chương 6→10
Chương 6
CHƯƠNG 6
Khung cảnh trong nhà êm ả, đặc biệt làm Mary tưởng đây là một căn nhà trong truyện cổ: có hàng rào gai mà anh hùng trong truyện sẽ chặt để lấy lối đi, bên trong là vườn hoa đủ loại. Dưới khung cửa sổ, hoa mọc từng khóm và huệ trắng vươn cao, dây leo mọc phủ vách, che khuất luôn cổng ra vào và ngôi nhà như... yên ngủ từ lâu lắm.
Mary chợt mỉm cười vì tưởng tượng của mình. Nàng lại đưa tay hơ trên lò sưởi. Sự im lặng làm nàng thích thú, thấy khoẻ và hết sợ. Khác xa lữ quán Giao Mai: không nặng nề, bừa bãi, đầy đe dọa. Tủ ghế, bàn, cả những tranh treo trên vách đều tỏa ra sự ấm cúng tuy không thân mật.
Xưa kia, chắc đây đã có một cuộc sống bình thản và hạnh phúc. Giờ, những kẻ ấy đã nằm yên trong nghĩa địa, tên họ trên bia đá bị rong phủ kín và người còn lại tôn trọng họ, giữ nguyên mọi vật trong nhà?
Mary chăm chú nhìn Francis trong lúc ông ta dọn bàn ăn, rồi lại quan sát khắp phòng. Nàng không thấy vách treo tượng ảnh các vì Thánh và tượng Chúa như thông thường. Bàn làm việc bóng nhẵn, không giấy tờ chi.
Trong một góc, có một giá vẽ, trên có tấm tranh chưa hoàn thành. Bức vẽ ao bùn Dozmary. Hình như cảnh vẽ trong một ngày u ám nên trời đầy mây và nước mầu xám, không có gió. Mary không biết gì nhiều về hội họa, nhưng cô công nhận bức vẽ này tràn sức mạnh. Như có mưa tạt vào mặt nàng.
Linh mục để ý đến hướng nhìn cô gái, ông lại gần, úp giá vẽ xuống:
- Đừng nhìn bức này. Tôi vẽ vội vàng và cũng không rảnh để hoàn thành nó. Nếu như cô muốn xem tranh, sẽ có bức khá hơn. Nhưng hãy ăn đã.
Có người dọn cho ăn là một chuyện lạ với cô gái quê. Nhưng vẻ tự nhiên của linh mục làm cô yên lòng, ông nói:
- Hannah ở dưới làng. Cứ đến 4 giờ chiều là bà về. Tôi thích một mình hơn. Cũng may, bữa nay bà ấy có làm một ổ bánh táo. Hy vọng cô nuốt trôi, vì bánh bà ta làm tệ lắm kìa.
Ông pha trà và kèm cho Mary muỗng kem! Nàng vẫn còn lạ với mầu tóc, đôi mắt ông. Chúng khác hẳn giọng nói. Cái áo dòng đen càng làm nổi bật chúng lên. Mary mệt và lạ, nên linh mục để nàng ăn từ từ chậm rãi. Có lúc nàng thấy như mắt ông là mắt người mù. Khi thì cái nhìn sắc lạnh nhu xoi bói. Ông nói:
- Cũng may mà tôi gặp cô giữa đồng hoang. Vì công việc, đôi khi tôi phải đi xa. Bữa nay tôi đến giúp một sản phụ. Người ở đồng quê chất phác lắm. Tôi rất quí họ.
Mary không nói gì. Mary đang nhớ đến bọn người hung bạo đến lữ quán trong đêm. Linh mục hỏi:
- Cô đi đâu mà lạc vậy?
Mary nhìn linh mục, thốt nhiên nàng thấy cần giao phó mọi sự trong tay ông:
- Con có điều lo quá. Đôi khi con sợ sẽ giống dì con. Chắc cha đã nghe người ta nói đến lữ quán Giao Mai? Con ở đó một tháng mà như 20 năm! Chỉ vì dì con mà con không thể ra khỏi đó...
Linh mục nhìn nàng vẻ âu yếm và khuyến khích. Maary tuần tự kể hết mọi điều: bọn người lạ, những kiện hàng, sợi dây, cái chết của người đàn ông, ông Bassat... và dự tính của nàng.
Nhưng chợt, Mary dừng lại. Nàng có cảm tưởng như mình kể chuyện hoang đường, như linh mục cố gắng để khỏi chế giễu nàng. Ngay cả nàng, nàng cũng cảm thấy như... mình bịa chuyện. Tại sao thế? Có lẽ vì đôi mắt kỳ dị của linh mục chăng? Hay thái độ bình tĩnh kín đáo của ông khi nghe câu chuyện? Lạ quá, ông có thể là một người 20 tuổi và cũng có thể là một cụ già 60... Ông quả là một tác phẩm độc đáo của Tạo Hóa. Trước mặt ông, Mary cảm thấy những điều nàng kể trở thành vô lý, nhưng quá muộn.
Khi cô gái kể xong, ông đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Tay vân vê khuy áo rồi tựa lưng vào lò sưởi nhìn nàng chăm chú. Giọng ông đều đều:
- Đừng nghĩ rằng cha không tin con. Con không có vẻ loạn trí hay bịa đặt. Song nếu ra giữa tòa, câu chuyện có vẻ huyền hoặc quá. Hơn thế, tuy luật lệ cấm buôn lậu nhưng nó lại xảy ra như cơm bữa trong vùng. Cha cũng biết ông Bassat, ông lương thiện và có thiện chí, nhưng phải thành thật mà nói: ông ta hơi ngốc. Lại huênh hoang nữa kia. Nếu mọi người biết ông vào lữ quán và ra tay không, người ta sẽ cười vào mũi ông. Có một điều con nên yên tâm: chắc từ nay Merlyn sẽ không dám làm bậy và lữ quán sẽ yên tĩnh vì sự thăm viếng của ông Bassat, cha đoán thế.
Mary phục thái độ trầm tĩnh của linh mục quá đỗi. Nàng ngỡ là ông sẽ không tin hay ngược lại, ông sẽ sợ hãi lắm. Nào ngờ ông tỉnh táo quá. Ông tiếp:
- Nếu con muốn, cha có thể đưa con đến gặp ông Bassat, để con kể lại đầu đuôi, nhưng ít ra phải bắt được Joss tại trận với tang chứng kìa. Cha không giúp con được gì, vì hiện giờ tình thế rất... tế nhị về mọi mặt. Hơn nữa, cha biết rằng con không muốn dì con ngồi tù vì tội ác của chồng, phải không?
- Thưa cha, theo ý cha, con phải làm sao?
- Nếu cha là con, cha sẽ chờ đợi. Hãy để ý chú Joss thật kỹ. Khi nào thấy xe đến, và nếu con có thể tin cha thì cho cha hay.
- Còn người bị treo cổ? Cha có nghĩ đến tìm cách đưa vụ này ra phát luật không? Con cảm thấy có tội vì không cứu được người lương thiện...
- Đừng thắc mắc. Con không thể làm gì được. Con có chứng kiến tận mắt ông ta bị treo cổ đâu? Con chỉ thấy khúc dây, phải không? (Mary gật đầu.) Con đừng buồn, cha phải thành thật mà nói rằng con... tưởng tượng quá nhiều. Con không đáng trách có lẽ vì không khí trong lữ quán hại tới thần kinh con. Nếu mắt con thấy ông ta bị thương hay bị treo thì lại là chuyện khác.
- Con nghe rõ ràng Merlyn đe dọa ông ta mà, thưa cha?
- Con khờ lắm. Người ta đe dọa nhau hằng ngày ấy chứ, nhưng dễ gì treo cổ được nhau? Hãy nghe cha, từ nay có gì đáng lo, báo cho cha biết. Hay con muốn cha đưa về và nói hộ vài tiếng với Joss? Cha sẽ không ngại đâu.
- Chết! Lạy cha! Ông ta sẽ giết con và cả cha nữa, chưa chừng. Ông ta hung bạo lắm, không phải như cha tưởng đâu. Cha đưa con về rồi mặc con xoay xở lấy. Cha không nên ra mặt, nguy hiểm quá!
Nói xong, nghĩ đến lúc đối diện với Merlyn, Mary thấy mệt mỏi chợt đến. Chị còn một điều an ủi: nàng có thể trở lại đây bất cứ giờ nào. Và chắc gì Joss trở về trước mình? Có thể, lão về và ngỡ mình đã ngủ yên? Lão có đến phòng mình làm chi đâu? Lão đã cảm ơn mình ban trưa mà! Mary vững tâm lại trong khi linh mục đi thắng ngựa. Một con ngựa khác con ngựa vừa rồi, có vẻ mạnh mẽ hơn.
Dáng bộ trầm ngâm của linh mục làm Mary tưởng như ông là một người của thế giới khác. Mary nhớ lại vị linh mục làng mình: người hiền lành, nhỏ nhắn, dễ dãi quen thuộc với nàng biết bao nhiêu!
Xe đã thắng xong. Mary lên ngồi cạnh linh mục. Nom ông như con chim khổng lồ: áo choàng rộng bay phấp phới và hai cánh tay như đôi cánh. Giọng ông mơ hồ trong gió lộng:
- Tôi yêu đồng hoang. Lần đầu tiên cô sống nơi này và không được yên ổn nên không hiểu tôi. Nếu cô thấy nó về đông cũng như qua hạ, cô sẽ giống tôi. Không đâu quyến rũ bằng đồng hoang. Cảnh sắc như thuộc về quá khứ. Đồng hoang được tạo dựng trước rồi mới đến rừng núi, thung lũng và biển cả. Lúc mặt trời lên, ta trèo lên đỉnh núi Roughtor lắng nghe gió thổi qua khe đá... cô sẽ hiểu...
Mary không hiểu gì cả. Nàng tự nhủ: không biết ông có giảng như thế giữa nhà thờ? * Joss Merlyn say tiếp năm hôm. Suốt ngày ấy qua ngày khác ông ta nằm dài mê man, trên cái giường nhỏ trong bếp. Miệng há hoác và ngáy pho pho. Tiếng ngáy vang dội khắp phòng. Năm giờ chiều hôm thứ năm ông ta tỉnh dậy, kêu khát và đòi uống... rượu chát, vừa kêu vừa khóc, như đứa trẻ. Bà vợ tức thì chạy lại, vỗ về bằng những lời dịu dàng, tay bưng ly nước dỗ chồng uống; lại sửa gối, đắp chăn. Trông bà khác hẳn, nhanh nhẹn và chu đáo quá. Merlyn nhìn quanh dáo dác, run rẩy, lầu bầu không ra tiếng. Lão để yên cho vợ lau mặt, thay ra giường, chải tóc... Chỉ mươi phút sau, ông ngủ lại, mặt bầm tím, lưỡi thè ra và lại ngáy làm Mary càng tởm.
Hai dì cháu qua ở tạm gian phòng khách đầy bụi. Lần thứ nhất, Mary thấy dì vui vẻ, tỉnh táo, nhanh nhẹn. Bà nói chuyện, có khi hát nho nhỏ nữa.. Mary được biết cứ hai tháng Merlyn say bí tỉ như vậy một lần. Có khi thường hơn và lần này, cơn say là kết quả sự có mặt ông Bassat. Theo lời dì nàng, Merlyn trở về lúc 6 giờ chiều và đi thẳng vô quầy rượu, ở lỳ trong đó luôn. (May quá: lúc đó Mary đang lang thang trên đường về và lạc hướng.) Bà không biết Mary về lúc nào, và nghe Mary bảo nàng đi chơi, lạc, bà tin ngay. Bà khuyên nàng nên cẩn thận hơn, từ nay. Mary dấu tất cả mọi việc xảy ra. Và họ sống năm ngày yên tĩnh.
Thời tiết u ám nên Mary không ra khỏi cửa, nhưng đến ngày thứ sáu, khi mặt trời lên, cô gái lại tính vượt đồng hoang - dù nàng chưa quên cuộc mạo hiểm đã qua. Nhất là khi Joss tỉnh dậy la lối om sòm, khói từ bếp tràn khắp nhà và dì Patience nhanh nhẩu mang ra lại thì nàng đâm cáu kỉnh. Mary lấy một khúc bánh mì gói vào khăn, đi ra. Lần này, Mary hướng về phía tây, ngọn Kilmar. Vừa đi cô gái vừa nghĩ đến Francis, suốt buổi ông toàn nghe nàng nói, nàng nhớ đến khuôn mặt ông, đôi mắt ông, bộ tóc ông... Chà! ông có vẻ giống tiên tử Elie quá! Một người như ông, vì sao lại làm linh mục phó nhỉ? Ông có vẻ siêu phàm quá!
Vài con hải âu bay là đà trên mặt hồ. Noel sắp đến rồi. Chắc ở Helford dân chúng đang rộn rịp trang hoàng nhà cửa, cây thông, và gà ngỗng được ăn nhiều cho béo? Mấy hàng bánh trái và các cô gái hẳn đều ưa nhìn... Vị mục sư thì tươi tỉnh cưỡi ngựa đến Trekiwarreb cụng ly với giáo dân? Linh mục Francis cũng cầu Chúa ban phúc cho họ đạo?
Một điều chắc chắc: lữ quán Giao Mai chả có gì thay đổi? Hơn một giờ sau, Mary dừng lại trước con suối chảy ngang, khung cảnh không lạ lắm, trước mặt cô gái là núi đá phẳng lì và xanh rêu. Sau lưng, ngọn Kilmar hiện ra như bàn tay khổng lồ chĩa ngón lên trời. Mary ngắm kỹ đầm lầy Trewartha lần nữa. Về hướng đông nam, bộ mặt đồi núi rực rỡ dưới mặt trời. Suối kêu róc rách đâu đó. Đầm lầy trải dài bên trái. Gió hây hẩy thổi làm ngọn cỏ lung lay xào xạc, có đám xanh tươi, có đám vàng, nâu. Nom hiền lành nhưng vô cùng nguy hiểm, vì bên dưới lún sâu. Mary quay lưng lại đầm và băng suối, bước lên những mô đất cao. Trời ít mây, đồng hoang trải dài như bãi cát. Mấy con ngựa chạy từ đồi cao xuống làm cho con quạ đang rỉa lông vội vút bay lên, buông mấy tiếng "quà quạ" nghe buồn bã lạ lùng. Đàn ngựa nhảy trên đá chơm chởm, đuôi phất phơ, chen lấn nhau. Hình như chúng vừa được thả ra? Mary chợt thấy cửa rào bên trái được mở rộng. Một người đàn ông đi tới, tay xách cái xô. Thấy nàng, gã đàn ông vây vẩy, gọi tên nàng. Mary không tránh kịp: đúng là em trai chủ quán. Quần áo lem luốc bùn và lông ngựa, hắn cười thật tươi:
- Cô đến tìm tôi sớm hơn tôi nghĩ. Phải biết trước, tôi đã làm bánh thết cô. Ba ngày nay tôi ăn toàn khoai tây, khỏi mất công rửa bát.
Mary chưa kịp phản ứng, anh ta đã đưa cái xô cho nàng và lội nước lùa ngựa.
- Ra khỏi đây! Tụi bay làm đục nước uống của tao. Liệu hồn!
Rồi anh ta nhặt cái xô cạnh đó vào bảo Mary trả xô nàng đang cầm, xách cả hai cái xuống suối, múc đầy nước rồi nhăn răng trắng bóng ra, cười nữa:
- Nếu không gặp tôi, cô làm gì nào?
- Tôi không có ý định tìm anh. Nếu biết, tôi đã quẹo sang hướng khác.
- Tôi không tin cô. Nhưng dù sao, cô đã đến đây là tốt rồi. Ở lại ăn trưa với tôi, nghe? Có thịt trừu.
Cả hai trở về căn nhà tranh nằm lưng chừng đồi. Từ ống khói, một làn khói mỏng thoát ra. Sau nhà, còn những mảnh ván ghép sơ để làm rào nuôi súc vật và một khoảnh đất trồng khoai tây.
- Tôi nhóm lửa rồi, giờ chỉ cần nướng thịt. Cô biết cách làm chứ?
Mary nhìn Jean từ đầu tới chân:
- Anh mời khách kiểu gì vậy?
- Tôi ít có dịp mời khách lắm. Từ lúc mẹ tôi chết, tôi sống một mình. Mời cô vô nhà!
Mary cúi xuống để chui qua cánh cửa thấp. Gian phòng nhỏ vuông bằng nửa gian bếp của dì nàng. Ống khói trong góc thật rộng. Sân nhà dơ bẩn, đầy rác: vỏ khoai ruột bánh, vài cọng rau giá và tro bếp phủ cùng khắp. Mary kinh hoảng hỏi:
- Anh không bao giờ lau nhà hở? Bếp như chuồng heo! Anh không biết xấu hổ gì hết chắc? Đưa tôi cái chổi coi. Tôi không thể ăn tại một chỗ thế này!
Trong nửa giờ gian bếp sạch sẽ, sân nhà ướt và bóng nhoáng, rác rến biến mất. Mary dọn quét, lau một cách hăng hái. Rồi nàng soạn trong tủ ra, lấy bát dĩa dọn bàn. Thịt trừu và khoai tây hầm trong bếp bốc mùi thơm ngát. Jean từ ngoài cửa hít hà, nói chõ vô:
- Tôi cần một người đàn bà. Cô có muốn rời Lữ quán khốn nạn đến ở với tôi không?
- Anh không đủ tiền trả công cho tôi đâu.
- Chà! Đàn bà chúa hà tiện. Họ để tiền làm chi chớ? Mẹ tôi cũng vậy. Bà dấu tiền trong vớ, tôi chưa được thấy nó mầu gì. Thôi đói quá rồi... Dọn lẹ lẹ...
- Anh bất lịch sự quá! Không cám ơn đầu bếp, lấy tay đi, dĩa nóng lắm đó!
- Chắc ở Helford cô học được nhiều điều hay? Tôi cho là đàn bà mới nứt mắt chả cần học ai cũng biết làm bếp... Cho tôi ly nước đi! Cô khéo tay quá! Nào, chúng ta cùng ăn, nhé? Mời cô, cứ tự nhiên, tôi dốt phép xã giao...
Hai người bắt đầu ăn. Mary nhỏ nhẹ, còn Jean nhai ngấu nghiến và không ngớt khen ngon:
- Từ khi mẹ tôi chết, giờ mới được ăn ngon một lần; (giọng tâm sự) chúng tôi đều sinh ra ở đây, trên gác kia. Nhưng hai anh lớn lắm tôi mới ra đời. Cha tôi đi vắng luôn. Mà hễ về là kiếm chuyện đánh mẹ tôi. Một lần tôi suýt ngất vì thấy ông cầm dao ném vào mặt mẹ tôi, máu chảy ròng ròng. Tôi thấy mẹ tôi vẫn điềm nhiên dọn bữa cho ông. Bà cưng tôi nhất nhà, vì vậy hai anh hay đánh tôi, hễ mẹ tôi quay lưng là tôi bị đòn rồi...
- Mẹ anh mất bao lâu?
- Bảy năm, trong dịp Noel. Sau khi cha tôi bị treo cổ, Matt chết đuối, Joss qua Mỹ châu. Mẹ tôi trở lại đạo, đọc kinh tối ngày, làm tôi bực quá, bỏ đi. Tôi tính làm thủy thủ nhưng bể không hợp với tôi nên tôi trở về. Mẹ tôi như bộ xương. Tôi bảo: "Mẹ ăn nhiều nhiều vào" mà bà không nghe, tôi lại bỏ đi. Chiều Noel tôi trở về, đói meo, cửa thì đóng, nhà trống trơn: mẹ tôi đã chết, chôn cách đó ba tuần... Kìa, có một miếng phô-mai trong tủ đó. Cô ăn chứ? Có sâu trong đó nhưng không hại gì đâu.
Mary ngồi im. Jean nhìn chăm chú cô gái, hỏi:
- Cô làm sao vậy? Bịnh hả? Mới thấy vui vẻ đó mà.
- Tôi chả làm sao cả. Tôi nghĩ rằng khi nào không còn một người trong dòng họ Merlyn nữa là điềm tốt cho mọi người. Thà trong xứ bị bệnh dịch còn hơn có người như dòng họ nhà anh. Mấy người không nghĩ đến mẹ các người đau khổ sao?
- Mẹ tôi không kêu ca gì cả. Bà bận luôn tay có thì giờ đâu mà buồn?...
Mary đã xong bữa, nàng đứng lên, dọn bàn.
- Quên, Joss ra sao?
- Đang say, cũng như cha anh vậy mà?
- Một ngày kia rượu sẽ giết ảnh, ảnh nằm mấy ngày rồi, Mary?
- Năm.
- Thấm gì. Có khi hơn tuần lễ kia. Chừng nào ảnh tỉnh dậy, lảo đảo như đứa trẻ, rượu thặng dư đã đuọc thải một ít, còn một ít thấm vào ảnh, lúc đó mới đáng sợ. Lúc đó ảnh nguy hiểm lắm, cô nên đề phòng...
- Ông ta còn nhiều việc phải lo. Vả, tôi cũng khá cẩn thận...
- Đừng làm vẻ bí mật. Có chuyện gì xảy ra ở Giao Mai vậy?
Mary kể lại vụ ông Bassat đến khám nhà và tất cả những lời ông hôm ấy. Jean nheo mắt:
- Sao cô lại nói dối về tôi?
- Tôi sợ dì tôi bị rắc rối. Nếu có thì giờ suy nghĩ, tôi đã nói toạc hết sự thật. Anh không có gì phải lo chứ?
- Chả có gì, trừ con ngựa đen... Tuần trước nó còn màu xám tro. Nó là ngựa quí. Cô ra xem, nhé?
Nói xong, Jean chạy vụt ra ngoài. Mary chậm rãi ra theo. Cô tưởng tượng đến một người mẹ gầy guộc, cô đơn đứng trên thềm dõi mắt theo đàn con hung tợn như quỉ dữ với tất cả trìu mến của người mẹ tận tụy suốt đời. Jean la lên:
- Đây, tôi muốn bán cho cô con ngựa này đây! Sao cô hà tiện quá vậy?
- Bộ anh tưởng tôi mất trí chắc? Mua về để đâu? Trong chuồng ngựa lữ quán hả? Đặng ông Bassat đến nhận ra ư? Cảm ơn anh. Tôi đã nói dối cho anh em nhà anh nhiều rồi.
Jean lộ vẻ buồn:
- Cô từ chối dịp may. Khó có con ngựa đẹp như nó. Noel tôi sẽ mang nó ra phiên chợ uổng quá !
Anh đuổi ngựa đi rồi bứt cọng cỏ cắn, mắt không rời Mary:
- Cô biết ông Bassat tìm gì trong quán không?
- Anh biết hơn tôi chứ? Anh hỏi làm gì? Lại còn vờ. Tôi không đến cho anh thẩm vấn đâu. Mình ông tòa quá đủ rồi...
- May phúc cho Joss. Ảnh đã dời đi - Giọng Jean thản nhiên - Tôi đã nói rồi mà cứ nhơn nhơn. Có ngày họ sẽ tóm cho coi.
Mary nghĩ thầm: Đừng vờ ngay thật để lừa ta. Anh em nhà anh giống nhau mà!
Jean nói tiếp:
- Bộ cô sợ tôi mách lại Joss hả? Hay là cô khờ đến nỗi không biết chút gì? Tôi không tin vậy, một đứa trẻ cũng biết sự gian ác trong lữ quán Giao Mai mà! Cô đến cả tháng rồi...
- Anh muốn gì? Tôi chỉ cần mang dì tôi ra khỏi hắc điếm này. Còn anh, có chết đuối trong rượu cũng không can chi đến tôi.
- Như vậy, buôn lậu không làm cô sợ? Cô làm ngơ để ảnh chất đồ lậu đầy phòng, đủ loại? Và còn nhiều tội ác, như chuyện giết người chẳng hạn?
Mary nhìn thẳng mặt Jean, anh không còn một chút gì giống Joss. Nét mặt anh già dặn, trịnh trọng, lương thiện. Jean mím môi:
- Tại sao dì cô như một bóng ma? Khi gió tây bắc thổi mạnh, cô hãy hỏi bà cho biết...
Mary bối rối. Nàng không hiểu gì cả, có thể nàng hiểu được nếu Jean không phải là em Joss. Chao ơi! Giá... Jean có vẻ bí mật, không biết có phải hắn định dọa nàng không:
- Rồi một ngày kia, anh ấy sẽ gặp tôi. Sẽ có việc đáng tiếc xảy ra...
Nói xong, Jean đứng lên, tìm ngựa. Nếu trực giác nàng không lầm, còn có bí ẩn sau chuyện buôn lậu nữa. Kẻ bị treo cổ, trước khi chết cũng có nói đến tội ác, nó là tội gì? Ghê gớm đến mức nào khiến cho một kẻ đồng lõa lại có thể từ chối, chọn cái chết hơn nhúng tay vào! Jean cũng vừa nhắc đến? Tuy không nói rõ. A! đúng vậy, thần kinh mình không yếu, mình tỉnh táo, cũng không tưởng tượng như cha phó Davey nghĩ.
Mary muốn về ngay để có thì giờ ngồi một mình suy nghĩ. Nàng từ từ đổ dốc, đến đầu rào. Jean chạy theo:
- Cô về hả? Sớm mà! Chơi một chút, tôi sẽ đưa cô về. Hay là cô sợ tôi? Cô cho là anh em tôi đêu bất lương như nhau hả? Có phải cô cho là tôi cũng nhúng tay vào máu người như Joss chứ gì?
Mary không thể nhịn cười:
- Đúng vậy. Nhưng tôi không có gì phải sợ anh. Nếu anh lương thiện hơn anh anh, tôi có thể là bạn...
- Phải cô cũng nhận rằng tôi có vẻ lương thiện hơn anh Joss không?
- Thôi, đừng tưởng vậy. Tôi không nhận nhiếc gì hết, tôi về đây. Tối đến nơi rồi, tôi không muốn bị lạc giữa đồng như...
- Chà! Vậy ra cô bị lạc rồi?
Biết mình lỡ lời, Mary vội chữa:
- Tôi đi dạo phía tây, sương mù xuống sớm... Cũng may, một lát là tôi tìm thấy đường về.
- Đừng dại nữa nghe? Giữa đường đi Roughtor có chổ đầm lầy, có thể nhận chìm cả đàn bò trong nháy mắt. Đừng giải trí kiểu đó...
- Thì tôi có ngờ đâu, định đi loanh quanh cho giãn gân, ở nhà ngấy quá...
- Lần sau có muốn đi chơi thì đến đây. Nhưng tránh phía trái nghe? À, Noel cô muốn đi chơi không? Đi Launceston chơi.
- Anh đi hả, chi vậy?
- Ồ ! Bán ngựa chớ chi. Vả lại, tôi tưởng anh ấy sắp tỉnh lại sẽ có chuyện không hay. Nếu hai ông bà biết cô đi dạo, họ sẽ không ngạc nhiên về sự vắng mặt của cô hôm đó. Chịu không?
- Rủi họ tóm anh về vụ con ngựa ông Bassat, thì tôi sẽ ra sao? Ở tù luôn với anh hả? Ê mặt quá!
- Ai bắt tôi được? Dễ dầu gì? Hãy cứ mạo hiểm chơi! Cô nhát cáy vậy ạ? Ở Helford, con gái được bọc trong gòn hả?
Giỡn quá, mình mà bọc trong gòn? Mary đáp liều :
- Jean Merlyn! Đừng tưởng tôi sợ. Ngồi tù cũng không đáng sợ bằng sống trong lữ quán Giao Mai.
- Tốt! Vậy mới đáng là người! Tôi thắng xe để tụi mình đi, con ngựa đen cột phía sau. Quên, cô biết đường đi North Hill xuyên ngang đồng hoang không?
- Không.
- Vậy thì nghe đây: cứ đi thẳng quốc lộ có một dặm tới đỉnh đồi, trước mặt là núi đá Carey, đoạn quẹo phải và đi thẳng hoài. Tôi sẽ đón ngang đó.
- Đi lúc mấy giờ?
- Cô nên rời lữ quán cỡ 11 giò sáng. Nhớ chưa?
- Tôi không hứa chắc. Nếu anh không thấy tôi thì thôi, nghe? Có khi, dì tôi cần tôi ở nhà.
- Tôi mong cô sẽ đi. Vui lắm.
- Chào anh !
Mary nói và nhanh nhẹn quay về. Nàng vừa đi vừa nghĩ đến bộ mặt tươi tỉnh của Jean. So với các thanh niên ở làng mình, anh ta chả có gì đặc biệt. Chỉ là tên trộm ngựa, biết chừng cũng buôn lậu, sát nhân? Nhưng Mary cóc sợ Jean. Nàng sẽ ngồi cùng xe với hắn hôm áp lễ Giáng Sinh để chứng tỏ điều này. Vả lại, cô cũng muốn thay đổi không khí một phen.
Mary về đến cổng trời cũng vừa tối sập. Dì nàng vẻ lo lắng, xanh xao:
- Con đi đâu vậy? Chú Joss hỏi con suốt ngày nay...
- Con đi dạo ngoài đồng. Chú hỏi con làm gì? Con tưởng không ai cần đến con. (Nàng liếc vào cái giường trống trong bếp.) Ủa, chú đâu gì? Ông mạnh rồi sao?
- Chú ngán nằm trong bếp, chú ưng nằm phòng khác hơn. Mary! Con nên làm chú vui một chút. Nên nhỏ nhẹ, đừng trái ý ổng. Khi ổng ngồi dậy được, ổng có thể... dữ tợn...
Dì Patience đã trở lại sợ hãi, lo lắng. Nom dì thật đáng thương. Mary hỏi :
- Chú muốn gặp con làm chi?
- À, chắc ổng trở chứng mà. Đừng để ý đến lời ổng trong lúc này. Để dì cho ổng hay cháu về rồi, nhé?
Mary rót nước uống để trấn tĩnh. Nàng xấu hổ mà thấy mình hết cái can đảm ở đồng hoang: nàng cũng lấm lét sợ sệt như dì vậy! Dì nàng trở lại, thì thầm:
- Hình như ổng ngủ rồi. Dì cháu ta đi ăn, có ba-tê cho con đó.
Mary không thấy đói chút nào, nàng cố gắng nhai mẩu bánh nhỏ rồi uống trà. Cả hai cùng im lặng. Rồi nàng châm thêm củi vào lò sưởi, khói xanh nồng làm cô cay mắt, nhưng lửa gần tàn, không đủ ấm gian phòng lạnh lẽo.
Trong hành lang đồng hồ gõ đều đều. Nàng gần nghẹn thở. Buổi tối nặng nề chậm chạp trôi qua. Hai dì cháu thu dọn về phòng mình. Nhưng rồi dì nàng đi khỏi phòng, Mary vẫn ngồi yên. Nàng mơ màng nửa thức nửa ngủ, không nhấc nổi chân.
Lửa tắt ngấm, nến cũng gần tàn... Bỗng Mary ngẩng lên vì một tiếng động khẽ, và cửa bếp hé mở: Joss bước vô. Mặt xám ngoét, mắt đỏ ngầu, ông cất giọng gắt:
- Ai đó? Làm gì đó? Để dao xuống! Nghe chưa? Tôi bảo để dao xuống!
Mary nhìn trừng trừng Joss, không nhúc nhích được nửa phân:
- Cháu đây! Chú lầm rồi không có ai đây hết, không có dao đâu...
- Ủa, Mary! Họ đi đâu hết rồi?
- Chú lầm đó, không có ai trừ cháu ở đây. Chú cần gì không?
Joss nhìn quanh phòng, thì thầm:
- Ta không sợ họ đâu. Kẻ chết làm sao hại được ta? Ta làm họ biến mất như khi ta thổi tắt ngọn nến, phải không, cháu?
Mary gật đầu, Joss kéo ghế ngồi xuống, liếm môi:
- Chỉ là cơn mơ thôi, cháu ạ ! Kỳ một cái mặt nào cũng rõ ràng hết mới là ghê... Chú khát quá, Mary! Vô lấy chai rượu cho chú đi !
Mary đón xâu chìa khóa trên tay chủ quán, nàng thầm nghĩ không biết có nên đi luôn lên phòng mình không, thì có tiếng giục giã:
- Đem chai rượu chớ không phải đi luôn, nghe?
Mary lẳng lặng vào quầy rượu, lục lấy chai Cognac và cái ly đem lại trước mặt Joss. Người đàn ông rót nửa ly rượu, uống chầm chậm và nói:
Mary! Cháu thật tốt. Cháu thông minh, can đảm. Đáng lẽ cháu là con trai mới phải. Chú thương cháu lắm đó, nghe?
Lão cười, giọng ngớ ngẩn:
- Rượu này phải trả bằng vàng và máu đó. Tiền khó mà mua nổi. Vua George cũng không có thứ quí hơn. Ta tốn bao nhiêu? Không đến vài xu. Lữ quán Giao Mai này có rượu miễn phí. (Lão lại cười gật gù.) Đây là một trò chơi nguy hiểm nhưng hấp dẫn đối với đàn ông. Ta xuýt chết nhiều lần, nhưng dễ gì hạ nổi ta? Ta lanh quá! Trước kia, ta ở Padslow, lúc nước lớn ta đánh đắm tàu, nhưng là tàu nhỏ. Chỉ có năm người phụ ta thôi. Ít quá mà làm ăn gì? Bây giờ ta tổ chức đại qui mô à! Ta sẽ giết người nhiều lắm, nhưng trò chơi... Không! Công việc chớ, công việc này khác lắm. Mary! Lại gần đây! Ta tin cậy cháu, cháu không giống dì cháu. Ta hợp tác với nhau, nghe?
Joss chồm đến bất ngờ, chộp tay Mary ấn cô ngồi xuống cạnh mình:
- Chính rượu quái quỉ hại ta đó, Mary! Nếu không coi... Bình thường ta không sợ gì hết, chính ta giết người, dìm chúng xuống nước, lấy đá đập lên đầu chúng...mà ta ngủ ngon lắm, chả có băn khoăn gì hết. Đứa nào nói có lương tâm cắn rứt là nói láo, nói theo kiểu trưởng giả, tụi văn sĩ láo khoét. Lương tâm là cái gì? Hình thù nó ra sao? Bịa! Mà có cái kỳ này: hễ ta say thì ta thấy xác chết hồi sinh. Ý trời ôi! Đứa thì bị cá ăn mất mắt, đứa khác thì tóc vướng trong rong bể, đứa thì da mặt trắng như sáp. Có một lần, ta gặp một phụ nữ tóc xõa dài, tay bám lấy tấm ván, tay kia bế con. Thuyền ở gần đó và bể không có sóng, nhiều kẻ sống sót và cố lội vào bờ, nước cạn, biết không, Mary? - Chả là tụi ta tính lầm con nước. Bà kia cầu cứu dữ lắm nhưng ta tặng cho bả một hòn đá to vào mặt, bả ngã ngửa, buông cả tấm ván lẫn con. Đâu phải ta độc ác gì, công việc là công việc chớ. Ta phải ra tay, nếu không họ lên bờ sao? Nếu không lanh tay, họ sẽ lên bờ nhiều người lắm. Tụi ta phải ném đá, gần quá thì áp lại, bẽ gãy lọi tay chân họ, dìm họ xuống nước. Nước sâu không đầy một thước, khó lắm chớ dễ gì? Ta chu đáo lắm, phải không Mary?
Ngọn nến lung linh. Joss lại nắm tay cô gái, tay cô lạnh và mềm nhũn như bàn tay kẻ vừa tắt hơi. Lão giật mình, buông cô ra, nhìn phía khác:
- Bàn tay gì giống như...
Rồi lão im luôn. Mary ngồi chết dí, nhìn con muỗi đậu trên tay Joss, nàng chợt nhớ lại cái lần lão cắt bánh cho nàng, khéo léo, mềm mại. Nhung giờ đây, nàng tưởng tượng đến viên đá trong tay lão. Joss quay lại:
- Tiếng đồng hồ gõ mà ta tưởng tiếng chuông báo động trên bãi bể, nghe buồn quá đi! Tiếng chuông báo động trên tàu ấy mà, có lần ta muốn hét to cho át tiếng chuông cầu cứu. Chúng ta cũng vất vả lắm chớ đâu phải dễ dàng gì. Chèo thuyền dọc theo bãi, đem theo đủ thứ: gậy gộc, giẻ, dao, thừng... Cháu biết giẻ để chi không? Đặng nhét vào miệng họ, cho họ câm suốt đời mới yên tâm mình chớ chi... Còn tàu: một tiếng đánh rầm vào cồn đá, tàu rung động rồi chìm dần, chìm dần, sóng nuốt tiêu tan... Cháu đã thấy ruồi dính vào hủ mật chưa ! Người ta vướng trong tàu như vậy đó, họ bám vào tàu, mỗi lần thấy sóng to họ thét lên, nom họ như những chấm đen li ti, li ti... li ti...
Mary muốn nôn, nàng lạnh cóng. Joss chồm tới trước, gục đầu xuống ngực, miệng há to, chìm trong cơn say - hay giấc ngủ? Hai cánh tay đặt lên bàn, bàn tay chắp lại như đang cầu nguyện...
Mary se sẽ đứng lên, chỉ những sợ ông ta tỉnh dậy kéo nàng ngồi lại nghe chuyện nữa.
CHương 7
CHƯƠNG 7
Hôm áp lễ Giáng Sinh trời báo hiệu một cơn mưa sắp đến, phòng Mary ẩm ướt, nàng nghiêng mình ra cửa sổ, gió tạt vào mặt. Một giờ nữa, Jean chờ nàng ở đồng hoang, cùng đi Launceston. Nên đi không? Bốn ngày nay, Mary già đi: mắt thâm quầng, má hóp, bơ phờ; nàng ăn không được, ngủ không được. Có lúc nàng thấy mình cũng có vết nhăn ở trán, tóm lại nàng gần giống như dì! Nàng ở lỳ trong phòng, viện cớ bị cảm. Nàng xót thương dì quá: bà đã bị bí mật kinh hoàng này đè nặng bao lâu? Sau này, dù nàng có đưa dì đi đến đâu, bí mật này vẫn đeo đẳng bên dì. Trời ơi! Nàng đã biết rồi, cái duyên cớ khiến dì gần như mất trí. Dì này cũng mang tội ác, dì đồng lõa với chồng bằng sự im lặng của dì. Dì đã dung túng, mặc cho con quỉ dữ lộng hành.
Ba ngày trôi qua, sau cái đêm Mary nghe Joss kể lể. Nỗi kinh hãi, ghê tởm lắng dịu, nàng chỉ còn thấy mình già cỗi, mệt nhoài. Nàng hết thấy sợ Joss, chỉ khinh bỉ, chán ghét thôi. Joss và cả lũ thủ hạ đều là những con thú mang bộ mặt người. Chúng làm hại đất nước, làm nhục loài người và Mary chỉ yên tâm khi chúng bị loại trừ sạch. Tội lỗi chúng không thể nào xóa tẩy.
Nhưng còn dì Patience và Jean Merlyn? Nàng không muốn, nhưng vẫn thấy rõ Jean giống Joss. Khi anh ta quay đầu lại, Mary ngỡ như Joss 20 năm trước? Nàng hiểu vì sao dì nàng mê tên ác quỉ này.
Cho đến giờ, Mary chưa để ý đến một thanh niên nào. Ở Helford nàng đâu có thì giờ mơ mộng? Đi nhà thờ, vài anh cười duyên với nàng, nàng cũng dự vài cuộc cắm trại vào mùa gặt. Nhưng chả có ai làm nàng chú ý cả. Mary định sống một mình. Nàng dành tiền mua một nông trại. Rời lữ quán này, nàng lo cho dì một mái nhà, chăm sóc dì như mẹ ruột. Ôi, thì giờ đâu mà nghĩ đến đàn ông?
Ở Helford, Mary thấy các cô gái đi dạo với bạn trai, họ nắm tay nhau, bẽn lẽn nhưng thích thú. Đêm, họ cùng ngắm trăng, ngắm cảnh - làm y như chỉ ban đêm khung cảnh mới đẹp vậy? - Sóng bước bên nhau, vai kề vai, nom khá buồn cười. Ôi chao! Cô gái như phải tựa vào anh bạn trai mới bước nổi, còn anh chàng thì như dũng sĩ thời xưa, ôm ngang lưng cô bạn, ra vẻ chở che, bao bọc. Khi nào không có trăng, họ ngắm mặt trời lặn làm vui, hoặc ngắm sao đêm...
Rồi chuông nhà thờ rung lên dồn dập, người ta cắt bánh cưới, chú rể mặc lễ phục đứng trước nhà thờ, cô dâu bên cạnh trắng như đóa huệ, mặt cả hai rạng rỡ như mặt trăng rằm!
Ấy thế rồi, cỡ một năm, trăng sao có đẹp mười mươi, cả hai không còn ngắm nữa: anh chàng về nhà mệt nhoài vì việc ngoài đồng lại giận dữ vì món ăn cháy khét. Nàng tiên xinh đẹp thì từ trong phòng trả lời dóng một lại với chồng, mặt đỏ gay, gầy guộc, tóc hết cong mà ngay đơ! Nàng đi tới, đi lui, bế đứa con đỏ hỏn khóc như mèo và đã làm nàng mất ngủ suốt đêm!
Ngán quá! Ủa, mà sao Mary lại cứ nghĩ tới Jean? Để làm chi chớ? Anh ta còn tệ hơn trai làng mình - tuy khá kẻng trai, nhưng rốt cuộc, hắn chỉ là tên trộm ngựa!
Nếu anh ta có một nông trại, chưa chắc nàng đã lưu ý tới, huống hồ...
Tuy nhiên, nàng thấy cần gặp Jean. Anh ta phải trả lời câu hỏi của nàng. Anh ta đã thất vọng vì nàng đã biết rõ bí mật của Joss và đồng lõa, nhất là nàng có thể tố cáo họ bất cứ lúc nào. Mary rất tin cậy ở linh mục phó Davey. Đây là một Giáng Sinh đặc biệt.
Mary nhắm hướng núi đá Faucon đi tới. Nàng nhớ Noel vừa qua nàng đã quì cạnh mẹ cầu xin Chúa ban cho mẹ con nàng sức khoẻ, nghị lực, niềm tin, cho nông trại nàng phát đạt...
Giờ đây, Mary cô đơn, mất mát nhiều quá, nàng sống giữa kẻ nàng kinh tởm, thù ghét. Nàng không cầu xin gì ở Chúa, ngoài sự sáng suốt để giữ mình khỏi sa vào tội ác. Lác nữa đây, nàng sẽ đi chơi với Jean tên trộm ngựa, nhưng nàng không sợ hãi chút nào.
Từ xa chiếc xe tiến lại, có kèm hai con ngựa nhỏ phía sau. Mặt cô gái bừng nóng. Nàng muốn rứt bỏ thứ tình cảm yếu đuối mà không được. Jean huýt sáo khi đến gần nàng, tay vứt vào lòng Mary một gói giấy nhỏ:
- Chúc Mary một Giáng Sinh vui vẻ. Khăn cột tóc đó, Mary!
Mary có ý định dè dặt song vẻ thân mật, cởi mở tự nhiên của Jean làm nàng khó xử:
- Anh tử tế lắm, Jean. Nhưng tôi e anh tiêu tiền một cách vô ích...
Jean nói thẳng:
- Đến sớm nhỉ? Cô sợ tôi đi rồi phải không?
Mary leo lên xe, ngồi cạnh Jean, nắm dây cương, nàng không để ý tới lời anh, vì nàng thích thú nhớ lại lúc ở Helford đi chợ phiên. Mary buột miệng:
- Lên xe ngựa, tôi nhớ đến mẹ tôi... Mới đây mà sao như lâu quá... Trời ơi!
Jean khoanh tay, nhìn Mary cầm cương ngựa:
- Con ngựa này có thể vượt qua đồng hoang dù bị bịt mắt. Cứ tin ở nó, cô có thể thả dây cương ra được.
- Ủa, anh mang bán hai con chớ không chỉ một?
- Chớ sao. Tôi sẽ biếu cô một cái áo mới, nếu cô muốn. Thôi! Đừng có cái bộ khinh khỉnh như vậy. Ta là bạn mà! Ủa, này, sao cô có vẻ lạ vậy? Đau hả? Mây hôm trước cô hồng hào, tươi tỉnh lắm mà?
- Từ hôm gặp anh đến giờ, tôi không ra khỏi phòng. Từ bốn hôm nay, tôi già đi. Đầu óc tôi đầy ý nghĩ đen tối.
- Chà! Tôi tin là được đến chợ với cô gái đẹp để thiên hạ lác mắt chơi. Nhưng nom cô thảm hại quá. Đừng dấu tôi, có chuyện gì vậy? Mary... Lại có ai đến lữ quán trong đêm?
- Không.
- Coi cái bộ cô cắn môi, mắt thâm quầng là biết. Hay... cô nhớ tôi? Hả?
- Đúng ! Tôi nhớ đến anh, tôi tự hỏi: Joss và Jean ai sẽ bị treo cổ trước?
- Ê đừng giỡn chớ, không chúc lành cho người ta sao? Ta có tội gì mà lãnh án đó? Anh Joss thì được. Ảnh đáng tội! Tôi can ảnh hoài không được. Tôi không bênh ảnh đâu.
Mary liếc nhìn tay Jean, ngón dài và thanh tú nhưng mạnh mẽ. Jean la lên:
- Nhìn gì kỳ vậy?
- Tay anh. Tay anh giống như tay anh anh... Đẹp nhưng làm tôi tởm !
- Ý trời! Sao cô cứ so sánh như vậy? Này, nói thật đi: tại sao cô ở lỳ trong phòng bốn ngày nay? Con gái ưa làm bộ bí mật quá!
- Không có gì bí mật. Jean! Tôi đã biết tại sao dì tôi sống như bóng ma. Tôi biết hết rồi! Trong cơn say kẻ ác không giữ miệng...
- A! nhà trinh thám tài ba! Cô biết gì nào?
- Đừng hòng tôi kể ra cho anh. Tôi không ngu đâu.
- Cô vẫn ngại tôi?
- Anh là em ổng. Đủ rồi. Tốn công thì ít, hưởng lợi thì nhiều. Và, Jean! Có khi nào người chết biết tố cáo chăng?
- Đành rồi. Nhưng những mảnh tàu đắm biết tố cáo : khi gió thuận, xác tàu trôi vô bờ. Mary, tôi cho cô hay: mỗi khi có một chiếc tàu muốn vào bờ, cần có ánh sáng. Cô thấy con thiêu thân sa vào ngọn nến và chết cháy chưa? Tàu cũng vậy, nếu ngọn lửa do tay kẻ gian đốt lên. Một vài lần, câu chuyện có thể trôi qua. Nhưng nhiều lần quá, người ta sẽ tìm ra nguyên nhân. Anh Joss khôn hồn thì chấm dứt hành động độc ác đó đi, nếu không...
- Anh có đi với Joss không?
- Tôi không điên. Tôi không nhúng tay vô máu, tôi không thấy ngọt mà uống thứ rượu... Có một điều tôi muốn nói với cô: tôi chưa hề giết người. Cô tin hay không tùy ý.
Jean bỗng nóng nảy, quất mạnh lên ngựa, như để trút cơn bực tức:
- Có bánh mì và phô ma trong giỏ, không có sâu trong phô ma đâu. Đói thì ăn đi ! Có táo với lê nữa.
Mary không biết Jean giận thật hay vờ? Oan hay không? Chỉ thấy Jean mím môi, mắt đỏ ngầu:
- Thì ra cô cho là tôi đồng lõa với Joss, nhận chìm tàu, giết người vô tội và lục xác họ, vét tiền? Cảnh tượng ngộ quá, há? Nếu vậy, sao cô lại đi với tôi?
Mary vui vẻ:
- Anh chưa hề cải chính mà! Và mắt anh trong sáng, y như vô tội...
Nàng nói, nhìn phía khác, không khí hết ngột ngạt, mà trở thành dễ chịu. Họ như là hai đứa trẻ thân nhau từ lâu.
Xe đến quốc lộ, trời u ám báo hiệu sắp mưa. Đồi núi chập chùng trong sương mù.
Mary chợt hỏi:
_ Jean, gần đây có nhà thờ không?
- Làm sao tôi biết được? Tôi có đến nhà thờ một lần trong đời: khi còn được ẵm ngửa mà. Tôi tiếc là không chỉ dẫn cô về việc này được. Trong nhà thờ người ta cất chén bằng vàng trong tủ khóa cẩn thận, hả Mary?
- Bộ tính ăn trộm sao, hỏi kỹ vậy, Jean? Phải chừa nhà Chúa ra chớ !
Cả hai cùng cười, vô tư như hai đứa trẻ.
- Mary ! Tôi có con ngỗng. Lại ăn Giáng Sinh với tôi, nghe? Nói cho ngay nó là của ăn trộm, nhưng không sao, thịt ngỗng là thịt ngỗng, phải không? Trại chủ Tuckett có nhiều ngỗng, ổng không hay tôi ăn cắp một con...
- Jean! Ngày mai tôi sẽ đi nhà thờ. Anh biết cha sở họ Altarnun là ai không?
- Không! Tôi chưa hề giao thiệp với mấy ổng. Họ là những người đặc biệt. Hồi còn nhỏ, tôi nghe ở North Hill có một cha sở cận thị nặng. Một bữa ông lấy lầm rượu, đáng lẽ cho bổn đạo uống rượu lễ, ổng lại cho uống rượu Cognac. Cả làng hay tin, kéo nhau đến xin rước lễ để được uống Cognac. Thấy bổn đạo đông quá, cha sở mừng lắm, sáng mắt lên, vô tòa giảng, giảng một bài dài ngoằng. Cha! đó là một ngày đáng ghi nhớ: anh Matt bảo ảnh rước lễ tới hai lần...
Mary thở dài:
- Anh không thể nói chuyện gì đứng đắn sao? Anh không nể ai hết hả?
- Sao không? Tôi nể cái dạ dày tôi: nó đang đòi ăn. Dưới chân ta có cái hộp bánh. Nếu cô ăn chay thì có táo đó. Trong kinh thánh có nói tới táo mà !
Hai rưỡi, họ đến chợ. Cả hai cùng vui, Mary như lây sự vô tư của Jean. Nàng quên trách nhiệm, lo âu. Rời lữ quán, tuổi trẻ và can đảm của nàng hồi phục. Jean nhận thấy điều này, hài lòng lắm. Mary cười luôn. Quanh nàng, tiếng động, sự rộn rịp của phố xá, không khí Giáng Sinh bao phủ. Đường chật những người diện bảnh bao đi lại, các cửa hàng bày biện rực rỡ vui mắt.
Xe ngựa, xe hơi đậu đầy phố, ai cũng náo nức, mầu sắc sống động. Một bà đội thúng táo bóng ngời, đỏ thẫm, mặc áo xanh. Khung cảnh như nhắc Mary kỷ niệm cũ. Giữa đám đông, một cậu bé bưng khay bánh mì thịt nóng hôi hổi rao mời lảnh lót. Một bà mặc áo nhung sang trọng bước xuống xe vào quán "Con Nai Trắng" theo sau một gã đàn ông, nom huênh hoang như con công!
Đồng hoang khuất xa, xa tít. Thành phố nằm dưới ngọn đồi. Có lâu đài to như trong chuyện cổ tích, những khóm cây, cánh đồng trải dài. Khung cảnh sống động quá, rộn rã tiếng cười đùa, chào hàng. Mặt trời cũng chường mặt ra góp vui với ngày lễ!
Mary lấy khăn Jean tặng ra cột tóc. Họ cột ngựa một chỗ rồi len lỏi giữa đám đông dạo phố. Tay Jean dắt hai con ngựa, nét mặt tự tin, Mary đi sau, đến chợ, chỗ dành cho gia súc, chỗ tụ họp của nông dân, trại chủ, những người có địa vị ở Devon. Tim Mary đập mạnh: nàng sợ người ta nhìn ra ngựa ăn trộm. Jean tỉnh bơ, quay sang nháy mắt với cô. Anh vẹt đám đông, chào một người trong bọn buôn bán ngựa rồi đến ngồi cạnh họ, đoạn châm thuốc hút. Mary đứng ngoài.
Một lát, có người đàn ông ăn vận chững chạc rẽ đám đông đến gần bầy ngựa. Lại một gã mắt ti hí mặc áo đen đến bên ông ra, thúc vào hông ông ta chỉ chỏ thì thào. Họ nhìn con ngựa của ông Bassat thật lâu, một người vuốt ve con ngựa.
- Ngựa này không có vẻ ngựa nuôi ở đồng hoang. Anh mua ở đâu?
- Nó đẻ ở Callington, bốn tuổi rồi đó. Jim Bray bán cho tôi ảnh nói nó thuộc giống Ái nhĩ lan và nổi tiếng ở trường đua, nhưng tôi nói trước; tôi không bán rẻ đâu.
Jean nói và lại hút thuốc, trong lúc hai người lạ xem xét kỹ con vật. Mary cảm thấy tim như ngừng đập. Gã mắt ti hí hỏi:
- Da nó có bệnh không? Sao thấy da nó cứng quá? Anh có cải trang cho nó ư?
- Giỡn chớ! con kia thì có đau sơ kỳ hè, con này nguyên si mà! Tôi định nuôi sang xuân mà tốn kém quá. Nó thuộc giống cừ đó, nghe!
- Cỡ bao nhiêu? 15 livres được không?
- Đúng 18 guinees không bớt nửa xu!
Gã mắt lươn:
- Tôi không vừa ý mấy. Dấu riêng biệt của nó đâu?
Jean chỉ một khe nhỏ ở tai ngựa, rồi gặng:
- Ông có vẻ rành về ngựa quá, hả?
- Không rành lắm... Nhưng này, may cho anh: Jim Bray đã đi xa rồi. Tôi biết ngựa này! (Với ông bạn:) Thôi! Stevens, tôi khuyên anh đừng đụng tới nó, có chuyện đa!
- Trông nó tốt mã quá mà! Sao anh cẩn thận quá Will? Ai nuôi thì cũng vậy, có sao?
Gà mắt lươn rỉ tai bạn một thôi, ông ta bỗng nhớn nhác, lắc đầu rồi nói to:
- Vậy thì thôi. Tôi không muốn phiền phức. (Với Jean:) Anh giữ ngựa lại, bạn tôi không vừa lòng, giá cao quá !
Mary thở phào, nhẹ cả người. Ngựa hoang coi bộ dễ bán hơn. Xung quanh đó, người ta bán với giá 2, 3 livres một con. Đến 4 giờ, Jean cũng bán được con ngựa kia. Ngựa đen quí không được ai chiếu cố.
Chiều xuống dần, đèn đường bật sáng. Mary tính quay lại xe ngồi nghỉ thì chợt nghe một tiếng cười nịnh bợ vang lên và có tiếng đàn bà nói gì đó. Nàng quay sang, thấy người mặc áo nhung xuống xe:
- Ồ! Anh thấy con ngựa xinh đẹp kia không? Dáng bộ nó giống con Beauty quá, hả? Tiếc cái nó đen kịt... James! anh xem...
Gã đàn ông tra kính lên mắt, cất giọng rè rè:
- Tôi không mấy rõ về ngựa. Ngựa chị mất mầu xám... con này đen mượt. Chị ưa?
- Sao không? Mua làm quà cho lũ nhỏ. Từ hôm mất con Beauty, tụi nó cứ phá rầy ba chúng hoài. James! Hỏi giá dùm tôi, đi!
Gã đàn ông vênh váo lại gần:
- Anh kia, có bán con ngựa đen không?
Jean lắc đầu:
- Tôi hứa để cho người bạn, tôi không thể nuốt lời. Mà ông cỡi nó gì được? Ngựa này dành cho con nít mà.
- Vậy hả? Thôi! Chị Maria, ngựa này không bán.
- Uổng không? Tôi mến nó quá đi ! Anh hỏi kỹ coi, tôi sẽ trả giá cao...
Gã đàn ông lại cất giọng rè rè:
- Này anh! Bà đây ưng con ngựa đó. Bà mất con ngựa quí, muốn thay vô. Thôi! Kệ bạn anh, cho chả đợi, rồi tìm con khác, lo gì. Bán cho bà đây đi ! Giá bao nhiêu?
- Bạn tôi trả 25 guinees. Nhưng tôi không bán cho ông đâu!
Người đàn bà chen vô liền:
- Tôi trả anh 30 livres. Tôi là bà Bassat đây. Tôi muốn mua con ngựa làm quà cho con tôi dịp này. Bằng lòng không? Tôi thích nó quá...
Jean hất mũ, cúi đầu thật thấp:
- Xin cảm ơn bà, tôi hy vọng ông nhà và các cô cậu hài lòng, nó dễ cỡi lắm.
- Ồ! Chắc nhà tôi bằng lòng. Nom nó không bằng con Beauty đã mất, nhưng cũng khá xinh.
Bà giao tiền cho Jean rồi lại bên xe đang đợi, bảo tên đày tớ:
- Anh chạy về kêu Richards ra dắt con ngựa mới về. Đừng cho ông hay nghe. Tôi muốn ông ngạc nhiên...
Đợi bà Bassat và James đi khuất, Jean khều tay gã con trai đứng cạnh mình:
- Này, anh muốn có năm shillings không?
Gã con trai gật đầu, há miệng chờ. Jean nói tiếp trong khi đưa ra năm shillings:
- Giữ giùm con ngựa này và chờ đầy tớ của bà kia ra, giao cho hắn. Vợ tôi sinh đôi và bị nguy hiểm. Tôi đợi không được. Chúc anh vui vẻ...
Jean biến mất trong một nhoáng, anh đi mau, tay đút túi quần. Mary kín đáo theo sau, mặt đỏ rần, mắt dán xuống đất, nàng phải dùng khăn quàng bụm miệng cho khỏi bật cười. Đến một nơi xa đám người, nàng dừng lại thở, Jean chờ nàng, mặt hí hửng.
- Jean! Anh đáng bị treo cổ: bán ngựa cho chính người mình đi ăn trộm! Quá, quá...
Jean cười ồ lên làm nàng cũng cười theo. Jean nắm tay cô:
- Nào! Vui vẻ chứ?
Mary gật đầu. Hai người dạo giữa không khí ấm áp hơi người. Jean mua tặng nàng một cái khăn đỏ chói và đôi khoen tai vàng. Đoạn kéo nàng đến giải khát và sau rốt, họ coi bói. Bà thầy bói già, da nhăn nheo khuyên Mary:
- Cô nên cẩn thận, coi chừng một người đàn ông tóc nâu.
Hai người cười ngất. Bà lại bảo Jean:
- Còn cậu, tay cậu sắp vấy máu. Một ngày kia, cậu sẽ giết người, giết một người.
Jean bảo cô gái:
- Thấy chưa? Tôi đã nói tôi chưa giết ai hết. Tôi vô tội mà!
Mary im lặng. Những hạt mưa nhỏ rơi trên mặt họ. Gió thổi mạnh lên, tung cả giấy, giây băng, làm các lều lung lay.
Chỉ giây lát, có mấy chiếc lều ngã sập. Táo, cam, lăn lông lốc, mưa nặng hạt. Mọi người thi nhau tìm chỗ núp, gọi nhau ơi ới. Jean kéo tay Mary vào một mái hiên, tay quàng vai nàng, âu yếm.
Mây đen kịt khắp trời, đường xá vắng tanh, mưa tạt vào mái hiên. Jean đứng quay lưng ra che mưa cho bạn. Anh tháo khăn cột tóc Mary, vuốt tóc nàng, rồi nâng mặt Mary lên, nhìn vào mắt nàng và cúi hôn nàng. Mary choáng váng một giây, nhưng nàng lại hất tay anh ra:
- Chúng ta trở về!
- Cô đòi về? Trên cái xe không mui trong lúc trời đất thế này? Lên dốc, gió sẽ lật xe mất, ở lại đi!
- Đừng nói chơi kiểu đó. Anh đi lấy xe đi. Tôi đợi anh đây !
- Đừng làm bộ. Về bây giờ sẽ ướt như chuột. Mary ! Cô cũng yêu tôi như tôi yêu cô, phải không?
- Anh nói vậy vì tôi là người giúp việc cho lữ quán Giao Mai...
- Bỏ lữ quán khốn nạn đó đi! Tôi yêu cô là yêu cô. Tôi không có bộ vó phong lưu, nhưng tôi yêu cô! Vậy không đủ ư? Ta cần có nhau ! Đừng giả vờ cứng rắn nữa... Yêu nhau là đủ...
- Đối với vài người thì đủ, nhưng tôi, rất tiếc tôi không thể...
- Hãy ở lại đêm nay với anh, Mary!
- Không! Không và không ! Thà tôi chịu ướt trên xe!
- Tim cô như đá rắn. Rồi cô sẽ hối cho mà xem. Tôi sẽ mua cho cô cái nhẫn, nếu cô muốn...
- Tôi chỉ muốn về. Nếu quả anh yêu tôi, hãy cho tôi về.
- Đành vậy, chờ đó, tôi đi lấy xe.
Jean cúi đầu, chạy ra giữa mưa, mất hút sau dãy phố lầu. Mary nép sát vào mái hiên. Nàng biết trở về lúc này là điên: 11 dặm với chiếc xe trần, giữa gió mưa. Nhưng ở lại với Jean ư? Nàng không thể, tuy nàng cảm động nghĩ đến anh... Có thể nàng yêu Jean! nhưng nàng không điên rồ đến thế. Nàng không muốn lệ thuộc Jean. Nàng biết tự trọng...
Nàng nóngruột, không đứng đợi nữa, men dọc theo mái hiên tìm Jean. Nàng đến chỗ gửi xe, qua khe cửa, Mary thấy trống trơn. Nàng gõ bừa vào nhà bên cạnh. Có tiếng mở khóa canh cách rồi tiếng càu nhàu:
- Hỏi gì vào giờ này? Không có gì cho ăn đâu.
- Tôi không xin ăn, tôi tìm một người bạn, anh ta gởi xe đây.
- Xin lỗi cô, anh ta có đến và đi hơn 20 phút rồi, có vẻ vội lắm. Hình như đi với tên bồi quán "Nai Trắng" thì phải. Cô nên lại đó hỏi coi.
- Cảm ơn ông.
Nàng nói và hấp tấp đến quán "Nai Trắng". Bụng thắc mắc, không biết Jean đến đó làm gì? Có thể ông ta lầm. Nhưng nàng còn biết đi đâu, cứ đến đó xem sao.
Bên trong đèn sáng rỡ, chả thấy xe ngựa của Jean đâu. Hay Jean bỏ về một mình? Không có lý nào. Nàng đẩy cửa bước vào, nhiều tiếng cười rộ khi thấy nàng. Tên bồi chạy đón, Mary nói liền:
- Tôi tìm Jean Merlyn. Xin ông hỏi giùm cho.
Tên bồi gật đầu, bước vào trong, Mary bỗng lạnh người khi thấy gã mắt lươn và ông bạn hắn. Nàng linh cảm chuyện bất lành. Tên bồi trở ra, dấm dẳn:
- Chiều nay đông khách quá, tôi không thể biết ai là Jean Merlyn.
Mary không kịp có thái độ gì thì tên mắt lươn tiến lại:
- Nếu cô định tìm tên bán ngựa thì tôi biết, (gã cười khả ố) cách đây 10 phút nó bị buộc lên xe. Cô biết chuyện ngựa đen, há? Ngựa quí mà!
Mọi người cười vang. Mary bình tĩnh hỏi:
- Ông biết họ đi đâu không?
- Rất tiếc, mà gã cũng không nhắn gì cả. Tối rồi, quên tên đểu đi, cô ạ ! Vô đây, ăn réveillon với tôi cho vui!
Mary quày quả đi ra. Trận cười khả ố như đuổi theo nàng. Thế là hết! Không biết tên trộm ngựa có bị treo cổ như sát nhân không? Tội nghiệp Jean quá!
Thành phố tối om, buồn bã. Mary bước tràn không kể gió mưa, lòng tan nát...
Bỗng một cái xe lên dốc, ngược chiều với nàng, trông như con nhện khổng lồ. Như kẻ chết đuối gặp thanh ván trôi gần, Mary bám lấy. Cô chạy theo, kêu to:
- Ông đi đâu? Có chở ai không?
Phu xe lắc đầu, giục ngựa nhanh hơn, nhung đột nhiên, một bàn tay rắn chắc đặt lên vai cô gái:
- Mary Yellan! Cô đi đâu trong đêm Giáng Sinh một mình thế này?
Giọng nói êm ái, quen thuộc, gương mặt trắng, mái tóc trắng, cặp mắt thủy tinh của linh mục phó xứ Altarnun hiện ra.
Chúa ơi! Đó không phải phép mầu của Chúa sao?
Trong xe tranh tối, tranh sáng, cha phó với nét mặt thanh tú, mũi hơi quặp như mỏ chim, môi mỏng và mím chặt. Giọng êm ru:
- Lần nữa, cô gặp tôi, ướt như chuột. Cởi áo choàng ra và cả vớ nữa, trong xe không gió, Mary ạ ! Lấy khăn khoác vào cho ấm!
Mary bối rối làm theo lời cha Francis. Ông vẫn dịu dàng:
- Thế nào? Con đến đây làm chi?
Cũng như lần trước, Mary không thể dấu diếm ông điều gì. Nhưng nàng không dám nói đến tên Jean, làm y như đó chỉ là một người lạ. Đợi nàng nói xong, linh mục hỏi:
- Thế ra con cũng không đến nỗi cô đơn ở chỗ heo hút hoang vắng này nhỉ? Tên hắn là gì?
Mary cảm thấy mình bị chế giễu, nhưng khi nàng nhìn linh mục, nàng lại vững lòng. Nàng kể tên Jean cho ông biết và còn bạo dạn thêm rằng Jean không giống anh... Linh mục hơi cao mặt:
- Cô muốn nói là Jean không biết gì về tội ác anh hắn? Hắn chỉ ăn trộm ngựa thôi, phải không?
Mary nài nỉ:
- Thưa cha, cha có nói với con là cha quen ông Bassat xin cha giúp anh ấy, ảnh còn trẻ... có thể làm lại cuộc đời.
Sự im lặng của cha phó làm Mary xấu hổ thêm. Chắc ông cho nàng là đứa mất nết hay đứa ngốc?
- Mary! Cha không quen thân với ông tòa. Gặp nhau chào hỏi qua loa thôi. Vả lại, không chắc ông ấy tha tội trộm ngựa của Jean vì nể cha đâu.
Mary im lặng nghe. Mưa vẫn rơi, gió càng dữ bên ngoài. Giọng linh mục ôn tồn:
- Cô còn trẻ, hãy quên đi! Một cô gái không nên quan tâm nhiều đến một chàng trai gặp gỡ đôi lần và nụ hôn đầu tiên cũng không là một kỷ niệm khó phai. Nín đi!
Mary ngạc nhiên: linh mục không hề nhắc đến Chúa, đến một lời cầu nguyện như các tu sĩ khác. Và nàng bỗng kinh hoảng nhớ ra rằng nàng quên phắt Joss Merlyn với những giờ khắc nặng nề trong lữ quán.
- Thưa cha, cha có nghe đến chuyện đắm tàu không?
Rồi, không gìn giữ nữa, nàng thao thao kể hết những điều Joss nói với nàng. Giọng linh mục hết dịu dàng:
- Vậy ra khi say, tên Joss nói toạc hết?
Mary ngước nhìn linh mục, khác với giọng nói, mắt ông bình tĩnh, lạnh lùng.
Mary nức nở:
- Thưa cha, vâng! Ghê gớm quá. Chính vì vậy mà con mất hết khôn ngoan, bình tĩnh, hết tin tưởng, con đã hành động như người mất trí khi cùng Jean đi Lauceston!...
Gió tạt vào xe những hạt cát to gần bằng hạt sỏi, gió hơi có mùi mặn của bể. Cha phó nói:
- Gần tới ngã năm rồi. Tôi sẽ xuống xe đi bộ về. Còn cô, cứ ngồi yên, xe đưa cô đến lữ quán. Quên, bí mật của cô chỉ mình tôi biết hay Jean cũng được nghe cô kể cho nghe nữa?
- Thưa cha, Jean hình như cũng biết, nhưng anh em ảnh không hợp nhau.
- Vậy thì con yên tâm. Tôi vừa đi họp về. Đại diện của Hoàng Đế quyết định ngăn các vụ đắm tàu bằng cách cho tuần phòng bờ biển kỹ càng, từ nay Joss sẽ chết mòn vì rượu, cô sẽ yên giấc, và đợi người yêu được tha về.
Ông sửa soạn xuống xe. Mary toan xin được theo ông nhưng không kịp nữa.
CHương 8
CHƯƠNG 8
Còn ba dặm nữa mới về đến lữ quán. Nếu linh mục nói đúng thì còn gì vui hơn! Kỷ nguyên của bọn đánh đắm tàu chấm dứt. Họ sẽ biến mất theo bóng đêm. Tàu bè đến Anh quốc sẽ không sợ hãi gì nữa. Người ta yên lòng mà du lịch. Mọi người sẽ quên những chuyện kinh hoàng. Trên đồng hoang nông dân sẽ đến trồng trọt, khai khẩn, chả ai sợ lữ quán Giao Mai... Nàng và Jean sẽ...
Bỗng Mary giật mình: qua cửa sổ xe nàng thấy có tia lửa xẹt và hình như cả tiếng súng, tiếng hú vang xa. Rồi tiếng chân và tiếng người quát tháo. Nàng nghiêng người, chồm ra nhìn, mưa tạt vào mặt nàng, bác phu xe rú lên một tiếng, toan quay xe lại nhưng không kịp nữa. Đoàn người tiến đến sát xe, tên đi đầu có cầm đèn lồng, chúng nhảy tới chứ không phải đi. Đoàng một tiếng, bác phu xe gục tức thời; tiếng kêu cứu tắt nghẽn trong cổ họng. Xe chao qua, đảo lại dễ sợ.
Mũi súng còn bốc khói, Joss dí vào cháu vợ và khi nhận ra nàng, hắn gầm lên:
- A! Mày trở về đó hở? Con chó cúp đuôi !
Cả bọn xúm lại nhìn nàng chỉ trỏ, cười vang. Mary lặng im. Joss tát nàng một cái:
- Mày câm hả? Mày đi đâu cả ngày?
Mary đưa tay đỡ, má nàng như bỏng. Lão bẻ quặt tay nàng ra sau và đẩy nàng. Mary hét:
- Chú không có quyền đụng tới tôi. Chú là kẻ sát nhân! Tôi đi tố cáo chú, nghe chưa? Tôi đến Lauceston...
Cả bọn giật mình, nhao lên, nhưng Joss quát:
- Tụi ngốc! Lui ra, nó đi sao nổi! Coi cặp giò nó kìa! Thôi, sửa soạn công chuyện. Để nó cho tao! Gió lên rồi đó. Đừng mất thì giờ. Harry! Lên xe ngay, xe này chở được 6 đứa lận!
Trong chớp mắt, cả bọn lên xe: Joss và bốn năm tên. Hắn đẩy mạnh Marry vô trong, giục ngựa chạy nhanh. Lữ quán Giao Mai sáng rỡ phía trước.
- Mày định tố cáo tao, hử? Tao sẽ treo cổ mày lên như con mèo... như... mà chưa đâu. Tao cho mày thấy đã, rồi sẽ treo sau, không vội gì.
Lữ quán mất dạng, Mary bị bịt kín miệng ú ớ không ra tiếng. Không khí trong xe sặc sụa khói thuốc và rượu. Cả bọn nói chuyện ầm ỹ, thỉnh thoảng có tên nhìn xem Mary có xấu hổ, sợ hãi chi không? Nhưng nàng kiệt lực, rũ ra như đống giẻ rách.
Joss lấy cùi tay thúc vào bụng nàng làm nàng đau nhói. Mắt Mary nổ đom đóm, nàng chỉ ao ước được mê thiếp đi, mặc tất cả.
Bọn chúng rút cỗ bài ra trong lúc xe tiến trong bóng đêm, tiến đến bờ biển.
Bỗng xe ngừng lại, gió lạnh và mặn thốc vào mặt Mary. Vắng hoe, chúng xuống xe mang theo cả đèn lồng. Mary đau ê cả toàn thân.
Có tiếng rì rào quen thuộc, tiếng sóng bể. Mary sợ quá đến rúm ró cả người. Nàng rùng mình: Joss và đồng lõa nấp đâu đó, đợi nước lên. Giá nghe tiếng họ hò hét, nàng lại đỡ sợ hơn.
Cửa khóa, nhưng biết đâu nàng không thoát ra được bằng cửa sổ? Mạng sống nàng có nghĩa gì? Nàng không thể để mặc chúng gây thêm tội ác. Có thể nàng chưa làm được đã bị treo cổ, nhưng Mary không cần. Nàng thấy phải hành động.
Mary cố chui qua cửa sổ, vai và lưng ê ẩm nên thật khó khăn. Mui xe lại ướt, trơn tuột khó bám víu. Tay, hông cô gái bị mảnh kính ở cửa sổ cứa đứt... Nàng mất thăng bằng, ngã nhào xuống đất. Mary nằm một chút cho khoẻ rồi mò mẫm đứng lên. Máu ri rỉ chảy sau lưng, may không nhiều lắm. Nàng ngược dốc bò lên. Tiếng sóng bây giờ tăng theo gió, biển động mạnh gần đâu đây. Bây giờ nàng đứng thẳng bước mau. Quen với bóng tối, một chốc sau, Mary thấy chúng tụ tập dưới chân một mỏm đá. Im lặng một cách đáng sợ. Mary không dám tiến tới nữa, sợ lộ mất.
Bọt sóng tung vào các mỏm đá, trắng xóa giữa đêm đen mịt. Sương mù tan dần.
Bờ bể cao và dốc lên, đá nhô ra nhiều hơn mặt nước rộng như vô tận. Phía tay phải, xa xa, chỗ dốc đá nguy hiểm nhất, Mary thấy một đốm sáng. Ban đầu, cô ngỡ là một ngôi sao, nhưng sau, cô biết không phải: sao đâu có lung linh theo cơn gió bão? Y như một con mắt trắng trong đêm tối, đốm sáng nhảy múa theo cơn gió.
Bọn người họp nhau trên bãi nhìn ánh sáng rồi lại nhìn bóng đen ngoài khơi. Cô gái chợt hiểu: ánh sáng kia tưởng như một chỉ dẫn, hóa ra là hình ảnh của tử thần do Joss và đồng lõa đặt ra để lừa tàu đến. Có người canh giữ cho ánh sáng khỏi tắt thì phải, vì Mary thấy có bóng đen qua lại trước đó, rồi thình lình, hắn lấy tay làm loa gọi đồng bọn, cả bọn xôn xao lên. Sự im lặng bị phá tan.
Trông chúng nhốn nháo, không như lúc đầu, cho đến khi Joss ra hiệu bảo im, cả bọn lại tuân răm rắp. Mary nhận ra Joss nhờ đôi vai rộng và những bước chân sãi dài trên bãi.
Một lát sau, cả bọn đứng im chờ đợi, sắp hàng trên bãi như một bầy quạ. Mary nhìn theo hướng họ. Một ánh sáng khác vừa hiện ra , không nhảy nhót, lung linh, từ từ tiến lên rồi biến mất sau cồn đá, một chốc lại hiện ra. Cứ thế nó tiến lại ánh sáng đầu tiên như được mời gọi, như bị cuốn hút. Mary đã phân biệt đuợc sườn tàu và các cột buồm như những ngón tay chỉ lên trời. Biển đầy sóng trắng, đèn mắc trên cột buồm càng lúc càng gần ánh sáng trên cồn, giống như con thiêu thân ngu dại xáp vào lửa đỏ.
Mary không thể im được nữa. Nàng đứng lên, liều lĩnh chạy càn xuống bãi, vừa kêu khóc, hai tay giơ khỏi đầu... nhưng gió và sóng át lời nàng. Lại có ai xô nàng quị xuống.
Bọn bất lương xúm lại, đè cứng và trói nghiến cô gái lại, dùng chân đá vào nàng, dùng giẻ nhét vào miệng nàng. Hai tay bị bẻ quặt ra sau, cô gái can đảm đáng thương giống như con lợn sắp mang vào lò sát sinh.
Mary vẫn nhìn bóng đen to lớn của con tàu tiến tới, trong lúc tiếng hò hét man rợ của bọn sát nhân át cả tiếng sóng vỗ vào gành đá. Có tiếng gãy răng rắc, đổ ào ào, tiếng ầm ỹ của khối to lớn va vào cồn đá, tàu nghiêng lại như một con rùa khổng lồ bị lật, các cột buồm ngả nghiêng, gãy gập. Phía mạn tàu nghiêng chổng lên trời, Mary phân biệt được vô số chấm đen bám vào, nhưng khi sóng dậy lên, những chấm đen rơi lả tả, mạn tàu tách đôi, bọt sóng trắng xóa tan, quét sạch...
Cô gái kinh hoàng úp mặt xuống cát, thôi nhìn. Nàng đau hơn bị đánh đập, hành hạ, hơn cả khi ngồi nhìn mẹ đợi tử thần.
Bọn đàn ông ùa xuống bãi, vừa chạy vừa hò hét, nước tận thắt lưng chúng. Chúng bập bềnh giữa những mảnh ván gãy nát, rồi lội ra sâu hơn. Chúng bơi theo những vật bị nước cuốn trôi trên tàu. Có tên cởi hết áo quần cho đỡ vướng. Chúng tranh nhau các vật tìm được. Một tên đốt lửa bên mỏm đá, ngọn lửa tỏa ánh sáng vàng vọt ma quái dưới bầu trời đen kịt, lấm tấm mưa.
Khi các xác chết tấp vào bờ, bọn chúng xúm lại lục lọi: tháo từng cái nhẫn trong các ngón tay sưng vù, lột những vòng vàng, đồng hồ, nữ trang, tóm lại tất cả những gì đáng giá. Các túi áo, quần được xét kỹ. Cuối cùng, chúng bỏ xác chết nằm lật úp, hay ngửa giữa bọt sóng, bập bềnh cùng với những mảnh gỗ...
Tuy kinh hãi, Mary lại ngẩng nhìn, nàng thấy chúng làm việc lộn xộn: mạnh ai vét được gì cứ vét cho riêng mình. Joss ướt sũng, mình trần, nổi bật giữa bọn thủ hạ.
Thủy triều bắt đầu rút. Không khí lạnh rợi, ánh sáng thôi nhảy nhót, tàn dần. Nước trở mầu xám cũng như bầu trời. Chúng vẫn hăng hái trong lúc bóng tối nhường cho ánh sáng, Joss kêu to chỉ cho đồng lõa thấy khung trời ngả sang mầu chì. Ai nấy đều tiếc rẻ những đám đồ đạc trôi lềnh bềnh trên nước. Chúng như không để ý đến thời gian qua mau. Chúng giật mình, vội vã hơn, sợ bình minh đến, bóng tối rút lui không che chở cho chúng nữa.
Joss mở trói cho cô gái. Lão chửi thề ầm ỹ khi thấy cô gái không đứng nổi, lão vác Mary lên vai như một gói hàng, các vết thương làm nàng đau đớn thêm.
Bọn cướp hối hả chất đồ đạc lên xe, vội vã cho đến nỗi sơ ý, bánh xe lọt vào hố và gãy bánh đánh rắc một tiếng. Chúng càng rối loạn thêm, cả bọn tranh nhau cái xe còn lại. Một tên tuân lệnh Joss đốt chiếc xe gãy để phi tang.
Lúc bấy giờ, tên nào có súng thì có lợi thế hơn hết. Joss cùng tên thủ hạ trung thành bắn bừa vào các tên khác đang xông tới để leo lên xe. Phát thứ nhất bị hụt, Joss bị bọn kia trả đũa bằng những viên đá nhọn, một viên trúng mắt Joss, phun máu, Joss gầm lên, bắn bồi hai phát tiếp, một tên trúng đạn, rú lên, ngã lăn xuống bùn. Harry bắn trúng cổ họng tên nữa, máu phun có vòi. Thấy hai bạn bị ngã, cả mấy tên còn lại sợ hãi rút lui, mạnh ai nấy chạy.
Joss và Harry gấp rút chất đồ đạc lên xe, cạnh Mary. Còn rất nhiều món có giá trị dưới bãi. Tuy vậy, chúng không dám xuống lấy vì sợ lộ.
Không biết hai tên bị bắn chết hay sống, Harry lôi chúng lại, vứt vào ngọn lửa thiêu xe. Merlyn lặng im cột ngựa rồi ra roi cho ngựa chạy.
Nằm trong xe, cô gái nghe tiếng sóng biển xa dần, gió cũng lặng. Cỏ ven đường không lay động. Trời xám sáng, mưa lất phất tạt vào mặt Mary. Xe chạy đều trên đường vắng. Bỗng một hồi chuông vọng lại ròn rã nhắc Mary nhớ ra: Hôm nay lễ Giáng Sinh!
CHương 9
CHƯƠNG 9
Mary cố nhớ xe mình đang ở đâu. Xe ngừng chạy, mưa thôi bay vào mặt nàng từ bao giờ? Nàng rên rỉ, quay nhìn hai bên: ra nàng đang nằm trong phòng, ở lữ quán. Nàng chán nản, không còn thiết sống. Nàng qua nhiều thử thách, nhưng chưa bao giờ xúc động đến mức này. Sức mạnh tinh thần và thể xác nàng như bị đập nát. Cô khóc rưng rức...
Bỗng dì cô hiện ra, đôi mắt buồn lo khổ sở. Hai người ôm nhau khóc lặng. Mary hỏi dì:
- Dì biết chuyện gì không?
Mắt dì nàng như van xin khẩn thiết nàng đừng hỏi.
- Cháu nằm mê hai ngày nay. Mình mẩy cháu đầy máu, dì tắm rửa cho cháu nhưng cháu không biết gì cả. Cảm ơn Chúa, cháu chỉ bị trầy trụa thôi. Giấc ngủ dài quá, nhung nhờ nó, cháu lại sức...
- Dì biết ai hành cháu tới mức này không?
Đau khổ làm Mary trở thành lạnh lùng độc ác.
Mặc dì nàng van vỉ, nàng kể lại đầu đuôi câu chuyện cho đến lúc nàng thấy dì nàng tái mét, run rẩy, nàng chợt hối, im bặt. Nàng đứng lên, thay quần áo. Dì nàng hốt hoảng:
- Cháu tính đi đâu? Chú đangngồi dưới nhà. Ông không để cháu ra khỏi cửa đâu.
- Cháu cóc sợ chú Joss. Cháu không sợ gì nữa.
- Mary! Dì van cháu! Chú ngồi dưới nhà, lăm lăm khẩu súng, cửa nẻo khóa hết. Rủi chú đánh cháu hay bắn cháu thì sao? Dì van cháu! Đừng.
Dì nàng quì xuống sàn nhà, nắm tay cháu hôn và khóc lặng, mặt dì ướt đẫm.
- Dì ơi! Vì thương dì, cháu chịu đựng đến mức này. Quá sức cháu rồi. Đừng hòng cứu chú ấy bằng nước mắt của dì. Cho đến lúc cháu chết, cháu không quên cảnh tượng trên bãi bể...
Giọng Mary càng lúc càng to lên, dì cô không ngớt van vỉ nhưng vô ích. Nàng không còn nghe dì nữa. Bỗng cửa phòng sịch mở. Joss thò mặt vào, vết thương ở mắt còn đỏ, áo quần bẩn thỉu, rách nát, bộ dạng bơ phờ :
- Mấy người có nghe gì không?
Dì Patience lắc đầu, Mary thì im lặng. Joss nhìn lơ láo ra ngoài, sợ hãi:
- Rồi ổng sẽ đến! Ta đã trái lệnh ổng. Chắc ta phải chết, cả mụ và mày nữa, Mary! Chết đến nơi rồi!
Lão ngừng lại nuốt nước bọt:
- Sao mấy người không ngăn tôi uống rượu? Sao không đập bể hết rượu đi? Sao không nhốt tôi lại? Trễ quá rồi ! Ổng sẽ giết hết cho coi!
- Chú nói gì? Chú sợ ai vậy?
Mary có cảm tưởng như Joss dưới quyền một kẻ nào nữa, nàng tò mò hỏi. Joss lắc đầu vênh mặt lên:
- Đừng hòng ta lộ bí mật này. Ta chưa say đâu. Cô, dì cháu cô đều kẹt dính vô đây. Chúng ta cùng số phận: một bên là pháp luật và bên kia, nhưng luật pháp không đáng sợ bằng...
Lão dừng lại bất ngờ:
- Thôi ta không ngu mà khai cho mi biết thêm, hãy đi ra, đây ẩm quá!
Lão lôi dì cháu nàng tuồn tuột xuống bếp. Lão ngồi bệt xuống ghế, châm lửa hút thuốc:
- Phải tìm kế thoát thân. Hai ngày nay, ta như chuột nằm trong bẫy. Chán quá! Mary cô vui dữ há? Đừng tưởng cô vô tội! Cô cũng sẽ bị treo cổ như ta và dì...
Dì Patience khe khẽ sờ vai chồng, thều thào:
- Tại sao ta không đi trốn? Đi Lauceston, Devon... Ta có thể đi suốt đêm về...
- Ngu! Đi bây giờ cho chúng tóm cổ hả? Mọi người đều biết chuyện đêm Noel hết... Cứ ở đây, không có bằng cớ gì để kết tội ta... Có thể chiều mai sẽ đi... Ừ, có thể.
* Mary không ăn uống, nàng lên phòng đóng cửa sớm, định sẽ trốn đi báo tin cho cha Davey. Nàng không đi được vì cửa phòng khóa ngoài, vả Joss biết thì nguy lắm.
Trước chiều mai thế nào nàng cũng phải đến Altarnun. Nàng sẽ hết trách nhiệm. Có người khác lo. Dì nàng sẽ khổ tâm, nhưng biết làm sao? Mary mong cho công lý được thi hành đứng đắn. Kẻ ác phải đền tội.
Nàng thích thú khi nghĩ đến lúc Joss bị còng tay dẫn đi...
Mary thiếp ngủ trong lúc mưa giông ồ ạt bên ngòai.
Một lúc sau, nàng tỉnh giấc, trời ngưng mưa, ngớt gió. Bỗng có ai ném đất vào cửa kính phòng. Ai? Hay người khác đáng sợ mà chú Joss chờ đợi đã đến? Nàng tò mò nhón chân lại bên cửa sổ nhìn ra thấy bóng đêm nhạt dần. Rồi nàng thấy nơi cổng lớn một người đàn ông: Jean Merlyn! Mary quên cả giữ gìn, reo lên một tiếng. Jean ra hiệu cho nàng im và khẽ nói:
- Xuống mở cửa cho tôi.
- Tôi bị nhốt trong này...
Jean sửng sốt nhìn Mary, rồi nhìn quanh:
- Cho tôi mượn cái chăn.
Mary hiểu ngay, nàng cột một góc chăn vào chân giường và thả đầu kia xuống. Bám vào chăn, Jean đu lên tường. Mary cố đẩy khung cửa sổ nhưng không được, Jean không thể nào chui vào phòng mà không đập vỡ khung kính.
- Đến gần đây, Mary! Tôi có chuyện nói.
Mary quì xuống sàn, thò mặt ra khung cửa. Jean mệt nhọc, mắt thâm quầng. Anh mất cả vô tư thường lệ:
- Xin lỗi cô, đêm Noel tôi đã bỏ rơi cô. Cô tha thứ cho tôi hay không tùy cô, tôi không thể giải thích...
- Tôi biết rồi. Tôi lo cho anh. Tôi không trách anh đâu.
- Tại sao cô bị nhốt?
- Chú Joss nhốt tôi, anh lạ lắm ư? Ông ta bảo sẽ trốn đi chiều mai. Ổng có vẻ đợi một kẻ nào đó và rất sợ hãi, ôm súng khư khư.
- Thật ư?
- Tôi nói dối anh làm chi?
Thốt nhiên, Mary có ý ngờ Jean là người khác đáng sợ của Joss. Nàng rùng mình tuyệt vọng, nếu quả thế thì... Ồ! không đâu, Jean vô tội. Nàng tự bào chữa cho người yêu, nàng nghĩ nên tin cho Jean hay thái độ Joss:
- Anh nên cẩn thận. Bữa nay ổng điên thật rồi đó, không chỉ say đâu...
- Tôi không sợ ảnh đâu.
Jean bỗng chăm chú nhìn cô gái, kêu lên thảng thốt:
- Mary! Mặt cô sao trầy trụa dữ vậy? Trời ơi ! Cô đau lắm không?
Mary gượng để khỏi khóc:
- Họ lôi tôi cùng đi, họ trói nghiến tôi, bịt miệng tôi, không cho tôi kêu cứu, tôi thấy hết... thấy hết mà không thể làm gì cứu vãn. Họ say khướt, có trên chục người...
Mary run bây bẩy, bưng mặt lại nhưng vẫn kể lại từ đầu câu chuyện. Sau cùng nàng kết luận:
- Jean! Anh Joss của anh không phải là người...
- Ảnh sẽ chết! Ảnh phải đền tội! Ảnh hành hạ cô... Lỗi tại tôi! Mary! Tha lỗi cho tôi nhé? Tôi còn đau hơn cô nữa, Mary ơi!
Lần thứ nhất, Mary thấy chàng trai bướng bỉnh vô tư nghẹn ngào như sắp khóc.
Anh vói nắm tay cô gái, vuốt nhẹ trên mặt cô giọng trìu mến, nồng nàn:
- Mary! Anh muốn chịu đau đớn thay em. Anh sẽ làm tất cả những gì em muốn. Anh quyết định rồi, dù có mất mạng, anh cũng không cần... Em sẽ thấy!
Mary chưa kịp nói gì thì Jean đã đu mình tuột xuống. Chỉ một giây sau, anh mất dạng.
Mary hồi hộp, nín thở vì xúc động. Nàng không chợp mắt được nữa. Nàng quyết định sẽ giả vờ tuân lời Joss. Đợi trong lúc không ai để ý, nàng sẽ chạy băng đồng đến Altarnun.
Sáng hôm sau ngày dài lê thê. Giữa ba người không khí như căng thẳng. Dì Patience đi lui đi tới thoăn thoắt từ hành lang đến cầu thang, dì gói ghém áo quần, xếp dọn xoong chảo, chai lọ... Đôi tay xanh xao run rẩy sờ hết vật này đến vật kia tháo ra, gói lại vẫn không xong. Mary cố giúp dì nhưng nàng biết công việc này vô ích. Tim đau nhói khi nghĩ đến lúc dì mất Joss. Merlyn thì nóng nảy chửi rủa vợ không ngừng, mỗi khi dì nàng làm rơi vật gì hay lúng túng vấp ngã. Lão ra vào, lên, xuống, nôn nả như có kiến đốt trong lòng, đăm đăm nhìn ra cửa, vẻ sợ hãi lộ rõ trên khuôn mặt bơ phờ.
Bữa trưa, họ ngồi lại bàn ăn, khác lệ thường, Joss uể oải không nuốt trôi.
Mary thu hết nghị lực, vờ hỏi Joss:
- Chú định rời đây vào lúc nào?
- Khi nào sẵn sàng...
Mary giúp dì thu dọn và khuyên dì nên mang theo giỏ thức ăn, giọng như ân cần nàng bảo Joss:
- Nếu đi tối tay, dì và cháu cần nghỉ trưa cho có sức...
- Muốn nghỉ thì nghỉ đi. Tối sẽ có việc cho hai người.
Mary mừng cuống. Nàng nán lại một chút cho lão khỏi nghi rồi nhẹ nhàng lui ra. Vô phòng xong, nàng khóa cửa liền. Tim nàng thình thình trong lồng ngực. Mary mặc cái áo dày nhất và quấn khăn choàng cẩn thận. Đoạn, nàng đến cửa sổ, kiên nhẫn đợi đồng hồ gõ bốn tiếng. Ít nhất cũng bảy giò Joss mới gọi nàng, trong ba giờ Mary có thể vừa đi vừa về kịp chán. Nàng chờ đợi một cách khổ sở.
Sau cùng, Mary đứng lên, mở cửa nghe ngóng động tĩnh. Rồi nàng vào phòng, khóa cửa và chui ra bằng cửa sổ, tuột xuống như Jean. Quay lưng lại lữ quán, cô gái thoăn thoắt vừa chạy, vừa đi.
Trời thật tốt, hai bên đường đồng hoang trải dài, núi đá mờ mờ trong làn sương mỏng. Mọi vật yên tĩnh. Nàng vững lòng bước tới, bước tới...
Đến ngã năm, cô rẽ qua trái và đổ dốc. Altarnun phía dưới kia. Mary xúc động khi đi ngang những căn nhà bên trong tràn ánh sáng, ấm cúng và yên lành. Nhiều tiếng quen thuộc khác an ủi cảm quan nàng: tiếng chó sủa, tiếng lá reo, tiếng nước từ miệng gàu do bàn tay nào xách lên khỏi giếng. Có cả tiếng trò chuyện từ bên trong thoát ra, tiếng gà cục cục sau rào. Một cái xe đi ngang và tên phu xe vui vẻ cất mũ chào thiếu nữ. Không khí lương thiện an lành trùm khắp không gian.
Nhà cha phó không một đốm sáng, mọi vật như chìm trong giấc ngủ say. Mary hấp tấp kéo chuông, thật lâu không có ai ra. Hay là hôm nay chúa nhật, cha bận bên nhà thờ? Mary lui ra, nàng gặp một thiếu phụ từ nhà thờ bước ra, tay ôm bó hoa. Bà ta nhìn Mary chăm chú rồi thấy nàng là người lạ, bà gật chào và đi luôn. Mary gọi lại hỏi:
- Xin lỗi bà, bà vừa ở nhà thờ ra? Bà có thấy cha Darvey không?
- Không! Cô muốn gặp cha?
- Vâng! Có việc rất quan trọng... bà có thể giúp tôi?
- Tiếc quá: cha đi vắng, cha bận giảng ở một họ đạo xa. Chiều nay cha không về Altarnun.
Mary bàng hoàng vì thất vọng. Nàng gặng:
- Cha đi vắng sao? Đâu có lý? Bà biết chắc ư?
Người đàn bà phật ý, cau mặt:
- Cha rời đây trưa qua. Đi bằng ngựa. Tôi không biết thì ai biết? Tôi giữ nhà cho ngài mà...
Chợt bà dịu giọng vì đọc thấy sự lo âu trên mặt cô gái:
- Cô có thể viết giấy để lại, tôi trình lại ngài...
Mary chán ngán lắc đầu:
- Sẽ quá trễ. Trời ơi! Tôi biết làm sao đây...
- Có người ốm nặng? Tôi có thể chỉ nhà bác sĩ. Cô ở đâu?
Mary không trả lời, cô nóng nảy hỏi:
- Gần đây có quan tòa nào không?
- Gần đây thì không. Có ông Bassat ở North Hill. Cách đây bốn dặm, cô đi sao nổi?
- Tôi phải đi gấp. Đường có khó đi không, hở bà?
- Không khó. Cô chỉ việc dọc theo đường Launceston cỡ hai dặm rồi quẹo phải. Nhưng con gái mà đi đêm hôm bất tiện lắm. Cô nên ở lại, chờ cha về, tốt hơn.
- Cảm ơn bà, nhưng tôi không thể đợi. Nhờ bà thưa lại cha có Mary Yellan đến tìm cha...
Rồi nàng cắm cổ chạy tràn mặc người đàn bà ngơ ngác nhìn theo, thương hại.
CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 10
Mary rụt rè bấm chuông. Chó sủa dữ dội, rồi tiếng chân lạo xạo trên sỏi và cổng hé mở; một gã đàn ông lực lưỡng quát chó im đoạn nhìn sững Mary. Nàng nói mau:
- Tôi cần gặp ông Bassat có việc gấp. Việc quan trọng nên tôi mới làm phiền vào giờ này.
- Chủ tôi đi Launceston sáng nay có chuyện gấp, chưa về.
- Trời ơi! Nếu tôi không gặp ông ấy thì tên sát nhân sẽ trốn mất. Tôi cầu cứu ai bây giờ? Bác có thể giúp tôi chăng? Van bác...
- Có bà ở nhà. Tôi đưa cô vô gặp bà nghe? Đừng sợ chó, không sao.
Mary đi theo người đàn ông như đi trong mơ. Nàng bất lực, gặp rủi, không hoàn thành ý định được.
Phòng đọc sách của bà Bassat ấm cúng và rộng rãi. Nàng nhận ra người thiếu phụ mua ngựa đang đọc sách cho hai con nghe, bà ngồi trong ghế bành trước lò sưởi.
Kinh ngạc nhìn Mary, bà không thốt một lời nào. Gã đàn ông nhanh nhẩu:
- Cô này có tin quan trọng báo ông. Tôi đưa cô vào gặp bà.
Mary bình tĩnh lại:
- Tôi xin được nói chuyện riêng với bà.
Bà Bassat quay sang hai con nói nhỏ vài câu và đứa mắt cho tên người nhà. Cả ba cùng lui ra. Giọng bà nhẹ nhàng:
- Nào! Tôi có thể giúp chi cô? Nom cô xanh và mệt quá... Cô hãy ngồi kia...
- Xin bà cho biết ông về lúc nào?
- Tôi cũng chả biết được điều này. Tôi đang lo đây; nếu tên sát nhân chống cự, tôi e nhà tôi bị thương dù là có lính theo...
- Thưa bà, bà nói thế nghĩa là sao? - Mary hốt hoảng hỏi dồn.
- Nhà tôi đến lữ quán Giao Mai. Cô là người lạ, cô không biết chuyện này. Tên Joss Merlyn phạm nhiều tội ác nhưng đến nay mới có bằng cớ rõ ràng, nhà tôi theo dõi từ lâu. Nhà tôi đến Launceston xin thêm lính...
Bỗng, bà tái mặt, lùi lại, kêu lên giọng thất thanh:
- Hình như...thôi, phải rồi; nhà tôi có nói đến một người con gái, cháu Joss, có phải chính cô không? Cô muốn gì?
Khuôn mặt Mary trắng bệch cũng như bà chủ nhà:
- Xin bà yên tâm, quả thật tôi là cháu vợ của Joss...tôi cũng ghét và sợ ông ta như mọi người. Tôi đến đây để báo tin cho ông Bassat biết Joss định trốn đi chiều nay. Tôi có bằng cớ buộc tội ông ấy... nhưng tôi thật vô ích...
Mary ngồi xuống, chán nản, thờ thẫn; nàng e là Joss khám phá ra sự vắng mặt của nàng, sẽ đi trước giờ dự định. Thế là hỏng. Đáng ra, nàng cứ ở yên...
Hai tay bưng mặt, Mary nói gần như không ra tiếng:
- Tôi đã làm một việc điên rồ...
Bà Bassat đến gần cô gái, đặt tay lên vai nàng:
- Cô có vẻ lương thiện và thành thực. Xin lỗi, thoạt đầu tôi đã ngờ oan cô. Cô can đảm lắm, đêm hôm thế này mà cô chịu khó đến đây, nếu là tôi chắc tôi điên lên vì sợ. Tôi sẵn sàng giúp cô, nhưng cô cần gì đây?
- Thưa bà, chắc ông nhà sẽ nổi giận vì tôi ngu dại bỏ đi đến đây làm cho chủ quán đoán biết, trốn đi sớm hơn, hỏng việc của ông...
- Không sao, cô đừng lo, tôi sẽ nói giúp cô.
- Thưa bà, làm sao ông biết được việc này bất ngờ như vậy?
- Tôi không rõ lắm. Sáng nay có người đến tìm nhà tôi, ông chỉ nói sơ qua với tôi. Thôi, cô đừng bận tâm, quên nó đi. Cô đói lắm phải không?
Bà đến giật chuông, người đàn ông ban nãy thò mặt vào và bà chủ dặn anh ta dọn bữa cho Mary.
Cô cố ngồi ăn, nhưng đầu óc quay cuồng. Bà Bassat muốn nàng quên nỗi lo lắng, không ngớt nói chuyện, bà không ngờ càng làm cô gái bứt rứt thêm. Khi đồng hồ gõ 8 tiếng, Mary không kiên nhẫn nữa. Ngồi yên lúc này với nàng còn khổ hơn bị rượt đuổi, nàng nhớ đến nguy hiểm đang chờ dì ở Giao Mai. Mary đứng lên:
- Thưa bà, tôi cảm ơn lòng tốt của bà, nhưng tôi không thể ngồi đợi được. Tôi lo cho dì tôi quá...Tôi muốn trở lại lữ quán...
- Tôi cũng hiểu vậy. Tôi muốn giúp cô quên chuyện này trong giây lát. Tôi cũng lo cho nhà tôi quá. Cô trở lại đó một mình sao được?
Bà nhìn Mary vẻ thương cảm rồi lại nói:
- Hay là tôi bảo Richards đánh xe đưa cô đi? Anh ta khôn lắm. Nếu đến chân đồi mà thấy trên đó đang đánh nhau thì đừng lên, phải chờ cho yên đã. Tôi cũng muốn đi với cô, nhưng sức khoẻ tôi kém lắm.
- Vâng! Cảm ơn bà. Tôi đi được, thế thì tốt quá. Tôi không sợ gì cả, nếu một mình, tôi cũng phải đi...
Bà chủ rung chuông gọi gia nhân:
- Bảo Richards đem xe ra, nhanh lên!
Đoạn, bà lấy cho cô gái một cái áo choàng dày cộm và cái chăn. Bà không ngớt nói lấy làm tiếc không cùng đi với Mary được. Trái lại, cô gái rất mừng mà thấy bà không đi, nàng sợ có bà, cuộc hành trình sẽ bị chậm trễ. Richards, tên gia nhân - từng đến lữ quán một lần trước đây - ban đầu nom có vẻ bực bội, nhưng khi nghe rõ nhiệm vụ, lấy làm hài lòng. Với hai khẩu súng lục kèm hai bên hông, anh ta được lệnh bắn vào kẻ nào cản trở hay đe dọa hai người. Nom anh ta có vẻ oai vệ hơn bao giờ.
Mary leo ngồi cạnh anh. Bầy chó sủa vang lên như từ biệt họ. Mary bằng lòng và tỉnh táo trở lại.
Song khi xe ra khỏi cổng, căn nhà khuất dạng nàng mới cảm thấy nàng đã liều lĩnh mà trở lại Giao Mai; nàng đi vắng 5 giờ liền, cái gì đã xảy ra? Tuy nhiên, cô không hối về quyết định này, cô cũng không tính toán gì cả, sẽ tùy cơ ứng biến.
Trăng lên cao, gió tạt vào mặt lạnh buốt. Biết rằng mình lao vào hiểm nguy, Mary vẫn dễ chịu hơn ngồi trong căn nhà ấm cúng chịu chuyện bà Bassat. Richards có mang vũ khí, nàng cũng biết sử dụng khi cần. Mỗi khi anh ta gợi chuyện, nàng chỉ trả lời vắn tắt. Tâm trí nàng đang gởi ở Giao Mai; nơi dì nàng đang lâm nguy.
Suốt cuộc hành trình, vó ngựa vang đều đặn. Trăng chiếu sáng khiến con đường ngoằn ngoèo như một dải băng trắng trong đêm, hai bên đồng hoang vắng lặng.
Rồi quanh họ càng hoang vu, trống trải khi xe lên dốc. Gió lạnh như cắt, mang theo mùi sình lầy và cỏ dại trong gió. Không một dấu vết gì chứng tỏ có xe hay người trừ xe chở Mary và Richards. Có tiếng cú rúc đâu đó vàng tăng vẻ rùng rợn, bí mật. Richards cất tiếng xé tan yên lặng:
- Chúng ta sẽ gặp họ tại lữ quán. Cô sẽ thấy chủ quán bị trói chặt hai tay đang nguyền rủa chủ tôi. Thế nào dân chúng quanh đây cũng mở đại tiệc ăn mừng. Được tự tay trói Joss chắc chủ tôi thích lắm.
- Nhung nếu lão thoát được thì sao? Lão thạo đồng hoang như lão biết bàn tay có mấy ngón...Tôi lo quá...
- Chủ tôi cũng sinh trưởng tại đây. Nếu có một cuộc săn đuổi trên đồng, tôi cá là chủ tôi sẽ thắng. Gần 50 năm, ông săn bắn trong vùng, một con chồn cũng khó thoát khi ông muốn bắt. Nhưng cô đừng lo; tôi tin là con mồi sẽ bị thộp tại hang. Ông trời có mắt.
Mary im lặng nghe Richards nói, tiếng nói anh ta không làm nàng chán và mệt như những mẩu chuyện của bà Bassat. Cái lưng rộng và khôn mặt lương thiện của anh giúp nàng vững dạ.
Xe đang ở dưới chân dốc dẫn đến lữ quán Giao Mai. Trên đỉnh đồi, các ống khói đen xuất hiện. Richards đưa tay sờ vào súng và tằng hắng. Tim cô gái đập loạn trong ngực, cô nắm chắc thành xe. Vó ngựa mới to làm sao. Richards bảo:
- Cô ngồi yên đây, để tôi lên xem họ đến chưa?
- Không được. Anh không biết bằng tôi. Anh theo sau tôi hay đợi, có gì tôi sẽ kêu anh. Im lặng kiểu này, tôi e là ông Bassat chưa dẫn lính đến và chủ quán trốn rồi. Nếu không, lão còn trong nhà. Cho tôi mượn khẩu súng. Tôi không sợ gì đâu...
- Nếu cô chạm mặt lão và tôi không nghe được tiếng cô kêu thì sao? - Richards nói - Lạ quá, đáng ra phải có tiếng reo hò, tiếng súng nổ mới phải. Ta nên chờ...
- Tôi sốt ruột quá rồi. Muốn điên lên. Thà chạm mặt với kẻ ác, hơn là chờ đợi. Tội nghiệp dì tôi, bà vô tội, anh Richards ạ!
Ngừng lại thở, rồi Mary tiếp:
- Anh hãy tin tôi, tôi quen với hiểm nguy rồi. Có gì tôi sẽ bắn lên một phát cho anh hay. Tôi không chui đầu vào bẫy. Không nên vô một lượt cả hai...
Nàng cầm lấy khẩu súng trong khi Richards còn do dự.
* Mary hy vọng là Joss đã trốn rồi, như vậy câu chuyện chấm dứt êm thắm. Vùng này sẽ tránh được sự phiền nhiễu do lão gây ra. Lão sẽ làm lại cuộc đời hay say sưa cho tới chết. Lúc này, Mary không mong lão bị bắt nữa. Trả thù làm gì? Nàng đã tỏ ra mạnh dạn trước Richards nhưng bây giờ nàng cũng lo phải chạm mặt Joss. Mary cảm thấy lạnh xương sống khi nghĩ đến lão hiện ra, mắt đỏ ngầu...
Ngừng lại trước sân, Mary nhìn nhớn nhác xung quanh và khi thấy ngay sau nàng có Richards và cỗ xe, nàng vững lòng bước tới.
Sân trống rỗng, chuồng ngựa đóng kín. Lữ quán im lìm, tối om như cách đây 7 tiếng đồng hồ, khi nàng ra đi. Không có vết bánh xe cũng như dấu vết hành lý. Cửa sổ phòng nàng vẫn y nguyên. Mary đợi một lúc, có tiếng ngựa hí và dậm chân trong chuồng. A! Ra họ chưa đi?
Tim Mary như thắt lại, nàng không biết nên quay lui với Richards đợi lính và ông Bassat đến, hay cứ vào? Lạ quá; nếu định đi, lão đã đi rồi mới phải chớ? Tình cảnh trở nên lạ lùng, khó hiểu.
Mary núp ở cổng, nghe ngóng, rồi đánh bạo vặn quả nắm, cửa khóa chặt. Nàng vòng ngã sau, ngang quầy rượu rồi đến bếp. Đứng bên cửa sổ, Mary dán mắt vào nhưng không một tia sáng chiếu ra. Bếp tối om như đáy giếng sâu. Thử vặn qua nắm, Mary kinh ngạc thấy cửa không khóa.
Mary rợn người, toan lùi lại; nếu Joss ngồi trên ghế, hườm sẳn súng chờ nàng? Ừ! Nàng có súng đấy, song quả tình, Mary không tin tưởng tài sử dụng súng của mình. Nhưng Mary không lùi được nữa, thà chạm mặt cái chết hơn là bị dí súng sau lưng. Mary chậm rãi thận trọng thò đầu vào.
Không một tiếng động; tro tàn gần hết trong lò sưởi. Mary đoán là không có ai trong bếp từ nhiều giờ qua, mạnh dạn đẩy cửa bước vô.
Mắt quen dần với bóng tối, Mary nhận rõ hình dạng mọi vật bên trong. Trên bàn có mẩu nến, nàng dí vào lò sưởi đốt lên, soi quanh. Hành lý la liệt; quần áo của dì nàng, xoong chảo, nồi niêu...Mấy cái chăn da bừa bãi, chưa cuốn gọn.
Trong góc, khẩu súng trường còn treo chỗ cũ. Chắc họ đổi; nán lại thêm một ngày nữa? Cửa hành lang mở toang, im lặng đầy đe dọa. Có gì thay đổi, Mary cảm mà không nhớ rõ. Nàng đứng im, cố trấn an và hồi tưởng lại. Và chỉ một phút sau Mary hiểu ngay sự khác thường đó; không có tiếng tích tắc đều đặn của cái đồng hồ!
Mary bước ra hành lang, tay cầm đèn, tay kia khư khư khẩu súng. Đến cửa phòng khách, Mary thấy cái đồng hồ treo đối diện cửa phòng khách rơi xuống từ hồi nào, úp mặt kính vỡ xuống đất và mảnh vỡ văng tung tóe.
Và rồi, Mary suýt ngất đi; Joss Merlyn, chính lão, mặt úp xuống giữa mảnh vỡ, hai tay giơ cao, một tay bám cái đồng hồ, hai chân duỗi thẳng, nom Joss to lớn dị thường.
Trên nền nhà vết máu loang lổ, giữa hai vai chủ quán cũng có vết máu đen và khô, chỗ bị đâm. Joss bị đâm lén sau lưng, trước khi ngã gục đã chồm đến, kéo theo cái đồng hồ?
Ông chết cứng rồi!
Mary đứng sững không biết là bao lâu. Tất cả oán ghét thù hận trong lòng nàng tiêu tan.
Mắt nàng vẫn dán chặt vào xác chết bất động và những mảnh kính vỡ đẫm máu.
Ánh đèn chiếu yếu ớt trên vách, trên lầu vẫn tối om. Mary không thể nào bước thêm một bước. Không khí trong lữ quán hôm nay đã thật sự nhuộm mùi máu, lạnh lẽo rợn người. Nàng cố gắng để không thét lên hay chạy trốn.
Mary rùng mình, tưởng sắp ngã khụy, nàng cố gắng để không buông rơi đèn, cho bóng tối vây phủ quanh nàng. Hai chân như bị chôn chặt xuống đất. Gió lung linh ngọn nến trên tay...
Sau cùng, Mary nghĩ; Joss đã chết, đâu hại mình được mà sợ nữa? Nhưng nàng vẫn chạy biến như ma đuổi sau lưng...
* Mary chạy như điên, miệng ú ớ không ra lời. Richards đưa hai tay đón nàng. Mary nắm tay anh như tìm sự che chở, răng và nhau cầm cập, toàn thân run rẩy. Một lát sau, nàng hổn hển nói đứt quãng:
- Joss chết rồi! Chết... thật rồi, tôi thấy ổng nằm dài dưới đất... Bị đâm sau lưng... máu loang khắp... Có lẽ chết lâu rồi... Tối om trong đó... Không còn ai hết...
Người đàn ông tỉnh táo hơn:
- Còn dì cô đâu?
- Tôi không thấy dì tôi... Hãi quá, tôi e là...
Richards dịu dàng đỡ cô gái lên xe và ngồi cạnh nàng:
- Lỗi tại tôi, đã xiêu lòng để cô vô một mình. Bình tĩnh lại đi! Nào! Cô Mary !
Mary trấn tĩnh rất nhanh, cô bảo anh ta:
- Ngựa còn trong chuồng. Hành lý vẫn ngổn ngang...
- Lạ thật, sao ông Bassat chưa đến?
Cả hai đều mong ông đến. Richards thắc mắc:
- Ai giết lão kia? Trong vùng, ai cũng ghét lão, nhưng giết lão thì...
Sau đó, anh im lặng. Cả hai đều không dám lên tiếng trước, Richards vì tế nhị, còn Mary thì vì... sợ. Nhưng sau cùng nàng lên tiếng:
- Chắc dì tôi cũng chết rồi.
- Không đâu. Có thể bà trốn đi cầu cứu cũng nên...
- Không. Tôi biết dì tôi, bà không bao giờ tố cáo chồng. Trời ơi, nếu tôi đừng đi tố cáo ông ta, có lẽ dì tôi sống được...
Richards không biết dùng lời gì an ủi cô gái. Anh chỉ mong chủ đến, trong lúc chờ đợi, anh khoác áo choàng vào cho Mary, âu yếm như đối với một em nhỏ.
Bỗng Mary kêu lên:
- Anh nghe kìa! Có vó ngựa.
Richards lắng tai và reo lên:
- Đúng rồi, chủ tôi đến.
Một phút sau, người kỵ mã đầu tiên hiện ra như một chấm đen trên con đường trắng, rồi người nữa và nhiều người nữa. Tiếng động to dần. Richards chạy bay về phía họ, la ầm ỹ, tay vẫy lia lịa.
Ông Bassat - người kỵ mã đầu tiên - kinh ngạc kêu lên:
- Richards! Làm gì đây?
- Thưa, Joss Merlyn chết rồi, lão bị ám sát. Bà sai tôi tới đây, cùng cô bé cháu vợ lão...
Vừa giữ ngựa cho chủ xuống, anh ta vừa kể lại câu chuyện. Ông Bassat nói:
- Hắn chết không đáng tiếc. Ta chỉ tiếc không được chính tay ta còng hắn lại thôi. Nào, các anh vào trước, ta cần hỏi chuyện cô bé này!
Ông kinh ngạc khi biết Mary vượt ngần ấy đoạn đường đến báo tin cho ông, nhưng ông cũng nghiêm nghị trách nàng:
- Tại sao khi tôi đến, cô lại nói dối tôi? Bảo không biết gì cả? Tôi ngờ là cô đồng lõa với quân gian...
- Tôi vì dì tôi. Vả lại, lúc đó tôi cũng chưa biết gì nhiều bằng bây giờ.
Ông tòa nhìn cô gái từ đầu chí chân, giọng ông dịu xuống:
- Dù sao, cô rất đáng khen. Nhưng cô kiệt sức rồi, hãy ngồi trên xe mà nghỉ chân!
Rồi ông gọi Richards lại dìu Mary lên xe.
* Sân chìm trong bóng tối, giờ sáng rực, tiếng ngựa hí, tiếng người nói chuyện vang lên. Trong một chốc, các cửa nẻo mở toang. Rồi có tiếng người nói to:
- Còn một xác chết trên lầu nữa !
Mary tái mét, nhắm nghiền mắt. Giọng ông Bassat vọng lên bên tai:
- Có tin buồn cho cô ! Mary ! Nhưng tôi tin là dì cô không phải đau đớn; bà chết liền tại cửa phòng, bà cũng bị đâm như Joss. Tôi xin chia buồn cùng cô.
Mary mở bừng mắt. Ông Bassat đứng cạnh nàng, buồn rầu nhắc đi nhắc lại rằng dì nàng chết ngay không phải đau đớn...
Mary ngồi im, nàng cầu nguyện cho dì tìm được sự giải thoát bình yên, nàng xin dì tha thứ cho nàng, cho hành động nàng, hiểu lòng nàng. Nàng mong mẹ nàng đón lấy dì. Những ý nghĩ ấy an ủi Mary chút đỉnh, vì cô gái vẫn cho là dì nàng chết vì mình.
Rồi nàng nhớ lời Jean: "Tôi chưa hề giết người" và lời bà thầy bói : "Tay anh sắp đẫm máu. Anh sẽ giết người". Những điều này, tuy rời rạc nhưng đều như tố cáo Jean, có thể lắm, vốn ghét anh sẵn, Jean dám phạm tội sát nhân...
Tởm quá! Trời ơi! Giá nàng đừng đi! Nàng sẽ chết luôn. Nàng chả hối tiếc gì. Tởm quá! Người nàng yêu...
Hừ! Bây giò nàng chỉ khẽ nói với ông Bassat:
"Tôi biết kẻ giết người!" và đưa ông cùng đoàn tùy tùng đến nhà Jean...Dễ quá, nhưng tại sao nàng do dự?
Bỗng có tiếng vó ngựa thật gấp rồi đều đặn, hòa hưỡn trước quán. Cũng như mọi người, Mary hồi hộp, chờ đợi.
Ông Bassat bước ra khi người kỵ sĩ ngừng lại:
- Nhân danh đức vua, tôi hỏi anh làm gì trong đêm tối trên con đường này?
Người kia kéo cương ngựa, bước vào. Khi ông cúi xuống, Mary thấy mớ tóc trắng toát quen thuộc và giọng ông dịu dàng, chậm rãi như thường lệ:
- Ông là ông Bassat ở North Hill? Mary Hellan đến cầu cứu với tôi, nhưng tôi đến quá trễ...tôi là cha phó xứ Altarnun.
* Mary ngồi lặng trong phòng ăn nhà cha xứ. Mọi người quá tốt với nàng, nhất là ông Bassat, ông vỗ về nàng như dỗ đứa trẻ con:
- Cô hãy quên mọi sự. Không bao lâu kẻ giết dì cô sẽ đền tội. Và khi nào cô khuây khỏa, muốn đi đâu, làm gì, tôi sẽ giúp cô được như ý. Cô đã làm hết sức cô, không có gì đáng trách.
Mary không nghe gì, không thấy gì mà cùng không thiết gì. Cô không tự quyết định gì. Khi cha Davey đề nghị để đưa nàng về nhà ông, thì ai cũng hài lòng.
Nếu Mary là đàn ông, mọi sự chắc khác hẳn. Người ta buộc cô đến Bodmin hay Launceston để ra tòa. Nàng sẽ lo lấy chỗ ở nơi ăn và khi xong mọi thủ tục cần thiết, cô sẽ cút xéo đi đâu tùy ý, không ai quan tâm đến.
Nhưng tối qua, người ta vội vã đưa cô ra khỏi lữ quán, nơi xảy ra án mạng. Lại đối xử hết sức tử tế, dịu dàng. Và mọi người cho là cô đến nhà cha phó thật đúng thật phải, không có cách nào hơn.
Một giờ đêm, cha phó đưa Mary về đến nhà. Cha gọi bà giúp việc đậy, dọn giường cho cô gái. Bà đốt lửa, trải giường, hơ ấm áo ngủ cho Mary. Nàng sắp thiếp ngủ thì một giọng êm ái và cương quyết nâng đầu nâng lên:
- Hãy uống cái này, Mary!
Cha Francis đứng trên đầu giường, tay bưng ly nước, nhìn nàng bằng đôi mắt thủy tinh, không biểu lộ gì hết, ra lệnh.
Mary lặng lẽ vâng lời. Nhờ chất thuốc an thần trong ly, Mary ngủ một giấc liền 14 tiếng đồng hồ.
Mary không biết gì những diễn tiến trong khi nàng ngủ.
Khi nàng tỉnh dậy, cha Francis vắng mặt. Mary lại nghĩ đến tội ác Jean, lại đau đớn vì cái chết của dì. Nàng đi ra, đi vào nóng nảy, nôn nao, chỉ mong cha phó trở về. Nàng sẽ kể hết, kể hết. Jean sẽ bị treo cổ đền tội như anh. Nàng sẽ trở về Helford, nhưng lòng tan nát, can đảm tiêu tan...
Mary biết mình không thể yêu ai khác nữa, ngoài Jean. Định mệnh tàn khốc quá!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro