
chương 2: từ phần 2
Lỗ Nhất Khí kinh hãi trước lời nói của lão mù, cậu nhảy dựng lên như thể giẫm phải cục than nóng, lông tóc dựng đứng.
Chiếu bích phía nam kỳ thực chính là bức chiếu bích ở bên ngoài cổng chính của tứ hợp viện, đối diện với cổng chính. Do nhà ở thông thường đều thiết kế quay mặt về phía nam, nên được gọi là chiếu bích phía nam. Thông thường, nó được xây cách phía trước toà nhà đối diên một quãng, song đôi khi cũng được xây sát vào tường của khu nhà đối diện, chù yếu là nhằm che chắn bố cục rối loạn của khu nhà phía trước, đảm bảo vẻ ngay ngắn và mỹ quan cho khu vực trước nhà mình. Trong Phong thuỷ học cho rằng nó có tác dụng "tàng phong tụ khí", đề phòng tán khí thất vận.
Tuy nhiên, ở phía đối diện với trạch viện này lại không hề có căn nhà nào, chỉ có một con đường lát đá, vài đám đồng hoang, nên không cần thiết phải xây chiếu bích. Hơn thế nữa, tại vị trí mà lão mù vừa chỉ, lại không hề có lấy một viên gạch.
Nhưng Lỗ Thịnh Hiếu lại không hề tỏ chút nghi ngờ, ông nói với Quỷ Nhãn Tam:
– Nghê Tam, cậu qua đó xem sao!
Lúc này Lỗ Nhất Khí mới biết Quỷ Nhãn Tam họ Nghê, và cũng cho tới lúc này, cậu mới nhìn thấy khuôn mặt của Quỷ Nhãn Tam.
Vì khi bác cậu còn chưa nói dứt câu, Quỷ Nhãn Tam đã nhanh chóng giật bỏ tấm vải choàng màu đen, để lộ ra một khuôn mặt xương xẩu, trắng bệch song còn khá trẻ, cùng một bộ trang phục gọn gàng với chiếc áo chẽn và vòng cổ tay cũng bằng da bò. Duy có con mắt bên trái vẫn ẩn phía sau miếng da hình bầu dục, hai đầu của miếng da được buộc lại bằng một sợi gân bò, thít chặt trên đầu.
Quỷ Nhãn Tam không nói không rằng, giắt tấm vải choàng vào chiếc thắt lưng da bò, quặt tay ra sau rút từ trong chiếc túi da đeo trên lưng ra một chiếc cuốc mỏ hạc bằng thép ròng, động tác nhanh như làm phép, chỉ một loáng sau, đã bổ xuống mặt đất lạnh cứng hơn hai trăm lỗ lớn bằng cỡ ly rượu. Sau đó, hắn cất cuốc vào trong túi da, khi rút tay trở lại, đã thấy cầm theo một chiếc xẻng lưỡi cày, khua khoắng vùn vụt. Lại một chốc nữa, trên mặt đất đã xuất hiện một đường rãnh rộng ba thước, sâu hai thước rưỡi.
Lỗ Thịnh Hiếu không kìm được thán phục thốt lên:
– Công phu dời non phá núi của họ Nghê quả thực phi phàm!
– Họ Nghê với dời non phá núi gì kia? – Lỗ Nhất Khí ngơ ngác không hiểu, bèn hỏi lại.
Lão mù thấy cậu băn khoăn, bèn giải thích:
– Họ Nghê tại Giang Tây là gia tộc dẫn đầu của phái dời mộ trong tộc trộm mộ. Người trong gia tộc này đặc biệt sở trường về dời mộ phá mộ, với bảy tuyệt kỹ đào, khoét, bới, đục, gõ, trượt, phá, và bốn thuật là định thi biến, phá tà chú, độc âm văn, đoạn quỷ triền*. Bất kể là mộ của đế vương hay quan lại, chỉ cần họ tìm thấy huyệt, mọi thứ quý giá trong hầm mộ đều bị cuỗm sạch trơn. Tay Nghê Tam này là một cao thủ hiếm hoi trong thế hệ trẻ của gia tộc họ Nghê, biệt hiệu trong giang hồ là Quỷ Nhãn Tam, đào bới chút đất này đối với hắn là môt việc vặt chả thấm tháp vào đâu.
*Tức là ngăn ngừa xác chết biến thành xác sống (cương thi), phá vỡ Iời nguyền độc địa, đọc văn tự cõi âm, cắt đứt ma quỷ quấy nhiễu.
Lời giải thích đã nhanh chóng giải đáp được rất nhiều thắc mắc trong lòng Lỗ Nhất Khí, như tại sao tay của Quỷ Nhãn Tam lại chằng chịt vết sẹo? Tại sao hắn luôn mang theo viên đá Thi khuyển bên người? Tại sao trên cơ thể hắn luôn phàng phất mùi tử khí? Câu trả lời chỉ có một, đó là hắn kiếm cơm nhờ các xác chết lâu năm trong mộ cổ.
– Lão mù, lắm lời quá đấy! Lão làm việc của lão đi!- Quỷ Nhãn Tam vừa nhảy lên mặt đất, vừa lấc cấc nói với lão mù.
Lão mù thôi không nói gì nữa, huơ chiếc gậy, xác định vị trí, rồi bước xuống dưới rãnh.
Quỷ Nhãn Tam với thêm một câu:
– Bên vách đất phía nam!
Lão mù bèn ngồi thụp xuống, bắt đầu lần dò trên một bên của vách đất. Ở đó quả đúng là có một bức tường thấp, đúng hơn là một cái gờ bằng gạch, vì nó chỉ cao khoảng hai thước.
Lỗ Nhất Khí cũng khom lưng ngó đầu xuống xem, song cậu chẳng nhìn thấy gì cả. Lúc này, Lỗ Thịnh Hiếu cũng vươn người nhìn xuống, rồi ông rút từ ngăn kéo nhỏ trên hòm gỗ ra một chùm ánh sáng.
Lỗ Nhất Khí rất ngạc nhiên khi thấy bác cậu có một viên dạ minh châu lớn đến vậy, song cậu nhanh chóng
phát hiện ra rằng đó không phải là dạ minh châu. Tuy nó rất sáng, song khí của nó không đủ, hơi thở rất yếu ớt.
Nhờ chút ánh sáng lạnh lẽo, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy bức chiếu bích. Nó đúng là một chiếu bích, một chiếu bích chỉ cao vỏn vẹn hai thước và bị chôn vùi dưới đất. Nó cũng có phần móng, có bích tâm, có mái che, chỉ có điều mái che đơn giản là do một hàng gạch rộng hơn xếp thành. Toàn bộ chiếu bích đều được xây bằng gạch xanh nhỏ nung kỹ, đen bóng, không hề có hình thù trang trí hay điêu khắc nào, cực kỳ đơn giản.
– Lão mù, cẩn thận đấy, tường ma vỡ, ma bủa vây! – Quỷ Nhãn Tam nói năng lúc nào cũng kiệm lời, giọng trầm và nhỏ.
Lão mù cười khẩy:
– Cậu lớn, đừng có doạ ta, lão mù này bị doạ quen rồi. Chỉ có họ Nghê các ngươi biết bày trò bắt ma đuổi quỷ? Còn lão mù này không biết? Thằng nhóc, nếu ngươi có bản lĩnh, thì đục cho cái lỗ đúng bích tâm, thả mấy con ma ra đây, ta với ngươi so tài cao thấp!
– Tôi không dám, kỵ nhất chuyện này! – Quỷ Nhãn Tam vẫn thì thầm đáp.
Lão mù thôi không đôi co với Quỷ Nhãn Tam nữa, tiếp tục sờ soạng trên bức tường ma quỷ.
Lẽ nào đây quả thực là bức tường của địa phủ, ngăn cách giữa nhân gian và cõi âm tào?
Nghe đoạn đối đáp giữa hai người họ, Lỗ Nhất Khí không hề cảm thấy sợ hãi. Nãy giờ cậu quan sát bức tường vô cùng chăm chú, không cảm nhận thấy ở đó có thứ gì khiến cậu phải sợ hãi cả.
Thế nhưng, đây có thực là bức chiếu bích ma không? Chính xác là như vậy!
Lỗ Thịnh Hiếu đứng thẳng người dậy, bước về phía Lỗ Nhất Khí, nói:
– Đừng nghe bọn họ nói càn! Chiếu bích ma chỉ là một thủ pháp để định phong thuỷ, nhằm ngăn chặn không để cho âm khí của địa phủ xung với cát khí tại cổng cửa. Bởi vậy nên người ta mới xây chiếu bích ở dưới lòng đất phía trước các ngôi nhà lớn.
Hoá ra chỉ đơn giản là như vậy. Lỗ Nhất Khí lại ngồi thụp xuống nhìn lão mù vẫn đang lần mò dưới rãnh. Nhưng cuối cùng, lão thở dài một tiếng, rồi đứng dậy, nét mặt lộ vẻ thất vọng, xem ra nãy giờ chẳng thu hoạch được gì. Mọi người lại chìm trong im lặng.
– Chú mù, tại sao chú lại biết được ở đây có một bức chiếu bích ma?
Lão mù lập tức rũ bỏ vẻ thất vọng trên nét mặt, nói:
– Cậu đừng có bắt chước Nghê Tam gọi bừa. Chú đây họ Hạ, cậu cứ gọi ta là chú Hạ!
Quỷ Nhãn Tam làu bàu:
– Hạ lưu thì có!
Xét về địa vị trong giang hồ thì lão mù là bậc tiền bối, song Quỷ Nhãn Tam rõ ràng không hề tỏ ra kính trọng lão.
Lão mù không thèm đếm xỉa đến hắn, nói tiếp:
– Hình điêu khắc trên gạch tại chiếu bích phía tây là cảnh mặt trời lên cao, song toàn bộ đều là đảo ngược lại, người ở phía đông, còn mặt trời lại ở phía tây, tức là mặt trời lặn. Hơn nữa, ngón tay của thiên quan không chỉ vào mặt trời, mà lại chúc xuống đất ba mươi độ. Chiếu bích phía tây khắc cảnh bái ấn phong hầu, ấn treo trên cây tùng, hình ảnh con khỉ đáng lẽ phải ngửa mặt lên vái, song nó lại vái chếch xuống phía dưới. Người thiết kế ngôi nhà này là một cao thủ, trình độ còn trên cả bác của cậu, nên chắc hẳn không phải là phạm sai lầm, mà có lẽ là ám chỉ điều gì đó. Mà phía trước cổng chỉ là một bãi đất bằng trống trải, nên chắc hẳn là ám chỉ cái gì đó ở dưới đất. Nếu là ngầm dưới đất, lại ở vị trí này, thì khả năng lớn nhất chính là một bức chiếu bích ma!
Lời nói của lão mù đã vô tình giúp Lỗ Nhất Khí biết thêm một chuyện, đó là bác cậu là một cao thủ về kiến trúc. Nhưng dường như thông tin này vẫn nằm trong dự liệu của cậu, nét mặt cậu bình thản không chút ngạc nhiên, cũng chẳng nói câu nào, chỉ đưa tay đón lấy khối sáng từ trong tay Lỗ Thịnh Hiếu rồi đi về bức chiếu bích phía tây. Cậu đã nhìn rõ, hình khắc trên nền gạch đúng như lời lão mù vừa miêu tà. Chỉ có điều ngón tay của thiên quan không chỉ vào chính giữa của chiếu bích ma, mà chỉ ra mé ngoài cùa bức tường. Hình điêu khắc trên bức chiếu bích bên kia cũng như vậy, tức là chúng đều không chỉ vào chiếu bích ma, mà chỉ vào hai thứ khác.
Vậy đó là thứ gì?
Lỗ Thịnh Hiếu đột ngột kêu lên:
– Cánh nhạn! Chiếu bích cánh nhạn*!
* Cũng là một dạng chiếu bích, nhưng không phải là một bức tường thẳng, mà ở phần giữa hoặc nửa sau có chỗ gấp khúc, giống như phần cánh của con nhạn đang bay.
Lời nói còn chưa dứt hẳn, Quỷ Nhãn Tam không để cho ai kịp nói gì, cây cuốc mỏ hạc và cây xẻng lưỡi cày đã múa tít như bay. Ở hai bên chiếu bích ma lại xuất hiện hai đoạn tường ngắn, đó chính là phần cánh nhạn của chiếu bích ma.
Lão mù không bước xuống rãnh, chỉ khua chiếc gậy quẹt quẹt vài cái trên cánh nhạn phía đông, rồi quả quyết nói:
– Nghê Tam, viên gạch thứ hai từ trên xuống, cách mép trái năm tấc*, phá nó ra!
* Một tấc tương đương khoảng 3,33cm.
Một giọng nói điềm tĩnh vang lên:
– Khoan đã, để tôi!
Đó chính là Lỗ Thịnh Hiếu. Ông rút từ trong hòm gỗ ra một cây đục sắt dài và mảnh, sau đó vừa đi về phía cánh nhạn, vừa bảo Lỗ Nhất Khí:
– Dẫn chú Hạ sang phía tây ngoài mười bước!
Rồi ngoảnh sang phía Quỷ Nhãn Tam, nói:
– Cậu Tam, kiếm thứ đồ lề gì che chắn cho ta!
Lão mù không đợi Lỗ Nhất Khí đến dẫn, đã tự đi vềphía tây mười lăm bước. Lỗ Nhất Khí đành đi theo sau lão. Sau đó cậu cố gắng giơ cao hết mức viên đá phát sáng trong tay, muốn nhìn cho rõ từng hành động của bác, bởi lẽ sự thận trọng của ông đã cho cậu biết rằng, đây lại là một lần mạo hiểm. Cảm giác căng thẳng giống như khi nhìn ông mở cổng lại trở lại trong cậu,bàn tay rịn mồ hôi lạnh tiếp tục lần đến báng súng.
Quỷ Nhãn Tam đứng sau Lỗ Thịnh Hiếu. Thoắt một cái, hắn đã rút ra một thứ gì đó từ chiếc túi da sau lưng, tay phải kéo, tay trái đẩy, "keng" một tiếng, bật mở ra.
Đó là một cây dù, một cây dù gọng thép, tán thép. Chỉ cần liếc qua, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra đó là cây dù Vũ Kim Cương. Trước đây, trong một lần hiếm hoi Lỗ Thịnh Hiếu kể cho cậu nghe những chuyện thú vị trong giang hồ, có nhắc đến cây dù này.
Nghe nói cây dù này từng đựợc viết trong "Sát khí biệt sách" như sau: "Thu lại như côn kiếm giết người, mở ra như lá sen che phủ; cầm ở trên tay Kim Cương, che chắn một trời mưa máu". Nó được chế tạo ra căn cứ vào cây dù báu Hỗn Nguyên trên tay của Đa Văn Thiên Vương, một trong Tứ Đại Kim Cương cư trú tại phương bắc, bởi vậy có tên là Vũ Kim Cương. Tuy rằng các bộ phận trên cây dù như đỉnh, cán, gọng, viền mép đều được thiết kế thành vũ khí sắc bén, nhưng tác dụng chủ yếu của nó vẫn là ngăn chặn các loại ám khí sát thương như tên, phi tiêu.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi Nghê Tam luôn mang theo bảo bối này bên mình, bởi lẽ nó có tác dụng rất lớn khi phá giải các cơ quan trong lúc trộm mộ.
Sau khi Vũ Kim Cương mở ra, Lỗ Nhất Khí đã yên tâm phần nào, bàn tay nắm báng súng cũng thả lỏng đôi chút Cậu không biết cây dù thép đó có thể chịu đựng được sức công phá lớn đến đâu, cũng không rõ tài sử dụng của Quỷ Nhãn Tam cao cường đến mức nào, thế nhưng trực giác vốn lúc một tự tin đã mách bảo với cậu rằng, nó khác nào áng mây lành che chư thần, đoá hoa sen hộ chư tiên.
Lỗ Thịnh Hiếu chưa vội hành động ngay. Ông lại ngồi xuống, kiểm tra cẩn thận vị trí mà lão mù vừa nói. Sai sót khi nãy đã khiến ông trở nên thận trọng hơn nhiều. Ông không cho phép xảy ra bất kỳ sơ suất nào nữa, nếu không, ông sẽ đánh mất mọi niềm tin còn lại, cũng sẽ khiến ông từ bỏ sứ mệnh cuối cùng.
Nhờ ánh sáng lờ mờ phát ra từ viên đá, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy tấm thân già nua của bác cậu bỗng chốc vươn thẳng, linh hoạt nhanh nhẹn không khác gì một tráng niên. Đôi tay ngày thường chỉ biết lật giở kinh sách, giờ nắm chặt cây đục sắt, các khớp xương kêu lên răng rắc. Ông đột ngột khai triển thân thế, chân phải choãi ra sau một bước, chân trái duỗi thẳng, chân phải uốn cong như cánh cung ngược, tay phải vung xéo lên, chiếc đục sắt trong tay văng ra, lao vụt đi.
Trúng rồi... có tiếng gạch vỡ...
Lặng phắc... vẫn lặng phắc...
Chờ đợi... tiếp tục chờ đợi...
Mới hơn một phút trôi qua mà bốn người bọn đều cảm thấy lâu như hàng thế kỷ.
Một tràng những tiếng rung bỗng bật lên rào rào như mưa lớn.
– Tổng huyền* động rồi, tan rã hết rồi! – Lão mù lẩm bẩm.
*Tổng huyền, tức phần dây lò xo khống chế rất nhiều tầng nút lẫy, cũng là bộ phận trung tâm khống chế toàn bộ khảm diện.
Sau mưa lớn là cuồng phong, những tiếng rú rít bắt đầu dậy lên từng đợt.
– Ám thanh tử*, hắc cống tử** đều nhả cả rồi! – Lão lại lẩm bẩm.
* Ám khí kích cỡ nhỏ như phi tiêu, phi đao, tật lê, đinh, kim...
** Ám khí kích cỡ lớn như giáo mác, phi thương, đá tảng, lao, côn gậy...
Kỳ thực, nếu lão không nói, Lỗ Nhất Khí cũng đã nhìn thấy rõ. Từ dưới mái che cúa hai bức chiếu bích phóng ra hàng loạt những ám khí như tên, phi tiêu, giáo mác, còn kèm thêm hai hàng hoả tiễn, vài chục ngọn lửa chiếu sáng rực khoảng đất trống trải phía trước cổng chính. Hướng bắn của tên, phi tiêu, giáo mác rất loạn xạ, không theo một quy luật nào, chỉ lác đác vài cái lao về phía Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam, song đều bị Vũ Kim Cương cản lại.
Sau cuồng phong, tiếp tục đến sấm sét nổi lên, vọng đến một tràng những tiếng nổ đùng đoàng vang dội, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy toàn bộ phần mái của hai bức chiếu bích kỳ dị đang đổ sập xuống.
Lão mù kêu lên:
– Thế nào rồi? Thế nào rồi? Cửa mở rồi phải không?
Lỗ Nhất Khí cười thầm nghĩ bụng: "Thì ra cũng có những lúc chú không biết được", sau đó điềm đạm nói:
– Mái che của chiếu bích sập hết rồi!
– Phần dầm đua ra của mái che dài hơn và thẳng hơn so với mái hiên thông thường đúng không?
– Đúng vậy, cháu đã nói mà, phần mái che của chiếu bích trông rất bất thường, đây chính là chỗ bất thường nhất.
– Đây là kiểu mái kéo cung, nếu không phá được tổng huyền, cho dù đứng ở góc độ nào trong phạm vi của nó, đều sẽ bị vật nhọn bắn trúng. Cách thiết kế đến bác của cậu cũng không nhìn ra được, thực là cao minh, thực là cao minh!
Nói xong, lão mù bất giác đưa tay phải ra túm chặt lấy ống tay áo của Lỗ Nhất Khí, như thể một người rơi xuống nước túm được con thuyền cứu mạng.
Lỗ Nhất Khí không dám cười nữa. Lời nói của lão mù đã cho cậu biết, đối thủ của họ quả thực vô cùng lợi hại. Động tác của lão mù cũng vô tình khiến cậu ý thức được về trọng trách lớn lao của mình. Trong cậu bắt đầu xuất hiện cảm giác về một mối đe doạ rình rập và cậu cũng ý thức được rằng, mối đe doạ chỉ vừa mới bắt đầu.
Lỗ Thịnh Hiếu đã rút cây đục ra, đi về phía cánh nhạn mé phía tây của chiếu bích ma. Trông bộ dạng của ông cũng đoán được, ông đang chuẩn bị phóng cây đục tiếp tục phá tường, bởi lẽ cánh cổng vẫn chưa được mở.
Tuy nhiên, khi đã đứng trước phần tường cánh nhạn ông vẫn chưa hành động ngay, mà ngẩng đầu nhìn về phía cánh cổng, rồi lại ngoảnh sang nhìn Lỗ Nhất Khí, trong mắt ánh lên vẻ quyết đoán và kiên nghị của một tráng sĩ sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Song Lỗ Nhất Khí không nói gì, đúng ra là cậu không biết nên nói gì.
Chính trong khoảnh khắc hai bác cháu nhìn nhau im lặng, thì lão mù dường như chợt ý thức được điều gì, vội vã kêu lên:
– Này anh cả, vẫn cứ phá đi là hơn, hôm nay có phải là thi đấu tài năng đâu!
Lão mù đã đoán đúng, Lỗ Thịnh Hiếu đang tính đến việc không phá tổng huyền mà trực tiếp giải nút thắt đuôi chó hai dơi, vớt vát lại chút thể diện vừa mới đánh mất trước mặt cháu trai.
Quỷ Nhãn Tam cũng nhanh chóng hiểu ý, bèn nói:
– Hay để tôi?
Lỗ Thịnh Hiếu không đáp, thu ánh mắt lại, bất thình lình giẫm mạnh chân phải. Viên gạch ở rìa mái đang nằm ngang bỗng chốc dựng đứng, tiếp đến, vọng lại một tràng những tiếng cót két khe khẽ. Bốn người lập tức quay đầu nhìn về phía phát ra âm thanh. Nhờ chút ánh sáng còn sót lại từ những chiếc hỏa tiễn sắp tắt lửa trên mặt đất, họ đã nhìn thấy một cảnh tượng quái lạ xuất hiện trên bức tường phía tây: bức hình điêu khắc trên gạch đang chuyển động, thiên quan từ từ di chuyển về phía tây, còn mặt trời di chuyển về phía đông. Khi chuỗi âm thanh chấm dứt, bức hình lại đứng im. Tiếp đó vang lên những tiếng nổ đanh như pháo phía trên cánh cổng, trên vòm cổng từ từ hạ xuống hai sợi dây thừng, một trái một phải, buộc lấy hai đầu của một khối đá xanh rộng chừng hai mặt ghế. Tiếng nổ như pháo khi nãy có lẽ là tiếng vỡ của các ống trúc nhốt rắn hoàng vĩ. Còn khối đá xanh này được giấu trên phần mái của cổng nếu có người công phá nút thắt đuôi chó hai dơi, nó sẽ không từ từ thả xuống như vừa nãy, mà sẽ giáng thẳng cánh từ trên xuống.
Một lát sau, Lỗ Thịnh Hiếu mới lẩm bẩm:
– Chắc là được rồi!
Nói đoạn rảo bước tới phía trước bức hình điêu khắc, đưa tay nắm lấy cánh tay đang chỉ vào mặt trời của thiên quan, bẻ mạnh một cái. Hai tiếng "rắc rắc" vang lên, bàn tay thiên quan đã chuyển hướng, chỉ về phía mặt trời ở đằng đông.
Lúc này, cơ quát* đã đến đúng vị trí, cánh cổng cọt kẹt lên một hồi, rồi từ từ mở ra.
*Cơ quát tức là toàn bộ những thiết bị dùng để dự trữ năng lượng và giải phóng năng lượng cho cơ quan.
Lỗ Thịnh Hiếu cười lớn, tiếng cười át cả tiếng cọt kẹt của cánh cổng. Trong thoáng chốc, Lỗ Nhất Khí thấy đôi mắt ông bừng sáng rạng ngời, hào khí muôn trượng.
Tiếng cười ngưng bặt, từ khuôn miệng hơi khuất dưới vệt râu bạc trắng, vang lên một giọng nói sang sảng:
– Vặn nghiêng Bát quái, Chấn Tốn đổi Càn Khôn, dùng dây bắn hoàng vĩ, dùng thừng giật đá xanh. Độc địa, độc địa thay! May mà đám người chúng ta vẫn chưa ai bỏ mạng!
Những lời hào sảng của ông như xé toang màn đêm dày đặc bên trong cánh cổng. Lỗ Nhất Khí hơi chau mày lại, cậu cảm thấy trong giọng nói hùng hồn của bác dường như có thoáng chút thiếu tự tin.
Dư âm câu nói còn chưa dứt, bên trong cổng bỗng bùng lên hai đốm sáng cỡ bằng quả trứng vịt, đối xứng nhau ở hai bên trái phải, sắc lam pha lục. Đốm sáng không mảy may lay động cho dù gió Bắc vẫn đang thổi liên hồi.
Lỗ Nhất Khí vốn ngỡ rằng đó là đèn điện, song cậu lập tức nghĩ ra, tuy hiện nay cũng có một số rất ít nhà đã sử dụng đèn điện, nhưng ở một nơi như thế này, điều đó chắc chắn là không thể. Sở điện lực chưa thể kéo dây điện tới khu vực hoang vu chỉ duy nhất một ngôi nhà trơ trọi như thế này. Vậy phải chăng chúng cũng là một loại đá phát sáng giống như viên đá cậu đang cầm trong tay? Cũng không thể, ánh sáng của đá không sáng đến mức như vậy.
Bốn người tụ lại với nhau, cùng tiến lại phía cánh cổng. Bởi vì họ biết, bên ngoài cánh cổng đã không còn nguy hiểm, nhưng ở bên trong cổng là cạm bẫy trùng trùng. Sau khi đi vòng qua khối đá xanh treo lơ lửng dưới vòm cổng họ cùng dừng bước, đứng lại trước bậu cửa.
Giờ đây khi đã đến sát gần, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy rõ hai đốm sáng bên trong cổng quả thực là hai ngọn đèn, là hai đĩa đèn dầu treo phía trên cây xà dưới vòm cổng. Nhưng kỳ lạ là ở chỗ, ngọn lửa trên hai đĩa đèn không khác gì ngọc thạch lưu ly, gió thổi cũng không lay động, không biết là được đốt bằng loại dầu gì.
Nhìn sang hai bên, không thấy có phòng bên cổng, một trạch viện quy mô lớn như vậy lại không có phòng bên cổng, mà chỉ có tường đặc. Lại nhìn vào phía trong, đường cổng sâu hun hút, có lẽ phải dài gấp ba, bốn lần chiều sâu của cổng Thanh Long trong tứ hợp viện thông thường. Phía cuối của đường cổng dường như là một bức tường chắn. Lẽ nào bên trong cổng không có đường thông? Hay là đường đi trước đây đã bị lấp kín? Hay là đang ngầm tuyên bố với những kẻ xâm nhập rằng, có vào rồi bất quá cũng chỉ đi được vài bước mà thôi, hãy mau mau trở ra là hơn!
Bấy giờ, viên đá phát sáng trong tay Lỗ Nhất Khí đã trở nên dư thừa, cậu đưa trả lại cho bác, song ông lắc đầu mà nói:
– Con hãy giữ lấy, về sau có lẽ sẽ cần dùng tới.
Lỗ Nhất Khí nghe vậy, bèn tiện tay cất nó vào trong túi vải thô.
Lão mù nghe Lỗ Thịnh Hiếu nói vậy, bèn hỏi:
– Sao thế anh cả? Có đèn à?
Lỗ Thịnh Hiếu bèn đáp:
– Đúng vậy, nhưng không biết chúng có ổn hay không!
Quả thực, Lỗ Thịnh Hiếu vẫn cảm thấy bất an. Trong trạch viện này, bất cứ vật gì đều có khả năng là một cái nút* trí mạng, huống hồ ngọn đèn này thực sự rất quái dị.
* Nguyên văn là khấu hay khấu tử, nghĩa là nút, nút thắt, tức là một hoặc một nhóm cơ quan được bố trí trong khảm diện, dùng để ngăn chặn hoặc giết chết những ai lọt vào trong khảm diện.
Lão mù lại hỏi:
– Anh cả, vậy giờ có vào không?
– Vào!
Đã tới nước này, đây là sự lựa chọn duy nhất.
Vừa nghe thấy lời đáp dứt khoát của Lỗ Thịnh Hiếu, Quỷ Nhãn Tam thoắt cái đã nhảy vào trong cổng, Vũ Kim Cương trong tay hắn nhanh chóng bật ra, che chắn toàn bộ cơ thể. Lỗ Thinh Hiếu cười ha hả, nói:
– Này cháu, vội gì thế, đợi chúng ta cùng vào chứ!
Nói đoạn, nhấc chiếc hòm gỗ che trước ngực, sải bước vào trong. Nhưng khi ông còn chưa kịp bước qua bậu cửa, lão mù đã nhanh chân vào trước, rồi rảo thêm hai bước ngắn nữa, tới sát sau lưng Quỷ Nhãn Tam, vịn một tay lên vai hắn, tay còn lại cầm chiếc gậy chọc loạn xạ lên hai vách tường hai bên.
Lão mù đang chọc bừa chăng? Không, cả ba người gồm cả Lỗ Nhất Khí đều đã nhận ra, vị trí lão chọc gậy vào chính là phương vị thất tinh chính phản. Nó có tác gì? Ngoài Lỗ Nhất Khí ra, hai người còn lại đều biết, lão mù đang thăm dò cạm bẫy Đối hợp Thất tinh kháo*. Nếu ở đây quả thực có bố trí Đối hợp Thất tinh kháo khi giẫm phải vị trí chính Thất tinh hay phản Thất tinh, cơ quát đều khởi động, vách tường hai bên sẽ khép lại hoặc sập vào nhau, để giam giữ hoặc kẹp chết người sa chân vào đó. Thủ pháp của lão mù rất chuẩn xác, đứng tại vị trí ba sao rưỡi để điểm chính phản Thất tinh, nếu như có bố trí loại cơ quan này, cho dù không thể hoá giải, cũng có thể biết được sự tồn tại của nó. Nhưng lão đã thất vọng, vì ở đây không bố trí loại cạm bẫy này, lão bất giác đứng trầm ngâm. Bước vào sau lão mù nửa bước, Lỗ Thịnh Hiếu nhìn vào quỹ đạo điểm đầu gậy của lão mù, cũng nhận ra rằng ở đây không hề có cơ quan Thất tinh kháo, ông khẽ chau mày.
* Có nghĩa là Thất tinh khép lại, tức là hai bức tường hai bên có thể chuyển động khép lại với nhau, để giam giữ hoặc kẹp chết người sa vào khảm diện. Hai bức tường không phải xây bằng gạch thông thường, mà được đúc bằng đồng sắt, bên ngoài ngụy trang bằng đất bùn, gạch đá, giết người dễ dàng giống như dùng hai tay đập muỗi. Nó dùng vị trí Thất tinh trên mặt đất làm điểm khởi động, còn vị trí Thất tinh tương ứng trên vách tường là điểm hóa giải, chặn dừng.
Bớt đi một cạm bẫy chẳng phải là chuyện đáng mừng hay sao? Đương nhiên là không! Đây là điều mà các Khảm tứ gia* đều hiểu rõ, nếu như đối thủ bỏ qua một cách bài trí thường gặp, cũng đồng nghĩa với việc sẽ có một thủ đoạn ghê gớm hơn, tàn độc hơn đang đợi ở phía trước. Như vậy, còn ai dám vui mừng được nữa?
* Chỉ những môn phái chuyên bố trí Kỳ môn Độn giáp, cơ quan cạm bẫy.
Lỗ Nhất Khí đương nhiên là không hiểu được điều này. Cậu vẫn đứng bất động ở bên ngoài bậu cửa, không phải là không muốn, mà là không dám động cựa. Cậu cảm giác như có một cặp mắt đang nhìn mình chằm chằm. Một luồng khí lạnh từ vị trí xương cụt bò dần lên phía trên, nhích từng chút từng chút một, tựa như một con rắn lạnh buốt, cứng đờ, đã bò lên đến tận gáy. Cân bất ngờ xoay người lại, rút súng nhắm về phía phát ra ánh nhìn đó, nhưng cậu phát hiện ở đó không hề có gì.
Hành động thình lình của cậu khiến cho ba người đang đứng phía trước thoáng ngạc nhiên. Lỗ Thịnh Hiếu vội hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
– Không có gì đâu, chắc là tại con căng thẳng quá! – Lỗ Nhất Khí đáp.
Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam đi đầu tiên, hai người lại bước thêm hai bước vào bên trong. Lão mù tay vẫn bám trên vai của Quỷ Nhãn Tam, đi sát sau lưng hắn. Lỗ Nhất Khí đi sau cùng, không phải là cậu sợ, cũng không phải cậu nhát gan, mà là vì ba người ở phía trước đã xếp thành một hình tam giác ngược chắn hết đường, khiến cậu không có lý do và cũng không cần thiết phải đi chen vào giữa họ.
Khi họ tiến thêm một bước nữa, thì trên đầu bỗng nghe "phụt" một tiếng, trong nháy mắt lại thêm hai đĩa đèn dầu nữa bật sáng, giống y hệt cặp đèn dầu ở cổng. Chúng vụt sáng một cách quá đột ngột, khiến hai người đi đầu giật bắn mình. Toàn thân Quỷ Nhãn Tam rùng mạnh một cái, khiến lão mù ở phía sau cũng lập cập theo.
Bất động một lát, không có chuyện gì xảy ra, nên bốn người lại tiếp tục bước về phía trước. Khi bước được thêm năm, sáu bước, lại thêm một cặp đèn dầu nữa bừng sáng trên xà nhà. Lần này Lỗ Thịnh Hiếu, Quỷ Nhãn Tam và lão mù không còn giật mình nữa, dường như họ đã đoán được rằng chuyện đó sẽ xảy ra, bởi vậy họ gần như không có phản ứng. Nhưng vào lúc đèn sáng lên Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam rảo một bước dài về phía trước, bước chân này rõ ràng có phần gấp gáp hơn những nhịp bước trước đó...
Lỗ Nhất Khí chỉ muốn cười, nét cười đã rạng ngời trên gương mặt cậu. Cậu đã nhìn thấy một thứ ở phía trước. Thứ đó, tựa như duyên phận trong kiếp trước, tựa như định mệnh trong kiếp này, tựa như thứ mà cậu vẫn không ngừng tìm kiếm trong mơ.
Thứ đó, chính là một con thuyền! Một con thuyền gỗ với cột buồm cao vút và cánh buồm căng lộng gió.
Nét mặt cậu càng bừng lên rạng rỡ. Dường như cậu đã tìm thây chốn êm đềm nhất trong cuộc đời mình. Cậu thấy dường như mình đang áo chùng đai lỏng, khoác giỏ ôm bầu, thung dung đẩy mái chèo trong gió nhẹ mưa bay. Cậu muốn lao về phía trước, giao sinh mệnh mình cho con thuyền nhẹ sắp rời bờ, băng băng rẽ sóng chốn mây ngàn, du ngoạn tới thiên khê.
Cậu đã đứng trên mũi thuyền, cậu đã sắp tháo được dây neo, cậu đã hào hứng dâng tràn, chống sào đẩy lái.
Chính trong thời khắc đó, thời khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời cậu, một dải màu đỏ chói bỗng phủ nhòa đôi mắt, khiến cậu phải chớp vội vàng lại rồi lại mở mắt ra. Và cậu nhìn thấy một thứ màu đỏ sẫm đang nhỏ máu lay động giữa hai con mắt, lướt qua trên ấn đường.
Thứ gì vậy?
Một chiếc lưỡi! Là một chiếc lưỡi ròng ròng những máu!
Chiếc lưỡi nhỏ máu khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy ghê tởm và sợ hãi, muốn né tránh nó ngay lập tức, bèn vội ngửa đầu hết mức về phía sau. Thế nhưng một bàn tay gầy guộc song cứng như thép đã giữ chặt lấy cổ áo cậu, khiến cậu không thể nhúc nhích.
Đúng lúc Lỗ Nhất Khí sắp hét lên vì kinh sợ, thì chiếc lưỡi đột nhiên lùi lại, bàn tay đang túm chặt lấy cổ áo cậu cũng trượt xuống trước ngực áo, song vẫn kéo rất mạnh. Lỗ Nhất Khí theo phản xạ vô thức giật lùi về phía sau, hình thành thế giằng co với bàn tay đang lôi kéo.
Lúc này cậu mới nhìn rõ, lão mù miệng đầy máu tươi, lưỡi thè lè lủng lẳng bên ngoài miệng, tay phải túm ngang chính giữa cây gậy đang vắt về phía sau lưng, hai đầu gậy chặn lấy Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam ở hai bên, trong khi hai người đang cắm đầu lao thục mạng về phía trước như những con thiêu thân. Lão mù gồng hết sức để kéo họ ngược trở lại, song sức của một người sao thắng được hai người, xem ra lão mù đã không thế trụ nổi hai chân trượt lên phía trước, bàn tay đang túm chặt lấy ngực áo của Lỗ Nhất Khí cũng lỏng dần.
Thấy vậy, Lỗ Nhất Khí vội chụp lấy tay lão mù. Cái nắm tay này dường như đã truyền thêm một sức mạnh thần kỳ cho lão. Tay phải lão giật mạnh một cái, kéo hai người kia bật trở lại, sau đó mới vội vàng thở gấp được một hơi, ấm ớ kêu lên hai câu thảm thiết:
– Dập tắt đèn đi! Dập tắt đèn đi!
Lỗ Nhất Khí vừa nghe, tay trái còn chưa kịp buông, tay phải đã lập tức rút súng vung lên. Tiếng súng nổ vang, bốn đĩa đèn dầu bên trong đều tắt ngấm, chỉ còn hai chiếc sát ngoài cổng vẫn sáng. Cậu đã hết đạn.
Bàn tay đang túm chặt lấy ngực áo cậu đột ngột buông lỏng, cả ba người đều lao ngược về phía sau. Mấy người cùng ngã bổ nhào, tay chân cuống quýt đè cả lên người Lỗ Nhất Khí. Trong bóng đêm, cậu chỉ nghe thấy tiếng thở gấp nặng nề của họ. Hơi thở còn chưa kịp điều hòa, Quỷ Nhãn Tam đã bật dậy, "keng" một tiếng tung ra một bàn tay nối liền với sợi xích, giật mạnh, kéo đổ nốt hai ngọn đèn còn lại.
Ánh sáng vụt tắt, chỉ còn một màn tối bao trùm.
Lỗ Nhất Khí chưa kịp thò tay vào túi vải lôi hòn đá huỳnh quang Ba Tư ra, đã thấy trên tay Lỗ Thịnh Hiếu sáng lên một ngọn đèn "khí tử phong"*. Cậu bèn thả lại viên đá đã nắm trong tay vào trong túi, tiện tay lắp đầy đạn vào hộp đạn ổ xoay.
* Có nghĩa là "gió tức chết", là một loại đèn dầu thời cổ đại, được sử dụng sớm nhất trong quân đội, chiếu sáng ổn định, gió thổi cũng không tắt, nên mới có tên gọi này.
Quỷ Nhãn Tam lấy tay vê vê ít dầu trong đĩa đèn, lại đưa lên mũi ngửi, rồi nói gọn lỏn:
– Mỡ lợn thiêng vùng Hoa Cốc, Vân Nam.
– Tranh thuỷ ngân Nam Từ! – Lỗ Thịnh Hiếu vừa thở hổn hển vừa buông ra một câu.
Chỉ hai câu nói ngắn ngủi vẻn vẹn hơn mười chữ, song không biết đã chứa đựng bao nhiêu nguy hiểm. Suýt chút nữa họ đã bỏ mạng chỉ vì hai thứ đó, có lẽ họ vừa mới cách cái chết chỉ trong gang tấc.
Lỗ Thịnh Hiếu đưa tay quệt mồ hôi túa ra trên mặt, nói tiếp:
– Nguy hiểm quá, không biết đối thủ kiếm đâu ra những thứ quái quỷ kia để làm ra một khảm diện như thế này!
– May mà có cậu ta! – Quỷ Nhãn Tam nói, đương nhiên là chỉ Lỗ Nhất Khí.
– May mà có chú ấy! – Lỗ Nhất Khí nói, đương nhiên là chỉ lão mù.
Mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía lão mù, lão đằng hắng khẽ một tiếng rồi giải thích:
Cả ba người đều đã trúng phải nút rồi, tôi phải dùng gậy để lôi giữ hai vị, tay còn lại thì túm lấy cậu cả. Nhưng một mình tôi sao có thể giữ nổi ba người, không còn cách nào khác, đành phải dùng máu để phá. Nên tôi cắn rách lưỡi, liếm trôi tấm màn che mắt của cậu cả. Còn việc bắn đổ đèn dầu sau đó đều là công của cậu cả đây!
Chỉ vài câu xem chừng điềm nhiên bình lặng, nhưng Lỗ Nhất Khí nghe mà trong lòng cuộn sóng đến mấy lần. Một người mù loà đã dùng đôi tay gầy guộc một lúc kéo giữ những ba người, lại còn cắn rách lưỡi để liếm trôi tấm màn che mắt cho cậu. Trong khi ba người bọn họ hoàn toàn vô thức, chỉ phăng phăng kéo theo lão lao vào nguy hiểm và chết chóc. Một cuộc giằng co như thế, làm sao không khiến người nghe phải kinh sợ.
Nghĩ tới đây, cậu bất giác cảm thấy vô cùng khâm phục lão mù, cậu nói:
– Chú Hạ, chú thật tuyệt vời, không có chú, chúng ta chắc chắn không thể qua được cạm bẫy này. Chú đừng gọi cháu là cậu cả nữa, nghe ngại lắm, chú cứ gọi cháu là Nhất Khí thôi!
Lão mù nghe vậy, vội vàng nói:
– Không dám, không dám!
Song trên mặt lại bừng lên một nụ cười đắc ý.
Lỗ Thịnh Hiếu đứng bên cạnh vẫn đang trầm ngâm suy nghĩ, ông lẩm bẩm một mình:
– Dập tắt đèn thì dễ, còn bức tranh phải hoá giải thế nào đây? Hai thứ này kết hợp với nhau, kỳ diệu vô cùng, cho dù dùng riêng rẽ từng thứ, cũng cực kỳ lợi hại. Thế mà tại sao lão giặc mù kia lại không hề hấn gì nhỉ?
– Đúng rồi! – Trong đầu Lỗ Nhất Khí chợt loé lên một tia sáng, cậu nói – Trong cuốn "Dị khai vật"* có viết rằng giống lợn thiêng vùng Hoa Cốc thích ăn trùng đôc sinh ra từ các loài hoa thối rữa, sau đó mỡ tích tụ trong cơ thể nó, thứ mỡ này khi cháy không khói không mùi nhưng có thể thu nhiếp linh hồn của con người. Tranh thuỷ ngân Nam Từ nhờ hướng chảy đặc biệt, nếu mắt nhìn vào, sẽ bị câu nhiếp nhãn hồn, khiến ý thức rơi vào hoang tưởng. Do chú Hạ bị mù nên không bị bức tranh thuỷ ngân hút mất nhãn hồn. Nhưng chẳng lẽ ngay cả mỡ lợn thiêng cũng vô tác dụng với chú? Thật không hiểu nổi vì sao chú lại thoát được cạm bẫy linh hồn này?
* Một cuốn sách ghi chép về những thứ kỳ lạ hiếm có trong thiên hạ, không biết ra đời vào triều nào, tác giả là ai. Vào giữa triều Thanh, cuốn sách được xưởng in Kinh Lâm chỉnh lý và in ấn dưới dạng văn bạch thoại, đổi tên là "Kỳ dị vật thành lục". Những ghi chép trong đó có bao nhiêu phần sự thực, vẫn chưa được kiểm chứng.
Lời nói của Lỗ Nhất Khí có lẽ đã thức tỉnh Lỗ Thịnh Hiếu, dường như ông cũng đã nghĩ ra được điều gì:
– Mỡ lợn thiêng không phải là khiến cho trí não mê muội, mà khiến cho tâm mê muội. Sức mạnh này rất trùng hợp với nguyên lý "rắc hoa trời cứu vạn sinh" của Đạo gia. Còn bức tranh thuỷ ngân Nam Từ lại vẽ cảnh "Tiêu diêu một lá thuyền", cũng phù hợp với cảnh giới tự nhiên của Đạo gia. Ta và Nhất Khí đều đã từng tu Đạo học, còn cậu Tam đây tuy sống nhờ xác chết, nhưng cũng từng dùi mài thuật Mao Sơn* của Đạo gia, bởi vậy ba người chúng ta không những khó mà thoát khỏi cạm bẫy, mà còn sập bẫy rất nhanh chóng. Đương nhiên, khảm diện này cũng có hiệu quả tương tự với người bình thường không học Đạo, chỉ là phản ứng chậm hơn mà thôi. Cũng chính vì lão giặc mù này mắt đã không thấy gì thì chớ, lại còn tâm thuật bất chính, bản tính trộm cướp gian tà, nên mới lọt qua được cái bẫy chính môn pháp đạo này.
* Mao sơn thuật, hay còn gọi là Ngọc Nữ hỷ thần thuật, là một Đạo thuật thần bí trong truyền thuyết, có khả năng đuổi quỷ, hàng ma.
Lão mù đắc ý cười ha hả, hai người kia cũng cười theo. Chỉ có Lỗ Nhất Khí không cười, cậu biết rằng con đường của lão mù chắc chắn là hoàn toàn khác biệt với bọn họ. Cậu không hỏi, vì cậu biết sẽ có người nói cho cậu biết. Cậu bèn ngoảnh sang nhìn Quỷ Nhãn Tam.
Quỷ Nhãn Tam dùng đôi mắt độc nhất của mình nhìn lão mù với vẻ kính trọng bội phần, rồi nói:
– Khi còn sáng mắt, lão Hạ đây chính là Tây Bắc tặc vương!
Đúng vậy. Tây Bắc tặc vương Hạ Mang gia*, khinh công đâm chém không địch thủ, đó là danh hiệu lừng lẫy một phương trong chốn giang hồ.
* Tây Bắc tặc vương tức vua trộm cướp vùng Tây Bắc. Chữ "Mang" trong "Hạ Mang gia" có nghĩa là mũi nhọn, đồng âm với chữ "mang" là mù. Nên hiện nay cũng gọi là "mang gia", nhưng có nghĩa là ông mù.
Lão mù không cười nữa. Lão tì người lên cây gậy dài và mảnh, khuôn mặt khẽ ngước lên. Năm xưa lão một người một ngựa tung hoành, một đêm trộm cắp cả trăm nơi, thật lưu luyến làm sao những năm tháng giang hồ sát phạt. Dường như mắt lão lại nhìn thấy đại mạc gió cát điên cuồng, rừng dương khói toả, bên tai lão văng vẳng những khúc dân ca lảnh lót của cô gái da nâu mặc chiếc áo chẽn đỏ. Khuôn ngực phập phồng của cô gái da nâu đã trở thành kho báu vĩnh hằng cùa lão. Cô gái ấy về sau đã trở thành vợ lão. Với lão, vẻ xinh đẹp của cô sẽ mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm. Lão không nhìn thấy cô gái da nâu năm xưa giờ đây đã mặt vàng như đất, mà suốt cuộc đời này, trong lòng lão vẫn giữ mãi hình bóng của cô gái trẻ hồn nhiên, hoạt bát ngày nào líu lo khúc dân ca.
Lão mù thở dài một tiếng, nét mặt tối sầm, bỗng nhiên lão nhớ nhà đến cồn cào, nhớ bà vợ đang lủi thủi ở nhà; nhớ ngày lão đi, bà đã tiễn chân đến năm dặm đường; lão nhớ tới mảnh lụa đỏ mà bà đã thỉnh cho khi đi thăm miếu.
Đúng rồi! Mảnh lụa đỏ, tại sao lão lại không nhớ tới mảnh lụa đỏ?
Lão mù gõ gõ ngón tay lên đầu, rồi thò tay vào trong ngực áo lôi ra một chiếc túi bằng lụa, kéo mạnh hai góc, lập tức bung ra thành một mảnh lụa đỏ, đỏ tươi như máu. Mảnh lụa đỏ vừa được giũ ra trước mắt Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam, hai người lập tức mừng ra mặt. Bức tranh thuỷ ngân Nam Từ đã có thể hoá giải được rồi!
– Anh cả, Nghê Tam, người nào sẽ thực hiện? – Lão mù hỏi.
– Để tôi! – Quỷ Nhãn Tam đáp.
– Phải rồi, để cậu ta làm đi, tôi già rồi, nhãn lực khó mà kham nổi! – Không phải Lỗ Thịnh Hiếu khách khí, mà quả thực ông đã bất lực. Ông ước gì mình có thể trẻ lại hai mươi tuổi. Nhưng cho dù có trẻ lại thật đi nữa, cũng có tác dụng gì. Hai mươi năm về trước, chẳng phải ông cũng chỉ biết bảo vệ em trai và em dâu đang bụng mang dạ chửa, vội vã tháo chạy khỏi chốn này hay sao?
Lỗ Nhất Khí đang ngơ ngác nãy giờ, đột nhiên cất tiếng hỏi:
– Con đi được không?
– Không được! – Cả ba người đều đồng loạt nói lớn.
Tiếng nói của họ rất vang, khiến mảnh lụa đỏ trong tay lão mù cũng rung lên lật phật. Không chỉ có lúc này, mà từ đầu đến giờ, họ đều nói rất to, lẽ nào họ không sợ đánh động đến thứ gì hay sao? Đúng là họ không sợ, bởi họ biết rằng, ẩn trong bóng đêm vốn dĩ có rất nhiều thứ vẫn luôn tỉnh táo, đang chờ đợi họ...
Mảnh lụa đỏ đã được phủ trên mặt Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ cậu đã nói ra năm chữ, chỉ vỏn vẹn năm chữ, năm chữ mà cả ba vị cao thủ kia đều không thể phản bác, bởi vậy, chính cậu sẽ cần phải che mắt lại, cần phải để cậu đi đối mặt với bức tranh "Tiêu diêu một lá thuyền".
Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam đều nghe thấy tiếng bước chân của Lỗ Nhất Khí đang tiến lại gần bức tranh ở phía sau lưng họ. Bởi vì họ không thể đối mặt với bức tranh, cho dù đã quay lưng lại, nhưng sức mạnh câu nhiếp nhãn hồn kia vẫn khiến họ tâm thần bấn loạn.
Tay xách chiếc đèn khí tử phong, đầu cúi thấp, chân rảo bước về phía trước, tuy mắt đã bị bịt kín bởi mảnh lụa đỏ, song Lỗ Nhất Khí vẫn không dám nhìn thẳng vào bức tranh. Bởi lẽ cậu không rõ tác dụng của "huyết hồng trệ ngân lưu"* hữu hiệu đến đâu.
* Có nghĩa là: máu đỏ làm ngưng trệ dòng thuỷ ngân. Tức là thông qua sắc đỏ như máu, có thể khiến cho tốc độ lưu chuyển của dòng thủy ngân màu bạc chậm lại, để mắt có thể nhìn rõ thứ mình muốn nhìn. Kỳ thực, nguyên lý của nó chính là tạo ra tác dụng tương tự như phân cực ánh sáng, giảm bớt ảo giác do những mảng màu trắng bạc chuyển động mang lại.
Lão mù đi sát phía sau Lỗ Nhất Khí, tay trái đặt lên vai cậu, giống như đã bám trên vai Quỷ Nhãn Tam khi mới bước vào trong cổng. Đi được ba bước, tới nơi họ vừa ngã, lão mù đột ngột vận lực vào bàn tay kéo Lồ Nhất Khí đứng lại, rồi sải một bước dài lên phía trước chắn trước mặt cậu, tiếp tục huơ cây gậy nhanh chóng điểm, vạch lên vị trí chính, phản Thất tinh ở hai bên tường. Trước mắt Lỗ Nhất Khí toé ra từng chùm tia lửa, bên tai vọng đến từng hồi những tiếng leng keng. Tình hình lần này khác hẳn so với lần điểm Thất tinh lần trước. Tiếp đó, vách tường hai bên bỗng rung lắc liên hồi, vọng ra những tiếng "bình bịch" nghe giống như tiếng quả bóng da nảy trên mặt đất, âm thanh lúc một gấp và yếu dần, cho tới khi im bặt.
Lão mù quay đầu lại nói:
– Quả nhiên là có Đối hợp Thất tinh kháo, vừa rồi suýt nguy to, chỉ thêm nửa bước nữa là đã chạm phải cơ quan, mấy người chúng ta đã chết bẹp rồi. Bây giờ, cơ quan đã bị hoá giải, tiếp theo hãy xem cậu cả đối phó với bức tranh ra sao.
Lỗ Nhất Khí không dám tưởng tượng về một kết cục khác của sự việc vừa xảy ra, vì nó quả là khủng khiếp. Hành động vừa rồi của lão mù cũng đã khiến cậu nhận ra một số điều: thì ra cây gậy của chú Hạ được làm bằng thép, thảo nào trông nó mảnh khảnh như vậy mà khi nãy vẫn lôi giữ được những hai người. Còn nữa, môt người mù loà như chú, tại sao có thể điểm trúng vị trí Thất tinh nhanh chóng đến vậy. À, phải rồi, độ cao của tường là cố định, tức là chỉ cần biết được tỷ lệ giữa Thất tinh và khoảng cách của một không gian, là có thể xác định được vị trí Thất tinh. Vị trí của các sao khác hình như cũng có thể xác định bằng cách này, đợi lúc nào có thời gian, cậu sẽ nghiên cứu thêm.
Kỳ thực, Lỗ Nhất Khí nghĩ lan man đến những chuyện này, cũng là muốn nhân đó phân tán sự chú ý, không để luồng ánh nhiếp hồn của bức tranh hút cậu lại gần. Những hoang tưởng vừa nãy vẫn khiến cho cậu cảm thấy chờn chợn, bởi vậy cậu không dám quá ỷ lại vào tác dụng của mảnh lụa đỏ trên mặt.
Tuy Lỗ Nhất Khí liên tục suy nghĩ lan man, song động tác cùa cậu không hề chậm chạp, chỉ sau hai, ba bước đã tới ngay phía trước bức tranh "Tiêu diêu một lá thuyền". Qua lớp lụa đỏ như máu, cậu đã nhìn thấy tốc độ lưu chuyển của dòng thủy ngân trong bức tranh đã chậm lại rất nhiều, song trong thoáng chốc, cậu vẫn cảm thấy thần hồn bất định.
Cậu nhắm mắt lại để định thần một lát, sau đó từ từ hé mở đôi mi, hai mắt khép hờ giữ ánh nhìn thật thẳng. Nhưng cậu không tập trung tiêu điểm nhìn thẳng vào bức tranh, mà phân tán ánh nhìn, dần dần mở rộng khoảng cách giữa hai con ngươi, khiến chúng tách về hai phía. Lúc này, trong mắt cậu, con thuyền trong tranh bị tách thành hai cái bóng trùng điệp lên nhau. Sau đó, hai cái bóng dần dần rời xa nhau, lúc một xa hơn cho tới khi hai con ngươi tách xa tới cực điểm.
– Một mắt không nhìn chập!
Lỗ Nhất Khí không nói cho ba người kia biết mình sẽ phá giải bức tranh thuỷ ngân Nam Từ như thế nào song chỉ năm chữ này đã cho họ biết rằng, chắc chắn cậu là người duy nhất trong số họ có thể đảm đương được trọng trách này.
Bản thân Lỗ Nhất Khí cũng không biết mình có phá giải được hay không, thậm chí cậu còn chưa bao giờ nhìn thấy một bức tranh như thế. Song chỉ cần nó quả thực là bức tranh thuỷ ngân Nam Từ đã được nhắc tới trong "Dị khai vật", rất có thể cậu đã biết cách phá giải. Bởi lẽ khi đọc cuốn "Dị khai vật", cậu còn đồng thời đọc được một trang sách rách rời khác không rõ xuất xứ, trong đó có viết về cách hoá giải đối với một số thủ đoạn nhiếp hồn, đương nhiên cũng gồm cả bức tranh thuỷ ngân Nam Từ.
Giờ đây, hai chiếc bóng của con thuyền đã bị tách ra tới vị trí cực điểm mà hai mắt cậu có thể phân rẽ được, song cậu vẫn chưa phát hiện ra điểm huyệt, điều đó khiến cậu bắt đầu có chút ngờ vực về cách phá giải khảm diện mà mình đã đọc được. Bất giác cậu thấy toàn thân nóng phừng phừng.
Song nhờ vào định lực bẩm sinh, cậu mau chóng trấn tĩnh được tâm thái. Cậu lại tập trung ánh nhìn, dò xét kỹ lưỡng hơn một lượt nữa, song vẫn không phát hiện ra điểm huyệt ở đâu. Mồ hôi đã chảy túa ra trên trán cậu.
Rốt cuộc cậu đã sơ suất ở khâu nào?
Lỗ Nhất Khí lại nhắm mắt định thần lần nữa, hồi tưởng lại toàn bộ quá trình vừa trải qua. Cậu bỗng phát hiện ra rằng, nếu như có điểm nào sơ suất, chắc hẳn là khoảnh khắc hai chiếc bóng bắt đầu phân tách đã diễn ra quá nhanh, sai sót rất có thể là ở trong khoảnh khắc đó.
Thế là cậu lại mở mắt, gắng sức ghìm tốc độ đến chậm nhất có thể. Và cậu đã phát hiện thấy, cuối cùng thì cậu cũng đã phát hiện thấy, phần đỉnh cột buồm vào lúc vừa mới tách đôi, khi đường biên bên trái và đường biên bên phải của hai chiếc bóng cột buồm vừa trùng khít lên nhau, tại vị trí hai đường thẳng chồng lên nhau đó, có một đoạn trông hơi dày hơn một chút. Cậu đã hiểu rồi, điểm huyệt nằm trên đường biên bên phải của cột buồm. Mà không, nói đúng hơn nó phải là khe huyệt.
Cậu đã biết bước tiếp theo mình cần phải làm gì. Thế là cậu bước lên phía trước, đưa ngón tay vuốt nhẹ một cái. Khe huyệt rất mảnh, ngón tay cậu hầu như không cảm nhận được về sự tồn tại cùa nó. Cậu bèn đưa miệng lại gần, áp đôi môi sát lên khe huyệt, sau đó, cậu bắt đầu hút vào một hơi, thật nhẹ, thật dịu dàng tựa như đang khẽ hôn đôi môi mỏng đang khép chặt của người tình. Và một sợi tơ mảnh, dai và trơn bóng nhảy vào trong miệng cậu. Cậu nhẹ nhàng ngậm lấy nó, ngửa đầu ra phía sau lôi khẽ...
"Ục... ục..."
Bên tai cậu bỗng vang lên một chuỗi âm thanh tựa như tiếng nước rút, có điều chỉ đứng ở khoảng cách gần như cậu mới nghe thấy.
Thuỷ ngân trên bức tranh đang biến mất dần từ trên xuống dưới, cũng chỉ có đôi mắt bị che phủ phía sau lớp lụa đỏ của cậu mới nhìn thấy.
Bề mặt bức tranh bắt đầu có sự rung động rất vi tế, và cũng chỉ có cậu mới cảm nhận thấy.
Bức tường phía tây bất ngờ phát ra một tiếng động lớn rồi trượt mạnh sang một bên, mở ra một lối đi rộng rãi. Điều này thì mọi người đều nhìn thấy.
Bốn người bọn họ đều nhìn thấy.
Bên trong trạch viện cũng có người nhìn thấy.
Bên ngoài trạch viện cũng có người nhìn thấy.
Lỗ Nhất Khí lùi lại hai bước, gỡ mảnh lụa đỏ trên mặt xuống, xem xét lại một lần nữa bức tranh thuỷ ngân Nam Từ, thì ra nó là một bức bích hoạ bằng sứ men rỗng, khảm trên bức chiếu bích thứ ba của trạch viện.
Đúng vậy, bức chiếu bích thứ ba. Trạch viện này có tới ba bức chiếu bích!
Trước mặt họ là chiếu bích hình chữ "nhất" bên trong cổng chính, là loại chiếu bích thường gặp nhất trong tứ hợp viện, song cũng là bức chiếu bích đáng sợ nhất, dị thường nhất trong ba bức chiếu bích mà họ đã phải đối đầu trong đêm nay.
Ba người kia vội vàng chạy lên, kéo Lỗ Nhất Khí cùng lao vào lối đi mới mở. Khảm tử gia đều biết rõ, quá trình xung phá khảm diện cần phải cố gắng thực hiện liền một mạch, chỉ chần chừ một chút thời gian, sẽ càng thêm nhiều nguy hiểm, bởi lẽ sẽ tạo thêm cơ hội cho đối thủ thay đổi khảm diện và tăng thêm nút lẫy.
Thoát khỏi cánh cổng kinh hồn này, họ đã xông vào được ngoại viện của khu trạch viện. Khoảng sân trông vuông vức và rộng lớn hơn rất nhiều lần so với kết cấu ngoại viện của nhà ở bình thường. Kỳ lạ hơn nữa là toàn bộ sân trước gần như bị choán hết bởi một hồ nước lớn, vị trícủa nó tương ứng với vị trí đặt bể cá vàng trong các hộ bình thường. Giữa hồ nhô lên vài khối đá Thái Hồ cao vút xù xì, so le khấp khểnh, vị trí của chúng được thiết kế rất khéo léo, vừa hay che chắn được tầm nhìn về hướng tây và bắc, khiến mọi người không thể nhìn thấy được cổng thùy hoa*. Nhìn về phía đó, chỉ thấy thấp thoáng sống nóc hình cánh cung và các đầu đao uốn cong, mà phán đoán rằng ở đó có lẽ là một môn lâu**.
* Cổng thuỳ hoa là một loại cổng nằm ở bên trong trạch viện trong kiến trúc cổ của Trung Quốc, thường nối thông với hành lang phía trong. Do trụ mái không chạm đất mà treo lơ lửng dưới phần mái, nên gọi là "thuỳ trụ" (cột treo, trụ lửng), bên dưới trụ lửng có thùy châu thường được vẽ hình hoa lá, nên được gọi là cổng thuỳ hoa.
** Tức là phần gác xây phía trên cổng.
Lỗ Nhất Khí đứng ngẩn ra, thầm nghĩ, làm sao lại có cách xây nhà kỳ quặc đến thế? Như vậy làm sao để vào được cổng thuỳ hoa và nội viện đây?
Cùng lúc đó, cậu cũng phát hiện ra rằng, trong ngoại viện không có đảo toạ, tức là không có căn phòng tại bức tường phía nam quay hướng về ngôi nhà chính. Không có phòng bên cổng, không có đảo toạ, xem ra trạch viện này tuy diện tích rất rộng, song lại không có mấy nóc nhà. Chí ít cho tới lúc này, họ vẫn chưa nhìn thấy một căn phòng nào, bởi lẽ ngôi nhà này vốn dĩ không phải được xây để ở.
Lỗ Nhất Khí quả thực cảm thấy rất băn khoăn. Dẫu cậu biết rằng, cho dù người thợ xây có hồ đồ đến đâu chăng nữa, cũng không thể chuyển cái hồ vốn dĩ chỉ nên xuất hiện ở vườn sau thành bể cá vàng đặt tại sân trước; dẫu cậu biết rằng, cho dù chủ nhà có ngốc nghếch đến thế nào chăng nữa, cũng không thế thiết kế một hồ nước lớn đến mức choán hết cả diện tích sân trước. Thế nhưng khảm diện vừa vượt qua đã cho cậu biết rõ hơn rằng, trong trạch viện này mọi chuyện đều có thể xảy ra, mọi thiết kế quái dị đều có thể xuất hiện.
Bác cậu đã tìm ra con đường để đi tiếp. Tại phía nam của cái sân, tại nơi mà đáng lẽ phải có căn phòng đảo toạ*, chìm khuất giữa một tảng đá lớn và một gốc sơn trà um tùm bên cạnh hồ nước là lối mở vào giữa một hành lang quanh co gấp khúc.
* Căn phòng xâỵ đối diện với sảnh chính trong kiến trúc tứ hợp viện, thường tọa nam hướng bắc, là nơi cho khách nghỉ qua đêm.
Họ không dám đi tiếp, bởi lẽ hành lang này trông không giống như một con đường có thể đi qua. Đây là kiểu hành lang kín một nửa, một bên là vách tường bịt kín, một bên là dãy lan can thấp sát mép nước, chỗ cao chỗ thấp, gạch lát trên nền hành lang lồi lõm khấp khểnh, các trụ dọc hành lang cái nhỏ cái lớn, bản thân hành lang cũng chỗ rộng chỗ hẹp. Đứng từ vị trí của họ nhìn vào, thì thấy hành lang này có thể dẫn đến cổng thùy hoa, vấn đề ở chỗ có đi qua được hay không, và phải đi qua bằng cách nào. Thử nghĩ mà xem, những bức chiếu bích và cổng chính được thiết kế ngay ngắn đến vậy mà còn ẩn chứa trùng trùng nguy hiểm, huống chi là đường hành lang càng trông càng nghịch mắt này.
Quỷ Nhãn Tam lại tìm ra một lối đi khác ở mé chính bắc ngoại viện, cũng khuất giữa một tảng đá lớn và một gốc sơn trà um tùm bên hồ nước là chỗ bắt đầu của một hành lang khác. Hai dãy hành lang giống nhau như đúc, chỉ khác ở chỗ đứng từ lối vào của hành lang này có thể thấy thấp thoáng mặt bên của một môn lâu.
Phải làm thế nào đây?
– Nếu bắc được một cây cầu đi thẳng qua mặt hồ thì tốt quá! – Có lẽ do còn trẻ, cũng có thể do ảnh hưởng bởi kiến thức ở trường Tây học mà suy nghĩ của Lỗ Nhất Khí có phần bay bổng.
– Bắc cầu thì dễ thôi, song sẽ càng khó đi hơn nữa. Phi nga sách* của chú Hạ và Thiên thần phi trảo** của Nghê Tam đều có thế bắc được một chiếc cầu treo. Song ở những nơi như này, nếu đi theo đường chính, tức là sống chết ngang cơ, có thể thoát ra, cũng có thể bị vây khốn. Nếu cao tay, sẽ qua được; nếu kém tài, sẽ trở về. Dù có sơ suất cũng chưa chắc đã nguy hại tới tính mạng! – Lỗ Thịnh Hiếu nói tới đây thì ngừng lại.
* Có nghĩa là: Sợi thừng con thiêu thân.
** Có nghĩa là: Vuốt bay chuyển xác chết. Một loại công cụ, cũng có thể nói là vũ khí Kỳ môn. Phía trước là bộ vuốt bằng sắt, nối liền với một sợi dây xích, càng kéo căng sợi dây xích thì các móng vuốt càng siết chặt. Có thể dùng nó để trèo tường, nắm chụp đồ vật, cũng có thể khóa chặt đối thủ.
Lão mù liền tiếp lời:
– Con đường tự tạo ra chắc chắn là đường chết. Chủ nhân của ngôi nhà đã tính toán trước cả rồi. Nếu không, một tặc vương như ta sao phải nhọc công phí sức làm gì, ngay từ bên ngoài đã bay tường nhảy cổng cho rồi!
Những lời của Lỗ Thịnh Hiếu và lão mù đã giúp Lỗ Nhất Khí hiểu thêm đôi chút về môn Khảm tử*.
* Chỉ môn phái chuyên nghiên cứu thiết kế, bố trí sắp đặt cơ quan cạm bẫy hoặc cách phá giải khảm diện của người khác.
Ông Hạ, dừng có bay, chi bằng hãy theo tôi đi đào hang! – Quỷ Nhãn Tam lại chộp được cơ hội để chọc tức lão mù, song lời nói đã khách sáo hơn rất nhiều. Lời nói của hắn cũng đồng thời cho Lỗ Nhất Khí biết rằng, ở đây bay lên trời không được, mà chui xuống đất cũng không xong.
Lão mù không để tâm đến Quỷ Nhãn Tam, chẳng nói chẳng rằng, ngồi thụp xuống đất, bắt đầu tỉ mỉ sờ soạng trên nền gạch cao thấp khấp khểnh.
Nền đất được lát bằng loại gạch nhỏ màu xanh của Giang Nam, rộng chừng ba ngón tay, dày hai ngón tay, dài cỡ bàn tay. Chúng đều được lát dựng đứng, như vậy tuy tốn gạch, song rất chắc chắn, không dễ bong tróc, hơn nữa khi lát xuống còn được tạo hình hoa văn đa dạng, trông rất đẹp mắt. Tuy nhiên, cho dù tạo hình có đẹp đẽ đến đâu, thì thiết yếu nhất vẫn là phải lát thế nào cho bằng phẳng dễ đi mới đúng, đằng này lại khấp kha khấp khểnh. Nếu không phải là tay nghề kém, thì chắc chắn là cố tình muốn người ta vướng chân vấp ngã.
– Này anh cả, anh nhìn xem, sao tôi có cảm giác dường như nó rất giống với bộ pháp của Điên phốc đạo nhà anh thì phải? – Lão mù sau khi đã dò dẫm một hồi, bèn nói với Lỗ Thịnh Hiếu.
Lỗ Thịnh Hiếu nghe đoạn, liền kéo lão mù đứng dậy, lôi sang một bên, cầm lấy chiếc đèn khí tử phong trong tay Lỗ Nhất Khí, đặt vào vị trí bên trong hành lang cách lối vào khoảng một cánh tay. Rồi ông nghiêng chống bàn tay phải xuống đất, gập khuỷu, hạ thân người áp sát mặt đất, bàn tay trái chụm thành thất hoa chỉ quyết, vươn ra xa.
Nhìn ông khai triển tư thế đó, Lỗ Nhất Khí không khỏi kinh ngạc, nghĩ thầm: "Bác mình đã nhiều tuổi nhường kia mà vẫn thực hiện được động tác khó đến thế. Trẻ khoẻ như mình chắc chắn cũng không thể bắt chước được, thực đáng khâm phục!".
Lỗ Thịnh Hiếu nheo mắt, đưa chỉ quyết vạch xuôi vạch ngược mấy lần, sau đó duỗi thẳng cánh tay, thu người đứng dậy.
Quỷ Nhãn Tam buột miệng thốt lên:
– Phục long thám căn! Đây chính là công phu Định cơ trong Lục hợp chi lực* của Lỗ gia.
* Tức sáu kỹ pháp của Lỗ gia bao gồm: Định cơ (định móng), Bố cát (bài trí may mắn), Lập trụ (xây cột), Cố lương (cố định xà nhà), Tịch trần (trừ bụi). Phô thạch (lát đá), mỗi kỹ pháp đều có tuyệt chiêu kỳ diệu riêng.
Lão mù nghe vậy, lập tức tán dương:
– Anh cả, anh vẫn sử được chiêu này, mà tôi còn chưa kịp nghe ra, quả đúng là thân thủ không già.
– Lão giặc mù, đừng có chuốc thuốc mê cho tôi, chú đang tự khoe khoang thì có! Nhưng chú rờ mó cũng chính xác đấy, đây chính là bộ pháp của Điên phốc đạo, chỉ là tự quyết đã đổi chữ "trượt" thành chữ "vấp" mà thôi!
Nghe Lỗ Thịnh Hiếu nói vậy, lão mù lại phô ra một nụ cười đắc ý, song ngoài miệng vẫn ra vẻ khiêm tốn:
– Tôi chỉ đoán bừa thôi, gia tộc các anh vốn cũng có dây mơ rễ má với bọn họ, nên cách bố trí giống nhau cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
– Tuy nói là vậy, nhưng trải qua bao nhiêu thế hệ truyền thừa, cải tiến, chắc chắn sẽ có nhiều khác biệt. Hơn nữa vài trăm năm trước, bọn họ đã dựa vào thế lực của gia tộc để tiến hành thu thập kỹ nghệ khắp giang hồ rồi cải tiến thêm. Như con đường Điên phốc đạo đã sửa một tự quyết này, không rõ bên trong liệu có huyền cơ nào khác không? – Lỗ Thịnh Hiếu nói, giọng đầy lo lắng.
– Có cần tôi đi thử vài bước không? – Lão mù chủ động lên tiếng, vẻ rất quả cảm.
– Cứ để tôi, hai người chỉ cần bảo vệ cho Nhất Khí là được! – Lỗ Thịnh Hiếu nói, rồi không để ba người kịp phản ứng, ông lập tức bước vào hành lang.
"Một dừng hai điểm ba vượt bốn xoay" là bốn khẩu quyết của bộ pháp trên Điên phốc đạo, mỗi một quyết đều ăn khớp với một cơ quan trên mặt đường. Sau khi bước vào một bước, cần dừng lại một chút, cũng chính là để ổn định lại cơ thể, rồi mới bước tiếp bước thứ hai. Nếu không dừng lại mà bước luôn, thì bước thứ hai chưa kịp chạm đất, đã ngã nhào sang một bên. Bước thứ hai không thể giẫm cả bàn chân xuống, mà chỉ điểm khẽ xuống mặt đất để vượt qua, đó chính là "hai điểm", nếu không, phần cổ chân sẽ bị vặn mạnh ra phía ngoài, trẹo khớp hay gãy xương là chuyện khó tránh. Bước thứ ba cần sải rộng chân mà bước qua, để vượt qua khảm diện, nếu không, phần chân sẽ bị trượt thẳng về phía trước, thương tổn dây chằng. Bước thứ tư cần hơi xoay sang bên trái một chút, nếu vẫn bước thẳng như trước, phía trước chắc chắn sẽ có một vật gì đó đập thẳng vào khiến cho sứt đầu mẻ trán. Giang hồ gọi những người ngoại đạo không hiểu gì về cơ quan khảm tử là "mộc qua" (dưa đần), gọi những người không biết bộ pháp của khảm tử mà bước lầm vào, hoặc xông bừa vào là "phá qua" (dưa vỡ). Nói ngay như Điên phốc đạo này, chỉ cần đi sai bốn bước đầu tiên, một người đang yên đang lành chắc chắn sẽ tan nát khác gì quả dưa bị đập vỡ.
Điên phốc đạo của Lỗ gia sau khi bố trí xong thường thiết kế khảm diện rất khéo léo, nhìn từ bên ngoài hầu như không thể nhận ra được. Nhưng Điên phốc đạo tại hành lang này lại bố trí khá cẩu thả, đặc biệt là đã sửa tự quyết "trượt" ở bước thứ ba thành tự quyết "vấp", bố cục trơn trượt kín đáo khó nhận đã được biến thành những viên gạch nhô lên, thoạt nhìn là nhận ra ngay.
Lỗ Thịnh Hiếu sửa "ba vượt" thành "ba nhảy", đã đi được chừng ba, bốn tổ hợp bốn bước, vẫn không thấy có gì khác thường, ông bèn quay trở lại lối vào hành lang. Ông không dám đi quá xa. Chỉ có một mình mà đi tách xa là rất nguy hiểm.
Ở lối vào hành lang, lão mù đang thao thao bất tuyệt giảng giải cho Lỗ Nhất Khí nghe về bộ pháp và các bí mật của Điên phốc đạo. Thực ra, Lỗ Nhất Khí đã tìm hiểu được đôi chút về Điên phốc đạo nhờ đọc được cuốn sách "Kỳ công"*, chỉ là không hiểu cách bố trí và bộ pháp cụ thể mà thôi. Nhìn thấy cách thức Lỗ Thịnh Hiếu bước đi, lại nghe những lời giảng giải của lão mù, cậu đã sáng tỏ ra rất nhiều.
* Trước tác chân truyền của Lỗ gia là "Ban kinh", còn "Kỳ công" cũng là một cuốn sách của Lỗ gia, ghi chép về những kỹ thuật thông thường của họ Lỗ, cùng những kỹ thuật của các môn phái khác mà họ Lỗ biết được, và các phương pháp biến hóa, cải cách trong việc ứng dụng kỹ thuật của các môn phái khác. Đây là một cuốn sách công cụ có nội dung phong phú, toàn diện, mang tính tổng hợp cao.
– Bước đầu tiên bắt đầu từ chỗ xiên ngang trên mặt đường nếu không biết thế Phục long thám căn, cậu hãy ngồi thụp xuống hay nằm bò xuống mà nhìn, chỉ cần giữ đầu ở độ cao thích hợp, sẽ nhìn ra được! – Lão mù dường như hiểu rõ vướng mắc trong lòng Lỗ Nhất Khí, nên đã giảng giải cho cậu về bước đi đầu tiên quan trọng nhất.
– Đường đi hai bên đều giống nhau, nếu không có vấn đề gì thì chúng ta hãy đi theo đường này, có vẻ gần cổng thùy hoa hơn! – Lỗ Thịnh Hiếu nói, song vẻ hoài nghi vẫn lộ rõ trên hai đầu lông mày đang nhíu lại.
Vẫn là Lỗ Thịnh Hiếu bước vào Điên phốc đạo đầu tiên, Lỗ Nhất Khí đi sát theo sau. Như vậy, cậu không cần phải tự mình phán đoán bước chân nữa, cứ đi đúng theo bác là được. Đi sau cậu là lão mù, cuối cùng là Quỷ Nhãn Tam đoạn hậu. Bốn người bọn họ đi sát vào nhau, khoảng cách giữa họ bằng một tổ hợp bốn bước.
Bước thêm vài tổ hợp nữa, vẫn không có điều gì bất thường. Họ đang từ từ tiến lại gần cổng thuỳ hoa.
Khi tổ hợp bước chân thứ bảy sắp kết thúc, Lỗ Nhất Khí chợt cảm thấy thân hình Lỗ Thịnh Hiếu ở phía trước có một chút xíu lệch nhịp, cậu cũng không quá lưu tâm đến. Tới lượt cậu, khi bước đến "bốn xoay", cậu cũng bất giác xoay về phía trước nhanh hơn một chút, tức là bước xoay này có mang theo một chút xung lực đẩy cậu tiến lên, và vẫn trong thế lao về phía trước để bước sang tổ hợp thứ tám. Xung lực này khiến cậu cảm thấy rất tự nhiên, cũng rất thoải mái, dường như có một luồng sức mạnh bên ngoài đã đẩy cậu đi.
Khi tổ hợp thứ tám kết thúc, bước xoay cuối cùng dường như lại nhanh hơn một chút, tựa như đang lướt đi trong mây, không hề tốn sức lực.
Khi kết thúc tổ hợp thứ chín, cậu cảm thấy bản thân bắt đầu không kiểm soát nổi xung lực đó nữa, suýt nữa thì đâm vào cột hành lang. Trong lúc cậu cố gắng khống chế để xoay trở lại, thì xung lực đột ngột biến mất. Đang gắng sức xoay người, cậu chợt mất đà, va đánh sầm vào bức tường hành lang ở phía đối diện, hơn nữa đây lại chính là chỗ chật hẹp nhất của hành lang. Dưới sự tác động của hai luồng xung lực một xuôi một ngược, cậu lại bị đẩy vào tổ hợp tiếp theo.
Tổ hợp thứ mười, thứ mười một, xung lực xô đẩy mỗi lúc một mạnh hơn, cậu đã bắt đầu hết va vào cột trụ, lại va vào tường hành lang. Phản lực đến từ những cú va đập càng khiến cho cậu khó mà kiểm soát nổi thân hình. Xung lực càng lúc càng dữ dội, tốc độ cũng càng lúc càng nhanh.
Lúc này cậu cũng phát hiện thấy, bác cậu ở phía trước cũng gặp phải tình trạng giống y như cậu, thậm chí còn tệ hại hơn, dường như ông đã bắt đầu chạy. Sau lưng cậu cũng liên tục vọng đến tiếng cơ thể va đập và vạt áo bay lật phật, xem ra hai người phía sau cũng không có gì sáng sủa hơn.
Lỗ Nhất Khí còn phát hiện ra một điều, cổng thuỳ ' vốn tưởng như rất gần, nhưng đến bây giờ họ vẫn chưa đi tới, dường như nó vẫn ở rất xa.
Và một sự việc đáng sợ đã xảy ra, họ không thể dừng lại được! Dưới tác dụng của các loại lực đạo, họ buộc phải bước tiếp về phía trước, hơn nữa càng bước càng nhanh, muốn dừng lại, chỉ còn cách chủ động bước chệch vào nút lẫy đạp lên khảm diện. Song giờ đây, khi các loại lực đạo đã kết hợp lại với nhau, nếu đạp vào khảm diện, hậu quá chắc chắn sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều so với khi mới đặt chân vào hành lang. Nếu không cẩn thận, bong gân gãy xương là chuyện nhỏ, không chừng còn vỡ đầu nát óc như chơi.
Lúc này, Lỗ Nhất Khí chỉ muốn mình là một gã "dưa vỡ" không hiểu gì về bộ pháp trong Điên phốc đạo, cho dù có thành "dưa đần" cũng được.
Mồ hôi cậu túa ra lút đầu, vì mệt, cũng vì sợ hãi. Song cậu không thể lau mồ hôi được, ngay cả động tác vung vẩy của cánh tay đã không thể điều khiển được nữa. Mồ hôi ròng ròng che mờ hai mắt, khiến cậu không còn nhìn rõ thân hình người bác ở phía trước. Cậu chỉ còn nghe rõ tiếng thở dốc nặng nề của mình, tiếng thở của cậu đã lấn át các âm thanh khác, trở thành tiếng sấm dội duy nhất trong tai cậu lúc này.
Cậu vẫn chệnh choạng chạy về phía trước, những va đập mỗi lúc một thêm dữ dội. Trước mặt cậu là con đường không có điểm tận cùng, nhưng cậu biết, cho dù con đường này dẫn đến thiên đường hay địa ngục thì trước khi tới đích, cậu đã chết rồi. Hơn nữa, rất có thể là một cái chết cực kỳ đau đớn sau khi đã vắt kiệt sức lực.
Cậu không muốn chết vì kiệt sức, thà cậu bị quật chết hay ngã chết còn hơn, bởi vậy, cậu quyết định sẽ đạp vào nút lẫy, giẫm lên khảm diện...
Nhưng, một sự việc khủng khiếp hơn đã xảy ra ngay cả khảm diện cậu cũng không thể giẫm vào được, trong khi vốn dĩ chỉ cần bước chệch đi một chút. Cơ thể cậu đã hoàn toàn mất khả năng kiểm soát, mọi động tác đều được thực hiện một cách máy móc, đặc biệt là đôi chân, đã hoàn toàn không thể điều khiển được nữa.
Lỗ Nhất Khí đã thực sự khiếp sợ. Cậu thấy mình như đã sa thân vào một đầm lầy tuyệt vọng, chỉ biết giương mắt nhìn lớp bùn nhão từ từ, từ từ dâng lên ngập mũi miệng, có muốn tự vẫn chết ngay cũng không xong.
Mồ hôi đã lấp kín đôi mắt, chảy nhễ nhại trên khắp khuôn mặt cậu.
Lẽ nào lần này quả thực là kiếp nạn khó thoát?
Không! Vẫn còn một người có thể cứu họ, chỉ một người duy nhất. Người đó, cũng chính là một trong số họ.
Đó là người phải cầm một thứ trên tay mới đi được.
Đúng vậy, đó là lão mù, lão phải dựa vào cây gậy dẫn đường mới có thể đi được. Tuy rằng lúc này, lão cũng không khác gì ba người còn lại, cũng đang bước quần quật theo bốn bộ quyết của Điên phốc đạo, cũng đang chạy gấp gáp, va đập lung tung; tuy rằng lão cũng đang lo sợ sẽ phải chết vì kiệt sức, song trong tay lão có một cây gậy, một cây gậy có thể cứu vớt những người đang tuyệt vọng dưới đầm lầy.
Lão cũng đã nghĩ tới việc tự sa vào khảm diện, song cũng giống như Lỗ Nhất Khí, không thể giẫm chệch được bước chân, động tác của cánh tay cũng không thể xoay ngược lại. Điểm khác biệt duy nhất là ở chỗ, các ngón tay vẫn là của lão, lão vẫn kiểm soát được; cây gậy dẫn đường vẫn là của lão, lão vẫn điều khiển được. Thế là không chút do dự, lão quyết định tận dụng cơ hội cuối cùng này, vì lão chỉ mong có thể dừng lại được. Lão sắp đứt hơi đến nơi, lồng ngực dường như đang toé lửa. Hơn nữa, lão càng sợ rằng nếu kéo dài thời gian hơn chút nữa, đến các ngón tay rồi cũng sẽ không còn kiểm soát nổi.
Sống hay chết, chỉ trông vào một chiêu này.
Bước thứ ba, chính là ở bước thứ ba, sau một bước nhảy, sẽ xoay người lao về phía trước, rồi va vào cột hành lang. Lão đã tính toán trước, vào đúng thời điểm bước thứ ba vừa tung lên, lão đã ấn vào cái lẫy trên cây gậy, cây gậy trong chớp mắt vụt dài ra gấp đôi. Đây cũng chính là chỗ chật hẹp nhất của hành lang vách tường có một chỗ lồi ra như hình vòng cung, thế là cây gậy bị kẹt ngang lại giữa một bên là chỗ lồi và một bên là cột hành lang. Bởi thế, bước tiếp theo của lão mù không phải là xoay người lao về trước nữa, mà lập tức trượt dọc theo thân gậy chéo sang một bên, vụt một cái đã ngã ngồi lên trên hàng lan can. Nhưng dư lực vẫn còn, khiến lão đâm vỡ toang cả thành vịn gỗ, bật ngửa người ra phía sau, rơi xuống hồ nước bên ngoài hành lang.
Cú ngã này, nếu lọt xuống hồ, đồng nghĩa với việc bước lên con đường tự tạo ra, cũng chính là đường chết.
Nhưng có một người đã không để lão rơi xuống. Ai vậy? Chính là Quỷ Nhãn Tam. Hắn ở sát phía sau lão mù, chỉ cách có một bước. Cây gậy đã chặn ngang bước xoay mình lao về phía trước của lão mù, song cũng đã chặn được nửa phía sau bước nhảy thứ ba của Quỷ Nhãn Tam, bởi vậy hắn chưa kịp xoay người, mà toàn bộ xung lực lao về phía trước của hắn đều truyền vào cây gậy, lực đạo đó đã khiến cả cây gậy thép uốn cong vút như một cánh cung kéo căng. Cú va chạm đã khiến tay chân Quỷ Nhãn Tam nhanh chóng cử động lại được, trong khoảnh khắc cây gậy bật trở lại bắn tung hắn đi, hắn đã nhanh tay túm được thân gậy, nghiêng người nhảy bật lên, dùng cây gậy chống đỡ cơ thể đang đổ ra phía sau của mình, đồng thời gắng sức đạp mạnh chân phải vào tường còn chân trái giẫm thật chắc vào vạt sau tấm áo bông của lão mù. Toàn bộ cơ thể lão mù trong tư thế treo ngược, lơ lửng bên ngoài lan can.
Hai người họ đã dừng lại, dừng lại hoàn toàn, dừng lại một cách bất động. Quỷ Nhãn Tam chống cây gậy trên mặt đất, thân người lơ lửng trên không, một bàn chân tì lên vách tường, một bàn chân trên lan can đang giẫm cứng lấy vạt áo bông. Còn lão mù? Đang trong tư thế treo ngược cắm đầu xuống dưới, trông như một vắt mì ướt lủng lẳng trên đầu cây sào.
Lão mù không dám cử động. Lão vẫn chưa hết bàng hoàng, sự việc xảy ra quá nhanh khiến lão chưa kịp định thần, bởi vậy, lão mới chỉ biết từ từ thả lỏng thân người, sau đó bắt đầu thở khẽ nhưng gấp gáp. Lão cần phải điều hoà lại hơi thở.
Quỷ Nhãn Tam cũng không dám động cựa, hắn không thể để lão mù rơi xuống nước, mặc dù giữa lão mù và gia tộc của hắn từng có chuyện xích mích. Trước khi hắn lên đường, ông già hắn cùng vài ông chú, ông bác đã nhắc đi nhắc lại rằng, đi chuyến này tuyệt đối không được phép nhắc đến mâu thuẫn trước kia. Nếu khơi dậy chuyện cũ, đại sự sẽ không thể hoàn thành. Vả lại vừa nãy, nếu không phải nhờ có lão mù, hắn vẫn còn đang trong cuộc chạy điên cuồng vô vọng. Giờ đây, bọn họ khác nào một đám châu chấu đi trên cùng một sợi dây, nếu muốn hoàn thành được nhiệm vụ đêm nay, cần phải gắng hết sức bảo toàn lực lượng. Bởi vậy, hắn chỉ còn biết gồng hết sức để trụ thật vững, và cũng bắt đầu thở hổn hển.
Rất nhanh chóng, chỉ sau vài ba nhịp thở sâu cả hai người đều ý thức được rằng họ cần phải hành động và phải hành động ngay lập tức. Vừa rồi, họ đã chạy phải đến vài chục vòng ngoại viện rồi chứ chẳng chơi thế nhưng vẫn chưa thể đến đích, điều này chỉ có một khả năng duy nhất, đó là họ đã chạy vòng quanh trong một hành lang khép kín. Đây có lẽ là một loại trận pháp giống như Bát trận đồ Gia Cát. Nếu như vậy, hai người phía trước bất kỳ lúc nào cũng có thể lao thẳng tới từ phía sau.
Bởi vậy, Quỷ Nhãn Tam chuẩn bị buông một cánh tay ra để móc lấy Thiên thần phi trảo, hắn cần phải kéo lão mù lên.
Lão mù cũng hiểu rằng mình cần phải trở lên trên, song lão vẫn chưa rõ tình hình phía trên ra sao, bởi vậy, lão chỉ biết gửi gắm hy vọng vào bản thân mình.
Lão là ai kia chứ? Chính là Tây Bắc tặc vương! Dẫu rằng tuổi đã hơi cao, đôi mắt cũng đã mù loà, song những điều đó không ánh hưởng gì tới việc lão cần thiết phải trở lên trên. Chỉ thấy lão vận lực vào thắt lưng, hai chân giật một cái giơ thẳng lên, đầu gối móc ngược trở lại, bàn chân đã đạp được lên mặt lan can, cả thân người bật đánh vèo lên phía trên, sau đó nửa thân trên cuộn về phía trước, lão đã ngồi chồm hỗm trên măt lan can.
Lúc này, Quỷ Nhãn Tam cũng đã móc được phi trảo ra, thấy lão mù thình lình xuất hiên trước mặt, thì giật nảy cả mình.
– Nhanh lên, chuẩn bị chặn họ lại! – Lão mù vừa chạm chân xuống, chưa kịp thở đã vội vàng kêu lên.
Quỷ Nhãn Tam liền thu chân về đứng thẳng dậy, quăng cây gậy thép cho lão mù, sau đó xoay người lại, giơ chân đạp gãy hai viên gạch xanh nhô lên giữa đường, tay trái quặt ra sau lưng rút lấy chiếc cuốc mỏ hạc bằng thép vút một cái cắm phập lên vách tường đối diện. Rồi hắn quăng phi trảo găm chặt lên cán cuốc, đầu còn lại quấn một vòng quanh cây cột, rồi nắm giữ thật chặt. Vừa làm xong, thì hai người kia đã huỳnh huỵch lao tới.
Lỗ Thịnh Hiếu vẫn vừa chạy vừa va đập lung tung, đôi mắt ông đã nhoè nhoẹt, ý thức cũng đã hơi mụ mị. Chợt thấy hai bóng người lờ mờ trên thành lan can phía trước, hơi giống như lão mù và Quỷ Nhãn Tam, ông cứ ngỡ đó là ảo giác. Càng khiến ông nghĩ là ảo giác hơn nữa, là khi thấy bố cục của đường hành lang dưới chân đột nhiên biến đổi. Ông tựa như con ngựa đang phi nước đại bị hụt chân, ngã lao người về phía trước.
Sợi dây xích mảnh bằng thép trên phi trảo của Quỷ Nhãn Tam đã cản ông lại, liền sau đó Lỗ Nhất Khí lao từ phía sau đến tông thẳng vào người ông. Nếu chỉ là hai người đang chạy không thôi thì còn dễ, nhưng hai người này trong khi lao thẳng về trước còn mang theo rất nhiều ngoại lực, bởi vậy xung lực của cú lao tới này còn dữ dội hơn rất nhiều so với sức của con ngựa đang phi nhanh. Quỷ Nhãn Tam vội vã buông lỏng sợi dây xích, không phải vì hắn giữ không nổi, mà vì hắn sợ sợi xích sẽ làm tổn thương đến hai người, nên cần phải tìm cách để tản bớt lực.
Xung lực của hai người kéo căng sợi xích về trước khiến nó cọ vào cột trụ đến bốc khói, bàn tay đeo bao tay da hươu của Quỷ Nhãn Tam cũng bỏng rát lên khiến hắn sắp tuột tay đến nơi. Sợi dây xích đã buông gần hết nhưng hai người kia vẫn lao đi với lực đạo cực lớn.
Lão mù vẫn ngồi chồm hỗm trên lan can, đang theo dõi sự việc bằng đôi tai. Từ trước đó lão đã kịp gác cây gậy giữa chỗ lồi ra trên vách tường và cột hành lang. Khi Lỗ Thịnh Hiếu và Lỗ Nhất Khí bị sợi dây xích cản lại, họ cũng đồng thời va vào cây gậy của lão. Cuối cùng, hai người đã dừng lại. Cây gậy đã bị uốn cong như một cánh cung, phải một lúc lâu sau mới tiêu hết dư lực và đàn hồi trở lại, song vẫn chưa thể lập tức phục hồi trạng thái ban đầu, bởi lẽ Lỗ Thịnh Hiếu và Lỗ Nhất Khí đang tựa lên nó mà thở hổn hển. Trên cột hành lang hằn sâu một vệt cháy đen do sợi dây xích xiết vào, bốc khói xanh và toả ra mùi khét lẹt.
Lỗ Nhất Khí gắng gượng đứng dậy, cậu không thể cứ nằm rũ trên lưng bác mãi. Song vừa mới đứng lên, cậu đã ngã đánh phịch xuống đất.
Lỗ Thịnh Hiếu cũng đứng thẳng lên, ông cũng không thể cứ dựa mãi lên cây gậy. Ông không bị ngã sụp xuống, vì tay ông đã nắm chặt lấy cây gậy để giữ cho cơ thể đứng vững. Đột nhiên tiếng thở hào hển của ông ngưng lại, hai môi mím chặt, một giọt đỏ tươi từ từ rỉ ra từ khoé miệng, vẽ thành một đường vòng ngoằn ngoèo chảy xuống dưới cằm, sau đó từ mép cằm kéo thành giọt rơi xuống dưới. Lồng ngực ông nhô ra thóp vào mấy nhịp, rồi miệng ông không còn mím lại được nữa phụt ra một búng máu đỏ tươi, như một lứp sương mù đỏ loà trong hành lang đen thẳm.
Óng đã bị thương! Dù sao ông cũng đã nhiều tuổi rồi, hơn nữa, vừa nãy, ông đã phải chịu một xung lực gấp đôi.
Trong bốn người, duy có Quỷ Nhãn Tam còn giữ được thể lực tốt nhất. Hắn còn trẻ, lại có nền tảng công lực dày dặn. Tiếp đến là lão mù, tặc vương dù sao cũng là tặc vương, vốn dĩ đã có công phu khinh công thượng thừa, hơn nữa, lão chỉ chịu lực trượt xéo sang bên cạnh, tuy cú va đập đến vỡ thành lan can khiến cơ thể lão đau nhức như gãy xương, song phần lớn xung lực đều đã được phân tán trong cú trượt. Tiếp theo là Lỗ Nhất Khí. Tuy cậu chưa hề luyện qua công phu, song cậu còn trẻ, lại từng tập chạy đường dài trong trường Tây học, quan trọng nhất là trong cú va đập cuối cùng, Lỗ Thịnh Hiếu đã gánh giúp cậu đến một nửa xung lực. Bởi vậy về cơ bản cậu chỉ thấy mệt, chứ không có gì đáng ngại.
Lão mù đã nhảy xuống khỏi lan can, lão đã nghe tiếng ai đó đang thổ huyết. Tiếng thổ huyết kiểu này đã quá quen thuộc đối với lão, lão đã nghe thấy vô số lần, lúc là của đối thủ, lúc là của anh em, cũng có lúc là của chính lão. Lão mù thò tay vào trong ngực lôi ra một lọ ngọc màu đen, đưa về phía trước, nói:
– Nuốt lấy năm viên!
Lỗ Thịnh Hiếu không đỡ lấy. Ông còn không nhấc nổi cánh tay lên, nói gì tới cầm lọ thuốc. Quỷ Nhãn Tam vội buông sợi xích sắt trong tay, bước hai bước tới bên lão mù, đón lấy lọ ngọc, mở nắp đổ ra năm hoàn thuốc, rồi ụp cả bàn tay nhét vào miệng Lỗ Thịnh Hiếu. Đưa trả cái lọ cho lão mù, hắn liền đón lấy bình nước da bò trong tay lão, đổ vào miệng Lỗ Thịnh Hiếu hai ngụm. Rồi thuận tay đưa bình nước cho Lỗ Nhất Khí, còn mình thì thận trọng đỡ lấy chiếc hòm gỗ đeo chéo trên lưng Lỗ Thịnh Hiếu đặt xuống đất, dìu ông ngồi lên chiếc hòm. Sau đó, hắn móc từ trong chiếc túi vải đeo chéo ngang hông ra một bình rượu dẹt bằng bạc to cỡ cuốn sách, mở nắp bình, thật chậm rãi nhấp lấy hai ngụm, ngậm trong miệng rồi từ từ nuốt xuống, sau đó nhét lại bình rượu vào trong túi.
Lỗ Nhất Khí uống xong hai ngụm nước, đã thấy dễ chịu hẳn. Cậu bèn lồm cồm đứng dậy, đưa bình nước về phía lão mù. Lão mù đến giờ vẫn chưa kịp uống ngụm nước nào, đôi tai mẫn tiệp của lão vừa nghe thấy tiếng lóc xóc của bình nước đang đưa lại gần, liền vội vã đưa tay chụp lấy, bởi lẽ cổ họng lão nãy giờ đã bỏng rát như muốn bốc cháy đến nơi.
Nắm được bình nước, tay lão vừa khẽ kéo về phía mình, thì chợt nghe thấy một tiếng kêu kinh ngạc. Bình nước vẫn ở trong tay Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ cánh tay cũa lão đã khựng lại, tuy đã nắm được thân bình, song chưa kịp kéo về. Diễn biến bất thình lình khiến lão lông tóc dựng ngược. Lão không rõ đã xảy ra chuyện gì, vì lão không nhìn thấy, cũng không nghe thấy âm thanh gì khác thường. Song tiếng kêu kinh ngạc của Lỗ Nhất Khí khiến lão vô cùng kinh dị, điều đó còn đáng sợ hơn là tự lão nghe thấy được một chuyện gì khủng khiếp. Toàn thân lão bất động như một pho tượng.
Tiếng kêu của Lỗ Nhất Khí cũng kinh động đến Quỷ Nhãn Tam, khiến hắn giật bắn mình, ngụm rượu trong miệng suýt nữa thì phun ra ngoài. Hắn cũng không dám động cựa, chỉ từ từ lia ánh mắt về phía Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Thịnh Hiếu cũng giật mình bừng tỉnh, và cũng ngồi im bất động, chỉ gắng sức ngẩng đầu lên, dùng cặp mắt đờ đẫn pha lẫn ngạc nhiên nhìn vào mặt cậu cháu.
Lỗ Nhất Khí không hề chú ý tới phản ứng của ba người, cậu chỉ nhìn chằm chằm vào giữa hồ nước, vừa thở hổn hển vừa lắp bắp được vài tiếng:
– Chúng ta chưa hề di chuyên!
Nghe cậu nói vậy, Quỷ Nhãn Tam và Lỗ Thịnh Hiếu bất giác cũng ngoảnh theo hướng nhìn của cậu. Giữa hồ nước vẫn là mấy khối đá Thái Hồ đứng chênh vênh, không hề nhìn thấy gì ở hai bên và phía trước, chỉ cónóc nhà hình cánh cung và những đầu đao uốn cong thấp thoáng phía xa xa mách bảo với họ rằng, phía đó có thể sẽ có một môn lâu của viện thứ nhất đang chờ đợi.
Đúng vậy, cảnh tượng trước mắt họ lúc này hoàn toàn giống với trước khi họ bước vào đường hành lang. Cuộc chạy điên cuồng khiến họ suýt đứt hơi mà chết vừa rồi, rốt cuộc vẫn chỉ là giậm chân tại chỗ.
Không đúng, hiện giờ họ đã ở bên trong hành lang, cách lối vào không biết bao xa, song chắc chắn không phải là ở bên ngoài hành lang nữa. Nhưng tại sao họ lại nhìn thấy cảnh tượng mà đáng ra chỉ khi ở bên ngoài hành lang mới nhìn thấy được?
Chiếc đèn khí tử phong trong tay Lỗ Thịnh Hiếu đã văng đi sau cú ngã vừa nãy, đang lăn lóc cách đó khoảng bảy, tám bước, nhưng chưa bị quật vỡ, lửa cũng chưa tắt, chỉ đổ nghiêng mà vẫn cháy sáng. Nhân theo quầng sáng này, nhìn về phía trước, cổng thùy hoa vẫn mờ mờ ảo ảo, thậm chí có vẻ càng xa vời hơn nữa.
Lão mù không nhìn thấy, song cũng không hỏi. Trí não lão đang xoay chuyển rất nhanh, đang nhớ lại, đang tính toán. Lão đang thử nhớ lại xem, sau khi bước vào hành lang, đã đi được bao nhiêu tổ hợp bước chân.
Quỷ Nhãn Tam cũng đang suy nghĩ, hắn đang cố gắng xâu chuỗi lại từng chi tiết sau khi bước vào trong cổng. Hắn muốn biết từ lúc bước vào ngoại viện có mắc phải sơ suất gì hay không.
Lỗ Nhất Khí cũng đang suy nghĩ, đầu óc cậu đang lật tung những kiến thức đã biết, lùng sục trong trí nhớ về những sách vở đã đọc, xem có thể tìm ra chút manh mối nào để giải thích cho sự việc quái lạ đang xảy ra trước mắt.
Lỗ Thịnh Hiếu suy nghĩ nhiều nhất. Tuy rằng cuộc đấu tranh thực sự giữa hai môn phái mới chỉ bắt đầu cách đây vài trăm năm, song môn phái Lỗ gia hầu như lúc nào cũng chịu lép vế. Có lẽ là do tổ tông có chí hướng khác nhau, xuất phát điểm khác nhau, mục đích khác nhau, thủ đoạn khác nhau, ngộ tính của con cháu cũng có khác nhau.
Ông thở dài. Suy cho cùng là một người thợ mộc, dẫu rằng vì định mệnh an bài mà ông đã không ngừng rèn học kỹ nghệ; dẫu rằng để biết người biết ta mà ông đã bỏ nửa chừng xuất gia tu hành Đạo thuật; dẫu rằng để bổ sung cho đủ Lục hợp chi lực mà ông đã sốt sắng tìm kiếm nhân tài trong giang hồ; dẫu rằng từ lâu ông đã phá bỏ sự phân biệt môn phái, đem bí thuật gia truyền truyền thụ rộng rãi cho những người có duyên; song rốt cục cũng là do xuất phát quá muộn, so với đối thủ với bề dày tích lũy cả nghìn năm, đã từng thống trị thiên hạ, lại săn lùng điên cuồng bằng mọi giá, bất chấp thủ đoạn, thì phe mình đã bị bỏ lại quá xa. Hai mươi năm về trước, ông có thể thoát khỏi nơi đây, có lẽ một nửa là nhờ tài năng, còn một nửa nhờ vào may mắn. Nhưng giờ đây mọi thứ đều đã khác trước.
Trong chuyến đi này, ông đã không còn mong giữ được mạng sống để trở về nữa. Số Bát cực đã đủ, di nguyện của tổ tiên đã tới lúc phải hoàn thành. Tổ tông để lại một kỹ nghệ để nuôi sống vô số thế hệ cháu con, đồng thời cũng để lại một vận mệnh, đã trở thành một lời nguyền mà toàn bộ con cháu trong dòng họ buộc phải mang theo. Song giờ đây, sứ mệnh trọng đại đó phải thực hiện như thế nào, lại không hề có chút manh mối. Chỉ có thể trông chờ cậu cháu Lỗ Nhất Khí tìm được lối về nhà cũ, thể ngộ được điều gì từ di vật bí ẩn do tổ tiên truyền lại. Nhưng giờ đây; sau khi trải qua mấy cơn nguy hiểm vừa rồi, hy vọng trở về nhà cũ trong ông đã chẳng còn được mấy phần. Nghĩ tới đây một cảm giác u uất bỗng cuộn lên trong lồng ngực, ông thấy chơi vơi tựa như một lá thuyền con đang chao đảo giữa biển khơi mù mịt.
Ông muốn nắm được một thứ gì đó, dù chỉ là một cọng cỏ mong manh.
Tâm tư ông đã trấn tĩnh trở lại, tư duy cũng đã tỉnh táo hơn. Ông đã biết cọng cỏ đó là gì rồi, đó chính là Lỗ Nhất Khí, là đứa cháu trai có năng lực dị thường của ông. Huống hồ giờ đây, chí ít ông vẫn đang còn ở trên thuyền, một chiếc thuyền tuy nhỏ bé nhưng không dễ bị lật chìm. Ông cũng đã biết con thuyền đó là gì, đó chính là những thiên cơ mà gia tộc của ông đang nắm giữ. Chỉ cần đối thủ chưa chiếm được những thiên cơ đó, thì chúng vẫn sẽ chưa thể ra tay đuổi cùng giết tận.
Và ông đã hiểu, vẫn chưa tới lúc để ông từ bỏ, ông vẫn phải tiếp tục. Dù ông có phải bỏ mạng, Lỗ Nhất Khí cũng sẽ phải tiếp tục, đó chính là định mệnh của họ.
Một luồng sức mạnh vô hình đẩy ông đứng bật dậy, ông vịn tay phải vào cột hành lang, mắt nhìn chăm chú ra phía hồ nước. Ông bắt đầu quan sát hết sức tỉ mỉ, hết sức tập trung. Bởi vì đôi mắt già nua của ông đã mờ nhoè, cũng bởi vì bóng đêm dày đặc đang phủ kín.
Quan sát một lát, ông bèn đổi sang dùng tay trái vịn vào cây cột, rồi chuyển sang mé bên kia nhìn ra hồ nước. Sau đó ông lùi về sau hai bước, dựa sát vào vách tường bên trong hành lang, tiếp tục quan sát. Cuối cùng, ông dán người vào bức vách, đưa mắt nhìn một lượt về hướng đến và hướng đi của hành lang.
Những động tác này đều được thực hiện rất chóng vánh, Lỗ Nhất Khí định đến đỡ bác mà không kịp, thoắt cái ông đã ngồi trở lại trên chiếc hòm gỗ. Lỗ Nhất Khí biết rõ những động tác này. Trong chương tổng quát của cuốn "Kỳ công" đã viết rằng, dù là người thợ khéo léo tài giỏi tới đâu chăng nữa, thì khi thiết kế những công trình kỳ quái, bố trí cơ quan cạm bẫy, cũng đều để lại một chỗ khuyết, tức là sẽ để lại một ký hiệu nào đó tại những hiện tượng mà nhìn bề ngoài không dễ nhận ra, nhằm giúp bản thân không bị sa chân lạc bẫy, biết được đường lối ra vào. Tuy rằng mỗi người có một cách ký hiệu khác nhau, song vẫn có một vài phương pháp cơ bản để nhận biết. Không biết có phải vừa rồi bác cậu đã vận dụng một trong những phương pháp nhận biết đó hay không.
Lỗ Thịnh Hiếu ngồi xuống mặt hòm, không hề để ý tới ánh mắt băn khoăn và vẻ mặt nôn nóng của Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam. Trầm ngâm một hồi lâu, ông mới ngâm nga một câu thơ cổ:
– Chẳng biết làm sao hoa rụng mất, như từng quen biết én quay về.*
* Nguyên văn: "Vô khả nại hà hoa lạc khứ, tự tằng tương thức yến quy lai", hai câu nổi tiếng trong bài từ "Cán khê sa" của Án Thù đời Tống.
– Hành lang yến quy?
Lão mù cất tiếng hỏi, bàn tay chợt siết chặt lại. Bình nước da bò đã ở trong tay lão, bàn tay đang nắm chặt bình nước hơi giật giật, giọng nói cũng có chút run rẩy không biết là do kích động hay sợ hãi.
Không ai nói câu nào, bởi lẽ chẳng ai biết trả lời lão ra sao. Vẫn là lão mù tiếp tục nói:
– Vừa nãy chúng ta đã chạy lòng vòng trong hành lang này. Bố cục của con đường có vẻ giống như Bát trận đồ Gia Cát, họ đã đưa Điên phốc đạo vào trong Bát trận đồ Gia Cát, lại đưa Bát trận đồ Gia Cát vào hành lang yến quy, cách bố trí này dùng là cơ quan trong cơ quan, cạm bẫy trong cạm bẫy, hơn thế nữa, lại không thể nhận ra được một mối lắp ghép nào. Anh cả, cuốn sách mà anh đưa cho tôi còn lâu mới bì kịp mức độ tinh xảo này!
Chẳng ai nói câu nào, bởi lẽ mọi người đều cảm nhận thấy sự lo lắng ẩn chứa trong giọng nói của lão mù.
Lão mù uống một ngụm nước, cố gắng trấn tĩnh, rồi cất bình nước đi, nói tiếp:
– Năm xưa tôi cùng cha mình vì muốn lấy trộm viên ngọc khuyết* Song Long Triều Thánh mà đã đi lạc vào một địa cung vô danh trong thành cổ Hàm Dương, bị khốn trong hành lang yến quy. Tôi thì mất đôi mắt, còn cha tôi thì mất mạng, đến cả thi hài cũng không thể lấy ra, may được anh cả đây cứu thoát. Nhưng anh cả này, hành lang yến quy khi đó không đi kèm với Điên phốc đạo và Bát trận đồ Gia Cát, so với hành lang này rõ ràng còn kém xa.
* Ngọc khuyết hay ngọc quyết, là viên ngọc hình nửa vành tròn, hoặc vành tròn có chỗ khuyết, dùng để đeo bên người.
– Không, đây không phải là Điên phốc đạo đưa vào trong Bát trận đồ Gia Cát. Tôi không biết khảm diện này gọi là gì, song tôi chắc chắn rằng đó không phải là Điên phốc đạo, chỉ là trông giống Điên phốc đạo mà thôi. Hơn nữa, đây cũng không phải là hai loại khảm diện hợp lại, mà thực chất, nó là một khảm diện độc lập, dường như được thiết kế chuyên để đối phó với người trong môn phái chúng ta! – Lỗ Thịnh Hiếu sau một hồi trầm tư suy ngẫm, cuối cùng cũng đã lên tiếng – Với bọn "dưa vỡ" không hiểu gì về bộ pháp trong Điên phốc đạo ngược lại sẽ không bị mắc vào cạm bẫy này!
– Thế nhưng bọn dưa vỡ cũng sẽ không thể ra khỏi hành lang này, nên cho dù là chúng ta hay người khác xông vào trạch viện, cũng đều sa vào cạm bẫy! – Lão mù có vẻ đã hiểu ra.
– Chú lại nhầm rồi! Hành lang yến quy này cũng được thiết kế riêng để đối phó với chúng ta. Trong cuốn sách tôi đưa chú xem có phương pháp phá giải hành lang này không? Không có, bởi lẽ đây là chiêu thức mới được đối thủ lĩnh ngộ được trong hai thế hệ gần đây, trong môn phái của chúng ta không ai biết cách phá giải...
Không đợi Lỗ Thịnh Hiếu nói dứt câu, lão mù đã sửng sốt cắt ngang:
– Vậy năm đó làm sao anh có thể đưa tôi ra được?
– Người anh em, thứ lỗi cho tôi, tôi đã giấu chuyện này suốt mấy chục năm, hôm nay tôi đành phải nói thực với chú. Lần đó tôi cũng bị vây khốn ở bên trong, chính cha chú đã cứu hai chúng ta ra!
– Cha tôi?
– Đúng vậy, hôm đó chúng ta đã không còn cách nào để thoát thân, chú lại bị hỏng cả hai mắt. Cha chú không biết rằng, chỗ không có đường đi cũng chính là đường chết, nên định dùng Phi nga sách tự mở một con đường, ông muốn nhảy lên cây cột Thất phong ở chính giữa địa cung. Khi đó, tôi không thể ngăn cản được cha chú...
– Điều đó thì tôi biết, anh không phải nhắc lại, khi đó tôi vẫn nghe thấy. Anh cả, thú thực với anh, khi đó chúng tôi vừa mới gặp anh, nên không thể tin anh được! – Lão mù nói với vẻ hối lỗi.
– Cha chú vừa nhảy lên cột trụ, mới kịp đứng chắc chân, đã bị lưới giảo long trói chặt. Tuy không thể thoát thân, song lại để cho chúng ta một con đường sống, một con đường sống đẫm máu.
– Con đường sống đẫm máu là thế nào? – Lỗ Nhât Khí không giấu được nỗi kinh sợ, nhịn không nổi bèn cất tiếng hỏi.
– Cha chú đã rơi vào nút chết, ông đã để lại hai vệt máu đỏ tươi trên cây cột Thất phong. Chính hai vệt máu đó đã trở thành ký hiệu để tôi nhận được đường đi, nhờ thế mà chúng ta mới thoát chết.
Lỗ Thịnh Hiếu dừng lại một lát, ho nhẹ hai tiếng rồi nói tiếp:
– Bởi vậy, hành lang yến quy năm đó là nhằm vây khốn tôi, chính cha chú đã cứu cả hai chúng ta. Bao nhiêu năm nay tôi không nói cho chú biết sự thực này, vì mong chú có thể giúp tôi hoàn thành việc lớn hôm nay. Người anh em, tôi đúng là kẻ xấu xa, tự dưng lại kéo chú vào chốn hiểm nguy này!
Lão mù đứng trân trân như khúc gỗ, đầu hơi ngửa ra sau. Còn Lỗ Thịnh Hiếu ngồi trên chiếc hòm gỗ, mặt cúi gằm.
Tất cả đều im lìm. Một bầu không khí chết lặng bao trùm khắp hành lang, thậm chí còn nghe được cả tiếng gió Bắc cuộn tròn trên mặt nước hồ.
Lão mù đột nhiên cử động. Lão vụt lên phía trước như một bóng ma, tay trái vươn về phía Lỗ Thịnh Hiếu.
Lỗ Thịnh Hiếu không nhúc nhích, không biết là do bị thương nên không cử động được, hay do bản thân không muốn cử động. Ông vẫn ngồi im trên chiếc hòm.
Lỗ Nhất Khí và Quỷ Nhãn Tam cũng không nhúc nhích, không phải là họ không muốn cử động, mà do động tác của lão mù quá nhanh. Khi họ còn chưa kịp phản ứng, lão đã hoàn thành mọi động tác và dừng lại ở đó.
Bàn tay khô đét của lão mù lao thẳng vào cổ họng Lỗ Thịnh Hiếu. Đúng vào khoảnh khắc những móng ta sắc nhọn sắp chạm vào cổ ông, thì chúng lại từ từ hạ xuống, dừng lại trên vai phải của ông. Những ngón tay đột nhiên gồng lên, nắm chặt lấy bả vai dày dặn song già nua của Lỗ Thịnh Hiếu.
– Anh cả, lần này thì anh đã sai rồi. Tôi theo anh đến đây, không chỉ vì muốn đền ơn cứu mạng cho anh mà tôi còn muốn báo thù. Tôi vốn là đứa trẻ mồ côi cha tôi đã nhặt được tôi trong một khe đất vàng, và đã ban cho tôi sự sống. Ông đã gác kiếm từ rất sớm, nhường cho tôi danh hiệu Tây Bắc tặc vương, đem lại cho tôi một danh tiếng lẫy lừng. Vì muốn giúp tôi có được viên ngọc khuyết Song Long Triều Thánh, ông đã trở lại giang hồ, kết quả là đã thiệt mạng vì tôi. Trong suốt mấy năm qua, tôi xa vợ lìa con, chỉ mang theo một đứa con gái nhỏ, ẩn nấp trong ngôi mộ nghìn xác, không quản ngày đêm vùi đầu nghiền ngẫm cuốn sách mà anh đã cho tôi. Đối diện với gió cát sa mạc và hàng nghìn bộ thi hài, tôi đã rèn luyện tất cả mọi giác quan ngoại trừ thị giác. Tôi làm tất cả những điều đó là vì cái gì? Chính là để báo thù! Tôi biết việc anh làm là chuyện đại sự bảo vệ cho cả thiên hạ, chứ không phải là liều mạng chỉ vì bản thân. Anh cho một kẻ bỏ đi như tôi được tham gia, đó đã là phúc phận của tôi rồi. Nếu như anh là kẻ xấu xa, thì còn ai có thể dạy tôi làm người đây?
Giọng nói của lão mù tuy không lớn, song rất mực chân thành. Lỗ Thịnh Hiếu ngẩng đầu lên, đôi mắt ông long lanh ánh lệ, xúc động dâng trào. Nhưng hình ảnh đó lão mù không nhìn thấy được, lão chỉ có thể cảm nhận được bàn tay Lỗ Thịnh Hiếu đang áp lên mu bàn tay của lão, ấm nóng và hơi run rẩy.
Lỗ Nhất Khí đứng bên cạnh, đã thấy được, nghe được tất cả, bất giác cũng bị xúc động lây.
Chỉ có Quỷ Nhãn Tam vẫn thờ ơ như không. Hắn phá tan bầu không khí bằng một câu hỏi rất thực tế:
– Bây giờ làm thế nào?
Ba người nghe đoạn sực tỉnh, lập tức ý thức được rằng mình vẫn đang ở trong cạm bẫy, vẫn chưa tìm được cách thoát thân.
Lão mù vội hỏi:
– Anh cả, mấy chục năm rồi, anh vẫn chưa nghĩ ra được cách phá giải ư?
– Không phải là không nghĩ ra được, mà là căn bản không thể nghĩ được. Lần trước chúng ta bị khốn ở trong đó cũng chỉ khoảng hai canh giờ, chưa đủ thời gian để tính toán đường đi nước bước. Nếu muốn phá giải thì cũng có cách, nhưng cũng phải mất đến mươi ngày nửa tháng để tìm tòi. Nhưng điều đó là không thể, bởi lẽ đợi đến lúc đấy, đối thủ lại bổ sung thêm hai ba cạm bẫy nữa, có chết đến tám lần vẫn chưa đủ! – Lỗ Thịnh Hiếu nói với vẻ bất lực xen chút lo âu.
– Liệu có cuốn sách nào ghi chép về phương pháp phá giải có sẵn không nhỉ? – Lỗ Nhất Khí băn khoăn tự hỏi. Những kiến thức mà Lỗ Nhất Khí có được đa phần đến từ sách vở.
– Tất cả những sách vở bí truyền của dòng họ chúng ta, cùng tất cả những cổ thư, văn tự tàn khuyết thu thập được trong suốt gần trăm năm qua, con đều đã đọc ở nhà chú Tư hết rồi. Bây giờ con hãy thử nhớ lại xem trong đó có chiêu thức nào sử dụng được hay không?
Lỗ Nhất Khí không ngờ bác cậu lại đưa cho cậu môt câu trả lời như vậy.
– Hay là để con bắn súng làm dấu?
Phương pháp "có sẵn" này của Lỗ Nhất Khí không phải là học từ sách vở, song rõ ràng quá ấu trĩ. Khảm tử gia khi thiết kế cơ quan, nhất định đều biết rõ điểm yếu của nó, nên chắc chắc họ đã có biện pháp đề phòng với những cách đánh dấu bằng ám khí, súng, hay găm dính đồ vật. Chỉ có thể giống như cha của lão mù, nhảy lên khảm diện, khiến cho tất cả mọi cơ quan phòng bị đều hoạt động, sau đó mới có thể đánh ký hiệu được.
Quỷ Nhãn Tam ngẫm nghĩ một hồi, thấy ba người kia có vẻ thực sự không nghĩ ra được phương cách nào, bèn rút chiếc cuốc mỏ hạc bằng thép từ trên vách tường hành lang ra, nói:
– Để tôi phá tường, đẵn cột xem sao, không chừng lại có đường!
Cách hắn nói năng vẫn kiệm lời như thường lệ. Nhưng câu nói gọn lỏn của hắn đã khiến Lỗ Thịnh Hiếu và lão mù đều nhảy dựng lên:
– Cậu Tam, đừng có làm bừa, chắc chắn là không được! Chỉ cần cậu động chạm vào cơ quan trung tâm và cơ quan tự huỷ của khảm diện, thì toàn bộ chúng ta đều chết chắc! – Lỗ Thịnh Hiếu vội ngăn Quỷ Nhãn Tam lại.
Lão mù ho khan một tiếng rồi nói:
– Chỗ không có đường chính là đường chết. Nếu ngươi phá tường, phía sau tường chắc chắn sẽ có một thứ khủng khiếp hơn nữa đang đợi sẵn. Nếu ngươi đẵn cột không chừng cả hành lang sẽ đổ sụp, chôn vùi toàn bộ chúng ta. Thằng nhóc họ Nghê kia, cuốn sách mà anh cả đưa cho cả nhà ngươi, ngươi vẫn chưa đọc cho kỹ à?
– Lão thì đọc kỹ, lão có cách? – Nghê Tam không bao giờ chịu nhường nhịn lão mù.
Lão mù bật cười ha hả. Thật không ngờ từ cổ họng khàn đục của lão lại có thể phát ra chuỗi cười hào sảng đến vậy. Lão nói:
– Hôm nay, lão già mù này không cho thằng nhóc ngươi sáng mắt ra, thì e rằng cả đời này ngươi vẫn không quên được mối hiềm khích năm xưa. Hôm nay, ta sẽ giải thoát cho ngươi khỏi chốn này, cũng coi như là đã trả món nợ cho nhà họ Nghê các ngươi!
– Người anh em, đã có cách gì thực rồi ư? – Lỗ Thịnh Hiếu hoài nghi hỏi.
– Anh cả, anh cứ yên một trăm cái tâm đi, hôm nay tôi cũng muốn cho đối thủ biết rõ, anh em bạn bè của Lỗ gia không hề thiếu anh hùng hào kiệt! – Lão mù vừa nói vừa vỗ bình bịch vào trước ngực.
– Thế mà vừa rồi chú còn hỏi tôi có nghĩ được cách phá giải không, chú định đánh đố tôi à? Cha cha, cái lão giặc mù này, cái gì cũng tốt, mỗi tội thích ra vẻ, có chiêu mà còn không chịu nói sớm! – Lỗ Thịnh Hiếu ra vẻ trách cứ.
– Anh cả, nghe tôi nói một câu này, hôm nay, dù có tới bước đường nào, anh cũng không được phép bỏ cuộc chỉ cần có cậu cả này ở bên, chắc chắn sẽ có cơ hội thành công! – Lão mù vừa nói vừa hất cằm về phía Lỗ Nhất Khí – Trong ngôi mộ nghìn xác, tôi đã phá huỷ không biết bao nhiêu thi hài, thả ra không biết bao nhiêu oan hồn, song cậu cả đây đến chạm vào người tôi cũng không dám, bởi vì bao phủ trên người cậu ấy là một vầng khí thần thánh.
Những lời nói của lão khiến cho Lỗ Thịnh Hiếu kinh ngạc, nhưng cũng cảm thấy chút an ủi. Quỷ Nhãn Tam cũng vừa nghe vừa liên tục gật đầu. Còn Lỗ Nhất Khí cảm thấy hơi gờn gợn, song nhất thời không nhận ra được có điểm nào bất thường.
– Nghê Tam, ngươi lại đây, nói cho ta biết trong hồ nước được bố trí ra sao, ta sẽ giải thích cho ngươi biết! – Lão mù nói với Quỷ Nhãn Tam, giọng điệu đã có vài phần khách khí.
Quỷ Nhãn Tam lúc này cũng chẳng kịp nghĩ được gì, hắn liền ngoan ngoãn mô tả ngắn gọn về phương vị và độ cao của các khối đá trong hồ:
– Trước mặt cách mười bước bên trái phương vị Càn cao hai trượng, cách mười một bước bên trái phương vị Đoài cao trượng tám, phương vị Đoài cao trượng sáu; cách tám bước phương vị Ly cao trượng mốt, cách mười bước bên phải phương vị Tốn cao hai trượng mốt, phương vị Tốn cao trượng hai; cách chín bước phương vị Khảm cao trượng bảy.*
* Đây là phương pháp định vị dựa vào số Bát quái kết hợp với độ cao.
Ai nói Quỷ Nhãn Tam không đọc kỹ cuốn sách mà Lỗ gia đưa cho, chỉ nghe cách hắn xác định phương vị, sẽ biết được rằng hắn đã bỏ ra không ít công sức để nghiền ngẫm. Lỗ Thịnh Hiếu vừa lắng nghe Quỷ Nhãn Tam xác định phương vị bố cục, vừa chăm chú quan sát, và ông đã nhận ra rằng, dựa vào nhãn lực của mình bây giờ, chắc chắn không thể định vị được chính xác bằng Quỷ Nhãn Tam. Lỗ Nhất Khí lại càng ngượng ngùng hơn, bởi lẽ cho dù cậu đã nhớ nằm lòng các phương pháp phán đoán về phương vị bố cục trong rất nhiều sách vở, song khi cần vận dụng vào thực tế, vẫn còn một khoảng cách lớn. Đừng nói là phán đoán về độ cao cụ thể, ngay đến vị trí của các khối đá trong hồ, cậu cũng không nhìn ra.
Kỳ thực, họ đều không biết rằng, sở dĩ Quỷ Nhãn Tam có thể nhìn rõ như vậy, là vì muốn theo nghề trộm mộ của họ Nghê trước nhất phải rèn được "tựu dạ nhãn"*, như vậy mới có thể hành động trong đêm đen hay những hầm mộ thẳm tối.
* Tức là nhãn lực có thể nhìn rõ trong bóng đêm.
Anh cả, chốc nữa khi phá cạm bẫy, mọi người phải phối hợp thật tốt với tôi, động tác phải hết sức nhịp nhàng. Nhưng phương pháp phá giải này do tôi lĩnh ngộ trong hầm mộ tối tăm, tôi lại là kẻ mù loà. Bởi vậy, để không phạm sai lầm, mọi người đều phải bịt mắt lại, tạm thời học theo tôi làm người mù một lát. Cả ba hãy bịt mắt lại, sau đó đứng dựa vào vách tường hành lang, khi nào nghe thấy hiệu lệnh của tôi, mọi người hãy nhanh chóng bám sát tường mà đi!
Lão mù vừa dứt lời, Quỷ Nhãn Tam đã nhanh nhảu nắm lây mép tấm vải choàng đen mang theo bên mình, liền tay xé lấy ba dải, đưa cho Lỗ Thịnh Hiếu và Lỗ Nhất Khí mỗi người một dải, dải còn lại buộc ngay lên mắt.
Lỗ Thịnh Hiếu cũng chậm rãi buộc dải vải bịt mắt lại. Do trong lòng ông vẫn đang băn khoăn một điều gi đó, nên tốc độ của ông có phần chậm chạp.
Lỗ Nhất Khí cũng đã bịt mắt lại, song động tác của cậu còn chậm chạp hơn nhiều. Cậu cũng đang băn khoăn, và còn băn khoăn nhiều hơn nữa. Cậu cảm thấy sự việc diễn biến mỗi lúc một bất thường.
Trước mắt cậu đã tối sầm, nhưng mạch suy nghĩ của cậu bỗng xuôi hơn. Cậu nghĩ thầm: "Vì sao phải bịt mắt lại? Là không muốn để mọi người nhìn thấy thứ gì đây?"
Bên tai vang lên những tiếng sột soạt, hình như lão mù đang lục lọi thứ gì đó...
"Chúng ta đều đã không nhìn thấy gì, vậy ai là người hiểu rõ tình hình nhất? Là chú mù. Chẳng phải vừa nãy chú đã yêu cầu nói rõ phương vị cho chú biết hay sao?"
Có tiếng gió nhè nhẹ, dường như lão mù đang khua khoắng thứ gì đó...
"Để phá giải hành lang yến quy cần phải bịt mắt lại hay sao? Không đúng, năm xưa chẳng phải là bác đã thoát được nhờ vào vết máu in trên cây cột Thất phong hay sao?"
Từ vị trí lão mù đang đứng dường như bay vụt ra một thứ gì đó...
"Những lời nào vừa rồi đã khiến mình cảm thấy gờn gợn? Nào là trả món nợ cho nhà họ Nghê, nào là anh đừng bỏ cuộc, nào là vầng khí thần thánh trên người cậu cả, nào là muốn hoàn thành việc lớn phải dựa vào cậu cả... Nghe sao giống như những lời trăn trối cuối cùng!"
Cơ thể lão mù dường như đã bay lên khỏi mặt đất...
– Không!
Lỗ Nhất Khí giật mạnh mảnh vải đen trên mắt, hét lên như phát cuồng.
– Khoan đã!
– Đợi chút!
Cùng lúc đó cũng vang lên tiếng thét của Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam, cả hai người vừa kêu lớn vừa giật bỏ mảnh vải che mắt xuống.
Muộn rồi! Họ đều đã muộn rồi, lão mù đang đung đưa trên không tựa như một lá cờ bay lộng, giống như hồn ma, cũng giống như thần tiên.
Đương nhiên, lão không phải hồn ma, cũng chẳng phải thần tiên. Lão đang đứng cheo leo trên một sợi dây thừng dài và mảnh, một đầu buộc vào khối đá Thái Hồ cao hai trượng một thước ở bên phải phương vị Tốn, còn đầu kia quấn quanh cây cột hành lang. Phần cuối của đầu dây thừng buộc quanh khối đá Thái Hồ có hình một con thiêu thân, sau khi vòng một vòng quanh khối đá, thì bám sát vào bề mặt đá.
Phi nga sách, bình bộ thanh vân túng. Con người giờ đây đang đứng trên sợi dây thừng kia mới chính là Tây Bắc tặc vương thực thụ.
Còn cách khối đá Thái Hồ vài bước chân, đột nhiên, từ bên trái phương vị Càn, một tấm lưới bung ra chụp về phía lão mù.
Đó là một tấm lưới được làm từ những sợi thép mảnh và mềm, một tấm lưới găm đầy những mũi dao sắc nhọn, một tấm lưới giảo long có thể vặn nát cả một con giao long đầy mình vảy cứng.
Những mũi dao trên tấm lưới loảng xoảng liên hồi, mạng sống của lão mù sắp nguy trong khoảnh khắc. Lão cứ ngỡ đến khi giẫm chân lên khối đá Thái Hồ mới bị tấn công, nào ngờhiểm chiêu lại xuất hiện sớm hơn, thì ra đối thủ đã đặt nút này dịch về phía trước.
Có lẽ do lần trước đã để lọt cho lão và Lỗ Thịnh Hiếu một con đường sống, nên đối thủ đã phát hiện ra rằng, có một số người sẽ bất chấp cả tính mạng để tìm cách đánh dấu. Bởi vậy nút lẫy đã phát động sớm hơn, không để họ có cơ hội tiến lại gần.
Tấm lưới đã chụp đến nơi, lão mù đột nhiên bước hụt một bước, cả người rơi thẳng xuống phía dưới. Khi toàn bộ cơ thể của lão đã ở bên dưới Phi nga sách, lão lập tức đưa bàn tay trái túm chặt sợi dây, giữ thân người lại. Sợi dây thừng dường như có khả năng đàn hồi, dưới sức kéo của cả cơ thể lão, lập tức bị lôi xuống dưới tạo thành một góc vuông. Tấm lưới bay sát qua phía trên sợi dây thừng, không chạm vào người lão, cũng không chạm vào Phi nga sách.
Sau khi lực kéo xuống đã tiêu tán, sợi dây thừng lại bật trở lên trên. Nhờ vào lực đàn hồi, lão mù lại tung người lên, đứng trên sợi dây.
Vừa đứng vững, lão lập tức chạy nhanh về phía trước hai bước. Cùng lúc đó, từ bên trái phương vị Càn, lại đột ngột xuất hiện một tấm lưới bay về phía lão. Lần này, lão nghe thấy rõ ràng hơn, song phản ứng cúa lão lại chậm hơn lần trước rất nhiều. Lão không ngờ vẫn còn tấm lưới nữa, lại càng không thể ngờ tấm lưới thứ hai vẫn bay ra từ cùng một phương vị với tấm lưới thứ bên trái phương vị Càn.
Lão chỉ còn biết nhảy vọt lên cao, rất cao, giống hệt như một con chim ưng.
Nhưng lão không nhảy về phía sau, dường như lão không hề có ý định né tránh tấm lưới, mà lão nhảy bổ về phía nó. Khi lão nhảy lên, cây gậy trong tay lão cũng đồng thời quét mạnh, bủa ra một luồng gió đen đập thẳng vào tấm lưới giảo long.
Tiếng những mũi dao kim loại va vào nhau nghe chát chúa, tấm lưới thép đổi hướng rồi rơi xuống dưới chân lão mù, chớp mắt đã quấn chặt lấy Phi nga sách. Chỉ cảm thấy bên ngoài tấm lưới có lực kéo giật mạnh một cái, Phi nga sách lập tức bị xoắn dứt.
Lão mù nhờ vào lực đập của cây gậy, cả người bật lên cao đến hơn một thước, lại nhân theo sức đẩy ngang của tấm lưới giảo long, khiến cơ thể lão khác nào một con chim Ưng lao xuống vồ mồi, nhẹ nhàng bay vụt về phía khối đá Thái Hồ nằm chếch tại phương vị Khảm. Nhưng lão không thể đặt chân xuống khối đá, bởi vì dư lực từ cú đập đã hết, lực đẩy ngang từ tấm lưới giảo long cũng không đủ, lão chỉ có thể cố gắng đặt được bàn chân phải lên mé bên của khối đá.
Lúc này, công phu Bình bộ thanh vân túng của lão mù đã được thi triển một cách triệt để, chỉ thấy bàn chân phải của lão không giẫm xuống mà đá một cái, cú đá đã khiến cơ thể lão xoay ngang bay về phía khối đá Thái Hồ cao một trượng hai tại phương vị Tốn. Lão biết sức mình không thể nhảy lên trên khối đá Thái Hồ trước mặt, bởi vậy lão muốn lợi dụng độ chênh giữa khối đá cao trượng bảy tại phương Khảm và khối đá cao trượng hai tại phương Tốn để leo lên một khối đá Thái Hồ khác.
Một người mù vẫn có thể định vị một cách chuẩn xác như vậy trong lúc đang nhào lộn trên không, quả thực là ngoài sức tưởng tượng.
Nhưng thật đáng kinh ngạc, từ bên trái phương vị Càn lại thình lình xuất hiện tấm lưới thứ ba. Cùng một khảm diện lại có đến ba nút lẫy! Mà không chừng còn có đến bốn, năm nút nữa, cách bố trí khảm diện này thật không phù hợp với lẽ thường. Phương vị Tốn còn gần với mé trái của phương vị Càn hơn nữa, tiếng loảng xoảng từ tấm lưới đang chụp tới nghe càng chói tai. Lão mù đã không còn cách nào để né tránh. Thứ nhất là do lão không thể ngờ rằng vẫn còn một tấm lưới nữa, cho dù có cũng không thể vẫn ở bên trái phương Càn. Thứ hai là do lúc này, lão thực sự đã không còn chút dư lực, đặc biệt là đối với bên trái phương Càn, lão đã hoàn toàn bỏ ngỏ. Đã không còn cách nào để né tránh tấm lưới đang chụp tới, ngay cả cây gậy đang vụt xuống dưới, lão cũng không kịp thu lại.
Đúng vào lúc bàn chân lão vừa chạm xuống khối đá, một tiếng rú khủng khiếp vang lên. Trong không trung bật ra một cơn mưa màu đỏ, những tia máu đỏ tươi bắn tung toé trên khối đá Thái Hồ gai góc như một chùm pháo hoa rực rỡ
Lão mù bị chiếc lưới quấn chặt thành một khối, sau rơi tõm xuống dưới hồ nước. Trong chốc lát, nước bắnlên tung toé, sóng trào thành đợt, mặt hồ tối thẳmnhấp nhô lên xuống giống như một tấm nhiễu đen khổng lồ đang sóng sánh.
Lão mù vẫn chưa chết, lão vẫn đang gào rú và giãy giụa. Hồ nước không sâu, bởi vậy theo bản năng, lão cố vùng đứng dậy, lão không muốn bị chết ngạt trong nước.
Sóng vẫn chưa lặng. Mặt hồ lại nổi lên vô số gợn sóng lăn tăn, giống như những nếp gợn uốn lượn trên mặt tấm nhiễu, bủa vây, bao bọc lấy lão mù. Những tiếng gào rú của lão lúc một thê thảm, giãy giụa cũng càng kịch liệt hơn.
Dưới nước có thứ gì chăng? Đúng vậy, dưới nước chắc chắn là có thứ gì đó, hơn nữa, chúng đang tấn công lão mù, tấn công một kẻ mù loà đang bị trói chặt trong tấm lưới thép chi chít dao nhọn.
Ba người đứng sững trong hành lang, chết lặng trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Những tiếng gào rú thê thảm của lão mù cũng giống như cánh tay xương xẩu với những chiếc móng nhọn hoắt của lão, đang siết chặt lấy trái tim họ, không ngừng giằng kéo xuống dưới, khiến cho trái tim họ đau xé, lồng ngực trống rỗng.
Quỷ Nhãn Tam đã kịp phản ứng. Hắn vung tay giật Thiên thần phi trảo đang găm trên cột xuống, một bước nhảy phắt lên mặt lan can, chuẩn bị chạy ra cứu lão mù.
Lỗ Thịnh Hiếu cũng đã kịp phản ứng, vung tay ôm chặt lấy Quỷ Nhãn Tam. '
Nhưng kỳ thực, người có phản ứng đầu tiên chính là Lỗ Nhất Khí. Cậu chưa bao giờ nghe thấy tiếng kêu gào nào thảm thiết nhường kia, cũng chưa từng nhìn cảnh tượng một người sắp chết giãy giụa vô vọng đến vậy. Nhưng giây phút khiếp đảm nhanh chóng qua đi, cậu bỗng trở nên bình tĩnh đến kỳ lạ, trí não của cậu tỉnh táo hơn bao giờ hết. Cậu biết rõ mình cần phải làm gì và có thể làm được gì. Cậu móc từ trong túi vải thô ra trái lựu đạn trứng vịt, rút chốt, rồi quăng về phía lão mù.
Khi quăng trái lựu đạn ra, cậu đột nhiên cảm thấy không đành lòng. Chỉ hơi ngập ngừng một chút, trái lựu đạn đã bay chệch hướng, rơi xuống vị trí cách lão mù khá xa. Một tiếng nổ lớn vang rền, sức công phá của trái lựu đạn lớn hơn nhiều so với tưởng tượng, bọt nước tung toé như mưa, phun lên cao rồi rào rào rơi xuống. Một hồi lâu sau, mặt hồ mới dần dần im ắng trở lại.
Quỷ Nhãn Tam bắn ra một que diêm đang cháy. Vào khoảnh khắc que diêm sắp rơi xuống mặt hồ, họ đã kịp nhìn thấy một vệt đỏ bầm trong nước.
Khối đá Thái Hồ ở phương Chấn cách quá xa, Lỗ Thịnh Hiếu không thể nhìn thấy vệt máu in trên đó, ông đã già rồi, lại đang bị nội thương. Còn Lỗ Nhất Khí chỉ nhận ra được một vài đốm đen sẫm khác hẳn với màu đá. Chỉ có Quỷ Nhãn Tam đã từng luyện qua tựu dạ nhãn nên nhìn thấy rất rõ. Hắn thấy những vệt máu đỏ tươi bắn đầy trên khối đá, chảy thành những đường ngoằn ngoèo, chảy thành những vòng cung uốn lượn, thành những vệt sắc nhọn tung toé khắp bốn phía; giống như hoa cúc, giống như hoa hồng, giống như hoa mai, rực rỡ và diễm lệ xiết bao. Nhưng liệu có ai tin được rằng, vẻ đẹp đó đã rời rụng khỏi cành, đã chìm trong bùn đất.
Một bầu hào khí tình trung nghĩa, bỗng hoá rợp trời mưa đỏ bay...
Quỷ Nhãn Tam giật lùi về phía sau một bước, để chừa một khoảng trống phía trước, hướng về phía phương Tốn trong hồ, "bịch" một tiếng quỳ sụp xuống, dập đầu liền ba cái, trong miệng bật ra một câu ngắn ngủi mà đầy cảm khái:
– Ông Hạ, ông thật anh hùng!
Sau đó đứng dậy, nhấc chiếc hòm gỗ của Lỗ Thịnh Hiếu lên lưng, nhìn Lỗ Nhất Khí, hỏi khẽ:
– Đi chứ?
– Đi! – Lỗ Nhất Khí quả quyết, rồi dìu Lỗ Thịnh Hiếu dậy, tiếp tục bước vào Điên phốc đạo đã không còn là Điên phốc đạo.
Đi, chắc chắn là phải đi rồi, nhưng phải đi thế nào đây? Con đường dưới chân không phải muốn đi là có thể đi qua được.
Lỗ Nhất Khí không nói phải đi như thế nào, Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam cũng không hỏi. Song từ giọng nói quả quyết của Lỗ Nhất Khí, thì khảm diện Điên phốc đạo này hẳn không còn gì đáng ngại nữa.
Lỗ Nhất Khí thực sự đã hiểu ra. Khi nãy, lão mù đã dặn họ đứng sát vách tường, cậu đã có được sự gợi ý từ trong đó. Trong "Độn giáp bí lục"* có một chương "Túc chướng"** đã viết rằng, với những khảm diện tương tự như kiểu Điên phốc đạo này, có thể bố trí thành một đường đơn lẻ, cũng có thể bố trí trên toàn bộ bề mặt. Bố trí trên toàn bộ bề mặt thường là ở những nơi có diện tích lớn, tức là thiết kế rất nhiều đường đơn lẻ đan xen vào nhau, nút nọ chồng lên nút kia, trái phải liên hoàn, trước sau giao hoán, cứ thế nối liền tới các khảm diện khác ở hai bên và phía trước, phía sau, như vậy sẽ phát huy được uy lực lớn hơn. Tuy nhiên, dù là đường đơn lẻ hay toàn bộ bề mặt, thì chúng đều phải có đường biên, Khảm tử gia gọi đó là "khảm diên". Nếu không có đường biên, thì nút lẫy ở mép ngoài cùng sẽ không thể bố trí được. Nhưng khảm diên đa phần rất hẹp hoặc rộng hẹp không đều, có chỗ đủ để đặt chân, có chỗ không thể đặt chân xuống được. Cũng có khi khảm diên chỉ là những điểm đặt chân, lại bố trí không theo quy tắc. Như vậy, sẽ khiến cho những người muốn men theo đường biên để vượt khảm diện, hoặc là không có chỗ để đặt chân, hoặc là sẽ giẫm trúng vào khảm diện ở hai bên.
* Trước tác của Hoàng Kỳ Nhuệ người Tương Bắc vào cuối triều Nguyên. Hoàng Kỳ Nhuệ là một đại gia về Kỳ môn độn giáp, chuyên nghiên cứu về bố trí cạm bẫy, từng bố trí "Bách bộ không nhân nhai" (phố không người trăm bước) không ai phá được. Sau khi 70 tuổi, ông không còn xuất hiện trong giang hồ, chỉ chuyên tâm viết sách, dốc hết các kỹ nghệ và trải nghiệm trong suốt cuộc đời để viết nên cuốn "Độn giáp bí lục".
** Một chương trong "Độn giáp bí lục", nghiên cứu về quy luật và phản ứng của bước chân con người và động vật khi di chuyển, và kỹ pháp thiết kế cạm bẫy căn cứ vào đó.
Trong một hành lang chật hẹp như thế này, chỉ có thể bố trí theo kiểu một đường đơn lẻ. Hơn nữa, một bên hành lang lại là vách tường, trong bố trí khám tử gọi nó là "cương diện". Do đó, Điên phốc đạo ở đây có lẽ sẽ có một đường khảm diên không thể bố trí tới được. Bởi vì có cương diện, nên chắc chắn nó sẽ liền một dải chứ không phải là từng điểm, hơn nữa rất có thể còn rộng hơn một chút so với khảm diên bình thường. Nếu không khảm diện sẽ không thể bố trí được, đường sống cũng không thể đi được. Mặt khác, nếu theo bộ pháp thông thường của đường sống, sẽ có bước chân phải giẫm lên vách tường, thậm chí là ở ngoài tường.
Lỗ Nhất Khí không đi theo bộ pháp của đường sống, mà cậu đi vào đường biên của khảm diện. Dẫu rằng sẽ có chỗ rộng hẹp khác nhau, song khảm diên của cương diện chỉ cần thận trọng một chút, vẫn có thể đặt chân xuống được.
Lỗ Nhất Khí dán người sát vào vách tường, xoay ngang người mà từ từ di chuyển, giống như cua bò. Di chuyển ngang một cách thận trọng trên đường biên nhỏ hẹp, quả thực không thể nhanh được. Lần này, Lỗ Nhất Khí đi đầu tiên, một phần là vì cậu có đủ khả năng và dũng cảm, phần nữa là vì bác cậu và Quỷ Nhãn Tam chắc chắn cũng muốn cậu đi trước. Cậu thầm nghĩ, có lẽ họ cảm thấy cậu có trực giác siêu việt, trên người lại có "vầng khí thần thánh", nên đi trước mở đường là an toàn nhất. Quỷ Nhãn Tam đi sau cùng, cứ bước hai bước lại ngẩng đầu nhìn khối đá Thái Hồ, quan sát xem những cánh hoa vẽ bằng máu tươi kia chuyển động và đổi hướng ra sao.
Lỗ Nhất Khí không đi thẳng, mà mỗi khi bước tới bước thứ ba cậu đều dừng lại một lát, lưng dán chặt vào tựờng, đá mạnh bàn chân, dùng gót chân đạp gãy viên gạch xanh nhô lên trên mặt đường. Những viên gạch xanh này tuy nhỏ và ngắn, song rất cứng, có viên phải đạp liền mấy cái mới vỡ. Cậu muốn chừa lại một đường lui nếu còn có cơ hội quay trở ra, sẽ có thể mau chóng thoát khỏi hành lang yến quy.
Họ đã đi được sáu bảy bước, Lỗ Nhất Khí cúi xuống nhặt lấy chiếc đèn khí tử phong đang nằm trên mặt đất. Đèn vẫn chưa tắt, sau khi nhấc lên trên tay, ngọn đèn soi tỏ một khoảng khá rộng trong hành lang.
– Tắt đèn đi, nếu không chúng ta sẽ bị lộ hết. Không biết chừng nhất cử nhất động của chúng ta đang bị kẻ khác theo dõi cũng nên! – Lỗ Thịnh Hiếu khẽ nhắc.
Lỗ Nhất Khí mở chụp đèn thuỷ tinh vuông bốn mặt ra, thổi phù một cái. Ánh đèn phụt tắt, trên bấc đèn một tia khói trắng phất phơ, xung quanh thoắt đã tối sầm.
Con ngươi của Lỗ Nhất Khí đang biến dạng, đang gấp rút co lại, không phải chỉ để thích ứng với màn đêm, mà còn vì căng thẳng và sợ hãi.
Vì trong khoảnh khắc bóng tối ập tới, cậu nhìn thấy một cặp mắt xuất hiện trên chiếc chụp đèn thuỷ tinh. Thoạt tiên cậu ngỡ rằng đó là cặp mắt của mình phản chiếu trên đó, song cậu lập tức nhận ra mình đã sai. Cậu không thể có một cặp mắt như thế. Nó giống như cặp mắt của người chết, con ngươi không hề chuyển động, mí mắt cũng không hề chớp, song lại tràn đầy sát khí và oán hận, xen lẫn chút vẻ quái đản, giống như hai đốm lửa ma trơi lập loè.
Cậu vừa khiếp sợ vừa nghi hoặc, không rõ rốt cuộc là bóng đêm thình lình ập tới, hay là cậu đã rơi vào địa ngục A Tì. Tại sao lại có một cặp mắt như của ác quỷ nhìn cậu chằm chằm như thế. Hơn nữa, ánh nhìn ác quỷ này hình như cậu đã gặp đâu đó trước cổng chính song lần này đã ở gần hơn.
Chủ nhân của cặp mắt này có lẽ đang ở rất gần, bởi vì dường như cậu còn nhìn rõ những tia máu đỏ vằn trong con mắt, tựa như hắn đang đứng đối diện với cậu. Song thực tế lại cho thấy, bên cậu không có người nào khác. Nhưng cũng không có gì có thể cho cậu biết, cặp mắt đó liệu có phải là của con người hay không.
Thế nhưng, động tác của Lỗ Nhất Khí không hề hoảng loạn, thần thái vẫn hết sức thong thả. Đây chính là chỗ hơn người của cậu, là định lực được hình thành từ chính tính cách không thuộc Ngũ hành. Cậu cũng đáp lại ánh mắt đó bằng ánh nhìn bình tĩnh điềm đạm, không chút kích động, tựa như khơi một làn nước trong trẻo bao bọc lấy ngọn lửa ma trơi. Trong lúc nhìn, bàn tay cậu khẽ xoay chuyển chụp đèn thuỷ tinh, cậu hy vọng rằng trong lúc xoay chuyển, cặp mắt in trên đó sẽ có một vài biến hoá, để cậu tìm ra chút ít manh mối.
Bề mặt thuỷ tinh của chụp đèn không hoàn toàn bằng phẳng, nên khi xoay chuyển, cặp mắt cũng méo xệch theo từng gờ lồi lõm. Chiếc chụp đèn có bốn mặt, mỗi khi xoay qua một mặt, cặp mắt lại càng biến dạng nhiều hơn, càng méo mó đến quái đản. Tuy nhiên, cặp mắt đã không xuất hiện trên mặt thứ ba của chụp đèn. Vừa xoay qua cạnh giữa mặt thứ hai và mặt thứ ba, nó đột ngột biến mất.
Lỗ Nhất Khí vội vã xoay ngược trở lại một mặt, không thấy. Cậu lại xoay trở lại một mặt nữa, vẫn không thấy. Cậu không cảm thấy kỳ lạ khi đôi mắt đó biến mất, bởi lẽ từ trong ánh mắt đã biến dạng và méo mó khi nãy, cậu đã cảm nhận được sự sợ sệt và khiếp đảm.
Lỗ Nhất Khí thở phào một cái, đậy lại chiếc chụp đèn. Lỗ Thịnh Hiếu đưa tay đỡ lấy nó, xoay phần đế một vòng, chiếc đèn liền xẹp xuống như một cuốn sách, dễ dàng đút vào trong ngăn kéo nhỏ trên hòm gỗ. Họ đều im lặng, có một số điều chưa chắc có thể biểu đạt rõ ràng bằng lời nói.
Họ tiếp tục men theo vách tường đi về phía trước, khi đã đi được khoảng hơn hai chục bước, Quỷ Nhãn Tam đột ngột kêu lên:
– Không được rồi, vệt máu quay lại!
Lỗ Thịnh Hiếu nghe thấy vậy, vội vàng kéo Lỗ Nhất Khí lại nói nhỏ:
– Từ từ quay lại, chú ý xem xung quanh có gì thường không!
Thế là ba người chầm chậm nhích về phía sau. Khi lùi lại được khoảng hai thước, Lỗ Nhất Khí đột nhiên cảm thấy có một thứ gì lay động phía trước. Có một cái bóng màu xám lướt qua trước mặt. Cậu giật mình, theo bản năng nắm chặt lấy báng súng trong túi vải. Cái bóng trông quen quen, dường như cậu đã nhìn thấy ở đâu đó. Song ngay lập tức cậu cực lực gạt bỏ suy nghĩ này, đó là điều không thể. Trước mặt cậu không có một người nào, vậy cái bóng đó ở đâu ra? Hơn nữa, nếu cái bóng đó thực sự tồn tại, thì hướng đi của người này là từ phía hồ nước ngoài lan can đi thẳng vào trong bức tường. Như vậy, cái bóng đó liệu có phải là người hay không? Là cậu hoa mắt hay chỉ là ảo giác?
– Thấy rồi chứ? – Tiếng bác cậu hỏi nhỏ phía sau.
– Thấy rồi ạ! – Cậu trả lời. Đúng là không phải cậu hoa mắt.
– Nhìn cây cột phía trước kia, xem có gì không? – Bác cậu nhắc nhở.
Đúng rồi, bây giờ họ đang cần phải tìm lối thoát. Mặc kệ cái bóng đó là yêu ma quỷ quái gì, cứ thoát khỏi hành lang này trước đã rồi tính.
Lỗ Nhất Khí quan sát một lát rồi đi về phía cây cột trước mặt. Tại chỗ họ bị ngăn lại khi nãy đã vỡ mất hai viên gạch, bởi vậy trong phạm vi hai tổ hợp bước chân, họ có thể đi lại thoải mái. Giờ đây, trong đoạn hành lang này, hai viên gạch xanh nhô lên cũng đã bị đạp vỡ, như vậy họ cũng sẽ có thể tự do di lại. Nếu nói rõ hơn, tức là gạch vỡ, khảm diện cũng được phá giải, giờ đây, đoạn hành lang trước mặt họ chỉ là một con đường bình thường chỉ hơi nhấp nhô chút đỉnh. Bác cậu đã nói đúng, đây không phải là Điên phốc đạo. Trong bốn tự quyết của Điên phốc đạo, nếu mất đi một, ba quyết còn lại vẫn hoạt động như thường. Nhưng con đường này lại khác, một quyết bị mất thì cả bốn quyết đều bị phá. Xem ra nó đúng là được thiết kế chuyên để đối phó với những Khảm tử gia am hiểu Điên phốc đạo. Cách bố trí này không những có tư duy độc đáo về mặt kỹ nghệ, mà còn ngầm hợp với cách cục "Thỉnh quân nhập ung"* trong bảy mươi hai cách cục của Kỳ môn độn giáp.
* Mời ngài vào trong vò, tức là bày sẵn mồi nhử cho đối phương tự chui đầu vào cạm bẫy.
Đã tới trước cây cột, Lỗ Nhất Khí cẩn thận sờ lần một hồi, song do quá tối, nên cậu định lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra để nhìn cho rõ.
Đúng vào lúc cậu sắp lôi được viên đá ra, thì một cái bóng lại lướt qua trước mặt. Có lẽ vẫn là cái bóng màu xám khi nãy, song lần này, nó đã không còn hoàn chỉnh như trước, mà chỉ có nửa thân trên, không có chân. Vẫn là xuất hiện từ trong hồ nước, lướt qua hành lang rồi chui vào trong bức tường mất hút.
Lần này, cái bóng trông càng rõ ràng hơn nữa. Lẽ nào trong căn nhà quả thực có thứ âm tà gì đó vẫn chưa chịu nhập âm phù luân hồi?
Tuyệt đối không thể, bởi vì có một người vẫn chưa lên tiếng. Là ai vậy? Quỷ Nhãn Tam! Hắn là cao thủ phái dời mộ, tinh thông đạo thuật Mao Sơn, giỏi nghề xua tà đuổi quỷ. Đến lúc này hắn vẫn không nói chắc chắn đó không phải là thứ âm tà nào như cậu đang tưởng tượng.
Kỳ thực, không cần viện đến Quỷ Nhãn Tam làm chứng, thì Lỗ Nhất Khí cũng đã phát hiện ra rằng đó tuyệt đối không phải là ma quỷ gì. Suy nghĩ này đã bật lên trong đầu cậu vào khoảnh khắc cái bóng biến mất trên cây cột chợt loé lên một vệt sáng, giống như phản chiếu từ mặt gương. Lỗ Nhất Khí lôi viên đá huỳnh quang ra, tiếp tục quan sát cây cột. Quả nhiên, tại nửa phía trên của mé ngoài cây cột có một thanh đồng, trơn bóng và sáng loáng như một mặt gương. Do thanh đồng khá nhỏ, lại bị găm chìm vào chỗ nhô ra trên mé ngoài của cây cột gỗ xù xì, nên nếu đứng từ bên trong hành lang sẽ không thể phát hiện ra nó. Cho dù có dùng tay sờ, chỉ hơi sơ ý một chút cũng rất dễ bỏ qua.
Lỗ Nhất Khí đưa viên đá huỳnh quang lướt qua phía trước thanh kim loại. Cậu lập tức hiểu ra rằng, đây có lẽ là một chiếc gương nằm trong một hệ thống nhiều tầng gương phản chiếu. Bởi vì trên khối đá Thái Hồ tại phương Ly trong hồ nước cũng xuất hiện một đốm sáng đang chuyển động; đồng thời, trên cây cột trụ tại một đoạn hành lang hơi uốn khúc cách đó khoảng hơn chục bước cũng có một đốm sáng lướt qua. Nếu cậu đoán đúng, tại những điểm khác trên hành lang và trong hồ nước vẫn còn những điểm sáng khác. Nguyên lý kỳ thực rất đơn giản, cái bóng mà cậu vừa nhìn thấy lúc nãy thực chất chính là do có người đi qua ở một nơi khác, những mảnh gương đồng được bố trí khắp nơi đã phản xạ lại chiếc bóng đó. Do mảnh đồng không lớn, nên cậu chỉ nhìn thấy cái bóng lướt qua.
Cặp mắt quái đản mà cậu nhìn thấy khi nãy có lẽ cũng xuất hiện theo cách này. Song kỳ lạ là ở chỗ, khoảng cách giữa hai mắt rộng hơn chiều dài của mảnh đồng rất nhiều, nếu muốn cả hai con mắt cùng được phản chiếu đến, thì đối phương chắc chắn phải nhìn nghiêng vào mảnh đồng. Nhưng nếu như vậy, cặp mắt xuất hiện trên chụp đèn thuỷ tinh sẽ không nhìn thẳng vào Lỗ Nhất Khí như khi nãy. Trừ phi còn có một thiết bị tập trung ánh sáng khác có thể lần lượt phản chiếu cả hai con mắt lên cùng một mảnh đồng nhỏ hẹp. Vậy đó sẽ là loại thiết bị kỳ xảo nào?
– Nhất Khí, có tìm ra đường không? – Lỗ Thịnh Hiếu có chút sốt ruột.
– Dạ, con vẫn đang tìm! – Lỗ Nhất Khí lúc này mới bừng tỉnh. Đúng vậy, lối thoát vẫn chưa tìm ra, cậu còn suy nghĩ linh tinh làm gì.
Thế là cậu lại tiếp tục đưa viên đá qua phía trước mảnh đồng, dựa vào đó để quan sát các phương vị. Phương vị của điểm sáng bên trên khối đá Thái Hồ tại phương Ly là chính xác, song điểm sáng trên cây cột cách đó hơn mười bước lại không đúng, giữa nó và cây cột trước mặt cậu còn thiếu một điểm phản xạ.
Điểm phản xạ ở đâu? Tại sao nó lại biến mất? Vậy điểm sáng cách đó hơn mười bước chân từ đâu mà tới?
Lỗ Nhất Khí cảm thấy cần phải tiếp tục đi về phía trước. Trong đoạn hành lang chỉ vẻn vẹn mười bước chân kia chắc chắn có một huyền cơ mà cậu cần phải khám phá.
Đoạn hành lang quả thực rất ngắn, còn bao gồm cả hai bước mà Lỗ Nhất Khí đã đi qua rồi lại lùi trở lại khi nãy. Tuy ở hai bước này, cậu không phát hiện ra thứ gì khác lạ, song lại là một điểm chuyển ngoặt của toàn bộ khảm diện. Bởi vì trong khoảng hai bước này, vết máu trên khối đá Thái Hồ đã quay ngược trở lại. Cũng có nghĩa là, con đường dưới chân họ đã quay vòng trở lại, đây là một điều rất khó tưởng tượng, tuy đoạn hành lang ở chỗ này có hơi khúc khuỷu, lại rộng hẹp không đều, nhưng nếu là quay vòng trở lại, đáng lẽ vẫn phải nhìn ra mới đúng.
Không đợi Lỗ Nhất Khí tiếp tục tiến lên trên con đường Điên phốc đạo giả, thì Quỷ Nhãn Tam đã tranh vượt lên từ đoạn đường biên sát tường phía trước. Từ miệng hắn chỉ bật ra ba tiếng gọn lỏn:
– Để tôi xem!
Nói xong, hắn liền từ từ dựa sát tường mà tiến, Lỗ Nhất Khí muốn đi theo, song bị hắn ngăn lại. Quỷ Nhãn Tam bước đi hết sức thận trọng, vẫn tuân theo cách lúc trước, cứ đến tự quyết thứ ba là "nhảy" trong mỗi tổ hợp bước chân, đều đá gãy những viên gạch xanh nhô lên trên nền hành lang.
Lỗ Nhất Khí vừa quan sát Quỷ Nhãn Tam, vừa đưa viên đá huỳnh quang Ba Tư qua lại phía trước dải đồng trên cột trụ.
Khi Quỷ Nhãn Tam đã đi được hai tổ hợp rưỡi bộ pháp, Lỗ Thịnh Hiếu đột ngột kêu lên:
– Được rồi, nguyên lý phản chiếu ánh sáng lấy gập đôi* làm chuẩn, cậu hãy đi ngược trở lại. Trước hết hãy tìm ra vị trí chuyển ngoặt chính xác, lối thoát chắc hẳn là ở gần chỗ chuyển ngoặt đó!
* Tức là góc phản xạ bằng với góc ánh sáng chiếu tới, tia phản xạ nằm trên cùng một mặt phẳng với tia chiếu tới.
Quỷ Nhãn Tam bắt đầu đi ngược trở lại, hắn không cần thiết phải đi sát vào tường nữa, bởi vì những viên gạch nhô lên tại bước thứ ba đều đã bị hắn đạp gãy. Thế nhưng hắn vẫn đi rất chậm, đặc biệt là khi còn cách hai người khoảng bốn, năm bước, hắn lại càng bước chậm hơn, vừa di chuyển vừa quan sát kỹ lưỡng trên dưới, phải trái, hy vọng có một lốì thoát nào đó sẽ hiện ra trước con mắt cú vọ của mình.
– Không đúng, chỗ này hình như không phải là lấy gập đôi làm chuẩn, có lẽ vẫn ở phía trước! – Lỗ Nhất Khí nói, nhưng có vẻ không chắc chắn lắm, bởi vì từ nãy tới giờ cậu vẫn chưa tìm ra điểm phản xạ còn thiếu từ ánh sáng của viên đá.
Quỷ Nhãn Tam dừng lại, hắn nhìn Lỗ Thịnh Hiếu, nhưng chưa đợi Lỗ Thịnh Hiếu kịp nói gì, đã lại tiến về trước. Không hiểu vì sao hắn luôn cảm thấy mỗi lời nói của Lỗ Nhất Khí dường như là một mệnh lệnh mà hắn cần phải thi hành.
Khi sắp đi được tám bước, thì đột nhiên có một đốm sáng nhảy lên trên người Quỷ Nhãn Tam.
– Đừng cử động, cậu Tam, cậu đứng nguyên đấy chớ có lùi lại!
Đốm sáng xuất hiện khiến cho giọng nói của Lỗ Thịnh Hiếu tràn đầy phấn khởi. Ông mừng vì đã sắp tìm ra đường sống, và cũng vì nhận thức và hiểu biết của Lỗ Nhất Khí. Xem ra việc ông ngấm ngầm chuyển các loai điển tịch tàn thư tới Mai Sấu hiên để cậu tuỳ ý học theo cảm hứng quả thực đã mang lại hiệu quả không nhỏ.
Sự xuất hiện của đốm sáng cũng khiến Lỗ Nhất Khí rất vui mừng. Cậu đối chiếu hướng phản xạ của đốm sáng một lát rồi nói:
– Anh Tam, anh di chuyển lên phía trước một chút, hãy đá vỡ viên gạch ở quyết thứ ba trước đã rồi tính sau!
Lời của Lỗ Nhất Khí vẫn như là mệnh lệnh, còn Quỷ Nhãn Tam dường như rất sẵn sàng phục tùng theo.
Quỷ Nhãn Tam tiếp tục bám theo vách tường di chuyển về phía trước một chút. Giờ đây, hắn đang đứng ở chỗ thắt của hành lang, trên vách tường có một chỗ lồi ra thành nửa cung tròn, đoạn lồi vừa hay trùng khớp với điểm phản xạ của cây cột ngoài mười bước chân, khiến cho khi đứng từ đây nhìn ra, tầm nhìn bỗng nhiên mở rộng, trước mặt là một quang cảnh hoàn toàn khác.
Quỷ Nhãn Tam chưa quan sát kỹ tình hình xung quanh, mà đưa chân đá gãy viên gạch trước. Hắn dồn sức vào chân đạp mạnh, thân người liền ngả về phía sau. Đáng lý ra có thể tì vào vách tường để đỡ lấy cơ thể, nhưng không hiểu sao, chỉ thấy cả thân người Quỷ Nhãn Tam trượt nghiêng theo vách tường đổ xuống, chốc lát biến mất tăm trong vách tường.
– Thôi chết rồi, có bẫy! – Lỗ Nhất Khí kêu lớn, không cần biết gì nữa, lập tức lao về phía trước để cứu Quỷ Nhãn Tam.
Nhưng Lỗ Thịnh Hiếu lại thở phào nhẹ nhõm:
– Tìm ra rồi!
Con tim đang như treo ngược vì lo lắng của ông cuối cùng đã trở về vị trí. Tuy hành lang yến quy ở đây được thiết kế tinh diệu hơn nhiều so với hành hang mà ông đã lạc vào hơn hai mươi năm về trước, song vạn biến vẫn không lìa tông, nếu đánh dấu được trên cột trụ chính giữa, chắc chắn sẽ tìm ra chỗ khuyết, lối thoát sẽ ở gần chỗ khuyết đó. Khối đá Thái Hồ cũng giống như cột trụ Thất Phong năm xưa, đều dùng để làm rối loạn tư duy và thị giác. Song do ký hiệu lần này không được đánh dấu tại điểm chính giữa trên cột, bởi vậy, lối thoát có hơi lệch một chút so với điểm chuyển ngoặt. Nghĩ đến ký hiệu, Lỗ Thịnh Hiếu lại nhớ tới lão mù, ông ngoảnh đầu nhìn về phía hồ nước, một nỗi đau xót nghẹn lại trong lồng ngực.
– Có đường, đi chứ? – Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp chạy đến nơi, Quỷ Nhãn Tam đã như một bóng ma ló đầu ra khỏi bức vách, hỏi.
– Đi thôi, ở những nơi thế này, những con đường bất ngờ chính là đường sống, khó là ở chỗ tìm không ra! – Lỗ Thịnh Hiếu trả lời.
Lỗ Nhất Khí cất viên đá huỳnh quang Ba Tư vào trong túi vải, quay lại dìu bác đi về phía trước. Đến sát chỗ đó, quan sát kỹ liền phát hiện ra rằng, phía sau chỗ tường lồi hình nửa cung tròn, có một đoạn tường nhọn, mặt bên trong là đường thẳng, mặt bên ngoài là đường chéo. Quỷ Nhãn Tam đã trượt vào trong tường từ mặt thẳng ở bên trong của đoạn tường. Ở bên trên lối vào có lắp hai tấm gương đồng hình vuông cao lớn. Hai tấm gương đồng đã phản chiếu phần tường lồi ra, hoà thành một thể với phần vách tường ở phía trước và sau nó, khiến cho mọi người khi đi qua phần tường lồi ra, tự nhiên sẽ men theo mé bên ngoài của đoạn tường mà đi xéo về phía trước, nhưng kỳ thực đó chính là chỗ quay vòng trở lại; đồng thời, lại nhầm tưởng rằng mé bên trong là một vách tường liền khít, mà không biết rằng có đường đi ngầm ở bên trong. Cách bố trí đã lợi dụng hiện tượng sai lệch thị giác và thói quen của con người, quả là xảo diệu vô cùng. Đừng nói là trong đêm tối, cho dù giữa ban ngày, nếu không tìm kiếm cẩn thận, cũng khó mà phát hiện ra.
Lần này, may mắn là đối thủ đã dùng cặp gương đồng này để đánh lừa thị giác, nhưng đồng thời, lại có tác dụng phản chiếu hình ảnh, nên mới bị Lỗ Nhất Khí phát hiện ra. Mặt khác, cặp gương dồng cũng cho họ biết rằng, người đang âm thầm theo dõi bọn họ và cái bóng mà họ nhìn thấy không hẳn là đang ở trong tiền viện mà còn có thể ở viện thứ nhất, viện thứ hai, thậm chí là hậu viện, cổng sau.
Đi qua hai tấm gương đồng ở cửa vào tại mé trong của bức tường, nhìn vào bên trong, quả nhiên có một con đường, bề mặt của con đường này được thiết kế giống y hệt như vách tường hành lang. Có điều từ chỗ này không còn nhìn thấy cảnh vật trong hồ nước nữa, bởi vì đây mới là con đường chính xác.
Thật quá thần kỳ, một con đường vòng tròn luẩn quẩn được tạo ra bởi hai tầng ảo giác, một con đường sống chính xác được che giấu bởi sự phản xạ của mặt gương, hành lang yến quy với thiết kế phá vỡ nguyên lý gập đôi của phản xạ ánh sáng, lại cộng với Điên phốc đạo với bố cục "Thỉnh quân nhập ung", quả thực là khéo đoạt hoá công. Khảm diện này chồng lên khảm diện kia, nút lẫy này đè trên nút lẫy khác. Nếu như khảm diện Điên phốc đạo giả không bị phá, sẽ không có cơ hội lên được trụ Thất phong, lại càng không có cơ hội để phát hiện ra thanh đồng phản chiếu, như vậy, cũng sẽ không thể tìm ra lối thoát ra khỏi hành lang yến quy.
Trong lúc trầm trồ thán phục, Lỗ Nhất Khí vẫn tỉ mỉ quan sát góc độ của tấm gương đồng, đột nhiên một nghi vấn trỗi dậy trong cậu. Hai tấm gương đặt nghiêng phản xạ chéo nhau này không thể phản chiếu riêng rẽ hai con mắt được, vậy thì cặp mắt nhìn thẳng vào cậu khi nãy được phản xạ tới bằng cách nào?
Thế nhưng giờ đây không phải là lúc để nghiên cứu về việc đó, bác cậu đang giục cậu đi mau. Trời đông nhanh tối, chưa hết canh một họ đã mở được cổng chính, giờ đã quá nửa canh hai, mà vẫn chưa thấy bóng dáng của ngôi nhà. Hơn nữa, phía trước chắc chắn vẫn còn rất nhiều khảm diện, cho dù có vào được đến nhà cũng chưa biết Lỗ Nhất Khí phải cần bao nhiêu thời gian mới ngộ ra được bí mật trọng đại ẩn giấu trong đó.
Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam thì thầm gì đó với nhau, rồi họ vẫn để Lỗ Nhất Khí đi đầu tiên, tuy cậu cảm thấy hơi ngạc nhiên, song cũng không hỏi gì.
Họ đã đi đúng hướng, cổng thuỳ hoa đã không còn là một cái bóng mờ ảo nữa. Họ đi rất nhanh, thêm vài chục bước nữa đã ra khỏi hành lang. Một cánh cổng thuỳ hoa cũ kỹ hiện ra sừng sững trước mắt họ.
Thiết kế cổng thuỳ hoa không hề có vẻ cao lớn và khí thế hoành tráng như cổng chính, cách trang trí cũng không quá hào nhoáng hoa lệ. Trên đầu xà tại mặt hướng ra phía ngoài của cổng thuỳ hoa được chạm khắc thành hình đám mây đơn giản, dân gian gọi là đầu xà lá gai, phía dưới đầu xà rủ xuống hai trụ lửng gọi là trụ thùy liên. Trụ thùy liên ở đây lớn hơn rất nhiều so với bình thường, hai đầu nóc sống mái cũng rất lớn, uốn cong chót vót, đâm xéo lên trời, so với toàn bộ kết cấu, trông rất thiếu cân đối, có chút gì hơi giống với đầu nóc của đại điện chốn cung đình. Trong khi hai cánh cửa bên dưới lại thấp bé nhỏ hẹp, lại càng thiếu cân xứng với phần sống nóc, trông chẳng khác nào lực sĩ cưỡi dê.
Hai cánh cửa của cổng thùy hoa là kiểu cửa bàn cờ hay còn gọi là cửa nẹp biên. Hai cánh cửa hiện đang khép hờ có thể nhìn thấy bên trong không có bình môn* bởi vậy đây là thiết kế cổng thùy hoa theo kiểu "nhất điện nhất quyển"**, cũng gọi là kiểu cổng thuỳ hoa "Nhị Lang gánh núi".
* Bình môn là một loai cửa dùng để che chắn tầm nhìn, thường được gắn liền với tường, có tác dụng tựa như chiếu bích hoặc bình phong. Nhưng nó khác bình phong ở chỗ vị trí của nó là cố định; khác chiếu bích ở chỗ các cánh cửa của nó có thể di chuyển, tháo lắp được. Bên trong cổng thuỳ hoa thường có bình môn, nằm ở giữa hai cột trụ phía dưới phần mái bên trong, bình thường luôn đóng kín, chỉ khi có khách quý đến nhà mới được mở ra.
** Nhất điện tức là chỉ có sống nóc, nhất quyển tức là chỉ có một tầng mái, là kiểu cổng thùy hoa phổ biến và thường gặp nhất.
Tấm gỗ nối liền hai trụ thuỳ liên phía trên cổng thùy hoa thông thường sẽ được chạm trổ cầu kỳ, như các chủ đề "tử tôn vạn đại", "tuế hàn tam hữu"... Song ở đâỵ, hai trụ thuỳ liên lại được nối với nhau bởi một tấm ván dày, trơn bóng và đen thẫm, không có bất kỳ hoạ tiết trang trí nào. Nhưng ở chính giữa tấm ván lại khảm một đồ hình âm dương Thái cực, nhìn từ xa lại, thấy đen trắng phân minh, dường như được làm từ thép ròng và bạc trắng. Hai mắt cá âm dương sáng lấp lánh, không rõ được làm bằng chất liệu gì. Phía dưới cá âm dương treo một chiếc đèn lồng bằng giấy trắng, trong đèn ánh nến leo lét, chẳng khác gì đèn tang. Song cũng may nhờ có chiếc đèn mà Lỗ Nhất Khí mới có thể quan sát tỉ mỉ toàn bộ phần cổng từ trên xuống dưới.
Hai bên cổng còn có một cặp thú giữ cửa bằng đá, thoạt nhìn tưởng là đôi sư tử, song nhìn kỹ lại không giống. Vẻ mặt của chúng trông rất tà quái, phía dưới bụng hình như còn có thêm một cẳng chân. Trong đầu Lỗ Nhất Khí lại loé lên một tia sáng, cậu lập tức nhớ lại trong cuốn "Thập di ký – Tấn thời sự"* của Vương triều Tấn có ghi chép về loài thú năm chân, viết rằng loài thú này trông giống sư tử, song có năm chân do bàn tay lìa khỏi cơ thể của một tộc người có khả năng tách rời thân thể ở phương Đông biến hoá ra. Cậu cảm thấy ngạc nhiên, vì thông thường loài thú này chỉ xuất hiện trên vũ khí binh đao và những nơi chém giết, sao ở đây lại dùng để trấn cổng? Trừ phi bên trong cánh cửa này thực sự là một nơi chết chóc.
* Là trước tác của Vương Gia triều Tấn, thực chất cũng chưa được coi là dã sử, chỉ là những ghi chép về những chuyện truyền miệng trong dân gian một số sự việc ít người biết đến trong thời Tấn. Hiện chỉ còn một phần tàn khuyết.
"Nơi thú năm chân tới, hồn phách vô chủ, máu chảy thành sông". Cậu không dám khẳng định mình đoán đúng hay không, bèn thử lẩm nhẩm niệm câu thần chú trấn áp thú năm chân trong "Phục tà lục", cậu muốn biết phản ứng của hai người phía sau ra sao. Nhưng không ai nói gì, lúc này cậu mới ý thức được rằng, đã một hồi lâu cậu không hề nghe thấy tiếng động nào từ hai người phía sau, dường như họ đã đột ngột biến mất. Tim cậu bỗng đập loạn, song cậu gắng trấn tĩnh, từ từ quay đầu nhìn lại. Không có gì khác thường, hai người kia vẫn đang theo sát cậu, chỉ có điều vẻ mặt của họ căng thẳng dị thường, tựa như đang đối mặt với kẻ thù hung hãn.
Chỉ thấy Lỗ Thịnh Hiếu tay nâng hòm gỗ, Quỷ Nhãn Tam nắm chặt Vũ Kim Cương, cả hai giống như cây cung đang kéo căng hết cỡ, không dám thả lỏng lấy một giây. Ánh mắt của họ đang sục sạo vào từng góc tối của nóc cổng, tựa như trên đấy đang có một thứ quái vật khủng khiếp sắp sửa nhảy xồ ra.
Là thứ gì đã khiến cho hai con người vốn coi thường sống chết, bất chấp quỷ thần kia trở nên như vậy?
Sự căng thẳng của họ khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy vô cùng nghi hoặc. Nơi này đâu đâu cũng đầy rẫy nguy hiểm, những thứ đáng sợ có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào, bởi vậy căng thẳng cũng là đương nhiên. Song hai người kia không những không liên tục nhắc nhở cậu điều gì, mà ngược lại, còn để cậu đi đầu tiên. Chẳng lẽ họ thực sự coi cậu là thần tiên, có thể trăm tà không sợ, trăm độc khó xâm?
"Thôi mặc kệ, tới đâu hay tới đó, hôm nay mình hãy cứ làm viên đá dò đường, hoạ phúc đã có trời định!" – Cậu nhủ thầm trong dạ. Đây không phải là sự xốc nổi của tuổi trẻ, mà là sự dũng cảm và tự tin. Cậu ngẫm nghĩ một hồi, ý định đã quyết, bèn quay đầu trở lại, cất bước tiến thẳng về phía bậc tam cấp của cổng thuỳ hoa...
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro