câu nói khác hẳn với ý tứ mà Đường Thọ muốn biểu đạt, thậm chí trái ngược. Nhưng lúc đó cha gã nói gì nhỉ? Trác Mộc Cường Ba không sao nhớ lại nổi.
Lúc này, pháp sư Á La là người đầu tiên tỉnh trí lại, ông hỏi ngược lại Đường Thọ: "Ngươi... ngươi... sao lại có suy nghĩ như vậy, chẳng lẽ, ngươi... ngươi không phải là người sao?"
“Người?” Đường Thọ đùng đùng nổỉ giận, hệt như con mèo bị giẫm phải đuôi, "Đừng đem ta ra so sánh với những sinh vật đê tiện các ngươi." Y nắm chặt bàn tay trái lại: “Ta mạnh mẽ hơn các ngươi,” rồi y chỉ tay vào đầu mình: “Ta có trí tuệ hơn các ngươi! Năm mười tám tuổi, ta đã dùng ba thân phận khác nhau lấy được ba học vị tiến sĩ thuộc ba lĩnh vực khác nhau ở ba trường đại học khác nhau!” Rồi y lại chỉ vào những người trước mặt và sau lưng mình: “Ta có thể thao túng vận mệnh của các ngươi, mọi hành trình và kế hoạch của các ngươi đều được tiến hành theo sắp xếp của ta. Chỉ có Thượng đế mới có năng lực như vậy, phải không hả? Nếu ở thời cổ, ta, chính là Thần, ta là vị thần độc nhất vô nhị! Ta không phải là người!”
Merkin chửi thầm trong bụng: “Thần? Thần cái cục cứt ấy, trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn tùy tiện chọn ra đây một trung đội trưởng, đại đội trưởng, sợ rằng mày còn chẳng dám đánh rắm ấy chứ, chẳng qua chỉ ra vẻ trước mặt bọn ta mà thôi.”
Một luồng điện chạy dọc thân thể Trác Mộc Cường Ba, gã đột nhiên tỉnh táo nhận ra, kẻ đứng trước mặt mình là một tên điên hoàn toàn, một tên điên thực sự. Đây là một dạng điên cuồng khởi nguyên từ tín ngưỡng, đáng sợ hơn là, tên điên này lại giữ được lý trí tỉnh táo hơn bất cứ người bình thường nào khác, chẳng những vậy, trí thức của y cũng phong phú hơn người thường gấp bội... đây mới là điều đáng sợ nhất...
Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu rõ, ánh mắt đầy vẻ u uất, lại thoáng chút thương hại của Đường Thọ có ý nghĩa gì. Y nhìn người ta, chẳng khác nào nhìn một con kiến đã chết. Y tự nhận mình là Thần cao cao tại thượng, y nhìn con người cũng giống như con người đang quan sát một loài thực vật nguyên thủy bậc thấp nhất vậy. Cho dù trước mặt y có chết bao nhiêu người, xảy ra sự việc tàn nhẫn đến chừng nào, y cũng chỉ hờ hững quan sát, chẳng khác nào con người nhìn hai đàn kiến đánh nhau vạy thôi. Đây chính là ánh mắt của Đường Thọ, coi mạng người như mạng kiến, như cỏ rác. Không, sợ rằng trong mắt y, người thậm chí còn không bằng mạng kiến hay cỏ rác. Trên đời này sao lại có một kẻ như vậy chứ? Chẳng lẽ y không phải do cha sinh mẹ dưỡng hay sao?
Nghĩ đến cha mẹ Đường Thọ, trong óc Trác Mộc Cường Ba đột nhiên lóe lên một ý nghĩ, gã loáng thoáng nhớ mẹ Đường Thọ chết trong một vụ tai nạn xe cộ. Lúc mới biết thông tin này, gã cũng không cảm thấy gì, nhưng giờ đây liên tưởng đến thân phận Vu vương của Đường Thọ, rồi việc em gái mình bị bắt cóc, và cả cuộc chiến mấy chục năm giữa Mười ba kỵ sĩ bàn tròn và Mật tu giả... Vậy thì, vụ tai nạn xe cộ kia, sợ rằng cũng không phải là tai nạn. Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba không kìm được buột miệng hỏi: “Cha mẹ mày, vụ tai nạn xe cộ đó.”
Đường Thọ đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, như thể vừa phát hiện ra một đại lục mới. Y cảm thấy rất bất ngờ, trong tình huống này, không ngờ gã vẫn duy trì được tư duy cẩn mật đến thế, lại còn liên tưởng được đến cái chết của cha mẹ y. "Năng lực tư duy này cơ hồ sắp sánh được với ta rồi. Tên Trác Mộc Cường Ba, khoảng thời gian hắn một mình ở tầng bình đài thứ ba rốt cuộc đã xảy ra biến dị gì nhỉ? Chỉ mới vài tháng ngắn ngủi thôi mà." Nghĩ đoạn, Đường Thọ trả lời: “Đúng, vụ đó không phải là tai nạn, là do người của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn gây ra.”
Trác Mộc Cường Ba lại càng không thể hiểu nổi, gã hỏi tiếp: "Vậy mày... vẫn còn bán mạng cho bọn chúng sao?" Đường Thọ ngược lại cũng lộ ra nét mặt như thể chính y cũng thấy khó hiểu trước câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba: "Cha mẹ ta và ta, có quan hệ tất yếu gì chứ? Chẳng lẽ ngươi chưa từng nghe nói, mẹ và con, chẳng qua chỉ là quan hệ giữa túi đựng thóc và hạt thóc, còn cha và con, cũng chỉ là quan hệ giữa máy gieo hạt và hạt giống thôi sao. Thóc có thể đựng trong bất cứ cái túi nào, hạt giống cũng có thể tùy tiện bỏ vào cỗ máy gieo hạt nào cũng được, ta chẳng qua chỉ mượn thân thể họ để đến với thế giới này mà thôi, từ khi cuống rốn đứt đoạn, ta đã là một tồn tại độc lập, trên trời dưới đất, duy ngã độc tôn, dù cha mẹ ta là ai, ta cũng là vị Thần độc nhất vô nhị."
Trác Mộc Cường Ba lại thêm một lần chấn động, gã không thể ngờ Đường Thọ lại điên đến mức độ này. Sau vụ tai nạn xe cộ năm đó, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rốt cuộc đã làm gì với đứa bé trai mười một tuổi ấy nhỉ? Rốt cuộc phải trải qua những điều gì, mới khiến một người trở thành điên cuồng đến vậy? Đáng sợ nhất là, bọn họ lại có thể khiến kẻ ấy liều mạng học tập, không ngừng làm bản thân mạnh mẽ lên, mà tất cả mọi việc kẻ ấy làm, không ngờ lại chỉ vì... hủy diệt toàn bộ loài người!
Trác Mộc Cường Ba ném ánh mắt về phía Mẫn Mẫn, nếu Đường Mẫn này chỉ là một thế thân được Đường Thọ tuyển lựa để làm mê hoặc gã, vậy thì em gái của y đâu rồi? Đường Thọ đúng là có một cô em gái kia mà, nếu y đối với cha mẹ sinh thành ra mình còn có thái độ như thế, vậy thì em gái y... gã lại hỏi tiếp: "Vậy còn em gái mày..."
Đường Thọ mỉm cười, để lộ hàm răng trắng bóng ưa nhìn, nhẹ nhàng nói: "Em gái ta à, hồi nó mười sáu tuổi, ta đã luộc nó lên ăn hết rồi."
Trong ánh mắt kinh khủng của đám người Trác Mộc Cường Ba, Đường Thọ hờ hững nói như thể đó là một chuyện hết sức bình thường: "Bản thân là vị chân thần duy nhất, số mệnh đã định sẵn ta là tồn tại cô độc và không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Ta chỉ tuân theo truyền thống của tổ tiên, để linh hồn của em gái vĩnh viễn ở bên ta mà thôi, thế chẳng phải tốt lắm sao?"
Trác Mộc Cường Ba không tài nào hiểu nổi nữa, có thể khẳng định một điều, cái thứ đang đứng trước mặt gã đây, tuyệt đối không phải là người, mà là ma quỷ. Không. nó còn khủng khiếp hơn cả ma vương trong truyền thuyết, đáng sợ nhất là, nó luôn khoác lên 1ớp vỏ ngoài của con người, khi nó nói chuyện, không bao giờ để lộ ra nét mặt hưng phấn hay rồ dại. Ngay cả lúc pháp sư Á La nói nó cũng là người, chẳng qua nó cũng chỉ hơi nổi giận mà thôi. Từ đầu chí cuối, nó luôn giữ cho mình bộ dạng khiêm hòa nhã nhặn như một bậc quân tử đường hoàng. Thoạt nhìn bề ngoài, nó còn văn minh, còn lịch sự hơn hai kẻ quần áo rách rưới bẩn thỉu như Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Thậm chí mỗi lời nó nói ra, còn toát lên khí chất của trí giả hay quý tộc, rốt cuộc kẻ này là con quái vật như thế nào đây? Rốt cuộc nó là dạng tồn tại kiểu gì?
Lúc này, Đường Thọ đã lại nói tiếp bằng ngữ điệu trầm bổng du dương của y: "Nhìn đi, chúng ta đến rồi, di sản của tổ tiên để lại cho chúng ta, lễ vật cuối cùng hiến tặng cho toàn nhân loại, đẹp biết bao!"
Lúc này, họ vừa xuống đến vòng cuối cùng của cầu thang xoáy ốc, phần đáy tòa tháp hình trứng đã hiện lên trước mắt. Ở chính giữa đáy tháp, có một Mạn Đà La nhỏ, tổng cộng có chín tầng, bốn tầng dưới hình vuông, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, trông như kim tự tháp. Bốn tầng trên nữa hình tròn, cũng tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, giống như Thiên Đàn ở Bắc Kinh. Tầng trên cùng là một tòa sen lớn, trên tòa sen đặt ba bức tượng Phật vàng, mặt hướng vào trong. Ba bức tượng này tạo thành một hình chữ phẩm
(55)
, chính giữa là mộtt quả trứng lớn bằng vàng, cao đến hai ba mét, nhìn xa trông như một quả trứng gà màu vàng dựng đứng. Nếu nhìn kỹ hơn sẽ phát hiện, bề mặt quả trứng vàng ấy toàn bộ đều do những bức tượng Phật nhỏ xíu ghép lại mà thành, khoảng hai phần ba bên dưới quả trứng bị khoét rỗng, điêu khắc thành hình lầu các, bên trong đặt ngay ngắn một cái hộp. Cái hộp đó rất giống với cái hộp dài mà bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy trong tấm ảnh thời Thế chiến thứ Hai. Ngoài Mạn Đà La ở trung tâm, xung quanh còn có vô số kinh quyển chất chồng như những ngọn núi nhỏ, mỗi đống cao từ ba đến năm mét, tổng cộng áng chừng không dưới một trăm đống như thế, có lẽ vì những ngăn kéo trên thân tháp đều đã đầy chặt nên không nhét đống kinh sách này vào được.
Mấy chục bậc thang cuối cùng này, ngoài Đường Thọ và đám lính đánh đánh thuê kia, bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều như đội cả trái núi lên lưng mà đi trên mặt băng mỏng. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam ra sức đưa mắt ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin, bất kể dùng cách gì, cũng nhất định phải ngăn cản tên điên này lại. Nhưng muốn ngăn Đường Thọ đâu có dễ, pháp sư Á La và Lữ Cánh nam vẫn đang bị trói tay, ở giữa còn bị mấy tên lính đánh thuê ngăn cách. Từ đầu đến giờ, Đường Thọ chỉ dùng tiếng Trung, bọn lính đánh thuê kia nghe chẳng hiểu gì, cho dù bây giờ Merkin nhảy ra hét lên bằng tiếng Nga rằng thằng này bị điên rồi, hắn muốn giết tất cả chúng mày đấy, e rằng chỉ đổi được một trận cười chế giễu của bọn chúng mà thôi, Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam không ngừng ngọ nguậy cổ tay hòng cởi dây trói, đồng thời, ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, bảo gã dùng lời nói kéo dài thêm chút thời gian nữa.
Tâm tư Trác Mộc Cường Ba rối bời, vô số suy nghĩ chạy tán loạn trong đầu, biết nói gì mới có thể làm chậm lại hành động của tên này đây? "Ha ha!" Gã đột nhiên bật cười hai tiếng: “Tao thừa nhận, câu chuyện của mày rất đặc sắc, suýt chút nữa tao cũng bị gạt rồi. Trên đời làm gì có thứ gì như vậy chứ? Nếu nó thật sự đáng sợ nhường ấy, sao nơi này, lại vẫn có người sinh sống? Chẳng những vậy, họ cũng đâu có biến thành những kẻ si đần. Nếu thứ vật chất ấy tồn tại thật, hậu duệ của Đông Bản Ba sao còn có thể tiếp tục nghiên cứu thêm cả trăm năm nữa?”
Đường Thọ không hề dao dộng, hờ hững đáp: “Ta kể câu chuyện này cũng chẳng phải để các ngươi tin ta. Có điều, ta vẫn có thể giải đáp thăc mắc này của ngươi. Đầu tiên, ta đã nói, loại vật chất này sau khi rơi vào trạng thái ủ bệnh, trước khi phát bệnh lần thứ hai sẽ không còn tính truyền nhiễm nữa, vì vậy, mặc dù Đạo quân Ánh sang đi từ tầng bình đài thứ nhất lên đến tầng bình đài thứ ba, qua lãnh thổ của tất cả các bộ lạc, còn xây dựng cho những bộ lạc này khá nhiều cơ sở hạ tầng, song họ không hề truyền nhiễm thứ cật chất kia cho các cư dân bộ lạc. Còn việc tại sao họ có thể duy trì nghiên cứu hơn một trăm năm, ngươi dừng quên, việc xây dựng Bạc Ba La thần miếu cần chiêu mộ một lượng lớn dân công. Ta không rõ Đạo quân Ánh sáng đã tìm ra cách gì, nhưng hiển nhiên họ có thể biết trước người nào sắp sửa phát bệnh, nên đã xây dựng khu vực riêng dành cho những người này sử dụng. Mặt khác, trong đám dân công được chiêu mộ đó, tuyển lựa ra những kẻ cường tráng nhất, huấn luyện thành lực lượng cốt cán mới cũng là bản lĩnh sở trường của Đạo quân Ánh sáng, vì vậy, bọn họ vẫn được tiếp thêm dòng máu mới thay thế những người chết đi, chỉ cần làm tốt công tác cách ly những người sắp sửa phát bệnh là được. Còn về hậu duệ của Đông Bản Ba... điểm này ta cũng rất nghi hoặc, không biết có phải trời cao chiếu cố hay không, Tứ đại Vu vuong năm đó cơ hò đều tiếp xúc rất mật thiết với những người cảm nhiễm, nhưng họ không sao cà. Dưởng như trong cơ thể họ đều có sức đề kháng tự nhiên với loại vật chất này. Nói không chừng, đây chính là sức mạnh của Vu vương cũng nên. Vì vậy, trên lý thuyết, ba người chúng ta cũng không phát bệnh, đây là một trong những nguyên nhân ta mời ngươi gia nhập, bằng không, với trí tuệ và thực lực của ngươi, dựa vào cái gì mà được hưởng địa vị ngang hàng với ta chứ."
Đường Thọ đã bước xuống cầu thang, đi thằng về phía Mạn Đà La. Trác Mộc Cường Ba ngấm ngầm bước chậm lại, đi song song với Merkin, kẹp Đường Thọ vào giữa. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng bị bọn lính đánh thuê áp giải đi xuống, bọn họ hơi rao rchaan bước nhanh, từ từ áp sát Đường Thọ. Còn Mẫn Mẫn, lúc này tạm thời không ai rảnh trí để không cho cô, bị lọt lại phía sau cùng.
Đường Thọ giơ ngón tay trỏ lên, khẽ đung đưa trước mặt, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Phải rồi, cái hộp này, chắc các ngươi đã từng thấy trong quá trình tìm kiếm tư liệu rồi, Ở Cổ Cách, có một cái hộp giống hệt như vậy, sau này bị Morgan Stanley lấy đi. Thời Thế chiến thứ Hai, nó rơi vào tay quân Đức, Hitler còn tưởng vớ được của báu, chỉ đáng tiếc, bên trong lại chẳng có gì cả...”
Đường Thọ đã bước lên bậc thang cảa tầng Mạn Đà La thứ nhất, đúng lúc này, pháp sư Á La hét lớn: “Ra tay!”
Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng lúc giáp công Đường Thọ, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng giằng dây trói trên tay ra. Lữ Cánh Nam vừa ra tay liền nhằm vào hai tên lính đánh thuê ở bên cạnh, cồn pháp sư Á La lách người lao lên, vòng qua tên lính đánh thuê trước mặt bằng một loại bộ pháp kỳ dị, tấn công váo lưng Đường Thọ.
LIỀU MẠNG
.
Đường Thọ trông có vẻ ung dung hờ hững, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa hành động, y lập tức có phản ứng ngay, hai cánh tay dang rộng. Y thấp người, cánh tay ngắn, song lại xuất phát sau mà đến trước. Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba lĩnh ngộ được, thế nào gọi là tốc độ.
Sải tay Đường Thọ vốn không dài bằng bằng Trác Mộc Cường Ba và Merkin, nhưng tốc độ của y quả thực nhanh đến khó bề tưởng tượng. Nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba còn chưa đến nơi, tay Đường Thọ đã liên tiếp vỗ ba cái trên cánh tay gã, buộc Trác Mộc Cường Ba không thể không lui lại phòng ngự.
Đối với tốc độ của Đường Thọ, Merkin cũng có nhận thức nhất định, vì vậy, y không dùng nắm đấm, mà hai tay cùng vươn ra định chộp lấy đối phương như chim ưng bắt rắn. Vốn dĩ tưởng rằng đã chụp trúng đến nơi, nhưng cánh tay kia của Đường Thọ quả thực quá quái dị, khớp xương vai xoay chuyển đúng ba trăm sáu mươi độ, khớp cùi chỏ xoay ba trăm sáu mươi độ, khớp cổ tay cũng xoay ba trăm sáu mươi độ, con rắn độc thoắt cái đã nhẹ nhàng thoát ra vươn lên, nhằm vào cằm Merkin mổ một cái. Merkin vội ngửa đầu rụt tay về.
Lúc này, pháp sư Á La đã vọt ra phía sau lưng Đường Thọ. Lữ Cánh Nam cũng lật cổ tay, dùng thuật Cầm nã thủ đoạt lấy khẩu súng trên tay tên lính đánh thuê gần cô nhất. Hai tay Đường Thọ đang vướng víu với Trác Mộc Cường Ba và Merkin, tư tưởng vốn đã bị phân tán, nhưng đối với đòn tấn công của pháp sư Á La, dường như cũng đã có đề phòng từ trước. Chỉ thấy y không chút hoảng hốt, đợi pháp sư Á La lao đến một khoảng cách nhất định, chân phải liền bật tung lên như đuôi bò cạp, khớp gối, và mắt cá chân cũng cực kỳ linh hoạt, nào móc, nào đỡ, nào chặn, nào đạp, nào quấn... chẳng khác nào cánh tay người thường. Chẳng những vậy, gót chân và mũi chân y luôn nhằm vào vết thương trước ngực của pháp sư Á La để công kích. Pháp sư không thể không dùng hai tay phòng thủ vết thương, không sao áp sát lại gần được.
Đường Thọ đồng thời ứng phó với ba hướng tấn công, song lại vẫn có thể gây áp lực lên cả ba, khiến mỗi người bọn Trác Mộc Cường Ba đều cảm thấy mình đang toàn lực chiến đấu với một kẻ địch đơn độc. Chẳng những vậy, thứ tự xuất chiêu, tốc độ, động tác của đối phưong cũng hoàn toàn khác nhau, tên Đường Thọ này, không ngờ lại có thể phân tâm làm ba việc cùng một lúc như vậy. Trác Mộc Cường Ba phải dồn hết sức vào hai tay, mới miễn cưỡng theo được tốc độ tay trái của Đường Thọ. Tốc độ của Merkin, có vẻ nhanh hơn tay phải của Đường Thọ một chút, nhưng sức mạnh của cánh tay này lại cực lớn, Merkin đã hai lần khóa được cánh tay đối thủ, song lần nào cũng như chụp phải cây cột sắt, thoáng cái đã bị đối phương giằng ra. Thậm chí còn sém chút nữa bị Đường Thọ lợi dụng thời cơ phản công lại. Còn pháp sư Á La cũng bị cẳng chân như đuôi bọ cạp kia của y phong tỏa, bàn chân không ngừng nhằm vào vết thương của pháp sư mà tấn công liên tiếp, khiến ông nhất thời không thể thi triển quyền cước. Chẳng những vậy, Đường Thọ còn dồn ép khiến cho thân hình pháp sư Á La luôn ở trên cùng một đường thẳng với họng súng của Lữ Cánh Nam, làm cô không tìm được khe hở nào để xạ kích.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin triển khai giáp công từ hai bên trái phải, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam giằng thoát dây trói, pháp sư Á La lao lên trước, Lữ Cánh Nam đoạt súng, rồi Lữ Cánh Nam giành được khẩu súng về tay thì pháp sư đã bị áp chế, toàn bộ quá trình ấy chỉ diễn ra trong khoảng hai giây đồng hồ. Trong hai giây ngắn ngủi này, Đường Thọ đã thể hiện thực lực kinh người của y, đứng trên một chân, thân thể vươn ra trước, hai tay và một chân lần lượt tấn công ba người khác nhau. Chẳng những vậy, còn ung dung lấn lướt cả ba người đó. Hai giây trôi qua, bọn lính đánh thuê xung quanh đã có phản ứng, vội vàng giương súng lên ngắm. Trong hai giây đó, Lữ Cánh Nam không sao tìm được cơ hội nổ súng, giờ đây thời cơ đã mất, có thể đảm bảo sự an toàn của pháp sư và Trác Mộc Cường Ba hay không chỉ còn dựa vào mình cô. Bất đắc dĩ, cô đành xoay chuyển họng súng, nhắm vào bọn lính đánh thuê điểm xạ.
Bon linh đánh thuẻ này mặc dù phản ứng không nhanh bằng những người đã được huấn luyện đặc biệt như Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba, nhưng tên nào tên nấy cũng đều là những kẻ dạn dày kinh nghiệm sống sót trên những chiến trường khốc liệt nhất, bản thân đã có một thứ khí thế bá đạo không biết sợ chết. trong không gian chật hẹp như vậy, chúng cũng không chút e dè mà giương súng lên bắn tán loạn.
Trác Mộc Cường Ba dáng người cao lớn là mục tiêu rất nổi bật, bọn lính đánh thuê sớm đã ôm hận trong lòng với gã, cả mấy khẩu súng cùng lúc chĩa về phía gã. Trác Mộc Cường Ba ít nhiều cũng được Lữ Cánh Nam huấn luyện chiến đấu cận thân dùng súng, biết rằng tốc độ con người thế nào cũng không thể nhanh hơn đạn bắn, bới vậy, yếu lĩnh của thuật chiến đấu cận thân chính là, tránh họng súng của kẻ địch vào khoảnh khắc trước khi hắn lẩy cò. Nhưng khi gã né tránh, muốn tiếp cận Đường Thọ còn khó hơn lên trời nữa.
Trác Mộc Cường Ba quên mất gã đang chiến đấu với ai, chỉ một thoáng do dự ấy, lập tức đã bị Đường Thọ nắm bắt cơ hội. Cánh tay Đường Thọ vươn ra, chộp tới, định níu vào bả vai Trác Mộc Cường Ba. Chiêu này của y, chính là để thân thể Trác Mộc Cường Ba hướng đúng về phía họng súng của bọn lính đánh thuê. Trác Mộc Cường Ba phản ứng theo bản năng, xoay hông lùi về hòng chống lại sức mạnh của Đường Thọ, đồng thời vung tay định đánh vào cánh tay và mặt đối phương. Không ngờ, cú chộp vào bả vai ấy của Đường Thọ chỉ là hư chiêu, Trác Mộc Cường Ba vừa lùi lại, y đã lập tức tức rút súng cầm trên tay. Vì cả người giật lùi về phía sau, nắm đấm của gã cũng không thể đánh trúng mục tiêu. Khi nhận ra ĐườngThọ giở trò, thân thể gã lại hơi vươn ra phía trước. Chẳng ngờ, Đường Thọ chính là đang đợi gã làm vậy. y vừa nổ súng nhắm vào vai Trác Mộc Cường Ba, đồng thời, nắm chặt tay, cánh tay rung lên phát ra tiếng “u u” như ong đập cánh. Trác Mộc Cường Ba nghiêng người ra trước, chẳng khác nào giơ thân thể ra cho Đường Thọ đánh, cả mấy cú đấm đều nhằm vào một vị trí trên trán. Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng không biết mình trúng phải năm hay bảy hay chín cú đấm nữa, cùng lúc mấy chỗ khác trên người gã cũng tê rần rần, hằn là đã trúng đạn.
Nắm đấm của Đường Thợ giật đi giật 1ại trong khoảng cách chưa đầy mười xăng ti mét, phát lực chỉ trong chớp mắt, dùng tốc độ kinh người đó để bù đắp lại khoảng cách. Người đứng bên cạnh quan sát, chỉ thấy nắm đấm Đường Thọ kêu lên "u u" chạm vào trán Trác Mộc Cường Ba một cái, gã đã loạng choạng bật ngửa người ra rồi.
Đồng thời, chân kia của Đường Thọ cũng tăng thêm sức ép lên pháp sư Á La. Lữ Cánh Nam phải dè chừng bọn lính đánh thuê, không thể tạo nên uy hiếp gì với y được nữa, vì vậy y cũng không cần mất công áp chế pháp sư Á La phải luôn ở trên cùng một đường thẳng với nòng súng của cô nữa. Xương lồng ngực của pháp sư Á La đã gãy lìa, mặc dù ông đã dùng sức mạnh của cơ bắp gượng ép lại, nhưng mỗi lần hô hấp, mỗi lần tim đập, ít nhiều đêu có ảnh hưởng. Đối với một Mật tu giả, không thể hít thở bình thường chẳng khác nào bị phế đi một nửa võ công. Sau mấy lần giao phong, Đường Thọ đột nhiên dồn sức vào chân, khiến pháp sư Á La tuy đã dùng hai cánh tay chặn được cú đá của y, song vẫn phải loạng choạng lùi lại mấy bước vì lực đạo quá mạnh.
Phía bên này, chỉ có Merkin đang quần thảo với tay phải của Đường Thọ là giành được ưu thế nhất định. Mặc dù hết lần này đến lần khác khóa chặt được cánh tay đó nhưng Merkin cũng không dám dốc hết toàn lực, bởi trong ký ức của y, tốc độ và sức mạnh của tay phải Đường Thọ ít nhất cũng gấp đôi tay trái! Làm sao y có thể dễ dàng khóa chặt được nó như vậy chứ? Chắc chắn có gì gian trá ở đây!
Merkin chỉ thoáng do dự một khoảnh khắc, Đường thọ đã nắm bắt cơ hội, cùng lúc tăng cường thế công vào hai phía còn lại, đẩy lùi Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La.
Đến khi Merkin tỉnh ngộ ra rằng cánh tay này của Đường Thọ rất có thể đã gặp phải vấn đề gì thì Đường Thọ đã ra tay với y. Chỉ thấy thân thể Đường Thọ tiếp tục chúc xuống, trán gần chạm vào đùi non, kế đó cẳng chân vừa tấn công pháp sư Á La liền bật lên như đuôi bò cạp, đá thảng vào mặt Merkin. Đồng thời, tay phải đang bị Merkin khóa chặt cũng lật ngược lại tóm lấy cánh tay y.
Chiêu này Merkin nhận ra được, gọi là "Bọ cạp bật đuôi", sức lực toàn thân dồn cả vào một điểm, chỉ công không thủ, lực bạo phát cực kỳ đáng sợ. vả lại, chân hất lên từ phía sau, góc độ so với chân trụ còn lại phải lớn hơn một trăm tám mươi độ mới tấn công được kẻ địch ở trước mặt, người bình thường căn bản không thể làm ra động tác kiểu ấy. Trước thế tấn công quái dị, Merkin nào dám lấy cứng chọi cứng, vội vàng buông tay lui về. Nhưng góc độ ngửa ra sau của Merkin không lớn lắm, bởi y biết chiêu này có một nhược điểm, vì cú đá dồn hết sức lực toàn thân, có ông không thủ, nên một khi không trúng mục tiêu, người xuất chiêu chắc chắn sẽ lộ ra khoảng trống, đây chính là thời cơ phản kích tốt nhất dành cho y.
Đầu Merkin hơi ngả ra sau, vừa khéo tránh được cú đá chết người ấy, gió rít qua mặt u thậm chí còn hơi ran rát. Nhưng từ làn gió rát rạt ấy, Merkin chỉ đoán được Đường Thọ không kịp thu chân về phòng thủ, vì vậy, y chỉ hơi ngửa đầu ra sau một chút, rồi lập tức bật người lao lên.
Không ngờ, Merkin lại phạm phải cùng một sai lầm với Trác Mộc Cường, cú đá ấy của Đường
Thọ tốc độ hung mãnh, nhưng y căn bản không hề có ý định thu chân về. Y sớm đã tính toán được Merkin sẽ phản ứng thế nào trước đòn tấn công này, vì khi cao thủ đối đầu, tốc độ quá nhanh, thường thường không kịp suy nghĩ quá nhiều, đa phần đều phản ứng và phán đoán dựa trên trực giác. Nhưng trước khi xuất chiêu, Đường Thọ đã tính toán đến mọi phản ứng của đối thủ rồi, “đuôi bà cạp” của y đâm ra, thoạt nhìn có vẻ hung mãnh, nhưng lại chỉ là giả bộ, sau khi đá trượt, gót chân của Đường Thọ đã hơi xoay chuyển, eo hông phát lực, thân trên nhấc lên, rồi trầm xuống, thân thể đột nhiên tăng tốc xoay một vòng ba trăm sáu mươi độ. Cẳng chân đá ra lúc này vạch một quỹ tích hình tròn trên không trung. Lần này, cộng với lực xoay của thân trên, tốc độ cú đá lại càng nhanh hơn, lực đạo càng mạnh hơn nữa. Đầu Merkin vừa ngửa ra sau lại vừa khéo vươn ra trước, rõ ràng nhìn thấy bàn chân Đường Thọ lấy bản thân y làm trung tâm, vạch một vòng tròn quật tới, song không kịp rút đầu né tránh, liền trúng ngay một cước vào giữa mặt.
Lực đạo của cú đá này rất mạnh, Merkin thân hình to lớn vậy mà cũng như bị người khổng lồ xòe tay tát cho một cú, ngã vật ra đất. Đường Thọ thu chân lại, hai chân đứng thảng trên bậc thang Mạn Đà La. Trong cả đám người, lúc này, y đang ở vị trí cao nhất. Y khinh khỉnh cúi xuống nhìn những kẻ bên dưới, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều đã ngã gục, pháp sư Á La bị đẩy lùi vào giữa một đám lính đánh thuê, còn Lữ Cánh Nam vẫn đang lượn lờ du đấu với bọn lính đánh thuê. Đường Thọ bộ dạng hào khí can vân, hừ lạnh nói: "Châu chấu đá xe, không biết tự lượng sức, hừ, trong đám người các ngươi, cũng chỉ có lão già tên Tháp Tây kia là có thể khiến ta e ngại phần nào, tiếc rằng, lão ta thậm chí còn chẳng lên được tầng bình đài thứ ba này. Còn các ngươi, nói khó nghe một chút, ta đấu với các ngươi, đấy gọi là bắt nạt các ngươi thôi."
Lời vừa dứt, Đường Thọ nhìn pháp sư Á La tả xung hữu đột giữa làn mưa đạn, đánh ngã hai tên lính đánh thuê, cơ hồ lại muốn lao tới. Y cười khẩy: "Giờ đã không cần đến các ngươi nữa rồi." Chỉ thấy y xoay người, tay phải vung lên "vù" một tiếng, một bức tượng Phật cao ngang người ở tầng thứ nhất của Mạn Đà La đã bay bổng lên, bắn thẳng về phía pháp sư Á La.
Pháp sư Á La vừa đẩy lùi hai tên lính đánh thuê cầm súng, chỉ thấy một vật thể đen to tướng lù lù bay vút tới, vội vàng giơ cánh tay lên cản lại. Nhưng đà lao của bức tượng quá lơn, không ngờ lại hất văng cả pháp sư Á La, cả người lẫn tượng cùng đập vào một đống kinh sách, bấy giờ mới dừng lại. Bức tượng nặng nề đè lên cơ thể pháp sư, không chỉ khiến xương lồng ngực ông gãy ra lần nữ, mà ngay cả mấy cọng xương sườn ở hai bên cũng bị đè gãy nốt. Pháp sư Á La gắng sức đẩy bức tượng đè trên người mình ra, ngây ngươi nhìn kẻ đáng sợ đang đứng trên Mạn Đà La. Bức tượng vàng này ít nhất cũng phải năm trăm cân, vậy mà y chỉ hất tay một cái đã khiến nó bay xa như thế, lại còn kèm theo lực đạo lớn chừng ấy nữa. Không, đó tuyệt đối không phải sức mạnh của con người, tên này sao có thể làm được điều ấy chứ?
Pháp sư Á La khó nhọc nhổm dậy, đột nhiên toàn thân ông giật nẩy như bị chích điện. Ông cảm nhận rõ ràng, máu trong cơ thể mình không chảy theo các mạch máu nữa mà ào ào tuôn ra ngoài. Pháp sư Á La ấn tay lên chỗ xương lồng ngực bị gãy, lập tức hiểu ra, trái tim... đã vỡ rồi!
“Pháp sư, pháp sư...” lúc này, một người khóc lóc chạy đến. Pháp sư Á La nhìn gương mặt đầm đìa nước mắt của Mẫn Mẫn, khẽ mỉm cười, giúp cô cởi dây trói, rồi chỉ về phía bậc thang, thều thào nói: “Đi, giúp Cường Ba thiếu gia!”
Trác Mộc Cường Ba đã đứng dậy được, nhưng vẫn còn choáng váng. Gã giống như kẻ vừa bị một võ sĩ quyền Anh hạng nặng đánh ngã vậy, nhìn thứ gì cũng nhập nhòa mờ ảo, hai chân nhẹ bẫng bay bổng, chỉ lờ mờ trông thấy một bóng người đang chầm chậm bước về phía mình.
Đường Thọ đi tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng nói: "Ta đã cho ngươi cơ hội, nhưng ngươi lại dùng hành động này để trả lời ta. Ngươi đã lựa chọn như vậy, thì ta cũng giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện, kẻ nào chắn đường ta, đều không cần phải tồn tại trên đời này nữa!" Dứt lời, Đường Thọ hít sâu một hơi, khoang ngực phồng lên như trống, kế đó, những khớp xương trên tay phải, từ bả vai cho đến các khớp ngón tay cùng lúc phát ra một tràng tiếng răng rắc rợn người, hai bàn tay nắm lại, cùng lúc đấm ra!
"Đừng!"
"Đừng!"
Trác Mộc Cường Ba vẫn đang choáng váng, căn bản không kịp né tránh. Đường Thọ toàn lực tung ra hai cú đấm, chợt nghe có hai tiếng hét kinh hoảng, rồi hai bóng người lao đến chắn trước mặt Trác Mộc Cường Ba. Thế công của Đường Thọ không hề ngừng lại, hai nắm đấm thụi mạnh vào hai bóng người kia, hất bọn họ văng lên ra xa. "Phì, chỉ biết nhờ đàn bà bảo vệ mình thôi à?" Đường Thọ lại xoay người quét ngang một đòn, Trác Mộc Cường Ba liền bị y đá bay lên không trung như một bao cát.
Merkin cũng đã đứng dậy, hat tay nắm chặt, đứng cách Đường Thọ chừng bốn năm bước, hoảng sợ nhìn sự việc vừa phát sinh. Đường Thọ chợt quay phắt đầu lại, trợn mắt quát: "Ngươi còn dám động thủ vớí ta à!" Ảnh hưởng của một màn kinh thế hãi tục vừa rồi vẫn chưa hết, Merkin sững người, không dám nhao lên nữa. Đường Thọ ngửa đầu, cười lớn, sải chân bước lên đỉnh Mạn Đà La.
Trác Mộc Cường Ba rơi xuống một đống kinh sách, lực va đập giảm đi một phần đáng kể. Đầu óc của gã cũng tỉnh táo lại phần nào, gã vừa ngẩng đầu lên. liền trông thấy pháp sư Á La.
Một con người, trong mấy phút cuối cùng của cuộc đời, sẽ làm điều gì? Pháp sư Á La nằm giữa đống kinh sách, bình tĩnh cầm từng quyển từng quyển bên cạnh lên, rnở ra, nhìn những hàng chữ ngưng kết trí tuệ của người xưa, mỉm cười thỏa mãn, rồi lại cẩn trọng gấp lại, đặt sang phía bên kia. Tim ông đã ngừng đập, nhưng pháp sư lại dùng ý chí của mình khống chế cơ bắp và nội tạng, để máu vẫn có thể tuần hoàn một cách yếu ớt. Chỉ có điều, loại bí pháp duy trì sinh mạng của Mật tu giả này cũng không giúp ông cầm cự được mấy thời gian. Khi Trác Mộc Cường Ba rơi xuống bên cạnh, pháp sư Á La đã chẳng còn hơi sức để ngẩng đầu lên nữa rồi.
Trác Mộc Cường Ba quơ cả tay lẫn chân, bò lên trên đống kinh sách chất cao như trái núi nhỏ, đến trước mặt pháp sư Á La gào lên: "Pháp sư, pháp sư Á La!"
Pháp sư Á La rời ánh mắt khỏi cuốn kinh trong tay nhìn Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên hết sức trịnh trọng lần tìm một quyển trong đống kinh đã xem qua ở phía bên người, run run giơ lên, đến khi Trác Mộc Cường Ba nắm chặt quyển kinh đó trong tay, pháp sư Á La mới nở một nụ cười, nói lời trăng trối cuối cùng: “Cường Ba thiếu gia, sống... phải nỗ lực...”
Vừa cất tiếng, hơi thở pháp sư liền bị phân tán, một hơi thở ra, không sao hít vào được nữa. Trác Mộc Cường Ba vẫn nắm chặt quyển kinh trong tay, nhìn ông già gầy guộc đó mỉm cười hiền hòa nằm lặng trong đống kinh sách, đột nhiên gầm lên một tiếng chấn động cả tòa tháp: “Pháp ư Á La!”
Trước khi Trác Mộc Cường Ba hét lên, Đường Thọ đã đứng trên đỉnh Mạn Đà La, cái hộp hình chữ nhật bên trong quả trứng vàng đã nằm trong tầm với của y, cho dù Đường Thọ giỏi kiềm chế mấy chăng nữa, đến thời khắc này, y cũng không sao nhịn nổi tiếng cười đắc ý.
Đứng trên điểm cao nhất, y ngoảng xuống nhìn một đám người bé nhỏ, cảm giác hào hùng “trời cao đất rộng, ta đây lớn nhất”, y vươn tay ra, chạm vào chiếc hộp nhỏ, khoái cảm “hộp báu về tay, đất trời là của ta” dào dạt dâng lên. Đường Thọ không chút do dự, cầm chiếc hộp lên.
“Tách tách...” Cả quả trứng vàng bốc lên một lớp sương mỏng mảnh. Ở chỗ Đường Thọ vừa nhấc cái hộp đi, một thứ trông như tim đèn bằng đồng bật lên. Đường Thọ thoạt đầu ngạc nhiên, sau đó cười khổ, thật không ngờ người xưa lại thiết đặt cơ quan cả ở chỗ này, vả lại còn là loại chốt đè đơn giản nhất, càng không thể ngờ, bản thân y lại không thể tính trước được điều này. Xem ra, những người Qua Ba cổ đại kia mới gọi là thực sự nhìn thấu bản tính của con người! Đường Thọ cũng muốn xem rõ cơ quan này rốt cuộc để làm gì, nhưng y không dám mạo hiểm ghé mắt nhìn vào cái lỗ đó, đang ngẫm nghĩ, chợt nghe “xì...” một tiếng dài, dường như có khí thể từ bên dưới chốt đè phun lên, nhưng không thấy khói. Đúng lúc này, tiếng hét của Trác Mộc Cường Ba vang lên khắp tòa tháp hình trứng.
Đường Thọ mặc kệ Trác Mộc Cường Ba gào hét, chun mũi hít hít, thấy có mùi lưu huỳnh rất nặng, trong lòng thầm nhủ: “Lẽ nào là... “ Y hiểu rất rõ, khí thể phun lên không có khói kia là hơi nước ở nhiệt độ rất cao. Vì nhiệt độ quá cao, nên mới không nhìn thấy, cộng với mùi lưu huỳnh xộc mũi nữa, khá giống những dấu hiệu trước khi núi lửa bùng phát, mà vị trí của bọn họ lúc này, có lẽ cách dòng sông dung nham kia không xa lắm. Chẳng lẽ, cái hộp nhỏ này lại có thể áo chế núi lửa bùng phát sao? Quả trứng vàng bị khí thể vô hình kia liên tục phun vào, phần phía trên bắt đầu từ từ tan chảy. Đường Thọ lúc này đã lùi ra xa bốn năm bước, hơi nóng hừng hực thốc vào mặt. Đã đến nước này, y nào dám tìm hiểu xem rốt cuộc đây là cơ quan gì nữa. Người Qua Ba cổ đại không hiểu đã dùng cách thức gì áp chế núi lửa suốt hơn nghìn năm, giờ đây cơ quan đã bị phá, xem ra núi lửa lại sắp phun trào, toàn bộ Bạc Ba La thần miếu này, sẽ bị nhấn chìm trong nham thạch nóng chảy!
Đường Thọ ngoảng đầu lại. Trác Mộc Cường Ba cũng đang quay sang phía y, cặp mắt bùng lên ngọn lửa phẫn nộ.
Đường Thọ nhếch mép cười nhạt, lại đưa mắt nhìn quả trứng vàng có thể phun trào dung nham bất cứ lúc nào kia, lớn tiếng nói: “Các ngươi cứ chơi từ từ, ta đi trước một bước đây!” Dứt lời, tay phải vung lên, một sợi dây kim loại vọt ra khỏi ống tay áo, bắn về phía vách tường tòa tháo. Sợi dây này, không ngờ lại vươn xa đến bốn năm chục mét. Đây chính là nguyên mẫu của dây móc mà bọn Trác Mộc Cường Ba phỏng chế sử dụng, nhưng thứ này lớn hơn, xạ trình xa hơn, tốc độ leo trèo cũng nhanh hơn gấp bội.
Dây kim loại căng ra, Đường Thọ tung mình nhảy lên, một tay cầm hộp, tay kia như thể bám vào dây cáp của thang máy, cả người lao vút lên không, thoắt cái đã lên cao bốn năm chục mét, y vung tay, lại vọt lên thêm bốn năm chục mét nữa, chỉ trong chớp mắt đã biến thành một chấm nhỏ rồi biến mất.
CHƯƠNG 81: KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH
NHÌN EM MỘT LẦN ĐI
Bọn lính đánh thuê vẫn lăm lăm tay súng, bấy giờ mới phát hiện kẻ chủ sự của mình đã chạy mất, còn đang dáo dác nhìn quanh không biết phải làm sao, cả tòa tháp hình trứng đã rung lên bần bật, mặt đất chấn động càng lúc càng mạnh. Chợt có tên hét lớn: "Xem kìa!" Chỉ thấy ở trung tâm Mạn Đà La, quả trứng vàng đã tan chảy, đài sen bên dưới đang phun một thứ vật chất đỏ rực, hệt như pháo hoa ngày Tết nhưng lại có nhiệt độ cực cao. Không ai là không nhận ra, đó chính là dung nham núi lửa đang phun trào.
Lấy hố phun trào đó làm trung tâm, Mạn Đà La đang từ từ tan chảy. Cái hố càng lúc càng lớn, dung nham phun lên càng lúc càng nhiều, bọn lính đánh thuê đến thời điểm này mới trở nên hoảng loạn, chẳng còn để ý gì đến mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba nữa, nháo nhác chạy ùa lên bậc thang xoắn ốc.
Trác Mộc Cường Ba bước xuống khỏi đống kinh sách, gã nhớ rất rõ ràng, vừa nãy khi Đường Thọ tung ra hai cú đấm chí mạng đó, đã có hai bóng người đỡ đòn thay cho gã. Gã vòng sang phía bên kia Mạn Đà La, chỉ thấy Đường Mẫn, à không, phải nói là Fusaki và Lữ Cánh Nam, một người nằm ở góc tường, một người gục xuống đống kinh sách, cách nhau khoảng bốn năm chục mét, đều không gượng dậy nổi.
Một cảm giác lạnh lẽo chảy tràn trong lòng Trác Mộc Cường Ba, không, không thể nào! Gã đột nhiên tăng tốc, chạy tới chỗ Lữ Cánh Nam. Muốn tới chỗ cô, gã nhất thiết phải chạy qua bên cạnh Fusaki. Trác Mộc Cường Ba dằn lòng, nghiến răng, lặng lẽ bước qua người Fusaki, đang định đi tiếp, chợt bị Fusaki tóm lấy một ống quần. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, thở dài nói: "Cô Fusaki…"
"Không…" Giọng nói yếu ớt của Đường Mẫn vang lên, "gọi em… gọi em là Mẫn Mẫn!"
Âm thanh ấy thật thân thuộc biết bao, Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng không ghìm lòng được, mở mắt ra nhìn Mẫn Mẫn. Gã vừa ngoảnh đầu lại liền trông thấy đôi mắt trong veo ấy, nước mắt lấp lánh, thực sự đáng thương vô cùng. Vốn dĩ, ánh mắt ấy sao mà giống đến thế, sao mà khiến gã hoài niệm đến thế, nhưng lúc này, tự sâu trong đáy lòng Trác Mộc Cường Ba chợt trào lên một thứ cảm giác chán ghét! Ngụy trang, giả dối, đều là giả dối!
"Cường Ba… " Trác Mộc Cường Ba định hất tay Mẫn Mẫn ra, sải chân bước tiếp, nhưng Mẫn
Mẫn lại kêu lên một tiếng. Lúc này, cô thậm chí còn không đủ sức ngẩng mặt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, đầu cô ngoẹo xuống trước ngực, hai mắt mở to, lệ nóng tuôn tràn chảy dọc xuống theo gò má. Trác Mộc Cường Ba thầm run lên, không phải Mẫn Mẫn đang ngụy trang, cô bẩm sinh đã có đôi mắt ấy. Có lẽ, nếu không sở hữu đôi mắt ấy, cô cũng không ở nơi này, không phải trải qua tất cả những chuyện này. "Tha thứ cho em…" Đây là câu nói cuối cùng của cô.
Trác Mộc Cường Ba lại nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt, gã liền nhìn thấy Trương lập đang nằm bẹp trên giường bệnh, nhìn thấy Nhạc Dương chao đảo rơi xuống như cánh bướm tả tơi, nhìn thấy Đường Thọ đứng sững dưới ánh chiều tà, thấy pháp sư Tháp Tây đang nhoẻn cười hiền hậu, thậm chí cả Sean…, chỉ một chữ "được" mà gã không sao thốt thành lời.
Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra lần nữa, gã phát hiện bàn tay tóm lấy ống quần mình của Mẫn Mẫn đã ẻo lả rũ xuống, cô dựa người vào góc tường, đầu gục xuống trước ngực, hai mắt mở to, trên gương mặt, lệ vẫn chưa khô.
Trác Mộc Cường Ba nấc nghẹn nơi cổ họng, gã vuốt mắt cho Mẫn Mẫn, đặt cô nằm thẳng, rồi không chần chừ thêm nữa, chạy vội tới bên cạnh Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam cũng nghiêng người dựa vào đống kinh sách, không cử động được, tư thế cô lúc này rất giống với pháp sư Á La lúc trút hơi thở cuối cùng. Thấy Trác Mộc Cường Ba chạy tới, cô khẽ mỉm cười. Khóe miệng Trác Mộc Cường Ba nhích động, cũng rặn ra một nụ cười. Đứng trước mặt Lữ Cánh Nam, gã đột nhiên không biết nên nói gì nữa, gã không biết Mật tu giả là một nhóm người như thế nào, gã không biết giữa gia tộc mình và Mật tu giả có quan hệ gì, gã cũng không biết cái gì gọi là ký chủ, cái gì gọi là kẻ sống gửi, gã không biết gì cả! Cho đến hôm nay, có người đột nhiên nói với gã, Lữ Cánh Nam, là người bảo vệ gã, là người khi gã gặp nguy hiểm đến tính mạng, có thể sẵn sàng hy sinh mình để bảo đảm an toàn cho gã. Cô, chẳng lẽ, người phụ nữ này vẫn luôn ngấm ngầm ở trong bóng tối trông chừng cho gã hay sao? Rốt cuộc đã bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm? Bốn mươi năm?
Gã đột nhiên thấy mình trở lại đêm lạnh lẽo ấy, hoa tuyết bay đầy trời, chỉ có hai người, một cô gái đang thấp giọng khe khẽ hát: "Nhìn em một lần đi, chớ để hồng nhan ôm gối chiếc, tuổi xuân không hối tiếc, người yêu suốt đời ơi…"
Cô không phải đang hát, cô đang thổ lộ tiếng lòng!
Dưới ánh chiều tà, bóng hình yểu điệu chỉ ở phía xa ngước lên nhìn, từ từ trùng lắp với hình ảnh Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba bất giác hồi tưởng lại, ba năm nay, Lữ Cánh Nam đã làm gì cho gã? Còn bản thân gã thì sao, đã làm những gì cho cô! Yêu cầu duy nhất của cô, chỉ là hy vọng gã có thể nhìn thẳng cô một lần, không còn né tránh ánh mắt cô nữa…
Đã nói sẽ không bao giờ rơi lệ nữa, tại sao, chất lỏng nóng hổi ấy vẫn tràn ra khỏi khóe mắt, chảy qua cánh môi run run đưa đến cảm giác ẩm ướt mặn đắng. Trái tim gã chua xót, trái tim ấy cũng đang rơi lệ!
Đàn ông chỉ đổ máu chứ không rơi lệ, Trác Mộc Cường Ba ngước đôi mắt đẫm nước lên, cuối cùng cũng dám nhìn thẳng vào Lữ Cánh Nam. Cô đang lặng lẽ nằm giữa đống kinh sách, hai tay úp trên bụng, mái tóc dài xõa tung ra như nàng công chúa trong truyện cổ tích. Lữ Cánh Nam thật sự rất xinh đẹp.
Lữ Cánh Nam im lặng ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, cô đã chăm chú nhìn gã như vậy không biết bao nhiêu năm rồi, từ khi gã còn là một cậu bé, chỉ là chưa bao giờ cô được nhìn người đàn ông này khi ở khoảng cách gần đến thế, trực tiếp đến thế. Khi thấy ánh lệ lấp lóa trong đôi mắt Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt của vị nữ giáo quan tâm trí tưởng như đã được rèn đúc thành sắt thép ấy cũng lập tức ướt đẫm.
Hai người không nói với nhau câu nào, cứ lẳng lặng nhìn nhau chăm chú như thế, mỉm cười, rơi lệ. Nhưng rất rõ ràng, sắc mặt Lữ Cánh Nam đang mỗi lúc một tái nhợt đi, tâm trí cô lững lờ phiêu bồng, hồ như đã trở lại thời điểm nhiều năm về trước.
Băng qua núi tuyết mênh mông, ở đó có tòa đại điện mái vàng nguy nga hùng vĩ. Những pho tượng Kim Cương uy nghiêm trong chính điện đối với một cô bé năm sáu tuổi trông thật to lớn, ánh đèn đung đưa khiến những cái bóng hắt lên tường uốn éo chuyển động. Vị lạt ma áo vàng bước vào, vị lạt ma áo đỏ đi ra.
Một tấm ảnh xuất hiện trước mặt cô bé. Cậu bé trong tấm ảnh phỏng chừng lớn hơn cô độ một hai tuổi, gương mặt nhem nhuốc bẩn thỉu đầy mồ hôi, tóc tai quần áo đều dơ dáy, trông như một đứa trẻ hoang ở trong núi chạy ra vậy, duy chỉ có đôi mắt ấy, tròng đen tròng trắng phân biệt rõ ràng, ánh mắt ngông nghênh bướng bỉnh hết sức. Dường như cậu ta vừa đánh nhau với ai, nét mặt toát lên bộ dạng của kẻ nhất quyết không chịu nhận thua. Nhìn cậu bé trong ảnh, cô bé chợt nhoẻn miệng tươi cười, lộ ra hai hàng răng sữa xinh xắn.
"Đây là Cường Ba thiếu gia, nếu con muốn trở thành Mật tu giả, cậu ấy sẽ là ký chủ của con." "Ký chủ là gì ạ?"
"Ký chủ, chính là chủ nhân của linh hồn ta và con, phải dùng sinh mạng của chúng ta để bảo vệ an toàn cho họ. Bọn họ chính là ý nghĩa và giá trị tồn tại của chúng ta. Có điều, con là ngoại môn đệ tử, sau này vẫn có thể sống như người bình thường, chỉ khi ký chủ của con có khả năng gặp nguy hiểm, cần đến con, chúng ta mới triệu hồi con về bên cạnh cậu ấy."
"Có thể cùng chơi với cậu ấy không?"
"Không thể, chúng ta có thể nhìn thấy cậu ấy, nhưng cậu ấy sẽ không thấy chúng ta. Chúng ta chỉ có thể ngầm bảo vệ trong bóng tối, con phải nghĩ cho kỹ. Trở thành Mật tu giả phải trải qua tu luyện rất khắc nghiệt, con không thể chơi với người khác, không có búp bê xinh, không có quần áo đẹp. Ngày ngày, con sẽ phải không ngừng chịu đựng đau đớn để sinh tồn. Mà sau khi thành tài, ngoại trừ thân thể mạnh hơn người khác một chút, con cũng không có gì khác với người bình thường cả."
Cô bé nhìn ra ngoài cửa, cha cô đang đứng ở đó, cô ngoảnh lại nhìn vị lạt ma, kiên định nói: "Con chấp nhận."
"Được rồi, chúng ta cùng thề nào. Con phải nhớ kỹ, lời thề ngày hôm nay sẽ đi theo con suốt cả cuộc đời. Con đã lựa chọn con đường này, thì không thể quay đầu được nữa."
"Cô bé ngoan, kết thủ ấn đi, giống như ta đây này, ta sẽ hỏi, con sẽ trả lời. Phải nhớ kỹ, không được trả lời trái với ý nguyện của mình đâu nhé."
"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Trí Tuệ chi vương Đông, con có tự nguyện gia nhập vào Thánh giáo quang minh, tuân theo pháp chỉ của Thánh giáo, nghiêm cẩn giữ gìn bí mật của Thánh giáo, trung thành với Thánh giáo.. vĩnh viễn không bao giờ phải bội không?"
"Vâng, con nguyện ý."
"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."
"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."
"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Quang Minh chi vương Mạc, con có tự nguyện tu hành Mật pháp của Thánh giáo, kính thầy như cha mẹ, thầy có việc cần, một lòng nghe lệnh, con cái của thầy, coi như anh em… phàm những gì con biết, dù truyền miệng hay chép ra thành sách cũng chỉ truyền cho con của con hoặc con của thầy con và những đồ đệ có lời thề này, ngoài ra không truyền cho ai khác?"
"Vâng, con nguyện ý."
"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."
"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."
"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Vạn Thú chi vương Trại, con có tự nguyện dùng những thứ mình học được, với năng lực và khả năng phán đoán của mình, coi việc làm lợi cho thiên hạ chúng sinh làm tín điều, trừng trị mọi hành vi đọa lạc và hại người… dù đi tới đâu, gặp nam hay gặp nữ, quý nhân hay nô tỳ, mục đích duy nhất của con cũng là mưu cầu hạnh phúc cho người khổ nạn, tận hết sức mình cho người cần giúp, đồng thời tự mình kiểm điểm, tiêu trừ ác niệm…"
"Vâng, con nguyện ý."
"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."
"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."
"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Thủ Hộ chi vương Đảng, con có tự nguyện tôn Trác Mộc Cường Ba làm ký chủ suốt đời này, tuân theo ý chỉ của Thánh giáo ở bên cậu ấy, tôn trọng cậu ấy, bảo vệ cậu ấy như con ngươi của mắt mình, từ giờ cho tới vĩnh viễn về sau, bất luận cậu ấy phú quý hay bần hàn, khỏe mạnh hay ốm đau, một lòng trung thành với cậu ấy, cho tới khi cậu ấy rời khỏi thế gian này?"
"Vâng, con nguyện ý…"
…
"Lữ Tiểu Hồng, kể từ giây phút này, con đã là Mật tu giả, sẽ đoạn tuyệt mọi phàm niệm của thế tục, sẽ không sử dụng tên thế tục của con nữa, trưởng lão Trát Can ban cho con pháp danh Cánh Nam."
…
Thời không dường như tạm thời dừng lại, bọn lính đánh thuê sớm đã ào ào bỏ chạy như ong vỡ tổ, tòa tháp hình trứng trở nên yên lặng như tờ, duy chỉ còn đóa hoa lửa đang phun trào lên như suối vẫn lập lòe hắt sáng đỏ bừng cả gương mặt hai người.
Một tiếng hét vang phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch ấy: "Này, chết tiệt thật, chỗ này sắp bị phá hủy rồi, mau đi khỏi đây thôi, bọn lính đánh thuê kia cũng chạy hết rồi!"
Merkin không ngờ vẫn chưa bỏ đi, nếu không có tiếng hét không đúng lúc này của y, Trác Mộc
Cường Ba và Lữ Cánh Nam thậm chí đã quên mất sự tồn tại của con người này. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy đài sen trên đỉnh Mạn Đà La đã hoàn toàn tan chảy, dung nham chảy thành dòng đỏ rực như lửa men theo tám tầng Mạn Đà La tuôn xuống, một dòng nhỏ đã chảy vào đầy tháp đến chỗ những đống sách chất cao như núi. Đám kinh sách liền bốc cháy ngùn ngụt.
"Anh đưa em cùng đi, chúng ta trở về thôi," Trác Mộc Cường Ba định ôm Lữ Cánh Nam dậy, nhưng cô khẽ lắc đầu, nhẹ nhàng nói: "Những gì có thể dạy, em đều đã dạy anh cả rồi, sau này… sợ rằng em không thể bảo vệ anh được nữa, Cường Ba thiếu gia, anh phải chăm sóc tốt cho mình, để em và pháp sư Á La ở lại đây được rồi, đây là Thánh điển mà chúng em vẫn luôn tìm kiếm…"
Dung nham chảy tràn ra càng lúc càng nhiều hơn, Merkin ở bên cạnh rối rít thúc giục: "Còn không mau lên thì không đi được đâu."
Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng gầm lên: "Mặc xác tôi!"
Đột nhiên, trước mặt gã tối đen, tựa như nhìn thấy Lữ Cánh Nam đang gắng gượng mỉm cười, bàn tay tạo thành một dấu hiệu chỉ có lính đặc chủng chính quy mới hiểu được. "Merkin đánh lén!" Ý niệm ấy lóe lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thân thể gã đã nặng nề gục xuống.
Ba năm thời gian, từng chút từng chút hiện lên trong tâm trí gã như một đoạn phim tua ngược, bắt đầu từ khi nhìn thấy tấm ảnh đó: Mẫn Mẫn mặc váy dài trắng toát tha thướt đến bên cạnh gã, nụ cười tươi như hoa; thầy giáo gã miệng ngậm điếu thuốc, Trương Lập lái xe Jeep giới thiệu Tây Tạng với bọn họ; ánh mắt hung hãn của Ba Tang trong nhà giam; rồi vùng Khả Khả Tây Lý băng tuyết mù mịt, ba anh em nhà sói xám ung dung lùa con gấu khổng lồ; gương mặt râu ria của đội trưởng Hồ Dương, không giận mà tự có uy; Nhạc Dương ung dung bắt được tên trộm, nở một nụ cười rực rỡ như ánh ban mai; ánh mắt sắc bén như chim ưng của Lữ Cánh Nam, thấp thoáng nét yêu kiều; nét mặt nghiêm túc của pháp sư Á La; rừng rậm Amazon nóng ẩm bức bối; hàm răng trắng bóc của Babatou; mái tóc trắng bạc của Sean; Bạch Thành ở Maya; núi tuyết nguy nga hùng vĩ; Đảo Huyền Không tự tăm tối mờ mịt; dòng U Minh hà cuồn cuộn dưới lòng đất… phảng phất như một giấc mộng, một giấc mộng quá dài, quá khổ sở… nụ cười thân sĩ khiêm nhường nhã nhặn của Đường Thọ lại xuất hiện trong giấc mộng ấy, đột nhiên gương mặt đó được phóng to ra vô hạn, cái cằm kéo dài, miệng to ngoác, tai dài và sừng nhọn cũng mọc ra, cả gương mặt đều chìm trong ngọn lửa hừng hực… không, đây không phải là sự thực…
Trác Mộc Cường Ba mở bừng mắt ra, liền trông thấy trời xanh mây trắng, gã hơi nghiêng người, bên cạnh là thảm cỏ xanh mơn mởn như ngọc bích, thế này là thế nào? Không phải là gã đang ở trong khu vực trung tâm của Bạc Ba La thần miếu hay sao? Dung nham núi lửa trào lên, lẽ nào thật sự đó chỉ là một giấc mộng?
Trác Mộc Cường Ba nhổm người ngồi dậy, bốn phía xung quanh đều là thảm cỏ, Merkin đang ủ rũ ngồi bên cạnh, nét mặt đầy vẻ lo âu, không biết đang nghĩ gì. Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ra, đây không phải là một giấc mộng, bọn họ đã ra khỏi địa cung trong Bạc Ba La thần miếu, rốt cuộc gã đã hôn mê bao lâu? Làm sao mà ra được ngoài này? Còn Lữ Cánh Nam? Đây là chỗ nào?
Trác Mộc Cường Ba nhảy bật lên, đảo mắt quan sát hoàn cảnh xung quanh, một bên là núi tuyết, hồ tế khổng lồ ở phía sau không xa, giữa hồ ùng ục nổi lên vô số bọt khí, mấy cái hòm lớn trông như cỗ quan tài dập dềnh va đập vào bờ nước, còn quảng trường nơi có lối vào thần miếu thì đã ở quá xa ngoài tầm mắt.
"Tôi hôn mê bao nhiêu lâu rồi? Chúng ta ra đây bằng cách nào? Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba tóm lấy vai Merkin, hỏi một mạch mấy câu liền.
Merkin mấp máy miệng, cơ hồ không biết nên trả lời câu nào trước, cuối cùng ý nói: "Cũng không lâu lắm, tôi vừa kéo anh lên bờ. Những người cổ đại kia đã chuẩn bị hết cả rồi, còn nhớ gian đại điện bên ngoài tòa tháp không?
Khi máu chúng ta mở cánh cửa tòa tháp hình trứng ra, hai bên tường còn lại cũng mở ra theo, đó là lối thoát duy nhất. Bọn họ đã xây dựng một đường hầm thông thẳng xuống đáy hồ, giống như nòng pháo vậy. Những cái hòm lớn kia chính là công cụ duy nhất để thoát ra. Chúng vốn được trữ trong đường hầm, khi cơ quan khởi động liền có nước hồ tràn vào trong. Bên dưới là dung nham nóng chảy, nước gặp dung nham bốc hơi sinh ra một lượng khí lớn, khí áp khổng lồ đó sẽ đẩy cả người lẫn cái hòm bắn lên mặt hồ như một viên đạn."
"Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba lắc vai Merkin hỏi, "Tôi hỏi ông Lữ Cánh Nam đâu?"
Merkin vẫn không nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt hướng về phía xa xăm: "Tôi chỉ có thể mang theo một mình anh ra thôi."
Trác Mộc Cường Ba buông tay, loạng choạng lùi lại một bước, rồi nhanh chóng xông tới, nhấc cổ áo Merkin lên gằn giọng quát: "Tôi không tin! Đây là cái gì, kia là cái gì chứ…" Gã chỉ vào những cái hòm lớn nổi dập dềnh trên mặt nước.
Merkin cười khổ nói: "Đừng quên, kẻ đầu tiên chạy thoát ra là Đường Thọ, một vài tên lính đánh thuê cũng chạy ra trước chúng ta, một số khác… có lẽ không thoát được." Merkin nhớ lại cảnh tượng trong gian đại điện ấy, bọn lính đánh thuê lăn lộn trong đống vàng bạc châu báu, trên người đeo, trên tay cầm, trong miệng ngậm, toàn là trân châu bảo ngọc, lại còn một vài tên khác tranh giành nhau một món gì đó, lao vào cào cấu cắn xé như lũ thú hoang.
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Không thể nào, Lữ Cánh Nam sẽ không có chuyện gì đâu, cô ấy giỏi như vậy, làm sao lại có chuyện gì được chứ? Đưa tôi quay lại, tôi muốn quay lại tìm cô ấy!"
"Đừng ngu ngốc nữa!" Merkin gầm lên, "tòa tháp ấy đã không còn tồn tại nữa, đại điện ấy cũng không còn tồn tại nữa! Anh có biết không!" Y vùng lên, tóm chặt Trác Mộc Cường Ba vừa lắc vừa giật, cuối cùng đẩy mạnh gã một cái, chỉ tay về phía quảng trường đằng xa: "Rất nhanh thôi, tòa Bạc Ba La thần miếu này cũng sẽ không tồn tại nữa!" Hai người ngồi phịch xuống đất, cơ hồ cuộc cãi vã vừa rồi đã khiến cả hai tiêu hao hết sức lực, đầu cúi gục, ai nấy đều có tâm sự riêng.
"Ủa, sao vậy? Mâu thuẫn rồi à?"
Vừa nghe giọng nói ấy, cả hai đều giật nẩy mình, bật tung người lên theo phản xạ. Chỉ thấy ở phía xa, Đường Thọ đang chậm rãi bước tới từ phía bên kia trảng cỏ, trên mặt vẫn nở nụ cười ấy, bộ dạng hết sức ung dung. Trên người y, nhuốm đầy vết máu. "Ta đã nói rồi, chuyện đau khổ nhất trên đời này, không gì hơn kiên trì không được mà vẫn phải kiên trì, buông bỏ không được mà vẫn phải buông bỏ, đến khi tỉnh ngộ, tất cả đều đã muộn, không còn cách nào quay đầu lại nữa. Cường Ba thiếu gia, có phải ngươi đã thể nghiệm rồi chăng?"
"Đường… Thọ…" Đó là tiếng gầm phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba. "Người quyết sách!" Đó là giọng run run của Merkin.
TỬ ĐẤU (1)
"Là ta đây, ta lại quay lại rồi." Đường Thọ giơ tay trái lên, lè lưỡi liếm vết máu dính trên mu bàn tay, dường như rất thỏa mãn. Y nói với Trác Mộc Cường Ba và Merkin: "Sao chỉ có hai người các ngươi sống sót trở ra thôi à? Ta còn tưởng ít nhất phải có ba người chứ. Có điều, bớt một người cũng tốt, ta đỡ phải tốn sức."
Bàn tay Trác Mộc Cường Ba nắm lại kêu lên răng rắc: "Mày còn dám quay lại đây à!"
Sắc mặt Merkin lại trở nên tái nhợt: "Mày…mày muốn…"
Đường Thọ mỉm cười: "Đúng thế, có lẽ nơi này sẽ bị hủy diệt, cũng có thể vẫn còn giữ được chút gì đó cũng không chừng, ai mà biết được. Ta không hy vọng, ngoại trừ ta ra trên đời này còn có người khác biết đến sự tồn tại của nơi này."
Merkin kéo kéo vạt áo Trác Mộc Cường Ba, thấp giọng nói: "Hắn quay lại để diệt khẩu, bọn lính đánh thuê kia, chỉ sợ đã chết hết rồi."
Đường Thọ gật đầu: "Đúng vậy, đám công cụ đó dùng xong rồi, cũng không cần thiết phải giữ lại làm gì nữa. Các ngươi cũng thế, ta không định buông tha cho bất cứ người hiện đại nào đã đặt chân đến nơi này."
Trác Mộc Cường Ba nghiến răng kèn kẹt: "Vừa khéo, chúng ta cũng có ý định đó!"
Merkin đột nhiên hỏi: "Cái hộp kia đâu rồi?" Y để ý thấy, chiếc hộp nhỏ Đường Thọ mang theo kia, đã không còn ở trên tay y nữa.
Đường Thọ vui vẻ nói: "Ta đã đưa nó ra ngoài rồi, bằng cách thức của riêng ta, chỉ cần giải quyết xong các ngươi, ta sẽ trở lại thế giới đó, toàn tâm toàn ý với sứ mệnh vĩ đại hủy diệt toàn bộ loài người của mình."
Ánh mắt Merkin lại hướng về phía xa, một đàn chim lớn đang đập cánh bay lên.
"Phì!" Trác Mộc Cường Ba nhổ nước bọt mắng, "Ngươi bớt giở cái giọng tử tế ấy để biện minh cho ý đồ ghê tởm của mình đi, cởi bỏ mặt nạ ra, đừng tưởng ta không biết mục đích thực sự của các ngươi là gì!"
"Gì hả?" Đường Thọ và Merkin đều thoáng ngẩn người.
Trác Mộc Cường Ba gằn giọng nói: "Ta từng nghe nói, có người cho rằng thế giới này nên do một nhóm nhỏ người nắm giữ, đại đa số còn lại chỉ cần làm việc như lũ súc sinh là được rồi. Với trình độ tự động hóa ngày nay, đích thực chỉ cần ấn vài cái nút là có thể chế tạo ra đại bộ phận các thứ đáp ứng với nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Vì vậy, các ngươi chẳng qua muốn lợi dụng loại sinh vật kia làm vũ khí nhằm phá bỏ rào cản biên giới giữa các quốc gia, từ đó thống trị toàn bộ thế giới này. Các ngươi không cần quá nhiều người thông minh, chỉ cần khoảng sáu mươi triệu nô lệ có trí tuệ ngang với loài người thời Đồ đá cũ để các ngươi mặc tình sai sử, mặc tình điều khiển, mà không đủ sức phản kháng, thậm chí còn không biết thế nào là phản kháng nữa. Những kẻ nắm giữ tri thức hiện đại còn sót lại, sẽ được coi như Thượng đế, đây mới là dã tâm thực sự của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn các ngươi!"
"Chà chà chà, mục tiêu vĩ đại cao quý của chúng ta, lại bị ngươi nói thành ra thấp kém đến vậy ư?" Đường Thọ làm như vẻ rất đau lòng.
"Đừng diễn kịch nữa, cũng đừng làm ra cái bộ dạng trách trời thương dân đó làm gì, ta đã nhìn thấu mọi lớp vỏ ngụy trang của ngươi rồi. Ngươi mở mồm ra là nói loài người đáng chết, toàn bộ đều đáng chết, vậy thì ngươi không nên thoát bỏ lớp vỏ ngoài con người của mình, tự xưng là thần. Ngươi đừng quên, ngươi cũng là xác thịt phàm tục do cha mẹ sinh ra, có giảo biện thế nào cũng không thể phủ định, ngươi là con người! Chính là một thành viên trong giống loài mà ngươi đã vô số lần nói phải tuyệt diệt ấy! Ngươi có thể bất chấp tất cả những ước thúc về đạo đức mà nhân loại đã tạo lập lên trong suốt nghìn vạn năm qua, ngươi có thể từ bỏ thất tình lục dục của con người, dù hành vi của ngươi không bằng loài súc sinh, nhưng ngươi rốt cuộc vẫn là con người, dù tu luyện mạnh đến mấy ngươi cũng không thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Ngươi có giết sạch thân nhân của mình, cũng không thể xóa bỏ mọi dấu vết chứng tỏ ngươi là một con người, ngươi… không phải là Thần! Cùng lắm, chỉ có thể coi ngươi là một tên điên cô độc. Ngươi là một tên điên, một tên điên thực sự."
Sắc mặt Đường Thọ trầm xuống, tóc dựng đứng lên, nhưng chỉ thoáng sau y lại bật cười: "Đúng thế, ta điên rồi, nhưng Cường Ba thiếu gia ngươi cũng không phải đến hôm nay mới biết ta là tên điên mà, từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, chẳng phải ngươi đã biết rồi hay sao?"
"Ta thừa nhận, con người ai cũng có tính xấu." Ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm kiên định, đối mặt với Đường Thọ, gã không còn chút do dự và sợ hãi nào nữa: "Khi sức mạnh khoa học kỹ thuật của chúng ta đã vượt xa các giống loài khác, những tính xấu này sẽ càng bộc lộ một cách rõ rệt hơn. Sinh tồn và sinh sôi, là ý thức bản năng gắn với mỗi giống loài từ khi sinh ra trên đời, đại đa số loài người, kỳ thực yêu cầu không nhiều lắm, chúng ta chẳng qua chỉ muốn điều kiện sống tốt hơn một chút, sinh sôi nhiều thêm một chút, chỉ vậy mà thôi. Có điều, không gian là cố định, con người muốn sống tốt hơn, tất nhiên điều kiện sống của các giống loài khác phải kém đi, con người sinh sôi nhiều hơn, sự phá hoại đối với môi trường xung quanh đích thực cũng sẽ lớn hơn. Có điều, tất cả những điều này, ngươi có tư cách gì để phán xét? Ngươi là cái thứ gì? Ngươi có tư cách gì để phán xét vận mệnh của toàn bộ loài người?"
"Ta tồn tại, ta mạnh mẽ, ta có trí tuệ." Đường Thọ thong thả nói, "mấu chốt là, ta nắm trong tay vũ khí có thể thay đổi vận mệnh của toàn bộ loài người, ta có tư cách để quyết định vận mệnh của loài người, ngươi không phục sao? Ngươi có tức giận cũng vô dụng thôi, hắc hắc, cho dù ngươi nói hay hơn ta đấy thì sao chứ? Đừng quên, chân lý của vũ trụ là ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới vĩnh hằng bất diệt!"
Đường Thọ vừa mở miệng nói ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khác ngắn ngủi, Trác Mộc Cường Ba đã tiếp lời ngay: "Ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng, nhưng chính thứ ánh sáng chỉ lóe lên trong chớp mắt ấy lại diễn sinh ra sự sống và hy vọng. Vì vậy, tuy chúng ta đều bước ra từ trong bóng đêm, nhưng vận mệnh đã định sẵn, chúng ta sẽ dùng cả đời mình để theo đuổi ánh sáng." Gã đã nhớ lại toàn bộ câu nói của cha mình lúc đó.
Đường Thọ biến sắc: "Kẻ nào nói vậy?"
Trác Mộc Cường Ba đáp: "Ngươi cần gì phải biết, chẳng phải ngươi muốn chân lý sao? Đây, chính là chân lý!"
Đường Thọ lại cười cười: "Cường Ba thiếu gia, quả không hổ xuất thân trong nhà thế gia Phật môn, nói khéo lắm, nhưng rất đáng tiếc, các ngươi đều phải chết ở đây cả rồi!"
Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều hiểu rất rõ, vừa nãy bốn người cùng ra tay cũng không làm gì được Đường Thọ, giờ đây chỉ còn hai người bọn họ, muốn giành phần thắng là tương đối khó khăn, nhưng kể cả chia nhau bỏ chạy, dường như cũng không phải chuyện dễ dàng chút nào. Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh phân tích, lúc này họ không phải lo lắng bọn lính đánh thuê bắn lén, vả lại cũng đã có kinh nghiệm chiến đấu với Đường Thọ, ít nhiều cũng biết được tốc độ và sức mạnh của y thế nào, đồng thời gã và Merkin còn được nghỉ ngơi một lát bên bờ hồ, Đường Thọ vừa giết một đám lính đánh thuê mới quay trở lại, tình thế nghiêng về bên nào giờ này vẫn chưa nói được.
Nhưng Merkin lại thấp giọng nói với Trác Mộc Cường Ba một tin tức không tốt lắm, y khẽ thở hắt ra: "Vừa nãy khi đấu với ba người chúng ta, Đường Thọ chưa giở hết toàn lực."
"Hả?" Trác Mộc Cường Ba trợn trừng hai mắt lên, không biết có phải Merkin đang gạt gã không, đấu với ba người như vậy mà còn nói y chưa giở hết toàn lực hay sao?
Merkin bấy giờ mới nói ra thân phận thực sự của Đường Thọ: "Lấy năng lực công kích của cá nhân để bình phẩm, thực lực của Đường Thọ nằm ở giữa cấp hai và cấp ba trong xếp hạng của Mười kỵ sĩ bàn tròn, tôi chỉ là lính đặc chủng cấp một thấp nhất, hắn cao hơn tôi một bậc, giống như sự khác biệt giữa Cách Tây và Cách Quả trong đám Mật tu giả vậy. Nhưng chỗ đáng sợ nhất của hắn là, hắn cũng giống như Soares, là một Thao thú sư, đồng thời thực lực còn cao hơn Soares một bậc. Thực lực chân chính của hắn, có lẽ nằm khoảng giữa Thao trùng sư và Thao cổ sư rồi."
"Đúng vậy, thực lực của Soares, chỉ khoảng giữa Thao thú sư và Thao trùng sư, còn Đường Thọ đã lĩnh ngộ được cốt tủy của cảnh giới Thao trùng sư rồi, hắn gần như có thể khống chế được tuyệt đại đa số các loài côn trùng đã được biết đến hiện nay, trên người bao giờ cũng mang theo một loại côn trùng nào đó. Chúng ta không biết hắn để lũ côn trùng ấy ở chỗ nào, khi tấn công, rất có thể sẽ bị bọn chúng cắn trả. Một khi bị bọn đó cắn phải…" Merkin khẽ lắc đầu.
Trác Mộc Cường Ba không thể không xem xét lại phương án chiến đấu, Đường Thọ dường như rất nhàn nhã, rất độ lượng, ung dung đứng đó không chủ động tấn công, mà để cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin đủ thời gian bàn bạc như con mèo đang vờn hai con chuột…
Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía xa, mé bên kia thảm cỏ là rừng rậm, nếu đàn sói có thể chạy đến đây… Đường Thọ cười khì khì nói: “Không cần nghĩ đến lũ sói của ngươi làm gì. Cường Ba thiếu gia, đừng quên lúc ngươi truy đuổi Merkin đã xảy ra chuyện gì chứ? Ta đã khảo sát kỹ lưỡng rồi, đây là khu cấm đối với loài sói, bọn chũng tuyệt đối không tiến vào dù chỉ một bước đâu.”
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chầm chậm thu về, nhìn bộ mặt khiêm hòa nhã nhặn mà thực chất lại hết sức kiêu căng ngạo mạn của Đường Thọ, trong lòng gã chợt dâng trào một ngọn lửa vô hình. Gã giơ nắm đấm to như cái bát lên, cứ vậy lao thẳng về phía Đường Thọ, nếu mọi tính toán đều không thể thay đổi được cục diện, vậy thì, cứ trực tiếp xông lên là xong, cần quái gì phải nghĩ nữa.
“Này, vậy có được không?” Merkin không đừng được đánh phải chạy theo bên Trác Mộc Cường Ba , hai người song song lao về phía Đường Thọ.
“Hắn không coi mạng người ra cái gì đâu, hắn sẽ không tha cho chúng ta, mà tôi cũng không định tha cho hắn, đã thế thì cần gì phải nghĩ ngợi nhiều cho mệt óc? Cứ oanh liệt đánh một trận đi, giống như thời trẻ vậy!”
“Giống như thời trẻ vậy!” Merkin cảm thấy máu trong cơ thể mình bắt đầu sôi trào nóng bỏng, cảm giác nhiệt huyết bừng bừng đã lâu lắm rồi không có lại ào ạt trồi lên trong y, bước chân hai người mỗi lúc một nhanh, họ guồng chân, tăng tốc, gia tốc, chỉ trong chớp mắt đã vượt qua khoảng cách năm mươi bước chân.
Nhìn hai người dũng mãnh xông về phía mình, Đường Thọ nhoẻn miệng mỉm cười, cũng lao về phía họ, bắt đầu tăng tốc, hai mươi mét, mười mét, năm mét, khoảng cách giữa song phương không ngừng rút ngắn lại. Khi hai bên gần chạm vào nhau, Đường Thọ đột nhiên chồm người ra trước, hai tay chống xuống đất lộn nhào một vòng, nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba và Merkin song song rơi vào khoảng không. Trong khi ấy, hai chân đạp ra phía trước của Đường Thọ ép hai người họ phải thu tay chống đỡ. Cả hai cùng cảm nhận được lực xung kích mạnh mẽ ập tới, đành cực lực chuyển từ thế công sang tư thế phòng ngự, giật lùi về phía sau.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa lùi lại, hai chân Đường Thọ đang đá vào mặt hai người lập tức chuyển sang đạp vào ngực. Hai người lại lùi tiếp, hai cẳng chân lại nhằm vào phần hông, hai tay Đường Thọ đã rời khỏi mặt đất, cả người lúc này nằm ngang trên không trung. Vốn dĩ, đây là thời cơ tốt nhất để tấn công y, nhưng hai chân y lại dài hơn sải tay Trác Mộc Cường Ba và Merkin, hai người không đánh trúng Đường Thọ, ngược lại mỗi người còn bị
đá cho một cước. Hai người chỉ có thể tiếp tục lùi lại, họ vẫn còn một cơ hội, chính lúc Đường Thọ vừa kết thúc vòng nhào lộn, hai chân còn chưa đứng vững vàng. Lúc đó y không thể phát lực, hai người sẽ chuyển lùi thành tiến, tức khắc sẽ khiến Đường Thọ trở tay không kịp.
Nhưng thân thể Đường Thọ ở trên không trung lại nghiêng đi một cách kỳ dị, chân trái chạm đất trước chân phải, vả lại, chân trái còn vươn lên trước chân phải chừng ba mươi xăng ti mét. Chính khoảng cách ba mươi xăng ti mét này, khiến Đường Thọ giẫm lên mu bàn chân Merkin một cách chuẩn xác. Khi áp lực từ mu bàn chân truyền lên não, Merkin chuẩn bị rút chân lùi lại, thì Đường Thọ đã đứng lù lù trước mặt y rồi. Đồng thời, chính cú vặn người trên không kì dị đó, cũng khiến cú đấm dồn lực của Trác Mộc Cường Ba lướt sạt qua đầu vai Đường Thọ rơi vào khoảng không.
Merkin thấy Đường Thọ đứng trước mặt mình, hai mắt trợn lên, kế đó là cảm giác đau đớn dữ dội bùng lên ở nội tạng, truyền đến trung khu thần kinh. Đường Thọ vừa chạm đến đất liền tung ra một cú đấm vào bụng dưới Merkin nắm đấm vẫn không dừng lại, thuận đà móc lên quá đầu, tương thẳng vào cằm, khiến Merkin bật ngửa ra sau. Lẽ ra, trúng phải hai đòn nặng như vậy, Merkin phải văng lên không trung, nhưng Đường Thọ lại đang giẫm lên mu bàn chân y. Merkin sau khi cảm thấy đau đớn dữ dội bật ngửa người ra, lại cảm thấy một luồng sức lại kéo y bật ngược lại phía nắm đấm của đối phương.
Đường Thọ sớm đã chuẩn bị cho Merkin một cùi chỏ, còn tay kia của y lại đang đối phó với Trác Mộc Cường Ba. Đúng như Pháp Sư Á La phán đoán, tay phải của Đường Thọ rõ ràng không nhanh bằng tay trái, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, Trác Mộc Cường Ba luôn phải dồn sức vào cả hai tay mới gạt đỡ được nắm đấm của y.
Còn Merkin lúc này, lại như con lật đật, bị Đường Thọ đánh ngả ra sau rồi bật lại, ngả ra sau, rồi lại bật lại, tuy y vẫn có thể cản đỡ được một phần thế công của Đường Thọ, nhưng cũng không có cách nào chuyển từ thế thủ sang tấn công. Phía bên kia, Trác Mộc Cường Ba một mực tấn công dữ dội, song cũng không thể đột phá được thế phòng ngự một tay của Đường Thọ, có điều Đường Thọ đang giẫm lên chân Merkin, nên chỉ cần gã duy trì khoảng cách, Đường Thọ cũng không đánh trúng gã được.
Đường Thọ đánh cho Merkin bật đi bật lại như vậy khoảng ba bốn lần, đột nhiên nhấc chân lên, xoay sang tấn công Trác Mộc Cường Ba. Thân thể Merkin vừa thoát khỏi áp chế, không lùi lại mà xông thẳng tới, ngọn lửa bị đè nén trong lòng bùng lên dữ dội. Chỉ thấy Đường Thọ chuyển hướng, xoay hông, tránh khỏi nắm đấm mạnh mẽ của Trác Mộc Cường Ba, cẳng chân vừa giẫm chân Merkin từ từ nhấc lên. Y mỉm cười lùi lại, như thể dây cung kéo căng ra để tích tụ sức mạnh, kế đó bất ngờ phát lực, bắn vọt về phía Trác Mộc Cường Ba. Toàn bộ quá trình ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn đang trong tư thế giơ nắm đấm xông tới, không kịp biến chiêu, chỉ biết mở mắt trân trân nhìn đầu gối Đường Thọ “tiếp xúc thân mật” với bụng
mình. Một đòn này, khiến thân thể Trác Mộc Cường Ba bay bổng lên khỏi mặt đất. Vẫn chưa kết thúc, Đường Thọ còn mượn lực phản chấn khi chạm với Trác Mộc Cường Ba, đạp mạnh chân về phía sau, nhằm thẳng vào lồng ngực Merkin đang bổ tới. Đối mặt với cú đã bất thình lình này, Merkin định thu tay lại chống đỡ, nhưng tay chưa kịp thu về thì chân đối phương đã trúng đích, y chỉ thấy lồng ngực nhộn nhạo, cảm giác như thể phải ọe hết cả lục phủ ngũ tạng ra mới dễ chịu được phần nào. Đường Thọ tung chân bật về phía sau một cước, trúng vào phần phía trước ngực Merkin, kế đó lại giơ đùi lên, gót chân quét mạnh vào trán y, vẫn chưa hết đà, cẳng chân giương cao quá đầu. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang cong người lại như con tôm, thân hình vươn ra phía trước. Thân trên của Đường Thọ thụp xuống, cẳng chân đá Merkin bật ra, liền vòng ra từ sau lưng như đuôi bọ cạp, bồi vào trán Trác Mộc Cường Ba một cước. Cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin đều bị hất văng ra xa.
Lên gối, đá hậu, hất chân, móc ngược, một loạt các động tác liền mạch như nước đại khái chỉ diễn ra trong khoảng nửa giây, không phải Trác Mộc Cường Ba và Merkin không muốn né tránh, mà chỉ vì Đường Thọ quá nhanh. Sau khi đánh bật, hai người mới nhớ ra, chân tên Đường Thọ này còn linh hoạt hơn tay của người bình thường gấp bội.
Đường Thọ một chiêu đắc thủ, đương nhiên không cho hai người có cơ hội lấy hơi, lập tức dồn lực vào gót chân, phi thân lao tới, nắm đấm kéo về phía sau, mục tiêu là… Trác Mộc Cường Ba!
Nắm tay Đường Thọ còn chưa tới, quyền phong đã tới trước. Trác Mộc Cường Ba vừa trúng một cú lên gối bồi thêm một cước vào trán, cơ bắp co giật, cảm giác đau đớn còn chưa dứt, lưng vẫn chưa vươn thẳng ra được, tưởng chừng như không thể nào tránh được. Nhưng dưới áp lực của cú đấm đáng sợ ấy, bản năng sinh tồn của gã bỗng bùng lên. Trác Mộc Cường Ba thả lỏng hai tay đang ôm bụng, chống xuống đất, cả tứ chi đồng thời phát lực. Tư thế đó hết sức kỳ dị, giống như con dế đang phục dưới đất đột nhiên nhảy bật lên tránh khỏi bàn tay ụp xuống bắt nó vậy. Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại né được cú đấm chí mạng ấy! Tứ chi cùng lúc phát lực, cùng lúc chạm đất, Trác Mộc Cường Ba nhảy sang một bên, vẫn giữ nguyên tư thế nằm rạp xuống đó nhìn lom lom vào Đường Thọ. Đồng thời, gã cũng cảm nhận được, khi thực hiện động tác này, hơi thở và các mạch máu đều trở nên thông thuận, cảm giác đau đớn dữ dội cũng lập tức thuyên giảm đáng kể.
Cú đấm của Đường Thọ đã hoàn toàn ngập vào vị trí Trác Mộc Cường Ba vừa đứng, giống như dao cắt đậu phụ, gần nửa cánh tay chìm vào trong đất. Hai mắt Đường Thọ đảo một vòng, rõ ràng chính y cũng kinh ngạc khi thấy Trác Mộc Cường Ba tránh được cú đấm này, nhưng y không hề do dự, tức khắc xoay người rút nắm đấm ra, tung chân chạy ngược lại, mục tiêu là, Merkin! Tốc độ của y cực nhanh, thân thể gần như song song với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba không ngờ Đường Thọ lại thay đổi hướng trong chớp mắt, không dám chần chừ, vội vàng truy theo. Lần này, gã dùng cả chân lẫn tay, lập tức cảm thấy máu và hơi thở càng thêm thông suốt dễ dàng, tốc độ chạy cũng tăng lên đáng kể, gần như theo kịp được Đường Thọ.
“Bước chạy kiểu sói à!” Đường Thọ thoáng lộ vẻ bực tức, nhưng y không có thời gian lo chuyện ấy, dù sao y vẫn dẫn trước Trác Mộc Cường Ba nửa thân người, nửa thân người ấy, đủ để đối phó với Merkin rồi!
Merkin không học được theo Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên giở ra một chiêu thức quái dị chẳng ai nghĩ tới. Y cảm nhận được áp lực cuồn cuộn ập đến từ phía Đường Thọ, đành nắm chặt hai bàn tay lại, liều mạng!
TỬ ĐẤU (2)
Đường Thọ tiếp cận với Merkin lại ngả người thụp hẳn xuống. Lại muốn lộn nhào nữa sao? Nhưng Merkin lần này không mắc bẫy, hai cánh tay giương lên bảo vệ những chỗ yếu hại, kế đó đạp ra một cước nhằm vào chỗ eo mông, vị trí không linh hoạt nhất khi lộn nhào trên không của Đường Thọ. Không ngờ, lần này Đường Thọ không dùng chân tấn công vào mặt Merkin, chỉ thấy y nghiêng người đi, hai chân trầm hẳn xuống, kẹp vào cẳng chân đá về phía mình của Merkin. Liền sau đó, hai tay y chống xuống đất, thân thể xoay ba trăm sáu mươi độ trên không trung.
“Vặn chân!” Merkin hết sức quen thuộc với chiêu này, đây là một chiêu tấn công rất thường dùng trong môn võ tự do, tục gọi là “đá cắt kéo”, lợi dụng thế gọng kiềm của hai chân, dùng sức eo hông cộng với lực xoáy toàn thân quật ngã đối thủ xuống đất. Chỉ là, trong môn võ tự do, người ta thường dùng chiêu này tấn công hai khớp gối hoặc cần cổ kẻ địch, như vậy mới có thể quật ngã đối phương, nhưng lúc này… Đường Thọ lại chỉ kẹp lấy một chân của y, vậy là…
Lực xoắn mạnh mẽ truyền lên từ bắp chân, Merkin đột nhiên hiểu ra, Đường Thọ muốn… vặn gẫy xương y! Tập trung sức lực toàn thân để đối phó với một trong tứ chi, trước tiên dùng thế gọng kiềm cố định chân hoặc tay đối thủ, sau đó dồn sức xoay người vặn mạnh, hoàn toàn có thể khiến cánh tay hoặc cẳng chân kẻ trúng chiêu gẫy lìa ra. Trước áp lực khủng khiếp chưa từng có ấy, Merkin cũng bị ép phải phát huy hết tiềm lực của mình. Khi Đường Thọ xoay được một nửa vòng ba trăm sáu mươi độ, Merkin cũng nhấc chân kia lên, xoay người trên không trung một vòng theo y, rốt cuộc cũng không bị phế mất một chân. Nhưng hai tay Đường Thọ vừa chạm đất, y lại bật lên, xoay thêm một vòng nữa. Còn Merkin, khi xoay vòng đầu tiên, y đã mất thăng bằng, ngã người trên thảm cỏ, còn chưa định thần lại được, thì thấy lực vặn xoắn mạnh mẽ kia lại truyền tới. Y không kịp phản ứng gì, đành nghiến răng kiên trì đến cùng. Cũng may cho y, cơ bắp đùi tương đối rắn chắc, lực vặn kia chỉ khiến cản người y lăn lông lốc trên thảm cỏ, nhưng chân thì không bị bẻ gãy.
Đường Thọ chau mày, chiêu thức bẻ chi này chỉ có hai vòng đầu tiên là khó đề phòng nhất, những vòng xoay về sau, tỷ lệ bẻ gẫy tay chân đối phương nhỏ hơn rất nhiều. Đồng thời, lúc này Trác Mộc Cường Ba đang đuổi sát sau lưng đã giẫm mạnh cả tứ chi xuống đất vọt người bổ nhào về phía y. Đường thọ ưỡn bụng, hai chân đang kẹp cẳng chân Merkin dồn sức vung mạnh, ném cả người Merkin vào Trác Mộc Cường Ba. Có điều dùng chân ném dẫu sao cũng không thể chuẩn xác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lướt qua nhau trên không trung. Hai người nhìn vào mắt nhau, tâm niệm tương thông, đột nhiên cùng vươn tay phải ra móc chặt vào nhau, hai luồng lực tác động lẫn nhau, lập tức khiến quỹ đạo chuyển động và phương hướng của hai người thay đổi hoàn toàn. Trác Mộc Cường Ba bị Merkin kéo cho dừng sững lại, còn Merkin lại lấy Trác Mộc Cường Ba làm trung tâm, vạch một vòng tròn trên không trung, vòng trở lại phía Đường Thọ.
Lúc này, Đường Thọ vừa đứng lên, nghe thấy tiếng gió sau lưng, y chẳng buồn nhìn, tức thì thuận thế tung ra một cước, Merkin nhận định tình thế hết sức chuẩn xác, nhắm vào gan bàn chân Đường Thọ đấm mạnh. Thân hình Đường Thọ thoáng lắc lư mấy cái, đà lao của Merkin cũng dứt, cùng lúc chạm đất với Trác Mộc Cường Ba.
Đường Thọ ngoảnh đầu, thoáng ngạc nhiên, y không ngờ kẻ tấn công mình lại là Merkin. Trác Mộc Cường Ba và Merkin nhìn nhau, dùng khẩu hình đưa ra ám hiệu: “Tiếp sức trên không!”
Cái gọi là tiếp sức trên không đó, kỳ thực là một phương pháp tá lực đả lực mà Trác Mộc Cường Ba lĩnh ngộ được từ chiến thuật của bầy sói. Chiến lang của bộ tộc Qua Ba khi hợp tác săn mồi thường làm một loạt những động tác thế này: một con sói đứng yên bất động, một con khác chạy đà đạp mạnh lên thân thể con sói đầu tiên, sau đó con sói đầu tiên cũng lập tức bật người nhảy lên giúp con sói thứ hai một quãng. Cộng với đà lao của bản thân con sói thứ hai, cách này có thể khiến nó nhảy xa hơn, cao hơn; hoặc khi đang xông tới, bị con mồi tránh được, con sói lao thẳng vào gốc cây hoặc vách đá dựng đứng, nhưng chúng không hề hãm lại, ngược lại còn dồn thêm sức xông tới, rồi lấy thân câu hoặc vách đá làm điểm tựa mượn lực đàn hồi bật ngược trở lại. Vậy là, đòn tấn công theo đường thẳng liền biến thành thế công hình tam giác. Giống như Cương Nhật Phổ Bạc và Cương Lạp vậy, Cương Lạp có thể mượn sức cánh tay Cương Nhật để nhẩy lên, khi tấn công kẻ địch, nó cũng nhảy từ vai tên thứ nhất sang vai tên thứ hai rồi tên thứ ba, giống như nhảy lên các cây cột, khiến kẻ địch hoa mắt chóng
mặt.
Khi tránh né các cơ quan cạm bẫy trong Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã dựa theo phương thức hợp tác này của loài sói, phối hợp thực hiện một loạt động tác tiếp sức trên không. Khi xuất hiện những vết nứt gãy không nhảy qua được, hoặc không còn đường nào để đi, họ liền lấy một người làm trung tâm, ném người còn lại qua, sau đó bản thân cũng nhảy theo. Người được ném đi ấy sẽ sang bờ bên kia trước, rồi quay lại tiếp ứng đối phương, thoạt nhìn có vẻ rất giống với những người biểu diễn đu bay trong đoàn xiếc, nhưng động tác thì khó hơn rất nhiều lần. Có điều hai người đều có sức mạnh, cộng với thân thủ nhanh nhẹn, sau nhiều lần diễn luyện cũng đã quen với những động tác này rồi.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn đang móc chặt tay vào nhau, không đợi Đường Thọ kịp phản ứng, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dùng cả hai tay tóm vào cánh tay Merkin, ném y như ném quả trùy sắt. Thân hình Merkin bay lên không trung, đá về phía Đường Thọ, Đường Thọ vội giơ tay lên cản lại, người hơi lảo đảo lùi lại hai bước, dù sao thì sức của hai người gộp lại cũng mạnh hơn một người nhiều.
Merkin chưa đá trúng được Đường Thọ, nhưng y đã nhanh chóng chạm mặt đất, vòng tay kéo mạnh, lại ném Trác Mộc Cường Ba ra. Hai người lúc này giống như hai quả chùy sắt móc vào cùng một sợi xích, luân chuyển tấn công Đường Thọ. Lần này Merkin ném Trác Mộc Cường Ba ra thật, hai tay móc vào nhau đã tách ra. Trác Mộc Cường Ba hai tay liên tiếp vung lên “chào hỏi” Đường Thọ, còn Merkin lại nhảy bật về phía sau. Cũng là hai tay, nhưng quyền pháp của Đường Thọ rõ ràng nhanh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc, chỉ thấy cổ tay y lật lên lật xuống mấy lần, đã hóa giải toàn bộ chiêu thức của gã, tưởng như một đấm sắp tương lên trán Trác Mộc Cường Ba, nào ngờ thân hình gã lại đột nhiên dừng phắt giữa không trung, rồi nhanh chóng giật lùi trở về sau. Thì ra, Merkin lùi lại phía sau đã tóm lấy hai chân Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba một đòn không trúng đích, y liền kéo ngay về phía sau. Nếu chỉ có một người, Trác Mộc Cường Ba hay Merkin cũng không thể nào thực hiện được những động tác kiểu này, nhưng hai người hợp tác, chuyện không thể cũng biến thành có thể.
Merkin kéo Trác Mộc Cường Ba giật ngược lại, bản thân cũng ngửa người ra trượt lên thảm cỏ, hai chân tấn công phần thân dưới của Đường Thọ, đồng thời dồn sức lên hai tay, ném Trác Mộc Cường Ba lúc này đã bay qua đầu y bay ngược trở lại. Sắc mặt Đường Thọ thoáng biến đổi, liên tiếp giật lùi, nhất thời cũng chưa thích ứng được với cách đánh này.
Thân thể Merkin và Trác Mộc Cường Ba giống như được nối với nhau bằng một sợi dây chun, lúc thì tay người này tóm lấy tay người kia, lúc thì hai chân móc vào nhau, có lúc Trác Mộc Cường Ba coi thân thể Merkin như cái cột, tay ôm cột, bật người lên đá xoay một vòng; có lúc Merkin lại coi thân thể Trác Mộc Cường Ba như bao cát hay quả chùy dây xích, nhấc bổng lên ném vèo ra. Hai người thoắt trước thoắt sau, khi lùi khi tiến, khiến Đường Thọ có cảm giác không phải đang chiến đấu với hai người, mà là một kẻ có bốn tay bốn chân. Sau ba bốn lần đột kích, cuối cùng nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba cũng thụi trúng mặt Đường Thọ. Đường Thọ ngã xuống, trượt trên thảm cỏ ra xa bốn năm mét. Y chống một tay xuống đất bật dậy, tay kia quét qua khóe miệng, nhìn vết máy trên ngón tay cái, y chỉ nhếch mép, “phì”, nhổ ra một ngụm máu bầm: “Không ngờ đấy, chiến thuật hợp kích này dường như không nằm trong hạng mục huấn luyện lính đặc chủng thì phải.”
Trác Mộc Cường Ba và Merkin thấy có hiệu quả, đâu buồn rỗi hơi mà lắm lời với Đường Thọ. Hai người bắt tay, sải bước xông lên truy kích. Đường Thọ lạnh lùng nói: “Các ngươi tưởng dùng chiêu này có thể đánh trúng ta lần nữa sao!” Đột nhiên hai tay y giơ lên, bàn tay xòe ra, cả người trượt ngược về phía sau như vừa nãy, đồng thời, y đã bốc hai nắm đất lên. Trác Mộc Cường Ba và Merkin chỉ kịp thấy một đống cát đen ngòm bay tới trước mặt.
“Hỏng bét!” Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng cảm thấy không hay, khoảng cách quá gần, họ không thể không giơ tay lên bảo vệ cặp mắt. Đường Thọ xông lên một bước, chen vào giữa hai người, hai tay chia ra tấn công hai hướng. Trong tình huống như vậy, hai người vừa không thể hợp tác tấn công, ngược lại còn vì hai tay móc vào nhau mà không thể kịp né tránh đòn thế của Đường Thọ.
Đến khi hai người tách được ra để né đòn thì Merkin đã bị đánh lui ba bốn bước, Trác Mộc Cường Ba càng thảm hơn, bị tay phải Đường Thọ đánh cho hộc máu. Đường Thọ dùng thân thể của mình ngăn cách giữa Trác Mộc Cường Ba và Merkin, không cho hai người có cơ hội liên thủ, ba người đứng trên một đường thẳng, mặt Đường Thọ nhìn ra phía trước, còn Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại lom lom nhìn y, hai bên cứ vậy gườm ghè lẫn nhau.
Đường Thọ đột nhiên bật cười: “Có biết tại sao lúc nãy nghe ngươi nói ta là tên điên, ta lại cười không? Vì ta nhớ đến một tên điên khác, một mụ điên thì đúng hơn. Mụ ta cảm thấy cuộc sống với người chồng trước thật quá đơn điệu nhạt nhẽo, tưởng rằng mình đã tìm thấy tình yêu chân chính, bèn quyết định dẫn theo con gái, chia tay người chồng cũ. Không ngờ, chồng sau của mụ ta lại là một thằng nghiện cờ bạc, thoáng cái đã thua sạch hết tài sản trong nhà, chẳng những vậy hắn ta không hề thích mụ đàn bà đó, mà chỉ muốn ra tay với con gái mụ. Con bé đáng thương thật, mười… mười mấy tuổi nhỉ? Dù sao thì, đêm đó ta đã thấy nó mặc một bộ đồ trắng như tuyết, nhảy từ nóc nhà mười tám tầng xuống, đẹp như một cánh bướm vậy, ha ha, mụ đàn bà đáng thương ấy, không ngờ lại hóa điên…”
“Đường Thọ” cổ họng Trác Mộc Cường Ba phát ra một tiếng gầm, bật người lao tới: “Mày không phải con người!”
“Này, đừng thế!” Merkin biết rõ Đường Thọ đang chọc giận Trác Mộc Cường Ba, nhưng lúc này, y đã không thể ngăn gã lại được nữa.
Trác Mộc Cường Ba hung hăng lao tới, nhưng Đường Thọ chỉ cần khẽ khàng giơ chân cất tay là lại đánh bật gã. Có điều, Trác Mộc Cường Ba dường như hoàn toàn không biết đau đớn, hai chân chạm đất, lại xông lên như thể bất cần đời, cứ vậy bốn năm lần, trên vạt áo Đường Thọ đã có không ít vết máu, máu của Trác Mộc Cường Ba.
Merkin thấy vậy thì hết sức lo lắng, cũng muốn xông lên giúp sức, nhưng chỉ mấy chiêu đã bị Đường Thọ đánh bật ra. Nụ cười nhã nhặn trên gương mặt Đường Thọ vẫn chưa từng biến mất.
“Ầm!” Trác Mộc Cường Ba lại bị đánh bay ra xa bốn năm mét, rơi bịch xuống đất, trượt thêm ba bốn mét nữa rồi ộc ra một ngụm máu lớn. Lần này gã không thể một mạch lao tới được nữa, Trác Mộc Cường Ba khó nhọc xoay người ngồi dậy, há
miệng thở dốc, cảm giác phẫn hận trong lòng mỗi lúc một bùng lên mạnh mẽ, tại sao, tại sao lại có kẻ như tên Đường Thọ này? Tại sao lại là ta? Tại sao lại là ta?
Đường Thọ nói với giọng thương hại : Cường Ba thiếu gia, ngươi không thể trách ta được, có trách thì trách ngươi là Trác Mộc Cường Ba đi, ai bảo người là con trai của Đức Nhân lão gia, ai bảo gia tộc ngươi là hậu duệ của Trại Bản Ba. Có điều, người cứ yên tâm, giờ mụ đàn bà đó đang ở trong bệnh viện mà ta đã từng ở ấy, ngươi cũng từng đến đó rồi, điều kiện rất tốt đấy.”
“A...a...” Trác Mộc Cường Ba ngửa mặt lên trời hú dài, cục máu ứ trong lồng ngực phun ra, lửa phẫn nộ trong long cháy lên ngùn ngùt. Gã đột nhiên cảm thấy, vòng tròn vốn đang chầm chậm di chuyển động giữa hai đùi kia, biến thành một thông đạo, dường như có một thứ vật chất vô hình nào đó trong trời đất, đang ùa vào tràn đầy cơ thể qua thông đạo đó.
“A...a...” cùng với tiếng gầm đầy giận dữ ấy, làn da Trác Mộc Cường Ba từ từ chuyển sang sắc đỏ, từng sợi gân xanh gồ hẳn lên, cơ bắp vặn vẹo đè lên xương cốt phát ra những âm thanh “răng rắc lách cách”, những khối thịt gồ lên cao như thể muốn xé toạc y phục ra. Mekin và Đường Thọ đều ngạc nhiên nhìn những biến hóa trên thân thể gã.
“Hải Để Luân”
(56)
mở ra hết! Cường Ba thiếu gia, ngươi cũng giỏi mang đến cho ta nhiều niềm vui bất ngờ đấy, ở thời điểm này mà còn đột phá được cơ à!” Đường Thọ không hề sợ hãi, ngược lại còn tỏ ra vui mừng, nụ cười càng thêm rạng rỡ.
Trác Mộc Cường Ba lại đứng lên, gã thậm chí không buồn quan tâm đến những thay đổi của mình, lao thẳng vào Đường Thọ. Thân thể hai người lướt qua cạnh nhau, Trác Mộc Cường Ba lại trúng một đấm. Nhưng lần này, gã cảm nhận được một cách rõ ràng mình đã nắm bắt được quỹ tích ra đòn của Đường Thọ, trong một chớp mắt trước khi trúng chiêu, gã đã né được chỗ yếu hại trên cơ thể. Đường Thọ muốn tung cước, không hiểu sao trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại nảy ra ý nghĩ đó, gã hơi co gối lên, trước khi hai chân Đường Thọ hình thành được thế công, chặn đùi non của y lại, hai người đều tung ra một đấm, lùi lại một bước, tạm thời tách ra.
Đúng vào khoảng khắc họ tách ra đó, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu được tại sao mình biết Đường Thọ muốn tung cước. Vì nếu gã ở vị trí của Đường Thọ, đá chân lên không nghi ngờ gì chính là lựa chọn tốt nhất, chính là như vậy! Trác Mộc Cường Ba đã dự cảm được suy nghĩ của Đường Thọ, từ đó chặn được thế công của y lúc chiến đấu. Đồng thời, gã cũng hiểu ra sự thua kém của bọn gã với Đường Thọ nằm ở đâu. Gã và Mekin, ra đòn có thể rất nhanh, chiêu thức quái dị, nhưng khi bọn gã ra đòn thì chỉ biết xông thẳng tới trước, gặp chiêu giải chiêu. Còn Đường Thọ lại hoàn toàn khác, trước khi ra chiêu, y đã nghĩ trước xem đối thủ có thể phản ứng như thế nào, vì vậy mỗi lần y xuất chiêu đều chặn đứng những bộ vị hai người bọn gã có thể tấn công, đồng thời nhằm vào những vị trí hai người không kịp thu về phòng ngự, giống như hai cao thủ đánh cờ mà Đường Thọ luôn nhìn trước được một nước cờ vậy. Cũng chẳng trách khi tấn công Đường Thọ, gã và Mekin rất khó đánh trúng đối phương, mà lại liên tiếp trúng đòn của y.
Đường Thọ và Trác Mộc Cường Ba vừa tách ra, Mekin lập tức bọc hậu tấn công. Đường Thọ thoáng lộ vẻ chán ghét, y đã không còn hứng thú hưởng thụ trò mèo vờn chuột này nữa, trong lòng ngấm ngầm lo lắng. Y lo lắng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nắm bắt được cách thức đoán trước quỹ tích vận động và ý đồ tác chiến của đối thủ trong chiến đấu. Tuy rằng y cũng biết, điều này cần một quá trình lâu dài, nhưng y vẫn cảm thấy lo lắng.
“Cút đi cho ta” Đường Thọ không còn nương tay nữa, nhắm vào Mekin tung ra một đấm. Khi nắm đấm còn cách Mekin khoảng ba bốn chục xăng ti mét, y lại đột nhiên hất cổ tay lên, đầu móc kéo theo dây xích mảnh bắn vụt ra. Ở khoảng cách gần như thế này, uy lực của đầu móc tuyệt đối không kém viên đạn vừa rời khỏi họng súng, chỉ trong chớp mắt đã bắn xuyên qua vị trí dưới bả vai của Merkin. Đây cũng là một trong những chỗ mỏng nhất trên bộ đồ chống đạn này. Vì tốc độ bắn xuyên qua quá nhanh, Merkin còn không kịp cảm thấy đau đớn, bàn tay vẫn nắm chặt vung ra phía trước. Cổ tay Đường Thọ khẽ vặn nhẹ, dây xích lập tức rút trở về. Cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt tức thì lan đi khắp toàn thân, Merkin “Á!” lên một tiếng, cú đấm lập tức run rẩy thoát lực dừng sững lại. Đường Thọ giơ chân đá tạt một cú, hất y văng ra xa, rồi xoay người lại toàn lực đối phó Trác Mộc Cường Ba.
Merkin bị đã bay lơ lửng trên không trung, nhìn thấy Đường Thọ dốc sức tấn công Trác Mộc
Cường Ba, một chọi một, Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn rơi vào thế yếu. Trước đó, gã đã bị thương rất nặng chẳng qua mới nắm bắt được phương thức dự đoán động tác trước khi xuất chiêu mà thôi. Y nhìn thấy rất rõ, gương mặt đỏ bừng vì phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba đang dần tái đi, gã mất máu nhiều quá, giờ đã như ngọn đèn cạn dầu rồi. Merkin lạnh cả người, thầm nhủ: “Không thể chiến thắng hắn được, hắn còn chưa dùng đến vũ khí, cũng không sử dụng côn trùng, mà đã mạnh đến thế, lẽ nào chũng ta phải kết thúc như vậy sao?” Thân thể Merkin rơi chạm đất, khẽ bật nảy lên, khóe mắt liếc thấy… vùng gò đồi đằng xa kia, dường như có gì nhích động!
Thời gian quan ngược lại lúc ba người bắt đầu chiến đấu, khi Trác Mộc Cường Ba phun ra vũng máu đầu tiên, những phân tử máu bắn tung tóe, được cơn gió nhẹ dịu dàng bao bọc, đưa ra xa khỏi bãi cỏ, không ngừng khuếch tán rộng hơn… Tứ Vương lăng, bầy sói đang nô đùa.
Sói Út không biết kiếm đâu được một khúc xương dài, ngậm trong miệng chạy vào một nhà dân đặt trước một con sói cái. Con sói cái ấy e thẹn cúi đầu, bước đến cọ cọ vào má Sói Út. Sói Út ta đang mừng rỡ hớn hở, đột nhiên trở lên nghiêm nghị, chạy ra khỏi nhà, ngẩng đầu tìm kiếm gì đó trong không khí. Một mùi quen thuộc từ xa bay đến, mùi máu. Lúc này đã có một ngọn gió mang theo mùi máy nồng nặc lướt qua, nhưng Sói Út không để ý, cho rằng đó là đội săn bắn đang đi săn, nhưng lần này thì khác, máu này, là của A U Chang!
Trên đỉnh Tứ Vương lăng, vị vương giả trên cao đột nhiên đứng dậy, bốn chân như bốn cây cột, mặt hướng về phía Tây. Một con sói cường tráng đứng ở bậc thang bên dưới, khẽ gầm gừ: “Là người đó!” Vương giả đáp: “Ta còn ngửi thấy mùi quen thuộc khác, xem ra, đến lúc chúng ta hành động rồi.”
Dường như tất cả lũ sói và chó ngao ở Shangri-la đều ngửa mặt lên trời, dùng cái mũi nhạy bén của chúng tìm kiếm thứ gì đó. Đột nhiên, cái bóng màu tím kia từ trên Vương lăng bước xuống, nó đi đến đâu, đàn sói nhất loạt cúi đầu, rồi lập tức đứng dậy đi theo vị vương của mình, tiến về cùng một hướng. Đàn sói ở bốn phương tám hướng cũng tràn về, bọn chúng đều bỏ dở hết công việc đang làm, nhưng chơi đùa nhảy nhót, cùng đi theo một bóng hình, dần tụ tập thành những dòng thác lũ, những dòng lũ lớn lại hòa vào nhau, tựa như cơn sóng thần ngoài biển khơi ập đến nhấn chìm hết thảy.
Đàn sói tràn qua rừng rậm, hết sức trật tự theo sau vị vương giả của chúng, không phát ra bất cứ âm thanh nào, nhưng những bước chân nhịp nhàng ấy lại khiến cả khu rừng run lên. Trong khoảnh khắc, động vật trong rừng, ngoài những con bay được trên không và rúc sâu dưới lòng đất, dường như tất cả đều ùa ra khỏi hang ổ, bỏ chạy dáo dác.
Vương giả của loài sói, bước chân thanh nhã mà cao quý nhanh nhẹn bước đi, tốc độ tăng dần, sải chân nhỏ dần, nhỏ dần rồi như thể đang bay. Toàn bộ các đàn sói ở Shang-ri la đều đi theo thủ lĩnh của chúng, nghìn vạn cùng lao đi, khiến mặt đất chấn động rung lên bần bật.
Merkin tưởng rằng mình hoa mắt, vội đưa tay dụi mạnh rồi nhìn lại, đúng vậy, khu vực gò đồi đó đang rung lên, không phải, không phải đồi núi đang rung động , mà cả một vùng gò đồi đằng xa ấy đều bị thứ gì đó phủ kín, thứ đó đang chuyển động. Merkin chưa kịp nhìn rõ đó là thứ gì, y chỉ biết, số lượng bọn chúng rất đông đảo, tất cả đang ào ào tràn tới đây. Y
ngoái đầu nhìn quanh quất, chỉ thấy toàn bộ trong tầm mắt, đầu là như vậy, dường như mặt đất đang cuộn sóng… liền ngay sau đó Merkin cảm thấy mặt đất, hồ nước, núi non, tất thẩy đều đang run lên nhè nhẹ.
Đường Thọ vừa đánh bật Trác Mộc Cường Ba ra xa mấy mét, lập tức cảm nhận được mặt đất rung động. y ngoảnh đầu, liền thấy cơn sóng do lũ sói tạo thành ập đến. Đường Thọ tức thì tái mặt, thầm tính toán khoảng cách giữa mình và lũ sói, rồi quay lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên rút súng bắn luôn. Trác Mộc Cường Ba sớm đã có chuẩn bị, thuật bắn súng cận thân được bản năng trợ giúp, đã phát huy vượt cấp. Gã lăn lội mấy vòng, đạn của Đường Thọ bắn ra đều rơi vào khoảng trống. Y rất muốn giết chết Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhưng cũng không hề muốn hợp táng với hai người. Ngay cả Merkin cũng nhận ra, Đường Thọ đang chuẩn bị bỏ chạy! Lúc này, Merkin đã nhìn rõ, thứ tràn qua rừng rậm kia, là sói, toàn bộ đều là sói, sói đến rồi! Sói đến rồi! Không hiểu vì sao. Merkin cảm thấy kích động sôi trào, suýt chút nữa thì rơi nước mắt. Y có lẽ là một trong số rất ít người trong lịch sử nhìn thấy nhiều sói như vậy chạy về phía mình mà con vui mừng đến thế.
VƯƠNG GIẢ GIÁNG LÂM
Đường Thọ đành bỏ qua cho bọn Trác Mộc Cường Ba, xoay người chạy đi, đồng thời mở khóa ba lô, lấy hết vũ khí ra, toàn thân từ đầu đến chân đều vù trang tới tận răng. Y vừa chạy vưa cật lực thầm nhủ: “Không qua đâu, không qua đây đâu…”
Ven hồ là những khối đá lớn nhỏ sừng sững, đàn sói chạy đến trước những khối đá ấy liền đồng loạt dừng lại, chân cào bới đất một cách bất an, gầm gừ khe khẽ. Đường Thọ yên tâm phần nào, song vẫn không dám hoàn toàn lơi lỏng, y biết, điều này chẳng nói lên gì cả, quan trọng nhất là phải xem thái độ của “vị” kia như thế nào.
Tử kỳ lân được bầy sói tiền hô hậu ủng, trông cao hơn hẳn những con sói và chó ngao khác hẳn một cái đầu, nó chầm chậm bước tới đường ranh giới tạo bởi các khối đá, mấy con sói tương đối cao tuổi ở bên cạnh khẽ thì thào: “Chuyện này…ngài xem…”
Tử kỳ lân chẳng buồn để ý, hờ hững như không, ngẩng cao đầu bước qua lằn ranh vô hình ấy, lũ sói phía sau hú lên mừng rỡ, lần lượt bám đuôi theo. Trái tim Đường Thọ giật nảy lên, khẩu súng trong tay suýt nữa thì rơi mất.
Trác Mộc Cường Ba nằm dưới đất, nhất thời không sao dậy nổi, chỉ có thể nghiêng người đi một chút. Gã cũng cảm thấy mặt đất đang chấn động, nhìn thấy đàn sói ùa tới, nhưng gã vẫn chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Gã chỉ biết, vương quốc sói có quy củ riêng của mình, hoặc giả, bọn chúng cũng có sứ mệnh của mình, không để bất cứ kẻ nào từng đặt chân đến Bạc Ba La thần miếu được phép rời khỏi đây, giống như Ba Tang và đồng đội của anh ta năm đó vậy. Thế cũng tốt, ít nhất Đường Thọ cũng không thoát được.
Nhưng ngay sau đó, gã liền loại bỏ mối lo này, vì trong đàn sói ập đến như nước triều đen kịt ấy, có hai con soi xông lên đến cạnh gã trước tiên. Sói Út và Sói Hai thân thiết liếm liếm vết thương trên người gã, đoạn ngồi chồm hỗm bên cạnh gã. Trác Mộc Cường Ba giơ tay lên, vuốt dọc theo sống lưng hai con sói.
Sói Út thấp giọng thì thào: “Ai bắt nạt anh thế, A U Chang chúng tôi giúp anh báo thù.”
Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng sói đáp lại: “Vậy thì, nhờ chúng mày vậy.” Đang nói chuyện, chợt nghe một tiếng hét giận giữ: “Lũ khốn kiếp!” Kế đó, tiếng súng vang lên liên tiếp.
Trác Mộc Cường Ba muốn nhìn xem có chuyện gì xảy ra, nhưng cần cổ đau nhức, toàn thân không còn chút sức lực nào cả. Sói Hai liền dùng mõm rúc vào, nâng đầu Trác Mộc Cường Ba lên cao hơn.
Trác Mộc Cường Ba trông thấy, không biết từ lúc nào, Đường Thọ đã bị lũ sói ép trở về, đồng thời, xung quanh gã cũng có vô số con sói đang quây thành vòng tròn, ném cho gã những ánh nhìn thân thiết. Gã lập tức ngập tràn trong hạnh phúc, chúng không hề quên người bạn này!
Đường Thọ hai tay hai súng, liên tục phát xạ, quỹ tích đạn bao phủ toàn bộ các phương vị xung quanh, y thay đạn cũng cực nhanh, hai khẩu súng vừa hết đạn, y kiền ném lên không trung, đồng thời búng lên hai băng đạn giắt ở thắt lưng, sau đó rút hai khẩu súng khác ra tiếp tục xạ kích. Hai băng đạn cắm lọt ngay vào hai khẩu súng trên không trung, rơi xuống, khi ấy, Đường Thọ cũng vừa bắn hết đạn hai khẩu súng trên tay , y lại ném súng lên, búng ra hai băng đạn khác, rồi lại bắt lấy hai khẩu súng vừa rơi xuống, tiếp tục nhả đạn. Kỹ thuật này, hiển nhiên còn cao minh hơn Merkin một bậc, hai khẩu súng đồng thời nạp đạn, vả lại gần như không có thời gian cách quãng.
Trác Mộc Cường Ba quan sát quỹ tích nhả đạn của Đường Thọ cũng không khỏi thầm kinh ngạc. góc độ xạ kích hết sức độc địa, quỹ đạo dịch chuyển của nòng súng cũng thập phần quái dị, diện tích che phủ rất toàn diện, gần như một hình cầu toàn thân đều có những họng súng chĩa ra vậy. Gã bất giác thầm nhủ, nếu Đường Thọ vừa xuất hiện đã sử dụng kỹ thuật xạ kích này đối phó mình và Merkin, sợ rằng bọn gã đã sớm chẳng còn
mạng nữa rồi, chỉ có điều, tên Đường Thọ này tâm lý quá biến thái, y muốn hưởng thụ khoái cảm chinh phục, kết quả lại bị đàn sói lùa vào trong rọ.
Kỹ thuật bắn súng của Đường Thọ đã đáng kinh ngạc, nhưng biểu hiện của đàn sói lại càng khiến người ta chấn động hơn. Bọn chúng nhảy qua nhảy lại giữa các làn đạn, nhanh như những cái bóng mờ, đạn của Đường Thọ quá nửa đều bắn trượt, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nhớ đến chuyện xảy ra khi mấy con sói đuổi theo gã và Ba Tang. Tốc độ của lũ sói này còn nhanh hơn một chút so với tốc độ mắt thường có thể theo kịp, rõ ràng nhìn thấy chúng, nhưng khi nổ súng lại chỉ bắn vào một cái bóng, nếu nhắm mắt bắn bừa bắn bậy, nói không chừng lại bắn trúng cũng nên.
Đáng tiếc, Đường Thọ không hiểu lý lẽ này, trong cơn căng thẳng và sợ hãi cực độ, cặp mắt y càng lúc càng mở lớn.
“Cách cách!” hai tiếng, Đường Thọ vỗ vào thắt lưng nhưng đã không còn băng đạn nào nữa. Y vẫn không can tâm, liền chĩa súng vào lũ sói bóp cò liên tiếp, không ngừng phát ra những tiếng “cách cách cách” trống rỗng. Lũ sói tách ra tạo thành một con đường, Tử kỳ lân chầm chậm bước lên phía trước, mặt đối mặt với Đường Thọ. Nó nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, miệng khẽ nhếch lên.
“Nổ súng đi, xem người còn bao nhiêu đạn. Lần trước đã để ngươi chạy thoát, không ngờ ngươi còn dám trở lại nữa, lần này để xem ngươi chạy được đi đâu.” Đường Thọ đọc được điều đó trong mắt Tử kỳ lân.
“Không thể nào, đây không phải là cấm địa của các ngươi hay sao? Sao các ngươi dám vượt qua ranh giới? Sao các ngươi dám!” Đường Thọ chỉ vào những khối đá sừng sững ở đằng xa quát tháo ầm ĩ.
Tử kỳ lân ngoảnh đầu lại nhìn những khối đá, ánh mắt lộ vẻ tiếc nuối, tựa như đang nói: “Quy củ lập ra là để phá vỡ, chẳng lẽ ngay cả điều này ngươi cũng không biết sao? Ngươi có óc không vậy?”
“Không thể nào, không thể nào.” Đường Thọ vừa lắc đầu vừa lùi lại, y biết rõ lũ sói này đáng sợ đến chừng nào, kí ức bị truy đuổi lần trước vẫn còn rõ ràng như mới. Vốn luôn cho rằng mình là một thứ tồn tại cao quý vô thượng, không ngờ lại bị một đám súc sinh đánh bại, Đường Thọ bị đả kích rất lớn, vì vậy mà tin thần rối loạn mất một thoáng thời gian, đây cũng chính là một trong các nguyên nhân khiến y mặc đồ lính đánh thuê trà trộn vào giữa đám thuộc hạ của Merkin để che giấu hành tung.
Đột nhiên, Đường Thọ trông thấy Trác Mộc Cường Ba đang được đàn sói quây lại bảo vệ, sau đó, y lại trông thấy Merkin. Đãi ngộ của Merkin không được như Trác Mộc Cường Ba, mấy con sói đang hướng về phía y
nhe hàm răng nhọn hoắt, khiến Merkin sợ đến không dám nhúc nhích. Đường Thọ dường như sực hiểu ra điều gì đó, y chỉ Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Ngươi! Chính là ngươi! Ngươi là Người được chọn! Không! Không công bằng! Ta cũng là hậu duệ của Vu vương, tại sao chỉ có ngươi là Người được chọn?” Trác Mộc Cường Ba đã phục hồi phần nào sức lực, đang khó nhọc chống khủy tay xuống đất để nâng người lên cao một chút, gã nuốt ngụm máu trào lên đến cổ họng xuống, dùng câu nói của chính Đường Thọ trả lời y: “Thế thì sao? Ngươi không phục à?”
Đường Thọ cực kỳ phẫn hận rít lên: “Cường Ba thiếu gia, ngươi tốt số thật đấy! Có kẻ sống gửi bảo vệ ngươi! Lại có lũ sói bảo vệ ngươi! Được lắm! Được lắm!”
Sói Út đứng lên, lông cổ dựng ngược, nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, hỏi Trác Mộc Cường
Ba: “A U Chang, hắn phải không? Xem tôi xử lý hắn này!”
Một con sói bên cạnh ngăn Sói Út lại, nói: “Đừng hoảng, đó là con mồi của Vương.”
Tử kỳ lân khẽ gầm lên một tiếng, chuyển sự chú ý của Đường Thọ sang phía nó: “Con người, cuộc chiến của chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi, không phải ngươi sợ rồi chứ?”
Mà để cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin đủ thời gian bàn bạc như con mèo đang vờn hai con chuột…
Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía xa, mé bên kia thảm cỏ là rừng rậm, nếu đàn sói có thể chạy đến đây… Đường Thọ cười khì khì nói: “Không cần nghĩ đến lũ sói của ngươi làm gì. Cường Ba thiếu gia, đừng quên lúc ngươi truy đuổi Merkin đã xảy ra chuyện gì chứ? Ta đã khảo sát kỹ lưỡng rồi, đây là khu cấm đối với loài sói, bọn chũng tuyệt đối không tiến vào dù chỉ một bước đâu.”
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chầm chậm thu về, nhìn bộ mặt khiêm hòa nhã nhẵn mà thực chất lại hết sức kiêu căng ngạo mạn của Đường Thọ, trong lòng gã chợt dâng trào một ngọn lửa vô hình. Gã giơ nắm đấm to như cái bát lên, cứ vậy lao thẳng về phía Đường Thọ,
nếu mọi tính toán đều không thể thay đổi được cục diện, vậy thì, cứ trực tiếp xông lên là xong, cần quái gì phải nghĩ nữa.
“Này, vậy có được không?” Merkin không đừng được dánh phải chạy theo bên Trác Mộc Cường Ba , hai người song song lao về phía Đường Thọ.
“Hắn không coi mạng người ra cái gì đâu, hắn sẽ không tha cho chúng ta, mà tôi cũng không định tha cho hắn, đã thế thì cần gì phải nghĩ ngợi nhiều cho mệt óc? Cứ oanh liệt đánh một trận đi, giống như thời trẻ vậy!”
“Giống như thời trẻ vậy!” Merkin cảm thấy máu trong cơ thể mình bắt đầu soi trào nóng bỏng, cảm giác nhiệt huyết bừng bừng đã lâu lắm rồi không có lại ào ạt trồi lên trong y, bước chân hai người mỗi lúc một nhanh, họ guồng chân, tăng tốc, gia tốc, chỉ trong chớp mắt đã vượt qua khoảng cách năm mươi bước chân.
Nhìn hai người dũng mãnh xông về phía mình, Đường Thọ nhoẻn miệng mỉm cười, cũng lao về phía họ, bắt đầu tăng tốc, hai mươi mét, mười mét, năm mét, khoảng cách giữa song phương không ngừng rút ngắn lại. Khi hai bên gần chạm vào nhau, Đường Thọ đột nhiên chồm người ra trước, hai tay chống xuống đất lộn nhào một vòng, nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba và Merkin song song rơi vào khoảng không. Trong khi ấy, hai chân đạp ra phía trước của Đường Thọ ép hai người họ phải thu tay chống đỡ. Cả hai cùng cảm nhận được lực xung kích mạnh mẽ ập tới, đành cực lực chuyển từ thế công sang tư thế phòng ngự, giật lùi về phía sau.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa lùi lại, hai chân Đường Thọ đang đá vào mặt hai người lập tức chuyển sang đạp vào ngực. Hai người lại lùi tiếp, hai cẳng chân lại nhằm vào phần hông, hai tay Đường Thọ đã rời khỏi mặt đất, cả người lúc này nằm ngang trên không trung. Vốn dĩ, đây là thời cơ tốt nhất để tấn công y, nhưng hai chân y lại dài hơn sải tay Trác Mộc Cường Ba và Merkin, hai người không đánh trúng Đường Thọ, ngược lại mỗi người còn bị
đá cho một cước. hai người chỉ có thể tiếp tục lùi lại, họ vẫn còn một cơ hội, chính lúc Đường Thọ vừa kết thúc vòng nhào lộn, hai chân còn chưa đứng vững vàng. Lúc đó y không thể phát lực, hai người sẽ chuyển lùi thành tiến, tức khắc sẽ khiến Đường Thọ trở tay không kịp.
Nhưng thân thể Đường Thọ ở trên không trung lại nghiêng đi một cách kỳ dị, chân trái chạm đất trước chân phải, vả lại, chân trái còn vươn lên truocs chân phải chừng ba mươi xăng ti mét. Chính khoảng cách ba mươi xăng ti mét này, khiến Đường Thọ giẫm lên mu bàn chân Merkin một cách chuẩn xác. Khi áp lực từ mu bàn chân truyền lên não, Merkin chuẩn bị rút chân lùi lại, thì Đường Thọ đã đứng lù lù trước mặt y rồi. Đồng thời, chính cú vặn người trên không kì dị đó, cũng khiến cú đấm dồn lực của Trác Mộc Cường Ba lướt sạt qua đầu vai Đường Thọ rơi vào khoảng không.
Merkin thấy Đường Thọ đứng trước mặt mình, hai mắt trợn lên, kế đó là cảm giác đau đớn dữ dội bùng lên ở nội tạng, truyền đến trung khu thần kinh. Đường Thọ vừa chạm đến đất liền tung ra một cú đấm vào bụng dưới Merkin nắm đấm vẫn không dừng lại, thuận đà móc lên quá đầu, tương thẳng vào cằm, khiến Merkin bật ngửa ra sau. Lẽ ra, trúng phải hai đòn nặng như vậy, Merkin phải văng lên không trung, nhưng Đường Thọ lại đang giẫm lên mu bàn chân y. Merkin sau khi cảm thấy đau đớn dữ dội bật ngửa người ra, lại cảm thấy một luồng sức lại kéo y bật ngược lại phía nắm đấm của đối phương.
Đường Thọ sớm đã chuẩn bị cho Merkin một cùi chỏ, còn tay kia của y lại đang đối phó với Trác Mộc Cường Ba. Đúng như Pháp Sư Á La phán đoán, tay phải của Đường Thọ rõ ràng không nhanh bằng tay trái, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, Trác Mộc Cường Ba luôn phải dồn sức vào cả hai tay mới gạt đỡ được nắm đấm của y.
Còn Merkin lúc này, lại như con lật đật, bị Đường Thọ đánh ngả ra sau rồi bật lại, ngả ra sau, rồi lại bật lại, tuy y vẫn có thể cản đỡ được một phần thế công của Đường Thọ, nhưng cũng không có cách nào chuyển từ thế thủ sang tấn công. Phía bên kia, Trác Mộc Cường Ba một mực tấn công dữ dội, song cũng không thể đột phá được thế phòng ngự một tay của Đường Thọ, có điều Đường Thọ đang giẫm lên chân Merkin, nên chỉ cần gã duy trì khoảng cách, Đường Thọ cũng không đánh trúng gã được.
Đường Thọ đánh cho Merkin bật đi bật lại như vậy khoảng ba bốn lần, đột nhiên nhấc chân lên, xoay sang tấn công Trác Mộc Cường Ba. Thân thể Merkin vừa thoát khỏi áp chế, không lùi lại mà xông thẳng tới, ngọn lửa bị đè nén trong lòng bùng lên dữ dội. Chỉ thấy Đường Thọ chuyển hướng, xoay hông, tránh khỏi nắm đấm mạnh
mẽ của Trác Mộc Cường Ba, cẳng chân vừa giẫm chân Merkin từ từ nhấc lên. Y mỉm cười lùi lại, như thể dây cung kéo căng ra để tích tụ sức mạnh, kế đó bất ngờ phát lực, bắn vọt về phía Trác Mộc Cường Ba. Toàn bộ quá trình ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn đang trong tư thế giơ nắm đấm xông tới, không kịp biến chiêu, chỉ biết
mở mắt trân trân nhìn đầu gối Đường Thọ “tiếp xúc thân mật” với bụng
mình. Một đòn này, khiến thân thể Trác Mộc Cường Ba bay bổng lên khỏi mặt đất. Vẫn chưa kết thúc, Đường Thọ còn mượn lực phản chấn khi chạm với Trác Mộc Cường Ba, đạp mạnh chân về phía sau, nhằm thẳng vào lồng ngực Merkin đang bổ tới. Đối mặt với cú đã bất thình lình này, Merkin định thu tay lại chống đỡ, nhưng tay chưa kịp thu về thì chân đối phương đã trúng đích, y chỉ thấy lồng ngực nhộn nhạo, cảm giác như thể phải ọe hết cả lục phủ ngũ tạng ra mới dễ chịu được phần nào. Đường Thọ tung chân bật về phía sau một cước, trúng vào phần phía trước ngực Merkin, kế đó lại giơ đùi lên, gót chân quét mạnh vào trán y, vẫn chưa hết đà, cẳng chân giương cao quá đầu. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang cong người lại như con tôm, thân hình vươn ra phía trước. Thân trên của Đường Thọ thụp xuống, cẳng chân đá Merkin bật ra, liền vòng ra từ sau lưng như đuôi bọ cạp, bồi vào trán Trác Mộc Cường Ba một cước. cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin đều bị hất văng ra xa.
Lên gối, đá hậu, hất chân, móc ngược, một loạt các động tác liền mạch như nước đại khái chỉ diễn ra trong khoảng nửa giây, không phải Trác Mộc Cường Ba và Merkin không muốn né tránh, mà chỉ vì Đường Thọ quá nhanh. Sau khi đánh bật, hai người mới nhớ ra, chân tên Đường Thọ này còn linh hoạt hơn tay của người bình thường gấp bội.
Đường Thọ một chiêu đắc thủ, đương nhiên không cho hai người có cơ hội lấy hơi, lập tức dồn lực vào gót chân, phi thân lao tới, nắm đấm kéo về phía sau, mục tiêu là … Trác Mộc Cường Ba!
Nắm tay Đường Thọ còn chưa tới, quyền phong đã tới trước. Trác Mộc Cường Ba vừa trúng một cú lên gối bồi thêm một cước vào trán, cơ bắp co giật, cảm giác đau đớn còn chưa dứt, lưng vẫn chưa vươn thẳng ra được, tưởng chừng như không thể nào tránh được. Nhưng dưới áp lực của cú đấm đáng sợ ấy, bản năng sinh tồn của gã bỗng bùng lên. Trác Mộc Cường Ba thả lỏng hai tay đang ôm bụng, chống xuống đất, cả tứ chi đồng thời phát lực. Tư thế đó hết sức kỳ dị, giống như con dế đang phục dưới đất đột nhiên nhảy bật lên tránh khỏi bàn tay ụp xuống bắt nó vậy. Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại né được cú đấm trí mạng ấy! Tứ chi cùng lúc phát lực, cùng lúc chạm đất, Trác Mộc Cường Ba nhảy sang một bên, vẫn giữ nguyên tư thế nằm rạp xuống đó nhìn lom lom vào Đường Thọ. Đồng thời, gã cũng cảm nhận được, khi thực hiện động tác này, hơi thở và các mạch máu đều trở nên thông thuận, cảm giác đau đớn dữ dội cũng lập tức thuyên giảm đáng kể.
Cú đấm của Đường Thọ đã hoàn toàn ngập vào vị trí Trác Mộc Cường Ba vừa đứng, giống như dao cắt đậu phụ, gần
nửa cánh tay chìm vào trong đất. Hai mắt Đường Thọ đảo một vòng, rõ ràng chính y cũng kinh ngạc khi thấy Trác Mộc Cường Ba tránh được cú đấm này, nhưng y không hề do dự, tức khắc xoay người rút nắm đấm ra, tung chân chạy ngược lại, mục tiêu là, Merkin! Tốc độ của y cực nhanh, thân thể gần như song song với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba không ngờ Đường Thọ lại thay đổi hướng trong chớp mắt, không dám chần chừ, vội vàng truy theo. Lần này, gã dùng cả chân lẫn tay, lập tức cảm thấy máu và hơi thở càng thêm thông suốt dễ dàng, tốc độ chạy cũng tăng lên đáng kể, gần như theo kịp được Đường Thọ.
“Bước chạy kiểu sói à!” Đường Thọ thoáng lộ vẻ bực tức, nhưng y không có thời gian lo chuyện ấy, dù sao y vẫn dẫn trước Trác Mộc Cường Ba nửa thân người, nửa thân người ấy, đủ để đối phó với Merkin rồi!
Merkin không học được theo Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên giở ra một chiêu thức quái dị chẳng ai nghĩ tới. Y cảm nhận được áp lực cuồn cuộn ập đến từ phía Đường Thọ, đành nắm chặt hai bàn tay lại, liều mạng!
TỬ ĐẤU (2)
Đường Thọ tiếp cận với Merkin lại ngả người thụp hẳn xuống. lại muốn lộn nhào nữa sao? Nhưng Merkin lần này không mắc bẫy, hai cánh tay giương lên bảo vệ những chỗ yếu hại, kế đó đạp ra một cước nhằm vào chỗ eo mông, vị trí không linh hoạt nhất khi lộn nhào trên không của Đường Thọ. Không ngờ, lần này Đường Thọ không dùng chân tấn công vào mặt Merkin, chỉ thấy y nghiêng người đi, hai chân trầm hẳn xuống, kẹp vào cẳng chân đá về phía mình của Merkin. Liền sau đó, hai tay y chống xuống đất, thân thể xoay ba trăm sáu mươi độ trên không trung.
“Vặn chân!” Merkin hết sức quen thuộc với chiêu này, đây là một chiêu tấn công rất thường dùng trong môn võ tự do, tục gọi là “đá cắt kéo”, lợi dụng thế gọng kiềm của hai chân, dùng sức eo hông cộng với lực xoáy toàn thân quật ngã đối thủ xuống đất. Chỉ là, trong môn võ tự do, người ta thường dùng chiêu này tấn công hai khớp gối hoặc cần cổ kẻ địch, như vậy mới có thể quật ngã đối phương, nhưng lúc này… Đường Thọ lại chỉ kẹp lấy một chân của y, vậy là…
Lực xoắn mạnh mẽ truyền lên từ bắp chân, Merkin đột nhiên hiểu ra, Đường Thọ muốn… vặn gẫy xương y! Tập trung sức lực toàn thân để đối phó với một trong tứ chi, trước tiên dùng thế gọng kiềm cố định chân hoặc tay đối thủ, sau đó dồn sức xoay người vặn mạnh, hoàn toàn có thể khiến cánh tay hoặc cẳng
chân kẻ trúng chiêu gẫy lìa ra. Trước áp lực khủng khiếp chưa từng có ấy, Merkin cũng bị ép phải phát huy hết tiềm lực của
mình. Khi Đường Thọ xoay được một nửa vòng ba trăm sáu mươi độ, Merkin cũng nhấc chân kia lên, xoay người trên không trung một vòng theo y, rốt cuộc cũng không bị phế mất một chân. Nhưng hai tay Đường Thọ vừa chạm đất, y lại bật lên, xoay thêm một vòng nữa. Còn Merkin, khi xoay vòng đầu tiên, y đã mất thăng bằng, ngã người trên thảm cỏ, còn chưa định thần lại được, thì thấy lực vặn xoắn mạnh mẽ kia lại truyền tới. Y không kịp phản ứng gì, đành nghiến răng kiên trì đến cùng. Cũng may cho y, cơ bắp đùi tương đối rắn chắc, lực vặn kia chỉ khiến cản người y lăn lông lốc trên thảm cỏ, nhưng chân thì không bị bẻ gãy.
Đường Thọ chay mày, chiêu thức bẻ chi này chỉ có hai vòng đầu tiên là khó đề phòng nhất, những vòng xoay về sau, tỷ lệ bẻ gẫy tay chân đối phương nhỏ hơn rất nhiều. Đồng thời, lúc này Trác Mộc Cường Ba đang đuổi sát sau lưng đã giẫm mạnh cả tứ chi xuống đất vọt người bổ nhào về phía y. Đường thọ ưỡn bụng, hai chân đang kẹp cẳng chân Merkin dồn sức vung mạnh, ném cả người Merkin vào Trác Mộc Cường Ba. Có điều dùng chân ném dẫu sao cũng không thể chuẩn xác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lướt qua nhau trên không trung. Hai người nhìn vào mắt nhau, tâm niệm tương thông, đột nhiên cùng vươn tay phải ra móc chặt vào nhau, hai luồng lực tác động lẫn nhau, lập tức khiến quỹ đạo chuyển động và phương hướng của hai người thay đổi hoàn toàn. Trác Mộc Cường Ba bị Merkin kéo cho dừng sững lại, còn Merkin lại lấy Trác Mộc Cường Ba làm trung tâm, vạch một vòng tròn trên không trung, vòng trở lại phía Đường Thọ.
Lúc này, Đường Thọ vừa đứng lên, nghe thấy tiếng gió sau lưng, y chẳng buồn nhìn, tức thì thuận thế tung ra một cước, Merkin nhận định tình thế hết sức chuẩn xác, nhắm vào gan bàn chân Đường Thọ đấm mạnh. Thân hình Đường Thọ thoáng lắc lư mấy cái, đà lao của Merkin cũng dứt, cùng lúc chạm đất với Trác Mộc Cường Ba.
Đường Thọ ngoảnh đầu, thoáng ngạc nhiên, y không ngờ kẻ tấn công mình lại là Merkin. Trác
Mộc Cường Ba và Merkin nhìn nhau, dùng khẩu hình đưa ra ám hiệu: “Tiếp sức trên không!”
Cái gọi là tiếp sức trên không đó, kỳ thực là một phương pháp tá lực đả lực mà Trác Mộc Cường Ba lĩnh ngộ được từ chiến thuật của bầy sói. Chiến lang của bộ tộc Qua Ba khi hợp tác săn mồi thường làm một loạt những động tác thế này: một con sói đứng yên bất động, một con khác chạy đà đạp mạnh lên thân thể con sói đầu tiên, sau đó con sói đầu tiên cũng lập tức bật người nhảy lên giúp con sói thứ hai một quãng. Cộng với đà lao của bản thân con sói thứ hai, cách này có thể khiến nó nhảy xa hơn, cao hơn; hoặc khi đang xông tới, bị con mồi tránh được, con sói lao thẳng vào gốc cây hoặc vách đá dựng đứng, nhưng chúng không hề hãm lại, ngược lại còn dồn thêm sức xông tới, rồi lấy thân câu hoặc vách đá làm điểm tựa mượn lực đàn hồi bật ngược trở lại. Vậy là, đòn tấn công theo đường thẳng liền biến thành thế công hình tam giác. Giống như Cương Nhật Phổ Bạc và Cương Lạp vậy, Cương Lạp có thể mượn sức cánh tay Cương Nhật để nhẩy lên, khi tấn công kẻ địch, nó cũng nhảu từ vai tên thứ nhất sang vai tên thứ hai rồi tên thứ ba, giống như nhảy lên các cây cột, khiến kẻ địch hoa mắt chóng
mặt.
Khi tránh né các cơ quan cạm bậy trong Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã dựa theo phương thức hợp tác này của loài sói, phối hợp thực hiện một loạt động tác tiếp sức trên không. Khi xuất hiện những vết nứt gãy không nhảy qua được, hoặc không còn đường nào để đi, họ liền lấy một người làm trung tâm, ném người còn lại qua, sau đó bản thân cũng nhảy theo. Người được ném đi ấy sẽ sang bờ bên kia trước, rồi quay lại tiếp ứng đối phương, thoạt nhìn có vẻ rất giống với những người biểu diễn đu bay trong đoàn xiếc, nhưng động tác thì khó hơn rất nhiều lần. Có điều hai người đều có sức mạnh, cộng với thân thủ nhanh nhẹn, sau nhiều lần diễn luyện cũng đã quen với những động tác này rồi.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn đang móc chặt tay vào nhau, không đợi Đường Thọ kịp phản ứng, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dùng cả hai tay tóm vào cánh tay Merkin, ném y như ném quả trùy sắt. Thân hình Merkin bay lên không trung, đá về phía Đường Thọ, Đường Thọ vội giơ tay lên cản lại, người hơi lảo đảo lùi lại hai bước, dù sao thì sức của hai người gộp lại cũng mạnh hơn một người nhiều.
Merkin chưa đá trúng được Đường Thọ, nhưng y đã nhanh chóng chạm mặt đất, vòng tay kéo mạnh, lại ném Trác Mộc Cường Ba ra. Hai người lúc này giống như hai quả chùy sắt móc vào cùng một sợi xích, luân chuyển tấn công Đường Thọ. Lần này Merkin ném Trác Mộc Cường Ba ra thật, hai tay móc vào nhau đã tách ra. Trác Mộc Cường Ba hai tay liên tiếp vung lên “chào hỏi” Đường Thọ, còn Merkin lại nhảy bật về phía sau. Cũng là hai tay, nhưng quyền pháp của Đường Thọ rõ ràng nhanh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc, chỉ thấy cổ tay y lật lên lật xuống mấy lần, đã hóa giải toàn bộ chiêu thức của gã, tưởng như một đấm sắp tương lên chán Trác Mộc Cường Ba, nào ngờ thân hình gã lại đột nhiên dừng phắt giữa không trung, rồi nhanh chóng giật lùi trở về sau. Thì ra, Merkin lùi lại phía sau đã tóm lấy hai chân Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba một đòn không trúng đích, y liền kéo ngay về phía sau. Nếu chỉ có một người, Trác Mộc Cường Ba hay Merkin cũng không thể nào thực hiện được những động tác kiểu này, nhưng hai người hợp tác, chuyện không thể cũng biến thành có thể.
Merkin kéo Trác Mộc Cường Ba giật ngược lại, bản thân cũng ngửa người ra trượt lên thảm cỏ, hai chân tấn công phần thân dưới của Đường Thọ, đồng thời dồn sức lên hai tay, ném Trác Mộc Cường Ba lúc này đã bay qua đầu y bay ngược trở lại. Sắc mặt Đường Thọ thoáng biến đổi, liên tiếp giật lùi, nhất thời cũng chưa thích ứng được với cách đánh này.
Thân thể Merkin và Trác Mộc Cường Ba giống như được nối với nhau bằng một sợi dây chun, lúc thì tay người này tóm lấy tay người kia, lúc thì hai chân móc vào nhau, có lúc Trác Mộc Cường Ba coi thân thể Merkin như cái cột, tay ôm cột, bật người lên đá xoay một vòng; có lúc Merkin lại coi thân thể Trác Mộc Cường Ba như bao cát hay quả chùy dây xích, nhấc bổng lên ném vèo ra. Hai người thoắt trước thoắt sau, khi lùi khi tiến, khiến Đường Thọ có cảm giác không phải đang chiến đấu với hai người, mà là một kẻ có bốn tay bốn chân. Sau ba bốn lần đột kích, cuối cùng nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba cũng thụi trúng mặt Đường Thọ. Đường Thọ ngã xuống, trượt trên thảm cỏ ra xa bốn năm mét. Y chống một tay xuống đất bật dậy, tay kia quét qua khóe miệng, nhìn vết máy trên ngón tay cái, y chỉ nhếch mép, “phì”, nhổ ra một
ngụm máu bầm: “Không ngờ đấy, chiến thuật hợp kích này dường như không nằm trong hạng mục huấn luyện lính đặc chủng thì phải.”
Trác Mộc Cường Ba và Merkin thấy có hiệu quả, đâu buồn rỗi
hơi mà lắm lời với Đường Thọ. Hai người bắt tay, sải bước xông lên truy kích. Đường Thọ lạnh lùng nói: “Các ngươi tưởng dùng chiêu này có thể đánh trúng ta lần nữa sao!” Đột nhiên hai tay y giơ lên, bàn tay xòe ra, cả người trượt ngược về phía sau như vừa nãy, đồng thời, y đã bốc hai nắm đất lên. Trác Mộc Cường Ba và Merkin chỉ kịp thấy một đống cát đen ngòm bay tới trước mặt.
“Hỏng bét!” Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng cảm thấy không hay, khoảng cách quá gần, họ không thể không giơ tay lên bảo vệ cặp mắt. Đường Thọ xông lên một bước, chen vào giữa hai người, hai tay chia ra tấn công hai hướng. Trong tình huống như vậy, hai người vừa không thể hợp tác tấn công, ngược lại còn vì hai tay móc vào nhau mà không thể kịp né tránh đòn thế của Đường Thọ.
Đến khi hai người tách được ra để né đòn thì Merkin đã bị đánh lui ba bốn bước, Trác Mộc Cường Ba càng thảm hơn, bị tay phải Đường Thọ đánh cho hộc máu. Đường Thọ dùng thân thể của mình ngăn cách giữa Trác Mộc Cường Ba và Merkin, không cho hai người có cơ hội liên thủ, ba người đứng trên một đường thẳng, mặt Đường Thọ nhìn ra phía trước, còn Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại lom lom nhìn y, hai bên cứ vậy gườm ghè lẫn nhau.
Đường Thọ đột nhiên bật cười: “Có biết tại sao lúc nãy nghe ngươi nói ta là tên điên, ta lại cười không? Vì ta nhớ đến một tên điên khác, một mụ điên thì đúng hơn. Mụ ta cảm thấy cuộc sống với người chồng trước thật quá đơn điệu nhạt nhẽo, tưởng rằng mình đã tìm thấy tình yêu chân chính, bèn quyết định dẫn theo con gái, chia tay người chồng cũ. Không ngờ, chồng sau của mụ ta lại là một thằng nghiện cờ bạc, thoáng cái đã thua sạch hết tài sản trong nhà, chẳng những vậy hắn ta không hề thích mụ đàn bà đó, mà chỉ muốn ra tay với con gái mụ. Con bé đáng thương thật, mười… mười mấy tuổi nhỉ? Dù sao thì, đêm đó ta đã thấy nó mặc một bộ đồ trắng như tuyết, nhảy từ nóc nhà mười tám tầng xuống, đẹp như một cánh bướm vậy, ha ha, mụ đàn bà đáng thương ấy, không ngờ lại hóa điên…”
“Đường Thọ” cổ họng Trác Mộc Cường Ba phát ra một tiếng gầm, bật người lao tới: “Mày không phải con người!”
“Này, đừng thế!” Merkin biết rõ Đường Thọ đang chọc giận Trác Mộc Cường Ba, nhưng lúc này, y đã không thể ngăn gã lại được nữa.
Trác Mộc Cường Ba hung hăng lao tới, nhưng Đường Thọ chit cần khẽ khàng giơ chân cất tay là lại đánh bật gã. Có điều, Trác Mộc Cường Ba dường như hoàn toàn không biết đau đớn, hai chân chạm đất, lại xông lên như thể bất cần đời, cứ vậy bốn năm lần, trên vạt áo Đường Thọ đã có không ít vết máu, máu của Trác Mộc Cường Ba.
Merkin thấy vậy thì hết sức lo lắng, cũng muốn xông lên giúp sức, nhưng chỉ mấy chiêu đã bị Đường Thọ đánh bật ra. Nụ cười nhã nhặn trên gương mặt Đường Thọ vẫn chưa từng biến mất.
“Ầm!” Trác Mộc Cường Ba lại bị đánh bay ra xa bốn năm mét, rơi bịch xuống đất, trượt thêm ba bốn mét nữa rồi ộc ra một ngụm máu lớn. Lần này gã không thể một mạch lao tới được nữa, Trác Mộc Cường Ba khó nhọc xoay người ngồi dậy, há
miệng thở dốc, cảm giác phẫn hận trong lòng mỗi lúc một bùng lên mạnh mẽ, tại sao, tại sao lại có kẻ như tên Đường Thọ này? Tại sao lại là ta? Tại sao lại là ta?
Đường Thọ nói với giọng thươn hại : Cường Ba thiếu gia, ngươi không thể trách ta được, có trách thì trách người là Trác Mộc Cường Ba
đi, ai bảo người là con trai của Đức Nhân lão gia, ai bảo gia tộc ngươi là hậu duệ của Trại Bản Ba. Có điều, người cứ yên tâm, giờ mụ đàn bà đó đang ở trong bệnh viện mà ta đã từng ở ấy, ngươi cũng từng đến đó rồi, điều kiện rất tốt đấy.”
“A...a...” Trác Mộc Cường Ba ngửa mặt lên trời hú dài, cục máu ứ trong lồng ngực phun ra, lửa phẫn nộ trong long cháy lên ngùn ngùt. Gã đột nhiên cảm thấy, vòng tròn vốn đang chầm chậm di chuyển động giữa hai đùi kia, biến thành một thông đạo, dường như có một thứ vật chất vô hình nào đó trong trời đất, đang ùa vào tràn đầy cơ thể qua thông đạo đó.
“A...a...” cùng với tiếng gầm đầy giận dữ ấy, làn da Trác Mộc Cường Ba từ từ chuyển sang sắc đỏ, từng sợi gân xanh gồ hẳn lên, cơ bắp vặn vẹo đè lên xương cốt phát ra những âm thanh “răng rắc lách cách”, những khối thịt gồ lên cao như thể muốn xé toạc y phục ra. Mekin và Đường Thọ đều ngạc nhiên nhìn những biến hóa trên thân thể gã.
“Hải Để Luân”
(56)
mở ra hết! Cường Ba thiếu gia, ngươi cũng giỏi mang đến cho ta nhiều niềm vui bất ngờ đấy, ở thời điểm này mà còn đột phá được cơ à!” Đường Thọ không hề sợ hãi, ngược lại còn tỏ ra vui mừng, nụ cười càng thêm rạng rỡ.
Trác Mộc Cường Ba lại đứng lên, gã thậm chí không buồn quan tâm đến những thay đổi của mình, lao thằng vào Đường Thọ. Thân thể hai người lướt qua cạnh nhau, Trác Mộc Cường Ba lại trúng một đấm. Nhưng lần này, gã cảm nhận được một cách rõ ràng mình đã nắm bắt được quỹ tích ra đòn của Đường Thọ, trong một chớp mắt trước khi trúng chiêu, gã đã né được chỗ yếu hại trên cơ thể. Đường Thọ muốn tung cước, không hiểu sao trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại nảy ra ý nghĩ đó, gã hơi co gối lên, trước khi hai chân Đường Thọ hình thành được thế công, chặn đùi non của y lại, hai người đều tung ra một đấm, lùi lại một bước, tạm thời tách ra.
Đúng vào khoảng khắc họ tách ra đó, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu được tại sao mình biết Đường Thọ muốn tung cước. Vì nếu gã ở vị trí của Đường Thọ, đá chân lên không nghi ngờ gì chính là lựa chọn tốt nhất, chính là như vậy! Trác Mộc Cường Ba đã dự cảm được suy nghĩ của Đường Thọ, từ đó chặn được thế công của y lúc chiến đấu. Đồng thời, gã cũng hiểu ra sự thua kém của bọn gã với Đường Thọ nằm ở đâu. Gã và Mekin, ra đòn có thể rất nhanh, chiêu thức quái dị, nhưng khi bọn gã ra đòn thì chỉ biết xông thẳng tới trước, gặp chiêu giải chiêu. Còn Đường Thọ lại hoàn toàn khác, trước khi ra chiêu, y đã nghĩ trước xem đối thủ có thể phản ứng như thế nào, vì vậy mỗi lần y xuất chiêu đều chặn đứng những bộ vị hai người bọn gã có thể tấn công, đồng thời nhằm vào những vị trí hai người không kịp thu về phòng ngự, giống như hai cao thủ đánh cờ mà Đường Thọ luôn nhìn trước được một nước cờ vậy. Cũng chẳng trách khi tấn công Đường Thọ, gã và Mekin rất khó đánh trúng đối phương, mà lại liên tiếp trúng đòn của y.
Đường Thọ và Trác Mộc Cường Ba vừa tách ra, Mekin lập tức bọc hậu tấn công. Đường Thọ thoáng lộ vẻ chán ghét, y đã không còn hứng thú hưởng thụ trò mèo vờn chuột này nữa, trong lòng ngấm ngầm lo lắng. Y lo lắng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nắm bắt được cách thức đoán trước quỹ tichsvaanj động và ý đồ tác chiến của đối thủ trong chiến đấu. Tuy rằng y cũng biết, điều này cần một quá trình lâu dài, nhưng y vẫn cảm thấy lo lắng.
“Cút đi cho ta” Đường Thọ không còn nương tay nữa, nhắm vào Mekin tung ra một đấm. Khi nắm đấm còn cách Mekin khoảng ba bốn chục xăng ti mét, y lại đột nhiên hất cổ tay lên, đầu móc kéo theo dây xích mảnh bắn vụt ra. Ở khoảng cách gần như thế này, uy lực của đầu móc tuyệt đối không kém vien đạn vừa rời khỏi họng súng, chỉ trong chớp mắt đã bắn xuyên qua vị trí dưới bả vai của Merkin. Đây cũng là một trong những chỗ mỏng nhất trên bộ đồ chống đạn này. Vì tốc độ bắn xuyên qua quá nhanh, Merkin còn không kịp cảm thấy đau đớn, bàn tay vẫn nắm chặt vung ra phía trước. Cổ tay Đường Thọ khẽ vặn nhẹ, dây xích lập tức rút trở về. Cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt tức thì lan đi khắp toàn thân, Merkin “Á!” lên một tiếng, cú đấm lập tức run rẩy thoát lực dừng sững lại. Đường Thọ giơ chân đá tạt một cú, hất y văng ra xa, rồi xoay người lại toàn lực đối phó Trác Mộc Cường Ba.
Merkin bị đã bay lơ lửng trên không trung, nhìn thấy Đường Thọ dốc sức tấn công Trác Mộc Cường Ba, một chọi một, Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn rơi vào thế yếu. Trước đó, gã đã bị thương rất nặng chẳng qua mới nắm bắt được phương thức dự đoán động tác trước khi xuất chiêu mà thôi. Y nhìn thấy rất rõ, gương mặt đỏ bừng vì phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba đang dần tái đi, gã mất máu nhiều quá, giờ đã như ngọn đèn cạn dầu rồi. Merkin lạnh cả người, thầm nhủ: “Không thể chiến thắng hắn được, hắn còn chưa dùng đến vũ khí, cũng không sử dụng côn trùng, mà đã mạnh đến thế, lẽ nào chũng ta phải keeys thức như vậy sao?” Thân thể Merkin rơi chạm đất, khẽ bật nảy lên, khóe mắt liếc thấy… vùng gò đồi đằng xa kia, dương như có gì nhích động!
Thời gian quay ngược lại lúc ba người bắt đầu chiến đấu, khi Trác Mộc Cường Ba phun ra bùng máu đầu tiên, những phân tử máu bắn tung tóe, được cơn gió nhẹ dịu dàng bao bọc, đưa ra xa khỏi bãi cỏ, không ngừng khuếch tán rộng hơn… Tứ Vương lăng, bầy sói đang nô đùa.
Sói Út không biết kiếm đâu được một khúc xương dài, ngậm trong miệng chạy vào một nhà dân đặt trước một con sói cái. Con sói cái ấy e thẹn cúi đầu, bước đến cọ cọ vào má Sói Út. Sói Út ta đang mừng rỡ hớn hở, đột nhiên trở lên nghiêm nghị, chạy ra khỏi nhà, ngẩng đầu tìm kiếm gì đó trong không khí. Một mùi quen thuộc từ xa bay đến, mùi máu. Lúc nãy đã có một ngọn gió mang theo mùi máu nồng nặc lướt qua, nhưng Sói Út không để ý, cho rằng đó là đội săn bắn đang đi săn, nhưng lần này thì khác, máu này, là của A U Chang!
Trên đỉnh Tứ Vương lăng, vị vương giả trên cao đột nhiên đứng dậy, bốn chân như bốn cây cột, mặt hướng về phía Tây. Một con sói cường tráng đứng ở bậc thang bên dưới, khẽ gầm gừ: “Là người đó!” Vương giả đáp: “Ta còn ngửi thấy mùi quen thuộc khác, xem ra, đến lúc chúng ta hành động rồi.”
Dường như tất cả lũ sói và chó ngao ở Shangri-la đều ngửa mặt lên trời, dùng cái mũi nhạy bén của chúng tìm kiếm thứ gì đó. Đột nhiên, cái bóng màu tím kia từ trên Vương lăng bước xuống, nó đi đến đâu, đàn sói nhất loạt cúi đầu, rồi lập tức đứng dậy đi theo vị vương của mình, tiến về cùng một hướng. Đàn sói ở bốn phương tám hướng cũng tràn về, bọn chúng đều bỏ dở hết công việc đang làm, như chơi đùa nhảy nhót, cùng đi theo một bóng hình, dần tụ tập thành những dòng thác lũ, những dòng lũ lớn lại hòa vào nhau, tựa như cơn sóng thần ngoài biển khơi ập đến nhấn chìm hết thảy.
Đàn sói tràn qua rừng rậm, hết sức trật tự theo sau vị vương giả của chúng, không phát ra bất cứ âm thanh nào, nhưng những bước chân nhịp nhàng ấy lại khiến cả khu rừng run lên. Trong khoảnh khắc, động vật trong rừng, ngoài những con bay được trên không và rúc sâu dưới lòng đất, dường như tất cả đều ùa ra khỏi hang ổ, bỏ chạy dáo dác.
Vương giả của loài sói, bước chân thanh nhã mà cao quý nhanh nhẹn bước đi, tốc độ tăng dần, sải chân nhỏ dần, nhỏ dần rồi như thể đang bay. Toàn bộ các đàn sói ở Shang-ri la đều đi theo thủ lĩnh của chúng, nghìn vạn cùng lao đi, khiến mặt đất chấn động rung lên bần bật.
Merkin tưởng rằng mình hoa mắt, vội đưa tay dụi mạnh rồi nhìn lại, đúng vậy, khu vực gò đồi đó đang rung lên, không phải, không phải đồi núi đang rung động, mà cả một vùng gò đồi đằng xa ấy đều bị thứ gì đó phủ kín, thứ đó đang chuyển động. Merkin chưa kịp nhìn rõ đó là thứ gì, y chỉ biết, số lượng bọn chúng rất đông đảo, tất cả đang ào ào tràn tới đây. Y ngoái đầu nhìn quanh quất, chỉ thấy toàn bộ trong tầm mắt, đều là như vậy, dường như mặt đất đang cuộn sóng… liền ngay sau đó Merkin cảm thấy mặt đất, hồ nước, núi non, tất thẩy đều đang run lên nhè nhẹ.
Đường Thọ vừa đánh bật Trác Mộc Cường Ba ra xa mấy mét, lập tức cảm nhận được mặt đất rung động. Y ngoảnh đầu, liền thấy cơn sóng do lũ sói tạo thành ập đến. Đường Thọ tức thì tái mặt, thầm tính toán khoảng cách giữa mình và lũ sói, rồi quay lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên rút súng bắn luôn. Trác Mộc Cường Ba sớm đã có chuẩn bị, thuật bắn súng cận thân được bản năng trợ giúp, đã phát huy vượt cấp. Gã lăn lộn mấy vòng, đạn của Đường Thọ bắn ra đều rơi vào khoảng trống. Y rất muốn giết chết Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhưng cũng không hề muốn hợp táng với hai người. Ngay cả Merkin cũng nhận ra, Đường Thọ đang chuẩn bị bỏ chạy! Lúc này, Merkin đã nhìn rõ, thứ tràn qua rừng rậm kia, là sói, toàn bộ đều là sói, sói đến rồi! Sói đến rồi! Không hiểu vì sao, Merkin cảm thấy kích động sôi trào, suýt chút nữa thì rơi nước mắt. Y có lẽ là một trong số rất ít người trong lịch sử nhìn thấy nhiều sói như vậy chạy về phía mình mà còn vui mừng đến thế.
VƯƠNG GIẢ GIÁNG LÂM
Đường Thọ đành bỏ qua cho bọn Trác Mộc Cường Ba, xoay người chạy đi, đồng thời mở khóa ba lô, lấy hết vũ khí ra, toàn thân từ đầu đến chân đều vũ trang tới tận răng. Y vừa chạy vừa cật lực thầm nhủ: “Không qua đâu, không qua đây đâu…”
Ven hồ là những khối đá lớn nhỏ sừng sững, đàn sói chạy đến trước những khối đá ấy liền đồng loạt dừng lại, chân cào bới đất một cách bất an, gầm gừ khe khẽ. Đường Thọ yên tâm phần nào, song vẫn không dám hoàn toàn lơi lỏng, y biết, điều này chẳng nói lên gì cả, quan trọng nhất là phải xem thái độ của “vị” kia như thế nào.
Tử kỳ lân được bầy sói tiền hô hậu ủng, trông cao hơn hẳn những con sói và chó ngao khác hẳn một cái đầu, nó chầm chậm bước tới đường ranh giới tạo bởi các khối đá, mấy con sói tương đối cao tuổi ở bên cạnh khẽ thì thào: “Chuyện này…ngài xem…”
Tử kỳ lân chẳng buồn để ý, hờ hững như không, ngẩng cao đầu bước qua lằn ranh vô hình ấy, lũ sói phía sau hú lên mừng rỡ, lần lượt bám đuôi theo. Trái tim Đường Thọ giật nảy lên, khẩu súng trong tay suýt nữa thì rơi mất.
Trác Mộc Cường Ba nằm dưới đất, nhất thời không sao dậy nổi, chỉ có thể nghiêng người đi một chút. Gã cũng cảm thấy mặt đất đang chấn động, nhìn thấy đàn sói ùa tới, nhưng gã vẫn chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Gã chỉ biết, vương quốc sói có quy củ riêng của mình, hoặc giả, bọn chúng cũng có sứ mệnh của mình, không để bất cứ kẻ nào từng đặt chân đến Bạc Ba La thần miếu được phép rời khỏi đây, giống như Ba Tang và đồng đội của anh ta năm đó vậy. Thế cũng tốt, ít nhất Đường Thọ cũng không thoát được.
Nhưng ngay sau đó, gã liền loại bỏ mối lo này, vì trong đàn sói ập đến như nước triều đen kịt ấy, có hai con soi xông lên đến cạnh gã trước tiên. Sói Út và Sói Hai thân thiết liếm liếm vết thương trên người gã, đoạn ngồi chồm hỗm bên cạnh gã. Trác Mộc Cường Ba giơ tay lên, vuốt dọc theo sống lưng hai con sói.
Sói Út thấp giọng thì thào: “Ai bắt nạt anh thế, A U Chang, chúng tôi giúp anh báo thù.”
Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng sói đáp lại: “Vậy thì, nhờ chúng mày vậy.” Đang nói chuyện, chợt nghe một tiếng hét giận giữ: “Lũ khốn kiếp!” Kế đó, tiếng súng vang lên liên tiếp.
Trác Mộc Cường Ba muốn nhìn xem có chuyện gì xảy ra, nhưng cần cổ đau nhức, toàn thân không còn chút sức lực nào cả. Sói Hai liền dùng mõm rúc vào, nâng đầu Trác Mộc Cường Ba lên cao hơn.
Trác Mộc Cường Ba trông thấy, không biết từ lúc nào, Đường Thọ đã bị lũ sói ép trở về, đồng thời, xung quanh gã cũng có vô số con sói đang quây thành vòng tròn, ném cho gã những ánh nhìn thân thiết. Gã lập tức ngập tràn trong hạnh phúc, chúng không hề quên người bạn này!
Đường Thọ hai tay hai súng, liên tục phát xạ, quỹ tích đạn bao phủ toàn bộ các phương vị xung quanh, y thay đạn cũng cực nhanh, hai khẩu súng vừa hết đạn, y kiền ném lên không trung, đồng thời búng lên hai băng đạn giắt ở thắt lưng, sau đó rút hai khẩu súng khác ra tiếp tục xạ kích. Hai băng đạn cắm lọt ngay vào hai khẩu súng trên không trung, rơi xuống, khi ấy, Đường Thọ cũng vừa bắn hết đạn hai khẩu súng trên tay, y lại ném súng lên, búng ra hai băng đạn khác, rồi lại bắt lấy hai khẩu súng vừa rơi xuống, tiếp tục nhả đạn. Kỹ thuật này, hiển nhiên còn cao minh hơn Merkin một bậc, hai khẩu súng đồng thời nạp đạn, vả lại gần như không có thời gian cách quãng.
Trác Mộc Cường Ba quan sát quỹ tích nhả đạn của Đường Thọ cũng không khỏi thầm kinh ngạc. Góc độ xạ kích hết sức độc địa, quỹ đạo dịch chuyển của nòng súng cũng thập phần quái dị, diện tích che phủ rất toàn diện, gần như một hình cầu toàn thân đều có những họng súng chĩa ra vậy. Gã bất giác thầm nhủ, nếu Đường Thọ vừa xuất hiện đã sử dụng kỹ thuật xạ kích này đối phó mình và Merkin, sợ rằng bọn gã đã sớm chẳng còn mạng nữa rồi, chỉ có điều, tên Đường Thọ này tâm lý quá biến thái, y muốn hưởng thụ khoái cảm chinh phục, kết quả lại bị đàn sói lùa vào trong rọ.
Kỹ thuật bắn súng của Đường Thọ đã đáng kinh ngạc, nhưng biểu hiện của đàn sói lại càng khiến người ta chấn động hơn. Bọn chúng nhảy qua nhảy lại giữa các làn đạn, nhanh như những cái bóng mờ, đạn của Đường Thọ quá nửa đều bắn trượt, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nhớ đến chuyện xảy ra khi mấy con sói đuổi theo gã và Ba Tang. Tốc độ của lũ sói này còn nhanh hơn một chút so với tốc độ mắt thường có thể theo kịp, rõ ràng nhìn thấy chúng, nhưng khi nổ súng lại chỉ bắn vào một cái bóng, nếu nhắm mắt bắn bừa bắn bậy, nói không chừng lại bắn trúng cũng nên.
Đáng tiếc, Đường Thọ không hiểu lý lẽ này, trong cơn căng thẳng và sợ hãi cực độ, cặp mắt y càng lúc càng mở lớn.
“Cách cách!” hai tiếng, Đường Thọ vỗ vào thắt lưng nhưng đã không còn băng đạn nào nữa. Y vẫn không can tâm, liền chĩa súng vào lũ sói bóp cò liên tiếp, không ngừng phát ra những tiếng “cách cách cách” trống rỗng. Lũ sói tách ra tạo thành một con đường, Tử kỳ lân chầm chậm bước lên phía trước, mặt đối mặt với Đường Thọ. Nó nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, miệng khẽ nhếch lên.
“Nổ súng đi, xem người còn bao nhiêu đạn. Lần trước đã để ngươi chạy thoát, không ngờ ngươi còn dám trở lại nữa, lần này để xem ngươi chạy được đi đâu.” Đường Thọ đọc được điều đó trong mắt Tử kỳ lân.
“Không thể nào, đây không phải là cấm địa của các ngươi hay sao? Sao các ngươi dám vượt qua ranh giới? Sao các ngươi dám!” Đường Thọ chỉ vào những khối đá sừng sững ở đằng xa quát tháo ầm ĩ.
Tử kỳ lân ngoảnh đầu lại nhìn những khối đá, ánh mắt lộ vẻ tiếc nuối, tựa như đang nói: “Quy củ lập ra là để phá vỡ, chẳng lẽ ngay cả điều này ngươi cũng không biết sao? Ngươi có óc không vậy?”
“Không thể nào, không thể nào.” Đường Thọ vừa lắc đầu vừa lùi lại, y biết rõ lũ sói này đáng sợ đến chừng nào, kí ức bị truy đuổi lần trước vẫn còn rõ ràng như mới. Vốn luôn cho rằng mình là một thứ tồn tại cao quý vô thượng, không ngờ lại bị một đám súc sinh đánh bại, Đường Thọ bị đả kích rất lớn, vì vậy mà tinh thần rối loạn mất một khoảng thời gian, đây cũng chính là một trong các nguyên nhân khiến y mặc đồ lính đánh thuê trà trộn vào giữa đám thuộc hạ của Merkin để che giấu hành tung.
Đột nhiên, Đường Thọ trông thấy Trác Mộc Cường Ba đang được đàn sói quây lại bảo vệ, sau đó, y lại trông thấy Merkin. Đãi ngộ của Merkin không được như Trác Mộc Cường Ba, mấy con sói đang hướng về phía y
nhe hàm răng nhọn hoắt, khiến Merkin sợ đến không dám nhúc nhích. Đường Thọ dường như sực hiểu ra điều gì đó, y chỉ Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Ngươi! Chính là ngươi! Ngươi là Người được chọn! Không! Không công bằng! Ta cũng là hậu duệ của Vu vương, tại sao chỉ có ngươi là Người được chọn?” Trác Mộc Cường Ba đã phục hồi phần nào sức lực, đang khó nhọc chống khủy tay xuống đất để nâng người lên cao một chút, gã nuốt ngụm máu trào lên đến cổ họng xuống, dùng câu nói của chính Đường Thọ trả lời y: “Thế thì sao? Ngươi không phục à?”
Đường Thọ cực kỳ phẫn hận rít lên: “Cường Ba thiếu gia, ngươi tốt số thật đấy! Có kẻ sống gửi bảo vệ ngươi! Lại có lũ sói bảo vệ ngươi! Được lắm! Được lắm!”
Sói Út đứng lên, lông cổ dựng ngược, nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, hỏi Trác Mộc Cường
Ba: “A U Chang, hắn phải không? Xem tôi xử lý hắn này!”
Một con sói bên cạnh ngăn Sói Út lại, nói: “Đừng hoảng, đó là con mồi của Vương.”
Tử kỳ lân khẽ gầm lên một tiếng, chuyển sự chú ý của Đường Thọ sang phía nó: “Con người, cuộc chiến của chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi, không phải ngươi sợ rồi chứ?”
Đường Thọ nghiến răng kèn kẹt, tay trái rút dao, tay phải lại lặng lẽ rút vào trong ống tay áo, cơ hồ như đang chuẩn bị gì đó, y hung hăng quát: “Đến đây, con chó ôn dịch, ta không sợ ngươi đâu!”
Tử kỳ lân nghiêng đầu, dường như đang nghĩ xem chỗ dựa của Đường Thọ là thứ gì. Mấy con sói dạn dày kinh nghiệm cũng ghé đầu ghé tai thfi thào: “Tên đó, lần trước không phải bị đánh cho tơi bời hoa lá sao? Hắn còn dám tiếp chiến à? Dựa vào cái gì chứ?”
Tử kỳ lân nhếch mép cười, thân hình lắc nhẹ, thoắt cái đã... biến mất trong ánh mắt kinh ngạc của Trác Mộc Cường Ba và Merkin!
Duy chỉ có Đường Thọ vẫn giữ được sự trầm ổn, chỉ một khoảnh khắc sau đó, y đột nhiên nghiêng người, con dao trong tay đâm mạnh ra phía sau. Lưỡi dao của Đường Thọ đâm ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới trông thấy bóng dáng của Tử kỳ lân lóe lên đằng sau Đường Thọ một cái. Khi hai người đều tưởng rằng Tử kỳ lân đã bị dao đâm trúng, mới phát hiện ra, Đường Thọ chẳng qua chỉ đâm vào một cái bóng.
Nhanh... nhanh quá, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng chung một cảm giác, tốc độ mà xưa nay Đường Thọ vẫn lấy làm kiêu ngạo, ở trước mặt Tử kỳ lân, chẳng đáng là gì cả. Merkin từng chứng kiến tốc độ chạy hết sức của Hải Lam thú, nếu nói Hải Lam thú như một cơn gió, khi chạy chỉ để lại một cái bóng mờ mờ, vậy thì Tử kỳ lân này sở hữu tốc độ ngang với một tia chớp, mắt thường cơ hồ không thể theo kịp quỹ đạo di chuyển trong cự ly ngắn của nó được.
Phải quan sát cách thức di động và vị trí lưỡi dao của Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới thấy được bóng dáng Tử kỳ lân, thoắt hiện ra rồi lại thoắt biến mất, rồi lại hiện ra, rồi biến mất. Đột nhiên, Đường Thọ giơ con dao trên tay đâm mạnh vào cánh tay phải của mình, đường dao cực kỳ dứt khoát, tốc độ cực nhanh, dao và cánh tay đập vào nhau tóe lửa! Hả? Dao và cánh tay đập vào nhau tóe lửa?
Trác Mộc Cường Ba và Merkin đang nghi hoặc, Tử kỳ lân đã xuất hiện phía sau Đường Thọ, cách chừng hơn chục mét, nó cũng đang nhìn Đường Thọ với ánh mắt hồ nghi. Đường Thọ nhe răng cười khành khạch: “Sao hả? Đau răng rồi à?” Bấy giờ, hai người mới nhận ra, tay áo bên phải của Đường Thọ đã bị rách toạc bốn vết lớn.
Đường Thọ giật tung ống tay áo rách đó xuống. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nhận ra, cả cánh tay phải của y tuyền một màu đen, còn ánh lên sắc kim loại. Merkin lẩm bẩm: “Ghép chi?”
Trác Mộc Cường Ba lúc này mới phát hiện, toàn bọ tay phải của Đường Thọ từ vai trở xuống, hoàn toàn bằng kim loại. Không ngờ y lại cấy ghép một cánh tay máy chế tạo từ hợp kim! Chẳng trách tay phải y không linh hoạt bằng tay trái, chẳng trách pháp sư Á La lại nói tay phải của Đường Thọ sở hữu sức mạnh không phải của con người.
Đường Thọ chuyển động cánh tay phải, bàn tay xòe ra rồi nắm lại, cười cười nói: “Khoa học kỹ thuật của con người, không ngờ phải không, con chó ôn dịch, đừng tưởng ta hết đồ chơi rồi nhé.” Nói đoạn, không biết y đã điều chỉnh nút bấm nào trên cánh tay, đoạn từ khuỷu tay trở xuống liền bật ra một lưỡi dao nữa.
Tử kỳ lân thấp giọng gầm ghè, như thể đang nói: “Chẳng qua cũng thế mà thôi.”
Tia chớp màu tím lại xoay chuyển xung quanh tấn công Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba chợt để ý thấy hai mắt Đường Thọ chớp chớp với tốc độ nhanh hơn người thường rất nhiều, mỗi lần chớp mắt y đều có thể khóa chặt vị trí của Tử kỳ lân. Trác Mộc Cường Ba cũng học theo, bắt đầu chớp mắt thật nhanh, quả nhiên, mỗi lần chớp mắt gã đều thấy được bóng dáng của Từ kỳ lân, giống như cửa chập của máy ảnh vậy.
Tử kỳ lân thường tấn công Đường Thọ từ phía sau, bổ tới, lướt qua, tạt, vồ, đớp... còn Đường Thọ lại dùng cánh tay máy phòng ngự kín kẽ, mỗi lần Tử kỳ lân lao đến gần, y đều có thể nhanh chóng phản kích. Dưới ánh dao lấp lóa, bộ lông của Tử kỳ lân tung bay phấp phới, có mấy lần suýt nữa bị lưỡi dao của Đường Thọ vạch trúng.
Trác Mộc Cường Ba bắt đầu thấy lo lắng cho Tử kỳ lân, đòn tấn công của nó rõ ràng không thể gây tổn thương cho cánh tay máy kia, có điều, Đường Thọ dường như cũng không dùng cánh tay máy phòng hộ toàn thân, sau mỗi lần bị tấn công, y lại dùng luôn cánh tay máy ấy để phản kích.
“Công kích chịu đòn.” Không biết từ lúc nào, Merkin đã tập tễnh bên cạnh Trác Mộc Cường Ba.
“Ông nói gì cơ?”
“Đường Thọ, y đang sử dụng thuật công kích chịu đòn, anh không nhận ra à? Mỗi lần con chó kia tấn công hắn, hắn đều lập tức phản kích, có mấy lần suýt nữa là thành công rồi.” Merkin giải thích.
Trác Mộc Cường Ba cải chính lại: “Tử kỳ lân. Ông muốn nói, phương thức công kích ấy là một loại sách lược gì đó?”
Merkin gật đầu đáp: “Ừm, khi tốc độ và sức mạnh của anh đều không bằng đối thủ, muốn đánh trúng hắn thì phải làm thế nào chứ? Sách lược tốt nhất chính là cách mà Đường Thọ đang sử dụng, dù đối thủ mạnh đến mấy, khi hắn tấn công anh, nhất thiết sẽ phải tiếp xúc với thân thể anh. Chỉ cần đối thủ tiếp xúc với thân thể anh, động tác của hắn sẽ bộc lộ. Nếu anh bị đá trúng phần thân trên, trước khi ngã xuống anh có thể dùng chân đá lại hắn; nếu đối thủ tóm được một chân anh, anh có thể dùng chân kia; khi hai nắm đấm đều bị khóa chặt, liền dùng trán đập tới; khi mặt đối mặt với đối thủ, cũng có thể nhổ nước bọt, kiểu gì cũng được, vì anh đang ở thế yếu hơn, trong cuộc đấu đặt cược bằng tính mạng, mục đích duy nhất chính là giết chết đối phương, dùng bất cứ thủ đoạn nào cũng không bị coi là quá đáng.”
Trác Mộc Cường Ba đã lờ mờ đoán ra được. “Dùng thân thể của chính mình làm mồi, hy sinh một phần những bộ vị không quan trọng lắm để cho đối phương một đòn chí mạng?”
Merkin gật đầu: “Đúng thế. Anh xem, Đường Thọ rất ít khi dùng tay phải phòng ngự, chính là vì nguyên nhân này. Vì tay phải của hắn là tay máy, một khi Tử kỳ lân tấn công cánh tay máy đó, Đường Thọ cảm ứng sẽ chậm hơn, không thể áp dụng được chiến thuật chịu đòn, mà như vậy thì hắn thậm chí còn không chạm vào được sợi lông của con chó ấy.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng Tử kỳ lân cũng không hề gây tổn thương đến cánh tay máy đó mà?”
Merkin nói: “Không thấy trên cánh tay máy của Đường Thọ có một ngọn đèn nhỏ nhấp nháy à? Thứ đó dùng pin công suất lớn, dòng điện có thể khiến cánh tay đó sở hữu sức mạnh mà người bình thường không thể có được, nhưng nếu hết pin, thì nó liền biến thành một đống sắt vụn. Đường Thọ không dám mạo hiểm, hắn cũng không biết cánh tay máy đó rốt cuộc có thể chịu được bao nhiêu lần tấn công của Tử kỳ lân nữa.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng lần nào Tử kỳ lân cũng tránh được mà.”
Merkin chợt lắp bắp kêu lên: “Chuyện này… điểm sát! Đó là điểm sát!”
“Cái gì hả?”
Merkin nói: “Là một sách lược chiến đấu cực kỳ cao minh, khi anh dốc hết sức tấn công đối thủ, có thể sẽ đánh trúng, gây cho đối thủ thương tổn cực lớn, nhưng cũng có thể không đánh trúng, hoặc giả đối thủ có thể chịu đựng được sự tổn thương đó, khi ấy, anh rất dễ bị đối thủ phản kích, đây chính là chiến thuật chịu đòn phản kích của Đường Thọ. Nếu anh tấn công đối thủ lại chỉ dùng bảy phần sức, vậy thì, khi đối thủ tránh né đòn, anh vẫn còn dư lực để thay đổi phương hướng tấn công, tiếp tục ra đòn, nhược điểm duy nhất chính là, lực đánh vào đối thủ sẽ không quá lớn. Phương thức công kích này, được gọi là điểm sát, giống như vận động viên đấm bốc vậy, không nhất thiết phải đánh cho đối thủ nốc ao ngã xuống, chỉ cần dùng điểm số cũng giành được thắng lợi. Anh nhìn Tử kỳ lân tấn công mà xem, lần nào cũng điểm đến là dừng, trước khi Đường Thọ kịp phản kích nó đã né đi rồi, một vết thương nhỏ, khiến hắn chảy mười mi li lit máu, nhưng nếu hơn một trăm vết thương như thế thì sao? Tự nhiên cũng thành chí mạng. Chớ coi thường phương thức công kích này, nó yêu cầu phải có trình độ khống chế tốc độ và sức mạnh cực cao đó, nhiều người luyện tập cả đời cũng chỉ có thể đánh một đòn dốc hết sức, mà không có cách nào làm được như Tử kỳ lân: một đòn đánh nhanh hết sức có thể, nhưng lại chỉ dùng một phần ba sức lực.”
Quan sát một lúc nữa, Merkin nghi hoặc nói: “Tôi thực sự rất hoài nghi, con Tử kỳ lân ấy, nó là một con chó thật sao? Anh nhìn cách thức tấn công của nó mà xem, nó không chỉ biết Đường Thọ sẽ phản kích thế nào, thậm chí còn biết trước được động tác của Đường Thọ sau khi phản kích nữa, giống như lúc Đường Thọ đối phó chúng ta vậy, trời đất…”
Trác Mộc Cường Ba cũng đã thấy, thân thể Tử kỳ lân lao bổ vào Đường Thọ rồi lập tức bật ra, không ngờ còn có thể vặn vẹo theo hình sóng, vừa khéo tránh khỏi một cú tạt ngang của y, sau đó vuốt ngược lên trên. Quần áo Đường Thọ đã rách toạc nhiều chỗ, những mảnh áo chống đạn bung ra, giống như con cá bị đánh sạch vẩy, mấy chỗ bị thương sâu vào đến thịt, máu thấm ra ngoài.
Đường Thọ dường như cũng ý thức được, cứ tiếp tục như vậy đối với mình rất bất lợi, sau khi bị móng vuốt của Tử kỳ lân cào toạc một vệt trên lưng, y đột nhiên vặn mạnh tay phải, cơ hồ lại thay đổi chốt lẫy gì đó, chỉ nghe “phì” một tiếng, khói mù vừa phun ra, Tử kỳ lân liền liên tiếp trồi lên thụp xuống hai lần, rời khỏi phạm vi màn khói bao phủ, có vẻ như nó cũng tương đối e ngại thứ khói này.
Bên ngoài vòng chiến, một con sói không cẩn thận đến gần màn sương trắng ấy đột nhiên rút lên thảm thiết, ngã gục xuống đất, giật giật hai cái ròi không nhúc nhích gì nữa.
“Có độc!” Trác Mộc Cường Ba mắng thầm, rõ ràng Đường Thọ đã chuẩn bị để đối phó với đàn sói ở Shangri-la này. Hai mắt Tử kỳ lân chuyển động, đột nhiên nó vục mặt xuống đất, vùi lỗ mũi vào hất lên một đống đất ẩm, sau đó dùng hai chân trước vỗ cho chặt, há miệng hít thở, rồi lại xông vào đám khói trắng. Những con sói khác cũng lần lượt học theo, dùng bùn để bịt mũi. Merkin giật mình hiểu ra: “Không phải độc, là cổ độc, thứ khói trắng kia có lẽ là một loại sinh vật có hại với lũ sói.”
Giây lát sau, chỉ thấy trong màn khói trắng bùng lên khói xanh và đỏ, kế đó là tiếng kêu thảm thiết, rồi không còn khói mú gì xuất hiện thêm nữa.
Màn khói mù từ từ tan đi, chỉ thấy Tử kỳ lân đứng một bên, Đường Thọ đang trợn mắt nhìn nó đầy kinh sợ, tay trái ôm chặt vai phải, cánh tay máy kia đã bị Tử kỳ lân dỡ tung, để lộ ra những sợi dây kim loại đủ màu sắc. Đường Thọ đích thực đã chuẩn bị cổ độc, y còn tìm được loại độc chất ở trạng thái bay hơi chỉ có hiệu quả với sói mà vô hại với con người. Ai cũng biết, cái mũi chính là ưu điểm lớn nhất và cũng là sơ hở lớn nhất của loài sói. Đường Thọ đã chuẩn bị riêng nhiều loại vật chất có thể gây ra thương tổn chí mạng với khứu giác của chúng. Nhưng y không thể ngờ, Tử kỳ lân lại tự phong bế khứu giác, dùng bùn đất bịt mũi, y quả tình chưa từng gặp chuyện quái dị như vậy bao giờ. Trong màn sương mù mịt, Đường Thọ không sao phán đoán được phương vị của Tử kỳ lân, còn Tử kỳ lân lại chỉ cần dùng vị giác và thính giác, sau mấy lần tấn công liên tiếp, đã giật bay cả cánh tay máy của y ra.
Đường Thọ mất đi chỗ dựa lớn nhất, không cầm cự được bao lâu đã bị Tử kỳ lân đè sấp xuống đất. Tử kỳ lân giẫm lên lưng Đường Thọ, khiến y không sao nhổm người lên được, đoạn ngửa cổ gầm một tiếng, một lần nữa uy nghiêm tuyên bố, nó mới là vị chúa tể duy nhất của mảnh đất này.
KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH
“Cứu tôi, Cường… Cường Ba thiếu gia… cứu tôi với!”. Đường Thọ bị đè dưới đất không ngờ lại khó nhọc ngóc đầu lên cầu cứu.
Trác Mộc Cường Ba ngồi dậy, hỏi: “Nói, mày để cái hộp đó ở đâu rồi?”
“Tôi, tôi đưa nó ra ngoài rồi, dùng thiên nga, chỉ có tôi mới biết nó ở đâu, anh… anh cứu tôi đi, tôi có thể nói cho anh biết, chúng ta cùng mở nó ra, chúng ta có thể cùng xưng hùng xưng bá, cùng thống trị thế giới này…”
Trác Mộc Cường Ba đứng dậy, Đường Thọ nhìn thấy một tia hi vọng, lại nói: “Anh có thể, anh là Người được chọn, anh có thể nói chuyện với nó, anh… anh có thể bảo con chó này tha cho tôi.”
Merkin đứng bên cạnh đỡ Trác Mộc Cường Ba, lắc đầu nói: “Không thể tha cho tên này được.”
Tử kỳ lân nhìn Đường Thọ bị nó giẫm dưới chân, rồi lại nhìn Trác Mộc Cường Ba. Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba hết sức kiên quyết, gã thậm chí còn chẳng thèm liếc Đường Thọ một cái. Đường Thọ dường như hiểu ra điều gì đó, đột nhiên phá lên cười ha hả, nói: “Tôi biết tâm sự của anh, tôi biết anh không thể buông bỏ được, anh vẫn luôn nhớ nhung người đó, tôi biết cô ta đang ở đâu.”
Trác Mộc Cường Ba bị điểm trúng yếu huyệt, hơi thở tức khắc trở nên dồn dập, Đường Thọ lại nói: “Sao hả? Làm một cuộc giao dịch không, anh bảo con chó này thả tôi đi, tôi sẽ cho anh biết em gái anh đang ở đâu.”
Trác Mộc Cường Ba không kìm được, nói: “Mày biết thật sao? Tao dựa vào cái gì để tin mày?”
Đường Thọ vừa thấy có hy vọng, vội vàng lần rờ trong túi. Tử kỳ lân chẳng hề khách khí, thấy Đường Thọ vừa nhúc nhích, liền không do dự cắn mạnh một cái, khiến Đường Thọ đau đến toát mồ hôi mà không dám kêu lên. Tử kỳ lân cắn một phát ngập đến tận xương cánh tay, nếu cần thiết, nó cũng không ngại ngần gì cắn đứt luôn xương chân của y. Sở dĩ nó vẫn chưa giết Đường Thọ, là vì Trác Mộc Cường Ba dùng ánh mắt và dấu tay nói với nó: “Xin ngài tạm thời giữ lại mạng hắn, Vương, tôi còn chút chuyện muốn hỏi hắn.”
Cánh tay run rẩy của Đường Thọ cuối cùng cũng lần được bên trong túi áo, y… không ngờ lại lấy ra một tấm ảnh, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đây.”
Trác Mộc Cường Ba giật lấy tấm ảnh, còn mờ hơn cả tấm chụp Tử kỳ lân, có vẻ như được chụp ở một khu phố đông đúc, không biết ở Trung Quốc hay
nước ngoài, một cô gái trẻ tóc ngắn, hình như mặc áo khoác dày có lông, đeo túi chéo màu nâu, không cầm ô, đang rảo bước đi dưới mưa. Tấm ảnh chỉ chụp phía sau cô gái, phong cảnh bên đường và bóng lưng cô gái đều nhập nhòe, dường như nước mưa đã làm ướt ống kính. Nhìn tấm ảnh này, Trác Mộc Cường Ba không thể phán đoán bóng lưng này thuộc về ai, gã chất vấn: “Thế này là thế nào?”
Đường Thọ cười gượng nói: “Em gái anh. Tôi… tôi không dám tiến lại quá gần để chụp trộm.
Giờ đây, em gái anh đã trở thành một nhân vật mà tôi chỉ nhìn từ phía xa cũng run lên sợ hãi rồi.”
“Mày nói gì?”
“Anh đừng quên tôi đến năm mười một tuổi mới bị Mười ba kỵ sĩ bàn tròn tìm đến, còn em gái anh đã bị bắt có từ năm bảy tuổi. Bảy tuổi đấy, cô ta đã trở thành một tồn tại cực kỳ mạnh mẽ và đáng sợ. Anh vẫn còn muốn tìm cô ta chứ?” Mặt mũi Đường Thọ dính đầy bùn đất, khi cười cũng không còn phong độ ngời ngời như trước nữa.
Trác Mộc Cường Ba chất vấn: “Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, rốt cuộc là thứ gì vậy?”
“Ha ha, tôi chỉ có thể cho anh biết, bọn họ là những kẻ mạnh nhất và đáng sợ nhất trên thế giới này, anh không thể tưởng tượng tổ chức ấy lớn mạnh đến chừng nào đâu. Người như tôi và Merkin, ở đó chỉ là những tên tép riu không đáng để mắt. Anh đừng tưởng con chó này lợi hại gì, nói không chừng, nó chỉ là một vật cưng của nhân vật lãnh đạo cấp cao trong tổ chức mà thôi. Anh cũng đừng tưởng biết mấy nhóm trộm mộ chúng tôi là có thể hiểu được toàn bộ tổ chức này. Anh không thể tưởng tượng được, không thể nào tưởng tượng được. Mười ba kỵ sĩ bàn tròn là một con thú khổng lồ, còn chúng tôi, tất cả những nhóm trộm mộ chúng tôi gộp lại, chẳng qua cũng chỉ là một trong vô số sợi xúc tu của con thú ấy mà thôi. Nhiệm vụ của chúng tôi, chính là tìm kiếm những nền văn minh đã từng một độ huy hoàng rồi bị hủy diệt, khai quật đào bới tìm ra nguyên nhân hủy diệt của những nền văn minh ấy, xem có gì thích hợp với nhân loại ngày nay không. Còn bộ phận thu nạp em gái anh, chính là nanh vuốt của con ác thú khổng lồ ấy, bọn họ phụ trách loại trừ mọi chướng ngại vật cản bước tiến của tổ chức. Hủy diệt loài người, không phải là si tâm vọng tưởng của một mình tôi, mà đó, thực sự là mục tiêu của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn.”
Trác Mộc Cường Ba không nói một lời, Đường Thọ phỏng chừng đột nhiên nghĩ ra gì đó, vội nói: “Chúng ta hợp tác, đúng, chỉ cần chúng ta hợp tác mở cái hộp đó ra, nắm giữ được vật chất trong đó, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn cũng không phải là đối thủ của tôi và anh. Tôi có mối thâm thù với chúng, chúng đã giết chết ba mẹ tôi, bắt cóc tôi đi, anh không biết bọn chúng làm gì với một đứa trẻ mười một tuổi đâu. Tôi đã tận mắt chứng kiến những hình phạt tàn khốc nhất chỉ có ở chốn Địa ngục…”
Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Tại sao chúng lại bắt mày?”
Đường Thọ nhìn Trác Mộc Cường Ba như thể đang nhìn một tên ngốc, thoáng sau, thấy Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc thực sự, y mới nói: “Còn không phải vì tín vật hay sao? Kỳ thực, tôi là kẻ cuối cùng bị Mười ba kỵ sĩ bàn tròn nhận định là hậu duệ của Vu vương. Bọn họ chỉ biết ba hậu duệ của Vu vương, mỗi người đều có một món tín vật, phải kết hợp ba món tín vật này mới có thể đến được Shangri-la, nhưng không biết huyết thống của chúng ta cũng quan trọng không kém. Bọn chúng vốn tưởng rằng cuốn Cổ kinh Ninh Mã của nhà anh chính là tín vật, vì vậy mới…” “Bắt cóc em gái tao?”
“Đúng!”
“Sao mày biết được? Tại sao bọn chúng không giết mày luôn?”
Đường Thọ gượng cười đáp: “Mười ba kỵ sĩ bàn tròn không bao giờ lãng phí tài nguyên, những đứa trẻ bị chúng bắt cóc đều buộc phải tiếp nhận huấn luyện bí mật, anh không thể không liều mạng tăng cường tri thức, liều mạng rèn luyện tăng cường sức mạnh, nếu không đạt tiêu chuẩn, bọn chúng sẽ không giết anh, mà sẽ cho anh nếm mùi đủ thứ cực hình tàn khốc ở chốn Địa ngục A tỳ. Gia tộc của tôi cũng giống gia tộc nhà anh, không biết từ đời nào đã quên mất bí mật mà gia tộc mình vẫn bảo vệ, cũng không biết tín vật là thứ gì. Mười ba kỵ sĩ bàn tròn không tìm được gì trên người tôi, liền đưa tôi đến trại huấn luyện, tiến hành tẩy não, để tôi học cách phục tùng. Để sinh tồn, tôi đành giả bộ không biết gì, ra sức huấn luyện, cho đến khi bắt đầu nhận nhiệm vụ, tôi mới dần dần điều tra, tìm hiểu được một số dấu vết, cuối cùng cũng biết rốt cuộc bọn chúng muốn tìm kiếm thứ gì.”
“Vậy ngươi làm sao biết được một số bí mật mà ngay cả mười ba kỵ sỹ bàn tròn cũng không biết?”
“Tuy người nhà tôi không biết, nhưng nếu đây là sự thật, vậy thì tổ tiên của tôi hẳn phải biết được gì đó. Tôi vẫn lờ mờ nhớ được nhà cũ của mình ở đâu. Cha tôi từng nói, gia tộc chúng tôi đã ở đây mấy trăm năm, vậy là tôi trở về nơi đó, đào hết các mộ phần xung quanh lên, ruốt cuộc cũng phát hiện ra dấu vết. Trong một ngôi mộ, tôi phát hiện tổ tiên mình từ nơi đâu di cư đến, tôi lại tới đó đào bới, sau khi đào hết mười mấy ngôi mộ, đầu mối cũng dần trở nên rõ ràng hơn, sau cùng, tôi cũng biết được toàn bộ chân tướng. Sau này, để có được nhiều đầu mối hơn, tôi liền xung phong đi tìm kiếm các đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, để giành được sự tín nhiệm của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, tôi thậm chí còn luộc em gái lên ăn thịt, đó là em gái ruột của tôi đấy.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn y với ánh mắt tởm lợm, tên này không nhận cha mẹ, lại ăn thịt em gái, tự đào mồ quật mả của tổ tiên nhà mình lên, thử hỏi còn chuyện gì y không dám làm nữa chứ, sao y có thể… Trác Mộc Cường Ba không kìm được hỏi: “Mày… mày không sợ chết rồi bị đày xuống địa ngục sao?”
“Địa ngục là cái gì chứ?” Đường Thọ nói, “Trên thế gian này chẳng có địa ngục hay thiên đường, chẳng có luân hồi, cũng chẳng có kiếp sau gì cả. Toàn là những trò gạt người mà thôi. Con người sống thì mới có ý thức, chết rồi sẽ phân giải thành một đống vật chất vô cơ, chẳng là gì cả. Người ta sống nhất định phải một tay che trời, đã chết rồi thì mặc xác hết thảy, quan tâm làm gì.”
Trác Mộc Cường Ba thất vọng nhìn Đường Thọ, tên này không có tín ngưỡng, không có đạo đức, không có lý trí, tư duy lại hết sức sáng sủa, tri thức phong phú, võ nghệ cao cường, người như vậy mới là đáng sợ nhất. Đường Thọ lại nói: “Tôi đã nói nhiều như vậy rồi, sao hả? Anh không cần suy nghĩ sao, Cường Ba thiếu gia? Hợp tác đi, chúng ta sẽ là chúa tể của thế giới mới này, chúng ta chính là chân thần trên thế gian này, đám người kia sẽ chỉ biết thành kính quỳ lạy chúng ta, bọn chúng sẽ thành đồ chơi của chúng ta, muốn thế nào thì làm thế ấy.”
Trác Mộc Cường Ba khẽ lắc đầu, Đường Thọ đã hoàn toàn rơi vào ma chướng, không còn thuốc chữa nữa rồi. Tử kỳ lân đứng bên cạnh nhìn bọn họ, ngáp một cái rõ to, dường như, Trác Mộc Cường Ba và Đường Thọ nói chuyện lâu quá, khiến nó cũng mất cả hứng ăn thịt Đường Thọ. Nó nhấc chân khỏi người Đường Thọ bỏ đi, nhưng những con sói khác vẫn giương mắt nhìn chằm chằm vào y.
Từ sau khi cầm tấm ảnh kia, Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn giữ khoảng cách với Đường Thọ, lúc này gã không tiến lên mà ngược lại còn lùi về sau, gương mặt lạnh như băng giá. Vô số ý niệm xoay chuyển trong đầu Đường Thọ, y đột nhiên lớn tiếng nói: “Tôi nói thật đấy, Merkin có thể chứng minh. Ngoài tôi, trên đời này không ai nhận ra em gái anh đâu, ai để ý đến một đứa bé gái bảy tuổi lại mất đi giá trị lợi dụng chứ? Anh tưởng với sức của một mình anh có thể khiêu chiến được Mười ba kỵ sĩ bàn tròn à? Không có tôi làm nội ứng, anh chẳng thể làm được gì đâu, Merkin hoàn toàn không biết gì về các lãnh đạo cao cấp của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, địa vị của hắn còn thấp hơn tôi nữa! Vả lại, ngoài tôi ra không ai có thể tìm được cái hộp kia, không có cái hộp ấy, anh thậm chí còn không vượt qua được cửa ải thấp nhất của bọn chúng nữa! Này, Trác Mộc Cường Ba, anh không nghe tôi nói à? Quay lại đây, quay lại đây!”
Trác Mộc Cường Ba vẫn bước đi một cách kiên định, một bước, rồi lại một bước, càng lúc càng đi xa Đường Thọ, gã thấp giọng nói: “Thì ra chỉ có mình mày mới tìm được chiếc hộp ấy, tốt lắm, thế là tốt nhất rồi.” Vừa nãy, khi đến gần Đường Thọ, Sói Út vẫn luôn chắn trước mặt gã, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba phải tránh Đường Thọ thật xa. Tuy rằng không biết rốt cuộc là chuyện gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba cực kỳ tín nhiệm Sói Út. Lúc này, gã đã lùi hơn hai mươi bước, dù trên người Đường Thọ có bom hẹn giờ thì cũng không thể gây hại gì cho gã được nữa. Bây giờ, Sói Út mới đưa móng vuốt lên cậy bùn đất bịt mũi ra, dụi dụi vào người Trác Mộc Cường Ba hít hà ngửi ngửi, rồi nhe răng nở nụ cười hân hoan.
Đường Thọ vẫn đang ở đằng xa gào hét, lũ sói đều ngoảnh đầu lại, nhìn con người đã dùng sinh mạng ký kết hiệp ước với chúng, xem gã đã nghĩ ngợi xong chưa. Trác Mộc Cường Ba cũng phản ứng lại, trước ánh mắt chăm chú của Merkin và lũ sói, gã đưa tay lên kết thành thủ ấn. Từ khi học được thủ ấn này, gã vốn tưởng rằng mình sẽ không bao giờ dùng đến nó. Tất cả chiến lang của bộ tộc Qua Ba dường như nhìn thấy những người bạn nhân loại của mình hơn một nghìn năm trước, đang dùng bàn tay truyền đi thông điệp với bầy sói sát cánh chiến đấu bên họ: “Xé xác nó ra!”
Ngay sau đó, Tử kỳ lân khẽ hú lên một tiếng, biểu thị sự công nhận của nó. Vận mệnh của Đường Thọ cuối cùng bị người khác quyết định… vạn lang phân thây!
Tiếng kêu thảm thiết của Đường Thọ vang lên rồi tắt lịm, hơn vạn con sói cùng ào tới. Những con đi đầu chia nhau đớp một miếng thịt trên người y rồi chạy đi thưởng thức, đợt tiếp theo lại tràn lên. Cứ thế, thân thể Đường Thọ bị phân giải, nghiền nát thành những phân tử nhỏ bé nhất. Đến khi đàn sói tản đi, trên trảng cỏ thậm chí không còn một khúc xương, rất nhiều con sói không được chia phần, trong lòng ấm ức ngửa cổ hú vang, chuyển hướng nhìn về phía Merkin.
Merkin không khỏi bị một phen kinh hồn bạt vía, y không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại đưa ra mệnh lệnh ấy, cũng không ngờ chỉ một dấu hiệu bàn tay lại có thể khiến cả bầy sói cùng nhau hành động. “Trác Mộc Cường Ba sẽ không ra tay với mình chứ? Ai mà biết được, chuyện mình đã gây cho hắn trong quá khứ, và những chuyện đã làm cho hắn trong hiện tại, hắn sẽ coi trọng cái nào hơn đây?”
Trác Mộc Cường Ba khó nhọc bước đến bên cạnh Merkin, ngăn đàn sói lại. Chỉ thấy mấy con sói già bộ dạng hung dữ, nhìn chằm chằm vào Merkin nhe hàm răng nhọn hoắt. Gã nhìn theo ánh mắt của lũ sói, không khỏi ngẩn người, hóa ra ở hông Merkin đeo một sợi thắt lưng dệt bằng tơ vàng, khảm đầy bảo thạch quý giá, rõ ràng lúc chiến đấu với Đường Thọ bị rạch toác quần áo mới lộ ra ngoài. Lúc này, y đang căng thẳng quan sát bầy sói, bản thân hoàn toàn không nhận ra điều đó. Chẳng trách, lũ sói cứ gầm lên với y như thế. Chỉ mấy cái bát, cái chậu của người Qua Ba để lại mà đàn sói ở đây đã coi trọng như sinh mạng, huống hồ, trên người Merkin lại toàn những thứ quý giá nhất!
“Lấy ra đi.” Trác Mộc Cường Ba hất hất đầu về phía Merkin, chỉ vào chỗ thắt lưng y. Merkin giật mình, cảm giác cực kỳ bất nhẫn, tựa như bị ai cắt mất một miếng thịt vậy. Nhưng tình thế bức ép, y không thể không cởi thắt lưng, bỏ hết những thứ màu vàng, sáng lấp lánh trên người xuống. Merkin lúc này, trái ngược hẳn với tác phong nhanh nhẹn thường ngày, động tác cực kỳ chậm rãi, mỗi khi lấy ra một món lại ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt cầu khẩn, chẳng khác nào lão già bệnh nặng buộc lòng phải ném bộ ván quan tài của mình xuống nước vậy. Trác Mộc Cường Ba chỉ dùng ánh mắt nghiêm nghị sắc lạnh cảnh cáo y, ông mà không lấy ra món đồ cuối cùng không thuộc về mình, lũ sói sẽ không bỏ qua cho đâu.
Đồ vật ném xuống đất mỗi lúc một nhiều thêm, Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh ngạc, gã thực sự không thể ngờ trên người Merkin lại giấu lắm thứ như thế, còn che đậy rất khéo nữa. Chắc chắn, lúc từ đại điện chạy ra, y đã thỏa sức vơ vét một phen. Đường Thọ không có mặt, bọn lính đánh thuê đâu phải là đối thủ của y. Chẳng trách khi chiến đấu với Đường Thọ vừa nãy, y trúng nhiều đòn như vậy mà tinh thần vẫn tốt hơn gã nhiều, chắc hẳn là do bên trong mặc áo giáp vàng rồi!
Merkin nhịn đau lột hết túi quần túi áo ra ngoài, xòe hai bàn tay không, muốn khóc mà không có nước mắt: “Hết rồi, thật sự là hết rồi!” Bấy giờ, đàn sói mới thôi không hú lên nữa.
“Không thể cho tôi dù chỉ một món sao?” Merkin đờ đẫn nhìn Trác Mộc Cường Ba, vẫn chưa chịu buông bỏ.
Trác Mộc Cường Ba lại gần Merkin, vỗ vỗ vai y nói: “Ít nhất chúng ta vẫn còn sống.”
Merkin thẫn thờ như phỗng đá, lặp lại: “Phải, ít nhất chúng ta vẫn còn sống.”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên, ngước nhìn vạt sáng cuối cùng của vầng dương đã khuất sau núi, lẩm bẩm nói: “Ông biết không? Vừa mới đây thôi, tôi đột nhiên hiểu ra một chuyện.”
“Cái gì?”
“Chính là nguyên nhân tại sao bầy sói truy sát Ba Tang và đồng bọn của anh ta, tại sao tiêu diệt hết người Qua Ba, vả lại vô số thôn làng ở tầng bình đài thứ hai cũng bị tiêu diệt nốt. Tôi nghĩ, tất cả chúng ta đều đã sai lầm, bọn chúng không phải những con sói tàn bạo khát máu, hành vi của chúng là có mục đích đấy.”
“Mục đích gì?”
“Tôi nhớ Đường Thọ từng nói, Đạo quân Ánh sáng đã tìm ra một phương pháp, có thể biết trước người nào sắp sửa phát bệnh, rồi cách ly bọn họ ra.”
“Ý anh là…”
“Đúng thế, khứu giác của lũ sói rất nhạy bén, tôi nghĩ, chính nhờ có chúng, Đạo quân Ánh sáng mới phát hiện được những người sắp phát bệnh. Chỉ là, đến cuối cùng, Đạo quân Ánh sáng cũng không tránh khỏi bị tiêu diệt toàn bộ. Vì vậy tôi nghĩ, khi biết mình sẽ hoàn toàn biến mất, bọn họ đã dạy cho lũ sói này một bản lĩnh khác, hoặc giả có thể nói, họ đã trao cho chúng một sứ mệnh mới.”
“Thanh tẩy!”
“Đúng, chính là tiến hành thanh tẩy một cách triệt để trước khi nguồn bệnh kịp lây lan rộng rãi, tận hết khả năng làm giảm bớt nguy cơ lây nhiễm. Bất kể là bọn Ba Tang, hay người Qua Ba, hay những thôn làng ở tầng bình đài thứ hai… trong những nhóm người này đều có người đã đến tầng bình đài thứ ba. Tôi nghĩ, có thể bọn họ đã đến những thành trấn hoang phế ở Shangri-la, hoặc giả đã chạm phải thứ gì đó ở đây mà bị truyền nhiễm thứ vật chất kia. Ba Tang, Tây Mễ và cả người điên ở Mông Hà kia sở dĩ sống sót, không phải vì bọn họ đầu hàng bầy sói, hoặc bán đứng đồng đội, hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác, mà chỉ vì bọn họ không bị lây
nhiễm thứ vật chất khủng khiếp kia mà thôi.”
Merkin rốt cuộc đã hiểu ra: “Vậy vừa nãy anh hạ lệnh tấn công Đường Thọ…”
“Đúng, dù tôi không ra lệnh, đàn sói cũng sẽ không bỏ qua cho y. Vừa nãy tôi cũng lấy làm lạ,
Đường Thọ đã bị Tử kỳ lân đánh bại, dường như cũng không còn năng lực tấn công nữa, tại sao Sói Út vẫn ngăn cản tôi đến gần y? Về sau tôi mới hiểu, Đường Thọ chắc chắn đã bị cảm nhiễm loại vật chất đó rồi, còn chuyện hắn bị nhiễm từ lúc nào, bị nhiễm ở đâu thì chúng ta không thể biết được. Phải rồi, giờ có thể nói cho tôi biết Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rốt cuộc là như thế nào hay không?
“À… được thôi, chỉ là những điều tôi biết, có lẽ không được nhiều như anh mong muốn đâu. Tôi chỉ biết một số khái niệm đơn giản và cơ bản nhất mà thôi. Nếu hôm nay Đường Thọ không nói ra, tôi vẫn còn tưởng, tất cả các nhóm trộm mộ chúng tôi tập hợp lại, chính là toàn bộ tổ chức của
Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rồi, thật không ngờ lại chỉ là một phân nhánh nhỏ.”
“Tôi là nhân viên cấp bậc thấp nhất, chỉ biết người trong tổ chức được phân loại theo các đẳng cấp khác nhau. Một nhóm có mười ba người, vì chuyên đi trộm mộ, nên trong nhóm sẽ có một hai nhà giám định, chính là những người có hiểu biết về văn vật. Vì phải băng qua biên giới các nước, trong nhóm cần có một hai người rất hiểu biết về lực lượng quân sự của các nước, kỹ thuật chiến đấu và sử dụng vũ khí cũng phải thuộc hàng chuyên gia, trong tổ chức, những người này được gọi là lính đặc chủng. Cả hai yêu cầu trên, đều do tôi kiêm nhiệm. Thực ra, trong nội bộ tổ chức, có rất nhiều người không chỉ tinh thông một ngón nghề, chẳng hạn như Đường Thọ vừa tinh thông kỹ thuật chiến đấu vừa biết thuật thao thú, còn người tên Sean trong đội các anh, nếu tôi không đoán nhầm, có lẽ anh ta vừa biết thuật thao thú, vừa có tri thức về phương diện thực vật. Ngoài ra, vì thường xuyên phải ra vào rừng rậm nguyên thủy, cần phải có hiểu biết nhất định đối với các loài động vật, trong một nhóm cũng cần có một hai Thao thú sư. Thực ngữ giả cũng vậy, chúng tôi cần người hiểu biết về thực vật. Vì rất nhiều mộ cổ có cơ quan tự hủy hoặc các loại cạm bẫy công kích, thế nên trong nhóm còn cần một kiến trúc sư. Thêm nữa, vì không phải lần nào cũng thuận buồm xuôi gió, thường hay có người bị thương, vậy nên bác sĩ cũng không thể thiếu được. Đại khái, một nhóm thường có đủ sáu chức nghiệp tôi vừa nêu trên, mỗi chức nghiệp lại dựa theo trình độ để phân ra thành các đẳng cấp khác nhau…”
“Lính đặc chủng chúng tôi rất đơn giản, dựa theo kỹ xảo chiến đấu và trình độ sử dụng vũ khí để chia thành các cấp: Lính, Hạ sĩ quan, Sĩ quan, và Tướng quân. Còn Thao thú sư đại khái chia thành Thao thú sư, Thao trùng sư, Cổ sư, Vu sư, còn cả Tế sư nữa. Nhìn tên là biết, Thao thú sư có hiểu biết tương đối về tập tính sinh hoạt của đại đa số các động vật lớn, có thể dùng nhiều cách khác nhau để điều khiển những động vật ấy làm theo ý đồ của mình; khi bọn họ đã có kiến thức tương đối về động vật, liền tiếp tục nghiên cứu về côn trùng, tuy nhỏ hơn những động vật ấy rất nhiều, song chủng loại lại đông hơn gấp bội, trở thành Thao trùng sư. Sau khi tìm hiểu về côn trùng, đến mức độ nhất định, lại tiếp tục nghiên cứu nấm khuẩn hoặc các sinh vật bào tử, trở thành Cổ sư, còn hai loại cấp bậc về sau như thế nào thì tôi cũng không rõ, chắc là Vu sư thì tìm hiểu về những vi khuẩn vi trùng, còn Tế sư hẳn đã nghiên cứu đến các loại virus và bệnh độc rồi. Bác sĩ được phân biệt dựa theo thông lệ quốc tế, lần lượt là y sĩ, bác sĩ, bác sĩ chủ trị, phó chủ nhiệm và chủ nhiệm, tóm lại là bọn họ rất mạnh, có thể tiến hành cấy ghép các bộ phận ở nơi hoang dã, hoặc thay đổi tứ chi của con người bằng của động vật…”
“Một nhóm mười ba người, đội trưởng do người có năng lực từ cấp hai trở lên đảm nhiệm, có khi gặp phải những khu mộ lớn, từ ba đến năm nhóm sẽ hợp lại thành một trung đội, trung đội trưởng thường do người có năng lực từ cấp ba đến cấp 4 đảm nhiệm, khi gặp khu mộ quy mô siêu lớn, sẽ có ba bốn trung đội hợp lại thành đại đội, đại đội trưởng phải là người có năng lực cấp năm…”
“Sự thực thì, dù là Tướng quân hay Tế sư, trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn này cũng chỉ là người làm công mà thôi, họ thường được gọi là những người làm công cao cấp. Trong nội bộ Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, họ dùng các danh xưng như Hội viên, Hội trưởng, Trưởng phòng… để phân biệt chức vị, tôi nghe nói từng có một vị Tướng quân muốn khiêu chiến quyền uy của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, kết quả nội bộ chỉ tùy tiện gọi ra một Hội viên, dùng hai ba chiêu đã đánh cho kẻ kia tơi bời rồi…”
“Còn Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, đó là những tồn tại tối cao mà mấy kẻ thân phận như chúng tôi có thể biết được, nhưng rốt cuộc đó là tên gọi chung của một nhóm người hay là tên của tổ chức này thì không ai biết cả. Nếu là một nhóm người, đó là một người hay mười ba người, họ là nam hay nữ, cao thấp gầy béo thế nào, tôi đều không biết, cũng không biết có còn ai ở cấp bậc cao hơn Mười ba kỵ sĩ bàn tròn hay không…”
Dưới ánh tà dương, hai người cùng đàn sói chầm chậm đi về phía rừng sâu, đột nhiên sau lưng vang lên một tiếng nổ lớn, hai người ngạc nhiên ngoảnh đầu, chỉ thấy mặt hồ rộng lớn phun lên một cột nước lớn, khéo phải cao đến hơn trăm mét. Toàn bộ tầng bình đài thứ ba rung lên, dư chấn lan đi khắp xung quanh như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Trác Mộc Cường Ba mà Merkin đưa mắt nhìn nhau, thầm đoán có lẽ trong Bạc Ba La thần miếu đã xảy ra chuyện gì đó, nhưng lúc này họ cũng chẳng còn tâm trí đâu mà tra xét kỹ càng làm gì nữa.
Họ không hề biết, trên mặt hồ dập dềnh kia, đã có thêm một cái tủ đá lớn chưa mở ra, trồi lên thụp xuống theo làn sóng, từ từ cập vào mép nước.
Chấn động lan đến tầng bình đài thứ hai, trong một căn nhà nhỏ bằng đá, một người đàn ông toàn thân quấn đầy băng trắng cẩn thận đỡ một cô gái cũng toàn thân quấn đầy băng trắng bước ra ngoài, hai người tay nắm chặt tay, vai kề sát vai, cùng ngẩng đầu lên nhìn tầng bình đài thứ ba mờ mịt trong sương, những dân làng khác cũng lần lượt chạy ra, quỳ rạp xuống lạy sì sụp.
“Tầng bình đài thứ ba ruốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy người Cường Ba thiếu gia chắc đã đến được Bạc Ba La thần miếu rồi chứ nhỉ? Nhất định phải bình an vô sự nhé, Cường Ba thiếu gia!” Người đàn ông kia thầm nhủ với lòng, ngoảnh lại nhìn cô gái bên cạnh mình. Mặc dù hai người không thể nhìn thấy gương mặt nhau, nhưng người này đều nhận ra sự khích lệ và ấm áp trong ánh mắt người kia, hai bàn tay, càng nắm lại chặt hơn.
Dư chấn tiếp tục lan đến tầng bình đài phía dưới, cả mặt biển cũng bắt đầu cuộn lên những đợt sóng. Ngồi trên con thuyền nhỏ, Soares và Sasaki cảm nhận được một cách rõ rệt sự biến động của mặt biển, liền sau đó, trên không trung vang lên những tiếng ì ùng như sấm mãi không dứt. Sasaki ngẩng đầu lên nói: “Xem ra, trên đó đã xảy ra biến cố gì rất lớn, mặt biển dưới này cũng chấn động nữa.”
Soares cũng ngẩng đầu nhìn lên, bọn họ chỉ thấy một vùng sương mù mờ mờ, thầm nói: “Trác Mộc Cường Ba, Merkin, các người đã đến được thần miếu chưa? Thành công rồi à?”
Nhạc Dương nằm trong thuyền dường như cũng cảm ứng được chấn động ấy, dưới mí mắt nhắm nghiền, tròng mắt khẽ chuyển động.
Sasaki nói: “Được rồi, không liên quan đến chúng ta, chúng ta đi thôi, trở về thôi.” Một con thuyền nhỏ, hướng về phía bờ bên kia, tiến vào bóng đêm vô cùng vô tận.
Ở xa xa về phía Đông của dãy núi khổng lồ ấy, thành phố Thượng Hải, trong một căn nhà bình thường, trước một ngọn đèn, một chiếc máy tính, có một ông già đang ngồi, đầu mẩu thuốc lá rơi đầy dưới đât.
Giáo sư Phương Tân chau mày nhìn bức thư điện tử vừa nhận được, bức thư này do một người bạn nước ngoài gửi đến, bức thư viết: “Tôi giúp anh điều tra về người tên Hahn đó rồi, đoán xem hắn ta làm gì nào? Hắn ta là thành viên của Ủy ban Dị năng dưới trướng Himmler, về sau quân Đức chiến bại, tên này bị quân Mỹ bắt đi. Anh xem tấm ảnh này đi, đây là tờ Thời báo Washington năm 1945, người bên phải chính là Hahn, lúc đó bọn họ đang được cơ quan truyền thông phỏng vấn, anh biết hắn ta nói gì không: “Bom nguyên tử là cái quái gì, chúng tôi đang nghiên cứu thứ còn lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần!” Anh biết hắn sang Mỹ đảm nhiệm công việc nghiên cứu gì không? Vũ khí sinh hóa đấy. Sau đó, tôi lại lần theo một đầu mối khác, rốt cuộc cũng tìm hiểu được một số việc, thì ra Himmler kiếm được ở Tây Tạng một cái hộp, ban đầu đám người Hahn chính là nghiên cứu cái hộp này, nghe nói các trại tập trung, rồi các thí nghiệm độc ác trên cơ thể người sau đó, đều có liên quan đến cái hộp này. Tôi không biết rốt cuộc bọn họ muốn nghiên cứu vũ khí sinh hóa gì, làm sao lại lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần được. Thêm một chi tiết nữa là Hitler từng tàng trữ rất nhiều máu của chính ông ta, tôi đoán, có thể ông ta muốn chế tạo huyết thanh hoặc vác xin gì đó…”
Thần sắc giáo sư Phương Tân càng lúc càng thêm nặng nề, ông dụi tắt điếu thuốc cuối cùng, chíu chặt hai hàng lông mày, trong lòng thầm nhủ: “Chúng ta … rốt cuộc đang tìm cái gì vậy, Cường
Ba…”
Bên cạnh bức thư điện tử ấy, còn có hai phần tư liệu giáo sư Phương Tân đang mở ra xem, cửa sổ đặt cạnh nhau, bên trái là “Lời tiên tri ngày tận thế của người Maya: tính toán theo lịch của người Maya, năm 2012 công nguyên, loài người sẽ diệt vong, người sống tàn sát lẫn nhau, nhưng kẻ còn lại sẽ tự sát mà chết…” bên phải là, “Lời tiên tri ngày tận thế của Shangri-la: tính toán theo lịch của Đại Thiên Luân Kinh, khoảng năm 2030, Cách Tất Nhĩ Vương vĩ đại sẽ dẫn theo đội quân Hoàng Kim vô địch của ngài trở lại nhân gian, đội quân Hoàng kim đi tới đâu, sẽ thanh tẩy toàn bộ tới đó, tất cả bắt đầu lại từ đầu…”
Ở nơi xa hơn nữa, trong rừng rậm châu Mỹ cách Thượng Hải cả một Thái Bình Dương, một đứa bé trai khỏe mạnh da ngăm ngăm đen đang tiếp nhận nghi thức đầy tuổi dưới dự chứng kiến của mọi người trong bộ tộc. Tù trưởng đích thân vẽ lên má đứa bé hai vành trăng khuyết đại biểu cho hình tượng răng sói, nhưng ông vừa buông tay, đứa bé đã cuống cuồng chạy vụt đi, bước chân loạng choạng hướng về phía trước. Nó khát khao thoát ra khỏi mọi sự ước thúc, nóng lòng chạy về phía rừng già, ôm lấy cả đất trời bao la.
VĨ THANH
Nhiều ngày sau đó, trên khu vực núi tuyết phủ mênh mông của dãy Himalaya, xuất hiện hai bóng người trong bộ da thú, một trước một sau, lầm lũi đội gió tuyết bước đi.
Nơi này sương mù mờ mịt che kín, gió Tây cuồng bạo rít gào, phát ra những âm thanh chói tai, từng đụn tuyết lớn bị gió hất tung lên, hóa thành mù tuyết bay khắp trời, quật vào mặt như những lưỡi dao băng sắc bén.
Từng đụn tuyết trắng xóa liên miên phủ kín hết đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, phóng tầm mắt nhìn ra xa, trông như những bậc thang dẫn lên thiên đình, cứ cao dần lên mãi.
“Con bà nó, gió to thật.” Merkin dùng mũ da bịt kín mặt mũi nheo nheo đôi mắt xanh, quan sát những ngọn núi cao chập trùng xa xa, y vừa cất tiếng, trong miệng liền phun ra một đám sương trắng, hòa vào sương tuyết mù mịt.
“Nói ít thôi, lên đường nào.” Trác Mộc Cường Ba nghiêng người một góc bốn mươi lăm độ so với núi tuyết, ủng da thú bám chặt vào núi đá dưới chân. “Cường Ba, tôi bảo này, nếu chúng ta sống vượt qua núi tuyết này, bước tiếp theo anh định làm gì?”
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, rồi nghiêm túc trả lời: “Tôi sẽ đến chùa Sắc Lạp, tìm pháp sư Đan Châu, tiến hành huấn luyện Mật tu một cách chính thống, sau đó, đi tìm em gái tôi!” Khi trả lời câu hỏi của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chợt cảm thấy quyển kinh thư giắt ở hông mình nặng trịch. Đó là cuối kinh ngày trước pháp sư Á La giao cho gã, sau khi xong xuôi mọi sự, gã giở ra xem mới phát hiện đó chẳng phải Thánh điển mà Mật tu giả vẫn khổ sở kiếm tìm, mà là một bộ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng.
“A ..” Merkin phun ra một mảng khí trắng, “anh… anh vẫn muốn tìm em gái à? Anh có biết mình sẽ phải đối địch với thứ gì không? Anh muốn khiêu chiến tổ chức lớn nhất, đáng sợ nhất thế giới sao? Bọn họ có lẽ còn lớn hơn hẳn các đảng phái chính trị, nói không chừng, bọn họ còn khống chế trong tay mấy vương quốc nhỏ, thậm chí, còn khả năng ngay cả nước siêu cường như Mỹ cũng bị bọn họ lũng đoạn đấy. Vả lại… em gái anh… em gái anh…”
“Không, tôi tin em gái tôi, dù nó trải qua chuyện gì, nó vẫn luôn là em gái tôi, tôi sẽ cho nó biết, người thân của nó chưa bao giờ bỏ rơi nó.” Trác Mộc Cường Ba nói bằng giọng kiên định quyết liệt.
“Nhưng, đây biết đâu lại là một cái bẫy của Đường Thọ thì sao?” Trác Mộc Cường Ba lấy tấm ảnh ra, bóng lưng mơ hồ kia sau nhiều ngày chăm chú nhìn ngắm đã trở nên thân thiết vô cùng, gã hết sức cẩn thận cất vào sát trong người, nói: “Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm Chúa Cứu Thế hay gì cả, nhưng là một con người, trong cuộc đời này cũng phải có một số chuyện cần kiên trì, chúng ta gọi thứ ấy là tín nhiệm. Đường Thọ đích thực đã nhìn thấu nhược điểm của tôi, dù đấy có là núi đao biển lửa, tôi cũng sẽ không hề do dự mà nhảy xuống.”
Nhất thời không ai nói gì, họ lại leo thêm một đoạn nữa, Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông thì sao? Có dự định gì không?”
“Tôi à?” Merkin ngần ngừ nói, “Không biết, có lẽ, tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, tôi sẽ thử tìm Thành Phố Vàng của người Inca, tôi đã quen với cuộc sống này rồi, mỗi ngày đều vật lộn trên lằn ranh sinh tử, toàn bộ cuộc sống của tôi chỉ có thế. Phải rồi, người đó, anh có định đi tìm ông ta không? Người đó rất có khả năng chính là một nhân vật cấp cao trong Mười ba kỵ sĩ bàn tròn đấy.”
Trác Mộc Cường Ba bất giác luồn tay vào trong bọc, bên trong có một tấm thẻ nhỏ bằng thép, xâu vào một dãy kim loại không gỉ. Giã nhớ lại lúc thương thế hai người vừa khỏi, đang chuẩn bị rời khỏi vương quốc loài sói. Sói Út truyền tin A U Chang sắp ra đi cho toàn vương quốc, không ngờ, Vương giả của loài sói lại đích thân tiễn bọn gã lên đường. Phải biết rằng, trong vương quốc sói, địa vị của Trác Mộc Cường Ba chẳng qua chỉ ngang với một con sói bình thường, còn Merkin thì thậm chí còn thấp hơn một bậc.
Lũ sói lùi lại nhường đường, Tử kỳ lân dẫn theo Trác Mộc Cường Ba lên một vùng đất cao. Ở đó, Tử kỳ lân ngồi xuống, giở chân phải phía trước của nó lên. Trong ánh mắt Tử kỳ lân, Trác Mộc Cường Ba nhận ra hình như nó muốn bắt tay với mình. Gã nơm nớp bất an, đặt bàn tay lên chân Tử kỳ lân. Nó khe khẽ lắc tay mấy cái, động tác ấy khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi có cảm giác rất giống những người đi đường bắt tay con chó nhỏ, vừa khẽ lắc lắc, vừa luôn miệng nói: “Xin chào, xin chào, xin chào…”
Kế đó, Tử kỳ lân kéo tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên cổ mình. Lông cổ Tử kỳ lân xòe ra như lông bờm sư tử đực, bàn tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên đó, cảm giác trơn mượt như vuốt lên một tấm khăn lụa. Gã chưa từng có ý nghĩ, vị Vương giả cao quý của loài sói lại cho phép mình chạm vào cơ thể nó. Nhưng đồng thời, gã cũng biết, Tử kỳ lân tuyệt đối không phải muốn mình vuốt ve nó, lẽ nào nó muốn nói gì? Quả nhiên, Tử kỳ lân nhắc chân phải phía trước lên, ấn bàn tay gã vào sâu trong đám lông bờm, bàn tay Trác Mộc Cường Ba cảm nhận thân nhiệt nồng ấm của Tử kỳ lân, đột nhiên, gã cảm thấy thứ gì đó ở sát da, giống như những hạt kim loại rất nhỏ.
Tay Trác Mộc Cường Ba lần theo hạt kim loại đó, dần dần phát hiện, đó là một chuỗi hạt kim loại. Trên cổ Tử kỳ lân, đeo một chuỗi hạt kim loại ư? Chỉ nghe Tử kỳ lân thấp giọng gầm gừ ra lệnh: “Lấy xuống.” Trác Mộc Cường Ba run run tay, không hiểu vì kích động hay vì nguyên do nào khác, gã phải tốn kha khá thời gian mới hoàn thành được nhiệm vụ ấy. Gỡ được chuỗi hạt kim loại ra xem, mới thấy bên dưới còn đeo một tấm thẻ kim loại của quân nhân, thi thoảng vẫn có thể bắt gặp những tấm thẻ như vậy ở tầng bình đài thứ ba này. Chuỗi hạt kim loại kia, cũng là sợi dây để xâu tấm thẻ, nhưng được người ta nối dài ra, có lẽ phải do mười mấy sợi nối lại với nhau mới dài như thế. Tấm thẻ kim loại đã bị mài phẳng, sau đó dùng thứ gì đó khắc lên trên mấy chữ Latinh xiên xẹo. Trác Mộc Cường Ba cơ hồ không dám tin, trố mắt nhìn hàng chữ đó, đọc lên thành tiếng:
“Bone!”
Ánh mắt Tử kỳ lân đầy vẻ hân hoan, thậm chí còn khe khẽ phe phẩy cái đuôi. Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì ngất xỉu tại chỗ, con Tử kỳ lân này, không ngờ lại có… chủ nhân! Gã dĩ nhiên hiểu được, Tử kỳ lân tuyệt đối không bao giờ vẫy đuôi với mình, chẳng qua, là nó đang tự hào với cái tên ấy, cái tên nó được chủ nhân ban tặng. Trong hiểu biết của Trác Mộc Cường Ba, con Tử kỳ lân này đã là tồn tại mạnh mẽ vô địch rồi, vậy thì chủ nhân của nó, sẽ phải lớn mạnh đến chừng nào chứ?
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tấm thẻ kim loại ấy trong lòng bàn tay, cất tiếng hỏi: “Ngài muốn tôi đi tìm ông ấy, nói với ông ấy, ngài sống ở đây rất tốt, rất nhớ ông ấy? Ngài… đợi ông ấy trở về?”
Tử kỳ lân khe khẽ gật đầu, rồi ngửa cổ, hướng về phía ngoài rặng núi tuyết, phát ra một tiếng hú thấp trầm. Trác Mộc Cường Ba biết, đây là tiếng hú dài biểu đạt lòng nhớ nhung quê hương của loài sói, âm thanh du dương trầm đục, tràn đầy hoài niệm…
Một trận gió lạnh ùa tới, kéo Trác Mộc Cường Ba ra khỏi hồi ức, gã nắm chặt tấm thẻ đó, nói: “Chuyện này càng không có đầu mối gì, tùy duyên thôi.”
Sâu trong đáy lòng Merkin, vẫn còn một ý nghĩ khác. “Nếu thực sự có thể sống sót, tìm, thống trị thế giới, đề nghị này cũng không tệ! Đường Thọ, việc ngươi chưa hoàn thành ấy, để ta thay ngươi làm vậy!” Nghĩ đoạn, y ngoảnh sang Trác Mộc Cường Ba bên cạnh, cười cười.
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thoáng hiện lên nụ cười ngây thơ thuần khiết của em gái, những đoạn không thể xóa nhòa trong ký ức, gã ngẩng đầu nhìn về phía chân trời, đường nét của những ngọn núi nhấp nhô dường như tạo thành một cái đầu sói khổng lồ. Gã lại nhớ lúc trước khi rời khỏi Shangri-la, Sói Hai, Sói Út và bạn đời của nó cùng tiễn mình một đoạn xa, rồi vẫn đứng đó ngẩng đầu nhìn theo bóng lưng mình một hồi lâu.
Bọn họ khó nhọc leo qua một khe núi, phía trước gió tuyết ngợp trời, chỉ thấy một vùng trắng xóa. Trác Mộc Cường Ba biết, vượt qua khe núi này, phía trước lại còn mấy ngọn núi nữa, sau đấy còn những ngọn núi cao hơn, tất cả chẳng qua mới chỉ là sự khởi đầu, chặng đường phía trước vẫn còn rất dài.
Dù sống sót ra khỏi vùng tuyết phủ này thì sao chứ? Phải đối phó với Mười ba kỵ sĩ bàn tròn như thế nào? Em gái lớn lên mặt mũi như thế nào? Pháp sư Đan Châu có thu nhận gã hay không? Phải ăn nói với thầy giáo như thế nào? Những nhân viên trong công ty nuôi luyện chó ngao của gã thì sao? Giữa vùng mênh mang ấy, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như nghe thấy cha mình đang cất tiếng trong làn gió: “Sự sống tồn tại vì cái gì? Con người tồn tại vì cái gì? Là một con người, con sống vì cái gì?”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro