Quyền lực
Vấn đề quyền lực và kiểmsoát quyền lực
Quyền lực là quyền hạn được giao cho một chức vụ chính thức do một nhà lãnh đạo có thẩm quyền quyết định. Hay nói cách khác, quyền lực là một hình thức hợp pháp của ai đó được phê chuẩn chính thức và dự liệu trước.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
"Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu quyền lực đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương do dân tổ chức ra. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [47, tr. 698].
Luận điểm trên thể hiện những vấn đề căn bản nhất đó là: Nhà nước do dân thiết lập và trao quyền lực, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực nhà nước. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước, trong đó có độc quyền bộ máy cưỡng chế, trấn áp và hệ thống quy phạm pháp luật.
Được sự ủy quyền của toàn thể nhân dân, nhà nước trở thành một bộ máy có quyền lực rất lớn, độc lập với xã hội. Trong xã hội có giai cấp khi quyền lực nhà nước không được kiểm soát, nhà nước sẽ là cơ quan đứng trên xã hội, xa lạ với xã hội, trở thành một lực lượng ăn bám xã hội, trong nhiều thời kỳ nhà nước trở thành lực lượng cản trở sự phát triển của xã hội.
ở nước ta hiện nay, ở nơi này, nơi khác đã xuất hiện nguy cơ Đảng và Nhà nước không còn là của dân, với những biểu hiện là một số cán bộ công chức nắm quyền lực được nhân dân ủy thác lại xa dân, xa cấp dưới, xa cơ sở, không chủ động phục vụ nhân dân vô điều kiện mà chỉ lo làm ăn phát tài, lo thăng quan tiến chức, đánh mất bản chất cách mạng chân chính của mình.
Một số tài sản quốc gia và của nhân dân bị bọn tham nhũng những kẻ vô trách nhiệm phần lớn là nắm quyền lực chiếm đoạt và làm thất thoát. Có những vụ ăn cắp tài sản quốc gia hàng ngàn tỷ đồng, một số không ít nắm quyền lực nhà nước đã và đang tiếp tục làm giàu bất chính, gây hậu quả xấu cho xã hội, làm suy yếu mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân.
Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng ấy là do quyền lực nhà nước mà biểu hiện cụ thể là một số kẻ có chức, có quyền đã lạm dụng quyền lực nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng. Nói cách khác là quyền lực nhà nước không được kiểm soát đầy đủ.
Bên cạnh đó, khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì tổ chức và hoạt động của bộ máy quyền lực nhà nước nói chung, các thể chế kiểm soát (kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tài phán, giám sát) quyền lực nhà nước nói riêng từ Trung ương đến cơ sở có nhiều điểm bất cập như sự chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể và cá nhân chưa được chế định chặt chẽ.
Xảy ra tình trạng tập trung quá mức ở Trung ương, vừa phân tán, cục bộ ở các cấp, các ngành.
Như vậy, quyền lực nhà nước ở nước ta có biểu hiện là không được kiểm soát tốt cả từ trên xuống và từ dưới lên, từ bên trong các tổ chức nhà nước và từ bên ngoài xã hội.
Do đó, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta đã trở thành yêu cầu cấp bách, đòi hỏi phải được giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đồng thời đề ra các giải pháp tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, góp phần vào việc chống tha hóa quyền lực, đẩy mạnh thực hành dân chủ trong xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, của nhà nước trong chế độ chính trị XHCN của chúng ta. Vì vậy tôi chọn: "Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói, vấn đề kiểm soát quyền lực trong chính trị học thế giới, mà đặc biệt là chính trị học phương Tây là vấn đề rõ ràng về lý thuyết và thực tế. Những nghiên cứu cụ thể chỉ nhằm tìm hiểu những phương thức kiểm soát cụ thể khác nhau. ở nước ta thì đây lại là vấn đề rất mới mẻ, còn chưa có nhận thức thống nhất. Vì vậy cho đến nay, các nghiên cứu chuyên sâu về kiểm soát quyền lực ở nước ta không nhiều. Phần lớn lại được "tổng kết" từ các hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND), các hoạt động thanh tra nhà nước, kiểm tra Đảng v.v...
Đã có một số đề tài cử nhân chính trị, thạc sĩ khoa học đề cập đến từng lĩnh vực cụ thể của công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước ta ở cả cấp Trung ương và tỉnh, thành. Một số công trình như "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" của Bộ Tư pháp, "Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta hiện nay" của Khoa Nhà nước và Pháp luật (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) cũng đã đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực.
Các nghiên cứu này xuất phát từ cách tiếp cận và phương pháp luật học (khoa học pháp lý) đã phân tích từng hoạt động cụ thể của việc thực hiện các chức năng như giám sát của Quốc hội và HĐND, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), thanh tra, kiểm tra của Chính phủ... Những công trình này đã đưa ra được các đánh giá khái quát, các giải pháp mang tính định hướng chung của việc kiểm soát quyền lực, nhưng chưa đi sâu luận chứng hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.
Đề tài mà tác giả chọn tập trung đi sâu vào hệ thống tổ chức và hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa một cách khái quát các quan điểm, lý thuyết, các khái niệm, phạm trù và thành tựu khoa học trong và ngoài nước về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Về mặt lý luận, làm rõ tính tất yếu khách quan, những yêu cầu thực tế và khả năng thực hiện việc kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Quá trình tổ chức, thực thi và kiểm soát quyền lực của các cơ quan nhà nước ở nước ta: bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, chính quyền địa phương.
-Tổ chức và hoạt động của Đảng, các đoàn thể nhân dân trong quá trình thực hiện dân chủ và tham gia kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
- Nhà nước vừa là người thực thi quyền lực, vừa là người kiểm soát và là đối tượng chịu sự kiểm soát. Luận văn sẽ nghiên cứu hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách chủ thể kiểm soát và cả đối tượng bị kiểm soát.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và thực thi quyền lực nhà nước, về công tác kiểm tra, kiểm soát.
- Vận dụng lý luận về kiểm soát quyền lực của các nhà tư tưởng chính trị trên thế giới, đặc biệt là các tư tưởng thời đại khai sáng về tổ chức quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử, lôgic, phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn và một số phương pháp chuyên ngành và liên ngành khác.
6. Cái mới và ý nghĩa của luận văn
Đưa ra kiến giải bước đầu về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. từ cơ chế, hoàn thiện cơ chế; phương thức hoạt động, đến việc xác định khâu đột phá trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
ý nghĩa của luận văn:
- Góp phần nâng cao nhận thức về tính tất yếu của việc kiểm soát quyền lực ở nhà nước ta hiện nay.
- Bước đầu cung cấp những kiến giải có tính học thuật về kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Trên cơ sở mô tả thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước, luận văn đưa ra những dự báo và kiến nghị về nguy cơ quyền lực không được kiểm soát. Nhờ vậy mà luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các nhà hoạt động chính trị xã hội trong thực tiễn đồng thời góp phần nâng cao văn hóa chính trị cho người đọc. Những giải pháp mà luận văn đưa ra có thể được áp dụng trong thực tiễn góp phần hạn chế tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước, đẩy mạnh thực thi dân chủ trong xã hội chúng ta nhằm làm cho quyền lực nhà nước được thực hiện khoa học, hiệu lực,
hiệu quả, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Kiểm soát quyền lực nhà nước
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
1.1. Kiểm soát quyền lực là yêu cầu tất yếu khách quan
1.1.1. Khái niệm quyền lực nhà nước - kiểm soát quyền lực nhà nước
- Quyền lực Nhà nước:
Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, xuất hiện từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những giai cấp đối kháng.
Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị và là trung tâm của quyền lực chính trị, được hình thành thông qua cuộc đấu tranh chính trị, nhằm giành quyền tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng thống trị xã hội.
Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có việc tổ chức và việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời còn được bảo đảm bằng các phương tiện độc quyền như luật pháp, và bộ máy cưỡng chế chuyên nghiệp quân đội, cảnh sát, nhà tù...
ở đây cần thấy rằng, quyền lực nhà nước mang tính chính trị, nhưng không phải
mọi quyền lực chính trị đều là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị rộng hơn, đa
dạng hơn về phương thức thực hiện cũng như hình thức thể hiện, có nhiều cấp độ hơn về
cơ cấu của chủ thể quyền lực.
Sự thay đổi vai trò vị trí của các giai cấp trong đời sống sản xuất xã hội sẽ dẫn tới
việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác, dẫn tới thay
đổi căn bản tính chất của quyền lực nhà nước, phương thức cầm quyền, các quan hệ
chính trị, các thể chế chính trị và hệ thống chính trị. Các cơ quan nhà nước thực chất là
các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, được các giai cấp và lực lượng xã hội (còn gọi
là nhân dân) trao quyền cho mà thôi. Tuy nhiên, do những hình thức ủy quyền và kiểm
soát quyền lực nhà nước khác nhau, nên nhiều lúc quan hệ giữa người có chủ quyền và
người được ủy quyền bị tha hóa, xuyên tạc.
Quyền lực nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội (CNXH) có những điểm khác biệt so
với quyền lực nhà nước trong các xã hội trước đó ở chỗ nhà nước XHCN là nhà nước
chuyên chính của giai cấp công nhân. Nhưng lợi ích căn bản của giai cấp công nhân là
thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Nên quyền lực nhà nước dưới
CNXH đã có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội, giữa tính chính trị với tính
công quyền. Trong các kiểu nhà nước khác, đặc biệt là nhà nước quân chủ chuyên chế,
giữa chức năng giai cấp đối lập với chức năng xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị đối lập
với lợi ích quảng đại quần chúng.
Trong nền dân chủ XHCN, chức năng giai cấp và chức năng xã hội tạo thành một
thể thống nhất, trở thành điều kiện và tiền đề hoàn thiện cho nhau.
ở Việt Nam, các bản hiến pháp đều nhất quán khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Tại Điều 1 Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định rõ:
"Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo giai cấp, tôn giáo". Tư tưởng nhất quán này đều được thể hiện
qua Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Tại Điều 2 và Điều 6 Hiến
pháp 1992 thì "Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức", "nhân dân sử dụng quyền
lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân".
Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan trong bộ máy, với những con người cụ thể trong bộ máy ấy. Vì vậy, việc thực thi quyền lực cụ thể phụ thuộc vào phương thức tổ chức bộ máy nhà nước và con người trong bộ máy ấy. Nếu như người cầm quyền được trao quyền, không biết thực thi quyền lực cho đúng, hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích vụ lợi thì sức mạnh của quyền lực nhà nước sẽ gây nguy hiểm cho xã hội. Vì thế muốn có một xã hội tốt đẹp, quyền tự do con người được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng hành sai phạm vô ý thức hoặc có ý thức của nhà nước thì phải có cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát hoạt động của công chức, viên chức nhà nước. Đây là một yêu cầu tất yếu trong tổ chức và hoạt động của một nhà nước dân chủ, kể cả trong nền dân chủ XHCN của chúng ta.
- Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước: là hoạt động có chủ đích của nhànước và xã hội, với tổng thể những phương tiện tổ chức và pháp lý thông qua các hình thức hoạt động như giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, kiểm toán, tài phán nhằm hạn chế nguy cơ sai phạm cũng như những hành vi lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán của cơ quan quyền lực nhà nước và của công chức nhà nước. Đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, khoa học, hiệu lực và hiệu quả.
1
.1.2. Cơ sở khoa học của việc kiểm soát quyền lực nhà nước
- Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực nhà nước không bị lạm dụng, ngăn chặn các hiện tượng, xu hướng, quan liêu, độc tài, chuyên quyền, độc đoán trong bộ máy nhà nước, không bị sử dụng trái với ý chí của nhân dân.
Khi quyền lực càng tập trung, thì khả năng kiểm soát nó càng khó. Nếu không có sự kiểm soát tốt nó trở thành bức rào cản của tự do và dân chủ, kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Xã hội càng phát triển, quyền lực của nhà nước càng lớn thì yêu cầu của kiểm soát quyền lực nhà nước tăng lên. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại các hệ thống kiểm soát quyền lực khác nhau đó là:
Hệ thống kiểm soát quyền lực của nhà nước với tư cách là một kết cấu phân cấp, phân quyền quyền lực công.
Hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức, thiết chế chính trị xã hội.
Hệ thống kiểm soát quyền lực nhà nước của các cá nhân công dân thành viên xã hội.
Mỗi hệ thống trên có nhiều bộ phận khác nhau với những phương thức thực hiện khác nhau.
- Quyền lực nhà nước có thể được kiểm soát thông qua hai yếu tố: Quá trình tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các bộ phận của nhà nước có khả năng kiểm soát lẫn nhau và hoạt động của các hệ thống kiểm soát quyền lực từ bên trong và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Tổ chức là cách thức tạo lập và xây dựng hệ thống quyền lực, các bộ phận cấu thành quyền lực, giới hạn chức năng của từng bộ phận, mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận quyền lực, trình tự, thủ tục thực hiện quyền lực. Hệ thống kiểm soát quyền lực là hệ thống kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện quyền lực. Các hình thức phản biện từ phía các chủ thể khác nhau của hệ thống chính trị, các biện pháp xử lý nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong việc sử dụng quyền lực nhà nước. Xét một cách tổng quát yếu tố tổ chức có ý nghĩa quan trọng nhất, bởi vì đây là khởi điểm cho việc sử dụng cũng như kiểm soát quyền lực.
Trong các xã hội bóc lột trước đây, nhà nước xuất hiện từ xã hội, trở thành lực lượng tách rời xã hội, đứng trên xã hội, do đó nó có nguy cơ thoát ly khỏi sự kiểm soát của của nhân dân. Mặc dù, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Như thế trong xã hội có giai cấp đối kháng, nhân dân có rất ít khả năng thực tế tham gia vào việc tổ chức quyền lực nhà nước, để từ đó kiểm soát được quyền lực. Việc kiểm soát quyền lực này thực tế phụ thuộc trước hết là vào cấu trúc quyền lực của nó. Một cấu trúc có thể cho phép tồn tại sự kiểm soát, sau đó là năng lực kiểm soát của các chủ thể khác. Chế độ tập quyền chuyên chế kéo dài suốt thời kỳ trung cổ thực sự là mảnh đất cho sự lộng hành, cản trở sự phát triển xã hội. Để xóa bỏ rào cản đi đến tự do, dân chủ đã buộc các nhà tư tưởng phải tìm ra các giải pháp cho sự tiến bộ xã hội, học thuyết phân quyền mà trường phái khai sáng đề xướng đến nay vẫn là những chỉ dẫn cho việc kiểm soát quyền lực ở các quốc gia mà nhà nước chưa thực sự là của dân, nhân dân chưa có đủ điều kiện để kiểm soát hữu hiệu quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực từ tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân quyền có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: Sự phân ra rành mạnh về chức năng và nhân sự, cùng với cơ chế kìm chế, đối trọng vừa có tác dụng đề cao trách nhiệm cá nhân, tính độc lập sáng tạo của cá nhân trong thực thi quyền lực nhà nước vừa hạn chế khả năng lạm quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát giác sự lạm quyền.
Thứ hai: ở mức độ nhất định cơ chế phân quyền đảm bảo tính độc lập của cơ quan xét xử.
Thứ ba: Cơ chế kìm chế đối trọng là một trong những đảm bảo (ở mức độ nhất định) hiệu lực của hiến pháp.
Xuất phát từ ưu điểm trên đây, các nước tư bản hiện đại đã áp dụng học thuyết phân chia quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước của mình và coi đó là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất, có ý nghĩa cơ sở để đảm bảo dân chủ, tự do, bình đẳng xã hội.
Tuy nhiên cũng cần nói rằng, mặt trái của phân quyền là tranh giành, chia rẽ phân tán quyền lực nếu không được kiểm soát tốt. Vì vậy, phân quyền vừa có mục đích kiểm soát quyền lực vừa phải kiểm soát cả sự phân quyền và thực thi quyền lực trong cơ chế phân quyền.
- Dưới chế độ XHCN, về nguyên tắc nhân dân có toàn quyền quyết định đối với quyền lực nhà nước, có toàn quyền kiểm soát quyền lực đó. Thế nhưng các nguyên tắc đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi có một cơ chế tổ chức và thực hiện khả thi quyền lực nhà nước từ phía nhân dân. Nhân dân, với tư cách là người chủ của quyền lực, có quyền và cần thiết phải thực hiện sự kiểm soát như vậy nhằm đảm bảo quyền lực được thiết lập và thực hiện vì lợi ích của nhân dân và xã hội. ở đây sự kiểm soát quyền lực có sự khác biệt về chất so với sự kiểm soát quyền lực của nhân dân trong xã hội tư sản. Nhân dân kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm đảm bảo quyền lực không bị lạm dụng, mà còn đảm bảo khả năng nhân dân thay đổi quyền lực đó cả về nội dung, hình thức, phương thức thực hiện nếu thấy cần thiết. Việc yêu cầu nhân dân kiểm soát một cách toàn diện và ngày càng đầy đủ hơn quyền lực nhà nước, đòi hỏi nhà nước XHCN phải đảm bảo tổ
chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân thông qua những người đại diện của mình có thể kiểm soát toàn bộ quyền lực nhà nước.
1.1.3. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử tư tưởng chính trị
Việc kiểm soát quyền lực có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có ít nhất là hai xuất phát điểm cơ bản: từ lợi ích của những người nắm giữ quyền lực và từ lợi ích của những người chịu tác động quyền lực. Thực tiễn lịch sử cho thấy các chủ thể nắm quyền lực thường có xu hướng lạm quyền, sử dụng quyền lực được trao để mưu tính lợi ích khu biệt, cá nhân. Ngay từ thời cổ đại cho đến ngày nay việc nghiên cứu về kiểm soát quyền lực đã được đề cập đến ở các mức độ khác nhau trong lịch sử tư tưởng chính trị cả phương Đông và phương Tây. Nhằm đưa ra những kiến giải để kiểm soát quyền lực khi quyền lực được trao cho chủ thể nắm quyền.
1.1.3.1. Các nhà tư tưởng cổ đại
- Phương Đông
Tư tưởng về quyền lực chính trị và kiểm soát quyền lực cai trị đáng chú ý nhất
trong trường phái pháp trị Trung Hoa cổ đại, được biểu hiện trong tác phẩm của Hàn Phi
Tử, một "Tập đại thành" gói trọn kinh điển pháp gia. Trong xã hội phong kiến chuyên
chế phương Đông, vua thâu tóm mọi quyền lực nhà nước cả quyền hành pháp, lập pháp
và tư pháp, tức vận mệnh của đất nước đặt cược vào trong tay một con người. Việc kiểm
soát quyền lực từ trên xuống của nhà vua là khá chặt chẽ, để chống lại sự phản kháng của
dân chúng và sự mưu lợi ích riêng của đội ngũ quan lại, nhằm mục đích bảo vệ chế độ
chính trị quân chủ chuyên chế, đem lợi ích cho vua và giai cấp thống trị. Thực hiện mục
tiêu đó, các nhà pháp trị đặc biệt là Hàn Phi Tử đã không ngừng tìm tòi, khám phá kế
thừa và phát triển những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng pháp trị, để hình thành những
quan điểm và nguyên tắc pháp lý tương đối hoàn chỉnh thông qua hệ thống pháp luật
nhằm kiểm soát việc thực thi quyền lực của đội ngũ quan lại trong hệ thống chính quyền
nhà nước chuyên chế.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là một hệ thống quan điểm về pháp - thế thuật, lấy pháp làm nội dung cai trị gồm những đặc trưng cơ bản: 1- Pháp là pháp luật
thành văn của quốc gia, gồm những điều luật, luật lệ, quy định mang tính nguyên tắc
được biên soạn rõ ràng minh bạch như khuôn mẫu, được chép trong đồ thư và bày ra ở
nơi quan phủ, ban bố rộng rãi cho dân chúng biết việc gì làm được và việc gì không làm
được. 2- Nội dung và các hình thức thưởng phạt. 3- Mục đích thức hiện pháp là:
Để chữa cái loạn của dân chúng, trừ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho
kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già
được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau, lại không mắc
phải cái lo bị giết chóc hay bị giặc bắt cầm tù, đó cũng là cái công hết sức lớn
[55, tr. 130].
Như vậy, pháp luật được Hàn Phi xem là tiêu chuẩn để phân biệt đúng - sai,
chính tà, là phương tiện của người cầm quyền dùng để điều khiển đất nước. Theo Hàn
Phi chỉ có pháp luật mới làm cho nước trị: "Cái làm cho trị an là pháp luật, cái gây ra
loạn là sự riêng tư. Pháp luật đã thiết lập rồi thì không ai có thể làm điều riêng tư được
nữa" [55, tr. 500].
Điều này cho thấy, pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu quan trọng nhất trong
của bình ổn xã hội kể cả đối với đội ngũ quan lại không thể dùng quyền lực nhà nước do
vua trao mà mưu lợi ích riêng được. Đây cũng là điểm rất quan trọng mà từ xưa đến nay
nhân loại vẫn chưa giải quyết được một cách thỏa đáng; mâu thuẫn công và tư, trung với
hiếu, danh và thực trong đời sống con người. Cho nên trị nước phải coi trọng pháp luật,
thưởng phạt phải nghiêm minh, pháp luật là công cụ của các đế vương khi thực thi quyền
lực, để cai trị đất nước và nó đã đáp ứng được yêu cầu xây dựng một nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền mạnh.
- Các nhà tư tưởng cổ đại phương Tây
Không chỉ có trong các nhà nước đương đại mà đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại,
ở Aten vào năm 461 TCN dưới chính quyền Pericles, Hội nghị nhân dân - cơ quan có
chức năng tương tự như cơ quan lập pháp ngày nay, mỗi năm phải họp ít nhất 10 lần và
trong hội nghị, theo thủ tục bao giờ dân chúng cũng được mời biểu quyết chấp thuận hay
khiển trách các viên chức của họ. Nếu khiển trách thì tiếp theo sẽ có cuộc truy tố trước
tòa án; tương tự như một thủ tục bãi nhiệm; khi đến cuối năm mỗi viên chức phải tường
trình trước một ủy ban đặc biệt về tiền công quỹ mà họ là người thu, người giữ, hay
người chi tiêu. Đây là hình thức ban đầu sơ khai của sự kiểm soát của nhân dân đối với
việc thực hiện quyền lực nhà nước, sự kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với các nhân
viên nhà nước.
- Bước chuyển sang chế độ phong kiến cũng đồng thời đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong tổ chức quyền lực xã hội. Toàn bộ quyền lực từ quyền lập pháp, hành pháp đến quyền tư pháp đều tập trung vào một người là nhà vua. Do không có cơ chế kiểm soát, quyền lực xã hội phong kiến chìm đắm trong sự độc đoán chuyên quyền, còn gọi là "đêm dài trung cổ".
- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, quyền lực nhà nước (quyền hành pháp, quyền lập pháp, quyền tư pháp) đều nằm trong tay một nhà quân chủ. Nhà nước quân chủ chuyên chế - quyền lực của nhà vua là vô hạn. Cách tổ chức quyền lực chuyên chế dẫn đến sự lạm quyền, và tùy tiện.
Trong điều kiện đó, hệ tư tưởng giải phóng để phát triển của cuộc cách mạng tư sản mà cốt lõi là học thuyết về quyền tự nhiên, chủ nghĩa lập hiến và chế độ đại nghị.... đánh dấu bước tiến mới trên con đường giành dân chủ.
Các Mác có một nhận xét rất xác đáng về chế độ đó rằng: Sự tùy tiện là quyền lực của vua, hay quyền lực của vua là sự tùy tiện.
Để chống lại chế độ chuyên quyền, độc đoán đó ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện tư tưởng phân quyền. ở những mức độ khác nhau. Đại biểu của những tư tưởng ấy là Platôn (427 - 347 TCN) và Arixtôt (384 - 322 TCN). Aristôt quan niệm hình thức nhà nước phụ thuộc vào cách tổ chức quyền lực chính trị. Nhà nước là một thể thống nhất được tạo bởi ba bộ phận độc lập. Cơ quan nghị luận (làm luật), cơ quan chấp hành (hành chính), cơ quan xét xử, trong đó cơ quan làm luật
giữ vị trí vai trò chủ đạo, bởi lẽ ông quan niệm luật thống trị tất cả, các cơ quan hành chính không có quyền đó mà chỉ cụ thể hóa luật và thực thi pháp luật.
Như vậy, tư tưởng phân quyền thời cổ đại chỉ là phân công lao động, phân công
chức năng, thẩm quyền giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước. Việc thực hiện nhiệm vụ nhà
nước theo chức năng, tự nó đã có sự giám sát quyền lực.
Platôn cho rằng, nguyên tắc cơ bản của xã hội lý tưởng là chính trị phân giải thành pháp lý, hành chính, tư pháp và ngoại giao. Song tất cả các yếu tố đó phải được
thống nhất bởi chính trị. Tức là phân công lao động trong bộ máy nhà nước là cần thiết, hoạtđộng của nhà nước như lập pháp, hành pháp, tư pháp cùng nhằm vào một đối tượng,
nhưng đồng thời chúng có khác nhau.
Một nhà nước lý tưởng, nhà nước đó phải được cầm quyền bởi sự thông thái; có sự phân công lao động giữa các tầng lớp người khác nhau. Nhà nước đó gồm ba tầng lớp (giai cấp) cơ bản:
Tầng lớp các pháp quan là những người có lý trí, có vai trò cai trị thành bang.
Tầng lớp chiến binh là những người có sức mạnh bảo vệ thành bang.
Tầng lớp nông dân, thợ thủ công là những người nặng về đời sống nhục cảm, có trách nhiệm cung cấp đồ ăn, vật dụng cho thành bang.
1.1.3.2. Các nhà tư tưởng thời cận đại
Các nhà tư tưởng thời cận đại đã kế thừa tư tưởng phân quyền về kiểm soát
quyền lực thời cổ đại, phát triển thành học thuyết "phân chia quyền lực" vào thời kỳ cách
mạng tư sản thế kỷ XVI - XVIII đại diện là Jon Lock và đỉnh cao là Mongtecxkiơ.
Theo Jon Lock (1632 - 1704), trong tác phẩm sự luận giải về chính quyền, thì để bảo
đảm quyền lực thực thi đúng quĩ đạo của nó; quyền lực nhà nước phải được hạn chế theo
nguyên tắc phân chia quyền lực; tách hành pháp ra khỏi lập pháp và nhà làm luật cũng
phải lệ thuộc vào luật, tuân theo luật, chia quyền lực nhà nước thành: lập pháp, hành
pháp, và quyền lực liên bang. Quyền lập pháp do nghị viện, cơ quan đại diện nhân dân
thực hiện. Quyền hành pháp và quyền liên bang cần trao cho một nhân vật - nhà quân
chủ, nhưng người đó không được lạm quyền. Còn quyền tư pháp chỉ là một bộ phận của
quyền hành pháp, nhưng khi xét xử phải có sự tham gia của nhân dân.
Jon Lock muốn trao từng bộ phận quyền lực cho những lực lượng chính trị xã hội khác nhau là tư sản và phong kiến.
Trong cơ cấu quyền lực, quyền lập pháp có vai trò chủ đạo, nhưng không tuyệt đối vì quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Là người có thể giải tán hay thay đổi thành lập cơ quan lập pháp khi hoạt động không còn đủ tín nhiệm với nhân dân...
- Mongtexkiơ (1689 - 1775): Là nhà tư tưởng chính trị xuất sắc của pháp, người đề xướng học thuyết phân quyền; tư tưởng của ông được phản ánh trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" và "Những bức thư thành Ba Tư".
Nghiên cứu lịch sử của chế độ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay một người, hay một tổ chức tất yếu dẫn đến lạm quyền và sử dụng quyền lực để mưu lợi ích riêng.
Tác giả cho rằng, để loại trừ khả năng lạm quyền thì cần phải thiết lập một trật tự trong đó
- quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập, trở thành lực lượng kiềm chế nhau.
Quyền lập pháp được chia giữa tư sản và phong kiến. Nghị viện có hai viện, Thượng viện đại diện cho quý tộc; Hạ viện đại diện cho dân. Quyền hành pháp thuộc quý tộc, và thành lập chính phủ của nhà vua nhưng chịu trách nhiệm trước nhân dân, tức là trước giai cấp tư sản.
Mongtecxkiơ giải thích như sau: "Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hay Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài" [50, tr. 100]. Cũng tương tự như vậy, "nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân" [50, tr. 100] và "nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp" [50, tr. 101] và "nếu một người hay một tổ chức của quan chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền nói trên thì tất cả sẽ mất hết" [50, tr. 101].
Ông còn cho rằng, quyền tư pháp phải độc lập, không trao cho cơ quan thường trực nào, mà trao cho nhân dân bầu theo định kỳ.
Mongtecxkiơ chỉ ra rằng: "Cơ quan đại biểu cho dân chỉ nên làm ra luật và xem xét người ta thực hiện luật như thế nào" [50 tr. 101] và không có "chức năng ngăn cản" tức là "quyền làm cho quyết định của người khác trở thành vô hiệu" [50, tr. 101].
Thuyết phân chia quyền lực ra đời trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản tập hợp quần chúng chống chế độ phong kiến. Khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, học thuyết này đã trở thành nguyên tắc căn bản về tổ chức và hoạt động của nhà nước tư sản. ý nghĩa lịch sử của học thuyết phân quyền là ở chỗ thấy được sức mạnh củaquyền lực nhà nước (với tư cách là quyền lực của nhân dân ủy quyền). Vì thế nó không được trao cho một ai hoàn toàn, mặt khác nó cho thấy sự nguy hiểm nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát để rơi vào tay quý tộc hay tư sản. Cũng cần thấy rằng, nguồn gốc sâu xa của lý thuyết phân quyền là: ở chỗ nó đã thích ứng với tính không thuần nhất về lợi ích giữa các bộ phận khác nhau trong nội bộ giai cấp tư sản, thích ứng với tình trạng tranh giành quyền lực diễn ra liên tục giữa các bộ phận đó.
Như vậy, về phương tiện chính trị trước đây phân quyền là cái cớ để giai cấp tư sản đòi chia quyền thống trị với giai cấp phong kiến, thì hiện giờ là giải pháp tổ chức quyền lực thích ứng với mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Tuy nhiên bản thân học thuyết phân quyền ngoài việc phản ánh hiện tượng khách quan của xã hội tư sản là có mong muốn một xã hội tốt đẹp, trong đó quyền tự do con người được đề cao, xã hội không phải gánh chịu những lộng hành của nhà nước, họ đã kỳ vọng chủ yếu vào sự kiểm soát quyền lực nhà nước ngay trong hệ thống tổ chức quyền lực.
1.1.3.3. Quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít về kiểm tra - kiểm soát
quyền lực nhà nước
* Quan điểm của Mác - Ăngghen
Qua di sản lý luận mà Mác - Ăngghen để lại, hầu như hai ông không đi sâu bàn tới
việc kiểm soát quyền lực một cách trực tiếp, mà bàn tới công tác kiểm tra, kiểm soát của
Đảng và Nhà nước. Mặc dầu vậy chúng ta cũng có thể thấy rõ quan điểm của các ông về
kiểm soát quyền lực. Vì vậy, khi nghiên cứu Mác - Ăngghen chúng ta cần có cách tiếp
cận rộng hơn các hình thức giám sát quyền lực. Trong bộ Tư bản, Mác đã đề cập đến công
tác kiểm tra nói chung - kiểm tra là một phương thức hành động để thực hiện mục đích.
Nó như là quy luật. Như vậy theo quan điểm của Mác - Ăngghen thì kiểm tra là một tất
yếu khách quan đối với hoạt động của con người và tổ chức. Có hoạt động thì phải có kiểm
tra. Các Mác khẳng định rằng:
Vào một thời kỳ ở một nước mà thế lực vua chúa, giai cấp quý tộc và
giai cấp tư sản tranh giành quyền thống trị, mà do đó quyền thống trị bị phân chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư tưởng thống trị, nó được người ta coi là quy luật vĩnh viễn... mỗi điều khoản của hiến pháp đều chứa sẵn trong bản thân nó cái phản đề của bản thân nó, cái thượng viện và hạ viện của nó tự do trong câu nói chung chung, và xóa bỏ cái tự do trong điều khoản kèm theo...
Hiến pháp đã được thảo ra sao cho nghị viện có thể gạt bỏ được tổng thống bằng con đường lập hiến, nhưng Tổng thống lại có thể gạt bỏ nghị viện bằng con đường không hợp hiến, bằng cách thủ tiêu luôn cả hiến pháp. Như thế là ở đây, bản thân hiến pháp lại đi thách thức thủ tiêu mình bằng bạo lực. Chẳng những nó thần thánh hóa chế độ phân quyền giống như Hiến chương 1830, mà nó còn mở rộng chế độ phân quyền đến chỗ mâu thuẫn không sao chịu nổi...
Nếu hiến pháp giao cho tổng thống quyền thực tế thì nó lại cố gắng bảo đảm cho nghị viện quyền tinh thần... [41, tr. 236].
Khi xem xét mối liên hệ giữa Thuyết phân quyền với sự phân công lao động trong bộ máy nhà nước Ph. Ăngghen đã viết "Phân quyền được xem như là nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm được trên thực tế, về thực chất nó không có gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng đối với bộ máy nhà nước nhằm đơn giản hóa và để kiểm tra" [43, tr. 405]. Các ông cho rằng, Thuyết phân quyền ở đó Nghị viện chỉ là nơi bàn cãi suông, tòa án chỉ độc lập giả dối, còn toàn bộ quyền lực tập trung vào cơ quan hành pháp. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết chính trị pháp lý, kể cả thuyết phân chia quyền lực. Đồng thời, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, Mác và Ăngghen đã cho ta thấy, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân, như chính cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là gốc của quyền lực là chủ thể của quyền lực. Sự thay đổi về bản chất này cần có quan điểm mới về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước khi nhà nước của nhân dân lao động được thành lập dưới CNXH.
* Quan điểm của V.I. Lênin
Về công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm kê kiểm soát, V.I. Lênin bàn đến rất nhiều,
rất sâu (ở trong khoảng không dưới 150 tác phẩm). Nội dung quan điểm của V.I. Lênin
được thể hiện rõ ở 4 vấn đề chủ yếu sau:
+ Tính tất yếu phải kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát.
+ Những nội dung cơ bản của kiểm tra, kiểm soát.
+ Chủ thể kiểm tra, kiểm soát và đối tượng của nó.
+ Tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát...
Theo Lênin, những nội dung chủ yếu của kiểm tra, kiểm soát bao gồm:
Một là, kiểm tra, kiểm soát việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu
nhất.
Hai là, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính và tiền tệ, nhất là hoạt động của ngân hàng, lưu thông tiền tệ, thu nhập, chi tiêu và nộp thuế của các nhà giàu.
Ba là, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc thi hành các chức trách và chấp hành kỷ luật lao động.
Bốn là, kiểm tra, kiểm soát để phát hiện kịp thời và đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực.
Đây chính là những vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, tuy nhiên ở các quy mô rất khác nhau.
Nói một cách khái quát, theo V.I.Lênin, nội dung công tác kiểm tra bao gồm: kiểm tra việc và kiểm tra người. Nó bao trùm toàn bộ việc kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước, chứ không chỉ là một quá trình của công tác lãnh đạo.
Khi giai cấp tư sản nắm quyền thống trị thì chủ thể kiểm tra, kiểm soát thuộc về giai cấp tư sản. Còn đối tượng (khách thể) kiểm tra, kiểm soát là giai cấp vô sản và quần chúng lao động.
Khi giai cấp vô sản giành quyền thống trị thì chủ thể kiểm tra, kiểm soát thuộc về giai cấp công nhân và toàn thể dân cư tiến hành. Nhà nước chuyên chính vô sản dựa vào quần chúng lao động, trước hết là công nhân và nông dân, để tiến hành kiểm tra, kiểm soát. Đối tượng bị kiểm tra, kiểm soát lúc này bao gồm:
- Tất cả các đơn vị kinh tế, các ngành...
- Bọn ăn cắp, đầu cơ, làm ăn gian dối, nhận hối lộ, ăn bám, lưu manh, phá hoại ngầm, bọn "con ông cháu cha".
- Các biểu hiện của tính tự phát vô chính phủ.
- Nhà nước và các tổ chức đảng vừa là chủ thể vừa là khách thể của công tác kiểm tra, kiểm soát.
Tổ chức, hình thức, phương pháp tiến hành kiểm tra, kiểm soát
Công tác tổ chức là công tác có ích nhất và cần thiết nhất cho nhân dân. Nếu quần chúng không có tổ chức thì không thể đảm bảo một sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm chỉnh. Cần đề bạt những người có tài tổ chức xuất thân từ tất cả các tầng lớp dân cư, các giai cấp vào cương vị then chốt trong bộ máy kiểm tra, kiểm soát. Vấn đề cấp thiết nhất là tiến hành cải tiến bộ máy nhà nước Xô viết theo nguyên tắc "Thà ít mà tốt". Cơ quan đầu tiên cần phải được cải tiến là Bộ dân ủy Thanh tra công nông. Phải chọn người đứng đầu có uy tín, coi trọng chất lượng và tinh giảm biên chế của cơ quan này.
Riêng đối với cơ quan kiểm tra của Đảng phải được củng cố, xây dựng đủ mạnh để thực thi tốt chức năng, nhiệm vụ của nó. Cần thiết lập ban kiểm tra song song với Ban chấp hành Trung ương. Thành phần của Ban này bao gồm những đồng chí có uy tín nhất.
Các thành viên của Ban kiểm tra Trung ương có quyền tham dự các kỳ họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có quyền đọc các tài liệu và có ý kiến.
Để nâng cao hiệu quả kiểm tra, kiểm soát cần thực hiện tốt những phương pháp chủ yếu sau:
Một là, phải tổ chức phối hợp việc kiểm tra, kiểm soát từ dưới lên và từ trên
xuống. Nhất thiết phải đặt ra và chấp hành những quy tắc về tiếp dân, tổ chức phòng tiếp
khách sao cho việc lui tới cơ quan được tự do, hoàn toàn không cần có giấy phép nào cả.
Hai là, phải công khai hóa việc kiểm tra, kiểm soát.
Ba là, kiểm tra phải thực sự, hình thức kiểm tra phải linh hoạt.
Bốn là, kiểm tra và xử lý phải thật nghiêm minh, kiên quyết.
***********************************
Quan niệm, cơ chế và thực trạng kiểm soát quyền lực ở nước ta
(LLCT) - Trong các diễn đàn chính trị xã hội, trong hội thảo khoa học, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, khái niệm "kiểm soát quyền lực" được bàn đến khá nhiều. Nhưng vấn đề là còn có sự hiểu và nhận thức chưa thống nhất.
Kiểm soát quyền lực là khái niệm về chính trị, pháp lý, triết học xã hội... có hai ý nghĩa. Thứ nhất, là nói về kiểm soát tình trạng, hiện trạng của quyền lực trong một quốc gia, một địa phương (như một bang của liên bang, một tỉnh của một nhà nước đơn nhất). Thế giới đã từng chứng kiến việc một chính phủ mất quyền kiểm soát, theo đó, xã hội rơi vào tình trạng lộn xộn, bạo lực vô tổ chức bùng phát, các hoạt động (nhà trường, cảng hàng không, nhà máy, doanh nghiệp...) rơi vào hỗn loạn. Hoặc chính quyền một địa phương bị tê liệt cần có sự hỗ trợ của chính quyền Trung ương vì một lý do nào đó cũng liên quan đến nhận thức về kiểm soát quyền lực. Thực tiễn đó nói lên rằng, một đất nước phát triển bình thường thì quyền lực luôn trong tầm kiểm soát của nhà nước. Thứ hai, là nói về quan hệ các quyền trong tổ chức nhà nước, trong hệ thống chính trị. Đây là nghĩa chủ yếu của kiểm soát quyền lực.
Gần đây, trong các diễn đàn chính trị xã hội, trong hội thảo khoa học, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, khái niệm "kiểm soát quyền lực" được bàn đến khá nhiều. Nhưng vấn đề là còn có sự hiểu và nhận thức chưa thống nhất.
1. Quyền lực và kiểm soát quyền lực
Vấn đề kiểm soát quyền lực luôn luôn tồn tại trong hệ thống xã hội nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng. Mỗi chế độ xã hội có nhà nước đều tồn tại quan hệ kiểm soát quyền lực khác nhau với vị trí của các chủ thể khác nhau. Chế độ phong kiến chỉ một người giữ vai trò chủ thể của quyền lực, và đương nhiên chủ thể đó là hiện thân của quyền kiểm soát đối với quyền lực. Đó là vua.
Khi xã hội chuyển từ thể chế chuyên chế sang thể chế dân chủ, vấn đề tổ chức quyền lực thay đổi căn bản. Từ đó quan hệ quyền lực, kiểm soát quyền lực cũng có những thay đổi căn bản. Tuy nhiên, có một số thuật ngữ, nếu không phân biệt rõ thì có thể hiểu chệch đi, thậm chí sai về bản chất, như "tổ chức quyền lực"; "quan hệ các quyền"; "kiểm soát quyền lực"; "kiểm tra", "thanh tra" trong thực hiện quyền lực nhà nước...
Tổ chức quyền lực là thuật ngữ nói về hiện trạng của quyền lực nhà nước của một loại thể chế nhất định. Thí dụ đã là phong kiến thì quyền lực tối cao, toàn diện là của vua hay nữ hoàng.
Quan hệ giữa các quyền là chỉ mối quan hệ của các nhánh quyền của nhà nước (có thể rộng ra là trong hệ thống chính trị); giữa các tổ chức và người dân trong một hệ thống chính trị nhất định.
Thanh tra là một hoạt động thực thi quyền của một cơ quan nhà nước theo chức năng được pháp luật quy định. Thanh tra là một hoạt động được giao cho một cơ quan, cơ quan đó có quyền tác động vào hoạt động của cơ quan khác, nhưng là theo chức năng chứ không phải theo thứ bậc. Thí dụ như ở nước ta, Thanh tra Chính phủ có thể thanh tra các cơ quan ngang bộ khác. Nhưng quyền đó bị chi phối theo quan hệ chức năng. Nghĩa là, ngoài luật pháp về thanh tra, còn chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đây là quan hệ chức năng trong tổ chức quyền lực.
Kiểm tra là một hoạt động từ chức năng của một cơ quan trong quan hệ của quản lý, kể cả của hệ thống các tổ chức ngoài Nhà nước. Một hoạt động kiểm tra có thể xuất phát từ quan hệ thứ bậc của quan hệ quyền lực. Thí dụ thủ trưởng cơ quan có thể giao cho một cơ quan tiến hành kiểm tra hoạt động của một cơ quan, một nhóm người, một người bên trong cơ quan đó.
Kiểm soát quyền lựcthể hiện sự nhận thức, bày tỏ quan điểm, thái độ, giải pháp của một cá nhân hay tổ chức đối với cá nhân (như quốc hội đối với tổng thống, thủ tướng). Bày tỏ sự đồng thuận hay phản đối một hoạt động nào đó của đối tượng phù hợp với hiến pháp. Mục đích chung nhất là để bảo đảm quyền lực trong vòng trật tự.
Thuật ngữ "kiểm soát" tự bản thân nó mang tính trật tự luật định như quốc hội với chính phủ trong các thể chế nghị viện, hoặc trật tự thứ bậc trên dưới trong hành chính. Kiểm soát quyền lực không phải là hoạt động diễn ra thường xuyên, hàng ngày như hoạt động hành chính mà chủ yếu nhận thức nó từ quan hệ nguồn gốc phát sinh.
Trong một số thể chế trên thế giới hiện nay như chế độ Tổng thống kiểu Hoa Kỳ, còn có quan hệ kiểm soát quyền lực lẫn nhau tương đối giữa lập pháp và hành pháp. Tại sao lại xuất hiện kiểu quan hệ tương tác như trên? Đó là do quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ. Theo đó, Quốc hội gồm hai viện có khá nhiều quyền giới hạn Tổng thống (hành pháp) như quyền lựa chọn nhân sự cao cấp (cấp chính phủ); quyền về chi tiêu (giới hạn), quyền tiến hành chiến tranh của hành pháp Hoa Kỳ; nghĩa là nhiều hoạt động của Tổng thống Mỹ nếu không có sự đồng thuận của hai viện hoặc một trong hai viện thì không thể tiến hành được. Đây là quyền tuyệt đối. Trái lại, Tổng thống có quyền phủ quyết luật do Nghị viện ban hành. Quyền này trên lý thuyết, theo Hiến pháp là tương đối. Vì sự phủ quyết đó nếu Nghị viện tiếp tục theo đuổi đến cùng thì đạo luật đó sẽ phải được thông qua. Nhưng theo tập quán pháp ở Mỹ, quyền đó dường như là tuyệt đối bởi những đạo luật bị Tổng thống phủ quyết thì thường không được Nghị viện xem xét lại. Nó còn mang tính tương đối bởi thực tế cho thấy những đạo luật bị phủ quyết, thường hoặc là ít quan trọng với vận mệnh quốc gia và người dân; hoặc là số lượng đạo luật bị phủ quyết là rất ít, thậm chí rất hãn hữu. Tuy nhiên, đã nói quyền kiểm soát thì cho dù là ít quan trọng, hoặc là hãn hữu thì bản chất nó vẫn là quyền kiểm soát quyền lực vì nó có quan hệ "chủ thể và đối tượng".
Phạm vi của kiểm soát quyền lực trong xã hội
Trong khoa học chính trị, khi nói tới kiểm soát quyền lực là hiểu quan hệ đó diễn ra trong hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, có một số hệ thống chính trị mà ở đó, chế độ nhất nguyên được vận hành thì yếu tố kiểm soát quyền lực không những xảy ra ở hoạt động thực thi quyền, mà còn ở giai đoạn tổ chức quyền lực (như ở Việt Nam).
Tại sao lại có biểu hiện của kiểm soát quyền lực ngay trong giai đoạn tổ chức quyền lực, chủ yếu thường xảy ra ở loại thể chế nhất nguyên? Có hai lý do: (1)Trong các nước đa đảng, việc cầm quyền của một đảng thường có rủi ro về mặt thời gian cầm quyền (chỉ một vài kỳ bầu cử là có thể bị mất vai trò và đảng khác lên thay thế). Nếu cứ đảng nào lên cầm quyền thay đảng cũ mà lại thay đổi thể chế thì dễ dẫn đến sự bất ổn xã hội. Nhưng, đa số các quốc gia hiện nay muốn thay đổi thể chế phải theo ý chí của người dân bằng trưng cầu dân ý, sửa đổi hiến pháp. Vì vậy, kiểm soát quyền lực trong tổ chức thực chất thuộc về ý chí của nhân dân. (2) Ở các quốc gia có thể chế chính trị nhất nguyên, vai trò của đảng cầm quyền nổi lên như một chủ thể quan trọng làm thay đổi tổ chức quyền lực. Nó còn được mạnh lên một khi mà ở quốc gia đó, quyền trưng cầu dân ý chưa được luật hóa như ở nước ta. Những thay đổi về vị trí, chức năng của các quyền trong ba quyền cơ bản, sự đổi mới một vị trí, thay đổi tên gọi một cơ quan và cả mối quan hệ về quyền đều có sự lãnh đạo chặt chẽ của đảng cầm quyền.
2. Thực trạng kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay
Kiểm soát quyền lực ở nước ta luôn bảo đảm và thể hiện sự thống nhất về bản chất của mối quan hệ trong hệ thống chính trị. Điều này còn thể hiện tính nhất quán ngay trong Hiến pháp năm 2013. Tính nhất quán đó có được là do tính ổn định của thể chế suốt mấy chục năm nay. Đó là: sự lãnh đạo, vai trò cầm quyền chỉ do một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) nắm giữ.
Quan hệ kiểm soát quyền lực giữa cơ quan quyền lực với cơ quan chấp hành dựa trên nền tảng của dân chủ XHCN; hoạt động kiểm soát quyền lực trong hệ thống hành chính (biểu hiện qua quan hệ thứ bậc trên dưới) được thiết lập vững chắc.
Quan niệm về kiểm soát, thiết kế tổ chức (trong Đảng, Nhà nước, các cơ cấu bên trong Nhà nước...), triển khai thực thi việc kiểm soát quyền lực đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Một là, cơ chế kiểm soátquyền lựcbảo đảm giữ vững chế độ và ổn định xã hội, giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Hai là, do không có sự cạnh tranh quyền lực của các lực lượng chính nên sự giám sát của Đảng đối với Nhà nước được bảo đảm, thể hiện qua việc định ra chủ trương, đường lối và được cụ thể hóa ở từng giai đoạn. Từ đó, làm cơ sở cho Nhà nước xây dựng thể chế (Hiến pháp, luật về tổ chức nhà nước và quản lý xã hội trên các lĩnh vực), thiết kế tổ chức và hoạt động điều hành quản lý xã hội.
Ba là, đổi mới theo nguyện vọng của nhân dân, trước hết bảo đảm các quyền cơ bản trong Nhà nước dân chủ, định ra chủ trương phân định chức năng bên trong Nhà nước (trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp); xây dựng đường lối phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại theo hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngày càng nâng tầm mức của quan hệ với nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đạt được, cơ chế, hoạt động kiểm soát quyền lực ở nước ta vẫn còn những mặt hạn chế, bất cập cần đổi mới: Việc kiểm soát quyền lực chưa thích ứng kịp với xu thế và đòi hỏi của xã hội. Trong thời kỳ trước Đổi mới, quan hệ kiểu tập trung "thời chiến", "Đảng làm thay Nhà nước", do đó Đảng lãnh đạo xã hội trong điều kiện rất hạn chế việc xây dựng các luật thực định đối với các lĩnh vực của đời sống; các chủ thể trong Nhà nước thể hiện sự thụ động trong chức trách và điều hành.Việc kiểm soát quyền lực trong các quan hệ lập pháp - hành pháp; Trung ương - địa phương; cơ quan đại biểu và cơ quan chấp hành (trong một cấp chính quyền) còn nặng tính hình thức, hạn chế tính pháp quyền. Hoạt động kiểm soát quyền lực do đó rất hạn chế trong việc vạch ra các định hướng đổi mới, các hoạt động giám sát của Đảng đối với Nhà nước, dẫn đến hệ thống tổ chức cồng kềnh, song trùng thể chế, nguồn lực đông đảo nhưng không hiệu quả.
3. Yêu cầu bảo đảm kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay
Kiểm soát quyền lực trong tổ chức quyền lực của hệ thống chính trị là quan hệ bên trong của mọi tổ chức chính trị từ khi có nhà nước. Nhà nước ta vì vậy cũng chỉ là một loại hình, một kiểu của tổ chức nhà nước. Nó chứa đựng các quan hệ giữa các quyền và có yếu tố của kiểm soát quyền lực.
Trong nhà nước dân chủ, quyền kiểm soát quyền lực cao nhất thuộc về xã hội với người dân là chủ thể. Quyền của người dân không những trực tiếp tổ chức ra nhà nước mà còn liên hệ trực tiếp với các đảng chính trị. Suy cho cùng, một đảng chính trị cũng từ nhân dân mà ra. Các quyền của người dân hoặc là trực tiếp, hoặc ủy quyền. Hiến pháp năm 2013 cũng định ra việc Đảng phải "chịu trách nhiệm" trước nhân dân.
Chỉ có một số quan hệ nhất định mới hình thành yếu tố kiểm soát quyền lực, nghĩa là không phải mọi quan hệ đều có kiểm soát quyền lực. Đây là nguyên tắc phân định các hoạt động thực hiện chức năng của các tổ chức trong hệ thống chính trị cũng như trong Nhà nước như đã phân tích ở trên.
Ngoài quan hệ kiểm soát quyền lực đang tồn tại, còn các mối quan hệ khác như sự tác động lẫn nhau, gây ảnh hưởng đến nhau (kể cả tích cực và tiêu cực) giữa các tổ chức, giữa các quyền trong một tổ chức. Đây là loại hình tác động rất rộng và căn bản trong điều kiện của trật tự dân chủ lấy phụng sự xã hội, nhân dân là tối cao.
Để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực cần bảo đảm quyền của người dânmột cách rộng rãi nhất, phù hợp với chế độ dân chủ. Nước ta đã và đang có những giải pháp quản lý và pháp lý để bảo đảm quyền của công dân, thí dụ quyền tiếp nhận thông tin, quyền phát ngôn, khiếu nại, quyền lập hội, biểu tình...
Muốn kiểm soát quyền lực có hiệu quả và thực chất, trước hết cần phân định rõ chức năng và thực hiện đúng chức năng. Thực thi quyền lực không thể ôm đồm, làm thay; không lấn quyền hoặc ỷ lại, bỏ mặc. Phân định chức năng có ngay trong sự tồn tại của tổ chức (lập pháp cơ bản là làm luật; hành pháp...). Phân định chức năng còn thể hiện (hoặc phụ thuộc) ở năng lực nhận thức, ở hoàn cảnh xã hội cụ thể.
Mỗi tổ chức, cá nhân có vị trí không làm những gì vượt quá quyền của tổ chức, của pháp nhân đó (chức năng của đảng chính trị như Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền hiện nay; chức năng của các cơ quan bên trong Nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương cần có sự nhận thức rành mạch). Việc thực hiện có đúng chức năng hay không còn phụ thuộc vào năng lực xây dựng pháp luật, sự nhạy cảm nhận thức chức năng liên quan đến các nhiệm vụ thực thi của các chủ thể. Đặc biệt, không thể bỏ qua năng lực, phẩm chất đạo đức công vụ, đạo đức chính trị của con người trong thực thi các quyền.
Lẫn lộn chức năng, dẫn đến sự thiếu minh bạch trong chức năng; hệ lụy là công vụ không được thực thi đúng thẩm quyền, thiếu sự thành thạo, bảo đảm các điều kiện, phương tiện, kỹ năng của từng tổ chức để thực thi công vụ.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử số 6-2015
********************
Quyền lực xã hội là một dạng quan hệ xã hội theo chiều dọc biểu hiện ở khả năng một cá nhân hoặc nhóm điều khiển hành vi, thái độ, quan điểm của cá nhân khác, nhóm khác. Chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực xã hội có thể là một cá nhân, một nhóm xã hội hay một cộng đồng, một xã hội. Thực chất, quyền lực chính là việc giới hạn đồng thời mở rộng mức độ tự do của các chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực.
Xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro