LS HTKT 1
Bài giảng Lịch sử các học thuyết kinh tế
Chương 1: Đối tượng và phương pháp của môn lịch sử các học thuyết kinh tế
1. Giới thiệu: mục đích yêu cầu và nội dung của môn học
- Hiểu được đối tượng nghiên cứu của môn học, phân biệt với các môn học có liên quan và môn kinh tế học
- Hiểu được các phương pháp chủ yếu để nghiên cứu môn học này
- Hiểu được sự cần thiết phải nghiên cứu môn học
2. Đối tượng nghiên cứu của môn lịch sử các học thuyết kinh tế:
2.1. Phân biệt một số khái niệm:
a. Tư tưởng kinh tế:
Là những quan hệ kinh tế được phản ánh vào trong ý thức của con người, được con người quan niệm, nhận thức, khái quát; là kết quả của quá trình nhận thức những quan hệ kinh tế của con người.
b. Học thuyết kinh tế:
Là hệ thống quan điểm kinh tế của các đại biểu tiêu biểu cho các tầng lớp, giai cấp trong một xã hội nhất định. Hệ thống quan điểm kinh tế là kết quả của việc phản ánh quan hệ sản xuất vào ý thức con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Vậy học thuyết kinh tế có gì khác biệt so với tư tưởng kinh tế?
- Tính hệ thống: Những quan điểm kinh tế chưa trở thành hệ thống thì chỉ là tư tưởng kinh tế. Tính hệ thống thể hiện ở tầm khái quát, nhất quán của học thuyết, có khả năng khái quát các quan hệ kinh tế với đầy đủ các thành phần của quan hệ kinh tế trong cả một thời đại. Ví dụ học thuyết của Adam Smith so với các tư tưởng kinh tế được thể hiện rải rác trong các điều luật từ cổ đại đến nay (như tư tưởng kinh tế Hy Lạp cổ đại)
- Tính giai cấp: Các học thuyết kinh tế có tính giai cấp rất sâu sắc. Sự đấu tranh về mặt quan điểm, lý luận giữa các trường phái khác nhau trong lịch sử các học thuyết kinh tế phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, hệ tư tưởng kinh tế của giai cấp thống trị thường giữ vai trò chủ đạo. Do đó khi khái quát về các học thuyết kinh tế, ta cần có thái độ trung thực, khách quan. Hơn nữa, lý luận kinh tế đã trở thành vũ khí tư tưởng quan trọng của đấu tranh giai cấp. Ví dụ: học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin
- Tính lịch sử: tuy cả tư tưởng kinh tế và học thuyết kinh tế đều mang ý nghĩa lịch sử, nhưng tính lịch sử ở các học thuyết kinh tế thể hiện rõ hơn, có sức khái quát cao hơn. Lịch sử phát triển của học thuyết kinh tế là lịch sử của quá trình phát triển nhận thức từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Do đó không có một học thuyết nào là tuyệt đối, hoàn mỹ, cuối cùng cả.
c. Kinh tế chính trị:
Kinh tế chính trị nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của một phương thức sản xuất nhất định và tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất đó bằng một phương thức sản xuất khác cao hơn. (Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hện sản xuất tạo thành phương thức sản xuất)
d. Kinh tế học:
Kinh tế học nghiên cứu vấn đề con người và xã hội lựa chọn thế nào thế nào để sự dụng nhiều nguồn tài nguyên khan hiếm một cách hiệu quả nhất để đemlại phúc lợi cao nhất cho xã hội.
Như vậy kinh tế học đã bỏ qua khía cạnh chính trị của kinh tế.
ð Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn khoa học xã hội nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển, đấu tranh và thay thế lẫn nhau của hệ thống quan điểm kinh tế của các giai cấp cơ bản trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
2.2. Đối tượng nghiên cứu của môn học:
Là hệ thống các học thuyết kinh tế của các trường phái khác nhau gắn với các giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong quá trình nghiên cứu phải chỉ ra những cống hiến, giá trị khoa học của mỗi học thuyết cũng như phê phán một cách khoa học những hạn chế mang tính lịch sử của các trường phái, học thuyết kinh tế.
Nghiên cứu môn học này đòi hỏi không chỉ dừng ở cách mô tả mà phải đi sâu vào bản chất của vấn đề, tìm hiểu quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp mà các học thuyết này phục vụ. Cụ thể:
- Trong điều kiện nào nảy sinh lý luận của học thuyết
- Nội dung, bản chất giai cấp của học thuyết
- Hiểu được phương pháp luận của trường phái đề xuất học thuyết
- Hiểu được sự vận động và phát triển có tính quy luật của học thuyết
3. Phương pháp nghiên cứu:
Nguyên tắc chung: nghiên cứu có hệ thống các quan điểm kinh tế, đánh giá đúng công la ova hạn chế của các học thuyết kinh tế trong lịch sử. mặc khác phản ánh khách quan tính phê phán vốn có của các học thuyết kinh tế, không phủ nhận tính độc lập tương đối của các học thuyết kinh tế và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
3.1. Phương pháp biện chứng duy vật:
Khi nhận thức đối tượng nào đó:
- luôn đặt đối tượng trong mối liên hệ với những cái khác, và
- luôn đặt đối tượng trong trạng thái động
3.2. Phương pháp logic kết hợp lịch sử
Phương pháp này đòi hỏi khi nghiên cứu các quan điểm kinh tế phải gắn với lịch sử, phải phân chia thành các giai đoạn phát triển của chúng, không dùng tiêu chuẩn hiện tại để đánh giá ý nghĩa của các quan điểm kinh tế đó.
3.3. Một số phương pháp khác
Phương pháp phân tích tổng hợp đối chiếu so sánh.. nhằm đánh giá công lao, hạn chế, tính kế thừa và phát triển của các trường phái kinh tế trong lịch sử
4. Chức năng và ý nghĩa của việc nghiên cứu môn học này
4.1. Chức năng:
- Chức năng nhận thức: lịch sử các học thuyết kinh tế nghiên cứu và giải thích các hiện tượng, các quá trình kinh tế nhằm phát hiện ra các phạm trù, quy luật kinh tế khách quan của các giai đoạn phát triển nhất định. Từ đó giúp cho việc nhận thức lịch sử phát triển của sản xuất nói riêng và lịch sử xã hội loài người nói chung.
- Chức năng thực tiễn: nhận thức là nhằm phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người. Lịch sử học thuyết kinh tế còn chỉ ra các điều kiện, cơ chế hình thức và phương pháp vận dụng các học thuyết kinh tế vào thực tiễn để đạt hiệu quả cao nhất.
- Chức năng tư tưởng: Thể hiện tính giai cấp của các học thuyết kinh tế. Mỗi học thuyết kinh tế đều đứng trên một lập trường nhất định , bảo vệ lợi ích của giai cấp nhất định, phê phán hoặc biện hộ cho một chế độ xã hội nhất định.
- Chức năng phương pháp luận: Cung cấp cơ sở lý luận khoa học cho các môn khoa học kinh tế khác như kinh tế chính trị, kinh tế học ..., cung cấp tri thức làm cơ sở cho đường lối chính sách kinh tế của các nước.
4.2. Ý nghĩa:
Lịch sử các học thuyết kinh tế giúp người học hiểu sâu hiểu rộng , hiểu có nguồn gốc và hệ thống về những vấn đề kinh tế nói chung và kinh tế chính trị Mác - Lênin nói riêng. Mặc khác còn giúp cho việc nghiên cứu các vấn đề kinh tế hiện đại.
Chương II: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương (mercantilism)
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời trước hết ở Anh (vì sao???) vào khoảng giữa thế kỷ 15, phất triển đến giữa thế kỷ 17 và sau đó suy tàn. Chủ nghĩa trọng thương ra đời trong bối cảnh phương thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời.
- Về mặt lịch sử:
Sau đêm trường Trung cổ, đây là thời kỳ sơ khai của tích lũy tư bản (bằng cách tước đoạt bạo lực nề sản xuất nhỏ và tích lũy tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu Âu bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương) (minh học bằng hình ảnh)
- Về kinh tế:
Kinh tế hàng hóa phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản xuất, tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực. Thương nghiệp có vai trò rất to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thương nghiệp.
- Về chính trị:
Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, là giai cấp tiên tiến (so với tầng lớp quý tộc phong kiến) có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến.
- Về phương diện khoa học tự nhiên:
Những phát kiến mới về mặt địa lý Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ... đã đem lại nhiều vùng đất thuộc địa màu mỡ cho các nước phương Tây.
- Về mặt tư tưởng triết học:
Thời kỳ phục hưng, xã hội đề cao tư tưởng tư sản, chống lại những tư tưởng đen tối của thời kỳ Trung cổ, sự khai sinh của chủ nghĩa duy vật chống lại những giáo thuyết duy tâm của nhà thờ.
2. Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương:
- Là cương lĩnh của giai cấp tư sản trong thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của chủ nghĩa trọng thương nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại thương, buôn bán để cướp bóc thuộc địa nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình thành.
- Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu mô tả bề ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản chất của các hiện tượng kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó rất coi trọng vai trò của nhà nước đối với kinh tế
- Chủ nghĩa trọng thương mới chỉ dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà chưa nghiên cứu lĩnh vực sản xuất
- Chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau nhưng trong biểu hiện tại các quốc gia khác nhau, chủ nghĩa trọng thương đều có những sắc thái dân tộc khác nhau.
Tóm lại chủ nghĩa trọng thương tuy ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Lý luận còn đơn giản, nhằm thuyết minh cho chính sách cương lĩnh chứ không phải là cơ sở của chính sach cương lĩnh. Mặt khác, đã có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc, cương lĩnh, chính sách. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực và tiến bộ trong điều kiện lịch sử lúc đó.
3. Các tư tưởng kinh tế chủ yếu
- Đánh giá cao vai trò của tiền tệ, coi tiền tệ (vàng bạc) là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Theo họ, "một xã hội giàu có là có được nhiều tiền", "sự giàu có tích lũy được dưới hình thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn". Hàng hóa chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ. Tiền đánh giá tính hữu ích của mọi hình thái hoạt động nghề nghiệp.
- Để có tích lũy tiền phải thông qua hoạt động thương mại, mà trước hết là ngoại thương. Họ cho rằng "nội thương là ống dẫn, ngoại thương là máy bơm". Từ đó đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vực lưu thông mua bán trao đổi.
- Lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán trao đổi sinh ra. Do đó chỉ có thể làm giàu thông qua con đường ngoại thương, bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác (mua rẻ, bán đắt)
- Chủ nghĩa trọng thương đề cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế vì tích lũy tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ về nước mình càng nhiều càng tốt.
4. Các giai đoạn phát triển, các đại biểu của trường phái trọng thương:
4.1. Giai đoạn sơ kỳ của chủ nghĩa trọng thương (giai đoạn học thuyết tiền tệ Monetary System)
Giai đoạn này bắt đầu từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVI. Trọng tâm của nó là bảng hệ thống (cân đối) tiền tệ (monetary system). Theo những đại diện của chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ này thì "cân đối tiền tệ" nghĩa là ngăn chặn không cho tiền tệ ra nước ngoài, khuyến khích mang tiền từ nước ngoài về. Để thực hiện nội dung của bảng "cân đối tiền tệ", họ chủ trương hạn chế tối đa hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài, lập hàng rào thuế quan để bảo vệ hàng hóa trong nước, giảm lãi suất cho vay để kích thích sản xuất và xuất khẩu (nhắc sửa lỗi trang 11), bắt thương nhân nước ngoài dùng hết số tiền mà họ có để mua hàng hóa mang về nước họ.
Đây chính là giai đoạn tích lũy tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, nhà nước sử dụng nhiều biện pháp hành chính để tối đa hóa tích lũy tiền tệ.
4.2. Giai đoạn chủ nghĩa trọng thương thực sự (học thuyết về bảng cân đối thương mại)
Giai đoạn này bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ thứ XVIII, với các đại biểu xuất sắc là:
- Thomas Mun: Thương gia người Anh
- Antonio Serra: nhà kinh tế học người Italia
- Antoine Montchrestien: nhà kinh tế học người Pháp
Các nhà trọng thương trong giai đoạn này không còn coi trọng "cân đối tiền tệ mà chuyển mục đích sang "cân đối thương mại".
Quan điểm trong giai đoạn này là mở rộng xuất khẩu, khuyến khích công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tán thành nhập khẩu, tự do lưu thông tiền tệ (kể cả không ngăn cấm xuất khẩu tiền), lên án việc tích trữ tiền, không để tiền tham gia lưu thông.
Những người trọng thương trong giai đoạn này đưa ra nguyên tắc bán nhiều mua ít, coi trọng bảng cân đối thương mại xuất siêu. Họ tán thành nhập nguyên liệu và chế biến lại để xuất khẩu với số lượng lớn hơn, vì làm như vậy thì tự nhiên vàng bạc từ nước ngoài sẽ chảy vào trong nước, mà không cần những biện pháp hành chính đặc biệt nào cả.
Như vậy so với giai đoạn đầu, giai đoạn sau của chủ nghĩa trọng thương có sự phát triển cao hơn (đã thấy được vai trò của lưu thông tiền tệ, phát triển sản xuất được lưu tâm đặc biệt). Nhà nước quản lý hoạt động kinh tế mềm dẻo và hiệu quả hơn, không chỉ dựa vào các biện pháp hành chính cứng nhắc như trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên mục đích của trường phái trọng thương vẫn luôn là: tích lũy tiền tệ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chỉ khác về biện pháp.
4.3. Quá trình tan rã của chủ nghĩa trọng thương:
Sự tan rã của chủ nghĩa trọng thương là một tất yếu vì:
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ sản xuất tư bản chủ nghĩa, trọng tâm lợi ích của giai cấp tư sản đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.
- Thực tiễn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải phân tích sâu sắc sự vận động của nó và đưa ra những biện pháp nhằm làm giàu cho giai cấp tư sản.
- Chủ nghĩa trọng thương với sự phiến diện của nó, đã hạn chế tự do thương mại, mâu thuẫn với đông đảo tầng lớp tư bản công nghiệp trong giai cấp tư sản, trong nông nghiệp và nội thương
Với sự tan rã của chủ nghĩa trọng thương, các học thuyết kinh tế mới như chủ nghĩa trọng nông Pháp và học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Anh đã xuất hiện, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
Thêm: chủ nghĩa trọng thương ở Anh, Pháp (sách màu vàng)
5. Đánh giá chung
5.1. Thành tựu:
- Có bước tiến bộ rất lớn so với các chính sách kinh tế thời Trung Cổ
- Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã tạo ra những tiền đề lý luận kinh tế cho kinh tế học sau này, như: đưa ra quan điểm về sự giàu có, mục đích tìm kiếm lợi nhuận của nền kinh tế hàng hóa, sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế.
5.2. Hạn chế:
- Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương có rất ít tính chất lý luận và thường được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên về chính sách kinh tế. Lý luận mang nặng tính chất kinh nghiệm thông qua hoạt động thương mại thực tiễn của Anh và Hà Lan
- Những lý luận của chủ nghĩa trọng thương chưa thoát khỏi lĩnh vực lưu thông, chỉ mới nghiên cứu những hình thái của giá trị trao đổi. Đánh giá sai trong quan hệ trao đổi, vì cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được do kết quả trao đổi không ngang giá. (giải thích tại sao?)
- Nặng về mô tả hiện tượng bên ngoài, không đi sâu vào nghiên cứu bản chất bên trong của các hiện tượng.
- Quá coi trọng tiền tệ (vàng, bạc), đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hóa để xem xét nền sản xuất TBCN
- Đề cao vai trò của nhà nước, chưa thừa nhận đầy đủ các quy luật kinh tế.
Chương III: học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng nông Pháp
Physiocrats: những người trọng nông
http://en.wikipedia.org/wiki/Physiocrats
1. Hoàn cảnh ra đời:
Vào giữa thế kỷ XVIII, hoàn cảnh kinh tế - xã hội Pháp có những biến đổi quan trọng dẫn đến sự xuất hiện của chủ nghĩa trọng nông:
- Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản sinh ra trong lòng chế độ phong kiến, tuy chưa làm được cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, nhưng sức mạnh kinh tế của nó rất to lớn, đặc biệt là nó muốn cách tân trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,... nên đòi hỏi phải có lý luận và cương lĩnh kinh tế mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Thứ hai, sự thống trị của giai cấp phong kiến ngày càng tỏ ra lỗi thời và mâu thuẫn sâu sắc với xu thế đang lên của chủ nghĩa tư bản, đòi hỏi phải có lý luận để giải quyết những mâu thuẫn đó.
- Thứ ba, tư tưởng của phái trọng nông cho tiền bạc là nguồn gốc của sự giàu có của quốc gia đã tỏ ra lỗi thời, bế tắc.
- Thứ tư, ở nước Pháp, do đặc thù phát triển nông nghiệp, và sự thất bại của chính sách trọng thương của Colbert, nên việc đả kích phái trọng thương sẽ mở đường cho công trường thủ công phát triển thì lại khuyến khích chủ nghĩa trọng nông ra đời. Sự phát triển nông nghiệp Pháp theo hướng kinh tế chủ trại, kinh doanh nông nghiệp theo lối tư bản, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. (sách vàng trang 62)
2. Đặc điểm của chủ nghĩa trọng nông:
Chủ nghĩa trọng nông là tư tưởng giải phóng kinh tế nông nghiệp, giải phóng nông dân khỏi quan hệ phong kiến, là một trong những cơ sở cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản tại Pháp (1789).
Những đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa trọng nông là:
- Chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đánh giá cao vai trò của nông nghiệp. Coi nó là lĩnh vực duy nhất tạo ra của cải cho xã hội, chỉ có lao động nghiệp mới là lao động có ích và là lao động sinh lời, muốn giàu có phải phát triển nông nghiệp.
- Thừa nhận nguyên tắc trao đổi ngang giá, chủ nghĩa trọng nông đã phê pháp có hiệu quả chủ nghĩa trọng thương về vấn đề này, theo đó lưu thông không tạo ra giá trị.
- Phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đánh giá cao vai trò của tiền và khẳng định tiền chỉ là phương tiện di chuyển của cải.
- Bênh vực kinh doanh nông nghiệp theo lối tư bản chủ nghĩa.
Những đại diện tiêu biểu của phái trọng nông: Francois Quesney (1694 - 1774), Turgot (1727 - 1781), Boisguillebert (1646 - 1714). Trong các đại biểu có Francois Quesney với tác phẩm "biểu kinh tế" (Quesnay's Tableau Économique, năm 1758)) đã đạt đến sự phát triển rực rỡ nhất, đặc trưng cho trường phái trọng nông. Các Mác đã gọi ông là cha đẻ của kinh tế chính trị học.
3. Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa trọng nông Pháp:
3.1. Phê phán chủ nghĩa trọng thương:
- Theo quan điểm của Francois Quesney, lợi nhuận của thương nhân chỉ là do sự tiết kiệm các khoản chi phí thương mại. Theo ông, đối với việc mua bán, cả bên mua và bán đều không được và mất gì
- Quan niệm về đồng tiền: Boisguillebert đã phê phán tư tưởng trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của đồng tiền. Ông chứng minh của cải quốc dân chính là những vật hữu ích và trước hết là sản phẩm của nông nghiệp cần phải được khuyến khích. Ông cho rằng khối lượng tiền nhiều hay ít không có ý nghĩa, chỉ cần có đủ tiền để giữ giá cả tương ứng với hàng hóa.
- Chủ nghĩa trọng thương muốn đưa ra nhiều thứ thuế để bảo hộ thương mại, tăng cường sức mạnh quốc gia..., còn chủ nghĩa trọng nông chủ trương tự do lưu thông. Chủ nghĩa trọng nông chống lại những đặc quyền về thuế.
- Chủ nghĩa trọng thương coi trọng lũy vàng là giàu có, do đó đã tổ chức nhiều đội tàu buôn chuyên đi cướp bóc. Ngược lại, chủ nghĩa trọng nông cho rằng, cần phải phải có một nền nông nghiệp giàu có tạo ra thặng dư cho người sở hữu và thợ thủ công. Tiền bạc không là gì cả, sản xuất thực tế mới là tất cả.
- Chủ nghĩa trọng thương coi trọng ngoại thương nhưng chỉ khuyến khích xuất khẩu, chủ trương xuất siêu để nhập và tích trữ vàng, do đó dẫn tới một chủ nghĩa bảo hộ không hiệu quả. Ngược lại, chủ nghĩa trọng nông chủ trương tự do lưu thông, tự do thương mại, tạo sự tăng trưởng kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương đề cao vai trò của nhà nước, biến nhà nước thành nhà kinh doanh. Chủ nghĩa trọng nông chủ trương tự do hành động, chống lại nhà nước toàn năng.
3.2. Cương lĩnh kinh tế của chủ nghĩa trọng nông:
- Quan điểm ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp: họ qun niệm chỉ có sản xuất nông nghiệp mới tạo ra của cải cho xã hội.
- Chính sách cho chủ trang trại được tự do lựa chọn ngành sản xuất kinh doanh, khuyến khích nông dân xuất khẩu nông sản đã tái chế, không xuất khẩu nguyên liệu thô.
- Chính sách đầu tư cho đường xá, cầu cống, lưu thông hàng hóa. Chống lại chính sách giá nông sản thấp. Duy trì tự do cạnh tranh.
- Quan điểm về tài chính, chính sách thuế khóa, phân phối thu nhập: ưu đãi cho nông nghiệp, không ưu đãi cho quý tộc, tăng lữ, nhà buôn.
Cương lĩnh của phái trọng nông đã vạch rõ một số quan điểm chính sách mở đường cho nông nghiệp phát triển theo định hướng mới.
3.3. Học thuyết về trật tự tự nhiên:
Nội dung của học thuyết bao gồm:
- Thứ nhất, lý luận giá trị xuất phát từ năng suất của nông nghiệp
- Thứ hai, quan niệm về tổ chức kinh tế cho thấy niềm tin của các nhà trọng nông vào cơ chế tự phát của thị trường: họ tin vào một trật tự của tự nhiên. Ở đây cho thấy sự khác biệt giữa chủ nghĩa trọng nông và chủ nghĩa trọng thương: nếu chủ nghĩa trọng thương cho rằng kinh tế học là khoa học buôn bán của tầng lớp thống trị thì chủ nghĩa trọng nông lại cho rằng, phát triển kinh tế là một trật tự tự nhiên, kinh tế học không chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị mà còn phục vụ cho sản xuất và tất cả công dân.
Chủ nghĩa trọng nông cho rằng quyền con người (quyền lao động, quyền sở hữu) cũng có tính chất tự nhiên, từ đó phê phán chế độ phong kiến đã đưa ra các biện pháp chuyên quyền độc đoán làm thiệt hại cho quyền con người.
Tón lại, sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực được hưởng sự trợ giúp của tự nhiên, có sự sắp xếp của tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên mà con người phải tôn trọng. Do đó cần tôn trọng sự tự do của nông dân trong sản xuất nông nghiệp, nhà nước không nên can thiệp làm sai lệch trật tự tự nhiên.
Tuy nhiên, lý thuyết trật tự tự nhiên còn hạn chế ở chỗ, mặc dù tôn trọng con người, đề cao việc giải phóng con người, nhưng chưa có tính phê phán đánh đổ phong kiến triệt để, và chưa khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản.
3.4. Học thuyết trọng nông về sản phẩm ròng:
Học thuyết này là trung tâm của học thuyết kinh tế trọng nông , là bước tiến quan trọng trong lý luận kinh tế của nhân loại, nội dung chính như sau:
- Sản phẩm ròng = Sản phẩm xã hội - Chi phí sản xuất
Sản phẩm ròng là sản phẩm do đất đai mang lại sau khi trừ đi chi phí lao động và chi phí cần thiết để tiến hành canh tác... Như vậy sản phẩm ròng là quà tặng của tự nhiên cho con người.
- Chỉ có ngành nông nghiệp mới tạo ra các sản phẩm ròng, các ngành khác như thương mại, công nghiệp không thể sản xuất ra sản phẩm ròng.
- Từ lý luận về sản phẩm ròng, đi đến lý luận về giá trị lao động, theo họ lao động tạo ra sản phẩm ròng mới là lao động sản xuất, còn các lao động khác không sinh lời và không tạo ra sản phẩm ròng.
- Từ lý luận về lao động sản xuất, phái trọng nông đưa ra lý luận về giai cấp trong xã hội: trong xã hội chỉ có ba giai cấp: giai cấp sản xuất (tạo ra sản phẩm ròng) gồm có tư bản nông nghiệp và công nhân nông nghiệp, giai cấp sở hữu (chiếm hữu sản phẩm ròng tạo ra) là chủ ruộng đất và giai cấp không sản xuất gồm có tư bản và công nhân ngoài lĩnh vực nông nghiệp.
3.5. Lý luận về tư bản, giá trị và tiền tệ:
- Về giá trị: phái trọng nông cho rằng giá trị là do nhu cầu của nguyện vọng
- Về tiền tệ: phái trọng nông phê phán phái trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của đồng tiền, phái trọng nông cho rằng tiền chỉ là phương tiện lưu thông, làm trung gian trong trao đổi.
- Về tư bản: phái trọng nông đã có bước tiến dài khi phân chia tư bản thành tư bản cố định (đất đai đưa lại sản phẩm ròng) và tư bản lưu động (những tư liệu lao động, tư liệu sinh hoạt của công nhân...)
- Về tiền lương và lợi nhuận: phái trọng nông ủng hộ 'quy luật sắt" về tiền lương, bởi vì tiền lương công nhân thu hẹp lại ở mức sinh hoạt tối thiểu là bắt nguồn từ vấn đề cung lao động luôn luôn lớn hơn cầu lao động. Các nhà trọng nông có tư tưởng tiến bộ khẳng định tiền lương là thu nhập do lao động, còn tư bản có sản phẩm thuần túy là lợi nhuận.
3.6. Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội (biểu kinh tế của Quesney)
Đây là một phát minh rất lớn của chủ nghĩa trọng nông. Biểu kinh tế là sự mô hình hóa mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau trong phạm vi toàn xã hội của các giai cấp hiện có.
Nội dung của biểu kinh tế bao gồm:
- Các giả định để tiến hành nghiên cứu: chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, trừu tượng hóa sự biến động giá cả, xã hội chỉ có ba giai cấp...
- Sơ đồ thực hiện sản phẩm được thông qua 5 hành vi của 3 giai cấp là giai cấp sở hữu, giai cấp sản xuất và giai cấp không sản xuất.
Ví dụ:
Tổng giá trị sản phẩm xã hội có 7 tỷ gồm: 2 tỷ sản phẩm công nghiệp và 5 tỷ sản phẩm nông nghiệp.
Tiền có 2 tỷ (của giai cấp sở hữu do giai cấp sản xuất trả địa tô)
Cơ cấu giá trị sản phẩm sau một chu kỳ sản xuất như sau:
- Giai cấp sản xuất có 5 tỷ là sản phẩm nông nghiệp, trong đó: 1 tỷ để khấu hao tư bản ứng trước lần đầu (tư bản cố định), 2 tỷ tư bản ứng trước hàng năm (tư bản lưu động) và hai tỷ là sản phẩm ròng.
- Giai cấp không sản xuất có 2 tỷ là sản phẩm công nghiệp, trong đó: 1 tỷ để bù đắp cho tiêu dùng, 1 tỷ để bù đắp nguyên liệu tiếp tục sản xuất.
Sự trao đổi sản phẩm giữa các giai cấp được thực hiện qua 5 hành vi:
Hành vi 1: giai cấp sở hữu dùng 1 tỷ tiền mua nông sản tiêu dùng cho cá nhân, 1 tỷ tiền này được chuyển vào tay giai cấp sản xuất.
Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng 1 tỷ tiền còn lại để mua công nghệ phẩm, 1 tỷ tiền này chuyển vào tay giai cấp không sản xuất.
Hành vi 3: Giai cấp không sản xuất dùng 1 tỷ tiền bán công nghệ phẩm ở trên để mua nông sản (làm nguyên liệu), 1 tỷ tiền này chuyển vào tay giai cấp sản xuất.
Hành vi 4: Giai cấp sản xuất mua 1 tỷ tư bản ứng trước đầu tiên (nông cụ) số tiền này lại chuyển vào tay giai cấp không sản xuất
Hành vi 5: giai cấp không sản xuất dùng 1 tỷ tiền bán nông cụ mua nông sản cho tiêu dùng cá nhân,số tiền này chuyển về tay giai cấp sản xuất, khi đó giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền nộp tô cho địa chủ (giai cấp sở hữu) và giai cấp sở hữu lại có 2 tỷ tiền.
Quan hệ giao nộp đã kết thúc quá trình thực hiện sản phẩm. Cả ba giai cấp có đủ điều kiện để thực hiện quá trình sản xuất tiếp theo.
Đánh giá về biểu kinh tế của Quesney:
- Tiến bộ:
+ Đã xem xét tổng quan quá trình tái sản xuất xã hội theo những tỷ lệ cân đối cơ bản giữa các giai tầng trong xã hội.
+ Họ đã quy mọi hành vi trao đổi về một quan hệ cơ bản: quan hệ hàng - tiền
+ Phương pháp nghiên cứu về cơ bản là khoa học, đúng đắn.
- Hạn chế lớn nhất của biểu kinh tế này là: chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tái sản xuất giản đơn và coi ngành công nghiệp không phải là ngành sản xuất vật chất.
4. Đáng giá chung:
4.1. Tiến bộ:
- Chủ nghĩa trọng nông đã phê phán chủ nghĩa trọng thương một cách sâu sắc và khá toàn diện. Công lao quan trọng nhất của phái trọng nông là ở chỗ họ đã phân tích tư bản trong giới hạn của tầm mắt tư sản, chính công lao này mà họ đã trở thành người cha thực sự của khoa kinh tế chính trị hiện đại
- Phái trọng nông đã chuyển trọng tâm nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất trực tiếp, đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Không chỉ nghiên cứu quá trình sản xuất đơn lẻ mà đã nghiên cứu quá trình tái sản xuất của toàn bộ xã hội - một nội dung quan trọng của kinh tế chính trị.
- Lần đầu tiên tạo ra một hình ảnh có hệ thống và mô hình hóa về nền kinh tế thời bấy giờ, đặt nền móng cho sơ đồ tái sản xuất xã hội của Mác sau này.
- Đã nêu lên nhiều vấn đề có giá trị về sau: tôn trọng vai trò tự do của con người, đề cao tự do cạnh tranh, tự do buôn bán, bảo vệ lợi ích của người sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
4.2. Hạn chế
- Chưa hiểu bản chất của giá trị thặng dư, chỉ dừng lại ở sản phẩm ròng do đất đai mang lại mà thôi.
- Hiểu sai vấn đề sản xuất và lao động sản xuất hàng hóa, chỉ tập trung nghiên cứu tái sản xuất giản đơn và coi ngành công nghiệp không phải là ngành sản xuất tạo ra giá trị gia tăng.
Chương IV: học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Anh
Chú ý: cả chủ nghĩa trọng nông va học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Anh đều thuộc kinh tế học tư sản cổ điển.
A. Hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm của kinh tế học tư sản cổ điển Anh:
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Vào thế kỷ XVI - XVII, sự thống trị của tư bản thương nghiệp thông qua việc thực hiện chủ nghĩa trọng thương chính là bộ phận của học thuyết tích lũy nguyên thủy, dựa trên cướp bóc và trao đổi không ngang giá ở trong nước và quốc tế, kiềm hãm sự phát triển của tư bản công nghiệp. Khi nguồn tích lũy nguyên thủy đã cạn thì chủ nghĩa trọng thương trở thành đối tượng bị phê phán. Sự phê phán chủ nghĩa trọng thương đồng thời là sự ra đời của một lý thuyết mới làm cơ sở cho cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản, hướng lợi ích của họ vào lĩnh vực sản xuất. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời từ đó.
- Ở Pháp, do hậu quả của chủ nghĩa trọng thương, nền nông nghiệp bị đình đốn, nên việc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương gắn liền với việc phê phán chế độ phong kiến nhằm giải thoát những ràng buộc phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm xuất hiện chủ nghĩa trọng nông. Phái trọng nông đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu, phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Còn ở Anh, giai cấp tư sản đã sớm nhận thấy lợi ích của họ trong việc phát triển công trường thủ công công nghiệp. Họ chỉ rõ, muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm gaifu vô tận cho những người giàu. Đó là điểm cốt lõi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, là học thuyết kinh tế chủ yếu của giai cấp tư sản nhiều nước thời bấy giờ.
2. Những đặc điểm của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:
- Về đối tượng nghiên cứu: chuyển đối tượng nghiên cứu từ lưu thông sang sản xuất, nghiên cứu quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất, trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa như: hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá csr, tiền lương, lợi nhuận, địa tô, lợi tức để rút ra các quy luật vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Về mục tiêu nghiên cứu: nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản trên cở sở phát triển lực lượng sản xuất.
- Về nội dung nghiên cứu: lần đầu tiên xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa đặc biệt là lý luận Giá trị - Lao động; tư tưởng bao trùm là ủng hộ tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của nhà nước, nghiên cứu sự vận động của nền kinh tế đơn thuần do các quy luật tự nhiên điều tiết.
- Về phương pháp nghiên cứu: thể hiện tính chất hai mặt: Một là đã sử dụng phương pháp trừu tượng hóa để tìm hiểu các mối liên hệ bản chất bên trong và các quá trình kinh tế, nên đã rút ra các kết luận có giá trị khoa học. Hai là do hạn chế về mặt thế giới quan, phương pháp luận và điều kiện lịch sử cho nên khi gặp phải những vấn đề phức tạp, họ chỉ mô tả hời hợt và rút ra một số kết luận sai lầm.
Các đại biểu: William Petty (1632 - 1687); Adam Smith (1723 - 1790); David Ricardo (1772 - 1823)
B. Các học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh
1. Học thuyết của William Petty:
a. Lý luận Giá trị - Lao động:
- Là người đầu tiên đưa ra nguyên lý về giá trị lao động.
- Nghiên cứu về giá cả: đưa ra hai khái niệm là giá cả tự nhiên (do hao phí lao động quyết định và năng suất lao động có ản hưởng tới mức hao phí đó) và giá cả chính trị (giá cả thị trường, do nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối, nên khó xác định chính xác)
- Một lý luận quan trọng của ông là: "lao động là cha của của cải, còn đất đai là mẹ của của cải". Luận điểm này đúng nếu xem lao động và đất đai là hai yếu tố của quá trình sản xuất, nhưng lại sai nếu xem đất đai là yếu tố tạo ra giá trị.
- Chưa phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chưa biết đến tính chất xã hội của giá trị. Ngoài ra ông còn chưa thành công trong việc giải thích mối quan hệ của lao động phức tạp và lao động giản đơn.
b. Lý luận về tiền tệ:
- William Petty nghiên cứu hai thứ kim loại giữ vai trò tiền tệ là vàng và vàng. Ông cho rằng quan hệ tỉ lệ giữa chúng là do lượng lao động hao phí để tạo ra vàng và bạc quyết định. Ông đưa ra luận điểm, giá cả tự nhiên của tiền tệ là do giá cả của tiền tệ có giá trị đầy đủ quyết định. Từ đó ông khuyến cáo, nhà nước không thể hy vọng vào việc phát hành tiền không đủ giá, vì lúc đó giá trị của tiền tệ sẽ giảm xuống.
- Ông cũng là người đầu tiên nghiên cứu số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hóa trong lưu thông và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. ông cho rằng thời gian thanh toán càng dài thì số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông càng nhiều.
- Ông phê phán những người trọng thương về quan điểm tích trữ tiền không hạn độ. Tiền tệ chỉ là công cụ của lưu thông hàng hóa, vì thế không cần thiết phải tăng số lượng tiền tệ quá mức cần thiết.
c. Lý luận về tiền lương:
- Ông cho rằng tiền lương của công nhân không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Ông ủng hộ đạo luật cấm tăng lương.
- Quan điểm về tiền lương của William Petty được xem xét trong mối quan hệ với lợi nhuận, giá cả tư liệu sinh hoạt và cung cầu về lao động.
d. Lý luận về lợi nhuận, lợi tức, địa tô:
- William Petty trình bày hai hình thái của giá trị thặng dư là địa tô và lợi tức. Ông đã nghiên cứu địa tô chênh lệch nhưng chưa nghiên cứu địa tô tuyệt đối.
Tóm lại, những lý luận của William Petty còn sơ khai nhưng đã đặt nền móng cho kinh tế chính trị tư sản cổ điển, đặc biệt là lý luận về giá trị - lao động
2. Học thuyết của Adam Smith:
Adam Smith (1723 - 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Tác phẩm nổi tiếng của ông là "the weath of nations" nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của sự giàu có của các dân tộc.
Phương pháp luận và thế giới quan của Adam Smith là duy vật nhưng còn mang tính tự phát và máy móc, tồn tại song song cả phương pháp khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết kinh tế tư sản sau này.
Học thuyết của A. Smith đã trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách quan. Học thuyết kinh tế của ông có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho giai cấp tư sản.
a. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về "bàn tay vô hình":
Tư tưởng này chiếm vị trí quan trung tâm trong học thuyết của Adam Smith, nội dung cơ bản đề cao vai trò cá nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của nề n kinh tế thị trường, thực hiện tự do cạnh tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và nhà nước không can thiệp vào kinh tế.
"Bàn tay vô hình" là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan. Để có sự hoạt động của trật tự tự nhiên thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa.
b. Phê phán chế độ phong kiến và xây dựng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản:
- Phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến.
- Phê phán chế độ thuế khóa độc đoán, ngăn cản việc tích lũy của nông dân.
- Phê phán chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc
- Bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mì
- Vạch rõ sự vô lý của chế độ lao dịch và chứng minh tính chất ưu việt của chế độ lao động tự do làm thuê.
c. Phê phán chủ nghĩa trọng thương:
Đứng trên lập trường của tư bản công nghiệp, Adam Smith phê phán chủ nghĩa trọng thương:
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đã đề cao quá mức vai trò của tiền tệ. Ông cho rằng lưu thông hàng hóa chỉ thu hút được một số tiền nhất định và không bao giờ dung nạp quá số đó.
- Ông phê phán chủ nghĩa trọng thương đề cao quá mức vai trò của ngoại thương và cách làm giàu bằng trao đổi không ngang giá. Ông cho rằng độc quyền thương nghiệp sẽ cản trở cải tiến sản xuất. Muốn làm giàu phải phát triển sản xuất.
- Phê phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế. Ông cho rằng nhà nước chỉ nên thực hiện chức năng kinh tế trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng như xây dựng đường sá, cầu cống và các công trình lớn khác. Theo ông sự phát triển kinh tế bình thường không cần sự can thiệp của nhà nước.
d. Phê phán chủ nghĩa trọng nông:
- Ông đánh tan các ảo tưởng của phái trọng nông về tính chất đặc biệt của nông nghiệp, chống lại luận điểm của phái trọng nông khi cho rằng công nghiệp không phải là ngành sản xuất và giai cấp thợ thủ công, chủ công trường là giai cấp không sản xuất.
e. Lý luận về thuế khóa:
Adam Smith là người đầu tiên xây dựng cương lĩnh thuế khóa cho giai cấp tư sản. Ông đưa ra bốn nguyên tắc để thu thuế:
- Các thần dân phải có nghĩa vụ nuôi chính phủ tùy theo khả năng và sức lực của mình.
- Phần thuế mỗi người đóng phải được quy định một cách chính xác.
- Chỉ thu vào thời gian thuận tiện và với phương pháp thích hợp
- Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế.
Ông đưa ra hai loại thuế phải thu là thuế trực thu và thuế gián thu. Trong đó thuế gián thu vào các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà nên đánh thuế vào các hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập.
f. Lý luận về kinh tế hàng hóa
· Lý luận về phân công lao động:
- Adam Smith là người đầu tiên phân biệt lao động sản xuất vật chất và lao động không sản xuất vật chất.
- Ông đánh giá rất cao phân công lao động. Nhưng sai lầm của Adam Smith là ở chỗ ông cho rằng sự trao đổi hàng hóa hàng hóa là nguồn gốc của phân công lao động (ngược lại). Ngoài ra ông còn áp dụng một cách khiên cưỡng những quan sát về phân công lao động trong công trường thủ công vào phân công lao động xã hội.
· Lý luận về tiền tệ
- Adam Smith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lich sử trao đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ông đã nhìn thấy sự phát triển của các hình thái giá trị. Ông đã chỉ ra bản chất của tiền là hàng hóa đặc biệt là chức năng phương tiện lưu thông và đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền tệ, ông là người đầu tiên khuyên dùng tiền giấy.
- Ông đã có quan điểm đúng là lượng tiền cần thiết trong lưu thông là do giá cả quy định.
- Lý luận của Adam Smith còn có hạn chế là: chưa hiểu đầy đủ bản chất của tiền, chưa thấy hết các chức năng của tiền tệ.
· Lý luận về giá trị - lao động
- Từ phân tích tiền tệ - hình thức biểu hiện giá trị của hàng hóa, Adam Smith chuyển sang phân tích về giá trị. Ông có công lớn khi đã phân biệt được gái trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi.
- Adam Smith có hai định nghĩa về giá trị hàng hóa. Định nghĩa thứ nhất: giá trị hàng hóa do lao động hao phí để sản xuất hàng hóa quyết định. Định nghĩa thứ hai: giá trị do lao động quyết định, mà lao động đó có thể mua bán, đổi lấy hàng hóa. Định nghĩa thứ hai sa vào vòng luẩn quẩn, bộc lộ sự lẫn lộn giữa lao động sống và lao động quá khứ.
Trong lý luận về giá trị - lao động, A. Smith đã có những tiến bộ đáng kể so với chủ nghĩa trọng nông và W. Petty như:
- Chỉ ra cơ sở của giá trị là do lao động
- Khẳng định mọi lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị hàng hóa
- Phân biệt hai phạm trù giá trị và giá trị sử dụng, từ đó bác bỏ quan niệm cho rằng giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi.
- Lượng giá trị: đó là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định, không phải do lao động chi phí thực tế để sản xuất hàng hóa. Ở đây đã có sự trừu tượng hóa lao động cụ thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét các giá trị do lao động tạo ra như một đại lượng mang tính chất xã hội. Đã có sự phân biệt lao động giản đơn, lao động phức tạp trong việc hình thành lượng giá trị hàng hóa.
- Về giá cả: theo A.Smith, giá trị là cơ sở của giá cả. Có giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Giá cả tự nhiên là giá trị thực của hàng hóa do lao động quyết định. Giá cả thị trường khác với giá cả tự nhiên, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các loại độc quyền khác.
Lý luận giá trị - lao động của A. Smith còn có hạn chế, đó là:
- Quan niệm về lượng giá trị chưa nhất quán: Định nghĩa thứ hai của A.Smith về giá trị đã bỏ qua vai trò của lao động quá khứ, dẫn đến sự bế tắc khi phân tích tái sản xuất.
- Một quan điểm sai lầm của A. Smith khi ông cho rằng: "tiền công, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi, là ba bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa"
- Ông đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá trị thị trường, nhưng chưa chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân.
· Lý luận về tư bản:
- A.Smith quan niệm tư bản là những tài sản đem lại thu nhập. Ông đã đồng nhất tư liệu sản xuất với tư bản.
- Về tích lũy tư bản, ông khẳng định chỉ có lao động mới là nguồn gốc của tích lũy tư bản.
- A. Smith có bước tiến so với phái trọng nông khi phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Nhưng ông phạm sai lầm lớn là không phân biệt được tư bản lưu động với tư bản lưu thông, hiểu tư bản lưu động khi là tư bản sản xuất, khi là hàng hóa và tiền tệ
· Lý luận về thu nhập:
A. Smith lấy học thuyết về thu nhập để giải thích các quan hệ phân phối, kết cấu giai cấp và mâu thuẫn giai cấp. Trên cơ sở thu nhập, A. Smith chia xã hội tư bản thành 3 giai cấp, đó là giai cấp những người chiếm hữu ruộng đất, giai cấp các nhà tư bản, và giai cấp công nhân.
- Lý luận về tiền lương:
Ông quan niệm tiền lương là một phần thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần của sản phẩm lao động. Ông ủng hộ việc trả lương cao. Hai yếu tố quyết định đến mức tiền lương là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh hoạt, ông cũng đã phân biệt được sự khác nhau giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
- Lý luận về lợi nhuận, lợi tức:
Adam Smith chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: là một khoản khấu trừ do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động đem lại. Ông cũng chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận như tiền công, quy mô tư bản, lĩnh vực đầu tư, cạnh tranh, sự can thiệp của nhà nước. Ông cũng là người chỉ ra xu hướng giảm xuống của tỉ suất lợi nhuận.
Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận. Lợi tức của tư bản cho vay được trả bằng cách lấy từ lợi nhuận thuần túy và do mức lợi nhuận thuần túy quyết định.
- Lý luận về địa tô:
Về hình thức địa tô, A. Smith phân biệt được hai hình thái của địa tô chênh lệch I nhưng ông lại chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II.
· Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội
Lý luận về tái sản xuất của A. Smith được xây dựng trên quan điểm của giá trị hàng hóa bao gồm tiền lương, lợi nhuận, địa tô. Trong quá trình phân tích, ông đã trình bày các khái niệm tổng thu nhập, thu nhập thuần túy, nhưng ông không lấy tổng thu nhập làm điểm xuất phát mà lấy thu nhập thuần túy là điểm xuất phát và toàn bộ lý luận tái sản xuất chỉ xoay quanh thu nhập thuần túy.
A. Smith đã có gợi ý thiên tài là phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. H
Hạn chế lớn nhất của A. Smith là ở chỗ cho rằng sản phẩm của xã hội chỉ thể hiện ở hai phần tiền công (v) và giá trị thặng dư (m), loại bỏ phần giá trị tư bản bất biến (C), đồng hóa thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Theo ông giá trị tổng sản phẩm gồm: tiền công, lợi nhuận và địa tô. Từ đó dẫ đến sai lầm tiếp theo: cho rằng tích lũy chỉ là biến giá trị thặng dư thành tư bản khả biến phụ thêm mà không có tư bản bất biến phụ thêm. Tức là bỏ qua giá trị tư bản bất biến trong phân tích tái sản xuất và không tính đến tư bản bất biến phụ thêm trong phân tích tái sản xuất mở rộng.
g. Lý thuyết về lợi thế so sánh:
Ông là người đưa ra lý thuyết về "lợi thế tuyệt đối", cho rằng mỗi quốc gia có lợi thế tuyệt đối về sản xuất một mặt hàng nào đó hơn các quốc gia khác, do đó mỗi quốc gia phải biết chuyên môn hóa sản xuất loại hàng hóa mà họ có lợi thế hơn.
Lý thuyết này của Adam Smith có nhiều hạn chế và về sau được phát triển bởi David Ricardo.
Tóm lại, những tư tưởng của Adam Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, cả phương pháp khoa học lẫn phương pháp tầm thường song ông đã xác định được nhiệm vụ của kinh tế chính trị học, đã đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước trở thành một hệ thống.
3. Học thuyết của David Ricardo:
David Ricardo (1772-1832) là người bảo vệ lợi ích của bộ phận tư sản công nghiệp, chống chế độ phong kiến và tin tưởng vào tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản, cho rằng chủ nghĩa tư bản là hợp lý và tồn tại vĩnh viễn. Thế giới quan của D. Ricardo là thế giới quan duy vật tự phát và máy móc, trong phương pháp cũng tồn tại song song cả phương pháp khoa học và tầm thường. Ông có kiến thức uyên bác trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
a. Lý luận về giá trị:
Lý luận của Ricardo được xây dựng dựa trên sự kế thừa và phát triển lý luận của A. Smith
- Phê phán sự không nhất quán về trong định nghĩa về giá trị của A. Smith. Ricardo định nghĩa giá trị hàng hóa là do số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
- Theo Ricardo, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa không phải chỉ có lao động trực tiếp, mà còn có cả lao động cần thiết trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ, nhà xưởng dùng vào việc sản xuất ấy.
- Ricardo cũng đã đề cập đến lao động phức tặp và lao động giản đơn nhưng ông chưa lý giải việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
- Ông là người đầu tiên mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá trị: gồm ba bộ phận C, v và m, tuy nhiên ông chưa phân biệt được sự dịch chuyển của C vào sản phẩm như thế nào vào không tính đến yếu tố C2
Tuy nhiên trong lý luận của Ricardo cũng có những hạn chế như:
- Chưa phân biệt giá trị và giá cả sản xuất mặc dù đã nhìn thấy xu hướng bình quân hóa tỉ suất lợi nhuận.
- Coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật.
- Chưa phát hiện ra tính hai mặt của sản xuất hàng hóa
- Chưa làm rõ tính chất lao động xã hội quy định giá trị như thế nào, thậm chí cho rằng lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
- Chưa phân tích được mặt chất của giá trị và các hình thái giá trị.
b. Lý thuyết về tiền tệ và tín dụng:
Vấn đề lưu thông tiền tệ và ngân hàng chiếm một vị trí quan trọng trong học thuyết kinh tế của D. Ricardo. Tư tưởng chính của ông là:
- Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần dựa trên một sự lưu thông tiền tệ vững chắc.
- Lưu thông tiền tệ chỉ vững chắc khi hệ thống tiền tệ dựa vào vàng làm cơ sở.
- Vàng trong lưu thông có thể được thay thế một phần hoặc toàn bộ bằng tiền giấy nhưng với điều kiện nghiêm ngặt là tiền giấy này phải được vàng bảo đảm.
- Ông phát triển lý luận của W. Petty về tính quy luật của số lượng tiền trong lưu thông.
Ricardo đã có nhiều luận điểm đúng đắn về tiền tệ song vẫn còn có những hạn chế nhất định như chưa phân biệt được tiền giấy và tiền tín dụng, chưa phân biệt được lưu thông tiền giấy và tiền kim loại. Ông cũng chưa phân tích hết các chức năng của tiền tệ.
c. Lý luận về tiền lương, lợi nhuận, địa tô:
- Về tiền lương: ông coi tiền lương là giá cả tự nhiên của hàng hóa lao động, là giá cả các tư liệu sinh hoạt nuôi sống người công nhân và gia đình họ. Mức tiền lương phụ thuộc các yếu tố lịch sử văn hóa. Công lao to lớn của D. Ricardo là đã xác định tiền lương như một phạm trù kinh tế và phân tích tiền lương thực tế. Ông xét tiền lương trong mối quan hệ giai cấp, mối quan hệ về lợi ích.
- Về lợi nhuận: Ông xác nhận giá trị mới do công nhân sáng tạo ra bao gồm tiền lương và lợi nhuận. Ông đã có nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân. Ông cũng đã thấy xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận tuy nhiên chưa giải thích. Ông cũng chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư.
- Về địa tô; D. Ricardo là người đầu tiên dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động để giải thích địa tô. Ông cũng đã phân biệt được địa tô và tiền tô: địa tô là việc trả công cho những khả năng thuần túy tự nhiên, còn tiền tô bao gồm cả địa tô và lợi nhuận do tư bản đầu tư vào ruộng đất.
d. Lý thuyết về tư bản:
Ông đã phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động, trong đó:
- Tư bản cố định là bộ phận tư bản ứng trước để mua công cụ lao động, phương tiện lao động, bộ phận này có sự hao mòn dần khi chuyển giá trị vào sản phẩm và không làm tăng giá trị hàng hóa
- Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản ứng ra để thuê công nhân:
Tuy nhiên trong tư bản lưu động, ông chỉ mới tính đến yếu tố tiền lương, sự phân tích của ông chưa đạt tới khái niệm tư bản bất biến và tư bản khả biến.
e. Lý thuyết tái sản xuất:
Theo D. Ricardo, vấn đề sống còn của chủ nghĩa tư bản là tích lũy tư bản, mở rộng sản xuất vượt quá tiêu dùng sẽ tạo ra thị trường, vì thế trong chủ nghĩa tư bản không có khủng hoảng thừa
f. Lý luận về thuế khóa:
Ông đã phát triển lý luận về thuế khóa của A. Smith và trình bày những đặc điểm bản chất của thuế khóa. Ông cho rằng: "thuế cấu thành cái phần của chính phủ trong sản phẩm xã hội". Nếu thuế đánh vào tư bản, nó sẽ giảm bớt hoạt động của sản xuất. Đánh thuế vào thu nhập, nó sẽ làm yếu về tích lũy và thu hẹp sự tiêu dùng không sản xuất.
g. Lý thuyết về lợi thế so sánh:
Trên cơ sở phát triển lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của A. Smith, D. Ricardo đã xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh tương đối, cụ thể:
- Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ đường hai chiều, có lợi cho mọi nước tham gia, vì bất kỳ nước nào cũng có lợi thế tương đối, tức là lợi thế có được trên cơ sở so sánh với các nước khác.
- Các lợi thế tương đối được xem xét dưới ánh sáng của lý luận giá trị lao động, có nghĩa là chỉ thông qua trao đổi quốc tế mới xác định được mối tương quan giữa mức chi phí lao động cá biệt của từng quốc gia so với mức chi phí lao động trung bình quốc tế, trên cơ sở đó mà lựa chọn phương án tham gia vào quá trì phân công chuyên môn hóa quốc tế sao cho có lợi nhất.
D. Ricardo là đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, là người kế tục xuất sắc của A. Smith. Ông đã vạch ra những mâu thuẫn trong học thuyết của A. Smith và vượt quan được giới hạn mà A. Smith phải dừng lại. Ông đã phân tích sâu hơn các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết của ông được đánh giá là đỉnh cao của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
C. Đánh giá chung
1. Tiến bộ:
- Có nhiều đóng góp to lớn cho lich sử tư tưởng kinh tế chung của loài người. Những đại biểu xuất sắc của trường phái cổ điển đã đi sâu nghiên cứu, vạch rõ nhiều vấn đề có tính quy luật nội tại của phương thức tư bản chủ nghĩa.
- Có những đóng góp to lớn về lý luận giá trị lao động, lý luận về tiền công, lợi nhuận, địa tô
- Có đóng góp to lớn trong việc phân tích nền kinh tế thị trường nói chung và cơ chế thị trường nói riêng trong chủ nghĩa tư bản. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế học hiện đại ở tất cả các nước đang thực hiện nền kinh tế thị trường.
2. Hạn chế:
- Mang tính chất hai mặt trong phương pháp nghiên cứu: vừa khách quan để phân tích bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lại vừa bị ràng buộc bởi tính phi lịch sử trong việc đánh giá phương thức sản xuất này.
- Kinh tế học tư sản cổ điển cổ vũ mạnh mẽ cho sự phát triển tự do của kinh tế thị trường và tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết của thị trường. Chưa có thái độ khách quan và thực tế đối với vai trò của nhà nước.
- Trong khi cống hiến cho kinh tế học nhiều quan điểm xuất sắc, các nhà kinh tế học tư sản cổ điển cũng để lại nhiều quan điểm tầm thường mà về sau những người kế tục đã biến thành một trào lưu tầm thường hóa và làm giảm giá trị của học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển nói chung
D. Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển (kinh tế học tầm thường)
1. Hoàn cảnh ra đời:
Kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và phát triển mạnh ở Anh và Pháp từ những năm 30 của thể kỷ XIX, còn gọi là kinh tế chính trị tư sản tầm thường.
- Về kinh tế: cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở nhiều nước tư bản, chủ nghĩa tư bản đã có cơ sở vật chất kỹ thuật của mình, đã chiến thắng hoàn toàn chế độ phong kiến, sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được thiết lập. Chủ nghĩa tư bản bắt đầu bộc lộ hạn chế và mâu thuẫn biểu hiện ở:
+ Sản xuất phát triển mạnh, năng suất lao động tăng, hàng hóa nhiều trong khi sức mua của quần chúng có hạn, xuất hiện mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng.
+ Khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra (1825) mở đầu thời kỳ phát triển theo chu kỳ của CNTB dẫ đến hiện tượng thất nghiệp, sự bần cùng hóa của giai cấp công nhân, thúc đẩy mâu thuẫn giai cấp (tư sản và công nhân)
- Về chính trị tư tưởng:
+ Giai cấp vô sản không ngừng lớn mạnh. Phong trào của giai cấp công nhân có sự phát triển mạnh về quy mô và tính chất, đe dọa sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
+ Bên cạnh đó, thời kỳ này xuất hiện những hình thức khác nhau của CNXH không tưởng, phê phán kịch liệt chế độ tư bản, gây tác động mạnh trong giai cấp vô sản và đe dọa sự tồn tại của CNTB
+ Hệ thống lý luận của kinh tế tư sản cổ điển không còn phù hợp, đòi hỏi phải có học thuyết kinh tế mới, có khả năng biện hộ cho CNTB, chống lại CNXH không tưởng và phong trào công nhân.
2. Các đại biểu của trường phái:
- Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) ở Anh
- Jean Baptiste Say (1767 - 1832) ở Pháp
3. Những đặc điểm chủ yếu:
a. Là học thuyết mang tính chất chủ quan:
Mục đích không phải để kế thừa và phát triển những tư tưởng khoa học của nhân loại mà nhằm che đậy các mâu thuẫn và khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, từ đó ca ngợi và bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
b. Phương pháp luận:
- Xa rời phương pháp luận của trường phái cổ điển, không đi sâu vào phân tích bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế, chỉ chú ý các hiện tượng bên ngoài. Đặc biệt là áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế, coi kinh tế chính trị là khoa học về nghiên cứu đạo đức xã hội.
- Sử dụng nhiều tài liệu, số liệu thiếu khoa học, phi lịch sử để nghiên cứu.
c. Nội dung:
- Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ giai cấp tư sản, biện hộ cho chủ nghĩa tư bản một cách có ý thức nên họ không thể tìm kiếm và xây dựng những phạm trù, khái niệm và quy luật khoa học. Điều họ quan tâm những phàm trù quy luật có lợi hay không có lợi cho giai cấp tư sản.
- Học thuyết kinh tế tư sản hậu cổ điển không những không phát triển được lý luận của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển mà còn dần dần xa rời, đoạn tuyệt với những nội dung khoa học của nó, đặc biệt là lý luận giá trị - lao động. Họ chỉ quan tâm tới việc tìm tòi những yếu điểm, những tư tưởng tầm thường trong học thuyết kinh tế tư sản cổ điển thành hệ thống những quan điểm cho rằng: các phạm trù kinh tế là quy luật tự nhiên, phi lịch sử, hay chủ nghĩa tư bản là tồn tại vĩnh viễn. Do vậy sự xuất hiện của kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là sự báo hiệu sự khủng hoảng về tư tưởng, lý luận của giai cấp tư sản sau học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.
- Học thuyết kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là học thuyết mang tính chất phản động, trái với đạo lý của con người.
d. Quá trình phát triển:
- Thời kỳ đầu: mục tiêu của kinh tế học tư sản hậu cổ điển là phê phán những người xã hội chủ nghĩa không tưởng và tách những yếu tố tầm thường của kinh tế chính trị tư sản cổ điển để xây dựng thành hệ thống lý luận của mình.
- Tiếp theo: kinh tế tư sản hậu cổ điển công khai tách khỏi kinh tế chính trị tư sản cổ điển, phủ nhận và phê phán các học thuyết của kinh tế tư sản cổ điển, đặc biệt là học thuyết giá trị - lao động.
- Thời kỳ cuối thế kỷ XIX, khi học thuyết kinh tế Mác ra đời, các nhà kinh tế hậu cổ điển tập trung chống lại học thuyết kinh tế Mác.
- Thời kỳ có lý luận của Lênin về chủ nghĩa đế quốc thì các nhà kinh tế tư sản hậu cổ điển lại tập trung chống lại các luận điểm của Lenin.
Tóm lại, mục đích của kinh tế chính trị tư sản hậu cổ điển là lý giải rằng sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản là hợp quy luật và vĩnh viễn.
Chương 5: Học thuyết kinh tế tiểu tư sản
A. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm học thuyết kinh tế tiểu tư sản:
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Cuối thế kỷ XVIII, cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ. Sản xuất với máy móc và chế độ công xưởng thay thế cho nền sản xuất nhỏ của nông dân và thợ thủ công bị đe dọa, có nguy cơ bị phá hủy toàn bộ, biến đại bộ phận những người sản xuất nhỏ thành những người làm thuê.
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ những mâu thuẫn, hạn chế của nó như: thất nghiệp, nghèo khổ, phân hóa giai cấp sâu sắc, tự phát vô chính phủ trong sản xuất kinh doanh. Điều này dẫn đến sự phê phán chủ nghĩa tư bản và đòi hỏi phải thay thế nó bằng xã hội khác.
- Do xuất hiện sự phản kháng về mặt tư tưởng của những người sản xuất nhỏ, thợ thủ công làm xuất hiện một trào lưu tư tưởng kinh tế mới - Kinh tế học tiểu tư sản.
2. Đặc điểm học thuyết kinh tế tiểu tư sản:
- Học thuyết kinh tế đứng trên lập trường của giai cấp tiểu tư sản để phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản, phê phán nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tiểu tư sản, chống lại nền sản xuất lớn - sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Con đường mà họ lựa chọn: phát triển kinh tế và xã hội theo những chuẩn mực của xã hội cũ, đẩy mạnh sản xuất nhỏ hay chỉ phát triển thành tư bản nhỏ, gạt bỏ con đường tư bản chủ nghĩa song không phê phán sở hữu tư nhân và tự do cạnh tranh.
- Trường phái kinh tế chính trị tiểu tư sản sử dụng phương pháp luận duy tâm, siêu hình, thể hiện ở chỗ: họ cắt rời các quá trình phát triển hợp quy luật của xã hội vì mục đích bảo vệ nền sản xuất nhỏ và bảo vệ những người sản xuất nhỏ độc lập.
- Kinh tế chính trị tiểu tư sản thể hiện không triệt để cả trong nhận thức các phạm trù kinh tế và trong biện pháp cải tạo xã hội mà nó đưa ra. Đây là một trào lưu tư tưởng vừa có tính không tưởng, vừa có tính phản động.
Một số đại diện:
- Sismondi (1773 - 1842)
- Pierre Proudhon (1809 - 1865)
B. Những nội dung cơ bản của học thuyết kinh tế tiểu tư sản:
1. Quan điểm kinh tế của Sismondi:
Quá trình phát triển tư tưởng kinh tế của Sismondi chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu sống ở Anh, ông ủng hộ trường phái cổ điển (A. Smith), ủng hộ quan điểm tự do kinh tế, không có sự can thiệp của nhà nước.
- Giai đoạn sau, do chứng kiến những mặt trái của kinh tế thị trường và sự tàn phá nền sản xuất nhỏ của nông dân và thợ thủ công, ông chuyển sang phê phán chủ nghĩa tư bản và học thuyết kinh tế tư sản cổ điển..
- Quan điểm kinh tế tiểu tư sản của Sismondi là xây dựng một hệ thống lý luận khác trường phái kinh tế tư sản cổ điển nhằm bênh vực giai cấp tiểu tư sản, bảo vệ nền sản xuất nhỏ của nông dân và thợ thủ công.
a. Sự phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu tư sản:
Theo Sismondi, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị phải là phúc lợi vật chất của con người. Ông phê phán các nhà kinh tế chính trị cổ điển xem thường lợi ích của quần chúng.
Ông mong nuốn có một xã hội mà ở đó có sự phân phối công bằng. Theo ông, hạnh phúc của con người cũng như của xã hội không phải là ở chỗ phát triển sản xuất mà là ở chỗ phân phối đúng đắn những của cải vật chất tạo ra.
Ông lý tưởng hóa chế độ gia trưởng (nền sản xuất nhỏ)
Một trong những công lao của Sismondi là ông đã tổng kết cuộc cách mạng công nghiệp và phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản. Ông là một trong những người đầu tiên chỉ ra những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
b. Lý luận về giá trị:
Sismondi đứng vững trên lập trường lý luận giá trị - lao động để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế. Ông khẳng định lao động là nguồn gốc của giá trị.
Ông đưa ra cụm từ "thời gian lao động xã hội cần thiết" và cho rằng khi xác định lượng giá trị của hàng hóa không được dựa vào sản xuất cá biệt mà phải dựa vào sản xuất xã hội.
Ông vạch rõ sự mâu thuẫn giữa giá trị và giá cả.
c. Lý luận về tiền tệ:
Ông coi tiền tệ chỉ có vai trò là thước đo chung của giá trị và giúp trao đổi hàng hóa dễ dàng hơn. Ông chưa phát hiện ra nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền. Ông coi nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đồng nhất với nền kinh tế tiền tệ.
d. Lý luận về tư bản:
Ông cho rằng tất cả tư bản đều là tiền tệ
Ông phê phán tính chất bóc lột rõ rệt của lợi nhuận tư bản: do lao động công nhân làm ra và bị nhà tư bản chiếm không.
e. Lý luận về tiền công:
Theo Sismondi, tiền công là một phần giá trị do công nhân tạo ra. Ông nhấn mạnh thất nghiệp là hiện tượng xảy ra thường xuyên. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì tình cảnh của công nhân càng điêu đứng. Do đó ông khuyên hãy quay về một xã hội mà ở đó công nhân được hưởng toàn bộ giá trị do họ làm ra. Đó là xã hội với nền sản xuất nhỏ.
f. Lý luận về lợi nhuận, địa tô:
Theo Sismondi, địa tô là kết quả của sự cướp bóc công nhân. Địa tô là một phần giá trị do công nhân nông nghiệp tạo ra, là sản phẩm không được trả công. Địa tô không chỉ xuất hiện trên mảnh đất tốt mà nó còn có ở cả trên những mảnh đất xấu nhất. Điều đó thể hiện ông có tư tưởng về địa tô tuyệt đối.
g. Lý luận về khủng hoảng kinh tế:
Sismondi là một trong những đại biểu đầu tiên quan tâm đến khủng hoảng kinh tế. Ông cho rằng khủng hoảng kinh tế không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, cục bộ. Ông dùng lý luận "tiêu dùng không đủ" để giải thích khủng hoảng kinh tế: sản xuất tăng lên, nhưng tiêu dùng lại không theo kịp sản xuất. Từ đó ông đưa ra kết luận tiêu dùng giữ vai trò quyết định đối với việc sản xuất.
Ông cho rằng nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế là trong lĩnh vực phân phối. Khi chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.
Lý luận về khủng hoảng kinh tế của Sismondi còn có nhiều hạn chế:
- Cho rằng không có khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn xã hội, mà chỉ có khủng hoảng bộ phận trong các ngành sản xuất riêng lẻ.
- Chưa thấy được mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, cho nên ông cho rằng tiêu dùng lạc hậu hơn so với sản xuất
- Ông cho rằng thu nhập quốc dân ngang bằng với sản phẩm hàng năm, toàn bộ sản phẩm bằng khối lượng thu nhập chi dùng cho cá nhân, ông chưa thấy được nguồn gốc của tích lũy.
- Ông chưa thấy được nguồn gốc của sự giàu có, tăng của cải của xã hội. Do vậy mà ông khẳng định ngoại thương là lốt thoát cho CNTB.
h. Dự án về xã hội tương lai:
Theo Sismondi, xã hội tương lai là một xã hội sản xuất hàng hóa nhỏ độc lập của nông dân và thợ thủ công, thể hiện ở:
- Không có bóc lột vì không thuê mướn lao động, mà sử dụng lao động của riêng mình
- Không xảy ra tình trạng sản xuất thừa, do vậy sẽ không có khủng hoảng kinh tế
- Vai trò của tiền được giảm nhẹ, tiền chỉ đóng vai trò là phương tiện lưu thông hàng hóa.
- Một xã hội có quan hệ đạo lý, đạo đực
Con đường cải tạo xã hội:
- Nhờ sự can thiệp của nhà nước. Theo ông, nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của người sản xuất nhỏ, thợ thủ công. Ông coi nhà nước tư sản là đại diện cho lợi ích của tất cả các giai cấp và đối lập với sản xuất lớn, đồng thời nhà nước phải có vai trò duy trì sự hài hòa xã hội và phát triển phúc lợi chung.
- Dựa vào lòng tốt, nhân ái kể cả của người giàu để cải tạo xã hội mới.
Như vậy tư tưởng của Sismondi:
- Đã bổ sung thêm nhiều nguyên lý mới cho kinh tế chính trị, đóng góp vào sự phê phán CNTB, chỉ ra các mâu thuẫn của nó và bảo vệ quyền lợi của quần chúng lao động, có sự quan tâm đến phúc lợi xã hội.
- Trong tư tưởng còn nhiều hạn chế như: Không tìm được phương thức để bảo vệ lợi ích của người lao động mà giải thích, vận động nghiêng về đạo đức, phẩm hạnh; Phê phán CNTB nhưng nhìn nhận sai lầm sự phát triển và vai trò của nó; Lý tưởng hóa nền sản xuất nhỏ, muốn quay ngược tiến trình lịch sử khôi phục nền sản xuất nhỏ (thể hiện chính chất không tưởng và phản động)
2. Quan điểm kinh tế của Proudhon:
· Vài nét về Proundhon (1809 - 1865)
- Pierre Joseph Proundhon sinh ra trong một gia đình thợ thủ công nghèo tại Pháp
- Năm 1848 được bầu vào quốc hội, đả đảo mãnh liệt bất công xã hội, có uy tín với người lao động
- Quan điểm cơ bản: "sự tôn trọng công bằng", chống lại hạn chế của CNTB, nhà nước tư sản, ủng hộ tự do cá nhân.
- Tư tưởng bồng bột, thiếu nhất quán, chịu nhiều đả kích: xây dựng học thuyết về tính công bằng vĩnh cửu thông qua cải tạo CNTB, duy trì củng cố nền sản xuất nhỏ (chủ nghĩa cải lương, vô chính phủ)
· Quan điểm kinh tế chủ yếu của Proundhon:
- Quan niệm về phạm trù kinh tế: Ông cho rằng kinh tế là sản phẩm của lý trí thuần túy, là phạm trù vĩnh viễn. Quan điểm này của Proundhon đã bị Marx phê phán kịch liệt
- Quan niệm về phân công lao động: ủng hộ Adam Smith, nhấn mạnh vai trò của phân công lao động.
- Quan niệm về sở hữu: ủng hộ tư hữu, cho rằng "tư hữu là một định chế thể hiện công bằng". Mặt khác lại cho tư hữu là đánh cắp vì nó loại hết quyền của người vô sản, tạo ra bất bình đẳng xã hội. Một chế độ sở hữu tốt là một chế độ sở hữu nhỏ, thủ tiêu sở hữu lớn.
- Lý luận về giá trị: Coi giá trị là một phạm trù trườu tượng, vĩnh viễn, gồm hai mặt đối lập nhau: giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào của cải, còn giá trị trao đổi thể hiện khuynh hướng khan hiếm của nó. Mâu thuẫn đó sẽ được giải quyết bằng trao đổi ngang giá thông qua việc xác lập giá trị cấu thành (giá trị pháp lý)
- Quan niệm về tiền tệ, tín dụng: cho rằng khi tiền tham gia vào quá trình trao đổi sẽ làm cho trao đổi hàng hóa bị rối loạn. Vì mục đích làm giàu và tăng thêm giá trị, các nhà tư bản sẽ biến đồng tiền hành công cụ thống trị và bóc lột người nghèo. Ông chủ trương tổ chức nền kinh tế hàng hóa không cần tiền và tổ chức tín dụng không lời. Ông coi trọng nguyên tắc hỗ tương, hệ thống liên hiện con người (tự do ký kết các khế ước thay cho luật lệ, thể hiện sự vô chính phủ trong lý luận của Proundhon). "Ngân hàng nhân dân" của Proudhon dựa trên ý tưởng về tín dụng không lời của Proundhon đã thất bại.
- Quan điểm về tầng lớp thứ ba trong xã hội: tầng lớp thứ ba là những người sản xuất nhỏ. Họ sẽ là vị cứu tinh, tạo thế cân bằng cho xã hội.
- Tư tưởng về cải cách xã hội:
ð Cơ sở của xã hội mới là nền sản xuất hàng hóa nhỏ, không có tư sản lớn. Không có bóc lột, thủ tiêu cách biệt giàu nghèo.
ð Biện pháp: thủ tiêu tiền tệ, dự án "ngân hàng trao đổi", "tín dụng không lời", cấp đất cho công nhân ở ngoại ô.
Ông chủ trương cải cách xã hội không cần bạo lực, không tin vào sự thành công của cách mạng.
Đánh giá chung về học thuyết kinh tế tiểu tư sản:
Mặt tích cực:
- Là những người đầu tiên đặt vấn đề phê phán chủ nghĩa tư bản một cách toàn diện, chỉ rõ những mâu thuẫn nội tại và bác bỏ sự tồn tại của nó.
- Bênh vực người lao động, người nghèo khổ. Chú trọng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và nâng cao lợi ích xã hội của người lao động.
- Các vấn đề xã hội và con người mà các nhà tiểu tư sản đề cập vẫn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt tại các nước lạc hậu mới bắt đầu phát triển sản xuất hàng hóa lớn.
Mặt hạn chế:
- Do chú trọng bênh vực những người sản xuất nhỏ bị thiệt hại do sự phát triển mạnh mẽ của CNTB nên họ đã phủ nhận toàn bộ những điểm tiến bộ của CNTB, có thái độ tiêu cực với nền sản xuất lớn, đi ngược lại tiến trình lịch sử.
- Đưa ra cương lĩnh cải tạo xã hội vừa mang tính chất không tưởng, vừa mang tính chất phản động.
a. :
C. Đánh giá chung:
Chương 6: học thuyết kinh tế CNXH không tưởng thế kỷ XIX
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Năm 1848 cách mạng tư sản Pháp thành công, cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ tại các nước Tây Âu vào giữa thế kỷ XVIII đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Xã hội phân chia giai cấp rõ rệt. Xuất hiện đấu tranh giai cấp, ngày một có ý thức và tổ chức hơn
- Các ý tưởng về CNXH đã manh nha từ thế kỷ XVI, nhưng đến đầu thế kỷ XIX, các tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng mới phát triển đầy đủ. Do phong trào công nhân chưa phát triển toàn diện nên việc chống lại ách áp bức, bóc lột của CNTB chỉ biểu hiện ra dưới hình thức mơ ước về một xã hội tương lai tươi đẹp mà thôi.
2. Đặc điểm chung:
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng là học thuyết kinh tế thể hiện sự phản kháng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại chế độ tư bản và tìm đường xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.
- Họ phê phán CNTB theo quan điểm kinh tế chứ không theo quan điểm luân lý, đạo đức. Chỉ rõ CNTB là một giai đoạn của lịch sử, chưa phải là chế độ tốt đẹp nhất của loài người.
- Vạch rõ mâu thuẫn của CNTB, sự kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và cần thay thế bằng xã hội mới.
- Tuy nhiên con đường đề xuất xây dựng xã hội mới chỉ có tính không tưởng do họ chưa thấy được sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, vai trò của quần chúng nhân dân.
3. Quan điểm kinh tế của Saint Simon
b. Vài nét về Saint Simon (1760 - 1825):
- Là nhà văn Pháp nổi tiếng, có kiến thức sâu rộng. Ông cho rằng: "Tất cả đời tôi tóm tắt trong một ý nghĩa duy nhất; đảm bảo cho mọi người phát triển năng khiếu tự do nhất"
c. Những quan điểm kinh tế của Saint Simon
- Lý luận về duy vật lịch sử:
ð Khẳng định lịch sử thay thế lẫn nhau giữa các giai đoạn khác nhau, song lại gắn bó với quá trình nhận thức của con người.
ð Không phân tích đúng động lực thực sự của tiến bộ xã hội: coi động lực tiến bộ của xã hội là đạo đức của con người.
- Phê phán chủ nghĩa tư bản nhưng không chống lại CNTB triệt để
ð Đề cao vai trò của "nhà công nghiệp". Phân chia xã hội thành ba giai cấp: nông gia, nhà công nghiệp và giai cấp không sinh lợi (quý tộc, thầy tu...)
- Dự án về xã hội tương lai:
ð Chế độ tương lai là hệ thống công nghiệp mới, trong đó nguyên tắc là: "mỗi người làm theo năng lực, mỗi năng lực sẽ được trả công theo lao động"
ð Không còn tình trạng bóc lột giữa người với người. Khoa học tiến bộ sẽ giúp con người làm chủ tự nhiên
ð Tương lai sẽ không còn Nhà nước, chính quyền sẽ được chuyển vào tay các nhà công nghiệp và các nhà bác học
ð Con đường cải tạo xã hội: biện pháp tinh thần, giáo dục đạo đức cho mọi người, chứ không nhằm vào việc cải tạo các cơ sở kinh tế.
1. Quan điểm kinh tế của Charles Fourier:
a. Vài nét về Fourier: (1771 - 1832)
- Làm việc trong hãng buôn
- Tích cực nghiên cứu kinh tế chính trị học, viết báo
b. Quan điểm kinh tế của Fourier:
- Phê phán chủ nghĩa tư bản:
ð CNTB đã phung phí lao động, hình thành đội quân những người không sản xuất
ð Thương nghiệp TBCN là ăn cắp, lừa dối, đầu cơ nâng giá
ð Sự vô chính phủ trong sản xuất dẫn đến cạnh tranh tự do, là mầm mống của khủng hoảng cũng như sự bần cùng của người lao động
ð Tập trung sản xuất cao sẽ đẻ ra độc quyền tư bản, thay thế cạnh tranh tự do
- Dự án xã hội tương lai:
ð Mong muốn xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, loại trừ tệ nạn xã hội, chế độ mới sẽ dựa trên nền sản xuất tập thể - hiệp hội sản xuất.
ð Lý thuyết "lao động hấp dẫn": dưới chủ nghĩa xã hội, lao động không những là một sự cần thiết mà còn là nhu cầu của con người. Con người lao động là vì thích thú, nên cần tạo điều kiện cho họ tự do chọn lựa, di chuyển công việc
ð Coi nông nghiệp là cơ sở của nền sản xuất xã hội, chứ không phải là công nghiệp
ð Nâng cao năng suất lao động và sự hăng say lao động của con người mới trong xã hội mới, từ đó mới có khả năng xóa bỏ nhà nước, quân đội, cảnh sát...
2. Quan điểm kinh tế của Robert Owen
a. Giới thiệu Robert Owen (1771 - 1858):
- Robert Owen (1771 - 1858) là nhà CNXH không tưởng tại Anh.
- Phần nào thấy được sức mạnh của công nhân và tham gia vào công nhân
- Owen là nhà hoạt động thực tiễn và có tài tổ chức.
b. Quan điểm kinh tế của Owen:
- Phê phán CNTB, đặc biệt trong lĩnh vực phân phối, nơi các kẻ trung gian làm tăng chi phí. Ông đề cao trao đổi bằng hiện vật trực tiếp.
- Dự án về xã hội tương lai:
ð Cơ sở của chế độ sở hữa công cộng trong xã hội tương lai là "tiền lao động" và "trao đổi công bằng", điều kiện cho việc thực hiện chế độ này là sự dồi dào về sản phẩm.
ð "Tiền lao động" là phiếu chứng nhận lao động chi phí vào việc sản xuất hàng hóa, từ đó người lao động nhận được những thứ hàng hóa mà họ cần cho tiêu dùng.
ð Phủ nhận dùng bạo lực để thủ tiêu chế độ tư hữu
ð Owen xây dựng các mô hình xí nghiệp có tính chất XHCN, xây dựng thị trường công bằng và "tiền lao động" nhưng thất bại
3. Đánh giá chung:
a. Tiến bộ:
- Phê phán CNTB một cách mạnh mẽ, quyết liệt, xuất phát từ lĩnh vực kinh tế. Họ vạch rõ tính chất tạm thời trong lịch sử của CNTB, chống lại những quan điểm cho rằng CNTB tồn tại vĩnh viễn.
- Đã có những phỏng đoán về xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai là hoàn toàn tốt đẹp
- Để đi đến thiết lập một chế độ xã hội mới, họ đã phát hiện được cần phải xóa bỏ dần (Fourier) đi đến xóa bỏ hẳn (Owen) chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
b. Hạn chế:
- Chưa tìm được lối thoát thật sự, còn nằm trong vòng bế tắc, vì không phát hiện được những quy luật kinh tế khách quan vận động trong nền sản xuất TBCN, không vạch ra được con đường đi lên CNXH
- Chưa thấy được vai trò của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động
- Chủ trương xây dựng xã hội mới bằng con đường không tưởng như tuyên truyền, chờ mong vào lòng từ thiện của nhà tư bản, coi tư tưởng về CNXH là tôn giáo mới.
Chương 7: Học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của học thuyết:
a. Về kinh tế:
- Hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp ở một loạt nước tư bản chủ nghĩa, nền đại công nghiệp cơ khí được xác lập.
- Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại công nghiệp cơ khí
- CNTB chiến thắng hoàn toàn xã hội phong kiến và làm cho giai cấp vô sản phải phụ thuộc vào giai cấp tư sản cả về kinh tế và kỹ thuật.
- CNTB phát triển trên cơ sở vật chất - kỹ thuật của chính bản thân nó. Đến đây, chủ nghĩa tư bản bộc lộ đầy đủ những mâu thuẫn và bản chất cơ bản của nó như khủng hoảng, thất nghiệp
b. Về chính trị - xã hội:
Đại công nghiệp cơ khí ra đời dẫn đến sự xuất hiện của một giai cấp mới - giai cấp vô sản (công nhân công nghiệp). Giai cấp này cùng với giai cấp tư sản hình thành nên hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản. Giai cấp tư sản nắm toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm quyền thống trị xã hội. Giai cấp vô sản không còn tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho giai cấp tư sản. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản phát triển cả về mặt số lượng và mặt chất lượng.
Do bị áp bức bóc lột nặng nề, giai cấp vô sản đã từng bước đứng lên đấu tranh với giai cấp tư sản và trở thành phong trào rộng lớn. Những phong trào này chưa có sự thành công sau cùng, do tính tự phát, thiếu lý luận khoa học dẫn đường.
c. Về mặt tư tưởng
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX có nhiều phát minh khoa học làm cơ sở lý luận cho việc lý giải các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Các nhà khoa học mác-xít đã kế thừa và phát triển các thành tựu này, xây dựng phép duy vật biện chứng, bổ sung và hoàn chỉnh lý luận của kinh tế chính trị học cổ điển Anh, khắc phục tính không tưởng của CNXH không tưởng Pháp.
Trên cơ sở kế thừa tinh hoa nhân loại, kết hợp với thực tiễn của CNTB và với tài năng của mình, Các Mác, Angwghen và Lênin đã sáng lập và phát triển kinh tế học mác-xít.
2. Đặc điểm của học thuyết
a. Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là sự kế thừa tinh hoa của nhân loại:
b. Học thuyết kinh tế Mác - Lênin dựa trên phương pháp luận khoa học:
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-xít: biện chứng duy vật, đồng thời còn sử dụng một loạt các phương pháp như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp.
Phương pháp nghiên cứu này đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp nghiên cứu của các nhà kinh tế đi trước (quan sát, duy tâm khách quan, duy tâm chủ quan...) và đi vào nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình kinh tế từ trong quá trình sản xuất vật chất, quá trình vận động phát triển và trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
c. Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn sinh động của chủ nghĩa tư bản
Những nhà kinh tế trước Mác sống trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển theo chiều hướng tiến bộ, chưa bộc lộ đầy đủ bản chất và các mâu thuẫn nội tại, nên học thuyết của họ còn nhiều mặt hạn chế. Đến thời Mác, Awngghen, Lê nin thì CNTB đã hoàn thành cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp hóa. Thực tiễn đó cho phép Các Mác và tiếp đó là Lê nin phân tích một cách sâu sắc và đầy đủ bản chất và quá trình vận động của CNTB.
d. Học thuyết kinh tế Mác - Lênin là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Chủ nghĩa Mác-Lê nin gồm ba bộ phận cấu thành: Triết học Mác - Lê nin, Kinh tế chính trị Mác - Lê nin, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mỗi bộ phận có vai trò, vị trí và nội dung riêng, trong đó kinh tế chính trị là môn khoa học nghiên cứu mặt xã hội của quá trình sản xuất.
3. Quá trình hình thành và phát triển của học thuyết chính trị Mác (tự đọc)
4. Những cống hiến của Các Mác cho khoa học kinh tế.
c. Bước tiến có ý nghĩa quyết định của học thuyết kinh tế của Các - Mác:
- Các Mác đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, đó là lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa và lao động trừu tượng quyết định giá trị trao đổi của hàng hóa. Nhờ đó ông đã hoàn thiện học thuyết về giá trị - lao dộng, làm cho học thuyết này thực sự trở thành cơ sở để phân tích các học thuyết kinh tế khác
- Lấy học thuyết về giá trị thặng dư làm nền tảng cho học thuyết kinh tế của ông, nhờ đó đã vạch ra được bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư
- Xây dựng một cách hoàn chỉnh lý luận về tái sản xuất của tổng tư bản xã hội, nhờ đó vạch rõ những mâu thuẫn cơ bản, nội tại và xu hướng vận động tất yếu của chủ nghĩa tư bản.
d. Những cống hiến của C. Mác cho khoa học kinh tế:
- Là người đầu tiên đưa vào kinh tế chính trị khái niệm quan hệ sản xuất và xác định chính quan hệ sản xuất là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
- Đã đứng trên quan điểm lịch sử về sự phát triển kinh tế để phân tích các phạm trù kinh tế, là người đầu tiên định nghĩa về phạm trù kinh tế một cách khoa học
- Là người đầu tiên phân tích một cách có hệ thống và khoa học về nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền.
- Là người đầu tiên đưa ra khái niệm hoàn chỉnh và khoa học về tư bản - tư bản chỉ tồn tại trong lao động làm thuê, phân chia một cách đúng đắn tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
- Phân tích một cách xuất sắc về quá trình tích lũy tư bản, về cấu tạo hữu cơ của tư bản, từ đó xác định chính xác xu hướng lịch sử của tích lũy tư bản chủ nghĩa
1. Sự bổ sung và phát triển của Lênin
a. Học thuyết của Lê nin về chủ nghĩa đế quốc:
Đầu thế kỷ XX, CNTB cạnh tranh tự do đã dần chuyển sang CNTB độc quyền
Lê nin đã khái quát bản chất kinh tế của CNTB trong giai đoạn này bằng 5 đặc điểm kinh tế cơ bản:
- Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn độc quyền của CNTB. Sự tập trung sản xuất và sự hình thành các tổ chức độc quyền nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một loạt hoặc một số sản phẩm nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền lên cao.
- Sự hình thành tư bản tài chính trên cơ sở dung nạp lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền công nghiệp và độc quyền ngân hàng. Tư bản tài chính đã thao túng toàn bộ nền kinh tế.
- Xuất khẩu tư bản trở thành một đặc điểm quan trọng
- Hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế và việc các tổ chức này phân chia thế giới
- Các cường quốc đế quốc hoàn thành phân chia thế giới về lãnh thổ và không ngừng đấu tranh để chia lại
Lê nin đã các định vị trí của chủ nghĩa đế quốc trong lịch sử. Đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền. Từ độc quyền tiến tới chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tạo điều kiện vật chất đầy đủ cho CNXH.
b. Quan điểm lý luận của Lê nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Hoàn cảnh lịch sử của nước Nga khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH:
+ Nền kinh tế nhiều thành phần
+ Trình độ sản xuất chủ yếu là nền sản xuất nhỏ, nền sản xuất này đang lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng do đó chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp.
+ Nước Nga đang bị các nước đế quốc phong tỏa
+ Khi thoát khỏi cuộc nội chiến cách mạng, nền kinh tế nước Nga lâm vào tình trạng hoang tàn cực độ.
Trước tình hình này, Lê nin đưa ra chính sách kinh tế mới: (NEP)
- Nội dung của chính sách kinh tế mới:
NEP là một hệ thống gồm nhiều khâu liên hoàn có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một cơ chế kinh tế giúp cho nước Nga tháo gỡ khó khăn và điều hành sự vận động kinh tế xã hội có hiệu quả. Tư tưởng NEP gồm:
+ Chính sách thuế lương thực nhằm cải thiện đời sống nông dân và nâng cao năng lực sản xuất của họ
+ Khôi phục, phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Lê nin nhấn mạnh: cái đáng sợ là tính tự phát của những người sản xuất nhỏ chứ không phải chủ nghĩa tư bản nhà nước.
+ Khôi phục và tổ chức lại sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân. Sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp là đi từ công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm rồi mới đến công nghiệp nặng. Chuyển cơ chế tập trung mệnh lệnh sang hạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Tổ chức quá trình lưu thông thông suốt, vì phát triển kinh tế hàng hóa thì thương nghiệp đóng vai trò rất quan trọng
+ Ổn định tiền tệ và củng cố nền tài chính, chống lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền.
NEP có ý nghĩa rất lớn những nước đang quá độ từ một nền sản xuất nhỏ lên CNXH.
Chương VIII: Học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới:
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB cạnh tranh tự do chuyển sang CNTB độc quyền, những khó khăn và mâu thuẫn vốn có của CNTB tăng lên gay gắt, nhiều hiện tượng kinh tế mới và mâu thuẫn kinh tế mới đòi hỏi phải có sự phân tích kinh tế mới.
- Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của xã hội loài người vì thế nó trở thành đối tượng phê phán mạnh mẽ của các nhà kinh tế học tư sản.
- Kinh tế học tư sản cổ điển tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ CNTB và khắc phục những khó khăn về kinh tế, đòi hỏi phải có hình thức mới thay thế.
2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới:
Trường phái cổ điển mới ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị trường sẽ tự điều tiết nền kinh tế thăng bằng cung cầu và có hiệu quả.
- Dựa vào tâm lý chủ quan để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế (ủng hộ thuyết giá trị chủ quan, theo đó cùng một hàng hóa, với người này cần hơn hay ích lợi nhiều thì giá trị lớn và ngược lại, người đó không cần thì ích lợi thấp và giá trị thấp.)
- Đối tượng nghiên cứu là các đơn vị kinh tế riêng biệt (chủ trương từ sự phân tích kinh tế trong các xí nghiệp để rút ra những kết luận chung cho toàn xã hội) được gọi là phương pháp phân tích vi mô
- Chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực lưu thông, trao đổi và nhu cầu.
- Tích cực áp dụng toán học và sử dụng các công cụ toán học vào phân tích kinh tế để đưa ra các khái niệm mới như: lợi ích biên tế, năng suất biên tế, sản phẩm biên tế... (còn gọi là trường phái biên tế marginalism)
- Muốn tách kinh tế khỏi chính trị xã hội, chủ trương chia kinh tế chính trị thành: kinh tế học thuần túy, kinh tế xã hội và kinh tế ứng dụng, đưa ra khái niệm kinh tế thay cho khái niệm kinh tế chính trị.
3. Trường phái biên tế ở Áo (marginalism)
Các đại biểu nổi tiếng: Karl Menger (1840 - 1921), Bohm Bawerk (1851 - 1914) và Von Wieser (1851 - 1926)
a. Thân thế của các đại biểu của trường phái biên tế ở Áo:
Karl Menger xuất thân từ gia đình quý tộc và học Luật. Trở thành viên chức nhà nước, làm báo và sau trở thành phó GS của ĐH Tổng hợp Vienne. Tại đây, ông xuất bản tác phẩm nổi tiếng "Những nguyên tắc cơ bản của kinh tế chính trị học", là cẩm nang cho các nhà kinh tế học Áo.
Bohm Bawerk là viên chức cấp cao của chính phủ: ba lần giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính Áo, Chủ tịch tối cao pháp viện Áo và Chủ tịch viện hàn lâm khoa học Áo.
Von Wiser cũng là nhà hoạt động nhà nước cấp cao: Bộ trưởng thương mại Áo.
Ba nhân vật này có quan hệ mật thiết về học thuật, cùng phát triển các lý thuyết của trường phái biên tế Áo.
b. Lý thuyết sản phẩm kinh tế:
Đưa ra khái niệm "sản phẩm kinh tế" thay cho phạm trù "hàng hóa". Một vật muốn được coi là "sản phẩm kinh tế" phải có đủ 4 tính chất, đó là:
- Có khả năng thỏa mãn nhu cầu hiện tại của con người (nhu cầu không còn thì sản phẩm mất đặc tính kinh tế, hoặc sản phẩm hỏng không có khả năng thỏa mãn nhu cầu thì cũng không phải là sản phẩm kinh tế)
- Công dụng của nó con người phải biết rõ
- Phải ở trong tình trạng có khả năng sử dụng được (không ở dạng tiềm năng, và có thể đi vào lưu thông thông qua trao đổi)
- Số lượng của nó có giới hạn (ở tình trạng khan hiếm, nếu vật phẩm quá dư thừa sẽ không phải là sản phẩm kinh tế)
c. Lý luận về giá trị của trường phái Áo:
* Lý thuyết về "lợi ích biên tế" (marginal utility) (dựa trên lý thuyết nhu cầu của Gossen):
- Quan niệm về lợi ích biên tế: Lợi ích biên tế của của cải được quy định bởi hai nhân tố: cường độ thỏa mãn nhu cầu và tính khan hiếm của nó. Với một lượng của cải nhất định, nhu cầu đối với nó càng cao thì lợi ích biên tế của nó càng cao (vd: càng đói ăn càng thấy ngon). Nếu số lượng của cải được đem dùng để thỏa mãn nhu cầu quá lớn thì lợi ích biên tế của nó sẽ giảm xuống (ăn no thì không muốn ăn nữa).
Lợi ích biên tế là lợi ích của vật phẩm cuối cùng đưa ra thỏa mãn nhu cầu, lợi ích đó là nhỏ nhất, nó quyết định lợi ích của các vật phẩm khác.
- Quan niệm về giá trị trao đổi: quan niệm giá trị trao đổi dựa trên yếu tố tâm lý - chủ quan, người ta trao đổi vật phẩm cho nhau chỉ khi nhận thấy có lợi cho mình, sản phẩm dư thừa của người này là khan hiếm với người kia và ngược lại.
Ví dụ:
Nông dân A Nông dân B
Bò 7 con Ngựa 3 con Bò 3 con Ngựa 7 con
10 9 9 10
9 8 8 9
8 7 7 8
7 7
6 6
5 5
4 4
- Quan niệm về giá trị biên tế: từ quan niệm "lợi ích biên tế", trường phái Áo đưa ra khái niệm "giá trị biên tế". Lợi ích biên tế của sản phẩm biên tế sẽ quyết định giá trị biên tế của sản phẩm đó. Và giá trị biên tế sẽ quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác.
Như thế giá trị biên tế của sản phẩm sẽ lớn khi số lượng nó nhỏ và ngược lại
Lý luận này hoàn toàn mâu thuẫn với giá trị lao động của trường phái cổ điển và Mác Họ đã tìm cách giải thích quan hệ cung cầu quyết định giá trị hàng hóa để thay cho lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển và Mác.
- Quan niệm về các hình thức giá trị:
Giá trị phải được phân biệt dưới hai hình thức giá trị khách quan và giá trị chủ quan. Một vật phẩm có thể có 4 hình thức giá trị:
+ Giá trị sử dụng chủ quan (subjective use value) & Giá trị sử dụng khách quan (objective use value)
+ Giá trị trao đổi chủ quan (subjective exchange value) & Giá trị trao đổi khách quan (objective exchange value)
Giá trị khách quan xuất phát từ lợi ích của vật phẩm mang lại để thỏa mãn nhu cầu con người nói chung. Giá trị chủ quan xuất phát từ sự tiêu dùng những lợi ích của vật phẩm ấy và con người quyết định sử dụng chúng trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Ví dụ: rau củ và thịt cá có giá trị sử dụng khách quan là làm thức ăn, cung cấp năng lượng và dưỡng chất để duy trì cuộc sống của con người. Rau củ và thịt cá có giá trị sử dụng chủ quan tùy vào con người sử dụng chúng vào việc gì (chế biến thành món ăn gì, để thỏa mãn nhu cầu cụ thể nào của người sử dụng...)
Rau củ và thịt cá có giá trị trao đổi khách quan để làm phong phú và đầy đủ các nhóm dưỡng chất cho bữa ăn của con người. Tuy nhiên, giá trị trao đổi chủ quan của rau củ và thịt cá sẽ tùy thuộc vào nhu cầu của từng bên trong quá trình trao đổi cụ thể (giá có thể cao thấp tùy thuộc cung cầu rau củ và thịt cá)
4. Trường phái biên tế của Mỹ
a. Đại biểu của trường phái:
Những quan điểm lý luận cơ bản của trường phái Mỹ được thể hiện trong những tác phẩm của J.B. Clark (1847 - 1938). Điểm quan trọng trong ly luận này việc phân tích sản xuất và phân phối trên cơ sở của lý luận "năng suất lao động biên tế" và "năng suất tư bản biên tế" (marginal productivity of capital)
Clark đã nghiên cứu nền kinh tế trong trạng thái tĩnh, túc là giả thiết nền kinh tế với quy mô tư bản và công nhân không thay đổi, không có sự hiện diện của của tiến bộ kỹ thuật và nhu cầu của xã hội cũng không đổi.
b. Lý thuyết năng suất giới hạn:
Căn cứ vào lý thuyết của Ricardo về "năng suất bất tương xứng", theo đó khi tăng thêm một nhân tố sản xuất nào đó (trong ba nhân tố là lao động, đất đai, tư bản) mà các nhân tố khác không đổi thì sẽ là giảm năng suất của nhân tố tăng thêm.
Trên cơ sở quy luật này, Clark cho rằng người công nhân được thuê mướn sau cùng là người công nhân biên tế và năng suất lao động của anh ta sẽ thấp hơn năng suất của những người công nhân trước đó. Những sản phẩm được sản xuất ra bởi người công nhân biên tế cũng ít hơn và được gọi là những sản phẩm biên tế. Còn đối với tư bản thì thu nhập của tư bản sẽ phù hợp với năng suất của tư bản được bỏ ra sau cùng - năng suất biên tế của tư bản.
c. Lý thuyết phân phối của Clark:
Việc phân phối của cải trong xã hội tư bản rất công bằng dựa vào "năng lực chịu trách nhiệm" của các nhân tố sản xuất.
Người lao động nhận tiền lương là sản phẩm biên tế của mình
Nhà tư bản nhận lợi tức là sản phẩm biên tế của tư bản
Chủ đất nhận địa tô là sản phẩm biên tế của đất đai
Nhà kinh doanh nhận lợi nhuận là thặng dư của người sử dụng các yếu tố sản xuất.
d. Lý thuyết về chi phí khả biến và chi phí bất biến của Clark (con)
Clark con đã tiếp tục nghiên cứu của Clark cha, nghiên cứu kinh tế trong trạng thái động. Nội dung chủ yếu là:
- Để sản xuất hàng hóa phải có chi phí sản xuất toàn bộ bao gồm hai yếu tố:
ð Chi phí bất biến: những chi phí không biến đổi so với quy mô sản xuất sản phẩm
ð Chi phí khả biến: là chi phí thay đổi theo quy mô sản xuất sản phẩm (nguyên vật liệu, lao động...)
- Chi phí biên tế: là chi phí tăng thêm để sản xuất một đơn vị sản phẩm cuối cùng. Xu hướng chung: ban đầu chi phí biên tế giảm dần đến một quy mô nhất định của sản lượng thì tăng cùng với sự phát triển của quy mô sản xuất, do đó chi phí bình quân cho mỗi sản phẩm cũng biến đổi tương tự
Lý thuyết này được sử dụng để xác định giới hạn của việc tăng quy mô sản phẩm. Và được vận dụng để xây dựng lý thuyết gia tốc phân tích nguyên nhân khủng hoảng kinh tế và giải quyết điều chỉnh chu trình kinh doanh.
5. Trường phái Lausanne (Thụy Sĩ)
a. Lý thuyết kinh tế chủ yếu của Leon Walras (1834 - 1910):
Leon Walras là người Pháp, sau sang Thụy Sĩ giảng dạy và sống tại Lausanne.
Ông đã áp dụng phương pháp phân tích toán học trong kinh tế. Thành tựu nổi bật của ông là lý thuyết cân bằng tổng quát. Nội dung chủ yếu là:
- Cơ cấu nền kinh tế thị trường có 3 loại thị trường
ð Thị trường sản phẩm (TTSP) là nơi mua bán hàng hóa
ð Thị trường tư bản (TTTB) là nơi thu hút và cho vay tư bản
ð Thị trường lao động (TTLĐ): nơi thuê mướn công nhân, tiền công là giá cả của lao động.
- Ba thị trường độc lập với nhau, nhưng nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh mà có liên hệ với nhau. Khi bán sản phẩm trên thị trường với giá cao hơn chi phí sản xuất doanh nhân sẽ có lãi, vì thế họ mở rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân làm cho sức cầu trên TTLĐ và TTTB tăng, dẫn đến giá cả lao động và tư bản tăng. Mặt khác, do sản phẩm sản xuất ra tăng, sản phẩm trên thị trường dồi dào dẫn đến giá cả hàng hóa giảm, làm cho thu nhập của doanh nhân giảm. Khi giá cả của hàng hóa sản xuất tăng đến mức nó ngang bằng với chi phí sản xuất ra chúng thì doanh nhân không có lời trong việc sản xuất thêm, do đó họ không mở rộng sản xuất nữa. Từ đó giả cả tư bản và lao động ổn định, dẫn đến giá cả hàng hóa ổn định. Ba thị trường đều đạt được trạng thái cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng tổng quát.
- Điều kiện để có cân bằng tổng quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng hóa sản xuất thêm và chi phí sản xuất ra chúng
- Lý thuyết này thể hiện sự tin tưởng vào sức mạnh của nền kinh tế thị trường và hoạt động của các quy luật kinh tế.
b. Lý thuyết kinh tế chủ yếu của W.D.Pareto (1848 - 1923)
Pareto là học trò của Walras. Lý luận chủ yếu của ông là về thị hiếu và sản xuất.
Để chỉ mối quan hệ giữa thị hiếu và sản xuất, ông dùng mô hình đường bàng quan (indifferent curve) thị hiếu và sản xuất.
Trong tiêu thụ, các cá nhân có thể kết hợp một sản phẩm này với một sản phẩm khác, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu và phù hợp với thị hiếu riêng của mình. Đường cong bàng quan là đồ thị của sự phối hợp hai hàng hóa để đạt được sự thỏa mãn như nhau.
Những sự thỏa mãn lớn hơn lượng thỏa mãn có được sẽ được định bởi một đường cong bàng quan cao hơn. Đường cong bàng quan cao hơn thể hiện trình độ thỏa mãn cao hơn của người tiêu dùng.
6. Lý thuyết kinh tế của trường phái Cambridge (Anh)
a. Đại biểu của trường phái Cambridge:
Alfred Marshall (1842 - 1924) là nhà kinh tế lớn của Anh. Những lý luận của ông đã bắt đầu cho khuynh hướng mới của kinh tế học tư sản hiện đại, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư tưởng kinh tế của Keynes sau này. Vốn là một giáo sư kinh tế, ông chuyển sang nghiên cứu kinh tế và cho ra đời tác phẩm lớn "Những nguyên tắc của kinh tế học" vào năm 1890.
Theo ông, kinh tế chính trị học là khoa học về đời sống con người. Ông đề nghị dùng thuật ngữ Kinh tế học thay cho Kinh tế chính trị học.
b. Lý thuyết giá cả của Marshall:
Trung tâm nghiên cứu của Marshall là cơ chế hình thành giá cả thị trường.
- Giá cả là hình thức của quan hệ về lượng mà trong đó hàng hóa và tiền tệ được trao đổi với nhau. Theo ông giá trị là phạm trù siêu hình, vô nghĩa, chỉ có giá cả là phạm trù thiết thực cụ thể vì thế nhà kinh tế không đề cập đến giá trị. Giá cả cân bằng được hình thành trên thị trường do kết quả sự va chạm giá cầu - giá cung (giá cầu được xác định bởi lợi ích biên tế còn giá cung được xác định bởi chi phí sản xuất.) Trong điều kiện tự do cạnh tranh, giá cầu giảm cùng với mức tăng cung hàng hóa trên thị trường.
- Giá cung và giá cầu là mối quan hệ cung cầu
- Thị trường là tổng thể những người có quan hệ kinh doanh hay nơi gặp gỡ cung cầu. Kết quả sự va chạm cung-cầu hình thành nên giá cả cân bằng (hay giá cả thị trường)
- Thời gian là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cung cầu và giá cả. Khi thời đoạn nghiên cứu ngắn thì phải chú ý ảnh hưởng của cầu lên giá trị. Thời đoạn nghiên cứu dài thì phải chú ý đến tác động của chi phí sản xuất đến giá cả
- Đưa ra khái niệm "độ co dãn của cầu" để chỉ sự phụ thuộc của cầu vào mức giá cả (K). Việc xác định K khiến các xí nghiệp độc quyền đưa ra các chính sách giá cả có lợi cho mình
7. Đánh giá chung:
a. Thành tựu:
- Những phân tích kinh tế thị trường hiện đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã được vận dụng trong hoạt động thực tiễn
- Phân tích cụ thể sự vận động của nền kinh tế trên cơ sở các quy luật của thị trường, nghiên cứu sâu hơn các quan hệ sản xuất trao đổi.
- Góp phần vào sự điều chỉnh của CNTB, đưa ra biện pháp điều chỉnh chu kỳ kinh tế của CNTB
- Tác động đến việc xây dựng các chính sách kinh tế của các nước tư bản trong thời kỳ này
- Là cơ sở của kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
b. Hạn chế:
- Mưu toan bác bỏ học thuyết kinh tế Mác về giá trị, giá trị thặng dư, tư bản và các kết luận của Mác về mâu thuẫn tư bản và công nhân, về sự sụp đổ của CNTB
- Xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm chủ quan, không tính đến vai trò của nền sản xuất và các điều kiện lịch sử xã hội, từ đó đi đến khẳng định CNTB tồn tại vĩnh viễn.
- Biến kinh tế chính trị thành môn kinh tế học thuần túy, nhằm che giấu những lợi ích kinh tế khác nhau đằng sau những hoạt động kinh tế.
Chương 9: học thuyết kinh tế của trường phái Keynes
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Học thuyết kinh tế của trường phái Keynes xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX và thống trị cho đến những năm 70 của thế kỷ XX.
Ở các nước phương Tây, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp diễn ra thường xuyên, nghiêm trọng (đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1929 - 1933) đã chứng tỏ các thuyết ủng hộ tự do kinh doanh (tự do kinh doanh, bàn tay vô hình, lý thuyết cân bằng tổng quát) của trường phái cổ điển và cổ điển mới không còn sức thuyết phục, không đảm bảo cho nề kinh tế phát triển lành mạnh.
CNTB phát triển với LLSX phát triển cao đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế (hình thành CNTB độc quyền Nhà nước)
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội với sự thành công của nền kinh tế kế hoạch hóa trong giai đoạn đó đã thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế tư sản, nhất là nghiên cứu vai trò kinh tế của Nhà nước.
Tóm lại tình hình kinh tế xã hội ở các nước tư bản và trên thế giới yêu cầu một lý thuyết kinh tế mới có khả năng thích ứng với tình hình mới để bảo vệ, duy trì và phát triển CNTB và học thuyết của Keynes đáp ứng được yêu cầu này. Học thuyết kinh tế của Keynes là học thuyết về CNTB có điều tiết.
2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của trường phái Keynes
a. Tư tưởng cơ bản của trường phái Keynes là:
- Bác bỏ lý giải cổ điển về sự tự điều chỉnh của nền kinh tế, không đồng ý với phái cổ điển và cổ điển mới về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của thi trường.
- Họ cho rằng nhà nước phải can thiệp vào kinh tế
- Lý giải khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp là do chính sách kinh tế lỗi thời, bảo thủ, thiếu sự can thiệp của Nhà nước (không phải do nội sinh của CNTB)
- Vị trí trung tâm trong lý thuyết của Keynes là lý thuyết về việc làm vì theo ông vấn đề quan trọng và nguy hiểm nhất đối với CNTB là khối lượng thất nghiệp và việc làm
Keynes được phong là công trình sư của CNTB độc quyền nhà nước
b. Đặc điểm phương pháp luận
- Keynes đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô (tức là phân tích kinh tế xuất phát từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của chúng nhằm tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng.
Ông đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với ba đại lượng:
- Một là đại lượng xuất phát (bao gồm nguồn vật chất như tư liệu sản xuất, sức lao động, trình độ chuyên môn hóa của người lao động, cơ cấu của chế độ xã hội. Đây là đại lượng thay đổi rất chậm chạp.
- Hai là đại lượng khả biến độc lập (là những khuynh hướng tâm lý như tiêu dùng, đầu tư, ưa chuộng tiền mặt) là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bẩy đảm bảo sự hoạt động của tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa
- Ba là đại lượng khả biến phụ thuộc (là các chỉ tiêu quan trọng cấu thành nền kinh tế TBCN, cụ thể hóa tình trạng nền kinh tế như khối lượng việc làm, thu nhập quốc dân, đơn vị tiền công). Đại lượng này có sự thay đổi theo sự tác động của các biến số độc lập.
Mối liên hệ giữa đại lượng khả biến độc lập và đại lượng khả biến phụ thuộc:
Thu nhập (R) = Giá trị sản lượng (Q) = Tiêu dùng (C) + Đầu tư (I)
Tiết kiệm (S) = Thu nhập (R) - Tiêu dùng (C)
=> I = S
I và S là hai đại lượng quan trọng. Theo Keynes, việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi khuyến khích tăng đầu tư và giảm tiết kiệm, có như vậy mới giải quyết được khủng hoảng và thất nghiệp.
- Về cơ bản, phương pháp Keynes vẫn dựa vào tâm lý chủ quan, nhưng khác với các nhà cổ điển và cổ điển mới dựa vào tâm lý cá biệt, Keynes dựa vào tâm lý xã hội, tâm lý chung, tâm lý của số đông (đưa ra các phạm trù khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm là các phạm trù tâm lý số đông, tâm lý xã hội). Phương pháp có tính siêu hình, coi lý thuyết của mình đúng đắn với mọi chế độ xã hội. Phương pháp theo xu hướng chung: tách kinh tế khỏi chính trị, tích cực áp dụng toán học (công thức mô hình hóa, hàm số, đồ thị)
- Đánh giá cao vai trò của tiêu dùng và trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số 1 mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp là do cầu tiêu dùng giảm dẫ đến cầu có hiệu quả giảm (mức tăng tiêu dùng chậm hơn mức tăng thu nhập do khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng tiền mặt). Do đó cần nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu có hiệu quả. Vì vậy lý thuyết của Keynes còn được gọi là thuyết trọng cầu.
3. Thuyết việc làm của Keynes
a. Vài nét về Keynes (1883 - 1946)
John Maynard Keynes sinh ở Anh, là GS, nhà kinh tế nổi tiếng. Ông là một chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ. ông còn là chủ bút tạo chí "nhà kinh tế'.
Tác phẩm nổi tiếng của ông là "Học thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" (1936).
b. Lý thuyết về "khuynh hướng tiêu dùng biên tế" MPC
Keynes chia thu nhập (R) thành hai phần tiêu dùng (C) và tiết kiệm (I). Khuynh hướng tiêu dùng là mối quan hệ giữa thu nhập với phần chi tiêu cho tiêu dùng.
Khuynh hướng tiêu dùng biên tế là mối quan hệ giữa tăng tiêu dùng so với sự gia tăng thu nhập, được biểu hiện bằng dC/dR.
Theo Keynes, quy luật tâm lý cơ bản của con người là cùng với sự gia tăng thu nhập, khuynh hướng tiết kiệm sẽ ngày càng tăng, đồng thời khuynh hướng tiêu dùng sẽ giảm tương đối so với sự gia tăng tiết kiệm. Khuynh hướng tiêu dùng biên tế ngày càng giảm là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Do đó cần phải kích thích tiêu dùng.
c. Lý thuyết về số nhân đầu tư: (multiplier)
Lý thuyết này gắn liền với lý thuyết "khuynh hướng tiêu dùng biên tế".
"Số nhân đầu tư" K thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia tăng thu nhập. nó chỉ rõ sự gia tăng đầu tư sẽ kéo theo sự gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần
K = dR/dI => dR = K. dI
Vì dI =dS = dR - dC nên:
K = dR/ (dR - dC) = 1/(1- dC/dR) = 1/(1-MPC)
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng đầu tư kéo theo sự gia tăng cầu về tư liệu sản xuất và sức lao động, kích thích sản xuất phát triển, tăng thu nhập (tăng sản lượng) và đến lượt nó, thu nhập tăng lại làm tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới. Vì thế số nhân làm cho thu nhập được phóng đại lên nhiều lần.
Cho ví dụ:
d. Lý thuyết về lãi suất:
Lãi suất cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với vốn đầu tư. Nó có tác dụng khuyến khích hoặc không khuyến khích nhu cầu đầu tư của tư bản.
Keynes cho rằng lãi suất là số tiền trả cho việc không sử dụng tiền mặt trong một khoảng thời gian nhất định. Có hai nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
- Khối lượng tiền tệ: khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông tăng thì khiến lãi suất giảm. Một trong những yếu tố kích thích đầu tư là lãi suất hạ. Để hạ lãi suất, Keynes cho rằng Nhà nước cần tăng thêm khối lượng tiền tệ trong lưu thông bằng cách in thêm tiền và tung vào lưu thông (lạm phát có kiểm soát)
- Sở thích tiền mặt: của cải ở dưới dạng tiền tệ là thuận lợi nhất, do vậy con người có khuynh hướng gắn liền với nó. Theo Keynes, sở thích tiền mặt sẽ giúp ổn định khối lượng tiền mặt người ta muốn giữ lại với từng mức lãi suất nhất định. Sở thích tiền mặt chịu tác động của các yếu tố sau:
- Động lực giao dịch
- Động lực dự phòng
- Động lực đầu cơ
e. Lý thuyết về "hiệu quả biên tế của tư bản"
Tương quan giữa "thu hoạch tương lai" và phí tổn cần thiết để sản xuất hàng hóa đó gọi là hiệu quả của tư bản.
Cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu quả của tư bản giảm dần. Nguyên nhân của hiện tượng này là:
- Tăng đầu tư làm lượng hàng hóa sản xuất ra tăng, dẫn đến giá cả hàng hóa sản xuất thêm giảm
- Cung về hàng hóa tăng khiến giá cung tổng số tư bản tăng
Điều này làm phí tổn sản xuất tăng và thu nhập giảm, dẫn đến hiệu quả đầu tư giảm.
Mối quan hệ giữa tăng đầu tư và tăng hiệu quả biên tế của tư bản được thể hiện trong mô hình đường cong hiệu quả biên tế của tư bản:
Hiệu quả biên tế của tư bản có mối liên hệ với lãi suất. nếu lãi suất cao hơn hoặc bằng hiệu quả biên tế của tư bản thì nhà tư bản sẽ không tiếp tục đầu tư.
f. Lý thuyết "tổng cầu":
Theo Keynes, nền kinh tế chịu tác động của hai nhân tố cơ bản: tổng cung (toàn bộ số hàng hóa bán trên thị trường) và tổng cầu (tức toàn thể số hàng hóa người ta muốn mua).
Nhân tố quyết định mức sản lượng và việc làm trong nền kinh tế không phải là tổng cung mà là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò thụ động, nó chịu sự tác động của tổng cầu. Còn tổng cầu chịu sự tác động của mức chi tiêu cá nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư và mức chi tiêu của chính phủ.
Theo Keynes, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường không theo kịp tổng cung. Điều đó gây ảnh hưởng đến sản xuất, thu hẹp đầu tư và gây ra tình trạng thất nghiệp. Để giải quyết tình trạng này phải tăng tổng cầu.
Tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng đầu tư, do đó gia tăng việc làm và gia tăng thu nhập. cuối cùng sản lượng quốc gia cũng sẽ gia tăng, đó là cốt lõi trong lý luận của Keynes.
g. Lý thuyết về tiền tệ:
Keynes đã phân tích quá trình lưu thông tiền tệ gắn với chu chuyển kinh tế, với các yếu tố của nền kinh tế quốc dân: luân chuyển hàng hóa và đầu tư, tích lũy và tiêu dùng, tiền lương và giá cả, thu nhập quốc dân và phân phối thu nhập quốc dân, đầu tư và lãi suất ngân hàng, phân tích cung và cầu tiền tệ
- Về cung tiền tệ: Keynes chia khối lượng tiền tệ thành hai luồng: luồng tiền phục vụ cho việc chu chuyển hàng hóa tư liệu tiêu dùng (M1) và luồng tiền phục vụ cho việc chu chuyển tư liệu sản xuất, đầu tư chứng khoán (M2)
- Về cầu tiền tệ M = M1 + M2 = L1 R + L2 r
Trong đó:
M là cầu tiền tệ
L1: hệ số sử dụng khối tiền M1 để sản xuất ra khối lượng sản phẩm quốc dân R
L2: hệ số sử dụng khối tiền M2 để đầu tư
r: lãi suất
Keynes chú ý đến vai trò của lãi suất ngân hàng: hạ thấp r để đẩy mạnh tín dụng và đầu tư, là cơ sở của chính sách "lạm phát có kiểm soát"
4. Lý thuyết về sự điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Tư tưởng trung tâm là đưa ra những giải pháp kích thích tiêu dùng và đầu tư:
Nội dung chủ yếu của thuyết là:
- Nhà nước phải duy trì cầu đầu tư để kích thích cả đầu tư Nhà nước và tư nhân bằng các chương trình đầu tư lớn (sự tham gia của Nhà nước vào hoạt động kinh tế là cần thiết, không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết)
- Sử dụng hệ thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế thông qua hai hướng: vừa củng cố lòng tin và sự lạc quan của doanh nhân, vừa đảm bảo bù đắp thâm hụt ngân sách
- Thực hiện "lạm phát kiểm soát" để tăng giá cả hàng hóa, tăng mức lưu thông tiền tệ để giảm lãi suất cho vay, in tiền giấy trợ cấp thâm hụt ngân sách Nhà nước, sử dụng công cụ thuế điều tiết kinh tế.
- Khuyến khích mọi hình thức đầu tư (để tạo việc làm và tăng thu nhập), kể cả đầu tư cho chiến tranh.
- Khuyến khích tiêu dùng của mọi người (tăng tổng cầu)
Học thuyết của Keynes đã được vận dụng rộng rãi trong thời gian dài ở các nước tư bản và có những biến thể khác nhau - là cơ sở cho chính sách kinh tế của nhiều nước tư bản.
5. Học thuyết kinh tế của trường phái Keynes mới và sau Keynes:
a. Trường phái Keynes mới:
Có ba trào lưu:
- Những người Keynes phái hữu: là những người ủng hộ độc quyền, chạy đua vũ trang, quân sự hóa nền kinh tế.
- Những người Keynes tự do: là những ngưởi ủng hộ độc quyền nhưng chống chạy đua vũ trang
- Những người Keynes mới phái tả: ủng hộ lợi ích của tư bản nhỏ và vừa, chống lại độc quyền
* Những người Keynes mới ở Mỹ:
- Coi học thuyết Keynes là liều thuốc hiệu nghiệm có bổ sung tăng. Đưa ra các giải pháp: tăng thu ngân sách, tăng thuế trong thời kỳ hưng thịnh, tăng nợ nhà nước.
- Coi thu chi ngân sách là công cụ ổn định bên trong của nền kinh tế
- Coi trọng chi phí chiến tranh, coi đây là một phương tiện để ổn định thị trường, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.
* Những người Keynes mới ở Pháp:
- Một số muốn áp dụng nguyên vẹn học thuyế Keynes
- Một số phê phán Keynes trong việc sử dụng lãi suất để điều tiết kinh tế và đề nghị thay bằng công cụ kế hoạch hóa. Họ phân biệt "kê hoạch hóa mệnh lệnh" và "kế hoạch hóa hướng dẫn" và nước Pháp dùng Kế hoạch hóa hướng dẫn.
b. Trường phái sau Keynes:
- Coi quan điểm kinh tế của Keynes là nguồn gốc, nhưng phê phán Keynes chính thống đã bỏ qua nhân tố tiền tệ, trừu tượng hóa vấn đề "năng suất giới hạn", phê phán lý thuyết giá trị của Mác.
- Dựa vào lý thuyết giá trị của Ricardo, phương pháp phân tích của Mác, áp dụng các quan điểm hệ thống kinh tế - xã hội vào nghiên cứu kinh tế (ví dụ: chú ý đến vai trò của công đoàn trong phát triển kinh tế)
- Áp dụng nhiều dòng lý thuyết khác nhau để xây dựng hệ thống lí luận của mình với gốc là học thuyết Keynes
6. Đánh giá chung
a. Thành tựu:
- Học thuyết kinh tế của Keynes đã có tác dụng tích cực nhất định đối với sự phát triển kinh tế trong các nước tư bản, góp phần thúc đẩy kinh tế của các nước tư bản phát triển, hạn chế được khủng hoảng và thất nghiệp, nhất là trong những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, tốc độ phát triển kinh tế của nhiều nước rất cao. Vì vậy học thuyết này giữ vai trò thống trị trong tư tưởng kinh tế tư sản trong một thời gian dài. Các khái niệm của học thuyết kinh tế này được sử dụng trong môn kinh tế vĩ mô ngày nay.
- Học thuyết này là cơ sở chủ đạo của các chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước tư bản phát triển sau thế chiến thứ hai
b. Hạn chế:
- Mục đích chống khủng hoảng, thất nghiệp chưa làm được (chỉ có tác dụng tạm thời). Thất nghiệp vẫn duy trì ở mức cao. Khủng hoảng tuy không trầm trọng như trước nhưng vẫn xảy ra thường xuyên, thời gian giữa các cuộc khủng hoảng ngắn hơn.
- Ý đồ dùng lãi suất để điều chỉnh chu kỳ kinh tế TBCN không có hiệu quả, biểu hiện: chính sach lạm phát có mức độ (có kiểm soát) làm cho lạm phát trầm trọng thêm, tác hại lớn hơn cái lợi nó mang lại.
- Quá coi nhẹ cơ chế thị trường
- Phương pháp luận thiếu khoa học, dựa vào tâm lý chủ quan của con người
- Chỉ tập trung vào các vấn đề ngắn hạn, ít chú trọng tới việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế dài hạn
Học thuyết Keynes chỉ là bài thuốc chữa cái ngọn, không chữa được tận gốc rễ căn bệnh của CNTB
Chương 10: học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Các lý thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới đều tập trung đề cao vai trò của cơ chế thị trường cạnh tranh tự do.
Trường phái Keynes và Keynes mới lại đề cao vai trò điều tiết vĩ mô kinh tế của Nhà nước và phê phán những khuyết tật của thị trường..
Trên thực tế, nền kinh tế sẽ phát triển không hiệu quả nếu đề cao quá đáng vai trò của thị trường hoặc vai trò của nhà nước. Sự phê phán các trường phái dẫn đến sự xích lại gần nhau giữa hai chiều hướng (từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX). Từ đó hình thành trường phái chính hiện đại
Mầm mống của kinh tế hỗn hợp có từ những năm cuối thế kỷ XIX, sau chiến tranh thế giới thứ hai nó được nhà kinh tế học người Mỹ là Hassen nghiên cứu và tư tưởng này tiếp tục được phát triển mạnh mẽ từ những năm 70 của thế kỷ XX.
Đại biểu của trường phái này là Samuelson (Mỹ) với tác phẩm "Kinh tế học", là cơ sở cho nhiều giáo trình kinh tế vi mô và vĩ mô.
2. Đặc điểm của học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại:
- Vận dụng một các tổng hợp nhiều lý thuyết và phương pháp của nhiều trường phái trong lịch sử nhằm đưa ra lý thuyết làm cơ sở cho các hoạt động của doanh nghiệp và chính sách kinh tế của nhà nước Tư sản.
- Sử dụng cả phương pháp phân tích vi mô và phân tích vĩ mô để trình bày các vấn đề kinh tế. Sử dụng nhiều công thức toán học, đồ thị để lý giải các hiện tượng và quá trình kinh tế. Theo đó nền kinh tế thị trường cần có sự điều tiết của nhà nước.
3. Một số lý thuyết tiêu biểu:
A. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp
a. ba vấn đề của tổ chức kinh tế:
Mọi nền kinh tế đều phải giải quyết ba vấn đề:
- Sản xuất hàng hóa gì? Số lượng bao nhiêu?
- Sản xuất hàng hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sản xuất bằng nguồn lực nào và với kỹ thuật nào?
- Sản xuất hàng hóa cho ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ lực kinh tế, hay sản phẩm quốc dân được phân chia thế nào?
Trong lịch sử đã tồn tại hai phương thức:
- Chính phủ đưa ra hầu hết các vấn đề kinh tế
- Các quyết định kinh tế đều do thị trường quyết định
Cả hai phương thức này đều có ưu điểm và hạn chế, không nên tuyệt đối hóa một phương thức nào mà cần kết hợp cơ chế thị trường và sự điều tiết của Nhà nước.
b. Cơ chế thị trường:
Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế.
Cơ chế thị trường là cơ chế tinh vi, phối hợp một cách không tự giác mọi người, mọi hoạt động và mọi doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường.
Những đặc trưng của cơ chế thị trường:
- Không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế
- Là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được những bài toán về sản xuất, phân phối.
- Không ai thiết kế ra, xuất hiện tự nhiên và cũng tự nhiên thay đổi như xã hội loài người.
Thị trường là cơ chế trong đó người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hóa dịch vụ. Thị trường gồm có:
- Các yếu tố: hàng hóa, tiền tệ, người bán, người mua, giá cả hàng hóa.
- Sự hoạt động của giá cả hàng hóa là tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng, là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quan hệ cung - cầu là khái quát của hai lực lượng cơ bản người bán - người mua trên thị trường. Sự biến đổi của giá cả dẫn đến biến đổi cung - cầu.
Sản xuất cái gì phải do cả chi phí kinh doanh và các quan hệ cung - cầu quy định. Vì vậy trong nghiên cứu không chỉ có quan hệ của cầu mà còn có vai trò của cung.
Động lực của cơ chế thị trường là lợi nhuận. Môi trường của cơ chế thị trường là cạnh tranh.
Cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng đưa đến kết quả tối ưu mà có những khuyết tật nhất định, nhiều vấn đề thị trường không giải quyết nổi (độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, thất nghiệp, phân phối bất bình đẳng). Do đó theo Samuelson cần phải có sự can thiệp của nhà nước để khắc phục.
c. Vai trò kinh tế của chính phủ:
Chính phủ (Nhà nước) có 4 chức năng:
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật: đề ra các quy tắc mà doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả chính phủ cũng tuân theo. Bao gồm các quy định về tái sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm của liên đoàn lao động và các luật lệ để xác định môi trường kinh tế
- Sửa chữa các khuyết tật của cơ chế thị trường:
- Can thiệp hạn chế độc quyền
- Can thiệp vào các tác động bên ngoài: ô nhiễm môi trường, khai thác bừa bãi tài nguyên.
- Đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hóa công cộng (hàng hóa cần thiết cho đời sống xã hội mà tư nhân không muốn hoặc không thể sản xuất như quốc phòng, an ninh..)
- Thu thuế: để đảm bảo hoạt động của chính phủ
- Đảm bảo sự công bằng: cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến sự phân hóa và bất bình đẳng, do đó đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước. Công cụ:
- Thuế lũy tiến: người có thu nhập cao chịu thuế suất lớn hơn người có thu nhập thấp
- Hỗ trợ thu nhập cho các đối tượng người cao tuổi, tàn tật, thất nghiệp
- Trợ cấp tiêu dùng cho những người có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu mua thực phẩm, trợ cấp y tế, nhà ở...
- Tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô: Chính phủ sử dụng các chính sách tiền tệ, tài chính tác động tới chu kỳ kinh doanh, giải quyết nạn thất nghiệp, chống trì trệ, lạm phát.
Tóm lại, để phát triển kinh tế hiệu quả, cần phải dựa vào "hai bàn tay":
- Cơ chế thị trường: xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực
- Sự điều tiết của Chính phủ: bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ.
B. Lý thuyết giới hạn khả năng sản xuấ và sự lựa chọn
Theo Samuelson, do tính chất hạn chế của toàn bộ tài nguyên, có thể sản xuất ra hàng hóa buộc xã hội chỉ được lựa chọn trong số hàng hóa tương đối khan hiếm để sản xuất.
Đồ thị Đường giới hạn khả năng sản xuất (Production Possibility Frontier) biểu thị sự lựa chọn mà xã hội có thể có với nguồn lực hiện tại
C. Lý thuyết thất nghiệp:
Theo các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại thì thất nghiệp là vấn đề trung tâm của xã hội hiện đại. Các vấn đề cơ bản về thất nghiệp được nghiên cứu là:
- Các khái niệm về thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp
- Tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên
- Ảnh hưởng của thất nghiệp
D. Lý thuyết về lạm phát:
Theo các nhà kinh tế chính hiện đại, trong nền kinh tế hiện đại, hạn chế lạm phát là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô. Từ đó họ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lạm phát như sau:
- Các khái niệm về lạm phát
- Nguồn gốc của lạm phát
- Tác động của lạm phát
- Những biện pháp kiểm soát lạm phát.
E. Lý thuyết về tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán:
Các nội dung cơ bản để nghiên cứu là:
- Lý thuyết tiền tệ: vấn đề quan trọng trong lý thuyết tiền tệ hiện đại là xác định thành phần của mức cung tiền tệ
- Ngân hàng: trong lý thuyết kinh tế học quan tâm đến "sự mở rộng nhiều lần của tiền gửi ngân hàng hay quá trình tạo nguồn của tiền gửi ngân hàng.
- Thị trường chứng khoán: để phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực của thị trường chứng khoán, các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra lý thuyết về "thị trường có hiệu quả". Trong thị trường này giá cả chứng khoán hoạt động rất thất thường mà các nhà kinh tế học gọi là "cuộc đi lang thang không có chủ định". Từ việc nghiên cứu, các nhà kinh tế học đưa ra nhiều lời khuyên về chiến lược đầu tư trên thị trường này.
F. Một số lý thuyết tăng trưởng kinh tế đối với các nước đang phát triển.
a. Thuyết "Vòng luẩn quẩn" và "cú huých từ bên ngoài" của Samuelson:
Theo Samuelson, để tăng trưởng kinh tế cần có 4 nhân tố là: nhân lực lao động, tài nguyên, cấu thành tư bản và kỹ thuật công nghệ. Ở các nước kém phát triển thì bốn yếu tố trên và việc kết hợp chúng đang gặp nhiều trở ngại lớn. Khó khăn càng tăng thêm trong một vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Để phá vỡ cần có "cú huých từ bên ngoài" về vốn, công nghệ, chuyên gia, vì thế phải có đầu tư nước ngoài, phải tạo điều kiện thuận lợi để kích thích đầu tư nước ngoài.
Vòng luẩn quẩn:
b. Thuyết "cất cánh" của Rostow (Mỹ)
theo lý thuyết này thì quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước trải qua năm giai đoạn:
- Xã hội truyền thống cũ: sản xuất nông nghiệp thống trị, năng suất lao động thấp, đời sống vật chất và tinh thần thiếu thốn, xã hội kém linh hoạt
- Chuẩn bị cất cánh: đã xuất hiện các chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới kinh tế, kết cấu hạ tầng được quan tâm, đặc biệt là giao thông, xuất hiện nhiều trung tâm kinh tế làm chỗ dựa cho sự tăng trưởng
- Giai đoạn cất cánh: đã hội tụ đủ các điều kiện như đầu tư tăng 5 -10% trong GNP, công nghiệp phát triển, xuất hiện một số ngành mũi nhọn đạt hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng kinh tế, lợi nhuận tăng, tư bản, năng suất lao động bình quân tăng vọt, kinh tế phát triển, quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng.
- Giai đoạn chín muồi: đầu tư dạt 10 -20% GNP, xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới và hiện đại. Cơ cấu xã hội biến đổi, đời sống dân cư được thể hiện rõ nét.
- Kỷ nguyên tiêu dùng cao: sản xuất đạt trình độ xã hội hóa cao, quốc gia thịnh vượng, nhưng cũng có hiện tượng giảm sút sự tăng trưởng kinh tế
* Điều kiện cất cánh là:
- Tỉ lệ đầu tư tăng 5 - 10%
- Xây dựng được những lĩnh vực đầu tàu (thị trường xuất nhập khẩu phát triển nhanh hoặc công nghiệp có khả năng phát triển mạnh, hiệu quả theo quy mô lớn). Khi các lĩnh vực đầu tàu tăng nhanh thì quá trình tăng trưởng tự duy trì xuất hiện
- Phải có bộ máy quản lý năng động, biết sử dụng kỹ thuật và tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
c. Lý thuyết phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hóa (CNH)
Theo đó, có hai phương pháp thực hiện công nghiệp hóa:
- CNH thay thế nhập khẩu: phát triển sản phẩm trong nước để thay thế sản phẩm nhập khẩu
- CNH theo hướng xuất khẩu: bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ 20
d. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở Châu Á gió mùa
Do nhà kinh tế Haroy Toshima (Nhật) đưa ra cho các nước có nền nông nghiệp lúa nước, trong đỉnh cao thời vụ vẫn thiếu lao động. Nội dung chủ yếu của thuyết này là:
- Giữ nguyên lao động nông nghiệp, song phải tạo nhiều việc làm trong những tháng nhàn rỗi
- Thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân, văn minh hóa nông thôn và kinh tế sẽ tăng trưởng, tránh được sức ép về nhiều mặt đối với đô thị
Kết luận về các lý thuyết:
- Đã chú ý phân tích, đánh giá đặc điểm, điều kiện và các nguồn lực để phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển để đưa ra lời khuyên và những giải pháp cho các nước.
- Đã có nước khai thác vận dụng thành công (NICs) nhưng là số ít. Thực chất đều nhằm phục vụ lợi ích các nước tư bản trong điều kiện mới (thống trị, bóc lột, nô dịch các nước kém phát triển)
- Đòi hỏi sự thận trọng, sáng suốt của chính phủ các nước kém phát triển để đạt tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và độc lập tự chủ.
4. Đánh giá chung:
a. Tiến bộ:
- Có kế thừa, vận dụng và phát triển các lý thuyết kinh tế của nhiều trường phái trong lịch sử
- Với mô hình kinh tế hỗn hợp, một mặt nhận thức được yếu tố tích cực của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, mặt khác vạch ra sự cần thiết phải điều tiết vĩ mô của nhà nước để phát huy mặt tích cực và khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường.
- Đưa ra một số lý thuyết làm cơ sở cho sự điều tiết kinh tế của nhà nước.
- Có nghiên cứu để đưa ra lý thuyết phát triển kinh tế đối với nước chậm phát triển.
b. Hạn chế:
- Mô tả các hiện tượng và quá trình kinh tế trong các giai đoạn lịch sử khác nhau và đưa ra những tiêu chí phân loại (nước giàu - nghèo, phát triển - đang phát triển) nhưng chưa chỉ ra được bản chất và nguyên nhân thật sự của các hiện tượng và quá trình đó.
- Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, các nước phát triển vẫn giữ lợi thế về vốn, công nghệ, thị trường. .. nên sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế hiện nay khó có thể đạt được. Vì thế lý thuyết của trường phái chính hiện đại không thể áp dụng cho mọi quốc gia.
Tóm lại, tùy từng điều kiện, khả năng và nguồn lực của mình, các nước có thể tiếp thu các nhân tố hợp lý để đề ra phương hướng, chính sách, giải pháp phù hợp đảm bảo tốc độ phát triển cao và bền vững.
Chương XI: Học thuyết kinh tế của trường phái tự do mới
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lại lâm vào cuộc khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản dựa trên học thuyết của trường phái Keynes
Xuất hiện khuynh hướng phê phán học thuyết Keynes và do đó phục hồi tư tưởng tự do kinh tế nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới.
Nguồn gốc: tư tưởng tự do kinh tế của các nhà cổ điển (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) được phát triển bởi các nhà cổ điển mới (cuối thế kỷ XIX đến thập kỷ 30 của thế kỷ XX), gọi là chủ nghĩa tự do cũ. Sau đó tư tưởng chủ nghĩa tư bản có điều tiết (Keynes) thống trị, đến những năm 70 của thế kỷ XX thì tư tưởng tự do kinh tế được phục hồi dẫn đến sự xuất hiện của "chủ nghĩa tự do mới"
2. Đặc điểm:
Đây là một trào lưu tư tưởng kinh tế tư sản. Chủ nghĩa tự do kinh tế gồm các lý thuyết đề cao tự do kinh doanh, tự do tham gia thị trường, coi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là hệ thống tự động do các quy luật kinh tế khách quan tự phát điều tiết.
Chủ nghĩa tự do mới: dựa trên nền tảng lập trường tự do tư sản cổ điển đồng thời lại muốn áp dụng và kết hợp quan điểm của trường phái Keynes, trường phái trọng thương ở mức độ nhất định để hình thành tư tưởng mới nhằm điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
Tư tưởng cơ bản của học thuyết kinh tế của trường phái tự do mới là: cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định (ủng hộ tự do kinh doanh nhưng thừa nhận sự điều tiết nhất định của Nhà nước, khẩu hiệu "tự do kinh doanh nhiều hơn, thị trường nhiều hơn, nhà nước can thiệp ít hơn")
Trong việc lý giải các hiện tượng và quá trình kinh tế trường phái này nhấn mạnh yếu tố tâm lý cá nhân trong việc quy định sản xuất và tiêu dùng, đồng thời sử dụng các công cụ toán học để chứng minh cho lý thuyết của mình
Trường phái kinh tế của chủ nghĩa tự do mới phát triển rộng rãi ở các nước tư bản với màu sắc khác nhau, tên gọi khác nhau. Ví dụ: chủ nghĩa cá nhân mới (Anh), chủ nghĩa bảo thủ mới (Mỹ), nền kinh tế thị trường xã hội (Đức),...
1. Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội ở CHLB Đức:
a. nền kinh tế thị trường xã hội:
nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do cá nhân, năng lực hoạt động kinh tế với công bằng xã hội. đây là nền kinh tế thị trường khuyến khích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân và lợi ích toàn xã hội, đồng thời phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường, chống lạm phát, giảm thất nghiệp, quan tâm thực hiện công bằng xã hội. các quyết định kinh tế và chính trị của nhà nước đuợc hoạch định trên cơ sở chú ý đến những nguyện vọng và nhu cầu cá nhân.
Mô hình này theo đuổi các mục tiêu:
- Đảm bảo và nâng cao tự do về vật chất cho mọi công dân bằng cách đảm bảo cơ hội kinh doanh cá thể bằng một hệ thống an toàn xã hội
- Thực hiện công bằng xã hội theo nghĩa là công bằng trong khởi nghiệp và phân phối
- Đảm bảo ổn định bên trong của xã hội (khắc phục khủng hoảng kinh tế, mất cân đối.
Tư tưởng trung tâm của mô hình là:
- Tự do thị trường, tự do kinh doanh, không có sự khống chế của độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, độc lập kinh tế và chịu trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, thừa nhận vai trò nhất định của nhà nước
- Tổ chức theo kiểu sân bóng đá.
b. các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường xã hội:
- Tuyệt đối đảm bảo quyền tự do cá nhân
- đảm bảo công bằng xã hội thông qua các chính sách xã hội của nhà nước
- chính sách kinh doanh theo chu kỳ, Nhà nước phải có chính sách khắc phục hậu quả của khủng khoảng kinh tế, điều chỉnh mất cân đối
- Chính sách tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội
- Chính sách cơ cấu, đựơc coi là tiêu chuẩn hạt nhân trong chinhs ách tăng trưởng (chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu cách mạng khoa học ông nghệ, đào tạo con người...)
- Đảm bảo tính phù hợp với cạnh tranh trên thị trường, ngăn ngừa sự phá vỡ hay cạnh tranh quá mức trên thị trường.
Ngày nay lý thuyết này được phát triển thành lý thuyết "xã hội có tổ chức", "xã hội phúc lợi chung"
c. các chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường xã hội:
cạnh tranh là yếu tố trung tâm không thể thiếu, để có hiệu quả phải có sự bảo hộ ủa Nhà nước trên cơ sở tôn trọng quyền tự do của các xí nghiệp.
chức năng cơ bản của cạnh tranh là:
- Sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu
- Khuyến khích tiến bộ kỹ thuật
- Phân phối thu nhập
- Thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng
- đảm bảo chính sách linh hoạt của sự điều chỉnh
- thực hiện kiểm soát sức mạnh kinh tế và chính trị
- đảm bảo quyền tự do lựa chọn và hành động cá nhân
các nhân tố đe doạ cạnh tranh là:
- Từ chính phủ: có thể hạn chế, bóp méo cạnh tranh, với tư cách người quản lý xã hội sẽ làm suy yếu cạnh tranh
- Từ phía tư nhân: về cơ bản, đó là sự hình thành tổ chức độc quyền
d. các yếu tố xã hội trong kinh tế thị trường - xã hội:
yếu tố xã hội được quan tâm đặc biệt với nội dung: nâng cao mức sống của các nhóm dân cư thu nhập thấp, bảo trợ xã hội đồng thời bảo vệ tất cả các thành viên trong xã hội
Muốn giải quyết tốt các vấn đề xã hội cần phải tăng nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập một cách công bằng, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội.
e. Vai trò của chính phủ
Cần đảm bảo các quy tắc sau:
- Nguyên tắc hỗ trợ: cần có chính phủ nhưng chỉ cần can thiệp khi cần thiết với mức độ hợp lý
- Tạo sự hài hoà giữa các chức năng của Chính phủ với thị trường, can thiệp phải thích hợp với hệ thống thị trường, đảm bảo tương hợp với các quy luật thị trường.
f. Thành tựu và hạn chế của kinh tế thị trường xã hội
- Thành tựu:
i. Đưa nước Đức từ một nước thu trận trong chiến tranh thế giới thư1 II trở thành một cường quốc kinh tế
ii. Thực hiện hai mục tiêu: tự do cá nhân và đoàn kết xã hội
iii. Kết hợp được khả năng công nghiệp lớn mạnh dựa trên công nghệ hiện đại với sự phát triển thương mại thế giới mở rộng
- Hạn chế:
i. Tăng trưởng kinh tế gần đây chậm lại
ii. Về xã hội: chủ nghĩa cực đoan cá nhân tăng lên, sự khủng hoảng về con người
iii. sự can thiệp của nhà nước cũng cần phải xem xét lại
2. Các lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa tự do mới ở Mỹ:
a. Thuyết trọng tiền: (đại biểu: Miltol Friedman)
Nội dung của lý thuyết này:
Thứ nhất cho rằng mức cung tiền tệ là nhân tố quyết định đến việc tăng sản lượng quốc gia và do đó ảnh hưởng đến việc làm, giá cả.
Về bản chất: nền kinh tế TBCN là tương đối ổn định, cơ chế thị trường tự nó sẽ đảm bảo cân bằng cung cầu và không nhất thiết phải trải qua các chu kỳ kinh doanh.
Suy thoái và lạm phát cao là do nhà nước cung quá ít hoặc quá nhiều tiền cho nền kinh tế.
Cụ thể: tiền cung ứng tăng nhanh hơn mức thu nhập thì dân cư sẽ chi tiêu ngay số tiền đó là cầu tiêu dùng tăng, dẫn đến tăng giá và lạm phát.
Ngược lại, tiền cung ứng ít hơn mức cần thiết thì chi tiêu giảm, tổng cầu giảm, hàng hóa bán ra chậm, dẫn đến trì trệ, thu hẹp sản xuất, hiện tượng suy thoát kinh tế và thất nghiệp xảy ra.
Tóm lại biến động trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến biến động trong thu nhập, trong hoạt động sản xuất kinh doanh và giá cả cùng với những biến động trong cơ cấu kinh tế và cạnh tranh, dẫn đến chu kỳ kinh doanh (khủng hoảng kinh tế)
Có thể tác động vào chu kỳ kinh tế tư bản bằng việc chủ động điều tiết mức cung tiền tệ. Việc điều tiết này do Nhà nước thực hiện thông qua ngân hàng trung ương. Hiệu quả phụ thuộc vào trình độ và năng lực của Nhà nước.
Thứ hai, giá cả phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên có thể thông qua chính sách tiền tệ để ổn định giá cả, chống lạm phát.
Từ công thức: MV = PQ ta có V = PQ/M
M: mức cung tiền tệ
V: tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Giá cả trung bình của hàng hóa và dịch vụ
Q: Sản lượng (Khối lượng hàng hóa và dịch vụ trong năm)
PQ: GNP danh nghĩa
Vì V có tính ổn định, Q không phụ thuộc hoặc phụ thuộc rất ít vào M
Nên M thay đổi sẽ tác động trực tiếp đến P, do đó tác động đến giá cả, lạm phát và sự phát triển kinh tế.
Chủ trương ưu tiên chống lạm phát hơn là chống thất nghiệp (thậm chí có thể chấp nhận tỉ lệ thất nghiệp cao để ngăn ngừa lạm phát). Lạm phát mới là căn bệnh nan giải của xã hội chứ không phải thất nghiệp.
Chỉ có chính sách tiền tệ mới giữ vai trò chủ đạo tác động đến ổn định và phát triển kinh tế (không phải các chính sách tài khoá như thuế và chi tiêu, trái với Keynes)
Tư tưởng điều tiết tiền tệ (Friedman) là: chủ động điều tiết mức cung tiền tệ trong từng thời kỳ phát triển, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế nên tăng khối lượng tiền tệ, trong thời kỳ ổn định nên giảm mức cung tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ để ngăn chặn lạm phát.
Lý thuyết trọng tiền có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nước tư bản phát triển, đặc biệt là Anh và Mỹ. Nhưng chỉ đạt hiệu quả kinh tế nhất thời, sau đó lại đưa đến những hậu quả mới.
b. Lý thuyết trọng cung:
Lý thuyết này xuất hiện ở Mỹ vào năm 1980, biểu hiện rõ sự đối lập với những tư tưởng trọng cầu của Keynes (tiền bối Marshall, Arthur Laffer)
Lý thuyết trọng cung đề cao vai trò chủ động trong sản xuất của giới chủ, đề cao cơ chế tự điều tiết của thị trường tự do. Theo lý thuyết này, chỉ có khu vực kinh doanh tự do của tư nhân mới có khả năng đạt được sự phát triển kinh tế ổn định. Dù chính phủ có tự đặt nhiệm vụ gì thì cũng không thể can thiệp vào kinh tế. Sự kích thích tư nhân sản xuất chỉ bắt đầu từ sản xuất và do thị trường tác động điều tiết. sự ép buộc qua mức từ phía nhà nước có thể gây ra phản ứng tiêu cực và sự thui chột năng lực và tính năng động của khu vực tư nhân.
Nội dung của lý thuyết là:
- khối lượng sản xuất là kết cuqr của chi phí sản xuất, phản ánh kết quả họat động kinh tế. Chi phí này mang lại kích thích kinh tế: chi phí sản xuất tăng thì khối lượng sản xuất càng lớn. Cung tăng sẽ tạo ra cầu mới,c ơ chế thị trường tự điều tiết sẽ dẫn tới cân bằng cung cầu. Sự điều tiết của chính phủ sẽ làm biếng dạng cung cầu. Nhà nước (Chính phủ) có nhiệm vụ là xây dựng các điều kiện để các yếu tố kích thích kinh tế xuất hiện, nền kinh tế sẽ đạt được trạng thái lý tưởng.
- Khuyến khích nâng cao khối lượng và hiệu quả sản xuất.
- Tôn trọng tính chủ động của giới chủ, giảm tới mức tối đa sự can thiệp của Nhà nước. Nguyên tắc: đề cao lợi ích của khu vực tư nhân.
- Xem cạnh tranh là yếu tố cần thiết (tự do cạnh tranh)
- Tiết kiệm là yêu cầu của mọi nền kinh tế. Muốn phát triển kinh tế không phải ở chỗ kích thích cầu mà phải tăng năng suất lao động bằng con đường kích thích lao động, đầu tư và tiết kiệm. Không có tiết kiệm sẽ không có bất cứ sự tăng trường nào (Phủ nhận việc kích thíh cầu)
- Sự tác động vào tổng cung sẽ tạo ra những thế năng cho những mục tiêu ổn định dài hạn và việc hoạch định chính sách của Nhà nước chỉ mang lại hiệu quả cao khi nhằm vào các mục tiêu ổn định dài hạn.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung của nền kinh tế là:
i. Lao động: số lượng, chất lượng
ii. Vốn: khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn vốn
iii. tiến bộ kỹ thuật:
- Cần giảm thuế: sẽ tăng được tiết kiệm và đầu tư, kích thích sản xuất kinh doanh và cải tiến kỹ thuật, từ đó tăng sản phẩm và lợi nhuận, do đó không giảm thu ngân sách (tổng thu về thuế tăng)
- Công cụ chủ yếu để phân tích kinh tế là lý thuyết đường cong Laffer thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập và mức thuế. Tóm lại cần có chính sách thuế hợp lý, mức thuế phù hợp
Lý thuyết trọng cung có ảnh hưởng đến chính sách kinh tế của chính quyền Reagan
- Thu nhập là 0 khi thuế là 0 hay 100%
- Tổng thu nhập tăng thì thuế tăng (năng suất tăng)
- Đến mức thuế nhất định nếu thuê vẫn tăng thì tổng thu nhập giảm (mức thuế quá cao)
3. Đánh giá chung:
a. Tiến bộ:
Các lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới đều nhận thấy hạn chế của cơ chế thị truowfng tự do cạnh tranh (lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế chu kỳ, bất công xã hội...), do đó đã đưa ra nhiều giải pháp khắc phục.
Đã quan tâm đến tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích cạnh tranh đồng thời quan tâm đến những vấn đề xã hội
Có sự đánh giá tầm quan trọng và hiệu quả can thiệp của Nhà nước vào kinh tế ở mức độ khác nhau, đã đưa ra một số giải pháp, chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước.
b. Hạn chế:
- Giải thích hiện tượng, nguyên nhân khủng hoảng kinh tế mang tính chất chủ quan, phiên diện, dựa vào yếu tố tâm lý xã hội, tâm lý tiêu dùng... mà không thấy được tính tổng thể, mối liên hệ biện chứng giữa các hiện tượng và quá trình kinh tế.
- Chưa vạch rõ nguyên nhân bản chất của các hiện tượng kinh tế như thất nghiệp, lạm phát, bất công... do đó đưa ra liều thuốc chữa cháy mang tính hiệu quả nhất thời và phiến diện.
- Tóm lại, vẫn không giải quyết triệt để được mâu thuẫn cơ bản của CNTB
Chương XII: Trường phái thể chế
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Trường phái thể chế được truyền bá rộng rãi từ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX nhưng xuất hiện sớm hơn, đó là từ cuối thế kỷ XIX. Sự nảy sinh trường phái thể chế với tư cách là sự đối lập của giai cấp tiểu tư sản đối với chủ nghĩa đến quốc. Quá trình này diễn ra trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền và sự thống trị độc quyền. Đồng thời có sự thoái trào của kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Trường phái thể chế tồ tại song song bên cạnh các trường phái kinh tế khác nhưng đặc biệt từ thập niên 90 của thế kỷ XX, nó có tác động rất lớn
Các giai đoạn phát triển của trường phái thể chế:
- 1920 - 1930: Trường phái thể chế cổ điển, thời kỳ mở rộng trường phái thể chế.
- Trước và sau thế chiến thứ II: trường phái thể chế thực chứng
- 1960 - 1970: trường phái thể chế mới, nổi bật là trường phái thể chế gắn rất chặt với sự tác động ngày càng mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
2. Đặc điểm của trường phái thể chế:
Tư tưởng cơ bản của trường phái thể chế là đề cao vai trò của các thể chế xã hội của khoa học kỹ thuật trong sự phát triển kinh tế. Động lực của sự phát triển xã hội là các thể chế xã hội (các hình thức gia đình, nhà nước, tổ chức độc quyền, nghiệp đoàn... có thể là sự biểu hiện của tâm lý xã hội, động cơ xử sự, phương thức tư duy: tập tục, truyền thống, biểu hiện về luật pháp, luân lý)
Trường phái thể chế đã khẳng định các phạm trù kinh tế (chế độ sở hữa, thuế, tiền tệ, lợi nhuận,...) là hình thức thể hiện của tâm lý học trong xã hội
Trường phái thể chế không thừa nhận tác động của các quy luật kinh tế khách quan, không phân tích sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hện sản xuất mà chỉ phân tích sự tiến hóa của tư liệu sản xuất.
Những nhà kinh tế của trường phái thể chế muốn:
- thay thế môn kinh tế bằng môn lịch sử và phân tích tâm lý (nghiên cứu nếp sống, thói quen, tập tục, truyền thống, tác động của các yếu tố xã hội và đạo đức)
- Thay thế lý luận bằng phương pháp mô tả
Về đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
- Đi sâu vào mặt thể chế và kết cấu kinh tế xã hội, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển và tác dụng của các thể chế để phân tích xã hội
- Coi mối quan hệ tập thể, các thể chế kinh tế - xã hội là cơ sở phát triển kinh tế
- Đối tượng nghiên cứu vượt khỏi phạm vi của kinh tế tư bản truyền thống.
3. Trường phái thể chế cũ:
a. Khuynh hướng thể chế tâm lý xã hội:
Đại biểu: Veblen, được coi là người sáng lập trường phái thể chế
Đặc điểm và nội dung:
- Cách tiếp cận tâm lý xã hội đối với các hiện tượng kinh tế, đi phân tích phẩm hạnh và tư duy của các nhóm xã hội
- Phân tích các hiện tượng kinh tế trong khi xem xét chúng như những tập quán đã được xác lập. Theo ông, tình cảm huyết thống, bản năng tài nghệ, lòng hiếu học, khát khao tri thức là những động lực thôi thúc hoạt động kinh tế.
- Phê phán gay gắt các tệ nạn trong xã hội tư bản và cho rằng mâu thuẫn chủ yếu của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực quản lý và lưu thông.
- Đồng nhất tính quy luật phát triển xã hội với quy luật sinh học thì lại không chấp nhận quan điểm mác xít về lao động, bản chất tư sản, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phản đối đấu tranh giai cấp.
- Bác bỏ quan hệ con người đối với tư liệu sản xuất
Veblen là người đặt nền móng và đề xướng thuyết "kỹ thuật quyết định" có nôi dung là đề cao vai trò tri thức trong sự phát triển xã hội hiện đại, cho rằng có thế thay đổi chế độ bằng cách chuyển chính quyền vào tay giới trí thức kỹ thuật, bằng sự đấu tranh của các nhà kỹ thuật, kỹ sư để buộc các nhà kinh doanh phải theo điều kiện của họ.
b. Khuynh hướng thể chế pháp lý xã hội (commons)
Là sự truyền bá chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân.
Đặc điểm và nội dung cơ bản của khuynh hướng này là:
- Xác định bản chất của tư bản không phải là bóc lột công nhân và tạo giá trị thặng dư mà là quan hệ thị trường, và trong điều kiện chủ nghĩa tư bản hiện đại thì biểu hiện như là sự cạnh tranh không trung thực, từ đó có thể sử dụng các cơ quan pháp luật để sửa chữa.
- Phủ định sự hiện diện của các giai cấp mà chỉ tồn tại những nhóm nghề nghiệp và có xung đột xã hội nảy sinh khi có hợp tác với nhau.
- Mâu thuẫn xã hội sẽ được khắc phục bằng cách hoàn thiện các tiêu chuẩn pháp chế sẽ đem lại khả năng cho tiến bộ xã hội. Cụ thể theo lý thuyết này thì:
- Quan hệ giữa tư bản và công nhân là sự giao ước có tính chất pháp lý của các thành viên bình đẳng theo các quy tắc luật định.
- Bằng cách thiết chế các quy tắc có thể xóa bỏ mọi mâu thuẫn, xung đột xã hội.
- Các phạm trù kinh tế biểu hiện như là các quan hệ pháp lý.
c. Khuynh hướng thể chế thống kê:
Đại biểu là Mitchell - Nổi tiếng về nghiên cứu các hiện tượng kinh tế có tính chu kỳ.
Đối tượng nghiên cứu của khuynh hướng này là:
- Tìm tòi cụ thể các chỉ tiêu bằng số, tìm hiểu các quy luật trong sự biến động của các chỉ số này để cải thiện chúng và điều tiết kinh tế.
- Nghiên cứu các vấn đề lưu thông tiền tệ và đặc biệt chú ý xem xét các chu kỳ kinh doanh, tính độ dài các chu kỳ, xây dựng mô hình phát triển không có khủng hoảng, xây dựng các chỉ số, các chỉ tiêu phản ánh tình hình kinh tế và sử dụng nó để lý giải tình trạng CNTB
- Sô liệu chủ yếu thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ dẫ đến dự báo sai
Lý giải sự phát triển xã hội không phải là sự phát triển của cá nhân mà là sự hoàn thiện mối liên hệ tập thể các thành viên. Nhìn thấy sự phát triển trong sự tiến hóa của các thể chế, tăng quy chế nhà nước và sự can thiệp của thế chế Nhà nước vào kinh tế nhưng không đánh giá được tính hợp lý của thể chế này mà chỉ tái hiện và mô tả
4. Trường phái thể chế mới:
Trường phái này dựa trên thuyết Kỹ thuật quyết định của Veblen và trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển. Bao gồm các thuyết Xã hội công nghiệp, xã hội công nghiệp mới, Xã hội hậu công nghiệp
a. Thuyết xã hội công nghiệp: (những năm 60 của thế kỷ XX)
Lý thuyết này tuyên bố thủ tiêu vai trò chủ đạo của sở hữu trong kinh tế, chuyển vai trò quyết định phát triển kinh tế sang các công ty lớn. Tập trung quyền lực công ty vào tay các nhà khoa học và quản lý, ứng dụng kỹ thuật, quản lý có tổ chức nhằm đáp ứng các yêu cầu cơ bản của xã hội, nhờ Nhà nước điều tiết.
Theo họ kỹ thuật làm thay đổi không chỉ việc áp dụng các quy luật kinh tế mà cả các quy luật trong khuôn khổ "xã hội chủ nghĩa" như:
- Việc bóc lột công nhân bị thủ tiêu:
- Bảo đảm đối với tài sản được đặt hàng đầu và có thể được giải quyết bằng nhiều phương pháp khác nhau (tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa) của nền "văn minh công nghiệp"
- Các công ty không còn mang tính chất độc quyền, không chỉ mục đích lợi nhuận mà còn hướng đến việc thỏa mãn tốt hơn nhu cầu xã hội, thực hiện các chức năng xã hội quan trọng.
b. Thuyết xã hội công nghiệp mới:
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật quyết định sự tiến hóa xã hội, làm cho CNTB tiến hóa sang "xã hội công nghiệp mới"
Xã hội công nghiệp mới có các đặc điểm như:
- Tư bản mất quyền lực
- Người có tri thức chuyên môn được trọng thị
- Quyền lực chuyển vào tay tổ hợp chuyên gia
- Do đó mục tiêu không phải là lợi nhuận tối đa, xóa bỏ giàu nghèo, giai cấp
Theo thuyết này, chỉ bằng các biện pháp cải lương có thể cải tạo chủ nghĩa tư bản thành xã hội công nghiệp mới.
c. Thuyết xã hội hậu công nghiệp:
Đại diện: D. Bell (nhà xã hội học Mỹ)
Trọng tâm của lý thuyết là "Nguyên lý trục"
Theo D.Bell sự phát triển xã hội gắn với sự thay đổ về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa-chính trị. Mỗi lĩnh vực dựa trên nguyên lý một trục nhất định
Các lý thuyết về sự phát triển xã hội chỉ dựa trên một trục, ví dụ:
- Theo Mác: học thuyết kinh tế quyết định (theo trục quan hệ sở hữu)
- Theo thuyết xã hội hậu công nghiệp: kỹ thuật quyết định (theo trục các thay đổi kỹ thuật)
- Theo thuyết xã hội hậu công nghiệp: xác định xã hội hậu công nghiệp theo trục công nghệ và tri thức.
Đặc trưng:
- Nền kinh tế chuyển từ công nghiệp chế biến làm trụ cột sang dịch vụ làm trụ cột
- Các chuyên gia lành nghề và kỹ thuật viên chiếm ưu thế
- Tri thức luận giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các phương sách kinh tế và xác định cấu trúc xã hội
- Kỹ thuật của tương lai được tiến hành theo kế hoạch, có điều tiết, định hướng kinh tế - kỹ thuật đối với việc kiểm soát và đánh giá công nghệ
- Các chính sách chế định đều phải qua "công nghệ trí tuệ"
- Không còn là chủ nghĩa tư bản cũng không phải là chủ nghĩa xã hội
- Trong xã hội: khoa học kỹ thuật có vai trò ngày càng tăng và chiếm địa vị quyết định, chế độ tư hữu mất dần tác dụng, mâu thuẫn được loại trừ.
5. Đánh giá:
Là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản đế quốc, trường phái thể chế đang trong quá trình vận động, chưa kết thúc. Do đó sự đánh giá chưa phải là kết luận cuối cùng
a. Tiến bộ:
Trường phái thể chế có những tiến bộ đó là
- Nhận thức được vai trò và tác động của các mặt đời sống xã hội, đặc biệt nhận thức khá sâu sắc tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế trong xã hội hiện đại, trường phái thể chế đặt vấn đề nghiên cứu tổng thể nền kinh tế, xã hội trong quá trình vận động lịch sử, nghiên cứu kinh tế trong mối liên hệ tác động với các mặt khác của đời sống xã hội do đó ít niều khắc phục mâu thuẫn, cứu vãn sự sụp đổ của CNTB, làm cho CNTB có sự biến đổi thích nghi.
- Là cơ sở của các học thuyết chính trị - xã hội tư bản như: thuyết hội tụ, thuyết phục lợi chung, nhà nước tư bản toàn cầu
- Nghiên cứu giúp chúng ta nhìn nhận khoa học hơn về học thuyết Mác - Lênin. Phạm vi rộng, đụng chạm đến nhiều mặt của đời sống xã hội nên để hiểu đầy đủ cần có hiểu biết rộng, phối hợp nghiên cứu đa ngành, liên ngành: kinh tế, chính trị, xã hội học, tâm lý học, lịch sử...
b. Hạn chế:
- Đứng trên quan điểm duy tâm khi nghiên cứu kinh tế, xã hội (phủ định vai trò cơ sở kinh tế của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu, đề cao vai trò của các yếu tố kinh tế như tâm lý, pháp lý, tri thức...
- Bản chất vẫn là một trào lưu tư sản dù có phê phán gay gắt những khuyết tật của xã hội tư bản
- Phản ánh hệ tư tưởng tư sản, đứng trên lập trường giai cấp tư sản bênh vực lợi ích của tư bản độc quyền và CNTB
- Mọi lý luận đưa ra đều nhằm chống lại chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA
BÀI TẬP ĐIỀU KIỆN
Môn: Lịch sử các học thuyết kinh tế
GV:
A. Câu hỏi:
Phần lý thuyết (5 điểm): Anh/chị chọn một trong hai câu hỏi dưới đây:
Câu 1:
a. Trình bày những đặc điểm chung của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.
b. Giải thích tại sao Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng nông cũng được xếp vào nhóm học thuyết kinh tế tư sản cổ điển?
c. Học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin đã kế thừa những tinh hoa gì của học thuyết kinh tế tư sản cổ điển? Phân tích những điểm tiến bộ và khoa học của học thuyết kinh tế chính trị Mác - Lênin so với học thuyết kinh tế tư sản cổ điển?
Câu 2:
a. So sánh học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới và học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.
b. Giải thích tại sao học thuyết kinh tế của trường phái Keynes lại phê phán học thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới và học thuyết kinh tế tư sản cổ điển.
Phần ứng dụng (5 điểm):
Hãy tìm hiểu và phân tích đánh giá những ảnh hưởng của một (hoặc một vài) học thuyết kinh tế lên phương thức điều hành và quản lý hoạt động kinh tế của chính phủ Việt Nam hiện nay (nêu dẫn chứng cụ thể).
B. Yêu cầu:
1. Bài làm dựa trên tài liệu hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế và các tài liệu tham khảo mà anh/chị có được.
2. Cần ghi rõ tài liệu tham khảo, nguồn gốc các thông tin nếu anh/chị trích dẫn, thu thập từ internet
3. Bài làm cần được trình bày rõ ràng trên khổ giấy A4
4. Độ dài không quá 5 trang.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro