luc mach than kiem 101-130
Hồi Thứ 101
Hai bên ý hợp tâm đầu
Hư Trúc còn đang ngơ ngẩn thì Cá Ðại Bá hấp tấp đáp:
- ... Trúng vào huyệt Huyền Khu, Khí Hải... Hư Không Trúc
Hư Trúc cả mừng nói:
- Huynh đài đã biết được vị trí Sinh tử phù thì hay lắm.
Chiêu Dương ca thiên điếu vừa rồi đã khiến cho thần trí Cát Ðại Bá tỉnh lại. Hư Trúc liền vận dụng chân khí thuần dương rồi dùng phép Thiên Sơn lục dương chưởng của Ðộng Mỗ đã truyền thụ cho vỗ vào ba huyệt đạo Huyền Khu, Khí Hải và Hư Không Trúc.
Chỉ chớp mắt Sinh tử phù lạnh như băng trong người Cát Ðại Bá tiêu tan. Cát Ðại Bá thoát cơn nguy khốn, đứng dậy múa may khoa chân mừng rỡ như người được của báu rồi đột nhiên y phục xuống đất dập đầu binh binh lạy Hư Trúc, nói:
- Thưa ân công! Tính mạng Cát Ðại Bá này ân công đã ban cho. Từ đây về sau ân công có điều gì sai khiến, dù phải nhảy vào đống lửa, Cát Ðại Bá này cũng chẳng dám từ nan.
Hư Trúc bản tính khiêm cung, thấy Cát Ðại Bá hành đại lễ, cũng vội vàng dập đầu binh binh lạy trả rồi nói:
- Tại hạ không dám nhận trọng lễ. Nếu huynh đài sụp lạy thì tại hạ cũng phải dập đầu.
Cát Ðại Bá lớn tiếng nói:
- Xin ân công đứng lên cho. Ân công làm như vậy khiến cho tiểu nhân phải tổn thọ.
Ðể biểu thị tấm lòng cảm kích, Cát Ðại Bá dập đầu thêm mấy cái nữa, Hư Trúc cũng dập đầu đáp lễ.
Hai người còn đang sì sụp lạy lẫn nhau chưa ai chịu ai thôi trước thì đột nhiên có mấy người la lên:
- Mau phá giải Sinh tử phù.
Rồi đổ xô cả lại như ong vỡ tổ, vây lấy hai người. Một lão già giơ tay ra nắm lấy Cát Ðại Bá nói:
- Thôi đừng lạy lục nữa, để bọn ta còn xin ân công giải độc cứu mạng.
Hư Trúc thấy Cát Ðại Bá đứng dậy rồi, mới đứng thẳng người lên nghiêm chỉnh nói:
- Các vị đừng nóng nảy, hãy nghe tại hạ nói một lời.
Lập tức nhà đại sảnh yên lặng như tờ.
Hư Trúc nói:
- Muốn phá giải Sinh tử phù cần phải biết đích xác bộ vị mới được. Vậy các vị có biết không?
Mọi người lại náo loạn cả lên. Người thì nói:
- Tại hạ có biết.
Kẻ lại nói luôn:
- Tại hạ bị trúng vào huyệt Uỷ Trung và huyệt Nội Tinh.
Lại có người nói:
- Người tại hạ đau đớn ngứa ngáy mỗi tháng một khác. Dường như Sinh tử phù chạy loạn khắp trong cơ thể không khác gì lúc luyện công bị chân khí nghịch hành.
Ðột nhiên có người lớn tiếng quát lên:
- Anh em không được ồn àao. Ai cũng la làng thì Hư Trúc Tử tiên sinh biết lối nào mà nghe.
Người la đó chính là Ô lão đại. Mọi người yên lặng trở lại. Hư Trúc nói:
- Tại hạ tuy được Ðông Mỗ truyền thụ phép phá giải Sinh tử phù... nhưng... cái đó...
Bảy tám người trong bọn không nhịn được lại reo lên:
- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Như vậy ngô bối có thể thoát chết.
Hư Trúc lại nói tiếp:
- Nhưng về việc nhận xét Sinh tử phù ở bộ vị nào thì tại hạ hãy còn nông cạn. Nếu vị nào không biết rõ thì chúng ta sẽ tìm kiếm dần dần. Ðồng thời trong quý vị có mặt nơi đây, vị nào tinh thông về y thuật hợp tác cùng tại hạ nghiên cứu và nhất định phải chữa cho bằng được.
Quần hào lại reo ầm lên. Hồi lâu tiếng hoan hô dần dần nhỏ đi rồi dừng lại. Mai Kiếm đột nhiên cất tiếng lạnh như băng nói:
- Chủ nhân ta ưng thuận phá giải Sinh tử phù cho các ngươi đó là tấm lòng từ bi quảng đại của người. Nhưng bọn mi lại dám cả gan lớn mật làm phản, khiến cho Ðông Mỗ phải ly cung xuống núi rồi quy tiên. Bọn ngươi lại tiến đánh núi Phiêu Diễu, sát hại bao nhiêu chị em bộ Quân Thiên. Vậy món nợ đó các ngươi tính sao?
Nàng vừa dứt lời, quần hào ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng sợ hãi vô cùng. Họ nghĩ rằng lời Mai Kiếm vừa nói là đúng sự thực, mà Hư Trúc lại là truyền nhân của Ðông Mỗ thì dĩ nhiên y không thể bỏ qua những tội lỗi tày đình mà họ đã phạm vào.
Có người muốn khẩn cầu, nhưng nghĩ lại tội làm cho Ðông Mỗ phải ly cung mà chết và tội phản loạn kéo dài đến đánh cung Linh Thứu đều cực kỳ thâm trọng! Ðâu có thể nói mấy câu năn nỉ mà xong được? Nên chẳng ai dám lên tiếng.
Ô lão đại nói:
- Lời cô nương thống thách thật là chí lý. Ngô bối đã phạm tội ngập đầu, đành cam chịu để Hư Trúc Tử tiên sinh trách phạt, tha hay giết đều tuỳ nơi tiên sinh định đoạt.
Quần hào nghe Ô lão đại nói, lại nhao nhao theo hùa:
- Phải lắm! Chúng ta đã làm nên tội nghiệt, Hư Trúc Tử tiên sinh muốn trách phạt thế nào cũng xin cam chịu.
Có nhiều người thấy Sinh tử phù đòi mạng một cách cực kỳ đau khổ, liền quỳ gối xuống lạy Hư Trúc như tế sao.
Nguyên Ô lão đại đã biết rõ tính nết Hư Trúc là người trung hậu thành thực chứ không nham hiểm độc ác như Ðông Mỗ, nếu chính y ra tay trừng phạt thì còn nhẹ hơn bọn Mai, Lan, Cúc, Trúc tứ kiếm nhiều. Vì thế mà lão quay ra năn nỉ Hư Trúc.
Hư Trúc lại chẳng có chủ ý gì quay sang hỏi Mai Kiếm:
- Mai Kiếm tỷ tỷ! Việc này nhờ tỷ tỷ giúp ý kiến nên giải quyết thế nào?
Mai Kiếm đáp:
- Bọn này đều không phải thiện nhân. Chúng đã sát hại bao nhiêu chị em Quân Thiên. Vậy chủ nhân bắt chúng phải đền mạng mới được.
Ðông chúa động Ngọc Tiêu là một lão già bảy mươi tuổi nhìn Mai Kiếm xá dài nói:
- Cô nương! Bọn tại hạ bị trúng Sinh tử phù, thảm trạng khổ đau không biết đến đâu mà nói, nên khi được tin Ðông Mỗ lão nhân gia không ở trên núi thì rất đỗi hoang mang lo sợ, đó cũng vì sự sống mà chúng tôi làm nên tội lỗi. Bây giờ hối hận thì đã không kịp nữa. Vậy xin cô nương mở lượng hải hà nói giúp với Hư Trúc tiên sinh cho!
Mai Kiếm trầm ngâm đáp:
- Cái tội giết người, các ngươi phải tự chặt cánh tay mặt đi là trừng phạt nhẹ lắm rồi!
Nàng vừa nói ra đã biết ngay như thế là mình ban lệnh không được hợp lý, liền quay lại hỏi Hư Trúc:
- Thưa chủ nhân! Nô tỳ tính vậy được chăng?
Hư Trúc cảm thấy phạt như vậy là nặng quá, nhưng lại không muốn trái ý Mai Kiếm, nên ngập ngừng đáp:
- Như thế... Như thế...
Hư Trúc chưa dứt lời thì có một người rẽ đám đông đi ra. Người này mặt đẹp như ngọc, phong tư tuấn nhã. Chính là Vương tử nước Ðại Lý tên gọi Hàn Dự. Tính chàng ưa can thiệp việc người, hay cùng người đàm luận thị phi.
Chàng nhìn Hư Trúc chắp tay cười nói:
- Nhân huynh! Các vị đây lúc tiến đánh núi Phiêu Diễu, tiểu đệ đã không tán thành. Song nói khô cổ cũng chẳng ai nghe. Bây giờ họ gây nên đại họa, nhân huynh trừng trị trách phạt là đáng lắm. Nhưng tiểu đệ xin nhân huynh giao việc này cho tiểu đệ trách phạt liệt vị được chăng?
Hôm trước, quần hào uống máu ăn thề gây sự để đánh giết Ðông Mỗ, Ðoàn Dự hết sức ngăn cản. Hư Trúc cũng biết. Y hiểu chàng là một vị công tử đầy lòng bác ái nghĩa hiệp nên vẫn kính trọng chàng. Huống chi Hư Trúc đang lúng túng chưa biết cách xử trí ra sao, nghe chàng nói vậy liền chắp tay nói:
- Tại hạ kiến thức hẹp hòi, không quen xử sự. Nếu được Hàn công tử vui lòng đứng ra liệu lý giùm cho thì tại hạ cảm kích vô cùng.
Quần hào lúc vừa nghe Ðoàn Dự nói câu đầu kể tội họ đáng trách phạt thì trong lòng bất phục. Có người nóng nảy đã toan cất tiếng chửi mắng. Nhưng sau nghe Hư Trúc chấp thuận lời chàng, họ vội rụt lưỡi lại không dám nói ra nửa lời.
Ðoàn Dự hắng giọng rồi nói:
- Vậy là hay lắm! Các vị đây phạm lỗi lầm thật là thâm trọng mà cách trừng phạt của tại hạ cũng chẳng nhẹ nhàng. Hư Trúc Tử tiên sinh đã nhường cho tại hạ xử lý. Nếu các vị phản kháng thì tại e rằng Hư Trúc lão huynh không chịu phá giải sinh tử phù cho các vị nữa.
Chàng ngừng lời cười ha hả rồi dõng dạc tuyên bố:
- Ðiều thứ nhất: các vị phải đến trước vong linh Ðông Mỗ kính cẩn dập đầu lạy tám lạy, nghiêm chỉnh mặc niệm, ăn năn tội lỗi. Lúc hành lễ ai mà ngấm ngầm ra điều mạo phạm Ðông Mỗ, tội trạng sẽ bị gia trọng một bậc.
Hư Trúc cả mừng khen:
- Phải lắm, phải lắm! Hình phạt trong điều thứ nhất thật hay, đáng phục... đáng phục...
Quần hào chưa hiểu anh công tử đồ gàn này còn đưa ra những hình phạt cổ quái gì nữa, ai nấy đều xao xuyến trong lòng. Nhưng vừa nghe y tuyên bố phải cúi đầu lạy trước vong linh Ðông Mỗ thì nghĩ thầm:
- Tôn trọng người đã chết là thường tình, thì cúi đầu lạy trước linh vị có chi là lạ? Huống chi mình có thù ghét Ðông Mỗ lúc mình vừa lạy vừa lầm thầm mắng khẽ thì gã làm sao biết được?
Nghĩ vậy mọi người đồng thanh ưng thuận.
Ðoàn Dự thấy mình tuyên bố điều thứ nhất mọi người đều hoan hỷ đồng ý thì tinh thần phấn chấn, dõng dạc tuyên bố tiếp:
- Ðiều thứ hai: Liệt vị phải cúi đầu hành lễ trước những vị tỷ tỷ bộ Quân Thiên đã bị tử nạn. Vị nào đã giết người phải phục lạy và mặc niệm sám hối. Lúc hành lễ phải bịt khăn trắng để tang. Ai không giết người thì chỉ xá dài hành lễ là đủ và sẽ được Hư Trúc Tử nhân huynh trị bịnh cho để khích lệ.
Quần hào lên núi Phiêu Diễu phần lớn là không giây vào vụ giết người thì ưng thuận ngay. Bọn người đã hạ thủ tàn sát nghe đến truyện đội khăn tang dập đầu hành lễ so với hình phạt chặt tay của Mai Kiếm còn nhẹ gấp trăm lần, dĩ nhiên họ cũng không có điều gì phản đối.
Ðoàn Dự lại tuyên bố:
- Ðiều thứ ba: Các vị phải vĩnh viễn thần phục Linh Thứu cung, không được sinh lòng phản trắc. Hư Trúc Tử tiên sinh đã ra lệnh thì ai nấy nhất nhất phải tuân theo. Chẳng những phải cung kính Hư Trúc tiên sinh mà thôi, đối với bốn vị tỷ Muội Mai, Lan, Cúc, Trúc cũng phải đem lòng kính nể, đổi thù ra bạn, không được cử động gươm đao. Nếu vị nào không phục thì cứ việc tiến lên cùng Hư Trúc Tử tiên sinh tỷ đấu và ra chiêu để xem ai hơn ai kém rồi sẽ nói chuyện sau.
Quần hào nghe Hàn Dự nói vậy đồng thanh đáp:
- Phải lắm! Phải lắm!
Có người lại nói:
- Công tử định phạt như vậy là nhẹ lắm rồi. Chẳng hiểu còn có điều chi dạy bảo nữa không?
Ðoàn Dự vỗ tay đáp:
- Chỉ có bấy nhiêu thôi!
Rồi chàng quay lại hỏi Hư Trúc:
- Nhân huynh! Tiểu đệ quy định ba điều như vậy đã được chưa?
Hư Trúc chắp tay đáp:
- Ða tạ! Ða tạ! Công tử xử sự như thế là hay lắm.
Hư Trúc lại quay sang Mai Kiếm với vẻ mặt ra chiêu băn khoăn hỏi:
- Tam điều Hàn công tử nêu ra, tỷ tỷ có ý kiến gì không?
Mai Kiếm đáp:
- Thưa chủ nhân! Chủ nhân đã là chúa tể cung Linh Thứu thì bất luận chủ nhân bảo sao bọn nô tỳ đều phải vâng theo. Chủ nhân đã có độ lượng khoan hồng nhiêu dung cho bọn phản loạn, thì bất tất phải băn khoăn làm chi.
Hư Trúc cười nói:
- Không dám! Việc này... tại hạ còn có điều muốn nói... chẳng biết có nên không?
Ô lão đại đỡ lời:
- Hết thảy ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đều là thuộc hạ núi Phiêu Diễu. Giáo chủ có điều chi dạy bảo thì còn ai dám kháng cự. Nếu ba điều hình phạt mà Hàn công tử đã định có chỗ khoan hồng quá đỗi, giáo chủ muốn bổ sung thì bọn thuộc hạ cũng xin cam tâm bái lãnh.
Hư Trúc nói:
- Tại hạ còn ít tuổi kiến thức nông cạn, bất quá được Ðông Mỗ chỉ điểm cho mấy môn võ công. Chức giáo chủ gì đó thực ra... Xin các vị tiền bối nghĩ lại.
Nguyên Hư Trúc từ thuở nhỏ đến giờ vẫn bị người sai khiến làm kẻ môn hạ. Y không bao giờ tự mình quyết định được chủ ý và bây giờ đứng trước mặt mọi người y không khỏi lúng túng, nên nói ấp a ấp úng và giọng lưỡi lại ra chiều khiêm cung quá độ.
Mai, Lan, Cúc, Trúc nghĩ thầm trong bụng:
- Không hiểu sao chủ nhân mình đối với bọn nô tài kia mà lại dùng lời lẽ khách khí như vậy?
Ô lão đại lại lên tiếng:
- Giáo chủ đối với bọn thuộc hạ khiêm hòa như vậy thì dù anh em thuộc hạ có phải gan óc lầy đất cũng không đủ báo đền trong muôn một. Giáo chủ có mệnh lệnh gì xin cứ ban ra!
Hư Trúc nói:
- Phải, phải! Tại hạ nói lầm rồi xin các vị đừng cười... Tại hạ muốn nói đến hai việc. Việc thứ nhất hơi có vẻ tư tâm. Số là tại hạ... nguyên tại hạ xuất thân từ chùa Thiếu Lâm làm chức tiểu hòa thượng. Vậy xin từ đây sắp tới các vị có bôn tẩu giang hồ đừng làm khó dễ đệ tử phái Thiếu Lâm, bất luận là tăng hay tục. Ðó là một việc cầu tình chứ không dám nói là một mệnh lệnh.
Ô lão đại lớn tiếng hô:
- Giáo chủ có lệnh: từ đây sắp tới, trên bước giang hồ anh em có gặp bất luận là đại sư, hoà thượng hay bạn bè tục gia thuộc phái Thiếu Lâm, nhất nhất phải cung kính, chớ có thất lễ mà mang tội.
Quần hào đồng thanh hô vang:
- Xin tuân mệnh!
Hư Trúc thấy mọi người ưng thuận, y có vẻ mạnh dạn hơn, chắp tay nói:
- Ða tạ, đa tạ! Tại hạ còn việc thứ hai là xin các vị thề lòng hiếu sinh của đức Thượng đế không nên giết người một cách bừa bãi. Hay hơn nữa là đừng giết cả các sinh vật dù là nhỏ mọn như con ong con kiến. Các vị lại không nên ăn những đồ huyết thực. Nhưng đó là một điều rất khó, vì chính tại hạ cũng đã ăn mặn mất rồi. Thế thì...các vị cố tránh việc giết người là đủ.
Ô lão đại lại tuyên bố:
- Giáo chủ có lệnh: Hết thảy anh em dưới trướng cung Linh Thứu từ nay không được giết càn người vô tội và không được sát sinh một cách bừa bãi. Kẻ nào bất tuân sẽ bị trừng trị.
Quần hào lại đồng thanh đáp:
- Xin tuân mệnh!
Hư Trúc cười nói:
- Ô tiên sinh! Mấy lời tuyên bố của tiên sinh thật là rõ ràng. Tại hạ thực không thể sánh bằng. Tiên sinh... trúng sinh tử phù ở chỗ nào, để tại hạ tẩy trừ đi cho.
Ô Lão Ðại sở dĩ phải mạo hiểm đứng đầu việc mưu phản chẳng qua cũng chỉ vì cái sinh tử phù ở trong người. Bây giờ lão nghe Hư Trúc chịu phá giải sinh tử phù cho mình, từ nay sẽ trút được mối lo canh cánh bên lòng. Lão mừng rỡ khôn xiết và trong lòng cực kỳ cảm kích quỳ mọp ngay xuống để lạy tạ.
Hư Trúc cũng quỳ xuống hỏi:
- Ô tiên sinh, tiên sinh bị thương ở bụng vì trái tùng đã khỏi chưa?
Lúc này bốn chị em Mai Kiếm đã chuyển động cơ quan mở cửa lớn ra để các phụ nữ chín bộ tiến vào đại sảnh.
Bỗng nghe thanh âm Phong Ba Ác, Bao Bất Ðồng lớn tiếng hô hoán rồi cùng Bách Xuyên, Công Dã Càn tiến vào đại sảnh.
Nguyên bọn này định đến đây tìm Ðồng Mỗ để tỷ đấu, nhưng chạm trán phải quần nữ bát bộ đưa di thể Ðồng Mỗ về đến bên ngoài Linh Thứu cung. Bao Bất Ðồng thì ngôn ngữ lỗ mãng, còn Phong Ba Ác bản tính hiếu chiến. Hai bên trước còn gây lộn rồi đi đến chỗ động thủ.
Chẳng mấy chốc Bao Bất Ðồng cùng Phong Ba Ác được Bách Xuyên và Công Dã Càn đến giúp. Bản lãnh bốn người này tuy rất mực cao cường, nhưng quả bất địch chúng, không thể chống nổi bọn phụ nữ đông người.
Bốn người vừa đánh vừa chạy, mình đều bị thương. Nếu cửa lớn chậm mở trong một khắc và Mai, Lan, Trúc, Cúc không lên tiếng ngăn trở thì bốn gã chẳng bị bắt cũng phải mất mạng với quần nữ chín bộ cung Linh Thứu.
Lúc này quần nữ trong chín bộ theo ý Hư Trúc mở tiệc Quần anh tại trong nhà đại sảnh.
Mộ Dung Phục thấy mình ở lại trơ trẽn liền dẫn bọn Bách Xuyên cáo từ xuống núi. Kiếm Thần Trác Bất Phàm và Phù Dung Tiên Tử Thôi Lộc Hoa không lời từ biệt cũng bỏ đi luôn và chẳng biết đi về hướng nào.
Hư Trúc thấy bọn Mộ Dung Phục muốn đi thì cố tình giữ lại. Mộ Dung Phục nói:
- Tại hạ đã đắc tội với núi Phiêu Diễu nên rất bẽ bàng. Nay đã được nhân huynh bỏ qua là cảm ơn thịnh tình lắm rồi, khi nào còn dám quấy quả.
Hư Trúc nói:
- Sao công tử lại nói vậy? Tại hạ xem hai vị công tử văn võ kiêm toàn, anh hùng xuất chúng. Tại hạ vô cùng ngưỡng mộ những muốn... nhờ hai vị chỉ giáo. Tại hạ... là kẻ vụng về... không biết nói thế nào cho vừa lòng công tử...
Bao Bất Ðồng cùng quần nữ giao phong bị thương mấy chỗ vốn đã bực mình. Bây giờ nghe Hư Trúc ấp úng lưu khách thì nghĩ ngay đến trong người y có bức chân dung Vương Ngọc Yến liền rủa thầm:
- Thằng trọc này khéo giả nhân giả nghĩa. Hắn đã là đệ tử nhà Phật mà còn sinh lòng ám Muội đối với biểu Muội của công tử ta. Hiển nhiên y là môt gã dâm tăng không giữ quy luật thanh tu của nhà Phật.
Gã nghĩ vậy liền nói:
- Tiểu sư phụ lưu anh hùng chỉ là giả trá mà lưu mỹ nhân mới là thực sự. Sao không nói trắng ra là muốn lưu Vương cô nương ở lại núi Phiêu Diễu.
Hư Trúc ngạc nhiên hỏi lại:
- Tôn giá... bảo sao? Tại hạ muốn lưu mỹ nhân nào?
Bao Bất Ðồng đáp:
- Tiểu hoà thượng đã có lòng ám Muội. Chẳng lẽ nhà Mộ Dung ở Cô Tô đều là hạng si ngốc ư! Thế thì buồn cười thiệt!
Hư Trúc nói:
- Tại hạ thiệt không hiểu tiên sinh muốn nói gì? Và có điều chi buồn cười?
Bao Bất Ðồng tuy đã dấn thân vào nơi đầm rồng hang cọp, nhưng khí tức lên là gã chẳng coi sống chết vào đâu, liền lớn tiếng nói:
- Thằng trọc nhãi nhép kia! Mi đã làm hòa thượng chùa Thiếu Lâm, một môn phái vang danh trong thiên hạ sao còn đi quy đầu tà phái, cấu kết với bọn yêu ma quỷ quái? Ta nhìn thấy ngươi lại điên tiết lên. Ngươi đã là một nhà sư mà bức bách mấy trăm phụ nữ lương gia đem về làm vợ, làm nhân tình, vẫn cho là chưa đủ mà còn để ý đến Vương cô nương nhà ta! Ta nói cho ngươi hay, Vương cô nương là người nhà Mộ Dung công tử, ngươi đừng dở trò con cóc ghẹ muốn ăn thịt ngỗng trời, phải dẹp lòng ước muốn đen tối đó đi!
Bao Bất Ðồng càng mắng càng hăng, khoa chân múa tay trỏ vào mặt Hư Trúc, thoá mạ không tiếc lời. Hư Trúc chẳng hiểu ra làm sao, ấp úng:
- Tại hạ... Tại hạ...
Bỗng hai tiếng veo véo rít lên! Ô lão đại một tay chống thanh Lục Ba Hương Lộ quỷ đầu đao còn Cát Ðại Bá sử ngọn Ðại Thiết Chùy nặng hơn sáu mươi cân vung lên quát lớn, nhảy xổ lại tấn công Bao Bất Ðồng.
Mộ Dung Phục biết rằng Hư Trúc đã nhận lời giải sinh tử phù cho bọn người này và đã được quần hào liều chết vì y, nếu để xẩy cuộc hỗn chiến thì nguy hiểm vô cùng. Y vừa thấy Ô lão đại cùng Cát Ðại Bá nhẩy tới liền lạng người ra sử chiêu chuyển tinh vi cho quỷ đầu đao chém trả lại Cát Ðại Bá và cây thiết chùy vụt về phía Ô lão đại. Hai binh khí chạm nhau đánh choảng một tiếng toé lửa ra bốn phía.
Mộ Dung Phục lại xoay tay ra nắm lấy vay Bao Bất Ðồng khẽ đẩy một cái lùi ra xa hơn trượng rồi quay lại nhìn Hư Trúc chắp tay nói:
- Xin lỗi giáo chủ! Tại hạ xin cáo từ.
Rồi lạng người đi một cái đã ra đến cửa nhà đại sảnh thì thấy cơ quan chuyển động và phiến đá lớn đã nổi lên cản đường.
Hư Trúc tuyệt không có ý gây thù với Mộ Dung Phục vội nói:
- Công tử đừng chạy nữa. Tại hạ... không có ý gì đâu.
Mộ Dung Phục nhíu cặp lông mày quay lại lớn tiếng hỏi:
- Phải chăng các hạ tự phụ là thiên hạ vô địch muốn chỉ giáo cho tại hạ mấy chiêu?
Hư Trúc khoát tay lia lịa nói:
- Không... không dám...
Mộ Dung Phục hỏi:
- Tại hạ vô cớ đường đột đến đây. Các hạ nhất định muốn lưu lại chăng?
Hư Trúc lắc đầu đáp:
- Không phải... Hỡi ôi!
Mộ Dung Phục đứng gần cửa ngạo nghễ nhìn quần hào ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo, rồi lại nhìn đến Mai, Lan, Cúc, Trúc tứ kiếm và quần nữ chín bộ.
Quần hào và quần nữ thấy khí thế y oai nghiêm, không ai dám tiến lạị Mộ Dung Phục phất tay áo một cái rồi nói:
- Ði thôi.
Rồi ngang nhiên ra khỏi cửa lớn. Ô lão đại căm tức nói:
- Thưa giáo chủ! Nếu để gã sống ra khỏi núi Phiêu Diễu thì bọn ta còn làm người thế nào được? Xin giáo chủ hạ lệnh bắt chúng lại.
Hư Trúc lắc đầu nói:
- Thôi! Chuyện xong rồi ta nên bỏ qua! Tại hạ không hiểu vì lẽ gì y nổi cơn thịnh nộ. Hỡi ôi! Thật là khó hiểu!...
Vương Ngọc Yến theo bọn Bách Xuyên đi trước Mộ Dung Phục, thấy Ðoàn Dự chưa ra khỏi tòa đại sảnh thì quay lại nói:
- Hàn công tử! Sau này sẽ có ngày tái hội.
Ðoàn Dự giật mình. Trong lòng chua xót miễn cưỡng đáp:
- Vâng... Rồi ta gặp nhau...
Chàng đứng nhìn bóng Vương Ngọc Yến đi mỗi lúc một xa. Bên tai chàng còn văng vẳng câu nói của Bao Bất Ðồng: "Vương cô nương là người nhà Mộ Dung công tử" thì chàng lại nát gan đứt ruột và tự coi mình như con cóc ghẹ đòi ăn thịt ngỗng trời. Bất giác chàng lẩm bẩm:
- Phải rồi! Lúc Mộ Dung công tử đứng trước cửa sảnh đường thần oai lẫm liệt, anh hùng khí khái xiết bao nhiêu! Y giơ tay một cái là phá ngay được chiêu thức của hai kẻ kình địch thì bản lãnh cao thâm biết là chừng nào! Sức mạnh không trói nổi con gà thì lọt vào mắt xanh của nàng thế nào được? Lúc này Vương cô nương nhìn biểu huynh nàng với con mắt đầy tình tứ vừa ngưỡng mộ vừa thương yêu. Ðoàn Dự này quả nhiên chỉ là con cóc ghẹ mà thôi!
Trong nhà đại sảnh còn lại hai chàng thanh niên. Hư Trúc thì bị làn mây nghi ngờ bao phủ, ngồi cúi đầu xuống như ngây như dại. Còn Ðoàn Dự lại đau xót nỗi biệt ly, nét mặt buồn rầu như kẻ mất hồn. Hai người bâng khuâng nhìn nhau tựa hồ một đôi chàng ngốc.
Hồi lâu, Hư Trúc buông một tiếng thở dài. Ðoàn Dự cũng thở dài theo rồi nói:
- Nhân huynh! Nhân huynh cùng tiểu đệ đồng bệnh tương lân. Mối tương tư chôn sâu tận đáy lòng biết lấy gì tiêu khiển?
Hư Trúc nghe nói bất giác mặt thẹn đỏ bừng. Y tưởng Ðoàn Dự đã biết vị nữ lang trong mộng của mình, liền ấp úng hỏi:
- Ðoàn... công tử, sao Ðoàn huynh lại biết?
Ðoàn Dự đáp:
- Nhân huynh bất tất phải dè dặt. Ai không biết Tử Yến là người đẹp thì người đó không có mắt, ai không biết nàng đó đẹp thì không phải là người nữa. Lòng yêu cái đẹp ai mà chẳng có? Nhân huynh cùng tiểu đệ đều thuộc hạng chìm nổi phương trời, đã gặp nhau tất phải hiểu nhau.
Chàng nói xong lại buông tiếng thở dài.
Nguyên Ðoàn Dự thấy trong bọc Hư Trúc có cất dấu bức chân dung Vương Ngọc Yến thì tưởng y cũng yêu nàng như mình. Vừa rồi Mộ Dung Phục cùng Hư Trúc có chuyện xích mích, dĩ nhiên cũng chỉ vì Vương Ngọc Yến mà ra.
Ðoàn Dự nghĩ vậy lại nói:
- Nhân huynh võ công tuyệt đỉnh, nhưng về duyên phận tính tình không hợp thì bất luận dùng cách nào cũng không được.
Hư Trúc lẩm bẩm:
- Về duyên phận tính tình không hợp... duyên phận này tự nhiên mà gặp... chứ không phải cầu mà nên được... Phải rồi! Sau khi từ biệt, bóng người mù mịt bên trời góc bể biết đâu mà tìm?
Hư Trúc nói đây là về nữ lang trong mộng của mình, nhưng Ðoàn Dự tưởng y nói về Vương Ngọc Yến. Cả hai thanh niên này đều ngốc nghếch, không thông hiểu việc đời, thế mà mỗi lúc một trở nên ý hợp tâm đầu.
Quần nữ cung Linh Thứu đặt tiệc, Hư Trúc cùng Ðoàn Dự dắt tay nhau ngồi vào chiếu. Các động chúa, đảo chúa đều là thuộc hạ cung Linh Thứu, dĩ nhiên không ai dám lên ngồi cùng bàn với Hư Trúc.
Hư Trúc không hiểu gì về việc tiếp khách. Y thấy ai đến bên cũng mặc chẳng niềm nở chào mời mà chỉ nhỏ to chuyện trò với Ðoàn Dự. Ðoàn Dự trong lòng điên đảo vì Vương Ngọc Yến. Chàng khen nàng không tiếc miệng: Nào tính nết dịu dàng nhu thuận, nào tư dung siêu phàm thoát tục. Hư Trúc cứ tưởng chàng khen Mộng trung nữ lang của mình mà không dám hỏi tại sao chàng lại biết nàng? Y cũng không dám hỏi đến lai lịch của nàng nữa. Trái tim y đập nhộn lên rồi lẩm bẩm:
- Mình đã tưởng Ðồng Mỗ chết đi rồi thiên hạ không còn ai biết Mộng cô của mình ở nơi đâu. Thế mà còn Ðoàn công tử đây nhận được thì ra đấng hoàng thiên có ý thương xót loài người không để ai phải tuyệt vọng. Nhưng khốn nỗi Ðoàn công tử lại đem lòng ái mộ tương tư nàng. Nếu mình tiết lộ ân tình dưới nhà hầm nước đá tất nhiên chàng nổi cơn thịnh nộ, bỏ bữa tiệc dở dang, rũ áo ra đi thì mình không biết bấu víu vào đâu để nghe ngóng tin nàng được.
Hư Trúc thấy Ðoàn Dự trầm trồ khen ngợi cô nương đó thì cũng phụ hoạ vào với tấm lòng thành thực. Hai người cùng nói chuyện về tình nhân của mình mà chẳng ai nói rõ tình nhân mình là ai, thành ra hai vị cô nương riêng biệt mà hai vị tình lang đều tưởng là chỉ có một.
Ðoàn Dự nói:
- Nhân huynh! Theo thuyết của nhà Phật thì mọi việc đều lấy chữ duyên làm cứu cánh. Ðạt Ma tổ sư đã nói: "Chúng sinh không biết mình là ai thì những sự đau khổ hay vui mừng đều do duyên kiếp mà ra". Thế thì ta có được việc gì vui vẻ hay buồn phiền chẳng qua là duyên nợ kiếp trước nên kiếp này được hưởng thụ hay phải đền bồi. Duyên phận hết rồi lại trở thành không, chả có chi là đáng vui mừng hay đáng tủi.
Hư Trúc nói:
- Phải rồi! Những chuyện đắc thất của con người là tùy ở duyên phần. Dù đắc dù thất cũng không thay đổi lòng dạ. Nguyên lý của Phật gia là ở chỗ đó.
Ta nên biết rằng môn Phật học tại nước Ðại Lý hưng thịnh vô cùng. Ðoàn Dự từ thủa nhỏ tụng kinh niệm Phật, nên chàng đã được thấm nhuần rất nhiều Phật học.
Hư Trúc cùng Ðoàn Dự hai người nói chuyện với nhau về lý thuyết nhà Phật rất là tương đắc. Bên này dẫn chứng một câu trong kinh Kim Cương thì bên kia lại nêu ra một đoạn kinh Pháp Hoa rồi cùng nhau than thở cho khuây khỏa nỗi tương tư.
Bốn nàng Mai, Lan, Cúc, Trúc luân lưu nhau rót rượu khuyên mời. Ðoàn Dự uống một chén thì Hư Trúc cũng uống một chén. Ðôi bạn này vừa uống rượu vừa trò chuyện cho đến nửa đêm.
Bữa tiệc đã mãn. Quần hào no say đứng dậy cáo từ và do quần nữ cung Linh Thứu đưa vào các phòng ngủ. Hư Trúc cùng Ðoàn Dự mười phần đã say đến tám chín, mà vẫn còn tiếp tục ngồi uống và nói chuyện.
Hồi Thứ 102
Dưới thạch động Hư Trúc luyện kỳ công
Tiệc rượu hôm nay đã giục lòng Đoàn Dự nhớ tới Tiêu Phong cùng mình uống rượu thi tại ngoài thành Vô Tích. Hôm ấy Đoàn Dự dùng nội công vận chuyển theo thủ pháp Lục mạch thần kiếm dồn rượu tiết ra đầu ngón tay út nên chàng không biết say. Bữa nay chàng uống một cách thực sự nên đã say khướt.
Chàng nói:
- Nhân huynh! Tiểu đệ có một vị huynh trưởng kết nghĩa kim lan họ Kiều tên Phong. Kiều đại ca của tiểu đệ thật là một tay đại anh hùng, đại hào kiệt. Về võ công cũng như về tửu lượng như y thật trên đời có một không hai. Nếu nhân huynh gặp y tất cũng đem lòng ái mộ ngay. Đáng tiếc là hiện giờ y không có ở đây, ba ta kết nghĩa đệ huynh thì thật là một việc thỏa chí bình sinh.
Hư Trúc trước nay chưa từng uống rượu, nhưng nhờ y được nội công tinh thâm nên uống hết mấy bát lớn mà vẫn không say. Có điều lúc này trong tâm thần bâng khuâng trống rỗng, y nói năng mạnh dạn không rụt rè cố chấp như lúc thường. Y cảm thấy hào khí bồng bột nói luôn:
- Nếu nhân huynh... chẳng hiểu tiểu đệ ngu ngốc thì chúng ta kết nghĩa anh em. Sau này tìm được Kiều đại ca lại kết bái lần nữa là xong.
Đoàn Dự khen:
- Tuyệt diệu! Huynh trưởng bao nhiêu tuổi?
Hai người bày tỏ niên canh. Hư Trúc lớn hơn hai tuổi. Đoàn Dự liền hô:
- Nhị ca! Nhị ca nhận của tiểu đệ một lạy đi!
Rồi bước ra khỏi bàn lạy phục xuống đất. Hư Trúc vội vàng đáp lễ nhưng chân nhũn ra ngã khuỵu xuống đất.Đoàn Dự thấy Hư Trúc ngã ra vội vàng đỡ dậy. Chân khí hai người đụng vào nhau đều cảm thấy nội lực trong mình đối phương đầy rẫy liền vội vàng thu chân lực lại.
Lúc này Đoàn Dự đã say khướt, chân bước loạng choạng đứng không vững. Ðột nhiên hai người cùng nổi lên một tràng cười khanh khách, ôm chặt lấy nhau nằm lăn ra đất.
Đoàn Dự nói:
- Nhị ca! Tiểu đệ không say đâu! Chúng ta ngồi dậy uống thêm trăm chén nữa.
Hư Trúc đáp:
- Tiểu huynh vui lòng tiếp tam đệ uống cho say mèm.
Đoàn Dự nói:
- Lúc đắc ý con người nên tận hưởng, đừng để cho rượu thẹn với bóng trăng! Ha ha! Chúng ta uống thêm ba chung nữa!
Hai người càng nói càng đi vào chỗ mơ hồ rồi ngủ đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau Hư Trúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường trải nệm êm ấm vô cùng. Y giương mắt nhìn xung quanh thì thấy mình ngủ trong một gian phòng rất rộng. Gian phòng này không có nhiều đồ vật, nhưng cách bài trí rất trang nhã cổ kính. Trên vách treo mấy bức tứ bình, nét bút đanh thép, màu giấy vàng khè, tỏ ra đã treo lâu ngày.
Một thiếu nữ bưng cái khay đến bên giường chính là Lan Kiếm. Nàng nói:
- Chủ nhân tỉnh rồi à? Xin người xúc miệng để rồi dùng điểm tâm.
Hư Trúc trong người chưa hết cơn men, miệng thấy đắng ngắt, khát khô cả cổ. Y thấy trong khay có chén nước trà trong vắt, liền cầm lên uống ừng ực một hơi hết sạch.
Nguyên đây là chén sâm thang, suốt đời Hư Trúc chưa biết mùi sâm thang bao giờ. Y uống hết mà chẳng biết là trà gì, chỉ rụt rè cười nói:
- Đa tạ tỷ tỷ! Bây giờ ta dậy đây, xin tỷ tỷ ra ngoài đi!
Lan Kiếm chưa trả lời thì từ cửa phòng một thiếu nữ bước vào chính là Cúc Kiếm. Nàng mỉm cười nói:
- Hai chị em nô tỳ xin phục thị chủ nhân thay áo.
Nàng nói xong lại đầu giường vớ lấy một bộ quần áo lót màu xanh lợt để ở trong chăn Hư Trúc.
Hư Trúc luống cuống mặt thẹn đỏ bừng nói:
- Không! Ta không cần hai vị tỷ tỷ phục thị. Ta chẳng bị thương mà cũng không có bệnh tật chi hết. Có điều uống rượu quá say mà thôi. Hỡi ôi! Trong thập giới của nhà Phật, thì ta lại phạm thêm vào một giới nữa rồi! Tam đệ ơi! Ô hay! Đoàn công tử đi đâu rồi?
Lan Kiếm toét miệng ra cười đáp:
- Đoàn công tử xuống núi rượt theo ý trung nhân rồi. Lúc công tử ra đi có dặn nô tỳ bẩm lại với chủ nhân, xin mời chủ nhân đến Trung Nguyên tái hội.
Hư Trúc la lên một tiếng úi chao! rồi nói:
- Ta còn có việc muốn hỏi y. Sao y đã vội bỏ đi ngay.
Hư Trúc trong lòng nóng nảy hấp tấp nhảy xuống giường toan đuổi theo Đoàn Dự để hỏi xem danh tánh Mộng trung nữ lang cùng địa chỉ nàng. Đột nhiên y nhìn thấy mình ăn mặc một bộ áo ngắn màu nguyệt bạch rất sạch sẽ thì la lên một tiếng kinh ngạc, lại kéo chăn phủ lên mình hốt hoảng hỏi:
- Ô hay! Ta thay áo từ bao giờ?
Nguyên Hư Trúc vẫn mặc bộ quần áo do Thần Châm may ở dọc đường. Khi về đến cung Linh Thứu, y bốc bùn đất thoa đầy mình dơ bẩn cả quần áo. Bây giờ y thấy đồ mặc trong người nhẹ nhàng và sạch sẽ, tuy y chẳng biết là lụa là hay gấm đoạn nhưng cũng biết là quần áo này thuộc hạng sang trọng.
Cúc Kiếm cười nói:
- Đêm qua chủ nhân say rượu rồi bốn chị em nô tỳ phục thị tắm rửa và thay áo cho, chủ nhân cũng không biết ư?
Hư Trúc cả kinh ngẩng đầu lên nhìn, thấy Lan Kiếm, Cúc Kiếm người đẹp như ngọc, miệng cười tươi như hoa thì trái tim đập thình thình.
Hư Trúc lại giơ tay lên coi thì thấy cánh tay mình trắng trẻo mịn màng, rõ ràng bao nhiêu cáu ghét đã được cọ rửa đất sạch sẽ. Trong lòng y bỗng nảy ra một tia hy vọng, gượng cười nói:
- Ta thật say túy lúy, may mắn hơn nữa là tấm thân được tắm gội sạch sẽ.
Lan Kiếm cười nói:
- Đêm qua chủ nhân say rượu ngủ li bì. Bọn chị em nô tỳ bốn người đã tắm gội cho chủ nhân đó.
Hư Trúc la hoảng một tiếng cơ hồ ngất đi rồi lại nằm xuống, miệng lẩm bẩm:
- Hỏng bét! Thật là hỏng bét.
Lan Kiếm, Cúc Kiếm không khỏi giật mình kinh hãi, đồng thanh hỏi:
- Chủ nhân! Chủ nhân có điều chi không ổn?
Hư Trúc nhăn nhó cười đáp:
- Ta là nam nhân, lại loã lồ thân thể trước mặt bốn vị tỷ tỷ... có phải là hỏng bét rồi không? Huống chi toàn thân ta dơ bẩn lâu ngày, mùi hôi sặc sụa. Sao các vị tỷ tỷ lại làm việc ô uế đó?
Lan Kiếm nói:
- Bốn chị em nô tỳ là phận tôi đòi của chủ nhân, thì dù có phải vì chủ nhân mà tan xương nát thịt cũng không dám oán hận. Bọn nô tỳ có phạm tội làm gì, xin chủ nhân trách phạt.
Nói xong, Lan Kiếm, Cúc Kiếm lại lạy phục xuống đất, miệng vẫn van xin tha thứ không ngừng.
Hư Trúc thấy hai nàng ra chiều sợ sệt thì nghĩ đến bọn Dư bà, Thạch tẩu vì mình thủ lễ đối đãi mà họ sợ run thì chắc là bọn Lan Kiếm, Cúc Kiếm này cũng coi mình như Đồng Mỗ trước. Chỉ một lời nói hiền từ hay nét mặt ôn hòa, là lập tức đưa đến những hình phạt gớm ghê!
Hư Trúc nghĩ vậy liền nói:
- Thôi hai vị tỷ tỷ dậy đi! Các vị ra ngoài kia cho ta thay áo không cần phải phục thị.
Hai nàng Lan, Cúc đứng dậy, nước mắt chảy quanh lui ra ngoài phòng. Hư Trúc rất làm kỳ hỏi:
- Ta có điều gì lầm lỗi với các vị? Làm sao các vị không vui? Ta e rằng có điều gì lầm lỗi để các vị phải phiền lòng mà sa nước mắt...?
Cúc Kiếm đáp:
- Chủ nhân đuổi chị em nô tỳ ra ngoài, không cho phục thị gội rửa thay áo thì nhất định... là chán ghét bọn nô tỳ...
Chưa dứt lời dòng châu lã chã tuôn rơi xuống cặp má hồng trông thật đáng thương.
Hư Trúc khoát tay lia lịa nói:
- Không! Không phải thế! Ôi! Ta không biết nói thế nào cho rõ được. Ta là nam nhân, các vị là thiếu nữ. Cái đó... cái đó... không tiện... chút nào. Thiệt ta không có ý gì khác đâu! Ta nói có đức Bồ Tát trên đầu chứng minh. Đã là người xuất gia, ta không bao giờ nói dối. Ta quyết không lừa gạt các vị tỷ tỷ đâu!
Lan Kiếm, Cúc Kiếm thấy Hư Trúc vừa nói vừa trỏ tay vạch chân ra chiều nóng nảy thành thực, bất giác phá lên cười rồi đồng thanh nói:
- Chủ nhân đừng lấy làm lạ. Trong cung Linh Thứu vốn không có đàn ông cư trú. Bọn nô tỳ chưa gặp nam nhân bao giờ. Chủ nhân là trời, bọn nô tỳ là đất. Làm gì có chuyện nam nữ phân biệt?
Thế rồi hai người lại gần phục thị Hư Trúc thay áo đổi hài.
Lát sau Mai Kiếm, Trúc Kiếm cũng tới nơi. Một cô bưng gương lược, một cô rửa mặt cho Hư Trúc. Hư Trúc sợ quá không dám thốt lên tiếng mà cũng không dám thốt lên một câu bảo họ lui ra đừng phục thị. Hư Trúc biết rằng Đoàn Dự đi đã xa rồi dù có rượt theo cũng không kịp. Y lại nghĩ tới quần hào các đảo các động chúa chưa giải trừ Sinh tử phù thì không tiện bỏ đi.
*
Dùng điểm tâm xong, Hư Trúc ra nhà đại sảnh cùng quần hào tương kiến. Y muốn giải trừ Sinh tử phù cho hai người đau đớn khổ sở trước. Nhưng việc giải trừ Sinh tử phù cần đem chân lực và vận dụng phép Thiên Sơn lục dương chưởng. Chân lực trong người Hư Trúc đầy rẫy thì dù có giải trừ cho mười người một lúc cũng không biết mệt nhọc. Có điều Đồng Mỗ cấy Sinh tử phù vào mỗi người một chỗ không giống nhau.
Hư Trúc ngẫm nghĩ tìm cách giải trừ thấy rất phiền phức. Về kinh mạch huyệt đạo, sự hiểu biết của Hư Trúc lại rất nông cạn, nên không dám tùy tiện động thủ. Nếu chỗ sai trật thì làm hại thêm cho người mắc nạn.
Từ sáng đến giờ ngọ mới trị được hai người. Ăn cơm trưa rồi nghỉ ngơi một chút, Mai Kiếm thấy Hư Trúc châu mày nghĩ ngợi tìm cách giải Sinh tử phù ra chiều mệt trí, liền nói:
- Thưa chủ nhân! Trong hậu điện cung Linh Thứu, vị chủ nhân mấy trăm năm trước có khắc họa đồ vào vách đá. Nô tỳ thường nghe Đồng Mỗ nói: Những bức họa đồ đó có liên quan đến Sinh tử phù. Sao chủ nhân không tới đó coi để nghiên cứu phép giải trừ cho mau chóng hơn?
Hư Trúc cả mừng nói:
- Vậy thì hay lắm!
Bốn cô Mai, Lan, Cúc, Trúc dẫn đường cho Hư Trúc đi vào hoa viên, nhấc một hòn non bộ lên, để hở một cửa hầm. Mai Kiếm cầm đuốc đi trước dẫn đường, rồi bốn người theo sau tiến vào. Thỉnh thoảng Mai Kiếm lại bấm nút cơ quan cho khỏi phát động, vì trong đường hầm bố trí mai phục rất nhiều ám khí, độc vật. Đường hầm này khúc khuỷu quanh co, có chỗ đất rộng rãi sáng sủa, rõ ràng là một địa đạo thiên nhiên trong lòng đất. Vì công trình hiện đại này nếu lấy nhân lực xây cất thì mấy trăm năm cũng không thể cấu tạo nên được.
Đi vào trong đường hầm chừng hơn hai dặm, Mai Kiếm giơ tay ra đẩy một khối đá mé tả rồi đứng sang bên nói:
- Xin chủ nhân tiến vào thạch thất đi. Bọn nô tỳ không dám vào trong.
Hư Trúc nói:
- Chúng ta cùng vào cả, chẳng có gì quan ngại đâu. Đừng đứng ngoài này chật hẹp khó chịu.
Bốn cô hầu nhìn nhau lộ vẻ vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Mai Kiếm nói:
- Thưa chủ nhân! Trước khi Đồng Mỗ quy tiên có bảo bọn nô tỳ rằng: Nếu bọn nô tỳ bốn người hết lòng trung thực phục thị người không phạm lỗi lầm thì đến năm bốn mươi tuổi, người sẽ cho bọn nô tỳ mỗi năm được vào trong thạch thất này một ngày để nghiên cứu võ công trên vách đá. Đó là một ơn điển thâm trọng. Theo đúng lời hứa với Đồng Mỗ trước kia thì còn phải hai mươi năm nữa mới được vào.
Hư Trúc nói:
- Phải chờ những hai mươi năm trời, há chẳng buồn đến chết ư? Huống chi đến bây giờ các vị đã già rồi còn học võ công làm gì nữảa? Bây giờ chúng ta vào cả đi thôi!
Bốn cô hầu cả mừng lạy phục xuống đất để tạ ơn. Hư Trúc vội nói:
- Dậy đi! Dậy đi! Nơi đây chật hẹp ẩm thấp thế này, nếu ta cũng hoàn lễ thì đè cả lên nhau mất.
Bốn người tiến vào thạch thất thì thấy bốn mặt vách đá mài nhẵn lỳ. Trên vách đá vô số những hình vòng tròn đều nhau, đường kính chừng hai thước. Trong mỗi vòng tròn đều khắc nhiều thứ đồ hình. Cái khắc hình người, cái khắc hình thú vật. Có cái khắc văn tự không đủ nét. Lại có cái khắc ký hiệu và những đường dây ngòng ngoèo. Vòng tròn nào cũng chứa số thứ tự bằng những chữ Giáp nhất, Giáp nhị hoặc Tí nhất, Tí nhị.... tổng số những vòng tròn có tới gần nghìn chiếc.
Mai Kiếm nói:
- Trong một giờ chúng ta xem thế nào cho hết được?
Trúc Kiếm nói:
- Chúng ta hãy xem vòng Giáp nhất trước có phải thế không?
Hư Trúc gật đầu khen phải.
Năm người liền giơ đuốc lên soi vào chiếc vòng tròn chứa số Giáp nhất. Hư Trúc vừa nhìn đã nhận ra bức vẽ trong vòng này là thủ thức đệ nhất chiêu về Thiên Sơn chiết mai thủ liền nói:
- Đây là Thiên Sơn chiết mai thủ.
Mọi người chuyển sang đồ hình Giáp nhị thì quả nhiên là chiêu thứ hai trong Thiên Sơn chiết mai thủ. Mọi người lần lượt xem xuống dưới. Hết các đồ hình về Thiên Sơn chiết mai thủ thì đến đồ hình Thiên Sơn lục dương chưởng. Bao nhiêu ca quyết bí hiểm đều chứa rõ trong các vòng tròn.
Xem hết Thiên Sơn lục dương chưởng thì đến những thức võ công mà Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy sau khi ra khỏi hầm nước đá đã tỷ đấu với nhau. Nhưng Hư Trúc xem văn tự khắc trong đồ hình so với lời truyền thụ của Đồng Mỗ thì kỹ hơn nhiều, y chỉ cần nghĩ một chút là hiểu rõ ngay.
Hôm ấy Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy đấu tài, những mong chóng thắng kẻ địch, chớ không phải bản ý muốn truyền võ công một cách thấu đáo cho Hư Trúc. Vì thế mà mỗi chiêu Lý Thu Thủy phô diễn, y không biết cách trả đòn ngay. Hư Trúc phải nghe Đồng Mỗ chỉ bảo cách ra chiêu, còn những chỗ biến hoòavi diệu bà ta không đủ thì giờ truyền dạy.
Lúc này Hư Trúc theo chỉ thị trong đồ hình, vận động chân khí, mới học được vài chiêu người y nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên không, song tựa hồ còn có chỗ nào sai trật một chút nên chân không rời khỏi mặt đất được.
Hư Trúc đang để tâm trí vào những lời chỉ dẫn trong đồ hình, tuyệt không để ý gì đến ngoại vật thì bất thình lình hai tiếng la hoảng vang lên. Hư Trúc cả kinh quay đầu nhìn lại thì thấy hai cô Lan Kiếm, Trúc Kiếm lảo đảo người đi rồi ngã lăn xuống đất. Còn hai cô Lan, Cúc cũng tay vịn vào vách đá sắc mặt lợt lạt lảo đảo muốn té.
Hư Trúc vội chạy lại đỡ hai cô Mai, Trúc hỏi:
- Hai vị tỷ tỷ làm sao vậy?
Mai Kiếm run lẩy bẩy đáp:
- Chủ... chủ nhân! Công lực bọn nô tỳ kém cỏi không thể ở trong này xem được... bọn nô tỳ xin ra ngoài chờ đợi!
Rồi bốn cô dắt nhau vịn vào vách đá bước lần ra khỏi thạch thất.
Hư Trúc ngẩn người một lúc rồi cũng chạy ra xem thì thấy bốn cô đang ngồi xếp bằng trong đường hầm. Người cô nào cũng run bần bật, nét mặt lộ vẻ cực kỳ đau khổ.
Hư Trúc vừa thấy tình hình này đã biết là các cô bị trọng thương rồi, liền vận động Thiên Sơn lục dương chưởng vỗ vào lưng mỗi người mấy cái. Một luồng khí thuần dương hùng hậu thấm vào trong cơ thể khiến sắc mặt bốn cô trở lại bình thường, rồi chẳng bao lâu trán toát mồ hôi, mở được mắt ra nói:
- Đa tạ chủ nhân đã hao phí công lực để trị thương cho bọn nô tỳ.
Các cô trở mình sụp xuống để tạ ơn. Hư Trúc giơ tay ra đỡ dậy hỏi:
- Vụ này là thế nào đây? Sao các cô tự nhiên lại bị thương ngất đi?
Mai Kiếm thở dài đáp:
- Thưa chủ nhân! Sở dĩ trước đây Đồng Mỗ biểu phải bốn mươi năm sau, bọn nô tỳ mới được vào thạch thất mỗi năm một lần để xem đồ hình là người đã thâm ý. Nguyên những đồ hình này tuy khắc toàn những môn võ công vi diệu, mà nô tỳ không biết tự lượng, cứ chiếu theo những chỉ thị trong đồ Giáp nhất luyện tập. Nhưng nội lực chưa đủ nên lập tức cảm thấy chân khí chạy nhộn nhạo trong các kinh mạch. Nếu không được chủ nhân giải cứu thì bốn chị em nô tỳ không còn được thấy mặt trời nữa.
Lan Kiếm cũng nói:
- Chính Đồng Mỗ cũng mong đến ngày chị em nô tỳ đủ bốn mươi tuổi để tập luyện những môn võ công thượng thặng. Nhưng... bọn nô tỳ tư chất hèn kém, dù có luyện tập hơn hai mươi năm nữa, vị tất đã dám tiến vào trong nhà này.
Hư Trúc nói:
- À ra thế đấy! Vậy đó là lỗi tại ta. Chính ra ta không nên để các vị tỷ tỷ vào đây mới phải.
Tứ kiếm lại lạy phục xuống tạ tội, đồng thanh nói:
- Sao chủ nhân lại dạy thế? Đó là chủ nhân đặc biệt gia ơn. Chỉ đáng trách bọn nô tỳ đã càn rỡ không biết lượng sức mình thôi.
Cúc Kiếm nói:
- Công lực chủ nhân cực kỳ hùng hậu, nếu luyện được những môn võ công cao thâm này thì rất là được việc. Trước kia Đồng Mỗ thường khi ở trong nhà thạch thất hàng tháng không ra ngoài là để nghiên cứu tập luyện những đồ phổ trên vách đá.
Mai Kiếm lại nói:
- Bọn nô tài ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo đến đánh cung Linh Thứu, bức bách các chị em bộ Quân Thiên phải trỏ nơi cất dấu bảo vật của Đồng Mỗ, nhưng hết thảy chị em bộ này một dạ trung trinh thà chết chứ không chịu khuất phục. Bốn chị em nô tỳ đã chuẩn bị nếu bọn chúng tiến vào đường hầm thì phát động cơ quan. Nếu mà chúng tìm vào nhà thạch thất được biết hết những đồ hình trên vách đá nhà mật tại cung Linh Thứu này thì thật là một mối vạ lớn cho võ lâm. Giả tỷ bọn nô tỳ sớm biết thế này thì để bọn chúng vào đây hóa ra lại hay hơn.
Hư Trúc gật đầu nói:
- Đúng thế thật. Nếu là người không đủ công lực mà nhìn thấy những đồ hình này thì còn nguy hại hơn bị trúng độc hay trúng ám khí. Họ chưa tiến vào đây là còn may đó.
Trúc Kiếm tủm tỉm cười nói:
- Chủ nhân thật là người thiện tâm. Theo ý nô tỳ thì nên để bọn chúng vào luyện công mà chết cho mình coi thật sướng mắt.
Hư Trúc nói:
- Ta vừa luyện xong mấy chiêu thấy tinh thần phấn chấn, nội lực đầy rẫy. Bây giờ nên trở ra giải trừ Sinh tử phù cho bọn họ. Các cô cũng ra ngoài một lúc để nghỉ ngơi.
Năm người lại theo đường hầm đi ra. Hư Trúc vào ngay tòa đại sảnh giải trừ Sinh tử phù cho ba người nữa.
*
Những ngày hôm sau, Hư Trúc tiếp tục dùng Thiên Sơn lục dương chưởng giải trừ Sinh tử phù cho quần hào. Cứ mỗi khi thấy tinh thần mỏi mệt, sức lực thiếu thốn thì lại vào trong nhà thạch thất luyện tập võ công thượng thặng. Bốn cô hầu phục thị Hư Trúc nhưng chỉ đứng ngoài chờ đợi chứ không dám vào như trước nữa.
Hàng ngày, Hư Trúc có lúc nào rảnh rỗi lại chỉ điểm võ công cho quần nữ chín bộ với lòng thành thực, không dấu giếm một chút nào.
Công việc giải trừ Sinh tử phù cho quần hào hết hơn hai mươi ngày mới xong. Mặt khác, Hư Trúc hàng ngày nghiên cứu đồ phổ tập luyện tinh thông những đồ giải trong thạch thất nên võ công y tiến bộ rất mau, khác xa với ngày đầu tiên lên núi Phiêu Diễu nhiều.
Quần hào trước kia phải thuần phục Đồng Mỗ vì mụ gieo Sinh tử phù vào người để kiềm chế. Hiện thời cung Linh Thứu đổi chủ. Hư Trúc lấy lòng thành thực đối đãi, lấy lễ nghi cư xử nên tuy họ là những nhân vật ngang bướng song cũng cảm ơn mến đức, thực lòng tín phục.
Quần hào được giải trừ Sinh tử phù rồi bái tạ giải tán đâu về đấy. Trên núi Phiêu Diễu chỉ còn một mình Hư Trúc là đàn ông.
Y nghĩ thầm:
- Thuở nhỏ mình là một đứa bé lênh đênh, cơ khổ, hoàn toàn nhờ cậy các vị sư phụ trong chùa Thiếu Lâm nuôi dạy nên người. Nếu mình không tìm về chùa Thiếu Lâm thì thật là kẻ vong ân phụ nghĩa. Ta đành trở về để lãnh tội trước phương trượng và sư phụ mới phải lẽ.
Hư Trúc nghĩ vậy rồi nói rõ cho bốn cô hầu cùng quần nữ chín bộ hiểu rõ căn nguyên ý muốn xuống núi ngay hôm đó. Mọi việc trong cung Linh Thứu do thủ lĩnh chín bộ là Dư bà cùng bọn Thạch Tẩu xử lý. Bốn cô hầu muốn đi theo phục dịch, nhưng Hư Trúc ngăn lại nói:
- Nay ta quay về chùa Thiếu Lâm làm lại hòa thượng. Trong thiên hạ có nhà sư nào đem tỳ nữ đi theo bao giờ?
Hư Trúc nói hai, ba lần, bốn cô hầu vẫn chẳng tin lời. Y liền lấy dao cạo, cạo trọc đầu nhẵn bóng. Bốn cô không biết làm sao cản Hư Trúc được nên đành cùng quần nữ chín bộ tiễn chân Hư Trúc xuống núi. Quần nữ chỉ đành gạt lệ chia tay.
Hư Trúc thay đổi quần áo thầy tu chùa Thiếu Lâm mặc vào mình rồi thi triển cước bộ chạy về phía núi Tung Sơn.
Dù ròng rã bốn ngày, dọc đường y không dám dây đến chuyện người ngoài. Vả lại y mặc áo hòa thượng thì dù có gặp đạo tặc cũng chẳng ai đánh y làm chi. Từ cung Linh Thứu về đến chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc không có sự gì xảy ra ở dọc đường.
Hư Trúc vừa nhìn thấy mái ngói vàng khè chùa Thiếu Lâm, trong lòng đã nhộn nhạo lên bao mối cảm khái. Y nghĩ tới mấy tháng trời vắng mặt tại ngôi chùa yêu quý này, mình đã phạm vào không biết bao nhiêu thanh quy giới luật thì trong lòng vô cùng hổ thẹn. Y cảm thấy tâm thần xao xuyến chẳng hiểu phương trượng và sư phụ có tha thứ và cho mình trở lại Phật môn không.
Vào cửa sơn mãn rồi, Hư Trúc tìm đến bái kiến sư phụ Tuệ Luân.
Tuệ Luân thấy y trở về đột ngột thì không khỏi sửng sốt, cất tiếng hỏi:
- Ta sai mi cầm thơ đi sao đến hôm nay mới trở về?
Hư Trúc nằm phục xuống đất, trong lòng tê tái, bất giác khóc rống lên, miệng nghẹn ngào:
- Sư phụ! Đệ tử... tội thực đáng chết. Xuống núi rồi không biết trì thủ... để đến nỗi không giữ được giáo huấn của sư phụ.
Tuệ Luân biến sắc hỏi:
- Sao, sao?... Ngươi đã nhiễm phải tanh hôi rồi ư?
Hư Trúc thú thật:
- Dạ, chẳng những đệ tử đã ăn mặn mà thôi!
Tuệ Luân không bình tĩnh được lớn tiếng hỏi:
- Quân nghiệt súc đáng chết này!... mi uống rượu rồi ư?
Hư Trúc đáp:
- Chẳng những đệ tử uống rượu, mà còn say khướt nữa.
Tuệ Luân buông một tiếng thở dài ảo não, hai dòng lệ tuôn rơi nói:
- Thuở nhỏ ta thấy mi tính nết thực thà trung hậu. Thế mà mới đi vào thế giới phồn hoa không lâu tại sao đã bị chìm đắm ngay. Hỡi ôi!...
Hư Trúc thấy sư phụ thương tâm thì lại càng sợ hãi nói:
- Đệ tử còn phạm vào nhiều giới luật tệ hơn nữa...
Y chưa kịp nói phạm sát giới, sắc giới thì đột nhiên hai hồi chuông khánh nổi lên làm gián đoạn. Hai hồi chuông khánh này là để triệu tập chư tăng về hàng chữ Tuệ.
Tuệ Luân lập tức đứng lên lau nước mắt nói:
- Mi phạm giới nhiều quá, ta không còn cách nào che chở cho mi nữa. Mi... mi tự đem thân đến giới luật viên mà chịu tội đi! Ta e rằng chính ta đây cũng phải vì ngươi mà chịu trách nhiệm.
Hồi Thứ 103
Chùa Thiếu Lâm triệu tập quần tăng
Tuệ Luân nói xong cầm lấy lưỡi giới đao treo ở trên tường lật đật đi ngay.
Hư Trúc đến trước giới luật viện khom lưng bẩm:
- Đệ tử là Hư Trúc đã vi phạm giới luật thanh tu, khẩn cầu chưởng luật Trưởng lão ban hình phạt.
Hư Trúc hô luôn hai lần, trong viện có một nhà sư đứng tuổi bước ra lạnh lùng nói:
- Thủ toà Trưởng lão cùng chưởng luật sư thúc chưa rảnh để nghe ngươi nói. Ngươi hãy quỳ xuống đó mà chờ.
Hư Trúc khép nép vâng lời quỳ ngay xuống. Y quỳ từ giữa trưa cho đến lúc trời tối mà chẳng có một ai thèm hỏi tới. May mà nội công y thâm hậu nên quỳ nửa ngày trời chẳng ăn uống gì vẫn chưa mỏi mệt chút nào.
Bỗng bên tai nghe tiếng chuông chiêu mộ thu không. Giờ cúng Phật buổi tối đã bắt đầu. Hư Trúc miệng nhẩm kinh sám hối.
Bỗng một nhà sư trẻ tuổi đi tới nói:
- Hư Trúc! Mấy bữa nay trong chùa có nhiều việc trọng đại, các vị trưởng lão chưa rỗi để xử việc ngươi. Ta coi bộ ngươi quỳ mọp niệm kinh có vẻ chân thành sám hối. Thôi bây giờ ngươi hãy tạm thời đến vườn rau bón phân. Khi nào các vị trưởng lão rảnh việc sẽ kêu ngươi đến hỏi tình hình, tùy theo tội nặng nhẹ để xử phạt.
Hư Trúc kính cẩn đáp:
- Dạ. Đa tạ tấm lòng từ bi của sư huynh.
Rồi chắp tay thi lễ xong mới đứng lên. Y nghĩ bụng:
- Chưa thấy có lệnh đuổi mình ra khỏi chùa lập tức thì hãy còn hy vọng.
Hư Trúc ra đến vườn rau. Y tìm đến nhà sư coi vườn là Duyên Căn nói:
- Thưa sư huynh! Tiểu tăng là Hư Trúc phạm giới luật bản môn, có lệnh truyền phạt ra đây gánh phân bón rau.
Nguyên Duyên Căn tư chất tầm thường đã chẳng lãnh hội được nghĩa thiền, mà luyện võ công cũng không tiến bộ. Y chỉ thích làm những việc vặt. Khu vườn rau này rộng tới hai trăm mẫu, nhân công có đến bốn chục người. Y cai quản bọn này với tác phong hống hách. Mỗi khi gặp nhà sư nào do giới luật viện xử phạt vào vườn rau làm công, Duyên Căn lại càng làm oai làm phước.
Y vừa nghe Hư Trúc nói thì trong bụng cả mừng hỏi ngay:
- Ngươi phạm giới luật gì?
Hư Trúc đáp:
- Tiểu tăng phạm rất nhiều giới cấm không thể nói một lời hết được.
Duyên Căn tức giận nói:
- Tại sao một lời lại không nói hết được? Ta khuyên ngươi nên thú thật đi, cho ta biết rõ đầu đuôi. Đừng nói ngươi chỉ là một chức tiểu hoà thượng cỏn con mà ngay thủ tòa viện Đạt Ma La Hán Đường, hễ bị phạt đến vườn rau làm công ta cũng hỏi cho biết rõ. Chẳng ai lại dám bướng bỉnh. Ta trông bộ mặt ngươi đỏ lừ, trắng phớt, nhất định là hay ăn vụng thịt rồi. Có phải thế không?
Hư Trúc đáp:
- Chính phải!
Duyên Căn nói:
- Hừ! Ta đoán không sai mà! Không chừng ngươi còn uống rượu nữa. Đừng có mà cãi bướng! Lừa dối ta không phải chuyện dễ đâu!
Hư Trúc nói:
- Chính phải! Một hôm tiểu tăng uống rượu đến say mèm không còn biết trời biết đất gì nữa.
Duyên Căn cười nói:
- Ha ha! Ngươi thật là lớn mật! Cơm no rượu say rồi tất còn nảy lòng chim dạ thú. Thế là tám chữ sắc tức thị không, không tức thị sắc, ngươi bỏ sau gáy rồi. Chắc đầu óc ngươi còn nghĩ tới nữ sắc phải không, mà không phải một lần, có thể đến bảy tám lần mới đúng.
Hắn nói bằng giọng rất sắc bén. Hư Trúc thở dài đáp:
- Tiểu tăng không dám nói dối sư huynh. Chẳng những nghĩ tới mà thôi, lại còn phạm vào sắc giới nữa.
Duyên Căn rất lấy làm đắc ý, tự cho mình có con mắt tinh đời, lớn tiếng mắng để ra oai:
- Tên tiểu hoà thượng kia! Mi thật là lớn mật! Dám làm bại hoại đến danh dự của chùa Thiếu Lâm ta. Trừ sắc giới, ngươi còn phạm tội gì nữa không? Hay còn đi ăn cắp tiền bạc của người để tiêu xài, hoặc đánh nhau cãi nhau với ai nữa?
Hư Trúc cúi đầu đáp:
- Tiểu tăng đã giết người, mà không phải chỉ giết có một người.
Duyên Căn cả kinh sắc mặt tái mét, lùi lại ba bước. Trước nay y chỉ quen khinh khi người hiền lành mà rất sợ hãi kẻ hung ác, nên vừa nghe Hư Trúc nói đến giết người mà lại giết nhiều người nữa là khác, thì sợ run lên bần bật, chỉ lo Hư Trúc nổi cơn điên mà động thủ thì chắc mình không địch nổi. Y liền cố trấn tĩnh, đổi giọng niềm nở nói:
- Võ công là điều thứ nhất được thiên hạ ưa chuộng. Đã luyện võ thì khó lòng giữ khỏi lỡ tay giết người. Chắc bản lãnh của sư đệ đã rất mực cao cường.
Hư Trúc đáp:
- Nói ra càng thêm hổ thẹn. Nhưng võ công của tiểu đệ học được của bản môn đã hoàn toàn tiêu tan hết. Hiện giờ trong mình tiểu đệ không còn lại một chút gì gọi là công phu của phái Thiếu Lâm nữa.
Duyên Căn cả mừng nói:
- Thế thì càng hay! Thế thì càng hay!
Y nghe Hư Trúc nói mất hết công phu bản môn thì cho là vì Hư Trúc phạm tội nhiều nên các vị trưởng lão tước bỏ võ công, hắn đã toan trở mặt.
Nhưng sau Duyên Căn lại nghĩ thầm:
- Tuy võ công gã bị tước bỏ, nhưng nếu gã còn sót lại chút ít, thì mình cũng khó lòng đối phó.
Duyên Căn nghĩ vậy liền nói:
- Sư đệ! Ngươi đã đến vườn rau làm công để sám hối, thế là hay lắm. Nhưng chúng ta đây có lệ: Hễ ai phạm giới luật tức là bàn tay bị dính máu tanh hôi rồi. Vậy lúc làm công chân tay phải đeo xiềng đeo khóa. Đó là quy củ của tổ tôn truyền lại. Chẳng hiểu sư đệ có chịu không? Nếu không chịu thì ta sẽ lên viện giới luật bẩm lại để tùy Thủ tòa trưởng lão định đoạt.
Hư Trúc nói:
- Luật lệ đã như vậy, dĩ nhiên tiểu tăng phải tuân theo.
Duyên Căn mừng thầm trong bụng, sai lấy xiềng khoá ra đeo vào chân tay Hư Trúc.
Nên biết rằng: Từ mấy trăm năm nay, chùa Thiếu Lâm đã truyền dạy võ công thì khó lòng tránh khỏi có những nhà sư làm điều càn rỡ. Phần nhiều nhà sư phạm pháp lại võ công cực cao, khó lòng chế phục, nên Sám hối đường trong viện giới luật cùng trong các khu vườn rau đều chuẩn bị xiềng xích đúc bằng sắt thép.
Duyên Căn thấy Hư Trúc đeo xiềng xích rồi hắn rất yên lòng, lại trở giọng lớn tiếng mắng nhiếc:
- Tặc hòa thượng kia: Mi tuổi còn nhỏ mà đã lớn mật làm càn, vi phạm hết các giới luật. Bữa nay không dùng trọng phạt thì sao hả được lòng căm tức của ta?
Hắn nói rồi bẻ một cành cây vụt tới tấp xuống đầu Hư Trúc. Hư Trúc thu chân khí lại không dám vận nội lực chống đối, để mặc cho Duyên Căn muốn đánh thế nào thì đánh. Trong khoảnh khắc, đầu mặt Hư Trúc đầm đìa máu tươi, nhưng y chỉ niệm Phật, không lộ vẻ gì oán hận.
Duyên Căn thấy Hư Trúc không né tránh, cũng không chống đối thì nghĩ thầm:
- Gã tiểu hoà thượng này quả nhiên mất hết võ công, ta tha hồ mà dày xéo hành hạ gã.
Hắn nghĩ tới Hư Trúc ăn thịt cá phè phỡn, uống rượu say tuý luý rồi giở thói dâm dật mà chính mình hắn đã ngoài bốn mươi tuổi chưa được nếm mùi vị khoái lạc, thì trong lòng ghen ghét lại sôi lên sùng sục. Hắn càng đánh mạnh tay hơn, gãy luôn ba cây rồi mới dừng tay.
Hắn lại hùng hổ nói:
- Mỗi ngày mi phải xúc ba trăm thùng phân bón rau. Nếu mi thiếu một thùng thì ta sẽ dùng đến côn sắt đánh cho mi gãy gối tối mặt.
Hư Trúc được Duyên Căn đánh mắng lại thấy yên lòng tự nhủ:
- Mình đã phạm bao nhiêu giới luật dĩ nhiên phải chịu trọng phạt. Hình phạt càng nặng bao nhiêu, tội nghiệt của mình càng nhẹ đi chừng ấy.
Y kính cẩn đáp ngay bằng một tiếng "vâng" rồi ra chái hiên lấy thùng gánh phân bón tưới rau cỏ. Nhưng ngoài việc gánh ba trăm thùng nước phân rồi còn phải bón, tưới mất khá nhiều thời giờ, đâu có thể làm xong trong chốc lát được.
Hư Trúc chẳng chút than phiền, lặng lẽ làm việc một cách rất thấu đáo. Suốt đêm y làm việc luôn chân luôn tay không nghỉ chút nào mà đến sáng vẫn chưa xong. Nhờ được sinh lực đầy rẫy, Hư Trúc không thấy mỏi mệt. Y gánh đầy đủ ba trăm thùng nước phân tưới rau rồi mới vào nhà chứa củi nằm lăn ra ngủ vùi.
Hư Trúc vừa chợp mắt được một lúc thì Duyên Căn đã đến khua náo cho y tỉnh dậy. Hắn còn nặng lời quở trách:
- Tặc hoà thượng kia! Trời đã ban ngày ban mặt mà còn chui rúc vào đây mà ngủ vùi. Dậy mau đi đốn củi!
Hư Trúc chỉ "dạ" một tiếng chứ không giải thích chi hết, rồi vào rừng đốn củi.
Sáu bảy ngày liền, Hư Trúc ban ngày đi đốn củi, tối về lại gánh phân tưới rau trăm bề cực khổ, mà khắp mình mẩy bị đánh thương tích đầy người, trông thật thảm hại.
Sáng sớm ngày thứ tám, Hư Trúc đang bón rau thì Duyên Căn đến nơi ôn tồn nói:
- Sư huynh vất vả quá nhỉ?
Rồi hắn lấy chìa khoá mở xiềng xích cho Hư Trúc. Hư Trúc nói:
- Tiểu đệ chưa mệt lắm, còn ba mươi gánh nữa mới đủ, để làm xong hãy đi ngủ cũng chưa muộn.
Duyên Căn nói:
- Sư huynh nghỉ đi thôi! Chỗ còn thiếu đó để tiểu tăng làm nốt cho. Mời sư huynh vào nhà ăn cơm. Mấy bữa nay tiểu tăng đắc tội với sư huynh. Mong rằng sư huynh dung thứ cho.
Hư Trúc thấy Duyên Căn thốt nhiên thay đổi thái độ thì trong lòng rất lấy làm kỳ. Y ngửng đầu nhìn lên thì thấy mặt mũi hắn tím bầm sưng húp, rõ ràng vừa bị một trận đòn thảm khốc.
Hư Trúc càng lấy làm kỳ hơn nữa khi Duyên Căn nhăn nhó nói:
- Tiểu tăng có mắt mà không biết núi Thái Sơn, nên đắc tội với sư huynh. Nếu sư huynh không lượng thứ cho thì tiểu tăng... phải đại họa đến nơi rồi.
Hư Trúc chẳng hiểu ý tứ Duyên Căn ra sao, vẫn nói bằng một giọng rất cung kính lễ phép:
- Tiểu tăng mình làm mình chịu. Sư huynh trách phạt như thế là đáng lắm, thực tình tiểu tăng không dám oán hận sư huynh chút nào.
Duyên Căn biến sắc giơ tay lên, tự tát bốp bốp vào mặt mình bốn cái thật mạnh rồi nói:
- Sư huynh! Tiểu tăng khẩn cầu sư huynh mở lượng từ bi! Sư huynh là đại nhân, đừng để tâm chắp nhặt đến lỗi lầm của kẻ tiểu nhân. Tiểu tăng... Tiểu tăng...
Hắn nói chưa dứt lời lại giơ tay lên tự tát vào mặt luôn mấy cái nữa. Hư Trúc kinh ngạc hỏi:
- Tại sao sư huynh lại có cử chỉ này?
Duyên Căn quỳ xuống đất, nắm lấy vạt áo Hư Trúc nói:
- Nếu sư huynh không lượng thứ cho thì đôi tròng mắt... của tiểu tăng không thể giữ được nữa!
Hư Trúc ngơ ngác hỏi:
- Tiểu tăng thật tình không hiểu một tí gì cả.
Duyên Căn nói:
- Nếu được sư huynh nhiêu dung cho, tiểu tăng khỏi bị móc mắt, thì kiếp sau xin làm thân trâu ngựa để báo đền ân đức cao cả của sư huynh.
Hư Trúc hỏi:
- Sư huynh nói gì kỳ vậy? Tiểu tăng có bảo móc mắt sư huynh bao giờ đâu?
Duyên Căn mặt tái mét nói:
- Nếu sư huynh kiên quyết chẳng chịu dung tha, thì tiểu tăng thành người có mắt không tròng. Tiểu tăng đành tự xử lý vậy.
Hắn nói xong đưa hai ngón tay lên để toan móc tròng ra. Hư Trúc vội nắm tay Duyên Căn lại hỏi:
- Ai bức bách sư huynh phải móc mắt?
Duyên Căn trán toát mồ hôi ấp úng đáp:
- Tiểu tăng... Tiểu tăng không dám nói. Nếu tiểu tăng nói ra thì... sẽ bị giết chết.
Hư Trúc tự hỏi:
- Tại chùa Thiếu Lâm này ai là người có uy quyền lớn đến thế?
Nghĩ vậy Hư Trúc liền hỏi:
- Có phải phương trượng không?
Duyên Căn nói:
- Không phải.
Hư Trúc lại hỏi:
- Thế thì chắc là một trong ba vị thủ tòa Đạt Ma Viện, La Hán Đường, Giới Luật Viện phải không?
Duyên Căn đáp:
- Không phải hết! Sư huynh ơi! Tiểu tăng không dám nói đâu, chỉ khẩn cầu sư huynh tha thứ cho mà thôi. Những vị ấy biểu rằng: Nếu muốn giữ được đôi tròng mắt thì chỉ còn có chính miệng sư huynh tuyên bố dung tha cho tiểu tăng là được.
Hắn nói xong liếc mắt nhìn trộm sang mé bên, vẻ mặt cực kỳ sợ hãi.
Hư Trúc nhìn theo mắt Duyên Căn về phía hành lang thì thấy có bốn nhà sư ngồi đó đều mặc áo tăng bào sắc tro, đầu đội tăng bào màu xám, quay mặt vào trong nên không trông rõ tướng diện.
Hư Trúc tự hỏi:
- Chẳng lẽ lại là bốn vị sư huynh kia? Chắc họ được lệnh trên phái đến trừng phạt Duyên Căn vì tội chuyên quyền làm oai, làm phách đã đánh đập những nhà sư phạm giới?
Hư Trúc nghĩ vậy liền nói:
- Tiểu tăng không oán trách sư huynh tức là lượng thứ rồi còn gì?
Duyên Căn mừng rỡ khôn xiết liền quỳ ngay xuống vườn rau dập đầu lạy tạ. Trán hắn dính cả nước phân vào mà hắn cũng không quan tâm.
Hư Trúc lại nói:
- Xin sư huynh đứng dậy mau đi! Chớ nên dùng đại lễ.
Duyên Căn lóp ngóp đứng lên, kính cẩn mời Hư Trúc vào phòng ăn, rồi tự tay mình bưng cơm rót nước hầu hạ.
Hư Trúc không thể từ chối được, vì xem chừng nếu mình không để hắn phục thị thì dường như hắn bị đại họa, nên đành để mặc hắn muốn làm sao thì làm.
Duyên Căn khẽ hỏi nhỏ vào tai:
- Sư huynh có xơi rượu không? Hay có muốn dùng thịt chó thì tiểu tăng cũng tìm cho được!
Hư Trúc cả kinh nói:
- A di đà Phật! Tội nghiệt, tội nghiệt! Sao lại làm thế được?
Duyên Căn lé mắt nói:
- Bao nhiêu tội nghiệt để tiểu tăng lãnh chịu cả cho. Tiểu tăng đi kiếm về để sư huynh dùng nhé?
Hư Trúc khoát tay lia lịa nói:
- Đừng, đừng! Những việc phạm giới này sư huynh chớ nên đề cập đến nữa!
Duyên Căn nói:
- Nếu sư huynh thấy ở trong chùa bị kỷ luật bó buộc, không được tự do vui sướng thì cứ việc tự tiện xuống núi. Nếu trong Giới Luật Viện có ai hỏi tới, tiểu tăng sẽ nói là phái sư huynh đi tìm vật dụng. Tiểu tăng xin hết sức che lấp, quyết không để xảy ra chuyện gì đáng lo ngại.
Hư Trúc nghe Duyên Căn nói mỗi lúc một nói nhảm thêm thì lắc đầu bảo:
- Tiểu tăng thành tâm sám hối những tội lỗi đã phạm cho nghiêm giới luật. Xin sư huynh đừng nhắc đến chuyện vi phạm thanh quy nữa.
Duyên Căn tuy ngoài miệng vâng dạ nhưng trong bụng vẫn mắng thầm:
- Mi là một gã thày tu phá giới, đam mê tửu sắc mà còn khéo giả vờ.
Tuy hắn nghĩ vậy, nhưng thấy Hư Trúc gạt đi không dám nói nữa. Hắn hầu hạ Hư Trúc dùng cơm chay rồi lại mời y về thiền phòng của mình để nghỉ ngơi.
Từ hôm ấy Duyên Căn hết sức chiều chuộng Hư Trúc, không bắt y gánh phân bón rau nữa.
Ba ngày trôi qua. Hôm ấy vào khoảng giờ ngọ, Duyên Căn pha ấm trà Long Tỉnh hai tay đưa cho Hư Trúc nói:
- Mời sư huynh dùng trà.
Hư Trúc nói:
- Tiểu tăng là kẻ can phạm chờ ngày định tội, mà sư huynh quá hậu đãi như vậy, khiến tiểu tăng thực áy náy.
Rồi đứng lên hai tay đỡ lấy chén trà.
Bất thình lình, chuông khánh đổ hồi vang lên không ngớt. Đó là tiếng hiệu triệu họp toàn thể chư tăng trong chùa. Ngoại trừ hàng năm gặp ngày Phật đản, hoặc ngày sinh nhật Đạt Ma tổ sư, còn trong chùa trước nay rất ít khi triệu tập toàn thể chư tăng.
Duyên Căn nói:
- Phương trượng đã sai nổi hiệu chuông tụ tập chúng tăng. Vậy chúng ta phải đến điện Đại Hùng xem sao?
Hư Trúc nói:
- Phải đó.
Thế rồi hai người cùng mười mấy nhà sư trong khu vườn rau lật đật chạy đến Đại hùng Bảo điện. Trong điện đã thấy hơn hai trăm nhà sư tụ tập, ngoài ra còn vô số tăng chúng đang lục tục kéo đến. Chỉ trong khoảnh khắc hơn năm trăm vị sư đã đến đông đủ và chia thứ bậc vào ngồi. Tuy số người rất đông đảo mà im lặng như tờ.
Hư Trúc đứng vào hàng các nhà sư có chữ Hư. Y ngửng đầu nhìn lên thì thấy những bậc cao tăng tiền bối vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng, đã chột dạ nghĩ thầm:
- Phải chăng vì mình phạm tội quá nặng nên Phương trượng triệu tập toàn thể tăng chúng để trừng phạt một cách đặc biệt đặng răn kẻ khác cho nghiêm luật lệnh? Không chừng trước tình hình nghiêm trọng này, mình sẽ bị đuổi ra khỏi môn trường thì biết làm thế nào?
Hư Trúc còn đang khiếp sợ, bỗng ba hồi chuông bất chợt nổi lên. Chư tăng đồng thanh tuyên Phật hiệu:
- A di đà Phật! A di đà Phật!
Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư cùng ba vị cao tăng đứng hàng chữ Huyền và bảy nhà sư khác nữa từ hậu điện thong thả đi ra. Chư tăng trong điện nhất tề khom lưng thi lễ.
Chúng tăng ngửng đầu nhìn lên thì thấy bảy nhà sư này đều đã lớn tuổi, sắc phục không giống bản tự. Đúng là bảy nhà sư ở chùa khác mới đến.
Nhà sư ngồi đầu khách vị tuổi độ bảy mươi, thân hình bé nhỏ và thấp lùn, hai mắt loang loáng. Lúc lão đưa mắt nhìn xung quanh dáng điệu rất oai nghiêm.
Huyền Từ quay mặt về phía tăng chúng bản tự dõng dạc giới thiệu:
- Vị này là Thần Quang Thượng Nhân, phương trượng chùa Thanh Lương trên núi Ngũ Đài. Quần tăng bản tự làm lễ ra mắt đi.
Nên biết rằng Thần Quang Thượng Nhân là một tay oai danh lừng lẫy trong võ lâm. Lão cùng Huyền Từ đại sư là hai vị La Hán Háng Long, Phục Hổ. Về võ công người ta đồn Thần Quang Thượng Nhân có phần trội hơn Huyền Từ đại sư.
Chúng tăng đều lẩm bẩm:
- Nghe đồn Thần Quang Thượng Nhân tự coi mình là một nhân vật cao cả. Lão là một nhà sư lại dính vào những việc võ lâm trần tục, thế là đi vào đường lối Hạ thừa. Trước nay lão không muốn kết giao với chùa Thiếu Lâm, hôm nay lão thân hành tới đây tất có việc gì quan trọng lắm.
Mọi người đều khom lưng quay về Thần Quang Thượng Nhân thi lễ. Huyền Từ lại giơ tay về phía sáu nhà sư trong hàng tân khách nói:
- Sáu vị đây là cao tăng chùa Thanh Lương, hoặc là bạn thâm giao với Thần Quang Thượng Nhân cũng đều là những nhân vật có đạo đức lớn nơi cửa Phật. Bữa nay bảy vị đồng thời giáng lâm thật là vẻ vang cho bản tự. Vì thế mà có cuộc triệu tập đông đủ chư tăng bản tự tới đây làm lễ ra mắt. Bần tăng mong được Thần Quang Thượng Nhân khai đàn thuyết pháp để biểu dương ý nghĩa nhà Phật và để toàn thể tăng chúng bản tự cùng được thụ giáo cho thêm phần đạo đức.
Thần Quang Thượng Nhân nói:
- Bần tăng chả dám nào!
Thân hình lão bé nhỏ, thấp lùn, không ngờ thanh âm lại oang oang vang dội, chẳng khác tiếng sư tử gầm thét, khiến cho chúng tăng không khỏi kinh hãi. Nhưng Thượng Nhân tuy lớn tiếng mà không kéo gân cổ cũng không vận nội lực để cố ý uy hiếp nhân tâm mà chỉ dùng tiếng nói tự nhiên. Thật là một thứ thanh âm trời cho có một.
Thượng Nhân lại nói tiếp:
- Thiếu Lâm bảo tự là chốn trang nghiêm, tiểu tăng đem lòng sùng kính đã lâu. Sáu mươi năm về trước, tiểu tăng đã đến đây cầu giới, song bị cự tuyệt ngay từ ngoài cửa Sơn môn. Sáu mươi năm sau trở lại, cảnh cũ vẫn còn như xưa mà nhân sự không giống trước nữa. Thật là đáng buồn!
Chúng tăng nghe lão nói xong trong tâm đều chấn động vì giọng lưỡi lão đầy vẻ hằn học tức giận. Ai nấy đều tự hỏi:
- Chẳng lẽ lão đến đây để tầm cừu?
Huyền Từ vốn là người rất bình tĩnh, đáp bằng một giọng ôn hoà:
- Té ra sư huynh ngày trước đã từng đến chùa Thiếu Lâm để xuất gia đầu Phật. Tất cả chùa chiền khắp thiên hạ đều là một nhà. Nay sư huynh từ chùa Thanh Lương dời gót tới đây, đã là Phật môn đệ tử ai không sùng kính? Ngày trước chùa Thiếu Lâm chưa dám tiếp nạp thành đắc tội với sư huynh. Vậy tiểu tăng xin nghiêng mình tạ lỗi, song cũng vì thế mà sư huynh đi lập một cơ sở khác đặng đem hoằng pháp phổ độ chúng sinh, làm nên công nghiệp rất lớn cho nhà Phật. Câu chuyện ngày trước chẳng qua chỉ là một trường nhân duyên trong cõi u minh xếp đặt.
Huyền Từ nói xong hay tay chắp để trước ngực cung kính thi lễ. Thần Quang Thượng Nhân đáp lễ rồi nói:
- Sở dĩ ngày trước tiểu tăng đến bảo tự để cầu giới cố nhiên là ngưỡng mộ bảo tự đã đứng đầu võ lâm trong mấy trăm năm. Thiên hạ còn đồn chùa Thiếu Lâm rất nghiêm minh mà xử sự rất công bằng ngay thẳng...
Lão nói tới đây đột nhiên đảo mắt phóng tia sáng ra bốn mặt rồi ngửng đầu nhìn lên pho tượng Phật tổ kim thân trên Đại hùng bảo điện, lạnh lùng tiếp:
- Ngờ đâu việc đời thường chỉ có hư danh ít khi thấy thực sự. Nếu tiểu tăng biết thế này thì năm ấy cũng chẳng đến chùa Thiếu Lâm làm chi cho mất công.
Thần Quang Thượng Nhân vừa dứt lời thì hết thảy hơn năm trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm đều biến sắc, nhưng tại đây giới luật rất nghiêm, tuy ai nấy đều căm phẫn mà tuyệt chẳng ai dám lên tiếng.
Huyền Từ phương trượng bình tĩnh nói:
- A di đà Phật! Sao sư huynh lại nói vậy? Nếu tệ tự từ trên xuống dưới có ai làm việc sai quấy thì xin sư huynh cứ nói rõ. Kẻ có tội phải chịu trừng phạt mà phạm lỗi lầm thì phải sửa đổi. Lời sư huynh nói ra để mạt sát danh dự chùa Thiếu Lâm như vậy há chẳng thấy quá ru?
Thần Quang Thượng Nhân hỏi lại:
- Xin hỏi sư huynh: Cửa Phật phải chăng là chốn quan nha hay là ổ giặc cướp?
Huyền Từ lạnh lùng nói:
- Tiểu tăng chưa thể hiểu được lời nói của sư huynh có ngụ ý gì. Xin sư huynh chỉ thị cho.
Thần Quang đáp:
- Chốn quan nha bắt người giam cầm, còn ổ đạo tặc thì bắt người để lấy tiền chuộc, đó là những việc tầm thường. Chùa Thiếu Lâm đã chẳng phải chốn quan nha, lại không là ổ giặc cướp mà sao tự ý bắt giam người ngoài không thả cho về. Tiểu tăng xin hỏi lại sư huynh: Chùa Thiếu Lâm làm những việc cường hung như vây có xứng đáng với bốn chữ Phật Môn Thiện Ðịa không?
Huyền Từ đưa mắt nhìn nhà sư thứ tư ngồi phía dưới Thần Quang nghĩ thầm:
- Nhà sư này rậm râu sâu mắt, môi thâm da thiết bì, ta dã ngờ hắn không phải là một nhà sư ở Trung Nguyên, té ra quả nhiên y là một vị hòa thượng nước Thiên Trúc. Đương nhiên y vì muốn đòi Ba La Tinh mà đến đây. Nhưng không hiểu tại sao y kéo cả Thần Quang chùa Thanh Lương này cùng đến làm chi?
Huyền Từ nghĩ vậy rồi hỏi:
- Thưa sư huynh! Tiểu tăng có điều chưa hiểu kính xin sư huynh chỉ giáo: Giả tỷ có người ngoài đến chùa Thanh Lương trên Ngũ đài sơn xem trộm kiếm kinh về Phục Ma Kiếm trong Phục Hổ quyền phái cùng những môn ảo diệu bí mật về Tâm, ý, Khí, Hỗn nguyên công, Phổ lan trượng pháp của quý tự thì sư huynh xử trí ra sao?
Thần Quang cười ha hả quay lại nhìn nhà sư môi thâm mắt trắng da thiết bì nói:
- Huyền Từ đại sư chưa bị đánh đã cung xưng, tự mình thú nhận là có ra lệnh bắt giam Ba La Tinh sư huynh ở tại chùa Thiếu Lâm rồi.
Nguyên nhà sư môi thâm da thiết bì kia chính là Triết La Tinh, sư huynh của Ba La Tinh. Ngày nọ y cưỡi rắn đến Trung Nguyên rồi gặp Du Thản Chi cùng Cưu Ma Trí và bị một phen nhục nhã cắm đầu quay về Thiên Trúc. Dọc đường hắn gặp một vị lão tăng ở Trung Nguyên tay cầm thuyền trượng chăm chú nhìn hắn. Triết La Tinh đang lúc căm tức đầy ruột, liền quát bảo vị lão tăng nhường lốị Hắn thốt ra những lời rất vô lễ.
Vị lão tăng kia là người tính nóng như lửa, tức thì quay lại mắng trả. Hai bên trước còn đấu khẩu sau đấu võ. Cuộc đấu kéo dài đến một giờ không phân cao thấp. Công lực hai người đều có chỗ sở trường riêng mà đánh nhau bằng binh khí cũng chống chọi nhau chẳng ai hơn ai.
Trận đấu kéo dài đến lúc hoàng hôn thì vị lão tăng quát bảo dừng tay rồi nói:
- Phiên tăng kia! Võ công của ngươi rất cao, đáng tiếc là ngươi nóng tính không trấn tĩnh được.
Triết La Tinh nói:
- Ngươi với ta kẻ bảy lạng người nửa cân chẳng ai hơn ai!
Hắn học mót được mấy câu hoa ngữ thành ra nói sai. Đáng lý phải nói kẻ tám lạng người nửa cân thì hắn lại nói kẻ bảy lạng người nửa cân.
Vị lão tăng rất lấy làm kỳ hỏi:
- Sao ngươi lại bảo kẻ bảy lạng người nửa cân?
Triết La Tinh đỏ mặt lên nói:
- Ồ! Ta nói lầm kẻ chín lạng người nửa cân.
Vị lão tăng liền cười ha hả nói:
- Ta dạy cho ngươi hay: Tám lạng mới là nửa cân. Có một câu nói thông thường của người Trung Nguyên chúng ta mà ngươi còn chưa rành. Về học thêm mấy năm nữa rồi sẽ đến nói chuyện bằng Hoa ngữ với ta cũng chưa muộn.
Nguyên Triết La Tinh và Ba La Tinh cố ý đến Trung Nguyên để lấy lại bản kinh của nước Thiên Trúc, nên ráng học tiếng Trung Hoa, nhất là những câu tục ngữ. Nhưng hắn chỉ nhớ thấp thỏm không rành mạch nên mới có sự lầm lẫn như thế.
Hai nhà sư vốn không thù oán, đánh nhau nửa ngày rồi sinh ra mến tài nhau giới thiệu tên họ. Vị lão tăng đó pháp danh là Thần Âm và là sư đệ Thần Quang phương trượng chùa Thanh Lương.
Thần Âm lại hỏi Triết La Tinh qua Trung Hoa có việc gì? Thì Triết La Tinh nói là: Sư đệ hắn là Ba La Tinh qua Trung thổ đến chùa Thiếu Lâm để đưa thơ rồi không hiểu vì lẽ gì lại bị chùa Thiếu Lâm bắt giữ, không thả cho về. Nguyên Thần Âm là người hiếu sự, lại thấy uy danh chùa Thiếu Lâm đồn đại xa gần thì trong lòng không phục. Hắn còn có ý khoe khoang ông bạn mới kết giao liền nói:
- Sư huynh ta là Thần Quang bản lãnh phi thường, thiên hạ vô địch, chẳng coi chùa Thiếu Lâm vào đâu. Vậy ta đưa ông bạn đến yết kiến sư huynh ta. Chắc chắn y sẽ có cách cứu được sư đệ cho ông bạn.
Hồi Thứ 104
Huyền Sinh phóng chưởng thử Phiên tăng
Thần Âm liền dẫn Triết La Tinh về chùa Thanh Lương để bái kiến Thần Quang. Thần Quang là người rất mực tâm cợ Y nghĩ rằng phương trượng chùa Thiếu Lâm chủ trương khoan hoà, vậy mà sao lại bắt giữ Ba La Tinh? Hẳn có nguyên nhân trọng đại chi đây.
Y liền trọng đãi Triết La Tinh, lựa lời thăm hỏi dần dần. Chưa đầy nửa tháng thì Triết La Tinh đem hết chuyện bí mật kể hết cho Thần Quang nghe.
Thần Quang bụng bảo dạ:
- Ba La Tinh đến chùa Thiếu Lâm cốt để ăn cắp kinh sách. Nếu hắn không ăn cắp được thì chùa Thiếu Lâm nên đuổi hắn về là phải. Dù cho hắn lấy được rồi mà đường trưởng phát giác thì cũng đến đoạt kinh lại là cùng. Hiện nay chùa Thiếu Lâm bắt hắn giam giữ không tha, thì nhất định chẳng những hắn đã ăn cắp kinh mà thôi, có khi hắn học thuộc lòng hết rồi cũng chưa biết chừng. Hơn nữa nếu lão Phiên tăng chỉ để lấy cắp kinh sách về Phật pháp để phổ cứu chúng sinh thì chùa Thiếu Lâm chẳng những không can thiệp đến, mà còn lục những phu kinh sách hay gửi tặng nữa là khác. Vậy thì nhất quyết không phải hắn ăn cắp kinh Phật mà là những bí lục về võ công gì đây.
Thần Quang nghĩ tới những bí lục võ công của Thiếu Lâm thì tỏ vẻ sốt sắng vô cùng.
Ta nên biết rằng Thần Quang là một bậc kỳ tài trong võ lâm, đã thiên tư đĩnh ngộ lại nhiều sáng kiến, có điều đáng tiếc là căn nguyên võ học của chùa Thanh Lương hãy còn kém chùa Thiếu Lâm xa. Y chỉ có những pho quyền kinh, Kiếm phổ, nội công bí yếu thông thường mà lại ít ỏi, chưa xứng đáng vào hạng công phu bậc nhất. Thế mà võ công y đến bậc thượng thặng đủ biết tư chất lão không phải tầm thường.
Ngày y tới chùa Thiếu Lâm mới mười bảy tuổi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm hồi đó là Diệu Diệp thiền sư, vừa mới thấy diện mạo cùng tia mắt y đã biết ngay là con người độ lượng hẹp hòi, không thể truyền thụ Phật pháp được. Nếu để y làm một nhà sư tầm thường trong chùa thì y không cam chịu lâu dưới điều khiển của người khác và ngày sau ắt sinh hoạ hoạn nên Diệu Diệp thiền sư cự tuyệt ngay. Vì thế mà Thần Quang mới tìm đến tu hành tại chùa Thanh Lương.
Năm y mới ba mươi tuổi mà kỹ thuật đã bao trùm toàn tự, nhảy lên hàng phương trượng chùa Thanh Lương. Y tự biết hiện nay võ công mình cao hơn những kinh sách bí lục trong bản tự. Nếu muốn tiến hơn thì phải tìm cơ duyên khác mới được. Y vừa nghe lời Triết La Tinh, đã để tâm nghĩ kế ngay, và sau mấy ngày y mới quyết định chủ ý rồi lẩm bẩm:
- Bây giờ ta cứ vì hắn mà ra mặt đến đòi Ba La Tinh, dù trong chùa Thiếu Lâm có nhiều tay cao thủ, bất cứ việc gì đến hợp lý là được. Chẳng lẽ họ là đệ tử nhà Phật mà lại cậy thế mạnh để uy hiếp người ư? Khi mình nắm được Ba La Tinh rồi thì lo gì hắn chẳng tiết lộ cho mình hay những bí lục về học của chùa Thiếu Lâm.
Thần Quang Thượng Nhân nghĩ vậy, liền viết thiếp mời Long Mãnh đại sư chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai Phong, Đạo Thành đại sư chùa Phổ Độ tỉnh Giang Nam, Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm núi Lư Sơn và Dung Trí đại sư chùa Tinh Cảnh thành Trường An là bốn vị cao tăng đến, rồi Thần Âm và Triết La Tinh thẳng tới chùa Thiếu Lâm.
Bốn vị cao tăng kia tuy không cùng chủ trương như Thần Quang, nhưng là những nhân vật có danh vọng rất lớn trong võ lâm. Có điều những chùa Đại Tướng Quốc, Phổ Độ... trước nay chỉ trọng Phật pháp mà khinh rẻ võ công. Rất Long Mãnh, Đạo Thanh đại sư chưa được lên đến địa vị cao cả, tại nơi chùa mình.
Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm nghe Thần Quang Thượng Nhân bảo mình bị đánh đã cung xưng ra thì thật là vô lễ. Tuy đại sư bản tính trầm mặc cũng không khỏi nổi giận nói:
- Nhà sư Thiên Trúc là Ba La Tinh sư huynh quả thực có đến bản tự, không bao giờ lão tăng phủ nhận điều đó.
Thần Quang Thượng Nhân cười ha hả nói:
- Thế thì hay lắm. Vị này là Long Mãnh đại sư chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai Phong, vị này là Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm núi Lư Sơn, vị này là Dung Trí đại sư chùa Tinh Cảnh tại Trường An, vị này là Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ tỉnh Giang Nam. Cả bốn vị đều là những bậc cao tăng ở Trung Nguyên. Nay lão tăng mời bốn vị đến đây để chứng kiến vụ này. Phương trượng sư huynh đã thừa nhận Ba La Tinh sư huynh nước Thiên Trúc hiện ở bảo tự, vậy xin phương trượng tha cho y ra về Thiên Trúc để khỏi mang tiếng với ngoại bang là đệ tử nhà Phật ở Trung Hoa giam giữ người đồng đạo, cậy mạnh hành hung.
Những câu nói của lão rất sắc bén, cố ý bức bách chùa Thiếu Lâm phải thả Ba La Tinh. Những người trong chùa Thiếu Lâm đã biết nội tình đều nghĩ thầm:
- Ba La Tinh ăn cắp kinh rồi bị giữ, đã là thực tình mà phương trượng cũng không phủ nhận điều đó thì e rằng không tha họ không xong.
Bỗng nghe Huyền Từ nói:
- Vừa rồi Thần Quang sư huynh nóng nảy muốn gặp toàn thể tăng chúng đệ tự, mà chưa nói đến bốn vị cao tăng. Té ra bốn vị này đều là những tay cao thủ nổi tiếng trong võ lâm. Lão tăng có ý ngưỡng mộ từ lâu, nay được tương kiến thật là may mắn!
Huyền Từ chắp tay để trước ngực thi lễ. Đại sư vừa nói vừa kéo dài thời khắc để có thì giờ tìm kế đối phó. Bốn vị cao tăng lập tức đứng dậy đáp lễ đồng thanh nói:
- Ba La Tinh sư huynh tại Thiên Trúc hiện giờ ở trong bảo tự. Nếu y có điều gì đắc tội với phương trượng, bọn bần tăng cũng xin phương trượng nghĩ tình họ Thích khắp thiên hạ đều là một nhà mà giờ Ba La Tinh đại sư lại cho sư huynh y là Triết La Tinh đại sư đến đây đưa về Thiên Trúc thì bọn bần tăng đều cảm đại đức.
Huyền Từ nghĩ bụng:
- Việc nhà Ba La Tinh thì chẳng khó gì, nhưng phóng thích hắn thì bao nhiêu bí lục võ công của chùa Thiếu Lâm từ đây sẽ bị công khai ra khắp thiên hạ hết.
Đại sư trong bụng ngần ngừ chưa biết trả lời ra sao lại tuyên mấy câu Phật hiệu để kéo dài thêm thời khắc. Hồi lâu Huyền Từ mới nói:
- Ba La Tinh sư huynh đem thơ đến chùa Thiếu Lâm. Toàn thể tệ tự từ trẻ xuống dưới thấy y từ Phật quốc sang đây đều một lòng kính cẩn. Không ngờ y lén đào đường hầm Tàng Kinh Các lấy trộm bao nhiêu bí lục về võ học từ mấy trăm năm truyền lại. Thiếu Lâm tuy là một nơi am thiền cửa Phật, nhưng lại là một môn phái trong võ lâm, đương nhiên phải tôn trọng lề luật võ lâm.
Ngừng một lát Huyền Từ lại nói tiếp:
- Thần Quang Thượng Nhân! Vừa rồi bần tăng có một câu hỏi: Giả tỷ có người lén vào chùa Thanh Lương lấy cắp quyển kinh kiếm phổ của quý tự mà sư huynh đã vào địa vị phương trượng, lại là chưởng môn một phái võ thì xử trí ra sao, chưa được Thượng nhân trả lời.
Thần Quang Thượng Nhân tủm tỉm cười đáp:
- Võ công cao hay thấp phần lớn do trông cậy vào bản lãnh của con người, còn quyền kinh, kiếm phổ chỉ đứng vào hàng thứ hai. Giả tỷ có vị anh hùng hảo hán nào dư tài vào được chùa Thanh Lương lấy cắp quyển kinh, kiếm phổ của tệ tự thì ngoài việc lão tăng tự nhận bất tài không còn biết nói sao nữa? Chẳng lẽ người ta muốn coi võ học pháp môn của mình một chút mà hay giam giữ suốt đời người ta ử Có lý nào thế được?
Huyền Từ cũng tủm tỉm cười:
- Nếu là những võ công bí lục tầm thường chẳng có gì kỳ bí, dù công khai ra đời cũng chẳng ngại gì. Nhưng gặp trường hợp quyền kinh, kiếm phổ, nội dung tinh vi bí ảo mà để người ta lấy cắp truyền ra ngoài, lọt vào tay quân cuồng vọng hoặc những kẻ bụng dạ hẹp hòi thì mối hoạ không biết đến đâu mà kể. Con người trong võ lâm là phải nghĩ tới chỗ đó.
Huyền Từ nói mấy câu này bằng một giọng ôn hoà. Nhưng mấy chữ những quân cuồng vọng hoặc những kẻ bụng dạ hẹp hòi rõ ràng để ám chỉ Thần Quang Thượng Nhân. Mọi người nghe câu này biết ngay Huyền Từ mạt sát Thần Quang là con người bụng dạ khôn lường. Sở dĩ gã đến yêu sách phóng thích Ba La Tinh chỉ vì mục đích gom về những bí lục về võ học của phái Thiếu Lâm.
Thần Quang biến sắc, mặt giận hầm, xẵng giọng:
- Phương trượng nói vậy là theo một chiều, nhưng e rằng bên trong còn có tình ý gì khác cũng chưa biết chừng. Triết La Tinh sư huynh đường muôn xa vạn dặm đến đây, chẳng lẽ phương trượng không để cho sư huynh sư đệ họ được thấy mặt nhau một chút?
Huyền Từ nghĩ bụng:
- Nếu mình kiên quyết không cho Ba La Tinh ra đây tương kiến thì rõ ràng chùa Thiếu Lâm đuối lý, để mấy vị cao tăng các chùa Phổ Độ, Đông Lâm... đem lòng bất phục.
Đại sư nghĩ vậy liền truyền lệnh:
- Mời Ba La Tinh sư huynh ra đây!
Chấp sự tăng truyền lệnh ra ngoài. Chẳng bao lâu bốn vị lão tăng đưa Ba La Tinh lên điện.
Ba La Tinh nhìn thấy sư huynh thì vừa bi thương, vừa vui mừng, nhảy lại ôm lấy Triết La Tinh nước mắt đầm đìa. Hai người nghẹn ngào nói với nhau bằng tiếng thổ âm nước Thiên Trúc một hơi. Người ngoài nghe chẳng hiểu gì hết, nhưng cũng chắc là Ba La Tinh kể lại chuyện lấy kinh bị bắt và lý do chùa Thiếu Lâm không chịu phóng thích.
Triết La Tinh gật đầu lia lịa rồi nói lớn bằng tiếng Trung Nguyên:
- Phương trượng chùa Thiếu Lâm đã bịa chuyện. Ba La Tinh sư đệ tiểu tăng không hề lấy cắp bí lục võ công mà chỉ xem lén kinh sách nhà Phật. Kinh sách nhà Phật vốn là của nước Thiên Trúc chúng tôi truyền sang mà xem đến cũng là phạm pháp ư? Hơn nữa Đạt Ma tổ sư cũng là người Thiên Trúc chúng tôi truyền võ công lại cho các vị mà các vị lại giam cầm người Thiên Trúc... thì là quên ơn, phụ... phụ gì nhỉ? Thế là không tốt.
Hắn nói tiếng Trung Hoa tuy không được sõi sàng nhưng đầy đủ lý lẽ, khiến tăng chúng chùa Thiếu Lâm không bài bác được. Ba La Tinh cũng cãi cối không chịu thú nhận việc lấy cắp kinh sách về võ học, trong người hắn không có tang vật gì thì thực khó mà bức bách hắn phải thú nhận.
Huyền Từ nói:
- Đức Phật từ bi! Đức Phật từ bi. Đã là người xuất gia không được nói dối. Ba La Tinh sư huynh nói dối mà không sợ bị xuống địa ngục rút lưỡi ư? Pho Đại Kim Cương quyển kinh của bản tự sư huynh đã coi trộm chưư?
Ba La Tinh cãi liền:
- Không có! Không có! Ta mượn coi một bộ Kim Cương kinh mà thôi.
Huyền Từ lại hỏi:
- Những chưởng pháp của chùa Thiếu Lâm sư huynh đã xem trộm chưa?
Ba La Tinh lại cãi:
- Không có! Ta chỉ mượn bộ Ba La mật tâm kinh để xem qua.
Huyền Từ nói:
- Thế thì Ma Kha Chỉ quyết của phái Thiếu Lâm chẳng lẽ sư huynh cũng chưa coi trộm? Hôm ấy năm vị sư đệ bắt gặp sư huynh vào Tàng kinh các đang coi lén bộ Yếu quyết về chỉ pháp rồi từ Tàng kinh các chuồn ra thì sư huynh bảo sao?
Ba La Tinh nói:
- Tiểu tăng vào Tàng kinh các quý tự mượn coi một bộ Ma Ha Tăng chỉ luật. Về triều nhà Tần, vị cao tăng bên quý quốc là Pháp Hiền nguyên người họ Củng, xuất gia từ thuở lên ba dốc lòng theo đạo. Đến năm Tấn Long An thứ ba, Pháp Hiền đại sư tây du đến nước Thiên Trúc lấy kinh đã được rất nhiều pho kinh sách quý giá, trong đó cả bộ Ma Ha Tăng chỉ luật. Tiểu tăng mượn xem pho đó không hiểu đã phạm giới luật gì của quý tự?
Nên biết Ba La Tinh là người thông minh cơ biến lại học vấn uyên bác, nên được chùa Thiên Trúc đặc phái trọng nhiệm đi lấy cắp kinh sách. Bây giờ hắn chối hết những chuyện xem trộm bí lục về võ công để tỏ ra chùa Thiếu Lâm hoàn toàn đuối lý.
Huyền Từ cất tiếng niệm:
- A di đà Phật!
Bất thình lình có luồng gió nhẹ thổi lướt qua bên mình. Một bóng hồng thấp thoáng, có người phóng quyền ra đánh vào sau lưng Ba La Tinh. Thoi quyền này vừa thần tốc vừa mãnh liệt vô cùng.
Quyền phóng đang nhắm huyệt Chí Dương sau lưng Ba La Tinh xô tới. Chiêu quyền phóng ra đột ngột cơ hồ không có cách nào giải cứu.
Bỗng thấy Ba La Tinh xoay tay lại. Tay trái giữ lấy huyệt Thần Đạo, tay phải nắm lấy huyệt Cân Xúc. Lòng bàn tay hướng ra ngoài, chưởng lực xô ra rất nhanh. Huyệt Thần Đạo ở trên huyệt Chí Dương mà huyệt Cân Xúc ở dưới huyệt Chí Dương. Chưởng lực hai tay kết lại thành một tấm bình phong để chống đỡ cho huyệt Chí Dương, thủ pháp xảo diệu vô cùng.
Trên Đại hùng bảo điện thiếu gì những bậc cao thủ, vừa thấy y ra chiêu này rất mau lẹ và đối phó được thế đánh bất ngờ. Ba La Tinh vừa trổ tài tựa hồ như lôi sư huynh sư đệ đồng môn phân tích chiêu thức để luyện tập và phô diễn chưởng pháp thượng thặng.
Mọi người thấy thế không nhịn được bật lên tiếng hoan hô:
- Thật là một chưởng pháp tuyệt diệu!
Ba La Tinh dùng chưởng lực hai tay để cản trở thoi quyền. Người kia liền biến quyền thành chưởng chém vào sau cổ Ba La Tinh.
Lúc này mọi người đã nhìn rõ người đánh lén đó là một nhà sư đứng tuổi mặc áo cà sa Đại hồng ở chùa Thiếu Lâm. Chẳng những nhà sư đó ra chiêu thần tốc mà tựa hồ chỉ chờ Ba La Tinh quay đầu lại là dùng chưởng chém xuống luôn.
Ba La Tinh liền vung ngón tay trái ra đề phóng vào cườm tay đối phương.
Nhà sư kia nếu không thu chiêu về thì sẽ bị ngón tay Ba La Tinh điểm vào huyệt Hậu Khoát, nhất là Ba La Tinh lại vận hết nội lực toàn thân vào đầu ngón tay thì có thể khiến cho bàn tay nhà sư kia thành tàn phế. Chiêu này chỉ trông tựa hồ rất bình thường chẳng có chi kỳ dị, nhưng nếu phóng túng thì sức mạnh phi thường!
Bỗng có tiếng người reo:
- Chỉ pháp tuyệt diệu!
Nhà sư kia lập tức thu chưởng về, lún người xuống chuyển đến cạnh sườn mé tả Ba La Tinh phóng song quyền liên hoàn. Chỉ trong chớp mắt đã đánh luôn bảy quyền. Bảy quyền này chia ra đánh vào trán, quai hàm, cổ, ngực và lưng Ba La Tinh một cách thần tốc phi thường.
Ba La Tinh không còn cách nào né tránh được cũng phóng luôn ra bảy quyền.
"Binh binh" bảy tiếng liền. Mỗi quyền của Ba La Tinh đều đụng vào quyền của nhà sư. Chỉ trong thời gian chớp nhoáng mà thoi quyền nào cũng chống được quyền pháp của địch nhân thì phải là tay tập luyện tinh thục vô cùng! Nếu chỉ ỷ vào võ công thì dù cao thâm đến đâu cũng không tài nào tránh được.
Ba La Tinh đột nhiên nhớ ra việc gì "ồ" lên một tiếng rồi nhảy lùi lại phía sau.
Nhà sư đứng tuổi cũng không đuổi đánh nữa, từ từ lùi lại ba bước, chắp tay quay về phía Huyền Từ cùng Thần Quang thi lễ nói:
- Tiểu tăng đã vô lễ, xin hai vị đại sư tha tội cho.
Huyền Từ cười khà khà chắp tay đáp lễ. Thần Quang vẻ mặt giận dữ chỉ hừ một tiếng chứ không nói gì. Huyền Từ quay về phía bốn vị cao tăng Long Mãnh, Đạo Thành, Giác Hiền và Dung Trí nói:
- Xin bốn vị sư huynh xử vụ này cho.
Bầu không khí trong đại điện trở nên yên tĩnh.
Từ lúc Thần Quang Thượng Nhân đề cập đến việc chùa Thiếu Lâm bắt giữ nhà sư Ba La Tinh, Hư Trúc biết ngay là chuyện hôm nay không liên quan gì đến mình mới hơi yên dạ. Khi y thấy một vị sư thúc tổ trong bản tự tập kích, Ba La Tinh hóa giải được hết. Hai người chỉ đánh mấy chiêu rồi lại lùi ra.
Hiện thời võ công Hư Trúc đã đủ quan sát thấy chiêu số hai bên chưa dùng tới mức võ công thượng thặng mà không hiểu tại sao lại trao đổi có ba chiêu rồi ngừng tay.
Y cũng không hiểu vì lẽ gì mà phương trượng tự lộ vẻ vui tươi, còn đối phương thì ra chiều bẽn lẽn. Theo chỗ y biết thì ba chiêu vừa rồi, Ba La Tinh tuyệt chưa kém cỏi chút nào.
Bỗng thấy Long Mãnh ho hắng tiếng rồi hỏi:
- Theo ý ba vị thì nên thế nào?
Đạo Thanh đại sư đáp:
- Vừa rồi Ba La Tinh sư huynh sử ba chiêu thì dường như chiêu thứ nhất là Thiên Y Vô Phòng trong Ban Nhược chưởng pháp, chiêu thứ hai là Dĩ Dật Ðãi Lạo trong Ma Ha Chỉ, chiêu thứ ba là Thất Tinh Tụ Hội trong Kim Cương đại quyền.
Thần Quang Thượng Nhân nói:
- Ha ha! Phật môn ở Trung Nguyên quả nhiên đã chịu nhiều ơn huệ của nước Thiên Trúc. Đương nhiên Đạt Ma tổ sư đã sáng lập các tuyệt kỹ của Thiên Trúc đem về để lập ra Thiếu Lâm bảo tự. Những tuyệt kỹ của Thiên Trúc lưu truyền đến ngày nay. Vị cao tăng Thiếu Lâm ra chiêu rất hợp với võ công của vị Thiên Trúc. Thực là đáng mừng!
Thần Quang nói câu này khiến cho quần tăng chùa Thiếu Lâm đều lộ vẻ tức giận.
Nên biết rằng vừa rồi Ba La Tinh xoen xoét không chịu thú nhận xem trộm bí lục võ công của chùa Thiếu Lâm, nhà sư đứng tuổi vừa rồi pháp danh Huyền Sinh, sư đệ Huyền Từ, võ công cao cường tính khí lại cương trực.
Huyền Sinh đột nhiên xuất kỳ bất ý tập kích Ba La Tinh đã có tính toán trước. Những chiêu số nhằm đánh vào các bộ vị đối phương bức bách Ba La Tinh phải phân biệt dùng Ban Nhược chưởng, Ma Ha Chỉ và Kim Cương quyền mới giải khai được. Giả tỷ Ba La Tinh chưa từng học qua những môn đó dĩ nhiên phải đem công phu của bản môn ra hoá giải. Nhưng bấy nhiêu ngày hắn ở chùa Thiếu Lâm trong lòng lúc nào cũng nghĩ tới và chân tay vẫn luyện tập toàn là công phu của phái Thiếu Lâm, nên trong lúc thảng thốt, hắn không kịp nghĩ gì, tiện tay đưa ngay ba chiêu thức rất thuận tiện mới học được đem ra đối phó. Ngờ đâu Thần Quang lại bóp méo vấn đề cho đó là võ công của Thiên Trúc.
Thực ra những võ công phái Thiếu Lâm gốc nguồn ở Đạt Ma tổ sự Từ triều nhà Lương Đạt Ma ở nước Thiên Trúc qua Trung Hoa để giảng luận Phật pháp của Lương Võ đế. Vì đôi bên không ý hợp tâm đầu, Đạt Ma tổ sư dựng chùa Thiếu Lâm truyền dạy Thiền Tôn tâm pháp cùng võ công tuyệt thế. Đó là việc mà khắp thiên hạ ai ai cũng biết.
Thần Quang Thượng Nhân là tay cơ biến hơn đời, nhận luôn ngay những võ công của phái Thiếu Lâm như Ban Nhược chưởng, Ma Ha chỉ, Kim Cương quyền đều từ Thiên Trúc truyền sang. Thế thì Ba La Tinh biết sử dụng mấy thứ võ công vừa rồi chẳng có chi là lạ, không thể nhân đó mà bảo hắn đã ăn cắp bí lục của chùa Thiếu Lâm được.
Huyền Từ phương trượng nói:
- Về Phật pháp cũng như về võ công của bản tự đều do Đạt Ma tổ sư truyền lạị Đó là một điều đúng sự thực. Thế thì kinh sách của Thiên Trúc trả về cho Thiên Trúc là một việc hợp tình hợp lý, giả tỷ Ba La Tinh sư huynh nói thẳng ra xin lại những kinh văn của Đạt Ma tổ sư, bản tự sẽ kính cẩn đưa ra để tặng. Nhưng phép Ban Nhược chưởng là do Nguyên Nguyên đại sư, phương trượng đời thứ tám bản tự sáng chế. Ma Ha chỉ do Bát Chỉ Đầu Đà lập ra. Đến như Đại Kim Cương huyền pháp thì sáu vị cao tăng đời thứ mười một bản tự tổn bao nhiêu công phu trong ba mươi sáu năm trời cùng nhau nghiên cứu mới hoàn thành. Ba môn này toàn là võ công ở Trung Nguyên không dính líu gì đến Thiên Trúc. Các vị sư huynh đều là những bậc võ học cao thâm, chỉ trông qua là biết. Bần tăng bất tất phải nói nhiều.
Long Mãnh đại sư và Dung Trí đại sư biết ngay lời Huyền Từ là đúng sự thực, liền quay lại hỏi Thần Quang Thượng Nhân:
- Ý sư huynh nghĩ sao?
Thần Quang Thượng Nhân tủm tỉm cười đáp:
- Đó chỉ là lời nói một bên của phương trượng chùa Thiếu Lâm. Theo chỗ tiểu tăng biết thì lại khác hẳn. Hôm trước Triết La Tinh sư huynh cùng tiểu tăng bàn về những điểm dị đồng giữa võ công nước Thiên Trúc và nước Trung Hoa, cũng đã đề cập đến Ban Nhược chưởng, Ma Ha chỉ và Đại Kim Cương quyền thì y bảo chiêu Thiên y vô phùng theo tiếng Phạn gọi là A phầm Tư ni Trác nhi. Chưởng lực này bên phải nhẹ nhàng mà thực, chưởng lực bên trái trầm trọng mà hư. Hư với thực hợp lại rất là đắc dụng, vì địch nhân coi thường không để ý nên dễ mắc bẫy. Phương trượng sư huynh! Triết La Tinh nói vậy chẳng hiểu có đúng không?
Huyền Từ hơi biến sắc một chút rồi bình tĩnh đáp:
- Nhỡn quang của sư huynh thật là vi diệu, tiểu tăng rất bội phục.
Nguyên Thần Quang là người thông minh mà kiến thức lại cao thâm. Lão vừa trông Ba La Tinh cùng Huyền Sinh đối thủ một chưởng đã biết ngay đến chỗ tinh thâm của chiêu Thiên y vô phùng. Lão liền bịa chuyện nói là nghe lời bàn của Triết La Tinh. Cách giải thích của lão cốt để chứng minh những chiêu thức đó là của nước Thiên Trúc.
Từ lúc Thần Quang được mục kích ba chiêu đối thủ giữa Ba La Tinh và Huyền Sinh thì trong lòng lão ngứa ngáy khó chịu, ngấm ngầm thèm khát võ công của phái Thiếu Lâm. Lão nghĩ bụng: Những nhà sư chùa Thiếu Lâm hiện nay đều là hạng tầm thường, nên các vị tiền bối truyền các môn võ học cao minh cho, e rằng họ chỉ lĩnh hội được vài phần. Nếu vào địa vị mình nghiên cứu thì khó gì chẳng trở nên một tay thiên hạ vô địch?
Huyền Từ cũng biết lão nói thế là nhân được xem chiêu số của Ba La Tinh rồi tự ý nói ra. Lão đổ cho Triết La Tinh bảo lão để lừa dối mọi người. Nhưng lão vừa thoáng qua một chút đã biết ngay chỗ ảo diệu cao thâm của chưởng pháp thì thật là một tay thông minh tuyệt thế và tinh mắt phi thường trên đời ít có.
Huyền Từ đại sư trầm ngâm một chút rồi nói:
- Huyền Sinh sư đệ! Phiền sư đệ đến Tàng kinh các lấy kinh sách về ba môn võ công vừa rồi đưa cho các vị sư huynh coi.
Huyền Sinh vâng lệnh đem bốn tên đệ tử đi theo. Lát sau Huyền Sinh trở về cầm kinh sách đưa cho Huyền Từ.
Đại hùng bảo điện cách Tàng kinh các đến ba dặm đường. Thế mà chỉ trong khoảnh khắc Huyền Sinh đã lấy được sách về thì đủ biết thân pháp y mau lẹ phi thường. Người ngoài không biết nội tình thì cho là chuyện tầm thường, nhưng tăng chúng chùa Thiếu Lâm ai cũng khen thầm ba quyển kinh kia, màu giấy chỗ vàng khè, chỗ thâm lại, tỏ ra truyền đã lâu đời.
Huyền Từ cầm kinh sách để lên bàn nói:
- Mời các vị sư huynh coi thử. Ba pho kinh này đều có ghi rõ những lịch trình công phu sáng lập. Liệt vị sư huynh không tin lời lão tăng thì còn được, chẳng lẽ những vị phương trượng bao nhiêu đời trước chùa Thiếu Lâm và toàn là những vị cao tăng đạo đức lại cũng có những hành vi vô sỉ ăn gian nói dối hay sao?
Đại sư nói câu sau cùng đồng thời đưa mắt ngó Thần Quang. Thần Quang tảng lờ như không biết, rồi cầm lấy cuốn Ban Nhược chưởng pháp mở từng trang một ra coi. Long Mãnh đại sư xem cuốn Ma Ha chỉ bí yếu. Đạo Thanh đại sư coi cuốn Đại Kim Cương quyển thần công.
Long Mãnh và Đạo Thanh chỉ đọc bài tựa rồi trao cho Giác Hiền, Dung Chí. Bốn vị cao tăng này đều biết đây là võ công bí mật của phái Thiếu Lâm, còn mình là những tay cao thủ nổi tiếng ở phái khác. Hai nữa, Huyền Từ đại sư một vị cao tăng hiện đại, nói ra câu gì quyết không giả dối. Nếu xem kỹ thì không khỏi tỏ ra mình ngờ vực Huyền Từ đại sư, và như vậy là phạm vào tội bất kính.
Thần Quang Thượng Nhân trái lại xem rất kỹ, lật từng trang một, cố ý tìm ra những chỗ sơ hở nghi ngờ để bài bác Huyền Từ.
Trong đại điện trừ tiếng hô hấp rất khẽ và tiếng mở sách lạc xạc, ngoài ra không còn tiếng động gì khác. Bầu không khí yên lặng phi thường.
Hồi Thứ 105
Cưu Ma Trí diệu võ giương oai
Quần tăng chùa Thiếu Lâm chăm chú nhìn nét mặt Thần Quang Thượng Nhân để xem lão có tìm ra được chứng cớ gì trong ba bản kinh sách để làm tài liệu cãi chối không? Nhưng mặt lão vẫn trơ như đá, không lộ vẻ vui mừng hay thất vọng chi hết. Sau thấy lão mở từng trang một xem rồi gấp cuốn Ma Ha chỉ quyết, cầm một tay trả lại Huyền Từ phương trượng.
Rồi lão nhắm mắt lại ngẫm nghĩ không nói câu gì. Huyền Từ đại sư thấy bộ dạng lão như vậy cũng không đoán được ý tứ của lão.
Sau một lúc lâu, Thần Quang Thượng Nhân mở mắt ra nhìn Triết La Tinh nói:
- Sư huynh! Ngày trước sư huynh đã đọc những yếu quyết về Ban Nhược chưởng cho tiểu tăng nghẹ Tiểu tăng còn nhớ câu tiếng Phạn: "Nhân khổ nãi la ty, Bát nhĩ cam nhi tinh, Kha la ba cơ tư tin, binh na tư ni, phạt nhĩ bất thân la..." Dịch sang Hoa ngữ nghĩa là: "Ban đêm tịch mịch nghĩ vẩn vơ thì làm cách nào để chế phục?" Ý nghĩa thứ nhất về nội công Ban Nhược chưởng là ở chỗ đó, có đúng thế không?
Triết La Tinh sững sờ một lát rồi hiểu ý tứ liền đáp:
- Đúng rồi! Sư huynh dịch rất sát nghĩa!
Quần tăng chùa Thiếu Lâm ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng kinh hãi thất sắc. Cả những vị sư vào hàng hậu bối cũng lắng tai nghe.
Thần Quang Thượng Nhân lại nói lý lố một hồi tiếng Phạn rồi hỏi:
- Những câu tiếng Phạn như thế, tiểu tăng dịch sang Hoa ngữ thế này: "Cần đem lòng dạ rối ren để xét những chỗ rối ren. Cửu xét thông ra được thì ý nghĩ rối ren cũng chẳng còn. Quay lại cứu xét lòng dạ mình thì chỗ cứu xét ở đâu? Đã không cứu xét vào đâu được thì cõi lòng thành tịch mịch. Tịch mịch mà không phải tịch mịch, thì chẳng ai là người tịch mịch được. Muốn soi cho sáng àm không còn chỗ để soi. Cảnh trí đều tịch mịch thời lòng lo nghĩ sẽ yên lại. Bên ngoài chẳng tìm ra ngọn ngành mà bên trong cũng không yên lặng. Hai đường đều biến mất thì tính tình yên tĩnh trở lại". Đó là yếu quyết về luyện nội công Ban Nhược chưởng.
Triết La Tinh đáp ngay:
- Phải lắm! Phải lắm! Hôm ấy tiểu tăng cùng sư huynh đàm luận Phật pháp tại chùa Thanh Lương núi Ngũ Đài rồi bàn luận sang võ công. Yếu quyết luyện nội công Ban Nhược chưởng của nước Thiên Trúc đúng là như vậy.
Thần Quang Thượng Nhân lại nói:
- Hôm ấy sư huynh có nói về yếu chỉ Đại Kim Cương quyền và bí quyết Ma Ha chỉ tiểu tăng cũng còn nhớ.
Đoạn lão lại đọc ra một tràng thao thao bất tuyệt.
Huyền Từ cùng các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ai nấy đều hoảng sợ tái mặt vì Thần Quang Thượng Nhân đọc thuộc làu làu không sai một chữ và đúng là bí quyết ghi trong ba pho sách đó. Không một ai ngờ sách vở chỉ qua mắt một lần mà lão học thuộc lòng ngay được. Vừa rồi lão lẳng lặng lật từng trang sách lên xem là để học thuộc lòng các yếu quyết về những môn võ học trong ba bộ bảo kinh.
Thần Quang vốn tinh thông Phạn ngữ, lão phiên dịch những yếu quyết thành tiếng Phạn rồi theo trong kinh đọc thuộc lòng những câu đó bằng Hoa ngữ. Lão làm như những pho sách này nguyên trước bằng Phạn văn rồi có người dịch sang Hoa văn. Thế là tội Ba La Tinh ăn trộm kinh sách đã được lão tẩy sạch.
Mặt khác Nguyên Nguyên đại sư, Bát Chỉ Đầu Đà cùng mấy vị cao tăng tiền bối chùa Thiếu Lâm lại thành ra những người dịch lén lại những trang sách kia và mang tiếng là người trộm cắp bịp đời.
Giả tỷ việc này theo lẽ phải mà tranh luận thì dù Thần Quang có dẻo lưỡi đến đâu chưa chắc đã biện bạch được. Huyền Từ trong lòng căm tức vô cùng, nhưng trong lúc này đại sư chưa biết phải đối phó bằng cách nào.
Huyền Sinh lại rẽ mọi người bước ra nhìn Triết La Tinh nói:
- Đại sư! Đại sư bảo những môn Ban Nhược chưởng, Ma Ha chỉ và Đại Kim Cương quyền đều từ Thiên Trúc truyền lại cho bản tự, chắc đại sư tinh thuộc vô cùng. Việc này chân hay giả tìm ra cho rõ chẳng khó khăn gì. Bây giờ tiểu tăng muốn lãnh giáo đại sư mấy cao chiêu về ba môn võ công đó, và tiểu tăng nói chắc chắn những chiêu thức của tiểu tăng nhất quyết không ra ngoài ba môn đó. Đồng thời xin đại sư chỉ điểm cũng trong phạm vi ba môn đó mà thôi.
Huyền Từ lẩm bẩm:
- Mình dốt thật! Làm như vậy quả nhiên rõ trắng đen ngay. Thế mà mình không nghĩ ra.
Thần Quan Thượng Nhân không khỏi run lên nghĩ thầm:
- Biện pháp này thiệt là lợi hạị Dĩ nhiên Triết La Tinh không hiểu thế nào là Ban Nhược chưởng... Bây giờ biết bảo hắn trả lời ra sao?
Triết La Tinh vẻ mặt bẽn lẽn đáp:
- Võ công nước Thiên Trúc bao la bát ngát. Nguyên những màn nổi tiếng đã có đến ba trăm sáu mươi tuyệt kỹ. Tiểu tăng tuy biết đại khái hết cả, nhưng không thể nói môn nào cũng tinh thục được. Tiểu tăng nghe nói chùa Thiếu Lâm có bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Vậy tiểu tăng xin hỏi sư huynh: "Sư huynh có tinh thông được hết thảy bảy mươi hai tuyệt kỹ đó không? Giả tỷ tiểu tăng chỉ định cho sư huynh diễn ba thứ trong bảy mươi hai môn, sư huynh có dám nhận lời không?"
Câu đáp của Triết La Tinh quả nhiên làm cho Huyền Sinh phải chưng hửng.
Nên biết rằng bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, mỗi vị cao tăng có giỏi ra là chỉ học được năm, sáu môn. Nếu gặp phải chỉ định ba môn thì bất luận là ai cũng không thể làm được.
Huyền Sinh là một tay võ công rất tinh thâm. Những điều nhà sư hiểu biết tuy rộng rãi, nhưng trong bảy mươi hai môn tuyệt kỹ thì chỉ có hiểu nhiều lắm là được sáu môn.
Huyền Sinh còn đang ngẫm nghĩ tìm câu trả lời thì một giọng nói dõng dạc từ đằng xa vọng lại:
- Chư vị đại đức Thiên Trúc cùng các vị cao tăng Trung thổ tụ hội tại chùa Thiếu Lâm để bàn luận võ công thiệt là một thịnh sự. Tiểu tăng may được gặp đây, liệu có được vào bàng thính lời cao luận của hai bên không?
Câu nói rành mạch từng chữ lọt vào tai hết thảy mọi người.
Thanh âm này từ ngoài cửa sơn môn vọng vào đã rõ ràng lại nghiêm nghị, hòa bình mà không chói tai. Người phát thanh phải là một tay nội công cao thâm thuần hậu, có điều họ ở xa mà biết rõ được tình cảnh đại điện thì tất là một tay nội công của nhà Phật đến mực Thiên nhĩ mới phải.
Huyền Từ đại sư hơi lộ vẻ kinh ngạc rồi vận nội lực nói:
- Đã là đồng đạo trong Phật môn, xin mời đại sư quang lâm.
Huyền Từ phương trượng lại nói:
- Hai vị sư đệ Huyền Minh và Huyền Thạch xin đại diện cho tiểu huynh ra nghênh tiếp tân khách.
Huyền Minh, Huyền Thạch khom lưng "dạ" một tiếng toan trở gót đi ra khỏi điện thì người kia đã vào đến cửa nói:
- Tiểu tăng không dám để các vị nghênh tiếp. Tiểu tăng rất ngưỡng mộ Huyền Minh đại sư giỏi về môn thần kỹ gầm lên như sư tử rống và Huyền Thạch đại sư vung tay đấm vỡ bia cũng vào bậc thiên hạ vô song. Nay được gặp hai vị cao tăng chùa Thiếu Lâm thật may mắn vô cùng.
Nói hết mỗi câu, người này lại tiến gần lại thêm mấy trượng. Lúc y vừa dứt lời thì người đã xuất hiện ngay trước cửa điện.
Mọi người nhìn ra thì là một nhà sư đứng tuổi vẻ mặt trang nghiêm, hai tay chắp để trước ngực, hớn hở nói:
- Sơn tăng là Cưu Ma Trí ở nước Thổ Phồn, xin tham kiến phương trượng chùa Thiếu Lâm.
Quần tăng thấy thân pháp y đều hết sức kinh dị. Khi nghe lão báo danh là Cưu Ma Trí thì mọi người ồ lên một tiếng nói:
- Té ra là Đại Luân Minh Vương nước Thổ Phồn giá lâm!
Huyền Từ đứng lên rảo bước tới gần, nghiêng mình thi lễ nói:
- Minh vương làm quốc sư nước Thổ Phồn chẳng quản đường xa diệu vợi qua Đông Thổ. Tiểu tăng thường ngưỡng mộ quốc sư là một bậc quang minh chính đại. Bữa nay tệ tự có một việc khó giải quyết may được đại giá quang lâm thật là vinh hạnh. Tiểu tăng xin quốc sư cầm cán cân công bằng để phân biệt chân giả vụ này cho.
Huyền Từ dứt lời liền đưa Thần Quang, hai anh em Triết La Tinh, cùng bọn Long Mãnh đại sư ra tương kiến.
Triết La Tinh đã gặp Cưu Ma Trí và bị một vố cay. Hắn mất bao nhiêu công phu mới đoạt được cuốn Dịch Cân Kinh ở trong mình Du Thản Chi, rồi bị Cưu Ma Trí hớt tay trên mất. Bây giờ hắn lại gặp Cưu Ma Trí thì trong lòng không khỏi hoang mang và căm phẫn. Hắn biết rằng võ công Cưu Ma Trí còn cao hơn hắn nhiều.
Lúc Huyền Từ dẫn Triết La Tinh cùng Cưu Ma Trí tương kiến thì hắn chỉ lặng lẽ hành lễ chứ không nói nửa lời. Cưu Ma Trí nhìn Triết La Tinh chỉ cười nhạt một tiếng, chứ không đề cập đến chuyện cũ. Mọi người làm lễ tương kiến xong, Huyền Từ sai đặt ghế chính giữa điện rồi mời Cưu Ma Trí an tọa.
Cưu Ma Trí cũng ngỏ đôi lời khiêm tốn khách sáo rồi ngồi xuống. Thế là chỗ ngồi Cưu Ma Trí ở ngay mé trên Thần Quang.
Đối với người khác thì đó là chuyện thường, nhưng Thần Quang trong lòng hậm hực khó chịu. Lão mắng thầm:
- Thằng cha Phiên tăng này chỉ khéo làm bộ làm tịch, vị tất đã có bản lãnh gì đáng kể. Để rồi ta sẽ thử coi.
Cưu Ma Trí nói:
- Phương trượng yêu cầu tiểu tăng cầm cán cân công bằng để phân xử kẻ phải người quấy thì tiểu tăng không dám. Nhân vừa nói tiểu tăng dừng chân trên lưng chừng sườn núi được nghe Huyền Sinh đại sư cùng Triết La Tinh đại sư giảng luận võ công thì thấy cả hai vị đều có chỗ phi lý.
Cưu Ma Trí vừa nói câu này thì quần tăng trong đại điện tức run lên, nghĩ thầm:
- Miệng lưỡi cha này đáo để đây!
Triết La Tinh đã được nếm đòn lợi hại của Cưu Ma Trí, không dám tiến ra khiêu chiến. Còn Huyền Sinh tính tình cương cường mà chưa hiểu võ công y, không nhẫn nại được nói ngay:
- Tiểu tăng lầm lỗi ở chỗ nào xin Minh Vương chỉ giáo cho.
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười đáp:
- Vừa rồi Triết La Tinh sư huynh chất vấn đại sư, nói rằng phái Thiếu Lâm có bảy mươi hai môn tuyệt kỹ chưa chắc đã có lấy một người tinh thông hết cả được, câu đó không đúng. Còn đại sư lại nhận những môn Ma Ha chỉ, Ban Nhược chưởng, Đại Kim Cương quyền là những môn bí truyền của phái Thiếu Lâm, trừ bọn đệ tử chính tông của quý phái còn người ngoài không ai biết cả. Nếu không đúng thế thì nhất định quý phái đã đi học lỏm của người ta. Câu đó cũng sai lầm.
Lão nói liền môt lúc chê trách cả hai người. Quần tăng nghe thấy ngẩn mặt ra nhìn nhau không ai hiểu ý lão thế nào.
Huyền Sinh dõng dạc hỏi:
- Theo lời quốc sư thì ra có người kiêm thông được cả bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của tệ phái ư?
Cưu Ma Trí gật đầu đáp:
- Đúng thế!
Huyền Sinh hỏi:
- Xin hỏi quốc sư vị đại anh hùng đó là ai?
Cưu Ma Trí đáp:
- Cái đó tiểu tăng không tiện nói ra.
Huyền Sinh biến sắc hỏi:
- Là quốc sư chăng?
Cưu Ma Trí gật đầu chắp hai tay để trước ngực vẻ mặt nghiêm trang đáp:
- Chính thị!
Lão vừa nói hai chữ "chính thị", quần tăng đều biến sắc lẩm bẩm:
- Thằng cha này khoác lác quá, hay là hắn mắc bệnh điên khùng?
Nên biết rằng bảy mươi hai môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì có người chuyên luyện hạ bàn, có người chuyên về khinh công, có người sở trường về quyền chưởng, có người lại dùng ám khí để thủ thắng. Ngoài ra hoặc luyện theo đao hoặc kiếm, hoặc sử côn, sử bổng. Môn nào có đặc điểm của môn ấy. Người nào đã chuyên dùng trường kiếm thì không thể nào sử thiền trượng. Người chuyên về đại lực, thần quyền thì lại không giỏi thu phát ám khí. Tuy có người tinh thông được năm, sáu môn nhưng những môn đó không xung khắc nhau, mâu thuẫn nhau. Các bậc cố lão có truyền lại đời trước trong đám cao tăng có một vị kiêm thông được kêu bằng Thập tam tuyệt Thần tăng. Phái Thiếu Lâm đã sáng lập đến mấy trăm năm mà mới có được một người như vậy. Đằng này Cưu Ma Trí lại bảo một mình y kiêm thông cả bảy mươi hai môn tuyệt kỹ thì thật là một câu chuyện bịp đời.
Huống chi trong bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm có đến mười ba, mười bốn môn cực kỳ khó luyện. Dù là bậc thiên tư cực cao suốt đời khổ luyện lấy một môn chưa chắc đã thành tựu. Hiện thời tổng số tăng nhân chùa Thiếu Lâm đến hơn năm trăm vị. Cả hơn năm trăm vị hợp lại cũng chưa tinh thục được hết bảy mươi hai môn tuyệt kỹ, thế mà Cưu Ma Trí trạc ngoài bốn mươi tuổi thì dù cho mỗi năm y luyện được một môn, kể từ ngày y mới lọt lòng cũng chưa được bảy mươi hai năm luyện tập. Vả lại môn tuyệt kỹ này thì môn nào cũng rất phức tạp, trong vòng một năm y làm thế nào mà luyện được mấy môn?
Huyền Sinh cười thầm trong bụng, nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ cung kính nói:
- Quốc sư không phải là người trong phái Thiếu Lâm chúng tôi, vậy mà những môn Ma Ha chỉ, Ban Nhược chưởng, Đại Kim Cương quyền cũng đều tinh thông cả chăng?
Cưu Ma Trí cười đáp:
- Tiểu tăng không dám! Còn mong Huyền Sinh đại sư chỉ giáo cho.
Dứt lời y nghiêng người đi một chút. Tay trái đột nhiên đưa ngang ra, quyền bên phải vèo một tiếng đánh tới. Chiếc đỉnh hương đồng đặt trước bàn thờ Đức Phật Như Lai, bật lên tiếng "boong" rồi bắn lên. Đó là một chiêu Lạc chung đông ứng trong phép Đại Kim Cương quyền.
Quyền không đụng vào đỉnh đồng phát ra tiếng cũng chưa lấy làm gì khó. Nhưng thoi quyền đó đánh ngang ra phía trước mà đỉnh đồng bật tung lên thì quyền lực thật là xảo diệu vô cùng, đúng là đã luyện đến chỗ bí ảo của Đại Kim Cương quyền.
Cưu Ma Trí không chờ cho đỉnh đồng rớt xuống, lại phóng tay trái đánh ra một chưởng theo chiêu Nhiếp Trượng Ngoại Ðạo trong môn Ban Nhược chưởng.
Một tiếng "choang" vang lên! Từ trong đỉnh đồng có một vật rớt xuống rồi mịt mờ khói tỏa. Tàn hương trong đỉnh đồng cũng tung toé ra mù mịt trông không rõ là vật gì.
Lúc này dư lực của chiêu Lạc chung đông ứng hết rồi, đỉnh đồng rớt ngay xuống. Cưu Ma Trí lại giơ ngón tay cái ra bật một cái. Một luồng chỉ lực lợi hại bắn ra khiến cho chiếc đỉnh đồng đột nhiên trệch đi nửa thước. Cưu Ma Trí lại bật ngón tay luôn hai cái nữa, đỉnh đồng lui xa thêm một thước rưỡi rồi mới rót xuống trên mặt đá xanh trong đại điện.
Bọn Huyền Từ, Huyền Sinh cùng các vị cao tăng thấy thế ai cũng phải thán phục. Nhất là ba lần bật ngón tay của Cưu Ma Trí coi rất tầm thường chẳng có chi kỳ dị, thế mà bên trong lại tiềm tàng một luồng nội lực đến độ siêu phàm nhập thánh. Chiêu đó mệnh danh là Tam nhập địa ngục trong phép Ma Ha chỉ chính tông. Sở dĩ nó mang cái tên đó vì người cho thành công mỗi một cái bật tay phải chịu khổ sở chẳng khác gì vào địa ngục một lần.
Lúc này tàn hương đã lắng xuống dần dần, vật rơi xuống đất lớn bằng bàn tay đã lộ ra. Quần tăng trông thấy bất giác la lên một tiếng kinh hoảng.
Nguyên vật đó là một chiếc bàn tay bằng đồng, năm ngón rất rõ, cườm tay và cạnh ngón tay đều lấp loáng có ánh sáng rực rỡ như vàng. Lưng bàn tay lại sắc xanh xám.
Cưu Ma Trí phất tay áo bào một cái rồi cười nói:
- Chiêu Cà Sa Phục Ma công này tiểu tăng luyện chưa được tinh thục, còn nhờ phương trượng sư huynh chỉ giáo cho.
Vừa dứt lời, chiếc đỉnh đồng ở phía trước cách chừng bảy thước thốt nhiên chuyển động luôn mấy cái. Lúc đỉnh đồng đứng lại thì mé trong hướng ra mé ngoài. Bỗng thấy chính giữa thân đỉnh bị khoét mất một miếng giống như hình bàn tay. Chỗ đỉnh bị cắt, ánh vàng chói lọi.
Bấy giờ những nhà sư thấp kém mới hiểu rõ Cưu Ma Trí vừa sử chiêu Nhiếp Phục Ngoại Ðạo trong phép Ban Nhược chưởng. Chưởng lực chiêu này sắc bén như lưỡi bảo đao cắt đỉnh đồng ra một miếng hình bàn tay. Lạ hơn nữa là chỗ bị cắt lại không ở phía hướng về Cưu Ma Trí mà lại ở mé bên kia.
Huyền Sinh tự nghĩ dùng chưởng lực cắt đỉnh đồng ra một miếng thì mình còn làm được, nhưng cắt ở mé bên kia thì không tài nào làm được.
Lát sau nhà sư trong lòng chán nản tự nghĩ:
- Không chừng vị thần tăng này nói đúng sự thực và bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm có khi cũng tự nước Thiên Trúc truyền đến thật. Y luyện tập ở tận tổ cho nên những chỗ ảo diệu cũng cao thâm hơn ở Trung Thổ nhiều.
Huyền Sinh nghĩ vậy hai tay chắp để trước ngực khom lưng nói:
- Thần kỹ của quốc sư khiến cho tiểu tăng được mở rộng tầm mắt. Tiểu tăng rất lấy làm bội phục.
Cưu Ma Trí sử chiêu sau cùng chiêu Cà Sa Phục Ma công. Môn này chính Huyền Từ đã tốn không biết bao nhiêu công phu cùng thời giờ luyện tập, đến nỗi vì nó mà trễ nải việc tu luyện thiền học. Thường thường đại sư vẫn hối hận về chuyện này không khác gì người ta thường nói: "Được buổi giỗ lỗ buổi cấy", chỗ sở đắc không đủ đều bù lại chỗ sở thất. Nhưng đại sư lại nghĩ đến mình luyện được môn tụ công vào bậc nhất thiên hạ thì cũng an ủi được đôi chút.
Bây giờ Huyền Từ thấy Cưu Ma Trí phất tay áo một cách nhẹ nhàng không lộ hình tích, vẻ mặt vẫn tươi cười, y còn không sợ vì miệng nói mà để chân khí phải tiết ra ngoài thì thật mình không bằng y.
Đại sư nghĩ vậy lại cảm thấy buồn rầu.
Trong nhà đại điện không một tiếng động. Ai nấy đều bị thần công của Cưu Ma Trí trấn áp.
Bỗng Huyền Từ thở dài nói:
- Bữa nay lão tăng mới biết rằng bên ngoài vòm trời này còn có vòm trời khác, bên ngoài cõi người này còn có cõi người khác. Lão tăng khổ học mấy chục năm trời nhưng đối với con mắt quốc sư chưa đủ làm trò cười.
Ngừng một lát Huyền Từ lại nói tiếp:
- Ba La Tinh sư huynh! Chùa Thiếu Lâm như vũng nước nông cạn không đủ để giao long vùng vẫy. Nơi đây phước bạc chẳng dám lưu quý khách. Vậy xin sư huynh tuỳ tiện.
Huyền Từ vừa nói ra, Triết La Tinh cùng Ba La Tinh đều lộ vẻ mừng vui.
Thần Quang Thượng Nhân thì lại vừa vui mừng vừa âu sầu. Vui mừng ở chỗ Ba La Tinh quả nhiên đã thuộc làu những tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm và Huyền Từ đại sư bằng lòng thả y về. Còn lão buồn là vì vụ này lão chẳng có công trạng gì mấy, mà do thần kỹ của Cưu Ma Trí làm nên. Cưu Ma Trí đã cao siêu rất mực, khống chế được toàn cuộc thì dù mình có được Ba La Tinh truyền cho những môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, nhưng cũng còn là những việc rất khó.
Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên không lộ vẻ gì. Y chắp tay để trước ngực nói:
- Phúc đức thay! Phương trượng sư huynh hà tất phải quá khiêm?
Toàn thể tăng nhân chùa Thiếu Lâm đều cúi đầu buồn bã.
Nên biết rằng Huyền Từ bị áp bức đến độ phải nói những câu đó là tự nhận tuyệt kỹ Thiếu Lâm không bằng người. Tiếng tăm lừng lẫy mấy trăm năm đầu sỏ những môn võ học ở Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm chưa bao giờ bị nhục nhuệ khí như bữa nay. Vụ này chẳng những phái Thiếu Lâm bị bại nhục mà cả các phái võ Trung Nguyên đều mất mặt với người Phiên.
Những nhà sư Long Mãnh, Đại Thanh, Giác Niên, Dung Trí, Thần Âm cũng vẻ mặt buồn thiu. Sự tình biến diễn đến mức độ ra ngoài những sự liệu trước của họ mới lúc lên chùa Thiếu Lâm.
Huyền Từ đại sư không muốn cưỡng lưu Ba La Tinh đã nghĩ kỹ lắm. Đại sư nghĩ rằng chùa Thiếu Lâm mà giữ Ba La Tinh là cốt để cho các môn tuyệt kỹ bản tự khỏi tiết lộ ra ngoài. Bây giờ mắt thấy một Cưu Ma Trí kiêm thông cả bảy mươi hai môn tuyệt kỹ thì giữ Ba La Tinh lại cũng chẳng ích gì. Vả lại Ba La Tinh có thuộc lòng chăng nữa chỉ được đến bảy tám môn là cùng so với Cưu Ma Trí chưa thấm vào đâu. Kể về võ công của Cưu Ma Trí thì trong bản tự dĩ nhiên không một ai địch lại được. Nếu kéo cả hơn năm trăm nhà sư nhảy vào tấn công là ỷ mình nhiều người để thủ thắng thì đâu có phải hành vi của phái Thiếu Lâm đã từng vang danh thiên hạ?
Huyền Từ nghĩ vậy rồi lẩm bẩm:
- Bữa nay Ba La Tinh xuống núi rồi thì chỉ trong vòng một tháng trên chốn giang hồ sẽ đồn đại những tiếng không hay. Phái Thiếu Lâm đã không làm được lãnh tụ võ lâm mà chính mình cũng không còn mặt mũi nào làm phương trượng chùa Thiếu Lâm nữa. Nếu bữa nay không xử sự như vậy, thì cũng không còn tìm ra được lối thoát nào khác.
Những việc xảy ra trong đại điện, Hư Trúc đều nhìn rõ hết. Đến khi y nghe phương trượng nói mấy câu sau cùng rồi toàn thể chư tăng bản tự nhất là các bậc tiền bối đều nét mặt sầu thảm. Y liếc mắt nhìn sư phụ mình là Tuệ Luân thì thấy người nước mắt nhỏ xuống như mưa, tỏ ra rất đỗi thương tâm! Thậm chí còn có mấy vị sư thúc đấm ngực khóc rống lên.
Hư Trúc tuy không hiểu rõ chi tiết về vụ này nhưng cũng biết rằng Cưu Ma Trí vừa phô trương võ công, bản tự không người địch nổi đành để hắn đem Ba La Tinh đi. Nhưng trong lòng Hư Trúc có thắc mắc nhất ở chỗ Cưu Ma Trí sử Đại Kim Cương quyền, Ban Nhược chưởng pháp, Ma Ha chỉ pháp, chiêu thức trúng hay trật, vì y chưa học qua thì không có cách nào hiểu được. Nhưng cách vận dụng nội lực về quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp thì y trông rõ cả và nó đúng là công phu Tiểu vô tướng công.
Hư Trúc học được công phu Tiểu vô tướng công của Vô Nhai Tử, sau lại được Thiên Sơn Đồng Mỗ truyền dạy những ca quyết về Thiên Sơn chiết mai thủ. Lúc bà ta phát giác ra y có công phu Tiểu vô tướng công thì rất đỗi thương tâm và căm hận, vì công phu này sư phụ bà ta chỉ truyền cho một mình Lý Thu Thủy, mà Hư Trúc lại học được ở Vô Nhai Tử. Thế thì rõ ràng giữa Vô Nhai Tử và Lý Thu Thủy đã có mối liên quan mật thiết với nhau, nên bà ta nổi lòng ghen tức.
Hư Trúc lại nhớ khi Thiên Sơn Đồng Mỗ hết cơn giận đã nói kỹ cho y nghe về phép vận dụng Tiểu vô tướng công. Nhưng về sau y được Lý Thu Thủy chỉ điểm rõ hơn.
Về võ học Hư Trúc chẳng những không được quảng bác mà có thể nói ra rất đỗi hẹp hòi, song riêng về môn Tiểu vô tướng công thì y đã thuộc lòng. Khi về cung Linh Thứu, Hư Trúc lại học được những đồ hình trong thạch thất dưới đường hầm thì môn này y đã đến được chỗ kỳ diệu bí ảo.
Tiểu vô tướng công là môn võ học của Đạo gia giảng dạy cách giữ lòng thanh tĩnh, thần trí phiêu diêu, so với cái học vô sắc, vô tướng của nhà Phật tuy nghe hình như có chỗ tương đồng, mà thực tế lại khác hẳn.
Hư Trúc vừa nghe đến thanh âm Cưu Ma Trí lúc còn ở ngoài sơn môn đã biết hắn dùng trung khí để truyền tiếng nói ra xa và y đã phải run sợ. Hư Trúc hiểu rằng môn Tiểu vô tướng công của Cưu Ma Trí đã đến chỗ rất thâm cao. Sau Cưu Ma Trí thi triển quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp, tụ pháp, bề ngoài tuy biến ảo khôn lường, nhưng thực ra hắn đã hoàn toàn phát động môn Tiểu vô tướng công.
Sư thúc tổ Hư Trúc là Huyền Sinh và cả Ba La Tinh sử chiêu thức Thiên y vô phương từ trong đến ngoài, thuỷ chung vẫn là công phu của Phật môn. Cả đến những nội công về Ban Nhược chưởng, Ma Ha chỉ cũng đều có lề lối riêng biệt, không pha trộn công phu ngoại lai vào.
Bây giờ Hư Trúc nghe Cưu Ma Trí miệng nói là tinh thông hết bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, song lúc thi triển chiêu thức thì rõ ràng hắn đã phát động công phu về môn Tiểu vô tướng công. Lúc hắn thi triển Ban Nhược chưởng, Đại Kim Cương quyền, cũng phát huy cường kinh về môn Tiểu vô tướng công uy mãnh đến cực điểm để trấn áp những người hiện diện đương trường. Trong con mắt người chưa hiểu Tiểu vô tướng công liền cho ngay là hắn đã tinh thông các môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm.
Tuy đó là trường hợp vàng thau lẫn lộn nhưng phải thành thực nhận chận là uy lực môn Tiểu vô tướng công chẳng thua kém gì những tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm. Có điều hắn đã trỏ con hươu mà bảo con ngựa để bưng mắt mọi người.
Hư Trúc rất lấy làm kỳ ở chỗ Cưu Ma Trí rõ ràng sử dụng môn Tiểu vô tướng công lại nói là tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, mà trên từ Huyền Từ phương trượng trở xuống đến hơn năm trăm nhà sư sao chẳng một ai vạch chỗ bịp đời của hắn ra?
Hư Trúc có hiểu đâu rằng môn Tiểu vô tướng công vừa tinh thâm vừa bao la bát ngát lại là thứ võ học của Đạo gia. Những người hiện diện toàn là Phật môn đệ tử thì dù võ công cao đến đâu mà chưa từng luyện nội công của Đạo gia thì nhìn nhận thế nào được. Nhất là môn Tiểu vô tướng công đúng như tên gọi của nó, đã tướng vô hình thì còn biết đằng trời nào mà mò.
Hồi Thứ 106
Niêm Hoa Chỉ đả thương Huyền Độ
Hư Trúc thấy quần tăng bi phẫn buồn rầu, bản tự gặp phải một kiếp nạn trọng đại, cũng muốn tiến ra nói huỵch toẹt vào mặt Cưu Ma Trí là võ công của hắn không phải tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Nhưng y đã ở chùa Thiếu Lâm hai mươi năm trời chưa dám nói một câu nào với người trên, huống chi nay lại ở nơi đại điện thâm nghiêm này, dù miệng y có muốn nói ra nhưng lưỡi lại rụt vào.
Hư Trúc còn đang băn khoăn, bỗng nghe Cưu Ma Trí lại lên tiếng:
- Phương trượng đã nói thế tức là nhìn nhận bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của quý phái thiệt tình không phải do quý phái sáng lập ra. Thế thì chữ tuyệt nên đổi lại.
Huyền Từ lòng đau như dao cắt, lẳng lặng không nói gì. Một vị lão tăng thân hình cao lớn hằn học lên tiếng:
- Quốc sư đã chiếm được thượng phong, phương trượng bản tự cũng để cho nhà sư Thiên Trúc được tự do rời khỏi nơi đây, sao quốc sư còn đẩy mãi người ta vào bước đường cùng, không nể mặt chút nào?
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Đây bất quá là tiểu tăng xin phương trượng ứng cho một lời để tiện truyền bá cho các giới võ lâm đồng đạo khắp thiên hạ biết mà thôi. Theo ý kiến của tiểu tăng thì nay nên giải tán chùa Thiếu Lâm. Các vị cao tăng sẽ chia đi gia nhập vào các chùa Thanh Lương, làm chốn an thân để theo đuổi bước tiền trình, chẳng hơn giữ lấy cái hư danh là đệ tử chùa Thiếu Lâm để cầu an ư?
Cưu Ma Trí vừa nói dứt lời thì quần tăng chùa Thiếu Lâm tuy nhẫn nại đến đâu cũng không nhịn được nữa, nhao nhao nổi lên bài xích. Bây giờ quần tăng mới hiểu rõ sở dĩ Cưu Ma Trí lên núi Thiếu Thất là có ý lấy sức một người đàn áp phái Thiếu Lâm, và như vậy, từ nay các phái võ Trung Nguyên sẽ như rắn không đầu...
Cưu Ma Trí lại dõng dạc nói tiếp:
- Tiểu tăng một mình đến Trung thổ là có ý muốn học thêm phong độ của phái Thiếu Lâm đã từng nổi tiếng là núi Thái Sơn là sao Bắc Đẩu trong võ lâm và đinh ninh rằng sẽ được mở rộng tầm mắt. Nhưng bây giờ nghe lời nói cùng cử chỉ của các vị cao tăng thì... Ha ha! Nơi đây tựa hồ kém cả chùa Thiên Long ở tận cõi Nam hẻo lánh! Ôi! Tiểu tăng rất là thất vọng mất rồi!
Trong đám đại sư vào hàng chữ Huyền có một vị lên tiếng:
- Khô Vinh đại sư và Thiên Nhân phương trượng chùa Thiên Long nước Đại Lý quả nhiên Phật pháp cao thâm. Đã là đệ tử họ Thích ai chẳng không ngưỡng mộ. Người xuất gia đầu Phật dĩ nhiên không có quan niệm tranh hơi, quốc sư bảo chùa Thiếu Lâm đây không bằng chùa Thiên Long thì bọn tiểu tăng cũng không để ý làm chi.
Vị lão tăng vừa nói vừa từ từ bước ra. Mặt lão hồng hào. Ngón tay trỏ và ngón tay cái bên mặt để gần vào nhaụu.Trên môi thoáng một nụ cười, thần sắc rất ôn hoà.
Cưu Ma Trí cũng hớn hở tươi cười nói:
- Tiểu tăng vẫn hâm mộ công phu Niêm Hoa chỉ của Huyền Độ đại sư đã luyện được đến độ xuất thần nhập hoá. Bữa nay được nhìn thấy còn gì may hơn nữa?
Cưu Ma Trí nói xong cũng đưa ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên mặt gần vào nhau như để nhón lấy bông hoa. Tay trái cả hai nhà sư đồng thời từ từ đưa ra bật về phía đối phương ba cái.
Ba tiếng veo véo rít lên. Chỉ lực đụng nhau. Huyền Độ đại sư rung người lên một cái rồi đột nhiên ba tia máu từ trước ngực phun ra xa đến mấy thước.
guyên lúc hai luồng chỉ lực tỷ đấu, Huyền Độ không địch nổi bị ba luồng chỉ lực của Cưu Ma Trí sắc nhọn như mũi dao đâm vào trước ngực. Huyền Độ đại sư nguyên là người rất mực ôn hoà và được hết thảy các tăng lữ vào hàng hậu bối mến chuộng. Năm Hư Trúc mười sáu tuổi đã được hầu hạ trà nước Huyền Độ và phục thị trong tám tháng. Huyền Độ coi y rất thân thiết và chỉ điểm La Hán quyền cho y.
Rồi sau Huyền Độ đóng cửa tham thiền. Hư Trúc ít khi được nhìn mặt. Nhưng mối tình thắm thiết ngày xưa vẫn lẩn quẩn trong đầu óc con người trung hậu. Bây giờ Hư Trúc thấy Huyền Độ bị thương về chỉ lực Tiểu vô tướng thần công của Cưu Ma Trí, y biết rằng nếu cứu chậm một chút là nguy đến tính mạng đại sư.
Y đã học được phép trị thương do Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà truyền thụ. Sau y được học bí quyết phá giải Sinh tử phù, nên đối với việc cứu thương y là người giỏi vào bậc nhất thiên hạ.
Hư Trúc thấy máu tươi trước ngực Huyền Độ đang phun ra, y không kịp nghĩ ngợi gì nữa, lạng người đi một cái đến trước mặt Huyền Độ vừa vung chưởng lên thì lập tức ba tia máu đang vọt ra chưa kịp rớt xuống đất đã được chưởng lực của y rút lộn về trong ngực một cách thần tốc vô cùng!
Tay trái Hư Trúc bật mấy cái gẩy đàn tỳ bà điểm ra không gian. Chớp mắt miệng vết thương của Huyền Độ đã được bít lại cả thảy mười một chỗ. Máu tươi không phun ra nữa. Hư Trúc lại lấy một viên Cửu chuyền hùng xà hoàn ở cung Linh Thứu nhét vào miệng Huyền Độ.
Ngày trước Hư Trúc đã được Đoàn Diên Khánh chỉ điểm cho phá thế cờ bí mật của Vô Nhai Tử bày ra. Lúc đó Cưu Ma Trí đã gặp mặt Hư Trúc, nhưng rồi y tiến vào trong tòa nhà gỗ ở phía sau hồi lâu không trở ra, Cưu Ma Trí bỏ đi ngay không được chứng kiến y trị thương cho Tuệ Phương và bọn Bao Bất Đồng.
Sau Hư Trúc cõng Đồng Mỗ trên đỉnh núi tuyết bị hất xuống Cưu Ma Trí lúc đó cùng Mộ Dung Phục, Đinh Xuân Thu và một bọn cao thủ thí nội lực, phóng chưởng ra đẩy Hư Trúc qua lại để phô trương võ công của mình.
Hai lần Cưu Ma Trí gặp Hư Trúc đều thấy y võ công tầm thường, chẳng có chi đáng kể. Hắn không ngờ bữa nay đột nhiên y dám rẽ mọi người tiến ra dùng luân chỉ điểm hờ mà bít kín được những huyệt đạo cho Huyền Độ. Thủ pháp tuyệt diệu, công lực cường mạnh bình sinh hắn chưa từng thấy ai được như vậy, nên không khỏi giật mình kinh hãi.
Ngày trước, sáu nhà sư bọn Tuệ Phương thấy Hư Trúc vung chưởng đánh chết Huyền Nạn, lại thấy y làm chưởng môn nhân một phái khác ngoài đạo Phật. Bọn Tuệ Phương chẳng biết làm thế nào đành đem thi hài Huyền Nạn về chùa Thiếu Lâm.
Huyền Từ phương trượng cùng các vị cao tăng sau điều tra thì Huyền Nạn chết về thuốc kịch độc Tam Tiếu Tiêu Dao tán của Đinh Xuân Thu. Nhưng chờ lâu không thấy Hư Trúc về, lại phái mười mấy nhà sư chùa Thiếu Lâm đi tìm kiếm mà thuỷ chung vẫn chẳng thấy tông tích y đâu.
Hôm Hư Trúc về chùa Thiếu Lâm thì lại trúng lúc trong chùa xảy ra biến cố trọng đại.
Cái Bang bang chúa là Vương Tinh Thiên đưa thiếp đến đòi phái Thiếu Lâm phải tôn y lên làm minh chủ võ lâm ở Trung Nguyên. Huyền Từ mấy ngày liền cũng những vị đại sư vào hàng chữ Huyền, chữ Tuệ thương nghị cách đối phó. Chẳng ai biết Vương Tinh Thiên là hạng người nào mà chưa từng thấy đồn đại trên chốn giang hồ. Song Cái bang là một bang hội lớn nhất trong võ lâm, thực lực rất hùng mạnh và trước đây từng nổi tiếng nghĩa hiệp.
Cái bang vốn cùng phái Thiếu Lâm nương tựa giúp đỡ nhau và cùng một chủ trương làm điều chính nghĩa trên chốn giang hồ, giữ công đạo cho võ lâm. Thế mà nay đột nhiên đòi ăn trên ngồi trốc phái Thiếu Lâm. Vụ này đã làm cho các vị cao tăng phải cuống quít.
Sư phụ Hư Trúc là Tuệ Luân, thấy phương trượng cùng các vị sư bá sư thúc đang bận tâm về việc quan trọng nên không dám đả động đến chuyện Hư Trúc đã về chùa, cả những việc y phạm giới luật cũng không dám báo cáo. Vì thế mà Hư Trúc ở trong vườn rau tưới cỏ, các vị cao tăng không một ai hay biết.
Bấy giờ đột nhiên y hiển hiện thân thủ cao diệu đến độ quạt được máu tươi Huyền Độ quay về trong người, thì ai nấy đều kinh dị.
Hư Trúc cho Huyền Độ uống linh đan rồi nói:
- Thưa đại sư bá! Đại sư bá đừng vận khí để tránh vết thương khỏi ứa máu.
Y lại xé áo băng buộc vết thương trước ngực cho Huyền Độ. Huyền Độ nhăn nhó cười nói:
- Đại Luân Minh Vương!... Chiêu Niêm hoa chỉ của Minh Vương tinh diệu đến tuyệt độ... Lão tăng rất là bái phục...
Hư Trúc nói:
- Đại sư bá! Không phải y sử chiêu Niêm Hoa chỉ mà cũng không phải võ công của Phật môn.
Câu này Hư Trúc vừa nói ra, trong lòng quần tăng đều ngấm ngầm kinh ngạc. Chỉ pháp của Cưu Ma Trí cùng một kiểu như Huyền Độ, cả đến vẻ mặt, hai người vẫn ôn hoà tươi cười như nhau. Thế mà không phải chiêu thức Niêm hoa chỉ, một tuyệt kỹ của Thiếu Lâm, là nghĩa làm sao?
Cưu Ma Trí là hộ quốc pháp sư nước Thổ Phồn, được sắc phong Đại Luân Minh Vương. Cứ năm năm một lần hắn giảng kinh thuyết pháp trên chùa Đại Luân núi Đại Tuyết. Những vị cao tăng, cư sĩ bốn phương đến nghe rất đông đảo. Ai cũng khen hắn giỏi về Phật pháp. Hắn là một vị cao tăng cửa Phật khắp thiên hạ đều biết tiếng. Thế mà Hư Trúc lại bảo võ công của hắn không phải là võ công nhà Phật, nên mọi người không khỏi sửng sốt.
Cưu Ma Trí càng kinh hãi hơn tự hỏi:
- Sao gã tiểu hoà thượng này lại biết chiêu thức của mình không phải là Niêm Hoa chỉ?
Sau khi suy nghĩ một lúc, hắn liền tỉnh ngộ, lẩm bẩm:
- Phải rồi! Chiêu Niêm Hoa chỉ nguyên là một công phu hoà bình rất nhân đạo, mục đích là để điểm huyệt kiềm chế địch nhân chứ không phải để giết người. Vì ta nóng lòng thủ thắng phóng chỉ lợi hại quá khiến cho nhà sư già thủng ba lỗ trước ngực, không đúng với bản ý chiêu Niêm Hoa Vi Tiếu của Gia Diệp thiền sư. Chắc vì thế mà gã tiểu hoà thượng này nhận ra.
Cưu Ma Trí vốn là người thông minh cơ biến, từ thuở nhỏ đã gặp kỳ duyên và chưa từng bị thua về tay ai bao giờ. Hắn dời khỏi nước Thổ Phồn đến chùa Thiên Long nước Đại Lý đã thắng được những tay cao thủ là Khô Vinh, Thiên Nhân, Thiên Tướng. Đến Trung Nguyên, hắn lại tỷ thí với bọn Mộ Dung Phục, Đinh Xuân Thu, tuy chưa phân cao thấp, nhưng cũng đã chiếm được thượng phong. Bây giờ hắn thấy Hư Trúc bất quá tuổi độ hai chục tuy ra chiêu Luân chỉ phong huyệt rất thần diệu, nhưng hắn đoán rằng võ công Hư Trúc cũng chưa có gì đáng kể.
Bữa nay Cưu Ma Trí đến chùa Thiếu Lâm mục đích đem võ công của một mình mà đơn phương độc mã hạ bệ ngôi chùa cổ kính này thì khi nào vì một nhà sư trẻ tuổi mà đã sợ co vòi.
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười hỏi:
- Tiểu sư phụ bảo võ công của ta không phải đúng đường lối Phật môn, thế thì tiểu hoà thượng định đặt những môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm vào chỗ nào?
Hư Trúc không biết nói khéo, ấp úng đáp:
- Chiêu Niêm Hoa chỉ của Huyền Độ đại sư bá dĩ nhiên đúng là của nhà Phật... Còn cái đó... của... Minh Vương thì không phải...
Hư Trúc vừa nói vừa giơ tay trái lên bật ba cái bắt chước Huyền Độ, nhưng ngón tay y lại phát động công phu Tiểu vô tướng công. Hư Trúc vốn là người khiêm cung, y không dám bật tay thẳng vào Cưu Ma Trí mà bật chếch ra chỗ không người.
Ba tiếng "boong boong" vang lên, quả chuông đồng trên đại điện bật ra tiếng kêu rất lớn.
Nguyên Hư Trúc bật tay ba cái, chỉ lực đều văng tới quả chuông chẳng khác chi người cầm dùi mà đánh mạnh vào.
Cưu Ma Trí la lên:
- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Xin tiểu hoà thượng hãy thử tiếp một chiêu Ban Nhược chưởng của ta!
Nói xong Cưu Ma Trí dựng hai bàn tay lên như để hành lễ nhưng hai bàn tay không khép lại mà hất ra. Một tiếng nho nhỏ rít lên một luồng chưởng lực theo hai bàn tay phóng xô về phía Hư Trúc.
Đó chính là chiêu Giáp cốc thiên phong trong phép Ban Nhược chưởng.
Hư Trúc thấy luồng chưởng lực xô tới cực kỳ hung hãn, không chống lại không xong. Y liền vòng tay như một cái đai theo phép Thiên Sơn lục dương chưởng hoá giải được chưởng lực của đối phương không còn thấy tăm tích đâu nữa.
Cưu Ma Trí cảm thấy chưởng lực của Hư Trúc có ẩn tàng sức hút nên mới khắc chế chưởng lực của mình một cách dễ dàng, và rõ ràng gã huy động Tiểu vô tướng công đến tột độ.
Hắn nghĩ vậy trong lòng không khỏi run sợ, nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười hỏi móc:
- Chiêu thức của hoà thượng phải chăng là công phu cửa Phật? Bữa nay ta đến bảo tự cốt để lĩnh giáo thần kỹ phái Thiếu Lâm. Sao tiểu hoà thượng lại dùng công phu bàng môn để ra chiêu? Chẳng lẽ phái Thiếu Lâm có những môn tuyệt kỹ vào bậc nhất nhì nước Đại Tống chỉ là hư danh không đủ chống đối với võ công nước ngoài hay sao?
Ta nên nhớ rằng Cưu Ma Trí là tay giảo quyệt vô cùng. Mới thử một chiêu mà hắn đã biết nội công của Hư Trúc có điểm đặc biệt, hắn không nắm vững được phần thắng nên dùng lời nói mai mỉa để bắt buộc đối phương chỉ được dùng võ công của phái Thiếu Lâm mà thôi.
Hư Trúc tuyệt không hay biết gì về lòng người nham hiểm. Y đáp ngay:
- Vì tư chất của tiểu tăng ngu Muội nên về võ công của bản phái chỉ học được môn La Hán quyền và Vi Đà chưởng. Đó là những công phu vỡ lòng lúc nhập môn, thì làm sao chịu đựng nổi một chiêu của quốc sư.
Cưu Ma Trí cười ha hả nói:
- Thế thì tiểu sư phụ tự biết mình không phải là đối thủ của ta. Vậy tiểu sư phụ rút lui đi.
Hư Trúc đáp:
- Dạ dạ! Tiểu tăng xin rút lui.
Y nói rồi hai tay để trước ngực thi lễ lui về chỗ thứ bậc những nhà sư vào hàng chữ Hư.
Huyền Từ phương trượng là người rất tinh minh. Tuy đại sư không hiểu nguồn gốc võ công của Hư Trúc. Nhưng y vừa phô diễn mấy chiêu xem ra có vẻ tân kỳ mà nội lực y lại rất thâm hậu có thể đối chọi được với Cưu Ma Trí, thì nghĩ thầm:
- Bữa nay chùa Thiếu Lâm vào tình trạng rất quan hệ đến sự vinh nhục tồn vong của bản tự. Chi bằng bảo y chống chọi một trận. Dù có thất bại thì cũng khiến cho Cưu Ma Trí phải hao tán một phần nội lực và khiến hắn bớt kiêu ngạo.
Huyền Từ nghĩ vậy liền nói:
- Đại Luân Minh Vương đã tự xưng là tinh thông hết thảy bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Tài cao của Minh Vương khiến cho mọi người rất là bội phục. Vậy thì cái học nông cạn lúc nhập môn của tệ phái chắc Minh Vương chẳng coi vào đâu. Hư Trúc! Tăng chúng trong bản tự bày hàng theo bốn chữ Huyền, Tuệ, Hư, Không. Ngươi là đệ tử hàng tam của chưởng môn bản phái, nguyên không đủ tư cách để ra chiêu động thủ cùng một tay cao thủ nước Thổ Phồn là Đại Luân Minh Vương đây. Nhưng Minh Vương chẳng quản đường xa diệu vợi, muôn dặm tới đây, thật là một cơ hội ít khi gặp được. Vậy ngươi đem La Hán quyền và Vi Đà chưởng ra xin Minh Vương chỉ điểm cho!
Trong bụng Huyền Từ nghĩ rằng Hư Trúc chỉ là một gã tiểu tăng đứng vào hàng tam đại dù có thua về tay Cưu Ma Trí, thì uy danh phái Thiếu Lâm cũng chẳng thương tổn gì. Đại sư chỉ mong Hư Trúc gắng gượng chống chọi được một vài khắc rồi mình sẽ lệnh cho y ngừng tay mà Cưu Ma Trí cũng chẳng còn mặt mũi nào chiến đấu dai dẳng với y nữa.
Hư Trúc được lệnh phương trượng dĩ nhiên là phải tuân theo liền khom lưng đáp:
- Xin tuân lệnh sư bá tổ!
Y chạy ra giữa điện chắp tay nói:
- Xin Minh Vương nhẹ đòn cho!
Rồi y nghĩ rằng:
- Đối phương là bậc cao nhân lại vào hàng tiền bối, quyết nhiên không ra chiêu trước.
Y liền giơ hai tay lên lạy xuống. Đó là chiêu Linh Sơn lễ Phật, một chiêu đầu tiên về Vi Đà chưởng.
Nguyên Hư Trúc ở chùa Thiếu Lâm nửa ngày niệm kinh còn nửa ngày luyện võ, mười mấy năm trời, nên những môn La Hán quyền và Vi Đà chưởng y đều thuộc nhẳn, chiêu Linh Sơn lễ Phật, chẳng qua là một chiêu thức tỏ lòng kính cẩn địch thủ và biểu thị đệ tử nhà Phật lấy lễ nhượng làm đầu, chứ không phải là hạng hung hăng hiếu dũng.
Dè đâu Hư Trúc này đã thừa hưởng Bắc minh chân khí của Vô Nhai Tử lại kiêm thông những môn sở trường về võ học của hai tay đại cao thủ là Thiên Sơn Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy. Ngoài ra y còn học thêm được bao nhiêu bí quyết dưới nhà hầm cung Linh Thứu, nên y có một bản lãnh và nội lực phi thường.
Hai tay Hư Trúc vừa lạy xuống, áo tăng bào lập tức bật lên tiếng phành phạch vì chân khí trong người chu lưu để hộ vệ cho toàn thân.
Cưu Ma Trí thấy tình thế như vậy không thể lùi bước được liền phóng chưởng đánh ra. Chưởng phong rít lên veo véo và có ẩn hiện tiếng nổ lách tách như tiếng rang đậu.
Thủ pháp cùng tư thức này chính là công phu thượng thừa của Ban Nhược chưởng pháp. Vi Đà chưởng là môn vỡ lòng của phái Thiếu Lâm. Trái lại Ban Nhược chưởng lại là một chưởng pháp rất linh diệu. Theo lối tuần tự thông thường mà tiến thì phải luyện mất ba mươi lăm năm. Ban Nhược chưởng lại là một trong bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Môn này luyện không biết đến đâu là cùng cực. Chưởng lực càng luyện càng mạnh. Chiêu thức càng luyện càng tinh không biết đâu là bờ bến.
Từ ngày sáng lập ra chùa Thiếu Lâm đến nay chưa có cuộc đấu dùng Vi Đà chưởng để đối chưởng để đối chọi với Ban Nhược chưởng bao giờ. Thật là hai cái thái cực trong võ công của phái Thiếu Lâm. Chẳng những các bậc tiền bối cao nhân đi học đến Ban Nhược chưởng không đi động thủ với hàng đệ tử chả biết Vi Đà chưởng mà cả giữa thầy trò rèn luyện võ nghệ cũng vậy. Sư phụ đã sử đến Ban Nhược chưởng thì đệ tử ít nhất cũng phải đem Đạt Ma chưởng, Phục Hổ chưởng hay Như Lai Thiên Thủ ra đối phó.
Hư Trúc thấy chưởng lực đối phương đánh tới khẽ né người đi tránh khỏi rồi đưa song chưởng ra chiêu Sơn Môn Hộ Pháp cũng thuộc Vi Đà chưởng. Chiêu thức này rất tầm thường nhưng nội lực y cực kỳ hùng hậu. Cưu Ma Trí chuyển động thân hình phóng ra hai chiêu Tụ Lý Càn Khôn và Vô Tướng Tiếp chỉ điểm tới đối phương.
Hư Trúc nghiêng mình đi né tránh. Cưu Ma Trí đã liệu trước phương hướng, phóng Đại Kim Cương quyền đánh binh một tiếng trúng vào vai Hư Trúc. Hư Trúc loạng choạng lùi lại hai ba bước.
Cưu Ma Trí cười ha hả hỏi:
- Tiểu sư phụ đã chịu phục chưa?
Hắn chắc rằng đòn quyền tan bia vỡ đá của hắn đã khiến cho xương bả vai của Hư Trúc phải gãy tan. Ngờ đâu trong người Hư Trúc đã có Bắc Minh chân khí hộ thân, ngoại lực không thể xâm nhập vào được và mỗi lần gặp ngoại lực đụng tới chân khí lại mạnh thêm lên một ít.
Hư Trúc uốn người đi một cái. Hai tay từ mé tả đưa sang mé hữu. Chiêu thức này mệnh danh là Hồng Thủy Quy Hải. Trong hai bàn tay đầy rẫy chân khí phóng ra cuồn cuộn như dòng nước lớn chảy về bể đông.
Cưu Ma Trí thấy Hư Trúc bị trúng quyền của mình mà thản nhiên như chẳng thấy gì, thì trong lòng không khỏi ngấm ngầm kinh dị. Hắn vận toàn lực phóng chưởng ra chống đối. Đồng thời hắn tung người nhảy lên vung hai chân đá ra theo thế liên hoàn.
Chớp mắt hắn đá đến bảy cước, vang lên những tiếng bốp bốp mà cước nào cũng trúng ngực Hư Trúc. Đó là chiêu Như ảnh tùy hình, một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Sở dĩ chiêu này mang tên đó là vì một chân đá ra chân thứ hai lại đá luôn như bóng theo hình. Cái đá thứ hai biến thành hình cái đá thứ ba như bóng đuổi theo.
Cưu Ma Trí đá luôn bảy cước. Hư Trúc ngửa người về phía sau tung đi mấy trượng. Hắn không để cho đối phương kịp thở, lại phóng chỉ ra điểm veo véo. Đó là Đa la chỉ pháp.
Hư Trúc theo thế ngồi trên ngựa bắn cung lại đánh trả một quyền theo chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán quyền. Chiêu thức quá thông thường này chẳng một nhà sư nào là không hiểu. Nhưng nó được công phu Tiểu vô tướng công phụ vào khiến cho Đa La chỉ mãnh liệt có thể đủ sức phóng thủng vàng vỡ đá của đối phương tiêu tan ngay.
Cưu Ma Trí muốn phô trương công phu của mình. Hắn vừa ra chiêu Đa La chỉ lập tức biến thế. Một cánh tay chém bổ xuống theo chiêu Nhiêm mộc đao pháp.
Đao pháp này thần tốc phi thường, khi luyện thành công rồi đập luôn chín lần chín tám mươi mốt đao vào một cây khô không làm tổn thương chút nào đến thân cây cả, nhưng sức nóng bật ra lửa đốt cháy cây liền.
Năm trước sư phụ Tiêu Phong là Huyền Khổ đại sư chuyên về tuyệt kỹ này. Nhưng từ ngày đại sư viên tịch rồi không còn ai hiểu biết nữa.
Cưu Ma Trí đập xuống một đao trúng vào cánh tay Hư Trúc đánh chát một tiếng.
Hư Trúc la lên:
- Lẹ quá!
Rồi vung quyền đánh ra. Quyền mới ra nửa vời thì tay hữu lại trúng một đao.
Cưu Ma Trí dùng chưởng làm đao chẳng kém gì đao thật. Nó có thể cắt đầu chặt tay. Song Hư Trúc bị trúng luôn hai đao mà chẳng vần gì. Hơn nữa luồng lực đạp hất ngược lại làm cho cườm tay hắn đau ê ẩm.
Hồi Thứ 107
Cứu chủ nhân bại lộ hành tung
Cưu Ma Trí thấy Hư Trúc trúng Hoả diệm đao đã không việc gì mà luồng lực đạo hất ngược lại còn làm cho cườm tay mình đau ê ẩm thì kinh hãi, bụng bảo dạ:
- Gã tiểu hoà thượng này dù có luyện được công phu Kim chung thiết bố sam cũng không thể chịu nổi được đòn của mình mà tại sao hắn không việc gì? Chắc là trong lần áo tăng bào hắn còn mặc một thứ hộ thân bảo giáp gì đây.
Lão nghĩ vậy, liền đổi thế chiến đánh tới tấp vào Hư Trúc. Lão dùng những chiêu thức thực lợi hại như Đại Trí Vô Ðịnh chỉ, Khử Phiên Não chỉ tịch diệt trảo, Triều Hoa trảo, liên tiếp sáu bảy thứ thần công Thiếu Lâm, nhằm đánh vào mắt, mũi, cổ họng Hư Trúc.
Cưu Ma Trí đánh rất rát khiến cho Hư Trúc chân tay luống cuống phải lùi lại liền. Nhưng Hư Trúc phóng chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong phép La Hán quyền ra chống đỡ cũng làm cho Cưu Ma Trí phải lùi lại nửa bước. Vì thế mà những chiêu thức biến ảo thần diệu của lão không sao chạm được đến ngoài da đối phương.
Chỉ trong khoảnh khắc Cưu Ma Trí đã trao đổi đến mười sáu mười bảy chiêu khác nhau mà toàn những môn võ học Thiếu Lâm.
Quần tăng theo dõi cuộc chiến đấu giữa hai người đều hoa mắt lên và ai cũng nghĩ thầm:
- Lão này tự xưng kiêm thông cả bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, quả là không nói ngoa.
Còn Hư Trúc đối chọi với lão chỉ có một môn La Hán quyền, nhất là khi bị đối phương ra đòn chớp nhoáng nhà sư càng rối trí, không lúc bình tĩnh mà biến chiêu được. Y giở đi giở lại chỉ có mỗi chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm! Quyền pháp y lại vụng về, dù là tay võ sư tầm thường cũng nhìn ra không nín cười được.
Một bên rất linh xảo, một bên lại quá vụng về thật là hai cái thái cực. Thế mà tay tuyệt xảo cũng không thắng nổi tay vụng về. Luồng kình lực trong chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm của Hư Trúc mỗi lúc một gia tăng. Hai người mỗi lúc một xa nhau thêm. Bên tay Cưu Ma Trí đã cách xa trước mặt Hư Trúc đến hơn một thước.
Bây giờ Cưu Ma Trí đã phát giác thế quyền của Hư Trúc ngoài nội lực thâm hậu ra, có ẩn hiện công phu Tiểu vô tướng công. Lão còn biết thêm công phu Tiểu vô tướng công của đối phương thâm hậu hơn mình. Có điều y xử dụng chưa được tinh xảo nên không biết phát huy uy lực đến tột độ. Lão nghĩ rằng nếu cứ tranh đấu thế này mãi thì khó lòng thủ thắng được.
Giữa lúc ấy, Cưu Ma Trí lại thấy Hư Trúc lại sử chiêu Hắc hổ thâu tâm đánh tới. Đột nhiên lão hạ thấp tay xuống ra chiêu cầm nã và nắm được tay Hư Trúc. Đó chính là một chiêu trong phép Cầm Long thủ. Tay trái lão nắm được ngón tay út của Hư Trúc còn tay phải nắm được ngón tay cái của y. Lão liền vận toàn lực vặn mạnh một cái.
Cầm Nã thủ pháp này vô cùng xảo diệu, hễ ngón tay mình đụng vào bất cứ bộ vị nào trong thân thể đối phương thì dính chặt chẳng khác keo sơn. Ngón tay cái và ngón tay út Hư Trúc bị hai bàn tay Cưu Ma Trí nắm chặt và vặn mạnh nên không còn cách nào ra chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm để giải khai được.
Giữa lúc ngón tay Hư Trúc bị đau đớn kịch liệt thì tự nhiên y ra chiêu Thiên Sơn chiết mai thủ tay phải chuyển đi một vòng rồi lật ngược lại nắm lấy cổ tay trái Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí nắm được hai ngón tay đối phương đã tưởng mình đắc thắng ngờ đâu chính cổ tay mình đột nhiên lại bị một luồng lực đạo rất quái dị nắm lấy. Võ công lão rất uyên thâm nhưng môn Thiên Sơn chiết mai thủ này quá nửa là do Thiên Sơn Đồng Mỗ tự sáng chế ra, nên lão hoàn toàn không hiểu lai lịch.
Cưu Ma Trí còn đang kinh hãi thì cảm thấy cổ tay trái mình như bị lồng vào một chiếc đai sắt, không còn cách nào cựa quậy cho thoát ra được. May mà Hư Trúc trong lòng hoang mang chỉ mong sao giải thoát được cho mình, không nghĩ gì đến chuyện phản công đối phương. Sở dĩ y níu lấy cổ tay Cưu Ma Trí là chỉ để giữ lão không vặn tay mình được. Nên lúc y ra tay quên không nắm lấy huyệt mạch môn đối phương mặc dầu nó chỉ cách đó có ba phân.
Cưu Ma Trí đã phát huy được nội lực từ từ để tụ lại rồi đột nhiên giựt mạnh một cái toan làm cho Hư Trúc phải toạc hổ khẩu. Hư Trúc cảm thấy tay tê nhức. Y sợ Cưu Ma Trí gỡ được tay ra rồi tất dùng thủ pháp lợi hại nào để đánh lại mình liền vận động nội lực cho luồng Bắc Minh chân khí trong người tuôn cuộn nổi lên.
Cưu Ma Trí ba lần vận kình lực mà không thoát được thì trong lòng không khỏi kinh hãi. Lão liền giơ tay phải lên thành phát chưởng đập vào đầu Hư Trúc. Trong lúc vội vàng cấp bách, lão không sử dụng được võ công phái Thiếu Lâm, nên phát chưởng nay lại thi triển công phu của bản môn ở nước Thổ Phồn.
Đòn này gần quá thế đánh mãnh liệt. Hư Trúc thấy cơ nguy, vung tay trái lên, ra chiêu theo phép Thiên Sơn Lục Dương chưởng để giải khai. Cưu Ma Trí phóng chưởng đầu không ăn thua liền phát chưởng thứ hai ra. Hư Trúc vẫn thi triển Lục Dương chưởng liên tiếp phóng ra để hoá giải được thế công của đối phương.
Quần tăng đứng coi thấy cổ tay trái Cưu Ma Trí bị Hư Trúc nắm giữ và nhất định không chịu buông ra. Lão đã dùng tay phải đánh luôn mấy đòn mà không sao trúng được vào đầu Hư Trúc, thì ai nấy đều lấy làm kỳ và cũng hơi yên dạ. Lúc này hai người đứng sát nhau tranh đấu. Mỗi phát chưởng phóng ra chỉ cách chừng bảy tám tấc. Càng đứng gần nhau chưởng lực càng mãnh liệt, quần tăng nghe chưởng của Cưu Ma rít lên veo véo tạt vào mặt rát như dao cứa.
Tuy mọi người đang trong Đại Hùng Bảo điện mà cảm thấy gió lạnh căm căm tựa hồ như ở trên đỉnh núi tuyết. Bốn mặt cuồng phong thổi vèo chẳng khác nào sóng biển dồn dập. Chưởng lực tán ra bốn phía khiến cho chúng tăng mỗi lúc một thêm rét cóng. Hàng tăng lữ tầm thường trong chùa Thiếu Lâm sau không chịu nổi đều co người về phía sau đứng sát vào tường. Các vị lão tăng vào hàng chữ Huyền tuy không sợ chưởng phong xâm nhập cơ thể, nhưng cũng phải vận nội lực để chống chọi.
Hư Trúc hồi ở trên cung Linh Thứu vì muốn giải trừ Sinh tử phù cho quần hùng ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo đã nghiên cứu những đồ phổ khắc trên tường đá nhà mật thất nên môn Thiên Sơn Lục Dương chưởng của y rất là tinh nhuệ. Bao nhiêu thế biến ảo đều đã thuộc lòng và đã hiểu đến chỗ ảo diệu của nó. Đáng tiếc chưa bao giờ y dùng đến để đối phó với người khác, nên việc sử dụng chưa được linh hoạt và thuần thục.
Trước đây Hư Trúc ở trước mặt Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy tuy đã sử dụng thi triển những môn học này nhưng lúc đó lại chưa được tập luyện. Bây giờ là lần thứ nhất y mới đem ra quyết đấu sinh tử cùng một tay cao thủ hạng nhất là Cưu Ma Trí. Tuy nội lực y cao thâm, chưởng pháp y mãnh liệt, song y chỉ vận dụng đến hai ba thành công lực mà thôi.
Chưởng lực Cưu Ma Trí mỗi lúc một ghê gớm hơn mà Hư Trúc lại chỉ mong tự bảo vệ cho mình được an toàn, chứ không dám nghĩ đến chuyện phản kích. Chưởng nào y phóng ra cũng toàn là thế thủ.
Bản ý của Hư Trúc không phải là để bắt Cưu Ma Trí. Y yên trí rằng võ công của đối phương cao hơn mình gấp đến mười lần mà và nghĩ thầm:
- Lão mới dùng có một tay để công kích mình mà đã ghê gớm đến thế. Giả tỷ y dùng cả hai tay thì mình phải mất mạng ngay đương trường.
Nghĩ vậy, Hư Trúc phải liều chết giữ chặt cổ tay trái đối phương là có ý để cho tay trái lão không ra chiêu được. Không ngờ ý nghĩ thô sơ và tự ty mặc cảm bây giờ lại hoá ra đắc dụng. Cưu Ma Trí chỉ còn một tay là tự do cử động được, nên những thế chưởng liên hoàn vô cùng biến hóa và tuyệt diệu không thể thi triển được. Còn Hư Trúc vốn chưởng pháp không được thuần thục cho lắm thì y sử dụng một chưởng lại giản tiện hơn là song chưởng.
Trường hợp đặc biệt này khiến chưởng pháp Cưu Ma Trí đáng lẽ phát huy được mười thành mà lại chỉ còn năm. Trái lại Hư Trúc chỉ phát huy được hai ba thành thì lại tiến thêm được đến bốn năm thành. Trong khoảng thời gian chừng cháy tàn nén hương hai bên trao đổi đã đến mấy trăm chiêu và vẫn ở vào tình thế dằng co, không phân thắng bại.
Huyền Từ, Thần Quang, Huyền Độ, Long Mãnh, Triết La Tinh cùng các vị cao tăng đều nhìn thấy rõ tình trạng hai bên chẳng ai ăn ai. Cưu Ma Trí tay trái bị nắm giữ, không thể nào giựt ra được, nhưng Hư Trúc cũng chẳng hơn gì. Tay trái sử dụng vào thế chống đỡ chỉ có lực lượng phản kích. Hai bên đều được điểm nọ hỏng điểm kia. Cuộc tỷ đấu dằng dai và ly kỳ này đến các vị cao tăng biết nhiều hiểu rộng cũng chưa từng thấy trường hợp tương tự bao giờ.
Ngoài ra đa số quần tăng lấy làm kinh dị hoài nghi. Vì Hư Trúc vẫn luôn luôn ở trong chùa từ nhỏ đến lớn. Chuyến này là lần thứ nhất y dời khỏi chùa đi xa mới trong vòng một năm trời mà không hiểu y đã học được một bản lãnh ghê hồn từ đâu đem về.
Ai nấy còn ngạc nhiên hơn nữa là Hư Trúc đã nắm được địch nhân mà sao không chế phục nổi? Còn Cưu Ma Trí thì mỗi phát chưởng mãnh liệt có thể làm cho người ta phải bong gân gãy xương. Cả những tay cao thủ tuyệt luân chỉ sơ hở một chút mà bị trúng một chưởng lão cũng phải đoạn khí chết ngay lập tức.
Trước cục diện này, giả tỷ một nhà sư chùa Thiếu Lâm bất luận là ai, muốn viện trợ Hư Trúc thì chỉ khẽ ra một đòn cũng không phải là để trả thù rửa hận, quyết chí hạ sát đối phương, nên ai cũng giữ danh dự cho môn phái, không can thiệp vào. Nếu một nhà sư nào ra tay hại sát Cưu Ma Trí thì danh dự phái Thiếu Lâm xưa nay lừng lẫy giang hồ sẽ bị tổn thương vô cùng!
Quần tăng tuy trong lòng xao xuyến, tay ướt đẫm mồ hôi mà chỉ đứng yên theo dõi cuộc tỷ đấu. Hai bên lại trao đổi hơn một trăm chiêu nữa.
Hư Trúc dần dần giảm bớt mối lo. Đồng thời những chỗ tinh diệu về phép Thiên Sơn Lục Dương chưởng cũng mỗi lúc một thuần thục hơn. Bây giờ trong mười chiêu chỉ có chín chiêu giữ thế thủ và đã có thể phản kích được một chiêu.
Cưu Ma Trí đối với đòn phản kích của đối phương cũng phải ra chiêu chống đỡ và do đó thế công của lão đã bắt đầu giảm bớt. Kể ra thì tình trạng này cũng chưa đem lợi thế gì mấy cho Hư Trúc, nhưng càng về sau, lợi điểm mỗi lúc một lớn hơn.
Lại qua một thời gian chừng ăn xong bữa cơm, Hư Trúc đã có thể phản công đến tám trong mười chiêu và các nhà sư chùa Thiếu Lâm đã bớt lo lắng và khấp khởi mừng thầm.
Từ lúc Cưu Ma Trí xuất hiện, Thần Quang Thượng Nhân có những mối tâm tình mâu thuẫn nhau. Lão mong rằng Cưu Ma Trí hủy diệt được oai danh phái Thiếu Lâm. Mặt khác lão lại không muốn cho một nhà sư dị tộc vào Trung Nguyên hoành hành, chẳng còn uý kị gì ai. Lão không đủ lực lượng để đả bại Cưu Ma Trí, bây giờ thấy Hư Trúc dằng co được với đối phương ở vào tình thế bất phân thắng bại thì lão lại mong cả hai con cọp cùng chết hết. Lão tự đặt mình vào địa vị một ngư ông trước cò trai kìm hãm nhau để thủ lợi. Dù Ba La Tinh không truyền thụ tuyệt kỹ khác của phái Thiếu Lâm, thì chỉ ba thứ bí quyết về Ban Nhược chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền lão đã ghi nhớ vào lòng rồi về nghiên cứu kỹ lại, luyện tập đúng phép, cũng có thể trở nên một tay cái thế võ lâm. Lão tin vào trí tuệ thông minh của mình có thể đem ba môn võ công này biến cải thành huyền diệu hơn một cách rõ ràng. Và như vậy lão sẽ sáng chế ra ba môn tuyệt kỹ đặc biệt cho phái Thanh Lương để thành ông thủy tổ ba môn tuyệt nghệ này.
Ba La Tinh lại đi theo một ý nghĩ riêng. Thời gian hắn ở Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm nghiên cứu bao nhiêu võ công bí quyết truyền đời của các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm để lại. Hắn càng nghiên cứu càng thấy võ học bao la tinh thâm ảo diệu vô cùng, rồi đi đến chỗ say mê sách vở. Hôm nay sư huynh hắn là Triết La Tinh đến đón hắn dời khỏi chùa để về Thiên Trúc, hắn tự biết rằng trí nhớ của hắn tuy chỉ được một phần nhỏ xíu về võ công phái Thiếu Lâm để trở về cố hương đã lấy làm mừng. Hắn thấy sách vở Thiếu Lâm rất là phong phú, một khi đã ra khỏi sơn môn thì từ đây không bao giờ còn có duyên trở lại nghiên cứu nữa nên hắn rất lấy làm tham tiếc. Bây giờ hắn được xem cuộc đấu giữa Hư Trúc và Cưu Ma Trí, nhận thấy nội lực hai người rất cao cường mà chiêu thức lại càng kỳ tuyệt, lão tự biết mình chưa bằng một bên nào.
Ba La Tinh có biết đâu là những chiêu thức mà Hư Trúc đang sử dụng thực ra đâu có phải là võ công phái Thiếu Lâm. Lão lại thấy nhà sư tuổi mới ngoài hai mươi mà đã ghê gớm đến thế thì tự than mình bôn ba muôn dặm vào được Tàng kinh các đâu có phải chuyện dễ dàng? Lão mới thuộc được vài pho kinh chép về võ học, tuy không đến nỗi hai bàn tay trắng trở về cố hương nhưng chỗ lão nhớ được chắc không phải là những môn chân chính quý trọng. Hắn chỉ lo từ đây về sau suốt đời phải hối hận vô cùng.
Ta nên biết rằng võ học cũng mênh mông không biết đến đâu là bờ bến, khác nào những môn cầm, kỳ, thư,hoạ, càng nghiên cứu thì càng say mê. Mình học đến hết đời vẫn còn có người cao thâm hơn. Ba La Tinh là vị cao tăng đại tài trí ở nước Thiên Trúc. Lúc đầu hắn đến chùa Thiếu Lâm với ý định ăn cắp võ kinh đem về mở mang võ học nước Thiên Trúc. Hắn thấy võ học chùa Thiếu Lâm như biển không bờ thì đem lòng quyến luyến không muốn bỏ đi nữa.
Lúc này Hư Trúc tỷ đấu với Cưu Ma Trí, tuy phần tiến công của nhà sư nước Thổ Phồn hãy còn nhiều hơn phần thế thủ, song nội lực lão mỗi lúc càng thêm mãnh liệt. Song mỗi chiêu Hư Trúc tấn công là Cưu Ma Trí phải cố gắng lắm mới chống đỡ được.
Nguyên Hư Trúc từ lúc trong lòng bớt nỗi lo âu, đột nhiên phát triển một chiêu thức đặc biệt. Chiêu thức này không phải ở trong phép Thiên Sơn Lục Dương chưởng mà là một thủ pháp mà Lý Thu Thủy đã dạy y nơi hoang vắng để đối phó với Đồng Mỗ. Tuy nó là một chiêu nhưng có tám thế bí ẩn lợi hại vô cùng.
Hôm ấy Đồng Mỗ phải phí rất nhiều tâm huyết mới giải khai được. Dù Cưu Ma Trí võ học uyên thâm, cơ biến hơn người nhưng lúc thảng thốt phải tiếp chiêu này một cách gượng gạo, còn Hư Trúc chiếm được thượng phong thì tinh thần càng phấn khởi. Y liền ra chiêu thứ hai mà Đồng Mỗ đã dạy y để đối phó với Lý Thu Thủy.
Ta nên nhớ rằng Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy đều là những tay cao thủ tuyệt đỉnh trong phái Tiêu Dao, chiêu thức nào của hai người này cũng cực kỳ lợi hại. Nó còn là những chiêu thức hiểm độc mong hạ sát bằng được đối phương, vì hai người đàn bà này đã chồng chất trong lòng mấy chục năm thù hận và lại biết rõ trình độ ghê gớm của đối phương.
Bọn cao tăng cùng Huyền Từ thấy Hư Trúc mỗi lúc một sử chiêu hiểm độc thì tuy tình thế trở nên sáng sủa hơn nhưng họ không khỏi chau mày. Nguyên các tăng lữ đệ tử phái Thiếu Lâm từ mấy trăm năm nay không có một người đàn bà nào, trải bao nhiêu triều đại toàn theo đường lối dương cương. Đồng thời võ công cửa Phật chỉ cốt ý ra tay để kiềm chế đối phương chứ không phải để giết người, trái ngược hẳn với những chiêu thức của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy.
Có điều ngẫu nhiên Hư Trúc lại xen vào một chiêu Thiên Sơn Lục Dương chưởng vừa hòa bình vừa uy mãnh phù hợp với bản ý của chùa Thiếu Lâm, nhưng đó chỉ là số ít, còn phần nhiều là những chiêu thức thâm độc.
Những người bàng quan theo dõi cuộc đấu đều chột dạ lẩm bẩm:
- Nếu chiêu này mà đánh vào mình thì chẳng những bị mất mạng mà còn bị chết một cách cực kỳ thảm khốc.
Trước khi quần tăng sinh lòng kinh hãi ngấm ngầm, Cưu Ma Trí đã phát giác ra tình thế cực kỳ bất lợi cho mình. Lão đã ba lần vận động kình lực muốn giựt ra khỏi tay Hư Trúc để tiện thi triển tuyệt kỹ Hoả Diệm Ðao, nhưng lão gia tăng kình lực thì chỉ lực của Hư Trúc càng mạnh thêm. Lão không biết nội lực của đối phương cao thâm đến mức độ nào?
Trước tình thế nguy cấp, trong lòng lão sát khí nổi lên bừng bừng. Tay trái lão phóng luôn ra ba chưởng veo véo.
Hư Trúc vung tay lên hoá giải. Cưu Ma Trí rụt tay về rút lưỡi đao trủy thủ trong bít tất ra nhằm đâm vào bả vai Hư Trúc.
Hư Trúc chỉ học những chiêu thức tay không, đột nhiên y thấy bạch quang lấp loáng. Lưỡi đao trủy thủ trong tay địch nhân phóng tới. Y không biết chống đỡ cách nào, liền vung tay lên chụp xuống cổ tay trái Cưu Ma Trí.
Đây là một chiêu Cầm Nã thủ pháp trong phép Thiên Sơn chiết mai thủ. Thủ pháp này đã mau lẹ vô cùng lại rất trúng đích. Ba ngón tay Hư Trúc chạm vào cổ tay đối phương rồi, ngón cái và ngón út rít chặt lại.
Giữa lúc ấy luồng kình lực trong lòng bàn tay Cưu Ma Trí xô ra, lưỡi đao trủy thủ rời khỏi tay lão mà cả hai tay Hư Trúc đều nắm giữ lấy cổ tay đối phương, không tránh được.
"Sột!" một tiếng rùng rợn. Lưỡi đao trủy thủ đã cắm phập vào vai Hư Trúc ngập đến chuôi.
Quần tăng đứng xem la lên một tiếng kinh hoảng:
- Úi chao!
Rồi trong đám đông đột nhiên có bốn nhà sư vung trường kiếm lên, thanh quang lấp loáng đều nhằm đâm vào cổ họng Cưu Ma Trí. Bốn nhà sư cùng nhảy xổ ra và đồng thời động thủ. Bốn thanh trường kiếm nhằm cả vào một phương vị. Kiếm pháp cực kỳ mau lẹ, hiểm độc vô cùng.
Cưu Ma Trí vận lực vào hai chân, toan nhảy lùi về phía sau để tránh. Cưu Ma Trí vẫn không nhúc nhích nhưng cảm thấy cổ họng bị đau nhói lên. Mũi bốn thanh trường kiếm đã đâm vào da y.
Bốn nhà sư đồng thanh quát lên:
- Quân mặt dầy này! Nộp mạng đi!
Thanh âm nhẹ nhàng và trong trẻo tựa hồ như từ miệng thiếu nữ phát ra. Hư Trúc nhìn lại bốn nhà sư thì té ra là Mai, Lan, Trúc, Cúc tứ kiếm đã ăn mặc trá hình. Trên đầu các cô đội mũ nhà sư để che kín mớ tóc mây, mình mặc áo tăng bào theo kiểu chùa Thiếu Lâm.
Hư Trúc cực kỳ kinh hãi la lên:
- Không được hạ sát y!
Mai kiếm đáp:
- Dạ! Dạ!
Nhưng mũi kiếm vẫn kề vào cổ Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:
- Chùa Thiếu Lâm chẳng những ỷ vào nhiều người để thủ thắng mà còn dấu diếm đàn bà con gái. Té ra mấy trăm năm danh dự là thế này đây! Bây giờ ta mới biết!
Hư Trúc trong lòng hoang mang khôn xiết, không biết làm thế nào được, bất giác buông cổ tay Cưu Ma Trí ra. Cúc kiếm xoay tay lại rút lưỡi đao truỷ thủ trên vai y ra. Máu tươi phun lên như suối. Cúc kiếm thò tay vào bọc lấy ra một tấm khăn để buộc vết thương cho y. Còn ba cô Mai, Lan, Trúc vẫn chỉ mũi kiếm vào cổ Cưu Ma Trí.
Hư Trúc ấp úng hỏi:
- Các... các ngươi đến đây làm chi?
Cưu Ma Trí tay phải vung thần công Hoả Diệm đao lên một cái. Choang! Choang! Choang! Ba thanh trường kiếm của Mai, Lan, Trúc bị gãy nửa.
Ba cô giật mình kinh hãi nhảy lùi ra xa hơn trượng. Các cô nhìn lại ba thanh kiếm chỉ còn lại một khúc. Cưu Ma Trí ngửa mặt lên trời nổi một tràng cười rộ rồi quay sang hỏi Huyền Từ:
- Phương trượng sư huynh! Bây giờ sư huynh nói như thế nào đây?
Huyền Từ sắc mặt xám xanh đáp:
- Nguyên do vụ này lão tăng vẫn chưa hiểu ra sao. Cần phải điều tra rõ rệt rồi theo giới luật bản tự xử trí. Minh vương cùng các vị sư huynh đường xa mệt nhọc, lão tăng xin mời quý vị ra nhà khách dùng trai đã.
Cưu Ma Trí nói:
- Như vậy thì phiền nhiễu cho sư huynh quá!
Lão nói xong chắp tay thi lễ. Huyền Từ đáp lễ rồi, Cưu Ma Trí tay đương chắp bỗng phóng ra hai bên. Lão ngấm ngầm vận thần công Hoả Diệm Ðao.
Xoẹt! Xoẹt! Xoẹt! Xoẹt! Mai, Lan, Cúc, Trúc bốn cô la hoảng vì chiếc tăng mạo trên đầu không gió mà rớt xuống để lộ những mái tóc đen nhánh. Đồng thời có hàng trăm món tóc rớt theo mũ xuống.
Nguyên Cưu Ma Trí phóng thần công Hoả diệm đao lướt qua để lật tăng mạo của bốn cô đồng thời dư lực thần công này còn hớt đứt vô số tóc rớt xuống lả tả.
Đánh rớt tăng mạo thì chẳng có gì là khó, nhưng luồng chân khí vô hình cắt đứt được bấy nhiêu tóc thì thật là kỳ. Có thể nói rằng luồng chân khí này sắc như đao kiếm. Xem thế đủ biết nội lực Cưu Ma Trí đã đến mực siêu quần. Cưu Ma Trí trổ tài như vậy chẳng những để khoe bản lãnh cho mọi người phải nhớn nhác mà còn ngụ ý cắt tóc chứ không giết người ra điều nhân nghĩa. Đồng thời lão làm lộ thân hình bốn thiếu nữ ra khiến cho các nhà sư hết cãi.
Huyền Từ vẻ mặt cực kỳ khó chịu miễn cưỡng cất tiếng mời:
- Nào! Xin thỉnh các vị sư huynh.
Bọn Thần Quang, Long Mãnh, Dung Trí cùng tăng chúng thấy trong chùa Thiếu Lâm có bốn cô thiếu nữ thì có ai là không kinh dị. Đừng nói là chùa Thiếu Lâm, đến chùa thường cũng không thể dung thứ những vụ phản bội giới luật này.
Ai nấy đều đứng dậy và được nhà sư chuyên việc tiếp khách mời ra nhà khách thụ trai. Những tân khách vừa xoay mình chưa bước ra khỏi đại điện thì Mai kiếm lại lên tiếng, nói với Hư Trúc:
- Thưa chủ nhân! Chị em bọn thuộc hạ lén đến đây để hộ vệ chủ nhân, xin chủ nhân miễn trách cho.
Lan kiếm tiếp lời:
- Nhà sư Duyên Căn kia vô lễ với chủ nhân, chị em bọn thuộc hạ phải đánh cho y một trận nhừ tử, y mới biết thân. Không ngờ lão hoà thượng bên Tây Vực này lại dám đả thương chủ nhân.
Hư Trúc "ủa!" Một tiếng rồi tỉnh ngộ, lẩm bẩm:
- Té ra sở dĩ Duyên Căn kính cẩn mình là vì y đã bị mấy cô này uy hiếp. Thế thì chúng giả làm sư ẩn thân trong chùa đã lâu rồi.
Nhà sư bất giác dậm chân nói:
- Các ngươi lộn xộn quá!
Y nói xong chạy đến trước tượng Phật Như Lai quỳ xuống khấn:
- Đệ tử kiếp trước tội nghiệp đã nhiều, kiếp này lại không giữ giới luật thanh quy để gây ra mối tai họa tày đình cho bản tự. Đệ tử kính cẩn xin phương trượng trách phạt thật nặng cho.
Cúc kiếm nói:
- Thưa chủ nhân! Chủ nhân chẳng nên làm hòa thượng nữa cho nhọc mình, chi bằng chúng ta về cả núi Phiêu Diễu là hơn. Nơi đây cơm canh lạt lẽo lại bị người quản thúc, còn có chi là thú vị?
Trúc kiếm cũng trỏ vào Huyền Từ:
- Lão hoà thượng! Nếu lão có điều mạo phạm đến chủ nhân chúng ta thì bốn chị em chúng ta không nể đâu. Vậy lão phải cẩn thận đấy!
Hư Trúc vội quát lên:
- Các ngươi không được vô lễ. Sao lại đến chùa rắc rối? Trời ơi! Phải câm miệng lại ngay!
Nhưng bốn cô mỗi cô nói một điều với giọng lưỡi coi Huyền Từ chẳng vào đâu.
Tăng chúng chùa Thiếu Lâm nhìn nhau kinh hãi, rồi lại liếc nhìn mấy cô gái thì thấy cô nào cũng như cô nấy: mặt mũi đầy đặn, xinh đẹp, hoạt bát mà đều chẳng biết sợ trời sợ đất là gì, song chẳng ai biết lai lịch bốn cô ra sao.
Nguyên bốn cô này là con một nhà nghèo ở chân núi Đại Tuyết, một bà mẹ sinh hạ bảy cô rồi sau cùng sinh tư ra bốn cô này. Nhà nghèo không đủ sức nuôi, bà mẹ đem vào rừng tuyết bỏ. Gặp lúc Đồng Mỗ hái thuốc ở núi Đại Tuyết để chế luyện Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn, mụ theo tiếng trẻ khóc lại xem thấy bốn đứa nhỏ vừa bằng nhau và tướng mạo giống nhau thì lấy làm kỳ thú, liền đem về cung Linh Thứu nuôi cho khôn lớn rồi truyền thụ võ công. Bốn cô này tuy mang danh là thị tỳ của Đồng Mỗ mà thực ra mụ coi bốn cô như con đẻ và được mụ rất thương yêu. Bốn cô chưa từng ra khỏi núi Phiêu Diễu nên chẳng hiểu gì về nhân tình thế, mà cũng chẳng biết phân biệt thứ bậc trong loài người. Suốt đời các cô chỉ biết nghe lệnh Đồng Mỗ. Đến khi Hư Trúc lên thay làm chủ nhân cung Linh Thứu thì các cô lại hết mình phụng sự Hư Trúc. Nhưng Hư Trúc ôn hoà khiêm tốn, không oai nghiêm như Đồng Mỗ, thành ra các cô không sợ y mấy, tâm ý bốn cô linh cảm như nhau nên những ý nghĩ dông càn cũng nổi lên như nhau.
Huyền Từ nói:
- Trừ các vị sư huynh sư đệ vào hàng chữ Huyền thì ở lại còn bao nhiêu tăng chúng khác từ hàng chữ Tuệ trở xuống ai về phòng nấy!
Chúng tăng đồng thanh đáp:
- Dạ!
Rồi lục tục đi ra. Chỉ trong khoảng khắc, trên Đại hùng bảo điện chỉ còn lại hơn ba mươi vị lão tăng vào hàng chữ Huyền, Hư Trúc cùng sư phụ là Tuệ Luân và bốn cô gái tại cung Linh Thứu.
Tuệ Luân hòa thượng tiến một bước đến trước Phật tượng quỳ xuống nói:
- Đệ tử không biết phương châm giáo hối để dưới cửa Phật nảy ra tên nghiệt đồ này. Cúi xin phương trượng trọng phạt cho.
Trúc kiếm cười hích hích nói:
- Bản lãnh của ngươi thấp kém thế này mà cũng đòi làm sư phụ chủ nhân ta ư? Đêm hôm kia người che mặt đã trói ngươi trên cây tùng là nhị tỷ ta đó. Ta nói thiệt cho ngươi hay: võ công ngươi còn tầm thường lắm!
Hư Trúc ngấm ngầm la hoảng:
- Chết rồi! Thật là chết rồi! Mấy cô này trêu cợt cả đến sư phụ ta!
Lại nghe Lan kiếm cười nói:
- Duyên Căn bảo ta, ngươi là sư phụ chủ nhân ta, nên ta đến thử ngươi chơi. Bữa nay mà tam muội ta không nói thì e rằng vĩnh viễn ngươi không biết ai đã chơi ngươi vố đó. Thú quá! Thú quá!
Rồi các cô cười rộ.
Huyền Từ liền lên tiếng:
- Bốn vị sư đệ Huyền Tâm, Huyền Quý, Huyền Niệm, Huyền Tĩnh lại xin bốn vị nữ thí chủ đừng nói càn và đừng có vọng động.
Bốn nhà sư già khom hông thi lễ đáp:
- Dạ!
Rồi quay lại nói với bốn cô gái cung Linh Thứu:
- Phương trượng đã hạ pháp chỉ xin bốn vị đừng nói nhăng, làm càn.
Mai kiếm cười đáp:
- Nhưng chúng ta lại cứ thích nói nhăng và ưa làm càn thì ngươi làm gì được bọn ta?
Bốn nhà sư đồng thanh đáp:
- Vậy thì bọn bần tăng đành đắc tội với các vị vậy!
Dứt lời, bốn vị phất áo tăng bào một cái trùm lên trên bàn tay đưa tay ra nắm lấy tay bốn cộ Huyền Tâm sử chiêu Cầm Long thủ, Huyền Quý sử chiêu Hổ Trảo công, Huyền Niệm sử chiêu Ưng Trảo lực, Huyền Tĩnh sử chiêu Thiếu Lâm cầm nã thập bát đả. Bốn chiêu này tuy khác nhau nhưng đều là những môn võ tinh diệu phái Thiếu Lâm.
Trong bốn cô thì ba cô đều bị Cưu Ma Trí chặt đứt mất trường kiếm, Cúc kiếm liền vung trường kiếm lên để hộ vệ cho ba cô chị. Ba cô Mai, Lan, Trúc cũng vung kiếm gẫy, hòa với kiếm quang của Cúc kiếm đánh ra.
ồi Thứ 108
Phạm thanh tu thầy trò chịu tội
Hư Trúc hoảng hồn, hét lên:
- Các ngươi dừng tay lại!
Tứ kiếm ở cung Linh Thứu nghe chủ nhân quát tháo thảy đều sửng sốt. Tay kiếm ra chiêu ác liệt mới được nửa vời đều phải kém xa bốn vị cao tăng vào hàng chữ Huyền mà lúc lâm địch phải mất tiên cơ nên bị bốn vị nhà sư bắt ngay.
Mai Kiếm cố sức dẫy dụa mà không sao thoát được liền tức giận nói:
- Vì chúng ta tuân lệnh chủ nhân nên mới nể mặt các người. Úi chao! Đau chết mất! Các ngươi làm gì mà ghê gớm thế?
Lan Kiếm cũng la lên:
- Thằng trọc này! Mau buông ta ra!
Nhà sư nắm giữ cô này là Huyền Quý đại sư đầu tóc bạc phơ, tuổi đã ngoài bảy chục mà nàng gọi là "Thằng trọc".
Trúc Kiếm nói:
- Ngươi mà không buông tay thì ta chửi bới tam đại nhà ngươi lên bây giờ.
Cúc Kiếm thét lên:
- Ta phải nhổ nước miếng vào mặt ngươi!
Rồi cô nhổ nước miếng vào mặt Huyền Tĩnh. Huyền Tĩnh né đầu tránh khỏi rồi xiết tay thật mạnh. Cúc Kiếm đau quá la ó om sòm. Đại hùng bảo điện là nơi thánh địa trang nghiêm bỗng trở nên một trường oanh kêu yến mắng.
Huyền Từ nói:
- Bốn vị nữ thí chủ hãy bình tĩnh lại, đừng có nóng nảy! Nếu bốn vị còn la ó thì các sư đệ sẽ điểm vào á huyệt đó.
Bốn cô nghe nói đến điểm á huyệt biết là không phải chuyện đùa chỉ bĩu môi ra không dám nói gì nữa. Bốn vị đại sư liền buông tay bốn cô ra chỉ đứng một bên để giám thị.
Huyền Từ nói:
- Hư Trúc! Ngươi đem những việc đã qua đầu đuôi thế nào nói ra hết không được giấu diếm một chút nào cả.
Hư Trúc đáp:
- Đệ tử xin thành tâm bẩm lại.
Rồi y kể từ chuyện vâng sứ mạng xuống núi đưa thư, giữa đường gặp Diệp nhị nương bắt, rồi gặp Huyền Nạn, Tuệ Phương cùng chúng tăng, kế đến vụ đi một nước mà phá được thế cờ bí hiểm trở nên chưởng môn nhân phái Tiêu Dao.
Hư Trúc tiếp tục kể vụ Huyền Nạn bị chết về chất kịch độc của Đinh Xuân Thu, bị A Tử cho ăn mặn phá giới. Sau y kể đến gặp Thiên Sơn Đồng Mỗ trong trường hợp nào? Làm sao phải chui vào hầm nước đá trong Hoàng cung nước Tây Hạ? Y làm chủ nhân cung Linh Thứu trong trường hợp nào?
Ðoạn này quả tình rất phức tạp mà Hư Trúc mồm miệng lại vụng về nên nói ấp úng mãi mất rất nhiều thì giờ. Tuy y nói lê thê không được rõ ràng gãy gọn cho lắm, nhưng không bỏ sát chỗ nào. Đoạn ở trong hầm nước đá phạm vào sắc giới với mộng trung nữ lang, y lại càng lắp bắp vừa nói vừa thở. Chúng tăng càng nghe càng lấy làm kỳ vì biết rõ là tên tiểu đệ tử này gặp những chuyện kỳ ngộ trước nay chưa từng nghe thấy trong võ lâm.
Mọi người vừa thấy thủ pháp Hư Trúc kịch đấu với Cưu Ma Trí bây giờ nghe y thuật chuyện thì không còn hoài nghi gì nữa.
Ai cũng tự nhủ:
- Nếu không có chuyện trong mình y thâu thái được thần công của ba tay ghê gớm là Vô Nhai Tử, Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy lại một phen nghiên cứu những tuyệt kỹ võ công trên những vách đá nhà hầm cung Linh Thứu thì làm sao chống được với Đại Luân Minh Vương là một tay tuyệt thế thần thông?
Hư Trúc nói xong đến trước tượng Phật gật đầu lia lịa nói:
- Đệ tử là kẻ ngu muội lại không giữ được luật thanh quy. Một khi gặp phải tà ma, thành ra tâm thần bất định phạm vào huân giới ăn mặn, tửu giới, sát giới, sắc giới, phản bội bản môn, tập luyện võ công bàng môn tà đạo lại gây ra vụ bốn vị cô nương vào gây rối chống thanh tu khiến cho thanh danh ba môn phái thương tổn. Đệ tử nghĩ mình tội ác ngập đầu, trừng phạt đến đâu cũng không xứng đáng khẩn cầu phương trượng từ bi.
Y càng nói càng thấy đau đớn trong lòng rồi khóc rống lên.
Mai Kiếm và Cúc Kiếm hắng giọng một tiếng toan khuyên y đừng làm hòa thượng nữa, nhưng Huyền Tam, Huyền Tĩnh hai vị lão tăng dơ ngón tay ra cách lần áo nắm lấy huyệt môn của hai cô. Hai cô không sao đành ngừng lại không dám nói gì nữa. Nhưng mắt các cô cũng đảo lòng trắng ra lườm nguýt hai nhà sư vừa rủa thầm:
- Nhà sư chết đâm này! Thầy chùa thối tha kia!
Huyền Từ trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Các vị sư huynh sư đệ! Những cuộc tao ngộ của Hư Trúc thực đã khác thường. Vụ này có quan hệ đến thanh danh ngàn đời của bản tự nên một mình bản tòa không dám chuyên quyền tác chủ. Vậy xin các vị hội đồng châm trước.
Huyền Sinh vốn tính nóng nảy, lớn tiếng nói:
- Khải bẩm phương trượng! Hư Trúc tuy tội tình quá nặng, nhưng công lao y không phải là nhỏ. Giả tỷ y gặp lúc nguy cấp mà không có y ra tay để ngăn chặn lão Phiên tăng thì bản tự liệu còn có đất mà đứng được trong võ lâm không? Phiên tăng đã bảo chúng ta phải giải tán để gia nhập vào những chùa Thanh Lương, Phổ Tĩnh. Đó là những sự vô cùng nhục nhã. Nay nhờ có một mình Hư Trúc mà cứu vãn được. Theo ý kiến của tiểu tăng thì bắt y vào Viện Đạt Ma nghiên cứu võ nghệ hối cải tội trước và từ đây không cho ra khỏi chùa, không được hỏi đến việc ngoài, thế là đích đáng.
Nên biết rằng được vào Viện Đạt Ma để nghiên cứu võ công phải là những hàng tăng lữ đáng kính nhất. Nếu người võ công không đến mức tuyệt cao thì không đủ tư cách. Hiện giờ các vị cao tăng hàng chữ Huyền cũng chỉ được có tám vị vào Viện Đạt Ma mà thôi. Chính Huyền Sinh cũng được đứng trong hạng này. Thế thì việc y đề nghị cho Hư Trúc vào Viện Đạt Ma không phải là trừng phạt mà là tưởng thưởng rất hậu.
Thủ toà giới luật viện là Huyền Tịch lên tiếng:
- Kể về võ công y thì có thể cho vào Viện Đạt Ma được. Nhưng lại là những võ công của bàng môn thì liệu Viện Đạt Ma chùa Thiếu Lâm có thể dung nạp được không? Huyền Sinh sư đệ! Sư đệ đã nghĩ kỹ chi tiết này chưa?
Quần tăng nghe nói đều cùi đầu ngẫm nghĩ và đều cho là lời đề nghị của Huyền Sinh chưa được thoả đáng.
Huyền Sinh lại hỏi:
- Theo ý kiến sư huynh thì nên thế nào?
Huyền Tịch đáp:
- Ồ! Việc này ta không thể quyết định được. Hư Trúc vừa có công lại vừa có tội. Có công thì nên khen thưởng, có tội thì phải trừng phạt. Bốn vị cô nương mà đến bản tự đây cải trang thành sư, tuyệt không phải là bản ý Hư Trúc. Vậy vụ này chúng ta chỉ cần thuyết minh với các vị Cưu Ma Trí, Thần Quang là đủ. Các vị ấy tin như vậy là xong mà không tin thì thôi. Chúng ta không có điều chi để thẹn mặt hổ lòng, và cũng không cần người dị nghị một cách sai lầm. Nhưng Hư Trúc phản bội bản môn học võ người ngoài thì chùa Thiếu Lâm e rằng khó lòng dung tha y được.
Huyền Tịch nói vậy rõ ràng tỏ ý muốn khu trục Hư Trúc ra khỏi chùa. Đó là một sự trừng phạt rất nặng nề trong Phật giáo.
Quần tăng nghe nói ai cũng kinh hãi.
Huyền Tịch lại nói:
- Hư Trúc ỷ mình bản lãnh cao cường lại phạm nhiều giới luật nên phế bỏ võ công rồi hãy đuổi ra khỏi sơn môn. Nhưng võ công y luyện trước của bản phái đã bị người ngoài hóa gii.ị Công phu trong người y hiện nay không phải là của bản môn thì chúng ta không được quyền tước bỏ.
Hư Trúc nghe thủ tòa giới luật viện sắp đuổi mình ra khỏi chùa thì khóc sướt mướt nói:
- Trước đức Bồ Tát, xin các vị mở lượng từ bi trỏ cho đệ tử một đường để hối lỗi trở về chính đạo. Bất luận hình phạt nặng đến đâu đệ tử cũng xin cam tâm thọ lãnh, miễn là đừng trục xuất đệ tử ra khỏi sư môn.
Các vị lão tăng đưa mắt nhìn nhau không biết quyết định thế nào nhưng nghe lời Hư Trúc cũng biết là y thành khẩn hối lỗi, đúng như câu buông lưỡi đao đồ tể, có thể lập tức thành Phật hay là bể khổ mênh mông rồi cũng có lúc vào bờ. Cửa Phật vốn là cửa từ bi phổ độ cho chúng sinh. Đối với những kẻ cùng hung cực ác, chấp mê không tỉnh còn tìm trăm phương ngàn kế để cứu vớt, để cảm hoá. Huống chi Hư Trúc đã ra khỏi đường mê muội quay về chính đạo. Hơn nữa y là đệ tử xuất gia từ thuở nhỏ, nào nỡ tuyệt đường không cho y quay về điều thiện.
Chùa Thiếu Lâm thuộc về Thiền Tông, trước nay chuyên giảng về giác ngộ. Giả tỷ không có người ngoài thì chúng tăng nghĩ tới công lao y quyết không đến nỗi phải trục xuất. Nhưng sự việc trước mắt chẳng những liên quan đến Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, một bọn Hồ tăng mà còn dính líu đến chùa Thanh Lương, Phổ Độ ở Trung Nguyên. Họ ngồi cả đấy mà không trách phạt Hư Trúc không nghiêm ngặt thì tất thiên hạ sẽ coi phái Thiếu Lâm không còn uy tín gì nữa. Họ sẽ phao đồn chùa Thiếu Lâm chỉ nghiêng về phái đảng, không đếm xỉa đến thị phi, chỉ giảng võ công mà không quan tâm đến giới luật. Những truyền thuyết này đồn đại trong ngoài thì thanh danh phái Thiếu Lâm sẽ bị huỷ diệt.
Giữa lúc ấy, một vị lão tăng do hai đệ tử nâng đỡ từ hậu viện đi ra. Lão chính là Huyền Độ. Huyền Độ bị chưởng lực của Cưu Ma Trí đả thương, phải về tăng phòng điều dưỡng. Lão vẫn quan tâm đến kết quả cuộc tranh đấu ngoài đại điện và phái đệ tử luân lưu báo tin vào. Huyền Độ được tin Cưu Ma Trí đã tạm thời rút lui. Quần tăng đang chất vấn Hư Trúc và có ý trách phạt rất nặng nề.
Nhà sư già phải ôm vết thương ra ngoài Đại hùng bảo điện nói:
- Phương trượng! Cái mạng già của lão là do Hư Trúc cứu cho. Ta có câu này chẳng biết nên nói hay chăng?
Huyền Độ cao niên hơn hết, võ công cũng cao thâm. Huyền Từ phương trượng đối với lão cực kỳ cung kính vội nói:
- Xin sư huynh hãy ngồi xuống từ từ nói ra cho khỏi đụng đến thương thế.
Huyền Độ nói:
- Cứu cái mạng già này chẳng kể vào đâu. Nhưng hiện giờ hãy còn sáu việc lớn chưa giải quyết được ổn thoả. Nếu lưu Hư Trúc ở lại chùa thì rất có bổ ích bằng đuổi y đi thì khó lắm đấy!
Huyền Tịch hỏi:
- Sáu việc lớn mà sư huynh muốn nói đây thì việc thứ nhất là Cưu Ma Trí chưa rút lui, thứ hai là Ba La Tinh trộm võ kinh của bản tự, ba là tân bang chúa Cái Bang Vương Tinh Thiên muốn làm minh chủ võ lâm. Còn ba việc nữa sư huynh muốn nói những việc gì?
Huyền Độ thở dài đáp:
- Đó là tính mạng của bốn vị sư đệ Huyền Bi, Huyền Khổ, Huyền Thống, Huyền Nạn.
Lão vừa đề cập đến bốn nhà sư này thì quần tăng chấp tay niệm:
- A di đà Phật!
Nên nhớ rằng Huyền Khổ chết về tay Kiều Phong. Huyền Thống, Huyền Nạn bị Đinh Xuân Thu ám hại. Chỉ vì những kẻ đối đầu quá mạnh mà những mối thù lớn này chưa trả được. Còn hung thủ sát hại Huyền Bi đại sư thì chưa biết là ai?
Mọi người chỉ hay rằng trước ngực Huyền Bi bị đòn Kim Cương chỉ mà chết. Kim Cương chỉ lại là một trong bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Trước ai nấy đều ngờ cho Mộ Dung Phục, nhưng lúc gặp hỏi thì y không thừa nhận. Hơn nữa xem y đáng bậc quân tử nghĩa hiệp, quang minh lỗi lạc, chứ không phải là kẻ tiểu nhân ngấm ngầm ám hại Huyền Bi. Chiêu Kim Cương chỉ hạ sát Huyền Bi này cho dù không phải y nữa thì tất cũng còn người khác.
Huyền Từ nói:
- Bần tăng làm phương trượng bản tự đối với sáu việc lớn này không việc nào có thể thu xếp được, thật lấy làm xấu hổ, nhưng võ công Hư Trúc đều là võ học của phái Tiêu Dao, chẳng lẽ... chẳng lẽ việc lớn của chùa Thiếu Lâm...
Huyền Từ nói đến đây rồi ngừng lại, nhưng quần tăng cũng hiểu ý của lão là Hư Trúc tuy võ công cao cường nhưng toàn là công phu biệt phái. Dù y có đứng ra để giải quyết những việc lớn này thì những bậc thức giả cũng cho là phái Thiếu Lâm hành sự ở người tất không tránh khỏi những điều hổ nhục cho bản môn. Dù có dấu nhẹm đi nữa, người ngoài chẳng ai biết nhưng các bậc cao tăng đắc đạo khi nào lại tự dối mình và dối người bao giờ?
Chúng tăng yên lặng hồi lâu rồi Huyền Độ lại hỏi:
- Theo ý kiến phương trượng thì thế nào?
Huyền Từ đáp:
- Chúng ta đã được thừa hưởng cơ nghiệp của tổ tiên dù bữa nay gặp đại nạn, theo ý kiến lão tăng thì nên noi gương chính đạo mà hành sự. Thà làm viên ngọc vỡ chứ không chịu làm viên ngói lành. Nếu tất cả sư đệ đều gắng sức hết lòng giữ được danh dự cho chùa Thiếu Lâm thì đó là phúc ấm của các bậc tổ tôn. Chùa Thiếu Lâm mấy năm nay đã tạo phúc cho thiên hạ không phải là ít. Thiên duyên đã thâm hậu thì dù có phải nhất thời tỏa chiết, nhưng quyết không đến nỗi tan tành. Sau này vẫn có hy vọng phục hưng.
Huyền Từ nói bằng một giọng hoà bình song đầy vẻ chính khí. Quần tăng nghe Huyền Từ nói xong đến khom lưng kính cẩn đáp:
- Phương trượng thật là cao kiến! Bọn bần tăng xin tuân theo pháp chỉ.
Huyền Từ quay lại nói với Huyền Tịch:
- Sư đệ! Nhờ sư đệ thi hành giới luật cho bản tự.
Huyền Tịch đáp:
- Xin vâng!
Rồi quay lại bảo bọn tri khách tăng:
- Mời Đại Luân Minh Vương cùng các vị cao tăng vào cho.
Tri khách tăng kính cẩn vâng lời.
Huyền Độ và Huyền Sinh ngấm ngầm thở dài. Tuy hai vị lão tăng này có ý che chở Hư Trúc, nhưng lời nói của phương trượng đã lấy nghĩa cả làm trọng nên không dám vì quyền lợi nhất thời mà năn nỉ cho y nữa, sợ làm tổn thương đến bản tự.
Mọi người ai cũng biết rằng: Nếu tha tội cho Hư Trúc thì thắng mà hóa bại, còn theo công giữ phép thì dù có bại vẫn còn giữ được thanh danh.
Hư Trúc cũng tự biết việc nay khó lòng vãn hồi được, dù khóc lóc năn nỉ cũng bằng vô ích mà thôi. Y nghĩ thầm:
- Ai cũng lấy danh dự bản tự làm trọng. Mình đã làm nên tội thì phải ráng mà chịu, không nên tỏ vẻ khiếp nhược rụt rè trước mặt người ngoài để họ coi thường một vị hoà thượng Thiếu Lâm.
Lát sau bọn Cưu Ma Trí, Thần Quang, Triết La Tinh kéo vào đại điện.
Một hồi chuông nổi lên. Các nhà sư hàng chữ Tuệ, chữ Hư, chữ Trí xếp thành đội theo thứ tự. Kéo vào đứng hai bên hành lang.
Huyền Từ chắp tay tuyên bố:
- Thưa Đại Luân Minh Vương cùng liệt vị sư huynh! Trong hàng đệ tử chùa Thiếu Lâm về hàng chữ Hư có Hư Trúc đã phạm vào huân giới, tửu giới, sát giới, sắc giới là bốn điều giới luật rất nghiêm. Y lại còn đi học võ công phái khác, tự chuyên nhận chức chưởng môn nhân một phái ngoài. Thủ toà giới luật viện là Huyền Tịch phải chiếu luật trừng trị không khoan dung!
Bọn Cưu Ma Trí và Trần Quang nghe Huyền Từ tuyên bố như vạy đều lấy làm ngạc nhiên. Các nhà sư kia thấy Mai, Lan, Trúc, Cúc, bốn thiếu nữ ăn mặc giả nhà sư chỉ cho là Hư Trúc oa tàng thiếu nữ và phạm vào sắc giới mà thôi. Không ngờ phương trượng tuyên bố tội trạng còn nặng hơn thế nhiều.
Phổ Độ chỉ cho là Hư Trúc lớn mật dám làm điều càn rỡ. Còn Đạo Thanh đại sư lớn tuổi mới xuất gia ở chùa riêng rất thông suốt nhân tình thế cố mà tính nết lại khoan dung, hiền hậu, rất ưa làm việc phúc đức, tiến ra nói:
- Phương trượng sư huynh! Bốn vị cô nương kia mày rủ mà lưng ngay, cổ nhỏ mũi thẳng, hiển nhiên là người xử nữ giữ mình như ngọc. Vừa rồi mấy cô cùng Đại Luân Minh Vương động thủ lại dùng toàn kiếm công của gái đồng trinh. Chúng ta đã là người học võ chỉ nhìn qua đã biết. Vị tiểu sư huynh Hư Trúc đây hoặc giả có những hành vi phạm đến hai chữ sắc giới mà bị khép tội tưởng cũng là quá nặng rồi!
Huyền Từ đáp:
- Đa tạ sư huynh có lòng chỉ điểm. Nhưng Hư Trúc phạm sắc giới không những chỉ nói về bốn vị cô nương này mà thôi. Y còn quy đầu phái khác làm chủ nhân cung Linh Thứu trên núi Đại Tuyết Sơn. Bốn cô này là thị tỳ cho chủ cũ cung Linh Thứu, lén vào bản tự là có ý phụng thị chủ mới mà Hư Trúc không biết. Chùa Thiếu Lâm sơ hở việc phòng phạm, tự lấy làm xấu hổ, nên không bắt tội Hư Trúc.
Đồng Mỗ tuy bản lãnh cao cường nhưng chưa hề bước chân vào đất Trung nguyên mà mụ chỉ giao thiệp với các đảo chúa động chúa ở hải ngoại về khỏi Tây Vực. Vì thế nên quần tăng không đến cung Linh Thứu làm gì? Chỉ có Cưu Ma Trí ở nước Thổ Phồn là đã nghe người ta nói tới, nhưng cũng không hiểu rõ gốc ngọn.
Đạo Thanh đại sư nói:
- Đã vậy thì người ngoài chẳng nên nói ra nói vào làm chi nữa.
Bọn Cưu Ma Trí, Triết La Tinh và Thần Quang Thượng Nhân tuy có ác ý với chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy Huyền Từ chí công vô tư, không bênh vực những điều tội lỗi. Hư Trúc phạm phải những giới luật gì, người ngoài vốn chẳng ai hay, mà đại sư cũng đem ra tuyên bố công khai, nên họ rất đem lòng kính phục.
Huyền Tịch tiến ra một bước dõng dạc nói:
- Hư Trúc! Những lời phương trượng đã chỉ rõ tội nghiệt, ngươi đều công nhận cả chứ? Có muốn giải thích gì nữa không?
Hư Trúc đáp:
- Đệ tử xin thừa nhận hết. Đã phạm tội trọng đại, xin cam nguyện đại sư thúc chiếu luật trừng trị, đệ tử không có điều gì để mà giải thoát.
Quần tăng nghe y nói đều xao xuyến trong lòng, đưa mắt nhìn Huyền Tịch để chờ, lão tuyên bố:
- Hư Trúc phạm vào bốn giới luật: Huân, Tửu, Sắc, Sát phải xử một trăm côn. Ngươi có chịu phục không?
Hư Trúc nghe xử đánh đòn một trăm côn, hình phạt này không phải là nhẹ. Nhưng y cũng chịu nổi, vội đáp:
- Đa tạ sư thúc từ bị Hư Trúc này xin tâm phục.
Huyền Tịch lại nói:
- Ngươi chưa được chưởng môn phương trượng và sư phụ cho phép đã đi học võ nghệ bàng môn. Phạt ngươi phải phế bỏ toàn thể võ công phái Thiếu Lâm và từ hôm nay không được là đệ tử bản phái nữa, ngươi có tâm phục không?
Hư Trúc trong lòng chua xót, nhưng biết rằng vụ này không thể vãn hồi được nữa liền đáp:
- Tội đệ tử thật là đáng chết. Đại sư thúc xử như vậy rất là công minh, chính trực.
Những nhà sư các phái khác vừa thấy Hư Trúc tỷ đấu cùng Cưu Ma Trí đều dùng Vi Đà chưởng và La Hán quyền đều là võ công phái Thiếu Lâm và đã trổ oai thần, làm cho đối phương phải khốn đốn. Nhưng họ chưa biết võ công Hư Trúc thực ra chẳng những chỉ thuộc phái Thiếu Lâm mà thôi.
Cưu Ma Trí tự xưng thông suốt hết cả bảy mươi hai môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm mà thực ra lão chỉ hiểu qua về chiêu thức bề ngoài, còn về nội công phái này thì lão biết rất ít. Vừa rồi Hư Trúc cùng lão tỷ đấu đã thi triển công phu Tiểu Vô Tướng Công thì dĩ nhiên lão biết rồi. Nhưng về Bắc Minh chân khí, Thiên sơn lục dương chưởng, Thiên sơn chiết mai thủ cao thâm thế nào, lão cũng chỉ cho là võ công của phái Thiếu Lâm. Bây giờ lão nghe Huyền Tịch tuyên bố phế võ công phái Thiếu Lâm của Hư Trúc thì mừng thầm, lẩm bẩm:
- Các ngươi có vạn lý trường thành mà tự hủy đi tức là bỏ mối lo tâm phúc cho ta thì còn gì hay hơn nữa?
Mấy vị cao tăng như Giác Hiền, Đạo Thanh, thì la thầm trong bụng:
- Thực là đáng tiếc! Thực là đáng tiếc!
Huyền Tịch lại nói:
- Hư Trúc! Ngươi đã làm chưởng môn nhân phái Tiêu Dao, chủ nhân Cung Linh Thứu thì phải xuất giáo hoàn tục không được làm Phật môn đệ tử. Bắt đầu từ hôm nay ngươi không còn là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa. Bản tòa xử trí như vậy ngươi có phục không?
Hư Trúc không cha không mẹ, vào chùa ăn ở từ hồi còn là đứa nhỏ thơ ngây và được nuôi dưỡng cho đến khi thân lớn. Về Phật pháp tuy y chưa lĩnh hội được nhiều, nhưng chùa Thiếu Lâm là nơi là nơi gửi thân độc nhất trên đời của y, bị trục xuất thì trong lòng thê thảm vô cùng! Nước mắt tuôn ra như mưa. Y nằm phục xuống đất khóc một hồi rồi nghẹn ngào đáp:
- Tại chùa Thiếu Lâm đây từ Phương Trượng đại sư trở xuống, các hàng đại sư thúc, cùng các sư bá, sư thúc, sư phụ đối với đệ tử đều có ân thâm nghĩa trọng. Đệ tử là kẻ bất hiếu thật phụ lòng các vị đã giáo hối cho.
Đạo Thanh đại sư không thể nhịn được nữa lại năn nỉ:
- Phương trượng sư huynh! Huyền tịch sư huynh! Theo chỗ lão tăng nhìn nhận thì vị tiểu sư huynh đây đã ra khỏi bến mê, quay về đạo pháp là thực tâm muốn hối cải. Sao các vị không mở đường sám hối cho y?
Huyền Tịch đáp:
- Lời chỉ điểm của sư huynh thật chí lý. nhưng cửa Phật mênh mông, chỗ nào y chẳng dung thân được. Hư Trúc! Chúng ta phạt ngươi phải ra khỏi chùa này, không phải có ác tâm đâu. Trong thiên hạ thiếu gì am tự trang nghiêm. Tỷ như Thần Quang Thượng nhân trước kia có vào chùa Thiếu Lâm đâu mà ngày nay cũng trụ trì chùa Thanh Lương và làm rạng rỡ Phật môn, thật đáng làm gương cho ngươi đó. Nếu ngươi còn có ý niệm xuất gia đầu Phật thì nay hoàn tục rồi, sau vẫn có thể xin vào nơi am chiền khác để thí phát quy y, bái cao tăng làm thầy, thanh tỉnh thân thế, mở rộng phép màu, để tới giác ngạn được.
Những lời nói về sau của Huyền Tịch càng ân cần hiền từ, đầy vẻ khuyên răn. Hư Trúc bùi ngùi thi lễ nói:
- Lời nói của đại sư thúc, đệ tử khi nào dám sai tấc lòng.
Huyền Tịch lại nói:
- Tuệ Luân nghe đây!
Tuệ Luân chắp tay tiến ra mấy bước rồi quỳ xuống. Huyền Tịch nói:
- Tuệ Luân! Ngươi là nghiệp sư của Hư Trúc, trễ nải điều huấn hối khiến cho đồ đệ chưa sạch tam nghiệp, lục căn đến nỗi gây ra tai vạ ngày nay. Bần tăng phạt đòn ngươi ba mươi đại côn rồi cho vào giới luật viện quay mặt vào tường ba năm để sám hối. Ngươi có phục không?
Tuệ Luân run lên đáp:
- Đệ tử xin tâm phục.
Hư Trúc nói:
- Đại sư thúc! Đệ tử xin lãnh thay ba mươi côn cho sư phụ.
Huyền Tịch gật đầu nói:
- Vậy thì Hư Trúc phải chịu một trăm ba mươi côn. Chưởng hình đệ tử đâu? Lấy côn ra chờ lệnh. Lúc này Hư Trúc còn là nhà sư chùa Thiếu Lâm phải thi hành hình pháp cho nghiêm minh, không được phóng túng. Sau khi Hư Trúc ra khỏi chùa này, y là chưởng môn phái khác, không can dự gì đến bản tự nữa và những người bản phái từ trên xuống dưới đều phải kính nể y.
Bốn tên chưởng hình đệ tử lãnh mạng đi ra. Lát sau chúng trở lại đại điện, trong tay mỗi tên cầm một cây Tề mi côn.
Huyền Tịch toan hạ lệnh dụng hình thì đột nhiên một nhà sư hốt hoảng chạy vào trong điện, tay cầm một tập danh thiếp giơ cao hai tay lên đưa cho Huyền Từ nói:
- Kính bẩm phương trượng! Quần hùng ở Hà Sóc đến bái sơn.
Huyền Từ liếc mắt nhìn tập danh thiếp thấy có tới ngoài ba chục chiếc mà tên đề toàn là những bậc anh hùng hào kiệt nổi tiếng ở phương Bắc. Trong đám này có nhiều người đã tham dự vào cuộc anh hùng đại hội tại Tụ Hiền trang.
Đại sư tự hỏi:
- Những vị anh hùng này đến đây một cách đột ngột không hiểu vì việc gì?
Bỗng nghe ngoài chùa có tiếng người xôn xao, quần hào đã vào tới cửa điện. Huyền Từ liền bảo Huyền Sinh:
- Huyền Sinh sư đệ mau ra nghênh tiếp liệt vị vào đây!
Đại sư lại nói:
- Liệt vị sư huynh! Vì có khách giá lâm, vậy việc thanh lý môn hộ tạm hoãn lại một chút để tỏ lễ kính khách.
Huyền Từ nói xong lập tức đứng lên ra trước thềm đại điện đứng chờ.
Chớp mắt đã thấy quần hùng khu Hà Sóc kẻ cao người thấp lục tục tiến vào và đang được Huyền Sinh cùng tri khách tăng đón tiếp đưa vào đến trước đại điện. Bọn Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Sinh tuy là những tay võ công cao cường, mỗi khi gặp võ lâm đồng đạo đều ra chiều niềm nở thân cận. Lúc này, đột nhiên thấy nhiều vị anh hùng tới nơi, tuy gặp lúc thanh lý môn hộ, đầu óc cực kỳ trầm trọng nhưng gặp quý khách thì tinh thần phấn khởi.
Quần tăng chùa Thiếu Lâm ra ngoài hành đạo kết giao bạn hữu rất nhiều. Trong bọn quần hùng đến đây có nhiều vị chơi thân với các đại sư hàng chữ Huyền, chữ Tuệ. Mọi người gặp nhau tay bắt mặt mừng, kể lại chuyện cũ. Chủ đón khách vào đại điện rồi đưa đến giới thiệu cùng bọn Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, Thần Quang, Long Mãnh, đều là những tay có uy danh rất lớn, quần hào người thì biết mặt, kẻ nghe tên.
Huyền Từ đang muốn hỏi quần hùng đến có chuyện chi thì tri khách tăng lại vào bẩm:
- Có mấy chục nhân vật võ lâm ở đạo Sơn Đông và Hoài Nam đến bái sơn.
Huyền Tâm ra nghênh tiếp vào đại điện. Một hán tử đen đủi lớn tiếng nói:
- Vương bang chúa ở Cái Bang mời bọn ta đi coi cuộc đại hội náo nhiệt mà chính y lại chưa đến là nghĩa làm sao?
Một thanh âm bé nhỏ cất lên đáp:
- Lão huynh làm chi mà nóng vậy? Chúng mình đã đến đây thì hãy coi chuyện nhiệt náo này một lúc đã, vội gì? Dĩ nhiên chúng mình là hạng thấp kém thì phải đến trước, còn những bậc to đầu bao giờ họ chả bệ vệ đến sau.
Huyền Từ niềm nở nói:
- Các vị không hẹn mà đều giá lâm tệ tự thật là một điều vinh hạnh lớn. Sự tiếp đãi có chỗ nào khiếm khuyết xin liệt vị miễn thứ cho!
Quần hào đồng thanh đáp:
- Phương trượng bất tất phải khách khí.
Hồi Thứ 109
Chùa Thiếu Lâm phụ tử trùng phùng
Lúc ấy những tay hào kiệt từng giao hảo với chư tăng chùa Thiếu Lâm, đã nói lý do đến chùa cho mọi người biết.
Nguyên quần hùng tiếp được anh hùng thiếp của Bang chúa Cái Bang là Vương Tinh Thiên. Trong thiếp nói phái Thiếu Lâm và Cái Bang là hai phái ngang hàng ở Trung Nguyên, chứ không phái nào tùy thuộc phái nào. Vương Tinh Thiên mới nhậm chức Bang chúa Cái Bang và có ý muốn lập một vị minh chủ giữa các phái võ ở Trung Nguyên, đồng thời đặt ra một quy định để các bạn đồng đạo phải tuân theo. Vương Tinh Thiên ước định ngày rằm tháng sáu thân hành đến chùa Thiếu Lâm để thương thuyết cùng Huyền Từ phương trượng về vụ này.
Quần hùng vừa nói vừa lấy anh hùng thiếp đưa ra. Lời lẽ trong thiép tuy rất khiêm tốn, nhưng ngụ ý rằng người đáng vị minh chủ võ lâm phi hắn thì không còn ai xứng đáng nữa. Như vậy Vương Tinh Thiên đến chùa Thiếu Lâm đã có một ý định rõ rệt, Hắn ỷ mình có võ công siêu việt có thể đánh bại quần tăng chùa Thiếu Lâm để áp đảo oai phong lừng lẫy mấy trăm năm của phái này.
Tuy trong thiếp không nói gì đến chuyện mời quần hùng tới chùa Thiếu Lâm để chứng kiến cuộc tỷ đấu, nhưng các nhân vật võ lâm ai là không hiếu động? Đối với cuộc tranh hùng nảy lửa này giữa hai phái lớn là Cái Bang và Thiếu Lâm thì còn ai nhịn được mà chẳng tới nơi quan sát? Vì thế nên chẳng ai bảo ai, họ đều lục tục kéo đến.
Chẳng bao lâu, quần hùng từ mặt Lưỡng Hồ, Giang Nam đến quần hùng ở Xuyên Thiểm, sau nữa hào kiệt ở Lưỡng Quảng đều có mặt tại chùa Thiếu Lâm. Quần hùng hai mặt Nam Bắc cách xa kể hàng trăm dặm mà trong một ngày lục tục đến hết. Xem thế đủ biết bọn Cái Bang chuẩn bị từ lâu, họ đã gửi anh hùng thiếp đi các nơi trước đây một hai tháng.
Huyền Từ cùng các vị lão tăng tuy ngoài miệng không nói gì, nhưng trong lòng cực kỳ phẫn hận và vô cùng lo lắng. Cử động này của Cái Bang thiệt là vô lễ. Mấy hôm trước Vương Tinh Thiên đã cho người đưa thư đến nói về việc lựa chọn minh chủ võ lâm. Trong thư còn có nói hắn sẽ thân hành đến bái sơn để kính cẩn nghe lời phương trượng Huyền Từ giáo hoá. Hắn không định rõ nhật kỳ và cũng không đề cập đến chuyện mời anh hùng thiên hạ. Thế mà quần hùng đột nhiên tề tập đến nơi, khiến cho chùa Thiếu Lâm phải một phen bối rối, không kịp chuẩn bị.
Cái Bang phát động công cuộc này đã lâu, thế mà người phái Thiếu Lâm giao du rất rộng trên chốn giang hồ cũng chưa từng nghe biết gì hết. Thế là chưa khai diễn cuộc tỷ thí mà phái Thiếu Lâm đã lâm vào tình trạng kém thế.
Hành động của Cái Bang dường như đã nắm chắc phần thắng. Sở dĩ họ không nói rõ mời quần hùng đến tham dự là vì họ muốn tránh tiếng tự đưa mình lên địa vị chủ nhân võ lâm. Nhưng cứ một việc họ gửi thiếp cho các anh hùng khắp thiên hạ thì cũng chẳng khác gì họ đã mời mọi người.
Quần tăng chùa Thiếu Lâm thầm nghĩ:
- Cái Bang không mời bọn mình phó ước tại tổng đàn của họ mà họ tự đến đây là ngoài mặt tỏ ra kính lễ với ta mà kỳ thực là để ta không kịp chuẩn bị.
Huyền Sinh tính tình nóng nảy, lập tức quay về phía người bạn thân ở Hà Bắc là Thần Đàn Tử Gia Cát Trung nói:
- Gia Cát lão nhị! Ông bạn được tin này sao không báo cho bần tăng hay. Vậy tan cuộc giao tình chúng ta mươi năm đến đây là sổ toẹt.
Gia Cát Trung mặt đỏ bừng lên, vội giải thích:
- Lão phu... mới nhận được thiếp ba bữa trước đây, bỏ cả cơm nước chưa kịp ăn, đã đi suốt ngày đêm tới đây ngay. Hai con tuấn mã mệt quá bị chết ở dọc đường chỉ vì sợ lỡ kỳ hạn, không kịp đến tiếp tay cho lão trọc đầu thối tha. Thế mà lão trọc đầu còn trách ta nữa ư?
Huyền Sinh bật cười, dịu giọng:
- Ông bạn đến đây là có lòng tốt lắm rồi!
Gia Cát Trung nói:
- Cái gì lòng tốt với chả lòng tốt? Võ công phái Thiếu Lâm của nhà lão đã cao cường rồi thì ca ca đây reo hò trợ oai cũng là được chứ sao?
Huyền Sinh nghe lão nói vậy biết lão rất chân thành, chỉ vì không đủ thì giờ để báo tin sớm. Nhà sư lại đi hỏi các vị anh hào thì ra ai ở xa Cái Bang gửi thiếp trước, ai ở gần họ gửi thiếp sau. Rút cục ai cũng phải mải miết thượng lộ, ngựa không dừng vó đến nơi mới kịp. Vì thế bao nhiêu bạn bè phái Thiếu Lâm đều không kịp đưa tin. Bọn Cái Bang định bàn kế hoạch rất vừa vặn, tính đúng nhật trình khiến không một ai có thể tới sớm một ngày trước được.
Quần tăng chùa Thiếu Lâm nghĩ tới cách bố trí của Cái Bang thì bọn này có một kế hoạch hoàn bị rồi mới hành động. Bang chúa cùng bang chúng Cái Bang chưa tới nơi, quần hùng đã đến trước một lúc. Thế là họ đoạt được tiên cơ, tỏ cho thiên hạ biết không phải họ gây sự, mọi người lo rằng bọn họ còn nhiều mưu mẹo lợi hại khác nữa.
Hôm ấy là ngày rằm tháng sáu, tiết trời nóng nực. Quần tăng chùa Thiếu Lâm vừa ứng phó với việc Thần Quang Thượng Nhân, bọn Triết La Tinh, kế tiếp đến là việc Cưu Ma Trí tỷ đấu, rồi cuộc thẩm vấn Hư Trúc đều đã khiến cho mọi người hao tổn tinh thần.
Đột nhiên quần hùng tứ phương lại nhất tề kéo đến trong chùa. Tuy tăng lữ rất đông nhưng sự việc xảy ra một cách bất thình lình nên ai nấy không khỏi cuống quít. May mà thủ toà tri khách viện Huyền Tĩnh đại sư là một người tháo vát nhanh trí và vật liệu trong chùa tích trữ đã nhiều nên cuộc tiếp đãi quần hào không đến nỗi khiếm khuyết.
Bọn Huyền Từ nghênh tiếp tân khách rất là bận rộn, không rảnh lúc nào để thương nghị đại sự. Ai nấy trong lòng đều hoang mang.
Bỗng nghe tri khách tăng báo vào:
- Trấn Nam Vương Đoàn điện hạ nước Đại Lý đã giá lâm.
Huyền Từ mừng thầm trong bụng, vội dẫn quần tăng ra nghênh tiếp.
Ngày trước Huyền Bi đại sư bị trúng Kim Cương chỉ mà chết. Ai cũng ngờ cho họ Mộ Dung ở Cô Tô đã hạ độc thủ. Chùa Thiếu Lâm muốn triệu tập một cuộc anh hùng đại hội để bàn kế đối phó. Huyền Từ viết thư sai phái hai nhà sư Tuệ Chân và Tuệ Thiền đã đến nước Đại Lý để mời họ Đoàn tham dự vào cuộc đại hội này.
Quốc vương Đại Lý nhận được thiếp mời liền phái ngự đệ Đoàn Chính Thuần dẫn bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch, Đổng Tư Qui đến chùa Thiếu Lâm. Không ngờ trung gian xảy vụ Kiều Phong đại náo Tụ Hiền trang, nên cuộc anh hùng đại hội chưa khai mạc được, rồi việc này cũng bị buông trôi.
Quần hùng hồi ấy đều cho Kiều Phong mới phải là tay đối đầu lợi hại của võ lâm Trung Nguyên. Do đó mà tấm lòng thù hận Nam Mộ Dung bị xoay hướng nhằm vào cả Bắc Kiều Phong.
Nhà Tống cùng rợ Khất Đan có mối cừu hận truyền đời. Còn nước Đại Lý thì ở mãi tận miền Nam Cương hẻo lánh và không đi lại giao thiệp gì nơi Khất Đan. Quần hùng Trung Nguyên sở dĩ có cuộc tử chiến với Kiều Phong chỉ vì phát giác ra ông là giòng giống Khất Đan.
Họ Đoàn tuy là người Hán nhưng đã thành lập ra một nước riêng biệt, nên chẳng có ý muốn gây thù hằn với nước Liêu, rồi không tham dự vào cuộc tranh chấp với Kiều Phong. Sau Đoàn Chính Thuần bị Đoàn Diên Khánh uy hiếp sắp chết đến nơi, may được Kiều Phong cứu cho, từ đó Đoàn Chính Thuần rất cảm ơn Kiều Phong.
Sau khi xong việc ở Trung Nguyên, đáng lẽ Đoàn Chính Thuần trở về Đại Lý ngay. Nhưng y lại được tin từ Đại Lý đưa đến cho hay người con trai yêu quý độc nhất của mình là Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bắt đem vào Trung Nguyên. Đoàn Chính Thuần vừa kinh hãi vừa lo buồn, đi khắp tứ xứ để nghe tin tức con mình.
Trong khi đó Đoàn Chính Thuần tiện đường tìm đến những nhân tình cũ là Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc. Y bản tính phong lưu lãng mạn, hễ vui đâu là chầu đấy, không nhớ đến việc quay về nữa. Vì thế mà mấy tháng trời y vẫn còn la cà ở Trung Nguyên.
Một hôm Đoàn Chính Thuần nghe tin tân bang chúa Cái Bang là Vương Tinh Thiên muốn cùng phái Thiếu Lâm tranh đoạt ngôi minh chủ võ lâm. Y nghĩ rằng lúc này chùa Thiếu Lâm nhất định náo nhiệt vô cùng, tới đây may ra nghe được tin tức của con mình, nên lật đật đến ngay.
Nguyễn Tinh Trúc cũng theo y đến vì mụ không muốn phân ly tình lang, đồng thời mụ cũng muốn đi do thám tin tức A Tử... Mụ nghe tin chùa Thiếu Lâm không tiếp đàn bà con gái, liền cải dạng nam trang đi theo Đoàn Chính Thuần. Huyền Từ mời bọn Đoàn Chính Thuần vào trong đại điện đưa đi giới thiệu với quần hùng. Người thứ nhất được giới thiệu là Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí nước Thổ Phồn.
Đoàn Chính Thuần đột nhiên biến sắc chắp tay nói:
- Khuyển tử là Đoàn Dự được Minh Vương quá yêu cho cùng đi Đông du. Dọc đường chắc gã đã được Minh Vương giáo huấn rất nhiều, Đoàn mỗ cảm kích vô cùng và xin có lời từ tạ.
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười đáp:
- Tại hạ không dám!
Rồi hắn nghiêm nghị lắc đầu nói:
- Chao ôi! Thật là đáng tiếc!
Đoàn Chính Thuần lo lắng, trống ngực đánh thình thình tưởng là Đoàn Dự đã gặp chuyện bất trắc, vội hỏi lại:
- Minh Vương nói vậy là có ý gì?
Tuy y gặp biến cố đã nhiều nhưng ngày đêm vẫn lo lắng về sự an nguy của con mình, tâm thần hỗn loạn, giọng nói lạc hẳn đi.
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu tăng đến Thiên Long bảo tự, được bái kiến Khô Vinh đại sư, Thiên Nhân phương trượng cùng lệnh huynh, thấy vị nào cũng tâm nhãn bình thản, nhàn hạ, vẻ mặt uy nghiêm hiền hòa. Thiệt là những bậc cao sĩ đắc đạo. Trấn Nam Vương oai danh lừng thiên hạ mà sao cưng chiều công tử chẳng khác gì tính khí phụ nhân?
Đoàn Chính Thuần trấn tĩnh lại nghĩ thầm:
- Dự nhi nếu đã gặp chuyện bất trắc thì trong lòng mình hoang mang cũng bằng vô ích, lại khiến cho lão Phiên tăng này coi thường.
Y nghĩ vậy, liền nói:
- Sót thương con cái là lẽ thường của loài người. Nếu người đời chẳng ai sinh con, đẻ cái nâng niu thì loài người đi đến chỗ tuyệt diệt. Bọn tại hạ là người phàm tục ví với Minh Vương ở trong cõi sạch hết lòng trần và đã thành một bậc cao tăng từ bi đức độ thế nào được?
Cưu Ma Trí tủm tỉm cười nói:
- Tiểu tăng khi vừa thấy lệnh lang tướng mạo phi thường, tưởng sau này làm rạng rỡ Đoàn môn và là một minh quân đạo đức ở nước Đại Lý, xứng đáng là một vị phúc tích cho bọn lê dân cõi Thiên Nam mấy chục vạn dặm.
Đoàn Chính Thuần khiêm nhượng nói:
- Không dám!
Y lẩm bẩm:
- Thằng trọc này thật khả ố, mình đã ruột nóng như lửa đốt mà hắn toàn nói dềnh dàng.
Cưu Ma Trí lại thở dài nói:
- Hỡi ơi! Thực là đáng tiếc! Ngờ đâu vị Đoàn quân này phúc trạch không được dồi dào...
Đoàn Chính Thuần nghe hắn nói vậy không khỏi biến sắc. Cưu Ma Trí lại tủm tỉm cười nói tiếp:
- Lệnh lang vừa đến Trung Nguyên nhìn thấy một vị cô nương xinh đẹp rồi từ đó theo đuổi quần hồng. Bao nhiêu hùng tâm, tráng trí trong đầu óc đều tiêu ma hết sạch. Vị cô nương kia đi đâu là lệnh lang theo đi tới đó. Ai cũng cho chàng là kẻ du tử bướm ong, là hạng tử đệ đơn bạc không chịu chăm lo chính nghiệp. Như vậy chẳng đáng tiếc ru?
Bỗng nghe có tiếng cười hích hích phát ra. Lạ ở chỗ ai cũng nghe rõ là thanh âm một thiếu phụ. Mọi người nhìn về phía phát ra tiếng thì lại là một hán tử trung niên mặt mũi xấu xa.
Nguyên người này là Nguyễn Tinh Trúc, mẹ ruột A Châu. Lúc này mụ cải dạng nam trang, từ hình dung cho đến cử chỉ, chỗ nào cũng giống, không như bốn chị em Tứ Kiếm ở cung Linh Thứu để lộ chân tướng cho người trông thấy. Có điều mụ lãng tính quên đi, buột miệng nói ra, thanh âm mụ dịu dàng, uyển chuyển chứ không được ý tứ như A Châu lúc đã cải trang là giở giọng ồn ồn của đàn ông.
Nguyễn Tinh Trúc thấy mọi người chăm chú nhìn mình, mụ mới đúng giọng thổ khàn nói:
- Tiểu hoàng tử Đoàn gia nước Đại Lý đúng là gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử đâu có thể thế được.
Đoàn Chính Thuần đi tới đâu phong tình đi tới đó, tiếng tăm đã đồn đại khắp giang hồ. Bây giờ Đoàn Dự say mê điên đảo Vương Ngọc Yến, quần hùng nghe mụ mai mỉa bằng câu gia học uyên nguyên cùng tướng môn hổ tử thì không khỏi nhìn nhau mỉm cười.
Đoàn Chính Thuần cũng cười ha hả ra chiều phóng khoáng, nhìn Cưu Ma Trí đáp:
- Thằng nhỏ đó hư quá...
Cưu Ma Trí ngắt lời:
- Đâu phải y hư Như vậy là y ngoan lắm đấy chứ!
Đoàn Chính Thuần biết Cưu Ma Trí dùng tiếng ngoan chế diễu mình phong lưu lãng mạn nên con cũng giống đa tình, nhưng không lấy thế làm tức, hỏi ngay:
- Không hiểu hiện giờ y ở phương nào? Nếu Minh Vương biết thì xin chỉ bảo cho!
Cưu Ma Trí lắc đầu đáp:
- Đoàn công tử không thể nào phá vỡ được ải ái tình để thoát ra ngoài. Ngày đêm y tương tư rầu rĩ, thân hình tiều tụy. Lúc tiểu tăng gặp chàng thì người chàng chỉ còn là nắm da bọc xương, mặt bủng da vàng. Bây giờ y còn sống hay chết khó mà biết được.
Đoàn Chính Thuần đột nhiên nhớ lại lúc con mình còn ở nước Đại Lý đã đem lòng yêu tha thiết một cô gái quê mùa là Mộc Uyển Thanh nhưng vì âm dương lầm lỡ, Mộc Uyển Thanh là con tư sinh của mình đã khiến cho tâm thần gã bị đau khổ rất nhiều. Nếu bây giờ gã còn quyến luyến đứa em gái cùng cha khác mẹ đó thì thật là nát bét.
Đoàn Chính Thuần đang lộ vẻ ưu tư thì đột nhiên một nhà sư tuổi trẻ tiến ra kính cẩn thi lễ nói:
- Vương gia bất tất phải lo phiền! Đoàn tam đệ tinh thần cực kỳ sáng suốt, thân thể cũng vẫn khoẻ mạnh.
Đoàn Chính Thuần đáp lễ, trong lòng lấy làm kỳ. Ông thấy người này ăn mặc theo kiểu tăng nhân vào hàng tiểu bối chùa Thiếu Lâm và không hiểu tại sao y lại kêu Đoàn Dự bằng tam đệ, liền hỏi lại:
- Gần đây tiểu sư phụ mới gặp gã hay sao?
Nhà sư tuổi trẻ này chính là Hư Trúc. Y toan đem việc gặp Đoàn Dự ở cung Linh Thứu thuật lại thì đột nhiên thanh âm Đoàn Dự vang lên:
- Gia gia! Hài nhi ở đâỵ Gia gia! Ngọc thể vẫn khang cường chứ?
Vừa dứt lời, một người thân pháp mau lẹ tuyệt luân xẹt vào trong điện, nhảy xổ tới trước mặt Đoàn Chính Thuần. Chàng chính là Đoàn Dự.
Nguyên Đoàn Dự nội công thâm hậu, mắt tinh tai thính. Chàng vừa đến cổng chùa đã nghe tiếng phụ thân cùng Hư Trúc đối đáp, trong lòng nóng nảy liền thi triển phép Lăng Ba Vi Bộ để tiến vào.
Cha con Đoàn Chính Thuần ôm lấy nhau xiết nỗi vui mừng.
Đoàn Chính Thuần thấy con mình tuy có vẻ phong sương nước da đen hơn ngày còn ở Đại Lý, nhưng tinh thần cực kỳ tráng kiện, thân pháp mau lẹ phi thường chứ không phải nắm da bọc xương, hình dung tiều tuỵ, mặt bủng da vàng... như lời Cưu Ma Trí vừa nói.
Đoàn Dự ngoảnh lại nhìn Hư Trúc nói:
- Nhị ca! Nhị ca lại làm hòa thượng rồi ư?
Hư Trúc quỳ trước tượng Phật hàng nửa ngày thành tâm sám hối. Nhưng y vừa thấy Đoàn Dự lập tức nhớ đến Mộng Trung cô nương bất giác mặt đỏ ra đến mang tai ra chiều bẽn lẽn vô cùng, không dám mở miệng nói gì.
Cưu Ma Trí vừa thấy Đoàn Dự nhảy vào, lão nghĩ ngay:
- Anh chàng say mê Vương Ngọc Yến này mà xuất hiện thì hẳn Vương Ngọc Yến cũng gần đâu đây. Nếu không thì chùa Thiếu Lâm có xảy ra việc tày trời, ai mà dẫn dụ được anh chàng si tình này lên núi Thiếu Thất? Nhưng Vương Ngọc Yến lại có mối thâm tình với biểu ca nàng, nàng nhất quyết chẳng dời xa Mộ Dung Phục. Thế thì chắc gã cũng đến cả đây.
Nghĩ vậy lão liền ngưng tụ chân khí vào huyệt mạch đan điền lên tiếng gọi to:
- Mộ Dung công tử! Đã lên núi Thiếu Thất sao không vào chùa lễ Phật?
Quần hùng thộn mặt ra tự hỏi:
- Mộ Dung công tử đã đến rồi ư? Sao mình chưa thấy hình tích gì mà lão Phiên tăng này đã biết trước?
Họ có biết đâu là Cưu Ma Trí chỉ phỏng đoán chứ thật tình lão cũng chưa nghe thanh âm của Mộ Dung Phục. Không ngờ ngoài cổng chùa vẫn chẳng thấy động tĩnh gì.
Lâu lâu chỉ nghe tiếng dội từ đằng xa vọng lại:
- Mộ Dung công tử! Đã lên núi Thiếu Thất sao không vào chùa lễ Phật?
Cưu Ma Trí giật mình nghĩ thầm:
- Té ra lần này mình đoán sai rồi, nếu quả Mộ Dung Phục đến Thiếu Thất thì không khi nào gã nghe tiếng mình mà không đáp lại.
Lão ngửa mặt lên trời cười ha hả toan nói mấy câu đánh trống lấp thì bỗng một thanh âm quái gở vang lên:
- Mộ Dung công tử cùng Đinh lão quái đang chiến đấu ác liệt. Chờ công tử giết được lão quái rồi sẽ lên núi Thiếu Thất lễ Phật.
Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự vừa nghe tiếng sắc mặt đã hơi biến đổi vì chính là thanh âm ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.
Lần trước cha con chàng lọt vào tay đệ nhất ác nhân này, suýt phải bỏ mạng. Chuyến này lại gặp ở đây. Đoàn Chính Thuần nghĩ ngay: nếu xảy cuộc tỷ đấu với lão thì quyết không địch lại rồi. Dù có thoát chết thì tiếng anh hùng thiên hạ bấy lâu của mình cũng bị mất hết. Đoàn Chính Thuần trong lòng xao xuyến, tính kế đối phó. Nếu trốn đi cho thoát thân thì tỏ ra khiếp nhược, còn chi là thanh danh. Ông đành mặc kệ để xem sự việc xảy ra thế nào rồi sẽ tuỳ cơ ứng biến.
Giữa lúc ấy Đoàn Diên Khánh mình mặc áo bào xanh, chống gậy trúc chạy thẳng vào trong điện. Theo sau lão là Vô ác Bất Tác Diệp Nhị Nương, Hung Thần ác Sát Nam Hải Ngạc Thần, Cùng Hung Cực ác Vân Trung Hạc. Cả bọn tứ đại ác nhân đều đã đến nơi.
Huyền Từ phương trượng đối với tân khách, bất luận thiện ác đều theo đúng lễ nghi đón tiếp. Thi lễ xong Đoàn Diên Khánh quay sang Đoàn Chính Thuần gật đầu. Nam Hải Ngạc Thần vừa thấy Đoàn Dự cũng ở đây thì mặt thẹn đỏ bừng, quay gót toan trốn.
Đoàn Dự cười hỏi:
- Này đồ nhi! Gần đây mạnh giỏi chứ?
Nam Hải Ngạc Thần nghe chàng kêu mình bằng đồ nhi, biết là không thể trốn tránh được, lão hằm hằm tức giận văng tục:
- Mẹ kiếp! Lại gặp gã sư phụ thối tha này! Ngươi còn chưa chết ư?
Quần hùng nghe hắn nói lốp bốp đều không khỏi ngạc nhiên vì thấy người hắn vẻ mặt hung dữ mà con người nho nhã như Đoàn Dự lại kêu bằng đồ nhi đã lấy làm kỳ. Chính miệng hắn cũng kêu Đoàn Dự bằng sư phụ mà ngôn từ vô lễ, tục tằn nên lại càng lấy làm lạ hơn nữa.
Diệp Nhị Nương trong tay bồng đứa nhỏ chừng hai tuổi tủm tỉm cười nói:
- Đinh lão tiên đang đại trổ thần thông đánh Mộ Dung công tử đến nỗi thất điên bát đảo. Thủ đoạn của y thật là hiếm có. Chúng mình ra coi chơi!
Đoàn Dự la lên:
- Ái chà!
Rồi nhảy vọt ra ngoài điện.
Cưu Ma Trí đoán quả không sai. Đoàn Dự khi rời khỏi cung Linh Thứu rồi liền đi theo Mộ Dung Phục cùng Vương Ngọc Yến. Hôm ấy chàng ở núi Phiêu Diễu ra đi về phía Đông chừng sáu trăm dặm thì gặp bọn Mộ Dung Phục. Bọn Bao Bất Đồng tuy có ý chán ghét chàng, nhưng không tiện công nhiên khu trục không cho đi theo.
Dọc đường, bọn người này được tin Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm tranh đoạt ngôi minh chủ võ lâm. Mộ Dung Phục đã có ý kết nạp anh hùng thiên hạ để mưu đồ cuộc hưng Yên phục quốc sau này, liền cùng bọn Đặng Bách Xuyên ngấm ngầm thương nghị nếu Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm tranh đấu và cả hai phe cùng đi đến chỗ điêu tàn thì họ Mộ Dung ở giữa thủ lợi không chừng đoạt được ngôi minh chủ võ lâm và ra hiệu lệnh cho hào kiệt trên chốn giang hồ thì thật là một cơ duyên rất tốt cho công cuộc dựng cờ khởi nghĩa, không nên bỏ lỡ.
Không ngờ, vừa đi tới chân núi Thiếu Thất lại gặp Đinh Xuân Thu.
Mấy tháng nay, Đinh Xuân Thu mở rộng môn phái thu nạp rất nhiều đồ đệ. Bất luận hắc đạo lục lâm hay bàng môn yêu tà, ai đến quy đầu lão cũng thu nạp ngay. Mới trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà bọn giặc cướp ở Trung Nguyên theo đông như kiến. Họ tranh nhau nghênh tiếp ở dọc đường.
Mộ Dung Phục và Đinh Xuân Thu đã cùng nhau tỷ đấu mấy phen đều không phân cao thấp. Chuyến này gặp lại nhau đây, Mộ Dung Phục thấy đối phương quá đông thì không khỏi ngấm ngầm chột dạ. Nhất Trận Phong Phong Ba ác chẳng biết sợ trời sợ đất là gì. Gã chỉ nói vài ba câu rồi xông vào đánh nhau với bọn môn đồ phái Tinh Tú.
Đoàn Dự không hiểu võ công, muốn cùng Vương Ngọc Yến tránh đi xa. Nhưng Vương Ngọc Yến lại băn khoăn về sự yên nguy của biểu ca nàng, không chịu bỏ đi.
Bọn môn đồ phái Tinh Tú ào ào như triều dâng, xông vào bao vây bọn Mộ Dung Phục. Đoàn Dự thi triển phép Lăng Ba Vi Bộ lảng tránh bọn môn đồ phái Tinh Tú để chạy vào gặp phụ thân.
Bây giờ chàng đột nhiên nghe Diệp Nhị Nương nói: Mộ Dung Phục bị Đinh Xuân Thu đánh cho xiểng liểng liền lẩm bẩm:
- Âu là ta phải chạy mau ra để cõng Vương cô nương thoát cơn nguy hiểm này.
Nghĩ vậy rồi chàng chạy vụt đi.
Đinh Xuân Thu đã sát hại hai vị cao tăng là Huyền Thống, Huyền Nạn, thành kẻ đại thù của phái Thiếu Lâm. Quần tăng chùa Thiếu Lâm có giết được hắn mới cam tâm. Bây giờ họ nghe nói kẻ thù đã lên núi Thiếu Thất thì nhốn nháo cả lên.
Huyền Sinh hô lớn:
- Bữa nay ai nấy phải cố gắng bắt sống Đinh lão quái để báo thù cho hai vị sư huynh là Huyền Thống, Huyền Nạn.
Huyền Từ dõng dạc nói:
- Người ta ở xa đến, mình phải tiên lễ, hậu binh!
Quần tăng dạ ran. Huyền Từ lại nói:
- Các vị sư huynh! Liệt vị bằng hữu! Chúng ta hãy ra cả ngoài kia xem những chiêu tuyệt cao của phái Tinh Tú cùng nhà Mộ Dung tỷ đấu nên chăng?
Quần hùng nghe lời Huyền Từ như được gãi vào chỗ ngứa, họ chỉ chờ đại sư nói câu này. Những trang thiếu niên anh hào tính tình nóng nảy, nhưng địa vị thấp hơn, được lời liền chạy đi trước như ong vỡ tổ. Theo sau là bốn đại ác nhân, hảo hán các nơi, họ Đoàn nước Đại Lý rồi đến cao tăng các chùa lục tục rảo bước đi ra.
Bỗng nghe tiếng khí giới chạm nhau chát chúa vang lên không ngớt. Các nhà sư Thiếu Lâm vào hàng chữ Tuệ đều lấy binh khí đưa cho các vị sư thúc, sư bá. Quần tăng theo thứ tự những chữ Huyền, Tuệ, Hư, Trí đều cầm binh khí, đi vào hàng đội kéo ra khỏi chùa.
Hồi Thứ 110
Đại náo Thiếu Lâm Tự
Mọi người vừa ra đến cửa sơn môn, một nhà sư chạy đến báo tin:
- Bọn môn đồ phái Tinh Tú có đến dư ngàn người, đang ở lưng chừng núi, bao vây bọn Mộ Dung công tử và đang chiến đấu kịch liệt.
Huyền Từ gật đầu chạy lại đứng trên một tấm thạch bàn cúi nhìn thì chỉ thấy đầu người lố nhố đen ngòm có đến dư ngàn.
Tiếng reo hò dậy đất theo chiều gió đưa lên:
- Bữa nay Tinh Tú lão tiên thân hành đốc chiến thì đánh đâu mà chẳng được? Bọn ngươi chẳng qua là mấy tên yêu ma, tiểu quỷ mà dám cả gan ngang bướng chống đối thì to gan thiệt!
- Tinh Tú lão tiên bữa nay lên núi Thiếu Thất, chỉ phóng đầu ngón tay út ra cũng đủ làm cho chùa Thiếu Lâm phải sụp đổ.
Đó là bọn thuộc hạ phái Tinh Tú, mỗi tên nói một điềụ Chúng chưa học võ đã học lối siểm nịnh sư phụ trước. Hơn ngàn con người xổ ra bao câu ton hót. Núi Thiếu Thất tưởng chừng như vang lên những bài ca xưng tụng công đức. Chùa Thiếu Lâm xây dựng hàng mấy trăm năm nay, những câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật trước Phật tượng cả ngàn năm cũng chưa có bao giờ rầm rộ, ồn ào bằng lúc này họ ca tụng Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu bạc ra chiều đắc ý. Cặp mắt lim dim, tựa hồ chuếnh choáng hơi men. Huyền Sinh vận chân khí vào huyệt đan điền, cất tiếng ra lệnh:
- Quần tăng chùa Thiếu Lâm hãy kết thành La Hán đại trận!
Năm trăm nhà sư đồng thanh hưởng ứng:
- Bày La Hán đại trận!
Rồi áo đỏ phất phơ, bóng đen chuyển động. Năm trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm, đội này kéo về phía Đông, đội kia chạy qua ngả Tây, tản mạn ra khắp một vùng núi.
Quần hùng từng nghe danh La Hán đại trận của phái Thiếu Lâm nhưng từ hơn trăm năm nay phái này chưa có chuyện gì phải thi thố với người ngoài nên chỉ có các nhà sư bản phái là biết, còn người ngoài chẳng một ai hay. Lúc này họ thấy quần tăng, y phục bất đồng, kẻ đen người đỏ, kẻ vàng người xám. Khí giới cũng không giống nhau. Nào đao, nào kiếm, nào trượng, nào móc. Người nào cũng chạy như bay. Chỉ trong chớp mắt đã vây bọn người phái Tinh Tú vào giữa.
Kể về nhân số thì phái Tinh Tú đông hơn tăng lữ chùa Thiếu Lâm, nhưng số nhiều là người mới ra nhập thành một toán quân ô hợp, chiến đâu đơn độc, mạnh ai nấy đánh. Nếu lập thành mặt trận hợp lực tấn công thì bọn chúng chân tay lính quýnh, chẳng biết đường nào mà hành động.
Bây giờ tiếng ca tụng lão tiên giảm bớt đi nhiều. Huyền Từ phương trượng cất tiếng nói:
- Đinh tiên sinh phái Tinh Tú giá lâm núi Thiếu Thất chỉ là cừu địch với phái Thiếu Lâm mà thôi. Vậy các lộ anh hùng xin đứng bàng quan để coi võ thuật Trung Nguyên kháng cự với cao nhân miền Tây xem thế nào, nên chăng?
Anh hùng các lộ Hà Sóc, Giang Nam, Xuyên Thiểm, Hồ Quảng đều la ó:
- Tinh Tú lão quái làm hại võ lâm. Chúng ta đã là chỗ nghĩa khí thì phải coi hắn là kẻ thù chung, tru diệt bè lũ mọi rợ của hắn đi.
Quần hùng đều rút binh khí ra muốn chung lưng đấu cật với phái Thiếu Lâm để kháng địch. Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên đã giết được hơn hai mươi tên môn đồ phái Tinh Tú. Bây giờ họ có ngoại viện đến, đều tạm thời dừng tay không chiến đấu nữa. Đám thuộc hạ phái Tinh Tú cũng không tiến lên đuổi đánh nữa.
Ðoàn Dự hết chuồn qua bên Đông lại xông sang mé Tây và đã tìm đến đúng bên Vương Ngọc Yến, chàng nói:
- Vương cô nương! Nếu tình thế mà gặp nguy hiểm thì tại hạ lại cõng cô nương ra đi.
Vương Ngọc Yến đỏ mặt lên đáp:
- Ta chưa bị thương mà cũng không bị điểm huyệt... tự mình ta đi cũng được.
Nàng quay sang nhìn Mộ Dung Phục rồi nói tiếp:
- Biểu ca ta võ nghệ cao cường, thừa sức bảo vệ cho tạ Đoàn công tử! Công tử có thể tuỳ tiện đi đâu thì đi.
Đoàn Dự nghe nàng nói như vậy không khỏi buồn tủi, nghĩ thầm:
- Ta có võ công gì đâu, làm sao sánh với biểu ca nàng được?
Nhưng bảo chàng bỏ ra đi thì chàng cũng không thể nào dứt tình được. Chàng ngượng ngùng nói:
- Cái đó... à! Vương cô nương! Gia gia tại hạ cũng đã đến đây, hiện ở ngoài kia.
Vương Ngọc Yến đã trải bao phen cùng Đoàn Dự qua cơn hoạn nạn, đã đi cùng chàng trên những quãng đường dài. Thời gian hai người kề cận nhau không phải là ít. Song trước nay Đoàn Dự không bao giờ đề cập đến chuyện gia đình trước mặt nàng mà chàng cũng chưa từng nói đến thân thế mình bao giờ.
Trước mặt Đoàn Dự, Vương Ngọc Yến là một vị thiên tiên, còn chàng tự coi mình như kẻ phàm tục dưới trần gian. Vậy trong con mắt một thiên tiên thì vương tôn công tử hay thứ dân cũng vậy thôi, nào có phân biệt gì? Chàng cho là dù mình có kể đến bá phụ hiện làm hoàng đế nước Đại Lý và phụ thân chàng là hoàng thái đệ Trấn Nam Vương thì cũng chỉ là một cách khoa trương gia thế hòng mỹ nhân để mắt tới.
Đoàn Dự còn biết rõ Vương Ngọc Yến để hết tình ý vào Mộ Dung Phục. Phần mình chỉ thỉnh thoảng được nghe một vài câu khách sáo, nhìn một cái chau mày hay một nụ cười cũng là phước lớn tày đình rồi nên tuy chàng hết lòng ái mộ nàng mà chẳng bao giờ chàng dám nghĩ đến chuyện kết duyên Tần Tấn. Hoặc giả có ra chăng nữa thì chỉ ở trong giấc mơ.
Vương Ngọc Yến thấy Đoàn Dự đã mấy phen hi sinh để cứu mình, nàng cũng biết rõ chàng rất thành tâm với mình nên đem lòng cảm kích. Còn về con người chàng thì chẳng bao giờ nàng để vào lòng. Có khi bàn đến võ công thì Đoàn Dự lại chẳng hiểu gì. Nàng biết rõ chàng chỉ là một con mọt sách và hiểu được một bộ pháp xảo diệu mà thôị Bây giờ, nàng nghe chàng nói đến gia gia chàng đã tới nơi cũng hơi động tính hiếu kỳ, liền hỏi:
- Phải chăng lệnh tôn từ nước Đại Lý qua đây? Cha con công tử gặp mặt nhau rồi phải không?
Đoàn Dự cả mừng đáp:
- Đúng đó! Vương cô nương! Tại hạ muốn dẫn cô nương đến yết kiến gia phụ được không? Gia phụ được thấy cô nương chắc người hài lòng lắm.
Vương Ngọc Yến hai má ửng hồng đáp:
- Ta không đi.
Ðoàn Dự hỏi:
- Tại sao cô nương không muốn yết kiến gia phụ?
Chàng không thấy nàng trả lời, liền nói thêm:
- Vương cô nương! Bái huynh tại hạ là Hư Trúc cũng ở đây. Hiện y đang làm hoà thượng. Tại hạ còn có một tên đồ đệ nữạ Thiệt là một dịp náo nhiệt đáo để.
Vương Ngọc Yến giương cặp mắt trong như nước hồ thu ra chiều kinh ngạc. Nàng tự hỏi:
- Ngươi đã không biết võ công còn thu đồ đệ cái gì? Chẳng lẽ thu đồ đệ để dạy ngũ kinh chăng?
Rồi nàng không khỏi mỉm cười. Đoàn Dự thấy Vương Ngọc Yến mỉm cười thì trong lòng sung sướng vô cùng.
Chàng nói tiếp:
- Vương cô nương! Đồ đệ tại hạ là Nam Hải Ngạc Thần. Hắn còn có cái ngoại hiệu là Hung Thần ác Sát. Võ công hắn cũng vào bậc khá.
Vương Ngọc Yến tủm tỉm cười hỏi:
- Người văn nho gì mà lại có cái ngoại hiệu khó nghe thế?
Nguyên nàng tưởng Đoàn Dự là chàng thư sinh thì đồ đệ chàng cũng phải là một gã thiếu niên ham học. Đoàn Dự cười đáp:
- Văn nho đâu mà văn nhỏ Hắn chẳng văn nho chút nào!
Tuy chàng hiện ở giữa vòng vây phái Tinh Tú, nhưng được nghe Vương Ngọc Yến cười nói dịu dàng thì dù là việc tày trời chàng cũng không để ý đến. Quần tăng chùa Thiếu Lâm đã xuất động và đã bày xong La Hán đại trận rất oai hùng. Tả hữu nương tựa nhau, mặt trước mặt sau liên lạc với nhau dễ dàng.
Mấy tên đồ đệ phái Tinh Tú từ phía Tây xông vào. Chúng mới giao phong trong chớp mắt đã bị thương tới tấp.
Đinh Xuân Thu nói:
- Các ngươi hãy tạm đình không được vọng động.
Rồi lão cất cao thanh âm lên nói:
- Huyền Từ phương trượng! Phái Thiếu Lâm các vị tự xưng là thủ lãnh võ lâm Trung Nguyên, nhưng ta xem ra không chịu nổi một trận.
Bọn đệ tử cũng phụ hoạ luôn:
- Phải rồi! Tinh Tú lão tiên đã tới đây thì bọn sư mô chùa Thiếu Lâm sẽ chết hết không còn chỗ mà chôn.
- Võ lâm thiên hạ đều do ở phái Tinh Tú mà ra. Chỉ có võ công phái Tinh Tú mới đáng là ngôi chính thống, còn ngoài ra đều là tà ma ngoại đạo.
- Các ngươi không học võ công phái Tinh Tú thì toàn là hạng tà ma quỷ quái và phải hoạ vong thân.
Đột nhiên có người kéo gân cổ lên nói:
- Tinh Tú lão tiên đức ngang trời đất, oai vang bốn bể, cổ kim không ai bì kịp.
Hàng ngàn người nhao lên phụ hoạ. Thậm chí có kẻ khua chiêng đánh trống. Có người thổi tiêu thổi địch, thật là rầm rộ. Quần hùng số đông chưa được gặp phong cảnh phái Tinh Tú kết thành đoàn, nên ai cũng kinh hãi mà lại bật cười. Tiếng chiêng trống, đồng la, hoà lẫn với tiếng tiêu, địch đang nhộn nhịp, bỗng từ dưới chân núi có tiếng người ngựa vọng lại. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một rõ hơn và chỉ trong chớp mắt đã thấy bốn lá cờ vàng từ sườn núi đi ra.
Bốn con ngựa chạy tới. Người cưỡi ngựa cầm cờ tung bay trước gió. Hai lá cờ bên trái đề sáu chữ: "Cái Bang tổng bang chúa Vương"
Hai lá bên phải viết sáu chữ: "Cực Lạc phái chưởng môn Vương".
Bốn con ngựa đi lên sườn núi rồi gò cương đứng lại. Gã kỵ mã xuống ngựa sút lấy bốn cây cờ, tìm chỗ đất cao nhất trên sườn núi để leo lên. Cả bốn kỵ mã này đều ăn mặc theo kiểu bang chúng Cái Bang, lưng đeo túi vải, tay cầm cờ hiệu không nói câu gì.
Quần hùng la lên:
- Cái Bang bang chúa Vương Tinh Thiên đã đến!
Vương Tinh Thiên là nhân vật thế nào trừ bọn Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, Đinh Xuân Thu, Mộ Dung Phục mấy người còn ngoài ra không ai thấy mặt. Việc y tiếp nhiệm ngôi bang chúa Cái Bang và Cực Lạc là phái nào không ai biết cả nên ai cũng có cảm giác kinh hãi.
Cờ vàng vừa dựng lên xong, một đoàn ngựa theo sườn núi đi lên. Đi đầu là hơn trăm tên đệ tử sáu túi, theo sau ba bốn chục tên bảy túi, mười tên tám túi. Bọn Cái Bang đều lặng lẽ không ai nói gì, tung mình nhảy xuống ngựa, chia làm hai hàng đứng thị lập.
Bỗng lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp. Hai con tuấn mã sắc xanh, sóng hàng đi lên. Con mé tả do một thiếu nữ áo tía cưỡi. Thiếu nữ người rất xinh đẹp nhưng cặp mắt lờ mờ không ánh sáng.
Nguyễn Tinh Trúc vừa trông thấy đã buột miệng cất tiếng gọi:
- A Tử!
Mụ lại quên mình đã cải dạng nam trang nên thanh âm vẫn để nguyên giọng đàn bà. Người cưỡi ngựa mé hữu mình mặc áo cẩm bào, nét mặt trơ như xác chết. Những tay biết nhiều hiểu rộng trong quần hùng vừa nhìn thấy đã hiểu ngay gã đeo mặt nạ, không muốn để ai nhìn rõ chân tướng mình. Song chẳng ai hiểu vì lẽ gì gã lại dấu bản tướng.
Có người đoán:
- Xem ra gã là một nhân vật nổi tiếng trong võ lâm mà cố ý đổi tên là Vương Tinh Thiên, gã sợ lộ diện mọi người biết rõ ngọn ngành. Đã làm đến bang chúa Cái Bang thì có lý đâu lại là hạng vô danh tầm thường được?
Có kẻ đoán:
- Chắc gã sợ không nắm được phần thắng. Nếu có bị thua về tay quần tăng chùa Thiếu Lâm thì gã che mặt rút lui khỏi bẽ bàng.
Có người lại đoán:
- Hay gã là Kiều Phong, trước đã làm bang chúa Cái Bang, bây giờ trở lại nắm quyền điều hành muốn đến gây sự với phái Thiếu Lâm cùng quần hùng nên phải che dấu chân tướng?
Bọn Cưu Ma Trí mấy người tuy đã biết chân tướng gã, nhưng lúc này thấy gã ngồi trên yên ngựa, khí độ hiên ngang, oai phong lẫm liệt. Cặp mắt đã có tinh thần không ra chiều khiếp nhược như mấy tháng trước thì trong lòng cũng lấy làm kỳ.
Đinh Xuân Thu đã bị bại về tay gã nên lại càng ngấm ngầm đề phòng. Chuyến này hắn đến chùa Thiếu Lâm đã dắt sẵn hai thứ pháp bảo cực kỳ lợi hại của phái Tinh Tú, đợi chờ cho đến lúc Vương Tinh Thiên cùng quần tăng Thiếu Lâm chiến đấu kịch liệt sẽ đột nhiên đánh lén trong khi bất ý để trừ một tên đại địch.
Đinh Xuân Thu định chờ ở trên sườn núi để Vương Tinh Thiên và phái Thiếu Lâm đánh nhau trước rồi mới nhảy ra thủ lợi. Không ngờ lại gặp phải bọn Mộ Dung Phục, Phong Ba ác xông trận khiêu chiến ngay. Kế đến quần tăng phái Thiếu Lâm kéo ra. Sau cùng Vương Tinh Thiên mới đến, rồi chính hắn lâm vào thế kình địch với phái Thiếu Lâm trước tiên.
A Tử nghe tiếng mẫu thân hô hoán nhưng lúc này nàng đang có việc quan trọng trong mình chưa muốn hội diện với mẫu thân để phải nói chuyện dông dài về gia đình.
Nàng liền giả vờ không nghe tiếng và bảo Vương Tinh Thiên:
- Tinh Thiên ca! Chỗ này đông người lắm nhỉ? Tiểu Muội nghe họ la cái gì Tinh Tú lão tiên, đức ngang trời đất, oai vang bốn bể... có phải thằng nhãi Đinh Xuân Thu dẫn đám quân tôm tép của hắn đến đây rồi không?
Du Thản Chi đáp:
- Đúng đó! Bọn môn hạ của hắn quả đông thật.
A Tử vỗ tay cười nói:
- Thế thì hay lắm! Ta đỡ được một phen phải gian nan lặn lội hàng ngàn dặm để tìm đến phái Tinh Tú.
Lúc này bang chúng Cái Bang đi bộ đang cập rập chạy lên núi, toàn là hạng đệ tử ba túi đến năm túi. Chúng bày thành đội ngũ đứng ở phía sau Du Thản Chi cùng A Tử. A Tử giơ bàn tay nhỏ nhắn về phía sau vẫy một cái. Hai tên đệ tử Cái Bang đều móc trong bọc ra một cuộn gì sắc tía tung ra trước gió. Nguyên là hai lá cờ lớn bằng đoạn tía. Hai gã cầm cờ nội lực rất thâm hậu.
Tay vung ra, hai lá cờ lớn mở tung ra thẳng băng trên không tựa như có cán. Trên mỗi lá cờ đều thêu sáu chữ đỏ như máu: "Tinh Tú phái, chưởng môn Đoàn."
Hai lá cờ vừa mở ra, bọn thủ hạ phái Tinh Tú nhốn nháo cả lên. Bọn môn đồ Đinh Xuân Thu thi nhau la ó:
- Chưởng Môn phái Tinh Tú là Đinh lão tiên, tứ hải vang danh. Sao lại còn họ Đoàn nào làm chưởng môn được?
- Bọn này giả mạo không biết dơ mặt!
- Chức vị chưởng môn có lý nào tự phong lên được?
- Con tiểu yêu này dám tự xưng là chưởng môn bản phái? Sao không băm vằm nó ra?
Các tăng lữ cũng như quần hùng thấy thêm một vị chưởng môn nhân phái Tinh Tú nữa xuất hiện thì vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Ai nấy cho là bọn tà ma phản đối nhau, khuynh nhau còn gì hay bằng.
A Tử vỗ tay ba cái rồi dõng dạc nói:
- Các đệ tử phái Tinh Tú nghe đây! Theo lề luật của bản phái nhân vật nào có võ công cao cường được lên làm chưởng môn. Trong bản phái người có võ công cao cường vừa là tổ sư vừa là chưởng môn. Nửa năm trước đây, Đinh Xuân Thu cùng ta tỷ đấu. Hắn đã bị ta đánh cho xiểng liểng và phải quỳ xuống đất dập đầu lạy ta mười tám lạy, tôn ta lên làm sư phụ rồi hai tay dâng chức chưởng môn nhân cho ta một cách rất cung kính. Chẳng lẽ hắn chưa thông báo cho các ngươi hay sao? Đinh Xuân Thu! Mi thật là lớn mật! Đã là đại đệ tử bản phái đáng lý mi phải nêu gương cho bọn sư đệ, sao lại dám làm việc khi sư, diệt tổ, lừa dối bọn đàn em?
Thanh âm nàng trong trẻo nhưng rất rõ ràng, ai cũng nghe rõ từng chữ một. Mọi người nghe nàng nói đều rất lấy làm kỳ. Coi người nàng chỉ là cô bé đui mù mà sao lại làm chưởng môn được?
Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc nhìn nhau kinh hãi. Hai người đều biết cô con gái mình là môn hạ Đinh Xuân Thu phái Tinh Tú, tính nết cực kỳ cổ quái điêu ngoa, song võ công cũng tầm thường thôi. Hai người không hiểu sao nàng dám phản thầy lên làm sư phụ. Nàng đã vuốt râu hùm thì vụ này khó lòng thu lại được. Hiện giờ nước Đại Lý vẻn vẹn chỉ có mấy người đến núi Thiếu Thất thì kháng cự lại với phái Tinh Tú làm sao được để cứu nàng thoát hiểm?
Đinh Xuân Thu lại là tay nham hiểm thâm độc. Sư huynh và sư phụ hắn cũng mất mạng về tay hắn. Ngày nọ Du Thản Chi đánh nhau với hắn bị thua. Sau gã lột cái đầu sắt ra, máu thịt bầy nhầy ai trông cũng phải khiếp sợ rồi gã tự xưng là Vương Tinh Thiên, chưởng môn phái Cực Lạc. Đinh Xuân Thu tưởng gã là sư trưởng tên đầu sắt Du Thản Chi.
Lúc này Đinh Xuân Thu lại chạm trán gã trên núi Thiếu Thất, hàng ngàn hàng vạn con mắt trông vào, mà A Tử ngang nhiên mang cờ hiệu chưởng môn phái Tinh Tú trưng ra thì hắn không còn nhịn làm sao được. Nếu hắn không cùng Vương Tinh Thiên quyết một trận tử chiến thì tất hắn không còn chỗ nào mà dung thân nữa.
Đinh Xuân Thu giận như điên lên nhưng ngoài mặt vẫn cười ha hả ra vẻ ôn hoà nói:
- Tiểu A Tử! Chưởng Môn nhân bản phái ai giỏi là được giữ. Câu đó quả đã không sai. Ngươi muốn ròm rỏ ngôi chưởng môn tất có bản lãnh ghê gớm lắm! Vậy hãy tới đây tiếp ta ba chiêu được không?
Đột nhiên trước mắt hắn hoa lên, cách chừng ba thước đã xuất hiện một người, chính là Du Thản Chi. Du Thản Chi xuất hiện đột ngột, Đinh Xuân Thu mắt tinh là thế mà cũng không nhìn rõ gã đến từ lúc nào?
Hắn giật mình kinh hãi, lùi lại một bước dài, xa đến năm thước mà vẫn thấy Du Thản Chi chỉ cách mình ba bước. Nhưng kỳ ở chỗ là hắn cất bước trước mà sao đối phương lại đến trước hắn và không lộ hình tích gì. Thế thì võ công hắn ghê gớm vô cùng khiến ai cũng phải khiếp sợ.
Đinh Xuân Thu đã từng bị gã đánh thua, trong lòng vốn đã khiếp sợ, bây giờ hắn thấy mình mặc áo vàng bay phất phới và bộ mặt xác chết đưa ra, hắn không kịp mở miệng chất vấn:
- Ta muốn cùng A Tử tỷ thí. Sao ngươi lại chen vào?
Hắn xoay tay nắm một tên đệ tử liệng tới. Du Thản Chi ứng biến thần tốc. Lập tức gã cũng xoay tay chụp lấy một tên đệ tử Cái Bang vào hàng năm túi đứng cách gã chừng một trượng. Du Thản Chi chụp ở trên không mà đột nhiên tên đệ tử kia phải vọt lên không rồi gã lại dơ tay đẩy tên đó về phía trước. Tên đệ tử năm túi này biến thành thứ ám khí khổng lồ vọt lại trước mặt Đinh Xuân Thu.
Tên đệ tử phái Tinh Tú do Đinh Xuân Thu liệng tới còn đang lơ lửng trên không thì đụng vào tên đệ tử Cái Bang đánh binh một tiếng.
Người đứng ngoài xem thấy hai luồng kình lực mạnh ghê gớm đều nghĩ thầm:
- Hai tên đệ tử này đụng nhau tất phải gãy xương nát thịt mà chết.
Ngờ đâu hai tên vừa chạm nhau bỗng nghe có tiếng vù vù rồi tiếp theo trong mũi mọi người đều ngửi thấy mùi khét lẹt, buồn nôn. Quần hùng nín thở lùi lại, có người dơ tay lên bịt mũi, có người uống thuốc giải và đều biết Đinh Xuân Thu cùng Vương Tinh Thiên đều dùng chất âm độc phóng vào mình tên đệ tử. Hai tên đệ tử vừa chạm vào nhau đã nhủn ra té lăn xuống đất không nhúc nhích vì chúng bị chết cả rồi.
Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi trao đổi chiêu này không phân cao thấp và trong lòng đều ngấm ngầm sợ hãi lùi lại ba thước. Cả hai bên lại xông vào nắm một tên đệ tử liệng ra. Hai tên này đụng nhau trên không cũng phát ra mùi tanh lè và chết mất mạng.
Nguyên cả hai tay địch thủ đều sử môn Hủ thi độc, một môn võ công âm độc của phái Tinh Tú. Tuy họ nắm lấy người sống để liệng ra, nhưng kỳ thực lúc tay họ vừa nắm lấy, tên đệ tử đó phải chết ngay và chất độc đã chạy khắp thân thể xác chết. Nếu đối phương dùng tay để gạt tất nhiễm phải thi độc. Dù lấy khí giới để gạt, chất thi độc cũng qua binh khí để truyền vào tay người. Thậm chí đối phương có muốn né tránh hay phóng chưởng cách không cũng khó lòng tránh được độc khí xâm nhập vào mình.
Du Thản Chi từ ngày theo A Tử tập võ công phái Tinh Tú gã tiến bộ rất mau. Gã nghĩ thầm:
- Nếu muốn A Tử xưng hùng mà mình không có một bản lãnh phi thường thì tất có một ngày kia sẽ bị lộ hành tung.
Gã liền dẫn nàng đến một nơi hoang vắng, yêu cầu nàng trình diễn võ công bản môn cho gã xem. Nàng trình diễn từng môn và tường thuật cách rèn luyện. Ngoài miệng Du Thản Chi nói là để chữa những chỗ sai lầm cho A Tử mà thực ra chính A Tử là sư phụ gã. Gã học lén võ công phái Tinh Tú đồng thời học cả môn Hủ thi độc này.
A Tử tuy là một cô gái tinh ranh nhưng hai mắt đui mù, không nhìn rõ nét mặt Du Thản Chi. Hơn nữa, chính tai nàng nghe thấy Vương Tinh Thiên, chưởng môn phái Cực Lạc đã đánh bại được Đinh Xuân Thu. Dù nàng có thông minh tuyệt đỉnh cũng không thể biết được Vương công tử kia có võ công quán thế lại chính là Du Thản Chi đã học lén được võ nghệ của mình.
Lúc trình diễn A Tử nói ra chiêu nào, Du Thản Chi lại theo đúng phép mà diễn thử. Vì trong người gã đã có chất hàn độc của con băng tằm, lại biết nội công của Dịch Cân kinh. Đồng thời gã kiêm tinh những môn sở trường cả hai phái chính tà. Nội lực gã đã phi thường thì chiêu thức nào do y học được phóng ra cũng mạnh đến gãy cây, vỡ đá, oai lực vô cùng!
A Tử mắt không nhìn thấy, chỉ nghe bằng tai và rất khâm phục gã. Du Thản Chi cũng truyền thụ cho nàng một ít phép về tu luyện nội công trong Dịch Cân kinh và bảo đó là công phu nhập môn của phái Cực Lạc. A Tử theo gã luyện tập, tuy không tiến bộ nhiều nhưng cũng thấy thân thể nhẹ nhàng, gân cốt linh hoạt. Nàng cho là gặp dịp rỗi rãi tập thêm sẽ có thần hiệu.
Hồi Thứ 111
Du Thản Chi đại chiến Đinh Xuân Thu
A Tử bản tính hiếu động. Nàng chỉ ở nơi hẻo lánh trong chốn thâm sơn, tập luyện võ công được vài tháng đã thấy khó chịu và bắt Du Thản Chi đưa đi nay đây mai đó. Bao nhiêu công phu của A Tử hiểu biết thì Du Thản Chi đã học được đến tám chín phần. Gã không giữ nàng được lâu hơn nữa, đành phải đưa ra ngoài.
Hai người đi đến một toà cổ miếu. Bỗng nghe hai gã đệ tử Cái Bang nói chuyện với nhau về việc Cái Bang chọn người lập làm bang chúa trên núi Phục Ngưu trong một ngày sắp tới. A Tử nghe lỏm được rất đỗi mừng thầm. Lập tức nàng ra tay kiềm chế hai tên đệ tử Cái Bang, bức chúng phải nói thật. Chúng tiết lộ là Kiều Phong bị bức bách phải bỏ ngôi bang chúa. Hai vị trưởng lão Truyền Công và Chấp Pháp cũng kế tiếp nhau qua đời. Cái Bang ở một tình trạng như rắn không đầu, lâm vào bước đường suy vi. Các vị trưởng lão đứng trước tình thế này phải định kỳ lựa chọn một người bang chúa, chẳng lẽ để một bang lớn nhất thiên hạ bị tan rã.
A Tử cùng Tiêu Phong ở với nhau lâu ngày. Hơn nữa lúc nàng dưỡng thương, Tiêu Phong sớm tối kề cận đã kể cho nàng hay những chuyện cũ trên chốn giang hồ. Vì thế mà A Tử am hiểu rất kỹ về những lề lối cầm quyền Cái Bang. Nàng biết rằng muốn lên địa vị bang chúa thì trước hết phải là một đệ tử Cái Bang, nên nàng cưỡng bách hai tên đệ tử năm túi này thu nàng và Du Thản Chi vào bang. Hai gã cũng là người có khí phách, thấy A Tử cưỡng bách một cách vô lý, chúng không chịu khuất phục. Nhưng A Tử dùng đủ hình phạt thâm độc của phái Tinh Tú khiến chúng không chịu nổi. Lúc chúng chỉ còn thoi thóp thở, đành ưng lời xin cho A Tử và Du Thản Chi gia nhập Cái Bang.
Đúng kỳ hẹn, A Tử cùng Du Thản Chi đến núi Phục Ngưu. Lúc này võ công Du Thản Chi đã đến mực phi thường, bọn Tống trưởng lão, Huỳnh trưởng lão, Trần trưởng lão bì thế nào được. Mới tiếp chiến vài hiệp, Du Thản Chi đã đánh bại quần hùng một cách dễ dàng và lên tiếp nhận chức bang chúa Cái Bang. Bang chúng Cái Bang thấy võ công y cao thâm không biết đến đâu mà lường thì ai cũng vui mừng kính phục và cho là được một vị bang chúa có triển vọng chấn hưng cho bổn bang ngày thêm hưng thịnh.
Trong Cái Bang có một nhân vật túc trí đa mưu tên gọi Thập Phương Tú Tài Toàn Quan Thanh. Hắn là một Đà chúa tám túi, trông nom phân đà Đại Trí. Một tay hắn vận trù kế hoạch mà đã khiến được bang chúng Cái Bang bội phản Tiêu Phong. Sau họ tìm đủ bàng chứng xác thực Tiêu Phong là người nước Liêu thì Cái Bang phản ông không phải là chuyện sai lầm. Nhưng ngày hắn đứng ra xách động bang chúng, bắt luôn cả Truyền Công và Chấp Pháp trưởng lão nên bị mọi người oán ghét. Huống chi trong thâm tâm quần chúng Cái Bang vẫn nghĩ tới ơn đức của Tiêu Phong.
Sau đó bọn Tống trưởng lão và Ngô trưởng lão liền mượn thế cất chức Đà chúa phân đà Đại Trí của Toàn Quan Thanh và giáng luôn ba cấp, chỉ còn đứng vào hàng đệ tử năm túi. Du Thản Chi lên nhậm chức Bang chúa rồi, Toàn Quan Thanh chụp lấy cơ hội này cấu kết với A Tử, nghĩ những cách tiêu sầu giải muộn cho nàng. Sau hắn đưa ra đề nghị tranh đoạt ngôi võ lâm minh chủ ở Trung Nguyên với phái Thiếu Lâm để cho Vương Tinh Thiên trở thành võ lâm đệ nhất nhân trong thiên hạ. A Tử vốn hiếu thắng, tuy mắt đui mù vẫn không thay đổi tính nết. Toàn Quan Thanh đưa ra đề nghị này rất hợp ý nàng.
Du Thản Chi thì võ lâm minh chủ hay gì gì nữa gã cũng không màng, nhưng A Tử nói sao thì gã làm vậy. Thế rồi Toàn Quan Thanh trù tính kế hoạch cực kỳ thận trọng, hắn cho đưa thiếp đi mời các vị anh hùng thiên hạ khắp nơi đồng thời đến tụ tập tại chùa Thiếu Lâm vào ngày rằm tháng sáu. Vậy kẻ nắm then chốt trong vụ Thiếu Lâm cùng Cái Bang tranh đoạt minh chủ chính là Toàn Quan Thanh.
Lúc bang chúng Cái Bang kéo đến núi Thiếu Thất, Toàn Quan Thanh đã được thăng bốn cấp lên chức trưởng lão chín túi thật là một sự bất ngờ cho hắn. Toàn Quan Thanh thấy bọn thuộc hạ phái Tinh Tú tụ tập cả ở đầu núi đã biết trước rằng thế nào Đinh Xuân Thu cùng A Tử cũng xảy cuộc khiêu chiến, hắn liền nghĩ kế cho Du Thản Chi.
Đinh Xuân Thu vừa mở miệng nói lập tức gã tiến ra động thủ để tránh cho A Tử khỏi lâm vào tình trạng khó xử. Du Thản Chi cùng Đinh Xuân Thu hai người động thủ. Đinh Xuân Thu biết đối phương là tay lợi hại nên vừa keo đầu lão đã thi triển Hủ thi độc là một trong những môn âm độc nhất của phái Tinh Tú.
Muốn thi triển công phu này thì mỗi chiêu phải hy sinh một tên đệ tử. Bất luận đối phương né tránh hay đỡ gạt đều khó lòng thoát khỏi kịch độc. Dù là bậc võ công cao minh đến đâu cũng không có cách nào tránh được trừ phi thi triển khinh công tuyệt đỉnh nhảy lùi ra xa ngoài mười trượng mới mong khỏi bị chất độc nhiễm vào mình. Và như vậy thì lúc đối phương ra chiêu phải lập tức chạy trốn ngay mới kịp. Nhưng như thế thì cuộc đấu không còn lý do để tồn tại nữa.
Đinh Xuân Thu không ngờ Du Thản Chi đã được A Tử chỉ bảo công phu này, đành tiếp tục hy sinh tính mạng đệ tử Cái Bang để chống lại. Hai người mỗi khi liệng ra một tên đệ tử xong, lập tức lùi lại ba bước, rồi lại liệng tên khác ra...
Những tiếng binh binh vang lên không ngớt. Chỉ trong khoảnh khắc hai bên đã liệng ra mỗi bên chín tên và mười tám xác chết nằm lăn dưới đất, sắc mặt xanh lè trông gớm khiếp và thê thảm vô cùng. Bọn đệ tử phái Tinh Tú cực kỳ kinh hãi, tranh nhau chen chúc lùi vào một bên, chỉ sợ sư phụ tóm được. miệng chúng vẫn không ngớt ca tụng công đức, nhưng nói run run, lời ca tụng đã nhạt phèo nào phải vui vẻ gì mà cổ vũ.
Quần hùng Cái Bang thấy bang chúa đột nhiên thi triển môn võ công âm độc, tuy là ở trong trường hợp bất đắc dĩ, nhưng họ cũng cực kỳ khó chịu, nghĩ thầm:
- Bản bang xưa nay hướng về hành vi lấy nhân nghĩa làm gốc, thế mà sao bang chúa đứng trước quần hùng thiên hạ lại thi thố môn võ công đê hèn tàn ác này? Như vậy chẳng hoá ra làm nhơ danh tiên tổ và cũng là đồng loại phái Tinh Tú ư?
Có người lại nghĩ rằng:
- Giả tỷ cựu bang chúa Kiều Phong thì ông ta quyết dùng chính đạo chống chọi với tà thuật của Tinh Tú lão quái.
Đinh Xuân Thu liệng ra liên tiếp chín tên đệ tử và lùi lại đã đến ba trượng. Du Thản Chi cũng lùi lại ba trượng, thế là hai bên cách nhau tới sáu trượng. Đinh Xuân Thu xoay lại toan túm lấy tên thứ mười, nhưng tay lại chụp vào chỗ không. Lão quay đầu nhìn lại thì thấy bọn đệ tử mình đã tránh xa.
Bỗng nghe đánh véo một tiếng. Du Thản Chi đã liệng người thứ mười tới. Thế là Đinh Xuân Thu tự đào lỗ để chôn mình. Trong lòng hắn vừa kinh hãi vừa tức giận. Gặp tình thế cấp bách hắn tung mình nhảy lùi vào giữa đám đông. Bọn đệ tử Cái Bang nhảy xổ lại. Bọn đệ tử phái Tinh Tú muốn bỏ trốn cũng không kịp nữa. Bảy tám gã la làng vì bị xác chết liệng trúng. Xác chết này độc địa vô cùng. Nó vừa động vào, bảy tám người này lập tức mặt đen xạm lại, nằm lăn dưới đất, dẫy đành đạch mấy cái rồi chết ngay lập tức.
A Tử cười ha hả ra chiều đắc ý, nói:
- Đinh Xuân Thu! Vương bang chúa là hộ pháp của chưởng môn nhân phái Tinh Tú. Ngươi hãy hạ y đi rồi sẽ cùng ta là chưởng môn nhân động thủ cũng chưa muộn. Bây giờ tình trạng thế nào đây? Ngươi thua hay là ngươi được?
Đinh Xuân Thu vừa căm giận vừa buồn bã, vì sự thất bại này thực không phải do công phu kém cỏi gây ra. Cứ coi cách Vương Tinh Thiên liệng xác chết thì gã tuy mạnh, nhưng mấy lần đều dùng một thủ pháp giống nhau, không có chi là biến ảo tài tình. Như vậy đủ tỏ gã chỉ học được chút ít công phu nông cạn của bản môn do A Tử truyền cho mà thôi. Hắn thấy mình bị thua oan, tức mình lẩm bẩm:
- Sở dĩ ta thua đòn này là vì bọn môn hạ phái Tinh Tú khiếp đảm sợ chết, không được gan dạ như bọn đệ tử Cái Bang. Đằng mình chúng rút lui để tránh ra xa, còn bên kia quần hùng Cái Bang khẳng khái tuân theo nghĩa cả, lúc lâm nguy cũng không trốn tránh.
Lão nghĩ một lúc dường như tìm ra một kế gì, liền ngửa mặt lên trời cười ha hả. A Tử chau mày nói:
- Ngươi cười ư? Thế mà ngươi còn cười được thì thật là tuồng vô sỉ. Ta nghĩ rằng ngươi không còn có chi đáng cười nữa.
Đinh Xuân Thu vẫn tiếp tục cười hoài. Đột nhiên, tiếng gió nổi lên ầm ầm. Tám chín tên đệ tử phái Tinh Tú bị hắn nắm lấy liệng về phía Du Thản Chi như nỏ liên châu. Du Thản Chi không biết xử chiêu Liên châu hủ thi độc. Gã chỉ nắm được ba tên đệ tử Cái Bang liệng ra. Đến chiêu thứ tư thì không kịp đón đỡ. Trước tình thế cấp bách. Gã nhảy vọt lên không tránh được thi độc do Đinh Xuân Thu liệng tới, chứ không chịu chạy lùi về phía sau và như vậy tức là gã chưa thua chiêu này.
Đinh Xuân Thu chỉ mong gã né tránh rồi hắn giơ tay trái ra phía trước ngực mình vẫy một cái. Bỗng nghe A Tử rú lên một tiếng kinh hoảng rồi nhào người về phía Đinh Xuân Thu. Những người bàng quan thấy vậy ai cũng cả kinh thất sắc.
Nên biết rằng những tay võ công cao cường dù công phu Cầm long công, Không hạc công có cao thâm đến đâu thì cũng chỉ bắt được địch nhân, hoặc đoạt được đao kiếm trong khoảng cách nhau nhiều lắm là bốn, năm thước. Những tay cao thủ tuyệt đỉnh có dùng Vô hình thần quyền đả thương đối phương cũng không thể vận nội lực phóng tới người cách xa ngoài hai trượng được.
Lúc này Đinh Xuân Thu đứng cách A Tử có đến bảy, tám trượng, thế mà hắn vẩy tay một cái đã hất tung được A Tử dời khỏi lưng ngựa rồi hút về bắt lấy. Vậy thì võ công hắn cao không biết đến đâu mà lường. Quần hùng đứng bàng quan thiếu gì tay cao thủ, nhưng coi cái vẫy tay của Đinh Xuân Thu thì ai cũng tự cảm thấy mình hãi còn kém hắn xa lắm. Người nào không kinh hãi cũng phải khâm phục.
Quần hùng có hiểu đâu rằng Đinh Xuân Thu mà bắt được A Tử thiệt ra không phải hắn trông cậy vào nội lực của mình mà đã dựa vào một trong ba thứ bảo bối của phái Tinh Tú tên là Nhu ty sách. Nhu ty sách này chế bằng thứ tơ của một loại tằm sống trên tuyết gần bờ bể Tinh Tú. Giống tuyết tằm nhỏ hơn băng tằm và không có chất độc. Nó nhả ra một thứ tơ dai, bền khác thường. Chỉ một sợi cũng khó lòng dứt đứt. Có điều tuyết tằm không biết kéo kén và nhả tơ rất ít. Ai may thì gặp chứ không thể tìm mà được.
Ngày nọ, A Tử đã dùng một thứ lưới cá trong suốt để bắt Lăng Thiên Lý đến, y xấu hổ tự vẫn mà chết. Cái lưới đó cũng có pha chút ít tơ tuyết tằm. Sợi dây Nhu ty sách này của Đinh Xuân Thu toàn thể bằng tơ tuyết tằm. Thứ tơ này rất nhỏ mà sáng vô hình, dưới ánh sáng mặt trời khó có người nhìn thấy được. Lúc Đinh Xuân Thu liệng chín tên đồ đệ ra thì đồng thời hắn vung Nhu ty sách về phía A Tử. Chín độc thi kia liệng ra là cốt để bắt buộc Du Thản Chi phải tránh không che chở cho A Tử được và đó cũng là cách làm cho người ngoài rối mắt, ai cũng chỉ chăm chú để ý nhìn vào gã, nên không phát giác hắn quăng Nhu ty sách bắt A Tử.
Khi A Tử phát giác ra người nàng vướng vào Nhu ty sách rồi liền bị Đinh Xuân Thu giật đi ngay. Tuy nói Đinh Xuân Thu bắt được A Tử là nhờ ở bảo bối. Nhưng một sợi Nhu ty sách nhỏ không trông thấy mà liệng ra tới bảy, tám trượng và không để quần hùng quần hùng phát giác thì chiêu thức này và công lực ấy cũng không phải hạng cao thủ bình thường có thể làm được.
Đinh Xuân Thu tay trái nắm lấy lưng A Tử, rồi tiện đà điểm huyệt nàng luôn, đồng thời sợi Nhu ty sách đã rút vào trong tay áo rồi. Liệng thây, quăng dây, vẩy tay, bắt người bấy nhiêu động tác chỉ trong một tiếng cười ha hả là xong. Lão bắt xong A Tử rồi mà tiếng cười chưa dứt. Du Thản Chi người còn lơ lửng trên không đã thấy A Tử bị bắt thì kinh hãi vô cùng. Gã nhảy về phía trước thì sáu xác chết đã lướt qua dưới chân gã rồi. Gã vừa đáp chân xuống đất đã phóng một phát chưởng thực mạnh nhằm Đinh Xuân Thu đánh tới.
Đinh Xuân Thu đưa tay trái về phía trước, giơ A Tử ra để đón lấy chiêu chưởng tan bia vỡ đá của đối phương phóng tới. Lúc này Du Thản Chi tuy võ công cao cường nhưng kinh nghiệm lâm địch chưa có một chút gì. Gã thấy phát chưởng của mình sắp đánh gãy xương, bong gân A Tử thì hốt hoảng quá lập tức thu chưởng lực về. Nhưng gã đã vận toàn lực để ra chiêu, lúc cấp bách thu về thế nào được.
Thực ra, người võ công vào hạng bình thường cũng biết gặp trường hợp này chỉ cần xoay chưởng lực nghiêng chếch ra phía khác thì không đến nỗi làm A Tử bị thương. Nhưng Du Thản Chi đối với A Tử đem lòng kính yêu rất mực, nên vừa thấy thế nguy gã hấp tấp thu chưởng lực về ngay. Cử động này chẳng khác nào đưa luồng chưởng lực để tự đánh vào ngực mình. Gã loạng choạng người đi, oẹ lên một tiếng rồi ói máu tươi ra.
Giả tỷ gã chỉ là tay công lực tầm thường thì động tác này là mình tự giết mình. May gã đã tập luyện Dịch cân kinh đến chỗ thành tựu nên tuy gã rất đau đớn về phát chưởng này, nhưng không đến nỗi bỏ mạng. Du Thản Chi muốn từ từ hít một hơi chân khí, song Đinh Xuân Thu khi nào chịu dung tha cho gã kịp thở. Lão đánh luôn ra bốn chưởng.
Du Thản Chi chưa kịp đề tụ chân khí vào huyệt đan điền, đành vung chưởng ra để đón bốn phát chưởng của đối phương. Mỗi phát lại làm cho gã hộc máu một lần. Gã liên tiếp đón bốn phát chưởng, miệng ói bốn ngụm máu đen. Đinh Xuân Thu vẫn không chịu nhân nhượng chút nào, đánh luôn phát chưởng thứ năm, muốn kết quả tính mạng đối phương ngay tức khắc.
Bỗng phía bên có mấy người quát lớn:
- Đinh lão quái! Không được hành hung. Hãy tiếp ta một chiêu.
Huyền Từ, Long Mãnh, Đạo Thanh, mấy vị cao tăng cùng bao nhiêu tay nghĩa hiệp không nỡ để Vương Tinh Thiên, bang chúa Cái Bang chết về tay Đinh Xuân Thu, vừa quát vừa toan ra tay cự lại. Không ngờ phát chưởng thứ năm của Đinh Xuân Thu vừa đánh ra thì Du Thản Chi cũng đã đánh trả được một chưởng. Đinh Xuân Thu rung người lên lùi lại một bước.
Bọn cao nhân tinh mắt nhìn thấy chiêu này đã làm cho Đinh Xuân Thu cũng bị một đòn nặng, nên dừng bước lại không ra cứu viện nữa. Nguyên Du Thản Chi sau khi thổ ra mấy hụm ứ huyết rồi thấy hơi thở khoan khoái. Đến phát chưởng thứ năm thì chất kịch độc băng tằm hoà lẫn với lực lượng dịch cân vận ra.
Nửa năm trước, Đinh Xuân Thu đã giao thủ cùng Du Thản Chi và đã không địch nổi chưởng lực của gã rồi. Trong vòng nửa năm nay nội lực của gã tăng tiến rất nhiều thì chưởng lực của Đinh Xuân Thu địch sao lại được. Nếu hắn không chiếm được tiên cơ, đánh Du Thản Chi bị thương trước làm cho nội lực gã giảm đi mất nhiều thì phát chưởng vừa rồi còn đẩy lão phải lui lại đến năm bước.
Đinh Xuân Thu hơi thở nhộn nhạo, hắn chẳng chịu cam tâm, vận đến mười thành công lực, quát lên một tiếng thật to, râu tóc đứng dựng cả lên, hắn vung chưởng đánh ra.
Du Thản Chi tiến lên một bước vừa đón chưởng lực của lão vừa la lên:
- Mau buông tha Đoàn cô nương ra!
Gã đánh liền ra bốn chưởng. Mỗi phát chưởng phóng ra gã lại tiến thêm một bước. Gã tiến năm bước thì tới trước mặt Đinh Xuân Thu. Gã chỉ với tay ra một cái là có thể đoạt được A Tử.
Đinh Xuân Thu nhìn thấy cái mặt trơ như xác chết không khỏi ghê rợn. Nhưng hắn tủm tỉm cười nói:
- Ta lại muốn xử dụng Hủ thi độc nữa đây! Ngươi phải đề phòng cho cẩn thận!
Đinh Xuân Thu nói xong, tay trái dơ A Tử lên khẽ đưa ra. Du Thản Chi vội kêu lên:
- Chớ! Chớ! Chớ có làm thế!
Giọng gã run lên ra chiều kinh hãi đến cực điểm. Nên biết rằng nếu Đinh Xuân Thu lại thi triển Hủ thi độc thì A Tử lập tức biến thành xác chết. Đinh Xuân Thu là người thông minh cơ biến vô cùng. Hắn thấy đối phương ra chiều hoảng hốt thì hiểu ngay, bụng bảo dạ:
- Té ra mi lại điên đảo thần hồn vì con bé thối tha này rồi. Chà chà! Thế thì hay lắm!
Hắn bắt được A Tử muốn xử tử nàng ngay để khỏi lo cái hoạ tranh ngôi chưởng môn nhân phái Tinh Tú. Nhưng bây giờ hắn thấy tình trạng Du Thản Chi thì lại thay đổi ý nghĩ muốn dùng A Tử làm con tin để uy hiếp gã Vương Tinh Thiên này là một tay võ công cao thâm hơn hắn.
Quyết định như vậy, hắn hỏi:
- Ngươi có muốn cho ả này chết không?
Du Thản Chi vội la lên:
- Ngươi... ngươi... buông tha nàng ra! Cái đó... nguy hiểm lắm!
Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:
- Ta giết ả thì dễ quá, không cần tốn một chút hơi sức. Tha ả làm chỉ ả là tên phản đồ của bản phái. Hạng người không còn biết đến tôn trưởng là gì, chẳng giết ả thì còn giết ai?
Du Thản Chi nói:
- Đây là... A Tử cô nương. Bất luận thế nào ngươi cũng đừng giết nàng. Ngươi đã bắn mù hai mắt nàng. Ta xin ngươi buông tha nàng ra, ta sẽ hậu tạ.
Gã nói ấp úng tỏ ra rất quan thiết đến A Tử, chẳng còn gì là thể thống một vị bang chúa Cái Bang hay chưởng môn nhân phái Cực Lạc chút nào.
Ðinh Xuân Thu nói:
- Ngươi muốn ta tha ả cũng chẳng khó gì, chỉ cần ngươi thuận theo ta mấy điều kiện mà thôi.
Du Thản Chi đáp ngay:
- Được được! Dù là trăm ngàn điều kiện ta cũng ưng chịu.
Đinh Xuân Thu gật đầu nói:
- Thế thì hay lắm! Điều thứ nhất là ngươi lập tức phải lạy ta làm sư phụ và từ đây trở nên đệ tử phái Tinh Tú.
Du Thản Chi không ngần ngừ gì nữa, lập tức quỳ hai gối xuống nói ngay:
- Trăm lạy sư phụ! Đệ tử... là Vương Tinh Thiên xin bái kiến sư phụ!
Gã tự nhủ:
- Ta vốn là đệ tử ngươi từ trước thì bây giờ có lạy ngươi lần nữa cũng chẳng sao.
Quần hùng thấy gã quỳ xuống đều la ó om sòm. Toàn thể bang chúng Cái Bang từ hàng trưởng lão trở xuống chẳng một ai là không căm phẫn. Họ nghĩ rằng:
- Bang mình là bang lớn nhất thiên hạ, nổi tiếng hào hiệp mà bang chúa lại đi lạy Tinh Tú lão quái làm sư phụ thì còn ra thế nào? Bọn ta không thể thờ hắn làm bang chúa được nữa.
Bỗng nghe chuông, trống, đàn, sáo nổi lên vang lừng. Bọn môn đồ phái Tinh Tú lớn tiếng hoan hô, ca tụng Tinh Tú lão tiên râm ran cả một góc trời. Tiếng hoan hô ca tụng không thể nói xiết được, tưởng chừng như mặt trăng, mặt trời cũng không sáng láng bằng Tinh Tú lão tiên! Trời đất cũng không rộng bằng lão tiên! Từ thuở Bàn Cổ khai thiên lập địa đến giờ, không có người thứ hai nào uy đức to tát bằng lão tiên. Cả đến đức Khổng Tử, đức Như Lai hay Vương Mẫu, Lão Quân cũng còn thua lão tiên của chúng.
A Tử bị Đinh Xuân Thu bắt được, Đoàn Chính Thuần cùng Nguyễn Tinh Trúc nhìn nhau thất sắc nhưng tự biết bản lãnh mình không địch nổi Tinh Tú lão quái và khó lòng cứu được con gái mình thoát khỏi tay hắn. Khi thấy Vương Tinh Thiên chịu vì con gái mình mà quỳ lạy thờ kẻ thù thì hai người càng thêm sửng sốt.
Nguyễn Tinh Trúc vừa kinh hãi vừa mừng thầm, khẽ bảo Đoàn Chính Thuần:
- Lang quân coi đó! Tình nghĩa của y thâm trọng là thế. Còn lang quân... liệu có bằng người ta trong muôn một không?
Đoàn Dự liếc mắt nhìn Vương Ngọc Yến lẩm bẩm:
- Mình đối với Vương cô nương có một mối tình thắm thiết đã tưởng là hết lòng với nàng. Nhưng bây giờ so với Vương Tinh Thiên thì hãy còn kém xa. Y mới phải là thánh hiền trên trường tình. Giả tỷ Vương cô nương bị Tinh Tú lão quái bắt được, liệu mình có chịu quỳ gối để năn nỉ không?
Nghĩ tới đây, đột nhiên chàng cảm thấy mạch máu căng thẳng, nổi lòng hăng hái, dù có phải vì nàng mà muôn thác cũng cam lòng. Thế thì chịu nhục trước mặt mọi người đã thấm vào đâu?
Bất giác chàng buột miệng la lên:
- Chịu lắm! Chịu lắm!
Vương Ngọc Yến lấy làm kỳ hỏi:
- Công tử bảo chịu cái gì?
Đoàn Dự đỏ mặt lên ấp úng:
- Ồ! Cái đó...
Du Thản Chi dập đầu lạy luôn một hồi rồi đứng lên thấy Đinh Xuân Thu vẫn nắm lấy A Tử mà da mặt nàng co rúm lại ra chiều thống khổ vô cùng.
Gã vội nói:
- Sư phụ! Sư phụ mau tha nàng ra.
Đinh Xuân Thu cười lạt đáp:
- Con tiểu nha đầu này lớn mật làm càn. Khi nào tha ả một cách dễ dàng như thế được? Trừ phi ngươi đem công chuộc tội làm mấy việc này cho ta.
Du Thản Chi nói:
- Dạ! Dạ! Sư phụ muốn đệ tử lập công lao gì?
Đinh Xuân Thu đáp:
- Ngươi ra khiêu chiến với Huyền Từ phương trượng và giết y đi!
Du Thản Chi ngần ngừ nói:
- Đệ tử vốn không thù oán. Cái Bang tuy muốn tranh giành ngôi thứ với phái Thiếu Lâm nhưng đệ tử mong rằng giải quyết một cách êm thắm không xảy cuộc giết người đổ máu thì hơn.
Đinh Xuân Thu sa sầm nét mặt, tức giận nói:
- Mi dám phản kháng mệnh lệnh sư phụ! Té ra mi lạy ta làm sư phụ chỉ là giả dối!
Du Thản Chi chỉ mong cho A Tử bình yên thoát hiểm. Gã còn đếm xỉa gì đến đạo nghĩa giang hồ hay những dư luận thị phi.
Gã đáp ngay:
- Vâng! Vâng! Có điều võ công phái Thiếu Lâm rất cao thâm, đệ tử chỉ biết hết sức mà làm... Nếu sư phụ... thủ tín thì đừng gia hại A Tử cô nương.
Đinh Xuân Thu hững hờ đáp:
- Giết Huyền Từ hay không hoàn toàn ở ngươi, còn giết A Tử hay không là quyền của ta.
Đinh Xuân Thu cố ý gây mối hiềm khích giữa Cái Bang và phái Thiếu Lâm để hai bên xảy cuộc ác chiến cho hắn ở giữa thủ lợi.
Du Thản Chi quay lại lớn tiếng hô:
- Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm! Phái Thiếu Lâm là một môn phái đứng đầu các phái võ, Cái Bang cũng là một bang lớn nhất trên chốn giang hồ. Trước đây hai bên đứng ngang hàng ở Trung Nguyên, không bên nào lệ thuộc bên nào. Bữa nay chúng ta tỷ đấu để phân cao thấp. Ai thắng thì làm minh chủ võ lâm mà kẻ thua thì phải phục tùng hiệu lệnh của minh chủ, không được phản kháng.
Gã vừa nói vừa đảo mắt nhìn quần hùng một lượt đoạn nói tiếp:
- Liệt vị anh hùng, hảo hán khắp thiên hạ! Bữa nay các vị đều tụ tập ở chân núi Thiếu Thất này. Vị nào không phục cứ việc tiến ra, cùng võ lâm minh chủ khiêu chiến.
Gã nói như vậy là đã tự đặt mình lên địa vị minh chủ võ lâm.
Hồi Thứ 112
Du Thản Chi tỷ đấu Huyền Từ
Cuộc đối đáp giữa Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi vừa rồi tuy không lớn tiếng nhưng những người hiện diện tại tràng đều là bậc nội công thâm hậu nên nghe rõ từng câu từng tiếng một.
Quần tăng chùa Thiếu Lâm nghe Đinh Xuân Thu công nhiên sai Vương Tinh Thiên, bang chủ Cái Bang ra giết Huyền Từ phương trượng của họ thì ai nấy đều căm hận vô cùng. Nhưng vừa rồi họ theo dõi cuộc tỷ đấu giữa hai người, họ đã thấy rõ công lực cao thâm và độc ác của Du Thản Chi và lão quái.
Vương Tinh Thiên công lực Thiền môn đã cực kỳ thâm hậu lại có thêm tà pháp của bàng môn tả đạo. Vậy Huyền Từ có thể địch nổi gã không? Cái đó khó mà biết trước được. Nhưng nếu gã thi triển độc công tà thuật thì Huyền Từ không thể nào chống gã nổi.
Huyền Từ tuy không muốn động thủ với gã, nhưng gã công nhiên khiêu chiến trước mặt quần hùng nên đại sư không có lý nào thoái thác được, liền chắp tay niệm Phật rồi nói:
- Mấy trăm năm nay Cái Bang từng nổi tiếng nghĩa hiệp trong võ lâm ở Trung Nguyên. Những bậc anh hùng trong thiên hạ chẳng ai là không biết. Những bậc anh hùng trong thiên hạ chẳng ai là không tín ngưỡng. Ngay vị Bang chúa trước đây là Uông Kiếm Thông đã có sự đi lại ngao du thân mật với tệ phái. Nay Vương thí chủ lên trọng nhậm Bang chúa, tệ phái chưa kịp đến chúc mừng, tuy đó có điều sơ xuất, nhưng bọn đệ tử tệ phái cả tăng lẫn tục vẫn một niềm tôn kính quý bang... Sự giao tình giữa Cái Bang và Thiếu Lâm mấy trăm năm nay chưa từng tổn thương hoà khí. Vậy mà tại sao Vương Bang chúa bữa nay đột nhiên hưng binh vấn tội? Mong rằng Bang chúa tuyên bố lý không cho các bậc anh hùng khắp thiên hạ hiện diện ở đây được rõ. Những điều thị phi, khúc trực đã có công luận, nếu tệ phái có điều chi lầm lỗi thì bần tăng sẵn sàng cúi đầu nhận tội!...
Du Thản Chi hãy còn nhỏ tuổi kiến thức lại hẹp hòi. Gã là con người chỉ học võ thuật thì biện luận là sao nổi với Huyền Từ. Nhưng gã trước khi đến chùa Thiếu Lâm đã được Toàn Quan Thanh dạy cho đủ điều.
Khi nghe lời chất vấn liền lên tiếng đáp:
- Nhà Đại Tống ta hiện nay phía Nam có Liêu quốc, phía Tây có Đại Lý, phía Nam có có Tây Hạ, Thổ Phồn, Từ Di nhòm ngó Trung Nguyên. Cái đó... cái đó...
Gã được người ta dạy cho học thuộc lòng, lúc này nhớ lộn xộn. Đáng lý phải nói phía Bắc có nước Liêu, Nam có Đại Lý, Tây có Thổ Phồn, Tây Hạ thì gã lại nói lộn phương vị, khiến mọi người phải hằn giọng cố nín cho khỏi bật ra tiếng cười. Gã biết mình nói lộn nhưng không vãn hồi lại được nữa nên bẽn lẽn vô cùng. May mà chân tướng gã được che đậy sau tấm mặt nạ, người ngoài không nhìn thấy sắc diện.
Gã "Ồ" lên một tiếng rồi nói tiếp:
- Nhà Đại Tống ta binh vi tướng quả, thế nước chông chênh, hoàn toàn trông vào nghĩa sĩ võ lâm, đồng đạo võ lâm, đồng đạo giang hồ, ai nấy hết dạ đem tâm, phò tá mới có thể ngoài chống cường địch, truy diệt gian nhân...
Quần hùng nghe gã nói mấy câu này rất là hữu lý, đều lẩm bẩm:
- Đúng lắm! Đúng lắm!
Du Thản Chi tinh thần phấn khởi, dõng dạc nói tiếp:
- Gần đây mối lo bên ngoài ngày càng thậm trọng. Bọn hào kiệt chúng ta hai vai gánh trách nhiệm ngày một thêm nặng. Đáng lý phải đồng tâm hiệp lực đặng đối phó với những mối nguy nan từ ngoài đưa đến. Song le các môn phái, các bang hội đã mang danh chánh phái lại tương tranh nhau, khuynh đảo nhau để tranh giành hư vị. Nói tóm lại, nếu toàn thể chúng ta không chung lưng, đấu cật giữ lấy sơn hà, xã tắc thì e rằng chỉ một mình tên Khất Đan Kiều Phong đơn thương độc mã xâm lấn cõi bờ, bọn hào kiệt Trung Nguyên chúng ta cũng bị thất bị. Tại hạ còn nghe rằng ngoài bể Tinh Tú cõi Tây Vực còn có Tinh Tú lão... Thằng cha Tinh Tú Lão... ồ! Lão đã đến chùa Thiếu Lâm... cái đó...
Nguyên Toàn Quán Thanh dạy Du Thản Chi nói: "Tinh Tú lão quái" ngoài bể Tinh Tú cõi Tây Vực đã đến chùa Thiếu Lâm hạ sát hai vị cao tăng liền một lúc, mà phái Thiếu Lâm đánh chịu bó tay. Gã đã thuộc lòng, buột miệng nói gần hết câu mới biết là hỏng, nên gã ấp úng nhắc đi, nhắc lại mấy chữ Tinh Tú Lão... rồi không nói tiếp được nữa.
Quần hùng có người la lên:
- Hắn là Tinh Tú lão quái còn mi là Tinh Tú tiểu yêu.
Trong đám đông nổi lên một tràng cười hô hố. Bọn môn đồ phái Tinh Tú lại đồng thanh cất tiếng hát: Tinh Tú lão tiên Danh lừng vũ trụ Đức sánh cửu thiên Cổ kim hiếm có. Hơn ngàn người gân cổ lên mà hát, nhưng quần hùng đề khí cười rộ át hẳn tiếng hát đi. Tiếng hát vừa dứt trong đám đông bỗng có tiếng ồm ồm cất lên hát: "Tinh Tú lão tiên Danh lừng vũ trụ Đức sánh cửu thiên Thối hơn rắm chó."
Điệu hát này vừa nghe qua cũng giống hệt âm điệu của bọn môn đồ Tinh Tú. Vì ba câu trên hoàn toàn giống bài ca xưng tụng công đức của bọn họ, nên họ hoan hô không ngớt miệng, tưởng là trong phái khác cũng có người ca tụng lão tiên phái mình. Một người ngoài phái ca tụng còn hơn là cả ngàn người bản phái tự khen. Không ngờ đến câu thứ tư thay đổi một cách đột ngột khiến mọi người nhìn nhau kinh ngạc.
Âm thanh của tiếng nhạc cũng không kịp thu về, hoà với câu "Thối hơn rắm chó" nghe càng du dương réo rắt. Quần hùng cười lăn, cười lộn, còn môn đồ phái Tinh Tú thì ngoác miệng văng tục ra mà chửi rủa, nghe rất chối tai.
Vương Ngọc Yến cũng mỉm cười nói:
- Bao tam ca! Tam ca hát hay quá!
Bao Bất Đồng đáp:
- Cô nương quá khen! Tam ca rất lấy làm xấu hổ!
Nguyên bốn câu hát vừa rồi là kiệt tác của Bao Bất Đồng.
Du Thản Chi nhân lúc mọi người nhốn nháo thì thầm với Toàn Quan Thanh một hồi rồi gã lại dõng dạc nói tiếp:
- Nhà Đại Tống ta gặp lúc nguy nan mà các bạn đồng đạo trên chốn giang hồ lại không cùng nhau nhất tâm, nhất trí để đến nỗi bị quân Phiên bang khinh nhờn lấn áp. Vì thế mà Cái Bang chủ trương lập nên một vị minh chủ võ lâm để ai nấy tuân theo hiệu lệnh phòng khi có đại sự xảy ra, bọn ta thống nhất hành động, tránh khỏi tình trạng quân hồi vô lệnh. Huyền Từ phương trượng! Phương trượng có tán thành ý kiến của tại hạ chăng?
Huyền Từ thủng thẳng đáp:
- Lời tuyên bố của Vương Bang chúa rất là đúng lý. Nhưng lão tăng còn có điều chưa hiểu xin Bang chúa chỉ giáo.
Du Thản Chi hỏi:
- Điều gì?
Huyền Từ hỏi lại:
- Vương Bang chúa đã bái Tinh Tú lão tiên làm sư phụ vậy Bang chúa là môn đồ của phái Tinh Tú có đúng thế không?
Du Thản Chi ấp úng:
- Cái đó... là việc riêng của tại hạ không liên quan gì đến phương trượng.
Huyền Từ nói:
- Tinh Tú là một phái ở Tây Vực thì có dính líu gì đến đồng đạo võ lâm nhà Đại Tống. Vậy nhà Đại Tống chúng tôi có lập minh chủ võ lâm hay không cũng chẳng liên can gì đến phái Tinh Tú. Giả tỷ các bạn đồng đạo võ lâm ở Trung Nguyên có đề cử lên một vị minh chủ để tiện điều khiển đại cuộc của võ lâm Trung Nguyên, riêng các hạ là môn đồ phái Tinh Tú là người ngoại cuộc tưởng cũng không nên tham dự vào.
Các vị anh hùng lớn tiếng hô:
- Phải lắm! Phải lắm!
- Lời Thiếu Lâm phương trượng thật là đáng phù hợp với nguyện vọng của võ lâm Trung Nguyên chúng ta!
- Bọn chó má Phiên bang các ngươi đừng có cuồng vọng làm minh chủ võ lâm ở Trung Nguyên.
Du Thản Chi cứng họng không biết đáp thế nào, hết nhìn Đinh Xuân Thu rồi lại nhìn Toàn Quan Thanh để chờ hai người mớm lời.
Đinh Xuân Thu hắng giọng một tiếng rồi nói:
- Thiếu Lâm phương trượng nói thế là sai. Lão phu là nhân dân hạt Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông, một nơi đã đản sinh Thánh Nhân. Phái Tinh Tú là do một tay lão phu sáng lập ra tại sao bảo là một môn phái Phiên bang ở Tây Vực được? Phái Tinh Tú lập ở miền Tây Vực chẳng qua là nơi lão phu tạm thời ẩn cư mà thôị Phương trượng bảo Tinh Tú là một môn phái Phiên bang phỏng có khác gì bảo Đức Khổng Tử cũng là người Phiên bang không? Thế thì thật là buồn cười! Hơn nữa, đại sư đã nói đến Phiên bang Tây Vực, sao không nhớ đức Đạt Ma tổ sư và nguồn gốc võ công của phái Thiếu Lâm? Cả Phật giáo cũng là giáo phái từ Phiên bang Tây Vực đưa đến. Theo lão phu nhận xét thì Thiếu Lâm mới chính là một môn phái Phiên bang Tây Vực.
Đinh Xuân Thu nói câu này khiến cho Huyền Từ và quần hùng đều cảm thấy khó bề giải thích. Toàn Quan Thanh cũng dõng dạc lên tiếng:
- Khó mà xét tới nguồn gốc võ công trong thiên hạ. Võ công Tây Vực truyền vào Trung Nguyên cũng có mà võ công từ Trung Nguyên truyền sang Tây Vực cũng có. Bang chúa tề bang vốn là người Trung thổ. Cái Bang lại là một môn phái ở Trung Nguyên. Vậy việc Bang chúa tệ bang đứng ra làm một nhân vật đầu não các phái võ Trung Nguyên cũng chẳng có gì trái lẽ. Huyền Từ phương trượng! Công việc bữa nay là căn cứ vào võ công mạnh hay yếu để phân thắng bại, chứ không căn cứ vào câu nói đầu môi chót lưỡi để định hơn thua. Giữa Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm hễ ai mạnh là được. Chỉ cần hai vị thủ lĩnh ra tay tỉ thí là có thể phân cao thấp ngay tức khắc. Nếu không thế thì dù tranh luận dài dòng hàng nửa ngày cũng không đi đến kết quả nào. Bằng phương trượng là người sáng suốt biết mình, biết người, tự liệu không địch nổi thì nên bái phục và suy tôn Bang chúa lên làm minh chủ võ lâm. Như vậy hai vị bất tất phải động thủ nữa.
Câu nói của hắn tỏ ra là Huyền Từ tự biết không địch nổi nên khiếp đảm mà tìm lời thoái thác. Huyền Từ thong thả bước ra mấy bước, miệng niệm A Di Đà Phật rồi nói:
- Vương Bang chúa! Bang chúa đã cố tình ép lão tăng phải động thủ. Nếu lão tăng còn giữ quan niệm hai bên giao hảo mấy trăm năm nay mà kiên quyết không chịu vâng lời thì tỏ ra bất kính đối với quý Bang.
Huyền Từ đại sư đưa mắt nhìn khắp quần hùng một lượt rồi dõng dạc tuyên bố:
- Liệt vị anh hùng! Bữa nay các vị đều tai nghe mắt thấy Thiếu Lâm tệ phái đã quyết tâm không có ý tranh đấu với Cái Bang, nhưng Vương Bang chúa cố tình bức bách nên lão tăng hết đường thoái thác.
Quần hùng đồng thanh nói:
- Đúng thế! Bọn tại hạ đều minh chứng là phái Thiếu Lâm không có chỗ nào khiếm khuyết.
Du Thản Chi chỉ nơm nớp lo âu về sự an nguy của A Tử, gã muốn giết Huyền Từ ngay để Đinh Xuân Thu buông tha nàng, liền lớn tiếng nói:
- Trong việc tỷ võ mạnh được, yếu thua, không cần kể đến hợp lý hay không hợp lý. Phương trượng mau mau động thủ đi.
Nên biết rằng Du Thản Chi, thuở nhỏ ham chơi, biếng học, tuy gã không phải con người có tính nết thuần lương nhưng cũng là một thiếu niên chất phác ngu đần. Sau khi phụ thân chết đi, gã trôi nổi trên chốn giang hồ, cuộc đời gã chịu đựng không biết bao nhiêu là sự khinh khi nhục nhã. Trước kia gã được gần người quang minh chính trực chỉ điểm những điều phải trái, song lại chung đụng với A Tử, chữ rằng "gần mực thì đen". Huống chi gã lại nhất tâm sùng kính A Tử, nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của nàng. Những điều thị phi, thiện ác, toàn theo đường lối tà ma, ngoại đạo của phái Tinh Tú. Từ lúc gã bái Đinh Xuân Thu làm sư phụ, lão họ Đinh chưa dậy qua gã một chút võ công nào, ngờ đâu, quanh đi quẩn lại vẫn là công phu của phái Tinh Tú. Những môn võ phái này toàn dùng lối âm độc để thủ thắng. Gã bị tiêm nhiễm hết ngày này qua ngày khác khiến cho một đệ tử vốn dòng dõi nghĩa hiệp đất Trung Nguyên biến thành con người hung bạo bất phân thiện ác, hoàn toàn trông vào sực lực để tranh thắng bại, bất chấp thị phi.
Huyền Từ lớn tiếng nói:
- Đức Phật từ bi! Theo lời Vương Bang chúa thì thanh danh nghĩa hiệp mấy trăm năm của Cái Bang đến đây bị sứt mẻ mất rồi!
Du Thản Chi đột nhiên băng mình lại gần hơn một trượng nói:
- Đánh thì đánh đi! Không đánh thì rút lui, đừng nhiều lời vô ích.
Gã vừa nói vừa liếc nhìn Đinh Xuân Thu ra chiều nóng nảy. Huyền Từ nói:
- Được rồi! Bữa nay lão tăng xin lãnh giáo "Hàng Long thập bát chưởng" cùng "Đả cẩu bổng pháp" là hai đại tuyệt kỹ của Vương Bang chúa để cho anh hùng hảo hán thiên hạ được xem công phu đích truyền từ mấy trăm năm của Cái Bang.
Du Thản Chi chưng hửng, bất giác lùi lại hai bước. Tuy gã làm Bang chúa Cái Bang nhưng chẳng biết một chiêu nào về Hàng Long thập bát chưởng và Đả cẩu bổng pháp. Nhưng gã được nghe người ta nói ngôi Bang chúa Cái Bang lúc truyền cho người mới tất phải truyền hai môn tuyệt kỹ này gọi là "Trấn Bang thần công".
Về môn "Hàng Long thập bát chưởng" còn có khi ngẫu nhiên truyền ra người ngoài không phải là Bang chúa, nhưng môn "Đả cẩu bổng pháp" thì nhất định là phải người kế vị Bang chúa mới được truyền thụ. Mấy trăm năm nay không một vị Bang chúa Cái Bang nào là không hiểu hai môn trấn Bang tuyệt kỹ đó.
Huyền Từ thấy vẻ mặt gã ngơ ngác liền nói:
- Lão tăng là phương trượng chùa Thiếu Lâm, dĩ nhiên phải thi triển "Đại Kim Cương quyền" cùng "Ban Nhược chưởng" để đón tiếp "Hàng Long thập bát chưởng" của quý Bang và dùng thiền trượng để đón tiếp Đả cẩu bổng. Hỡi ơi! Phái Thiếu Lâm cùng quý Bang đời đời giao hảo. Mấy môn võ này trước nay thường khi đứng bên nhau để đối phó với người ngoài chứ chưa từng cừu địch với nhau. Lão tăng đức bạc rất lấy làm hổ thẹn cùng các vị Bang chúa và chưởng môn truyền đời hai phái Cái Bang và Thiếu Lâm.
Quần hùng nghe đại sư nói đều đem lòng kính mến.
Tấm áo bào rộng thùng thình của Huyền Từ đại sư bay phấp phới. Hai bàn tay chắp lại. Đó là khởi điểm về thủ thức "Kính lễ chúng sinh" trong môn "Ban Nhược chưởng". Vẻ mặt hiền hoà thân ái nhưng tấm áo tăng bào xoè ra hai bên tả hữu đủ thấy trong chiêu thức này có ẩn tàng một nội lực rất cao thâm của thiền môn.
Du Thản Chi không nói gì nữa tay trái vung lên không đánh ra một chưởng. Tay phải cũng tiếp tục phóng chưởng ra ngay. Chưởng bên trái phóng ra trước mà đến sau, chưởng bên phải phóng ra sau mà đến trước. Hai luồng lực đạo so le xô tới, biến ảo dị thường.
Chưởng lực hai người phát ra đến giữa đường thì chạm nhau bật một tiếng "ầm" vang dội rồi cùng tiêu tan đi. Bỗng nghe hai tiếng veo véo. Hai đầu dây lưng của Huyền Từ đứt ra bay đi hai ngả xa đến mấy trượng. Nguyên hai chưởng lực của Du Thản Chi bao phủ một phạm vi rất rộng, đánh vào lực đạo của Huyền Từ liền bị chưởng lực "Kính Lễ Chúng Sinh" làm cho tiêu tan nhưng đầu sợi dây lưng tung ra hai bên hông bị chưởng lực của gã chấn động làm cho đứt rời.
Tăng lữ phái Thiếu Lâm cùng quần hùng thấy vậy đều la ó om sòm:
- Đây là võ công tà môn phái Tinh Tú.
- Không phải "Hàng Long thập bát chưởng". Không phải võ công đích truyền của Cái Bang!
Bọn đệ tử Cái Bang cũng la lên:
- Chúng ta tỷ võ với phái Thiếu Lâm không thể dùng công phu tà phái được! Bang chúa! Bang chúa phải thi triển "Hàng Long thập bát chưởng" mới đúng. Sử dụng công phu tà phái là làm cho Cái Bang mất mặt.
Du Thản Chi vừa đối chưởng đã chiếm được một chút thượng phong, nhưng nghe mọi người la om sòm, lòng gã sinh ra ngần ngại. Chiêu thứ hai không phóng ra được nữa.
Bọn đồ đệ phái Tinh Tú la rầm lên:
- Thần công phái Tinh Tú cao cường gấp mấy võ công của Cái Bang, sao lại không thi triển nữa đi?
- Vương sư huynh! Sư huynh tiến lên đi! Dĩ nhiên là sư huynh phải sử dụng thần công của lão tiên đã truyền thụ cho để giết lão sư già đó đi.
- Tinh Tú lão tiên đức ngang trời đất.
- Tinh Tú thần công đệ nhất thiên hạ, đánh đâu được đấy.
Hai bên thi nhau la ó và hoan hô thì đột nhiên dưới chân núi có một thanh âm hùng tráng vọng lên:
- Ai bảo võ công phái Tinh Tú hơn được "Hàng Long thập bát chưởng" của Cái Bang?
Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Mười mấy người cưỡi ngựa chạy như bay, đang lao lên núi. Khách kỵ toàn mặc áo mỏng màu huyền trong, lót vải sắc tía. Người nào cũng mạnh như hổ, ngựa như rồng, oai phong lẫm liệt. Con ngựa nào cũng đầu cao, chân dài, toàn thân lông đen. Ngựa đi tới đâu ánh sáng vàng lấp loáng đến đấy, thì ra móng chân nói đều được bịt vàng... Số người kỵ mã cả thảy là mười chín, nhưng khí thế mạnh bằng thiên binh vạn mã.
Mười tám ngọn ngựa đi trước, gần tới nơi thì rẽ ra hai bên. Con đi cuối cùng đường hoàng tiến vào giữa. Bang chúng Cái Bang vừa thấy nhân vật này liền lớn tiếng reo:
- Kiều Bang chúa! Kiều Bang chúa!
Mấy trăm bang chúng chạy nhanh tới trước ngựa khom lưng thi lễ. Nguyên người này chính là Tiêu Phong. Tiêu Phong từ khi bị trục xuất ra khỏi Cái Bang, ông yên trí rằng bọn đệ tử trong Bang đều thù ghét mình. Ông có ngờ đâu họ vẫn còn mối tình với mình. Họ bái kiến Tiêu Phong với cả một tấm lòng nhiệt thành. Bầu máu nóng ông sôi lên. Cặp mắt hùm long lanh ngấn lệ. Ông nhảy phóc xuống ngựa chắp tay thi lễ nói:
- Tại hạ là Tiêu Phong người Khất Đan đã bị đuổi đi thì không còn dính líu đến Cái Bang nữa. Sao các vị vẫn xưng hô như cũ. Các anh em lâu nay vẫn mạnh khoẻ chứ?
Câu nói sau cùng của Tiêu Phong tỏ ra quyến luyến tình xưa với bang chúng Cái Bang.
Bọn tiểu tử Cái Bang đến tham kiến Tiêu Phong đa số là hạng ba, bốn túi. Còn hàng một, hai túi, đều là mới gia nhập, hoặc địa vị thấp kém ít có cơ hội được gặp Tiêu Phong. Còn hàng năm, sáu túi trở lên thì phải giữ lề luật nghiêm phòng không giao thiệp với người man rợ. Những người lớn tuổi ngôi cao bao giờ tính nết cũng dè dặt, không như bọn thanh niên sôi nổi muốn làm gì là làm ngay, không cần suy tính sâu xa.
Nên biết rằng theo bang quy của Cái Bang thì mấy trăm bang chúng này ra thi lễ với Tiêu Phong cũng là phạm lỗi. Bọn chúng nghe Tiêu Phong nói vậy, đột nhiên tỉnh ngộ, biết là hành động của mình vô ý thức. Vị Kiều Bang chúa là người Khất Đan tức là kẻ đại thù với người Hán.
Từ trên xuống dưới bang chúng Cái Bang đều biết rõ cả, thế mà Tiêu Phong vừa xuất hiện đột ngột, họ lại nảy ra tấm lòng yêu mến, là vì họ lãng quên việc lớn. Có người cúi đầu lùi lại. Nhưng một số đông vẫn ra chiều lưu luyến, ngập ngừng nói:
- Kiều... Kiều lão gia vẫn mạnh ư? Sau khi ly biệt, lúc nào bọn tại hạ cũng tưởng nhớ đến lão gia.
Chuyến này Tiêu Phong lại xuống Trung Nguyên đã chuẩn bị sẵn sàng. Ông lựa chọn mười tám con tuấn mã gọi là "Yên văn thập bát kỵ". Bọn tuỳ tùng ông cũng thuộc vào hạng cao thủ tuyệt tích của dòng họ Khất Đan. Lần trước, một mình Tiêu Phong độc chiến quần hùng tại Tụ Hiền Trang, nếu không được một vị đại anh hùng đột nhiên xuất hiện cứu cho thì đã mất mạng ngay đương trường. Như vậy đủ tỏ câu "Mãnh hổ nan địch quần hồ" là đúng. Dù ai võ công cao cường đến đâu, nhưng lấy một chọi trăm cũng không thể được. Bây giờ ông đưa đoàn "Yên vân thập bát kỵ" đến đây, mỗi tên có thể địch nổi mười.
Huống chi, ngựa của họ đều là thứ lương câu ngàn dặm, lúc gặp nguy cấp thì chuyện rút lui cũng chẳng khó gì. Tiêu Phong vừa đến chân núi Thiếu Thất, gặp lúc bọn môn đồ phái Tinh Tú đang lớn tiếng ca ngợi võ công phái họ còn hay hơn "Hàng Long thập bát chưởng" thì không khỏi lửa giận bùng lên. Tuy ông bây giờ không làm Bang chúa Cái Bang nữa nhưng môn "Hàng Long thập bát chưởng" là của ân sư Uông Kiếm Thông truyền thụ cho ông, thì khi nào ông chịu để cho ai khinh miệt.
Tiêu Phong lại liếc mắt nhìn thấy Đinh Xuân Thu trong tay đang nắm giữ một thiếu nữ áo tía thân hình mảnh mai, mặt trái xoan, nước da trắng như tuyết. Nàng chính là A Tử.
Chuyến này Tiêu Phong không ngại gian lao xuống Trung Nguyên tuy còn nhiều việc khác trọng yếu, nhưng việc tìm A Tử cũng là một nguyên nhân thúc bách ông ra đi. Ông vừa nhìn thấy A Tử bị người nắm giữ sực nhớ tới lời trọng thác của A Châu lúc lâm tử. Ông liền sừng sộ bước tới nơi, tay trái khoa lên, tay phải vung chưởng nhằm đánh tới Đinh Xuân Thu. Chiêu thức này chính là "Kháng long hữu hối" một chiêu rất cương cường trong "Hàng Long thập bát chưởng". Ông còn đứng cách Đinh Xuân Thu mười bảy, mười tám trượng, nhưng lúc chưởng lực phát huy ra thì ông chỉ còn các chừng mười trượng. Nhưng dù chưởng lực ai mãnh liệt đến đâu cũng không thể còn cách xa mười trượng mà đãđánh trúng ngay được.
Đinh Xuân Thu thường nghe tiếng: "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung", nên đối với ông, hắn không dám coi thường. Có điều đứng ngoài xa mười tám trượng mà ông đã phát chưởng thì không khi nào hắn ngờ rằng phát chưởng này lại phóng ra để đánh mình. Dè đâu, Tiêu Phong vừa phát chưởng ra thì còn cách mười tám trượng, nhưng lại tiếp theo một chiêu "Kháng long hữu hối". Chiêu sau thúc đẩy phát chưởng trước. Hai luồng chưởng lực hợp lại sức mạnh dường nghiêng non, dốc biển, ào ào tràn tới.
Chỉ trong nháy mắt, Đinh Xuân Thu cảm thấy mơ hồ như nghẹt thở. Chưởng lực của đối phương chẳng khác nào làn sóng thần xô đẩy, không tài nào ngăn trở được. Nó lại giống như một bức tường cao đè ập tới trước mặt, tưởng chừng A Tử cùng hắn sắp phải tan nát thịt thành như một đống bùn.
Đinh Xuân Thu đang lúc kinh hãi quá chừng, không còn nghĩ ra được kế hoạch gì để đối phó. Hắn biết phóng đơn chưởng ra ngăn đón tất sẽ bị gãy tay mà có khi còn phải nát xương bong gân nữa. Hắn nhìn thấy Tiêu Phong thân oai lẫm liệt, song chưởng múa tít phóng luôn ra bảy tám chiêu liền vào chung quanh mình hắn cực kỳ dữ dội.
Trong lúc cấp bách, Đinh Xuân Thu vội liệng A Tử ra rồi khoa hai tay lên ba vòng để che phía trước mình. Đồng thời hắn chỉ đầu ngón chân xuống đất nhảy lùi lại hơn ba trượng. Tiêu Phong lại phóng ra chiêu "Kháng long hữu hối". Chưởng lực chiêu trước chưa tan, chiêu sau lại tiếp đến.
Đinh Xuân Thu không dám chính diện nghinh địch, phóng chưởng chênh chếch ra để đẩy vào mé bên chưởng lực của đối phương. Nhưng hắn cảm thấy tay phải tê nhức. Hơi thở trong ngực nghẹt tức trầm trọng. Hắn liền nhân lúc này nhảy ra ngoài ba trượng. Hắn sợ Tiêu Phong rượt theo, vẫn phải dựng bàn tay lên đón trước ngực và ngấm ngầm ngưng tụ độc khí vào bàn tay.
Tiêu Phong nhẹ nhàng vươn cánh tay ra đón lấy A Tử lúc nàng còn lơ lửng trên không. Ông chỉ chạm vào một cái là đã giải khai huyệt đạo cho nàng được ngay. A Tử từ lúc bị Đinh Xuân Thu kiềm chế, tuy hai mắt nàng đui mù không nhìn thấy gì, miệng không nói được nhưng những biến cố xảy ra chung quanh nàng nghe thấy rất rõ ràng.
A Tử vừa được giải khai huyệt đạo, liền mừng rỡ cất tiếng gọi:
- Tỷ phu giỏi quá! Nhờ có tỷ phu đến mới cứu được tiểu muội.
Tiêu Phong nghĩ tới nàng tự nhiên bỏ đi, không nửa lời từ biệt, để mình nóng ruột trông chờ thì tức khí lại xông lên. Ông vung tay phát vào mông nàng một chưởng, quát hỏi:
- Ngươi ra khỏi nhà mà không bảo gì ta là nghĩa làm sao? Ngươi để ta khổ công tìm kiếm khắp nơi.
ồi Thứ 113
Chùa Thiếu Lâm Tiêu Phong bị vây
Tiêu Phong ở nước Liêu lâu ngày đã tiêm nhiễm tập tục người Khất Đan rất nhiều tính tính lại khoáng đạt không câu nệ tiểu tiết, hễ trong lòng tức giận là ra tay đánh liền. Có điều phát chưởng này chỉ hời hợt bên ngoài.
Thế mà A Tử cũng đau đớn thét lên, be be nói:
- Tỷ phu tệ quá! Sao lại đánh người ta?
Tiêu Phong nói:
- Ta cần cho con tiểu nha đầu một bài học.
Đột nhiên A Tử quay mặt lại, mắt nàng không còn trong nữa, con ngươi bị hỏng rồi. Tiêu Phong bất giác thất kinh la lên:
- Ngươi... Mắt ngươi làm sao rồi...?
Lúc Tiêu Phong lên núi, quần hùng nhốn nháo cả lên. Ai cũng nhớ lại ngày ở Tụ Hiền Trang, một mình ông đánh chết mấy chục tay cao thủ, oai danh chấn động võ lâm. Quần hùng Trung Nguyên hễ nghĩ tới vụ này là nghiến răng căm hận, nhưng vừa nghe thấy tin ông là đã khiếp đảm kinh hồn.
Lúc này Tiêu Phong xuất hiện đột ngột tại núi Thiếu Thất, quần hùng chắc rằng khó lòng thoát khỏi một cuộc ác chiến. Những người hiện diện ở Tụ Hiền Trang ngày trước nhớ lại cảnh thảm khốc máu thịt bay, thây chết lăn lộn trong nhà đại sảnh thì lại sợ run lên. Đến khi Tiêu Phong vừa ra chiêu "Kháng long hữu hối" đã làm cho một tay khét tiếng giang hồ là Tinh Tú lão quái phải cắm đầu chạy trốn thì ai nấy càng thêm phần khiếp sợ. Quần hùng ở trên núi ngơ ngác nhìn nhau không dám nói gì. Chỉ có mấy chục tên môn đồ phái Tinh Tú là còn nói khoác:
- Gã họ Kiều kia! Mi đã trúng phải môn tiên phật của Tinh Tú lão tiên thì chỉ trong mười ngày là nhũn ra mà chết.
- Tinh Tú lão nhân đã ra tay mà mi không biết ăn năn hối tội, năn nỉ lão tiên tha mạng thì rồi chết không có đất chôn.
Tuy chúng nói cứng nhưng lạc hẳn giọng ra chiều miễn cưỡng, chứ không hênh hoang hăng hái như trước. Du Thản Chi vừa thấy Tiêu Phong đã có ý run sợ. Nhưng gã chứng kiến ông đánh mắng A Tử thì không nhẫn nại được nữa liền nhảy xổ lại nói:
- Ngươi hãy buông tha A Tử cô nương ra!
Tiêu Phong bỏ A Tử xuống đất hỏi:
- Các hạ là ai?
Du Thản Chi đã gặp Tiêu Phong nhiều lần khi còn ở nước Liêu, nhưng bây giờ mặt mũi hắn đã khác mà võ công cùng địa vị không còn như trước nữa nên ông không nhận ra. Có điều Tiêu Phong làm đến Nam Viện đại vương thì cái oai phong của ông đã chôn sâu vào tâm tư Du Thản Chi không bao giờ tiêu diệt được. Huống chi Tiêu Phong lại ra tay cứu A Tử thì cái ơn đức cứu giai nhân còn nặng hơn mối thù giết cha nhiều.
Bất giác gã rụt rè đáp:
- Tại hạ... Tại hạ là chưởng môn phái Cực Lạc và là Bang chúa Cái Bang... tên gọi Vương Tinh Thiên.
Trong đám đệ tử Cái Bang có người lớn tiếng nói:
- Ngươi đã lạy Tinh Tú lão quái làm sư phụ thì hiện giờ, người là đệ tử của bàng môn tả đạo rồi thì còn xưng là Bang chúa Cái Bang thế nào được?
A Tử bỗng lên tiếng:
- Ta đây mới là chưởng môn phái Tinh Tú. Lúc nãy Vương công tử dập đầu trước Tinh Tú lão quái là thi triển môn "Cáp đầu hoá tuyết công", các ngươi tưởng Vương công tử lạy hắn thật ư? Tinh Tú lão quái mắc hợm rồi đấy. Chỉ trong vòng ba ngày là toàn thân hắn bị hoá tuyết mà chết, rẻ xương cũng chẳng còn. Nếu các ngươi không tin thì hãy chờ xem.
A Tử quả không hổ là đích truyền đệ tử phái Tinh Tú, nàng có bản lĩnh lừa bịp rất kỳ khôi, tánh tình điêu ngoa, ngang ngược. Bọn đệ tử Cái Bang nghe A Tử nói nửa tin, nửa ngờ. Họ nghĩ rằng phái Tinh Tú có nhiều công phu gian tà, ác độc. Có thể đó là "Cáp đầu hoá tuyết công" gì gì đó cũng chưa biết chừng?
Tiêu Phong nghe A Tử lại nói trăng, nói cuội, liền đưa mắt nhìn khắp lượt để coi thái độ mọi người. Chợt thấy trong đám đông có cả Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thì trong lòng vừa chua xót vừa vui mừng, ông lớn tiếng nói:
- Trấn Nam Vương gia nước Đại Lý! Hiện giờ lệnh ái cũng ở đây, Vương gia đem lệnh ái về quê mà quản cố.
Ông nói rồi nắm tay A Tử kéo lại trước mặt Đoàn Chính Thuần, khẽ đẩy nàng qua. Nguyễn Tinh Trúc nước mắt đã ướt đầm, lúc này rơi tầm tã. Mụ chạy ra ôm lấy A Tử nói:
- Hài tử!... Mắt con làm sao vậy?
A Tử đối với cha mẹ vốn không có thâm tình mà tính nàng lại hiếu thắng. Nàng không chịu thừa nhận Đinh Xuân Thu đánh cho đui mù liền lớn tiếng đáp:
- Cái đó không can chi! Hài nhi luyện môn "Tứ nhỡn phổ quang đại pháp" của phái Tinh Tú, cố ý làm cho mắt đui mù. Đinh Xuân Thu đâu có hiểu được công phu này?
Đoàn Dự thấy Tiêu Phong xuất hiện đột ngột, chàng rất vui mừng. đã toan tiến ra tương kiến thì thấy ông vung chưởng đánh Đinh Xuân Thu rồi đánh mắng A Tử, đoạn quay lại hội kiến Du Thản Chi không có lúc nào rảnh. Chàng chờ cho đến lúc Nguyễn Tinh Trúc ôm lấy A Tử khóc rống lên, thì ngấm ngầm kinh hãi tự hỏi:
- Tại sao Kiều đại ca lại gọi cô bé mù kia với gia gia ta là lệnh ái?
Nhưng rồi chàng biết phụ thân mình đi tới đâu có nhân tình tới đó thì đoán ngay ra mối quan hệ giữa Nguyễn Tinh Trúc và phụ thân mình. Liền rảo bước chạy ra lớn tiếng gọi:
- Đại ca! Vẫn mạnh giỏi chứ? Tiểu đệ nhớ đại ca muốn chết.
Tiêu Phong từ khi uống rượu thi với Đoàn Dự trong một tửu lầu tại ngoài thành Vô Tích rồi kết làm anh em. Tuy thời gian ở với nhau rất ngắn ngủi, song vẫn mến nhau lắm, thật là hai bên ý hợp tâm đầu.
Tiêu Phong tiến lại nắm lấy tay chàng nói:
- Huynh đệ! Gần đây có chuyện gì không? Tiểu huynh thì lắm chuyện quá không một lúc nào nói cho hết được. May mà chúng ta đều được vô sự. Tiểu huynh trông thấy hiền đệ được yên lành là an tâm lắm rồị Cảm tạ trời phật phò hộ chúng ta...
Bỗng nghe trong đám đông có tiếng người quát:
- Gã họ Kiều kia! Mi giết huynh trưởng ta. Món nợ máu đó ta chưa đòi được. Bữa nay ta quyết liều mạng với mi đây!
Tiếp theo lại có tiếng người khác:
- Gã Kiều Phong này là quân rợ hồ Khất Đan, bất luận là ai cũng nên tru diệt hắn đi! Bữa nay đừng để hắn thoát chết mà rời khỏi Thiếu Thất này.
Tiếng la ó om sòm rất là huyên náo. Người thì thoá mạ Tiêu Phong ở Tụ Hiền Trang đã giết chết và đánh trọng thương rất nhiều tay cao thủ. Hiện giờ các lộ anh hùng đến chùa Thiếu Lâm, có một số thân nhân hay bạn bè đã bị chết về tay Tiêu Phong. Trong lòng họ tuy rất sợ ông nhưng nghĩ tới món nợ máu của bà con, anh em, họ không dằn lòng được nữa nên lớn tiếng mắng chửi. Tiếng quát tháo, tiếng chửi rủa mỗi lúc một ầm lên.
Mọi người chính mắt trông thấy Tiêu Phong đem ra bất quá là mười tám tên võ sĩ tuỳ tùng, mà ông đã bị Cái Bang cùng phái Thiếu Lâm thù hận đến tận xương tủy. Vừa đây ông lại đánh nhau với Đinh Xuân Thu và cũng thành ra kẻ đại địch của phái Tinh Tú. Họ tính rằng nếu bây giờ xảy ra cuộc động thủ, dù Cái Bang có đứng ngoài chẳng giúp bên nào thì các lộ anh hùng cùng tăng lữ chùa Thiếu Lâm thêm vào bọn môn đồ phái Tinh Tú tất cả có đến mấy ngàn người vây lại đánh. Bọn Tiêu Phong chỉ có mười chín người thì dù ông có bản lãnh nghiêng trời cũng quyết không thể nào thoát vòng vây nhìn rõ lực lượng bên mình rất hùng hậu mà đối phương bạc phước, mọi người cảm thấy tinh thần phấn khởi vô cùng. Huống chi núi Thiếu Thất lại tập hợp toàn những nhân vật đầu não các môn phái. Võ công đã cao cường lại xưng hùng một phương, nên chẳng ai khiếp nhược hay sợ chết nữa.
Tiêu Phong nghe quần hùng la ó, liền dõng dạc nói:
- Tiêu Phong này đến Trung Nguyên bữa nay là có việc trọng yếu cầu xin chùa Thiếu Lâm chỉ giáo. Các vị muốn giết Tiêu Phong thì hãy xin chờ nán lại một chút hiện giờ xin liệt vị thứ cho, Tiêu mỗ chưa thể bồi tiếp được.
Quần hùng người nhiều, miệng lắm, trong lúc sôi nổi thì làm sao mà bình tĩnh lại được. Có hạng người thô lỗ nóng nảy việc báo thù, không nhẫn nại được, liền văng tục ra mà chửi rủa nghe rất chướng tai. Mấy chục người rút binh khí ra, khoa đao múa kiếm càng làm cho tình trạng thêm khẩn trương. Xem chừng họ muốn nhảy xổ vào ăn tươi nuốt sống hoặc phanh thây Tiêu Phong ra làm trăm đoạn.
Lúc Tiêu Phong ra đi để đến núi Thiếu Thất, ông không ngờ tại đây lại có vô số kẻ thù tụ tập. Nhưng sự đã xảy ra thế này ông đành mặc kệ cho biến diễn xảy ra tới đâu hay tới đó, không lẽ chịu rút lui ngay thì còn chi là oai danh của một vị Nam Viện đại vương nữa.
Tiêu Phong từ thuở nhỏ đã qua lại trên chốn giang hồ đất Trung Nguyên, tuy các lộ anh hùng có người chưa biết mặt nhưng cũng nghe danh. Ông hiểu rằng những người này phần lớn đều là tay nghĩa hiệp. Sở dĩ họ oán mình chẳng qua là vì mình là người Khất Đan, hai là bên trong có xúi bậy để sinh ra sự hiểu lầm. Ngày trước xảy ra cuộc chiến đấu tại Tụ Hiền Trang, vì sự bảo vệ mà ông phải đánh giết nhiều người chứ bản tâm ông không muốn thế. Ông lại nghĩ rằng:
- Nếu bữa nay lại xảy ra cuộc đại chiến thì quyết mình không thể thủ thắng được. Dù mình có trốn thoát được thì bọn "Yên vân thập bát kỵ" tất không khỏi tổn thương trầm trọng. Huống chi mình có giết sạch được bọn người này thì chỉ thêm thù thêm oán chứ chẳng được ích gì.
Nghĩ tới đây ông tự nhủ:
- Trước mặt chỗ bá nhân, bá khẩu này, mình không nên đem sự việc của mình ra khỏi chùa Thiếu Lâm nữa là hơn. Chi bằng mình lui trước đi để cố tránh sự đổ máu. Chờ cho bọn người này giải tán rồi, mình sẽ trở lại hỏi việc cũng chưa muộn.
Ông liền quay sang bảo Đoàn Dự:
- Đoàn hiền đệ! Cục diện lúc này rất là nghiêm trọng. Anh em ta khó có cơ hội để nói chuyện nhiều. Hiền đệ hãy tạm rút lui, còn trời còn đất thì chúng ta còn có ngày tái hội.
Tiêu Phong nói vậy là có ý muốn cho Đoàn Dự lánh đi, đứng xớ rớ trong lúc hai bên đang xung đột, rủi có người lỡ tay đả thương chàng, làm cho ông phân tâm trong lúc lâm trận mấy ngàn người và cũng khó mà bảo vệ chàng được. Đoàn Dự tuy không hiểu võ công, nhưng bản tính gan dạ. Chàng thấy các lộ anh hùng hàng mấy ngàn người, ai cũng lăm le muốn giết nghĩa huynh thì bất giác nổi lòng nghĩa hiệp, bèn lớn tiếng nói:
- Đại ca! Lúc anh em ta kết nghĩa đã ước hẹn với nhau những gì? Phải chăng là phúc cùng hưởng hoạ cùng chia. Đã không đồng sinh nhưng quyết đồng tử. Bữa nay đại ca gặp nạn khi nào tiểu đệ lại ham sống lấy một mình?
Trước nay mỗi lần gặp bước gian nan, chàng lại thi triển bộ pháp "Lăng Ba Vi Bộ", ở giữa chỗ đông người mà chạy thoát được dễ dàng. Nhưng lúc này, chàng tuyệt không nghĩ gì đến chuyện trốn tránh để cầu toàn mạng. Chàng càng thấy tình thế nguy hiểm, thì lại quyết ý liều chết với Tiêu Phong cho vẹn chữ chi lan.
Đa số hào kiệt chưa biết Đoàn Dự là ai, thấy chàng tự xưng với Tiêu Phong là nghĩa huynh, nghĩa đệ, lại cùng cố ý cùng Tiêu Phong hợp lực đối địch. Nhưng họ thấy chàng có vẻ một anh đồ nho lại còn ít tuổi, nên chẳng ai thèm quan tâm đến chàng. Họ càng hùng hổ hơn trước.
Tiêu Phong nói:
- Hiền đệ! Hảo ý của hiền đệ, tiểu huynh rất lấy làm cảm tạ. Dù bọn họ muốn giết tiểu huynh cũng không phải là chuyện dễ đâu. Hiền đệ nên lui ra, không thì tiểu huynh phải phân chia lực lượng để hộ vệ cho hiền đệ như vậy bất tiện cho tiểu huynh.
Đoàn Dự nói:
- Đại ca bất tất phải bảo vệ cho tiểu đệ. Bọn họ không thù oán gì với tiểu đệ thì họ giết tiểu đệ làm chi?
Tiêu Phong miễn cưỡng mở một nụ cười trong bụng ông lại nổi lên bao mối thê lương rồi lẩm bẩm:
- Nếu bảo không thù oán là không sát hại nhau thì trên thế gian làm gì còn có oán thù?
Đoàn Chính Thuần khẽ bảo bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cẩn, Ba Thiên Thạch:
- Vị Tiêu đại hiệp đây đã có ơn cứu mạng ta... Chúng ta thử chờ xem, nếu y gặp nguy cấp thì bọn ta phải xông vào cứu y thoát hiểm.
Phạm Hoa đáp:
- Vâng!
Lão nói xong tuốt gươm nhìn về phía mấy ngàn hào kiệt rồi hỏi:
- Bên đối phương đông người lắm, chẳng hiểu chúa công có kế gì không?
Ðoàn Chính Thuần lắc đầu đáp:
- Bậc đại trượng phu phải đền ân, trả oán phân minh. Mình chỉ biết hết lòng hết sức khi cần thì liều một chết để đền đáp!
Bọn người Đại Lý đồng thanh nói:
- Đương nhiên là phải chết.
Bọn Yến Tử ở bên kia cũng khẽ nghị luận cùng nhau. Công Dã Càn từ khi uống rượu với Tiêu Phong, trong lòng rất khâm phục ông, cũng muốn ra tay để giúp sức. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác thì kính phục Tiêu Phong sát đất chỉ lăm le muốn nhảy ra giúp ông ngay.
Mộ Dung Phục nói:
- Các vị huynh trưởng! Tiểu đệ cần nhắc các vị công việc chính yếu của chúng ta là phục hưng nước Đại Yên, há nên vì một mình Tiêu Phong mà gây thù oán với anh hùng thiên hạ?
Đặng Bách Xuyên nói:
- Lời công tử dạy chí phải! Vậy chúng ta nên thế nào?
Mộ Dung Phục đáp:
- Thu phục nhân tâm để họ giúp mình.
Đột nhiên y hú lên môt tiếng dài rồi dõng dạc nói:
- Tiêu huynh! Tiêu huynh là một bậc anh hùng Khất Đan coi bọn hào kiệt Trung Nguyên chúng ta không vào đâu. Bây giờ Cô Tô Mộ Dung Phục này mới lãnh giáo mấy cao chiêu của các hạ. Tại hạ dù có chết về tay Tiêu huynh thì cũng là góp được một phần nhỏ trong công cuộc chung của anh em hào kiệt ở Trung Nguyên. Cái chết đó tưởng cũng vinh dự.
Mộ Dung Phục nói mấy câu này cốt để cho quần hùng Trung Nguyên nghe rõ, và như vậy, bấy luận y thắng hay bại thì các hào kiệt Trung Nguyên cũng coi Cô Tô Mộ Dung Phục là bạn sinh tử để sau này giúp y phục quốc. Quả nhiên quần hùng vừa nghe y nói đã nổi lên một trận hoan hô, vang dội cả góc trời.
Ta nên biết rằng tuy quần hào có ý muốn quyết một trận sống mái với Tiêu Phong, nhưng chưa một ai dám đứng đầu ra khiêu chiến. Mọi người đều biết rằng đánh đến cùng tất Tiêu Phong phải chết, nhưng những người xông vào trước tiên, thế nào cũng bị hy sinh vài chục mạng chết. Bây giờ Mộ Dung Phục tự ý ra đương đầu, ai nấy đều sung sướng và phấn khởi tinh thần. Họ tính rằng: "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung". Hai người nổi tiếng ngang. Nếu Mộ Dung liều chết ra tay thì dù không địch nổi nhưng cũng đủ làm nhụt bớt nhuệ khí của đối phương và làm tiêu hao phần lớn nội lực của Tiêu Phong.
Tiêu Phong cũng nghe đại danh Cô Tô Mộ Dung từ lâu. Ông biết võ công nhà này không phải là tầm thường. Đột nhiên ông thấy y ra khiêu chiến với mình thì không khỏi kinh hãi vì một mình Mộ Dung Phục tuy chưa chắc đã đánh chết được mình. Nhưng bên địch có nhiều tay cao thủ thì mình khó lòng chạy thoát nếu không thì cũng xảy ra một trận Tụ Hiền Trang thứ hai.
Tiêu Phong chắp tay thi lễ nói:
- Tại hạ được nghe tiếng lớn công tử đã lâu, bữa nay được gặp cao hiền thật thoả lòng khát vọng.
Đoàn Dự vội đáp:
- Mộ Dung huynh! Mộ Dung huynh tính thế thì không phải. Đại ca tại hạ mới gặp Mộ Dung huynh lần đầu, vốn không thù oán, tưởng Mộ Dung huynh chẳng nên giậu đổ bìm leo.
Mộ Dung Phục cười lạt đáp:
- Nếu Đoàn huynh ra dạ bất bình của bậc anh hùng hảo hán thì cùng ra cả đây tại hạ lãnh giáo luôn thể.
Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự quấn quít bên mình Vương Ngọc Yến đã có ý bất bình. Bây giờ y nhân cơ hội này để trút hận và muốn nhổ cái gai trước mắt đó.
Đoàn Dự nói:
- Tại hạ có bản lãnh gì mà tỷ đấu với Mộ Dung huynh được? Chẳng qua tại hạ muốn nói theo lẽ công bằng mà thôi.
Đinh Xuân Thu bị Tiêu Phong đánh cho mấy chưởng phải bỏ chạy, hắn rất lấy làm phẫn hận, và tiếc rằng những tuyệt kỹ của mình chưa thi triển được. Hắn liền tung mình nhảy ra cười ha hả nói để gỡ thể diện:
- Gã họ Tiêu kia! Lão phu thấy mi trẻ tuổi, vừa rồi nhường mi ba chiêu. Nhưng đến chiêu thứ tư thì không chịu nhường nữa đâu.
Du Thản Chi cũng tiến ra nói:
- Vương Tinh Thiên này đa tạ các hạ đã cứu A Tử cô nương. Nhưng còn mối thù giết cha chẳng đội trời chung nữa! Vậy thì gã họ Tiêu kia! Bữa nay ngươi muốn sống mà xuống núi Thiếu Thất ta tưởng còn khó hơn tìm đường lên trời.
Huyền Linh đại sư chùa Thiếu Lâm ngấm ngầm mật truyền hiệu lệnh:
- Các tăng lữ chùa Thiếu Lâm trong "La Hán đại trận" phải canh gác cẩn thận những đường trọng yếu xuống núi. Tên ác đồ giết chết Huyền Khổ sư huynh không thể để hắn sống được.
Tiêu Phong thấy ba tay đại cao thủ đã thành thế chân vạc để bao vây mình cũng hơi chột dạ. Quần tăng chùa Thiếu Lâm chỗ nào cũng chuyển động tưởng chừng như rối loạn, mà thực ra đó là một trận pháp lợi hại. Tình hình nay so với cuộc chiến ở Tụ Hiền Trang ngày trước còn nguy hiểm hơn nhiều. Bỗng nghe mấy tiếng ngựa hí rất bi thảm. Mười chín con tuấn mã Khất Đan rất cường kiện tự nhiên ngã lăn miệng sùi bọt mép chết liền. Tiêu Phong vừa thấy đoàn lương câu của mình đột nhiên lăn ra mà chết thì giật mình kinh hãi.
Mười tám tay võ sĩ Khất Đan quát tháo om sòm, múa đao vung chưởng, nháy mắt đã đánh bảy, tám tên môn đồ phái Tinh Tú vỡ đầu chết liền, và mấy tên bỏ chạy. Nguyên lúc Đinh Xuân Thu tiến ra khiêu chiến thì bọn chúng chia nhau phóng độc và đánh thuốc cho đàn ngựa chết trước để đề phòng Tiêu Phong dùng ngựa trong lúc nguy thoát khỏi trùng vi.
Tiêu Phong liếc mắt nhìn thấy những con ngựa yêu quý lúc lâm tử giương mắt lên nhìn mình ra chiều lưu luyến thì trong lòng ông thấy thê lương. Ông nhớ lại đám ngựa này rất có công với mình lâu ngày. Trên đường xuống Nam xa hàng vạn dặm, ngày đêm ông chẳng rời yên, không ngờ bữa nay chúng bị chết về tay bọn gian nhân. Ông giận quá, máu nóng sủi lên sùng sục.
Ông hú lên một tiếng dài rồi nói:
- Mộ Dung tiên sinh! Vương Bang chúa! Đinh lão quái! Mời cả ba vị tiến lên! Tiêu mỗ phỏng có sợ gì?
Ông căm hận bọn Tinh Tú dùng thủ đoạn thâm độc, liền phóng chưởng đánh tới đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu đã được nếm mùi chưởng lực của Tiêu Phong vô cùng lợi hại, hắn liền vung cả song chưởng ra dùng toàn lực để chống lại. Mộ Dung Phục và Vương Tinh Thiên đều vung song chưởng ra. Tiêu Phong thuận thế, đồng thời giải khai chưởng lực của hai người kia rồi phóng chưởng ra chênh chếch vào Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục rất thiện về kỹ thuật "đẩu chuyển tinh di" cứ để nguyên chiêu thức của đối phương, chỉ cần di chuyển phương vị đi để chiêu thức đó đánh ngược trở lại. Nhưng Tiêu Phong ra chiêu đã uy hiếp rất dữ chưởng lực của hai người. Luồng lực đạo của ông hùng hậu vô cùng. Đồng thời những luồng chưởng lực xoáy lại rất mau, y không biết nó đánh vào phương hướng nào, nên không thể lái chiêu thức đi được. Y liền ngưng tụ nội lực phóng hai chưởng ra, đồng thời nhảy lùi lại ba trượng.
Tiêu Phong hơi né người đi, tránh khỏi chưởng lực của Mộ Dung Phục rồi quát to lên một tiếng tựa sét nổ lưng trời, ông đánh một quyền về phía Du Thản Chi. Tiêu Phong người to lớn, cao hơn Du Thản Chi một cái đầu. Thoi quyền của ông đánh ra nhằm trúng giữa mặt đối phương. Du Thản Chi trong lòng vốn khiếp sợ Tiêu Phong từ lâu. Gã nghe tiếng ông quát, không khỏi giật mình kinh hãi.
Thoi quyền của Tiêu Phong đánh tới rất mau. Phát chưởng của ông nhằm đánh vào Đinh Xuân Thu rồi chênh chếch quét Mộ Dung Phục. Thoi quyền đánh Du Thản Chi tuy phóng ra sau phát chưởng nhưng cả mấy chiêu này liên tiếp nhau nhanh như điện chớp.
Du Thản Chi vươn tay ra toan chống đỡ thì thoi quyền cũng đến trước mặt. Gã đã luyện được môn "Dịch cân kinh", công lực tăng lên rất nhiều và nội thể phát sinh phản ứng tự nhiên. Gã vội ngửa đầu về phía sau lộn đi hai vòng. May mà y tránh khỏi thoi quyền sức mạnh ngàn cân của Tiêu Phong đánh đến, chỉ còn cách chừng sợi tóc là y tan xương nát thịt. Người y phát run lên vì sự lanh lẹ của Tiêu Phong.
Hồi Thứ 114
Cứu sư phụ, Ngạc Thần tham chiến
Bỗng nghe đánh vù một tiếng, Du Thản Chi thấy luồng gió thổi mát rượi, rồi những mảnh vải vụn tả tơi bay ra như bươm bướm. Tấm khăn che mặt gã bị Tiêu Phong vung quyền lên đánh, kình lực phát ra làm cho rách tướp. Mọi người bàng quan thấy Bang chúa Cái Bang, chưởng môn phái Cực Lạc bộ mặt chỗ lồi chỗ lõm, đốm đen đốm đỏ, mặt đầy vết sẹo, ai trông cũng phải phát khiếp.
Tiêu Phong đánh ra ba chiêu đẩy lui được ba tay Đại Hán cao thủ hiện thời. Lòng hào khí nổi lên ông lớn tiếng nói:
- Đem rượu ra đây!
Một tên võ sĩ Khất Đan cởi chiếc túi da lớn buộc miệng trên lưng con ngựa đã bị chết rồi. Gã rảo bước chạy lại, hai tay bê túi rượu dâng lên. Tiêu Phong rút nút bì rượu ra, đưa cao lên khỏi đầu ngửa cổ lên đỡ rượu cho chảy vào miệng, nuốt ừng ực một hồi. Bì rượu này ít ra cũng có tới hai mươi cân. Thế mà ông uống cạn sạch không còn lấy một giọt. Bụng ông hơi phình ra nhưng sắc mặt vẫn ngăm đen như người chưa uống chút rượu nào. Quần hùng thấy vậy nhìn nhau sợ hãi.
Tiêu Phong lại vẫy tay một cái. Mười bảy tên võ sĩ Khất Đan kéo lại cởi một bì rượu đưa đến cho Tiêu Phong. Tiêu Phong nhìn mười tám tên võ sĩ nói:
- Vị công tử nước Đại Lý đây là nghĩa đệ. Bữa nay chúng ta bị hãm trong trùng vi, ít người không địch lại số đông, tất nhiên là không thoát thân.
Vừa rồi ông cùng Mộ Dung Phục ra chiêu, tuy đã chiếm được thượng phong, nhưng đối phương là ba tay cao thủ, mỗi người có một tuyệt kỹ ghê hồn. Nếu cả ba hiệp lực liên công thì dĩ nhiên ông không địch nổi. Huống chi còn mấy ngàn người đang hầm hầm nhìn ông, thì tình thế nguy ngập lại càng rõrệt.
Ông nắm lấy tay Đoàn Dự nói:
- Hiền đệ! Hiền đệ cùng ta sống chết có nhau. Thiệt không uổng một phen kết nghĩa. Sống cũng vậy mà chết cũng thế thôi. Chúng ta hãy uống một hồi cho phỉ dạ.
Đoàn Dự thấy Tiêu Phong hào khí hiên ngang cũng đón lấy một bì rượu nói:
- Phải đó! Tiểu đệ cùng đại ca sướng ẩm một hồi.
Đột nhiên trong đám quần tăng chùa Thiếu Lâm, một nhà sư áo xám lớn tiếng nói:
- Đại ca cùng tam đệ! Hai vị uống rượu sao không gọi ta?
Y chính là Hư Trúc.
Hư Trúc ở giữa đám đông thấy Tiêu Phong xuất hiện oai phong lẫm liệt, trấn áp mọi người, quần hùng đều tiu nghỉu thì trong lòng y không khỏi xốn xang. Y lại thấy Đoàn Dự nghĩ tình kết nghĩa cam tâm cùng chết. Ngày y ở trên núi Phiêu Diễu cùng Đoàn Dự kết nghĩa anh em, chàng cũng đã đọc tên Tiêu Phong cả vào lời thề.
Y nghĩ rằng:
- "Bực đại trượng phu đã nói một lời, sống chết không thay đổi."
Hư Trúc lại nghĩ đến lúc cùng Đoàn Dự quá chén say khướt rồi nổi lòng hào hiệp khảng khái, không nghĩ gì đến hiểm nguy sinh tử. Lúc bấy giờ thanh quy giới luật y cũng quên hết.
Tiêu Phong chưa từng gặp Hư Trúc bao giờ. Đột nhiên ông nghe y kêu tên mình bằng đại ca thì không khỏi sửng sốt. Đoàn Dự liền chạy lại nắm tay Hư Trúc dẫn đến trước Tiêu Phong nói:
- Đại ca! Đây cũng là một vị đã cùng với tiểu đệ kết nghĩa. Y xuất gia pháp danh là Hư Trúc lúc hoàn tục kêu bằng Hư Trúc Tử. Lúc hai người giao bái có đưa cả tên đại ca vào nữa.
Rồi chàng giục Hư Trúc:
- Nhị ca! Nhị ca bái kiến đại ca đi!
Hư Trúc liền tiến lại gần quỳ xuống dập đầu nói:
- Đại ca! Tiểu đệ xin khấu đầu.
Tiêu Phong vừa tủm tỉm cười vì thấy tính nết hai anh chàng này ngớ ngẩn là lúc cùng nhau kết nghĩa lại đem cả tên mình vào.
Rồi ông lẩm bẩm:
- Mình sắp mất mất mạng trong khoảnh khắc, tình thế nguy hiểm vô cùng! Nhưng nhà sư này cũng chẳng sợ gian nguy, thẳng thắn tiến lại thì đủ biết y lại là kẻ đại trượng phu, trọng nghĩa rẻ mình. Thiệt là một tay hảo hán! Tiêu Phong này kết nghĩa anh em với y thiệt chẳng uổng chút nào.
Tiêu Phong cũng quỳ xuống đáp lễ nói:
- Hiền đệ! Tiêu Phong này được kết nghĩa cùng hiền đệ thật vui sướng vô cùng!
Hai người lạy nhau tám lạy, nên nghĩa chi lan trước mặt quần hùng thiên hạ.
Tiêu Phong chưa biết Hư Trúc là người có võ công tuyệt đỉnh. Ông thấy y là một nhà sư vào hạng hậu bối ở chùa Thiếu Lâm thì tưởng y bản lãnh tầm thường. Nhưng y là người khảng khái mà bảo y tránh đi thì chẳng hoá ra coi thường y?
Ông cầm một bì rượu giơ lên nói:
- Nhị vị hiền đệ! Mười tám tên võ sĩ Khất Đan này đối với ta một dạ trung thành, tình như thủ túc. Chúng ta hết thảy uống cho thoả thích một hồi rồi mở một trường đại sát.
Nói xong ông mở nút bì rượu uống một hơi, đoạn đưa cho Hư Trúc. Hư Trúc bầu nhiệt huyết như sôi lên, bất cần ngũ giới, lục giới, thất bát giới nhà Phật nữa, nâng bì rượu lên uống một hơi rồi đưa cho Đoàn Dự. Đoàn Dự uống xong đi lại đưa cho một tên võ sĩ Khất Đan. Bọn võ sĩ Khất Đan cũng giơ bì rượu lên uống.
Hư Trúc nhìn Tiêu Phong nói:
- Đại ca! Tinh Tú lão quái kia đã hạ sát sư phụ, sư huynh tiểu đệ. Mấy vị sư thúc tổ là Huyền Nạn, Huyền Thống cũng bị chết về tay hắn. Tiểu đệ muốn báo thù đây!
Tiêu Phong trong lòng rất lấy làm kỳ nói:
- Nhị đệ...
Rồi ông không nói thêm nữa. Hư Trúc đã vung chưởng phóng về phía Đinh Xuân Thu. Tiêu Phong thấy chưởng pháp tinh kỳ, nội lực thâm hậu thì vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Ông lẩm bẩm:
- Té ra nhị đệ bản lãnh phi thường. Thế mà mình không biết.
Ông cũng quát lên:
- Coi quyền của ta đây!
Rồi vung hai quyền veo véo đánh tới Mộ Dung Phục và Du Thản Chi. Mười tám tên võ sĩ Khất Đan đã hiểu ý chúa công, đứng vây quanh mình Đoàn Dự để hộ vệ cho chàng. Du Thản Chi và Mộ Dung Phục chia ra chiêu để giải khai quyền của Tiêu Phong đánh tới. Chưởng pháp "Thiên Sơn lục dương chưởng" của Hư Trúc như gió cuốn mây bay, bức bách đối phương mỗi lúc một gắt gao. "Thiên Sơn lục dương chưởng" tuy do Thiên Sơn Đồng Mỗ sáng chế ra, nhưng căn cơ vẫn là một công phu của phái Tiêu Dao.
Đinh Xuân Thu tránh được ba chiêu rồi ngấm ngầm kinh hãi tự hỏi:
- Tại sao gã tiểu hoà thượng này lại biết sử dụng chưởng pháp phái Tiêu Dao? Từ lúc hắn đối chưởng với Du Thản Chi bị thua, bây giờ lại thấy Hư Trúc thi triển chưởng pháp phái Thiên Diệp, hắn không dám sử dụng độc công. Hắn rất sợ Hư Trúc dùng độc công cao thâm hơn mình, thì hại người chẳng được mà chính mình lại bị nguy khốn. Đến chất kịch độc thấm vào người mình thì thảm hoạ không biết đến đâu mà lường.
Hắn nghĩ vậy rồi đem chưởng pháp bản môn ra đón tiếp. Hắn định bụng:
- Để ta xem cho biết rõ thằng trọc này lai lịch thế nào rồi sẽ liệu cho vừa. Võ công phái Tiêu Dao nhẹ nhàng thưa thớt, khó mà dò ra được tung tích.
Đinh Xuân Thu với Hư Trúc cũng là đồng môn. Lúc hai bên giao thủ một người đầu tóc bạc phơ, một người trai trẻ, phảng phất như một cặp thần tiên. Hai người vờn nhau chẳng khác bướm vờn hoa, chuyển động luôn luôn không ngừng và vẫn ra vẻ ung dung. Võ công phái Tiêu Dao thiệt đúng với cái nghĩa của hai chữ Tiêu Dao.
Quần hùng đứng bàng quan, hầu hết là chưa được nhìn thấy võ công phái Tiêu Dao, bữa nay xem cuộc đấu ai cũng cảm thấy tinh thần thư thái, nghĩ bụng:
- Hai người ra những chiêu rất độc địa nhằm đánh những chỗ nguy hiểm của đối phương. Hiển nhiên là một cuộc tranh đấu một mất, một còn, song chiêu thức của họ trông nhàn nhã và có vẻ mỹ quan tựa hồ như người nhảy múa. Những chưởng pháp và chiêu thức cực kỳ trầm trọng mà coi có vẻ rất nhẹ nhàng, lối đánh rất ung dung. Thật trong võ lâm chưa từng nghe thấy công phu của môn nào được thế này và không hiểu tên là gì?
Bên kia một mình Tiêu Phong đấu với hai người là Mộ Dung Phục cùng Du Thản Chị Mười chiêu đầu xem chừng ông chiếm được thượng phong nhưng về sau những chiêu thức của Du Thản Chi phóng ra khí lạnh ghê người, khó lòng địch nổi.
Nên nhớ rằng trong mình Du Thản Chi có chất băng tầm kịch độc. Hơn nữa gã lại luyện "Dịch Cân Kinh" thành ra chính tà hoà hợp thuỷ hoả thông đồng thành một thứ nội công lợi hại nhất thiên hạ. Tiêu Phong tuy có sức mạnh thiên nhiên nhưng gặp phải công phu cả chính lẫn tà này cũng khó mà đối phó được. Huống chi ngoài ra còn có võ công của Mộ Dung Phục so với ông chẳng hơn kém nhau là mấy.
Tiêu Phong một mình đấu với hai tay đại cao thủ. Tình thế nguy hiểm so với ngày ở Tụ Hiền Trang ông phải chiến đấu với mấy trăm hảo hán võ lâm, tưởng bữa nay còn nguy hiểm hơn. Nhưng trời đã sinh ra con người oai võ, hùng tráng thì ở vào tình thế bất lợi càng phát huy nội lực tiềm tàng. Ông phóng ra một chưởng trong "Hàng Long thập bát chưởng" của phái dương cương khiến cho Mộ Dung Phục cùng Du Thản Chi không tiến lại gần được. Nhờ thế mà chất băng tầm trong người Du Thản Chi không thấm được vào người ông.
Nhưng Tiêu Phong phát chưởng như vậy tiêu hao mất nội lực không phải là ít. Ông chỉ phóng ra đến hai trăm chiêu mãnh liệt rồi những chưởng lực về sau thế nào cũng giảm sút. Du Thản Chi không có kinh nghiệm chiến đấu lại không thấu triệt yếu quyết bên trong. Nhưng Mộ Dung Phục trong tâm lại sáng suốt. Y biết rằng nếu cứ thế này tiếp tục chiến đấu thì mình cùng Vương Tinh Thiên chỉ bị kém thế trong vòng một giờ nhưng về sau ổn định rồi sẽ chiếm được thượng phong.
"Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung". Hai người vốn nổi tiếng ngang hàng nhau trước mặt mọi người. Mộ Dung Phục thấy mình phải nhờ Cái Bang Bang chúa Vương Tinh Thiên giúp sức thì dù có đánh chết được Tiêu Phong, cái tiếng "Nam Mộ Dung" cũng hiển nhiên không bằng "Bắc Kiều Phong".
Sau y cân nhắc lại, rồi tự nhủ:
- Phục quốc là việc lớn, danh vọng là chuyện nhỏ. Nếu mình trừ được mối đại hoạ cho võ lâm ở Trung Nguyên trước mặt các vị anh hùng thiên hạ thì những tay hào kiệt nhà Đại Tống dù đã quen biết hay không, cũng tự nhiên mang ơn đức của mình. Thế thì ngôi minh chủ võ lâm chẳng mình nắm được thì còn ai vào đây? Khi đó chỉ hô lên một tiếng là có thể phục hưng được nhà Đại Yên. Vả Kiều Phong mà chết rồi, thì cái tiếng "Nam Mộ Dung" có thua kém "Bắc Kiều Phong" đã thành một sự kiện buông xuôi rồi.
Sau y lại nghĩ:
- Có điều sau khi giết được Kiều Phong thì Vương Tinh Thiên lại thành đại địch với mình. Nếu ngôi minh chủ võ lâm minh chủ mà bị hắn đoạt mất, mình phải nghe theo hiệu lệnh hắn thì cũng không ổn thoả.
Y tính toán như vậy rồi lúc ra chiêu vẫn ngấm ngầm dành lại mấy phần nội lực, tuy ngoài mặt y vẫn ra vẻ hết sức công kích. "Hàng Long thập bát chưởng" của Tiêu Phong quá nửa là Du Thản Chi phải chịu đựng. Mộ Dung Phục thân pháp tinh kỳ người ngoài không ai nhìn rõ được. Chỉ trong khoảnh khắc, ba người đã quần nhau đến dư trăm chiêu. Tiêu Phong dùng những đòn rất khéo để dẫn dụ Du Thản Chi mắc vào tròng.
Du Thản Chi rất ít kinh nghiệm chiến đấu mấy lần xuýt bị mất mạng, nhưng nhờ có Mộ Dung Phục đứng bên liệu chiều hoá giải giúp. Còn những chưởng lực mãnh liệt phi thường của Tiêu Phong thì Du Thản Chi ỷ mình có nội lực thâm hậu, thản nhiên tiếp lấy.
Đoàn Dự được mười tám võ sĩ Khất Đan bảo vệ, chàng thấy nhị ca đang áp bức đối phương, rõ ràng chiếm được thượng phong. Còn đại ca một mình chọi hai tuy ông thần oai lẫm liệt, nhưng mỗi chưởng ông phóng ra cuồng phong rít lên veo véo làm cho đá chạy cát bay thì chàng e rằng ông không thể trì thủ được lâu dài.
Chàng tự nghĩ:
- Mình vẫn ngoài miệng nói cùng hai vị ca ca chịu đựng hoạn nạn, mà bây giờ đến việc lai nấp vào trong đám đông để người ta bảo vệ cho, thế thì còn nghĩa khí gì nữa? Sao gọi là đồng sinh đồng tử được? Trong ba anh em như vậy chẳng hoá ra mình là đốn mạt lắm sao? Tuy mình không biết võ công, nhưng cũng thi triển được bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ ngăn ngừa Mộ Dung Phục, để đại ca rảnh tay hạ gã Vương Bang chúa mặt quỷ kia đi trước, như thế có phải hay hơn không?
Đoàn Dự nghĩ vậy, chàng liền lạng người ra khỏi vòng vây của mười tám tên võ sĩ Khất Đan lớn tiếng hỏi:
- Mộ Dung công tử! Công tử đã tự xưng "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung" thì nên cùng ca ca ta lấy một chọi một mà tỷ đấu mới phải. Sao còn kêu người hiệp lực mới có chống chọi được? Dù công tử ráng giữ cho được ngang sức nhưng phải hai người chẳng hoá ra cũng xấu mặt với thiên hạ ư? Lại đây! Nếu quả công tử bản lãnh cao thâm thì hãy thử đánh ta một quyền!
Chàng nói rồi lạng người đến sau lưng Mộ Dung Phục, giơ tay ra nắm lấy sau gáy y. Mộ Dung Phục thấy thân pháp chàng mau lẹ phi thường, liền xoay lại đánh trúng vào má Đoàn Dự. Ðoàn Dự đau quá chảy nước mắt ra.
Nguyên phép Lăng Ba Vi Bộ của chàng tuy rất thần diệu, nhưng chàng lại không hiểu một chút võ học nào. Bộ pháp xảo diệu chỉ nên thi triển lúc bị người khác đánh tới thì không thể nào đánh trúng được. Nhưng nó không có diệu dụng để công kích người. Chiêu trảo của chàng là một người không hiểu võ nghệ, nắm làm sao được một tay võ công tuyệt đỉnh là Cô Tô Mộ Dung? Chàng bị đối phương đánh một chưởng không biết né tránh nên dập cả mặt mũi đau đớn khôn lường.
Nhưng Mộ Dung Phục vừa chạm tay vào má Đoàn Dự, lập tức y cảm thấy nội lực trong mình đột nhiên tuôn ra ngoài rồi mất biến. Vì bàn tay bị mất đi một phần nội lực, bất giác y cảm thấy tê nhức và trong lòng kinh hãi nghĩ thầm:
- Không hiểu gã này có tà thuật cổ quái gì mà giống như "Hoá công đại pháp" của Đinh Xuân Thu? Yêu thuật của phái Tinh Tú đã làm hại biết bao nhiêu người trong thiên hạ. Thằng lỏi này cũng học bọn chúng, mình không thể không đề phòng được.
Y liền biến sắc lớn tiếng mắng:
- Gã họ Đoàn kia! Ngươi quy đầu vào làm môn hạ phái Tinh Tú tự bao giờ?
Đoàn Dự đáp:
- Công tử nói cái gì...
Chàng chưa dứt lời, không kịp đề phòng bị Mộ Dung Phục đá một cước lăn đi tròng trọc. Nguyên Mộ Dung Phục tưởng chàng thi triển "Hoá công đại pháp" không dám ra mặt tỷ đấu, bèn lừa khi chàng bất ý, lập tức đá ngã. Mộ Dung Phục không ngờ mình thắng một cách dễ dàng, nhảy xổ lại chân trái đạp lên ngực Đoàn Dự quát hỏi:
- Ngươi muốn sống hay là muốn chết?
Đoàn Dự ngoảnh đầu nhìn thấy Tiêu Phong đang cùng Vương Tinh Thiên chiến đấu kịch liệt thì nghĩ ngay:
- Nếu mình nói bướng, tất hắn sẽ đập chết mình ngay để rảnh tay đi giúp Vương Tinh Thiên thì bất lợi cho đại ca. Chi bằng hãy kéo dài ra một khắc là hơn.
Nghĩ vậy chàng liền đáp:
- Chết có chi là thú? Còn sống ở đời để tỷ đấu dĩ nhiên hay hơn.
Mộ Dung Phục không ngờ anh chàng này chết đến gáy vẫn còn nói ngông. Y sa sầm nét mặt mắng:
- Thế ra ngươi muốn sống, vậy ngươi dập đầu lạy ta trăm lạy.
Y tưởng bắt Đoàn Dự dập đầu lạy trăm cái để làm nhục chàng. Nhưng y lại nghĩ rằng nếu buông tha chàng rồi thì sau khó lòng lại uy hiếp được, y liền đổi giọng nói:
- Vậy ngươi kêu ta một trăm tiếng gia gia!
Đoàn Dự cười nói:
- Ngươi chỉ lớn hơn ta có vài tuổi mà đòi làm gia gia ta, không sợ chết yểu ư?
Mộ Dung Phục phóng chưởng ra đánh vào mé hữu đầu Đoàn Dự. Lập tức bụi đất bay lên. Dưới đất hiện ra một hố. Phát chưởng này chỉ chệch có vài tấc, Đoàn Dự suýt nữa thì đầu óc nát. Mộ Dung lại quát:
- Ngươi có chịu gọi ta bằng gia gia không?
Đoàn Dự né đầu đi để tránh cát bụi. Chàng liếc mắt nhìn thấy Vương Ngọc Yến đang đứng bên Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Cặp mắt nàng vẫn đăm đăm nhìn mình. Đoàn Dự nhìn thấy rõ ràng: Vương Ngọc Yến đang chú ý nhìn mình cùng Mộ Dung Phục tỷ đấu. Chàng chắc trong bụng nàng đang nghĩ liệu biểu ca có giết ta không? Nếu ta chết về tay Mộ Dung Phục, e rằng Vương cô nương cũng chẳng lấy gì làm khó chịu.
Đoàn Dự nhìn vẻ mặt Vương Ngọc Yến trong lòng chán nản vô cùng, chàng muốn chết ngay dưới tay Mộ Dung Phục để khỏi bị bệnh tương tư dày vò khiến mình đau khổ vô cùng!
Chàng liền hỏi:
- Tại sao ngươi lại muốn ta gọi ngươi một trăm tiếng gia gia?
Mộ Dung Phục tức quá vung chưởng lên đánh vào giữa mặt Đoàn Dự. Đột nhiên có tiếng la:
- Đừng hại con ta!
Và một người quát lên:
- Đừng hại sư phụ ta!
Hai người tuy thân pháp mau lẹ mà cũng không kịp ngăn trở phát chưởng của Mộ Dung Phục đánh xuống Đoàn Dự. Song Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần đều là những tay võ công rất cao thâm. Hai luồng chưởng lực một trước một sau chia ra đánh vào những chỗ yếu hại Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục nếu không kịp thời thu chưởng lực về để tự cứu thì có đánh chết được Đoàn Dự mà mình cũng không khỏi bị trọng thương. Y liền thu tay phải về để đỡ song chưởng của Đoàn Chính Thuần đánh tới. Tay trái khoanh một vòng tròn ở phía sau lưng để hoá giải luồng kình lực của Nam Hải Ngạc Thần đánh tới. Ba người sáu chưởng đón đỡ nhau, ai cũng kinh hãi và đều biết rằng võ công đối phương đều ghê gớm cả.
Đoàn Chính Thuần vội giải cứu cho Đoàn Dự. Ông giơ tay trái tạt ngang đỡ cho chàng, còn ngón tay phải điểm một chiêu "Nhất dương chỉ". Chiêu thức này kỳ diệu, nội lực lại hùng hồn.
Vương Ngọc Yến vội la lên:
- Đó là chiêu Nhất dương chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý, biểu ca không nên khinh địch.
Nam Hải Ngạc Thần, miệng oang oác la lên rất lớn:
- Mẹ kiếp! Dù hắn chẳng ra gì cũng là sư phụ Nhạc lão nhị. Mi đánh sư phụ Nhạc lão nhị thì có khác gì đánh chính vào Nhạc lão nhị. Nếu ta để sư phụ tham sống sợ chết mà gọi mi một tiếng bằng gia gia thì Nhạc lão nhị này còn làm gì được nữa ư? Vì như vậy thì ta phải kêu mi bằng gì? Chẳng lẽ mi là thái thượng tam đại Nhạc lão nhị vào hàng cháu thì ra mi khinh ta quá lắm! Bữa nay ta quyết ăn thua với mi.
Lão vừa chửi mắng la ó, vừa giơ cặp Ngạc chuỷ tiễn lên mỗi tay một cây bổ xuống Mộ Dung Phục lia lịa.
Nguyên Nam Hải Ngạc Thần bình sinh có tính hiếu thắng, không muốn người ta liệt mình vào hạng thấp kém. Trong Tứ đại ác, lão là Nhạc lão tam mà vẫn tranh giành ngôi thứ với Diệp Nhị Nương, cứ tự xưng là Nhạc lão nhị, muốn đẩy Diệp Nhị Nương xuống hàng thứ ba. Bây giờ nếu Đoàn Dự kêu Mộ Dung Phục một tiếng "gia gia" thì Nam Hải Ngạc Thần đứng vào hạng tôn tử y. Như vậy thì thà rằng lão chịu đầu rơi máu chảy còn hơn, quyết không làm tôn tử Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục chẳng hiểu lão mắng nhiếc gì mà om sòm lên. Chân phải y vẫn đè chặt lên ngực Đoàn Dự, còn hai tay chia ra đối địch với hai người. Hai bên qua lại hơn chục chiêu, Mộ Dung Phục biết rằng Nam Hải Ngạc Thần tuy có món binh khí lợi hại nhưng còn dễ chống đỡ. Song về phía Đoàn Chính Thuần thi triển môn Nhất dương chỉ thì y không dám coi thường. Vì thế mà y để ý đến Đoàn Chính Thuần nhiều hơn. Còn đối với Nam Hải Ngạc Thần, những chiêu ngạc chuỷ tiễn thì y hoá giải được dễ dàng.
Dù trong lúc hoang mang, thỉnh thoảng Mộ Dung Phục vẫn đánh ra một vài chiêu khiến cho Nam Hải Ngạc Thần phải nhảy tránh ra xa đến vài trượng. Đoàn Dự bị Mộ Dung Phục đạp chân lên ngực, chàng cố dãy dụa để bò dậy nhưng không thể được. Đoàn Chính Thuần thấy cậu con bị kiềm chế, ông rất hoang mang vì nghĩ rằng Mộ Dung Phục chỉ đạp mạnh hơn một chút là chàng sẽ bị vỡ ngực, thổ huyết mà chết. Ông nhận thấy đứng trước một tình thế cần phải đánh lẹ mới có lợi và có cơ hội cứu thoát được Đoàn Dự ra khỏi cảnh tượng hiểm nghèo. Ông liền thi triển môn Nhất dương chỉ đến tốc độ kình lực rít lên veo véo!
Bất thình lình có một thanh âm khem khép như tiếng vịt đực vang lên:
- Phép Nhất dương chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý khí tượng oai nghiêm, phải xử nó một cách ung dung thì trong cái uy mãnh vẫn không mất phong độ của đấng vương giả. Ngươi ra chiêu tới tấp, hỗn loạn như vậy, thì không khác gì chiêu thức của một tên đệ tử hạng bét Cái Bang? Còn chi là uy danh Nhất dương chỉ? Ha! Ha! Phải chăng họ Đoàn nước Đại Lý đã đến ngày xuống dốc, không còn gì là thể diện trên chốn giang hồ nữa?
Đoàn Chính Thuần vừa nghe đã biết ngay là thanh âm của Đoàn Diên Khánh một kẻ đại thù trong họ Đoàn. Lão ác nhân nói vậy là đúng nhưng đứa con yêu quý lâm nạn thì Đoàn Chính Thuần còn đâu mà nghĩ đến phong độ với khí lượng? Đoàn Chính Thuần phóng Nhất dương chỉ ra mỗi lúc một trầm trọng hơn. Nhưng như vậy làm mất chỗ hay của phép Nhất dương chỉ là vừa uy mãnh vừa khoan hồng rồi sau biến thành thâm độc thì nó thừa mà trầm trọng lại không đủ.
Đột nhiên một chỉ điểm ra. Mộ Dung Phục tránh khỏi lại điểm trúng vào vai Nam Hải Ngạc Thần. Nam Hải Ngạc Thần vừa đau vừa giận, ngoác miệng ra chửi mắng:
- Mẹ kiếp!...
Choảng một tiếng! Cây ngạc chuỷ tiễn rớt xuống đất, lại đập vào gót chân. Nam Hải Ngạc Thần đau điếng người, toan chửi bới nặng lời hơn nhưng lão lại nghĩ:
- Y là gia gia của sư phụ mình, nếu mình thoá mạ y thì không khỏi mang tiếng là mình đảo ngược luân thường. Lão này chỉ giết đi thì được chứ không được thoá mạ. Sau này nếu có được cơ hội thì mình hớt đầu lão đi là xong.
Lão nghĩ thế rồi chỉ thốt ra có hai tiếng đột nhiên rụt lưỡi lại không thoá mạ nữa.
Hồi Thứ 115
Lục Mạch Thần Kiếm đả bại Mộ Dung Phục
Giữa lúc ấy Mộ Dung Phục thừa cơ hội Đoàn Chính Thuần ra chiêu, tâm thần ông bị phân chia, y liền chĩa ngón tay giữa bên trái ra điểm nhanh như chớp vào huyệt "Trung Đỉnh" trước ngực ông. Huyệt "Trung Đỉnh" ở phía dưới huyệt "Đơn Trung", cách một tấc sáu phân. Huyệt "Đơn Trung" tụ hội mọi luồng chân khí trong người. Thật là một chỗ rất xung yếu. Người bị điểm trúng lập tức nghẹt thở. Các kinh mạch ngừng chạy.
Mộ Dung Phục biết bản lãnh đối phương cũng thuộc vào hạng cao thâm khôn lường. Y tưởng lúc không kịp đề phòng, tất huyệt "Đơn Trung" bị điểm trúng, nhưng không ngờ lại điểm trệch đi một chút. Tuy nhiên Đoàn Chính Thuần cũng cảm thấy trước ngực rất đau đớn, hơi thở khó khăn.
Vương Ngọc Yến thấy Mộ Dung Phục ra chiêu rất cao minh nàng vỗ tay reo hò:
- Biểu ca ra chiêu "Dạ xoa thám hải" kỳ tuyệt!
Nguyên chiêu này có điểm trúng vào huyệt "Đơn Trung" hay huyệt "Khí Hải" của đối phương mới đáng gọi là dạ xoa thám hải. Nhưng Vương Ngọc Yến đối với võ công của ý trung nhân chẳng khỏi có ý thiên lệch một chút. Nên tuy chiêu nay còn chệch một tấc sáu phân, nàng cũng hàm hồ gọi nó là "Dạ xoa thám hải" để khuyến khích lòng hiếu thắng của Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục tự biết chiêu chỉ của mình chưa điểm trúng vào huyệt trọng yếu của đối phương. Y lập tức bồi thêm một chiêu, vung tay phải ra đâm vào ngực đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần mệt chưa kịp thở hơi, không còn sức để mà chống chọi nên bị Mộ Dung Phục phóng chưởng mãnh liệt đánh tới, miệng ông phọt máu tươi ra. Nhưng tấm lòng tha thiết vì con không chịu lui ra, ông vội vận khí điều dưỡng thì chiêu thứ hai của Mộ Dung Phục lại đánh tới.
Đoàn Dự đang bị chân Mộ Dung Phục dẫm lên, đột nhiên chàng thấy phụ thân thổ huyết mà đối phương lại phóng chưởng thứ hai ra. Phụ tử tình thâm, lập tức chàng vung một ngón tay lên la lớn:
- Ngươi dám đánh gia gia ta ư?
Giữa lúc tình trạng cấp bách, nội lực của chàng đột nhiên theo ngón tay trỏ ra ngoài, chính là chiêu "Thương dương kiếm" trong phép Lục Mạch Thần Kiếm. "Véo" một tiếng vang lên! Tay áo của Mộ Dung Phục bị luồng kiếm khí vô hình cắt đứt. Tiếp theo luồng kiếm khí lại đụng vào chưởng lực của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục cảm thấy cánh tay tê nhức thì giật mình kinh hãi, vội lùi lại phía sau. Đoàn Dự được tự do lồm cồm trở mình đứng dậy. Ngón tay út bên trái của chàng phóng ra chiêu "Thiếu trạch kiếm" nhằm đâm vào đối phương. Mộ Dung Phục không dám chần chờ, vung tay áo lên nghinh địch.
"Véo, véo"! Tay áo bên trái Mộ Dung Phục cũng bị cắt đứt một mảnh lớn nữa. Đặng Bách Xuyên thấy vậy vội la lên:
- Công tử phải cẩn thận! Đó là vô hình kiếm khí! Mình cũng phải dùng binh khí mới được.
Gã nói xong rút kiếm ra khỏi vỏ, xoay chuôi lại rồi liệng đến cho Mộ Dung Phục.
Đoàn Dự, từ lúc nghe Vương Ngọc Yến lớn tiếng reo hò khen ngợi Mộ Dung Phục đánh ngã phụ thân mình thì trong lòng đau đớn vô cùng. Nội lực chàng do đó mà phát ra cuồn cuộn. Cùng một lúc chàng phóng ra đủ sáu chiêu: "Thiếu Thương", "Thương Dương", "Trung Xung", "Quan Xung" và "Thiếu Trạch". Lục Mạch Thần Kiếm tung hoành nhảy múa, nghĩ sao đúng vậy như có quỷ thần giúp sức.
Mộ Dung Phục đón được thanh kiếm cầm tay rồi, tinh thần phấn khởi. Mộ Dung Phục đã có kiếm gia truyền, ra chiêu liên miên bất tuyệt, tựa hồ nước chảy mây trôi. Mới trong nháy mắt, toàn thân y bao phủ một luồng kiếm quang dầy đặc, một giọt nước cũng không thể nào vào được. Nhân sĩ võ lâm chỉ nghe tiếng Cô Tô Mộ Dung võ công uyên bác. Bao nhiêu công phu của các môn phái nhà này đều biết qua cả. Bây giờ mọi người được nhìn thấy kiếm pháp tinh diệu vô cùng, ai cũng ngẩn người ra. Nhưng dù cho kiếm pháp Mộ Dung Phục có tinh diệu, lợi hại đến đâu, cũng không thể tới gần Đoàn Dự trong vòng một trượng được.
Đoàn Dự vung tay ra, nào điểm, nào đâm, bức bách Mộ Dung Phục hết nhảy tung lên lại nằm rạp xuống, tránh Đông né Tây. Bất thình lình, một tiếng choang vang lên. Thanh trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục bị gãy vụn ra làm hai ba mảnh, bay tung lên không. Ánh tà dương chiếu vào, bạch quang lấp loáng cả đấu trường.
Mộ Dung Phục bị vô hình kiếm khí của Đoàn Dự chặt gãy thanh bảo kiếm trong tay mình thì kinh hãi vô cùng, nhưng y không rối loạn hoang mang. Y liền vung chưởng đánh ra khiến cho hai ba chục mảnh kiếm gãy nát tan ra rớt xuống như trận mưa ám khí nhằm bắn tới Đoàn Dự.
Đoàn Dự kinh hoảng la lên một tiếng:
- Úi chao!
Rồi nằm phục xuống đất.
Nên biết rằng Đoàn Dự chẳng hiểu gì về võ công cơ bản thì dù đối phương có phóng ám khí lại chàng cũng chẳng biết đường mà tránh. Mắt chàng thấy hai ba chục miếng kiếm gãy bắn tới liền chân tay cuống quít không biết làm thế nào. Công phu Lục mạch thần kiếm tuy cực kỳ lợi hại, nhưng chàng nghĩ biết đánh vào một chỗ, không hiểu cách chống lại làn mưa ám khí.
Đoàn Dự liền nằm xuống đất, mấy chục mảnh ám khí bay lướt trên đầu chàng. Nhưng là một tay cao thủ tỷ võ như chàng mà phục xuống tựa như chó liếm phân thì thiệt là khó coi. Mộ Dung Phục tuy bị gãy mất thanh trường kiếm, nhưng phản bại thành thắng. Y vẫn ra vẻ khoan thai nhàn nhã, nét mặt có quang vinh hơn Đoàn Dự nhiều.
Phong Ba Ác kêu lên:
- Công tử! Đón lấy thanh đao này.
Gã cầm thanh đơn đao liệng lại cho Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục giơ tay ra đón được thanh đao. Y thấy Đoàn Dự lồm cồm đứng lên thì bật cười nói:
- Chiêu ác cẩu ngật xí của Đoàn huynh có phải chăng là tuyệt kỹ gia truyền của họ Đoàn nước Đại Lý?
Ðoàn Dự thộn mặt ra đáp:
- Không phải!
Rồi chàng vung tay phóng chiêu "Thiếu xung kiếm" đâm tới, kiếm khí phát ra veo véo.
Mộ Dung Phục liền múa đao chống lại. Chợt y ra chiêu "Ngũ hổ đoạn môn đao", chợt lại ra chiêu "Bát quái đao pháp". Rồi đổi sang chiêu "Lục hợp đao". Mới trong khoảnh khắc mà Mộ Dung Phục đã thi triển đến tám, chín thứ đao pháp, dường như các môn đao pháp trong thiên hạ được y tiếp tục đưa ra cả, mà chiêu thức nào cũng tinh vi khiến cho những nhà xử đao nổi tiếng đứng bàng quan đều phải thán phục. Nhưng dù y đao pháp tinh thâm kỹ tuyệt vẫn không có cách nào tiến lại gần bên Đoàn Dự được.
Đoàn Dự ra chiêu "Thiếu xung kiếm" vòng qua mé tả. Mộ Dung Phục giơ đao lên đỡ đánh choang một tiếng. Thanh đơn đao lại bị gãy. Công Dã Càn vội liệng cặp phán quan bút cho Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục liệng thanh đao gãy đi, đón lấy phán quan bút, vung bút lên điểm huyệt, đầu bút nhọn, kình lực vọt ra những tiếng veo véo kinh người.
Đoàn Dự trong lòng phấn khởi. Sau khi qua lại dư trăm chiêu, lòng chàng đã bớt khiếp sợ.
Chàng nghĩ rằng:
- Bá phụ mình cùng Khô Vinh đại sư tại chùa Thiên Long đã truyền cho mình nội công tâm pháp để minh triển Lục mạch thần kiếm dần dần đi đến chỗ thông thạo.
Bỗng nghe Tiêu Phong lên tiếng:
- Tam đệ! Tam đệ chưa sử dụng Lục mạch thần kiếm thuần thục mà đồng thời phát huy được cả sáu thứ, những lúc luân lưu còn có chỗ hở, để đối phương né tránh được. Bây giờ tam đệ thử chuyên dùng một thứ kiếm khí xem sao.
Đoàn Dự đáp:
- Đa tạ đại ca có lòng chỉ điểm.
Chàng liếc mắt nhìn sang Tiêu Phong thõng tay đứng một bên coi bộ nhàn nhã mà Vương Tinh Thiên đã nằm lăn dưới đất lớn tiếng rên la. Hai chân gã bị gãy cả rồi.
Nguyên lúc Đoàn Dự cùng Mộ Dung Phục tỷ đấu, Tiêu Phong đánh một mình Du Thản Chi. Mỗi khi chưởng hai bên tiếp nhau, ông cảm thấy khí lạnh căm căm, thấu vào thân thể. May mà Tiêu Phong nội lực hùng hậu vô cùng. Ông chỉ vận khí một cái là thúc đẩy được khí âm hàn ra. Hai bên tiếp tục tỷ đấu. Tuy chưởng pháp của Tiêu Phong chiếm nhiều tiện nghi hơn đối phương nhưng phải chia một phần nội lực ra hoá giải hàn độc, ông còn sợ khí hàn độc ra nhiều nữa thì không chịu nổi. Ông liền tuỳ cơ ứng biến một cách mau lẹ, phóng chưởng đánh mãnh liệt như gió tấp, mưa sa. Ông thừa lúc Du Thản Chi vung chưởng đem toàn lực ra chống đỡ, đột nhiên phóng chân đá quét ngang một cái.
Du Thản Chi sở trường về chất hàn độc của băng tằm và về nội công luyện trong Dịch cân kinh, nhưng quyền cước lại hoàn toàn học ở A Tử mà ra thì so với ông chẳng thấm vào đâu. Ngay chính Đinh Xuân Thu có tiếp chiến với Tiêu Phong cũng còn kém xa về quyền cước, huống chi A Tử mới học được của lão vài chiêu bình thường.
Du Thản Chi tháy chân bị đau điếng người mà bên trong có tiếng lạo sạo thì biết là xương đùi mình đã bị Tiêu Phong đá gãy. Gã không đứng vững được, ngã lăn ra đất, nằm rên la om sòm.
Tiêu Phong lớn tiếng la:
- Trước nay Cái Bang hành động lấy nhân hiệp làm đầu, ngươi đã làm đến chúa tể một bang sao lại dám hoà mình với bọn yêu quái phái Tinh Tú? Thế là ngươi đã làm nhơ danh nghĩa hiệp mấy trăm năm của Cái Bang!
Sở dĩ Du Thản Chi được làm Bang chúa Cái Bang là hoàn toàn trông vào võ công hơn người. Còn về kiến thức, phong độ thì gã không đủ để cho bang chúng khâm phục. Huống chi còn đeo mặt nạ ra vẻ thần bí, dấu đầu hở đuôi và mọi việc nhất thiết đều do A Tử cùng Toàn Quán Thanh điều khiển thì dĩ nhiên bang chúng không ưa.
Hôm ấy gã dập đầu lạy Đinh Xuân Thu như tế sao trước mặt bang chúng và quần hùng, chịu khuất thân làm môn hạ phái Tinh Tú, đó là nhục lớn cho Cái Bang nên bang chúng không coi gã là bang chúa nữa, nên bang chúng thấy Tiêu Phong đánh gãy chân Du Thản Chi lấy làm mừng thầm, chẳng một ai ra giúp sức. Bọn Toàn Quan Thanh dù muốn liều chết cứu viện, nhưng thấy Tiêu Phong lẫm liệt nên co đầu, rụt cổ lại, chẳng một tên nào dám xông ra chịu chết.
Tiêu Phong hạ được Du Thản Chi rồi thấy Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu còn đang tỷ đấu và Hư Trúc có thế hơn. Ông thấy bên này Đoàn Dự đang thi triển Lục mạch thần kiếm để đấu với Mộ Phục, có lúc tinh diệu nhưng có lúc lại vụng về đến cực điểm, thành ra rất nhiều cơ hội có thể thủ thắng mà chàng đều bỏ lỡ mất.
Ông nghĩ thầm:
- Nếu không phát kiếm hạ trước địch thủ thì e rằng tam đệ sẽ bị hại về tay Mộ Dung Phục nên phải chỉ điểm cho chàng.
Đoàn Dự ngẩng đầu ngó sang bên thấy Tiêu Phong, phân tâm một chút chiêu thức Lục mạch thần kiếm có chỗ sơ hở. Mộ Dung Phục là tay cơ biến vô cùng! Tay phải y nhằm phóng bút vào ngực Đoàn Dự như sắp xuyên qua ngực chàng.
Đoàn Dự thấy phán quan bút phóng tới mãnh liệt bất giác sợ hãi, chân tay luống cuống miệng la:
- Đại ca, đại ca!...
Tiêu Phong phát chiêu "Kiến long tại điền" đánh xéo vào một bên hông Mộ Dung Phục. "Kiến long tại điền" là chiêu thế cương mãnh nhất trong "Hàng Long thập bát chưởng". Cây phán quan bút bị chưởng phong đẩy mạnh, vòng qua phía sau Đoàn Dự rồi quay lại đâm tới Mộ Dung Phục. Chính Tiêu Phong cũng phải ngạc nhiên về tình trạng này. Ông chỉ mong đem chưởng lực đẩy phán quan bút sang hướng khác để giải nguy cho Đoàn Dự, ông không ngờ mấy năm nay chưởng lực ông đã tiến triển đến mức độ đó.
Sức mạnh của chưởng lực phát ra làm cho cây phán quan bút đúc bằng gang thép phải cong đi mà lại chuyển hướng đâm về đối phương. Đó là một sự ngẫu nhiên, song quần hùng đứng bàng quan không khỏi khiếp sợ, mắt trợn ngược lên, miệng há hốc ra.
Phạm Hoa lớn tiếng la:
- Gậy ông lại đập lưng ông.
Mộ Dung Phục tay phải vung cây bút lên để gạt cây bút kia đi nghe đánh choang một tiếng. Hai cây bút chạm vào nhau khiến cho Mộ Dung Phục phải tê tay.
Y lẩm bẩm:
- Chưởng lực cha này ghê thật.
Mộ Dung Phục không để cho cây bút đã bị cong veo rớt xuống đất. Tay trái y nắm lấy, vung lên như móc câu. Quần hùng đã ghê cho chưởng lực của họ Tiêu lại thấy cách ứng biến của Mộ Dung Phục vô cùng tuyệt diệu về phép sử câu. Mọi người bất giác lớn tiếng hoan hô và đều nhận thấy những bậc kỳ tài hiện thời đương đem toàn lực ra để tranh phong, khiến họ được mở rộng tầm mắt và không uổng một phen lên núi Thiếu Thất.
Đoàn Dự vừa tránh thoát chiêu bút khỏi đâm vào ngực, chàng định thần lại, giơ ngón tay về phía trước sử chiêu "Thiếu thương kiếm" trong phép Lục mạch thần kiếm. "Thiếu thương kiếm" uy lực vô cùng hùng vĩ. Mỗi chiêu phóng ra có thể đá vỡ tan bia, thế mạnh như trời đổ mưa to gió lớn. Mộ Dung Phục dần dần đi đến chỗ không chống nổi Đoàn Dự được. Tiêu Phong chỉ bảo chàng chuyên sử một bộ chiêu "Thiếu thương kiếm" quả nhiên kiếm pháp cực kỳ nghiêm cẩn không có chỗ sơ hở nữa.
Nguyên kiếm thuật Lục mạch thần kiếm có sáu đường kiếm luân lưu sử dụng, nên so với phép đánh độc kiếm thì nó rộng lớn hơn nhiều. Nhưng Đoàn Dự không thông thạo yếu quyết, chàng sử một kiếm dễ dàng hơn. Mới qua lại mười chiêu mà Mộ Dung Phục đã toát mồ hôi trán, lùi dần về đến gốc cây hoè. Y tựa vào cây để chống chọi với Đoàn Dự. Đoàn Dự sử toàn bộ "Thiếu dương kiếm pháp" xong, co ngón tay cái lại, chìa ngón tay trỏ ra, biến sang "Thương dương kiếm pháp".
Kể ra "Thương dương kiếm" không mãnh liệt bằng "Thiếu dương kiếm", nhưng về phần linh hoạt mau lẹ thì nó lại hơn nhiềụ Chiêu này sử bằng ngón trỏ, liên tiếp phóng ra vun vút.
Nên biết rằng sử dụng kiếm thuật là nhờ cổ tay linh hoạt. Nhưng phóng kiếm ra, thu kiếm về dù mau lẹ đến đâu mà đứng cách nhau mấy thước, so với kiếm khí vô hình của ngón tay trỏ điểm ra trong phạm vi vài tấc cũng còn kém xa. Huống chi Mộ Dung Phục đã bị Đoàn Dự bức bách phải lui lại đến hơn trượng, không còn cách nào trả đòn được.
Giả tỷ Đoàn Dự cùng Mộ Dung Phục chọi nhau từng chiêu một thì quyết nhiên chàng không phải là đối thủ của y. Chỉ một chiêu là chàng đã mất mạng rồi. Hiện giờ, chàng thi triển "Thương dương kiếm pháp" chỉ có công mà không cần thủ thì dĩ nhiên chàng chiếm được tiện nghi.
Vương Ngọc Yến thấy biểu ca mình lâm vào tình trạng nguy ngập thì trong lòng nóng nảy vô cùng. Tuy nàng thuộc hết các chiêu thức võ công các nhà và các môn phái khắp thiên hạ, nhưng về Lục mạch thần kiếm thì nàng lại không biết một tý gì, nên không có cách nào chỉ điểm cho Mộ Dung Phục được. Tuy nàng rất đỗi hoang mang mà không biết làm thế nào.
Tiêu Phong thấy Đoàn Dự phát huy vô hình kiếm mỗi lúc một linh hoạt thêm thì ông vừa được an ủi vừa khâm phục Đoàn Dự. Bỗng ông sực nhớ tới A Châu liền lẩm bẩm:
- Ngày trước, sở dĩ A Châu cam chịu chết thay cho phụ thân nàng vì nàng sợ mình giết ông ta thì họ Đoàn nước Đại Lý sẽ tìm đến mình để báo thù. Nàng rất sợ mình không địch nổi phép Lục mạch thần kiếm của nhà này. Nay xem kiếm pháp của nhị đệ thần diệu như vậy. Giả tỷ mình đứng vào địa vị Mộ Dung Phục thì cũng khó lòng địch nổi. A Châu hy sinh tính mạng để cứu sống mình. Mình... là một tên võ phu người Khất Đan, thật không xứng đáng đón nhận thâm ân của nàng.
Bất thình lình, từ góc Tây Nam có mấy trăm đàn bà con gái đồng thanh la lên:
- Tinh Tú lão quái! Sao ngươi dám động thủ cùng giáo chủ cung Linh Thứu trên núi Phiêu Diễu chúng ta? Mau mau quỳ xuống dập đầu lạy đi!
Tiêu Phong ngoảnh đầu nhìn thì thấy toàn đàn bà già có, trẻ có, chia thành tám đội, mỗi đội mặt một thứ y phục khác màu sắc trông rất rực rỡ. Ngoài tám đội đàn bà còn có tới hơn trăm hào khách giang hồ, cách phục sức cũng khác hẳn với người thường. Bọn hào khách này cũng rầm rộ hô lên:
- Giáo chủ! Giáo chủ gieo vào mình hắn mấy miếng "Sinh tử phù" để hắn thưởng thức tuyệt nghệ cung Linh Thứu.
- Đối với Tinh Tú lão quái lại càng nên phóng "Sinh tử phù" vào người hắn.
Hư Trúc đang đem toàn lực ra chiến đấu với Đinh Xuân Thụ Về võ công cũng như về nội lực, y còn cao hơn Đinh Xuân Thu một bực. Đáng lý ra y thắng đối phương đã lâu rồi nhưng một là y còn ít kinh nghiệm lâm địch mà chỉ phát huy công lực bản thân đến sáu thành. Hai là y vẫn giữ lòng từ bi, bao nhiêu chiêu thức sát hại được đối phương nhưng y chỉ phóng ra nửa vời rồi lại thu về. Ba nữa là Đinh Xuân Thu chất độc đầy mình, Hư Trúc vẫn đem lòng uý kỵ không dám tiến lại gần hắn một cách khinh suất. Vì những lý do trên mà cuộc tỷ đấu kịch liệt vẫn ở vào tình trạng dằng dai.
Hư Trúc chợt nghe đội nam nữ lớn tiếng hô hoán, liền ngoảnh đầu nhìn ra. Y vừa kinh hãi, vừa mừng thầm vì chín đội cung Linh Thứu đã có tám đội đến đây. Y biết họ còn để bộ Loan Thiên ở lại giữ cung. Còn bọn đàn ông kia là các đảo chúa động chúa ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo. Tuy y không biết họ đã đến đủ chưa, song thấy số người rất đông thì ít ra cũng có đến tám chín phần mười.
Hư Trúc la gọi:
- Dư bà bà! Ô tiên sinh! Các vị đến đây làm chi?
Dư bà bà đáp:
- Khải bẩm Giáo chủ! Bọn thuộc hạ tiếp được truyền thư của tứ kiếm: Mai, Lan, Trúc, Cúc, biết rằng bọn trọc đầu chùa Thiếu Lâm muốn làm khó với Giáo chủ, vì thế mà hội họp các động, các đảo đi ngày đêm tới đây. Giáo chủ vẫn bình yên thiệt là may mắn vô cùng. Bọn thuộc hạ khôn xiết mừng vui!
Hư Trúc nói:
- Phái Thiếu Lâm là sư môn ta. Quý vị không được ăn nói vô lễ. Mau mau tới trước Thiếu Lâm phương trượng tạ tội đi!
Miệng y vừa nói mà tay y vẫn phóng chiêu "Thiên Sơn chiết mai thủ" rất thần diệu, không để sơ hở chút nào, mặc dầu y đang đối đáp với người ngoài.
Dư bà bà lộ vẻ khinh sợ khom lưng nói:
- Tiện phụ là Dư bà, bộ Hạo Thiên, thuộc hạ Giáo chủ cung Linh Thứu, ăn nói vô lễ, mạo phạm đến các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm, xin kính cẩn khấu đầu tạ tội trước phương trượng đại sư.
Mụ nói mấy câu này cực kỳ thành khẩn. Giọng nói dõng dạc tỏ nội lực vào hạng cao thủ bậc nhất. Huyền Từ phất tay áo bào ra nói:
- Lão tăng không dám! Nữ thí chủ đứng lên.
Đại sư đã vận đến tám thành công lực để phất tay áo muốn đẩy Dư bà đứng lên. Nhưng chỉ hơi rung người một chút, không bị đẩy hất lên.
Mụ dập đầu thêm cái nữa rồi nói:
- Tiện phụ mạo phạm sư môn Giáo chủ, tội đáng muôn thác!
Rồi từ từ đứng lên lui về bản đội. Các vị lão tăng vào hàng chữ Huyền đã được nghe Hư Trúc thuật lại những chuyện trên cung Linh Thứu núi Phiêu Diễu nên biết cả rồi. Còn các tăng khác chùa Thiếu Lâm và bọn quần hùng đứng bàng quan đều rất lấy làm kỳ tự hỏi:
- Mụ này nội lực ghê gớm lắm! Ngoài ra bọn nam nữ kia xem chừng bản lãnh cũng không phải tầm thường. Chẳng hiểu sao họ đều là bộ hạ của Hư Trúc?
Bọn môn nhân phái Tinh Tú thấy mấy đội đàn bà con gái cung Linh Thứu trong tám bộ rất nhiều thiếu phụ và thiếu nữ xinh đẹp liền buông lời trêu ghẹo. Các động chúa, đảo chúa, số đông là những hán tử thô hào, nghe bọn môn đồ phái Tinh Tú nói vô lễ, lập tức chửi mắng lại ngay.
Tiếng hô hoán và tiếng quát tháo chửi rủa nhau nhốn nháo cả lên. Bọn động chúa, đảo chúa rút binh khí ra khiêu chiến. Nhưng bọn đồ đệ phái Tinh Tú chưa được lệnh của sư phụ không dám xuất trận ứng chiến, chỉ già họng văng ra những lời thô tục để thoá mạ.
Đoàn Dự không dám phân tâm để ý đến chuyện người ngoài. Chàng không hỏi gì đến bọn thuộc hạ cung Linh Thứu đã tới nơi. Chàng ngưng thần để huy động "Thương dương kiếm pháp" mỗi lúc một dồn Mộ Dung Phục vào bước đường cùng. Mộ Dung Phục chống đỡ một lúc nữa rồi không nhìn rõ đường kiếm khí phóng tới, chỉ còn cách múa tít một cây phán quan bút và một cây câu che kín mình, tưởng chừng như gió mưa cũng không lọt vào được.
Đột nhiên nghe đến véo một tiếng! Một chiêu kiếm khí của Đoàn Dự đã lọt vào quệt rớt mũ Mộ Dung Phục ra. Đầu tóc Mộ Dung Phục rối tung, vẻ mặt y rất hoảng hốt.
Vương Ngọc Yến vội la lên:
- Đoàn công tử! Công tử nương tay cho!
Đoàn Dự nghe tiếng nàng thì trong lòng run sợ, thở dài một tiếng, không phóng kiếm khí ra nữa. Chàng lẩm bẩm:
- Ta biết Vương cô nương chỉ nghĩ đến biểu ca nàng mà thôi. Nhưng nếu ta lỡ tay giết y thì nàng đau đớn vô cùng. Từ đây không được nhìn thấy nụ cười của nàng nữa. Ta quyết không để cho nàng phải đau đớn sầu thảm.
Hồi Thứ 116
Hắc Bạch nhị tăng đều xuất hiện
Mộ Dung Phục quấn tóc lại, mặt xám như tro tàn. Y nghĩ bữa nay lên núi Thiếu Thất đấu kiếm mà bị thảm bại thật là nhục nhã vô cùng! Huống chi lại phải nhờ một cô gái mở miệng van xin mới được đối phương tha mạng cho, thì từ đây không còn mặt mũi nào mà đứng trên chốn giang hồ nữa?
Y nghĩ vậy rồi quát lên:
- Kẻ đại trượng phu thà chết chớ không cần ngươi phải nhân nhượng.
Hắn múa tít cây câu và cây phán quan bút nhảy xổ lại tấn công Đoàn Dự. Đoàn Dự xua tay nói:
- Chúng ta đã không thù oán đánh nhau mãi làm chi? Không đấu nữa! Không đấu nữa!
Mộ Dung Phục bản tính cao ngạo. Trước nay y coi người trong thiên hạ bằng nửa con mắt, mà lúc này trước mặt quần hùng thiên hạ y bị Đoàn Dự đánh cho tơi bời không còn cơ để trả đòn được, lại nhân vì lời năn nỉ của Vương Ngọc Yến mà đối phương nhân nhượng thì cái hận này y nuốt trôi làm sao được?
Mộ Dung Phục vung câu móc vào mặt Đoàn Dự còn phán quan bút thì đâm tới trước ngực chàng. Y định bụng:
- Mi dùng Vô hình kiếm khí giết ta đi có phải hay hơn không? Bây giờ ta liều mạng với mi cho cả hai cùng chết, còn hơn là sống thừa một cách nhục nhã trên thế gian này.
Y nghĩ vậy rồi thục thân nhảy xổ lại, gác hẳn sinh, tử, tồn, vong sang một bên không đến xỉa gì đến nữa. Đoàn Dự thấy Mộ Dung Phục khí thế hung mãnh. Chàng nghĩ rằng:
- Nếu ta phóng Lục mạch thần kiếm ra để đâm vào chỗ xung yêu thì e rằng y sẽ chết mất mạng thì đắc tội tày trời với Vương cô nương.
Chàng không biết làm thế nào đành đứng thộn mặt ra. Mộ Dung Phục đã ra đòn này để liều mạng thì dĩ nhiên là mau lẹ và mãnh liệt vô cùng! Bóng người vừa lấp loáng đã nghe đánh sột một tiếng. Cây phán quan bút trong tay mặt Mộ Dung Phục đã đâm vào người Đoàn Dự. Gặp lúc nguy cấp, Đoàn Dự nghiêng người sang mé tả. Đầu nhọn cây phán quan bút tuy không đâm trúng ngực nhưng đã đâm sâu vào vai bên hữu chàng suốt từ đằng trước ra đằng sau.
Đoàn Dự la lên một tiếng:
- Úi chao!
Mộ Dung Phục lại vung cây câu bên tay trái mọc vào đầu chàng. Lúc này vai Đoàn Dự đã bị cây phán quan bút đâm sâu vào không còn nhúc nhích được nữa. Cây cương câu lại ra chiêu "Đại hải lao châm". Đây là một chiêu số rất lợi hại trong phép "Ngư tẩu cẩu pháp" của nhà phép câu cá dưới biển chế ra. Thật là một chiêu vừa chuẩn xác vừa độc địa. Đoàn Dự không còn cách nào phá giải được chiêu thế hiểm độc của Mộ Dung Phục.
Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần thấy tình trạng nguy ngập hai người nhảy xổ vào cứu Đoàn Dự. Lần này Mộ Dung Phục quyết tâm giết cho được Đoàn Dự dù y có bị thương cũng cam tâm, chứ quyết không nới tay. Vì thế mà y thấy Đoàn Chính Thuần cùng Nam Hải Ngạc Thần xông vào công kích, y cũng không để ý gì hết. Đang lúc cây cương câu sắp móc vào sau gáy Đoàn Dự thì đột nhiên huyệt "Thần Đạo" trên lưng Mộ Dung Phục bị tê nhức. Người y bị nhấc hẳn lên không.
Huyệt "Thần Đạo" là một yếu huyệt, khi đã bị người nắm được thì lập tức hai tay nhũn ra. Mộ Dung Phục không giữ chắc được cây phán quan bút và cây cương câu nữa. Bỗng nghe Tiêu Phong quát lên:
- Người ta đã tha mạng cho ngươi mà ngươi còn hạ độc thủ thì còn đâu là phong độ của anh hùng hảo hán?
Nguyên Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục nhảy xổ tới để môn hộ sơ hở. Ông tưởng Đoàn Dự chỉ phóng ra một chiêu kiếm khí là đủ giết y rồi. Không ngờ Đoàn Dự vẫn đứng yên dừng tay. Mộ Dung Phục nhảy tới lẹ quá, tuy Tiêu Phong ra tay chớp nhoáng cũng không kịp giải cứu nhát bút đâm vào vai chàng. Nhưng lúc y sử chiêu "Đại hải lao châm" thì Tiêu Phong lập tức ra tay nắm lấy huyệt "Thần Đạo" ở sau lưng y.
Kể ra võ công của Mộ Dung Phục tuy kém Tiêu Phong một chút nhưng thực ra không đến nỗi mới một chiêu đã bị bắt ngay chỉ vì lúc nãy y căm hận đến cực điểm, quyết ý giết cho được Đoàn Dự không nghĩ gì đến bảo vệ thân mình nữa. Vì thế Tiêu Phong phóng ra một thủ pháp cầm nã tuyệt diệu đã nắm được huyệt đạo trọng yếu của y khiến y không còn nhúc nhích được nữa.
Tiêu Phong tầm vóc khôi vĩ, tay dài chân mạnh. Y nhấc Mộ Dung Phục lên trông chẳng khác gì con quạ bắt con gà con. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác bốn người đồng thanh la lên:
- Đừng hại chủ ta!
Rồi nhất tề nhảy xổ lại. Vương Ngọc Yến cũng la lên:
- Biểu ca!
Mộ Dung Phục bị người nắm giữ, tuy bản lãnh cao cường mà không phát huy được chút nào. Y căm hận muốn chết ngay lập tức để khỏi bị cái nhục thảm bại này.
Tiêu Phong cười lạt, dõng dạc lên tiếng:
- Tiêu mỗ đường đường tấm thân nam tử mà liệt danh cùng hạng người đốn mạt như ngươi thật uổng!
Dứt lời ông rung tay một cái liệng Mộ Dung Phục ra xa ngoài mấy trượng. Mộ Dung Phục bị thần lực của Tiêu Phong liệng đi ra xa đến bảy tám trượng. Người y vừa chấm đất, muốn đứng phắt dậy, không ngờ lúc Tiêu Phong nắm lấy huyệt "Thần Đạo" nội lực của ông phát ra đã thấu vào các kinh mạch. Trong người Mộ Dung Phục khiến cho chân tay y tê dại không thể khôi phục lại được ngay thành ra xương sống lưng giáng xuống đất đánh huỵch một tiếng. Y hoảng sợ vô cùng!
Bọn Đặng Bách Xuyên chưa đến trả thù cho Mộ Dung Phục vội xoay mình chạy về phía Mộ Dung Phục đang nằm lăn kềnh ra. Mộ Dung Phục vận chuyển nội lực, không chờ bọn Đặng Bách Xuyên chạy tới đã trầm mình đứng dậy. Mặt y xám ngắt. Y vươn tay rút lấy thanh trường kiếm sau lưng Đặng Bách Xuyên rồi vung tay trái gạt một vòng tròn đẩy bọn Đặng Bách Xuyên cùng Vương Ngọc Yến ra xa ngoài mấy thước. Y xoay tay lại cầm ngang lưỡi kiếm đưa lên cổ toan tự tử.
Vương Ngọc Yến la hoảng:
- Biểu ca! Không nên...
Giữa lúc ấy trên không nổi lên tiếng veo véo. Một mũi ám khí từ ngoài hai chục trượng bay tới, lướt qua đầu quần hùng, vào không trường, đụng đúng tay kiếm Mộ Dung Phục đánh choang một tiếng. Cánh tay Mộ Dung Phục bị tê nhức, thanh trường kiếm rời khỏi tay bay ra. Lòng bàn tay đầm đìa máu tươi vì hổ khẩu bị toạc. Mộ Dung Phục ngoảnh đầu nhìn về phía ám khí phóng tới thì thấy sau tảng đá lớn có một nhà sư áo trắng đứng đó.
Nhà sư này người cao lêu nghêu, bịt mặt bằng tấm khăn trắng, chỉ lộ cặp mắt loang loáng sắc như dao. Nhà sư áo trắng bệ vệ bước ra không trường đến bên mình Mộ Dung Phục hỏi:
- Ngươi đã có con chưa?
Mọi người thấy một mũi ám khí nhỏ bé bay trên không mà rít lên thành tiếng rùng rợn thì biết rằng nội lực của người phóng ra cực kỳ ghê gớm! Đến khi thấy người phóng ám khí là một nhà sư áo trắng đi tới bên Mộ Dung Phục lên tiếng hỏi một câu như vậy thì rất lấy làm kỳ mà lại buồn cười nữa. Mọi người nghe thanh âm khàn khàn hiểu ngay là một lão già. Lão mặc áo nhà sư có nhiều chỗ khác với y phục tăng lữ chùa Thiếu Lâm.
Mộ Dung Phục đáp:
- Tại hạ chưa có hôn phối, làm gì có con?
Nhà sư áo trắng trợn trừng hỏi lại:
- Ngươi có tổ tiên không?
Mộ Dung Phục tức giận lớn tiếng đáp:
- Dĩ nhiên là có! Tại hạ muốn chết thì được chứ không chịu nhục. Mộ Dung Phục này đường đường tấm thân nam tử, không thể chịu được những lời nói vô lễ của các hạ.
Nhà sư áo trắng nói:
- Cao tổ ngươi có con, tằng tổ, tổ phụ, phụ thân ngươi đều có con. Sao lại chỉ mình ngươi không có con? Ha ha! Nước Đại Yên ngày trước có Mộ Dung Tuần, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thuỳ, Mộ Dung Đức anh hùng là thế, không ngờ nay biến thành những người không kẻ nối dõi.
Mộ Dung Tuần, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thuỳ, Mộ Dung Đức đều là những ông vua nổi tiếng anh hùng nước Yên, oai danh lừng lẫy thiên hạ, lập nên sự nghiệp hiển hách. Những vị đó chính là tổ tiên Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục đang lúc tức giận như điên khùng nghe nhà sư nói đến tên tuổi bốn vị tiên nhân thì khác nào bị gáo nước lạnh dội vào người.
Y lẩm bẩm:
- Tiên phụ ta trước kia đã hết lời răn dạy, bảo ta phải lấy việc phục hưng nước Đại Yên làm chí nguyện suốt đời. Thế mà ngày nay ta nhân lúc cáu giận nhất thời tự tìm cái chết để họ Mộ Dung từ đây phải tuyệt tự. Ta không có cả lấy một đứa con thì còn có chi đến chuyện quang tôn phục quốc?
Mộ Dung Phục nghĩ tới đây bất giác trán toát mồ hôi lạnh ngắt. Y lạy phục xuống đất nói:
- Mộ Dung Phục kiến thức nông cạn, được nhờ cao tăng chỉ điểm bến mệ Ơn đức to tát này suốt đời ghi tạc.
Nhà sư áo trắng thản nhiên để mặc cho Mộ Dung Phục quỳ lạy. Lão nói:
- Xưa nay, những người làm nên công nghiệp vĩ đại ai mà không trải qua trăm nghìn cay đắng? Hán Cao Tổ phải chịu nhục cầu hoà ở Bạch Đằng, Đường Cao Tổ phải chịu nhục đầu hàng rợ Đột quyết. Giả tỷ những vị đó cũng như ngươi, vung kiếm lên tự tử thì chẳng qua là những người tâm địa hẹp hòi, chỉ muốn giải quyết lấy mình, còn nghĩ chi đến việc xây dựng sự nghiệp mở mang bờ cõi. Ngươi còn thua cả Câu Tiễn, Hàn Tín nữa là khác. Chí khí ngươi thiệt nông cạn hết chỗ nói.
Mộ Dung Phục vẫn quỳ mọp nghe lời giáo huấn, y kinh hãi nghĩ bụng:
- Dường như lão này biết tấm lòng hoài bão của ta nên đem những Hán Cao Tổ, Đường Cao Tổ là những bậc vua chúa lập quốc ra nghị luận.
Nghĩ vậy chàng liền đáp:
- Mộ Dung Phục này biết mình lầm lỡ rồi!
Nhà sư áo trắng nói:
- Thôi ngươi dậy đi!
Mộ Dung Phục kính cẩn dập đầu ba cái nữa rồi đứng lên. Nhà sư áo trắng lại nói:
- Nhà Mộ Dung ở Cô Tô các người đã có môn võ công gia truyền thần kỳ tinh diệu, thế gian chẳng ai bằng. Ngươi chưa học được đến nơi đến chốn mà thôi. Có lý đâu lại chịu thua kém môn Lục mạch thần kiếm của họ Đoàn nước Đại Lý. Ngươi hãy coi đây!
Đột nhiên nhà sư áo trắng chĩa ngón tay trỏ ra điểm lên không ba cái. Lúc này Đoàn Chính Thuần cùng Ba Thiên Thạch đứng bên Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần đang dùng phép Nhất dương chỉ phong toả những huyệt mạch chung quanh vết thương của Đoàn Dự và toan rút cây phán quan bút trên bả vai chàng ra. Không ngờ nhà sư áo trắng nhanh như chớp, nhìn vào chuôi cây phán bút thì thấy nó lay động rồi bắn ra ngoài. Dư lực hãy còn rất mãnh liệt cây bút cắm phập vào cành tùng.
Đoàn Chính Thuần cùng Ba Thiên Thạch vừa ngã ra, lập tức trằn mình đứng phắt dậy, thấy thế không khỏi kinh hãi. Hai người biết rằng nhà sư áo trắng đã tỏ ra không muốn hại người. Không thì lão điểm trên không cũng đủ hạ sát mình rồi.
Bỗng nghe nhà sư áo trắng dõng dạc nói:
- Đây là "Tham hợp chỉ" của nhà Mộ Dung ngươi đó. Ngày trước lão tăng vô tình đã học được của tiền nhân nhà ngươi và chỉ biết sơ sơ một chút bề ngoài. Còn biết bao nhiêu môn võ lão tăng chưa được hiểu đến. Ha ha! Chẳng lẽ một gã thiếu niên như ngươi hãy còn kém cỏi mà đã sáng lập ra được phép gậy ông đập lưng ông để nổi tiếng lớn cho nhà Mộ Dung ở Cô Tô ư?
Hết thảy quần hùng đều chấn động về oai danh của Cô Tô Mộ Dung, nhưng thấy Mộ Dung Phục bị thảm bại với Đoàn Dự rồi lại bị thua cả Tiêu Phong thì cho là nhà Mộ Dung Phục chỉ có hư danh chứ chẳng có võ công gì đặc biệt quán thế. Bây giờ họ thấy nhà sư áo trắng trổ ngón thần thông, lại nghe lão nói mới biết được một chút bề ngoài phép "Tham hợp chỉ" của nhà Mộ Dung Phục thì bất giác sinh lòng kính cẩn bốn chữ "Cô Tô Mộ Dung".
Nhưng ai cũng nghi ngờ tự hỏi:
- Nhà sư áo trắng kia là ai? Lão có mối liên quan gì với nhà Mộ Dung?
Nhà sư áo trắng xoay mình lại nhìn Tiêu Phong chắp tay nói:
- Kiều đại hiệp võ công trác tuyệt, quả nhiên danh bất hư truyền, lão tăng muốn lĩnh giáo mấy chiêu.
Tiêu Phong vốn đã đề phòng, thấy nhà sư chắp tay thi lễ, cũng khoanh tay đáp lễ nói:
- Không dám!
Hai luồng nội lực kia chạm nhau và cả hai người đồng thời run lên một chút. Giữa lúc ấy từ trên không một bóng trông tựa như con chim ưng khổng lồ nhào xuống đứng vào giữa nhà sư áo trắng và Tiêu Phong. Người này từ trên không hạ xuống một cách đột ngột. Toàn trường kinh hãi đồng thanh la hoảng.
Người mới xuống hai chân vừa đáp xuống đất mọi người đã nhìn rõ trong tay y cầm một sợi dây dài. Một đầu dây buộc vào cành cây lớn cách xa hơn mười trượng. Người này đen đủi và đầu trọc, cũng là một nhà sư, che mặt bằng tấm khăn đen, chỉ để cặp mắt hở ra sáng như điện. Hai nhà sư một đen một trắng đứng quay mặt vào nhau. Hồi lâu hai nhà sư vẫn không ai lên tiếng. Cả hai nhà sư đều thân hình cao nghệu. Có điều nhà sư áo đen thì mập mạp hơn, còn nhà sư áo trắng lại gầy như hạc.
Trong những người bàng quan chỉ mình Tiêu Phong là vừa vui mừng vừa cảm kích. Ông nhìn thân pháp nhà sư dùng sợi dây dài để tung mình vào thì nhận ngay nhà sư này trước kia là một Đại Hán áo đen đã cứu tính mạng ông ở Tụ Hiền Trang. Nhưng ngày ấy, Đại Hán áo đen đầu đội mũ vải, mình mặc áo tục gia, mà bây giờ y đã thay đổi mặc tăng trang. Tuy nhiên nhỡn lực Tiêu Phong sắc bén vô cùng, thân pháp võ công người nào chỉ qua mắt ông một lần là ông nhớ suốt đời không bao giờ quên nữa. Huống chi Đại Hán áo đen đã cứu ông đem vào núi và đã cùng ông chiết giải mấy chục chiêu thế cao thâm.
Bữa nay quần hùng tụ tập trên núi Thiếu Thất, có rất nhiều vị đã đến tham dự đại hội ở Tụ Hiền Trang, nhưng khi đó Đại Hán áo đen chỉ xuất hiện trong nháy mắt lại đi ngay, chưa một ai nhìn rõ thân pháp y, cho nên không nhận ra.
Thời gian lặng lẽ trôi qua hồi lâu, đột nhiên Hắc, Bạch nhị tăng đồng thời lên tiếng:
- Ngươi...!
Nhưng tiếng ngươi vừa ra khỏi cửa miệng hai nhà sư lập tức ngừng lại. Sau một lúc, nhà sư áo trắng hỏi:
- Ngươi là ai?
Nhà sư áo đen cũng hỏi theo:
- Ngươi là ai?
Quần hùng vừa nghe nhà sư áo đen nói mấy tiếng đã nghĩ bụng:
- Vị hoà thượng này giọng nói khàn khàn. Té ra y cũng là một vị lão tăng.
Tiêu Phong nghe thanh âm thì đúng là Đại Hán áo đen bữa trước đã giáo huấn mình tại khu rừng hoang. Ông cực kỳ xúc động, nhưng muốn chạy ra để tạ ơn cứu mạng.
Bỗng nghe nhà sư áo trắng hỏi:
- Ngươi ẩn núp tại chùa Thiếu Lâm mấy chục năm làm gì?
Nhà sư áo đen nói:
- Đó chính là điều ta muốn hỏi ngươi? Ngươi lén lút trong chùa Thiếu Lâm làm gì mấy chục năm trời?
Hai nhà sư nói ra mấy câu này khiến cho quần tăng chùa Thiếu Lâm, từ Huyền Từ phương trượng trở xuống chẳng ai là không kinh dị, ngơ ngác nhìn nhau tự hỏi:
- Hai vị lão tăng này đã ở trong bản tự mấy chục năm mà sao mình chẳng biết một tý gì? Chẳng lẽ việc này có thực ư?
Bỗng nghe nhà sư áo trắng đáp:
- Ta ẩn mình trong chùa Thiếu Lâm là để điều tra biết rõ ngọn ngành một việc.
Nhà sư áo đen nói:
- Ta ẩn mình trong chùa Thiếu Lâm cũng để dò xét chân tướng một việc. Việc của ta điều tra xong rồi, còn việc của ngươi?
Nhà sư áo trắng đáp:
- Việc của ta, ta cũng thám xét được rõ rồi.
Nhà sư áo trắng lại lễ phép nói tiếp:
- Võ công tôn giá rất mực cao thâm. Thiệt tình tại hạ chưa thấy ai bằng. Chúng ta tỷ thí ba lần mà thuỷ chung vẫn chưa phân cao thấp. Bữa nay chúng ta lại tỷ thí nữa chăng?
Nhà sư áo đen đáp:
- Huynh đệ thiệt tình rất bội phục võ công của các hạ. Bây giờ có tỷ đấu nữa e rằng khó lòng phân được thắng bại.
Mọi người nghe hai nhà sư gọi nhau bằng các hạ, huynh đệ không đúng kiểu cách xưng hô của người xuất gia thì không sao đoán được hai người là những nhân vật như thế nào.
Nhà sư áo trắng lại nói:
- Đã thế thì chúng ta chẳng nên trái ngược với thâm tâm và tỷ thí làm gì nữa.
Nhà sư áo đen nói:
- Phải lắm!
Hai nhà sư gật đầu sóng vai đi đến gốc cây lớn ngồi xuống bên nhau nhắm mắt nhập định không nói gì nữa.
Mộ Dung Phục bị một phen bại nhục toan tự tử, nhưng nghe nhà sư áo trắng mấy lời cảnh giác thì trong lòng vừa hổ thẹn vừa cảm kích nghĩ thầm:
- Vị cao tăng này biết rõ tiền nhân ta. Không hiểu y quen biết với gia gia hay chính là gia gia ta cũng nên. Từ đây sắp tới, công cuộc phục hưng đại nghiệp phải nhờ vị cao tăng này chỉ điểm mới được. Bữa nay quyết không thể có hành động của kẻ vũ nhục, và cũng không nên quấy nhiễu nhà sư kia nữa.
Y nghĩ vậy rồi đứng sang một bên quyết định chờ cho nhà sư áo trắng đứng lên, bấy giờ mới lại khấu đầu để xin lĩnh giáo.
Vương Ngọc Yến nghĩ tới vừa rồi suýt nữa biểu ca mình chực tự vận, bây giờ nàng vẫn chưa hết kinh sợ liền lại nắm lấy tay áo y. Nước mắt nàng lã chã tuôn rơi. Mộ Dung Phục trong lòng rất lấy làm khó chịu nhưng cũng biết rằng đây là hảo ý của nàng nên không chịu phất áo đẩy nàng ra.
Từ lúc Hắc Bạch nhị tăng liên tiếp xuất hiện cho đến lúc hai người lại ngồi chung dưới gốc cây, Hư Trúc vẫn cùng Đinh Xuân Thu chiến đấu kịch liệt không ngừng. Bây giờ quần hùng mới để mắt theo dõi cuộc chiến giữa hai người. Một trong Tứ kiếm cung Linh Thứu là Cúc Kiếm chợt nhớ ra điều gì liền chạy đến gần mười tám tên võ sĩ Khất Đan nói:
- Chủ nhân ta đang cùng người tỷ đấu, cần được chút rượu để tăng gia khí lực.
Một tên võ sĩ Khất Đan nói:
- Rượu ở đây có nhiều. Cô nương cứ việc lấy mang đi!
Gã nói xong cầm cả hai bì rượu đưa ra. Cúc kiếm cười nói:
- Xin đa tạ! Chủ nhân ta tửu lượng bình thường thôi một bì là đủ lắm rồi.
Nàng cầm bì rượu mở nút ra, từ từ lại gần chỗ Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu đánh nhau cất tiếng gọi:
- Thưa chủ nhân! Chủ nhân gieo "Sinh tử phù" vào Tinh Tú lão quái đi để xơi một chút rượu đã!
Thị bê ngang bì rượu đưa mạnh ra phía trước. Bì rượu vọt ra một tia lẹ như tên phun, đến chỗ Hư Trúc.Mai, Lan, Trúc ba cô vỗ tay reo lên:
- Cúc Muội! Thủ pháp của Cúc Muội thiệt là tuyệt diệu!
ồi Thứ 117
Hư Trúc thụ hình gặp mẫu thân
Bỗng nghe ngoài cửa sơn môn có thanh âm đàn bà hắt lên vời vợi:
- Mất cành tươi tốt hương thơm ngát, Mưa gió non Vu luống đoạn trường. Ta đây là Dương Quý Phi. Rượu ngon cha chả là ngon! Nô gia say tuý luý, nằm cạnh trầm hương đỉnh!
Khi dứt tiếng hát thì Cúc kiếm đã phun đến nửa bình rượu về phía Hư Trúc. Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu kịch đấu đến hồi lâu mà không bên nào có cách thủ thắng được. Hư Trúc chợt nghe bọn thuộc hạ Linh Thứu cung kêu y dùng Sinh tử phù để đối phó. Tuy y biết rằng môn này rất tàn ác bá đạo nhưng thấy Cúc kiếm tia rượu đến nơi, y liền thò tay ra nắm lấy một nắm.
Bỗng thấy từ sau núi chuyển ra chín người là Cầm tiên Khang Quảng Lăng, Kỳ Phạm Bách Linh, Thư Ngại Cầu Độc, Hoạ Cuống Ngũ Linh Quân, Thần y Tiết Mộ Hoa, Xảo Tượng Trương A Tam, Hoạ Sĩ Thạch Thanh Lộ, Hí Mê Lý Quỷ Lỗi, tức cả bọn Hàm cốc bát hữu và nữ đồ đệ Khang Quảng Lăng tên gọi A Bích.
Chín người này thấy Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu đang quyền cước qua lại chiến đấu hăng hái liên miên, liền reo hò trợ oai:
- Chưởng Môn sư thúc! Bữa nay phải trổ tài thần thông để giết thằng giặc Đinh Xuân Thu báo thù cho sư phụ!
Quần tăng Thiếu Lâm lại một phen kinh ngạc tự hỏi:
- Bọn này là bọn nào mà lại kêu Hư Trúc bằng sư thúc?
Cúc kiếm đang phun rượu về phía Hư Trúc, một phần lớn phun về phía Đinh Xuân Thu. Tinh Tú lão quái đang ác đấu cùng Hư Trúc dằng dai đến quá nửa giờ. Hắn thấy đối phương thủ pháp linh diệu vô cùng, hắn không được lúc nào rảnh tay để thi triển tà thuật. Đột nhiên, hắn thấy một tia rượu bắn tới liền nghĩ ngay ra một kế vung tay áo bên trái phát ra kình lực làm cho tia rượu bắn tứ tung như mưa phun tà độc vào Hư Trúc.
Lúc này công lực toàn thân Hư Trúc đang vận chuyển ra ngoài. Nội lực của y gồm đủ của Vô Nhai Tử, Thiên Sơn Đồng Mỗ, Lý Thu Thủy phóng ra như tường đồng vách sắt để che kín thân mình, tà khí không xâm nhập vào được. Đinh Xuân Thu hạ độc thủ mấy lần mà vẫn chẳng ăn thua gì. Dù là hàng ngàn hàng vạn giọt rượu bay tới, nhưng chưa bám vào đến áo Hư Trúc đã bị kình lực hất ra rồi.
Bất thình lình hai tiếng úi chao la lên. Cúc kiếm cùng A Bích ngã lăn ra. Nguyên Đinh Xuân Thu lúc phất tay áo làm mưa rượu, trong mỗi giọt đều có tẩm thuốc độc. Cúc kiếm đứng gần, còn A Bích đang chạy về phía Mộ Dung Phục để bái kiến thì gặp phải mưa độc mới ngã lăn ra. Hư Trúc liếc mắt nhìn thấy Cúc kiếm và A Bích mới trong chớp mắt, mặt đã xám lại vì vừa kinh hãi vừa tức giận.
Y nghĩ thầm:
Quân mọi rợ Đinh Xuân Thu này nếu không diệt trừ thì thật là mối hoạ ghê gớm vô cùng!
Bỗng nghe Tiết Thần Y la hoảng:
- Sư thúc! Thuốc độc này lợi hại vô cùng! Cần phải kiềm chế lão tặc cho mau để bắt hắn đưa thuốc giải cứu mới được.
Hư Trúc vung chưởng tay phải ra tấn công Đinh Xuân Thu, ngấm ngầm vận nội lực vào lòng bàn tay trái, lại vận chuyển "Bắc minh chân khí" cho chạy ngược đường. Chỉ trong khoảnh khắc đã biến chất rượu trong lòng bàn tay thành bảy tám miếng băng lạnh. Tay phải đánh ra veo véo luôn ba chiêu "Thiên Sơn lục dương chưởng" kèm theo nội lực "Bắc minh chân khí".
Đinh Xuân Thu chợt thấy gió lạnh thổi vào không chịu được bất giác cả kinh nghĩ thầm:
- Thằng trọc này nội lực dương cương sao đột nhiên biến đổi và âm hàn thật nguy hiểm.
Hắn vận toàn lực chống đỡ. Đột nhiên thấy huyệt "Khuyết Bồn" trên đầu vai hơi lạnh tựa hồ tuyết rơi vào. Rồi đến huyệt "Thiên Khu" ở bụng dưới, huyệt "Phục Hổ" ở vế đùi, huyệt" Dương Tiền" ở bắp chân, huyệt "Thiên Tiền" trên cánh tay cả bốn chỗ đều giá lạnh.
Đinh Xuân Thu rủa thầm:
- Thằng trọc non đã dùng chưởng lực âm nhu, mình không thể coi thường được. Nó có thể làm cho toàn thân mình bị rét lạnh.
Hắn đang thúc đẩy chưởng lực để chống đỡ thì đột nhiên huyệt "Thiên Trụ" ở sau gáy, huyệt "Phong Phiến" và huyệt "Chi Thất" ở sau lưng cả ba chỗ đều giá lạnh.
Đinh Xuân Thu là người biết nhiều hiểu rộng, trong lòng rất lấy làm kỳ, liền lẩm bẩm một mình:
- Chưởng lực của gã đã biến thành âm hàn. Hơn nữa những đại huyệt mình đều bị giá lạnh. Chắc thằng trọc dùng tà thuật cổ quái gì đây mình phải đề phòng mới được.
Hắn liền phất tay áo ra để che hai chân rồi phóng cước đá vào Hư Trúc. Đây là một môn tuyệt học của Đinh Xuân Thu mà cũng là môn võ chân thực đánh ra trăm phát trúng cả trăm. Người bị đá chẳng chết cũng bị thương. Ngờ đâu chân hắn mới đá ra nửa vời thì đột nhiên huyệt "Phục thổ và huyệt Dương giao" phát sinh ngứa ngáy cực kỳ khó chịu.
Bất giác hắn la lên hai tiếng:
- Úi chà!
Đầu chân phải hắn rõ ràng đã chạm vào áo Hư Trúc, nhưng hai chỗ yếu huyệt đồng thời phát ngứa phải hạ chân xuống. Hắn lại la lên mấy tiếng úi chao.
Bọn đồ đệ lão lại ca tụng:
- Tinh Tú lão tiên thần thông quảng đại thiên hạ vô song.
Vừa vung tay áo hai ả ngã liền.
- Lão gia đá một phát bằng trời long đất lở, vẫy tay một cái, nhật nguyệt phải lu mờ. Tinh Tú lão tiên tay phất áo bào, miệng niệm chân ngôn, khiến bạn bàng môn, ngưu quỷ, xà thần, chúng bây chết hết, không có đất chôn.
Những câu ca tụng Tinh Tú lão tiên hoà lẫn với tiếng la úi chao luôn miệng của lão quái thực chẳng ăn nhập với nhau chút nào. Bọn môn đồ tinh khôn đều ngạc nhiên ngơ ngác im miệng nhưng vẫn còn số đông kéo gân cổ lên mà nịnh hót. Chỉ trong khoảnh khắc, Đinh Xuân Thu thấy bảy đường huyệt đạo "Thiên Khu", "Phục Thổ", "Dương Giao", "Thiên Tuyên", "Thiên Trụ", "Phong Môn", "Chi Thất" đồng thời ngứa ngáy tựa muôn ngàn con kiến đốt không sao chịu nổi. Bảy huyệt đạo này không phải là những yếu huyệt trí mạng trong con người.
Đinh Xuân Thu lại là tay bản lãnh phi thường. Lúc tiếp chiến, tự nhiên đã có nội lực chống đỡ nên "Sinh tử phù" của Hư Trúc đối với hắn không có công hiệu ngay. Tuy nhiên cả bảy miếng "Sinh tử phù" cũng len lỏi được vào các huyệt đạo khác trong khắp người hắn. "Sinh tử phù" hoà với nội lực của Hư Trúc lạnh như băng thấm vào thân thể Đinh Xuân Thu rồi bị nhiệt lực của hắn hóa giải ngay không còn tăm tích gì nữa. "Sinh tử phù" đã không phải là thuốc độc cũng không phải là ám khí. Nó chỉ là một thứ nội lực vô hình vẫn còn chạy trong huyệt mạch Đinh Xuân Thu, mặc dầu chất hàn băng đã tiêu tan.
Đinh Xuân Thu chân tay luống cuống, thò tay vào bọc lấy ra năm, bảy thứ thuốc giải độc uống liền một lúc, mà huyệt đạo lại càng ngứa ngáy thêm. Nếu là người khác đã phải nằm lăn xuống đất rồi.
Nhưng Đinh Xuân Thu bản lãnh ghê người, gắng gượng chống đỡ. Ngờ đâu "Sinh tử phù" chỉ là một thứ nội kinh ở ngoài vào, nên nếu là người không biết võ công trúng phải thì cái hại không đáng kể, nhưng người nội công càng cao thâm cố ra sức đề kháng thì phản ứng lại càng mãnh liệt.
Đinh Xuân Thu chân bước loạng choạng như người say rượu. Sắc mặt lúc đỏ bừng, lúc trắng hợt. Hai tay xua loạn lên coi rất khủng khiếp.
Hư Trúc có điều hối hận nghĩ thầm:
- Lão này tuy tội ác đã nhiều, song mình làm cho lão phải khổ não quá chừng! Biết vậy thì mình chỉ gieo vào lão một vài miếng "Sinh tử phù" cũng đủ rồi.
Bọn môn đồ phái Tinh Tú thấy tình trạng sư phụ như vậy đều yên lặng. Nhưng còn có kẻ kêu:
- Tinh Tú lão tiên đang vận "Đại La toàn tiên võ đạo công", rồi nhà sư nhỏ kia sẽ biết.
Nhưng câu nói này ra chiều gượng gạo không hăng hái như trước nữa. Lý Quý Lỗi lớn tiếng nói giễu:
- Đem Ngũ hoa mã, Thiên kim cẩu ra mà đổi lấy rượu ngon đặng chúng ta tiêu sầu giải muộn. Ha ha! Lý Thái Bạch chính thị là ta! Rượu uống vào tiên cũng vào theo. Đệ nhị là Tinh Tú lão tiên Đinh Xuân Thu.
Quần hùng thấy Đinh Xuân Thu tựa như người say rượu mà vẻ mặt hốt hoảng vô cùng, lại nghe Lý Quý Lỗi hát diễu thì cười ầm lên!
Nên biết rằng, Hư Trúc dùng rượu mạnh để chế ra bảy miếng "Sinh tử phù" so với chất băng lạnh thông thường khác nhau nhiều. Chẳng mấy chốc, Đinh Xuân Thu không gượng gạo được nữa, giơ tay lên giật chòm râu. Những sợi râu bạc dài đến rốn, bay ra trước gió. Tiếp theo là những mảnh áo bị xé rách để lộ màu da trắng như tuyết chẳng khác một gã thiếu niên đang tuổi cường tráng. Ngón tay hắn sờ vào đâu thì thịt rách máu chảy ra đến đó.
Lão vừa cào vừa kêu lên:
- Ngứa chết ta rồi! Ngứa chết rồi!
Sau một lúc hắn quỳ một chân xuống kêu gào cực kỳ thảm thiết. Quần hùng, tuy số đông là những người biết nhiều hiểu rộng, nhưng thấy một cao nhân võ lâm da hồng, tóc bạc, chẳng khác thần tiên mà trong khoảnh khắc biến thành quỷ ma, gầm lên như dã thú thì ai nấy đều kinh hãi thất sắc. Cả đến gã hay cười đùa giễu cợt là Lý Quý Lỗi cũng sợ hãi rụng rời không dám mở miệng. Chỉ có Hắc Bạch nhị tăng ngồi nhắm mắt tĩnh toạ dưới gốc cây là thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Huyền Từ phương trượng bấy giờ mới lên tiếng:
- Đức Phật từ bi! Hư Trúc ngươi cởi mở khổ não cho Đinh cư sĩ đi!
Hư Trúc đáp:
- Dạ! Xin kính cẩn tuân lời pháp dụ.
Huyền Tịch vội nói:
- Khoan đã! Phương trượng sư huynh! Đinh Xuân Thu tội ác đã nhiều. Huyền Nạn, Huyền Thống hai vị sư đều mất mạng về tay hắn. Có lý đâu buông tha hắn một cách khinh xuất được?
Khang Quảng Lăng cũng lên tiếng:
- Chưởng Môn sư thúc! Sư thúc là chưởng môn bản phái sao lại đi nghe lời người ngoài? Mối đại thù của sư tổ và sư phụ của bọn sư điệt, chẳng lẽ không trả hay sao?
Hư Trúc không biết làm thế nào cho phải. Tiết Mộ Hoa nói:
- Sư thúc! Cần lấy thuốc giải trước đã.
Hư Trúc gật đầu nói:
- Phải rồi! Mai kiếm cô nương! Cô nương hãy lấy nửa viên thuốc trị ngứa cho hắn.
Mai kiếm vâng lời lấy trong bọc ra chiếc bình nhỏ sắc xanh múc lấy một viên thuốc to bằng hạt đậu. Nhưng ả thấy Đinh Xuân Thu tựa như người điên khùng, không dám đến gần.
Hư Trúc đón lấy viên thuốc bửa làm đôi rồi la lên:
- Đinh tiên sinh! Há miệng ra! Tại hạ thảy cho tiên sinh uống thuốc trị ngứa!
Đinh Xuân Thu thở hồng hộc há miệng ra. Hư Trúc lấy ngón tay búng nửa viên thuốc cho bắn vào miệng hắn. Chất thuốc chưa kịp ngấm vào, Đinh Xuân Thu ngã lăn ra đất mà lăn lộn. Sau khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, mới thấy đỡ ngứa.
Đinh Xuân Thu đứng dậy, thần trí tuy tỉnh táo nhưng hắn biết rằng không thể phản kháng được nữa. Hắn không chờ cho Hư Trúc mở miệng, đã lấy thuốc giải ra đưa cho Tiết Mộ Hoa nói:
- Thứ thuốc trắng để uống vào trong, còn thứ đỏ thoa ngoài.
Hắn kêu gào lâu quá đã khàn cả tiếng nên thanh âm không rõ lắm. Tiết Mộ Hoa liệu chừng hắn không dám man trá, liền đưa thuốc cho A Bích cùng Cúc kiếm trong uống ngoài thoa.
Mai kiếm lớn tiếng nói:
- Tinh Tú lão quái! Nửa viên thuốc trị ngứa đó có thể giữ được ba ngày khỏi ngứa. Nhưng sau ba ngày bệnh ngứa lại phát tác. Khi đó ngươi chờ chủ nhân ta có cho linh dược nữa hay không là tuỳ ở ngươi. Ngươi liệu đó, đừng có phản trắc mà chết đấy.
Đinh Xuân Thu vẫn còn chưa hết kinh hãi, người lão run lẩy bẩy nói không ra tiếng. Bọn môn đồ phái Tinh Tú liền thuận gió theo chiều. Có đến hai trăm tên chạy đến trước mặt Hư Trúc, khẩn cầu y thu dụng.
Có tên nói:
- Chủ nhân cung Linh Thứu nhân nghĩa vô song, bản lãnh quán thế. Tiểu nhân thành tâm quy phục để vị chủ nhân ra sức khuyển mã.
Có tên nói:
- Ngôi minh chủ võ lâm trong thiên hạ phi chủ nhân thì còn ai đương nổi? Chủ nhân có lệnh truyền ra thì dù tiểu nhân có phải nhảy vào đống lửa cũng không dám chối từ.
Lại còn nhiều tên nữa bày tỏ tấc dạ trung can, trỏ tay vào mặt Đinh Xuân Thu mà thống mạ:
- Ánh lửa đom đóm mà dám tranh sáng với mặt trời, mặt trăng. Người là kẻ tiểu nhân gian tà, độc ác, trong tâm toàn thị âm mưu phản trắc.
Còn có kẻ khỉnh cầu Hư Trúc giết ngay Đinh Xuân Thu để trừ loại cho thế gian. Bỗng nhiên nghe tiếng chiêng trống cùng tiếng đàn sáo nổi lên.
Bọn đồ đệ phái Tinh Tú gân cổ lên hét vang:
- Linh Thứu chủ nhân Danh lừng vũ trụ Đức sánh cửu thiên Cổ kim hiếm có.
Nguyên là khúc hát ca tụng Đinh Xuân Thu mà chỉ đổi đi bốn chữ "Tinh Tú lão tiên" thành ra "Linh Thứu chủ nhân" còn những câu dưới để nguyên như cũ. Hư Trúc tuy là người chất phác nhưng nghe bọn môn đồ phái Tinh Tú ca tụng mình cảm thấy nhẹ nhàng như bay bổng trên chín tầng mây.
Lan kiếm quát lên:
- Bọn mi thiệt là đồ tiểu nhân vô sỉ! Sao dám đem khúc hát thối nát ca tụng Tinh Tú lão quái chuyển sang ca tụng chủ nhân ta? Thiệt là vô lễ đến cùng cực!
Bọn môn đồ phái Tinh Tú sợ hãi vô cùng! Có kẻ nói:
- Phải rồi! Tiểu nhân vào một cơ quan khác, cái gì cũng phải đổi mới. Xin tiên cô vui lòng bao dung cho.
Có người nói:
- Thưa bốn vị tiên cô, các cô nguyệt thẹn hoa nhường đã hơn Tây Tử, lại vượt Quý Phi Đại khái toàn những lời nịnh hót.
Bọn môn đồ phái Tinh Tú sau khi sụp lạy Hư Trúc rồi tự mình lại đứng ở phái sau các động chúa đảo. Tên nào cũng dương dương tự đắc, mặt mũi vênh vang, coi bọn quần hào Trung Nguyên, Bang chúa Cái Bang và các tăng lữ chùa Thiếu Lâm không vào đâu nữa.
Huyền Từ nói:
- Hư Trúc! Ngươi tự lập môn phái nhưng sau này nên theo đường chính dẫn dụ đệ tử khiến bọn họ đừng làm điều trái gây tai vạ cho giang hồ. Được như vậy thì tăng tục cũng thế thôi.
Hư Trúc nghẹn ngào nói:
- Dạ! Hư Trúc xin tuân lời chỉ giáo của phương trượng.
Huyền Từ lại nói:
- Cái tội ngươi phá quy luật bản môn không thể nào xoá bỏ được nhưng phạt trượng thì có thể miễn cho.
Bỗng nghe có tiếng người cười ha hả nói:
- Bần tăng tưởng chùa Thiếu Lâm coi trọng giới luật, pháp độ nghiêm minh. Ngờ đâu cũng chỉ là hạng phù thịnh mà thôi.
Mọi người liếc mắt nhìn xem người đó là ai. Té ra là Đại Minh Vương Cưu Ma Trí. Huyền Từ biến sắc nói:
- Minh Vương lấy đại nghĩa mà phiền trách. Lão tăng biết lỗi rồi. Huyền Tịch sư đệ! Hãy chuẩn bị đồ pháp trượng ra.
Huyền Tịch dạ một tiếng rồi quay lại nói:
- Pháp trượng đã sẵn sàng cả rồi!
Rồi quay lại bảo Hư Trúc:
- Hư Trúc! Hiện giờ ngươi còn là đệ tử chùa Thiếu Lâm. Vậy ngươi nằm phục xuống để lãnh phạt.
Hư Trúc khom lưng nói:
- Xin tuân pháp dụ.
Y quỳ xuống trước mặt Huyền Từ và Huyền Tịch rồi thi lễ nói:
- Đệ tử là Hư Trúc đã vi phạm giới luật bản tự, xin kính cẩn lãnh trượng cùng thủ toà viện giới luật.
Bọn môn đồ phái Tinh Tú đột nhiên la ó om sòm:
- Chủ nhân cung Linh Thứu là minh chủ võ lâm. Các ngươi là tăng lữ chùa Thiếu Lâm, có lý đâu lại phạm đến quý thể lão gia được? Nếu các người mà đụng đến một sợi lông của lão gia thì bọn ta quyết cùng các ngươi sống chết một phen. Dù bọn ta có phải tan xương nát thịt và được chết về việc của chủ nhân cũng là vinh hạnh.
Dư bà vốn biết tâm ý Hư Trúc, liền quát lên:
- Sao các ngươi lại kêu là chủ nhân bọn ta? Những quân yêu ma quỷ quái kia, câm miệng đi ngay!
Bọn môn đồ phái Tinh Tú thấy Dư bà quát mắng lập tức câm như hến và kinh hãi không dám thở mạnh nữa. Huyền Tịch quát lên:
- Thi hành hình phạt!
Mấy nhà sư chấp pháp cởi áo thầy tu của Hư Trúc, để hở cả da thịt sau lưng y ra. Một nhà sư khác giơ cây thủ giới côn toan đánh xuống.
Hư Trúc không dám vận khí và nghĩ bụng:
- Ta chịu phạt trượng vì mình đã phạm giới luật. Mỗi một côn đánh vào là nhẹ tội đi một phần. Nếu mình vận khí lên để chống khỏi cho đỡ đau khổ thì cũng như không mà thôi.
Giữa lúc ấy, thanh âm một phụ nữ lanh lảnh vang lên:
- Khoan đã! Khoan đã! Ngươi... trên lưng ngươi có gì thế kia?
Mọi người đều nhìn vào lưng Hư Trúc thì thấy trên lưng y có chín chấm đen. Những nhà sư thụ giới thường đốt hương điểm vào đỉnh đầu. Không ngờ Hư Trúc, trừ nốt tàn hương trên đỉnh đầu, mà sau lưng cũng còn có vết nữa. Nhưng vết tàn hương sau lưng Hư Trúc lớn bằng đồng tiền. Hiển nhiên những nốt tàn hương này đã đốt từ thuở nhỏ, rồi những nốt đó cũng theo người mà lớn lên. Bây giờ trông rất tròn trĩnh và rõ ràng. Quần hùng còn đang kinh ngạc thì trong đám đông có một thiếu phụ đứng tuổi chạy ra. Thiếu phụ này mình mặc áo trường bào màu xanh lợt, đầu để tóc dài xoã xuống vai. Hai bên lưỡng quyền đều có ba chấm đỏ. Mụ chính là một người trong tứ đại ác tên gọi Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương.
Diệp Nhị Nương nhảy xổ lại, hai tay đẩy hai nhà sư chấp pháp chùa Thiếu Lâm rồi nắm lấy dây lưng Hư Trúc toan cởi tuột ra.
Hư Trúc giật mình kinh hãi, trở mình đứng lên rồi lùi lại mấy bước hỏi:
- Bà... bà là ai?
Diệp Nhị Nương toàn thân run bần bật la lên:
- Con... con ta ơi!
Rồi mụ giang hai tay ra toan ôm lấy Hư Trúc. Hư Trúc né mình tránh khỏi, thành ra Diệp Nhị Nương ôm vào khoảng không.
Mọi người đều tự hỏi:
Mụ này điên rồi chắc?
Diệp Nhị Nương toan ôm lấy mấy lần đều bị Hư Trúc lẹ làng tránh khỏi.
Nên nhớ rằng, từ khi mụ bị Du Thản Chi đánh cho một chưởng ngất đi, sau hồi tỉnh lại, nhưng công lực đã giảm sút rất nhiều, không được như trước. Nhất là khinh công thì so với trước mụ không còn một nửa.
Mụ la lên như điên cuồng:
- Hài nhi! Sao con không nhìn nhận mẫu thân?
Hư Trúc run lên như bị điện giật hỏi:
- Bà... bà là mẫu thân tiểu tăng ư?
Diệp Nhị Nương lớn tiếng:
- Hài nhi ơi! Ta sinh ngươi chưa bao lâu thì điểm vào sau lưng chín nốt tàn hương và cả hai bên mông cũng có chín nốt, có đúng thế không?
Hư Trúc cả kinh vì quả nhiên hai bên mông y có chín nốt tàn hương thật. Y thấy thế từ thuở nhỏ nhưng chẳng hiểu lai lịch ra sao. Y lại hay mắc cỡ nên không nói với bạn bè. Có lúc tắm rửa, y thấy vậy còn cho là mình có duyên với nhà Phật nên trời sinh ra thế. Do đó mà y kiên tâm hâm mộ Phật pháp. Bây giờ y nghe Diệp Nhị Nương nói vậy thì tưởng chừng như sét đánh lưng trời.
Y run lên hỏi:
- Có có!... Hai bên... mông tiểu tăng có chín nốt tàn hương thật. Bà là... mẫu thân tiểu tăng và đã châm... những nốt tàn nhang đó ư?
Diệp Nhị Nương khóc hu hu nói:
- Phải rồi! Phải rồi! Nếu không phải ta đốt thì làm sao ta biết được? Thế là ta tìm thấy đứa con yêu quý của ta rồi!
Mụ vừa nói vừa đưa tay ra sờ má Hư Trúc. Bây giờ Hư Trúc không né tránh nữa để cho mụ ôm vào lòng. Hư Trúc từ thuở nhỏ không cha, không mẹ. Y là một đứa con côi được nhà sư chùa Thiếu Lâm đem về nuôi dưỡng. Hai bên đùi y có một tàn nhang là một điều bí mật, chỉ có mình y biết mà thôi. Thế mà nay Diệp Nhị Nương lại nói như vậy thì còn giả sao được? Hơn hai chục năm trời, ngày nay y mới được nếm mùi từ ái của mẫu thân.
Hai hàng nước mắt đầm đìa, y cất tiếng gọi:
- Mẫu thân... Bà là mẫu thân hài nhi ư?
Câu chuyện đột ngột này mọi người bàng quan đều lấy làm kỳ dị. Hai người chỉ ôm nhau mà khóc. Mừng mừng, tủi tủi biết bao nhiêu tình? Bọn quần hùng, tuy lòng dạ cứng rắn nhưng đứng trước tình trạng này cũng không khỏi ngậm ngùi. Bỗng nghe Diệp Nhị Nương cất tiếng hỏi:
- Hài nhi! Nay ngươi đã hai mươi bốn tuổi rồi. Trong hai mươi bốn năm trời, ta ngày đêm thương nhớ đến ngươi chẳng lúc nào quên. Ta thấy thiên hạ có con mà bực mình, vì con ta bị tên gian ác trời đánh nào lấy đi mất. Thế rồi ta... cũng đi ăn cắp con nhà khác. Nhưng... con người đâu bằng được chính mình sinh ra?
Nam Hải Ngạc Thần cười hô hố nói:
- Tam Muội! Có phải mụ cứ thấy con nhà ai trắng trẻo là mụ bắt trộm về chơi. Chơi chán rồi lại đem ra hút máu nó. Té ra vì con mụ bị người ta bắt trộm, nên mụ làm thế phải không?
Nhạc lão nhị hỏi mụ đã bao nhiêu lần mà mụ không chịu nói.
- Được lắm! Hư Trúc tiểu tử kia! Má má ngươi là nghĩa Muội ta. Vậy ngươi kêu ta Nhạc lão bá đi!
Hồi Thứ 118
Tiêu Viễn Sơn hạ sát những ai?
Nam Hải Ngạc Thần thấy Hư Trúc võ công cao siêu khôn lường mà mình lại được đứng vào hàng tiền bối y, nhất là y lại làm chủ nhân cung Linh Thứu thì nỗi mừng vui của lão khỏi cần nói cũng biết rồi.
Vân Trung Hạc lắc đầu nói:
- Không được! Không được! Hư Trúc tử còn là nghĩa huynh sư phụ ngươi, vậy ngươi phải kêu y bằng sư bá. Ta đây là nghĩa đệ mẫu thân y, thế thì ta còn ở hàng trên lão tam. Lão tam phải kêu ta bằng sư thúc tổ.
Nam Hải Ngạc Thần thộn mặt ra, hậm hực văng tục ra mắng:
- Mẹ kiếp! Lão gia không gọi...
Diệp Nhị Nương nhấc đầu Hư Trúc ra nắm lấy vai y, coi qua ngó lại, mừng vui khôn xiết. Mụ quay lại nói với Huyền Từ:
- Y là con trai ta. Vậy lão trọc thối tha kia đừng đánh y nữa!
Hư Trúc đột nhiên nhớ tới ngày phá thế cờ bí hiểm, đã thấy Diệp Nhị Nương cùng Đinh Xuân Thu ra chiều thân thiết với nhau mà Diệp Nhị Nương cái miệng lém lẩu kêu Đinh lão quái bằng Xuân Thu ca ca. Hiển nhiên hai người có vẻ đằm thắm với nhau. Chẳng lẽ mình là con Đinh Xuân Thu? Nếu như vậy thì thiệt là phiền quá. Mẫu thân đã mang tiếng là người thứ hai trong bọn tứ đại ác, mình đã phải chịu cái tiếng không hay rồi. Nếu phụ thân là Đinh Xuân Thu thì càng tệ hại nữa, nhất là mình vừa đánh lão thất điên bát đảo, lại gieo vào người lão đến bảy miếng "Sinh tử phù"... Bây giờ biết làm thế nào cho được?
Hư Trúc liếc mắt ngó trộm Đinh Xuân Thu, trong lòng biến đổi không yên. Mặt y lúc đỏ bừng, lúc trắng nhợt, quay lại ngó Diệp Nhị Nương để xem mụ bảo ai là phụ thân. Nếu quả nhiên Tinh Tú lão quái là phụ thân mình thật thì thà rằng lơ đi đừng nói đến còn hơn. Nhưng Hư Trúc từ nhỏ đến lớn không cha không mẹ, bây giờ đã thấy mẫu thân thì lại mong gặp được phụ thân. Dù phụ thân đúng là Đinh Xuân Thu, y cũng không thể không nhận được.
Hư Trúc còn đang ngẫm nghĩ thì Diệp Nhị Nương lớn tiếng hỏi:
- Quân chó đẻ trời đánh nào bắt trộm con ta? Làm mẹ con ta phải chia lìa hai mươi bốn năm? Hài tử! Chúng ta dù có phải đến tận chân trời góc biển cũng phải tìm quân chó má nào đó để băm thây làm muôn đoạn mới hả giận. Dù ta không địch nổi hắn thì võ công hài nhi cao cường đến thế, phải vì ta mà báo thù rửa hận.
Nhà sư áo đen ngồi dưới gốc cây từ nãy giờ không nói năng mà cũng không nhúc nhích, bây giờ đột nhiên đứng dậy thủng thẳng hỏi:
- Con mụ bị người ta bắt trộm hay là bị người ta cướp mất? Sáu nốt đỏ trên mặt mụ từ đâu mà ra?
Diệp Nhị Nương đột nhiên biến sắc thét lên lanh lảnh:
- Ngươi... ngươi là ai? Sao ngươi lại biết?
Nhà sư áo đen hỏi lại:
- Chẳng lẽ mụ không nhận được ta ư?
Diệp Nhị Nương thét lên:
- Úi chao! Ngươi đấy ư?
Rồi mụ tung mình nhảy về phía nhà sư áo đen. Lúc còn cách đối phương hơn trượng thì đột nhiên mụ đứng lại, chĩa ngón tay ra, nhưng không dám tới gần. Hai hàm răng mụ nghiến qua nghiến lại ra chiều căm giận vô cùng.
Nhà sư áo đen nói:
- Đúng rồi! Con trai mụ bị ta cướp đem đi, sáu vết sẹo trên mặt mụ là do tay ta cào ra.
Diệp Nhị Nương quát lên:
- Tại làm sao? Tại sao ngươi lại cướp con ta? Ta với ngươi vừa không quen không biết lại không thù oán. Ngươi... ngươi làm ta cay cực biết chừng nào! Trong hai mươi bốn năm trời, lòng ta đau như cắt!
Nhà sư áo đen hỏi:
- Hôm ấy, mụ bị Vương Tinh Thiên đánh độc một chưởng hàn băng và dĩ nhiên là mụ sắp mất mạng. Ai đã cứu sống mụ?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Ta cũng không biết. Chẳng lẽ cũng lại là ngươi?
Nhà sư áo đen đáp:
- Phải rồi! Chính ta đã cứu mụ.
Hôm ấy Diệp Nhị Nương bị thương cực kỳ trầm trọng. Trong lúc mơ màng, mụ biết có người nội lực thâm hậu đã trị vết thương cho mình. Nhưng lúc mụ tỉnh lại thì người cứu mụ không biết đi đâu rồi. Mụ hỏi lại Đinh Xuân Thu và Đoàn Diên Khánh nhưng không phải hai người này cứu mình. Vụ này đã là một nghi vấn trong đầu óc mụ. Mụ tự biết mình làm ác đã nhiều, tiếng xấu đồn đãi xa gần. Người chính phái chẳng ai là không muốn giết mụ. Chỉ có hai lão Đinh Xuân Thu và Đoàn Diên Khánh là người giao hảo với mụ, còn ngoài ra chẳng có ai ưa. Vậy ai là một tay cao thủ hạng nhất đã cứu tính mạng cho mình?
Bữa nay được mắt thấy nhà sư áo đen võ công kinh thế hãi hùng, mà chính lão tự nói ra đã cứu mạng cho mụ thì đúng là chuyện thật. Nhưng mụ vẫn còn ngờ vực không dám tin. Mụ thộn mặt, trố mắt ra nhìn nhà sư áo đen một lúc, rồi lên tiếng:
- Tại sao? Tại sao?...
Nhà sư áo đen trỏ Hư Trúc ngắt lời hỏi lại:
- Phụ thân thằng nhỏ này là ai?
Diệp Nhị Nương toàn thân run bắn lên đáp:
- Ta... không thể nói được.
Hư Trúc bâng khuâng trong dạ chạy lại hỏi:
- Mẫu thân! Gia gia hài nhi là ai?
Diệp Nhị Nương lắc đầu đáp:
- Ta không thể nói được.
Nhà sư áo đen thủng thẳng đáp:
- Diệp Nhị Nương! Mụ nguyên là một vị công nương, tính tình nhu thuận lại nhan sắc tuyệt vời, đoan trang trinh thục. Nhưng năm mụ mới mười tám tuổi đã có bản lãnh cao cường nên có hạng trai nổi tiếng quyến rũ, mụ bị thất thân với y mà sinh ra thằng nhỏ này, có phải thế không?
Diệp Nhị Nương đứng ngay ra như cây gỗ hồi lâu mới gật đầu đáp:
- Chính thế!
Nhà sư áo đen lại nói:
- Chàng trai kia chỉ nghĩ tới thanh danh cùng bước tiến trình của mình, mà không nghĩ đến một vị cô nương nhỏ tuổi chưa gả chồng đã có con, lâm vào cảnh ngộ cực kỳ thê thảm!
Diệp Nhị Nương đáp:
- Không phải thế! Y vẫn săn sóc đến ta và cho ta rất nhiều tiền bạc để thu xếp cuộc sống cho đời ta.
Nhà sư áo đen lại hỏi:
- Thế thì sao y lại để ngươi phiêu bạt giang hồ?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Ta không thể lấy y được, mà y cũng không thể lấy ta làm vợ. Y là người rất tốt, cư xử với ta rất tử tế, ta không muốn để liên lụy cho y. Y... thiệt là người quân tử.
Nghe lời nói của mụ thì đối với người tình lang đã bỏ lửng mình, mụ vẫn tỏ ra có lòng quyến luyến. Ân tình ngày trước không vì cảnh khổ não hay thời gian mà phai lạt.
Mọi người đều nghĩ thầm:
- Diệp Nhị Nương nổi tiếng tàn ác, song với tình lang ngày trước thiệt là tình thâm, nghĩa trọng. Nhưng không hiểu tình lang của mụ là ai?
Đoàn Dự, Nguyễn Tinh Trúc, Phạm Hoa, Hoa Hách Cầu, Ba Thiên Thạch, bọn người Đại Lý nghe nhà sư áo đen và Diệp Nhị Nương đối đáp nhau về vụ này bất giác đưa mắt ngó trộm Đoàn Chính Thuần. Họ đều cho là người tình lang của Diệp Nhị Nương về địa vị cũng như về tính tình cùng cách xử sự đều hợp với ông ta.
Nhưng có người lại nghĩ rằng:
- Ngày nọ, cả tứ đại ác đều tới nước Đại Lý, chắc cũng vì việc đòi món nợ ân tình của Trấn Nam Vương.
Cả Đoàn Chính Thuần cũng nghi hoặc. Ông lẩm bẩm:
- Mình biết đàn bà con gái thiệt là nhiều, chẳng lẽ có cả mụ này, mà sao mình không nhớ ra?
Nhà sư áo đen dõng dạc hỏi:
- Phụ thân thằng nhỏ này hiện có mặt tại đây. Sao ngươi không chỉ mặt kêu tên ra?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Không! Không được. Ta không thể nói được.
Hư Trúc chỉ đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu. Đoàn Chính Thuần trong lòng hồi hộp tưởng chừng như dăm bảy gáo nước tạt vào mặt mình. Nhà sư áo đen lại hỏi:
- Tại sao ngươi lại điểm tàn hương vào lưng và hai vế đùi thằng nhỏ cho thành dấu vết?
Diệp Nhị Nương che mặt lại đáp:
- Ta không biết! Ta van ngươi đừng hỏi lôi thôi nữa.
Nhà sư áo đen vẫn giữ vẻ mặt bình thản không động thanh sắc, hỏi tiếp bằng một giọng rất tự nhiên:
- Lúc ngươi sinh ra thằng nhỏ này phải chăng mi đã rắp tâm cho gã làm hoà thượng?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Không phải đâu!
Nhà sư áo đen lại hỏi:
- Thế thì sao ngươi lại điểm hương vào người gã, chắc ngươi cũng biết đó là dấu vết của Phật môn?
Diệp Nhị Nương gạt đi:
- Ta không biết đâu! Ta không biết đâu!
Nhà sư áo đen lớn tiếng nói:
- Dù ngươi không nói ta cũng biết rồi. Vì phụ thân gã là đệ tử nhà Phật và là một vị cao tăng đắc đạo nên ngươi không chịu nói chứ gì?
Diệp Nhị Nương rên lên. Mụ không gượng gạo được nữa, té xuống ngất đi. Quần hùng nhốn nháo cả lên, coi tình hình Diệp Nhị Nương và nghe lời nói của nhà sư áo đen ai cũng biết đúng là sự thực rồi. Té ra mụ đã tư thông với một vị hoà thượng. Quần hùng ghé tai vào nhau thì thầm to nhỏ, luận bàn đến thiên tình sử hiếm có trong võ lâm.
Hư Trúc đưa tay ra đỡ Diệp Nhị Nương dậy và gọi rối rít:
- Mẫu thân! Mẫu thân hãy tỉnh lạị
Hồi lâu Diệp Nhị Nương dần dần tỉnh, khẽ bảo Hư Trúc:
- Hài nhi! Ngươi mau đỡ ta xuống núi. Lão này... thiệt là quỷ quái... tinh ma. Làm sao lão lại biết hết? Ta không muốn nhìn mặt lão nữa. Mối thù đó... cũng không cần phải trả nữa.
Hư Trúc nói:
- Dạ! Mẫu thân! Vậy chúng ta đi thôi ư?
Nhà sư áo đen nói:
- Khoan đã! Ta đã nói hết đâu! Ngươi muốn báo thù, ta cũng muốn báo thù. Diệp Nhị Nương! Tại sao ta lại cướp con của ngươi, ngươi có biết không? Vì có người cướp mất con ta khiến ta phải nhà tan người mất. Vợ chồng cha con không đoàn tụ với nhau được nữa. Ta cần phải báo thù.
Diệp Nhị Nương hỏi:
- Có người cướp mất con ngươi ư? Vì thế mà ngươi muốn báo thù phải không?
Nhà sư áo đen đáp:
- Chính thế! Ta cướp con ngươi đem về bỏ vào vườn rau chùa Thiếu Lâm để chùa nuôi nó lớn lên và dậy võ nghệ cho nó. Vì chính con ta sinh ra cũng bị người cướp mất và cũng được chùa Thiếu Lâm nuôi nấng cho khôn lớn và truyền thụ cho y một bản lãnh cao cường. Ngươi có muốn nhìn rõ chân tướng của ta không?
Rồi nhà sư không chờ cho Diệp Nhị Nương trả lời, giơ tay lên kéo tấm khăn che mặt ra. Quần hùng lấy làm kinh ngạc, la lên một tiếng:
- Úi chao!
Nhà sư này mặt vuông tai lớn, râu ria xồm xoàm, tướng mạo rất oai phong, chừng sáu chục tuổi. Tiêu Phong vừa kinh hãi vừa mừng thầm, rảo bước đến trước mặt lạy phục xuống đất la lên:
- Đại sư là...
Nhà sư cười ha hả nói:
- Hảo hài nhi! Hay quá! Ta chính là gia gia ngươi. Tướng mạo cha con ta không cần phải có ám kỳ mà ai cũng nhìn nhận ra ngay. Ta là gia gia ngươi.
Nhà sư mở vạt áo trước ngực ra để lộ hình đầu chó sói xăm vào trước ngực. Lão vươn tay trái kéo Tiêu Phong lại. Tiêu Phong cũng mở vạt áo trước ngực để hở hình đầu con chó sói há miệng, nhe nanh. Hai người sánh vai mà đi, đột nhiên ngẩng mặt nhìn trời hú lên một tiếng. Thanh âm như sóng cồn gió cuộn vang đi rất xa, làm chấn động cả một khu rừng núi. Mấy ngàn hào kiệt nghe tiếng rú đều phải sợ run. Mười tám tên võ sĩ Khất Đan cũng rút trường đao ra, thanh thế hùng mạnh bằng một toán thiên binh vạn mã.
Tiêu Phong móc trong bọc ra lấy một gói nhỏ bằng vải dầu. Ông mở gói lấy ra một cuốn giấy vàng mở ra. Tấm giấy này rất rộng và dính bức di văn trên vách núi ngoài Nhạn môn quan mà Trí Quang hoà thượng đã phóng lấy. Trên mặt giấy có những chữ văn tự Khất Đan.
Lão rậm râu trỏ mấy chữ cuối cùng cười nói:
- Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút. Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút! Hà hà! Hà hà! Hôm ấy lúc ta thương tâm quá đỗi, nhảy xuống vực thẳm để tự vận. Không ngờ chưa đến ngày tận số lại rớt xuống một cành cây cổ thụ dưới đáy vực nên không chết, đó là không quyết ý liều chết nữa và hoài bảo tấm lòng rửa hận.
Tiêu Phong cũng nói:
- Mối thù của cha mẹ là mối thù chẳng đội trời chung, khi nào lại không trả.
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Số người sát hại mẫu thân ngươi hôm đó đã bị ta đánh chết và bị thương đến quá nửa. Trí Quang hoà thượng thì ẩn tích mai danh tự xưng là Triệu Tiền Tôn và đã bị hài nhi giết chết rồi. Bang chúa Cái Bang Uông Kiếm Thông cũng bị bệnh mà chết, thế là may cho y lắm rồi, nhưng kẻ đứng đầu bọn đại ác đến nay vẫn còn tồn tại. Vậy hài nhi tưởng ta nên bắt hắn rồi xử trí thế nào?
Tiêu Phong vội hỏi:
- Người ấy là ai?
Tiêu Viễn Sơn hú lên một tiếng thanh âm phát ra nghe thật rùng rợn. Rồi quát hỏi:
- Người ấy là ai?
Đoạn lão đưa mắt nhanh như điện nhìn khắp quần hào một lượt. Lúc quần hào chạm vào mắt lão đều run lên. Tuy những người này không liên quan gì đến vụ sát hại mẹ Tiêu Phong ngoài ải Nhạn Môn quan. Có điều ai đã nhìn vẻ mặt cha con Tiêu Phong thì đều khiếp sợ không dám cử động chân tay, hay mở miệng nói nửa lời, vì họ sợ vạ lây đến mình.
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Hài nhi! Hôm ấy ta cùng mẫu thân ngươi sang nhà bà ngoại. Ngờ đâu tới ải Nhạn Môn quan thì mấy chục tên võ sĩ Trung Nguyên đột nhiên nhảy ra giết chết mẫu thân ngươi cùng bọn tuỳ tùng. Nhà Đại Tống và nước Khất Đan có mối thâm thù, thấy người là giết chẳng có chi là lạ. Nhưng trong bọn võ sĩ mai phục phía sau núi còn có kẻ dự mưu. Hài nhi có biết vì cớ gì không?
Tiêu Phong đáp:
- Hài nhi có nghe nhà sư Trí Quang nói thì bọn họ được tin tức nói cánh võ sĩ Khất Đan muốn đến chùa Thiếu Lâm để cướp kinh điển võ học đem về luyện tập để sau này mưu đồ giang sơn nhà Đại Tống, nên họ tập kích một cách đột ngột khiến cho mẫu thân sợ quá chết đi.
Tiêu Viễn Sơn nở một nụ cười thê thảm nói:
- Ha ha! Ngày đó ta không có ý gì đoạt kinh điển võ học của chùa Thiếu Lâm cả. Bọn chúng vu oan cho ta. Được lắm! Tiêu Viễn Sơn này nhất định phải báo thù. Họ đã vu oan cho mình thì mình phải làm cho họ biết tay. Ba mươi năm nay, Tiêu mỗ đã ẩn mình trong chùa Thiếu Lâm và những kinh điển võ học đã xem kỳ thích. Bọn ngươi giờ có ra mai phục ngoài ải Nhạn Môn quan cũng không làm gì được ta nữa đâu.
Tăng lữ chùa Thiếu Lâm nghe Tiêu Viễn Sơn nói vậy đều kinh hãi thất sắc. Ai nấy cũng nghĩ rằng lời lão nói là đúng sự thực. Võ công bản phái mà để bọn người nước Liêu hiểu biết thì khác nào hổ thêm cánh, không biết đối phó cách nào cho được?
Tiêu Phong nói:
- Gia gia! Con người đại ác năm trước giết mẫu thân hài nhi, đó là chuyện hiểu lầm mà ra, chứ không phải thực tình tàn ác. Có điều hắn đã hạ sát vợ chồng họ Kiều, nghĩa phụ, nghĩa mẫu hài nhi, lại gieo tiếng ác cho mình thì thật là không thể tha thứ được. Hài nhi chưa hiểu hắn là ai, xin gia gia nói cho hài nhi biết.
Tiêu Viễn Sơn cười ha hả nói:
- Hài nhi! Con lầm rồi đó!
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi:
- Hài nhi lầm ư?
Tiêu Viễn Sơn gật đầu đáp:
- Con lầm thiệt đó. Người giết vợ chồng họ Kiều chính là ta.
Tiêu Phong kinh hãi hỏi:
- Gia gia giết ư? Tại sao vậy?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Ngươi là con ruột ta. Đáng lý cha con vợ chồng một nhà đoàn tụ vui vẻ biết mấy? Thế mà bọn võ lâm Nam triều coi người Khất Đan như quân chó lợn. Mình không động gì đến họ, họ cũng giết chóc, bắt con ta đưa cho người khác nuôi làm con họ. Vợ chồng họ Kiều kia đã mạo xưng là cha mẹ ngươi lại đoạt niềm vui của trời ban cho ta, thế mà họ không dám nói rõ chân tướng cho con biết thì họ chết là đáng lắm.
Tiêu Phong chua xót trong lòng nói:
- Hài nhi chịu ơn nghĩa rất sâu xa của nghĩa phụ, nghĩa mẫu. Ông bà ta là người rất tốt. Vậy còn việc đốt Đơn gia trang giết chết Đàm công, Đàm bà... đều do...
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đúng thế! Những việc đó đều do ta làm ra hết. Các người này đã biết rõ những ai giết người ở ngoài ải Nhạn Môn quan ngày trước mà không chịu nói ra. Người nào cũng che chở cho hắn, há chẳng đáng chết ư?
Tiêu Phong lẳng lặng nghĩ thầm:
- Mình khổ sở đi tìm kẻ đại ác. Tưởng là ai? Té ra chính là gia gia.
Ông thủng thẳng nói:
- Huyền Khổ đại sư chùa Thiếu Lâm đã truyền thụ võ công cho hài nhi liền một thời gian mười năm trời không hề gián đoạn. Hài nhi có được một bản lãnh như ngày nay là hoàn toàn nhờ ân sư tiền bối...
Nói tới đây ông cúi đầu xuống nhớ đến ân sư, lòng ông ngậm ngùi nhỏ lệ như mưa. Tiêu Viễn Sơn nói:
- Bọn người võ lâm tại Nam triều thâm hiểm, gian trá chứ có tử tế gì đâu? Cả lão Huyền Khổ cũng do ta vung chưởng đánh chết.
Tiêu Viễn Sơn vừa nói dứt lời thì quần tăng chùa Thiếu Lâm đồng thanh niệm kinh:
- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Thanh âm cực kỳ bi phẫn. Tuy chưa có ai tiến ra để cùng Tiêu Viễn Sơn khiêu chiến nhưng trong tiếng niệm Phật của quần tăng đã lộ vẻ cực kỳ đau khổ và dĩ nhiên có ẩn ý quyết không thể nào bỏ qua vụ này được.
Tiêu Viễn Sơn lại nói:
- Giết chết người vợ yêu quý của ta, cướp đứa con độc nhất của ta. Trong mối đại thù này còn có Bang chúa Cái Bang, lại có cả những tay cao thủ phái Thiếu Lâm. Ha ha! Bọn họ tưởng rằng vĩnh viễn che dấu được vụ huyết án này, còn ra chăng nữa chỉ là một thiên cổ bi án. Họ đem con ta biến thành người Hán, bảo con ta kêu kẻ đại thù bằng sư phụ, kế vị kẻ đại thù là Bang chúa Cái Bang. Ha ha! Hài nhi ơi! Tối hôm ấy ta phóng chưởng đánh chết Huyền Khổ rồi nấp mình một bên. Sau một lát ta lại thấy con về bái kiến lão trọc đầu. Huyền Khổ thấy tướng mạo ta giống hệt như con thì cho rằng chính con đã hạ thủ. Cả chú tiểu cũng không phân biệt được con ta. Hài nhi! Người Khất Đan ta bị khinh mạn và vu oan giá hoạ như vậy còn chưa đủ hay sao?
Bây giờ Tiêu Phong mới tỉnh ngộ và hiểu tại sao Huyền Khổ đại sư lúc thấy mình ra vẻ kinh ngạc và chú tiểu cũng nhất định chứng thực là mình đã hạ thủ giết chết đại sư. Thì ra người hành hung có tướng mạo giống mình và người đó lại là cốt nhục với mình nữa.
Tiêu Phong nói:
- Những người này mà gia gia đã ra tay giết thì cũng chẳng khác gì hài nhi. Vậy hài nhi có mang tiếng cũng không oan uổng. Còn việc những võ lâm ở Trung Nguyên mai phục ngoài ải Nhạn Môn quan thì ai là lãnh tụ, gia gia đã điều tra được chưa?
Tiêu Viễn Sơn cười ha hả nói:
- Có lý nào lại không điều tra minh bạch? Kẻ đó đã làm cho mình đau khổ, người chết nhà ta. Nếu ta vung chưởng đánh chết hắn ngay thì chẳng hoá ra làm phước cho hắn. Diệp Nhị Nương! Khoan đã! Rồi hãy đi!
Lão thấy Diệp Nhị Nương được Hư Trúc nâng đỡ đưa đi mỗi lúc một xa nên thét dừng lại. Lão hỏi tiếp:
- Cha đứa nhỏ là ai? Nếu ngươi không nói ra, ta đã ở trong chùa Thiếu Lâm ba mươi năm thì còn gì qua mắt ta được? Hai ngươi hò hẹn nhau trong động Từ Vân. Hắn kêu Kiều bà bà đến đỡ đẻ cho ngươi. Những việc trải qua ta đã thấy rõ mồn một. Ngươi nên thuật lại từng chi tiết cho mọi người nghe đi.
Diệp Nhị Nương quay trở lại tiến về phía trước mấy bước bỗng quỳ xuống nói:
- Tiêu anh hùng! Anh hùng là người đại nhân đại nghĩa, nên rộng lòng bỏ qua vụ đó, hài nhi tại hạ đã cùng quý công tử kết đệ huynh. Y... là người có tiếng lớn trong võ lâm. Về địa vị cũng như về tuổi tác, không nên để y phải tai tiếng. Còn đối với tại hạ, Tiêu anh hùng muốn giết, muốn mổ thế nào cũng được. Chỉ xin anh hùng đừng làm khó dễ đến ỵ
Hồi Thứ 119
Theo Huyền Từ , Nhị Nương hủy mình
Quần hùng đã nghe Tiêu Viễn Sơn nói phụ thân Hư Trúc là một vị cao tăng đắc đạo, bây giờ lại thấy Diệp Nhị Nương bảo y thanh danh rất lớn trong võ lâm và có địa vị tối cao. Mấy câu này kết hợp với nhau, ai nấy tự hỏi:
- Chẳng lẽ người đó là một nhà sư có địa vị cao cả tại chùa Thiếu Lâm?
Mọi người đều đưa mắt nhìn khắp các vị lão tăng râu tóc bạc phơ ở chùa này? Bỗng nghe Huyền Từ phương trượng lên tiếng:
- Đức Phật từ bi! Bần tăng đã gây nên nghiệt nhân nên phải chịu nghiệt quả. Hư Trúc! Ngươi lại đây!
Hư Trúc chạy lại trước mặt phương trượng quỳ xuống. Huyền Từ ngắm tướng mạo y hồi lâu rồi đưa tay ra khẽ vỗ vào đỉnh đầu y nói:
- Ngươi đã ở trong chùa hai mươi bốn năm thế mà thuỷ chung ta vẫn không hay. Ngươi chính là con ta!
Huyền Từ vừa thốt ra câu này, quần tăng và quần hùng nhốn nháo cả lên. Ai cũng ra chiều kinh dị, hãi hùng. Người căm hờn kẻ khinh mạn. Lại có một số lộ vẻ bi thương, mỗi người có một cảm xúc riêng. Huyền Từ phương trượng đạo cao, đức trọng. Đã là người võ lâm, chẳng ai không ngưỡng mộ. Ngờ đâu bật ra việc này khiến ai nấy đều sửng sốt.
Tiếng người huyên náo bàn tán chừng nửa giờ rồi lắng xuống. Huyền Từ lại lên tiếng bằng một giọng nói trầm tĩnh:
- Tiêu thí chủ! Thí chủ cùng lệnh lang xa cách nhau ba mươi năm trời tuy không thấy mặt nhau nhưng còn được biết tung tích của đứa con yêu quý và ngày nay võ công cực kỳ tinh tiến, thanh danh lừng lẫy trên chốn giang hồ, thành một bậc anh hùng hảo hán vào bậc nhất võ lâm. Tưởng như vậy trong lòng thí chủ cũng được an ủi phần nào. Còn bần tăng thì hàng ngày được thấy hài nhi mà vẫn tưởng y bị quân cường đạo cướp mất, sống chết không hay. Nỗi niềm canh cánh bên lòng, ngày đêm mong nhớ.
Diệp Nhị Nương vừa khóc vừa nói:
- Đại sư... Đừng nói nhiều như vậy nữa! Bây giờ biết làm thế nào đây?
Huyền Từ đáp bằng một giọng ôn hoà:
- Nhị nương! Mình đã làm nên tội nghiệt thì có hối hận cũng bằng vô dụng, mấy chục năm nay nỗi thống khổ của Nhị nương biết nói thế nào cho xiết được!
Diệp Nhị Nương nói:
- Tiên phụ chẳng lấy thế làm đau khổ cho lắm. Đại sư có mối sầu khổ mà không nói ra được mới thật đau lòng.
Huyền Từ từ từ lắc đầu nhìn Tiêu Viễn Sơn nói:
- Tiêu thí chủ! Về việc xảy ra ở ngoài cửa ải Nhạn Môn quan đó, bần tăng gây nên lỗi lầm. Các anh em đã vì lão tăng giúp tay vào việc này. Nhưng họ đều chết cả rồi. Lão tăng đến nay mới chết kể ra đã là quá muộn quá. Có điều trong lòng vẫn chưa hiểu rõ.
Đột nhiên, đại sư cất cao giọng nói:
- Mộ Dung Bác thí chủ! Ngày ấy thí chủ phao tin có toán võ sĩ Khất Đan vào chùa Thiếu Lâm đoạt kinh điển võ học là có ý gì?
Mọi người nghe đến ba chữ "Mộ Dung Bác" đều giật mình kinh hãi. Trong đám quần hùng chỉ người kiến thức quảng bác, giàu kinh nghiệm mới biết được trong bọn tiền bối Cô Tô Mộ Dung có tên Mộ Dung Bác. Nhưng người này hành tung bí mật, rất ít người biết chân tướng lão nữa. Thế mà sao Huyền Từ đột nhiên kêu tên gọi họ lão?
Mọi người đều đưa mắt nhìn theo mục quang Huyền Từ thì Mộ Dung Bác chính là nhà sư áo trắng ngồi gốc cây. Nhà sư áo trắng bật lên tràng cười rồi đứng dậy nói:
- Phương trượng đại sư! Đại sư thiệt có con mắt tinh đời và đã nhận ra tại hạ!
Rồi lão đưa tay lên kéo tấm khăn bịt mặt ra để lộ mày thanh mắt sáng phong tư tuấn nhã. Mộ Dung Phục đứng ngay bên lão thất kinh la lên:
- Gia gia! Gia gia... chưa chết ư?
Huyền Từ nói:
- Mộ Dung thí chủ! Bần tăng cùng thí chủ đã có mối giao hảo lâu năm. Bấy lâu, bần tăng không tìm thấy thí chủ nữa. Sau đó được tin thí chủ mắc bệnh qua đời. Bần tăng đau đớn vô cùng! Bần tăng lại nghĩ rằng thí chủ cũng như bần tăng tin lời người gây nên tội lỗi. Ngờ đâu... Hỡi ôi!...
Tiếng than của đại sư vừa tỏ ra hối hận vừa tỏ ra thống trách Mộ Dung Bác. Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong đưa mắt nhìn nhau. Bây giờ hai người mới hiểu Mộ Dung Bác đã phao tin này để gây xích mích giữa hai bên Đại Tống và Khất Đan. Đồng thời trong lòng hai người cùng nghĩ:
- Vụ thảm án ngoài ải Nhạn Môn quan, tuy Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm chỉ vì quan tâm đến sự an nguy của giang sơn nhà Đại Tống và sự tồn vong về kinh điển võ học của môn phái nên phải dốc lòng theo đại nghĩa mà làm. Rồi sau đại sư phát giác ra lỗi lầm nên đã hết sức bồi bổ lại. Thế thì kẻ đại ác là Mộ Dung Bác chứ không phải Huyền Từ.
Trong quãng thời gian ba mươi năm trời, Tiêu Viễn Sơn chồng chất mối oán hờn lên Huyền Từ, còn Tiêu Phong thì lại có lòng thương sót nhà sư.
Mộ Dung Bác cười ha hả nói:
- Người Tống cùng người Khất Đan đã có mối thù truyền đời, hễ thấy mặt nhau là giết, còn phân biệt gì đến chuyện phải trái nữa. Hài nhi! Chúng ta đi thôi!
Lão nói xong, xoay mình lại dắt tay Mộ Dung Phục toan bỏ đi. Tiêu Phong lớn tiếng quát:
- Khoan đã! Các ngươi đâu có thể bỏ đi dễ dàng thế được?
Mộ Dung Bác hỏi lại:
- Sao? Ngươi muốn lĩnh giáo võ công của nhà Mộ Dung ở Cô Tô chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Mối thù giết mẹ có lý nào không báo được? Bao nhiêu mầm hoạ đều do ngươi mà ra. Vậy bữa nay ngươi khó lòng trốn tránh công đạo được đâu.
Mộ Dung Bác cười khẩy một tiếng, buông tay Mộ Dung Phục ra rồi tung mình nhảy đi theo đường lên núi rất mau lẹ. Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong nói:
- Chúng ta phải vượt theo hắn! Đoạn hai người chia bên tả hữu đuổi theo.
Cả ba người này đều là những tay võ công trác tuyệt. Chỉ trong nháy mắt đã đi rất xa. Một người chạy trước hai người đuổi sau. Cả ba người đều chạy về phía chùa Thiếu Lâm. Một bóng trắng hai bóng đen, trong giây lát đã biến vào sau bức tường vàng ngói biếc chùa này.
Quần hùng thấy biến diễn ly kỳ đều nghĩ thầm:
- Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn hai người công lực ngang nhau không phân cao thấp. Lại thêm Tiêu Phong nữa thì Mộ Dung Bác không thể địch nổi. Vậy sao hắn không chạy xuống núi lại chạy lên chùa Thiếu Lâm?
Mộ Dung Phục la gọi:
- Gia gia! Gia gia!
Rồi y cũng rượt theo lên núi. Tuy y khinh công tuyệt đỉnh nhưng so với ba người phía trước vẫn chưa bằng. Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác và mười tám tên võ sĩ Khất Đan muốn chạy theo lên núi để viện trợ cho chủ mình.
Nhưng họ vừa cất bước thì Huyền Từ đã quát lên:
- Lập trận để ngăn trở mọi người.
Hơn một trăm nhà sư chùa Thiếu Lâm, vâng lời, bày thành trận thế ngay giữa đường. Người cầm thiền trượng, kẻ cầm giới đao cản lại không cho mọi người lên núi.
Huyền Tịch cũng lên tiếng:
- Chùa Thiếu Lâm ta là nơi cửa Phật đất lành không phải là trường đấu và cũng không phải là nơi để quý vị đến làm việc riêng. Vậy các vị thí chủ đứng thiện tiện tiến lên đó nữa.
Bọn Đặng Bách Xuyên thấy chùa Thiếu Lâm người nhiều, thế mạnh, biết rằng không thể nào xông pha lên được. Nếu còn xung đột thì chỉ tổ gây thêm cừu địch. Tuy họ băn khoăn về chủ nhân mà đành phải dừng bước đứng lại nguyên chỗ.
Bao Bất Đồng nói:
- Phải rồi! Chùa Thiếu Lâm là nơi của Phật đất lành chỉ để nuôi những hạng con tư sinh vô thừa nhận.
Gã vừa nói câu này thì mấy trăm con mắt căm hận nhìn thẳng vào mặt gã. Nhưng Bao Bất Đồng là người lớn mật, tuy gã biết rõ quần tăng chùa Thiếu Lâm có rất nhiều cao thủ vào hàng chữ Huyền, thì bất luận là ai gã cũng không địch nổi. Thế mà gã muốn nói là nói chẳng uý kỵ chi hết. Gã thấy tăng lữ chùa Thiếu Lâm nhìn mình bằng con mắt hằn học thì gã cũng hằm hằm nhìn lại không chớp mắt.
Bỗng nghe Huyền Từ lớn tiếng nói:
- Lão tăng phạm vào đại giới Phật môn làm nhơ danh chùa Thiếu Lâm. Huyền Tịch sư đệ! Theo giới luật bản tự thì nên trừng trị thế nào?
Huyền Tịch ngập ngừng đáp:
- Cái đó... sư huynh...
Huyền Từ nói:
- Nước có phép nước, nhà có luật nhà. Bất luận là môn phái, hay bang hội, hay tôn tộc, chùa chiền đều khó lòng tránh khỏi cái nạn con em bất tiếu. Muốn bảo toàn thanh danh để vĩnh viễn khỏi có người phạm pháp nên phải trừng trị theo luật định, không thể nhân nhượng được. Chấp Pháp tăng! Hãy đem Hư Trúc đánh một trăm ba chục côn. Một trăm côn phạt chính mình y chịu tội. Còn ba mươi côn là y tình nguyện thay cho nghiệp sư.
Chấp Pháp tăng đưa mắt nhìn Huyền Tịch. Huyền Tịch gật đầu. Hư Trúc đã quỳ xuống để chịu phạt. Chấp Pháp tăng giơ trượng (côn) lên đánh. Lưng và mông Hư Trúc da thịt nát nhừ, máu tươi lênh láng. Diệp Nhị Nương trong lòng đau xót nhưng sợ Huyền Từ oai nghiêm không dám van xin. Một trăm ba mươi trượng đánh xong, Hư Trúc lại không vận nội lực chống đỡ. Y đau quá không ngồi dậy được.
Huyền Từ lại nói:
- Từ giờ phút này ngươi ra khỏi cửa chùa hoàn tục và không được trở lại làm tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa.
Hư Trúc sa nước mắt đáp:
- Xin tuân pháp dụ.
Huyền Từ lại nói:
- Huyền Từ này phạm vào dâm giới cũng phải chịu tội như Hư Trúc. Nhưng làm phương trượng mà phạm tội thì tội nặng gấp đôi. Chấp Pháp tăng phải đánh Huyền Từ hai trăm côn thật nặng. Thanh danh chùa Thiếu Lâm là ở giới luật nghiêm minh, không được tư vị để sinh tệ nhũng.
Huyền Từ nói xong, quỳ phục xuống đất nhìn về phía Phật tượng trong Đại hùng bảo điện cởi áo tăng bào để hở lưng ra. Quần hùng ngơ ngác nhìn nhau. Phương trượng chùa Thiếu Lâm thụ hình trước mặt công chúng thật là một chuyện xưa nay chưa từng có.
Huyền Tịch nói:
- Sư huynh! Sư huynh!...
Huyền Từ lớn tiếng nói:
- Thanh danh ngàn thu chùa Thiếu Lâm há để tiêu diệt về tay ta!
Huyền Tịch rưng rưng nước mắt hô:
- Chấp Pháp trưởng tăng! Động hình!
Hai nhà sư chấp pháp chắp tay khom lưng nói:
- Phương trượng! Tiểu tăng thật đắc tội!
Rồi đứng ngay người lên giơ cao hình trượng đánh xuống lưng Huyền Từ. Hai nhà sư, biết rằng phương trượng phải thụ hình, cái khó chịu nhất là bị nhục nhã trước mặt công chúng chứ cái đau về xác thịt chưa đáng kể. Nếu còn dung tình để người ngoài nhìn thấy rồi xuyên tạc câu chuyện thì vụ phương trượng thụ hình bữa nay không còn thu lượm được kết quả nào hết. Vì thế mà mỗi côn đập xuống lưng Huyền Từ đều vang lên những tiếng rùng rợn. Lưng và đùi Huyền Từ đầy vết trượng, máu chảy ướt đẫm cả tăng bào.
Quần tăng nghe nhà sư chấp pháp vừa đếm vừa đánh, ai nấy cúi đầu xuống niệm Phật. Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ đột nhiên lên tiếng:
- Huyền Tịch sư huynh! Quý tự tôn trọng giới luật Phật môn. Chính phương trượng cũng phải thụ hình. Bần tăng rất lấy làm khâm phục. Có điều Huyền Từ sư huynh già nua tuổi tác, lại không vận nội lực chống đỡ thì chịu nổi thế nào được hai trăm côn? Bần tăng mạo muội có lời năn nỉ: Hiện giờ sư huynh đã chịu tám mươi trượng rồi, xin tạm hoãn chỗ còn lại.
Quần hùng cũng la lên:
- Phải rồi! Chúng tôi cũng đồng thanh năn nỉ về việc này.
Huyền Tịch chưa kịp trả lời thì Huyền Từ đã lên tiếng:
- Đa tạ thịnh ý của các vị. Nhưng giới luật bản tự nghiêm cẩn như sấm sét không thể khoan dung được. Chấp Pháp tăng! Tiếp tục động hình đi! Mau lên!
Hai nhà sư chấp pháp đã dừng lại, nghe lời phương trượng kiên quyết đành tiếp tục đánh xuống. Vừa đánh thêm được bốn chục trượng nữa, Huyền Từ chịu không nổi, hai tay chống xuống đất nhũn ra, mặt va xuống đất chạm vào cát bụi.
Diệp Nhị Nương vừa khóc vừa la:
- Việc này không nên trách phương trượng. Trăm điều ngang ngửa đều vì tiện phu. Tiện phu bị người ta khinh khi nên có ý quyến rũ phương trượng. Vậy phần phạt trượng còn lại tiện phu xin chịu thay.
Mụ tiến ra phía trước muốn nằm phục xuống chỗ Huyền Từ để thay cho nhà sư. Huyền Từ đưa ngón tay trỏ điểm ra đánh véo một tiếng để phong toả huyệt đạo của mụ rồi tủm tỉm cười nói:
- Con người si tình kia! Thí chủ không phải là nữ ni, vậy không phạm vào giới luật thì chẳng có tội chi hết!
Diệp Nhị Nương đứng thộn mặt ra không nhúc nhích được. Hai hàng nước mắt nhỏ xuống như mưa. Huyền Từ lại quát lên:
- Thi hành phạt trượng đi!
Nhà sư chấp pháp đánh đủ hai trăm trượng. Huyền Từ máu me đầm đìa mặt đất, phải cố gắng đề khí hộ vệ trái tim để không đến nỗi ngất đi.
Hai nhà sư chấp pháp dựng hình trượng lên, quay lại nói với Huyền Tịch:
- Bẩm thủ toà! Huyền Từ phương trượng chịu đòn đã mãn.
Huyền Tịch gật đầu rồi không biết nói gì nữa. Huyền Từ cố gắng ngồi lên giơ tay lên điểm trên không để giải khai huyệt đạo cho Diệp Nhị Nương. Không ngờ đại sư bị thương nặng quá, không ngưng tụ chân khí được, tay chỉ điểm ra mà vô hiệu.
Hư Trúc cũng đứng bên mình mẫu thân, thấy vậy liền giải khai huyệt đạo cho mụ. Huyền Từ trông hai người vẫy tay. Diệp Nhị Nương cùng Hư Trúc lại bên đại sư. Hư Trúc ngần ngừ không biết nên xưng hồ Huyền Từ bằng gia gia hay bằng phương trượng.
Huyền Từ nhìn quần tăng chùa Thiếu Lâm thều thào nói:
- Bốn nhà sư hàng chữ Huyền chùa Thiếu Lâm bị chết về tay người, Huyền Thống và Huyền Nạn hai vị sư đệ bị chưởng môn phái Tinh Tú là Đinh Xuân Thu sát hại. Huyền Khổ sư đệ bị Tiêu Viễn Sơn thí chủ hạ sát. Huyền Bi sư đệ cũng bị chết bất đắc kỳ tử. Ban đầu lão tăng nghi cho Cô Tô Mộ Dung hạ độc thủ. Nhưng sau gặp Mộ Dung Phục thí chủ thì nhận thấy bản lãnh y chưa có thể hạ sát được Huyền Bi sư đệ. Bần tăng lúc nào cũng băn khoăn về vụ này mà chưa tìm ra được manh mối. Vừa rồi thấy Mộ Dung Bác lão thí chủ đứng ra ngăn cản con y không cho tự sát mới biết là vị cố nhân này vẫn chưa chết mà cái môn gậy ông, lại đập lưng ông quả nhiên là tuyệt kỹ bậc nhất thiên hạ. Nhưng xét cho cùng thì phái Thiếu Lâm cùng Mộ Dung lão thí chủ không có thù oán gì nhau, không hiểu tại sao y lại cố tình mưu hại bản phái. Vụ này thật ra ngoài sự hiểu biết của lão tăng.
Quần tăng chùa Thiếu Lâm trong lòng vừa bi thảm vừa uất hận đồng thanh la lên:
- Bây giờ phải bắt sống Mộ Dung Bác đem xử tử để báo thù cho Huyền Bi đại sư.
Huyền Từ lắc đầu, trên môi thoáng một nụ cười chậm rãi nói:
- Đã là chúng sinh tất có tội nghiệt và chỉ trông vào đức từ bi của Phật tổ giải trừ cho.
Đại sư lại chìa tay ra nắm lấy cổ tay Diệp Nhị Nương, còn một tay nắm lấy Hư Trúc đọc câu kệ:
- Người trên thế gian, đều có thất tình, lòng tục sạch không thực là khó kiếm.
Huyền Từ đại sư nói xong từ từ nhắm mắt lại. Diệp Nhị Nương cùng Hư Trúc không dám nhúc nhích để ý nghe xem đại sư còn nói gì nữa không.Không ngờ tay đại sư mỗi lúc một giá lạnh.Diệp Nhị Nương giật mình kinh hãi, đưa tay ra sờ mũi thì đã tắt hơi rồi.
Mụ biến sắc la lên:
- Ôi ông ơi!... Ông bỏ tôi mà đi ư?
Đột nhiên, mụ nhảy lên cao đến hơn trượng rớt xuống chân Huyền Từ đánh huỵch một tiếng. Mụ giãy lên mấy cái rồi không nhúc nhích nữa.
Hư Trúc la hoảng:
- Mẫu thân! Mẫu thân!...
Đoạn đưa tay ra đỡ mụ dậy, thì thấy lưỡi đao truỷ thủ đã đâm vào trái tim rồi. Hư Trúc hốt hoảng, điểm vào các huyệt đạo xung quanh vết thương. Y lại vận chân khí vào trong thân thể Huyền Từ. Y luống cuống chân tay vì muốn đồng thời cứu cả hai người.
Tiết Mộ Hoa chạy lại giúp đỡ, nhưng thấy hai người trái tim ngừng đập và đã tắt hơi không còn cách nào giải cứu được nữa, liền cất lời khuyên nhủ:
- Sư thúc nên bớt nỗi bi thảm. Hai vị lão gia tịch cả rồi, không còn cách nào cứu được nữa.
Hư Trúc vẫn chưa chịu thôi. Y vận "Bắc minh chân khí" đến nửa giờ mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Bỗng nghe quần tăng tuyên Phật hiệu rồi đồng thanh niệm kinh vãng sinh chú.
Hồi Thứ 120
Bao Bất Đồng trổ tài miệng lưỡi
Hư Trúc quá thương tâm khóc rống lên. Trong hai mươi bốn năm trời y là một đứa nhỏ côi cút không cha không mẹ, được hưởng chút lòng từ ái của song thân. Bữa nay gặp cha sanh, mẹ đẻ thì lại chỉ được một giờ đã thành âm dương đôi ngả. Nỗi thảm trên thế gian tưởng đến như vậy là cùng?
Quần hùng vừa được biết cha sanh Hư Trúc là phương trượng chùa Thiếu Lâm, mọi người thấy đại sư chẳng giữ luật thanh tu đã đem lòng khinh bỉ. Đến khi đại sư thản nhiên thụ hình trước công chúng để duy trì thanh danh bản tự thì nhận thấy đại sư dũng cảm hơn người.
Ai cũng nghĩ rằng:
- Đại sư cam chịu cực hình để đền bồi tội lỗi. Nào ngờ sau khi thụ hình lại tự cắt đứt kinh mạch huỷ hoại thân xác để chuộc tội nghiệp. Tuy cái chết của đại sư cũng phạm giới luật nhà Phật. Nhưng cử động của Huyền Từ hiển nhiên là lấy cái chết để tỏ mình phạm tội quá nặng. Hai trăm trượng phạt còn chưa đủ giải trừ tội lỗi. Chỉ còn cái chết là mọi việc đều bỏ qua.
Giả tỷ Huyền Từ chết trước đi thì dĩ nhiên khỏi được cái khổ nhục hai trăm trượng, nhưng vị đại sư chịu phạt trượng rồi mới tự vận thì thật là hành vi của bậc đại anh hùng hảo hán. Quần hùng kính trọng đại sư, nhiều người tới trước thi thể đại sư hạ mình sụp lạy.
Nam Hải Ngạc Thần cũng mếu máo nói:
- Nhị tỷ ơi! Nhị tỷ chết rồi ư? Nhạc lão tam bây giờ không tranh ngôi thứ và xin kêu bằng nhị tỷ.
Mấy năm nay, trong lòng lão lúc nào cũng muốn tranh ngôi với Diệp Nhị Nương. Lão nghĩ rằng: "Võ công có giỏi mới được làm thiên hạ đệ nhị ác nhân." Bây giờ lão tự mình nhường bước đủ biết đối với cái chết của Diệp Nhị Nương lão cũng đau xót và bội phục tấm lòng chung thuỷ của mụ.
Bang chúng Cái Bang nhân khi cao hứng theo Bang chúa đến chùa Thiếu Lâm. Ngờ đâu Bang chúa Vương Tinh Thiên lại bái Đinh Xuân Thu làm sư phụ, rồi bị Tiêu Phong đánh gãy chân, nên ai nấy buồn bã và lộ ra vẻ bàng hoàng thất vọng vô cùng.
Ngô trưởng lão lớn tiếng nói:
- Các vị huynh đệ! Chúng ta còn ở đây làm chi? Chẳng lẽ còn muốn xin cơm thừa canh cặn nữa chăng? Mau xuống núi đi thôi.
Bang chúng rầm rộ vâng lời, toan trở gót xuống núi. Bỗng nghe Bao Bất Đồng lên tiếng:
- Khoan đã! Bao Bất Đồng này còn có lời muốn nói chuyện với Cái Bang.
Trần trưởng lão khi ở Vô Tích đã cùng gã và Phong Ba Ác tỷ đấu và biết gã chẳng bao giờ có được một lời tử tế. Lão đứng bước lại lớn tiếng nói:
- Gã họ Bao kia có điều gì thì nói đi, chớ nên phun những điều thối tha ra khó ngửi lắm.
Bao Bất Đồng đưa tay bịt mũi la lên:
- Thúi quá! Thúi quá! Trời ơi, lũ ăn mày sao mà thúi tha thế? Trong Cái Bang của lão có ai tên là Diệp Nhất Thanh không?
Trần trưởng lão nghe gã nói đến Diệp Nhất Thanh liền để ý ngay, rồi hỏi lại:
- Có thì làm sao, mà không có thì làm sao?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ta nói chuyện với một lão hoá tử thối tha. Lão đã dúng miệng vào tức là thừa nhận rồi phải không?
Trần trưởng lão nghĩ đến việc lớn trong bang, không muốn lòng dòng với gã để tranh hơn thua, liền hỏi:
- Ta hỏi ngươi: Diệp Nhất Thanh làm saỏ Gã là đệ tử bản bang được phái đi công cán bên Tây Hạ. Ngươi có được tin tức gì về gã không?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ta đương muốn nói với lão về một việc lớn ở nước Tây Hạ. Nhưng Diệp Nhất Thanh thì đã xuống chầu Diêm Vương rồi.
Trần trưởng lão sửng sốt hỏi:
- Tin ấy đúng không? Bên Tây Hạ có việc gì trọng đại liên quan đến Diệp Nhất Thanh?
Bao Bất Đồng đáp:
- Lão đã mắng ta hễ mở miệng là thốt ra những lời thối tha. Bây giờ ta không muốn nói những lời thối tha nữa.
Trần trưởng lão tức quá, chòm râu bạc lay động, nhưng lão là người có mưu kế, liền cười ha hả nói:
- Lão phu thiệt là đắc tội với các hạ. Bây giờ lão phu xin có lời bồi tội.
Bao Bất Đồng nói:
- Bất tất lão phải bồi tội. Có điều từ đây trở đi nói leo mà phóng hơi thối ra nhiều là được rồi.
Trần trưởng lão ngẩn người ra tự hỏi:
- Gã nói vậy là có ý gì?
Nhưng lão lại nghĩ rằng:
- Bây giờ mình có việc phải cầu gã.
Liền tủm tỉm cười và không nói gì nữa. Bao Bất Đồng lại nói:
- Thúi quá! Thúi quá! Lão này nói không nên lời rồi.
Trần trưởng lão hỏi:
- Sao các hạ bảo lão phu nói không nên lời?
Bao Bất Đồng nói:
- Lão đã không mở miệng nói năng, cho hơi thở ra ngoài miệng thì tất phải bài tiết hơi ra đường khác.
Trần trưởng lão nghĩ bụng:
- Thằng cha này thật là khó chịụ Mình mới nói một câu vô lễ, mà gã xoay mình mãị Mình không lên tiếng nữa là hơn. Nếu không thế thì gã không chịu nói vào chính đề.
Trần trưởng lão nghĩ vậy, rồi lại tủm tỉm cười, vẫn không nói nửa lời. Bao Bất Đồng lắc đầu nói:
- Không phải là không phải đâu! Lão muốn thi gan với ta thì thiệt là ngu quá chừng!
Trần trưởng lão mỉm cười nói:
- Tại hạ không mở miệng ra sao lại bảo là thi gan với các hạ?
Bao Bất Đồng nói:
- Lão không nói gì, tức là chỉ tiết hơi thối ra. Mà tiết hơi thối không phải dùng đến cái miệng. Thì hỡi ôi! Hơi thối chui ra ngả khác thúi gấp nghìn lần ra đằng miệng.
Trần trưởng lão châu mày nói:
- Các hạ đùa dai quá.
Bao Bất Đồng thấy Trần trưởng lão nhân nhượng, gã biết là mình đã nắm được thượng phong, liền nói:
- Láo đã mở miệng nói tức là không thi gan với ta nữa. Vậy ta nói rõ cho lão biết: "Nửa năm trước đây, ta theo Mộ Dung công tử, Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, một đoàn người theo đường Cam Lương, thấy một xác chết và một người bị thương đều là hai gã ăn xin. Gã chết người gày hơn, chắc là gã xin cơm không đủ ăn, đói quá, nên gầy đét rồi chết lả. Thiệt là đáng thương! Thiệt là đáng thương!"
Trần trưởng lão nói:
- Có lẽ không phải là đệ tử của bản bang đâu.
Bao Bất Đồng nói:
- Lúc ta trông thấy thì gã bị gãy xương sống chết từ lâu rồi. Còn bây giờ thì chẳng hiểu y đang ăn cháo lú hay là lên Vọng Hương đài hoặc đang ở Thập Điện Diêm Vương để chịu cuộc thẩm vấn. Gã đã không nói được thì dĩ nhiên ta không hỏi được tên họ gã cùng quê quán nơi đâu? Nếu không thế thì gã biến thành quỷ sứ và mắng ta "Có chuyện thì nói cho hơi thối thì phù ra. Chẳng cũng oan uổng cho ta lắm rủ Ta đâu có biết gã họ Cảnh hay họ Trần?".
Trần trưởng lão không thể nín thinh mà cũng không thể buông lời xúc phạm, chỉ thản nhiên đáp:
- Bao huynh nói phải đó!
Trong lòng lão tự nhủ:
- Thằng cha này khó chơi quá! Mình mà nói ra một câu thất thố thì gã ba hoa thiên địa, dồn mình vào ngõ bí.
Bao Bất Đồng lắc đầu nói:
- Không phải đâu là không phải đâu! Tính Bao mỗ rất ghét kẻ phụ hoạ, theo hùa, thế mà lão lại bảo: "Bao huynh nói phải đó" còn trong lòng lại rủa ngầm ta là quân chó đẻ, là loài rùa đen ti tiện. Cái kiểu phỉ báng ngầm trong bụng đó là hành vi bỉ ổi của bọn Tinh Tú. Đã là nam tử hán, là đại trượng phu thì phải là phải, trái là trái. Người ta có lập trường của người ta thì mình cũng có chủ trương của mình. Dù đứng trước muôn vạn người ta cũng cứ đi. Đứng một mình, đi một thân không kéo cả đàn cả lũ. Có thế mới là anh hùng hảo hán.
Bao Bất Đồng giáo huấn Trần trưởng lão một tràng dài rồi nói tiếp:
- Còn có một gã ăn mày khác tuổi già hơn thì bị thương. Hắn tự xưng là Diệp Nhất Thanh. Hắn ở nước Tây Hạ về cầm một bức bản văn, gửi bọn ta trao lại cho trưởng lão quý bang.
Tống trưởng lão nghĩ bụng:
- Trần huynh đệ đã ăn nói lỗ mãng với gã. Âu là ta đứng ra giao thiệp hay hơn.
Lão nghĩ vậy rồi tiến ra xá dài nói:
- Bao tiên sinh đã có lòng tốt đưa tin, tệ bang tử trên xuống dưới đều cảm thấy đại đức.
Bao Bất Đồng nói:
- Không phải đâu là không phải đâu! Bất tất phải cả quý bang từ trên xuống dưới đều cảm tạ đại đức của ta.
Tống trưởng lão chưng hửng hỏi lại:
- Sao Bao tiên sinh lại nói vậy?
Bao Bất Đồng trỏ Du Thản Chi nói:
- Bang chúa quý bang đây chẳng những không cảm ơn ta mà trong lòng còn giận ta đến cực điểm.
Tống, Trần hai vị trưởng lão đồng thanh hỏi:
- Vì lẽ gì vậy? Xin Bao tiên sinh chỉ giáo.
Bao Bất Đồng đáp:
- Diệp Nhất Thanh lúc đó cũng sắp chết đến nơi rồi. Cả hai gã ăn mày đó đều bị Vương Bang chúa đánh chết.
Ta nên nhớ rằng, hôm đó Du Thản Chi ra tay đánh chết hai gã ăn mày họ Diệp và họ Cảnh, chính mắt Bao Bất Đồng trông thấy. Du Thản Chi trước kia đã được Phong Ba Ác tặng cho lưỡi dao truỷ thủ mà gã toan dùng để chặt cái đầu sắt ra. Người ngoài không ai biết Vương Tinh Thiên là Du Thản Chi, nhưng bọn Mộ Dung Phục đã đoán ra rồi.
Bao Bất Đồng vừa nói câu đó, quần cái bang đều chấn động. Ngô trưởng lão chạy tới trước mặt Du Thản Chi lớn tiếng quát hỏi:
- Lời Bao tiên sinh vừa nói đó là chân hay giả?
Du Thản Chi từ lúc bị Tiêu Phong đá gãy chân, ngồi lỳ dưới đất chẳng nói năng mà cũng không nhúc nhích, ngấm ngầm vận nội lực cho đỡ đau. Đột nhiên gã nghe Bao Bất Đồng phanh phui điều bí mật ngày trước thì không khỏi hoảng hồn. Gã không biết trả lời Ngô trưởng lão thế nào cho phải.
Quần cái bang thấy gã lúng túng thì biết ngay là gã đã mặc nhiên thừa nhận. Nhưng dù gã có những hành vi không hợp lòng mong mỏi của bang chúng, gã vẫn là một vị bang chúa nên chưa biết đối phó thế nào.
Ngô trưởng lão lại hỏi:
- Tại sao ngươi lại đánh chết hai người anh em họ Diệp và họ Cảnh?
Du Thản Chi ấp úng đáp:
- Bản tâm ta... không có ý giết chúng vì chúng chịu không nổi...
Du Thản Chi nói câu này khiến cho bọn Bao Bất Đồng không còn hoài nghi gì nữa. Vương Tinh Thiên đúng là gã Du Thản Chi có những hành động kỳ dị quái đản. Tống trưởng lão không muốn bộc lộ những cái xấu của bang trước mặt mọi người liền quay lại hỏi Bao Bất Đồng:
- Tấm bản văn mà người anh em lão phu Diệp Nhất Thanh cho tiên sinh, chẳng hiểu tiên sinh có để bên mình không?
Bao Bất Đồng quay lại đáp:
- Không!
Tống trưởng lão hơi biến sắc. Lão tức mình phí công nói năng nửa ngày mà gã vẫn chưa chịu đưa bản văn cho mình, dường như đem mình ra làm trò tiêu khiển.
Bao Bất Đồng xá dài nói:
- Non xanh trơ đó, nước biếc còn đây thì chúng ta còn tái hội.
Nói xong, trở gót đi ngay. Ngô trưởng lão vội hỏi:
- Tấm bản văn của nước Tây Hạ sao tiên sinh lại không chuyển giao cho lão phu?
Bao Bất Đồng đáp:
- Thế này thì kỳ thật! Sao trưởng lão biết Diệp Nhất Thanh trao bản văn cho Bao mỗ? Vì lẽ gì trưởng lão dùng hai chữ chuyển giao? Có phải hôm ấy chính mắt lão trông thấy chăng?
Tống trưởng lão cố nén cơn giận nói:
- Rõ ràng Bao huynh vừa nói là Diệp Nhất Thanh hiền đệ bên tệ bang ở nước Tây Hạ trở về, giựt được một tấm bản văn của nước Tây Hạ về theo. Xin Bao huynh trao cho trưởng lão bổn bang. Lời nói của Bao huynh các vị anh hùng hảo hán đều nghe thấy. Sao Bao huynh thốt nhiên lại đổi giọng?
Bao Bất Đồng lắc đầu nói:
- Không phải thế là không phải thế! Bao mỗ có nói thế đâu?
Gã thấy Tống trưởng lão sắc mặt biến đổi, liền nói ngay:
- Bao mỗ từng nghe các vị trưởng lão Cái Bang đều là những hảo hán mặt sắt đen sì. Thế mà trước các vị anh hùng thiên hạ, sao đổi trắng thay đen, hàm hồ phải tráỉ Như vậy chẳng hoá ra cái anh hùng một thời của các vị đem buông theo dòng nước cả ư?
Tống, Trần, Ngô ba vị trưởng lão nhìn nhau, sắc mặt biến đổi khó coi, không biết làm thế nào: nên trở mặt động thủ hay là nên nhẫn nại nữa.
Trần trưởng lão nói:
- Các hạ đã nói thế, bọn lão phu cũng không biết làm thế nào? Hay dở đã có công luận. Nếu cứ đem đầu lưỡi ra mà đưa đẩy nói nhăng cãi cối cũng bằng vô dụng.
Bao Bất Đồng nói:
- Không phải là không phải thế!
Trưởng lão bảo: "Đem đầu lưỡi ra mà đưa đẩy cũng bằng vô dụng". Thế thì sao ngày trước Tô Tần chỉ trông cậy vào đầu lưỡi mà đeo tướng ấn sáu nước? Trương Nghi cũng đem tài biện thuyết để thực thi kế liên hoàn giúp nhà Tần gồm thâu cả sáu nước?
Tống trưởng lão nghe Bao Bất Đồng lôi kéo câu chuyện mỗi lúc một đi xa, đành nhăn nhó cười nói:
- Giả tỷ Bao tiên sinh mà sinh vào thời Xuân Thu, Lục Quốc thì tài năng còn vượt khỏi Tô, Trương, đeo tướng ấn đến bảy, tám nước chứ không phải sáu!
Bao Bất Đồng nói:
- Đây là trưởng lão muốn mỉa mai Bao mỗ sinh chẳng gặp thời nên tiền đồ kém cỏi phải không? Hay lắm! Hay lắm! Từ đây Bao mỗ có váng mình sốt mẩy, lưng mỏi, chân chồn, nhức đầu, ngạt mũi, nhất thiết phải hỏi trưởng lão.
Trần trưởng lão nóng ruột, xẵng giọng:
- Ý kiến Bao huynh muốn thế nào xin nói mau cho biết!
Bao Bất Đồng nói:
- Hừ! Trưởng lão nóng tính quá! Ngày ở thành Vô Tích trưởng lão cùng đệ tử tỷ võ, trong tay trưởng lão cầm một cái túi lớn. Trong cái túi có một con rết to. Con rết này có hai kim độc. Kim độc đâm vào người thì nổi bọt lên. Nổi bọt lên là thủ mạng đối phương phải đi đờị Có đúng thế không?
Trần trưởng lão nghĩ thầm:
- Cái này chỉ nói một câu là xong mà gã cũng thiên hô bách sát cho ra một tràng dài.
Lão đáp ngay:
- Chính phải!
Bao Bất Đồng nói:
- Hay lắm! Bao mỗ muốn cùng trưởng lão đánh cuộc thị Được cuộc thi Bao mỗ lập tức đem tin Diệp lão hoá ở nước Tây Hạ đưa về nói cho trưởng lão hay. Còn nếu trưởng lão thua cuộc thì chỉ phải đưa cái túi, trong có con rết lớn cùng bình thuốc giải nọc độc rết cho Bao mỗ. Trưởng lão có bằng lòng không?
Trần trưởng lão hỏi lại:
- Bao huynh định đánh cuộc gì?
Bao Bất Đồng đáp:
- Tống trưởng lão quý bang đã vu cáo Bao mỗ nói dựng đứng lên là Diệp Nhất Thanh người quý bang lấy được bản văn của Tây Hạ Quốc vương rồi nhờ Bao mỗ trao lại cho trưởng lão quý bang. Thực Bao mỗ không nói thế. Vậy đôi ta đưa vấn đề đó ra đánh cuộc. Nếu Bao mỗ nói thế thật thì trưởng lão được cuộc, còn Bao mỗ không nói thế thì trưởng lão thua cuộc.
Trần trưởng lão đưa mắt nhìn lại vị Tống, Ngô gật đầu để tỏ ý bảo nhau:
- Nơi đây đã có mấy ngàn người làm chứng thì bất luận gã có giảo quyệt đến đâu cũng khôn bề chối cãi. Vậy cứ nhận cuộc đi.
- Được lắm! Lão phu cùng Bao huynh đánh cuộc. Nhưng lão huynh dùng cách gì để chứng minh ai thua, ai được. Phải chăng Bao huynh muốn suy cứ mấy vị đạo cao, đức trọng để ra phán đoàn cho công bằng.
Bao Bất Đồng ôm đầu nói:
- Không phải đâu là không phải đâu. Trưởng lão bảo suy cử mấy vị đạo cao đức trọng ra phán đoàn cho công bằng. Nhưng dù mình suy cử đến tám vị hay mười vị còn ngoài ra có đến hàng trăm, hàng ngàn anh hùng hảo hán, chẳng lẽ người ta không có đạo cao, đức trọng hay sao? Mà đã không có đạo cao, đức trọng thì tức là bọn vô danh tiểu tốt, hèn mạt hạ lưu. Nói như vậy thì ra Cái Bang đã vô lễ khinh mạn các vị anh hùng đương thế.
Trần trưởng lão nói:
- Bao huynh nói giỡn rồi. Lão phu quyết không có ý ấy. Vậy Bao huynh tính sao cho phải?
Bao Bất Đồng nói:
- Những điều phải trái gian nguy chỉ một lời là quyết định để tại hạ giãi bày cho trưởng lão hay. Đưa ra đây!
Gã vừa nói vừa giơ tay ra. Trần trưởng lão hỏi:
- Đưa cái gì?
Bao Bất Đồng đáp:
- Cái bao vải có con rết và bình thuốc giải.
Trần trưởng lão cãi:
- Bao huynh chưa chứng minh sao đã tự cho là mình được cuộc?
Bao Bất Đồng nói:
- Bao mỗ sợ trưởng lão thua cuộc rồi lại cãi không đưa nữa.
Trần trưởng lão cười ha hả nói:
- Những vật nhỏ mọn đó có chi đáng kể, Bao huynh muốn lấy thì lão phu lập tức đưa ngay, cần gì nói chuyện thua cuộc hay được cuộc.
Lão nói xong cởi chiếc bao trên vai rồi móc trong bọc lấy một cái bình đưa cho Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng đón lấy ngay mở miệng túi ra. Trong túi có đến bảy tám con rết lớn vân xanh, đỏ. Gã vội thắt miệng túi lại, bỏ thuốc giải vào trong bọc rồi nói:
- Bây giờ Bao mỗ đưa bằng chứng cho trưởng lão coi vì lẽ gì trưởng lão thua cuộc.
Gã vừa nói vừa cởi giải áo trường bào, tay cầm lấy một góc bao, kêu mọi người đến coi thì trong bao ngoài mấy chục thoi bạc vụn, hoả đao, đá lửa không còn vật gì khác. Tống, Trần, Ngô ba vị trưởng lão vẫn chưa hiểu ý Bao Bất Đồng ra sao, sắc mặt lộ vẻ nghi ngờ.
Bao Bất Đồng lại nói:
- Nhị ca! Cầm tấm bản văn giơ ra cho mấy vị coi.
Công Dã Càn đang lo lắng về sự yên nguy của Mộ Dung Phục, trong lòng nóng nảy. Gã không có cách nào để xông qua La Hán đại trận của quần tăng chùa Thiếu Lâm, mà cũng không có kế khác để chạy lên chùa xem, đành tủm tỉm cười lấy bản văn ra cầm trong tay.
Quần hùng để ý nhìn vào tấm bản văn thì thấy nó là một tờ giấy vàng lớn có dấu son to tướng trên viết những chữ ngoằn ngoèo bằng thứ văn tự ngoại quốc. Tuy chẳng biết là chân hay giả nhưng tựa hồ như không phải là vật ăn nhập gì với vấn đề này.
Bao Bất Đồng nói:
- Trước kia Bao mỗ đã nói là Diệp Nhất Thanh, người quý bang đem một tấm bản văn giao lại cho bọn ta, nhờ đưa lại cho trưởng lão quý bang có đúng thế không?
Tống, Trần, Ngô ba trưởng lão thấy gã thốt nhiên thừa nhận liền mừng rỡ nói:
- Đúng thế!
Bao Bất Đồng nói:
- Thế mà Tống trưởng lão lại dựng đứng câu chuyện lên nói là Diệp Nhất Thanh giao tấm bản văn cho đích thân Bao mỗ để nhờ Bao mỗ giao lại cho trưởng lão quý bang, có đúng vậy không?
Ba vị trưởng lão đồng thanh nói:
- Đúng rồi! Như vậy có gì là sai trật.
Bao Bất Đồng lắc đầu nói:
- Trật rồi! Trật rồi! Trật nhiều lắm. Đầu trâu đâu có phải ngựa. Sai một ly, đi một dặm. Bao mỗ bảo là đưa bản văn cho bọn ta mà Tống trưởng lão lại bảo là đưa cho ta. Bọn ta chỉ cả bọn Cô Tô Mộ Dung, trong đó có Mộ Dung công tử, có Đặng đại ca, có Công Dã nhị ca, có Phong tứ đệ, có Bao Bất Đồng này, lại có một vị cô nương nữa là Vương Ngọc Yến. Còn ta không thì chỉ là một mình Bao Bất Đồng cô thân chích ảnh, không bạn bè, một gã quang côn tịch mịch thê lương mà thôi. Các vị anh hùng xem đó, Vương Ngọc Yến cô nương nguyệt thẹn, hoa nhường, một trang thục nữ lầu hồng, gác tía với Bao Bất Đồng, Bao tam gia, mà bảo là tương đồng thì thiệt vô lý.
Tống, Trần, Ngô ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ thằng cha văn, nhấm chử này vì chữ ta và bọn ta mà nó lôi ra một lố văn chương trường giang đại hải.
Bao Bất Đồng lại nói:
- Bức bản văn này là của Diệp Nhất Thanh trao tay cho Công Dã nhị ca để nhờ báo tin quý bang. Đó cũng là chủ ý của Mộ Dung Phục công tử, nên Bao mỗ nói là bọn ta mới đúng. Nếu chỉ nói không một tiếng ta là trật. Quý vị nên biết rằng tại hạ không hiểu văn tự Tây Hạ thì giữ tấm bản văn đó làm chi? Tại hạ ở ngoài thành Vô Tích đã bị hạ về tay quý bang mà không tìm đến quý bang để báo thù là tốt, còn chuyện báo tin về bản văn Tây Hạ thì là việc của cả bọn ta chứ không phải là việc của cá nhân Bao Bất Đồng.
Gã nói xong quay lại bảo Công Dã Càn:
- Nhị ca! Bọn họ thua rồi. Cất bản văn đi thôi.
Trần trưởng lão là người cơ biến nghĩ bụng:
- Thằng cha này nói lòng dòng, té ra chỉ vì gã chưa quên cái nhục thảm bại năm nào ở ngoài thành Vô Tích.
Lão chắp tay nói:
- Ngày đó Bao huynh chân tay không mà đấu với cây trượng nặng sáu mươi cân của Hề trưởng lão. Bao huynh đã chiếm được phần thắng. Rồi tệ bang thấy không địch nổi liền kết thành... "Đả... trận pháp" mà vẫn không làm gì được. Bao huynh, sau Bang chúa tệ bang hồi đó là Kiều Phong đem toàn sinh lực vào trận cùng Bao huynh chiến đấu hồi lâu mới miễn cưỡng thắng được Bao huynh nửa chiêu. Khi đó Bao huynh cất tiếng hát vang bỏ đi. Chiến đấu đã vào hạng cao minh, lúc bỏ đi vẫn cứ ung dung! Tệ bang từ trên xuống dưới, mỗi khi đề cập đến vụ này, đều lấy làm thú vị và bội phục Bao huynh vô cùng! Thế mà Bao huynh lại tự khiêm nói là thua về tay tệ bang. Quyết không có việc đó, quyết không có việc đó. Nay Kiều Phong cùng tệ bang không còn có mối liên quan gì nữa và có thể nói y là cường địch không đội trời chung của tệ bang.
Hồi Thứ 121
Chốn sơn hậu quần hùng nghe thuyết pháp
Bao Bất Đồng liền nhân cơ hội đó nói ngay:
- Nếu thế thì còn gì hay hơn nữa. Trưởng lão đã thống lĩnh anh em quý bang cùng bọn tại hạ đi bắt kẻ thù chung là Kiều Phong. Khi đó tại hạ sẽ nghĩ tình bằng hữu mà hai tay dâng bản văn lên. Nếu trưởng lão không biết văn tự ngoằn ngoèo trong bản văn thì Công Dã nhị ca xin làm việc đó cho, và đem nguyên bản văn giải thích rõ ràng từ đầu đến cuối chọ Trưởng lão, trưởng lão tính sao?
Trần trưởng lão hết nhìn Tống trưởng lão lại nhìn Ngô trưởng lão, không biết quyết định thế nào.
Bỗng có tiếng người nói:
- Như thế là phải rồi còn ngần ngại gì nữa?
Mọi người nhìn về phía bên phát ra thanh âm xem ai nói câu vừa rồi thì y chính là Thập phương tú tài Toàn Quán Thanh.
Toàn Quán Thanh lại nói tiếp:
- Nước Liêu là kẻ đại thù của nhà Tống ta. Cha Kiều Phong là Tiêu Viễn Sơn tự miệng nói ra là đã lén lút ba mươi năm trời trong chùa Thiếu Lâm, coi hết võ kinh, bí lục của phái này. Ngày nay, bọn ta không đồng tâm hiệp lực trừ khử đi để hắn yên lành trở về Liêu quốc, truyền thụ võ công đất Trung Nguyên cho bọn Khất Đan thì khác gì cho hổ thêm cánh. Sau này chúng dẫn quân vào tấn công nhà Đại Tống thì bọn con cháu Viên Hoàng chúng ta đều thành những tên nô lệ vong quốc.
Quần hùng nghe Toàn Quán Thanh nói rất có lý. Nhưng Huyền Từ vừa viên tịch, Vương Tinh Thiên bị gãy chân, thành ra phái Thiếu Lâm cùng Cái Bang hai cây cột trụ võ lâm Trung Nguyên biến thành đàn rắn không đầu, không có người đứng ra chủ trương đại cuộc.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau chưa có chủ ý gì thì Toàn Quán Thanh lại nói:
- Xin mời ba vị cao tăng hàng chữ "Huyền" phái Thiếu Lâm và ba vị Tống, Trần, Ngô trưởng lão Cái Bang lập thành khối chỉ huy cộng đồng để ban hiệu lệnh thì hết thảy đều nghe lệnh sai khiến. Trước hết là giết cha con Tiêu Viễn Sơn để trừ mối lo tâm phúc cho nhà Đại Tống. Còn ngoài ra có việc gì sẽ bàn sau.
Trong quần hùng rầm rộ những tiếng hô:
- Thế là phải lắm! Xin ba vị cao tăng cùng ba vị trưởng lão phát lệnh!
- Việc này quan hệ đến mối an nguy toàn quốc. Sáu vị tiền bối không nên từ chối!
- Chúng tôi xin tuân theo hiệu lịnh để giết hai tên Phiên của Khất Đan.
Những tiếng binh khí rút ra khỏi vỏ nghe choang choảng. Có người định xông lại đánh giết mười tám tên võ sĩ Khất Đan.
Dư bà bà la lên:
- Các vị anh em Khất Đan xin qua cả bên này nói chuyện.
Mười tám tay võ sĩ Khất Đan không biết Dư bà có dụng ý gì, nên yên lặng cầm đao trong tay, đứng sát cánh nhau. Họ biết rằng thế ít không địch nổi nhiều, nhưng Dư bà lại la lên:
- Tám bộ cung Linh Thứu chúng ta phải bảo vệ cho mười tám vị bằng hữu.
Quần nữ trong tám bộ liền chạy sang đứng phía trước mười tám võ sĩ Khất Đan. Các động chúa, đảo chúa chia ra đứng hai bên. Bọn môn đồ phái Tinh Tú muốn lập công trước mặt tân chủ nhân, cũng phất cờ reo hò. Thanh thế rất là cường thịnh.
Dư bà khom lưng trước Hư Trúc nói:
- Thưa chủ nhân! Mười tám võ sĩ đây là thuộc hạ của nghĩa huynh chủ nhân. Nếu để bọn họ bị người đâm chết trước mặt chủ nhân thì còn gì là oai phong của cung Linh Thứu nữa? Bọn thuộc hạ hãy tạm thời bảo vệ cho họ, để chờ chủ nhân phát lạc.
Hư Trúc còn đang đau xót về vụ song thân tuyệt mạng, y không chủ ý gì, đành gật đầu nói:
- Cung Linh Thứu ta cùng phái Thiếu Lâm là bạn chứ không phải thù. Vậy chúng ta không được làm tổn thương đến hoà khí hay đánh giết càn bậy.
Huyền Tịch thấy thanh thế bọn cung Linh Thứu lớn quá, biết là vấp phải những tay kình địch nguy hiểm. Nhà sư nghe lời Hư Trúc nói vậy liền lên tiếng:
- Mười tám tên võ sĩ Khất Đan kia giết hay không cũng chẳng quan hệ gì đến đại cục. Chúng ta hãy nể mặt Hư Trúc tiên sinh tạm ngưng việc đó. Hư Trúc tiên sinh! Nay chúng ta đi bắt và giết Tiêu Phong thì tiên sinh viện trợ bên nào?
Hư Trúc ngần ngừ đáp:
- Phái Thiếu Lâm là nơi vãn bối xuất thân. Một bên Tiêu Phong lại là nghĩa huynh. Một đằng đã chịu ơn sâu, một bên lại là nghĩa cả. Vãn bối... Không thể giúp ai đánh ai được. Nhưng... thưa sư thúc tổ! Vãn bối khuyên sư thúc tổ buông tha cho Tiêu đại ca! Vãn bối sẽ khuyên y không dẫn quân sang đánh Đại Tống nữa là xong.
Huyền Tịch rủa ngầm:
- Võ công mi cao cường thật là uổng. Đã làm đến chủ nhân một phái mà nói ra những câu như trò con nít.
Đại sư lại lên tiếng:
- Từ đây ba chữ sư thúc tổ, Hư Trúc tiên sinh đừng nói tới nữa.
Hư Trúc nói:
- Dạ dạ! Vãn bối quên đi mất.
Huyền Tịch lại nói:
- Cung Linh Thứu đã không giúp bên nào, thế thì phái Thiếu Lâm ta cùng quý Cung vẫn là bè bạn chứ không được làm tổn thương hoà khí.
Nhà sư lại quay lại nói với ba vị trưởng lão Cái Bang: Tống, Trần, Ngô ba lão đồng thanh nói:
- Phải lắm! Phải lắm! Các huynh đệ Cái Bang chúng ta cùng nhau lên chùa Thiếu Lâm xem cuộc diễn đấu tranh giữa hai họ Tiêu và Mộ Dung ra sao rồi sẽ định đoạt thái độ sau.
Quần tăng chùa Thiếu Lâm đi trước dẫn đường. Cái Bang cùng quần hùng Trung Nguyên reo hò cùng nhau xông lên núi Thiếu Thất.
Đặng Bách Xuyên cả mừng bảo Bất Đồng:
- Tam đệ! Tam đệ một phen hạ Huyết Từ mà đã lôi kéo được khá nhiều tên viện trợ đắc lực về cho chúa công và công tử.
Bao Bất Đồng nói:
- Không phải đâu là không phải đâu! Chúng ta chần chờ mãi không biết chúa công cùng công tử thắng bại ra sao?
Vương Ngọc Yến cũng lên tiếng:
- Đi mau lên! Đừng ở đây không phải đâu là không phải đâu nữa!
Nàng vừa nói vừa cất bước chạy lon ton theo sau quần hùng xông lên núi. Bỗng nàng thấy Đoàn Dự cũng đi theo bên cạnh liền hỏi:
- Đoàn công tử! Công tử cũng đi ư? Công tử muốn giúp nghĩa huynh để làm khó dễ biểu ca ta chăng?
Giọng nàng nói đầy vẻ bất mãn.
Nên biết rằng, vừa rồi Mộ Dung Phục toan vung kiếm tự tử là do y bị hại về tay Đoàn Dự cùng Tiêu Phong, nên y vừa thẹn vừa căm phẫn, không muốn trông thấy người đời nữạ Vương Ngọc Yến nhớ tới việc này đâm ra tức giận Đoàn Dự.
Đoàn Dự chưng hửng dừng bước lại. Từ ngày chàng biết Vương Ngọc Yến đến nay, chàng tuân theo cả trăm ngàn điều, hy sinh cả tính mạng để cứu nàng thoát hiểm, chưa bao giờ chàng thấy nàng coi mình bằng con mắt hằn học như bữa nay, bất giác chàng đứng thộn mặt ra.
Đoàn Dự trong lúc hoang mang cuống quít, ruột rối tơ vò. Hồi lâu chàng mới ngập ngừng đáp:
- Tại hạ... tại hạ tuyệt không muốn làm khó dễ Mộ Dung công tử.
Chàng ngẩng đầu nhìn lên thấy bên mình quần hùng đang tới tấp vượt qua. Còn Vương Ngọc Yến và bọn Đặng Bách Xuyên đã đi mất hút rồi, không còn thấy bóng đâu nữa.
Chàng lại ngẩn người ra nghĩ bụng:
- Vương cô nương đã đem lòng ngờ vực mình thì mình còn làm gì nữa?
Nhưng chàng lại nghĩ:
- Hàng trăm, hàng ngàn người như ong vỡ tổ xông lên để vây đánh Tiêu đại ca thì thật nguy hiểm vô cùng. Hư Trúc nhị ca đã nói rõ là không giúp bên nào. Nếu mình cũng bỏ nốt thì còn chi là tình nghĩa kim lan? Dù Vương cô nương có thống mạ cũng đành phải chịu chứ không thể vì tình riêng mà bỏ nghĩa sanh tử chi giao được.
Rồi chàng lại cất bước chạy như bay. Doàn Dự chạy nhanh hơn người thường, chỉ trong khoảnh khắc, chàng đã vượt qua vô số anh hào đến trước chùa Thiếu Lâm. Chàng theo mọi người qua cổng đi thẳng vào sơn môn. Khu vực chùa Thiếu Lâm rất rộng. Nhà trước, viện sau có đến mấy nghìn gian. Các tăng lữ cùng quần hùng Trung Nguyên xuyên qua các đường, các viện trong chùa, quát tháo om sòm để tìm cha con Tiêu Phong cùng cha con Mộ Dung Phục.
Nhiều người đã nhảy lên nóc nhà để dòm ngó bốn mặt. Chỗ nào cũng nhốn nháo cả lên mà thuỷ chung vẫn chưa tìm ra địch nhân ở chỗ nào. Tiếng người xuyên phóng nhập viện chân bước thình thịch pha lẫn tiếng người hỏi nhau:
- Bọn chúng ở đâu?
Chùa Thiếu Lâm là một cổ tự trang nghiêm bỗng biến thành một nơi huyên náo om sòm. Đoàn Dự chạy loạn lên một lúc, đột nhiên thấy một vị lão tăng tóc bạc ở cửa bên lạng người bước ra.
Chàng nghĩ ngay:
- Những nơi bí mật trong chùa người ngoài không thể biết được. Ta cứ theo nhà sư già này may ra tìm thấy Tiêu đại ca, còn hơn là hùng hục chạy liều.
Nghĩ vậy, chàng liền thi triển phép "Lăng Ba Vi Bộ" không phát ra tiếng động đi theo vị lão tăng kia. Vị lão tăng chạy thẳng vào khu rừng cây bên chùa, lần theo lối nhỏ trong rừng đó thẳng về mé tây bắc. Đi qua mấy khúc ngoằn ngoèo, đột nhiên ánh sáng loá mắt và có tiếng nước suối chảy róc rách. Bên kia khe suối một toà lầu treo một tấm biển đề ba chữ "Tàng kinh các".
Ðoàn Dự lẩm bẩm:
- Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm vang lừng thiên hạ, té ra là chỗ này đây. Phải rồi! Tàng kinh các dựng trên bờ khe suối, xa nơi phòng ốc là để đề phòng mọi hoả hoạn có thể tiêu huỷ những kinh điển quý vô ngần.
Vị lão tăng đi thẳng vào Tàng kinh các. Đoàn Dự cũng theo vào. Chàng vừa đến cửa thì có hai nhà sư đứng tuổi xẹt chân lại cất hỏi:
- Thí chủ đi đâu?
Đoàn Dự ấp úng đáp:
- Tại hạ... tại hạ đi coi...
Một nhà sư nói:
- Thí chủ hãy dừng bước. Đây là nơi Tàng kinh các, trọng địa của bản tự, xin người chớ thiện tiện đi vào.
Một nhà sư nữa nói:
- Gã họ Tiêu không ở nơi đây.
Đoàn Dự gật đầu đáp:
- Tại hạ mạo muội, xin đại sư tha lỗi cho.
Hai nhà sư chắp tay nói:
- Không dám! Lệ luật của bản tự rất nghiêm. Mong rằng thí chủ miễn trách.
Bỗng nghe trong các cổ thanh âm khàn khàn nói vọng ra:
- Ngươi có thấy bọn họ đi về phương nào không?
Đúng là thanh âm Huyền Tịch. Một người nữa nói:
- Bọn đệ tử bốn tên giữ ở đây chỉ thấy nhà sư áo trắng đi vào rồi giơ tay ra điểm huyệt bọn đệ tử mê đi. Lúc sư bá cứu tỉnh lại thì nhà sư áo trắng không biết đi đâu rồi.
Lại nghe một thanh âm khàn khàn khác nói:
- Chỗ này cửa sổ bị phá. Chắc họ ra phía sau núi.
Huyền Tịch nói:
- Đúng thế!
Vị lão tăng kia lại nói:
- Không hiểu bọn họ có ăn cắp kinh sách gì không?
Huyền Tịch đáp:
- Hai người này ẩn cư trong bản tự mấy chục năm mà chúng ta từ trên xuống dưới không ai hay thì là xấu hổ, nếu bọn họ định ăn cắp kinh sách thì mấy chục năm nay họ đã lấy rồi, hà tất phải đợi đến ngày nay?
Vị lão tăng kia nói:
- Sư huynh nói phải đó.
Rồi hai nhà sư cùng thở dài ra vẻ cực kỳ buồn bã.
Đoàn Dự nghĩ bụng: mấy vị này đang nói chuyện chùa Thiếu Lâm kém cỏi đến nỗi mất thể diện mình. Họ là người chính nhân quân tử, chẳng nên nghe trộm chuyện riêng của người ta. Chàng liền chắp tay thi lễ với hai nhà sư đứng tuổi rồi trở gót ra đi. Thực ra, Huyền Tịch nói rất khẽ, nhưng Đoàn Dự nội lực thâm hậu nên nghe rất rõ. Nhà sư giữ cửa thì không nghe thấy gì hết.
Đoàn Dự từ từ vừa bước đi vừa lẩm bẩm:
- Họ bảo Tiêu đại ca ra phía sau núi, vậy mình phải ra đó xem sao?
Phía sau núi Thiếu Thất, địa thế hiểm trở, rừng rậm âm u, lối đi khúc khuỷu. Đoàn Dự đi được vài dặm, không còn nghe thấy tiếng huyên náo bên ngoài chùa nữa. Trong rừng cây, chim chóc gọi nhau tíu tít. Đang mùa nóng dữ mà ánh dương quang cũng không lọt vào được, nên trong khu rừng này vẫn tối tăm lạnh lẽo.
Đoàn Dự thấy vậy lẩm bẩm:
- Nếu cha con Tiêu đại ca đến đây rồi thì thoát thân dễ lắm, dù quần hùng tới nơi cũng khó lòng bổ vây được.
Chàng chợt nhớ tới Vương Ngọc Yến lúc vừa đây, sắc mặt nàng oán giận thì đột nhiên lại nghĩ thầm:
- Nếu đại ca ta mà đánh chết công tử Mộ Dung Phục rồi... làm thế nào?
Tưởng đến Mộ Dung Phục rất có thể bị chết về tay cha con Tiêu Phong, Đoàn Dự bất giác mồ hôi lạnh ngắt, lẩm bẩm một mình:
- Giả tỷ Mộ Dung công tử mà mất mạng thì e rằng Vương cô nương buồn thảm đến chết mất, không thì vẻ mặt nàng lúc nào cũng buồn rười rượi.
Nghĩ vậy, chàng đâm ra bâng khuâng thả bước từ từ vào trong khu rừng rậm. Chàng càng đi càng lên cao.
Bỗng nghe mé tả có tiếng niệm Phật theo chiều gió đưa lại:
- Phật là tâm, tâm Phật. Tâm mình mới biết Phật, biết Phật mới biết tâm. Tâm đã lu mờ thì không phải là Phật. Đời xa cõi Phật thì không phải là tâm.
Thanh âm này hiền hoà và hùng hồn mà chàng chưa từng nghe thấy bao giờ. Đoàn Dự lẩm bẩm:
- Té ra khu này có người. Ta tới đó hỏi xem họ có thấy Tiêu đại ca cùng bọn người kia không?
Chàng lần theo về phía có thanh âm mà đi. Chàng đi qua một khu rừng trúc thì thấy có mấy người đang tụ trên một khoảnh đất bằng, cỏ mọc xanh um. Một nhà sư mặc áo bào sắc tro tựa lưng vào một phiến đá. Những tiếng niệm kinh vừa rồi là do miệng nhà sư này thốt ra.
Trước mặt nhà sư có đông người đang quỳ. Trong số đó có cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, cha con Mộ Dung Bác, Mộ Dung Phục, Triết La Tinh, Ba La Tinh và hai nhà sư Thiên Trúc. Ngoài ra còn có Thần Quang Thượng Nhân tại chùa Thanh Sơn Long núi Ngũ Đài, Mãnh Đại chùa Đại Tướng Quốc, Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ, Giác Ngôn đại sư chùa Đông Lâm, Dung Trí đại sư chùa Tịnh ảnh và mấy vị cao tăng hàng chữ "Huyền" chùa Thiếu Lâm quỳ dưới đất.
Cách chỗ này chừng bốn năm trượng có một người đứng. Hắn chính là Cưu Ma Trí, quốc sư nước Thổ Phồn.
Những người quỳ mọp đều cúi rạp đầu xuống, cặp lông mày rủ thấp yên lặng nghe nhà sư mặc áo xám thuyết pháp. Chỉ mình Cưu Ma Trí là ra chiều nhạo báng, hiển nhiên trong lòng hắn không phục nhà sư áo xám. Đoàn Dự còn đang kinh dị, lại nghe nhà sư áo xám cất cao giọng đọc kệ:
- Nước pha chất mặn
Keo vẫn màu xanh
Nhưng nó vô hình
Tâm vương tiềm thức
Lẫn quất trong mình
Ở đâu cũng vậy
Xét đoán cho minh
Tâm mà giác ngộ
Mọi sự yên lành
Suy đường bản thức
Thấy Phật gần quanh
Nào Tâm nào Phật
Phải hiểu cho rành.
Những người quỳ dưới đất đều cúi đầu suy ngẫm hoặc gật đầu để tỏ ra lĩnh hội.
Đoàn Dự xuất thân tại một Phật quốc. Chàng đi theo những vị cao tăng, nghiên cứu Phật pháp từ thuở nhỏ. Về Phật học, kinh nghĩa, chàng am hiểu rất nhiều. Nhưng đó là Phật học tại nước Đại Lý chứ không phải là thiền tông chùa Thiếu. Về môn Phật học, hai nơi này có nhiều điểm không giống nhau.
Chàng nghe vị lão tăng đọc những câu kệ trên đây, tuy còn óc nông cạn nhưng nghe rất hợp lý.
Chàng lẩm bẩm:
- Coi phục sắc vị cao tăng này thì cũng là một nhà sư chùa Thiếu Lâm mà chức phận hãy còn thấp kém, chỉ vào hạng pha nước, quét chùa, làm việc tạp dịch. Thế mà sao những vị cao tăng chùa Thiếu Lâm cùng Tiêu đại ca và bao nhiêu người nữa đều quỳ mọp nghe giảng?
Đoàn Dự từ từ đi quanh lại để coi dung nhan vị cao tăng kia xem là nhân vật thế nào? Nhưng muốn coi chánh diện nhà sư này thì phải đến phía sau bọn Tiêu Phong. Chàng sợ kinh động mọi người nên bước chân đi rất khẽ theo vòng bán nguyệt, rón rén đến gần Cưu Ma Trí thì đột nhiên hắn quay đầu lại nhìn chàng miệng tủm tỉm cười.
Đoàn Dự cũng niềm nở đáp lễ. Giữa lúc ấy, chợt có một luồng kình phong mãnh liệt xô vào trước ngực. Đoàn Dự biết ngay là nguy, la lên một tiếng:
- Úi chao!
Chàng toan phóng Lục mạch thần kiếm ra chống lại thì đã không kịp nữa. Chàng cảm thấy trước ngực đau nhói lên rồi mê man bất tỉnh. Bên tai còn văng vẳng có tiếng niệm kinh:
- Đức Phật từ bi! Đức Phật từ bi!
Sau đó chàng không biết gì nữa.
Nguyên Mộ Dung Bác bị Huyền Từ nói toạc chân tướng ra, lại nói huỵch toẹt âm mưu lão ngày trước đã phao tin để gây nên cuộc thảm hoạ ngoài ải Nhạn Môn quan. Hắn biết rằng chẳng những cha con họ Tiêu muốn hạ sát mình mới cam tâm, mà quần hào Trung Nguyên cũng chẳng chịu dung tha mình liền phi thân chạy vào chùa Thiếu Lâm. Nên biết rằng: trong chùa Thiếu Lâm phòng viện rất nhiều, lão đã thuộc hết địa hình thì dù lẩn tránh chỗ nào, cha con họ Tiêu cũng khó tìm ra được.Không ngờ Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong giận y thấu xương, đuổi theo như bóng theo hình. Tiêu Viễn Sơn cùng lão trạc tuổi ngang nhau, công lực cũng tương đương.
Mộ Dung Bác đã chạy trước một lát, Tiêu Viễn Sơn khó lòng theo kịp. Nhưng Tiêu Phong đang tuổi tráng niên, về võ công cũng như về nội lực ông rất dồi dào, hết sức đuổi thật mau. Lúc Mộ Dung Bác chạy đến trước cửa chùa Thiếu Lâm, Tiêu Phong còn cách xa hơn mười trượng đã phóng chưởng ra. Chưởng lực xô tới sau lưng hắn. Mộ Dung Bác xoay chưởng đánh lại để chống đỡ. Toàn thân hắn bị rung động, cánh tay ngâm ngẩm đau.
Hắn không khỏi kinh hãi, lẩm bẩm:
- Quân tiểu cẩu Khất Đan này công lực ghê quá!
Lão né mình đi chuồn vào trong cổng. Tiêu Phong khi nào để lão chạy thoát, ông nhảy xổ tới nơi thì Mộ Dung Bác đã lạng người vào trong cổng rồi. Trong chùa này hành lang vòng vèo, điện đường chi chít. Chưởng lực của Tiêu Phong tuy mãnh liệt nhưng không thể phóng tới lão được.
Ba người một trước hai sau, chỉ trong khoảnh khắc đã chạy đến Tàng kinh các. Mộ Dung Bác phá cửa sổ chui vào. Đồng thời phóng tay điểm bốn nhà sư gác cửa cho mê đi.
Lão quay lại cười lạt nói:
- Tiêu Viễn Sơn! Cả hai cha con ngươi vào cả đây hay là hai thằng già chúng ta lấy một chọi một liều mạng với nhau?
Tiêu Viễn Sơn đứng chắn ngoài cửa Tàng kinh các, bảo Tiêu Phong:
- Hài nhi! Ngươi chặn cửa sổ, đừng để hắn chạy thoát.
Tiêu Phong vâng lời, lạng mình đến bên cửa sổ, bàn tay để ngang trước ngực thủ thế. Hai cha con họ Tiêu bao vây, xem chừng Mộ Dung Bác không còn con đường nào ra thoát.
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Ta với ngươi đã có mối thù chẳng đội trời chung. Ngươi không chết thì không bao giờ oán thù cởi được. Đâu phải là cuộc tỷ võ để phân cao thấp. Dĩ nhiên cha con ta sẽ hợp lực để hạ sát ngươi.
Mộ Dung Bác cười ha hả, toan trả lời. Bỗng nghe thang lầu có tiếng bước chân và có một người đi lên. Chính là Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí nhìn Mộ Dung Bác chắp tay thi lễ nói:
- Mộ Dung tiên sinh! Ngày trước, hai ta từ biệt nhau ở nước Thiên Trúc về sau được nghe tin tiên sinh quy tiên, tiểu tăng xiết nỗi đau buồn. Té ra tiên sinh ẩn cư không xuất hiện nữa, đuổi theo công việc riêng. Bữa nay được trùng phùng, tiểu tăng vui mừng khôn xiết.
Mộ Dung Bác chắp tay đáp lễ cười nói:
- Tại hạ vì việc quốc gia mà phải lánh mình trá tử, khiến đại sư tưởng nhớ, thiệt lấy làm xấu hổ.
Cưu Ma Trí nói:
- Không dám! Ngày trước tiểu tăng cùng tiên sinh gặp nhau ở Thiên Trúc giảng luyện võ kiếm, được tiên sinh chỉ điểm cho mấy ngày, khiến bao nhiêu chỗ nghi ngờ đều được giải đáp, lại nhờ ơn tiên sinh tặng cho cuốn "Thất thập nhị tuyệt kỹ yếu chỉ". việc ấy tiểu tăng ghi vào tâm khảm.
Mộ Dung Bác cười đáp:
- Làm chi cái việc đó mà đại sư phải quan tâm?
Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong đưa mắt nhìn nhau bụng bảo dạ:
- Lão Cưu Ma Trí này bản lĩnh cũng ghê gớm, mà hắn lại cùng Mộ Dung Phục có mối giao kết sâu xa như vậy, thì tất là hắn giúp lão. Cuộc chiến này thắng bại khó lòng biết trước được.
Hồi Thứ 122
Mộ Dung Bác mưu đồ phục quốc
Bỗng nghe Cưu Ma Trí lại lên tiếng:
- Tiểu tăng được nghe tiên sinh nổi danh bằng kiếm pháp và có đề cập đến môn "Lục mạch thần kiếm" tại chùa Thiên Long nước Đại Lý là thiên hạ đệ nhất kiếm và tiếc là chưa được biết rõ cho thoả chí bình sinh. Tiểu tăng được tin tiên sinh quy tiên rồi liền đến chùa Thiên Long nước Đại Lý, định lấy Lục mạch thần kiếm phả đốt ở trước mộ tiên sinh để báo đền tri kỷ. Không ngờ, Khô Vinh lão tăng chùa Thiên Long giảo quyệt và đa mưu, gặp lúc khẩn cấp, lão dùng nội lực tiêu huỷ kiếm phả. Tiểu tăng không hoàn thành được ý nguyện Quý Trát treo gươm thiệt lấy làm xấu hổ vô cùng!
Mộ Dung Bác nói:
- Đại sư chí tình, tại hạ rất lấy làm cảm kích. Huống chi Lục mạch thần kiếm hãy còn tồn tại ở nhân gian. Vừa rồi Đoàn công tử nước Đại Lý cùng nhục tử tỷ đấu, đã phóng kiếm khí tung hoành. Vậy tiếng đồn Lục mạch thần kiếm là thiên hạ đệ nhất kiếm quả nhiên danh bất hư truyền.
Giữa lúc ấy, có bóng người thấp thoáng trong Tàng kinh các lại thêm một người nữa, chính Mộ Dung Phục. Gã đi sau mấy bước, vào đến trong chùa thì đã mất hút cha con Tiêu Phong. Khi tìm đến Tàng kinh các, thì nghe thấy phụ thân đang đề cập đến Đoàn Dự dùng Lục mạch thần kiếm để thắng mình. Y lấy làm nhục nhã vô cùng.
Mộ Dung Bác lại hỏi:
- Cha con họ Tiêu định tìm giết cho bằng được tại hạ mới cam lòng, và họ hiện ở trong này. Đại sư nghĩ sao?
Cưu Ma Trí đáp:
- Đã là chỗ tri kỷ, có lẽ đâu tự thủ bàng quan.
Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục đuổi đến thành ra bên họ ba người mà mình chỉ có hai. Cả năm người này đều là những tay cao thủ bậc nhất. Mộ Dung Phục tuy kém một chút, nhưng cũng không thể coi thường được. Đối phương hơn một người là lập tức chiếm được ưu thế. Ông lo rằng chẳng những khó lòng giết được Mộ Dung Bác mà có khi cha con mình phải bỏ mạng trong Tàng kinh các này cũng chưa biết chừng.
Tuy Tiêu Phong nghĩ vậy, nhưng vốn đầy lòng dũng cảm. Càng lâm vào nghịch cảnh, lại càng thần oai lẫm liệt. Ông lớn tiếng quát:
- Trường hợp hôm nay, nếu không kẻ sống người chết quyết chẳng thôi. Hãy tiếp chiêu của ta đây!
Dứt lời, Tiêu Phong vung chưởng nhằm đánh vào Mộ Dung Bác. Mộ Dung Bác vung tay trái lên ngưng tụ công lực để hoá giải. Bỗng nghe những tiếng rắc rắc, giá sách mé tay trái bị gãy tan. Những mảnh gỗ bay lên tới tấp. Kinh sách xếp trên rớt xuống lả tả.
Nguyên chưởng lực của Tiêu Phong hùng hậu vô cùng. Mộ Dung Bác tuy đã vung chưởng giải khai, nhưng chưởng lực của Tiêu Phong không tiêu tan mà chỉ trệch phương vị đi đánh vào giá sách. Giá sách này tuy bằng gỗ đàn rất kiên cố, nhưng chịu làm sao nổi chưởng lực của Tiêu Phong có thể đập tan bia vỡ đá.
Mộ Dung Bác tủm tỉm cười nói:
- "Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong", quả nhiên danh bất hư truyền. Tiêu huynh! Ta có lời muốn nói, Tiêu huynh có chịu nghe không?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Dù ngươi có xảo ngữ đến mấy cũng đừng hòng ta bỏ mối thù giết vợ.
Mộ Dung Bác nói:
- Ngươi muốn giết ta để báo thù, nhưng tình thế bữa nay e rằng chưa chắc ngươi đã làm nổi. Bên ta ba người mà bên Tiêu huynh chỉ có hai thử hỏi bên nào chiếm được ưu thế?
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Dĩ nhiên bên ngươi thắng thế. Nhưng bậc đại trượng phu lấy ít chọi nhiều phỏng có sợ gì?
Mộ Dung Bác nói:
- Cha con họ Tiêu anh danh cái thế, bình sinh có sợ ai bao giờ. Nhưng dù không sợ mà bữa nay muốn giết ta tưởng cũng khó lắm. Ta muốn cùng Tiêu huynh đề nghị một cuộc trao đổi và Tiêu huynh vẫn có thể thoả nguyện việc báo thù. Nhưng cha con Tiêu huynh phải ưng chịu một điều.
Tiêu Viễn Sơn cùng Tiêu Phong tự hỏi:
- Thằng giặc già này có nguỵ kế gì đây?
Lão trầm ngâm không trả lời. Mộ Dung Bác lại nói:
- Chỉ cần cha con Tiêu huynh ưng thuận điều này rồi cứ vào giết tại hạ để báo thù. Tại hạ đành bó tay chịu chết, quyết không kháng cự, Cưu Ma Trí sư huynh và Phục nhi không được ra tay cứu giúp.
Mộ Dung Bác nói vậy khiến cho cha con Tiêu Phong rất lấy làm kỳ. Cưu Ma Trí cùng Mộ Dung Phục cũng không khỏi kinh hãi, chẳng hiểu ra sao.
Mộ Dung Phục la lên:
- Gia gia! Họ ít mình nhiều...
Cưu Ma Trí cũng hỏi:
- Mộ Dung tiên sinh sao lại nói thế? Tiểu tăng còn một hơi thở, cũng quyết không để người khác đụng đến mình tiên sinh.
Mộ Dung Bác nói:
- Tấm lòng cao nghĩa cả của đại sư, tại hạ rất lấy làm cảm kích. Kết giao được một người bạn như thế thà chết cũng cam lòng. Tiêu huynh! Tại hạ có điều thỉnh giáo. Năm trước tại hạ phao tin đó ra gây thành vạ lớn. Tiên sinh có biết vì lẽ gì mà tại hạ làm việc thất đức đó chăng?
Tiêu Viễn Sơn lửa giận đùng đùng trỏ tay vào mặt Mộ Dung Bác mắng:
- Ngươi là kẻ hèn hạ tiểu nhân làm điều càn rỡ, giao tai tất vạ thì hà tất còn hỏi đến dụng ý làm chi?
Dứt lời lão tiến lên một bước phóng quyền đánh luôn. Cưu Ma Trí chênh chếch người đi liệng tới, vung hai chưởng lên ngăn cản." Sầm" một tiếng rùng rợn! Quyền chưởng chạm nhau nảy lửa. Kình lực xông lên đến nóc nhà làm cho cát bụi rớt xuống ầm ầm. Bên quyền bên chưởng đụng nhau không phân cao thấp. Cả hai người cùng ngấm ngầm bội phục nhau.
Mộ Dung Bác nói:
- Tiêu huynh hãy tạm dẹp lôi đình. Xin nghe tại hạ nói hết đã. Mộ Dung Bác này tuy bất lương, nhưng cũng có chút tiếng tăm trên chốn giang hồ, lại cùng Tiêu huynh không quen biết, dĩ nhiên là không thù oán. Còn như đối với Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm tại hạ cùng y mối thâm giao lâu ngày. Tại hạ đã phí bao nhiêu tâm lực, để gây ra xích mích giữa hai bên để thành thế cả lực lượng tan nát. Theo lẽ thường mà nói thì tự nhiên phải có lý do trọng đại.
Tiêu Viễn Sơn mắt nhường toé lửa quát hỏi:
- Lý do gì trọng đại? Ngươi, ngươi nói mau đi!
Mộ Dung Bác nói:
- Tiêu huynh! Tiêu huynh là người Khất Đan, Cưu Ma Trí Minh vương là người nước Thổ Phồn. Còn bên kia là người võ lâm Trung Nguyên đều gọi các vị là Phiên bang di địch không phải là hàng thượng quốc. Lệnh bang là Bang chúa Cái Bang, võ công thao lược, hùng tài lừng lẫy tiếng tăm. Thiệt là một bậc anh hùng hào kiệt cổ kim hiếm có. Chỉ vì quần Cái Bang biết y là dòng dõi Phiên tộc Khất Đan, liền trở mặt không dung. Chẳng những không nhận y làm Bang chúa mà còn muốn giết y đi nữa mới cam tâm. Tiêu huynh! Tiêu huynh thử nghĩ coi việc đó có gì là công đạo?
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Tống, Liêu vốn không thù oán, cuộc chinh chiến giữa hai nước đã kéo dài hơn trăm năm nay. Ngoài chốn biên cương người hai nước thấy nhau là giết, xưa nay vẫn thế. Bang chúng Cái Bang đã biết ta là người nước Liêu thì khi nào thờ kẻ thù làm chủ nhân? Đó là lẽ thường chẳng có gì là công đạo với không công đạo.
Tiêu Viễn Sơn ngừng một lát lại nói tiếp:
- Bọn Huyền Từ phương trượng, Uông Kiếm Thông có giết vợ con cùng thuộc hạ cũng là sự ngẫu nhiên, chứ không phải cố ý. Dù họ có cố ý chăng nữa thì cũng chỉ do mối tương tranh giữa hai nước Tống, Liêu chẳng lấy chi làm lạ. Còn ngươi lại bày mưu kế thâm độc để hại người. Như vậy thì không thể buông tha được.
Mộ Dung Bác nói:
- Theo quan niệm của Tiêu huynh thì mỗi khi hai nước giao tranh, dấy động can qua, chỉ cần kiềm chế được đối phương để thủ nhân, nghĩa đạo đức nữa ư?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Binh bất yếm trá, xưa nay vẫn thế. Cái nhân của Tống tướng công chỉ để cho đời sau chê cười. Ngươi hỏi chuyện không liên can gì đến mình làm chi?
Mộ Dung Bác tủm tỉm cười hỏi:
- Tiêu huynh bảo Mộ Dung Bác này là nước nào?
Tiêu Viễn Sơn run lên đáp:
- Ngươi là họ Mộ Dung ở Cô Tô thì dĩ nhiên là người Hán thuộc Nam triều chớ còn là người nước ngoài nữa hay sao?
Mộ Dung Bác lắc đầu đáp:
- Tiêu huynh nói thế là sai.
Rồi hắn quay lại nhìn Mộ Dung Phục nói:
- Hài nhi! Chúng ta là người nước nào?
Mộ Dung Phục đáp:
- Chúng ta là họ Mộ Dung thuộc giống Tiên Tỵ. Trước kia nước Đại Yên lừng danh miền Hà Sóc, gây dựng nên giang sơn gấm vóc. Nhưng cay đắng vì địch nhân nham hiểm tàn ác, khuynh đảo được nhà.
Mộ Dung Bác nói:
- Hài nhi có biết tại sao ta đặt tên cho con là "Phục" không?
Mộ Dung Phục đáp:
- Gia gia muốn hài nhi lúc nào cũng không được quên lời di huấn của tổ tiên là phục hưng nước Đại Yên đoạt lại giang sơn.
Mộ Dung Bác nói:
- Ngươi lấy ngọc tỷ truyền quốc của Đại Yên cho Tiêu tiên sinh coi.
Mộ Dung Phục vâng lời, thò tay vào bọc lấy ra một cái ấn vuông bằng ngọc đen. Ấn ngọc này khắc đầu con báo rất linh động. Mộ Dung Phục xoay ấn lại để rõ hàng chữ ra.
Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, Cưu Ma Trí ba người tinh mắt phi thường, nhìn rõ ấn khắc sáu chữ: "Đại Yên hoàng đế chi bảo". Ấn ngọc tỷ này điêu khắc rất tinh vi. Góc trên bị sứt một chút chắc là mấy trăm năm nay cái ấn này đã trải qua nhiều bước gian lao. Tuy không phân biệt được chân hay giả, nhưng quyết nhiên là một vật chế đã lâu đời.
Mộ Dung Bác lại nói:
- Ngươi lấy "Thế hệ phả" của Hoàng đế nước Đại Yên ra cho Tiêu tiên sinh coi.
Mộ Dung Phục vâng lời, cất ngọc tỷ vào bọc rồi tiện tay móc ra một gói vải dầu. Trong gói này có một bức lụa vàng viết chữ son bằng hai thứ văn tự. Mé phải là thứ chữ ngoằn ngoèo không ai hiểu biết. Chắc đó là văn tự Tiên Tỵ. Mé tả là chữ Hán. Trên đầu viết: "Thái Tổ Văn Minh đế huý Hoảng", phía dưới viết: "Liệt Tổ Cảnh Chiêu đế Tuấn". Dưới nữa viết: "U đế huý Vi".
Đoạn giữa viết: "Thế Tổ Thành Võ đế huý Thuỳ", mé trên dòng này viết: "Liệt Tôn Huê Mẫu đế huý Bảo". Mé dưới là "Khai Phong Công huý Tường", "Triệu Vương huý Lâu".
Mảnh lụa vàng này đoạn dưới chép: "Trung Tôn Chiêu Võ huý Thịnh". "Chiêu Văn đế huý Hy".
Về tên huý những chữ Hoàng đế đều viết thiếu nét (ngày trước tên huý các vua phải viết bớt đi một nét, viết đủ là pham huý).
Đến năm Thái Thượng thứ sáu nhà Nam Yên về đời Mộ Dung Siêu mất nước. Các đời sau đều là thứ dân không có ai làm Đế Vương công hầu nữa.
Trải qua nhiều triều đại xa xăm, con cháu dòng họ Mộ Dung rất đông đúc.
Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, Cưu Ma Trí, lúc này ba người không để tâm xem kỹ nhưng cũng nhìn cuối cùng hệ biểu này là tên Mộ Dung Phục, phía trên Mộ Dung Phục là Mộ Dung Bác.
Cưu Ma Trí nói:
- Té ra Mộ Dung tiên sinh là dòng họ vương tôn của nước Đại Yên. Tại hạ thật là thất kính.
Mộ Dung Bác thở dài nói:
- Một kẻ di dân mất nước còn giữ được cái đầu kể là đã may lắm rồi. Có điều nhớ tới lời di huấn của liệt tổ, nên lúc nào cũng nghĩ đến công cuộc phục hưng. Mộ Dung Bác này bất tài, bôn ba trên chốn giang hồ đã nửa đời người thuỷ chung cũng chẳng làm nên công cán gì. Họ Mộ Dung tại hạ thuộc dòng Tiên Tỵ có âm mưu đồ công việc phục quốc. Tiêu huynh tưởng có nên chăng?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Được làm vua thua làm giặc. Quần hùng đuổi hươu ở Trung Nguyên (con hươu là ví với Thiên hạ) thì còn có việc gì là nên với cả chẳng nên nữa.
Mộ Dung Bác nói:
- Đúng lắm! Lời nói của Tiêu huynh rất hợp với tại hạ. Họ Mộ Dung muốn phục hưng nước Đại Yên hễ gặp cơ hội là nắm lấy. Tại hạ nghĩ rằng, hiện nay người họ Mộ Dung ít cơ hội, thế lực đơn bạc, công cuộc trung hưng đất nước đâu phải chuyện dễ dàng. Chỉ trông vào thiên hạ đại loạn khắp chốn, xảy động can qua thì mới có cơ hội để mà hành động.
Tiêu Viễn Sơn trầm giọng hỏi:
- Ngươi phao tin thất thiệt để gây chuyện xích mích giữa nhà Tống và nước Đại Liêu để mong xảy cuộc đại chiến chăng?
Mộ Dung Bác đáp:
- Chính thế. Nếu giữa nhà Tống và Đại Liêu xảy cuộc chiến tranh thì Đại Yên mới có thể thừa cơ phát động được. Tại hạ đã tưởng ngày trước, nhà Đông Tấn có loạn Bát Vương họ Tư Mã tàn sát lẫn nhau, bọn Ngũ Hồ mới có thể chiếm đất Trung Nguyên. Tình thế ngày nay cũng tương tự như vậy.
Cưu Ma Trí gật đầu nói:
- Đúng lắm! Giả tỷ Tống triều xảy cuộc ngoại xâm, trong sinh nội biến, thì chẳng những Mộ Dung tiên sinh có hy vọng phục quốc mà nước Thổ Phồn tôi cũng được chia sẻ chén canh.
Tiêu Viễn Sơn hắng giọng liếc mắt nhìn hai người. Mộ Dung Bác nói:
- Lệnh lang ở nước Liêu làm đến Nam Viện đại vương, một tay nắm giữ binh quyền, ngồi trấn thủ Nam kinh. Giả tỷ xua quân xuống Nam hết đất đai Bắc ngạn sông Hoàng Hà của Nam triều, dựng nên công nghiệp rực rỡ thì tiến ra có thể tự lập làm vua mà lui về cùng được phú quý, khi ấy liền tay đem hào kiệt Trung Nguyên quy tụ vào một chỗ rồi giết đi, như dẫm lên đàn kiến. Ngày trước lệnh lang bị Cái Bang đuổi có phải nhân dịp này mà trả oán được không?
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Ngươi muốn con ta hết sức vì ngươi dùng trò đục nước béo cò để thoả cái dã tâm khôi phục nước Yên phải không?
Mộ Dung Bác nói:
- Đúng thế! Nếu họ Mộ Dung dựng cờ khởi nghĩa dấy quân vào cướp Sơn Đông, mà được nước Đại Liêu hưởng ứng, đồng thời mấy nước Thổ Phồn, Đại Liêu, Đại Lý, cùng Tây Hạ cũng đứng lên thì năm nước chúng ta chia cắt nhà Đại Tống không phải là chuyện khó. Nước Yên của tại hạ không dám động chạm đến một tấc đất của Đại Liêu. Nếu công cuộc phục hưng thành tựu thì chỉ lấy đất Nam triều. Vụ này rất có lợi cho Đại Liêu. Sao Tiêu huynh lại không vui lòng cử sự?
Lão nói đến đây, đột nhiên xoay tay phải ra thì trong tay đã nắm lưỡi đao truỷ thủ sáng loáng. Lão vung tay lên đâm lưỡi truỷ thủ vào cạnh ghế nói:
- Nếu Tiêu huynh theo lời đề nghị của tại hạ thì xin lập tức đâm chết tại hạ để báo thù cho phu nhân. Tại hạ quyết không kháng cự.
Roạc một tiếng! Lão xé vạt áo để hở ngực ra.
Tiêu Viễn Sơn thật không ngờ đến Mộ Dung Bác lại thuyết mình như vậy. Cả hai cha con lại càng không ngờ là đối phương chiếm được ưu thế mà đành bó tay chịu chết. Lão không biết đáp thế nào cho phải.
Cưu Ma Trí nói:
- Mộ Dung tiên sinh! Người ta thường nói đã không cùng chủng loại thì tam tinh cũng khác nhau. Huống chi việc quân quốc đại sự thì chuyện mưu cơ giả trá là rất cần. Giả tỷ Mộ Dung tiên sinh cam tâm chịu chết, nhưng sau đó cha con họ Tiêu không làm theo lời của tiên sinh thì cái chết của tiên sinh chẳng... nhẹ như lông hồng?
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Hài nhi! ý kiến lão này dường như không phải là giả trá. Ngươi tính thế nào?
Tiêu Phong đáp:
- Không được!
Đột nhiên ông phóng chưởng ra nhằm vào cái ghế gỗ đánh chát một tiếng. Cái ghế gãy làm mấy đoạn. Lưỡi truỷ thủ xuyên qua ván lầu rớt xuống tầng dưới Tàng kinh các.
Ông nghiêm nghị nói:
- Mối đại thù giết mẹ đâu có thể đem ra làm chuyện mua bán? Báo được thì báo, cha con ta chịu chết nơi đây. Những chuyện tham lam hèn hạ, cha con họ Tiêu mình đâu có thể làm được?
Mộ Dung Bác ngửa mặt lên trời cả cười rồi lớn tiếng nói:
- Ta thường nghe nói Tiêu Phong đại hiệp là tay anh hùng quán thế, kiến thức phi thường. Dè đâu bữa nay mới thấy rõ y là kẻ không hiểu đại nghĩa mà chỉ sinh cương theo cái dũng của kẻ thất phu. Ha ha! Thiệt là đáng tức cười!
Tiêu Phong biết lão dùng lời nói khích, lạnh lùng đáp:
- Tiêu Phong là anh hùng hào kiệt cũng được mà phàm phu tục tử cũng được, nhưng không chịu để kẻ khác dùng làm cái bung xung cho thoả tâm nguyện của họ.
Mộ Dung Bác nói:
- Kẻ ăn lộc phải biết trung quân, đại hiệp lại nghĩ đến tư cừu của cha mẹ không đem lòng tận trung báo quốc há chẳng bất nghĩa với Đại Liêu?
Tiêu Phong tiến lên một bước hiên ngang nói:
- Ngươi vừa mới nói ngoài biên cương hai nước Tống, Liêu thù hận giết nhau gây nên thảm trạng. Ngươi đã thấy cảnh người Tống và người Liêu chia lìa vợ con, nhà tan, người chết rồi chứ gì? Hai nước Tống, Liêu bãi việc binh đao mấy chục năm trời, nếu lại gây cuộc chiến chinh, đoàn thiết kỵ Khất Đan vào xâm lấn Nam triều sẽ có bao nhiêu người Tống phải phơi thây? Bao nhiêu người Liêu phải uổng mạng?
Ông nói tới đây chợt nghĩ tới tình trạng ngày nọ ở ngoài ải Nhạn Môn quan. Tống binh cướp lương thảo cực kỳ tàn khốc, ông càng cất cao giọng nói tiếp:
- Cuộc chiến chinh thảm khốc trên thế gian này ai là người nắm chắc được phần thắng? Nhà Đại Tống binh nhiều, lương đủ, chỉ cần mấy viên đại tướng hết lòng chống cự thì nước Đại Liêu và nước Thổ Phồn có hợp lực chiến đấu may ra mà thắng được, cũng phải máu chảy thành sông, thây chất thành núi, để cho họ Mộ Dung nhà ngươi thừa cơ phục hưng Yên quốc. Việc kiến công lập nghiệp cần phải giữ đất yên dân như thế nào?...
Bất thình lình ngoài cửa sổ có thanh âm khàn khàn một lão già:
- Phúc đức! Thiệt là phúc đức! Tiêu cư sĩ đây lòng từ thiện, thương xót lê dân thiên hạ, đúng là lòng dạ của đức Bồ Tát.
Năm người nghe tiếng giật mình kinh hãi vì họ đều là những tay cao thủ tuyệt đỉnh, thế mà có người đứng ngoài cửa sổ, chẳng một ai biết. Hơn nữa nghe giọng lưỡi người này nói thì dường như y đứng ngoài cửa sổ đã lâu.
Mộ Dung Phục quát hỏi:
- Ai đó?
Rồi không chờ đối phương trả lời, phóng chưởng đánh sầm một tiếng. Hai cánh cửa sổ bật tung ra bay rớt xuống. Chỉ thấy trên dãy hành lang ngoài cửa sổ, một vị lão tăng gầy khô như hạc, mình mặc áo xám, tay cầm chổi đang khom lưng quét tước.
Nhà sư này đã tuổi cao, vài sợi râu thưa thớt chùng xuống trước ngực đều đã bạc hết. Coi cử động của nhà sư rất chậm chạp tựa hồ không còn khí lực gì nữa mà lại giống người không biết võ công.
Mộ Dung Phục lại hỏi:
- Ngươi lén lút vào trong này bao lâu rồi?
Nhà sư già từ từ ngẩng đầu lên hỏi lại:
- Thí chủ bảo bần tăng lén lút tại... trong này đã bao lâu ư?
Cả năm người chăm chú nhìn lão thì thấy cặp mắt đã mờ, mục quan không còn tinh thần gì nữa, nhưng nghe giọng nói thì đúng là âm thanh vừa khen ngợi Tiêu Phong.
Mộ Dung Phục nói:
- Đúng đó! Công tử gia đây hỏi ngươi ẩn núp trong này đã bao lâu?
Nhà sư giơ ngón tay ra tính hồi lâu rồi lắc đầu. Vẻ mặt ra chiều ảm đạm nói:
- Bần tăng không nhớ được rõ. Chẳng hiểu là bốn mươi hai hay bốn mươi ba năm rồi. Bần tăng chỉ nhớ mang máng đêm đầu tiên Tiêu lão cư sĩ này đến xem kinh bần tăng đã ở đây mười mấy năm. Về sau Mộ Dung lão cư sĩ lại đến. Rồi năm ngoái một vị Phiên tăng nước Thiên Trúc là Ba La Tinh cũng đến lấy trộm kinh. Hỡi ôi! Ông này chưa đi ông kia lại đến. Bao nhiêu kinh sách trong Các đảo lộn cả lên. Chẳng biết mấy ông làm gì?
Tiêu Viễn Sơn rất đỗi kinh ngạc nghĩ thầm:
- Mình vào chùa Thiếu Lâm để lén lút nghiên cứu võ công, các tăng lữ trong chùa chẳng một ai hay, sao nhà sư này lại biết rõ? Vừa rồi lão đứng dưới nghe mình nói mới lên tiếng.
Lão liền hỏi:
- Thế mà sao từ bấy đến nay ta không gặp nhà sư?
Nhà sư già đáp:
- Cư sĩ đem hết tâm thần vào việc nghiên cứu võ kinh phái Thiếu Lâm, nên không để ý đến lão tăng. Lão tăng còn nhớ đêm đầu cư sĩ vào gác mượn cuốn "Vô Tướng kiếp chỉ phổ". Hỡi ôi! Rồi từ đêm ấy cư sĩ đi vào ma đạo. Thiệt là đáng tiếc!
Tiêu Viễn Sơn càng kinh hãi hơn vì đêm đầu quả nhiên lão lén vào Tàng kinh các tìm đến cuốn "Vô Tướng kiếp chỉ phổ". Lão biết rằng đó là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Khi ấy lão mừng rỡ vô cùng, và tưởng ngoài mình ra không còn người nào hay biết. Chẳng lẽ nhà sư già này quả nhiên đã đứng bên mình nhìn rõ hay sao?
Nghĩ vậy Tiêu Viễn Sơn ngẩn người ra không biết nói sao. Nhà sư già lại nói:
- Lần thứ hai, cư sĩ lấy cuốn "Ban nhược chưởng pháp" ra coi. Khi đó lão tăng lại ngấm ngầm thở dài biết rằng cư sĩ đã mê man rồi, trong lòng không mở. Bần tăng liền đem bộ "Pháp hoa kinh" đặt vào chỗ mà vẫn lấy sách. Pho này gồm bốn mươi hai chương. Bần tăng chỉ mong cư sĩ mượn lấy nghiên cứu để tỉnh ngộ. Chẳng ngờ cư sĩ chỉ điên đảo thần hồn về võ công, còn về chính tông Phật pháp lại chẳng thèm rờ đến. Cư sĩ bỏ hai cuốn kinh sang một bên tìm được pho "Phục Ma trượng pháp" thì mừng cuống quít lấy đi. Hỡi ôi! Mê man chìm đắm vào trong bể khổ, chẳng biết ngày nào mới quay đầu lại?
Tiêu Viễn Sơn nghe nhà sư già thuật lại thì ra những hành vi lén lút của mình ba mươi năm trước trong Tàng kinh các chẳng sai chút nào. Lão trước còn ngạc nhiên sau đâm ra hoảng sợ, rồi từ chỗ hoảng sợ đi tới chỗ khủng khiếp. Sau lưng toát mồ hôi lạnh ngắt, trái tim cơ hồ ngừng đập.
Hồi Thứ 123
Nghe Thần Tăng, quần hùng khiếp vía
Nhà sư già từ từ quay đầu lại nhìn Mộ Dung Bác.
Mộ Dung Bác thấy mục quang nhà sư lờ đờ tựa hồ không nhìn rõ mọi vật, lại giống người trong tâm có ẩn tàng chi bí mật. Bất cứ việc gì cũng bị lão nhìn rõ hết, nên hắn không khỏi ớn da gà, trong lòng khắc khoải không yên.
Bỗng nghe nhà sư già buông tiếng thở dài nói:
- Mộ Dung cư sĩ, tuy thuộc về giòng họ Tiên Tỵ, song ký ngụ Giang Nam đã mấy đời. Lúc đầu lão tăng tưởng cư sĩ đã hấp thụ được văn thái phong lưu của Nam triều, ngờ đâu, cư sĩ lại mò vào Tàng kinh các, đem bao nhiêu những thuyết tinh vi về Tiên Tông cùng ngữ lục của các vị cao tăng truyền đời coi như đồ bỏ, lục lấy cuốn "Niêm Hoa chỉ pháp" mà tưởng chừng như vớ được đồ chi bảo. Người đời xưa đã "bán bò tậu ễnh ương" để tiếng cười cho muôn thuở. Thế mà chính hai vị cư sĩ đều là bậc cao nhân đương thời cũng còn có những hành động ngu Muội. Hỡi ôi! Những hành động ấy đã làm hại người mà cũng vô bổ cho mình.
Mộ Dung Bác lại một phen kinh hãi. Lão vào Tàng kinh các, buổi đầu quả nhiên đã lục lấy bộ "Niêm hoa chỉ công" và lúc ấy lão đã quan sát kỹ càng bốn mặt, cả trong ngoài không thấy bóng người, mà sao nhà sư già này nói như chính mắt mình trông thấỵ
Bỗng nghe nhà sư già nói tiếp:
- Mộ Dung cư sĩ so với Tiêu cư sĩ thì lòng tham lại có phần hơn. Tiêu cư sĩ chuyên nghiên cứu cách khắc chế võ công của phái Thiếu Lâm, còn Mộ Dung cư sĩ thì lại ôm tuột cả "bảy mươi hai tuyệt kỹ" của bản tự đem đi. Sau ba năm mới trở lại Tàng kinh các. Chắc năm ấy cư sĩ đã tận tâm kiệt lực nghiên cứu cho hiểu hết "bảy mươi hai môn tuyệt kỹ" để đem về truyền thụ cho lệnh lang.
Nhà sư nói tới đây thì quay sang nhìn Mộ Dung Phục. Nhưng vừa nhìn một cái đã lắc đầu. Lão ngó qua Cưu Ma Trí gật đầu nói:
- Phải rồi! Lệnh lang còn nhỏ tuổi chưa đủ công lực không thể nghiên cứu được bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm. Té ra đại cư sĩ muốn truyền cho một vị cao tăng nước Thổ Phồn, Đại luân Minh vương. Minh vương lầm rồi đó, cái lầm rất lớn, thành ra thứ tự đảo điên. Đại nạn sẽ xảy ra trong sớm tối.
Cưu Ma Trí chưa vào Tàng kinh các bao giờ mà nhà sư già lại tuyệt không tỏ vẻ kinh sợ, hắn hững hờ hỏi:
- Cái gì mà thứ tự đảo điên? Cái gì mà đại nạn sẽ xảy ra trong sớm tối? Lời nói của đại sư tựa hồ như sẩm dắt mù.
Nhà sư già nói:
- Không phải sẩm dắt mù đâu Minh vương ạ! Xin Minh vương trả lại pho "Dịch cân kinh" cho ta đi!
Bấy giờ Cưu Ma Trí cũng không khỏi kinh hãi tự hỏi:
- Mình đoạt pho "Dịch cân kinh" ở trong tay gã đầu sắt mà sao lão này cũng biết? Lão muốn đòi kinh mình ư? Đâu có dễ dàng thế được?
Hắn liền cãi biến:
- Pho "Dịch cân kinh" nào, đại sư nói vậy khiến cho tại hạ không sao hiểu được.
Nhà sư già nói:
- Võ công bản phái truyền lại từ Đạt Ma Tổ Sự Đệ tử nhà Phật học võ, mục đích là để cho thân thể cường kiện đặng bảo vệ Phật pháp, hàng phục ma quỷ. Bất luận là tu tập môn võ công nào, trong lòng đều phải có ý niệm từ bi nhân hậu. Nếu không lấy Phật học làm căn bản thì lúc luyện võ nhất định hại đến chính thân mình. Công phu luyện được sâu xa thì thân mình bị tổn thương càng trầm trọng. Nếu chỉ luyện về quyền đánh, chân đá, hoặc gươm đao, ám khí, những môn ngoại công thì chẳng nói làm chi, vì nó hại rất ít đến thân thể. Thân thể đã cường tráng là chống lại được ngay.
Nhà sư già chưa dứt lời, bỗng nghe dưới chân lầu có tiếng người huyên náo, tiếp theo là tiếng bước lên thang. Mấy tiếng bước nhẹ nhàng vừa thoáng qua đã thấy bảy, tám nhà sư tung mình lên gác. Đi đầu là mấy vị cao tăng hàng chữ "Huyền" trong phái Thiếu Lâm như Huyền Sinh, Huyền Bệnh, kế đến bọn Thần Quang thượng nhân, Đạo Thanh đại sư là mấy vị cao tăng từ ngoài đến. Sau nữa là Triết La Tinh, Ba La Tinh nước Thiên Trúc. Cuối cùng lại là mấy nhà sư hàng chữ "Huyền" như Huyền Châu, Huyền Tịch.
Các nhà sư thấy cha con Tiêu Viễn Sơn, cha con Mộ Dung Bác và Cưu Ma Trí cả bọn năm người đang ở trong gác lặng nghe một vị lão tăng lạ mặt hạ "Thuyết Từ" đều lấy làm kỳ dị. Những tăng nhân này đều là kẻ sĩ cao minh, dày công tu dưỡng. Họ không tiến vào quấy nhiễu, chỉ đứng một bên nghe xem nhà sư nói gì.
Nhà sư già thấy quần tăng lên, chẳng hỏi han gì, tiếp tục nói:
- Nếu luyện những môn võ công thượng thặng của bản phái như "Niêm hoa chỉ", "Ba La hiệp chỉ", "Ban Nhược chưởng" mà hàng ngày không lấy Phật pháp từ bi để điều hoà, hoá giải thì lệ khí thấm vào tạng phủ ngày càng nhiều, so với ngoại độc, bất cứ loại nào cũng còn tệ hại hơn nhiều. Đại Luân Minh vương nguyên là đệ tử nhà Phật, tinh thông Phật pháp. Kể về ký ức cũng như về minh kiến, tuy vào hạng quần thế vô song, nhưng nếu không chịu nghe giác ngộ, không lòng từ bi hỷ xả phổ độ người đời thì dù tinh thông điếm tịch đến đâu cũng không thể tiêu trừ được lệ khí do sự tụ tập võ công thượng thặng ngày một chồng chất mãi lên.
Quần tăng mới nghe nói mấy câu, đã biết vị lão tăng này rất là tinh nghĩa, trình bày rõ ràng những điều mà tiền nhân chưa từng nói đến, nên đều sinh lòng kính cẩn. Có mấy vị chắp tay niệm:
- A Di Đà Phật! Đức Phật từ bi!
Nhà sư già lại nói tiếp:
- Chùa Thiếu Lâm ta dựng nên đã hàng ngàn năm. Từ xưa tới nay, chỉ có mình Đạt Ma tổ sư là kiêm thông hết được bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Còn về sau thì chưa có một vị cao tăng nào tinh thông hết được là vì lẽ gì? Kinh điển bảy mươi hai môn tuyệt kỹ vẫn để trong gác này và không bao giờ ngăn cấm đệ tử lấy xem. Minh vương có biết tại sao không?
Cưu Ma Trí đáp:
- Đó là việc riêng của bản tự, người ngoài hiểu thế nào được?
Huyền Sinh, Huyền Bệnh, Huyền Chân, Huyền Tịch đều tự hỏi:
- Vị lão tăng này coi sắc phục chỉ vào hàng phụ trách tạp dịch mà sao lại có đạo hạnh cao siêu đến thế?
Nguyên những nhà sư chuyên việc phục dịch cũng là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nhưng không được bái sư để truyền thụ võ công, không được liệt vào hàng Huyền, Tuệ, Hư. Họ chẳng khác gì những kẻ làm thuê để thổi nấu xới đất, quét tước hay làm những việc thổ mộc v.v... Bọn Huyền Sinh đứng vào hàng cao tăng bậc nhất nên không biết tướng mạo nhà sư này chẳng có chi là lạ. Nhưng nghe nhà sư nghị luận cao nhã, kiến thức siêu việt thì không khỏi lấy làm kinh ngạc.
Nhà sư già lại nói tiếp:
- Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của bản tự, mỗi thứ đều có chỗ yếu hại của nó. Giết người một cách tàn nhẫn thì phạm đến Thiên hoà. Nên mỗi hạng tuyệt kỹ đều phải có Phật pháp từ bi hoá giải. Định lý này không phải các tăng lữ bản tự đều hiểu cả đâu. Nhưng mỗi người sau khi luyện được bốn năm môn tuyệt kỹ rồi lại lĩnh hội thêm về Thiền học và tự nhiên hiểu được đến nơi. Nên biết rằng, chủ ý của Phật học là để cứu nhân độ thế, mà võ công lại để sát sinh. Hai thứ đó trái ngược nhau mà song song rong ruổi là để kiềm chế nhau. Chỉ có Phật pháp càng cao siêu thì ý niệm từ bi ngày càng hưng thịnh mà những võ công tuyệt kỹ đó mới có thể luyện được nhiều. Nhưng các vị cao tăng dầy công tu dưỡng đến tột độ lại không muốn học nhiều về những môn pháp giết người cực kỳ lợi hại.
Đạo Thanh đại sư gật đầu nói:
- Được nghe sư phụ giảng giải một lần mà tiểu tăng cởi mở được bao chỗ bế tắc ngu Muội.
Nhà sư già chắp tay nói:
- Không dám! Lão tăng nói có chỗ nào sai trật mong rằng các vị chỉ giáo cho!
Quần tăng đều chắp tay nói:
- Xin sư phụ giảng thêm về Phật pháp cho!
Cưu Ma Trí cũng tựa án sách nghĩ thầm:
- Bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm bị Mộ Dung tiên sinh lấy cắp làm tiết lộ ra ngoài, để cho lão sư già này ở đây trá thần lộng quỷ là có ý hăm doạ người ngoài không dám luyện võ công của bọn họ. Hà hà! Cưu Ma Trí đâu có thể mắc bẫy dễ dàng thế được?
Nhà sư già lại nói:
- Trong bản tự dĩ nhiên có người không đủ về Phật học đã miễn cưỡng luyện võ công thượng thặng. Nhưng luyện vào nếu không bị bại hoại thân thể thì cũng bị nội thương khó lòng chữa khỏi. Trước đây Huyền Trừng đại sư đã có một tấm thân siêu phàm tuyệt tục. Các vị cao cấp vào hàng tiền bối đều cho đại sư là người có võ công đệ nhất của bản tự, trong vòng hai trăm năm nay. Thế mà chỉ trong một đêm đột nhiên cân mạch đều đứt hết đại sư biến thành phế nhân cũng chỉ vì lý do đó.
Huyền Sinh, Huyền Bệnh đột nhiên quỳ xuống nói:
- Đại sư! Đại sư có phép gì cứu được Huyền Trừng sư đệ chăng?
Nhà sư lắc đầu đáp:
- Chậm quá rồi, không thể cứu được nữa. Năm ấy Huyền Trừng đại sư vào Tàng kinh các để tìm sách luyện võ, lão tăng đã ba, bốn lần nhắc nhở người mà thuỷ chung chấp mê không tỉnh. Cân mạch đứt hết thì còn nối lại thế nào được?
Bỗng nghe ba tiếng véo, véo, véo khẽ vang lên. Những tiếng này không có gì khác lạ. Bọn Huyền Sinh đều biết đó là công phu vô tướng kiếp chỉ của bản môn, mọi người đều quay lại nhìn Cưu Ma Trí thì thấy hắn biến sắc, song hắn miễn cưỡng mỉm cười.
Nguyên Cưu Ma Trí càng nghe càng không chịu phục. Hắn nghĩ thầm:
- Ngươi bảo bảy mươi hai môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm không ai học được cả. Thế mà ta học đủ rồi thì sao? Ta lại chẳng thấy gân mạch bị đứt để trở thành phế nhân chi hết.
Lão thủ hai tay vào trong áo rồi ngấm ngầm phóng chiêu "Vô tướng kiếp chỉ" thần không hay, quỷ không biết, bắn vào lão tăng. Ngờ đâu, độc chỉ còn cách ba thước mới đến trước người lão tăng đã gặp phải một lớp bình phong vô hình mềm nhũn mà rất dai ngăn trở.
"Véo" một tiếng. Chỉ lực đã tiêu tan không còn thấy tăm tích đâu nữa, chứ không quật ngược trở lại. Cưu Ma Trí giật mình kinh hãi nghĩ thầm:
- Nhà sư già này quả nhiên có phép thần thông chứ không phải nói khoác doạ người.
Nhà sư già thản nhiên như không có gì, mắt nhìn hai nhà sư Thiếu Lâm nói:
- Xin hai vị đứng lên. Lão tăng ở chùa Thiếu Lâm để các vị đại sư sai khiến, mà hai vị thi hành đại lễ thì khi nào lão tăng dám tiếp thụ.
Huyền Sinh, Huyền Bệnh thấy có một luồng lực đạo nhu hoà đẩy nhẹ vào cánh tay, người không tự chủ được phải đứng lên.
Không ai nhìn thấy nhà sư già giơ tay ra hoặc phất tay áo nên đều lấy làm kinh dị tự hỏi:
- Vị lão tăng này ngấm ngầm vận thần công, nghĩ tới đâu là cường lực tự nhiên tới đó. Phải chăng người là Bồ Tát hoá thân? Nếu không thì cũng thần thông quảng đại, Phật pháp vô biên?
Nhà sư già lại nói:
- Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của bản tự đều chia ra làm hai loại "Thể" và " Dụng". Thể tức là nội lực trong người. Dụng là vận dụng các môn côn, kiếm, quyền, cước v.v. Hai vị cư sĩ cùng Đại luân Minh vương và Ba La Tinh sư huynh bên Thiên Trúc có đủ nội lực vào hàng thượng thặng mà đến bản tự nghiên cứu toàn về phép vận dụng những tuyệt kỹ đó, tuy có tổn hại nhưng trong thời gian ngắn cảm thấy. Phải chăng Minh vương đã luyện môn "Tiểu vô tướng công" của phái Tiêu Dao?
Cưu Ma Trí càng kinh hãi hơn vì hắn đã học lỏm môn "Tiểu vô tướng công" của phái Tiêu Dao không một ai hay mà sao nhà sư này lại nhận ra ngay.
Nhưng hắn lại nghĩ rằng:
- Vừa rồi Hư Trúc đấu với mình đã sử dụng môn "Tiểu vô tướng công". Vậy chắc Hư Trúc đã bảo cho lão biết. Cái đó chẳng có chi là lạ.
Cưu Ma Trí nghĩ vậy liền nói:
- "Tiểu vô tướng công" tuy nguồn gốc ở đại gia, nhưng gần đây đệ tử nhà Phật rất nhiều người luyện. Lúc biểu diễn, người ta đã tập hợp những môn sở trường của Đạo gia và Phật gia. Ngay trong quý tự đây cũng chẳng thiếu gì những tay cao thủ về môn này.
Nhà sư già hơi lộ vẻ kinh dị hỏi:
- Trong chùa Thiếu Lâm cũng có người biết "Tiểu vô tướng công" ư? Bữa nay lão tăng mới được nghe là lần đầu.
Cưu Ma Trí lẩm bẩm:
- Lão này khéo giả vờ thiệt!
Hắn tủm tỉm cười rồi không nói nữa. Nhà sư già lại nói:
- "Tiểu vô tướng công" thật là rộng lớn tinh vi. Ai đã có căn cơ về môn này đều có thể vận dụng được bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của bản tự. Nhưng nhiều chỗ khúc chiết, tế nhị không khỏi có trở ngại, nhiều môn coi bề ngoài trông rất đúng, mà thiệt ra thì không phải.
Huyền Sinh quay lại bảo Cưu Ma Trí:
- Minh vương tự xưng là thông suốt hết bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của bản phái, té ra chỉ kiêm thông bằng cách đó.
Huyền Sinh nói câu này có ý để châm chọc Cưu Ma Trí. Nhà sư già lại nói:
- Nếu Minh vương chỉ học phép vận dụng bảy mươi hai môn tuyệt kỹ thì thế nào cũng bị nội thương. Tuy có hại lớn nhưng cũng không đến nỗi mất mạng ngay được. Có điều hiện giờ huyệt "Thừa Khấp" của Minh vương đã ửng đỏ mà trên "Hương Huyệt" đã ẩn hiện màu tím. Huyệt "Mi Xung" cũng bị chấn động chứng tỏ Minh vương sau khi luyện bảy mươi hai môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm lại gắng gượng đi luyện pho bí lục "Dịch cân kinh" của bản tự...
Nhà sư già nói tới đây, đột nhiên dừng lại đôi mắt lộ ra vẻ thương tiếc.
Cưu Ma Trí sực nhớ tới nửa năm trước đây đã lấy được pho "Dịch cân kinh" của gã đầu sắt. Hắn biết rằng: đó là một thiên võ học chi bảo rồi tìm nơi tĩnh mịch khổ luyện. Nhưng luyện đi luyện lại mà thủy chung vẫn không tiến được chút nào.
Hắn nghĩ rằng:
- Đây đã là môn võ công thượng thặng thì không thể luyện trong một sớm một chiều mà thành công được. Nên tuy không tiến bộ mà hắn vẫn kiên trì luyện tập, không hề trễ nải. Hắn nhớ lại Mộ Dung Bác đã từng khen "Dịch cân kinh" của phái Thiếu Lâm và Lục mạch thần kiếm của Thiên Long đứng ngang hàng với nhau và đều là hai pho bí lục quý báu nhất trần gian thì dĩ nhiên không thể nào luyện tập trong một thời gian ngắn mà thành công, phải luyện đến mười năm mới có thể tinh thông và lãnh hội được những điều ảo diệu cao thâm.
Nhưng Cưu Ma Trí càng luyện, về sau càng cảm thấy trong lòng phiền muộn và tính tình nóng nảy. Thế là một mớ chỉ rối không đầu, chẳng biết đâu mà gỡ.
Hắn tự hỏi:
- Chẳng lẽ nhà sư này nói đúng sự thực như lời: "thứ tự đảo điên đại nạn sẽ xảy đến trong sớm tối" chăng?
Nhưng rồi hắn nghĩ lại:
- Tu luyện võ công không thành rồi sinh ra bại lực trở thành phế nhân cũng là chuyện thường.
Nhưng Cưu Ma Trí này tinh thông võ lực đến chỗ vi diệu, đâu có phải như người tầm thường? Miệng lưỡi lão này nói trơn như nước chảy, nếu mình trúng kế lão thì một lời mình lừng lẫy tiếng tăm, tất phải trôi theo dòng nước.
Nhà sư già giương cặp mắt chăm chú nhìn Cưu Ma Trí, thấy hắn lộ vẻ lo buồn, nhưng thái độ tự phụ của hắn tỏ ra không thèm để vào tai những lời nói của nhà sư.
Nhà sư già bất giác thở dài nhìn Tiêu Viễn Sơn nói:
- Tiêu cư sĩ! Gần đây cư sĩ có thấy hai huyệt đạo "Lương Môn" và "Đạt ất" ngâm ngẩm đau không?
Tiêu Viễn Sơn toàn thân run bắn lên đáp:
- Minh kiến của thần tăng thiệt không sai chút nào.
Nhà sư già lại hỏi:
- Trên huyệt "Quan Nguyên" của cư sĩ tê dại, hiện nay thế nào?
Tiêu Viễn Sơn càng kinh hãi đáp:
- Mười năm trước đây, chỗ đó chai lại bằng đầu ngón tay mà bây giờ... lớn bằng miệng chén uống trà.
Lão nói tới đây thanh âm run lên.
Tiêu Phong nghe nói, biết phụ thân mình có ba chỗ yếu huyệt lâm vào trạng thái kỳ dị, chỉ vì miễn cưỡng luyện tập những tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm mà ra. Theo lời phụ thân ông thì trạng thái này đã làm phiền cho lão lâu năm nay mà thuỷ chung không có cách nào trừ được. Thật là một mối lo tâm phúc. Ông lo thay cho phụ thân, liền tiến ra hai bước quỳ xuống sụp lạy nhà sư già nói:
- Thần tăng đã biết căn bịnh của gia phụ. Xin đại sư mở lòng từ bi giải cứu cho!
Nhà sư già nói:
- Xin cư sĩ đứng lên. Cư sĩ giàu lòng nhân đạo, thương đến đám lê dân trong thiên hạ, không chịu vì thù riêng mà đẩy quân dân Tống, Liêu vào bước lầm than. Cư sĩ đại nhân, đại nghĩa như vậy thì bất luận có sai bảo điều gì, lão tăng cũng nhất nhất tuân theo. Hà tất phải đa lễ?
Tiêu Phong cả mừng, dập đầu lạy hai lần nữa rồi mới đứng lên.
*
Mộ Dung Bác đột nhiên nghe nhà sư già nói ra các căn bệnh của mình chẳng khác gì sét nổ giữa lúc trời quang mây tạnh. Lão kinh hãi vô cùng! Thực ra lão là một kẻ võ công cao cường thì bên tai có nghe sét nổ lão cũng tuyệt không giật mình kinh hãi. Dù sét có nổ luôn mười tiếng, lão cũng chỉ cho là trời hắt hơi, chẳng cần để ý. Thế mà mấy câu lạt lẽo bình thường của nhà sư già đã khiến cho lão kinh hồn bở vía.
Mộ Dung Bác run lên hai cái thì đột nhiên cảm thấy ba huyệt đạo Dương Bạch, Liêm Truyền và Phong Phủ lại nổi lên bệnh kim châm. Những trận đau đớn kịch liệt bắt đầu phát tác. Nguyên lúc này không phải là lúc lên cơn thường lệ như mọi khi, nhưng vì tinh thần chấn động mà cơn đau lại nổi lên, những đốt xương trong người lão vang lên rắc rắc tựa hồ như bị ai đánh đập vào.
Mộ Dung Bác là một nhân vật lừng lẫy tiếng tăm, có lý đâu lại van nài nhà sư già để thỉnh giáo. Lão nghiến răng để cố nhịn cơn đau. Nhưng hàm lão không cắn chặt lại thì răng đã chạm vào nhau phát lên tiếng run cầm cập. Người lão cực kỳ hoang mang. Mộ Dung Phục vốn biết phụ thân gã có tính cương cường hiếu thắng. Ai giết lão thì được, chứ bắt lão khuất phục trước mặt mọi người thì không bao giờ lão chịu cả.
Mộ Dung Phục nghĩ một lúc rồi chắp tay nói với cha con Tiêu Phong:
- Non xanh trơ đó, nước biếc còn đây. Bữa nay xin hãy tạm biệt. Hai vị muốn tìm cha con tại hạ để báo thù thì xin mời đến Tham Hợp trang, trong khu vực Yến Tử ổ ở Cô Tô Cha con tại hạ xin sẵn sàng nghênh tiếp đại giá.
Đoạn y nắm lấy tay phải Mộ Dung Bác dắt đi nói:
- Gia gia! Chúng ta đi thôi!
Nhà sư già hỏi:
- Sao thí chủ lại nhẫn tâm như vậy? Thí chủ để lệnh tôn chịu cái đau đớn như người đẽo xương cắt gân ư?
Mộ Dung Phục sắc mặt lợt lạt, dắt tay Mộ Dung Bác rảo bước đi ra. Tiêu Phong quát lên:
- Ngươi tưởng chạy ư? Trong thiên hạ sao lại có việc dễ dàng thế được? Phụ thân ngươi bệnh đang lên cơn. Bậc đại trượng phu không khi nào nhân lúc người ta gặp nguy nan mà hạ thủ đâu! Ngươi không có bệnh nên không hiểu cái đau đớn của người khác được.
Mộ Dung Phục khí giận nổi lên cũng quát to:
- Ta muốn tiếp mấy cao chiêu nữa của Tiêu huynh.
Tiêu Phong không nói gì nữa, phóng chiêu "Kiến Long tại điền" trong phép "Hàng Long thập bát chưởng" đánh tới Mộ Dung Phục.
Hồi Thứ 124
Một cách chữa thương rất ly kỳ
Tiêu Phong thấy Tàng kinh các địa thế chật hẹp, lại đông cao thủ không tiện đánh nhau. Ông liền vận đến mười thành công lực muốn chỉ trong vài chưởng là hạ sát địch nhân ngay. Mộ Dung Phục thấy chưởng lực đối phương cực kỳ hung mãnh liền vận hết sức bình sinh phóng cả song chưởng ra đón đỡ.
Nhà sư già chắp tay để trước ngực cất tiếng niệm:
- A di đà Phật! Cửa Phật là nơi đất lành. Hai vị cư sĩ không nên vọng động mà mạo phạm đến đức Bồ Tát.
Lạ thay! Nhà sư chỉ chắp hai bàn tay mà tựa hồ như có một luồng kình lực biến thành bức tường vô hình không thể lay chuyển được để ngăn cản đôi bên. Hai người phóng ra những chưởng lực thế dường nghiêng non dốc biển mà chạm phải bức tường vô hình ấy lập tức mất tiêu chẳng thấy tăm hơi gì nữa.
Tiêu Phong trong lòng kinh ngạc vì chưa bao giờ gặp phải tay địch thủ hơn mình, ông nghĩ thầm: Chiêu thức của Hư Trúc nhị đệ rất kỳ dị, cùng kiếm pháp của Đoàn Dự tam đệ tinh diệu vô biên mà so công lực của mình cũng hãy còn kém. Thế mà hiện giờ một vị lão tăng vẻ mặt hiền từ lại có công lực hiển nhiên cao cường gấp mấy mình, nhà sư này đã ra tay ngăn trở thì bữa nay quyết nhiên không thể trả thù được.
Tiêu Phong vốn người hiếu hạnh, ông nghĩ đến nội thương của phụ thân liền khom lưng nói:
- Tại hạ là kẻ thất phu ở đất Man hoang, không biết lễ nghi, đã mạo phạm đến thần tăng. Xin thần tăng tha tội cho.
Nhà sư tủm tỉm cười nói:
- Thí chủ dạy quá lời. Lão tăng đối với Tiêu cư sĩ một lòng kính cẩn. Bản sắc đại anh hùng của cư sĩ thiệt không hổ thẹn.
Tiêu Phong nói:
- Sở dĩ gia phụ phạm tội giết người đều do tại hạ gây ra. Tại hạ khẩn cầu thần tăng trị nội thương cho gia phụ. Bao nhiêu tội nghiệt, tại hạ cam tâm thọ lãnh. Dù muôn thác cũng không từ chối.
Nhà sư già tủm tỉm cười nói:
- Lão tăng đã bảo muốn hoá giải nội thương cho Tiêu lão cư sĩ thì phải tìm đường trong Phật pháp. Phật ở trong lòng mà ra. Phật là giác ngộ. Người ngoài chỉ có thể chỉ điểm chớ không có thể làm thay được. Lão tăng hỏi Tiêu cư sĩ một lời: Giả tỷ cư sĩ biết cách trị thương liệu cư sĩ có chịu chữa cho Mộ Dung lão cư sĩ không?
Tiêu Phong sửng sốt ngập ngừng hỏi lại:
- Tại hạ... trị thương cho Mộ Dung lão thất phu ư?
Mộ Dung Phục quát lên:
- Ngươi liệu mà từ từ lỗ miệng.
Tiêu Viễn Sơn nghiến răng quát mắng:
- Mộ Dung lão thất phu giết ái thê của ta, làm hại một đời ta. Ta hận mình chưa băm vằm hắn ra được.
Nhà sư già nói:
- Tiêu lão cư sĩ chưa được nhìn thấy Mộ dung lão cư sĩ chết bất đắc kỳ tử thì không thể được tiêu mối hận trong lòng ư?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Chính thế! Lão phu ẩn trong chùa Thiếu Lâm ba mươi năm chính là để báo mối đại thù này.
Nhà sư già gật đầu nói:
- Việc đó cũng dễ thôi.
Đoạn nhà sư bước lên từ từ bước tới, vung chưởng ra đánh vào đỉnh đầu Mộ Bác. Lúc đầu, Mộ Dung Bác thấy nhà sư đứng lên, lão không để ý. Đến khi lão thấy nhà sư vung chưởng đánh vào đầu mình, vội vàng vung tay trái lên chống lại. Nhưng lão sợ võ công đối phương ghê gớm quá, lão vung tay lên rồi, đồng thời người nhảy lùi lại phía sau.
Mộ Dung Bác đã là dòng Mộ Dung ở Cô Tô, nên bản lãnh lão không phải là tầm thường. Hơn nữa, sau khi luyện tập những môn tuyệt kỹ Thiếu Lâm khác nào như hổ thêm cánh. Lão vung tay lên và nhảy lùi lại, tuy trông có vẻ bình thường chẳng lấy chi làm kỳ dị, nhưng chưởng này có thể ngăn trở được hết mọi thế tấn công của người khắp thiên hạ. Động tác lạng người, lùi lại có một thủ thế cực kỳ nghiêm mật, bất luận hạng nào trên thế gian truy tập cũng không làm gì được.
Mọi người trong Tàng kinh các hết thảy là những tay cao thủ về võ học, thấy Mộ Dung Bác ra hai chiêu này đều ngấm ngầm thán phục. Cả cha con Tiêu Viễn Sơn cũng không khỏi trầm trồ khen ngợi. Dè đâu phát chưởng của nhà sư già nhẹ nhàng đập xuống "chát" một tiếng đánh trúng vào huyệt "Bách Hội" giữa đỉnh đầu Mộ Dung Bác. Mộ Dung Bác vừa chống đỡ, vừa thối lui vẫn chẳng ăn thua gì.
Huyệt Bách Hội là một đại huyệt khẩn yếu trong người. Dù kẻ không hiểu võ công mà đập trúng vào cũng khiến cho người bị đánh phải mất mạng hay bị trọng thương. Nhà sư già đã vận nội lực để phóng chưởng đánh tới, Mộ Dung Bác chỉ run người lên một cái rồi tắt thở ngay, thân hình y ngã ngửa về phía sau.
Mộ Dung Phục cả kinh vội nâng cha lên gọi rối rít:
- Gia gia! Gia gia!
Nhưng y thấy phụ thân miệng đã cắn chặt và mắt nhắm lại, mũi không còn hơi thở nữa. Y vội đưa tay lên sờ ngực thì trái tim cũng ngừng đập rồi. Mộ Dung Phục vừa đau thương vừa phẫn nộ. Y không ngờ nhà sư già này miệng nói toàn Phật pháp từ bi mà tự nhiên hạ độc thủ giết người.
Y la lên:
- Thằng trọc này!... Ngươi...
Y để tựa thi thể phụ thân vào một cây cột rồi tung mình nhảy lại, vung song chưởng ra đánh nhà sư già. Nhà sư già lờ đi như không thấy gì.
Song chưởng của Mộ Dung Phục đánh đến trước nhà sư già còn cách hai thước thì đột nhiên vấp phải bức tường khí vô hình, khác nào đập vào tấm lưới cá. Chưởng lực y tuy mãnh liệt, nhưng không phát huy được, lại bị bức tường kình lực đẩy ngược lại bắn đi xa hơn trượng va vào giá sách. Vì thế tiến của y mãnh liệt quá nên sức văng ngược lại cũng mau lẹ phi thường. Lạ hơn nữa, chưởng lực của y bị bức tường vô hình kia hoá giải hết rồi y bị nhẹ nhàng đẩy ra. Vì thế mà lưng y tuy đập vào giá sách, giá sách vẫn không đổ. Cả những kinh sách để trên giá cũng không rơi xuống một quyển nào.
Mộ Dung Phục tinh thần rất cơ biến. Tuy gã xót thương phụ thân bị đả tử, nhưng biết võ công nhà sư già còn cao hơn mình gấp trăm lần, dù có tức điên lên mà chiến đấu rút cục cũng chẳng làm gì được đối phương. Nghĩ vậy, Mộ Dung Phục liền đứng dựa vào giá sách giả vờ ho rũ đi, nhưng trong bụng y nghĩ lung lắm. Y chờ cơ hội đối phương không kịp đề phòng sẽ tập kích đột ngột.
Nhà sư già quay lại nhìn Tiêu Viễn Sơn lạnh lùng hỏi:
- Tiêu lão cư sĩ đã muốn chính mắt trông thấy Mộ Dung lão cư sĩ chết để hả mối thù hận chứa chất trong lòng bấy lâu nay. Bây giờ Mộ Dung lão cư sĩ chết rồi, Tiêu lão cư sĩ đã nguôi giận chưa?
Tiêu Viễn Sơn thấy nhà sư già phóng chưởng đánh chết Mộ Dung Bác đã kinh ngạc vô cùng lại nghe nhà sư hỏi vậy thì trong lòng không khỏi bâng khuâng, miệng há hốc ra, lưỡi co rúm lại không biết nói sao. Trong ba mươi năm trời nay, Tiêu Viễn Sơn tìm trăm phương, nghìn kế để báo mối thù giết vợ, cướp con. Cách đây hơn một năm, lão mới xuất hiện. Sau khi điều tra được vụ thảm án ngoài ải Nhạn Môn qua, lão đã liên tiếp đánh chết từng người một, những tay hào kiệt Trung Nguyên có dính líu đến vụ thảm án đó. Ngoài ra Huyền Khổ đại sư cùng vợ chồng Kiều Tam Hoè cũng bị chết về tay lão lại biết cả thủ lãnh đại ca cầm đầu vụ gây hấn Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm. Lão lại vén cả bức màn bí mật về mối gian tình giữa Huyền Từ và Diệp Nhị Nương trước quần hùng thiên hạ. Như vậy mối hận lòng của lão đã trả đũa một cách cay độc là khiến cho Huyền Từ thân danh tan nát rồi phải tự sát. Nhưng cái chết của Huyền Từ thiệt là quang minh lỗi lạc, không mất phong độ của bực anh hùng khí khái.
Tiêu Viễn Sơn trong thâm tâm cũng có điều hối hận là hành động của mình đã quá tàn nhẫn. Cái chết của Diệp Nhị Nương cũng làm cho lão áy náy trong lòng. Sau Tiêu Viễn Sơn lại khám phá ra vụ Mộ Dung Bác phao tin thất thiệt để gây nên vụ thảm biến ngoài ải Nhạn Môn quan, Mộ Dung Bác lại chính là nhà sư áo trắng người cùng ẩn núp trong chùa Thiếu Lâm với mình, đã cùng mình giao thủ ba phen mà không phân thắng bại.
Tiêu Viễn Sơn đem lòng căm hận Mộ Dung Bác đến cực điểm, căm hận những muốn xé thịt lột da, rút từng rẻ xương. Ngờ đâu nhà sư già vô danh đã phóng chưởng đánh chết kẻ thù của mình một cách quá dễ dàng! Biến diễn đột ngột này khiến cho lão rất đỗi bâng khuâng, tâm thần bàng hoàng, tưởng chừng như dưới thế gian không còn chỗ để cho mình đứng.
Từ thuở nhỏ, Tiêu Viễn Sơn đã hào khí ngất trời luyện cho có một bản lãnh xuất thần nhập hoá: Lão chuyên tâm trí đem sức mình ra giúp được đặng lập công danh và để trở thành một nhân vật được nêu tên trong sử sách. Lão cùng bà vợ cư xử với nhau rất tương thân tương ái. Sau ngày thành hôn chẳng bao lâu thì sinh hạ quý tử. Lão đang sung sướng hy vọng tràn trề thì bỗng nhiên xảy ra tấn thảm kịch đau đớn nhất thế gian là chết vợ, mất con ngoài ải Nhạn Môn quan. Lão lao xuống vực thẳm không chết, rồi từ đó, lão hoàn toàn biến thành con người khác, coi công danh sự nghiệp, danh vọng tiền tài như đất bùn. Ngày đêm lão nghĩ đến việc làm sao cầm gươm đâm suốt ngực cừu nhân cho hả giận.
Tiêu Viễn Sơn vốn là người hào sảng chất phác, nóng nảy, chứ không có tâm địa hiểm sâu. Nhưng mối hận thù đã làm cho lão biến tính ngày càng tàn nhẫn. Lão ẩn nấp trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm trời, ban ngày lén lút trong chỗ kín, chỉ ban đêm mới ló ra để nghiên tập võ công. Quanh năm chẳng nói với ai nửa lời, tính tình lão dần dần biến đổi.
Sau đó, kẻ đại thù mấy chục năm trời nay liên tiếp chết về tay lão. Theo lẽ ra thì Tiêu Viễn Sơn sung sướng lắm mới phải. Thế mà trong lòng lão lại cảm thấy một nỗi tịch mịch thê lương khôn tả, vì trên đời đối với lão không còn có việc gì để mà lão đứng tựa thấy vẻ mặt kẻ thù vẫn hoà bình, trên môi còn đọng một nụ cười, tưởng chừng như sau khi chết đi y lại vui thú hơn là lúc còn sống.
Tiêu Viễn Sơn thấy thế trong lòng lại ngấm ngầm khen cho y tốt phước. Khi người ta đã chết rồi thì bao nhiêu nợ nần, thù oán đều phủi sạch. Trong thời gian khoảnh khắc này Tiêu Viễn Sơn tính lại thì bao nhiêu kẻ thù đều chết hết, mối thù của mình hoàn toàn đã trả xong.
- Bây giờ ta biết đi đâu? Về Đại Liêu hay ra ngoài ải Nhạn Môn ẩn cử Hay dắt Phong nhi ra góc bể chân trời, tứ hải phiêu lưu?
Nhưng lão tính cách nào cũng thấy hoàn toàn vô vị. Bỗng nhà sư già cất tiếng hỏi:
- Tiêu lão cư sĩ, bây giờ lão cư sĩ muốn đi đâu xin cứ việc tuỳ tiện.
Tiêu Viễn Sơn lắc đầu đáp:
- Lão phụ.. Lão phu biết đi đâu bây giờ? Lão phu chẳng còn có chỗ nào để đi nữa!
Nhà sư già hỏi:
- Bây giờ Mộ Dung lão cư sĩ đã bị lão tăng đánh chết rồi. Phải chăng trong lòng Tiêu lão cư sĩ còn có điều hối tiếc là không phải chính tay mình hạ sát kẻ thù?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Không phải thế. Dù thần tăng chẳng đánh chết y thì lão phu cũng chẳng muốn đánh chết y làm chi nữa.
Nhà sư già gật đầu nói:
- Đúng thế! Nhưng Mộ Dung thiếu hiệp kia vì đau xót phụ thân bị đánh chết còn muốn báo thù lão tăng và Tiêu lão cư sĩ thì biết làm thế nào?
Tiêu Viễn Sơn trong lòng chán nản đáp:
- Thần tăng đã vì lão phu mà ra tay. Nếu Mộ Dung thiếu hiệp muốn báo thù cho phụ thân thì cứ lại đây mà giết lão phu đi là xong.
Đột nhiên lão buông tiếng thở dài nói tiếp:
- Mộ Dung thiếu hiệp có giết ta cũng là phải. Phong nhi! Ngươi trở về Đại Liêu đi! Mọi việc của chúng ta đều xong hết, và quãng đường đi của chúng ta đến đây là tới nơi rồi.
Tiêu Phong la lên:
- Gia gia...
Nhà sư già lại lên tiếng:
- Nếu Mộ Dung thiếu hiệp hạ sát Tiêu lão cư sĩ thì tất lệnh lang lại giết Mộ Dung thiếu hiệp để báo thù cho phụ thân. Như vậy oán thù trong vòng lẩn quẩn mãi biết bao giờ cho xong. Chi bằng bao nhiêu tội nghiệt trong thiên hạ trút lên đầu lão tăng hết là xong?
Nhà sư nói xong tiến ra một bước đánh vào đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Phong thấy vậy giật mình kinh hãi, vết xe trước hãy còn nguyên đó. Ông biết rằng nhà sư già này chỉ phóng một chưởng là đánh chết được Mộ Dung Bác thì chưởng này phóng ra cũng hạ sát phụ thân mình một cách dễ dàng.
Ông liền hốt hoảng la lên:
- Dừng tay!
Đồng thời phóng cả song chưởng ra chiêu "Kháng long hữu bối" đánh mạnh vào trước ngực nhà sư già.
Nguyên Tiêu Phong đối với vị thần tăng này vẫn một lòng kính ngưỡng, nhưng lúc này vì ông nóng nảy cứu viện phụ thân, chỉ còn cách vung chưởng ra để đánh lại. Thế chưởng này vô cùng mãnh liệt. Vật gì kiên cố đến đâu cũng phải tan vỡ, hay người xương đồng, da sắt cũng khó lòng toàn mạng.
Nhà sư già đưa chưởng bên trái ra để đỡ gạt song chưởng của Tiêu Phong. Đồng thời tay phải tiếp tục giáng xuống đỉnh đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Viễn Sơn chưa kịp nghĩ đến chuyện kháng cự thì thấy tay phải lão tăng đang đánh xuống huyệt "Bách Hội" trên đỉnh đầu mình. Đột nhiên nhà sư lại quát lên một tiếng rồi đổi hướng tay, tay phải đánh lại Tiêu Phong, song chưởng của Tiêu Phong đang chống với chưởng của nhà sư thì đột nhiên hữu chưởng của nhà sư lại tập kích tới nơi ông liền rụt tay trái về ra chiêu "Kiến long tại điền" để chống đỡ, đồng thời la lên:
- Gia gia! Chạy cho mau!
Không ngờ, hữu chưởng của nhà sư chỉ biến chiêu nửa vời và đó là một hư chiêu để cho chưởng lực của Tiêu Phong phải giảm bớt đi một nửa lực đạo để quay về tự hộ vệ mình. Tiêu Phong vừa rụt tay trái về thì tay phải nhà sư lại lập tức chuyển hướng đánh bốp một tiếng trúng vào đỉnh đầu Tiêu Viễn Sơn. Giữa lúc ấy hữu chưởng của Tiêu Phong cũng đánh tới binh một tiếng đập trúng trước ngực nhà sư. Tiếp theo là những tiếng kêu lắc rắc tưởng như xương cốt vị sư già bị gãy nát.
Nhà sư già tủm tỉm cười nói:
- Bản lãnh của Tiêu cư sĩ thiệt là ghê gớm!
"Hàng Long thập bát chưởng" quả nhiên đứng vào bậc nhất trong thiên hạ. Nhà sư chưa dứt lời thì máu tươi trong miệng đã phun ra có vòi. Tiêu Phong đứng thộn mặt ra! Ông lại nâng người phụ thân dậy thì thấy lão đã tắt hơi thở rồi, trái tim cũng ngừng đập. Thế là Tiêu Viễn Sơn cũng bị chết về tay nhà sư già.
Bỗng dưới chân lầu có tiếng người hỏi:
- Chẳng lẽ họ ở trong Tàng kinh các chăng?
Rồi mấy người chạy mau tới nơi. Nhà sư già nói:
- Cần kíp đến nơi rồi! Ta chạy đi thôi.
Nhà sư đưa cả hai tay ra, tay phải nắm lấy cổ áo Tiêu Viễn Sơn, tay trái nắm lấy cổ áo Mộ Dung Bác rồi phóng cước bộ đi rất mau tựa hồ như chân không chấm đất. Nhà sư khoa chân bước ra.
Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục la lên:
- Đại sư.. đại sư làm gì thế?
Đồng thời phóng chưởng lực ra đánh vào sau lưng nhà sư. Vừa rồi Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục đứng vào thế cừu thù không đội trời chung. Nhưng bây giờ phụ thân hai người bị hại cả rồi, nên hai người lại coi nhà sư là kẻ thù chung nên hợp lực đuổi theo. Chưởng lực của hai người hợp lại mãnh liệt vô cùng, kình lực phát ra làm rung chuyển Tàng kinh các.
Nhà sư già người nhẹ như chiếc diều giấy, luồng chưởng phong của hai người đẩy xô về phía trước mấy trượng. Nhà sư hai tay vẫn nắm hai xác chết rồi cả ba người lơ lửng chân không chấm đất, bay vọt đi, tưởng chừng không phải là tấm thân bằng thịt, bằng xương. Tiêu Phong tung mình nhảy qua cửa sổ rượt theo, thấy nhà sư già hai tay cầm hai xác chết chạy thẳng lên núi.
Tiêu Phong gia tăng cước bộ tưởng chừng chỉ chạy thêm vài bước nữa là đuổi đến sau lưng nhà sư. Không ngờ khinh công của nhà sư rất là kỳ dị, tựa hồ như người có tà thuật. Tiêu Phong ra sức chạy, tiếng gió vù vù sắc như dao. Ông tự biết mình chạy cực nhanh mà thuỷ chung vẫn còn cách nhà sư già đến hai ba trượng. Ông phóng chưởng ra liên tiếp mà đều đánh vào quãng không.
Nhà sư già mỗi lúc một vượt lên cao. Lão chạy quanh quẩn trong khu rừng hoang. Đến một khu rừng khá bằng phẳng và rộng rãi, đột nhiên, lão đặt hai xác chết xuống gốc cây trông như người ngồi xếp bằng. Còn nhà sư tự mình ngồi phía sau đưa hai bàn tay ra đỡ lưng hai xác chết. Nhà sư vừa ngồi yên thì Tiêu Phong đuổi đến nơi.
Tiêu Phong tuy tính tình hào sảng mà xử sự rất tinh tế. Ông thấy nhà sư có cử chỉ khác lạ liền không động thủ nữa.
Bỗng nghe nhà sư nói:
- Lão tăng cắp hai vị chạy một lúc thành ra mạch máu lại lưu thông.
Tiêu Phong dường như không tin ở tai mình. Người đã chết khi nào mạch máu còn lưu thông trở lại được.
Hồi Thứ 125
Đoàn công tử tái hội Chung Linh
Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục đều thấy phụ thân mình mở mắt mỉm cười thì nỗi mừng biết lấy chi cân. Bỗng Tiêu Viễn Sơn cùng Mộ Dung Bác hai người khoác tay nhau đến quỳ trước mặt nhà sư già.
Nhà sư già hỏi:
- Hai vị sống rồi lại chết, chết rồi lại sống, chạy quanh một vòng. Trong lòng có điều gì ân hận nữa không? Sau cái chết vừa qua các vị còn nghĩ đến chuyện trùng hưng Đại Yên hay báo phục thê cừu nữa không?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đệ tử giả làm hoà thượng đến chùa Thiếu Lâm trong ba mươi năm nhưng trong tâm chưa có chút nào giác ngộ đáng gọi là đệ tử nhà Phật. Vậy đệ tử khẩn cầu sư phụ thu nạp cho.
Nhà sư già hỏi:
- Thế còn mối thù giết vợ, lão cư sĩ không muốn báo phục nữa ư?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đệ tử bình sinh giết người có đến hàng trăm. Giả tỷ bọn thân thuộc những người bị hạ sát cũng đến đòi mạng thì dù đệ tử có chết đến cả trăm lần cũng chưa đủ trả nợ.
Nhà sư già lại quay sang Mộ Dung Bác:
- Còn Mộ Dung lão cư sĩ nghĩ sao?
Mộ Dung Bác đáp:
- Kẻ thứ dân là cát bụi, bậc đế vương cũng là cát bụi, nước Đại Yên khôi phục cũng thành không mà chẳng khôi phục được cũng là không.
Nhà sư già cười ha hả nói:
- Thế là lão cư sĩ giác ngộ rồi đó. Thiện tai! Thiện tai!
Mộ Dung Bác nói:
- Lão phu cũng thỉnh cầu sư phụ thu làm đệ tử khai thông những điểm ngu muội.
Nhà sư già đáp:
- Hai vị thí chủ đã muốn xuất gia làm sư thì yêu cầu một vị đại sư trong chùa Thiếu Lâm xuống tóc độ cho. Lão tăng có mấy câu kệ đọc ra cho các vị nghe tưởng cũng không hề gì.
Đoạn nhà sư ngồi xếp bằng thuyết pháp. Tiêu Phong cùng Mộ Dung Phục cũng quỳ xuống. Tiếp theo là Huyền Sinh, Huyền Độ, Thần Quang, Đạo Thanh, Ba La Tinh cùng đến nghe thuyết pháp. Khi đến chỗ tinh diệu thì mọi người đều hoan hỉ, sinh lòng ngưỡng mộ rồi hết thảy đều quỳ xuống. Khi Đoàn Dự tới nơi thì mọi người đang nghe nhà sư giảng giải Phật nghĩa. Chàng định quanh đến trước mặt lão tăng để nhìn tướng mạo. Ngờ đâu Cưu Ma Trí thốt nhiên hạ độc thủ. Trước ngực chàng bị trúng chiêu "Hoả diệm đao" của hắn ngã lăn ra bất tỉnh.
Đoàn Dự mê đi không biết đã bao lâu, sau dần dần hồi tỉnh, giương mắt lên nhìn thì đầu tiên chàng nhìn thấy nóc màn. Chàng phát giác ra mình đang nằm trên giường có đầy đủ màn gối. Thần trí chàng chưa hoàn toàn tỉnh táo, chàng ngẫm nghĩ một lúc rồi nhớ ra mình bị Cưu Ma Trí ám toán. Không hiểu tại sao bây giờ lại nằm trên giường. Chàng nghĩ mãi không ra, cảm thấy khát nước như cháy họng, đã toan ngồi dậy, nhưng người vừa nhúc nhích trước ngực lại đau nhói lên không chịu nổi phải la một tiếng: úi chao!
Bỗng nghe bên ngoài có thanh âm thiếu nữ reo lên:
- Đoàn công tử tỉnh lại rồi! Ha ha! Đoàn công tử tỉnh lại rồi!
Giọng nói của thiếu nữ lộ vẻ mừng vui. Đoàn Dự nghe thanh âm rất quen tai, chàng đang ngẫm nghĩ nhớ lại người nói đó là ai thì thốt nhiên thấy một thiếu nữ áo xanh rảo bước đi vào. Thiếu nữ mặt tròn trĩnh, má lúm đồng tiền. Chính là người mà chàng đã gặp năm trước trong nhà đại sảnh phe Đông phái Vô Lượng tên gọi Chung Linh. Phụ thân của nàng là Kiến nhân tựu sát Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu cùng phụ thân Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần kết thành mối thâm thù. Hắn thiết kế để toan gia hại thanh danh nhà chàng thì trời kia đất nọ xui khiến lại phản thùng. Lúc Đoàn Dự ở trong nhà thạch thất đi ra, tay chàng lại đang bồng Chung Linh, áo quần xốc xếch. Hắn toan hại người lại hoá ra tự hại mình, hắn tức chết đi được.
Sau đó Chung Linh bị Vân Trung Hạc cướp đem đi. Rồi không biết lạc lõng nơi đâu. Đoàn Dự có khi nghĩ đến nàng không khỏi phiền muộn. Ngờ đâu nay lại gặp nàng ở đâỵ
Chung Linh và Đoàn Dự vừa chạm mắt nhau, mặt nàng ửng hồng tựa như cười mà không phải cười, nàng hỏi:
- Đoàn công tử quên ta rồi ư? Công tử còn nhớ họ tên ta chăng?
Đoàn Dự sực nhớ lại bức hoạ "Sống" lúc nàng ngồi vắt vẻo trên xà nhà, hai chân bỏ thõng, đưa đi đưa lại, miệng cắn hạt dưa. Nhưng lạ ở chỗ hôm đó nàng đi đôi giày màu xanh biếc, trên mũi giày có thêu một đoá hoa sắc vàng mà lúc này lại đi đôi giày khác. Bất giác chàng buột miệng hỏi:
- Đôi giày thêu đoá hoa vàng ngày trước của cô nương đâu?
Chung Linh đỏ mặt lên nghĩ bụng:
- Chàng vẫn còn nhớ rõ ràng đôi giày của ta, đủ tỏ ra chàng không quên ta.
Nàng liền mỉm cười đáp:
- Đôi giày đó rách rồi, không ngờ thời gian cách biệt đã lâu mà công tử vẫn còn nhớ ư?
Đoàn Dự lại cười hỏi:
- Sao bây giờ cô nương không cắn hạt dưa?
Chung Linh đáp:
- Trời ơi! Mấy bữa nay còn phải chầu chực công tử dưỡng thương, làm cho người ta kinh hãi muốn chết, có yên tâm đâu mà ngồi cắn hạt dưa?
Câu "làm cho người ta sợ hãi muốn chết, có yên tâm đâu mà cắn hạt dưa" vừa ra khỏi miệng, nàng tự biết mình thổ lộ tâm tình, bất giác thẹn đỏ mặt lên.
Đoàn Dự sửng sốt, trố mắt nhìn nàng hồi lâu mới hỏi:
- Con Thanh Linh của cô nương đâu? Lại con rắn nhỏ sắc vàng nữa?
Chung Linh đáp:
- Mình lưu lạc lâu ngày ở bên ngoài chưa về nhà bao giờ chẳng hiểu con Thanh Linh cùng con Kim Linh ra sao nữa?
Ðoàn Dự nói:
- À phải rồi! Hôm đó, Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc cướp cô nương bồng đi, tại hạ nóng nẩy vô cùng mà giận mình chẳng biết võ công liền gọi tên đồ đệ là Nam Hải Ngạc Thần đi cứu cô nương. Rồi sau cô nương làm sao mà thoát hiểm được? Tại hạ vẫn lo về vụ nàỵ
Chung Linh cười nói:
- Đồ đệ của công tử trung thành đáo để! Gã Vân Trung Hạc tuy khinh công tuyệt đỉnh, nhưng vì cắp ta đi theo nên chạy không được nhanh lắm. Hắn đi được chừng vài dặm thì bị đồ đệ của công tử đuổi kịp...
Nói tới đây, đột nhiên nàng dừng lại, vẻ mặt ra chiều e thẹn. Đoàn Dự hỏi:
- Tại sao vậy?
Chung Linh cười hích hích nói:
- Công tử thử đoán coi đồ đệ của công tử đã kêu ta bằng gì? Thiệt y đã làm cho người ta vừa tức giận vừa buồn cười.
Đoàn Dự thấy nàng bẽn lẽn người càng xinh đẹp, lòng không khỏi rung động. Chàng nhớ lại hình ảnh lúc ở trong nhà thạch thất bên nước Đại Lý, liền mỉm cười đáp:
- Ta bị tên ác ôn ôm chặt, hết sức dãy dụa mà không tài nào thoát ra được. Trong lòng sợ hãi vô cùng, bỗng nghe đồ đệ công tử vừa đuổi theo vừa lớn tiếng ông ổng la gọi: "Sư nương! Sư nương! Sư nương cứ cù vào nách hắn là thằng cha cao lêu nghêu này phát buồn không chịu được!"
Ta nghĩ thầm: "Cù nách ư? Về môn này ta thạo lắm." Nghĩ vậy ta liền thò tay toan đưa vào nách hắn. Không ngờ tên ác nhân kia vừa nghe đồ đệ công tử nói, ta chưa kịp thò tay tới nơi đã bật một tràng cười ra. Vì hắn lo cười không bước nhanh được nữa, nên bị đồ đệ công tử đuổi kịp.
Tên ác ôn kia liền nói:"Nhạc lão Tam! Ngươi bị mắc mưu người ta rồi đó!"
Nhạc lão Tam nói: "Mắc mưu hay chẳng mắc mưu ta không cần biết. Ngươi phải buông thả sư nương ta ra. Nếu mi mà không chịu thì ta cho mi nếm mùi cây Ngạc thủy tiễn của ta."
Tên ác ôn không sao đành được đành buông ta xuống, ta thừa cơ hắn vô ý liền thò tay cù vào nách hắn. Hắn lăn ra mà cười đến phát ho, phát hen. Hắn càng cười, ta càng cù thật mạnh. Hắn vừa cười vừa ho rũ rượi.
Nhạc lão Tam liền bảo ta: "Sư nương! Sư nương tha cho hắn thôi. Nếu sư nương còn cù nữa, hắn cười không tiếp tục thở được, hắn sẽ lăn ra mà chết."
Ta rất lấy làm kỳ nghĩ bụng: "Tên ác ôn này võ công cao cường đến thế, sao lại để cho người ta cù nách mà phải cười đến chết được?" Nghĩ vậy ta liền đáp: "Ta không tin. Ta thử cù xem hắn có chết được thật không?"
Nhạc lão Tam đáp: "Không thể thử được. Cù hắn chết rồi không sống lại được nữa. Hắn luyện công đã đặt huyệt "Thiên Tuyền" dưới nách làm chỗ yếu điểm không thể đụng vào được."
Ta nghe y nói vậy liền buông tay ra không cù y nữa. Vì sợ cù một lúc nữa hắn chết thật. Nhưng như vậy lại nguy cho ta. Tên ác ôn vừa đứng dậy được, hắn nhìn ta bằng con mắt hung dữ rồi nhổ nước miếng đánh "toẹt" một cái vào mặt Nhạc lão Tam.
Hắn mắng: "Con cá sấu chết thối kia! Chỗ đó là điểm yếu của ta luyện công. Sao ngươi lại tiết lộ cho người ngoài biết?"
Ta liền bảo: "Giỏi lắm, mi thoá mạ y ư?"
Thế rồi ta lại đưa tay toan cù nữa. Chẳng ngờ lần này ta không thành công. Ta vừa lại gần, chưa kịp ra tay hắn đá ta một cái lăn lông lốc rồi bỏ đi. Nhạc lão Tam nâng ta dậy hỏi: "Sư nương! Sư nương bị té có đau không?"
Ta chưa kịp trả lời thì gia gia ta cầm đao hầm hầm đuổi đến nơi quát lên: "Con nha đầu thối tha kia! Mi ở đây làm chi? Mi chưa chết kia ư?"
Nhạc lão Tam cũng quay lại quát lên: "Y... Y là... Ngươi chẳng ra trò gì sao còn la mắng?"
Gia gia ta tức giận quát hỏi: "Ta mắng con ta, việc gì đến ngươ?"
Không hiểu tại sao Nhạc lão Tam đột nhiên nổi hung. Y trỏ vào mặt gia gia ta quát lên: "Quân chó má kia! Ngươi ăn nói trịch thượng vừa vừa chứ. Nhạc lão Nhị này quyết sống mái với ngươi."
Gia gia ta hỏi: "Ta nói gì mà ngươi bảo là trịch thượng?"
Nhạc lão Tam đáp: "Y là sư nương ta dĩ nhiên đứng vào hàng trưởng bối ta. Tuy đó là việc bất đắc dĩ, nhưng ta không biết làm thế nào được. Thế mà ngươi tự xưng là gia gia y. Thế... Thế thì ra ngươi còn cao hơn ta những hai bậc. Ngươi có biết Nhạc lão Nhị này là bậc chí tôn ngoài Nam Hải không? Mọi người ở đây đều kêu ta bằng lão tôn, lão tổ gia gia. Nay ta vào tới Trung Nguyên, so với ai cũng còn thấp kém một hai bậc. Nhạc lão gia không chịụ Nhất định Nhạc lão gia không chịu đâu."
Gia gia ta nói: "Ngươi không chịu thì mặc ngươi. Thị là con gái ta thì ta phải là cha nó. Cái gì mà tự xưng với chẳng tự xưng?"
Nhạc lão Tam không đối lại được với gia gia ta. Lão tức quá cãi cối: "Đúng là ngươi nói láo. Sư nương ta người đẹp thế kia, còn ngươi xấu như quỷ sứ mà lại đòi làm cha y thì còn trời nào nghe được? Sư nương ta nhất định là con người khác chớ không phải con ngươi. Ngươi chỉ là cha hờ chứ không phải cha thật y."
Gia gia ta nghe Nhạc lão Tam nói thế thì mặt tím bầm, vung đao lên chém Nhạc lão Tam. Ta vội khuyên can: "Gia gia! Người này đã cứu hài nhi thoát khỏi tay ác nhân. Gia gia đừng giết y!"
Gia gia ta liền nổi cơn thịnh nộ quát mắng: "Con nha đầu thối tha! Ta đã ngờ mi không phải ta sinh ra mi. Bây giờ cả thằng cha lùn này cũng nói vậy thì còn giả sao được? Ta hãy giết thằng lùn trước, rồi sẽ giết mị Sau cùng giết cả đến mẹ mi nữa."
Nguyên mẫu thân Chung Linh trước kia đã có mối tình với cha Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần. Chung Vạn Cừu thấy nàng càng lớn lên càng xinh đẹp, không giống mình chút nàọ Hắn đem lòng nghi hoặc và hàng ngày nổi cơn ghen tức. Chung Linh thuật chuyện tới đây, dường như nàng quá xúc động, nàng lo cho mẫu thân nàng bị gia gia hành hạ hay giết chết rồi cũng nên.
Đoàn Dự nói:
- Cô nương bất tất phải lo sợ. Tại hạ biết rằng lệnh tôn rất sợ lệnh đường, chẳng những y không dám giết bà, mà còn sợ bà nữa là khác.
Chung Linh bật cười hỏi:
- Sao công tử biết?
Đoàn Dự đáp:
- Tại hạ đã đến hang Vạn Kiếp đưa tin, được mắt thấy lệnh tôn rất sợ lệnh đường, bảo sao nghe vậy, không bao giờ dám trái ý.
Chung Linh buông một tiếng thở dài, hồi lâu không nói câu gì. Đoàn Dự lại hỏi:
- Rồi sao nữa? Vì cớ gì mà cô nương tới đây?
Chung Linh kể tiếp:
- Gia gia ta cùng đồ đệ công tử bắt đầu cuộc chiến đấu rất kịch liệt, không phân thắng bại. Ta liền bảo Nhạc lão Tam: "Ngươi không được đả thương gia gia ta." Đồng thời, ta quay lại nói với gia gia: "Gia gia! Gia gia đừng giết Nhạc lão Tam." Rồi không hiểu cuộc tranh đấu của hai bên về sau đi đến đâu, ta bỏ đi ngay.
Đoàn Dự gật đầu nói:
- Phải đấy! Cô nương lánh đi là để cho nhẹ bớt nỗi ưu phiền là hơn.
Chung Linh lại nói:
- Ta muốn đi kiếm công tử mà kiếm đâu cũng không thấy, rồi sau tìm đến đây.
Ngừng một lát nàng nói tiếp:
- Trước đây ít ngày, ta được tin trên chốn giang hồ có người đồn đãi là các vị anh hùng hảo hán khắp nơi đều đến tụ hội tại chùa Thiếu Lâm. Ta thấy nóng ruột nghĩ ngay: "không chừng công tử cũng có mặt trong cuộc đại hội này cũng nên".
Ta liền hỏi thăm đường tìm đến núi Thiếu Thất. Nhưng lúc đến nơi lại nghĩ mình chẳng phải anh hùng, cũng không là hảo hán, không thể lên chùa Thiếu Lâm được. Ta đành ở dưới chân núi, chạy loạn lên để kiếm người dò hỏi tin tức công tử. May khu này có một căn nhà bỏ trống không người trú ngụ. Ta liền vào tạm trú nơi đây. Đoàn Dự nghe nàng kể mấy lời thưa thớt, nhưng thấy mặt nàng đã dày dạn phong sương thì thương cho cô bé nhỏ tuổi, một mình một bóng, luân lạc giang hồ. Trong thời gian này nàng đã phải chịu bao nhiêu là nỗi đắng cay. Tình ý của nàng đối với mình đã vô cùng tha thiết!
Chàng không nhẫn nại được nữa, đưa tay ra cầm lấy tay nàng nói nhỏ:
- May sao trời cũng chiều người, khiến tại hạ còn gặp được cô nương.
Chung Linh ngồi xuống bên giường hỏi:
- Công tử đến đây làm chi?
Đoàn Dự giương cặp mắt thao láo lên nhìn nàng đáp:
- Đó là điều mà chính tại hạ đang muốn hỏi cô nương. Vì lẽgì tại hạ ở chỗ này? Tại hạ chỉ biết rằng bị một lão ác tăng ám toán. Trước ngực trúng đao khí vô hình, bị thương rất nặng, hôn mê đi, rồi sau không biết gì nữa.
Chung Linh chau mày đáp:
- Thế thì kỳ thiệt! Hôm qua vào lúc hoàng hôn, ta ra vườn nhổ rau về, ở dưới bếp đang sắp nấu ăn, bỗng nghe trong phòng có tiếng người rên rỉ. Ta sợ quá liền cầm con dao thái rau chạy lên phòng thì thấy có người nằm ngủ trên giường. Ta hỏi luôn mấy câu: "Ai đó? Ai đó?" nhưng không có tiếng đáp lại. Ta chắc đây là một kẻ cường đồ hay một tên bất hảo. Ta giơ dao lên toan chém xuống...
Nàng thở phào một cái rồi tiếp:
- May mà công tử nằm ngửa mặt lên, không thì lưỡi dao ta chặt xuống đứt đầu rồi. Ta nhìn thấy mặt công tử.
Nàng vừa nói vừa giơ tay lên khẽ vỗ vào ngực để diễn lại tình thế nguy hiểm lúc đó, bây giờ nghĩ tới hãy còn khủng khiếp. Đoàn Dự nghĩ thầm:
- Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm không xa lắm. Chắc là sau khi mình bị thương, có người đưa vào đây.
Chung Linh lại nói:
- Ta gọi công tử luôn mấy tiếng thì chỉ thấy rên hừ hừ, không trả lời mà cũng chẳng nhìn ta. Ta sờ vào trán công tử có nhiều vết máu thì biết là công tử bị thương rất trầm trọng. Ta liền cởi áo ra để coi vết thương rồi buộc lại hẳn hoi.
Nàng ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
- Ta chờ lâu, lâu lắm, vẫn không thấy công tử tỉnh lại. Hỡi ôi! Ta vừa mừng vui lại vừa bồn chồn trong dạ, không biết làm thế nào được?
Đoàn Dự nói:
- Để cho cô nương phải lo lắng, tại hạ thật lấy làm áy náy!
Chung Linh đột nhiên trở mặt cất tiếng mắng:
- Ngươi không phải là người tốt. Nếu ta sớm biết ngươi là hạng vô lương tâm, thì chẳng thèm nghĩ đến ngươi làm chi nữa. Bây giờ ta cũng không muốn nhìn mặt để mặc xác ngươi sống thì sống, chết thì chết.
Đoàn Dự vội hỏi:
- Tại sao vậy? Sao cô nương lại giận tại hạ?
Chung Linh hứ một tiếng, rồi hằn học đáp:
- Ngươi đã tự biết mình rồi, hà tất còn phải hỏi?
Đoàn Dự vội nói:
- Tại... Tại hạ không biết thiệt. Hảo cô nương! Hảo Muội tử! Muội Muội nói cho ta nghe!
Chung Linh dậm chân đáp:
- Thôi đi! Ai là hảo cô nương, hảo muội tử của ngươi! Ngươi nằm mơ đã nói những gì? Sao còn hỏi ta?
Đoàn Dự ôn tồn hỏi:
- Ta nằm mơ đã nói những gì? Đó là những lời nói trong cơn mộng mị, có chi là chuẩn đích? À phải rồi! Chắc là ta nằm mộng thấy Linh muội, mừng quá rồi ăn nói lỗ mãng đã mạo phạm đến Linh muội chứ gì?
Chung Linh đột nhiên sa nước mắt hằn học đáp:
- Đến bây giờ ngươi còn định lừa gạt ta ư? Lúc nằm mơ ngươi đã thấy gì?
Ðoàn Dự thở dài nói:
- Sau khi tiểu huynh bị thương rồi, mê man chẳng còn biết chi nữa. Thực tình không nhớ đã nói những gì.
Chung Linh hỏi như người quát lên:
- Vương cô nương là ai? Vương cô nương là ai? Tại sao trong lúc mê man mà ngươi còn gọi tên thị?
Đoàn Dự cảm thấy trước ngực đau nhói lên, hỏi lại:
- Tiểu huynh đã gọi Vương cô nương ư?
Chung Linh đáp:
- Chứ còn gì nữa? Ngươi đang lúc mê man mà gọi đến tên thị. Hừ! Thế là ngươi tưởng nhớ đến thị lắm chứ gì? Được rồi. Bây giờ ngươi gọi Vương cô nương đến trông nom cho, ta không thèm hỏi gì đến ngươi nữa.
Đoàn Dự thở dài nói:
- Trong lòng Vương cô nương không nghĩ gì đến tiểu huynh đâu. Dù tiểu huynh có nghĩ đến nàng cũng bằng vô ích mà thôi.
Chung Linh hỏi:
- Tại sao vậy?
Ðoàn Dự đáp:
- Nàng chỉ say mê biểu ca nàng, chứ có nghĩ gì đến tiểu huynh đâu?
Chung Linh đổi giận làm mừng, cười nói:
- Tạ ơn trời đất. Ác nhân tất bị kẻ khác trả nợ.
Đoàn Dự hỏi:
- Tiểu huynh là ác nhân ư?
Chung Linh nghiêng đầu sang một bên, mái tóc xoã ra. Nàng cười nói:
- Đồ đệ ngươi, Nhạc lão Tam, là một trong bốn tên đại ác. Đồ đệ đã là ác nhân thì sư phụ còn trên ác nhân một bậc, nghĩa là đại ác.
Đoàn Dự cười hỏi:
- Sư phụ đã vậy, còn cô nương thì sao?
Chung Linh mặt đỏ lên, chúm môi huýt sáo, dường như trong lòng nàng rất cao hứng. Nàng đứng lên trở gót chạy xuống bếp rồi bưng lên một bát thang gà nói:
- Nồi canh gà này đã nấu nửa ngày trời để chờ ngươi tỉnh lại, thành ra cứ để lửa hoài.
Đoàn Dự nói:
- Tiểu huynh không biết cảm ơn Linh muội đến chừng nào mà kể!
Chàng thấy Chung Linh bưng thang gà vào, toan cố gượng ngồi dậy, nhưng vết thương nơi ngực đau quá không chịu được, rên lên một tiếng.
Chung Linh vội nói:
- Ngươi đừng dậy nữa. Để ta bón cho cha nội tên ác nhân.
Đoàn Dự bật cười hỏi:
- Sao lại gọi ta bằng cha nội tên ác nhân?
Chung Linh cười đáp:
- Ngươi là sư phụ ác nhân, thế chẳng phải cha nội ác nhân là gì?
Đoàn Dự cười nói:
- Thế thì Linh Muội...
Chàng đang nói dở câu, Chung Linh cầm thìa canh đưa tới trước mặt chàng, nàng làm mặt giận ngắt lời:
- Ngươi lại sắp nói năng gì đó? Nhìn thìa canh nóng đây này, đổ vào mặt bây giờ.
Đoàn Dự thè lưỡi ra nói:
- Không dám! Tại hạ không dám đâu. Tiểu nhưng nhưng! Ác nhân quả là lợi hại!
Hồi Thứ 126
Chung cô nương suýt bị móc tròng
Chung Linh cười hích, suýt đổ chén thang gà xuống người Đoàn Dự. Nàng vội lấy lại bình tĩnh, để thìa canh vào bên miệng Đoàn Dự một cách chậm chạp. Đoàn Dự nuốt mấy thìa rồi nhìn thấy vẻ mặt Chung Linh tươi như ánh hồng buổi ban mai. Trên môi đọng mấy giọt mồ hôi lấm tấm. Đang tiết trời đại thử về tháng sáu, cánh tay nhỏ nhắn của Chung Linh thò ra ngoài tay áo, trong trắng như ngọc.
Ðoàn Dự đầu óc mơ màng, đột nhiên nghĩ bụng:
- Giả tỷ, lúc này người bón thang cho ta là Vương cô nương thì dù ta có phải nẫu ruột, nát gan cũng rất cam lòng.
Chung Linh thấy chàng cứ thộn mặt ra mà nhìn mình, nàng có hiểu đâu lúc này chàng đang nghĩ đến người khác, đôi môi nàng vẫn tủm tỉm cười hỏi:
- Có gì hay lắm sao mà nhìn người ta dữ vậy?
Đoàn Dự toan trả lời bỗng nghe tiếng kẹt cửa rồi có người tiến vào. Hai người này, một là Đại Hán và một thiếu nữ. Nàng con gái lên tiếng:
- Chúng mình hãy vào đây nghĩ một lúc.
Thanh âm của chàng trai đáp lại:
- Được rồi! Để cô nương khỏi mệt nhọc cõng tại hạ trên lưng đi lại, tại hạ áy náy vô cùng!
Thiếu nữ nói:
- Đừng rườm lời nữa.
Đoàn Dự nghe thanh âm hai người thì biết ngay là A Tử và Du Thản Chi. Chàng còn biết A Tử là con gái tư sinh của phụ thân mình, thì cô ta với mình cũng là anh em cùng cha, khác mẹ. Có điều cô này từ thuở nhỏ đã làm môn hạ phái Tinh Tú mà tiêm nhiễm tính nết gian ác, bướng bỉnh, điêu ngoa, ngang ngược. Phủ tiên Tiêu Lăng Thiên Lý, một trong Tứ ẩn nước Đại Lý, bị cô ta làm nhục mà chết. Đoàn Dự lại rất thân thiết với Tứ ẩn, Tam Công trong nước. Chàng nghĩ tới cái chết của Lăng Thiên Lý, đã không muốn nhìn mặt cô em tàn nhẫn ngang bướng này rồi. Huống chi, hôm qua, chàng đã giúp Tiêu Phong để đánh lại Du Thản Chi. Lúc này chàng đang bị trọng thương để gã thấy mặt thì mất mạng cũng chưa biết chừng.
Đoàn Dự vội dơ ngón tay lên ra hiệu cho Chung Linh phải kín tiếng. Chung Linh tự gật đầu, tay vẫn cầm bát thang gà không dám đặt xuống bàn, sợ phát ra tiếng động lọt vào tai mấy người mới đến.
Bỗng nghe phía ngoài A Tử cất tiếng gọi:
- Có ai trong ấy không?
Chung Linh đưa mắt nhìn Đoàn Dự, vẫn im tiếng không trả lời. Nàng nghĩ thầm:
- Thị này không chừng là Vương cô nương cũng nên. Thị đi cùng biểu ca nên Đoàn lang không muốn để y thấy mặt. Nghĩ vậy, nàng cố ý nhìn lén cho thấy mặt Vương cô nương xem con người nguyệt thẹn hoa nhường thế nào mà khiến cho Đoàn Dự phải điên đảo thần hồn. Nhưng nàng không dám rời chân cất bước.
Nàng nghĩ rằng:
- Nếu Đoàn lang mà thấy mặt thị là có chuyện không hay, nên cứ để mặc A Tử la gọi. Chắc hai người kia gọi mãi không thấy ai rồi cũng bỏ đi.
A Tử càng gọi gắt hơn:
- Trong nhà này chết cả rồi hay sao mà không thấy đứa nào? Nếu không ra mau, bản cô nương sẽ phóng hoả đốt nhà!
Chung Linh lẩm bẩm:
- Con mụ Vương cô nương này ngang chướng thật!
Bỗng nghe Du Thản Chi khẽ nói:
- Đừng lên tiếng! Lại có người đến nữa đó!
A Tử hỏi:
- Ai vậy? Bọn Cái Bang phải không?
Du Thản Chi đáp:
- Có đến bốn năm người. Có lẽ là tụi Cái Bang. Bọn chúng ở mé bên này đi tới.
A Tử nói:
- Mấy tên trưởng lão Cái Bang đối với công tử đã sinh lòng phản bạn. Nếu gặp bọn chúng thì hai ta đều nguy mất!
Du Thản Chi hỏi:
- Bây giờ biết làm thế nào?
A Tử đáp:
- Hãy vào phòng ẩn rồi sẽ tính. Công tử bị thương nặng lắm không thể động thủ với chàng được đâu.
Đoàn Dự thấy Du Thản Chi và A Tử bàn nhau muốn vào phòng ẩn lánh thì không khỏi chột dạ. Tuy chẳng ưa gì A Tử nhưng có gặp nàng cũng chẳng ngại vì nàng đui mù. Còn gã Bang chúa Cái Bang mà gặp mình thì có thể nguy đến tính mạng.
Chàng vội nhìn Chung Linh, vẩy tay ra hiệu bảo nàng tìm cách lẩn tránh. Nhưng đây chỉ là căn nhà bé nhỏ hủ lậu của một gã nông phu trên rừng. Phòng trong rất nhỏ hẹp, người ngoài vô tới nơi là nhìn thấy ngay, không còn chỗ nào ẩn núp được.
Chung Linh nhìn khắp bốn phía, chưa biết ẩn vào đâu. Bỗng nghe tiếng bước chân vang lên. Hai người ngoài sảnh đường đang tiến lại phía cửa phòng.
Nàng khẽ bảo Đoàn Dự:
- Nấp vào dưới gầm lò sưởi vậy.
Rồi nàng không chờ Đoàn Dự trả lời, ẵm luôn chàng lên. Cả hai người chuồn vào gầm lò sưởi. Trên núi Thiếu Thất, từ tháng mười trở đi, khí trời rất lạnh. Những nhà dân trên núi đều đốt lửa trên lò sưởi để sưởi ấm. Hiện giờ đang giữa mùa hạ, lò sưởi để không, nhưng dưới gầm lò cũng đầy tro than. Đoàn Dự vừa chui vào, ngửi thấy bụi than suýt nữa nôn oẹ, phải cố nhịn. Chung Linh để chàng tựa vào mình rồi giương mắt nhìn ra ngoài thì thấy đôi chân nhỏ đi giày bằng đoạn tía tiến vào phòng.
Bỗng nghe chàng trai nói:
- Hỡi ơi! Tại hạ để cô nương cõng trên lưng, chạy lui chạy tới như vậy thiệt là tiết mạn quá.
Thiếu nữ nói:
- Tình trạng của chúng ta hiện giờ khác nào người mù và người què, phải nương tựa vào nhau mà sống.
Chung Linh rất lấy làm kỳ nghĩ thầm:
- Té ra Vương cô nương là người đui mù. Thị cõng biểu ca trên lưng, nên mình không trông thấy chân chàng trai.
A Tử đem Du Thản Chi đặt xuống giường rồi nói:
- Ơ hay! Cái giường này vừa có người nằm, chiếu hãy còn nóng hổi.
Bỗng nghe đánh sầm một tiếng. Cửa ngoài bị đạp tung ra rồi mấy người tiến vào. Một người lên giọng ồm ồm:
- Vương Bang chúa! Việc lớn Bang chúa chưa xong sao Bang chúa đã bỏ đi là nghĩa gì?
Người nói đó chính là Tống trưởng lão. Lão dẫn hai tên đệ tử hạng bảy túi, hai tên sáu túi đến đây tìm Du Thản Chi.
Nguyên cha con họ Tiêu, cha con Mộ Dung và quần tăng chùa Thiếu Lâm cùng quần hùng Trung Nguyên ầm ập chạy lên chùa Thiếu Lâm rồi, bọn Cái Bang thấy bữa nay bị mất thể diện, lại sợ bang mình là bang lớn nhất ở Trung Nguyên khó lòng còn đất đứng trong võ lâm. Họ thấy mối thù oán giữa cha con họ Tiêu và Mộ Dung Bác không liên quan gì đến Cái Bang, nên không muốn dúng tay vào. Lúc họ tìm đến Vương Tinh Thiên thì không biết gã đi đâu rồi?
Quần Cái Bang nghĩ rằng, hai chân y đã bị gãy, chưa thể nào chạy xa được, liền chia đi các ngả để tìm kiếm. Họ chưa tính gì đến chuyện sau khi gặp gã sẽ xử trí thế nào. Nhưng dù sao thì Vương Tinh Thiên cũng không thể để làm Bang chúa Cái Bang được nữa. Về điểm này quần Cái Bang chưng khẩu đồng từ, không ai dị nghị. Nhưng theo thể lệ Cái Bang thì tân Bang chúa phải được cựu Bang chúa trao lại cây Đả cẩu bổng. Vương Tinh Thiên lại bỏ đi rồi, thiếu người thực hành nghi lễ này, nên họ phải đi kiếm gã.
Lúc quần hùng Cái Bang đi kiếm Vương Tinh Thiên, họ phát giác ra mất luôn cả A Tử thì đoán là nàng cùng Vương Tinh Thiên tất đi với nhau. Tống trưởng lão dẫn bốn tên đệ tử đi về phía Đông Nam núi Thiếu Thất để tìm kiếm. Lão trông thấy từ đằng xa có bóng vạt áo tía lấp loáng và tiến vào trong căn nhà của một nông gia.
Mọi người đuổi theo nhìn rõ là A Tử mà trên lưng nàng lại cõng một người hao hao giống Vương Tinh Thiên, liền đuổi đến tận nơi tiến vào trong nội phòng thì quả thấy Vương Tinh Thiên cùng A Tử ngồi với nhau trên lò sưởi.
A Tử nghe Tống trưởng lão hỏi vậy liền đáp:
- Tống trưởng lão! Trưởng lão vẫn kêu y bằng Bang chúa mà sao lại la gọi ầm ỹ không còn chút quy củ nào của kẻ thuộc hạ muốn yết kiến Bang chúa?
Tống trưởng lão chưng hửng, lão biết lời nàng không phải là phi lý, liền đáp:
- Bang chúa! Bọn thuộc hạ mấy ngàn anh em đều còn lưu lại trên núi Thiếu Thất, bây giờ biết đi theo ai? Xin Bang chúa chỉ thị cho!
Du Thản Chi đáp:
- Các ngươi còn coi ta là Bang chúa nữa không? Hay chỉ muốn tìm ta về để giết cho hả giận? Như vậy thì ta không đi đâu.
Tống trưởng lão vẫy tay bảo các tên đệ tử:
- Các ngươi mau đi báo tin cho anh em biết là Bang chúa ở đây rồi.
Bốn tên đệ tử vâng lời toan trở gót ra đi. A Tử bỗng quát lên:
- Hạ thủ đi.
Du Thản Chi phóng chưởng ra đánh. Chung Linh cùng Đoàn Dự ở dưới gầm lò sưởi, bỗng thấy trong lòng nổi lên một luồng khí lạnh thấu xương. Bốn tên đệ tử Cái Bang ra chưa kịp rú lên một tiếng đã chết lăn dưới đất.
Tống trưởng lão vừa kinh hãi vừa tức giận, để bàn tay lên trước ngực thủ thế nói:
- Bang chúa!... Đối với anh em trong bang mà Bang chúa tàn nhẫn đến thế ư?
A Tử nói:
- Giết luôn cả lão đi để bịt miệng.
Du Thản Chi lại phóng chưởng đánh ra. Tống trưởng lão giơ chưởng lên đỡ đánh "binh" một tiếng. Người lão bị hất tung ra ngoài cửa lớn đâm vào cánh cửa đánh "sầm" một tiếng.
A Tử cười khanh khách nói:
- Vương công tử! Lão già này không sống được nữa rồi! Công tử có đói không? Chúng ta đi kiếm cái ăn đi đã.
Nói xong, nàng cõng Du Thản Chi lên lưng rồi hai người cùng xuống bếp đem cơm canh mà Chung Linh đã nấu ra ăn. Chung Linh ghé vào tai Đoàn Dự nói thầm:
- Hai đứa mặt dày kia đem nốt thang gà ta nấu phần công tử ra ăn mất rồi.
Đoàn Dự khẽ nói:
- Bọn chúng thủ đoạn vô cùng độc ác, hễ ra tay là giết người. Chúng ăn xong tất lại lên phòng. Chi bằng chúng ta thừa cơ họ đang ngồi ăn, chuồn cổng sau lánh đi là hơn.
Chung Linh vốn không muốn để cho Đoàn Dự thấy mặt Vương cô nương nên nghe chàng bảo vậy thì rất là vừa ý mình. Hai người rón rén từ gầm lò sưởi bước ra. Chung Linh thấy Đoàn Dự mặt mũi lem luốc đầy tro bụi, không nín cười được phải dơ tay lên bịt miệng, để ra khỏi cửa phòng và phải đi vòng xa nhà để ra cổng sau.
Đoàn Dự cố nín đã lâu, bây giờ không chịu phải nôn oẹ ra. A Tử nghe tiếng nôn oẹ vội vàng từ trong bếp chạy ra. Chung Linh nguýt Đoàn Dự một cái. Bỗng nghe tiếng lách cách rồi trong sảnh đường phía trước có tiếng xô bàn. Nàng đưa mắt nhìn bốn mặt, không thấy chỗ nào ẩn nấp được chỉ có căn phòng xếp củi đằng sau nhà bếp là kín đáo. Nàng liền dắt Đoàn Dự tiến vào nấp trong đống củi. Lại nghe A Tử hỏi Du Thản Chi:
- Trong này nhất định có người. Công tử thử coi kỹ xem có gì khác lạ không?
Du Thản Chi đáp:
- Đại khái là bọn điền tốt trong làng, ta bất tất phải để ý đến họ.
A Tử nói:
- Sao lại không để ý? Công tử sơ sót như vậy là hay lỡ việc lắm đấy! Đừng có lên tiếng!
Từ khi A Tử bị đui mắt rồi thính giác nàng càng linh diệu hơn. Nàng nghe có tiếng sột sạt trong đống củi liền nói:
- Trong đống củi kia dường như có người.
Chung Linh cùng Đoàn Dự nấp trong đống củi nghe thấy A Tử cùng Du Thản Chi đã ra bên ngoài, liền ngồi im không dám nhúc nhích nữa. Chung Linh bỗng thấy có giọt nước miếng rớt vào má liền giơ tay lên sờ thấy ướt bầy nhầy, mà mũi lại ngửi thấy mùi máu tanh, bất giác cả kinh hỏi:
- Công tử! Vết thương ra sao?
Đoàn Dự khẽ nói:
- Đừng lên tiếng!
Nhưng câu nói của Chung Linh vừa rồi đã lọt vào tai A Tử. Nàng vỗ vào đùi Du Thản Chi ra hiệu cho gã biết trong nhà chứa củi có người. Du Thản Chi liền phóng chưởng ra đánh vào phòng chứa củi.
Chung Linh la lên:
- Đừng đánh! Đừng đánh! Để chúng ta ra!
Nàng dìu Đoàn Dự từ đống củi ra.
Nguyên Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí phóng "Hoả diệm đao" vào trước ngực bị thương rất nặng. Chàng từ trên lò sưởi chui xuống gầm rồi lại từ gầm lò sưởi chạy đến nấp trong buồng củi. Mấy lần di động này, thương lại vỡ, máu tươi chảy ra. Lúc chàng từ trong đống củi chui ra, toàn thân đầm đìa máu tươi, lẫn với tro than lem luốc trông rất thảm hại.
A Tử hỏi:
- Sao lại có thanh âm một vị tiểu cô nương?
Du Thản Chi đáp:
- Có một chàng trai và một cô bé nấp trong đống củi. Chàng trai đầy mình những máu còn cô bé thì mắt long lên đang nhìn cô nương đó.
A Tử từ khi bị đui mắt rất ghét ai nói đến tiếng mắt. Du Thản Chi lại nói tới "mắt cô bé" khiến nàng xúc động tâm thần, liền hỏi:
- Cái gì mà mắt cô bé long lên? Mắt thị xinh lắm phải không?
Du Thản Chi không hiểu tâm sự nàng đang tức bực, liền đáp:
- Người cô ta dơ dáy, chắc là con gái một nhà nông. Nhưng mặt mắt cô ta đen láy và linh hoạt vô cùng.
Nguyên Chung Linh ngồi nấp dưới gầm lò sưởi nên đầu tóc và mặt mũi lem luốc, song cặp mắt vẫn trong như nước hồ thu.
A Tử tức quá, đột nhiên lòng nảy độc ác nói:
- Công tử! Sao công tử không móc tròng mắt nó ra?
Du Thản Chi thất kinh hỏi:
- Tại sao lại móc mắt cô ta?
A Tử ở với Du Thản Chi lâu ngày đã biết lòng gã nhân hậu, không chịu hại người vô tội, liền nói:
- Cặp mắt ta bị Đinh lão quái làm cho đui mù. Vậy công tử móc mắt con bé này để lắp vào cho ta đặng ta được nhìn thấy ánh mặt trời. Há chẳng hay lắm sao?
Du Thản Chi ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm:
- Nếu hai mắt nàng nhìn lại rõsự việc này nàng sẽ thấy mình xấu như quỷ sứ, tất không chịu nhìn nhận đến mình nữa. Không chừng nàng còn nhận ra bản tướng mình là gã đầu sắt thì những lời man trá của mình nào là chưởng môn nhân phái Cực Lạc, nào là Vương Tinh Thiên công tử, đều bị bại lộ. Lập tức nàng sẽ trở mặt với ta. Vậy việc này ta không thể nào làm được.
Gã nghĩ vậy liền nói:
- Giả tỷ tại hạ mà chữa được cặp mắt cho cô nương thì dù có phải tan xương, nát thịt cũng cam tâm. Tại hạ chỉ lo mình không làm được mà thôi.
A Tử cũng biết rõ không thể móc mắt người khác để lắp vào mắt mình cho sáng được. Nhưng sau khi nàng bị đui mù, trong lòng chứa đầy oán hận và muốn cho hết thảy mọi người trong thiên hạ cũng đui mù như mình mới hả dạ.
Nàng liền nói:
- Công tử cứ thử coi! Biết đâu là không được! Công tử động thủ mau đi! Móc mắt ả đó ra!
A Tử đang cõng Du Thản Chi trên lưng, rảo bước tiến về phía hai người. Chung Linh nghe hai người đối đáp, thì khiếp sợ vô cùng. Nàng liền cất bước chạy như điên. Chung Linh chân tay mau lẹ lại đang lúc kinh sợ nên chạy rất nhanh. Chớp mắt đã chạy hơn mười trượng. A Tử đã đui mắt lại cõng Du Thản Chi trên lưng, dĩ nhiên là không đuổi kịp Chung Linh. Nàng nghe lời chỉ điểm đâu bằng mắt mình trông thấy. Mỗi khi lên tiếng hỏi lại là mất thì giờ.
Nàng nghe tiếng chân Chung Linh bước đã đi xa, biết rằng không đuổi kịp la lên:
- Con ranh kia đã chạy thoát, vậy đánh chết thằng cha kia đi!
Chung Linh ở đằng xa nghe thấy bất giác cả kinh, liền dừng bước, quay đầu nhìn lại thì thấy Đoàn Dự ngã nằm lăn dưới đất. Bên mình chàng máu tươi đã chảy thành vũng. nàng đành trở lại quát lên:
- Con đui mù kia! Mi dám sát hại y ư?
Lúc này nàng đứng đối diện với A Tử nên nhìn rõ diện mạo thấy dung nhan rất xinh đẹp, quả nhiên là một tiểu mỹ nhân. Nàng không hiểu tại sao cô ta người đẹp thế mà lòng dạ lại nham hiểm tàn ác?
A Tử bỗng quát lên:
- Điểm huyệt con bé này đi!
Du Thản Chi tuy không muốn, nhưng A Tử bảo gì gã không bao giờ dám trái lệnh. Lúc gã còn ở phủ Nam Viện đại vương tại Nam Kinh nước Đại Liêu đã thế rồi. Sau gã làm Bang chúa Cái Bang cũng vẫn vậy. Gã vừa nghe A Tử quát lên, liền giơ ngón tay ra điểm đánh véo một tiếng.
Chung Linh ngã lăn ra, la lên:
- Vương cô nương! Cô nương đừng giết y. Lúc nằm mơ... y vẫn gọi tên cô nương đó! Đối với cô nương, y quả có một lòng một dạ rất trung thành.
A Tử lấy làm kỳ hỏi:
- Ngươi nói cái gì? Ai là Vương cô nương?
Chung Linh đáp:
- Cô... Cô không phải là Vương cô nương ư? Vậy cô là ai?
A Tử tủm tỉm cười nói:
- Ta cùng vị công tử đây tuy là người nhà nhưng ta không phải họ Vương. Nếu y muốn ta là họ Vương thì ta bảo câu gì cũng phải tuân theo không được trái lệnh.
Du Thản Chi trống ngực đánh thình thình. Gã nghe A Tử nói câu này thì dường như mình phải vĩnh viễn theo ý nàng. Có thể nàng mới chịu hạ mình để kết lứa đôi.
Bất giác gã hốt hoảng la:
- Đoàn... Đoàn...
Rồi không nói hết lời được. A Tử đặt Du Thản Chi xuống đất để gã ngồi tựa gốc cây rồi nói:
- Đã thế, công tử phải móc mắt con bé kia đi!
Du Thản Chi dạ một tiếng rồi vươn tay ra nắm lấy đầu Chung Linh. Chung Linh hốt hoảng kêu rú lên:
- Đừng móc mắt ta! Đừng móc mắt ta!
Đoàn Dự nằm thẳng cẳng dưới đất, thần trí đã mê man. Nhưng chàng còn biết rằng hai người kia đang chực móc mắt Chung Linh để làm mắt giả cho A Tử. Chàng biết rõ Chung Linh đã thoát thân rồi, chỉ vì muốn cứu mình mà mắc bẫy. Chàng liền hít mạnh một hơi chân khí rồi la lên:
- Các ngươi... móc luôn cả mắt ta đây nữa! Chúng ta là người một nhà... thêm vào càng tốt...
A Tử không hiểu chàng nói gì, cũng không hỏi nữa, lên tiếng giục Du Thản Chi:
- Sao ngươi chưa động thủ?
Du Thản Chi "dạ" một tiếng, kéo Chung Linh lại gần, giơ ngón tay trỏ ra toan móc mắt Chung Linh. Bỗng nghe thanh âm một người đàn bà la lên:
- Trời ơi! Các ngươi làm chi vậy?
Du Thản Chi ngẩng đầu lên, lập tức sắc mặt xám ngắt. Gã thấy dưới gốc cây liễu bên khe suối có hai chàng trai và bốn cô gái đứng đó. Hai chàng trai là Tiêu Phong và Hư Trúc. Còn bốn cô gái là Tứ kiếm: Mai, Lan, Cúc, Trúc. Tiêu Phong nhanh mắt, vừa nhìn đã biết ngay là Đoàn Dự nằm dưới đất. Ông vội nhảy phóc tới ẵm Đoàn Dự lên, chau mày nói:
- Vết thương lại vỡ, ra nhiều máu lắm!
Ông quỳ chân trái xuống, để tựa người chàng lên đùi đặng nhìn vết thương. Hư Trúc chạy lại gần nhìn vết thương Đoàn Dự nói:
- Đại ca bất tất phải hoang mang. Thuốc "Cửu chuyền hùng xà hoàn" của tiểu đệ trị thương rất linh nghiệm.
Hư Trúc nói xong, giơ tay ra điểm vào vết thương Đoàn Dự để cầm máu, rồi lấy "Cửu chuyền hùng xà hoàn" cho chàng uống. Đoàn Dự sắc mặt lợt lạt, thoáng lộ nụ cười nói:
- Đại ca! Nhị ca! Đừng để chúng móc mắt Chung cô nương!
Tiêu Phong và Hư Trúc đồng thời nhìn về Du Thản Chi. Du Thản Chi trong lòng sợ hãi đang nắm đầu Chung Linh vội buông ra. A Tử nghe biết rõ là thanh âm của Tiêu Phong liền hỏi:
- Tỷ phu! Tỷ nương lúc lâm tử đã dặn tỷ phu những gì? Tỷ phu đánh chết Tỷ nương, rồi những lời dặn dò cũng quên luôn cả hay sao?
Tiêu Phong nghe A Tử nhắc đến A Châu thì vừa thương tâm vừa oán hận, ông hắng giọng một tiếng chứ không trả lời. A Tử lại nói:
- Tỷ phu chẳng chiếu cố gì đến ta. Đinh lão quái làm ta đui mắt, tỷ phu cũng chẳng quan tâm. Tỷ phu! Ai cũng bảo tỷ phu là đệ nhất đại anh hùng ngày nay, thế mà chẳng bảo vệ được cho đứa em bé nhỏ. Chẳng lẽ tỷ phu không có bản lãnh đáng kể chăng? Hừ! Rõ ràng Đinh lão quái không địch nổi tỷ phu thì bản lãnh tỷ phu không phải tầm thường. Có điều tỷ phu chẳng muốn nhìn nhõi gì đến ta hay bảo vệ cho ta mà thôi.
Tiêu Phong nói:
- Ngươi đột nhiên không từ biệt bỏ đi thì ta biết là ngươi đi đâu? Nhưng cặp mắt ngươi bị đui mù mà trách ta là bảo vệ không chu toàn thì lòng ta thực cũng áy náy.
Hồi Thứ 127
Nhìn cảnh cũ đau lòng hào kiệt
Ban đầu Tiêu Phong thấy A Tử làm điều càn rỡ, sai người móc mắt Chung Linh thì trong lòng tức giận vô cùng, nhưng ông thấy cặp mắt nàng vô thần, lại nhớ ngay tới lời dặn của A Châu lúc lâm tử mà không bao giờ ông quên được. Thảm kịch dĩ vãng lại hiện ra trước mắt.
Hôm ấy trời đang mưa to gió lớn, A Châu bị ông đánh lầm một đòn trí mạng bên cầu đá xanh. Nàng nói: Tiểu Muội chỉ có một đứa em cùng cha khác mẹ sinh ra từ thuở nhỏ, hai chị em không được ở với nhau, khẩn cầu Kiều ca ca chiếu cố cho y. Tiểu muội vẫn lo lắng là y đi theo một đường lối khác. Rồi ông bảo nàng: Đừng nói một điều, ngay trăm ngàn điều, tiểu huynh cũng ưng chịu. Thế mà A Tử suốt đời chạy theo con đường khác lại hỏng đến cả hai mắt.
Ông lẩm bẩm:
- Bất luận y làm nên tội vạ gì mà mình không bảo vệ cho y được chu đáo cũng là trái với lời hứa trước.
Tiêu Phong nghĩ tới đây, trong lòng chua xót, nét mặt ôn hòa trở lại. A Tử tuy không nhìn thấy mặt Tiêu Phong, nhưng nàng ở với ông lâu ngày nên đã hiểu rất rõ tính tình ông, chỉ cần nhắc đến A Châu thì dù việc khó đến đâu, ông cũng thuận theo.
Nàng căm hận Chung Linh mắng mình là đứa đui mù, nàng rủa thầm:
- Ta phải cho mi nếm cái mùi vị làm kẻ đui mù mới được.
Nàng liền mặt buồn rười rượi thở dài, nhìn Tiêu Phong nói:
- Tỷ phu ơi! Mắt tiểu muội đui mù rồi, chẳng nhìn thấy chi hết. Thà là chết đi còn hơn.
Tiêu Phong an ủi nàng:
- Ngươi hãy theo gia gia quay về nước Đại Lý. Ở nơi vương phủ cực kỳ phồn hoa phú quý trăm, ngàn kẻ hầu người hạ thì dù đui mắt tưởng cũng không đến nỗi khó chịu cho lắm.
A Tử nói:
- Mẫu thân tiểu muội không phải là một vị vương phi chân chính. Tiểu muội về Đại lý, càng xảy ra bo nhiêu sự bất ngờ phiền phức. Huống chi mình lại đui mù thì khó lòng đề phòng được kẻ khác âm mưu ám hại.
Tiêu Phong thấy lời nàng nói cũng có lý, liền bảo:
- Vậy ngươi theo ta về Nam Kinh, ta phái người phục thị ngươi, thì chẳng còn lo gì nữa, hơn là dấn thân vào những cuộc phong ba trên chốn giang hồ.
A Tử nói:
- Lại trở về vương phủ của tỷ phu ư? Trời ơi! Trước kia, tiểu muội chưa bị đui mắt mà còn buồn đến sinh bệnh, bây giờ còn về đó làm chi nữa? Tỷ phu lại chẳng giống như Vương bang chúa. Vương chưởng môn kia nhất thiết y đều phải nghe tiểu Muội, không dám trái lệnh, vậy tiểu Muội thà rằng chịu trôi nổi trên chốn giang hồ điên đảo, còn có được một chút sinh thú.
Tiêu Phong liếc mắt nhìn Du Thản Chi nghĩ bụng:
- Vụ này mình chẳng nên gây vào nữa. Xem chừng A Tử thân thiết với anh chàng Vương bang chúa Cái Bang kia lắm.
Rồi ông chợt cảm thấy có điều gì càng thêm chán ghét Du Thản Chi, quay nhìn ra phía khác hỏi:
- Ngươi đã hỏi lai lịch vị Vương huynh kia bao giờ chưa?
A Tử đáp:
- Dĩ nhiên là tiểu muội đã hỏi rồi. Có điều nói về lai lịch một cá nhân nào, chưa chắc đã tin vào đó cả được. Ngay như tỷ phu, trước kia, làm Bang chúa Cái Bang có chịu nói cho người ngoài biết mình là người Khất Đan không?
Tiêu Phong thấy nàng nói câu nào cũng có châm chọc mình thì rất là khó chịu. Ông chỉ đằng hắng một tiếng rồi không nói gì nữa. Ông không quyết định được là có nên bỏ mặc A Tử đi theo Vương Tinh Thiên nữa hay thôi.
A Tử lại nói:
- Tỷ phu! Tỷ phu không ngó ngàng gì đến tiểu muội nữa ư?
Tiêu Phong chau mày hỏi lại:
- Ngươi muốn ta làm gì cho ngươi bây giờ?
A Tử đáp:
- Việc này dễ lắm! Tỷ phu móc cặp mắt vị tiểu cô nương kia, làm mắt giả cho tiểu Muội.
Ngừng một lát nàng nói tiếp:
- Vương Bang chúa đã thuận theo tiểu muội làm việc này. Nếu tỷ phu không đến phá đám thì đã ổn rồi. Hừ! Bây giờ tỷ phu làm cho cũng được. Tiểu muội biết tỷ phu đối với tiểu Muội rất tốt. Trước kia, tỷ phu đánh gãy xương sườn tiểu muội rồi liền ẵm tiểu muội đến Quảng Đông để điều trị. Ngày ấy tiểu muội bảo gì tiểu phu cũng nghe theo và cũng làm cho. Chúng ta cùng ở trong lều, tỷ phu ẵm tiểu muội suốt ngày đêm không rời ra nửa bước. Thế mà bây giờ tỷ phu quên hết rồi ư?
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thì dường như gã nổi cơn ghen, quắc mắt nhìn Tiêu Phong đầy vẻ hung dữ, oán hờn, tựa hồ như bảo ông:
- A Tử cô nương là của ta. Ngươi đừng có đụng vào.
Tiêu Phong không để ý đến thái độ gã, thản nhiên đáp:
- Ngày ấy, ngươi bị trọng thương, ta phải đem chân khí mình để tiếp mạng sống cho ngươi. Ngươi có sống thì mới tìm thầy chữa thuốc được, nên ta phải thuận theo lời ngươi. Vị cô nương đây là bạn của nghĩa đệ ta, khi nào ta lại đi móc mắt cô để chữa cho ngươi. Huống chi trên đời chưa có thứ y thuật này, chữa làm sao được? Vậy ngươi bỏ ý niệm đó đi.
Hư Trúc đột nhiên nói xen vào:
- Tiểu đệ xem ra cặp mắt Đoàn cô nương chẳng qua bị hư hỏng bề ngoài mà thôi, nếu được đôi mắt người sống thay vào, thì có khi cô lại trông rõ cũng chưa biết chừng.
Nên biết, phái Thiên Diệp có nhiều tay y thuật thông thần, tỷ như Diêm Vương Địch Tiết Thần Y, sư điệt Hư Trúc chẳng hạn. Hư Trúc tuy không hiểu biết nhiều về y thuật, nhưng y từng đi theo Thiên Sơn Đồng Mỗ mấy tháng, nên đã được nghe mụ nói về cách thay tay, nối chân.
A Tử reo lên một tiếng vui mừng hỏi:
- Hư Trúc tiên sinh! Tiên sinh nói thật hay là lừa gạt ta?
Hư Trúc đáp:
- Người xuất gia không nói dối...
Y chưa dứt lời, sực nhớ ra hiện giờ mình không còn là người xuất gia nữa thì thẹn đỏ mặt lên, nói tiếp:
- Tại hạ không lừa gạt cô đâu, nhưng...
A Tử hỏi ngay:
- Nhưng làm sao? Hư Trúc tiên sinh! Tiên sinh đã cùng tỷ phu ta kết nghĩa kim lan. Vậy chúng ta là người một nhà. Tiên sinh vừa nghe lời tỷ phu ta nói đó. Ngươi thương xót ta lắm. Tỷ phu! Tỷ phu! Bất luận thế nào tỷ phu cũng nhờ nghĩa đệ chữa mắt cho tiểu Muội!
Hư Trúc nói:
- Tại hạ từng nghe sư bá bảo: "Nếu mắt ai chưa bị hư hỏng hoàn toàn, thì có thể lấy tròng người sống thay vào cho sáng được." Nhưng tại hạ lại không biết cách đổi mắt.
A Tử nói:
- Thế thì nhất định sư bá tiên sinh biết cách chữa. Xin tiên sinh năn nỉ lão gia đó chữa cho ta.
Hư Trúc thở dài nói:
- Sư bá tại hạ bất hạnh đã qua đời rồi.
A Tử dậm chân la lên:
- Té ra tiên sinh nói vậy là cố ý làm cho ta mừng hụt.
Hư Trúc lắc đầu lia lịa đáp:
- Không phải thế! Không phải thế! Tại cung Linh Thứu núi Phiêu Diễu có rất nhiều sách thuốc. Tại hạ tin rằng, sách dậy cách thay mắt cũng cất trong cung nàỵ Nhưng... nhưng...
A Tử vừa mừng vừa băn khoăn hỏi:
- Tiên sinh là bậc đại trượng phu thì ăn nói phải cho nhất mực, sao còn ấp úng hoài? Làm gì mà phải nhưng thế nọ với nhưng thế kia mãi?
Hư Trúc đáp:
- Nhưng người ta ai cũng chỉ có đôi mắt, còn ai chịu đổi cho cô nữa?
A Tử cười hì hì đáp:
- Ta tưởng điều gì khó khăn kia chứ? Cặp tròng mắt của người sống thì dễ quá. Công tử cứ móc cặp tròng của vị tiểu cô nương kia là được.
Chung Linh thét lên:
- Không được! Không được! Các ngươi không thể móc mắt ta được.
Hư Trúc nói:
- Phải rồi! Suy bụng ta ra bụng người. Cô nương không muốn đui mắt thì Chung cô nương cũng không muốn mất tròng mắt. Đức Khổng tử đã nói: "Mình mà không muốn điều chi thì đừng bắt người khác phải chịu." Huống chi Chung cô nương lại là bạn thân của tam đệ.
Y nói đến hai chữ bạn thân thì trong lòng thốt nhiên rung động, la thầm:
- Trời ơi! Hỏng rồi! Ngày nọ ở cung Linh Thứu, mình cùng tam đệ uống rượu thổ lộ tâm tình. Té ra ý trung nhân của y lại là Mộng Cô của mình. Bây giờ xem chừng Chung cô nương này lại rất thân thiết với tam đệ. Chả thế mà A Tử đòi móc mắt nàng, y lại bảo móc mắt y chứ đừng làm hại Chung cô nương. Trong ngũ quan con người thì mắt là trọng yếu hơn cả. Tam đệ đã vì Chung cô nương mà chịu hy sinh đôi mắt thì đủ biết mối tình của y đối với nàng thắm thiết đến chừng nào? Chả lẽ Chung cô nương lại là Mộng Cô đã đụng đầu với mình ba đêm trong thời kỳ ở nhà hầm nước đá?
Hư Trúc nghĩ tới đây vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Người y run lên, quay lại ngó trộm Chung Linh, thấy nàng tuy mặt đầy tàn tro bụi lem luốc, nhưng cũng không che dấu được vẻ xinh đẹp. Hư Trúc cùng Mộng Cô tuy gặp nhau trong những quãng thời gian khá lâu, nhưng ở trong hầm nước đá, ngày cũng tối như đêm, nên diện mạo Mộng Cô thế nào, y chẳng biết một tý gì. Trừ phi y đã đưa tay ra sờ vào mặt ả mới cảm giác được chút. Nhưng bây giờ, giữa lúc thanh thiên bạch nhật, bao nhiêu cặp mắt dòm vào, khi nào y dám đưa tay ra sờ mặt Chung Linh?
Hư Trúc ở vào tình trạng bàng hoàng không có chủ định. Y lắng tai nghe thanh âm thì Chung Linh và Mộng Cô có chỗ khác nhau. Nhưng y lại nghĩ rằng thanh âm nói trong nhà hầm nước đá, huống chi, khi đó Mộng Cô lại nói nhỏ bằng một giọng cực kỳ ôn nhu, mềm mỏng, mà bây giờ Chung Linh vì khủng khiếp thét lên thì dĩ nhiên là thanh âm không giống trước được. Về điểm này chẳng có chi là lạ.
Hư Trúc chú ý nhìn Chung Linh. Lòng y tưởng chừng như mình đưa tay ra nhẹ nhàng vuốt má nàng. Chẳng hiểu có phải Mộng Cô hay không, xong mối tình ân ái khiến cho lòng rạo rực. Vẻ mặt y cũng tự nhiên biến thành ôn nhu, khả ái. Chung Linh nhìn vẻ mặt Hư Trúc không khỏi lấy làm kỳ. Nàng nghĩ rằng con người đầu trọc này (nguyên Hư Trúc đã hoàn tục nhưng tóc chưa mọc dài) vẻ mặt ôn hoà dịu chắc không đến nỗi móc mắt mình. Nàng nghĩ vậy nên cũng tạm khoan tâm.
A Tử lại nói:
- Hư Trúc tiên sinh! Ta là em ruột tam đệ của tiên sinh còn Chung cô nương đây bất quá là bạn y. Vậy em gái với bạn hữu đằng nào thân hơn? Chắc là tiên sinh đã biết rồi.
Đoàn Dự sau khi uống "Cửu chuyền hùng xà hoàn" của cung Linh Thứu được một lúc, thì vết thương không rỉ máu ra nữa. Thần trí chàng dần dần hồi tỉnh nhưng chuyện đổi mắt gì đó chàng chỉ nghe lờ mờ. Mãi mấy câu sau cùng của A Tử chàng hiểu rõ.
Chàng không nhịn được hắng giọng rồi hỏi:
- Té ra người đã biết trước cùng ta là chỗ thân tình cốt huyết. Thế mà sao ngươi còn kêu người toan hại tính mạng ta?
A Tử cười đáp:
- Tiểu ca ca! Ca ca nấp vào trong buồng chứa củi, tiểu muội có biết đâu? Về sau nghe thanh âm mới nhận ra. Cặp mắt của tiểu muội đui mù rồi chẳng nhìn thấy chi. Nếu ca ca không lên tiếng thì làm sao tiểu muội biết được?
Đoàn Dự nghe nàng nói đúng lý, liền bảo:
- Nếu nhị ca biết cách chữa mắt thì y sẽ tìm cách chữa cho ngươi. Còn bảo móc mắt Chung cô nương thì không được đâu!
A Tử hỏi:
- Vừa rồi ở bên kia núi Thiếu Thất, tiểu Muội đã nghe ca ca liều mạng để lấy lòng Vương cô nương, thế mà sao mới trong nháy mắt, đã lại thân thiết với Chung cô nương đến thế?
Đoàn Dự nghe A Tử nói, thẹn đỏ mặt, gạt đi:
- Ngươi nói nhăng gì thế?
A Tử đáp:
- Giả tỷ Chung cô nương đây là chị dâu tiểu muội thì dĩ nhiên không thể đụng đến đã đành. Nhưng nàng không phải là chị dâu tại sao lại không đụng đến mắt nàng được? Tiểu muội xin hỏi ca ca: Chung cô nương có phải là chị dâu tiểu muội không?
Hư Trúc liếc mắt ngó Đoàn Dự, trống ngực đánh thình thình. Y chưa biết rõ Chung Linh có phải là Mộng Cô không? Không phải thì chẳng nói làm chi, nhưng nếu đúng là tình nhân trong mộng của mình mà để Đoàn Dự lấy làm vợ thì còn ra thế nào?
Y đợi câu trả lời của Đoàn Dự mới trong nháy mắt mà y tưởng chừng như lâu đến hàng giờ. Chung Linh cũng nóng lòng chờ đợi câu trả lời của Đoàn Dự. Nàng nghĩ thầm:
- Té ra cô bé đui mù này là em gái Đoàn lang. Chính nàng cũng bảo chàng cố làm cho vừa lòng Vương cô nương thì ra đúng là chàng khao khát Vương cô nương lắm. Thế mà vừa rồi chàng còn bảo mình là sư nương của Nhạc lão Tam. Sao chàng chịu đem cặp mắt của chàng để thay vào, cho gã kia khỏi móc mắt ta?
Bỗng nghe Đoàn Dự đáp:
- Dù sao ta cũng không để ngươi làm hại Chung cô nương. Ngươi còn nhỏ tuổi thế mà đã làm bao điều càn rỡ hung tàn. Cả Lăng Thiên Lý ở nước Đại Lý chúng ta, cũng chính ngươi làm cho y phải tức mà chết. Nếu ngươi còn có lòng dạ đen tối thì nhị ca ta không chữa mắt cho ngươi đâu.
A Tử bĩu môi nói:
- Ca ca lên mặt huynh trưởng giáo huấn người ta rồi đó!
Tiêu Phong thấy tinh thần Đoàn Dự hãy còn mỏi mệt, nhưng đã nói liền được mấy câu, tỏ ra trung khí vươn lên khá nhiều, ông biết rằng "Cửu chuyền hùng xà hoàn" của cung Linh Thứu thiệt là thánh dược, và tính mạng chàng không có gì đáng lo ngại nữa.
Ông liền nói:
- Tam đệ! Chúng ta hãy vào trong nhà nghỉ một lúc rồi hãy tính.
Đoàn Dự đáp:
- Phải đấy!
Rồi chàng đứng dậy. Chung Linh vội la lên:
- Trời ơi! Công tử không nên cử động, cho vết thương lại vỡ ra.
Giọng nói cực kỳ quan thiết. Tiêu Phong cả mừng nói:
- Nhị đệ! Thuốc trị thương của nhị đệ thật là thần diệu vô cùng!
Hư Trúc ầm ừ mấy tiếng trong tâm y còn đang bâng khuâng về mấy câu nói của Chung Linh tỏ vẻ rất quan hoài đến Đoàn Dự. Y chưa biết nàng có phải là Mộng Cô hay không mà trong lòng đã cay đắng hoảng hốt, tưởng chừng như rớt một bảo vật cực kỳ quý giá.
Mọi người tiến vào trong nhà. Đoàn Dự lên giường ngồi. Bọn Tiêu Phong ngồi xuống trước giường. Bốn chị em Mai, Lan, Cúc, Trúc, kẻ pha trà, người thổi cơm, đêm lên cho Tiêu Phong, Đoàn Dự, Chung Linh và Hư Trúc, chứ không ngó gì đến Du Thản Chi cùng A Tử.
A Tử trong lòng căm hận vô cùng. Giả tỷ trước kia gặp trường hợp này, thì nàng chẳng ám hại bốn cô hầu cung Linh Thứu cũng rũ áo bỏ đi ngay. Nhưng lúc này, nàng nghĩ tới cặp mắt cho sáng lại là cực kỳ quan hệ, cần phải cầu khẩn đến Hư Trúc, nên đành dẹp lửa giận xuống không nói gì.
Tiêu Phong vốn là người hào sảng, khi nào ông còn để ý đến A Tử có tức giận hay không? Tiện tay ông kéo cái ngăn bàn ở bên cạnh để xem trong có vật gì. Bất giác ông lộ vẻ sửng sốt. Du Thản Chi cùng Hư Trúc thấy ông vẻ mặt khác lạ đều để ý nhìn vào ngăn kéo thì bên trong thấy toàn đồ chơi của trẻ nít như con cọp đẽo bằng cây, con chó nặn bằng đất, hay cái lồng đựng dế. Ngoài ra còn mấy con dao nhỏ. Đó là những vật thường thấy ở nhà nông, chẳng có chi kỳ dị. Tiêu Phong cầm con hổ lên thộn mặt ra mà coi.
A Tử không biết ông làm gì. Nàng vốn tính ưa được người ta chiều chuộng và muốn người ta để ý nghe lời mình nói. Nhưng Tiêu Phong và Hư Trúc có lòng chán ghét Du Thản Chi nên hờ hững cả với nàng, không nói gì đến. Nàng tức quá, vung tay lên đập một cái trúng vào chiếc xe bằng hoa bông gạo. Nàng đưa tay về sau lưng, rút kiếm ra chém chiếc xe này đứt làm đôi.
Tiêu Phong đột nhiên biến sắc quát lên:
- Ngươi... ngươi làm gì thế?
A Tử đáp:
- Cái xe này làm đau tay tiểu muội, nên chém nó vỡ ra thì đã sao?
Tiêu Phong tức giận thét lên:
- Ngươi cút đi! Sao ngươi được phá huỷ đồ vật trong nhà này?
A Tử sẵng giọng:
- Đi thì đi chứ cần gì?
Rồi nàng hùng hục bước đi. Không ngờ đang lúc nóng giận nàng đi lẹ quá, va đầu vào cửa đánh "binh" một tiếng. Nàng vẫn không nói gì, sờ soạng tìm đường rồi vẫn hấp tấp chạy đi.
Tiêu Phong thấy thế không khỏi đau lòng. Ông chạy lại nắm lấy vai nàng ôn tồn hỏi:
- A Tử! Ngươi có đau không?
A Tử quay lại, nhảy xổ vào lòng ông rồi khóc rống lên. Tiêu Phong khẽ vỗ lưng nàng nói nhỏ:
- A Tử! Ta đối với ngươi tàn bạo như thế là không phải.
A Tử vừa khóc vừa nói:
- Tỷ phu biến tính rồi! Tỷ phu biến tính rồi! Tỷ phu đối với tiểu muội không được như trước nữa.
Tiêu Phong nói:
- Ngươi hãy ngồi xuống đây uống trà đã.
Rồi ông cầm chén trà để vào bên miệng A Tử. Tay trái ông ôm lấy lưng nàng. Ta nên nhớ rằng, ngày trước A Tử bị Tiêu Phong đánh gãy xương sườn, ông săn sóc nàng hơn một năm trời. Nào bón cơm nước, nào thay quần áo, chải đầu rẽ tóc. Bất cứ việc gì cũng làm cho nàng. Một là ông nhớ tới lời dặn của A Châu, hai là nhận mình quá nặng tay làm nàng bị thương, nên ông tận tâm phục thị, coi nàng như cô em út, tuyệt không nghĩ đến tình trai gái.
Ngày ấy A Tử bị gãy xương sườn không thể ngồi được. Khi ông đổ thuốc cho nàng, bao giờ cũng phải một tay giữ người nàng rồi thành thói quen. Bây giờ ông cho nàng uống trà cũng giữ như vậy.
A Tử ở trong tay Tiêu Phong uống trà trong lòng vui sướng mỉm cười hỏi:
- Tỷ phu! Bây giờ tỷ phu còn đuổi tiểu muội nữa không?
Tiêu Phong buông nàng ra, quay lại đặt chén trà lên bàn. Lúc này trời đã gần tối, đột nhiên mắt ông chạm phải hai tia nhỡn quang hung dữ đầy vẻ oán hờn chiếu thẳng vào mặt ông. Tiêu Phong cũng hơi rùng mình nhìn ra thì là Du Thản Chi đang ngồi dưới đất góc nhà. Gã nghiến răng ken két, mũi thở phập phồng, dường như muốn nhảy xổ lại cắn ông.
Tiêu Phong tự hỏi:
- Không hiểu gã này lai lịch ra sao? Mà ở đâu gã cũng có thái độ cổ quái?
Bỗng nghe A Tử lại hỏi:
- Tỷ phu! Tiểu muội phá vỡ cái xe làm gì mà tỷ phu cáu giận thế?
Tiêu Phong thở dài đáp:
- Đây là nhà nghĩa phụ, nghĩa mẫu ta. Ngươi đập tan cái xe của nghĩa mẫu ta, khiến cho ta phải đau lòng.
Mọi người giật mình kinh hãi. Đoàn Dự hỏi:
- Có phải đại ca đã cứu tiểu đệ đem về đây không?
Tiêu Phong gật đầu đáp:
- Phải rồi!
Ông cầm con cọp bằng cây đặt lên bàn tay to tướng.
Hồi Thứ 128
Dời Phật địa đau lòng Hư Trúc
Lúc này trời đã tối mịt.
Cúc kiếm thắp ngọn đèn dầu lên ánh đèn lửa vàng khè in bóng Tiêu Phong lớn như ông Hộ pháp vào bức tường đất. Tay ông bóp khẽ một cái, con cọp nhỏ bằng cây nát ra như cám. Ông từ từ mở bàn tay ra, mặt lộ vẻ thương tiếc.
Mắt ông dịu hiền nói:
- Nghĩa phụ nghĩa mẫu cho ta con cọp này khi ta mới lên năm. Khi đó, ta kêu nghĩa phụ bằng gia gia... bên ngọn đèn dầu này, gia gia ngồi đẽo con cọp. Má má ngồi trong chiếc xe này. Ta ngồi dưới chân gia gia, nhìn thấy con cọp đã có tai có mũi, ta thích quá...
Bọn Đoàn Dự và Hư Trúc đều biết Tiêu Phong gặp cơn bất hạnh rồi được vợ chồng Kiều Tam Hoè nuôi nấng cho ông khôn lớn. Nhưng cha ruột ông là Tiêu Viễn Sơn lại giết chết vợ chồng Kiều Tam Hoè. Lúc này, ông nhớ tới nguồn ân ái của cha mẹ nuôi đối với ông mà ông khôn xiết ngậm ngùi thương cảm!
*
Nguyên lúc vị Thần tăng vô danh kia đang thuyết pháp cho mọi người nghe thì Cưu Ma Trí đột nhiên hạ độc thủ đả thương Đoàn Dự. Vô danh lão tăng liền phất tay áo bào đẩy Cưu Ma Trí ra xa mấy trượng. Cưu Ma Trí không dám chần chờ nữa, băng mình chạy xuống núi dông tuốt. Tiêu Phong thấy Đoàn Dự bị trọng thương, vội vàng lại cứu cấp. Huyền Sinh đại sư chùa Thiếu Lâm đã đưa linh dược trị thương, nhưng Đoàn Dự bị chiêu "Hoả diệm đao" của Cưu Ma Trí cực kỳ lợi hại. Giả tỷ, nội lực chàng không được thâm hậu, ánh kình tự nhiên phát sinh đề kháng thì thế nào đao này đã làm chàng chết uổng mạng ngay đương trường.
Lúc ấy, Tiêu Phong lại trị thương cầm máu, vận khí để tiếp tục cho chàng thì bên này Tiêu Viễn Sơn cùng Mộ Dung Bác đã sụp lạy Thần tăng xin làm đồ đệ và chính thức quy y cửa Phật.
Sau khi nghe nhà sư già thuyết giảng, mọi người đều hoan hỉ. Thần Quang thượng nhân, Triết La Tinh mấy vị cao tăng bên ngoài trở về bản tự, bọn Huyền Tịch, Huyền Sinh theo ra tiễn chân. Ba La Tinh quyết định ở lại Trung Thổ.
Triết La Tinh ngậm ngùi nói:
- Sư đệ! Bữa nay ta từ biệt trở về Thiên Trúc. Từ đây, quan san muôn dặm, biết ngày nào cho được trùng phùng? Sư đệ quyết ý không trở về cố hương nữa, định bỏ mình ở Trung Nguyên hay sao?
Ba La Tinh cười đáp:
- Sao sư huynh còn chưa giác ngộ? Thiên Trúc cũng là Trung Thổ mà Trung Thổ cũng là Thiên Trúc. Trước kia Đạt Ma tổ sư cũng đã đông lai đấy thôi!
Triết La Tinh trong lòng rung động nói:
- Một lời của sư đệ chỉ điểm làm cho ta tỉnh ngộ. Ngươi không phải là sư đệ ta nữa mà là sư phụ ta.
Ba La Tinh tươi cười nói:
- Vào cửa thiền, chẳng phân biệt kẻ trước người sau, cùng là giác ngộ sớm hay muộn. Sớm cũng hay mà muộn cũng hay, hễ giác ngộ là được.
Hai người trông nhau tươi cười, mấy chục năm trời là sư huynh sư đệ, đến bây giờ mới chân chính không trái tâm tư của mình.
Tiêu Phong ẩn mình một bên chờ cho bọn Thần Quang, Đạo Thanh, Triết La Tinh xuống núi rồi, ông mới từ từ theo sau. Ông vừa đi được mấy bước thì trong chùa lại có người nữa đi ra. Chính là Hư Trúc.
Hai người sóng vai mà đi chừng được hơn mười trượng thì bốn cô Mai, Lan, Trúc, Cúc cũng ở trong rừng chạy ra, đi theo sau Hư Trúc. Hư Trúc hỏi đến quần nữ cung Linh Thứu và quần hào ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, thì đều đã xuống núi đi cả rồi. Bọn võ sĩ Khất Đan mười tám tên cũng đi với mọi người, chắc quần hào Trung Nguyên không dám động đến.
Hư Trúc còn nói đã đem Đinh Xuân Thu giao cho viện giới luật chùa Thiếu Lâm quản cố. Cứ mỗi năm, nhằm vào hai ngày tiết Đoan Ngọ và tiết Trùng Dương thì nhà sư chùa Thiếu Lâm sẽ cho hắn uống thuốc của cung Linh Thứu để hắn khỏi khổ sở vì "Sinh tử phù" phát tác. Sinh mạng hắn như vậy là ở trong tay người, chắc hắn không dám làm điều càn rỡ nữa.
*
Nhắc lại bọn Tiêu Phong đang ở nhà cha má nuôi Tiêu Phong. Bọn Tiêu Phong đang bàn cách đối phó với Ðoàn Diên Khánh. Sợ Ðoàn Diên Khánh sẽ làm phương hại đến gia gia của Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự nói:
- Ðoàn Diên Khánh là kẻ đối đầu lợi hại với nhà tiểu đệ. Tiểu đệ sợ lão gia tìm đến gia phụ để sinh sự.
Tiêu Phong nói:
- Việc đó quả đáng lo thiệt. Để tiểu huynh đi tìm lão bá đặng tiếp ứng.
Tiêu Phong nói xong đứng dậy đi ra khỏi phòng. Giữa lúc ấy, Mai kiếm bưng cháo lên cho Đoàn Dự ăn thì nghe mọi người bàn bạc, liền nói:
- Tiêu đại hiệp! Đại hiệp bất tất phải tìm kiếm. Tỳ nữ xin chủ nhân ra lệnh cho bọn thuộc hạ cung Linh Thứu tìm kiếm khắp nơi. Nếu Đoàn Diên Khánh có ý hành hung lão gia thì lập tức đốt cây bông làm hiệu, bọn nô tỳ đi tiếp viện. Như vậy có được không?
Tiêu Phong cả mừng đáp:
- Thế thì hay lắm! Bọn thuộc hạ cung Linh Thứu có đến dư ngàn người, chia đi các ngả theo dõi thì mau chóng hơn mấy người chúng ta đây nhiều.
Mai kiếm liền đi phát hiệu lệnh.
Nguyên bọn thuộc hạ cung Linh Thứu đã có cách liên lạc rất mau chóng. Từ lúc Hư Trúc vào nghỉ trong nhà Kiều Tam Hoè, quần nữ bộ Huyền Thiên đã được tin ngay. Bộ này dưới quyền điều động của Phù Mẫn Nghi đã tới nơi và tản mát trong các khu phụ cận để bảo vệ cho y.
Đoàn Dự yên tâm rồi lại nhớ tới Vương Ngọc Yến. Chàng lẩm bẩm:
- Chuyến này Vương cô nương giận ta đến cực điểm, e rằng sau này có gặp nàng, nàng cũng không ngó ngàng gì đến ta nữa.
Rồi chàng thở dài thườn thượt. Chung Linh rất đỗi quan hoài, hỏi ngay:
- Vết thương công tử đau lắm ư?
Đoàn Dự đáp:
- Không đau mấy đâu!
A Tử nói xen vào:
- Chung cô nương! Xem chừng cô nương quan tâm đến ca ca ta lắm, nhưng cô chưa hiểu được tâm sự y. Ta xem chừng y đang có mối tương tư và lòng dạ hoang mang vô cùng!
Chung Linh nói:
- Ta có nói với ngươi đâu mà ngươi chõ miệng vào?
A Tử cười nói:
- Ta chõ miệng vào cũng chả sao. Ta chỉ sợ còn có cô xinh đẹp và ôn nhu gấp mười ngươi chen vào thì ca ca ta sẽ bỏ rơi ngay ngươi đó. Tại sao ca ca ta lại thở dài ngươi có biết không? Người ta thở dài khi nào trong lòng chưa thoả mãn. Tỷ như ngươi hầu hạ ca ca ta, trong lòng ngươi tự mãn tự túc nên ngươi không thở dài. Còn ca ca ta thở ngắn, thở dài là vì y nghĩ tới cô khác đó.
A Tử không có cách nào móc được mắt Chung Linh, nàng vẫn ấm ức trong lòng. Bây giờ nàng liền tìm cơ hội châm chọc khiến đối phương phải đau lòng cho bõ ghét.
Nguyên Chung Linh rất căm hận A Tử nhưng nghe nàng nói mấy câu này nghe rất có lý thì lòng tức giận đổi ngay ra lòng sầu muộn. Cô còn nhỏ tuổi, vốn tính hoạt bát. Tuy cô có chung tình với Đoàn Dự, nhưng chưa phải là mối tình quyến luyến, chép xương ghi dạ. Có điều cô thấy mình quấn quít bên chàng thì trong lòng được an ủi rất nhiều, vui mừng khôn tả. Đoàn Dự mà đem lòng nghĩ tới người khác, không hết lòng vì cô thì dĩ nhiên cô rất lấy làm khó chịu, nhưng cũng chẳng biết làm thế nào.
Đoàn Dự vội nói:
- Chung cô nương! Cô nương đừng nghe lời láo khoét của đứa đui mù.
A Tử từ sau khi bị đui mắt, nàng căm hận nhất là kẻ nào nói tới hai chữ đui mù. Giả tỷ Đoàn Dự chỉ bảo là nàng nói nhăng, nói càn thì cũng cười xoà. Nhưng chàng lại nói đến hai chữ đui mù, nên A Tử giận lắm, xẵng giọng hỏi:
- Ca ca! Tiểu Muội xin hỏi thật ca ca yêu Vương cô nương hay là yêu Chung cô nương hơn? Vương cô nương đã ước hẹn với tiểu muội là ngày mai sẽ cùng nhau hội kiến. Ca nói câu gì, tiểu muội sẽ mách nàng.
Đoàn Dự nghe nói vậy liền ngồi dậy hỏi:
- Vương cô nương ước hẹn ngày mai gặp ngươi ư? Gặp ở đâu? Có việc gì thương nghị?
Chung Linh thấy Đoàn Dự hốt hoảng như vậy thì không cần nói cũng biết ngay là chàng thương nhớ kẻ tình địch kia hơn mình nhiều. Cô là người tính tình mau lẹ. Lúc đầu cô vừa nghe thấy rất lấy làm khó chịu, nhưng sau cũng nhạt dần. Giả tỷ Vương Ngọc Yến ở vào địa vị Chung Linh, biết tin ý trung nhân của mình đem chia xẻ mối tình với người khác thì dù ngoài mặt có thản nhiên mà trong lòng thê thảm đến muốn tự tử. Nếu là Mộc Uyển Thanh thì lập tức nàng đã bắn Đoàn Dự một phát rồi. Nếu là A Tử thì đã tìm cách hạ sát tình địch.
Chỉ có Chung Linh là thản nhiên bảo chàng:
- Công tử đừng ngồi dậy. Phải cẩn thận kẻo vết thương lại vỡ ra chảy máu nữa.
Hư Trúc ngồi bên để ý quan sát tình trạng mấy người. Y nghĩ thầm:
- Chung cô nương đối với tam đệ đã có một mối tình sâu xa như vậy thì chắc nàng không phải là Mộng Cô của ta. Nếu nàng đúng là Mộng Cô mà nghe tiếng ta nói thì không có lý nào lại thản nhiên được.
Nhưng chàng lại lẩm bẩm:
- À, không phải! Đồng Mỗ cùng Lý Thu Thủy sư thúc cho đến Dư bà, Thạch tẩu, Phù cô nương, bao nhiêu người đàn bà, họ đều có con mắt khác bọn đàn ông mình. Biết đâu Chung cô nương chẳng phải là Mộng Cô. Nàng nhận ra ta rồi mà tuyệt không lộ vẻ gì mới che mắt được ta.
Đoàn Dự vẫn hỏi dồn A Tử là ngày mai nàng ước định gặp Vương Ngọc Yến ở đâu. A Tử thấy chàng nóng nảy thì trong lòng tính trêu chàng một phen chơi. Biết đâu chẳng thu lượm được một kết quả gì?
Nghĩ vậy nàng liền kéo dài câu chuyện. Giữa lúc ấy, Lan kiếm tiến vào bảo nói là bộ Huyền Thiên đã truyền hiệu lệnh đi rồi, xin Đoàn Dự cứ yên lòng.
Đoàn Dự nói:
- Đa tạ tỷ tỷ đã nhọc lòng. Tại hạ rất cám ơn.
Lan kiếm thấy chàng là bậc Vương tử nước Đại Lý, địa vị cao sang mà ăn nói tuyệt không bậc kiêu kỳ thì đối với chàng có mối hảo cảm. Ả nghe Đoàn Dự gạn hỏi A Tử về cuộc ước hẹn ngày mai, không nhịn được nữa cũng nói xen vào:
- Đoàn công tử! Lệnh Muội nói đùa mà công tử cũng cho là thật ư?
Đoàn Dự hỏi lại:
- Sao tỷ tỷ lại biết là tử Muội nói đùa?
Lan kiếm cười đáp:
- Nô tỳ nói ra sợ Đoàn cô nương trách mình lắm miệng. Không hiểu chủ nhân có cho phép chăng?
Đoàn Dự vội hỏi Hư Trúc:
- Nhị ca! Nhị ca bằng lòng cho vị tỷ tỷ này nói thật chứ?
Hư Trúc gật đầu, quay lại bảo Lan kiếm:
- Vị này là anh em kết nghĩa với ta. Y cũng như chính ta đâu. Vậy có việc gì, các ngươi bất tất phải dấu giếm.
Lan kiếm cười nói:
- Chính mắt chủ nhân cũng nhìn thấy rồi mà! Mộ Dung công tử cùng đoàn tuỳ tùng của y, nói là sang nước Tây Hạ để cùng công chúa cầu thân. Cả Vương cô nương cũng đi theo biểu ca nàng. Hiện giờ, có lẽ bọn họ đã đi xa đến mấy trăm dặm rồi. Như vậy có lý nào lại ước hẹn cùng Đoàn cô nương tương hội ngày mai được?
A Tử chúm môi nói:
- Con nha đầu thối tha kia! Mi đã biết là ta mắng mi lắm miệng, sao mi còn nói ra? Bọn mi bốn đứa, đều lẻo mép và hay nói leo. Chủ nhân mi đang nói chuyện với bọn ta mà tụi mi cũng dúng miệng vào?
Bỗng ngoài cửa sổ có thanh âm thiếu nữ nói vọng vào:
- Đoàn cô nương! Sao cô nương lại mắng tỷ tỷ tại hạ? Cô nương nên biết rằng chính tại hạ giữ chìa khoá Thần nông và cung Linh Thứu. Nếu cô nương muốn chủ nhân tại hạ chữa mắt cho thì phải tay tại hạ về Thần nông các, tìm sách thì không xong.
Người nói đó chính là Cúc kiếm. A Tử run lên lẩm bẩm:
- Con nha đầu thối tha này chỉ sợ nói thực. Nhà sư chết băm chết bầm kia chưa kịp chữa mắt cho mình, thì mình không thể làm mất lòng con nha đầu này được, vì nó có thể thọc gậy bánh xe bằng cách ngấm ngầm đổi thuốc làm hư công cuộc chữa mắt cho mình. Chà! Để bản cô nương chữa mắt xong rồi sẽ cho tụi mi biết thủ đoạn của ta.
Đoàn Dự nhìn Lan kiếm nói:
- Đa tạ tỷ tỷ đã cho hay tin đó.
Rồi chàng quay lại hỏi với Tiêu Phong:
- Đại ca! Có phải cả bọn Mộ Dung công tử đều qua Tây Hạ cả không?
Tiêu Phong gật đầu đáp:
- Đúng thế! Tiểu huynh cũng nghe mong manh. Lúc Mộ Dung cáo từ phụ thân, y có nói là đi Tây Hạ.
Đoàn Dự trầm ngâm một lát rồi hỏi:
- Bọn y đi Tây Hạ có việc gì?
Hư Trúc nói:
- Tam đệ! Vụ này tiểu huynh biết rõ. Tiểu huynh nghe Công Dã Càn bảo trưởng lão Cái Bang: bọn chúng giữa đường gặp một tên đệ tử Cái Bang ở Tây Hạ quay về Trung Nguyên lấy được tấm bản văn của quốc vương Tây Hạ đem về. Trong bản văn nói công chúa đã tới tuần cập kê, định kén rể vào ngày trung thu tháng tám, có mời anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ thi văn, diễn võ, để kén kẻ sĩ tài mạo song toàn vào làm phò mã.
Trúc kiếm đứng ngoài cửa cũng nói chõ vào:
- Sao chủ nhân không qua Tây Hạ thử coi. Nếu Tiêu đại hiệp cùng Đoàn công tử không tranh đoạt thì chủ nhân có thể trúng tuyển làm phò mã Tây Hạ như trở bàn tay.
Bốn ả Mai, Lan, Cúc, Trúc tính tình vui vẻ. Đồng Mỗ coi bốn cô như con cháu. Tuy tiếng là chủ bộc mà thực ra như tình bà cháu. Trước kia Đồng Mỗ nghiêm khắc, bốn chị em cô còn sợ hãi, không dám phóng túng. Nhưng Hư Trúc rất ôn hoà, lại có vẻ kính cẩn họ, nên mấy cô không còn uý kỵ nữa.
Hư Trúc nghe Trúc kiếm nói vậy thì xua tay gạt đi:
- Không được! Không được! Ta là người xuất...
Y muốn nói là người xuất gia nhưng chưa dứt lời thì trong phòng Lan kiếm, Trúc kiếm, ngoài phòng Mai kiếm, Cúc kiếm đã đồng thời cùng cười ồ. Hư Trúc thẹn quá đỏ mặt lên, ngoảnh lại nhìn trộm Chung Linh thì thấy nàng ngây người ra ngó Đoàn Dự, dường như không để ý gì đến câu nói của mình.
Đột nhiên y động tâm tự nghĩ:
- Mình đã cùng Mộng Cô chạm mặt nhau tại nhà hầm nước đá, trong Vương cung nước Tây Hạ. Không chừng lúc này Mộng Cô còn ở Linh Châu cung. Tam đệ đã không chịu nói cho mình biết nàng ở đâu? Chi bằng mình qua Tây Hạ để dò la tin tức.
Hư Trúc còn đang ngẫm nghĩ thì Đoàn Dự hỏi:
- Nhị ca! Cung Linh Thứu của nhị ca ở gần nước Tây Hạ. Nay nhị ca có trở về thì cũng nên qua nước Tây Hạ một chuyến xem sao. Nên chăng? Trúc kiếm tỷ tỷ muốn nhị ca đi làm phò mã. Tuy đó là câu nói đùa nhưng tiểu đệ tưởng ngày trung thu tháng tám, hào kiệt bốn phương đều tới tụ hội ở Linh Châụ Thiệt là một cảnh náo nhiệt. Cả đại ca nữa. Đại ca bất tất phải về Nam Kinh làm chi. Chúng ta cùng nhau đến chơi Tây Hạ một chuyến. Đồng thời trở về cung Linh Thứu để thăm phong cảnh thiên sơn, và thưởng thức thứ rượu của Đồng Mỗ đã cất trăm năm, thiệt là một phen khoái lạc.
Hồi Thứ 129
Đoàn Dự qua Tây Hạ cầu hôn
Khi Tiêu Phong từ Nam Kinh lên đường xuống Nam để đến núi Thiếu Thất thì mười tám tên võ sĩ Khất Đan đã chứa rượu vào các bì để đem theo. Nhưng lúc này bọn võ sĩ không ở bên mình thành ra gần hai bữa nay ông không được uống rượu. Ông vừa nghe Đoàn Dự nói lên đến cung Linh Thứu để uống thứ rượu ngon đã trăm năm của Thiên Sơn Đồng Mỗ để lại, bất giác ông thèm nhỏ rãi, trên môi lộ một nụ cười.
A Tử đứng lên giục:
- Tỷ phu! Chúng ta đi thôi chứ.
Nàng biết rằng muốn chữa cặp mắt đui mù thì cần phải theo Hư Trúc đến Linh Thứu. Nhưng dù Tiêu Phong đừng ngăn trở để Hư Trúc chịu chữa thì thủ hạ y có bốn tên nha đầu lẻo mép chuyên làm khó dễ, lâu ngày tất không khỏi phát sinh lắm chuyện, làm sớm ngày nào hay ngày ấy.
Tiêu Phong trầm ngâm không trả lời thì nàng nghĩ bụng:
- Tỷ phu mình, tuy ngoài mặt thô hào mà trong lòng cực kỳ tinh tế. Lúc này chắc biết được chỗ dụng tâm của mình đây. Chi bằng mình nói huỵch toẹt ra, có thể y cũng ưng thuận.
Nghĩ vậy, nàng liền đứng lên nắm tay áo Tiêu Phong khẽ dựt mấy cái năn nỉ ông:
- Tỷ phu! Nếu tỷ phu không đưa tiểu muội lên cung Linh Thứu thì e rằng cặp mắt tiểu muội không còn hy vọng gì phục hồi được nữa và suốt đời không được thấy ánh mặt trời.
Tiêu Phong nghĩ bụng:
- Chữa mắt cho cô bé này được sáng tỏ lại quả nhiên là việc cần.
Rồi ông lẩm bẩm:
- Mình ở nước Đại Liêu tuy địa vị cao quý nhưng không có lấy một người bạn thân nào để hàn huyên tâm sự. Ở Trung Nguyên thì các bậc hào kiệt đều thù nghịch với mình. May mà kết giao được với hai người anh em, hào hiệp, khảng khái. Mình ở với họ vài ngày nữa cho thoả chí bình sinh.
Ông liền nói:
- Phải đó! Nhị đệ cùng tam đệ! Chúng ta cùng đi Tây Hạ một chuyến rồi lên cung Linh Thứu cùng nhị đệ uống rượu mấy ngày cho phỉ dạ.
Hôm sau, mọi người chuẩn bị lên đường. Hư Trúc đến trước mộ phụ thân Huyền Từ và mẫu thân Diệp Nhị Nương khấu đầu cáo biệt.
Đoàn người nhằm về phía Tây mà đi. Vừa xuống chân núi thì quần nữ cung Linh Thứu đã thuê xe lừa để đưa Đoàn Dự và Du Thản Chi nằm dưỡng bệnh được. Du Thản Chi trong lòng rất đỗi buồn phiền. Nhưng dù sao gã cũng nhẫn nhục chịu đựng còn hơn là phải chia lìa A Tử. Mỗi ngày gã chỉ mong A Tử ngẫu nhiên mở rèm xe, nói với gã một vài câu là gã đã thoả lòng và khoan khoái được đến nửa ngày. Nhưng A Tử lại cưỡi ngựa, lúc nào cũng đi bên cạnh Tiêu Phong thì trong lòng gã khó chịu vô cùng. Dù sao gã không dám hé răng lợi tỏ ý bất bình.
Đoàn người đi được hai ngày thì các bộ cung Linh Thúu đến hội họp dần dần. Thủ lĩnh bộ Loan Thiên báo cho Hư Trúc cùng Đoàn Dự hay rằng họ đã gặp Trấn Nam vương và thương thế ông đã gần lành hẳn không có gì đáng ngại. Trấn Nam vương rất yên lòng nhờ bộ Loan Thiên chuyển lời Đoàn Dự liệu mà sớm về Đại Lý để ông khỏi mong chờ.
Quần nữ bộ Loan Thiên còn nói thêm:
- Bọn Trấn Nam vương đi về phía Đông Bắc, Đoàn Diên Khánh cùng Nam Hải Ngạc Thần lại rong ruổi rất mau về phía Nam. Thế thì hai phe không tài nào đụng đầu nhau được.
Đoàn Dự cả mừng ngỏ lời cảm tạ quần nữ bộ Loan Thiên. Chung Linh hỏi:
- Đoàn công tử! Lệnh tôn bảo công tử mau trở về Đại Lý mà sao ông lại đi về ngả Đông Bắc?
Đoàn Dự tủm tỉm cười, chưa kịp trả lời thì A Tử đã cười nói:
- Gia gia ta nhất định bị má má lôi đi không cho về nước Đại Lý. Chung cô nương! Nếu cô nương muốn nắm trái tim của ca ca thì phải học lấy nghề của má má ta.
Chung Linh cũng biết rõ, Đoàn Dự sở dĩ muốn qua Tây Hạ là cốt dễ hội kiến Vương cô nương! Nhưng mấy bữa nay, nàng đã được quanh quẩn bên mình Đoàn Dự, tâm nguyện lấy làm mãn túc. Nàng không cần biết sau này khi Vương cô nương cùng Đoàn Dự hội kiến sẽ ra sao. Nên dù A Tử cố ý nói móc nàng, nàng cũng không để ý.
*
Tiết trời mùa hạ cực kỳ viêm nhiệt, giữa giờ ngọ mặt trời càng nóng như lửa. Vì tiết trung thu hãy còn xa nên mọi người chỉ ra đi vào hồi sáng sớm hay lúc xế chiều. Mỗi ngày đi chừng sáu bảy chục dặm lại nghỉ ngơi. Dọc đường, thương thế Đoàn Dự lành mạnh rất mau. Hư Trúc tiếp chỗ chân gãy cho Du Thản Chi và xem chừng có nhiều hy vọng bình phục như cũ. Du Thản Chi chẳng nói với ai nửa lời. Hư Trúc chữa chân cho y mà trong lòng y vẫn có ý hằn học căm giận.
Một hôm, mọi người đi tới Hàm Dương. Đoàn Dự kể cho bọn Tiêu Phong nghe sự tích Lưu Bang cùng Hạng Võ tranh bá đồ vương ở khu này. Tiêu Phong cùng Hư Trúc đều ít đọc sách, nghe Đoàn Dự kể chuyện anh hào ngày trước đều cảm thấy hứng thú. Thốt nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập. Từ phía sau hai người cưỡi ngựa đi nhanh đến. Bọn Tiêu Phong lái ngựa ra bên đường để nhường lối cho khách đi trước. A Tử đột nhiên đứng ra giữa đường cản lối. Khi hai người cưỡi ngựa đến sau lưng nàng, nàng liền giơ roi lên quất vào đầu ngựa đi sau.
Người cưỡi ngựa đằng sau cũng vung roi ngựa lên đón lấy ngọn roi của A Tử đánh tới, rồi y cất tiếng gọi:
- Đoàn công tử! Tiêu đại hiệp! Hãy dừng bước đã!
Đoàn Dự quay đầu nhìn lại. Té ra người đi trước là Ba Thiên Thạch và người đi sau là Chu Đan Thần.
Lúc này, Ba Thiên Thạch cầm roi ngựa gạt ngọn roi của A Tử đánh Chu Đan Thần ra. Đoạn y xuống ngựa đến trước Đoàn Dự phục lậy, Đoàn Dự tuy đối với y là chủ bộc, nhưng vẫn coi Ba, Chu hai người vào hàng trưởng bối, cũng vội vàng xuống ngựa đáp lễ hỏi:
- Gia gia ta vẫn bình yên chứ?
Bỗng một tiếng "véo" vang lên! A Tử đã cầm roi ngựa quất xuống đầu Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch vẫn chưa đứng dậy. Y né người đi một chút và vẫn quỳ mọp. Ngọn roi của A Tử vụt vào chỗ không. Ba Thiên Thạch liền lấy đầu gối kê lên ngọn roi. A Tử hết sức giật lại mà ngọn roi không nhúc nhích. Nàng biết rằng, nếu dùng nội lực để tranh chấp thì quyết nhiên mình không kịp đối phương. Nàng liền buông tay ra cho ngọn roi hất về phía Ba Thiên Thạch.
Ba Thiên Thạch căm hận nàng đã khí tử Lăng Thiên Lý, nhưng y vẫn có ý dè dặt. Ngờ đâu A Tử tuy đui mắt mà hành động cực kỳ cơ biến. Đầu ngọn roi của nàng hất lại rất mau. Ba Thiên Thạch vừa nghe tiếng gió vội né đầu đi để tránh. Tuy y tránh được ngọn roi không vụt vào đầu mà cũng vụt trúng vai đánh "chát" một tiếng.
Đoàn Dự quát lên:
- Tử muội! Làm gì mà ngang ngược thế?
A Tử đáp:
- Tiểu muội có ngang ngược gì đâu? Y muốn lấy chiếc roi ngựa, nên tiểu muội hất lại cho y.
Ba Thiên Thạch là người nín nhịn trầm tĩnh cười hì hì nói:
- Đa tạ cô nương đã cho ngọn roi này.
Y không tiện nói gì về vụ này nữa, liền móc trong bọc ra một phong thư, hai tay đưa lên cho Đoàn Dự. Đoàn Dự đón lấy thấy ngoài phong bì đề ba chữ: "Dự nhi lãm". Thì ra chính là thư của phụ thân. Chàng liền hai tay nâng bức thư lên cao, xốc lại xiêm áo, kính cẩn mở coi. Té ra bức thư này Đoàn Chính Thuần bảo chàng đi Tây Hạ.
Trong thư nói: "Nước Đại Lý ta ở miền Nam Cương hẻo lánh. Nước nhỏ thế yếu, khó chống ngoại xâm. Nếu được cùng Tây Hạ kết nghĩa Chân Trần tức là thượng sách để giữ nước yên dân. Hài nhi phải lấy cơ nghiệp tổ tôn làm trọng, lấy xã tắc dân con làm quý, mà đem hết tâm lực vào việc mưu đồ này. Cuộc hôn nhân giữa hài nhi và Cao thị, phụ thân sẽ có cách đối xử."
Đoàn Dự đọc thư xong, sắc mặt biến đổi, lúc ửng hồng, lúc trắng bệch. Chàng lẩm bẩm:
- Cái này... cái này...
Ba Thiên Thạch lấy ra một phong thơ nói:
- Đây là thủ bút của Vương gia đưa sang cho quốc vương nước Tây Hạ để cầu thân. Xin công tử khi tới Linh Châu thì đệ trình thư này lên quốc vương bệ hạ.
Chu Đan Thần cũng cười hì hì nói:
- Công tử! Tại hạ kính chúc công tử mã đáo thành công, lấy được nàng công chúa nguyệt thẹn hoa nhường đưa về Đại Lý thì giang sơn nước nhà sẽ vững như bàn thạch.
Đoàn Dự mặt bẽn lẽn hỏi:
- Tại sao gia gia biết ta đi Tây Hạ?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Vương gia biết Mộ Dung công tử đến Tây Hạ cầu thân, ngài chắc rằng công tử... cũng đến đó để... tham dự cuộc náo nhiệt này... Vương gia còn dặn công tử nên lấy việc lớn quốc gia làm trọng và nên coi thường chuyện nhi nữ tư tình.
A Tử nói xen vào:
- Không trách người ta nói: "Biết lòng con chẳng ai bằng cha mẹ". Gia gia mới nghe nói Mộ Dung Phục đi Tây Hạ tất có Vương cô nương theo đi. Nên ngài biết cậu quý tử cũng mò mẫm đi theo. Hừ! Cha nào con nấy mà bảo lấy việc quốc gia làm trọng, coi rẻ tư tình nhi nữ ư? Thế sao gia gia bỏ nước ra đi bấy lâu vẫn không trở về?
Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng Đoàn Dự thấy A Tử thốt ra những lời bất kính đối với phụ vương thì đều kinh hãi thất sắc.
Ta nên biết rằng A Tử nói vậy tuy là tình thực nhưng đạo làm thần tử có lý đâu dám bài bác đấng quân vương. A Tử lại nói tiếp:
- Ca ca! Trong thơ gia gia nói vậy? Có nhắc gì đến tiểu muội không?
Đoàn Dự đáp:
- Gia gia không biết Tử muội cùng ở với ta.
A Tử nói:
- Hừ! Phải rồi! Người không biết. Nhưng người có dặn ca ca đi kiếm tiểu muội không? Người có bảo ca ca chiếu cố cho đứa em đui mù không?
Trong thơ, Đoàn Chính Thuần không có đề cập đến chuyện này, nhưng Đoàn Dự lại nghĩ rằng nếu nói thực tình thì cô em phải đau lòng. Chàng liền đưa mắt ra hiệu cho Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần để bọn họ thừa nhận việc phụ thân có sai bảo họ đi tìm kiếm A Tử. Nào ngờ Chu, Ba hai người giả vờ không hiểu.
Chu Đan Thần nói:
- Trấn Nam vương sai bọn hạ đi tuỳ tùng công tử trong công việc qua Tây Hạ cầu thân sao cho có kết quả. Nếu không thì trở về Đại Lý, tuy chẳng bị Vương gia hỏi tội, nhưng chúng ta cũng phải một phen mất mặt khó mà nhìn thấy ai.
Câu nói của Chu Đan Thần tỏ ý vâng lệnh Đoàn Chính Thuần đi giám thị Đoàn Dự và phải cố tranh thủ cho bằng được ngôi phò mã nước Tây Hạ.
Đoàn Dự nhăn nhó cười đáp:
- Ta vốn không hiểu võ nghệ, huống chi lại bị thương chưa khỏi, đề khí không được, thì làm sao so bì được với anh hùng hảo hán trong thiên hạ?
Ba Thiên Thạch lại nói:
- Trấn Nam vương sai tiểu nhân đến bái kiến Tiêu đại hiệp cùng Hư Trúc tiên sinh, xin hai vị vì nghĩa chi lan giúp công tử một tay. Trấn Nam vương còn nói: Trong khoảng thời gian ngắn ngủi vừa qua trên núi Thiếu Thất, người chưa được cùng hai vị chuyện trò nên sai tiểu nhân kính dâng bạc lễ.
Ba Thiên Thạch nói xong, lấy ra một chiếc ngọc bích chạm sư tử hai tay dâng lên Tiêu Phong, còn Chu Đan Thần thì lấy trong bọc ra một chiếc quạt ngà. Trên quạt có bút tích của Đoàn Chính Thuần đề tặng Hư Trúc.
Hai người tạ ơn, nhận lễ rồi nói:
- Công việc của tam đệ, dĩ nhiên bọn tại hạ phải hết sức giúp đỡ, hà tất Đoàn Bá Vương còn phải căn dặn. Bá Vương ban cho báu vật, bọn tại hạ đâu dám lãnh thọ.
A Tử nói:
- Các vị tính gia gia có tốt bụng không? Người bảo thế để hai vị đừng có tranh ngôi phò mã của ca ca. Hai vị mà nhận lời tức là mắc mưu gia gia đó.
Tiêu Phong thở dài nói:
- Tỷ tỷ cô nương chết rồi khi nào ta còn có ý nghĩ đi lấy người khác nữa?
A Tử nói:
- Tỷ phu ngoài miệng tuy nói vậy, nhưng ai biết được lòng dạ thế nào? Hư Trúc tiên sinh trung hậu thực thà, không giống tiểu ca ca, quen nết phong lưu đàng điếm. Ta vẫn để ý thấy tiên sinh không giăng mắc tình duyên với một cô nào. Bây giờ qua Tây Hạ lấy công chúa, có phải tuyệt diệu không?
Hư Trúc thẹn đỏ mặt lên, xua tay lia lịa nói:
- Không, không! Tại hạ quyết định không làm thế. Tại hạ sẽ cùng đại ca ráng giúp cho tam đệ trong cuộc cầu thân này.
Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đưa mắt ra hiệu cho nhau, rồi phục lạy nói:
- Đa tạ hai vị có lòng chiếu cố cho công tử của bọn tiểu nhân.
Nên biết rằng, những bậc hào kiệt võ lâm đã nói câu gì là không bao giờ quên. Tiêu Phong cùng Hư Trúc đã nhận lời giúp đỡ rồi, Chu, Ba lại trịnh trọng nhắc thêm một lần nữa, thế là không sợ hai người trở giọng hối tiếc, mà còn khiến cho đoàn Dự khó lòng thoái thác.
*
Đoàn người đi về hướng Tây.
Khi gần tới Linh Châu, trên đường mỗi lúc một gặp thêm nhiều khách võ lâm.
Nên nhớ rằng, nước Tây Hạ tuy nhỏ không bằng Đại Tống, Đại Liêu nhưng cũng là một nước lớn miền Tây. Người võ lâm mà lấy được vị công chúa nước này thì thiệt là vinh hoa phú quý đến cùng cực. Trên đời còn có việc nào may hơn nữa. Có điều những nhân vật đã nổi tiếng trong võ lâm thì hầu hết đã có vợ con. Còn hạng thiếu niên tân tiến thì võ công chẳng mấy người rất mực cao thâm.
Trong bọn hào kiệt có cả những tay đại đạo ngoài sông biển, số đông là hào khách các bang hội, còn những người cô than thì chẳng có mấy.
Những người đến Linh Châu lại có cả những bậc anh hùng tuổi già dẫn con em cùng đồ đệ đi theo để cầu may. Số đông nghĩ rằng:
- Cuộc nhân duyên ở ngoài ngàn dặm đều do số phận tiên định. Chưa chắc võ công giỏi hơn người khác mà được sánh duyên cùng công chúa. Hễ công chúa ưng ý ai là người đó được làm phò mã.
Dọc đường gặp không biết bao nhiêu là thiếu niên anh hùng, áo xiêm rực rỡ, cả binh khí cũng rất tề chỉnh.
Một hôm, bọn Tiêu Phong đang buông tay khấu cho ngựa đi từ từ, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người cưỡi ngựa từ phía trước đi tới. Người kỵ mã mặc quần áo rách tươm, trên cổ đeo một miếng vải trắng, ra vẻ cực kỳ hoảng hốt. Bọn Tiêu Phong không để ý, chỉ cho là người này nếu không bị ngã thì bị đả thương, chẳng có chi là lạ. Ngờ đâu, lát sau lại có ba người cưỡi ngựa đi qua. Những người này đều bị trọng thương, sắc mặt xám ngắt, ra vẻ bẽ bàng, cúi đầu xuống cho ngựa đi mau, không dám ngẩng nhìn mặt bọn Tiêu Phong.
Mai kiếm lẹ miệng lên tiếng:
- Phải chăng phía trước có cuộc ẩu đả? Không thì sao lại lắm người bị thương thế này?
Thị chưa dứt lời lại có hai người đi tới. Hai người này đi chân chứ không cưỡi ngựa, mặt đầm đìa những máu. Một người đầu trùm vải xanh, máu không ngớt thấm ra ngoài.
Trúc kiếm la lên hỏi:
- Úi chao! Ngươi có cần thuốc chữa thương không? Làm sao mà bị thương?
Người này mặt mũi hung dữ, trợn mắt nhìn nàng rồi nhổ nước miếng đánh toẹt một cái cắm đầu đi ngay. Cúc kiếm cả giận rút thanh trường kiếm đánh soạt một cái muốn chém theo người kia.
Hư Trúc lắc đầu nói:
- Mặc kệ người ta! Y bị thương nặng chẳng nên giận họ làm chi.
Mai kiếm nói:
- Trúc Muội vì lòng tốt hỏi y có cần thuốc trị thương không mà y lại tỏ vẻ vô lễ, để hắn đau chết đi là phải.
Giữa lúc ấy, bốn con ngựa chạy như bay tới nơi. Bên tả hai người, bên hữu hai người. Bỗng nghe họ trỏ tay vào mặt mà mắng chửi nhau. Một người nói:
- Tại ngươi là con cóc, chê thịt thỏ mà muốn ăn thịt ngỗng trời. Sao không biết tự lượng bản lãnh được bao nhiêu mà đòi đến cung Linh Châu để làm phò mã?
Người bên kia mắng lại:
- Ngươi có bản lãnh gì, sao không qua được cửa quan? Bây giờ bị thua rồi lại sừng sộ với ta?
Người đối diện lại mắng:
- Giả tỷ không có kẻ phóng ám tiễn hại người, thì làm gì ta đến nỗi bị thua?
Bốn người này vừa phóng ngựa thật nhanh vừa nói nên không thể nghe rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao. Lát sau, bọn người đã đi tới trước mặt, nhưng thấy bọn Tiêu Phong nhiều người, không dám tranh đường, liền kéo ngựa sang hai bên. Nhưng họ vẫn giơ tay chỉ chỏ, mắng nhiếc nhau và còn nghe họ nói vọng lại. Thì ra, bốn người này đều đến Linh Châu nhằm ngôi phò mã nước Tây Hạ. Nhưng dường như có một cửa quan nào phải đi qua mà bốn người này không qua được, lại bị trọng thương ở chân nên phải cụp đuôi chạy về.
Đoàn Dự nói:
- Đại ca! Tiểu đệ xem ra...
Chàng chưa dứt lời thì trước mặt lại có mấy người chạy bộ đến nơi. Mấy người này đều mặc đồ tơ lụa. Có người bị sứt đầu, có người bị thương ở tay chân. Chung Linh không sao dằn được tính hiếu kỳ, tung ngựa ra hỏi:
- Úi chao! Người giữ cửa quan phía trước ghê gớm lắm phải không?
Một Đại Hán trung niên hắng giọng, rồi đáp:
- Cô là một thiếu nữ, đi qua thì không bị họ ngăn trở đâu, nếu là trai thì quay về đi là hơn.
Y nói câu này khiến cho bọn Tiêu Phong, Hư Trúc đều lấy làm kỳ, đồng thanh nói:
- Chúng ta thử đi xem!
Rồi mọi người giục ngựa chạy thật nhanh. Đoàn người đi được chừng bảy, tám dặm thì thấy đường núi gập ghềnh mà chỉ lọt một người một ngựa vòng vèo đi lên. Bọn người qua mấy khúc quanh thì thấy một đám đầu người đen sì. Bọn Tiêu Phong ruổi ngựa lại gần thấy chỗ trên cao con đường này có hai Đại Hán sóng vai nhau mà đứng. Cả hai người đều cao đến hơn sáu thước, to lớn dị thường. Một Đại Hán, tay cầm cây thiết chữ, một gã hai tay cầm cặp đồng chuỳ. Hai gã nét mặt hầm hầm nhìn mọi người đứng phía trước. Bọn người tụ tập ở đây ít ra có đến bảy tám chục. Họ bàn tán nhốn nháo. Mỗi người nói một câu.
Có người nói:
- Chúng tôi lên Linh Châu. Xin hai vị mở đường cho.
Có người hỏi:
- Hai vị ở đây đòi tiền mãi lộ chăng? Không hiểu hai lạng một người hay một lạng một người. Xin hai vị cứ nói đi, rồi chúng ta thương lượng.
Có người nói:
- Nếu hai người không mở đường thì sẽ bị đại hoạ.
Lại có người nói:
- Coi hai vị tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt. Sao không đến Linh Châu để xin ứng tuyển làm phò mã, mà để nàng công chúa nguyệt thẹn hoa nhường lọt vào tay kẻ khác, há chẳng đáng tiếc ư?
Tha hồ cho bọn người đứng ngoài muốn nói gì thì nói, hai Đại Hán thuỷ chung vẫn không nói gì. Đột nhiên trong đám đông có tiếng quát:
- Các ngươi nói nhẹ không ưa, lại ưa nặng. Nào có mở đường không?
Hào quang lấp loáng. Người đó vung kiếm lên, đâm xéo tới, nhằm vào gã Đại Hán bên tả. Đại Hán bên này thân hình to lớn, lại mang khí giới cực kỳ trầm trọng. Ngờ đâu, gã hành động mau lẹ vô cùng. Gã múa tít cặp chuỳ đánh lại, ép hai quả chuỳ giữ chặt lấy thanh trường kiếm. Mỗi quả chuỳ nặng tới bốn chục cân đập mạnh một cái, khiến cho thanh kiếm đứt làm hai đoạn.
Đại Hán lại phi cước đá ra đúng vào bụng đối phương. Người kia kêu to lên một tiếng, bị hất tung ra xa bảy, tám trượng, nằm sóng sượt dưới đất. Người này cố lổm ngổm bò dậy mà không được.
Hồi Thứ 130
Mộc Uyển Thanh xuất hiện
Tiêu Phong quay lại bảo Hư Trúc:
- Nhị đệ! Nội lực gã này không phải tầm thường.
Hư Trúc nói:
- Đúng thế!
Bỗng lại thấy một người, tay múa song đao xông tới. Ánh đao thành một luồng bạch quang hộ vệ toàn thân, tưởng chừng như nước mưa cũng không rơi vào được. Khi đến trước mặt hai gã Đại Hán, người này quát lên một tiếng thật to rồi đột nhiên biến đổi đao pháp, vung song đao nhằm chém vào đùi hai gã Đại Hán. Đại Hán cầm thiết chử không nhìn đến đường đao chém tới ra sao, hắn vung thiết chử lên đập vào giữa làn bạch quang.
Bỗng nghe một tiếng rú:
- Úi chao!
Cặp đao của người kia đã bị thiết chử đánh gãy. Mũi đao đâm vào trước ngực y. Máu chảy đầm đìa khắp người, y ngã lăn long lóc xuống chân núi.
Hai gã Đại Hán đánh trọng thương hai người rồi. Những người khác không dám tiến lên nữa. Bỗng nghe có tiếng vó câu lộp cộp chạy đến. Một người cưỡi lừa đi lên. Người cưỡi lừa là một thiếu niên thư sinh mới độ mười tám, mười chín tuổi, mình mặc áo bào rộng thùng thình, vẻ người nho nhã, tướng mạo xinh đẹp phi thường. Người cưỡi lừa chạy đến bên bọn Tiêu Phong thì ai nấy đều nhận thấy anh chàng này khác hẳn những hào khách giang hồ. Bất giác mọi người quay lại nhìn y.
Đoàn Dự đột nhiên la lên một tiếng:
- Úi chà!
Rồi ấp úng:
- Ngươi... ngươi...
Nhưng chàng thư sinh này không thèm đưa mắt nhìn chàng cứ ngồi trên lưng lừa cho chạy qua. Chung Linh lấy làm kỳ hỏi:
- Đoàn công tử! Công tử nhận ra vị tướng công này ư?
Đoàn Dự đỏ mặt lên tiếng đáp:
- Không! Ta nhận lầm người. Y... là một chàng trai. Ta có biết y là ai đâu?
Chàng nói câu này thật ngớ ngẩn. A Tử cười khì một tiếng rồi nói:
- Ca ca! Té ra ca ca chỉ nhận biết được con gái chớ không nhận được đàn ông.
Nàng ngừng một lát rồi hỏi:
- Chẳng lẽ người vừa đi đó là chàng trai ư? Rõ ràng là gái đó chứ?
Đoàn Dự hỏi:
- Ngươi cũng bảo y là gái ư?
A Tử đáp:
- Đúng là gái rồi! Mình cô ta tiết ra một mùi thơm đúng là hương khí của nữ nhân.
Đoàn Dự nghe nói đến chữ "hương" thì trống ngực đánh thình thịch tự hỏi:
- Phải chăng đúng là nàng?
Lúc này người thư sinh cưỡi lừa đã đi đến trước mặt hai gã Đại Hán lớn tiếng quát:
- Tránh đường cho ta đi!
Thanh âm rất trong trẻo, rõ ràng là tiếng một cô gái. Ðoàn Dự không còn nghi ngờ gì nữa cất tiếng gọi:
- Mộc cô nương! Uyển Thanh muội tử! Ngươi... ngươi...
Miệng chàng ấp úng gọi loạn lên và giục ngựa tiến lại. Vết thương trước ngực chàng chưa khỏi hẳn, Hư Trúc sợ nó lại vỡ ra, vội la lên:
- Tam đệ! Tam đệ phải cẩn thận kẻo vết thương trước ngực...
Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần đồng thời phóng ngựa rượt theo. Thiếu niên thư sinh cưỡi trên lưng lừa vẫn trừng mắt nhìn hai gã Đại Hán, không quay đầu lại. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần nhìn chênh chếch thấy nửa mặt nàng đã nhận ra con người xinh đẹp này đúng là người mà Đoàn Dự đã đưa về Trấn Nam vương phủ nước Đại Lý. Tên nàng là Hương Dược Xoa Mộc Uyển Thanh.
Hai gã lẩm bẩm:
- Chúng ta thật có mắt như mù, không bằng cô bé đui mắt kia.
Nguyên A Tử tuy mắt chẳng nhìn thấy gì, nhưng thính mũi hơn người thường. Mộc Uyển Thanh có một mùi hương khác lạ, nàng vừa đi qua, A Tử đã ngửi thấy ngay. Còn mọi người thì mắt nhìn rõ ràng là một thiếu niên thư sinh. Trong lúc thảng thốt chẳng ai để ý nhìn kỹ nàng là trai hay gái.
Đoàn Dự phóng ngựa đến bên mình nàng vươn tay nắm lấy vai, dịu dàng nói:
- Muội tử! Từ ngày ấy đến nay Muội tử ở đâu? Tiểu huynh nhớ Muội quá chừng.
Mộc Uyển Thanh rụt vai lại tránh khỏi tay Đoàn Dự. Nàng quay đầu nhìn chàng hững hờ hỏi một cách ngây thơ:
- Người nhớ ta ư? Làm sao mà nhớ ta? Ngươi nhớ ta thật không?
Đoàn Dự ngẩn người ra. Trong ba câu hỏi đó chàng khó lòng trả lời được câu nào. Đại Hán đứng đối diện bật lên tràng cười ha hả nói:
- Ồ! Té ra là một cô chiêu! Ta cho cô đi đấy!
Gã Đại Hán kia cũng nói:
- Đàn bà con gái thì chúng ta cho, còn bọn đàn ông thối tha thì không được đâu. Thằng lỏi kia cút đi!
Hắn lại trỏ vào mặt Đoàn Dự nói tiếp:
- Cái loại mặt trắng bóng kia lão gia vừa nhìn thấy mặt đã ghét cay ghét đắng rồi. Nếu mi còn tiến thêm bước nữa thì lão gia bằm nát ra làm mắm, đừng có trách nghe!
Đoàn Dự nói:
- Tôn huynh nói thế là sai. Đường cái ai đi chả được? Tôn huynh không cho đi là vì lẽ gì? Xin nói rõ cho nghe!
Đại Hán đáp:
- Tôn Tản Vương Tử nước Thổ Phồn có lệnh: ải này đóng lại trong mười ngày. Chờ qua ngày Trung thu sẽ mở trở lại. Còn trước ngày Trung thu thì chỉ có đàn bà con gái là qua được, còn đàn ông phải quay về. Ngoài ra tăng nhân đi được, người tục không đi được. Già đi được trẻ không đi được. Người chết rồi đi được, kẻ sống không đi được. Vì thế mà kêu là "tứ quá tứ bất quá".
Đoàn Dự hỏi:
- Như vậy nghĩa là làm sao?
Đại Hán lớn tiếng nói:
- Ngươi hỏi nghĩa lý ư? Chẳng có nghĩa lý gì hết. Cặp đồng chuỳ của lão gia và cây thiết chử của lão nhị là nghĩa lý đó! Tôn Tản Vương Tử đã nói ra tức là nghĩa lý rồi đó. Mi là một chàng trai, đã không phải là sư cũng không phải lão già thì trừ phi ngươi có là xác chết mới qua cửa quan này được.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chà chà! Sao lại có hạng người nói nhăng nói càn thế được?
Nàng vung tay phải lên một cái. Véo véo! Hai mũi tên đã nhằm bắn vào hai gã Đại Hán, nghe "bành bạch" như bắn vào da thuộc. Rõ ràng hai mũi ám tiễn bắn đúng trước ngực mà hai gã chẳng tổn thương chi hết.
Gã sử dụng cây thiết chử tức giận quát to:
- Cô bé kia thật không biết điều! Sao lại phóng ám khí vào bọn ta?
Mộc Uyển Thanh giật mình kinh hãi nghĩ bụng:
- Có lẽ hai tên này mặc một thứ áo giáp mềm nhũn, tên độc của ta không bắn chết chúng được.
Đại Hán cầm thiết chử vươn bàn tay to bằng cái quạt lá bổ ra nắm lấy Mộc Thanh. Người gã cao lớn, Mộc Thanh đã cưỡi lừa mà lão vươn tay ra đã tới trước ngực nàng.
Đoàn Dự vội la lên:
- Tôn huynh không được vô lễ.
Chàng vội đưa tay trái lên chắn lại. Đại Hán xoay tay nắm chặt lấy cổ tay Đoàn Dự. Gã Đại Hán sử dụng cặp chuỳ reo lên:
- Hay lắm! Chúng ta hãy xé thằng lỏi mặt trắng này ra làm hai mảnh.
Gã đưa cặp chuỳ sang trái. Tay phải nắm lấy cổ tay trái Đoàn Dự kéo thật mạnh. Mộc Uyển Thanh vội la lên:
- Không được hại ca ca ta!
Véo véo! Mấy mũi ám tiễn phóng ra mất tăm như những viên đá chìm xuống biển cả. Mộc Uyển Thanh thấy phóng ám tiễn vào mình Đại Hán không ăn thua gì. Nàng muốn bắn vào mắt, mũi chúng, nhưng ở giữa còn có Đoàn Dự, nên lại sợ bắn phải chàng.
Hai bên lối đi này là hai dãy núi Bích lập. Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần bị Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự cưỡi ngựa ngăn mất lối đi, không còn cách nào nhảy lên ứng cứu được. Hư Trúc tung mình nhảy lên, rời khỏi yên ngựa, lao tới tên Đại Hán cầm thiết chử, toan giơ tay ra điểm vào cạnh sườn gã.
Đoàn Dự bỗng cười ha hả nói:
- Nhị ca bất tất phải hoang mang. Bọn chúng không hại tiểu đệ được đâu.
Bỗng thấy hai gã Đại Hán, thân hình cao lớn dần dần lún thấp xuống. Hai cái đầu to tướng lắc lư không đứng yên lại được. Lát sau hai gã ngã huỵch xuống đất.
Nguyên nội lực "Chu Cáp Thần Công" trong mình Đoàn Dự chuyên hút công địch nhân. Nội lực hai gã Đại Hán bị "Chu Cáp Thần Công" hút hết, liền ngã lăn ra.
Đoàn Dự nói:
- Các ngươi đã đánh chết và gây trọng thương cho bao nhiêu người, nên bây giờ phải chịu cuộc trừng phạt này. Từ đây không được thế nữa!
Chung Linh lúc đó cũng đuổi tới nơi, liền cười nói:
- E rằng bọn chúng không còn bản lãnh để đánh người nữa.
Nàng quay đầu lại nhìn Mộc Uyển Thanh nói:
- Mộc cô cô! Tại hạ không ngờ lại chính là cô!
Mộc Uyển Thanh lạnh lùng hỏi:
- Ngươi là em gái ta, sao lại kêu ta bằng cô cô?
Chung Linh lấy làm kỳ hỏi:
- Mộc cô nương! Cô nương nói giỡn rồi! Sao tiểu nữ lại là em gái cô được?
Mộc Uyển Thanh trỏ vào Đoàn Dự nói:
- Ngươi cứ hỏi y sẽ rõ.
Chung Linh quay lại nhìn Đoàn Dự để chờ chàng giải thích. Ðoàn Dự ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm:
- Chung phu nhân cùng gia gia ta tất có một mối liên quan không phải tầm thường.
Chàng nhớ tới năm trước, mình vào hang Vạn Kiếp. Khi đi qua cầu Thiên Nhân Độ, vào tới ngôi thứ bảy. Trên mộ này có tấm bia khắc chữ: "Vạn Cừu Đoàn chi mộ". Ai vào mộ phải lấy gót chân nện mạnh vào chữ "Đoàn" ba cái thì cửa mộ tự nhiên mở ra. Chàng tự hỏi:
- Cừu Đoàn là nghĩa gì? Tại sao phải đá vào chữ "Đoàn" ba cái? Chắc Chung Vạn Cừu, phụ thân Chung Linh, chủ nhân hang Vạn Kiếp, rất căm hận người họ Đoàn. Hôm ấy, mẫu thân Chung Linh vừa thấy mình đến đã lộ vẻ kinh hoàng, run lên nói: "Ngươi... ngươi họ Đoàn phải không?" Dĩ nhiên dung mạo mình giống hệt tướng mạo gia gia lúc còn nhỏ tuổi. Chung Vạn Cừu vừa thấy mình đã tức như điên lên nói: "Quân chó má này dù có đốt thành than, ta cũng nhận ra mi". Những tình trạng đó thật có nhiều chỗ khả nghi.
Rồi chàng lại lẩm bẩm:
- Nếu Chung cô nương là con gia gia mình thì sao người lại bảo với Chung cốc chủ cho Chung cô nương làm tiểu thiếp mình? Dù người có ý trêu chọc Chung cốc chủ đến đâu cũng không nên nói câu này. Hay là... chính gia gia cũng không biết?
Đoàn Dự vẻ mặt cực kỳ bẽn lẽn. Chàng chưa nói gì thì bao nhiêu người trước bị hai gã Đại Hán ngăn cản bây giờ rầm rộ đi qua để tiến vào Linh Châu.
Bỗng A Tử cất tiếng hỏi:
- Ca ca! Vị cô nương mùi thơm ngào ngạt kia phải chăng cũng là người quen biết với ca ca từ lâu rồi? Sao ca ca không giới thiệu nàng với tiểu muội?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi đừng nói nhăng. Y là... tỷ tỷ ngươi đó. Ngươi lại bái kiến đi!
Mộc Uyển Thanh tức giận nói móc:
- Ta làm gì có phước lớn thế?
Rồi nàng khẽ quất roi vào mông cho lừa chạy về phía trước. Đoàn Dự đuổi theo hỏi:
- Từ đấy đến nay, Muội tử ở đâu? Muội tử... trông sút đi nhiều.
Mộc Uyển Thanh tâm tính cao ngạo mà hung hãn, hễ cất nhắc chân tay là giết người. Nhưng nàng nghe câu nói ôn nhu của Đoàn Dự thì không khỏi chua xót trong lòng. Hơn một năm nay trên bước đường phiêu lưu, nàng dạn dày mưa gió, trong lòng lại cực kỳ đau khổ. Bao nhiêu thảm trạng trong chớp mắt lại hiện ra, khiến nàng không thể ngăn đôi dòng lụy nhỏ xuống như mưa.
Đoàn Dự lại nói:
- Muội tử! Bọn chúng ta đông người, có đủ đồ cung ứng. Muội tử đi cùng với bọn ta nghe!
Mộc Uyển Thanh vùng vằng nói:
- Ai cần ngươi chiếu cố? Chẳng có ngươi, dễ ta không sống được hay sao?
Đoàn Dự nói:
- Tiểu huynh có nhiều chuyện muốn nói với tiểu Muội. Muội tử có chịu đi theo tiểu huynh không?
Mộc Uyển Thanh vẫn hằn học nói:
- Ngươi còn nói gì với ta nữa? Chẳng qua lại là mấy câu nói trăng nói cuội chứ gì?
Tuy miệng nàng không ưng chịu, mà lòng nàng đã nhũn ra rồi. Đoàn Dự thấy thế cả mừng nói:
- Muội tử! Tuy Muội tử có gầy đi đôi chút, nhưng càng lớn lên lại càng xinh đẹp.
Mộc Uyển Thanh sa sầm nét mặt nói:
- Ngươi là huynh trưởng ta. Từ giờ trở đi không được nói thế nữa!
Hiện giờ, lòng dạ Mộc Uyển Thanh rối bời. Nàng biết rõ Đoàn Dự là người anh cùng cha, khác mẹ của mình, nhưng đối với chàng nàng vẫn có tình yêu mến nhớ nhung, chẳng những không phai lạt mà trái lại, mỗi ngày một tăng thêm.
Đoàn Dự cười nói:
- Tiểu huynh bảo Muội tử càng lớn lên càng xinh đẹp, tưởng cũng chẳng có chi là sai lầm. Muội Muội! Tại sao Muội Muội lại cải dạng nam trang đến Linh Châu để dự cuộc chiêu phò mã này? Muội Muội trông rất giống một chàng thư sinh, thiếu niên anh tuấn. Chắc chúa nước Tây Hạ nhìn thấy Muội Muội phải điên đảo thần hồn.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Vậy ca ca đến Linh Châu làm chi?
Đoàn Dự đỏ mặt lên đáp:
- Tiểu huynh muốn đến dự cuộc náo nhiệt này xem thế nào, chứ không có ý gì khác cả.
Mộc Uyển Thanh "hừ" một tiếng rồi nói:
- Ca ca đừng dối tiểu Muội nữa. Gia gia bảo ca ca đến ứng tuyển làm phò mã, lại sai gã họ Ba cũng gã họ Chu đưa ca ca đi. Ca ca tưởng tiểu muội không biết hay sao?
Đoàn Dự làm kỳ hỏi:
- Ô hay! Sao Muội Muội lại biết hay thế?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Mẫu thân tiểu muội gặp gia gia. Tiểu muội cùng đi với mẫu thân nên nghe nói hết.
Đoàn Dự nói:
- Té ra là thế! Muội Muội biết tiểu huynh đi Linh Châu nên cũng đi coi phải không?
Mộc Uyển Thanh đỏ mặt lên vì Đoàn Dự nói câu này đúng tâm sự nàng. Nhưng nàng bĩu môi đáp:
- Tuổi Muội đi coi ca ca làm chi? Tiểu Muội muốn coi nàng công chúa nước Tây Hạ xem đẹp đến thế nào mà làm náo loạn cả thiên hạ?
Đoàn Dự nghĩ thầm:
- Công chúa nước Tây Hạ chỉ đẹp bằng nửa cô cũng là hay lắm rồi.
Nhưng chàng nhận ra câu nói này với tình nhân thì được, nói với Muội Muội thì không nên. Rồi không nói gì nữa. Mộc Uyển Thanh lại nói:
- Tiểu Muội cũng muốn xem Vương tử họ Đoàn nước Đại Lý liệu có thành công trong cuộc hôn nhân này chăng?
Đoàn Dự khẽ nói:
- Tiểu huynh không làm phò mã nước Tây Hạ đâu. Nhưng Muội Muội chớ nên tiết lộ câu này với ai. Nếu gia gia bức bách tiểu huynh thì tiểu huynh sẽ trốn biệt.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Chẳng lẽ gia gia ra lệnh mà ca ca dám phản đối ư?
Đoàn Dự cãi:
- Tiểu huynh không kháng lệnh mà chỉ đi trốn thôi.
Mộc Uyển Thanh cười nói:
- Trốn đi với kháng mệnh thì khác gì nhau? Người ta là nàng công chúa cành vàng lá ngọc, sao ca ca lại không muốn?
Từ lúc thấy mặt chàng, bây giờ Mộc Uyển Thanh mới hé miệng cười. Đoàn Dự rất lấy làm mừng nói:
- Muội Muội tưởng tiểu huynh cũng giống gia gia hay sao? Bạ ai cũng yêu, rồi không dứt ra được!
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ! Tiểu Muội xem ca ca với gia gia chẳng có chỗ nào khác nhau. Đúng là cha nào con ấy. Có điều ca ca không được tốt phước như gia gia mà thôi.
Rồi nàng thở dài nói tiếp:
- Tỷ như mẫu thân tiểu muội, sau lưng thì ghét cay ghét đắng gia gia. Song hễ thấy mặt là lại tha thứ hết. Các cô tuổi trẻ bây giờ không rộng lượng như má má tiểu muội đâu.
Hai người sóng cương mà đi. Lát sau Chung Linh, Hư Trúc và bọn Tiêu Phong cũng đuổi kịp.
Đoàn người đi được mấy dặm thì trời đã xế chiều. Bỗng nghe mé tả có tiếng la hoảng vọng lại. Người lớn tiếng réo lên chính là thanh âm Nam Hải Ngạc Thần. Dường như hắn đương gặp phải chuyện gì nguy nan.
Đoàn Dự nói:
- Đồ đệ ta rồi!
Chung Linh cũng la lên:
- Chúng ta mau tới đó xem sao? Đồ đệ công tử rất tốt!
Hư Trúc cũng nói:
- Phải đó!
Nên nhớ rằng, mẫu thân y là Diệp Nhị Nương cùng một tốp với Nam Hải Ngạc Thần nên y không khỏi có tình lân cận. Mấy người giục ngựa lao về phía có tiếng la. Đi quanh mấy góc núi thì đến một khu rừng rậm. Đột nhiên trên bờ vực thẳm xuất hiện một cảnh tượng kinh hồn, động phách.
Bờ vực thẳm có một cây tùng đơn độc. Trên một cành cây mọc ngang ra, có người lấy gậy cài vào rồi đứng lên đó. Người này mình mặc áo thanh bào. Lão chính là Đoàn Diên Khánh.
Tay trái lão cầm gậy, tay mặt cũng cầm một cái gậy nữa. Đầu cây gậy này một người nắm lấy. Chính là Nam Hải Ngạc Thần. Tay kia, Nam Hải Ngạc Thần lại túm lấy mớ tóc dài của người khác là Cùng Hung Cực ác Vân Trung Hạc. Hai tay Vân Trung Hạc nắm giữ hai cổ tay một thiếu nữ. Cả bốn người trông như một sợi dây dài đang lơ lửng trên không và ở vào tình trạng nguy hiểm vô cùng! Bất luận là ai trong mấy người này chỉ suểnh tay một chút là rớt xuống vực thẳm đầy đá tai mèo.
Đoàn Dự thấy khe núi này đã mọc chi chít tựa cây rừng. Nhiều mỏm đá nhọn hoắt như mũi dao chĩa thẳng lên. Ai đã rớt xuống tất bị tan xác.
Lúc ấy một cơn gió thổi đưa Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc và thiếu nữ đu đi theo đường hình bán nguyệt. Thiếu nữ lúc trước xoay lưng về phía mọi người. Bây giờ đã đổi vị trí thành ra nàng xoay nghiêng mặt lại.
Đoàn Dự vừa trông thấy đã la hoảng:
- Trời ơi!
Suýt nữa chàng từ trên lưng ngựa té xuống.
Nguyên thiếu nữ này chẳng phải ai xa lạ mà chính là Vương Ngọc Yến mà chàng ngày đêm thương nhớ. Đoàn Dự định thần lại ngẩng đầu nhìn lên thì thấy sườn núi cực kỳ nguy hiểm không có cách nào tung ngựa lên được. Chàng vội vàng xuống ngựa, chạy lại trước cây tùng thì thấy một người lùn mà béo mập đang cầm búa lớn đang chặt cây tùng này.
Đoàn Dự kinh hãi quá la lên:
- Ôi! Ối! Ngươi làm chi vậy?
Người béo lùn lờ đi như không nghe thấy gì, giơ búa tiếp tục chặt cây.
Đoàn Dự giơ ngón tay ra vận chân khí, muốn đem Lục mạch thần kiếm để hạ người kia. Không ngờ chàng sử dụng Lục mạch thần kiếm chưa được linh hoạt, không phải lúc nào muốn phát huy là được ngay. Chàng phóng chỉ luôn mấy cái mà vẫn chẳng thấy kiếm khí vọt ra.
Đoàn Dự lại càng sợ hãi cuống cuồng, lớn tiếng la:
- Đại ca! Nhị ca! Muội Muội! Chung cô nương! Mau lại cứu người!
Tiêu Phong, Hư Trúc vội chạy lại.
Nguyên người lùn kia được tảng đá lớn che đi nên ở dưới nhìn lên không thấy. Đồng thời gió núi thổi mạnh, tiếng chặt cây cũng không nghe rõ. May mà cây tùng to lớn không chặt đứt ngay được.
Bọn Tiêu Phong thấy tình trạng này đều vô cùng kinh hãi, không biết tại sao lại đưa đến tình trạng này được? Hư Trúc kêu lên:
- Lão béo lùn kia! Lão huynh đừng chặt cây nữa.
Lão lùn mập nói:
- Cây này ta trồng nên. Ta muốn chặt đem về làm quan tài, ngươi giữ được ta sao?
Hắn vừa nói vừa tiếp tục chặt cây. Nam Hải Ngạc Thần vẫn lớn tiếng la hoảng không ngớt miệng. Đoàn Dự nói:
- Nhị ca! Người này không thể lấy lẽ phải trái mà bảo y được. Xin nhị ca kiềm chế y rồi sẽ nói!
Hư Trúc đáp:
- Phải rồi!
toan chạy tới thì đột nhiên có một người chống gậy lướt qua bên mọi người mau lẹ phi thường. Chỉ mấy cái tung lên hụp xuống đã đến trước mặt gã béo lùn. Người này đi mau quá nhìn không rõ. Lúc hắn đứng yên mới biết là Du Thản Chi. Không biết gã ở trong xe lừa đã chuồn ra từ lúc nào.
Mộc Uyển Thanh chưa biết mặt gã, đột nhiên thấy dung mạo khủng khiếp của gã, nàng cả kinh thất sắc, khẽ la lên một tiếng:
- Úi chao!
Du Thản Chi, một gậy chống xuống đất một gậy giơ lên, lạnh lùng nói:
- Không ai được lại đây!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro