Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ly luan 2

CHƯƠNG V 

NHÀ NƯỚC TƯ SẢN 

I. SỰ RA ĐỜI, BẢN CHẤT VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Vào khoảng thế kỷ XV, XVI, một số nước Phong kiến Tây Âu do sự phát triển

của lực lượng sản xuất với nền sản xuất hàng hoá đã làm cho chủ nghĩa phong kiến

bước vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Trong các nước này đã xuất hiện hàng loạt

công trường thủ công và nhiều thành thị - là các trung tâm thương mại lớn. Tầng lớp

thị dân ngày càng trở nên đông đúc, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ ngày xuất hiện

càng nhiều, giai cấp tư sản ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội, đây

chính là những nhân tố dẫn đến sự khủng hoảng toàn diện của xã hội phong kiến.

Với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất phong kiến tỏ

rõ sự lỗi thời và bất lực trong việc quản lý nền kinh tế, trở thành yếu tố kìm hãm sự

phát triển của lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất là

sự ra đời của lực lượng xã hội mới: tư sản và vô sản. Giai cấp tư sản sau khi chiếm vị

trí chủ đạo trong kinh tế đã nhanh chóng dành quyền lực trong lĩnh vực chính trị nhằm

thủ tiêu quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, thiết lập phương thức sản xuất mới,

tiến bộ, vượt qua sự khủng hoảng, tạo đà cho lực lượng sản xuất phát triển.

Nhiệm vụ trên đặt ra trước giai cấp tư sản một sứ mạng cao cả là phải tiến

hành cách mạng xã hội, thay thế hình thái kinh tế xã hội cũ bằng hình thái kinh tế xã

hội mới, thiết lập hệ thống quan hệ sản xuất mới, tạo đà cho lực lượng sản xuất phát

triển. Qua cuộc cách mạng tư sản, quyền lực chính trị chuyển từ tay giai cấp thống trị

cũ sang giai cấp thống trị mới, tức là chuyển từ tay giai cấp địa chủ, phong kiến sang

tay giai cấp tư sản.

Cách mạng tư sản ở từng nước khác nhau diễn ra dưới những hình thức khác

nhau, phụ thuộc và những yếu tố: chính trị, kinh tế, truyền thống dân tộc... của từng

quốc gia. Tựu chung cách mạng tư sản được tiến hành dưới các hình thức cụ thể sau:

1. Khởi nghĩa vũ trang: hình thức này là hình thức cách mạng triệt để nhất, nó

loại bỏ mọi tàn dư của xã hội phong kiến, thiết lập các nguyên tắc cơ bản của nền

dân chủ tư sản. Vì thế, hình thức này chỉ diễn ra ở những quốc gia có giai cấp tư sản

lớn mạnh, đủ sức để đối đầu với giai cấp địa chủ phong kiến, lãnh đạo được cách

mạng một cách độc lập (Cách mạng Hà Lan vào thế kỷ 16, cách mạng tư sản Pháp

thế kỷ 18).

2. Cải cách tư sản: là hình thức cách mạng diễn ra dưới sự thoả hiệp giữa giai

cấp tư sản với giai cấp quý tộc phong kiến, sử dụng vị trí của giai cấp mình trong nghị

viện để loại bỏ dần những đặc quyền, đặc lợi của giai cấp quý tộc phong kiến, thâu

tóm dần quyền lực chính trị về tay giai cấp mình. Hình thức này thường được sử dụng

ở những nước mà ở đó giai cấp tư sản chưa đủ mạnh để giành quyền lực một cách

kiên quyết và triệt để, nhanh chóng (Đức, Nhật, Tây Ban Nha)

3. Chiến tranh giải phóng dân tộc hoặc áp đặt nhà nước tư sản lên đất đai và

cư dân những miền đất “thuộc địa mới” vốn là thuộc địa của các nước Tư sản phát

triển (Hợp chủng quốc Hoa kỳ, Canada, Ôxtrâylia). Phần lớn hình thức này diễn ra ở các vùng đất trước đây là thuộc địa của Anh, Vào thế kỷ 18, 19, sau khi cách mạng ở Anh nổ ra, giai cấp tư sản ở những thuộc địa này hình thành từ số dân di cư từ Châu

Âu, hợp thành giai cấp thống trị, dùng cơ chế nhà nước lấn áp và tiêu diệt thổ dân với

chế độ thị tộc của họ, thiết lập nhà nước tư sản.

Nhà nước tư sản ra đời là kết quả của cách mạng Tư sản, với sự ra đời của

nhà nước tư sản các đặc quyền, đặc lợi của giai cấp quý tộc phong kiến đã bị loại bỏ,

giai cấp tư sản tuyên bố các quyền bình đẳng, tự do, bác ái, nhân quyền... Nhà nước tư

sản mới tiến bộ hơn rất nhiều so với nhà nước phong kiến trước đó mà nó đã thủ tiêu.

Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản đã đánh dấu

một bước phát triển mạnh mẽ và tiến bộ, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong

lịch sử nhân loại. Mặc dù vậy, nhà nước tư sản vẫn không vượt khỏi bản chất nhà

nước bóc lột, nhà nước tư sản xét về bản chất nó vần là nhà nước bóc lột dù giai cấp

tư sản ra sức tuyên truyền cho cái gọi là (Nhà nước phúc lợi chung).

Bản chất của nhà nước tư sản do chính những điều kiện nội tại của xã hội Tư

sản quyết định, đó chính là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng .

Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên

chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất ( chủ yếu dưới dạng nhà máy, hầm mỏ,

đồn điền...), được thực hiện thông qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư.

Cơ sở xã hội của nhà nước tư sản là một kết cấu xã hội phức tạp trong đó có

hai giai cấp cơ bản, cùng tồn tại song song có lợi ích đối kháng với nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong hai giai cấp này giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu

sản xuất của xã hội, chiếm đoạt những nguồn tài sản lớn của xã hội. Giai cấp vô sản là  bộ

 phận  đông  đảo  trong  xã  hội,  là  lực  lượng  lao  động  chúnh  trong  xã  hội.  Về

phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng không có tư liệu sản xuất nên họ chỉ là

người bán sức lao động cho giai cấp tư sản, là đội quân làm thuê cho giai cấp tư sản.

Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã hội

khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức...

Về mặt tư tưởng giai cấp tư sản luôn tuyên truyền về tư tưởng dân chủ - đa

nguyên, nhưng trên thực tế luôn tìm mọi cách đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư

sản, ngăn cản mọi sự phát triển và tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai

cấp công nhân và nhân dân lao động.

Trong lịch sử phát triển của mình, nhà nước tư sản đã trải qua một quá trình

phát triển lâu dài và phức tạp. Nhìn chung có thể khái quát quá trình phát triển của Nhà

nước tư sản từ khi ra đời cho đến nay thành 3 giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Từ thời kỳ thắng lợi của cách mạng tư sản thế kỷ 16 - 18 đến

cuộc chiến tranh Pháp - Phổ và Công xã Pa - Ri.

Đây là giai đoạn nhà nước tư sản trong quá trình hình thành và củng cố. Thời

kỳ này do phải đấu tranh chống lại các tàn dư của chế độ phong kiến tuy đã bị đánh

đổ nhưng vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong xã hội nên nhà nước tư sản đã ra sức tuyên

truyền và củng cố các thiết chế của nền dân chủ Tư sản như đảng phái, nghị viện tư

sản, chế độ bầu cử tự do...

Đây là giai đoạn nhà nước tư sản cạnh tranh tự do, nhà nước chưa can thiệp

vào kinh tế mà chỉ đóng vai trò là người “lính gác đêm”, đảm bảo cho các điều kiện

cạnh tranh tự do, giữ gìn trật tự xã hội tư sản.

Giai đoạn 2:

 Từ 1871 đến 1917. Ở giai đoạn này chủ nghĩa tư bản chuyển

thành chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa đế quốc. Đặc trưng của thời kỳ này là

sự cấu kết chặt chẽ giữa các tập đoàn tư bản tài phiệt và nhà nước tư sản. Nhà nước

tư sản trở thành uỷ ban quản lý các công việc của các tập đoàn tư bản độc quyền, tài

phiệt và bắt đầu can thiệp vào kinh tế. Bộ máy nhà nước trở nên cồng kềnh, quân sự

và bạo lực. Chế độ đại nghị bị lâm vào tình trạng khủng hoảng, thay vào đó là chủ

nghĩa quân phiệt với đặc trưng là sự cầm quyền của giới quân sự trong bộ máy nhà

nước, Nghị viện bị thu hẹp quyền lực, nguyên thủ quốc gia nắm giữ quyền lực nhà

nước.

Giai đoạn 3: Từ 1917 đến nay. Giai đoạn này chia thành hai thời kỳ:

Từ 1917 đến 1945 là thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Nhà nước

độc quyền được thiết lập ở hầu hết các nước tư sản. Nhà nước can thiệp mạnh mẽ

vào kinh tế. Bộ máy nhà nước là sự thống nhất giữa quyền lực kinh tế và quyền lực

chính trị, ngày càng trở nên quân phiệt, quan liêu, độc tài quân sự. Một số nhà nước tư

sản chuyển thành nhà nước phát xít.

Từ 1945 đến nay là thời kỳ nhà nước tư sản có những bước phát triển mới. Sau

chiến tranh nhiều nước tư sản đã ra khỏi khủng hoảng, nhà nước can thiệp vào kinh

tế ở tầm vĩ mô, đồng thời tập trung vào quản lý hành chính và thực hiện chức năng xã

hội. Chính vì thế, bộ mặt  xã hội của nhiều nước tư sản có sự phát triển đáng kể, các

thiết chế dân chủ tư sản được phục hồi, vai trò của pháp luật được đề cao để ngăn

ngừa hiện tượng lạm quyền và xoa dịu sự đấu tranh của nhân dân lao động.

Như vậy, qua các giai đoạn phát triển phức tạp, bản chất của nhà nước tư sản

vẫn không thay đổi nó vẫn là công cụ thực hiện chuyên chính tư sản. Tuy nhiên, đánh

giá bản chất của nhà nước tư sản cần phải xem xét nó trong tiến trình lịch sử cụ thể,

khách quan của từng giai đoạn phát triển.

II. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối

ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động

cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của

đời sống nhà nước và xã hội.

Qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản các chức năng của

nhà nước tư sản có những thay đổi đáng kể, tuy vậy khi xem xét ta thấy tựu chung nhà

nước tư sản có các chức năng đối nội và đối ngoại sau:

1.   Chức năng củng cố, bảo vệ, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản

Chức năng này bao hàm những nội dung sau:

-     Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản

Tất cả các nhà nước tư sản đều coi quyền tư hữu là quyền thiêng liêng bất

khả xâm phạm.  Thông  qua pháp  luật các nhà nước tư sản  đã thiết  lập  và bảo  vệ

quyền tư hữu cùng với sự giúp đỡ của tất cả bộ máy bạo lực và các biện pháp khác.

Song ở các giai đoạn phát triển khác nhau, nhà nước tư sản đã thực hiện chức năng

này cũng khác nhau, thích ứng với hoàn cảnh kinh tế của mỗi giai đoạn. Trong thời kỳ

chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của toàn bộ giai cấp tư sản. Hiện nay, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của những nhóm tư bản độc quyền dưới nhiều hình thức khác nhau, như: chuyển sở hữu của nhóm tư bản

độc quyền đang bị đe doạ sang sở hữu nhà nước, tạo cho nó những độ quyền trong

đầu tư  hoặc khai  thác tín  dụng,  giúp đỡ trường ra bên ngoài... các  nhóm tư  bản độc  quyền  mở

-     Trấn áp các giai cấp bị trị về mặt chính trị

Đây là hoạt động thường xuyên của nhà nước tư sản nhằm bảo vệ địa vị thống

trị về chính trị của giai cấp tư sản. Tuy vậy hoạt động này cũng có những biểu hiện

khác nhau. Trong giai đoạn đầu, để bảo vệ địa vị thống trị của mình, nhà nước tư sản

thướng sử dụng bộ máy bạo lực đàn áp trực tiếp các phong trào đấu tranh của giai cấp

công nhân và nhân dân lao động. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước tư sản vẫn duy trì

sự đàn áp chính trị nhưng dưới những hình thức, phương pháp ngụy trang tinh vi hơn,

như: quy định các hình thức, thể thức ứng cử, bầu cử...

-     Trấn áp giai cấp bị trị về mặt tư tưởng

Một mặt nhà nước tư sản luôn tuyên truyền về tinh thần dân chủ đa nguyên,

nhưng trên thực tế trong tất cả các giai đạo phát triển các nhà nước tư sản luôn tìm

mọi cách nhằm đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn cản việc truyền bá

những tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Hoạt động này được bảo đảm bởi sự liên kết giữa nhà nước tư sản với các thế lực

tôn giáo và hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng.

2.   Chức năng kinh tế

Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chức năng này chưa được

chú trọng. Chuyển sang giai đoạn  chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước tư sản từng

bước can thiệp vào lĩnh vực kinh tế, và khi chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành

chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thì sự can thiệp này được tăng cường và làm

nảy sinh chức năng mới - chức năng kinh tế.

Mục đích của chức năng này nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất,

kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn

tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư bản, ngăn ngừa và khắc phục

những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.

Để thực hiện chức năng này, nhà nước tư sản sử dụng hàng loạt các hình thức

và phương pháp như: sử dụng hệ thống đòn bẩy kinh tế, các kích thích kinh tế thể

hiện trong các tác động mang tính hành chính - kinh tế lên hệ thống các quan hệ kinh

tế.

Sự biểu hiện của chức năng này thể hiện:

+ Nhà nước tư sản căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội để xây dựng và đưa ra

các chương trình kinh tế cụ thể.

+ Nhà nước thông qua chương trình đầu tư tài chính nhằm phục vụ trực tiếp

cho các chương trình và mục tiêu kinh tế.

+ Nhà nước đưa ra và thực hiện các chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách

thuế, chính sách thị trường thích hợp với điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế.

+ Nhà nước áp dụng các biện pháp để bảo vệ nền sản xuất trong nước trước

sức ép của thị trường kinh tế quốc tế.

3.   Chức năng xã hội

Nhà nước  tư sản thực hiện chức năng xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội

như: việc làm, thất nghiệp, dân số, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, vấn đề bảo trợ

xã hội cho người già, giải quyết các tệ nạn xã hội...Chính sách xã hội và việc thực

hiện chức năng xã hội của nhà nước tư sản tuỳ thuộc vào tương quan các lực lượng

chính trị trong nhà nước tư sản ở các giai đoạn phát triển và trong từng quốc gia cụ

thể.

4.   Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong

trào cách mạng thế giới

Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa là chức năng

đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.

Các nhà nước tư sản tìm mọi cách xâm lược các vùng đất mới hoặc gây chiến tranh

với nhà nước tư sản khác để chia lại thế giới, xác định quyền thống trị hay mở rộng

vùng ảnh hưởng của mình.

Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập, chức năng đối ngoại chủ yếu

của các nhà nước tư sản là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đe doạ,

chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc.

5.   Chức năng đối ngoại hoà bình, hợp tác quốc tế

Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà

nước tư sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại, giải quyết các vấn đề

quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó,

các nhà nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều

lĩnh vực phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá - xã hội, môi trường, khoa học - kỹ

thuật, các vấn đề nhân đạo... với các nước có chế độ chính trị khác nhau.

III. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Các nhà nước tư sản dù được tổ chức dưới hình thức chính thể nào thì vẫn đều

có chung một cách thức tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở thuyết phân quyền nhằm

chống lại sự độc đoán chuyên quyền của chế độ chuyên chế phong kiến, giải quyết

những vấn đề thuộc nội bộ của giai cấp tư sản và che đậy bản chất thực của mình

trước quần chúng nhân dân lao động.

Nội dung của thuyết phân quyền là sự phân chia quyền lực nhà nước thành 3

nhánh quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba nhánh quyền này phải được giao cho

ba cơ quan nhà nước khác nhau nắm giữ trên một cơ chế kìm chế, đối trọng nhau

nhưng độc lập với nhau, yếu tố chủ đạo của học thuyết là “dùng quyền lực để hạn

chế quyền lực”.

Trên cơ sở của nguyên tắc phân chia quyền lực, về cơ bản bộ máy nhà nước tư

sản bao gồm những bộ phận sau:

1.   Nghị viện

Về hình thức, nghị viện tư sản là cơ quan quyền lực cao nhất, nắm quyền lập

pháp. Về cơ cấu tổ chức nghị viện tư sản cớ thể được tổ chức theo cơ cấu 1 viện

cũng có thể được tổ chức theo cơ cấu nhiều viện nhưng phần lớn các nước có cơ cấu

2 viện: thượng nghị viện và hạ nghị viện. Với nghị viện có cơ cấu 2 viện về nguyên

tắc thượng nghị viện có ít quyền hơn so với hạ nghị viện và được hình thành bằng

nhiều hình thức khác nhau: bầu, bổ nhiệm, thừa kế... Hạ nghị viện được hình thành

bằng hình thức bầu cử.

Quyền lực của nghị viện tư sản ở các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà

nước tư sản cũng hết sức khác nhau. Ơ giai đoạn đầu của nhà nước tư sản vai trò của

nghị viện là hết sức lớn. Đây chính là chế định dân chủ nhất trong cơ cấu tổ chức bộ

máy nhà nước tư sản, là cơ sở hợp pháp để giai cấp tư sản đấu tranh gạt bỏ đặc

quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, điều này hoàn toàn đúng với câu nói: “nghị

viện Anh có thể làm được mọi việc trừ việc biến đàn bà thành đàn ông”. Chuyển sang

giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, chế độ nghị viện mất dần vai trò là trung tâm quyền lực

chính trị, ảnh hưởng của nghị viện trong đời sống nhà nước bị giảm sút do xu hướng

tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan hành pháp. Hiện nay, việc xem xét sự phát

triển của nghị viện tư sản là hết sức phức tạp và khó khăn, bởi lẽ nghị viện tư sản

hiện nay không đơn thuần chỉ là cơ quan lập pháp mà đóng vai trò quan trộng đối với

quá trình phát triển dân chủ (đặc biệt ở những nước mà các đảng cánh tả nắm được

đa số ghế trong nghị viện).

2.   Nguyên thủ quốc gia

Nguyên thủ quốc gia là người người đớng đầu nhà nước,  đại diện cho các

quốc gia trong các quan hệ đối nội và đối ngoại.

Chức vụ này trong các nhà nước có các hình thức chính thể khác nhau, sự hình

thành và thẩm quyền cũng hết sức khác nhau. Trong các nhà nước có hình thức chính

thể quân chủ lập hiến nguyên thủ được hình thành bằng con đường truyền kế, và

được nhìn nhận như là biểu tượng cho truyền thống và sự thống nhất dân tộc (Nhật

Bản, Vương quốc Anh...).

Ở các nước có chính thể cộng hoà, nguyên thủ quốc gia được hình thành thông

qua con đường bầu cử. Tuy nhiên thẩm quyền của họ cũng hết sức khác nhau ở các

loại hình chính thể khác nhau. Nếu như trong chính thể cộng hoà tổng thống quyền

lực của nguyên thủ là hết sức lớn, vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người

đứng đầu cơ quan hành pháp (Mỹ, Mêxicô, Philippin...), thì trái lại ở những nước có

chính thể cộng hoà đại nghị cũng giống như các nước có chính thể quân chủ lập hiến,

nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại diện hình thức. Tuy nhiên, nguyên

thủ quốc gia cũng có ảnh hưởng nhất định trong việc thành lập chính phủ hoặc trong

một số vấn đề khác nhờ sử dụng sứ mạng đạo đức và là biểu tượng của vị đứng đầu

đầu nhà nước (Đức, Ý, Nhật Bản...).

3.   Chính phủ

Chính phủ là cơ quan nắm quyền hành pháp trong nhà nước tư sản. Chính phủ

đóng một vai trò cực kỳ quan trọng và giữ vị trí trung tâm trong bộ máy nhà nước. Trên

thực tế, chính phủ tư sản quyết định phần lớn các chính sách đối nội và đối ngoại của

nhà nước tư sản.

Cách thức hình thành chính phủ trong các nhà nước tư sản cũng hết sức khác

nhau . Đối với những nước có chính thể cộng hoà tổng thống, chính phủ được thành

lập không phụ thuộc vào nghị viện, đứng đầu chính phủ là tổng thống, những nước

này không đặt ra chức vụ thủ tướng. Đối với các nước có chính thể cộng hoà đại nghị

hoặc quân chủ đại nghị, chính phủ được thành lập trên cơ sở của đảng chính trị nắm

đại đa só ghế trong nghị viện. Thủ tướng chính phủ và các thành viên chính phủ có thể

do tổng thống bổ nhiệm (Italia, Pháp, Nhật), có thể do tổng thống kết hợp với nghị

viện bầu (Đức).

4.   Toà án

Toà án tư sản nắm quyền tư pháp, Toà án có vai trò rất quan trọng trong việc

thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư sản.

Các thẩm phán của nhà nước tư sản thường có tính chuyên nghiệp cao, chủ

yếu được bổ nhiệm với nhiệm kỳ dài, thậm chí ở một số nước là nhiệm kỳ suốt đời,

nếu bảo đảm sức khỏe và không phạm tội.

Tuy nhiên ở các hệ thống pháp luật khác nhau, thẩm quyền và phương thức

hoạt động của toà án cũng khác nhau, đặc biệt là giữa hệ thống pháp luật Ăng lô - Xắc

xông và Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa.

Bên cạnh hệ thống toà án cổ điển, nhà nước tư sản còn thiết lập các toà án

khác như: toà hành chính, toà thương mại, toà vị thành niên, toà bảo hiến...

III.     HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hình thức nhà nước tư sản gồm: Hình thức

chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

1. Hình thức chính thể tư sản

Nhà nước Tư sản có hai dạng chính thể cơ bản là chính thể quân chủ lập hiến

và chính thể cộng hoà.

- Chính thể quân chủ lập hiến

Trong các nhà nước có chính thể quân chủ lập hiến có hai dạng biến dạng

chính là chính thể quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị.

Chính thể quân chủ nhị nguyên thể hiện tính song phương quyền lực giữa nhà

vua và nghị viện. Vua chỉ bị hạn chế trong lĩnh vực lập pháp mà không bị hạn chế

trong lĩnh vực hành pháp. Các đạo luật do nghị viện thông qua phải có sự phê chuẩn

của nhà vua.Chính phủ chịu trách nhiệm trước nhà vua. Hình thức này chỉ tồn tại ở nhà

nước tư sản trong giai đoan đầu (Nhà nước Phổ thời kỳ đệ nhị đế quốc, 1871 - 1918

và nhà nước Nhật theo Hiến pháp Minh Trị 1889).

Hình thức quân chủ đại nghị thể hiện tính hình thức của quyền lực nhà vua.

Nhà vua, với tính cách là nguyên thủ quốc gia chỉ là người đại diện tượng trưng chứ không nắm quyền hành thực tế. Trên thực tiễn, nhà vua không nắm quyền lực trên cả lĩnh vực hành pháp và lập pháp. Các đạo luật do nghị viện thông qua và nhà vua không

có quyền phủ quyết. Chính phủ do nghị viện thành lập và phải chịu trách nhiệm trước

nghị viện (Anh, Nhật bản theo Hiến pháp1946...).

-     Chính thể cộng hoà tư sản

Đây là hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản hiện nay. Ở Hình

thức này có hai biến dạng chủ yếu là cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị.

Ở chính thể cộng hoà tổng thống, vai trò của nguyên thủ quốc gia là rất quan

trọng. Tổng thống vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu chính

phủ, do nhân dân trực tiếp bầu ra hoặc do các đại biểu cử tri bầu ra. Các thành viên

của  chính  phủ

do  tổng  thống  lựa  chọn  và  bổ

nhiệm,  chịu  trách  nhiệm  trước  tổng

thống. Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật của nghị viện. Nghị viện không có

quyền giải tán chính phủ trừ trường hợp tổng thống phạm tội nghiêm trọng bị hạ viện

khởi tố và thượng viện xét xử theo thủ tục đặc biệt ( thủ tục đàn hạch).

Ở chính thể cộng hoà đại nghị, vai trò của nghị viện là rất lớn, nghị viện là

thiết chế quyền lực trung tâm trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Nghị viện

bầu ra nguyên thủ quốc gia (tổng thống) và  đảng chính trị nắm đa số ghế trong nghị

viện có quyền thành lập chính phủ, chính phủ chịu trách nhiệm trước nghị viện và có

thể bị nghị viện giải tán, vai trò của tống thống không lớn (Liên bang Đức, Ý, Áo).

Ngoài chính thể cộng hoà tổng thống và chính thể cộng hoà đại nghị, hiện nay

còn xuất hiện và tồn tại hình thức cộng hoà hỗn hợp giữa cộng hoà tổng thống và

cộng hoà đại nghị (Pháp, Bồ đào Nha). Trong hình thức chính thể này, những đặc điểm

của cộng hoà đại nghị được bảo lưu nhưng bên cạnh đó lại tăng cường quyền lực của

tổng thống. Tổng thống được tuyển cử qua hình thức phổ thông đầu phiếu. Chính phủ

do tổng thống bổ nhiệm, người đứng đầu chính phủ là thủ tướng nhưng tổng thống

vẫn có quyền điều hành hoạt động đối với chính phủ. Trong trường hợp cần thiết,

tổng thống có quyền giải tán cả nghị viện.

2. Hình thức cấu trúc nhà nước tư sản

Nhà nước Tư sản có các hình thức cấu trúc sau: Hình thức liên bang và hình

thức đơn nhất.

Hình thức cấu trúc liên bang là sự hợp thành từ nhiều bang thành viên, song mỗi

thành viên của liên bang không có đầy đủ các dấu hiệu của một nhà nước độc lập.

Mặc dù mỗi thành viên đều có lãnh thổ riêng, hiến pháp riêng, hệ thống chính quyền

riêng song bang không có chủ quyền quốc gia riêng (không là chủ thể của luật pháp

quốc tế). Nhà nước liên bang có hiến pháp riêng, hệ thống pháp luật riêng, có giá trị

tối cao so với hiến pháp và pháp luật của các bang thành viên. Đồng thời trong nhà

nước liên bang tồn tại một chế độ hai quốc tịch đối với mỗi công dân. Trong hình thức

cấu trúc nàh nước liên bang, về mặt nguyên tắc, các thành viên không có quyền tách

khỏi nhà nước liên bang.

Nhà nước đơn nhất là hình thức cấu trúc phổ biến của các nhà nước tư sản.

Nhà nước đơn nhất có những dấu hiệu đặc trưng:

-     Có hiến pháp và hệ thống pháp luật thống nhất;

-     Hệ thống cơ quan nhà nước ở trung ương thống nhất (cơ quan lập pháp,

hành pháp và tư pháp);

-     Có chủ quyền lãnh thổ thống nhất;

-     Có quốc tịch thống nhất;

-     Các cơ quan  chính quyền địa phương tổ chức và hoạt động theo quy định

chung của chính quyền trung ương.

Tuy nhiên, khi xem xét hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất tư sản cần chú ý

một số biểu hiện cụ thể trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước địa phương.

Trong một số nước, xu hướng tập trung quyền lực về trung ương được coi trọng. Các

cơ quan chính quyền địa phương phục tùng tuyệt đối quyền lực  nhà nước trung ương.

Nhà nước cử đại diện của mình về địa phương trực tiếp quản lý mọi mặt hoạt động

ở đây. Hoặc một số nước mặc dù có bầu ra các cơ quan chính quyền địa phương bên

cạnh đại diện của trung ương, song hoạt động của các cơ quan này đặt dưới sự kiểm

soát của các đại diện do trung ương cử về. Hình thức này tồn tại ở Nhật Bản và Pháp.

Một  số

nước  lại  thực  hiện  nguyên  tắc  tản  quyền  trong  tổ

chức  thực  hiện

quyền lực nhà nước ở địa phương. Tại các nước này xuất hiện dấu hiệu sự tự trị của

chính quyền địa phương. Cơ quan quyền lực địa phương do nhân dân bầu ra hoạt động

theo nguyên tắc tự quản. Nhà nước gián tiếp kiểm soát hoạt động của các cơ quan địa

phương, hình thức này được áp dụng ở một số địa phương của Anh, Tân Tây Lan,

Pháp, Tây Ban Nha.

Ngoài hai hình thức cấu trúc trên, trong lịch sử của nhà nước tư sản còn tồn tại

một kiểu cấu trúc nhà nước khác là liên minh giữa các quốc gia, như liên minh ở Mỹ

từ 1776 - 1787, Đức đến 1867, Thụy Sỹ 1848; nhà nước liên minh là sự kết hợp các

quốc gia có chủ quyền, nhằm giải quyết một số vấn đề nào đó trong một khoảng thời

gian nhất định. Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, nhà nước liên minh có cơ cấu tổ

chức không chặt chẽ và chỉ gây ảnh hưởng mang tính quyền lực đối với các nước

thành viên trong một số lĩnh vực nhất định. Hiện nay, đáng chú ý là Liên minh Châu

Âu.

3. Chế độ chính trị của nhà nước tư sản

Chế độ chính trị của nhà nước tư sản được hiểu là toàn bộ các phương pháp,

thủ đoạn mà giai cấp tư sản sử dụng để thực hiện nền chính trị tư sản. Chế độ chính

trị của nhà nước tư sản được phản ảnh qua các phương pháp hoạt động của hệ thống

cơ quan nhà nước, địa vị pháp lý của công dân cùng các tổ chức chính trị xã hội và

những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho công dân. Chế độ

chính trị tư sản  là một cơ chế năng động, linh hoạt, ở các giai đoạn phát triển khác

nhau của nhà nước tư sản, cũng như ở từng quốc gia cụ thể biểu hiện của nó là hết

sức khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung cho thấy nhà nước tư sản hoặc có chế độ chính

trị dân chủ hoặc chế độ phản dân chủ. Việc xác lập chế độ chính trị nào là tuỳ thuộc

vào tương quan chính trị trong nước, vai trò tiến bộ hay phản động của bộ phận cầm

quyền, tình hình chính trị quốc tế.

Trong các chế độ chính trị nói trên thì chế độ dân chủ tư sản là chế độ chính trị

tốt nhất của nhà nước tư sản, nó được biểu hiện bằng các dấu hiệu:

-     Có sự thừa nhận sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật;

-    Khả năng người dân được sử dụng rộng rãi các quyền tự do dân chủ;

-     Có sự cùng tồn tại của các đảng chính trị, kể cả đảng của phái đối lập bên

cạnh đảng cầm quyền;

-     Hệ thống các cơ quan đại diện được hình thành bằng con đường bầu cử

theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu;

-     Nguyên tắc pháp chế tư sản được bảo đảm.

Tuy nhiên, với chế độ chính trị dân chủ tư sản bộ mặt nhà nước tư sản đã co

sự thay đổi đáng kể, song thực chất nó vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của một nhà

nước bóc lột, như V.I LêNin đã nhận xét: “xã hội tư bản chủ nghĩa, xét trong những

điều kiện phát triển thuận lợi nhất của nó, đem lại cho ta một chế độ dân chủ ít nhiều

hoàn bị trong chế độ cộng hoà dân chủ. Nhưng chế độ dân chủ ấy tựu chung vẫn bị bó

trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, và do đó, thực ra, nó tựu

chung vẫn là một chế độ dân chủ đối với riêng những giai cấp có của, đối với riêng

bọn giàu có mà thôi”1.

Chế độ phản dân chủ là cơ chế sử dụng bạo lực của các nhóm tư sản phản

động lũng đoạn ttrong việc thực hiện chuyên chính tư sản. Đặc trưng của chế độ này

là mọi quyền tự do, dân chủ bị hạn chế tới mức tối đa, hoặc bị xoá bỏ hoàn toàn; các

đảng phái chính trị đối lập, các tổ chức chính trị - xã hội độc lập bị đặt ra ngoài vòng

pháp luật và bị đàn áp dã man, các thể chế dân chủ bị vô hiệu.

Biến dạng cao nhất của chế độ phản dân chủ là chế độ phát xít. Chế độ phát

xít với tính chất cực đoan đã xoá bỏ hoàn toàn các thể chế dân chủ tư sản, cấm mọi tổ

chức, đảng phái đối lập hoạt động, công khai sử dụng bạo lực và các biện pháp khủng

bố, thực hiện chính sách phân biệt chủng tộc. Ngày nay chế độ phát xít không còn tồn

tại với đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của nó. Tuy nhiên, hiện vẫn còn có khuynh

hướng phục hồi chủ nghĩa phát xít ở đây đó với những luận điệu mới cùng với sự phục hồi của những đảng tân phát xít trong một số nhà nước tư sản, và vì thế nguy cơ tiềm ẩn yếu tố đe doạ nền dân chủ tư sản vẫn luôn là có thật ở một số quốc gia.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: