Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

luat im lang p3

Chương 10

Bây giờ với nhất cử nhất động của mình, Astorre đều hết sức thận trọng. Không chỉ để tránh một vụ mưu sát mà còn không cho phép mình bị bắt vì bất kỳ lý do nào. Chàng ở lỳ trong nhà mình với những đội bảo vệ năm người gác suốt ngày đêm. Chàng cho lắp đặt những thiết bị báo động ở trong rừng và trên mặt đất quanh nhà, sử dụng thiết bị hồng ngoại để giám sát vào ban đêm. Khi chàng liều rời khỏi nhà, luôn luôn có sáu vệ sĩ chia làm ba tổ hai người đi kèm. Việc đánh bom hai thám tử là cần thiết nhưng nó lại làm tăng cường các hoạt động của cảnh sát. Và khi Aspinella Washington bình phục mụ sẽ đoán ra chính Heskow đã phản lại mụ. Nếu Heskow tiết lộ thì mụ sẽ bám theo chính chàng.

Cho đến bây giờ chàng đã hiểu tầm vóc lớn lao của vấn đề. Chàng biết tất cả những kẻ dính líu vào cái chết của ông Trùm bác mình và những vấn đề nghiêm trọng đang đợi chàng ở phía trước. Đó là Kurt Cilke, người không được động tới, Timmona Portella, Grazziella, và viên tổng lãnh sự quán Peru. Những kẻ mà chàng đã trừng phạt là anh em Sturzo, song chúng lại chỉ là những con tốt.

Tất cả các thông tin đến từ John Heskow, ông Pryor, Trùm Craxxi và Octavious Bianco ở Sicily. Nếu có thể, chàng phải chộp cho được toàn bộ kẻ thù của mình tại một nơi trong cùng một lúc. Hạ chúng từng tên một cách chắc chắn là không thể. Mà Pryor và Craxxi đã cảnh báo chàng không được đụng đến Cilke.

Và rồi còn tổng lãnh sự Peru, Mariano Rubio, nhân tình của Nicole nữa. Nàng trung thành với y đến mức độ nào? Nàng đã xoá những gì mà nàng không muốn Astorre thấy trong hồ sơ về ông Trùm của FBI? Nàng còn giấu chàng những gì?

Vào những khoảnh khắc thảnh thơi Astorre mơ thấy những người phụ nữ chàng đã yêu. Đầu tiên là Nicole, trẻ trung và thông minh, thân hình mảnh mai thanh nhã của nàng nồng nàn đến nỗi nàng đã buộc được chàng chấp nhận yêu nàng. Bây giờ nàng đã thay đổi quá nhiều. Chính trị và công việc đã cuốn hút niềm đa mê của nàng.

Chàng nhớ Buji ở Sicily, không hẳn là gái điếm nhưng cũng gần như thế. Chàng nhớ chiếc giường êm ái của ả trong những đêm yên tĩnh ở Sicily, những lúc họ cùng bơi và ăn quả ôliu lấy từ thùng ngâm. Chàng nhớ ả chẳng bao giờ nói dối; ả hoàn toàn thành thật về cuộc sống của mình, về những người đàn ông khác của ả. Và lòng trung thành của ả khi chàng bị bắn, ả đã kéo chàng vào bờ ra sao, máu từ vết thương trên cổ chàng nhuốm đầy người ả. Rồi quà tặng của ả - cái vòng cổ bằng vàng có mặt dây chuyền để che đi cái vết thương khủng khiếp.

Rồi chàng nghĩ đến Rosie, một Rosie phụ bạc, ngọt ngào, xinh xắn và lãng mạn. Người luôn luôn tự cho là thực sự yêu chàng trong khi vẫn liên tục phản bội chàng. Tuy nhiên nàng đã luôn làm chàng vui vẻ khi quấn quýt bên nhau. Chàng đã từng muốn xoá sạch tình cảm của mình đối với nàng bằng việc dùng nàng chống lại anh em Sturzo, và chàng ngạc nhiên thấy nàng thích thú với vai diễn đó.

Rồi hình ảnh vợ Cilke, Georgette, thoáng qua tâm trí chàng như một bóng ma. Thật là vớ vẩn. Chàng có một tối ngắm nhìn chị, nghe chị nói những điều nhảm nhí mà chàng chẳng hề tin về những gì quý giá trong tâm hồn con người. Vậy mà chàng không thể nào quên chị. Làm thế quái nào Georgette lại lấy một thằng cha như Kurt Cilke kia chứ?

Thỉnh thoảng, vào ban đêm, Astorre đến khu Rosie đang sống và gọi cho nàng bằng điện thoại trên xe. Nàng luôn luôn ở nhà một mình và điều đó làm chàng ngạc nhiên. Nhưng nàng giải thích rằng nàng quá bận học hành không thể đi chơi được. Như thế lại hoá hay vì chàng rất thận trọng không muốn đi ăn hiệu hay đưa nàng đi xem phim. Thay cho những việc đó, chàng ghé vào tiệm Zabar ở khu East Side để mua những món đặc sản đem về. Trong lúc đó Monza vẫn ngồi chờ trên xe.

Rosie dọn bàn ăn và mở một chai vang. Trong bữa ăn Rosie gác hai chân lên đùi chàng một cách thân tình và khuôn mặt nàng rạng ngời hạnh phúc vì được bên chàng, đón nhận từng lời nói của chàng với nụ cười tươi tắn. Đấy là phần thưởng của nàng và Astorre thừa biết nàng làm như thế với tất cả đám đàn ông của nàng. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì đâu.

Rồi khi họ lên giường, nàng không chỉ nồng nàn đắm đuối mà còn ngọt ngào và quấn quýt. Nàng vuốt ve khắp mặt chàng, hôn chàng và nói

- Chúng mình thực sự là chỗ bạn bè chí cốt.

Những lời nói đó như một gáo nước lạnh dội xuống người chàng. Astorre không muốn nàng là chí cốt với một kẻ như chàng. Chàng khao khát vẻ trong trắng cổ điển, tuy nhiên lại chẳng thể nào cắt được mối quan hệ với nàng.

Chàng ở lại năm hoặc sáu tiếng đồng hồ. Vào ba giờ sáng chàng sẽ ra đi. Thỉnh thoảng khi nàng đang ngủ, chàng lại nhìn nàng đăm đăm và nhận thấy bên trong nàng là trạng thái dễ bị tổn thương và giằng xé cứ như thể lũ quỷ bị nàng nhốt mãi nơi thẳm sâu của tâm hồn đang đòi được tự do.

Một đêm chàng sớm chia tay Rosie. Khi lên xe Monza báo với chàng rằng có một lời nhắn phải gọi lại gấp cho một ngài Juice nào đó. Đấy là mật danh chàng và Heskow dùng. Thế là chàng lập tức chụp lấy ống nghe.

Giọng Heskow khẩn thiết.

- Tôi không thể nói qua điện thoại. Chúng ta phải gặp nhau ngay bây giờ.

- Ở đâu? Astorre hỏi.

- Tôi sẽ đứng ngay bên ngoài Madison Square Garden, Heskow nói. Hãy bí mật đón tôi sau một giờ nữa.

Khi Astorre đến gần Garden, chàng thấy Heskow đang đứng trên vỉa hè. Monza đặt súng lên đùi lúc cho dừng xe trước mặt Heskow. Astorre mở cửa và Heskow nhảy lên băng ghế trước. Cái ghế lạnh để lại những vết lợt trên má y. Y nói với Astorre,

- Cậu có rắc rối lớn đấy.

Astorre có cảm giác ớn lạnh.

- Bắt cóc à? Chàng hỏi.

Heskow gật đầu. Portella đã chộp người bà con Marcantonio của cậu và đã cho giam giữ anh ta ở một nơi nào đó. Tôi không biết là nơi nào. Sáng mai hắn sẽ mời cậu tới thương thảo. Hắn muốn trao đổi một thứ gì đó lấy con tin của hắn. Nhưng nếu cậu bất cẩn, hắn sẽ để đội ám sát bốn người của hắn đưa cậu vào vòng ngắm. Hắn sử dụng người của chính hắn. Hắn giao việc này cho tôi nhưng tôi đã từ chối.

Họ đang ở trên một đường phố tối tăm.

- Cảm ơn, Astorre nói. Tôi để anh xuống chỗ nào đây?

- Chỗ này. Xe tôi đậu cách đây một dãy nhà.

Astorre hiểu. Heskow lo sợ bị phát hiện cặp kè bên chàng.

- Còn một việc nữa, Heskow nói. Cậu biết căn hộ của Portella tại khách sạn của hắn chứ? Em hắn, Bruno, đang sử dụng nó đêm nay để hú hí với một ả đàn bà. Và không hề có vệ sĩ.

- Một lần nữa xin cảm ơn anh, Astorre nói. Chàng mở cửa xe và Heskow biến vào bóng đêm.

Marcantonio đang dự cuộc họp cuối cùng trong ngày. Gã muốn nó diễn ra ngắn gọn. Lúc này là bảy giờ tối, và gã còn dự tiệc chiêu đãi lúc chín giờ.

Cuộc họp diễn ra với một nhà sản xuất có tiếng tăm và cũng là người bạn tốt nhất trong lĩnh vực điện ảnh - Steve Brody, người chẳng bao giờ xem xét kỹ càng kế hoạch chi tiêu, người có tài đánh hơi những sáng tác gây ấn tượng và thường giới thiệu Marcantonio với những diễn viên trẻ có triển vọng đang cần được giúp đỡ ít nhiều trong sự nghiệp.

Nhưng tối nay họ là đối thủ của nhau. Brody đến cùng một trong những đại diện quyền lực nhất trên thương trường có tên là Matt Glazzier. Y đến đây, lấy cớ vì một tiểu thuyết gia. Tác phẩm cuối cùng của người này được y chuyển thể thành kịch bản của loạt phim truyền hình dài tám tiếng. Bây giờ Glazier muốn bán tiếp ba cuốn sách trước đó của ông ta.

- Marcantonio, Glazier nói, ba cuốn sách này rất khá nhưng không bán được. Cậu biết rõ mấy thằng bên xuất bản mà - chúng không thể bán một lọ trứng cá muối lấy năm đô được. Brody đã sẵn sàng bắt tay vào sản xuất. Cậu đã kiếm được cả một đống tiền nhờ cuốn sách cuối cùng của nó, vì vậy hãy hào phóng một tý để bọn mình còn làm hợp đồng.

- Tôi đếch quan tâm, Marcantonio nói. Đấy là những cuốn sách cũ. Chúng chưa bao giờ là sách bán chạy. Và bây giờ chúng cũng không còn được bán nữa.

- Chuyện đó thì nhằm nhò gì, Glazier nói với vẻ quả quyết của tất cả các nhà đại diện. Ngay sau khi chúng ta ký kết hợp đồng, bên xuất bản sẽ cho tái bản.

Marcantonio đã nghe luận cứ này nhiều lần trước đó. Đúng, bên xuất bản sẽ tái bản, nhưng thực ra việc này chẳng giúp gì nhiều cho truyền hình trong khi truyền hình lại giúp được nhiều hơn cho các nhà xuất bản. Đây đúng là một cuộc tranh cãi vô bổ.

- Dẹp cả đi, Marcantonio nói. Tôi đã đọc mấy cuốn đó rồi. Chúng quá văn vẻ. Ngôn ngữ nhiều nhưng không có sự kiện. Tôi không nói là chúng không hay. Tôi chỉ nói không đáng phải liều và cố công với chúng.

- Đừng có loè tôi, Glazier nói. Cậu đọc mục ý kiến bạn đọc chứ gì. Cậu lãnh đạo bộ phận lập chương trình thì làm gì có thời gian mà đọc.

Marcantonio bật cười.

- Cậu nhầm. Tôi thích đọc và tôi thích mấy cuốn đó. Nhưng chúng không hợp với truyền hình. Giọng gã ấm áp, thân tình.

- Tôi rất tiếc, nhưng với chúng ta việc này coi như chấm dứt. Tuy nhiên, hãy nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi rất muốn hợp tác với cậu.

Sau khi hai vị khách ra về, Marcantonio tắm táp, thay đồ đi dự chiêu đãi. Gã chào tạm biệt thư ký của mình - người luôn luôn ở lại cho đến khi gã rời cơ quan, rồi đón thang máy xuống tiền sảnh của toà nhà. Bữa chiêu đãi được tổ chức tại nhà hàng Bốn Mùa, chỉ cách đấy vài dãy nhà. Không giống như hầu hết các tổng giám đốc, anh không dùng xe và lái xe riêng. Khi cần gã sẽ gọi một chiếc. Gã hãnh diện về sự tiết kiệm của mình và biết rằng gã đã học được điều đó từ cha gã, người có thành kiến nặng với việc lãng phí tiền bạc vào những điều ngu xuẩn.

Khi bước ra đường, gã cảm thấy một luồng gió lạnh và bỗng rùng mình. Một chiếc xe Limousine màu đen dừng lại, rồi người tài xế bước xuống mở cửa mời gã. Chả lẽ tay thư ký đã gọi xe giúp? Tay lái xe là một người cao lớn và khoẻ mạnh. Chiếc mũ lưỡi trai quá nhỏ so với đầu. Hắn cúi chào và hỏi,

- Ngài Aprile phải không ạ?

- Tôi đây, Marcantonio trả lời. Đêm nay tôi không cần anh.

- Ngài cần đấy, hắn nói và nở một nụ cười vui vẻ. Lên xe, không thì ăn đạn.

Ngay lúc đó Marcantonio nhận thấy có ba người đàn ông ở sau lưng mình. Gã do dự. Tên lái xe tiếp tục,

- Đừng lo, một người bạn muốn tâm sự với ngài chút đỉnh.

Marcantonio lên băng ghế sau của chiếc Limousine, ba người đàn ông vây quanh gã.

Họ đi qua một hoặc hai dãy nhà và sau đó một tên đưa cho gã cặp kính đen và yêu cầu gã đeo. Marcantonio lam theo và từ đấy gã như người mù. Hai mắt kính quá đen che hết cả ánh sáng. Thật khôn ngoan, gã nghĩ, và lưu ý trong đầu sẽ sử dụng tình tiết này vào một câu chuyện. Đây cũng là một tia hy vọng. Nếu chúng không muốn gã biết mình đi đâu tức là chúng không có ý định giết gã. Toàn bộ câu chuyện này cứ như bịa giống hệt một trong những vở kịch trên truyền hình của gã. Rồi bỗng nhiên gã nghĩ về cha mình. Cuối cùng gã đã có mặt trong thế giới của người cha, cái thế giới mà gã chưa bao giờ hoàn toàn tin tưởng.

Khoảng một tiếng sau chiếc xe dừng lại và gã được hai kẻ áp tải đỡ xuống. Gã có thể cảm thấy con đường mòn lát gạch dưới chân mình. Rồi gã được dẫn vào một ngôi nhà, leo hơn một nhịp cầu thang đến một căn phòng, cánh cửa ra vào đóng lại ở phía sau. Chỉ đến lúc đó cặp kính mới được gỡ ra. Gã đang ở tỏng một phòng ngủ nhỏ có những cửa sổ che rem kín mít. Một trong những tên gác ngồi xuống chiếc ghế tựa ngay bên cạnh giường.

- Nằm xuống ngủ ngáy một chút đi, tên gác nói. Ngài còn cả một ngày vất vả phía trước đấy. Marcantonio nhìn đồng hồ. Đã nửa đêm rồi.

Hơn bốn giờ sáng Astorre và Aldo Monza đến trước khách sạn Lyceum, gã lái xe chờ ở mặt tiền. Chùm chìa khoá của Monza kêu lách cách khi họ chạy lên ba nhịp cầu thang tới trước cửa căn phòng bí mật của Portella.

Monza dùng chìa khoá của mình để mở cửa, rồi họ vào phòng khách. Họ thấy một chiếc bàn bày bừa la liệt những hộp đồ ăn Tàu, những chiếc ly không, những chai vang và Whiskey. Một chiếc bánh nướng đánh kem rất to đã bị ăn một nửa với một điếu thuốc hút dở cắm lên trên trông như một cây nến sinh nhật. Họ vào phòng ngủ. Astorre bật công tắc đèn gắn trên tường. Ở đó, vận chiếc xà lỏn và nằm dài trên giường là Bruno Portella.

Không khí nồng nặc mùi nước hoa nhưng chỉ có một mình Bruno. Trông gã không được đẹp mắt cho lắm. Mặt gã nặng nề, uể oải, bóng loáng mồ hôi. Mùi hải sản tanh nồng bốc ra từ miệng gã. Bộ ngực đồ sộ làm gã giống như một con gấu, và thực tế, gã có cái vẻ dịu dàng của một con gấu nhồi bông. Cạnh chân giường có một chai vang đỏ đã mở. Có lẽ sẽ là bất nhã nếu đánh thức gã, và Astorre làm điều đó một cách nhẹ nhàng bằng cách vỗ vào trán gã.

Bruno mở một mắt, rồi mở nốt mắt kia. Gã không có vẻ sợ hãi, thậm chí chẳng hề ngạc nhiên.

- Tụi mày làm cái chó chết gì vậy hả? Giọng gã khàn khàn ngái ngủ.

- Bruno, chẳng có gì phải lo lắng cả, Astorre nhẹ nhàng nói. Cô gái đâu rồi?

Bruno ngồi dậy. Gã cười hềnh hệch. Nó phải về nhà sớm để đưa con đến trường. Tao đã phang nó ba lần trước khi để nó về, gã nói, không che giấu niềm kiêu hãnh về khả năng tình dục mạnh mẽ cũng như hiểu biết của gã về những vấn đề của một gái làng chơi. Một cách ngẫu nhiên gã với tay về phía chiếc bàn kê cạnh giưòng. Astorre nhã nhặn giữ tay gã lại còn Monza mở ngăn kéo và lấy ra khẩu súng.

- Nghe đây, Bruno, Astorre vỗ về. Sẽ không có chuyện gì tồi tệ xảy ra cả. Tôi biết anh ngài chẳng hề bàn bạc với ngài, nhưng ông ta đã bắt cóc anh họ tôi đêm hôm qua. Vì thế bây giờ tôi phải đổi ngài lấy anh ấy. Anh ngài yêu thương ngài, Bruno ạ, ông ấy sẽ chấp nhận trao đổi thôi. Ngài tin điều đó chứ?

- Tất nhiên rồi, Bruno nói. Trông gã nhẹ nhõm hẳn.

- Chỉ không được làm điều gì ngốc nghếch mà thôi. Giờ thì mặc quần áo vào.

Mặc đồ xong, Bruno hình như lại gặp rắc rối trong việc buộc dây giầy.

- Có chuyện gì vậy? Astorre hỏi.

- Đây là lần đầu tao đi đôi giày này, Bruno nói. Tao thường đi giày không dây.

- Ngài không biết cột dây giày chứ gì? Astorre hỏi

- Đây là đôi giày có dây đầu tiên của tao mà lại.

Astorre bật cười

- Lạy chúa. Thôi được, tôi sẽ cột hộ.

Khi làm xong, Astorre nhấc máy điện thoại ở đầu giường đưa cho Bruno. Hãy gọi cho anh ngài, chàng ra lệnh.

- Vào lúc năm giờ sáng ư? Bruno hỏi. Timmona sẽ giết tao mất.

Astorre nhận ra rằng không phải việc mất ngủ làm đầu óc Bruno lú lẫn, mà thực sự gã là một kẻ đần độn.

- Chỉ nói rằng tôi đã chộp được ngài. Sau đó tôi sẽ nói với ông ấy.

Bruno cầm ống nghe và rên rỉ nói,

- Timmona, anh đẩy tôi vào những chuyện rắc rối, đấy là lý do tôi gọi cho anh sớm thế này.

Astorre có thể nghe thấy tiếng la lối qua điện thoại, rồi Bruno gấp gáp nói

- Astorre Viola đang giữ tôi và nó muốn nói chuyện với anh. Gã nhanh chóng chuyển ống nghe cho Astorre.

Astorre nói

- Thưa ngài Timmona, rất tiếc đã đánh thức ngài. Tôi buộc phải bắt Bruno vì ngài đang giữ anh họ tôi.

Giọng Portella giận dữ truyền qua đường dây.

- Ta chẳng biết gì về điều đó. Thế mày muốn cái quái gì hả?

Bruno nghe được và gã gào lên.

- Anh đẩy tôi vào chuyện này, anh thật là ngu ngốc. Hãy đưa tôi ra khỏi đây ngay.

Astorre ôn tồn nói,

- Thưa ngài Timmona, hãy tiến hành trao đổi rồi chúng ta sẽ bàn về cái hợp đồng ngài đang cần. Tôi biết ngài vẫn nghĩ rằng tôi là một kẻ cứng đầu, nhưng khi gặp nhau tôi sẽ cho ngài biết lý do và ngài sẽ biết tôi vẫn đang giúp ngài đấy.

Lúc này giọng Portella đã dịu xuống

- OK, hắn nói. Chúng ta tiến hành gặp gỡ ra sao đây.

- Tôi sẽ gặp ngài tại nhà hàng Paladin vào buổi trưa, Astorre nói. Ở đó tôi có một phòng riêng. Tôi sẽ mang Bruno đi cùng, còn ngài mang theo Marc. Ngài có thể mang theo vệ sĩ nếu ngài nghi ngờ, nhưng chúng tôi không muốn có một cuộc tắm máu ở nơi công cộng. Chúng ta sẽ thảo luận và tiến hành trao đổi.

Một sự im lặng kéo dài, rồi Portella nói

- Sau cuộc gặp gỡ này chúng ta sẽ là chỗ bạn bè thân thiết mà.

Astorre và Monza kém sát hai bên Bruno, chàng còn khoác vai Bruno một cách thân thiện. Họ đưa gã xuống đường. Ở đó có thêm hai chiếc xe với người của Astorre đang đợi

- Hãy đưa Bruno đi cùng anh trên một xe, Astorre dặn Monza. Đưa hắn đến nhà hàng Paladin vào buổi trưa. Tôi sẽ gặp anh ở đấy.

- Tôi phải làm cái chó chết gì với hắn cho đến lúc đó? Monza hỏi.

- Đưa hắn đi ăn sáng, Astorre đáp. Hắn háu ăn lắm. Việc đó sẽ tiêu mất vài tiếng đồng hồ. Sau đó đưa đi dạo trong công viên Trung Tâm. Vào sở thú. Tôi sẽ lấy một xe và một tài xế. Nếu hắn cố chạy trốn cũng không được giết, mà phải bắt cho kỳ được.

- Cậu sẽ đi một mình? Như vậy có khôn ngoan không đấy?

- Tôi không sao đâu. Trên xe Astorre dùng điện thoại gọi về số máy riêng của Nicole. Lúc này đã gần sáu giờ sáng.

Giọng Nicole còn ngái ngủ khi trả lời điện thoại. Astorre nhớ nó giống giọng của cô thiếu nữ và người tình của chàng năm xưa.

- Nicole, dậy đi. Chị có biết đây là ai không?

Câu hỏi rõ ràng làm nàng bực mình.

- Tất nhiên tôi biết người ấy là ai rồi. Còn ai có thể gọi vào giờ này chứ?

- Nghe cho kỹ đây, Astorre nói. Không được hỏi. Tờ văn bản chị giữ dùm tôi, tờ tôi đã ký cho Cilke còn chị đã bảo tôi đừng ký, chị còn nhớ chứ?

- Còn, Nicole trả lời cộc lốc, đương nhiên tôi vẫn nhớ.

- Chị để nó ở nhà hay ở tủ bảo mật của văn phòng?

- Tại văn phòng của tôi, Nicole đáp.

- Tốt. Tôi sẽ đến nhà chị sau ba mươi phút nữa. Tôi sẽ nhấn chuông. Hãy sẵn sàng để đi ngay. Mang theo tất cả chìa khóa. Chúng ta sẽ cùng tới văn phòng của chị.

Khi Astorre nhấn chuông, Nicole xuống ngay. Nàng mặc chiếc áo khoác da màu thanh thiên và mang một chiếc bóp lớn. Nàng hôn lên má Astorre nhưng không dám nói một lời cho đến khi họ lên xe và nàng phải hướng dẫn người tài xế. Sau đó nàng tiếp tục im lặng đến khi họ tới văn phòng của nàng.

- Nào, hãy nói cho tôi biết tại sao anh cần tờ văn bản đó.

- Chị không cần phải biết.

Astorre nhận thấy nàng bực tức với câu trả lời, nhưng nàng vẫn bước tới tủ bảo mật, đó là một phần của bàn làm việc và rút ra một cặp hồ sơ.

- Đừng đóng cửa tủ, Astorre nói. Tôi cần cuốn băng chị thu cuộc gặp của chúng ta với Cilke.

Nicole đưa cho chàng chiếc cặp.

- Anh có quyền đối với những văn bản này, nàng nói. Nhưng anh không có quyền đối với bất kỳ cuốn băng nào, cho dù nó có tồn tại đi chăng nữa.

- Trước đây chị đã có lần nói với tôi rằng chị ghi âm tất cả các cuộc họp tại văn phòng của chị. Và trong lần gặp đó tôi đã quan sát chị. Chị đã hơi quá thoả mãn với chính mình.

Nicole cười khẩy

- Anh đã thay đổi, nàng nói. Anh chưa bao giờ là một trong những thằng khoác lác, những kẻ vẫn nghĩ rằng chúng có thể đọc được suy nghĩ của người khác.

Astorre toét miệng cười và nói giọng đầy hối tiếc

- Tôi nghĩ chị hãy còn quý tôi. Bởi vậy tôi không hề hỏi chị đã xoá cái gì trong hồ sơ của ông già trước khi cho tôi xem.

- Tôi không xoá gì hết, Nicole lạnh lùng nói. Và tôi sẽ không đưa cuốn băng chừng nào anh còn chưa cho tôi biết toàn bộ chuyện này là thế nào.

Astorre im lặng, sau đó chàng nói

- Thôi được, bây giờ chị đã là một người lớn rồi mà. Chàng phì cười khi thấy nàng giận dữ, mắt nàng long lên, nàng bĩu môi khinh bỉ. Nó làm chàng nhớ lại hình ảnh của nàng khi nàng xung đột với chàng và cha nàng nhiều năm trước.

- Chị luôn luôn muốn đánh đu với các ông lớn, Astorre nói. Và hiển nhiên chị làm được điều đó. Là một luật sư, chị đã làm nhiều người khiếp sợ cũng như cha chị vậy.

- Ông cụ không đến nỗi xấu xa như báo chí và FBI thêu dệt, Nicole giận dữ nói.

- Được rồi, Astorre nói giọng vỗ về. Đêm qua Marc đã bị Timmona Portella bắt cóc. Tuy nhiên đừng quá lo lắng. Tôi đã tóm được Bruno, em trai lão. Bây giờ chúng ta có thể thương lượng.

- Anh đã thực hiện vụ bắt cóc ư? Nicole nghi hoặc hỏi.

- Chúng làm trước như vậy với ta mà, Astorre đáp. Chúng rất muốn ta bán các nhà băng cho chúng.

Nicole gần như hét lên

- Thế thì cho quách chúng mấy cái nhà băng chết tiệt ấy đi.

- Chị không hiểu rồi. Chúng ta chẳng cho chúng bất cứ thứ gì. Chúng ta có Bruno. Nếu chúng hại Marc thì tôi sẽ hại Bruno.

Nicole nhìn chàng bằng ánh mắt khiếp đảm. Astorre nhìn nàng bình tĩnh, và một tay đưa lên sờ cái vòng cổ bằng vàng. Phải, chàng nói. Tôi sẽ phải giết hắn.

Trên khuôn mặt cứng rắn của Nicole vụt xuất hiện những nếp nhăn đau khổ.

- Không phải là anh, Astorre, không phải là anh.

- Vậy là chị đã biết, Astorre nói. Tôi không phải là người bán các nhà băng sau khi chúng đã giết cha chị và bác tôi. Nhưng tôi cần cuốn băng và tờ văn bản để làm hợp đồng và đưa Marc trở về mà không phải đổ máu.

- Thì cứ bán cái nhà băng cho chúng, Nicole thì thầm. Chúng ta sẽ giầu có. Có gì quan trọng chứ?

- Việc này quan trọng đối với tôi, Astorre nói. Việc này cũng đã quan trọng với ông già.

Nicole lặng lẽ lấy trong tủ bảo mật ra một gói nhỏ. Nàng dể nó trên cặp hồ sơ.

- Cho tôi nghe luôn đi, Astorre đề nghị.

Nicole lấy trong ngăn bàn ra một chiếc cát xét nhỏ. Nàng lắp cuốn băng vào máy, rồi họ lắng nghe Cilke tiết lộ kế hoạch gài bẫy Portella. Sau đó Astorre bỏ tất cả vào túi và nói.

- Tôi sẽ đem chúng về cho chị trong ngày hôm nay, cả Marc nữa. Đừng lo. Chẳng có gì xảy ra đâu. Mà nếu có, chúng nó sẽ khốn nạn hơn chúng ta.

Quá trưa một chút Astorre, Aldo Monza và Bruno Portella đã tề tựu tại phòng ăn riêng của nhà hàng Paladin.

Bruno có vẻ chẳng hề lo lắng tí nào. Hắn trò chuyện vui vẻ với Astorre.

- Chú mày biết đấy, tao đã sống cả đời ở New York mà không biết trong công viên Trung Tâm lại có vườn bách thú. Còn nhiều người cần phải biết điều đó để mà đến xem.

- Vậy là ngài đã có một cuộc dạo chơi thú vị. Astorre vui vẻ nói, đồng thời chàng nghĩ nếu mọi việc diễn ra không suôn sẻ thì ít ra Bruno cũng đã có một kỷ niệm đẹp trước khi chết. Cánh cửa phòng ăn bật mở và chủ nhà hàng xuất hiện cùng Timmona Portella và Marcantonio. Thân hình đồ sộ của Portella cùng bộ vét cắt rất khéo gần như che khuất Marcantonio phía sau hắn. Bruno nhào vào vòng tay Timmona và hôn lên hai má hắn. Astorre vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy vẻ yêu thương trìu mến trên mặt Timmona.

Trái ngược với cảnh đó, Astorre và Marcantonio chỉ bắt tay, rồi Astorre nói

- Mọi việc ổn cả, Marc ạ...

Marcantonio quay lại và ngồi xuống. Hai chân gã run run phần bởi đã an toàn, phần bởi sự xuất hiện của Astorre. Cái gã thanh niên chỉ thích hát hò, lúc nào cũng cuồng nhiệt, vui vẻ và vô tư bây giờ đã lộ nguyên hình là Thiên Sứ của Thần Chết. Dáng vẻ đầy quyền lực của nó có ảnh hưởng lớn tới nỗi sợ hãi và vẻ hùng hổ bề ngoài của Portella.

Astorre ngồi xuống bên cạnh Marcantonio và vỗ lên đầu gối gã. Chàng đang nở một nụ cười nhã nhặn như thể đây chỉ là một bữa ăn thân mật.

- Anh ổn chứ? Chàng hỏi.

Marcantonio nhìn thẳng vào đôi mắt Astorre. Trước đây gã chưa từng thấy chúng thản nhiên và tàn nhẫn như vậy. Gã nhìn Bruno, kẻ lẽ ra đã phải trả giá cho cuộc sống của gã. Hắn đang tiết lộ với anh mình những điều gì đó về sở thú ở công viên Trung Tâm.

Astorre nói với Portella,

- Chúng ta có những vấn đề cần bàn đấy.

- OK, Portella nói. Bruno, xéo khỏi đây ngay. Xe đang đợi ngoài kia. Tôi sẽ nói chuyện với chú khi về nhà.

Monza bước vào phòng ăn.

- Đưa Marcantonio về nhà anh ấy, Astorre bảo gã. Marc, chờ tôi ở nhà nhé.

Lúc này chỉ còn lại Portella và Astorre ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn. Portella mở một chai vang rồi rót đầy ly của mình. Hắn chẳng thèm mời Astorre.

Astorre thọc tay vào túi lấy ra chiếc phong bì màu nâu, rồi dốc tất cả những gì chứa bên trong lên mặt bàn. Ở đó có tờ văn bản mật chàng đã ký cho Cilke, trong đó chàng được yêu cầu phản lại Portella.

Có cả một máy cát xét nhỏ đã lắp băng.

Portella nhìn tờ văn bản có biểu tượng FBI và cắm cúi đọc. Rồi hắn thảy nó sang một bên.

- Đây có thể là giấy tờ giả, hắn nói. Và tại sao cậu lại có thể ngớ ngẩn ký vào đó nhỉ?

Astorre nhấn nút máy cát xét thay cho câu trả lời. Có thể nghe thấy giọng Cilke đang yêu cầu Astorre cộng tác để bẫy Portella. Portella lắng nghe và cố chế ngự sự ngạc nhiên cùng cơn giận dữ, nhưng mặt hắn đỏ bừng còn đôi môi hắn mấp máy thành những tiếng chửi rủa không lời. Astorre tắt máy.

- Tôi biết ngài làm việc với Cilke hơn sáu năm qua. Ngài đã giúp ông ta quét sạch các Đại gia ở New York. Vì việc đó ngài đã được ông ta miễn tội. Nhưng ông ta vẫn không ngừng theo dõi ngài, kể cả lúc này. Những kẻ đeo phù hiệu đó có bao giờ thoả mãn đâu. Ngài đã vì ông ta mà phá vỡ luật im lặng. Ngài đã làm cho ông ta nổi tiếng, và bây giờ ông ta lại muốn tống ngài vào tù. Ông ta không cần đến ngài nữa. Ông ta sẽ tóm ngài ngay sau khi ngài mua các nhà băng. Điều đó giải thích tại sao tôi không thể làm hợp đồng.

Portella lặng thinh rồi sau đó có vẻ như đi đến một quyết định.

- Nếu ta giải quyết vấn đề thằng Cilke thì cậu sẽ tính sao với các nhà băng?

Astorre bỏ mọi thứ vào lại cặp hồ sơ của mình.

- Bán ngay, chàng nói. Trừ tôi ra - tôi giữ năm phần trăm cổ phần.

Portella dường như đã vượt qua cú sốc.

- OK, hắn nói. Chúng ta sẽ tính toán việc này sau khi vấn đề được giải quyết.

Họ bắt tay về việc đó rồi Portella rút trước. Astorre nhận thấy chàng đang đói cồn cào. Chàng gọi một miếng bít tết cho bữa trưa. Thế là đã giải quyết được một việc, chàng nghĩ.

Nửa đêm Portella họp bàn với Marriano Rubio, Luzio Tulippa và Michael Grazziella tại lãnh sự quá Peru.

Rubio là một chủ nhà tuyệt hảo của Tulippa và Grazziella. Y đưa khách đi xem hát, nhạc kịch và ba lê, cung cấp những người đàn bàn trẻ đẹp và kín đáo đã đạt được một số tiếng tăm trong mỹ thuật và âm nhạc. Tulippa và Grazziella đang có một thời gian lưu trú tuyệt vời và tỏ ra miễn cưỡng khi phải quay về với môi trường tự nhiên của mình.

Đêm nay viên tổng lãnh sự đã vượt quá khả năng của mình về lòng mến khách. Trên bàn bày la liệt những món ăn hấp dẫn, rồi trái cây, phó mát, những viên kẹo bòn bon sô cô la, bên mỗi chiếc ghế có một chai Chamgagne đặt trong thùng đá. Những chiếc bánh gatô xinh xắn đặt trên những thanh kẹo bông tao nhã. Một bình cà phê cỡ lớn, và những hộp xì gà Havana được rải bừa bãi khắp mặt bàn.

Rubio khai mạc buổi họp bằng một câu hỏi dành cho Portella

- Nào có chuyện gì quan trọng đến nỗi chúng tôi phải huỷ bỏ các cuộc hẹn để ngồi đây thế hả? Bất chấp vẻ lịch sự của y, trong giọng nói vẫn toát lên cách cư xử hạ cố và điều đó làm Portella tức giận. Hắn biết rằng hắn sẽ trở nên nhỏ bé trong con mắt các chiến hữu của hắn khi chúng biết sự cố ý lừa dối Cilke. Hắn kể cho chúng nghe toàn bộ câu chuyện.

Đang ăn viên bòn bon Tulippa lên tiếng

- Ngài muốn nói ngài đã bắt thằng Marcantonio Aprile anh họ nó và ngài đã có một thoả thuận để giải thoát em ngài mà không tham khảo ý kiến của chúng tôi.

Giọng y đầy vẻ coi thường.

- Tôi không thể để em tôi chết được, Portella nói. Ngoài ra, nếu tôi không đạt được một thoả thuận thì chúng ta đã rơi vào bẫy của thằng Cilke rồi.

- Đúng thế, Tulippa nói. Nhưng ngài không có quyền quyết định.

- Ra thế, Portella nói. Vậy thì ai?

- Tất cả chúng ta. Tulippa sủa. Chúng tôi là bạn hàng của ngài.

Portella nhìn y và tự hỏi cái gì đã cản hắn không giết cái đồ chó đẻ thớ lợ này. Nhưng rồi hắn nhớ tới năm mươi cái mũ Panama bay vèo lên không trung.

Ngài tổng lãnh sự dường như đã đọc được ý nghĩ của hắn. Y nói giọng xoa dịu

- Tất cả chúng ta đến đây từ những nền văn hoá khác nhau và có những nguyên tắc khác nhau. Chúng ta phải tự thích nghi với nhau thôi. Ngài Timmona là một người Mỹ, một người đa cảm.

- Em hắn chỉ là một cục cứt, Tulippa nói.

Rubio nhứ ngón tay ra hiệu cho Tulippa.

- Inzio, hãy thôi gây chuyện đi. Chúng ta ai cũng có quyền quyết định những vấn đề riêng tư của mình.

Grazziella nhếch mép cười thích thú.

- Đúng thế. Ngài Inzio chưa bao giờ thổ lộ với chúng tôi về những phòng thí nghiệm bí mật của ngài. Khát vọng của ngài là sở hữu những vũ khí cá nhân của chính ngài. Đấy là một ý tưởng ngu xuẩn. Ngài có nghĩ rằng chính phủ sẽ khoanh tay ngồi nhìn một mối đe doạ như vậy không? Người ta sẽ thay đổi tất cả các đạo luật đang bảo vệ chúng ta và cho phép chúng ta làm ăn phát đạt.

Tulippa cười. Y khoái cuộc họp mặt này.

- Tôi là một người yêu nước. Tôi muốn Nam Mỹ có khả năng tự vệ như Israel, Ấn Độ và Irắc.

Rubio mỉm cười lịch sự với Tulippa.

- Thế mà tôi không biết ngài là một nhà ái quốc.

Portella rầu rĩ

- Tôi đang có một vấn đề nghiêm trọng. Tôi những tưởng Cilke là bạn. Tôi đã đầu tư rất nhiều tiền vào nó. Và bây giờ nó lại theo dõi tôi và tất cả các ngài.

Grazziella nói thẳng thừng và mạnh mẽ.

- Chúng ta phải từ bỏ toàn bộ dự án thôi. Chúng ta phải tìm giải pháp khác. Hãy quên Kurt Cilke và Astorre Viola đi. Chúng quá nguy hiểm. Chúng ta không được tiếp tục theo đuổi tiến trình có thể huỷ diệt tất cả chúng ta.

- Làm thế sẽ không giải quyết được vấn đề của tôi, Portella nói. Thằng Cilke sẽ tiếp tục truy đuổi tôi.

Tulippa quay sang Grazziella.

- Việc ngài biện minh cho một giải pháp hoà bình như thế thật khác với những gì chúng tôi biết về ngài. Ngài đã giết cảnh sát và các thẩm phán ở Sicily. Ngài ám sát thị trưởng và vợ lão. Ngài và cái cosca Corleone của ngài đã giết lão đại tướng - kẻ được cử đến để tiêu diệt tổ chức của ngài. Thế mà bây giờ ngài lại đề nghị từ bỏ một dự án sẽ đem về cho chúng ta hàng tỷ đô là và bỏ mặc cả người bạn Portella của chúng ta nữa.

- Tôi sẽ loại bỏ thằng Cilke, Portella nói. Các ngài nói sao cũng mặc.

- Đó là một hành động nguy hiểm, ngài tổng lãnh sự lên tiếng. Tụi FBI sẽ sử dụng toàn bộ nguồn lực để tìm cho ra kẻ giết người.

- Tôi đồng ý với Timmona, Tulippa nói. Tôi sẽ điều đến một đội biệt kích, vài tiếng sau chiến dịch chúng sẽ bay đi Nam Mỹ.

Portella nói,

- Tôi biết việc này nguy hiểm chứ, nhưng vẫn phải làm.

- Tôi nhất trí, Tulippa nói. Vì hàng tỷ đô la người ta phải chấp nhận mạo hiểm. Nếu không thì chúng ta kinh doanh làm gì hả?

Rubio bảo Inzio

- Ngài và tôi ít rủi ro nhất vì chúng ta có quy chế ngoại giao. Michael, ngài quay lại Sicily tạm lánh một thời gian. Timmona, ngài sẽ là người phải chịu đựng toàn bộ áp lực của những gì xảy ra sau đó.

- Nếu mọi việc trở nên tồi tệ, Tulippa nói, tôi có thể giúp ngài trốn tránh ở Nam Mỹ.

Portella khoát tay trong một cử chỉ cần được giúp đỡ.

- Tôi đã có cách. Nhưng tôi cần sự giúp đỡ của các ngài. Michael, ngài đồng ý chứ?

Nét mặt Grazziella vẫn thản nhiên.

- Có, tôi đồng ý, lão nói. Nhưng tôi lo lắng về thằng nhãi Astorre Viola nhiều hơn thằng Kurt Cilke.

Chương 11

Khi nhận được mật báo Heskow muốn hội kiến Astorre lập tức đề phòng. Luôn luôn có nguy cơ y sẽ chống lại chàng. Vì vậy thay cho việc trả lời chàng đến nhà Heskow ở Brightwaters ngay lúc nửa đêm. Chàng mang theo Aldo Monza và điều thêm một xe cùng bốn người nữa. Chàng còn mặc cả áo chống đạn. Khi cho xe vào con đường dẫn chàng gọi Heskow để y ra mở cửa.

Heskow không hề tỏ vẻ ngạc nhiên. Y pha cà phê cho mình và Astorre. Sau đó y mỉm cười và nói

- Tôi có cả tin lành và tin dữ. Cậu muốn nghe cái nào trước?

- Anh cứ nói, Astorre đáp.

- Tin dữ là tôi phải rời khỏi đất nước này vĩnh viễn. Tôi muôn đề nghị cậu giữ lời hứa. Sẽ không có chuyện gì xảy ra cho con tôi ngay cả khi tôi không còn làm cho cậu nữa.

- Anh có lời hứa ấy, Astorre nói. Mà tại sao anh phải rời khỏi đây chứ?

Heskow lắc đầu trong một cử chỉ buồn rầu hài hước. Y nói.

- Vì cái thằng ngu Portella càng ngày càng quá đáng. Hắn sẽ hạ Cilke, một thằng bên FBI. Và hắn muốn tôi phụ trách vụ này.

- Thế thì chỉ việc từ chối, Astorre nói.

- Tôi không thể. Việc này được cả nghiệp đoàn của hắn thông qua. Nếu từ chối tôi sẽ mất mạng và có lẽ cả thằng con tôi cũng vậy. Vì vậy tôi vẫn sẽ tổ chức vụ giết người, nhưng tôi sẽ không tham gia vào nhóm hành quyết. Tôi sẽ cao chạy xa bay. Và khi Cilke bị hạ, bọn FBI sẽ đổ cả trăm thằng vào thành phố để tìm thủ phạm. Tôi đã cảnh báo với chúng điều đó nhưng chúng không thèm nghe. Cilke đã lừa chúng hay có chuyện gì đó. Chúng nghĩ rằng chúng có thể giải quyết ổn thoả vụ này.

Astorre cố không để lộ vẻ thoả mãn của mình. Cilke sẽ chết mà không hề gây nguy hiểm cho chàng. Và chỉ cần một chút may mắn FBI sẽ loại bỏ được Portella.

Chàng bảo Heskow,

- Anh muón để lại địa chỉ cho tôi?

- Tôi không nghĩ vậy, y nói. Không phải là tôi không tin cậu. Nhưng lúc nào tôi cũng có thể liên lạc với cậu.

- Cũng được, cảm ơn vì đã báo tin cho tôi, Astorre nói. Nhưng thực sự ai đã đưa ra quyết định này?

- Timmona Portella. Nhưng Inzio Tulippa và thằng cha tổng lãnh sự cũng đồng tình. Grazziella của băng Corleone từ chối tam gia. Tôi nghĩ lão sẽ chuồn về Sicily. Thật tức cười, ở bên đó lão có tha ai đâu.

- Và anh sẽ chỉ huy đội hành quyết chứ? Astorre hỏi. Việc đó cũng không khôn ngoan đâu.

- Không, Tôi đã nói với cậu khi chúng tập kich ngôi nhà thì tôi đã cao chạy xa bay rồi mà.

- Đánh vào nhà ư? Astorre hỏi và ngay lúc đó chàng cảm thấy sợ hãi về những gì chàng sắp được nghe.

- Ừ, Heskow nói. Đội biệt kích sẽ bay về Nam Mỹ rồi biến mất.

- Rất chuyên nghiệp, Astorre nhận xét. Khi nào toàn bộ chuyện này xảy ra?

- Đêm ngày kia. Tất cả những gì cậu phải làm là đứng sang một bên, và chúng sẽ giải quyết toàn bộ những vấn đề của cậu. Đó là tin lành.

- Đúng thế, Astorre nói, cố giữ vẻ lạnh lùng nhưng trong đầu chàng hiện lên hình ảnh Georgette Cilke, vẻ đẹp và tấm lòng nhân hậu của chị.

- Tôi cho rằng cậu nên biết chuyện này để có chứng cứ ngoại phạm, Heskow nói tiếp. Như vậy cậu nợ tôi một thứ, hãy chăm nom dùm con tôi.

- Đúng là tôi nợ anh, Astorre nói. Đừng lo lắng về thằng nhỏ.

Chàng bắt tay Heskow trước khi ra về. Tôi nghĩ anh rời khỏi đất nước này là khôn ngoan. Rồi sẽ ầm ỹ lên cho mà xem.

- Phải, Heskow đồng tình.

Trong chốc lát Astorre tự hỏi chàng sẽ làm gì với Heskow. Suy cho cùng, y là kẻ lái xe trọng vụ giết ông Trùm. Bất chấp tất cả những nỗ lực giúp đỡ này, y vẫn phải trả giá cho hành động đó. Nhưng chàng hoàn toàn mất hết nghị lực khi nghe tin vợ con Cilke cũng sẽ bị giết. Cứ để cho y đi, chàng nghĩ. Y có thể còn có ích sau này. Rồi sẽ có dịp để giết y. Chang nhìn vào khuôn mặt đang tươi cười của Heskow và mỉm cười đáp lại.

- Anh quả là một người thông minh, chàng bảo Heskow.

Heskow đỏ mặt vì sung sướng.

- Tôi biết, y nói. Chính vì thế mà tôi sống sót.

11 giờ trưa hôm sau Astorre đến tổng hành dinh của FBI cùng Nicole Aprile, người đã đứng ra thu xếp cuộc hẹn.

Chàng đã mất một đêm dài cân nhắc phương hướng hành động của mình. Chàng đã hoạch định toàn bộ việc này để mượn tay Portella khử Cilke. Nhưng chàng biết rằng chàng không thể để mặc Georgette và con gái bị giết. Tuy nhiên sau đó chàng nhớ tời một câu chuyện về ông Trùm. Câu chuyện này làm chàng phân vân.

Một đêm, khi Astorre mới mười hai tuổi và cùng ông Trum đến Sicily trong chuyến thăm hàng năm của lão, hai bác cháu được bà Cateria đãi bữa tối tại nhà thuỷ tạ ở trong vườn. Astorre với vẻ ngây thơ kỳ lạ của trẻ con, đột ngột hỏi họ,

- Hai bác làm thế nào mà quen nhau? Hai bác có lớn lên cùng nhau không?

Ông Trùm và Cateria liếc nhìn nhau rồi phá lên cười sự hiếu kỳ của cậu. Ông Trùm đặt những ngón tay của lão lên môi rồi thì thầm chế nhạo, "Omertà. Bí mật".

Bà Caterina gõ chiếc thìa gỗ vào tay Astorre.

- Đấy không phải là việc của cậu, tiểu yêu ạ, bà nói. Vả lại, cũng chẳng có gì. Bác tự hào về điều đó.

Trùm Aprle nhìn Astorre âu yếm.

- Tại sao nó lại không được biết? Nó là một người Sicily chính cống mà. Cứ nói cho nó nghe.

- Không, bà Caterine từ chối. Nhưng ông có thể kể cho cậu ấy nếu ông muốn.

Sau bữa tối ông Trùm đốt một điếu xì gà, rót đầy ly rượu của mình và kể cho Astorre nghe toàn bộ câu chuyện.

- Mười năm trước người đàn ông quan trọng nhất trong thành phố là một Đức cha Singusmudo nào đó, một người rất nguy hiểm nhưng vui tính. Khi bác đến Sicily ông ấy thường tới nhà bác và đánh bài cùng bạn bè của bác. Lúc đó bác có một người trông nhà khác.

Cha Sigusmundo rất mộ đạo và là một cha xứ cần mẫn. Ông khiển trách mọi người luôn và thậm chí có lần còn tham gia choảng nhau vói một kẻ vô thần. Ông nổi tiếng vì đứng ra làm những nghi lễ cuối cùng cho những nạ nhân của Mafia khi họ đang hấp hối, ông rửa tội cho linh hồn họ và làm họ trở nên tinh khiét cho cuộc hành trình lên Thiên Đàng. Ông được tôn kính vì điều đó. Nhưng việc này xảy ra quá thường xuyên và một số người bắt đầu rỉ tai nhau rằng lý do làm ông cần mẫn như thế là bởi vì ông là một trong số những đao phủ - ông tiết lộ bí mật của phòng xưng tội vì những mục đích riêng của mình.

- Lúc đó chồng bác Caterina là một cảnh sát chống Mafia mạnh mẽ. Ông thậm chí vẫn theo đuổi một vụ giết người sau khi đã được trùm Mafia trong tỉnh cảnh cáo, một hành động thách thức chưa từng có lúc bấy giờ. Một tuần sau lời hăm doạ đó, chồng bác Caterina bị mai phục và nằm chết trong một con hẻm ở Palermo. Và cũng vẫn Cha Sigusmundo có mặt làm lễ rửa tội. Tội phạm không tìm ra được.

- Bác Caterina, một quả phụ đau khổ, để tang chồng một năm và hiến mình cho nhà thờ. Rồi một ngày chủ nhật bác đến phòng xưng tội cùng Cha Sigusmundo. Khi cha xứ bước ra khỏi phòng xưng tội, ngay trước mắt mọi người, bác đâm vào tim ông ta bằng con dao găm của chồng mình.

- Cảnh sát ném bác vào nhà giam. Trùm Mafia kết án bác tội chết.

Astorre tròn xoe mắt nhìn Caterina.

- Bác làm thế thật sao hả bác Caterina?

Caterina nhìn cậu thích thú. Cậu tò mò và không hề tỏ ra sợ hãi.

- Nhưng cậu phải hiểu tại sao. Không phải vì ông ta giết chồng bác. Người ta vẫn chém giết lẫn nhau ở xứ Sicily này. Tuy nhiên Đức cha Sigusmundo là một cha xứ giả dối, một kẻ giết người không được giải tội. Ông ta không đủ tư cách làm lễ rửa tội. Chúa nào thèm nghe hả? Vì vậy chồng bác không chỉ bị giết mà còn không được lên Thiên Đường, phải chịu cảnh đoạ dày dưới Địa Ngục. Con người phải dừng lại ở chỗ nào. Có những việc ta không được phép làm. Đó là lý do tại sao bác giết ông cha xứ.

- Thế rồi làm cách nào bác đến đây được?

- Vì Don Aprile quan tâm đến toàn bộ sự việc, Caterina nói. Do đó, một cách tự nhiên, mọi thứ được an bài.

Ông Trùm nghiêm nghị nói với Astorre

- Bác có địa vị chắc chắn trong thành phố, được nể trọng. Nhà chức trách được thuyết phục một cách dễ dàng, và giáo hội không muốn công chúng chú ý đên smột cha xứ hủ bại. Trùm Mafia không được nhạy cảm như vậy và đã từ chối huỷ bỏ án tử hình. Lão ta được tìm thấy ở bãi tha ma nơi chôn cất chồng bác Caterina. Cổ lão bị cắt đứt và cosca của lão bị huỷ diệt mất hết quyền lực. Lúc đó bác thấy mến Caterina và mời bác ấy về trông nom nhà cửa. Rồi suốt chín năm qua những tháng hè của bác ở Sicily đã trở thành ngọt ngào nhất trong đời bác.

Với Astorre tất cả thật tuyệt vời. Cậu ăn một nhúm quả ô liu rồi phun hột ra.

- Bác Caterina là bạn gái của bác phải không?

- Tất nhiên, bà Caterina đáp. Cậu đã mười hai tuổi cậu có thể hiểu được rồi. Bác sống dưới sự che chở của ông ấy như thể bác là vợ ông ấy, và bác thực hiện nghĩa vụ làm vợ của bác.

Trùm Aprile hơi bối rối, lần duy nhất Astorre thấy lão như vậy. Cậu hỏi

- Tại sao hai bác không làm đám cưới?

Caterian nói

- Bác không thể rời Sicily. Ở đây bác sống như một bà hoàng, và bác cháu là một người rộng rãi. Ở đây bác có bạn bè, có gia đình của bác, các anh chị em và bà con họ hàng. Còn bác của cháu lại không thể sống ở Sicily. Vì thế các bác làm những gì tốt nhất có thể làm được.

Astorre nói với bác Aprile

- Bác ơi, bác có thể cưới bác Caterina rồi sống ở đây mà. Cháu sẽ sống với bác. Cháu không muốn rời Sicily.

Đến đây cả hai người cùng phá lên cười.

- Nghe bác đây, ông Trùm nói. Đã phải tốn rất nhiều công sức để chấm dứt mối thù chống lại bác ấy. Nếu hai bác làm đám cưới, sẽ phát sinh những âm mưu và những điều phiền toái. Người ta có thể chấp nhận nhân tình của bác chứ không chấp nhận bác ấy là vợ bác. Vì vậy, với việc xếp đặt này hai bác đều hạnh phúc, đều tự do. Hơn nữa, bác không muốn có một người vợ từ chối chấp nhận những quyết định của bác, và khi bác ấy từ chối rời bỏ Sicily thì bác đâu còn là một đức ông chồng.

- Và đó sẽ là một điều ô nhục, Caterina nói. Đầu bà hơi gục xuống, rồi bà ngước mắt lên bầu trời Sicily đen ngòm và bắt đầu thổn thức.

Astorre hoang mang. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với một đứa bé như cậu.

- Đúng thế, nhưng tại sao? Tại sao? cậu hỏi.

Ông Trùm thở dài. Lão rít một hơi xì gà và tợp một ngụm rượu.

- Cháu phải hiểu, lão nói. Cha Sigusmundo là em trai bác.

Bây giờ Astorre còn nhớ, lời giải thích của họ đã không thuyết phục được cậu. Với tính ương ngạnh của một đứa trẻ mơ mộng cậu tin rằng hai người yêu nhau phải được sống cùng nhau trên thế gian này. Chỉ đến bây giờ chàng mới hiểu hai người đã có một quyết định khủng khiếp. Nếu ông Trùm lấy Caterina, tất cả họ hàng sẽ trở thành kẻ thù của lão. Không phải họ không hiểu Cha Sigusmundo là một kẻ đểu cáng. Nhưng ông ta là em trai lão và một người như ông Trùm Aprile không thể nào cưới người đã giết em trai mình. Bà Caterina không thể đòi hỏi một sự hy sinh như vậy. Và rồi sẽ ra sao nếu bà Caterina tin rằng vì một lý do nào đó ông Trùm cũng liên quan đến cái chết của chồng mình?

Nhưng đây là nước Mỹ chứ không phải sicily. Suốt đêm Astorre suy nghĩ. Đến sáng chàng gọi cho Nicole.

- Tôi sẽ đếm đón chị đi ăn sáng. Sau đó chúng mình sẽ tới thăm Cilke tại tổng hành dinh của FBI.

Nicole hỏi

- Việc này quan trọng lắm phải không?

- Vâng. Tôi sẽ nói với chị trong bữa sáng.

- Anh đã hẹn với ông ta chưa?

- Chưa, đấy là việc của chị.

Một tiếng sau họ đã ăn sáng với nhau tại một nàh hàng sang trọng có những chiếc bàn rộng được kê riêng rẽ vì đây là nơi gặp gỡ những tay mối lái đầy quyền lực trong thành phố.

Nicole tin rằng một bữa sáng thịnh soạn sẽ cung cấp đủ năng lượng cho một ngày làm việc mười hai tiếng của nàng. Astorre gọi nước cam và cà phê với một giỏ bánh mỳ ăn sáng tốn mất hai mươi đô la của chàng.

Nicole không còn kiên nhẫn được nữa

- Có cái quái gì không ổn hả.

- Tôi sẽ thực hiện nghĩa vụ công dân của mình, Astorre nói. Tôi nhận được thông tin từ một nguồn tin đáng tin cậy. Kurt Cilke và gia đình của ông ta sẽ bị giết vào đêm mai. Tôi muốn cảnh báo ông ta. Tôi muốn được khen ngợi vì đã báo trước cho ông ta. Ông ta sẽ muốn biết nguồn thông tin của tôi, và tôi không thể nói cho ông ta biết được.

Nicole đẩy đĩa ăn của mình sang bên và ngả người ra lưng ghế.

- Thằng chó chết nào lại ngu vậy chứ? Chúa ơi, tôi hy vọng anh không liên quan đến vụ này.

- Sao chị lại nghĩ thế? Astorre hỏi.

- Tôi không biết nữa. Ý nghĩ chợt đến. Tại sao không bắn tin nặc danh cho ông ta?

- Tôi muốn được khen thưởng vì đã làm một việc tốt. Tôi có cảm giác những ngày này chẳng có ai yêu thương tôi. Chàng mỉm cười.

- Tôi yêu anh, Nicole nói. Thôi được, đây là chuyện xẩy ra. Khi bước vào khách sạn, một người lạ mặt chặn chúng mình lại và thì thầm thông báo cho anh. Y mặc bộ vét kẻ sọc màu xám, sơ mi trắng và đeo cà vạt đen. Y cao trung bình, da ngăm đen, có thẻ là người Italy hay Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Sau đó chúng mình có thể thêm bớt. Tôi sẽ là người làm chứng cho anh, và Cilke hiểu ông ta không thể bắt bẻ tôi được.

Astorre phì cười. Tiếng cười của chàng luôn luôn có tác dụng xoa dịu, nó chứa đựng niềm hân hoan hồn nhiên của một đứa trẻ.

- Thế thì ông ta sẽ sợ chị hơn là sợ tôi, chàng nói.

Nicole mỉm cười

- Tôi cũng biết giám đốc FBI. Một chính khách đầy thú tính. Tối sẽ gọi cho Cilke và yêu cầu ông ta đợi chúng mình.

Nàng lấy điện thoại ra khỏi bóp và thực hiện cuộc gọi.

- Thưa ngài Cilke, nàng nói vào điện thoại, Nicole đây. Tôi đang ngồi cùng Astorre Viola, anh ấy có một tin quan trọng muốn báo cho ngài.

Sau một lát tạm ngừng nàng nói tiếp,

- Thế thì quá trễ. Chúng tôi sẽ đến đó trong vòng một tiếng đồng hồ. Nàng cúp máy trước khi Cilke có thể nói thêm bất kỳ điều gì.

Một tiếng sau Astorre và Nicole được dẫn tới phòng làm việc của Cilke . Đó là một căn phòng hình vuông với những cửa sổ lắp kính chống đạn.

Cike đang đứng sau một chiếc bàn làm việc của ông. Sau bàn, khá kỳ quặc, là một tấm bảng đen loại vẫn dùng trong lớp học. Bill Boxton ngồi trên một chiếc ghế không hề có ý bắt tay.

- Các ngài sẽ ghi âm chứ? Nicole hỏi.

- Tất nhiên rồi, Cilke đáp.

Boxton trấn an

- Chúng tôi ghi âm mọi thứ, kể cả việc gọi cà phê và bánh cam vòng. Chúng tôi cũng ghi âm bất kỳ ai chúng tôi cho rằng có thể tống vào nhà đá.

- Ngài đúng là một thằng chó chết, Nicole nói tỉnh queo. Vào cái ngày đẹp nhất của đời ngài ngài cũng không thể tống tôi vào nhà đá được. Hãy nghĩ lại đi. Khách hàng của tôi Astorre Viola tình nguyện đến gặp các ngài để báo cho các ngài một tin quan trọng. Tôi đến đây để bảo vệ khách hàng của tôi khỏi bất kỳ sự lạm dụng nào sau khi anh ấy đã hoàn thành công việc.

Kurt Cilke không còn vẻ quyến rũ như lần gặp trước. Ông ra hiệu cho họ ngồi,

- OK, ông nói. Nào chúng ta bắt đầu.

Astorre nhìn thẳng vào mắt Cilke và nói

- Tôi nhận được nguồn tin sẽ có một toán biệt kích vũ trang đầy đủ tấn công nhà ngài vào đêm mai. Mục đích là giết ngài vì nguyên nhân nào đó.

Cilke không phản ứng lại. Ông ngồi chết lặng, nhưng Boxton bật dậy và đứng sau Astorre. Quay lại phía Cilke anh nói

- Kurt, cứ bình tính.

Cilke đứng dậy. Cả thân hình ông dường như sắp nổ tung cùng cơn thịnh nộ.

- Đây là thủ đoạn cũ của Mafia, ông nói. Cậu dựng lên chiến dịch này rồi lại ngầm phá hoại nó. Và cậu nghĩ tôi sẽ phải mang ơn cơ đấy. Này, làm thế quái nào mà cậu có được thông tin ấy hả?

Astorre kể cho ông nghe câu chuyện mà chàng và Cicole đã chuẩn bị. Cilke quay sang Nicole và hỏi,

- Cô đã chứng kiến sự kiện này?

- Vâng, Nicole trả lời. Nhưng tôi không nghe được ông ta nói gì?

Cilke nói với Astorre,

- Kể từ lúc này cậu đã bị bắt.

- Vì lý do gì?

- Vì đe doạ một sỹ quan Cục điều tra Liên Bang, Cilke đáp.

Tôi cho rằng tốt hơn ngài nên gọi điện cho ngài giám đốc của ngài. Nicole nói.

- Đây là quyết định của tôi, Cilke đáp lại Nicole.

Nicole nhìn đông fhồ.

Cilke dịu giọng,

- Thừa hành lệnh của tổng thống, tôi có quyền giữ cô và khách hàng của cô trong vòng bốn tám tiếng đồng hồ không cần tham khảo ý kiến, như một sự đe doạ an nình quốc gia.

Astorre giật mình. Chàng nói

- Đúng thế ư? Ngài có thể làm việc đó được sao? Chàng thực sự bị gây ấn tượng. Chàng quay sang Nicole và vui vẻ nói - Này, ở đây giống hệt Sicily vậy.

- Nếu ngài làm như vậy thì FBI sẽ phải ra toà và ngài sẽ trở thành đồ bỏ. Nicole nói. Ngài có thể đủ thời gian để đưa gia đình tạm lánh và phục kích những kẻ đột kích. Chúng không biết chúng đã bị lộ. Nếu ngài bắt được tù binh, ngài có thể tra hỏi chúng. Chúng tôi sẽ không nói hoặc cảnh báo chúng.

Cilke dường như đang cân nhắc. Ông nói với Astorre vẻ khinh thường.

- Ít nhất tôi cũng đã kính trọng bác cậu. Ông ấy chẳng bao giờ bép xép cả.

Astorre nở nụ cười bối rối.

- Đó là ngày xưa. Chàng tự hỏi Cilke sẽ nói gì nếu chàng nói cho ông biết nguyên nhân đích thực, rằng chàng đã bảo vệ ông đơn giản vì chàng đã gặp vợ ông và đã thầm yêu chị trong vô vọng.

- Tôi không tin câu chuyện nhảm nhí của cậu nhưng chúng tôi sẽ điều tra kỹ lưỡng vụ này xem thực sự có trận đột kích nào vào đêm mai hay không. Nếu có gì xảy ra thì tôi sẽ nhốt cậu lại, và có lẽ cả cô nữa, bà luật sư ạ. Nhưng tại sao cậu lại báo cho tôi biết?

- Vì tôi thích ngài, Astorre trả lời.

- Xéo khỏi đây ngay, Cilke quát lớn. Ông quay sang Boxton. Gọi ngay chỉ huy lực lượng tác chiến đặc biệt vào đây, và bảo thư ký của tôi chuẩn bị một cuộc gọi cho ngài giám đốc.

Họ bị giữ lại hai tiếng nữa để bộ tham mưu của Cilke thẩm vấn. Trong khi đó, Cilke có cuộc điện đàm tới Washington cho giám đốc qua máy điện thoại chống nghe trộm.

- Không được bắt họ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Giám đốc dặn ông. Mọi chuyện sẽ lọt ra ngoài đến với giới truyền thông và chúng ta sẽ làm trò cười cho thiên hạ. Giữ tuyệt đối bí mật, rồi chúng ta sẽ biết chuyện gì xảy ra đêm mai. Những người bảo vệ ở nhà cậu phải cảnh giác, và gia đình cậu phải được di tản. Bây giờ hãy đưa ông nghe cho Bill. Cậu ấy sẽ chỉ huy chiến dịch phục kích.

- Thưa ngài, đấy phải là việc của tôi. Cilke phản đối.

- Cậu sẽ giúp vạch kế hoạch, giám đốc nói. Nhưng cậu không được tham gia tác chiến. Cục hành binh theo những chỉ thị giao chiến nghiêm ngặt để tránh sử dụng bạo lực không cần thiết. Cậu có thể sẽ bị nghi ngờ nếu mọi chuyện diễn ra tồi tệ. Cậu hiểu tôi chứ?

- Vâng, thưa ngài. Cilke hoàn toàn hiểu rõ.

Chương 12

Sau một tháng Aspinella Washington được xuất viện nhưng vẫn phải điều trị cho lành hẳn để lắp một bên mắt giả. Là một người khoẻ mạnh, cơ thể mụ dường như tự hàn gắn các vết thương. Chân trái mụ chỉ còn hơi cà nhắc và một hốc mắt nom vô cùng gớm ghiếc. Mụ đeo một miếng băng che mắt màu xanh thay cho màu đen; và mảng màu xanh đen lại làm nổi vật vẻ đẹp của nước da màu cà phê Moka của mụ. Quay lại làm việc mụ mặc quần đen, sơ mi xanh và áo khoác da cũng màu xanh. Khi ngắm nhìn mình trong gương mụ thầm nghĩ mình vẫn còn hấp dẫn chán.

Dù còn được nghỉ dưỡng thương nhưng thỉnh thoảng mụ vẫn đến nhiệm sở giúp điều tra xét hỏi.

Đối tượng trong lần xét hỏi đầu tiên của mụ là hai kẻ tình nghi, một cặp không bình thường trong đó một da trắng và một là da đen. Kẻ tình nghi da trắng, tuổi cỡ ba mươi, sợ mụ ngay lập tức. Nhưng thằng nhọ lại bị người phụ nữ cao lớn và xinh đẹp mang băng mắt màu xanh và có cái nhìn lạnh lùng làm cho khoái chí. Bà chị này quả là ngon mắt.

- Chó chết, nó la toáng lên, mặt mày tươi tỉnh. Đây là lần bị bắt đầu tiên, nó chưa hề có tiền án nên hiển nhiên không biết mình đang gặp rắc rối lớn. Nó và thằng đồng bọn đột nhập vào một ngôi nhà, trói gô vợ chồng chủ nhà lại rồi vơ vét. Chúng bị sa lưới bởi có người báo. Thằng nhọ vẫn còn đeo chiếc đồng hồ Rolex của chủ nhà. Nó vui vẻ nói với Aspinella, không hề có ác tâm,

- Này đại uý, bà sẽ đưa chúng tôi vào chỗ chết đấy chứ?

Những người có mặt trong phòng cười mỉa sự ngu xuẩn của nó. Riêng Aspinella không nói không rằng. Thằng nhọ đang bị còng tay và không thể tránh được cú đánh của mụ. Như một con rắn, chiếc dùi cui của mụ vụt vào mặt nó làm vỡ mũi và gẫy xương gò má. Nó không ngã, đầu gối nó khuỵu xuống, nó ném cho mụ một cái nhìn trách móc. Mặt nó đầm đìa máu. Rồi chân nó gập lại và nó ngã nhào ra sàn nhà. Aspinella tiếp tục đánh đập tàn nhẫn thêm mười phút nữa. Máu từ tai thằng nhọ bắt đầu tuôn ra như suối.

- Lạy Chúa tôi, một trong số các thám tử thốt lên, làm thế quái nào chúng ta xét hỏi nó bây giờ được?

- Tôi không muốn xét hỏi nó, Aspinella nói. Tôi muốn nói chuyện với thằng này. Mụ chỉ cây dùi cui vào kẻ tình nghi da trắng. Mày là Zeke phải không? Tao muốn nói chuyện với mày. Mụ chộp lấy vai và ấn gã ngồi xuống chiếc ghế tựa bên bàn làm việc của mụ. Gã nhìn mụ kinh hoàng. Mụ nhận ra chiếc băng che mắt của mụ trượt sang một bên và Zeke đang nhìn chằm chằm vào cái hốc mắt trông trơn ấy. Mụ với tay sửa lại miếng băng.

- Zeke, mụ nói. Tao muốn mày nghe cho rõ. Tao muốn tiết kiệm thì giờ. Tao muốn biết mày đã lôi kéo thằng nhóc kia vào vụ này ra làm sao. Hiểu chứ? Mày có hợp tác hay không?

Zeke tái xanh tái xám. Gã không thể im lặng.

- Vâng, thưa bà. Tôi xin khai hết.

- OK, Aspinella nói với thám tử. Đưa thằng nhóc này xuống phòng bệnh và cử người mang video tới đây để quay cảnh thằng Zeke tự nguyện thú tội.

Khi máy quay đã bố trí xong, Aspinella thẩm vấn Zeke

- Ai tiêu thụ hàng cho mày? Ai đã hỉ mục tiêu cho mày? Khai cho rõ chi tiết của vụ cướp. Đồng bọn của mày rõ ràng chưa đến nỗi tồi tệ. Nó không có tiền án tiến sự, và nó không phải là đứa khôn ngoan cho lắm. Chính vì vậy mà tao đã nhẹ tay với nó. Còn mày đã có tên trong hồ sơ, vì vậy tao cho rằng mày đã lôi kéo nó vào vụ này. Vậy hãy khai báo cho ngon.

Rời nhiệm sở, Aspinella lái xe qua đại lộ Southera State đi Brightwaters, Long Island.

Khi qua nhà Heskow mụ nhìn thấy chiếc xe của y và một người đang bê một cây đỗ quyên vào nhà. Sau đó một người nữa bước ra khỏi nhà trồng hoa với một thùng đầy hoa vàng trên tay. Hay thật, mụ nghĩ. Chúng đang dọn sạch khu nhà trồng hoa.

Lúc nằm trong bệnh viện mụ đã nghiên cứu về John Heskow. Qua hồ sơ đăng ký xe của tiểu bang New York mụ đã lần ra địa chỉ của y. Rồi mụ kiểm tra toàn bộ dữ liệu tội phạm và phát hiện ra rằng John Heskow chính là Louis Ricci, dù có ngoại hình giống một người Đức nhưng chắc chắn là dân Italy. Hồ sơ của y khá rõ ràng. Y bị bắt vài lần nhưng chưa lần nào bị kết án. Khu nhà trồng hoa không thể mang lại đủ tiền để đáp ứng lối sống xa hoa của y.

Mụ làm tất cả những việc đó xuất phát từ ý nghĩ y là kẻ duy nhất có thể chỉ điểm mụ và Di Benedetto. Cái duy nhất làm mụ điên đầu là việc y tráo tiền. Vì số tiền này mà phòng điều tra nội bộ đã sờ đến mông mụ, nhưng mụ cũng thoát được cuộc điều tra chẳng mấy nhiệt tình của họ bởi họ rất mừng khi chiếm được số tiền đó. Bây giờ mụ đang chuẩn bị loại trừ Heskow.

Hai bốn tiếng đồng hồ trước cuộc tập kích Cilke, Heskow lái xe đến sân bay Kêndy để bay đi thành phố Mexico, và tại đó y sẽ biến khỏi thế giới văn minh với những hộ chiếu giả y đã chuẩn bị nhiều năm trước.

Các chi tiết đã được trù tính. Khu nhà trồng hoa đã trống trơn. Mụ vợ cũ của y sẽ lo việc bán nhà và gửi số tiền thu được vào nhà băng để chi phí học hành cho đứa con trai chung. Heskow bảo mụ rằng y sẽ đi xa hai năm. Y cũng nói với con trai như vậy trong bữa tối tại nhà hàng Shun Lee.

Chập tối y ra sân bay. Y kiểm tra hai chiếc valy, tất cả những gì y cần, trừ một trăm ngàn toàn tờ một trăm đô đựng trong những chiếc túi nhỏ y lận quanh người. Y mang nhiều tiền cốt đề phòng những chi tiêu đột xuất, chưa kể y có một tài khoản bí mật ở ngân hàng Caymans với gần năm triệu đô la. Ơn Chúa, y hoàn toàn không phải sống nhờ trợ cấp xã hội. Y tự hào đã sống một cuộc sống khôn ngoan và không hề lãng phí tiền bạc vào cờ bạc, đàn bà hay những trò ngu xuẩn khác.

Heskow kiểm tra lại chuyến bay và vé. Bây giờ y chỉ còn mang một cặp táp với thẻ căn cước và hộ chiếu giả. Y bỏ xe ở bãi đỗ xe, mụ vợ cũ sẽ đến lấy và giữ giùm cho y.

Y còn chờ ít nhất một tiếng mới đến giờ bay. Y cảm thấy khó chịu vì không mang súng, nhưng y còn phải qua máy dò vũ khí mới lên được máy bay, và y sẽ có thể kiếm được hàng đống súng ống qua các đầu mối của y ở thành phố Mexico.

Để giết thì giờ, y mua vài tờ tạp chí ở quầy sách rồi vào tiệm cà phê trong phòng đợi. Y lấy một khay đồ ăn tráng miệng và cà phê rồi ngồi xuống bên một chiếc bàn nhỏ. Y đọc lướt tờ tạp chí và ăn món tráng miệng của mình, một chiếc bánh dâu phết kem. Bất thình lình y nhận thấy có ai đó đang ngồi bên chiếc bàn của y. Y nhìn lên và nhận ra thám tử Aspinella Washington. Như tất cả mọi người, y bị miếng băng che mắt màu xanh đen mê hoặc. Nó làm y khiếp sợ. Trông mụ đẹp hơn y tưởng.

- Chào John. Anh chẳng hề đến bệnh viện thăm tôi gì cả.

Heskow bối rối.

- Chị biết tôi không thể làm điều đó mà. Nhưng tôi rất tiếc khi nghe tin chị gặp nạn.

Aspinella ngoác miệng cười.

- John, tôi đùa đấy. Nhưng tôi muốn nói chuyện với anh chút xíu trước chuyến bay.

- Được thôi, Heskow đáp. Y nghĩ là y sẽ phải hối lộ và y đã để sẵn mười ngàn đô trong cặp cho những bất ngờ thế này. Tôi lo cho chị quá, và rất mừng vì thấy chị đã bình phục.

- Thật khó tin, Aspinella nói, con mắt độc nhất của mụ long lên như mắt diều hâu. Paul xui xéo quá. Anh biết đấy, chúng tôi là chỗ bạn bè thân thiết, ngoài ra anh ấy còn là sếp của tôi.

- Thật đáng tiếc, Heskow nói. Y thậm chí còn chắt lưỡi làm Aspinella mỉm cười.

- Tôi không phải cho anh xem phù hiệu chứ? Mụ dừng lại một lát. Tôi muốn anh đi cùng tôi tới phòng xét hỏi ngay tại sân bay. Hãy trả lời tôi một vài câu hỏi rồi anh có thể lên máy bay.

- OK, Heskow đáp. Y chộp lấy chiếc cặp và đứng lên.

- Và đừng có làm điều gì ngu ngốc nếu không tôi sẽ bắn anh đấy. Dù chỉ một con mắt tôi vẫn là một tay súng cừ. Mụ đứng lên nắm lấy cánh tay y và dẫn y tới cầu thang lên một gian gác lửng dẫn ra một hành lang dài. Mụ mở cửa một căn phòng. Heskow bị sốc. Không chỉ bởi sự rộng lớn của nó mà còn bởi một dãy phương tiện quan sát gắn trên tường. Có ít nhất hai mươi màn hình được hai người đàn ông ngồi trên ghế mềm điều khiển. Họ vừa xem xét chúng vừa ăn bánh sandwich và uống cà phê. Một trong hai người đứng dậy và nói

- Này Aspinella, có chuyện gì vậy?

- Tôi sẽ nói chuyện riêng với người này ở phòng thẩm vấn. Hãy để chúng tôi vào.

- Được thôi. Chị có muốn một trong hai chúng tôi ở lại với chị không?

- Không. Chỉ là nói chuyện thân mật thôi mà.

- À, một trong những chuyện thân mật nổi tiếng của chị đây, người này nói rồi cười toe toét. Y nhìn kỹ Heskow. Tôi đã thấy anh trên màn hình ở dưới ga hàng không. Ăn bánh dâu, đúng không? Y dẫn họ tới một cánh cửa phía sau căn phòng và mở khoá. Sau khi Heskow và Aspinella bước vào y khoá trái cửa lại.

Trong phòng kê một chiếc trường kỷ, một bàn làm việc và ba chiếc ghế tựa nom êm ái. Trong một góc phòng có một thùng ướp lạnh và ba chiếc ly giấy. Những bức tường màu hồng được trang trí bằng những bức tranh và ảnh máy bay.

Aspinella bắt Heskow ngồi xuống một chiếc ghế tựa đối diện với bàn làm việc còn mụ thì ngồi lên bàn và nhìn xuống y.

- Chúng ta có thể nói chuyện như thế này được sao? Heskow hỏi. Tôi không thể nhỡ chuyến bay được.

Aspinella không trả lời. Mụ chồm lên cầm lấy chiếc cặp trên đùi Heskow. Y nhăn nhó. Mụ mở cặp và nhìn lướt những gì bên trong, kể cả những bó tiền toàn tờ một trăm đôla. Mụ xem xét một trong những tấm hộ chiếu giả, sau đó bỏ tất cả vào cặp và đưa lại cho y.

- Anh là một thằng rát ma lanh, mụ nói. Anh biết đã đến lúc chuồn. Ai đã báo với anh là tôi theo dõi anh?

- Tại sao chị lại phải theo dõi tôi? Heskow bẻ lại. Lúc này y tự tin hơn vì mụ đã trả lại cho y chiếc cặp.

Aspinella kéo miếng băng che mắt ra để y có thể trông thấy cái hốc mắt gớm ghiếc. Nhưng Heskow không hề nao núng. Y đã thấy nhiều cái còn tồi tệ hơn trong đời.

- Anh đã làm mất của tôi con mắt đó, mụ nói. Duy chỉ anh mới có thể chỉ điểm rồi lừa tôi và Paul.

Heskow nói bằng một giọng chân thành nhất, đó đã là một trong những vũ khí hữu hiệu nhát trong cái nghề của y.

- Chị nhầm rồi, hoàn toàn nhầm lẫn. Nếu tôi làm việc đó thì tôi đã giữ tiền lại - chị biết quá còn gì. Này, tôi thực sự phải đi kịp chuyến bay. Y cởi khuy áo sơ mi và xé một gói giấy. Hai bó tiền xuất hiện trên bàn. Của chị đấy, cả chỗ ở trong cặp. Ba mươi ngàn cả thảy.

- Úi chà, Aspinella nói. Ba mươi ngàn đô. Quả là món tiền lớn cho một con mắt. OK. Nhưng anh phải nói cho tôi biết tên của kẻ đã trả tiền cho anh để lừa chúng tôi.

Heskow quyết định. Y biết mụ không hề hù doạ. Nghe đây, hãy tin tôi, y nói. Tôi không ngờ thằng đó lại dám hạ hai cớm cấp cao. Tôi chỉ làm một hợp đồng với Astorre Viola để nó có thể lẩn trốn. Tôi không ngờ nó lại làm chuyện đó.

- Tốt, Aspinella nói, thế ai đã trả tiền cho anh để giết nó?

- Paul biết hết. Ông ấy không nói với chị hay sao? Timmona Portella chứ còn ai.

Đến đây Aspinella cảm thấy một cơn giận dữ tuôn trào. Ông bạn mập của mụ không chỉ là đồ chấy rận bẩn thỉu mà còn là kẻ lừa đảo.

- Đứng lên, mụ ra lệnh cho Heskow. Một khẩu súng bất ngờ xuất hiện trên tay mụ.

Heskow kinh hoàng. Y đã từng thấy cảnh này trước đây, chỉ có điều y không phải là nạn nhân. Trong giây lát y nghĩ đến năm triệu đôla được cất giấu sẽ đi tong cùng y vì không ai nhận. Quả là một thảm kịch.

- Không, y gào lên, và thu mình sâu hơn vào chiếc ghế. Aspinella dùng một tay còn lại nắm lấy tóc y kéo y đứng dậy. Mụ đưa khẩu súng ra xa cổ y và bóp cò. Heskow dường như văng ra khỏi tay mụ rồi đổ sầm xuống sàn. Mụ quỳ bên xác y. Một nửa cổ họng y bị thổi bay mất. Sau đó mụ rút khẩu súng bỏ đi của mụ ra khỏi bao, đặt nó vào tay Heskow rồi đứng lên. Mụ có thể nghe thấy cánh cửa đang được mở và hai nhân viên theo dõi màn hình súng lăm lăm trong tay ập vào phòng.

- Tôi phải bắn nó, mụ nói. Nó đã cố tình hối lộ tôi và rồi nó rút súng. Hãy gọi cho bộ phận y tế của sân bay. Chính tôi sẽ gọi cho pháp y. Không được đụng đến bất kỳ thứ gì, và đừng rời mắt khỏi tôi.

Đêm hôm sau Portella mở cuộc tấn công. Vợ con của Cilke đã được đưa gấp đến văn phòng được canh gác nghiêm ngặt của FBI ở California. Còn Cilke, theo lệnh của giám đốc, có mặt tại tổng hành dinh của FBI ở New York cùng toàn bộ đán nhân viên của mình tham gia trực ban. Bill Boxton được giao quyền tổng chỉ huy lực lượng đặc nhiệm và giăng bẫy cạnh nhà Cilke. Chỉ thị giao chiến rất nghiêm. Cục không muốn một cuộc tắm máu có thể gây ra phản ứng từ phía các nhóm có tư tưởng tự do. Đội đặc nhiệm không được bắn trừ phi bị bắn trước. Phải cố gắng tạo cho những kẻ tấn công một cơ hội đầu hàng.

Trên cương vị là một sĩ quan tham mưu, Kurt Cilke gặp Boxton và viên chỉ huy lực lượng đặc nhiệm, một anh chàng ba mươi nhăm tuổi có khuôn mặt hằn lên những đường nét nghiêm khắc đầy quyền uy. Anh ta có màu da xám ngoét và một lúm đồng tiền trên má. Tên anh ta là Sestak và giọng nói chính hiệu Harvard. Họ gặp nhau tại văn phòng của Cilke.

- Tôi hy vọng các cậu thường xuyên liên lạc với tôi trong suốt chiến dịch, Cilke nói. Chỉ thị giao chiến sẽ được tuân thủ nghiêm ngặt.

- Đừng lo, Boxton nói. Chúng ta có một trăm người trang bị hoả lực mạnh hơn bọn chúng. Chúng sẽ đầu hàng thôi.

Sestak nhẹ nhàng lên tiếng

- Tôi có một trăm người nữa tạo thành một vòng vây. Chúng tôi để chúng vào nhưng không để chúng thoát ra được.

- Tốt lắm, Cilke nói. Khi tóm được chúng hãy đưa chúng đến trung tâm thẩm vấn New York của chúng tôi. Tôi không được phép tham gia xét hỏi, nhưng tôi cần thông tin càng sớm càng tố.

- Nếu có gì không ổn và chúng chết cả thì sao? Sestak hỏi.

- Thế thì sẽ có một cuộc điều tra nội bộ và ngài giám đốc sẽ không hài lòng. Thực tế là thế này: Chúng sẽ bị bắt vì âm mưu giết người, và chúng sẽ được tự do sau khi đóng tiền bảo lãnh. Chúng sẽ lặn mất dạng ở Nam Mỹ, vì vậy chúng ta chỉ có vài ngày thẩm vấn chúng mà thôi.

Boxton nhìn Cilke và nhếch mép cười. Sestak nói với Cilke bằng một giọng thanh nhã.

- Tôi nghĩ điều đó sẽ làm anh rất bực mình.

- Đúng vậy, nó làm tôi rất bực, Cilke nói. Nhưng ngài giám đốc lại phải lo về những rắc rối chính trị. Các âm mưu công kích lúc nào chả quỷ quyệt.

- Tôi hiểu, Sestak tán thành. Vì thế mà ngài bị trói tay.

- Phải, Cilke nói.

Boxton nói khẽ

- Việc này khốn nạn quá, chúng cố giết một sĩ quan Liên bang mà rồi vẫn thoát.

Sestak nhìn hai người với nụ cười khoái chí. Nước da xám ngoét của anh ta chuyển thành màu đỏ.

- Các ngài đang thuyết giáo cho ca đoàn trong nhà thờ đấy à, anh ta nói. Dù thế nào đi nữa, những chiến dịch như thế này luôn luôn có sai lầm. Những kẻ có súng rất hay nghĩ rằng họ không thể bị bắn. Bản chất của con người quả là buồn cười.

Đêm đến, Boxton và Sestak đi thị sát khu vực tác chiến quanh nhà Cilke ở New Jersey. Trong nhà vẫn để đèn làm như đang có người. Đồng thời có ba chiếc xe đỗ trên con đường dẫn vào nhà để tạo ấn tượng nhà còn có khách. Những chiếc xe đã được gài mìn. Chúng sẽ phát nổ nếu được khởi động. Ngoài ra Boxton không còn thấy gì nữa.

- Một trăm người của ngài ở chỗ quái nào hả? Boxton hỏi Sestak.

Sestak cười toe toét.

- Tốt quả hả? Họ ở quanh đây mà ngay đến ngài cũng còn không thấy. Họ đã chọn xong hướng bắn. Khi bọn khủng bố tới đây, con đường sau lưng chúng sẽ bị bịt kín. Chúng ta sẽ cất được một mẻ lưới đầy chuột.

Boxton vẫn đảm nhiệm cương vị chỉ huy ở bên sường đội của Sestak, cách ngôi nhà năm mươi bộ. Cùng với họ là một tiểu đội thông tin gồm bốn người nguỵ trang phù hợp với vạt rừng họ đang ẩn nấp. Sestak và đội của anh ta trang bị súng trường, nhưng Boxton chỉ mang theo súng ngắn.

- Tôi không muốn ngài tham gia chiến đấu, Sestak bảo Boxton. Hơn nữa, vũ khí của ngài chẳng có tác dụng gì ở đây cả.

- Sao lại không? Boxton phản đối. Tôi vẫn hy vọng trong thời gian tại chức của mình được bắn bỏ những thằng đểu cáng.

Sestak cười.

- Không phải hôm nay. Đội của tôi được các quy định hành pháp bảo vệ khỏi bất kỳ một cuộc điều tra hay truy tố nào theo luật định. Ngài thì không.

- Nhưng tôi là chỉ huy, Boxton nói.

- Khi chúng ta bắt đầu tác chiến thì không, Sestak lạnh lùng nói. Lúc đó tôi sẽ là chỉ huy duy nhất. Tôi sẽ đưa ra toàn bộ các quyết định. Ngay cả ngài giám đốc cũng không thể thay thế tôi được.

Họ cùng chờ đợi trong bóng tối. Boxton nhìn đồng hồ. Còn hơn mười phút nữa là nửa đêm. Một người trong tiểu đội trinh sát thì thầm với Sestak,

- Năm chiếc xe chở đầy người đang tiến về phía ngôi nhà. Con đường phía sau chúng đã được bịt kín. Thời gian chúng tới ước chừng năm phút nữa.

Sestak mang cặp kính tia hồng ngoại cho phép anh ta nhìn được trong đêm tối.

- OK, Sestak nói. Hãy truyền lệnh. Không được bắn trừ phi bị bắn hoặc có lệnh của tôi.

Họ chờ đợi. Bất thình lình năm chiếc xe lao vào con đường dẫn và những người trên xe nhảy xuống. Một trong số chúng ngay lập tức ném một trái bom xăng vào nhà Cilke, nó phá vỡ một tấm kính và làm bùng lên một đám cháy ở trong nhà.

Rồi bỗng nhiên toàn bộ khu vực chìm trong ánh đèn pha làm tê liệt cả hai mươi tên khủng bố. Cùng lúc một chiếc trực thăng vần vũ trên đầu rọi đèn sáng trưng. Những chiếc loa phóng thanh rống lên gửi thông điệp vào đêm tối.

- FBI đây. Hãy hạ vũ khí và nằm xuống đất.

Bị ánh đèn và những chiếc trực thăng gây ấn tượng mạnh, những kẻ sa bẫy chết điếng. Boxton thở phào nhẹ nhõm khi thấy chúng mất hết ý chí kháng cự.

Vì vậy ông ta kinh ngạc khi Sestak nâng súng lên và bắn vào nhóm khủng bố. Ngay lập tức chúng bắn trả. Và rồi tai Boxton ù lên bởi tiếng súng. Nó quét sạch con đường và tàn sát đám khủng bố. Một trong số những chiếc xe có gài mìn phát nổ. Mọi việc diễn ra cứ như thể có một cơn bão chì khủng khiếp vừa lướt qua, phá huỷ mọi thứ trên đường đi của nó. Thuỷ tinh vỡ vụn và rơi xuống như một cơn mưa bạc. Những chiếc xe đổ kềnh trên mặt đất bị đạn xuyên thủng đến nỗi mặt ngoài của chúng không còn giữ nổi màu sơn. Con đường dẫn xe đi vào nhà dường như biến thành một dòng suối máu. Hai mươi tên khủng bố chỉ còn là những mớ giẻ rách nát giống như những bao đồ trong tiệm giặt chờ được mang đi.

Boxton bị sốc.

- Anh đã bắn trước, khi chúng có thể đã đầu hàng, anh kết tội Sestak. Tôi sẽ báo cáo lại.

- Tôi cóc cần, Sestak ngoác miệng cười.

- Một khi chúng đánh bom ngôi nhà thì đó là mưu toan giết người. Tôi không thể mạo hiểm tính mạng của tôi. Đó sẽ là báo cáo của tôi. Hơn nữa, chúng bắn trước đấy chứ.

- Chi tiết đó sẽ không có trong báo cáo của tôi. Boxton nói.

- Đừng có đùa. Anh nghĩ rằng giám đốc sẽ cần đến báo cáo của anh ư? Anh sẽ có tên trong bản danh sách cứt đái của lão. Mãi mãi.

- Ông ta sẽ sờ đến mông anh vì anh đã không tuân lệnh, Boxton nói. Chúng ta sẽ cùng chết cháy với nhau mất.

- Tốt thôi, Sestak nói. Nhưng tôi là chỉ huy tác chiến. Tôi không muốn lũ tội phạm nghĩ rằng chúng có thể tấn công một sĩ quan của Liên bang. Thực tế là như thế, cả anh và lão giám đốc của anh làm đéo gì tôi được nào.

- Hai mươi đứa chết, Boxton nói.

- Và đó là một sự giải thoát tốt đẹp cho chúng. Sestak nói. Anh và Cilke muốn tôi chơi lão một vố, nhưng các anh đếch có cơ may làm chuyện đó đâu.

Boxton hiểu ngay đó là sự thật.

Kurt Cilke chuẩn bị cho một cuộc gặp nữa với giám đốc FBI tại Washington. Ông có những bản ghi chép với dàn ý những gì sẽ nói và một bản báo cáo về toàn bộ diễn biến cuộc tập kích nhà mình.

Như mọi khi, Bill Boxton sẽ tháp tùng ông, nhưng lần này việc đó thể theo ý định rõ ràng của ngài giám đốc.

Cilke và Boxton có mặt tại văn phòng giám đốc giữa tiếng huyên náo của những máy ghi hình đang chiếu những hoạt động của văn phòng FBI địa phương. Giám đốc, lúc nào cũng lịch sự, bắt tay cả hai và mời họ ngồi, mặc dầu lão nhìn Boxton bằng ánh mắt lạnh lùng, ngờ vực. Hai trợ lý của lão cùng có mặt.

- Thưa các ngài, lão nói với cả nhóm. Chúng ta phải dọn sạch cái đống rác rưởi này. Chúng ta không thể cho phép một hành động vô đạo đức như vậy xảy ra mà không được đáp lại bằng tất cả nguồn lực của chúng ta. Cilke này, cậu muốn ở lại làm việc hay về hưu hả?

- Tôi ở lại, Cilke đáp.

Giám đốc quay sang Boxton, khuôn mặt quý phái của lão trở nên nghiêm khắc.

- Anh là người phụ trách. Tại sao tất cả nhóm khủng bố lại bị giết và chúng ta không tóm được một mống nào để thẩm vấn? Ai đã ra lệnh nổ súng? Là anh à? Và dựa trên cơ sở nào vậy?

Boxton ngồi thẳng dậy một cách khó chịu trên chiếc ghế bành của mình.

- Thưa ngài, anh nói. Quân khủng bố ném một quả bom vào nhà và khai hoả. Lúc đó không còn sự lựa chọn nào khác.

Giám đốc thở dài. Một trong các trợ lý của lão càu nhàu khinh bỉ.

- Đại uý Sestak là một trong số những người xuất sắc của chúng ta, giám đốc nói. Ít ra anh ta cũng phải cố mà tóm cho được một tù binh chứ?

- Thưa ngài, việc đó diễn ra chỉ trong vòng hai phút, Boxton nói. Sestak là một nhà chiến thuật tài ba trên chiến trường.

- May mà giới truyền thông và công chúng không làm ầm lên, giám đốc nói. Tuy nhiên tôi phải nói rằng tôi xem đây là một vụ tắm máu.

- Đúng thế, một trợ lý lên tiếng.

- Thôi được, cũng không thể tránh khỏi điều đó, giám đốc nói tiếp. Cilke, câu đã tìm ra phương án hành động rồi phải không?

Cilke vô cùng bực tức trước sự chỉ trích của họ, nhưng ông vẫn bình tĩnh trả lời.

- Tôi muốn một trăm người được bố trí tại văn phòng của tôi. Tôi muốn ngài yêu cầu kiểm toán các nhà băng của Aprile. Tôi sẽ điều tra kỹ động cơ của những kẻ liên quan đến vụ này.

Giám đốc nói

- Cậu không cảm thấy mắc nợ Astorre Viola vì đã cứu cậu và gia đình hay sao?

- Không, Cilke đáp. Tôi quá biết lũ người này. Đầu tiên chúng đẩy anh vào rắc rối, sau đó chúng lại ra tay cứu giúp.

- Hãy nhớ rằng, một trong những mối quan tâm cơ bản của chúng ta là chiếm dụng các nhà băng của Aprile. Không chỉ vì chúng ta được lợi mà còn bởi những nhà băng đó có xu hướng trở thành một trung tâm rửa tiền buôn bán ma tuý. Qua đó chúng ta sẽ tóm được Portella và Tulipa. Chúng ta phải xem xét vấn đề này một cách tổng quát. Astorre Viola từ chối bán các nhà băng, và nghiệp đoàn đang có loại trừ cậu ta. Cho đến giờ chúng vẫn thất bại. Chúng tôi nhận được nguồn tin cho biết hai kẻ giết mướn hạ sát lão Trùm đã biến mất. Lại còn hai thám tử bên sở cảnh sát New York bị đánh bom.

- Astorre là đứa xảo quyệt và khó bắt giữ, nó không hề dính líu vào bất kỳ một vụ tai tiếng nào, Cilke nói, vì vậy thực tế chúng ta không thể làm gì được nó. Hiện tại nghiệp đoàn có khả năng loại bỏ được Astorre, và đám con của Aprile sẽ bán các nhà băng cho chúng. Tôi chắc rằng chỉ vài năm nữa thôi chúng sẽ đi quá giới hạn.

Việc đồng loã dài dài với những kẻ buôn bán ma tuý không phải là ngoại lệ đối với vấn đề thi hành luật của chính phủ. Song làm như vậy nghĩa là người ta cho phép tội ác tiếp diễn.

- Trước đây chúng ta đã hỗ trợ việc này, giám đốc nói. Nhưng như thế không có nghĩa là cậu để cho Portella được toàn quyền hành động.

- Đương nhiên rồi, Cilke nói. Ông biết rằng tất cả đều đang bị ghi âm.

- Tôi sẽ điều động năm mươi người, giám đốc nói. Và tôi sẽ yêu cầu một cuộc kiểm toán toàn bộ các nhà băng để rũ tung mọi thứ lên.

Một trong các trợ lý góp giọng.

- Trước đây chúng ta cũng đã tiến hành kiểm toán mà chẳng tìm được gì cả.

- Lúc nào cũng vẫn còn cơ hội, Cilke nói. Astorre không phải là một chủ nhà băng và nó hẳn phải mắc sai lầm.

- Đúng, giám đốc tán thành. Một sơ suất nhỏ là tất cả những gì ngài chưởng lý đang cần.

Trở lại New York Cilke gặp Boxton và Sestak để chuẩn bị cho chiến dịch của mình.

- Chúng ta sẽ có thêm năm mươi người để điều tra vụ tấn công nhà tôi. Chúng ta phải hết sức thận trọng. Tôi cần bất cứ thứ gì các cậu phát hiện được ở Astorre Viola. Tôi muốn điều tra kỹ vụ đánh bom hai thám tử. Tôi cần tất cả thông tin về việc anh em Sturzo biến mất và cả những tin tức mà chúng ta có thể thu thập được về nghiệp đoàn. Tập trung vào Astorre và cả nữ thám tử Aspinella Washington. Cô ta có tiếng về nhận hối lộ và tàn bạo. Câu chuyện cô ta bị đánh bom và cả số tiền lớn tại hiện trường là rất đáng ngờ.

- Thế còn cha nội Tulippa thì sao? Boxton hỏi. Hắn có thể rời khỏi đất nước này bất cứ lúc nào.

- Tulippa đang lê la khắp nơi để rao giảng cho việc hợp pháp hoá nạn buôn ma tuý và tống tiền những công ty lớn.

- Chúng ta không thể bắt hắn vì việc đó hay sao? Sestak hỏi.

- Không, Cilke đáp. Hắn có một công ty bảo hiểm và bán hợp đồng bảo hiểm cho họ. Chúng ta lẽ ra có thể mở một phiên toà, nhưng giới thương gia lại phản đối. Họ phải lựa chọn giải pháp an toàn cho nhân viên của mình ở Nam Mỹ. Còn Portella chẳng có nơi nào để chuồn cả.

Sestak cười khẩy

- Thế chỉ thị giao chiến ở đây là gì vậy?

Cilke trả lời ngọt sớt

- Ngài giám đốc ra lệnh chấm dứt tàn sát, nhưng hãy bảo vệ lấy mình, nhất là trước hiểm hoạ Astorre.

- Nghĩa là chúng ta có thể để nó chết, Sestak nói.

Cilke có vẻ nghĩ ngợi trong chốc lát.

- Nếu cần, ông đáp.

Chỉ một tuần sau khi các nhân viên kiểm toán Liên bang bu vào kiểm tra ngân hàng Aprile, Cilke với tư cách cá nhân đến gặp Pryor tại văn phòng của ông.

Cilke bắt tay Pryor vui vẻ nói

- Tôi luôn luôn muốn đích thân gặp gỡ những người tôi có thể phải tống vào nhà đá. Ngài có cách gì giúp chúng tôi xuống tàu trước khi mọi việc trở nên quá trễ hay không?

Ông Pryor nhìn Cilke với một thái độ thân mật.

- Thật vậy sao? Ông hỏi. Ngài đang hành động sai, hoàn toàn sai lầm. Tôi cam đoan với ngài. Tôi điều hành những nhà băng này không chê vào đâu được theo luật quốc gia và quốc tế.

- Thôi được, tôi chỉ muốn ngài biết rằng tôi đang truy tìm những thông tin quan trọng về ngài và một số kẻ khác nữa, Cilke nói. Và tôi hy vọng tất cả các ngài đều hoàn toàn trong sạch. Nhất là anh em Sturzo.

Ông Pryor mỉm cười.

- Chúng tôi không hề có sai sót.

Sau khi Cilke về, ông Pryor ngả mình ra chiếc ghế bành. Tình hình đang trở nên đáng lo ngại. Điều gì sẽ xảy ra nếu Cilke phát hiện ra Rosie? Ông thở dài. Thật chẳng ra sao. Lẽ ra ông phải làm một điều gì đó cho nàng.

Cho đến khi Cilke thông báo cho Nicole biết ông muốn nàng và Astorre đến văn phòng của ông ngày hôm sau, ông vẫn chưa hiểu đúng tính cách của Astorre. Ông chỉ cảm thấy coi thường, một cảm giác ông vẫn có đối với những kẻ phạm pháp. Ông không hiểu được quyết tâm của một Mafioso thực thụ.

Astorre tin vào truyền thống cũ. Đám tay chân yêu quý chàng không chỉ vì uy tín của chàng mà còn vì chàng coi trọng danh dự hơn hết thảy.

Một Mafioso thực thụ đủ mạnh về ý chí để trả thù bất kỳ sự lăng mạ nào nhằm vào người hay cosca của nó. Nó không bao giờ phục tùng ý chí của kẻ khác cũng như của nhà chức trách. Và sức mạnh của nó là ở đó. Ý chí của nó là tối quan trọng. Nó ban lệnh cái gì phải là công lý thì đấy chính là công lý. Việc Astorre bảo vệ Cilke và gia đình ông là một điểm yếu trong tính cách của chàng. Tuy nhiên chàng vẫn cũng Nicole tới văn phòng Cilke có vẻ như để chờ đợi những lời cảm ơn, một sự nới lỏng trong thái độ thù địch của ông.

Hiển nhiên là họ được đón tiếp chu đáo. Hai nhân viên an ninh khám xét Astorre và Nicole trước khi họ vào phòng làm việc của Cilke. Cilke đứng sau chiếc bàn và nhìn họ chằm chằm. Không một dấu hiệu thân thiện. Ông ra dấu mời họ ngồi. Một nhân viên bảo vệ khoá cửa và đứng chờ ở bên ngoài.

- Mọi thứ đang được ghi âm đấy chứ? Nicole hỏi.

- Đúng vậy, Cilke đáp. Cả nghe và nhìn. Tôi không muốn có bất kỳ sự hiểu lầm nào về cuộc gặp gỡ này, ông dừng lại một lát. Tôi muốn cậu hiểu rằng chẳng có gì thay đổi cả. Tôi cho rằng cậu là một thằng đê tiện mà tôi sẽ không thể cho phép được sống ở đất nước này. Tôi không tin câu chuyện về người báo tin của cậu. Tôi nghĩ cậu đã sắp đặt việc này với nó và rồi cậu phản lại đồng bọn của mình hòng giành thêm sự nương nhẹ của tôi. Tôi xem thường thủ đoạn này.

Astorre ngạc nhiên vì Cilke đã hiểu gần đúng sự thật. Chàng nhìn ông ta với một niềm kính trọng mới, tuy tình cảm của chàng bị thương tổn. Con người này chẳng hề biết ơn, chẳng hề quý trọng kẻ đã cứu y và gia đình y. Chàng mỉm cười với những mâu thuẫn của chính chàng.

- Cậu thấy buồn cười lắm sao, mọt trong những trò đùa Mafia của cậy đấy, Cilke nói. Tôi sẽ làm cho cậu tắt tiếng cười trong vòng hai giây thôi.

Ông quay sang Nicole

- Trước hết, Cục yêu cầu cô phải cho chúng tôi biết sự thực cô có được nguồn tin này ra sao. Không phải câu chuyện mà người anh em họ của cô đã phịa ra. Tôi ngạc nhiên về cô đấy, luật sư ạ. Tôi đang nghĩ tới việc buộc tội cô như một kẻ đồng loã.

Nicole lạnh lùng nói

- Ngài cứ thử xem, nhưng tôi đề nghị trước hết ngài hãy bàn với giám đốc của ngài đã.

- Ai đã nói cho cô biết cuộc tấn công vào nhà tôi? Cilke hỏi. Chúng tôi muốn biết đúng người báo tin.

Astorre nhún vai.

- Tin hay không thì tuỳ, chàng nói.

- Không được, Cilke lạnh lùng phản đối. Nào chúng ta cùng làm rõ việc này. Cậu không chỉ là một thằng đểu mà còn là kẻ sát nhân nữa. Tôi biết cậu đã đánh bom Di Benedetto và Washington. Chúng tôi đang điều tra sự biến mất của anh em Sturzo ở Los Angeles. Cậu đã giết ba thằng lưu manh của Portella, và cậu tham dự vào một vụ bắt cóc. Cuối cùng thì chúng tôi cũng sẽ tóm được cậu. Và lúc đó cậu sẽ chỉ là một đống cứt thôi.

Lần đầu tiên Astorre có vẻ mất bình tĩnh, và tấm mặt nạ nhã nhặn của chàng tuột mất. Chàng đã để Nicole chứng kiến cảnh chàng lâm vào một tình huống chẳng ra gì. Vì vậy chàng nổi cáu.

- Tôi không mong đợi ân huệ của ngài, chàng nói với Cilke. Ngài thậm chí cũng đếch biết thế nào là vinh dự. Tôi đã cứu vợ và con gái ngài. Nếu không có tôi họ đã nằm dưới mồ rồi. Bây giờ ngại lại mời tôi tới đây để kết tội tôi. Nhờ tôi mà vợ con ngài còn sống. Ít ra ngài cũng phải thể hiện lòng trân trọng đối với tôi vì điều đó chứ.

Cilke lườm chàng.

- Tôi chẳng thể hiện với cậu điều gì sất, ông nói, và điên tiết vì thấy mắc nợ địch thủ.

Astorre đứng lên để bước ra khỏi phòng nhưng một nhân viên an ninh đã đẩy chàng ngồi xuống.

- Tôi sẽ làm cho đời cậu trở nên khốn nạn, Cilke nói.

Astorre nhún vai.

- Cứ làm những gì ngài muốn. Nhưng hãy để tôi nói với ngài điều này. Tôi biết ngài đã giúp đưa ông Trùm Aprile vào thế bí chỉ vì ngài và FBI muốn chiếm các nhà băng.

Đến đây, hai nhân viên an ninh bỗng tiến về phía Astorre, nhưng Cilke xua họ ra.

- Tôi biết cậu có thể chặn được các cuộc tấn công vào gia đình tôi. Bây giờ, nói cho cậu biết, tôi xem đó là trách nhiệm của cậu.

Từ phía bên kia bàn làm việc Bill Boxton nhìn Astorre và lè nhè nói,

- Cậu đang đe doạ một sĩ quan Cục Điều tra Liên bang đấy phải không?

Nicole lên tiếng

- Đương nhiên không phải thế. Anh ấy chỉ hỏi về sự giúp đỡ của mình thôi.

Lúc này Cilke có vẻ lạnh lùng hơn.

- Tất cả việc này là vì ông bác yêu dấu của cậu. Rõ ràng cậu chưa đọc bộ hồ sơ tôi đưa cho Nicole. Ông bác yêu dấu của cậu là người giết cha cậu khi cậu mới lên ba.

Astorre nao núng và trừng mắt nhìn Nicole.

- Có phải đó là phần chị có tình xoá đi không?

Nicole gật đầu.

- Tôi không nghĩ rằng đó là sự thật, mà nếu đó là sự thật tôi cũng không nghĩ rằng anh cần phải biết. Việc đó có thể làm anh bị tổn thương.

Astorre có cảm giác căn phòng bắt đầu chao đảo, nhưng chàng cố trấn tĩnh.

- Điều đó cũng chẳng thay đổi được gì.

Nicole nói với Cilke

- Bây giờ mọi cái đã rõ ràng, chúng tôi có thể đi được chứ?

Cilke có một vóc dáng lực lưỡng, và khi rời khỏi bàn làm việc, ông vỗ đùa lên đầu Astorre. Điều đó làm Astorre và cả chính ông cùng ngạc nhiên vì trước đây ông chưa từng làm như thế. Đó là một cú đánh thể hiện sự coi thường của ông, nó che giấu nỗi căm hờn thực sự. Ông nhận ra rằng ông không thể quên việc Astorre đã cứu gia đình ông. Về phía Astorre, chàng điềm tĩnh nhìn thẳng vào mặt Cilke, bởi chàng hiểu rõ tâm trạng đó.

Nicole và Astorre quay về căn hộ của Nicole. Nàng cố gắng bày tỏ sự cảm thông của mình với việc Astorre bị làm nhục, nhưng thái độ đó càng làm chàng bực bội hơn. Nicole chuẩn bị một bữa ăn nhẹ rồi bảo chàng nằm xuống giường của nàng mà chợp mắt. Giữa chừng giấc ngủ chàng nhận thấy Nicole đang ở trên giường, bên cạnh chàng, và đang ôm chặt lấy chàng. Chàng đẩy nàng ra.

- Chị đã nghe Cilke nói gì về tôi rồi đấy, chàng nói. Chị còn muốn dính dáng đến cuộc đời tôi hay sao?

- Tôi không tin ông ta cũng như những báo cáo của ông ta, Nicole nói. Astorre này, tôi thực sự nghĩ rằng tôi vẫn còn yêu anh.

- Chúng ta không thể quay trở lại thời nhỏ dại, Astorre nhẹ nhàng nói. Tôi đã là một người khác, cả chị cũng vậy. Chị thì chỉ muốn chúng ta trở lại là những đứa trẻ.

Họ nằm nghiêng bên nhau. Sau đó Astorre hỏi bằng giọng ngái ngủ

- Chị có cho rằng điều đó đúng hay không, những gì người ta nói về việc ông già chị giết cha tôi ấy?

Ngày hôm sau Astorre bay tới Chicago cùng Pryor để tham khảo ý kiến Benito Craxxi. Chàng cho họ biết những thông tin mới nhất và sau đó chàng hỏi

- Có phải ông Trùm Aprile đã giết cha tôi không?

Craxxi tảng lờ và hỏi lại Astorre

- Cậu có liên quan gì tới cuộc tấn công gia đình Cilke không hả?

- Không, Astorre nói dối. Chàng nói dối họ bởi lẽ chàng không muốn bất kỳ ai biết được sự tính toán của mình. Và chàng biết rằng họ đâu có tán thành.

- Tuy nhiên cậu đã cứu họ, Trùm Craxxi nói. Tại sao nào?

Một lần nữa Astorre phải nói dối. Chàng không thể để cho những người liên minh của chàng biết chàng uỷ mị đến thế, rằng chàng đã không thể chịu được cảnh nhìn vợ con Cilke bị giết.

- Cậu làm khá lắm, Craxxi nói.

- Ngài vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.

- Bởi vì việc đó phức tạp lắm, Craxxi nói. Cậu là con của một ông Trùm Mafia tám mươi tuổi ở Sicily thủ lĩnh của một cosca hùng mạnh. Mẹ cậu chết vì sinh nở khi còn rất trẻ. Ông Trùm già là một người cực đoan, ngài đã triệu tập ta, Don Aprile và Bianco đến bên giường bệnh. Toàn bộ cosca của ngài hẳn sẽ sụp đổ khi ngài qua đời, và ngài rất lo cho tương lai của cậu. Ngài bắt bọn ta hứa trông nom cậu và chọn Don Aprile đưa cậu sang Mỹ. Ở đó, vì bà vợ Aprile đang chết dần chết mòn và ông ấy muốn tránh cho cậu không phải chịu thêm đau khổ nên đã gửi cậu cho gia đình Viola. Đó là một sai lầm vì cha nuôi của cậu hoá ra lại là kẻ phản bội và phải bị trừng phạt. Ngay sau khi rắc rối đã được giải quyết, Don Aprile mang cậu về nhà ông ấy thu xếp để cho cái chết giống như một vụ tự sát trên thùng xe. Sau đó, khi lớn hơn, cậu đã bộc lộ tất cả những phẩm chất của người cha đẻ, ông Trùm Zeno vĩ đại. Và vì thế mà Don Aprile mới quyết định rằng cậu sẽ là người bảo vệ cho gia đình ông ấy. Bởi vậy ông ấy đã gửi cậu đến Sicily để được huấn luyện.

Astorre không thực ngạc nhiên. Ở một nơi nào đó trong ký ức của chàng còn lưu lại hình ảnh của một người rất già và chuyến xe tang.

- Vâng, Astorre chậm rãi nói. Và tôi đã được huấn luyện. Tôi biết phải bắt đầu tấn công như thế nào. Tuy nhiên, Portella và Tulippa được bảo vệ rất chu đáo. Và tôi còn lo ngại cả Grazziella. Kẻ duy nhất tôi có thể lấy mạng là thằng cha tổng lãnh sự Marriano Rubio. Trong khi đó tôi lại bị Cilke săn đuổi. Tôi thậm chí chẳng biết phải bắt đầu từ đâu.

- Cậu không được động đến Cilke, không bao giờ. Craxxi nói.

- Đúng thế, Pryor tán thành. Việc đó sẽ rất tai hại.

Astorre mỉm cười trấn an họ.

- Đồng ý, chàng nói.

- Có tin lành đây, Craxxi bảo chàng. Grazzielala trong đám Corleone đã đề nghị Bianco thu xếp một cuộc gặp với cậu. Bianco sẽ báo trước trong vòng một tháng. Lão ta có thể là chiếc chìa khoá của cậu.

Tulippa, Portella và Rubio gặp nhau tại phòng họp của lãnh sự quán Peru. Từ Sicily, Michael Grazziella bày tỏ lòng tiếc nuối sâu xa nhất của mình vì không thể có mặt.

Inzio khia mạc cuộc họp thiếu hẳn vẻ quyến rũ kiểu Nam Mỹ như thường lệ của y. Y mất hết kiên nhẫn.

- Chúng ta phải giải quyết vấn đề. Chúng ta có giành lấy các nhà băng hay không? Chúng ta đã đầu tư hàng triệu đôla, và tôi rất thất vọng với kết quả của nói.

- Thằng nhãi Astorre giống như một con ma, Portella nói. Chúng ta không thể hối lộ nó. Tiền bạc có là gì với nó đâu. Phải giết nó thôi. Rồi những đứa kia sẽ bán các nhà băng.

Inzzio quay sang Rubio,

- Ngài chắc cô người yêu bé bỏng của ngài sẽ đồng ý chứ?

- Tôi sẽ thuyết phục cô ấy, Rubio đáp.

- Còn hai thằng anh cô ta? Inzio hỏi.

- Họ chẳng quan tâm đến mối hận thù, Rubio nói. Nicole đã bảo đảm với tôi như vậy.

- Chỉ còn một cách thôi, Portella nói. Bắt cóc Nicole, sau đó nhử Astorre đi cứu cô ta.

Rubio phản đối rầm rầm

- Tại sao lại không phải là một trong hai thằng anh chứ?

- Bởi bây giờ thằng Marcantonio được bảo vệ chặt chẽ quá, Portella nói. Và chúng ta cũng không thể xử tệ với thằng Valerious được, vì cánh tình báo quân đội sẽ trừng phạt chúng ta ngay. Bọn này hung đấy.

Tulippa quay sang Rubio.

- Tôi không còn muốn nghe những gì nhảm nhí hơn thế nữa từ miệng ngài. Tại sao chúng ta phải mạo hiểm hàng tỷ đôla để nhẹ tay với bạn gái của ngài?

- Chỉ tại chúng ta đã chơi xấu trước, Rubio đáp. Và hãy nhớ rằng cô ấy có vệ sĩ. Y cần hết sức thận trọng. Sẽ là tai hoạ nếu Tulippa nổi đoá với y.

- Vệ sĩ thì nhằm nhò gì, Portella nói.

- Thôi được, tôi đồng ý với các ngài, nếu Nicole không bị hại, Rubio nói.

Mariano Rubio mời Nicole tới dự vũ hội hàng năm của người Peru tại lãnh sự quán. Vào buổi chiều trước vũ hội, Astorre đến gặp Nicole để báo cho nàng biết chàng sẽ đi Sicily ít này. Trong khi Nicole tắm và mặc đồ, Astorre cầm lên cây đàn guitar mà Nicole giữ hộ chàng và ngân nga những bản tình ca Italy bằng một chất giọng khàn nhưng khá hay.

Khi ra khỏi nhà tắm Nicole hoàn toàn khoả thân, trừ chiếc khăn tắm trắng tinh vắt hờ qua bờ vai nàng. Astorre gần như bị đánh bại bởi vẻ đẹp của nàng, vẻ đẹp vẫn được giấu kín trong mớ quần áo nàng mặc. Khi Nicole xáp vào, chàng cầm lấy chiếc khăn và quấn quanh người nàng.

Nàng ngã vào vòng tay chàng rồi thở dài.

- Anh không còn yêu tôi nữa.

- Chị đâu có biết tôi là ai, Astorre cười nói. Chúng mình không còn là trẻ con nữa.

- Nhưng tôi biết anh là người tốt, Nicole nói. Anh đã cứu Cilke và gia đình hắn. Ai đã báo tin cho anh?

Astorre lại mỉm cười.

- Đấy không phải là việc của chị. Rồi chàng lại đi sang phòng káhc để khỏi bị truy hỏi thêm.

Đêm hôm đó, Nicole được Helene tháp tùng, đến dự vũ hội. Nàng hiểu rằng, với cương vị chủ nhà, Rubio không thể dành cho nàng sự quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên y đã chuẩn bị sẵn một chiếc Limousine.

Sau vũ hội, chiếc Limousine đưa nàng về nhà. Helene xuống xe trước. Nhưng trước khi họ kịp bước vào toà nhà, bốn người đàn ông đã bao vây họ. Helene chụp vội bao súng nhưng đã quá muộn. Một viên đạn súng ngắn đã găm thẳng vào đầu cô.

Đúng lúc đó, một nhóm người khác từ bóng tối lao ra. Ba tên trong số những kẻ tấn công bỏ chạy và Astorre, người đã kín đáo theo Nicole đến vũ hội, đẩy nàng ra sau lưng mình. Tên bắn Helene liền bị tước vũ khí.

- Đưa cô ấy ra khỏi đây, Astorre bảo một người. Chàng chĩa súng vào kẻ giết người và hỏi

- Ok, ai đã cử mày đến đây?

Tên giết người ngó bộ không hề sợ hãi

- Mẹ mày, gã chửi.

Nicole nhận thấy khuôn mặt của Astorre trở nên lạnh lùng ngay trước khi chàng bắn một phát đạn vào ngực kẻ bị bắt. Chàng bước tới và tóm lấy tóc gã khi gã ngã xuống rồi bắn một phát nữa vào đầu gã. Lúc đó nàng chợt hiểu cha nàng phải là một người như thế nào. Nàng nôn thốc nôn tháo bên trên thi thể Helene. Astorre quay lại với nàng cùng nụ cười tiếc nuối trên môi. Nicole không thể nhìn chàng.

Astorre đưa Nicole lên căn hộ của nàng. Chàng hướng dẫn nàng phải nói những gì với cảnh sát, rằng nàng bị xỉu ngay sau khi Helene bị bắn và không thấy gì hết. Khi chàng đi, nàng gọi cho cảnh sát.

Ngày hôm sau, sau khi đã bố trí một vệ sĩ bảo vệ Nicole suốt hai bốn giờ, Astorre đáp chuyến bay tới Sicily để gặp Grazziella và Bianco. Chàng đi theo lộ trình thường lệ của mình. Trước tiên bay xuống Mexico rồi từ đó đáp máy bay riêng đi Palermo, như thế sẽ xoá sạch đấu vết chuyến đi của chàng.

Octavius Bianco đón chàng tại Palermo. Lão ăn mặc chỉnh tề và lịch sự đến nỗi khó mà nhớ được lão đã từng là một tên cướp mang râu và tàn ác. Bianco rất vui khi gặp Astorre và tình cảm của lão làm chàng bối rối. Họ lên xe về biệt thự của lão bên bờ biển.

- Vậy là cậu đã gặp rắc rối ở bên Mỹ, Bianco nói tại mảnh sân của ngôi biệt thự được trang điểm bằng những pho tượng thới Đế chế La Mã. Nhưng ta có tin mừng cho cậu đây. Rồi lão hỏi sang đề tài khác

- Vết thương cũ có gây rắc rối cho cậu không?

Astorre sờ chiếc vòng vàng.

- Không, chàng nói. Nó chỉ huỷ hoại giọng hát của tôi thôi. Bây giờ tôi hát giọng khàn thay cho giọng cao rồi.

- Giọng trầm còn tốt hơn giọng cao, Bianco cười. Dù sao, Italy vẫn còn nhiều người hát giọng cao. Cậu là một Mafioso thực sự, và đó là cái chúng ta cần.

Astorre mỉm cười và nghĩ về một ngày xa xưa hôm chàng đi bơi. Bây giờ, thay cho nỗi nhức nhối vì bị phản bội, chàng chỉ nhớ cảm giác khi chàng tỉnh dậy. Chàng sờ lá bùa hộ mệnh trên cổ và hỏi

- Tin mừng gì vậy?

- Ta đã giảng hoà với cánh Corleone và Grazziella, Bianco nói. Lão ta không liên quan đến việc giết Don Aprile. Sau này lão mới tham gia nghiệp đoàn. Nhưng nay lão không hài lòng với Portella và Tulippa. Lão cho rằng chúng quá liều lĩnh và là một lũ vô tích sự. Lão không tán thành âm mưu hãm hại nhân viên Cục Điều tra Liên bang. Và lão còn rất kính nể cậu. Lão biết cậu từ khi cậu làm việc với ta. Lão thấy cậu là một người khó mà loại bỏ. Bây giờ lão muốn rũ bỏ những mối hận thù với cậu và còn muốn giúp cậu nữa.

Astorre cảm thấy nhẹ nhõm. Nhiệm vụ của chàng sẽ dễ dàng hơn nếu chàng không phải lo lắng về Grazziella.

- Ngày mai hãy gặp bọn ta tại đây, tại biệt thự này, Bianco bảo chàng.

- Lão có tin ngài nhiều như vậy không? Astorre hỏi.

- Lão phải tin, Bianco đáp. Bởi vì nếu không có ta ở đây, ở Palermo này, lão không thể cai trị Sicily được. Và ngày nay bọn ta văn minh hơn khi cậu đến đây lần cuối rồi.

Chiều hôm sau Grazziella đến biệt thự. Astorre nhận thấy lão ăn mặc như một chính khách Roma cực kỳ đáng kính - Comple đen, sơ mi trắng và cà vạt màu sẫm. Lão được hai vệ sĩ ăn mặc giống nhau tháp tùng. Grazziella là một người nhỏ thó, lịch sự có giọng nói êm ái - người ta không thể nào đoán được lão phải chịu trách nhiệm về việc giết hại hai thẩm phán cao cấp chống Mafia. Lão nắm chặt tay Astorre và nói

- Tôi tới đây giúp cậu để thể hiện lòng kính trọng sâu sắc của tôi đối với ông bạn Bianco của chúng ta. Làm ơn hãy quên đi quá khứ. Chúng ta phải bắt đầu lại thôi.

- Cám ơn ngài, Astorre đáp lời. Đấy là một vinh dự cho tôi.

- Grazziella ra hiệu cho các vệ sĩ và chúng lập tức ra ngoài đi về phía bãi biển.

- Nào Michael, Bianco lên tiếng. Ngài có thể giúp thế nào đây?

Grazziella nói

- Portella và Tulippa là những kẻ quá khinh suất theo cách nhìn nhận của tôi. còn Marianco Rubio thì quá bất lương. Trong khi đó tôi thấy cậu là một người thông minh và có năng lực. Còn nữa, Nello là cháu tôi, tôi nghe nói cậu đã tha mạng cho nó. Đó không phải là chuyện nhỏ. Động cơ của tôi là như vậy.

Astorre gật đầu. Vượt qua Grazziella, chàng nhìn thấy những con sóng xanh thẫm của biển Sicily và những tia nắng mặt trời Sicily nhạt nhoà buồn tẻ đang lấp lánh. Chàng chợt có cảm giác nhớ nhà, và một nỗi niềm day dứt vì chàng biết chàng phải ra đi. Không như nước Mỹ, mọi cái ở đây đều thân thuộc với chàng. Chàng yêu những đường phố Palermo, âm điệu của tiếng Italy. Đối với chàng, tiếng mẹ đẻ thân thương hơn tiếng Anh nhiều. Chàng hướng sự chú ý của mình sang Grazziella.

- Thế ngài có điều gì chỉ giáo?

- Nghiệp đoàn muốn tôi sang Mỹ gặp họ, Grazziella nói. Tôi có thể báo cho cậu địa điểm và vấn đề an ninh. Nếu cậu mạnh tay thì tôi sẽ giúp cậu lánh nạn tại Sicily. Và nếu người ta đòi dẫn độ cậu thì tôi đã có bạn bè ở Roma. Họ có thể chặn đứng tiến trình này.

- Ngài có khả năng đó sao? Astorre hỏi.

- Phải, Grazziella nói kèm theo là một cái nhún vai. Nếu không thì làm sao chúng ta có thể tồn tại hả? Nhưng cậu không được hấp tấp.

Astorre biết lão đang ám chỉ tới vụ Cilke. Chàng tươi cười với lão.

- Tôi không làm điều gì hấp tấp.

Grazziella mỉm cười nhã nhặn và nói

- Kẻ thù của cậu cũng là kẻ thù của tôi. Tôi cam kết ủng hộ cậu.

- Tôi đoán ngài sẽ không tới dự cuộc họp, Astorre nói.

Grazziella mỉm cười.

- Tôi sẽ không tới.

- Khi nào họp? Astorre hỏi.

- Trong vòng một tháng nữa. Grazziella trả lời.

Sau khi Grazziella đã ra về, Astorre nói với Bianco

- Thật sự đi, hãy nói cho tôi biết tại sao lão ta lại làm việc này?

Bianco tủm tỉm cười, vẻ hiểu biết

- Làm sao cậu hiểu Sicily dễ dàng được. Tất cả những lý do lão đưa ra đều có căn cứ cả. Nhưng còn một động cơ căn bản lão không hề đề cấp đến. Bianco ngập ngừng. Tulippa và Portella đã lừa tước đoạt của lão khoản tiền buôn bán ma tuý, và trong bất kỳ hoàn cảnh nào lão rồi cũng phải bắt đầu cuộc chiến vì việc đó. Lão không thể cho qua. Lão đánh giá cậu rất cao, và thật là hoàn hảo nếu cậu quét sạch được kẻ thù của lão rồi trở thành đồng minh của lão. Cha nội Grazziella này quả là một tay láu cá.

Tối hôm đó Astorre tản bộ dọc theo bờ biển và nghĩ về những việc chàng phải làm. Cuối cùng thì phần kết của cuộc chiến cũng đang đến.

Pryor không hề lo lắng về việc kiểm soát các nhà băng của Aprile và bảo vệ chúng chống lại nhà chức trách. Tuy nhiên khi FBI tràn vào New York sau mưu toan ám sát Cilke, ông thấy hơi e ngại về những gì họ có thể phát hiện ra, nhất là sau chuyến viếng thăm của Cilke.

Bước vào tuổi thanh niên, Pryor là một trong những kẻ ám sát được đánh giá cao của Mafia Palermo. Nhưng rồi ông đã chấp nhận chuyển sang quản ly nhà băng, nơi mà vẻ quyến rũ, trí thông minh và các mối liên hệ với giới tội phạm bảo đảm cho sự thành công của ông. Thực chất, ông đã trở thành một chủ nhà băng Mafia, và rồi nhanh chóng nổi tiếng là một chuyên gia trong những cơn bão tố tiền tệ và che giấu những khoản tiền nhơ bẩn. Ông còn thể hiện tài năng qua việc mua lại các doanh nghiệp hợp pháp với giá hời. Cuối cùng ông đã di cư sang Anh quốc vì tại đây ông có thể bảo vệ tài sản của mình tốt hơn.

Tuy nhiên, cánh tay dài của ông còn vươn tới Palermo và Hoa Kỳ. Đối với cosca của Bianco, ông là một chủ nhà băng quan trọng trong việc kiểm soát công cuộc xây dựng ở Sicily. Ông cũng là cây cầu nối giữa các nhà băng của Aprile và châu âu.

Bây giờ các hoạt động của cảnh sát làm ông nhớ tới một mối nguy hiểm tiềm tàng: Rosie. Nàng có thể là mối liên kết giữa Astorre với vụ anh em Sturzo. Đồng thời Pryor cũng biết Astorre có điểm yếu và vẫn còn quyến luyến Rosie. Điều đó khôgn làm giảm lòng quý mến của ông đối với chàng, yếu dđểm đó ở loài người đã tồn tại từ thuở khai thiên lập địa. Và Rosie là một cô gái Mafioso như vậy. Ai có thể cưỡng được nàng? Nhưng dù có ngưỡng mộ nàng nhiều đến mấy ông cũng không nghĩ rằng để cho nàng sống là sáng suốt.

Vì thế ông quyết định ra tay, như đã có lần ông làm ở London. Ông biết ông không thể giành được sự chấp thuận của Astorre đối với một hành động như vậy - ông hiểu tính cách chàng và không hề đánh giá thấp cơn thịnh nộ của chàng. Nhưng Astorre luôn luôn là một người biết điều. Xong việc ông sẽ thuyết phục chàng và Astorre sẽ nhận ra sự sáng suốt phía sau việc làm ấy.

Thế là vào một buổi sáng ông gọi điện cho Rosie. Nàng rất mừng được nghe giọng nói của ông, nhất là khi ông bảo đảm với nàng rằng ông có những tin tức tốt lành. Khi cúp máy, ông buông một tiếng thở dài đầy nuối tiếc.

Ông mang theo hai đứa cháu làm lái xe và vệ sĩ. Ông để một đứa ở lại xe đỗ bên ngoài toà nhà và đi cùng đứa kia lên căn hộ của Rosie.

Nàng chào đón họ bằng cách nhào vào vòng tay Pryor và làm cho đứa cháu giật mình. Tay gã liền chuyển động bên trong chiếc áo khoác.

Rosie pha cà phê và đem ra một đĩa bánh ngọt, theo lời nàng, được nhập khẩu từ Naples. Với Pryor, người tự nhận là chuyên gia về lĩnh vực ăn uống, chúng chẳng hề có mùi vị như của bánh ngọt Naples thực thụ.

- A, cháu quả là một cô gái dễ thương, Pryor nói. Rồi ông quay sang đứa cháu. Này nếm thử đi. Nhưng gã đã lui vào góc phòng và ngồi vào chiếc ghế tựa để theo dõi vở hài kịch mà ông bác gã đang diễn.

Rosie đạp vào chiếc mũ phớt nằm lăn lóc bên cạnh Pryor và nói một cách láu lỉnh.

- Cháu thích cái mũ quả dưa của bác hơn. Hồi ấy trông bác không ngông nghênh như thế này.

- À, Pryor nói một cách hài hước, khi một người làm thay đổi được đất nước mình thì người đó phải luôn luôn đổi mũ. Và, Rosie quý mến của ta, ta đến đây để nhờ cháu một việc.

Ông bắt gặp một thoáng bối rối ở nàng trước khi nàng vỗ tay thích thú

- Ồ, bác biết là cháu sẵn sàng mà, nàng nói. Cháu nợ bác quá nhiều. Vẻ dịu dàng và biết điều của nàng làm ông mềm lòng, nhưng những gì cần làm thì vẫn phải làm.

- Rosie này, ông nói. Ta muốn cháu thu xếp công việc để ngày mai có thể lên đường tới Sicily, cũng chỉ đi một thời gian ngắn thôi. Astorre đang chờ cháu ở bên đó, và cháu phải chuyển một số giấy tờ của ta cho cậu ấy, loại tối mật đấy. Cậu ấy nhớ cháu và muốn cho cháu thấy Sicily.

Rosie đỏ mặt.

- Anh ấy thực sự muốn gặp cháu sao?

- Tất nhiên rồi, Pryor nói.

Sự thật là Astorre đang trên đường từ Sicily sang Mỹ và sẽ có mặt tại New York vào đêm hôm sau. Rosie và Astorre sẽ vượt Đại Tây Dương trên những chuyến bay ngược chiều nhau.

Lúc này Rosie trở nên nghiêm trang.

- Cháu không thể ra đi gấp gáp như vậy được, nàng nói. Cháu cần phải đặt chỗ, đến nhà băng, và nhiều việc vặt vãnh khác.

- Đừng nghĩ ta tự quyền nhé. Pryor nói. Nhưng ta đã thu xếp cả rồi.

Ông lấy từ trong áo khoác ra một chiếc phong bì dài màu trắng.

- Đây là vé máy bay của cháu, ông nói. Hạng nhất đấy. Cả mười ngàn đôla Mỹ để mua sắm chút đỉnh vào phút cuối và để chi tiêu trong chuyến đi. Cháu ta, nó đang ngồi đây, sáng mai sẽ đưa cháu ra sân bay bằng chiếc Limousine của nó. Astorre hoặc một người bạn của cậu ấy sẽ đón cháu tại Palermo.

- Sau một tuần cháu phải quay lại, Rosie nói. Cháu phải thực hiện một vài khảo sát cho luận án của cháu.

- Đừng bận tâm, Pryor nói. Cháu sẽ không phải lo lắng về việc bỏ lỡ những khảo sát của mình. Ta hứa. Có khi nào ta sai lời với cháu không? Giọng ông ngọt ngào như giọng người cha. Tuy nhiên trong đầu ôgn đang nghĩ, thật tiếc vì Rosie sẽ không bao giờ gặp lại Astorre nữa.

Họ uống cà phê và ăn bánh ngọt. Người cháu một lần nữa lại từ chối ăn uống mặc dù Rosie đã khẩn khoản mời. Câu chuyện của họ bị cắt ngang vì chuông điện thoại reo. Rosie cầm ống nghe.

- Ôi, Astorre, nàng reo lên. Anh đang gọi từ Sicily đấy à? Bác Pryor đã nói với em. Bác ấy đang ngồi uống cà phê ở đây.

Pryor tiếp tục nhấm nháp cà phê một cách bình thản, nhưng đứa cháu ông vụt nhổm dậy song lại ngồi xuống khi ông ném cho gã một cái hìn ra lệnh.

Rosie im lặng và nhìn Pryor dò hỏi. Ôgn gật đầu trấn an nàng.

- Vâng, bác ấy đang thu xếp để em gặp anh ở Sicily một tuần lễ, Rosie nói.

Nàng dừng lại lắng nghe.

- Vâng, tất nhiên. Em rất thất vọng. Em lấy làm tiếc vì anh phải quay về ngoài dự định. Vậy anh có muốn nói chuyện với bác ấy không? Không à? Ok, em sẽ bảo bác ấy. Nàng cúp máy.

- Tiếc quá, nàng nói với ông Pryor. Anh ấy phải quay về sớm. Nhưng anh ấy muốn bác đợi ở đây. Anh ấy nói khoảng nửa giờ.

Pryor lấy thêm một chiếc bánh ngọt.

- Được thôi, ông nói.

- Anh ấy sẽ giải thích mọi chuyện khi tới đây. Bác uống thêm cà phê nhé?

Pryor gật đầu và buông tiếng thở dài.

- Lẽ ra cháu sẽ có một kỳ nghỉ tuyệt vời ở Sicily. Tệ quá. Ông tưởng tượgn ra cảnh mai táng nàng tại một nghĩa trang ở Sicily, thật buồn nếu điều đó

Chương 13

Khi đặt món cho người hầu bàn, Nicole chăm chú tập trung vào Mariano Rubio. Trong ngày nàng đã phải bàn giao hai bức thông điệp, và nàng muốn chắc chắn mình đã làm đúng.

Rubio chọn nhà hàng, một tiệm ăn Pháp sang trọng, nơi những người phục vụ bê những chiếc cối xay tiêu đánh vécni và những chiếc giỏ rơm đựng bánh mì vỏ cứng kểu Pháp đi lại không ngừng. Rubio không thích đồ ăn ở đây, nhưng vì quen biết người quản lý tiệm ăn nên y được bảo đảm dnàh cho một chỗ tốt tại một góc yên tĩnh. Y thường đưa những ả nhân tình tới đây.

- Đêm nay em trầm lặng hơn bình thường, y nói trong khi vươn tay qua bàn cầm lấy tay nàng.

Nicole rùng mình. Nàng nhận ra rằng nàng căm ghét y vì y đã áp đặt được quyền lực lên nàng. Nàng rụt tay lại.

- Em ổn chư? Y hỏi.

- Hôm nay là một ngày vất vả, nàng nói.

- À, y nói với một tiếng thở dài. Đó là cái giá phải trả cho việc làm ăn với bọn gian tà đấy thôi. Rubio chẳng hề quan tâm tới hãng luật của Nicole. Tại sao em phải chịu đựng họ? Sao em không để anh lo liệu cho em?

Nicole tự hỏi đã có bao nhiêu phụ nữ nghe lời y và sau đó vứt bỏ cả sự nghiệp của mình để đến với y.

- Đừng cám dỗ em, nàng đưa đẩy.

Rubio ngạc nhiên. Y biết rõ Nicole hết lòng với công việc của nàng. Nhưng đây là đuều y hằng hy vọng.

- Hãy để anh lo liệu cho em, y nhắc lại.

Một người hầu bàn mở chai vang trắng ướp lạnh và rót một ít rượu vào chiếc ly bằng pha lê xinh xắn. Rubio nếm và gật đầu. Sau đó y lại hướng sự chú ý của mình vào Nicole.

- Em có thể bỏ việc ngay lúc này, nàng nói, nhưng còn vài vụ em muốn làm cho xong đã. Nàng nhấp một ngụm rượu. Gần đây em suy nghĩ rất nhiều về việc quản lý nhà băng.

Mắt Rubio nheo lại

- Ừ, y nói. May cho em là các nhà băng được gia đình điều hành.

- Vâng, Nicole đồng ý. Nhưng không may ba em lại không tin phụ nữ có khả năng điều hành công việc kinh doanh. Vì thế em phải đứng ngoài mà nhìn ông em họ điên khùng làm rối tung mọi thứ. Nàng ngẩng đầu lên nhìn y và nói thêm, à này, Astorre nghĩ rằng bọ anh đang quyết tâm tóm lấy nó đấy.

Rubio cố làm bộ vui vẻ.

- Vậy sao? Và bọn anh làm việc này bằng cách nào hả?

- Ôi, em không biết, Nicole đáp, nàng có vẻ khó chịu. Hãy nhớ rằng, đây là gã bán macaroni để kiếm sống. Đầu nó đầy bã đậu. Nó nói anh muốn dùng nhà băng để rửa tiền và ai mà biết được còn những gì gì nữa. Nó còn cố thuyêt sphục em rằng anh đang định bắt cóc em. Nó biết em và các anh trai em muốn kiểm soát nhà băng, vì thế nó đang cố làm bọn em mắc bệnh hoang tưởng. Nhưng bọn em đã quá mệt mỏi vì những gì nó nói.

Rubio quan sát kỹ khuôn mặt Nicole. Y tự hào về khả năng tách sự thật ra khỏi điều giả dối của mình. Trong những năm làm việc trong ngành ngoại giao y đã bị những chính khác đáng kính nhất thế giới này lừa dối. Và bây giờ, khi nhìn sâu vào mắt Nicole, y tin rằng nàng đang nói với y sự thật.

- Mấy anh em mệt mỏi đến cỡ nào? Y hỏi.

- Tất cả chúng em đều kiệt sức, Nicole đáp.

Vài người hầu bàn xuất hiện nhằm tiếp món ăn chính cho họ. Cuối cùng, khi họ đã quay lui, Nicole ngả người về phía Rubio và thì thầm

- Hầu như đêm nào ông em họ của em cũng làm việc tại kho hàng tới khuya.

- Em đang ám chỉ điều gì vậy? Rubio hỏi.

Nicole cầm lấy dao ăn và bắt đầu cắt nhỏ đồ ăn, những miếng thịt vịt sẫm màu lõng bõng trong một thứ nước xốt nhờ nhờ màu cam.

- Em chẳng ám chỉ điều gì cả, nàng nói. Nhưng người có cổ phần nhiều nhất trong một nhà băng quốc tế lại ném toàn bộ thời gian của mình vào một nhà kho macaroni thì còn ra thể thống gì? Nếu em nắm quyền kiểm soát, em sẽ luôn có mặt tại nhà băng, và em phải bảo đảm rằng khách hàng của em đang thu lời từ những khoản đầu tư của họ. Nói đến đây Nicole thưởng thức món thịt vịt của nàng. Nàng mỉm cười với Rubio. Ngon tuyệt, nàng nói.

Cùng với những khả năng khác của mình, Georgette Cilke còn là một phụ nữ có tài tổ chức. Thứ ba hàng tuần chị tình nguyện dành hai tiếng đồng hồ đẻ đến tổng hành dinh của tổ chức Phong Trào Chống Án Tử Hình. Ở đó chị giúp trả lời điện thoại và xem lại lời biện hộ của các luật sư cho những tù nhân bị kết Án Tử Hình. Vì vậy Nicole biết rõ phải chuyển cho chị bức thông điệp quan trọng thứ hai trong ngày đến nơi nào.

Nhìn thấy Nicole bước vào, khuôn mặt của Georgette ngời sáng. Chị đứng lên ôm lấy bạn.

- Ơn Chúa, chị nói. Hôm nay là mọt ngày tệ hại. Mình mừng vì cậu đã đến đây. Mình có chỗ để nhờ cậy một sự giúp đỡ tinh thần rồi.

- Mình không biết sẽ giúp cậu được bao nhieu, Nicole nói. Mình đang có chuyện rắc rối phải bàn với cậu đây.

Khi còn làm việc với nhau, Nicole chưa bao giờ tin tưởng Georgette, tuy nhiên hai người vẫn duy trì được mối quan hệ đồng sự tốt đẹp. Georgette chẳng bao giờ nói về công việc của chồng mình với bất kỳ ai. Và Nicole cũng không hề có ý định nói về những người tình của mình với những phụ nữ đã có gia đình, những người luôn luôn nghĩ rằng họ có trách nhiệm phải truyền đạt cách thức lôi một người đàn ông tới nhà thờ. Đó không phải là cái nàng mong muốn. Nicole thích bàn luận về quan hệ xác thịt trần trụi hơn, nhưng nàng nhận thấy việc này làm phần lớn những phụ nữ đã có gia đình cảm thấy khó chịu. Có lẽ, Nicole nghĩ, họ chẳng thích nghe những gì họ thiếu.

Georgette hỏi Nicole liệu nàng có muốn gặp riêng hay không. Nicole gật đầu và lát sau họ tìm được một phòng nhỏ không người bên dưới đại sảnh.

- Mình chưa bao giờ nói chuyện này với bất kỳ ai, Nicole lên tiếng. Nhưng cậu pahỉ biết ba mình là Raymonde Aprile - người được biết đến với cái tên Trùm Aprile. Cậu đã nghe nói về ông chưa?

Georgette đứng lên và nói

- Mình không nghĩ rằng mình phải nói chuyện với cậu.

- Làm ơn ngồi xuống đi, Nicole ngắt lời. Cậu cần nghe đấy.

Georgette có vẻ khó chịu nhưng vẫn làm theo yêu cầu của Nicole. Thực ra, chị luôn luôn muốn biết về gia đình Nicole nhưng không thể tự nói ra điều đó. Như nhiều người khác, Georgette có cảm tình với Nicole - người thông qua công việc pro bôn của mình đang cố gắng đền bù cho những tội lỗi của cha. Lớn lên dưới bóng tội ác, hẳn thời thơ ấu phải vô cùng khủng khiếp với Nicole. Chị tự hỏi bằng cách nào Nicole đã sống sót được qua những năm tháng ấy.

Nicole biết Georgette dù có thế nào đi nữa cũng không bao giờ phản bội chồng mình, nhưng nàng cũng biết Georgette là một phụ nữ đầy lòng trắc ẩn và có đầu óc cởi mở. Một người đã hơn một lần dùng thời gian rảnh rỗi của mình vào việc biện hộ cho những kẻ giết người đã bị tuyên án. Lúc này Nicole nhìn Georgette chằm chằm rồi nói

- Ba mình bị những kẻ có quan hệ gần gũi với chồng cậu giết chết. Mình và các anh mình có bằng chứng về việc chồng cậu nhận hối lộ của những người này.

Từ sửng sốt chuyển sang hoài nghi, Georgette không nói lên lời. Nhưng điều dó chỉ diễn ra trong vài giây trước khi nổi cơn thịnh nộ.

- Làm sao cậu dám, chị thì thầm. Chị nhìn thẳng vào mắt Nicole. Chồng mình thà chết chứ không đời nào vi phạm pháp luật.

Nicole ngạc nhiên bởi phản ứng dữ dội của Georgette. Nàng có thể thấy rằng Georgêtt hoàn toàn tin tưởng ở chồng. Nicole tiếp tục

- Chồng cậu không phải là người như cậu tưởng. Mình biết cậu đang nghĩ gì. Mình mới đọc hồ sơ của FBI về ba mình, mặc dù mình rất yêu ông, mình biết ông đã giấu mình nhiều chuyện. Cũng như Kurt đang làm với cậu vậy.

Sau đó Nicole kể cho Georgette nghe về số tiền một triệu đô la Portella đã gửi vào tài khoản của Cilke với những trùm buôn lậu ma tuý và bọn giết mướn. Chỉ có sự chấp thuận ngầm của Cilke lũ người này mới có thể thực hiện được công việc của chúng.

- Mình không đợi cậu tin mình, Nicole nói. Tất cả những gì mình hy vọng là cậu sẽ hỏi chồng cậu xem có phải mình đang nói với cậu sự thật hay không. Nếu Kurt là một người như cậu nói thì anh ấy sẽ không lừa dối cậu.

Georgette không để lộ cảm xúc rối ren trong lòng chị.

- Tại sao cậu lại nói với mình chuyện này?

- Bởi vì, Nicole nói, chồng cậu có một mối thù với gia đình mình. anh ấy sẽ cho phép các cộng sự giết Astorre và nắm lấy công việc điều hành nhà băng của gia đình mình. Việc này sẽ xảy ra vào đêm mai tại kho macaroni của đứa em họ mình.

Nghe nói đến macaroni, Georgette phì cười và nói

- Mình không tin cậu. Rồi chị đứng lên để ra về. Mình xin lỗi, Nicole ạ, chị nói. Mình biết cậu buồn, nhưng chúng mình không còn gì để nói với nhau nữa.

Đêm hôm đó, trong căn phòng ngủ được trang trí sơ sài của ngôi nhà ở nông trại nơi gia đình tạm dọn đến, Cilke đã đối mặt với cơn ác mộng của mình. Ông và vợ đã dùng xong bữa tối và đang ngồi đối diện với nhau. Cả hai cùng đang đọc. Bất thình lình, Georgette đặt cuốn sách xuống và nói

- Em muốn nói chuyện với anh về Nicole Aprile.

Trong suốt thời gian chung sôngs, Georgette chưa bao giờ đòi hỏi chồng luận bàn về công việc của ông. Chị không muốn động đến những bí mật của Liên bang. Chị hiểu đó là một phần cuộc sống của Cilke cần pahỉ giữ cho riêng mình. Đôi khi vào ban đêm, nằm bên ông, chị vẫn tự hỏi, ông thực thi công việc của mình ra sao - những biện pháp ông sử dụng để moi thông tin, những áp lực hẳn ông phải dùng để thúc ép đối tượng nghi vấn. Tuy nhiên trong đầu chị, chị vẫn luôn mường tượng ông là một dại diện có cỡ của Liên bang trong bộ comple chỉnh tề, với bản hiên spháp nhàu nát nhét trong túi sau. Trong thâm tâm, chỉ đủ không ngoan để hiểu rằng đây là một điều bịa đặt. Chồng chị là một người kiên định. Ông sẽ còn đi xa hơn nữa để đánh bại kẻ thù. Tuy vậy, đây vẫn cứ có thể là một thực tế, cái thực tế mà chị không bao giờ muốn kiểm tra.

Cilke đang đọc một cuốn tiểu thuyết kinh dị - cuốn thứ ba trong bộ sách nói về một kẻ giết người hàng loạt. Y đã nuôi day con trai mình trở thành một linh mục. Khi Georgette hỏi, ông lập tức gập cuốn sách lại.

- Anh đang nghe em đây, ông nói.

- Hôm nay Nicole nói vài chuyện về anh và về cuộc điều tra anh đang chỉ đạo, Georgette nói. Em biết anh không thích nói về công việc của anh, nhưng cô ấy buộc tội anh hết sức quyết liệt.

Cilke cảm thấy cơn thịnh nộ đang bùng lên trong ông, nó lớn dần đến lúc ông tưởng như không kiềm chế nổi. Đầu tiên chúng giết hai con chó của ông. Sau đó chúng phá nhà ông. Và bây giờ chúng lại làm hoen ố mối quan hệ trong sạch nhất của ông. Cuối cùng, khi trái tim tạm ngừng nhảy múa, ông đề nghị Georgette bằng một giọng ôn tồn nhất mà ông có thể, để chị kể cho ông tường tận chuyện gì đã xảy ra.

Georgeet thuật lại toàn bộ cuộc nói chuyện với Nicole rồi qan sát vẻ mặt chồng mình một cách chăm chú trong khi ông bị hút vào thông tin. Khuôn mặt ông không hề biểu lộ nét ngạc nhiên hay giận dữ. Khi chị nói xong, Cilke mới lên tiếng

- Cảm ơn em yêu. Anh chắc rằng nói ra điều này là rất khó đối vơi em. Anh rất tiếc. Sau đó ông đứng lên và đi ra cửa.

- Anh đi đâu? Georgette hỏi.

- Anh cần chút khí trời, Cilke đáp. Anh cần phải suy nghĩ.

- Kurt, anh yêu, giọng Georgette vang lên dò hỏi, chị cần được tái cam đoan.

Cilke đã thề sẽ không bao giờ nói dối vợ. Nếu chị khẩn nài sự thật, ông sẽ phải nói cho chị biết và chịu đựng hậu quả. Ông vẫn hy vọng chị sẽ hiểu và quyết định, tót hơn cả cứ giả bộ những bí mật này không hề tồn tại.

- Anh có thể nói gì với em không?, chị hỏi

Ông lắc đầu.

- Không. Anh làm mọi thứ vì em. Em biết thế, phải không?

- Vâng. Nhưng em cần phải biết. Vì chúng ta và vì con gái của chúng ta.

Cilke thấy không còn lối thoát. Ông hiểu chị sẽ chẳng bao giờ nhìn ông như thế nữa nếu ông nói cho chị nghe sự thật. Lúc này ông chỉ muốn đập vỡ sọ Astorre Viola. Ông cân nhắc những gì có thể nói với vợ mình, chẳng hạn như: anh chỉ nhận hối lộ vì FBI muốn anh làm thế. Bọn anh đã vi phạm vài điều luật để củng cố những điều luật quan trọng hơn. Ông biết những câu trả lời như thế sẽ làm chị thêm tức giận, mà ông thì yêu và kính trọng chị vô cùng.

Cilke rời khỏi nhà không nói một lời. Khi quay về, vợ ông giả vờ đã ngủ. Ông đi đến quyết đinh, đêm hôm sau ông sẽ đối mặt với Astorre Viola và lấy lại chân giá trị của chính mình.

Aspinella Washington không căm ghét tất cả đàn ông, nhưng mụ kinh ngạc vì nhiều người trong số họ làm mụ chán ngấy. Tất cả bọn họ đều ... vô tích sự.

Sau khi đã giải quyết xong Heskow, mụ bị thẩm ván qua quýt bởi hai sĩ quan an ninh, những kẻ hoặc quá đần hoặc quá sợ hãi nên không thể phản kháng lại tường trình của mụ. Khi cảnh sát tìm thấy 100.000 đô lận trong người Heskow, họ cho rằng động cơ của y là rõ ràng. Họ quả quyết họ đáng được thưởng tiền công vì đã dọn sạch đống lộn xộn mà mụ đã tạo ra trước khi xe cứu thương đến.

Aspinella chỉ có hai cách xài tiền. Mụ giữ lại 3000 đô còn nhét cả vào két an toàn của mụ. Mụ đã chỉ dâẫnho bà mẹ mụ rằng nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra với mụ thì tất cả số tiền trong két - hơn 300.000 đô tiền hối lộ - phải được uỷ thác giữ lại cho con gái mụ. Với số tiền 3000 đô còn lại, mụ đón một chiếc taxi đến Đại lộ Năm rồi tới phố Năm ba. Ở đó mụ vào một cửa hàng đồ da chất lượng cao nhất thành phố và đi thang máy lên một phòng riêng trên tầng ba.

Một phụ nữ đeo cặp kính rất mốt và mặc bộ đồ kẻ sọc nhỏ nhận tiền thanh toán rồi đi kèm mụ xuống đại sảnh. Tại đây mụ tắm trong một bồn tắm đầy dầu thơm Trung Hoa. Mụ ngâm mình khoảng hai mươi phút và nghe một đĩa CD những bản Thánh ca thời Trung cổ trong lúc chờ Rudolfo, một bác sĩ mát sa - tình dục có bằng cấp thực hành.

Rudolfo nhận 3000 đô cho một suất hai tiếng, nhiều hơn số tiền những luật sư nổi tiếng nhất được trả mỗi giờ. Y nói bằng giọng Bavarian kèm một nụ cười ranh mãnh

- Khác biệt là ở chỗ người ta chỉ lợi dụng bạn. Còn tôi thì làm cho bạn mê ly.

Aspinella đã nghe danh Rudolfo trong mọt cuộc điều tra tệ nạn xã hội trá hình do mụ chỉ huy tại các khách sạn sang trọng trong thành phố. Một người giữ cửa lo rằng y có thể được yêu cầu làm chứng, vì thế, để đổi lấy việc không bị triệu tập, y đã cho mụ thông tin về Rudolfo. Aspinella đã nghĩ đến việc tiến hành bố ráp, nhưng khi gặp Rdolfo và được thưởng thức một trong những bài xoa bóp của y, mụ cảm thấy không cho chị em phụ nữ được thưởng thức tài nghệ phi thường này sẽ là một tội ác lớn hơn.

Vài phút sau Rudolfo gõ cửa và hỏi

- Tôi vào được chứ?

- Vào đi cưng, mụ nói.

Y bước vào à nhìn mụ.

- Miếng băng mắt đẹp quá, y nói.

Lần đầu tới đây Aspinella hết sức ngạc nhiên khi Rudolfo bước vào phòng mình trần như nhộng, nhưng y nói,

- Tại sao cứ vẽ vời mặc đồ vào rồi chỉ để cởi ra? y là một loại người đặc biệt, cao ráo và săn chắc, ngực y phủ một lớp lông vàng óng như tơ và xoăn tít phía bên phải có xăm hình con hổ. Mụ đặc biệt thích đám lông ngực, cái làm Rudolfo khác biệt với đám người mẫu trên tạp chí - những kẻ đã nhổ, cạo sạch lông và bôi dẫu kỹ lưỡng đến mức người ta không thể nhận ra chúng là đàn ông hay đàn bà.

- Sức khoẻ bồ ra sao? Y hỏi.

- Cưng không cần nghe chuyện đó, Aspinella nói. Tất cả những gì cưng cần phải biết là tôi muốn được điều trị về sinh lý.

Rudolfo bắt đầu từ lưng mụ, nhấn vào tất cả các khớp xương của mụ. Sau đó y dịu dàng xoa bóp cổ trước khi lật ngửa mụ ra và nhẹ nhàng mát xa ngực và bụng mụ. Đến khi y bắt đầu vuốt ve giữa hai chân mụ thì mụ đã ướt mèm và thở gấp.

- Tại sao những người đàn ông khác kông thể làm điều này cho tôi? Aspinella nói với một tiếng thở dài mê ly.

Rudolfo đang chuẩn bị bắt đầu thực hiện giai đoạn quan trọng nhất - mát xa bằng lưỡi. Y làm nó rất thuần thục, cùng một khả năng phi thường. tuy nhiên câu hỏi của mụ, câu hỏi y đã nghe nhiều lần, làm y ngạc nhiên. Một câu hỏi như vậy luôn làm y ngạc nhiên. Dường như thành phố đang nổ tung bởi đám đàn bà khát tình.

- Tại sao những người đàn ông khác không làm được việc này là cả một điều bí ẩn đối với tôi, y nói. Bồ nghĩ sao?

Mụ ghét làm gián đoạn giấc mơ tình dục của mình, tuy nhiên mụ vẫn bảo Rudolfo mụ cần tỷ tê ở trên giường trước khi diễn cảnh cuối cùng.

- Đàn ông yếu quá, mụ nói. Chúng tôi là những người đưa ra những quyết định quan trọng. Khi nào lập gia đình. Khi nào sinh con. Chúng tôi gò cương đám đàn ông và nghĩ rằng họ phải chịu trách nhiệm về những gì họ làm.

Rudolfo mỉm cười lịch sự.

- Nhưng cái đó thì liên quan gì đến tình dục?

Aspinella muốn y quay lại với công việc.

- Tôi không biết, mụ nói. Đấy chỉ là quan niệm thôi.

Rudolfo lại tiếp tục xoa bóp cho mụ - chậm rãi, đều đều, nhịp nhàng. Y dường như không bao giờ mệt mỏi. Và mỗi lần y đưa mụ đến điểm cực khoái mụ lại tưởng tượng ra những cực hình khủng khiếp mà mụ sẽ giáng xuống đầu Astorre Viola cùng cái băng côn đồ của chàng vào đêm mai.

Công ty Macaroni của Viola toạ lạc trong một nhà kho xây bằng gạch ở khu đông Manhattan. Hơn một trăm người làm viẹc tại đây. Công việc của họ là bốc dỡ những bao macaroni khổng lồ nhập từ Italy cho vào băng chuyền, sau đó chúng được tự động phân loại và đóng gói.

Một năm trước, được một bài báo viết về việc các doanh nghiệp nhỏ phát triển các hoạt động của mình làm cho phấn chấn, Astorre đã thuê một cố vấn của Đại học Harvard về làm tham mưu cho những chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Tay này bảo Astorre tăng giá lên gấp đôi, đổi tên nhãn hiệu macaroni của chàng thành MÌ ỐNG NHÀ LÀM CỦA BÁC VITO, sa thải một nửa số nhân công và thay vào đó những hợp đồng lao động tạm thời với tiền công chỉ bằng một nửa. Đáp lại đề nghị đó, Astorre sa thải tay cố vấn.

Văn phòng của Astorre nằm ở khu chính, rộng cỡ một sân bóng đá, hai bên là những máy móc sáng loáng bằng thép không rỉ xếp thành hàng. Phí sau nó tông ra một bến tàu. Những máy ghi hình được bố trí bên ngoài những lối vào và cả trong nhà máy nên chàng có thể theo dõi các vị khách và điều hành sản xuất từ văn phòng của mình. Bình thường, nhà kho đóng cửa lúc 6 giờ tối, nhưng đêm nay Astorre giữ lại năm người cừ nhất và Aldo Monza. Chàng chờ đợi.

Đêm hôm trước, khi bàn bạc với Nicole về kế hoạch này tại văn phòng nàng, Nicole đã cương quyết phản đối. Nàng lắc đầu quầy quậy.

- Thứ nhất, nó chẳng giải quyết được vấn đề. Và thứ hai, tôi không muốn làm một kẻ đồng loã với tội sát nhân.

- Chúng giết vệ sĩ của chị và chúng còn cố bắt cóc chị, Astorre nhỏ nhẹ nói. Tất cả chúng ta đều gặp nguy hiểm, trừ phi tôi hành động. Nicole nghĩ về Helene, rồi nàng nhớ đến những cuộc tranh luận bên bàn ăn với cha nàng - người chắc chắn đã tìm đến biện pháp trả thù. Cha nàng hẳn sẽ nhắc nhở nàng rằng thi hành những biện pháp phòng ngừa để bảo vệ gia đình là hợp lý và cần thiết.

- Tại sao chúng ta không đến gặp nhà chức trách? Nàng hỏi.

Astorre trả lời khô khốc

- Đã quá muộn để làm việc đó.

Lúc này Astorre đang ngồi trong phòng làm việc của mình làm mồi câu sống. Nhờ Grazziella, chàng biết Portella và Tulippa đã đến thành phố để dự cuộc họp của nghiệp đoàn. Chàng không chắc thông tin mà Nicole đã tiết lộ với Rubio có thúc chúng dẫn xác tới hay không, nhưng chàng hy vọng chúng sẽ cố một lần nữa thuyết phuc chàng chuyển giao các nhà băng trứơc khi sử dụng vũ lực. Chàng cho rằng chúng sẽ kiểm tra vũ khí, vì vậy chàng không vũ trang cho mình, ngoại trừ một con dao găm đút trong một chiếc bao đặc biệt khâu trong tay áo.

Khi đang chăm chú quan sát màn hình, Astorre phát hiện ra nửa tá người từ phía bến tàu thâm nhập vào phía sau toà nhà. Chàng ra lệnh cho người của mình ẩn náu và không được tấn công chừng nào chàng chưa phát tín hiệu cho họ.

Xem kỹ màn hình chàng nhận ra Portella và Tulippa trong số sáu người. Sau đó, khi chúng biến mất khỏi màn hình, chàng nghe thấy tiếng bước chân đang tiến về phía phòng làm việc của chàng. Nếu chúng định giết chàng thì Monza và nhóm của hắn đã sẵn sàng và có thẻ ứng cứu.

Sau đó Portella gọi chàng.

Chàng không lên tiếng.

Portella và Tulippa dừng ngoài cửa trong chốc lát.

- Mời vào, Astorre nói với một nụ cười ấm áp. Chàng đứng lên bắt tay khách. Thật là ngạc nhiên, tôi rất ít khi có khách vào giờ này. Tôi có thể làm được gì cho các ngài đây?

- Có đấy, Portella lầu bầu. Bọn này đang ăn tối thì lại hết macaroni.

Astorre vung tay một cách hào hiệp và nói

- Macaroni của tôi cũng là macaroni của các ngài.

- Thế còn các nhà băng của cậu? Tulippa hỏi đầy đe doạ.

Astorre đã sẵn sàng đương đầu với việc này.

- Đã đến lúc chúng ta phải nói chuyện nghiêm chỉnh rồi. Nhưng trước hết tôi muốn đưa các ngài đi tham quan nhà máy. Tôi rất tự hào về nó.

Tulippa và Portella trao đổi với nhau một cái nhìn bối rối. Cả hai đều lo lắng.

- OK, nhưng đi ít và nhanh thôi nhé, Tulippa nói và tự hỏi làm sao thằng hề này lại có thể tồn tại lâu đến thế.

Astorre dẫn chúng đi. Bốn gã đàn ông tháp tùng chúng đang đứng gần đấy. Astorre chào hỏi thân tình và bắt tay từng đứa.

Người của Astorre đang quan sát chàng rất chăm chú, chờ đợi lệnh tấn công của chàng. Monza đã điều ba tay súng lên căn gác lửng. Những người còn lại dàn ra phía bên kia kho hàng.

Astorre cho khách xem hết kho hàng. Cuối cùng Portella nói

- Tâm trí cậu đặt ở đâu thì đã rõ. Sao cậu không để chúng tôi điều hành nhà băng? Chúng tôi sẽ trả giá cao nhất và chia lãi cho cậu theo tỷ lệ phần trăm.

Astorre sắp phát tín hiệu nổ súng cho người của mình. Nhưng bất thình lình chàng nghe thấy tiếng súng rồi nhìn thấy ba người của chàng rơi hai mươi bộ từ căn gác lửng và nằm úp thìa trên sàn nhà trước mặt chàng. Chàng nhìn kỹ căn nhà kho để tìm Monza trong khi hắn nhanh nhẹn lẩn vào phía sau một chiếc máy đóng gói cỡ lớn.

Rồi chàng nhìn thấy một phụ nữ da đen đeo một miếng băng mắt màu xanh chạy nhanh về phía họ và chộp lấy cổ Portella. Mụ thúc mạnh nòng súng trường vào bụng y, rồi mụ lôi ra một khẩu súng lục ổ quay và ném khẩu súng trường xuống sàn.

- Ok, Astpinella Washington nói. Tất cả buông vũ khí ngay lập tức. Không ai nhúc nhích, mụ liền chộp lấy cổ Portella, xoay hắn lị và nã hai phát đạn vào bụng hắn, Khi Portella gập người lại, mụ đánh mạnh báng súng xuống đầu hắn và đá vào miệng hắn.

Sau đó mụ chộp lấy Tulippa và nói

- Mày sẽ là đứa tiếp theo trừ phi tất cả làm theo những gì tao nói. Mạng đền mạng đấy, đồ con hoang.

Portella biết rằng nếu không được giúp đỡ hắn sẽ chỉ sống thêm được ít phút nữa. Mắt hắn đang mờ dần. Hắn nằm sóng xoài trên sàn nhà, thở một cách khó nhọc, chiếc sơ mi của hắn đẫm máu. Miệng hắn cứng đờ

- Hãy làm theo lời bà ấy, Portella rên rỉ một cách yếu ớt.

Người của Portella tuân lệnh hắn.

Portella thường nghe nói rằng bị bắn vào bụng sẽ dẫn đến một cái chết đau đớn nhất. Lúc này hắn đã biết tại sao. Mỗi lần thở sâu, hắn cảm thấy giống như bị thọc vào tim. Hắn đã mất khả năng kiểm soát bàng quang, và nước tiểu của hắn tạo thành một vết ố sẫm màu trên chiếc quần màu xanh da trời còn mới. Hắn cố gắng nhìn kẻ đã bắn mình, một mụ đàn bà da đen gân guốc mà hắn không nhận ra. Hắn cố thốt lên mấy tiếng

- Bà là ai? nhưng không được. Ý nghĩ cuối cùng của hắn uỷ mị đến kỳ lạ : Hắn tự hỏi ai có thể báo cho em trai hắn, Bruno, rằng hắn đã chết.

Chỉ mất vài giây để Astorre hiểu chuyện gì đã xảy ra. Trước đây chàng chưa từng thấy thám tử Aspinella Washington, trừ những bức ảnh trên báo và trên vô tuyến truyền hình. Nhưng chàng biết, nếu mụ đã phát hiện ra chàng thì trước tiên mụ phải đến chỗ Heskow. Và Heskow chắc chắn đã chết. Astorre không cảm thấy thương tiếc con người tứ cố vô thân lươn lẹo ấy. Heskow có một nhược điểm lớn là y có thể nói hoặc làm bất cứ điều gì để tồn tại. Thật hay nếu lúc này y nằm trong huyệt mộ cùng những bông hoa y trồng.

Tulippa không biết tại sao con đàn bà dữ tợn này lại chĩa súng vào cổ y. Vì tin Portella đảm bảo được an ninh nên y đã cho đám vệ sĩ trung thành của mình được nghỉ. Một sai lầm ngu xuẩn. Hoa Kỳ là một đất nước kỳ lạ, y thầm nghĩ. Người ta không thể biết bạo lực sẽ từ đâu đến.

Khi Aspinella ấn sâu mũi súng vào da thịt y, Tulippa thầm hứa với chính mình rằng, nếu y thoát được vụ này và chuồn được về Nam Mỹ, y sẽ đẩy mạnh việc chế tạo vũ khí hạt nhân, y sẽ làm tất cả những gì có thể để làm nổ tung đất nước này càng nhiều càng tốt, đặc biệt là Washington DC, cái thủ đô ngạo mạn của những kẻ trịch thượng lười biếng quen ăn trên ngồi trốc, và thành phố New York, nơi dường như đã sinh ra những kẻ điên khùng như con đàn bà một mắt này.

- Được đấy, Aspinella bảo Tulippa. Chúng mày đã gạ tụi tao nửa triệu đô để chăm sóc cho thằng ranh này. Mụ chỉ vào Astorre. Tao hẳn sẽ rất mừng được làm việc đó. Nhưng kể từ khi gặp nạn, tao đã tăng giá lên gấp đôi. Với chỉ một con mắt, tao phải ngó nghiêng vất vả gấp hai lần.

Kurt đã bí mật theo dõi kho hàng suốt cả ngày. Ngồi trên chiếc Chevy màu xanh của mình với một gói kẹo và một tờ Newsweek, ông chờ Astorre ra về.

Ông đến có một mình vì không muốn lôi kéo các nhân viên khác của FBI vào cái mà ông tin có thể là đoạn kết trong sự nghiệp của ông. Khi nhìn thấy Portella và Tulippa bước vào toà nhà, ông thấy miệng ông đắng ngắt. Và ông nhận ra Astorre là một kẻ thù khôn ngoan đến nhường nào. Nếu, Cilke nghi ngại, Portella và Tulippa tấn công Astorre, ông có bổn phận phải bảo vệ gã. Astorre sẽ được tự do và giữ sạch thanh danh mà không phải phá vỡ sự im lặng của gã. Và những tháng năm làm việc vất vả của Cilke thế là đi tong.

Nhưng khi thấy Aspinella Washington vác khẩu súng trường tấn công lao vào toà nhà thì ông có một cảm giác khác hẳn - một nỗi sợ hãi đến rợn người. Ông đã nghe nói về mụ trong vụ bắn nhau tại sân bay. Với ông, vụ này có vẻ khả nghi quá.

Ông kiểm tra đạn trong khẩu súng ngắn ổ quay và cảm thấy thật hão huyền nếu hy vọng vào sự giúp đỡ của mụ. Trước khi rời khỏi xe, Cilke quyết định đã đến lúc phải thông báo cho FBI. Sử dụng điện thoại trên xe, ông gọi cho Boxton.

- Tôi đang ở bên ngoài kho hàng của Astorre Viola, Cilke nói với Boxton. Sau đó ông nghe tiếng súng bắn dồn dập. Tôi vào trong đây, và nếu có chuyện gì xảy ra, tôi muốn cậu báo cho ngài giám đốc. Tôi đang hành động một mình. Cậu có ghi âm cuộc gọi này không đấy?

Boxton dừng lại. Ông ta không rõ liệu Cilke có hiểu và thông cảm cho việc bị ghi âm hay không. Kể từ khi Cilke trở thành một mục tiêu, tất cả các cuộc gọi của ông đều bị kiểm soát.

- Có, Boxton nói.

- Tốt, Cilke đáp lại. Nhờ có ghi âm mà cả cậu và tất cả mọi người trong lực lượng FBI không phải chịu trách nhiệm về những gì tôi sắp làm. Tôi đang ở vào một tình thế bất lợi dính líu đến ba tên tội phạm khét tiếng và một kẻ phản bội trong lực lượng cảnh sát New York, tên này được trang bị vũ khí hạng nặng.

Boxton ngắt lời Kurt.

- Kurt, chờ tiếp viện đã.

- Không còn thời gian đâu, Cilke nói. Hơn nữa đây là mớ bòng bong của tôi. Tôi sẽ dọn dẹp. Ông nghĩ tới việc để lại một lời nhắn cho Georgette, nhưng như thế thì bi quan quá. Tốt hơn cứ để những hành động của ông nói lên tất cả. Ông cúp máy. Khi rời khỏi xa ông mới nhận ra đã đỗ xe sai luật.

Cái đầu tiên đập vào mắt Cilke khi ông bước vào kho hàng là khẩu súng của Washington đang ấn sâu vào cổ Tulippa. Tất cả những người có mặt trong nhà kho đều im lặng. Không kẻ nào dám nhúc nhích.

- Tôi là sĩ quan Cục điều tra Liên bang, Cilke giới thiệu, hướng nòng súng của ông lên trời. Hãy bỏ vũ khí của các người xuống.

Aspinella quay lại phía Cilke và giễu cợt nói.

- Tôi biết ngài là thằng đéo nào rồi. Vụ này là của tôi. Xéo đi mà tóm cổ mấy đứa kế toán viên hay đám buôn bán cổ phiếu. Đây là việc của NYPD.

- Thám tử, Cilke bình tĩnh nói, bỏ vũ khí xuống ngay. Nếu cần, tôi sẽ sử dụng vũ lực. Tôi có lý do để tin rằng bà can dự vào một âm mưu đen tối.

Aspinella không thèm đếm xỉa đến lời cảnh báo. Từ ánh mắt cương quyết của Cilke, mụ biết ông sẽ không chịu lùi bước. Song mụ cũng đâu có ý định nhượng bộ, làm gì có chuyện đó khi mụ có súng trong tay. Mụ nghĩ, chắc lâu rồi Cilke không bắn người.

- Ngài cho rằng tôi can dự vào một âm mưu ư? Mụ hét lên. Tôi cho rằng ngài cũng can dự vào một âm mưu. Tôi cho rằng lâu nay ngài vẫn nhận tiền đút lót của thằng chó chết này. Mụ lại thúc mạnh nòng súng vào Tulippa. Có đúng vậy không, thưa senor(1)?

Lúc đầu Tulippa im lặng, nhưng khi mụ thúc đầu gối vào háng y, y gập người lại và gật đầu.

- Bao nhiêu? Aspinella hỏi.

- Hơn một triệu đô la, Tulippa thều thào.

Cilke nén giận nói

- Mỗi đô la chúng gửi vào tài khoản của tôi đều được FBI giám sát. Đây là một cuộc điều tra của Liên bang, thám tử Washington ạ. Ông hít sâu vào rồi đếm ngược trước khi bảo mụ. Đây là lời cảnh cáo cuối cùng của tôi. Bỏ vũ khí xuống nếu không tôi sẽ bắn.

Astorre lặng lẽ quan sát. Aldo Monza đang đứng ở một nơi nào đó phía sau một trong những cỗ máy. Astorre nhìn thấy cơn co giật trên mặt Aspinella. Rồi, như thể điều đó diễn ra hết sức chậm chạp, chàng thấy mụ lẻn ra phía sau Tulippa và bắn vào Cilke. Nhưng ngay khi mụ nổ súng, Tulippa vùng thoát ra và nhào xuống sàn nhà làm mụ mất thăng bằng.

Cilke bị bắn vào ngực. Nhưng ngay lập tức ông bắn vào Aspinella và thấy mụ lảo đảo về phía sau, máu phun ra từ bên dưới vai phải của mụ. Không ai bị bắn chết. Họ làm theo những gì được huấn luyện đến cùng - nhằm vào phần rộng nhất của cơ thể. Nhưng Aspinella cảm thấy một cơn đau tê dại và thấy được sự tàn phá của viên đạn, mụ biết đã đến lúc quên đi điều luật. Mụ nhằm vào giữa hai mắt Cilke. Mụ bóp cò bốn lần cho đến khi mũi của Cilke biến thành một đám sụn nhão nhoét và mụ có thể thấy một lượng lớn óc của ông bắn lên phần còn sót lại của khuôn mặt.

Tulippa thấy Aspinella đã bị thương và đang đi lảo đảo. Y cản mụ lại rồi đánh cùi trỏ vào mặt mụ, lạnh lùng hạ mụ đo ván. Nhưng trước khi y kịp chộp lấy khẩu súng của mụ, Astorre đã từ phía sau cỗ máy bước ra và đá nó văng qua gian phòng. Sau đó chàng đến bên Tulippa và rất ga lăng chìa tay cho y.

Tulippa chấp nhận cử chỉ ấy và Astorre kéo y đứng lên. Cùng lúc đó, Monza và những người sống sót trong đội của hắn vây chặt đám bộ hạ của Portella rồi trói chúng vào những thanh dầm bằng thép của kho hàng. Không ai động đến Cilke và Portella.

- Đúng thế, Astorre nói, Tôi tin chúng ta có chút việc phải hoàn thành.

Tulippa bối rối. Astorre quá nhiều mâu thuẫn - một đối thủ thân thiện, một kẻ sát nhân mê nghiệp cầm ca. Liệu một con bài tẩy như thế có thể tin được hay không?

Asotrre đi vào giữa kho hàng và ra hiệu cho Tulippa theo sau. Khi tới một khoảng trống chàng dừng lại và quay về phái Tulippa.

- Ngài giết bác tôi rồi ngài định cướp nhà băng của chúng tôi. Tôi không cần phải hoài hơi với ngài. Sau đó Astorre rút dao găm ra, lưỡi dao loé sáng. Chàng cho Tulippa xem

- Tôi chỉ việc cắt cổ ngài bằng con dao này. Nhưng ngài là kẻ yếu, và giết một người không có khả năng tự vệ đâu xứng với kẻ quân tử. Vì vậy tôi sẽ cho ngài một cơ hội.

Khi nói những lời nói đó Astorre kín đáo ra hiệu cho Moza rồi chàng giơ cả hai tay lên trời như thể đầu hàng, thả rơi con dao và lui lại vài bước. Tulippa nhiểu tuổi hơn và to lớn hơn Astorre, sử dụng dao đặc biệt thành thạo. Tuy nhiên y vẫn chưa phải là đối thủ của Astorre.

Tulippa nhặt con dao lên và bắt đầu tiến về phía Astorre.

- Mày là một thằng ngu, dám coi trời bằng vung, y nói. Tao đã sẵn sàng nhận mày làm đối tác cơ đấy. Y đâm bổ vào Astorre vài lần nhưng chàng nhanh nhẹn tránh được. Khi Tulippa dừng lại để lấy hơi, Astorre tháo chiếc huy hiệu vàng ra khỏi cổ và ném xuống sàn nhà, để lộ ra vết sẹo màu tía trên cổ họng

- Tôi muốn đây là cái cuối cùng ngài nhìn thấy trước khi chết.

Tulippa sững sờ bởi vết thương, một sắc màu tía y chưa từng thấy bao giờ. Và trước khi y kịp định thần Astorre đã đá văng con dao khỏi tay y. Bằng một cú lên gối nhanh và chính xác vào lưng Tulippa, chàng khoá đầu y lại rồi bẻ cổ y. Tất cả đều nghe thấy tiếng xương gãy răng rắc.

Không thèm nhìn nạn nhân, Astorre nhặt chiếc huy hiệu lên đeo vào cổ rồi rời khỏi toà nhà.

Năm phút sau, một đoàn xe của lực lượng FBI mới đến được Hãng Macaroni của Viola. Aspinella vẫn còn sống. Mụ được đưa vào phòng hồi sức cấp cứu của bệnh viện.

Khi đã nghiên cứu kỹ cuốn băng video không lời mà Monza quay được, các quan chức FBI xác nhận rằng Astorre, người đã giơ tay đầu hàng và buông dao, phải hành động để tự vệ.

PHẦN KẾT

Nicole ném phịch ống nghe xuống và quát người thư ký của nàng

- Tôi phất ốm vì nghe tin đồng Euro quá yếu. Nếu được, hãy tìm ngay ngài Pryor. Có lẽ ông ấy đang ở một sân golf nào đó thôi.

Hai năm trôi qua, và Nicole đã đứng ra điều hành các nhà băng của Aprile. Khi chuẩn bị về hưu, ông Pryor đã khẳng định nàng là người thích hợp nhất cho công việc đó. Là một đấu thủ giàu kinh nghiệm, nàng chẳng chị khoanh tay trước áp lực từ phía các giám sát viên và khách hàng khó tính.

Hôm nay Nicole cuống cuồng dọn dẹp phòng làm việc của nàng. Đến đêm nàng và hai anh sẽ bay sang Sicily họp mặt gia đình với Astorre. Nhưng trước khi đi, nàng phải liên lạc vơi Aspinella Washington lúc này đang chờ đợi liệu Nicole có đại diện cho mụ trong đơn kháng cáo nhằm tránh án tử hình hay không. Chỉ nghĩ về việc đó thôi nàng đã thấy ngại, và không chỉ vì nàng đã có việc làm trọn ngày.

Lúc đầu, khi Nicole đề nghị được điều hành các nhà băng, Astorre đã lưỡng lự vì nhớ tới những ước muốn cuối cùng của ông trùm Aprile. Nhưng Pryor đã thuyết phục chàng rằng Nicole là con gái ông Trùm: Bất kỳ khoản cho vay lớn nào đến kỳ phải trả, nhà băng đều có thể tin tưởng nàng sẽ sử dụng hiệu quả sự kết hợp đầy thuyết phục giữa lời nói ngọt ngào và đe doạ ngầm. Nàng biết cách giành được kết quả.

Điện thoại nội bộ của Nicole đổ chuông, và ông Pryor chào nàng theo phong cách lịch sự quen thuộc

- Tôi có thể giúp gì đây hả cưng?

- Chúng ta đang chết dở vì tỷ giá hối đoái này, nàng nói. Bác nghĩ sao nếu ta đổi ồ ạt sang đồng Mác Đức?

- Tôi nghĩ đó là một ý kiến tuyệt vời, ông Pryor nói.

- Bác biết đấy, Nicole tiếp tục. Toàn bộ việc mua bán tiền tệ này cũng giống như đi Vegas chơi bài bac-carat thôi.

Pryor phá lên cười

- Điều đó có thể đúng, nhưng thua bài Baccarat đâu có được Cục dự trữ Liên bang bảo lãnh.

Sau khi cúp mày, Nicole ngồi lại một lát và hồi tưởng quá trình đi lên của nhà băng. Từ khi tiếp nhận vai tò điều hành nàng đã giành được thêm sáu nhà băng nữa ở các nước phát triển và tăng lợi nhuận lên gấp đôi. Nhưng việc nhà băng đang cung cấp những khoản cho vay rộng rãi cho các cơ sở kinh doanh mới mở mang tại các nước đang phát triển còn làm nàng vui hơn.

Nàng mỉm cười với chính mình khi nhớ lại ngày đầu của nàng.

Ngay sau khi đảm đương cương vị mới, Nicole thảo một bức thư gửi cho bộ trưởng tài chính Peru yêu cầu thanh toán toàn bộ những khoản nợ quá hạn của chính phủ. Đúng như nàng trông đợi, việc này đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế ở nước này, dẫn đến sự rối ren về chính trị và một cuộc thay đổi nội các. Chính đảng mới lên cầm quyền yêu cầu cách chức tổng lãnh sự Peru tại Liên hợp quốc Mariano Rubio.

Ít lâu sau, Nicole rất vui vì biết tin Rubio đã tuyên bố phá sản. Y còn phải đương đầu với một loạt vụ kiện phức tạp liên quan đến các nhà đầu tư Peru, những người đã tài trợ cho một trong số rất nhiều dự án của y - công viên giải trí. Rubio đã hứa hẹn nó sẽ trở thành một "Latino Disneyland", nhưng tất cả những gì y có thể làm được chỉ là một vòng đu quay lớn và một ngọn tháp Taco.

Vụ việc mà các tờ báo khổ nhỏ đặt tên là "Cuộc tàn sát hàng loạt tại kho hàng Macaroni" đã trở thành một sự kiện quốc tế. Ngay khi Aspinella Washington bình phục vết thương do phát đạn của Cilke gây ra - một vết thương lủng phổ - mụ đã đưa ra một loạt tuyên bố với giới truyền thông. Trong lúc chờ đợi phiên toà, mụ khắc hoạ bản thân mình như một đấng tử vì đạo cỡ thánh Joan. Mụ kiện FBI vì đã âm mưu giết người, vu khống và xâm phạm quyền công dân của mụ. Mụ còn kiện cả Sở cảnh sát New York vì đã không trả lương cho mụ trong thời gian bị đình chỉ công tác.

Bất chấp những phản kháng của mụ, bồi thẩm đoàn chỉ mất ba giờ đồng hồ thảo luận để kết tội mụ. Khi toàn tuyên bố mụ có tội, Aspinella chửi như tát nước vào mặt các luật sư của mụ rồi thỉnh cầu Phong Trào Chống Án Tử Hình làm đại diện. Mụ đòi Nicole phải đảm đương vụ này. Từ xà lim án tử hình mụ tuyên bố với giới báo chí

- Em họ cô ta đã đẩy tôi vào đây thì bây giờ cô ta phải đưa tôi ra khỏi đây.

Lúc đầu Nicole từ chối gặp Aspinella với lý do bất kỳ luật sư giỏi nào cũng loại được nàng vì xung đột về quyền lợi rõ ràng như vậy. Nhưng sau đó Aspinella tố cáo Nicole phân biệt chủng tộc, và nàng cuối cùng đã đồng ý.

Ngày họ gặp nhau, Nicole phải chờ hai mươi phút trong khi đó Aspinella lại đến dự một hội nghị của các quan chức cấp cao ngoại quốc. Những vị này nghênh tiếp mụ như một chiến binh dũng cảm dám chống lại bộ luật hình sự man rợ của Hoa Kỳ. Cuối cùng Aspinella ra hiệu cho Nicole lại gần cửa sổ. Mụ đã quen đeo một miếng băng mắt màu vàng có thêu chữ TỰ DO.

Nicole tuôn ra một tràng tất cả những lý do nàng muốn từ chối vụ kiện và kết thúc bằng việc nêu rõ rằng nàng đã đại diện cho Astorre chống lại mụ trước đó rồi.

Aspinella chăm chú lắng nghe, tay vân vê những lọn tóc mới tết.

- Tôi nghe cô, mụ nói. Nhưng có nhiều điều cô không biết. Astorre đã đúng: Tôi phạm nhiều tội ác. Tôi đã bị kết án, và tôi sẽ dành phần còn lại của đời tôi chuộc lại chúng. Nhưng làm ơn hãy giúp tôi sống đủ lâu để đền bù những gì tôi có thể.

Lúc đầu Nicole cho rằng đây chỉ là một trong những mánh khoé nữa của Aspinella nhằm kiếm chút thiện cảm, nhưng có cái gì đó trong giọng nói của mụ làm nàng xúc động. Nàng vẫn tin rằng không ai có quyền kết án tử hình người khác. Nàng vẫn tin vào sự hoàn lương. Nàng thấy Aspinella cũng như tất cả những ai bị giam tỏng khám tử hình, đều đáng được bảo vệ. Nàng chỉ ước nàng không phải nhúng tay vào vụ này.

Trước khi đưa ra kết luận cuối cùng, nàng biết nàng còn phải đương đầu với một người.

Sau lễ tang theo nghi thức dành cho những anh hùng của Cilke, Georgette yêu cầu được gặp giám đốc. Một nhân viên FBI đón chị tại sân bay và đưa chị về tổng hành dinh của Cục.

Khi Georgette bước vào phòng giám đốc, lão ôm choàng lấy chị và hứa rằng Cục sẽ làm mọi thứ cần thiết để giúp mẹ con chị đương đầu với mất mát quá lớn của họ.

- Cảm ơn ngài, Georgette nói. Nhưng đấy không phải là lý do tôi tới đây. Tôi cần biết tại sao chồng tôi bị giết.

Trước khi trả lời, giám đốc dừng lại hồi lâu. Lão biết chị đã nghe những lời đồn đại. Và những lời đồn đó có thể gây ra hiểm hoạ cho hình ảnh của FBI. Lão cần phải trấn an chị. Cuối cùng lão nói

- Tôi lấy làm xấu hổ phải thừa nhận rằng ngay cả chúng tôi cũng cần phải mở một cuộc điều tra. Chồng cô là một người mẫu mực mà mỗi nhân viên FBI phải noi theo. Cilke tận tâm với công việc và tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Tôi biết cậu âấ không làm bất kỳ điều gì ảnh hưởng đến FBI và gia đình mình.

- Thế tại sao anh ấy lại đến cái kho hàng đó có một mình? Georgette hỏi. Và anh ấy có quan hệ thế nào với Portella?

Giám đốc chú ý từng ly từng tý đến đề tài thảo luận mà lão đã thực tập với ban tham mưu của mình trước cuộc gặp này.

- Chồng cô là một điều tra viên rất cừ. Cậu ấy được tự do lần theo các đầu mối của mình. Chúng tôi không tin cậu ấy nhận hối lộ và đi đêm với Portella hay bất cứ kẻ nào. Thành công của cậu ấy nói lên tất cả. Cậu ấy là người đã đập tan Mafia đấy.

Khi rời khỏi phòng giám đốc, Georgette nhận ra rằng chị không hề tin lão. Chị biết, muốn được thanh thản, chị phải tin vào sự thật mà chị cảm nhận đựoc trong tim mình: Chồng chị, bất chấp lòng hăng hái của ông, là một người tử tế như chị từng biết.

Sau khi chồng bị sát hại, Georgette Cilke vẫn tiếp tục tình nguyện có mặt tại các trụ sở chính của Phong Trào Chống Án Tử Hình ở New York, tuy nhiên Nicole chưa gặp lại chị kể từ cuộc nói chuyện định mệnh giữa hai người. Vì những trách nhiệm của mình tại nhà băng, Nicole nói nàng quá bận nên không thể tham gia các hoạt động của tổ chức này. Sự thật là, nàng không thể chịu đựng nổi việc giáp mặt với Georgette.

Tuy nhiên, khi Nicole bước qua cửa, Georgette đã chào nàng bằng một cái ô thắm thiết.

- Mình nhớ cậu, chị nói.

- Mình xin lỗi đã không liên lạc với cậu. Nicole đáp lại. Mình đã cố viết một bức thư chia buồn nhưng lại không tìm được từ ngữ thích hợp.

Georgette gật đầu nói,

- Mình hiểu mà.

- Không, Nicole nói, họng nàng nghẹn lại, cậu không hiểu đâu. Mình đáng chê trách vì những gì đã xảy ra với chồng cậu. Giá như mình không nói với cậu chiều hôm đó.

- Thì chuyện đó cũng vẫn xảy ra, Georgette ngắt lời. Nếu đấy không phải là em họ cậu, thì lại là một người khác. Một cái gì đó tương tự không sớm thì muộn chắc chắn sẽ xảy ra. Kurt biết thế, và mình cũng vậy. Georgette lưỡng lự một lát trước khi nói thêm, bây giờ điều quan trọng là chúng mình ghi nhớ lòng tốt của anh ấy. Vậy đừng nói về quá khứ nữa. Mình tin chắc tất cả chúng ta đều hối tiếc.

Nicole dã ao ước mọi chuyện dễ dàng như thế. Nàng hít một hơi thật sâu.

- Còn việc này nữa. Aspinella Washington muốn mình đại diện cho mụ ta.

Dù Georgette đã cố giấu, nhưng Nicole vẫn nhận ra sự e ngại của chị khi nghe thấy tên Aspinella. Georgette không phải là một phụ nữ mộ đạo, nhưng vào khoảnh khắc này chị đoán chắc Chúa đang kiểm tra sức mạnh lòng tin của chị.

- OK, chị nói môi mím chặt.

- Được hả? Nicole hỏi có phần ngạc nhiên. Nàng đã hy vọng Georgette sẽ phản đối, ngăn cản việc này và thế là nàng có thể từ chối Aspinella vì lòng trung thành với bạn mình. Nàng có thể nghe thấy cha nàng đang nói với nàng. Danh dự thể hiện ở lòng trung thành như vậy đấy.

- Ừ, Georgette nói, mắt nhắm nghiền. Cậu phải bảo vệ cho mụ ta.

Nicole sửng sốt,

- Mình không cần phải làm việc này. Mọi người sẽ hiểu thôi.

- Đó là thói đạo đức giả, Georgette nói. Chúng ta không thể thay đổi cái mà chúng ta tin chỉ vì nó làm chúng ta đau đớn.

Georgette im lặng rồi đưa tay cho Nicole suốt cả ngày. Cuối cùng nàng gọi điện cho Aspinella và, với vẻ miễn cưỡng, nhận vụ kiện. Một tiếng sau nàng bay sang Sicily.

Một tuần sau Georgette gửi một bức thư ngắn cho điều phối viên của Phong Trào Chống Án Tử Hình. Chị viết rằng hai mẹ con chị sẽ chuyển đến một thành phố khác để bắt đầu một cuộc sống mới và chị chúc mọi người mạnh khoẻ. Chị không để lại địa chỉ sẽ đến.

Astorre đã vẹn lời thề với ông Trùm, giữ gìn các nhà băng và bảo đảm mang lại thịnh vượng cho gia đình lão. Trong tâm trí chàng hiện giờ, chàng không còn bị ràng buộc vào bất kỳ trách nhiệm nào.

Một tuần sau khi được tuyên bố là vô tội trong vụ án mạng tại kho hàng, Astorre tiếp Trùm Craxxi và Octavióu Bianco tại phòng làm việc của mình. Chàng nói với họ về nguyện vọng trở lại Sicily. Chàng giải thích rằng chàng cảm thấy khát khao chính miền đất ấy, rằng từ lâu nó đã len vào tận những giấc mơ của chàng. Chàng có nhiều kỷ niệm thời thơ ấu tại Villa Grazia, cái miền quê biệt lập của ông Trùm Aprile, và chàng luôn hy vọng sẽ có ngày trở lại. Đó là con đường sống mới, đơn giản hơn nhưng có giá trị hơn về nhiều mặt.

Thế rồi Bianco bảo chàng.

- Cậu không cần quay lại Villa Grazia. Có một gia sản rất lớn ở Sicily thuộc về cậu. Toàn bộ làng Castellammare del Golfo.

Astorre kinh ngạc

- Sao lại có chuyện đó?

Benito Craxxi kể cho chàng nghe cái ngày ông trùm Mafia, Don Zeno, cho gọi ba người bạn của lão đến bên giường bệnh khi lão đang hấp hối.

- Cậu là quý tử của ngài, lão nói. Bây giờ cậu là người thừa kế duy nhất của ngài. Ngôi làng được cha đẻ của cậu để lại. Cậu có quyền thừa kế.

- Khi Don Aprile đưa cậu sang Mỹ, Don Zeno đã dự liệu mọi thứ cho đến ngày cậu quay về nhận lại. Theo ước nguyện của cha cậu, bọn ta được giao nhiệm vụ bảo vệ ngôi làng sau khi ngài mất. Khi nông dân gặp thời vụ khó khăn, bọn ta bỏ tiền ra mua trái cây và ngũ cốc giúp họ.

- Sao trước đây các ngài không nói với tôi? Astorre hỏi.

- Don Aprile bắt bọn ta giữ bí mật, Bianco nói. Cha cậu muốn cậu an toàn và Don Aprile muốn cậu là một phần của gia đình ông ấy. Ông ấy còn cần cậu bảo vệ các con mình. Thực ra, cậu có hai người cha, cậu thật may mắn.

Astorre đáp xuống Sicily vào một ngày nắng đẹp. Hai trong số các vệ sĩ của Michael Grazziella đón chàng tại sân bay và hộ tống chàng tới một chiếc Mercedes màu xanh đen.

Khi xe chạy qua Palermo, Astorre ngạc nhiên trước vẻ đẹp của thành phố: Những cột đá cẩm thạch, những bức phù điêu về những nhân vật trong thần thoại tạo dáng cho một số ngôi đền Hy Lạp, những nhà thờ Tây Ban Nha với những vị thánh và thiên thần được chạm sâu vào đá xám. Mất hơn hai tiếng đồng hồ trên một con đường độc đạo mới tơi được Castellammare del Golfo. Với Astorre, lúc nào cũng vậy, nét quyến rũ nhất của Sicily là vẻ đẹp của miền quê với phong cảnh nên thơ của Địa Trung Hải.

Nằm sâu trong thung lũng được những dãy núi vây quanh, ngôi làng là một hệ thống đường sá rải sỏi chằng chịt với những ngôi nhà nhỏ hai tầng chay dọc hai bên. Astorre nhận thấy có vài người đang nhìn trộm qua kẽ những cánh cửa chớp sơn trắng được đóng lại để chống ánh nắng như thiêu như đốt lúc ban trưa.

Chàng được chào đón bởi trưởng làng, một người đàn ông lùn tịt trong bộ đồ nông dân. Ông ta giới thiệu mình là Leo Di Marco rồi kính cẩn cúi chào.

- Il Pardone, ông ta nói. Xin chào.

Astorre trong lòng khó chịu, mỉm cười và hỏi bằng thổ ngữ Sicily

- Liệu ngài có thể dẫn tôi qua làng được không?

Họ đi ngang qua mấy ông già đang đánh bài trên những chiếc ghế gỗ dài. Ở góc xa của quảng trường là một nhà thờ Thiên Chúa giáo uy nghi. Trưởng làng dẫn Astorre vào nhà thờ đó, nhà thờ thánh Sebastian. Từ ngày ông Trùm Aprile bị sát hại chàng chưa một lần cầu nguyện. Astorre quỳ gối, đầu cúi xuống để Cha Del Vecchio, vị linh mục của làng ban phước.

Sau đó Di Marco dẫn Astorre đến một ngôi nhà nhỏ nơi chàng sẽ ở. Dọc đường Astorre phát hiện ra vài Canabinieri, hay cảnh sát quốc gia của Italy, đang tựa vào những ngôi nhà, súng ống trong tư thế sẵn sàng.

- Khi đêm xuống ở đây an toàn hơn, trưởng làng giải thích. Nhưng ban ngày ở ngoài đồng cũng vui lắm.

Liên tiếp mấy ngày sau Astorre làm những chuyến đi dài ngày qua miền thôn dã thơm ngát mùi hương của những vườn cam và chanh. Mục đích chính của chàng là gặp gỡ dân làng và tham quan những ngôi nhà cổ bằng đá được xây như những biệt thự thời La Mã. Chàng muốn tìm một ngôi làm nhà ở cho mình.

Đến ngày thứ ba thì chàng biết chàng sẽ tìm được hạnh phúc tại nơi đây. Dân làng chào đón chàng ngoài đường phố, và khi chàng ngồi trong quán cà phê trên quảng trường, những người già và lũ trẻ trêu trọc chàng một cách vui vẻ.

Chàng chỉ phải làm hai việc nữa.

Sáng hôm sau Astorre nhờ trưởng làng chỉ cho chàng đường ra nghĩa trang.

- Để làm gì chứ? Di Marco hỏi.

- Để viếng cha tôi và mẹ tôi, Astorre đáp.

Di Marco gật đầu rồi nhanh nhẹn giật lấy chiếc chìa khóa bằng thép rèn rộng bản treo trên tường phòng làm việc.

- Ngài có biết nhiều về cha tôi không? Astorre hỏi ông ta.

Di Marco làm dấu thánh giá trên ngực

- Ai mà không biết Don Zeno cơ chứ? Chúng tôi nợ ông cuộc sống của mình. Ông đã cứu con cái chúng tôi bằng thuốc men đắt tiền mua từ Palermo. Ông đã bảo vệ chúng tôi khỏi lũ hôi của và kẻ cướp.

- Nhưng với tư cách một con người thì ông ấy ra sao? Astorre hỏi.

Di Marco nhún vai.

- Có quá ít người còn sống biết ông về phương diện đó, thậm chí số người sẽ kể cho cậu nghe về ông còn ít hơn. Ông đã trở thành một huyền thoại. Vì vậy ai còn muốn biết về con người thực của ông?

- Tôi muốn, Astorre thầm nghĩ.

Họ đi qua miền quê và sau đó leo lên một ngọn đồi dốc đứng. Chốc chốc Di Marcon lại dừng lại để lấy hơi. Cuối cùng Astorre cũng nhìn thấy nghĩa trang. Nhưng thay cho mộ chí, ở đây có những dãy nhà nhỏ bằng đá. Những lăng mộ, tất cả được vây quanh bởi một hàng rào gang. Bảng hiệu phía trên có dòng chữ: BÊN TRONG NHỮNG CÁNH CỔNG NÀY TẤT CẢ ĐỀU VÔ TỘI.

Trưởng làng mở khoá cổng rồi dẫn Astorre tới lăng mộ bằng đá cẩm thạch xám của cha chàng được đánh dấu bằng tấm bia VICENZO ZENO: MỘT NGƯỜI TỐT BỤNG VÀ HÀO PHÓNG. Chàng bước vào trong lăng và xem kỹ hình cha trên bàn thờ. Đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy hình ông và chàng ngạc nhiên sao chàng giống cha đến thế.

Sau đó Di Marco đưa Astorre tới một công trình kiến trúc khác nhỏ hơn cách đó vài dãy. Lăng mộ này được xây bằng đá cẩm thạch trắng, duy chỉ có bộ đồ của Đức Mẹ Đồng Trinh được chạm sâu vào vòm cuốn của cửa vào là có màu xanh nhạt. Astorre bước vào và xem kỹ tấm hình. Người con gái không quá hai hai tuổi, nhưng đôi mắt xanh mở to và nụ cười rạng rỡ của nàng làm sưởi ấm lòng chàng.

Trở ra ngoài chàng nói với Di Marco

- Khi còn nhỏ, tôi đã từng mơ thấy một phụ nữ giống bà, nhưng tôi lại nghĩ đó là một thiên thần.

Di Marco gật đầu

- Bà là một cô gái xinh đạp. Và cậu nói đúng. Bà hát y như một thiên thần.

Astorre cưỡi ngựa không yên qua miền quê, chỉ dừng lại để ăn phó mát làm từ sữa dê tươi và bánh mỳ vỏ cứng, thứ phụ nữ trong làng thường tích trữ.

Cuối cùng chàng đến Corleone. Chàng không thể trì hoãn việc viếng thăm Michael Grazziella lâu hơn được nữa. Ít ra chàng cũng nợ lão lần giúp đỡ đó.

Lúc nào cũng ở ngoài trời nên da chàng rám năng. Grazziella đón chàng với vòng tay rộng mở và một cái ôm rõ chặt.

- Mặt trời Sicily quả là tốt cho cậu, lão nói.

Astorre tạo ra ấn tượng phù hợp với lòng biết ơn

- Cảm ơn ngài vì tất cả. Đặc biệt là sự giúp đỡ của ngài.

Grazziella cùng chàng thả bộ về phía ngôi biệt thự của lão.

- Và cái gì đưa cậu đến Corleone vậy?

- Tôi nghĩ ngài biết vì sao tôi có mặt ở đây, Astorre đáp.

Grazziella nở nụ cười.

- Vì một người còn trẻ và mạnh mẽ như cậu phải không? Tất nhiên rồi! Tôi sẽ đưa cậu đến chỗ cô ấy ngay lập tức. Cô ấy mang lại niềm vui cho tất cả những người cô ấy gặp.

Hiểu rõ ham muốn tình dục của Rosie, Astorre tự hỏi liệu có phải Grazziella đang định nói cho chàng điều gì đó chăng. Nhưng chàng nhanh chóng dừng lại. Grazziella quá đàng hoàng nên không thể nói một chuyện như vậy được và quá Sicily nên không thể cho phép hành vi sai trái như vậy xảy ra dưới con mắt xoi mói của lão.

Biệt thự của nàng nằm cách đó không xa. Khi họ tới nơi, Grazziella gọi,

- Rosie thân mến, cô có khách đấy.

Nàng mặc chiếc váy hở vai giản dị màu thanh thiên với lọn tóc vàng được cột ra phía sau. Không trang điểm trông nàng trẻ hơn và ngây thơ hơn chàng tưởng.

Nàng dừng lại khi nhìn thấy chàng. Nhưng rồi nàng hét lên

- Astorre! Nàng nhào vào chàng, hôn chàng, và bắt đầu nói giọng đầy kích động. Em đã học nói lưu loát thổ ngữ Sicily. Và em cũng học được công thức nấu một vài món ăn nổi tiếng. Anh có muốn thưởng thức không?

Chàng đưa nàng về Castellammare del Golfo và dành cả tuần sau đó dẫn nàng đi khắp làng và miền thôn dã. Ngày nào họ cũng đi bơi, chuyện phiếm hàng tiếng đồng hồ và làm tình với nhau.

Astorre chăm chú quan sát Rosie để xem nàng có chán chàng, có khó chịu với cuộc sống giản dị hay không. Nhưng dường như nàng thực sự thanh thản. Cả chàng và Rosie đều có những bí mật phải bảo vệ - những cái chàng không muốn nhớ hoặc chia sẻ. Nhưng Rosie biết chàng và vẫn còn yêu chàng. Nàng sẽ giữ kín những bí mật của chàng, và chàng sẽ giữ kín những bí mật của nàng.

- Em không thể tin em lại ở đây lâu đến thế, Rosie nói khi hai người nghỉ ngơi bên nhau trên bãi cỏ.

Đôi mắt xanh của Astorre ngời sáng

- Em có nghĩ rằng em có thể ở lại đây lâu hơn chút nữa không.

Rosie có vẻ ngạc nhiên.

- Anh nghĩ gì vậy?

Astorre quỳ một chân xuống và chìa tay ra.

- Có thể là năm mươi hoặc sáu mươi năm cơ đấy, chàng nói với một nụ cười chân thành. Trong bàn tay chàng là một chiếc nhẫn đồng giản dị. Em có lấy anh không? Chàng hỏi.

Astorre tìm một dấu hiệu ưỡng lự nào đó trong mắt Rosie, một chút thất vọng nào đó vì giá trị của chiếc nhẫn, nhưng nàng đáp lại ngay lập tức. Nàng vòng tay ôm lấy cổ chàng rồi hôn chàng tới tấp. Sau đó họ lăn ra đất và cuốn lấy nhau trong những dãy đồi.

Một tháng sau Astorre và Rosie làm đám cưới tại một trong số những vườn chanh của chàng. Cha Del Vecchio cử hành hôn lễ. Tất cả mọi người ở cả hai làng đều đến dự. Quả đồi phủ dầy hoa tử đằng tía, và hương chanh thơm nức không gian. Astorre mặc bộ đồ trắng kiểu nông dân, còn Rosie mặc một chiếc váy dài bằng lụa hồng.

Một con lợn trên xiên đang quay trên đống than hồng và những trái cà chua chín đỏ từ ngoài đồng đưa về. Lại còn cả những ổ bánh mì nóng hổi và phó mát tươi. Rượu nhà làm chảy tràn như suối.

Khi buổi lễ kết thúc và hai người đang trao cho nhau lời thề thốt, Astorre hát cho vị hôn thê của mình nghe những bản Ballard ưa thích của chàng. Mọi người uống và hát nhiều đến nỗi cuộc vui kéo dài đến tận bình minh.

Sáng hôm sau, khi thức dậy Rosie thấy Astorre đang chuẩn bị ngựa.

- Đi cùng anh chứ? Chàng hỏi

Họ rong ruổi suốt ngày cho đến khi Astorre tìm được cái chàng đang kiếm tìm - Villa Grazzia. - Thiên đường bí mật của bác anh đấy. anh đã có những ngày đẹp nhất ở đây thời thơ ấu.

Chàng vòng ra sau nhà đi vào khu vườn, Rosie theo sau. Cuối cùng họ đến bên cây ô liu của chàng, cây ô liu chàng trồng hồi nhỏ. Nó đã cao bằng chàng và thân nó to có cỡ. Chàng lấy từ trong túi ra một lưỡi dao cạo sắc lẹm và cắt lấy một cành.

- Chúng mình sẽ trồng nó trong vườn nhà. Để rồi khi chúng mình có con, nó cũng sẽ có những kỷ niệm đẹp đẽ.

Một năm sau, Astorre và Rosie ăn mừng sinh con trai, Raymonde Zeno. Ngày đặt tên thánh cho con, họ mời gia đình Aprile cùng tham dự tại nhà thờ thánh Sebastian.

Khi cha Del Vecchio kết thúc thánh lễ, Valerious với tư cách là con trưởng của nhà Aprile nâng ly rượu vang và đề nghị mọi người cùng nâng cốc.

- Cầu cho cô chú làm ăn phát đạt và sống hạnh phúc. Cầu cho con trai của cô chú lớn lên với tình cảm nồng nhiệt của Sicily và tính lãng mạn của nước Mỹ ngấm sâu vào trong máu.

Marcantonio nâng ly rượu của mình và nói thêm

- Và bất cứ lúc nào cu cậu muốn góp mặt trong các vở kịch hài thì cô chú biết phải phôn cho ai rồi đấy.

Bây giờ, khi các nhà băng của Aprile làm ăn có lãi, Marcantonio đã thiết lập được một mức tín dụng tối đa hai mươi triệu đô la để khuyếch trương cơ sở kịch nghệ của riêng mình. Anh và Valerious đang cùng nhau viết một kịch bản dựa vào những hồ sơ của FBI về cha mình. Nicole nghĩ đó là một ý tưởng khủng khiếp, nhưng tất cả bọn họ đều đồng ý rằng ông Trùm hẳn sẽ đánh giá cao cái ý tưởng mang lại nhiều tiền bạc vì đã dàn dựng huyền thoại về những tội lỗi của lão.

- Những tội lỗi bị gán ghép, Nicole bổ sung.

Astorre lấy làm lạ tại sao mọi người vẫn còn lo lắng. Thế hệ Mafia già đã chết. Các ông trùm đã đạt được mục đích của họ và uyển chuyển hoà nhập vào xã hội như những tên tội phạm cự phách nhất vẫn làm. Một ít kẻ đòi kế vị còn sót lại chỉ là một đám ô hợp đầy thất vọng bao gồm những tên tội phạm loại hai ngu ngốc và lũ côn đồ vô tích sự. Tại sao ai cũng muốn mất thì giờ vào những thủ đoạn kiếm tiền bất lương trong khi ăn cắp hàng triệu đôla bằng việc thành lập công ty và bán cổ phần cho công chúng còn dễ hơn nhiều?

- Này Astorre, chú có thể làm cố vấn đặc biệt trong lĩnh vực điện ảnh của chúng tôi không? Marcantonio hỏi. Chúng tôi muốn bộ phim này càng gần sự thực càng tốt.

- Được thôi, Astorre cười nói. Tôi sẽ cử đại diệ của tôi lại chỗ các anh.

Khuya đêm hôm đó, đang nằm trên giường, Rosie quay sang Astorre.

- Anh có muốn quay trở về không?

- Về đâu cơ? Astorre hỏi. Về New York hay về Mỹ?

- Anh biết rõ mà, Rosie ngập ngừng nói. Về với cuộc sống cũ của anh.

- Anh thuộc về nơi này, bên em, tại đây.

- Thế là ổn rồi, Rosie nói. Nhưng còn thằng bé thì sao/ Nó có phải liều nếm trải tất cả những gì nước Mỹ tạo ra không?

Astorre tưởng tượng ra Raymonde đang chạy qua những dãy đồi của miền thôn dã, đang ăn quả ô liu lấy từ thùng ngâm, nghe truyền thuyết về những ông trùm vĩ đại và mảnh đất Sicily của thời xa xưa. Chàng rất mong được kể cho con nghe những câu chuyện đó. Tuy nhiên chàng cũng biết rằng những truyền thuyết kia sẽ là chưa đủ.

Một ngày nào dó con trai chàng sẽ tới nước Mỹ, xứ sở của sự trả thù, của lòng nhân từ và của những khả năng kỳ diệu.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: