Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót 3

Chương 100

"Vương Nguyệt Minh gì?"

Ngạc Khắc Thiện chuyển ánh mắt từ trên người Triệu Bạch Ngư sang Hoắc Kinh Đường rồi ôm một bụng nghi ngờ: "Hóa ra tiểu quận vương vẫn luôn ẩn núp bên cạnh Triệu đại nhân, vậy mà còn thả Thôi tiểu tướng quân ra để dụ dỗ ta, thì ra là để cho ta giảm bớt cảnh giác, khiến ta thật sự cho rằng Triệu đại nhân chỉ mong Tây Bắc được ổn định chứ không quản cuộc tranh đấu giữa các phiên tộc, dù sao thì kẻ muốn làm ngư ông đắc lợi trụ tới cùng vẫn phải có binh trong tay. Không ngờ... Không ngờ Hoàng đế Đại Cảnh lại cho tiểu quận vương ngài về Tây Bắc trong lúc đất nước thái bình, ta chỉ còn thiếu một nước cờ nữa thôi."

Triệu Bạch Ngư im lặng nghe ông ta cảm thán xong mới tốt bụng nói cho ông ta biết: "Thật ra "Thôi tiểu tướng quân" bên cạnh ta vẫn luôn là Hoắc Kinh Đường đấy."

Sắc mặt Ngạc Khắc Thiện thoáng thay đổi, đồng tử giãn ra.

Triệu Bạch Ngư lấy lá thư ngày đó trình lên công đường ra khỏi ống tay áo, để cho Ngạc Khắc Thiện với đôi mắt sáng không có vấn đề gì nhìn rõ dấu ấn trên giấy.

"Lúc mới đến Kinh Châu, bọn ta đã tiết lộ thân phận rồi mà."

Điều này khiến cho Ngạc Khắc Thiện không tài nào tiếp nhận nổi, từ đầu đến cuối ông ta đều cho rằng bản thân thua cuộc là vì phán đoán sai mức độ tin tưởng của Hoàng đế Đại Cảnh dành cho Lâm An quận vương, theo lẽ thường tuyệt đối không thể nào lệnh cho Hoắc Kinh Đường về Tây Bắc điều tra cuộc chiến Thiên Đô Trại trong thời bình thế này, đây chẳng phải là giao lại Cấm quân Kinh Nguyên và phiên binh cho Hoắc Kinh Đường hay sao? Không sợ hắn dẫn binh tạo phản à?

Hoắc Kinh Đường không có ở Tây Bắc, Kinh lược sứ có gì đáng sợ đâu?

Ông ta cứ nghĩ mình thua ở chỗ này, cuối cùng Triệu Bạch Ngư lại nói bọn họ vừa đến Kinh Châu đã tiết lộ thân phận một cách quang minh chính đại rồi?

Làm sao có thể chứ?

Ánh mắt của Ngạc Khắc Thiện di chuyển đến chỗ Mông Thiên Túng đang đi ra khỏi tiền thính, qua cơn hỗn loạn mà ông ta chẳng tốn một sợi lông sợi tóc nào, còn có thể thấy được ông ta đang cố nheo mắt để nhìn quanh bốn phía.

Với cái bộ dáng này, làm sao có thể không nhìn ra được mắt ông ta có vấn đề?

"Mông Thiên Túng!!!"

Ngạc Khắc Thiện gào lên, hít thở khó khăn ảnh hưởng đến vết thương, không nhịn được nôn ra một ngụm máu đầy.

"Hả?"

Mông Thiên Túng chịu quá nhiều nổi sợ hãi tổn hại thể xác lẫn tin thần bị tiếng gọi này dọa cho sợ đến mức té lăn xuống bậc thang, cả buổi trời cũng không gượng dậy nổi, vậy mà còn chẳng rõ vì sao ông ta lại đột nhiên bị Ngạc Khắc Thiện ghi thù.

Mọi việc đều đã được chuẩn bị để sắp sửa giành được đại nghiệp, vậy mà lại thua vì một con chó già ngu xuẩn, làm sao Ngạc Khắc Thiện có thể cam lòng cho được?

"Làm việc lớn cần thiên thời địa lợi nhân hòa, đến ông trời còn muốn ông chơi thua một nước cờ, thất bại thảm hại, đủ để chứng minh rằng đã đến lúc ông nên trả nợ rồi." Triệu Bạch Ngư hỏi: "Có quen Tam gia không?"

Mặt mày Ngạc Khắc Thiện xám xịt, ánh mắt đờ đẫn, ông ta tự nhận mình có gan có mưu, kiêu hùng cả đời, năm đó có thể dùng tấm thân nhỏ bé như cỏ rác này để bò lên vị trí đại nguyên soái Tây Bắc và thủ lĩnh phiên tộc, ngày nay chắc chắn cũng có thể lại gây dựng được đại nghiệp, làm sao ông ta ngờ được bản thân lại thua vì một sơ hở vô nghĩa như vậy được?

Tâm tính đã mất, hai mắt đầy tơ máu, không khỏi lâm vào trạng thái cực kì cố chấp.

"Tam gia Ngũ gia cái gì? Ngươi muốn vu oan cho ta tội gì thì cứ việc nói thẳng, hay là muốn lợi dụng ta để lật đổ kẻ nào nữa? Nói!"

Thấy vẻ mặt của Ngạc Khắc Thiện không giống như giả vờ, chẳng lẽ y nghĩ sai rồi?

Triệu Bạch Ngư: "Khoản bạc ở Đại Hạ là của ai? Ông đã cấu kết những gì với Đại Hạ? Khi Thác Bạt Minh Châu bao vây thành, ông đã dùng thứ gì trao đổi với hắn để khiến cho hắn lui binh?"

Ngạc Khắc Thiện cười khẩy không ngừng, vốn không muốn nói, nhưng khi nhìn thấy Chiết Thanh Phong và đám thủ lĩnh phiên tộc may mắn còn sống sót, ông ta cũng không cảm thấy bị kích động, nếu như vẫn cắn chết không nói thì cũng chẳng thể lấy lại được vinh quang cho Ngạc thị, sẽ có một thủ lĩnh phiên tộc mới cướp lấy vị trí thế gia vọng tộc của Ngạc thị ở Tây Bắc, cướp đi vị trí đại thủ lĩnh mà lẽ ra phải để cho đệ tử Ngạc thị kế thừa...

Trong số những kẻ đang bước ra ngoài, không một ai là không muốn lấy mạng của ông ta.

Chi bằng nói ra, để cho triều đình có một cái cở để xét nhà diệt tộc, thuận lý thành chương nghi ngờ những phiên tộc có quan hệ thông gia với Ngạc thị, khiến cho bọn họ luôn phải sống trong những ngày tháng bị Hoàng đế Đại Cảnh nghi ngờ, nơm nớp lo sợ mà tạm bợ cho qua ngày.

"Được thôi, lão phu sẽ nói hết đầu đuôi gốc ngọn mọi chuyện cho ngài ngay, bao gồm cả chuyện lão phu đã cấu kết với Quốc sư Đại Hạ Tang Lương Ngọc từ mấy năm trước, việc hắn giúp đỡ tai ngồi lên cái ghế đại thủ lĩnh này, cùng với cả việc ta nhận hối lộ từ Tang Lương Ngọc vài năm gần đây, giúp hắn vận chuyển lương thảo, bạc trắng, các loại khoáng vật như đồng sắt,... từ phía nam qua các chợ ở biên cảnh vào Đại Hạ, trợ giúp kinh tế Đại Hạ phát triển trong vòng vài năm ngắn ngủi, dân giàu nước mạnh, để cho họ không bị kinh tế Đại Cảnh lấn át, dẫn đến việc bọn họ dễ dàng xâm phạm vào biên cảnh Tây Bắc một cách trắng trợn"

Những thủ lĩnh phiên tộc đi ra nghe vậy mà biến sắc, Ngạc Khắc Thiện thông đồng với địch phản quốc chắc chắn sẽ liên lụy đến tất cả các phiên tộc thông gia, ảnh hưởng đến cả sự nghi ngờ của triều đình đối với lòng trung của phiên tộc Tây Bắc.

Sau việc này, e là Đại Cảnh sẽ đề ra một loạt cách chèn ép khống chế quyền hành của các thủ lĩnh phiên tộc trong quân, bó buộc những chính sách của phiên tộc, một mình Ngạc Khắc Thiện làm liên lụy đến hơn trăm ngàn con dân phiên tộc Tây Bắc, đúng là nghiệp chướng nặng nề.

Hoắc Kinh Đường đột nhiên rút ô thương ra, khi Ngạc Khắc Thiện vẫn còn đang vô cùng đau đớn, hắn nhanh tay cắm thương vào bả vai bên kia của ông ta, tiếng kêu thảm thiết thoáng vang vọng bầu trời đêm Ngạc phủ.

Mặt Triệu Bạch Ngư phủ đầy sương lạnh, không có chút đồng cảm nào, Ngạc Khắc Thiện vì bản thân mình mà dẫn đến việc Đại Hạ phát động vô số trận chiến, số người chết đã lên đến trăm ngàn người, có tướng sĩ bảo vệ đất nước, cũng có dân chúng bình dân như người già yếu, phụ nữ và trẻ em chỉ muốn bảo vệ đất đai nhà cửa nơi mình sinh sống mà thôi.

"Nói vậy ông chỉ là bên trung gian hỗ trợ vận chuyển những vật phẩm vi phạm luật cấm, lấy lợi nhuận từ trong đó ra thôi sao, nhưng lương thảo, bạc trắng và khoáng vật như đồng thiết phương nam từ đâu mà có? Vì sao lại nói là biến cố xảy ra vào ba năm trước... Là vì đại án Lưỡng Giang đã nhổ mất cái đinh chôn ở phía nam giúp Tang Lương Ngọc kiếm tiền hay sao?"

Ngạc Khắc Thiện cười yếu ớt: "Tiểu Triệu đại nhân... Quả nhiên rất thông, thông minh. Vốn để tránh tai mắt của người ngoài, những con cờ thu tiền mà Tang Lương Ngọc sắp xếp vào phía nam Đại Cảnh vô cùng, vô cùng thưa thớt, dù có bắt được người, chúng cũng quyết không khai ra thêm ai khác, điều đó sẽ chỉ khiến cho các ngươi nghĩ rằng chúng là gián điệp, không đoán ra được mục đích thật sự của Tang Lương Ngọc... Nhưng có ai ngờ? Đâu có ai ngờ! Không ngờ Triệu Bạch Ngư ngươi lại thẳng tay chém sạch hơn nửa quan trường Đông Nam! Ngươi có biết sức công phá của mình mạnh đến mức nào hay không? Bàn cờ được bày bố cẩn thận, những con cờ rải rác khắp nơi, kẻ thì bị bắt, kẻ thì chết, tất cả đều trở nên hỗn loạn! Một tấm lưới lớn được giăng ra nhiều năm như vậy mà chỉ trong chốc lát thôi đã bị hủy hoại dễ như trở bàn tay, hoàn toàn không tìm được cách để sửa chữa!"

Ông ta giơ ngón tay cái lên: "Triệu đại nhân à, Triệu Bạch Ngư! Nếu như không phải vì ba năm trước ngươi chém nửa quan trường Đông Nam, thì lão phu cũng không đến nỗi trở thành tên tù nhân suy bại như hôm nay. Ngươi, rất giỏi."

Không nhìn ra được ông ta đang nói mát hay là thật lòng thật dạ khen ngợi, Triệu Bạch Ngư cũng không có hứng biết: "Có đôi khi con người phải tìm hiểu nguyên nhân từ bản thân mình đấy, có hiểu câu ác giả ác bảo không?"

Y thấp giọng hỏi: "Có phải là ông đã giao chứng cứ mình cấu kết với Tang Lương Ngọc cho Thác Bạt Minh Châu rồi không? Đồ vật chuyển cho Tang Lương Ngọc từng qua tay ông, có lẽ đều có ghi chép lại trong sổ sách nhỉ."

Ngạc Khắc Thiện: "Có chứ." Ông ta vươn tay vẫy vẫy: "Triệu đại nhân đến đây đi, ta sẽ nỏi nhỏ cho ngài nghe."

Triệu Bạch Ngư duỗi chân rồi đứng yên, một lát sau mới rút chân về như chưa có gì xảy ra: "Ngại quá Ngạc đại nhân à, ta nhát gan sợ chết lắm, lo rằng nếu như ta qua đó, ngài trói ngược ta uy hiếp Hoắc Kinh Đường để lấy cớ chạy trốn rồi sao, đáng sợ hơn nữa chính là ông không muốn chạy, mà là muốn một kèm một, kéo ta chết theo ông thì phải làm sao bây giờ? Lúc ông lừa Ngạc Đan bổn quan đã nhìn thấy cả rồi, đến giờ trong lòng còn sợ, thật sự không dám mạo hiểm."

Ngạc Khắc Thiện thả tay xuống: "Tiếc quá, không thể lừa ngươi được rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Không sao, dù gì ông cũng nói ta thông minh mà."

Ngạc Khắc Thiện cười ha ha: "Mở miệng điêu toan cay nghiệt! Có điều ta rất mong chờ được thấy ngươi đấu với Tang Lương Ngọc đấy, Tang Lương Ngọc kia chính là một kẻ điên, để ta xem ngươi sẽ ép tên tiên này đến bước đường cùng bằng cách nào... sổ sách được giấu trong thiền phòng của Giả Long Thiên Châu ở am Đại Bi! Còn khoản bạc được giấu ở Đại Hạ thì ngươi đi hỏi Giả Long Thiên Châu đi, chắc chắn là nàng ta biết rõ hơn ta."

Nói xong, đột nhiên ông ta rút ô thương ra, gân xanh hằn rõ trên cánh tay, lực vô cùng lớn, trong giây lát đến cả Hoắc Kinh Đường cũng khó mà ngăn cản được hành vi đâm thương vào cổ họng mình tự sát của Ngạc Khắc Thiện.

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường liếc nhau không nói gì, lập tức lệnh cho người đi kiểm tra các thủ lĩnh phiên tộc trong Ngạc phủ, nếu như có người sống sót thì lập tức cứu chữa, cũng bảo Chiết Thanh Phong đích thân đến kiểm tra Giả Long Thiên Châu.

Cấm quân mà Ngạc Khắc Thiện điều đến đã sớm bị thiết kỵ Đường Hà khống chế, nghe theo lời chỉ huy, tất cả đều đã quay về nơi đóng quân, về phần hơn năm ngàn phiên binh mà Ngạc Đạc Mộc và Ngạc Đan mang đến thì đã chết một ngàn, số còn lại cũng đã bị khống chết, chờ đợi bị xử lý.

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường đến am Đại Bi, quả nhiên tìm thấy một quyển sổ trong thiền phòng của Giả Long Thiên Châu, từ từng khoảng phí vận chuyển, số lượng đến giá trị hàng hoá đều vô cùng rõ ràng.

Sau khi lấy được sổ, hai người rời khỏi am Đại Bi, lúc này trời đã sáng, ánh mặt trời mỏng manh chiếu rọi khắp nơi, đường sá vắng vẻ cũng đã nhanh chóng bị lấp đầy bởi tiếng rao hàng sôi nổi, cuộc sống của dân chúng vẫn diễn ra như thường lệ, mở màn cho một ngày mới, không ai biết rằng đêm qua trong toà thành này đã diễn ra một trận chém giết máu chảy thành sông, lại càng không biết sau ngày hôm nay chính quyền sẽ bị thay đổi, một thế gia vọng tộc bước qua hai triều đại chính thức bị chôn vùi vào sử sách.

Những thứ này chẳng liên quan gì đến bọn họ cả.

***

Tiền thính Ngạc phủ.

Sân trước tiền thính vốn bừa bộn sau khi được dọn dẹp đã sáng bừng lên, Cấm quân thay thế người làm và tỳ nữ Ngạc thị canh gác Ngạc phủ.

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường bước vào tiền thính, Chiết Thanh Phong chắp tay nói: "Bẩm tướng quân, tiểu Triệu đại nhân, gia quyến của Ngạc Khắc Thiện đều đã bị giam lại ở hậu trạch, một số vàng bạc châu báu và hai trăm ngàn lượng bạc đã được chuyển ra khỏi kho phủ, còn có một lượng lớn giấy tờ ruộng đất, đều là ruộng đất bị chiếm đoạt phi pháp. Binh phù của năm mươi ngàn quân Kinh Nguyên và hai mươi ngàn phiên binh đang ở đây, cũng đã lệnh cho phó tướng tạm nhận chức soái theo như lời tướng quân dặn dò."

Còn lại những thủ lĩnh phiên tộc và việc bọn họ vượt quyền điều binh, nên xử lý như thế nào còn cần phải đợi Triệu Bạch Ngư tấu lên triều đình, để triều đình quyết định.

Triệu Bạch Ngư: "Giả Long Thiên Châu đâu?"

Chiết Thanh Phong: "Ở bên trong." Gã tránh sang một bên, nhìn về phía người phụ nữ vẫn còn mặc trang phụ tân nương ở bên trong, thấp giọng nói: "Từ sau khi Ngạc Khắc Thiện chết vẫn luôn ngồi ở trước cửa sổ nhìn trời, đã hai canh giờ rồi vẫn không nhúc nhích gì hết."

Triệu Bạch Ngư biết tâm nguyện của nàng đã thành, bây giờ đang là lúc cảm xúc hỗn loạn, nếu là một người thật sự thương hương tiếc ngọc thì sẽ không đến làm phiền, càng không phải nhắc đến chuyện sắp sửa tra hỏi Giả Long Thiên Châu giống như tra hỏi phạm nhân, tiếc rằng y chỉ thương xót cho kẻ yếu chứ không thương xót người đẹp.

Nghe thấy tiếng bước chân đến gần, Giả Long Thiên Châu liền lên tiếng: "Ông nội của ta là người Nam Cương, có từng học một chút dược lý cổ độc, sau đó dạy nó cho mẹ ta, mẹ dạy lại cho ta, bà ấy là người đầu tiên dùng loại dược vật có thể mê hoặc tâm trí này lên người Ngạc Khắc Thiện. Ngạc Khắc Thiện cảnh giác đa nghi, tính tình tàn khốc khó dao động, mẹ ta không dám dùng thuốc liều cao, ta cũng không dám, bọn ta chỉ có thể cẩn thận từng li từng tí một, dùng hết sức lực yếu ớt và cái mạng này để báo thù... Tiểu Triệu đại nhân, ngài nói xem sự trả thù của ta và mẹ ta có nực cười quá hay không?"

"Sao có thể như vậy được?" Triệu Bạch Ngư rất ngạc nhiên, "Quyền thế của Ngạc Khắc Thiện ngập trời, các cô lại bơ vơ không nơi nương tựa, vừa nhỏ bé vừa yếu đuối, nhưng ông đã đã gánh cái danh thông đồng với địch phản quốc nhơ nhuốc kia mà chết, cô vẫn còn sống có nghĩa là các cô đã thắng. Quá trình không quan trọng, kết quả do người thắng định đoạt. Ngạc Khắc Thiện dễ nóng giận, sùng bái thần phật, thiên vị Ngạc Đan khiến cho hậu trạch không yên, phiên tộc bất mãn, dẫn đến cảm giác nguy cơ tăng cao... Một loạt phản ứng dây chuyền đó mới là thứ tạo thành cục diện mua dây buộc mình cho ông ta, nếu không nhờ mẹ cô và cô đã mài mòn tinh thần và tâm lý của Ngạc Khắc Thiện nhiều năm qua, e là bọn ta cũng không thể dễ dàng đối phó với ông ta như vậy."

Trước khi biết rõ sự thật, Ngạc Khắc Thiện nhân từ, áy náy yếu lòng và chịu đủ tra tấn là sự thật, sùng bái thần phật cũng là thật, làm sao có thể không bị ảnh hưởng chút nào chứ?

Giả Long Thiên Châu ôm mặt xoay người lại, lệ đã rơi đầy: "Ta sợ lắm... Sợ mẹ ta chết rồi vẫn bị súc sinh Ngạc Khắc Thiện kia lợi dụng."

Cha mẹ nàng chết vì Ngạc Khắc Thiện, đến lúc chết rồi vẫn bị lợi dụng đến cùng cực, nửa đời trước của nàng cũng đã bị vùi lấp trong cái bóng của Ngạc Khắc Thiện mất rồi, không thể giải thoát.

Khi nàng nghe thấy Ngạc Khắc Thiện nói ông ta đã biết hương đốt có vấn đề, chỉ là tương kế tựu kế thôi, phòng tuyến trong lòng nàng đã tan vỡ trong nháy mắt, chỉ cảm thấy rằng sự kiên trì mấy chục năm qua của mình đều là điều vô nghĩa.

Cũng may Triệu Bạch Ngư đã thức tỉnh nàng, việc đời luôn phải để cho người thắng định đoạt.

"Ngài nói cũng đúng, mưu kế của bọn ta cũng không phải là việc vô ích." Giả Long Thiên Châu lau mặt, nói ra ý tốt: "Triệu đại nhân, ngài muốn hỏi điều gì? Ta biết sẽ nói."

"Số bạc giấu ở Đại Hạ mà Ngạc Khắc Thiện nói là sao?"

"Ta cũng đoán được ngài sẽ hỏi cái này, lần trước ta từng nói có người cho ta người, cho tiền, còn nói ta phải kiên nhẫn chờ đợi, chờ đến một ngày Ngạc Khắc Thiện kéo tất cả phiên tộc vào cục diện đối lập với triều đình, đó sẽ là lúc ta báo được thù lớn, đại nhân có nhớ không?"

Triệu Bạch Ngư gật đầu.

"Phần đề chữ trên thư mà người này gửi cho ta luôn chỉ có hai chữ: Tam Yết."

Tam Yết, Tam gia, hiệu của Vương Nguyệt Minh.

"Ta không biết tên húy của người đó, chỉ biết ông ta là người Lưỡng Giang, tự xưng là một thư sinh nghèo, ba năm trước đã mắc bệnh chết rồi, ông ấy lệnh người đưa cho ta một cái hộp gỗ nhỏ, chỉ nói nếu như Ngạc Khắc Thiện chết vì tội danh thông đồng với địch phản quốc do Lâm An quận vương đích thân đến kết liễu ông ấy, thì ta hãy đưa cái hộp này cho người đi cùng với Lâm An quận vương."

Triệu Bạch Ngư cau mày, Vương Nguyệt Minh tính toán không sót đến bước này ư?

"Bảy năm trước, Ngạc Khắc Thiện đã gặp gỡ thương nhân đến từ phía nam nhiều lần, mỗi tháng các chợ đều sẽ bị đóng cửa ba ngày, nhưng ta biết rõ việc trao đổi hàng hóa giữa Nam thương và thương nhân nước Hạ thì không ngừng nghỉ, bốn năm trước Đại Hạ đột kích Phu Châu, tất cả các chợ ở biên cảnh đều đóng cửa cắt đứt việc thông thương với Đại Hạ, nhưng chợ ở Kinh Châu thì mỗi tháng mở cửa ba ngày như thường lệ, ta liền đoán được rất có thể Ngạc Khắc Thiện đang qua lại với nước địch. Đây là tội lớn mất đầu, có thể trở thành cơ hội tốt để hành động một lần lật đổ Ngạc Khắc Thiện, dù có mạo hiểm cũng đáng. Thế nhưng bọn ta ít người thiếu sức, rất nhanh đã bị phát hiện rồi đuổi giết, có một người đã cứu ta trên con phố sầm uất, đó là người của Tam Yết tiên sinh, lần đó cũng là lần đầu tiên ta được gặp gỡ Tam Yết tiên sinh."

"Dường như ông ấy biết rất rõ thân thế, nỗi hận và mưu kế của ta, bao gồm cả việc ta hạ dược vào trong hương đốt nữa, giống như là không có gì mà ông ta không biết hết."

"Tiên sinh nói cho ta biết rằng ta không thể giết Ngạc Khắc Thiện, nhưng Ngạc Khắc Thiện tự rước cái chết vào người, ta chỉ cần chờ thời là được." Giả Long Thiên Châu lộ vẻ suy nghĩ sâu xa, "Tiên sinh không tiết lộ quá nhiều, hình như người mà ông ấy cho ta có liên hệ rất chặt chẽ với Đại Hạ, người đó biết rõ ngôn ngữ chính của Đại Hạ, Nam Cương thậm chí là ngôn ngữ của Đột Quyết... Để tiện liên lạc, ta mới học thêm ngôn ngữ của những nơi đó."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy khoản bạc kia thì sao?"

Giả Long Thiên Châu: "Ta chỉ biết là tiên sinh có một khoản bạc cực lớn đang được giữ ở Đại Hạ, cụ thể là bao nhiêu, lấy bằng cách nào đều nằm trong hộp gỗ mà ông ấy đưa cho ta, Ngạc Khắc Thiện không biết về sự tồn tại của hộp gỗ, cũng chẳng biết ông ta nghe ngóng được tin tức ở đâu, từ ba năm trước đã không ngừng phái người lẻn vào Đại Hạ, muốn tìm cho ra số tiền đó."

Theo như lời Ngạc Khắc Thiện, thì nguyên nhân là do ông ta không ngừng phái người lẻn vào Đại Hạ, phòng tuyến của Thiên Đô Trại mới dễ dàng bị công phá đến như vậy, từ đó dẫn đến trận chiến Thiên Đô Trại, kéo theo một loạt sự kiện phát sinh sau đó.

Triệu Bạch Ngư nhìn Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường: "Ngạc Khắc Thiện muốn hưởng khoản bạc kia một mình nên sẽ không để lộ tin này ra ngoài, ngày đó lão lợi dụng chứng cứ bản thân và Tang Lương Ngọc lén lút qua lại để khuyên Thác Bạt Minh Châu rút binh, Thác Bạt Minh Châu có được chứng cứ dùng để kiềm hãm Tang Lương Ngọc rồi tất nhiên sẽ vội vàng thu quân về triều, chúng ta vẫn còn cơ hội để lấy khoản bạc kia."

Triệu Bạch Ngư như có điều suy nghĩ, hỏi Giả Long Thiên Châu: "Hộp gỗ đang ở đâu?"

Giả Long Thiên Châu cười gian xảo: "Ở trong một tiệm cầm đồ khó ai để mắt tới dưới danh nghĩa của Ngạc Khắc Thiện."

Triệu Bạch Ngư bật cười, thật đúng là vùng tối dưới đèn.

***

Trước khi chết Vương Nguyệt Minh vẫn bắt tay vào tính toán sắp đặt cho chuyện của tận ba năm sau, chiếc hộp gỗ có liên quan đến sự an nguy của hai quốc gia đã được chuộc lại, đang đặt trên bàn trước mặt Triệu Bạch Ngư.

Giả Long Thiên Châu thong thả nói: "Ta sẽ không quấy rầy nữa."

Nói xong thì lui ra khỏi phòng, trong phòng chỉ còn lại Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư đan mười ngón tay lại, hai ngón tay cái vuốt ve lẫn nhau, nhìn hộp gỗ mà mặt không đổi sắc, muốn mở ra nhưng lại không sẵn sàng mở lắm, sống hơn hai mươi năm cuộc đời lần đầu tiên nảy sinh tâm lý phản nghịch không chịu nhận thua.

Nếu như y mở hộp gỗ ra, chẳng phải là sẽ lại bị Vương Nguyệt Minh tính kế hay sao?

Lần trước bị tính kế để đối phó với Xương Bình, lần này muốn lợi dụng y để làm gì nữa đây?

Theo như lời mà Giả Long Thiên Châu thuật lại, ông ta đã nói "Giao hộp gỗ này lại cho người đi cùng Lâm An quận vương", trừ Triệu Bạch Ngư y ra thì còn ai khác nữa?

"Sao lại không mở ra?" Hoắc Kinh Đường hỏi.

Triệu Bạch Ngư mân mê ngón cái, không bằng lòng trả lời lắm.

Hoắc Kinh Đường nhìn thấy dáng vẻ này của y thì đoán ra được ngay đầy chính là sự kiêu ngạo bé nhỏ của kẻ thông minh tuyệt đỉnh, dù có ôn hòa như Triệu Bạch Ngư cũng không tránh khỏi có lúc cũng muốn phân cao thấp với người khác.

"Vì là kỳ phùng địch thủ nên cảm thấy tiếc hận sao?"

"Vương Nguyệt Minh thông minh đến thế cũng không thể triệt tiêu hoàn toàn tội lỗi mà ông ta phạm phải, đúng là ta cảm thấy tiếc, nhưng tiếc là vì chính đấu quan trường năm đó đã khiến cho thiên hạ mất đi một vị quan tốt."

Hoắc Kinh Đường nắm lấy ngón tay của Triệu Bạch Ngư rồi nói: "Ta cũng nghĩ vậy. Nhưng ta tin rằng trên đời này chỉ có một Triệu Bạch Ngư duy nhất dù ngã xuống bùn lầy nhưng trái tim chân thành thì vẫn còn nguyên vẹn."

Hoắc Kinh Đường luôn có thể lặng lẽ an ủi tâm trạng Triệu Bạch Ngư một cách tinh tế và mượt mà trong thời điểm thích hợp, chỉ trong chớp mắt, cảm giác mất hứng khi biết mình bị Vương Nguyệt Minh tính kế của Triệu Bạch Ngư đã hoàn toàn tan thành mây khói.

Triệu Bạch Ngư mở hộp gỗ của Vương Nguyệt Minh ra, thấy bên trong có con dấu, thẻ bài, ba quyển sổ và một lá thư.

Hoắc Kinh Đường lấy con dấu và thẻ bài sang xem, Triệu Bạch Ngư thì xem sổ sách trước rồi mới mở thư ra đọc: "Mong mọi thứ đều tốt đẹp: Triệu đại nhân có thể đọc được thư này, Vương mỗ vô cùng vinh hạnh."

Vừa vào câu đầu đã khiến người ta nổi giận, cũng may là câu thứ hai đi thẳng vào vấn đề chính.

Vương Nguyệt Minh quen thuộc với quan trường và thương trường Đông Nam, Tang Lương Ngọc phái gian tế cải trang thành Nam thương đến Lưỡng Giang cướp đoạt của cải trắng trợn như vậy, làm sao ông ta có thể không biết cho được?

Thế là ông ta bèn cho người điều tra, đuổi theo đến tận biên cảnh Tây Bắc, phát hiện Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện cấu kết, có duyên gặp và cứu giúp Giả Long Thiên Châu.

Có lẽ là vì thương hại, cũng có lẽ vì là một con cờ có ích, Vương Nguyệt Minh bồi dưỡng Giả Long Thiên Châu, thiết lập một ván cờ, chờ đợi người chơi cờ đến.

Có điều Giả Long Thiên Châu và Ngạc Khắc Thiện đều chỉ là việc nhân tiện, mục đích thật sự của Vương Nguyệt Minh chính là phá hủy nước Hạ, bức sát Tang Lương Ngọc, hóa ra năm xưa là do Tang Lương Ngọc không ngừng giật dây để học sinh đi tế Văn miếu, gã là người đã chạy trốn đầu tiên khi quan binh ập đến, không màng quan tâm đến Vương Nguyệt Minh bị què chân mà chạy về Lưỡng Giang, lừa gạt cha mẹ Vương Nguyệt Minh và tất cả các lão đồng hương, nói rằng chuyện tế Văn miếu chọc giận triều đình đều là do một mình Vương Nguyệt Minh trù tính, e rằng sẽ phải chịu đại họa xét nhà diệt tộc, cha mẹ Vương bị dọa đến mức hoang mang lo sợ, có bệnh thì vái tứ phương, cứ thế mà bị quan huyện địa phương nhân cơ hội trả thù riêng.

Tang Lương Ngọc biết sự tình ở phủ kinh đô sớm muộn gì cũng sẽ truyền đến Lưỡng Giang, cho nên bèn lừa gạt lấy hết gia tài nhà họ Vương, nói gã sẽ đến kinh đô hối lộ đại quan cứu Vương Nguyệt Minh, thật ra là cầm số tiền đó chạy trốn sang nước Hạ, lắc mình một cái trở thành quốc sư Đại Hạ đứng trên vạn người.

Vương Nguyệt Minh tốn mấy năm mới tra ra được chân tướng, vẫn luôn tìm cách hại Tang Lương Ngọc thân bại danh liệt, lưu lại tiếng xấu trong sử sách.

Thực tế, từ cách đây mười lăm năm, Vương Nguyệt Minh đã sắp đặt mọi thứ ở Đại Hạ, mãi đến bảy năm trước phát hiện Tang Lương Ngọc thông đồng với Ngạc Khắc Thiện, ông ta mới xác định con đường sẽ đi sau này.

"Trước đây Vương Nguyệt Minh có giao cho ta sổ sách, trong đó có một khoản tiền lớn không rõ tung tích, sau khi kiểm kê tài sản trong kho phủ của ông ta cũng không có khoản bạc này, ta mới nghi ngờ khoản bạc đó có liên quan đến khoản bạc được đưa vào Đại Hạ mà lúc trước chàng từng nhắc tới, cuối cùng ta vẫn tin tưởng Vương Nguyệt Minh, ông ta khinh thường Tang Lương Ngọc từ tận đáy lòng, nghi vấn cuối cùng đó bây giờ được giải đáp rồi." Triệu Bạch Ngư thở dài nói: "Hóa ra là ông ta đã mở một tiền trang lớn nhất Đại Hạ, một trại ngựa tư nhân dưới chân núi Kỳ Liên, tất cả ngựa ở đó đều là ngựa có thể ra chiến trường, thậm chí còn mở cả một xưởng chế tạo vũ khí nữa!"

Tiền trang kiểm soát chỗ hiểm yếu của Đại Hạ, trại ngựa và xưởng chế tạo vũ khí thì bổ sung toàn bộ khuyết điểm của Đại Cảnh, Vương Nguyệt Minh này thật sự là một người tài giỏi.

Ngựa là một trong những mấu chốt quyết định thắng bại trong chiến tranh, nước Hạ đất nhỏ hiếm của nhưng vẫn có thể trở thành đối thủ khiến Đại Cảnh đau đầu, nguyên nhân lớn nhất chính là nhờ có kỵ binh tốt khó mà địch nổi.

Kỵ binh tọa kỵ, mã như long câu, đây chính là mỹ danh của ngựa chiến Đại Hạ.

Trước đây nước Hạ thần phục Đại Cảnh, sẽ dâng ngựa chiến chất lượng tốt theo kỳ hạn, mà khi nước Hạ đã độc lập, Đại Cảnh mất đi nguồn cung cấp ngựa, kỹ thuật chăm sóc và thuần phục ngựa cũng khác nhau một trời một vực cho nên mới luôn bị cản trở trên chiến trường, dù về sau đã có Hoắc Kinh Đường huấn luyện ra được thiết kỵ Đường Hà, thì thiếu hụt tài nguyên ngựa chiến vẫn là một vấn đề khó giải quyết.

Thứ hai chính là xưởng chế tạo vũ khí, binh khí Đại Cảnh vốn đã vượt bậc thiên hạ, nhưng không biết vì sao nước Hạ tìm được mỏ than dồi dào, kỹ thuật luyện vũ khí ngày càng tăng cao, dần dần vượt qua cả Đại Cảnh, thậm chí thợ ở Đại Cảnh cũng phải học hỏi kỹ thuật luyện kim cao siêu từ nước Hạ.

Hơn nữa, từ mười mấy năm về trước nước Hạ đã phát minh ra nỏ thần ti* và đại bác, cái trước chính là đỉnh cao của vũ khí cá nhân dành cho binh sĩ ở thời này, dù Đại Cảnh có cho người đi ăn trộm kỹ thuật đi chăng nữa thì cũng vì yếu tố nguyên vật liệu cản trở làm không cách nào chế tạo được, cái sau có lực sát thương cực mạnh, tuy nói những năm gần đây Đại Cảnh cũng đã sản xuất đại bác trở lại và sử dụng chúng trên chiến trường, nhưng suy cho cùng thì kỹ thuật và uy lực vẫn có sự chênh lệch rất lớn.

(*) Nỏ thần ti là loại nỏ máy có tầm bắn xa và lực bắn cực mạnh.

Thứ ba là tiền trang, vật tư nước Hạ khan hiếm, những thứ như trà muối đồng sắt gần như không có, đến tiền tệ cũng phải sử dụng tiền đồng và bạc trắng của Đại Cảnh trên quy mô lớn, để hạn chế hiện tượng này, Đại Hạ luôn nỗ lực phát triển tiền tệ của riêng mình, tuy nhiên bọn họ vẫn cần phải trao đổi nhu yếu phẩm và trà muối với Đại Cảnh, mà Đại Cảnh thì lại không nhận tiền tệ nước Hạ.

Đến cuối cùng, tiền tệ chính thức của Đại Cảnh vẫn có được một con đường riêng.

"Một khi tin tức Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện lén lút cấu kết với nhau được truyền sang Đại Hạ, triều đình nước Hạ ắt sẽ rung chuyển, rơi vào thời kì chính trị đoạt trữ sẽ càng bấp bênh hơn. Nếu như có thể thu tiền trang lại, một lượng tiền lớn chảy trở về, chắc chắn dân oán sẽ sục sôi, nhân cơ hội này giành lại cả xưởng chế tạo binh khí và trại ngựa nữa..." Hoắc Kinh Đường nói: "Trời phù hộ triều ta."

Triệu Bạch Ngư cau mày: "Đời sống nhân dân nhiều gian khổ, chỉ sợ chiến tranh bùng nổ thôi." E là sắp sửa nổi lên một trận đại chiến ngắn nhưng vô cùng dữ dội.

"Thế nên trước đó chúng ta phải hoàn thành sách lược ứng đối một cách vẹn toàn." Hoắc Kinh Đường nắm chặt tay Triệu Bạch Ngư, nhìn sâu vào mắt y rồi mới nói: "Ta cần phải đến Đại Hạ một chuyến."

Chương 101

Tiền và ngựa chiến, đặc biệt là thợ và bản vẽ binh khí trong xưởng chế tạo đều là kho tàng có giá trị liên thành, có thể sẽ trở thành vận nước trăm năm của Đại Cảnh, dù thế nào đi nữa thì Hoắc Kinh Đường cũng không thể bỏ qua.

Triệu Bạch Ngư không khuyên được, cũng sẽ không khuyên hắn, chỉ dặn dò hắn chú ý an toàn và phải bình an trở về.

Hoắc Kinh Đường xoa mặt Triệu Bạch Ngư rồi cười, "Trong lòng ta có tiểu lang, nào dám dốc sức liều mạng?"

Triệu Bạch Ngư: "Ta đợi chàng về."

Hoắc Kinh Đường ôm Triệu Bạch Ngư hít sâu một hơi, vô cùng kiên định nói: "Sau lần này, hai ta nhất định phải từ quan bỏ chạy đấy nhé!"

Triệu Bạch Ngư bật cười, vỗ lưng Hoắc Kinh Đường thuận miệng an ủi đôi ba câu.

Hắn cũng nói tới nói lui câu này nhiều năm lắm rồi, hùa theo mấy câu thì có sao đâu?

Có năm mươi thiết kỵ Đường Hà đi theo Hoắc Kinh Đường đang chờ ở phía trước, mà Hoắc Kinh Đường thì cứ lề mà lề mề dính lấy Triệu Bạch Ngư, dù sao cũng chẳng có ai dám thúc giục, trong lòng họ đều thầm cảm thán chỉ có mỗi tiểu Triệu đại nhân mới có thể khiến cho tướng quân trông chẳng khác gì si nam oán nữ* trên đời này thôi.

(*) Si nam oán nữ – 痴男怨女 : chỉ những đôi yêu thương sâu đậm nhưng không được như ý.

Triệu Bạch Ngư: "Ta thấy trời u ám lắm, chỉ e chiều nay sẽ có một trận tuyết nữa, mau lên đường để còn kịp tìm nhà trọ để nghỉ chân trước khi tuyết rơi, không thôi là phải ngủ ngoài rừng núi hoang vắng đấy."

Hoắc Kinh Đường: "Ta chịu đựng được, bọn họ cũng chịu được."

Triệu Bạch Ngư: "Nhưng ngựa không chịu được, lương khô cũng vậy, đến lúc đó đội trời lạnh gió tuyết mà đi không nói, cắn miếng lương khô còn rụng luôn cả răng thì chàng nói xem chàng vẫn quay về gặp ta được sao?"

Nếu như Hoắc Kinh Đường vô cùng chú ý đến hình tượng trước mặt tiểu Triệu đại nhân mà thiếu mất một cái răng, chỉ sợ từ nay về sau hắn không dám nhe răng cười nữa mất.

Hoắc Kinh Đường buồn bực trong lòng, thấp giọng đáp lại mấy câu, sau đó dặn Chiết Thanh Phong bảo vệ Triệu Bạch Ngư, rồi lại nói với y: "Cả nhà Chiết Thanh Phong đều là tướng sĩ, biết rõ thành phòng tuyến và địa hình Tây Bắc, là người trung hậu nhưng dụng binh như thần, cũng quen thuộc với phân bố lực lượng, thực lực của phiên binh và tập tục của phiên tộc, nếu như gặp phải vấn đề khó giải quyết thì có thể cho gọi hắn."

Triệu Bạch Ngư: "Ta biết rồi."

Dặn dò xong, Hoắc Kinh Đường mới xoay mình lên ngựa, siết chặt dây cương quát lên một tiếng, ngựa phi dũng mãnh như thần, thoáng chốc đã chạy về phía phương xa,

Triệu Bạch Ngư thấy vậy, vô thức chạy về phía trước vài bước, vẫy tay liên tục cho đến khi đoàn người ngựa biến mất khỏi đường chân trời, trên mặt mới hiện lên vẻ không nỡ.

Gió đông xào xạc, trời xa vạn dặm, tuyết phủ đồng hoang, ngày ngắn mây mờ, cảm giác quạnh vắng tràn ngập trong lòng.

Triệu Bạch Ngư thở dài một hơi trút hết phiền muộn trong lòng, phấn chấn tinh thần rồi mới bắt tay vào xử lí phiền phức mà Kinh Nguyên để lại.

"Về thôi."

Chiết Thanh Phong theo sau Triệu Bạch Ngư quay về Kinh Châu.

***

Phủ kinh đô, điện Văn Đức.

Tin thắng lợi từ Tây Bắc đặt trên bàn, Nguyên Thú đế hiếm khi thả lỏng chơi đùa với nhẫn ban chỉ, nhìn xa xăm để giải tỏa tâm trạng, ba người gồm Khang vương, Trần Sư Đạo và Triệu Bá Ung lần lượt xuất hiện phía dưới, nhìn là biết bọn họ đã sớm thăm dò được tin tức Ngạc Khắc Thiện ngã ngựa từ Tây Bắc, đến đây chỉ để hỏi thăm tình hình cụ thể mà thôi.

Ba người chắp tay: "Vi thần tham kiến bệ hạ."

"Ừ." Tâm trạng của Nguyên Thú đế rất tốt, không muốn làm khó bọn họ, cầm lấy tin thắng lợi ném xuống: "Xem đi."

Triệu Bá Ung cướp được trước rồi mở ra xem, hai người còn lại nghiêng đầu sang đọc nhanh như gió.

Trần Sư Đạo vô cùng kích động: "Không uổng một binh lính nào vẫn khiến cho phiên tộc tự giết lẫn nhau, Ngạc Khắc Thiện không trốn nổi tội thông đồng với địch phản quốc, trì hoãn quân tình, dối trên gạt dưới, xét nhà diệt tộc là còn nhẹ đấy, thân tộc trải rộng khắp tất cả thị tộc của phiên tộc Tây Bắc, nếu như tru di cửu tộc e là sẽ khiến phiên tộc lâm vào khủng hoảng mất, nhưng có thể lấy cớ này chấn chỉnh thị tộc Tây Bắc, triều đình cũng có thể tiến thêm một bước khống chế phiên binh, làm suy yếu binh quyền trong tay bọn họ!"

Triệu Bá Ung cũng khen ngợi: "Hay cho bọ ngựa bắt ve chim sẽ chực sẵn, thậm chí ngũ lang còn chẳng ra mặt mà đã khiến cho phiên tộc gắn bó chặt chẽ trăm năm tan rã, giải quyết mối hoạ Tây Bắc to lớn trong lòng triều đình, ngược lại để nó trở thành một trợ lực mạnh mẽ!"

Mắt thấy lão lại sắp tái phát căn bệnh thao thao bất tuyệt khen Triệu Bạch Ngư, Khang vương vội vàng lên tiếng chặn lời: "Ngạc Khắc Thiện bị xử tử, cần phải nhanh chóng xác định vị trí đại thủ lĩnh, trong tấu cũng có thỉnh cầu bệ hạ phong Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long. Tuy nói trước giờ chưa từng có nữ thủ lĩnh, nhưng bổ nhiệm cho Giả Long Thiên Châu chính là bước đột phá để triều đình can thiệp vào việc chọn lựa thủ lĩnh cho tất cả các thị tộc phiên tộc kể từ này về sau. Ta cũng cần phải ủy nhiệm Nguyên soái mới cho nhánh binh Kinh Nguyên, còn Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng dù có ít tài lại trị nhưng điều binh khiển tướng thì dốt đặc cán mai, phụ thuộc Ngạc Khắc Thiện, về sau còn giấu giếm tình hình chiến sự, gián tiếp gây ra thương vong cho tướng sĩ hai trại Thiên Đô và An Ninh, phái tháo mũ cánh chuồn, đoạt lại công danh, cách chức làm thứ dân."

Thật ra hành vi phạm tội của Mông Thiên Túng tương đương với tội chém đầu răn chúng, tuy nhiên Đại Cảnh đối xử rất nhân từ với tướng lĩnh và văn thần đóng giữ biên cảnh, dù phạm tội cũng không phạt tử hình.

Nhưng cái gọi là từ bất chưởng binh đó đã nuôi dưỡng ra vô số quan liêu lười biến không làm tròn trách nhiệm ở biên cương.

Vốn tưởng Nguyên Thú đế sẽ đồng ý với lời khuyên của ông, không ngờ phán quyết lại là: "Mông Thiên Túng tự cao tự đại, không hiểu bài binh bố trận, học thức nông cạn mà còn không chịu lắng nghe ý kiến của các tướng phía dưới, binh bại thì bỏ trốn, cùng Ngạc Khắc Thiện dối gạt triều đình, biết rõ Ngạc Khắc Thiện chấp nhận hòa đàm với Thác Bạt Minh Châu rồi mà vẫn giữ kín không nói ra, thế cũng chẳng thua gì thông đồng với địch phản quốc, không giết chết thì quả là có lỗi với mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại."

Ba người bên dưới đều khiếp sợ, sau đó lại vui vẻ từ tận đáy lòng, đã đến lúc phải nổi trận lôi đình với đám quan liêu ở biên cảnh kia rồi.

Triệu Bá Ung tiếp lời: "Họa phiên tộc đã giải quyết xong, Tây Bắc không còn chiến sự, có phải bệ hạ nên cho gọi ngũ lang... Kinh lược sứ về triều rồi không? Tây Bắc trời đông lạnh giá, suy cho cùng cũng không phải là nơi có thể ở lại lâu, Kinh lược sứ lại có nội thương, nếu như hàn khí thấm vào cơ thể, vết thương cũ tái phát mà nơi ấy không có đủ thuốc thang và thái y thì phải làm sao đây?"

Nguyên Thú đế muốn nói thái y đã từng đảm bảo Triệu Bạch Ngư không có nội thương rồi, nhưng mấy người ở dưới đều tự coi mình là trưởng bối của Triệu Bạch Ngư, thương yêu đến nỗi mù quáng luôn rồi, sợ hãi nên cứ bắt bẻ y thuật của thái y không thạo, rồi cứ luôn miệng càm ràm... Bỏ đi bỏ đi.

"Bây giờ tuyết rơi kín đường rồi, sông cũng kết băng, chờ đến đầu xuân đi. Vừa hay Kinh Nguyên đang cần người trấn giữ, đến đầu xuân chắc là sẽ ổn định hơn, lúc đó rồi về."

Ông vừa dứt lời, những người còn lại không dám nói gì nữa.

***

Mùa đông khắc nghiệt, đất trời đều là tuyết.

Triều đình đã cho ra kết quả xử lý phiên tộc, Kinh Nguyên và gửi lời khen ngợi Triệu Bạch Ngư, Mông Thiên Túng bị giải vào đại lao, đưa Thông phán Kinh Châu lên vị trí Tri phủ.

Trong phòng đốt than nên ấm áp hơn nhiều, nhưng Triệu Bạch Ngư chôn cả người mình trong áo choàng lông cáo vẫn cảm thấy lạnh, tay chân không chịu nổi đông cứng lại cả rồi mà mỗi ngày vẫn kiên trì xử lý công việc cả hai mặt quân chính của Kinh Nguyên, sẵn tiện chờ đợi tin tức từ Đại Hạ.

Lúc này Chiết Thanh Phong vén rèm đi vào nói: "Triều đình Đại Hạ đã lung lay dữ lắm rồi, Thác Bạt Minh Châu thắng trận về triều gia nhập cuộc chiến đoạt trữ, nhưng Tang Lương Ngọc luốn đối đầu với hắn lại yên tĩnh đến lạ. Nửa tháng trước, Đại vương tử Đại Hạ bỗng nhiên phát động bức vua thoái vị, binh bại ngay cửa cung, bị Ngũ vương tử chém chết tại chỗ, mẫu phi và nhà cậu của Đại vương tử đều bị liên lụy, một Ngũ vương tử chẳng có tiếng tăm gì đột nhiên vùng lên trở thành đối thủ mạnh cạnh tranh với Thác Bạt Minh Châu. Điều kì lạ nhất chính là đã đến lúc này rồi mà Tang Lương Ngọc lại đóng cửa phủ Quốc sư, nói là cầu phúc cho bệ hạ, không hề hỏi đến sự tình trong triều."

Báo cáo xong, gã mới cảm thán: "Đường đoạt trữ bất ngờ thay đổi, còn chưa đến giây cuối cùng thì không biết được kết quả."

Triệu Bạch Ngư quấn chặt áo choàng lông chỉ chừa mặt ra ngoài, màu da trắng như ngọc, lúc này y mới rũ mắt nói: "Hoàng đế Đại Hạ không còn sống lâu được nữa, chậm nhất là đầu xuân sẽ có kết quả."

Chiết Thanh Phong: "Là thế nào?"

Triệu Bạch Ngư: "Tang Lương Ngọc không thể không hành động, trong lòng ông ta biết rõ một khi Thác Bạt Minh Châu ngồi lên cái ghế kia, thì người đầu tiên bị đưa ra chặt đầu chính là ông ta. Nhưng Thác Bạt Minh Châu đã nắm được nhược điểm của ông ta, ông ta không thể hành động nên sẽ giúp đỡ những người khác... Không một vương tử nào có thể từ chối cành ô liu mà Tang Lương Ngọc ném tới cả, có điều Tang Lương Ngọc là người Đại Cảnh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị các vương tử ngoại thích qua cầu rút ván, chỉ có thể chọn đẩy những vương tử thế đơn lực bạc lên cái ghế kia thôi, như vậy mới tiện bề hành động."

Chiết Thanh Phong đã rõ: "Nhà mẹ của Ngũ vương tử không hiển hách, vốn không thể có được phần thắng đoạt trữ cho nên mới là sự lựa chọn tốt nhất, Tang Lương Ngọc đóng cửa không ra ngoài, thực tế đang điều khiển triều đình, không động chính là động, không tranh chính là tranh, nhưng vì sao Triệu đại nhân lại khẳng định đầu xuân sẽ có kết quả?"

Triệu Bạch Ngư: "Ghi chép buôn bán ở các chợ ven biên giới cho thấy thương nhân Đại Hạ mua chủ yếu là vải sợi trắng, số lượng đèn bơ cũng tăng mạnh, mà vải sợi trắng dùng để làm đồ tang, đèn bơ thì hẳn là để Đại Hạ cúng người chết lúc chôn cất. Khứu giác của thương nhân rất nhạy, nhất định là bọn họ đã nhận ra, còn vì sao là đầu xuân thì... Vương tử tranh ngai vàng cần thời gian, có điều bây giờ vẫn đang giằng co chưa dứt, trừ phi có người phá vỡ được cục diện bế tắc này mới thôi."

Chiết Thanh Phong im lặng nghe y phân tích, vừa sợ vừa thán phục trước sự hiểu biết về thế cục Đại Hạ của Triệu Bạch Ngư, tuy không biết được tình tình thật giả ra sao, nhưng lời y nói có tình có lý, tin tưởng cũng không sao.

Triệu Bạch Ngư suy nghĩ, lập tức cầm bút lên viết mấy câu vè rồi giao cho Chiết Thanh Phong: "Có thể tìm cách để câu vè này truyền đi khắp phủ Hưng Khánh không?"

Phủ Hưng Khánh là thủ đô của Đại Hạ.

Chiết Thanh Phong xem thử rồi gật đầu: "Có thể." Rồi gã nói: "Mấy câu vè này chỉ thẳng Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện, ngầm nói ông ta lén lút qua lại Đại Cản, đại nhân muốn mượn nó để tấn công Tang Lương Ngọc sao? Nhưng mà đây cũng chỉ là tin đồn thất thiệt, không có chứng cứ, không thể làm gì Tang Lương Ngọc được."

Triệu Bạch Ngư mỉm cười, "Không có lửa làm sao có khói, tin đồn mạnh nhờ thổi phồng. Còn nữa, ngươi nói xem vì sao Thác Bạt Minh Châu đã bắt được nhược điểm của Tang Lương Ngọc rồi mà không dám lấy chúng để kéo Tang Lương Ngọc xuống ngựa? Bởi vì hắn biết rõ khi đưa những chứng cứ này ra thì chỉ càng thúc đẩy tiếng tăm của Tang Lương Ngọc lên cao hơn mà thôi, đừng quên Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện là để dùng bạc Đại Cảnh phát triển kinh thế Đại Hạ, tạo phúc cho triều đình Đại Hạ. Sở dĩ Tang Lương Ngọc sợ hãi là sợ Thác Bạt Minh Châu cắt câu lấy nghĩa, tung lời đồn ra, nói ông ta là người Đại Cảnh, và việc ông ta qua lại với Ngạc Khắc Thiện nhiều năm là sự thật, nếu như hắn gây khó dễ có chừng mực thì sẽ có thể dẫn dắt triều thần bắt tay nhau đoạt lại quyền lực trong tay ông ta, hoặc là giam cầm ông ta lại. Mặc dù không thể giết trong một lần hành động, nhưng đủ để tạm thời ép Tang Lương Ngọc lui khỏi chiến trường đoạt trữ. Chỉ cần một chút thời cơ thôi, bỏ qua cơ hội đoạt trữ, dù có được trả lại trong sạch thì ngày sau triều đình Đại Hạ cũng tuyệt không để cho Tang Lương Ngọc được sống yên ổn."

Chiết Thanh Phong đã hiểu.

Chẳng trách Thác Bạt Minh Châu đã có thể uy hiếp Tang Lương Ngọc nhưng lại không dám thừa cơ giết chết, trước đây cũng cảm thấy thắc mắc, Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện rõ ràng rất có lợi cho Đại Hạ, làm sao ông ta vẫn có thể bị cản trở cho được.

Hóa ra là vì chuyện đoạt trữ.

Triệu Bạch Ngư lại nói: "Tung ra lời đồn vào lúc này chính là để uy hiếp Tang Lương Ngọc, ông ta không thể điều tra ra ngọn nguồn, ngươi nói xem ông ta sẽ đoán là ai hại mình?"

Chiết Thanh Phong gật như bật thốt ra: "Thác Bạt Minh Châu!"

Triệu Bạch Ngư: "Thác Bạt Minh Châu không tuân thủ ước định, tự tiện ra tay, ngươi đoán thử Tang Lương Ngọc có đánh trả lại không?"

Chiết Thanh Phong: "Có!" Không chờ Triệu Bạch Ngư tiếp tục dẫn dắt, gã đã nói trước: "Tang Lương Ngọc đánh trả, Thác Bạt Minh Châu sẽ không thờ ơ, hắn có thể đoán ra được lời đồn, nhưng sợ hãi dồn nén nhiều năm sẽ khiến cho hắn phản ứng quá khích, không thể chờ đến khi tra rõ chân tướng hoặc dứt khoát từ bỏ, hắn sẽ tấn công Tang Lương Ngọc, bởi vì trong lòng hắn cũng biết Ngũ vương tử đã trở mình vùng dậy, sau lưng còn có bóng dáng Tang Lương Ngọc. Thay vì đối phó với một con rối, chi bằng trực tiếp giết chết kẻ giật dây núp phía sau!"

Triệu Bạch Ngư: "Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn dù bị Tang Lương Ngọc cố gắng nhắm vào vẫn có thể đợi thời trở lại chứng tỏ năng lực của bọn họ không kém, có lẽ họ đủ sức chèn ép Tang Lương Ngọc đến bước đường cùng."

Dường như nhớ ra gì đó, y líu ríu nói: "Ta lại rất tò mò "tên điên Tang Lương Ngọc" mà Ngạc Khắc Thiện nói có thể điên đến mức nào? Đó chính là kẻ thù mạnh nhất đã quang minh chính đại khiến cho Vương Nguyệt Minh thất bại, ta khó mà không tò mò cho được."

Lấy lại tinh thần, Triệu Bạch Ngư dặn dò: "Khí hậu cũng ấm áp hơn nhiều rồi, bảo các ngươi đi thu gom lương thực, nước và vật tư, đã chuẩn bị xong hết chưa?"

Chiết Thanh Phong gật đầu: "Từ trước lúc tuyết rơi nhiều chặn kính đường, bọn ta đã chọn mua lương thực từ nam thương trữ trong kho lương từ sớm rồi, hơn ba mươi giếng nước trong thành cũng đã cho người đến trông coi, băng cũng đã được gọt ra từ sông băng đang được trữ ở hầm ngầm, các vật tư còn lại cũng đều đã chuẩn bị xong, có điều thời gian gấp rút quá, hơn nữa nơi này xa xôi, dù có cố hết sức chuẩn bị thì số lượng vẫn không nhiều."

Triệu Bạch Ngư hỏi số lượng, tính toán rồi nói: "Cũng không tệ lắm. Đi làm việc đi."

Chiết Thanh Phong nghe lệnh làm việc.

Chiết Thanh Phong đi rồi, Triệu Bạch Ngư mới cau mày lộ ra sắc mặt nghiêm trọng.

Y không dám coi thường Tang Lương Ngọc, có thể dùng thân phận dị tộc leo lên vị trí Quốc sư thì chắc chắn là người rất khôn ngoan, chiêu trò nhỏ như tung lời đồn này không thể lừa Tang Lương Ngọc.

Điều mà Triệu Bạch Ngư đánh cược chính là liệu rằng hai con chim sợ cành cong Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn sợ Tang Lương Ngọc đến mức nào, cược cả những người mà Vương Nguyệt Minh để lại Đại Hạ có quyết thề không thay lòng hay không.

***

Phủ Hưng Khánh, thủ đô Đại Hạ

Phủ Quốc sư.

Quản gia cầm mấy tờ giấy trong tay từ bên ngoài chạy vội vào thư phòng, mà trong phòng có một người đàn ông trung niên khoác áo choàng, dáng vẻ tiên phong đạo cốt đang nghiêm túc xem bản đồ Đại Hạ, không ngẩng đầu lên mà hỏi.

"Chạy gì mà chạy?"

Người này chính là Tang Lương Ngọc.

Quản gia vội vàng đưa giấy tới: "Đầu đường cuối xóm đều xuất hiện câu vè này, đã hát được ba ngày rồi, bây giờ thư sinh võ tướng trong các quán trà quán rượu đều đang truyền tai nhau, chắc là quý tộc trong kinh đô cũng biết rồi."

Tang Lương Ngọc cầm lấy xem, sắc mặt lập tức lạnh xuống.

Quản gia: "Có phải là do Nhị vương tử phái người...?"

"Không phải hắn. Hắn và Cao Di Sơn đều không ngu, chúng biết rõ thả tin trong giờ phút quan trọng này không được lợi lộc gì, là có người hãm hại."

Quản gia: "Ngoại trừ Nhị vương tử thì còn ai biết nữa?"

Tang Lương Ngọc nghiêm mặt nhìn bản đồ, một lúc sau mới hỏi: "Ngạc Khắc Thiện bị chém chết rồi à?"

Quản gia: "Đã là chuyện tháng trước rồi, không phải ngài đã biết sao?"

Tang Lương Ngọc thở dài một hơi: "Triệu Bạch Ngư... Ngươi nói xem có phải là ta coi thường Triệu Bạch Ngư quá rồi không?"

Quản gia: "Đại nhân có tài ngang dọc trời đất, Triệu Bạch Ngư kia chẳng có công danh gì, nhờ mấy năm trước gả vào phủ quận vương thanh danh mới lên cao thôi mà? Ngài xem thường y là vì ngài có tự tin, có tư cách, còn để lão nô nghĩ thì Triệu Bạch Ngư kia bàn về đánh chiến, quan trường, mưu lược lẫn lòng người đều không bằng ngài."

Tang Lương Ngọc: "Nhưng Vương Nguyệt Minh đã thất bại dưới tay y rồi."

Quản gia: "Nhưng Vương Nguyệt Minh cũng thua dưới tay ngài đấy thôi."

Tang Lương Ngọc chỉ tay vào bản đồ, nheo mắt lại nói: "Vương Nguyệt Minh thua là vì bị người ta tính kế, nhưng tính cách và mưu lược của ông ta hơn ta rất nhiều. Một thư sinh què quặt vẫn có thể hô mưa gọi gió suốt ngần ấy năm ở Lưỡng Giang... Có thể tra ra sự thật năm đó được không? Có trả thù ta được không? Ta và ông ta xa cách hai mươi năm, ta không thể đoán được suy nghĩ của ông ta, ông ta sẽ làm cách nào để trả thù ta?"

Quản gia: "Vương Nguyệt Minh kia quyền cao đến đâu thì cũng chỉ là một người có chút tiếng tăm trong thương trường Lưỡng Giang mà thôi, lấy tiền khai thông quan trường, chẳng phái đã chịu kết cục thân bại danh liệt rồi hay sao? Thủ đoạn thông thiên đến mức nào mà có thể trả thù được người đứng trên vạn dân như ngài ở Đại Hạ xa xôi này chứ?" Liếc nhìn bản đồ và tờ giấy, lão nhắc lại: "Đại nhân, ta phải nhanh chóng giải quyết lời đồn thôi, cẩn thận có người đem nó đi làm văn đấy. Về phần Nhị vương tử... Không quan tâm có phải do hắn làm hay không, cũng nên khều một cái, để cho bọn chúng đỡ phải thắc mắc ai mới là chủ của triều đình Đại Hạ này!"

"Thác Bạt Minh Châu không đủ để gây sợ hãi." Tang Lương Ngọc nhàn nhạt lên tiếng: "Ta nhớ ở Đại Hạ có bốn xưởng chế tạo vũ khí đúng chứ?"

Quản gia: "Đại nhân nhớ nhầm rồi, Đại Hạ chỉ có bốn xưởng chế tạo, chia ra ba nơi là Hưng Khánh, Tây Bình và Tây Lương."

Tang Lương Ngọc lắc đầu: "Năm Sùng Tông thứ tám, huyện Cô Tang phát hiện được một mỏ than cho nên đã bí mật xây dựng một xưởng chế tạo vũ khí ở đó, dùng mỏ than đó cung cấp cho cả nước, đến năm Sùng Tông thứ mười hai, mỏ than bị khai thác sạch, xưởng chế tạo vũ khí cũng bị bỏ đi, nhưng gần đây lúc rảnh rỗi ta có xem tấu tiêu thụ dòng chảy của các huyện trong phủ trình lên, phát hiện được điều kì lạ."

Quản gia tò mò: "Kì lạ ở đâu?"

Tang Lương Ngọc: "Mười lăm năm trước, có thương nhân họ Vương mua một ngọn núi ở huyện Cô Tang để trồng quýt."

Quản gia không nhịn cười được: "Trồng quýt ở Tây Lương là lỗ vốn tuột khố luôn đấy không phải sao?"

Tang Lương Ngọc: "Đúng vậy, nhưng mà nó vẫn giúp chủ kiếm được bộn tiền, thuế kinh doanh nộp hàng năm luôn cố định ở một con số, mà con số này lại không thay đổi trong mấy chục năm trời! Làm sao có thể không nhìn ra vấn đề chứ? Ta phái vài người đến huyện Cô Tang phủ Tây Lương xem thử, trong lòng của ta bất an, bất an vô cùng."

Kể từ khi Triệu Bạch Ngư bắt đầu trảm hơn phân nửa quan trường Đông Nam, Tang Lương Ngọc đã cảm thấy mọi chuyện không như ý, Vương Nguyệt Minh vốn đã chết rồi, lẽ ra họa lớn trong lòng đã bị khai trừ, ông ta phải được sống an nhàn rồi mới đúng, nhưng không ngờ vẫn còn một số tiền lớn vào sổ, vẫn còn tai họa ngầm Ngạc Khắc Thiện, ngay cả hai con tôm tép Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn cũng nắm được nhược điểm của ông ta.

Ba năm qua, triều đình rung chuyển, quý tộc tranh quyền đoạt lợi, vơ vét tài sản quốc gia một cách trắng tợn khiến cho dân chúng vào chẳng bằng ra, đáng sợ hơn nữa chính là tiền tệ Đại Cảnh còn lưu thông nhiều hơn cả tiền Đại Hạ, mà tiền trang Đại Thông có thể đổi tiền Đại Cảnh lại không chịu sự quản lý của quốc gia.

Đã vô số lần Tang Lương Ngọc có ý đồ nạp tiền trang Đại Thông vào quyền sở hữu của quốc gia nhưng đã bị quý tộc trong triều ngăn cản, đến cả bệ hạ cũng nghi ngờ tấm lòng của ông ta.

Từ lâu bọn họ đã được tiền trang Đại Thông đút no tiền, sợ rằng nếu như nó bị sáp nhập vào triều đình thì sẽ không moi được một xu nào nữa.

Kết quả là ngồi nhìn tiền trang Đại Thông lớn mạnh, qua lại với quý tộc thân hào, nếu như đột nhiên nổi loạn chỉ sợ dân chúng sẽ lầm than, nó cũng có thể phá hủy chính quyền chỉ trong khoảnh khắc, ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia.

"Các thám tử được phái đi điều tra người đứng sau bức màn của tiền trang Đại Thông trở về, nói rằng đã thấy Thác Bạt Minh Châu bỏ vốn ủng hộ, cũng muốn kiếm ít công lao." Tang Lương Ngọc khó nén được sự tàn nhẫn trong ánh mắt, "Đi nghe ngóng nơi ở của ông chủ Đại Thông đi, sau khi lấy được con dấu quản lý tiền trang thì giết chết!"

Quản gia: "Tuân mệnh!"

***

Ông chủ tiền trang Đại Thông vừa mới gặp mặt nói chuyện với Thác Bạt Minh Châu xong đã bị ám sát tại chỗ ở, sau đó được một nhóm người khác cứu đi, tin tức này khiến cho Thác Bạt Minh Châu bị chấn động.

Thác Bạt Minh Châu lần theo dấu vết trên người của kẻ hành thích thì tra được chúng đến từ phủ Quốc sư, trong lòng rõ ràng đây chính là lời cảnh cáo của Tang Lương Ngọc trước hành động của hắn, thế là ruột gan rối bời nói với Cao Di Sơn: "Ta đã từng nói mặc dù lời đồn kia không xuất phát từ chỗ chúng ta, nhưng Tang Lương Ngọc chắc chắn vẫn sẽ cắn chặt cái cớ này để ra tay mà!"

Cao Di Sơn cũng có hơi bàng hoàng, có điều ông ta nhanh chóng bình tĩnh lại, tỉnh táo trả lời: "Nếu như Tang Lương Ngọc ra tay, chúng ta sẽ dứt khoát nói ra chuyện ông ta tư thông với nước địch ở trước mặt bệ hạ."

Thác Bạt Minh Châu: "Nhưng phụ hoàng rất tin tưởng tên tà đạo Tang Lương Ngọc này!"

Cao Di Sơn: "Hoàn toàn ngược lại, từ trước đến nay bệ hạ luôn phòng bị Tang Lương Ngọc, cùng lắm là lợi dụng ông ta để đối phó với quý tộc Đại Hạ thôi. Giờ này bệnh tình của bệ hạ đã nguy kịch, điều mà ngài ấy lo nhất chính là để ngoại thích tham gia vào chính sự và Tang Lương Ngọc cướp nước. Dù là ngài hay Ngũ vương tử đều không có mẫu tộc hiển hách, hơn nữa cũng đã đến tuổi hiểu chuyện, không phải lo lắng về họ ngoại, vậy nên chỉ còn sót lại mầm họa là Tang Lương Ngọc mà thôi! Diệt trừ Tang Lương Ngọc, không ai có thể thoát chết tội thông đồng với địch phản quốc cả."

Thác Bạt Minh Châu hơi đổi ý: "Vậy thử xem, ta sẽ vào cung một chuyến."

Cao Di Sơn: "Gặp được bệ hạ rồi, điện hạ phải ăn ngay nói thật đấy."

Thác Bạt Minh Châu hơi khó hiểu: "Ăn ngay nói thật là nói tốt cho Tang Lương Ngọc à?"

Cao Di Sơn lắc đầu, vẫn kiên nhẫn giải thích: "Điện hạ chỉ cần nhớ kỹ một câu thôi, bệ hạ muốn diệt Tang quốc sư."

Thác Bạt Minh Châu động não, thoáng chốc đã hiểu.

Cao Di Sơn thấy thế rốt cuộc cũng an tâm, Vĩnh An đế biết rõ phải làm thế nào mới giết được Tang Lương Ngọc hơn cả Thác Bạt Minh Châu.

***

Thác Bạt Minh Châu vào cung một chuyến, nói hết chuyện Thiên Đô Trại, bao vây Kinh Châu cùng với nội dung cuộc hòa đàm của hắn và Ngạc Khắc Thiện cho Vĩnh An đế Đại Hạ, không giấu giếm một chuyện nào.

Vĩnh An đế nằm trên giường bệnh không ngồi dậy nổi, chỉ duỗi một tay ra khỏi rèm che vẫy vẫy, có một thái giám tiến lên nói: "Nhị vương tử, bệ hạ đã biết rồi. Cứ để chứng cứ lại đây, ngài đi về trước đi."

Thác Bạt Minh Châu do dự một chút rồi mới đứng dậy rời đi.

***

Ngày hôm sau tảo triều, ngôn quan lấy bài vè trên phố để vạch tội Tang Lương Ngọc qua lại với nước địch, nói là không có lửa làm sao có khói, nếu như tin đồn đã lan khắp bốn phía thì ắt phải có nguyên nhân.

Dù có vô tội thì vẫn cần phải tra.

Ngôn quan khuyên can bị bác bỏ.

Ngày thứ hai, trong triều có thêm nhiều đại thần vạch tội hơn nữa, vẫn bị bác bỏ.

Ngày thứ ba, ngôn quan tiếp tục buộc tội, trình lên thư từ qua lại giữa Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện, chữ viết không phải là giả.

Giám quốc Tể tướng lệnh cho người truyền gọi Tang Lương Ngọc đến đối chiếu, người nọ ngoài câu "thanh giả tự thanh" ra thì không nói thêm gì nữa, vì vậy nên bị giam vào đại lao Hình bộ, đợi chờ tra rõ.

Đương nhiên là không có cơ hội điều tra, chỉ thu thập được những chứng cứ ông ta tùy tiện ngụy tạo, Tang Lương Ngọc giống hệt như cá trên thớt.

Thế nhưng đến ngày thứ tư, trong phủ Hưng Khánh có một bài vè được truyền khắp phố lớn ngõ nhỏ, nói rằng Ngạc Khắc Thiện thông đồng với địch phản quốc nên đã bị chém chết, mà Tang Lương Ngọc phải chịu khổ vận chuyển vật tư từ Đại Cảnh vào Đại Hạ để nâng cao năng lực kinh tế của quốc gia.

Cũng cùng lúc đó, người của Tang Lương Ngọc trong triều huy động toàn lực hành động.

Vừa phải nghĩ cách cứu Tang Lang Ngọc vừa phải nhân cơ hội đả kích Thác Bạt Minh Châu, trách hắn rõ ràng có binh hùng tướng mạnh bao vây phủ Kinh Châu, vì sao không thừa cơ đánh hạ Kinh Châu mà lại đồng ý hòa đàm, hơn nữa chỉ mới đòi bồi thường năm trăm ngàn lượng bạc trắng đã rút quân khỏi Kinh Châu?

Lưỡi dao sắc bị Tang Lương Ngọc siết chặt, lần lượt đâm vào giữa bụng phe Thác Bạt Minh Châu và các thế lực khác, trong lúc phân tranh không ngừng nghỉ, chẳng có ai để ý đến những xao động trong dân gian...

Tiền trang Đại Thông phá sản rồi!

***

Tiền trang Đại Thông có quý tộc làm chỗ dựa, để cho bạc trắng cuồn cuộn chảy vào, đặc biệt là tiền Đại Cảnh.

Phàm là thương nhân muốn đổi tiền Đại Cảnh thì khi đến các chợ ven biên giới, sự lựa chọn số một chính là tiền trang Đại Thông, thậm chí tiền trang Đại Thông còn thuyết phục được quý tộc Đại Hạ gửi tiền của bọn họ lại chỗ mình, hàng năm sẽ tính cho bọn họ tiền lãi hậu hĩnh, cứ thế bảy tám năm liên tục tiền trang càng hưng thịnh, thế cho nên quý tộc thân hào phú thương đều chọn gửi tiền ở tiền trang Đại Thông.

Mà bây giờ, tiền trang Đại Thông phá sản rồi.

Bọn họ vốn nói với bên ngoài rằng ông chủ của tiền trang Đại Thông đã bị ám sát, không trị nổi đã qua đời, cho nên đóng cửa ba ngày để chuẩn bị bàn giao, ba ngày sau sẽ mở cửa trở lại.

Qua ba ngày rồi lại thêm ba ngày nữa, tiền trang Đại Thông vẫn im lìm không mở cửa khiến cho những kẻ gửi tiền trong tiền trang để ăn lãi cảm thấy lo lắng, chỉ đành phá cửa xông vào, vậy mà phát hiện bên trong trống không chẳng còn thứ gì.

Đừng nói chi bạc, dù chỉ một đồng xu cũng không để sót lại.

Chuyện này khiến cho dân tình sôi trào nhưng bọn họ lại là bên chịu ít tổn thất nhất, người dân không có dư dả, hoặc là không đạt đủ tư cách để gửi tiết kiệm tại tiền trang, cho rằng thân hào quý tộc được cho ăn no bụng nhiều năm phát điên chọc thủng khớp xương trên dưới của triều đình trước, quan binh dốc toàn lực truy xét tiền trang Đại Thông, bắt tất cả những kẻ có quan hệ tốt và thường xuyên lui tới lại thẩm vấn, đại ngục liên tiếp nổi lên.

Chỉ trong chốc lát phủ Hưng Khánh gió tanh mưa máu.

Đến cả Thác Bạt Minh Châu cũng hận đến đỏ mắt, bởi vì bạc mà hắn tham ô từ Hộ vẫn còn để ở tiền trang Đại Thông, bây giờ toàn bộ đã mất hết, và hắn thật sự trở thành kẻ nghèo rồi.

Hai mắt Cao Di Sơn cũng đỏ quạch, nói với Thác Bạt Minh Châu đang thất thần: "Bây giờ chỉ có một kế cứu được ta và ngươi thôi."

Thác Bạt Minh Châu túm chặt cọng rơm cứu mạng: "Nói!"

Cao Di Sơn: "Khi đó ai là người ám sát ông chủ tiền trang Đại Thông? Là ai cứu ông ta? Ai muốn gặm cái sọt tiền ở tiền trang Đại Thông này? Là ai đã thượng tấu triều đình đòi sáp nhận tiền trang Đại Thông nhiều lần? Còn ai nữa, ai sẽ giấu tiền mà thân hào quý tộc phủ Hưng Khánh gửi vào tiền trang Đại Thông cho riêng mình?"

Thác Bạt Minh Châu lầm bầm: "Tang Lương Ngọc."

Cao Di Sơn: "Là ông ta!"

Hai mắt Thác Bạt Minh Châu dần sáng lên: "Tang Lương Ngọc là kẻ trộm tiền trong tiền trang sao?"

Cao Di Sơn: "Dù có đúng hay không thì cũng đều phải buộc tội ông ta! Tang Lương Ngọc chính là quốc sư một nước, không chỉ có tài chính trị quân sự mà còn có thiên phú kinh doanh, bao năm nay ông ta đã tích góp được bao nhiêu tiền chứ? Phải chia cắt tài sản của ông ta mới có thể lấp đầy vào chỗ trống này, cả triều văn võ bao gồm cả thân hào đều ủng hộ chúng ta... Điện hạ à, giết một người cứu vạn người, đã đến lúc phải hướng về lòng dân rồi!"

Thác Bạt Minh Châu siết chặt nắm đấm, cố gắng đèn nén cảm xúc sôi trào, ngầm hiểu đáp lại: "Cao tướng, chúng ta phải thanh quân trắc thôi."

***

Cùng lúc đó, quản gia mang theo lời xôn xao của dư luận vào đại lao Hình bộ phủ Hưng Khánh, Tang Lương Ngọc trợn trừng mắt ra.

"Tiền trang Đại Thông phá sản rồi à?" Tang Lương Ngọc không tin nổi: "... Sao có thể như vậy được?"

Ông ta đã từng kiêng dè trước tiền trang Đại Thông, luôn cho rằng tiền trang nằm trong phạm vi nước Hạ, có thể đóng cửa nhưng tuyệt đối không thể bỏ chạy.

Sao có thể chạy được?

Có thương nhân nào lại vứt núi vàng núi bạc mà chạy khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp cơ chứ?

Phải biết tiền trang này làm ăn bằng cách nhận tiền gửi và cho vay, bỏ chạy như vậy có khác gì ném hết số tiền đã cho vay xuống sông đâu? Đây chính là ném cục vàng trong ngực vào bếp lò đốt, đốt xong thì quăng xuống sông chẳng ai kiếm ra nổi, đến cùng là nhân tài nào làm ra chuyện điên rồ thế này vậy?

Chẳng lẽ ông chủ tiền trang Đại Thông bị ám sát xong mắc bệnh tâm thần luôn rồi à?

Rốt cuộc là có chuyện gì đang xảy ra vậy? Vì sao?

Chuyện này không hợp lý!

Đáy mắt Tang Lương Ngọc có chút sụp đổ, cái não thông minh và tri thức thâm sâu của ông ta vốn cũng không có cách nào giải thích rõ hành động và thái độ khác thường của tiền trang Đại Thông, "Chẳng lẽ là âm mưu của Đại Cảnh? Hao phí mười lăm năm để sắp xếp ván cờ này? Hoàng đế Đại Cảnh có kiên nhẫn để bày mưu sao? Chỉ trong mười lăm năm mà Đại Cảnh đã có được thực lực thế này sao? Không..."

Ông ta lắc đầu, bác bỏ suy nghĩ không thực tế này.

Được một mất mười không nói, người Hán tự xưng mình có phong thái của nước lớn, rất khinh thường loại âm mưu quỷ kế như thế này.

Vậy là ai?

Không đợi ông ta suy nghĩ kĩ càng, quản gia đã nói: "Thám tử phái đi huyện Cô Tang trở về báo cáo rồi, nói là ở địa phương vốn không có núi trồng quýt gì cả, chỉ có một xưởng quân công bị bỏ hoang nhưng vẫn luôn đốt lò, đã hoạt động ba bốn năm rồi, đào tạo được một đám thợ thủ công có tay nghề cao, không biết đã lấy được bản vẽ đại bác, nỏ thần ti mà Đại Hạ bảo mật nghiêm ngặt bằng cách nào rồi chế tạo chúng ở nơi đó!"

Tang Lương Ngọc vội hỏi: "Có bắt được không?"

Quản gia nghiến răng: "Đến trễ mấy ngày, bọn chúng ôm của chạy mất hút rồi."

Tang Lương Ngọc lộ vẻ mất hứng: "Lầu cao sắp đổ."

Quản gia vội la lên: "Đại nhân à, trước hết ngài đừng quan tâm Đại Hạ có đổ hay không đổ nữa, bây giờ cả triều văn võ và thân hào dưới sự dẫn dắt của Nhị vương tử đang công khai lên án ngài, bọn họ muốn vu oan cả hai tội tiền trang Đại Thông và thông đồng với địch phản quốc lên đầu ngài đấy. Thác Bạt Minh Châu còn bí mật cho quân đội đến gần phủ Hưng Khánh, đóng trại ở cách thành ba mươi dặm, Ngũ vương tử đã bị nhốt lại. Nhị vương tử được triều thần ủng hộ ngồi lên vị trí giám quốc, sai người trông coi Vĩnh An đế bệnh nặng liệt giường, cũng đã cầm ngọc tỷ truyền quốc đi... E là sắp mưu triều soán vị rồi!"

Tang Lương Ngọc và kho phủ tư nhân của ông ta chính là hòn đá kê chân cho Thác Bạt Minh Châu đăng cơ.

Bỗng dưng Tang Lương Ngọc cười điên cuồng, tiếng cười lộ ra sự thê lương đến cùng cực: "Con nít mồm hôi sữa mà cũng dám nghĩ đến chuyện giết ta ư?" Sau đó tiếng cười ngưng bặt, sắc mặt ông ta lạnh lùng trở lại: "Cũng tại bao năm qua ta ghi nhớ ơn tri ngộ của Vĩnh An đế, nhượng bộ từng bước, còn dốc hết tâm huyết giúp đám rác rưởi này bảo trụ Đại Hạ nên mới khiến cho bọn chúng chỉ coi ta là con hổ giấy."

Quản gia sợ hãi trong lòng, mơ hồ đoán được ý đồ của Tang Lương Ngọc, có hơi kích động: "Đại nhân...?"

Tang Lương Ngọc nhắm mắt lại: "Đi chuẩn bị đi."

***

Kinh Châu Đại Cảnh.

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Tang Lương Ngọc soán vị rồi à?"

Chiết Thanh Phong: "Đã truyền khắp Tây Bắc rồi!"

"Vĩnh An đế và Thác Bạt Minh Châu thì sao? Quý tộc Đại Hạ thế nào?"

"Ai phản đối thì chém đầu người đó. Vĩnh An đế thì tức chết rồi, Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn như tướng bại trận chạy khỏi phủ Hưng Khánh, không còn thấy bóng dáng đâu cả."

Triệu Bạch Ngư: "Chẳng phải trong tay Thác Bạt Minh Châu có binh à?"

Chiết Thanh Phong: "Phó tướng là người của Tang Lương Ngọc."

Triệu Bạch Ngư lập tức hỏi kỹ nguyên nhân hậu quả Tang Lương Ngọc soán vị, biết được tiền trang Đại Thông ôm tiền chạy trối chết, đến cả một đồng xu cũng không để lại thì không khỏi cảm thán: "Cái trò tổn thương địch tám trăm tự hại mình một ngàn vậy mà lại rất giống phong cách của Vương Nguyệt Minh, ngày xưa Tang Lương Ngọc lừa tiền Vương Nguyệt Minh, hại ông ấy tan nhà nát cửa, giờ đây bị Vương Nguyệt Minh gài thành loạn thần tặc tử, thế nên sử sách phải dùng ngòi bút làm vũ khí thôi."

Người thông minh tuyệt đình xưa nay đều tự đánh giá cao bản thân mình, vô cùng quan tâm đến thanh danh của mình trong sách sử, nhưng Tang Lương Ngọc phản bội Đại Cảnh trước, sau đó lại phản chủ, việc trước còn thuộc về tình lý, việc sau thì đã làm rõ bản chất của hạng cường đạo loạn đảng, tiếng xấu đã được định sẵn rồi.

"Có tin tức gì về hành trình của Hoắc Kinh Đường không?"

Chiết Thanh Phong lắc đầu: "Tang Lương Ngọc giết rất nhiều quý tộc Đại Hạ, người để lại hầu như đều ủng hộ ông ta, nhưng lúc này dân oán sôi trào, vậy mà ông ta còn trắng trợn kêu gọi nhập ngũ. Thám tử chúng ta xếp vào phủ Hưng Khánh tra được mấy ngày gần đây trong phủ có phái mấy nhóm kị binh nhẹ đi về hướng phủ Tây Lương."

Triệu Bạch Ngư suy nghĩ rồi nói: "Huyện Cô Tang phủ Tây Lương là nơi có xưởng quân công, có lẽ Tang Lương Ngọc đã phát hiện ra được gì rồi, vẫn phải cẩn thận thì hơn, ngươi dẫn một nhóm phiên binh lén vào phủ Tây Lương đi trợ giúp Hoắc Kinh Đường đi!"

Chiết Thanh Phong: "Nhưng ty chức đã nhận lệnh tướng quận bảo vệ Triệu đại nhân rồi."

Triệu Bạch Ngư phất tay nói: "Hoắc Kinh Đường bảo ngươi nghe lệnh của ta, hôm nay ta ra lệnh cho ngươi mà ngươi lại không nghe theo sao?"

Chiết Thanh Phong do dự một chút: "Ty chức tuân lệnh."

Sắc mặt Triệu Bạch Ngư dịu đi: "Ngươi là người tộc Đảng Hạng, tướng mạo ngôn ngữ và thói quen đều khá giống với người Đại Hạ, bây giờ người trong phiên tộc cũng thấp thỏm lo sợ, chỉ có ta ngươi mới có thể tin được thôi. Còn nữa, Kinh Châu cũng không hẳn là không có tướng để dùng, hơn một tháng nay ta đã liên tục quan sát khảo hạch các tướng lĩnh nơi này, phát hiện ra bọn họ không hề vô năng tầm thường, mà là vì trước đây bị Ngạc Khắc Thiện chèn ép quá đáng, không có cơ hội ra mặt mà thôi."

"Ngươi có thể yên tâm rồi đấy, ta có rất nhiều người để dùng kia mà."

Y liên tục tính toán trong đầu, lòng như nổi trống: "Hiện giờ Đại Hạ dân oán sục sôi, Tang Lương Ngọc còn động viên người đi lính, ý đồ rất rõ ràng, ông ta muốn phát động chiến tranh. Ông ta sẽ chọn nơi nào làm điểm bùng nổ đại chiến đây? Nhưng dù là nơi nào đi nữa cũng vậy thôi, lệnh cho binh ra roi thúc ngựa đưa tin tức này đến tướng lĩnh các nhánh binh đi, cần phải lên kế hoạch cho các biện pháp đối phó thật kĩ lưỡng."

Triệu Bạch Ngư không biết Tang Lương Ngọc có thể điên đến mức nào, y chưa từng giao thủ nên không biết rõ năng lực chỉ huy của ông ta, thế nên cũng không chắc sẽ phải làm những gì.

"Triệu tập các tướng ngũ phẩm và ngũ phẩm trở lên ở Kinh Châu lại, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu!"

Chương 102

Đầu xuân, băng tuyết đã tan.

Đêm xuống.

Bỗng nhiên có một luồng ánh lửa xé rách bầu trời đêm thành Hà Đông Hùng Châu, lão binh gác đêm trừng mắt, mũi tên mang theo ngọn lửa đang tiến lại gần tầm mắt, thoắt cái bắn chết chiến hữu bên cạnh.

Lồng ngực ông nhói lên một cái, bất thình lình thét lên: "Địch tập kích rồi!!!" Sau đó dùng hết sức phóng tới chỗ trống trận, cầm dùi trống gõ hơn mười cái, tiếng trống đại diện cho lời hô địch tập kịch thoáng chốc truyền khắp doanh trại.

Một tiếng phốc vang lên, mũi tên sắt với tốc độc không thể đỡ nổi đâm xuyên qua ngực lão binh gác đêm ghim vào trống trận, thình ——! Dư âm của tiếng trống cuối cùng vang ra rồi kết thúc, sự yên lặng xuất hiện không đến một giây, trốn trận từ bốn phương tám hướng đã vang lên như mưa rơi, toàn bộ binh sĩ ùa tới.

Dường như ở Phu Diên, Hoàn Khánh và Kinh Nguyên đều xảy ra cùng một tình huống như vậy, cấp báo tám trăm dặm khẩn cấp đưa về triều đình, lúc này Nguyên Thú đế cũng đang triệu tập quần thần thương nghị, còn tướng lĩnh ba nhánh Tây Bắc và Hà Đông đã có phòng bị từ sớm, trái lại không đến nỗi tự loạn trận cước vì cuộc tập kích này.

Có điều Đại Hạ tập kích thì cũng dễ hiểu, nhưng sao Đột Quyết cũng làm loạn cùng lúc thế kia?

Đúng là kì lạ.

***

Ngạc phủ Kinh Châu, Kinh Nguyên.

Trời vừa hửng sáng, binh đưa tin chật vật xuống ngựa, đẩy binh sĩ cản đường ra xông vào Ngạc phủ Kinh Châu, lớn giọng kêu gào: "Địch tập kích... Đêm qua Thiên Đô Trại bị tập kích rồi!"

Triệu Bạch Ngư nhanh chân chạy ra, Tri phủ Kinh Châu tân nhiệm Đậu Hồng và phó tướng nhánh binh Kinh Nguyên Nhậm Phi Nguyên theo sát phía sau, nghe thấy tin tức từ xa thì không khỏi thở dài: "Quả nhiên Tang Lương Ngọc đã cử binh xâm lược rồi!"

Đậu Hồng: "Ngạc Khắc Thiện bị chém chết, tướng chủ sự nhánh Kinh Nguyên đã được đổi mới, vả lại lần trước sau cuộc chiến kia Thiên Đô Trại đã tổn thất vô cùng nghiêm trọng, cho nên về sau càng tập trung chú ý vào hai trại Thiên Đô và Ninh An, Triệu đại nhân cũng có lòng dặn dò phải đề phòng sớm mới có thể chống đỡ được cuộc tấn công của Đại Hạ."

Quả nhiên, binh đưa tin nói: "Ninh An Trại đã phái hai ngàn viện binh đi đường đêm đến hỗ trợ Thiên Đô Trại, trước mắt lương thảo, vũ khí và các loại vật tư trong quân đều đã được cung cấp đầy đủ, Đại Hạ tập kích không được như ý."

Triệu Bạch Ngư: "Biết binh mã Đại Hạ đến tập kích có bao nhiêu không?"

Binh đưa tin: "Lúc tập kích có một ngàn kỵ binh giáp nặng, theo như lời thám tử tiền tuyến báo lại thì còn có hai mươi ngàn binh mã chia làm mấy đường đang tiến về phía Thiên Đô Trại."

Nhậm Phi Nguyên: "Xem ra Đại Hạ vẫn chọn Thiên Đô Trại làm cửa đột phá, phái một ngàn kỵ binh tấn công trước hẳn là để thăm dò. Mạt tướng biết rõ phong cách đánh trận của quân Hạ, bọn chúng thiếu hụt vũ khí công thành nhưng rất giỏi đánh dã chiến, rất ưa tiếp cận đạo quân lớn, lần này chỉ mới phái hai mươi ngàn binh mã đến gần Thiên Đô Trại... E là không chỉ có thế, có lẽ phía sau vẫn còn có tiếp viện. Nếu như Tang Lương Ngọc tự chỉ huy phát động chiến tranh, thì một ngàn kỵ binh được phái ra rất có thể là đội kỵ binh Thiết Diều Tử mạnh nhất Đại Hạ, tổng cộng có ba ngàn người, cũng là sự tồn tại khiến cho người ở Tây Bắc nghe là sợ mất mật."

Đậu Hồng: "Tướng sĩ Thiên Đô Trại và Ninh An Trại cộng lại cũng chỉ có bảy ngàn, tuy có địa hình lạch trời hỗ trợ, nhưng nếu Đại Hạ phái Thiết Diều Tử đến thật, thêm hai mươi vạn đại quân bao vây tấn công thì sợ rằng không chống đỡ được bao lâu, cần phải nhanh chóng phái binh chi viện... Lập tức lệnh cho tướng thủ thành Hoài Viễn dẫn ba ngàn kỵ binh sắp xếp mai phục ở những nơi hiểm yếu, lệnh cho tướng thủ Đắc Thắng Trại dẫn hai ngàn năm trăm binh đến chi viện Thiên Đô Trại, cũng báo cho nhánh Hoàn Khánh đến giúp đi, các nơi khác tạm thời án binh bất động."

Bàn về năng lực chỉ huy tác chiến, Triệu Bạch Ngư không bằng Nhậm Phi Nguyên và Đậu Hồng cho nên chỉ nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu và làm theo sắp xếp của bọn họ.

Triệu Bạch Ngư: "Ta có một thắc mắc. Nếu như ba ngàn kỵ binh giáp nặng Thiết Diều Tử cùng nhau tấn công, mất bao lâu để đánh bại Thiên Đô Trại?"

Đậu Hồng chần chừ trong một cái chớp mắt: "Thiên Đô Trại là nơi có địa hình hiểm yếu, dù là Thiết Diều Tử thì cũng tốn mất bốn năm ngày mới hạ được."

Triệu Bạch Ngư đăm chiêu: "Theo lý mà nói, nếu như có một thành trì bị công phá thì lần sau chắc chắn sẽ tăng binh trợ giúp, dù sao cũng có vết xe đổ, tấn công sẽ khó khăn gấp bội. Phương thức tác chiến dẫu có thay đổi nhưng bản chất vẫn như vậy thôi, chúng ta có thể nghĩ tới thì quân địch cũng có thể nghĩ tới, vì vậy trong tình huống bình thường thì sẽ không ai chọn lại cùng một cứ điểm để đánh mới đúng."

Lòng Nhậm Phi Nguyên lay động: "Ý của đại nhân là đánh nghi binh*?"

(*) Nghi binh là hoạt động lừa dối trong quân sự, gây lầm lẫn về địa điểm tấn công, dẫn đến quyết định sai về hướng tiến quân của quân bị tấn công. Khi các lực lượng viện binh dồn đến điểm nghi binh, quân tấn công sẽ tấn công vào nơi khác vốn dĩ là mục tiêu chính yếu đã chọn.

Triệu Bạch Ngư cũng không chắc chắn lắm: "Đây chỉ là suy đoán của ta thôi, không có căn cứ nào xác định là nó đúng cả."

Hai quân đối đầu nhau trả bằng máu thịt, suy cho cùng cũng không giống như chính đấu trong quan trường có chỗ trở mình, chỉ cần không cẩn thận là sẽ có người chết bởi sai sót trong việc chỉ huy hoặc chỉ đơn giản là đoán sai suy nghĩ trong đầu mà thôi.

Triệu Bạch Ngư không thể không thừa nhận trong lòng y cảm thấy sợ hãi, cũng không tự tin y có thể đối mặt với sự tấn công đột ngột của quân địch.

"Không." Nhậm Phi Nguyên nói: "Suy đoán của đại nhân không phải vô lý, tướng lĩnh Kinh Nguyên đã được thay thành nhóm mới, phòng thủ nghiêm mật, mắt thường cũng có thể thấy được, năm nào mà Đại Hạ chẳng cho thám tử lẻn vào Tây Bắc, số gián điệp không hơn một ngàn thì cũng đã mấy trăm rồi, không có khả năng không phát hiện được. Huống chi người phát động chiến tranh lần này là Tang Lương Ngọc, lúc còn trẻ ông ta đã từng chỉ huy ba trận chiến đánh Đại Cảnh ta thua thảm, cũng chính nhờ ba trận thắng đó ông ta mới đứng vững gót chân trong triều đình Đại Hạ. Tang Lương Ngọc quen thuộc với phòng tuyến Tây Bắc, sẽ không phạm phải sai lầm đơn giản như vậy được..."

Lúc này hắn và Đậu Hồng đang mở rộng bản đồ ra, dựa vào phương hướng tiến đánh của binh mã Đại Hạ để suy đoán cứ điểm có khả năng bị tấn công, bài binh bố trận lại một lần nữa.

"Nếu như đánh nghi binh thì mục đích ắt là để nhử hổ xa rừng, chọn một cứ điểm thiếu thốn binh lực để công phá trong một lần, e rằng những thành trì gần Thiên Đô Trại đều là mục tiêu của chúng, chỉ không biết chính xác là có bao nhiêu mục tiêu. Chúng ta nên biết rõ ý đồ thật sự của quân Hạ thì mới có thể giành cơ hội trước được."

Triệu Bạch Ngư đứng nghe bên cạnh, không đưa ra thêm câu hỏi nào nữa, chỉ gật đầu đồng ý với sự sắp xếp của hai người.

***

Giữa tháng giêng, các trại Thiên Đô, Ninh An và Đắc Thắng và các thành trì ven biên giới Kinh Nguyên lần lượt bị tập kích, đều đánh đến tận ba bốn ngày, chờ đến khi viện binh Đại Cảnh đến thì lập tức lui binh, hành động này chính là ví dụ điển hình cho chiến lược đánh nghi binh của quân Hạ.

Đậu Hồng và Nhậm Phi Nguyên nghĩ đến mà sợ, "Quân Hạ thắng nhờ có một số lượng lớn ngựa đực to và khỏe, sức chịu đựng rất mạnh, vừa có thể băng đèo lội suối, cũng vừa có thể rút lui bất cứ lúc nào, rồi tiếp tục lặn lội đường xa đổi sang một thành trì khác để đánh mạnh bất ngờ. Trái lại, triều đình của ta khan hiếm ngựa chiến, rất ít ngựa có đủ sức đi về không biết mệt, phần lớn là dùng sức người chạy ngày đêm không ngừng nghỉ, nhưng đi tới đi lui như thế, nếu lỡ như đến không kịp lúc để thành trì có binh lực yếu kém bị công phá... Thật sự không thể tưởng tượng nổi hậu quả."

Có quá nhiều thành trì ở biên cảnh Tây bắc, binh lực cũng theo đó bị phân tán ra, nếu như một thành bị tấn công thì phải lập tức điều binh từ các thành lân cận đến chi viện, mà quân Hạ thì lại chia quân tấn công, đã nhiều lần thăm dò đánh nghi binh, bọn chúng luôn có cơ hội đánh hạ những cứ điểm có đội quân vừa mới rời thành.

Cùng lúc đó, tin tức ba phòng tuyến biên giới Hà Đông, Phu Diên và Hoàn Khánh bị tập kích cũng được truyền đến càng khiến cho nhóm Đậu Hồng sinh lòng sợ hãi và nghi hoặc hơn.

Đậu Hồng: "Đột Quyết tấn công Hà Đông, có thể là đã bắt tay với Đại Hạ rồi."

Nhậm Phi Nguyên: "Năm năm trước Đại Hạ bắt tay với Nam Cương tấn công Phu Châu, cũng từng có tin tức đã bắt tay với Đột Quyết, trận đó triều đình, Tây Bắc và Hà Đông đều rất căng thẳng, cũng may cuối cùng là chỉ sợ bóng sợ gió thôi, không ngờ lúc này lại đột nhiên nổi loạn. Đột Quyết ra quân đã là ra quân vô vớ, lại còn đang trong thời kì nhạy cảm, cho nên khả năng chúng hợp tác với Đại Hạ là rất cao. Có điều vấn đề lớn hơn trước mắt chính là quân Hạ đã châm lửa ở khắp nơi, hầu hết các phòng tuyền biên cảnh đều bị bọn chúng xâm lấn, nhưng làm sao bọn chúng có nhiều binh đến như vậy?"

Triệu Bạch Ngư: "Nghe nói năm ngoái sau khi đăng cơ, Tang Lương Ngọc đã cưỡng chế nhập ngũ... Nếu như toàn dân đều là binh, cộng với đại quân, e là không chỉ có một trăm ngàn người. Vấn đề là phòng tuyến Tây Bắc vô cùng rộng lớn, cứ cho rằng toàn dân nước Hạ đều là binh thì lực lượng đó cũng không đủ để chống đỡ với cách đánh phân tán như thế. Dù cho có một nhóm quân nhỏ đột phá được cứ điểm nào cũng sẽ nhanh chóng bị cấm quân Tây Bắc giết bằng sạch thôi."

Trước đây cứ nghĩ mục đích của Đại Hạ là Kinh Nguyên, toàn bộ binh lực tụ họp ở đây có nhiều nhất là một trăm ngàn, mà Cấm quân Kinh Nguyên đã tăng cường phiên binh, hương binh và quân đội vùng ven, tổng số lượng không quá tám, chín mươi ngàn, vẫn có thể ngang hàng với địch, huống chi còn có hai nhánh viện binh Hoàn Khánh và Hi Hà có thể dễ dàng chạy tới. Nhưng theo như tình hình trước mắt thì binh lực Đại Hạ phân tán ra, đối mặt với quân số của Đại Cảnh cũng bị phân tán nhưng tổng quân số nhiều gấp năm, sáu lần chính là lấy trứng chọi đá.

"Nguyên nhân chính đó là do quân đội chúng yếu hơn quân triều đình ta, đến khi xuất chinh nước Hạ mới huy động lực lượng hòng lấy số lượng và đánh nhanh thắng nhanh để đạt được thắng lợi. Phương thức tác chiến trước mắt căn bản không có lợi gì cho Đại Hạ, Tang Lương Ngọc sẽ không giở thủ đoạn hồ đồ thế này đâu, có phải là ông ta đang có âm mưu gì khác không?"

Nhậm Phi Nguyên và Đậu Hồng được các tướng lĩnh nhắc nhở, đánh mạnh cho bọn họ giật mình, sau khi cẩn thận phân tích tình hình chiến tranh và tình hình tiền tuyến, trái tim nhanh chóng chùng xuống.

"Có khi nào đánh nghi binh chỉ là mồi nhử thôi không?" Một tướng lĩnh phía dưới nói ra suy đoán của mình, "Mục đích cơ bản của bọn chúng chính là khiến cho tướng lĩnh các nhánh binh bị hoang mang, làm bọn họ không dám tùy tiện dời binh đi, sau đó chúng sẽ nhân lúc này dồn toàn quân tấn công một nhánh, chỉ huy đánh thẳng xuống dưới, phá thành chiếm đất?"

Vẫn quay lại vấn đề ban đầu, ý đồ của quân Hạ là gì?

Triệu Bạch Ngư: "Lực lượng cả nước tính luôn binh Hạ có ba trăm ngàn, trong đó có thể có Đột Quyết hoặc Nam Cương nữa, nhưng hai nước này sẽ không dám tập hợp toàn quân, tối đa chỉ đưa ra bốn năm mươi ngàn binh ma thôi. Chắc chắn Tang Lương Ngọc sẽ tập trung tất cả quân tinh nhuệ vào một mục tiêu," Y chỉ vào Kinh Nguyên trên bản đồ, "Quân tinh nhuệ tiền tuyến đã tấn công Thiết Diều Tử ở pháo đài nơi quân Kinh Nguyên thường xuyên qua lại..."

Y giương mắt, sắc mặt trở nên nghiêm nghị: "Mục tiêu của Tang Lương Ngọc chính là Kinh Nguyên!"

Lòng Đậu Hồng hoảng hốt: "Mạt tướng lập tức lệnh binh đưa tin báo tin tức này cho ba nhánh còn lại biết, chuẩn bị chi viện bất cứ lúc nào.

Triệu Bạch Ngư vẫn luôn sợ hãi, có một dạo quân Hạ lui tới khu vực pháo đài của Thiên Đô Trại nhưng chỉ thăm dò chứ không tấn công, đường đi nước bước gần giống như cách chúng tấn công ba nhánh Hoàn Khánh, Phu Diên và Hà Đông, nhưng kế này sẽ bị tướng lĩnh các nhánh nhìn thấu sớm thôi, chỉ còn cách nắm bắt thời cơ nhân lúc bọn chúng không kịp phản ứng để nhanh chóng xuất binh chứ không phải đông đánh một búa tây đập một gậy như thể Kinh Nguyên không phải là mục tiêu của chúng.

"Có lẽ..." Triệu Bạch Ngư thì thầm tự hỏi: "Các cụm pháo đài gần Thiên Đô Trại cũng không phải là mục tiêu nhỉ?"

***

Huyện Thần Điểu, phủ Tây Lương, chợt có một loạt kỵ binh vội vàng lướt qua, dừng lại trước cửa một nhà trọ, một người xuống ngựa xông vào trong, bắt hết tất cả khách và ông chủ ra ngoài.

Kỵ binh giáp nhẹ trầm giọng hỏi thăm rằng mấy ngày nay có một nhóm người nào đến ở trọ hay không, chủ trọ nơm nớp lo sợ đáp lại quả thật là có, nhưng sáng nay đã đi rồi.

Kỵ binh vào trong lục soát xong bước ra, nhẹ nhàng lắc đầu.

Thủ lĩnh kỵ binh giơ tay lên: "Tất cả mọi người trong nhà trọ này đều có hiềm nghi thông đồng với địch phản quốc, giết chết tại chỗ."

Thoáng chốc máu tanh vấy khắp nơi. Rồi chốc lát nữa ánh lửa vút cao lên tận trời, không một ai may mắn thoát khỏi.

Kỵ binh nhẹ tiếp tục đi tra xét, mặt khác, trên đường núi xung quanh huyện Thần Điêu có một hàng người cao to cưỡi ngựa mặc trang phục đen giống hệt nhau, bọn họ đều đứng nhìn nhà trọ bị lửa lớn nuốt chửng từ phía xa.

Bên cạnh có người nói: "Cũng may đã chạy trước một bước, cũng đã để thợ và vũ khí giả làm đội buôn tiến Lan Châu rồi, có điều lòng dạ của quân Hạ đúng là độc ác, dân chúng vô tội thế mà nói giết là giết ngay được."

Bên phải lại có người nói: "Đại Hạ học được từ Nam Cương một bí thuật tìm người, có thể nhờ vào mùi hương mà chúng ta để lại rồi truy đến đây nhanh thôi, mặc dù lúc đi đã che giấu kĩ nhưng cẩn thận vẫn hơn, chúng ta nên xuất phát sớm đi thôi."

Hoắc Kinh Đường túm chặt dây cương quay đầu ngựa lại, giơ roi thúc ngựa chạy đi chỉ để lại một câu: "Tránh xa thành trấn, đi đường núi, đừng tìm chỗ nghỉ trọ nữa."

Người bên cạnh nghe vậy thì liếc nhìn nhau, tuy vậy trong lòng ai cũng tự hiểu, ý hắn nghĩa là thà rằng mạo hiểm đi vội thêm một đoạn đường chứ không muốn liên lụy đến người vô tội.

***

Cuối tháng giêng, bởi vì binh lực của Đại Hạ ở tiền tuyến đã tăng lên rõ ràng, lực chú ý của các tướng lĩnh Kinh Nguyên hầu như đều chuyển về khu vực pháo đài Thiên Đô Trại, nơi này luôn ở trong một bầu không khí cẩn trọng và căn thẳng, thành Hoàn Khánh gần Kinh Nguyên đột nhiên có một lượng lớn binh mã Đại Hạ túa ra, đội binh chia làm hai hướng đoạt lấy hai vùng Cao Bình và Bành Dương nhanh như chớp nhoáng, tướng lĩnh đóng giữ Vị Châu nghe tiếng mang binh về phía trấn Nhung giữa hai địa phương rồi tiến hành mai phục nhưng rồi lại rơi vào tay quân Hạ, bị hai đội binh phục kích vây vào trong thành, cắt đứt đường lương thảo, nguồn nước, chặn bỏ đường lui, diệt mười ngàn Cấm quân Tây Bắc, giết chết một nhóm hơn mười chủ và phó tướng Đại Cảnh.

Sau đó lên đường đi thẳng một mạch xuống dưới, tấn công Vị Châu.

Lúc này Nhậm Phi Nguyên đã dẫn một vạn binh đi Vị Châu, Đô thự nhánh Hoàn Khánh cũng dẫn tám ngàn binh đến chi viện cho Vị Châu, tướng lĩnh đóng quân ở Kinh Nguyên và các nơi khác cũng đồng thời dẫn gần nửa binh lực đến Vị Châu đối đầu với đội binh mã Đại Hạ đột ngột xuất hiện này.

Cùng lúc đó, quân đóng tại hai nhánh Hi Hà và Hoàn Khánh cũng bị Vị Châu thu hút, không ai để ý đến Kinh Châu phía sau.

Lúc này Kinh Châu chỉ có vẻn vẹn mười ngàn phiên binh, bảy ngàn Cấm quân và không đến hai mươi ngàn hương binh, quân đội trấn thủ vùng ven chỉ có khoảng chín mươi ngàn người.

Buổi chiều hôm đó, mây đen âm u, cuồng phong gào thét.

Binh sĩ thủ thành không nhịn được ngáp một cái, suýt nữa là hốc cát đầy miệng, lúc chà xát hai tay vào nhau đột nhiên phát hiện trong xoáy cát vàng cuốn theo gió mơ hồ xuất hiện một loạt bóng đen mờ mờ.

Đến khi bão cát dừng lại, bọn họ lập tức nhìn thấy ba ngàn kỵ binh giáp nặng khí phách to lớn đồng loạt xuất hiện trước cửa thành Kinh Châu.

Một luồng gió lớn thổi tới, trong không khí dường như tràn ngập mùi máu tươi tanh nồng, kỵ binh giáp nặng phân ra thành hai phía, chậm rãi đẩy máy ném đá ba chân vô cùng lớn ra, đặt một quả cầu màu đen đang cháy vào giữa máy ném đá, mười hai tên binh sĩ đồng thời giật dây thừng, quả cầu đen bay theo hướng vòng cung về phía cổng thành, chỉ nghe thấy một tiếng xẹt xé rách không trung vang lên bên tai, một giây sau quả cầu nổ ầm lên rung chuyển trời đất, khói mù màu xám lập tức tản ra ngoài, binh sĩ thủ thành hít khói mù vào nét mặt thoáng chốc chỉ còn lại đau đớn, bóp chặt cổ mình rồi tắt thở bỏ mạng không lâu sau đó.

"Chết, chết rồi?" Binh sĩ trẻ tuổi ngỡ ngàng luống cuống.

"Là đạn khí độc, bịt mũi miệng lại!" Lão binh có kinh nghiệm thủ thành vừa nhanh chóng thấm ướt quần áo để bịt mũi miệng lại, vừa hô lên: "Địch tập kích! Địch tập kích rồi —— !"

Lão binh thủ thành xoay người chạy vụt đến chòi canh gõ vang trống to báo động địch tập kích, người gác tháp chuông trong thành nghe tiếng cũng gõ chuông, tiếng trống chuông thoáng chốc truyền khắp thành Kinh Châu, cổng thành đóng chặt, Cấm quân, phiên binh đều bắt đầu hành động, bò về phía tường thành đối phó với quân địch đột kích.

Đậu Hồng bước đi rất nhanh, trùng hợp gặp được Triệu Bạch Ngư vừa khoác áo ngoài vừa chạy đến.

Triệu Bạch Ngư: "Có thể đến cổng thành xem không? Tình hình ở hai cổng thành còn lại thế nào? Bây giờ còn kịp sơ tán người dân không? Có bao nhiêu binh mã vây đánh vậy? Sao bọn họ lại xuất hiện đột ngột như thế? Các điểm đóng quân xung quanh không phát hiện truyền tin sao?"

Đậu Hồng: "Hạ quan mới từ cổng thành về đây, tình hình nguy cấp lắm, sơ tán không kịp đâu, hai cổng thành khác cũng có binh Hạ bao vậy. Cửa đông có ba ngàn kỵ binh, nhìn mũ giáp và ngựa chiến thì có thế xác định đó chính là Thiết Diều Tử qua lại gần khu vực thành pháo đài Thiên Đô Trại. Cửa tây và cửa bắc có tổng cộng hơn mười ngàn binh mã đồng thời tấn công thành, quân địch sử dụng máy bắn đá, đạn dược đầy đủ, không dùng đạn bùn như ngày xưa nữa mà là đạn khí độc, uy lực vô cùng lớn. Đạn khí độc kia ta chưa từng nghe đến, độc tính rất mạnh và kì lạ, hạ quan hoài nghi là do người Nam Cương chế tạo. Vì sao lại đột nhiên xuất hiện... Có lẽ là chúng đã lợi dụng trận trấn Nhung thu hút sự chú ý của lực lượng đóng quân các nơi, lặng lẽ đi qua những địa phương phòng thủ kém để đến Kinh Châu. Bởi vì đại quân nước Hạ đang tiếp cận biên cương, những điểm đóng quân quanh Kinh Châu đều đã đến chi viện rồi, hàng phòng ngự của Kinh Châu cực kì yếu kém, không chịu nổi gót sắt chà đạp. Sợ là... Lành ít dữ nhiều."

Tình hình nguy cấp nhưng lại không nghe được chút tin tức nào từ sớm, thế thì chỉ có một khả năng, những điểm đóng quân xung quanh bao gồm cả thôn xá đều đã bị hại, không để lại một người sống nào để đến đây mật báo.

Đi qua nơi nào là chúng thẳng tay chém giết sạch ở nơi đó.

Quân địch xâm lược, đốt giết đánh cướp cũng không phải là điều gì hiếm lạ, nhưng mà không để lại người sống thì rõ ràng là không được bình thường, chứng tỏ lần này bọn chúng đến không chỉ để tống tiền, hơn nữa nhất định là lúc này sĩ khí đã rất cao, chỉ sợ là phải giết đến đỏ mắt mới thôi.

Một khi thành Kinh Châu bị phá, dù ông ta có dẫn đầu xin hàng thì tính mạng của chín mươi ngàn dân chúng trong thành cũng có mà giữ nổi.

Triệu Bạch Ngư: "Có chuẩn bị mà đến, âm mưu cũng bại lộ rồi, xem ra mục tiêu của Tang Lương Ngọc là Kinh Châu."

Đậu Hồng nói: "Tính ra trong thành cũng có gần bốn mươi ngàn binh mã, nhưng mà đội kỵ binh mạnh nhất của Đại Hạ đang ở đây, binh mã vây thành nói ít cũng phải hai ba mươi ngàn, vẫn chưa biết phía sau có quân chi viện hay không... Nếu như không có vũ khí công thành còn đỡ, vậy mà cuối cùng chúng lại đưa ra vũ khí công thành vô cùng cao cường! Rõ ràng Đại Hạ nổi tiếng là khuyết thiếu vũ khí công thành cơ mà! Nay chúng dùng đạn khí độc để tấn công, làm sao ta dám tự tiện mở cổng thành nghênh chiến chứ. Hình như đối phương đã ăn thuốc giải độc từ trước nên không sợ khói độc, bây giờ đang điên cuồng phá thành, chúng ta không thể không cử người canh cổng thành! Nhưng bây giờ mà lên cổng thành chính là đi chầu trời đấy!"

Ông ta gấp đến nỗi đi lòng vòng.

Triệu Bạch Ngư: "Tinh binh đều tụ họp ở đây, nôn nóng phá thành, còn lấy cả vũ khí công thành trước đây chưa từng có... Tang Lương Ngọc đưa Kinh Châu vào tình thế bắt buộc, chỉ sợ sau này còn có thêm quân Hạ đến góp sức! Phải động viên tất cả tướng sĩ và dân chúng trong thành: Quân địch tập kích, sống chết giữ lấy Kinh Châu!"

Tang Lương Ngọc vốn đánh nghi binh ở khu vực Tây Bắc, sau đó giả vờ tấn công những pháo đài quanh Thiên Đô Trại và trấn Nhung, điều một lượng binh mã thuận lợi tiến đến Kinh Châu, gióng trống khua chiêng hao phí binh lực, làm một loạt hành động thật thật giả giả chỉ vì Kinh Châu thôi sao?

Chúng sẽ chiếm được Kinh Châu nhưng không thủ được lâu, có thể chiếm thế thượng phong trong thời gian ngắn, tuy nhiên một khi tướng lĩnh các nhánh Tây Bắc nhận ra, ba bốn trăm ngàn quân từ bốn phương tám hướng đánh bọc sườn tới, chắc chắc có thể tiêu diệt được binh mã của Đại Hạ.

Đến lúc đó Đại Cảnh sẽ chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, nhưng chắc chắn Đại Hạ phải dùng đất nước mình để kết thúc.

Trận chiến càn quét Tây Bắc này trông thế nào cũng không giống như là chỉ đến cướp đồ rồi tháo chạy...

"Tang Lương Ngọc là kẻ điên, Ngạc Khắc Thiện đánh giá như vậy, nếu như là lời của một phía thì không thể tin hết, nhưng Vương Nguyệt Minh cũng nói bóng gió như thế, vậy thì chứng tỏ ông ta là kẻ điên thật. Kẻ điên vốn đã khiến cho người ta sợ hãi, nhưng kẻ điên vừa thông minh vừa thiếu đạo đức thì chính là một quả bom hẹn giờ, không thể suy đoán suy nghĩ của ông ta theo cách bình thường được."

Triệu Bạch Ngư chắp tay đưa lưng về phía Đậu Hồng, cánh môi mấp máy, tiếng nhỏ như muỗi kêu, thay đổi lối suy nghĩ, nếu như y là một kẻ điên ham công danh, bội bạc, theo đuổi tên đuổi mà lừa dối cuộc đời, nếu như y là Tang Lương Ngọc, y sẽ hành động như thế này vì mục đích gì?

"Tang Lương Ngọc xa xứ vạn dặm, gánh chịu tiếng nhơ phản quốc, tận tụy trù tính vì Đại Hạ, nhưng từ quân thần cho tới dân chúng Đại Hạ đều không đối xử tốt với ông ta, trái lại luôn luôn đề phòng. Chắc chắn rồi, Tang Lương Ngọc oán hận Đại Cảnh, năm xưa vừa nương nhờ được nước Hạ đã không nhịn được bày ra mất trận chiến đánh bại triều đình của ta, sau đó dùng tất cả mọi thủ đoạn chính trị, nói lòng ông ta hướng về triều đình Đại Hạ, chẳng bằng nói ông ta vẫn luôn nhắm vào triều đình ta."

"... Ông ta vẫn luôn oán hận Đại Cảnh, oán hận Nguyên Phong đế vì tình riêng mà năm đó cắt đứt đường tương lai của mình, hại ông ta đơn độc phiêu bạt nơi xứ người, mà bây giờ Đại Hạ cũng phản bội ông ta... Tang Lương Ngọc là một kẻ tự phụ, nhất định sẽ không tìm kiếm nguyên nhân từ bản thân mình. Ông ta soán vị, in dấu danh nhơ trên sử sách, chỉ biết trách móc Hoàng đế và triều thần Đại Hạ, vậy nên sau khi soán vị mới thẳng tay chém chết những quý tộc phản đối mình, sau khi tùy tiện trút hết lòng thù hận ra, trong lúc tinh thần mất cân bằng nhất, đối tượng trả thù kết tiếp chính là Đại Cảnh. Nếu như lúc đó còn bóc trần được chuyện tiền trang Đại Thông, vấn đề của xưởng chế tạo vũ khí, lại truy ra được manh mối xuất phát từ Kinh Châu... Không ổn chút nào."

"Tang Lương Ngọc đắc vị bất chính, trong nước còn có Thác Bạt Minh Châu và các quý tộc không phục ông ta chính là mối đe dọa tiềm ẩn, trong lúc này ông ta lại phát động chiến tranh quy mô lớn, đào rỗng binh lực của hàng phòng ngự trong nước, huy động toàn bộ lực lượng, đây đều là thứ khiến ta cảm thấy ông ta đã chuẩn bị kéo quốc gia chết theo bất cứ lúc nào, mà trước khi chết còn phải để lại cho quân thần Đại Cảnh một bài học thê thảm đau đớn."

Thật là điên cuồng.

Suy đoán của y rất điên.

Nếu như y không đoán sai, thì Tang Lương Ngọc phải càng điên hơn nữa.

"Thành Kinh Châu không thể bại."

Một khi thành bại, theo như những gì mà y đoán được về mạch suy nghĩ của Tang Lương Ngọc lúc này, khả năng cao đối phương sẽ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành.

"Chờ đêm xuống lập tức lệnh cho binh sĩ ra khỏi thành nghênh chiến, chọn mấy người thông minh lanh trí một chút trà trộn vào đó rồi chia ra từng cổng thành, chạy đến Hoàn Khánh, Nguyên Châu lấy viện binh." Dừng một chút, Triệu Bạch Ngư ngập ngừng nói: "Bảo với bọn họ, chuyến này cửu tử nhất sinh, nhưng chắc chắn triều đình sẽ thu xếp ổn thỏa cho người nhà của họ! Phía sau chúng ta là mạng sống của chín mươi ngàn dân chúng, chúng ta buộc với bọn họ, cầu mong thuận buồm xuôi gió, mọi việc đều thuận lợi!"

Đậu Hồng: "Tuân lệnh."

"Vũ khí công thành có uy lực cực mạnh như đạn khí độc và đạn gây cháy bình thường rất khó chế tạo, số lượng có hạn, sẽ không thể dùng tấn công trong thời gian dài, nhưng cần để các tướng sĩ thủ thành bảo vệ thể lực, cứ mỗi nửa khắc đồng hồ sẽ đổi một nhóm khác lên cổng thành, triệu tập tất cả thầy thuốc trong thành lại, gom góp dược thảo lại cất cùng một nơi, mau chóng nghiên cứu ra đơn thuốc giải dộc. Đặc biệt là là nguồn nước, kho lương trong thành, cần phải lệnh cho người trông coi cẩn thần, thấy người nào có hành tung mờ ám thì không cần phải hỏi lý do, bắt lại hết!"

Những điều này không cần Triệu Bạch Ngư dặn, Đậu Hồng cũng biết nên sắp xếp như thế nào.

Triệu Bạch Ngư nhắm mắt lại, đan hai tay vào nhau, cố gắng nhớ lại kế phá pháo mà y đã từng đọc trong sách lịch sử của đời trước.

"Thừng bảo vệ rào."

Đậu Hồng: "Đại nhân nói gì thế?"

Triệu Bạch Ngư mở mắt ra, "Gọi mấy người khéo tay một chút đến đây, lấy tất cả rơm rạ trong thành lại bện thành sợi dây cứng cáp, ta sẽ vẽ mẫu, ông bảo người ta dựa theo đó mà làm, sau đó lệnh cho một nhóm người đi khuấy bùn nhão. Quấn sợi dây này lên nóc tường thành rồi đắp bùn nhão lên, nó có thể chặn được pháo, đạn gây cháy và tất cả các loại pháo đá khác."

Cũng chẳng biết có thể chế ra được hay không nữa, cứ thử xem đã rồi tính.

***

Hoàng hôn vừa xuống, máy ném đá ngừng hoạt động, Kinh Châu mở cổng thành lớn, Đậu Hồng thúc ngựa đi trước: "Giết —— " Thoáng chốc khí thế như hồng, chém giết rung trời. Trên cổng thành, Triệu Bạch Ngư lệnh cho người di chuyển pháo, máy ném đá và hỏa tiễn ra, ném đạn gây cháy về phía quân địch ở xa, sau đó tiếp tục lệnh cho binh sĩ xếp một loạt mũi tên lửa ra hướng xuống phía dưới rồi bắn đi, thoáng chốc tên rơi như mưa, vút lên cao rồi rơi xuống.

Gói thuốc súng gắn với mũi tên sẽ bốc cháy ngay lập tức sau khi tiếp xúc với đích đến, cũng không thể xem thường uy lực của nó.

Mùi khói thuốc súng và mùi máu tanh gay mũi khiến Triệu Bạch Ngư cảm thấy hoa mắt chóng mặt, y dùng gói thuốc giúp tinh thần tỉnh táo lấy từ chỗ thầy thuốc ra bịt mũi lại, giơ tay hô to: "Kéo nỏ tầm xa!"

Nỏ tầm xa được kéo lên cổng thành thay thế cho đội hình hoả tiễn ban đầu, mũi tên lạnh lẽo nhắm ngay sau thiết kỵ, khi nó được kéo căng đến mức sẵn sàng phóng đi, Triệu Bạch Ngư lập tức ra lệnh: "Bắn!"

Nỏ tiễn xuyên qua màn đêm vô tận giống như cơn mưa rào xen lẫn với mùi khói từ thuốc súng tràn ngập trong không trung, phốc một tiếng xuyên qua áo giáp dày trên thân kỵ binh giáp nặng của Đại Hạ, kéo người ngã xuống ngựa lê thêm mấy mét nữa rồi bị vó ngựa giẫm đạp lên như đóng đinh, chẳng còn nhìn ra hình dạng gì. Đao kiếm không có mắt, nỏ tiễn từ trên trời rơi xuống thoáng chốc đã xuyên qua thân của vài con ngựa chiến, đồng thời khiến cho những con ngựa khác hoảng hốt, chúng hí vang cất cao vó lên hất ngã kỵ binh trên lưng xuống rồi giẫm đạp lên họ. Nhưng dù gì đó cũng lại kỵ binh giáp nặng tinh anh của Đại Hạ, chỉ một lát sau đã kiểm soát được ngựa chiến bị khủng hoảng, tiếp tục tấn công.

Đậu Hồng dẫn tám ngàn binh, tuy có thêm pháo và nỏ tiễn hỗ trợ cũng không thể chiếm thế thượng phong trước ba ngàn thiết kỵ, vào lúc này, mặt đất trước cổng thành run lên, tiếng ầm ầm ùn ùn kéo đến, tim Triệu Bạch Ngư đột nhiên chùng xuống, y cầm lấy mũi tên lửa phóng ra không trung, ánh lửa chiếu sáng phương xa, chỉ trong nháy mắt thôi là có thể thấy rõ được kia là một đội quân hùng hậu.

Viện binh quân Hạ!

"Rút quân!" Triệu Bạch Ngư hét vỡ cả giọng: "Rút quân ngay, đóng cổng thành! Ném hết pháo xuống dưới —— nhanh!!!"

Dường như trong cuốn họng có bọt máu tuôn ra, Triệu Bạch Ngư mặc kệ sự khàn đặc đau đớn đó, vừa chỉ huy vừa cầm lấy tên lửa bắn ra phía xa, dù cánh tay đau đến nỗi tê dại cũng không dám buông lỏng một giây phút nào, mãi đến khi Đậu Hồng dẫn binh lui vào trong thành, cổng thành đóng lại kịp lúc ngăn thiết kỵ bên ngoài, lòng ai nấy vẫn còn sợ hại mà nhìn về phía viện binh quân Hạ dày đặc ở đằng kia.

Triệu Bạch Ngư đứng bất động ở tư thế bắn tên, nhìn chằm chằm vào vị trí giữa đội quân phía dưới tìm kiếm tướng soái, nhưng y chỉ có thể nhìn thấy được một cỗ xe nhung đột ngột xuất hiện chính giữa quân Hạ, được bộ binh hạng nặng vây chặt xung quanh như nêm cối.

Trực giác nói cho y biết, người ngồi trên xe nhung chính là tướng soái của quân địch.

Đậu Hồng bò lên trên cổng thành, nhìn qua binh mã dày đặc phía dưới, ánh mắt trở nên lạnh lẽo: "Đúng như ngài đoán, quả nhiên vẫn còn viện binh, mà chúng ta lại không biết chúng phái đi bao nhiêu binh mã đến vây đánh Kinh Châu."

Triệu Bạch Ngư không dám chớp mắt, giọng khàn khàn: "Kiểm tra những cổng thành khác xem có bao nhiêu binh mã đang bao vây, ông đoán xem tiếp theo quân địch sẽ tiếp tục đánh hỏa lực bọc sườn hay là lui về ba xá, nghỉ ngơi dưỡng sức."

Nuốt một ngụm nước bọt, y nói: "Ta đoán là sẽ tiếp tục cường công bằng hỏa lực."

Bản đồ tác chiến:

Năm nhánh Tây Bắc xếp thành một hàng, từ trái sang phải theo thứ tự là: Hi Hà, Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Phu Diên, Hà Đông (bốn khu vực đầu thuộc tỉnh Thiểm Tây.)

Kinh Châu, Nguyên Châu và Vị Châu liền kề nhau. Kinh Châu, Nguyên Châu và nhánh Hoàn Khánh cũng liền nhau, vì vậy nếu như Kinh Nguyên bị tập kích thì có thể tìm đến điểm đóng quân của Hoàn Khánh để cầu viện, bởi vì nó gần.

Phòng tuyến biên cương của Kinh Nguyên được thiết lập gần giống như hình chữ "V", có rất nhiều pháo đài (thành trì).

Quân Hạ đánh nghi binh ngay hai bên cụm pháo đài chữ "V" này, pháo đài Thiên Đô Trại ở bên trái, pháo đài trấn Nhung ở bên phải, đánh bại trấn Nhung tiến quân vào Vị Châu, đại quân thu hút hỏa lực ở Vị Châu, một đội quân khác thì lén lút bọc phía sau bao vây thành Kinh Châu.

Vũ khí chiến đấu:

• Máy ném đá, vũ khí công thành sắc bén thời cổ đại.

• Đạn khí độc, đạn gây cháy, tên lửa, pháo các loại thì có mặt vào thời Đại Tống.

• Thừng bảo vệ rào - Hộ tì ly sách (护陴篱索): Dùng thân cây lúa (rơm rạ) để bện thành một sợi dây cứng, chu vi khoảng 4 tấc, dài 34 thước, cứ 5 sợi nhỏ thì buộc lại thành một sợi to, buộc một đầu của sợi dây vào cột nhà, quấn lên trên xà nhà rồi đắp quanh các tầng lầu cho đến khi dây xuống tới mặt đất, sau đó đắp bùn nhão lên, tên lửa và pháo không thể đốt cháy, đến pháo đá nặng trăm cân cũng không làm được gì. Vừa nhẹ nhàng vừa không tốn tiền, cho nên được gọi là "Thừng bảo vệ rào".

Chương 103

Triệu Bạch Ngư vừa dứt lời liền nghe thấy tiếng xé gió chói tai ập tới, trong mắt phản chiếu hỏa tiễn đang bay vút đến, sát qua đỉnh đầu của y rơi xuống phía sau phát ra một tiếng nổ mạnh, ngọn lửa bùng lên trong phút chốc nhanh chóng vây lấy binh sĩ, tiếng kêu la thảm thiết không ngừng vang lên, tuy rằng đã được dồng đội dập tắt lửa trên người, nhưng nối đuôi chính là tên lửa ùn ùn kéo tới, mọi người còn không lo nổi cho bản thân mình, căn bản không có dư sức đi cứu đồng đội bị lửa tấn công.

Đậu Hồng xông tới che chắn cho Triệu Bạch Ngư, níu tay y chạy xuống khỏi cổng thành: "Đại nhân, ngài rời khỏi đây trước đi!"

Triệu Bạch Ngư bóp mạnh kinh mạch trên cổ tay của Đậu Hồng: "Đã lúc nào rồi mà còn nghĩ đến tác phong của quan lại chứ?"

Cơn đau ép Đậu Hồng buông tay ra, nghe thấy tiếng chửi tục của Triệu Bạch Ngư vang lên bên tai thì không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, thấy trong mắt Triệu Bạch Ngư phản chiếu ngọn lửa đỏ rực, dùng thái độ quả cảm không ôn hòa điềm tĩnh như trước nữa mà quát lên: "Ông có kinh nghiệm tác chiến, mau đi chỉ huy đi! —— Bắn pháo! Máy ném đá bắn pháo cho ta! Cung thủ tiến lên, tên lửa có bao nhiêu bắn hết bấy nhiêu cho bổn vương! Hỗn hợp trộn từ phân và nước tiểu bảo các ngươi trộn mấy ngày nay ấy, mẹ nó đổ xuống dưới hết cho ta! Ngắm chuẩn chút, rót vào tai mắt mũi miệng đám tinh trùng lên não muốn xâm chiếm nhà của chúng ta, giết người thân của chúng ta, chiếm đoạt tài sản đất đai của ta! Cho bọn chúng đớp cứt hết đi —— !"

Một câu cuồng loạn cuối cùng hô đến nỗi vỡ giọng nhưng vẫn như xuyên qua tường lửa, đinh tai nhức óc, trái lại khích lệ toàn quân trên tường thành, chỉ thấy Triệu Bạch Ngư vọt lên phía trước làm gương cho binh sĩ, cầm lấy tên lửa hướng xuống phía dưới bắn tên, ngón tay bị dây cung cứa rách be bét máu tươi nhưng dường như y chẳng hề phát hiện ra, những người xung quanh vô cùng hưng phấn, hăm hở phản kháng lại trước khí thế áp đảo đầy trời của quân địch.

Đậu Hồng cũng không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc bảo vệ thượng sai nữa, ông cầm lấy trường thương lao đến cổng thành đâm xuống những tên quân Hạ đang bò lên, bên cạnh liên tục có binh sĩ nâng từng thùng phân lên đổ xuống, đã lúc này rồi không còn ai quan tâm đến mùi hôi thối gay mũi này nữa, sâu trong lòng chỉ còn lại ham muốn giết chóc vô cùng tận, chỉ biết nếu như bọn họ không liều chết chống đỡ đợt sóng tấn công đầu tiên này, thì ngay sau đó đầu sẽ rơi xuống đất, nếu cổng thành bị phá, đất quê hương của họ sẽ bị phơi bày trước móng ngựa, chín mươi ngàn dân chúng tay không tấc sắt sẽ phải chịu đựng từng trận chà đạp tàn bạo và độc ác.

Tên lửa ồ ạt phóng ra không ngừng nghỉ, ánh lửa bất diệt bổ nhào xuống tường thành, mùi da thịt bị đốt cháy bốc lên, mùi máu tươi, mùi khói thuốc súng, mùi hôi thôi của phân và nước tiểu hòa lẫn vào nhau điên cuồng kích thích dạ dày của Triệu Bạch Ngư, nhưng lúc này cả người y đều căng thẳng, tinh thần tập trung cao độ, cố gắng tìm kiếm xe nhung giữa đội quân Đại Hạ đang yên tĩnh đứng cách thành hai dặm.

Với khoảng cách này, dù là tên lửa hay là nỏ tầm xa có thể bắn được nỏ tiễn xa đến một dặm cũng không giết được người trong xe nhung.

Bỗng nhiên có một dòng máu tươi nóng hổi phun ra, tung tóe lên nửa bên mặt Triệu Bạch Ngư, cánh tay kéo cung của y run rẩy, thoáng liếc nhìn sang binh sĩ bên cạnh thấy người nọ đã bị chém thành hai khúc, một thân hình cao to leo lên được trên tường thành, giơ đao dài lên cao bổ về phía Triệu Bạch Ngư.

Tình hình lúc này như ngàn cân treo sợi tóc, trường thương của Đậu Hồng xuyên qua lồng ngực của quân địch rồi đột ngột rút ra tạo nên âm thanh răng rắc chói tai, kẻ nọ rên rỉ ngã xuống đất, mà cũng trong lúc đó, mũi tên lửa của Triệu Bạch Ngư đã được bắn ra, tên lửa lao xuyên qua ngực của một binh Hạ rồi cắm vào bụng của một binh Hạ khác phát ra tiếng nổ tung, trong nháy mắt chúng đều bị ngọn lửa cắn nuốt.

Vừa mới trải qua cái chết gần kề trước mắt nhưng Triệu Bạch Ngư không có thời gian để nghĩ tới mà sợ, khi y phát hiện ra tên lửa đã bị dùng hết thì rút hoàn thủ đao ra rồi vụt đến chỗ quân địch đang bò lên, vung đao chém xuống, máu tươi văng lên mặt, lúc này tiếng da thịt bị chém rách phóng đại bên tai, vang vọng lấn át cả tiếng chém giết của đao thương.

Khác với sự tỉnh táo trong cơn phẫn nộ đến tận cùng khi chém giết tham quan ô lại, bây giờ trong đầu y chỉ còn sót lại một suy nghĩ duy nhất đó là giết chóc, không hề có cảm giác sợ hãi, mệt mỏi lẫn tội lỗi.

Không giết thì chết.

Mà chết rồi cũng chưa thể kết thúc được, sau lưng còn có ngàn vạn người dựa vào sự bảo vệ của bọn họ.

Triệu Bạch Ngư liều chết cắn răng, tiếng gào thét mạnh mẽ bật ra khỏi lồng ngực: "Giết ——!"

Trước sau trái phải y có vô số người hưởng ứng, tiếng hô giết vang lên bốn phía, thậm chí có tân binh đã bị đâm thủng ngực thì quyết ôm lấy quân địch nhảy thẳng xuống thành, chỉ trong chốc lát đã bị giẫm đạp đến nổi chẳng còn ra hình người,

Ánh lửa ngập trời, mãi cho đến khi có tia nắng vàng óng xuyên qua tầng mây dày chiếu sáng rừng cây sắc xám phía xa, nắng phản chiếu trên khôi giáp của tướng sĩ vô cùng chói chang, quân Hạ ác chiến một đêm nhanh chóng rút lui như thủy triều, dựng trại đóng quân ở cách đó ba dặm.

***

Hai tay Triệu Bạch Ngư run lên cầm cập, từng đốt ngón tay đều nứt toác ra bê bết máu me, nhưng cơn đau mà nó mang lại thậm chí không thể so được với sự mệt mỏi của thể xác, tinh thần càng chấn động hơn thế nữa, nhưng y vẫn cần phải tiếp tục mạnh mẽ chống đỡ để đối phó với nguy cơ công thành sắp sửa xảy ra.

"Có bao nhiêu tiểu đội cầu viện phá vòng vây thành công?"

Tình hình của Đậu Hồng không ổn hơn Triệu Bạch Ngư là bao, đầu bù tóc rối hai mắt đỏ quạch, thở hồng hộc trả lời: "Chỉ có một tiểu đội là không bị treo đầu lên cột cờ của địch."

Triệu Bạch Ngư nhắm nghiền mắt lại.

Có tổng cộng bảy tiểu đội cầu viện, một đội năm người, chỉ có một tiểu đội phá vòng vây thành công, chạy đi mật báo.

"Từ Kinh Châu đến Vị Châu khoảng một trăm hai mươi dặm, nếu là kỵ binh nhẹ thì nhanh nhất cũng phải hai ngày hai đêm mới đến đó, nhưng điều này không thực tế, huống chi Vị Châu cũng đang bị quân Hạ vây đánh. Chỉ có thể đến các nơi như Nguyên Châu, Khánh Châu, Lũng Châu, Ninh Châu và Phượng Tường để cầu viện, nhưng Nguyên Châu và Lũng Châu đều đã phái đi không ít binh lực chi viện cho Vị Châu, có thể đến giúp quân ta không được bao nhiêu. Cấm quân Khánh Châu có ba mươi ngàn, Cấm quân Phượng Tường hai mươi lăm ngàn, Lũng Châu cũng có năm ngàn Cấm quân, cộng thêm hương binh và quân đội vùng ven đoán chừng có thể gom được đủ một trăm ngàn binh lực, nhưng nhóm viện binh đầu tiên đến hỗ trợ được nhanh nhất cũng phải tốn năm ngày!" Triệu Bạch Ngư cắn chặt răng hàm, nếm được mùi máu tươi: "Chúng ta cần cố thủ Kinh Châu năm ngày, phải đợi đến lúc viện binh đến!"

Trái tim của Đậu Hồng nhanh chóng trở nên nặng nề, đây đã là kết quả tốt nhất trong dự đoán rồi, vẫn chưa chắc quân cầu viện có thể đến đích thành công hay không, mà dù viện binh có xuất phát thuận lợi cũng không chắc sẽ đến đây kịp trong vòng năm ngày.

Lúc này, Triệu Bạch Ngư thấp giọng nói: "Phải bảo đảm đạn dược, lương thảo và nguồn nước đủ dùng trong vòng ít nhất mười ngày tới."

Đậu Hồng hiểu tính toán của Triệu Bạch Ngư nhưng...

"Đạn dược chỉ đủ dùng trong ba ngày. Quân địch đã có tiếp viện, ta đoán phải có chừng bảy, tám mươi ngàn, hơn nữa bọn chúng dư dả đạn dược, dùng không tiếc rẻ, chúng ta chỉ có tối đa bốn mươi ngàn binh, e là sẽ không chống đỡ được bao lâu."

"Chỉ cần thừng bảo vệ rào được chế tạo thành công, dù đạn có mạnh đến mức nào cũng không phá được. Đã động viên dân chúng toàn thành chưa? Nếu như có kẻ nào phản kháng hoặc làm dao động lòng quân thì nhốt vào đại lao trước đã rồi tính."

Đậu Hồng còn chưa đáp lại đã có tướng lĩnh phía dưới vội vàng chạy tới nói: "Đại nhân, thừng bảo vệ rào mà tối qua ngài dặn dò làm mọi người đã chế ra được rồi, ngài có muốn đích thân đi kiểm tra không?"

Triệu Bạch Ngư: "Quấn lên nóc nhà rồi ném phá trước đã, xem thử có dùng được hay không."

Tướng lĩnh nghe lệnh.

Có thợ thủ công mang sợi dây thừng được bện theo như bản vẽ của Triệu Bạch Ngư đến, quấn năm lớp dây quanh một căn nhà trống, sau đó đổ bùn nhão ở xung quanh, đợi đến lúc nó khô lại mới dùng máy ném đá ném pháo vào, sau khi khói mù tan đi không thấy bị tổn hại gì, chúng tướng sĩ mới bừng bừng hứng khởi, nói có vũ khí phá pháo lợi hại như vậy rồi thì không sợ đạn gây cháy và đạn khí độc của Đại Hạ nữa.

Triệu Bạch Ngư: "Đạn khí độc nổ xong sẽ có khói độc bốc lên, thừng bảo vệ không thể chắn được."

Lúc này Đậu Hồng mới bước lên nói: "Đại nhân, có thầy thuốc đề nghị dùng mặt nạ ngâm qua giấm chua để phòng độc. Hơn nữa trong quá trình chế tạo đạn khí độc rất dễ bị ngộ độc chết cho nên số lượng sản xuất ra rất ít, ngoại trừ ban đầu công thành ném đạn khí độc chứa chất độc cực mạnh ra để đe dọa, chèn ép sĩ khí thì những loại đạn khí độc lúc sau phóng đến không nguy hiểm đến tính mạng."

Triệu Bạch Ngư: "Cần người cho người, muốn vật liệu cho vật liệu, cố gắng phối hợp chế tạo mặt nạ phòng độc đi." Sau đó y bảo các tướng sĩ bày tỏ suy nghĩ của mình về việc đối phó với Đại Hạ, "Tập hợp ý tưởng của trăm người, cứ nói thoải mái đi, không gì là không thể."

Một đám tướng sĩ nhìn nhau, trong lòng rất do dự, cũng bởi vì Ngạc Khắc Thiện bảo thủ tự phụ, trước giờ chưa từng kiên nhẫn nghe theo ý kiến mang binh đánh giặc của thuộc hạ.

Ấy gọi là tướng dũng binh hùng, tướng hùng binh sợ, trên lệnh dưới theo, tướng lĩnh dưới quyền làm Ngạc Khắc Thiện nở mày nở mặt thường là những kẻ nịnh nọt bất tài, ông ta không thích nghe lời khuyên của cấp dưới, luôn cố tình chèn ép những tướng lĩnh ưu tú muốn ngóc đầu lên, vì vậy khi nghe thấy lời đề nghị của Triệu Bạch Ngư, bọn họ mới ngỡ ngàng và băn khoăn theo thói quen.

Tuy nói rằng Triệu Bạch Ngư có danh thanh thiên, biểu hiện tối qua của y cũng vô cùng dũng cảm, nhưng dù gì y cũng là quan văn, sao có thể hiểu mang binh đánh giặc chứ?

Triệu Bạch Ngư nhìn ra được suy nghĩ trong lòng bọn họ, không nói gì mà quay sang nhìn Đậu Hồng.

Đậu Hồng hiểu ra ngay, thế là đứng ra nói: "Mặc dù quân địch đã ác chiến một đêm, thắng vì số lượng nhưng không thích hợp kéo dài lâu, chỉ sợ là muốn đánh nhanh thắng nhanh, bọn chúng sẽ mau chóng tiến hành đợt công thành tiếp theo, nhờ trận đánh này làm tiêu hao binh lực và thể lực của quân ta. Nhân số của quân ta rơi vào thế bất lợi, lại chỉ có thể kéo dài! Quân ta có thừng bảo vệ rào, công pháp pháo của địch mất hiệu lực thì chúng sẽ sử dụng loại vũ khí khác để phá thành, trận tên ắt không thể thiếu, chúng ta động viên dân chúng bện người rơm, học thuyền cỏ mượn tên của Chư Cát Khổng Minh, đến tối tổ chức cho dũng sĩ ra khỏi cổng thành, lẻn vào doanh địch đánh lén."

Triệu Bạch Ngư: "Được đấy."

Mưu kế của Đậu Hồng không khéo lắm, nhưng có thể có hiệu quả.

Thấy Triệu Bạch Ngư tiếp thu, lập tức có người đi ra nói: "Trong thành có một địa đạo thông ra ngoài thành, chúng ta có thể mai phục trong địa đạo để đánh lén mọi lúc."

Địa đạo chiến? Ông cố tổ sáng suốt quá mà.

Triệu Bạch Ngư vui vẻ khen ngợi, khen đến nỗi khiến cho gã đàn ông cao to thô kệch vừa ngại ngùng vừa vui sướng không thôi.

Có người lên tiếng trước được thừa nhận nên đã khích lệ được những người khác, đều là nam nhi khỏe mạnh dốc hết sức mình vì Ngô câu, ai mà không muốn toại chí lớn? Ai mà chưa từng có lòng muốn xuất tướng nhập tướng chứ?

Chỉ trong nháy mắt, một đám tướng sỉ tinh thần phơi phới đóng góp ý kiến của mình cho kế hoạch làm tiêu hao sinh lực và thể lực của quân địch, cố gắng kéo dài thời gian phá thành, Triệu Bạch Ngư nghiêm túc nghe hết.

Chỗ nào thắc mắc thì hỏi vài câu, hiểu rồi thì không góp ý thêm nữa, cho người cho vật liệu và quyền hạn tốt nhất để bọn họ mạnh tay thực hiện, còn lệnh cho người bên cạnh ghi lại những gì mà mỗi người ở đây đã cống hiến trong trận đại chiến này, để cho bọn họ nhìn thấy rõ rằng bất cứ đóng góp nào của họ cũng đều là công lao, ngày sau sẽ ban thưởng tương ứng với từng việc một.

Hành động này giống như một viên thuốc an thần tăng sĩ khí lên gấp đôi.

Triệu Bạch Ngư cũng sẽ đưa ra nguyên nhân bác bỏ một lời đề nghị nào đó, chỉ nói vài câu về chỗ thiếu sót thôi đã đủ khiến cho người khác thật lòng khâm phục rồi.

Dần dần, tiếng thảo luận vang lên không ngừng nghỉ, từ nhỏ nhẹ đến sục sôi, rồi lại giảm âm thanh xuống trong nháy mắt, Đậu Hồng dựng ngón trỏ lên đặt trên miệng ra hiệu đừng lên tiếng nữa, mọi người nhìn về phía Triệu Bạch Ngư giữa đống bao cát lộn xộn dưới tường thành, y đã nhắm mắt lại vô thức chìm vào giấc ngủ say.

Nhưng dù đang ngủ, tư thế của y vẫn căng thẳng không dám buông lỏng chút nào, mà vết thương chồng chất trên tay Triệu Bạch Ngư cũng lộ ra trước mắt mọi người, y thậm chí không thể gắng gượng đến lúc có thuốc bôi và băng gạc để chữa thương.

...

Không khí trở nên im ắng.

Mọi người đều hiểu ý lui đi, chỉ để lại một lão binh đứng cách năm mét canh chừng Triệu Bạch Ngư đang mê man giữa bao cát, còn gọi nhóc đồ đệ của thầy thuốc đến để giúp Triệu Bạch Ngư bôi thuốc lên tay.

Ai nấy đều làm việc cần làm, có điều tướng sĩ đánh từ tối qua đến giờ đều đã mệt mỏi kiệt sức, Đậu Hồng lệnh cho bọn họ thay phiên nhau nghỉ ngơi, bản thân ông cũng phải đi nghỉ một chút.

Ngủ chưa đủ hai canh giờ, Triệu Bạch Ngư đã choàng tỉnh giấc vì tiếng hỏa lực ầm ầm và tiếng động nặng nề vang lên khi cổng thành bị vật nặng tông vào, không cho chút thời gian nào để tỉnh táo, trận tập kích tiếp theo đến nhanh như mưa rào khiến y phải vùi đầu vào đánh ngay.

***

Tại một hẻm núi không tên thuộc dãy núi Kỳ Liên.

Tiếng rầm rập đinh tai nhức óc vang lên như tiếng sấm réo từ xa đến gần, bỗng nhiên bụi mù cuồn cuộn, có gì đó xuất hiện, thế mà lại là hàng ngàn con ngựa đang lao nhanh, hợp lại thành đoàn băng qua hẻm núi, kỵ binh mai phục phía trên lập tức biến sắc, nhìn quanh quất hồi lâu mới thấy được một bóng người màu đen ẩn hiện trong bầy ngựa, lập tức đưa tay hạ lệnh:

"Nổ hẻm núi!"

Bên cạnh có người do dự: "Bên dưới có hơn chục ngàn tuấn mã, đều là ngựa có đủ tư chất làm ngựa chiến, nổ phá hẻm núi chẳng phải sẽ chôn luôn chúng nó sao?"

Kỵ binh dẫn đầu tát kẻ kia một cái: "Đến bây giờ ngươi cũng chưa nhìn ra được mục đích của bọn người Hán này là đang chuẩn bị dẫn ngựa chiến mà bọn chúng trộm được từ Đại Hạ về nước chúng à? Đi qua sa mạc, thảo nguyên và đường núi, mượn thêm đường của dân tộc Thổ Phiên, bọn chúng sẽ nhanh chóng đến Tây Ninh Châu thôi!"

Kẻ bị tát không dám than thở một câu nào, chỉ lĩnh mệnh làm theo, châm lửa vào chất nổ đã chôn trong hẻm núi từ lâu.

Tiếng nổ liên tục vang lên khiến cho đàn ngựa hoảng sợ, nhao nhao hí vang rồi tìm cách tháo chạy, có con bị đá tảng bất ngờ rơi xuống làm gãy cổ, mất mạng tại chỗ đã là may mắn lắm rồi, chỏng vó run rẩy chịu đựng cơn đau chậm rãi lan ra mà không chết được mới đáng sợ.

Một thanh ô thương chấm dứt nỗi thống khổ của tuấn mã, siết chặt dây cương tránh tảng đá đang rơi từ trên cao xuống, Hoắc Kinh Đường nhìn lên mai phục ở phía trên hẻm núi rồi đột nhiên xông vào giữa bầy ngựa, một lát sau túm một ai đó từ bên trong ra, người nọ dùng hai tay đặt bên miệng huýt một tiếng sáo gọi ngựa, dần dần trấn an được bầy ngựa nóng nảy, để chúng chủ động tránh khỏi nguy hiểm.

"Giết kẻ chăn ngựa kia!"

Vừa dứt, vô số cung tên từ bốn phương tám hướng đã ồ ạt bắn về phía người chăn ngựa, có điều chỉ trong nháy mắt đã bị ô thương của Hoắc Kinh Đường gạt rơi xuống đất hết, cuộc tấn công trong phạm vi mười dặm đều có phòng ngự.

"Chúng tướng theo ta xuống giết!"

Ra lệnh một tiếng, tiếng thét giết rung trời của chừng hơn một ngàn phục binh vang lên, thiết kỵ giáp nặng màu đen tuyền bỗng nhiên xuất hiện như âm hồn, xếp thành một hàng dài im lặng đứng nhìn một ngàn phục binh hừng hực lao xuống dưới, bọn họ chỉ có vẻn vẹn năm mươi kỵ binh nhưng khí thế lại khủng bố như thể đang có đến năm trăm, năm ngàn kỵ binh vậy.

Nửa canh giờ sau, đội binh dưới hẻm núi rời đi, chỉ để lại xác chết của vài con ngựa và hàng trăm phục binh, có cơn gió từ thảo nguyên rộng lớn ghé thăm, lướt qua mỏm đá gồ ghề của hẻm núi, thổi những mầm cây nhỏ vừa nhú khỏi ngọn cây bay lất phất, ngân lên âm thanh thê lương bi tráng của đồng cỏ hoang vu.

Đây là một con đường đã từng được Đại Cảnh khai thác với mục đích tấn công Tây Ninh Châu, bởi vì đường đá hiểm trở, sa mạc, thảo nguyên và đồi núi đều xuất hiện trên tuyến đường này, còn cần phải đi dọc qua đường của dân tộc Thổ Phiên, hơn nữa vì lợi bất cập hại nên đã bị bỏ ngang, bây giờ vẫn có người qua lại nhưng rất ít, đã định sẵn là ai chết sẽ vùi xương nơi đây chứ không được chôn cất đàng hoàng.

Ngựa chạy không ngừng vó, băng qua mấy hẻm núi liền kề nhau chạy vào một đồng cỏ không rộng lớn lắm, cuối đồng cỏ là là một thị trấn nhỏ của dân tộc Thổ Phiên, qua khỏi thị trấn đó là đến Tây Ninh Châu thuộc lãnh thổ Đại Hạ.

Nhưng khi chỉ vừa mới đặt chân đến mảnh đất vàng vọt trần trụi không màu mỡ kia, năm mươi thiết kỵ Đường Hà bỗng gặp phải ba ngàn kỵ binh nhẹ cản đường, phó tướng bên cạnh Hoắc Kinh Đường nhận ra thân phận của kỵ binh nhẹ nhờ vào phục sức và loan đao mà bọn họ đeo trên người.

"Kinh binh nhẹ Mông Cổ." Phó tướng ngạc nhiên, "Đại Hạ điên rồi, hợp tác với kị binh Mông Cổ, lang sói hung ác tham lam nhất thảo nguyên này sao? Tang Lương Ngọc không sợ dẫn sói vào nhà à?"

Kỵ binh nhẹ Mông Cổ còn ghê gớm hơn cả kỵ binh hạng nặng của Đại Hạ, năm mươi kỵ binh đối đầu với ba ngàn kỵ binh, dù có là thiết kỵ Đường Hà chiến công hiển hách cũng không dám cược rằng họ có thể vượt qua được.

Sắc lưu ly trong mắt Hoắc Kinh Đường trở nên sâu thăm thẳm: "Hợp tác với Đột Quyết, Tây Liêu, Nam Cương gì cũng vậy thôi, thích chơi với lửa thì có ngày chết cháy, giết hết là được." Hắn giơ tay, dõng dạc từng câu chữ: "Đếm đầu luận công, chém được đầu thủ lĩnh thì tính công theo tứ đẳng."

Nghe vậy, năm mươi kỵ binh lập tức sáng mắt lên, kiêng dè ban đầu lúc này đã hoàn toàn hóa thành sát ý chộn rộn tràn đầy. Hoắc Kinh Đường ra lệnh một tiếng, năm mươi kỵ binh dũng mãnh ra quân, tiên phong tàn sát ba ngàn kị binh nhẹ, âm thanh chiến tranh đâm thủng cả màng nhĩ, ngựa kêu vang rền, một giây sau bị chém đứt hai chân trước ngã rạp xuống đất làm kị binh trên lưng ngã theo, ngay lập tức bị trường thương theo sát xuyên thủng lồng ngực, hồn về tha hương.

Nắng chiều ngả về tây, đầu ô thương sắc nhọn lóe lên một tia sáng bạc rạch ngang da thịt yếu ớt, thoáng chốc một dòng máu đỏ tươi vung lên trời chiều, rơi khắp bãi cỏ, cơ thể người nặng nề rơi xuống đất, để lộ đôi mắt màu lưu ly vô cùng đặc biệt của Hoắc Kinh Đường, dù xác người đã chồng chất bên cạnh hắn nhưng đôi mắt vẫn lạnh lùng và bình tĩnh như cũ, không hề có chút điên cuồng, sợ hãi hay mất kiểm soát nào sau khi giết người như ngóe, trông như chẳng hề tồn tại chút tình cảm loài người nào, lúc này đến cả kị binh nhẹ Mông Cổ rong ruổi thảo nguyên tranh đấu cùng đàn sói cũng cảm thấy sợ hãi.

Giống đàn sói nhận ra được nguy hiểm nên quắp chặt cái đuôi vào người chật vật trốn chạy, lúc này không đến một ngàn kỵ binh Mông Cổ đã lui về phía sau vì hoảng sợ.

Chính vì sự rút lui tầm thường này mà khí thế của hai bên đã thay đổi trong chớp mắt, đối mặt với chừng ba mươi thiết kỵ Đường Hà còn sống sót, rất dễ nhận thấy sĩ khí của binh sĩ kỵ binh nhẹ Mông Cổ đã bị tổn thất hai phần ba, vô cùng suy kiệt.

Tên thủ lĩnh chạm phải ánh mắt của Hoắc Kinh Đường, không nén nổi sợ hãi đưa tay lên: "Rút..." Giọng nói nhỏ quá, những người khác nghe không rõ, sau đó liền nghe được âm thanh phẫn nộ phảng phất như rít ra từ trong kẽ răng của gã: "Rút!!!"

Số kỵ binh Mông Cổ còn lại rút lui như thủy triều, thiết kỵ Đường Hà chém giết đỏ mắt rồi cũng không muốn buông tha đơn giản như vậy, cũng bởi vì Hoắc Kinh Đường vẫn chưa hô ngừng nên yên tâm tiếp tục đuổi giết.

Hoắc Kinh Đường nhấc ô thương lên, siết chặt thân thương, chạy lấy đà vài bước rồi xoay người dùng hết sức ném đi, ô thương xuyên qua trời cao, đâm vào lồng ngực của thủ lĩnh kỵ binh nhẹ Mông Cổ một cách chuẩn xác.

Quán tính cực lớn lập tức túm lấy tên thủ lĩnh bay xa vài mét nữa rồi đóng chặt xuống đồng cỏ, gã phun ra mấy ngụm máu tươi, có điều chỉ trong chốc lát Hoắc Kinh Đường đã xuất hiện ngay trước mắt, gã huơ tay huơ chân giãy giụa, biểu cảm hoảng sợ cực độ, có thể cảm giác được ô thương cắm vào thân thể mình bị rút ra, trong mắt gã là Hoắc Kinh Đường với dáng vẻ tựa ác quỷ đang giơ cao hoàn thủ đao lên... Đao rơi xuống, két két! Thi thể bị chém đứt làm đôi.

Thủ lĩnh chết trận binh tan đàn xẻ nghé, kỵ binh Mông Cổ tháo chạy khắp nơi, thiết kỵ Đường Hà nhẹ nhàng thu hoạch đầu người, mà Hoắc Kinh Đường nhanh chóng cảm nhận được có điều bất thường, quay đầu lại nhìn về phía đường chân trời nơi ánh trời chiều bị cắn nuốt, một loạt chấm đen bỗng nhiên lọt vào tâm mắt, hắn giật mình, lập tức lấy hơi hô to: "Thu binh! Lui lại!"

Ba mươi thiết kỵ Đường Hà đã nhìn thấy được nơi đường chân trời có hàng loạt kỵ binh đang vọt tới thì cũng rùng mình một cái, da đầu run lên, không dám ở lại nữa mà trở mình lên ngựa, giơ roi thúc ngựa chạy như điên, phía sau có khoảng bốn năm ngàn kỵ binh Đại Hạ đang đến gần, xông vào biên cảnh tộc Thổ Phiên mà không mảy may sợ hãi.

Mặc dù thiết kỵ Đường Hà vẫn còn ba mươi người sống sót nhưng đã có hơn nửa bị thương nặng, còn một nửa vừa mới trải qua một trận chiến hăng hái vẫn còn đang mệt mỏi, vốn đã không có sức mà còn phải đối mặt với một tốp kỵ binh Đại Hạ đang hừng hực khí thế.

Lần này sợ là lành ít dữ nhiều.

"Mẹ nó! Sao đám giặc Hạ này giống châu chấu giết một đàn vẫn còn đàn khác thế này, nếu như toàn quân ta đi nói không chừng bây giờ chúng đã bị ta đánh tơi bời rồi!" Phó tướng gào lên: "Cầu tặc họ Tang! Tốt nhất là mày nên cầu nguyện cho ông đây thoát chết nhiều lần đi, bằng không thì ông đào mồ tổ tiên nhà mày lên hết đấy!"

Bọn họ nhanh chóng bị kỵ binh Đại Hạ bao vây kín kẽ, đối mặt với đội binh mà chúng không ngừng truy đuổi, ba mươi thiết kỵ Đường Hà may mắn còn sống sót không khỏi cảm thấy mệt mỏi, đánh trận vốn chú trọng sự liền mạch*, nếu như toàn quân liên thủ, dù chỉ là năm mươi thiết kỵ Đường Hà thôi nhưng đánh chục ngàn quân cũng chỉ là chuyện nhỏ, bởi lẽ thiết kỵ Đường Hà dũng mãnh vô địch luôn đánh đâu thắng đó, chỉ cần không gì ngăn cản khí thế là sẽ đánh cho quân địch tan tác, vậy mà lại phải đánh luân phiên hết lượt này đến lượt khác, bọn họ vừa tiêu hao thể lực vừa hụt số lượng, còn phe của chúng thì không hề thả lỏng ý chí, kẻ đứng sau sắp xếp giật dây cho cuộc truy đuổi này thật sự tính toán rất giỏi.

(*) Nhất cổ tác khí (一鼓作气): một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm. "Tả Truyện" Trang Công thập niên: 'phu chiến, dũng khí dã. Nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt'. Khi đánh trận dựa vào dũng khí, đánh một tiếng trống, dũng khí tăng lên, đánh hai tiếng trống, dũng khí suy giảm, đánh ba tiếng trống, dũng khí không còn. Sau này ví với nhân lúc đang hăng hái làm một mạch cho xong việc.

Hoắc Kinh Đường siết chặt chiếc khăn tay cũ giấu trong ngực áo, ánh mắt kiên định, thấp giọng nói: "Có lẽ không còn tìm được mộ tổ tiên của Tang cẩu tặc nữa đâu, hay là sống thêm chút nữa rồi dẫn binh chinh chiến đánh hạ phủ Hưng Khánh, cho ngươi mặc sức báo thù rửa hận!"

Thiết kỵ Đường Hà xung quanh đều bật cười khoái chí: "Các anh em nghe thấy chưa? Tướng quân đã đồng ý nếu lần này chúng ta sống sót là có thể tiến đánh thủ đô Đại Hạ, tiêu diệt con chó quên mất nguồn gốc của mình đấy!"

"Một lão thô kệch như ta ấy à, không nhớ gì đâu, chỉ mang thù thôi! Tướng quân, ngài đã nói vậy rồi, dù ta có bò cũng phải bò về Tây Bắc!"

"Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa, thề chẳng quay đầu..." Hoắc Kinh Đường nở nụ cười, đột nhiên đọc vang câu thơ trấn thủ biên cương của tiền triều, giọng nói vang vọng núi sông, hòa vào tiếng kêu lớn của diều hâu bay ngang qua thảo nguyên: "Ngóng cố hương!"

(*) Nhà thơ đời Đường – Lệnh Hồ Sở viết đề tài "Thiếu niên hành", cũng có một bài thất tuyệt mô tả những đoàn quân rời Hàm Dương Tây chinh:"Cung sáng đeo lưng kiếm ánh sương/Gió thu quất ngựa rời Hàm Dương /Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa /Thề chẳng quay đầu ngóng cố hương."

Bài thơ mô tả những đoàn quân thúc ngựa rời Hàm Dương về biên ải phía Tây. Chuyến hành quân này nếu chưa thu phục lại những vùng đất trong khu vực Hà Hoàng, do quân Thổ Phồn chiếm đóng (Đông Nam bộ Cam Túc và Hà Tây Tẩu Lang), thề quyết không quay đầu nhìn lại quê hương.

Dứt lời, giết địch, làm gương cho binh sĩ.

Ba mươi thiết kỵ nhanh chóng chìm trong quân địch mênh mông như biển, Hoắc Kinh Đường không phụ danh xưng nhân đồ Tây Bắc, xung quanh hắn đều là xác quân địch chất chồng lên nhau, bất cứ nơi nào hắn đi qua, ai cũng đều phải sợ bảy phần, tướng địch lệnh cho hơn mười binh sĩ vung giáo dài ra đâm về phía Hoắc Kinh Đường, hắn lại giẫm xuống mũi giáo nhảy lên cao, lập tức có vài chục binh sĩ dựng thẳng giáo dài lên đặt dưới đất nơi hắn đáp xuống, Hoắc Kinh Đường dùng ô thương chen vào chỗ hở giữa các mũi giáo, mượn đà dùng sức tránh khỏi chúng, nhưng lại không tránh được vô số vết thương bị rạch ra dưới sự truy đuổi không ngừng nghỉ của vũ khí sắc nhọn.

Giơ tay đỡ lấy hàng chục mũi giáo đang đâm về phía mình, Hoắc Kinh Đường tung đám binh sĩ sang một bên làm lá chắn người chặn đòn tấn công từ phía bên kia, lại dùng sức lực toàn thân bẻ gãy giáo dài, dồn nội lực đánh ra, trong nháy mắt giết chết hơn mười người. Bên tai có tiếng xé gió vụt tới, Hoắc Kinh Đường rút hoàn thủ đao ra theo phản xạ chém đứt, nhưng chỉ một giây sau cơn đau từ bụng kéo tới khiến hắn phải ngẩng đầu nhìn lại, thấy một hàng binh sĩ đang cầm nỏ thần ti uy lực phi phàm, đang kéo dây cung nhắm thẳng vào hắn.

Trước kỵ binh nặng, sau kỵ binh nhẹ, cuối cùng là cung thủ tinh anh cũng ra tay rồi, Tang Lương Ngọc khá coi trọng hắn đấy chứ.

Hoắc Kinh Đường cười mỉa, vươn tay chém đứt một nửa mũi tên cắm trên bụng hắn, gân xanh trên cánh tay, mu bàn tay hằn rõ lên, đã đến nỗi này rồi mà hắn vẫn có thể toát ra được khí thế cực kỳ mạnh mẽ không biết sợ hãi khiến cho tướng địch khiếp sợ.

Tướng địch kinh hoàng lui về phía sau, vung tay hạ lệnh: "Cung thủ chuẩn bị —— bắn tên!"

Mũi tên sắt bay ra như mưa, Hoắc Kinh Đường cắm ô thương sâu xuống mặt đất, hai tay nắm chặt hoàn thủ đao nhảy sang một mảnh đất trống, dù bả vai và bắp chân đã trúng tên nhưng dường như hắn không cảm thấy đau, mưa tên vây quanh một đao đâm chém, đến cả nỏ thần và cánh tay của cung thủ cũng bị hắn chém đứt, tướng địch sợ đến mức lui về phía sau, nghĩ mãi cũng không hiểu vì sao trên đời lại có người còn đáng sợ hơn cả quỷ thế này!

"Cung thủ... Toàn bộ cung thủ —— ra khỏi hàng!" Tướng địch càng sợ hãi càng kiên quyết muốn chém chết Hoắc Kinh Đường ở đâu, lệnh năm trăm cung thủ xếp thành mười nhóm, chuẩn bị bắn tên liên hoàn, chủ ý chắn chắn là muốn hao sạch mũi tên, dù năm ngàn kỵ binh có chết cũng phải diệt được Hoắc Kinh Đường: "Bắn..."

Mắt Hoắc Kinh Đường bị máu tươi chảy xuống che khuất, hắn không có dư sức để suy xét, đầu óc, xương cốt và linh hồn đều chỉ còn lại duy nhất một suy nghĩ, phải sống.

Phải tiếp tục sống!

Hắn đã đồng ý với Triệu Bạch Ngư là không bỏ y trước rồi, làm sao dám chết ở đây?

"Bắn tên!"

Mưa tên ùn ùn kéo đến, đã có năm phó tướng gần đó xông đến ngăn trước mặt Hoắc Kinh Đường rồi lớn giọng hô nói bọn họ sẽ làm lá chắn, bảo Hoắc Kinh Đường khi nào giết sạch Đại Hạ rồi mang rượu tới trước phần mộ của bọn họ báo cho một tiếng là được.

Máu chảy xuống gần như che mất tầm nhìn của Hoắc Kinh Đường, hắn siết chặt hoàn thủ đao đột ngột tiến tới chặt đứt mũi tên sắt đang đến gần phó tướng, gào lên với đám phó tướng luôn miệng bảo hắn đi trốn đi: "Mẹ nó, ngậm cái miệng chó của ngươi lại!"

Cung thủ của quân địch bắn xong một đợt tên thì ngay lập tức có tốp khác lên bắn, không để cho bọn họ một cơ hội tạm nghỉ, tướng địch kia giết đỏ cả mắt rồi, mặt mũi gả đỏ bừng lên, hưng phấn không thôi, nếu như chiến thần Tây Bắc Hoắc Kinh Đường chết trong tay gã, từ nay về sau gã sẽ nổi danh khắp thiên hạ, làm dòng họ vinh dự không nói, về sau còn có thể trở thành một đại danh tướng lưu danh sử sách.

"Bắn tên bắn tên bắn tên!"

Tướng địch điên cuồng hô lên, nhưng chỉ một giây sau thôi khuôn mặt tươi cười phấn khích đã cứng đờ, gã liếc mắt thoáng nhìn thấy một loạt cung thủ bị tên sắt đâm xuyên qua ngực, không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, thấy được nơi ánh chiều tà sắp khuất có một đội kỵ binh đên đến, đối phương cũng cầm trên tay nỏ thần ti vốn chỉ ở Đại Hạ mới có đi từ xa lại gần, đến gần rồi rốt cuộc gã cũng có thể nhìn rõ khuôn mặt và trang phục của người dẫn đầu.

Đó cũng là trang phục của thiết kỵ Đường Hà, gương mặt đó lại trùng hợp là người mà gã vừa mới giao thủ xong, thủ lĩnh phiên tộc Chiết thị Tây Bắc Chiết Thanh Phong.

Vì sao hắn lại ở đây?

Đây chính là thắc mắc cuối cùng hiện lên trong đầu gã khi còn sống, bởi vì gã đã nhanh chóng nghe thấy lời hỏi thăm lạnh lùng đầy quỷ quái: "Mang binh đánh giặc nhiều năm rồi, chẳng lẽ không ai nói cho mày biết đứng trên chiến trường đừng đưa lưng về phía địch hay sao?"

Cái, cái gì?

Tướng địch chỉ kịp nhìn thoáng qua sát ý vô tận xuất hiện trên khuôn mặt kinh diễm như yêu tà đang tiến gần của Hoắc Kinh Đường, sau đó là cơn đau mãnh liệu, tầm mắt thay đổi, dường như gã đã nhìn thấy thân thể mình đứng yên một chỗ, rồi phạm vi nhìn chuyển sang ngửa lên, thấy được cơ thể không đầu và bầu trời như đổ lửa.

Viện binh quân địch đã đến, chủ tướng bị chém, lòng binh sĩ Đại Hạ rã rời, nháo nhào chạy trốn, phiên binh Chiết Thanh Phong mang đến đuổi giết một lúc mới lui, hỗ trợ những người chăn ngựa luôn được bảo vệ an toàn đi lùa ngựa chiến khắp nơi trên thảo nguyên trờ về.

Chiết Thanh Phong nhìn lướt qua chiến trường rồi giật mình, nhất là đống xác chết trông như bãi tha ma bên cạnh Hoắc Kinh Đường càng khiến cho gã muôn phần kính sợ.

"Mạt tướng tham kiến tướng quân!"

Hoắc Kinh Đường ném mũ sắt xuống đất, máu tươi chảy vào cực kì bết dính, tóc quấn lộn xộn vào nhau, hắn giơ hoàn thủ đao lên chém đứt toàn bộ đuôi tên trên người rồi mới liếc nhìn Chiết Thanh Phong: "Sao ngươi lại ở đây? Tiểu lang bên kia thế nào rồi?"

Chiết Thanh Phong sửng sốt, dường như không ngờ câu hỏi đầu tiên của Hoắc Kinh Đường là về Triệu Bạch Ngư, có điều cảm thấy nó vẫn nằm trong dự đoán, gã bèn thuật lại nguyên nhân mình đến đây.

Hoắc Kinh Đường cau mày: "Tiểu lang phát hiện Tang Lương Ngọc truy ra tin tức phủ Tây Lương, vậy nên phái ngươi tới hỗ trợ hả?" Hắn nhìn nỏ thần ti trên tay Chiết Thanh Phong, "Các ngươi đã sớm gặp được đám công nhân và vũ khí được đưa về Đại Cảnh rồi à?"

Chiết Thanh Phong: "Vâng."

Hoắc Kinh Đường: "Tang Lương Ngọc soán vị, đánh nghi binh ở tất cả các thành trì Tây Bắc, đã biết được mục tiêu thật sự ở đâu chưa?"

Suốt thời gian này đi một đường từ rừng núi hoang vắng đến thảo nguyên, sa mạc toàn những nơi biệt lập, Hoắc Kinh Đường chỉ phán đoán được ý đồ đánh nghi binh của quân đội Đại Hạ thông qua hướng đi của chúng, không có thêm manh mối xác thực nên không có cách nào đoán thêm bước nữa.

Mặt Chiết Thanh Phong lộ vẻ do dự.

Ánh mắt Hoắc Kinh Đường sắc bén: "Nói!"

Chiết Thanh Phong: "Là Vị Châu. Lúc đó ta trà trộn vào phủ Tây Lương, nghe nói quân đội Đại Hạ chia làm hai hướng lần lượt đánh chiếm trấn Nhung và Vị Châu, các nhánh viện binh đều đang chạy tới Vị Châu huyết chiến cùng quân Đại Hạ, hình như đang giằng co, vẫn chưa phân thắng bại, hơn nữa quân Đại Hạ mang theo không ít vũ khí công thành mà trước đây không có, vô cùng khó giải quyết."

Sắc mặt của Hoắc Kinh Đường rất khó coi: "Vị Châu và Kinh Châu ở rất gần nhau! Chắc chắn Kinh Châu sẽ phái binh chi viện Vị Châu, tướng sĩ thủ thành ở lại không nhiều lắm, đường rút lui và hàng phòng ngự yếu kém, nếu như lúc này bị quân Đại Hạ chặn đứng đường lui vây thành công thành, vậy thì Kinh Châu sẽ lâm nguy!"

Chiết Thanh Phong: "Chắc có lẽ không đâu, quân chủ lực của Đại Hạ đã bị vây ở Vị Châu, không thừa sức vây bắt Kinh Châu nữa."

Hoắc Kinh Đường xoay mình lên ngựa đến thị trấn nhỏ của dân tộc Thổ Phiên gần nhất để xử lý vết thương, đồng thời nghiêm mặt nói: "Ngươi không biết Tang Lương Ngọc là một kẻ không thể khống chế mình đâu, thông minh đến điên cuồng, bởi vì ông ta là kẻ phản bội Đại Cảnh, vô cùng quan tâm cái danh trung thần, làm thần tử Đại Hạ hai mươi mấy năm biết rõ bị Vĩnh An đế lợi dụng, đề phòng thậm chí là cẩn trọng trước ông ta, dừng bước tại vị trí Quốc sư, đến nay bị buộc mưu triều soán vị, còn biết được chuyện tiền trang Đại Thông, xưởng chế tạo vũ khí và ngựa chiến, có lòng điều tra ắt sẽ tra ra được ba chuyện này có liên quan đến nhau, vả lại manh mối xuất hiện ở Kinh Châu. Người càng thông minh, càng cố chấp sẽ càng không dễ dàng tha thứ cho kẻ bày trò đùa bỡn hắn, đây chính là một ván cờ lớn được bày vài chục năm rồi, chắc chắn Tang Lương Ngọc sẽ tò mò về Kinh Châu..."

Nói đến đây, Hoắc Kinh Đường vội vàng thúc ngựa chạy đi không nói gì nữa, đi đến một nhà trọ trong thị trấn tộc Thổ Phiên, hắn tìm một đại phu đến giúp gắp những mũi tên còn ghim trên người, bôi thuốc băng bó xong, không còn người ngoài ở lại nữa hắn mới nói tiếp.

"Liên minh với Đột Quyết, Mông Cổ, rất có thể còn có Nam Cương nữa, Tang Lương Ngọc dùng thứ gì để thuyết phục bọn chúng hợp tác Đại Hạ? Binh mã mà các nhanh Tây Bắc phái ra cùng với một trăm ngàn binh bao vây Vị Châu đánh nghi binh đã vượt qua số binh lực của Đại Hạ, ông ta ép buộc nhập ngũ, chỉ có thể xuất chinh tối đa ba trăm ngàn người, thế nhưng xuất chinh hết binh trong nước, không sợ nước láng giềng nhân cơ hội quốc gia phòng thủ yếu mà xâm nhập sao? Trong nước còn có Cao Di Sơn và Thác Bạt Minh Châu đang lánh nạn nữa, ông ta không sợ lửa cháy vườn sau ư?"

Chiết Thanh Phong nghe vậy cũng nhận ra được chỗ kì lạ: "Theo tướng quân suy đoán, Tang Lương Ngọc có ý định gì?"

Hoắc Kinh Đường rũ mắt nhìn ánh nến nhảy nhót: "Ông ta không ngại khiến Đại Hạ chia năm xẻ bảy."

Chiết Thanh Phong phát hoảng: "Chẳng lẽ Tang Lương Ngọc dùng đất Đại Hạ để thuyết phục Đột Quyết, Mông Cổ và Nam Cương liên minh sao? Ông ta điên thật rồi! Ai soán vị rồi mà lại kéo quốc gia mình cùng chết chứ? Đó cũng là quốc gia mà ông ta đã dốc hết tâm huyết cơ mà!" Hắn ta chợt nhận ra, "Nếu như lấy Đại Hạ ra để đánh cược, như vậy lần xâm chiếm này sẽ không phải chỉ là quấy phá giống như lúc trước. Tang Lương Ngọc từng lãnh đạo ba trận chiến, Đại Cảnh thua thảm, sau đó ông ta đã có ý thuyết phục Vĩnh An đế mở lại một cuộc chiến tranh quy mô lớn vô số lần nữa nhưng đều bị Vĩnh An đế bác bỏ, có vẻ như là bởi vì trong ba lượt chiến tranh trước, Vĩnh An đế đã nhận ra được rằng Tang Lương Ngọc chỉ xem quân đội Đại Hạ là công cụ báo thù triều đình của ta thôi? Như vậy, lần này không còn sự trói buộc của Vĩnh An đế nữa, Tang Lương Ngọc sẽ không tiếc bất cứ giá nào mà tấn công Tây Bắc!"

Hoắc Kinh Đường siết chặt tay: "Hôm nay binh mã bên ngoài cộng lại chưa đủ hai trăm ngàn, chắc chắn còn có hơn một trăm ngàn binh mã đang vây đánh mục tiêu thật sự của Tang Lương Ngọc, một khi bị đánh hạ, để trả thù Đại Cảnh, Tang Lương Ngọc sẽ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành, ông ta không quan tâm đến hậu quả, cũng không quan tâm đến kết cục của Đại Hạ... Ta có linh cảm chẳng lành."

Kinh Châu, đó là một nơi quá đặc biệt.

Tang Lương Ngọc lợi dụng Ngạc Khắc Thiện để vận chuyển của cải mà mình thu được vào Đại Hạ thông qua các chợ ở Kinh Châu, trở thành trụ cột chính cho lực lượng của bản thân ông ta, vậy mà Vương Nguyệt Minh lại chôn quân cờ chí mạng bên dưới Đại Hạ, cũng lưu lại dấu vết ở Kinh Châu, còn có tiểu lang... Là do bốn năm trước tiểu lang đã chém chết ba tram quan, diệt trừ con tốt của Tang Lương Ngọc ở phía Đông Nam, phá hỏng kế hoạch mà ông ta trù tính nhiều năm trời!

Hắn có cả ngàn lý do để có thể xác định Tang Lương Ngọc sẽ lựa chọn Kinh Châu làm nơi triển khai kế hoạch trả thù tàn nhẫn nhất của ông ta, nhưng lại không có lý do nào để phủ nhận việc Tang Lương Ngọc sẽ bỏ qua Kinh Châu.

"Chiết Thanh Phong, mau mang con dấu quan phòng Chế trí sứ của ta đến Hi Hà mượn binh!" Hoắc Kinh Đường bất chấp miệng vết thương sâu hoắm trên người, đứng dậy khoác thêm áo ngoài chuẩn bị đi, "Không kịp nữa rồi, ta sẽ về Kinh Châu trước."

Có phó tướng bị thương rất nặng khuyên nhủ hắn: "Tướng quân, thương thế của ngài không nhẹ, đi không ổn đâu."

"Chả chết được. Ngày xưa suýt chút nữa là ngực ta bị chặt thành hai nửa, chẳng phải ta còn đuổi theo thêm mười dặm nữa để giết địch hay sao? Được rồi, ngươi nghỉ ngơi đi." Hoắc Kinh Đường vỗ cánh tay lão tướng rồi bước ra ngoài, vẻ mặt và giọng điệu không còn thoải mái như vừa nãy nữa: "Tiểu lang đã phái ngươi tới cứu ta, bây giờ đến lượt ta chạy về cứu y rồi."

Có lẽ tiểu lang đang ở trong ranh giới giữa sự sống và cái chết, nếu như không khởi hành ngay bây giờ, chỉ sợ rằng hối hận đời này không có thuốc nào giải được mất.

***

Nơi trú quân Cấm quân Khánh Châu.

Nhìn qua binh đưa tin đến từ Kinh Châu, Nguyên soái nhánh Hoàn Khánh Trịnh Nguyên Linh phất tay nói: "Bổn soái biết rồi, ngươi lui xuống trước đi, ta sẽ lập tức dân binh đi cứu viện."

Đợi binh đưa tin vừa đi, Trấn an sứ Thiểm Tây Thái Trọng Thăng núp sau tiền thính mới bước ra ngăn ông ta lại: "Dụ Xương huynh thật sự chuẩn bị phái binh chi viện sao?"

Trịnh Nguyên Linh cau mày: "Không thì sao?"

Thái Trọng Thăng: "Dụ Xương huynh à Dụ Xương huynh, huynh thế mà lại quên mất ở Kinh Châu còn có Lâm An quận vương và Triệu Bạch Ngư sao? Hoắc Kinh Đường vốn là Nguyên soái trăm trận trăm thắng ở Tây Bắc này, làm sao có thể bị mắc kẹt trong tay mấy chục ngàn binh mã Đại Hạ chứ?"

Trịnh Nguyên Linh: "Ít không địch nổi số đông, Hoắc Kinh Đường có lợi hại đi nữa, binh mã chênh lệch gấp hai ba lần cũng sẽ chết thôi!"

Thái Trọng Thăng: "Chết rồi thì càng tốt chứ sao?"

Biểu cảm của Trịnh Nguyên Linh thay đổi.

Thái Trọng Thăng: "Đến nay còn có ai không nhìn ra được ý đồ của bệ hạ chứ? Hoắc Kinh Đường còn sống, Tấn vương sẽ mãi mãi không có khả năng đăng cơ, phủ Trịnh quốc công trù tính nhiều năm nay mai thành nước dội lá khoai, tính mạng thân gia của nhiều người như vậy, vinh hoa phú quý đều buộc trên thân của Tấn vương, Hoắc Kinh Đường chết rồi, tạo phúc cho đại chúng chẳng phải là việc tốt hay sao?"

Trịnh Nguyên Linh: "Nhưng còn chín mươi ngàn dân chúng Kinh Châu..."

Thái Trọng Thăng: "Đại Hạ dám tàn sát hết dân trong thành sao? Nếu như chúng dám tàn sát hàng loạt, thì sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân ở Tây Bắc này chỉ cần một chiêu diệt gọn Đại Hạ mà thôi! Biết đâu cũng như lúc trước, chạy vào cướp bóc một phen rồi tự động chạy đi thì sao, Kinh Châu là nơi Hoắc Kinh Đường trấn thủ, thành bị phá rồi không phải trách nhiệm của hắn thì là trách nhiệm của ai? Đại Hạ hận hắn thấu xương, chắc chắn sẽ không tha cho Hoắc Kinh Đường."

Trịnh Nguyên Linh: "Nhưng cầu viện đã tới rồi, bao người nhìn chằm chằm, chỉ sợ không dễ đối phó."

Thái Trọng Thăng: "Chẳng phải Vị Châu cũng đang bị binh Hạ bao vây sao? Một phần quân Khánh Châu của chúng ta cũng đã đến Vị Châu rồi, nếu như sau này bệ hạ truy cứu thì cứ nói Nguyên soái ngài đã đưa quân chủ lực đến chi viện cho Vị Châu, rồi hãy nói từ Khánh Châu đến Kinh Châu đường sá xa xôi, ít nhất cũng phải mười ngày nửa tháng mới tới."

Trịnh Nguyên Linh hiểu rõ ý của Thái Trọng Thăng, quả thật đã động tâm, nhưng tòng quân nhiều năm ông ta cũng không nỡ nhìn thành Kinh Châu bị đánh phá, mặc dù Đại Hạ sẽ không tàn sát người dân trong thành nhưng không thể tránh được việc chúng đốt giết cướp bóc.

Nghĩ một lúc, cuối cùng Trịnh Nguyên Linh cũng quyết định nói ra: "Đưa một nửa binh mã đến Vị Châu, phái một ngàn hai trăm quân đến Kinh Châu, trong số đó có hai ngàn tám trăm kỵ binh, bổn soái sẽ không cố tình kéo dài thời gian viện binh đến, nhưng Kính Châu có thể chống đỡ được đến khi viên binh đến hay không thì còn phải xem vận may của Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư nữa."

Chương 104

Ngày thứ bảy, Kinh Châu hết gạo sạch đạn.

Vết thương trên người Triệu Bạch Ngư đã bị hoại tử, dù đã dùng dao nóng cắt đi sau đó lập tức bôi thuốc và băng bó lại nhưng vẫn không tránh nổi cơn sốt cao, y cũng không có thời gian nghỉ ngơi, chỉ đành cầm theo đá cục để hạ nhiệt độ vật lí, gắng gượng chống đỡ để tiếp tục xử lý tình huống khó khăn đang ở trước mắt.

Hơn mười vị tướng lĩnh lớn nhỏ đều tập trung trong phòng, báo cáo vấn đề khó mà họ gặp phải.

"Giếng nước trong thành đã bắt đầu cạn dần, trong đó có hai cái đã bị gian tế đầu độc, tạm thời không thể uống nữa. Gian tế đã bị bắt lại, sau khi tra hỏi thì bắt thêm được những gian tế Đại Hạ khác đang ẩn núp trong thành, đã chém chết toàn bộ ngay tại chỗ. Cũng may năm ngoái nghe lời dặn của đại nhân dự trữ không ít băng, dùng nó làm nước uống có thể chống đỡ được tầm mười ngày nữa. Bốn kho lương trong thành cũng phát hiện có người phóng hỏa, tuy đã cứu kịp nhưng một kho vẫn đã bị thiêu hủy, tóm lại không duy trì được thêm bao lâu đâu."

Triệu Bạch Ngư: "Tháng hai tháng ba là thời điểm địch lương, có lẽ từ hai tháng trước đã có lương thương dự trữ lương thực rồi, đi gõ cửa nhà lương thương trưng dụng lương thực đi."

Tây Bắc là nơi thường xuyên thiếu lương thực là điều không sai, nhưng các lương thương rất ưa làm lũng đoạn, chắc chắn trong thương hội sẽ dự trữ rất nhiều lương thực.

"Trong thành hiện có ba trăm hỏa pháo, hai trăm đạn gây cháy, máy ném đá ta vốn có mười hai chiếc đã bị hủy chỉ còn lại năm chiếc, tên lửa đã dùng hết, trước đó chúng ta bị quân địch phát hiện sử dụng người rơm chắn tên, cho nên bọn chúng cũng đổi sang dùng tên lửa thiêu sạch cả rồi, cách này không thể dùng lại nữa, tên sắt cũng không còn thừa mấy, đều đang ngâm trong dịch độc chờ sử dụng. Mấy cửa địa đạo cũng đã bị địch tìm ra, quân địch định thừa cơ chui vào nhưng đều bị chúng ta nổ hủy kịp thời vùi chúng bên trong, vậy nên quân ta không còn biện pháp đánh lén nữa."

"Đêm xuống phái binh tập kích, dùng độc, tạo tình huống tấn công quấy nhiễu quân địch,... Có thể sử dụng kế gì thì cứ dùng hết, quân Hạ đề cao phòng bị, sẽ không bị lừa một cách dễ dàng đâu, binh của quân đã đã chết gần hai mươi ngàn, cũng không có viện quân, chỉ có thể trụ được tối đa bảy ngày!"

"Đại nhân! Đại Hạ quyết đánh hạ Kinh Châu không ai ngăn cản được, thôn xóm và các điểm đóng quân quanh Kinh Châu đã đã bị đánh chiếm chẳng còn người sống, chỉ e là dân chúng khó thoát khỏi cái chết."

Sắc mặt Triệu Bạch Ngư trầm như nước, binh mã chi viện đến giờ cũng chưa tới, tình hình tốt nhất đã tính sẵn vốn là viện binh sẽ đến trong vòng năm ngày, đáng tiếc hy vọng đã tan vỡ.

Nhất thời y cũng không nghĩ ra được cách nào tốt hơn.

Những kế có thể dùng bọn họ đều đã dùng mà dường như Đại Hạ không biết mệt mỏi, hai ngày đầu còn có khoảng thời gian gián đoạn ngừng chiến, đến ngày thứ ba bốn năm là bắn lửa đạn tấn công như phát rồ, hàng phòng ngự phá pháo như thừng bảo vệ rào mạnh mẽ cũng không chịu nổi hỏa pháo công kích không chút lưu tình.

Triệu Bạch Ngư không thể không cho binh sĩ rút khỏi tường thành, trong pháo đạn mãnh liệt như vậy, là thân thể người nào cũng không chịu được, cửa thành phía tây bị đánh vỡ hết nửa bên, nếu như không phái binh lực bổ sung kịp thời, chỉ sợ là đã bị quân Hạ đánh chiếm rồi.

Y thấp giọng nói: "Các vị đại nhân, dù sao ta cũng là quan văn, có đọc qua binh thư thì cũng chỉ là lý luận suông thôi, mọi người phòng thủ biên cảnh nhiều năm, không đọc binh thư thì vẫn có kinh nghiệm thực chiến nhiều hơn ta. Triệu Bạch Ngư cầu xin các vị, có thể nghĩ ra cách nào để cố trụ thêm mấy ngày nữa được không? Viện binh năm nhánh sẽ tới, ta cũng tin tưởng Hoắc Kinh Đường, tin tưởng Chiết Thanh Phong, có lẽ bây giờ bọn họ đang từ Đại Hạ trở về, chỉ cần về đến Tây Bắc, Hoắc Kinh Đường nhất định sẽ đoán ra được Kinh Châu bị vây đánh, chắc chắn hắn sẽ gấp rút mang binh lên đường tiếp viện! Vì vậy, xin mọi người hãy tin ta, tin Hoắc Kinh Đường, cũng tin chính mình, các ngươi là tướng lĩnh thân kinh bách chiến, là nam nhi giàu tâm huyết, sao có thể bị cẩu tặc quên gốc quên nguồn kia dồn ép đến bước đường cùng chứ?"

Được lòng thành khích lệ một phen, có sự tin tưởng và khẳng định, cũng cho bọn họ tin và hy vọng vào Hoắc Kinh Đường, nghe thấy lời ấy, có ai không động lòng chứ?

Triệu Bạch Ngư nhìn Đậu Hồng: "Đậu đại nhân, ông còn cách nào không?"

Đậu Hồng do dự, sau đó nghiêm mặt nói: "Hạ quan có một cách có thể thử."

Triệu Bạch Ngư: "Cách gì?"

Đậu Hồng: "Trá hàng*. Thành lập một đội cảm tử ra khỏi thành trá hàng vào ban đêm, sau đó hộ tống một tiểu đội dũng sĩ đi thiêu hủy lương thảo của quân địch."

(*) Trá hàng: Giả vờ đầu hàng

Triệu Bạch Ngư khẽ giật mình, có hơi không đành lòng.

Đậu Hồng biết Triệu Bạch Ngư mềm lòng, bèn khuyên bảo thêm: "Đại nhân, quân số Đại Hạ khổng lồ, đốt lương thảo chính là một kích trí mạng, đến lúc đó chúng ta chỉ cần chờ quân Hạ tự chui đầu vào rọ thôi là được. Hơn nữa lợi dụng đội cảm tử trá hàng có thể xâm nhập vào doanh địch, nếu như nổ chết được tướng soái doanh địch thì quân Hạ ắt sẽ không chiến mà bại!"

Mấy tướng lĩnh khác cúi đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu đồng ý, trong đó có một tiểu tướng trẻ tuổi chủ động xin đi giết giặc: "Đại nhân, ta đi!"

Đậu Hồng quay phắt đầu lại nhìn hắn, hốc mắt đỏ bừng lên tức thì.

Triệu Bạch Ngư nhớ hắn tên là Đậu Tử Ngang, là con trai thứ ba của Đậu Hồng, ông còn có một đứa con gái là tiểu đội trưởng đội quân Thiết nương tử nữa.

"Con biết một khi đi là không có đường về hay không?"

Giọng nói của Đậu Tử Ngang đanh thép: "Hi sinh vì nước, lòng như sắt thép, thấy chết không sờn."

Đậu Hồng run rẩy ôm quyền: "Đại nhân, đến giờ chỉ có cách này là có thể kéo dài thêm mấy ngày nữa. Đậu đô hầu... Tự đề cử mình, anh dũng có thể khen, nổ hủy doanh địch hoặc là thiêu hủy lương thảo của quân địch cũng được, xin đại nhân hạ lệnh!"

Lúc này cũng có một lão tướng và một tiểu tướng đứng ra tự nguyện gia nhập tiểu đội trá hàng, còn có một tướng trẻ vừa bước ra đã bị cha mình tát cho một cái, miệng hùng hổ mắng "lông cánh chưa đủ dài mà khoe tài cái rắm" nhưng chỉ một khắc sau thôi ông ta cũng chủ động tự đề cử mình.

Triệu Bạch Ngư đỏ mắt hỏi: "Không có cách khác nữa sao?"

Đậu Hồng lắc đầu.

Triệu Bạch Ngư: "Hỏa lực vẫn còn dùng được, đợi thêm vài ngày nữa, đến lúc chính thức hết gạo sạch đạn mà còn chưa có viện binh thì hãy trá hàng."

Đậu Hồng còn muốn khuyên thêm: "Đại nhân..."

"Được rồi!" Triệu Bạch Ngư: "Vẫn còn chưa đến bước đường cùng, Tang Lương Ngọc sẽ không tin là các ngươi giả vờ đầu hàng đâu." Y vuốt mặt, mạnh mẽ lên tinh thần, ánh mắt vô cùng kiên nghị: "Chờ thêm một chút nữa!"

Câu chờ thêm một chút này chờ thêm được tám ngày, bấy giờ Triệu Bạch Ngư và nhóm tướng sĩ, cùng với chín mươi ngàn dân đã cố thủ thành Kinh Châu được mười lăm ngày.

Đạn dược tên sắt và các vũ khí thủ thành khác chẳng còn thừa lại mấy, lương thảo và nước sạch cũng càng ngày càng ít đi, viện binh chậm trễ không thấy bóng dáng đâu, gay go nhất chính là sĩ khí của tướng sĩ và dân chúng trong thành đã dần trầm xuống, cả thành Kinh Châu dường như đã bị không khí chết chóc và tuyệt vọng cô lập rồi.

Triệu Bạch Ngư chỉ đành phải đồng ý với lời đề nghị của Đậu Hồng, chọn ra một trăm tám mươi dũng sĩ võ nghệ cao cường kiên nghị và quả cảm, chia ra thành chín tiểu đội cảm tử tự sát tập kích quân địch.

Đêm xuất phát, Triệu Bạch Ngư đứng trên tường thành trông theo bóng lưng của đoàn người đang tan dần vào bóng đêm, gió đêm thổi cờ hiệu bay phấp phới, mà y thì không nói gì trong một lúc lâu.

Đậu Hồng im lặng xuất hiện bên cạnh y, lặng lẽ đến đưa tiễn đứa con thứ ba một đi không trở lại của ông, hai mắt đỏ bừng nhưng vẫn giả vờ như không có gì nói: "Vua cao chớ nói phong hầu tước, một tướng danh thành vạn máu xương*." Dừng một chút, ông nói thêm: "Ba đứa con trai và con gái của hạ quan lớn lên ở Tây Bắc, muốn đi tiểu cũng chạy vào quân doanh mà đi, dù hạ quan có ép chúng nó đi đọc sách làm văn thần, làm tiểu thư khuê các bằng mọi giá chúng cũng không chịu nghe lời, còn dám tiền trảm hậu tấu, lén lút chạy đi làm lính. Đặc biệt là đứa con gái, năm mười lăm tuổi nó bị ta ép phải quay về quê mẹ, nhưng đến nửa đường thì con bé nhảy xuống xe, gạt bọn ta chạy vào đội quân tóc dài, chờ đến khi ta tìm được người, hiển nhiên là nó đã tham gia vào chiến tranh kháng Hạ. Về sau ta cũng bất lực, có lẽ là vì trong lòng ta rất tự hào, tự hào vì chúng nó, nhưng ta cũng đã chuẩn bị bài vị cho hai đứa bọn nó từ lâu rồi..."

(*) Kỷ Hợi Tuế (879) – Tào Tùng: Trấn Hải Tiết Độ Sứ là Cao Biền (đã từng sang Giao Chỉ - An Nam ta dẹp quân Nam chiếu, xây thành Đại La, sau là Thăng Long - Hà Nội, về được Vua Đường phong là Bột Hải Quận Vương thống lĩnh cả một vùng Chiết Giang - Giang Nam (xưa là Trạch Quốc). Cao Biền đã cầm quân giết hại tàn khốc quân khởi nghĩa Hoàng Sào... Bài thơ của Tào Tùng là vịnh sự việc này. (Thivien.net)

Nước mắt trong khóe mắt trộm lăn đi, Đậu Hồng cười gượng nói: "Tướng sĩ trấn thủ biên cương khó liệu sống chết. Người làm cha như ta đây còn chấp nhận được việc chúng sẽ chết trên chiến trường sớm hơn cả người khác mà."

Triệu Bạch Ngư xoay người nhìn ông: "Quê của đại nhân không ở Tây Bắc sao?"

Đậu Hồng: "Nhìn không ra à, quê ta ở Giang Nam."

Triệu Bạch Ngư cười nói: "Nghe khẩu âm không hiểu."

Đậu Hồng: "Ban đầu bị điều đến Tây Bắc cứ lần lữa không chịu quay về, sau này không dám về nữa."

Con trai con gái đều phỏng thủ ở Tây Bắc, làm sao Đậu Hồng dám đi?

Mũi Triệu Bạch Ngư chua xót, dù là vì tướng sĩ trấn thủ biên cương, hay là vì tấm lòng của cha con Đậu Hồng, có lẽ trong khoảng thời gian này nhìn thấy quá nhiều sự sống chết ở đây, y có thể chân chính nhận thấy được điểm giống nhau của thời đại này và đời trước, máu thịt lẫn linh hồn dần dần hòa nhập vào nó, không còn mạnh mẽ gạt bỏ nữa mà có chút đồng cảm, thật sự có thể cảm nhận được sự thăng trầm của tất cả mọi người.

Đột nhiên Đậu Hồng hỏi: "Đại nhân, ngày mai viện binh sẽ tới chứ?"

Triệu Bạch Ngư: "Sẽ tới." Y cắn răng, dù tình cảnh đã đến nước cam go nhất nhưng vẫn kiên định mà tin tưởng và hy vọng, "Nhất định là chúng ta sẽ nhìn thấy viện binh thôi."

Mặc dù có hi sinh, nhưng cũng có niềm hy vọng vô cùng tận đang đợi ở phía trước.

Hai người đứng trên cổng thành một canh giờ, nghe thấy tiếng nổ lớn truyền đến từ trong doanh địch, ánh lửa bùng lên, mà lúc này tiếng trống cũng nổi lên, rõ ràng là doanh trại đang lâm vào trận hỗn loạn.

Đậu Hồng không nhịn được nấc lên một tiếng nghẹn ngào.

Lưng Triệu Bạch Ngư thẳng tắp như trúc, bước nhanh xuống cổng thành, trở mình lên ngựa, phía sau là ba ngàn binh mã, vừa thấy cửa thành mở rộng là rút hoàn thủ đao ra hô lớn: "Giết!"

Bắt lấy thời cơ hỗn loạn này, thu hoạch hết đầu binh Hạ.

Thắng một trận nhỏ, dồn ép quân Hạ lui về thêm hai dặm, mặc dù tinh thần và sức lực đều hao tổn, Triệu Bạch Ngư vẫn phải cố giữ vững, trên người đầy rẫy những vết thương nhỏ vụn và máu tươi tanh tưởi, trở về bày tỏ niềm tiếc thương và mặc niệm trước sự hy sinh của tiểu đội cảm tử, đồng thời hết sức biểu dương hành động của họ, cuối cùng dùng thắng lợi của trận chiến ép quân Hạ lui binh này để khích lệ sĩ khí trong thành, lại dùng tin tức viện binh sắp đến để kéo hy vọng của chúng tướng sĩ lên một lần nữa.

Trải qua khoảng thời gian này, Triệu Bạch Ngư mệt đến mức không động đậy nổi.

Nhưng sự hi sinh của bọn họ chỉ ép lui quân Hạ được vẻn vẹn một ngày, đến ngày thứ hai chúng đã tập hợp lại và tấn công thành Kinh Châu bằng những cách thậm chí còn điên cuồng hơn, hỏa pháo và tên lửa oanh tạc liên tục không ngừng nghỉ, đợt tấn công này hung bạo hơn mười ngày trước nhiều, không hề kiêng nể gì tựa như là muốn nói cho các binh sĩ thành Kinh Châu biết, cuộc trá hàng tập kích đêm qua đã hoàn toàn khiến cho bọn chúng phẫn nộ, mà những trận tấn công mười ngày trước của chúng chỉ là đe dọa nhẹ nhàng mà thôi, hôm nay mới ra tay thật.

Suy nghĩ này khiến cho sĩ khí vất vả lắm mới tăng cao được của các tướng sĩ tụt đốc trở lại.

Triệu Bạch Ngư đã đưa ra lời giải thích khác cho việc này: "Trá hàng tập kích đúng là đã chọc giận quân Hạ, nhưng tấn công mãnh liệt thế này chứng tỏ bọn chúng cũng đã đến bước đường cùng rồi, không còn cách kéo dài nữa, không thể không quyết chiến đến chết!"

Phía dưới có tướng lĩnh hỏi: "Đại nhân nghĩ quân Hạ đang quyết chiến đến chết sao?"

"Ta dám khẳng định, chắc chắn là như thế!" Triệu Bạch Ngư lên tinh thần gấp trăm lần, y nói: "Nếu như không đoán sai, tướng chỉ huy quân địch lần này chính là Tang Lương Ngọc! Phong cách chỉ huy vừa táo bạo điên cuồng vừa ưa tính toán lòng người, nói không chừng phản ứng của các ngươi đều đã nằm trong kế hoạch của ông ta, tạo cho chúng ta ảo giác rằng chúng đang tức giận, chúng giả vờ có quân đội lớn mạnh chính là muốn để cho chúng ta lâm vào tuyệt vọng, tự loạn trận cước để thừa cơ công thành, chính những điều này đã chứng minh được rằng quân Hạ đã đi đến bước đường cùng!"

Y nhìn qua ánh mắt của mọi người, cho họ thấy sự tự tin mãnh liệt: "Tin ta đi! Ta đã biết được phong cách tác chiến và thủ đoạn của Tang Lương Ngọc rồi, bây giờ chính là trận huyết chiến của bọn chúng, cũng là trận chiến quyết đánh đến cùng của chúng ta! Ta khẳng định! Ta thề! Ta tin chắc rằng..."

"Đây chính là trận chiến nghênh đón bước chuyển hướng, là ánh sáng của thắng lợi!"

"Chắc chắn là lương thảo của quân Hạ đã bị dũng sĩ của chúng ta thiêu hủy rồi, thám tử của chúng nhất định sẽ thám thính được tin tức viện binh đến... Không sai! Sáng nay tin tức từ chỗ ống nghe truyền đến nói là cách ba mươi dặm vang lên tiếng của một lượng lớn binh mã đang tiến lên, đó chính là viện binh!"

Lời vừa dứt, chúng tướng sĩ thoáng chốc trở nên phấn chấn hơn.

Triệu Bạch Ngư tỏ vẻ kích động nhưng trống lòng vẫn reo lên bất an, lão binh trông coi ống nghe thật sự nghe được một loạt âm thanh lớn và lộn xộn vang lên, nhưng mà âm thanh lộn xộn và động tĩnh cực lớn cách đến ba mươi dặm đó rất khó mà phân biệt được có phải là của viện binh hay không.

Trước mắt chỉ có thể bất chấp thật giả thôi, Triệu Bạch Ngư sức cùng lực kiệt, có cái gì lấy cái nấy, dẫn dầu toàn bộ bá tánh và không đến mười ngàn tướng sĩ chuẩn bị đương đầu với trận chiến cuối cùng gian nan nhất, cũng đã định là cuộc chiến oanh liệt nhất.

***

Cấm quân Nguyên Châu.

Khi nhận được tin cầu viện từ Kinh Châu, Tri phủ Nguyên Châu đã lập tức phái mười ba ngàn Cấm quân và sáu ngàn phiên binh nhanh chóng đi chi viện cho Kinh Châu, đúng lúc đó nghe nói bên dưới có một chủ soái thống lĩnh đến yết kiến, nói là tự nguyện dẫn binh đến Kinh Châu giải khốn.

Hỏi danh tính thì biết được người đó là con trai của Triệu tế chấp Triệu Trường Phong, ba năm trước được điều từ phủ kinh đô đến đây, giết địch vô cùng dũng mãnh, phẩm cấp không ngừng tăng lên, nhưng bản thân hắn tâm sự nặng nề, không thường giao hảo với cấp trên, có điều bối cảnh gia đình đã như thế, rõ ràng là tương lai rất xán lạn.

Lại hỏi thêm một câu nữa, hóa ra Kinh lược sứ Triệu Bạch Ngư mới được bổ nhiệm chính là em trai của Triệu Trường Phong, chẳng trách hắn không dằn nỗi sự nóng vội đến xin binh đi tiền tuyến.

Tri phủ Nguyên Châu biết được ngọn nguồn, tất nhiên nể mặt thành toàn cho tình nghĩa huynh đệ của người ta, lúc này vung bút lên, lệnh cho Triệu Trường Phong dẫn binh đến Kinh Châu chi viện.

Triệu Trường Phong nhận được tin tức lập tức xuất phát, vì lòng nóng như lửa đốt mà ra roi thúc ngựa chạy đi.

Sự thật là khi hắn nhận được tin thì đã muộn, dù có nhanh chân đuổi theo thế nào cũng đến chậm, mười ngày sau mới nhìn thấy Kinh Châu ngụp lặn trong biển lửa từ phía xa.

Trái tim Triệu Trường Phong thắt lại: "Ngũ lang?"

***

Phủ kinh đô.

Tin tức báo hiệu tình hình quân sự bất ổn từ Tây Bắc truyền về khiến cho lòng người bàng hoàng, nhất là khi đại quân đã tiếp cận vây khốn Vị Châu, mà Vị Châu lại nằm gần Kinh Châu, có vài người không tránh khỏi lo lắng.

Mấy ngày gần đây Tạ thị đều ở chùa Bảo Hoa, vừa trò truyện với trụ trì về Triệu Bạch Ngư lúc nhỏ và những chuyện thú vị thời niên thiếu, vừa cầu phúc cho Triệu Bạch Ngư ở Kinh Châu xa xôi.

Hôm nay bà vẫn tụng kinh như thường lệ, nhưng vòng phật bỗng nhiên đứt đoạn, hạt châu rơi vỡ đầy đất, tim Tạ thị đập loạn không có trật tự, mờ mịt nhìn về hướng Tây Bắc.

"Ngũ lang..."

***

Trên xe ngựa từ Lưỡng Giang đi về phía phủ kinh đô, Nghiên Băng vùi đầu học tập nên tinh thần mỏi mệt, đang vô thức đi vào mộng đẹp bỗng nhiên choàng tỉnh, vén rèm xe lên nhìn về phía trời đêm, thấy được những chấm nhỏ lấp lánh đầy trời, mà sao kim cũng vừa mới lóe sáng.

Tú ma ma trong kinh cũng đột nhiên có linh tính, lấy giày, y sam nhỏ và mũ đầu hổ,... mà Triệu Bạch Ngư mặc ngày nhỏ ra so sánh với đồ chơi ngày xưa của Hoắc Kinh Đường mà Hải thúc mang tới, hai ông bà nhàm chán kể về những chuyện thú vị lúc còn nhỏ của đám trẻ nhà mình.

Gió đêm yên tĩnh cuộn bay, lướt nhẹ qua khắp núi rừng sông biển, thổi đến lọn tóc của du khách ở mọi miền trời nam đất bắc.

Vợ chồng Lý Ý Như ở Nam Chiếu xa xôi và Ngụy bá đang trên con thuyền trôi nổi giữa biển rộng đều cùng lúc nhớ đến Triệu Bạch Ngư ở Tây Bắc, mà lúc này trời đã sáng choang, ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp đất trời.

***

Ánh sáng vàng chiếu rọi lên những vệt máu vẫn còn chưa kịp khô trên giáp, Triệu Bạch Ngư cúi đầu thở dốc, hai tay run rẩy đến mức sắp không cầm nổi hoàn thủ đao nữa, máu và miệng vết thương dường như đều dính vào thanh đao, khắp nơi đều là xác người, cột cờ bị bẻ gãy và đao thương, xung quanh thì là một vài tướng sĩ đang vây tới.

Cách đó không xa chính là cửa thành đã bị phá mở, cách một cánh cửa, quân Hạ cũng chịu thương vong vô cùng nghiêm trọng, nhưng rốt cuộc bọn chúng cũng đã công phá được thành Kinh Châu, tinh thần vô cùng phấn chấn, đồng thời cũng có một nỗi căm thù bùng lên mạnh mẽ vì sự phản kháng ngoan cường của chúng tướng sĩ và dân chúng Kinh Châu.

Triệu Bạch Ngư biết quân Hạ vào thành sẽ đốt phá, chém giết, cướp bóc để trút hận, nhưng một nửa cổng thành đã bị đánh sập, không cách nào ngăn cản, chi bằng buông tay đánh cược một lần, dẫn binh vào chỗ ống nghe.

Y lui từng bước về phía sau, giọng nói cực kì bình tĩnh: "Rút lui. Làm theo kế hoạch."

Nói xong, nhóm người phân tán ra khắp nơi, quân Hạ thấy vậy thì nối đuôi nhau chạy tới, xông vào căn nhà gần nhất chuẩn bị đánh phá thì phát hiện chẳng có ai ở trong, sau đó chạy ra ngoài hội ý, lúc này mới nháo nhào nhận ra...

"Ba cổng thành đều bị phá rồi, chắc chắn đã chuyển vào trong thành, tiền tài lương thảo cũng đều bị chuyển đi rồi! Các anh em à, bây giờ người Hán giống như chim trong lồng, tất cả hành động cùng lắm chỉ đang dựa vào thế yếu ngoan cố chống cự mà thôi, bọn chúng muốn binh không có binh, muốn vũ khí không có vũ khí, đi giết cho sướng tay thôi!"

Lời ấy kích thích sát ý của tất cả mọi người, bọn chúng không thể chờ nổi đến lúc được nghe tiếng kêu thảm thiết của nhân dân tay không tấc sắc, chỉ có máu tươi và bạc trắng mới có thể khiến cho tâm trạng hưng phấn vặn vẹo đến cực độ của chính khôi phục lại bình thường mà thôi.

Hơn nữa, đến chậm một bước thì tiền và phụ nữ đều sẽ bị người khác chiếm trước, phải vượt lên trước một bước mới có thể chia chén canh, vì vậy không ai nghĩ ngợi gì nữa mà làm theo lời nói kia.

Nhưng đuổi theo đến ngõ nhỏ mới nhận ra đã đi vào đường cụt, lúc chuẩn bị quay đầu lại mới nghe thấy trên lầu có người quát lên, chúng ngẩng đầu nhìn thì thấy đó là những dân chúng áo vải cầm trong tay quả cầu lửa tròn, đốt lên xong rồi ném đi, pháo nổ ầm ầm, vô số chông sắt xuyên qua nón giáp đâm người thành con nhím.

Một số lượng lớn quân Hạ chạy đến bãi đất trống lớn, bỗng nhiên có nỏ tầm xa kéo đến từ bốn phương tám hướng, trên nỏ tầm xa ràng gói thuốc nổ giống như hỏa tiễn bản phóng đại, thoáng chốc ném tới nổ tung lên khiến cho bốn năm người cùng kéo nhau đi chầu trời, chỉ trong nháy mắt, mấy trăm chiếc nỏ tầm xa cùng phóng thuốc nổ chết rất nhiều quân Hạ, không chờ cho chúng bỏ chạy đi trốn, các loài động vật như dê bò lạc đà đã xông vào đám đông, hoặc là giẫm đạp lên người đến chết, hoặc là bất ngờ phát nổ, thiêu cháy một số lượng lớn quân Hạ.

Hành động phản kích tương tự xảy ra ở mỗi đầu ngõ hẻm và các bãi đất trống trong thành Kinh Châu, đây chính là ván cược cuối cùng mà Triệu Bạch Ngư dốc hết công sức, động viên từng dân chúng mang gói thuốc nổ còn lại dùng trên thân quân Hạ, lợi dụng sự quen thuộc của bọn họ đối với địa hình Kinh Châu để đóng cửa đánh chó*.

(*) 关门打狗 /guān mén dǎ gǒu/: đóng cửa đánh chó, ẩn dụ khống chế đói phương trong phạm vi, địa bàn của mình sau đó tiến hành tấn công.

Đối mặt với một hàng mũi tên sắt lạnh lẽo cách đó mười thước, Triệu Bạch Ngư mặt không đổi sắc, gió lạnh thổi tới làm tung bay sợi tóc y, hoàn thủ đao chống xuống đất làm gậy chống đỡ cơ thể cạn kiệt sức lực, vậy mà y vẫn có thể dùng giọng điệu tỉnh táo để nói: "Tang Lương Ngọc, ông không tò mò xem ai đã tạo nên ván cờ này để hãm hại ông hay sao? Ông không tò mò chuyện tiền trang Đại Thông, xưởng chế tạo vũ khí và mã trận dưới núi Kỳ Liên là do ai gây ra sao? Ông cũng không tò mò ai là người đứng sau thêm dầu vào lửa, thuần dưỡng Ngạc Khắc Thiện, con cờ chuyên dùng để đối phó của ông ư?"

Phía quân Hạ lặng im không tiếng động, một lúc lâu sau mới đứng tránh ra chừa một con đường, cỗ xe nhung chầm chậm tiến về phía trước, âm thanh truyền từ bên trong ra: "Triệu Bạch Ngư, ta và ngươi là bạn tri âm đã lâu, hôm nay gặp mặt, chuyến này đúng là không uổng công."

Khóe môi Triệu Bạch Ngư giật giật: "Ta cũng từng nghe đến danh tiếng của Tang quốc sư, đúng là danh bất hư truyền."

Quả nhiên là Tang Lương Ngọc ngự giá thân chinh.

Tang Lương Ngọc: "Ta cứ nghĩ ngươi chỉ là một tên văn thần cổ hủ chỉ có bản lĩnh trị quốc, không ngờ còn có năng lực bình thiên hạ, nếu như để cho ngươi ở lại Tây Bắc thêm vài năm nữa, chắc có lẽ sẽ được xưng danh nho tướng đấy. Tiếc thay... Tiếc thay ta đã đoán ra được người tạo nên ván cờ trả thù ta là ai, ngươi đã đánh mất cơ hội tự cứu rồi, mà ta thì nhất định sẽ không dễ dàng tha cho ngươi được sống."

Trả thù?

Ông ta vừa thốt ra từ này, Triệu Bạch Ngư liền tin rằng Tang Lương Ngọc đã đoán ra Vương Nguyệt Minh.

Y không nhịn được nhếch miệng lên, quay đầu nhìn lại các tướng sĩ kề vai sát cánh chiến đấu mười mấy ngày cùng với dân chúng Kinh Châu trông chật vật không chịu nổi, cảm giác trong lòng trống rỗng, chắc có lẽ là vì tình cảm quá nặng nề nên mới tạo ra lỗ trống đó, rồi y quay đầu lại nhìn quân Hạ dày đặc, phía sau là bầu trời mênh mông bát ngát.

Bỗng nhiên Triệu Bạch Ngư nhớ đến mấy ngày sống chết không rõ kia, dáng vẻ tiều tụy khốn khổ của Hoắc Kinh Đường lại khiến cho y muốn khóc.

Triệu Bạch Ngư mấp máy môi: "Hoắc Kinh Đường, ta không muốn thất hứa..."

Lời hứa đồng sinh cộng tử, y không muốn nuốt lời. Thế nhưng nếu là vì bất đắc dĩ, y nhất định sẽ ở lại suối vàng chờ Hoắc Kinh Đường, vì vậy giờ phút này lời cầu nguyện duy nhất của Triệu Bạch Ngư chính là cầu cho suối vàng thật sự có tồn tại trên đời này, nếu không y cũng không biết mình sẽ phải đi đâu để chờ Hoắc Kinh Đường nữa.

Mũi tên sắt bay đến ngay trước mắt, gần như trong khắc sinh tử ấy, một tình huống khác đã xảy ra, có một loạt mũi tên sắt từ phía bên cạnh vụt tới chắn bay mưa tên đuôi lông vũ mà quân Hạ chế tạo ra, chỉ nghe thấy trong đám người bỗng nhiên có tiếng hô hoán lên: "Là quân cứu viện! Quân cứu viện đến rồi!!!"

Hai mắt Triệu Bạch Ngư sáng lên, phản ứng cực nhanh thét to: "Các tướng sĩ! Theo ta giết..."

Dứt lời, hai tay đã siết chặt lấy hoàn thủ đao xông vào quân Hạ, quân Hạ khá hoảng loạn trước cuộc phản công bất ngờ này, ban đầu chúng còn cho rằng Triệu Bạch Ngư lại có quỷ kế gì khác nữa, nhưng rồi nhanh chóng phát hiện ra có viện binh thật, mà đó còn là thiết kỵ Đường Hà khiến cho người Tây Bắc vừa nghe tới đã sợ mất mật nữa!

Kỵ binh giáp nặng ép sát từng bước như thần chết, nỗi sợ hãi khắc cốt ghi tâm khiến sĩ khí quân Hạ sa sút trước một bước, nhất là khi nhìn thấy kỵ binh giáp đen dẫn đầu chỉ cần giơ ô thương lên là có thể lấy mạng người một cách nhẹ nhàng như cắt rơm rạ, nhanh chóng dọn dẹp sạch khu vực xung quanh, có kẻ nhận ra điều gì đó bèn quát lên: "Tu la... Quỷ tu la Tây Bắc!"

Đó chính là danh hiệu của Hoắc Kinh Đường, đối với quân Hạ cái tên này còn kinh khủng hơn cả Diêm vương nữa, chỉ trong phút chốc thôi bọn chúng đã bị đánh tơi bời, binh bại bỏ chạy tán loạn.

Trong xe nhung, Tang Lương Ngọc mở cửa xe ra, chứng kiến quân cứu viện tràn vào, tự biết mình đã thất thế một nửa, trong lòng ngổn ngang cảm xúc.

Phàm là đến chậm một ngày, dù chỉ một ngày thôi cũng đủ để ông ta cho Đại Cảnh một bài học đau đớn rồi, tiếc thay thất bại trong gang tấc!

Ông trời đã định ông ta phải thất bại trong gang tấc.

Tang Lương Ngọc không tin vào số mệnh, không tin ý trời, thế nhưng hai mươi mấy năm trước đi thi gặp được một thầy tướng, người đó đã xem tướng số cho ông ta, nói ông ta có mệnh Trần Thắng* Hoàng Sào**, ngồi ở địa vị được tôn trọng, quý không nói nổi, chỉ tiếc mọi chuyện sắp thành lại bại, kém một nước cờ, chết không yên thân!

(*) Trần Thắng là thủ lĩnh đầu tiên đứng lên khởi nghĩa chống lại nhà Tần, người khởi đầu cho phong trào lật đổ nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc.

(**) Hoàng Sào là người phát động Khởi Nghĩa Hoàng Sào, đồng thời cũng là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa (874 – 884), trong thời gian của cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào xưng Hoàng Đế, thành lập chính quyền Đại Tề, khởi nghĩa Hoàng Sào tuy thất bại nhưng khiến nhà Đường suy yếu nghiêm trọng rồi sụp đổ trong khoảng 23 năm sau (năm 907).

Thi đậu công danh, thi Đình thất bại, ông ta không tin.

Hiến thân cho Đại Hạ, thắng Đại Cảnh ba trận chiến liên tiếp, lúc vẫn có thể kiến công lập nghiệp lại bị Vĩnh An đế kiên dè phòng bị, cường lệnh triệu hồi, ông ta vẫn không tin.

Bày mưu lập kế bao năm trời để cho một con rối lên ngôi, muốn cho bản thân mình lưu danh sử xanh, để cho người đời này biết được ông ta phản quốc là do sai lầm của Hoàng đế Đại Cảnh!

Thế nhưng lại thất bại trong gang tấc, thậm chí trở thành nghịch đảng khiến cho văn nhân trong thiên hạ khinh thường, ông ta vẫn như vậy, không tin.

Ý trời đã vậy, ông ta càng muốn nghịch thiên cải mệnh!

Bây giờ không còn đường lui, quyết chiến đến chết, chỉ cần quân cứu viện đến chậm một bước thôi là ông ta có thể tàn sát hàng loạt dân trong thành, hoàn thành tâm nguyện đời này, để cho Đại Cảnh biết thế chẳng làm, đau khổ tột cùng, vậy mà kiếm củi ba năm thiêu một giờ, cũng chỉ thiếu mỗi một bước mà thôi!

Tang Lương Ngọc ngoan cố đến cùng, nhất định không tin vào số mệnh.

Ông ta rút kiếm đế vương tinh xảo ra, bước xuống khỏi xe nhung tiến về phía Triệu Bạch Ngư trong đám người, từng bước đến gần, giơ kiếm đế vương lên, lưỡi kiếm phản chiếu khuôn mặt vặn vẹo dữ tợn của ông ta, rồi ông ta đột ngột vung kiếm xuống, chỉ nghe một tiếng xoẹt khi lưỡi đao sắt bén cứa vào da thịt, véo von dễ nghe, vô cùng êm tai.

Trên mặt Triệu Bạch Ngư lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn về phía Tang Lương Ngọc gần sát chỗ mình đang bị ô thương đâm xuyên qua tim, sau đó bỗng nhiên ô thương được rút ra, máu tươi phun vãi khắp nơi, Tang Lương Ngọc ngã xuống đất, Hoắc Kinh Đường xuất hiện phía sau lưng ông ta.

Mà ngay lúc ấy, binh sĩ xô đẩy nhau chạy trối chết không cẩn thận làm rơi khúc cây công thành, khiến cho nó lăn vòng một cách mất kiểm soát rồi đè xuống hai chân Tang Lương Ngọc, Tang Lương Ngọc lập tức thét lên thảm thiết, hai chân gãy nát.

Đến lúc gần chết, ánh mắt của Tang Lương Ngọc dù đã tan rã nhưng vẫn không cam lòng: "Địa vị được tôn trọng, quý không nói nổi, kiếm củi ba năm thiêu một giờ, ý trời đã vậy... Vẫn muốn..." Chống lại lệnh trời!

Ông ta phun một ngụm máu tươi khỏi miệng, bốn chữ nghẹn ứ chưa kịp nói đã tắt thở bỏ mạng.

Tang Lương Ngọc chết rồi, quân Hạ giống hệt như con ruồi mất đầu bay nhảy khắp nơi, binh bại như núi đổ, mối nguy toàn dân thành Kinh Châu bị tàn sát đã được hoá giải, tinh thần căng thẳng suốt mười lăm ngày trong nháy mắt rã rời, mỏi mệt, khó khăn, đau đớn, bi thương tuyệt vọng và niềm vui tìm được đường sống trong cõi chết, cùng với lòng sung sướng khi nhìn thấy Kinh Châu được bảo vệ thoáng chốc quét tới như lũ, Triệu Bạch Ngư đánh rơi đao trong tay xuống đất kêu leng keng rồi đột nhiên ngã về phía trước.

Hoắc Kinh Đường nhanh tay đón được y, hắn vòng tay ôm chặt lấy bả vai Triệu Bạch Ngư, phát hiện y đã gầy đi một cách đáng sợ, nhìn thấy vết thương đầy trên người y thì lại càng đau lòng hơn nữa.

Triệu Bạch Ngư cười yếu ớt, "Hoắc Kinh Đường, chàng lại cứu ta lần nữa."

Giọng nói của Hoắc Kinh Đường rất nhẹ: "Em cũng đã cứu ta."

Triệu Bạch Ngư líu ríu nói: "Ta mệt lắm rồi..."

Hoắc Kinh Đường ấn bàn tay vào cổ Triệu Bạch Ngư, cảm nhận được mạch đập vẫn nảy lên mới yên lòng, nhẹ nhàng dỗ dành: "Ngủ đi, ta ở bên cạnh em."

Triệu Bạch Ngư chậm rãi nhắm mắt, bóng đen ập đến bao lấy y như thủy triều, giấc ngủ yên bình đã đánh mất từ lâu cuối cùng cũng quay lại, trái tim đang lơ lửng trên bờ vực giữa sự sống và cái chết vững vàng đáp xuống.

Mặc cho khói thuốc súng dày đặc, tiếng giết chóc vang lên rung trời, vòng ôm của Hoắc Kinh Đường chính là nơi linh hồn Triệu Bạch Ngư dừng chân.

***

Không đến bốn mươi ngàn binh mã Kinh Châu chống lại một trăm ngàn quân tinh nhuệ Đại Hạ, cố thủ hai mươi ngày đến lúc hết gạo sạch đạn, dù thành đã bị phá nhưng quân cứu viện đã đến kịp thời, giúp cho ngàn vạn dân chúng Kinh Châu may mắn thoát khỏi kiếp nạn.

Tin tức này truyền về triều đình, kinh động triều thần.

Nhóm người Trần Sư Đạo, Triệu Bá Ung biết được khi ấy Kinh Châu chỉ có một mình Triệu Bạch Ngư lãnh đạo không đến bốn mươi ngàn tướng sỉ cố thủ thành thì đều bàng hoàng, nghĩ đến mà sợ hãi không thôi, ngay sau đó liền nhận ra có chỗ không đúng.

"Vì sao tận hai mươi ngày sau viện binh mới đến?" Triệu Bá Ung đứng trước điện Văn Đức đưa ra chất vấn, "Bệ hạ, theo như tiền tuyến báo lại, Kinh Châu đã cầu viện đến tổng cộng năm châu Nguyên, Khánh, Lũng, Ninh và Phượng Tường, trong đó có binh đưa tin đến Ninh Châu và Phượng Tường bị truy binh chặn đường, binh đưa tin đến Nguyên Châu bị trì hoãn nên đến đưa tin chậm một chút, không thể kịp thời phái binh đến chi viện cũng còn có thể giải thích được, nhưng Lũng Châu và Khánh Châu nhận được tin báo phái binh trợ giúp rồi mà còn đến Kinh Châu muộn hơn cả Lâm An quận vương đang ở Tây Ninh Châu xa hơn là thế nào?"

Nguyên Thú đế có thể tự đoán được nguyên nhân.

Tri phủ Lũng Châu là người của Thái Trọng Thăng, tướng soái đóng giữ Khánh Châu là Trịnh Nguyên Linh, mà mấy năm gần đây Thái Trọng Thăng thường xuyên qua lại với phủ Trịnh quốc công, làm sao có thể không hiểu rõ tình hình chứ?

"Bất kể là xuất phát từ lòng riêng hay là nguyên nhân gì khác, bệ hạ, trong thành Kinh Châu có đến chín mươi ngàn dân chúng tay không tấc sắt đấy!"

Nguyên Thú đế không hoảng, cũng không đáp lại.

Vẫn là Trần Sư Đạo đứng ra, dùng một câu thức tỉnh Nguyên Thú đế, "Bệ hạ, khi đó không có ai biết Lâm An quận vương không ở Kinh Châu."

Nguyên Thú đế nheo mắt nhìn Trần Sư Đạo, đó là gương mặt nho nhã gần như khô khan cổ hủ nhưng bao giờ cũng nói trúng tim đen của ông, sau đó thở dài thườn thượt, "Không bao lâu nữa Thái Trọng Thăng sẽ về kinh báo cáo công tác, đến lúc đó rồi nói. Còn Trịnh Nguyên Linh, dù sao cũng là công thần, mấy năm qua cũng có chiến công hiển hách... Đại Hạ hao binh tốn tướng nghiêm trọng, đang là thời điểm rắn mất đầu, lệnh cho năm nhánh binh mã nhân cơ hội này đánh vào phủ Hưng Khánh, thu hồi đát đai bị mất lại!"

Nếu như Trịnh Nguyên Linh đủ thông minh thì lão sẽ biết rằng lão nên bù đắp sai lầm của bản thân trong cuộc chiến mở rộng lãnh thổ Đại Cảnh này, đây cũng là cơ hội cuối cùng mà Nguyên Thú đế dành cho lão.

Nhóm người Trần Sư Đạo và Triệu Bá Ung càng già càng lão luyện, đều hiểu được đạo lý thấy tốt thì lấy, viện binh đến trễ mấy ngày thôi mà, Trịnh Nguyên Linh có rất nhiều lý do để giải thích.

Điều mà bọn họ muốn chính là thấy Nguyên Thú đế sinh ra ác cảm vì phủ Trịnh quốc công bắt tay với Tấn vương mưu hại Hoắc Kinh Đường, thái tử trong lòng ông.

Chương 105

"... Huynh thì biết cái gì? Ở Thiểm Tây này muốn ăn cá lóc khó lắm đấy! Cầm lấy, bảo phòng bếp giết rồi nấu nồi canh cá để cho Triệu đại nhân bồi bổ thân thể đi, hai mươi ngày không được nghỉ ngơi đàng hoàng thì đúng là đáng thương thật, đại phu nói miệng vết thương trên người ngài ấy còn chưa lành đã lại nhiễm trùng nữa rồi, cũng may tuổi còn trẻ."

"Đậu cô nương, Triệu đại nhân có cá lóc, còn ta không có à?"

Nghe giọng nói thôi cũng đã tưởng tượng ra được dáng vẻ cười cợt tí tởn của Thôi phó quan, không những trông chẳng ra cái gì mà còn rất thiếu đánh.

"Gọi ta là Đậu chỉ huy."

"Đậu chỉ huy đại nhân!"

"Cái rổ ở dưới có ba con cá lóc, dù sao cũng dư ra, huynh muốn thì lấy đi."

"Ba con?" Giọng nói của Thôi phó quan tràn ngập niềm vui sướng, "Hơn Triệu đại nhân hai con, Đậu cô nương, á, không phải, Đậu chỉ huy, cho ta hai con cá à, ngại quá... Chết rồi? Cô cho Triệu đại nhân ăn cá tươi, cho ta cá chết hả?"

"Không thì sao?"

Tiếp lời chính là tiếng quở mắng của đại phu bảo bọn họ nói chuyện nhỏ một chút, nếu thấy rảnh rỗi quá không có chuyện làm thì mau ra ngoài giúp sửa chữa tường thành đi. Có điều chỉ trong chốc lát không gian đã yên tĩnh trở lại, tiếng kêu của Hải Đông Thanh to rõ, vang từ tận trời cao xuống dưới khiến cho chim chóc xây tổ dưới mái hiên sợ hãi mà bay đi mất.

Tiếng gió rì rào, rừng lá lao xao, ánh mặt trời ấm áp xuyên qua khe cửa sổ chiếu xuống mặt đất, bụi mịn tung bay giữa luồng sáng, một bóng dáng lướt qua bên cửa sổ từ bên ngoài bước vào trong phòng, ngẩng đầu lên nhìn Triệu Bạch Ngư đang mở mắt nằm trên giường.

Hoắc Kinh Đường vội vàng cầm chén thuốc vụt tới bên cạnh đỡ Triệu Bạch Ngư dậy, vừa sờ trán y vừa hỏi: "Choáng đầu nên khó chịu sao? Miệng vết thương đau hay là ngứa?"

Triệu Bạch Ngư lắc đầu: "Ta ngủ bao lâu rồi?"

Hoắc Kinh Đường: "Hai ngày ba đêm, mệt nhọc quá độ, miệng vết thương bị nhiễm trùng, hoại tử dẫn đến phát sốt. Có điều tình huống tệ hơn ta cũng vượt qua được rồi, bây giờ cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi, em xem em vẫn bị ta đánh thức đấy thôi."

Triệu Bạch Ngư siết chặt tay Hoắc Kinh Đường xem vết thương trên người hắn, "Chàng thì sao? Có nghỉ ngơi đàng hoàng không đó?"

Nhóm người về từ phủ Tây Lương gặp nguy hiểm, sau đó ngựa không ngừng vó mà chạy đi, vừa về đến đã lao vào thành Kinh Châu với nguy cơ bị phá nát, không chỉ phải chăm sóc y còn hôn mê mà còn phải giải quyết việc xây dựng lại phủ Kinh Châu, còn cả quân đội Đại Hạ phía Vị Châu nữa, không biết có chịu nghỉ ngơi hay không.

Hoắc Kinh Đường: "Không sao, Thôi Tông Chính bỏ mê hồn dược vào thuốc của ta, vậy nên ta cũng ngủ say một ngày một đêm, tinh thần thể lực đều khôi phục lại rồi, vết thương cũng đã đóng vảy, qua mười ngày nửa tháng nữa là ổn."

Triệu Bạch Ngư nhận lấy thuốc từ tay hắn uống một hơi hết sạch, sau đó nhanh tay bốc mứt quả ngậm vào miệng để xua tan vị đắng, cúi đầu nhìn băng vải trên người rồi nói: "Vết sẹo là vinh quang của đàn ông, sau này về kinh đô có vốn để khoe khoang với mấy ông lão cổ hủ và mấy tên lỗ mãng kia rồi."

Đừng chỉ thấy Triệu Bạch Ngư treo trên người cái danh thanh thiên cương trực công chính, mấy năm nay vẫn có không ít quan lại lên chức gây khó dễ khắp nơi trong triều chỉ vì y đối nghịch với họ, những kẻ cổ hủ bảo thủ mắng y chanh chua, võ tướng mãng phu mắng y gà mờ hệt như thằng nhãi con, chỉ sợ thấy máu sẽ chóng mặt, hoàn toàn quên mất chuyện y đã từng chém đầu ba trăm quan.

Triệu Bạch Ngư bắt lấy tay Hoắc Kinh Đường rồi nắm tay mình lại thành quyền đụng vào nắm đấm của hắn, nhếch môi nói: "Trên người hai ta đều có huân chương, đúng là trời sinh một cặp."

Hoắc Kinh Đường: "Em còn có lòng dạ nói đùa à? Có biết lúc ta đến nhìn thấy thành bị phá, suýt nữa là tim ngừng đập thật rồi không."

Triệu Bạch Ngư: "Không còn sức sống thật hả?"

Hoắc Kinh Đường vừa trừng mắt, Triệu Bạch Ngư đã nhanh nhảu xin tha: "Gặp họa mà vẫn bình an tức là người có phúc, chàng xem ta đã trải qua mấy bận thập tử nhất sinh rồi hả? Nếu không phải là người phước dày thì khó mà qua nổi lắm."

Miệng lưỡi trơn tru nói lời chọc cười, cũng không biết là học từ đâu nữa, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, có lẽ là vì ngày nhỏ thường trà trộn vào đủ thứ hạng người nên mới có bản lĩnh này, về sau làm quan phải thận trọng nên đã bỏ bớt thói xấu, mấy năm nay được Hoắc Kinh Đường nuông chiều nên nó đã có dấu hiệu "hồi sinh", ấy vậy mà đã thật sự chọc cho hắn phải bật cười.

Hoắc Kinh Đường vốn không tức giận, Triệu Bạch Ngư bình an vô sự đã là may mắn lắm rồi, làm sao hắn nỡ nặng lời trách móc chứ?

"Em không nên điều Chiết Thanh Phong đi."

"Không cho điều thì cũng đã điều rồi, thế phải làm sao bây giờ đây?"

Hoắc Kinh Đường không nhịn được nở nụ cười, vất vả lắm mới có thể gắng gượng chống đỡ cơ thể suýt nữa là sụp đổ như núi, nói thật lúc ấy hắn đã rơi vào tình thể nguy hiểm, cũng may Chiết Thanh Phong đến kịp, nếu không có lẽ hắn đã bỏ mình ở Đại Hạ, mãi mãi không thấy ngày về rồi.

"Triệu Bạch Ngư, em lại cứu ta rồi, em cứu ta hai lần, kéo ta từ bờ vực sinh tử trở về, ta nợ em hai mạng."

"Chàng cũng đã cứu ta hai lần..."

Hoắc Kinh Đường nhớ lại, cảm thấy không đúng lắm, "Vậy chẳng phải hai ta huề nhau sao? Nhưng tính kĩ thì ta chỉ cứu em lần này thôi, lần trước không thành, đều là nhờ công lao của thái y, ta không thể vô sỉ ôm công được, vậy cứ cho là ta nợ em một lần đi." Nói về chuyện quan trọng này, hắn còn dùng lời lẽ nghiêm túc để nói: "Ngoại trừ tước vị vô dụng, của cải, thanh danh thì chỉ có tấm thân to cao và gương mặt khôi ngô này là có chút giá trị thôi, tiểu lang quân, cho ta thấy thân báo đáp nhé."

"... Cút đi."

Hoắc Kinh Đường đá rớt giày xuống đất rồi chui lên giường, ôm Triệu Bạch Ngư náo loạn trong chăn một hồi, đến giờ cơm mới lệnh cho người đến phòng bếp mang nồi canh cá lóc vào cho y bồi bổ cơ thể.

Đến ngày thứ ba Triệu Bạch Ngư đã có thể xuống giường hỏi thăm công việc ở Kinh Châu, ai nấy đều bừng bừng khí thế làm công tác tu sửa các mục trong phủ, các phương diện khác như buôn bán, nông nghiệp và quan phủ đều đi vào quỹ đạo, mà vòng vây của Vị Châu cũng đã được giải quyết, quân đội Đại Hạ còn lưu lạc ở biên cảnh Tây Bắc đều bị đánh cho chạy bán sống bán chết, tin tức Tang Lương Ngọc đã chết dường như đã được truyền đi khắp Tây Bắc, Đột Quyết nắm tin tức xong cũng lập tức hành động, rời khỏi đường biên giới Tây Bắc chỉ trong một đêm.

Tây Bắc đã tạm thời khôi phục lại sự yên tĩnh của ngày xưa, nhưng các nhánh binh mã lại đang chờ xuất phát, Nam Cương, Mông Cổ và Đột Quyết đều nhìn chằm chằm, Đại Hạ lung lay từ bên trong chính là một miếng thịt vụn thối nát, hấp dẫn đám kền kền tham ăn xung quanh, ba kẻ kia không dám lộn xộn là bởi vì bọn chúng phát hiện ra Đại Cảnh đã đang điều điều sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân Tây Bắc, chúng sợ hãi đánh chính diện với con quái vật khổng lồ này, cũng sợ bị trả thù, thế cho nên chẳng ai dám hành động trước.

Bầu không khí bình lặng kỳ lạ bao phủ Tây Bắc và Đại Hạ, mà ngay lúc này, Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn chạy trốn ra khỏi Đại Hạ đã xưng đế ở trấn Hắc Thủy, phái Lai sứ ra với ý đồ hòa đàm với Đại Hạ.

Một tháng kể từ khi Đại Hạ khơi mào chiến tranh, phủ kinh đô truyền thánh chỉ xuống, lệnh cho năm nhánh binh mã Tây Bắc chia ra các tuyến đường khác nhau tấn công Đại Hạ, giao cho Hoắc Kinh Đường cầm binh.

Lai sứ Đại Hạ đi vào quân doanh Vị Châu, vừa tỏ ý đồ đến đã bị Hoắc Kinh Đường chém chết tại chỗ, hắn cầm đầu lâu lên nói: "Lai sứ Đại Hạ có ý đồ ám sát bổn vương, người đến không lành, bản tính khó dời, lòng ngấp nghé thành trì Tây Bắc ta chưa dứt, triều đình của chúng ta tôn trọng hòa bình là vì suy nghĩ cho sự yên bình của dân chúng biên cảnh, bao dung cho Đại Hạ dù đã xâm phạm Tây Bắc nhiều lần, cũng chấp nhận biết bao nhiêu điều kiện hòa đàm thậm chí là mở các cuộc trao đổi hữu nghị, nhưng không hiểu sao lòng tham vô đáy của quý tộc Đại Hạ vẫn không chết, liên tục giở thủ đoạn bẩn thỉu... Các tướng sĩ có chịu đựng được không?"

Lòng tướng sĩ đầy căm phẫn, nổi giận hô lên không thể nhẫn nhịn không muốn chịu đựng, tiêu diệt Đại Hạ!

"Nhịn được thì nhịn, không nhịn được nữa thì không cần phải nhịn! Chúng tướng sĩ tẩy binh thả ngựa, chờ xuất phát theo ta đi mở đất biên cương, đạp phá phủ Hưng Khánh, đưa bờ Hoàng Hà, đồng cỏ Cao Hà và hành lang Hà Tây vào bản đồ Đại Cảnh ta!"

Đám tướng sĩ thi nhau hò hét, tinh thần sục sôi, sĩ khí trước đó chưa từng có tăng vọt lên.

***

Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư gặp lại nhau chưa tới hai tháng đã lại chia tay lần nữa, nhưng lần này hai người không lưu luyến bịn rịn quá nhiều, chỉ nói một câu: "Sống chết có nhau."

Triệu Bạch Ngư: "Ta cất rượu Tần, chờ ngày chàng đại thắng về triều sẽ khui ra."

Hoắc Kinh Đường cười to: "Nếu đã vậy không quay về thì sẽ tiếc lắm nhỉ!"

Bên này bọn họ quấn quít chia tay nhưng cũng chẳng ai để ý đến, bởi vì người đứng khắp gò núi này đều đang chiết liễu tiễn biệt nhau, cách đó không xa là Thôi phó quan và Đậu cô nương.

Đậu cô nương kia chính là con gái của Đậu Hồng, để bảo vệ Kinh Châu, anh lớn đã trá hàng hi sinh trong doanh địch, vì vậy mà cha già mới đau buồn đến bạc trắng tóc, không chịu nổi cảnh người đầu bạc tiễn người đầu xanh nữa, trùng hợp thay Thôi phó quan vừa nhìn thấy nàng đã yêu, dính chặt lấy nàng suốt hai tháng trời, mà Đậu cô nương cảm thấy người này cũng không tệ lắm, bản thân nàng cũng không phải là người dễ ngại, thử thách mấy phen bèn đồng ý cho Thôi phó quan theo đuổi mình.

Có điều Đậu cô nương chấp nhận Thôi phó quan không phải là để cởi giáp, mà là để sinh một đứa con an ủi cha già, ngoài mặt bày tỏ lòng hiếu tháo, quay đầu lại chạy đi làm nữ tướng.

Cách này vừa có thể làm tròn chữ hiếu, vừa có thể tiếp tục nhiệt tình với sự nghiệp, chẳng trách mọi người đều nói phụ nữ Tây Bắc rất ngoan cường và không bao giờ khuất phục.

Đưa mắt nhìn Hoắc Kinh Đường xoay người lên ngựa, hòa vào đội quân rồi, Triệu Bạch Ngư quay lại mới thấy Triệu Trường Phong đứng dưới một gốc cây liễu khô cách đó không xa, hai người nhìn nhau, thời gian qua đi cảnh vật cũng đổi, tâm trạng không còn như lúc trước nữa.

Triệu Trường Phong đi tới, cẩn thận nhìn mặt Triệu Bạch Ngư, bốn năm trước kể từ sau cung yến hắn vẫn không có cơ hội được gặp Triệu Bạch Ngư, ngũ lang trong trí nhớ của hắn cũng không còn rõ ràng mấy, mỗi lần nhớ lại, những gì mà bọn họ thiếu nợ y sẽ càng trở nên chân thực hơn, lồng ngực cũng thít vào đau đớn gần như khiến hắn không hít thở nổi.

"Ngũ lang gầy đi nhiều rồi."

Triệu Bạch Ngư cười khách sáo.

Triệu Trường Phong cúi đầu, muốn nói gì đó lại thôi.

Triệu Bạch Ngư thầm thở dài, đã không còn ý định kéo dài thân duyên, cũng không có ý chà đạp tấm lòng của người khác, chỉ chắp tay qua đầu nói: "Tướng đi vạn dặm, đường xá gian nan, hy vọng người túi gấm còn tên, thắng lợi về triều, bình an vô sự."

Triệu Trường Phong bỗng giương mắt lên, cảm động không thôi, một lúc lâu sau mới thốt ra được hai chữ: "... Cảm ơn."

Triệu Trường Phong cứ chần chừ tại chỗ mãi không chịu nhúc nhích, đến khi cấp trên thúc giục lần nữa, hắn mới đành leo lên ngựa rời đi, đi được một đoạn đường xa rồi, Triệu Trường Phong mới mò vào ngọc quân tử trong ngực áo, đó vốn là quà cập quan mấy năm trước muốn tặng cho Triệu Bạch Ngư, nhưng cho đến giờ vẫn không thể tặng được.

Đội quân nối thành một hàng dài xuất chinh, biến mất dần trong ánh trời chiều, những người đến chia tay đều lưu luyến đứng lại tạm biệt bọn họ đến tận khi mặt trăng leo lên đỉnh núi rồi mới lục tục rời đi.

***

Khẩu dụ từ phủ kinh đô truyền Triệu Bạch Ngư trở về đã đến hai lần nhưng đều bị y lấy lý do công việc ở Tây Bắc bận rộn để từ chối, đóng giữ Kinh Châu đến khi thời tiết nóng bức của đầu hè ập tới, thời gian lặng lẽ trôi đến cuối tháng sáu, cũng chính vào lúc này, biên cảnh truyền tin chiến thắng về, phủ Hưng Khánh đã bị phá, đại quân đánh thẳng vào hoàng cung Đại Hạ, bắt lấy Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có ý đồ chạy trốn lần nữa.

Người trước rút đao tự vẫn, kẻ sau cảm thán đi đến bước đường cùng, thời gian không chờ đợi ta, rồi sau đó cũng đi theo.

Mặt khác, toàn bộ quý tộc Đại Hạ đều quỳ xuống đất cầu xin tha thứ, bởi vì những người dám phản kháng Tang Lương Ngọc đều đã bị ông ta giết sạch rồi, trái lại dân chúng không hề hấn gì trước việc này, dù sao thì quân đội Đại Cảnh cũng không dám làm những chuyện như đốt giết cướp bóc, hơn nữa, ít nhất hai ba mươi năm về trước có người không phải là con dân Đại Hạ mà là người có cùng nguồn gốc với phiên tộc Tây Bắc, vốn chẳng có lòng yêu nước gì cả, làm bá tánh của nước nào thì có sao đâu?

Ăn uống no đủ là tốt rồi, dù gì về sau đi chợ cũng không cần phải đợi quan phủ phê chuẩn mới được, thỉnh thoảng các chợ đóng cửa, cả nhà còn phải lâm vào tình cảnh không có đồ ăn cực kì thê thảm, Đại Hạ chết rồi là chuyện tốt đấy chứ.

Đại Hạ bị diệt, Hoắc Kinh Đường còn dẫn binh đánh vào Nam Cương và Mông Cổ nữa, coi như trả thù.

Đột Quyết ở sát vách Đại Hạ cũng chẳng chiếm được cái gì tốt, trước đây có thể chân vạc bị Đại Hạ kiềm hãm, bây giờ môi hở răng lạnh, khó đảm bảo tiếp theo không phải là bọn họ nước mất nhà tan, lúc này phái Vương tử đi làm Đại sứ hòa đàm, phái thêm công chúa đi hòa thân, bày tỏ lòng kính sợ, dùng thái độ vô cùng lo lắng để cầu hòa.

Trước mắt không phải là thời điểm chỉnh đốn Đột Quyết, vậy nên Nguyên Thú đế không từ chối hòa đàm, có điều thái độ vẫn cứng rắn, thở ra một câu tỏ rõ ý rằng ông vẫn có ý định ra sức làm thịt Đột Quyết.

***

Đầu tháng bảy, mặt trời nhô cao.

Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long, nàng lặn lội từ Nguyên Châu đến, mang theo một ít quà cáp chuẩn bị bái kiến Triệu Bạch Ngư, trên đường gặp được ni cô Nhã Thiện đã kết hôn với thanh mai trúc mã, bấy giờ đang mang thai sáu tháng, nàng ta cảm niệm vì ngày xưa nàng đã chăm sóc các ni cô ở Kính Châu nên tặng cho nàng bánh hoa mà mình tự tay làm, lại nghe nói Giả Long Thiên Châu sắp sửa đi gặp Triệu Bạch Ngư ân nhân của nàng ta, Nhã Thiện bèn vội vàng đi soạn một giỏ bánh hoa và kẹo cưới nhờ Giả Long Thiên Châu đi tặng giúp.

Thế là Giả Long Thiên Châu xách theo túi lớn túi nhỏ đi vào Ngạc phủ đã được tu sửa lại rồi sung vào công quỹ, nàng không gặp được Triệu Bạch Ngư, hỏi thăm mới biết người ta đã đi đến lễ đua ngựa mà phiên tộc địa phương tổ chức vào tháng bảy rồi.

Tiểu đồng canh cửa nói: "Triệu đại nhân và Đậu đại nhân đều đã bị kéo đi làm trọng tài, là do Đậu cô nương bắt đi cho bằng được đấy, bởi vì lễ đua ngựa chỉ có phái nam mới được tham gia thôi, Đậu cô nương tức lắm cho nên muốn Triệu đại nhân và Đậu đại nhân ngầm thay đổi thể lệ, cho phép phái nữ dự thi, cũng không hiểu sao mà Triệu đại nhân rất tán thành, còn đề xuất thi đấu theo nhóm nam, nhóm nữ rồi nhóm nam nữ hỗn hợp nữa... Cô biết mà, lễ đua ngựa này không chỉ có đua ngựa mà còn có những hoạt động khác, tổ chức từ sáng sớm đến tận tối muộn, cá chắc là nó sẽ không kết thúc cho đến tận hừng đông ngày mai đâu... Cô có định đến đó không?"

Giả Long Thiên Châu đã làm ni cô mười mấy năm, tính tình trầm ổn, không quen với không khí ồn ào náo nhiệt nên bèn từ chối.

"Ta có thể ngồi trong phủ chờ được không..."

Còn chưa dứt lời đã nghe thấy tiếng hí vang của tuấn mã truyền đến từ xa và tiếng kêu thánh thót xé rách bầu trời của hùng ưng, quay đầu nhìn lại, đập vào mắt đầu tiên chính là một con Hải Đông Thanh trống cực đẹp, theo sau đó là một kỵ binh lao đến trước mặt nàng trong nháy mắt, khí thế khắc nghiệt lạnh lùng ập đến khiến cho Giả Long Thiên Châu và tiểu đồng đều phải run rẩy đề phòng.

Chờ người nọ tháo mặt nạ sắt bảo hộ xuống, để lộ đôi mắt Bồ Tát màu vàng lưu ly đặc trưng và gương mặt vô cùng tuấn mỹ ra, hai người thấy đó là Hoắc Kinh Đường thì mới thôi cảnh giác.

"Tiểu nhân / Giả Long thị tham kiến tướng quân."

Hoắc Kinh Đường quét mắt nhìn phủ đệ vắng tanh vắng ngắt, chỉ hỏi một câu: "Tiểu lang đang ở đâu?"

Tiểu đồng trả lời đúng sự thật, Hoắc Kinh Đường chẳng nói chẳng rằng giục ngựa rời đi.

Giả Long Thiên Châu hơi ngạc nhiên: "Cấm quân đã thắng trận trở về rồi à?"

Nếu thắng trận trở về thì phải đánh tiếng thật lớn mới đúng chứ, nhưng có lẽ Lâm An quận vương không chịu nổi cảnh nhớ nhung, bỏ rơi đại quân còn mình thì ngày đêm chạy gấp về đây ấy mà.

Giả Long Thiên Châu bật cười, thấp giọng rầm rì: "Hóa ra người Hán ở Trung Nguyên không phải ai cũng thận trọng bảo thủ nhỉ."

***

Kinh Châu là nơi rất nhiều phiên tộc chung sống, trên đồng cỏ, có mấy con ngựa hoang đang uống nước bên hồ Trân Châu, đằng kia kia chính là địa điểm tổ chức lễ đua ngựa, không khí vô cùng ồn ào và vui vẻ.

Xa xa thấy Đậu cô nương cưỡi trên lưng tuấn mã phi như bay, trong ngực ôm con dê con vừa mới cướp được về tay, trên thân dê con vẫn còn treo quả cầu hoa, nó đã sớm bị dọa cho không dám nhúc nhích gì, phía sau còn có tầm mười con ngựa khác không ngừng đuổi theo, thậm chí còn đang nghĩ đến chuyện giành lấy con dê nhỏ trong lòng Đậu cô nương nữa.

Triệu Bạch Ngư mặc lan sam khoác áo dài màu trắng đứng ở bên hồ, di chuyển tầm mắt nhìn về phía mặt hồ trong vắt, nhìn thoáng qua có thể thấy được mấy con cá lóc đang chơi đùa với mấy cây bèo nữa.

Lúc này sau lưng truyền tới tiếng vó ngựa, Triệu Bạch Ngư cứ tưởng kia là hán tử đua ngựa nào đó chạy tới đây cho ngựa uống nước cho nên không để ý lắm, không ngờ bên hông căng chặt, trong nháy mắt bay lên trên không, trời đất quay cuồng một trận thế là bị bắt lên lưng ngựa, chạm vào giáp sắt lạnh lẽo thì khẽ giật mình, sau đó hít sâu một hơi rồi duỗi hai tay ra ôm eo kẻ xấu, thân mật vùi mặt vào.

Người đua ngựa bên kia phát hiện ra điều kì lạ, vội vàng giá ngựa đuổi theo, có lẽ mọi người đều cho rằng đường đua đã bị thay đổi nên mới muốn đuổi theo bọn họ, trong nháy mắt đã có mấy chục con ngựa nối đuôi theo sau, vó ngựa không dừng, bụi mù cuồn cuộn, thảm cỏ dưới trời xanh toàn là tiếng reo hò hoan hô vang lên chẳng ngớt.

Triệu Bạch Ngư phất tay về phía sau, cô nương đuổi theo một quãng đường dài mệt mỏi hết sức chợt hiểu ra, hung hăng trừng mắt một cái rồi quay đầu khiến cho đám người sau lưng đồng thời than thở một tiếng dậy đất, nhưng lại không thể không đuổi theo.

Triệu Bạch Ngư thấy vậy, đột nhiên hiểu ra mới bật cười thành tiếng, ôm siết lấy eo Hoắc Kinh Đường bảo hắn đi một chỗ, đào rượu Tần cất từ mùa xuân lên rồi mới quay trở lại thảo nguyên mênh mông bát ngát để chè chén say sưa.

Đến khi màn đêm buông xuống, hai người mới đi đến bên một bờ hồ xa ngút ngàn chẳng có bóng người, nằm trên thảm đá xanh bên cạnh hồ vừa uống rượu vừa ngắm sao bay đầy trời, gió đêm hè thảo nguyên thổi qua, tán gẫu một chút về trận chiến tiêu diệt Đại Hạ lần này.

"Không có gì đáng ngại, bên trong Đại Hạ giống như là hang côn trùng bị đục rỗng vậy, thiết kỵ tới nơi như vào chốn không người, thành trì ở ngoài cùng còn có ý chống cự, nhưng càng vào sâu càng chẳng ai chống nữa, thậm chí cỏ thành chủ động mở cổng nghênh đón Cấm quân, cúi đầu xưng thần. Không còn Tang Lương Ngọc, Đại Hạ giống như đứt mất cánh tay vậy, huống chi gần ba trăm ngàn binh mã đã chết hết một nửa ở Tây Bắc, dù Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có chút tài, cũng có lòng anh dũng ngoan cố chống lại đến cùng nhưng sẽ đánh không lại Cấm quân Đại Cảnh, cũng không thể níu kéo được lòng dân, sụp đổ dễ như trở bàn tay vậy."

Không phải Đại Hạ không có người chính trực, cũng có kẻ kiên cường giữ thành chống lại Cấm quân Đại Cảnh hơn một tháng trời, Hoắc Kinh Đường nói chuyện còn tỏ ý kính nể, đương nhiên là những điểm quan trọng còn lại toàn là lấp ló khoe khoang ngầm muốn Triệu Bạch Ngư khen ngợi hắn, nếu có chỗ nào bị lặp lại thì sẽ tỏ vẻ ghét bỏ hắn cho có lệ.

"Khi Đại Hạ đánh Linh Châu đúng thật là đã gặp khó khăn, suýt nữa là binh tướng đều tổn thất, trong quân Tây Bắc có người lấy cớ tịch thu lương thảo của Chiết gia quân, trong lúc Chiết gia quân tấn công Linh Châu thì ra lệnh nghiêm ngặt buộc họ phải ở yên chờ lệnh, rồi sau đó chuẩn bị tấn công. Nếu như đánh hạ Linh Châu rồi thì không sao, nhưng vẫn cứ là không đánh được, còn vì bị binh Hạ đập vỡ nguồn nước Hoàng Hà, nhấn chìm Cấm quân Tây Bắc, toàn quân suýt chút nữa là bị diệt."

Nhắc đến việc này, Hoắc Kinh Đường làm vẻ mặt giống như cười mà lại không phải cười, nếu như nhìn kĩ thì chỉ thấy toàn là sát ý lạnh băng.

"Linh Châu phạm phải sai lầm coi như xong, sau đó còn ta vào đánh hạ phủ Hưng Khánh, lúc đuổi giết kỵ binh nhẹ Mông Cổ, chúng mai phục ta ở nơi hiểm yếu, bị bắt tại trận còn dám nói láo rằng ông ta nghĩ nhầm thiết kỵ Đường Hà của ta là kỵ binh Mông Cổ... Tiểu lang cũng biết người này là ai chứ?"

"Trịnh Nguyên Linh?"

"Ừ." Hoắc Kinh Đường trở mình, vùi mặt vào trong cổ Triệu Bạch Ngư, một chân cong lên, tay trái choàng qua vai y rồi nói: "Có đôi khi ta không tài nào giải thích được vì sao có nhiều người nhìn chằm chằm vào cái ghế kia đến vậy, dù là Trịnh Nguyên Linh, lão Lục hay cả nhà Trịnh quốc công đều đã cống hiến hết thời gian tốt đẹp nhất của cuộc đời ở biên cương, đúng là bọn họ có chút lòng dạ riêng, thế nhưng lòng trung thành bảo hộ núi sông, che chở cho dân chúng không phải là giả. Thực ra lão Lục lúc là thiếu tướng quân quân Ký Châu rất có khí phách, túc trí đa mưu, cũng là kẻ được người người ca tụng, thủ đoạn sạch sẽ, không thể so với thanh liêm nhân từ nhưng rất ngay thẳng, nhưng đã vào quan trường rồi, về lại triều đình, theo đuổi cái ghế kia, biến thành người giống với Thái tử, trở nên ngu dốt, cố chấp, ích kỷ, làm sao có thể lãng phí mạng sống của tướng sĩ chỉ vì tham lam chút công lao này kia chứ!"

"Làm quan ngàn dặm chỉ vì tiền tài, làm người muôn đời thì cầu quyền thế, từ xưa đến nay đều như vậy." Triệu Bạch Ngư an ủi Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường đột nhiên bật cười, "Ta cũng không có tư cách nói đến người khác."

"Vì sao?"

"Trước đây ta cũng từng đuổi theo cái ghế đó, có lẽ là từ nhỏ ta đã biết rõ bệ hạ đối xử với ta khác, rất dễ đoán ra tâm tư của ông ấy, mặc dù bị ném đến phủ Tĩnh vương, ta vẫn tin rằng bệ hạ chỉ đang thử thách ta mà thôi, ông ấy muốn ta trở thành hùng ưng lang vương chứ không phải là một quân vương độc đoán mềm yếu, ta đã từng giận ông ấy, lòng tin cũng thay đổi. Ta đến Ký Châu, lăn lộn ở Tây Bắc, đã từng trải qua nhiều lần sống chết khó khăn, tự mưu tính con đường trở thành Thái tử, lấy lòng những người đa mưu túc trí, điều chỉnh lại thiết kỵ Đường Hà, đào tạo võ tướng thuộc về ta, sắp xếp quân cờ ở khắp nơi... Em có biết ta đã từng ra sức mời Trần Sư Đạo không?"

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện này."

"Nếu như không phải đã nhìn ra dã tâm của ta, thì ngày trước làm sao ông cụ có thể một lòng tin tưởng em gả cho ta là để trở thành mưu sĩ giúp ta làm việc cho vua, che đậy tai mắt người khác?"

"Hóa ra là thế?"

"Dã tâm trở thành Thái tử tan nát khi bị cổ độc tra tấn, rồi bị nghiền nát hoàn toàn khi bệ hạ quay lưng lựa chọn lão Lục, bỏ mặc ta bị cổ độc hành hạ ngày qua ngày nên càng trở nên gắt gỏng hơn, tiếng xấu vang xa... Lần em đến nhặt xác, đám người kia là do hậu cung xếp vào, lúc đưa bọn họ vào cũng chính là lúc cổ độc bạo phát, ta không thể khống chế được, lời đàm tiếu nói ta tàn bạo, chơi đùa người khác đến chết trên giường bị truyền đi, còn bệ hạ chỉ... thờ ơ."

Triệu Bạch Ngư ôm chặt lấy Hoắc Kinh Đường, mặc dù đã biết cảnh ngộ của hắn, nhưng nghe hắn tự nói ra thì trong lòng vẫn đau xót không thôi.

"Lúc ta gặp chàng, chàng rất dịu dàng, trong lòng ra chàng chính là người vô cùng tốt."

Y nói ấn tượng của mình về Hoắc Kinh Đường.

"Chàng biết khi chàng xuất hiện trước mặt ta, bảo ta đi gióng trống khua chiên cáo trạng cứu thầy, trong lòng ta đã nghĩ gì không?"

"Nghĩ gì?"

"Ta nghĩ, người đã khiến cho ta phải sợ hãi suốt hai năm trời, chính là người duy nhất mở cho ta một con đường phía trước, cùng là người dọn sạch đường lui phía sau trong suốt mười chín năm cuộc đời của ta, từ nay về sau, hắn nhất định sẽ tách biệt hoàn toàn với vạn người trong thiên hạ."

Triệu Bạch Ngư quen lủi thủi một mình, tuy có Tú ma ma và Ngụy bá quan tâm, che chở y, nhưng phần lớn thời gian y đều phải tự mình lo liệu trước sau, dù có phải đối mặt với sóng to gió lớn gì cũng đều đứng chắn phía trước như một thói quen, không ai mở đường cho y, càng không ai có thể kéo y lại khi thuyền y bị lật, vì vậy nên Triệu Bạch Ngư mới quen với việc chú ý cẩn thận với mọi thứ.

Khi cứu Trần Sư Đạo, trong lòng y đã tồn tại suy nghĩ muốn chết, vậy mà Hoắc Kinh Đường lại ngang nhiên xuất hiện ngay lúc ấy.

Hoắc Kinh Đường cười mấy tiếng, bỗng dưng níu lấy Triệu Bạch Ngư lật khỏi thảm đá nhảy xuống hồ, một đám bọt nước tung lên kêu rào rào, Triệu Bạch Ngư không phản ứng kịp nên uống phải một ngụm nước rồi nhanh chóng bị Hoắc Kinh Đường chặn miệng, lấy rong rêu dưới thân làm giường, cá con to cỡ bàn tay bừng tỉnh, kéo bầy kéo đàn lủi đi mất.

Hồ nước trong vắt đến nỗi y có thể nhìn thấy ánh sao trời chiếu xuống lấp lánh, thậm chí lúc này đây y còn có thể cảm nhận được nhiệt độ của Hoắc Kinh Đường khi hắn dán sát vào người mình, đó chính là sự nóng nảy mà nước hồ lạnh buốt không thể thấm ướt, là toan tính điên cuồng tràn trề hưng phấn không thể dập tắt mà Hoắc Kinh Đường ngày đêm gấp gáp trở về sau khi giành thắng lợi trên chiến trường, tiêu diệt Đại Hạ, gây dựng sự nghiệp to lớn đến cả Thánh tổ cũng chẳng thể làm được.

Dường như mới vừa rồi dịu dàng tâm sự, để lộ vẻ đa sầu đa cảm chẳng qua là vì sợ tiểu lang quân sợ hãi mà thôi, hắn đã cố hết sự giảm nhiệt độ rồi, chỉ tiếc là chẳng có hiệu quả mấy.

Nước lại vang lên rào rào, Triệu Bạch Ngư đạp nước ngoi lên, được Hoắc Kinh Đường ôm tựa vào mép hồ, trâm ngọc đã bị rút ra, mái tóc ướt sũng tản ra rũ xuống, chóp mũi chạm nhau vừa nóng vừa ướt, nụ hôn nhỏ vụn rơi xuống không ngừng, nhanh chóng từ nhẹ nhàng hóa thành gió lớn mưa rào.

Dưới màn trời này, trên thảo nguyên, cạnh hồ nước, hai người trút hết tinh lực tràn trề tới mức gần như chẳng còn gì, ôm ấp lấy sự mỏi mệt sau khi thỏa mãn, lấy trời làm màn lấy đất làm chiếu ngủ đến tận lúc mặt trời mọc mới cưỡi ngựa trở về, nhìn ra xa thấy được tro tàn của lửa trại đêm qua, Hoắc Kinh Đường không đi sang đó mà ôm Triệu Bạch Ngư quay đầu ngựa về phủ.

***

Đại Hạ bị diệt, Cấm quân Tây Bắc thắng lợi về triều chính là sự nghiệp to lớn nhất từ xưa đến nay giữ cho Đại Cảnh trăm năm thịnh thế, Nguyên Thú đế rất vui, đại xá thiên hạ, lệnh cho ba tỉnh sáu bộ chuẩn bị cho tốt danh mục quà tặng, bắt tay vào sắp xếp chuyện này đến chuyện khác với ý đồ nhận lại Hoắc Kinh Đường, lòng dạ gấp gáp muốn lập trữ rõ mồn một.

Trong điện Văn Đức, chỉ có Nguyên Thú đế đang ngồi phía trên, đại thái giám và một người đàn ông trung niên đang quỳ rạp dưới đất, hình như lão vừa báo cáo công tác xong, đang đợi phân công.

Một lúc lâu sau, Nguyên Thú đế mới nói: "Nhân dịp đại hỉ, trẫm chuẩn bị đến ngoại ô phía nam tế trời sau Trung thu này." Buông tấu chương xuống, ông nhìn về phía đầu người ở dưới, "Ngươi có hiểu ý của trẫm không?"

Người phía dưới đảo mắt mấy vòng, nghĩ một chút liền hiểu được, thoáng chốc kinh hồn bạt vía, vì sự quả quyết của Nguyên Thú đế mà không nói nên lời, có điều trên mặt vẫn cung kính lễ độ: "Thần tuân chỉ!"

Sự chú ý của Nguyên Thú đế lại quay về trên tấu chương, hời hợt đáp: "Về đi, đừng để người khác nhìn thấy."

Ông lệnh cho đại thái giám đi tiễn một đoạn, dẫn người đến một con đường ít ai qua lại.

Hai người này một trước một sau đi trên cung đạo, hai bên là tường thành màu đỏ, khi đi qua một cung điện mọc đầy cỏ dại, mưu sĩ đi phía sau mới nhét túi tiền vào trong tay đại thái giám, hỏi một câu "Tâm trạng của bệ hạ thế nào".

Đại thái giám nhìn trái nhìn phải, nghĩ tới sức nặng của túi tiền, tốt bụng nói: "Ông còn không nhìn ra được à? Tất nhiên là rất vui rồi. Thịnh thế này coi như là được mở ra trong tay bệ hạ, người nên ngã cũng đã ngã, đồ muốn có cũng đã có, hài lòng như ý, ý trời tương trợ, tất nhiên vẫn muốn mọi chuyện được suôn sẻ, phải vô cùng hoàn mỹ mới được." Lão giảm âm thanh xuống khuyên nhủ, "Ông ấy à, bây giờ đã gánh vác trách nhiệm trên vai thì chớ có quay đầu lại. Trong thời điểm quan trọng này, phàm có ai muốn làm bệ hạ phật lòng thì không chỉ phải nghĩ đến đầu của mình, mà còn phải nhớ tới gia đình họ hàng nữa."

"!" Mưu sĩ run rẩy, nhớ tới mấy chữ "gánh vác trách nhiệm", không khỏi cười khổ: "Ta tạ lời hay của công công."

Đại thái giám vẫy vẫy tay: "Tiễn ông đến đây thôi, đi cẩn thận một chút, đừng để cho ai trông thấy."

Mưu sĩ nói lời cảm ơn rồi đi ngay, đại thái giám đứng đó một lát rồi cũng đi.

Cung điện tan hoang vô cùng yên tĩnh, bỗng nhiên có tiếng lá khô bị đạp nát vang lên, có người bước ra từ phía sau bức tường phủ đầy dây thường xuân, sắc mặt tái nhợt, ánh mắt u ám như nước, ấy vậy mà lại là Ngũ hoàng tử ít xuất hiện đi chẳng còn nghe thấy tên tuổi kể từ khi Đông cung chết.

***

Phủ Tấn vương.

Phụ tá khuyên nhủ: "Bàn về văn trị võ công, tất cả mọi thứ Lâm An quận vương đều hơn vương gia một bậc, bệ hạ vốn luôn thiên vị hắn. Còn có Thái Trọng Thăng về báo cáo công tác rồi vô cớ bị giáng chức đến một nơi hoang dã như Nam Man, Trịnh nhị gia cũng không truyền tin về đã nhiều ngày liên tục rồi, thậm chí chẳng hiểu sao binh quyền của nhánh Hoàn Khánh lại bị chuyển giao cho phó tướng, hơn nữa bệ hạ hành động liên tiếp, tình thế cấp bách, nếu để cho Hoắc Kinh Đường về kinh an toàn, e là vị trí Thái tử sẽ rơi lên đầu hắn, đến lúc đó ngài và phủ Trịnh quốc công có muốn cố gắng cũng chẳng còn cơ hội!"

Lục hoàng tử ngày xưa giờ đã trở thành Tấn vương: "Theo tiên sinh, ta nên làm thế nào?"

Phụ tá: "Việc này là việc trọng đại, chắc chắn bệ hạ sẽ đi ngoại ô phía nam để tế trời, Thái hậu cũng đi theo, trong cung không có người, Cấm quân phòng thủ yếu kém, đó chính là cơ hội tốt nhất để đoạt quyền."

Tấn vương yên lặng nhìn phụ tá, nhìn đến mức người nọ cảm thấy sợ hãi, lúc này mới dời tầm mắt đi, cau mày nói: "Mấy năm nay ta bước đi khó khăn, đảng văn thần không phát triển nổi, đảng võ quan cũng bị gọt dũa đi nhiều, lấy binh quyền ở đâu ra để mà đoạt vị?"

Phụ tá: "Dù gì Trịnh Sở Chi cũng đang nhậm chức Đô úy doanh Long Hổ, có thể phối hợp chặt chẽ với quân cờ ta xếp vào Cấm quân trong cung, chỉ cần lấy được ngọc tỉ và dây đeo triện, chống chọi đại thần văn võ trước rồi ép bệ hạ thoái vị."

Quân doanh đóng quân trong phủ kinh đô gọi chung là doanh Long Hổ, cũng là một nhánh trong tám trăm ngàn Cấm quân.

Tấn vương: "Tiên sinh thật sự muốn ta mưu phản ép vua thoái vị sao? Nếu như cũng thất bại giống như Đông cung lúc trước, kết cục của ta và ông đều sẽ là đầu rơi xuống đất!"

Lúc này phụ tá quỳ xuống đất, dùng giọng đanh thép đáp lại: "Thuộc hạ nguyện đầu rơi máu chảy vì vương gia, đến chết mới thôi!"

Tấn vương dán chặt ánh mắt theo dõi ông ta, một lúc lâu sau mới vỗ lên tay ghế cười to: "Hay! Hay! Tiên sinh là phụ tá đắc lực của cô, là Chư Cát tể tướng của cô!" Sau đó hắn thở dài như thể đang nhớ về trước kia: "Tiên sinh đến bên cạnh cô từ năm nào ấy nhỉ?"

"Năm Nguyên Thú thứ mười tám, lúc vương gia tòng quân, trên đường cứu được thuộc hạ bị bỏ tù oan, giúp người nhà của thuộc hạ sử lại án oan, thề làm ngựa chó dốc sức suốt quãng đời còn lại vì điện hạ."

"Năm Nguyên Thú thứ mười tám... Cũng đã tám năm rồi." Tấn vương như có điều suy nghĩ: "Nếu như nghiệp lớn thành công, cô nhất định phụng tiên sinh làm Tam công."

"Thuộc hạ đi theo điện hạ chỉ vì báo ân, nguyện vì điện hạ đạt thành nghiệp lớn, không vì tiếng tăm của bản thân!"

Tấn vương nở nụ cười, tự tay nâng phụ tá dậy, tha thiết an ủi giống như thường ngày, nhỏ nhẹ thương lượng chuyện lớn, chờ cân nhắc xong xuôi mới đưa người đi, nụ cười trên mặt lập tức biến mất, thay vào đó là đau thương, trong mắt dần dần ngập tràn nặng nề xót xa.

"Cha mẹ thương con, tất vì con mà lo toan chu toàn." Tấn vương mấp máy môi nói, "Cô luôn tin rằng lúc trước phụ hoàng hao tâm tốn sức sắp xếp tiên sinh đến bên cạnh là bởi vì muốn nâng đỡ cô, thật sự ký thác kỳ vọng vào cô, rõ ràng đó chính là tình thương của cha. Nhưng hôm nay lại tốn công tốn sức khiến ta rơi vào vùng đất chết, rõ ràng là hy vọng cô đi tìm chết, đó vẫn là tình thương của cha... Nhưng lại không phải dành cho ta."

Sau lưng hắn có một người khác xuất hiện, đó là Ngũ hoàng tử mặt không cảm xúc.

Lão Lục còn được Nguyên Thú đế yêu thương cất nhắc, đến cả Đông cung cũng đã từng có lúc được ông gửi gắm hy vọng, còn gã thì sao? Bị biến thành một quân cờ mặc người sử dụng, dường như đến cả tư cách cũng không đủ.

Thái tử, lão Lục còn có tư cách để đau khổ, hắn thì chẳng có thứ gì.

Chương 106

Giành được đại thắng, khải hoàn hồi triều, hành trình đã định không thể thay đổi.

Bởi vì công việc đã gần như hoàn thành xong hết, Hoắc Kinh Đường bèn dắt theo Triệu Bạch Ngư tách khỏi đội ngũ, chuẩn bị đi du sơn ngoạn thủy rồi mới về kinh đô.

Tuyến đường đi khác nhau, dường như là vòng hết một vòng Tây Bắc, đến đường nùi Kỳ Liên ngắm thảo nguyên, canh giữa hẻm núi ba ngày ba đêm chờ cảnh hàng ngàn con ngựa lao nhanh qua, xem người chăn ngựa bản địa thuần phục mã vương suốt hơn một tháng trời.

Hoắc Kinh Đường còn nói cho Triệu Bạch Ngư biết, con ngựa đen xinh đẹp đó chính là vua của bầy ngựa hoang, lúc trước hắn phải trở thành người hoang dã suốt hai tháng trên thảo nguyên rộng lớn này mới hàng phục được nó.

Dọc theo đồng cỏ bao la, theo đàn trâu, bầy dê đi về phía trước chẳng có đích đến, lần này là băng qua Lan Châu, vượt đồng cỏ, qua hẻm núi, đến biển xanh, ngắm nhìn sóng Hoàng Hà cuộn lên rồi vỗ xuống hệt như một con rồng lớn, tiếng vang như sấm, trong lòng Triệu Bạch Ngư vô cùng hăng hái, cảm nhận được cảnh tượng con người nhỏ bé như hạt cát trước trời đất cao rộng trong thơ cổ.

Hai người còn đi đến cửa ải hiểm yếu nhất thiên hạ là Gia Dự Quan*, nơi này xưa nay vốn là vùng đất bị nhà binh tranh giành, tất nhiên cũng được binh mã phòng thủ nghiêm ngặt, chỉ tiếc có cửa không có thành, bởi vì bấy giờ còn chưa xây dựng thành trì, cho nên thời điểm này các quan ải để giao thiệp với sứ giả Tây Vực chính là Ngọc Môn Quan**, nhân viên rất ít qua lại ở khu vực Gia Dự Quan, không to lớn sầm uất như đời sau.

(*) Gia Dự Quan là điểm cuối đoạn phía tây Trường Thành.

(**) Ngọc Môn quan hay đèo Ngọc Môn là tên của một con đèo nằm ở phía tây Đôn Hoàng, thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Trong thời cổ đại, đây là nơi con đường tơ lụa đi qua và là một trong những con đường quan trọng kết nối khu vực Trung Á với Trung Quốc, trước đây được gọi là Tây Vực.

Nhưng ngắm nhìn ra phía xa từ trên cao, đằng tây chính là đại ngàn hoang vu, núi non hùng vĩ, được trông thấy cảnh tượng mặt trời lặn hoặc lấp ló xuất hiện từ cuối trời mênh mông âu cũng là một may mắn khó có được trong đời người.

Khi đó, Triệu Bạch Ngư đã ngồi ngắm mặt trời mọc giữa dãy núi từ sớm, phấn khích đến nỗi bộc phát hứng thú làm thơ, tuy rất thẳng thắn bộc lộ cảm xúc trong lòng nhưng tài văn chương lại không được như ý, dù vậy y vẫn không nản lòng, vẫn viết câu thơ ra để chuẩn bị xuất bản tập thơ trong tương lai.

Hoắc Kinh Đường gối hai tay sau ót, nằm ở bên cạnh liếc nhìn y.

Với trình độ đó, dù có mang danh quan thanh thiên phụ mẫu đi nữa thì cũng chẳng có nhà in nào muốn nhận hết.

Cũng may từ trước đến giờ Triệu Bạch Ngư hiểu rất rõ bản thân mình, y chỉ có ý định sưu tầm mấy bài thơ sau đó đóng lại thành cuốn, ngày sau ôm theo vào quan tài chôn cùng mình thôi là được rồi.

Cảm hứng được thúc đẩy trước khung cảnh mặt trời mọc trên lưng núi hùng tráng, Triệu Bạch Ngư quyết định sẽ phi ngựa băng qua vùng đất hoang phương Bắc, đuổi theo ánh chiều tà.

Hoắc Kinh Đường ôm cánh tay, không có ý kiến gì với lời đề nghị này, dù sao thì đuổi theo hoàng hôn cũng rất thú vị, hắn không thể không thử trải nghiệm.

Hai người ăn nhịp với nhau, cùng chén cạn một bầu rượu rồi một trước một sau cưỡi ngựa ra khỏi Gia Dự Quan, truy đuổi ánh mặt trời trên hoang mạc rộng lớn đến tận khi ông trăng bò lên đỉnh núi mới bắt đầu chạy về.

Có lẽ núi sông kỳ vĩ quả thực có thể chữa lành lòng người, những nơi đi qua cũng là nơi bá tánh an cư lạc nghiệp, biên cương triều đại này đã ổn định, mở cửa với nước ngoài, buôn bán phát đạt và rất nhiều nhân tố khác nữa khiến cho đất nước phát triển mạnh mẽ, thậm chí có xu hướng vượt hẳn sự hưng thịnh của các triều đại trước, Triệu Bạch Ngư cũng càng thông suốt và thoải mái hơn, không còn canh cánh trong lòng vì quan trường đấu đá, cũng chẳng còn khúc mắc gì với thời đại mù mịt lạc hậu không được chiếu sáng này nữa, dần dần mở lòng hoàn toàn.

Hành trình phong phú này kéo dài hơn một tháng, lúc trở về phủ Kinh Đô đã là sau Trung thu, tất nhiên phải khao thưởng ba quân, mà Nguyên Thú đế cũng lười truy cứu hai người vì không về trình diện, bắt đầu chuẩn bị đi Tây Giao tế trời.

Tế trời là đại sự, cách ba năm tổ chức một lần, năm nay là phá lệ.

Nghi thức xe ngựa trang nghiêm, trình tự được thực hiện rất cẩn thận, cùng lúc đó Cấm quân hoàng gia cũng bị điều động đến hơn phân nửa để bảo hộ.

Bá quan văn võ vốn cũng nên cùng đến tham gia lễ tế, nhưng vì là phá lệ cho nên chỉ đưa vài đại thần thân cận đi theo.

Song trước ngày thân tự, Nguyên Thú đế phải vào Thái miếu ở để tắm gội và giữ giới ba ngày.

***

Trước lúc giữ giới, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư về kinh.

Vừa bước vào phủ quận vương, hai người đã bị gọi vào cung ăn một bữa cơm nhà với Nguyên Thú đế và Thái hậu.

Trong yến tiệc còn có một vài phi tử có phẩm cấp cùng với mấy vị Ngũ, Lục, Thất, Cửu hoàng tử và hai công chúa.

Nói thật, tiệc gia đình này khiến cho Triệu Bạch Ngư hối hận vì không kiếm cớ từ chối sớm hơn một chút.

Hoắc Kinh Đường nhìn ra suy nghĩ trong lòng y, len lén kề tai nói nhỏ: "Vợ chồng một thể, có họa cùng chịu."

Mặt Triệu Bạch Ngư không đổi sắc, hơi phiền muộn: "Chàng nói xem, không danh không phận, gọi chàng đến tham gia bữa tiệc này là có ý gì?"

Hoắc Kinh Đường: "Đại Hạ bị diệt, các cao thủ đều về triều, ông ngoại không có lý do gì để từ chối, bị động đưa "con gái" vào, ta đoán lễ tế trời này chính là lúc để ta nhận tổ quy tông."

Triệu Bạch Ngư cúi đầu vuốt tay áo: "Mấy người em trai của chàng không có ý kiến gì sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Trịnh Nguyên Linh bị giam vào Đại Lý Tự, trước mắt vẫn chưa có tin sẽ xử lí như thế nào, phủ Trịnh quốc công, Quý phi và lão Lục sẽ không có động tĩnh gì."

Triệu Bạch Ngư: "Bình lặng mới là dấu hiệu của con sóng lớn... Sự việc của Đông cung sẽ không tái diễn chứ?"

Giương mắt nhìn quanh điện, Nguyên Thú đế và Thái hậu ở giữa đang nói đùa với nhau, có phải là thật sự lơ là hay không thì cần phải bàn lại, mấy vị phi tử có gia thế không hiển hách lắm thì khá là yên tĩnh, hai vị công chúa một lớn một nhỏ, người lớn hơn mười lăm tuổi, phát hiện Triệu Bạch Ngư bèn nhìn y bằng ánh mắt kiêu căng, vị nhỏ hơn chỉ vừa tròn chín tuổi, cô bé đang nhìn chằm chằm vào trái cây trên bàn, bởi vì có mẹ ngồi ở bên cạnh nên không dám lấy ăn.

Trịnh quý phi rũ mắt không nói gì, vẻ mặt lạnh nhạt, không thể nhìn ra cảm xúc. Ngũ hoàng tử thì chuyên tâm xem biểu diễn trong điện, dáng vẻ táo bạo, ngạo mạn cũng dần chẳng còn nữa kể từ sau khi Đông cung rớt đài, dường như gã không còn có hứng thú với cuộc tranh giành quyền lực nữa. Về phần Lục hoàng tử, hắn ta uống cạn mấy chung rượu liên tục, nhận ra ánh mắt của Triệu Bạch Ngư bèn vội vàng ngẩng đầu, giơ chung rượu lên cao cụng một cái rồi uống cạn sạch, vẻ mặt tươi cười và ánh mắt đều mang lại cảm giác kì lạ không thể nói nên lời.

Bầu không khí này khiến cho người ta cảm thấy không được tự nhiên, cả người Triệu Bạch Ngư không thoải mái chút nào.

Mấy năm nay Lục hoàng tử bị giam cầm ở Kinh Đô, Đông cung ngã ngựa, hắn ta trở thành mục tiêu công kích của mọi người trước khi bị bóc trần, vốn là lựa chọn đầu tiên cho vị trí Thái tử, nhưng rồi lại trở thành đối tượng bị nhắm vào, bị chất vấn vì Nguyên Thú đế dần thể hiện ý đồ của mình.

Quyền lực lấy được về tay từng bước bị giảm bớt, binh quyền cũng liên tục bị đoạt lại, người khác đã phục hồi tinh thần, e là Tấn vương bị bỏ rơi rồi.

Kể từ lúc đó, người nhảy xuống khỏi chiếc thuyền của Tấn vương ngày càng nhiều, đến cùng rải rác chẳng còn mấy người, mặc dù trong môn đảng có không ít võ tướng, nhưng xưa nay trị quốc vẫn cần phải có nhóm văn thần dẫn dầu.

Tấn vương nay ngoài mặt phong quang, bên trong đã là chiếc thuyền hỏng sớm muộn gì cũng chìm.

Thuyền hỏng còn có ba tấc đinh, tuy vậy cũng khó đảm bảo sẽ không bị ép trở thành Đông cung thứ hai.

Nhưng Nguyên Thú đế không hề phát giác ra hay sao?

Người khác phòng bị, mưu tinh ông ấy mà ông ấy hoàn toàn chẳng biết gì cả ư?

Triệu Bạch Ngư nhìn sang, lúc này Trịnh quý phi đã nói câu gì đó chọc Thái hậu cười rất vui vẻ, bà ấy không ngừng khen ngợi Trịnh quý phi thông minh khiến cho người ta phải yêu thương, chủ động nhắc đến sự tận tâm tận lực của quý phi khi quản lý trung quỹ hậu cung, nói gần nói xa muốn đưa bà ta lên làm Hoàng hậu, Nguyên Thú đế lập tức đáp lại đôi ba câu chấp nhận.

Trịnh quý phi vô cùng thích thú nhưng kịp kiềm chế lại, bày ra thái độ khéo léo từ chối.

Nói thế nào ấy nhỉ?

Có cảm giác vò mẻ lại sứt, bởi vì trong lòng ai nấy cũng đều biết rõ đây chỉ là đối phó mà thôi.

Hoắc Kinh Đường nhéo tay Triệu Bạch Ngư: "Sau khi kết thúc tiệc, em về phủ trước đi."

Triệu Bạch Ngư quay đầu nhìn vào đôi mắt màu ngọc lưu ly của Hoắc Kinh Đường, một lúc sau mới gật đầu, không hỏi nguyên nhân.

Giữa chừng Nguyên Thú đế và Thái hậu đều hỏi Triệu Bạch Ngư một chút chuyện nhà, tiệc gia đình tiến hành được một nửa thì Thái hậu rời đi, lúc đi còn gọi Triệu Bạch Ngư đi theo cùng một đoạn.

Trên cung đạo yên tĩnh, Thái hậu có nhắc đến câu chuyện Mục Liên cứu mẹ trong Phật pháp: "Thanh Đề làm ác, sau khi chết phải chịu ngàn vạn khổ sở, dù vậy, Mục Liên vẫn sẵn lòng vì mẹ mình dưới địa ngục, gặp ác quỷ, cứu chúng sinh... Ấy chính là mẫu tử liền tâm, không cắt đứt được."

Triệu Bạch Ngư im lặng, cho rằng Thái hậu đang biện hộ giúp Tạ thị.

"Cha mẹ thương con, không phải để đền đáp."

Cầm lấy tay Triệu Bạch Ngư vỗ vỗ, Thái hậu híp mắt nhìn đường, từ sau biến cố Đông cung, bà bỗng nhiên già đi nhiều, tóc mai đã nhuốm bạc, nếp nhăn bò đầy mặt, cũng càng tin Phật hơn, có lẽ tâm tình trải qua biến lớn, ngày trước là hiền lành, đến nay càng là một người nhân từ từ trong ra ngoài.

"Mấy năm cuối cùng này ai gia cứ nghĩ, nếu như có thể dạy bảo Xương Bình cho thật tốt trước khi nó trở nên lệch lạc, thì có phải về sau sẽ không xảy ra biết bao nhiêu chuyện khiến cho người ta tiếc nuối hay không? Ai gia cũng không cần phải làm người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, cũng sẽ không thấy hổ thẹn trong lòng."

Triệu Bạch Ngư muốn nói lại thôi: "Thái hậu..."

Thái hậu đột nhiên siết chặt tay Triệu Bạch Ngư, cắt ngang lời y nói, bà vẫn nhìn đường dù thật ra đã không nhìn thấy rõ nữa rồi, nhưng ở phía trước đã có thái giám cung nữ soi đường cho nên không sợ bị trượt chân.

"Tiên đế không phải là người cha tốt, ai gia cũng không phải là một người mẹ tốt."

Trực giác mách bảo Triệu Bạch Ngư những gì tiếp theo không phải điều y có thể nghe, giương mắt nhìn lên thì thấy thái giám cung nữ đều mắt nhìn mũi mũi nhìn tim như người câm vậy.

Y mở miệng: "Thái hậu nói đùa rồi. Từ khi đăng cơ đến nay bệ hạ đều thức khuya dậy sớm, là người uy phong sáng suốt, trong triều chỉ dùng người tài, nghe lời can như nước chảy, ngoài triều cởi mở thương sự, bình định Tây Bắc, mở đất biên cương, lập công suốt đời... cũng là nhờ có tiên đế và thái hậu làm gương tốt, dày công tốn sức sinh ra minh quân, mới có được thái bình thịnh thế muôn nơi của ngày hôm nay."

Thái hậu để lộ nụ cười không nhìn ra cảm xúc, thấp giọng nói: "Triệu khanh càng ngày càng khéo đưa đẩy, giống hệt như tam công cửu khanh trong triều vậy."

Triệu Bạch Ngư: "Lời vi thần nói đều xuất phát từ đáy lòng."

"Con đó," Thái hậu thở dài: "Con không thích hoàng cung, Tử Uyên cũng không thích."

Chủ để xoay chuyện nhanh như chớp, Triệu Bạch Ngư nheo mắt, cảm giác như lời kế tiếp mới là trọng điểm.

"Xương Bình ích kỷ, Hoàng đế tự cao, không một ai có thể hiểu được tính tình con trai con gái của ai gia hơn ai gia cả, khi làm hoàng hậu phải giữ tốt bổn phận của hoàng hậu, làm thái hậu thì phải giữ tốt bổn phận của thái hậu, vì vậy có rất nhiều chuyện biết rõ là không đúng nhưng ai gia không muốn, cũng không thể bước ra khỏi phạm vi đó để uốn nắn, cho nên mới gây ra biết bao nhiêu hậu quả xấu. Nhà họ Triệu là một, ngươi là hai, tiên hoàng hậu và Đông cung cũng là một trong số đó... Những hậu quả xấu khiến cho từng người phải chịu ấy cứ lăn qua lộn lại trong lòng ta, đau đớn đến mức ta trằn trọc khó ngủ, trái tim nhức nhối không thôi. Mà bây giờ, Hoàng đế lại cố chấp khư khư với ý định đó, tiếp tục gây ra bất hòa giữa quân thần, cha con tương tàn lần nữa, nhưng lần này ai gia sẽ không thờ ơ ngồi nhìn đâu."

Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên dừng bước, nhìn về phía cửa lớn điện Từ Minh.

Thái hậu cũng dừng lại, rất lâu sau đó mới thở dài nặng nề: "Con là đứa trẻ ngoan, là đứa trẻ thông minh nhất mà ai gia từng gặp trên đời này, nếu như đứt gánh nơi thâm cung, thật sự rất đau lòng."

Nói xong, bà liền buông tay Triệu Bạch Ngư ra rồi bước vào điện Từ Minh.

Trước khi đi còn để lại một câu: "Hoàng đế sẽ không dễ dàng chấp nhận để cho một người đàn ông trở thành Hoàng hậu của Đại Cảnh."

Triệu Bạch Ngư đứng một mình dưới ánh trăng, một lát sau mới có thái giám đi ra đưa cho y một chiếc đèn.

Triệu Bạch Ngư cầm đèn men theo ánh trăng sáng rời cung.

***

Tiệc nhà kết thúc, Nguyên Thú đế giữ Hoắc Kinh Đường ở lại, cung phi và các hoàng tử hiểu chuyện trong điện đều không hẹn mà cùng nhìn về phía Trịnh quý phi và Tấn vương, hai người đều im lặng cáo lui.

Không nhìn ra được gì, bởi vì bọn họ rất bình tĩnh.

Về đến điện Văn Đức, Nguyên Thú đế mới nói: "Hai ngày nữa trẫm trai giới, chuẩn bị đi Tây Giao tế trời sẵn tiện lánh đời cho nhàn hạ, nửa tháng tới sẽ không về, nhưng trong triều thì không thể một ngày không có vua, con giám quốc đi."

Hoắc Kinh Đường: "Từ trước đến nay đều để Thái tử giám quốc, thần không danh không phận, không tài không đức, không đảm đương nổi việc quan trọng như giám quốc."

Nguyên Thú đế không vui: "Trẫm nói được thì con có thể làm."

Hoắc Kinh Đường: "Thần lĩnh mệnh."

Nguyên Thú đế: "Trẫm sai con làm chút chuyện, con đừng có kiếm cớ từ chối suốt ngày..." Giật mình một cái, ông đột nhiên xoay người, không giấu được ngạc nhiên: "Con đồng ý rồi sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Người muốn đổi ý à, bây giờ vẫn kịp."

Nguyên Thú đế thích lắm, làm sao mà đổi ý cho được?

Ông bước nhanh hai bước đến siết chặt lấy cánh tay Hoắc Kinh Đường vỗ vỗ hai cái: "Phải như vậy từ sớm rồi chứ! Chẳng lẽ trẫm hại con được sao? Tất cả đều là vì trẫm muốn tốt cho con thôi! Đồ tốt nhất đều nên thuộc về con, thiên hạ đều là của con, sớm muộn gì cũng có ngày con hiểu được lòng thành khẩn của trẫm thôi."

Hoắc Kinh Đường cười.

"Tạ bệ hạ ưu ái."

Nguyên Thú đế cảm thấy sung sướng vô cùng, ông biết rằng những gì Tử Uyên làm trước đây chỉ là để trút giận, trên đời này không có cha mẹ nào sai, huống chi ông làm tất cả mọi thứ đều là để trải đường cho Tử Uyên mà thôi, sống trên đời không ai có thể từ chối vị trí cửu ngũ chí tôn cà!

"Con yên tâm đi, trẫm nhất định sẽ cho con và mẹ con một danh phận xứng đáng!"

Từng nguyện vọng nay đã lần lượt được thực hiện, Nguyên Thú đế cảm thấy được an ủi phần nào, ông đã từng trơ mắt nhìn người phụ nữ mình yêu thương bị gả cho người em trai mà mình ghét cay ghét đắng, đã không có cách nào khiến cho đứa con trai ông yêu thương, vừa lòng nhất gọi ông là cha một cách danh chính ngôn thuận, mà còn phải nhìn con trai cực kì xuất sắc của mình và Tĩnh vương mà mình ghét nhất phụ từ tử hiếu, phải giao vị trí Thái tử lại cho con mà người phụ nữ ông không thích sinh ra, cho những hoàng tử chẳng có chỗ nào sánh bằng Tử Uyên!

Nhịn cơn tức lâu như vậy, bày ra một nước cờ thâm như vậy, nguyện vọng xưa nay đã thành, sao có thể không khuây khỏa cho được?

"Đã lâu rồi trẫm với con không soi đuốc uống rượu trò chuyện trong đêm, không biết tài chơi cờ của Tử Uyên có bị thụt lùi hay không đây?"

Hoắc Kinh Đường: "Thầy nghiêm dạy trò giỏi, tài chơi cờ của ta là do người dạy, nào dám thụt lùi?"

Nguyên Thú đế cười ha ha, thật sự lôi Hoắc Kinh Đường đi đánh cờ đến tận nửa đêm, giữa chừng có tra hỏi một vài chính sự trên triều, thấy hắn trả lời trôi chảy mới cảm thấy vừa lòng thỏa dạ, sau đó bóc trần một vài quan hệ nhỏ trên triều ra nói rõ.

Đặc biệt là có nhắc đến người nhà họ Triệu.

"Chỉ một Triệu Bạch Ngư thôi đã khiến bọn họ sụp đổ, lòng người không đủ, hùng tâm của Thừa Giới cũng chẳng còn như xưa nữa, mà thiếu mất ba phần khôn ngoan của tể tướng. Môn sinh của tể tướng rất đông, nếu như muốn trọng dụng những thanh niên tài tuấn này ngay thì khó tránh khỏi kết thành bè đảng. Nếu ngày nào đó con trở thành Thái tử thì tìm một lý do cách chức ông ấy đi."

Về việc xử lý thần tử đi cùng mình hơn hai mươi năm thế nào, Nguyên Thú đế không có ý định hạ thủ lưu tình.

Hoắc Kinh Đường không trả lời, đặt một quân cờ đen xuống chặn cờ trắng của Nguyên Thú đế lại làm cho ông phải thu hồi lực chú ý đã giảm sút, chăm chú nhìn vào bàn cờ, vậy nên cũng không phát hiện từ đầu đến cuối Hoắc Kinh Đường vẫn luôn kiềm chế giữ tỉnh táo, không hề có chút hứng thú nào.

***

Trước khi đi Tây Giao một ngày, Nguyên Thú đế đã ở lại cung của Trịnh quý phi.

Đến sáng sớm, Trịnh quý phi nhận lấy đũa ngà voi chia thức ăn cho Nguyên Thú đế, nghe ông nhắc đến hành trình đi Tây Giao, khi Nguyên Thú đế nói "Nàng cũng đi" thì tay run lên, đũa ngà voi rơi thảng xuống đất, câu nói này dọa bà ta sợ đến mức quỳ xuống ngay tức khắc.

"Bệ hạ thứ tội."

Trong điện là một khoảng lặng, thái giám cung nữ không dám thở mạnh, không ai hiểu được vì sao mấy ngày nay Trịnh quý phi lại có biểu hiện vội vàng như vậy, lần trước lúc chia thức ăn đã từng làm rơi vỡ bát, sau đó cầu xin tha, cũng đã từng nhõng nhẽo, sao bây giờ sợ tới nỗi lạnh run rồi?

"Đứng lên đi." Nguyên Thú đế đặt đũa xuống, chẳng còn muốn ăn uống gì nữa, "Nàng đi theo Thái hậu tụng kinh niệm Phật thôi là được rồi."

Trịnh quý phi gần như bò xuống đất, cố gắng kìm nén giọng nói run rẩy để mà cầu xin: "Bệ hạ, thần thiếp còn phải quản lý trung quỹ hậu cung... Chi bằng để cho các muội muội ở cung khác đi thay, Thục phi tin Phật nhiều năm rồi, có thể khiến cho Thái hậu cảm thấy thoải mái hơn... Bệ hạ, thần thiếp ngu muội, đến nơi cửa Phật chỉ thêm quấy nhiễu sự thanh tịnh của người khác thôi."

Nguyên Thú đế đứng dậy, mặc kệ Trịnh quý phi bước ra ngoài, "Nàng không muốn đi, vậy thì lệnh cho người khiêng nàng đi cũng được."

"Bệ hạ!"

Trịnh quý phi hô lên, nhưng Nguyên Thú đế cũng không quay đầu lại.

"Trông coi quý phi đi, sáng sớm mai mời nàng ta lên xe, Sau ngày hôm nay, không được tùy tiện ra vào Tây cung nữa."

Quý phi chỉ có thể ôm mặt khóc không thành tiếng, sau đó đau khổ bật cười, từng tiếng nấc nghẹn đều tràn ngập oán hận.

"Bệ hạ! Ta và Hoàng hậu cùng xuất giá một năm, gả vào Đông cung, ở bên người gần ba mươi năm, sinh con dưỡng cái cho người, chủ trì hậu cung, chẳng lẽ không thể tính là vợ người hay sao? Chẳng lẽ chút tình cảm cũng không có ư?"

Nguyên Thú đế bước thẳng ra khỏi cửa cung, lạnh lùng tuyệt tình: "Năm đó ai là người khiến Tĩnh vương phát hiện ra trẫm và Như nương đôi bên yêu nhau, ai là người giật dây để Tĩnh vương đến chỗ bệ hạ cầu hôn, ai là người tiết lộ quan hệ của trẫm và Như nương cho Hoàng hậu biết, ám chỉ cho Hoàng hậu nhiều lần, trẫm muốn nuôi dưỡng Tử Uyên thành Thái tử, ai lại là người giật dây cho nàng ta nhắm vào Tử Uyên ám hại nó?"

Bước đến cửa cung, Nguyên Thú đế phất tay áo nói: "Trông coi quý phi, đừng để nàng ta tự sát."

Trịnh quý phi suy sụp ngã xuống đất, thì thào tự nhủ: "Hóa ra người biết cả rồi."

Phủ Trịnh quốc công và phủ Thôi quốc công đều là công thần khai quốc, cũng đều là võ tướng, hai nhà ở gần bên nhau, đã từng là thế giao. Trịnh quý phi và Thôi Thanh Như là đôi bạn thân, một người sùng văn, một người thượng võ, nhưng cả hai đều một lòng yêu Nguyên Thú đế khi ấy vẫn còn là Thái tử.

Bà ta yêu Nguyên Thú đế, muốn trở thành Thái tử phi, cũng muốn trở thành Hoàng hậu!

Vì vậy bà ta mới nhờ vả anh cả của mình giật dây để Tĩnh vương cầu xin tiên đế ban hôn, chia rẽ bệ hạ và Thôi Thanh Như, được gả vào Đông cung như ý nguyện, dù chỉ là trắc phi nhưng Nguyên Thú đế lại sủng ái bà ta hơn, vừa lên ngôi đã phong bà ta làm quý phi, sau khi bà ta sinh được hai hoàng tử thì lập tức phong làm Hoàng quý phi.

Dù về sau tình cờ biết được tiên đế vốn định lập bà ta làm Thái tử phi, nhưng chỉ vì một câu "Nữ đức dung công của thế gia thanh quý phải làm gương cho phụ nhân" mà nuốt hết mọi tủi thân vào bụng, không nỡ oán hận nửa câu.

Bà ta cũng muốn cố gắng bao dung Hoắc Kinh Đường, nhưng kiểu cách bất công đến cùng cực của bệ hạ khiến cho bà ta nghĩ đến tiên đế lúc tuổi già.

Mấy năm đầu vì ghi hận tiên đế, bệ hạ vẫn còn kiềm chế được, càng về sau càng không muốn che giấu nữa, hai cha con thật sự giống nhau như đúc, sao bà ta có thể không kinh hãi cho được? Làm sao có thể không ra tay?

Cả thế nhân này đều biết Hoàng quý phi được thương yêu nhất lục cung, Hoắc Kinh Đường thân trúng cổ độc, bệ hạ lựa chọn tiểu Lục của bà ta, làm sao bà ta có thể tin được tất cả mọi thứ đều chỉ là diễn trò chứ không tồn tại chút tình cảm nào cơ chứ?

Nhưng mà hóa ra, mọi chuyện đúng thật đều là giả dối hết!

Trịnh quý phi vừa khóc vừa cười: "Công sức ta bỏ ra ba mươi năm nay tính là cái gì? Hai hoàng nhi của ta làm sai điều gì mà phải đi làm đá kê chân cho Thái tử kia?"

Hành trình Tây Giao cái gì? Tế trời cái gì? Đi theo Thái hậu tụng kinh niệm phật gì chứ!

Chẳng qua là muốn cầm chân người nhà họ Trịnh, chế trụ bà ta, ép tiểu Lục của bà ta không thể không mưu phản mà thôi!

Trịnh quý phi cười lạnh lùng, lau khô nước mắt, đứng dậy bình tĩnh nói: "Lui xuống hết đi. Bổn cung muốn nghỉ ngơi, không có việc gì thì đừng quấy rầy."

Thái giám mà Nguyên Thú đế để lại lập tức lĩnh mệnh, lệnh cho người dọn đồ ăn xuống, còn mình thì cung kính theo sát sau lưng.

Trịnh quý phi tiện tay cầm lấy bình hoa nện xuống đất, trừng mắt chất vấn: "Chẳng lẽ bổn cung tắm rửa thay đồ ngươi cũng phải theo cùng hay sao? Bổn cung là người mà một tên hoạn quan như ngươi có thể trông coi hay sao?"

Thái giám rất đúng mực: "Nương nương, bệ hạ dặn dò chúng nô tỳ phải chú ý đến sự an toàn của người, nô tài phụng mệnh làm việc, mong nương nương đừng làm khó."

Trịnh quý phi: "Hay cho cẩu nô tài. Ngươi cứ yên tâm đi, bổn cung chắc chắn sẽ sống lâu trăm tuổi, ngươi muốn theo thì cứ việc theo, theo đến cùng, xem xem bổn cung nở mày nở mặt thế nào, bảo dưỡng tuổi thọ thế nào!"

Thái giám cúi đầu thấp hơn, không dám đáp lại.

Trịnh quý phi hừ lạnh một tiếng rồi đi vào phòng trong, giật dây để rèm ngọc phủ xuống, thái giám cung nữ không dám tiến thêm bước nào nhưng đều nhìn chăm chú phòng hờ bà ta có bất kì hành động tự sát nào.

Cũng may đến tận khi quý phi lên giường chìm vào giấc ngủ rồi cũng chẳng có động tĩnh gì, cứ thế im lặng mà ngủ, đám người trông coi mới có thể cảm thấy bớt phiền hà.

Nghĩ như vậy, nhóm thái giám cung nữ cũng dần lơ lờ, mãi đến bốn canh giờ sau mà quý phi vẫn không nhúc nhích gì mới nhận ra có gì không đúng, vội vàng vén rèm ngọc lên, nhìn thấy trên khóe môi quý phi đọng lại dòng máu đen mới lớn giọng hét lên: "Mau gọi thái y..."

***

Cung Phúc Ninh.

"Quý phi chết rồi sao?" Nguyên Thú đế giật lấy áo khoác khoác lên rồi vội vàng đi ra ngoài, "Đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Thái giám kia đáp lại: "Thái y kiểm tra xong nói là... Là uống thuốc độc tự sát, lúc phát hiện thì đã tắt thở từ lâu rồi, không cứu được nữa."

Mặt Nguyên Thú đế tối sầm lại, ông đến tẩm cung của quý phi, tàn nhẫn đạp một cước lên ngực tên thái giám không làm tròn việc: "Chẳng phải bảo ngươi trông coi thật kỹ à, sao người được trông chết rồi!"

Thái giám bị đá hộc máu, cuống cuồng dập đầu xin tha.

Cơn giận của Nguyên Thú đế chưa tan hết, trừng mắt nhìn cửa phòng trong thật lâu, cuối cùng cũng không bước vào mà xoay người rời đi: "Nhớ kỹ, quý phi không sao cả, sáng sớm mai cùng Thái hậu đi Tây Giao tế trời."

Thoáng chốc thái giám cung nữ đã quỳ đầy sau lưng, mà Nguyên Thú đế đi ra một khoảng xa rồi mới tàn nhẫn ra lệnh diệt khẩu.

***

Tây Giao tế trời, trong triều không vua, Hoắc Kinh Đường nhận quyền giám quốc.

Tin này vừa truyền ra, tất cả các quan lại đều xôn xao, mặc dù trong lòng biết rõ nhưng khi thời khắc đó đến vẫn hoảng sợ không thôi.

Trên triều đình không ai ngu ngốc đến nỗi đi khuyên nhủ Nguyên Thú đế, chứ đừng nhắc đến chuyện bí mật kia là thế nào.

***

Triều hội tan, các quan lại bước đi trên cung đạo, thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn Tấn vương, không biết từ lúc nào đã đi cùng Ngũ hoàng tử, trái lại còn có hơi thân cận.

Mà Tấn vương cũng là người rất xuất sắc, đã từng là thiếu niên tướng quân chí khí ngút trời thần thái phấn chấn, về triều nhận vài việc hoàn thành rất hoàn hảo, chỉ tiếc không đánh lại được sự bất công của bệ hạ, càng tiếc hơn vì sinh ra không gặp thời, đã sinh ra hắn thì cần gì phải đẩy một Hoắc Kinh Đường tới nữa?

Hoắc Kinh Đường xuất sắc hơn cả hắn ta, lại có thể thuận theo tâm ý của bệ hạ, thời tới thì khống chế hoàng quyền ngồi lên đỉnh cao, cả triều văn võ làm sao có thể đối nghịch với Nguyên Thú đế được?

Mấy triều thần trước đây ủng hộ Tấn vương tìm được cơ hội đều chạy sạch, Thái Trọng Thăng ở Tây Bắc xa xôi không hiểu nhiều về triều đình nên vọng tưởng ôm công để trèo cao, cuối cùng vứt hết đường tương lai vào một ván cược thua.

Không chỉ có Thái Trọng Thăng, mà Trịnh Nguyên Linh chiến công hiển hách đến nay vẫn còn ở trong Đại Lý Tự, Tấn vương và phủ Trịnh quốc công có hợp lực cũng chẳng thể kéo người ra được.

Đã như vậy rồi, còn ai dám nhảy lên chiếc thuyền của Tấn vương nữa?

Sau đó bọn họ cảm thấy Ngũ hoàng tử vẫn chưa nắm rõ, đến nước này rồi mà vẫn còn đi gần Tấn vương như vậy.

Các quan lại lắc đầu, mỗi người nghĩ mỗi khác.

Vào lúc này, một tiểu hoàng môn xuất hiện ngăn hai người Ngũ hoàng tử và Tấn vương lại: "Lâm An quận vương mời hai vị điện hạ đến điện Thùy Củng một chuyến."

Ngũ hoàng tử: "Bảo bọn ta đến đó làm gì?"

Tiểu hoàng môn: "Quận vương chỉ lệnh cho nô tài mời hai vị điện hạ đến đó, không có dặn dò thêm gì khác."

Ngũ hoàng tử: "Vừa mới lấy được quyền giám quốc đã bắt đầu kiểu cách Hoàng đế rồi à." Tuy gã ít xuất hiện, nhưng tính tình thì vẫn cáu kỉnh như vậy: "Không có việc gì mà tỏ ra ân cần, không phải gian thì cũng là trộm."

Mặt Tấn vương vẫn vô cảm: "Chúng ta đâu có gì đáng để cho Hoắc Kinh Đường lấy lòng đâu chứ?"

Ngũ hoàng tử uất nghẹn: "Đệ coi dã tâm của hắn là cái gì?" Gã phất tay áo bất mãn nói: "Lúc trước hắn chỉ là một quận vương chẳng có thực quyền gì mà đã trừng mắt lạnh lùng với chúng ta rồi, bây giờ có quyền giám quốc, chẳng lẽ mắt mũi không hếch lên trời hay sao? Đệ muốn đi thì đi đi, ta không muốn bị khinh thường đâu."

Tấn vương: "Đi thôi."

Ngũ hoàng tử còn tưởng rằng hắn sẽ báo không thèm đến coi con chó Hoắc Kinh Đường kia diễn trò đâu, nhưng vừa nhấc chân lên đã thấy Tấn vương đang bước về phía điện Thùy Củng rồi, vốn còn muốn cứng rắn không đi, nhưng nghĩ lại chẳng lẽ gã lại phải ôm hết hận thù lên người hay sao?

Không nghĩ nổi nữa, gã vội vàng xám mặt chạy theo cùng.

***

Trong điện Thùy Củng.

Giao ngọc tỷ và thánh chỉ cho Hoắc Kinh Đường, đại thái giám luôn miệng chúc mừng: "Chúc mừng quận vương, chúc mừng quận vương rẽ mấy thấy mặt trời, khổ tận cam lai."

Hoắc Kinh Đường: "Đô tri, ta hỏi ông chuyện này, ông có thể nói thật với ta được không?"

"Xem ngài nói gì này? Điện hạ có việc gì cứ hỏi, lão nô biết nhất định sẽ nói!"

"Trịnh quý phi thế nào rồi?"

"Quý, quý phi nương nương..." Đại thái giám nghẹn lời, mặt lộ vẻ khó xử, chớp chớp mắt rồi nở nụ cười lúng túng: "Tất nhiên là đã hộ tống loan giá đi Tây Giao, ăn chay niệm phật với Thái hậu, cùng lão nhân gia cầu phúc cho bệ hạ, cho vạn dân rồi."

"Có phải vì thái độ của ta tốt quá cho nên ông mới cảm thấy ta dễ bị mắc lừa không?"

Đại thái giám không ngừng run rẩy, mặt buồn rười rượi đáp: "Lão nô đâu dám? Điện hạ đừng gây khó dễ cho lão nô nữa, chuyện này thật sự không thể nói đâu!"

Hoắc Kinh Đường bất ngờ hói: "Đêm qua bệ hạ xử tử một nhóm người trong cung của quý phi là để diệt khẩu à?"

"Phải, không phải!" Đại thái giám không dám ngẩng đầu nhìn Hoắc Kinh Đường, chỉ chột dạ trả lời: "Điện hạ à ngài đừng hỏi nữa, bệ hạ làm cái gì đũng là vì muốn tốt cho ngài cả thôi."

"Trịnh Nguyên Linh bị giam vào Đại Lý Tự, quý phi cũng không từng hỏi qua sao?"

"Cũng không phải không có..."

"Ông chỉ cần trả lời câu hỏi thôi, đúng hay sai, có hay không, đừng lảm nhảm dư thừa làm phiền lỗ tai bổn vương, bổn vương không ngại cắt lưỡi ông đâu."

"!" Đại thái giám sợ đến nỗi không nói nên lời, rồi sau đó vội vàng gật đầu: "Có, có hỏi."

"Quý phi có cầu xin tha không?"

"Có cầu."

"Sau khi xin tha có phải quý phi đã bị cấm túc một thời gian hay không? Lão Trịnh quốc công thắng trận về triều giao nộp binh quyền, cáo lão hồi hương nhưng bị từ chối, quý phi đã cầu xin bệ hạ ân chuẩn đúng chứ? Có phải quý phi cũng từng nhắc đến chuyện để Tấn vương rời kinh đi đến đất phong với Thái hậu hay không? Có đúng không?"

"Dạ dạ, đúng! Có từng nhắc tới!"

"Quý phi đã chết rồi sao?"

"Đúng vậy, mới chết ngày hôm qua..." Trong nháy mắt đại thái giám bị dọa sợ, vẻ mặt tràn đầy nỗi kinh hoàng trừng mắt nhìn Hoắc Kinh Đường và Tấn vương cùng với Ngũ hoàng tử chẳng biết đã đứng ở ngoài điện từ lúc nào, ông ta lắc đầu nguầy nguậy, tát mạnh vào miệng mình: "Coi cái miệng thối của lão nô nói bậy này! Không có chuyện đấy đâu, quý phi nương nương vẫn còn khỏe lắm, đang đi Tây Giao rồi, các vị điện hạ nhất định đừng tin lời lão nô nói, lão nô hồ đồ rồi nên mới nói nhảm vậy thôi."

Chẳng ai tin ông ta nói nhảm cả, Tấn vương hồn bay phách lạc, bỗng nhiên hai mắt đỏ bừng xông tới bóp cổ đại thái giám, giận dữ hỏi: "Mẫu phi của ta đang ở đâu? Nói!"

Đại thái giám bị ép không thở nổi, Ngũ hoàng tử muốn đẩy tay hắn ta ra cũng không được vì đánh không lại Tấn vương với sức mạnh tòng quân nhiều năm, chỉ đành phải quát lên: "Đệ bóp cổ ông ta chết rồi thì còn có thể hỏi được gì nữa hả!"

Tấn vương không nghe khuyên bảo như thể gặp quỷ, Hoắc Kinh Đường phải điểm hai lần vào huyệt tê trên cánh tay thì hắn ta mới chịu buông ra, lúc này đại thái giám vừa thoát hiểm đã sợ chết khiếp mà lủi ra sau lưng Hoắc Kinh Đường, vừa xua tay vừa ho khan.

"Khụ khụ... Không, lão nô thật sự không thể khụ... Không thể nói! Nói rồi, lão nô khó giữ được tính mạng, không thể giải thích với bệ hạ."

Tấn vương hung dữ như một con sói, nói: "Ông không nói, cô sẽ cho đầu ông rơi xuống đất ngay tức khắc!"

Đại thái giám giật mình, vội vàng cầu xin Hoắc Kinh Đường bảo vệ mình.

Nhưng Hoắc Kinh Đường chỉ rũ mắt khảy vòng phật: "Đó là mẹ ruột của nó, nếu ta bảo vệ ông, nói không chứng nó dám giết cả ta luôn đấy. Dù sao thì chuyện này cũng không thể giấu được, sớm muộn gì cũng sẽ bị phát hiện thôi, bệ hạ không có ở đây, ông nói thì có sao đâu?"

Đại thái giám suy sụp, biết rõ hôm nay không nói chắc chắn sẽ không bước qua được cánh cửa này, mà nếu ông nói, ngày sau cũng khó mà giải trình với bệ hạ.

Thà sống khổ còn hơn chết sướng, có thể gặp nạn trễ một khắc thì cứ cho trễ vậy.

"Ngày hôm qua quý phi đã uống thuốc độc tự vẫn... Không có liên quan gì đến bệ hạ cả! Bệ hạ còn cố tình dặn người trông coi quý phi cho thật kỹ ở bên ngoài, không để bà ấy tự sát, vốn là vẫn bình thường, cũng chẳng biết từ lúc nào đã nhân lúc người khác không cảnh giác mà uống thuốc độc, thật sự không có ai đoán trước được."

Tấn vương sợ hãi mà hồn vía lên mây, tàn nhẫn trừng mắt nhìn đại thái giám rồi nghiến răng nói: "Ông nói láo! Mẫu phi của ta coi thường những kẻ tự sát nhất, bởi vì bọn họ mềm yếu vô dụng, tuyệt đối không thể tự sát được! Có phải là... Có phải là Hoàng đế lệnh cho các người giết bà áy hay không?"

"Không phải không phải, Tấn vương điện hạ tỉnh táo một chút đi, tốt xấu gì nương nương cũng là quý phi một nước, là con gái nhà tướng, cũng là người đi cùng bệ hạ ba mươi năm trời, sinh con dưỡng cái vì ông ấy, đó không phải thứ tình cảm bình thường. Chỉ là khi biết được năm đó Tĩnh vương cầu hôn cô nương Thôi gia là do quý phi nhúng tay từ bên trong, bệ hạ cũng từng thật sự muốn lấy mạng bà ấy, là quý phi tự nghĩ quẩn trong lòng..."

Đại thái giám bịt miệng mình chặt kín, lại không nhịn được tát cho mình một cái thật mạnh nữa.

Hôm nay cứ nói sai mãi, đã có chuyện gì xảy ra vậy?

Hoắc Kinh Đường khẽ nâng mắt liếc qua.

Ngũ hoàng tử cũng quan sát sắc mặt của hắn ta, nhất thời cảm thấy sợ hãi không yên.

"Hôm qua bệ hạ đã nói gì?" Tấn vương siết chặt nắm đấm, có thể thấy trên người hắn nổi đầy gân xanh, tất nhiên là đã kìm nén tâm trạng đến mức tận cùng rồi: "Nói!"

Đại thái giám lắp bắp: "Bệ hạ lệnh cho, lệnh cho quý phi đi Tây Giao tế trời, quý phi không muốn đi, bệ hạ nói việc năm đó ra, có lẽ đã kích thích đến quý phi cho nên... Nhất thời nghĩ quẩn."

Tấn vương lảo đảo mấy bước rồi té ngã xuống đất, ôm đầu nức nở nghẹn ngào.

Người đàn ông cứng rắn như sắt, đao chém rìu đục cũng chưa từng rơi nước mắt, vậy mà bây giờ lại khóc như thể trời đã sập xuống, Ngũ hoàng tử thấy vậy mà trong lòng đau xót, không biết phải an ủi thế nào mới được, gã bèn hướng mắt về phía Hoắc Kinh Đường ra hiệu, ý hỏi hắn có thể đến khuyên đôi ba câu được không.

Hoắc Kinh Đường chỉ lạnh nhạt ghé mắt nhìn sang giống như đang nói 'Ngu ngốc', rồi xoay lưng lại, cuộn tay vào vờ như không thấy.

Ngũ hoàng tử thấy thế không khỏi trợn mắt, "Máu lạnh!"

Tấn vương lau mặt mình, đỏ mắt hỏi đại thái giám: "Mẫu phi của ta, di thể của bà ấy ở đâu?"

Đại thái giám cúi đầu: "Bệ hạ mang đi rồi."

"Ông ấy còn là con người sao!" Tấn vương đột ngột bùng phát, khuôn mặt dữ tợn, "Mẫu phi ta theo ông ấy từ khi gả vào Đông cung, cùng phủ Trịnh quốc công toàn tâm toàn ý phò tá ông ấy lên ngôi, sinh con dưỡng cái vì ông ấy, quản lý trung quỹ hậu cung vì ông ấy, tận tâm tận lực chưa từng có một câu oán giận, chỉ vì Thôi Thanh Như bị Tĩnh vương cướp đi, chỉ vì huynh..." Hắn căm phẫn chỉ vào Hoắc Kinh Đường, "Mà ông ấy có thể khiến cho mẫu phi của ta, và cả những đứa con của ông ấy như bọn ta trở thành quân cờ rồi thỏa sức lợi dụng hay sao?"

Hoắc Kinh Đường nghiêng mặt, thờ ơ nhìn Tấn vương nổi điên.

Hai tay Tấn vương run run, tâm trạng bị kích động đến mức một hồi lâu sau cũng không thể nói nên lời, "Vì sao? Trong mắt ông ấy, chỉ có huynh mới là con của ông ấy, vậy bọn ta là cái gì?" Hắn ta nâng ngón trỏ lên chỉ loạn vào không trung, "Huynh có biết ta trải qua bốn năm nay như thế nào hay không? Biết ta run sợ trong lòng đến nhường nào hay không? Ta sợ hãi nếu không cẩn thận phạm phải sai lầm thì sẽ giống như Thái tử vậy, bị ép đi đến đường cùng!"

"Huynh thì hay rồi, Hoắc Kinh Đường, huynh giỏi lắm, huynh rất may mắn, huynh có một người cha tốt trù tính tất cả mọi thứ vì huynh! Suốt bốn năm nay, cả triều văn võ này có ai mà không biết Thái tử hợp ý phụ hoàng là huynh? Huynh không ngồi trên vị trí Thái tử, nhưng vua dân từ trên xuống dưới có ai không xem huynh là Thái tử đâu? Ta," Tấn vương vỗ ngực nói, "Ta tính toán bao nhiêu năm? Thật ra từ đầu ta đã chẳng có hứng thú gì với cái ghế sau lưng kia rồi, là do phụ hoàng chọn trúng ta trước, là ông ấy đưa ta đi tòng quân, trải đường cho ta, dạy cho ta biết tâm thuật của thiên tử, cán cân trong quan trường, còn nói cả tình hình chung trong thiên hạ nữa, ông ấy cầm tay dạy ta, đích thân ông ấy cho dã tâm của ta ăn no, chính ông ấy nói cho ta biết ta mới là Thái tử mà ông ấy vừa ý!"

"Ông ấy cho ta tất cả mọi thứ, sau đó nói lấy lại là lấy lại, nói không cần là không cần, thậm chí ta chẳng phạm phải sai lầm lớn gì, đến cả đường lui ta cũng không có huynh có hiểu không? Bốn năm qua không phải là những gì ta muốn cho cái ghế này, là do phụ hoàng ép ta, ông ấy muốn ta trở thành hòn đá kê chân để cho huynh đường hoàng bước lên vị trí Thái tử! Ông ấy ép ta mưu phản bức vua thoái vị, ông ấy dùng ông ngoại, nhà cậu của ta và mẫu phi để ép ta tạo phản, ép ta bước vào đường chết..."

Hai tay Tấn vương đều chỉ vào Hoắc Kinh Đường, năm lần bảy lượt bước lui về phía sau, bi phẫn đến mức không thể kìm chế cảm xúc mà gào thét lên: "Ông ấy đã cắt bỏ sạch sẽ vây cánh của ta và phủ Trịnh quốc công rồi mà vẫn không chịu buông tha ta. Ta cũng là con trai của ông ấy, đã từng là Thái tử mà ông ấy vừa lòng, vì sao? Ta đã đình làm như ông ấy mong muốn rồi, ép vua thoái vị, giao quyền hành cho huynh, chỉ cần ông ấy buông tha cho ông ngoại, nhà cậu và mẫu phi của ta mà thôi, bọn họ hận huynh, làm những chuyện có lỗi với huynh cũng chỉ vì ta, vậy nên ta sẽ lấy mạng mình tạ tội... Nhưng vì sao ông ấy không chịu tha cho mẫu phi của ta chứ?"

Phẫn nộ xong, Tấn vương xông lên phía trước, tung ra từng cú đấm đá vào da thịt Hoắc Kinh Đường, chiêu nào cũng là chiêu chí mạng, trút hết mọi oán hận dày đặc của hắn ta.

Ngũ hoàng tử và đại thái giám vội vàng chạy vào một góc trốn đi, Hoắc Kinh Đường đón được đòn tấn công của Tấn vương, vẫy tay cho Cấm vệ quân lui xuống, đẩy nắm đấm đang vung tới ra, cũng không hề khách sáo chút nào mà đánh vào huyệt vị đau nhất trên cơ thể người.

Tấn vương trút bỏ nỗi phẫn nộ mất đi mẹ mình, tại sao Hoắc Kinh Đường không thể lấy lại công bằng cho mẹ của hắn chứ?

"Vì để cho ta không bị uy hiếp, vì không muốn để ta tự tìm đường chết, mẫu phi mới tự sát! Nhưng đến cả di thể của bà ấy mà Hoàng đế cũng không tha, rốt cuộc ông ấy có còn là con người hay không! Có phải là người hay không! Trừ Hoắc Kinh Đường huynh ra, ta, Thái tử, Tam ca Tứ ca Ngũ ca, tất cả bọn ta đều là kẻ thù của ông ấy hay sao?"

Đại thái giám hận không thể bịt kín tai mình lại, Ngũ hoàng tử thì xúc động gật đầu.

"Ông ấy đề phòng ta! Đề phòng phủ Trịnh quốc công! Ông ấy sợ ta trở thành Tĩnh vương thứ hai, vậy nên trước khi huynh kế vị phải diệt trừ ta và phủ quốc công tận gốc!"

"Vì cái gì? Huynh tốt hơn bọn ta chỗ nào?"

Hoắc Chiêu Vấn nổi điên lên, tấn công như thể không biết đau đớn, Hoắc Kinh Đường tay mắt nhanh lẹ nhấc chân lên đá về phía bụng hắn ta, mũi chân hắn hướng lên, nhắm thẳng vào vị trí cơ gây tê mà đạp, "cộp" một tiếng, đầu gối của Hoắc Chiêu Vấn nặng nề đập xuống đất, một chân còn lại cũng bị Hoắc Kinh Đường đá trúng, mãi lâu sau cũng không thể động đậy được.

Hoắc Kinh Đường gạt bỏ hai tay của hắn ta ra, thuận thế túm cổ hắn ta lại gần nói: "Kêu ca với ta cái gì? Nếu như oán hận nhiều như vậy, vì sao bốn năm nay đến một cái rắm cũng không dám thả ở chỗ bệ hạ đi? Chọn hồng mềm mà bóp, sao lại trách xuống đầu ta thế?"

Tay bóp cổ Hoắc Chiêu Vấn siết chặt lại, đôi mắt màu ngọc lưu ly của Hoắc Kinh Đường tỉnh táo lạnh lùng khiến cho người ta không chút nghi ngờ rằng hắn có thể sẽ thẳng tay bóp chết Hoắc Chiêu Vấn.

"Ta không ôn hòa như bệ hạ đâu!"

Hoắc Kinh Đường trúng cổ độc, ít xuất hiện đã nhiều năm, về sau có Triệu Bạch Ngư bên người nên rất mềm mỏng dễ nói chuyện, suýt chút nữa người ta quên mất rằng hắn đã từng ngang ngược đến nỗi không ai dám chọc vào.

"Bây giờ ngươi đang cảm thấy uất ức à? Trước đây được chọn làm Thái tử, trong lòng hăm hở mừng thầm, không biết địa vị của ta trong suy nghĩ của bệ hạ, nhưng có lẽ ngươi biết Đông cung cũng là đá kê chân cho vị trí của ngươi ngày hôm nay, vậy sao ngươi lại không cảm thấy Đông cung đáng thương? Chẳng phải ngươi cũng yên tâm chuẩn bị giẫm vào Đông cung để bước lên hay sao! Hưởng thụ sự hy sinh của Tam ca ruột thịt để lấy được chỗ tốt chẳng phải rất thoải mái ư? Ở đây vờ vịt với ta cái rắm!"

Buông Hoắc Chiêu Vấn ra, Hoắc Kinh Đường đứng dậy đi quanh Hoắc Chiêu Vấn một vòng rồi đột nhiên tung chân đá vào ngực hắn ta một cước, giẫm lên vai hắn ta nhìn từ trên cao xuống nói: "Ngươi kêu oan cho mẹ mình, nhưng ít nhất ngươi cũng đường đường chính chính là hoàng tử hai mươi bốn năm! Mẫu phi của ngươi cũng được làm Hoàng quý phi cao cao tại thương suốt gần ba mươi năm! Mẹ của ta thì sao? Chôn xương cát vàng, bỏ mạng ở cái tuổi hào hoa phong nhã nhất, ta trở thành cái đinh trong mắt Tĩnh vương hơn hai mươi năm, hai mươi mấy năm trời không ngừng chịu đựng mọi kế hãm hại của mẫu phi ngươi và Hoàng hậu, tính như vậy thì ai mới là người thiếu nợ ai? Kẻ nào mới có tư cách uất ức hơn?"

Không chút lưu tình đá gãy xương bả vai của Hoắc Chiêu Vấn, Hoắc Kinh Đường vốn không quan tâm đến nỗi đau khổ của hắn ta, cũng chẳng thèm đế ý đến ánh mắt sợ hãi lúc nhìn hắn của Ngũ hoàng tử và đại thái giám.

Tính tình của hắn ngang ngược quái đản như thế đấy, không chọc đến thì chẳng có sao, chọc rồi thì đến thiên vương lão tử hắn cũng giết bằng sạch!

Hoắc Kinh Đường cũng chỉ để lộ một mặt mềm mại ấm áp của mình ở trước mặt Triệu Bạch Ngư mà thôi, suốt ngày giả vờ từ bi lương thiện, nhưng hắn cũng đã từng đuổi theo đế vị, chuyện bẩn thỉu gì mà chưa từng dính tay?

"Sủa với ta cái rắm!"

Hoắc Kinh Đường nắm cổ áo Hoắc Chiêu Vấn lên, xách hắn đi về phía long ỷ trong điện Thùy Củng: "Lúc bệ hạ ở đây, sao ngươi không dám chất vấn đi? Có gan tìm chết mà không có gan hỏi à? Nếu như ngươi nói hết ra tất cả trước khi bệ hạ đi một ngày, nói không chừng mẫu phi của ngươi vẫn sẽ bình an vô sự đấy. Tự cho là bảo vệ người thân, thật ra là sợ hãi phải đối mặt với việc bệ hạ khinh thường bộ mặt thật của ngươi có đúng không? Nhu nhược."

Nhịp ngón tay lên tay vịn long ỷ, Hoắc Kinh Đường lạnh lùng nói: "Lúc bệ hạ chọn ngươi làm Thái tử, ta cũng đang bị cổ độc tra tấn mãnh liệt, không thuốc nào có thể cứu được. Ta của khi đó, chính là ngươi của hôm nay, vật đổi sao dời mà thôi."

Đồng tử Hoắc Chiêu Vấn tan rã, thoáng chốc sụp đổ, nỗi kích động trong người biến mất chẳng còn tăm hơi, chỉ để lại nỗi đau khổ và sa sút nặng nề.

Hoắc Kinh Đường xoay người lại, bỗng nhiên nói: "Ta không có hứng làm Hoàng đế."

Cái gì?

Giống như sấm dậy đất bằng, Hoắc Chiêu Vấn và Ngũ hoàng tử cùng không nhịn được mà nhìn về phía hắn.

Hoắc Kinh Đường không kiên nhẫn nổi: "Nhưng ta không thích nhìn thấy các ngươi làm Hoàng đế, chẳng có kẻ nào thật sự xem việc của dân chúng và đại sự quốc gia là chuyện chính cả, suốt ngày dùng người bên cạnh mình làm con cờ đấu đá nhau không ngừng nghỉ. Nếu làm Hoàng đế thật, đừng nói đến thịnh thế, không tranh nhau đến nỗi nước mất nhà tan là đã không phụ lòng liệt tổ liệt tông rồi."

Ngũ hoàng tử lộ vẻ tiếc nuối.

Cảm giác như con chó còn thông minh hơn gã nữa.

Hoắc Kinh Đường cởi vòng phật giữa cổ tay xuống, cầm trên tay lần tới lần lui nói: "Ta biết Lão lục ngươi bị ép bức vua thoái vị, không có ý định nhìn ngươi đi chịu chết thật, gọi các ngươi tới đây vốn chính là muốn nói ta sẽ đến chỗ bệ hạ để giải quyết, chỉ là không ngờ quý phi đã tự sát mà thôi." Lạnh lùng liếc nhìn Hoắc Chiêu Vấn, hắn bình luận: "Tự cho mình thông minh."

Hoắc Chiêu Vấn mấp máy môi muốn phản bác, rồi lại không tìm được lời nào có thể nói, cuối cùng nản lòng.

Dù hoài bão có lớn mạnh đến đâu đi nữa thì trải qua bốn năm nay rồi cũng nên hiểu rõ sự thật, rằng tất cả mọi thứ sẽ dần lụi tàn, kiên trì đến bây giờ đều là vì mẫu phi, vì phủ Trịnh quốc công và môn khách bè đảng đã theo cùng đến ngày hôm nay, hơn nữa không tiến ắt lui, Hoắc Chiêu Vấn không còn cách nào khác ngoài dấn thân vào con đường tự hủy, hắn ta vốn chưa từng nghĩ đến việc liệu có đường hòa giải hay không.

Hắn cười đau khổ: "Huynh giải quyết như thế nào? Tước sạch thực quyền trong tay ta, cướp đi binh quyền của phủ Trịnh quốc công, để cho bọn ta nằm dưới sự ngờ vực và giám sát của bệ hạ và Thái tử tân nhiệm, luôn phải sống trong nơm nớp lo sợ giống như con chó cụp đuôi ư?"

"Chẳng phải bốn năm qua đã như thế rồi sao?" Hoắc Kinh Đường nói trúng tim đen.

Hoắc Chiêu Vấn á khẩu không thể đáp lại.

Hoắc Kinh Đường: "Hoặc là ôm phủ Trịnh quốc công theo vào chỗ chết, ta thành toàn cho các ngươi. Hoặc là thành thật phối hợp làm chút việc, ta sẽ bảo vệ phủ quốc công an toàn, thuận tiện giúp ngươi mang di thể không hao tổn tí gì của quý phi trở về."

Ánh mắt Hoắc Chiêu Vấn sắc bén: "Huynh đảm bảo không?"

Hoắc Kinh Đường: "Tin hay không thì tùy."

Hoắc Chiêu Vấn liên tục nghẹn lời, cũng chỉ có thể tin Hoắc Kinh Đường mà đưa ra lựa chọn, nhưng hắn có một điều kiện: "Ta muốn đến Hoàn Khâu."

Hoắc Kinh Đường xoay người rời đi: "Tùy ngươi."

***

Đưa mắt nhìn Hoắc Kinh Đường đi xa dần, Hoắc Chiêu Vấn ngã xuống ghế rồng, không khỏi nghĩ về dã tâm, về những tính toán mà hắn ta bày ra bao năm qua, không ngăn được phát ra tiếng cười tự giễu.

Ngũ hoàng tử im lặng không tiếng động đến gần hắn, hỏi một câu: "Đệ tin Hoắc Kinh Đường thật à?"

Hoắc Chiêu Vấn hỏi lại: "Nếu là huynh, huynh sẽ chọn thế nào?"

Ngũ hoàng tử gãi ót, nói thật thì trước lúc Đông cung mưu phản, nhìn thấy Nguyên Thú đế bất công gã cũng đã từng nghi ngờ, bài xích thậm chí là từng căm hận, nhưng nghĩ lại, hắn chẳng nhận được đãi ngộ nào của Thái tử, cha không thương, nhà mẹ không hiển hách, lấy đâu ra tư cách để ghen ghét oán trách đây?

Nhưng nếu phải đảm bảo hoàn toàn không lạc lối, thì dù có là thánh nhân cũng không làm được.

Có điều những lời mà Hoắc Kinh Đường vừa nói cũng có câu khiến người trong mộng bừng tỉnh, năm đó Tấn vương được chọn để bồi dưỡng làm Thái tử, chẳng phải Đông cung và gã với tư cách là mông đảng Đông cung cũng bị lấy làm đá kê chân cho hắn ta sao?

Bao gồm cả Hoắc Kinh Đường bị bệ hạ vứt bỏ nữa, không khó để tưởng tượng ra được tình cảnh của hắn ngày ấy còn thê thảm gấp trăm gấp ngàn lần Tấn vương bây giờ.

Vì sao mà Tấn vương không hề cảm thấy áy náy với việc này?

Mặt Ngũ hoàng tử không giấu được chuyện, tất nhiên là Hoắc Chiêu Vấn nhìn ra rồi, tiếng cười nhạo càng thêm rõ ràng hơn, rồi một lúc sau biến mắt chẳng còn thấy đâu nữa.

"Ta làm gì có mẫu phi đâu."

Gã cúi đầu nỉ non câu này, giống như là lữ khách lạc đường bàng hoàng mất định hướng.

Chương 107

Ngày thứ tư giữ giới, lúc tế trời.

Hoàn Khâu, Nam Giao*.

(*) Ở đây mình có sự nhầm lẫn một chút, trong chương trước có vài chỗ nhắc đến Nam Giao, vài chỗ là Tây Giao, nhưng do mình không để ý nên chỉ để Tây Giao không thôi, thì Nam Giao thường là nơi lập đàn làm các lễ tế, còn Tây Giao là nơi Thái hậu đến tụng kinh niệm Phật. Mình sẽ sửa lại những chỗ sai sau nhe.

Sau khi lễ tế trời kết thúc, Nguyên Thú đế cho Cấm quân lui đi, ở lại đàn tế trời một mình, đứng chắp tay cho đến tận khi trăng treo cao giữa trời, có Cấm quân đến báo Hoắc Kinh Đường cầu kiến, trong lòng ông biết kế hoạch đã tiến triển thuận lợi, bèn phất tay đồng ý triệu kiến.

Trên trời đêm trăng tròn sáng tỏ, sao bạc rải rác vạn trượng, trở thành tấm mạng bao phủ toàn bộ đàn tế.

Hoắc Kinh Đường dẫn theo năm sáu vị hoàng tử đi đến, bọn họ đứng chờ bên dưới cầu thang của đàn tế, hắn đưa tay ngăn cản Cấm quân chuẩn bị báo cáo, lệnh cho bọn họ lui về nơi cách đó mấy trăm thước, rồi sau đó mới bước lên đàn tế, đi đến phía sau lưng Nguyên Thú đế.

Hai cha con không nói chuyện, chỉ im lặng quan sát tinh tượng.

Nguyên Thú đế đột nhiên lên tiếng: "Sao Thiên Lang ở đâu?"

Hoắc Kinh Đường giơ ngón tay lên chỉ về một phía, Nguyên Thú đế hỏi liên tục vài vì sao nữa, cái nào hắn cũng trả lời được.

"Vẫn chưa quên nhỉ." Nguyên Thú đế cười vỗ vai Hoắc Kinh Đường, nói với hắn: "Hôm nay ta tạ lỗi với trời, với liệt tổ liệt tông, chuẩn bị đến Đông chí sẽ phong hậu cho mẹ con, cho con nhận tổ quy tông."

"Dù ta giết hại anh em mình sao?"

Nguyên Thú đế khựng lại, quay đầu nhìn vào mắt Hoắc Kinh Đường: "... Tiểu Lục?"

"Dựa vào nơi hiểm yếu chống lại, phát hiện quý phi tự sát, mất kiểm soát cảm xúc, tự lấy dao đâm mình chết rồi."

Nguyên Thú đế ngây người, rất lâu sau mới thở dài nói: "Không liên quan gì đến con, là nghiệp chướng của trẫm."

Bên dưới đàn tế, Ngũ hoàng tử nhìn Hoắc Chiêu Vấn, người nọ đứng trong bóng tối, biểu cảm như chết lặng.

Hoắc Kinh Đường vuốt ve vòng phật, đọc thầm tâm kinh: "Nếu như ta trở thành Thái tử, bệ hạ định xử trí tiểu lang như thế nào?"

Nguyên Thú đế hơi không vui: "Con sợ ta hại nó à? Nó là năng thần, đã cứu mạng ta, lại bị Xương Bình làm cho mệt mỏi, ta thật sự rất xấu hổ với nó, huống chi ấy là người trong lòng con, ta muốn hại nó chẳng phải là ép cha con ta trở mặt thành thù hay sao? Về công về tư, ta sẽ không hại nó, nhưng nó không thể trở thành Hoàng hậu."

Hoắc Kinh Đường rũ mắt: "Tao khang chi thê bất hạ đường*, bệ hạ cho rằng ta sẽ xử trí tiểu lang như thế nào?"

(*) Tao khang chi thê bất hạ đường - 糟糠之妻不下堂: ý nói người đàn ông sau khi giàu sang không thể tuỳ ý ruồng bỏ người vợ từng cùng với mình chịu gian khổ trước đó.

Nguyên Thú đế: "Nó làm tể tướng, các con cùng phổ một đoạn giai thoại quân thần, bên nhau như cũ, nếu như có một ngày ân tận ái tuyệt thì vẫn có thể tiếp tục làm quân thần, kết cục có hậu như vậy, làm sao lại không thể chứ?"

Hoắc Kinh Đường: "Ý ta là sau khi trở thành Thái tử còn phải cưới vợ nạp thiếp sao?"

Nguyên Thú đế: "Đàn ông bình thường còn tam thê tứ thiếp cầu có người nối nghiệp, huống chi là Thái tử?"

Hoắc Kinh Đường: "Nếu như Tĩnh vương không cản trở từ bên trong, bệ hạ được cưới mẹ như ý nguyện, thì có phải vẫn sẽ vì vị trí Đông cung mà tái giá Hoàng hậu và Trịnh quý phi, từ đó lạnh nhạt để mẹ ta uất ức hay không? Sắc suy ái trì, nếu như mẹ ta không chết thê thảm như vậy, sớm muộn gì cũng sẽ có một ngày rơi vào kết cục giống như Hoàng hậu và Trịnh quý phi thôi, ta cũng sẽ trở thành Đông cung của ngày trước, là Tấn vương của hiện tại..."

"Chát" một tiếng giòn vang, Nguyên Thú đế tát cho Hoắc Kinh Đường một cái thật mạnh, giận dữ mắng mỏ: "Con đang coi thường mẹ mình sao! Sao con có thể đánh đồng mẹ con với người khác được chứ? Đối với con, từ trước đến nay trẫm đều coi trọng con hơn bọn nó, con có nhìn thấy ta như vậy không?"

"Sẽ rất giả dối nếu ta nói mình không biết ơn và chưa bao giờ cảm thấy kiêu ngạo vì điều đó. Ta có thể tùy tiện, không bị bắt nạt nhiều năm như vậy hoàn toàn là nhờ bệ hạ bất công thiên vị, nhưng mà người đẩy ta xuống vách núi khiến ta tan xương nát thịt cũng là bệ hạ."

Mặt mũi Nguyên Thú đế tái mét: "Tối nay con đến đây là để chất vấn ta à? Con vẫn còn ghi hận chuyện năm đó sao? Ngày ấy đưa con trở về phủ Tĩnh vương là vì hậu cung, triều đình hợp sức nhau ép ta, huống chi hậu cung không thể an toàn hơn phủ Tĩnh vương! Rồi lại nói đến chuyện hoán trữ... Trẫm đúng là có hơi nóng lòng, Đông cung không nên thân, con... Con là do một tay trẫm dạy dỗ, là Thái tử mà trẫm hài lòng nhất, còn là đứa con trai mà người phụ nữ trẫm yêu thương nhất sinh cho trẫm, bỗng nhiên chẳng còn thuốc chữa, chẳng lẽ trẫm không đau lòng sao? Chẳng lẽ chưa từng vùng vẫy do dự hay sao? Chọn người trở thành Thái tử là đại sự quốc gia, nếu như để cho Hoàng hậu và Đông cung khống chế triều đình, Đại Cảnh nhất định sẽ suy bại, trẫm có thể đảm bảo mình sống lâu trăm đuổi để dạy bảo cho thêm một đứa nhỏ nữa, nhưng sao có thể đảm bảo nó sẽ thành tài? Từ lúc biết được con đã giải được cổ độc, trẫm đã lập tức đổi lại kế hoạch ban đầu, Thái tử vẫn là con, Hoàng đế Đại Cảnh vẫn là con, chỉ có thể là con!"

Hoắc Kinh Đường: "Chỉ vì như vậy mà phải hy sinh Trịnh quý phi và Tấn vương sao?"

Nguyên Thú đến gằn giọng: "Là do bọn họ không chịu hăng hái tranh giành! Lão Lục quá ỷ lại vào phủ Trịnh quốc công, lão Tam nhúng tay vào trường thi Giang Nam, gây nên chướng khí mù mịt, hơn phân nữa tiền thu được từ việc bán quan bán tước được phủ quốc công dùng để đút lót cao thấp, coi như lão Lục không biết ngay từ đầu, nhưng từ sau sự việc của lão Tam, thì dù nó có ngu xuẩn cũng phải biết rõ chứ, nhưng chẳng phải nó vẫn thoải mái chi tiêu như thường sao? Phàm là nó có đền bù chút ít tổn thất, cũng không đến mức khiến ta phải thất vọng. Những việc nó làm sau đó việc nào mà chẳng lấp ló bóng dáng của nhà ngoại? Ngay cả cơ hội tiêu diệt Đại Hạ ngàn năm có một này đây, rõ ràng Trịnh Nguyên Linh còn động tay động chân ở bên trong! Nếu như có ngày đăng cơ, họ ngoại tham gia vào chính sự, nhất định sẽ thành mối họa!"

Dù Tấn vương đứng bên dưới đàn tế đã chuẩn bị tâm lý, nhưng vẫn bị lời khiển trách nặng nề của Nguyên Thú đế khiến cho suýt nữa là sụp đổ.

"Lão Lục giống như Đông cung, ta đã từng phí hết tâm huyết hun đúc, không có một đứa nào ra hồn!"

"Ai có thể ra hồn sau khi được hun đúc dưới sự vui giận thất thường của người chứ? Một khắc trước vừa nâng lên đến trời, gửi gắm kỳ vọng, một khắc sau đột nhiên ném xuống mặt đất, đuổi tận giết tuyệt, người thử nói xem phải thế nào mới có thể ra hồn đây?"

"Con! Sấm chớp mưa sương đều là ơn trời, bá quan văn võ, vạn dân thiên hạ, ai đối mặt với trẫm mà không phải nơm nớp lo sợ, cẩn thận từng chút chứ? Bọn họ có thể thích ứng, có thể làm được, các con là con của ta, là vương tử hoàng tôn, vì sao không thể?"

"Nói như vậy lúc đối mặt với bọn ta, rốt cuộc người xem bọn ta là thần tử, hay xem là con của người? Khi nào bọn ta có thể xem người là cha, khi nào phải xem người là quân vương mới không phạm phải sai lầm đây?"

Nguyên Thú đế giận dữ, vung tay lên định tát một cái nữa, nhưng chạm đến ánh mắt của Hoắc Kinh Đường thì lại bất lực hạ tay xuống, trong nháy mắt chán nản, để lộ ra vẻ mệt mỏi già yếu: "Trẫm thiên vị con, muốn để lại những gì tốt nhất trên đời này cho con, như vậy là sai ư?"

Hoắc Kinh Đường lộ vẻ xúc động, cánh tay khẽ nhúc nhích, nhưng đến cuối cùng vẫn không đáp lại Nguyên Thú đế.

"Quả thật ban đầu khi con trúng cổ độc, không có thuốc chữa mà vứt bỏ con là do trẫm vô tình, thế nhưng sau đó mọi thứ lại vào trật tự, quay về quỹ đạo ban đầu, vì để đền bù cho con mà trẫm không quan tâm danh nhơ vợ chồng không hòa thuận, cha con tương tàn..." Dừng một chút, Nguyên Thú đế mới rũ vai xuống nói: "Con cảm thấy trẫm đối xử với con, với Thái tử, với lão Lục và quý phi vô tình quá ư? Trẫm vô tình với bọn họ, nhưng đối xử với con như thế nào, con tự hỏi lòng mình đi, ngoại trừ chuyện cổ độc còn có việc nào có lỗi với con nữa? Ngay cả lão Lục và quý phi, trẫm cũng chưa từng muốn bọn họ phải chết! Trẫm định sẽ đưa lão Lục đi cấm túc ở đất phong, chỉ cần nó an phận thì không cần phải lo cơm áo, sống lâu trăm tuổi!"

"Cha mẹ thương con, ắt phải tính toán sâu xa. Tử Uyên, đến khi con ngồi ở vị trí này là sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của ta thôi."

"Cha mẹ thương con, không phải để báo đáp."

Một giọng nói quen thuộc đột nhiên xuất hiện phía sau lưng, Nguyên Thú đế quay đầu lại, nhìn thấy lão Lục mà ông cho rằng đã chết vì mưu phản bức vua thoái vị, còn có cả lão Ngũ cũng đi theo, hai người đều đỏ mắt, sắc mặt bi thương, nổi oán giận bộc lộ trong lời nói.

"Còn chúng con thì sao?" Tấn vương hỏi: "Phụ hoàng, chúng con không phải con của người hay sao?"

Gương mặt Nguyên Thú đế run rẩy, khi tính toán thì ra tay độc ác, nhưng đến khi bị chất vấn thẳng mặt thì lại không thể nhẫn tâm đến cùng, nghẹn lời một lúc lâu sau mới bị cảm giác áy náy dâng lên trong lòng đánh bại, không thể thốt nên lời tuyệt tình.

"Đời người không tránh khỏi bất công, cha mẹ cưng chiều con mình là chuyện rất bình thường, đến mẫu phi cũng thương con hơn Tam ca, nhưng mẫu phi không hề muốn Tam ca phải đi chịu chết. Người nói người không muốn mẫu phi của con chết, nhưng mẫu phi lại bị người ép phải tự sát, di thể bị lợi dụng đến cùng, người vẫn nói người không muốn con chết ư? Vừa nãy Hoắc Kinh Đường nói con chết rồi, phản ứng đầu tiên của người chính là ôm tội vào mình! Người vẫn giải vây giúp huynh ấy! Thà gánh danh nhơ giết con chứ không để Hoắc Kinh Đường chịu tiếng anh em tương tàn! Sao người có thế bất công đến như vậy?"

Tấn vương hận đến nghiến răng.

Ngũ hoàng tử xúc động lây, mũi cay xè, lòng đau xót, cúi đầu không nói gì.

"Chẳng lẽ người không biết mưu phản bức vua thoái vị sẽ có kết cục gì? Chẳng lẽ người không biết con sẽ tự sát? Sáng suốt như người, bệ hạ, người đúng thật không nghĩ tới chuyện con và mẫu phi sẽ tự sát sao? Hay là người có nghĩ tới những cảm thấy chẳng hề gì, sức nặng chẳng bằng việc Hoắc Kinh Đường đăng cơ?"

"Càn rỡ!" Nguyên Thú đế không nén được giận, tức tối mắng: "Con lấy thân phận gì để chất vấn trẫm!"

Tấn vương gằn từng chữ: "Hôm nay con thà bị phế làm thứ dân, cũng chỉ lấy thân phận con trai của người để chất vấn người thôi, phụ hoàng, người thật sự không nghĩ rằng con sẽ chết sao?"

Nguyên Thú đế sửng sốt, ánh mắt lập lòe, đầu óc lộn xộn, không thể trả lời ngay được.

Như thể phản ứng của ông đã nói rõ đáp án, Tấn vương lòng như tro tàn, chắp tay qua đầu, ba quỳ chín khấu: "Thần đã hiểu rồi. Thần sẽ bảo ông ngoại giao lại binh quyền Định Châu, tự thỉnh đến đất phong, không chiếu không rời, không hỏi chuyện triều chính, an phận thủ thường, ở đây thề rằng vĩnh viễn sẽ không gây chuyện với tân đế, nếu như làm trái lời thề này, chết không yên lành, vĩnh đọa A Tỳ. Chỉ có một chuyện muốn nhờ, cầu xin bệ hạ trả lại di thể mẹ đẻ cho thần, thần đưa bà ấy trở về đất phong, sẽ không làm chướng mắt bệ hạ nữa."

"Con..." Nguyên Thú đế hơi hoảng hốt, nhưng không để cho ông kịp phản ứng, lão Ngũ cũng đã quỳ sụp xuống, ba quỳ chín khấu, cứ thể kết thúc thân duyên giống như người trước.

"Bệ hạ, thần cũng sẵn lòng tự thỉnh đất phong, không chiếu không rời, mãi mãi không nhúng tay vào triều chính, toàn tâm toàn ý ủng hộ tân đế."

Hai người cùng dập đầu, đồng thanh nói: "Cầu bệ hạ thành toàn!"

"..." Sắc mặt Nguyên Thú đế trầm xuống, quay đầu nhìn Hoắc Kinh Đường: "Đây là mục đích của con đêm nay đúng chứ? Các con chẳng còn cần phụ hoàng ta nữa, đều chỉ muốn làm quân thần với ta thôi chứ gì?"

Hoắc Kinh Đường vén vạt áo lên, cũng quỳ xuống dập đầu theo: "Người thiên vị ta, ta cũng vậy. Thường nói quân phụ, quân ở trước phụ, nhưng trong lòng ta, người là cha của ta trước, sau đó mới là quân vương. Thần tử sẽ oán giận vì bị quân vương tuyệt tình và vứt bỏ, nhưng con trai có oán giận cũng sẽ không bao giờ hận cha của hắn. Ta bị vứt bỏ vì trúng cổ độc, mặc dù nản lòng, nhưng ngày sau có việc nào người giao xuống mà ta không làm tận tâm tận lực đâu? Đó hoàn toàn không chỉ vì người là quân ta là thần, mà hơn hết bởi vì người là cha ta là con."

Nguyên Thú đế: "Con không oán giận, vậy vì cớ gì mà không chịu chấp nhận sắp xếp của ta?"

Hoắc Kinh Đường: "Ta không muốn làm hoàng đế."

Nguyên Thú đế: "Hồ đồ! Con không muốn làm hoàng đế thì đi Tây Bắc làm gì? Vì sao âm thầm chiêu dụ nhiều mưu sĩ như thế? Con có ý chiêu dụ Trần Sư Đạo, lén lút qua lại với đám người Cao đồng trì, tưởng ta không biết gì cả sao? Ta đây rõ rành rành dã tâm của con, bây giờ lại nói mình không muốn, làm sao ta có thể tin được?"

Hoắc Kinh Đường không giải thích thêm: "Bệ hạ, xin người hãy chọn Thái tử khác! Đời này thần chỉ có một mình Triệu Bạch Ngư, đã định đoạn tử tuyệt tôn, trừ phi người bằng lòng chứng kiến giang sơn đổi chủ, triều đình rung chuyển!"

Nguyên Thú đế trợn mắt nhìn hắn: "Con uy hiếp trẫm đấy à?"

Hoắc Kinh Đường: "Trần thuật sự thật mà thôi. Nếu uy hiếp thật, thần cảm thấy tạm thời người không muốn thấy cảnh ấy đâu."

Nguyên Thú đế trừng mắt như sắp nứt, vô cùng đau lòng, tức giận đến mức tay run cầm cập, không ngừng gật đầu: "Hoắc Kinh Đường, khi đại án Lưỡng Giang xảy ra, con vì Triệu Bạch Ngư mà phá sạch ván cờ của ta, bởi vì mắc nợ nó nên ta không truy cứu con. Bây giờ con lại vì nó, không chịu làm hoàng đế, còn uy hiếp ta... Người mà con uy hiếp là cha con, là người cha ruột hết lòng lo lắng cho con! Con thật sự nghĩ ta không dám giết Triệu Bạch Ngư sao? Con cho rằng chỉ vì mắc khoản nợ này, cho rằng nó đã cứu mạng trẫm, cho nên nghĩ đấy là đủ để hôm nay trẫm tha thứ cho đám ngỗ nghịch các con hay sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Tiểu lang đã thề đồng sinh cộng tử với ta từ lâu rồi."

Nguyên Thú đế: "Thân thể tóc da là cha mẹ cho, mạng của con là trẫm cho, là mẹ của con cho, Triệu Bạch Ngư là cái thá gì!"

"Trong bốn năm bị cổ độc tra tấn thần đã chết một lần, mạng này là do Triệu Bạch Ngư cho, y chính là phu lang chôn cùng một quách* với ta trăm năm về sau." Hoắc Kinh Đường ngẩng đầu lên, nhìn Nguyên Thú đế tức đến đỏ mặt tía tai, sinh lòng tiếc nuối: "Bệ hạ tội gì phải vậy?"

(*) Quách: quan tài lớn chứa quan tài nhỏ.

Nguyên Thú đế không ngừng cười lại: "Trẫm không thiếu hoàng tử, nếu như các con đã xưng thần, vậy hẳn là không quan tâm mình bị phế truất danh hiệu hoàng tử vương tốn rồi nhỉ, chỉ mong đừng hối hận. Hoắc Kinh Đường, con không muốn vị trí Thái tử thì vẫn còn rất nhiều người tranh đến mức đầu rơi máu chảy, trẫm không cầu xin con! Nhưng những gì trẫm cho con, dù con có bằng lòng hay không cũng đều phải nhận lấy!" Rồi sau đó ông nhìn ba người đang quỳ dưới đất, hừ lạnh nói: "Nếu như thích quỳ, thì cứ quỳ ở chỗ này cho thỏa đi!"

Nói xong phất tay áo rời đi.

Ba người cứ quỳ ở đàn tế trời như thế, mặt trăng lặn mặt trời mọc, cái nóng mùa hè ập xuống, ánh mặt trời chói chang, nói không chừng đặt ly nước lên nền gạch đàn tế còn có thể sôi lên.

Hoắc Kinh Đường và Hoắc Chiêu Vấn cơ thể cường tráng, phơi nắng mấy canh giờ không có gì đáng ngại, nhưng Ngũ hoàng tử được nuông chiều từ nhỏ chưa từng phải chịu khổ cực thế này, mặt mũi gã tái nhợt, da môi tróc ra, phơi nắng ba canh giờ đã ngất xỉu.

Cấm quân chịu trách nhiệm trông coi quanh đàn tế không biết làm thế nào, bèn chuẩn bị lệnh cho người đi xin chỉ thị của Nguyên Thú đế, nhưng lại bị Hoắc Kinh Đường gọi tới: "Đừng quấy rầy bệ hạ, đi hỏi ý thái hậu đi."

Cấm quân do dự.

Hoắc Kinh Đường chậm rãi nhắm mắt lại, mân mê vòng phật của hắn, tư thế không giống như bị phạt quỳ mà giống như đang thành tâm cầu phúc.

"Bệ hạ đang nổi nóng, ngươi có đến xin chỉ thị cũng chỉ có thể nghe ông ấy nói cho quỳ đến chết thôi, nhưng nếu hoàng tử quỳ đến chết thật, sau này bệ hạ hối hận, các ngươi có gánh nổi trách nhiệm không? Đến chỗ thái hậu hỏi ý đi, có lão nhân gia ra mặt, bệ hạ sẽ nể chút tình mọn."

Thống lĩnh Cấm quân đi tới, dù Hoắc Kinh Đường không nói lý do hắn ta cũng sẽ nghe lệnh làm việc, vội vàng lệnh cho người đi hỏi ý thái hậu.

Chẳng bao lâu sau, ma ma bên cạnh thái hậu đã dẫn thái y chạy tới, đưa Ngũ hoàng tử quay về biệt trang hoàng gia ở gần đó, rồi bảo Hoắc Kinh Đường và Hoắc Chiêu Vấn đứng dậy đến chỗ Thái hậu.

Ma ma nói với Cấm quân cản đường: "Nếu như bệ hạ trách tội, ngươi cứ nói thật thôi."

Có lão nhân gia làm chỗ dựa, Cấm quân chỉ mong sao bọn họ mau chóng mang ba củ khoai nóng bỏng tay trên đàn tế đi thôi.

***

Biệt trang hoàng gia, viện Thu Ngô.

Ba người Hoắc Kinh Đường bước vào trong, lập tức nhìn thấy Triệu Bạch Ngư đứng dưới cây ngô đồng.

Ngũ hoàng tử được đưa vào trong viện, Hoắc Chiêu Vấn lập tức hỏi ma ma, ma ma nói thái hậu đang tụng kinh niệm phật, không tiện quấy rầy, vậy nên hắn ngồi xuống bậc thang ngoài sân đình, mặt không đổi sắc ngẩng đầu lên nhìn trời, thoáng liếc mắt thấy Triệu Bạch Ngư túm lấy Hoắc Kinh Đường kiểm tra trên người hắn có vết thương hay không, sau đó ôn tồn nhỏ tiếng quan tâm, không khỏi sinh lòng hâm mộ.

Hoắc Kinh Đường đúng là vô cùng may mắn, sống trên đời có được ngần ấy người tha thiết yêu thương hắn.

Hắn ta cũng đã từng có được mẫu phi yêu thương không cầu báo đáp, nhưng hiện tại chẳng còn gì nữa.

Nỗi muộn phiền lan rộng trong lòng, Hoắc Chiêu Vấn dứt khoát chôn vùi toàn bộ tình cảm vào bầu trời màu xanh trong vắt, quên hết mọi sự vật quanh người.

Triệu Bạch Ngư kéo Hoắc Kinh Đường đến bên bàn đá dưới gốc cây ngồi xuống, rót cho hắn một ly trà hoa cúc thấm giọng, xua đi cái nóng, ân cần hỏi thăm: "Sao rồi?"

Hoắc Kinh Đường: "Xem bệ hạ có nghĩ thông suốt hay không thôi... Sao em lại ở đây?"

Triệu Bạch Ngư: "Lo lắng cho chàng chứ còn sao nữa."

Sau khi trở về từ buổi tiệc gia đình ngày đó, y bèn nói ra lời của thái hậu và suy đoán của mình cho Hoắc Kinh Đường biết, khi ấy Hoắc Kinh Đường nói không cần quan tâm, cứ việc giao hết cho hắn đi xử lý.

"Chàng giải quyết thế nào vậy?"

"Nói thẳng rồi."

"Kết quả chọc bệ hạ nổi cơn tam bành, phạt mấy người quỳ suốt mười canh giờ, nghe nói còn chuẩn bị phế truất tước vị của hai vị hoàng tử chứ gì?"

"Giải quyết dứt khoát, bớt dây dưa dài dòng, ta không muốn so kiên nhẫn với bệ hạ, chờ đến khi ta được nhận lại thì mọi thứ đều kết thúc cả rồi. Thiên hạ này không có tiền lệ lập nam hoàng hậu, triều thần có thể tạm thời đồng ý, nhưng không có nghĩa là mười năm, hai mươi năm sau không có tâm tư khác, hậu cung gắn liền với tiền triều, ai cũng hy vọng rằng đứa con chui ra từ bụng mình được làm Thái tử tương lai cả, đến lúc đó em sẽ trở thành mục tiêu công kích của mọi người, mà cuối cùng ta cũng sẽ có lúc sơ hở thiếu phòng bị, không bảo vệ được em. Bệ hạ tự phụ, thái bình thịnh thế mở ra trong tay ông ấy, nguyên vọng bấy lâu nay đã thành càng cổ vũ ông ấy thêm bảo thủ kiêu căng, phải cảnh tỉnh ông ấy, để cho ông ấy tỉnh táo hơn, đừng để ông ấy thật sự cho rằng bản thân có thể thao túng được cuộc đời của người khác."

Hoắc Kinh Đường không nhịn được thở dài: "Sau khi chữa khỏi cổ độc, ta đã hời hợt rất nhiều với chính đấu triều đình, cả việc kết bè kết cánh nữa, ta không tin bệ hạ không nhận ra, suy đoán rõ ràng làm ông ấy mơ hồ, quả thật có tình thương con, nhưng đó cũng chỉ để hoàn thành chấp niệm của ông ấy, trừ khử món nợ sâu trong lòng ông ấy mà thôi. Khư khư cố chấp như vậy, đến cả người phụ nữ ở bên cạnh ba mươi năm cũng chết rồi, vậy mà vẫn lợi dụng chẳng thấy xấu hổ, hành động càng lúc càng giống như tiên đế ngày xưa."

"Suỵt. Nói nhỏ thôi, tai vách mạch dừng."

Hoắc Kinh Dường hôn lên mu bàn tay Triệu Bạch Ngư, hết sức hưởng thụ sự quan tâm của tiểu lang quân.

Có điều hắn cũng không nói sai, Nguyên Thú đế đã từng cực kì hận tiên đế thiên vị Tĩnh vương, vậy mà bây giờ ông ấy chỉ hơn chứ không kém, chẳng tiếc ép hoàng tử khác đi vào chỗ chết chỉ vì trải đường cho Hoắc Kinh Đường.

Không thể phủ nhận tình thương sâu đậm của cha mà ông ấy dành cho Hoắc Kinh Đường, nhưng đó lại là sự ích kỷ cố chấp khiến cho lòng người nguội lạnh.

"Bệ hạ có thể nghĩ thông suốt không?"

"Văn thần chết can võ tướng chết trận, trăm quan triều đình đã nhận bổng lộc thì phải làm việc nên làm chứ."

Triệu Bạch Ngư nghe hiểu lời bóng gió này, hạ giọng nói: "Chàng bắt tay với các quan trong triều ép bệ hạ buông bỏ suy nghĩ lập chàng làm trữ sao?"

Hoắc Kinh Đường cũng hạ giọng, ra vẻ thần bí: "Em đoán xem vì sao bọn họ lại đồng ý với ta đi đắc tội bệ hạ?"

Triệu Bạch Ngư sẵn sàng tiếp thu lời phải: "Vì sao thế?"

Hoắc Kinh Đường: "Vì em đấy." Hắn cười cong mắt: "Cha mẹ vì con mà suy tính sâu xa, không phải để đền đáp."

Triệu Bạch Ngư sững người.

***

Quyền giám quốc của Hoắc Kinh Đường bị thu hồi, hắn và Hoắc Chiêu Vấn, Hoắc Chiêu Hành đều bị giữ lại biệt việt hoàng gia ở Tây Giao, Nguyên Thú đế thì lập tức dẫn đoàn xe ngựa và Cấm quân trở về hoàng cung trước.

Vừa hồi cung, Nguyên Thú đế đã lệnh cho Khâm Thiên Giám chọn một ngày lành tháng tốt để phong hậu, ông không chờ nổi đến Đông chí, chậm nhất trong vòng hai tháng phải sắc phong Thái tử Đại Cảnh.

Khâm Thiên Giám run tay, vắt óc tính thời gian, không tìm được ngày nào cực kì tốt cũng chỉ đành phải chọn ngày tốt thứ hai, viết thời gian ra rồi đi đến trước điện Văn Đức trình lên.

Ngày tốt tới tay, bấy giờ Nguyên Thú đế mới gọi đại thần từ tam phẩm trở lên dến thương lượng phong con gái Thôi quốc công làm hậu, cũng sẽ nhận lại Hoắc Kinh Đường, đồng thời xác định Thái tử, cuối cùng là việc ba đại sự này sẽ được tổ chức cùng một nơi.

Dù là phong hậu hay là lập trữ đều không phải trò đùa, sao có thể làm qua loa được chứ?

Có người ra khuyên can, không một ai là không bị Nguyên Thú đế điên tiết buông lời trách phạt và răn dạy, đặc biệt là Ngự Sử đại phu từng câu từng chữ phản đối Nguyên Thú đế lập trữ phong hậu sơ sài bị phạt đánh ba mươi trượng, suýt nữa là đánh chết.

Triều thần bị chấn nhiếp, nói năng thận trọng, không ai dám khuyên thẳng.

Ngày phong hậu lập trữ tốt đã định ra, trong cung thu mua, Lễ bộ và tất cả các nha môn đồng tâm hiệp lực quản lý vụ này, nói là phong hậu thực tế là truy phong, vẫn làm cùng một lúc với đại điển lập trữ, hai thể chế khác nhau, cách thức và nghi thức cũng khác, bởi vì không có tiền lệ, cho nên mọi chi tiết dù lớn dù nhỏ đều được kiểm tra cẩn thận rồi mới quyết định, không được phép mắc phải bất kì sai sót nào, loay hoay đến nỗi chân không chạm đất.

Mà giữa lúc phong hậu lập trữ gay cấn, tòa Phật tháp ở chùa Đại Tướng Quốc trăm năm lịch sử đột nhiên sụp đổ, nghe nói trong đó có thờ cúng xá lợi xương Phật hóa thân của Phật Như Lai Thích Ca Mâu Ni, nhưng Phật tháp sụp rồi, xá lợi xương Phật bên trong cũng bay khỏi phủ Kinh Đô.

Võ tăng trông coi Phật tháp và dân cư ở xung quanh đều nói rằng đêm đó bọn họ tận mắt nhìn thấy có một vật bay ra khỏi Phật tháp đã sụp xuống, vật này tỏa ra thứ ánh sáng thần kì, hóa thành sao băng bay về phía tây, rõ ràng đó là xá lợi xương Phật.

Cũng không biết vì sao mà xá lợi xương Phật lại bỗng nhiên rời khỏi chùa Đại Tướng Quốc.

Không quá hai ngày, phố lớn ngõ nhỏ phủ Kinh Đô đã truyền ra tin tức xá lợi xương Phật không muốn tiếp tục che chở cho dân chúng Kinh Đô nữa, tin này truyền đi suốt đêm, chính là điềm báo chẳng lành.

Dân chúng có được đời sống sinh hoạt sung túc thì có thú vui ngồi quán trà, quán rượu ven đường bàn tán, bắt gặp người nhắc đến sự biến mất của xá lợi xương Phật, nhắc tới cả "điềm báo chẳng lành" nữa, cũng không biết trong đám người đó là ai đã nhắc đến chuyện phong hậu lập trữ không được ngày lành tháng tốt trấn áp, chỉ sợ là vì chuyện ấy nên mới dẫn tới điềm xấu, ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia, xá lợi xương Phật kia mới chạy mất.

Ngay từ đầu đã cảm thấy đây là đại sự hoàng gia nên không dám lắm miệng, nhưng con người ta thường có tâm lý may rủi, cho rằng pháp không trách chúng, tiếp tục truyền tai truyền miệng, càng nói càng thái quá, thực sự kinh động đến Khâm Thiên Giám và Ngự Sử đài, hai bên đều báo cáo dư tình dân gian lên trên.

***

Điện Văn Đức.

Cộp!

Nghiên mực bị ném xuống dưới, nước mực đổ ra đầy đất, Nguyên Thú đế vẫn chưa tan cơn giận: "Điềm báo chẳng lành? Để không làm Thái tử, đến cả việc trẫm cho mẹ nó danh phận cũng dám làm gián đoạn à! Nghịch tử, nghịch tử!"

Thái giám cung nữ quỳ rạp không dám nói lời nào, Nguyên Thú đế vẫn điên cuồng.

"Đối nghịch với trẫm! Trẫm để lại người cho nó, dung túng nó kết bè kết phái, quay đầu trả ngược lại cho trẫm sao? Hừ, Phật tháp phủ Kinh Đô ngã rồi, dù có một trăm xá lợi xương Phật bay mất cũng không thể thay đổi quyết định của trẫm đâu. Cái gọi là điềm báo chẳng lành đều có thể gặp dữ hóa lành, giải quyết dễ dàng dưới chân long thiên uy của trẫm!"

Nguyên Thú đế khư khư cố chấp, trấn áp dư tình dân gian rồi, nhưng quá trình thu mua trong cung và xử lý đại điển của Lễ bộ lại liên tục gặp nhiều việc lạ, không phải ngọc khuê đã chuẩn bị xong đột nhiên vỡ tan tành, thì công trình xây dựng rầm rộ cũng bị hỏng hóc, dư tình vất vả lắm mới ép xuống được lại sôi sục lên một lần nữa.

Tin đồn vặt vãnh không ra thể thống gì, không ngăn được sự chuyên quyền độc đoán của Nguyên Thú đế, nhưng vẫn khiến cho lòng ông cảm thấy hơi mơ hồ.

Nguyên Thú đế âm thầm cử ám vệ bắt tay vào điều tra xem cuối cùng là ai đang làm những việc này sau lưng ông, không quá ba ngày, danh sách đã được đặt lên bàn trong điện Văn Đức.

Cao đồng tri, Lư tri viện, Trần Sư Đạo, Triệu Bá Ung... Tất cả đều là năng thần tể tướng đáng tin cậy, bọn họ bắt tay nhau ngỗ ngược với hoàng đế ông đây!

Nguyên Thú để cho gọi mọi người vào cung, nhìn chằm chằm ánh mắt của bọn họ, ném danh sách tới trước mặt bọn họ rồi quát lớn: "Đường đường là trọng thần xương cánh tay mà lại học thần côn dân dã để làm những trò lừa gạt lòng người này, còn ra thể thống gì nữa? Đã muốn tham gia lập trữ, lại không giám thẳng thắn can ngăn như Ngự Sử đại phu, sử dụng lòng dạ nhỏ nhen khiến cho người ta tấm tức thì có thể thay đổi được gì? Tể tướng tam ty lưỡng phủ, đại quan nhất phẩm của trẫm, còn có nguyên lão ba triều Trần Sư Đạo, Trần thái sư của trẫm, trẫm cứ nghĩ ông sẽ không để tình riêng lấn lướt việc công, nhưng ông hãy nhìn ông của bây giờ xem... Chẳng phải sợ Tử Uyên đăng cơ làm oan Triệu Bạch Ngư sao? Xá lợi xương Phật ở chùa Đại Tướng Quốc là trò của ông à? Ông không biết trẫm không tin Phật sao?"

Nhìn quanh một vòng người bên dưới, Nguyên Thú đế khó nén nỗi thất vọng: "Trẫm thất vọng không chỉ bởi vì các ngươi bắt tay nhau ngỗ ngược với trẫm, mà thất vọng là vì hành động mà các ngươi dám làm, giả thần giải quỷ lường gạt dân tình, rụt đầu rụt đuôi, lấy lòng xu nịnh qua loa cho xong chuyện!"

Nhóm người Cao đồng tri chắp tay nói: "Bệ hạ bớt giận."

Nguyên Thú đế: "Đại điển phong hậu và lập trữ sẽ diễn ra như cũ, ai dám lén lút làm chuyện mờ ám, đừng trách trẫm không niệm tình xưa. Nếu như trong phủ có lời đồn, tra ra ngọn nguồn rồi sẽ không nương tay. Nếu như chư khanh có lòng nhúng tay vào chuyện lập trữ, thì có thể chết gián đến cùng, bước vào điện Thùy Củng đập đầu hoặc là cắt cổ trước mặt trẫm, như vậy còn tốt hơn là đi đường ngang ngõ tắt tung lời đồn ra ngoài!"

Cao đồng tri vén quan bào quỳ xuống khuyên thẳng: "Bệ hạ, Thôi thị và bệ hạ tuổi trẻ tình thâm, người chết vì cứu bệ hạ, nếu vì vậy mà bịa ra một thân phận, còn cả danh phận, truy phong lập hậu không phải là không được, nhưng việc lập trữ liên quan đến quốc thể, chuyện này là chuyện lớn, chứ nói chi phải cực kì thận trọng với huyết mạch hoàng thất, không thể tùy tiện làm xáo trộn. Lâm An quận vương đã là con trai trưởng của Tĩnh vương ba mươi năm trời, mà Tĩnh vương chính là loạn thần tặc tử, mọi người đều biết, rất khó đảm bảo toàn bộ người trong thiện hạ sẽ không chất vấn về huyết thống của Lâm An quận vương, sẽ nghi ngờ Tĩnh vương cố tình xáo trộn huyết mạch hoàng thất, chỉ sợ ngày sau loạn thần nghịch đảng sẽ lấy đây làm cái cớ, xua binh tiến thẳng vào phủ Kinh Đô quấy nhiễu làm xã tắc rung chuyển, triều đình bất ổn, dân chúng trôi dạt khắp nơi, đến lúc đó mới hối hận thì đã muộn."

Lư tri viện cũng quỳ xuống khuyên can: "Võ tướng chết trận văn thần chết can, thần vốn phải chết trận sa trường, cống hiến cho đất nước, được bệ hạ thương cảm, cho vào hai phủ, chưởng binh quyền thiên hạ, phúc lộc song toàn, thoát chết khỏi chiến trường, hôm nay làm văn thần chết can một lần, khuyên bệ hạ thu hồi mệnh lệnh lập trữ đã ban ra, lựa chọn tân quân khác!"

Nguyên Thú đế: "Im miệng!" Ông rút bảo kiếm ra bước nhanh tới, ném xuống trước mặt Lư tri viện rồi tàn nhẫn nói: "Nói nghe hay lắm, không bằng lập tức dùng cái chết tỏ rõ ý chí đi, nói không chừng vì sức nặng cái mạng của ông mà trẫm sẽ thật sự buông bỏ ý định lập trữ đấy!"

Trần Sư Đạo vội vàng quỳ xuống ngăn lại: "Bệ hạ có lòng yêu con, lão thần vô cùng đồng cảm. Lão thần già rồi mới có con trai, mẹ của nó không qua được cửa tử, nó đi tiểu cũng được ta ôm trong ngực, ta nuôi nó lớn trên vai. Không sợ bệ hạ chê cười, tã lót của thằng nhóc kia còn là do ta thay đấy, lão thần còn có thể vá quần thủng đáy nữa..."

Nói đến đây ông cụ bật cười, cũng khiến cho sự phẫn nộ của Nguyên Thú đế hòa hoãn đi nhiều.

Năm Hoắc Kinh Đường chỉ mới hai ba tuổi đúng là lúc hắn bị chó ghét người ngại, được đưa vào cung thì bị hậu cung nhìn chằm chằm, Nguyên Thú đế sợ sơ sẩy một chút là hắn chết, thế là ông thường xuyên đưa hắn theo bên người, ăn cùng nơi, ngủ cùng chỗ, văn trị võ công đều do một tay ông dạy cho, vừa làm cha vừa làm mẹ, hắn chính là miếng thịt trên người ông, tình cảm đó tất nhiên không thể so sánh với các hoàng tử khác.

Năm xưa vứt bỏ Hoắc Kinh Đường là vì có chút bất đắc dĩ, ông vốn là vua, sau mới là cha, thế nhưng sau khi Hoắc Kinh Đường chữa khỏi cổ độc, mặc dù lão Lục cũng rất ưu tú, nhưng ông cũng chưa từng nghĩ đến chuyện giao lại ngôi vị hoàng đế cho ai khác ngoài Hoắc Kinh Đường.

Sự thiên vị đó đã định trước rằng ông sẽ mắc nợ các hoàng tử khác, nhưng mà ông là hoàng đế!

Trước giờ chưa có chuyện gì khiến ông hài lòng, vợ không phải người ông yêu, Thái tử không làm ông vừa ý, mọi chuyện đều phải suy nghĩ vì giang sơn đất nước và dân chúng, ngày nay chỉ vì một chút lợi riêng thôi, vì sao khắp thiên hạ này đều muốn đối nghịch với ông kia chứ?

Hoàng đế có được vạn dặm non sông, vì sao không thể nghe theo lòng mình một lần?

"Thằng bé chính là một cây giống, lớn lên thành bộ dáng gì cũng đều là cho lão thần chăm bẵm cắt tỉa, lão thần hy vọng nó bình an vui vẻ, cũng mong con được hơn người, chỉ sợ nó bị liên lụy chịu khổ nơi quan trường, bèn hạ quyết tâm phải trải đường phía trước cho nó, diệt trừ hết mọi khó khăn cho nó, lão thần muốn cho nó hết tất cả những gì tốt nhất trên đời này, muốn ngăn cản hết tai nạn trên thế gian này ở bên ngoài... Nói chung, cha mẹ trên đời đều có tâm lý như vậy đấy."

Đại thần ở đây đều có đông con cái, đúng là có lúc bất công thiên vị, nhưng vì yêu con, lòng lo lắng cho con cái thì lại giống nhau như đúc.

"Lão thần hiểu rõ bệ hạ muốn đền bù tổn thất cho Lâm An quận vương, nhưng bệ hạ đã từng cân nhắc đến việc quận vương điện hạ có chấp nhận hay không chưa? Cây giống tuy nhỏ, nhưng rồi cũng có lúc sẽ lớn thành cây to che trời, lão thần không thể bảo vệ nó mãi được, phải có lúc nó cần tự đảm đương một mình. Lão thần muốn con trai được triệu về Kinh Đô, ở lại Kinh Đô, làm một quan triều, hầu hạ bên gối, tương lai xán lạn, như thế sẽ an toàn hơn, nhưng nó không muốn, nó muốn ở lại tỉnh ngoài, được phục vụ dân chúng tốt và trực quan. Lão thần lo lắng, nhưng lại rất đỗi vui mừng..."

Giọng điệu của Trần Sư Đạo chân thành: "Bệ hạ à, con cái sẽ không bao giờ đi trên con đường bằng phẳng mà cha mẹ sắp sẵn cho chúng đâu, quận vương điện hạ cũng không còn nhỏ nữa, thằng bé tỉnh táo, xuất sắc hơn rất bất cứ ai, có lẽ người hiểu tính tình của quận vương hơn, tùy hứng ngang ngược, tùy tâm sở dục, nhưng mà nó biết tiến lui đúng mực, hiểu nặng nhẹ, thằng bé sẽ vì chuyện thái tử mà hờn dỗi với người sao? Nếu như ý nó nằm ở ngôi vị hoàng đế, chẳng lẽ phải chờ đến tận bây giờ ư? Không dối gạt gì bệ hạ, bọn ta cũng từng nghĩ đến chuyện phò tá quận vương điện hạ để kiếm công, thế nhưng nếu như phò tá một người từ tận trong đáy lòng không muốn làm hoàng đế, đối với giang sơn Đại Cảnh, đối với dân chúng mà nói là chuyện tốt sao?"

Mặt mày Nguyên Thú đế xanh mét, không muốn thừa nhận rằng Trần Sư Đạo nói có lý.

Triệu Bá Ung cũng quỳ xuống đất, nhưng lời khuyên của ông ta không giống với những người khác, mà là thẳng thắn biểu đạt suy nghĩ riêng: "Quận vương điện hạ đăng cơ, ngũ lang chắc chắn sẽ trở thành vật hy sinh, đó chỉ là chuyện sớm muộn, Thần cũng có lòng yêu con, mù quáng bởi tình riêng, mong bệ hạ thông cảm. Huống chi tình cảm của điện hạ và ngũ lang sâu sắc, nếu như ngũ lang chết vì trận đấu quyền lực giữa hậu cung và triều đình, làm sao biết được điện hạ sẽ không đau đớn quá độ, bệnh cuồng táng tâm? Biệ hạ phải hiểu, điện hạ trọng tình trọng nghĩa, giống hệt với Thôi cô nương năm xưa, hắn sẽ không vứt bỏ ngũ lang đâu."

Ai cũng nói rất có lý, về công về tư, Hoắc Kinh Đường đều không thích hợp làm hoàng đế, nhưng Nguyên Thú đế vẫn không tin.

Ông vẫn cố chấp với suy nghĩ của mình, đi theo con đường dẫn vào tăm tối.

"Thần mắc nợ ngũ lang rất nhiều, nếu như ngũ lang chịu uất ức, thần sẽ dốc hết lực lượng toàn tộc, dù có thí luôn mạng này cũng sẽ lấy lại công bằng cho nó."

Ý trong lời nói chính là một khi Hoắc Kinh Đường đăng cơ, hậu cung không thể để trống, con nối dõi không thể không có, ông ta sẽ không dễ dàng tha thứ triều thần nào chèn ép Triệu Bạch Ngư, thà để hậu cung trống vắng, thiên tử tuyệt hậu!

Đây chính là uy hiếp!

Là một thần tử, lại chạy tới đây uy hiếp thiên tử, đúng là hoang đường!

Hoang đường!

Nguyên Thú đế nổi giận mắng mỏ nhóm người Triệu bá Ung, đuổi bọn họ ra khỏi điện Văn Đức.

Nhưng sau đó người đến yết kiến là Khang vương, ông ta đến tự thỉnh tới đất phong, còn muốn đưa Cao đô tri đi theo cùng.

Khang vương nhẹ giọng nói: "Hoàng huynh, người nhà họ Hoắc thực chất vừa bội bạc lại vừa thâm tình, tình sâu nghĩa nặng với người mình yêu thương, thiên vị họ, nhưng lại bạc tình bạc ý với người ngoài, tâm địa sắt đá. Tiên đế đã thế, huynh cũng thế, đệ cũng như thế, nhưng Tử Uyên lại giống với Thôi cô nương hơn, không bội bạc giống chúng ta, nó xem trọng tình nghĩa, dù có trở thành hoàng đế cũng sẽ không cưới vợ nạp thiếp vứt bỏ Triệu Bạch Ngư. Ngay cả bản thân hoàng huynh nữa, bao năm qua huynh chưa từng hối hận vì ban đầu không phản kháng tiên đế từ chối hôn sự sao? Hoàng huynh hãy tự hỏi lòng mình đi, nếu như Thôi cô nương còn sống, huynh có cam lòng để nàng chịu uất ức không?"

Người nhà họ Hoắc bội bạc từ trong máu, phụ nữ và tình yêu đều bị tổn thương bởi cú tấn công của quyền lợi, nói là thâm tình, nhưng một khi nắm được quyền lực mới hồ đồ vì tình yêu, cả đời chỉ rung động với một người, mười, hai mươi, ba mươi năm sau cũng không thay đổi.

Giống như tiên đế, cũng giống Nguyên Thú đế, vì ngôi vị hoàng đế mà để cho người phụ nữ mình thương uất ức thậm chí vứt bỏ họ, mà khi bọn họ nắm quyền hơn chục năm về sau, gạt bỏ được mọi khó khăn rồi mới muốn trao vô vàn yêu thương cho người mà bọn họ yêu.

Khang vương không có dã tâm, nhìn thấu mọi việc, ở bên cạnh Cao đô tri của ông ta đến nay đã qua nửa đời người, thật ra ông ta không nghĩ đến chuyện thủ thân như ngọc, trung trinh bất khuất, nhưng chỉ đơn giản là ngoại trừ ông ấy ra thì không thể là ai khác nữa.

Nguyên Thú đế đỏ mắt, không đáp mà chỉ hỏi lại: "Đệ cũng muốn đối nghịch với trẫm sao?"

Khang vương thầm thở dài, chắp tay bái biệt: "Bệ hạ, lúc làm thần tử, đệ mới sợ huynh, lúc làm anh em, đệ kính trọng huynh, dù có thế nào đi nữa, đệ cũng sẽ không đối nghịch với huynh đâu."

Nguyên Thú đế nhắm chặt hai mắt lại: "Chuyện tự thỉnh đất phong, trẫm không cho phép, về sau đừng nhắc đến nữa."

"Bệ hạ..."

"Cút ra ngoài."

Khang vương bất đắc dĩ, chỉ đành rời đi, để lại Nguyên Thú đế cô đơn một mình trong điện Văn Đức.

***

Biệt trang hoàng gia, Tây Giao.

Thái hậu chia ra triệu kiến Hoắc Chiêu Hành, Hoắc Chiêu Vấn và Hoắc Kinh Đường, âm thầm nói chuyện riêng với bọn họ, cuối cùng còn nói cho Hoắc Chiêu Vấn biết chỗ đặt di thể của Trịnh quý phi.

Hoắc Chiêu Vấn dập đầu nói lời cảm ơn, sau đó rời đi, tìm di thể của mẫu phi hắn.

Hoắc Chiêu Hành, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư vẫn còn ở lại biệt viện Tây Giao, thái hậu thì lên đường về cung trước, ngồi trong Phật đường nhỏ chờ hoàng đế tới.

***

Điện Từ Minh, Phật đường nhỏ.

Nguyên Thú đế cung kính đứng trước cửa ra vào chờ thái hậu thắp hương xong, đỡ tay bà ra phòng khách bên ngoài Phật đường ngồi xuống: "Sao thái hậu lại rời Tây Giao về sớm như vậy?"

Thái hậu khảy vòng Phật: "Lão Lục vừa mất mẹ đã bị phạt quỳ, cấm túc ở Tây Giao, hoàng đế không đau lòng vì con trai, nhưng ai gia đau lòng vì cháu trai đấy."

Nguyên Thú đế: "Nó ngỗ nghịch bất hiếu, trong mắt không có bề trên, cần phải chịu trừng phạt."

Thái hậu: "Người không còn mẹ mà vẫn có thể giữ bình tĩnh như thường mới nên phạt."

Nguyên Thú đế nhíu màu: "Hôm nay thái hậu gọi tới là để gọi tội trẫm sao?"

Thái hậu nhìn Nguyên Thú đế chằm chằm: "Hoàng đế vẫn còn nhận ta là mẹ sao?"

Nguyên Thú đế biến sắc, cúi đầu rủ mắt, hơi kính cẩn nói: "Có lý nào mà con lại không nhận mẹ chứ? Dù trẫm có là Phật Như Lai tái thế cũng không thể không nhận người."

Thái hậu: "Nếu như vẫn còn biết ta là mẹ, thì đừng gây khó dễ cho mấy đứa cháu trai của ta."

Nguyên Thú đế: "Có ý gì?"

Thái hậu: "Chọn Thái tử khác, đừng làm khó Tử Uyên, cũng đừng lại mắc nợ những đứa con khác của con nữa."

Sắc mặt Nguyên Thú đế tối sầm lại, giọng điệu chuyển sang lạnh lẽo: "Mẫu hậu, người cũng muốn đứng ở phía đối lập với con trai sao?"

Thái hậu nhắm mắt, thở dài nặng nề: "Lão Đại à, con còn muốn mắc nợ bao nhiêu người nữa đây? Thôi Thanh Như, Xương Bình, Hoắc Kinh Đường, Triệu Bạch Ngư, người nhà họ Triệu... Còn có tiên hoàng hậu, Đông cung, quý phi ở bên con gần ba mươi năm, cả lão Tam, lão Tứ, lão Ngũ và lão Lục, tuy nói sấm chớp mưa sương đều là ơn trời, nhưng lòng người âu cũng chỉ là một miếng thịt mà thôi, bọn họ đúng là thần tử của con, nhưng còn là thân bằng tri kỷ, là vợ của con mà, tình cảm của cháu trai cháu ngoại đối với con đều không hề hời hợt, nhưng bọn họ cũng là người sống sờ sờ, biết đau biết hận biết yêu, không phải là quân cờ để mặc cho con chi phối."

Nguyên Thú đế vô cùng phiền lòng, cố gắng kiềm chế cơn giận của mình trước mặt người mẹ ruột mà ông tôn kính nhất.

Thái hậu mưu đoạt đế vị vì ông, sau đó công thành lui thân không tranh quyền nữa, chỉ thương yêu đứa con gái phạm sai lầm, sợ ông khó xử nên không muốn dùng quyền uy của thái hậu và hiếu đạo ép ông mở một mặt lưới.

Ông vẫn luôn nhớ kỹ công sức của thái hậu bao năm qua, mặc dù trời sinh tôn sùng phụ quyền cũng không thể sánh bằng lòng kính yêu mẹ mình.

Thái hậu ra mặt khuyên bảo, sức nặng khiến cho Nguyên Thú đế không dám tùy tiện bác bỏ.

"Mẫu hậu phải hiểu rõ, con trai vì điều đó mà trù tính ba mươi năm, từ khi con trai biết được sự tồn tại của Tử Uyên là đã quyết định vị trí hoàng đế này thuộc về nó rồi."

"Mẹ và con đều mắc nợ Thôi Thanh Như và Tử Uyên, đúng là Tử Uyên rất xuất sắc, khi đó nó có dã tâm, muốn có được ngôi vị hoàng đế, mẹ vui và thành toàn cho tình cha con của các con. Nhưng bây giờ Tử Uyên không muốn nữa, nó cũng không muốn vì ngôi vị hoàng đế mà vứt bỏ Triệu Bạch Ngư, hoàng hậu Đại Cảnh càng không thể là một người đàn ông!" Thái hậu thở dài, "Có phải con đang thắc mắc vì sao trước giờ mẹ không nhúng tay vào chuyện lớn trong triều, bây giờ lại đột nhiên ra mặt nói chuyện đúng không? Trước giờ mẹ quen lấy đại cục và giang sơn làm trọng, mắc nợ quá nhiều người, bao năm nay ăn chay niệm phật vẫn không thể trả được nợ. Có lẽ là vì niệm Phật nhiều, chân tu được lòng từ bi, cho nên suy nghĩ mọi chuyện cầu toàn hơn, chỉ mong đám tiểu bối các con muốn gì được nấy, đừng tạo thêm sát nghiệt oan uổng nữa."

Thái hậu nắm chặt tay hoàng đế, tận tình khuyên nhủ: "Mẹ già rồi, bệnh tật kéo dài quấn thân, có thể sẽ không đi cùng con lâu nữa, nỗi lo đời này ngoại trừ con ra thì không còn gì khác, mẹ thật sự không muốn nhìn thấy dáng vẻ cô đơn bị mọi người xa cách của con."

Nguyên Thú đế xúc động: "Mẫu hậu nhất định có thể sống lâu trăm tuổi!"

Thái hậu cười hiền lành, ánh mắt nhìn Nguyên Thú đế tràn đầy yêu thương như ánh mắt của mọi người mẹ trong thiên hạ: "Nghe lời mẹ khuyên, buông tay đi. Con cháu có phúc của con cháu, thứ mà con muốn cho không chắc có thể khiến Tử Uyên vui vẻ. Nếu Như nương còn tại thế, chắc chắn sẽ ủng hộ sự lựa chọn của Tử Uyên."

Nguyên Thú đế cắn răng nói: "Thái tử gắn liền với giang sơn xã tắc, ngoại trừ Tử Uyên thì còn ai có thể gánh lấy trọng trách này đây?"

Thái hậu: "Lão Ngũ không được, lão Lục nản lòng thoái chí, còn có tiểu Thất, tiểu Cửu tiểu Thập Tam... Con ta đương tuổi tráng niên, thân thể khỏe mạnh, triều thần xương cánh tay vẫn còn lắm người tài giỏi, học rộng hiểu nhiều, văn có thể trị nước, võ có thể an bang, lo gì không thể dạy ra một tân quân nhân hậu có tài trị quốc chứ?"

Nguyên Thú đế im lặng không nói.

Thái hậu đã nhìn ra ông bị lung lay, vì thế bỏ thêm dầu vào lửa.

"Mẹ biết rõ con muốn tốt cho Tử Uyên, mẹ khuyên con nhìn như là để cầu viên mãn cho đám cháu chắt, thật ra là thiên vị con. Mẹ không muốn thấy các con quân thần bất thuận, cha con bất hòa, con thiên vị Tử Uyên, thật ra không phải không yêu thương đám lão Lục."

Câu này nói trúng lòng Nguyên Thú đế, đối với Đông cung và đám lão Lục, đúng thật là ông đã tỏ ra máu lạnh, nhưng không có nghĩa là trong lòng không áy náy, chỉ là cảm xúc đó cực kì bé nhỏ, bây giờ bị thái hậu phóng to ra mà thôi.

"Con có lòng yêu thương con mình, mẹ cũng vậy."

Nguyên Thú đế đã hoàn toàn cảm động: "Con trai bất hiếu."

"Nuôi con đến trăm tuổi, lo âu chín mươi chín năm." Thái hậu vỗ cánh tay Nguyên Thú đế: "Con hãy suy nghĩ kĩ đi, đừng để đến cùng chẳng ai được vui vẻ."

Nguyên Thú đế thỏa hiệp, "Con trai sẽ suy nghĩ kĩ."

Nói như vậy, thái hậu đã hài lòng rồi.

***

Khẩu dụ được truyền xuống, nhóm người Hoắc Kinh Đường mới được rời khỏi Tây Giao.

Triệu Bạch Ngư chân trước mới vừa bước vào phủ quận vương, chân sau đã bị đại thái giám đến mời tiến cung, gặp Nguyên Thú đế ở hồ Long Đình.

"Vi thần tham kiến bệ hạ."

"Ngồi đi." Nguyên Thú đế vỗ vỗ vị trí bên người, bảo Triệu Bạch Ngư ngồi xuống, không thèm nhìn y mà hỏi: "Trẫm định sẽ để Tử Uyên trở thành Thái tử, ngươi nghĩ thế nào?"

Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ mong ta trả lời với thân phận thần tử hay là thân phận quận vương phi đây ạ?"

Nguyên Thú đế: "Nói hết đi."

Triệu Bạch Ngư: "Là thần, thần không cho rằng Hoắc Kinh Đường có thể là một hoàng đế tốt. Là vợ, ta không muốn chàng trở thành Hoàng đế."

Nguyên Thú đế: "Tử Uyên trong lòng ngươi bất trị như vậy sao?"

"Hoàn toàn ngược lại." Triệu Bạch Ngư đưa ra nghi vấn: "Bệ hạ, người cảm thấy Đại Cảnh hiện tại như thế nào? Dân chúng như thế nào?"

"Quốc thái dân an, trời yên biển lặng, thiên hạ thái bình."

"Bệ hạ, người cảm thấy gây dựng sự nghiệp khó hay là giữ vững sự nghiệp khó?"

Nguyên Thú đế nghe vậy liền biết nông sâu, bấy giờ mới quay đầu sang nhìn Triệu Bạch Ngư: "Gây dựng sự nghiệp khó, giữ vững sự nghiệp càng khó hơn."

"Thần lại cho rằng việc phục hưng mới khó. Thứ cho thần nói thẳng, thánh tổ chính là vị vua gây dựng toàn bộ sự nghiệp và để lại nó, tự thực hiện tiết kiệm, mà bệ hạ chính là vị vua phục hưng, chịu nhiều khổ cực, cứu nước khỏi sóng dữ, lấy lại vinh quang cho quốc gia, đều là thế hệ tài trí mưu lược kiệt xuất, tân quân tiếp bước, ngày nay khắp nơi đều đã ổn định, phồn vinh hưng thịnh, đúng là lúc cần có một vị vua nhân từ gìn giữ cơ nghiệp trước, duy trì sự ổn định thái bình này. Bệ hạ, người cảm thấy Hoắc Kinh Đường thích hợp trở thành một vị vua giữ gìn cái đã có sao?"

Không ai hiểu con bằng cha.

Hoắc Kinh Đường có thể trở thành vị vua lập đô phục hưng, hắn chỉ không thể trở thành vị vua gìn giữ cơ nghiệp trước, trên người hắn phủ đầy huyết tính lệ khí, chính trực quyết đoán, không thể làm vị vua nhân tự trị quốc như vậy được.

Cả triều văn võ, bao gồm cả Thái hậu đều đã khuyên nhủ, nhưng không có một ai trực tiếp đâm chọc uy hiếp Nguyên Thú đế như Triệu Bạch Ngư cả, cũng là một người yêu thương Hoắc Kinh Đường, y mới có thể nhìn thấu được bản chất của hắn, về công về tư đều hiểu rõ Hoắc Kinh Đường không thích hợp làm hoàng đế.

"Coi như ta đã hiểu được vì sao Tử Uyên lại chung tình với một mình ngươi rồi." Nguyên Thú đế giật mạnh cần câu lên, con cá nhảy trên không trung hai lần, nuốt được mồi câu rồi bèn giãy giụa. nhảy ngược lại xuống hồ, "Ngươi có hận trẫm không?"

"Không dám."

"Là không dám, không phải không có."

Triệu Bạch Ngư im lặng một lát, thản nhiên nói: "Thật là là không hề hận, người không làm gì có lỗi với ta cả."

Y chưa bao giờ yêu cầu xa vời rằng Nguyên Thú đế phải đối xử đặc biệt với mình, cho nên không cảm thấy tất cả những hành động xuất phát từ lợi ích, vì tình riêng của ông có chỗ nào có lỗi với y cả, không rõ bổn phận mà lại đòi hỏi đúng sai với đế vương, đúng là tự làm khó bản thân mình.

"Biết thói đời mà lại không sành đời, khéo đưa đẩy nhưng lại quá ngây thơ. Triệu Bạch Ngư, ngươi cứ như thế đi, đừng thay đổi. Trẫm lại muốn xem các ngươi có thể đi được bao lâu, Tử Uyên có hối hận với sự lựa chọn của nó hôm nay hay không, trẫm còn muốn nhìn thêm chút nữa..."

Triệu Bạch Ngư chờ một hồi lâu sau, nhưng Nguyên Thú đế chỉ phất phất tay cho y lui ra ngoài.

"Nghịch tử kia sợ ngươi chết ở trong thâm cung này, lén lút đi theo sau ngươi vào đây, đang chờ ở bên ngoài hồ Long Đình đấy, nếu không thả ngươi ra, sợ là nó sẽ xông vào đây, làm trẫm cụt hứng mất."

Triệu Bạch Ngư ho nhẹ hai tiếng: "Thần cáo lui."

Đợi y vừa đi, Nguyên Thú đế đã tiếp tục nhìn chằm chằm vào mặt hồ tĩnh lặng, rất lâu sau mới nhẹ giọng rầm rì một câu: "Trẫm và Như nương không thể chết già, cho nên muốn xem các ngươi có thể hạnh phúc đến cùng, bên nhau tới bạc đầu hay không."

***

Triệu Bạch Ngư thật sự nhìn thấy đại thái giám thấy chết không sờn đang đứng trước mặt Hoắc Kinh Đường, y vừa đến gần, Hoắc Kinh Đường cũng vừa nhấc mắt lên gọi y đến.

"Tiểu lang."

Đại thái giám xoay người, lập tức thở hắt ra: "Lão nô tham kiến Triệu đại nhân."

Triệu Bạch Ngư cười cười, "Đi thôi."

Hai người kề vai sát cánh xuất cung.

Hoắc Kinh Đường: "Ông ấy không gây khó dễ cho em chứ?"

Triệu Bạch Ngư: "Hỏi ta vài lời thôi, đã buông bỏ ý định lập chàng làm Thái tử rồi, hồi ở Tây Giao chàng đã làm những gì vậy?"

Hoắc Kinh Đường bèn thuật lại đơn giản dư tình của dân gian, lời khuyên can của triều thần và thái hậu một lần: "Ta tỏ thái độ trước, sau đó đến ý kiến và thái độ của dân chúng, có điều chúng không thể dao động bệ hạ. Lúc này đến lượt các triều thần phản đối, sức nặng của bọn họ cũng chưa đủ, nhưng tài ăn nói của Thập thúc, mấy vị tể tướng và Trần thái sư rất cao minh, tư duy nhanh nhẹn, có thể nói có sách, mách có chứng lay động bệ hạ, cho ông ấy biết rằng khắp thiên hạ này ngoại trừ ông ấy ra, không ai đồng ý để ta trở thành Thái tử cả. Cuối cùng mới cầu xin đại Phật ra tay."

"Thái hậu ư?"

"Đêm tiệc nhà, em nói cho ta biết thái độ của thái hậu, ta đã biết bà ấy sẽ đi khuyên bệ hạ, cũng chỉ có bà ấy mới có thể thật sự khuyên được bệ hạ thôi."

"Nếu như bệ hạ vẫn quyết giữ ý mình, ai nói cũng không nghe, vậy thì chàng phải làm sao bây giờ?"

"Còn có thể làm sao nữa? Dắt em đi trốn thôi."

Triệu Bạch Ngư nở nụ cười, lắc người huých Hoắc Kinh Đường một cái: "Không đứng đắn."

"... Thành thật đi, chàng chưa từng nghĩ đến chuyện có con nối dõi sao?"

"Nếu như ta có chấp niệm với con nối dõi, thì đã phải để lại hạt giống từ lúc cổ độc vẫn chưa xâm nhập vào xương cốt tứ chi rồi."

"Ta muốn ăn heo sữa quay và rượu ngâm tuyết quá."

"Em đánh trống lảng cũng nhanh đấy nhỉ... Trời vẫn còn sớm, giờ này đi có thể ngồi ở trên lầu đấy."

"Vậy thì tranh thủ thời gian đi thôi. Nói thật, lúc được mời vào cung ta đã chuẩn bị tâm lý rồi, cứ sợ là sẽ bị ban cho một ly rượu độc..."

"Xem truyện ít thôi tiểu Triệu đại nhân của ta à, trí óc tỉnh táo thông minh của em đã sắp hỏng đến nơi rồi."

"Đây là chuyện hoàn toàn có khả năng xảy ra mà, đừng có việc gì cũng đổ lỗi cho thoại bản nữa... Ta còn chưa nhắc đến chuyện chàng lén lút đọc bí hí đồ đây, đừng nghĩ ta không biết chàng là khách quen của mấy tiệm sách kia, mỗi tháng có hàng mới chàng đều mua rất bạo tay nha, ta còn thắc mắc vì sao chàng lại biết đủ trò như vậy... Hoắc Kinh Đường, chàng đừng có im lặng, ê, đi chậm thôi!"

Trên cung đạo, chủ đề trò chuyện của Triệu đại nhân và Lâm An quận vương dần chuyển thành chuyện không thể nói được, cũng may trái phải không có người, bằng không thì sắp tới phủ Kinh Đô sẽ lại có một vở kịch tình yêu mới mà thôi.

Sau khi nghĩ sâu tính kỹ, cuối cùng Nguyên Thú đế cũng hủy bỏ lập trữ, nhưng đại điển truy phong Thôi Thanh Như làm hoàng hậu vẫn diễn ra như cũ, thân phận Đại hoàng tử của Hoắc Kinh Đường cũng được khôi phục, ông không thể tiếp tục khoan nhượng để tên của con trai mình treo trên gia phủ nhà Tĩnh vương nữa.

Ngũ hoàng tử vẫn còn ở lại Hộ bộ phủ Kinh Đô làm việc, Lục hoàng tử xin đất phong ở Định Châu, sau tết trùng cửu là lên đường, nếu không có chuyện gì ngoài ý muốn, e là hắn sẽ không trở về kinh nữa.

Trước khi lên đường, hắn ta đến điện Văn Đức cầu ý chỉ, chỉ có những người thân thiết gần gũi mới biết hắn ta đến cầu Nguyên Thú đế khai ân, đừng chôn cất di thể của quý phi vào phi lăng.

Mặc dù theo lý là không hợp, nhưng xuất phát từ lòng áy náy, Nguyên Thú đế vẫn đồng ý với yêu cầu của hắn ta.

Cứ thế, mọi chuyện đều đã kết thúc, chỉ là vẫn còn phải tổ chức nghị sự để chọn Thái tử, Nguyên Thú đế quyết định sẽ chọn từ những hoàng tử nhỏ tuổi để dạy dỗ, lần này ông tính để cho tam công cửu khanh đến dạy.

Tất cả các hoàng tử đều được đối xử như nhau, đến lúc đó chọn ra một người thích hợp nhất trong số đó để lập trữ.

Chủ ý đã định, không ai phản đối, Nguyên Thú đế tự thiết kế ý định của mình, chỉ định Triệu Bạch Ngư làm Thiếu sư của hoàng tử, ngày sau lập trữ sẽ trở thành Thái sư của Thái tử, phò tá Thái tử đến khi đăng cơ mới thôi.

Trong đám hoàng tử, đứa nhỏ tuổi nhất vẫn còn chưa được mười tuổi, Nguyên Thú đế còn có thể tại vị ít nhất là mười năm nữa, đến khi Thái tử đăng cơ, Triệu Bạch Ngư với tư cách là Thái sư của Thái tử nhất định còn cần phải hỗ trợ cho đến khi triều cục ổn định, mà hoàng đế chắc chắn sẽ không tha người, chẳng lẽ phải đợi đến tận hai mươi năm nữa mới được từ quan hay sao?

Hoắc Kinh Đường đuổi thái giám đến truyền chỉ ra khỏi phủ quận vương, cho rằng Nguyên Thú đế cố tình cản bước hắn, có điều mới vừa rồi hắn đã ép Nguyên Thú đế cúi đầu lui một bước lớn, bây giờ không có lý do gì để vào cung quậy một trận nữa, chỉ khổ cho tiểu Bồ Tát của hắn thôi.

Thế là hắn rầu rĩ không vui, tự tức tối một mình, từ sáng sớm đã ra sân khua đao múa thương, chưa trút được lửa giận lại chạy vào Phật đường gõ mõ hết nửa canh giờ, chép kinh Phật một canh giờ, giữ chừng đột nhiên chạy đến trước mặt Triệu Bạch Ngư, nhìn y chằm chằm.

Triệu Bạch Ngư bình tĩnh như thường, tiếp lục làm việc đang làm.

Nghiên Băng đến hỏi bài thấy thế thì sợ hãi từ tận đáy lòng, cậu thấy Hoắc Kinh Đường ngồi đó một lát rồi chẳng nói chẳng rằng đứng lên bước đi thẳng, không khỏi ôm bụng nghi ngờ: "Ngũ lang, quận vương bị cái gì đả kích vậy ạ?"

"Ăn chút bực bội, tự tức giận với mình ấy mà." Triệu Bạch Ngư vui vẻ cười rộ lên, giải đáp mấy câu ngắn ngọn cho vấn đề mà Nghiên Băng đang thắc mắc, đợi cậu hiểu rồi mới cầm thoại bản lên tiếp tục đọc, vừa khéo đọc tới lời bình của nhân vật chính trong sách, thuận miệng nói ra: "Đời này thong dong trời đừng hỏi, xưa nay mọi sự chảy về đông."

Ánh mặt trời xuyên qua khung cửa chiếu vào trong nhà, chùm hoa lăng tiêu nghiêng mình trên mái nhà rũ xuống bên ngoài cửa sổ, chiếc chuông màu cam xinh xắn hồn nhiên đong đưa theo gió tựa như bông hoa nhỏ, rung rinh tràn ngập sự sống.

Triệu Bạch Ngư duỗi eo duỗi cổ, có hương hoa, có mùi nắng, cũng có mùi nước mực thư hương chưa khô thoang thoảng qua cánh mũi, hít một hơi vào phổi mà lòng sáng dạ thông, mặt mày không khỏi nheo lại, y thở dài:

"Một phen xuân rồi đến thu, thế sự biết bao ưu phiền, tận hưởng thú vui trước mắt thôi chứ nhỉ."

Ngoại truyện 1 • Phù sinh nửa buổi nhàn*

(*) Nguyên văn: Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn – 偷得浮生半日闲 (Nguồn: Tu Viện Thiện Tường): Một câu thơ của nhà thơ Lý Thiệp thời Đường. Phù sinh chỉ cuộc đời, nên câu thơ có thể hiểu rằng trộm được nửa ngày nhàn nhã trong dòng đời vội vã.

Dịch nghĩa:

Sống say chết mộng mãi mê mang / Chợt nghe Xuân hết, gắng đăng san / Cùng tăng trò chuyện trên sân trúc / Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!

(- Lý Thiệp đời Đường, Sakya Minh-Quang dịch -)

***

Triệu Bạch Ngư về kinh báo cáo công tác xong là tháo chức Kinh lược sứ, quan phục nguyên chức, vẫn là một thân kiêm hai công việc, có điều đổi từ Ngự sử trung thừa dành Hoàng tử Thiếu sư, tạm thời có kha khá nhiều thời gian rảnh rỗi.

Sau khi phủ Kinh Đô được thay đổi thành mô hình sương phường, nha dịch giữ gìn trị an phải trải qua quá trình đào tạo, huấn luyện xong mới được nhậm chức, Triệu Bạch Ngư cũng phổ biến cơ chế vận hành giám sát và báo cáo lẫn nhau, đề phòng công sai nha dịch và thương nhân lòng dạ hiểm độc cấu kết với nhau phá hỏng cán cân thị trường.

Đám trộm cắp thường hành sự vào ban ngày ban mặt không thể nói là biến mất chẳng thấy tăm hơi, nhưng hầu như đều giấu đầu giấu đuôi không dám quậy phá nữa, vì vậy những vụ án gạt người lừa tài sản và những vụ báo thù vì bị lừa gạt đã giảm bớt đi rất nhiều.

Triệu Bạch Ngư nhậm chức Tri phủ Kinh Đô đã bốn năm nay, tỉ lệ phạm tội trong phủ và huyện dưới quyền giảm mạnh, nhờ thực hiện an ninh trật tự bằng cách "không nhặt của rơi trên đường, ban đêm không cần đóng cửa" mà buôn bán trở nên phồn vinh, thuyền bè ra vào bến thuyền, cửa sông của bốn kênh Kinh Đô gần như không có lúc nào ngừng nghỉ, nhiều nước bạn đến thăm, có thể gặp người nước ngoài mũi cao mắt sâu đến đây kinh doanh hoặc giao lưu văn hóa ở bất kì một con phố hay nhà trọ nào.

Triệu Bạch Ngư chưa từng tận mắt nhìn thấy bốn phương tám hương Khai Nguyên* thịnh thế trong lịch sử ở đời trước, nhưng có lẽ nó cũng không khác gì mấy so với thịnh thế trước mắt y bây giờ.

(*) Khai Nguyên (niên hiệu của vua Đường Huyền Tông tức vua là Lý Long Cơ công nguyên 713-741

"Tiểu Triệu đại nhân, hôm nay lão có cua rượu mới vừa ngâm đêm qua, ngài có muốn mua hai con không?"

Lúc qua cầu trong chợ, ông lão bán cua ngâm rượu trên cầu đã coi y như khách quen rồi, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư là gọi người lại ngay.

Triệu Bạch Ngư tiếc nuối từ chối: "Mấy ngày nay sức khỏe không ổn lắm, đại phu đã dặn ta không được ăn đồ lạnh, nếu không sẽ bị đau bụng." Y lắc tay lia lịa, "Thật sự không dám tham ăn."

Ông lão nghe vậy cũng tỏ vẻ tiếc nuối, lập tức nghĩ đến một chuyện: "Quán rượu ở bên kia sông mới vừa cho ra lò món mới, gọi là món dê con hấp nhừ, đó là một món ăn nổi tiếng khắp Kinh Đô này, mỗi ngày đều có thể thấy quý nhân ra vào xếp hàng chờ. Nghe nói nguyên liệu được chọn từ dê non Đồng Châu, thịt dê vừa tươi sạch vừa mềm ăn rất ngon, lúc chế biến người ta dùng trà hạnh nhân và các loại gia vị khác để nêm nếm, nấu xong mới bưng lên bàn, không thể dùng đũa gắp mà phải dùng muỗng múc mà ăn."

Triệu Bạch Ngư nghe mà thèm nhỏ dãi: "Sao ông lại biết rõ thế?"

Ông lão vỗ đùi nói: "Hàng xóm của lão gả con gái đi, gả được vào gia đình tốt, lúc làm tiệc cưới có đặt món thịt dê hấp nhừ này để đãi, ăn xong một lần nhớ mãi không quên, hay nhắc đi nhắc lại bên tai lão ấy mà."

Triệu Bạch Ngư giấu tay đi, đứng ở đầu cầu, ánh nắng chiều phủ khắp mặt sông rộng lớn, sóng gợn lăn tăn, thuyền hàng đậu rải rác, còn có một chiếc thuyền đi qua dưới cầu, bên bờ có người kéo thuyền đang lôi thuyền vào, cành liễu ở hai bên bờ sông rũ xuống đón gió.

Quán rượu mà ông lão chỉ đúng là đông nghìn nghịt khách, bên cạnh là một nhà bán rượu lâu năm, cờ hiệu trước cửa phấp phơi trong gió, hương rượu nhẹ nhàng bay xa mười dặm, Triệu Bạch Ngư đứng ở tận đầu cầu bên này mà còn có thể ngửi được mùi thơm kia.

Mặc dù không bằng một phần trăm của đời trước, nhưng vẫn có thể thấy được, đây đã là một thế giới phồn hoa thịnh vượng mấy ngàn năm nay chưa từng thấy rồi.

Triệu Bạch Ngư mỉm cười, nói: "Nhờ ông đề cử, ta sẽ thử đến đó xem có thể đặt được món thịt dê hấp nhừ quán bọn họ không." Nói xong thì tạm biệt ông lão.

Đến trước quán rượu, trời hãy còn sớm, y thật sự bước tới chỗ biển hiệu chờ đặt hàng, gọi phục vụ giao hàng rồi hẹn giờ giao đến phủ Trần Sư Đạo, lúc gần đi sẵn tiện dặn dò chủ quán: "Làm xong việc rồi, còn thừa một chén hãy đưa đến chỗ ông lão bán cua ngâm rượu ở đầu cầu nhé."

Ông chủ quán rượu vỗ ngực đảm bảo: "Đại nhân cứ yên tâm, ta nhớ rồi."

Triệu Bạch Ngư để bạc lại rồi đi.

***

Dạo chợ mua thêm một vài món ăn nóng hổi như thịt lừa nướng, thịt thỏ nướng than,... xong xuôi, Triệu Bạch Ngư mang chúng đến nhà thăm Trần Sư Đạo, tiện thể bàn bạc với ông cụ xem phải làm sao để trở thành một Hoàng tử Thiếu sư tốt, dù sao thì Thái sư Trần Sư Đạo cũng là người có khá nhiều kinh nghiệm.

Bước vào tiền thính Trần phủ, Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên phát hiện Cao đồng tri và Triệu Bá Ung cũng có mặt.

Triệu Bá Ung thoáng nhìn sang Triệu Bạch Ngư, lập tức đứng dậy, một lúc sau mới nhớ hành động này của ông quá dễ gây sự chú ý với người khác, thế là bèn ngại ngùng ngồi xuống trở lại.

Cái mũi già tham ăn của Trần Sư Đạo khịt khịt, bấy giờ mới ngửi ra được trong túi giấy dầu trên tay Triệu Bạch Ngư có cái gì, đọc lên từng món một, rồi ông cụ tỏ vẻ tiếc hùi hụi, nói: "Đồ ăn ngon thế mà lại không có rượu ngon ướp lạnh để nhắm, tiếc quá tiếc quá."

Triệu Bạch Ngư: "Tiệm rượu bán rượu tuyết ngâm hoa mai nằm ngược với đường con đến đây, vừa nãy vào phủ con đã gọi tiểu đồng đi mua rồi, có lẽ bây giờ đang trên đường về đấy ạ."

Mặt mày Trần Sư Đạo thoáng cái hớn hở: "Thầy thích ngũ lang đến làm khách lắm đấy, lúc nào cũng hiểu lòng thầy cả."

Triệu Bạch Ngư: "Con là học sinh của thầy, không mang theo chút đồ ăn thì nào dám tới gặp thầy? Thầy đó, thầy ăn được món gì, thích ăn món gì, con đều nhớ rất rõ."

Trần Sư Đạo: "Thành thật quá đi thôi, đến Đại lang còn chẳng hiểu thầy bằng con nữa."

Đoạn đối thoại của hai thầy trò bọn họ vô cùng tự nhiên, nói lời nào cũng đều lộ ra sự thân mật khiến cho Triệu Bá Ung ngồi bên cạnh nghe mà lục phủ ngũ tạng đều chua xót, vô thức hừ một tiếng, vừa hừ xong đã phải nhận lấy mũi nhọn mà Trần Sư Đạo nhắm tới.

"Lòng dạ phủ tạng xấu xa rất dễ dẫn tới tâm trạng bất mãn, mà tâm trạng bất mãn thì giọng sẽ không nghe lời, mấy kẻ quái gở thích hừm hừ đúng là khiến người ta phát ghét... Triệu tế chấp, ông thấy ta nói như vậy có lý không?"

Triệu Bá Ung miễn cưỡng làm mặt cười, đáp lại hai tiếng rồi thôi.

Trần Sư Đạo đắc ý, vỗ bàn ý bảo Triệu Bạch Ngư mau mang đồ ăn đến đặt xuống, sau đó lệnh cho nha hoàn cầm chén đũa và chung rượu tới, ấy vậy mà lại không cắt bớt một bộ chén đũa của Triệu Bá Ung, khiến cho một người đường đường là tế chấp kích động đến nỗi mất một lúc lâu sau lòng mới có thể yên tĩnh trở lại.

Đây chính là đồ ăn tự tay ngũ lang mua tới, nói cho vuông thì chính là con trai nhỏ của ông vì ông mà xuy kim soạn ngọc, làm sao có thể không quý trọng cho được?

Triệu Bá Ung nhai chậm nuốt chậm, thỉnh thoảng tự cho là kín đáo quan sát Triệu Bạch Ngư, vểnh tai cẩn thận lắng nghe y và Cao đồng tri, Trần Sư Đạo bàn bạc về việc dạy dỗ các hoàng tử thế nào.

Nguyên Thú đế hạ chỉ, lệnh cho bốn người bọn họ, trong đó có Lư tri viện giữ chức thầy giáo của các hoàng tử, hai người phụ trách giảng văn học và thuật trị nước, hai người còn lại phụ trách dạy võ, rèn luyện thân thể.

Trần Sư Đạo đã quá quen với quá trình thụ nghiệp và giải hoặc, "Tùy theo khả năng tới đâu mà dạy tới đó, bốc thuốc đúng bệnh. Các ngươi không thể biết rõ tư chất, tính tình của các hoàng tử ngay được, cần phải thấu hiểu trước rồi mới có thể tiến tới việc đưa ra định hướng giáo dục cho bọn họ. Dù sao thì cũng phải đối xử với bọn họ khác hoàn toàn với học sinh trong thiên hạ, thái tử được chọn ra từ trong số đố, cần phải thận trọng từng bước một, tránh mắc phải sai lầm, di họa bá tánh."

Triệu Bạch Ngư gật đầu.

Cao đồng tri cũng nêu ra một vài quan điểm của mình, thậm chí đến Triệu Bá Ung cũng truyền đạt một số hiểu biết của mình về mấy vị hoàng tử.

Lúc đối mặt với ông, Triệu Bạch Ngư cố gắng khiến cho biểu cảm của mình không thay đổi quá nhiều, trông như bình thường, thật ra trong lòng y hơi bối rối, mặc cho ai đó vô thức thể hiện sự niềm nở, trông mong nhìn thấy biểu cảm của y, nói chung là không được tự nhiên lắm.

Triệu Bá Ung mà y biết là một người nghiêm khắc hay quát mắng, không bao giờ thay đổi sắc mặt chán ghét, đột nhiên thái độ quay ngoắt, đã bốn năm rồi mà y vẫn cảm thấy lạ lẫm.

"Nhiệm kỳ của Tri phủ Kinh Đô dài nhất cũng chỉ năm năm, tính thêm một năm đến Tây Bắc nhậm chức Kinh lược sứ nữa thì cũng đã sắp kết thúc nhiệm kỳ rồi. Bây giờ con là Hoàng tử Thiếu sư, sẽ không dễ gì bị phái rời kinh nữa, xét thấy trước đây con đã từng nhậm chức Thuế vụ sứ, cái ghế Đạc chi sứ Tam ty đang trống, có khả năng sẽ để con bổ khuyết vào đó."

Trò chuyện vấn đề hình thức dạy học xong, trong một khoảnh khắc im lặng, Triệu Bá Ung đột nhiên lên tiếng.

Triệu Bạch Ngư nhận ra mình đang nói chuyện với ông thì hơi sửng sốt, sau đó gật đầu đáp lại một tiếng.

Triệu Bá Ung hơi thất thần, nhưng rồi cũng nhanh chóng bình tĩnh lại để nói sang vài chuyện khác, "Tết Trùng Cửu sau thu thì phải leo cao ngắm cảnh, theo thường lệ còn phải tổ chức tiệc ngắm hoa cúc. Chỉ tiếc trong phủ không có danh thắng núi cao nào, cũng ít chỗ có thể leo lên cao... Ta nhớ Trùng Cửu năm ngoái có một bữa tiệc ngắm hoa rất lớn đã được tổ chức ở vườn Ngọc Tân trên danh nghĩa của Quảng Bình quận vương, nghe nói văn nhân nổi tiếng trong phủ đều đến đó? Năm nay không biết có tiếp tục tổ chức nữa hay không, ngũ lang sẽ đến chứ?"

(*) Tết Trùng Cửu (hay còn gọi là Tết Trùng Dương, Tết người cao tuổi, Tết người già, chính là ngày 9/9 Âm lịch hằng năm theo phong tục của người Trung Quốc. Con số 9 được coi là số dương và sự lặp lại hai lần của nó trong ngày 9/9 chính là lý do mà nó được gọi là Trùng Cửu, Trùng Dương.

Ở Việt Nam trước đây vào thời Lý - Trần các nho sĩ cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Mặc dù hiện nay Tết Trùng Cửu không có sức ảnh hưởng lớn trong văn hóa của người Việt Nam nhưng nó vẫn được coi là một ngày lễ quan trong của Nho giáo.

Cao đồng tri im lặng đặt chung rượu xuống, che mặt không nói gì.

Trần Sư Đạo dùng tay áo che khuôn mặt cười nhăn nhở, tài nói chuyện phiếm tẻ nhạt đến thế thì có thể mong được đáp lại cái gì chứ?

Triệu Bá Ung không hiểu lắm, vẫn là Triệu Bạch Ngư giải thích thắc mắc giúp ông: "Tiệc ngắm hoa cúc năm ngoái xảy ra xung đột, các chính khách nổi tiếng và văn nhân đánh nhau tơi bời, đập nát rất nhiều cây hoa cúc có giá trị rất lớn trong vườn, Quảng Bình quận vương tức bệnh hơn nửa tháng, chắc mấy năm sau này sẽ không tổ chức thêm bữa tiệc ngắm hoa cúc nào nữa đâu."

"Vì sao mà lại đánh nhau tơi bời?" Triệu Bá Ung hỏi.

Triệu Bạch Ngư thấy trên mặt ông toàn vẻ tò mò, bèn nói kỹ hơn: "Nguyên nhân là do một học sinh vừa thi đậu tỉnh cùng với một học sinh trong phủ vừa trúng cử Quốc Tử Giám​ đã thi làm thơ từ một chậu hoa cúc tím, hoa cúc tím kia được một ca cơ có vẻ ngoài xinh đẹp ôm lấy, hai người đều muốn thể hiện trước mặt cô gái xinh đẹp đó, kết quả làm được câu thơ trích dẫn cùng một điển cố, không thể phân tranh, không ai nhường ai bèn chửi mắng lẫn nhau, phát sinh tranh cãi, sau đó..." Y hồn nhiên chẳng hay biết Triệu Bá Ung đang nhìn mình bằng ánh mắt yêu thương, mà Triệu tế chấp dẫn dắt ba ngàn môn đảng cũng không hề nhận ra điều đó, "... Thật ra đến cùng cũng chỉ là học phái bần hàn tranh đấu với đệ tử sĩ tộc thôi, chẳng ai phục ai cả."

"Hóa ra là vậy, chỉ cần nhìn sơ qua là hiểu được toàn bộ sự việc rồi." Triệu Bá Ung: "Ngũ lang nhanh nhạy thật."

Triệu Bạch Ngư nghe vậy thì nhướn mày, nhanh chóng nhận ra, chỉ cúi đầu cười không nói gì.

Triệu Bá Ung thấy tốt thì lấy, lúc này mới "thu binh".

Ngược lại Cao đồng tri lên tiếng: "Sơn Hà lâu là một nơi đáng đến, nó nằm giữa dãy núi, gần sát trời sao, vừa có thể bắt chước người xưa leo núi ngắm cảnh, vừa có thể tổ chức tiệc ngắm cúc, chỉ tiếc không cho bên ngoài mượn chỗ, cũng không mở cửa cho người ngoài vào."

Triệu Bạch Ngư: "Ta nhớ Sơn Hà lâu không có trồng cúc."

Cao đồng tri: "Bữa tiệc ngắm cúc của Quảng Bình quận vương có một nửa danh phẩm được mượn từ Sơn Hà lâu tới đấy."

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện ấy."

Ba người còn lại đều nhìn về phía y, Trần Sư Đạo nói: "Nói như vậy, ngũ lang thường xuyên ra vào Sơn Hà lâu hay sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ ban cho Hoắc Kinh Đường."

"Chẳng trách." Trần Sư Đạo đập bàn, bừng tỉnh ngộ ra: "Bảo sao điện hạ lại giấu kín bưng không khoe ra ngoài."

Lúc này đã có người giao món thịt dê hấp nhừ tới trước phủ, khi nắp hộp sơn vàng vừa được nhấc lên cũng là lúc mùi thơm xộc vào mũi, dẫn dắt cơn thèm ăn trong dạ dày của Trần Sư Đạo ra, ông cụ chẳng nói lời nào mà vùi đầu vào ăn uống cật lực.

Ăn no nê xong là đến buổi chiều, bọn họ quây quần uống trà giải ngấy, nói thêm một vài chuyện trong triều nữa, không lâu sau đó thì ai về nhà nấy.

Rời khỏi Trần phủ, Cao đồng tri kéo Triệu Bạch Ngư vào trong góc hỏi nhỏ: "Đến tết Trùng Cửu có thể cho phép lão phu đưa phu nhân đến Sơn Hà lâu không?"

Chưa chờ Triệu Bạch Ngư đáp lại, Cao đồng tri đã chủ động nói rõ nguyên nhân: "Phu nhân thích hoa cúc lắm, nhưng lại không khéo tay."

Triệu Bạch Ngư đã hiểu, "Ta sẽ nói lại một tiếng, nhưng ông cứ đến đi, không sao đâu."

Cao đồng tri nói lời cảm ơn rồi đi.

Khi Triệu Bạch Ngư chuẩn bị về phủ quận vương, xe ngựa của Triệu phủ dừng ở bên cạnh, Triệu Bá Ung ngồi trong xe nói: "Chở con đi một đoạn nhé."

Triệu Bạch Ngư lịch sự từ chối: "Phủ quận vương ngược đường với Triệu phủ."

Triệu Bá Ung: "Đi vòng thêm một vòng thôi mà."

Triệu Bạch Ngư: "Không cần đâu, đường từ Trần phủ về phủ quận vương không xa, ta đi bộ về cho tiêu cơm được rồi." Y chắp tay cáo từ, xoay người đi ngay, không nhìn thấy ánh mắt của Triệu Bá Ung ở sau lưng đã tối sầm xuống.

Bước được bảy tám bước rồi, Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên dừng lại, xoay người đưa lưng về phía ánh trăng, chắp tay với Triệu Bá Ung: "Về chuyện khuyên can bệ hạ từ bỏ việc lập Hoắc Kinh Đường làm thái tử, Tế chấp đã sẵn lòng tương trợ, hạ quan vô cùng biết ơn."

Giương mắt lên, y nhẹ giọng nói: "Ta cũng chịu ơn ngài."

Nói đến đây, Triệu Bạch Ngư nhanh chóng xoay người bước nhanh đi, không để cho Triệu Bá Ung có thời gian phản ứng.

Xe ngựa đứng giữa đường tắt, dưới ánh trăng trong suốt, Triệu Bá Ung nâng tay áo lên che mặt, khóc vì vui sướng.

***

Trước tết Trùng Cửu, trước cửa điện Văn Đức.

Hoắc Chiêu Vấn cầu kiến Nguyên Thú đế, cung kính đứng chờ trước cửa một hồi lâu, đại thái giám mới vội vàng chạy tới nói Nguyên Thú đế đang dùng bữa tại cung Phúc Ninh, lệnh cho hắn sang đó ngay.

Hoắc Chiêu Vấn không nói hai lời mà đi tới cung Phúc Ninh, bước vào trong liền vén vạt áo bào lên quỳ xuống cầu xin: "Bệ hạ, thần đã chuẩn bị hành lý xong xuôi, hai ngày nữa sẽ lên đường, đặc biệt đến đây chào tạm biệt."

"Chẳng phải sau tết Trùng Cửu mới đi sao?"

"Sau tiết này nhiệt độ sẽ thấp xuống, ông ngoại thần không đủ sức khỏe, chỉ sợ trên đường về Định Châu không chịu nổi rét lạnh, cho nên mới lên đường trước khi trời trở lạnh."

Lần này Trịnh quốc công về kinh, nhìn rõ thái độ của Nguyên Thú đế, thức thời trả lại binh quyền rồi từ quan, ông ấy đã sống ở biên cương nửa đời, vợ già cháu chắt đều sống ở đó, sau khi chào từ giả rồi mới đi cùng Hoắc Chiêu Vấn về Định Châu.

Về phần Trịnh Nguyên Linh, bởi vì là công thần, bản thân ông ta cũng có chiến công, phủ quốc công cũng đã yếu thế, Nguyên Thú đế không gây khó dễ nữa, chỉ tạm cách chức quan để khiển trách, qua hai năm nữa là có thể lên chức trở lại.

Trịnh Sở Chi thì ở lại phủ Kinh Đô, sẵn tiện chăm sóc cho Tần vương bị cấm túc.

"Lại đây, ngồi kế bên trẫm." Nguyên Thú đế bảo Hoắc Chiêu Vấn đến dùng bữa cùng mình, cẩn thận quan sát lão Lục, từ lúc hắn trở về ông đã xem hắn như một viên đá định bụng sẽ diệt trừ, chưa từng nghiêm túc nhìn hắn, bây giờ nhìn chú ý nhìn kĩ mới nhận ra đường nét khuôn mặt của hắn là giống ông nhất. "Vẫn còn oán giận trẫm sao?"

Hoắc Chiêu Vấn: "Thần không dám."

Hắn không hề xưng nhi thần và phụ hoàng, đôi bên bị ngăn cách bởi quân thần, cũng không còn quấn quít với ông nữa.

Nguyên Thú đế không tránh khỏi nuối tiếc, hiểu ra trong lòng hắn vẫn giận mình, im lặng dùng xong bữa ăn trưa mà cả hai bên đều không thoải mái.

Dùng bữa xong, trước khi Hoắc Chiêu Vấn đi, Nguyên Thú đế đột nhiên nói: "Tử Uyên có thể đoán được ván cờ mà trẫm sắp đặt, nó sẽ không để cho con và quý phi tự sát."

Tưởng chừng như bất chợt nói ra câu này, thực chất là đáp lại lời chất vấn của Hoắc Chiêu Vấn lúc ở Hoàn Khâu, hắn đã hỏi Nguyên Thú đế có phải ông thật sự không nghĩ rằng bọn họ sẽ tự sát hay không, khi đó không nhận được lời đáp, nhưng trả lời lúc này chi bằng không trả lời.

Hoắc Chiêu Vấn đưa lưng về phía Nguyên Thú đế, nở nụ cười trào phúng, hóa ra không nghĩ bọn họ sẽ tự sát là vì tin tưởng sự nhạy bén và hữu ái của Hoắc Kinh Đường sao?

Đúng là châm chọc quá mà.

Đến cùng thì tính mạng của hắn và mẹ ruột rõ ràng vẫn được gửi gắm vào sự bất công của Nguyên Thú đế đối với Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Chiêu Vấn bi thương chết tâm, hoàn toàn không còn chút tình cha con với Nguyên Thú đế nữa, quãng đời về sau chỉ còn tình quân thần mà thôi.

"Thần sợ hãi."

Nói xong, hắn rời đi không quay đầu lại.

***

Tết Trùng Cửu đến.

Sáng ngày ra phủ quận vương đã vẫy nước quét nhà trừ bụi, để không làm chướng mắt người khác, Hoắc Kinh Đường đã dẫn Triệu Bạch Ngư rời phủ từ sớm, hai người ra chợ dạo một vòng trước, rồi đến quán trà ngồi nghe kịch bản truyện vừa ra mắt, sau đó mới đến nhà bạn bè gần đó làm khách.

Phủ Khang vương "may mắn" được chọn trúng, hai người kề vai sát cánh đến phủ thăm hỏi, phát hiện trước cửa là hàng loạt xe ngựa chen lấn nhau chật kín như bưng, thấy tò mò bèn hỏi gia đinh dẫn đường.

Gia đinh nói: "Là các nhà quan lại quyền quý trong kinh đến phủ leo cao."

Lúc này Triệu Bạch Ngư mới chợt nhớ ra phủ Khang vương có một tòa tháp cao năm tầng, hình như năm đó khi xây phủ, toà tháp này đã được dựng nên bằng mọi sự đấu tranh và lí trí.

Mỗi một tấc đất ở trong kinh thành đều vô cùng đắt đỏ, diện tích xây phủ không có nhiều, vốn chẳng có đủ chỗ cho một tòa tháp năm tầng, vì vậy nên khi chọn nơi xây phủ, Khang vương đã cố tình chọn một nơi khá xa hoàng cung, thế là bị không ít người chê cười.

Cười ông chọn cái nhỏ bỏ cái lớn, nhưng mỗi năm cứ đến tết Trùng Cửu là người đến nhà thăm hỏi lại cực kì đông đúc, phần lớn là những người năm xưa cười nhạo Khang vương.

Lúc bước vào phủ, Triệu Bạch Ngư thoáng nhìn sạp hàng nhỏ được dựng lên trước cửa, bèn hỏi là để làm gì.

Gia đinh: "Cao đô tri phân phó, phải thu phí vào leo núi, phí trái cây... À, làm như vậy là để tránh những chuyện phát sinh ngoài ý muốn như có người hạ độc, hạ dược hại người khác liên lụy đến vương phủ ấy mà, Cao đô tri có ý dặn dò không được mang thức ăn bên ngoài vào."

Triệu Bạch Ngư: "..." Không hổ là Cao đô tri quản lý nội khố, sắp trở thành quái vật sọt tiền rồi, y tò mò không biết có còn ngày lễ nào khác mà Cao đô tri không ôm tiền hay không nữa.

Xuyên qua hành lang gấp khúc là có thể nhìn thấy hòn non bộ, hồ nước, mà tòa tháp kia ẩn náu giữa những hòn non bộ, đi vào con đường nhỏ giữa vô số ngọn núi giả là có thể nghe được tiếng ồn ào náo nhiệt trong tòa tháp xa xa, mơ hồ còn có tiếng hát, Triệu Bạch Ngư lập tức bỏ ý định đi vào tháp thưởng thức những thứ đó, cùng Hoắc Kinh Đường đi ngược lại, phát hiện bên hồ có mấy chiếc thuyền, thế là quyết định chèo thuyền du ngoạn trên hồ.

Theo luật thì tết Trùng Cửu là ngày nghỉ, sĩ tộc quan thân và cả học sinh đều được nghỉ, bấy giờ sẽ kết bạn leo núi, gộp nhóm đi hội đạp thanh, mở tiệc thưởng cúc, ăn bánh hoa ngọt, tụ tập uống rượu, say rồi thì thi ngâm thơ hoặc là vẩy mực vẽ tranh, hát hò khoe giọng, đến lúc giải tán thì sẽ lựa cánh hoa cúc mang về nhà, để cho người nấu rượu hoa cúc, chờ đến tết Trùng Cửu năm sau sẽ lấy ra uống, ngụ ý trường sinh, kéo dài tuổi thọ.

Triệu Bạch Ngư nằm trên thuyền nhỏ, dùng mu bàn tay chống cằm, hai mắt híp lại, ánh nắng mặt trời ngày hôm nay sáng dịu chứ không chói lóa, gió trên hồ khẽ lướt qua, kéo theo hơi ấm khiến cho tinh thần người ta say đắm.

Hoắc Kinh Đường thì nằm ngửa ở đầu bên kia nhắm mắt nghỉ ngơi, phơi bày dáng vẻ lười biếng ra, không ai muốn lên tiếng nói chuyện.

Bỗng nghe một tiếng rồn rột khẽ vang lên, Triệu Bạch Ngư mở mắt, nghiêng tai lắng nghe thì phát hiện ra đó chính là âm thanh phát ra từ bụng Hoắc Kinh Đường, y đá vào bắp chân hắn hỏi: "Chàng đói à?"

Hoắc Kinh Đường lời ít ý nhiều: "Ừ."

"Lên bờ ăn cơm thôi."

Hoắc Kinh Đường nằm sải lai: "Không muốn di chuyển."

Triệu Bạch Ngư: "Chàng định chết đói luôn hay sao?"

Hoắc Kinh Đường nằm im ru: "Chết đói luôn đi."

Triệu Bạch Ngư hừ một tiếng, vừa ngẩng đầu lên đã nghênh đón một luồng gió mát phả vào mặt, khắp người thư thái mềm mại, trùng hợp thay y cũng hơi đói, nhưng liếc nhìn thấy thuyền nhỏ đã cách bờ một khoảng xa, đột nhiên y cũng không muốn động đậy nữa.

Thế là lại nằm xuống.

Khang vương mãi mà không thấy hai người có mặt bèn chạy đến đây tìm, nhìn thấy chiếc thuyền nhỏ ở phía xa, ông gọi to: "Mấy cái đứa này ở trên thuyền làm gì đấy? Lằng nhằng lâu vậy, tiệc thưởng cúc đã diễn ra được một nửa rồi!"

Triệu Bạch Ngư đạp nhẹ Hoắc Kinh Đường một cái: "Gọi chàng kìa."

Hoắc Kinh Đường dùng chút nội lực lớn tiếng nói vọng lên bờ: "Ta và tiểu lang gặp chút rắc rối, đang bị kẹt ở đây rồi, mau tới cứu đi." Giọng điệu còn có hơi sốt ruột.

Khang vương hoài nghi nhưng vẫn cho người ra đó kéo thuyền của hai người vào bờ, phát hiện cả hai không nhúc nhích mới vội hỏi bọn họ đã xảy ra chuyện gì, bị cảm nắng hay là bị trúng độc.

Bỗng nghe thấy hơi thở mong manh Hoắc Kinh Đường, hắn đáp: "Đói bụng."

Khang vương sững sờ, vô thức nhìn về phía mái chèo trên thuyền nhỏ, lập tức hiểu ra, sau đó trợn mắt há miệng: "Tử Uyên thì thôi đi, hết cứu được nó rồi, nhưng sao ngũ lang con cũng học theo dáng vẻ lôi thôi bất cần của nó thế hả?"

Ông vô cùng đau lòng, sao Triệu Bạch Ngư trong sáng thanh cao lại có thể bị Hoắc Kinh Đường đồng hóa được chứ?

Nếu như đồng hóa rồi, về sau ông gặp người khác làm sao nói Triệu Bạch Ngư và ông học cùng một thầy được, làm sao có thể "lợi dụng" thanh danh của Triệu Bạch Ngư để thu được ý đồ giấu mà không bán trong tay đám văn nhân dầu muối không vào kia chứ?

Trong nháy mắt lòng ông sinh ra một ảo giác như thể trời vừa sụp xuống, Khang vương nhanh tay kéo Triệu Bạch Ngư lên quan tâm săn sóc một hồi, tung chân đá thuyền nhỏ ra xa, chỉ vào Hoắc Kinh Đường vẫn chưa chịu bò dậy nghiêm túc khuyên bảo: "Nghe Thập thúc nói này, nhất định đừng có học theo nó." Kéo tay người đi rồi, ông vẫn còn ngập ngụa trong mớ cảm xúc kia: "Đúng là gần mực thì đen mà, nếu không ngũ lang đến vương phủ ở một thời gian đi? Hoặc là đến chỗ Thập thẩm của con cũng được, trong phủ của ông ấy có rất nhiều trò vui, được chơi được ăn, ai đến ở Cao phủ rồi đều không muốn rời đi đâu..."

Triệu Bạch Ngư cong môi cười, vừa nghe vừa lặng lẽ quay đầu nhìn ra sau, Hoắc Kinh Đường uể oải theo sát phía sau, trông hắn giống hệt như quả cà thấm sương*, không nghe lọt tai câu mắng mỏ nào của Khang vương cả, rồi đột nhiên hắn giương mắt nhìn lại, bắt gặp ánh mắt của Triệu Bạch Ngư thì nhếch môi lên làm khẩu hình miệng nói: "Lải nha lải nhải, như bà buôn dưa vậy."

(*) Nguyên văn là [霜打的茄子]: câu ngạn ngữ này xuất phát từ phương Bắc. Mỗi khi cuối thu, nhất là sau khi tiết sương giáng (23 hoặc 24 tháng mười), đất phương Bắc vì nhiệt độ trong đêm hạ thấp mà trên thực vật kết một lớp sương mỏng, mà lúc này quả cà chưa hái (quả cà có chịu được nhiệt độ cao nhưng sợ lạnh) không chịu được sương lạnh kích thích khiến da bên ngoài nhăn nheo, câu này dùng để chỉ một người tinh thần uể oải không phấn chấn, phờ phạc, suy sụp, mất hồn...

Triệu Bạch Ngư sợ mình bật cười thành tiếng làm tổn thương Khang vương nên vội quay đầu lên phía trước.

Khang vương không dẫn bọn họ đến tòa tháp mà dẫn tới một nhà thủy tạ tương đối yên tĩnh, Cao đô tri đang chờ bọn họ trước cửa. Cửa vừa mở ra, tiếng đàn sáo, tiếng ca hát cười đùa đã truyền vào trong tai, đầp vào mắt đầu tiên chính là cả sảnh đường đầy cúc mùa thu, những khóm hoa như được dát thêm lớp vàng óng ánh, sáng bừng cả căn phòng.

Bước lên cầu thang đi lên trên lầu, nơi này còn có rất nhiều chủng loại cúc khác nhau nữa.

Cao đô tri ngắt một đóa hoa cúc tím cài lên tóc mai của Triệu Bạch Ngư: "Mới vừa nãy ta đã nghĩ, tết Trùng Cửu sao có thể thiếu trâm hoa được chứ? Cọ vẽ làm thơ, tóc xanh trâm hoa, thiếu niên vui đùa." Nhìn tới nhìn lui, ông nở nụ cười hài lòng, "Sáng nay ta mời đầu bếp của quán rượu đến phủ nấu món thịt dê hấp nhừ và cua thu, mới vừa lên món thôi, vẫn còn bốc hơi đấy."

"Quấy rầy rồi ạ, mong được thứ lỗi." Triệu Bạch Ngư nói lời khách sao, nhưng chân lại bước đi không dừng.

Khang vương nghe vậy mới cảm thấy dễ chịu.

Hoắc Kinh Đường tiện tay vỗ vai Khang vương: "Nhường đường chút, đừng có chắn cửa." Sau đó hắn quen cửa quen nẻo ngồi vào bàn, yên vị bên cạnh Triệu Bạch Ngư.

Trên bàn còn có Lê Yến Kỳ, Đỗ Công Tiên, Phạm Văn Minh cùng với Hạ Quang Hữu, vị Tri phủ Từ Châu ngày xưa nay đã được lên chức làm quan Kinh Đô, càng khiến cho người ta ngạc nhiên hơn nữa chính là Lư tri viện đang ngồi xếp bằng ở trên giường đối diện kia, ngồi xung quanh ông ta là ba bốn cử tử Quốc Tử Giám.

Triệu Bạch Ngư tìm kiếm một lượt, không thấy hai vị Trần Sư Đạo và Cao đồng tri, y liền biết ngay là hai ông không tới.

Cao đô tri cười nói: "Thật ra ta rất muốn mời họ, quan to tể tướng đến càng nhiều, chỗ này của ta mới có thể đông như trẩy hội, chỉ tiếc vị kia nhà ta cứ hễ nhìn thấy Trần thái sư là như chuột thấy mèo vậy."

Ông cầm chén trà mà tiểu đồng đưa tới, "Nếm thử đi."

Triệu Bạch Ngư nhận lấy, phát hiện trong chén có đầy bọt trắng che phủ, không khỏi sợ hãi thán phục: "Tay nghề giỏi." Người đương thời pha trà quý nhất là ở đám bọt trắng này, bởi lẽ mới nói "mực phải đen, trà phải trắng", "Là tay nghề của vị nào thế ạ?"

Hoắc Kinh Đường gõ gõ bàn, chỉ về phía Lư tri viện.

Triệu Bạch Ngư theo tiếng nhìn sang, thấy Lư tri viện đang cầm ấm trà, giống như lão tướng sa trường điểm binh, nước trà róc rách chảy vào tách nổi một tầng bọt trắng lên, váy dài nhấc lên cùng động tác, phong thái nước chảy mây trôi, vô cùng lưu loát.

Hạ Quang Hữu ngồi xéo trong góc vuốt râu thở dài: Bọt trắng trà hoa phủ chén ngọc, măng hao rau đắng hưởng mâm xuân..."

Tuy không có măng hao rau đắng, nhưng lại có cúc dại và tế thái* nấu cháo, tính ra cũng chẳng thua kém gì với măng non đầu xuân.

(*) Cây tể thái: tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu.

"Ý vị của thế gian chính là niềm vui đơn thuần."

Ngoại truyện 2 • Giấc mộng hoàng lương*

(*) Nguyên văn: Hoàng lương nhất mộng - 黄粱一梦 Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Chẩm trung ký" của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.

Min:Tui edit xong chương này từ mấy bữa trước ùi, nhưng muốn đính kèm thêm chương sau để cho liền mạch. Và cái gì nên đến cũng đến, plot twist ủn tới mung rồi kk, mấy bà đừng quên quả truyện củ chuối kia có đến hai kết cục, và cái kết ức chế mà mấy bà được biết từ đầu đến giờ chỉ mới là cái kết HE của cặp chính, MHN giấu kết BE tới cuối truyện mới tung nè píc cà bu ✌🏻

Thật ra tui cũng định viết thêm suy nghĩ của tui, mà tính tui lê thê lướt thướt dài dòng với sợ nói sai nữa nên thôi hjhj để sau vậy. Mấy bà cứ đọc rồi để lại suy nghĩ của mình cho tui góp dzui với nha. 💕

Dô ~~~

***

Sắc trời đột ngột thay đổi, cuồng phong vũ bão từ đâu kéo tới. lá xanh hoa hồng trong viện bị đánh dập tơi tả rơi khắp sân, gạch đá xanh từ màu xám trắng biến thành màu nâu đen, côn trùng cuộn mình dưới mớ rễ cây hoặc là trong khe hở của cửa sổ, chờ đợi cơn mưa tầm tã chiếm cứ cả nửa cuộc đời của chúng mau chóng kết thúc.

Bầu trời âm u, mây đen giăng kín, trời đất mênh mông sương mù.

Ma ma và hai nha hoàn rẽ từ một góc hành lang sang, xách váy chạy nhanh tới, một người xông vào nhĩ phòng đóng cửa sổ, ma ma và một nha hoàn khác thì mau chóng dọn mấy chậu mẫu đơn màu hồng phấn vào trong hành lang.

Cũng may kịp lúc, không để cho cơn mưa đột ngột làm hỏng những đóa mẫu đơn trị giá hàng trăm lượng vàng này.

"Cẩn thận một chút, đều là hoa tự tay lão gia trồng đấy, dặn xuống dưới nhất định phải chăm sóc cho kĩ, đợi đến tháng ba là có thể tổ chức tiệc mẫu đơn, để đón tiếp ngũ lang đến thưởng thức chứ." Ma ma rút khăn tay ra lau bùn đất dính trên bông mẫu đơn đi, đau lòng liên tục rầm rì: "... Đều là tâm huyết, tâm huyết tưới nước suốt sáu năm trời đấy."

"Tưới nước sáu năm trời, năm nào cũng mở tiệc, năm nào cũng mời, vậy mà chẳng năm nào đến..." Nha hoàn nói thầm một câu, nhưng lại không dám càn rỡ quá mức, "Ma ma có từng nghĩ đến chưa, có lẽ ngũ lang không thích mẫu đơn."

Ma ma: "Cô tưởng lão gia chưa từng thử mở tiệc ngắm mai, ngắm cúc hay sao? Triệu phủ chúng ta dù có lớn hơn nữa cũng không thể mở rộng đến nỗi xây được một vườn mai, nhưng chúng ta có thể đặt mua một cái ở ngoài, vấn đề là nuôi không sống được, tiệc ngắm cúc cũng giống y như vậy. Hơn nữa lão gia không muốn nhờ nghệ nhân mà nhất quyết tự tay trồng, đến mùa hoa nở nói một tiếng với bên ngoài như vậy, ai dám không nể mặt Tế chấp?"

Nha hoàn không ngờ trồng hoa là vì cớ này, "Nhưng mà ngũ lang cũng đâu có đến đâu."

Ma ma: "Ngũ lang nào có nhìn nhân quyền để thỏa hiệp chứ?" Bà hừ một tiếng, hơi bất mãn: "Lão gia thông minh tài trí nhưng lại luôn có hơi khuyết thiếu trước những chuyện liên quan đến cậu ấy."

Nha hoàn ngạc nhiên trừng mắt, ma ma thế này là đang đặt điều Tể tướng đại nhân sao?

Ngoài phòng, mưa tuôn không ngớt thấm ướt bùn đất, hoa lá rơi đầy sân, trong khi ở bên ngoài tiếng mưa rơi ồn ào, không khí trong phòng yên tĩnh đến lạ lùng, khói xanh trên bàn thờ lượn lờ, quanh co bay lên tháp hương trên nóc nhà.

Mõ khẽ kêu, tiếng vọng theo nhịp vang đều cùng với tiếng tụng kinh quanh quẩn bên tai, đèn cầu phúc nhấp nháy ánh lửa, trụ trì trong miếu bước đến bên cạnh phu nhân tể tướng, nói một câu vạn phúc trước, sau đó nói 'A di đà Phật'.

Phu nhân tể tướng có phong thái khoan thai điềm đạm, hỏi thăm mệnh số của con trai nhỏ nhà bà.

Phủ Kinh Đô này không ai không biết con trai út nhà tể tướng là kim tôn ngọc quý, chỉ hơn chứ không hề kém cạnh các hoàng tử vương tôn, đến Hoàng đế Thái hậu cũng yêu thương cậu, các hoàng tử cũng chiều chuộng cậu, có thể nói là số mệnh tốt nhất trong thiện hạ rồi.

Trụ trì nói đúng sự thật, lựa thêm vài lời hay đắp vào, tất nhiên nhìn thấy tâm trạng của phu nhân tể tướng trở nên vui sướng.

"Phựt" một tiếng, khi phu nhân tể tướng bước ra cửa đại điện, vòng Phật cầu phúc trong tay đột nhiên đứt đôi, trong mắt người tin Phật, dù thế nào đi nữa thì cũng đều là điềm báo chẳng lành.

Trụ trì vội nói: "Vòng Phật bồ đề này ngày đêm được thờ cúng hương khói, đã có linh tính, bỗng nhiên bị đứt có lẽ là để ngăn cản tai họa cho chủ nhân, là chuyện tốt."

Phu nhân tể tướng nhẹ nhàng thở ra, nhưng trái tim chợt như rơi xuống nặng trịch, ra khỏi cổng chùa Tướng Quốc, chuẩn bị lên xe ngựa, bà thoáng nhìn thấy có một trận tranh cãi đang diễn ra ở quán trà cách đó không xa, tìm hiểu thử mới biết có một gã ăn mày uống trà không trả tiền mà nhất quyết đòi đoán mệnh để gán nợ, tính ra được không phải số tốt, chọc giận chủ quán trà, ông chủ chẳng màng quan tâm người ngoài khuyên can, định dạy dỗ gã ăn mày một trận.

"Nơi cửa Phật đừng nên tranh cãi, chớ làm phiền sự thanh tĩnh nơi này, đi lấy chút tiền trả cho ông chủ quán trà đi."

Nói xong lên xe, nhắm mắt nghỉ ngơi, không hiểu sao trong ngực phu nhân tể tướng dâng lên một nỗi bất an lo sợ, đột nhiên xe ngựa dừng lại, người đánh xe quở mắng hai câu, nhưng nghe rõ ngọn nguồn rồi mới biết hóa ra người cản đường kia chính là gã ăn mày được giải vây lúc nãy, nói là sẽ tính cho quý nhân một quẻ để báo ơn.

Mạng của bà sao có thể để cho kẻ khác tùy tiện tính toán chứ?

Phu nhân tể tướng lệnh cho người đuổi đi, nhưng không biết vì cớ gì mà tên ăn mày vẫn cứ bám rịt lấy, bị sự bất lực ép buộc, bà đành phải đứng ra nhẫn nại nói: "Ta không muốn đoán mệnh, xin tiên sinh hãy nhường đường cho."

Thầy tướng luộm thuộm như ăn mày vừa nhìn thấy mặt phu nhân tế tướng thì sững người trong nháy mắt, gọi thẳng: "Lão phu đã từng đoán mệnh cho bà rồi."

Phu nhân tể tướng đang chuẩn bị quay về xe ngựa nghe vậy thì nói, "Ta chưa từng gặp ông."

Thầy tướng: "Nếu nói chính xác thì là vào hai mươi sáu năm trước, ta đã đoán mệnh cho bào thai trong bụng bà."

Con trai bà ư? Lòng phu nhân tể tướng khẽ dao động, tò mò hỏi: "Chẳng phải thầy tướng các ông chỉ xem ngũ quan người, vân tay và ngày sinh để đoán mệnh à? Còn có thể tính được mệnh của thai nhi chưa ra đời nữa sao?"

"Số mệnh của trẻ con gắn bó chặt chẽ với mệnh của cha mẹ, ta đoán mệnh của đứa trẻ, cũng là đoán mệnh của bà."

Phu nhân tể tướng cảm thấy hứng thúc, khóe môi cong lên: "Vậy số mệnh của con trai ta như thế nào?"

"Thân duyên cạn, lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái, không thể chết già."

Thoáng chốc mặt phu nhân tể tướng trở nên lạnh lùng, giận dữ thét lên: "Đuổi ông ta đi!"

Không đợi người đánh xe nhảy xuống, thầy tướng già đã lảo đảo đi xa, nhưng dường như cũng chỉ trong chớp mắt, ông ta độn thổ biến mất giống như thần tiên, người đánh xe hoảng sợ dụi mắt, còn lồng ngực của phu nhân tể tướng thì lan tràn nỗi hỗn loạn mất kiểm soát.

Bà nghĩ, sao thân duyên có thể cạn được chứ?

Cha mẹ cưng chiều, anh em thân thiết, ai mà chẳng biết con trai út nhà họ Triệu được nhận vô vàn thương yêu?

Lớn lên trong gấm vóc rực rỡ, sao có thể chịu lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái được chứ?

Chú trọng điều dưỡng cơ thể nhiều năm trời đã biến thiếu niên lang hoạt bát khỏe khoắn trở thành một quân tử chững chạc đoan chính, làm sao mà không thể chết già được?

Phu nhân tể tướng siết chặt vòng Phật cầu phúc đã cầu lại, mặc kệ nỗi hỗn loạn trong lòng, quay về Triệu phủ, ma ma trong phủ đến báo cáo chuyện trong phủ, đến lúc sắp kết thúc bỗng nhiên nói một câu: "Ngũ lang chết rồi."

"Ai?" Phu nhân tể tướng phản ứng rất mạnh.

Ma ma sững sờ, sau đó mới nói Ngũ lang gả đến phủ quận vương đã chết rồi.

Y? Phu nhân tể tướng trố mắt hồi lâu mới hỏi: "Vì sao lại mất?"

"Hôm nay y bỗng nhiên ra tay trên đường chợ đông đúc, ý đồ dùng kim độc mưu hại tứ lang, bị một vị cao thủ chặn đường kim đi đẩy ngược trở lại, trúng ngay giữa họng, tắt thở bỏ mạng, thân bại danh liệt."

"Gieo gió gặt bão." Phu nhân tể tướng chỉ nói một câu, bà nhìn ra cảnh xuân tươi đẹp bên ngoài phủ, lồng ngực bỗng nhiên trống vắng.

Im hơi lặng tiếng chết đi trong ngày xuân ấm áp, vẫn còn chưa kịp đi hội đạp thanh, cùng người thả rượu trôi sông*, thật ra có hơi đáng tiếc.

(*) Nguyên văn là Khúc thủy lưu thương - 曲水流觞: là một phong tục TQ có từ đời nhà Chu. Vào đầu tháng 3, mọi người ngồi hai bên bờ dòng nước và thả những chén rượu xuống, chén trôi tới ai thì người đó uống.

Mới hai mươi sáu, còn trẻ quá.

Một lát sau, bà lại hỏi: "Cao thủ cứu tứ lang là ai?"

Ma ma tỏ vẻ khó xử, do dự một hồi mới nhỏ giọng nói: "Là Lý Đắc Thọ."

"!" Đồng tử phu nhân tể tướng co rút nhanh, quá khứ khó coi không chịu nổi lại gào thét cuồn cuộn ập đến, trong nháy máy bao trùm lấy bà, khiến cho bà hít thở vô cùng khó khăn: "Bà ta về rồi sao?"

Ma ma gật đầu.

Phu nhân hồn bay phách lạc đi về phía trước, bước xa mười thước rồi mới hoàn hồn: "Bà ta có biết thân phận của tứ lang không?"

Ma ma: "Hẳn là biết đấy ạ, khi đó Đông cung đang đi cùng tứ lang, nhận ra Xương Binh đang ngồi trên xe ngựa, còn lên tiếng chào hỏi nữa."

Phu nhân tể tướng siết chặt tay ma ma, "Lúc đối mặt với tứ lang, bà ta phản ứng ra sao?"

Ma ma mới lại cảnh tượng lúc ấy: "Bình tĩnh lắm, trầm tính hơn Xương Bình của ngày xưa nhiều... À đúng rồi, bà ta còn nói một câu 'Đây là con trai nhỏ mà Triệu tế chấp yêu thương tận trời đấy à?' rồi không nói thêm gì nữa."

Phu nhân tể tướng thấp giọng lầm bầm: "Bà ta ở Lưỡng Giang hai mươi sáu năm, làm sao vừa thấy mặt tứ lang đã biết thân phận của nó được? Người ngoài đều gọi nó là tứ lang, nhưng mà trước đây nó thứ năm, chỉ mới đổi cách đây vài năm thôi mà, người bị giáng chức đến Lưỡng Giang sao có thể biết rõ ràng như vậy? Chẳng lẽ giờ phút nào bà ta cũng để ý đến động tĩnh trong Kinh Đô à? Nhưng người của bà ta ở đâu ra?"

Bà cúi đầu vội vàng chạy đi, lúc bước vào chủ viện, toàn thân phu nhân tể tướng sững lại, sắc mặt ngây ra nhìn chằm chằm xuống đất, tuyệt vọng và đau đớn thoáng vỡ vụn trong đáy mắt, cùng với đó là vẻ trốn tránh khó mà chấp nhận được.

"Ngũ lang đột tử đầu đường, thân bại danh liệt, bị người thân bỏ rơi, không ai sẵn lòng nhặt xác cho y cả."

Thầy tướng già nói, con trai út của phu nhân thân duyên cạn, lắm tai ương, không thể chết già.

"Nếu như đã biết rõ thân phận, con ruột chết thảm, còn là chết vì con trai của người phụ nữ mà bà ta hận nhất, vì sao Xương Bình vẫn thờ ơ? Tâm phúc của bà ta, vì để cứu con trai của tình địch mà giết chết con trai của bà ta, vì sao! Chẳng mảy may quan tâm!"

Biểu cảm của phu nhân tể tướng dần trở nên dữ tợn, hai mắt đỏ quạch, gân xanh nổi đầy trên trán và cổ, nỗi sợ hãi thúc giục bà nhắm chặt mắt ngăn chặn ánh sáng, nhưng cơn phẫn nộ trước nay chưa từng có ép bà tiếp tục bước đi, dù con đường phía trước chính là con đường vạn kiếp bất phục.

***

Sấm sét rền vang xé rách bầu tròi u ám, chiếu sáng tất cả mọi người trong phòng khách.

Mặt mày của phu nhân tể tướng, Tế chấp và ba đứa con trai của bọn họ đều trắng bệch, ngọn nến lập lòe, nhảy nhót phản chiếu trong ánh mắt, dấy lên ngọn lửa hận thù trong lòng.

Triệu nhị lang đặt những chứng cứ phạm tội của Xương Bình công chúa mà hắn tra được suốt bao năm qua lên bàn, một trong những chứng cứ phạm tội kéo dài suốt hai mươi sáu năm trời đã được đưa ra ánh sáng, cuối cùng cũng nhìn thấy mặt trời, nhưng người chịu đủ mọi oan khuất đã an nghỉ lòng đất từ lâu, bị người thân ghét bỏ, ngậm oan mà chết trong lời khinh bỉ của muôn người.

Tạ thị nghe thấy Triệu nhị lang nói: "Ít nhất mười năm trước, Triệu Ngọc Tranh đã biết rõ thân phận của mình, Xương Bình công chúa luôn đưa tử sĩ tới bảo vệ cho nó. Ngũ lang vốn không thể nào làm tổn thương nó. Ngũ lang muốn tham gia khoa khảo, bị người được Triệu Ngọc Tranh một lòng nịnh nọt cố tình đẩy thứ hạng xuống, bởi vị kích động, xúc động quá mức cho nên mới có ý định ra tay trên phố, ý vốn là muốn làm ngựa hoảng sợ, dạy dỗ Triệu Ngọc Tranh một chút mà thôi. Không ngờ, bỏ cả mạng."

Sự thật đổi con bị phơi bày ra trước mặt người nhà họ Triệu, con trai út thật của bọn họ lúc còn sống nghe theo vận mệnh, không thể chết già, trái lại hai mẹ con tu hú chiếm tổ chim khách kia lòng tham không đáy, lòng dạ rắn rết, giờ đây phong quang vô hạn.

Nếu như con trai út thật không phải đau khổ cả đời, nếu như Triệu Ngọc Tranh không phải đã biết trước chuyện này mà không báo cáo, yên tâm thoải mái hưởng thụ tất cả mọi thứ không thuộc về cậu, còn ra tay hãm hại ngũ lang, nếu như không biết được những chi tiết và sự thật bị bao phủ suốt hai mươi sáu năm này từ sớm, có lẽ bọn họ vẫn sẽ bị ràng buộc bởi hai mươi sáu năm chung sống, có lẽ sẽ đau lòng vì tình cảm không trọn vẹn mà rơi vào tình thế khó lựa chọn, nhưng sự thật là lòng chân thành và số mệnh của bọn họ đã đều bị hai mẹ con ác quỷ kia chà đạp, sự thật là cuối cùng, đứa con trai út vô tội thế thân Triệu Ngọc Tranh đã phải gánh chịu sự ghét bỏ, khắt khe của bọn họ, cuối cùng chết thảm đầu đường.

"Con trai của mẹ đã làm sai điều gì?" Trong lòng Tạ thị tràn ngập câu hỏi: "Sao lòng người lại có thể ác như vậy?"

Khi ấy lệ đã rơi đầy mặt bà, nhưng bà vẫn dửng dưng như thể chưa phát hiện ra.

***

Phủ Lâm An quận vương thu giữ thi thể của ngũ lang, chọn cho y một nơi non xanh nước biếc tươi đẹp, không ai ngờ rằng người nhặt xương cho người kia lại là Lâm An quận vương tàn bạo không chịu nổi trong lời đồn.

Ngũ lang nhập liệm không bao lâu, Lâm An quận vương cũng biến mất.

Binh Tây Bắc thất bại, Đại Cảnh hòa đàm, Lai sứ Đại Hạ đến đòi bồi thường, mà vào đêm cung yến, nghịch đảng Lưỡng Giang đã trà trộn vào đoàn mua hát kịch với ý đồ hành thích, Lai sứ Đại Hạ suýt nữa bị hại, là nhờ Triệu Ngọc Tranh cản giúp hắn một đao.

Xương Bình lỡ miệng nói ra sự thật.

Bấy giờ người bên ngoài mới biết màn đổi con sóng gió này, không hẹn mà cùng tò mò phản ứng của người nhà họ Triệu thế nào.

Không có chuyện gì bất ngờ xảy ra, hiển nhiên là người nhà họ Triệu nổi trận lôi đình, từ chối gặp Triệu Ngọc Tranh, nhưng có Thái hậu và bệ hạ chu toàn từ bên trong, hơn nữa Triệu Ngọc Tranh không quỳ gối nổi, cơ thể mỏng manh, cuối cùng tình thân nhiều năm cũng chiếm thế thượng phong, người nhà họ Triệu lại chấp nhận Triệu Ngọc Tranh lần nữa, vẫn cưng chiều cậu như trước, cũng vì thế mà tha thứ cho tất cả mọi hành động của Xương Bình năm xưa.

Quan hệ không thể nói là hòa thuận, nhưng hiềm khích lúc trước đã tiêu tan rồi.

Người đứng ngoài phủ Kinh Đô nhìn vào, thấy Triệu Ngọc Tranh bây giờ trước có bệ hạ, Thái hậu và Đông cung sủng ái, sau có cả nhà Tể tướng cưng chiều, hôm nay lại có thêm một Xương Bình công chúa nữa, thân phận càng trở nên nóng bỏng tay, nào ai dám đắc tội?

Tất nhiên là chỉ chúc mừng ngoài mặt, trong lòng lại cảm thấy tội nghiệp cho Triệu ngũ lang không ai hỏi thăm kia.

***

Đông cung và Xương Bình bắt tay nhau, còn có người nhà họ Triệu giúp đỡ hết sức nên đánh bại chỗ dựa của Lục hoàng tử là phủ Trịnh quốc công một cách dễ dàng, giữ vững vị trí Thái tử cho Đông cung.

Mùa xuân năm sau, Nguyên Thú đế bị gió tà nhập vào người, sức khỏe chuyển biến đột ngột, không tới hai tháng đã băng hà.

Đông cung đăng cơ làm vua, khi Thái tử phi đã mang thai sáu tháng, lợi dụng lý do không được chịu vất vả mà dời đại điển phong hậu về sau, cuối cùng Thái tử phi qua đời vì sinh khó, cũng may đã thuận lợi hạ sinh một vị hoàng tử.

Cuối năm đó, khi xương cốt Thải tử phi hãy còn chưa lạnh, tân đế đã lập tức cùng Xương Bình và một nhà Triệu tế chấp kiệt lực bác bỏ mọi nghị luận không cùng ý kiến, phong Triệu Ngọc Tranh làm nam hoàng hậu đầu tiên của Đại Cảnh.

Mùa xuân năm thứ ba, đại điển phong hậu được cử hành như thường lệ, đầu tiên là sắc phong, sau đó nhận sách bảo, sau đó để cho các quan lại dâng tấu chương chúc mừng, cuối cùng là đến thái miếu yết kiến liệt tổ liệt tông, quá trình này diễn ra đã khiến cho đại điển sắc phong càng thêm long trọng.

Hậu vị của người phụ nữ tôn quý nhất thiên hạ này cứ thể rơi vào tay một người đàn ông, không ai dám bàn đến sự hoang đường ấy, những người phản đối đều bị lấy cớ diệt trừ, nhưng kẻ có quyền thế nhất vương triều này bắt tay nhau tạo ra chốn đào nguyên cho Triệu Ngọc Tranh, dường như không có chút giới hạn nào, điên cuồng yêu thương một mình cậu.

Không biết có bao nhiêu người vô cùng ngưỡng mộ và ghen tị với Triệu Ngọc Tranh, nhưng sau lưng lại cảm thấy khó hiểu, Đông cung và Xương Bình thôi đã đủ rồi, vì sao mà người nhà họ Triệu cũng thay lòng như điên, toàn tâm toàn ý yêu thương ly miêu giả dối thế kia?

Tất cả những khúc mắc ấy đã có được đáp án vào ngày đại điển sắc phong diễn ra không lâu sau đó.

Lâm An quận vương mất tích đột nhiên cử binh tạo phản, dẫn theo thiết kỵ Đường Hà dũng mãnh thiện chiến vào như đến chốn không người, xuất hiện trong đại điển sắc phong ép buộc tân đế thoái vị.

Đế hậu lo lắng không thôi, Xương Bình thét ra lệnh cho Lư tri viện nắm trong tay Cấm quân và Triệu gia đại lang bắt Lâm An quận vương lại, nhưng ngạc nhiên phát hiện ra người nhà họ Triệu, bao gồm cả Lư tri viện và một đám đại thần đều đứng về phía Lâm An quận vương, dùng thái độ lạnh lẽo nhìn bọn họ.

Tân đế giận dữ, gào lên: "Các ngươi dám tạo phản à? Một đám bất trung bất hiếu bất nhân bất nghĩa, triều thần Đại Cảnh ta sao có thể là hạng người trộm cắp không chịu khuất phục như các ngươi chứ?"

Lâm An quận vương lần vòng Phật của hắn, cười như không cười liếc nhìn bọn họ, không nói một lời nào, đã có triều thần nhẫn nhịn từ lâu bước lên lột tấm da mặt giả tạo của bọn họ ra.

Trên mặt Lư tri viện tràn đầy sát ý, vạch trần âm mưu hợp tác hãm hại con gái ông của Đông cung và Xương Bình, nói cách khác là Thái tử phi đã bị ép nhường lại hậu vị cho Triệu Ngọc Tranh, trong khi Triệu Ngọc Tranh biết rõ mọi chuyện mà chẳng hề nói gì!

"Nham hiểm độc ác, lòng dạ quỷ quyệt, có thể làm vua một nước hay sao? Nối giáo cho giặc, lời lẽ xảo trá, giả vờ câm điếc, hào nhoáng bên ngoài, có thể là mẫu nghi một nước hay sao? Thần tử trung quân, nhưng là phải trung với vị vua nhân nghĩa!"

Triệu Bá Ung lộ vẻ bình tĩnh, nhưng nếu nhìn kỹ vào mắt ông là sẽ thấy được sự điên cuồng ngọc nát đá tan bên trong, cơn điên cuồng này cũng tràn ngập trong lòng của những đứa con nhà họ Triệu, kèm theo sự thôi thúc khiến cho bọn họ không sợ gánh bêu danh mưu triều soán vị, lại càng không sợ tiếng xấu vang xa muôn đời, phải phanh thây xé xác đám ác quý hại chết ngũ lang mới có thể khiến cho ngọn lửa không thể dập tắt trong lòng bọn họ lắng xuống.

Ông lấy những vật chứng chứng minh mà mình mang theo trong người ra, đứng giữa sảnh đường lên án tân đế bắt tay với Xương Bình mưu hại tiên đế, chứng cứ phạm tội vô cùng chính xác, không thể chối cãi.

"Là một người bình thường vô năng, phàm có một chút nhân từ, khắc sâu câu trung quân ái quốc vào trong xương cốt, thì bá quan văn võ có ai không ủng hộ ngươi?"

Triệu Bá Ung mặc kệ Xương Bình, bước tới gần bóp lấy khuôn mặt xinh đẹp tỏ ra vô tội của Triệu Ngọc Tranh, cố kìm chết đễ không bóp chết cậu mà gân xanh nổi đầy tay: "Triệu Ngọc Tranh, đến cùng là người nhà họ Triệu ta đã làm gì có lỗi với ngươi? Từ nhỏ đến lớn, ngươi muốn cái gì mà không có được? Cả nhà từ trên xuống dưới đều nâng niu ngươi trong lòng bàn tay để mà yêu thương, không cầu ngươi phải hồi đáp ngang bằng, nhưng ít nhất cũng phải để lại cho bọn ta một chút nhân từ chứ! Ít ra ngươi có thể đối xử tốt với ngũ lang một chút, một chút thôi cũng được... Nhưng ngươi đã làm cái trò gì đây? Ngươi ngày càng tệ hơn, hãm hại nó, hai lần thay mận đổi đào giá họa lên đầu nó, đã như vậy rồi mà ngươi vẫn còn không chịu buông tha cho nó, ngươi khiến cho nó, khiến cho nó chết trong tuyệt vọng, đau đớn! Sao ngươi có thể? Bọn ta nợ ngươi thứ gì, mà ngươi lại muốn trả thù lên người vô tội nhất? Tất cả mọi thứ của thằng bé đều đã bị ngươi cướp đi rồi, vì sao đến cả cơ hội sống ngươi cũng muốn cướp đi chứ?"

Biểu cảm của Triệu Ngọc Tranh từ đau đớn, bi thương trở thành giễu cợt, khó khăn thốt ra từng chữ: "Ta... Ta biết ngay mà, một khi thân thế bị vạch trần, các người, các người sẽ không yêu thương ta nữa... Ta biết mà! Muốn trách phải trách các ngươi quá thiên vị ta, ta sợ... ta sợ mất đi nó."

Trái tim Triệu Bá Ung đau đớn tựa như bị bóp chặt, trong nháy mắt vô cùng ngỡ ngàng luống cuống, hóa ra là vì quá thiên vị Triệu Ngọc Tranh nên mới khiến cho cậu ra tay với Triệu Bạch Ngư sao? Tất cả những điều bất công làm tổn thương ngũ lang, là nguồn gốc nguyên nhân dẫn tới cái chết của y sao?

Đến cùng là bọn họ đã làm những việc gì, mà mỗi một chi tiết nhớ lại thì phát hiện tất cả đều là bằng chứng ép chết ngũ lang chứ?

Người hại chết ngũ lang không chỉ có Xương Bình, Triệu Ngọc Tranh, mà còn có cả những kẻ tự xưng là người nhà như bọn họ nữa!

Trong nháy mắt Triệu Bá Ung như bạc đầu, không còn chút khí phách nào, mãi mãi hổ thẹn trong lòng.

***

Tạ thị không màng quan tâm những lời khuyên can mà đào phần mộ của ngũ lang lên, mặc kệ Lâm An quận vương có mỉa mai tình yêu chậm trễ của bà, nói rằng tình yêu đó vẫn là sự tổn thương đối với con trai út nhà họ Triệu, chết rồi vẫn không chịu để người ta yên, thật sự là sống chết vẫn thiếu nợ bọn họ.

... Không, ngũ lang không thiếu nợ bọn họ, là bọn họ mắc nợ ngũ lang!

Tạ thị đưa thi thể của ngũ lang về phủ, mời các cao tăng đạo sĩ đến tu cho y một kiếp sau tốt đẹp, bà không tiếc cho đi phúc phần mười đời của bản thân, nhưng những cao tăng đạo sĩ kia chỉ biết tụng kinh mà thôi.

"Chỉ biết tụng kinh thôi à!" Tạ thị ngày đêm không nghỉ, tiều tụy không sao chịu được, bà sao chép kinh văn, đốt không biết bao nhiêu chậu, "Vì sao chì biết tụng kinh! Ta chỉ là muốn chuộc tội, muốn con trai ta kiếp sau được viên mãn, ta không làm hại ai, vì sao đến chút việc nhỏ ấy cũng không làm được?"

Người nhà họ Triệu muốn khuyên bà tỉnh táo, nhưng cảm giác tội lỗi to lớn ấy đã làm cho bọn họ bị choáng ngợp, tìm kiếm hồi ức suốt hơn hai mươi năm qua, những ký ức có liên quan đến ngũ lang đều khiến lòng người nguội lạnh, bọn họ nhìn khuôn mặt trắng nhợt không chút sức sống, cô đơn đáng thương trong quan tài, sao có thể an lòng cho được?

Tinh thần khó an, cho nên cũng mù quáng giống như Tạ thị chạy đi tìm người đắc đạo, cũng muốn dành phần phúc dời sau của mình cầu cho ngũ lang có được kiếp sau viên mãn.

Bọn họ nói kết cục bi thảm của Triệu Ngọc Tranh cho Tạ thị nghe, khi ấy Tạ thị đã vuốt ve tóc mai của ngũ lang, nghe vậy thì im lặng hồi lâu, sau đó mới nói ra một câu làm lòng người vỡ nát: "Nhưng mà con trai nhỏ của mẹ chết rồi."

"Triệu Ngọc Tranh mắc nợ có thể bị trừng phạt, còn mẹ cũng mắc nợ, mẹ phải trả lại như thế nào đây?"

Triệu Bá Ung dùng hết toàn lực để tìm kiếm vị thầy tướng già mà ông chỉ mới gặp được một lần, cuối cùng cũng tìm được thầy tướng tóc trắng xóa ấy, ông ta vẫn giữ nguyên dáng vẻ của mấy chục năm trước, không thấy già yếu đi, liền biết đó là thần tiên thật.

Ông cứ cầu xin thầy tướng già mãi, nguyện dùng công đức phúc phần đổi lấy kiếp sau trọn vẹn cho con trai út.

Thầy tướng già thở dài: "Không có duyên phận không thể tụ họp, không có nợ nần không thể đến, duyên tụ duyên diệt đều bắt đầu từ một ý nghĩ mà thôi. Duyên cạn mệnh ngắn, số mệnh đã thế, cưỡng cầu cũng vô ích, chi bằng buông đi."

Dù có khẩn cầu như thế nào đi nữa, thầy tướng già cũng không đồng ý ra tay đổi mệnh, không lâu sau đó liền biến mất.

Về phần người nhà họ Triệu, bọn họ tự thẹn trong lòng, không quên việc ấy, cả đời cũng không bỏ xuống được.

Cơn mưa rào mùa xuân khiến cho hoa lá rơi rụng đầy sân, tiếng tụng kinh gõ mõ trong một góc phủ tể tướng vang lên không ngừng nghỉ, nhang khói lượn lờ, thanh đăng được đốt lên, ngoài phòng vang vọng tiếng nói liên miên của ma ma và các nha hoàn, gọi một tiếng: "Cẩn thận hoa trong hành lang kìa!", thoáng chốc bừng tỉnh khỏi giấc mộng hoàng lương.

Chuỗi hạt bỗng nhiên đứt đoạn, hạt bồ đề lọc cọc rơi xuống đất, người trên giường mở mắt ra, lệ rơi lã chã.

"... Là mơ sao?"

Sao lại chân thật thật như thế?

Là kiếp trước kiếp này, hay là kiếp này kiếp sau?

Bà đang ở trong giấc mộng nào? Giấc mộng hoàng lương ấy là thế giới nào?

Nếu như phải chọn một thế giới giấc mơ mà ở đó không phải thức dậy, bà chỉ mong mình được ở lại nơi này mãi mãi.

Dẫu cho trăm năm không nhận nhau, ít ra con trai nhỏ của bà vẫn còn sống, sống rất tốt, dù vui dù buồn vẫn luôn có người bên cạnh làm bạn, không lẻ loi hiu quạnh, mộ phần hoang vắng như kiếp trước.

***

Phủ Lâm An quận vương.

Từ khi Hoắc Kinh Đường khôi phục lại thân phận Đại hoàng tử, phẩm cấp cũng đã được thăng từ Quận vương lên thành Thân vương, gọi là Lâm An vương.

Cơn mưa ngày xuân liên miên không dứt, vạn vật trong trời đất đều không muốn động đậy, đương nhiên con người cũng ham lười biếng, lại trùng hợp vào ngày nghỉ phép, Triệu Bạch Ngư dứt khoát làm ổ trong phòng làm việc ở phủ, ăn trưa xong bèn di chuyển đến giường gần cửa sổ đọc thoại bản một lát, lắng nghe tiếng mưa rơi theo tiết tấu mà chìm vào giấc ngủ.

Nén nhang trên bàn đã được đốt lên, tro nhang chất đống bên cạnh lư hương, nha hoàn đã vào thay bốn nén nhang rồi. Một nén nhang đốt nửa canh giờ, bây giờ đã hai canh trôi qua, sắc trời tối xuống, mưa cũng đã ngừng rơi, bầu trời như được khoác tấm áo mới, hương thơm bùn đất và hoa cỏ tràn ngập trong không khí, côn trùng nhao nhao bò ra hít khí trời.

Tiểu tư bên ngoài nhỏ giọng hỏi: "Ngủ bao lâu rồi?"

"Hai canh giờ, chưa từng lâu như thế, chắc là mệt muốn chết rồi. Bảo mọi người thả lỏng nghỉ ngơi đi, cơ mà cá, ếch bên ngoài chắc đã tụ đầy ở hồ nước rồi đấy, mưa vừa ngớt là kêu ộp ộp không ngừng."

"Đã gọi người đến đó xem rồi ạ."

"Mang hoa dưới hành lang ra vườn lại đi... Mang từng chậu đi thôi, buổi tối sẽ không mưa nữa đâu."

Lúc này có một loạt tiếng bước chân dồn dập đi tới, người nọ thấp giọng nói: "Phu nhân tể tướng đến rồi, Hải tổng quản đang ở nhà trước tiếp đón đấy."

"Là vị nào... Triệu phu nhân hả? Biết rồi, ta sẽ vào phòng đánh thức Triệu đại nhân ngay."

Một lúc sau, có tiếng cọt kẹt vang lên, có tia sáng lọt vào trong phòng, tiếng bước chân nhẹ nhàng đi tới chiếc giường cạnh cửa sổ, người nọ vừa định lên tiếng đã thấy Triệu Bạch Ngư mở to mắt, đôi mắt sáng trong, trông chẳng giống như ngái ngủ chút nào cả.

"Đại nhân tỉnh từ khi nào thế ạ?"

"Mới vừa tỉnh thôi." Triệu Bạch Ngư đứng dậy khoác thêm áo choàng, vừa mang giày vừa hỏi: "Triệu phu nhân có nói vì sao lại đến nhà thăm hỏi không?"

Tiểu tư đáp: "Chỉ nói muốn đến thăm ngài thôi."

Triệu Bạch Ngư đi ra ngoài, đột nhiên quay đầu lại nhìn về phía thứ ánh sáng xua tan bóng tối ở gần giường, bên cạnh lư hương vẫn còn lưu lại một luồng khói xanh, trong sương khói tựa như cất giấu mộng cảnh hoang đường kì lạ vừa nãy.

Sắc mặt thoáng xuất hiện sự hốt hoảng, Triệu Bạch Ngư xoay người lại, "Đi thôi."

Lời tác giả:

Ban đầu 'Triệu Bạch Ngư' và bé Cá là cùng một nhân vật, có chung số phận nhưng không chung đường vận mệnh, có thể xem nhân vật trong nguyên tác là giả, cũng có thể xem 'Triệu Bạch Ngư' trong nguyên tác là nhân vật ở thế giới song song, đã đầu thai chuyển kiếp.

Trong nguyên tác, người nhà họ Triệu đã thật sự dùng phần phúc của mình để đổi cho 'Triệu Bạch Ngư' ở thế giới kia có được một kiếp sau viên mãn, đôi bên coi như hết duyên.

Mà người nhà họ Triệu và bé Cá ở thế giới này thì đã là ở một đường vận mệnh khác rồi.

Ngoại truyện 3 • Chợt mơ chuyện thiếu niên

Khói xanh lượn lờ, tiếng Phật mịt mù.

Triệu Bạch Ngư cất hai tay vào trong tay áo, rũ mắt phục tùng giống như một du hồn bước đi trên hành lang khúc khuỷu, ánh mắt thoáng liếc sang hai bóng người đang nói chuyện trong sân nhà.

Y giương mắt nhìn lên, thấy một người tóc bạc trắng trôi lôi thôi lếch thếch, người còn lại thì mặc thường phục, lưng thẳng tắp, mái tóc cũng trắng xoá, đang nói chuyện với người lớn tuổi lôi thôi kia.

Y ến gần nghe thử, "... Không tiếc đại giới, chỉ cầu cho ngũ lang tu được kiếp sau viên mãn." Giọng nói rất quen tai, thế là y đi vòng qua phía chính diện để thấy rõ mặt của người đang nói, chính là Triệu Bá Ung.

"Ta biết khiến cho người chết sống lại là chuyện rất hoang đường, không cầu kiếp này, chỉ cầu kiếp sau, nhất định đừng chịu hết cực khổ như cuộc đời kiếp này nữa..." Tiếng Triệu Bá Ung nhỏ dần, không giấu được sự suy sụp và đau đớn: "Là một người cha, ta thậm chí không thể hình dung nó là một sự thất bại, phạm phải một sai lầm lớn, ta cũng không thể cho chính mình một cơ hội để sửa sai. Tiên sinh, cầu xin ngài rủ lòng từ bi, ngũ lang không nên chịu những gian khổ không thuộc về thằng bé."

Thầy tướng gì bất đắc dĩ: "Thế gian ngàn vạn người có ngàn vạn gian khổ, sao có thể tùy tiện đổi mệnh được chứ? Chuyện xảy ra hôm nay còn không quản được, sao có thể quản chuyện kiếp sau? Số mệnh đã như thế, không thể cưỡng cầu, ai cũng có nhân duyên tế hội của riêng mình, kiếp này y chịu khổ, làm sao biết kiếp sau không được hưởng phúc? Đường nhiên là ta không chắc chắn y sẽ tốt số, chỉ là... Hầy, đừng cầu xin ta nữa, nếu như thật lòng thì hãy kết thiện duyên rộng rãi, tu phúc cho người khác đi, dù không thể nói trước được, nhưng các người vẫn có thể dùng chút thân duyên yếu kém đó tăng mấy phần phúc khí cho tiểu lang quân đấy."

Ông ta phất tay nói những lời kỳ lạ, ánh mắt hướng về nơi Triệu Bạch Ngư đang đứng.

Triệu Bạch Ngư cứ tưởng ông ta nhìn thấy mình, thầm nghi ngờ không biết đây là giấc mơ quái quỷ gì, có điều y lại nhanh chóng phát hiện ra thầy tướng già kia không nhìn thấy y.

Cơ thể lang thang vô định, đi vào sâu hơn bên trong Triệu phủ, Triệu Bạch Ngư quay đầu lại nhìn Triệu Bá Ung sương gió đầy mặt, trong lòng dâng lên một cảm xúc kì lạ, sau đó y tiếp tục đi về phía trước, lần lượt nhìn thấy Triệu Trường Phong, Triệu Trọng Cẩm và Triệu Ngọc Khanh, Triệu đại lang vẫn làm việc trong Cấm quân, lão nhị làm ở Tam ty, Triệu Ngọc Khanh tiền đồ đứt đoạn vì uống rượu gây sự, chạy vào giang hồ làm hiệp khách,

Vừa hay hôm nay Triệu Ngọc Khanh về phủ, Triệu Bạch Ngư nhìn thấy gã suýt chút nữa thì tưởng y nhận nhầm người, thiếu niên đã từng mang trong mình tính cách lỗ mãng, nay mặt mũi râu mọc đầy, vẻ mặt vừa chán nản vừa tang thương, trông gã bình tĩnh là thế nhưng vẫn nhìn ra được nỗi buồn bã.

Triệu Trọng Cẩm thì không khác với dáng vẻ mà y quen biết lắm, chỉ thêm già giặn và chín chắn hơn, lúc này hắn đang đứng trong sân một mình.

So với Triệu Ngọc Tranh, Triệu Trường Phong trông không nhếch nhác bằng, thế nhưng tuổi còn trẻ thế mà hai tóc mai đã nhuộm bạc, khiến cho người ta phải thổn thức.

Nhắc mới nhớ, bấy giờ Triệu Ngọc Khanh nhỏ tuổi nhất cũng đã ba mươi rồi, nói chi đến hai người còn lại, nhưng cả ba anh em đến tuổi này rồi mà vẫn không vợ không con, âu cũng khiến người ta ngạc nhiên.

Thân thể bị động bay tới viện nhỏ vắng vẻ mà y đã ở suốt mười chín năm trời, Triệu Bạch Ngư bất ngờ khi nhận ra nó đã được tu sửa lại và xây dựng thêm không ít thứ, giống như biến thành hai viện, cảnh vật chung quanh đẹp đẽ và yên tĩnh rất hợp lòng người, nhưng cờ chiêu hồn, đèn trường mệnh và các loại hương nến bên trong lại nhiều vô số kể, nhìn giống như chùa miếu hơn.

Đến gần một chút nữa, y thật sự nghe được tiếng gõ mõ và tiếng tụng kinh.

Triệu Bạch Ngư đứng trên hành lang, đèn lồng màu đỏ trên đỉnh đầu được thắp sáng, chập chờn trong gió đêm phát ra tiếng kẽo kẹt nhỏ xíu, cánh cửa bên cạnh mở toang, bên trong trải dài thanh đăng, hương khói không ngừng, trên bàn bày một cái bài vị, chiếc bàn bên cạnh thì có một vị phu nhân mặc quần áo giản dị đang dựa vào bàn sao chép kinh Phật, chậu đồng thiêu giấy đặt kế bên chân đang rực lửa.

"Ta nghe như vậy: Vào một thuở nọ đức Phật ở tại cung Trời Đao Lợi..."

Bà đang chép Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện, cầu phúc cho người chết.

Lúc này có ma ma đưa hai nha hoàn theo cầm giỏ xách đi tới, trong giỏ là những đồ vật để đốt cho người chết như nguyên bảo*, vương kim, tiền phúc, bọn họ cúi đầu vái trước bài vị, thông báo với Tạ thị đang sao chép kinh Phật chẳng màng tới ai rồi bước ra sân thiêu hủy những đồ vật kia.

(*) Nguyên bảo: đĩnh vàng hoặc bạc thời xưa, một đĩnh bạc thường nặng 50 lượng, một đĩnh vàng thường nặng 5 hoặc lượng

Ma ma dặn hai nha hoàn đứng trong sân canh lửa, chú ý phải để mọi thứ bị đốt sạch xong rồi mới được đi, sau đó quay vào nhà cùng Tạ thị.

Hai nha hoàn kia đứng cách hành lang rất xa, nhưng Triệu Bạch Ngư vẫn có thể nghe được nội dung cuộc trò chuyện của hai nàng, một trong hai nha hoàn đó có một người là người mới tới, không hiểu chuyện trong phủ bèn nhỏ giọng hỏi thăm.

Nha hoàn còn lại nhìn trái nhìn phải, xác định không có ai ở gần mới kể cho nàng ta nghe chuyện lớn làm chấn động phủ Kinh Đô năm đó, sự thật đổi con bị vạch trần, người nhà họ Triệu nhẫn nhịn, giả vờ đầu quân vào Đông cung, để hắn kế vị không tới một năm đã tiêu diệt sạch đảng đế vương, phơi bày âm mưu hại tiên đế, giúp đỡ Lâm An quận vương đăng cơ.

Mặc dù Xương Bình và Triệu Ngọc Tranh đã phải chịu đủ báo ứng, nhưng ngũ lang thật đã chết từ lâu rồi, dù có làm nhiều hơn nữa, hối hận đến đâu đi nữa thì cũng vô ích thôi, người chết đâu thể nào sống lại được.

"Hôm nay là ngày giỗ của ngũ lang."

Cùng lúc đó, Tạ thị ở trong nhà vô cùng thành kính mà niệm, "Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu cho kiếp sau của con ta được viên mãn, sống lâu trăm tuổi, trăm tuổi không lo."

Triệu Bạch Ngư quay phắt đầu nhìn lại, rốt cuộc cũng thấy rõ mấy chữ to "Bài vị của con trai Triệu Bạch Ngư quá cố" ở bên trên.

——Không, nói đúng hơn là bài vị của "Triệu Bạch Ngư" trong nguyên tác.

Vì sao y lại mơ giấc mơ này?

"Không phải là mơ đâu."

Ai đang nói chuyện thế?

Triệu Bạch Ngư theo tiếng nhìn lại, thấy được một người có dáng vẻ giống y như đúc, chỉ là khí chất dịu dàng và yếu ớt hơn y, cơ thể cũng vô cùng đơn bạc, giữa lông mày chất chứa nỗi phiền muộn.

"Triệu Bạch Ngư."

Là Triệu Bạch Ngư không được yêu thương trong nguyên tác.

"Hân hạnh được gặp."

Ngoài dự đoán chính là "Triệu Bạch Ngư" trước mắt y không hề thê thảm như lời miêu tả trong quyển truyện kia.

"Triệu Bạch Ngư" nhìn về phía Tạ thị, ánh mắt dịu dàng, không còn oán hận cũng chẳng còn cố chấp: "Cậu nhìn thấy chưa? Bọn họ đều cảm thấy cuộc đời tôi đau khổ, thật ra trừ việc không ai thương tôi ra, thì tôi sống chẳng phải lo sinh hoạt, cũng không cần lo ăn uống gì." Cậu ta cười, "Nhưng khi còn sống người ta đâu có nhận ra được những điều này, mà chỉ tập trung vào nỗi đau nhất thời và phóng đại nó lên vô hạn, cố chấp với thứ không có duyên phận, sống chết không chịu buông tay... Bây giờ tôi mới hiểu được hóa ra sự cố chấp của tôi cũng giống như của bọn họ mà thôi. Người chết rồi coi như xong chuyện, tôi vốn phải im hơi lặng tiếng mà tiêu tan đi, nhưng chấp niệm của bọn họ đã kéo tôi trở về, để tôi tận mắt nhìn thấy rằng, trên đời này không phải là không có ai thương yêu tôi."

"Tôi đã cảm thấy mỹ mãn rồi."

"Cậu đúng là Triệu Bạch Ngư nhưng không phải là tôi, chúc cậu không tai không đau, mọi sự suôn sẻ, được như mong muốn."

"Tôi cũng mong cậu không tai không đau, được trời quan tâm, tam tinh cao chiếu, vạn sự như ý cát tường."

Tên, gương mặt, số mệnh giống nhau nhưng lại là hai người khác nhau, một trái một phải chắp tay cúi chào lẫn nhau, chúc phúc cho nhau, sau đó nhìn nhau cười tươi, mà cũng ngay lúc này, "Keng..." một tiếng vang dậy đất, âm thanh của chuông vàng xuyên qua phủ Kinh Đô, mang theo nhịp điệu thanh thoát của tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh, cùng với tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu, tiếng nha hoàn xì xào bàn tán và tiếng mấy tiểu tử thì thầm đan xen vào nhau, dần dần cách xa, rồi một bên biến mất chẳng còn tăm hơi, một bên còn lại thì càng trở nên rõ ràng, hình ảnh biến từ vặn vẹo mơ hồ thành rõ ràng chân thật...

Triệu Bạch Ngư mở bừng mắt ra, tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu và tiếng thì thầm của mấy tên tiểu tư vọng vào trong phòng đểu biến mất hết, chỉ có tiếng chuông reo là vẫn còn vang dội, lại một lát sau nữa, khi nghe thấy tin bảo "Phu nhân tể tướng tới chơi", đón lấy tiếng tiểu tư vào phòng y mới xác định mình đã thoát khỏi giấc mộng kia, về lại đời này.

Khoác thêm áo choàng, Triệu Bạch Ngư băng qua hành lang, đan mười ngón tay vào nhau giấu trong tay áo, rũ mắt suy nghĩ về "người nhà họ Triệu" và "Triệu Bạch Ngư" mà y nhìn thấy trong giấc mơ.

Không hề nghi ngờ gì nữa, đó chính là tuyến truyện của nguyên tác, kết cục HE chính là ngày đại điển sắc phong của nhân vật chính diễn ra, mà khi màn kịch vừa buông xuống, những nhân vật phụ bỗng nhiên sống dậy trở lại giống hệt như những con rối, đốt giết tàn sát, gió tanh mưa máu, vì nhân vật chính mà thêm thắt một ngoại truyện BE tràn ngập mùi máu tanh.

Y nghĩ, hóa ra người nhà họ Triệu biết được sự thật đổi con rồi vẫn yêu thương Triệu Ngọc Tranh như ngày xưa là vì có mục đích riêng, hóa ra "Triệu Bạch Ngư" trong sách không hề thảm thương đến tột cùng, không phải bị vứt bỏ mặc cho người chà đạp, cũng không phải chết không có gì hối hận, vẫn có người nhặt xương cho cậu ấy, có người đốt đèn trường mệnh cho cậu ấy suốt chục năm trời, có người vì cậu ấy mà chịu hổ thẹn nhiều năm, giày vò cuộc đời mình, có người sẵn lòng dâng ra phúc phận mười đời của mình đổi cho cậu ấy một kiếp sau tốt đẹp hơn.

Thì ra "Triệu Bạch Ngư" chỉ có thân duyên nông cạn, cho nên cũng không phải là số trời khó trái.

***

Nhà trước.

Tạ thị nghe thấy tiếng bước chân bèn nhanh chóng quay người lại, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư liền vô thức tiến lên, nhưng đi được vài bước thì đột nhiên đứng lại, nụ cười tươi xuất hiện trên môi: "Ngũ lang." Bà quan sát Triệu Bạch Ngư, thấy y không tai không đau, không có bất kì dấu hiệu gì là sẽ chết trẻ ở tuổi hai mươi sáu, dây thừng căn chặt trong ngực mới nới lỏng ra, không nhịn được thở phào một hơi nhẹ nhõm, nhỏ giọng nói: "Ta vừa mới đi ngang qua vương phủ, nên muốn đến đây gặp con một chút. Bây giờ gặp được rồi, cũng không có chuyện gì khác, ta không quấy rầy con nữa, ta... Bây giờ ta đi đây."

Ngoài miệng nói đi, nhưng chân lại không động đậy, hai mắt vẫn còn dính chặt lên người Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư rũ mắt, tuy rằng có giấc mơ kia làm bước đệm, nhưng y vẫn không biết phải đối mặt với Tạ thị như thế nào.

Người đã từng hận y, trách y, khắt khe với y chính là Tạ thị, thương y, hổ thẹn với y, vì y mà tụng kinh niệm phật cầu phúc trường an cũng là Tạ thị, Triệu Bạch Ngư có đau khổ trong lòng nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện căm hận Tạ thị và người nhà họ Triệu.

Đã từng nói dùng cả đời này để thanh toán hết không phải là hờn dỗi, y tự mình đa tình với nhà họ Triệu, nhưng nó đã tan thành mây khói vào ngày xuất giá của mùa hè năm mười chín tuổi rồi, từ dạo ấy về sau lòng không gợn sóng, mặc dù có thương cảm vì sau này người nhà họ Triệu luôn bỏ ra công sức cố gắng chắp vá thân duyên, nhưng cuối cùng cũng không có cảm xúc gì quá mãnh liệt.

Nhưng khoảng thời gian này, hình ảnh Tạ thị dù có muốn quan tâm đến y vẫn phải cẩn thận lòng vòng lại khiến cho y lơ đễnh nhớ đến Tạ thị sao chép kinh Phật như điên, lẩm bẩm "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát", xin trời cao rủ lòng thương, hy vọng con trai nhỏ "sống lâu trăm tuổi" trong giấc mơ kia.

Suy cho cùng thì y vẫn không đành lòng.

Triệu Bạch Ngư: "Hôm trước vừa nhận đường đỏ Nghiên Băng gửi đến, thằng bé tự tay nấu đấy, tối nay ta định lấy nấu trứng gà đường đỏ, nấu hơi nhiều một chút, Tử Uyên vẫn còn ở trong cung, nấu xong để nguội lâu sẽ có mùi tanh... Người có muốn uống không?"

Có thể thấy hai mắt của Tạ thị long lanh sáng rực, khóe môi cong lên, gật đầu liên tục: "Thích chứ, mẹ... À, ta, ta thích trứng gà đường đỏ lắm!"

Mặc kệ trước kia đi, dù sao thì từ rày về sau đây chính là tình cảm chân thành của bà ấy.

Triệu Bạch Ngư cười, lấy cớ phải đi hối thúc, thật ra là vào nhà bếp tự tay nấu trứng gà đường đỏ, tài nấu nướng của y kém quá, làm cái gì cũng không xong, nhưng nấu một chén trứng gà đường đỏ dễ uống thì y làm được.

Nấu hai chén trước, sau đó mới mang lên nhà trên, chia cho Tạ thị một chén.

Tạ thị nếm thử, đầu lưỡi bị phỏng nên hai mắt cũng nóng lên, trong chớp mắt hiểu ra đây là nước chè vừa mới nấu xong.

Không phải thuận tiện, mà là cố tình xuống bếp, là mây mờ trăng tỏ sau sáu năm trời ròng rã, rốt cuộc cũng nhìn thấy được hiềm khích năm xưa tiêu tan, thân duyên có khả năng nối lại.

Cảnh tượng con trai nhỏ tự thân xuống bếp, ngồi chung một bàn, im lặng uống nước đường, chỉ còn lại tiếng lách cách khi muỗng chạm vào thành chén là niềm hi vọng mà Tạ thị mong mỏi đã lâu rồi nhưng có nghĩ bà cũng không dám nghĩ đến, những tưởng bà gặp được con rồi sẽ lại chảy nước mắt, sẽ khó nhịn nỗi xúc động, nhưng sự thật thì tỏ ra bình tĩnh khéo léo, giống như một người mẹ và con trai bình thường, ngồi lại nói những chuyện bình thường vào một ngày rất bình thường trên đời này vậy.

Uống một chén trứng gà đường đỏ như nhấm nháp sơn hào hải vị, tốn hết tâm tư kéo dài thời gian nhưng rất nhanh đã thấy đáy, Tạ thị hơi bối rối, không biết nên dùng cớ gì để tiếp tục ở lại vương phủ.

Triệu Bạch Ngư nói những chuyện thường ngày một cách rất tự nhiên, Tạ thị vội vàng bắt lấy cơ hội tiếp lời, trò chuyện câu được câu chăng nhưng cũng đâu ra đấy, có lẽ là dấu hiệu phá băng.

Nửa canh giờ nhanh chóng trôi qua, tất nhiên Tạ thị đã cảm thấy thỏa mãn rồi, cũng không thể lấn lướt tiếp tục ở lại đây nữa, vô duyên vô cớ lại làm người ta phát ghét nữa.

Bà đứng dậy chào tạm biệt.

Triệu Bạch Ngư tiễn bà đi, đi qua sân nhà, hành lang rồi đến bức tường phù điêu, đứng cạnh cổng đưa mắt nhìn Tạ thị lên xe ngựa, bỗng nhiên cất giọng: "Mẫu đơn trong phủ nở thế nào rồi ạ?"

Tạ thị kinh ngạc mừng vui nâng mắt lên: "Trăm hoa tươi đẹp, kiều diễm ướt át."

Triệu Bạch Ngư: "Tổ chức tiệc vào cuối tháng Ba sao?"

Tạ thị: "Hai mươi lăm tháng Ba."

Triệu Bạch Ngư: "Ta có thể đến chứ?"

Chóp mũi Tạ thị chua xót, nhưng môi lại cười tươi như hoa: "Xỏ ngược giày nghênh đón*."

(*) Nguyên văn là Đảo tỉ nghênh chi - 倒屣迎之: Xỏ giày ngược ra nghênh đón. Vì nhiệt tình, vội vàng ra nghênh tiếp khách mà đi giày ngược

Triệu Bạch Ngư đưa tay ra, ống tay áo dài che khuất gương mặt, thoáng cúi đầu chào tiễn biệt.

Tạ thị bước vào xe ngựa, bánh xe lăn nhanh đi xa, bỗng nhiên bà dùng tay áo che mặt, vui mừng phát khóc.

Buổi chiều, Hoắc Kinh Đường trở về từ trong cung.

Từ khi hắn từ chối vị trí Thái tử, được nhận lại lấy thân phận Đại hoàng tử, quan hệ cha con với Nguyên Thú đế đã hòa dịu đến trạng thái thuần túy tốt đẹp nhất.

Nhưng Nguyên Thú đế luôn thích tối đa hóa lợi ích của mọi người và mọi thứ, nói trắng ra là không muốn thấy Hoắc Kinh Đường chơi bời lêu lổng ăn nằm đàn đúm suốt ngày, cho nên gọi hắn vào cung dạy võ công, bài binh bố trận, hành quân chiến tranh,... cho các hoàng tử, chiến thần Tây Bắc đích thân dạy học đương nhiên là thầy giỏi dạy trò hay rồi.

Hơn nữa nhờ vậy mà Hoắc Kinh Đường không chỉ là đại ca của các hoàng tử, hắn còn trở thành thầy giáo, có hai thân phận này bảo vệ, ngày sau tân đế đăng cơ cũng phải đối xử cung kính với bọn họ, không được làm những việc như qua cầu rút ván.

Có điều nhìn qua quá trình trước mắt, Hoắc Kinh Đường càng có khả năng sẽ trở thành nỗi ám ảnh lúc nhỏ của các hoàng tử hơn.

Trong phòng tắm, hơi nước mờ mịt, Hoắc Kinh Đường đang ngâm mình dưới nước nóng, trong tầm mắt, Triệu Bạch Ngư chỉ có thể nhìn thấy được tấm lưng dày rộng và cánh tay cơ bắp cường tráng của hắn, tóc dài búi lên, hai cánh tay sải dài gác lên thành bồn tắm, trên cổ tay quấn chuỗi vòng Phật.

"Hôm nay trời mưa đến chiều tối, không thể tổ chức các hoạt động ngoài trời, lẽ ra phải về sớm chứ, sao chàng về muộn thế?"

"Sáng nay Thập tam với Thập ngũ đứa nào đứa nấy giở trò nhỏ nhen, ta phạt chúng tiếp tục luyện tập trong mưa, đợi mệt sắp ngất rồi mời thả cho về."

Tuy nói lúc huấn luyện Hoắc Kinh Đường vô cùng nghiêm khắc, nhưng thật ra rất ít khi trừng phạt, với cái tính lười biếng của hắn thì chắc chắn phải chẳng thèm quan tâm mấy chuyện này mới đúng, nếu không phải tại Nguyên Thú đế thường xuyên lệnh cho người đến theo dõi, nói không chừng vừa đến giờ Mão là hắn xách mông chạy về rồi.

Có thể khiến cho hắn chủ động đưa ra hình phạt, nhất định là đối phương đã phạm vào giới hạn của hắn.

"Sao vậy?"

"Hoàng tử tranh giành, đùa giỡn bày trò tâm cơ là chuyện bình thường, nhưng tuổi còn nhỏ đã không từ thủ đoạn mà nhảy vào chỗ chết, nếu không nhanh chóng uốn nắn cho thẳng lại thì khó tránh khỏi lệch lạc thành kẻ tàn bạo bất nhân. Đám nhóc con này, không cầu bọn chúng ngày sau có thể trở thành minh quân thịnh thế, làm một quân vương có lòng nhân nghĩa, là một tấm gương tốt, biết thương cảm cho nỗi khổ của người khác là được rồi."

Nhắc đến đây, im lặng một lát, Hoắc Kinh Đường không chịu nổi lớp da giả vờ lạnh lùng bình tĩnh nữa, trầm giọng hừ một tiếng khinh thường, vô cùng không vui nói: "Phiền!"

Hoắc Kinh Đường xoay người, thò tay về phía Triệu Bạch Ngư, làm dáng nói: "Tiểu lang quân mau tới dỗ dành tinh thần và thể xác mệt mỏi của ta đi."

Triệu Bạch Ngư bước tới, tát một cái vào lưng hắn, nói chuyện như ông già: "Làm người đứng đắn đi." Nhưng vẫn mặc cho hắn nắm tay, y hơi cúi đầu xuống, hơi nước mờ mịt bao phủ trước mắt, miệng cũng đột nhiên bị ngăn lại, rồi bỗng trời đất quay cuồng, bị kéo thẳng vào trong bồn tắm, bọt nước tung tóe khắp nơi, quần áo ướt dần, trôi lềnh bềnh trên mặt nước.

Mặt nước sóng sánh, Triệu Bạch Ngư nheo mắt lại, trâm ngọc rơi ra, búi tóc vốn lỏng lẻo chớp mắt rơi đầy trên vai, đuôi tóc ướt đẫm, cũng trôi nổi giống như áo ngoài.

Hoắc Kinh Đường khẽ cười, "Buổi chiều tiểu lang đã gặp Triệu phu nhân à?"

Triệu Bạch Ngư dùng giọng mũi ừm một tiếng trả lời, mười ngón chân co quắp lại.

Bàn tay của Hoắc Kinh Đường cứ quanh quẩn bên eo Triệu Bạch Ngư, nghe vậy bèn tiếp tục hỏi như đang trò chuyện: "Tiểu lang định đến dự tiệc sao?"

Triệu Bạch Ngư cau mày, tay trái lướt qua vai Hoắc Kinh Đường nắm chặt lấy thành bồn tắm, đầu ngón tay trắng trẻo, thấp giọng đáp: "Mời mấy năm nay rồi, từ chối nữa thì không phải phép."

Hoắc Kinh Đường: "Là vì bỏ qua tất cả mọi hiềm khích lúc trước hay là chỉ làm theo lời yêu cầu thôi?"

Triệu Bạch Ngư mím môi không muốn nói, nhưng Hoắc Kinh Đường thấy y không nói chuyện bèn lại gần hôn lên khóe môi y, nhưng những hành động mang ý trêu đùa tựa như đang chọc ghẹo mèo con liên tục ập đến, thỉnh thoảng khiến người ta cảm giác như đang bị giày vò.

"Phiền quá!" Triệu Bạch Ngư đột nhiên nổi nóng, nắm thay thành quyền nện vào vai Hoắc Kinh Đường, thuận thế đứng dậy, chuẩn bị đá cái tên phiền phức chết tiệt này ra rồi bỏ đi, "Chàng tự chơi đi... A!"

Hoắc Kinh Đường siết chặt eo y kéo trở về, để y lưng tựa vào bồn tắm, đôi mắt Bồ Tát màu ngọc lưu ly chứa đựng vẻ lười nhác nhưng hung hăng, giống hệt như đọa Phật, mê hoặc Triệu Bạch Ngư đang tức giận trở nên mềm lòng, áp sát lại hôn lên cằm và trái cổ của hắn.

Thoáng chốc bọt nước văng tứ tung, sương khói lượn lờ, đèn dầu xua tan bóng tối, người làm mang công cụ chà rửa phòng tắm đến trước cửa rồi lại đi, mãi đến tận khi trăng tròn treo cao, Hoắc Kinh Đường ôm Triệu Bạch Ngư đi ra, bọn họ mới có thể vào thu dọn phòng tắm hỗn loạn.

Buổi chiều đã ngủ hai canh giờ vốn phải tỉnh táo, nào ngờ đến tối lại náo loạn một trận không có giới hạn, thể lực bị vắt sạch, vừa nằm lên giường đã ngủ say.

Hoắc Kinh Đường khoác áo lót vào, ôm Triệu Bạch Ngư ngủ.

Đêm xuân hơi lạnh, mọi âm thanh đều như ngừng lại, trừ tiếng côn trùng nhỏ kêu vang, ánh nến lập lòe hai lần đã ắt, giấc mộng bí mật ngọt ngào ghé thăm.

...

Cũng vào một đêm mưa mới dứt, côn trùng ở nơi rừng sâu cây dày kêu lên không ngừng, Triệu Bạch Ngư mười sáu tuổi vừa trở thành tú tài, lòng mang chí lớn, chất chứa đầy hoài bão và triển vọng vì dân lập mệnh, cũng tài hoa hơn người, tương lai rộng mở.

Nếu như không có chuyện gì ngoài ý muốn, tiếp theo chính là thi Hương, thi Hội, cuối cùng là thi Đình giành lấy công danh.

Ân sư khen ngợi y có tài trạng nguyên, nhưng y lại không quan trọng trạng nguyên hay bảng nhãn, có thể làm quan là được rồi.

Triệu Bạch Ngư lảo đảo chạy theo thời đại này, tuy rằng vấp ngã đến nỗi mặt mũi bầm dập, y trà trộn vào đủ thứ hạng người để nhìn nổi khổ của tầng lớp dưới cùng, thế nhưng chưa bước vào quan trường, chưa chính thức đối mặt với bóng tối khiến cho con người của thời đại này rơi vào tuyệt vọng nhất, chưa nếm trải cảm giác dốc hết toàn lực để đầu rơi máu chảy rồi lại bất lực, lúc bấy giờ vẫn còn khá ngây thơ.

Y cũng giống như các học sinh trong thiên hạ này, học hành chỉ để làm quan.

Có người làm quan vì tiền tài, có người làm quan để kiến công lập nghiệp, để lưu danh sử sách, nhưng cũng có người làm quan chỉ vì hai chữ "vì dân".

Triệu Bạch Ngư cho rằng tu thân cũng đơn giản giống như tu quan, không cầu tiền tài, không mưu quyền, chỉ nhẹ nhàng như hai chữ vì dân.

Nếu như có cơ hội tiến xa vạn dặm, thì sẽ từ vì dân thành lo nước, suy cho cùng thì vẫn chỉ là để mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho dân mà thôi.

Từ nhỏ trong y đã chứa dấu ấn của một thời đại bình đẳng, cho nên làm mọi chuyện đều chọn cách tử tế nhất, chỉ không ngờ người nhà họ Triệu vì một suy nghĩ của Triệu Ngọc Tranh mà yêu cầu y từ bỏ tham gia khoa khảo.

Trong lòng Triệu Bạch Ngư cảm thấy hoang đường, hiếm khi chọn từ kiên quyết từ chối, vậy mà chỉ ngủ một giấc thôi, tỉnh dậy y đã phát hiện mình bị nhốt trong một căn phòng lạ lẫm, cửa sổ cũng khóa chặt, trong góc có lương khô đủ sống qua mười ngày nửa tháng.

Hôm nay là ngày vào trường thi.

Ngoài cửa đột nhiên có tiếng bước chân vang lên, dường như là vọng vào từ bên ngoài.

Triệu Bạch Ngư nhòm ra khe cửa, trông thấy một bóng lưng hơi quen thuộc, người đó đi đến cửa viện, rồi sau đó giọng nói tò mò của Triệu Ngọc Tranh vang lên, "Tam ca, sao huynh lại ở đây?"

Triệu tam lang nói mấy câu lừa gạt cho qua chuyện, Triệu Ngọc Tranh còn định hỏi tiếp đã nghe một giọng nói khá lạnh lùng khác vang lên: "Nó chỉ là một thằng nhóc ranh thôi, trừ bày trò xấu ra thì có thể làm nên chuyện đứng đắn gì chứ? Đừng để bị nó dạy hư, đệ mới vừa khỏi bệnh, theo nhị ca đến sân xem cưỡi ngựa đánh bóng thôi, phải chỉ bảo cho nhị ca đấy."

Quả nhiên sự chú ý của Triệu Ngọc Tranh đã bị dời đi, tung tăng chạy xa.

Chỉ nghe Triệu nhị lang quát một câu không đau không ngứa: "Vừa phải thôi."

Triệu tam lang rầm rì hai câu rồi chạy theo sau, viện nhỏ hoàn toàn trở nên yên tĩnh, Triệu Bạch Ngư bèn nghĩ, thế thì cũng không cần phải nhốt y mười ngày nửa tháng chứ, chỉ cần bỏ lỡ canh giờ vào trường thi hôm nay là đã tương đương với việc y tự động từ bỏ ba năm khoa khảo sau này rồi.

"Hầy."

Triệu Bạch Ngư ôm cánh tay, chôn mặt vào khuỷu tay, bị nhốt trong tiểu viện lạ lẫm suốt hai ngày một đêm, cuối cùng đập bể cửa sổ chạy ra ngoài, nhìn lên bầu trời không trăng không sao và rừng sâu vươn tay không thấy nổi năm ngón, bỗng nhiên nện nắm tay vào lòng bàn tay chán nản nói: "Sớm biết như vậy thì mấy ngày trước không nên từ chối bùa cầu phúc bình an mà cao tăng chùa Bảo Hoa chào hàng mới đúng!"

Tiếc rằng khi đó y không thể mua vì giá đắt quá, từ chối đi cửa sau có thần phật che chở.

Bây giờ có hối hận cũng đâu thể làm được gì, thần phật đã đóng cửa sau lại rồi, chỉ chừa mỗi bóng lưng vô tình mà thôi.

So với rừng rậm tràn đầy bóng tối với vô số loài rắn, côn trùng, chuột và kiến, tất nhiên là tiểu viện sau lưng an toàn hơn, chỉ cần ngồi bên trong đợi đến sáng là được, nhưng đối với Triệu Bạch Ngư mà nói, y thà xông vào khu rừng đầy rẫy nhưng hiểm nguy, có khả năng sẽ phải chết oan chết uổng còn hơn là quay trở lại gian phòng bí bách đó.

Đó là khi sự nhiệt tình mà y dành cho người nhà họ Triệu bắt đầu trở nên nguội lạnh.

Lần mò trong bóng tối đi về phía trước, trên cơ thể đầy vết thương bầm dập tê tái, nỗi đau và sợ hãi như muốn xé rách linh hồn và thân thể, y lẻ loi bước đi trong khu rừng tối nơi chẳng có chút ánh sáng, sự lạc lõng khi sống trong một thế giới khác luôn được kiềm nén, nỗi sợ hãi, cô độc, khó khăn, đau đớn và tủi thân trong chốc lát cùng nhau bùng nổ, Triệu Bạch Ngư đột nhiên chạy như điên, trong đầu trống rỗng, sống chết toàn bộ dựa vào ý trời.

Rồi y vấp phải rễ cây trượt chân xuống sườn núi, lăn vào con đường nhỏ bên cạnh, tưởng rằng đã ngã chết ở một nơi không ai hay biết, nhưng rồi y nghe được ở cuối con đường nhỏ đó có tiếng vó ngựa đang vọng từ xa tới gần, cũng chẳng biết vì sao, dưới sự hạn chế của bóng tới và ánh mắt mơ hồ, Triệu Bạch Ngư vẫn nhìn thấy được chú ngựa phi nhanh đến cùng với tướng mạo vô cùng đẹp của chàng trai trên lưng ngựa, hùng ưng bay lượn trên đầu rồi hạ thấp độ cao xuống, tay trái của hắn cầm trường cung, túi da treo trên lưng chứa đầy mũi tên đuôi lông trắng vô cùng thu hút sự chú ý của người khác.

Trước khi mất sạch ý thức, Triệu Bạch Ngư nghĩ thầm, hóa ra là lang quân cưỡi ngựa bắn cung vào ban đêm, không biết có phải người tòng quân hay không nữa.

Nhìn thấy đuôi tóc dài của hắn bay lên, khí thế hăm hở, nếu không mang Ngô câu chẳng phải sẽ đáng tiếc lắm sao?

Lang quân trên lưng ngựa liếc nhìn sang, lạnh lùng nghiêm khắc nhưng hờ hững, có điều chỉ trong nháy mắt lại bay bổng rời đi, tiếng vó ngựa đi xa dần, Triệu Bạch Ngư lại nghĩ bụng người ta không phát hiện ra mình, hay là nhìn thấy nhưng không muốn dây vào việc của người khác?

Bỏ đi, có hơi đau đấy, ngủ một chút trước đã.

Ý thức của Triệu Bạch Ngư đã gần đến mức sụp đổ rồi, vó ngựa lại rền vang, móng trước nhô cao, một chiếc đèn cầy chiếu sáng mặt của y, rồi sau đó y được bó lại trong quần áo và chăn ấm, ngửi thấy mùi hương đốt trước Phật êm dịu nhàn nhạt khiến cho tinh thần người ta an yên.

Giữa lúc nửa tỉnh nửa mê, Triệu Bạch Ngư líu ríu nói: "... Tướng quân đêm bắn tên, sớm mai tìm dấu vết." Vậy cho nên ban đầu y mới lập tức suy đoán nếu như đó không phải là một vị tướng quân còn trẻ đã thành danh thì thật là tiếc cho phong thái ấy quá.

Sau khi tỉnh lại, Triệu Bạch Ngư đã thấy mình ở y quán rồi, y không thể tra ra được người cứu mình là ai, đến nối dáng vẻ của đối phương cao thấp thế nào y cũng không nhớ rõ, chỉ có khuôn mặt khôi ngô đẹp đẽ là vẫn loáng thoáng trong đầu, đương nhiên là y sẽ loại trừ Lâm An quận vương tàn bạo có tướng mạo xấu xí kia trước.

Dần dà, kí ức kia trở nên mơ hồ, thậm chí đôi khi y còn cho rằng đó chỉ là một giấc mộng.

Cũng có thể người kia là yêu quái trong núi, tình cờ rũ lòng thương làm việc tốt cứu y mà thôi.

...

Đột nhiên choàng tỉnh khỏi cơn mơ, Triệu Bạch Ngư mở mắt ra, khuôn mặt say ngủ của Hoắc Kinh Đường lọt vào tầm mắt, y ngắm nhìn thật kĩ, nếu như hắn trẻ ra mười tuổi, hình dáng và ngũ quan đều sẽ nhu hòa hơn, màu da cũng sẽ trắng hơn một chút, thật sự là rất giống với yêu ma quỷ quái mà y gặp được trong núi năm mười sáu tuổi.

Đúng ngay lúc này, ngoài phòng có tiếng chim ưng vang lên, giống hệt như cách hùng ưng hạ mình bay quanh bầu trời đêm ấy.

Bỗng nhiên Triệu Bạch Ngư nở nụ cười.

Hóa ra mỗi lần ta bước đến lằn ranh của sự sống và cái chết, chàng đều là người cứu ta.

end

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro