mat ma phu thuy
ất cả bắt đầu từ sự thiếu vắng và nỗi thèm khát
Tất cả bắt đầu từ máu và nỗi sợ
Tất cả bắt đầu từ hành trình khám phá về Phù thủy...
Chương 1
Cuốn cổ thư dày cộp bọc trong lớp bìa da đó chẳng có gì đặc biệt cả. Đối với một nhà sử học thì trông nó cũng như hàng trăm cuốn cổ thư khác tại thư viện Bodleian của trường Oxford. Cổ xưa và nhàu nát. Nhưng ngay từ lúc tìm được nó, tôi đã biết nó có điều gì đó khác thường.
Phòng đọc sách Công tước Humfrey thật trống trải vào buổi chiều cuối tháng Chín như hôm nay, và các yêu cầu về thư liệu giờ đây đều nhanh chóng được đáp ứng, khi mà đợt viếng thăm ồ ạt của các học giả trong dịp hè đã kết thúc và sự điên cuồng của học kỳ mùa thu chưa bắt đầu. Dù vậy, tôi vẫn rất ngạc nhiên khi Sean chặn tôi lại ở bàn mượn sách.
“Tiến sĩ Bishop, chồng tài liệu của cậu cao quá đấy,” anh ta thì thầm, giọng thoáng vẻ tinh quái. Mặt trước chiếc áo len có họa tiết hình quả trám của anh chàng in hằn những vệt sọc của dây buộc sách bằng da cũ, và anh ta còn cố tình chà xát thêm vào ngực áo. Một lọn tóc hung hung xòa xuống trán anh ta.
“Cảm ơn,” tôi nói, tặng anh ta một nụ cười biết ơn. Tôi đang trắng trợn phớt lờ đi các quy định về số lượng sách mà một học giả được phép yêu cầu trong ngày. Sean - anh bạn thường uống cùng tôi trong cái quán rượu trát ve màu hồng bên kia đường vào những ngày chúng tôi là sinh viên mới tốt nghiệp - vẫn đáp ứng các yêu cầu của tôi mà không hề phàn nàn gì suốt hơn một tuần lễ qua. “Mà đừng có gọi tớ là tiến sĩ Bishop nữa. Tớ cứ nghĩ là cậu đang nói chuyện với một người nào khác cơ đấy.”
Anh chàng nhoẻn miệng cười và lia những cuốn cổ thư ngang qua mặt bàn bằng gỗ sồi đã mòn nhẵn. Tất cả chúng đều chứa những mẫu minh họa về thuật giả kim quý báu, và mỗi cuốn lại được nhét trong một hộp bìa các tông bảo vệ màu xám. “Ôi, còn kia nữa kìa.” Sean biến vào trong một lát và trở lại với một tập cổ thư dày, khổ lớn bọc trong bìa da dê lốm đốm. Anh ta đặt nó lên trên cùng chồng sách và khom lưng xuống để kiểm tra. Vành kính mỏng màu vàng kim của anh ta lấp lánh trong ánh sáng lờ mờ từ chiếc đèn đọc sách cũ kỹ bằng đồng được đính chặt trên một cái giá. “Cuốn này đã không được yêu cầu lâu rồi. Sau khi cậu trả lại, tớ sẽ ghi chú là nó cần được đóng hộp.”
“Cậu có muốn tớ nhắc cậu nhớ không?”
“Không. Nó đã được ghi chú vào đây rồi.” Sean gõ mấy ngón tay lên đầu.
“Bộ não cậu chắc chắn là được tổ chức tốt hơn tớ nhỉ.” Tôi cười xòa.
Sean ngượng ngùng nhìn tôi và giật tờ phiếu đăng ký sách, nhưng nó vẫn cứ trơ ì ra kẹp giữa bìa sách và mấy trang đầu. “Cái thứ này chẳng chịu nhúc nhích,” anh chàng bình luận.
Thình lình, có tiếng nói nào đó bị bóp nghẹt liếng thoắng vang lên trong tai tôi, phá tan sự yên tĩnh quen thuộc của căn phòng.
“Cậu có nghe thấy không?” Tôi nhìn quanh, bối rối trước những âm thanh kỳ lạ.
“Gì cơ?” Sean hỏi, rời mắt khỏi cuốn cổ thư ngẩng lên nhìn.
Mấy vệt sáng như mạ vàng lóe lên dọc theo mép cuốn cổ thư đập vào mắt tôi. Nhưng ánh vàng mờ mờ ấy ngay lập tức bị át đi bởi ánh ngũ sắc lấp lánh dường như đang thoát ra từ các trang giấy. Tôi chớp mắt.
“Không có gì.” Tôi hấp tấp kéo cuốn cổ thư về phía mình, làn da tôi chợt râm ran tê như kiến bò khi chạm tấm da bìa. Mấy ngón tay của Sean vẫn đang cầm vào mảnh phiếu đăng ký sách, bây giờ thì nó lại dễ dàng trượt ra khỏi chỗ bị kẹp. Tôi vừa vòng tay nâng bổng cả chồng cổ thư và kẹp chúng dưới cằm thì một luồng khí kỳ lạ xộc tới cuốn phăng đi mùi bào bút chì và sáp cọ sàn quen thuộc trong thư viện.
“Diana? Cậu ổn chứ?” Sean hỏi, nhíu mày lo lắng.
“Ổn mà. Tớ chỉ hơi mệt chút thôi,” tôi đáp, hạ thấp mấy cuốn sách xuống cách xa mũi mình.
Tôi nhanh chóng rảo bước xuyên qua khu vực cổ nhất của thư viện có từ thế kỷ thứ mười lăm, ngang qua dãy bàn đọc có từ thời Elizabeth với ba kệ sách xếp từ thấp đến cao cùng những mặt bàn đã bị viết vẽ sứt sẹo. Giữa các dãy bàn, những khung cửa sổ Gothic hướng sự chú ý của người đọc lên những vòm trần được sơn vẽ và mạ vàng sáng loáng, làm nổi bật các họa tiết chiếc huy hiệu ba vương miện của trường đại học và một cuốn sách để mở với câu giáo điều được tuyên đọc lặp đi lặp lại từ vòm trần cao: “Chúa khai sáng đời con.”
Một học giả người Mỹ khác, Gillian Chamberlain, là người bầu bạn duy nhất của tôi trong thư viện tối nay. Là một nhà cổ điển học dạy ở Bryn Mawr, Gillian dành thời gian miệt mài nghiền ngẫm các mảnh giấy papyrus được kẹp giữa những tấm kính. Tôi tăng tốc đi ngang qua cô ta, cố tránh chạm mắt, nhưng tiếng cọt kẹt của sàn nhà đã phản lại tôi.
Như thường lệ, làn da tôi lại râm ran ngứa khi một phù thủy khác nhìn tôi.
“Diana à?” cô ta cất tiếng gọi từ trong ánh sáng lờ mờ. Tôi nén một tiếng thở dài và dừng lại.
“Chào Gillian.” Muốn giữ riêng số cổ thư quý giá, nên tôi duy trì một khoảng cách đủ xa với cô phù thủy này và cố đứng nghiêng mình hết mức có thể để các cuốn sách nằm ngoài tầm nhìn của cô ta.
“Cô sẽ làm gì trong lễ hội Mabon?” Gillian vẫn thường dừng lại ở bàn của tôi để đề nghị tôi dành thời gian cho “những người chị em” của mình khi ở trong thị trấn. Nhân lễ hội của giáo phái Wican vào dịp thu phân trong vài ngày tới, cô ta đang nỗ lực gấp đôi để cố đưa tôi vào hội các phù thủy Oxford.
“Làm việc,” tôi nói gọn lỏn.
“Có một số phù thủy rất tốt bụng ở đây, cô biết đấy,” Gillian nói với vẻ rất không bằng lòng. “Cô thật sự nên tham gia với chúng tôi vào thứ Hai này.”
“Cảm ơn. Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó,” tôi vừa nói vừa đi sang khu Selden End, một khu vực thoáng đãng được xây thêm từ thế kỷ thứ mười bảy chạy cắt vuông góc với khu Công Tước Humfrey cổ kính. “Dù sao tôi cũng đang chuẩn bị tài liệu hội thảo, vậy nên chưa chắc tôi đã tham dự được đâu.” Dì Sarah vẫn thường nhắc tôi một phù thủy không thể nói dối một phù thủy khác, nhưng điều đó cũng chẳng ngăn được tôi cố thử.
Gillian buột ra một tiếng tỏ vẻ cảm thông, nhưng mắt vẫn dõi theo tôi.
Trở lại chỗ ngồi quen thuộc nhìn ra những ô cửa sổ hình vòm lợp chì, tôi chỉ muốn vứt phịch cả chồng cổ thư lên bàn và lau sạch hai bàn tay. Nhưng ý thức rõ về tuổi thọ của chúng, tôi thận trọng hạ thấp chồng sách xuống.
Cuốn cổ thư có kẹp tờ phiếu yêu cầu nằm ở trên cùng của chồng sách. Xi gắn mạ vàng ở gáy sách là huy hiệu thuộc về Elias Ashmole, một nhà sưu tầm sách thế kỷ mười bảy và là nhà giả kim, chủ nhân của những cuốn sách và các bản thảo được chuyển từ viện bảo tàng Ashmolean đến thư viện Bodleian vào thế kỷ mười chín, với số hiệu 782.
Tôi với tay chạm vào tấm bìa da màu nâu.
Các ngón tay có thể nói cho tôi biết về cuốn sách mà thậm chí không cần hé mở bìa sách ra. Dì Sarah luôn dùng ngón tay để tìm xem có gì trong thư trước khi mở nó, phòng khi trong phong bì có một cái hóa đơn mà dì không muốn thanh toán. Với cách đó dì có thể bào chữa cho sự vô tội của mình, khi chuyện vỡ lở ra là dì còn nợ tiền công ty cung cấp điện.
Những con số mạ vàng trên gáy cuốn cổ thư nhấp nháy.
Tôi ngồi xuống và cân nhắc các lựa chọn.
Phớt lờ đi ma lực đó, mở cuốn cổ thư ra và cố gắng đọc nó như một học giả con người?
Hay là gạt cuốn sách phù thủy đó sang một bên và bỏ đi?
Dì Sarah sẽ cười như nắc nẻ nếu biết được tình huống khốn khổ này của tôi. Dì vẫn luôn khăng khăng cho rằng các nỗ lực để kiềm giữ pháp thuật của tôi là chuyện vô ích. Nhưng tôi đã làm như thế từ đám tang bố mẹ. Những phù thủy có mặt trong số quan khách nhìn tôi chằm chằm dò xét mong tìm ra các dấu hiệu cho thấy dòng máu Bishop và Proctor đang chảy trong huyết quản của tôi. Tất cả bọn họ đều thế, vừa vỗ về tôi động viên vừa xét đoán rằng mọi việc chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi tôi thay thế vị trí của mẹ trong hội đồng phù thủy địa phương. Một vài phù thủy lại thì thầm về nỗi hoài nghi của họ trước sự sáng suốt của bố mẹ tôi khi quyết định đi đến hôn nhân.
“Quá nhiều sức mạnh,” họ thì thầm khi nghĩ rằng tôi không nghe thấy. “Họ chắc chắn là quá thu hút sự chú ý – cho dù họ có không nghiên cứu về thứ tín ngưỡng thiêng liêng cổ xưa đó đi nữa.”
Chuyện này là quá đủ để khiến tôi đổ lỗi cho năng lực siêu nhiên đã gây nên cái chết của bố mẹ, thứ năng lực mà họ đã vận dụng và nghiên cứu để tìm kiếm một lối sống mới. Quay lưng lại với mọi thứ liên quan tới pháp thuật, tôi vùi mình vào cuộc sống tuổi trẻ như những con người khác - ngựa, bạn trai và tiểu thuyết lãng mạn – tôi cố gắng hòa mình với những cư dân bình thường của thị trấn này. Ở tuổi dậy thì tôi cũng gặp rắc rối với những nỗi phiền muộn và lo lắng. Nhưng rồi tất cả đều rất bình thường - ông bác sĩ loài người tốt bụng đã cam đoan với dì tôi như thế.
Dì Sarah không kể cho ông ấy biết về những giọng nói, về thói quen của tôi nhấc điện thoại vừa khít trước khi chuông reo, hay dì đã phải yểm bùa lên cửa ra vào và cửa sổ khi trăng tròn để ngăn không cho tôi mộng du vào rừng. Dì cũng không đả động đến chuyện khi tôi nổi giận thì tất cả ghế trong nhà sẽ tự sắp xếp lại thành một cái kim tự tháp chông chênh trước lúc đổ sập xuống sàn lúc tâm trạng tôi đã nguôi ngoai.
Khi tôi bước sang tuổi mười ba, dì quyết định đã đến lúc hướng sức mạnh của tôi vào việc học các phép phù thủy cơ bản. Thắp nến bằng vài lời thì thầm hay giấu đi mấy nốt mụn bằng một thứ nước phép đã có công thức trước – đó là các bước dạo đầu bình thường của một phù thủy thiếu niên. Nhưng tôi lại không thể nắm bắt được dù là câu thần chú đơn giản nhất, tôi làm cháy mọi loại nước phép mà dì dạy, và bướng bỉnh không chịu làm các bài kiểm tra của dì nhằm xác định xem tôi có kế thừa được nhãn quan thứ hai chuẩn xác lạ thường như mẹ tôi không.
Những giọng nói, những ngọn lửa và những cơn bùng nổ bất chợt giảm bớt đi khi các hormon của tôi lắng xuống, nhưng sự thiếu thiện ý trong việc học hỏi truyền thống gia đình thì vẫn còn. Chuyện đó khiến dì Sarah vô cùng lo lắng khi trong nhà có một phù thủy không được rèn giũa. Và rồi dì chỉ được nhẹ nhõm đi đôi chút khi gửi tôi tới một trường đại học ở Maine. Ngoại trừ chuyện phép thuật ra, thì đó là một câu chuyện điển hình ở độ tuổi ấy.
Thứ khiến tôi phải rời xa Madison chính là trí tuệ của mình. Nó luôn luôn bộc lộ sớm khiến tôi biết nói và biết đọc trước những đứa trẻ cùng tuổi khác. Trí nhớ sao chụp phi thường đã khiến cho việc nhớ bài trong sách giáo khoa đối với tôi thật dễ dàng, và tôi chỉ việc trình bày các thông tin được yêu cầu lên bài kiểm tra là xong. Việc học hành dựa trên những năng lực phép thuật thừa hưởng từ gia tộc khiến tôi cảm thấy không thích đáng. Tôi bỏ qua các năm cuối trung học và bắt đầu học đại học ở tuổi mười sáu.
Ở đó, nỗ lực đầu tiên của tôi là cố tạo dựng một vị trí trong chuyên ngành kịch nói ở trường. Óc tưởng tượng của tôi bị hút ngay vào các phông nền sân khấu và phục trang diễn viên, còn tâm trí tôi say sưa với việc làm sao để những ngôn từ của tác giả có thể gợi lên được khung cảnh ở nhiều nơi và nhiều thời đại khác nhau. Vài lần trình diễn đầu tiên của tôi được các giáo sư tuyên bố như là những ví dụ phi thường cho lối diễn xuất tuyệt vời có thể biến một sinh viên đại học bình thường trở thành một con người khác. Dấu hiệu đầu tiên của những biến đổi thể chất này (mà có lẽ nó chẳng phải là kết quả của tài năng diễn xuất) xuất hiện từ khi khi tôi đóng vai Ophelia trong vở Hamlet. Ngay khi tôi vừa được nhận vai diễn, tóc tôi bắt đầu dài ra với một tốc độ không bình thường, rồi đổ dài từ vai xuống tận eo lưng. Tôi đã ngồi hàng giờ đồng hồ bên hồ nước trong trường với mái tóc mới xõa ra quanh mình, bị cuốn hút như thôi miên trước vẻ óng ả của nó. Chàng trai đóng vai Hamlet bắt đầu bị lôi cuốn vào ảo giác đó và chúng tôi đã có một cuộc tình say đắm chớp nhoáng mạo hiểm. Từ từ tôi hóa thân vào cơn điên loạn của Ophelia và sống trọn phần còn lại của vai diễn.
Có lẽ tôi đã có những màn trình diễn đầy mê hoặc, nhưng mỗi vai diễn mới lại mang tới những thử thách mới mẻ khác. Vào năm thứ hai, tình trạng đó trở thành chuyện không thể đừng được khi tôi được phân vai Annabella trong vở ’Tis Pity She’s a Whore[1] của John Ford. Giống như nhân vật này, tôi đã hấp dẫn cả một đoàn người cầu hôn nhiệt tình sốt sắng – không phải tất cả đều là con người – họ bám theo tôi khắp trường. Khi họ vẫn không chịu để cho tôi yên sau khi vở kịch đã hạ màn thì rõ ràng cho dù thứ bộc phát ra là gì đi nữa đều đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Tôi không biết chắc phép thuật đã lọt vào phần diễn xuất của tôi như thế nào, và tôi cũng không muốn tìm hiểu chuyện đó. Tôi cắt tóc ngắn. Thôi không mặc váy hoa và đi giày cao gót nữa, tôi chuyển sang áo cổ lọ màu đen, quần vải kaki, giày lười mà những sinh viên hướng nghiệp khoa luật đầy tham vọng và đáng tin cậy hay mặc. Phần năng lượng thừa mứa tôi chuyển vào các môn điền kinh.
Sau khi rời khỏi khoa kịch, tôi nỗ lực thử sức thêm vài chuyên ngành nữa, tìm kiếm một lĩnh vực thật lý tính để không bao giờ còn một centimet vuông trống nào dành cho phép thuật cả. Tôi thiếu tính tỉ mỉ chính xác và sự nhẫn nại đối với toán học, và các nỗ lực của tôi ở chuyên ngành sinh vật học là một thảm họa với các bài kiểm tra thất bại và những cuộc thí nghiệm không thể hoàn thành.
Cuối năm thứ hai, cán bộ phòng đào tạo yêu cầu tôi phải lựa chọn một chuyên ngành, nếu không tôi sẽ phải đối mặt với việc học thêm năm thứ năm đại học. Chương trình nghiên cứu mùa hè ở miền Nam vương quốc Anh cho tôi cơ hội tránh xa được tất cả những thứ liên quan đến nhà Bishop. Tôi đã phải lòng Oxford, phải lòng ánh sáng rực rỡ thanh bình của đường phố nơi đây mỗi bình minh. Các khóa học lịch sử của tôi phủ đầy những kỳ tích của các ông hoàng bà chúa, và giọng nói duy nhất trong đầu tôi là những tiếng thì thầm của các cuốn sách được viết từ thế kỷ mười sáu và mười bảy. Điều này hoàn toàn có thể quy cho nguyên do đó là các kiệt tác văn học. Nhưng hay hơn cả là không có ai ở thành phố của những trường đại học này biết về tôi, và nếu có các phù thủy trong thành phố vào mùa hè đó thì họ đều giữ một khoảng cách rất tuyệt vời với tôi. Tôi trở về nhà, tuyên bố chuyên ngành học lịch sử, hoàn thành tất các khóa học theo yêu cầu trong một thời gian kỷ lục, và tốt nghiệp với bằng danh dự trước khi bước sang tuổi hai mươi.
Khi tôi quyết định theo đuổi học vị tiến sĩ, Oxford là lựa chọn đầu tiên của tôi trong số các chương trình có thể làm luận án. Chuyên ngành của tôi là lịch sử khoa học, các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn khi khoa học thay thế cho phép thuật – thời đại mà thuật chiêm tinh và các vụ săn phù thủy chịu đầu hàng trước Newton cùng các quy luật của vũ trụ bao la. Nghiên cứu về một trật tự lý tính trong tự nhiên còn hơn là một thứ mang tính siêu nhiên, nó phản ánh những nỗ lực của tôi nhằm tránh xa những điều bị che đậy giấu giếm. Các ranh giới tôi vạch ra giữa những thứ diễn ra trong đầu mình và những thứ tôi mang trong dòng máu của mình trở nên rõ ràng dứt khoát hơn.
Dì Sarah của tôi đã khịt mũi tỏ vẻ coi thường khi nghe nói đến quyết định của tôi đi chuyên sâu vào hóa học thế kỷ mười bảy. Mái tóc đỏ rực của dì là dấu hiệu cho biết tính tình nóng nảy và miệng lưỡi chua cay của chủ nhân nó. Dì là một phù thủy ăn nói bộc trực, thẳng thắn, kiểu người điều khiển cả một căn phòng ngay khi mới bước chân vào. Là một trụ cột của cộng đồng dân cư ở Madison, dì Sarah thường hay được gọi đến để giải quyết mọi thứ khi có khủng hoảng, dù lớn hay nhỏ, trong thị trấn. Bây giờ chúng tôi có mối quan hệ giao thiệp tốt hơn nên tôi không còn phải chịu đựng một liều lượng đều đều mỗi ngày những cuộc nói chuyện chua cay của dì về sự mong manh yếu đuối và thói tiền hậu bất nhất của loài người.
Mặc dù chúng tôi đã cách xa nhau hàng trăm dặm, nhưng dì Sarah vẫn nghĩ những cố gắng gần đây nhất của tôi để tránh né phép thuật là trò nực cười. “Chúng ta đã từng gọi đó là thuật giả kim,” dì nói. “Có rất nhiều phép thuật ở trong đó đấy!”
“Không, không có,” tôi nóng nảy phản đối. Toàn bộ mục đích công trình nghiên cứu của tôi là nhằm chỉ ra rằng việc theo đuổi này thực sự mang tính khoa học như thế nào. “Thuật giả kim nói cho chúng ta biết về sự phát triển của hình thức thí nghiệm, chứ không phải việc kiếm tìm đá tạo vàng, ma thuật biến chì thành vàng và khiến người ta trở nên bất tử!”
“Nếu cháu nói vậy,” dì Sarah đáp đầy hoài nghi. “Nhưng đó là một chủ đề khá lạ lẫm để lựa chọn nếu cháu đang cố gắng tỏ ra giống loài người.”
Sau khi kiếm được tấm bằng học vị, tôi đã chiến đấu ác liệt để dành một vị trí giảng dạy trong khoa của Đại học Yale, nơi duy nhất có tính chất Anh còn hơn cả nước Anh. Các đồng nghiệp cảnh báo rằng tôi có rất ít cơ hội để giành được vị trí đó. Tôi cho ra đời hai cuốn sách, giành được một ôm giải thưởng, và thu được một vài thành công trong nghiên cứu. Thế rồi tôi nhận được vị trí bổ nhiệm ấy và chứng minh cho mọi người thấy là họ đã sai.
Quan trọng hơn, cuộc sống của tôi giờ là của riêng tôi. Không có ai trong khoa tỏ vẻ nghi ngờ, thậm chí ngay cả các sử gia về thời kỳ đầu của nước Mỹ cũng chỉ thấy họ của tôi giống với họ của người phụ nữ đầu tiên ở Salem bị xử tử vì tội dùng tà thuật vào năm 1692. Để bảo vệ cho quyền tự chủ khó khăn lắm mới giành được của mình, tôi tiếp tục giữ cho mọi dấu vết về phép thuật hay tà thuật tránh xa khỏi cuộc đời mình. Dĩ nhiên cũng có những ngoại lệ, giống như lần tôi đã dùng một trong những bùa chú của dì Sarah khi cái máy giặt không ngừng đổ đầy nước đe dọa làm ngập lụt cả căn hộ nhỏ của tôi ở quảng trường Wooster. Có ai trên đời là hoàn hảo đâu!
Lúc này, nhận thấy dấu hiệu của sai lầm đang hiện diện, tôi nín thở, cầm lấy cuốn cổ thư bằng cả hai tay và đặt nó vào một trong những cái giá đỡ hình chữ V mà thư viện cung cấp để bảo vệ những cuốn sách quý hiếm. Tôi đã quyết định hành xử như một học giả nghiêm túc và đối xử với cuốn Ashmole 782này giống như một cuốn cổ thư bình thường. Tôi phớt lờ đi những đầu ngón tay đang nóng bỏng, thứ mùi kỳ lạ tỏa ra từ cuốn sách, và phần miêu tả sơ sài trong phần mục lục của nó. Sau đó tôi sẽ quyết định – với sự suy xét hoàn toàn độc lập mang tính chuyên nghiệp – xem liệu nó có đủ hứa hẹn kỳ vọng để xem xét lâu hơn không. Tuy thế, các ngón tay tôi vẫn run run khi tháo bỏ những cái móc cài nhỏ bằng đồng thau.
Cuốn cổ thư bật ra một tiếng thở dài nhè nhẹ.
Tôi liếc nhanh qua vai để đảm bảo rằng căn phòng vẫn vắng người. Âm thanh duy nhất nữa vang lên là tiếng tích tắc ồn ào của chiếc đồng hồ trong phòng đọc sách.
Quyết định không ghi là “Sách thở dài,” tôi quay sang chiếc máy xách tay mở ra một file văn bản mới. Công việc quen thuộc này – một việc tôi đã làm cả trăm nếu không phải là cả ngàn lần trước đây – cũng dễ chịu như những cái tích đánh dấu gọn gàng trên tờ danh sách kia thôi. Tôi đánh tên cuốn cổ thư, số và sao chép lại tiêu đề từ phần mô tả của catalog. Tôi nhìn kích thước và bìa gáy của nó, ghi lại chi tiết cả hai thông tin này.
Việc duy nhất còn lại là mở cuốn cổ thư ra.
Còn tiếp ...
------------------------------------------------------
[1] Tạm dịch: Thật tiếc cô ta là gái điếm – một vở bi kịch được trình diễn lần đầu vào khoảng năm 1629 – 1633.
Cái bìa sách thật khó nâng lên, dù các móc cài đã được tháo ra, như là nó bị kẹt dính vào các trang sách bên dưới vậy. Tôi thầm nguyền rủa và áp bàn tay lên tấm bìa da một lúc, hy vọng rằng cuốnAshmole 782 chỉ đơn thuần cần một cơ hội để hiểu tôi thôi. Việc đặt một bàn tay lên trên một cuốn sách thật sự không phải là phép thuật. Lòng bàn tay tôi tê tê, cũng như những lần làn da tôi râm ran tê khi bị một phù thủy nhìn, và sự căng thẳng đọng lại trên cuốn cổ thư. Và rồi, tôi lật giở trang bìa ra thật dễ dàng.
Trang đầu tiên là giấy thô. Trên trang thứ hai, một bản viết trên giấy da, là những lời sau: “Nhân loại học hay luận thuyết bao hàm một mô tả ngắn về Con người,” bằng chữ viết tay của Ashmole. Những đường lượn tròn gần như quen thuộc đối với tôi như kiểu chữ viết thảo của chính tôi vậy. Đoạn tiếp theo của lời tựa – “ở hai phần: Giải phẫu và Tâm lý” – cũng được viết tay, nhưng bằng bút chì. Nó trông cũng quen quen nhưng tôi không thể nhớ đã gặp ở đâu. Chạm vào dòng chữ viết tay ấy có thể cho tôi vài manh mối, nhưng điều đó là đi ngược lại các quy định của thư viện và chẳng thể chứng minh bằng tài liệu về các thông tin mà tôi thu thập được bằng ngón tay mình. Thay vào đó tôi viết ghi chú vào file máy tính về cách sử dụng bút mực và bút chì để viết, hai bút tích khác nhau, và ngày tháng có thể của lời đề tặng này.
Khi tôi lật sang trang thứ nhất, bản giấy da có cảm giác nặng nề một cách khác thường và hé lộ bản thân nó chính là nguồn gốc của cái mùi kỳ lạ của cuốn sách. Nó không đơn thuần chỉ cổ xưa: nó là một thứ gì đó còn hơn thế nữa – một sự kết hợp của cái cần phải xem và mùi xạ hương không tên. Và tôi lập tức nhận ra ba trang giấy đã bị cắt rời ra khỏi gáy sách một cách gọn ghẽ.
Đây rồi, cuối cùng cũng có thứ gì đó dễ miêu tả. Các ngón tay tôi lướt trên những phím chữ: “Ít nhất có ba trang giấy đã bị lấy đi bằng thước kẻ hoặc dao lam.” Tôi nhòm vào rãnh gáy cuốn sách nhưng không thể nói được liệu có còn trang nào bị mất nữa không. Bản giấy da càng để gần mũi tôi thì sức mạnh của cuốn cổ thư càng rõ ràng hơn và mùi hương kỳ lạ làm tôi mất cả lý trí.
Tôi chuyển sự chú ý sang bức hình minh họa đối diện với khoảng trống chỗ các trang sách bị mất. Nó là hình một đứa bé gái nhỏ xíu đang bồng bềnh trong một cái bình thủy tinh trong suốt. Một bàn tay đứa bé cầm một bông hồng bằng bạc, tay kia cầm một bông hồng bằng vàng. Trên hai bàn chân nó có những đôi cánh nhỏ xíu, và những giọt chất lỏng màu đỏ tươi chảy xuống từ mái tóc dài đen lánh của nó. Dưới bức hình là một dòng chú thích được viết bằng mực đen đặc giải thích sơ lược rằng đó là thuật họa miêu tả về đứa trẻ của triết học – lối trình bày ẩn dụ về một bước then chốt trong việc tạo ra viên đá tạo vàng, loại vật chất hóa học hứa hẹn mang đến cho chủ nhân của nó sức khỏe, sự giàu có và trí tuệ thông thái.
Màu sắc sáng lấp lánh và bắt mắt được bảo quản rất tốt. Các họa sĩ đã từng trộn lẫn bột đá và bột ngọc vào màu vẽ của họ để tạo ra những sắc màu mạnh mẽ đến thế. Và bản thân hình ảnh này đã được ai đó vẽ bằng tài năng hội họa thực sự. Tôi phải ngồi lên cả hai bàn tay để không cho chúng khám phá thêm điều gì bằng cách chạm vào chỗ này hay chỗ khác trên bức hình.
Nhưng người vẽ hình minh họa này, dù anh ta rõ ràng là rất tài năng, lại vẽ các chi tiết đều sai hết. Cái bình thủy tinh đáng ra phải hướng lên trên thì lại lộn xuống dưới. Đứa bé đáng lẽ phải được vẽ nửa đen, nửa trắng để thể hiện nó là một người lưỡng tính, và đáng lẽ nó phải có cả bộ phận sinh dục của nam và bầu ngực của phụ nữ - hoặc tối thiểu có hai đầu.
Hình tượng của thuật giả kim là lối nói ẩn dụ, và có tiếng là hay đánh lừa. Đó là lý do vì sao tôi nghiên cứu nó, tìm kiếm những mô hình hé lộ ra một cách tiếp cận có tính hệ thống và hợp lý dẫn tới sự biến đổi các chất hóa học ngày nay trước khi bảng tuần hoàn các nguyên tố của Mendeleev ra đời. Ví dụ như, các hình ảnh về mặt trăng hầu như thường thể hiện cho bạc, trong khi hình ảnh mặt trời thì quy cho vàng. Khi cả hai thứ được kết hợp với nhau về phương diện hóa học thì quá trình này được miêu tả như một lễ cưới. Nhưng rồi, cuối cùng, các bức tranh đã được thay thế bằng ngôn từ. Những từ ngữ đó, ngược lại, trở thành văn phạm của hóa học.
Nhưng cuốn cổ thư này đã đặt niềm tin của tôi về tính logic trong thuật giả kim vào thử thách. Mỗi bức minh họa lại có ít nhất một thiếu sót rất căn bản, và không hề có văn bản đi kèm để giúp hiểu được ý nghĩa của nó.
Tôi tìm kiếm vài thứ - bất cứ điều gì – ăn khớp được với kiến thức về giả kim thuật của tôi. Trong ánh đèn dìu dịu, những dấu vết mờ mờ của chữ viết tay hiện ra trên trang giấy. Tôi vội hướng về phía cái đèn bàn để soi sáng hơn nữa. Chẳng có gì ở đó cả.
Tôi chầm chậm giở trang sách như thể nó là một chiếc lá mong manh. Các từ lại phát sáng lờ mờ và di chuyển ngang qua bề mặt trang giấy – hàng trăm từ - chúng đều vô hình trừ phi ánh sáng chiếu nghiêng và hướng nhìn của người xem là ở bên phải. Tôi nén một tiếng reo ngạc nhiên.
Ashmole 782 là một văn bản viết trên giấy da cừu – một văn bản nằm trong văn bản. Khi giấy da trở nên hiếm có khó tìm, những người chuyên chép thuê đã cẩn thận giặt sạch mực trên những quyển sách cũ rồi viết văn bản mới lên trên những tấm giấy da trống ấy. Qua thời gian những chữ viết trước đó thường hiện lại phía dưới như một bóng ma nguyên bản. Nếu có sự trợ giúp của ánh sáng tia cực tím, ta sẽ nhìn thấy được những vết mực mờ bên dưới và làm văn bản mờ ảo đó sống lại.
Mặc dù không có ánh sáng cực tím đủ mạnh để làm lộ hết những vết tích trên văn bản này, nhưng đây cũng không phải là một văn bản viết trên giấy da cừu thông thường. Các chữ viết không hề bị giặt đi – nó bị che giấu bằng một loại bùa chú nào đó. Nhưng tại sao có ai lại làm rắc rối vấn đề bằng cách yểm bùa bản viết này trong một cuốn sách về thuật giả kim chứ? Thậm chí đến các chuyên gia cũng không biết đâu mà lần với thứ ngôn ngữ cổ quái và những hình ảnh kỳ cục này.
Kéo tâm trí thoát ra khỏi những con chữ mờ nhạt đang chuyển động quá nhanh không thể đọc nổi, tôi tập trung viết một bản tóm tắt về nội dung cuốn sách: “Rối rắm,” tôi đánh. “Đoạn chú thích nguyên bản từ thế kỷ mười lăm đến mười bảy, hình tượng chủ yếu của thế kỷ mười lăm. Nguồn gốc của hình tượng có thể cổ xưa hơn? Hỗn hợp của giấy và giấy da mịn. Được tô màu và viết mực đen, ở văn bản trước đó có chất lượng cao khác thường. Các hình minh họa được thể hiện rất tốt, nhưng nhiều chi tiết sai, thiếu. Miêu tả sự tạo thành của đá tạo vàng, sự sáng tạo/ra đời của thuật giả kim, cái chết, sự hồi sinh và sự biến đổi. Một bản in lộn xộn của một cuốn sách thời kỳ đầu ư? Một cuốn sách kỳ lạ, đầy những điều dị thường.”
Các ngón tay tôi ngập ngừng trên phím chữ. Các học giả thường làm một trong hai điều sau khi họ phát hiện ra những thông tin không ăn khớp với những gì họ đã biết. Hoặc họ gạt bỏ nó sang một bên bởi nó không đem các giả thuyết được ấp ủ từ lâu của họ đi tới vấn đề cần bàn luận, hoặc họ sẽ tập trung vào nó với cường độ như quét laser và cố đi tới tận cùng của sự bí ẩn. Nếu cuốn sách này không bị yểm bùa, tôi có thể đã nỗ lực làm tới cùng. Nhưng nó đã bị yểm, nên tôi sẽ làm theo phương thức thứ nhất.
Và khi có nghi vấn, các học giả thường trì hoãn việc quyết định.Tôi đánh một dòng kết luận nước đôi: “Có lẽ cần thêm thời gian? Có thể yêu cầu cuốn sách này sau?”
Nín thở, tôi nhẹ nhàng đóng chặt bìa sách lại. Dòng chảy của phép thuật vẫn còn vụt xuyên qua cuốn cổ thư, đặc biệt dữ dội chỗ những chiếc móc cài.
Nhẹ nhõm khi cuốn sách đã được đóng lại, tôi nhìn chăm chú vào Ashmole 782 một lúc lâu. Các ngón tay tôi muốn lảng vảng trở lại chạm vào tấm bìa da màu nâu. Nhưng lần này tôi kiên quyết kháng cự, cũng như khi tôi kìm nén không chạm vào dòng đề tặng và các bức hình minh họa để biết thêm nhiều hơn một sử gia bình thường.
Dì Sarah luôn bảo tôi rằng phép thuật là một món quà trời ban. Nếu đúng là thế, thì nó đã bện chặt, gắn kết tôi với tất cả các phù thủy tiền bối nhà Bishop. Có một cái giá phải trả cho việc sử dụng sức mạnh phép thuật được kế thừa này cũng như cho việc dùng bùa chú hay bùa mê, đó là tạo nên sự cảnh giới đề phòng của các phù thủy. Bằng việc mở cuốn Ashmole 782, tôi đã xuyên thủng bức tường chia cách phép thuật với học thuật của tôi. Nhưng khi đã đẩy nó trở về đúng vị trí, tôi càng thêm quyết tâm hơn bao giờ hết để giữ nguyên vị trí đó.
Tôi thu dọn máy tính và giấy ghi chép của mình rồi nhấc chồng cổ thư lên, thận trọng đặt cuốn Ashomle 782 ở dưới cùng. Ơn trời, Gillian không có mặt ở chỗ bàn của cô ta, mặc dù giấy tờ cô ta vẫn còn rải đầy quanh đó. Cô ta chắc có kế hoạch làm việc muộn và đi ra ngoài để lấy một tách cà phê.
“Xong rồi à?” Sean hỏi khi tôi tới chỗ bàn mượn sách.
“Không hẳn. Tớ muốn giữ ba cuốn ở trên để dành cho ngày thứ Hai.”
“Còn cuốn thứ tư?”
“Tớ xong xuôi với nó rồi,” tôi buột miệng, đẩy mấy cuốn sách về phía anh chàng. “Cậu có thể gửi trả nó lại kho sách.”
Sean đặt cuốn sách lên một chồng trả lại mà anh chàng vừa mới gom vào. Anh chàng đi cùng tôi thật xa tới tận chỗ cầu thang, chào tạm biệt và biến mất đằng sau một cánh cửa lật. Cái băng tải sẽ đưa cuốn Ashmole 782 trở lại lòng thư viện bắt đầu hoạt động kêu lanh canh.
Tôi gần như đã quay sang và ngăn anh bạn lại nhưng lại thôi. Tay tôi đang đưa lên đẩy cánh cửa mở ra thì không khí xung quanh bất thình lình thu lại, như thể thư viện đang ép chặt lấy tôi. Bầu không khí tỏa sáng lờ mờ trong một phần giây, như khi các trang sách của cuốn cổ thư lờ mờ phát sáng trên bàn của Sean, và nó khiến tôi bất giác rùng mình, nổi cả da gà.
Có điều gì đó vừa mới xảy ra. Điều gì đó đầy ma thuật. Tôi quay lại nhìn về phía phòng đọc Công Tước Humfrey, đôi bàn chân cũng muốn làm theo.
Điều đó chẳng có nghĩa gì cả, tôi thầm nghĩ, kiên quyết bước ra khỏi thư viện.
Mi có chắc không? Một giọng nói thì thầm vu vơ.
Chuông Oxford ngân nga bảy tiếng. Đêm tối chầm chậm tiếp nối trời chiều chạng vạng như vẫn thế suốt mấy tháng nay, và hiện tượng đó vẫn còn có vẻ kéo dài. Các thủ thư đã bật hết đèn đọc từ ba mươi phút trước, những vòng sáng màu hoàng kim nổi lên giữa không gian xám mờ.
Hôm nay là ngày hai mươi mốt tháng Chín. Trên khắp thế giới, các phù thủy đang cùng nhau dùng bữa nhân tiết Thu phân để mừng lễ Mabon và chào đón những đêm đông sắp tới. Nhưng các phù thủy của Oxford thì sẽ tiến hành nghi lễ truyền thống này mà không có tôi. Tôi đã được đề cử diễn thuyết trong một hội thảo quan trọng vào tháng sau. Đến giờ tôi vẫn chẳng có được ý tưởng gì, và điều đó khiến tôi bắt đầu thấy sốt ruột. Trước ý nghĩ các cô nàng phù thủy đồng đạo của mình đang ăn tối ở nơi nào đó tại Oxford này, cái dạ dày tôi bắt đầu réo lên ùng ục. Tôi đã ở lì trong thư viện suốt từ chín rưỡi sáng mà chỉ mới ăn nhẹ vào buổi trưa.
Sean đã xin nghỉ hôm nay, và người thủ thư đang làm việc ở bàn tiếp tân là một người mới. Cô ta gây cho tôi một chút rắc rối khi tôi yêu cầu mượn một văn bản đang bị nát vụn, và cố gắng thuyết phục tôi sử dụng video thay thế. Cán bộ quản lý phòng đọc, ông Johnson, đã tình cờ nghe được và phải ra khỏi văn phòng để can thiệp.
“Tôi xin lỗi, tiến sĩ Bishop,” ông hớt hải nói, đẩy cái gọng kính đen tuyền nặng trịch trên sống mũi. “Nếu cô cần tham khảo bản thảo này cho việc nghiên cứu thì chúng tôi rất vui lòng được hỗ trợ.” Ông ta biến mất để tìm thứ bảo mật quý giá đó và giao nó cho tôi mà không quên kèm thêm những lời xin lỗi về sự bất tiện vừa rồi, và rằng nhân viên mới Gratified đã gây ra nhầm lẫn tai hại. Tôi đã trải qua một buổi chiều đọc sách vui vẻ.
Tôi kéo hai thanh cuộn từ hai góc cuốn cổ văn rồi đóng lại thật cẩn thận, hài lòng với lượng công việc mình đã hoàn thành. Sau khi đối mặt với cuốn sách phù thủy hôm thứ Sáu, tôi thà dồn hết tâm trí vào kỳ nghỉ cuối tuần để thực hiện các công việc thường lệ còn hơn là nghiên cứu thuật giả kim. Tôi điền vào các mẫu bồi hoàn tài chính, thanh toán các hóa đơn, viết thư giới thiệu, và thậm chí hoàn thành xong cả một bài bình luận sách. Các việc nhà lặt vặt theo trình tự bình thường như giặt là, uống trà quá trời là uống, và thử mấy công thức nấu nướng của chương trình dạy nấu ăn kênh BBC.
Sau một khởi đầu sớm sủa sáng nay, tôi dành cả ngày để chú tâm vào công việc trước mắt chứ không để tâm trí lang thang hồi tưởng lại những bức minh họa kỳ lạ của Ashmole 782 và bản viết da dê bí ẩn đó. Tôi ngó qua danh sách ngắn liệt kê mấy điều rối rắm cần làm trong ngày. Trong bốn vấn đề tôi kê ra ở danh sách đó thì cái thứ ba là dễ giải quyết nhất. Câu trả lời nằm trong một cuốn tạp chí thường kỳ, Những chú giải và thắc mắc, hiện đang nằm trên giá của một trong những tủ sách trải dài từ dưới đất lên tận trần nhà cao tít. Tôi đẩy ghế đứng dậy, quyết định gạch một mục trong tờ danh sách trước khi rời khỏi thư viện.
Người ta chỉ có thể với tới những giá sách phía trên cùng của phòng đọc Công tước Humfrey bằng một cái thang ván đã cũ mèm, và từ trên đó ta có thể nhìn thấy toàn cảnh các dãy bàn nơi đây. Tôi leo lên những bậc thang xoắn để tới chỗ mấy cuốn sách bìa vải thô hồ cứng nằm trong một hàng sách được sắp xếp gọn gàng theo thứ tự thời gian. Chẳng có ai ngoài tôi và một giảng viên dạy môn văn học cổ đại đến từ trường cao đẳng Magdalen dùng tới chúng cả. Tôi đã định vị được chỗ cuốn sách và rồi lại rủa thầm. Nó nằm ở trên cùng của cái giá, quá tầm với.
Một tiếng cười khẩy làm tôi giật mình. Tôi quay đầu lại xem có ai đang ngồi ở cái bàn đọc tận cuối căn phòng dài không, nhưng chẳng thấy ai ở đó cả. Tôi lại nghe thấy nó lần nữa. Oxford vẫn là một thị trấn ma, và bất cứ ai còn ở trường đại học lúc này đều đã đi xuống thưởng thức một ly rượu nâu miễn phí ở phòng sinh hoạt chung của khóa cuối từ một giờ trước rồi. Hôm nay là lễ Wiccan nữa, nên ngay cả Gillian cũng đã rời khỏi thư viện từ cuối giờ chiều, sau khi nỗ lực đưa ra lời mời cuối cùng và liếc nhìn vào chồng tài liệu của tôi bằng ánh mắt khó chịu.
Tôi tìm cái bục kê của phòng sách nhưng nó đã biến đi đằng nào. Bodleian vẫn có tiếng là thiếu thốn những thứ lặt vặt như thế, sẽ phải mất ít nhất mười lăm phút để tìm một cái bục kê trong thư viện và lôi được nó lên tầng trên để lấy được cuốn sách đó. Tôi đắn đo. Hôm thứ Sáu vừa rồi đúng là tôi đã cầm vào một cuốn sách phù thủy đấy, nhưng tôi cũng cưỡng lại được những cám dỗ khủng khiếp để không tiến xa hơn với mấy trò phép thuật. Với lại, ở đây lúc này có ai trông thấy tôi đâu!
Bất chấp những lý giải để hợp lý hóa vấn đề của mình, da tôi cứ gai gai cảm giác râm ran bồn chồn. Tôi không thường xuyên phá vỡ các nguyên tắc của mình, và tôi cũng đã giữ cho tinh thần vững vàng trước các tình huống thúc bách cần đến sự trợ giúp của phép thuật. Đây là lần thứ mười lăm trong năm nay, bao gồm cả câu bùa chú lên cái máy giặt gặp trục trặc và việc chạm vào Ashmole 782 lần trước. Không quá tệ cho một ngày cuối tháng Chín, nhưng về phương diện cá nhân thì cũng chẳng phải là tốt nhất.
Hít sâu, tôi đưa tay lên và tưởng tượng cuốn sách nằm ở đó.
Tập 19 của Những chú giải và thắc mắc trượt lui lại chừng mười centimet, tạo thành một góc nghiêng như thể có một bàn tay vô hình đang kéo nó xuống và rơi phịch vào lòng bàn tay tôi. Khi đã yên vị trên tay tôi, nó tự lật ra đúng ngay trang sách tôi cần.
Vỏn vẹn chỉ mất có ba giây. Tôi thở mạnh, trút ra chút cảm giác tội lỗi. Đột nhiên, như thể có hai mảnh băng lạnh lẽo vỡ òa ra giữa hai xương bả vai của tôi.
Có người đang nhìn tôi, và đó không phải là một quan sát viên bình thường. Khi một phù thủy săm soi một phù thủy khác, cái nhìn đó mang đến cảm giác râm ran, ngứa ngáy. Nhưng các phù thủy không phải là những sinh vật khác lạ duy nhất cùng chia sẻ thế giới này với loài người. Còn có cả yêu tinh – giống loài đầy tính sáng tạo và nghệ thuật, chúng ở giữa cái ranh giới mong manh của điên loạn và thiên tài. “Những ngôi sao nhạc rock và những kẻ giết người hàng loạt” – đó là cách dì tôi miêu tả về những sinh vật kỳ lạ và khó hiểu này. Rồi có cả loài ma cà rồng, cổ xưa và đẹp đẽ, chúng uống máu và sẽ quyến rũ bạn hoàn toàn nếu không giết bạn luôn từ trước.
Khi một yêu tinh nhìn, tôi sẽ cảm thấy như có một nụ hôn nhẹ lướt qua.
Nhưng khi một ma cà rồng nhìn chằm chằm, thì đó là cảm giác lạnh giá, tập trung và nguy hiểm. Tôi nhẩm lướt qua một lượt các độc giả trong khu Công tước Humfrey. Có một ma cà rồng và một vị tu sĩ hiền hậu đang miệt mài trên những cuốn kinh và sách nguyện thời Trung cổ y như một kẻ si tình. Nhưng ma cà rồng thường không hay xuất hiện trong các phòng sách hiếm hoi này. Thỉnh thoảng một ma cà rồng chịu thua trước thói tự cao tự đại và hoài cổ mới tìm đến đây để hồi tưởng lại quá khứ, nhưng chuyện ấy không phải thường xuyên.
Phù thủy và yêu tinh thì không hề thuộc tuýp có mặt trong các thư viện. Nhưng Gillian Chamberlain đã đến đây hôm nay, nghiên cứu mấy cuộn giấy papyrus của nàng ta bằng một cái kính lúp. Và đúng là còn có hai yêu tinh ở trong thư viện nhạc. Họ ngẩng lên nhìn, vẻ mộng mị lơ đãng khi tôi đi ngang qua trên đường tới Blackwell để dùng trà. Một trong số đó còn bảo tôi mang về cho anh ta một cốc latte, hẳn là anh ta đang ngập chìm trong cái thứ thu hút sự chú ý của anh ta lúc ấy.
Không, bây giờ kẻ đang quan sát tôi là một ma cà rồng. Tôi đã tình cờ chạm mặt vài ma cà rồng. Tôi làm việc trong một lĩnh vực giúp tôi có sự gắn kết chặt chẽ với các nhà khoa học, mà có vô số ma cà rồng trong các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới này. Khoa học ban thưởng cho những ai biết nghiên cứu bền bỉ và kiên nhẫn. Và tạ ơn cái thói quen làm việc đơn độc một mình của họ, những nhà khoa học ấy không thích được bất cứ ai công nhận ngoại trừ những người cộng sự thân cận nhất. Nó tạo nên một cuộc sống nối dài qua hàng thế kỷ chứ không phải là vài thập kỷ và càng dễ dàng để thương lượng hơn.
Ngày nay, ma cà rồng bị thu hút về những cái máy gia tốc phân tử, những công trình nghiên cứu để giải mã bản đồ gen, và sinh học phân tử. Xưa kia, đã có thời họ tập trung quanh thuật giả kim, giải phẫu học và điện lực. Nếu có vụ phát nổ lớn hay dính dáng đến máu, hay hứa hẹn hé lộ những bí mật của vũ trụ, thì chắc chắn là sẽ có một con ma cà rồng ở đó.
Tôi giữ chặt cuốn Những chú giải và thắc mắc lấy được bằng cách không chính đáng rồi quay sang đối diện với kẻ đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Hắn ở trong bóng tối phía bên kia căn phòng, trước mặt những cuốn tra cứu về cổ tự học, uể oải dựa vào một trong những cây cột trụ duyên dáng làm bằng gỗ đang chống đỡ cho gian phòng. Cuốn sách Hướng dẫn sử dụng các bản thảo viết tay bằng tiếng Anh cho tới năm 1500 đang để mở ra thăng bằng trên hai tay hắn.
Tôi chưa từng thấy gã ma cà rồng này trước đây – nhưng tôi đoan chắc là hắn không cần lời khuyên bảo nào để giải mã văn phong cổ cả. Bất cứ ai từng đọc các tác phẩm ăn khách hay thậm chí là chăm xem truyền hình đều biết rằng ma cà rồng rất hấp dẫn, nhưng không gì có thể so sánh với việc bạn thực sự được nhìn thấy một ma cà rồng. Cấu trúc xương của họ được mài giũa quá tuyệt vời đến mức như được một nhà điêu khắc chạm trổ nên. Thế rồi họ di chuyển, hay nói chuyện, và trí óc bạn không thể tin được vào những gì đang chứng kiến. Mỗi cử động thật duyên dáng, mỗi ngôn từ đều thánh thót, du dương. Và ánh mắt họ hoàn toàn lôi cuốn, đó là cách họ bắt giữ con mồi của mình. Một ánh nhìn thật dài, vài lời thì thầm khe khẽ, một sự đụng chạm - khi bạn đã mắc vào cái bẫy của một ma cà rồng thì bạn không còn cơ hội chống cự nữa.
Chăm chú nhìn xuống gã ma cà rồng này, tôi nhận ra với một cảm giác hụt hẫng rằng kiến thức của mình ở lĩnh vực này, than ôi, toàn là lý thuyết suông. Một chút ít trong mớ lý thuyết đó dường như còn hữu ích vào lúc này đó là tôi đang đối mặt với một ma cà rồng trong thư viện Bodleian.
Ma cà rồng duy nhất mà tôi quen biết sơ sơ làm công việc nghiên cứu máy gia tốc nguyên tử hạt nhân ở Thụy Sĩ. Jeremy có dáng người dong dỏng, mảnh mai và bóng bẩy, mái tóc vàng rực rỡ, đôi mắt xanh và điệu cười lôi cuốn. Anh ta ngủ với hầu hết phụ nữ trong bang Geneva và bây giờ đang làm việc ở thành phố Lausanne. Anh ta làm gì sau khi đã quyến rũ họ, tôi chẳng bao giờ muốn tìm hiểu quá sâu, và tôi đã từ chối những lời mời dai dẳng đi chơi uống nước cùng anh ta. Tôi luôn nhận thấy Jeremy là một kẻ có dòng dõi. Nhưng so với gã ma cà rồng đang đứng trước mặt tôi lúc này thì anh ta dường như gầy trơ xương, lóng ngóng, và còn rất, rất trẻ.
Ma cà rồng này dáng người cao lớn hơn – khoảng hơn một mét tám ngay cả khi tôi nhìn xuống hắn từ một khoảng cách thế này. Và dứt khoát là hắn không hề mảnh mai rồi. Đôi vai rộng hẹp dần về phía hông, tiếp nối đôi chân thuôn và săn chắc. Đôi bàn tay dài nổi bật, nhanh nhẹn, một điểm nhấn tao nhã mang tính sinh lý khiến cho đôi mắt bạn bị cuốn đi theo chúng trước khi nhận ra là đôi tay ấy thuộc về một người đàn ông to lớn nhường nào.
Trong khi mắt tôi quét qua hắn khắp lượt, thì ánh mắt hắn gắn chặt vào tôi. Nhìn từ phía này căn phòng, đôi mắt ấy dường như đen thăm thẳm, chăm chăm nhìn lên từ dưới cặp lông mày rậm và đen không kém, một bên đang nhướng lên thành một đường cong như dấu hỏi. Khuôn mặt hắn quả là ấn tượng – tất cả đường nét đều rõ rệt, đôi lưỡng quyền nhô cao kết hợp với cặp lông mày che chắn bảo vệ cho đôi mắt. Phía trên chiếc cằm là một trong vài điểm ít ỏi còn chừa chỗ cho nét dịu dàng – khuôn miệng rộng của hắn, cũng giống như đôi bàn tay dài - nhưng dường như điều đó chẳng có nghĩa lý gì.
Tuy nhiên thứ gây cảm giác bất an nhất ở hắn không phải là sự hoàn hảo của hình thể. Nó là vẻ hoang dã kết hợp với sức mạnh, sự nhanh nhạy và trí thông minh sắc bén như có thể sờ nắn được từ phía đầu kia của căn phòng. Trong chiếc quần âu màu đen và chiếc áo len màu xám nhạt, cùng với mái tóc đen bù xù xõa ngang trán và được hớt sát sau gáy, hắn trông giống một con báo có thể phóng tới bất cứ lúc nào. Nhưng hắn không vội vàng thực hiện điều đó.
Gã ma cà rồng mỉm cười. Một nụ cười lịch sự, dè dặt nên không để lộ ra những chiếc răng. Dẫu sao tôi cũng ý thức một cách mãnh liệt về chúng – được sắp thành hàng thẳng tắp sắc bén và hoàn hảo phía sau đôi môi tái nhợt của hắn.
Ý nghĩ về những chiếc răng gửi đi một đợt adrenaline đầy tính bản năng xuyên qua khắp cơ thể tôi, khiến những ngón tay tôi run rẩy. Đột nhiên tất cả điều tôi có thể nghĩ là: Ra khỏi gian phòng nàyNGAY LẬP TỨC.
Cái thang dường như xa hơn so với con số bốn bậc của nó. Tôi guồng chân leo xuống sàn nhà bên dưới, rồi bị vấp ở bậc cuối cùng, và chúi người thẳng vào đôi cánh tay đang đợi sẵn của ma cà rồng đó. Vậy là hắn đã tóm được tôi ở cuối cầu thang.
Những ngón tay mát lạnh, và đôi cánh tay cho cảm giác giống như thép chứ không phải là thịt và xương. Mùi cây đinh hương, quế và thứ gì đó gợi tôi nhớ tới mùi trầm hương đốt lúc hành lễ ngập tràn trong không khí. Hắn đặt tôi đứng vững lại, nhặt cuốn Những chú giải và thắc mắc từ dưới sàn lên, và đưa nó cho tôi kèm theo một cái gật đầu khẽ khàng. “Tiến sĩ Bishop, đúng không ạ?”
Run bần bật từ đầu tới chân, tôi gật đầu. Những ngón tay dài và nhợt nhạt của bàn tay phải hắn thọc vào túi áo và lôi ra một tấm danh thiếp màu xanh trắng. Hắn chìa nó ra. “Matthew Clairmont.”
Tôi cầm vào rìa tấm danh thiếp, thận trọng không chạm vào ngón tay hắn. Logo quen thuộc của đại học Oxford, ba cái vương miện và một cuốn sách để mở, ở ngay bên trên tên của Clairmont, tiếp sau đó là một chuỗi những thông tin ban đầu cho thấy hắn là một thành viên của câu lạc bộ Tầng lớp Hoàng tộc.
Không tệ đối với một người có vẻ ngoài gần tứ tuần, mặc dù tôi hình dung rằng tuổi thực của hắn ít nhất cũng gấp mười lần như thế. Và vì chuyên môn nghiên cứu của hắn, thật chẳng có gì ngạc nhiên khi ma cà rồng này là giáo sư khoa Hóa sinh và có quan hệ với khoa Thần kinh học của Oxford tại bệnh viên John Radcliffe. Máu và giải phẫu học – hai thứ mà ma cà rồng yêu thích. Tấm danh thiếp còn có số điện thoại của ba phòng thí nghiệm khác bổ sung cho số điện thoại văn phòng và địa chỉ e-mail. Có thể tôi đã không trông thấy hắn trước đây, nhưng hắn hẳn nhiên thuộc tầng lớp tôi không với tới được.
“Giáo sư Clairmont.” Tôi lạc cả giọng trước khi ngôn từ bị ứ lại trong họng, và tôi cố nín lặng trước thôi thúc mạnh mẽ muốn vừa gào thét vừa chạy ra lối cửa.
“Chúng ta chưa gặp nhau,” hắn tiếp tục bằng một chất giọng nhấn trọng âm kỳ quặc. Nó gần như là của vùng Oxbridge nhưng có một âm sắc êm ái mà tôi không thể đoán định được. Đôi mắt hắn không hề rời khỏi gương mặt tôi, và tôi phát hiện ra một thực tế là chúng không hoàn toàn tối sẫm: đôi đồng tử giãn to được viền quanh bằng đôi tròng mắt có màu bạc xanh xám. Sự lôi cuốn của chúng thật mãnh liệt và tôi nhận ra là mình không thể nào rời mắt đi.
Khuôn miệng của ma cà rồng này lại cử động. “Tôi là một người rất ngưỡng mộ các tác phẩm của cô.”
Mắt tôi mở lớn. Không thể nào có chuyện một giáo sư khoa Hóa sinh lại thích thú với thuật giả kim của thế kỷ mười bảy, nhưng cũng không chắc. Tôi nâng cổ áo sơ mi trắng của mình lên và quét mắt khắp căn phòng. Chúng tôi là hai người duy nhất ở đây. Không có ai ở chỗ chiếc bàn gỗ sồi cũ kỹ hay ở gần dãy bàn máy vi tính cả. Bất cứ ai có mặt ở chỗ bàn quyên góp sách đều quá xa để có thể đến giúp đỡ tôi.
“Tôi nhận thấy bài báo của cô về những sắc thái tượng trưng của sự chuyển hóa trong thuật giả kim thật lôi cuốn, và công trình của cô về cách tiếp cận của Robert Boyle với các vấn đề về sự co giãn khá là thuyết phục,” Clairmont tiếp tục một cách trôi chảy, như thể hắn đã quen với việc là người tham gia tích cực duy nhất trong một cuộc đàm luận. “Tôi vẫn chưa đọc xong cuốn sách mới nhất của cô về việc đào tạo và học nghề của thuật giả kim, nhưng tôi đang thưởng thức nó - một tác phẩm lớn đấy.”
“Cảm ơn,” tôi thì thầm đáp. Ánh nhìn chòng chọc của hắn rời khỏi mắt tôi rồi lướt xuống cổ họng tôi.
Tôi không chạm vào mấy cái nút áo quanh cổ nữa.
Đôi mắt kỳ dị của hắn lướt trở lại mắt tôi. “Cô có cách khơi gợi lại quá khứ cho các độc giả thật tuyệt diệu.” Tôi coi đó như là một lời khen ngợi, vì một ma cà rồng sẽ biết rõ điều đó đúng hay sai. Clairmont ngừng lại giây lát. “Tôi có thể mời cô bữa tối được không?”
Miệng tôi há hốc. Bữa tối ư? Tôi không thể thoát khỏi hắn trong cái thư viện này, nhưng chẳng có lý do gì để nấn ná qua một bữa ăn cả - đặc biệt là một bữa ăn mà hắn sẽ chẳng thể chia sẻ và tận hưởng theo các sở thích ăn uống của riêng mình.
“Tôi đã có kế hoạch mất rồi,” tôi cao giọng đáp mà không thể nghĩ ra được một lý do khả dĩ cho cái kế hoạch mình vừa nói. Mathew Clairmont hẳn phải biết tôi là một phù thủy, và rõ ràng là tôi không mừng lễ Mabon vào lúc này.
“Chán quá,” hắn lẩm bẩm, một nụ cười lướt qua môi. “Có lẽ để một dịp khác chăng. Năm nay cô vẫn còn ở Oxford phải không?”
Xung quanh một ma cà rồng luôn có cái cảm giác bất an, bấn loạn, và mùi đinh hương của Clairmont gợi nhắc tới hương vị kỳ lạ của Ashmole 782. Chẳng kịp nghĩ ngợi rõ ràng, tôi đành gật đầu. Thế sẽ an toàn hơn.
“Tôi cũng đã nghĩ vậy,” Clairmont nói. “Tôi chắc là chúng ta sẽ lại có cơ hội gặp nhau lần nữa. Oxford là một thị trấn nhỏ mà.”
“Rất nhỏ,” tôi đồng tình, thầm ước gì mình đã đến London thay vì ở đây.
“Vậy thì cho đến dịp đó, Tiến sĩ Bishop, rất hân hạnh được gặp lại cô. ”Clairmont chìa tay ra. Ngoại trừ cuộc du ngoạn ngắn ngủi tới chỗ cổ áo của tôi, còn thì đôi mắt hắn tuyệt nhiên không rời khỏi mắt tôi một lần nào. Tôi không nghĩ là hắn có chớp mắt lần nào cả. Tôi chỉ biết cứng đơ người và không thể rời mắt đi được.
Bàn tay tôi đưa ra phía trước, do dự giây lát trước khi bắt tay hắn. Có một áp lực thoáng lướt qua trước khi hắn rút tay lại. Hắn bước giật lùi, mỉm cười và biến mất vào bóng tối của khu vực cổ xưa nhất thư viện. Tôi vẫn còn đứng đó cho tới khi hai bàn tay lạnh giá có thể cử động trở lại, sau đó tôi quay lại bàn đọc của mình và tắt máy vi tính. Trong khi thu gom các giấy tờ, cuốn Những chú giải và thắc mắchỏi tôi vẻ cáo buộc rằng tại sao tôi lại đến quấy rầy nó khi tôi thậm chí còn không nhìn đến nó. Danh sách các việc phải làm của tôi cũng đầy lời chỉ trích. Tôi xé toạc phần trên của tập giấy, vò nhàu và ném nó vào cái giỏ liễu gai ở dưới gầm bàn.
“Thế là đủ cho cái ngày quỷ quái này rồi,” tôi khẽ lẩm bẩm.
Viên quản lý phòng đọc buổi tối liếc xuống đồng hồ đeo tay khi tôi trả lại những tập cổ thư. “Về sớm thế, tiến sĩ Bishop?”
Tôi gật đầu, môi tôi mím chặt cố nén không hỏi ông ta rằng liệu ông ta có biết một con ma cà rồng đã có mặt trong khu vực sách tham khảo môn cổ tự học hay không.
Ông ta nhặt chồng hộp các tông màu xám lên và cầm lấy những cuốn sách. “Ngày mai cô có cần chúng không?”
“Có,” tôi thì thào. “Ngày mai.”
Sau khi quan sát lần cuối lối ra, tôi đã được tự do. Tiếng bước chân tôi gõ lên tấm vải sơn lót sàn vang dội khắp các bức tường đá khi tôi tăng tốc đi xuyên qua cánh cổng mắt cáo của phòng đọc sách, ngang qua chỗ những cuốn sách được che chắn bằng dây chão mềm như nhung để ngăn chúng khỏi những ngón tay tò mò, rồi đi xuống cầu thang bằng gỗ đã mòn, và vào khu vực sân trong ở tầng trệt. Tôi tựa người vào mấy thanh sắt bao quanh khu tượng đài bằng đồng của William Herbert, hít đầy bầu không khí lạnh giá vào hai lá phổi, và đánh vật để đẩy lùi dấu tích của mùi đinh hương và quế ra khỏi lỗ mũi mình.
Luôn có những thứ bất ngờ xảy đến vào buổi đêm ở Oxford, tôi tự nhủ một cách cứng rắn. Vậy là có thêm một ma cà rồng nữa trong thị trấn này. Cho dù tôi đã nhủ lòng ra sao lúc ở trong sân thư viện, chuyến đi bộ về nhà của tôi cũng nhanh hơn thường lệ. Vẻ u ám của hẻm New College như một lời tuyên bố ma quái vào đúng thời điểm này. Tôi quét tấm thẻ của mình vào máy đọc thẻ ở cổng sau của New College và cảm thấy vơi đi chút căng thẳng khi cánh cổng kêu lách cách sập lại phía sau lưng, như thể mỗi cánh cửa và mỗi bức tường ngăn giữa tôi với cái thư viện kia có thể giữ an toàn cho tôi thêm một chút vậy. Tôi đi men theo bờ tường bên dưới những cánh cửa sổ của nhà thờ rồi xuyên qua lối đi bộ hẹp dẫn vào sân trong. Nơi đó trông ra khu vườn thời Trung cổ duy nhất còn sót lại của Oxford, khu vườn được hoàn thiện thêm nhờ một ngọn đồi thấp kiểu truyền thống, tạo thành một khung cảnh tươi xanh dành cho sinh viên tới thưởng ngoạn sự kỳ diệu của tạo hóa và Chúa Trời. Tối nay, những ngọn tháp hình chóp và những ô cửa tò vò của ngôi trường dường như mang đậm nét Gothic, và tôi hăm hở đi vào trong.
Khi cánh cửa khép lại sau lưng, tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi hiện sống trên tầng cao nhất của tòa nhà dành cho khoa Lịch sử, trong khu phòng trọ dành riêng cho các cựu thành viên về thăm trường. Các gian trong căn hộ của tôi, gồm một phòng ngủ, một phòng khách với chiếc bàn tròn để ăn tối và một căn bếp nhỏ khá tươm tất, được bài trí bằng những tấm ảnh cổ in từ phim âm bản và ván ốp tường. Tất cả đồ gia dụng trông như được chọn lọc từ các đồ vật trước đây ở phòng sinh hoạt chung của năm cuối và của chủ nhà, với phong cách thiết kế nổi bật cuối thế kỷ mười chín.
Tôi đặt hai miếng bánh mỳ vào lò nướng và rót cho mình một cốc nước lạnh. Tu hết một hơi cốc nước, tôi mở cửa sổ để không khí mát ùa vào mấy căn phòng ngột ngạt. Mang theo một gói snack trở lại phòng khách, tôi đá văng đôi giày và bật dàn stereo nhỏ lên. Những nốt nhạc trong trẻo của Mozart tràn ngập không gian. Khi ngồi trên chiếc sofa màu hạt dẻ, tôi dự định nghỉ ngơi một lát, rồi đi tắm và lướt qua những ghi chú trong ngày.
Ba giờ rưỡi sáng, tôi tỉnh giấc, tim đập dồn, cổ cứng ngắc, và vị đinh hương rõ rệt còn đọng lại trong miệng tôi.
Tôi uống một ly nước mát rồi đóng cửa sổ phòng bếp lại. Thật lạnh lẽo, tôi rùng mình khi bầu không khí ẩm ướt chạm vào người. Sau khi liếc qua đồng hồ và nhẩm tính nhanh, tôi quyết định gọi về nhà. Ở đó mới là mười rưỡi, dì Sarah và cô Em thích hoạt động về đêm giống như loài dơi vậy. Lững thững đi quanh các phòng, tôi tắt tất cả đèn, chỉ để lại ngọn đèn trong phòng ngủ và nhấc máy di động lên. Tôi trút bỏ bộ quần áo lấm bụi – làm sao mà trong thư viện bạn lại có thể bị bắt bụi đến thế được nhỉ – rồi mặc vào người chiếc quần bó cũ tập yoga và một cái áo len màu đen cổ trễ. Bộ đồ đó thoải mái hơn rất nhiều so với bất cứ bộ đồ ngủ nào.
Chiếc giường đang chào mời và thật êm ái vững chãi dưới lưng tôi, nó làm tôi thấy dễ chịu đến mức hầu như đã thuyết phục được bản thân rằng chỉ nên gọi về nhà khi thật cần thiết. Nhưng nước vẫn chưa thể tẩy bỏ được hết vị đinh hương trong miệng, và tôi quay số.
“Chúng ta đang đợi cuộc gọi của con đây,” đó là những lời đầu tiên tôi nghe thấy.
Đúng là phù thủy.
Tôi thở dài. “Dì Sarah, con khỏe mà.”
“Tất cả các dấu hiệu đều cho thấy điều ngược lại.” Như thường lệ, em gái của mẹ tôi sẽ không chịu lùi bước. “Tabitha đã lồng lộn lên suốt cả buổi tối, Em thì có một bức tranh vô cùng rõ nét về việc con bị lạc trong rừng ban đêm, và dì thì không thể ăn được thứ gì suốt từ sáng tới giờ!”
Rắc rối thực sự chính là con mèo chết tiệt đó. Tabitha là bé cưng của dì Sarah, và nó bắt sóng được bất cứ tình trạng căng thẳng nào của các thành viên trong gia đình với độ chính xác phi thường. “Conkhỏe mà. Con chỉ có một cuộc chạm trán không mong đợi ở thư viện tối nay thôi, tất cả chỉ có thế.”
Một tiếng “cạch” cho tôi biết là cô Em đã nhấc máy điện thoại phụ lên. “Tại sao con không tham dự lễ Mabon?” cô hỏi.
Emily Mather đã hiện diện cố định trong cuộc đời tôi từ bao lâu tôi cũng không nhớ nữa. Cô và mẹ Rebecca của tôi đã gặp nhau từ hồi còn là những học sinh trung học làm việc ở khu bảo tàng Plimoth Plantation vào mùa hè, ở đó họ đào những cái hố và đẩy xe cút kít cho các nhà khảo cổ. Họ trở thành đôi bạn thân, rồi cứ thư từ tâm tình qua lại suốt khi Emily tới Vassar còn mẹ tôi vào Harvard. Sau đó hai người nối lại liên lạc ở Cambridge khi Em trở thành thủ thư ở một thư viện cho trẻ em. Sau cái chết của bố mẹ tôi, những kỳ nghỉ cuối tuần dày dặc của Em ở Madison nhanh chóng đưa cô đến với một công việc mới ở trường cấp hai địa phương. Cô và dì Sarah trở thành những đối tác không thể chia rẽ được, mặc dù Em vẫn duy trì căn hộ riêng của cô trong thị trấn và cả hai đã lập một giao kèo đặc biệt là không bao giờ để bị bắt gặp đang đi vào buồng ngủ cùng nhau trong khi tôi đang tuổi lớn. Chuyện này không lừa được tôi, hàng xóm, hay bất kỳ ai khác sống trong thị trấn này. Mọi người đối xử với họ giống như họ là một cặp, không quan tâm xem họ ngủ ở đâu. Khi tôi chuyển ra khỏi nhà Bishop, Em chuyển vào và ở đó từ hồi ấy. Giống như mẹ tôi và dì, Em có xuất thân từ một dòng họ phù thủy lâu đời.
“Con được mời tới bữa tiệc của hội phù thủy, nhưng con đã làm việc chứ không đi dự.”
“Phù thủy ở Bryn Mawr mời con à?” Em có hứng thú với giới cổ điển học, chủ yếu là vì cô đã từng hẹn hò với mẹ của Gillian (hóa ra là một cuộc tình do rượu vang trong một đêm hè). “Đó là hồi những năm 1960,” Em chỉ nói thế.
“Vâng.” Tôi nói tỏ vẻ không thích. Cả hai người bọn họ đều tin rằng tôi sẽ ngộ ra chân lý và bắt đầu nắm bắt phép thuật một cách nghiêm túc, rằng tôi chắc chắn sẽ được bổ nhiệm. Không gì phủ bóng nghi ngờ lên cái điềm báo đầy mơ ước này được, và họ luôn run lên sung sướng khi thấy tôi có bất cứ mối liên hệ nào với bất cứ phù thủy nào. “Nhưng thay vào đó, con đã dành cả buổi tối ở bên Elias Ashmole.”
“Anh ta là ai thế?” Em thì thào hỏi dì Sarah.
“Mình biết. Cái gã đó hồi còn sống từng sưu tập những cuốn sách về giả kim thuật đấy,” tiếng dì Sarah có vẻ bị bịt nhỏ lại.
“Cả hai vẫn còn đó chứ?” tôi gọi to vào máy điện thoại.
“Vậy ai là người làm con hoảng sợ?” Dì Sarah hỏi.
Cả hai đều là phù thủy nên chẳng có cách nào che giấu được bất cứ điều gì. “Con gặp một ma cà rồng ở trong thư viện. Con chưa gặp anh ta trước đó lần nào cả, tên là Matthew Clairmont.”
Đầu dây của cô Em im lặng khi cô lật giở qua những file danh thiếp được lưu giữ trong đầu về các sinh vật lẫy lừng. Dì Sarah cũng im lặng trong giây lát, đang cân nhắc xem có nên làm to chuyện hay không.
“Ta mong là hắn dễ dứt hơn lũ yêu tinh con có thói quen thu hút về,” dì đột ngột nói.
“Lũ yêu tinh đã không còn làm phiền con kể từ khi con thôi đóng kịch.”
“Chẳng phải còn có tên yêu tinh đã theo con vào thư viện Beinecke hồi con mới làm việc ở Yale còn gì,” cô Em chỉnh tôi. “Hắn cứ tha thẩn dưới đường và mò đến tận chỗ con đấy thôi!”
“Tinh thần hắn không ổn định mà,” tôi chống chế. Như khi dùng phép phù thủy với cái máy giặt, không hiểu thế nào mà tôi đã thu hút sự chú ý của một yêu tinh độc thân, hiếu kỳ - đáng lẽ nên đánh giá việc đó là một lợi thế dành cho tôi mới phải chứ!
“Con thu hút những sinh vật đó như hoa thu hút ong vậy, Diana ạ. Nhưng yêu tinh không nguy hiểm bằng một nửa ma cà rồng đâu. Hãy tránh xa hắn ta ra,” dì Sarah nghiêm khắc nói.
“Con chẳng có lý do gì để tìm đến anh ta cả.” Tay tôi lại đưa lên cổ lần nữa. “Chúng con chẳng liên quan gì cả.”
“Vấn đề không phải ở chỗ đó,” dì Sarah xẵng giọng. “Phù thủy, ma cà rồng và yêu tinh không thể giao du lẫn lộn được. Con biết điều đó mà. Con người có khả năng nhận ra chúng ta nhiều hơn khi chúng ta làm thế. Không có yêu tinh hay ma cà rồng nào đáng để ta mạo hiểm như vậy.” Sinh vật duy nhất trên thế giới này khiến dì Sarah thật sự coi trọng là phù thủy. Con người gây cho dì ấn tượng là những sinh vật nhỏ bé bất hạnh đui mù trước thế giới xung quanh. Yêu tinh thì vĩnh viễn là những thiếu niên không thể tin cậy được. Ma cà rồng thì ở vị trí thấp hơn cả loài mèo và ít nhất còn kém loài người ngu si một bậc trong nấc thang tiến hóa riêng của dì.
“Con đã nghe dì nói về các luật lệ này rồi, dì Sarah.”
“Không phải ai cũng tuân theo các nguyên tắc đó, cưng à,” Em nhận xét. “Anh ta muốn gì?”
“Anh ta nói là anh ta rất thích các công trình của con. Nhưng anh ta là một nhà khoa học, nên điều đó khó mà tin được.” Các ngón tay tôi vơ vẩn nghịch tấm chăn lông vịt trên giường. “Anh ta mời con ăn tối.”
“Ăn tối á?” Dì Sarah kêu lên sửng sốt.
Cô Em chỉ phá lên cười. “Trong thực đơn nhà hàng không có mấy món hấp dẫn một ma cà rồng đâu.”
“Con chắc chắn sẽ không gặp lại anh ta nữa đâu. Con thấy trên danh thiếp anh ta đang điều hành ba phòng thí nghiệm, và anh ta nắm giữ hai vị trí trong khoa.”
“Khá đấy,” dì Sarah lầm bầm. “Thế con có nhiều thời gian như thế để làm gì? Và hãy thôi giật tấm chăn đi – con sẽ làm nó bị thủng đấy.” Dì đã bật cái radar phù thủy của mình lên ở mức tối đa và bây giờ dì đang quan sát đồng thời nghe tôi nói.
“Có vẻ không phải anh ta đang lấy trộm tiền từ một quý bà già khọm và phung phí tài sản của người khác trên sàn chứng khoán đâu,” tôi chống chế thêm. Những ma cà rồng được cho là giàu có một cách thái quá luôn làm dì Sarah khó chịu. “Anh ta là một nhà hóa sinh học và là một bác sĩ trong vài lĩnh vực liên quan tới bộ não.”
“Dì chắc chắn là điều đó thật lôi cuốn, Diana ạ, nhưng anh ta muốn gì chứ?” Dì Sarah kết hợp tính cáu bẳn của tôi với sự thiếu kiên nhẫn – đặc tính có một không hai của tất cả các phụ nữ nhà Bishop.
“Không phải bữa tối!” cô Em nói với vẻ chắc chắn.
Dì Sarah khịt mũi tỏ vẻ sốt ruột. “Hắn ta muốn một thứ gì đó. Ma cà rồng và phù thủy không hẹn hò. Trừ phi hắn ta đang có kế hoạch dùng bữa tối chính con, tất nhiên là thế. Không có gì khiến chúng thích hơn là được nếm mùi vị máu phù thủy.”
“Có thể anh ta chỉ tò mò thôi. Hay anh ta quả có thích tác phẩm của con thật?!” Cô Em nói câu đó cứ nghĩ là tôi phải phá lên cười.
“Chúng ta sẽ không phải trò chuyện thế này nếu con có đôi chút đề phòng sơ đẳng nhất,” dì Sarah chua chát nói. “Một câu bùa chú phòng vệ, sử dụng các năng lực của con như thuật tiên tri chẳng hạn, và…”
“Con sẽ không dùng phép hay thuật phù thủy để tìm hiểu vì sao một ma cà rồng mời con ăn tối đâu,” tôi kiên quyết nói. “Không thể thương lượng được đâu, dì Sarah.”
“Thế thì đừng có gọi cho chúng ta để tìm câu trả lời khi mà con không muốn nghe,” dì Sarah nói, cái tính khí nóng nảy có tiếng của dì đang bừng bừng lên. Dì gác máy trước khi tôi có thể nghĩ ra câu đáp lại.
“Sarah thật sự lo cho cháu, cháu biết mà,” Em nói tỏ vẻ xin lỗi. “Và cô ấy không hiểu tại sao cháu lại không sử dụng món quà trời ban này, ngay cả khi để bảo vệ chính bản thân mình.”
Bởi vì món quà đó kèm theo nỗi đau khổ, tôi đã giải thích hàng trăm lần như thế. Tôi đành cố gắng lần nữa.
“Nó là con dao hai lưỡi, cô Em ạ. Con đã tự bảo vệ mình khỏi một ma cà rồng trong thư viện hôm nay, và ngày mai con sẽ bảo vệ mình trước những câu hỏi hóc búa trong buổi diễn thuyết. Nhanh thôi, con sẽ chọn đề tài nghiên cứu dựa trên hiểu biết về cách loài người chọn lựa và công nhận, con chắc chắn mình sẽ chiến thắng. Việc tự mình tạo dựng danh tiếng rất quan trọng đối với con. Nếu con dùng đến phép thuật, thì chẳng có gì là thực sự của con cả. Con không muốn là phù thủy Bishop kế tiếp đâu.” Tôi toan kể với Em về Ashmole 782, nhưng có điều gì đó đã khiến tôi ngậm miệng lần nữa.
“Ta biết, ta biết, bé cưng ạ.” Giọng cô Em thật dịu dàng. “Ta hiểu chứ. Nhưng Sarah không thể đừng được việc lo lắng cho sự an toàn của con. Bây giờ con chính là toàn bộ gia đình của cô ấy đấy.”
Những ngón tay tôi luồn qua tóc và dừng lại nơi thái dương. Những cuộc nói chuyện kiểu này lại quay về cha và mẹ tôi. Tôi đắn đo, miễn cưỡng đề cập tới một vấn đề tôi quan tâm nhất.
“Sao thế con?” cô Em hỏi, giác quan thứ sáu của cô đã nắm bắt được nỗi lo lắng của tôi.
“Anh ta biết tên con. Con chưa bao giờ gặp anh ta trước đây, nhưng anh ta biết con là ai.”
Cô Em cân nhắc các khả năng. “Tấm hình của con in trên bìa sau của cuốn sách, đúng không?”
Hơi thở tôi đang vô thức giữ trong lồng ngực, đã bật ra một cách nhẹ nhõm. “Đúng rồi. Chắc hẳn là thế. Con đúng là ngớ ngẩn thật. Cô có thể hôn dì Sarah hộ con không ạ?”
“Được chứ. Và Diana à! Hãy cẩn thận. Ma cà rồng Anh có lẽ không cư xử lịch thiệp với phù thủy như ma cà rồng Mỹ đâu.”
Tôi mỉm cười, nghĩ đến cái cúi đầu trang trọng của Matthew Clairmont. “Con sẽ cẩn thận ạ. Nhưng đừng lo, chắc con sẽ không gặp lại anh ta đâu.”
Em im lặng.
“Cô Em?” tôi nhắc.
“Thời gian sẽ trả lời.”
Em không giỏi tiên tri như mẹ tôi, nhưng có điều gì đó thật khó dò ở cô. Thuyết phục phù thủy chia sẻ một điềm báo mơ hồ là điều gần như không thể. Cô ấy sẽ không nói cho tôi biết điều cô ấy lo lắng về Matthew Clairmont. Vẫn chưa.
Gã ma cà rồng náu mình dưới bóng cây cầu cong cong bắc ngang hẻm New College nối liền hai khu nhà của trường Hertford, tựa lưng vào phiến đá mòn nhẵn của tòa nhà mới xây dựng, hai bàn chân đặt trên mái cầu.
Nàng phù thủy xuất hiện, di chuyển nhanh đến ngạc nhiên ngang qua lối đi bộ lát đá gồ ghề bên ngoài Bodleian. Cô đi ngang qua ngay bên dưới chỗ hắn ngồi, guồng chân mỗi lúc một nhanh hơn. Vẻ bồn chồn khiến cô trông trẻ hơn tuổi và càng làm nổi bật thêm sự yếu đuối nơi cô.
Vậy đó là sử gia “chính hiệu” đấy, hắn mỉa mai nghĩ, tâm trí điểm lướt qua tiểu sử đời cô. Thậm chí ngay cả khi đã nhìn thấy tấm hình của cô rồi, Matthew vẫn đinh ninh Diana phải già hơn cơ, căn cứ vào những thành công trong chuyên ngành mà cô đã đạt được.
Lưng Diana Bishop thật thẳng, hai bờ vai ngay ngắn bất chấp diện mạo hoang mang bối rối lúc này. Có lẽ cô không dễ hăm dọa như hắn tưởng. Thái độ của cô trong thư viện đã cho thấy khá nhiều điều. Cô đã đón nhận ánh mắt hắn mà không có lấy một dấu hiệu sợ hãi nào, nỗi sợ mà Matthew đã quen nhận được từ những kẻ không phải là ma cà rồng, cũng như nhiều kẻ là ma cà rồng khác.
Khi Diana ngoặt ở góc quanh, Matthew trườn người dọc theo đường trên mái cho tới khi đến bức tường của New College. Hắn lặng lẽ trượt xuống mép tường. Gã ma cà rồng này biết rõ cách bố trí của ngôi trường và đã đoán trước được nơi cô sẽ đến. Hắn vừa kịp chui vào một ô cửa đối diện với cầu thang dẫn lên phòng Diana thì cô bắt đầu trèo lên.
Ánh mắt Matthew bám riết lấy Diana khi cô đi vòng quanh căn hộ của mình từ phòng này sang phòng khác, bật tất cả đèn lên. Cô mở cửa sổ bếp, để ngỏ đó rồi bỏ đi.
Thế càng đỡ cho mình khỏi phải đập vỡ kính cửa sổ hoặc phá khóa, hắn nghĩ.
Matthew phóng người qua khoảng không giữa hai khu và bám vào tòa nhà Diana ở, bàn chân và hai tay hắn tìm được chỗ bám chắc chắn trong lớp vữa trát tường cũ kỹ, được trợ giúp thêm bởi một máng thoát nước bằng đồng và vài cây leo thân chắc khỏe. Từ cao điểm quan sát mới đầy ưu thế này, hắn có thể bắt được mùi hương đặc biệt của cô phù thủy và tiếng sột soạt lật giở các trang sách. Hắn rướn cổ nhòm vào cửa sổ.
Bishop đang đọc sách. Trong vẻ thư thái, khuôn mặt cô trông khác hẳn, hắn ngẫm nghĩ. Trông như thể làn da của cô vừa in với phần xương nằm ngay bên dưới nó. Mái đầu cô khẽ đung đưa chầm chậm và rồi cô trượt người ngả sâu vào đống nệm ghế cùng với một tiếng thở dài mệt lả. Chẳng mấy chốc tiếng thở đều đặn báo cho Matthew biết cô đã ngủ rồi.
Hắn đu người từ tường, đá chân lên và vào qua cửa sổ bếp. Đã rất lâu rồi kể từ lần cuối cùng gã ma cà rồng này trèo vào phòng của một phụ nữ. Mặc dù những dịp như thế là rất hiếm và thường là có dính líu đến những thời điểm hắn đang chìm đắm trong một cơn đê mê cuồng dại nào đó. Lần này là một lý do hoàn toàn khác. Dù sao đi nữa, nếu có ai bắt gặp thì có giời biết hắn phải giải thích như thế nào.
Matthew phải biết liệu Ashmole 782 có còn nằm trong tay Bishop hay không. Hắn đã không thể tới gần bàn của cô trong thư viện, nhưng chỉ nhìn lướt qua là hắn biết nó không nằm trong đống bản thảo cô mượn ngày hôm nay. Mặc dù vậy, không bao giờ có chuyện một phù thủy – một người nhà Bishop – lại để cuốn cổ thư ấy lọt khỏi tay mình. Chân bước êm ru, hắn đi vòng qua các căn phòng bé nhỏ. Cuốn cổ thư không có trong phòng tắm hay phòng ngủ của nàng phù thủy. Hắn rón rén đi qua chiếc tràng kỷ nơi cô đang nằm.
Mí mắt nàng phù thủy hấp háy như thể cô đang xem một bộ phim mà chỉ có mình cô nhìn thấy được trong mơ. Một bàn tay cô co lại thành nắm đấm, và mỗi lúc hai chân cô lại xoay chuyển co duỗi. Dù vậy, nét mặt Bishop thật thanh thản, và không hề bị xáo trộn bởi bất cứ điều gì đang diễn ra trên phần còn lại của cơ thể.
Có điều gì đó không ổn. Hắn đã linh cảm thấy nó ngay từ khoảnh khắc đầu tiên trông thấy Diana trong thư viện. Matthew khoanh tay và ngắm nhìn cô, nhưng hắn vẫn không thể đoán ra được đó là gì. Cô phù thủy này không có những mùi hương thường thấy như kỳ nham, lưu huỳnh và ngải đắng. Cô nàng đang che giấu một điều gì đó, gã ma cà rồng nghĩ thầm, điều gì đó còn hơn cả cuốn cổ thư bị mất kia.
Matthew quay người đi, lục tìm trên chiếc bàn dài mà cô đang dùng như là bàn làm việc. Thật dễ dàng nhận ra vì nó bị bày bừa toàn sách và giấy tờ bên trên. Đó là chỗ khả dĩ nhất cho cô nàng để cuốn cổ thư “lậu” kia. Khi hắn bắt đầu bước về phía chiếc bàn, thì bỗng ngửi thấy mùi điện quang và cảm giác ớn lạnh.
Ánh sáng đang phát ra từ người Diana Bishop – xung quanh hình hài người con gái đó, ánh sáng như đang thoát ra qua các lỗ chân lông. Đó là một quầng ánh sáng màu xanh nhạt, gần như là trắng mờ, ban đầu nó giống như một tấm vải liệm bằng mây bao quanh người cô tới mấy giây liền. Trong thoáng chốc, Diana như đang tỏa sáng lung linh. Matthew lắc đầu thật mạnh không tin vào những gì hắn đang thấy. Không thể nào. Đã hàng thế kỷ nay hắn không còn trông thấy ánh dạ quang tỏa ra từ người một phù thủy nữa.
Nhưng dù sao vẫn có những vấn đề cấp bách hơn đang vẫy gọi hắn. Matthew trở lại với việc săn lùng cuốn cổ thư, khẩn trương rà soát khắp đống đồ trên bàn làm việc của cô. Hắn luồn tay vuốt tóc trong một tâm trạng chán chường thất vọng. Mùi hương của cô nàng phù thủy ở khắp mọi nơi, khiến hắn bị phân tâm. Matthew lại đưa mắt nhìn về phía chiếc trường kỷ. Diana đang cựa mình và xoay người lần nữa, hai đầu gối cô từ từ co sát vào lồng ngực. Một lần nữa, ánh dạ quang xao động trên khắp bề mặt cơ thể cô, tỏa ánh lung linh trong chốc lát rồi lịm dần.
Matthew cau mày, bối rối không hiểu sự trái ngược giữa những gì hắn nghe lỏm được vào đêm trước và điều hắn được tận mắt chứng kiến lúc này. Hai phù thủy đang bàn tán về cuốn Ashmole 782 và một phù thủy đã yêu cầu mượn nó. Một người đã nói rằng nữ sử gia người Mỹ này không hề sử dụng năng lực pháp thuật. Nhưng Matthew đã trông thấy năng lực ấy được dùng trong thư viện Bodleian – và giờ đây lại chứng kiến nó thấm đẫm, chảy tràn qua người cô ta với một cường độ mãnh liệt không thể chối cãi. Hắn ngờ rằng cô cũng đã dùng phép thuật trong nghiên cứu học thuật. Nhiều nhân vật cô ta viết sách đã từng là bạn của hắn – Cornelius Drebbel, Andreas Libavius, Issac Newton. Cô nắm bắt được một cách hoàn hảo các thói quen và những nỗi ám ảnh của chính họ. Không dùng pháp thuật thì làm sao một phụ nữ hiện đại có thể hiểu được những người đàn ông đã sống từ thời đại rất xa xưa như thế? Bất giác, Matthew tự hỏi liệu cô nàng Bishop có thể hiểu hắn với cùng một sự chính xác phi thường như vậy không.
Đồng hồ điểm ba giờ làm hắn giật mình. Cổ họng hắn khát khô. Hắn nhận ra mình đã đứng nguyên ở đó mấy tiếng đồng hồ, bất động quan sát cô phù thủy say giấc trong khi sức mạnh của cô ta dâng trào lên như những đợt sóng. Trong giây lát hắn nghĩ đến việc dập tắt cơn khát của mình bằng máu nữ phù thủy này. Mùi vị của máu có thể tiết lộ cho hắn biết vị trí của cuốn cổ thư mất tích kia và chỉ ra những bí mật mà cô nàng phù thủy này đang cất giữ. Nhưng hắn đã tự kiềm chế. Chỉ vì mong muốn tìm raAshmole 782 mới khiến hắn nấn ná lại với cô nàng Diana Bishop bí ẩn này thôi.
Nếu cuốn cổ thư không có trong nhà nữ phù thủy này, vậy thì nó vẫn còn trong thư viện. Hắn lộn trở vào phòng bếp, luồn qua cửa sổ và tan biến vào bóng đêm.
Bốn tiếng đồng hồ sau tôi thức dậy trên tấm chăn lông vịt, tay đang nắm chặt máy điện thoại. Không hiểu bằng cách nào mà tôi đã đá văng đi chiếc dép lê bên phải, để một bàn chân buông thõng vắt qua thành giường. Tôi nhìn đồng hồ và rên rỉ. Không còn thời gian cho chuyến dạo chơi ra bờ sông như thường lệ, hay thậm chí là một chuyến chạy bộ nữa.
Cắt bớt thủ tục vệ sinh buổi sáng, tôi tắm nhanh và uống một tách cà phê nóng bỏng trong khi sấy vội mái tóc. Bất chấp sự trợ giúp của chiếc lược, nó vẫn cứ là mái tóc vàng hoe như rơm và xù tung lên. Như hầu hết các phù thủy, tôi cũng gặp rắc rối với việc làm cho những sợi tóc dài ngang vai giữ nguyên theo nếp. Dì Sarah đổ lỗi đó là tại tôi kiềm hãm sức mạnh phép thuật, và dì hứa hẹn rằng nếu tôi thường xuyên sử dụng sức mạnh của mình thì có thể ngăn chặn hiện tượng tĩnh điện làm tóc bị dựng lên và khiến mái tóc tôi biết vâng lời hơn.
Sau khi đánh răng, tôi xỏ vào một cái quần jean, áo dài tay trắng tinh và áo vest màu đen. Một lộ trình sinh hoạt quen thuộc và đây là thói quen ăn vận của tôi, nhưng tất cả đều không chứng tỏ hôm nay là một ngày dễ chịu. Bộ đồ của tôi có vẻ thật tù túng và tôi cảm thấy không mấy tự tin khi mặc chúng. Tôi xốc lại cái áo vest để xem nó có vừa vặn hơn chút nào không, nhưng đó có vẻ là sự kỳ vọng thái quá đối với một bộ đồ may vụng.
Khi nhìn vào trong gương, khuôn mặt mẹ tôi đang chăm chú nhìn đáp lại. Tôi không còn nhớ từ khi nào sự giống nhau mạnh mẽ giữa tôi và mẹ phát triển đến mức này. Có lẽ là từ thời đại học chăng? Không ai bình luận về điều đó cho tới khi tôi trở về nhà vào dịp lễ Tạ ơn trong năm thứ nhất đại học. Từ lúc đó trở đi nó trở thành điều đầu tiên tôi nghe thấy mỗi khi gặp những ai quen biết mẹ Rebecca Bishop.
Việc ngắm nghía mình trong gương hôm nay còn làm lộ ra làn da tai tái của tôi do thiếu ngủ. Nó khiến cho những nốt tàn nhang được thừa hưởng từ bố tôi nổi lên một cách đáng báo động, và hai quầng thâm dưới mắt khiến đôi mắt tôi có vẻ nhạt màu hơn. Sự mệt mỏi cũng làm cho mũi tôi như dài thêm ra và khiến chiếc cằm nhô ra thấy rõ.
Tôi nghĩ đến giáo sư Clairmont đẹp không một chút tỳ vết và tự hỏi không biết ngài ấy trông ra sao vào buổi sáng sớm nhỉ. Có lẽ cũng là cái vẻ nguyên sơ như tối hôm qua thôi, tôi nghĩ vậy – một quái thú. Tôi nhăn nhó trước hình ảnh mình phản chiếu trong gương.
Trên đường đi ra cửa, tôi dừng lại và nhìn bao quát quanh phòng. Có cái gì đó khiến tôi thấy bứt rứt – một cuộc hẹn bị quên, hay một thời hạn nào chăng. Có thứ gì đó quan trọng mà tôi đã quên khuấy mất. Cảm giác khó chịu thôi thúc trong lòng, rồi qua đi. Sau khi kiểm tra lại cuốn sổ tay và đống thư từ trên bàn làm việc, tôi ghi chép vào sổ trong khi cảm thấy đói meo, rồi đi xuống lầu. Các quý bà tốt bụng trong phòng bếp mời tôi một lát bánh mỳ nướng khi tôi đi ngang qua. Họ vẫn nhớ tôi là một sinh viên đã tốt nghiệp và luôn cố nài ép mời tôi món trứng sữa cùng một lát táo mỗi khi trông tôi có vẻ căng thẳng mệt mỏi thế này.
Vừa nhóp nhép nhai lát bánh mỳ nướng vừa rảo bước qua con đường rải sỏi của hẻm New College cũng đủ thuyết phục tôi tin rằng đêm qua chỉ là một giấc mơ. Mái tóc đung đưa trên cổ áo, hơi thở của tôi tắm trong bầu không khí khô lạnh. Oxford vẫn tinh khôi như thế vào buổi sớm, với những chiếc xe tải nhỏ đi giao hàng đỗ kín trước khu bếp của trường, mùi cà phê bị cháy và mùi hè đường ẩm ướt, những tia nắng mặt trời buổi sớm xuyên qua màn sương mù. Đây dường như không thể là nơi ẩn náu dành cho những con ma cà rồng.
Người nhân viên trong chiếc áo vest màu xanh dương của Bodleian tiến hành thủ tục thường lệ soi xét kỹ càng tấm thẻ đọc của tôi như thể ông ta chưa bao giờ gặp tôi trước đây, và đang nghi ngờ tôi có thể là một tay trộm sách lão luyện. Cuối cùng ông ta cũng vẫy tay cho tôi qua. Tôi đặt túi xách vào ngăn để đồ cạnh cửa sau khi lấy ra ví tiền, máy vi tính, mấy tờ giấy ghi chép và rồi hướng tới những bậc cầu thang xoắn dẫn lên tầng ba.
Mùi thư viện luôn luôn làm tôi khỏe khoắn trở lại – đó là sự kết hợp đặc trưng của mùi đá cũ, mùi bụi, mùi mọt khoét gỗ và giấy vụn. Mặt trời chiếu xuyên qua những ô cửa sổ lên các bậc cầu thang, rọi sáng những hạt bụi bay trong không khí và chiếu sáng các khe chấn song thu ánh sáng trên những bức tường cổ kính. Ở đó ánh mặt trời chiếu vào làm nổi bật lên những tờ thông báo quăn queo về hàng loạt các bài giảng của học kỳ vừa qua. Những bản báo cáo mới vẫn chưa được dán lên, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian, khi chỉ còn vài ngày nữa là hàng loạt các cánh cổng trường mở ra và một cơn sóng sinh viên sắp tốt nghiệp ào ạt đổ tới phá vỡ sự yên bình của thành phố này.
Ậm ừ khe khẽ, tôi gật đầu với mấy bức tượng bán thân của Thomas Bodley và Vua Charles đệ nhất đặt bên hông lối vào hình vòm dẫn tới khu Công tước Humfrey và đẩy cánh cửa đung đưa cạnh bàn gọi sách.
“Chúng ta sẽ phải sắp xếp cho ông ấy ở trong khu Selden End ngày hôm nay,” viên quản lý đang nói với vẻ cáu giận.
Thư viện đã mở cửa được vài phút, nhưng ông Johnson và các nhân viên vẫn còn đang xôn xao. Tôi đã từng gặp thái độ này rồi, nhưng chỉ khi nào hầu hết các tác phẩm của những học giả hàng đầu đều bị yêu cầu mượn thôi.
“Ông ấy vừa mới đưa ra các yêu cầu và hiện đang chờ ở dưới kia.” Một nữ nhân viên lạ hoắc quắc mắt với tôi và đổi tay một chồng sách đang ôm trước ngực. “Đây cũng của ông ấy nữa. Ông ấy đã nhờ họ gửi lên từ dưới phòng đọc sách mới của Bodleian.”
Đó là nơi họ cất giữ các cuốn sách của vùng Đông Á. Nó không phải lĩnh vực của tôi và tôi nhanh chóng mất đi sự hứng thú.
“Mang chúng đến cho ông ấy bây giờ đi, và bảo với ông ấy là chúng ta sẽ mang các tập cổ thư xuống trong vòng một giờ nữa.” Viên quản lý kêu ca luôn mồm trong khi đi trở lại văn phòng của mình.
Sean đảo mắt ngao ngán khi tôi tiến đến chỗ bàn thu gom sách. “Chào Diana. Cậu có muốn lấy mấy tập cổ thư mà cậu gửi đặt trước không?”
“Có, cảm ơn cậu,” tôi thì thầm, nghĩ đến chồng sách đang đợi mình với một niềm say mê thích thú. “Một ngày hoành tráng hả?”
“Có vẻ là thế,” anh bạn đáp cộc lốc, trước khi biến vào trong chỗ buồng khóa giữ các tập cổ thư qua đêm. Anh ta quay lại với một chồng báu vật. “Của cậu đây. Số chỗ ngồi?”
“A4.” Đó là chỗ tôi thường ngồi, trong góc xa phía đông nam của khu Selden End, nơi ánh sáng tự nhiên nhiều nhất.
Ông Johnson hối hả bước về phía tôi. “A, tiến sĩ Bishop, chúng tôi đã xếp cho giáo sư Clairmont vào chỗ A3. Cô có lẽ sẽ thích ngồi A1 hoặc A6 hơn đấy.” Ông ta đảo hết chân này tới chân kia vẻ bồn chồn và đẩy cặp kính lên, chớp mắt nhìn tôi qua cái mắt kính dày cộp.
Tôi nhìn ông ta chằm chằm. “Giáo sư Clairmont á?”
“Vâng. Ông ấy đang làm việc với tập bản thảo của Needham và yêu cầu có đủ ánh sáng với không gian để rải rộng các giấy tờ ra.”
“Joseph Needham, sử gia về khoa học Trung Hoa ư?” Đâu đó chỗ các dây thần kinh vùng bụng, máu trong người tôi bắt đầu sôi lên.
“Phải. Ông ấy cũng là một nhà hóa sinh, dĩ nhiên là thế, vì vậy mà giáo sư Clairmont rất quan tâm,” ông Johnson giải thích, lúc này trông ông ta còn bối rối hơn. “Cô vui lòng ngồi ở A1 nhé?”
“Tôi sẽ dùng khu A6.” Ý nghĩ ngồi bên cạnh một con ma cà rồng, cho dù là có một chỗ ngồi trống ngăn cách ở giữa đi nữa, cũng vẫn vô cùng đáng ngại. Tuy nhiên, ngồi ở một chỗ đối diện trong khu A4 thì thật là không thể tưởng tượng được. Làm sao tôi có thể tập trung được khi cứ phải lo lắng không biết những ánh mắt lạ đang quan sát cái gì? Còn có những bàn đọc ở phía cánh thư viện được xây từ thời Trung cổ, chỗ đó dễ chịu hơn nhiều, thay vì chỗ ngồi cũ, tôi có thể an vị dưới một trong những miệng máng hình đầu thú theo kiểu Gothic dùng để canh giữ các ô cửa sổ hẹp và bất chấp sự phản đối cứng nhắc của Gillian Chamberlain.
“Ôi, thế thì tốt quá. Cảm ơn cô đã thông cảm.” Ông Johnson thở phào nhẹ nhõm.
Khi bước vào vùng ánh sáng của Selden End, hai mắt tôi phải nheo lại. Clairmont trông không chê vào đâu được và có vẻ thật thư thái, làn da tai tái của hắn ta trái ngược đến ngạc nhiên với với mái tóc màu đen sẫm. Lần này chiếc áo len dài tay hở cổ màu xám của hắn có chấm màu xanh lá cây, và cổ áo hơi bẻ dựng về phía sau. Liếc trộm xuống dưới gầm bàn, tôi thấy lộ ra một chiếc quần âu màu chì, tiệp màu với tất và đôi giày màu đen mà chắc hẳn là còn đắt hơn cả tủ quần áo của một viện sĩ bình thường.
Cảm giác bất an quay trở lại. Clairmont đang làm gì trong thư viện này? Sao hắn không ở trong phòng nghiên cứu của mình? Chẳng thèm cố gắng giảm bớt tiếng bước chân, tôi sải bước về phía gã ma cà rồng. Clairmont ngồi chếch về phía đầu kia góc trong cùng của khu bàn và dường như không hay biết tôi đến gần, hắn vẫn tiếp tục đọc. Tôi ném phịch cái cặp nhựa và tập cổ thư lên khoảng trống đánh số A5, đánh dấu ranh giới để khoanh vùng cho lãnh thổ của mình.
Hắn ngước nhìn lên, cặp lông mày nhướng cong thành một vòng cung rõ rệt ra vẻ ngạc nhiên. “Tiến sĩ Bishop. Chúc một buổi sáng tốt lành.”
“Giáo sư Clairmont.” Hiển nhiên tôi biết rõ hắn ta đã nghe lỏm toàn bộ cuộc trò chuyện về hắn ở chỗ lối vào phòng đọc, hắn có thính giác của một con dơi mà. Tôi tránh ánh nhìn của hắn và bắt đầu lôi ra các vật dụng cá nhân của mình, dựng lên một cái công sự nhỏ trên chiếc bàn đọc ngăn giữa tôi và hắn. Clairmont quan sát cho tới khi tôi đã lôi hết các thiết bị máy móc ra, rồi hắn hạ thấp cặp lông mày xuống vẻ tập trung và trở lại với việc đọc sách của mình.
Tôi lấy ra dây sạc máy tính và biến mất xuống dưới gầm bàn để cắm nó vào ổ điện. Khi tôi ngồi ngay ngắn lại, hắn vẫn đang đọc nhưng đồng thời cũng đang cố nén một nụ cười.
“Nếu anh ngồi ở tít dãy phía bắc trên kia thì anh sẽ thấy thoải mái hơn đấy,” tôi khẽ lầm bầm, ngó quanh tìm danh sách các tập cổ thư.
Clairmont ngẩng lên nhìn, đôi đồng tử giãn ra khiến cho mắt hắn bỗng tối sẫm lại. “Tôi đang làm phiền cô ư, tiến sĩ Bishop?”
“Dĩ nhiên là không rồi,” tôi vội vàng đáp, cổ họng đột nhiên se lại, mùi đinh hương rõ rệt đi kèm với những lời hắn nói, “nhưng tôi ngạc nhiên là anh thấy thoải mái khi phơi mình ở chỗ hướng nam ấy.”
“Cô không tin vào mọi điều cô đọc được chứ, phải không?” Một trong hai chân mày rậm, đen nhánh của hắn lại rướn lên thành hình dấu hỏi.
“Nếu anh đang hỏi là liệu tôi có nghĩ anh sắp sửa bốc cháy ngay khi ánh mặt trời chạm vào anh hay không, thì câu trả lời là không.” Ma cà rồng không bị bốc cháy khi gặp ánh mặt trời, cũng như họ chẳng hề có răng nanh. Đó là các câu chuyện thần thoại của loài người. “Nhưng tôi cũng chưa từng gặp… ai đó giống anh thích phơi nắng dưới sức nóng như thế.”
Clairmont vẫn ngồi nguyên như thế, nhưng tôi có thể thề là hắn đang cố kìm nén một trận cười. “Cô có được bao nhiêu kinh nghiệm, hả tiến sĩ Bishop, về ‘ai đó giống tôi’ ấy?”
Làm sao mà hắn biết được tôi không có nhiều kinh nghiệm với ma cà rồng? Ma cà rồng có những giác quan và năng lực vượt trội khác thường, nhưng không phải là dị thường kiểu như đọc ý nghĩ hay nhìn thấy trước tương lai. Những năng lực đó là của giới phù thủy, và trong những trường hợp hiếm hoi, đôi khi cũng có thể bất ngờ xuất hiện trong giới yêu tinh nữa. Đây là yêu cầu của tự nhiên thôi, và Sarah cũng giải thích như thế khi tôi còn nhỏ, đêm nào cũng trằn trọc vì sợ sẽ một con ma cà rồng đến ăn cắp các ý nghĩ của mình rồi mang chúng bay đi mất qua cửa sổ.
Tôi quan sát hắn một cách tỉ mỉ. “Cách nào đấy, giáo sư Clairmont ạ, tôi không nghĩ những kinh nghiệm có thể nói cho tôi về điều tôi cần biết ngay lúc này.”
“Tôi rất vui được trả lời câu hỏi của cô, nếu tôi có thể,” hắn đáp, gấp quyển sách của mình lại và đặt nó lên bàn. Hắn chờ đợi với sự kiên nhẫn của một thầy giáo đang lắng nghe một học sinh hiếu thắng và không mấy sáng dạ.
“Anh muốn gì?”
Clairmont ngả lưng trên ghế, khoanh tay lại. “Tôi muốn khảo cứu bản thảo của tiến sĩ Needham và nghiên cứu hệ tư tưởng của ông ấy về sự tiến hóa hình dạng.”
“Sự tiến hóa hình dạng?”
“Những biến đổi trong thời kỳ đầu của sự phát triển tế bào dẫn đến kết quả là sự khác biệt hóa.”
“Tôi biết sự tiến hóa hình dạng là gì, thưa giáo sư Clairmont. Đó không phải là điều tôi đang hỏi!”
Miệng hắn giần giật. Tôi khoanh tay thủ thế trước ngực.
“Tôi hiểu.” Hắn đan các ngón tay dài với nhau, đặt hai khuỷu tay lên thành ghế. “Tôi vào thư viện của Bodley tối qua để mượn vài tập bản thảo cổ. Lúc vào thư viện rồi, tôi quyết định liếc qua một vòng – tôi thích tìm hiểu về môi trường sống của mình, cô hiểu tôi chứ, và tôi không thường xuyên dành thời gian vào đây. Lúc đó, cô đang ở trong phòng sách. Và dĩ nhiên điều tôi được chứng kiến sau đó khá là bất ngờ.” Môi hắn lại giật giật lần nữa.
Tôi bị xáo động trước ký ức mình đã sử dụng phép thuật chỉ để lấy một cuốn sách. Và tôi cố gắng không bị khuất phục trước cái cách hắn dùng tên gọi cổ “thư viện của Bodley” nhưng vẫn không mấy thành công.
Cẩn thận, Diana, tôi cảnh giác. Hắn đang cố gắng quyến rũ mày đấy.
“Vậy theo câu chuyện của anh thì đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên kỳ lạ, đỉnh điểm của nó là việc một ma cà rồng và một phù thủy ngồi đối diện nhau và nghiên cứu về các bản thảo cổ giống như hai độc giả bình thường ư?”
“Tôi không nghĩ có bất cứ người nào đã dành thời gian thẩm vấn tôi một cách cẩn thận thế này mà lại nghĩ tôi là người bình thường đâu, phải thế không?” Giọng nói trầm trầm của Clairmont lắng xuống thành một tiếng thì thầm chế nhạo, và hắn nghiêng người về phía trước. Làn da tái nhợt bắt sáng dường như sáng bừng lên. “Nhưng mặt khác thì đúng vậy. Đó chỉ là một chuỗi những tình cờ, được giải thích thật dễ dàng.”
“Tôi tưởng các nhà khoa học thì không còn tin vào sự tình cờ ngẫu nhiên nữa chứ.”
Hắn khẽ cười. “Một vài nhà khoa học phải tin thôi.”
Clairmont vẫn tiếp tục nhìn tôi chăm chú, làm tôi mất nhuệ khí đến tột cùng. Cô nhân viên vần chiếc xe đẩy cổ xưa bằng gỗ của phòng đọc tới bên gã ma cà rồng, những hộp đựng sách cổ được sắp hàng gọn ghẽ trên các tầng giá của chiếc xe.
Gã ma cà rồng từ tốn rời mắt khỏi khuôn mặt tôi. “Cảm ơn Valerie. Tôi đánh giá cao sự trợ giúp của cô.”
“Dĩ nhiên rồi, thưa giáo sư Clairmont,” Valerie đáp, nhìn hắn ngây ngất mê mẩn và mặt ửng hồng. Gã ma cà rồng đã quyến rũ được cô ta chỉ bằng một câu cảm ơn. Tôi khịt mũi khinh thường. “Nếu ông cần thêm bất cứ gì khác, xin cứ cho chúng tôi biết ạ!” cô ta nói rồi quay trở lại nơi ẩn náu của mình bên lối ra vào.
Clairmont nhặt cái hộp đầu tiên lên, tháo dây buộc bằng những ngón tay dài, rồi liếc nhanh sang phía tôi. “Tôi không muốn cản trở công việc của cô nữa đâu.”
Matthew Clairmont đã chiếm thế thượng phong rồi. Tôi đã có đủ kinh nghiệm làm việc với các đồng nghiệp cao niên để nhận ra các dấu hiệu đó và biết rằng bất cứ phản ứng nào đáp lại cũng sẽ chỉ làm cho tình huống tệ hơn mà thôi. Tôi mở máy tính của mình, nhấn thật mạnh vào nút khởi động với một sức lực nhiều hơn mức cần thiết, và cầm lên cuốn cổ thư đầu tiên. Mở được cái hộp đựng ra, tôi đặt cuốn sách bọc da ấy lên cái giá đọc trước mặt mình.
Hơn một tiếng rưỡi đồng hồ sau, tôi đã đọc mấy trang đầu tiên ít nhất là ba mươi lần. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào phần mở đầu cuốn sách và đọc mấy dòng giống như thơ đúng kiểu George Ripley hứa hẹn hé mở những bí mật về hòn đá phép của triết gia này. Những ngạc nhiên tiếp nối nhau trong cả buổi sáng đó, bài thơ này miêu tả cách tạo ra Sư tử Xanh, tạo ra Rồng Đen, và cách pha chế ra thứ máu kỳ diệu từ các nguyên liệu hóa học còn khó hiểu hơn mức bình thường.
Ngược lại, Clairmont thì hoàn thành một khối lượng công việc phi thường, hắn bao quát các trang sách mềm mại bằng những nét gạch mau lẹ của chiếc bút chì máy hiệu Montblanc Meisterstuck. Hết lần này tới lần khác, mỗi khi hắn lật giở một trang giấy đánh xoạch một cái là tôi lại thấy bực mình.
Thỉnh thoảng ông Johnson lại lượn qua phòng để chắc chắn là không ai làm hỏng, làm mờ các cuốn sách cổ. Gã ma cà rồng vẫn tiếp tục viết. Tôi thì trừng mắt nhìn cả hai người bọn họ.
10:45, cảm giác ngứa râm ran quen thuộc lại xuất hiện khi Gillian Chamberlain hối hả bước vào Selden End. Cô ta nhìm chằm chằm vào tôi – kiểu gì cô ta cũng sẽ kể cho tôi về bữa tối lễ Mabon tuyệt vời mà cô ta đã dự. Thế rồi, cô ta trông thấy gã ma cà rồng và đánh rơi cả cái cặp nhựa đựng đầy bút chì và giấy tờ. Hắn ngước lên nhìn không chớp mắt cho tới khi cô ta chạy vội trở lại cánh thư viện xây từ thời Trung cổ.
11:10, tôi cảm thấy sức ép của một nụ hôn trên cổ mình. Đó là gã yêu tinh lộn xộn, nghiện cà phê trong thư viện âm nhạc. Hắn cứ quay tít cái headphone màu trắng quanh mấy ngón tay, rồi lại thả tuột nó quay mòng mòng trong không trung. Gã yêu tinh nhìn tôi, gật đầu với Matthew rồi ngồi xuống trước một cái máy vi tính ở giữa phòng. Một biển báo được treo ngay trước màn hình máy: BỊ HỎNG. ĐÃ BÁO NHÂN VIÊN KỸ THUẬT. Hắn cứ ngồi đó đến mấy tiếng đồng hồ, ngó nghiêng qua vai rồi một lúc lại nhìn lên trần nhà như thể đang cố nghĩ xem hắn đang ở đâu và làm cách nào đến được chỗ đó. Tôi trở lại chú tâm vào George Ripley, ánh mắt Clairmont nhìn lạnh lẽo vào một điểm trên đỉnh đầu tôi.
11:40, cảm giác những mảnh băng lạnh lại vỡ òa ở vùng giữa hai xương bả vai tôi. Vậy là đủ bộ. Dì Sarah thường nói rằng cứ mười người thì chỉ có một sinh vật kỳ lạ, nhưng trong khu Công tước Humfrey buổi sáng ngày hôm nay, các sinh vật kỳ lạ đó đã vượt quá cả số lượng loài người với tỷ lệ năm ăn một. Tất cả bọn họ ở đâu ra thế nhỉ?
Tôi đột ngột đứng phắt dậy và xoay ngoắt người lại, kinh hoàng trước một ma cà rồng đầu trọc, có ánh mắt hiền hậu, tay ôm đầy những cuốn sách kinh từ thời Trung cổ, vừa đúng lúc ông ta hạ người xuống một chiếc ghế trông quá nhỏ so với thân hình mình. Bỗng ông ta thốt lên một tiếng kêu đột ngột ngoài ý muốn. Trước cái nhìn của Clairmont, ông ta biến sắc hoàn toàn hơn cả mức tôi nghĩ, dù đó cũng là một ma cà rồng. Vội vã cúi chào biểu lộ sự xin lỗi, ông ta lập tức chạy tới chỗ hốc tường đặt hệ thống điều chỉnh đèn.
Qua buổi chiều, vài người và thêm ba sinh vật khác bước vào khu Selden End. Hai nữ ma cà rồng lạ mặt có vẻ là chị em lướt ngang qua chỗ Clairmont và dừng lại quanh mấy giá sách lịch sử địa phương dưới cửa sổ, oang oang nói về sự định cư thời đầu ở Bedfordshire và Dorset, rồi hí hoáy ghi chép ra cả mặt trước lẫn mặt sau độc một tờ giấy. Một trong hai cô nàng thì thầm điều gì đó, và đầu Clairmont quay phắt sang nhanh đến nỗi nếu là cổ của một sinh vật kém hơn hẳn đã gãy đánh rắc một cái rồi. Hắn khẽ rít lên một tiếng làm tôi dựng cả tóc gáy. Hai cô nàng trao đổi những cái nhìn và rời đi lặng lẽ như lúc xuất hiện.
Sinh vật thứ ba là một người đàn ông luống tuổi đứng dưới ánh nắng chói chang và nhìn chằm chằm mê mẩn những khung cửa sổ lợp chì trước khi quay sang nhìn tôi. Ông ta ăn vận giống một viện sĩ - áo vest bằng vải tuýp màu nâu với hai miếng da ở khuỷu tay, quần nhung kẻ tông màu xanh lá hơi thiếu hài hòa, và một chiếc áo sơ mi cotton có một hàng khuy cổ và những vết mực dây trên túi áo. Tôi sắp sửa bỏ qua ông ta thì làn da ngứa ran báo với tôi rằng ông ta là một phù thủy. Dù gì ông ta vẫn là người lạ và tôi lại quay về chú tâm vào tập cổ thư của mình.
Tuy nhiên, cảm giác có một sức ép nhè nhẹ lên phần sau đầu khiến tôi không thể nào đọc tiếp được. Áp lực đó di chuyển lên hai bên tai, phát triển thành một cường độ dữ dội như một chiếc vòng kim cô ép quanh trán, bụng dạ tôi thắt lại trong một trạng thái hoang mang. Việc này không còn là một lời chào hỏi thầm lặng nữa mà đã trở thành một sự đe dọa. Tại sao một phù thủy khác lại đang đe dọa tôi?
Pháp sư đó thủng thẳng bước về phía bàn tôi với vẻ tự nhiên. Khi ông ta tiến tới, một giọng nói thì thầm vang lên trong cái đầu đang nhoi nhói đau của tôi. Nó quá mờ nhạt để có thể nhận biết rõ từng lời. Tôi dám chắc đó là do nam phù thủy kia, nhưng ông ta là quái nhân nào vậy?
Hơi thở của tôi trở nên gấp gáp. Quỷ quái, hãy cút ra khỏi đầu tôi đi!!! Tôi kêu lên dữ dội trong câm lặng, đưa tay ôm lấy trán. Clairmont di chuyển quá nhanh. Tôi không nhìn thấy hắn ta vòng qua mấy cái bàn, nhưng trong tích tắc hắn đã đứng đó một bàn tay đặt lên lưng ghế của tôi còn tay kia đặt trên mặt bàn trước mặt tôi. Đôi vai rộng khom xuống bao quanh tôi giống như đôi cánh của con chim ưng đang che chở cho con mồi của nó.
“Cô ổn cả chứ?” hắn ta hỏi.
“Tôi khỏe,” tôi đáp bằng một giọng run run, bối rối cực độ không hiểu tại sao một ma cà rồng lại cần phải bảo vệ tôi trước một phù thủy khác.
Trong lô gác phía trên đầu chúng tôi, một độc giả nghển cổ ra ngó xem tất cả sự om sòm này là gì. Bà ta đứng dậy, trán nhăn lại. Hai phù thủy và một ma cà rồng không thể không khiến cho con người chú ý.
“Cứ để mặc tôi. Loài người đã để ý chúng ta rồi đấy,” tôi nói qua hai hàm răng nghiến chặt.
Clairmont đứng thẳng người lên nhưng vẫn quay về phía phù thủy kia, và thân hình của anh ta đứng nghiêng chắn giữa hai chúng tôi giống như một thiên thần báo oán.
“A, là lỗi của tôi,” nam phù thủy kia lầm bầm nói từ phía sau Clairmont. “Tôi nghĩ chỗ này còn trống. Xin thứ lỗi.” Những bước chân nhẹ nhàng rút lui xa dần, và áp lực trên đầu tôi từ từ giảm đi.
Một làn gió nhẹ thoảng qua khi bàn tay lạnh toát của gã ma cà rồng đưa về phía vai tôi, nhưng chợt khựng lại rồi quay trở về sau lưng ghế. Clairmont cúi xuống. “Cô trông hơi xanh xao,” hắn nói bằng một giọng nhẹ nhàng, trầm trầm. “Cô có muốn tôi đưa về nhà không?”
“Không.” Tôi lắc đầu, hy vọng hắn sẽ đi về chỗ ngồi và để tôi lấy lại bình tĩnh. Trong lô gác bên trên, người phụ nữ tiếp tục nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thận trọng.
“Tiến sĩ Bishop, tôi thật sự cho rằng cô nên để tôi đưa cô
về nhà.”
“Không!” Tôi xẵng giọng ngoài ý muốn, rồi hạ xuống thành tiếng thì thầm. “Tôi sẽ không ra khỏi thư viện này – với anh, hay với bất cứ ai.”
Khuôn mặt Clairmont vẫn gần sát, nhưng có phần bối rối. Hắn từ từ hít vào một hơi, và một lần nữa mùi đinh hương và quế lại thoảng qua. Có điều gì đấy trong mắt tôi đã thuyết phục hắn tin là tôi nghiêm túc, và hắn rút lui. Môi mím chặt thành một đường thẳng gay gắt, hắn quay lại chỗ ngồi của mình.
Chúng tôi trải qua thời gian còn lại của buổi chiều trong tình trạng yên ắng. Tôi cố gắng đọc nhiều hơn đến trang thứ hai tập cổ thư của mình, còn Clairmont thì đọc lướt qua những mẩu giấy và những tập vở được ghi chép một cách tỉ mỉ với sự chú tâm cao độ của vị quan toà đang quyết định một bản án quan trọng.
Đến ba giờ, trạng thái tinh thần bị kích động của tôi căng thẳng đến mức không thể tập trung hơn được nữa. Thế là mất một ngày.
Tôi thu gom đồ dùng vương vãi của mình và trả tập bản thảo trở về hộp đựng.
Clairmont ngẩng lên nhìn. “Cô về nhà hả, tiến sĩ Bishop?” Tông giọng hắn thật hòa nhã, nhưng đôi mắt thì ánh lên tia lấp lánh.
“Vâng,” tôi lúng búng đáp lại.
Gương mặt gã ma cà rồng thận trọng không biểu lộ điều gì.
Mọi sinh vật không phải con người có mặt trong thư viện đều nhìn theo bóng tôi đi ra – vị pháp sư đáng sợ nọ, Gillian, ông thầy tu ma cà rồng, và thậm chí cả gã yêu tinh nữa. Nhân viên thư viện làm ca chiều ngồi ở bàn thu nhận sách là một người lạ hoắc đối với tôi, bởi tôi chưa bao giờ rời khỏi đây vào giờ này trong ngày. Ông Johnson đẩy nhẹ chiếc ghế đang ngồi ra đằng sau, nhìn thấy tôi, và liếc vào chiếc đồng hồ đeo tay của mình vẻ ngạc nhiên.
Ra tới sân trong của thư viện, tôi mở cửa kính bước ra ngoài và đắm mình vào không gian tươi mát. Mặc dù vậy, tôi sẽ cần nhiều thứ hơn là bầu không khí trong lành này để có thể xoay chuyển một ngày thế này. Mười lăm phút sau tôi đã mặc xong bộ đồ tập - quần bó dài co giãn, áo ba lỗ của câu lạc bộ đua thuyền New College, và chiếc áo len chui cổ lông cừu. Sau khi thắt dây đôi giày chơi tennis, tôi khởi động chạy bộ ra bờ sông.
Khi tới nơi, những căng thẳng của tôi đã dịu đi ít nhiều. Một trong các bác sĩ đã gọi hiện tượng dâng trào cảm giác lo lắng từng gây nhiều rắc rối cho tôi từ thời ấu thơ là “nhiễm độc adrenaline.” Các bác sĩ giải thích rằng vì một số lý do nào đó mà họ không thể lý giải được, cơ thể tôi dường như nghĩ là nó đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Một trong các chuyên gia mà dì tôi đến gặp để xin tư vấn đã giải thích đó là hiện tượng hóa sinh còn rơi rớt lại từ thời kỳ săn bắt hái lượm của loài người. Một thời gian dài tôi đã thấy ổn hơn khi tống táng dòng máu vận chuyển chất adrenaline đi bằng cách chạy bộ, giống như chú dê hoảng sợ chạy trốn khỏi một con sư tử vậy.
Nhưng không may, tôi đã tới Serengeti với bố mẹ từ khi còn nhỏ và tận mắt chứng kiến một cảnh bị săn đuổi như thế. Chú dê đã biến mất. Và ký ức ấy đã mãi mãi in sâu trong tôi. Từ đó tôi thử dùng các loại thuốc và ngồi tĩnh tâm, nhưng không có phương pháp nào kiềm giữ chứng hoảng sợ lo lắng tốt hơn là hoạt động thể chất. Ở Oxford người ta chèo thuyền vào mỗi buổi sáng trước khi những đội đua thuyền của trường đại học rẽ qua con sông hẹp để đi vào một đường phố lớn. Nhưng giờ vẫn chưa vào năm học, và chiều nay dòng sông thật trong xanh.
Bàn chân tôi dẫm lạo xạo trên con đường nhỏ rải sỏi dẫn tới nhà thuyền. Tôi vẫy Pete, người cho thuê thuyền đang đi thơ thẩn xung quanh với cái cờ lê và một bình dầu mỡ, cố gắng sửa chữa những chỗ mà các sinh viên chưa tốt nghiệp làm hỏng sau khóa huấn luyện. Tôi dừng lại ở chỗ nhà thuyền thứ bảy và khom người để làm dịu bớt cơn đau xóc bên hông trước khi tìm chiếc chìa khóa trên đỉnh chiếc đèn bên ngoài cửa ra vào.
Những dãy thuyền màu trắng và vàng chào đón tôi phía bên trong. Ở đó có những chiếc thuyền lớn tám chỗ ngồi dành cho đội đua thuyền nam đầu tiên, những chiếc có độ dốc ít hơn dành cho nữ, và các thuyền khác có kích thước và chất lượng giảm dần. Một tấm biển treo trên mũi chiếc thuyền mới bóng loáng vẫn chưa được lắp ráp xong, chỉ dẫn khách tham quan rằng KHÔNG AI CÓ THỂ ĐƯA NỮ ĐẠI ÚY HẢI QUÂN PHÁP RA KHỎI NGÔI NHÀ NÀY MÀ KHÔNG CÓ SỰ CHO PHÉP CỦA CHỦ TỊCH HẢI QUÂN LIÊN MINH. Tên của chiếc thuyền được tô vẽ theo khuôn chữ khỏe khoắn tươi sáng ở bên hông theo nét chữ thời Victoria, với sự tôn kính dành cho những sinh viên đã tốt nghiệp của New College, những người đã sáng tạo ra loại ký tự này.
Phía sau nhà thuyền, có tiếng nước dập dềnh táp vào mạn một con thuyền rộng chưa tới ba mươi centimet và dài gần tám mét được neo nghỉ ở vị trí sẵn sàng. Chúa phù hộ cho Pete, tôi thầm nghĩ. Ông ấy đã để sẵn chiếc thuyền đua trên sàn nhà thuyền. Một mẩu giấy nhớ đính trên chỗ ngồi của con thuyền ghi: “Kỳ luyện tập của trường vào thứ Hai tuần tới. Thuyền sẽ được trả về chỗ neo đậu.”
Tôi đá văng đôi giày tennis, cầm lấy hai cái mái chèo cong từ chỗ cất giữ cạnh cửa ra vào và mang chúng xuống bến thuyền. Tôi nhẹ nhàng thả chiếc thuyền đua xuống nước rồi đặt một bàn chân lên chỗ ngồi để giữ cho nó khỏi chòng chành trong khi luồn hai mái chèo cong vào lỗ móc giữ chúng. Một tay cầm cả hai mái chèo như đang giữ đôi đũa quá khổ, tôi cẩn thận bước xuống thuyền còn tay kia đẩy vào cầu tàu. Con thuyền đua dập dềnh hướng ra dòng sông.
Chèo thuyền là một tín ngưỡng đối với tôi, bao gồm một trình tự và sự vận động lặp đi lặp lại cho tới khi trở nên hoàn toàn tĩnh tâm. Các nghi thức đó bắt đầu ngay từ lúc tôi chạm tay vào con thuyền, nhưng ma thuật thực sự của nó lại đến từ sự kết hợp của độ chính xác, nhịp điệu đều đặn và sức mạnh mà việc chèo thuyền đòi hỏi phải có. Kể từ hồi còn là sinh viên, chèo thuyền đã làm thấm nhuần một cảm giác thanh bình trong tôi không giống với bất cứ điều gì khác.
Hai mái chèo nhấn xuống và lướt lên là là mặt nước. Tôi tăng nhịp độ, dồn sức qua mỗi sải nhịp cùng với hai chân và cảm thấy dòng nước trong trẻo lướt qua mỗi khi mái chèo của tôi khỏa nước ra sau. Cơn gió sắc lạnh cắt xuyên qua quần áo tôi mặc theo mỗi nhịp chèo.
Khi những cử động đã hòa tan vào một nhịp điệu uyển chuyển liền mạch, tôi có cảm giác như mình đang bay lượn. Suốt những khoảnh khắc hạnh phúc này, tôi được lơ lửng giữa thời gian và không gian, như một cơ thể không trọng lượng trên một dòng sông đang chuyển động. Con thuyền nhỏ của tôi mau lẹ phóng nhanh đi, và tôi đung đưa mình trong một hợp âm hoàn hảo cùng với con thuyền và hai mái chèo của nó. Tôi nhắm mắt và mỉm cười, những sự kiện của ngày hôm này đang mờ nhạt dần đi.
Bầu trời tối đen phía sau hai mi mắt nhắm nghiền của tôi, và âm thanh ồn ã của xe cộ phía trên kia cho tôi biết mình đang đi ngang qua dưới cây cầu Donnington. Xuyên qua phía bên kia cầu vào vùng ánh sáng mặt trời, tôi mở mắt – và cảm thấy một sự va chạm lạnh ngắt trên xương ức mình đến từ cái nhìn chăm chú của ma cà rồng.
Một dáng người đứng trên cây cầu, chiếc áo choàng ngoài của hắn phần phật bay quanh hai đầu gối. Mặc dù không thể nhìn rõ mặt, nhưng chiều cao và vóc dáng to lớn của ma cà rồng đó cho thấy đấy chính là Matthew Clairmont. Lại là hắn.
Tôi chửi thề và suýt đánh rơi một mái chèo. Cầu tàu trung tâm Oxford ở ngay gần bên cạnh. Ý nghĩ lôi kéo cả một đội quân bất hợp pháp qua sông để tôi có thể đập một cú thẳng vào phần đỉnh đầu đẹp đẽ của hắn bằng bất cứ bộ phận nào của chiếc thuyền nằm trong tầm tay mình thật vô cùng cám dỗ. Trong khi còn đang toan tính kế hoạch của mình, tôi thoáng trông thấy một phụ nữ dáng mảnh mai đang đứng trên cầu tàu mặc áo khoác bị dây toàn sơn màu. Cô ta đang vừa hút thuốc vừa nói chuyện bằng điện thoại di động.
Đây không phải là một hình ảnh hiếm thấy ở nhà thuyền Thành Phố của Oxford. Cô ta ngẩng lên nhìn, cái nhìn của cô ta thúc vào da tôi. Một con yêu tinh. Miệng ả xoắn lại thành một nụ cười hung hiểm như sói và nói điều gì đấy vào máy điện thoại.
Chuyện này thật quá kỳ lạ. Đầu tiên là Clairmont và giờ là một đám các sinh vật khác người xuất hiện bất cứ khi nào hắn có mặt ư? Bỏ mặc kế hoạch của mình, tôi dồn hết sự khó chịu vào việc chèo thuyền. Tôi tìm cách đi xuôi xuống con sông, nhưng quang cảnh trời yên bể lặng bên ngoài đã bốc hơi đâu hết. Rẽ thuyền vào trước quán rượu Isis, tôi thoáng thấy Clairmont đang đứng cạnh một chiếc bàn trong quán. Làm thế nào mà hắn có thể đi từ cầu Donnington đến đó – đi bộ - còn nhanh hơn cả tôi chèo một chiếc thuyền đua?
Kéo mạnh cả hai mái chèo, tôi nâng chúng lên trên mặt nước khoảng sáu mươi phân như đôi cánh của một con chim khổng lồ và lướt thẳng vào cái cầu tầu bằng gỗ ọp ẹp của quán rượu. Ngay lúc tôi vừa trèo ra khỏi thuyền, Clairmont đã băng qua bãi cỏ rộng chừng sáu mét nằm giữa hai chúng tôi. Hắn đẩy cái bục di động xuống nước một cách nhẹ nhàng, và con thuyền lắc lư vào đúng chỗ.
“Anh nghĩ mình đang làm cái quái gì ở đây thế?” Tôi hỏi, bước dứt khoát lên và đi ngang qua những tấm ván lát sàn gồ ghề tới chỗ gã ma cà rồng đang đứng lúc này. Hơi thở của tôi rời rạc vì dụng sức nhiều, hai má đỏ phừng phừng. “Có phải anh và đám bạn của anh đang lén săn đuổi tôi không?”
Clairmont cau mày. “Bọn chúng không phải bạn của tôi, tiến sĩ Bishop ạ.”
“Không ư? Tôi chưa từng nhìn thấy có nhiều ma cà rồng, phù thủy và yêu tinh tụ tập một chỗ như thế kể từ hồi dì tôi dẫn tôi tới một lễ hội mùa hè của dân ngoại đạo lúc tôi mười ba tuổi. Nếu bọn họ không phải là bạn của anh, thì tại sao họ lại luôn luôn lảng vảng quanh anh hả?” Tôi quệt mu bàn tay qua trán vén đám tóc ướt ra khỏi mặt.
“Chúa nhân từ,” gã ma cà rồng thì thầm vẻ không tin. “Những lời đồn đại là sự thật.”
“Lời đồn nào?” tôi hỏi xẵng mất hết kiên nhẫn.
“Cô nghĩ những… cái thứ này muốn dành thời gian quẩn quanh bên tôi ư?” Giọng Clairmont thấm đẫm vẻ khinh miệt và có điều gì đó nghe giống như sự ngạc nhiên. “Không thể tin được!”
Tôi vắt chiếc áo len lông cừu lên vai rồi kéo mạnh nó xuống. Ánh mắt Clairmont thoáng lướt qua chỗ xương quai xanh và hai cánh tay trần của tôi, rồi di chuyển xuống tới mấy ngón tay tôi. Tôi cảm thấy mình như trần trụi trong chính bộ đồ chèo thuyền quen thuộc của mình.
“Phải,” tôi cáu kỉnh đáp. “Tôi đã sống ở Oxford này. Tôi trở lại đây hàng năm. Điều duy nhất khác biệt trong lần trở lại này chính là anh. Kể từ khi anh xuất hiện vào tối qua, tôi đã bị đánh bật khỏi chỗ của mình trong thư viện, bị những ma cà rồng và yêu tinh xa lạ nhìn chòng chọc, và bị những phù thủy không quen biết đe dọa.”
Hai cánh tay Clairmont từ từ đưa lên, như thể hắn sắp sửa túm lấy hai vai tôi mà lắc mạnh. Mặc dù tôi không lùn chút nào với chiều cao trên dưới một mét bảy mươi, nhưng hắn quá cao lớn đến nỗi cổ tôi phải ngửa hẳn ra để có thể nhìn vào mắt hắn. Ý thức rõ về sức mạnh và tầm vóc của hắn có quan hệ tới mình ra sao, tôi lùi lại một bước và khoanh tay trước ngực, thu hết can đảm để bọc thép cho các dây thần kinh của mình.
“Bọn chúng không quan tâm đến tôi, tiến sĩ Bishop ạ. Chúng quan tâm tới cô đấy.”
“Tại sao? Họ có thể muốn gì ở tôi kia chứ?”
“Cô thật sự không biết tại sao mọi yêu tinh, phù thủy và ma cà rồng ở vùng phía nam trung du nước Anh bám theo cô ư?” Có một dấu hiệu hoài nghi trong giọng nói của hắn, và biểu cảm của gã ma cà rồng như thể hắn đang nhìn thấy tôi lần đầu tiên.
“Không,” tôi đáp, để mắt tới hai người đàn ông đang thưởng thức panh[1] bia chiều của họ ở một bàn gần đó. Tạ ơn trời, họ đang bị cuốn hút vào cuộc nói chuyện riêng của họ. “Tôi chẳng làm gì ở Oxford ngoài việc đọc những văn bản cổ, chèo thuyền trên sông, chuẩn bị cho buổi hội thảo và giữ mình cả. Chỉ có thế thôi. Chẳng có lý do gì để bất kỳ ai trong bọn họ phải chú ý đến tôi kiểu như vậy cả.”
“Hãy suy nghĩ đi, Diana.” Giọng Clairmont căng thẳng. Một cảm giác gì đó không giống nỗi sợ hãi thoáng gợn qua làn da tôi khi hắn gọi tên thân mật của tôi. “Cô đang đọc cái gì?”
Mí mắt hạ thấp xuống trên đôi mắt lạ lùng của hắn, ngay sau khi tôi nhìn thấy ở đó biểu hiện của sự thèm khát.
Các dì đã cảnh cáo tôi rằng Matthew Clairmont muốn một điều gì đó. Họ đã đúng.
Một lần nữa hắn gắn chặt đôi mắt kỳ lạ màu xám viền đen vào mắt tôi. “Chúng đang bám theo cô bởi vì chúng tin cô đã tìm thấy thứ gì đó bị thất lạc từ nhiều năm trước,” hắn nói vẻ bất đắc dĩ. “Chúng mong muốn thứ đó trở lại, và chúng nghĩ cô có thể lấy được nó cho chúng.”
Tôi nghĩ về các cuốn cổ thư đã tham khảo trong suốt mấy ngày qua. Tim tôi chùng xuống. Chỉ có duy nhất một cuốn có thể là ứng viên cho tất cả sự chú ý này.
“Nếu họ không phải là bạn của anh, vậy làm sao anh biết được họ muốn gì?”
“Tôi nghe được những chuyện đó, tiến sĩ Bishop ạ. Tôi có thính giác rất tốt,” hắn trả lời một cách kiên nhẫn, trở lại với vẻ trang trọng cố hữu. “Tôi cũng khá là tinh mắt nữa. Trong một buổi hòa nhạc tối Chủ nhật, hai phù thủy đã nói chuyện về một người Mỹ - một phù thủy đồng đạo – là người đã tìm thấy một cuốn sách trong Thư viện của Bodley, cuốn sách đó từng bị lãng quên vì thất lạc. Kể từ đấy tôi để ý thấy có nhiều gương mặt mới xuất hiện ở Oxford, và chúng khiến tôi không thoải mái.”
“Đó là lễ Mabon. Thế nên các phù thủy mới có mặt ở Oxford.” Tôi đang cố thử kết hợp với tông giọng nhẫn nại của hắn ta, mặc dù hắn đã không trả lời câu hỏi cuối cùng của tôi.
Clairmont lắc đầu cười vẻ nhạo báng. “Không, không phải vì tiết thu phân. Mà là vì cuốn cổ thư.”
“Anh biết gì về Ashmole 782 chứ?” Tôi khẽ hỏi.
“Ít hơn là cô biết,” Clairmont nói, hai mắt nheo lại thành hai khe hở. Nó khiến hắn trông càng giống một con quái thú to lớn có thể gây chết người hơn. “Tôi chưa từng nhìn thấy nó. Cô đã có nó trong tay rồi. Giờ nó đang ở đâu hả tiến sĩ Bishop? Cô chắc không ngốc nghếch đến nối bỏ nó lại trong phòng mình chứ hả?”
Tôi thất kinh. “Anh nghĩ là tôi đã ăn cắp nó sao? Từ Bodleian? Sao anh dám nghĩ như thế chứ!”
“Cô không giữ nó vào tối thứ Hai vừa rồi,” hắn nói. “Và nó cũng không ở trên bàn làm việc của cô ngày hôm nay.”
“Anh đang dò xét tôi!” Tôi đanh giọng nói. “Nếu anh có thể thấy tất cả từ chỗ ngồi của mình, hẳn anh cũng biết tôi đã trả lại nó hôm thứ Sáu.” Dần dần tôi hiểu ra rằng hắn có thể đã lục soát mọi thứ trên bàn làm việc của tôi. “Cuốn cổ thư ấy có gì đặc biệt đến nỗi anh phải xía mũi vào công việc của một đồng nghiệp vậy hả?”
Hắn hơi nhăn mặt, nhưng thắng lợi của tôi trước việc bắt lọn được hắn đang làm điều gì đó không chính đáng đã bị ăn mòn bởi cảm giác lo sợ nhức nhối rằng gã ma cà rồng này rõ ràng đang bám theo tôi sát gót.
“Đơn giản là tò mò thôi,” hắn đáp, nhe răng cười. Dì Sarah đã không lừa tôi – ma cà rồng không có răng nanh thật.
“Hy vọng anh không mong tôi sẽ tin điều đó chứ.”
“Tôi không quan tâm cô tin vào cái gì, tiến sĩ Bishop ạ. Nhưng cô nên đề cao cảnh giác. Những sinh vật này nghiêm túc đấy. Và đến khi nào chúng sẽ biết cô là một phù thủy vô cùng khác thường nhỉ?” Clairmont lắc lắc đầu.
“Ý anh là gì?” Tất cả máu rút sạch khỏi đầu khiến tôi choáng váng.
“Những ngày này quả là bất thường đối với một phù thủy có quá nhiều… tiềm năng.” Giọng Clairmont hạ thấp thành một tiếng rừ rừ rung lên trong cuống họng. “Không phải ai cũng có thể thấy nó – cho đến lúc này – nhưng tôi thì có thể. Cô tỏa sáng lờ mờ khi cô tập trung. Khi cô tức giận nữa. Chắc chắn bọn yêu tinh trong thư viện sẽ cảm thấy điều đó sớm thôi, nếu chúng chưa thấy.”
“Tôi đánh giá cao sự cảnh báo này. Nhưng tôi không cần sự giúp đỡ của anh.” Tôi đã chuẩn bị hiên ngang bỏ đi, nhưng bàn tay hắn vọt ra nắm chặt lấy cánh tay tôi.
“Đừng có chắc chắn quá thế. Hãy cẩn thận. Làm ơn.” Clairmont do dự, gương mặt hắn giũ sạch đi những nét hoàn hảo vốn có trong cuộc vật lộn đấu tranh với một điều gì đó. “Đặc biệt nếu cô gặp nam phù thủy ấy lần nữa.”
Tôi cứng người nhìn chằm chằm vào bàn tay trên cánh tay mình. Clairmont thả tôi ra. Hai mí mắt hắn hạ xuống, đóng khuôn lấy đôi mắt.
Chuyến đi dạo bằng thuyền của tôi để quay lại nhà thuyền thật chậm rãi và bình ổn, nhưng những nhịp chèo không thể xua đi nỗi lo lắng và bối rối còn vương lại trong tôi. Thỉnh thoảng, lại có một vật mờ mờ màu xám trên con đường chạy dọc theo dòng sông, nhưng chẳng có gì khác thu hút sự chú ý của tôi ngoài những người đang đạp xe từ chỗ làm về nhà và một con người rất bình thường đang đi dạo cùng chú chó của cô ta.
Sau khi trả lại chiếc thuyền và khóa cửa nhà thuyền, tôi bắt đầu rảo bước xuống lối đi dọc bờ sông.
Matthew Clairmont đang đứng phía bên kia sông trước nhà thuyền trường đại học.
Tôi bắt đầu chạy, và khi tôi quay đầu nhìn lại, hắn ta đã biến mất.
[1] Panh: đơn vị đo lường ở Anh, bằng 0,58 lít.
Sau bữa tối, tôi ngồi xuống chiếc trường kỷ kê bên cạnh cái lò sưởi không dùng đến trong phòng khách và bật máy tính xách tay lên. Tại sao một nhà khoa học có năng lực như Clairmont lại muốn xem một cuốn sách về pháp thuật – thậm chí là một cuốn sách bị bỏ bùa nữa chứ - đến mức phải ngồi ở Bodleian suốt cả ngày, đối diện với một phù thủy, và còn đọc qua những ghi chú cổ xưa về sự tiến hóa hình dạng nữa? Danh thiếp của hắn nằm trong một ngăn nào đó ở túi xách. Tôi moi tấm danh thiếp ra, dựng nó dựa vào màn hình máy tính.
Trên Internet, dưới đường dẫn tới bài viết về một vụ án mạng bí ẩn và một loạt trang mạng xã hội không thể tránh được, có một dải danh sách tiểu sử trông có vẻ hứa hẹn: trang web chuyên khoa của hắn trong trường đại học, một bài viết trên Wikipedia, và những đường dẫn tới các thành viên hiện nay trong câu lạc bộ Tầng lớp Hoàng tộc.
Tôi nhấp chuột vào trang web chuyên ngành và khịt mũi khó chịu. Matthew Clairmont là một trong những thành viên không thích đưa bất cứ thông tin gì lên mạng – thậm chí cả thông tin có tính chất học thuật. Trên trang web của Đại học Yale, một khách viếng thăm có thể liên hệ thông tin và lấy được một tiểu sử đầy đủ của mọi thành viên hiện giảng dạy trong khoa. Oxford rõ ràng có một quan điểm khác hẳn hướng đến việc bảo vệ sự riêng tư. Vì vậy chẳng có gì lạ khi một ma cà rồng đến dạy học ở đây.
Chẳng có thu hoạch gì về Clairmont ở bệnh viện cả, mặc dù trên danh thiếp của hắn có ghi rõ mối quan hệ đó. Tôi gõ “John Radcliffe thần kinh học” vào hộp tra cứu và được dẫn tới một bảng tổng thể các dịch vụ của chuyên khoa. Không có một bài tham khảo riêng nào dành cho một bác sĩ, ngoại trừ một danh sách dài các vấn đề được quan tâm tra cứu. Nhấp chuột qua các phần theo hệ thống liên kết, cuối cùng tôi cũng tìm được hắn trên một chuyên trang về “thùy trán,” dù ở đó cũng chẳng có thêm thông tin bổ sung nào cả.
Bài viết trên Wikipedia cũng chẳng giúp được gì, và trang của Tầng lớp Hoàng tộc cũng chẳng khá hơn. Bất cứ thứ gì hữu ích đều gián tiếp liên quan tới các trang chủ được giấu kín đằng sau các mật khẩu. Tôi không gặp may khi đoán tên đăng nhập và mật khẩu của Clairmont nên bị từ chối truy cập hoàn toàn sau lần thứ sáu đoán sai.
Nản lòng, tôi nhập đại tên của gã ma cà rồng vào công cụ tra cứu dành cho các phóng viên báo khoa học.
“Thế chứ.” Tôi ngả người ra sau mãn nguyện.
Matthew Clairmont có thể không hiện diện nhiều trên Internet, nhưng tất nhiên hắn có hoạt động trong giới học thuật. Sau khi nhấp chuột vào một hộp lệnh để lọc các kết quả theo ngày, tôi đã có được một trang hiển thị về lịch sử học vấn của hắn.
Cảm giác thắng lợi ban đầu của tôi nhạt đi dần. Hắn không phải có một lịch sử học vấn. Hắn có đến bốn cái.
Lịch sử học vấn đầu tiên bắt đầu với bộ não con người. Đa số những thành tựu vượt xa tôi, và Clairmont dường như còn tạo được một danh tiếng khoa học và y học cùng lúc với việc nghiên cứu làm thế nào để thùy trán của não xử lý được những thôi thúc và ham muốn. Hắn đã đưa ra được một số ý tưởng đột phá chủ yếu liên quan tới vai trò của cấu trúc hệ thần kinh trong việc trì hoãn sự thỏa mãn cá nhân, tất cả đều có liên quan tới phần vỏ não ở phía trước trán. Tôi mở một cửa sổ mới để xem biểu đồ giải phẫu và vị trí phần não được nêu trong bài viết.
Một vài người tranh cãi rằng tất cả sự uyên bác này chỉ là một tự truyện sơ sài. Tim tôi đập rộn ràng. Dựa vào việc Clairmont là ma cà rồng, tôi chân thành hy vọng hắn giỏi trong việc nắm bắt rõ về hiện tượng trì hoãn thỏa mãn này.
Vài lần nhấp chuột nữa cho thấy công việc của Clairmont có sự chuyển hướng đáng kinh ngạc từ não người sang loài sói – sói Na Uy, chính xác là vậy. Hắn ta hẳn đã phải dành một khoảng thời gian đáng kể để trải qua những đêm ở bán đảo Scandinavi trong quá trình nghiên cứu của mình – điều đó có vẻ chẳng thành vấn đề đối với một ma cà rồng, nếu kể đến nhiệt độ cơ thể và khả năng nhìn trong bóng tối của bọn họ. Tôi cố gắng tưởng tượng ra hắn trong chiếc áo paca của người Etskimo và những bộ đồ dơ dáy nhếch nhác cùng với một tập giấy ghi chép giữa trời tuyết – nhưng thất bại.
Sau đó, những đoạn tham khảo đầu tiên liên quan đến máu xuất hiện.
Trong khi gã ma cà rồng này ở cùng bầy sói tại Na Uy, hắn đã bắt đầy phân tích máu của chúng để phân biệt các nhóm gia đình và các mẫu có tính kế thừa. Clairmont đã khoanh vùng được bốn thị tộc sói Na Uy, ba trong số đó có nguồn gốc bản địa. Thị tộc thứ tư, được Clairmont chỉ ra là loài sói đến từ Thụy Điển hoặc Phần Lan. Hắn kết luận có một lượng đáng kinh ngạc những cặp bạn tình kết hợp chéo giữa các bầy, dẫn đến sự trao đổi đặc tính di truyền có ảnh hưởng đến sự tiến hóa giống loài.
Hiện nay hắn đang truy tìm nguồn gốc đặc trưng di truyền của các loài động vật khác cũng như cả ở loài người. Rất nhiều trong số các công bố gần đây nhất của Clairmont là về phương pháp kỹ thuật ứng dụng cho việc biến đổi màu sắc của các mẫu mô và quy trình xử lý đặc biệt các DNA già yếu.
Tôi túm một nắm tóc mình và giữ thật chặt, hy vọng áp lực sẽ tăng cường tuần hoàn máu và làm các khớp thần kinh mệt mỏi nóng bừng trở lại. Điều này chẳng có nghĩa lý gì. Không nhà khoa học nào có thể tiến hành một lượng công việc nhiều thế này trong nhiều lĩnh vực khác nhau đến thế. Chỉ riêng việc đạt được các kỹ năng đó không thôi đã tiêu tốn hơn cả một đời rồi – một đời người, chính xác là thế.
Một ma cà rồng có thể thu gọn nó lại, nếu hắn đã làm việc với các vấn đề thế này trong nhiều thập kỷ rồi. Chính xác thì Matthew Clairmont đã bao nhiêu tuổi đằng sau cái khuôn mặt chừng bốn mươi tuổi ấy? Tôi đứng dậy lấy một tách trà mới. Một tay cầm tách trà nghi ngút khói, tôi lục tìm trong túi xách cho tới khi thấy cái di động của mình và dồn sức bấm một số điện thoại bằng ngón cái.
Một trong những điều tuyệt vời nhất về các nhà khoa học là họ luôn mang máy điện thoại. Họ cũng trả lời máy ngay ở hồi chuông thứ hai.
“Christopher Roberts nghe.”
“Chris, là Diana Bishop đây.”
“Diana!” Giọng Chris thật nồng ấm, và có tiếng kèn đang chơi nhạc vang vang phía sau. “Mình nghe nói cậu đã giành được một giải nữa cho cuốn sách của cậu. Chúc mừng nhé!”
“Cảm ơn,” tôi đáp, xê xích trên chỗ ngồi. “Cũng khá là bất ngờ.”
“Bất ngờ gì chứ. Một công trình cực kỳ xuất sắc đấy. Nhân nói về chuyện này, công trình hiện tại đến đâu rồi? Cậu đã viết xong phần chính yếu chưa?”
“Cũng gần xong rồi,” tôi nói. Đó là việc lẽ ra tôi đang làm, chứ không phải là lần mò theo dấu vết của ma cà rồng trên Internet thế này. “Nghe này, mình xin lỗi vì đã quấy rầy cậu khi cậu đang trong phòng thí nghiệm. Cậu có thể cho mình một phút không?”
“Chắc chắn rồi.” Anh chàng hét lên bảo ai đó vặn nhỏ nhạc. Nó vẫn cứ ồn ào như cũ. “Giữ máy nhé.” Một loạt âm thanh nghèn nghẹt trong máy, rồi im lặng. “Tốt hơn rồi,” anh ta nói vẻ ngượng ngùng. “Mấy đứa trẻ mới đến hơi nhiều năng lượng lúc học kỳ mới bắt đầu.”
“Nghiên cứu sinh luôn luôn tràn đầy sinh lực, Chris ạ.” Tôi cảm thấy một chút day dứt vì đã để lỡ mất đợt nhập học và các sinh viên mới.
“Đúng vậy. Nhưng cậu thì thế nào? Cậu cần gì thế?”
Chris và tôi đến nhận vị trí trong khoa ở đại học Yale vào cùng một năm, anh ta cũng không có ý định giành vị trí giảng dạy trong khoa. Khoảng một năm sau, anh ta đã đánh bại tôi và có được tư cách hội viên Mac Arthur vì thành tích xuất chúng trong vai trò một nhà nghiên cứu sinh vật phân tử.
Chris không cư xử như một thiên tài xa cách, khó gần khi tôi lạnh lùng gọi cho anh ta hỏi tại sao một nhà giả kim có thể mô tả vật chất được chưng cất trong nồi như là những cành cây đang lớn. Không ai khác trong khoa Hóa học quan tâm giúp đỡ tôi, nhưng Chris đã gửi tới hai sinh viên đang làm luận án tiến sĩ để lấy các nguyên liệu cần thiết tái tạo lại cuộc thí nghiệm, rồi lại khăng khăng đưa tôi tới thẳng phòng thí nghiệm. Chúng tôi đã quan sát qua tường kính chiếc cốc bêse dùng để làm thí nghiệm trong lúc một tảng bùn đặc màu xám trải qua sự biến hóa rực rỡ trở thành một cái cây màu đỏ với hàng trăm cành nhỏ. Chúng tôi là bạn từ hồi đó.
Tôi hít vào một hơi thật sâu. “Hôm trước mình vừa mới gặp một người.”
Chris reo lên. Nhiều năm nay anh chàng vẫn kiên trì giới thiệu tôi với những người đàn ông mình gặp ở phòng tập thể hình.
“Không có gì lãng mạn cả,” tôi vội vàng nói. “Anh ta là một nhà khoa học.”
“Một nhà khoa học đẹp chói lọi, đó chính xác là điều cậu cần đấy. Cậu cần một thử thách – và cuộc sống.”
“Xem ai đang nói kìa. Ngày hôm qua cậu rời khỏi phòng thí nghiệm lúc mấy giờ? Hơn nữa, đã có hẳn một nhà khoa học chói lóa trong cuộc đời mình rồi,” tôi trêu.
“Không đổi đề tài.”
“Oxford là một thị trấn thế nào mà mình cứ tình cờ gặp anh ta. Mà dường như anh ta sắp trở thành một nhân vật lớn ở đây rồi.” Không hẳn là sự thật, tôi nghĩ thầm, bắt chéo hai ngón tay, nhưng cũng gần thế. “Mình đã tra cứu về công việc của anh ta và có thể hiểu một số, nhưng chắc là mình đã bỏ lỡ điều gì đó, bởi vì nó có vẻ như không ăn khớp với nhau lắm.”
“Đừng bảo mình anh ta là một nhà vật lý học thiên thể nhé,” Chris nói. “Cậu biết là mình kém vật lý mà.”
“Cậu là một thiên tài, Chris!”
“Đúng thế,” anh chàng đáp ngay tắp lự. “Nhưng thiên tài của mình không mở rộng tới lĩnh vực chơi bài hay vật lý học. Một cái tên, làm ơn.” Chris cố gắng kiên nhẫn, nhưng không có bộ não của người nào nhanh nhạy bằng anh ấy.
“Matthew Clairmont.” Tên hắn nghẹn lại trong họng tôi, như mùi đinh hương đêm hôm trước.
Chris huýt sáo. “Ngài giáo sư Clairmont ẩn dật, tránh đời.” Hai cánh tay tôi gai gai. “Cậu đã làm gì vậy, bỏ bùa anh ta bằng đôi mắt của cậu hả?”
Vì Chris không biết tôi là một phù thủy, nên từ “bỏ bùa” của anh chàng hoàn toàn là ngẫu nhiên. “Anh ta ngưỡng mộ công trình của mình về Robert Boyle.”
“Đúng rồi,” Chris giễu cợt. “Cậu đã biến thành những ngôi sao băng xanh vàng điên cuồng lao vào anh ta mà anh ta vẫn nghĩ về định luật của Boyle ư? Anh ta là một khoa học gia, Diana ạ, không phải là thầy tu. Và nhân tiện, anh ta là một nhân vật lớn đấy.”
“Thật sao?” tôi hỏi giọng uể oải.
“Thật. Anh ta là một quái nhân, giống cậu. Anh ta bắt đầu cho xuất bản các công trình nghiên cứu khi còn đang là nghiên cứu sinh. Các công trình tuyệt vời, không phải tác phẩm vớ vẩn đâu, cậu sẽ hạnh phúc khi tên mình được đề trên những cuốn sách như thế nếu cậu có thể công bố chúng sau khi kết thúc một giai đoạn trong sự nghiệp.”
Tôi rà soát các ghi chép, gạch xóa đi một tờ màu vàng viết về luật. “Đó là nghiên cứu của anh ta về cấu trúc hệ thần kinh và phần vỏ não ở phía trán đúng không?”
“Cô bạn đã làm bài tập rồi đấy nhỉ,” anh chàng nói vẻ hài lòng. “Mình không theo sát lắm các công trình của Clairmont thời kỳ đầu – lĩnh vực hóa học của anh ta là thứ mình quan tâm – nhưng các công bố về loài sói gây ra rất nhiều hứng khởi.”
“Thế nào cơ?”
“Anh ta có những bản năng đáng kinh ngạc – tại sao những con sói lại chọn một chỗ nhất định để sống, chúng hình thành đời sống xã hội bầy đàn như thế nào, chúng kết đôi như thế nào. Anh ta biết như thể anh ta là một con sói ấy.”
“Có thể đúng thế ấy chứ.” Tôi cố giữ cho giọng mình nghe nhẹ nhàng, nhưng có điều gì đó đắng ngắt và đố kỵ bùng lên trong miệng tôi và thay vì nhẹ nhàng nó lại thành ra cay nghiệt.
Matthew Clairmont chẳng gặp vấn đề gì với việc sử dụng các siêu năng lực và sự khát máu của mình để thúc đẩy thăng tiến trong sự nghiệp. Nếu gã ma cà rồng này đã quyết định dứt khoát về Ashmole 782vào tối thứ Sáu, thì hắn lẽ ra đã chạm được vào các bức minh họa của cuốn cổ thư ấy rồi. Tôi đoan chắc thế.
“Đúng là sẽ dễ dàng hơn để lý giải về sự hoàn hảo công trình nghiên cứu của anh ta nếu anh ta là một con sói,” Chris nói vẻ nhẫn nại, phớt lờ đi sắc thái trong giọng tôi. “Nhưng anh ta không phải, nên cậu đành phải công nhận anh ta rất giỏi thôi. Anh ta được chọn vào Tầng lớp Hoàng tộc nhờ công trình ấy đấy. Người ta gọi anh ta là Attenborough[1] thứ hai. Sau đó anh ta biến mất tăm một thời gian.”
Tôi cá là hắn như thế. “Rồi anh ta bất ngờ xuất hiện trở lại, nghiên cứu về sự tiến hóa và hóa học à?”
“Phải, nhưng sự quan tâm của anh ta với tiến hóa chẳng qua là sự phát triển tự nhiên từ công trình nghiên cứu loài sói thôi.”
“Vậy cái gì trong hóa học của anh ta làm cậu thích thú hả?”
Giọng Chris ngập ngừng. “À, anh ta cư xử giống một nhà khoa học khi anh ta phát hiện ra điều gì đấy to lớn.”
“Mình không hiểu,” tôi nhăn mặt.
“Chúng ta trở nên thất thường và kỳ lạ. Chúng ta giấu mình trong phòng thí nghiệm và không đến các hội thảo vì sợ mình có thể nói ra điều gì đó giúp cho ai khác có được ý tưởng đột phá.”
“Cậu cư xử như sói ấy.” Giờ thì tôi đã biết nhiều về loài sói. Những thái độ chiếm hữu, cảnh giác mà Chris miêu tả vừa khớp với loài sói Na Uy.
“Chính xác.” Chris cười lớn. “Anh ta không cắn ai hay bị bắt gặp đang tru lên trong đêm trăng tròn à?”
“Tớ không quan tâm,” tôi lẩm bẩm. “Clairmont có thường xuyên sống ẩn dật thế không?”
“Hỏi tớ là sai người rồi,” Chris tự nhận. “Anh ta có một bằng y khoa, và chắc là phải khám cho các bệnh nhân, mặc dù anh ta chưa bao giờ nổi tiếng với vai trò một bác sỹ lâm sàng. Và bọn sói thích anh ta. Nhưng anh ta chẳng đến bất cứ một hội thảo nào trong ba năm qua.” Chris ngừng một lát. “Chờ chút, dù thế có chuyện gì đó xảy ra mấy năm trước.”
“Gì cơ?”
“Anh ta lên báo – mình không thể nhớ cụ thể - có một phụ nữ đã hỏi anh ta một câu hỏi. Đó là một câu hỏi thông minh, nhưng anh ta đã lờ đi. Cô ta vẫn dai dẳng. Anh ta khó chịu và rồi nổi điên lên. Một người bạn tớ có mặt ở đó đã nói cậu ta chưa từng thấy ai đi từ nhã nhặn lịch sự tới giận dữ điên tiết nhanh như thế.”
Tôi đang gõ lên máy, cố gắng tìm thông tin về cuộc tranh cãi này. “Tiến sĩ Jekyll và ông Hyde hử? Không thấy dấu hiệu vụ om sòm nào trên mạng cả.”
“Mình không ngạc nhiên. Các nhà hóa học không vạch áo cho người xem lưng đâu. Điều đó làm tổn thương tất cả chúng tớ một thời gian đáng kể. Chúng tớ không muốn dân công chức nghĩ chúng tớ là những kẻ dễ khích động mắc chứng hoang tưởng tự đại. Chúng tớ nhường cái danh đó cho các nhà vật lý học.”
“Clairmont có được tài trợ không?”
“Ô hô. Có chứ. Anh ta được tài trợ đến tận nơi. Cậu không cần lo lắng cho sự nghiệp của giáo sư Clairmont đâu. Anh ta có lẽ nổi tiếng là khinh thường phụ nữ, nhưng điều đó không làm anh ta cháy túi được. Các tác phẩm của anh ta quá tuyệt vời mà.”
“Cậu đã từng gặp anh ta chưa?” tôi hỏi, hy vọng Chris sẽ nhận xét về nhân cách Clairmont.
“Chưa. Cậu chẳng tìm được đến hơn một tá người dám tuyên bố là họ từng gặp anh ta đâu. Anh ta không giảng dạy. Mặc dù có rất nhiều chuyện, nhưng anh ta không thích phụ nữ, và là dân trí thức hợm mình. Anh ta không trả lời thư, không hướng dẫn sinh viên nghiên cứu.”
“Nghe như cậu nghĩ chuyện đó toàn là nói càn ấy.”
“Không phải nói càn đâu,” Chris nói vẻ tư lự. “Mình chỉ không cho rằng điều đó là quan trọng thôi. Biết đâu anh ta có thể là người hé lộ những bí mật về sự tiến hóa hay chữa được căn bệnh Parkinson thì sao!”
“Cậu khiến anh ta nghe như là điểm giao kết giữa Salk và Darwin ấy.”
“Không phải là một suy luận tồi nhỉ.”
“Anh ta giỏi thế à?” Tôi nghĩ đến cảnh Clairmont đang nghiên cứu những trang ghi chép của Needham với một sự tập trung dữ dội và cho rằng là anh ta còn hơn cả giỏi nữa.
“Đúng thế.” Giọng Chris chùng xuống. “Nếu tớ là dân cá cược, tớ sẽ đặt ngay tờ một trăm đô-la là anh ta sẽ đoạt giải Nobel trước khi chết đấy.”
Chris là một thiên tài, nhưng anh chàng không biết Matthew Clairmont là ma cà rồng. Sẽ không có giải Nobel nào cả - gã ma cà rồng đó đảm bảo điều đó để duy trì tình trạng “nặc danh” của mình. Một nhân vật đoạt giải Nobel sẽ bị chụp ảnh, ghi hình ầm ĩ.
“Mình đánh cá đấy,” tôi nói với một tiếng cười vang.
“Cô bạn nên bắt đầu tiết kiệm đi, Diana ạ, bởi vì lần này cậu sẽ thua đấy.” Chris nén cười.
Anh bạn này đã thua lần cá cược trước. Lần ấy tôi đã cá với anh ta năm mươi đô-la rằng anh ta sẽ thành giảng viên chính thức trước tôi.
“Cảm ơn Chris. Cậu đã giúp mình rất nhiều đấy,” tôi chân thành nói. “Cậu nên quay lại với bọn trẻ đi. Có khi lúc này chúng đã thổi bay đi cái gì đó không chừng.”
“Ừ, mình nên kiểm tra xem chúng nó thế nào. Chuông báo cháy vẫn chưa kêu, nó báo hiệu tốt lắm.” Anh chàng chần chừ. “Thú nhận đi Diana. Chắc chắn cậu chẳng bao giờ bận tâm về việc chẳng may lỡ lời nếu gặp Matthew Clairmont ở một bữa tiệc cocktail. Đây là cách cậu vẫn hành xử khi cậu đang giải quyết một vấn đề rắc rối trong nghiên cứu. Điều gì ở anh ta khơi gợi trí tưởng tượng của cậu thế?”
Thỉnh thoảng Chris có vẻ nghi ngờ tôi đã khác trước. Nhưng chẳng thể kể cho anh chàng biết sự thật được.
“Mình có điểm yếu là những người đàn ông lịch sự bảnh bao.”
Chris thở dài. “Ok, đừng kể với mình nữa. Cậu là kẻ dối trá khủng khiếp, cậu biết không. Nhưng cẩn thận đấy. Nếu hắn ta làm tan nát trái tim cậu, mình sẽ đá vào mông hắn, và đây là một học kỳ bận rộn đối với mình rồi.”
“Matthew Clairmont sẽ không làm tan nát trái tim mình được đâu,” tôi khăng khăng. “Anh ta là một đồng nghiệp – một con người chỉ có hứng thú đọc sách uyên bác, đó là tất cả.”
“Đối với một người quá tinh ranh thì cậu thật sự là một dấu hỏi đấy. Mình cá với cậu mười đô la là anh ta sẽ mời cậu đi chơi trước khi hết tuần này đấy.”
Tôi cười. “Cậu sẽ biết được hả? Mười đô la hoặc số tiền tương đương bằng bảng Anh – khi mình thắng.”
Chúng tôi chào tạm biệt. Tôi vẫn không biết được nhiều về Matthew Clairmont – nhưng tôi đã có phán đoán tốt hơn đối với những thắc mắc còn lại, quan trọng nhất là tại sao một người nghiên cứu về sự đột phá trong quá trình tiến hóa lại quan tâm tới thuật giả kim từ thế kỷ mười bảy.
Tôi lướt web cho tới khi hai mắt mỏi nhừ không thể tiếp tục nữa. Khi chuông đồng hồ báo nửa đêm, tôi đã bị ngập lụt trong đống ghi chép về chó sói và di truyền học, nhưng vẫn chưa hé mở được bí ẩn về mối quan tâm của Matthew Clairmont đối với Ashmole 782.
--------------------------------------------------------------------
[1] Nhà tự nhiên học nổi tiếng người Anh, sinh năm 1926.
Buổi sáng ngày hôm sau tiết trời xám xịt và mang hơi hướng không khí đầu thu. Tôi chỉ muốn được bọc mình thành cái kén trong những lớp áo len và ở lì trong phòng. Liếc nhìn ra bầu trời nặng nề u ám, tôi quyết định không ra sông chèo thuyền nữa. Thay vào đó tôi bắt đầu khởi động một chuyến chạy bộ. Tôi vẫy tay chào người gác đêm ở chỗ cửa chòi gác, ông ta nhìn tôi với vẻ nghi ngại kèm theo sau đó là một cử chỉ ra hiệu tán thành tỏ ý khích lệ.
Mỗi bước chạy dọc theo lối đi bộ lại làm cho những căng thẳng trong tôi giảm đi một chút. Khi tới lối mòn rải sỏi của khu công viên trường đại học, tôi hít thở thật sâu và cảm thấy thư giãn hẳn, sẵn sàng đón một ngày dài làm việc trong thư viện – cho dù có bao nhiêu kẻ kỳ quái tụ họp tại đó đi nữa.
Khi tôi chạy về lối cũ, người gác đêm ngăn tôi lại. “Tiến sĩ Bishop phải không?”
“Vâng?”
“Tôi rất lấy làm tiếc phải mời bạn của cô đi vào tối hôm qua, nhưng đó là quy định của trường. Lần tới nếu cô có khách, xin hãy báo cho chúng tôi biết và chúng tôi sẽ để họ lên thẳng chỗ cô.”
Sự sáng suốt có được từ chuyến chạy bộ vừa rồi bốc hơi hết.
“Là đàn ông hay phụ nữ ạ?” Tôi hỏi gay gắt.
“Một phụ nữ.”
Hai bờ vai tôi được thả lỏng ra.
“Cô ấy có vẻ rất tốt, và tôi luôn thích người Australia. Họ thân thiện và không có vẻ… cô biết đấy…” Người gác đêm bỏ lửng câu, nhưng ý ông ta định ám chỉ thật rõ ràng. Người Australia giống như người Mỹ - nhưng không quá huênh hoang, tự cao. “Chúng tôi đã gọi lên phòng cô.”
Tôi cau mày. Tôi đã tắt chuông điện thoại, bởi vì dì Sarah chẳng bao giờ chịu tính toán sự khác biệt múi giờ giữa Madison và Oxford một cách chính xác và thường gọi đến vào lúc nửa đêm. Thảo nào tôi không nghe thấy cuộc gọi đến.
“Cảm ơn đã cho tôi biết. Chắc chắn lần tới tôi sẽ báo cho ông biết trước về các vị khách,” tôi hứa đấy.
Trở về phòng mình, tôi bật đèn phòng tắm và xem xét hao tổn trong hai ngày qua. Những quầng thâm xuất hiện dưới hai bên mắt hôm qua giờ đã nở bung ra thành thứ gì đó gần giống như những vết bầm tím. Tôi kiểm tra cánh tay mình xem có vết bầm nào không, và ngạc nhiên khi không thấy bất cứ dấu vết nào. Cái siết chặt của gã ma cà rồng quá mạnh đến mức tôi đã tưởng Clairmont hẳn phải làm vỡ vài mao mạch dưới da tôi.
Tôi tắm rồi mặc một chiếc quần tụt và cái áo cổ lọ. Màu đen sẫm làm nổi bật thêm chiều cao và giảm đến mức tối đa thể hình khỏe khoắn của tôi, lại còn khiến tôi trông giống như một xác chết, bởi thế tôi thắt thêm qua vai một chiếc áo len mềm mại màu xanh dừa. Nó làm cho mấy quầng thâm dưới mắt tôi trông xanh hơn, nhưng ít nhất là tôi không còn trông như người chết nữa. Mái tóc tôi có nguy cơ sẽ dựng đứng trên đầu và kêu tanh tách mỗi khi tôi di chuyển. Giải pháp duy nhất là bới ngược ra sau thành một túm lộn xộn thả sau gáy.
Chiếc xe đẩy của Clairmont đầy ứ những tập cổ thư, và tôi đã sẵn sàng chạm mặt hắn ta ở khu phòng đọc Công tước Humfrey. Tôi đi đến bàn gọi sách với đôi vai bạnh ra hiên ngang. Một lần nữa viên quản lý và các nhân viên thư viện lại đang xì xào bàn tán như những chú chim bồn chồn lo lắng. Lần này hoạt động của họ tập trung vào khu tam giác giữa bàn gọi sách, những cuốn danh mục sách, và văn phòng giám sát. Họ mang những chồng hộp và đẩy những xe chở đầy cổ thư đi dưới cặp mắt cảnh giác của mấy cái máng xối nước hình đầu thú và đi vào ba gian đầu tiên của khu bàn đọc cổ xưa.
“Cảm ơn Sean.” Giọng nói trầm trầm, lịch thiệp của Clairmont phảng phất tít sâu phía trong các phòng đọc.
Tin tốt là tôi sẽ không còn phải chia sẻ bàn đọc với một con ma cà rồng nữa.
Còn tin xấu là tôi không thể bước vào hoặc rời khỏi thư viện – hay thậm chí là gọi sách hoặc một tập cổ thư – mà không bị Clairmont giám sát từng động thái. Và hôm nay hắn đã phòng bị trước.
Một cô gái nhỏ xíu đang chất đống lên các bài luận văn và các tập file tài liệu ở chỗ hốc tường thứ hai. Cô ta mặc một chiếc áo len rộng lùng thùng màu nâu và dài gần tới đầu gối. Khi cô ta rẽ ngoặt, tôi giật mình nhìn thấy một người lớn phát triển đầy đủ. Đôi mắt cô ta có màu hổ phách và đen, nó lạnh lẽo như sương giá.
Dù không chạm vào, nhưng làn da xanh tái, sáng mờ mờ và mái tóc bóng láng dày khác thường của cô ta cũng tố giác cô ta là một ma cà rồng. Những đường sóng tóc uốn lượn như rắn bao quanh gương mặt cô ta và xõa xuống hai vai. Cô ta tiến một bước về phía tôi, chẳng tốn công che giấu những chuyển động nhanh nhẹn, chắc chắn, và ném cho tôi một cái liếc thoáng qua đầy khinh thường. Đây rõ ràng không phải là nơi cô ta muốn có mặt, và cô ta đổ lỗi do tôi.
“Miriam!” Tiếng Clairmont gọi nghe thật êm ái, hắn bước ra lối đi trung tâm. Hắn hơi khựng lại, và một nụ cười lịch sự nở trên môi. “Tiến sĩ Bishop đây mà. Chúc buổi sáng tốt lành.” Hắn luồn mấy ngón tay qua mái tóc, cử chỉ đó làm cho nó trông rối bời một cách nghệ thuật hơn. Tôi ngượng ngập vuốt nhẹ lên tóc mình và vén một lọn tóc lơ thơ ra sau tai.
“Chào buổi sáng, giáo sư Clairmont. Lại gặp anh ở đây rồi.”
“Đúng vậy. Nhưng hôm nay tôi sẽ không nhập hội với cô ở khu Selden End nữa. Họ đã thu xếp phòng đọc cho chúng tôi ở đây, chúng tôi sẽ không làm phiền tới ai nữa.”
Nữ ma cà rồng đập nhẹ một chồng luận văn lên trên mặt bàn đọc.
Clairmont cười. “Cho phép tôi giới thiệu người đồng sự của tôi, tiến sĩ Miriam Shephard. Miriam, đây là tiến sĩ Diana Bishop.”
“Chào tiến sĩ Bishop,” Miriam nói vẻ lạnh lùng, rồi đưa tay về phía tôi. Tôi đón lấy và cảm thấy một sự trái ngược giữa bàn tay nhỏ xíu, lạnh ngắt của cô ta với bàn tay ấm áp của mình. Tôi định rút tay lại thì bàn tay cô ta xiết chặt hơn, dồn các khớp xương của tôi lại với nhau. Khi cuối cùng cô ta cũng thả ra, tôi đã phải kìm mình không giũ tay ngay lúc đó.
“Chào tiến sĩ Shephard.” Cả ba chúng tôi đứng đó vẻ lúng túng. Bạn sẽ hỏi một ma cà rồng câu gì trước tiên vào buổi sáng? Tôi đành trở lại với lối nói vô vị tẻ nhạt của con người: “Tôi thật sự phải làm việc rồi.”
“Chúc một ngày làm việc hiệu quả,” Clairmont nói, cái gật đầu chào của hắn cũng lạnh lùng ngang với lời chào hỏi của Miriam.
Ông Johnson xuất hiện bên cạnh tôi, tay bưng sẵn chồng hộp nhỏ màu xám mà tôi yêu cầu.
“Hôm nay chúng tôi đã sắp chỗ cho cô ở A4 rồi, tiến sĩ Bishop,” ông ta nói, một bên má phồng lên. “Tôi sẽ mang mấy thứ này lại chỗ cô.” Đôi vai của Clairmont quá rộng nên tôi không thể nhìn vòng qua người hắn để xem có các cuốn cổ thư ở trên bàn hắn không. Tôi đè nén tính hiếu kỳ và đi theo viên quản lý tới chỗ ngồi quen thuộc của mình ở khu Selden End.
Dù không có Clairmont ngồi đối diện, tôi vẫn nhận thức rõ rệt sự hiện diện của hắn trong khi lôi bút chì ra và bật máy tính lên. Lưng hướng về phía phòng trống, tôi nhặt cái hộp đầu tiên lên, lôi ra cuốn cổ thư bìa da và đặt nó vào giá đọc.
Công việc quen thuộc là đọc và ghi chép đã nhanh chóng thu hút sự tập trung chú ý của tôi. Cuốn cổ thư đầu tiên được tôi hoàn thành trong vòng chưa tới hai giờ. Vẫn chưa tới mười một giờ. Vẫn còn thời gian để đọc một cuốn khác trước khi ăn trưa.
Cuốn cổ thư ở trong chiếc hộp kế tiếp nhỏ hơn cuốn trước, nhưng nó có những phác họa thú vị về bộ dụng cụ của thuật giả kim và các mẩu thông tin về công thức hóa học mà khi đọc nó, tôi thấy nó giống như một sự kết hợp khủng khiếp nào đó giữa cuốn Nấu ăn vui vẻ và một tập ghi chép công thức của kẻ chuyên đi đầu độc. “Lấy bình đựng thủy ngân đun sôi trên lửa trong ba giờ,” một trong các hướng dẫn bắt đầu, “và khi nó đã kết hợp với Đứa trẻ can đảm, hãy giữ lấy nó và để nó thối rữa cho tới khi Quạ Đen mang nó đi tới chỗ cái chết.” Những ngón tay tôi lướt nhanh trên bàn phím, tăng thêm đà làm việc trong khi từng phút tích tắc trôi qua.
Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần ngày hôm nay sẽ bị các sinh vật khác thường kia nhìn chòng chọc. Nhưng khi đồng hồ điểm một giờ, tôi gần như vẫn một mình trong khu Selden End. Độc giả duy nhất khác là một sinh viên đã tốt nghiệp đeo chiếc khăn quàng cổ sọc đỏ, trắng và xanh dương của trường Keble. Anh ta ủ ê nhìn chằm chằm vào một chồng sách hiếm mà không hề đọc chúng và cứ cắn móng tay mình thỉnh thoảng kêu đánh tách một cái.
Sau khi viết đầy hai mảnh phiếu yêu cầu mới và đóng hộp mấy cuốn cổ thư của mình, tôi rời khỏi chỗ ngồi để đi ăn trưa, cảm thấy mãn nguyện với thành quả làm việc buổi sáng. Từ một chỗ ngồi trông không mấy thoải mái gần chiếc đồng hồ cổ, Gillian Chamberlain nhìn tôi chăm chăm đầy ác ý khi tôi đi ngang qua. Hai nữ ma cà rồng ngày hôm qua phóng những trụ băng lạnh lẽo vào da tôi, và gã yêu tinh ở thư viện âm nhạc đã kéo thêm hai gã yêu tinh khác đến. Cả ba đang tháo tung một cái máy đọc vi phim, các bộ phận của chiếc máy rải rắc vương vãi khắp xung quanh và một cuộn phim đang bung ra, bị bỏ chỏng trơ trên sàn nhà dưới chân chúng.
Clairmont và trợ lý của hắn vẫn còn bám trụ gần chỗ bàn gọi sách của phòng đọc. Hắn từng tuyên bố rằng những sinh vật này tụ tập quanh tôi, chứ không phải hắn. Nhưng thái độ của họ ngày hôm nay lại cho thấy điều ngược lại - tôi thầm nghĩ vẻ đắc thắng. Trong khi tôi trả lại các cuốn cổ thư, Matthew Clairmont nhìn tôi vẻ hờ hững. Dù đã nỗ lực rất nhiều, nhưng tôi vẫn không kìm được mình thôi để ý đến hắn ta.
“Tất cả chỗ này xong rồi chứ?” Sean hỏi.
“Ừ. Vẫn còn hai tập nữa ở chỗ bàn tớ. Nếu tớ có thể có những cuốn này nữa thì tuyệt quá.” Tôi chìa mấy tờ phiếu yêu cầu ra. “Cậu có muốn ăn trưa cùng tớ không?”
“Valerie vừa mới ra ngoài rồi. Tôi e là mình bị kẹt ở đây một lúc nữa,” anh chàng nói vẻ nuối tiếc.
“Ừ, thôi lần sau vậy.” Siết chặt ví tiền trong tay, tôi quay người chuẩn bị đi.
Giọng nói trầm trầm của Clairmont làm tôi hơi khựng lại. “Miriam, đến giờ ăn trưa rồi.”
“Tôi không đói,” cô ta đáp lại bằng một giọng nữ cao du dương trong trẻo chứa đựng cả cơn giận đang sôi sục.
“Không khí trong lành sẽ củng cố thêm khả năng tập trung của cô đấy.” Dấu hiệu mệnh lệnh trong giọng Clairmont không còn gì để bàn cãi nữa. Miriam thở dài thườn thượt, thả cạch cái bút chì lên mặt bàn đọc, và trồi ra từ trong bóng tối đi theo sau tôi.
Bữa ăn thường lệ của tôi là hai mươi phút ghé vào quán cà phê trên tầng hai của hiệu sách Blackwell gần đó. Tôi mỉm cười với ý nghĩ Miriam sẽ phải tự làm mình bận rộn trong suốt khoảng thời gian đó, kẹt trong Blackwell nơi các khách du lịch túm tụm lại để ngắm các tấm bưu thiếp, thấy được mùi khác biệt giữa những cuốn sách hướng dẫn của Oxford và khu vực tội phạm đích thực.
Tôi kiếm được một chiếc sandwich và ít trà rồi chen lấn tới góc xa nhất trong căn phòng đông nghẹt, ngồi giữa một thành viên có nét mặt ngờ ngợ ở khoa Lịch sử đang đọc báo và một sinh viên đang cùng lúc ôm cả một chiếc MP3, một chiếc di động và một cái máy vi tính.
Sau khi ăn xong cái sandwich, tôi nâng tách trà trên tay và liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi cau mày. Một trong những gã yêu tinh lạ mặt ở khu Công tước Humfrey đang thơ thẩn chỗ cổng thư viện và nhìn lên cửa sổ hiệu Blackwell.
Có thứ gì đó chạm nhẹ lên gò má tôi, dịu dàng và thoáng qua như cảm giác của một nụ hôn. Tôi ngẩng lên thì thấy khuôn mặt của một nữ yêu tinh khác. Cô ta thật xinh đẹp, với những đường nét lôi cuốn trái ngược nhau – miệng quá rộng so với khuôn mặt thanh tú, đôi mắt màu nâu sô-cô-la quá gần nhau lại có kích cỡ to lớn quá mức, mái tóc có màu quá sáng so với làn da màu mật ong.
“Tiến sĩ Bishop phải không?” Thứ trọng âm Australia của cô ta khiến sống lưng tôi buốt giá như bị những ngón tay lạnh lẽo lướt qua.
“Vâng,” tôi thì thầm đáp, liếc nhanh xuống cầu thang. Mái đầu đen của Miriam chẳng thấy tăm hơi đâu. “Tôi là Diana Bishop.”
Cô ta cười. “Tôi là Agatha Wilson. Và người bạn của cô ở tầng dưới không biết tôi có mặt ở đây đâu.”
Đó là một cái tên lỗi mốt không thích hợp với một người chỉ hơn tôi khoảng mười tuổi, và khá là sành điệu nữa. Dù vậy, tên cô ta nghe cũng quen quen, và tôi lờ mờ nhớ là đã nhìn thấy cái tên này trong một tờ tạp chí thời trang.
“Tôi có thể ngồi chứ?” cô ta hỏi, ra hiệu về chỗ ngồi vừa bỏ trống của nhà sử học nọ.
“Tất nhiên rồi,” tôi ậm ừ.
Hôm thứ Hai tôi đã gặp một con ma cà rồng. Ngày thứ Ba một phù thủy đã cố tìm cách len lỏi vào đầu tôi. Còn ngày thứ Tư, rõ ràng là ngày của yêu tinh rồi. Mặc dù họ đeo bám tôi khắp xung quanh trường, nhưng thậm chí hiểu biết của tôi về yêu tinh còn ít hơn là hiểu biết về ma cà rồng. Một vài người có vẻ thông thạo về các sinh vật này, còn dì Sarah chẳng bao giờ có thể trả lời các thắc mắc của tôi về yêu tinh cả. Theo như miêu tả của dì, thì yêu tinh được cấu thành như là một tầng lớp tội phạm dưới đáy nấc thang tiến hóa. Sự lanh lợi và óc sáng tạo thừa thãi có thể dẫn họ đi tới dối trá, trộm cắp, lừa đảo, và thậm chí là giết người, bởi vì họ cảm thấy mình có thể thoát ra khỏi những rắc rối đó. Thậm chí còn có nhiều sự phiền hà hơn nữa, theo như dì Sarah nói, tùy thuộc vào điều kiện sinh sống nơi họ được sinh ra. Không thể nói trước được nơi nào hay khi nào một yêu tinh xuất hiện, vì đặc thù cha mẹ họ có thể là con người. Đối với dì tôi thì đây chỉ là việc pha trộn các vị trí tồn tại bên lề nấc thang sinh tồn mà thôi. Dì quý trọng dòng dõi và truyền thống gia đình của một phù thủy, và dì không chấp nhận sự bất ổn ma quái.
Ban đầu Agatha Wilson hài lòng với việc ngồi lặng yên bên cạnh, quan sát tôi nhâm nhi tách trà. Thế rồi cô ta bắt đầu nói những ngôn từ như xoáy lốc làm tôi choáng váng. Dì Sarah thường bảo rằng nói chuyện với yêu tinh là điều không thể, vì họ thường bắt đầu ngay ở giữa câu chuyện.
“Bởi vậy một nguồn năng lượng mạnh mẽ chắc chắn sẽ hấp dẫn chúng ta,” cô ta nói không đầu không cuối, cứ như là tôi đã hỏi cô ta một câu gì đó vậy. “Các phù thủy ở Oxford trong lễ hội Mabon cứ nói huyên thuyên như thể thế gian này không có nhan nhản lũ ma cà rồng chuyên nghe lỏm mọi thứ ấy.” Cô ta im bặt. “Chúng tôi đã không dám tin là mình sẽ thấy lại nó một lần nữa.”
“Thấy gì cơ?” tôi khẽ hỏi.
“Cuốn sách,” cô ta hạ thấp giọng để giãi bày.
“Cuốn sách?” tôi nhắc lại, giọng chán nản.
“Phải. Sau những gì các phù thủy làm với nó, chúng tôi không dám nghĩ là mình còn được thấy nó lần nữa.”
Đôi mắt nữ yêu tinh chú ý vào một điểm ở giữa phòng. “Dĩ nhiên, cô cũng là một phù thủy. Có lẽ là sai lầm khi nói với cô. Dù tôi đã nghĩ cô cũng như tất các phù thủy có thể khám phá ra người xưa đã làm chuyện đó như thế nào. Và giờ thì có đây rồi,” cô ta nói vẻ buồn bã, giơ lên một tờ báo bị bỏ đi và đưa cho tôi.
Dòng tiêu đề nhạy cảm lập tức đập ngay vào mắt tôi: MA CÀ RỒNG THẢ RÔNG Ở LONDON. Tôi vội vàng đọc.
Cảnh sát thủ đô không có manh mối nào cho vụ giết hai người đàn ông gây hoang dư luận ở Westminster. Các thi thể này của Daniel Bennett, 22 tuổi, và Jason Enright 26 tuổi, được tìm thấy trong một ngõ hẻm đằng sau quán bar White Hart trên phố Alban vào sáng sớm Chủ nhật, do chính chủ quán – Reg Scott phát hiện. Cả hai người đàn ông đều bị tổn thương động mạch cảnh và vô số vết cắn trên cổ, hai cánh tay và thân người. Khám nghiệm pháp y cho biết mất máu ồ ạt là nguyên nhân dẫn đến cái chết, mặc dù tại hiện trường không hề tìm thấy vết máu nào.
Các cấp có thẩm quyền điều tra “những con ma cà rồng giết người” này - cư dân đã gán cho chúng cái tên như thế – đã tìm kiếm lời khuyên của Peter Knox, tác giả các cuốn sách bán chạy nhất về những điều huyền bí thời hiện đại, bao gồm cuốn Các vấn đề đen tối: Ác quỷ thời hiện đại và Pháp thuật lên ngôi: Cần phải dành chỗ cho sự Bí ẩn trong kỷ nguyên khoa học. Knox đã được các cơ quan điều tra trên toàn thế giới tới xin tư vấn cho các vụ bị nghi ngờ là giết người hàng loạt và giết người theo nghi thức ma quỷ.
“Không có bằng chứng nào cho thấy đây là những kẻ giết người theo nghi thức tôn giáo,” Knox nói với các phóng viên báo chí tại một cuộc họp báo. “Cũng không có gì cho thấy đây là một kẻ giết người hàng loạt cả,” ông ta thêm, bất chấp các án mạng tương tự của Christiana Nilsson ở Copenhagen mùa hè năm ngoái và Sergei Morozov ở St Petersburg vào mùa thu năm 2007. Nhấn mạnh thêm, Knox phán đoán rằng vụ án ở London có thể dính líu đến một hoặc những kẻ sát nhân thích bắt chước một cách mù quáng.
Nhưng những người dân lo ngại đã thành lập một đội tuần tra công cộng và cảnh sát địa phương đã phát động chiến dịch nhà nhà an toàn để trả lời cho các thắc mắc, đồng thời hỗ trợ và hướng dẫn người dân. Chính quyền khuyến cáo người dân London đề cao cảnh giác cho an toàn của họ, đặc biệt là về đêm.
“Đó chỉ là công việc của một biên tập báo cần kiếm ra một câu chuyện,” tôi nói, trả tờ báo lại cho nữ yêu tinh. “Cách nhấn mạnh này là để câu mồi cho nỗi sợ hãi của con người thôi.”
“Bọn họ ư?” cô ta hỏi, đưa mắt liếc quanh phòng. “Tôi không chắc đâu. Bọn họ chẳng bao giờ hiểu về ma cà rồng. Chúng chỉ cách loài vật một bước chân thôi.” Miệng Agatha Wilson kéo căng ra hết mức trong một biểu cảm chua chát. “Và cô nghĩ chúng tôi là những sinh vật không lường trước được. Cho dù bất cứ ai trong chúng ta cũng sẽ gặp nguy hiểm nếu khiến con người chú ý đến.”
Đây quả là cuộc trò chuyện quá mức về phù thủy và ma cà rồng ở giữa chốn công cộng thế này. Mặc dù, cậu sinh viên nọ vẫn đeo tai nghe, và tất cả các vị khách vãng lai khác đều đang đắm chìm trong những suy nghĩ riêng của họ hoặc tâm trí họ đang ở sát bên những người bạn cùng dùng bữa với mình.
“Tôi không biết bất kỳ điều gì về cuốn cổ thư hay về việc các phù thủy đã làm với nó, cô Wilson ạ. Tôi cũng không có nó đâu,” tôi vội nói, đề phòng trường hợp cô ta cũng nghĩ tôi có thể đã ăn cắp nó.
“Hãy gọi tôi là Agatha.” Cô ta tập trung nhìn vào hoa văn trên tấm thảm. “Lúc này thư viện đang giữ nó. Họ đã bảo cô trả lại nó à?”
Cô ta ám chỉ các phù thủy ư? Hay ma cà rồng? Hay thủ thư? Tôi chọn lựa các “bị can khả nghi nhất”.
“Phù thủy à?” tôi thì thầm.
Agatha gật đầu, ánh mắt cô ta phiêu du khắp căn phòng.
“Không. Khi tôi dùng nó xong, tôi chỉ đơn giản là trả lại nó về kho của thư viện thôi.”
“A, kho sách,” Agatha ranh mãnh nói. “Mọi người nghĩ thư viện chỉ là một tòa nhà thôi, nhưng nó không phải vậy.”
Một lần nữa tôi nhớ đến cơn rùng mình ma quái mà tôi đã cảm thấy sau khi Sean đặt cuốn cổ thư lên băng tải.
“Thư viện là thứ mà các phù thủy lúc nào cũng thèm muốn,” cô nàng tiếp tục. “Nhưng cuốn sách ấy không thuộc về các cô. Phù thủy không nên giành lấy quyền quyết định giữ nó ở đâu và ai là người được xem nó.”
“Có điều gì đặc biệt ở cuốn cổ thư này vậy?”
“Cuốn sách đó giải thích vì sao chúng ta có mặt ở đây,” cô ta nói, giọng nói dường như có phần tuyệt vọng. “Nó kể câu chuyện của chúng ta – mở đầu, đoạn giữa, thậm chí là kết thúc nữa. Yêu tinh chúng tôi cần hiểu vị trí của mình trong thế giới này. Nhu cầu của chúng tôi còn lớn hơn cả của phù thủy hay ma cà rồng nữa kia.” Lúc này cô ta đã không còn rối trí nữa. Cô ta giống như một chiếc camera thường xuyên bị mất tiêu điểm cho tới khi có ai đó đến và vặn lại ống kính vào đúng khớp thẳng hàng.
“Các vị biết vị trí của mình trong thế giới này mà,” tôi bắt đầu. “Có bốn loài sinh vật – con người, yêu tinh, ma cà rồng, và phù thủy.”
“Và yêu tinh đến từ đâu? Chúng tôi được tạo ra như thế nào? Tại sao chúng tôi lại ở đây?” Đôi mắt nâu của cô ta chớp chớp. “Các người có biết sức mạnh của mình đến từ đâu không? Cô biết không?”
“Không,” tôi thì thầm đáp, và lắc đầu.
“Không ai biết cả,” cô ta đăm chiêu nói. “Mỗi ngày chúng tôi đều băn khoăn tự hỏi. Ban đầu con người nghĩ yêu tinh là các thiên thần hộ mệnh. Sau đó họ tin chúng tôi là các vị thần, tạo ra trái đất và tội lỗi từ những đam mê của chính chúng tôi. Con người ghét chúng tôi bởi vì chúng tôi khác biệt, họ bỏ rơi những đứa con của họ nếu chúng là những yêu tinh. Họ buộc tội chúng tôi chiếm giữ linh hồn họ và khiến họ điên cuồng mất trí. Yêu tinh thông minh nổi bật khác thường nhưng chúng tôi không sa đọa, xấu xa – không giống như ma cà rồng.” Giọng cô ta giờ đây rõ ràng đang giận dữ, mặc dù nó chẳng bao giờ to hơn tiếng lầm bầm trong miệng. “Chúng tôi chẳng bao giờ khiến ai điên loạn cả. Thậm chí còn hơn cả phù thủy, chúng tôi chính là nạn nhân của nỗi sợ hãi và lòng đố kỵ của loài người.”
“Phù thủy cũng có những truyền thuyết xấu xa mà họ phải chịu đựng và đấu tranh đấy chứ,” tôi nói, lòng nghĩ đến những cuộc săn lùng phù thủy và các cuộc hành quyết tiếp nối sau đó.
“Phù thủy sinh ra phù thủy. Ma cà rồng tạo ra các ma cà rồng khác. Các người có những câu chuyện gia đình và ký ức để an ủi khi thấy cô đơn hay mất phương hướng. Chúng tôi chẳng có gì ngoài những câu chuyện cổ tích được loài người kể lại. Không nghi ngờ gì khi có quá nhiều yêu tinh bị loạn trí như thế. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là được lướt qua các yêu tinh khác một ngày nào đó và biết rằng chúng tôi giống họ. Con trai tôi là một trong những kẻ may mắn. Nathaniel có một người mẹ là yêu tinh, một người có thể thấy được các dấu hiệu và giúp nó hiểu được đó là gì.” Cô ta nhìn ra hướng khác một lúc để lấy lại bình tĩnh. Khi ánh mắt cô ta và tôi gặp nhau lần nữa, chúng trông thật buồn. “Có thể con người nói đúng. Có thể chúng tôi bị ma quỷ ám. Tôi thấy những thứ ấy, Diana ạ. Những điều tôi không nên thấy.”
Yêu tinh có thể là những kẻ nhìn xa trông rộng. Ai biết được liệu những gì họ thấy có đáng tin cậy không - giống như những hình ảnh mà phù thủy có?
“Tôi nhìn thấy máu và nỗi sợ hãi. Tôi thấy cô,” cô ta nói, đôi mắt lại thất thần. “Đôi lúc tôi thấy gã ma cà rồng đó. Hắn ta muốn cuốn sách này từ lâu lắm rồi. Nhưng thay vào đó hắn đã tìm thấy cô. Sự hiếu kỳ.”
“Tại sao Matthew Clairmont lại muốn cuốn sách ấy?”
Agatha rùng mình. “Ma cà rồng và phù thủy không chia sẻ suy nghĩ với chúng tôi, thậm chí cả khi gã ma cà rồng của cô có nói cho chúng tôi điều hắn biết, và dù cho hắn thích yêu tinh hơn hầu hết đồng loại của hắn. Quá nhiều bí mật, và quá nhiều con người thông minh ngày nay. Họ sẽ phát hiện ra nếu chúng ta không cẩn thận. Loài người thích sức mạnh – và cũng thích những bí mật.”
“Anh ta không phải là gã ma cà rồng của tôi.” Tôi đỏ mặt.
“Cô chắc chứ?” cô ta hỏi, mắt nhìn chăm chăm vào màu vàng crom trên chiếc máy pha cà phê như thể đó là một tấm gương phép thuật vậy.
“Chắc,” tôi đáp ngay.
“Một cuốn sách nhỏ có thể nắm giữ một bí mật lớn – thứ có thể thay đổi cả thế giới. Cô là một phù thủy. Cô biết ngôn ngữ có sức mạnh của nó. Và nếu gã ma cà rồng của cô biết bí mật này, hắn sẽ không cần cô nữa đâu.” Đôi mắt nâu của Agatha lúc này đầy thương cảm và ấm áp.
“Matthew Clairmont có thể tự mình yêu cầu lấy cuốn cổ thư nếu anh ta muốn nó đến thế.” Ý nghĩ hắn ta có thể đang làm việc đó ngay lúc này khiến tôi thấy ớn lạnh một cách khó hiểu.
“Khi cô lấy lại nó,” cô ta nài nỉ, tóm chặt lấy cánh tay tôi, “hãy hứa với tôi rằng phù thủy các cô không phải là người duy nhất cần biết các bí mật của nó nhé. Yêu tinh cũng là một phần của câu chuyện. Hứa với tôi đi.”
Tôi cảm thấy một cơn hoảng hốt thoảng qua trong cái đụng chạm của cô ta, và đột nhiên cảm giác được hơi nóng của căn phòng cùng sức ép của mọi người trong đó. Theo bản năng tôi tìm kiếm một lối thoát gần nhất trong khi tập trung vào nhịp thở của mình, cố kềm nén những biểu hiện đầu tiên của phản ứng hoảng sợ. “Tôi hứa,” tôi do dự lầm bẩm đáp, không chắc điều mình đang đồng ý là gì.
“Tốt,” cô ta lơ đãng nói, rồi thả cánh tay tôi ra. Đôi mắt cô ta lại lơ đãng phiêu du. “Cô thật tốt vì đã nói chuyện với tôi.” Agatha lại một lần nữa nhìn chăm chú xuống tấm thảm. “Chúng ta sẽ gặp lại nhau. Hãy nhớ nhé, một vài lời hứa quan trọng hơn những lời hứa khác đấy.”
Tôi thả chiếc ấm và tách trà vào cái khay nhựa màu xám đựng rác rồi vứt cái túi đựng bánh sandwich đi. Khi tôi ngoái lại liếc nhìn, Agatha đang đọc mục thể thao trên tờ nhật báo London nhà sử học bỏ lại. Trên đường ra khỏi Blackwell, tôi không thấy Miriam đâu, nhưng tôi có thể cảm thấy ánh mắt của cô ta.
Khu Selden End đã đầy những con người bình thường trong khi tôi ra ngoài, tất cả bọn họ đều đang bận rộn với công việc và hoàn toàn mù tịt trước cái hội nghị những sinh vật khác người đang ở quanh họ. Thật ghen tị với sự ngu dốt của họ, tôi cầm một cuốn cổ thư lên, quyết tâm tập trung, nhưng thay vì thế tôi lại thấy tâm trí mình đang suy nghĩ về cuộc trò chuyện ở Blackwell và các sự kiện trong mấy ngày qua. Ở mức độ trực diện thì những hình ảnh minh họa trong Ashmole 782 dường như không liên quan gì tới những điều Agatha Wilson vừa nói. Và nếu Matthew Clairmont cùng nữ yêu tinh này quá quan tâm tới cuốn cổ thư ấy đến vậy, thì tại sao họ không yêu cầu mượn nó?
Tôi nhắm mắt, nhớ lại những chi tiết trong cuộc đối mặt với cuốn cổ thư và cố gắng tạo ra phông nền nào đó cho các sự kiện mấy ngày qua bằng cách làm cho tâm trí mình trống rỗng và tưởng tượng ra vấn đề như là một trò chơi ghép hình trên một chiếc bàn trắng tinh, rồi sau đó sắp xếp lại các hình khối có màu sắc vào. Nhưng cho dù ở chỗ nào đi nữa, vẫn chẳng có hình ảnh nào hiện lên rõ ràng cả. Nản chí, tôi đẩy cái ghế bành ra khỏi bàn và đi về phía lối ra.
“Cậu có mượn quyển nào nữa không?” Sean hỏi khi anh chàng nhận mấy cuốn cổ thư từ tay tôi. Tôi đưa cho anh ta một tệp phiếu yêu cầu vừa mới điền vào. Anh chàng mỉm cười trước độ dày của tệp phiếu đó nhưng chẳng nói lời nào.
Trước khi rời đi, tôi cần làm hai việc. Đầu tiên là vấn đề xã giao lịch sự đơn giản thôi. Tôi không chắc bọn họ làm thế nào, nhưng những ma cà rồng này đã giữ cho tôi khỏi bị quẫn trí trước một dòng bất tận các sinh vật khác ở khu Selden End. Phù thủy và ma cà rồng không thường có cơ hội để cảm ơn nhau, nhưng Clairmont đã bảo vệ tôi hai lần trong hai ngày qua. Tôi không muốn là kẻ vô ơn, hoặc có đức tin mù quáng như dì Sarah và bạn bè của dì ở hội đồng phù thủy Madison.
“Giáo sư Clairmont?”
Gã ma cà rồng ngước nhìn lên.
“Cảm ơn anh,” tôi nói một cách giản dị, bắt gặp cái nhìn chòng chọc của hắn và giữ nguyên cho đến khi hắn phải quay nhìn đi nơi khác.
“Không có gì,” hắn lẩm bẩm, vẻ ngạc nhiên trong giọng nói.
Việc thứ hai được suy tính kỹ càng hơn. Nếu Matthew Clairmont cần tôi, thì tôi cũng cần hắn. Tôi muốn hắn cho tôi biết tại sao Ashmole 782 lại thu hút sự chú ý nhiều đến thế.
“Có lẽ anh nên gọi tôi là Diana,” tôi nói nhanh, trước khi lại mất tinh thần.
Matthew Clairmont mỉm cười.
Tim tôi ngừng đập trong một phần mấy giây. Đây không phải làm một nụ cười mỉm lịch sự mà giờ tôi đã quen thấy. Đôi môi hắn nhoẻn lên, khiến toàn bộ khuôn mặt rạng rỡ hẳn. Chúa ơn, hắn đẹp quá, tôi lại thầm nghĩ, thoáng chút sững sờ.
“Được thôi,” hắn nhẹ nhàng đáp, “nhưng thế thì cô cũng phải gọi tôi là Matthew.”
Tôi gật đầu đồng ý, tim vẫn đập ngắt quãng thất thường. Có thứ gì đó lan tỏa khắp thân thể tôi, nới lỏng hết dấu vết băn khoăn lo lắng còn vương lại sau cuộc gặp gỡ không mong đợi với Agatha Wilson.
Mũi Matthew hơi hếch lên nhạy bén. Nụ cười của hắn rộng mở hơn. Cho dù cơ thể tôi đang phản ứng thế nào, hắn đã đánh hơi thấy cả. Còn gì nữa, hắn đã nhận ra điều đó rồi.
Tôi đỏ cả mặt.
“Chúc một buổi tối vui vẻ, Diana.” Giọng hắn nấn ná chỗ tên tôi, làm nó nghe thật khêu gợi và lạ lẫm.
“Chúc ngủ ngon, Matthew,” tôi đáp lại, yếu thế rút lui vội vàng.
Hôm ấy, chèo thuyền trên con sông vắng lặng lúc trời chiều chạng vạng, tôi thấy có một cái bóng mờ màu khói thấp thoáng trên con đường chạy song song với dòng sông, luôn luôn ở phía trước tôi một chút, giống như một ngôi sao tối sẫm đang dẫn lối tôi về.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro