Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ly luan 8

CHƯƠNG XV 

HÌNH THC VÀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 

I. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm hình thức pháp luật xã hội chủ nghĩa

Pháp luật có những hình thức biểu hiện ra bên ngoài đặc thù của mình, đó là

những nguồn của pháp luật. Hình thức pháp luật nói chung được hiểu là cách thức mà

giai cấp thống trị sử dụng để thể hiện ý chí của giai cấp mình thành pháp luật. Trong

lịch sử có 3 hình thức được giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của mình thành

pháp luật là: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật.

Pháp luật xã hội chủ nghĩa có bản chất khác hẳn với bản chất của các kiểu

pháp luật trước đó, vì vậy, nó cũng đòi hỏi phải có những hình thức thể hiện phù hợp

với bản chất đó.

Tập quán pháp về nguyên tắc không phù hợp với pháp luật xã hội chủ nghĩa vì

nó ít biến đổi và mang tính cục bộ. Đối với những tập quán và truyền thống tốt đẹp

nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thừa nhận nhưng sự thừa nhận đó được thể hiện bằng

cách thể chế hoá chúng trong các văn bản quy phạm pháp luật.

Việt Nam chúng ta, về cơ bản cũng không thừa nhận tập quán pháp. Trong giai

đoạn trước, tập quán pháp hoàn toàn không được sử dụng. Tuy nhiên, do sự đa dạng

của các quan hệ xã hội, vì vậy những tập quán có nội dụng phù hợp với những nguyên

tắc đạo đức tiến bộ và không trái với pháp luật được thừa nhận để bổ sung cho pháp

luật. Chẳng hạn Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp

luật không quy định và các bên không thoả thuận, thì có thể áp dụng tập quán hoặc

quy định tương tự của pháp luật, nhưng không được trái với nguyên tắc quy định trong

Bộ luật này”. Cũng trên tinh thần đó, Điều 6 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ghi

nhận: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán thể hiện bản

sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những quy định tại luật này thì được tôn trọng

và phát huy”.

Tiền lệ pháp là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành

chính hoặc cơ quan xét xử cấp trên khi giải quyết các vụ việc cụ thể, làm cơ sở để áp

dụng đối với các trường hợp tương tự.

Hình thức này xuất phát từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp, vì

vậy, nếu không có một cơ chế minh bạch để kiểm soát nó dễ tạo ra sự tuỳ tiện, lạm

quyền từ phía các nàh chức trách và các cơ quan chức năng, ảnh hưởng tới tính thống

nhất của pháp luật, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là tôn

trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật. Do đó tiền lệ pháp cũng không được coi là

một hình thức của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa chưa

thể hoàn chỉnh trong một thời gian ngắn. Đứng trước những yêu cầu cấp bách cần

phải giải quyết ngay một số vụ việc cần thiết, trong nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn

còn sử dụng hình thức này với những dạng mới, ví dụ: Tổng kết quá trình giải quyết

một số vụ việc cụ thể, điển hình để đề ra đường lối hướng dẫn giải quyết các vụ

việc tương tự khi còn thiếu pháp luật.

Văn bản quy phạm pháp luật, hình thức pháp luật tiến bộ nhất, là hình thức cơ

bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được

nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã

hội chủ nghĩa và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống.

Từ định nghĩa trên rút ra những nhận xét sau:

- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

ban hành. Nghĩa là chỉ có những văn bản nào được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

(theo luật định) ban hành mới có thể là văn bản quy phạm pháp luật.

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung

(các quy phạm pháp luật). Điều này để phân biệt với những văn bản mặc dù   có ý

nghĩa pháp lý nhưng không chứa đựng các quy tắc xử sự chung thì cùng không phải là

văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Lời kêu gọi, lời hiệu triệu, thông báo, tuyên bố

của nhà nước xã hội chủ nghĩa ... mặc dù có ý nghĩa pháp lý nhưng không phải là văn

bản quy phạm pháp luật.

- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, trong

mọi trường hợp. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra văn bản quy phạm pháp luật lại được

áp dụng.

- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật

được quy định cụ thể trong pháp luật.

2. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam theo Hiến Pháp 1992 và

Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật (có hiệu lực từ ngày 1-1-1997, sửa đổi, bổ

sung năm 2002) bao gồm:

- Văn bản do Quốc Hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết.

- Văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết.

- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam ban hành để thi

hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Căn cứ vào trình tự ban hành và giá trị pháp lý, các văn bản quy phạm pháp luật

được chia ra thành 2 loại là các văn bản luật và văn bản dưới luật.

2.1. Các văn bản luật

Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, cơ quan cao nhất

của quyền lực nhà nước ban hành.

Trình tự, thủ tục và hình thức của văn bản luật được quy định tại các Điều: 84,

88 và 147 của Hiến pháp năm 1992 Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các

văn bản này có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản khác (văn bản dưới luật) khi ban

hành đều phải dựa trên cơ sở của văn bản luật và không được ttrái với các quy định

trong văn bản đó.

Văn bản Luật có các hình thức là Hiến pháp và luật.

- Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp và các Đạo luật về bổ sung hay sửa đổi Hiến

pháp). Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như: Hình thức

và bản chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội, quyền và

nghĩa  vụ

cơ  bản  của  công  dân,  hệ

thống  tổ

chức,  nguyên  tắc  hoạt  động  và  thẩm

quyền của các cơ quan nhà nước. Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Hiến

pháp là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp

luật khác đều phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp.

Luật (bộ luật, luật), nghị quyết của Quốc hội có chứa đựng các quy phạm pháp

luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước

cao nhất ban hành để cụ thể hoá Hiến pháp, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong

các lĩnh vực hoạt động của nhà nước.

Các luật và nghị quyết của Quốc hội có giá trị pháp lý cao (chỉ sau Hiến pháp),

vì vậy khi xây dựng các văn bản dưới luật phải dựa trên cơ sở các quy định thể hiện

trong văn bản luật, không được trái với các quy định đó.

2.2. Các văn bản dưới luật

Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước

ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật quy định.

Những văn bản này có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản luật, vì vậy khi ban

hành phải chú ý sao cho những quy định của chúng phải phù hợp với những quy định

của Hiến pháp và luật.

Giá trị pháp lý của từng loại văn bản dưới luật cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào

thẩm quyền của các cơ quan ban hành chúng.

Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hiện

nay ở nước ta có những loại văn bản dưới luật sau:

- Pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành quy định những vấn đề

được Quốc hội giao. Thẩm quyền ban hành Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc

hội được quy định trong Điều 91 và Điều 93 của Hiến pháp năm 1992.

- Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội được ban hành để giải thích

Hiến pháp, luật, pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp

luật của Quốc hội và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.

-  Lệnh,  quyết  định  của  Chủ

tịch  nước  được  ban  hành  để

thực  hiện  những

nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, Luật quy định.

-  Nghị

Chính phủ.

định,  nghị

quyết  của  Chính  phủ;  quyết  định,  chỉ

thị

của  Thủ

tướng

- Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ

thị, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao.

- Thông tư liên tịch.

- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.

- Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.

3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

3.1. Hiệu lực về thời gian

Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật được xác định từ thời

điểm phát sinh cho đến khi chấm dứt sự tác động của văn bản đó.

Thời điểm phát sinh hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được xác định

rất khác nhau, thông thường được thể hiện dưới 2 hình thức: Ghi rõ trong văn bản thời

điểm phát sinh hiệu lực và không ghi rõ thời điểm đó. Những văn bản quy phạm pháp

luật mà trong đó không ghi rõ thời điểm phát sinh hiệu lực cần chú ý tới đặc điểm

riêng của từng loại văn bản. Đối với văn bản Luật, pháp lệnh, nghị quyết của Uy ban

thường vụ Quốc hội thời điểm phát sinh hiệu lực được tính từ khi chúng được công

bố chính thức bởi lệnh công bố của Chủ tich nước, trừ trường hợp văn bản đó quy

định ngày có hiệu lức khác. Còn đối với các văn bản dưới luật thì việc xác định thời

điểm phát sinh hiệu lực của chúng phải được xem xét cụ thể hơn, cụ thể: “Văn bản

quy phạm pháp luật của Chủ

tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng Công báo, trừ

trường  hợp  văn  bản  đó             quy  định  ngày  có  hiệu  lực  khác”  (Khoản  2,  Điều  75,

LBHVBQPPL); “Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối

cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có

hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được

quy định tại văn bản  đó” ( Khoản 3, Điều 75). Tuy nhiên, cũng tại quy định này cho

phép đối với các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

quy định các biện pháp thi hành trong  tình trạng khẩn cấp, thì văn bản có thể quy định

ngày có hiệu lực sớm hơn.

Văn bản quy phạm pháp luật có thể bị ngưng hiệu lực khi nó bị đình chỉ thi

hành cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Văn bản

bị ngưng hiệu lực sau thời gian bị đình chỉ thi hành có thể sẽ tiếp tục có hiệu lực hoặc

sẽ hết hiệu lực khi nó bị huỷ bỏ (Điều 77).

Thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật cũng được xác

định theo các cách sau: Nếu trong văn bản đã ghi rõ thời hạn hiệu lực, thì đến thời

điểm đã được xác định đó, văn bản sẽ chấm dứt hiệu lực của mình; Đối với các văn

bản không có điều khoản xác định rõ điều đó thì nó chỉ bị chấm dứt hiệu lực toàn bộ

hay một phần khi có một văn bản mới thay thế nó, hoặc có một số quy phạm mới

được ban hành để thay thế một bộ phận quy phạm của nó; Bị huỷ bỏ hoặc bãi bỏ

bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trường hợp đối với văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của văn bản

hết hiệu lực cũng đồng thời hết hiệu lực cùng với văn bản đó, trừ trường hợp được

giữ lại toàn bộ hay một phần vì còn phù hợp với các quy định của văn bản quy phạm

pháp luật mới.

Theo nguyên tắc chung, văn bản quy phạm pháp luật không có hiệu lực hồi tố

(hiệu lực trở về trước). Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết có thể áp dụng

hiệu lực hồi tố đối với một số quy phạm pháp luật chứ không đặt thành quy định

chung  với toàn  bộ văn  bản quy  phạm pháp  luật.  Theo  quy  định  tại Điều  76, Luật

BHVBQPPL không được quy định hiệu lực hồi tố đối với các trường hợp:

a. Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực

hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý.

b. Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn hoặc hình phạt nặng hơn .

3.2.Hiệu lực về không gian: Giới hạn tác động về không gian của văn bản

quy phạm pháp luật được xác định bằng lãnh thổ quốc gia hay địa phương hoặc theo

một vùng nhất định.

Hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật được xác định theo

hai cách cơ bản: Ghi rõ trong văn bản và không ghi rõ trong văn bản. Những văn bản

không chỉ ra hiệu lực về thời gian thì phải dựa vào thẩm quyền và nội dung các quy

phạm trong văn bản để xác định hiệu lực. Ví dụ, văn bản do Quốc hội hay Chính phủ

ban hành có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc, trừ một số văn bản cụ thể cần xem xét

nội dung để xác định hiệu lực của chúng. Các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ

ban nhân dân các cấp ban hành chỉ có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ thuộc thẩm quyền

của các cơ quan đó.

3.3.Hiệu lực về đối tượng áp dụng: Đối tượng tác động của văn bản quy

phạm pháp luật bao gồm: cá nhân, các tổ chức và những mối quan hệ mà văn bản đó

cần phát huy hiệu lực.

Các văn bản quy phạm pháp luật thường xác định rõ đối tượng tác động, song

trong một số trường hợp nhất định đối tượng tác động không được ghi rõ trong văn

bản, vì vậy cần liên hệ với hiệu lực về thời gian, không gian để xem xét, đồng thời

lưu ý những quy định của các văn bản có liên quan khác.

II. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa

Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực hiện quyền quản lý xã hội đều

ban hành một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật làm chuẩn mực chung để

điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia. Toàn bộ các

quy phạm trong các văn bản đó không tồn tại một cách rời rạc mà có quan hệ gắn bó

hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất- một hệ thống.

Với tư cách là một hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia được xắp xếp theo một trật tự

rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quyết định.

Tính thống nhất của các quy phạm pháp luật quy định hệ thống pháp luật có

các đặc điểm:

- Các quan hệ xã hội diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống xã hội được các

quy phạm pháp luật điều chỉnh luôn có tính thống nhất, hài hoà. Bởi lẽ, bản thân đời

sống xã hội có tính thống nhất, có sự gắn bó, quan hệ tương tác giữa các lĩnh vực hoạt

động. Tính chất đó sẽ quy định sự điều chỉnh pháp luật phải bảo đảm tính thống nhất,

khách quan.

Tính thống nhất của hệ thống pháp luật phụ thuộc vào sự phân cấp giữa các

văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước các cấp ban hành, văn bản luật có

hiệu lực pháp lý cao nhất, các văn bản khác được ban hành trên cơ sở luật và để thi

hành luật.

- Hệ thống pháp luật với tư cách là một hệ thống được chia ra thành những bộ

phận cấu thành là các ngành luật, chế định pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì:

tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực, trong

mỗi lĩnh vực như thế lại có những nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với

nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân

chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành.

- Sự hình thành các bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật được quy định

bởi thực tế khách quan. Không thể đặt ra, xắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế

định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan, không tính đến hoặc không nghiên cứu

đầy đủ các quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia   hệ thống pháp luật ra các bộ

phận cấu thành.

Từ sự phân tích trên có thể đi đến định nghĩa:

Hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật được quy định một cách

khách quan bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, biểu hiện ở sự phân chia hệ thống ấy

thành các bộ phận cấu thành khác nhau, phù hợp với những đặc điểm, tính chất của

các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhưng các bộ phận khác nhau ấy có mối quan

hệ qua lại chặt chẽ và thống nhất với nhau.

2. Cấu thành của hệ thống pháp luật

Hệ thống cấu trúc của pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối

liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật và

các ngành luật.

Hệ thống cấu trúc có 3 thành tố cơ bản ở 3 cấp độ khác nhau là quy phạm pháp

luật, chế định pháp luật và ngành luật.

2.1. Quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất (tế bào) trong hệ thống cấu trúc pháp

luật, mỗi quy phạm pháp luật vừa có tính khái quát lại vừa có tính cụ thể. Quy phạm

pháp luật có tính khái quát vì nó là quy tắc xử sự chung, áp dụng trên một diện rộng và

trong một thời gian dài. Đồng thời nó vừa mang tính cụ thể, vì đó là hình mẫu, là

chuẩn mực để điều chỉnh quan hệ xã hội trong trường hợp cụ thể đã được dự liệu

bằng phương pháp trừu tượng hoá.

2.2. Chế định pháp luật

Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống

nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng. Việc xác định đúng tính

chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội, từ đó đề ra các quy phạm pháp luật tương

ứng có ý nghĩa quan trọng. Đó là cơ sở để tạo ra cơ cấu nội tại hợp lý của một ngành

luật. Không thể xây dựng được một văn bản quy phạm pháp luật tốt cũng như một

ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới hạn và nội dung của các chế định

pháp luật.

Chế

định  pháp  luật  mang  tính  chất  nhóm,  mỗi  chế

định  có  đặc  điểm  riêng

nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất với nhau, chúng không tồn tại

biệt lập. Khi xem xét chế

định pháp luật vấn đề mang tính nguyên tắc là phải đặt

chúng trong mối quan hệ qua lại trong một chỉnh thể thống nhất của hệ thống pháp

luật nói chung và của một ngành luật nói riêng, không thể áp đặt một cách chủ quan,

tuỳ tiện. Mỗi chế định pháp luật dù mang trong mình những đặc điểm riêng nhưng bao

giờ cũng theo quy luật vận động khách quan, chịu sự ảnh hưởng và tác động của các

chế định khác trong hệ thống pháp luật.

2.3. Ngành luật

Ngành luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật có đặc tính chung để điều

chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.

Trong toàn bộ những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có những quan

hệ xã hội mang những tính chất và nội dung tương đồng nhau như những quan hệ xã

hội liên quan đến kết hôn, ly hôn, những quan hệ xác định hành vi nguy hiểm nào cho

xã hội là tội phạm, những quan hệ mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh

trong quá trình quản lý nhà nước ...  đó là những lĩnh vực quan hệ xã hội có tính đặc

thù mà mỗi lĩnh vực đó được điều chỉnh bởi tổng thể quy phạm pháp luật có mối liên

kết chặt chẽ với nhau được gọi là ngành luật.

Tóm lại, hệ thống pháp luật là một cơ cấu thống nhất gồm các bộ phận cấu

thành: ngành luật, chế định pháp luật. Phần tử cấu tạo nên các bộ phận trên của hệ

thống pháp luật là quy phạm pháp luật.

3. Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm các ngành luật cơ bản sau:

3.1. Luật Hiến pháp

Luật Hiến pháp gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan

hệ cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá- xã

hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về quốc tịch...

Luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, bởi vì nó là

ngành luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất của quốc gia và tất cả

các ngành luật khác đều được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc của luật Hiến

pháp.

3.2. Luật hành chính

Luật hành chính gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan

hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành- điều

hành của nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội...

Luật hành chính quy định những vấn đề cơ bản sau:

- Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, tức là các ngyên tắc thực hiện

quyền hành pháp trong quyền lực nhà nước;

- Tổ chức hệ thống quản lý hành chính nhà nước;

- Hoạt động quản lý hành chính nhà nước

- Kiểm soát (giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tài phán) đối với hành chính

nhà nước.

Luật hành  chính  sử dụng  phương  pháp mệnh  lệnh  thể hiện  tính  quyền  lực

phục tùng trong quan hệ quản lý nhà nước là chủ yếu. Đồng thời, nó còn dùng phương

pháp hợp đồng hành chính để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực dịch vụ

công và phối hợp thực hiện quyền hành pháp.

3.3. Luật hình sự

Luật hình sự là tổng thể những quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội

phạm, mục đích của hình phạt và những điều kiện áp dụng hình phạt, hình thức và

mức độ hình phạt đối với những người có hành vi phạm tội.

3.4. Luật tố tụng hình sự

Luật tố tụng hình sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan

hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra, xét xử và kiểm sát việc điều tra, xét xử những

vụ án hình sự. Luật tố tụng hình sự cũng quy định những nguyên tắc, thủ tục và điều

kiện để tiến hành điều tra, kiểm sát và xét xử các vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ

của những người tham gia tố tụng hình sự.

3.5. Luật Dân sự

Luật dân sự gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ

tài sản dưới hình thức hàng hoá- tiền tệ và các quan hệ nhân thân.

3.6. Luật hôn nhân và gia đình

Luật hôn nhân và gia đình bao gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều

chỉnh những quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam

và nữ như: điều kiện kết hôn, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái

nhằm mục đích bảo vệ chế độ hôn nhân tự do, tiến bộ, quyền bình đẳng giữa nam và

nữ, xây dựng gia đình hạnh phúc, bảo vệ lợi ích của phụ nữ và trẻ em, chăm sóc và

giáo dục con cái.

3.7. Luật tố tụng dân sự

Luật tố tụng dân sự là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những

quan hệ phát sinh giữa cơ quan xét xử, Viện kiểm sát nhân dân, các bên đương sự và

những người tham gia tố tụng dân sự khác trong quá trình Toà án thụ lý và giải quyết

những vụ án dân sự.

Các quy phạm của luật tố tụng dân sự quy định thâme quyền xét xử, trình tự,

thủ tục xét xử và những vấn đề khác nhằm giải quyết đúng đắn các vụ án dân sự.

3.8. Luật tài chính

Luật tài chính gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã

hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước, trong quá trình hình

thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể hoạt động phân phối của

cải dưới hình thức giá trị.

3.9. Luật ngân hàng

Luật ngân hàng là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát sinh trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.

3.10. Luật đất đai

Luật đất đai là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã

hội hình thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất, trong đó đất đai là tư

liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch

và kế hoạch chung.

3.11. Luật thương mại

Luật kinh tế là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ

phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa các doanh

nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.

3.12. Luật lao động

Luật lao động là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát sinh giữa người lao động với người sử dụng lao động (cá nhân, tổ chức) và

những quan hệ xã hội khác liên quan trực tiếp tới quan hệ lao động.

3.13. Luật môi trường

Luật môi trường là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ

xã hội phát sinh trong quá trình  sử dụng, khai thác, quản lý, bảo vệ các nguồn  tài

nguyên thiên nhiên.

Ngoài những ngành luật thuộc hệ thống pháp luật quốc gia còn tồn tại bộ phận

pháp luật quốc tế có vị trí hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội,

tạo lập trật tự pháp luật. Luật quốc tế bao gồm công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế.

- Công pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những quy

phạm được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng trên cơ sở

thoả thuận tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh quan hệ nhiều mặt giữa chúng.

- Tư pháp quốc tế bao gồm những nguyên tắc và những quy phạm pháp luật

điều chỉnh những quan hệ dân sự, hôn nhân - gia đình, lao động và tố tụng dân sự

sinh giữa các công dân, các tổ chức của các nước khác nhau.

4. Xây dựng pháp luật và hệ thống hoá pháp luật

4.1. Xây dựng pháp luật

nảy

Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất của

nhà nước. Việc tạo ra các văn bản quy phạm pháp luật phản ánh được những nhu cầu

phát triển khách quan của xã hội là vấn đề có ý nghiã quyết định đối với chất lượng

và hiệu quả của quản lý nhà nước. Đó là hoạt động soạn thảo và ban hành các đạo

luật và các văn  bản  quy phạm pháp luật khác của các cơ

quyền (nhà chức trách), các tổ chức xã hội được trao quyền.

quan  nhà nước có  thẩm

Để có được những văn bản quy phạm pháp luật tốt có chất lượng cần:

- Nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc, các quy luật, các hiện

tượng xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng của thực tiễn khách quan để từ đó rút ra

những giá trị chuẩn mực từ trong nhu cầu của xã hội.

- Nghiên cứu động thái các hành vi pháp luật trong đó có cả hành vi hợp pháp và

hành  vi  không  hợp  pháp  để  từ

trongtương lai.

đó  có  thể

dự  kiến  được  diễn  biến  các  hành  vi  đó

- Phân tích và đánh giá đúng hiệu lực và hiệu quả của việc điều chỉnh các quan

hệ xã hội bằng các quy phạm và chế định hiện hành.

- Trên cơ sở những việc làm kể trên tiến hành kế hoạch hoá hoạt động xây

dựng pháp luật.

Xây dựng pháp luật được coi là một quá trình vì nó bao gồm hàng loạt các động

tác, thủ tục cần thiết diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định để tạo ra các văn

bản quy phạm pháp luật mới.

Quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các giai đoạn:

Giai đoạn 1: Đề xuất yêu cầu ban hành một văn bản pháp luật mới hoặc sửa

đổi một văn bản pháp luật hiện hành và thông qua quyết định về soạn thảo dự án liên

quan đến yêu cầu đã đề xuất. Trong quyết định soạn thảo dự án pháp luật, luật xác

định rõ cơ quan có trách nhiệm soạn thảo văn bản đó.

Giai đoạn 2: Soạn thảo dự án văn bản pháp luật.

Việc soạn thảo dự án luật bao gồm soạn thảo văn bản, thảo luận sơ bộ và lấy

ý kiến các cơ quan và cá nhân cần thiết về văn bản đó. Sau đó trình dự án đã soạn thảo

và những luận chứng cần thiết cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Giai đoạn 3: Thảo luận và thông qua dự án văn bản pháp luật.

Giai đoạn 4: Công bố văn bản pháp luật.

Hoạt động xây dựng pháp luật là một hình thức hoạt động cơ bản của nhà

nước. Hoạt động xây dựng pháp luật phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, bao

gồm:

- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Đảng cộng sản Việt Nam là lực

lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Hoạt động xây dựng pháp luật là kênh

quan trọng nhất mà thông qua đó chủ trương và chính sách của Đảng được Nhà nước

đưa vào cuộc sống.

- Nguyên tắc khách quan: Hoạt động xây dựng pháp luật chỉ mang tính khách

quan khi văn bản quy phạm pháp luật đã thông qua, phản ánh được các nhu cầu và

điều kiện khách quan của sự phát triển xã hội.

- Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này thể hiện ở sự tham gia

của nhân dân lao động và các tổ chức xã hội vào hạot động xây dựng pháp luật. Phải

đề cao vai trò của các tầng lớp nhân dân lao động và tổ chức của họ trong hoạt động

xây dựng pháp luật và giải quyết những vấn đề của hoạt động đó.

- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan

xây dựng pháp luật chỉ được ban hành những văn bản đúng thẩm quyền của mình. Khi

thực hiện hoạt động xây dựng pháp luật phải tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục do pháp

luật quy định. Các văn bản của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp với văn bản

của cơ quan nhà nước cấp trên, văn bản dưới luật phải phù hợp với Hiến pháp và các

văn bản luật.

4.2. Hệ thống hoá pháp luật

Hệ thống hoá pháp luật là hoạt động nhằm hoàn thiện pháp luật, đưa chúng

vào một hệ thống nhất định.

Công tác hệ thống hoá pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng cho phép các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền có sự nhìn nhận tổng quát đối với pháp luật  hiện hành, phát

hiện những điểm không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo và những lỗ hổng của hệ

thống pháp luật để từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện.

Công tác hệ thống hoá pháp luật hướng tới các mục đích:

- Tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cân đối, hoàn chỉnh, thống

nhất trong đó các đạo luật đóng vai trò chủ đạo.

- Khắc phục tình trạng lỗi thời, mâu thuẫn và những lỗ hổng của hệ thống

pháp luật.

- Làm cho nội dung pháp luật phù hợp với những yêu cầu của đời sống, có hình

thức rõ ràng, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng.

Khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa phân biệt 2 hình thức hệ thống hoá pháp

luật, đó là tập hợp hoá và pháp điển hoá.

Tập hợp hoá là xắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp

luật riêng biệt theo một trình tự nhất định (theo cơ quan ban hành, theo thời gian ban

hành, theo cấp độ hiệu lực pháp lý...). Hình thức hệ thống hoá này không làm thay đổi

nội dung văn bản, không bổ sung những quy định mới mà chỉ nhằm loại bỏ những quy

phạm đã hết hiệu lực hoặc rõ ràng là mâu thuẫn với văn bản cấp trên.

Pháp điển hoá là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đó

không những tập hợp các văn bản đã có theo một ttrình tự nhất định, loại bỏ những

quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn mà còn chế định thêm những quy phạm mới để thay thế

cho các quy phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ trống được phát hiện trong

quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi những quy phạm hiện hành, nâng cao hiệu lực pháp

lý của chúng... Kết quả của công việc pháp điển hoá là một văn bản quy phạm pháp

luật mới ra đời. Đó là một bộ luật tương ứng với một ngành luật nhất định hay là một

bản điều lệ tập hợp các quy phạm cho một lĩnh vực nhất định, trong đó các quy phạm

pháp luật được xắp xếp lô gíc, chặt chẽ và nhất quán. Như vậy, khái niệm pháp điển

hoá rất gần với khái niệm sáng tạo pháp luật.

Công tác hệ thống hoá pháp luật không chỉ đơn thuần dựa trên những kiến thức

pháp lý mà phải sử dụng cả những tri thức kinh tế, xã hội học, tâm lý học...  Văn bản

quy phạm pháp luật đã hệ thống hoá cần phản ánh được các nhu cầu xã hội, có cơ sở

và bao quát được những quan hệ xã hội cần điều chỉnh, không mâu thuẫn với những

văn bản quy phạm pháp luật khác.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1.  Khái niệm hình thức pháp luật xã hội chủ nghĩa?

2.  Phân tích hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật.

3.  Khái niệm hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa?

3.  Trình bày các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

4.   Phân tích các nguyên tắc xây dựng pháp luật.

5.  Tầm quan trọng của công tác hệ thống hoá pháp luật?

CHƯƠNG XVI 

Ý THC PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 

I. KHÁI NIỆM Ý THỨC PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa

Y thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hình thái ý thức xã hội được phát sinh

và hình thành cùng với ý thức chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Cũng như bất kỳ hình thái ý thức xã hội nào khác, ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa do

tồn tại xã hội quyết định.

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng thể những học thuyết, tư tưởng,

quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội xã hội chủ nghĩa, thể hiện mối quan hệ

của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải

có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của

con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức

xã hội.

Trong xã hội nói chung trong xã hội xã hội chủ nghĩa nói riêng có nhiều học

thuyết, tư tưởng và quan điểm khác nhau về pháp luật. Sở dĩ như vậy vì điều kiện

sinh hoạt về vật chất và tinh thần của mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội không hoàn

toàn giống nhau dẫn đến sự nhận thức pháp luật cũng có những khác biệt nhất định.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì không thể có ý thức pháp luật thống

nhất.Ý thức pháp luật của các giai cấp đối kháng luôn luôn mâu thuẫn với nhau, trong

đó chỉ có ý thức pháp luật thống trị mới đưrợc thể hiện đầy đủ trong pháp luật; ý thức

pháp luật thống trị trong xã hội là ý thức pháp luật của giai cấp nắm quyền.

Trong chủ nghĩa xã hội, ý thức pháp luật thống trị là ý thức pháp luật của giai

cấp công nhân và nhân dân lao động.

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa mang tính chính trị sâu sắc. Nội dung của ý

thức pháp luật luôn phản ánh những nhu cầu về chính trị, thể hiện mối quan hệ giữa

giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với các quy định của pháp luật do nhà

nước ban hành có liên quan trực tiếp đến dời sống chính trị, xã hội. Chẳng hạn những

quy định về hình thức nhà nước, chế độ bầu cử, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

bộ máy nhà nước ... Ý thức pháp luật cũng thể hiện những nhu cầu về kinh tế, đạo

đức, văn hoá của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa không chỉ mang tính giai cấp mà đồng thời

còn bao gồm cả những yếu tố tâm lý xã hội như cảm giác, tình cảm, quan niệm thể

hiện những mối quan hệ cụ thể của con người đối với các quy phạm pháp luật, đối

với quyền và nghĩa vụ.

Ý thức pháp luật có 2 đặc trưng cơ bản.

Thứ nhất, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội vì vậy nó luôn chịu sự

quy định của tồn tại xã hội.

Mặt khác, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội, tính

độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện:

- Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thực tế cho thấy

tồn tại xã hội cũ đã mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật vẫn

còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài. Những tàn dư của tư tưởng quá khứ được

giữ lại, nhất là trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi thói quen và truyền thống còn đóng

vai trò to lớn. Ví dụ những biểu hiện của tâm lý pháp luật phong kiến như sự thờ ơ,

phủ nhận đối với pháp luật hiện vẫn tồn tại trong xã hội nước ta hiện nay.

- Mặt khác, tư tưởng pháp luật đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học lại có

thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng pháp luật mới có thể

sinh ra trong lòng xã hội cũ.

- Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó, song nó

cũng kế thừa những yếu tố nhất định của ý thức pháp luật thời đại trước đó. Những

yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.

- Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý thức chính trị,

đạo đức và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý như nhà nước và pháp luật.

Thứ hai, ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp. Thế giới quan pháp

lý của một giai cấp nhất định được quy định bởi vị trí của giai cấp đó trong xã hội.

Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật nhưng tồn tại một số hệ thống ý thức

pháp luật. Về nguyên tắc chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản

ánh đầy đủ vào trong pháp luật.Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích cơ bản giữa

giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác là thống nhất với nhau, do

đó ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính thống nhất cao. Sự thống nhất đó thể

hiện ở những tư tưởng, quan điểm về bản chất, chức năng, vai trò và những giá trị xã

hội của pháp luật xã hội chủ nghĩa, về sự đánh giá hành vi và về tình cảm, thái độ đối

với pháp luật xã hội chủ nghĩa.

2. Chức năng của ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật có 3 chức năng: chức năng nhận thức, chức năng mô hình hoá

pháp lý, chức năng điều chỉnh.

Để hình thành các tư tưởng, quan điểm, quan niệm, niềm tin vào các quy phạm

pháp luật hiện hành, cần phải phân tích hiện thực khách quan và nhận thức hiện thực

đó. Như vậy, ý thức pháp luật thực hiện chức năng nhận thức.

Thông qua quá trình nhận thức đó mà hình thành nên các mô hình hành vi nhất

định (các quy tắc xử sự), nhờ có ý thức pháp luật mà đánh giá mô hình nào là cần thiết

và tất yếu để hướngcác quan hệ xã hội phát triển có kết quả. Đây chính là chức năng

mô hình hoá pháp lý của ý thức pháp luật.

Ý thức pháp luật định hướng cho hành vi của con người phù hợp với yêu cầu

của pháp luật hiện hành, hoặc làm cho hành vi của con người trở nên sai lạc không

phù hợp với các yêu cầu đó. Như vậy, ý thức pháp luật có chức năng điều chỉnh.

Các chức năng của ý thức pháp luật liên hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua

lại trong một hệ thống thống nhất. Chính vì vậy, khi xem xét các chức năng của ý thức

pháp luật phải xem xét trong một chỉnh thể thống nhất, qua lại, tác động lẫn nhau chứ

không thể xem xét các chức năng một cách biệt lập.

II. CẤU  TRÚC VÀ PHÂN  LOẠI  Ý THỨC  PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA

Ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng có cấu trúc

khá phức tạp. Có nhiều cách tiếp cận để xác định cấu trúc và phân loại ý thức pháp

luật, song nhìn chung phần lớn các học giả tán đồng quan điểm dưới đây:

1. Cấu trúc của ý thức pháp luật

Căn cứ vào nội dung, tính chất của các bộ phận hợp thành, ý thức pháp luật

được cấu thành từ hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.

Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm và học thuyết

của pháp luật. Hệ tư tưởng mang tính tự giác, tính hệ thống, tính khoa học. Tư tưởng

pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành trên cơ sở học thuyết Mác-Lê

Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

ta về pháp luật.

Tâm lý pháp luật là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm

đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý cụ thể khác. Nếu yếu tố tư tưởng của ý

thức pháp luật bao gồm các yếu tố thuộc phạm vi ý thức hệ, thì yếu tố tâm lý pháp

luật thuộc lĩnh vực tình cảm pháp luật. Ở đây đối tượng mang tâm lý pháp luật là con

người với tư cách là một cá nhân, một thành viên tập thể, thành viên cộng đồng dân

tộc, một công dân của một quốc gia. Trong tâm lý pháp luật, thói quen pháp luật là yếu

tố quan trọng. Nhờ có thói quen pháp luật mà con người hành động một cách rất rõ

ràng, dứt khoát.

So với tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật là bộ phận bền vững hơn, bảo thủ

hơn. Tâm lý pháp luật gắn bó chặt chẽ với những truyền thống, tập quán, thói quen

của con người. Nó được hình thành chậm chạp và ít thay đổi.

Tuy nhiên giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có mối quan hệ qua

lại với nhau: Hệ tư tưởng pháp luật tác động mạnh mẽ tới tâm lý pháp luật, đồng thời

tâm lý pháp luật là tiền đề cho sự hình thành và phát triển các tư tưởng, quan điểm

pháp luật.

2. Phân loại ý thức pháp luật

a. Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp luật được chia thành

ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật có tính lý luận và ý thức pháp luật

mang tính nghề nghiệp.

- Ý thức pháp luật thông thường được hình thành một cách tự phát dưới tác

động trực tiếp của điều kiện và kinh nghiệm cuộc sống cá nhân.

-  Ý  thức  pháp  luật mamg  tính  lý  luận  thể

hiện  dưới  dạng  quan  điểm,  khái

niệm, học thuyết về pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính lý luận hình thành trên cơ

sở nghiên cứu và tổng hợp sâu sắc các kiến thức pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính

lý luận là cơ sở để hoạt động sáng tạo pháp luật.

- Ý thức pháp luật mang tính nghề nghiệp là ý thức pháp luật của các luật gia,

của các nhà chức trách mà trong hoạt động của mình thường xuyên vận dụng sáng tạo

pháp luật. So với ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật mang tính lý luận,

ý thức pháp luật mang tính nghề nghiệp đặc trưng bởi sự kêt hợp hài hoà giữa yếu tố

tư tưởng và yếu tố tâm lý. Ý thức pháp luật nghề nghiệp không chỉ đặc trưng bởi trình

độ hiểu biết cao về pháp luật, mà còn đặc trưng bởi khả năng thực tế cao như thành

thói quen trong sự vận dụng và áp dụng pháp luật trong thực tế.

b. Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật ta có: ý thức pháp luật xã hội, ý

thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật của cá nhân.

- Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiến tiến đại diện

cho xã hội, nó chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ

bản nhất của pháp luật. Vì nó tiến bộ và có cơ sở khoa học nên ý thức pháp luật xã

hội được chính thức hoá trong toàn xã hội.

- Ý thức pháp luật nhóm chỉ phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình

cảm của một nhóm xã hội nhất định về pháp luật. Ý thức pháp luật nhóm có phạm vi

tác động nhỏ hơn so với ý thức pháp luật xã hội.

- Ý thức pháp luật của cá nhân phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý,

tình cảm, thái độ của mỗi người về pháp luật và đối với pháp luật. Trình độ ý thức

pháp luật của cá nhân thường thấp hơn ý thức pháp luật xã hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra

là không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật

của cá nhân lên ngang tầm ý thức pháp luật xã hội.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT XÃ

HỘI CHỦ NGHĨA

Giữa ý thức pháp luật và pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại

lẫn nhau. Những nguyên lý và cơ sở để xây dựng và thực hiện pháp luật đồng thời

cũng là những nguyên lý và cơ sở để hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Mối

quan hệ giữa ý thức pháp luật với pháp luật xã hội chủ nghĩa được biểu hiện ở những

điểm sau:

1. Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề tư tưỏng trực tiếp để xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa

Pháp luật xã hội chủ nghĩa là sự biểu hiện ý thức pháp luật của giai cấp công

nhân và nhân dân lao động. Những thay đổi khách quan trong đời sống xã hội trước hết

được phản ánh trong ý thức pháp luật sau đó mới được thể hiện thành các quy phạm

pháp luật tương ứng. Không có ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa phù hợp với bản

chất và những điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội

thì cũng không thể xây dựng được hệ thống pháp luật đồng bộ và phù hợp.

2. Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện

pháp luật trong đời sống xã hội

Pháp luật xã hội chủ nghĩa được ban hành nhằm để điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát triển theo hướng phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao

động. Nhưng mục đích điều chỉnh của pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử

sự của con người và các tổ chức xã hội, trong đó việc xử sự tự giác của công dân theo

yêu cầu của pháp luật là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để bảo đảm cho pháp luật phát

huy được hiệu lực.

Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện sự nhận thức của công dân và thái

độ của họ đối với quy định của pháp luật. Vì vậy, nếu ý thức pháp luật càng được

nâng cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp

luật càng được bảo đảm.

3. Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng

đúng đắn các quy phạm pháp luật

Ý thức pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Để áp dụng đúng đắn một quy phạm pháp luật đòi hỏi phải có sự hiểu biết chính xác

nội dung và yêu cầu của quy phạm đó, phải giải thích và làm sáng tỏ nội dung và ý

nghĩa của quy phạm đó. Muốn thực hiện điều này đòi hỏi ý thức pháp luật của những

người áp dụng pháp luật phải đã phát triển đầy đủ, họ phải có một nền tảng văn háo

pháp lý vững chắc.

4. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là cơ sở để củng cố, phát triển nâng cao ý

thức pháp luật xã hội chủ nghĩa

Đến lượt mình, pháp luật như là sản phẩm trực tiếp của hoạt động sáng tạo

pháp luật, do đó nó phản ánh ý thức pháp luật của cơ quan làm luật, của nhân dân  và

được hình thành trên cơ sở của ý thức pháp luật. Việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp

luật, kiên quyết ngăn chặn vi phạm pháp chế trong một mức độ nhất định làm cho các

quan điểm, quan niệm về pháp luật xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển

một cách đúng đắn và rõ nét hơn. Viêc giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp

luật sẽ là điều kiện quan trọng để góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn

chỉnh và tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.

IV. VĂN HOÁ PHÁP LÝ VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Văn hoá pháp lý là sự hiểu biết và nhận thức sâu sắc pháp luật cũng như thực

hiện đầy đủ những đòi hỏi của pháp luật với ý thức cao.

Văn hoá pháp lý có liên quan tới ý thức pháp luật và dựa vào ý thức pháp luật.

Tuy nhiên, giữa chúng có những điểm khác biệt. Nếu ý thức pháp luật bao gồm những

yếu tố tư tưởng xã hội và tâm lý, ngoài những yếu tố này, văn hoá pháp lý còn bao

gồm cả hành vi thực tế thực hiện pháp luật dưới tác động của pháp luật và ý thức

pháp luật.

Văn hoá pháp lý là một khái niệm rộng bao gồm ý thức pháp luật, khả năng

hiểu biết và những thói quen sử dụng pháp luật có hiệu quả trong đời sống xã hội,

cũng như tính tích cực pháp luật của công dân.

Để nâng cao văn hoá pháp lý, trước hết cần giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp

luật là hoạt động có mục đích, có hệ thống và có định hướng của các cơ quan nhà

nước, các tổ chức xã hội và các tập thể lao động để hình thành và nâng cao ý thức

pháp luật, văn hoá pháp lý cho mọi công dân.

Mục đích cụ thể của giáo dục pháp luật thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, giáo dục pháp luật nhằm hình thành làm sâu sắc và mở rộng hệ

thống ttri thức pháp luật của công dân.

Thứ hai, giáo dục pháp luật nhằm hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp

luật.

Thứ ba, giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử

sự hợp pháp, tích cực.

Ba mục đích trên có mối quan hệ qua lại thống nhất với nhau, từ nhận thức

đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và từ tích cực đến thói quen xử sự hợp pháp.

Giáo dục pháp luật là một loại rất khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có nhiều

phương pháp và hình thức phong phú phù hợp với từng loại đối tượng khác nhau, tuỳ

thuộc vào tính chất cụ thể

trong mỗi giai đoạn nhất định.

Để công tác giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý của nhân dân

đạt hiệu quả cao cần phải tiến hành những biện pháp đồng bộ trong đó cần chú trọng

tới một số biện pháp cơ bản sau:

- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền giải thích pháp luật làm cho nhân

dân nắm được một cách đầy đủ và hiểu được nội dung của các văn bản quy phạm

pháp luật được ban hành trong từng giai đoạn.

- Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường học, bao gồm các

trường  của  Đảng,  của  Nhà  nước  kể  cả

các  trường  phổ

thông,  trường  trung  học

chuyên ngiệp và đại học, trường của các tổ chức chính trị - xã hội.

- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ năng lực và trình

độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào làm việc tại các cơ

quan làm công tác pháp luật, pháp chế.

- Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách

đông đảo vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật để

thông qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

- Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống vi phạm pháp luật, tổ chức cho nhân dân

tham gia một cách mạnh mẽ vào công tác này. Thông qua công tác đấu tranh chống vi

phạm pháp luật bảo đảm công bằng xã hội, ý thức pháp luật của nhân dân sẽ được

củng cố và nâng cao.

- Phải thực hiện tốt việc kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, văn

hoá, nâng cao trình độ chung của nhân dân.

- Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục nâng cao ý thức

pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm thường xuyên, đầy đủ và toàn diện.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: