Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Liêu trai chí dị part 2/3

126. Ngưu Thành Chương (Ngưu Thành Chương)

Ngưu Thành Chương là người buôn vải ở tỉnh Giang Tây, lấy vợ là Trịnh thị sinh được một trai một gái. Năm Ngưu ba mươi ba tuổi bị bệnh chết. Con trai tên Trung, năm ấy mười hai tuổi, con gái thì mới lên tám. Mẹ không thể thủ tiết, bán hết nhà cửa lấy tiền bỏ túi đi tái giá, để lại hai đứa con không biết làm sao mà sống. Có người chị dâu họ của Ngưu năm ấy đã sáu mươi tuổi, nghèo mà góa chồng bèn đem hai cháu về nuôi. Vài năm sau bà chết, nhà càng nghèo, nhưng Trung đã hơi lớn, nghĩ muốn nối nghiệp cha nhưng không có vốn. Em gái lấy chồng họ Mao, Mao vốn giàu có, cô gái năn nỉ chồng cho mượn vài mươi đồng vàng đưa anh. Trung theo người ta đi Kim Lăng, trên đường gặp cướp, tiền bạc mất sạch, bơ vơ không sao về được.

Một hôm ngẫu nhiên đi ngang cửa hiệu, thấy chủ hiệu rất giống cha mình, trở ra hỏi thăm thì tên họ cũng giống, ngạc nhiên kinh sợ nhưng không dám bắt chuyện, chỉ ngày ngày quanh quẩn gần đó để xem ý tứ, nhưng người ấy cũng không ngó gì tới. Cứ thế ba ngày, thấy tiếng cười giọng nói dáng vẻ cử chỉ đúng là cha mình nhưng không dám bắt chuyện làm quen, bèn nhờ những người làm công giới thiệu là đồng hương, xin vào làm thuê. Làm giấy tờ xong, chủ nhân nhìn tới tên họ quê quán, có vẻ giật mình, hỏi cha mẹ là ai. Trung khóc nói tên cha, chủ nhân sửng sờ như bị mất vật gì. Hồi lâu hỏi mẹ ngươi khỏe không, Trung lại không dám nói là cha đã chết bèn lựa lời đáp "Cha ta sáu năm trước đi buôn không về, mẹ đã đi lấy chồng khác ta may được bà bác nuôi nấng chăm sóc, nếu không thì chết đói lâu rồi".

Chủ nhân thê thảm nói "Ta là cha ngươi đây", rồi nắm tay con bùi ngùi dắt vào nhà cho ra mắt mẹ kế. Mẹ kế họ Cơ, đã hơn ba mươi tuổi mà không sinh nở gì, gặp được Trung mừng lắm, bày tiệc ăn mừng. Ngưu vẫn thở than không vui, muốn về quê một lần, vợ lo cửa hiệu không có ai coi sóc cố ngăn cản. Ngưu bèn dạy con các việc buôn bán giao dịch, được ba tháng đem hết sổ sách giao cho con, thu xếp hành lý về quê. Lúc Ngưu đi rồi, Trung nói thật việc cha chết với mẹ kế, Cơ thị cả kinh nói "Ông ấy buôn bán ở đây, có nhiều người quen mới lưu lại buôn bán, cưới ta sáu năm rồi, sao lại nói là đã chết?". Trung bèn kể rõ, hai người cùng ngờ vực không hiểu vì sao. Qua một ngày một đêm thì Ngưu đã về, dắt theo một người đàn bà đầu tóc rối bù, Trung nhìn thì là mẹ ruột của mình. Ngưu kéo tai người đàn bà chửi "Sao lại bỏ con ta?". Người đàn bà quỳ rạp xuống đất không dám động đậy, Ngưu cắn vào cổ, người đàn bà kêu Trung rằng "Con cứu mẹ với, con cứu mẹ với", Trung bất nhẫn xông vào can, lấy thân che cho mẹ. Ngưu còn giận dữ, người đàn bà đã biến mất, mọi người cả sợ la ầm lên là ma, nhìn tới Nơưu thì mặt mày trắng bệch, quần áo rơi hết xuống đất mà biến thành một làn khói đen từ từ tan mất. Mẹ con cùng kinh hãi than thở, nhặt áo mũ chôn cất. Trung thừa kế gia tài có hàng vạn lượng vàng, sau về nhà hỏi thăm thì người mẹ ruột đã đi lấy chồng chết đúng hôm ấy, cả nhà đều nhìn thấy Ngưu Thành Chương.

127. Thanh Nga (Thanh Nga)

Hoắc Hoàn tự Khuông Cửu là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây). Cha làm quan Huyện úy, mất sớm lúc sinh còn rất nhỏ. Sinh thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, được vào học trường huyện, Nhưng mẹ thương con quá mức, cấm ra khỏi sân nhà nên mười ba tuổi vẫn không phân biệt được chú bác cô cậu. Trong làng có Bình sự họ Vũ mộ đạo thần tiên, vào núi tu luyện không về, có con gái tên Thanh Nga mười bốn tuổi nhan sắc tuyệt đẹp, thuở nhỏ đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô*. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ cũng không biết làm sao. Một hôm sinh gặp nàng ngoài cổng, trẻ con chưa biết gì chỉ thấy rất yêu mến không nói nên lời về nói thật với mẹ, xin nhờ người dạm hỏi.

*Hà tiên cô: tiên nữ duy nhất trong nhóm Bát tiên theo truyền thuyết Trung Hoa.

Mẹ biết là không xong nên ngần ngại, sinh buồn bực không vui, mẹ sợ con buồn bèn nhờ người tới ngỏ ý, quả nhiên họ Vũ từ chối, sinh đứng ngồi lo nghĩ không biết tính sao. Gặp lúc có vị đạo sĩ tới cổng, cầm cái xẻng nhỏ dài khoảng một thước, sinh mượn xem qua một lượt, hỏi dùng vào việc gì. Đạo sĩ nói "Để đào lấy thuốc, tuy nhỏ nhưng có thể đào thủng đá cứng". Sinh chưa tin lắm, đạo sĩ lập tức chém vào viên đá trên tường, viên đá theo tay rơi xuống mà nát ra như đậu phụ, sinh rất lạ lùng, cầm ngắm không nỡ rời tay. Đạo sĩ cười nói "Công tử đã thích thì ta xin tặng", sinh cả mừng lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ không nhận, chào đi. Sinh cầm về chém thử vào gạch đá không gì không vỡ, bèn nghĩ dùng khoét tường thì có thể thấy được mặt mỹ nhân mà không hề biết đó là chuyện phạm pháp.

Đến khuya yên ắng bèn trèo tường ra đi, thẳng tới nhà họ Vũ, khoét qua hai lớp tường mới vào tới sân giữa. Thấy trong gian phòng nhỏ còn đèn, núp nhìn vào thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ. Giây lát đèn tắt, bốn bề không một tiếng động, sinh khoét tường vào thì cô gái ngủ say. Bèn khẽ cởi giày leo lên giường, lại sợ cô gái giật mình tỉnh dậy sẽ quát mắng đuổi đi nên nằm phục xuống cạnh chiếc chăn thêu, lắng nghe hơi thở thơm ngát, tự thấy được an ủi rất nhiều. Nhưng vì suốt nửa đêm đào khoét, đã quá mệt mỏi nên vừa nhắm mắt lại bất giác đã ngủ luôn. Cô gái tỉnh dậy nghe tiếng ngáy khò khò, mở mắt ra nhìn thấy ánh sáng lọt vào chỗ vách bị khoét thủng, cả sợ choàng dậy khẽ lay đứa tỳ nữ mở cửa rón rén bước ra, gõ cửa sổ gọi bọn đàn bà trong nhà cùng thắp đuốc cầm gậy kéo tới. Thấy một cậu học trò tóc còn để chỏm ngủ say trên giường, nhìn kỹ biết là Hoắc sinh, lay gọi mới tỉnh. Sinh vùng dậy, mắt long lanh như sao băng, như cũng không sợ sệt gì lắm, chỉ thẹn thùng không nói câu nào.

Mọi người chỉ trỏ mắng là giặc cướp, quát tháo dọa dẫm, sinh mới rơi nước mắt nói "Ta không phải là giặc cướp, thật lòng chỉ vì yêu mến nương tử, muốn được gần gũi hương thơm một lần thôi". Mọi người lại ngờ việc khoét qua mấy lớp tường vách không phải sức đứa trẻ con làm được, sinh đưa cái xẻng cho họ xem, nói rõ sự lạ lùng. Họ cùng thử cũng hoảng sợ, ngạc nhiên coi là của thần cho, định cùng tới báo cho phu nhân. Cô gái cúi đầu suy nghĩ như có ý không muốn, mọi người đoán biết ý nàng bèn nói "Anh chàng này cũng là con nhà có tiếng tăm, chẳng có gì là nhục nhã, chẳng bằng cứ thả về cho để cậy mai mối lại tới vậy, còn sáng ra cứ thưa với phu nhân là có trộm vào nhà là được chứ gì?". Cô gái không đáp, mọi người bèn giục sinh đi, sinh đòi cái xẻng, họ cùng cười nói "Chú nhỏ khờ vẫn không quên cái vật hung dữ này à?". Sinh liếc thấy cạnh gối có một chiếc thoa, lén nhét vào tay áo, bị đứa tỳ nữ trông thấy mách ngay với cô gái nhưng nàng không nói gì cũng không tức giận, một bà già vỗ vào gáy sinh nói "Đừng nói tới chuyện khờ khác, chỉ cái ý ấy thôi cũng đã sai trái lắm rồi" rồi kéo ra, sinh lại qua lỗ tường thủng ra về.

Về nhà sinh không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ cậy mai mối lại tới hỏi. Mẹ không nỡ từ chối ra mặt, chỉ nhờ khắp các bà mối tìm gấp đám khác cho sinh. Thanh Nga nghe chuyện hoảng hốt, lén sai người thân tín bắn tin cho mẹ sinh, bà mừng rỡ liền nhờ người mai mối tới. Gặp lúc đứa tỳ nữ nhỏ nói lộ chuyện hôm trước ra, Vũ phu nhân lấy làm nhục nhã, vô cùng căm tức, thấy bà mụ tới càng tức giận, cầm gậy vạch đất chửi mắng sinh, nhiếc móc luôn bà mẹ. Bà mối sợ quá lủi về kể rõ tình hình, mẹ sinh cũng nổi giận nói "Thằng ranh con làm những gì thì ta đều mờ mịt, sao lại vô lễ với ta? Lúc bắt được sao không giết đôi đãng nhi dâm phụ luôn đi?", từ đó gặp họ hàng thân thuộc đều nói vung lên. Cô gái nghe chuyện xấu hổ muốn chết đi, Vũ phu nhân hết sức ăn năn nhưng không sao cấm được mẹ sinh đừng nói. Cô gái lại sai người tới năn nỉ mẹ sinh, lại thề không bao giờ lấy người khác, lời lẽ bi thiết.

Mẹ sinh cảm động, thôi không rêu rao nữa nhưng cũng bỏ luôn ý định cầu hôn. Gặp lúc ông Âu ở Tần Trung (tỉnh Thiểm Tây) tới làm Huyện lệnh ở đó, đọc văn của sinh rất quý trọng, thường gọi vào dinh chơi, đối xử rất tử tế. Một hôm ông hỏi sinh có vợ chưa, sinh đáp chưa, ông hỏi kỹ hơn, sinh đáp "Trước đã có hẹn ước với con gái quan Bình sự họ Vũ, sau vì chuyện xích mích nhỏ nên nửa đường gãy gánh". Ông hỏi bây giờ còn muốn cưới nàng không, sinh đỏ mặt không đáp ông cười nói "Ta sẽ tác thành cho anh", rồi lập tức sai quan Huyện úy và Giáo dụ tới nộp sính lễ cho nhà họ Vũ. Vũ phu nhân mừng rỡ, hôn ước mới định. Qua năm sau cô gái về nhà chồng, vào tới phòng ném cái xẻng xuống đất nói "Đồ dùng làm giặc cướp này phải vứt đi", sinh cười nói "Đừng quên bà mối chứ", rồi trân trọng đeo bên người không rời lúc nào. Cô gái là người nhu mì trầm mặc, mỗi ngày tới hầu mẹ chồng ba lần xong thì đóng cửa ngồi im lặng, không lưu ý lắm tới việc nhà.

Nhưng khi mẹ chồng ăn cưới điếu tang đi vắng, thì nàng coi sóc việc nhà đâu vào đấy. Hơn hai năm sau nàng sinh một trai đặt tên là Mạnh Tiên, chỉ giao cho bà vú chăm sóc như cũng không thương yêu gì lắm. Lại bốn năm năm sau, chợt nói với sinh "Tình duyên vợ chồng đã tám năm, nay thì chia ly dài lâu, sum họp ngắn ngủi, biết làm thế nào?". Sinh cả kinh gạn hỏi, nàng chỉ im lặng, kế mặc quần áo đẹp đẽ vào lạy mẹ chồng rồi quay về phòng, sinh theo vào hỏi thì nàng đã lên giường nằm mà tắt hơi rồi. Mẹ con sinh rất đau đớn, mua quan tài chôn cất. Mẹ sinh đã già yếu, cứ bế cháu lại nhớ con dâu, ruột gan như xé, vì thế mang bệnh nằm liệt giường. Dần dần bà bỏ cả ăn uống, chỉ thèm canh cá, nhưng gần đó không có cá, phải đi xa hơn trăm dặm mới mua được. Lúc ấy tôi tớ lừa ngựa đều sai đi công việc, sinh tính chí hiếu, nóng ruột không chờ được liền mang tiền một mình ra đi, đêm ngày không nghỉ chân. Khi trở về tới giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai chân đau nhức không bước nổi nữa. Phía sau có một ông già đi tới, hỏi "Bị phồng chân phải không?", sinh dạ dạ. Ông già bèn kéo sinh vào vệ đường, đánh đá lấy lửa, lấy giấy gói thuốc xông hai chân sinh rồi bảo đi thử xem, sinh thấy chẳng những hết đau mà còn cứng cáp hơn, hết sức cảm tạ. Ông già hỏi có việc gì mà gấp gáp như thế, sinh nói vì mẹ bệnh, nhân kể lại nguyên cớ. Ông già hỏi sao không lấy vợ khác sinh đáp vì chưa tìm được đám nào khá. Ông già chỉ xóm núi xa xa nói "Chỗ đó có một giai nhân, nếu chịu đi theo thì lão sẽ làm mai cho ông". Sinh từ chối nói mẹ bệnh dang chờ có cá ăn nên không được rảnh, ông già chắp tay chào, bảo ngày khác tới thôn hỏi già Vương rồi từ biệt đi.

Sinh về nhà nấu cá dâng mẹ, mẹ ăn được chút ít, vài hôm sau thì khỏi bệnh. Sinh bèn sai đầy tớ dẫn ngựa đi theo tìm ông già, tởi chỗ cũ thì không thấy xóm làng gì cả. Loanh quanh hồi lâu, bóng chiều dần buông xuống mà hang núi dày đặc không thể nhìn rõ nơi xa, bèn cùng người đầy tớ chia nhau lên đỉnh núi để tìm làng xóm. Nhưng đường núi gập ghềnh không đi ngựa được, đi bộ lên tới thì trời đã sẩm tối, nhìn ngó bốn phía chẳng thấy làng xóm nào, vừa định trở xuống thì lạc mất đường, lòng như lửa đốt. Sinh đang dò dẫm thì hụt chân rơi xuống vực, may là bên dưới mấy thước có một ngôi nhà bỏ hoang, sinh rơi lên nóc, rộng vừa đủ dung thân, nhìn xuống đen ngòm không trông thấy đáy, sợ quá không dám động đậy. Lại may là vách núi có những cây nhỏ to bằng song cửa, sinh định thần hồi lâu thấy bên chân có một cửa động nhỏ, trong lòng mừng thầm bèn dựa lưng vào đá, giật lùi chui vào, thấy hơi yên tâm, chờ trời sáng để kêu cứu.

Giây lát thấy xa xa trong động có đốm sáng như ngôi sao, đi lần vào khoảng hai ba dặm chợt thấy nhà cửa, không có đèn đuốc gì mà sáng như ban ngày, có một mỹ nhân trong phòng đi ra, nhìn ra thì là Thanh Nga. Nàng thấy sinh giật mình hỏi "Sao chàng tới được nơi đây?"' Sinh không kịp tỏ bày, nắm tay nàng khóc lớn, nàng an ủi bảo nín. Hỏi thăm mẹ và con, sinh kể hết cảnh khổ, nàng cũng buồn bã. Sinh hỏi "Nàng chết đã hơn một năm rồi, đây là âm ty phải không?", cô gái đáp "Không phải, đây là động tiên. Lúc trước thiếp chết không phải là thật đâu chàng chôn đó chỉ là một cây gậy trúc thôi. Nay chàng tới là có duyên phận thành tiên". Rồi dẫn sinh vào chào cha, thấy một người đàn ông râu rậm ngồi trong sảnh đường, sinh rảo bước tới lạy, cô gái thưa là Hoắc lang tới, ông giật mình đứng lên cầm tay sinh trò chuyện rồi nói "Con rể tới rất hay, nên ở lại đây". Sinh chối từ là mẹ ở nhà mong đợi, không ở lâu được. Ông nói "Ta cũng biết thế, nhưng về muộn đôi ba ngày thì có hề gì", rồi bày cơm rượu thết đãi, xong sai tỳ nữ dọn giường ở phòng khách, trải nệm gấm cho sinh nghỉ.

Sinh lui về phòng, kéo cô gái ngủ chung, nàng chối từ nói "Đây là nơi nào mà đòi giở trò bậy bạ?". Sinh nắm tay nàng không chịu buông, đứa tỳ nữ cười chế nhạo, nàng càng hổ thẹn. Đang còn giằng co thì ông nhạc vào, quát nói "Quân phàm tục làm nhơ động phủ của ta, bước ngay đi". Sinh vốn nóng tính, xấu hổ không nhịn được, giận dữ đáp "Tình vợ chồng ai mà nhịn được, bậc trưởng thượng sao lại rình nhìn? Ta đi thì không khó, nhưng lệnh nữ cũng phải đi theo". Ông không biết nói sao, đành bảo con gái đi theo rồi mở cổng sau đưa ra, nhưng lừa sinh ra rồi thì cha con đóng sập cửa lại. Sinh ngoảnh nhìn thì thấy vách đá cao ngất không có chỗ hở, bơ vơ một mình không biết về đâu, nhìn lên trời thì trăng xế sao thưa, ngậm ngùi hồi lâu, hết đau tới hận, nhìn vào vách đá kêu gào, không nghe ai lên tiếng đáp.

Sinh phẫn uất quá, rút cái xẻng trong lưng ra đục phá vách đá, vừa đục vừa chửi, trong chớp mắt đã khoét thủng ba bốn thước, nghe văng vẳng có tiếng người nói "Nghiệt chướng thay". Sinh càng ra sức đục mau, hai cánh cửa động chợt hé ra, ông nhạc đẩy Thanh Nga ra nói "Bước ngay, bước ngay!", vách đá lại liền lại như cũ. Cô gái oán trách nói "Đã thương yêu lấy thiếp làm vợ, sao lại đối xử với ông nhạc như thế? Đạo sĩ già ở đâu cho chàng cái vật hung dữ đó, quấy nhiễu người ta muốn chết". Sinh có được cô gái rồi cũng đã mãn nguyện, không buồn tranh cãi, chỉ lo đường đi hiểm trở khó về. Cô gái liền bẻ hai nhánh cây, mỗi người cưỡi lên một nhánh, lập tức biến thành ngựa chạy rất mau, giây lát đã về tới nhà, lúc ấy sinh mất tích đã bảy ngày. Lúc đầu khi chủ tớ sinh lạc nhau, người đầy tớ tìm không được bèn về thưa lại với mẹ sinh. Bà sai gia nhân tìm khắp trong núi không thấy dấu vết gì, đang lo sợ thì nghe tin con về, mừng rỡ ra đón, ngẩng đầu nhìn thấy Thanh Nga kinh hãi suýt ngất.

Sinh thuật qua mọi chuyện, bà càng thêm vui mừng. Cô gái vì hành trạng có chỗ lạ lùng, ngại người ta lo sợ nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Mẹ sinh theo lời, vì vốn có nhà ở làng khác liền dời tới ở đó, người ta đều khôngbiết về nàng. Ăn ở với nhau mười tám năm, nàng sinh một gái, gả cho họ Lý cùng huyện. Sau bà mẹ qua đời, nàng nói với sinh "Trong ruộng nhà ta có ngôi đất Chim trĩ ấp tám quả trứng có thể chôn mẹ, cha con chàng nên đưa linh cữu mẹ về đó an táng. Con chúng ta đã lớn, cứ để nó ở lại giữ mộ, không cần trở về". Sinh theo lời, chôn cất mẹ xong trở về một mình, hơn tháng sau Mạnh Tiên về thăm thì cha mẹ đã đi mất. Hỏi lão bộc thì thưa là đi đám tang chưa về trong lòng biết là có chuyện lạ nhưng chỉ còn cách than thở mà thôi.

Mạnh Tiên nổi tiếng văn hay nhưng lao đao chốn trường ốc đến bốn mươi tuổi vẫn chưa thi đỗ. Sau nhờ chân Cống cử vào kinh thi hội gặp một người cùng tên, thấy khoảng mười bảy mười tám tuổi, phong thái tuấn dật thích lắm. Nhìn tới quyển thi đề "Lẫm sinh Hoắc Trọng Tiên ở Thuận Thiên", giật mình kinh hãi bèn nói tên mình. Trọng Tiên cũng ngạc nhiên hỏi kỹ quê quán, Mạnh nói rõ ràng, Trọng Tiên mừng nói "Lúc đệ lên đường vào kinh, gia phụ có dặn vào trường nếu gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Tây thì đó là họ hàng, nên cùng giao thiệp, nay quả đúng. Nhưng sao tên tự chúng ta giống nhau như thế?". Mạnh Tiên hỏi tới danh tính ông bà cha mẹ xong giật mình nói "Đó là cha mẹ ta đấy". Trọng Tiên nghĩ tuổi tác không hợp, Mạnh Tiên nói "Cha mẹ đều là người tiên, làm sao lấy dung mạo mà bàn số tuổi được", nhân kể lại chuyện xưa, Trọng Tiên mới tin.

Thi xong hai người không màng nghỉ ngơi, sai thắng ngựa cùng về, vừa tới cổng thì gia nhân ra đón nói đêm trước Thái ông và phu nhân đi đâu mất, hai người cả kinh. Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ đáp "Chiều hôm qua còn cùng ngồi uống rượu, mẹ nói "Vợ chồng con còn nhỏ chưa trải việc đời, ngày mai anh cả con tới thì ta không lo gì nữa". Sáng ra vào phòng thì không thấy cha mẹ đâu cả". Anh em nghe nói dậm chân kêu khóc, Trọng Tiên muốn đi tìm nhưng Mạnh Tiên cho là vô ích mới thôi. Khoa ấy Trọng Tiên đỗ Cử nhân, vì phần mộ tổ tiên ở cả Sơn Tây nên theo anh về đó. Cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tung tích.

Dị Sử thị nói: Khoét vách tường lên giường ngủ, tình ý quả là ngây, đào vách núi chửi cha vợ, hành vi quả là cuồng, người tiên tác hợp cho chỉ là muốn lấy việc trường sinh báo đáp lòng hiếu thảo vậy. Nhưng đã lưu vết ở nhân gian, lấy vợ sinh con, thì cứ an nhiên sống đến lúc chết cũng có gì là không được? Đây thì trong ba mươi năm mấy lần bỏ mặc con cái, sao lại cô độc như thế nhỉ? Lạ thật.

128. Nha Đầu (Nha Đầu)

Chư sinh Vương Văn người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ tính thành thật. Đi chơi tới đất Sở (tỉnh Hồ Nam), qua sông Hoàng Hà, nghỉ lại ở nhà trọ, nhân rảnh rỗi dạo bước ngoài cửa. Có người đồng hương là Triệu Đông Lâu buôn bán lớn, thường mấy năm không về, gặp Vương cầm tay mừng rỡ, mời tới chỗ mình chơi. Tới nơi sinh thấy có mỹ nhân ngồi trong phòng, ngạc nhiên dừng bước. Triệu kéo vào, lại đứng ngoài cửa sổ gọi Nật Tử bảo đi chỗ khác, Vương bèn vào. Triệu dọn cơm rượu thết đãi, cùng nhau trò chuyện. Vương hỏi đây là nơi nào, Triệu đáp "Đây là một nhà chứa nhỏ, ta xa nhà lâu ngày nên tạm lấy làm nơi ngủ"' Trong lúc hai người trò chuyện, Nật Tử cứ lui tới ra vào, Vương áy náy không yên, đứng dậy từ biệt, Triệu cố giữ ngồi lại. Chợt một thiếu nữ đi ngang qua cửa, nhìn thấy Vưong liếc mắt đưa tình, thấy phong tư xinh đẹp như thần tiên. Vương vốn đứng đắn, nhưng đến lúc ấy thấy say mê điên đảo, bèn hỏi người đẹp ấy là ai. Triệu đáp "Đó là con gái thứ hai của bà chủ nhà chứa này, tiểu tự là Nha Đầu, vừa mười bốn tuổi. Bọn khách chơi giàu có nhiều lần đưa tiền bạc ngỏ ý với bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, đến nỗi bị bà đánh đập, nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi xin tha, nay còn đang chờ người nộp sính lễ".

Vương nghe thế cúi đầu yên lặng tơ tưởng, trò chuyện lơ đãng cứ hỏi gà lại đáp vịt. Triệu đùa nói "Nếu anh ưng ý thì ta xin làm mai cho". Vương bùi ngùi nói "Thật không dám có ý ấy", nhưng trời đã xế chiều vẫn không nói tới chuyện ra về. Triệu lại đùa hỏi, Vương nói "Thật rất cảm tạ lòng tốt của ông, nhưng cạn túi biết làm sao được?". Triệu biết tính nàng cứng cỏi, ắt không chịu tiếp nên hứa giúp thêm mười lượng vàng. Sinh cảm tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc tới, được năm lượng bèn ép Triệu nói giùm với mụ dầu, quả nhiên mụ chê ít. Nha Đầu nói "Hàng ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay xin theo ý mẹ. Con mới học ra đời, còn nhiều dịp báo đáp ơn mẹ, xin đừng vì cái cớ nhỏ mọn mà khước từ Thần Tài". Mụ dầu thấy nàng vốn bướng bỉnh, nay đã chịu ra tiếp khách nên rất mừng rỡ bèn nhận lời, sai tỳ nữ đi mời Vương lang.

Triệu không nuốt lời được bèn lấy tiền đưa thêm. Vương cùng cô gái vui vầy rất sung sướng, kế nàng nói "Thiếp là kẻ hạ tiện chốn yên hoa, không xứng sánh đôi với chàng, nay được đội ơn thương tới rất cảm kích, nhưng chàng dốc túi mua một đêm vui, ngày mai sẽ ra sao?". Vương rơi lệ sụt sùi, cô gái nói "Chàng đừng buồn, thiếp gởi thân trong chốn phong trần song không phải thật lòng muốn thế, chỉ vì chưa gặp được người thành thật xứng đáng trao thân gởi phận như chàng mà thôi, xin nhân đêm cùng nhau trốn đi". Vương mừng rỡ vùng dậy, cô gái cũng dậy, nghe trống đã điểm canh ba, nàng vội đổi y phục giả làm con trai cùng nhau đi ngay. Sinh gõ cửa nhà trọ, vốn có hai con lừa bèn lấy cớ có việc gấp gọi đầy tớ lên đường.

Cô gái lấy bùa buộc vào chân người đầy tớ và tai lừa, thả cương chạy thật nhanh, không cho mở mắt, chỉ nghe gió rít ào ào bên tai. Sáng ra tới cửa Hán Giang (thuộc tỉnh Hồ Bắc) thuê nhà ở lại, Vương kinh ngạc vì chuyện lạ, nàng nói "Nói ra xin chàng đừng sợ, thiếp không phải là người mà là hồ thôi. Vì mẹ tham dâm nên hàng ngày bị ngược đãi, lòng vẫn oán hờn, nay may mắn thoát khỏi bể khổ, ở ngoài trăm dặm thì mẹ không thể biết được, may ra có thể yên ổn". Vương yên lòng không ngờ vực gì nữa, chỉ chậm rãi nói "Trong phòng có người đẹp như đoá phù dung mà nhà nghèo trơ bốn bức vách, thật khó yên lòng, sợ rốt lại nàng sẽ bỏ đi". Cô gái nói "Sao lại lo lắng chuyện ấy? Nay buôn bán cũng đủ sống, nhà có ba miệng ăn, sống đạm bạc cũng có thể no đủ, cứ bán con lừa lấy tiền làm vốn".

Vương theo lời, mở ngay một cửa hàng nhỏ trước cổng, cùng đầy tớ làm lụng, bán rượu và nước tương. Cô gái thì may thuê thêu mướn, hàng ngày kiếm dư tiền chợ, ăn uống cũng đầy đủ. Hơn một năm dần dần nuôi được tôi tớ, Vương từ đó không phải đích thân làm lụng nữa, chỉ đứng trông nom. Một hôm chợt cô gái buồn rầu nói "Đêm nay sẽ có nạn, biết làm thế nào?", Vương hỏi thì nàng đáp "Mẹ đã biết tin tức của thiếp, ắt sẽ kiếm chuyện, nếu sai chị Nật tới thì chúng ta khỏi lo, chỉ sợ bà đích thân tới thôi". Đến khuya nàng mừng rỡ nói "Không sao, là chị Nật tới". Không bao lâu Nật Tử đẩy cửa vào, nàng tươi cười ra đón, Nật Tử mắng "Con nhãi không biết nhục, bỏ trốn theo trai, mẹ sai ta trói ngươi dẫn về", rồi lấy dây ra buộc vào cổ nàng. Cô gái tức giận nói "Chỉ theo một người thì có tội gì?", Nật Tử càng tức, kéo nàng đứt cả vạt áo. Tôi tớ trong nhà cùng đổ tới, Nật Tử sợ hãi chạy đi. Cô gái nói "Chị ấy về báo ắt mẹ sẽ đích thân tới, sắp có vạ lớn, phải tính kế ngay". Liền sắp xếp đồ đạc định dời nhà đi chợt bà mẹ sồng sộc bước vào, nét mặt hầm hầm nói "Ta đã biết con nhãi vô lễ, phải tự tới mới xong". Cô gái quỳ xuống khóc lóc năn nỉ, mụ ta không nói gì, cứ nắm tóc nàng lôi đi.

Vương tha thiết nhớ thương, bỏ cả ăn ngủ, vội tới Đại Hà định chuộc nàng về, nhưng tới nơi thì cửa nhà như cũ mà người ở khác xưa. Hỏi người ở đó thì không ai biết mụ dọn nhà đi đâu, đành đau xót trở về. Rồi đó cho hết đồ đạc, mang tiền về Sơn Đông. Vài năm sau tình cờ lên Yên Kinh, qua Viện mồ côi thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi, người đầy tớ lấy làm lạ vì rất giống chủ mình nên cứ quay nhìn chằm chằm. Vương hỏi sao cứ nhìn đứa nhỏ, người đầy tớ cười thưa rõ, Vương cũng cười nhìn kỹ đúa nhỏ thấy dáng vẻ hiên ngang, tự nghĩ chưa có con nối dõi, nhân thấy giống mình nên yêu mến xuất tiền ra chuộc. Hỏi tên họ, nó đáp là Vương Tư, Vương nói "Cháu bị cha mẹ bỏ rơi lúc còn trong tã, làm sao biết được tên họ?", nó đáp "Thầy học con vẫn nói lúc nhặt được con thì thấy trước bụng có viết hàng chữ "Con của Vương Văn ở Sơn Đông"*. Vương cả sợ nói "Ta chính là Vương Văn, nhưng lấy đâu ra thằng con này, chắc là ai trùng tên đó thôi", nhưng cũng mừng thầm nên rất thương yêu.

* Con của Vương Văn ở Sơn Đông: theo lối chiết tự trong chữ Hán thì chữ Tư có thể hiểu như Văn tử (con của Văn).

Khi về tới quê, ai thấy cũng biết ngay là con của Vương không cần phải hỏi. Tư dần lớn lên, vạm vỡ khỏe mạnh, thích săn bắn chứ không lo làm ăn, thích đánh nhau ưa giết người, Vương cũng không sao kiềm chế được. Tư lại tự nói có thể nhìn thấy ma quỷ hồ tinh nhưng không ai tin, gặp lúc trong làng có nhà nọ bị hồ ám mời tới xem. Tư tới nơi chỉ vào nơi hồ trốn núp, bảo mấy người cứ theo chỗ mình chỉ mà đánh, lập tức nghe tiếng hồ kêu, lông máu ngỗn ngang, từ đó được yên ổn, vì vậy mọi người càng lấy làm lạ. Một hôm Vương đi trong chợ chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo xốc xếch, mặt mũi tiều tụy, bèn sửng sốt hỏi vì sao. Triệu buồn bã xin chờ thong thả sẽ kể, Vương liền dẫn về nhà thết đãi. Triệu nói "Mụ dầu bắt được Nha Đầu về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên Bắc rồi lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề không lấy hai chồng nên mụ còn nhốt để đó. Nàng sinh được một con trai, mụ vứt ra đường, nghe nói được đưa vào Viện mồ côi, nay chắc đã trưởng thành, đó là giọt máu của ông đấy".

Vương sa nước mắt nói "Nhờ trời thằng nhỏ đã về đây rồi", rồi kể lại đầu đuôi, kế hỏi "Sao ông lại tới nông nỗi này?". Triệu than "Nay mới biết không thể quá tin vào sự tử tế ở chốn lầu xanh, nhưng còn nói gì được nữa?". Nguyên lúc mụ dầu dời nhà lên Yên Kinh, Triệu cũng nhân buôn bán đi theo, những hàng hóa nặng nề khó chở thì bán rẻ hết, dọc đường lại gánh vác sự chi tiêu, phí tổn rất lớn nên ăn vào vốn rất nhiều. Nật Tử lại đòi hỏi quá quắt nên trong mấy năm, vốn liếng hàng vạn lượng vàng hết sạch. Mụ dầu thấy Triệu hết tiền, ngày càng khinh rẻ, Nật Tử dần dần cũng đi ngủ ở các nhà giàu có, thường mấy đêm liền không về. Triệu căm tức không nhịn được nhưng không biết làm sao. Gặp lúc mụ dầu đi vắng, Nha Đầu trong cửa sổ gọi Triệu nói "Chốn lầu xanh vốn không có tình nghĩa, sở dĩ gắn bó chiều chuộng chỉ vì tiền đó thôi. Ông mà còn lưu luyến nơi này, ắt sẽ gặp họa lớn đấy"

Triệu sợ hãi như mới tỉnh mộng, lúc sắp lên đường lén tới thăm nàng, nàng đưa một lá thư nhờ chuyển tới Vương, Triệu bèn đi. Nhân kể lại tình cảnh của Nha Đầu rồi lấy thư đưa Vương, thư viết "Được biết thằng Tư đã về với chàng. Tai ách của thiếp thì ông Đông Lâu đã biết rõ, đó là cái oan nghiệt kiếp trước, còn biết nói gì! Thiếp bị giam trong phòng tối, không thấy ánh mặt trời, đòn roi nát thân, lửa đói đốt ruột, một ngày dài như một năm. Nếu chàng không quên lúc ở Hán Giang, đêm tuyết chỉ có chiếc chăn đơn, ôm nhau cho ấm thì xin nên cùng con mưu tính giải thoát cho thiếp ra khỏi tai ách. Mẹ và chị thiếp tuy tàn ác cũng là cốt nhục, xin đừng làm cho thương tổn, đó là điều thiếp mong mỏi vậy".

Vương xem thư khóc ròng, lấy vàng lụa ra đưa chân Triệu. Lúc ấy Tư đã mười tám tuổi, Vương kể rõ đầu đuôi, nhân đưa cho xem thư mẹ. Tư tức giận trợn mắt tưởng chừng rách khóe, ngay hôm ấy lên đường vào kinh, hỏi thăm tới được nơi mụ dầu đất Ngô ở thì đang lúc ngựa xe dày đặc trước cổng. Tư xông thẳng vào, Nật Tử đang uống rượu với khách, thấy Tư cầm đao biến sắc, Tư sấn tới chém chết. Khách khứa cả sợ cho là giặc cướp, nhưng nhìn lại xác Nật Tử thì thấy đã hóa ra con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà trong thấy mụ dầu đang sai bảo tỳ nữ làm thức ăn, Tư xông tới gần cửa thì mụ biến mất. Tư nhìn quanh rồi rút mau cung tên bắn lên xà nhà, một con chồn bị bắn xuyên tim rơi xuống, Tư liền chặt lấy đầu. Tìm được chỗ mẹ bị giam, vác đá phá tung cửa, mẹ con cùng khóc không ra tiếng. Mẹ hỏi mụ dầu, Tư đáp đã giết rồi. Mẹ oán trách nói "Sao con không nghe lời ta?", rồi sai mang ra ngoài đồng chôn cất.

Tư giả vâng dạ nhưng lột lấy bộ da giấu đi. Kế kiểm lại rương hòm của mụ đầu, lấy hết vàng bạc rồi đưa mẹ về. Vợ chồng gặp lại nhau nửa mừng nửa tủi, kế hỏi về mụ dầu, Tư nói đang trong túi con. Giật mình hỏi lại, nó lấy hai bộ da dâng lên. Mẹ tức giận mắng "Thằng con ngỗ nghịch sao dám làm thế", rồi gào khóc tự đánh mình, lăn lộn dưới đất muốn chết đi. Vương hết sức khuyên giải an ủi, quát bảo con đem chôn hai bộ da, Tư uất ức nói "Nay được yên vui đã quên ngay lúc bị roi vọt à?". Mẹ càng giận dữ gào khóc không thôi. Tư đi chôn hai bộ da rồi trở về thưa, mẹ mới hơi nguôi giận. Vương từ khi cô gái trở về, trong nhà càng thêm sung túc, lại nhớ ơn Triệu, báo đáp rất hậu, Triệu lúc ấy mới biết mẹ con mụ dầu đều là hồ.

Tư thờ phụng cha mẹ rất có hiếu, nhưng có ai lỡ xúc phạm thì lớn tiếng gầm thét. Cô gái nói với Vương "Con ta có sợi gân hung dữ, nếu không đâm hủy đi thì về sau thế nào cũng vì giết người mà mất nghiệp". Tối đến chờ Tư ngủ say, ngầm lấy dây trói chặt tay chân. Tư tỉnh dậy nói "Con không có tội gì", mẹ nói "Ta định chữa bệnh cho con, đừng kêu la". Tư gào lớn lăn lộn nhưng không vùng ra được. Cô gái lấy kim lớn đâm vào cạnh xương mắt cá chân của nó, sâu tới ba bốn phân, dùng sức ngoáy mạnh đứt nghe răng rắc, lại đâm vào khuỷu tay và sau gáy, cũng làm như vậy, kế cởi trói cho, vỗ về bảo cứ ngủ yên. Sáng ra Tư tới hầu cha mẹ, sa nước mắt nói "Con từ khuya đến sáng nhớ lại việc làm trước đây, thật đều không phải giống người". Cha mẹ cả mừng, từ đó Tư nhu mì nhỏ nhẹ như con gái, làng xóm đều khen là hiền đức.

Dị Sử thị nói: Kỹ nữ đều là hồ, những kẻ không cho rằng có hồ làm kỹ nữ, tới chỗ hồ tìm gà mái, thú mà làm cầm thì những chuyện thương luân bại lý có gì là lạ. Nhưng tới chuyện trải trăm cay ngàn đắng, đến chết không chịu theo người khác thì loài người vẫn cho là khó mà hồ cũng làm được sao? Vua Đường vẫn nói Ngụy Trưng có vẻ yếu ớt như đàn bà* ta cũng nói về Nha Đầu như vậy.

*Vua Đường... đàn bà: Ngụy Trưng là Thừa tướng của Đường Thái tông, tính cương trực trầm tĩnh, trước mặt vua dám can gián những việc lớn, Thái tông nhiều phen nổi giận nhưng Trung cứ thản nhiên tâu bày, vua vì thế cũng nguôi dần, thường nói "Người ta vẫn nói Trưng ngạo nghễ, nhưng ta xem có vẻ yếu ớt như đàn bà". Đây ý nói nhân vật Nha Đầu bề ngoài hiền dịu nhưng trong lòng cương cường, không thể khuất phục được.

129. Dư Đức (Dư Đức)

Doãn Đồ Nam ở Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có gian nhà riêng cho một vị Tú tài thuê ở, suốt nửa năm cũng chưa từng tới chơi. Một hôm gặp ngoài cổng, thấy còn rất trẻ nhưng dung nghi đẹp đẽ, phục sức sang trọng, rảo bước tới cùng trò chuyện thấy nho nhã khả ái. Lấy làm lạ về nói với vợ, vợ sai tỳ nữ tìm cớ qua hỏi han để dò xét, thấy trong nhà còn có người em gái xinh đẹp như tiên, những non bộ cây cảnh quần áo đồ chơi đều không phải là những món từng nghe thấy.

Doãn không rõ là hạng người nào, bèn tới xin yết kiến nhưng gặp lúc người ấy vắng nhà. Hôm sau người ấy tới đáp lễ, xem danh thiếp mới biết là họ Dư tên Đức. Đến lúc trò chuyện hỏi kỹ gia thế cứ trả lời quanh co, Doãn hỏi gặng thì nói "Nếu muốn qua lại với nhau thì ta không dám từ chối, nhưng ta không phải là trộm cướp đào vong, cần gì phải hỏi kỹ lai lịch?". Doãn xin lỗi, sai mang rượu ra mời, trò chuyện cười nói rất vui vẻ.

Đến tối có hai tên đầy tớ dắt ngựa cầm đèn tới đón Dư về. Hôm sau Dư gởi thư mời chủ nhân để đáp lễ, Doãn tới nhà thấy trên tường đều dán loại giấy sáng loáng trong suốt như gương, lò đồng hình sư tử đốt trầm hương, mùi thơm rất lạ. Trên bàn có bình ngọc xanh cắm hai cái lông đuôi chim phụng, hai cái lông cánh chim công, đều dài hơn hai thước, một bình pha lê cắm nhánh cây đầy hoa không biết tên gì, cũng cao khoảng hai thước, cành rủ xuống bàn, lá thưa hoa dày mà đều chưa nở, dáng như con bướm khép cánh, đài hoa như râu bướm. Trên tiệc chỉ có tám món ăn mà thơm ngon lạ thường.

Kế Dư sai tiểu đồng đánh trống giục hoa làm tửu lệnh, tiếng trống vừa nổi lên thì những nụ hoa trong bình đều run rẩy như muốn rụng xuống. Giây lát cánh hoa như cánh bướm từ từ giương ra, kế đến tiếng trống cuối cùng ầm một tiếng, những đài hoa rơi cả xuống, hoa biến thành một con bướm bay sa vào lòng Doãn. Dư cười đứng dậy mời một chén lớn, Doãn vừa uống cạn thì con bướm cũng bay mất. Lúc sau trống lại nổi, hai con bướm bay xuống đậu trên mũ Dư. Dư cười nói "Kẻ làm luật lệ hóa ra lại tự phạt mình", rồi cũng uống hai chén lớn. Hổi trống thứ ba kết thúc thì hoa rụng tơi bời dính cả vào áo vào mũ hai người, đứa tiểu đồng đánh trống cười bước lên đếm, Doãn dược chín bông, Dư được bốn bông. Doãn đã say không thể uống hết, gượng uống ba chén rồi rời tiệc bước ra, vì thế càng lấy làm lạ về Dư.

Nhưng Dư tính ít giao du, thường đóng cửa ở nhà không đi lại với người chung quanh. Doãn gặp mọi người cứ kể vung lên, những kẻ nghe chuyện lạ tranh nhau tới xin gặp Dư, mũ lọng chen chúc ở cửa, Dư không chịu được, chợt tới từ giã chủ nhân. Dư đi rồi, Doãn vào nhà thấy sân trống quét dọn sạch sẽ không vương chút bụi, sáp đèn đọng lại vun đầy dưới thềm, những giấy dán cửa sổ bị rách vẫn còn dấu tay, duy sau nhà còn sót lại một cái vò bằng đá trắng chứa khoảng một thạch, trông rất khả ái.

Doãn cầm về đổ nước vào nuôi cá vàng, hơn một năm nước vẫn trong như mới đổ vào. Sau người đầy tớ dọn dẹp nhà cửa bưng đi lỡ tay làm mẻ, nước trong vò cũng không đổ ra, nhìn thì thấy mép vò vẫn còn nguyên mà sờ lên thì thấy trống không, đưa tay vào trong thì nước theo tay rẽ ra, rút tay ra thì nước lại hợp lại, mùa đông cũng không đóng băng. Một hôm nước trong vò chợt kết lại thành khối pha lê, cá bên trong vẫn bơi lội như cũ. Doãn sợ người ta biết mang để trong phòng kín, nếu không phải là trai gái dâu rể trong nhà thì không đưa ra cho xem.

Lâu ngày tin tức đồn rộng ra, những người đòi xem vật lạ tới chen chúc ở cổng. Một đêm tháng chạp chợt cái vò tan ra thành nước ướt đầm mặt đất, cá bên trong cũng cũng biến mất nhưng mảnh vò mẻ vẫn còn nguyên như cũ. Chợt có đạo sĩ tới xin, Doãn lấy đưa cho xem, đạo sĩ nói "Đây là vật chứa nước ở Long cung". Doãn kể chuyện lạ vò mẻ mà nước không chảy ra, đạo sĩ nói "Đó là hồn của cái vò" rồi nài nỉ xin một mảnh nhỏ. Doãn hỏi dùng làm gì, đạo sĩ đáp "Lấy đó chế thuốc uống thì có thể trường sinh". Doãn lấy cho một mảnh, đạo sĩ mừng rỡ cảm tạ ra về.

Quyển VIII

130. Phong Tam Nương (Phong Tam Nương)

Nàng Mười một họ Phạm là con gái quan Tế tửu ở Lộc Thành, lúc nhỏ đã tuyệt đẹp lại rất phong nhã. Cha mẹ vô cùng yêu quý, có ai tới dạm hỏi đều cho tự chọn lựa nhưng nàng chưa ưng đám nào. Gặp tiết Thượng nguyên, các ni cô ở chùa Thủy Nguyệt mở hội Vu Lan, hôm ấy con gái quanh miền tới lễ bái rất đông, nàng cũng tới xem. Đang lúc dạo cảnh chùa thấy có một thiếu nữ theo sát, mấy lần nhìn nàng như muốn bắt chuyện, nhìn kỹ thấy là một thiếu nữ khoảng mười sáu tuổi, nhan sắc cực đẹp trong lòng rất ưa thích cứ nhìn chăm chăm. Thiếu nữ mỉm cười hỏi "Chị có phải là cô Mười một họ Phạm không?", nàng đáp phải. Cô gái nói "Nghe danh đã lâu, quả lời đồn không sai". Nàng Mười một cũng hỏi quê quán họ tên, thiếu nữ đáp "Thiếp họ Phong, bày vai thứ ba, ở thôn gần đây". Hai người cầm tay chuyện trò vui vẻ, yêu mến nhau không muốn rời. Nàng Mười một hỏi sao chỉ đi một mình, thiếu nữ đáp "Cha mẹ thiếp mất sớm, nhà chỉ có một bà vú già phải coi nhà không di cùng được".

Nàng Mười một sắp về, Phong nhìn sững ứa nước mắt, nàng cũng buồn rầu, liền mời Tam nương ghé chơi. Phong nói "Nhà nương tử là nơi lầu son gác tía, thiếp lại vốn không phải là họ hàng, sợ sẽ bị chê cười". Nàng Mười một cố mời, Phong hẹn hôm khác, nàng rút một cành thoa vàng đưa tặng, Phong cũng lấy chiếc trâm biếc cài trên tóc đáp lễ. Nàng Mười một về nhà tưởng nhớ thiết tha, lấy chiếc trâm Phong tặng ra xem thì không phải vàng cũng không phải ngọc, người nhà đều không ai biết là thứ gì, rất lấy làm lạ. Hàng ngày cứ mong Phong tới chơi, buồn rầu phát bệnh. Cha mẹ hỏi biết chuyện, sai người dò hỏi khắp các thôn xóm quanh vùng nhưng không ai biết. Gặp tiết Trùng dương, nàng Mười một buồn bã, gọi tỳ nữ đỡ ra vườn, trải nệm dưới giậu cúc ngồi chơi, chợt có một cô gái trèo lên tường nhìn qua, nhìn lại thì là cô gái họ Phong. Cô gái gọi "Đỡ ta với"' đứa tỳ nữ chạy ra đỡ, Phong nhảy luôn xuống. Nàng Mười một ngạc nhiên mừng rỡ, đúng phắt lên kéo Phong cùng ngồi xuống nệm, trách nàng lỗi hẹn rồi hỏi từ đâu tới đây? Phong đáp "Nhà thiếp cách đây xa lắm, thỉnh thoảng tới chơi nhà cậu, trước đây nói ở thôn gần đây là nói nhà cậu thôi. Từ lúc chia tay cũng nhớ nhung lắm, nhưng kẻ nghèo hèn giao du với người sang thì chưa lên tới cổng đã thấy hổ thẹn, sợ bị gia nhân trong nhà không vừa mắt nên ngần ngại không muốn tới.

Mới rồi đi ngang ngoài tường, nghe trong này có tiếng con gái liền trèo lên nhìn, cũng mong được gặp nương tử, giờ đã thỏa nguyện". Nàng Mười một kể lý do mình bị bệnh, Phong khóc như mưa, kế nói "Chuyện thiếp tới xin giữ kín cho, chứ để thiên hạ bàn tán này kia thì khó chịu lắm". Nàng Mười một ưng thuận, kéo về phòng mình cùng ăn ngủ, đốc hết tâm sự. Dần dần khỏi bệnh, kết làm chị em với nhau, quần áo trang sức đều dùng chung, có ai tới thì Phong lánh mặt sau màn. Qua năm sáu tháng, Phạm công và phu nhân mới biết chuyện. Một hôm hai người đang đánh cờ thì phu nhân thình lình bước vào, vừa nhìn thấy Phong kinh ngạc nói "Thật xứng là bạn của con ta?", nhân nói với nàng Mười một "Trong khuê phòng có người bạn tốt thì là điều cha mẹ vui mừng, sao con không thưa sớm". Nàng Mười một bày tỏ ý Phong, phu nhân nhìn Phong nói "Tam nương làm bạn với con ta là điều ta rất vui, sap lại phải giấu diếm?". Phong đỏ bừng cả mặt, chỉ im lặng mân mê tà áo mà thôi. Phu nhân đi rồi, Phong bèn cáo biệt, nàng Mười một cố giữ lại mới thôi.

Một đêm chợt Phong hớt hải từ ngoài chạy vào, khóc nói "Ta đã nói rằng không thể ở lại nay quả nhiên gặp chuyện vô cùng nhục nhã này!". Nàng Mười một giật mình hỏi han, nàng đáp "Vừa rồi ra thay áo bị một thiếu niên chặn đường chọc ghẹo, may mà chạy thoát, như thế thì còn mặt mũi nào ở lại nữa?". Nàng Mười một hỏi kỹ vóc dáng mặt mũi rồi tạ lỗi, nói "Xin đừng trách, đó là ông anh ngốc nghếch của em, để em thưa với mẹ đánh đòn trị tội". Phong nhất định từ biệt, nàng Mười một xin đợi đến sáng, Phong nói "Nhà ông cậu sát ngay gần đây, chỉ xin cái thang cho ta trèo qua tường thôi mà". Nàng Mười một thấy không giữ lại được liền sai hai đứa tỳ nữ cùng trèo qua tường tiễn nàng đi, được nửa dặm thì Phong từ tạ, hai tỳ nữ trở về, nàng Mười một nằm phục xuống giường khóc lóc thảm sầu như mất bạn trăm năm vậy.

Vài tháng sau, đứa tỳ nữ có việc tới thôn bên, chiều tối trở về gặp Phong giữa đường, có bà già theo sau. Đứa tỳ nữ mừng rỡ chào hỏi, Phong cũng rầu rĩ hỏi thăm sức khỏe nàng Mười một, đứa tỳ nữ kéo áo Phong nói "Cô Ba ghé lại chơi đi, cô ta trông mong gần chết". Phong nói "Ta cũng nhớ muội tử, nhưng không muốn để người nhà biết, về cứ mở sẵn cửa vườn, ta sẽ tự tới". Đứa tỳ nữ về kể lại, nàng Mười một mừng quá theo lời ra vườn thì Phong đã vào tới rồi. Hai người gặp nhau cùng kể lể tình thương nhớ, rì rầm mãi không ngủ. Phong thấy đứa tỳ nữ đã ngủ say bèn trỗi dậy qua nằm chung với nàng Mười một, nói nhỏ "Thiếp vốn biết muội tử chưa hứa hôn, nhưng lấy tài sắc dòng dõi mà bàn thì lo gì em không lấy được người chồng danh giá. Nhưng đám công tử bột thì không đáng nói tới, nếu muốn có một người chồng xứng đáng thì xin đừng kén chọn giàu nghèo". Nàng Mười một cho là phải, Phong nói "Chỗ chùa chúng ta gặp nhau trước đây nay lại mở đạo trường, ngày mai chịu khó đi một chuyến, thiếp sẽ chỉ cho một người chồng như ý. Thiếp lúc nhỏ có đọc sách xem tướng, chắc chắn không sai đâu".

Tảng sáng Phong đi trước, hẹn gặp nhau ở chùa, lúc nàng Mười một tới thì Phong đã có ở đó rồi. Hai người dạo quanh chùa một vòng, nàng Mười một mời Phong đi cùng xe về, dắt tay nhau ra cổng thì thấy một Tú tài khoảng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo vải không trang sức nhưng dung mạo anh tuấn. Phong bấm tay nàng Mười một nói "Người này có tài Hàn lâm đấy". Nàng Mười một liếc qua, Phong từ giã nói "Muội tử cứ về, ta sẽ tới ngay". Chiều tối quả nhiên Phong tới, nói "Ta đã dò hỏi rất rõ ràng, người ấy là Mạnh An Nhân ở cùng làng này". Nàng Mười một biết chàng nhà nghèo cho là không được, Phong nói "Sao muội tử cũng sa vào thói đời như thế "Người ấy mà nghèo hèn suốt đời thì ta xin khoét mắt không xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ nữa". Nàng Mười một hỏi "Vậy thì làm thế nào?", Phong đáp "xin đưa một vật cho ta cầm tới đính ước". Nàng Mười một nói "Sao chị lại dễ dàng thế? Cha mẹ em đều còn sống, nếu không chịu thì sao?", Phong đáp "Thì chính vì sợ hai vị không chịu nên mới làm thế mà thôi. Nếu em quyết ý, thì sống chết cũng làm sao ép uổng được". Nàng Mười một cho là không nên, Phong nói "Cơ nhân duyên của nương tử đã phát động nhưng ma chướng chưa tiêu tan, hôm nay ta tới để báo đáp tình nghĩa lâu nay đấy. Xin từ giã ở đây, sẽ lấy cành thoa vàng được tặng trước đây giả mệnh em tặng chàng". Nàng Mười một đang còn định bàn lại, Phong đã bước ra đi luôn.

Lúc ấy Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học giỏi, có ý kén vợ xứng đôi nên mười tám tuổi chưa hỏi cưới ai. Hôm ấy đi chơi chùa trông thấy hai người đẹp, về nhà cứ bồi hồi tơ tưởng, vừa hết canh một thì Phong Tam nương gõ cửa bước vào. Sinh khêu đèn nhìn mặt thì ra là một trong hai người đẹp mình trông thấy lúc sáng, mừng quá hỏi han. Phong nói "Thiếp họ Phong, chị em bạn của nương tử Mười một họ Phạm". Sinh thích lắm không buồn hỏi kỹ, sấn ngay tới ôm chầm lấy, Phong đẩy ra nói "Thiếp không phải như Mao Toại đem thân tự tiến mà là Tào Khâu đưa tin mai mối thôi. Nàng Mười một họ Phạm muốn kết nhân duyên nên nhờ ta làm mai mối đây". Sinh kinh ngạc không tin, Phong bèn đưa cành thoa vàng ra, sinh mừng quá thề "Làm phiền nàng vất vả lo toan cho như thế, ta mà không cưỡi được nàng Mười một thì xin ở vậy suốt đời", phong bèn ra đi.

Sáng ra sinh nhờ bà già láng giềng tới nói với Phạm phu nhân, phu nhân chê sinh nghèo, cũng không hỏi ý con, từ chối lập tức. Nàng Mười một nghe thấy thất vọng lắm, rất oán Phong làm lỡ mình, nhưng thoa vàng khó mà đòi lại, chỉ còn cách thề chết giữ trọn lời nguyền. Mấy hôm sau có con trai vị quan Mỗ tới cầu hôn, còn sợ không được nên nhờ quan huyện đứng ra làm mối. Lúc ấy Mỗ đang giữ chức lớn, Phạm công có ý sợ bèn hỏi nàng Mười một, nàng tỏ vẻ không vui, mẹ gạn hỏi cũng không đáp, chỉ khóc sướt mướt. Kế sai người nói riêng với phu nhân rằng ngoài Mạnh sinh ra thì đến chết không lấy ai cả. Phạm công nghe thế càng tức giận, bèn hứa hôn với người con vị quan Mỗ, lại ngờ con gái tư tình với Mạnh sinh nên càng gấp rút chọn ngày tốt làm đám cưới cho mau. Nàng Mười một phẫn uất bỏ ăn, suốt ngày chỉ nằm trong phòng. Đến đêm trước ngày cưới chợt trỗi dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát tỳ nữ chạy vội tới thưa tiểu thư đã thắt cổ tự tử, cả nhà kinh hãi than khóc nhưng hối hận không kịp nữa, ba ngày sau đem chôn cất.

Mạnh sinh từ khi bà già láng giềng về kể lại, phẫn hận muốn chết nhưng vẫn dò la tin tức, mong có dịp cứu vãn tình thế. Nghe tin Phạm công hứa gả nàng Mười một, lửa hận thiêu đốt ruột gan, muôn vàn ý nghĩ đều dứt bỏ. Không bao lâu nghe tin ngọc lấp hương chôn, vô cùng đau xót, hận không được chết cùng người đẹp. Chờ tối ra cửa, định nhân lúc đêm tối tới khóc mồ nàng Mười một một lần, chợt có một người đi tới, tới gần thì ra là Phong Tam nương. Phong nhìn sinh nói "Mừng cho chàng nhân duyên đã thành". Sinh rơi nước mắt hỏi "Nàng không biết nàng Mười một đã chết à?", Phong đáp "Sở dĩ ta nói đã thành chính là vì nàng đã chết đấy. Mau gọi gia nhân đào mồ lên, ta có thuốc lạ có thể cứu nàng sống lại". Sinh theo lời, liền đào mộ phá quan tài rồi lấp huyệt lại như cũ, tự cõng cái xác cùng Tam nương về.

Về tới nơi đặt nàng Mười một lên giường đổ thuốc cho, giây lát thì sống lại. Nàng thấy Tam nương liền hỏi đây là nơi nào, Phong chỉ vào sinh nói "Đây là Mạnh An Nhân", nhân kể lại mọi việc, nàng Mười một mới chợt như tỉnh mộng. Phong sợ việc tiết lộ, bèn đưa đi cách đó mười lăm dặm, ẩn náu ở một xóm núi. Phong định từ giã ra đi, cô khóc lóc giữ lại làm bạn với mình, để ở một gian riêng. Kế đem bán những vật trang sức chôn theo để sinh sống, cũng hơi dư dật. Phong mỗi khi thấy sinh tới là vội vàng lánh mặt, nàng Mười một thong thả nói "Chị em ta còn hơn cả ruột thịt, nhưng rốt lại cũng không thể sum họp suốt đời, tính lại chẳng bằng cứ bắt chước hai chị em Nữ Anh Nga Hoàng cùng lấy vua Thuấn". Phong nói "Thiếp lúc nhỏ học được thuật lạ, thở hít có thể trường sinh nên không muốn lấy chồng". Nàng Mười một cười nói "Những thuật trường sinh trên đời vẫn truyền tụng có tới hàng đống, nhưng đã có ai học theo mà được trường sinh?". Phong đáp "Cái thuật mà thiếp học được không phải như người đời vẫn biết. Thuật người đời vẫn truyền chẳng phải là chân truyền, chỉ có Ngũ cầm đồ của Hoa Đà* là đúng. Phàm hành giả luyện công ai cũng muốn khí huyết được lưu thông, nếu bị ngưng trệ vướng mắc mà làm theo tư thế con cọp thì hết ngay, không phải là hiệu nghiệm à?"'

*Ngũ cầm đồ của Hoa Đà: Hậu Hán thư, Hoa Đà truyện chép Hoa Đà là bậc danh y, có một cách tập luyện thân thể tên là "Ngũ cầm chi hý" mô phỏng tư thế, động tác của năm giống vật là cọp, hươu, gấu, vượn, chim. Ngũ cầm đồ đây có lẽ chỉ các bức vẽ hướng dẫn về cách tập luyện nói trên.

Nàng Mười một ngầm bàn mưu với sinh, bảo sinh giả có việc đi xa, đến đêm cố ép Phong uống rượu thật say cho sinh vào làm bừa. Tam nương tỉnh dậy nói "Muội tử hại ta rồi. Nếu không phá sắc giới mà tu luyện thành đạo thì có thể lên tới tầng trời thứ nhất. Nay vướng vào mưu gian, cũng là mệnh vậy". Bèn đứng dậy từ giã, nàng Mười một bày tỏ lòng thành, năn nỉ xin tha lỗi. Phong nói "Nói thật ta là hồ, vì thấy em xinh đẹp chợt nảy lòng yêu mến, như con tằm nhả kén tự buộc lấy mình mới có chuyện ngày hôm nay. Đó là vì tình nghiệt chứ không phải sức người, còn ở lại đây thì ma chướng càng sâu, không biết tới đâu là hết. Nương tử phúc trạch còn nhiều, xin tự bảo trọng".

Dứt lời thì biến mất, vợ chồng kinh ngạc than thở hồi lâu. Qua năm sau sinh đỗ cả thi hương lẫn thi hội, làm quan tới chức Hàn lâm, đưa danh thiếp tới yết kiến Phạm công, Phạm công thẹn thùng hối hận không chịu tiếp, sinh năn nỉ mãi mới ra gặp Sinh vào lạy chào theo lễ con rể rất cung kính, Phạm công nổi giận ngờ là sinh chế nhạo. Sinh xin nói chuyện riêng rồi kể hết mọi việc, Phạm công chưa tin lắm, sai người tới nhà sinh xem mới kinh ngạc vui mừng nhưng ngầm dặn người nhà giữ kín đừng nói rộng ra vì sợ có tai biến. Hai năm sau, vị quan Mỗ phạm tội bị phát giác, cha con đều bị sung quân ở Liêu Hải, nàng Mười một mới về thăm cha mẹ.

131. Giấc Mộng Hồ (Hồ Mộng)

Tất Di Am bạn ta tính phóng túng khác người, hào hùng tự tại, mặt béo râu rậm, kẻ sĩ đều biết tiếng. Nhân vì có việc tới ở nhà riêng ông chú làm Thứ sử, nghỉ ngơi trên lầu, nghe đồn trong lầu có nhiều hồ. Tất mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng* thường tỏ lòng hâm mộ, hận không được một lần gặp gỡ. Nhân ở trên lầu cứ mong mỏi tơ tưởng, kế về phòng thì trời đã tối, lúc ấy đang tháng hè nóng bức bèn nằm ngủ ngay giữa cửa. Đang ngủ thì có người lay gọi, tỉnh dậy nhìn thì thấy một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi nhưng vẫn còn phong vận. Tất giật mình trỗi dậy hỏi là ai, người đàn bà cười nói "Ta là hồ, được chàng có lòng mơ ước, thầm cảm lòng mà tới". Tất nghe thấy mừng rỡ, buông lời đùa cợt ve vãn, người đàn bà cười nói "Thiếp già rồi, nếu người ta không ghét bỏ thì tự mình cũng thấy hổ thẹn. Có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể hầu khăn lược, đêm mai xin ông ở đây một mình, nó sẽ tới", dứt lời ra đi.

*Truyện Thanh Phượng: xem truyện Thanh Phượng, quyển I.

Tối hôm sau Tất đốt hương ngồi chờ, quả nhiên người đàn bà dắt con gái tới, thấy phong thái xinh đẹp, trên đời không hai. Người đàn bà dặn con gái "Tất lang có túc duyên với con, cứ ở lại đây, sáng mai phải về sớm, đừng ngủ quên đấy". Tất kéo tay nàng vào màn, cùng nhau vui thú, xong rồi nàng cười nói "Chàng béo vừa nặng vừa ngốc, làm người ta không sao chịu nổi". Chưa sáng nàng đã ra đi, chập tối lại tới, nói "Bọn chị em định mở tiệc chúc mừng tân lang, ngày mai xin chàng cùng đi". Tất hỏi ở đâu, nàng đáp "Chị cả đứng ra mời, cách đây cũng không xa". Đêm sau Tất ngồi đợi lâu quá không thấy nàng tới, dần dần mỏi mệt nằm gục xuống bàn. Chợt cô gái bước vào nói "Làm phiền chàng phải đợi lâu", rồi cầm tay Tất dẫn đi.

Tới một nơi nhà cao cửa rộng, đi thẳng vào sảnh đường thì thấy đèn đuốc giăng giăng nhiều như sao trời. Giây lát chủ nhân bước ra, thấy tuổi khoảng hai mươi, trang điểm sơ sài nhưng vô cùng xinh đẹp, khép nép chúc mừng mới. Sắp vào tiệc thì tỳ nữ vào báo "Cô Hai tới", kế thấy một nữ lang vào, khoảng mười tám mười chín tuổi, nhìn cô gái cười nói "Em gái thế là biết mùi tình rồi, có vừa lòng không chàng rể mới không". Cô gái cầm quạt đập vào lưng chị, trợn mắt nhìn, nàng Hai nói "Nhớ lại lúc nhỏ đùa vật lộn với em, em sợ bị cù vào mạng sườn, chị mới giơ ngón tay quát nạt từ xa là đã cười bò ra, kế giận ta, nói sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt, ta nói con nhãi sau này sẽ lấy phải anh chàng rậm râu đâm cho nát môi ra, nay quả đúng thế". Nàng Cả cười nói "Chẳng trách dì Ba lại giận dỗi, rể mới đang ở đây mà ăn nói bừa bãi như thế".

Kế đó cùng nhau vào tiệc, uống rượu cười nói rất vui vẻ. Chợt một cô gái nhỏ bế một con mèo tới, khoảng mười một mười hai tuổi, tóc còn chưa kết bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ xinh đẹp. Nàng Cả nói "Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể à? Nhưng ở đây hết chỗ rồi", rồi bế cô nhỏ đặt ngồi lên đùi lấy bánh trái cho ăn. Lát sau lại bế đặt vào lòng nàng Hai, nói "Nó đè lên đùi ta nặng quá". Nàng Hai nói "Con nhãi to xác nặng hàng trăm cân, ta ốm yếu làm sao chịu nổi. Đã muốn xem mặt anh rể, thì anh rể vốn to lớn, đùi to dễ ngồi lắm", rồi bế xốc em đặt vào lòng Tất, Tất thấy người cô nhỏ thơm tho mềm mại mà nhẹ như không, bèn ôm lấy cho uống rượu cùng chén với mình. Nàng Cả nói "Con nhãi đừng quá chén, say rồi thất thố thì anh rể cười cho đấy!". Cô nhỏ nhoẻn miệng cười, lấy tay chọc mèo cho nó kêu lên. Nàng Cả nói "Còn không vứt đi, cứ ôm lấy nó cho lây bọ chét". Nàng Hai nói "Xin lấy con mèo làm tửu lệnh, mọi người cứ cầm đũa chuyền cho nhau, tới ai mà mèo kêu thì người ấy phải uống", mọi người theo lời. Cứ đũa tới tay Tất là mèo lại kêu, Tất vốn uống rượu rất hào, uống liền mấy chén lớn mới biết cứ đũa tới mình là cô nhỏ lại véo mèo cho kêu lên.

Mọi người cười ầm, nàng Hai nói "Thôi em đi ngủ đi, ngồi tê cả chân ông anh, không khéo chị Ba lại phiền", cô gái nhỏ bèn bế mèo đi ra. Nàng Cả thấy Tất tửu lượng cao liền gỡ cái độn tóc rót rượu mời, Tất nhìn thấy cái độn chỉ khoảng một thăng nhưng khi uống thì thấy rượu nhiều như mấy đấu, uống cạn nhìn lại thì hóa ra là tàu lá sen. Nàng Hai cũng muốn mời, Tất chối từ nói không uống nổi nữa, nàng bèn lấy ra cái hộp đựng nhẫn nhỏ như viên đạn rót rượu vào nói "Nếu không uống được nhiều thì xin uống một chút cho ta vui". Tất nhìn thấy nghĩ chỉ một hớp là hết, nhưng uống liên tiếp hàng trăm hớp vẫn không cạn. Cô gái ngồi cạnh bèn lấy cái chén hạt sen thay cái hộp đựng nhẫn, nói "Đừng để kẻ gian lừa gạt", đặt cái hộp lên bàn thì là một cái tô lớn. Nàng Hai nói "Việc gì đến ngươi? Vợ chồng mới ba ngày mà yêu thương đến thế kia à?". Tất cầm lấy cái chén đua lên miệng dốc cạn, chợt thấy vật trong tay mềm mềm, nhìn kỹ thì không phải là chén mà là một chiếc giày thêu, đường kim mũi chỉ cục kỳ khéo léo. Nàng Hai vội giật lấy, mắng "Con nhãi đánh cắp giày người ta lúc nào thế? Chẳng trách gì chân ta cứ lạnh toát", rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày. Cô gái mời rượu khắp lượt rồi đứng lên từ biệt, tiễn Tất ra tới ngoài thôn, bảo cứ về một mình. Tất chợt tỉnh thì ra là giấc mộng, nhưng thấy trong miệng vẫn còn mùi rượu thơm phức, lấy làm lạ lùng.

Đến tối cô gái tới, nói "Đêm qua say rượu chưa chết à?" Tất nói vẫn đang ngờ là giấc mộng. Nàng nói "Các chị em sợ chàng say sưa ngông cuồng nên thác vào giấc mộng đấy, chứ thật ra không phải mộng đâu!". Cô gái cùng Tất đánh cờ, Tất thường thua, nàng cười nói "Chàng hàng ngày vẫn nghiện môn này, thiếp cứ nghĩ là giỏi lắm, nay xem ra cũng chỉ thường thường vậy thôi". Tất xin chỉ dạy cho, cô gái nói "Thuật chơi cờ là do người chơi tự lĩnh hội mà ngộ, thiếp làm sao giúp chàng được cứ mỗi ngày nghiền ngẫm thêm một ít thì may ra có thể khá lên". Qua vài tháng, Tất thấy đánh cờ hơi lên tay, cô gái đánh thử rồi cười nói "Còn chưa được, còn chưa được?". Tất ra ngoài chơi với các bạn cờ thì ai cũng thấy giỏi hơn hẳn, có người lấy làm lạ. Tất vốn tính ngay thẳng thành thật không quen giấu diếm bèn nói lộ ra, cô gái biết ngay, trách "Chẳng lạ gì bạn bè không chơi với gã cuồng sinh, đã dặn đi dặn lại là phải kín miệng, sao chàng còn làm như thế rồi giận dỗi bỏ đi. Tất xin lỗi mãi nàng mới hơi nguôi, nhưng từ đó tới ngủ lại thưa hơn trước.

Được hơn một năm, một đêm nàng tới ngồi im nhìn Tất, rủ đánh cờ thì không đánh, bảo đi ngủ cũng không ôi, buồn rầu hồi lâu rồi nói "Chàng xem thiếp với Thanh Phượng ai hơn?", Tất đáp "Nàng hơn nhiều chứ!". Cô gái nói "Thiếp tự thẹn là không bằng, nhưng ông Liêu Trai là bạn văn chương với chàng, nhờ chàng phiền ông viết cho một thiên tiểu truyện, chưa chắc sau ngàn năm đã không có người mong mỏi như chàng". Tất nói "Ta vốn có ý ấy, nhưng vì nhớ lời nàng dặn nên còn giữ kín". Cô gái nói "Đúng là trước kia thiếp có dặn thế thật, nhưng nay đã sắp chia tay, còn e ngại gì nữa". Tất hỏi đi đâu, nàng đáp "Thiếp và em Tư được Tây Vương Mẫu triệu làm Hoa điểu sứ, không thể tới đây được nữa". Tất xin dặn dò vài lời, nàng nói "Bỏ tức giận thì bớt lỗi lầm", rồi đứng lên cầm tay Tất nói "Chàng tiễn thiếp một đoạn". Đi khoảng một dặm thì nhỏ lệ chia tay, nàng nói "Hai ta có lòng, biết đâu sẽ có ngày gặp lại", rồi đi.

Ngày mười chín tháng chạp năm Khang Hy thứ 21 (1682), ông Tất cùng ta nằm gác chân lên nhau trò chuyện ở Xước Nhiên Đường, kể lại tỉ mỉ chuyện lạ này. Ta nói "Có hồ như thế thì bút mục Liêu Trai cũng được vẻ vang", bèn ghi chép lại.

132. Chương A Đoan (Chương A Đoan)

Thích sinh người huyện Vệ Huy (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ đã chín thắn, gan dạ dám nhận việc lớn. Lúc ấy có nhà đại tộc có tòa phủ đệ, giữa ban ngày thấy ma hiện hình, người nhà nối nhau chết nên xin bán rẻ. Sinh thấy rẽ bèn mua để ở, nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành tạm bỏ hoang, tôi tớ cứ đêm đêm la hoảng, kêu là có ma. Hơn hai tháng thì một người tỳ nữ chết, không bao lâu thì vợ sinh đang lúc chiều tối tới khu lầu gác hoang phế, về phát bệnh vài hôm cũng chết. Gia nhân càng sợ khuyên dời đi chỗ khác, sinh không nghe, nhưng góa vợ trơ trọi một mình, trong lòng đã buồn rầu, bọn tôi tớ lại cứ đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói. Sinh nóỉ giận hầm hầm mang chăn gối ra ngủ một mình trong ngôi đình bỏ hoang, để đèn chờ xem sự lạ nhưng hồi lâu không thấy gì, dần dần thiếp đi.

Bỗng có người thò tay vào chăn sờ soạng vuốt ve, sinh tỉnh dậy nhìn thì là một người tỳ nữ già mặt mày nhăn nheo đầu tóc rối bù trông rất ghê tởm. Sinh biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra cười nói "Tôn giá thì ta không thể vâng mệnh". Bà ta hổ thẹn rút tay lại, thất thểu bỏ đi. Giây lát một nữ lang từ phía tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, sấn tới trước đèn giận dữ mắng gã học trò ngông ở đâu dám tới đây nằm, sinh trỗi dậy cười nói "Tiểu sinh là chủ nhà này, đợi nàng để đòi tiền phòng thôi", rồi vùng dậy trần truồng đuổi bắt. Cô gái vội bỏ chạy, sinh chạy tới phía tây bắc trước chặn đường, nàng cùng đường ngồi luôn xuống giường. Sinh tới gần, dưới ánh đèn thấy nàng đẹp như tiên bèn ôm vào lòng. Cô gái cười nói "Gã học trò ngông không sợ ma ư? Ta sẽ vật chết đấy". Sinh cởi tuột áo quần ra, nàng cũng không chống cự lắm, xong rồi bèn nói "Thiếp họ Chương tên A Đoan, lấy phải thằng chồng lêu lổng, tính hung ác bất nhân cứ chửi mắng đánh đập nên phẫn uất chết yểu, chôn ở đây hơn hai mươi năm rồi. Dưới nền nhà này toàn là mồ mả".

Sinh hỏi người tỳ nữ già là ai, nàng đáp "Cũng là một con ma cũ ở đây, hầu hạ cho thiếp. Có người sống ở bên trên thì ma quỷ bên dưới không yên nên mới rồi sai mụ ra đuổi chàng đi". Sinh hỏi mụ sờ soạng để làm gì, nàng cười đáp "Mụ ta đã ba mươi năm nay chưa được gần gũi đàn ông, kể cũng đáng thương, nhưng thật không tự biết xét mình. Đại khái ai yếu bóng vía thì ma càng quấy phá, ai cứng cỏi thì ma không dám xúc phạm". Nghe chuông chùa xóm bên dứt tiếng, nàng mặc quần áo bước xuống giường nói "Nếu chàng không nghi ngờ, thì đêm thiếp sẽ lại tới". Trời tối, quả thật nàng lại tới, cùng nhau mây mưa rất hoan lạc. Sinh nói "Vợ ta chẳng may qua đời, ta thương xót không khuây, nàng có thể đưa giúp về đây được không?". Cô gái nghe thế càng thêm ngậm ngùi, nói "Thiếp chết hai mươi năm mà không có ai nghĩ nhớ tới một lần, chàng quả là người đa tình, thiếp xin cố hết sức. Nhưng nghe nói nương tử đã có chỗ đầu thai rồi, không biết còn ở dưới âm ty không".

Qua đêm sau nàng nói với sinh rằng "Nương tử sắp được đầu thai vào nhà giàu sang nhưng vì lúc còn sống vì mất đôi hoa tai mà đánh đập đứa tỳ nữ khiến nó treo cổ tự tử, còn kiện tụng chưa xong nên chưa đi, nay đang tạm ở lại chỗ Dược Vương, có người canh giữ. Thiếp sai mụ tỳ nữ đi lo lót, có khi sắp về tới". Sinh hỏi sao nàng lại được thong thả, cô gái đáp "phàm ma quỷ chết oan nếu không tự tới khai báo thì Diêm Vương không sao biết được". Vừa hết canh hai thì người tỳ nữ già đưa vợ sinh về, sinh nắm tay vợ đau xót khóc lóc, vợ cũng rơi lệ không nói được gì. Cô gái từ giã, nói "Hai người cứ nói chuyện với nhau, đêm khác sẽ gặp lại". Sinh an ủi hỏi thăm việc đứa tỳ nữ tự tử, vợ đáp "Không hề gì, đã xử xong rồi", rồi lên giường ôm ấp yêu đương như lúc còn sống, từ đó lại ăn ở với nhau như thường. Năm ngày sau, vợ sinh chợt khóc nói "Ngày mai thiếp phải đi Sơn Đông, đến lúc vĩnh quyết rồi, biết làm thế nào?". Sinh nghe nói rơi lệ sụt sùi, vô cùng đau đớn. Cô gái khuyên nói "Thiếp có một cách có thể giúp hai người tạm thời sum họp". Hai người cùng gạt lệ hỏi cách gì, nàng xin lấy mười xấp giấy tiền đem đốt ở dưới gốc cây hạnh trước gian nhà phía nam để hối lộ với người áp giải đi đầu thai xin hoãn lại ít lâu.

Sinh theo lời, đến tối thì vợ về nói "May nhờ có Đoan nương nên nay được sum vầy thêm mười hôm", sinh mừng rỡ không cho Đoan về mà giữ lại cùng nằm chung giường từ đêm đến sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng tàn. Qua bảy tám ngày, thấy kỳ hạn sắp hết, vợ chồng khóc lóc suốt đêm, hỏi cô gái có kế gì không. Nàng nói "Tình thế này khó mà làm như lần trước, nhưng muốn thử thì không có trăm vạn không được", sinh bèn đốt đủ số. Hôm sau cô gái tới mừng rỡ nói "Thiếp nhờ người nói với kẻ áp giải, lúc đầu y ra vẻ khó khăn, đến khi thấy có nhiều tiền mới xiêu lòng, giờ đã lấy con ma khác đi đầu thai thay nương tử rồi". Từ đó ban ngày cũng không về, bảo sinh đóng kín cửa, thắp đèn không lúc nào tắt. Cứ thế hơn một năm, chợt cô gái mắc bệnh, thẫn thờ buồn bã, hoảng hốt như thấy ma. Vợ sinh vỗ về nàng, nói "Đây là bệnh ma làm", sinh hỏi "Đoan nương đã là ma rồi, lại còn ma nào làm cho bệnh nữa?". Vợ sinh đáp, "Không phải, người chết thành ma, ma chết thành mị, ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy".

Sinh muốn mời thầy cúng, vợ nói "Bệnh của ma thì làm sao người chữa được? Bà Vương ở thôn bên đang làm thầy cúng dưới âm ty, có thể gọi tới. Nhưng từ đây tới đó đường xa mười dặm, mà thiếp chân yếu không đi bộ được, xin chàng đốt cho con ngựa giấy". Sinh theo lời, ngựa giấy vừa cháy tàn thì tỳ nữ dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân đưa dây cương cho vợ sinh, trong chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một bà già cưỡi chung ngựa tới, buộc vào cột hiên. Bà già vào ngồi xuống, lắc lư lên đồng, ngã lăn xuống đất một lúc rồi bò dậy nói "Ta là Hắc Sơn đại vương đây, nương tử đây bệnh nặng lắm, may mà gặp tiểu thần, phúc trạch không kém đâu. Bệnh này là bị ma làm nhưng không sao không sao, muốn khỏi phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào", vợ sinh răm rắp vâng dạ.

Bà ta lại ngã xuống đất rồi tỉnh lại, nhìn vào người bệnh quát tháo rồi thôi. Kế xin về, vợ sinh tiễn ra tới sân, tặng luôn cho con ngựa, bà ta vui vẻ ra về. Vào nhìn thấy cô gái như hơi tỉnh táo, vợ chồng cả mừng vỗ về hỏi han, nàng chợt nói "Thiếp sợ không trở về nhân gian được nữa, cứ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện ra, cũng là số mệnh vậy", rồi khóc sướt mướt. Qua đêm sau bệnh nàng càng nặng, co quắp run rẩy như thấy vật gì, cứ kéo sinh lên nằm chung, rúc đầu vào lòng sinh như sợ bị bắt đi, sinh đứng lên đi đâu thì kinh hoảng kêu la, cứ thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng không biết tính sao. Gặp hôm sinh đi vắng nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ khóc hoảng hốt vào hỏi thì Đoan nương đã chết trên giường, xác vẫn còn đó. Sinh giở chăn nhìn thấy xương trắng phau phau, thương xót gào khóc, đem tống táng như người, chôn cạnh mồ mả ông bà. Một đêm vợ sinh nằm mơ khóc thổn thức, sinh lay gọi hỏi chuyện gì thì đáp "Vừa rồi mộng thấy Đoan nương tới nói chồng nàng làm mị giận nàng chết rồi mà không giữ tiết nên tới đòi mạng, xin lập đạo tràng siêu độ cho". Sinh đậy sớm định làm theo lời, vợ ngăn lại nói "Việc siêu độ cho ma chết thì chàng không làm được đâu", rồi trở dậy đi, giây lát trở về nói "Ta đã sai người đi mời sư, phải đốt tiền trước cho họ làm lộ phí".

Sinh theo lời, mặt trời vừa lặn thì tăng chúng kéo cả tới, trống chiêng nạo bạt đều giống hệt như ở trần gian, vợ cứ nói ồn ào điếc cả tai nhưng sinh không nghe thấy gì cả. Cúng xong, vợ sinh lại nằm mơ thấy Đoan nương về tạ ơn, nói "Thù oán đã rửa sạch rồi, sắp đi thác sinh làm con gái Thành hoàng, nhờ nói lại cho chàng Thích biết". Vợ sinh về nhà ba năm, gia nhân lúc đầu nghe biết rất sợ, lâu ngày dần quen, sinh đi đâu vắng thì đứng ngoài cửa sổ thưa bẩm việc nhà. Một đêm, nàng nhìn sinh khóc nói "Người lính áp giải vong hồn đi đầu thai trước đây đã để lộ việc man trá, nay âm ty lùng bắt thiếp rất gấp, e không thể sum họp lâu nữa". Mấy hôm sau quả nhiên bị bệnh, nói "Vì nặng tình chàng nên chỉ muốn chết mãi chứ không thích được thác sinh, nhưng nay sắp phải vĩnh biệt, chắc cũng là số chăng?". Sinh lo sợ hỏi có cách nào thoát không, nàng nói "Chuyện này thì không có cách gì đâu". Sinh hỏi liệu có bị trừng phạt gì không, vợ đáp "Cũng bị trừng phạt qua loa, tham sống mới là tội to chứ tham chết chỉ là tội nhỏ". Nói xong nằm yên không động đậy, nhìn kỹ thì dung mạo thân thể dần dần biến mất. Sinh cứ ra ngủ một mình trong đình để chờ có ngày gặp lại, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm, từ đó gia nhân ở yên.

133. Nàng Hoa Cô (Hoa Cô Tử)

An Ấu Dư là Bạt cống ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), tính phung phí hay làm việc nghĩa, lại thích phóng sinh, thấy ai săn được chim muông là bỏ nhiều tiền mua rồi thả ra. Gặp lúc nhà ông cậu có tang, sinh tới giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc đường trong núi, trong lòng lo sợ, chợt thấy cách khoảng một tầm tên có ánh đèn lửa bèn rảo bước tới. Được mấy bước bỗng thấy một ông già lưng còng kéo lê gậy, cắt đường đi mau tới. An dừng bước định hỏi thăm thì ông già đã hỏi trước là ai. An thưa chuyện mình lạc đường, lại nói chỗ có đèn lửa chắc là xóm núi, định tới ngủ nhờ. Ông già nói "Đó không phải là nơi yên ổn, may mà lão phu tới đây, cứ theo lão về, nhà tranh cũng có chỗ nghỉ ngơi".

An cả mừng đi theo, khoảng một dặm thì tới một xóm nhỏ. Ông già gõ phên cửa, một bà già ra mở cửa hỏi "Ông đã về đấy à?", ông già đáp "Phải". An vào thấy nhà thấp nhỏ thật hẹp, ông già khêu đèn giục ngồi rồi bảo bà già có gì ăn thì đem lên mời khách, lại nói "Đây không phải ai khác mà là ân nhân của ta đấy. Bà đi lại khó khăn, cứ gọi Hoa Cô dọn rượu". Lát sau một cô gái bưng mâm vào rồi đứng cạnh ông già, đưa mắt liếc trộm. An nhìn lại thấy mặt hoa da phấn, xinh đẹp như tiên. Ông già ngoảnh lại sai hâm rượu, trong gian phòng phía tây có lò than, cô gái bước vào nhóm lửa. An hỏi lão truựng là ai, ông già đáp "Lão phu họ Chương, bảy mươi tuổi chỉ có một đứa con gái đó, trong nhà ít tôi tớ, vì ông không phải là người lạ nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, xin đừng chê cười!". An hỏi "Nhà con rể lão trượng ở đâu?", ông già đáp còn chưa có ai.

An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh, ông già đang khiêm nhường đáp lại chợt nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì là rượu sôi trào ra bốc cháy. Ông già dập tắt xong, mắng "Con nhãi lớn rồi mà rượu sôi không biết à?". Nhìn thấy cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô bằng ruột cây quỳ còn bện chưa xong lại mắng "Tóc bồng bồng như thế mà còn như trẻ con". Bèn cầm lên cho An xem, nói "Nó tham làm cái này để kiếm ăn nên để rượu sôi trào ra, được bậc quân tử quá khen, há chẳng thẹn chết sao?". An ngắm kỹ thấy mắt mày xiêm áo làm rất khéo léo bèn khen rằng "Tuy giống như trò chơi của trẻ con nhưng cũng đủ thấy là rất sáng dạ". Chuốc chén hồi lâu, cô gái mấy lần ra rót rượu, nhoẻn miệng tươi cười không hề có vẻ ngượng nghịu. An chăm chú nhìn, thấy lòng xao xuyến. Chợt nghe tiếng bà già gọi, ông già đi vào, An thấy không có ai bèn nói với cô gái "Nhìn thấy dung mạo người tiên làm ta điên đảo, muốn nhờ mối lái dạm hỏi mà sợ không được, ý nàng thế nào?".

Cô gái cầm bầu rượu tới cạnh lò, im lặng như không nghe thấy, hỏi mấy lần không đáp, sinh bèn bước vào phòng. Cô gái đứng lên nghiêm mặt nói "Chàng cuồng vào phòng định làm gì?". An quỳ rạp nài nỉ, nàng đi mau tới cửa định chạy ra, An đứng bật dậy chặn đường, ôm lấy nàng hôn hít. Cô gái run rẩy kêu lên, ông già vội chạy vào, An buông tay bước ra, vô cùng thẹn thùng sợ sệt. Cô gái thong thả nói với cha "Rượu lại sôi trào, không có chàng đây chạy vào thì cả cái bầu cũng cháy luôn rồi". An nghe thế mới yên lòng, càng biết ơn nàng, thần hồn điên đảo bỏ luôn ý định mới rồi. Rồi đó giả say rời bàn, cô gái cũng bước ra, ông già trải chăn đệm xong đóng cửa đi. An không ngủ được, chưa sáng đã gọi ông già dậy chào về.

Về tới nhà, sinh lập tức nhờ bạn thân tới cầu hôn, nhưng họ đi trọn ngày trở về mà không tìm được nhà cô gái. An bèn sai đầy tớ thắng ngựa tìm đường lần tới. Tới nơi chỉ thấy vách núi cao ngất không có xóm làng nào, hoi thăm thôn xóm gần đó thì có rất ít người họ Chương. An thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đó mắc bệnh choáng váng, gượng húp chút nước cháo thì nôn nao muốn mửa, lúc mê sảng cứ gọi nàng Hoa Cô. Người nhà không hiểu ra sao, chỉ suốt đêm vây quanh chăm sóc nhưng bệnh tình ngày càng nguy ngập. Một đêm những người chăm sóc mệt mỏi ngủ cả, sinh mơ màng thấy có người lay, hé mắt nhìn thì thấy Hoa Cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chằm chằm ứa nước mắt.

Cô gái nghiêng đầu cười nói "Chú nhỏ ngây sao lại tới nông nỗi này?", rồi lên giường ngồi trên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An thấy có mùi xạ hương thơm ngát xộc vào mũi thấm tận xương. Nàng day một lúc An chợt thấy trán đổ mồ hôi, dần dần thân thể chân tay cũng thế. Nàng nói nhỏ "Trong phòng có nhiều người, thiếp ở lại không tiện, ba ngày nữa sẽ tới thăm chàng". Lại lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh bao đặt lên đầu giường rồi lặng lẽ ra đi. Đến nửa đêm An ra hết mồ hôi thấy đói bèn lấy bánh ăn, không biết nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ còn lại thiếp đi. Trời sáng hẳn mới tỉnh giấc, thấy như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái bèn cho người nhà ra hết. Lại sợ cô gái tới không vào được bèn lén ra chỗ sân thông vào thư phòng mở hết then cửa.

Không bao lâu quả nhiên cô gái tới, cười nói "Chàng ngây không tạ ơn bà lang à?". An mừng quá ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Kế cô gái nói "Thiếp mạo hiểm chịu tiếng xấu chỉ vì báo đáp ơn lớn chứ thật không thể chung sống với nhau mãi mãi, xin chàng sớm liệu chia tay". An im lặng hồi lâu rồi hỏi "Vốn bình sinh đã quen biết gia đình nàng ở đâu, quả thật không nhớ". Cô gái không đáp, chỉ nói "Chàng tự nghĩ thì biết". Sinh nài nĩ xin được gàn bó dài lâu, nàng nói "Đêm nào cũng lén tới thì không xong, mà lấy nhau như vợ chồng cũng không được ". An nghe nói vô cùng buồn bã, cô gái bèn nói "Nếu muốn cưới nhau, đêm mai xin mời chàng tới nhà thiếp". An bèn đổi buồn làm vui, hỏi "Đường sá xa xôi, chân nàng nhỏ bé làm sao tới đây được?", cô gái đáp "Thiếp vốn chưa về nhà, bà điếc bên láng giềng là hàng dì của thiếp, vì việc chàng mà nấn ná đến nay, sợ ở nhà lo lắng". An cùng nàng ngủ chung, chỉ thấy hơi thở da thít đều thơm ngát bèn hỏi "Nàng xông loại hương gì mà thấm cả vào da thịt thế?", cô gái đáp "Thiếp sinh ra đã thế, không phải do xông hương đâu", An càng lấy làm lạ.

Sáng ra nàng dậy từ biệt, An sợ lạc đường, nàng hẹn sẽ chờ trên dường. Chiều tối An phóng ngựa đi, quả thấy cô gái đứng chờ, đưa tới chỗ cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu không có món nào ngon, có cả những thứ rau tạp. Kế mời khách đi nghỉ, cô gái không nhìn ngó gì tới, An càng nghi ngại. Mãi đến khuya nàng mới tới nói "Cha mẹ cứ rì rầm không ngủ khiến chàng phải chờ lâu," Hai người quấn quít cả đêm, nàng nói với An "Gặp mặt đêm nay rồi xa nhau trăm năm đấy". An ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Cha thấy xóm nhỏ này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời nhà đi xa, gặp gỡ chàng đêm nay nữa là thôi". An không nỡ buông nàng ra, ngẩng lên cúi xuống than thở, đang còn lưu luyến thì trời sáng dần, chợt ông già sấn vào mắng "Con nhãi làm nhơ nhuốc gia phong khiến ta nhục nhã muốn chết!". Cô gái tái mặt vội vàng chạy mất, ông già cũng bước ra, vừa đi vừa mắng. An sợ hãi quýnh quáng, không biết làm sao đành lẻn ra trốn về.

Mấy ngày bồi hồi, trong lòng bứt rứt không yên, nhân nghĩ đến đêm lần tới trèo tường vào xem sao, ông già đã nói ta có ơn với họ thì dù việc lộ ra chắc cũng không trách móc nặng lời. Bèn nhân đêm tối lẻn tới, lần mò trong núi, lạc lối không biết đi đường nào, sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hốc núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đi tới thấy tường cao cổng rộng như nhà thế gia, mấy lớp cổng còn chưa đóng. Hỏi thăm nhà họ Chương thì có một người tỳ nữ ra hỏi là ai mà đang đêm hỏi thăm nhà họ Chương, An đáp "Đó là người quen với ta, ngẫu nhiên quên mất nhà". Người tỳ nữ nói "Chàng trai không phải hỏi họ Chương nữa, đây là nhà mợ nàng, Hoa Cô hiện đang ở đây, để ta vào báo". Trở vào không bao lâu thì quay ra mời An vào, vừa vào tới hành lang thì Hoa Cô đã rảo bước ra đón, nói với người tỳ nữ "Chàng An lặn lội đến nửa đêm chắc đã mệt lắm, mau sửa soạn chỗ ngủ đi!".

Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi sao trong nhà không có ai khác, cô gái đáp "Mợ đi vắng, để thiếp ở lại trông nhà, may được gặp chàng, há không phải là duyên số ư?", nhưng trong lúc dựa kề An lại thấy rất hôi tanh, trong lòng ngờ có điều lạ. Cô gái ôm cổ An, thè lưỡi liếm vào lỗ mũi, thấy như mũi kim đâm đau thấu tận óc. An sợ quá vội vàng giãy giụa nhưng thân thể như bị thùng lớn trói chặt, giây lát ngất đi không biết gì nữa. An không về, người nhà tìm kiếm khắp nơi, có người nói chiều tối gặp An trên đường núi. Người nhà vào núi tìm thì thấy An trần truồng nằm chết dưới vách đá cao ngất, khiếp hãi lạ lùng không hiểu vì sao. Cáng về tới nhà, cả nhà đang xúm lại than khóc thì có một nữ lang tới viếng, từ ngoài cổng gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi An, nước mắt ròng ròng kêu lớn "Trời ơi, trời ơi, sao mà ngu dại như thế", gào khóc khản cả tiếng lát sau mới nín, nói với người nhà "Xin để đó bảy ngày đừng liệm". Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì cô gái không buồn chào hỏi, nuốt nước mắt đi thẳng ra, mời giữ cũng không ngoảnh lại. Đi theo thì trong chớp mắt đã biến mất, mọi người ngờ là thần bèn kính cẩn vâng lời.

Đêm nàng lại tới khóc như hôm trước, qua bảy đêm chợt An tỉnh lại trở mình rên rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào nhìn nhau nghẹn ngào, An giơ tay xua mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ, nấu với một đấu nước cho uống ngay trên giường. Giây lát An nói được, thở dài nói "Giết ta lần nữa là nàng mà cứu ta lần nữa cũng là nàng", nhân kể lại những việc đã gặp. Cô gái nói "Đó là con tinh rắn giả làm thiếp, trước đây chàng lạc đường lần đầu nhìn thấy ánh đèn chính là nó đấy". An hỏi "Nàng có thể làm cho người chết sống lại, xương khô mọc thịt như thế, không phải là tiên sao?". Cô gái đáp "Đã định nói ra từ lâu nhưng sợ chàng sợ hãi. Năm năm về trước chàng đi trong núi Hoa Sơn có mua con chương người ta săn được rồi thả ra phải không?". An đáp "Đúng là có việc ấy". Nàng nói "Con chương ấy chính là cha thiếp, trước đây thiếp nói chàng có ơn lớn chính vì cớ đó. Hôm trước chàng đã đầu thai vào nhà Chủ chính họ Vương ở thôn Tây, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp xin hủy đạo chết thay chàng, năn nỉ bảy ngày mới xong. Nay được gặp nhau là may mắn lắm, nhưng chàng tuy sống vẫn bị bại liệt, phải lấy được máu rắn ấy hòa với rượu mà uống thì mới khỏi". Sinh căm hờn nghiến răng nhưng lo không có phép gì bắt được. Cô gái nói "Chuyện ấy không khó, nhưng giết nhiều sinh linh sẽ làm lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ, cứ chờ lúc sắp trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài chuẩn bị cung cứng thì sẽ bắt được yêu vật". Dứt lời cáo biệt, nói "Thiếp không thể thờ chàng trọn đời, thật rất đau lòng, nhưng vì việc của chàng mà công phu tu hành đã mất bảy phần, xin chàng thương xót cho. Một tháng nay máy động, sợ là nghiệt căn, còn là trai hay gái năm sau sẽ gởi lại thôi", rồi rơi lệ ra đi.

Qua đêm, An thấy từ thắt lung trở xuống như chết rồi, cấu véo không biết đau, bèn đem lời cô gái nói với người nhà. Người nhà tới nơi làm như lời nàng, chất lửa đốt hang thì có con rắn lớn màu trắng xông qua lửa trườn ra, bao nhiêu cung nỏ cùng châu vào bắn chết. Khi lửa tắt vào hang thì thấy mấy trăm con rắn lớn nhỏ chết thui khét lẹt. Người nhà đem về lấy máu rắn cho An uống, ba ngày thì hai chân dần dần xoay trở được, nửa năm mới đứng dậy nổi. Sau đó một mình vào núi, gặp bà già ôm mảnh chiếu cói làm tã bọc một đứa bé trao cho, nói "Con gái già gởi cho lang quân", toan hỏi thăm thì chớp mắt đã không thấy đâu, giở ra xem thì là con trai, bèn bế về nhà rồi không lấy vợ nữa.

Dị Sử thị nói: Con người không khác cầm thú bao nhiêu, lời ấy chưa hẳn đã đúng đâu. Mang ơn mà lo đền đáp, đến chết vẫn không thôi thì con người cũng có chỗ phải thẹn với cầm thú đấy. Tới như Hoa Cô lúc đầu thì gởi khôn ngoan ở chỗ ngây ngốc, sau rốt lại gởi tình cảm ở chỗ lơ là, mới biết người ngây ngốc thì rất khôn ngoan, người lơ là thì rất tình cảm. Tiên thì như thế chăng, tiên thì như thế chăng!

134. Công Chúa Tây Hồ (Tây Hồ Chủ)

Trần sinh tên Bật Giáo, tự Minh Doãn là người đất Yên (tỉnh Hà Bắc). Nhà nghèo, theo Phó tướng quân Giả Quán làm chức Ký thất, đậu thuyền trên hồ Động Đình, có con thuồng luồng nổi lên mặt nước bị Giả bắn trúng lưng. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không nhả ra cũng bị bắt, kéo lên thuyền chỉ còn thoi thóp, nhưng con thuồng luồng cứ há miệng ngáp như xin cứu. Sinh động lòng trắc ẩn xin Giả tha ra, sẵn trong túi có thuốc trị thương bèn đùa lấy buộc vào vết thương rồi thả xuống nước, nó lặn hụp giây lát rồi mất tăm. Hơn năm sau sinh về bắc lại qua hồ Động Đình, bị gió lớn lật thuyền, may vớ được một cái ống tre, vật vờ cả đêm mới vướng gốc cây dừng lại, sinh bèn leo lên bờ. Có xác chết trôi theo dạt vào, nhìn xem té ra là đứa tiểu đồng, cố sức kéo lên thì đã chết cứng. Sinh đau xót buồn bã ngồi cạnh cái xác nghỉ mệt, chỉ thấy thấy núi con chồng biếc, liễu nhỏ vờn xanh, chẳng có ai qua lại mà hỏi thăm đường sá.

Từ sáng sớm đến quá giờ Thìn buồn rầu không biết đi đâu, chợt thấy xác đứa tiểu đồng khẽ động đậy, mừng rỡ vỗ gọi, giây lát nó nôn ra mấy đấu nước rồi tỉnh lại. Liền cùng nhau phơi quần áo trên tảng đá, gần trưa thì khô mặc lại được, nhưng trong bụng cồn cào đói không chịu nổi. Bèn dắt nhau vượt mau qua núi mong gặp xóm làng, vừa lên tới lưng núi thì nghe tiếng lục lạc đang lắng tai nghe thì thấy hai thiếu nữ cưỡi ngựa phóng tới vó ngựa khua ran, đều đội khăn hồng bịt trán, búi tóc cắm lông trĩ, mặc áo tía chít tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua khỏi đỉnh núi thấy mấy mươi kỵ mã đang săn bắn trong đám gai góc, đều là mỹ nữ, ăn mặc như nhau. Sinh không dám đi nữa, chợt có một người đàn ông đi bộ tới, thấy như lính chăn ngựa bèn ra hỏi thăm. Người ấy đáp "Đó là công chúa Tây Hồ lên Thủ Sơn săn bắn". Sinh kể lại chuyện mình, nói cả việc đang đói, người lính mở túi lấy gói cơm đưa cho rồi dặn "Nên tránh cho xa, phạm giá là chết đấy".

Sinh sợ hãi vội rảo bước xuống núi, thấy trong đám rừng rậm thấp thoáng có điện gác, cho là chùa chiền, tới gần xem thì thấy tường quét vôi trắng ngoài có khe suối chảy qua, cổng son mở hờ trong có cầu đá đi vào. Sinh vịn cánh cửa nhìn vào thấy đài tạ san sát như vườn Thượng uyển trong cung vua, lại ngờ là vườn nhà quan. Dò dẫm lần vào, thấy dây mây bò ngang, đá lạ chắn lối, mùi hoa thơm ngát. Qua mấy thỗ rẽ lại là một nơi viện gác khác, có vài mươi cây dương liễu cao chạm hiên nhà, chim núi kêu một tiếng thì hoa liễu cùng bay, gió vườn thổi thoáng qua thì lá cây tự rụng, cành vật đẹp mắt thỏa lòng khác hẳn cõi trần. Đi xuyên qua tiểu đình tới một giá đu cao tận mây xanh, nhưng dây buộc đong đưa, vắng vẻ không có ai nên ngờ là gần nơi khuê các, e ngại không dám vào nữa. Chợt nghe tiếng ngựa hí ran ngoài cổng rồi như có tiếng con gái cưỡi nói, sinh và tiểu đồng vội núp vào khóm hoa dày.

Không bao lâu tiếng cười nói tới gần, nghe một nàng nói "Hôm nay đi săn không may, chẳng săn được bao nhiêu", lại một nàng nói "Nếu không có công chúa bắn rơi một con nhạn thì hôm nay chỉ hao tốn sức người sức ngựa vô ích". Giây lát có mấy nàng áo đỏ đỡ một nữ lang lên ngồi trong tiểu đình, mặc nhung phục chít tay, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, tóc mượt lồng mây, lưng thon đảo gió, nhụy ngọc hoa vàng cũng không ví được. Bọn tỳ nữ dâng trà đốt hương, khói cuốn như gấm chất. Giây lát cô gái đứng lên bước xuống thềm, một tỳ nữ nói "Công chúa cưỡi ngựa mệt nhưng còn chơi du được không?", công chúa cười gật đầu, liền có kẻ đỡ vai người xốc nách, kẻ xắn quần người cầm giày đỡ nàng lên đu. Công chúa duỗi hai cánh tay trắng như ngọc nắm dây đu, nhún chân trần nhẹ nhàng như chim én lên tới mây xanh. Kế bọn tỳ nữ lại đỡ nàng xuống, cùng nói "Công chúa thật là nàng tiên", rồi cười nói râm ran đi về.

Sinh nhìn trộm hồi lâu, thần hồn điên đảo, chờ lúc tiếng cười nói đã tắt hẳn bèn bước tới dưới chiếc đu bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy cạnh rào có chiếc khăn đỏ, biết là của người đẹp làm rơi mừng rỡ nhặt lấy cho vào tay áo. Bước lên tiểu đình thấy trên bàn có bút mục bèn đề một bài thơ vào khăn rằng "Nhã hý hà nhân nghĩ bán tiên, Phân minh Quỳnh nữ tán kim liên. Quảng Hàn đôi lý ưng tương đố, Mạc tín lăng ba tiện thượng thiên" (Trên đu mỹ lệ tựa tiên nga, Quỳnh nữ Dao đài giỡn rắc hoa, Nguyệt điện Hằng Nga ghen sắc đẹp, Đừng tin gót ngọc tới trời xa). Đề xong ngâm nga rồi đi ra, quay lại lối cũ thì mấy lớp cửa đã đóng chặt. Sinh ngần ngừ không biết tính sao bèn trở vào dạo xem gần hết các nơi lầu gác. Chợt một cô gái tới, ngạc nhiên hỏi sao vào được đây, sinh vái chào nói "Ta là kẻ lạc đường, xin ra ơn cứu cho". Nàng hỏi có nhặt được chiếc khăn đỏ không, sinh đáp "Thưa có, nhưng đã bôi bẩn vào rồi, làm sao bây giờ?", rồi đưa chiếc khăn ra. Cô gái cả kinh nói "Ngươi chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, bôi lem luốc vào thế này thì làm sao!". Sinh tái mặt năn nỉ cứu giúp cho, cô gái nói "Cái tội lén vào cung cấm dòm dỏ đã không tha được rồi, ta thấy ngươi là học trò nho nhã cũng có ý chu toàn cho, giờ lại tự gây tai vạ thì ta làm sao giúp nổi", rồi cuống quýt cầm chiếc khăn chạy đi.

Sinh lo sợ nơm nớp, hận là không có cánh mà bay đi, chỉ còn cách vươn cổ chờ chết. Hồi lâu cô gái trở lại khẽ chúc mừng nói "Chàng có cơ được sống rồi. Công chúa xem đi xem lại chiếc khăn mấy lần, không hề tỏ vẻ tức giận, có khi sẽ tha cho chàng đi. Cứ chịu khó chờ ở đây, đừng có vịn cây leo tường nhìn ngó gì, nếu bị bắt gặp sẽ không được tha đâu". Trời đã xế chiều, lành dữ ra sao sinh không đoán chắc được, mà lửa đói thiêu đốt trong bụng thấy như sắp chết. Không bao lâu cô gái cầm đèn đi tới, có một tỳ nữ bưng hộp thức ăn và bầu rượu dọn ra cho sinh ăn. Sinh vội hỏi tin tức, nàng hỏi "Vừa rồi ta thừa dịp thưa chàng Tú tài trong vườn thả được thì thả, nếu không người ta sẽ chết đói. Công chúa ngẫm nghĩ rồi nói "Đêm hôm khuya khoắt bảo người ta đi đâu", rồi sai đem cơm ra cho chàng ăn, thế thì không phải là điềm dữ". Sinh suốt đêm nơm nớp không sao yên tâm, đến hết giờ Thìn cô gái lại đem cơm ra cho ăn. Sinh năn nỉ nhờ xin giùm, nàng nói "Công chúa không nói giết cũng không nói tha, ta là kẻ hầu hạ đâu dám thưa gởi lằng nhằng".

Kế mặt trời ngã về tây, sinh vẫn chờ đợi không thôi, chợt cô gái thở hổn hển chạy tới nói "Chết rồi, có người lắm lời đã nói cho vương phi biết, vương phi mở chiếc khăn xem rồi ném xuống đất, mắng ầm lên là ngông cuồng, tai họa không còn xa đâu". Sinh cả kinh, mặt không còn sắc máu, quỳ rạp xuống đất van xin. Chợt nghe tiếng người nhao nhao kéo tới, cô gái phẩy tay tránh đi, liền có mấy người cầm dây ào ào kéo vào. Trong bọn có một tỳ nữ nhìn kỹ sinh rồi nói "Tưởng ai, té ra là Trần lang!", rồi ngăn những người cầm dây lại, nói "Hãy khoan, hãy khoan, đợi ta bẩm với vương phi đã!!. Rồi quay người chạy mau đi, giây lát trở lại nói "Vương phi mời Trần lang vào" sinh run rẩy đi theo. Qua mấy mươi lần cửa tới một nơi cung điện, rèm ngọc móc vàng, lập tức có mỹ nữ cuốn rèm xướng Trần lang đã tới. Thấy trên điện có một mỹ phụ ngồi, y phục lộng lẫy, sinh quỳ rạp xuống đất dập đầu nói "Thần lẻ loi từ vạn dặm tới đây, xin tha cho mạng sống". Vương phi vội bước tới đích thân kéo sinh đứng lên, nói "Ta không gặp bậc quân tử thì làm gì còn có ngày hôm nay. Bọn tỳ nữ không biết gì, xúc phạm tớì quý khách, biết lấy gì chuộc tội?".

Lập tức sai dọn tiệc, rót rượu bằng chén ngọc, sinh mờ mịt chẳng hiểu vì sao. Vương phi nói "Cái ơn tái tạo vẫn hận không có gì báo đáp, con gái ta được thương yêu đề thơ vào khăn cho, cũng là duyên trời, đêm nay xin sai nó theo hầu hạ". Sinh không ngờ được hơn cả lòng mong mỏi, trong lòng bàng hoàng không sao nói nên lời. Trời vừa tối, một tỳ nữ bước lên nói "Công chúa đã trang điểm xong đang chờ", rồi dẫn sinh vào trướng. Chợt nghe đàn sáo trỗi inh ỏi, dưới thềm đều rắc hoa giấy, từ nhà ngoài tới phòng trong đều treo đèn lồng, có vài mươi mỹ nữ đỡ công chúa ra làm lễ giao bái, mùi lan xạ sực nức. Kế hai người dắt nhau vào màn tình tự ân ái. Sinh hỏi "Kẻ trôi nổi tha phương bình sinh chưa từng bái kiến, bôi bẩn khăn quý được thoát rìu búa là may rồi, lại còn được ban cho mối duyên lành, thật là ngoài lòng mong mỏi". Công chúa nói "Mẹ thiếp là vương phi của Long quân hồ này, cũng là con gái Giang Dương vương, năm ngoái về thăm nhà tình cờ dạo chơi trên hồ bị tên bắn trúng. Đội ơn chàng giải cứu, lại xoa thuốc cho, cả nhà đều cảm kích, lòng hằng không quên. Chàng đừng vì khác loài mà nghi ngại, thiếp theo Long quân đã học được bí quyết trường sinh, xin cùng chàng chung hưởng".

Sinh lúc ấy mới sực hiểu ra nàng là thần nhân, bèn hỏi sao người tỳ nữ kia biết mình, công chúa đáp "Hôm ấy trong thuyền trên hồ Động Đình, chắc thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng, đó là nó đấy". Sinh lại hỏi lúc bắt được mình đã không giết chết sao lại chần chừ không thả đi, nàng cười nói "Thiếp mến tài chàng nhưng không thể tự chủ nên thao thức cả đêm, người ngoài nào có ai hiểu cho?". Sinh than "Nàng thật là người tri kỷ của ta, còn người đem cơm cho ta là ai?", nàng đáp "Đó là A Niệm, cũng là người tâm phúc của thiếp", Sinh nói "Lấy gì đền ơn cô ta?"' công chúa cười nói "Sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, lúc ấy lo đền ơn cũng chưa muộn"' Sinh hỏi đại vương đang ở đâu, nàng đáp "Cha theo Quan Thánh đánh giặc Xuy Vưu chưa về". Ở đó vài hôm, sinh lo gia đình thấy bặt tin sốt ruột trông ngóng bèn viết thư báo tin bình yên, sai tiểu đồng về trước. Gia đình sinh nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con để tang đã hơn năm, đến khi tiểu đồng về tới mới biết là sinh còn sống. Nhưng tin tức xa xôi cách trở, người nhà rốt lại vẫn e rằng sinh trôi nổi khó lòng trở về.

Nửa năm sau sinh chợt trở về, áo cừu ngựa tốt, trong túi đầy châu báu. Từ đó giàu có cự vạn, hàng ngày yến ẩm ca hát vô cùng xa hoa, các nhà thế gia cũng không bằng được. Trong bảy tám năm sinh được năm con trai, ngày nào cũng mở tiệc mời khách, nhà cửa đồ dùng tiếp đãi vô cùng sang trọng. Có người hỏi tao ngộ thế nào, sinh nói thật cả không giấu diếm gì. Có người bạn chơi từ nhỏ tên Lương Tử Tuấn làm quan ở Giang Nam hơn mười năm mới về qua ngang hồ Động Đình thấy một chiếc thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thếp vàng, trong có tiếng đàn sáo réo rắt, dập dềnh trong khoảng khói sóng, lúc lúc lại có mỹ nhân mở cửa sổ ngắm cảnh. Lương nhìn vào thấy trong thuyền có một thiếu niên nằm gác đầu lên đùi mỹ nhân, bên cạnh có hai nàng trẻ đẹp tuổi chừng đôi tám hầu hạ đấm bóp, nghĩ chắc là một vị quý quan ở vùng Tương Sở (tỉnh Hồ Bắc) nhưng thấy rất ít tùy tùng đi theo, chú mục nhìn kỹ thì ra là Trần Minh Doãn, bất giác bước ra mạn thuyền gọi ầm lên. Sinh nghe gọi bèn sai dừng chèo, bước ra đầu thuyền mời Lương qua. Lương vào thuyền thấy món ăn thừa đầy trên bàn, mùi rượu còn sực nức. Sinh lập tức sai dẹp hết, giây lát có năm ba tỳ nữ xinh đẹp dâng trà mời rượu, các món sơn hào hải vị đều là các thứ chưa từng trông thấy. Lương kinh ngạc hỏi "Mười năm không gặp, sao ông phú quý đến mức này?", sinh cười đáp "ông cho rằng Tú tài nghèo này không phát tích được à?". Lương hỏi người cùng uống rượu vừa rồi là ai, sinh đáp "Đó là người vợ quê mùa của ta". Lương càng lấy làm lạ, hỏi đem gia quyến đi đâu, sinh đáp đi về miền tây. Lương định hỏi nữa thì sinh vội sai ca hát chuốc rượu. Một lời vừa buông ra thì trống chiêng vang lên điếc tai, trong có tiếng đàn sáo xen vào, không nghe thấy tiếng cười nói trò chuyện nữa.

Lương thấy gái đẹp đầy trước mắt, nhân lúc say lớn tiếng nói "Ông Minh Doãn có cho ta một phen hưởng thú tiêu hồn không?", sinh cười đáp "Túc hạ say rồi, nhưng có món tiền đủ cưới một người thiếp đẹp có thể tặng cho cố nhân". Rồi sai tỳ nữ dâng lên một viên ngọc minh châu, nói "Bấy nhiêu có mua nàng Lục Châu cũng không khó, để ông hiểu cho là ta không keo cú". Kế từ biệt, nói "Ta đang gấp chút việc nhỏ, không thể cùng cố nhân trò chuyện lâu hơn", rồi đưa Lương về thuyền, nhổ neo chèo thuyền đi thẳng. Lương về, qua nhà sinh nghe ngóng thì sinh đang uống rượu với khách, càng thêm ngờ vực liền hỏi "Mới hôm trước còn gặp ông trên hồ Động Đình, làm sao mà về mau như thế?" Sinh đáp "Làm gì có chuyện ấy?". Lương bèn thuật rõ mọi việc đã gặp, cả tiệc đều khiếp sợ, sinh cười nói "Ông lầm rồi, chẳng lẽ ta có thuật phân thân sao?". Mọi người đều lấy làm lạ nhưng nghĩ mãi không sao hiểu nổi. Sau sinh thọ tới tám mươi mốt tuổi thì chết, người nhà tẩn liệm xong ngạc nhiên vì thấy quan tài quá nhẹ, mở ra xem thì chỉ có quan tài trống không mà thôi.

Dị Sử thị nói: Ống trúc không chìm, khăn hồng đề vịnh, bên trong chuyện ấy đều có quỷ thần, mà cũng đều là một lần động lòng trắc ẩn làm cảm động tới trời mà thôi. Tới như cung thất thê thiếp, một mình hưởng sự thù phụng ở hai nơi thì thật không sao hiểu được. Xưa có kẻ mong được vợ hiền thiếp đẹp, con giỏi cháu hiền, lại thêm trường sinh bất tử, sinh đã được một nửa rồi vậy. Chẳng lẽ trong đám người tiên cũng có loại Phần Dương, Quý Luân* sao?

*Phần Dương, Quý Luân: Phần Dương tức Quách Tử Nghi thời Đường, có công lớn được phong là Phần Dương quận vương, giàu có quý hiển nổi tiếng một thời. Quý Luân tức Thạch Sùng thời Tấn, được phong là Vệ úy, cực kỳ giàu có, sinh hoạt rất xa xỉ.

135. Ngũ Thu Nguyệt (Ngũ Thu Nguyệt)

Vương Đỉnh tự Tiên Hồ người đất Tần Bưu (huyện Cao Bưu tỉnh Giang Tô) tính khảng khái, có sức khỏe, giao du rộng. Năm mười tám tuổi vợ chết, mỗi lần đi chơi xa thường cả năm không về. Anh là Nại, danh sĩ đất Giang Bắc, rất thưong yêu em, thường khuyên em không nên đi xa, muốn hỏi vợ cho. Sinh không nghe, thuê thuyền tới Trấn Giang thăm bạn. Bạn đi vắng, nhân thuê một gian gác nơi quán trọ, nhìn thấy sóng nước êm đềm, núi Kim Sơn ngay trước mắt, trong lòng thích lắm. Hôm sau bạn tới mời về nhà mình ở, sinh từ chối không đi. Được hơn nửa tháng, đêm mơ thấy một nữ lang khoảng mười bốn mười lăm tuổi, dung mạo xinh đẹp lên giường cùng ngủ, tỉnh dậy thì thấy di tinh, lấy làm lạ nhưng cũng cho là ngẫu nhiên.

Đến đêm lại mơ thấy như thế, liền ba bốn đêm, trong lòng rất lạ, không dám tắt đèn, tuy nằm im trên giường mà vẫn nơm nớp đề phòng. Vừa chợp mắt đã mơ thấy cô gái lại tới, đang ôm ấp chợt giật mình tỉnh dậy, vội mở mắt nhìn thì thấy một cô gái đẹp tiên vẫn đang trong vòng tay. Cô gái thấy sinh tỉnh, có vẻ thẹn thùng sợ sệt. Sinh tuy biết nàng không phải là người nhưng trong lòng rất thích, không buồn hỏi han, cứ ra sức vần vò. Cô gái như không chịu nổi, nói "Cuồng bạo như thế chẳng lạ gì người ta không dám nói rõ". Sinh bấy giờ mới hỏi kỹ, nàng đáp "Thiếp họ Ngũ tên Thu Nguyệt. Thân phụ là bậc danh nho, tinh thông Dịch số, rất thương yêu thiếp nhưng thường nói thiếp không thọ nên không hứa gả cho ai cả. Về sau đến năm thiếp mười lăm tuổi quả chết yểu, ông đào huyệt ở phía đông gian gác này mà chôn, không đắp mộ cũng không có bia, chỉ đặt cạnh quan tài một phiến đá đề "Con gái là Thu Nguyệt, chôn không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh". Đến nay đã ba mươi năm thì chàng vừa tới, thiếp rất mừng muốn tự ra mắt nhưng còn thẹn thùng nên phải thác vào giấc mộng đó thôi".

Vương cũng mừng, lại đòi hành sự tiếp, nàng nói "Thiếp cần một ít khí dương để mong sống lại, thật không ngại gì chuyện gỉó mưa ấy. Sau này duyên lành vô hạn, cần gì phải cứ đêm nay"' rồi trở dậy ra đi. Đêm sau lại tới, ngồi đối diện cười đùa vui vẻ như quen nhau từ lâu kế tắt đèn lên giường, thấy không khác gì người sống. Có điều khi nàng trở dậy thì tinh khí chảy ra thấm ướt cả chăn nệm. Một đêm trăng sáng vằng vặc, cùng dạo bước trong sân, sinh hỏi cô gái dưới cõi âm có thành quách không, nàng đáp "Cũng như trên trần thôi. Thành phủ dưới cõi âm không ở đây mà cách độ ba bốn dặm, nhưng lấy đêm làm ngày". Sinh hỏi người sống tới xem được không, nàng đáp "Được"' .Sinh xin tới xem, nàng bằng lòng, bèn nhân ánh trăng ra đi.

Cô gái nhẹ nhàng đi như gió, Vương cố sức đuổi theo, giây lát tới một nơi, nàng nói không còn xa nữa. Vương nhướng mắt nhìn mà không thấy gì, cô gái lấy nước bọt bôi lên hai mi mắt, sinh mở ra thấy sáng gấp mấy lần lúc bình thường, nhìn cảnh ban đêm mà rõ như ban ngày. Chợt thấy tường thành ẩn hiện trong mây mù, người trên đường đông đúc như đi chợ. Kế có hai tên lính trói ba bốn người giải ngang, lấy làm lạ vì người đi cuối giống hệt anh, rảo bước tới gần thì đúng là anh. Giật mình hỏi sao anh tới đây, anh thấy sinh ứa nước mắt ướt không biết có việc gì mà bị bắt giải đi. Vương tức giận nói "Anh ta là người quân tử giữ lễ sao lại bị trăng trói như vậy?"' rồi xin hai tên lính cởi trói cho. Lính không chịu lại tỏ vẻ rất ngạo nghễ, sinh tức tối toan gây sự, anh ngăn lại nói "Đây là lệnh quan, phải tuân theo để giữ phép. Chỉ hiềm ta thiếu tiền chi dùng, bị họ hạch xách khổ lắm, em về nên lo tính cho".

Sinh nắm tay anh khóc thất thanh, tên lính giận kéo mạnh cái gông, anh ngã ngay xuống. Sinh thấy thế lửa giận đầy bụng không sao nhịn được liền rút ngay thanh bội đao chém đứt đầu y, tên kia thét lên, sinh lại chém luôn. Cô gái cả kinh nói "Giết sai nha của quan là tội không thể tha được, nếu chậm trễ sẽ có tai họa. Xin chàng lập tức tìm thuyền về bắc, về tới nhà đừng hạ lá phướn xuống, đóng chặt cửa không cho ai ra vào, sau bảy ngày thì không lo gì nữa". Vương bèn dắt anh đi, ngay trong đêm thuê một chiếc thuyền nhỏ vội vàng về bắc. Về thấy khách khứa tới viếng tang, biết là anh đã chết thật, liền đóng cổng cài then, vừa vào thì anh đã biến mất, vào tới phòng thì người chết đã tỉnh lại, gọi "Ta đói chết mất, đem mì lại mau!". Lúc đó anh đã chết hai ngày, người nhà đều kinh hãi, sinh bèn kể rõ mọi chuyện. Bảy ngày sau mở cửa bỏ lá phướn, người ta mới biết anh sinh đã sống lại, họ hàng bạn bè kéo tới hỏi thăm chỉ bịa đặt trả lời.

Lại nghĩ tới Thu Nguyệt, càng thêm nhưng nhớ bèn quay xuống nam. Tới gian gác cũ thắp đèn ngồi đợi rất lâu mà cô gái vẫn không tới, thiu thiu sắp ngủ thì thấy một người đàn bà tới nói "Nương tử Thu Nguyệt nhắn với lang quân rằng hôm trước vì hai tên sai nha bị giết, thủ phạm trốn mất, họ bắt dược nương tử hiện đang giam trong ngục, bọn ngục tốt nhìn thấy là hành hạ, ngày ngày trông chờ lang quân, xin nghĩ cách cứu giúp cho". Vương buồn rầu phẫn uất liền đi theo người đàn bà. Tới một tòa thành, theo cửa Tây vào, người đàn bà chỉ một cái cổng nói "Nương tử đang bị giam trong đó". Sinh vào thấy có rất nhiều phòng, tù phạm rất đông nhưng không có Thu Nguyệt. Lại vào một cửa nhỏ, thấy trong gian phòng hẹp có đèn lửa, Vương tới gần cửa sổ nhìn vào thì thấy Thu Nguyệt ngủ trên giường lấy tay áo che mặt kêu khóc, bên cạnh có hai tên ngục tốt đang vuốt má nắm chân nàng trêu chọc. Cô gái kêu khóc càng thảm thiết, một tên ôm cổ nàng nói "Đã là tội phạm mà còn giữ trinh tiết à?," Sinh nổi giận không nói không rằng, rút đao xông vào chém mỗi đứa một nhát như phát cỏ rồi cướp lấy cô gái chạy ra, may là không ai biết.

Vừa tới quán trọ thì sinh chợt tỉnh dậy, đang lạ lùng vì giấc mộng dữ thì thấy Thu Nguyệt chảy nước mắt đứng cạnh. Sinh giật mình trỗi dậy kéo nàng ngồi, kể lại giấc mộng. Cô gái nói "Đó là thật chứ không phải mộng đâu". Sinh kinh sợ nói "Vậy thì làm sao bây giờ?", cô gái than "Đây cũng là số phận, chờ đến ngày cuối tháng thì thiếp mới được sống lại, nhưng giờ việc đã gấp thì làm sao chờ được? Xin đào ngay chỗ chôn thiếp rồi đưa thiếp cùng về, hàng ngày cứ gọi tên thiếp thì qua ba ngày có thể sống lại. Nhưng chưa đủ thời hạn, xương mềm chân yếu không thể lo việc nhà giúp chàng thôi". Nói xong vội vàng định đi, chợt quay lại nói "Thiếp suýt nữa thì quên mất, nếu âm ty đuổi theo thì làm thế nào? Khi còn sống cha thiếp có truyền cho một đạo bùa, nói ba mươi năm sau có thể cho hai vợ chồng cùng đeo". Rồi lấy giấy bút vẽ mau hai lá bùa, nói "Một lá thì chàng đeo, còn một lá thì dán vào lưng thiếp".

Sinh đưa nàng ra, tới chỗ nàng biến mất thì đào lên, khoảng hơn một thước thấy có chiếc quan tài đã mục nát, bên cạnh có tấm bia nhỏ như lời nàng nói. Mở quan tài xem thấy nhan sắc nàng như còn sống bèn bế vào trong phòng, xiêm y theo gió tan hết. Dán bùa xong sinh lấy chăn bọc kín lại, cõng ra bờ sông gọi thuyền ghé vào, nói thác rằng em gái ốm nặng, phải đưa về nhà. May được gió nam thổi mạnh, vừa vừa sáng đã về tới nhà, bế nàng vào đặt nằm đâu đấy xong mới nói với anh chị, cả nhà nhớn ngác nhìn nhau nhưng cũng không ai dám nói thẳng là sự huyễn hoặc. Sinh mở chăn, gọi to Thu Nguyệt, đêm thì ôm xác nàng mà ngủ. Thi thể nàng ngày càng ấm dần, ba ngày thì sống lại, bảy ngày sau thì đi lại được, bèn thay quần áo ra chào chị dâu, lãng đãng không khác gì thần tiên.

Nhưng ngoài mười bước thì phải có người đỡ cho đi, nếu không thì xiêu vẹo theo gió như muốn ngã, người ta nhìn thấy cho rằng nàng mang bệnh như thế lại càng đẹp thêm. Nàng thường khuyên sinh "Oan nghiệt của chàng rất sâu, nên tích đức tụng kinh để sám hối, nếu không sợ không sống lâu được". Sinh vốn không tin Phật, lúc ấy bèn dốc lòng quy y, về sau không việc gì cả.

Dị Sử thị nói: Ta muốn tâu với triều đình xin định luật lệ là phàm giết sai nha thì giảm tội ba bậc so với giết dân thường, vì bọn sai nha thì không ai là không có tội đáng giết cả. Cho nên kẻ giết được bọn sai nha ắt là người tốt, dù phải trừng trị chút ít cũng không nên đối xử tàn ác. Huống chi dưới âm ty không có phép tắc nhất định, giả như trong đó có kẻ xấu thì vạc dầu núi kiếm cũng không phải là tàn ác. Nếu như lòng người lấy làm vui sướng thì Diêm Vương cho là điều lành, chứ há kẻ có tội bị âm ty tróc nã mà may mắn trốn thoát được sao?

136. Công Chúa Liên Hoa (Liên Hoa Công Chúa)

Đậu Húc tự Hiểu Huy người huyện Giao Châu (tỉnh Sơn Đông), ngủ trưa mơ thấy một người mặc áo vải tới đứng cạnh giường nhìn ngó quanh quẩn như muốn nói điều gì, sinh hỏi thì đáp tướng công mời ông tới chơi. Sinh hỏi tướng công là ai, người ấy nói "Nhà cũng ở cạnh đây". Sinh theo người ấy ra đi, vòng qua tường nhà mình thì tới một nơi lầu gác trùng trùng nối nhau muôn lớp, quanh co qua lại thấy có muôn nhà ngàn cổng khác xa nhân thế. Lại thấy cung tần nữ quan đi lại nườm nượp, đều hỏi người áo vải "Đậu lang tới đó à?", người áo vải gật đầu. Chợt một vị quý quan ra đón, chào hỏi rất cung kính, vào tới sảnh đường, sinh hỏi "Trước nay chưa từng quen biết nên không tới bái kiến, nay được quá yêu đón rước khiến ta rất e ngại". Vị quý quan đáp "Đức vua của ta thấy tiên sinh dòng dõi thanh bạch vẫn hằng hâm mộ rất muốn gặp mặt". Sinh càng sợ hãi, hỏi đại vương là ai, vị quý quan đáp lát nữa sẽ biết.

Không bao lâu có hai nữ quan tới, cầm hai lá cờ dẫn sinh đi, vào mấy lần cửa thì thấy một bậc vương giả ngồi trên điện. Vương thấy sinh thì bước xuống thềm đón theo lễ chủ khách. Làm lễ tương kiến xong thì vào tiệc, món ngon vật lạ bày lên la liệt. Ngẩng nhìn thấy trên điện có tấm biển đề hai chữ Quế Phủ, sinh bối rối không biết nói gì. Vương nói "Là láng giềng gần gũi, tình ắt phải khắng khít, ông cứ tự nhiên đừng ngại", sinh dạ dạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm sênh ca trỗi lên nhưng không có chiêng trống, âm thanh rất nhỏ. Một lát vương chợt nhìn tả hữu nói "Trẫm có một câu phiền các khanh đối: Tài nhân đăng quế phủ (Tài nhân lên phủ quế)". Cả tiệc còn đang nghĩ, sinh đối ngay "Quân tử ái liên hoa (Quân tử thích hoa sen)"' Vương nói "Liên Hoa là tiểu tự của công chúa, sao lại trùng hợp như thế, há không phải là túc duyên sao. Hãy truyền gọi công chúa ra chào quân tử". Giây lát tiếng vòng ngọc khua vang, hương thơm sực nức, công chúa ra tới, tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo tuyệt thế. Vương sai nàng lên lạy chào sinh, nói "Đây là tiểu nữ Liên Hoa", công chúa chào xong trở vào.

Sinh thấy nàng tâm thần rúng động, ngồi thừ ra tơ tưởng, vương nâng chén mời cũng như không thấy. Vương như hơi biết ý, nói "Con gái ta cũng có thể sánh đôi với ông nhưng tự thẹn không cùng loài thì làm thế nào?". Sinh vẫn còn ngơ ngẩn cũng không nghe thấy, người bên cạnh đạp nhẹ vào chân nói "Vương mời mà ông chưa thấy vương nói mà ông chưa nghe sao?". Sinh thẫn thờ đứng lên bước ra nói "Thần đội ơn lớn, không ngờ quá say thất thố, xin được tha thứ, nhưng trời đã xế, đại vương lại bận việc, thần xin cáo từ". Vương đứng dậy nói "Được gặp mặt bậc quân tử, ta rất thỏa lòng, sao lại vội cáo từ như thế? Nhưng khanh đã không muốn ở ta cũng không dám ép, nếu nghĩ tới nhau ngày khác quả nhân sẽ lại mời", rồi sai nội quan đưa sinh ra. Trên đường nội quan nói "Vừa rồi vương nói công chúa có thể sánh đôi với ông, như là có ý muốn chọn làm Phò mã, sao ông im lặng không nói gì?"' Sinh giẫm chân hối hận, mỗi bước mỗi thở dài than tiếc, kế về tới nhà thì chợt tỉnh dậy, thấy mặt trời đã lặn, ngồi ngây ra nhớ lại giấc mộng rất rõ ràng.

Tối đến ra nhà học tắt đèn ngủ sớm, có ý đợi giấc mộng cũ nhưng không thấy gì, đành thở than hối tiếc mà thôi. Một đêm sinh ngủ chung với một người bạn chợt thấy viên nội quan hôm trước tới nói đại vương sai mời, sinh mừng rỡ đi theo, vào gặp vương lạy phục xuống bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi bên cạnh, nói "Từ khi chia tay đến nay biết khanh nhọc lòng tơ tưởng, muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, nghĩ chắc khanh không chê bỏ", sinh lập tức lạy tạ. Vương liền sai các quan học sĩ đại thần ngồi tiếp rượu, xong tiệc cung nhân bước lên nói "Công chúa đã trang điểm xong", liền thấy mấy mươi cung nữ đỡ công chúa ra, che mặt bằng khăn gấm đỏ, nhẹ nhàng yểu điệu bước lên nệm lông chiên làm lễ giao bái với sinh. Kế đưa hai vợ chồng về phòng riêng, lúc động phòng nàng rất nhu thuận. Sinh nói "Có nàng trước mắt thật vui mừng quên chết, nhưng e cuộc gặp gỡ hôm nay chỉ là giấc mộng thôi". Công chúa bịt miệng sinh nói "Rõ ràng là thiếp với chàng đang ở đây, sao lại là mộng!".

Sáng ra sinh đùa trang điểm cho công chúa, kế lấy dây lưng đo quanh hông nàng, lại gang tay đo chân. Công chúa cười hỏi "Chàng điên à?", sinh đáp "Ta nhiều lần bị giấc mộng đánh lừa nên phải nhớ kỹ để nếu là giấc mộng cũng đủ mà nhớ nhau". Đang đùa giỡn thì một cung nữ chạy mau vào nói "Yêu quái vào cửa cung, đại vương đã lánh ra biệt điện, tai vạ tới rồi"' Sinh cả kinh vội tới gặp vương, vương cầm tay sinh khóc nói "Được quân tử không bỏ, đang muốn sum họp lâu dài, nào ngờ trời giáng tai nghiệt, vận nước sắp đổ, biết tính sao đây?". Sinh sửng sốt hỏi sao nói thế, vương lấy một bản tâu trên án trao cho, sinh mở ra đọc thấy viết rằng "Hàm Hương điện Đại học sĩ thần Hắc Dục xin tâu về việc yêu quái tai dị phi thường phải sớm dời đô để giữ vận nước. Theo lời báo của Hoàng môn quan thì ngày mùng sáu tháng năm có một con mãng xà dài ngàn trượng tới chiếm giữ ngoài cung, nuốt sống thần dân trong ngoài tất cả hơn một vạn ba ngàn tám trăm mạng, đi qua nơi nào thì lâu đài đều thành gò bãi vân vân. Thần lấy can đảm ra xem quả thấy rõ rắn tinh đầu tựa núi non, mắt như sông biển, ngẩng đầu thì nuốt hết cung điện, duỗi thân thì sụp cả lâu đài. Thật là hung dữ ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu nguy trong sớm tối, xin Hoàng thượng sớm đưa cung quyến dời tới nơi yên ổn".

Sinh đọc xong tái cả mặt, liền có cung nhân chạy vào cấp báo yêu quái tới, cả điện khóc lóc kêu gào vô cùng thê thảm. Vương cuống quýt không biết làm sao, chỉ khóc ngoảnh lại nói "Phiền tiên sinh lo cho tiểu nữ!". Sinh nghẹn ngào về phòng thì công chúa đang cùng tả hữu ôm đầu kêu khóc, thấy sinh vào liền nắm áo nói "Lang quân tính sao cho thiếp đây". Sinh đau xót muốn chết, cầm tay công chúa nói "Tiểu sinh nghèo hèn thẹn không có nhà vàng, chỉ có ba gian nhà tranh, cứ cùng về đó tạm lánh được không?". Công chúa rơi lệ nói "Việc gấp rồi còn lựa chọn gì nữa, xin dẫn thiếp đi mau!". Sinh bèn đỡ nàng ra đi, không bao lâu về tới nhà. Công chúa nói "Nhà này rộng lớn yên ổn còn hơn nước cũ. Nhưng thiếp theo chàng tới đây còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu, xin xây cho một gian nhà riêng để cả nước theo về ở". Sinh lấy làm khó khăn, công chúa gào khóc nói "Không cứu giúp được lúc nguy cấp, thì chàng làm được gì?" Sinh an ủi qua loa rồi vào phòng trong, công chủa nằm phục xuống giường kêu khóc thảm thiết không sao khuyên giải, sinh nóng lòng mà không có cách nào, chợt giật mình tỉnh dậy mới biết là giấc mộng.

Nhưng bên tai vẫn còn tiếng than khóc nức nở chưa dứt, nghe kỹ thì không phải là tiếng người mà là hai ba con ong bay lượn vo ve trên gối, bèn kêu to là chuyện lạ. Người bạn hỏi han, sinh kể lại giấc mộng, bạn cũng kinh ngạc lạ lùng cùng trở dậy nhìn mấy con ong thấy cứ bay đậu trên áo sinh, đuổi cũng không đi. Bạn khuyên làm tổ cho chúng ở, sinh theo lời mướn thợ về làm. Vừa dựng xong hai vách tổ đã thấy đàn ong từ ngoài tường liên tiếp bay vào, nóc tổ chưa lợp thì đã đậu đen đặc trong đó. Tìm xem chúng từ đâu bay tới thì là ở cái vườn cũ của ông già hàng xóm, trong vườn có một tổ ong đã hơn ba mươi năm, sinh đẻ rất nhiều. Có người kể việc của sinh cho ông già nghe, ông ra xem thấy tổ ong vắng ngắt. Giở vách tổ lên nhìn thấy có con rắn dài hơn một trượng liền bắt giết đi, mới biết con mãng xà ngàn trượng chính là nó. Từ ngày ong vào ở nhà sinh, sinh nở càng đông đúc hơn.

137. Cô Gái Áo Xanh (Lục Y Nữ)

Vu sinh tên Cảnh tự Tiểu Tống là người huyện ích Đô (tỉnh Sơn Đông). Ra học ở chùa Lễ Tuyền, đêm đang đọc sách chợt một cô gái đứng ngoài cửa sổ khen "Vu tướng công chăm học thật?". Vu ngạc nhiên đứng lên nhìn, thấy nàng khoác áo xanh mặc váy dài, xinh xắn không ai bằng. Vu biết không phải là người, hỏi kỹ quê quán thì nàng nói "Chàng nhìn thiếp thì biết không phải là kẻ ăn thịt người, hỏi kỹ làm gì?". Vu thấy yêu mến, bèn cùng đi ngủ, cởi tới chiếc áo lót mình bằng lụa thấy eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chét tay. Đêm gần tàn thì cô gái trở dậy ra đi, từ đó đêm nào cũng tới.

Một đêm cùng uống rượu, lúc trò chuyện thấy nàng rất sành âm luật, Vu nói "Giọng nàng êm ái, nếu hát một khúc ắt người nghe phải tiêu hồn". Cô gái cười nói "Chẳng dám hát vì sợ chàng tiêu hồn đó thôi". Vu cố nài nỉ, nàng nói "Thiếp chẳng tiếc gì, chỉ sợ người khác nghe thấy nếu chàng đã thích thì xin phô bày cái dở, nhưng xin hát nhỏ để tỏ ý thôi đấy!". Rồi lấy hài nhè nhẹ đánh nhịp, dựa ghế hát rằng "Thụ thượng ô cựu minh, Trám nô trung dạ tán. Bất oán tú hài tư, Chỉ khủng lang vô bạn" (Trên cây quạ kêu ầm, Thiếp nửa đêm chạy tản. Chẳng oán hài ướt đầm, Chỉ e chàng không bạn). Tiếng hát nhỏ như sợi tơ, chỉ nghe được loáng thoáng, nhưng lắng nghe thì thấy uyển chuyển mượt mà làm rung động lòng Người. Cô gái hát xong, mở cửa nhìn ra, nói "Coi chừng bên ngoài có người", rồi đi quanh nhà xem xét một vòng mới quay vào. Sinh hỏi "Sao nàng lo lắng quá thế?", nàng cười đáp "Ngạn ngữ có câu Con ma sống trộm thường sợ người, là nói tới thiếp đấy!".

Kế cùng đi ngủ, nàng buồn bã không vui, nói "Số phận nhỏ nhoi có lẽ chấm dứt ở đây chăng?". Vu vội hỏi han, cô gái đáp "Thiếp thấy trong lòng lo lắng, trong lòng lo lắng thì lộc số của thiếp đã hết rồi". Vu an ủi rằng "Trong lòng lo lắng hay mi mắt máy động là chuyện thường tình, sao nàng vội nói thế?". Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Đêm vừa tàn, cô gái khoác áo bước xuống giường, đang định mở cửa lại bồi hồi quay vào nói "Không biết có chuyện gì mà thiếp thấy sợ quá, xin tiễn thiếp ra cửa", Vu liền trở dậy đưa nàng ra tới ngoài cửa. Cô gái nói "Chàng cứ đứng đây trông cho thiếp, thiếp vượt khỏi tường rồi hãy trở vào", Vu đáp "Được". Thấy cô gái đã rẽ qua hành lang không thấy bóng dáng đâu nữa, đang định quay vào thì nghe tiếng nàng kêu cứu rất gấp, Vu vội chạy tới nhưng nhìn quanh không thấy đâu. Nghe tiếng kêu vọng ra từ mái hiên, ngẩng đầu nhìn kỹ thì thấy một con nhện to bằng viên đạn đang bắt một con vật nhỏ, con vật đang rên rĩ đau đớn. Vu phá mạng nhện khều xương, gỡ bỏ tơ nhện quấn quanh thì là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Bèn mang về phòng, đặt lên đầu bàn cho nghỉ ngơi, hồi lâu con ong mới bò được, từ từ leo lên chiếc nghiên nhúng mình vào mực, kế ra nằm mọp xuống ghế, bò thành chữ "tạ", giương cánh mấy lần rồi theo song cửa sổ bay đi từ đó không trở lại nữa.

138. Nàng Ba Hoa Sen (Hà Hoa Tam Nương Tử)

Tông Sương Nhược, người đất Hồ Châu (huyện Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang) là kẻ sĩ nhân. Một ngày mùa thu đi thăm đồng, thấy có đám lúa rậm lay động rất mạnh, lấy làm ngờ vục, lội xuống ruộng tới xem thì ra là một đôi trai gái đang ân ái với nhau, phì cười quay lên. Kế người con trai xấu hổ thắt quần hấp tấp đi thẳng, cô gái cũng đứng dậy, Tông nhìn kỹ thấy rất xinh xắn, trong lòng ưa thích cũng muốn nọ kia nhưng ngại mang tiếng suồng sã. Bèn tới cạnh phủi quần áo cho, nói "Chơi đùa trong dâu có vui không?" nàng cười không đáp. Tông đứng sát vào nàng, khẽ vén áo lên thấy da thịt nõn nà bèn vuốt ve sờ soạng từ trên tới dưới. Cô gái cười nói "Tú tài cổ hủ muốn làm gì thì cứ làm, sờ mó lung tung làm gì?". Tông hỏi họ tên, nàng đáp "Một bận gió xuân rồi thì đường ai nấy đi, cần gì hỏi rõ, định lưu tên tuổi để lập phường trinh sao?". Tông nói "Ngủ với nhau trên đồng trong cỏ là việc bọn đầy tớ chăn heo vẫn làm, chứ ta không quen. Thấy nàng xinh đẹp, cho dù hẹn hò riêng tư cũng phải tự trọng, sao lại qua quít như thế?". Cô gái nghe thế tỏ vẻ bằng lòng, Tông nói "Nhà vắng cách đây không xa, xin mời qua chơi". Cô gái nói "Ta đi đã lâu, sợ người ta ngờ, đến khuya thì được", kế hỏi kỹ Tông đường sá nhà cửa rồi theo đường tắt rảo bước đi luôn.

Tối đến cô gái quả tới nhà học của Tông, cùng nhau mây mưa vô cùng đằm thắm, dần dà hết ngày này tháng khác mà không ai hay biết. Gặp lúc có nhà sư Phiên nghỉ lại ở chùa trong thôn gặp Tông kinh ngạc hỏi "Người ông có tà khí, đã gặp việc gì rồi?", Tông đáp không có gì. Qua vài hôm chợt bị bệnh, hàng đêm cô gái đều mang trái cây thức ăn tới ân cần chăm sóc như vợ chồng, nhưng đi ngủ thì cứ ép Tông phải ăn nằm với mình. Tông mắc bệnh không sao kham nổi, nghi nàng không phải là người nhưng cũng không có cách nào dứt ra được, nhân nói "Hôm trước hòa thượng nói ta bị yêu tinh mê hoặc, nay quả bị bệnh, lời ấy nghiệm rồi. Ngày mai ta sẽ mời ông tới xin bùa yểm"' Cô gái biến sắc, Tông càng ngờ vực, hôm sau sai người đến kể tình thật với nhà sư. Sư nói "Đó là hồ, phép thuật còn kém, cũng dễ bắt thôi", rồi vẽ hai đạo bùa đưa cho, dặn "Về lấy một cái vò sạch đặt cạnh giường, dán bùa vào miệng vò, đợi khi hồ bị hút vào thì úp ngay một cái chậu lên, dán bùa lên chậu rồi đổ nước vào bắc lên bếp mà đun thì có thể giết được nó".

Gia nhân làm theo lời, đến khuya cô gái mới tới, lấy quýt vàng từ tay áo ra, vừa tới cạnh giường thăm hỏi Tông, chợt nghe miệng vò kêu soạt một tiếng, cô gái đã bị hút ngay vào. Gia nhân nhảy ra bịt miệng vò dán bùa lên, đang định đem đun. Tông thấy quýt vàng tung tóe trên đất, nghĩ lại tình nghĩa chợt cảm động bèn sai thả ra. Vừa gỡ bùa mở chậu thì cô gái trong vò chui ra, run rẫy sợ sệt cúi đầu nói "Thiếp tu luyện sắp thành đại đạo mà chỉ suýt nữa hóa ra tro than. Chàng thật là người nhân đức, thiếp thề sẽ báo đền", rồi đi. Vài ngày sau bệnh Tông càng nặng, gia nhân ra chợ mua quan tài, trên đường gặp một cô gái hỏi "Ngươi có phải người nhà của Tông Sương Nhược không?", người gia nhân đáp phải. Cô gái nói "Tông lang là biểu huynh của ta, nghe nói bị bệnh nặng cũng định tới thăm nhưng lại gặp việc không đi được, có một thang linh dược, phiền đưa về giùm", người gia nhân bèn nhận lấy đem về. Tông vì trong họ hàng bên ngoại không có chị em nào nên biết là hồ đền ơn. Uống thuốc xong quả nhiên đỡ hẳn, mười ngày thì bình phục, rất cám ơn hồ, ngẩng lên không khấn khứa xin được gặp lại một lần.

Một đêm Tông đang đóng cửa ngồi uống rượu một mình chợt nghe có tiếng búng tay vào cửa sổ, vội xô cửa bước ra xem thì là cô gái hồ. Tông cả mừng chắp tay cảm tạ, kéo vào cùng uống rượu. Cô gái nói "Từ khi chia tay đến nay cứ canh cánh trong lòng không biết lấy gì báo đền ơn lớn. Nay đã tìm được cho chàng một mối duyên lành, vậy đã hết tội với chàng chưa?". Tông hỏi là ai, nàng đáp "Chàng không biết được đâu. Giờ Thìn sáng mai chàng cứ tới Nam Hồ, nếu thấy cô gái hái ấu đội khăn tơ trắng thì hãy chèo thuyền đuổi mau theo. Nếu lạc mất cứ xem bên đê có bông sen nào cuống ngắn ẩn dưới tán lá thì hái mang về, hơ lửa nến vào rễ sẽ được một người vợ đẹp, lại thêm tuổi thọ". Tông nhớ kỹ lời dặn, kế cô gái cáo biệt, Tông cố níu kéo. Nàng nói "Từ khi gặp tai ách chợt ngộ ra đạo lớn, nay đâu còn tham tình chăn gối mà chuốc lấy oán thù?", rồi nghiêm nét mặt chào đi.

Tông theo lời nàng dặn, tới Nam Hồ thấy gái đẹp hái sen trong đầm rất đông, có một nàng buông rủ bím tóc, mặc áo trắng như băng, xinh đẹp tuyệt trần. Giục chèo thuyền mau theo, chợt nàng mất hút liền ghé vào đám sen ven hồ, quả có một nhánh sen hồng cao không đầy một thước liền hái lấy mang về. Tới nhà đặt lên ghế, cắm nến bên cạnh định thắp lửa lên hơ, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hóa thành một mỹ nhân. Tông vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ lạy phục xuống, cô nói "Chàng ngây kia, ta là hồ đây, sẽ ám chàng cho mà xem". Tông không tin, nàng hỏi "Ai chỉ cho chàng làm như thế?", Tông đáp "Tự tiểu sinh biết nàng, cần gì ai chỉ?" rồi nắm lấy cánh tay nàng kéo vào lòng, cô gái theo tay ngã xuống đất hóa thành hòn đá lạ cao khoảng một thước, bốn mặt lấp lánh. Tông bèn bưng đặt lên bàn, đốt hương vái lạy khấn khứa. Đến đêm đóng cửa cài then thật chặt, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại thì không phải là đá mà là một cái áo khoác bằng the trắng thoang thoảng mùi hương, trải ra xem thì những chỗ cổ áo vạt áo vẫn còn vết người mặc. Tông ôm vào giường đắp chăn nằm ngủ, tối trở dậy thắp đèn, quay lại thì cô gái bím tóc đã nằm trên giường. Tông mừng quá nhưng sợ nàng lại biến hóa nên năn nỉ khẩn cầu rồi mới mon men tới. Cô gái cười nói "Thật là nghiệt chướng, chẳng biết kẻ nào lắm lời lại chỉ cho gã khùng này làm chuyện chết người như thế", rồi không chống cự nữa.

Nhưng trong lúc ân ái có lúc như không chịu nổi, nhiều lần xin thôi. Tông không nghe, nàng nói "Nếu như thế ta sẽ biến đi", Tông sợ bèn thôi. Từ đó hai ngườí rất hòa hợp, mà vàng lụa thường đầy trong rương, cũng không biết từ đâu ra. Cô gái gặp người khác chỉ dạ dạ như không thốt được thành lời, Tông cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng, tính ngày lâm bồn thì vào phòng, dặn Tông đóng chặt cửa không cho ai vào rồi lấy dao tự rạch bụng lấy con ra, bảo Tông xé lụa băng lại, qua đêm thì lành. Được sáu bảy năm nàng nói với Tông "Thiếp đã trả hết nợ ân tình, xin từ biệt". Tông nghe thế rơi nước mắt nói "Lúc nàng về thì ta nghèo khó không thể tự lập, nhờ nàng mới hơi được thong thả sao nỡ nói chia ly sớm như vậy? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ cũng là điều đáng hận". Cô gái cũng buồn rầu nói "Có hợp ắt có tan, đó là lẽ thường. Con ta có phúc tướng, chàng cũng được thọ, còn mong gì nữa? Thiếp vốn họ Hà, nếu chàng thấy nhớ nhưng cứ ôm vật cũ của thiếp gọi "Nàng Ba Hoa sen" thì sẽ thấy mặt". Dứt lời bước ra nói "Thiếp đi đây!".

Tông đang hoảng hốt quay nhìn thì nàng đã bay lên cao quá đầu người. Tông vội nhảy lên níu giữ, nắm được chiếc hài, hài tuột ra rơi xuống đất hóa thành con chim én bằng đá đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh, liền nhặt lấy cất đi. Kiểm lại trong hòm thấy chiếc áo khoác the trắng lúc nàng mới về vẫn còn, mỗi khi nhớ nhưng ôm lấy gọi "Nàng Ba" thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện ra như lúc bình sinh, chỉ không nói lời nào mà thôi. Bạn ta nói Hoa mà biết nói ra nhiều chuyện, Đá chẳng nên lời mới đáng người, câu thơ hay ấy của Phóng Ông* là để tả nàng đấy.

*Phóng Ông: tức Lục Du, hiệu Phóng ông, nhà thơ nổi tiếng thời Nam Tống.

139. Kim Sinh Sắc (Kim Sinh Sắc)

Kim Sinh Sắc người đất Tấn Ninh (huyện Lâm Phần tỉnh Sơn Tây), lấy vợ người họ Mộc cùng thôn, sinh được một con trai mới một tuổi. Kim chợt mắc bệnh nặng, tự nghĩ ắt phải chết, nói với vợ rằng "Ta chết rồi nàng nên lấy chồng khác, đừng thủ tiết làm gì". Vợ nghe thế ngọt ngào thề thốt, hứa sẽ thủ tiết đến chết. Kim gọi mẹ tới nói "Con chết rồi phiền mẹ nuôi thằng bé, đừng bắt nàng phải thủ tiết", mẹ khóc gật đầu. Kế quả Kim chết, bà Mộc tới điếu tang xong nói với mẹ Kim rằng "Trời làm tai họa, con rể chết yểu, con gái ta còn trẻ, bà định làm thế nào?". Mẹ Kim đang đau đớn, nghe bà ta nói thế không kìm được giận dữ, lớn tiếng đáp "Nó phải thủ tiết", bà Mộc có vẻ thẹn thùng nín bặt. Tối đến ngủ với con gái, nói riêng với nàng rằng "Người ta ai cũng có chồng, mà con còn đủ cả chân tay, lo gì không có chồng được? Con gái nhỏ không sớm lo lấy chồng khác, cứ chăm chăm ôm bọc tã nuôi con chẳng phải ngu sao? Nếu mẹ chồng con bắt phải thủ tiết, thì không nên đối xử tư tế", Mẹ Kim bước qua nghe được câu cuối càng thêm bực dọc, sáng hôm sau nói với bà Mộc rằng "Con trai ta có dặn lại là không nên bắt vợ nó thủ tiết, nay bà đã gấp gáp không chờ được, thì ta bắt phải thủ tiết", bà Mộc tức giận ra về.

Mẹ Kim đêm nằm mơ thấy con về sa nước mắt khuyên nhủ, trong lòng lấy làm lạ. Bèn sai người nói với họ Mộc, hẹn chôn xong thì cho vợ Kim đi lấy chồng, nhưng hỏi các thầy tướng số đều nói rằng năm nay hướng mộ như thế lấy chồng không có lợi. Vợ Kim tự nghĩ mình còn trẻ, trong lúc để tang vẫn không quên son phấn. Ở nhà chồng thì còn mặc đồ trắng, chứ lúc về thăm nhà thì ăn mặc lộng lẫy, mẹ Kim biết được rất không hài lòng, nhưng vì thấy trước sau nàng cũng lấy người khác nên phải nhịn, từ đó người đàn bà càng phóng túng.

Trong thôn có tên vô lại là Đổng Quý, thấy vợ Kim đẹp thích lắm, đưa tiền đút lót cho người đàn bà láng giềng xin tỏ ý giùm. Nửa đêm từ nhà bà ta trèo tường vào tới thẳng phòng người đàn bà rồi ngủ với nhau, đi lại suốt tuần, tiếng xấu lan ra chỉ có mẹ Kim là không biết. Phòng người đàn bà ban đêm chỉ có một đứa tớ gái nhỏ, là tâm phúc của thị. Một đêm nghe trong quan tài có tiếng động lớn như tiếng pháo nổ, đứa tớ gái ngủ ở giường ngoài thấy người chết từ sau trướng bước ra, mang kiếm vào phòng trong, kế nghe hai người khiếp sợ rú lên. Giây lát thấy Đổng trần truồng chạy vụt ra, không bao lâu thấy Kim nắm tóc vợ kéo ra, người đàn bà kêu khóc. Mẹ Kim giật mình tỉnh dậy, thấy người đàn bà trần truồng chạy ra, đang định đóng cửa, hỏi không thấy đáp, bước ra nhìn theo thì không nghe thấy gì nữa, cũng chẳng biết là đi đâu. Trở vào phòng người đàn bà thì đèn đuốc còn sáng, thấy có đôi giày đàn ông bèn gọi đứa tớ gái, nó run rẩy bước ra kể lại chuyện lạ, mẹ Kim chỉ còn run sợ ngạc nhiên mà thôi.

Đổng chạy trốn qua ngang nhà láng giềng, núp lại dưới góc tường, hồi lâu nghe tiếng người dần im mới đứng lên. Trên người không còn tấc vải mà đêm lạnh giá, vào nhà người đàn bà láng giềng định mượn quần áo. Thấy trong nhà có một gian phòng, hai cánh cửa chỉ khép hờ bèn chui vào. Mò mẫm trên giường trúng bàn chân con gái, biết là con dâu người đàn bà láng giềng, nảy lòng dâm tà bèn nhân đó hành dâm. Cô ta tỉnh dậy hỏi ngươi về rồi đấy à, Đổng đáp phải. Trước là con trai người đàn bà láng giềng có chuyện tới thôn Bắc, dặn vợ đóng cửa chờ mình về. Khi trở về nghe trong phòng có tiếng người, sinh nghi lắng nghe, cả giận vác giáo xông vào. Đổng hoảng sợ chui xuống gầm giường trốn, người kia đuổi vào đâm chết, lại muốn giết luôn vợ, vợ khóc lóc kể lại là bị lầm, y mới tha. Nhưng không hiểu người dưới gầm giường là ai, bèn gọi mẹ đốt đèn lên soi mới biết. Nhìn thấy Đổng vẫn còn thoi thóp thở, hỏi từ đâu tới, Đổng kể lại, nhưng mấy chỗ bị thương máu tuôn như suối, giây lát thì chết.

Bà mẹ sợ hãi run rẩy nói với con trai "Bắt được kẻ gian dâm mà giết có một người, ngươi thấy có được không?", người con trai bất đắc dĩ phải giết luôn vợ. Đêm ấy ông Mộc vừa đi ngủ, chợt nghe ngoài cửa có tiếng lôi kéo, ra nhìn thì thấy lửa cháy chỗ chái nhà nhưng người đốt vẫn chưa đi. Ông Mộc kêu lớn, gia nhân đổ cả ra, may mà lửa vừa bén còn dễ dập tắt. Bèn sai người mang giáo mác đuổi bắt kẻ đốt nhà, thấy có một người leo trèo thoăn thoắt như vượn vượt qua tường đi mất. Phía ngoài tường là vườn đào của nhà ông, quanh vườn có tường rào rất chắc chắn, mấy người bắc thang leo lên nhìn thì không thấy tăm hơi gì. Duy dưới tường có một khối gì động đậy, hỏi không thấy đáp, bắn vào thấy mềm mềm. Mở cửa ra xem thì là một cô gái trần truồng nằm đó, mũi tên xuyên suốt qua bụng, thắp đèn tới nhìn kỹ thì là con gái ông Mộc tức vợ Kim. Họ hoảng sợ báo với chủ nhân, vợ chồng Mộc đau đớn muốn chết không hiểu vì sao. Cô gái nhắm mắt, sắc mặt xám như tro, hơi thở mong manh như sợi tơ, sai nhổ mũi tên nhưng không rút được phải đạp chân lên ngực mới rút ra được. Cô gái rên lên một tiếng, máu vọt ra tắt hơi luôn. ông Mộc cả sợ không biết làm sao, sáng ra kể lại tình thực với mẹ Kim, quỳ xuống van xin. Nhưng mẹ Kim không hề tức giận, chỉ kể lại nguyên do rồi bảo tự chôn cất lấy.

Kim có người anh con bác là Sinh Quang tức giận tới nhà ông Mộc chửi mắng cả những chuyện trước, ông Mộc thẹn thùng đưa tiền đút lót bảo thôi, nhưng mọi người không biết kẻ gian dâm với vợ Kim là ai. Kế con trai người đàn bà láng giềng đem xác kẻ gian tự thú bị trừng phạt qua loa rồi tha về. Nhưng anh vợ y là Mã Bưu hay thưa kiện lại kiện rằng em gái bị oan. Quan bắt người đàn bà láng giềng, bà ta sợ bèn khai thật đầu đuôi. Lại gọi mẹ Kim, mẹ Kim thác là có bệnh, nhờ Sinh Quang thay mình đối chất, trình bày mọi việc. Lúc bấy giờ chuyện giấu diếm trước đều vỡ lỡ, quan sai bắt vợ chồng ông Mộc, mọi người đều khai thật, lúc ấy mới rõ cả mọi việc. Mộc vì muốn gấp gả chồng cho con gái khiến cho nàng mắc tội gian dâm, tự mình phải chuộc tội gia sản khánh kiệt. Người đàn bà láng giềng dẫn đường cho kẻ gian dâm, bị phạt đánh trượng mà chết, cái án ấy kết thúc.

Dị Sử thị nói: Chàng họ Kim là thần chăng? Dặn cho vợ đi lấy chồng, sao mà sáng suốt thế? Không giết một người nào mà mọi mối hận đều được rửa sạch, há không đáng gọi là thần sao? Người đàn bà láng giềng dụ dỗ con dâu người ta mà rốt lại con dâu mình bị gian dâm, bà Mộc thương con gái mà rốt lại giết chết con gái. Than ôi, muốn biết nhân duyên ngày sau thì cứ nhìn việc làm lúc trước, việc báo ứng chẳng cần gì phải chờ đến kiếp sau!

140. Bành Hải Thu (Bành Hải Thu)

Chư sinh Bành Hiếu Cổ ở phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) ra học ở nhà khác cách nhà khá xa, tiết Trung thu không về, vắng vẻ không có bạn. Nghĩ trong thôn không có ai chuyện trò được chỉ có Khâu sinh là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tiếng xấu, Bành thường khinh bỉ. Trăng lên càng thấy buồn, bất đắc dĩ đành viết thiếp mời Khâu. Đang uống rượu thì có người gõ cửa, tiểu đồng ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành ra mời khách vào, vái chào xong cùng ngồi xuống quanh bàn rượu. Hỏi họ tên quê quán, khách đáp "Tiểu sinh là người Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), cùng họ với ông, tự là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng thấy buồn, nghe tiếng ông cao nhã nên tự tới ra mắt". Bành nhìn thấy người ấy áo vải sạch sẽ chỉnh tề, trò chuyện phong nhã, cả mừng nói "Té ra là người đồng tông, đêm nay là đêm gì mà gặp được khách quý thế này!", liền sai rót rượu, mời mọc như bạn thân từ lâu.

Xem ý tứ thì khách có vẻ rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu bèn nói lảng sang chuyện khác, trước tiên xin hát một khúc dân ca giúp vui, kế ngửa mặt ho hắng rồi hát khúc Hào sĩ Phù Phong* sĩ Phù Phong: bài thơ của Lý Bạch thời Đường, cùng nhau vui cười. Khách nói "Ta không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc Dương xuân, vậy xin nhờ người khác hát thay được không?"' Bành xin vâng lời. Khách hỏi ở phủ thành Lai Châu có danh kỹ nào không, Bành đáp không. Khách im lặng hồi lâu rồi nói với tiểu đồng của Bành "Ta vừa gọi một người tới ngoài cổng, cứ ra dẫn vào đây!". Tiểu đồng ra quả thấy một cô gái đang ngập ngùng ngoài cửa bèn dẫn vào, thấy tuổi khoảng đôi tám trở lại, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi.

*Hào sĩ Phù Phong: tên bài thơ của Lý Bạch thời Đường.

Cô gái mặc áo màu lá liễu, quàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn phía. Khách an ủi nói làm phiền lặn lội ngàn dặm, cô gái mỉm cười dạ dạ. Bành lấy làm lạ gạn hỏi, khách đáp "Quý địa khổ cái không có giai nhân, ta vừa phải gọi nàng đây trên thuyền ở Tây Hồ tới đấy". Rồi nói với cô gái "Khúc Chàng bạc tình nàng vừa hát trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa". Cô gái bèn ca rằng:

Bạc hãnh lang, Khiên mã tẩy xuân chiểu.

Nhân thanh viển, mã thanh yểu, giang thiên cao, sơn nguyệt tiểu.

Điệu đầu khứ bất quy, Đình trung sinh bạch hiểu.

Bất oán biệt ly đa, Đãn sầu hoan hội thiểu.

Miên hà xứ? Vật tác tùy phong nhứ.

Tiện thị bất phong hầu, Mạc hướng Lâm Cùng khứ.

Chàng bạc tình, Tắm ngựa ao xuân nọ

Giọng người xa, tiếng ngựa khuất, trời sông cao, trăng núi nhỏ

Quay đầu đi không về, trong sân ngày rạng tỏ

Ly biệt quen không hờn, Sum vầy buồn ít có

Ngủ nơi đâu? Đừng như tơ theo gió

Cho dù chẳng phong hầu, Chớ tới Lâm Cùng đó*.

* Chớ tới Lâm Cùng đó: nguyên văn là "Mạc hướng Lâm Cùng khứ", câu trong bài Cổ biệt ly của Mạnh Giao "Dục biệt khiên lang y, Lang kim đáo hà xứ? Bất hận quy lai trì, Mạc hướng Lâm Cùng khứ" (Chia tay níu áo chàng, Đi đâu vào sương gió? Chẳng hận người lâu về, Chớ tới Lâm Cùng đó). Sử ký, Tư Mã Tương Như truyện chép Tương Như người Thành Đô nhà nghèo tới nương tựa Huyện lệnh Lâm Cùng, nhân gặp con gái Trác Vương Tôn là Văn Quân mới góa chồng bèn gãy khúc phượng cầu hoàng khêu gợi, Văn Quân bèn đang đêm trốn theo Tương Như về quê nhưng nghèo khổ quá bèn cùng trở lại Lâm Cùng mở quán bán rượu. Đây ý nói đừng bỏ mất chí khí.

Khách rút chiếc sáo ngọc trong ống giày theo khúc hát mà thổi, khúc dứt thì tiếng sáo cũng ngừng. Bành kinh ngạc khen ngợi không thôi, nói "Từ Tây Hồ tới đây đâu phải chỉ ngàn dặm, thế mà trong khoảnh khắc gọi người tới được, chẳng phải là tiên sao?". Khách đáp "Đâu dám nói là tiên, nhưng coi muôn dặm chỉ như trong sân ngoài cổng. Đêm nay gió trăng trên Tây Hồ còn đẹp hơn hôm trước, không thể không tới chơi một chuyến, ông có thể đi chơi với ta không?". Bành đang muốn xem xét việc lạ liền nhận lời nói rất may mắn. Khách hỏi đi thuyền hay ngựa, Bành nghĩ ngồi thuyền đỡ mệt hơn bèn đáp xin cho đi thuyền. Khách nói "Chỗ này gọi thuyền hơi xa, trên Thiên Hà chắc có người chở đò". Bèn giơ tay lên không vẫy gọi "Thuyền ơi xuống đây! Bọn ta muốn tới Tây Hồ, không tiếc tiền thưởng đâu". Giây lát một chiếc thuyền kết hoa từ trên không lướt xuống, mây khói vướng vít chung quanh, mọi người cùng bước lên.

Thấy một người cầm mái chèo ngắn, đoạn cuối giắt đầy lông chim dài trông như cái quạt vừa phe phẩy thì gió mát ào ào nổi lên, thuyền dần bay vào mây xanh lướt về phía nam, đi nhanh như tên bắn. Trong khoảnh khắc thuyền đáp xuống nước, chỉ nghe đàn sáo rộn ràng, chiêng trống ầm ĩ. Bước ra mũi thuyền nhìn quanh thấy trăng in khói sóng, thuyền dạo choi đông như họp chợ, những người chân sào đều gác mái chèo để mặc thuyền tự trôi, nhìn kỹ thì đúng là Tây Hồ. Khách lấy các món ăn lạ và rượu ngon sau khoang ra vui vẻ đối ẩm. Lát sau một chiếc lâu thuyền tới gần rồi đi sát bên cạnh, nhìn qua song cửa thấy trong khoang có hai ba người đang ngồi quanh bàn cờ cười nói. Khách rót một chén rượu đưa cô gái, nói "Xin cạn chén này rồi sẽ đưa nàng về". Lúc cô gái đang nâng chén, Bành lưu luyến bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bèn khẽ đạp vào chân nàng. Cô gái đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.

Cô gái nói "Nếu thương yêu nhau, cứ hỏi tên Quyên Nương thì ai cũng biết". Khách lập tức lấy chiếc khăn lụa của Bành trao cho nàng, nói "Ta thay ông ấy ước hẹn ba năm sau", kế đứng lên đặt cô gái vào lòng bàn tay, nói "Tiên ư! Tiên ư!" rồi kéo cửa sổ thuyền bên cạnh đưa nàng qua, song cửa sổ chỉ rộng vài tấc mà cô gái trườn qua không có gì vướng víu. Giây lát nghe thuyền bên nói "Quyên Nương tỉnh rồi", rồi lập tức lướt đi, nhìn xa xa thấy đã ghé vào bờ, người trong thuyền nhốn nháo bước lên. Bành chợt thấy mất hứng, bèn nói với khách muốn lên bờ một lúc cùng xem qua phong cảnh. Còn đang bàn bạc thì thuyền đã tự ghé vào bờ. Bành rời thuyền lên bộ dạo quanh, đi khoảng hơn một dặm thì khách phía sau đi tới, dắt một con ngựa bảo Bành giữ rồi lập tức quay đi, dặn "Đợi ta mượn thêm hai con ngựa nữa", nhưng hồi lâu không tới. Trên đường đã vắng người, ngẩng nhìn thấy trăng xế về tây, trời đã sắp rạng mà không rõ Khâu đi đâu. Bành dắt ngựa loanh quanh không biết nên đi hay ở, bèn giong cương tới nơi thuyền đậu thì cả người lẫn thuyền đều biến mất, nghĩ tới trong túi rỗng không, càng thêm lo sợ.

Trời sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một cái túi nhỏ, lục xem thấy có ba bốn lượng bạc, bèn mua thức ăn rồi ngẩn ngơ chờ, bất giác đã đến trưa. Nghĩ bụng cứ hỏi thăm Quyên Nương sẽ dần dần hỏi được tin Khâu, nhưng nói tới tên Quyên Nương thì không người nào biết. Bành thất vọng buồn bã, hôm sau lên đường. Con ngựa rất hay, may mà không gặp chuyện gì, nửa tháng mới về tới nhà. Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, đứa tiểu đồng về báo chủ nhân đã lên tiên, cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng sẽ không về nữa. Bành buộc ngựa vào, người nhà ngạc nhiên mừng rỡ xúm lại hỏi han, Bành mới kể hết những việc kỳ lạ, lại nghĩ chỉ có mình trở về, sợ nhà Khâu biết tin sẽ qua gạn hỏi bèn dặn người nhà giữ kín. Kế lại nói tới con ngựa ở đâu mà ra, mọi người thấy là của tiên cho bèn rủ nhau ra chuồng xem, tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy Khâu sinh bị buộc cạnh chuồng bằng dây cương cỏ, phát hoảng gọi Bành ra xem.

Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt xám như tro, hỏi gì cũng không đáp, chỉ chớp chớp hai mắt mà thôi. Bành bất nhẫn sai cởi dây cương vực lên giường, thấy Khâu như người mất hồn, đổ cháo cho cũng nuốt được chút ít. Đến nửa đêm hơi tỉnh muốn ra nhà xí xốc nách đưa đi thì són ra mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống qua loa mới bắt đầu nói được. Bành tới cạnh giường hỏi han, Khâu kể "Sau khi rời thuyền, y dẫn ta dạo chơi trò chuyện, tới chỗ vắng vỗ đùa vào gáy, ta liền ngã ra mê man, nằm giây lát định thần nhìn lại thấy mình đã hóa ra thân ngựa, tâm trí vẫn tỉnh táo, chỉ có không nói năng được mà thôi. Chuyện này thật vô cùng nhục nhã, không thể kể cho vợ con được, xin ông đừng nói lộ ra". Bành nhận lời, sai đầy tớ dắt ngựa đưa Khâu về.

Bành từ đó không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau vì người anh rể làm Phán quan ở Dương Châu, Bành nhân tới thăm. Ở đó có Lương công tử là nhà thế giao mở tiệc mời Bành tới uống rượu, trong tiệc có mấy người ca kỹ đều tới yết kiến. Công tử hỏi Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm. Công tử túc giận nói "Con tiện tỳ lên mặt làm cao, đem dây đi trói mang lại đây cho ta". Bành nghe tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai, công tử đáp "Thị là con hát số một ở Quảng Lăng, có chút danh tiếng nên đâm ra vô lễ". Bành ngờ chỉ là ngẫu nhiên trùng tên nhưng vẫn hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Không bao lâu Quyên Nương tới, công tử giận dữ kể tội. Bành nhìn kỹ thì đúng là người đã gặp hôm Trung thu, bèn thưa với công tử "Nàng này với ta là chỗ quen biết cũ, mong ông tha cho". Quyên Nương nhìn kỹ Bành, dường như có vẻ ngạc nhiên. Công tử chưa hỏi kỹ lại, cứ sai mời rượu. Bành hỏi còn nhớ khúc Chàng bạc tình không, Quyên Nương càng kinh hãi, nhìn Bành chằm chằm rồi mới cất tiếng hát, nghe giọng hát vẫn giống như đêm Trung thu năm trước.

Rượu tàn, công tử sai nàng hầu hạ chăn gối cho khách. Bành nắm tay nàng hỏi "Lời hẹn ba năm hôm nay mới làm được chăng?"' Quyên Nương đáp "Năm trước theo người ta chơi thuyền ở Tây Hồ, thiếp uống chưa được mấy chén chợt như say, lúc mơ mơ hồ hồ bị một người nhấc lên đặt xuống một thôn, có một tiểu đồng dẫn thiếp vào nhà, thấy trên chiếu rượu có ba người mà chàng là một. Sau đó đi thuyền tới Tây Hồ, người ta đưa thiếp về thuyền cũ qua song cửa sổ, nắm tay ân cần từ biệt. Mỗi khi nhớ lại vẫn nghĩ là mộng ảo, nhưng chiếc khăn lụa sờ sờ ra đó, thiếp vẫn trân trọng cất giữ". Bành kể lại mọi việc rồi cùng nhau than thở, Quyên Nương co người rúc vào lòng Bành, nức nở nói "Người tiên đã làm mối cho nhau, xin chàng đừng cho thiếp là kẻ phong trần vứt đi mà quên người trong bể khổ". Bành đáp "Lời hẹn trên thuyền chưa từng ngày nào lãng quên, nếu nàng có lòng thì ta có phải dốc túi bán ngựa cũng không tiếc". Sáng hôm sau Bành kể với công tử, lại mượn anh rể ngàn vàng xóa sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ tới gian nhà riêng của Bành, nàng vẫn nhận ra được nơi uống rượu năm xưa.

Dị Sử thị nói: Ngựa mà là người, ắt kẻ ấy làm người cũng như là ngựa, bảo làm ngựa thì hận là không được làm người đó thôi. Voi cọp loan hạc cũng đều phải chịu thắng yên buộc cương, sao có thể nói đó không phải là lòng nhân ái của thần tiên? Nếu có ước hẹn ba năm thì cũng phải vượt qua bể khổ vậy.

141. Chàng Rể Mới (Tân Lang)

Hiếu liêm Mai Ngẫu Trường người Giang Nam nói ông Tôn người cùng hương làm Huyện lệnh Đức Châu từng xử một vụ án lạ. Lúc đầu trong thôn có người cưới vợ cho con trai, ngày đón dâu thân thích láng giềng đều tới mừng. Uống rượu đến khuya, chàng rể ra, thấy cô dâu ăn mặc đẹp đẽ đi vòng ra sau nhà, sinh nghi đuổi theo. Sau nhà có khe nước dài, có chiếc cầu nhỏ bắc qua, cô dâu mới bước lên cầu đi luôn. Chàng rể càng ngờ vực, gọi thì cô dâu không đáp, chỉ lấy tay vẫy chồng, chồng vội đuổi theo, chỉ cách gang tấc mà không sao đuổi kịp. Đi vài dặm vào tới một thôn, vợ dừng lại nói "Nhà chàng vắng vẻ, ta không quen ở, xin mời chàng tạm tới ở nhà thiếp, vài ngày sẽ lại về" nói xong giơ tay gõ cửa, có đứa nữ đồng ra mở cửa, vợ bước vào trước, y bất đắc dĩ vào theo. Vào trong thấy cha mẹ vợ đều ngồi trên sảnh, nói với con rể rằng "Con gái ta lúc nhỏ được nuông chiều, chưa từng rời ra một khắc, nay một sớm rời nhà nên trong lòng nhưng nhớ. Nay cùng chồng về đây ta rất thỏa lòng, cứ ở đây vài hôm ta sẽ sai người đưa về". Rồi cắt nhà riêng cho ở, giường gối đều đầy đủ, y bèn ở lại.

Khách ở nhà thấy chàng rể lâu quá không tới đổ ra đi tìm, thấy trong phòng chỉ có cô đâu mới mà không biết là chồng đi đâu. Tìm kiếm hỏi han khắp xa gần cũng không có tin tức gì, cha mẹ rơi lệ cho rằng đã chết rồi. Được nửa năm, nhà bên vợ thương con gái không có chồng, bèn xin với cha mẹ chú rể cho con gái mình lấy chồng khác. Người cha càng đau buồn, nói "Không tìm thấy xương cốt quần áo gì, làm sao biết được con ta đã chết? Mà nếu nó chết thì chôn cất xong cũng phải một năm mới được tái giá, nay sao lại gấp gáp như vậy?", cha cô gái càng tức giận bèn kiện lên quan. Ông Tôn lấy làm lạ lùng nhưng không biết làm sao, ra lệnh phải chờ ba năm, giữ lại cái án ấy để xét sau. Chàng rể ở nhà cô gái, người nhà cũng rất chiều chuộng, thường bàn việc trở về, vợ ưng thuận nhưng cứ lần lữa không đi ngay. Được nửa năm y nóng ruột không yên tâm muốn về một mình, nhưng vợ cố giữ lại.

Một hôm cả nhà nhớn nhác như có tai họa, cha vợ vội vàng nói với con rể "Vốn định hai ba hôm sẽ đưa vợ chồng về, không ngờ quần áo tư trang còn chưa đủ, nay lại gặp tai họa, bất đắc dĩ xin đưa con về trước". Kế đưa y ra cửa rồi quay ngay vào, có vẻ rất vội vàng. Y đang tìm đường đi, quay lại nhìn thì thấy nhà cửa đều biến mất, chỉ thấy một ngôi mộ cao, cả sợ tìm đường về ngay nhà. Về tới nhà kể lại hết đầu đuôi nhân lại lên quan kể lại, ông Tôn bắt cha cô gái lên khuyên dụ lại đưa cô gái về, lúc ấy mới làm lễ hợp cẩn.

142. Đảo Tiên (Tiên Nhân Đảo)

Vương Miễn tự Mẫn Trai người đất Linh Sơn (thuộc tỉnh Quảng Đông) có văn tài, nhiều lần đỗ đầu văn trường nên tính khí kiêu ngạo, hay chửi mắng làm nhục nhiều người. Tình cờ gặp một đạo sĩ, ông nhìn Vương nói "Tướng ông rất sang, nhưng vì khinh bạc bị chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu sửa mình tu đạo thì còn có thể được ghi tên vào sổ tiên". Vương cười khẩy nói "Phúc trạch thế nào thật không biết được, mà chẳng lẽ trên đời lại có tiên sao?". Đạo sĩ nói "Kiến thức của ông sao lại kém thế? Chẳng cần tìm đâu xa, như ta chính là tiên đây". Vương càng cười là khoác lác, đạo sĩ nói "Ta thì có gì đáng lạ, nếu chịu đi theo ta thì có thể gặp ngay vài mươi vị chân tiên". Vương hỏi ở đâu, đạo sĩ đáp "Chỉ trong gang tấc", rồi kẹp gậy vào giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt rồi quát lớn một tiếng "Bay". Vương thấy gậy to ra hơn chiếc túi đựng năm đấu gạo bay lên không, lén sờ vào thấy vẩy cứng xếp lớp, sợ quá không dám động đậy. Giây lát đạo sĩ quát "Dừng lại!", gậy liền thu lại hạ xuống một phủ đệ lớn lầu gác nối nhau liên tiếp như nơi ở của bậc đế vương.

Có ngôi đài cao hơn trượng, trên đài có mười một tòa điện tráng lệ đẹp đẽ không đâu sánh được. Đạo sĩ dẫn Vương lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách. Trên điện đặt mấy mươi bàn tiệc, bàn ghế màn trướng nhìn hoa cả mắt, đạo sĩ thay quần áo đẹp đẽ để chờ. Giây lát khách khứa từ trên không đáp xuống, người cưỡi rồng cọp, kẻ cưỡi loan phượng không như nhau, ai cũng mang theo nhạc khí, lại có người là đàn bà, có người là đàn ông, đều để chân trần. Trong đám duy có một người đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu trong cung, có đứa thị nhi ôm một nhạc khí dài khoảng năm thước trở lại, không phải đàn cầm không phải đàn sắt, chẳng biết là đàn gì. Tiệc rượu bắt đầu, món ngon vật lạ đầy bàn, ăn vào thấy thơm ngon khác hẳn thức ăn dưới trần.

Vương ngồi im lặng, chỉ chăm chú nhìn người đẹp, trong lòng ưa người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ rốt lại nàng không đàn bản nào. Rượu tàn, một ông già nói lớn "Được Thôi chân nhân có nhã ý gọi tới, hôm nay có thể nói là hội lớn, nên thả sức vui vẻ. Xin những ai mang nhạc khí cùng loại thì họp thành đội để tấu nhạc". Thế là ai vào đội ấy, tiếng tơ trúc dìu dặt vang tới trời cao, duy nàng cưỡi chim phượng thì tài đàn không ai sánh kịp. Khi đàn sáo đều đã im tiếng, đứa thị nhi mới mở túi gấm lấy đàn ra đặt ngang trên ghế, cô gái rung cổ tay ngọc như gảy đàn tranh, tiếng lớn gấp bội đàn cầm, mãnh liệt đủ có thể hởi dạ, êm đềm thì có thể tiêu hồn. Đàn khoảng nửa thời gian nấu chín nồi cơm, cả điện im phăng phắc không có một tiếng ho, hết khúc thì một tiếng ngân lớn vang rền như gõ vào khánh đá. Mọi người cùng khen ngợi, nói "Bản đàn của Vân Hòa phu nhân tuyệt diệu thật", kế đều đứng lên cáo biệt, hạc kêu rồng ngâm cùng lúc tan đi cả.

Đạo sĩ bèn đặt giường ngà nệm gấm cho Vương ngủ. Vương vừa gặp người đẹp lòng đã rung động, sau khi nghe nhạc càng thêm tơ tưởng, nghĩ mình có tài năng, muốn hiển đạt công danh dễ như nhổ cỏ, khi đã được phú quý rồi muốn gì chẳng được, khoảnh khắc trong lòng ngổn ngang trăm mối. Đạo sĩ như đã biết, nói với Vương "Ông kiếp trước là bạn học với ta, sau vì không bền chí nên sa vào lưới tục. Ta vẫn không coi ông là người lạ, thật tình muốn đưa ông ra khỏi vũng nước đục. Không ngờ ông mê muội đã sâu, mờ mịt không gọi tỉnh được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại, nhưng muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau". Rồi chỉ phiến đá dài dưới thềm bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, dặn kỹ không được nhìn. Kế lấy roi quất đá bay lên, Vương nghe tiếng gió rít ù ù bên tai, không biết đã đi được bao xa, chợt nghĩ chưa nhìn rõ cảnh vật phía dưới xem ra sao bèn lén hé mắt thì thấy biển lớn mênh mông không có bờ bến, cả sợ lập tức nhẳm mắt lại nhưng người đã theo đá cùng rơi xuống bùm một tiếng mất tăm như chim âu lặn. May là vốn ở gần biển nên hơi biết bơi, nghe có người vỗ tay reo "Hụt chân đẹp lắm!". Đang lúc nguy cấp thì có một cô gái kéo lên thuyền, nói "May mắn may mắn, Tú tài trúng nước rồi!", Vương nhìn thì thấy nàng khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp.

Vương ra khỏi nước rét run xin đốt lửa hơ áo, cô gái nói "Theo ta về nhà sẽ có cách, nếu được vừa ý xin đừng quên nhau". Vương nói "Sao lại nói thế? Ta là tài tử ở Trung nguyên, ngẫu nhiên gặp chuyện không may, nếu qua được con quẫn bách này xin lấy thân đền đáp, đâu chỉ không quên mà thôi". Cô gái chống sào đẩy thuyền đi nhanh như bay, chốc lát đã tới bờ, lấy bó hoa sen mới hái trong thuyền lên rồi dẫn Vương cùng đi. Đi được nửa dặm thì vào thôn, tới một ngôi nhà cánh cổng sơn son quay về hướng Nam, qua mấy lần cổng, cô gái vào trước. Lát sau một người đàn ông bước ra, khoảng hơn bốn mươi tuổi, vái chào mời lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giày tất cho Vương thay, kế hỏi nhà cửa quê quán. Vương đáp "Không dám dối nhau, chắc ông có nghe qua tài danh của ta. Thôi chân nhân rất yêu mến gọi lên trời, nhưng ta tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay nên không muốn ẩn dật". Người đàn ông đứng lên kính cẩn nói "Nơi đây gọi là Đảo tiên, xa hẳn cõi người. Ta tên Văn Nhược họ Hoàn, mấy đời sống nơi hẻo lánh, may sao lại được gặp bậc tài danh"' rồi đặt tiệc ân cần mời mọc.

Kế thong thả nói "Ta có hai con gái, đứa lớn là Phương Vân được mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho hầu hạ bậc cao nhân, ông thấy sao?", Vương nghĩ là cô gái hái sen bèn đứng dậy cảm tạ. Hoàn mời vài người tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi lập tức sai gọi con gái. Không bao lâu nghe có mùi hương lạ sực núc, hơn mười tỳ nữ xinh đẹp đỡ Phương Vân ra, xinh xắn lộng lẫy như hoa sen chiếu nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các tỳ nữ đứug hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu được vài tuần thì một cô gái để tóc bím từ trong ra, mới hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay Phương Vân, ánh mắt long lanh. Hoàn nói "Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?", rồi quay ra nói "Đây là Lục Vân, con gái nhỏ của ta, cũng khá thông minh, nhớ được nhiều sách vở". Nhân bảo ngâm thơ cho khách nghe, cô gái bèn đọc ba bài Trúc chi từ, giọng ngâm êm ái dễ nghe. Hoàn cho nàng ngồi cạnh chị rồi nói "Vương lang là bậc thiên tài, văn thơ ắt nhiều lắm, có thể cho ta được nghe chỉ dạy không?". Vương hiên ngang đọc một bài thơ cận thể rồi tự đắc nhìn quanh, trong có hai câu "Một thân thừa chút râu mày đó, Nửa hớp cho tan uất hận này", ông già láng giềng đọc đi đọc lại, Phương Vân cúi đầu nói "Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hỏa Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu"* cả tiệc vỗ tay cười ầm.

*Câu trên... Tử Mẫu: Tây du ký thuật việc Tôn Ngộ Không tới động Hỏa Vân bị yêu ma là Hồng Hài nhi phóng lửa tam muội đốt suýt chết và việc Trư Bát Giới tới nước Tây Lương uống nước sông Tử Mẫu nên có thai, phải uống nước suối Giải thai mới khỏi, đây Phương Vân dẫn ra để xuyên tạc hai câu thơ đầy "khẩu khí anh hùng" của Vương Miễn.

Hoàn xin đọc bài khác, Vương bèn đọc bài thơ Chim nước "Đầu đầm kêu kíu kít...", chợt quên mất câu kế, còn đang nhớ lại thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười. Lục Vân thưa với cha "Chị ấy nối câu tiếp theo cho anh rể, là Mông chó vãi bì bùm", cả tiệc lại cười ồ, Vương có vẻ thẹn. Hoàn trừng mắt nhìn Phương Vân, khi Vương đã có vẻ bình tĩnh rồi lại xin Vương đọc văn. Vương cho rằng người ngoài cõi trần không biết văn bát cổ bèn khoe bài làm được chấm hạng nhất ở trường, đầu đề là hai câu "Hiếu thay, Mẫn Tử Khiên...", câu phá đề là "Thánh nhân khen lòng hiếu của bậc đại hiền..."' Lục Vân nhìn cha nói "Thánh nhân không gọi học trò bằng tên tự, câu "Hiếu thay..." ắt là lời của kẻ khác", Vương nghe thấy cụt hứng. Hoàn cười nói "Trẻ con biết gì! Không cốt chuyện ấy, chỉ cần bàn văn thôi".

Vương bèn đọc tiếp, cứ được vài câu hai chị em lại nói khẽ vào tai nhau như bình luận nhưng thì thào nên không nghe rõ. Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình của học quan rằng "Chữ chữ đều thống thiết", Lục Vân nói với cha "Chị nói nên bỏ chữ "thiết" đi". Mọi người đều không hiểu, Hoàn sợ con ăn nói khó nghe nên không dám gạn hỏi. Vương đọc xong lại thuật lời tổng bình, trong có câu "Trống yết đánh một tiếng thì muôn hoa đều rụng". Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai người cùng cười không ngẩng lên được. Lục Vân lại nói với cha "Chị nói trống yết phải đánh bốn tiếng", mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân máy miệng định nói, Phương Vân nín cười quát "Con nhãi mà nói thì ta đánh chết!". Mọi người ngờ vực cứ đoán mò này nọ, Lục Vân không nhịn được bèn nói "Bỏ chữ "thiết" đi, nói "thống" tức là "bất thông"*. Đánh bốn tiếng trống là "bất thông lại bất thông" vậy". Mọi người cười ầm, Hoàn nổi giận quát con rồi đứng lên rót rượu xin lỗi mãi.

* "Thống tức là "bất thông": theo Đông y, nếu trên người có chỗ nào đau thì đó là vì huyết mạch không lưu thông, Phương Vân nhân đó để chê văn của Vương Miễn là bất thông.

Vương lúc đầu thị tài kiêu căng, trong mắt không coi ai ra gì, đến lúc ấy hùng khí tiêu tan, mồ hôi đầm đìa. Hoàn xin lỗi an ủi, nói "Vừa nghĩ được một câu xin mọi người cùng đối: Vương tử thân biên, vô hữu nhất điểm bất tự ngọc" (Bên cạnh chàng Vương, chẳng có điểm nào không tựa ngọc). Mọi người chưa kịp đối thì Lục Vân đọc ngay "Mẫn ông đầu thượng, tái trước bán tịch tức thành quy" (Trên đầu ông Mẫn, thêm vào tịch nữa sẽ thành rùa)"* Phương Vân cười sặc sụa véo sườn em liền mấy cái. Lục Vân giằng ra bỏ chạy, quay lại nói "Việc gì đến chị? Chỉ mắng anh ấy bao nhiêu thì không thấy là sai, người ta nói một câu lại không cho à?". Hoàn quát nạt mới cười rồi đi. Các ông già láng giềng cáo từ xong, các tỳ nữ dẫn vợ chồng vào phòng, đèn nến giường màn đã sắp đặt tươm tất. Vương thấy trong phòng tân hôn sách vở đầy giá không thiếu loại nào, hỏi qua những chỗ khó vợ đều trả lời trôi chảy, lúc ấy mới thấy xấu hổ vì hiểu biết của mình còn nông cạn.

*Vương tử... thành rùa: đôi vế đối này là chơi chữ. Trong Hán tự chữ vương thêm một chấm bên cạnh thì thành chữ ngọc, đây ông Hoàn có ý tán tụng Vương Miễn cái gì cũng hay, còn chữ Mẫn thêm chữ tịch (đêm) thì thành chữ quy (con rùa), đây Lục Vân có ý chế nhạo Vương Miễn là đến đêm tân hôn sẽ trở thành đần độn luôn như con rùa, vì Vương Miễn tên tự là Mẫn Trai.

Phương Vân gọi Minh Đang thì cô gái hái sen chạy tới vâng dạ, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng. Vương mấy lần bị châm chọc, e rằng trong chốn khuê phòng không được coi trọng, may là Phương Vân tuy ác khẩu nhưng trong chốn phòng the lại rất đằm thắm. Vương ở yên rảnh rỗi lại ngâm nga, vợ nói "Thiếp có lời hay, không biết chàng có chịu nghe theo không?". Hỏi lời gì thì nàng đáp "Từ nay chàng đừng làm thơ nữa, cũng là một cách che giấu cái dở của mình đấy", Vương xấu hổ quá bèn gác bút luôn. Lâu ngày dần thân mật với Minh Đang, bèn nói với Vân rằng "Minh Đang có cái ơn cứu mạng cho tiểu sinh, xin ít nặng lời cau mặt với nàng". Phương Vân ưng thuận, cứ những lúc vợ chồng vui chơi trong phòng cũng gọi nàng, đôi bên càng ưa nhau, thường ngầm tỏ tình ý.

Phương Vân hơi biết, nhiều lần trách móc nhưng Vương cứ mồm năm miệng mười ra sức thanh minh. Một đêm cùng uống rượu, Vương cho là vắng vẻ, bảo vợ gọi Minh Đang. Phương Vân không chịu, Vương nói "Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ Độc lạc nhạc*?". phương Vân nói "Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết à? Mình cần thì thích người khác cũng cần, nhưng nói tới chuyện vui mà hỏi có cần không thì đáp không**", Vương phì cười bèn thôi. Gặp buổi chị em Phương Vân có hẹn với cô gái láng giềng, Vương được dịp liền dẫn Minh Đang vào, ân ái hết mực. Đến tối thấy bụng dưới hơi đau mà dương vật rụt hết vào, cả sợ nói với Phương Vân. Vân cười nói "Chắc vì báo ơn Minh Đang rồi". Vương không dám giấu bèn khai thật, Phương Vân nói "Chàng tự chuốc họa, thật thiếp không còn cách nào. Nếu không đau ngứa thì để mặc thế cũng được".

*Độc lạc nhạc: lấy từ câu trong Mạnh tử "Độc lạc nhạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?" (Một mình vui nhạc và cùng mọi người vui nhạc, cái nào vui hơn?).

**Mình cần... đáp không: nguyên văn là "Độc yếu nãi lạc ư nhân yếu, vấn lạc thục yếu hồ, viết bất"

Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui, Phương Vân biết ý nhưng không hỏi gì, chỉ chăm chú nhìn chồng, ánh mắt như nước thu trong vắt, sáng như sao buổi sớm. Vương nói "Nàng có thể nói trong lòng ngay thẳng nên mắt sáng", Phương Vân cười nói "Còn chàng thì có thể nói trong lòng không ngay thẳng nên mất sáng". Bởi người ta thường nói chữ mất gần như chữ mắt nên nàng lấy đó để đùa. Vương cười ngất năn nỉ xin chữa cho, nàng nói "Chàng không chịu nghe lời nói phải, trước đây chưa chắc đã không nghi là thiếp ghen chứ biết đâu là đứa tỳ nữ ấy vốn không thể gần gũi. Lúc trước thật vì yêu thương mà nói, nhưng chàng cứ như đàn khảy tai trâu nên phát ghét bỏ mặc không hỏi tới, nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy thuốc phải thăm chỗ đau trước". Rồi sờ vào dưới áo Vương niệm chú rằng "Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai", vương bất giác cười lớn, cười xong thì khỏi bệnh. Mấy tháng sau Vương vì còn cha già con nhỏ thường nhớ nhung, tỏ ý với vợ. Nàng nói "Về thì không khó, nhưng không có ngày sum họp nữa mà thôi". Vương sa nước mắt xin cùng về, nàng nghĩ đi nghĩ lại mới ưng thuận.

Ông Hoàn bày tiệc tiễn, Lục Vân cầm giỏ vào nói "Chị sắp đi xa mà không có gì tặng, chỉ sợ khi tới Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm giúp chị lầu gác, xin đừng chê là sơ sài". Phương Vân cảm ơn nhận lấy, Vương tới gần xem thì là cỏ nhỏ tết làm lầu gác, ngôi lớn thì bằng quả cam, ngôi nhỏ thì bằng quả quít, khoảng hơn hai mươi gian, kèo cột rui mè đều rõ ràng, bên trong đủ cả giường nằm rèm trướng to bằng hạt vừng. Vương coi như đồ chơi của trẻ con nhưng thầm khen cô nhỏ khéo tay. Phương Vân nói "Nói thật với chàng bọn thiếp đều là địa tiên, vì có túc duyên nên được theo nhau, vốn không có ý bước tới cõi trần nhưng vì chàng còn có cha già nên không nỡ trái lời. Khi nào cha đủ tuổi trời thì phải trở lại đây" Vương kính cẩn xin vâng. Hoàn hỏi muốn đi thuyền hay đi xe, Vương sợ sóng gió nguy hiểm nên xin đi đường bộ. Ra thì thấy ngựa xe đã chờ ngoài cổng bèn từ biệt lên đường. Xe ngựa đi nhanh như bay, chốc lát tới bờ biển, Vương lo không có đường đi. Phương Vân rút ra một tấm lụa trắng ném về phía nam, tấm lụa biến thành con đê dài bề rộng vài trượng, chớp mắt xe ngựa phóng qua, đê cũng rút lại dần. Tới một chỗ nước triều tràn lên, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại rồi xuống xe lấy những lầu gác bằng cỏ ra, cùng mấy người bọn Minh Đang bày biện theo thứ lớp, chớp mắt đã hóa thành một phủ đệ lớn. Mọi người cùng vào cởi bỏ hành lý ra, thấy không khác gì lúc còn trên đảo, những bàn ghế giường tủ trong phòng ngủ cũng giống hệt. Lúc ấy trời đã tối bèn ngủ đêm ở đó.

Sáng hôm sau Phương Vân bảo Vương về đón cha mẹ. Vương sai thắng ngựa phóng về làng cũ, tới nơi thì nhà cửa đã thuộc về người khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đều đã chết, chỉ còn cha già. Con trai Vương mê cờ bạc bán sạch nhà cửa ruộng vườn, ông cháu không có chỗ ở phải thuê nhà tại thôn tây trú ngụ. Vương lúc mới trở về vẫn còn ý niệm công danh chưa dứt, khi nghe chuyện nhà như thế trong lòng đau xót, thầm nghĩ nếu được giàu sang cũng chỉ như ảo ảnh. Bèn phóng ngựa qua thôn tây thấy cha ăn mặc rách rưới, mặt mày già sọm rất thương xót, cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng. Hỏi tới thằng con hư đốn thì đi đánh bạc chưa về, Vương bèn chở cha đi. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời cha chồng tắm rồi đưa áo gấm cho ông mặc, dọn phòng sạch cho ông nghỉ, kế lại mời các bạn già cũ tới chơi với cha, phụng dưỡng còn hơn các nhà thế tộc.

Một hôm đứa con tìm tới, Vương cấm cửa không cho vào, chỉ cho hai mươi lượng vàng, sai người nhắn rằng "Cầm về cưới vợ rồi lo làm ăn, nếu còn tới nữa thì sẽ đánh cho chết tươi", đứa con khóc lóc mà đi. Vương từ khi trở về rất ít giao du, nhưng nếu bạn cũ tình cờ tới thăm thì tiếp dãi ân cần, khiêm nhường khác xa ngày trước. Riêng có Hoàng Tử Giới vốn là bạn học thuở trước cũng là bậc danh sĩ mà lận đận thì Vương giữ lại chơi rất lâu, thường kể chuyện kín cho nghe, biếu tặng rất hậu. Được ba bốn năm thì Vương ông mất, Vương bỏ hàng vạn quan tiền chôn cất, tống táng đủ lễ. Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ, vợ kiềm thúc rất chặt chẽ nên cũng bớt cờ bạc. Ngày chôn cất Vương ông nàng mới được ra mắt cha mẹ chồng, Phương Vân vừa gặp đã biết là người giỏi việc nhà bèn cho vợ chồng ba trăm lượng vàng để mua ruộng đất nhà cửa. Hôm sau Hoàng và con Vương tới thăm hỏi thì lầu gác đều biến mất không biết là ở đâu.

Dị Sử thị nói: Có người đẹp bên cạnh là điều mà người ta mong cầu cả khi ở giữa nơi địa ngục, huống chi là ở cõi hưởng thọ vô cùng sao? Địa tiên gả con gái đẹp xuống trần, chỉ sợ nơi cửa khuyết của Thượng đế sẽ vắng vẻ không còn ai nữa. Nhưng kẻ khinh bạc thì bị tước giảm lộc số, lý vốn là thế, sao người tiên lại không e ngại nhỉ? Song lời lẽ của người vợ đè nén y sao mà tai ác thế?

143. Hồ Tứ Nương (Hồ Tứ Nương)

Trình Hiếu Ân người đất Kiếm Nam (tỉnh Tứ Xuyên), lúc trẻ rất thông minh, giỏi văn chương. Cha mẹ đều mất sớm, nhà nghèo không có chút của cải, không biết làm gì để sống, tới xin làm thuê giữ việc sổ sách cho quan Thông chính ty họ Hồ. Ông Hồ sai làm văn để thử tài, rất hài lòng, nói "Người này không nghèo mãi được, có thể gả con gái cho". Ông Hồ có ba trai bốn gái, đều đã hứa cưới gả cho các nhà đại gia ngay từ lúc mới sinh ra, chỉ có con gái út là Tứ Nương là con người thiếp, mẹ mất sớm nên đến tuổi cập kê vẫn chưa hứa gả cho ai, bèn gả cho Trình. Có kẻ chê cười cho rằng ông Hồ già nua lú lẫn, nhưng ông không hề đếm xỉa tới, cắt nhà cho sinh ở, chu cấp rất đầy đủ. Các công tử khinh bỉ không thèm ngồi ăn chung với Trình, bọn tôi tớ cũng về hùa. Sinh im lặng không so hơn kém, chỉ ra sức học hành. Bọn họ dè bỉu chê bai, Trình vẫn học hành không nghỉ, họ làm ầm ĩ cạnh chỗ học thì Trình mang sách vào phòng vợ ngồi đọc. Lúc trước khi Tứ Nương chưa lấy chồng, có người thầy bói giỏi biết số phận sang hèn xem tướng cho cả nhà đều không khen ngợi ai, chỉ khi Tứ Nương tới mới nói "Cô này đúng là bậc quý nhân". Đến khi Tứ Nương lấy Trình, các chị em đều gọi là quý nhân để chế nhạo. Nhưng Tứ Nương đoan chính cẩn trọng ít nói, cứ làm như không nghe thấy, dần dần tới bọn tớ gái cũng gọi như vậy.

Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Quế Nhi nghe thế rất bực tức, nói lớn "Biết đâu lang quân nhà ta làm nên bậc quý quan thì sao?". Người chị thứ hai của Tứ Nương nghe thấy khinh bỉ nói "Trình lang mà làm được quý quan thì khoét tròng mắt ta đi". Quế Nhi tức giận nói "Chỉ sợ lúc ấy không móc tròng mắt ra được thôi". Người chị thứ hai của Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Xuân Hương thấy thế nói "Nhị Nương mà nuốt lời ta sẽ móc mắt thay cho". Quế Nhi càng tức tối đập tay Xuân Hương lập lời thề, nói "Đánh cuộc hai tròng mắt đấy". Nhị Nương giận là hỗn láo tát Quế Nhi, Quế Nhi kêu gào rầm rĩ, phu nhân nghe biết chuyện nhưng không biết bênh vực ai, chỉ nhếch mép cười. Quế Nhi về kêu khóc với Tứ Nương, Tứ Nương đang kéo sợi không tức giận cũng không nói gì, chỉ bình thản kéo sợi như không nghe thấy.

Gặp ngày sinh nhật của ông Hồ, các con rể đều tới mang quà mừng thọ chất đầy sân. Đại Nương đùa hỏi Tứ Nương "Nhà ngươi mừng thọ vật gì?", Nhị Nương nói "Hai con mắt mang một cái mồm", Tứ Nương thản nhiên không hề tỏ vẻ xấu hổ, mọi người thấy nói gì nàng cũng như không hiểu, càng xúm vào chế nhạo. Chỉ có người thiếp yêu của ông Hồ là Lý thị, mẹ ruột của Tam Nương là coi trọng Tứ Nương, thường quan tâm thương xót nàng, vẫn nói với Tam Nương rằng "Tứ Nương bên trong thông minh mà bề ngoài chất phác, giữ kín khôn ngoan không để lộ ra, bọn ranh con kia đều không tự biết mình đang trong cõi bao la, huống hồ Trình lang ngày đêm ra sức học hành, há lại ở dưới người măi sao? Con đừng có học thói xấu của họ, cứ đối xử với nàng cho tốt, ngày khác còn dễ nhìn mặt nhau", nên Tam Nương mỗi khi về thăm nhà vẫn trò chuyện vui vẻ với Tứ Nương. Năm ấy Trình nhờ ông Hồ được vào học trường huyện, năm sau quan Học sứ về khảo thí sĩ tử thì ông vừa chết, Trình cư tang như con ruột, chưa được dự thi. Kế mãn tang, Tứ Nương đưa tiền cho bảo lên đường dự thi khoa Di tài, dặn rằng "Trước nay ở đây lâu mà không bị đuổi đi là nhờ có cha già còn sống, nay thì muôn phần không được nữa, nếu chàng thi đỗ thì may ra lúc trở về mới có nhà ở thôi". Lúc Trình lên đường, Lý thị và Tam Nương tặng tiễn rất hậu. Trình vào trường ra sức nghiền ngẫm làm bài, quyết tâm thi đỗ bằng được. Nhưng không bao lâu ra bảng thì bị đánh rớt, rầu rĩ uất ức khó nỗi trở về. May là trong túi còn tiền, bèn lên đường vào kinh. Lúc ấy bên nhà vợ có nhiều người làm quan trong kinh, Trình sợ họ biết được chế nhạo mĩa mai bèn thay tên đổi họ, khai dối quê quán xin náu thân ở nhà bậc quan lớn.

Quan Ngự sử họ Lý người Đông Hải (huyện Diệm Thành tỉnh Sơn Đông) gặp Trình rất quý trọng, nhận làm môn khách, giúp cho tiền bạc học hành, nộp tiền mua cho chức Cống sinh bảo ứng thí ở phủ Thuận Thiên. Trình thi mấy kỳ đều đỗ, được trao chức Thứ Cát sĩ, lúc ấy bèn nói thật mọi chuyện. Ông Lý cho mượn ngàn lượng vàng, sai người tới Kiếm Nam mua nhà cho Trình trước. Lúc ấy Hồ Đại Lang vì cha chết nên bán những nhà đẹp ruộng tốt nhân mua lấy, sau đó sai xe ngựa tới đón Tứ Nương. Trước là khi Trình thi đỗ Tiến sĩ có người tới báo tin mừng, cả nhà nghe thấy phát ghét, lại nhìn thấy tên họ không phải là Trình bèn quát đuổi đi. Gặp hôm Tam Lang cưới vợ, khách khứa thân thích tới ăn mừng, các anh chị em đều có mặt, chỉ Tứ Nương là không được anh trai chị dâu gọi tới. Chợt có một người chạy vào dâng thư của Trình gởi Tứ Nương, các anh em mở ra xem, nhìn nhau tái mặt. Khách khứa thân thích trong tiệc đều xin gặp Tứ Nương, các chị em đều lo lắng chỉ sợ Tứ Nương căm hòn không chịu tới.

Không bao lâu thấy nàng thong thả bước vào, kẻ thì chúc mừng, kẻ thì mời ngồi, kẻ thì hỏi thăm ầm ĩ cả phòng. Ai nghe cũng nghe Tứ Nương, ai nhìn cũng nhìn Tứ Nương, ai nói cũng nhắc Tứ Nương, nhưng Tứ Nương vẫn bình thản như cũ. Mọi người thấy nàng vẫn thế cũng hơi yên tâm, rồi đó tranh nhau rót rượu mời Tứ Nương. Đang lúc ăn uống vui vẻ, chợt ngoài cửa có tiếng kêu khóc rất gấp, cả tiệc lạ lùng hỏi nhau, chợt thấy Xuân Hương chạy xộc vào, mặt mũi đầy máu. Mọi người cùng hỏi, cô ta chỉ khóc không đáp, Nhị Nương quát hỏi mới mếu máo thưa "Quế Nhi đòi móc tròng mát con, nếu không giảng ra được thì đã bị nó khoét mắt rồi". Nhị Nương sượng ngắt, mồ hôi toát ra chảy trôi hết cả son phấn, Tứ Nương vẫn im lặng. Cả tiệc im lặng không ai nói một câu, khách khứa thấy thế lục tục chào về. Tứ Nương ăn mặc đẹp đẽ, chỉ lạy chào Lý phu nhân và Tam Nương rồi lên xe đi, mọi người mới biết người mua nhà ruộng là Trình. Tứ Nương vừa về tới nhà mới, đồ dùng còn thiếu thốn, phu nhân và các công tử đều tặng đầy tớ vật dùng nhưng Tứ Nương không nhận gì cả, chỉ nhận một tỳ nữ của Lý phu nhân tặng.

Không bao lâu Trình về dự đám giỗ, xe ngựa tùy tùng đông đặc như mây, tới nhà nhạc gia vào lạy linh cữu ông Hồ, kế lạy chào Lý phu nhân, các công tử vừa đội mũ mặc áo xong ra chào thì Trình đã lên kiệu đi rồi. Ông Hồ chết, các công tử hàng ngày cứ lo tranh giành gia tài không ngó ngàng gì tới linh cữu, qua mấy năm chỗ quàn quan tài hư dột, chỉ tạm lấy nhà rộng làm lăng mộ mà thôi. Trình thấy thế đau xót, cũng không bàn bạc với các công tử, chọn ngày chôn cất, mọi nghi lễ đều lo liệu đầy đủ. Ngày tống táng mũ lọng chen chúc tới thăm viếng, xóm giềng đều ca ngợi. Hơn mười năm sau Trình làm quan lớn, phàm gặp những người làng có chuyện nguy cấp đều hết sức giúp đỡ. Kế Nhị Lang giết người bị bắt, việc đưa tới quan Tuần phương là bạn đồng khoa với Trình, tin tức rất gấp. Đại Lang nhờ cha vợ là Quan sát họ Vương viết thư nhờ vả nhưng không thấy trả lời, càng thêm sợ hãi, muốn tới nhờ em gái nhưng thấy xấu hổ. Bèn xin Lý phu nhân viết thư cầm đi, tới kinh không dám vào ngay, rình lúc Trình đi chầu mới tìm vào nhà, mong Tứ Nương nghĩ tình anh em mà quên hiềm khích cũ.

Người giữ cổng vừa báo tin, lập tức có bà vú cũ ra đưa Đại Lang vào sảnh đường, bày rượu thịt ra mời qua loa. Đại Lang ăn uống xong thì Tứ Nương ra, mặt mày tươi tắn hỏi "Đại ca nhiều việc bận rộn, sao lại ngàn dặm vất vả tới đây". Đại Lang lạy phục xuống đất khóc lóc kể lể nguyên do, Tứ Nương đỡ đứng lên cười nói "Đại ca đường đường là đàn ông thì chuyện đó có gì là lớn sao lại làm thế. Em đây chỉ là một người đàn bà nhưng anh đã thấy kêu khóc với ai bao giờ chưa?". Đại Lang liền đưa thư của Lý phu nhân ra, Tứ Nương nói "Nương tử ở nhà các anh đều là người trời, cứ nhờ cha anh các nàng là lập tức xong việc ngay, sao lại bôn ba tới đây?". Đại Lang không biết nói sao, chỉ năn nỉ lạy lục. Tứ Nương giận dữ nói "Ta tưởng là anh trai lặn lội tới thăm em gái, té ra là vì có tội lớn nên tới cầu xin bậc quý nhân à?", rồi phẩy tay áo bỏ vào. Đại Lang thẹn thùng uất ức ra về, tới nhà kể lại tường tận, cả nhà lớn nhỏ ai cũng chửi rủa, Lý phu nhân cũng cho rằng Tứ Nương tàn nhẫn.

Qua vài hôm Nhị Lang được tha về nhà, mọi người cả mừng, càng cười nhạo Tứ Nương chuốc lấy sự hờn oán chê bai. Chợt có người bẩm Tứ Nương sai người tới hầu. Lý phu nhân, bèn gọi vào. Người ấy dâng vàng lụa xong, nói phu nhân gởi thư về việc cậu hai, công việc gấp quá chưa có thư trả lời, xin dâng chút lễ mọn thay thư phúc đáp. Lúc ấy mọi người mới biết Nhị Lang được tha về là nhờ sức của Trình. Về sau Tam Nương dần dần sa sút, Trình giúp đỡ báo đáp rất hậu, lại vì Lý phu nhân không có con trai nên đón bà về phụng dưỡng như mẹ ruột.

144. Phép Thuật Nhà Sư (Tăng Thuật)

Hoàng sinh là con nhà thế gia cũ, tài cao chí lớn. Ở ngôi chùa ngoài thôn có nhà sư Mỗ chơi thân với sinh. Kế sư đi vân du, hơn mười năm mới trở về, gặp Hoàng than rằng "Ta cứ nghĩ là ông đã thành đạt lâu rồi, thế mà nay vẫn là chân bạch đinh sao? Chắc là phúc mệnh mỏng Iắm. Ta xin vì ông lo lót với Diêm Vương, ông có thể lo được mười ngàn đồng không?". Hoàng đáp không được. Sư nói "Vậy xin ông cố lo một nửa, còn bao nhiêu ta sẽ vay mượn cho ông", hẹn sau ba ngày phải có, Hoàng ưng thuận. Qua ba ngày sư quả nhiên đem năm ngàn đồng tới đưa cho Hoàng. Nhà Hoàng vốn có cái giếng rất sâu, nước không bao giờ cạn, nghe nói là thông ra với sông lớn. Sư bảo đem tiền ra đặt cạnh giếng, dặn rằng "Khoảng chừng nào ta về tới chùa rồi phải lập tức ném tiền xuống giếng, chờ khoảng nửa bữa cơm sẽ có một đồng tiền nổi lên thì vái lạy", rồi đi.

Hoàng không hiểu là thuật gì, lại nghĩ rằng chưa biết kết quả ra sao mà vứt cả mười ngàn đồng tiền xuống giếng thì rất đáng tiếc, bèn chỉ ném xuống một ngàn. Giây lát thấy bọt nước rất lớn sủi lên rồi có tiếng leng keng, liền có một đồng tiền nổi lên, to như cái bánh xe. Hoàng cả kinh vội vàng vái lạy rồi lấy bốn ngàn đồng còn lại ném xuống, trúng đồng tiền lớn kêu thành tiếng nhưng bị đồng tiền lớn cản lại nên không chìm xuống được. Chiều tối sư tới trách, nói "Sao không ném xuống hết?", Hoàng đáp đã ném xuống hết rồi. Sư nói "Sứ giả của Diêm Vương chỉ đem được một ngàn đồng về, sao dám dối trá?", Hoàng bèn thú thật. Sư than "Kẻ keo kiệt ắt không làm được chuyện lớn, đó cũng là mệnh của anh, suốt đời cũng chỉ đỗ được khoa Minh kinh, chứ không thì đã đỗ Tiến sĩ ngay rồi". Hoàng hối hận lắm, xin cầu đảo lần nữa, nhà sư chối từ bỏ đi. Hoàng nhìn xuống giếng thấy tiền vẫn còn nổi liền thả dây xuống kéo lên, đồng tiền lớn bèn chìm xuống. Năm ấy Hoàng nhờ đậu Tú tài được sung Cống cử, rốt lại đúng như lời sư nói.

Dị Sử thị nói: Chẳng lẽ dưới âm ty cũng mở khoa thi quyên tiền hay sao? Mười ngàn đồng mà được một chân Tiến sĩ thì giá cũng rẻ lắm, nhưng một ngàn mà được sung Cống cử kể cũng đắt. Những kẻ không đậu Minh kinh thật không đáng giá một đồng!

145. Liễu Sinh (Liễu Sinh)

Chu sinh là dòng dõi nhà quan ở phủ Thuận Thiên (kinh đô ở tỉnh Hà Bắc), chơi thân với Liễu sinh. Liễu được dị nhân dạy cho thuật xem tướng, thường nói với Chu rằng "Ông không có phận làm quan, còn sự giàu có muôn chung thì sức người cũng lo được, nhưng tôn phu nhân tướng bạc sợ không thể giúp ông dựng được cơ nghiệp". Không bao lâu quả vợ Chu chết, nhà cửa tiêu điều không ai coi sóc, Chu bèn tới nhà Liễu sinh nhờ bói về hôn nhân. Vào phòng khách cùng ngồi hồi lâu thì Liễu bỏ vào trong mãi không ra, gọi hai ba lần mới trở ra nói "Ta hàng ngày vẫn tìm cho ông một người vợ giỏi, hôm nay mới tìm được, mới rồi là ở nhà trong thi thố chút thuật mọn, xin Nguyệt lão xe sợi tơ hồng cho ông đấy thôi". Chu mừng rỡ hỏi han, Liễu đáp "Mới rồi có một người xách cái bị ở đây ra, ông có gặp không?". Chu nói "Có gặp, thấy rách rưới như thằng ăn mày". Liễu nói "Đó là cha vợ của ông, nên kính lễ". Chu nói "Vì thân thiết với nhau mới tới bàn chuyện riêng, sao đùa cợt nhau quá thế? Ta tuy nghèo hèn cũng là dòng dõi nhà quan, sao đến nỗi phải cưới con nhà đầu đường xó chợ". Liễu nói "Không phải thế, con bò lang còn sinh được bê đẹp, có hại gì đâu". Chu hỏi "Ông gặp con gái y chưa?". Liễu đáp "Chưa, ta với y không từng quen biết, ngay cả tên họ cũng mới hỏi mà biết đây thôi". Chu cười nói "Bò lang còn chưa biết, làm sao biết được bê?", Liễu nói "Ta lấy số mệnh mà tin thôi, người ấy hung dữ mà hèn hạ nhưng ắt sinh được con gái có phúc lớn. Nhưng nếu miễn cưỡng tác hơp bừa thì ắt có nạn lớn, nên mới phải cầu đảo".

Chu về cũng chưa tin hẳn vào lời Liễu, tìm đủ cách mai mối lấy vợ, nhưng không cưới được đám nào. Một hôm Liễu chợt tới nói "Có một người khách, ta đã thay ông gởi thư mời". Chu hỏi là ai, Liễu đáp "Đừng hỏi han gì cả, cứ lo cơm nước cho mau". Chu không hiểu chuyện gì, cứ theo lời chuẩn bị cơm rượu. Giây lát khách tới thì ra là họ Phó, làm lính trong doanh. Chu trong lòng không thích nhưng bề ngoài vẫn làm ra vẻ vồn vã trò chuyện, còn Liễu sinh thì một dạ hai thưa rất mực cung kính. Giây lát rượu thịt bày lên, có lẫn cả cỏ dại trong mâm. Liễu sinh đứng dậy nói với khách "Công tử đây hâm mộ ông đã lâu, thường nhờ ta đi mời, nhưng lần trước mới được gặp, lại nghe không mấy bữa nữa lại đi chinh phạt nơi xa nên ta lập tức mời ngay khiến chủ nhân bị bất ngờ". Trong lúc uống rượu, Phó lo ngựa bị bệnh không cưỡi được, Liễu cũng gật gù cùng tính toán này nọ. Kế khách ra về, Liễu trách Chu "Có ngàn vàng cũng không mua được người bạn như thế, sao ông lại im lặng ngồi nhìn rồi mượn ngựa Chu để về, nhân đó giả lời Chu dắt ra cổng đưa dây cương tặng luôn cho Phó. Chu biết được bực lắm nhưng chẳng biết làm sao. Qua năm sau Chu định đi Giang Tây làm mạc khách ở ty Niết, tới nhà Liễu nhờ xem giùm một quẻ. Liễu nói chuyến này đi là đại cát, Chu cười nói "Ta không có ý gì khác, chỉ là có ít tiền định cưới người vợ đẹp, may mà lời nói trước kia của ông không nghiệm, thì có được không?". Liễu nói "Tất cả đều như ông muốn mà".

Chu tới Giang Tây thì vừa gặp lúc có bọn giặc lớn nổi loạn, ba năm không về được. Sau mới hơi yên bèn chọn ngày lên đường về, giữa đường bị bọn cướp bắt, bảy tám người cùng gặp nạn bị cướp hết tiền rồi thả ra, duy Chu bị giải về tận sào huyệt của bọn cướp. Tên đầu đảng hỏi kỹ gia thế của Chu rồi nói "Ta có đứa con gái muốn dâng ông lo việc hầu hạ quét dọn, xin đừng chối từ". Chu không đáp, tên cướp tức giận liền sai đem Chu ra chém. Chu sữ, nghĩ rằng cứ tạm vâng lời y rồi thong thả sẽ tìm cách trốn đi, bèn nói "Sở dĩ tiểu sinh còn chần chừ vì thấy mình là học trò yếu ớt không thể theo việc binh, chỉ e càng làm lụy cho trượng nhân thôi. Chứ nếu được cho vợ chồng dắt nhau đi khỏi nơi này, thì còn ơn đức nào lớn bằng". Tên cướp nói "Ta đang lo con gái làm phiền lụy, chuyện đó có gì mà không nghe theo được". Bèn dẫn Chu vào trong, cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp, thấy nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, xinh đẹp như tiên. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, nàng đằm thắm hơn cả lòng Chu mong mỏi, hỏi kỹ họ tên mới biết cha nàng chính là người xách cái bị ở nhà Liễu sinh năm trước. Nhân thuật lại lời Liễu cho nàng nghe, hai người cùng than thở.

Qua bốn hôm, tên cướp định đưa hai người đi, chợt đại quân bất ngờ kéo tới, cả nhà đều bị bắt trói. Có ba vị quan tướng giám trảm, đem cha vợ Chu ra chém xong, lần lượt tới Chu, Chu đã nghĩ phen này ắt phải chết thì một viên tướng nhìn kỹ nói "Có phải Chu mỗ không?", té ra đó là người lính họ Phó nhờ có quân công đã được thăng tới chức Phó tướng quân. Phó nói với hai người kia rằng "Đây là danh sĩ dòng dõi thế gia ở quê ta, lẽ nào lại đi làm giặc?", rồi cởi trói cho Chu, hỏi từ đâu tới. Chu bịa đặt nói "Vừa ở ty Niết tỉnh Giang Tây cưới vợ về, không ngờ bị bọn cướp bắt, may được ông cứu vớt cho, ơn tái sinh lớn như trời đất, nhưng vợ chồng chia lìa, xin nhờ oai lớn giúp cho được ngói lành". Phó liền sai giải hết tù nhân ra cho Chu nhận mặt vợ. Chu tìm được cô gái rồi, Phó cho ăn uống, giúp đỡ tiền bạc, nói "Trước đây nhờ cái ơn cho ngựa, sớm tối vẫn không quên, nhưng việc quân bận rộn không rảnh rỗi tới tham kiến đươc, nay xin giúp ông hai cỗ ngựa tất, năm mươi lượng vàng để về quê", lại sai hai tên quân kỵ đi hộ tống.

Trên đường cô gái nói với Chu "Cha ngu dại không chịu nghe lời nói thẳng, mẹ lúc chết đã biết có ngày hôm nay lâu rồi. Sở dĩ còn nương náu sớm tối vì lúc nhỏ từng được ông thầy tướng xem cho, nói rằng ngày sau có thể thu lượm được hài cốt của cha mẹ mà thôi. Chỗ ấy có số tiền lớn chôn giấu, có thể đào lên chuộc xác cha, còn thừa đem về cũng đủ mưu sinh". Bèn dặn hai tên quân kỵ đợi trên đường, hai người quay về chỗ cũ, thấy nhà cửa đã cháy sạch, lấy bội đao đào đống tro, xương dưới một thước quả được vàng, gói vào hành lý rồi quay trở lại. Đem một trăm lượng đút lót hai tên quân kỵ nhờ họ chôn cất xác cha cô gái, nàng lại đưa Chu tới lạy trước mộ mẹ xong mới lên đường. Tới địa giới tỉnh Trực Lệ, hai người thưởng cho hai tên quân kỵ rất hậu rồi chia tay.

Chu lâu ngày không về, gia nhân đều cho rằng đã chết, thả sức trộm cắp, thóc gạo vải lụa vật dùng trong nhà không còn chút gì. Đến lúc nghe chủ nhân về, sợ hãi kéo nhau trốn sạch, chỉ còn một bà già, một người tỳ nữ và một lão bộc ở lại. Chu vì ra khỏi chỗ chết được sống mà trở về nên cũng không hỏi gì tới, qua thăm Liễu thì không rõ đã đi đâu mất rồi. Cô gái coi sóc việc nhà còn hơn cả đàn ông, chọn những người thành thật siêng năng đưa vốn cho buôn bán, lời lãi chia đôi. Mỗi khi các bạn buôn họp nhau tính toán ở nhà, nàng buông rèm ngồi trong lắng nghe, ai lầm một con số là chỉ ngay ra chỗ sai, vì thế trong ngoài không ai dám lừa dối. Vài năm có tới hàng trăm bạn buôn, nhà giàu có hàng mấy mươi vạn lượng vàng, mới sai người bốc mộ cha mẹ đem về hậu táng.

Dị Sử thị nói: Nguyệt lão cũng có thể đút lót, nên không lạ gì mà những kẻ mai mối cũng giống như người buôn bán. Nhưng tên cướp kia lại có người con gái như thế sao? Gò đất nhỏ không có tùng bách lớn, đó là lời luận bàn của kẻ quê mùa dốt nát mà thôi. Đàn bà con gái mà còn để mất, huống hồ đem kiến thức ấy xem xét kẻ sĩ trong thiên hạ ư?

146. Nhiếp Chính (Nhiếp Chính)

Lộ vương ở Hoài Khánh (tỉnh Hà Nam) có đức tối, cứ dạo chơi ra dân gian thấy con gái đẹp là bắt về. Có vợ Vương sinh bị vương nhìn thấy, sai xe ngựa vào tới tận nhà bắt đi. Cô gái khóc lóc kêu gào, bị bắt lên kiệu khiêng ra. Vương bỏ chạy, núp sau mộ Nhiếp Chính chờ vợ đi qua để vĩnh biệt. Không bao lâu vợ tới, nhìn thấy chồng khóc lớn gieo mình xuống đất. Vương trong lòng đau đớn bất giác khóc thất thanh, bọn gia nhân của vương biết là Vương sinh bèn túm lấy đánh đập túi bụi. Chợt trong mộ có người đàn ông bước ra, tay cầm đao sắc, khí thế rất oai mãnh, lớn tiếng quát "Ta là Nhiếp Chính đây, sao các ngươi dám bắt ép con gái nhà lương dân. Nghĩ bọn ngươi chỉ là kẻ thừa lệnh nên tạm tha cho lần này, về nhắn với ông chủ vô đạo của các ngươi rằng nếu không sửa nết xấu thì có ngày ta sẽ lấy đầu đấy". Đám gia nhân nhà vương hoảng sợ bỏ xe kiệu chạy, người đàn ông lại bước thẳng vào mộ biến mất. Vợ chồng Vương tới lạy trước mộ rồi về, vẫn còn sợ là vương lại tới nhưng hơn mười ngày cũng không thấy gì mới yên lòng. Từ đó vương cũng bớt dâm đãng hống hách.

Dị Sử thị nói: Ta thường đọc Truyện Thích khách chỉ khâm phục có người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ* mà thôi. Xả thân để báo đáp tri kỷ thì nghĩa khí như Dự Nhượng** giữa ban ngày giết chết khanh tướng thì vũ dũng như Chuyên Chư*** bằng đầu gối tới trước mặt Liêu, lấy tay xé đôi con cá ra, rút ngọn chủy thủ giấu sẵn trong bụng cá đâm chết Liêu, lột da mặt hủy hình dung tự tử để không làm liên lụy tới người thân thì mưu trí như Tào Mạt (4*). Còn như Kinh Kha không đủ sức để ám sát vua Tần mà lại dứt áo ra đi, tự chuốc lấy diệt vong, khinh suất mượn cái đầu của Phàn tướng quân (5*) gặp Tần Thủy Hoàng nhưng đâm không trúng, bị giết chết, biết ngày nào mới trả lại được, đó là mối hận của ngàn đời, chắc bị Nhiếp Chính chê cười. Đọc dã sử thấy nói mộ Kinh Kha bị hồn ma của Dương Giác Ai, Tả Bá Đào quật lên (6*) nếu quả thế thì Kinh Kha sống không thành danh, chết còn mất nghĩa, so với Nhiếp Chính ôm lòng nghĩa mà trừng trị kẻ hoang dâm thì hay dở khác nhau ra sao? Ôi, Nhiếp Chính là người hiền, xem chuyện này lại càng tin là đúng.

* Người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ: tức Nhiếp Chính, người nước Hàn thời Chiến quốc, giết người nên dắt mẹ và chị qua trốn tránh ở nước Tề. Quan khanh nước Hàn là Nghiêm Trọng Tử có thù oán với Tướng quốc Hiệp Lũy nên tìm người báo thù, tới Tề nghe tiếng Chính là người dũng cảm bèn đem lễ vật rất hậu tới ra mắt, nhưng Chính không nhận. Sau bà mẹ chết, Chính chôn cất xong bèn tới gặp Trọng Tử hỏi han rồi không nhận xe ngựa tráng sĩ giúp đỡ, một mình lên đường vào thẳng phủ Tướng quốc lên tận thềm giết chết Hiệp Lũy, kế tự lột da mặt khoét tròng mắt, mổ bụng móc ruột tự tử để khỏi liên lụy tới người chị.

**Dự Nhượng: người nước Tấn thời Xuân thu, theo họ Phạm Trung Hàng nhưng không được biết tới, bèn bỏ theo Trí Bá, rất được Trí Bá coi trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương Tử diệt, Nhượng trốn vào núi, nói "Kẻ sĩ xả thân cho người biết mình, đàn bà điểm trang cho người yêu mình, nay Trí Bá biết ta, nếu vì báo thù cho Trí Bá mà chết thì hồn phách ta cũng không thẹn", bèn đổi tên họ cải trang để ám sát Tương Tử nhưng bị bắt, Tương Tử khen là nghĩa khí nên tha cho. Nhượng lại sơn mặt nuốt than thay đổi diện mạo thanh âm núp dưới cầu chờ Tương Tử đi qua mà đâm nhưng lại bị bắt, bèn xin cái áo của Tương Tử tuốt kiếm nhảy lên đâm vào ba lần rồi tự sát.

*** Chuyên Chư người nước Ngô thời Xuân thu, có tiếng là dũng sĩ, được Ngữ Tử Tư tiến cử cho Công tử Quang (tức vua Ngô Hạp Lư). Lúc ấy Quang muốn giết Ngô vương Liêu là anh con bác để giành ngôi, dò biết Liêu thích ăn chả cá bèn sai Chư tới Thái Hồ học làm món chả cá. Kế mở tiệc mời Liêu, nửa chừng giả đau chân vào nhà trong băng lại sai Chư đem chả cá lên dâng. Giáp sĩ của Liêu lục soát trong người Chư không thấy gì lạ bèn cho vào, Chư bưng mâm chả cá đi...

4* Tào Mạt: người nước Lỗ thời Xuân thu, tướng của Lỗ Trang công. Tề Hoàn công đánh Lỗ, nước Lỗ thua liền mấy trận bèn xin giảng hòa. Tề Hoàn công buộc Lỗ Trang công phải tới hội minh, cắt đất cho Tề. Tào Mạt theo Lỗ Trang công tới hội minh, sấn lên đài rút chủy thủ uy hiếp bắt Tề Hoàn công phải trả hết những đất đai của nước Lỗ, Hoàn công sợ hãi ưng thuận, Mạt buông chủy thủ lui xuống đứng lại vào chỗ các quan nước Lỗ, sắc mặt vẫn không thay đổi.

5* Kinh Kha... Phàn tướng quân: Kinh Kha là người đất Vệ thời Chiến quốc nổi tiếng can đảm, kiếm thuật tuyệt luân, được thái tử Đan nước Yên mời về làm thượng khách, nhờ đi ám sát Tần Thủy hoàng. Lúc bấy giờ có Phàn Ư Kỳ là phản tướng nước Tần chạy qua nước Yên, gia quyến đều bị Tần Thủy Hoàng giết, Kinh Kha tới gặp Ư Kỳ nói nếu có được đầu Ư Kỳ thì có thể tới gần vua Tần để nhân cơ hội ám sát báo thù cho Ư Kỳ. Ư Kỳ khảng khái tự chặt đầu đưa cho Kinh Kha. Sau Kinh Kha qua Tần, vào điện...

6*Mộ Kinh Kha... quật lên: Quan Trung lưu ngụ chí chép Tả Bá Đào ở Tây Khương nghe tiếng Sở Nguyên vương hiền bèn cùng bạn là Dương Giác Ai tìm tới. Tới núi Lương Sơn gặp tuyết lớn, không đủ lương thực áo rét cho cả hai người, Bá Đào bèn cởi áo trút lương cho Giác Ai đi tiếp còn mình thì vào rừng chịu chết. Giác Ai tới Sở, được phong làm Trung Đại phu, sau về quê mơ thấy Bá Đào nói "Mộ ta gần mộ Kinh Kha, cùng với y có thù hằn, ông nên bó cỏ làm hình người cho cầm binh khí đốt trước mộ ta". Giác Ai theo lời, hôm sau mơ thấy Bá Đào tới nói "Đám quân sĩ ông đốt cho đều vô dụng, Kinh Kha rất hung hãn, lại có Cao Tiệm Ly giúp đỡ, không bao lâu nữa ta sẽ bị họ quật mộ". Giác Ai bèn tự sát, người làng chôn cạnh mộ Bá Đào. Đêm hôm sau trời nổi mưa to gió lớn, sấm sét vang dội, ở khu mộ Bá Đào có tiếng đánh nhau vang xa mấy mươi dặm. Đến sáng người làng ra xem, thấy mộ Kinh Kha bị quật lên, xương trắng rải khắp mặt đất.

147. Anh Em Họ Thương (Nhị Thương)

Có nhà họ Thương ở huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông), anh giàu mà em nghèo, ở liền vách nhau. Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mất mùa lớn, người em sớm tối không lo được hai bữa. Một hôm trời đã trưa mà chưa nổi lửa nấu cơm, bụng đói sôi òng ọc, không biết làm sao. Vợ bảo tới nói với anh, Thương đáp "Vô ích, nếu anh thương ta nghèo thì đã sớm có cách giúp đỡ rồi". Vợ ép mãi, Thương sai con đi, giây lát tay không quay về, Thương nói "Thế nào nào?". Vợ hỏi lại con cho rõ, đứa con nói "Bác ngần ngừ rồi nhìn bác gái, bác gái nói Anh em đã ở riêng thì cơm ai nấy ăn, ai mà lo cho nhau được". Vợ chồng im lặng đem những bát mẻ giường nát cầm bán đổi chút tấm cám sống qua ngày. Trong làng có ba bốn gã vô lại, thấy Thương anh giàu có trèo tường vào cướp, vợ chồng Thương anh giật mình tỉnh dậy đập nồi đập chảo kêu gào nhưng người làng đều ghét không ai tới cứu. Bất đắc dĩ phải gọi em, Thương nghe tiếng chị dâu kêu cứu muốn xông qua ngay, vợ ngăn lại, lớn tiếng nói vọng qua "Anh em đã ở riêng thì họa ai nấy chịu, ai mà lo cho nhau được".

Kế bọn cướp phá cửa bắt vợ chồng Thương anh đốt thịt tra tấn, hai người kêu gào thảm thiết. Thương nói "Tuy anh không có tình nghĩa nhlmg chẳng lẽ ta lại ngồi yên nhìn anh chết mà không cứu sao!", rồi dắt con nhảy tường qua lớn tiếng quát tháo. Cha con Thương vốn khỏe mạnh, người ta đều sợ, bọn cướp lại sợ có người khác cùng tới cứu bèn tháo chạy. Thương nhìn tới anh chị thì hai vế đều bị đốt cháy sém, bèn đỡ lên giường, gọi bọn gia nhân tới trông coi rồi về. Thương anh tuy bị thương nhưng của cải không mất mát tí gì, bèn nói với vợ "Nay mà còn được của cải là nhờ chú nó, phải chia ra giúp đỡ cho chú ấy". Vợ nói "Nếu anh có anh em tốt thì đã không phải chịu khổ như thế", Thương anh cũng im lặng. Thương trong nhà hết cả cái ăn, nghĩ rằng ắt anh sẽ báo đáp chút ít nhưng lâu quá vẫn không thấy tăm hơi gì. Vợ không chờ được, sai con mang túi qua vay, mang được một đấu gạo về, vợ Thương tức giận muốn đem trả, Thương cản lại.

Qua hai tháng thì nghèo túng không còn cách nào xoay xở nữa, Thương nói "Nay không còn cách nào mưu sinh, chẳng bằng bán nhà cho anh, anh sợ ta đi chỗ khác có khi không nhận giấy tờ mà cấp cho tiền gạo chưa biết chừng. Còn nếu không thế thì được chút ít tiền cũng còn sống được". Vợ cho là đúng, sai con cầm giấy tờ nhà qua nói với Thưong anh, Thương anh nói với vợ "Cho dù chú nó bất nhân thì cũng là anh em của ta, chú ấy đi thì ta còn một mình, chẳng bằng trả lại giấy tờ nhà mà giúp đỡ cho chú ấy". Vợ nói "Không phải thế, chú ấy nói đi là để dọa ta thôi, mà nếu đi thật thì chẳng lẽ những kẻ không có anh em trên đời đều chết ráo à? Ta cứ đắp tường cho cao cho chắc để tự giữ, chẳng bằng cứ nhận giấy tờ nhà, cho chú ấy muốn đi đâu thì đi, cũng có thể mở rộng thêm nhà cửa". Bàn định xong, bảo Thương làm giấy bán nhà rồi đưa tiền cho đi, từ đó Thương dời qua ở nơi khác.

Có bọn vô lại nghe tin Thương đã đi lại tới cướp nhà Thương anh, tra tấn đủ cách vô cùng thê thảm, có bao nhiêu tiền bạc đều phải dốc cả ra để chuộc mạng. Bọn cướp ra, mở kho thóc gọi những nhà nghèo trong thôn tới xúc, trong khoảnh khắc đã hết sạch. Hôm sau Thương mới nghe tin, chạy về xem thì anh đã hôn mê không nói gì được nữa, lát sau mở mắt nhìn em, lấy tay cào lên chiếu rồi tắt thở. Thương phẫn uất thưa lên quan huyện nhưng bọn cướp đã trốn mất không thể truy tìm, những người cướp thóc thì có tới hàng trăm mà đều là nhà nghèo trong làng, quan cũng không biết làm sao. Thương anh còn để lại một đứa con trai năm tuổi, lúc nhà đã nghèo thường tự tìm qua nhà chú ở, mấy ngày liền không chịu về, đưa về thì khóc ròng. Vợ Thương rất không ưa, Thương nói "Cha mẹ nó bất nghĩa, chứ thằng nhỏ có tội gì?", rồi mua cho vài cái bánh chưng dắt nó về. Vài hôm sau lại lén giấu vợ con mang gạo đem cho chị dâu nuôi cháu, dần dần thành lệ thường. Vài năm sau chị dâu bán nhà cũ của Thương anh được tiền cũng đủ sống nên Thương không lui tới nữa. Sau gặp năm mất mùa, người ta chết đói đầy đường, nhà Thương lại thêm đông người nên không thể giúp đỡ ai được. Năm ấy đứa cháu mười lăm tuổi, yếu ớt không làm ăn gì được, Thương sai xách giỏ theo anh bán bánh gai.

Một hôm Thương nằm mơ thấy anh tới, vẻ mặt thê thảm nói "Ta bị đàn bà mê hoặc làm mất tình anh em, mà em không nghĩ tới oán cũ khiến ta càng thêm xấu hổ. Ngôi nhà cũ đã bán nay vẫn còn gian bên trái, em nên về đó ở, phía sau nhà có đám cỏ gai, bên dưới có hố vàng chôn, đào lên cũng đủ làm nhà giàu nhỏ. Cho con ta theo sống với em, còn con mụ lắm điều kia thì ta rất ghét, đừng ngó ngàng gì tới". Thương tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn đem món tiền lớn tới nói với chủ nhà xin thuê ở, đào hố vàng chôn lên quả được năm trăm lượng, từ đó bỏ nghề nghiệp thấp hèn, sai cháu và con mở cửa hiệu buôn bán. Đứa cháu rất thông minh, tính toán sổ sách không bao giờ lầm lẫn, tính lại thật thà phàm thu chi thì một đồng cũng thưa rõ, Thương càng thêm yêu mến. Một hôm cháu vào khóc xin gạo cho mẹ, vợ Thương định không cho, Thương thấy cháu có hiếu bèn cấp gạo cho hàng tháng. Vài năm nhà càng giàu lên, vợ Thương anh bị bệnh chết, Thương cũng già bèn chia gia sản làm đôi, cho cháu một nửa.

Dị Sử thị nói: Nghe nói Thương anh không khinh suất nhận một chút gì của kẻ khác, cũng là người trong sạch giữ mình vậy. Nhưng vợ nói gì nghe nấy, líu ríu không dám cãi lại một câu, nhẫn tâm dứt tình anh em, rốt lại vì keo kiệt mà chết. Than ôi cũng có gì lạ đâu! Thương em thì trước nghèo sau giàu, cũng có phải là người có tài cán gì đâu, chỉ là nhờ không quá nghe lời vợ đó thôi. Than ôi, chỉ một việc làm không như nhau mà nhân phẩm liền khác hẳn.

148. Số Hưởng Lộc (Lộc Số)

Mỗ giàu sang, thường làm những việc vô đạo. Vợ thường lấy chuyện quả báo để khuyên can nhưng vẫn không nghe. Gặp lúc có người thầy bói có thể biết số hưởng lộc của người, bèn tới gặp. Người thầy bói nhìn kỹ rồi nói "Ông còn được ăn hai mươi thạch gạo, hai mươi thạch miến nữa thì hết lộc trời cho". Y về nói với vợ, tính ra mỗi người một năm chỉ ăn hết hai thạch miến, mình còn được hai mươi năm hưởng lộc trời cho, há vì làm điều không tốt mà dứt được sao? Rồi vẫn bậy bạ như cũ. Được hơn một năm chợt mắc bệnh tiêu khát, ăn rất nhiều mà vẫn đói, một ngày ăn cả chục bữa cơm, chưa đầy một năm thì chết.

Quyển IX

149. Công Chúa Vân La (Vân La Công Chúa)

An Đại Nghiệp người Lư Long (huyện Vĩnh Bình tỉnh Hà Bắc), sinh ra đã biết nói, mẹ phải đổ máu chó cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai chẳng ai bằng, lại thông minh học giỏi, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Lúc đầu mẹ nằm mộng thấy thần báo "Con bà sẽ lấy công chúa", rất tin. Nhưng khi An đã mười lăm mừơi sáu tuổi vẫn chưa thấy linh nghiệm, bà dần dần ăn năn mình tin mộng mị quàng xiên. Một hôm, An đang ngồi một mình, chợt nghe thấy mùi huơng lạ, kế có một tỳ nữ xinh đẹp chạy vào nói "Công chúa tới". Rồi lập tức trải thảm trên đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà tới cạnh giường sinh ngồi. An còn kinh ngạc hốt hoảng, đã thấy một nữ lang vịn vai tỳ nữ bước vào, y phục dung nhan sáng rực cả nhà. Người tỳ nữ lót gối thêu nệm gấm lên giường rồi đỡ nữ lang ngồi xuống. An kinh hoàng không biết làm sao, khom lưng nói "Người là thần tiên nơi nào giáng lâm?". Nữ lang mỉm cười lấy tay áo che miệng không đáp, người thị nữ nói "Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh hậu. Vì Thánh hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự tới xem nhà cửa đó".

An vừa mừng vừa sợ không biết nói gì, nữ lang cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau im lặng. An vốn thích đánh cờ vây, bàn cờ thường để bên cạnh. Một tỳ nữ lấy khăn hồng lau bụi, đặt lên bàn nói "Thường ngày công chúa thích trò chơi này, không biết so với Phò mã thì ai hơn?". An dời ghế tới gần bàn. Công chúa cười ưng thuận, đi được độ ba chục nuớc, tỳ nữ xóa bàn cờ nói "Thôi Phò mã thua rồi". Rồi nhặt con cờ cất vào hộp, nói "Phò mã đúng là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ nhường được sáu con thôi". Liền bỏ sáu con cờ đen ra khỏi bàn, công chúa cũng ưng thuận. Lúc công chúa ngồi đánh cờ, sai tỳ nữ ngồi dưới đưa lưng cho nàng gác chân, chân trái thòng xuống đất thì một tỳ nữ khác phục xuống đỡ, lại có hai a hoàn nhỏ đứng hầu. Lúc An ngẫm nghĩ nước cờ thì nàng co tay gác lên vai ngồi đợi. Ván cờ chưa phân thắng phụ, a hoàn nhỏ cười nói "Phò mã thua một con". Người tỳ nữ bước lên nói "Công chúa đã mệt, nên nghỉ thôi".

Công chúa nghiêng mình ghé vào tai tỳ nữ nói nhỏ, tỳ nữ bước ra, chốc lát quay vào, đặt ngàn đồng vàng lên giường nói với sinh rằng "Mới rồi Công chúa nói nhà cửa ẩm thấp chật chội, phiền lang quân dùng số tiền mọn này sửa sang, lúc nào xong sẽ gặp nhau". Một tỳ nữ nói "Tháng này phạm vào sao Thiên hình, không nên xây cất, tháng sau thì tốt". Công chúa đứng dậy, sinh ngăn lại đóng cổng, tỳ nữ lấy ra một vật như cái túi bằng da, đặt xuống đất gõ vào, chợt có hơi mây tỏa ra, trong khoảnh khắc tụ lại che kín bốn bề không nhìn thấy gì cả, khi tan thì mọi người đã biến mất. Mẹ sinh biết chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng sinh mơ tuởng không khuây, vội lo sửa sang nhà cửa không nề việc kiêng kỵ, thúc giục ngày đêm, phòng ốc cổng nẽo mới hẳn.

Trước đó có người học trò ở huyện Loan Châu (tỉnh Hà Bắc) tên Viên Đại Dụng tối ngụ ở xóm bên, đưa danh thiếp tới nhà xin ra mắt. Sinh vốn ít giao du nên nói thác là đi vắng, lại chờ lúc Viên không có ở nhà trọ qua thăm đáp lễ. Hơn tháng sau, tình cờ gặp nhau ngoài cổng, thấy là một thiếu niên hơn haì muơi tuổi, áo mỏng giày đen, phong thái nhàn nhã. An trò chuyện qua loa, thấy ôn hòa lễ độ thích lắm bèn mời vào nhà chơi cờ, ván được ván thua. Kế dọn rượu giữ chân, trò chuyện rất vui vẻ. Hôm sau Viên mời sinh tới chỗ mình trọ, dọn đủ thức ngon vật lạ, tiếp đãi ân cần, có đứa tiểu đồng khoảng mười hai muời ba tuổi gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui Sinh say quá đi không nổi, Viên sai nó cõng về. Sinh cho rằng nó nhỏ yếu, sợ không cõng nổi, nhưng Viên cứ ép bảo để nó cõng, quả nhiên nó cõng sinh về tới nhà rất nhẹ nhàng. Sinh lấy làm lạ, hôm sau đem tiền qua thuởng, nó từ chối mấy lần mới nhận.

Từ đó An cùng Viên ngày càng thân thiết, vài ngày lại gặp nhau một lần. Viên là người giản dị kín đáo nhưng khẳng khái thích giúp người. Ở chợ có kẻ thiếu tiền phải đem con gái gán nợ, Viên trút túi trả thay không chút tiếc rẻ, sinh vì thế càng thêm kính trọng. Vài hôm sau, Viên tới từ giã sinh, tặng cho các loại đũa ngà chén ngọc, tất cả hơn mười món, lại thêm năm trăm đồng vàng giúp vào việc sửa nhà. Sinh trả vàng nhận vật, rồi đưa vải lụa tặng lại. Hơn tháng sau, huyện Lạc Đình (tỉnh Hà Bắc) có người làm quan về hưu mang theo rất nhiều tiền của, nửa đêm bị cướp vào nhà bắt trói, nung sắt tra khảo cướp sạch cả. Nguời nhà biết là Viên, báo quan phát lệnh đi khắp nơi tróc nã. Láng giềng có họ Đồ vốn xích mích với nhà sinh, thấy sinh xây nhà dựng cửa, bụng thầm ghen tức. Nhân có đứa tiểu đồng của sinh lấy trộm đũa ngà đem tới bán, y biết là vật của Viên tặng liền báo quan huyện. Quan huyện sai lính về vây gặp lúc chủ tớ sinh đều vắng nhà, bèn trói mẹ sinh giải đi. Bà mẹ đã già yếu lại bị cơn hoảng sợ, chỉ còn thở thoi thóp, hai ba ngày liền không ăn uống gì, quan bèn thả về. Sinh nghe tin vội về nhà thì bệnh mẹ đã trở nặng, qua đêm thì mất. Vừa liệm xác xong thì sai dịch đã tới bắt sinh đi.

Quan huyện thấy sinh tuổi trẻ văn nhã, thầm nghĩ là bị vu oan, bèn cố ý quát nạt, sinh cũng thật tình khai hết đầu đuôi chuyện kết bạn với Viên. Quan hỏi tại sao đột nhiên trở nên giàu có, sinh đáp "Mẹ ta có ít nhiều tiền của chôn giấu, nay ta sắp lấy vợ nên xây nhà để làm đám cưới thôi". Quan huyện tin lời, viết tờ bẩm sai giải sinh lên quận. Gã họ Đồ biết là sinh sẽ vô sự, đem nhiều tiền đút lót cho lính áp giải để chúng giết sinh trên đường đi. Đường lên quận phải qua núi vắng, chúng kéo sinh tới bờ vực sâu toan xô xuống. Đang lúc nguy cấp chợt có một con cọp trong bụi rậm nhảy ra, vồ chết hai tên lính rồi tha sinh đi. Tới một nơi lâu đài nguy nga, cọp đem sinh vào đặt xuống, thấy công chúa Vân La vịn vai thị nữ ra đón, buồn rầu an ủi, nói "Thiếp muốn giữ chàng ở lại nhưng việc tang lễ của mẹ chưa xong, chàng nên đem tờ bẩm lên quận tự nộp mình, chắc chắn là vô sự". Rồi cầm lấy sợi đai lưng trước bụng sinh, thắt lại hơn mười nút, dặn "Lúc gặp quan, cứ nắm lấy những cái nút này mở ra, tai nạn sẽ tiêu tan". Sinh theo lời, tới quận nộp mình. Quan Thái thú vui vì sinh thành tín, lại xem tờ bẩm, biết là bị oan, bèn tha cho sinh về.

Sinh về được nửa đường thì gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình cảnh, Viên nổi giận biến sắc im lặng không nói câu nào. Sinh nói "Phong thái như ông sao lại tự làm chuyện nhơ danh như vậy?". Viên đáp "Ta giết toàn là hạng bất nhân, ta cướp toàn là của phi nghĩa, nếu không thì dù là tiền rơi trên đường cũng không nhặt đâu. Lời ông dạy ta đó vốn rất hay, nhưng hạng người như gã hàng xóm của ông há lại có thể để cho sống trên đời sao?", nói xong lên ngựa đi thẳng. Sinh về chôn cất mẹ xong, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm cướp vào nhà hàng xóm, giết sạch hơn mười cha con, chỉ chừa lại một người tớ gái, lấy hết tiền của, chia cho đứa tiểu đồng cùng xách. Lúc ra đi còn cầm đèn nói với người tớ gái "Ngươi nhìn cho rõ nhé! Kẻ giết người là ta đây, không dính líu gì tới ai cả". Rồi không mở cửa, phi thân nhảy lên mái nhà, vượt qua tường đi mất. Hôm sau tin báo lên quan, quan ngờ sinh biết chuyện, lại bắt lên quát tháo căn vặn rất dữ tợn. Sinh ra trước công đường nắm lấy sợi đai lưng thắt nút, vừa phân trần vừa mở nút ra, quan không vặn vẹo được gì, lại tha cho về. Về tới nhà sinh lại càng náu hơi kín tiếng, cứ ở nhà đọc sách không ra khỏi cửa, chỉ có một bà già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang xong, ngày ngày sinh quét dọn nhà cửa để đợi tin vui.

Một hôm, nghe có mùi hương lạ thơm ngát cả nhà, lên gác xem thì thấy trong ngoài đều trần thiết rực rỡ, cuốn rèm lên thì công chúa đã trang điểm lộng lẫy ngồi đó rồi. Sinh vộỉ vái chào, nàng giữ tay lại nói "Chàng không tin số mệnh, khiến việc xây nhà gây ra tai vạ, lại thêm tang mẹ, làm trễ duyên cầm sắt của chúng ta mất ba năm, đó là gấp gáp lại phải muộn màng, việc đời đại để đều như thế". Sinh toan lấy tiền đi chợ, nàng nói "Không cần đâu". Thị nữ lấy trân hào mỹ tửu trong rương ra bày lên, thức ăn còn nóng như vừa nấu nướng xong, rượu cũng thơm lừng nóng hổi. Uống rượu một lúc thì trời tốì, đám thị nữ hầu hạ đều lui ra hết. Nàng nằm soãi hết tay chân, đong đưa vế đùi, như không che đậy gì cả, sinh liền ôm lấy nàng. Nàng nói "Chàng buông tay ra đã. Bây giờ có hai cách, tùy chàng chọn lựa". Sinh ôm cổ nàng hỏi hai cách nào, nàng đáp "Nếu hai ta làm bạn chén rượu cuộc cờ thì được sum vầy ba mươi năm, còn nếu vui thú chăn loan gối phụng thì chỉ được sum họp sáu năm thôi, chàng chọn cách nào?". Sinh đáp "Sáu năm nữa sẽ bàn tiếp". Nàng im lặng, rồi cùng sinh vui thú. Nàng nói "Thiếp vốn biết chàng không thể tránh được thói trần tục, cũng là số vậy".

Rồi bảo sinh nuôi thêm vú già tớ gái, cho ở riêng gian nhà phía nam, nấu cơm hầu chủ, dệt vải nuôi thân. Trong gian nhà phía bắc tịnh không bếp núc, chỉ có bàn cờ bình rượu, cửa thường đóng kín. Sinh đẩy thì tự mở, người khác thì không vào được. Những người ở gian nhà phía nam siêng năng lười nhác ra sao nàng đều biết rõ, mỗi khi bảo sinh qua quở trách thì ai cũng phải nhận lỗi. Nàng không nói nhiều lời, không cười lớn tiếng, cùng sinh nói chuyện chỉ cúi đầu cười khẽ, những khi cùng ngồi, thì thích dựa vào sinh. Có lần sinh bế nàng đặt lên đầu gối, thấy nhẹ như trẻ nít, bèn nói "Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay mà múa được". Nàng đáp "Chuyện đó có gì khó, có điều chỉ là việc của đám gái hầu, thiếp không thèm làm thôi. Như Phi Yến* nguyên là thị nữ của chị Chín thiếp, hay lẳng lơ mà có tội, bị đày xuống trần gian, lại không giữ trinh tiết, nên hiện đang bị giam trong ngục tối".

*Phi Yến: tức Triệu Phi Yến, mỹ nhân trong hậu cung của Đường Minh hoàng, vóc ngườí nhỏ nhắn mềm mại, tương truyền có thể đứng trên bàn tay người ta mà múa.

Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông không mấy lạnh, mùa hè chẳng mấy nóng, cô gái thì ngay giữa mùa đông lạnh buốt cũng mặc áo nhẹ. Sinh may áo mới ép nàng mặc thì chốc lát lại cởi ra, nói "Vật phàm ô trọc, mặc nữa thì đè vào xương thành bệnh lao mất". Một hôm sinh bế nàng lên gối thấy nặng khác hẳn mọi khi, lấy làm lạ. Nàng cười chỉ vào bụng nói "Trong này có giống phàm tục rồi". Cách mấy hôm sau, nàng cau mày bỏ ăn, nói "Gần đây trong người khó chịu, cứ thèm những thức nấu nướng". Sinh bèn tìm những thức ngon về, từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một hôm nàng nói "Thiếp vốn yếu ớt, không thể sinh nở, con thị nữ Phàn Anh khỏe mạnh, vậy để nó thay". Rồi cởi áo lót mặc cho Phàn Anh, đẩy vào phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ con khóc mở cửa vào xem thì là con trai, mừng nói "Thằng nhỏ này có phúc tướng, là vật quý đây" nhân đó đặt tên là Đại Khí.

Nàng trao cho sinh bế, bảo đưa người tỳ nữ về ở chung với bà vú ở gian nhà phía nam. Nàng sinh nở xong, eo lưng lại nhỏ lại như trước, không ăn những thức nấu nướng nữa. Bỗng từ biệt sinh về thăm nhà, hỏi đi bao lâu, nàng đáp ba ngày, rồi gõ vào cái túi da tuôn mây biến mất như lần trước. Đến kỳ hẹn không thấy về, hơn năm liền bặt luôn tin tức, sinh đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, kế thi đỗ Cử nhân nhưng vẫn không chịu lấy vợ, hàng đêm vẫn ngủ một mình ở gian nhà phía bắc, ôm ấp hương thừa. Một đêm đang trằn trọc trên giường chợt có ánh đèn soi qua cửa sổ, cửa phòng cũng tự mở, bọn thị nữ xúm xít đỡ công chúa vào. Sinh mừng rỡ vùng dậy trách móc sai hẹn, nàng nói "Thiếp còn chưa đến hẹn đâu, mới ở trên trời có hai ngày rưỡi thôi". Sinh đắc ý khoe chuyện thi đỗ, cho rằng công chúa ắt mừng, nhưng nàng buồn bã nói "Cái danh vọng thoảng qua đó thì có đáng gì? Chẳng đủ bàn chuyện nhục vinh mà còn làm người ta tổn thọ". Mới ba ngày không gặp mà chàng đã sa vào tục lụy sâu thêm một tầng nữa rồi", sinh vì thế không thi cử gì nữa.

Vài tháng sau nàng lại định về thăm nhà, sinh buồn rầu không muốn, nàng nói "Chuyến này nhất định thiếp sẽ về sớm, không để chàng phải mỏi mắt trông chờ đâu. Vả lại kiếp người tan hợp đều có định số, tính toán thì thấy dài, lơ là thì thấy ngắn thôi". Rồi đi, hơn một tháng trở về, từ đó cứ sáu tháng một năm lại đi một lần, vài tháng lại về, sinh quen lệ cũng không thấy lạ nữa. Kế nàng lại sinh thêm một đứa con trai, bế lên nhìn, nói "Thằng này sài lang", bảo nên vứt đi lập tức, nhưng vì sinh không nỡ nên vẫn giữ lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm nàng đã vội tìm hỏi vợ cho nó, các bà mai mối lui tới nườm nượp, nhung nàng hỏi ngày sinh tháng đẻ đều cho là không hợp, nói "Ta muốn làm sẵn một cái chuồng sắt cho thằng con sài lang này mà không được, phải để nó ăn tàn phá hại sáu bảy năm, âu cũng là số". Rồi dặn sinh rằng "Chàng nhớ bốn năm nữa họ Hầu sẽ sinh một đứa con gái, sườn bên trái có cái bớt nhỏ thì đúng là vợ của thằng nhỏ này đấy, phải hỏi cưới cho nó, đừng so đo chuyện môn đăng hộ đối gì cả", nói xong bắt viết ngay vào giấy cho khỏi quên.

Sau nàng về thăm nhà, đi luôn không trở lại nữa. Sinh thường đem lời vợ dặn cậy nhờ bạn bè thân thích dò hỏi, quả có đứa con gái họ Hầu sinh ra đã có cái bớt ở sườn, họ Hầu là người hèn hạ mà hành vi xấu xa, mọi người đều coi thường, nhưng sinh vẫn nhờ người mối lái hỏi cưới đứa con gái ấy cho Khả Khí. Đại Khí mười bảy tuổi đã thi đỗ, cưới vợ họ Vân, vợ chồng đều hiếu hạnh, cha rất yêu thuơng. Còn Khả Khí thì lớn lên không thích học hành, chỉ lén lút dong chơi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để chơi bời. Cha giận đánh nhưng vẫn không chừa, bèn dặn ngườì nhà để ý giữ gìn, Khả Khí không lấy gì được bèn nửa đêm ra khỏi nhà trộm cắp lặt vặt, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện hỏi họ tên, viết danh thiếp cho về nhà, cha và anh cùng trói lại, cha đánh cho một trận gần chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ mới được tha. Cha tức giận sinh bệnh, ăn không thấy ngon, bèn làm giấy tờ chia của cho hai con, những nhà lầu ruộng tốt đều về phần Đại Khí.

Khả Khí căm tức nửa đêm cầm dao vào phòng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Trước công chúa có để lại chiếc áo rất nhẹ và mềm, Vân thị lấy làm áo ngủ, Khả Khí chém trúng nảy lửa tung tóe nên hoảng sợ bỏ chạy. Cha biết chuyện, bệnh càng nặng thêm, vài tháng thì chết. Khả Khí nghe tin cha mất mới mò về, anh vẫn đối xử rất tốt nhưng Khả Khí ngày càng buông thả, hơn một năm ruộng vườn nhà cửa được chia cho đã phá tán gần hết, rồi lên phủ kiện anh. Quan hỏi biết là người ra sao nên đuổi về, anh em từ đó dứt hết tình nghĩa. Được hơn năm, Khả Khí hai mươi ba tuổi, con gái họ Hầu thì mười lăm. Anh nhớ lời mẹ, muốn cưới gấp cho em, liền gọi Khả Khí tới cắt gian nhà đẹp cho ở. Khi đón dâu về, lại đem tất cả văn tự những ruộng tốt cha để lại giao cho, nói "Mấy đám ruộng xấu này, bấy lâu ta sống chết cố giữ cho thím, nay giao cả cho đấy. Em ta mất nết, cho nó một cọng cỏ cũng uổng phí. Từ nay về sau, nên hư là do em dâu. Nếu giúp nó sửa nết được thì không lo gì đói rét, bằng không thì anh cũng không thể nào lấp đầy cái vực sâu không đáy kia được".

Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo làm gì cũng không dám trái ý, đi đâu về không đúng giờ thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn chung, Khả Khí vì vậy cũng bớt lêu lổng. Hơn một năm sinh được một trai, vợ nói "Từ nay chẳng phải cầu cạnh gì ai nữa. Có mấy đám ruộng tốt, mẹ con lo gì không no ấm, không có chồng cũng chẳng sao". Có lần Khả Khí trộm lúa đi đánh bạc, vợ biết được, cầm cung tên chận ở cổng. Khả Khí sợ quá núp trốn, rình lúc vợ vào nhà rồi, lại mon men trở vào. Vợ vung dao xông ra, Khả Khí bỏ chạy, vợ đuổi theo chém trúng mông, máu tuôn ướt cả giày tất, uất quá tới mách anh, nhưng anh tỏ vẻ khinh bỉ, đành hổ thẹn tức tối đi ra. Qua đêm lại tới, quỳ trước mặt chị dâu khóc lóc, nhờ nói giùm với vợ, nhung vợ vân nhất định không cho vào nhà. Khả Khí nổi giận đòi giết vợ, anh im lặng, Khả Khí uất ức chồm dậy xách mác đi thẳng ra cửa. Chị dâu sững sờ, định đuổỉ theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ đi khuất mới nói "Nó làm ra vẻ thế thôi, chứ thật ra không dám về đâu".

Sai người theo xem thì Khả Khí đã vào cổng rồi. Anh hơi biến sắc, vội chạy mau theo thì Khả Khí đã lặng ngắt đi ra. Té ra Khả Khí vào tới nhà thì vợ đang đùa với con, nhìn thấy chồng liền thảy con xuống giường, vớ con dao bổ củi lao ra. Khả Khí sợ hãi kéo lê ngọn mác bỏ chạy, vợ đuổi ra tới ngoài ngõ mới quay vào. Anh biết rõ sự tình nhưng vẫn cố ý hỏi han, Khả Khí chỉ quay đi mà khóc, hai mắt sưng húp. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu cho vào ở. Chờ anh về rồi, phạt Khả Khí phải quỳ, bắt phải thề độc rồi bắt ăn cơm bằng tô sành, từ đó mới bỏ nết cũ làm điều lành. Vợ lại biết tính toán làm ăn, trong nhà ngày càng dư dật, Khả Khí chỉ có việc ngổi ăn mà thôi. Về sau đến năm bảy muơi tuổi, con cháu đầy nhà mà có khi vợ vẫn nắm râu bắt quỳ.

Dị Sử thị nói: Gặp phải thứ vợ hung dữ ghen tuông thì như có ghẻ trong xương, chết rồi mới hết nợ, thứ đó há không độc sao? Nhưng Thạch tín là vị thuốc độc nhất trên đời mà dùng đúng bệnh thì Nhân sâm Phục linh cũng không bằng được. Có điều nếu không phải là người tiên nhìn thấu gan ruột, thì lại dám lưu thuốc độc lại cho con cháu ư?

150. Chân Hậu (Chân Hậu)

Lưu Trung Kham ở huyện Lạc Thành (tỉnh Hà Nam) lúc trẻ ngu độn nhưng say mê sách vở, thường đóng cửa học tập, không giao thiệp với người ngoài. Một hôm đang đọc sách, chợt ngửi thấy mùi hương lạ thơm nức cả phòng, kế có tiếng vòng ngọc khua rất gấp, giật mình ngoảnh nhìn thì thấy một mỹ nhân bước vào, trâm vòng sáng rỡ, nguời theo hầu đều ăn mặc lối cung nữ. Lưu hoảng sợ lạy phục xuống đất, mỹ nhân đỡ lên nói "Tại sao chàng lại trước khinh nhờn mà sau cung kính?". Lưu càng sợ hãi, nói "Người là thiên tiên ở đâu ta còn chưa được biết, vậy trước đây ta xúc phạm lúc nào?". Mỹ nhân cười nói "Chia tay đã được bao lâu? Kẻ bỉ cách chức mải miết ngồi cao mài gạch* không phải là chàng sao?". Rồi mở túi gấm lấy rượu quỳnh tuơng ra bày tiệc, giục Lưu ngồi xuống đối ẩm, cùng bàn chuyện kim cổ, thông tuệ phi thường. Lưu mờ mịt không biết đối đáp ra sao, mỹ nhân nói "Ta chỉ tới dự tiệc ở Dao Trì có một lúc mà chàng đã trảí qua mấy kiếp, hết cả thông minh rồi". Bèn sai người hầu lấy nước nóng hoà với cao Thủy Xương dâng lên, Lưu nhận lấy uống cạn, chợt thấy tâm thần nhẹ nhõm, đầu óc sáng láng.

*Mài gạch: dịch chữ "ma chuyên", lấy từ tích "Lưu Trinh ma thạch" (Lưu Trinh mài đá). Lưu Trinh là người thời Tam quốc, thông minh mẫn tiệp, học rộng biết nhiều, làm Tùng sự cho Thế tử Tào Phi, con Tào Tháo. Trước đó Phi theo Tháo đi đánh Viên Thiệu, bát được vợ Viên Hy tức con dâu Thiệu là Chân thị, dung mạo rất xinh đẹp bèn mang về nạp làm Chính phi. Sau Phi cướp ngôi nhà Hán lên làm vua, phong Chân thị làm Hoàng hậu. Khi Phi còn là Thế tử có lần uống rượu cùng các quan say rồi gọi Chân thị ra chào tân khách, mọi người đều quỳ rạp không ai dám ngẩng nhìn, chỉ nêng Lưu Trinh vẫn nghiễm nhiên ngồi ngó. Hôm sau Phi tỉnh rượu nhớ lại, giận Trinh vô lễ bèn cách chức bắt ra quán Thượng Phương mài đá.

Lát sau trời tối, người theo hầu tản đi hết, mỹ nhân tắt đèn cởi áo, cùng Lưu vui thú. Trời chưa sáng, đám gái hầu đã tới tụ tập, mỹ nhân trở dậy ăn vận như cũ, riêng đầu tóc vẫn tề chỉnh không phải chải lại. Lưu nằn nì hỏi họ tên, mỹ nhân đáp "Nói ra cũng không hề gì, chỉ e chàng thêm ngờ sợ mà thôi. Thiếp là Chân hậu, chàng là hậu thân của Công Cán. Ngày trước chàng vì thiếp mà bị tội, nên trong lòng thiếp thấy bất nhẫn. Cuộc gặp gỡ hôm nay cũng tạm gọi là để báo đáp mối tình si vậy". Lưu hỏi Ngụy Văn* hiện ở đâu, mỹ nhân đáp "Tào Phi chẳng qua chỉ là đứa con tầm thường của lão cha làm giặc, thiếp ngẫu nhiên gặp kẻ phú quý thì theo chơi đùa vài năm, chuyện qua rồi cũng chẳng lưu luyến gì. Trước đây y vì việc của A Man** nên bị giam cầm lâu ngày dưới U minh, hiện nay không rõ ra sao. Nhung Trần Tư*** thì giữ chức coi sổ sách cho Thượng đế, thỉnh thoảng thiếp cũng có gặp". Kế có cỗ kiệu rồng tới dừng trong sân, mỹ nhân bèn rút chiếc nhẫn ngọc tặng Lưu rồi từ giã lên kiệu, mây đưa mù cuốn mà đi. Lưu từ đó học hành tấn tới nhưng nhớ nhung người đẹp, thẫn thờ như ngây.

*Ngụy Văn: tức Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán dựng ra nhà Ngụy thời Tam quốc, được nhà Ngụy tôn là Ngụy Văn đế.

**A Man: tên tự của Tào Tháo lúc nhỏ, đây dùng với ý khinh bỉ.

***Trần Tư tức Tào Thực, em Tào Phi, rất thông minh tài giỏi. Khi Tào Phi lên ngôi vương thay cha là Tào Tháo, ghét tài Thục nên phong làm Trần Tư vương, bắt phải đi xa kinh đô.

Vài tháng sau thì héo hon như sắp chết, mẹ không biết vì sao, lấy làm lo lắng. Chợt có một bà già trong nhà hỏi Lưu "Lang quân đang nhớ nhung ai lắm phải không?". Lưu thấy lời nói hơi đúng, không giấu được nên ậm ừ. Bà già nói "Lang quân cứ viết một phong thư, ta có thể mời tới cho". Lưu vừa sợ vừa mừng, nói "Bà có thuật lạ mà trước nay cứ bị vùi chôn giữa đám người tầm thường, nếu quả mời được tới đây thì ta không dám quên ơn". Bèn viết thư đưa, bà già ra đi, nửa đêm trở về nói với Lưu "May mà không hỏng việc. Ta vừa tới cổng, người gác cho là yêu quái định bắt trói. Ta bèn đưa thư của lang quân ra, y cầm vào rồi lát sau ra gọi ta vào trong. Phu nhân cũng ngậm ngùi than thở, nói rằng không thể gặp lại, cũng định viết thư trả lời, nhưng ta thưa rằng lang quân ốm nặng, không phải một lá thư mà chữa khỏi được. Phu nhân nghĩ ngợi một lúc rồi buông bút nói "Vậy xin phiền báo trước với chàng Lưu rằng ta sẽ đưa ngay tới cho chàng một người vợ đẹp". Lúc ta ra về lại dặn dò rằng đây là việc trăm năm, không được nói lộ ra mới có thể sống với nhau lâu dài".

Lưu mừng rỡ hứa sẽ theo lời. Sáng hôm sau quả có bà lão dắt một cô gái dung nhan tuyệt đẹp tới gặp mẹ Lưu, tự xưng là họ Trần, cô gái là con ruột, tên Tư Hương, xin đem gả cho Lưu. Mẹ Lưu rất thích cô gái, bàn việc sính lễ, nhưng họ Trần không đòi hỏi tiền bạc gì cả, qua đám cưới là đi. Lưu ngầm biết là việc lạ hỏi riêng cô gái là có quan hệ thế nào với phu nhân. Nàng đáp "Thiếp là con hát cũ ở đài Đồng Tước*". Lưu ngờ là ma, nàng nói "Không phải đâu. Thiếp và phu nhân đều có tên trong sổ tiên, nhưng vô tình mắc tội cùng bị đày xuống nhân gian. Phu nhân đã về ngôi cũ, thiếp thì chưa hết hạn bị phạt nhưng phu nhân xin với Thiên tào cho thiếp theo để sai phái, mọi việc đều chỉ phải theo lệnh của phu nhân, vì vậy cũng thường được gần gũi hầu hạ người".

*Đài Đồng Tước: cuối thời Hán, Tào Tháo nắm quyền Thừa tướng, khuynh loát triều đình. Có người đào được con chim sẽ bằng đồng dâng lên, Tháo cho là điềm lành nên sai dựng một ngôi đài cao, gọi là đài Đồng Tước, đưa các tỳ thiếp về đó ở. Trước khi chết, Tháo đem những hương liệu quý cất riêng ra chia cho họ làm vốn, dặn là hãy làm nghề khâu giày mà sống, có ý muốn họ không đi lấy chồng khác, giữ lòng chung thủy với mình.

Một hôm có bà già mù dắt con chó vàng tới nhà xin ăn, gõ phách ca hát. Cô gái vừa bước ra xem thì con chó giật đứt dây xông vào cắn. Nàng hoảng sợ bỏ chạy thì tà áo đã bị cắn đứt. Lưu vác gậy đuổi theo đập, con chó càng giận dữ nhai xé manh áo dứt được, trong chớp mắt đã nát vụn ra. Bà già mù nắm lông gáy nó rồi buộc lại dắt đi. Lưu vào thăm thấy cô gái vẫn còn đầy vẻ sợ sệt, bèn nói "Nàng là người tiên, sao còn sợ chó?". Nàng đáp "Chàng không biết, chứ con chó ấy là lão A Man hóa thân, giận thiếp không tuân theo lời dặn lúc chia hương đấy". Lưu định mua con chó để đập chết, nàng nói "Không được đâu. Thượng đế phạt y như vậy, đâu được giết càn". Được hai nãm, ai gặp cô gái cũng kinh ngạc vì thấy nàng quá đẹp, mà hỏi tới lai lịch thì rất mơ hồ, nên đều ngờ nàng là yêu quái. Mẹ hỏi, Lưu cũng nói qua loa về chuyện lạ. Mẹ cả bảo phải bỏ vợ nhưng Lưu không nghe. Mẹ bèn ngầm mời thuật sĩ tới làm phép ở sân, vừa chỉ đất dựng đàn thì cô gái đà buồn bã nói "Vốn hẹn ước sống với nhau đến lúc bạc đầu, nay mẹ già đã ngờ vực thì tự rõ đã hết tình nghĩa rồi. Có điều muốn thiếp tự đi cũng không khó, chứ loại bùa chú ấy mà sai khiến nổi thiếp à!". Rồi bó củi châm lửa ném xuống dưới bậc thềm, trong chớp mắt khói mù toả ra che kín cả phòng ốc, đối diện không nhìn thấy mặt nhau. Kế có tiếng nổ ầm ầm như sấm sét, rồi màn khói tan đi nhìn lại thì thuật sĩ đã bảy khiếu đổ máu chết rồi. Vào phòng tìm thì cô gái đã biến mất, gọi bà già lên hỏi cũng không rõ đã đi đâu rồi. Lúc ấy Lưu mới kể lại cho mẹ biết rằng bà ta là hồ.

Dị Sử thị nói: Buổi đầu lấy chồng họ Viên, sau về làm vợ họ Tào, cuối cùng lại có tình vơi Công Cán, ngươi tiên lẽ ra không nên như thế. Song bình tâm mà bàn thì đứa con soán ngôi của A Man mà lại có được người vợ trinh tiết sao? Còn con chó nhân thấy người con hát cũ lẽ ra phải hiểu lời dặn thêu giày lúc chia hương là ngu muộí mới đúng, chứ lại còn ghen tuông à! Than ôi, kẻ gian hùng không biết tự thương xót mình, khiến người sau phải thương xót vậy.

151. Hoạn Nương (Hoạn Nương)

Ôn Như Xuân là con nhà thế gia ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây, lúc nhỏ say mê đàn cầm, dù đi xa nhà cũng không rời tay. Có lần tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), đi ngang một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng vào nghỉ chân. Vào trong thì thấy có một vị đạo nhân mặc áo vải ngồi xổm ở hành lang, dựng cây gậy trúc vào vách, đeo một chiếc túi đựng đàn bằng vải bông thêu. Ôn thấy đúng sở thích, nhân hỏi "Đạo sĩ cũng giỏi đàn cầm sao?". Đạo nhân đáp "Thật rất không giỏi, chỉ mong gặp người giỏi để học thôi". Rồi mở túi lấy đàn ra trao cho Ôn, Ôn nhìn thì thấy vân gỗ rất đẹp, dạo thử một câu thấy tiếng trong vang lạ thường, thích thú đàn luôn một khúc ngắn. Đạo sĩ cười khẽ như có ý chê là chưa giỏi, Ôn bèn trổ hết tài nghệ. Đạo nhân nhếch mép nói "Cũng hay, cũng hay, nhưng chưa đủ để làm thầy của bần đạo". Ôn cho là có ý khoa trương, bèn trao lại đàn xin được nghe thử. Đạo nhân tiếp lấy đàn đặt lên đầu gối, vừa mới bật vài tiếng đã thấy gió mát thoảng tới, giây lát thì hàng trăm loài chim tới tụ họp, đậu kín trên cây trước sân chùa. Ôn vô cùng kinh ngạc, sụp lạy xin theo học. Đạo nhân đàn lại ba lần, Ôn chăm chú lắng nghe, bắt đầu hiểu được tiết tấu. Đạo nhân bảo đàn lại thử, chỉ thêm những chỗ sai rồi nói "Bấy nhiêu là ở trần gian không ai bằng rồi đấy!".

Ôn từ đó chuyên tâm tập luyện, nổi tiếng là tuyệt kỹ. Sau Ôn trở về đất Tần, còn cách nhà vài mươi dặm thì trời tối mưa to, không có chỗ nào nghỉ đêm. Thấy cạnh đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, thấy một cái cổng thì bước thẳng vào, tới tận trong nhà vẫn thấy im ắng như không có người. Giây lát có một nữ lang bước ra, khoảng mười bảy mườí tám tuổi, đẹp như thiên tiên, ngẩng đầu thấy khách thì hoảng sợ chạy trở vào. Ôn lúc ấy chưa có vợ, vừa nhìn thấy nàng đã say mê. Lát sau một bà lão ra hỏi chuyện, Ôn xưng tên họ rồi xin cho ngủ trọ qua đêm. Bà lão nói "Ngủ trọ cũng được, chỉ hiềm nhà thiếu giường chõng, nếu khách không ngại thì xin trải đệm xuống đất mời nghỉ tạm". Rồi thắp đèn mang ra, đem cỏ khô rải xuống đất, ý tứ rất ân cần. Ôn hỏi họ tên, bà đáp "Già họ Tiêu". Ôn lại hỏi nữ lang là ai, bà đáp "Đó là Hoạn Nương, con nuôi của già". Ôn nói :Nếu không chê nghèo hèn, thì ta muốn hỏi cưới có được không?". Bà cau mày đáp "Chuyện đó thì già không thể vâng mệnh được". Ôn hỏi vì sao, bà chỉ đáp là khó nói rồi im lặng. Bà già vào nhà trong, Ôn nhìn tới bó cỏ trải đệm thì vừa ướt vừa mục không sao nằm được, đành ngồi suông gảy đàn qua đêm, chờ tạnh mưa rồi ra về.

Trong huyện có quan Bộ lang đã về hưu họ Cát, rất thích kẻ văn nhân. Ôn ngẫu nhiên tới chơi, vâng lệnh gảy đàn cầm, thấy sau rèm thấp thoáng có bóng phụ nữ nghe trộm. Chợt có cơn gió thổi vẹt bức rèm, thấy là một thiếu nữ đang tuổi cập kê, dung nhan tuyệt thế. Đó là con gái Cát, tiểu tự là Lương Công, giỏi từ phú, nổi tiếng nhan sắc. Ôn động lòng, về thưa với mẹ nhờ người tới hỏi, nhưng Cát chê nhà Ôn nghèo khổ không chịu gả. Nhưng cô gái sau khi nghe tiếng đàn đã thầm hâm mộ, chỉ mong ước được nghe nữa. Song Ôn vì chuyện dạm hỏi không thành nên ý chán tình buồn không lui tới nhà họ Cát nữa. Một hôm cô gái ra vườn chơi, nhặt được một tờ giấy cũ, trên có bài từ theo điệu Tiếc xuân thừa như sau:

Nhân hận thành si, chuyển tư tác tưởng, nhật nhật vị tình điên đảo.

Hai đường đới túy, dương liễu thương xuân, đồng thị nhất ban hoài bão

Thậm đắc tân sầu cựu sầu, tiễn tận hoàn sinh, tiện như thanh thảo

Tự biệt ly, chỉ tại nại hà thiên lý, độ tương hôn hiểu.

Kim nhật cá túc tổn xuân sơn, vọng xuyên thu thủy, đạo khí dĩ phan khí liễu.

Phương khâm đố mộng, ngọc lậu kinh hồn, yếu thụy hà năng thụy hảo.

Mạn thuyết trường tiêu tự niên, nùng thị nhất niên, ty canh do thiểu.

Quá tam canh dĩ thị tam niên, cánh hữu hà nhân bất lão.

(Vì hận thành ngây, nhớ nhớ thương thương, ngày tháng vì tình bối rối.

Hải đường say ngủ, dương liễu đau xuân, ấy cũng một lòng tiếc nuối.

Đến nỗi sầu xưa sầu nay, cắt rồi lại sinh, cứ như cỏ bãi.

Từ chia ly, ở nơi không biết làm sao, bao phen sớm tối.

Hôm nay cau mặt non xuân, nhìn suốt nước thu, nói bỏ cũng liều để nói.

Chăn thơm ghét mộng, giọt lậu bay hồn, muốn ngủ làm sao ngủ nổi.

Nghe nói đêm dài như một nãm, ta thấy một năm, so một canh còn ngắn ngủi.

Qua canh ba là đã ba năm, thử hỏi ai người không mỏi)

Cô gái ngâm ngợi ba bốn lần, trong lòng thích lắm, đem về lấy giấy văn gấm chép một bản khác đặt ở bàn, nhưng lát sau tìm tới đã không thấy đâu nữa, nghĩ rằng gió thổi bay mất. Gặp lúc Cát đi ngang cửa phòng nhặt được, cho là Lương Công làm ra, rất ghét vì lời lẽ lẳng lơ bèn đốt đi nhưng chưa nỡ nói ra, định bụng sẽ gã chồng cho con sớm. Vừa lúc ấy có công tử con quan Phương bá họ Lưu ở huyện Lâm (tỉnh Sơn Đông) chongười tới dạm hỏi, Cát mừng rỡ, nhưng còn muốn gặp mặt công tử một lần. Công tử bèn ăn mặc sang trọng tới ra mắt, phong tư đẹp đẽ, Cát rất vui lòng, bày tiệc khoản đãi ân cần. Kế công tử chào về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Cát cho rằng tính nết đàng điếm, ghét lắm liền gọi người mai mối tới kể rõ. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng Cát không nghe, nhất quyết tuyệt hôn.

Trước đó họ Cát có loại hoa cúc xanh, giữ không cho ai nhân giống, Lương Công đem trồng trong phòng riêng. Vườn cúc nhà Ôn chợt nảy ra hai giò màu xanh, bạn bè nghe thấy đồn đại nhau kéo tới xem, Ôn cũng rất nâng niu quý báu. Sáng sớm ra xem nhặt được bên luống hoa một tờ giấy chép bài từ Tiếc xuân thừa, đọc đi đọc lại, không biết từ đâu tới, thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, càng thêm cảm xúc, đem vào bàn bình phẩm nọ kia, lòi lẽ bậy bạ. Lúc ấy Cát nghe nói cúc nhà họ ôn biến ra màu xanh ngạc nhiên tới xem, vào phòng sách nhìn thấy bài từ bèn cầm lên đọc. Ôn vì lời bình của mình sỗ sàng, vộỉ giằng lại vò nát. Cát chỉ kịp đọc được một hai câu, thì đúng là bài từ đã nhặt được trước phòng con gái, vô cùng nghi ngờ, lại cho rằng cả giống cúc xanh cũng là do Lương Công tặng. Về nhà nói với vợ, bảo căn vặn Lương Công, Lương Công khóc lóc đòi tự tử. Mà việc lại không có chứng cớ gì, không thể biết rõ hư thực, phu nhân sợ tai tiếng đồn ra bèn bàn chẳng bằng cứ gả con gái luôn cho Ôn. Cát cho là phải liền bán tin cho Ôn. Ôn mừng quá, hôm ấy lập tức mời bè bạn tới uống rượu ngắm cúc xanh, đốt trầm gảy đàn đến khuya mới tan.

Ôn vào phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng coi phòng sách nghe thấy tiếng đàn tự nhiên vang lên, lúc đầu còn tưởng bọn tôi tớ trong nhà nghịch ngợm, sau thấy không có ai mới vào thưa với Ôn. Ôn đích thân tới xem quả đúng, nghe tiếng đàn ngập ngừng như bắt chước mình mà chưa được, đánh lửa xộc vào thì không thấy ai. Ôn đem đàn đi, từ đó cả đêm yên ắng. Vì thế ngờ là hồ, nghĩ rằng nó muốn học đàn, nên cứ mỗi buổi tối gảy một khúc rồi để đàn lại đấy cho mặc ý tập, như là thầy dạy đàn vậy. Đêm đêm rình nghe, qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã đúng khúc điệu, nghe động lòng người. Ôn làm đám cưới xong, vợ chồng cùng kể lại chuyện bài từ mới biết đầu mối nhân duyên là đó, nhưng vẫn không rõ là từ đâu ra. Lương Công nghe chuyện lạ tiếng đàn tự nhiên kêu, tới nghe rồi nói "Đây không phải là hồ đâu. Âm điệu não nùng ai oán lắm, như là tiếng đàn ma". Ôn chưa tin lắm, Lương Công nhân đó nói nhà mình có chiếc gương cổ có thể soi thấy ma quỷ.

Hôm sau sai người về lấy, chờ tiếng đàn vang lên liền cầm gương sấn vào thắp đèn lên, quả có một cô gái đang run rẫy trong góc phòng không trốn núp được, nhìn kỹ thì chính là Hoạn Nương nhà họ Triệu. Ôn cả sợ gặng hỏi, nàng sa nước mắt đáp "Thiếp làm mai mối cho chàng, đâu phải không có ơn đức, sao nỡ bức báth nhau quá vậy?". Ôn xin cất gương nhưng hẹn đừug biến đi, Hoạn Nương ưng thuận, Ôn bèn cất gương. Cô gái ngồi xa xa, nói "Thiếp là con gái quan Thái thú, chết đã trăm năm nay. Lúc còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh, đàn tranh thì đã tạm biết, còn đàn cầm thì chưa được chân truyền nên vẫn ấm ức chốn suối vàng. Khi chàng có lòng ghé lại nhà, được nghe âm điệu cao nhã đã rất hâm mộ. Chỉ hờn mình khác loài không thể theo sửa túi nâng khăn, nên đã ngấm ngầm tìm cách giúp chàng cưới người giai ngẫu để đền đáp tình thương mến. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi, bài từ Tiếc xuân thừa bay tới, đều là do thiếp làm ra, tạ ơn thầy học như thế không phải không vất vả đâu". Vợ chồng cảm động lạy tạ, Hoạn Nương nói "Ngón đàn của chàng thiếp đã hiểu được quá nửa, nhưng chưa thấu triệt chỗ tinh thần, xin gảy cho thiếp được nghe một lần nữa".

Xuân theo lời, lại gảy đàn để chỉ rõ cách thức. Hoạn Nương cả mừng, nói "Thiếp đã hiểu cả rồi", rồi đứng lên từ biệt. Lương Công vốn giỏi đàn tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường môn này, xin gảy cho nghe một lần. Hoạn Nương không từ chối, tiếng đàn khúc nhạc đều không phải là người trần sánh kịp. Lương Công khen ngợi, xin dạy lại cho mình. Hoạn Nương lấy bút ghi lại bản đàn, gồm mười tám chương, rồi đứng lên từ biệt. Vợ chồng cố giữ lại, Hoạn Nương buồn bã nói "Chàng được sắt cầm hòa hiệp, vợ chồng mà cũng là tri âm, kẻ bạc phận làm sao có được phúc ấy? Nếu có duyên phận, thì kiếp sau sẽ được gặp nhau". Rồi lấy ra một cuộn giấy đưa cho Ôn, nói "Đây là chân dung của thiếp, nếu không quên bà mối thì xin đem treo trong phòng ngủ, lúc nào vui vẻ cứ đốt một lò trầm, gảy một khúc đàn, thì là thiếp được hưởng vậy". Nói xong bước ra cửa biến mất.

152. A Tú (A Tú)

Lưu Tử Cố ở huyện Hải Châu (tỉnh Giang Tô), lúc mười lăm tuổi tới đất Cái thăm cậu, gặp một cô gái trong chợ bán tạp hóa, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, bước vào vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi cha, người cha ra, Lưu cụt hứng, cố tình trả giá rẻ rồi bỏ đi. Đứng xa thấy người cha đi nơi khác, liền quay lại, cô gái định tìm gọi cha, Lưu ngăn lại, nói "Không cần, cứ nói giá, ta không trả rẻ đâu". Cô gái theo lời, cố ý nói giá thật cao, Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại tới, lại như hôm trước, đi được vài bước, cô gái gọi theo "Trở lại đã! Vừa rồi ta nói dối thôi, giá ấy quá đắt". Rồi trả lại nửa tiền, Lưu càng mến là thành thật, cứ rảnh là tìm tới, vì thế ngày càng quen thuộc. Cô gái hỏi chàng ở đâu, Lưu nói thật, hỏi lại thì cô gái tự nói họ Diêu. Lúc ra về, nàng lấy giấy gói những vật Lưu mua lại cẩn thận, rồi liếm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động tới, sợ mất vết lưỡi của nàng.

Được nửa tháng, người đầy tớ rình biết, ngầm bàn với cậu bắt phải về. Lưu buồn bực không vui, đem các thứ khăn hương phấn sáp đã mua giấu vào một cái tráp, lúc vắng người lại đóng cửa kiểm lại một lượt, giở tới là ngẩn ngơ. Năm sau lại tới đất Cái, vừa buông hành lý xuống là tìm ngay tới chỗ cô gái, tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt. Thất vọng trở về, cứ nghĩ rằng nàng đi vắng chưa về. Sáng sớm hôm sau lại tới thì cửa vẫn đóng như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết họ Diêu vốn là người huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Đông), vì buôn bán không lời lãi bao nhiêu nên tạm về quê, cũng không biết lúc nào sẽ trở lại. Lưu buồn rầu, ở lại vài ngày rồi chán nản ra về. Bàn tới chuyện lấy vợ thì mấy lần đều không chịu nghe lời mẹ, mẹ vừa tức giận vừa kỳ quái, người đầy tớ liền lén kể chuyện năm trước cho mẹ biết, mẹ càng ráo riết ngăn cấm, không cho lui tới đất Cái nữa.

Lưu chợt trở nên rầu rĩ, giảm ăn bỏ học, mẹ lo lắng không biết làm sao, nghĩ thôi chẳng bằng theo ý con, liền lập tức sắm sửa hành trang cho Lưu tới đất Cái, lại dặn nhắn với cậu nhờ làm mối giùm. Cậu theo lời, qua nhà họ Diêu, lát sau trở về nói "Việc không xong rồi. A Tú đã gả cho một người ở Quảng Ninh!". Lưu cúi đầu thẫn thờ, lòng như tro lạnh, hết cả hy vọng. Về nhà rồi, cứ ôm cái tráp rơi lệ, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong trên đời có người giống như thế. Lúc ấy có người mối tới, khen con gái họ Hoàng ở huyện Phục Châu (tỉnh Liêu Ninh) tuyệt đẹp. Lưu sợ không đúng, sai đánh xe tới đất Phục. Vào cửa tây huyện thành, thấy phía bắc có một gian nhà, hai cánh cổng khép hờ, có một cô gái rất giống A Tú. Lại chú mục nhìn theo, thấy cô gái vừa đi vừa ngoảnh lại mà vào, đích thị không sai. Lưu rất ngờ vực, bèn thuê nhà ở liền bên đông, hỏi dò thì đó là nhà họ Lý, nghĩ đi nghĩ lại, chẳng lẽ trên đời lại có người giống nhau đến thế sao?

Ở đó mấy hôm, không nhờ ai được, chỉ ngày ngày trông ngóng ngoài cổng, chờ dịp cô gái đi ra. Một hôm, mặt trời vừa xế, cô gái quả ra, chợt thấy Lưu, liền quay vào đóng cửa, lấy tay chỉ ra phía sau, để bàn tay lên ngang trán rồi vào. Lưu rất mừng nhưng không hiểu ý, ngẫm nghĩ hồi lâu, rảo bước ra sau nhà, thấy vườn hoang vắng vẻ, phía tây có một bức tường thấp khoảng ngang vai, chợt hiểu ra liền ngồi xuống núp trong đám cỏ sương. Hồi lâu có người sau tường thò đầu ra hỏi khẽ "Tới chưa?", Lưu lên tiếng rồi đứng dậy, nhìn kỹ thì đúng là A Tú, bật khóc lớn, nước mắt chảy ròng ròng. Cô gái cách tường đưa tay vuốt ve Lưu, lấy khăn lau nước mắt cho, ân cần an ủi. Lưu nói "Tìm đủ cách mà không được gặp, tự nghĩ kiếp này thế là thôi, ngờ đâu lại có đêm nay, nhưng nàng vì sao lại tới đây?", cô gái đáp "Họ Lý là chú bên ngoại của thiếp". Lưu xin leo qua tường, cô gái nói "Chàng cứ về trước, bảo người hầu đi ngủ chỗ khác, thiếp sẽ tự tới". Lưu theo lời ngồi đợi, giây lát cô gái lặng lẽ bước vào, ãn mặc không lộng lẫy lắm, vẫn quần áo ngày trước.

Lưu kéo ngồi xuống, kể lễ nỗi khổ, rồi hỏi "Nghe nói nàng đã nhận sính lễ của người ta, sao chưa cưới?". Cô gái đáp "Nói thiếp đã nhận sính lễ là nói sai đấy. Cha thiếp thấy đường sá xa xôi, không muốn gả thiếp cho công tử, có lẽ đó là cậu nói thác ra để chàng hết mong tưởng mà thôi". Rồi đó cùng lên giường ngủ, thương yêu đằm thắm không sao nói xiết. Đến canh tư, nàng trở dậy trèo qua tường mà về. Lưu từ đó quên cả ý định tới nhà họ Hoàng, trọ lại luôn nửa tháng, tuyệt nhiên không nói tới việc trở về. Một đêm người đầy tớ dậy cho ngựa ăn, thấy trong phòng còn sáng đèn, nhìn vào thấy A Tú sợ lắm nhưng không dám hỏi chủ, chỉ ra chợ hỏi thăm, rồi mới về hỏi Lưu "Người đêm đêm vẫn đi lại với công tử là ai thế?".

Lưu ban đầu còn giấu diếm, người đầy tớ nói "Nhà này vắng vẻ, là nơi quỷ hồ tụ tập, công tử nên giữ gìn. Cô gái nhà họ Diêu kia làm gì mà tới đây?". Lưu mới ngượng nghịu đáp "Nhà hàng xóm phía tây là chú bên ngoại của nàng, có gì mà ngừ vực". Người đầy tớ nói "Ta đã hỏi kỹ rồi, nhà bên đông chỉ có một bà già cô đơn, nhà bên tây chỉ có một người con trai còn nhỏ, chẳng ai có họ hàng thân thích. Người công tử gặp kia ắt là ma quỷ, không thì lẽ nào cái áo mấy năm vẫn không thay, vả lại da mặt quá trắng, hai má lại hơi gầy, lúc cười không thấy lúm đồng tiền, không đẹp bằng A Tú". Lưu nghĩ lại phát hoảng, nói "Vậy thì làm sao?". Người đầy tớ bàn đợi cô gái đến, cầm binh khí xông vào đánh. Tối cô gái tới, nói với Lưu rằng "Biết chàng sinh lòng ngờ vực, nhưng thiếp cũng không có ý gì khác, chẳng qua cho trọn duyên phận với nhau thôi". Chưa dứt lời thì người đầy tớ đạp cửa xông vào, cô gái quát "Bỏ ngay binh khí xuống, mang rượu ra đây mau, để ta từ biệt chủ nhân". Người đầy tớ tự nhiên ném dao xuống như bị cướp mất. Lưu càng sợ, gượng gạo ngồi tiếp rượu, còn cô gái vẫn cười nói như thường, nói với Lưu rằng "Biết tâm sự chàng, vẫn định tìm cách giúp cho chút ít, vất vả đề phòng nhau làm gì? Thiếp tuy không phải A Tú, nhưng cũng thấy mình không kém, chàng nhìn kỹ xem có phải không nào?".

Lưu toàn thân nổi gai ốc, ú ớ không đáp đươc. Cô gái thấy đã sang canh ba, cầm chén rượu uống một hớp rồi đứng lên nói "Ta cứ đi đã, đợi sau đêm động phòng hoa chúc sẽ lại tới so sánh với mỹ nhân nhà chàng xem ai hơn kém", kế quay người biến mất. Lưu tin lời hồ, lại sang đất Cái, giận cậu lừa mình nên không tới ở nhà cậu mà trọ ở gần nhà họ Diêu, nhờ người qua làm mối, đút cho nhiều tiền. Vợ Diêu nói "Chú nó định gả chồng cho cháu ở Quảng Ninh nên cha nó tới đó, việc thành hay không chưa thể biết, phải đợi ông ấy về mới bàn được". Lưu nghe nói bàng hoàng không biết làm sao, chỉ còn cách cố đợi. Qua hơn mười ngày, chợt nghe có loạn, ban đầu còn ngờ là đồn nhảm, ít lâu sau tin càng gấp, bèn thu xếp ra đi. Giữa đường gặp giặc, chủ tớ lạc nhau, Lưu bị đội tiền tiêu bắt. Thấy Lưu là học trò yếu đuối nên chúng canh phòng lơ là, Lưu liền trộm ngựa trốn đi.

Tới ranh giới Hải Châu, thấy một cô gái đầu tóc rối bù mặt mũi nhem nhuốc, bước cao bước thấp khập khiễng trên đường. Lưu dong ngựa vượt qua, cô gái gọi "Người cưỡi ngựa có phải là chàng Lưu không?". Lưu kìm ngựa nhìn kỹ thì ra là A Tú, trong lòng còn ngại là hồ, bèn hỏi "Nàng đúng là A Tú chứ?". Cô gái hỏi tại sao lại nói thế, Lưu kể lại chuyện mình đã gặp. Cô gái nói "Thiếp là A Tú thật đây, không phải là kẻ mạo danh đâu. Cha dắt thiếp từ Quảng Ninh về, gặp loạn bị bắt, họ đưa ngựa cho cưỡi nhưng ngã lên ngã xuống. Chợt có một cô gái nắm cổ tay thiếp kéo đi, quanh co giữa đám quân cũng không có ai hỏi. Nàng đi nhanh như bay, thiếp kiệt sức vẫn không theo kịp, được trăm bước đã tụt lại sau mấy lần. Hồi lâu nghe tiếng người ngựa xa dần, nàng mới buông tay thiếp ra nói "Xin chào, đường phía trước đều yên ổn, cứ thong thả mà đi, người yêu của nàng sẽ tới, nên theo chàng cùng về". Lưu biết đó là hồ, rất cảm kích, nhân kể rõ vì sao mình lưu lại đất Cái. Cô gái nói chú định gả nàng cho họ Phương, chưa kịp ăn hỏi thì gặp loạn, Lưu mới biết lời cậu nói không phải là dối trá. Bèn đỡ nàng lên ngựa cùng về, tới cổng nghe nói mẹ già vẫn khoẻ mạnh, cả mừng buộc ngựa vào nhà, kể lại mọi chuyện.

Mẹ cũng mừng, bèn sửa soạn cho cô gái tắm gội, nàng trang điểm xong lên ra mắt, dung quang lộng lẫy, mẹ càng vui vẻ nói "Chẳng trách thằng nhỏ ngây kia nằm mơ cũng không quên". Bèn sắp xếp chăn nệm cho nàng ngủ cùng phòng với mình, rồi sai người tới đất Cái báo tin cho họ Diêu. Không bao lâu vợ chồng họ Diêu cùng tới, chọn ngày lành làm lễ cưới cho con gái rồi về. Cái tráp Lưu cất giữ còn nguyên dấu niêm phong, nhưng có hộp phấn mở ra thì toàn là đất đỏ. Lưu lấy làm lạ, cô gái che miệng cười nói "Vụ lừa gạt mấy nãm trước nay bị lộ rồi. Lúc ấy thấy chàng để mặc thiếp gói hàng, không xem lại thật giả, nên làm thế để đùa giỡn thôi". Đang lúc cười đùa, chợt một người vén rèm bước vào nói "Vui vẻ như thế thì phải tạ ơn bà mối chứ!". Lưu nhìn thì lại là một A Tú nữa. Vội vàng gọi mẹ, mẹ và người nhà đổ tới mà không ai phân biệt được. Lưu vừa ngoảnh đi cũng lẫn luôn, chăm chú nhìn hồi lâu mới nhận ra, chắp tay vái tạ. Cô gái cầm gương tự soi rồi thẹn thùng rảo bước ra, tìm theo thì đã biến mất.

Vợ chồng cảm nghĩa lập bài vị thờ trong phòng. Một đêm Lưu say rượu về phòng thấy tối tăm không có ai, đang thắp đèn thì A Tú tới. Lưu kéo lại hỏi đi đâu, nàng cười nói "Hơi rượu sặc sụa chẳng ai chịu được mà còn tra hỏi này nọ. Đã ai đi ngoại tình đâu chứ!". Lưu cười ôm má nàng, cô gái hỏi "Chàng trông thiếp với chị hồ ai đẹp hon?". Lưu nói "Nàng đẹp hơn, nhưng chỉ biết xem bề ngoài thì không phân biệt được". Kế khép cửa phòng ôm nhau đùa giỡn, lát sau có tiếng gõ cửa, cô gái đứng dậy cười nói "Chàng cũng chỉ là kẻ biết xem bề ngoài mà thôi". Lưu không hiểu, ra mở cửa thì A Tú bước vào, rất ngạc nhiên, mới biết người cùng chuyện trò vừa rồi là hồ. Trong bóng tối lại nghe thấy tiếng cười, hai vợ chồng ngẩng lên không khấn khứa, xin nàng hiện hình. Hồ nói "Ta không muốn gặp A Tú". Hỏi sao không hóa ra dung mạo khác, hồ đáp "Ta không làm được". Hỏi sao không làm được, hồ đáp "A Tú là em gái ta, kiếp trước không may chết yểu. Khi còn sống, cùng ta theo mẹ lên thiên cung ra mắt Tây Vương Mẫu, lấy làm hâm mộ, lúc về cố gắng bắt chước. Em ta thông tuệ hơn, chỉ một tháng là bắt chước giống hệt, ta bắt chước tới ba năm mới giống mà vẫn không bằng. Nay đã qua kiếp khác, tụ nghĩ đã hơn, không ngờ vẫn như xưa. Ta cam lòng thành của hai người, nên thỉnh thoảng sẽ tới thăm, bây giờ thì đi đây", rồi không nghe tiếng nói nữa.

Từ đó cứ năm ba ngày lại tới một lần, trong nhà có việc gì khó khãn trở ngại đều quyết cho cả. Khi A Tú về thăm cha mẹ thì tới ở luôn vài ngày không đi, tôi tớ đều sợ hãi lánh mặt. Nhà có mất gì thì lại ăn mặc đẹp đẽ, cài chiếc trâm đồi mồi dài mấy tấc, gọi tôi tớ lên nghiêm giọng bảo ai lấy trộm vật ấy đêm nay phải đem tới để vào chỗ ấy chỗ ấy, nếu không sẽ bị đau buốt óc thì đừng trách không nói trước, sáng ra quả lấy lại được đúng chỗ nàng đã nói. Ba năm sau không thấy tới nữa, nhưng nếu trong nhà có mất tiền lụa, A Tú bắt chước ăn mặc như nàng để dọa tôi tớ cũng thường lấy lại được.

153. Tiểu Thúy (Tiểu Thúy)

Thái thường họ Vương người đất Việt (Chiết Giang), lúc còn là trẻ con có lần nằm ngủ ban ngày trên giường, bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, có con vật to hơn con mèo tới nằm nép bên cạnh, quanh quẩn không rời. Hồi lâu trời tạnh, con vật bỏ đi, nhìn lại thì không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở phòng bên. Anh nghe kể, mừng nói "Em ắt sẽ quý hiển to, đó là hồ tới núp trốn sấm sét đấy". Sau quả Vương tuổi trẻ đã thi đỗ Tiến sĩ, rồi từ chức Tri huyện về kinh làm Thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong rất ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết phân biệt con cái với con đực, quanh vùng vì vậy không ai chịu gả con gái cho, Vương rất lo lắng. Chợt có người đàn bà dắt một cô gái tới nhà xin gả cho Nguyên Phong. Nhìn tới cô gái, thấy nhoẻn miệng tươi cười, xinh đẹp như tiên. Vương mừng rỡ hỏi họ tên, người đàn bà tự nói họ Ngu, con gái tên Tiểu Thúy, vừa mười sáu tuổi. Bàn tới sính lễ, bà ta nói "Trước nay nó ở với ta rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân vào chốn nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa ý mà ta cũng được thỏa lòng, có phải bán rau đâu mà nói giá!". Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu.

Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn "Đây là cha chồng, mẹ chồng của ngươi, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại". Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về, bà ta nói làng xóm không xa, không dám làm phiền rồi ra cửa đi. Tiểu Thúy cũng không hề buồn nhớ, lập tức trút đồ trang sức trong rương ra khoe, phu nhân cũng thấy thích. Mấy hôm sau không thấy người đàn bà tới, hỏi quê quán thì nàng cũng ngẩn ngơ không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt một khu nhà riêng cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe Vương cưới bừa con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười, nhưng lúc nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc, từ đó mới thôi dè bỉu. Cô gái lại rất thông minh, biết dò ý tứ mừng giận của cha mẹ chồng. Vợ chồng Vương quý dâu quá thói thường, lại áy náy chỉ sợ cô gái chê con mình ngây, song nàng vẫn vui vẻ không hề bận tâm. ở nhà rất hay đùa giỡn, lấy vải khâu thành quả cầu đá chơi, mang đôi hài da nhỏ đá ra xa vài mươi bước cho công tử chạy theo nhặt, công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi gọi nhau.

Một hôm Vương tình cờ đi qua, quả cầu bay tới trúng bốp giữa mặt, cô gái và thị tỳ đều chạy trốn còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận lấy đá ném, công tử mới lăn ra đất gào khóc. Vương kể với vợ, phu nhân qua mắng cô gái, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười, lấy tay xoa mép giường, phu nhân về rồi lại đùa nghịch như cũ. Có lần lấy son phấn vẽ mặt công tử vằn vện như quỷ, phu nhân nhìn thấy giận lắm, gọi nàng tới nhiếc móc, nàng chỉ dựa vào bàn mân mê giải lưng, không sợ hãi cũng không nói gì. Phu nhân không biết làm sao, bèn lấy gậy đánh con trai. Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc quỳ xuống xin tha. Phu nhân nguôi giận ngay, vứt gậy bỏ về. Cô gái cười kéo công tử vào nhà, phủi bụi trên quần áo cho, lau nước mắt, xoa những chỗ bị đánh, lấy táo và hạt dẻ cho ăn, công tử lại nín khóc vui ngay. Cô gái đóng cửa, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương*, làm người ngoài sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, đóng vai Ngu mỹ nhân, rồi lả lướt múa may dưới màn. Hoặc cắm lông đuôi chim trĩ lên tóc, gảy đàn tỳ bà, bập bùng tình tang, cười đùa ầm ĩ cả nhà, ngày nào cũng thế.

*Bá Vương: tức Tây Sở Bá vương Hạng Vũ thời Hán Sở tranh hùng, có người thiếp là Ngu mỹ nhân, tức Ngu Cơ.

Vương vì con mình ngây không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua. Cùng ngõ có nhà quan Cấp gián họ Vương, cách hơn mười căn, nhưng vốn không đi lại với nhau. Gặp lúc triều đình theo lệ ba năm xét công quan lại, Cấp gián ghét ông giữ ấn đạo Hà Nam, rắp tâm hãm hại. Ông biết ý, lo lắm mà không biết làm sao. Một đêm ông đi nằm sớm, cô gái đội mũ đeo đai như Tể tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại bắt hai tỳ nữ cải trang như quan hầu, lén lấy ngựa trong tàu ra cưỡi đi, nói đùa rằng tới thăm Vương tiên sinh. Tới cổng nhà Cấp gián lại lấy roi đánh người hầu, nói "Ta tới thăm Thị ngự họ Vương chứ có tới thăm Cấp gián họ Vương đâu, rồi dong ngựa trở về. Tới nhà, người gác cổng tưởng thật chạy vào báo, ông vùng dậy ra nghênh tiếp mới biết là con dâu đùa, giận lắm nói với phu nhân "Người ta đang tìm chuyện bới móc mình, mà mình lại tự đem cái xấu trong phòng khuê tới tận cổng nhà người ta báo thì tai họa không xa đâu!". Phu nhân giận, qua ngay phòng cô gái mắng nhiếc, nàng chỉ ngu ngơ cười không cãi lại một câu, đánh thì không nỡ mà đuổi thì nàng không cửa không nhà, vợ chồng buồn bực cả đêm không ngủ.

Lúc ấy ông Mỗ làm Tể tướng, uy thế lừng lẫy, nghi vệ phong thái xiêm áo quan hầu không khác gì với những cái cô gái giả trang. Cấp gián họ Vương cũng lầm tưởng là thật, mấy lần sai người tới rình ở cổng nhà Vương, đến nửa đêm vẫn chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể tướng với Vương có mưu ngầm. Hôm sau vào chầu sớm gặp nhau bèn hỏi "Đêm qua tuớng công đến nhà ông à?". Vương ngờ là y nói mỉa, ngượng ngùng dạ dạ không trả lời. Cấp gián càng nghi hoặc, bèn bỏ ý trước, từ đó lại cố lấy lòng ông. Ông dò biết sự tình, mừng thầm nhưng ngầm dặn phu nhân khuyên cô gái đừng làm những việc như thế nữa, nàng cười vâng dạ. Qua năm sau, Tể tướng bị bãi chức, kế có thư riêng gởi ông, lại đưa lầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián cả mừng, trước tiên nhờ người quen ông tới hỏi mượn một vạn lượng vàng, ông từ chối. Cấp gián đích thân tới, ông tìm khăn áo mãi mà không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận ông xấc xược, tức tối toan ra về. Bỗng thấy công tử mặc áo cổn đội mũ miện bị một cô gái từ trong cửa xô ra, giật mình hoảng sợ rồi cười, vỗ về công tử, lột lấy áo cổn mũ miện mang đi.

Ông vội ra thì khách đã về rồi, nghe chuyện sợ tái mặt, khóc lớn nói "Đây là cái họa nàng dâu đây, không mấy ngày sẽ chết cả họ thôi!". Liền cùng phu nhân vác gậy chạy qua. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa mặc cho chửi mắng. Ông giận, lấy búa phá cửa, cô gái trong phòng cười nụ nói "Cha đừng giận. Có con ở đây, bao nhiêu đao kiếm búa rìu con cũng xin chịu, quyết không để lụy cho cha mẹ. Cha muốn giết dâu để bịt miệng nhân chúng à?", ông bèn thôi. Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, dâng mũ miện áo cổn làm bằng chứng. Hoàng thượng giật mình, xét nghiệm lại thì ra mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, áo cổn khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng, giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thấy dáng vẻ ngây ngô lộ rõ, phì cười nói "Thế này mà cũng làm vua được à?", bèn giao cho Pháp ty xét. Cấp gián lại kiện nhà ông có yêu quái, Pháp ty tra hỏi cả những con cái của tôi tớ trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và đứa con ngây, suốt ngày cười đùa. Láng giềng cũng không khai gì khác, án mới định, Cấp gián bị sung làm lính ở Vân Nam.

Vương từ đó cho cô gái là người lạ, lại vì mẹ nàng lâu không thấy tới, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân hỏi dò, nàng chỉ cười không đáp, gặng mãi thì che miệng đáp "Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết sao?". Không bao lâu, ông được thăng làm quan khanh, đã hơn năm mươi tuổi nên thường lo không có cháu nội. Cô gái ở đó ba năm mà đêm đêm vẫn không ngủ chung với công tử như chưa từng chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng giường đi, dặn công tử ngủ chung với vợ. Được vài hôm, công tử nói với mẹ "Mượn giường của con sao lâu không trả? Tiểu Thúy cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở không được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!". Đám tớ gái đều phì cười, phu nhân quát, đánh đuổi đi. Một hôm cô gái tắm trong phòng, công tử nhìn thấy đòi tắm chung, nàng cười ngăn lại, bảo chờ một lúc. Tắm xong sai thay nước nóng, cởi hết quần áo cho, gọi thị tỳ cùng đỡ công tử vào thùng tắm. Công tử thấy ngột ngạt khó chịu kêu to đòi ra, cô gái không cho, lấy chăn trùm kín lên. Giây lát không nghe kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở.

Nàng vẫn thản nhiên cười nói không sợ hãi gì, kéo công tử ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho. Phu nhân nghe tin, khóc lóc đi vào mắng "Con điên kia, sao lại giết con ta?". Cô gái tươi cười đáp "Con ngây như thế thì thà không có". Phu nhân càng giận, lao vào húc nàng, bọn tỳ nữ xô vào kéo ra khuyên can. Đang giằng co ồn ào thì một tỳ nữ nói "Công tử rên được rồi", phu nhân gạt lệ tới vỗ về con, thấy hơi thở nhè nhẹ mà mồ hôi như tắm, ướt cả chăn chiếu. Khoảng xong bữa cơm thì mồ hôi không chảy nữa, chợt mở mắt nhìn quanh, ngó khắp gia nhân như không biết ai cả, nói "Bây giờ ta nhớ lại những việc trước đây thấy cứ như nằm mơ, sao thế nhỉ?". Phu nhân thấy lời nói không hề ngây ngô vô cùng lạ lùng, dắt qua chào cha. Hỏi thử mấy lần, quả không còn ngây, mừng rỡ như bắt được của báu, bèn sai khiêng trả giường về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.

Công tử vào phòng, đuổi hết thị tỳ đi, sáng nhìn tới thì giường vẫn bỏ không. Từ đó không ngây không điên nữa, mà sắt cầm hòa hợp quấn quít như hình với bóng. Được hơn năm, ông lại bị bè đảng Cấp gián hặc tội đòi cách chức, chuyện cũng hơi lôi thôi. Ông có cái bình ngọc quý của quan Trung thừa* Quảng Tây trước đây tặng cho, giá đáng ngàn vàng, định đem đút lót quan trên. Cô gái thích cầm lên ngắm, lỡ tay làm rơi vỡ nát, xấu hổ tới tự nhận lỗi. Vợ chồng ông đang buồn về việc bị cách chức, nghe thế tức giận, cùng nhiếc mắng thậm tệ. Nàng uất ức bỏ ra, nói với công tử "Ta ở nhà anh, những cái giữ gìn được không phải chỉ là một cái bình, sao không giữ gìn thể diện cho nhau một chút? Nói thật với ông ta không phải là người, vì mẹ ta gặp nạn sấm sét, được đội ơn cha che chở, lại vì hai ta có năm năm duyên phận nên ta tới đây để đền ơn xưa và trọn duyên trước thôi. Ta bị mắng chửi đã nhiều, nhổ tóc mà tính cũng không đủ, sở dĩ không đi ngay là vì cái tình năm năm chưa hết, giờ đây thì còn làm sao nấn ná được nữa". Rồi giận dữ bước ra, đuổi theo thì đã biến mất.

*Trung thừa: tức Tuần phủ đứng đầu một tỉnh theo quan chế thời Thanh.

Ông ngẩn người biết mình lỡ lời nhưng hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào phòng, nhìn phấn thừa thoa cũ, khóc rống đòi chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng tiều tụy. Ông lo lắm, vội lo cưới vợ khác cho con khuây khỏa, nhưng công tử không thích, chỉ tìm thợ giỏi vẽ tranh Tiểu Thúy, ngày đêm thắp hương rưới rượu khấn vái. Gần hai năm sau, công tử tình cờ có việc đi nơi khác trở về, trăng sáng vằng vặc, ngoài thôn có một khu vườn cảnh của nhà, vừa cưỡi ngựa đi qua bỗng nghe bên trong tường có tiếng cười liền dừng cương, sai mã phu nắm hàm thiếc rồi đứng lên yên nhìn vào, thì ra có hai nữ lang đang chơi đùa ở trong. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không nhìn thấy rõ, chỉ nghe một nàng áo xanh nói "Con nhãi này đáng bị đuổi ra khỏi cổng!", một nàng áo đỏ nói "Ngươi đang trong vườn nhà ta, lại còn đòi đuổi ai?". Nàng áo xanh nói "Con nhãi thật không biết thẹn, làm vợ không nên thân, bị người ta đuổi đi, còn dám nhận bừa sản nghiệp của người ta à?". Nàng áo đỏ nói "Còn hơn con nhãi già không ai thèm ngó tới!". Công tử nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thúy, vội gọi lớn. Nàng áo xanh bỏ đi, nói "Ta không cãi vã với ngươi nữa, ông chồng ngươi tới rồi kìa". Kế nàng áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thúy, công tử mừng lắm.

Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói "Hai năm không gặp mà chỉ còn có một nắm xương thôi!". Công tử cầm tay rơi nước mắt, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói "Thiếp cũng biết thế, nhưng chẳng còn mặt mũi nào quay lại nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, tình cờ lại gặp nhau, mới biết duyên số không thể trốn được". Công tử nài cùng về, nàng không chịu, xin cứ ở lại trong vườn thì nàng bằng lòng, bèn sai đầy tớ chạy về bẩm với phu nhân. Phu nhân giật mình đứng lên sai thắng kiệu tới ngay, mở khóa vào đình. Cô gái rảo bước ra đón, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm cánh tay nàng sa nước mắt nhận hết lỗi trước, như không tha thứ được cho mình, nói "Nếu con không chấp chuyện cũ thì xin cùng về cho mẹ vui tuổi già", nàng cương quyết nói không được. Phu nhân lo đình tạ hoang vắng, định cho nhiều người ra hầu hạ. Cô gái nói "Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ cũ theo hầu sớm tối, không thể không thương mến. Ngoài ra chỉ xin một lão bộc gác cổng, chứ không cần gì khác!". Phu nhân đều theo lời, lại nói thác rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, hàng ngày sai mang thức ăn vật dùng ra mà thôi.

Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe, hơn một năm sau thì nét mặt giọng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức tranh ra so thấy khác hẳn như là hai người, vô cùng lạ lùng. Nàng hỏi "Trông thiếp bây giờ có đẹp như trước không?". Công tử đáp "Bây giờ đẹp thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng". Nàng nói "Chắc thiếp già rồi". Công tử nói "Người hơn hai mươi tuổi, làm gì mà già mau thế?". Nàng cười đốt bức tranh, giật lại thì đã cháy hết. Một hôm nàng nói với công tử "Lúc trước còn ở nhà, cha thiếp vẫn nói thiếp đến chết cũng không mang thai được. Nay cha mẹ đã già, chàng có một mình, thiếp thật không sinh nở được, sợ lỡ việc nối dõi của chàng. Xin cưới vợ về nhà để sớm tối hầu hạ cha mẹ, còn chàng qua lại hai nơi, cũng không có gì không tiện. Công tử cho là đúng, liền dạm hỏi con gái Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, cô gái đích thân may áo khâu giày cho cô dâu, sai đưa về chỗ phu nhân. Ngày cưới, cô dâu vào nhà thì giọng nói nét mặt, dáng điệu cử chỉ đều giống hệt Tiểu Thúy, công tử rất lấy làm lạ. Trở lại khu vườn thì không thấy nàng đâu, hỏi hai tỳ nữ, họ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói "Nương tử tạm về thăm nhà, để lại vật này cho công tử". Mở khăn xem, thấy có buộc cái vòng quyết bằng ngọc, biết nàng không trở lại nữa, bèn đưa hai tỳ nữ cùng về, tuy trong phút chốc không quên được Tiểu Thúy nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như nhìn thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cô gái đã biết trước duyên phận giữa công tử với cô gái họ Chung nên thay đổi nét mặt của nàng trước để khuây nỗi nhớ cho chàng ngày sau.

Dị Sử thị nói: Một con hồ chỉ chịu cái ơn lúc vô tâm mà còn lo báo đáp, thế mà kẻ kia đuợc hưỡng ơn tái tạo lại la thét khản tiếng vì bị vỡ cái bình, sao mà bỏn sẻn đến thế! Còn trăng khuyết lại tròn, thung dung ra đi, mới biết cái tình của người tiên cũng sâu hơn thế tục nhiều.

154. Tế Liễu (Tế Liễu)

Tế Liễu là con gái một sĩ nhân ở đất Trung Đô (huyện Bình Dao tỉnh Sơn Tây), có kẻ thấy nàng ẻo lả đáng yêu nên gọi đùa là Tế Liễu (cây liễu nhỏ). Nàng lúc nhỏ thông minh, biết chữ, thích đọc sách dạy xem tướng. Bình sinh tính nết trầm mặc, không hay nói tới điều hay dở của người khác. Nhưng nếu có ai tới dạm hỏi, thì xin cho được núp nhìn mặt, chọn lựa nhiều người mà đều nói rằng chưa có ai xứng đáng. Đến năm nàng mười chín tuổi, cha mẹ tức giận nói "Giả như trên đời không có ai xứng đáng, thì ngươi chịu làm gái già không chồng à?". Nàng thưa "Thật tâm con muốn lấy trí người thắng mệnh trời, nhưng đã lâu vẫn không thành công, cũng là số phận của con vậy. Thôi từ nay trở đi xin vâng theo ý cha mẹ". Lúc ấy có Cao sinh là danh sĩ dòng dõi thế gia nghe danh Tế Liễu tới xin hỏi cưới, sau ngày cưới vợ chồng rất hòa hợp. Vợ trước của sinh chết để lại một đứa con tên là Trường Phúc, lúc ấy được năm tuổi, cô gái nuôi nấng chăm sóc rất chu đáo. Có khi nàng về thăm cha mẹ, Trường Phúc cứ gào khóc đòi đi theo, quát mắng thế nào cũng không chịu thôi. Được hơn năm nàng sinh một trai, đặt tên là Trường Hỗ. Sinh hỏi ý nghĩa tên con, nàng đáp rằng không có ý gì khác, chỉ là mong mỏi nó được theo hầu dưới gối cha lâu dài mà thôi*.

*Trường Hỗ... mà thôi: trường hỗ (nương tựa 1âu dài) đây 1ấy ý câu trong kinh Thi Tiểu nhã, Lục nga "Vô phụ hà hỗ" (Không có cha thì nương tựa vào ai). Đây Tế Liễu biết truớc chồng sẽ chết sớm nên đặt tên con như vậy để tỏ ý mong chồng sống lâu.

Cô gái về việc nữ công rất vụng về, cũng ít khi để ý tới, nhưng ruộng nương ở đâu, thuế má bao nhiêu thì cứ theo sổ sách mà hỏi, chỉ sợ là không biết rõ. Ít lâu nói với sinh rằng "Việc trong nhà xin chàng đừng nhìn tới nữa, để thiếp lo cho, xem có coi sóc nổi việc nhà không?". Sinh theo lời, được nửa năm thì trong nhà không có việc gì bê trễ, cũng cho vợ là giỏi. Một hôm sinh đi uống rượu ở xóm bên, có kẻ đi thúc thuế thiếu đập cửa hỏi, nàng sai đầy tớ ra nài nỉ xin khất nhưng y không chịu, phải sai trẻ đi gọỉ sinh về. Người thúc thuế đi rồi, Sinh cười nói "Tế Liễu nay đã biết đàn bà khôn không bằng đàn ông ngu chưa?". Cô gái nghe thế cúi đầu bật khóc, sinh hoảng sợ vội tìm lời an ủi nhưng rốt lại nàng vẫn không vui. Sinh không nỡ để nàng phải khó nhọc vì việc nhà, muốn tự mình cáng đáng như cũ nhưng nàng không chịu. Từ đó nàng thức khuya dậy sớm chăm chỉ lo toan, cứ cuối năm là lo sẵn tiền thuế của năm sau, nhờ vậy cả năm ít khi thấy nha lại tới nhà đòi thuế thiếu.

Về tiền bạc chi tiêu trong nhà nàng cũng làm theo cách ấy, nhờ vậy chi dùng có chừng mục mà của cải ngày thêm nhiều. Sinh vì thế càng yêu mến, có lần nói đùa với nàng rằng "Tế Liễu mới nhỏ sao? Nét mày nhỏ, eo lưng nhỏ, bàn chân nhỏ, lại mến tâm tư càng tinh tế", nàng đối lại rằng "Cao lang thật cao vậy! Nhân phẩm cao, chí khí cao, văn chương cao, chỉ mong tuổi thọ lại càng cao"*. Trong làng có người bán chiếc quan tài bằng gỗ tốt, nàng không tiếc mang món tiền lớn tới hỏi mua, nhưng giá cao quá không đủ tiền, lại tìm đủ cách vay muợn thân thích láng giềng mua bằng được. Sinh cho rằng đó không phải vật cần gấp, cố ngăn cản nhưng nàng không nghe. Mua về hơn năm thì trong làng có người chết, người nhà mang tiền tới xin mua lại với giá gấp đôi, sinh thấy có lãi bèn bàn bán đi, nàng không chịu. Sinh hỏi nguyên cớ, nàng không đáp, lại hỏi nữa thì nàng rơm rớm nước mắt, sinh lấy làm lạ nhưng không nỡ làm nàng buồn, bèn thôi việc ấy.

* "Tế Liễu... càng cao": đôi câu đối này nguyên văn là "Tế Liễu hà tế tai? Mi tế yêu tế lăng ba tế, thả hỉ tâm tư cánh tế, Cao lang thành cao hĩ! Phẩm cao chí cao văn tự cao, đãn nguyện thọ số vưu cao", có chỗ chơi chữ không dịch được vì chữ "tế" ở vế đầu vừa có nghĩa là nhỏ bé, vừa có nghĩa là tỉ mỉ, tinh tế.

Lại hơn một năm nữa, sinh vừa hai mươi lăm tuổi, nàng không cho đi xa, mà đi đâu về hơi muộn thì nàng sai đầy tớ nối nhau đi mời gọi về, bạn bè sinh vì vậy có người lấy đó để đùa cợt chế diễu. Một hôm sinh tới nhà bạn uống rượu, thấy trong người mỏi mệt nên ra về, giữa đường ngã ngựa chết. Lúc ấy mới đầu mùa hè, may mà quan tài vải liệm đã chuẩn bị đầy đủ cả, người làng mới bắt đầu khâm phục Tế Liễu. Phúc lên mười tuổi thì bắt đầu đi học, nhưng sau khi cha chết lại đâm ra biếng nhác không chịu đọc sách cứ trốn học đi chơi với đám trẻ chăn trâu. Nàng trách mắng cũng không chừa, kế đánh đòn mà vẫn bướng bỉnh chứng nào tật ấy như cũ. Nàng không biết làm sao, bèn gọi vào răn dạy, nói "Nếu ngươi không muốn học chữ thì làm sao ép được. Nhưng nhà ta nghèo, không ai được ngồi ăn không. Ngươi phải thay quần áo, theo bọn đầy tớ làm lụng, nếu không thì ta đánh đòn đừng trách". Rồi bắt mặc áo rách, sai đi chăn heo, về tới nhà thì phải xách nước nấu cơm, ăn uống như đám tôi tớ.

Được vài hôm Phúc thấy khổ quá, tới quỳ trước sân khóc lóc, xin lại đi học. Nàng quay mặt vào vách im lặng như không nghe thấy, Phúc bất đắc dĩ cầm roi khóc lóc đi ra. Đến cuối thu Phúc hết đường xoay xở, mình không áo, thân không giày, mưa lạnh thấu xương, đầu bù tóc rối như ăn mày. Người làng ai thấy cũng thương hại, những kẻ lấy vợ kế đều lấy việc Tế Liễu làm răn, chê bai dè bỉu đủ điều, nàng cũng nghe biết song vẫn thản nhiên không hề để ý. Phúc khổ quá chịu không nổi, bỏ heo trốn đi, nàng cũng mặc kệ không hỏi gì tới. Được vài tháng Phúc không có chỗ nào cho ăn, tiều tụy tự tìm về nhưng không dám vào nhà, năn nỉ người đàn bà láng giềng qua nói giúp với mẹ. Nàng nói "Nếu chịu nổi một trăm gậy thì vào đây gặp ta, còn nếu không thì cứ đi đi cho sớm", Phúc nghe thế chạy mau vào nhà, khóc rống lên xin chịu đòn. Nàng hỏi "Nay ngươi đã hối lỗi rồi sao?", Phúc thưa "Con hối lỗi rồi". Nàng nói "Đã biết hối lỗi rồi thì không cần đánh nữa, cứ về yên phận chăn heo, nếu tái phạm sẽ không tha". Phúc khóc lớn thưa "Xin mẹ cứ đánh một trăm gậy nhưng cho con được đi học lại". Nàng không nghe, người đàn bà láng giềng khuyên giải mãi mới ưng thuận. Bèn sai Phúc tắm rửa, cho mặc áo mớì, bắt đi học chung với em là Hỗ, từ đó ra sức học hành, khác hẳn ngày trước.

Được vài năm Phúc vào học ở trường tỉnh, có quan Tuần phủ là Dương công đọc thấy văn bài cho là có tài, hàng tháng cấp thêm tiền gạo giúp đỡ việc học. Hỗ thì rất ngu độn, đi học mấy năm vẫn không viết được tên họ. Mẹ bắt bỏ học về làm ruộng, nhưng Hỗ quen sung sướng ngại cực khổ. Mẹ giận nói "Bốn dân ai cũng phải làm việc, ngươi đã không thể học lại không muốn cày, há chẳng chết đói nơi ngòi rãnh à?". Lập tức đánh cho một trận, từ đó bắt theo đám tôi tớ làm ruộng, sáng nào dậy muộn thì bị chửi mắng. Đồ mặc thức ăn có thứ đẹp cái ngon thì mẹ chọn dành cho anh, Hỗ không dám nói ra nhưng lòng vẫn tức tối. Hết mùa làm ruộng, mẹ xuất tiền đưa cho sai theo học buôn bán, Hỗ lại say mê cờ bạc, có bao nhiêu tiền nướng sạch cả, rồi về đặt điều là gặp phải trộm cướp, đổ cho số phận để đánh lừa mẹ. Mẹ biết, đánh cho một trận gần chết, Phúc bò rạp xuống năn nỉ xin chịu đòn thay em, Tế Liễu mới nguôi giận.

Từ đó mỗi khi Hỗ ra khỏi nhà là mẹ sai người theo dõi gắt gao, nên dần dần cũng tiêu pha dè sẻn hơn, có điều chỉ là bất đắc dĩ chừ không phải thật lòng muốn như vậy. Một hôm xin mẹ cho theo bạn buôn tới huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) buôn bán, thật ra là mượn cớ đi xa để mặc sức chơi bời, nhưng trong lòng lo lắng chỉ sợ mẹ không chịu. Mẹ nghe nói thản nhiên chẳng nghĩ ngợi gì, đưa ngay cho ba mươi lượng vàng vụn để làm vốn, rồi đưa thêm một đĩnh vàng lớn, nói "Đây là của ông nội ngươi dành dụm lúc làm quan để lại, không được tiêu mất, đưa ngươi dằn túi để phòng lúc cần kíp thôi. Vả lại ngươi mới học đi buôn, ta cũng chẳng dám mong lãi nhiều, chỉ cần không bị hụt vào ba mươi lượng vàng này là được rồi". Lúc Hỗ lên đường còn dặn đi dặn lại, Hỗ dạ dạ ra đi, vui vẻ đắc ý lắm.

Tới đất Lạc, Hỗ từ biệt hết các bạn buôn, tới ở nhà ca kỹ họ Lý, chỉ qua hơn mười đêm đã gần hết ba mươi lượng vàng. Nhưng nghĩ trong túi còn đỉnh vàng lớn nên đầu tiên chưa lo lắng gì, đến lúc chặt ra trả tiền mới biết chỉ là vàng giả, hoảng sợ tái cả mặt. Mụ chủ thấy thế buông lời châm chọc mai mỉa, Hỗ vô cùng lo lắng nhưng túi rỗng không biết xoay xở vào đâu, song nàng ca kỹ còn nghĩ tới tình nghĩa chưa trở mặt ngay. Giây lát có hai người mang dây sấn vào trói nghiến Hỗ, Hỗ hoảng sợ không biết vì sao, van vỉ hỏi thăm mới rõ rằng nàng ca kỹ đã ngầm lấy đĩnh vàng giả sai người đem báo quan. Tới công đường, quan không buồn nghe thưa bẩm gì cả, cứ sai cùm kẹp Hỗ chết đi sống lại mấy lần rồi hạ ngục. Hỗ không có tiền bạc gì nên bị bọn ngục tốt đối xử tàn tệ, phải xin cơm của các bạn tù ăn mới không chết đói.

Hôm Hỗ lên đường, mẹ nói với Phúc rằng "Nhớ là hai mươi ngày nữa ta sẽ sai ngươi tới đất Lạc, ta nhiều việc chỉ sợ quên mất!". Phúc hỏi đi để làm gì thì nàng im lặng buồn rầu nên không dám hỏi nữa, lặng lẽ lui ra. Sau hai mươi ngày, Phúc tới hỏi, mẹ than "Em ngươi bê tha ngày nay cũng như ngươi bỏ học ngày trước vậy, ta mà không chịu tiếng xấu thì làm sao ngươi được như ngày nay? Mọi người đều nói rằng ta nhẫn tâm, nhưng việc nước mắt đẫm gối thì họ không biết đó thôi". Rồi bật khóc, Phúc chĩ kính cẩn đứng im lặng, không dám hỏi han gì. Mẹ khóc xong mới nói "Em ngươi chưa bỏ thói xấu nên ta đưa vàng giả để nó phải chịu khốn khổ, nay chắc đã bị bắt rồi. Quan Tuần phủ đối xử với ngươi rất tốt, ngươi tới cầu khẩn thì nó có thể được thoát chết để sống mà hối lỗi".

Phúc lập tức lên đường, tới đất Lạc thì em đã bị giam ba ngày rồi. Vội vào ngục tìm, thấy Hỗ mặt mũi nhọ nhem như quỷ, gặp anh rơi nước mắt không dám ngước nhìn, Phúc cũng khóc. Lúc ấy Phúc được quan Tuần phủ đối xử rất thân ái, xa gần đều biết tiếng, quan huyện Lạc Thành biết là anh Hỗ, vội tha Hỗ ra. Hỗ về tới nhà sợ mẹ giận, đi bằng đầu gối vào gặp. Mẹ ngoảnh lại hỏi "Ngươi thỏa nguyện rồi chứ?". Hỗ rơi nước mắt không dám lên tiếng. Phúc cũng quỳ xuống, mẹ mới quát bảo đứng dậy. Từ đó Hỗ dốc lòng tu tỉnh, chăm chỉ việc nhà, nếu có lúc nào bê trễ mẹ cũng không trách hỏi gì tới. Suốt mấy tháng không nói tới chuyện đi buôn, cũng muốn xin với mẹ nhưng không dám, bèn nhờ anh nói hộ. Mẹ nghe thế mừng rỡ, đem hết tiền bạc giao cho, Hỗ đi buôn nửa năm đã lãi gấp hai. Năm ấy Phúc thi hương đỗ Cử nhân, ba năm sau lại đỗ Tiến sĩ, em thì buôn bán trở nên giàu có ức vạn. Trong huyện có người tới đất Lạc, gặp được Thái phu nhân, thấy tuổi đã tứ tuần mà dung mạo chỉ như mới hơn ba mươi, ăn mặc giản dị như nhà thường dân mà thôi.

Dị Sử thị nói: Sách Hắc tâm phù ra đời thì áo hoa lau thay đổi*, xưa nay đều giống nhau, thật đáng buồn vậy. Nhưng mẹ kế sợ bị chê bai thì lại nuông chiều con chồng quá mức, đến nỗi cứ mặc kệ con cái phóng túng không hỏi tới một câu, nên đã có biết bao nhiêu người bị con chồng ngược đãi rồi! Nếu chỉ đánh đập con ruột thì người ngoài không cho là ác độc, nhưng đánh con chồng thì lập tức bị chê trách ngay. Như Tế Liễu không chỉ tàn nhẫn với con chồng mà còn khiến con ruột mình trở thành người giỏi, nhưng làm sao mà đem tấm lòng ấy giải bày với người đời, nên không sợ điều tỵ hiềm, không tránh tiếng ác, rốt lại dạy được hai con trở nên một đứa sang một đứa giàu, rỡ mặt với đời, cứng rắn ngay thẳng như thế thì so ra chẳng kém gì đàn ông, chứ đừng nói so với đàn bà.

*Sách Hắc tâm phù... thay đổi: Thanh di lục chép "Trưởng sử Lai Châu là Vu Nghĩa Phương có làm một quyển Hắc tâm phù để truyền lại cho đời sau". Tâm phù là từ dùng chỉ người mẹ kế có đức, nên Hắc tâm phù đây chỉ người mẹ kế tàn ác với con chồng. Áo hoa lau chỉ việc Mẫn Tử Khiên bị mẹ kế ngược đãi, mùa đông cho hai con mình mặc áo bông, cho con chồng là Mẫn Tử Khiên mặc áo hoa lau. Đây ý nói khi chuyện mẹ kế tàn ác với con chồng bị dư luận lên án, thì những bà mẹ kế tàn ác cũng thay đổi thủ đoạn để đối phó với dư luận.

155. Chung Sinh (Chung Sinh)

Chung Khánh Dư là danh sĩ ở huyện Liêu Đông (tỉnh Liêu Dương). Xuống nam thi hương, nghe nói trong vương phủ có vị đạo sĩ biết được chuyện may rủi của người ta, định tìm tới hỏi. Thi nhị trường xong, tới suối Báo Đột (thuộc huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thì gặp, thấy là một đạo nhân hơn sáu mươi tuổi, râu dài tới bụng, tóc bạc phơ phơ. Những người tới hỏi chuyện số may vận rủi chen chúc đông nghịt xung quanh, đạo sĩ đều miễn cuỡng trả lời. Chợt nhìn thấy sinh giữa đám đông, ông ta vui mừng cầm tay nói "Ông đúng là người tâm tính đức hạnh đáng kính". Rồi kéo sinh lên gác trò chuyện, nhân hỏi "Có phải ông muốn biết tương lai không?", sinh vâng dạ. Đạo sĩ nói "Phúc mệnh của ông rất mỏng, song khoa này thi hương cũng có thể hy vọng, có điều e rằng thi đỗ rồi lại không được thấy mặt cha mẹ nữa". Chung vốn có hiếu, nghe thế rơi nước mắt, muốn bỏ thi trở về. Đạo sĩ nói "Nếu bỏ thi lần này thì không bao giờ đỗ nổi Cử nhân nữa", sinh đáp "Mẹ mất không được thấy mặt, thật không đáng làm người, dẫu làm tới khanh tướng cũng có gì quý?". Đạo sĩ nói "Kiếp trước ta có túc duyên với ông, ngày nay xin hết sức giúp đỡ".

Rồi lấy thuốc trao cho, nói "Cứ sai người ngày đêm đi gấp về dâng cho lệnh đường, thuốc này uống vào có thể sống thêm bảy hôm, ông thi xong trở về mẹ con vẫn còn kịp nhìn thấy mặt nhau". Sinh nhận thuốc, vội vàng ra về, lòng dạ rối bời, nghĩ rằng sống chết có ngày giờ, mình về sớm được một ngày thì phụng dưỡng mẹ nhiều thêm một ngày, liền gọi đầy tớ thuê ngựa tức khắc lên đường trở về Liêu Đông. Đi được vài dặm bỗng con ngựa quay đầu chạy ngược lại, đánh thì nó đứng ỳ ra, thúc bàn đạp thì nó khuỵu xuống, sinh toát cả mồ hôi cũng không làm sao được. Người đầy tớ bèn khuyên sinh ở lại, sinh không nghe, nhưng thuê con ngựa khác cưỡi thì cũng thế, đến tận chiều tối vẫn không đi được. Người đầy tớ lại khuyên "Ngày mai là thi xong, có gấp gì một ngày một buổi? Ta xin đi ngay mang thuốc về trước thay chủ nhân, thế thì đôi đàng đểu trọn vẹn", sinh bất đắc dĩ đành nghe theo. Hôm sau vào thi, sinh làm bài qua loa cho xong rồi lập tức lên đường trở về ngày đêm không nghỉ. Về tới nhà thì biết bệnh mẹ đang ngặt nghèo nhưng uống thuốc xong cũng hơi giảm. Sinh vào đứng trước giường rơi nước mắt, mẹ ra hiệu bảo nín khóc, rồi cầm tay sinh vui vẻ nói "Mẹ vừa nằm mộng thấy xuống tới âm ty thấy Diêm Vương nét mặt ôn hòa nói rằng: Xét ngươi bình sinh không phạm tội gì lớn, nghĩ tới con ngươi chí hiếu nên cho ngươi sống thêm một kỷ (mười hai năm) nữa".

Sinh cũng mừng, vài ngày sau quả nhiên thấy mẹ khỏe mạnh lại như cũ. Không bao lâu lại có tin báo thi đỗ, sinh chào mẹ tới đất Tế (tức vùng Sơn Đông), đút tiền cho quan Nội giám trong vương phủ xin gặp đạo sĩ. Đạo sĩ vui vẻ ra gặp, sinh bèn lạy tạ. Đạo sĩ nói "ông vừa đậu cao, Thái phu nhân lại được tăng thêm tuổi thọ, đó đều là nhờ ông có đức tốt, chứ bần đạo có tài cán gì đâu?". Sinh càng phục tài tiên tri, lại xin hỏi việc chung thân. Đạo sĩ đáp "Ông không quý hiển lớn được, song được sống lâu là đủ rồi. Kiếp trước ông là đạo hữu với ta, có lần lấy đá ném con chó, lỡ tay giết chết nó, nay nó đã đầu thai làm ngựa rồi. Theo số mệnh mà bàn thì lẽ ra ông phải chết sớm, nhung nhờ lòng chí hiếu làm cảm động tới thần minh nên đã được giải tinh nhập hạn, chắc sẽ không hề gì. Nhưng phu nhân kiếp trước là đàn bà không giữ trinh tiết, lẽ ra kiếp này phải góa chồng sớm, nay ông nhờ có đức được kéo dài tuổi thọ thì lại không xứng đôi nữa, e rằng sang năm đài gương phải đổ". Sinh bùi ngùi hồi lâu rồi hỏi vợ kế của mình ở đâu, đạo sĩ đáp "Ở Trung Châu (thuộc tỉnh Hà Nam), năm nay được mười bốn tuổi". Khi chia tay lại dặn sinh "Nếu gặp tai họa thì cứ chạy mau về phía đông nam".

Hơn năm sau, quả nhiên vợ sinh mắc bệnh chết. Sinh có người cậu làm Huyện lệnh Tây Giang (tỉnh Quảng Đông), mẹ sai đi thăm. Lúc về tiện đường sinh ghé qua Trung Châu xem lời tiên đoán của đạo sĩ về người vợ kế có nghiệm không. Ngẫu nhiên tới một thôn đang có đám diễn tuồng cạnh bờ sông, trai gái chen chúc đứng xem đông nghẹt, sinh vừa thả cương cho ngựa chậm rãi đi vòng qua thì bỗng có con ngựa đực đứt cương đuổi theo làm ngựa của sinh vọt chạy. Sinh ngoảnh lại lấy roi đánh vào đầu con ngựa đực, nó hoảng sợ lồng lên. Lúc ấy thế tử trong vương phủ mới được sáu bảy tuổi, người vú đang bế ngồi chơi trên đê, con ngựa đực xông về phía đó, đám tùy tùng đều không kịp chặn lại nên vương tủ bị xô ngã xuống sông. Đám tùy tùng quát tháo ầm ĩ tranh nhau đuổi bắt, sinh giục ngựa chạy bán sống bán chết, chợt nhớ lời đạo sĩ dặn bèn ra sức chạy về phía đông nam. Được hơn hai mươi dặm thì vào tới một thôn, thấy có ông già đúng trước cổng nhà nọ liền xuống ngựa vái chào. Ông già mời vào, tự xưng là họ Phương rồi hỏi khách từ đâu tới. Sinh quỳ rạp xuấng đất kể lại sự tình, ông già nói "Không hề gì, xin cứ nghỉ lại đây" rồi sai người đi nghe ngóng.

Đến tối được tin mới biết là thế tử trong vương phủ, cả sợ nói "Nhà ai khác thì ta còn có thể giúp, chứ cục cưng này thì không làm thế nào được". Sinh năn nỉ mãi, ông già ngẫm nghĩ rồi nói "Quả thật là không giúp được, nhưng mời khách cứ nghỉ lại qua đêm nay ở đây, nghe ngóng xem tình thế ra sao mới tính tiếp được". Sinh buổn rầu lo lắng, cả đêm không chợp mắt. Hôm sau nghe tin đã có trát nã bắt sinh, ai chứa chấp cũng sẽ bị xử tử. Ông già có vẻ lo lắng im lặng trở vào, sinh nửa sợ nửa ngờ không sao trấn tĩnh được. Nửa đêm, ông già qua gõ cửa phòng, vào ngồi một lúc rồi hỏi vợ sinh bao nhiêu tuổi. Sinh nói là góa vợ, ông già mừng rỡ nói "Kế ta ắt xong!!'. Sinh hỏi kế thế nào, ông đáp "Anh rể ta mộ đạo Phật, vào núi Nam Sơn tu hành, chị ta nay đã qua đời, để lại một đứa con gái được người lão bộc chăm sóc cũng khá thông minh, xin gả cho ông, có đưọc không?". Sinh mừng vì hợp với lời đạo sĩ, lại thành có kẻ thân thích ở nơi xa, có thể thoát nạn, bèn nói "Tiểu sinh thật rất may mắn, nhưng đang là kẻ có tội ở xa nhà, rất sợ làm lụy cả cha vợ". Ông già nói "Như thế là tính kế cho ông đấy. Anh rể ta đạo thuật thông thần nhưng lâu lắm không hỏi tới việc đời rồi. Có điều đám cưới xong ông cứ bàn với cháu ta, thế nào cũng có cách mà". Sinh càng mừng, liền qua nhà cô gái làm lễ cưới.

Cô gái đã mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng, nhưng sinh cứ thấy mặt lại thở dài Cô gái hỏi "Thiếp dù quê mùa xấu xí, nhung chẳng lẽ chàng lại ghét bỏ sao?". Sinh tạ lỗi đáp "Nương tử là người tiên, ta được cưới làm vợ là may lắm, chỉ vì đang có tai họa nên sợ sẽ có chuyện ngang trái cho nhau", rồi kể thật hết sự tình. Cô gái oán cậu không phải là giống người, tai họa tày trời như vậy mà đã không bàn trước cũng chẳng nói rõ, làm mình sa hầm sẩy hang. Sinh quỳ rạp xuống nói "Đây là vì tiểu sinh cố chết lạy lục cầu khẩn, nên cậu nhân từ nhưng hết cách giúp, chỉ biết nàng có thể cứu sống người đã chết, đắp thịt cho xương khô thôi. Ta thật không xứng đáng sánh duyên với nàng, nhưng may mà nhà cửa cũng không đến nỗi nào, nếu được sống sót thì ngày sau xin lấy hương hoa thờ phụng". Cô gái than "Chuyện đã tới nước này thì còn nói gì nữa! Nhưng cha đã lập chùa để tu, dứt hết lòng yêu thương con cái của người đời, có điều không còn cách nào thì phải cùng tới đó cầu khẩn, sợ là phải quỳ một phen cực khổ đây". Rồi đó nàng thức trắng đêm lấy nệm dày khâu làm đệm độn vào đầu gối cho hai người, lấy áo dài mặc phủ ra bên ngoài, rồi sai gọi kiệu lên núi.

Vào Nam Sơn hơn mười dặm thì núi cao đường dốc, quanh co hiểm trở không sao đi kiệu nữa, phải xuống đi bộ. Cô gái đi rất khó khăn, sinh kéo tay dìu đỡ, vất vả hồi lâu mới lên tới trên núi. Thấy cổng chùa không còn xa, bèn cùng ngồi xuống nghỉ chân. Cô gái thở hổn hển, mồ hôi ròng ròng, son phấn trôi hết, sinh thấy thế thương xót nói "Vì ta mà nàng phải chịu khổ tới nỗi này". Cô gái vừa thở vừa đáp "Chỉ sợ bấy nhiêu còn chưa phải là khốn khổ đâu". Hai người nghỉ giây lát rồi đưa nhau vào chùa, lạy Phật rồi vào trong, quanh co một lúc thì tới thiền đường. Thấy một nhà sư già ngồi xếp bằng, mắt nhắm nghiền như người mù, có một tiểu đồng cầm phất trần đứng hầu. Trong phương trượng quét dọn rất sạch sẽ, nhưng trước chỗ sư ngồi lại bày đầy đá sỏi, la liệt như sao trên trời. Cô gáỉ không dám chọn lựa gì, bước tới quỳ ngay xuống, sinh cũng quỳ xuống phía sau. Sư hé mắt nhìn rồi nhắm ngay lại cô gái làm lễ ra mắt rồi nói "Lâu rồi không tới thăm cha, nay con vừa lấy chồng, nên đưa chồng con tới chào". Hồi lâu nhà sư mới mở mắt nói "Con vãi con này chỉ làm khổ ta", rồi lại im lặng. Vợ chồng quỳ hồi lâu chồn cả chân, đá sỏi nghiến vào đầu gối, đau không chịu nổi. Lại một hồi lâu sư mới hỏi "Đã dắt ngựa lại chưa?", cô gái thưa chưa. Sư nói "Vợ chồng về mau đi, dắt nó tới đây ngay". Hai người lạy rồi đứng lên, khập khiễng dìu nhau đi, về tới nhà lập tức cho dắt con ngựa của sinh vào núi, nhưng chỉ làm đúng theo lời sư dặn chứ không rõ ông có ý tứ gì.

Vài hôm sau nghe đồn là đã bắt được tội nhân làm vương tử rơi xuống sông đem chém, vợ chồng mừng lắm. Liền sau đó trong núi sai tiểu đồng tới, đưa sinh một đoạn gậy trúc bị chặt đứt, nói "Kẻ chết thay là ông này đấy", rồi bảo sinh cúng tế để giải oan cho cây trúc. Sinh nhìn thì thấy chỗ bị chặt có vết máu, bèn khấn khứa rồi chôn cất: Nhưng vợ chồng cũng không dám ở đó lâu, nên ngay trong đêm đưa nhau về Liêu Dương.

156. Mơ Thấy Chó Sói (Mộng Lang)

Ông họ Bạch là người tỉnh Trực Lệ. Con trai lớn là Giáp đi làm quan ở phương nam, hai năm đường xa bặt tin. Có người họ Đinh là họ hàng xa tới thăm, ông lâu không gặp nên bày tiệc khoản đãi. Đinh vốn là phù thủy, lúc chuyện trò ông hỏi việc dưới âm phủ, Đinh trả lời có nhiều điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ mỉm cười. Kế chia tay, vài hôm sau ông vừa đi nằm thấy Đinh lại tới, mời cùng đi chơi. Ông đi theo, vào tới một tòa thành, lát sau Đinh chỉ một cái cổng nói "Cháu ông ở trong ấy đấy". Lúc ấy ông có đứa cháu con người chị đang làm Tri huyện ở đất Tấn (vùng Sơn Tây), ngạc nhiên hỏi "Sao nó lại ở đây?". Đinh đáp "Nếu ông không tin, cứ vào sẽ biết". Ông vào, quả thấy cháu mặc áo đội mũ Ngự sử ngồi trên công đường, quân hầu vác cờ cầm kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ra, nói "Còn nha môn của công tử cách đây cũng không xa, ông có muốn tới xem không?", ông bằng lòng. Giây lát tới một tòa nhà, Đinh bảo "Ông vào đây!". Nhìn vào cổng thấy một con sói lớn chắn đường, sợ quá không dám bước tới, Đinh lại nói "Ông cứ vào đây!". Qua một lần cổng nữa thấy trên thềm dưới sân toàn là sói, con nằm con ngồi. Nhìn tới thềm thì thấy xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ hãi, Đinh bèn lấy mình che cho ông đi vào.

Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm, mời ngồi rồi gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Chợt có con sói lớn ngoạm một xác người chết vào. Ông run bần bật đứng lên hỏi "Cái đó dùng làm gì?", Giáp đáp "Để làm cơm". Ông vội ngăn cản, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng bị đàn sói cản lại. Đang còn chưa quyết lui tới ra sao chợt thấy lũ sói kêu gào chạy tứ tán, con chui vào gầm giường, con rúc xuống dưới ghế, ngạc nhiên không rõ vì sao. Giây lát có hai lục sĩ mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây sắt ra trói Giáp, Giáp ngã lăn xuống đất hóa thành con cọp, răng nhe lởm chởm. Một người tuốt kiếm sắc toan chặt đầu, người kia ngăn lại nói "Khoan đã, khoan đã! Đó là việc tháng tư năm sau, cứ tạm bẻ răng nó trước". Rồi rút ngọn chùy lớn ra đập, răng cọp gảy rơi xuống đất, cọp đau quá rống vang. Ông khiếp sợ, chợt tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ, lấy làm lạ cho người mời Đinh nhưng Đinh từ chối không tới.

Ông bèn ghi lại giấc mơ, sai con thứ đưa thư tới cho Giáp, răn bảo thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gảy hết, sợ hãi hỏi thăm, thì ra vì say rượu ngã ngựa. Hỏi lại thời gian thì đúng ngày cha nằm mơ, càng sợ hãi, đưa thư của cha ra. Giáp đọc thư tái mặt, một lúc mới nói "Đó là ảo mộng ngẫu nhiên phù hợp, có gì lạ". Lúc ấy Giáp đang hối lộ quan trên để được tiến cử nên không để bụng về giấc mộng gở của cha. Người em ở lại vài hôm thấy lũ nha lại sâu mọt đầy công đường, kẻ hối lộ người chạy chọt nườm nượp ra vào đến khuya vẫn không ngớt, rơi nước mắt can anh. Giáp nói "Em ở nhà quê nên không biết điều cốt yếu của việc làm quan. Quyền thăng hay truất mình là ở quan trên chứ không phải trăm họ, nên cứ quan trên vui lòng tức là quan tốt chứ thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?". Người em biết không thể can ngăn được bèn trở về kể hết cho cha. ông Bạch nghe thế khóc lớn, không biết làm sao, chỉ còn cách bỏ tiền bạc ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu khấn thần linh, chỉ xin nếu thằng con ngỗ nghịch bị báo oán thì đừng làm lụy cả vợ con.

Năm sau, có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người chúc mừng tới chật cổng. Ông chỉ than thở nằm bẹp, thác bệnh không ra tiếp một ai. Không bao lâu nghe tin con trai về kinh gặp cướp, thầy tớ đều bị giết. Ông trở dậy nói với mọi người "Cơn giận của quỷ thần chỉ dành cho riêng nó, ơn che chở cho nhà ta như vậy không phải không sâu nặng đâu", rồi thắp hương lạy tạ. Người tới an ủi đều cho rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt trên đường, riêng ông tin chắc không hề nghi ngờ, cứ định ngày xây mộ. Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước là tháng tư Giáp thôi chức lên đường, vừa ra khỏi huyện liền gặp cướp, dốc hết rương hòm ra nộp nhưng chúng nói "Bọn ta tới đây để rửa nỗi căm tức của dân cả một huyện, đâu phải chỉ vì bấy nhiêu!", rồi chém đầu Giáp. Lại hỏi đám gia nhân rằng Tư Đại Thành là ai? Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp kẻ dữ làm điều ác. Đám gia nhân đều chỉ vào y, bọn cướp cũng chém luôn. Lại có bốn tên nha lại sâu mọt là tay sai vơ vét tiền bạc cho Giáp, được Giáp đưa theo về kinh cũng bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của cải, chất lên ngựa phóng đi.

Hồn Giáp nằm bên đường, thấy một vị quan lớn đi ngang hỏi người bị giết là ai, toán quân mở đường bẩm "Là Tri huyện họ Bạch ở huyện mỗ". Vị quan nói "Đó là con họ Bạch, không nên để y cuối đời phải nhìn thấy cảnh thảm khốc này, cứ chắp đầu lại cho hắn". Lập tức có một người nhặt đầu Giáp đặt lên cổ, nói "Kẻ gian tà không cần chắp cho ngay ngắn, cứ cho vai đỡ cằm là được", rồi bỏ đi. Lát sau Giáp sống lại, vợ con tới nhặt xác thấy còn thoi thóp bèn chở về, từ từ đổ nước cháo cho, cũng uống được nhưng phải sống nhờ ở quán trọ vì nghèo quá không về được. Khoảng nửa năm, ông Bạch được tin đích xác, sai con thứ tới đón về. Giáp tuy sống lại nhưng mắt nhìn thấy lưng, không giống con người nữa. Con trai người chị ông Bạch thì làm quan có tiếng tốt, năm ấy được tiến cử làm Ngự sử, đều đúng như ông mơ thấy.

Dị Sử thị nói: Trộm than rằng trong thiên hạ quan là cọp mà lại là sói, ở đâu cũng vậy. Cho dù quan không phải là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói, huống hồ kẻ làm quan còn dữ hơn cả cọp sao? Phàm điều người ta lo là không thể nhìn thấy phía sau mà thôi, đây cho sống lại mà lại còn làm cho nhìn thấy được phía sau, bài học của quỷ thần mới sâu xa làm sao!

157. Cung Trời (Thiên Cung)

Quách sinh là người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều có bà già mang cho một bình rượu, lấy làm lạ vì không biết duyên cớ. Bà già cười nói "Không cần hỏi, cứ uống vào sẽ có chuyện hay", rồi bỏ đi. Sinh mở bình ngửi thử, thấy thơm lừng bèn uống. Chọt say lịm không biết gì nữa, khi tỉnh dậy thì thấy đang nằm chung với một người, sờ thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, té ra là con gái, hỏi thì không đáp, Quách, bèn làm luôn. Kế lấy tay mò lên vách thấy toàn bằng đá, không khí ẩm thấp đầy hơi đất như trong mồ, cả sợ ngờ là bị ma dụ. Nhân hỏi cô gái "Nàng là thần gì?", nàng đáp "Ta không phải là thần mà là tiên, đây là động phủ. Ta cùng ngươi vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Qua một lần cửa nữa, chỗ có ánh sáng lọt vào là nơi đại tiểu tiện". Nói rồi trở dậy đóng cửa đi mất. Hồi lâu Quách thấy đói, có nữ đồng mang bánh bao, miến vịt vào, cứ cho ăn mò trong bóng tối, tối đen như mục không biết ngày hay đêm. Không bao lâu cô gái vào ngủ mới biết đã là đêm, Quách nói "Ngày không ánh mặt trời, đêm không ánh đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu nếu cứ thế này thì Hằng Nga khác gì La Sát, thiên đường khác gì địa ngục?". Cô gái cười nói "Vì ngươi là người trần tục, nhiều lời dễ lộ nên ta không muốn ra mặt gặp nhau. Vả lại mò mẫm trong bóng tối thì xấu đẹp cũng có thể biết, cần gì đèn đuốc?".

Ở vài hôm, Quách vô cùng buồn chán, mấy lần xin về. Cô gái nói "Đêm mai cùng chàng lên Thiên cung chơi một lần rồi sẽ chia tay". Hôm sau chợt có a hoàn nhỏ cầm đèn lồng vào nóí "Nương tử chờ chàng đã lâu". Quách theo ra, dưới ánh sao đêm vằng vặc chỉ thấy vô số lầu gác. Qua mấy đoạn hành lang chạm vẽ tới một nơi trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bước vào thì thấy một mỹ nhân trang điểm lộng lẫy ngồi quay mặt về hướng nam, tuổi khoảng hai mươi, áo gấm lóa mắt, đầu đính minh châu rủ xuống bốn phía, dưới đất bày đầy đuốc ngắn soi rõ cả gấu quần, đúng là người trời. Quách hoang mang váng vất, bất giác quỳ xuống, cô gái sai tỳ nữ đỡ dậy dìu vào ghế. Phút chốc các món bát trân bày lên la liệt cô gái rót rượu nói "Uống chén này để đưa chàng về". Quách khom người thưa "Trước giáp mặt mà không biết người tiên, thật rất thẹn thùng, nếu cho chuộc lỗi, xin làm kẻ bầy tôi trung thành suốt đời". Cô gái quay nhìn tỳ nữ mỉm cười rồi sai dọn tiệc vào phòng ngủ. Trong phòng cũng màn gấm tua thêu, chăn là thơm phức, nàng bảo Quách ngồi lên giường. Uống thêm một lúc, mấy lần nói "Chàng xa nhà đã lâu, nay tạm về cũng không sao". Hết canh một Quách vẫn chưa cáo từ, cô gái gọi tỳ nữ cầm đèn lổng tiễn ra. Quách im lặng, giả say lăn ra giường, lay gọi gì cũng không động, nàng bèn sai các tỳ nữ đỡ dậy cỡi quần áo ra, một nàng vuốt chỗ kín của Quách nói "Gã trai này mặt mũi ôn nhã mà sao cái này chẳng có chút gì văn vẻ!", đặt Quách xuống giường rồi cùng cười rộ đi ra.

Cô gái cũng lên nằm, Quách trở mình, nàng hỏi "Say lắm không?", Quách đáp "Tiểu sinh có say đâu! Chỉ là mới nhìn thấy người tiên tâm thần đã điên đảo đó thôi". Cô gái nói "Đây là Thiên cung, trời chưa sáng đã phải ra, nếu vào động phủ thấy buồn chán thì chẳng bằng sớm từ biệt", Quách nói "Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa, mò cánh ngửi mùi mà không có đèn đuốc, tình cảnh ấy làm sao chịu được?". Nàng cười, sai lấy thêm đèn đuốc. Vừa sang canh tư đã gọi tỳ nữ cầm đèn ôm áo đưa Quách ra. Vào động phủ thấy trần thiết tinh xảo, chỗ ngủ lót nệm da, trải thảm lông dày cả tấc. Quách đã cởi giày khoác chăn mà người tỳ nữ còn bịn rịn chưa đi, để ý nhìn kỹ thấy dung mạo xinh xắn bèn đùa hỏi "Người chê ta không văn vẻ là nàng phải không?". Cô ta cười đá vào cái gối nói "Chàng cứ nằm uỡn ra đi, đừng có lắm lời" Nhìn chiếc giày của cô ta thấy đính viên ngọc trai to bằng hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo cô ta vào lòng, ôm ấp vuốt ve, cô ta không kìm được cứ rên lên. Quách hỏi bao nhiêu tuổi, đáp mười bảy. Hỏi "Xử nữ cũng biết tình sao?", đáp "Thiếp không còn là xử nữ, nhưng hoang vắng đã ba năm rồi". Quách hỏi dò tên họ quê quán thứ bậc người tiên, cô ta nói "Đừng hỏi! Đây dù không phải thượng giới cũng là cõi trần hiếm có, nếu cứ muốn biết rõ e không có đất mà chôn đâu", Quách nghe thế không dám hỏi nữa.

Đêm sau cô gái quả mang đèn tới cùng nhau ăn ngủ, ngày nào cũng vậy. Một đêm nàng vào nói "Vẫn mong cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, không thể lưu chàng ở đây được nữa, xin cùng chuốc chén từ biệt". Quách rơi nước mắt, xin cho chiếc áo lót làm kỷ vật. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng ròng, trăm hạt ngọc châu. Uống cạn ba chén, Quách bỗng say lịm. Khi tỉnh dậy thấy tay chân như bị trói chặt, không duỗi chân được, cũng không ngóc đầu lên được. Gắng sức lăn lộn thì nhào xuống giường, mò mẫm thấy mình bị nhét vào cái túi gấm, ngoài có dây buộc chặt. Ngồi lên ngẫm nghĩ, thấy cái giường mờ mờ mới biết đang trong phòng sách nhà mình. Lúc ấy Quách rời nhà đã ba tháng, người nhà đều cho là đã chết. Quách lúc đầu không dám kể rõ chuyện, sợ bị tiên trừng phạt, nhưng lòng vẫn lạ lùng ngờ vực, thỉnh thoảng lại lén kể cho bạn bè, nhưng không ai biết duyên cớ do đâu. Cái túi chăn vẫn để ở đầu giường, mùi hương ngát phòng, xem kỹ thì là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, trân trọng cất đi.

Sau có quan lớn Mỗ nghe chuyện, hỏi kỹ rồi cười nói "Đó là người quen của Giả hậu*, chứ người tiên nào lại làm thế. Nhưng nên giữ kín chuyện này, lộ ra thì chết cả họ đấy". Có người thầy đồng vẫn ra vào các nhà quyền quý nói rằng hình dáng lầu gác như thế thì rất giống dinh Nghiêm Đông**. Quách nghe thế khiếp đảm, đưa cả gia đình đi biệt xứ, không bao lâu Nghiêm bị giết mới trỡ về.

*Người quen của Gia hậu: Tấn thư chép vợ Tấn Huệ đế 1à Giả thị hoang dâm, thường bắt cóc đàn ông con trai đẹp trai khỏe mạnh trong dân gian về để hành lạc, nói với họ rằng mình là thần tiên.

** Nghiêm Đông: tức Nghiêm Thế Phồn, quyền thần triều Minh, nổi tiếng độc ác xa hoa.

Dị Sử thị nói: Gác cao sáng rỡ, hương nức màn thêu, tỳ nữ trẻ đẹp, giày đính minh châu, nếu không phải nhà quyền gian phóng túng, hào quý kiêu xa thì sao được như vậy? Thẻ tính dâm vừa ném, nhà vàng biến thành lãnh cung, ống nhổ thơm chưa khô, ruộng tình đã tràn cỏ dại*. Giường không não ruột, đuốc tắt tiêu hồn, mày cau trước đài vàng, mắt mờ trong trướng gấm. Khiến cho kẻ kia nhân nhờ chén rượu, thẳng lối cung tiên, giữa làng ôn nhu, ngỡ người tiên tử. Mắng kẻ sang dâm loạn, chẳng đủ thẹn người nhưng ruộng tốt bỏ hoang**, cũng đủ tự răn vậy.

* Thẻ tính dâm... cỏ dại: thẻ tính dâm dịch chữ "dâm trù", ống nhổ thơm dịch chữ "thóa hồ" tức "hương thóa hồ". Sử chép Nghiêm Thế Phồn mỗi lần ngủ với đám tỳ thiếp xong thì lấy khăn lau mồ hôi bằng the trắng lau chùi rồi xếp lại cất ở đầu giường, cuối năm mang ra đếm, gọi là "thẻ tính dâm". Lại khi khạc nhổ thì bắt các tỳ nữ lấy miệng hứng, cứ ho hắng thì đám tỳ thiếp xinh đẹp xúm lại há miệng ra chờ, nhân gọi đó là "ống nhổ thơm". Cả câu ý nói được người giàu sang yêu thương không bao lâu đã bị bỏ rơi không đoái hoài tới nữa.

** Ruộng tốt bỏ hoang: chỉ người đàn bà đẹp phải lẻ loi một mình. Câu này ý nói mỹ nhân bắt Quách là một nàng hầu xinh đẹp bị bỏ rơi.

158. Bản Án Oan Khuất (Oan Ngục)

Chu sinh người huyện Dương Cốc (tỉnh Sơn Đông), tuổi trẻ tính hời hợt, ưa đùa cợt. Vì vợ chết nên tới gặp bà mối, nhân thấy vợ người láng giềng của bà ta xinh đẹp bèn nói đùa "Quý hàng xóm đẹp quá, nếu ta cưới được thì hay lắm". Bà mối cũng đùa rằng "Cứ giết chồng người ta đi, thì ta sẽ tính giùm cho". Sinh cười nói "Được thôi". Hơn tháng sau, chồng người ấy đi đòi nợ bị giết ngoài đồng. Quan huyện sai bắt chức dịch trong làng, đánh đập tóe máu nhưng rốt lại vẫn không có manh mối gì. Chỉ có bà mối kể lại chuyện sinh nói đùa, quan vì thế nghi là Chu sinh, sai bắt tới hỏi thì nhất quyết không nhận. Quan huyện lại ngờ rằng người đàn bà tư thông với sinh, sai bắt luôn, tra tấn rất tàn khốc, người đàn bà không chịu nổi bèn nhận bừa. Quan lại tra hỏi Chu, Chu nói "Đàn bà yếu ớt không chịu đau nổi nên nhận bừa, có điều đã chết oan còn mang thêm tiếng xấu bất trinh, giả như quỷ thần vô tri thì ta cũng không nỡ. Thôi để ta khai thật, đúng đấy, ta muốn giết chồng để lấy người vợ, chuyện này đều do ta làm, nàng ta không biết gì đâu".

Hỏi có chứng cớ gì không, sinh đáp là có chiếc áo vấy máu làm bằng. Quan sai tới nhà lục soát thì không thấy, lại tra tấn, Chu chết đi sống lại mấy lần bèn nói "Đây là vì mẹ ta không nỡ đưa ra để ta phải chết thôi, để ta tự đi lấy". Quan cho giải về nhà, sinh nói với mẹ "Đưa áo con ra thì con phải chết, mà không đưa ra thì con cũng chết. Đàng nào con cũng chết, thôi mẹ đưa ngay ra đây đi". Bà mẹ khóc đi vào phòng, lát sau cầm tấm áo đưa ra. Quan khám nghiệm thấy đúng là có vết máu, kết án xử chém sinh, bàn đi xét lại nhiều lần không ai nói gì khác, được hơn một năm thì định ngày hành quyết. Hôm ấy quan huyện vừa mới điểm danh phạm nhân chợt có một người đi thẳng vào công đường, trợn mắt nhìn quan huyện mắng lớn "Ngươi mù mờ như thế làm sao coi việc dân?". Bọn nha dịch mấy mươi người xúm vào bắt, người ấy gạt tay một cái, cả đám ngã dúi dụi. Quan huyện khiếp sợ toan chạy, người ấy nói lớn "Ta là Chu Tướng quân dưới trướng Quan Đế* đây! Tên quan ngu xuẩn kia mà nhúc nhích thì ta giết chết tươi đấy!". Quan huyện run sợ đứng im, người ấy nói "Kẻ giết người là Cung Tiêu, chứ họ Chu có dính líu gì tới?". Nói xong ngã lăn xuống đất ngất đi, lát sau tỉnh lại, mặt không còn chút máu, hỏi tên họ thì là Cung Tiêu.

*Chu tướng quân... Quan Đế. tức Chu Thương, cận tướng của Quan Vũ nhà Thục Hán, khi Quan Vũ bị Đông Ngô giết thì tự tử chết theo, về sau cũng được thờ cúng chung với Quan Vũ, là người mặt đen cầm thanh long đao đứng hầu vẫn thường được vẽ trong các bức tranh Quan Vũ đọc kinh Xuân thu trước nay.

Bắt lấy tra hỏi thì y nhận hết tội. Té ra Cung vốn là kẻ liều lĩnh, biết là người kia đi đòi nợ về, cho rằng có mang nhiều tiền trong người bèn giết chết, nhưng chẳng được đồng nào. Nghe Chu sinh nhận tội bừa, trong lòng ngầm lấy làm may mắn, nhưng hôm ấy bỗng tự đi vào công đường mà không biết gì cả. Quan huyện hỏi Chu lấy chiếc áo vấy máu ở đâu ra, Chu cũng không rõ, gọi mẹ Chu lên hỏi, thì ra là bà cắt cánh tay lấy máu bôi vào, khám tới cánh tay trái của bà thì thấy có vết dao cắt vào còn chưa lành hẳn. Quan huyện cũng kinh ngạc, sau đó bị hặc tội vì vụ này, kế bị cách chức giam cầm rồi chết. Hơn năm sau mẹ người đàn bà muốn gả chồng cho con, nàng cảm nghĩa của Chu, bèn lấy Chu.

Dị Sử thị nói: Xét án là phận sự hàng đầu của kẻ làm quan, vun bồi âm đức hay vùi lấp lẽ trời đều là ở đó nên không thể không cẩn thận vậy. Nóng nảy dữ tợn, làm trái đức hòa thì không những làm việc xét án kéo dài mà còn khiến cho sinh dân thương tổn. Một kẻ đi kiện thì mấy người bỏ ruộng nương, một vụ xử xong thì mười nhà tan cơ nghiệp, há lại coi là chuyện nhỏ sao! Ta thường nói kẻ làm quan không nhận xử kiện nhiều tức là có đức tốt mà không phải chuyện trọng đại thì chẳng cần tra xét, không phải việc khó khăn thì bất tất lưu tâm. Như có bọn dân quê trên núi trong làng, vì ngẫu nhiên tranh nhau con vịt con gà mà đi thưa đi kiện, thì chẳng qua chỉ cần một câu nói của quan trên là đủ thu xếp yên chuyện thôi. Thế mà không chịu chu toàn cho người ta, đòi cả bên nguyên bên bị tới, lập tức đánh đập tra khảo, tới nỗi roi hèo gãy hết, như vậy đâu phải là quan huyện thần minh? Vẫn thấy có ông quan huyện xử kiện vừa phát trát đòi đi thì hầu như đã quên bẵng, mà kẻ sai dịch đi bắt người túi chưa đầy thì không cho thấy trát quan, kẻ thư lại xếp lịch xử tiền chưa cầm thì không chịu trình án kiện, che giấu dằng dai, kéo dài ngày tháng, dân đen chưa kịp ra tới công đường thì xương thịt đã tan nát cả rồi.

Thế mà kẻ nghiễm nhiên làm cha mẹ dân cứ ngủ kỹ trên giường như là vô sự, nào biết rằng trong chốn ngục tù nguy ngập có vô số oan hồn đang thoi thóp dài cổ trông chờ được cứu ra đâu? Nếu đúng kẻ gian ác bất lương, thật không đáng tiếc, nhưng là người thiện lương vô tội, chịu vậy sao kham? Huống chi trong những kẻ bị liên can thì thường kẻ gian ác ít, người lương thiện nhiều, mà người lương thiện lại thường bị hại nhiều gấp bội kẻ gian ác. Tại sao lại như thế? Vì kẻ gian ác thì khó hành hạ, mà người lương thiện thì dễ khinh khi vậy. Cho nên sai dịch chửi mắng, thư lại vòi tiền, đều nhằm vào người lương thiện mà trút lòng tham bạo. Thường dân đen bước vào cửa công như đi trên lửa đỏ, xử án sớm được một ngày là sống yên sớm được một ngày, nên có chuyện gì lớn thì nhìn lên công đường thẫn thờ như người chết rồi, chỉ lo không đủ tiền để lấp đầy túi tham, đành nghĩ muốn yên thân còn phải nhiều ngày tháng. Như thế thì tuy quan trên không tàn bạo nhưng thật ra cũng có tội ngang bọn sai dịch thư lại vậy. Thường thấy trong các đơn kiện thì kẻ cần phải đòi tới chẳng qua chỉ có vài ba người, còn lại đều là dân đen vô tội bị thêu dệt vu cáo mà thôi. Có khi vì ngày thường hiềm khích nên thành oán thù, có khi là trong nhà có của nên bị ghen ghét, bên nguyên đối với kẻ bị kiện chính thì mới ra sức làm sao cho bị khép tội, chứ đối với số còn lại thì chỉ là để trả thù vặt. Nhưng người bị thưa kiện thì tựa hồ bị ung nhọt trong xương, chịu đủ tội ở cửa công cũng phải muôn ngàn đau đớn, người ta quỳ cũng quỳ, tựa chim theo lũ, người ta bước cũng bước, như khỉ bị xiềng. Nhưng xét lại thì quan trên không hỏi, thư lại không tra, thật ra đều hoàn toàn vô dụng trong việc xét xử, có điều bấy nhiêu cũng đủ khuynh gia bại sản mà nuôi béo lũ thư lại tham lam, bán vợ đợ con để thỏa dạ bọn tiểu nhân thù vặt rồi. Rất mong nhũng người làm quan gặp việc kiện tụng thì xét sơ qua một lượt đã, kẻ cần bắt thì ra lệnh bắt, kẻ không cần bắt thì thôi. Chẳng qua chỉ rung quản bút, động cổ tay mà đã là bảo toàn cho ít nhiều gia đình, bồi bổ vào ít nhiều nguyên khí trong thiên hạ rồi. Người làm chính sự đã không nghĩ tới việc ấy, lại còn chăm chăm dùng gông cùm đao kiếm, để giết người sao?

159. Phu Nhân Nhà Họ Lưu (Lưu Phu Nhân)

Liêm sinh người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ ham học nhưng mồ côi sớm, nhà rất nghèo. Một hôm đi khỏi nhà, tối về lạc đừơng vào một thôn nọ, gặp một bà già đi tới nói "Liêm công tử đi đâu thế, trời tối lắm rồi". Sinh đang lo lắng nên cũng không kịp hỏi là ai, chỉ xin ngủ nhờ. Bà già dẫn sinh đi tới một phủ đệ lớn, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa một người đàn bà ra, thấy khoảng hơn bốn mươi tuổi, cử chỉ phong thái ra dáng đại gia. Bà già bước lên thưa "Liêm công tử đã tới," Sinh vội rảo bước tới làm lễ, người đàn bà vui vẻ nói "Công tử tuấn tú lắm, đâu phải chỉ là một phú ông". Lập tức bày tiệc đón tiếp, ngồi bên cạnh mời mọc rất ân cần, nhưng riêng mình nâng chén không mấy khi uống, cầm đũa không mấy khi gắp.

Sinh ngại ngùng áy náy, mấy lần hỏi thăm gia thế, bà cười đáp "Cứ uống cạn ba chén lớn ta sẽ nói cho chàng biết". Sinh uống xong, bà nói "Chồng ta họ Lưu, làm khách ở Giang Tả (vùng Giang Tây) gặp tai biến chết rồi. Ta góa bụa sống một mình ở nơi vắng vẻ này, nhà cửa ngày càng sa sút. Tuy có hai đứa cháu nội nhưng nếu không phải lũ ăn tàn phá hại thì cũng là hạng bất tài vô dụng. Công tử tuy khác họ nhưng kiếp trước là ruột thịt, vả lại tính tình thuần hậu cẩn thận nên ta mới ra mặt gặp gỡ. Cũng chẳng có chuyện gì phiền, chỉ là ta có một ít vàng chôn giấu, muốn gởi công tử đem đi buôn bán, có lời thì chia, cũng không tới nỗi chết già không được ai biết". Liêm từ chối, lấy cớ tuổi còn trẻ lại chỉ là kẻ học trò khờ khạo, sợ phụ sự ủy thác lớn lao.

Bà nói "Đọc sách trước hết là để mưu sinh, công tử lại vốn thông minh, chuyện gì mà không làm được". Rồi sai tỳ nữ mang vàng ra giao, tất cả hơn tám trăm lượng, sinh lo sợ cố từ chối. Bà nói "Ta cũng biết công tử chưa quen giao thiệp buôn bán, nhưng cứ thử xem, chắc chắn không thua lỗ đâu". Sinh lo rằng số vốn lớn như thế thì một người không đủ sức coi sóc nên bàn họp bạn đi buôn chung. Bà nói "Không cần đâu, chỉ cần tìm một người thành thật tháo vát theo giúp công tử là đủ" lại bấm đốt tay tính toán, nói "Được người họ Ngũ thì rất tốt". Rồi sai đầy tớ thắng ngựa chở vàng đưa sinh về, nói "Đến cuối năm xin chờ làm tiệc tẩy trần", lại ngoảnh lại dặn người đầy tớ rằng "Con ngựa này thuần, có thể cưỡi được, vậy tặng luôn cho công tử, khỏi cần dắt về". Sinh về tới nhà thì đã canh tư người đầy tớ buộc ngựa rồi chào về. Hôm sau sinh đi khắp nơi tìm người giúp việc, quả được một người họ Ngũ, bèn trả công hậu để thuê. Ngũ già đời trong việc đi xa, lại là người ngu tối vụng về song cẩn thận, sinh đưa hết tiền bạc cho giữ, cùng nhau qua lại buôn bán ở Kinh Tương (vùng Hồ Nam).

Cuối năm trở về, tính lại thì vốn đã tăng gấp ba lần, sinh cho rằng nhờ sức của Ngũ nhiều, nên ngoài công xá còn thưởng thêm cho rất hậu, định là không cho chủ nhân biết. Vừa về tới nơi, người đàn bà đã sai người ra đón, hai người cùng vào. Thấy trên sảnh đã bày tiệc sẵn, người đàn bà bước ra, hết lời khen ngợi an ủi. Sinh nộp cả tiền bạc, tính hết sổ sách, nhưng bà không ngó ngàng gì tới. Giây lát mời vào tiệc, có cả ban hát ca múa nhộn nhịp, Ngũ cũng được mời tiệc riêng ở nhà ngoài, say khướt mới về. Sinh thì vì chưa có vợ nên ở lại ăn Tết luôn. Hôm sau lại xin tính toán sổ sách, người đàn bà cười nói "Sau này không cần làm thế nữa, ta đã biên chép từ lâu rồi". Rồi giở sổ cho sinh xem, thấy ghi chép rất rành mạch, ngay cả khoản thưởng thêm cho Ngũ cũng thấy có trong đó, sinh kinh ngạc nói "Phu nhân quả là người thần". Qua mấy hôm, cho ăn ở rất chu tất, đãi sinh như con cháu trong nhà. Một hôm bày tiệc trên sảnh, đặt một ghế chủ một ghế khách dưới thềm cũng bày một bàn, nói với sinh rằng "Ngày mai là ngày Tài tinh lâm chiếu, đúng dịp nên lên đường, hôm nay ta bày tiệc tiễn chủ tớ công tử cho thêm phần khởi sắc". Ngũ cũng được gọi tới, cho ngồi ở bàn dưới thềm. Một lát thì ban hát ra diễn, chiêng trống vang tai, người của ban hát bước lên trình danh sách các vở tuồng. Sinh bảo diễn vở Đào Chu giàu có*, người đàn bà cười nói "Đó là điềm báo trước đấy, chắc công tử sẽ được Tây Thi làm nội trợ".

*Đào Chu giàu có: Đào Chu tức Phạm Lãi, người thời Xuân Thu, theo giúp Việt Vương Câu Tiễn, sai mỹ nhân là Tây Thi qua dùng sắc đẹp để quyến rũ Ngô vương Phù Sai, ly gián triều dình, làm rối triều chính nước Ngô. Sau khi Câu Tiễn diệt Ngu, Phạm Lãi bỏ quan, đưa Tây Thi rời nước Việt, thay tên đổi họ đi buôn bán khắp nơi, trở thành cự phú, sau cùng ở lại nước Tề, tự xưng là Đào Chu công.

Tan tiệc lấy toàn bộ số vàng đưa sinh, nói "Lần này đi không kể ngày tháng, nếu không thu được vạn lượng vàng xin đừng về. Ta với công tử nương dựa nhau do phúc mệnh, tin cậy nhau như gan ruột, đừng nhọc công làm sổ sách làm gì. Việc bán buôn lời lỗ ở phương xa thế nào tự ta có thể biết được", sinh vâng dạ lui về. Rồi lên đường tới đất Hoài Thương (huyện Hoài ân tỉnh Giang Tô) xin làm thầu buôn muối, hơn một năm thì vốn đã tăng gấp mấy lần. Nhưng sinh ham học, ngoài những lúc tính toán buôn bán vẫn không quên sách vở, bạn bè cùng giao du đều là kẻ văn sĩ. Lại thấy đã có nhiều tiền nên thầm muốn nghỉ buôn bán, dần dần giao hết công việc cho Ngũ. Sinh chơi thân với Tiết sinh ở huyện Đào Nguyên (tỉnh Hồ Nam), nhân đi ngang ghé thăm, nhưng cả nhà đều đang ở chỗ khác. Trời đã tối không sao gọi về, người giữ cổng giữ sinh lại, dọn giường nấu cơm tiếp đãi. Sinh hỏi kỹ về chủ nhân, thì ra đại để lúc ấy người ta đồn nhảm rằng triều đình muốn tuyển con gái nhà lương dân làm lễ vật hoà thân để yên biên cuơng, dân gian náo động, nghe nói ai trẻ tuổi chưa vợ thì không cần mai mối, cứ đưa con gái tới tận nhà gả cho, tới nỗi có người trong một đêm cưới luôn được hai vợ.

Tiết cũng vừa cưới một người vợ con nhà vọng tộc, nhưng sợ xe ngựa rầm rập quan huyện biết được nên dời về ở trong làng. Gần hết canh một, sinh vừa đi nằm chợt nghe tiếng mấy người gọi cổng vào nhà, không rõ người giữ cổng nói gì, chỉ nghe một người hỏi "Quan nhân đã không có nhà, vậy ai thắp đèn trong kia?". Người giữ cổng đáp là Liêm công tử, khách từ xa tới. Giây lát người vừa hỏi bước vào, áo mũ đẹp đẽ, vừa chào xong đã hỏi ngay tên họ quê quán. Sinh đáp xong, người ấy mừng rỡ nói "Té ra là đồng hương với ta, vậy nhạc gia là ai thế". Sinh đáp còn chưa có vợ, người ấy càng vui mừng, rảo bước ra gọi một thiếu niên cùng vào, làm lễ chào hỏi rất cung kính rồi nói "Thưa thật với công tử, bọn ta họ Mộ, đêm nay tới đây là đưa cô em tới gả cho Tiết quan nhân, gặp tình cảnh thế này đang không biết làm sao, tiến lui đều khó, lại gặp được công tử há chẳng phải là số phận ư?".

Sinh vì chưa biết họ là ai nên còn ngần ngừ chưa dám ưng thuận, Mộ lại mặc kệ lời từ chối, cứ gọi người đưa cô dâu vào. Phút chốc có hai bà già đưa một cô gái vào ngồi trên giường, sinh liếc nhìn thấy khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng. Sinh mừng rỡ, sửa mũ áo tạ ơn Mộ, lại bảo ngươi giữ cổng dọn rượu tiếp đãi, cùng nhau trò chuyện rất vui vẻ. Mộ nói "Tổ tiên bọn ta vốn là người huyện Chương Đức, dòng họ bên mẹ cũng là thế gia nhưng nay đã sa sút. Nghe nói ông bà ngoại còn có hai người cháu nội, không rõ tình cảnh ra sao". Sinh hỏi họ tên, Mộ đáp "Ông ngoại bọn ta họ Lưu tên Huy Nhược, nghe nói cư ngụ cách huyện thành ba mươi dặm về phía bắc". Sinh nói "Nhà ta ở phía đông nam huyện thành, cách nơi ấy khá xa, lại tuổi còn nhỏ nên giao thiệp chưa nhiều, quen biết cũng ít. Trong huyện có rất nhiều người họ ấy, nhưng nghe nói phía bắc huyện thành có Lưu Kinh Khanh, cũng là bậc văn sĩ nhưng không rõ có đúng không, có điều nhà thì nghèo". Mộ nói "Mồ mả tổ tiên bọn ta vẫn còn ở huyện Chương Đức, vẫn muốn đưa quan tài cha mẹ về ở quê cũ nhưng vì chưa lo đủ tiền bạc nên còn lần lữa. Nay em gái bọn ta được theo công tử về, bọn ta càng quyết ý về quê". Sinh nghe thế, khẳng khái nhận sẽ thu xếp. Hai người họ Mộ rất vui mừng, uống vài chén rượu rồi chào về. Sinh bảo người hầu thay đèn đi ngủ, đêm ấy vợ chồng yêu thương nhau rất đằm thắm.

Hôm sau Tiết nghe tin vội trở vào thành, xây một dãy nhà riêng cho sinh ở. Sinh trở lại đất Hoài, tính toán tiền bạc xong, lưu Ngũ ở lại rồi mang hành trang tiền bạc về lại Đào Nguyên, cùng hai người họ Mộ đưa quan tài cha mẹ và cả hai gia đình về quê. Về tới nhà, sinh thu xếp đâu đó xong, đem tiền bạc tới chỗ chủ nhân thì thấy ngùoi đầy tớ dắt ngựa trước kia đã đứng đón trên đường đưa vào nhà. Người đàn bà ra đón, vui vẻ nói "Đào Chu công đưa được Tây Thi về rồi. Hôm trước là khách, chứ hôm nay là cháu rể của ta rồi đấy nhé". Rồi bày tiệc đón mừng, đối xử càng thêm thân thiết. Sinh khâm phục là có tài biết trước, bèn hỏi phu nhân cùng mẹ vợ mình có họ hàng xa gần thế nào, bà đáp đừng hỏi, về sau sẽ tự biết thôi. Rồi chất vàng lên bàn, chia làm năm phần, tự mình lấy hai phần, nói "Ta thì chẳng dùng gì tới, chỉ giữ lại để cho cháu đích tôn thôi". Sinh thấy phần mình quá nhiều, chối từ không nhận. Bà buồn rầu nói "Nhà ta sa sút, cây cối trong sân bị người ta chặt làm củi, cháu nội lại ở xa quá, cửa nẻo ngày càng tiêu điều, phiền công tử lo giùm". Sinh vâng dạ, nhưng xin chỉ nhận một nửa số vàng. Bà ép cầm cả rồi tiễn sinh ra cổng, gạt lệ quay vào. Sinh lấy làm lạ lùng ngờ vực, ngoảnh lại nhìn toà phủ đệ thì là ngôi mộ lớn, mới hiểu ra rằng phu nhân chính là bà ngoại vợ mình. Về tới nhà bèn xuất tiền mua một khoảnh ruộng quanh mộ, tu bổ dọn dẹp rất đẹp đẽ tươm tất.

Họ Lưu có hai cháu nội, lớn tức Kinh Khanh còn thứ tên Ngọc Khanh, là kẻ rượu chè cờ bạc lêu lổng, cả hai đều nghèo. Hai anh em tới nhà sinh tạ ơn, sinh đều tặng cho rất hậu, từ đó thường qua lại với nhau. Sinh kể đầu đuôi việc mình đi buôn, Ngọc Khanh nghĩ thầm rằng trong mộ ắt có vàng, đêm tối rủ mấy tên cờ bạc tới đào mộ tìm, phá vỡ quan tài phơi cả xương cốt ra nhưng không được chút gì, thất vọng tan đi. Sinh được tin mộ bị phá, báo cho Kinh Khanh, Kinh Khanh tới gặp sinh rồi cùng đi xem. Vào tới huyệt mộ thì thấy số vàng phu nhân giữ lại trước đây vẫn chồng chất trên án, Kinh Khanh muốn chia đôi với sinh. Sinh nói "Phu nhân giữ số vàng này lại vốn là để chờ dịp cho huynh thôi mà", Kinh Khanh bèn chở cả về. Kế báo lên huyện, quan tư lùng bắt rất gấp, sau bắt đước người bán một chiếc trâm ngọc trong mộ, tra hỏi mới biết Ngọc Khanh là kẻ chủ mưu. Quan huyện muốn trị tội Ngọc Khanh thật nặng, Kinh Khanh hết sức kêu xin cho mới được khỏi tội chết. Cả hai nhà cùng ra sức sửa sang trong ngoài ngôi mộ, so ra còn bền chắc đẹp đẽ hơn lúc trước. Từ đó Liêm Lưu cùng giàu có, duy Ngọc Khanh vẫn nghèo như cũ. Sinh và Kinh Khanh thường chu cấp cho, song rốt lại vẫn không đủ cho y cờ bạc. Một đêm có bọn cướp vào nhà sinh trói người khảo của, sinh chôn vàng cứ một ngàn năm trăm lượng vàng là một vò, bèn chỉ chỗ cho chúng đào, bọn cướp lấy được hai vò. Lúc ấy chỉ có con ngựa ma trong tàu, chúng bèn thắng cương vào chở vàng đi, lại bắt sinh theo, ra tới ngoài đồng mới thả cho về.

Người trong thôn thấy ánh đèn đuốc của bọn cướp còn chưa xa lắm, hò hét đuổi theo, chúng hoảng hốt bỏ chạy. Mọi người đuổi tới chỗ ngôi mộ thì thấy vàng rơi tung toé trên đường mà con ngựa thì biến thành tro giấy, mới biết con ngựa cũng là ma. Đêm ấy nhà sinh chỉ mất có một chiếc vòng vàng mà thôi. Vốn trước đó bọn cướp bắt vợ sinh, thấy nàng xinh đẹp toan cưỡng hiếp, nhưng có một tên đeo mặt nạ quát thét bảo thôi, giọng nói giống như Ngọc Khanh. Bọn cướp bèn tha vợ sinh, chỉ lột chiếc vòng vàng nàng đeo ở tay. Sinh vì vậy ngờ đó là Ngọc Khanh, nhưng cũng thầm cám ơn y. Sau bọn cướp bán chiếc vòng vàng đánh bạc, bị công sai bắt được, tra hỏi bè đảng thì quả trong đó có Ngọc Khanh. Quan huyện tức giận, dùng trọng hình trị tội. Kinh Khanh bàn với sinh định đem nhiều tiền lo lót để cứu, nhung chưa kịp làm gì thì Ngọc Khanh đã chết trong ngục, từ đó sinh vẫn cấp dưỡng cho vợ con y. Về sau sinh thi đỗ Cử nhân, con cháu mấy đời đều giàu có. Than ôi, tự dạng chữ "tham" ngang sổ chấm phết rất giống chữ "bần", hạng người như Ngọc Khanh đủ để làm điều răn vậy.

160. Gái Thần (Thần Nữ)

Mễ sinh là ngươi đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), người kể chuyện quên mất tự hiệu quận ấp. Vào quận thành chơi, say đi ngoài phố, nghe trong một tòa nhà lớn có tiếng đàn sáo ầm ĩ, hỏi người ở quanh thì họ đáp nhà ấy mở tiệc mừng thọ, song ngoài cổng trong sân lại rất vắng vẻ. Lắng tai nghe thấy tiếng sênh phách vang lừng, sinh đang say lấy làm ưa thích, không hỏi là nhà ai, cứ ra đầu phố mua lễ vật chúc mừng rồi đưa thiếp vào, xưng là vãn sinh. Có người thấy sinh ăn mặc tầm thường bèn hỏi có họ hàng thế nào với ông già kia, sinh đáp không có. Người ấy nói nhà ấy là người nơi khác tới đây ngụ cư, không rõ là quan gì nhưng rất kiêu kỳ, không phải là họ hàng thì gặp làm gì? Sinh nghe thấy hối hận, nhưng danh thiếp đã đưa vào rồi. Phút chốc có hai thiếu niên ra đón khách, trang phục rực rỡ, dáng điệu phong nhã, vái chào sinh rồi mời vào. Thấy một ông già ngồi quay mặt về hướng nam, hai bên bày mấy bàn tiệc, khách có sáu bảy người đều như bậc quý quan, thấy sinh vào đều đứng lên làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy.

Sinh đứng hồi lâu đợi đón khách mà ông vẫn không rời khỏi chỗ. Hai thiếu niên đỡ lời, nói "Phụ thân già yếu, vái chào khó khăn, anh em bọn ta xin thay mặt tạ ơn bậc cao hiền hạ cố". Sinh khiêm tốn đáp tạ xong, họ mời vào một bàn phía trên, bên cạnh ông già. Giây lát ban nhạc ra múa hát ở dưới, sau tiệc bày bình phong lưu ly che đám phụ nữ trong nhà. Tiếng đàn sáo ầm ĩ, khách khứa không thể chuyện trò gì nữa. Sắp tan tiệc, hai thiếu niên đứng lên, đều rót chén lớn mời khách, chén đựng khoảng ba đấu. Sinh ngần ngại nhưng thấy khách nhận cũng nhận. Giây lát nhìn quanh thấy chủ khách đều đã cạn chén, bất đắc dĩ cũng phải cố uống. Thiếu niên lại rót, sinh thấy mệt quá đứng lên cáo lui, thiếu niên nắm áo giữ lại. Sinh say quá gục xuống đất, thấy có người lấy nước lạnh rưới vào mặt, chợt tỉnh dậy nhìn thì khách khứa đã về hết, chỉ còn một thiếu niên xốc cánh tay đưa ra, bèn chào về. Sau đó lại qua ngang cổng, thì thấy đã dời đi ở chỗ khác.

Sinh từ quận về, tới ngang chợ có một người trong quán bước ra mời vào uống rượu. Nhìn thì không quen nhưng cũng theo vào, thấy trong bàn đã có người làng là Bão Trang ngồi trước. Hỏi người đó thì là họ Chư, làm nghề mài gương trong chợ. Hỏi sao biết mình, Chư nói "Ông có biết người khao thọ hôm trước là ai không?". Sinh đáp không biết, Chư nói "Ta ra vào nhà ấy nhiều lần, ông già họ Phó, nhưng không rõ quê quán quan tước. Lúc tiên sinh vào mừng thọ, ta đang ở dưới thềm nên biết mặt". Chiều tối tan tiệc chia tay về, đêm Bão Trang chết trên đường. Cha Bão không biết Chư, cứ tên sinh mà kiện. Khám thấy xác Bão Trang có vết thương nặng, sinh bị kết án mưu sát, khép vào tội chết, chịu đủ mùi gông cùm nhưng vì chưa bắt được Chư, không đủ chứng cớ nên còn để đấy.

Hơn năm, quan Trực chỉ đi tuần tra các nơi, xét biết bị oan tha sinh ra. Nhà cửa ruộng vườn đã mất hết mà mũ áo nho sinh cũng bị lột, nhưng sinh nghĩ có thể xin lấy lại được nên lại xách khăn gói lên quận. Trời xế chân mỏi ngồi nghỉ cạnh đường, thấy một chiếc kiệu nhỏ từ xa đi tới, có hai tỳ nữ áo xanh đi kèm hai bên. Kiệu đã đi qua bỗng dừng lại, không biết bên trong nói gì, giây lát một tỳ nữ áo xanh tới hỏi sinh có phải chàng họ Mễ không? Sinh giật mình đứng dậy nói phải. Hỏi sao nghèo túng tới mức này, sinh kể lại duyên do. Lại hỏi đi đâu, sinh lại trả lời. Tỳ nữ áo xanh quay về chiếc kiệu nói chuyện với bên trong, lát sau trở lại mời sinh tới trước kiệu. Trong kiệu có một bàn tay búp măng vén rèm lên, liếc nhìn thì là một giai nhân tuyệt thế. Nàng nói với sinh "Chàng không may gặp chuyện rủi ro, nghe thấy mà buồn. Ngày nay dinh Học sứ không phải là nơi ra vào tay không được, nhưng giữa đường không có gì tặng". Bèn rút một cành hoa khảm ngọc cài trên tóc đưa sinh, nói "Vật này có thể bán được một trăm đồng vàng, xin cầm lấy". Sinh lạy tạ, toan hỏi lai lịch thì kiệu đi rất nhanh đã ra xa rồi, không rõ là ai nữa. Cầm cành hoa ngắm nghía thấy trên khảm ngọc trai, không phải vật tầm thường, liền cất kỹ rồi lên đường.

Tới quận đưa đơn, trên dưới vòi vĩnh hạch sách rất khổ, giở cành hoa ra ngắm, không nỡ bán bèn quay về. Trở về không có nhà ở, phải nương tựa anh trai và chị dâu. May được anh hiền, lo lắng chăm sóc cho nên nghèo mà vẫn không phải bỏ học. Năm sau sinh lên quận thi khoa Đồng tử, lầm đường lạc vào núi sâu. Lúc ấy đang tiết Thanh minh, người du xuân rất đông, có mấy cô gái cưỡi ngựa đi tới, trong có một nàng, chính là người ngồi trong kiệu năm trước. Thấy sinh nàng dùng cương hỏi đi đâu, sinh trả lời. Cô gái giật mình hỏi "Chàng vẫn chưa lấy lại được khăn áo nho sinh à?". Sinh thẹn, rút cành hoa khảm ngọc trong áo ra, nói "Không nỡ bỏ vật này nên vẫn còn là Đồng tử". Cô gái đỏ bừng cả mặt, dặn ngồi đợi ở góc đường, dong ngựa chậm rãi đi. Hồi lâu, một tỳ nữ ruổi ngựa tới đưa sinh một cái gói, nói "Nương tử nói ngày nay cửa quan Học sứ như cái chợ, xin tặng hai trăm lượng bạc làm vốn tiến thủ". Sinh từ chối, nói "Nương tử làm ơn cho ta đã nhiều rồi! Tự nghĩ thi đỗ không phải là khó, không dám nhận món tiền lớn này. Chỉ xin được biết họ tên để vẽ một bức hình, đốt hương tưởng bái nương tử là đủ, Tỳ nữ không nghe, đặt gói tiền xuống đất rồi đi. Từ đó sinh chi dùng đầy đủ, nhưng rốt lại vẫn không thèm cầu cạnh, sau đỗ đầu vào trường huyện. Đưa cả tiền cho anh, anh khéo buôn bán nên trong ba năm khôi phục được hết cơ nghiệp cũ.

Lúc ấy Tuần phủ Phúc Kiến là học trò ông nội sinh, giúp đỡ rất nhiều nên anh em trở nên giàu có. Nhưng sinh vốn là ngươi trong sạch ngay thẳng nên tuy quen thân với quan lớn mà không lần nào tới nhờ vả. Một hôm có khách mặc áo cừu cưỡi ngựa tới cổng, cả nhà đều không biết là ai. Sinh ra xem thì là công tử họ Phó, bèn vái chào mời vào, thăm hỏi trò chuyện, bày rượu khoản đãi. Khách lấy cớ bận từ chối, nhưng cũng không nói tới chuyện ra về. Khi cơm rượu bày lên, công tử đứng dậy xin nói chuyện riêng, mời vào nhà trong thì lạy sụp xuống đất. Sinh kinh ngạc hỏi có chuyện gì, công tử buồn bã nói "Phụ thân mắc vạ lớn có điều muốn nhờ quan Tuần phủ, không phải anh thì không ai nói giúp được". Sinh từ chối, nói "Ông ta tuy là chỗ quen biết lâu đời nhưng trước nay ta chưa bao giờ vì việc riêng mà cầu cạnh xin xỏ ai cả". Công tử phục xuống đất khóc lóc năn nỉ, sinh nghiêm sắc mặt nói "Tiểu sinh với công tử chẳng qua chỉ nhân một bữa tiệc mà quen nhau, sao lại đem chuyện mất danh tiết ép buộc nhau thế?". Công tử thẹn quá, đứng dậy từ biệt rồi đi.

Hôm sau sinh đang ngồi một mình thì có một người áo xanh bước vào, nhìn ra thì là tỳ nữ đưa tiền tặng trong núi trước kia. Sinh giật mình đúng dậy, người ấy hỏi "Chàng quên cành hoa khảm ngọc rồi sao?", sinh đáp "Dạ dạ, không dám quên". Người ấy nói "Công tử hôm qua là anh ruột của nướng tử đấy". Sinh nghe thế mừng thầm, vờ nói "Chuyện đó khó tin lắm, nếu được nương tử thân hành tới đây nói cho một câu, thì dù là vạc dầu sôi cũng xin nhảy vào, nếu không thì thật không dám vâng lệnh". Tỳ nữ ra lên ngựa đi, đến khuya trở lại gõ cửa bước vào nói "Nương tử tới rồi". Chưa dứt lời thì cô gái rầu rĩ bước vào, ngoảnh mặt vào vách mà khóc, không nói một câu. Sinh vái lạy nói "Tiểu sinh không có nàng thì làm sao có ngày nay, nếu có điều gì sai bảo, dám đâu không vâng lời?". Cô gái nói "Kẻ được cầu cạnh thường khinh người, kẻ đi cầu cạnh thường sợ người. Nửa đêm lặn lội, trước nay nào biết tới cái khổ này, chỉ vì sợ người đấy thôi, còn nói gì nữa?". Sinh an ủi, nói "Sở dĩ tiểu sinh không nhận lời ngay là vì sợ xong việc rồi khó được gặp nhau lần nữa thôi. Khiến nàng phải đêm hôm lặn lội sương gió, ta biết tội rồi". Nhân cầm tay áo cô gái vuốt khẽ, nàng nói "Ông thật là người tệ, không nghĩ tới ơn nghĩa trước lại toan nhân lúc người ta nguy cấp. Ta lầm rồi, ta lầm rồi?", rồi tức giận bỏ ra, lên kiệu toan đi. Sinh đuổi theo tạ lỗi quỳ xuống chặn đường. Người tỳ nữ cũng khuyên giải, nàng như nguôi giận, ngồi trong kiệu nói với sinh "Nói thật với chàng, thiếp không phải là người mà là thần nữ. Phụ thân làm Đô lý ty ở Nam Nhạc, vô tình thất lễ với địa quan, sắp bị tâu lên Thượng đế, nếu không có ấn tín của quan đầu hạt đây thì không sao gỡ được. Nếu chàng không quên nghĩa cũ, thì lấy một tờ giấy vàng xin đóng ấn cho thiếp", rồi giục kiệu đi.

Sinh quay vào run sợ mãi, rồi thác chuyện trừ ma lên xin. Tuần phủ cho là việc mê tín nhảm nhí không cho, sinh đem nhiều tiền đút cho ngươi tâm phúc của ông ta, y nhận lời nhưng tìm được cơ hội. Về nhà thì người tỳ nữ đã chờ ở cổng, sinh kể lại mọi chuyện, cô ta im lặng đi ra như giận sinh không hết lòng. Sinh đuổi theo tiễn, nói "Xin về thưa với nương tử rằng nếu việc không xong thì ta sẽ liểu mạng chết theo". Quay vào trằn trọc cả đêm không nghĩ ra được kế gì, gặp lúc trong dinh có người thiếp yêu của Tuần phủ muốn mua ngọc, bèn lấy cành hoa khảm ngọc lên biếu, nàng ta thích lắm, liền trộm ấn đóng cho sinh. Mang về tới nhà thì người tỳ nữ cũng vừa tới. Sinh cười nói "May mà không nhục mệnh, nhưng vật mấy năm nghèo khổ xin ăn không nỡ bán nay đã phải bỏ vì chủ nhân của nó rồi!". Kế kể lại mọi chuyện, nói "Vàng ròng vứt đi ta cũng không tiếc, nhưng nhờ nhắn với nương tử rằng cành hoa khảm ngọc thì phải đền đấy". Qua mấy hôm, Phó công tử tới tạ ơn, biếu một trăm lượng vàng. Sinh sầm mặt nói "Sở dĩ ta làm thế là vì lệnh muội đã ban ơn cho ta không cầu báo đáp thôi, nếu không thì dù vạn lượng vàng cũng há đủ thay đổi danh tiết sao!". Cố ép thì sinh lời lẽ sắc mặt càng giận dữ, công tử thẹn thùng ra về, nói "Chuyện này chưa xong được". Hôm sau người tỳ nữ vâng mệnh cô gái đem biếu một trăm viên ngọc, hỏi "Bấy nhiêu đủ đền cành hoa khảm ngọc rồi chứ?", sinh đáp "Ta trọng cành hoa ấy không phải vì quý ngọc trai, nếu không vật báu vạn dật tặng cho ngày trước ta đã bán đi để làm một anh nhà giàu rồi, còn nâng niu giữ gìn cam chịu nghèo khó làm gì? Nương tử là người thần, tiểu sinh nào dám mong gì khác. Nay may đã báo đáp được chút ơn lớn, chết cũng không ân hận". Người tỳ nữ đặt ngọc lên án, sinh vái tạ rồi trả lại.

Qua mấy hôm, công tử lại tới sinh cho bày tiệc khoản đãi, công tử cũng sai người hầu xuống nấu nướng. Hai người đối diện cạn chén, vui vẻ như người nhà. Vừa gặp lúc có ngươi biếu rượu nếp đắng, công tử khen ngon, uống luôn trăm chén, mặt đã hơi đỏ, nói với sinh rằng "Ông ngay thẳng thanh cao mà hai anh em ta đều mờ tối không biết sớm, thật vô cùng xấu hổ với kẻ quần thoa. Cha ta cảm đức lớn, không biết lấy gì báo đáp, muốn cho em gái ta kết duyên với ông, chỉ sợ ông hiềm u minh khác nẻo". Sinh mừng mùng sợ sợ không biết trả lời thế nào. Công tử từ biệt ra về, nói "Đêm mai là mồng chín tháng bảy, lúc trăng vừa lên, có cô cháu gái Thiên tôn lấy chồng, đó là giờ tốt, nên sửa soạn phòng hoa". Đêm sau quả đưa cô gái đến, mọi cái không khác gì người thường.

Sau ba ngày, cô gái đối với người trong nhà từ anh chị tới tôi tớ lớn nhỏ đều có quà tặng. Lại rất hiền thục, thờ chị dâu như mẹ chồng. Mấy năm không sinh nở, khuyên chồng lấy vợ lẽ nhưng sinh không nghe. Gặp lúc anh đi buôn ở Giang Hoài mua về cho một người thiếp trẻ tuổi họ Cố tên Bác Sĩ, dung mạo cũng xinh xắn, vợ chồng đều mừng. Chợt thấy trên tóc nàng có cài cành hoa khảm ngọc rất giống vật cũ năm trước, rút xuống xem quả đúng, lấy làm lạ hỏi. Nàng đáp "Trước có người vợ của quan Tuần phủ chết, tỳ nữ của bà ta ăn cắp đem bán ở chợ, cha thiếp mua luôn đem về, thiếp rất thích. Cha thiếp không có con trai, chỉ sinh được một mình thiếp, nên xin gì cũng được. Sau cha thiếp mất, nhà cửa sa sút, thiếp phải sống nhờ ở nhà bà họ Cố. Bà Cố là vai dì của thiếp, thấy ngọc trai nhiều lần muốn đem bán, vì thiếp nhảy xuống giếng tự tử nên đến nay mới còn". Vợ chồng mừng nói "Vật qua mười năm lại về chủ cũ, chẳng phải là số sao?". Cô gái lấy ra một cành hoa khảm ngọc khác, nói "Vật này không có đôi lâu lắm rồi!", nhân ban luôn cho ngươi thiếp, tự tay cài lên tóc cho.

Người thiếp lui ra, hỏi gia thế cô gái rất kỹ nhưng người nhà đều không dám nói, bèn lén nói với sinh rằng "Thiếp trông nương nữ không phải là người trần. Trong khoảng mắt và mày có thần khí, hôm qua cài cành hoa cho, thiếp được nhìn gần, thấy vẻ đẹp từ trong da thịt toát ra, không phải như người thường chỉ hơn nhau ở chỗ xấu dẹp trắng đen thôi đâu". Sinh cười, nàng nói "Xin chàng đừng nói gì để thiếp thử xem. Nếu là thần thì mình muốn gì cứ nhân lúc vắng người thắp hương cầu khấn thì họ sẽ biết". Cô gái có đôi tất thêu rất đẹp, Bác Sĩ thích nhưng chưa dám nói, lập tức thắp hương cầu khấn trong phòng. Sáng ra cô gái dậy sớm, chợt mở rương lấy đôi tất sai tỳ nữ đem cho Bác Sĩ. Sinh thấy thế bật cười, cô gái hỏi duyên cớ, bèn kể lại chuyện, nàng nói "Con nhãi mới ranh làm sao!". Nhân thấy Bác Sĩ thông minh càng yêu thưong, mà Bác Sĩ càng cung kính, cứ mờ sáng là tắm gội tới hầu. Sau Bác Sĩ sinh một lần được hai trai, hai người chia nhau nuôi. Năm sinh tám mươi tuổi, diện mạo cô gái vẫn như lúc chưa lấy chồng. Sinh mắc bệnh, nàng thuê thợ đóng quan tài, bảo làm to gấp đôi bình thường. Lúc sinh chết nàng không khóc, các con vùa ra ngoài thì nàng nằm vào áo quan mà chết, vì vậy cùng chôn chung, đến nay vẫn truyền tụng là Ngôi mộ quan tài to.

Dị Sử thị nói: Cô gái là thần mà Bác Sĩ biết được, là dùng thuật gì vậy? Mà nàng biết được người khác thông minh, thật còn thiêng hơn cả thần nữa.

161. Tương Quần (Tương Quần)

Án Trọng là người huyện Diên An tỉnh Thiểm Tây, ở chung với anh là Bá, anh em rất thương yêu nhau. Bá được ba mươi tuổi thì chết, kế đó vợ cũng chết. Trọng rất đau đớn, thường nghĩ nếu có hai con trai sẽ để một đứa làm con nuôi lo việc hương hỏa cho anh. Nhưng vừa sinh được một trai thì vợ Trọng chết. Trọng lo vợ kế không thương con mình nên chỉ định cưới thiếp. Thôn bên có người bán tỳ nữ, Trọng qua xem mặt nhưng không vừa ý, trong lòng chán nản lại bị bạn bè giữ lại uống rượu nên say khướt mới về. Dọc đường gặp bạn học cũ là Lương sinh, Lương nắm tay mời mọc về nhà bằng được, Trọng say quá cũng quên bẵng bạn đã chết nên đi theo. Vào cổng thấy không phải là căn nhà ngày trước, lấy làm lạ hỏi thì bạn đáp mới dời nhà về đây. Vào tới nhà, Lương định lấy rượu ra mời thì rượu trong nhà đã hết, bèn dặn Trọng ngồi đợi rồi xách vò đi mua.

Trọng ra cổng đứng ngóng, thấy một người đàn bà cưỡi ngựa đi qua, có đứa nhỏ khoảng tám chín tuổi theo sau, mặt mũi dáng vẻ giống hệt anh mình, thấy chạnh lòng bèn rảo bước theo. Hỏi đứa nhỏ họ gì, nó đáp là họ Án. Trọng càng kinh ngạc, lại hỏi cha cháu tên gì, nó cười đáp là không biết. Trò chuyện tới đó thì tới nhà, người đàn bà xuống ngựa vào trong. Trọng cầm tay đứa nhỏ hỏi "Vào xem cha cháu có nhà không", nó dạ dạ rồi vào. Giây lát có một người đàn bà bước ra nhìn, thì đúng là chị dâu Trọng. Chị dâu ngạc nhiên hỏi sao chú lạỉ tới đây, Trọng buồn bã theo vào, thấy nhà cửa cũng cao ráo sạch sẽ. Hỏi anh đi đâu, chị dâu đáp "Đi đòi nợ chưa về", lại hỏi người đàn bà cưỡi ngựa là ai, đáp "Đó là thiếp của anh chú, họ Cam, sinh được hai trai. Đứa lớn là A Đại, đi bán hàng chưa về, đứa chú gặp là A Tiểu". Trọng ngồi một lúc lâu, đỡ say mới biết rằng mình gặp đây toàn là ma, nhưng vì anh em vốn thương yêu nhau nên cũng không sợ hãi gì.

Chị dâu hâm rượu dọn cơm, Trọng nóng ruột muốn gặp anh nên giục A Tiểu đi tìm. Lát sau nó khóc lóc trở vể, nói "Nhà họ Lý thiếu nợ không chịu trả, lại đánh nhau với cha". Trọng nghe thế vội cùng A Tiểu chạy tới nhà họ Lý, thấy hai người đang đè anh xuống đất đấm dá. Trọng tức giận xông vào đánh túi bụi khiến bọn kia dạt cả ra, cứu được anh đứng dậy. Bọn kia đều bỏ chạy, Trọng đuổi theo túm được một người, đánh cho bò lê bò càng. Rồi đứng lên cầm tay anh khóc ròng, anh cũng khóc. Về tới nhà, mọi người kéo lên hỏi han, rồi bày rượu dọn cơm, anh em cùng uống với nhau. Lát sau có một thiếu niên bước vào, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, Bá gọi là A Đại, bảo tới chào chú. Trọng kéo nó tới gần rồi nhìn anh khóc, nói "Đại ca dưới suối vàng có được hai trai nhưng phần mộ trên kia không ai quét dọn, con em thì còn nhỏ lại mồ côi mẹ, biết làm thế nào?"' Bá cũng bùi ngùi, chị dâu Trọng bèn nói "Hay là cứ cho A Tiểu đi theo chú?". A Tiểu nghe thế cứ nép vào nách Trọng, có vẻ quyến luyến không muốn rời ra. Trọng vỗ về nó, lòng càng thêm chua xót, hỏi có thích theo chú không? Nó thưa là thích, Trọng nghĩ tuy nó là ma không phải người, nhưng có nó bên cạnh cũng được an ủi hơn không, mới thấy vui vẻ.

Bá nói "Theo chú lên trần gian thì không được lười biếng, cứ ăn nhiều thịt vào, ban ngày phải ra ngoài nắng đến trưa thì thôi. Con mới sáu bảy tuổi, qua xuân sang hạ thì sẽ mọc xương thịt như người, có thể lấy vợ sinh con, chỉ duy không được thọ thôi". Đang khi trò chuyện, thấy ngoài cửa có một cô gái đứng nghe, ý tứ rất đằm thắm. Trọng nghĩ là con gái anh bèn hỏi, anh đáp "Cô ấy tên Tương Quần, là em gái người thiếp của anh, mồ côi cả cha mẹ, ở đây đã mười năm nay". Trọng hỏi có chồng chưa, Bá đáp chưa, nhưng mới rồi có người mai mối tới hỏi cho một nhà làm ruộng ở thôn Đông. Cô gái nói khe khẽ ngoài cửa "Ta không lấy chồng chăn trâu ở nhà quê đâu". Trọng chợt thấy yêu mến, nhung chưa tiện nói ra. Cơm xong Bá vào dọn giường trong phòng sách, giữ Trọng ngủ lại. Trọng vốn không muốn ở lại nhưng có ý quyến luyến Tương Quần, định tìm cách dò ý anh, nên chào Bá rồi vào phòng.

Lúc ấy mới đầu mùa xuân, khí trời còn lạnh, mà trong phòng chẳng có chút than lửa nào, Trọng lạnh run cầm cập ngồi một mình trước đèn, thầm muốn có chút rượu uống. Bỗng A Tiểu đẩy cửa bước vào, đặt một bát canh, một đấu rượu lên bàn. Trọng mừng quá, hỏi ai nấu, nó đáp là dì Tương. Trọng uống rượu xong, nó lại bưng chậu than vào khơi tro thổi lửa đặt xuống dưới giùong. Trọng hỏi "Cha mẹ cháu ngủ chưa?", nó đáp "Ngủ lâu rồi". Lại hỏi "Cháu ngủ ở đâu?", nó đáp "Ngủ chung với dì Tương", rồi chờ chú nhắm mắt mới khép cửa đi. Trọng nghĩ Tương Quần thông minh hiểu ý mình, càng thêm yêu mến, lại thấy nàng chăm sóc được A Tiểu, nên càng quyết ý cưới bằng được, trằn trọc thâu đêm không hề chợp mắt. Sáng ra nói với anh rằng "Em lẻ loi không có vợ, phiền đại ca lưu ý cho". Bá nói "Nhà ta chẳng phải nghèo khó gì, có tiền thì cưới được vợ, chứ dưới cõi âm này dẫu có ngươi đẹp cũng e chẳng ích lợi gì cho em". Trọng nói "Người xưa cũng có vợ ma, có hại gì đâu , Bá có vẻ hiểu ý, liền nói "Tương Quần cũng đẹp, vả lại nếu lấy chiếc kim lớn đâm vào người mà máu chảy không thôi thì cũng có thể làm vợ người sống, cần gì phải gấp?". Trọng nói "Có Tương Quần chăm sóc cho A Tiểu thì cũng được". Bá lại lắc đầu Trọng năn nĩ mãi. Chị dâu Trọng nói "Nếu thế thì bắt lấy Tương Quần thử xem, nếu không được thì thôi". Rồi cầm kim bước ra, gặp Tương Quần ngoài cửa vội chụp lấy cổ tay nàng thì đã thấy có vết máu rõ ràng, té ra nàng nghe Bá nói đã tự đâm kim vào tay để thử rồi, chị dâu Trọng phì cười buông tay nàng ra.

Người thiếp của Bá nghe thế nổi giận sấn tới trước mặt Tương Quần, dí tay vào trán nàng xỉa xói, mắng "Con đĩ không biết thẹn, muốn trốn theo chú nó à? Ta nói cho ngươi biết là đừng có mơ". Tương Quần vừa thẹn vừa uất, chạy đi định tự tử cả nhà náo loạn. Trọng ngượng quá vội chào anh chị, dắt A Tiểu đi. Anh dặn "Em cứ về đi, đùng đưa A Tiểu xuống đây nữa, sợ làm tổn hại sinh khí của nó", Trọng vâng dạ. Về tới nhà, nói dốỉ tăng tuổi của A Tiểu lên, bịa chuyện rằng anh có cưới người thiếp, đứa nhỏ này là đứa con của anh, mồ côi từ lúc còn trong bụng mẹ. Mọi người thấy nó giống Bá như đúc, đều tin là thật. Trọng dạy A Tiểu học, bắt cứ mang sách ra nắng ngồi đọc, ban đầu nó khổ lắm, sau dần dần quen. Đến giữa tháng sáu thì bàn ghế cũng nóng như thiêu mà đứa nhỏ vẫn nô đùa đọc sách, không hề kêu ca. Đứa nhỏ lại rất thông minh, đêm đêm nằm với chú gác chân lên nhau, đọc bài thuộc làu làu Trọng được an ủi rất nhiều, lại vì không quên được Tương Quần nên cũng không nghĩ gì tới việc cưới thiếp nữa.

Một hôm có hai bà mối tới bàn chuyện hỏi vợ cho A Tiểu, nhưng trong nhà không có ai lo chuyện cơm nước mời khách, Trọng ngồi mà lòng như lửa đốt. Chợt người chị dâu họ Cam từ ngoài đi vào nói "Chú đừng trách, ta đưa Tương Quần tới cho chú đây. Hôm trước vì nó không biết thẹn nên ta mới chửi cho, chứ người đường đường như chú mà không chịu theo thì còn muốn theo ai!". Trọng thấy Tương Quần đứng phía sau, vô cùng mừng rỡ, mời chị dâu ngồi, nói rõ việc có khách ở nhà trước rồi bước vội ra. Giây lát quay vào thì Cam thị đã đi. Tương Quần xắn tay áo vào bếp, dao thớt khua ran, phút chốc thức ăn dọn lên la liệt, món nào cũng ngon lành. Khách về rồi, Trọng vào thì Tương Quần đã ăn mặc đẹp đẽ ngồi ngay ngắn trong phòng, hai ngươi bèn làm lễ giao bái. Đến tối, nàng muốn ngủ chung với A Tiểu như trước, Trọng nói "Ta lấy khí dương để ủ ấm cho nó, không thể rời ra được". Vì vậy để nàng ở một phòng riêng, chỉ khi chiều tối cùng nhau ăn uống mới cho A Tiểu tới gặp thôi.

Tương Quần chăm sóc con Trọng như con đẻ, Trọng càng khen ngợi nàng là hiền. Một đêm vợ chồng nằm chung, Trọng hỏi đùa rằng cõi âm có người đẹp không. Tương Quần nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp "Chưa thấy, nhưng có cô gái láng giềng là Uy Linh Tiên, nhiều người cho là đẹp, có điều mặt mũi cũng như mọi người nhưng trang điểm khéo lắm. Thiếp quen chị ta đã lâu, nhưng vẫn khinh bỉ là kẻ lẳng lơ. Nếu muốn thì trong chớp mắt là gặp được ngay, nhưng hạng người ấy không đáng mời mọc". Trọng nóng ruột muốn gặp một lần, nàng cầm bút như định viết thư, kế lại buông xuống nói "Không được, không được?". Trọng ép mấy lần, nàng nói "Đừng để bị thị quyến rũ đấy!", Trọng hứa sẽ theo lời Tương Quần liền vạch mấy nét lên giấy như vẽ bùa rồi đem ra ngoài cửa đốt. Giây lát có tiếng rèm khua rồi tiếng cười khanh khách, nàng ra đón Uy Linh Tiên vào, thấy tóc búi cao, dung mạo như tranh vẽ. Tương Quần kéo cùng ngồi xuống giường, uống rượu trò chuyện. Uy Linh Tiên mới gặp Trọng thì lấy tay áo che miệng, không chịu nói chuyện với chàng, nhưng uống vài chén rồi thì cười đùa ngả ngớn chẳng e ngại gì. Trọng trong lòng mê mẩn như bị hớp hồn, nhưng lại ngại có Tương Quần trước mặt, mà Tương Quần cũng ra sức đề phòng, không lúc nào rời chàng. Chợt Uy Linh Tiên đứug lên, vén rèm bước ra. Tương Quần bước theo, Trọng cũng bước theo, Uy Linh Tiên dắt tay Trọng bước mau vào phòng khác.

Tương Quần hận lắm nhưng không biết làm thế nào, chỉ uất ức quay vào phòng nghe ngóng mà thôi. Lát sau Trọng trở vào, Tương Quần trách "Chàng không nghe lời thiếp, sợ là sắp tới không khước từ được thị đâư'. Trọng ngờ là nàng ghen tuông, bực bội quay ra. Đêm sau Uy Linh Tiên không được mời cũng tự tới, Tương Quần tỏ vẻ hằn học, đối xử chẳng có chút gì lễ phép, Tiên lại cùng Trọng đưa nhau qua chỗ khác. Mấy đêm liền như thế, Tương Quần cứ thấy Tiên tới là mắng chửi nhưng cũng không sao ngăn cấm thị được. Hơn tháng thì Trọng ngã bệnh không dậy nổi, rất hối hận bèn gọi Tương Quần qua ngủ cùng phòng để canh chừng. Gần sáng Tương Quần mệt mỏi hơi lơ là, thì người và ma đã lại hành lạc với nhau rồi. Tương Quần vác gậy tới đánh Uy Linh Tiên, con ma căm tức đánh trả, Tương Quần yếu ớt nên tay chân đều bị thương tích.

Trọng bệnh cứ ngày một nặng, Tương Quần khóc nói "Thiếp còn mặt mũi nào nhìn thấy chị thiếp nữa?". Vài hôm sau Trọng mê man rồi chết, vừa nhìn thấy hai người lính lệ cầm trát bước vào, bất giác theo ra. Trên đường đi sợ không có tiền bạc gì, năn nỉ hai người lính lệ tiện đường ghé vào nhà anh. Anh nhìn thấy hoảng sợ tái mặt, hỏi em gần đây đã làm việc gì? Trọng đáp "Có làm gì đâu, chỉ là cái bệnh bị ma làm thôi", rồi kể thật mọi chuyện. Anh nói "Ra thế", rồi đưa một túi bạc ra nói với hai người lính lệ rằng "Xin cảm phiền cầm cho, tội của em ta không tới nỗi phải chết, xin cứ tha ra, ta sẽ sai thằng con ta đi theo hai vị, chắc chắnkhông có chuyện gì đâu". Rồi gọi A Đại sai tiếp đãi hai người, trở vào nhà trong kể lại chuyện cho vợ nghe, bảo Cam thị gõ vách gọi Uy Linh Tiên qua. Giây lát Tiên qua, nhìn thấy Trọng định chạy trốn, bị Bá túm lấy tóc mắng "Đồ con đĩ. Sống làm đàn bà bất trinh, chết làm con ma mất nết, đã trăm đứa cưỡi vạn đứa đè rồi lại còn ám em ta à?". Rồi đánh cho tóc mây rối bù, mặt hoa bầm tím. Hồi lâu có một bà già vào nhà, lạy phục xuống đất năn nỉ. Bá lại trách bà để cho con gái buông tuồng, nhiếc móc một hồi mới bảo đưa con gái về.

Rồi Bá đưa Trọng về, chớp mắt đã tới nhà, vào thẳng trong phòng, Trọng chợt tỉnh dậy mới biết vừa rổi là mình đã chết. Bá trách Tương Quần "Ta với chị cô cho rằng cô hiền thục đảm đang mới sai theo em ta, nay lại muốn giục cho nó chóng chết à? Nếu không hiềm danh phận anh chồng em dâu, thì ta đã đánh cho một trận rồi đấy!". Tương Quần sợ sệt thẹn thùng khóc thút thít, lạy Bá tạ lỗi. Bá quay nhìn A Tiểu mừng rỡ nói "Con đã đúng là người sống rồi". Tương Quần định đi làm cơm, Bá từ chối nói "Chuyện của em ta còn chưa xong, ta không rảnh được". A Tiểu năm ấy được mười ba tuổi, đã hơi lớn nên biết quyến luyến cha, thấy cha ra đi, rơi nước mắt đi theo. Bá nói "Theo chú sướng lắm, cha đi rồi sẽ trở lại mà", rồi chớp mắt đã biến mất, từ đó không gặp nhau nữa. Sau A Tiểu cưới vợ sinh dược một con trai, đến ba mươi tuổi thì chết, Trọng chăm chút đứa nhỏ như chăm nom cháu ngày trước. Năm Trọng hơn tám mươi tuổi thì nó hơn hai mươi tuổi, mới cho ra ở nêng. Tương Quần không sinh nở lần nào, một hôm nói với Trọng rằng "Thiếp về nhà trước đuổi chuột được chứ?", rồi ăn mặc đẹp đẽ vào giường nằm mà chết. Trọng cũng chẳng đau xót gì, nửa năm sau cũng chết.

Dị Sử thị nói: Kẻ thương yêu anh em như Trọng trong thiên hạ có được mấy người? Cho nên mới không chết mà còn được tăng thêm tuổi thọ đấy. Lúc sống không có con mà khi chết có người nối dõi, đó đều là nhờ tấm lòng thương xót người anh đã chết làm cảm động tới thần minh, nên việc người thì không có lý ấy, nhưng việc trời thì chắc phải có phận ấy chứ. Những kẻ dưới cõi âm sinh được con, mong nó nối theo nghiệp trước của mình hẳn cũng không ít, chỉ sợ các anh em ruột thịt được hưởng cả gia tài không chịu nhận về nuôi nấng mà thôi.

162. La Tổ (La Tổ)

La Tổ người huyện Túc Mặc (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ nghèo khổ nhưng thích bay nhảy. Năm ấy trong họ phải cắt một người đi lính thú ngoài biên, bèn cho La đi. La ở ngoài biên vài năm, sinh được một trai, lại được viên Thủ bị chỉ huy yêu mến. Kế viên Thủ bị được thăng làm Tham tướng Thiểm Tây, muốn đem La cùng đi. La bèn gởi gắm vợ con cho người bạn là Lý Mỗ rồi lên đường, suốt ba năm không có dịp về thăm. Gặp lúc Tham tướng muốn gởi thư lên biên ải phía bắc, La thưa xin cầm thư đi để nhân tiện đường ghé thăm vợ con, Tham tướng ưng thuận. La về tới nhà, thấy vợ con đều khoẻ mạnh, cũng được yên lòng, nhưng nhìn thấy dưới gầm giường có đôi giày đàn ông, trong lòng ngờ vực. Kế qua nhà Lý cám ơn, Lý bày rượu khoản đãi rất ân cần, vợ cũng nói Lý giúp đỡ đối xử tử tế, La cảm động lắm. Hôm sau nói với vợ rằng "Ta phải đi đưa thư cho chủ, chắc tối không về kịp đâu, nàng đừng chờ". Rồi ra cửa lên ngựa đi nhưng ngầm núp lại gần đó, đến khuya quay về thì nghe tiếng vợ và Lý uống rượu chuyện trò, nổi giận phá cửa vào. Hai người sợ hãi quỳ xuống van lạy. La đã tuốt đao nhưng lại tra vào vỏ, nói với Lý rằng "Ta vẫn coi ngươi là con người, nay lại như thế này, nếu giết đi chỉ làm bẩn đao của ta thôi. Vậy ta giao hẹn với ngươi, ngươi nhận lấy vợ con ta thì cũng phải ghi tên làm lính thay ta, ngựa nghẽo khí giới ta để cả lại đây cho ngươi, ta đi đây", rồi bỏ đi.

Người làng cùng báo lên quan, quan phạt đánh trượng Lý. Lý bẩm thật mọi chuyện, nhưng việc không có gì làm bằng nên không tra xét được, sai tìm La khắp nơi vẫn không nghe tin tức gì. Quan ngờ rằng Lý tư thông với vợ nên giết chồng, càng giam cầm Lý và vợ La nghiêm ngặt, hơn một năm thì hai người đều chết trong ngục, quan sai lấy ngựa trạm đưa con La về Túc Mặc. Về sau ở dinh Thạch Hạp có dân vào núi kiếm củi gặp một đạo sĩ ngồi trong hang, không thấy ăn uống gì. Mọi người đều lấy làm lạ, đem thức ăn dâng, có người nhận biết nói đó là La. Cơm gạo chất đầy trong hang mà rốt lại La vẫn không ăn, lại tỏ vẻ ghét sự ồn ào, vì thế mọi người cũng dần dần ít tới đó. Vài năm sau ngoài cửa hang cỏ mọc như rừng, có kẻ tới nhòm trộm vào thấy La vẫn ngồi yên chỗ cũ không hề di chuyển. Lại khá lâu sau, người ta thấy La ra khỏi hang đi dạo trên núi, cho là đã bỏ đi, nhung tới nhìn vào hang thì thấy trên áo La vẫn đầy bụi như cũ, càng lấy làm lạ. Vài ngày sau lại tới xem thì thấy da thịt rã xuống, té ra đã tọa hóa từ lâu rồi. Dân vùng ấy lập miếu thờ, cứ cách ba tháng lại thắp hương đất vàng khấn khứa ngoài cổng. Sau con La tới đó, người ta đều gọi là "La Tổ nhỏ"' giao hết tiền đèn hương cho. Đến nay con cháu vẫn mỗi năm tới đó một lần thu tiền đèn hương. Lưu Tông Ngọc ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) kể cho ta nghe chuyện này rất rõ ràng, ta cười nói "Những người mộ đạo Phật trên đời hiện nay không mong làm thánh hiền mà chỉ mong thành Phật tổ, xin nói với tất cả bọn họ rằng nếu muốn thành Phật ngay lập tức thì cứ buông đao xuống đất thôi".

163. Cây Quýt (Quất Thụ)

Ông Lưu người Thiểm Tây làm Huyện lệnh Hưng Hóa (tỉnh Giang Tô). Có người đạo sĩ tới hiến một chậu cây cảnh, nhìn ra thì là một cây quýt nhỏ, thân cây vừa bằng ngón tay, ông từ chối không nhận. Nhung ông có cô con gái nhỏ mới sáu bảy tuổi, hôm ấy gặp ngày sinh nhật, đạo sĩ nói "Vật này không đáng biếu đại nhân thưởng ngoạn, chỉ là để chúc tiểu thư được phúc thọ thôi", ông bèn nhận. Cô gái vừa nhìn thấy cây quýt thì mừng quýnh, đem đặt trong phòng ngủ, sớm tối chăm sóc, chỉ sợ nó bị thương tổn. Năm ông Lưu thôi giữ chức Huyện lệnh, cây quýt đã lớn, bắt đầu kết trái. Khi ông thu xếp hành trang lên đường, thấy nó nặng nề cồng kềnh, bèn bỏ lại. Cô gái ôm cây quýt kêu khóc, người nhà nói dối rằng "Chỉ đi một thời gian sẽ trở lại mà", cô gái tưởng thật mới nín khóc. Nhung lại sợ có người khoẻ mạnh vác đi mất, bèn sai người nhà dời ra trồng dưới thềm rồi mới chịu lên đường. Cô gái về nhà, sau được gả cho họ Trang.

Năm Bính tuất Trang thi đỗ Tiến sĩ, được cử làm Huyện lệnh Hưng Hóa. Phu nhân rất mừng, song thầm nghĩ đã hơn mười năm, cây quýt chắc không còn. Tới nơi thì cây quýt đã lớn hơn mười ôm, trái kết từng chùm từng chùm, kể tới hàng ngàn. Hỏi thăm những người sai dịch cũ, họ đều nói sau khi ông Lưu đi, cây quýt rất tươi tốt nhưng không kết trái, đây là lần đầu tiên có trái, phu nhân lấy làm lạ lùng. Trang giữ chức ba năm, cây quýt ra trái rất sai, đến năm thứ tư thì xơ xác không có một cái hoa nhỏ. Phu nhân nói "Chàng không làm quan ở đây lâu nữa đâu", đến mùa thu quả nhiên Trang được giải nhiệm.

Dị Sử thị nói: Cây quýt có túc duyên với cô gái chăng? Sao mà tao ngộ khéo như vậy? Kết trái tựa cảm ơn xưa, không hoa như đau ly biệt. Cây cỏ còn như vậy, huống là con người sao?

164. Người Đẹp Bằng Gỗ (Mộc Điêu Mỹ Nhân)

Nhà buôn Bạch Hữu Công kể lúc ở sông Lạc (huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thấy một người mang cái giỏ tre, dắt hai con chó lớn, lấy trong giỏ ra một người đẹp bằng gỗ cao hơn một thước, tay chân có thể cử động được, xinh đẹp như người sống. Kế lấy chiếc nệm gấm nhỏ phủ lên lưng chó, đặt người đẹp bằng gỗ ngồi lên, rồi quát chó chạy mau. Người đẹp bằng gỗ tự cử động, dong ngựa diễn kịch, đứng lên bàn đạp rồi nằm rạp xuống, ưỡn lưng ngã người tựa lên đuôi ngựa, vái lạy đứng ngồi vô cùng linh hoạt. Lại diễn vở Chiêu Quân xuất tái*, lấy ra thêm một người gỗ khác, đội mũ gắn lông trĩ, mặc áo bằng da dê cưỡi chó theo sau, Chiêu Quân cứ nấn ná quay nhìn thì người mặc áo da dê vung roi thúc đi mau, giống hệt như người sống vậy.

*Chiêu Quân xuất tái: Chiêu Quân ra ải. Chiêu Quân là cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị triều đình gả cho chúa Thiền Vu để hòa thân, lúc ra cửa ải vào đất Thiền Vu nàng có gảy khúc đàn tỏ lòng nhớ nước.

165. Kim Vĩnh Niên (Kim Vĩnh Niên)

Kim Vĩnh Niên người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) tám mươi hai tuổi không có con, vợ thì bảy mươi tám tuổi, tự nghĩ đã hết hy vọng. Chợt nằm mộng thấy thần nói "Lẽ ra ngươi phải tuyệt tự nhưng nghĩ tới ngươi buôn bán lương thiện nên cho một đứa con trai". Kim tỉnh dậy kể với vợ, vợ nói "Thật là mơ mộng hão huyền, hai người đều đã sắp vào quan tài cả rồi, con ở đâu ra?". Không bao lâu người vợ thấy bụng máy động, mười tháng sau sinh được một con trai.

166. Hiếu Tử (Con Hiếu)

Trước núi Đông Hương ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) có Chu Thuận Đình thờ mẹ rất có hiếu. Mẹ bị cái nhọt lớn ở đùi, đau không chịu nổi, đêm ngày rên rỉ. Chu bưng cơm sắc thuốc hầu hạ quên ăn quên ngủ mà mấy tháng mẹ vẫn không khỏi. Chu lo lắng không biết làm sao, nằm mơ thấy cha về nói "Mẹ con bị bệnh may nhờ được con có hiếu, nhưng bệnh này không có mỡ người thoa vào thì không khỏi được, con vất vả tội nghiệp quá". Tỉnh dậy lấy làm lạ, liển trở dậy lấy dao cắt thịt ở sườn, thịt đứt ra nhưng không đau lắm, vội lấy vải bó quanh bụng, cũng không thấy chảy máu. Rồi rán thịt lấy mỡ thoa cho mẹ, lập tức hết đau ngay. Mẹ mừng rỡ hỏi thuốc gì mà hay thế, Chu tìm lời nói dối. Bệnh mẹ dần dần bớt, Chu vẫn giấu kín vết thương chỗ cắt thịt, vợ con cũng không biết. Đến khi lành hẳn, có cái sẹo to bằng bàn tay, vợ hỏi mới rõ sự tình.

Dị Sử thị nói: Cắt thịt mình là việc làm thương tổn sự sống, người quân tử không coi là hay, nhưng người dân ngu dại nào biết rằng làm thương tổn thân mình không phải là hiếu đâu? Đó cũng là làm theo tấm lòng không lo cho mình mà thôi, có người như thế mới hay hạng con hiếu thật sự là do trời sinh. Những người coi việc phong tục giáo hóa lắm việc quan trọng, bận rộn không thể biểu dương cho họ, thì phải cậy tới cõi u minh làm rõ điều tốt kín đáo của kẻ kiếm củi hái rau vậy.

167. Sư Tử (Sư Tử)

Nước Tiêm La cống sư tử, tới đâu cũng có người đón xem đông nghẹt. Nhìn hình dáng thì khác hẳn lời đồn hay tranh vẽ, lông đen ánh vàng dài khoảng vài tấc. Có người ném cho con gà nó giơ vuốt chụp lấy rồi thổi, thổi một hơi thì lông gà rụng sạch, về lý kể cũng lạ.

168. Cái Thẻ Tử Chàng (Tử Chàng Lệnh)

Tiến sĩ Thường Đại Trung là người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây). Tới kinh đô chờ bổ nhiệm, đêm nằm mơ thấy Văn Xương đế quân tới gặp, rút thẻ bói thì được cái thẻ Tử Chàng*, lấy làm lạ. Sau Thường có đại tang trở về, hết tang trở lên kinh chờ bổ nhiệm, lại nằm mơ giống lần trước, tự nghĩ hay là mình đước bổ làm Tri huyện Tử Chàng chăng? Sau quả nhiên đúng thế.

* Văn Xương... Tử Chàng: Văn Xương đế quân theo truyền thuyết 1à họ Trương, sống vào thời Đường, giỏi văn học, chết làm thần coi việc khoa cử công danh. Tử Chàng là tên huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên, là nơi ở của Văn Xương đế quân nên người ta còn gọi vị thần này là Tử Chàng đế quân. Cái thẻ Tử Chàng dịch chữ "Tử Chàng lệnh", chữ "lệnh" đây còn có nghĩa là quan Tri huyện.

Quyển X

169. Giả Phụng Trĩ (Giả Phụng Trĩ)

Giả Phụng Trĩ người huyện Bình Lương (tỉnh Cam Túc) tài danh đứng đầu một thời nhưng cứ đi thi là rớt. Một hôm đi đường gặp người Tú tài tự xưng là họ Lang, phong thái tiêu sái, nói chuyện đâu vào đấy nên mời cùng về nhà, đưa văn bài ra nhờ sửa cho. Lang đọc xong, không khen ngợi lắm, nói "Văn chương của túc hạ thi khảo khóa thì đỗ đầu có thừa, mà vào trường thi thì đội bảng cũng thiếu". Giả nói "Vậy thì làm thế nào!", Lang đáp "Chuyện đời nhìn lên thì khó, cúi xuống thì dễ, cần gì ta phải nói nữa", rổi chỉ ra vài bài văn của vài người làm mực thước. Đó đều là những kẻ Giả vốn khinh bỉ, nên nghe thế cười đáp "Kẻ học lập ngôn quý ở chỗ được lời bất hủ, như thức ăn ngon sánh với bát trân mà thiên hạ không cho là xa xỉ chứ ăn cắp công danh như thế thì dẫu có làm tới khanh tướng cũng vẫn hèn hạ". Lang nói "Không phải thế. Văn chương dẫu hay mà thân phận hèn hạ cũng không được lưu truyền, nếu ông muốn ôm sách vở đến chết thì được, bằng không thì các quan chấm thi đều tiến thân bằng thứ văn chương tầm thường ấy cả, sợ không đọc nổi văn ông thì không lọt được vào mắt họ đâu". Giả vẫn khăng khăng giữ ý mình, Lang đứng dậy cười nói "Kẻ thiếu niên hào hùng thật!", rồi chào đi.

Mùa thu năm ấy Giả thi hương lại rớt, sầu muộn bất đắc chí, chợt nhớ lời Lang nói bèn tìm những bài văn Lang đã chỉ cho miễn cưỡng đọc. Chưa hết bài thì buồn ngủ díp mắt, trong lòng ngờ vực không rõ là vì sao. Lại qua ba năm, sắp đến kỳ thi thì Lang lại tới, gặp nhau rất vui vẻ, nhân đưa bảy đề bài mình nghĩ ra bảo Giả làm. Qua hôm sau đòi xem, cho là không được, bảo làm lại, làm xong lại chê. Giả đùa, bèn xào xáo những câu văn sáo rỗng không ai nghe được trong các bài thi rớt ghép lại thành bài, chờ Lang tới đưa cho xem. Lang mừng nói "Thế này thì được rồi!", rổi bảo phải học thuộc lòng, dặn đi dặn lại bảo đừng có quên. Giả cười nói "Nói thật với ông, nhũng bài này không phải ta thật lòng viết ra, chớp mắt là quên ngay, có đánh đòn cũng không nhớ nối đâu"' Lang ngổi ở đầu bàn, nói cứ cố đọc lại một lượt, kế bảo Giả vén áo lên, lấy bút vẽ một đạo bùa trên lưng rồi đi, nói "Bấy nhiêu là đủ rồi, đọc sách cho lắm cũng chỉ vô dụng". Giả xem lại đạo bùa thì rửa đi không sạch, thấm luôn vào thịt rồi.

Đến khi vào trường thi thì bảy đề bài đều đúng như của Lang, Giả nhớ lại các bài đã làm thì đều quên sạch, chỉ có những bài chắp vá để đùa là nhớ rõ mồn một. Nhưng đặt bút xuống lại thấy xấu hổ, cũng muốn sửa đổi một ít, song nghĩ nát óc mà không thay được chữ nào, mặt trời đã xế đành chép đúng rồi nộp quyển mà ra. Lang chờ đã lâu, hỏi sao muộn thế, Giả kể thật lại rồi xin xóa lá bùa, nhưng nhìn lại thì đã mờ hết. Nhớ lại lúc làm bài trong trường thi, thấy như là sống kiếp khác, vô cùng lạ lùng. Nhân hỏi Lang sao không dùng cách ấy để đi thi, Lang cười đáp "Chỉ vì ta không nghĩ tới việc thi ấy nên cũng không đọc nổi loại văn ấy". Rồi hẹn Giả ngày mai qua chỗ mình chơi, Giả ưng thuận. Lang đi rồi, Giả đem bản thảo bài làm ra xem lại, thấy khác hẳn lòng mình, lấy làm ấy náy, cũng chẳng qua thăm Lang, chán nản về nhà.

Không bao lâu ra bảng, quả Giả đỗ đầu. Lại lấy bản thảo cũ ra xem, đọc tới đâu toát mồ hôi tới đó, đọc xong thì áo ướt đẫm, tự nhủ "Văn chương này mà truyền ra thì làm sao dám gặp kẻ sĩ trong thiên hạ nữa?". Còn đang hổ thẹn thì Lang chợt tới, nói "Muốn thi đỗ thì đã thi đỗ rồi, còn buồn gì nữa?". Giả đáp "Ta đang nghĩ đúng là mâm vàng chén ngọc lại đem đựng phân chó, thật không còn mặt mũi nào gặp người quen, định sẽ vào núi gò mai danh ẩn tích, vĩnh viễn cắt đứt với thế tục đây!". Lang nói "Như thế thì rất cao thượng, chỉ e rằng không làm được thôi. Nếu làm được ta xin đưa ông tới gặp một người, có thể được trường sinh thì cái danh thơm ngàn thuở cũng không đáng tiếc, huống hồ là chuyện giàu sang thoảng qua ư?". Giả mừng giữ Lang ngủ lại, nói "Cho ta nghĩ kỹ lại đã". Sáng ra nói với Lang rằng "Ý ta đã quyết rồi". Rồi không nói gì với vợ con, theo Lang nhẹ nhàng ra đi, dần dần vào núi sâu, tới một tòa động phủ, bên trong như một cõi trời đất riêng biệt. Thấy có một ông già ngồi trong sảnh đường, Lang dẫn Giả vào ra mắt, gọi là thầy. Ông già hỏi "Sao về sớm thế?", Lang thưa "Ngươi này lòng đạo đã bền, xin thầy thu nạp". Ông già nói "Ngươi đã tới đây, thì phải đặt thân mình ra ngoài thế tục mới đắc đạo được", Giả dạ dạ vâng lời.

Lang đưa tới một phòng, sắp xếp chỗ ngủ rồi, lại đem cơm tới mới đi. Phòng cũng sạch sẽ, có điều cửa lớn không có cánh cửa, cửa sổ không có chấn song, bên trong chỉ có một chiếc giường và một cái bàn. Giả cởi giày lên giường, trăng đã lên chiếu vào phòng. Thấy hơi đói bèn lấy cơm ra ăn, ngon ngọt khác thường. Thầm nghĩ chắc Lang sẽ lại tới, nhưng ngồi chờ hồi lâu vẫn im ắng, chẳng có tiếng động nào, chỉ thấy mùi hương man mác khắp phòng, tâm thần nhẹ nhõm, cảm nhận được cả khí huyết đang vận hành. Chợt có tiếng động lớn như mèo gãi sồn sột, hé mắt nhìn ra thấy có con cọp ngồi dưới thềm, thoáng hoảng sợ nhưng nhớ tới lời thầy dặn, lập tức trấn tĩnh ngồi yên. Cọp như biết có người, dần dần vào tới gần giường, thở khìn khịt ngửi chân Giả. Giây lát trong sân lại có tiếng phành phạch như gà bị trói giãy giụa, con cọp lập tức chạy đi. Giả ngồi một lúc nữa thì có mỹ nhân bước vào, hương thơm sực nức, im lặng lên giường ghé tai Giả nói nhỏ "Thiếp tới rồi đây!", lúc nói nghe hơi thở cũng thơm phức. Giả vẫn thản nhiên không động đậy, mỹ nhân lại hạ giọng hỏi "Ngủ rồi à?", giọng nói rất giống vợ nhà. Giả hơi động lòng, mở mắt nhìn kỹ thì đúng là vợ mình. Hỏi làm sao tới được đây, vợ đáp "Lang sinh sợ chàng thấy hiu quạnh muốn về, sai một bà già đưa thiếp tới".

Vừa nói xong thì nghe tiếng ông già quát tháo, dần dần tới gần phòng, vợ Giả vội vùng dậy nhưng không có chỗ nào trốn núp, bèn leo qua chỗ tường thấp chạy ra ngoài. Giây lát Lang theo ông già vào, ông già cầm trượng đánh Lang ngay trước mặt Giả, rồi sai đuổi khách đi. Lang cũng đưa Giả theo chỗ tường thấp ra ngoài, nói "Ta mong mỏi còn ông viễn vông, không khỏi có chỗ hấp tấp, nhưng không ngờ ông lại chưa dứt được tình duyên làm ta bị trách phạt. Bây giờ hãy tạm về đi, sau này sẽ có ngày gặp lại"' Bèn chỉ đường cho về, vái chào rồi chia tay. Giả nhìn xuống núi thấy quê nhà đã trước mắt, nghĩ rằng vợ chân yếu chắc còn trên đường, bèn rảo bước đi, hơn một dặm thì tới cổng nhà. Nhưng thấy tường vách tiêu điều khác hẳn cảnh ngày trước, già trẻ trong thôn chẳng thấy có ai quen, bắt đầu khiếp sợ.

Chợt nhớ đến tình cảnh Lưu Nguyễn từ Thiên Thai trở về cũng đúng như thế này nên không dám vào nhà, ngồi đợi trước cửa nhà đối diện. Hồi lâu trong nhà có ông già chống gậy bước ra, Giả vái chào rồi hỏi nhà Giả Mỗ ở đâu, ông già chỉ đáp "Đúng là nhà ấy đấy, có phải khách muốn hỏi chuyện lạ không? Ta biết rõ lắm. Nghe đồn rằng ông ta được tin thi đỗ thì bỏ trốn, lúc ấy con trai mới bảy tám tuổi, đến năm mười lăm tuổi thì bà mẹ chợt ngủ mãi không tỉnh dậy. Lúc người con còn sống thì hàng ngày vẫn thay áo đổi nệm cho mẹ, khi chết rồi hai người cháu nghèo khổ, phòng ốc hư dột chỉ lấy cành lá che tạm thôi. Tháng trước phu nhân chợt tỉnh dậy, tính lại thì đã hơn trăm năm rồi. Gần xa nghe chuyện lạ tới hỏi thăm nườm nượp, đến nay mới hơi thưa đấy".

Giả chợt hiểu ra, nói "Ông không biết đấy, chứ ta là Giả Phụng Trĩ đây"' ông già cả kinh, chạy qua nhà Giả báo tin. Lúc ấy cháu nội đích tôn của Giả đã chết, cháu thứ hai tên Tường đã hơn năm mươi tuổi, thấy Giả mặt mũi còn trẻ ngờ là bịa đặt. Lát sau phu nhân ra mới nhận biết Giả, ứa lệ gọi cùng vào nhà. Khổ nỗi nhà không có phòng ốc gì, mới vào tạm nhà cháu nội, thấy trai gái lớn nhỏ chạy vào xúm xít đầy nhà, đều là chắt chít, tất cả đều nghèo hèn ít học. Cháu dâu trưởng là Ngô thị dọn cơm mời Giả, thức ăn chỉ có rau, lại bảo con thứ hai là Quả cùng vợ qua ở chung phòng với mình, nhường phòng lại cho ông bà. Giả vào nhà cháu nội ở thấy bụi bặm bẩn thỉu, đông đúc ồn ào, mới có vài ngày đã thấy không sao chịu nổi. Nhà hai cháu nội chia nhau đem cơm nước cho ông bà, nhưng nấu nướng rất không vừa miệng. Người làng thấy Giả mới về, ngày ngày còn mời đi uống rướu, chứ phu nhân thì thường không ngày nào được ăn no. Ngô thị vốn là con gái nhà sĩ nhân, được dạy dỗ có khuôn phép nên còn kính trọng ông bà, chứ nhà Tường thì việc cơm nước ngày càng tệ, có hôm còn gọi qua ăn cùng.

Giả nổi giận dắt phu nhân đi, mở trường dạy học ở thôn Đông, thường nói với phu nhân rằng "Ta rất hối hận đã trở về, nhưng không kịp nữa. Nên bất đắc dĩ phải theo nghiệp cũ, nếu trong lòng không có gì xấu hổ thì giàu sang cũng chẳng khó". Như thế hơn năm, Ngô thị vẫn thường cung đốn tiền gạo chứ cha con Tường thì bặt tăm. Năm ấy Giả thi đỗ vào trường huyện, quan huyện trọng văn tài nên tặng cho rất hậu, nhờ vậy trong nhà cũng được dư dật. Tường mon men tới thăm, Giả gọi vào bảo tính hết phí tổn cho mình trước đây, lấy tiền đưa trả rồi cấm cửa không cho gặp nữa. Kế mua nhà mới, gọi Ngô thị về cùng ở. Ngô thị có hai con trai, con lớn vẫn giữ nghề làm ruộng, con thứ là Quả rất thông minh, Giả bảo theo học chung với học trò mình. Giả từ lúc trong núi về, đầu óc càng minh mẫn, không bao lâu liên tiếp thi đỗ Cử nhân rồi Tiến sĩ. Vài năm sau được lấy hàm Thị ngự ra làm Tuần phủ Chiết Giang, oai danh lừng lẫy, trong nhà lầu gác đài tạ, dưới thềm yến ẩm đàn ca, nổi tiếng một thời.

Giả là người cứng cỏi, không sợ kẻ quyền quý nên đụng chạm tới nhiều quan lón trong triều, bèn dâng sớ xin về hưu nhưng chưa có chỉ dụ thì đã gặp tai họa. Nguyên Tường có sáu con trai, đều là hạng vô lại, tuy Giả đã cấm cửa không cho lui tới nhưng vẫn mượn danh Giả tác oai tác phúc, chiếm đoạt nhà cửa ruộng vườn của dân, người làng đều sợ. Có tên Ất vừa cưới vợ, bị con thứ của Tường cướp làm thiếp. Ất vốn là người trí trá nên người làng giúp tiền cho y đi kiện, chuyện tới tai trlều đình, các quan đểu dâng sớ hặc tội Giả. Giả không có cách nào biện hộ nên bị bắt giam. Được một năm thì Tường và đứa con thứ chết trong ngục, Giả được chỉ sung quân ở huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh). Năm ấy Quả vào học trường tỉnh đã lâu, tính rất nhân hậu, nổi tiếng tài giỏi. Phu nhân sinh được một con, năm ấy mười sáu tuổi, gởi gắm cho Giả rồi dắt một lão bộc, một bà già đi với chồng. Giả nói "Giàu sang hơn mười năm cũng không lâu bằng một giấc mộng, nay mới biết trường vinh hoa đều là một cõi địa nguc, hối hận vì Lưu Nguyễn lại gây ra thêm một cái án oan nghiệt vậy".

Vàỉ hôm tới bờ biển xuống thuyền, thấy xa xa có một chiếc thuyền lớn chèo tới, đàn sáo rộn rã, bọn người hầu đều như thần tiên. Thuyền tới gần thì có một ngừữi bước ra, tươi cười mời quan Thị ngự qua trò chuyện một lúc Giả nhìn thấy người ấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nhảy luôn qua thuyền lớn, bọn lính áp giải không dám ngăn cản. Phu nhân vội vàng bước theo nhưng thuyền lớn đã rời xa, uất ức nhảy luôn xuống biển. Loi ngoi được vài bước thì có một người thả tấm lụa xuống cứu lên. Bọn lính áp giải bảo nhà thuyền chèo mau đuổi theo, vừa đuổi vừa quát tháo. Chợt nghe có tiếng trống thúc vang vang như sấm hòa vào với tiếng sóng ầm ầm, trong chớp mắt thì chiếc thuyền kia biến mất. Người lão bộc của Giả nhận ra người trên thuyền, nói đó là Lang sinh.

Dị Sử thị nói: Nghe dồn Trần Đại Sĩ* đi thi, viết xong bài rồi, đọc đi đọc lại mấy lần, than rằng "Ai cũng viết được thế này", bèn bỏ đi viết bài khác nên không đủ mực viết bài thi. Giả sinh xấu hổ bỏ trốn, cũng là có tiên cốt, nhưng lại quay về nhân gian rồi vì miếng cơm manh áo mà tự hạ mình, thật là bần tiện làm sao!

*Trần Đại Sĩ: bản Hương Cảng chú nhân vật này 1à người thời Minh, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh (1634).

170. Ba Kiếp (Tam Sinh)

Anh Mỗ ở Hồ Nam nhớ được chuyện ba kiếp trước. Kiếp đầu làm quan huyện, được cử làm khảo quan kỳ thi hương. Có danh sĩ tên Hưng Vu Đường bị đánh rớt uất ức mà chết, cầm quyển thi tới âm ty kiện. Đơn kiện vừa đưa lên, những sĩ tử thi rớt mà chết kéo tới hàng vạn người, tôn Hưng đứng đầu, lúc tan lúc họp. Mỗ bị bắt tới đối chất với Hưng, Diêm Vương hỏi Mỗ coi việc cân nhắc văn chương, tại sao lại đánh rớt người tài sĩ mà lấy đỗ kẻ tầm thường. Mỗ phân trần rằng ở trên còn có quan Chủ khảo, mình chẳng qua chỉ là kẻ thừa lệnh mà thôi. Diêm Vương lập tức phát thẻ bài sai đi bắt viên Chủ khảo, hồi lâu giải tới, Diêm Vương thuật lại lới Mỗ, viên Chủ khảo nói "Ta chẳng qua chỉ là người xem lại lần cuối, nếu các quan Giám khảo không đưa bài lên thì làm sao ta đọc được?". Diêm Vương nói "Không được đổ lỗi cho nhau như thế, hai ngươi đều không làm tròn phận sự như nhau thôi", vừa sắp phạt đánh đòn hai người thì Hưng không vừa lòng bước ra gào lớn, đám ma đứng dưới thềm cũng la hét phụ họa.

Hưng nói trừng phạt như vậy quá nhẹ, phải khoét cả hai mắt để trị tội không biết đọc văn. Diêm Vương không chịu, đám ma càng la hét tợn, Diêm Vương nói "Tội của họ không phải là không muốn được văn hay, chỉ là ngu dốt thôi". Đám ma lại xin mổ tim, Diêm Vương bất đắc dĩ sai lột áo hai người, lấy dao bén rạch bụng, hai người đổ máu kêu la, đám ma vô cùng vui sướng, đều nói "Bọn ta uất ức dưới suối vàng chưa lần nào được phát tiết nỗi hận, nay nhờ Hưng tiên sinh mới được hả giận", vui vẻ tan đi. Mỗ chịu tội mổ bụng xong, bị giải tới Thiểm Tây đầu thai làm con nhà thường dân. Năm hai mươi tuổi thì trong vùng có bọn giặc lớn gây loạn, Mỗ bị ép theo. Quan quân đánh dẹp phá tan, bắt được rất nhiều, Mỗ cũng bị bắt nhưng nghĩ mình bị ép chứ không phải thật lòng làm giặc, còn có thể phân trần được.

Đến khi ra mắt quan trên, thấy cũng chỉ hơn hai mươi tuổi, Mỗ nhìn kỹ thì ra là Hưng, sợ hãi nói "Chắc ta chết rồi". Kế đó Hưng cho tha hết những kẻ bị bắt, duy có Mỗ tới sau thì không cho phân trần gì, sai đem xử chém. Mỗ tới âm ty đưa đơn kiện Hưng, Diêm Vương không cho bắt ngay để chờ Hưng hướng hết lộc số. Ba mươi năm sau Hưng mới tới đối chất, Diêm Vương thấy coi thường mạng người nên phạt làm súc vật. Lại xét lại việc làm của Mỗ thấy lúc trước từng đánh đập cha mẹ, cũng phạt như Hưng. Mỗ sợ kiếp sau Hưng báo thù, nên xin làm con vật lớn. Diêm Vương bèn phạt Mỗ làm chó lớn, Hưng làm chó nhỏ. Mỗ thác sinh ở chợ phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc), một hôm đang nằm ở đầu đường thấy có người khách từ Nam lên, dắt theo một con chó lông vàng to bằng con mèo, nhìn lại thì ra là Hưng. Mỗ khinh là nhỏ xông vào cắn, bị con chó nhỏ táp vào cổ họng, đeo dính như cái lục lạc. Con chó lớn rẫy ra rồi đè con chó nhỏ xuống cắn, người trong chợ xúm lại giằng ra không được. Lát sau cả hai cùng chết, lại xuống âm ty tranh cãi với nhau. Diêm Vương nói "Oan oan tương báo đến bao giờ mới thôi được, nay ta sẽ cởi mối thù oán cho các ngươi", rồi phán kiếp sau Hưng sẽ làm con rể Mỗ.

Mỗ sinh ra tên Khánh Vân, năm hai mươi tám tuổi thi đỗ Cử nhân. Sinh được một gái đoan trang đẹp đẽ, các nhà thế tộc tranh nhau nhờ người tới hỏi, Mỗ đều chối từ. Ngẫu nhiên qua chơi quận bên, gặp lúc quan Học sứ xếp hạng các Chư sinh, người đứng đầu là họ Lý, thật ra là Hưng. Mỗ đưa về nơi trọ, đối xử rất ân cần, hỏi tới gia đình thì chưa có vợ, bèn hứa gả con gái cho. Mọi người đều cho rằng Mỗ quý kẻ có tài, chứ không biết thật ra là số phận. Kế đó Lý cưới con gái Mỗ, vợ chồng rất hòa hợp nhưng chàng rể cậy tài coi thường cha vợ, cả năm không tới thăm một lần, cha vợ cũng nhịn. Sau chàng rể trung niên lận đận, lao đao mãi vẫn không thi đỗ, Mỗ tìm đủ cách giúp đỡ cho mới được đắc chí ở khoa danh, từ đó hai người thương yêu nhau như cha con ruột vậy.

Dị Sử thị nói: Bị đánh rớt một lần mà ba kiếp chưa hết thù oán, căm hận đến thế thật là quá đáng. Diêm Vương thu xếp vốn rất hay, nhưng dưới thềm có hàng ngàn hàng vạn kẻ chen chúc như Hưng, chẳng lẽ những rể hiền trong thiên hạ đều là con ma kêu gào khóc lóc dưới âm ty sao!

171. Trường Đình (Trường Đình)

Thạch Đại Phác người Thái Sơn (huyện Thái An tỉnh Sơn Đông) thích thuật nhương quỷ trừ tà. Có vị đạo sĩ gặp mặt khen là thông minh, nhận làm đệ tử, mở tráp lấy hai quyển sách, quyển thượng dạy trừ hồ, quyển hạ dạy trừ ma, đưa quyển hạ cho Thạch, nói "Cứ giữ kỹ sách này sẽ có cơm ngon vợ đẹp". Thạch hỏi tên họ, đạo sĩ đáp "Ta là Vương Xích Thành ở quán Nguyên Đế thôn Bắc Biện Thành (tỉnh thành Hà Nam)", rồi ở lại vài ngày dạy hết cho các ấn quyết. Thạch từ đó rất giỏi bùa phép, những kẻ mang lễ vật nhờ trừ tà ếm quỷ nối nhau tới mời. Một hôm có ông già tới, tự xưng là họ ông, bày đầy tiền lụa ra bàn nói có con gái bị bệnh ma làm gần chết, xin Thạch tới xem. Thạch nghe bệnh đã nguy, chối từ không nhận lễ vật, chỉ tạm tới để xem ra sao. Đi hơn mười dặm vào thôn trong núi, tới nhà thấy phòng ốc hành lang đều hoa lệ đẹp đẽ. Vào phòng thấy cô gái nằm trong màn the, tỳ nữ vén màn lên, Thạch nhìn thấy nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, thoi thóp trên giường, hình dung khô héo. Tới gần xem, chợt nàng mở mắt ra nói "Thầy giỏi đã tới!"

Cả nhà mừng rỡ cho biết rằng nàng đã không nói năng gì đã mấy ngày rồi. Thạch ra ngoài hỏi bệnh tình, ông già đáp cứ tối đến lại thấy một thiếu niên vào ngủ chung với nàng, đuổi bắt thì biến mất, lát sau lại xuất hiện, ngờ là ma. Thạch nói "Nếu là ma thì đuổi không khó, chỉ sợ là hồ thì thật không phải chuyện ta dám biết". Ông già nói "Không phải đâu, không phải đâu", Thạch bèn vẽ bùa đưa cho. Đêm ấy Thạch ngủ lại đó khuya thấy một thiếu niên áo mũ chỉnh tề đi vào. Thạch nghĩ là người trong gia đình chủ nhân, bước ra hỏi, thiếu niên đáp "Ta là ma đây, cả nhà họ ông đều là hồ, ta thích nàng Hồng Đình nên tới đây. Ma mà ám hồ thì không hại gì tới âm đức, việc gì ông phải giúp họ chia rẽ nhân duyên của ta? Chị nàng là Trường Đình còn đẹp hơn nhiều, ta xin kính cẩn để lại nguyên vẹn cho bậc cao hiền. Nếu họ hứa gả cho ông thì ông hãy giúp họ, ông cưới xong ta sẽ không tới đây nữa", Thạch ưng thuận.

Đêm ấy thiếu niên không vào, cô gái hơi khỏe hơn. Sáng ra ông già mừng rỡ kể với Thạch, mời Thạch vào xem bệnh. Thạch đốt lá bùa đi rồi ngồi thăm bệnh, thấy sau tấm màn thêu có một nữ lang xinh đẹp như thiên tiên, biết đó là Trường Đình. Xem bệnh xong bèn đòi nước rửa phòng, nữ lang vội xách nước vào lúc lui tới cùng dọn dẹp, Thạch ngây ngất ngẩn ngơ, chẳng còn nghĩ gì tới việc trừ tà ếm quỷ cả. Thạch ra từ biệt ông già, lấy cớ về nhà chế thuốc, mấy ngày không trở lại. Ma càng lộng hành, trừ Trường Đình ra thì cả nhà từ con dâu tới tỳ nữ đều bị hành dâm. ông già lại sai đầy tớ mang ngựa tới đón, Thạch thác bệnh không đi. Hôm sau ông già tự tới, Thạch giả đau chân chống gậy bước ra. ông già chào xong hỏi thăm, Thạch đáp "Đây là cái khổ của kẻ góa vợ đây. Đêm qua đứa tớ gái dọn giường vấp ngã làm cái lò sưởi rơi vào chân ta". Ông già hỏi sao đã lâu mà không cưới vợ khác, Thạch đáp "Chỉ hận là không gặp được nhà nào thanh cao như nhà ông".

Ông già im lặng bước ra, Thạch theo tiễn chân, nói "Lúc nào đỡ bệnh sẽ tự tới, đừng nhọc công dời gót ngọc tới đây làm gì". Vài hôm sau ông già lại tới, Thạch khập khiễng ra đón. Ông già hỏi han đôi ba câu rồi nói "Vừa rồi ta bàn với chuyết thê, nếu ông đuổi được ma cho cả nhà yên ổn, thì có tiểu nữ Trường Đình được mười bảy tuổi, xin sai tới phụng sự bậc quân tử". Thạch mừng rỡ lạy phục ngay xuống, rồi nói nếu ông già có nhã ý như vậy thì đâu dám có bệnh mà chần chừ. Lập tức lên đường, cùng cưỡi ngựa đi. Vào nhà xem qua hết những người bị ma làm rồi, lại sợ xong việc bị họ nuốt lời, xin bàn rõ với vợ chồng ông già. Bà già bước ra nói "Tiên sinh còn ngờ sao?", lập tức lấy chiếc trâm cài đầu của Trường Đình đưa Thạch làm tin. Thạch vái lạy xong liền tập hợp tất cả người nhà lại làm phép nhương trừ, riêng Trường Đình không bị gì thì vẽ một tấm bùa sai người nhà đưa tặng cho nàng đeo. Đêm ấy yên ắng, ma quỷ bặt tăm, chỉ có Hồng Đình còn rên rỉ không thôi. Thạch làm nước phép vào rảy cho nàng, bệnh tật lập tức tiêu tan gần hết. Thạch định chào về, ông già níu kéo giữ lại, đến xế chiều dọn rượu thịt lên la liệt, mời mọc rất ân cần, canh hai chủ nhân mới chào khách đi nghỉ.

Thạch vừa đi nằm thì nghe tiếng gõ của rất gấp, trở dậy mở cửa thì Trường Đình bước vào, dáng vẻ hớt hãi, nói là nhà thiếp mài dao muốn giết chàng, nên trốn ngay đi, nói xong vội quay ra. Thạch hoảng sợ không còn hồn vía nào, vội leo qua tường bỏ chạy, thấy xa xa có ánh lửa vội chạy tới, thì ra là người làng đi săn đêm. Thạch chờ họ săn xong cùng về, trong lòng căm túc không biết trút vào đâù, định tới đất Biện tìm Xích Thành nhưng nhà có cha già mắc bệnh đã lâu, nghĩ ngợi đêm ngày chưa biết tính bề nào. Một hôm có hai chiếc kiệu tới dừng ở cửa, thì là bà vợ ông già đưa Trường Đình tới, hỏi Thạch rằng "Đêm trước về rồi sao không tính kế?". Thạch thấy mặt Trường Đình thì nỗi căm tức đều tiêu tan nên cũng không nói ra chuyện mình tính toán. Bà già giục hai người làm lễ giao bái ngay tại sân, xong rồi Thạch định làm cơm mời, bà nói "Ta đang bận rộn, không thể ngồi yên ăn ngon. Lão già nhà ta đầu óc tối tăm, nếu có gì không phải xin chàng vì Trường Đình mà nghĩ tới già này một chút thì may lắm", rồi lên kiệu đi.

Té ra ông già định giết con rể thì bà già không hay, đến lúc ông ta đuổi theo Thạch không kịp trở về thì bà mới biết, rất lấy làm bất bình, ngày nào cũng cãi vã với chồng. Trường Đình cũng khóc lóc không chịu ăn uống, bà già bèn ép đưa con gái tới cho Thạch, chứ họ ông không muốn. Trường Đình vào nhà rồi, Thạch hỏi han mới rõ sự tình. Được hai ba tháng, họ ông gọi con gái về thăm nhà, nhưng Thạch cho rằng nàng sẽ không được trở lại nên không cho đi, từ đó thỉnh thoảng Trường Đình lại rơi lệ. Hơn một năm nàng sinh con trai, đặt tên là Tuệ Nhi, thuê vú nuôi cho bú nhưng đứa nhỏ hay khóc, đêm nào cũng phải trả về ngủ với mẹ. Một hôm nhà họ ông lại mang kiệú tới, nói bà già nhớ con gái lắm. Trường Đình càng buồn bã, Thạch không nỡ giữ nên để nàng đi.

Nàng định bế con theo nhưng Thạch không cho, nàng bèn về một mình. Lúc ra đi hẹn một tháng sẽ quay về, nhưng nửa năm liền vẫn không có tin tức gì, Thạch cho người đến hỏi dò tin túc thì nhà cũ bỏ không không có ai ở. Được hai năm Thạch không mong đợi nữa, nhưng đứa con nhớ mẹ đêm nào cũng khóc ngằn ngặt, lòng như dao cắt. Kế cha bệnh mất, Thạch càng thêm thương tâm nên thành bệnh nằm liệt giường, việc tang lễ gác đó không sao tiếp đón khách khứa tới viếng. Đang lúc bối rối chợt nghe tiếng đàn bà khóc lóc đi vào, nhìn ra thì là Trường Đình mặc tang phục. Thạch đau lòng quá kêu lên một tiếng rồi ngất đi, người hầu gáỉ hoảng sợ la lớn, Trường Đình mới nín khóc vào chăm sóc. Hồi lâu Thạch mới tỉnh, nghĩ rằng mình đã chết, nói có lẽ đang gặp nhau ở suối vàng. Nàng nói "Không phải đâu. Thiếp bất hiếu không được lòng cha, bị giữ lại ba năm, thành ra phụ lòng chàng.

Gặp lúc dời nhà đi Hải Đông đi ngang đây, nghe tin cha chàng mất, thiếp tuân lệnh cha phải dứt tình nhi nữ nhưng không dám vâng lời sai mà bỏ lễ cha chồng con dâu. Thiếp về đây mẹ biết chứ cha không biết đâu". Đang nói thì đứa nhỏ tới sà vào lòng, dứt lời nàng vỗ về con, khóc nói "Ta có cha nên con không có mẹ", đứa nhỏ cũng òa khóc, cả nhà đều rơi lệ. Nàng bước ra coi việc nhà, thức ăn mang lên cúng trước linh cửu đều đầy đủ sạch sẽ. Thạch được an ủi rất nhiều, nhung mắc bệnh đã lâu, nhất thời gấp rút không sao đứng dậy, Trường Đình bèn mời người anh họ ngoại của Thạch ra tiếp khách thay. Chôn cất xong Thạch mới đứng dậy được, chống gậy lo việc cúng trăm ngày. Kế Trường Đình từ biệt về để chịu tội trái lệnh cha, nhưng chồng níu con gào đành ẩn nhẫn ở lại.

Không bao lâu có người tới nói bà già mắc bệnh, nàng nói "Thiếp vì cha chàng mà tới, chàng lại không vì mẹ thiếp bị bệnh mà cho thiếp đi sao?", Thạch ưng thuận. Trường Đình bảo người vú bế con đi chơi rồi rơi lệ ra cửa lên đường, suốt mấy năm không trở về, cha con Thạch cũng dần dần quên đi. Một hôm sáng sớm vừa mở cửa thì Trường Đình nhẹ nhàng bước vào, Thạch hoảng sợ hỏi, nàng rầu rĩ ngồi xuống giường than "Thiếp sinh trưởng nơi khuê các, coi một dặm đã là xa, nay chỉ một ngày một đêm mà phải đi cả ngàn dặm, mệt gần chết". Thạch hỏi kỹ, nàng muốn đáp lại thôi, hỏi mãi mới khóc nói "Nay nói ra cho chàng hay, chỉ sợ điều làm thiếp đau lòng lại làm chàng khoái ý thôi. Năm rồi bên nhà tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), ngụ trong nhà thân hào họ Triệu. Chủ khách giao du thân mật, cha mới gả Hồng Đình cho công tử nhà ấy. Công tử vốn phóng đãng, gia đình không yên ấm, em thiếp về kể với cha, cha bèn giữ lại nửa năm không cho về. Công tử tử giận, chẳng biết mời được người ác ở đâu tới, sai thần tướng xiềng khóa cha già giải đi, cả nhà hoảng sợ trong chớp mắt bỏ chạy tứ tán"' Thạch nghe thấy không kìm được bật cười ha hả, Trường Đình tức giận nói "Người ta tuy bất nhân cũng vẫn là cha thiếp, thiếp làm vợ chàng mấy năm chỉ có vui vẻ không có hờn oán, nay người mất nhà tan, trăm miệng lưu ly, dẫu chàng không thương cha cũng phải xót cho thiếp chứ. Thế mà nghe chuyện lại vui sướng múa lên, chẳng có lấy nửa lời an ủi, sao mà bất nghĩa đến thế?". Rồi phất tay áo bỏ ra, Thạch chạy theo tạ lỗi thì đã đi xa rồi, nghĩ lại thấy ân hận, trách mình nhẫn tâm.

Qua hai ba hôm thì bà già và con gái cùng tới. Thạch mừng rỡ hỏi thăm an ủi thì mẹ con cùng lạy phục xuống đất. Thạch hoảng sợ hỏi, hai người đều khóc, Trường Đình nói "Thiếp nổi giận bỏ đi, nay lại không thể giữ ý lại định nhờ người, còn mặt mũi nào nữa?". Thạch nói "Tuy cha bất nhân nhưng ơn của mẹ, tình của nàng thì ta không bao giờ quên. Vả lại nghe tai họa mà vui cũng là thói thường của con người, sao nàng không nhịn ta một chút?"' Nàng nói "Mới rồi gặp mẹ trên đường, mới biết người bắt cha chính là thầy của chàng". Thạch nói "Nếu đúng như thế thì cũng rất dễ, có điều nếu cha nàng không về thì cha con nàng chia lìa, nhưng e nếu cha nàng về thì chồng nàng khóc, con nàng khổ mà thôi". Bà già bèn thề độc, Trường Đình cũng thề nhất định sẽ đền ơn. Thạch bèn khăn gói lên đường tới đất Biện, hỏi đường tới quán Nguyên Đế thì Xích Thành mới trở về chưa lâu, bèn vào ra mắt. Xích Thành hỏi sao lại tới đây, Thạch nhìn xuống bếp thấy một con hồ già bị trói hai chân trước treo lên, cười nói "Đệ tử tới đây lần này chỉ vì con quỷ già kia". Xích Thành hỏi, Thành thưa "Đó là cha vợ của con đấy", rồi kể lại mọi chuyện. Đạo sĩ cho rằng hồ gian trá xảo quyệt không thể khinh suất tha ra, Thạch nài nỉ mãi mới ưng thuận. Nhân lại kể rõ các thủ đoạn gian trá của hồ, hồ nghe thấy nép mình rúc vào lồng, có vẻ hổ thẹn.

Đạo sĩ cười nói "Té ra nó cũng còn biết xấu hổ". Thạch vào bếp xách ra, lấy dao cứa dây, hồ đau quá nghiến răng kèn kẹt. Thạch cứ ỡm ờ không chịu cắt cho đứt hẳn, cười hỏi "Cha đau lắm thì phải, thôi không cắt nữa được không ạ?". Hồ trừng trừng nhìn Thạch, vẻ rất căm hờn, kế được thả, vẫy đuôi ra khỏi quán đi luôn. Thạch chào thầy ra về, thì ba ngày trước đã có người tới báo tin ông già được thả, bà già liền về trước để con gái ở lại chờ Thạch. Thạch về tới, nàng ra đón lạy phục xuống đất, Thạch kéo đứng lên nói "Nếu nàng không quên tình nghĩa vợ chồng thì đừng cám ơn". Nàng nói "Từ nay trở đi bên nhà lại về ở chỗ cũ, làng xóm gần đây tin tức dễ dàng, thiếp muốn về thăm cha, ba ngày sẽ trở lại chàng có tin không?"' Thạch đáp "Con sinh ra không có mẹ cũng chưa hề sứt mẻ, ta hàng ngày vắng bóng vợ đã trở thành quen nếp, thế mà không làm như Triệu công tử lại lấy ơn báo oán, như thế là đã hết lòng với nàng rồi. Nếu nàng không trở lại thì đó là bởi nàng phụ nghĩa, nhưng dẫu đạo lý như vậy vẫn không cần nói rõ, có gì mà không tin". Hôm sau Trường Đình đi, hai ngày thì trở về, Thạch hỏi sao đi mau thế, nàng đáp "Cha vì chuyện chàng chọc ghẹo ở đất Biện, tức tối không quên, cứ lải nhải nói mãi, thiếp không muốn nghe nữa nên về sớm"' Từ đó hai mẹ con qua lại với nhau luôn, nhưng cha vợ chàng rể vẫn không hề thăm viếng gì nhau.

Dị Sử thị nói: Tính hồ phản phúc, xảo trá quá lắm, việc hối hôn hai con gái đều theo một kiểu, sự giả trá thế nào có thể biết được. Nhưng vì có chuyện cần mà gả con, thì cái ý hối hôn đã nảy sinh ngay từ lúc hứa hôn rồi. Còn chàng rể vì yêu con gái mà cứu ngươi cha, lẽ ra nên bỏ oán thù cũ để lấy lòng nhân đức mà cảm hóa, thế mà lại chọc ghẹo lúc đang nguy cấp, thì trách gì cha vợ đến chết cũng không quên! Nhưng cha vợ chàng rể trong thiên hạ không dung được nhau, đều như thế cả thôi.

172. Tịch Phương Bình (Tịch Phương Bình)

Tịch Phương Bình là người huyện Đông An (tỉnh Hà Bắc). Cha tên Liêm, thẳng tính nhưng nóng nảy, vì vậy có hiềm khích với nhà giàu họ Dương trong làng. Họ Dương chết trước, mấy năm sau Liêm mắc bệnh nguy kịch, nói với mọi người rằng "Lão Dương nay đang lo lót để âm ty sai người bắt ta", giây lát toàn thân tấy đỏ lên, gào thét rồi chết. Tịch buồn thảm bỏ ăn, nói "Cha ta thật thà chất phác, nay bị quỷ dữ lấn hiếp, ta phải xuống âm phủ rửa hờn cho cha mới được". Từ lúc ấy không nói năng gì cả, lúc ngồi lúc đứng, dáng vẻ như kẻ ngây ngốc, thì ra hồn đã lìa khỏi xác. Ban đầu Tịch ra khỏi cửa, không biết đi đâu, nhưng thấy trên đường có người bèn hỏi thành ấp. Lát sau vào tới thành, thì cha đã bị hạ ngục. Tới cửa ngục, xa thấy cha đang nằm dưới thềm, có vẻ rất khổ sở, ngước lên thấy con, nước mắt trào ra, kế nói "Bọn ngục lại đều ăn hối lộ, được dặn dò nên ngày đêm đánh đập tra khảo cha, đùi vế dập nát cả rồi". Tịch tức giận mắng bọn ngục tốt "Nếu cha ta có tội cũng đã có phép vua, bọn quỷ chết dịch chúng bay há lại được ngang ngược như thế à?". Rồi trở ra tìm bút viết đơn, gặp lúc Thành hoàng ra phiên hầu buổi sáng, bèn đệ đơn kêu oan.

Họ Dương sợ, đút lót cả trong ngoài mới ra đối chất. Thành hoàng cho rằng lời tố cáo của Tịch không có bằng cứ, không thèm xét xử. Tịch uất ức mà không có chỗ giãi bày, mò mẫm tới hơn trăm dặm thì tới quận, đem việc quan lại chức dịch riêng tư túi trình với Quận thú, dây dưa nửa tháng mới được xử. Quận thú sai đánh Tịch một trận, phê đơn cho như Thành hoàng đã xét. Tịch về huyện, nếm đủ mùi gông cùm, đau đớn oan ức không sao hả giận. Thành hoàng sợ lại thưa kiện, sai nha dịch giải về nhà, nha dịch đưa tới cổng rồi đi. Tịch không chịu vào, lại trốn xuống điện Diêm Vương, tố cáo Quận thú Huyện lệnh tham tàn. Diêm Vương lập tức cho bắt tới đối chất, hai người mật sai kẻ tâm phúc tới thương lượng, hứa biếu ngàn vàng, nhưng Tịch không chịu. Vài hôm sau, chủ nhà trọ nói với Tịch "Ông ngang quá, quan trên đã năn nỉ mà còn cố chấp không chịu. Nay nghe đâu ai cũng đều có thư gởi gắm cho Diêm Vương, sợ việc hỏng mất". Tịch cho là lời đồn vu vơ cũng chưa tin lắm. Lát sau có người mặc áo đen gọi vào hầu, lên tới công đường thấy Diêm Vương có vẻ tức giận, không cho nói năng gì, sai đánh ngay hai mươi gậy.

Tịch lớn tiếng hỏi "Tiểu nhân có tội gì?", Diêm Vương im lặng như không nghe thấy. Tịch bị đánh kêu lớn "Bị đòn là đáng lắm! Ai bảo ta không có tiền!". Diêm Vương càng giận, sai đặt lên giường lửa. Bọn quỷ tốt lôi Tịch xuống, nhìn sang thềm phía đông thấy có chiếc giường sắt đốt lửa ở dưới, mặt giường đỏ rục. Bọn quỷ cởi áo Tịch ra, đặt nằm lên giường lăn qua lật lại, vô cùng đau đớn, xương thịt cháy đen, khổ vì không chết được . Khoảng hơn một giờ, quỷ nói "Đủ rồi!"' rồi đỡ dậy, bảo xuống giường mặc áo, may là còn gượng đi được, lại trở lại trước thềm. Diêm Vương hỏi còn dám kiện nữa không, Tịch đáp "Oan lớn còn chưa giải thì tấc lòng vẫn chưa thôi, nếu nói không kiện nữa thì là lừa dối đại vương mất, nhất định sẽ kiện nữa!". Lại hỏi lấy lời lẽ gì mà kiện, Tịch đáp "Những điều thân mình phải chịu đây đều là lời lẽ rồi". Diêm Vương lại nổi giận, sai dùng cưa xẻ thân ra, hai tên quỷ tốt liền kéo Tịch đi, thấy một cây gỗ dựng đứng cao hơn tám chín thước, dưới có hai tấm ván đặt ngửa, máu me bê bết từ trên tới dưới. Đang sắp chịu trói, chợt trên thềm có tiếng kêu lớn gọi họ Tịch, hai tên quỷ tốt lập tức điệu trở lại. Diêm Vương lại hỏi còn dám kiện nữa không, Tịch đáp nhất định sẽ kiện nữa, Diêm Vương sai bắt ra cưa mau.

Tới nơi bọn quỷ tốt lấy hai tấm ván kẹp Tịch lại rồi trói vào cây gỗ, lưỡi cưa vừa kéo xuống đã thấy đỉnh đầu tách dần ra, đau không chịu nổi nhưng cũng cố nhịn không kêu lên, bọn quỷ tốt nói "Gã trai này mạnh mẽ thật!"' Lưỡi cưa ken két kéo xuống dần tới ngực, nghe một tên quỷ tốt nói "Người này chí hiếu vô tội, kéo chệch lưỡi cưa một chút, đừng làm thương tổn quả tim của y", liền cảm thấy lưỡi cưa vòng vèo kéo xương, còn đau gấp đôi. Giây lát nửa người tách ra, cởi dây buộc ván ra thì hai mảnh thân đều đổ xuống. Quỷ tốt lên thềm cao giọng trình báo, trên thềm sai chắp thân thể lại rồi giải lên gặp. Hai tên quỷ tốt lập tức xô hai mảnh thân dính lại, Tịch cảm thấy chỗ vết cưa đã liền còn đau rát như muốn xé ra, đi được nửa bước đã quỵ xuống. Một tên quỷ tốt rút sợi dây lưng bằng tơ ra đưa cho Tịch, nói "Tặng cho cái này để đền đáp lòng hiếu của ngươi". Tịch cầm lấy buộc vào lưng chợt thấy khỏe lại, hết cả đau đớn, bèn lên thềm sụp lạy. Diêm Vương lại hỏi như trước, Tịch sợ lại phải chịu cực hình tàn độc, bèn đáp không kiện nữa, Diêm Vương lập tức sai đưa về dương gian. Lính lệ đưa ra cửa bắc, chỉ đường về rồi quay đi.

Tịch nghĩ âm ty lại còn ám muội hơn trần thế, nhưng không có đường nào để kêu với Thượng đế thì biết làm sao. Thế gian vẫn truyền thần Nhị Lang ở Quán Khẩu là họ hàng bên ngoại của Thượng đế, thông minh chính trực, tới kêu với ông ắt linh ứng phi thường. Thầm mừng vì hai tên lính lệ đã đi, bèn xoay người đi về phía nam. Đang lúc rong ruổi chợt có hai người đuổi tới, nói "Đại vương ngờ rằng ngươi không chịu về, quả đúng". Rồi bắt đưa về gặp Diêm Vương, Tịch nghĩ thắc Diêm Vương sẽ tức giận hơn, tai họa lại càng thảm khốc, nhưng Diêm Vương không hề có sắc giận, nói với Tịch rằng "Ngươi quả thành thực hiếu thảo, nhưug nỗi oan của cha ngươi ta đã rữa sạch cho rồi, nay đã đầu thai vào nhà giàu sang, chẳng cần ngươi phải kêu nài nữa. Nay đưa ngươi về, cho ngươi sản nghiệp ngàn vàng, lại cho thêm tuổi thọ, ngươi thỏa nguyện chưa?". Rồi ghi vào sổ, đóng ấn lớn vào, cho nhìn tận mắt.

Tịch tạ ơn lui xuống, quỷ tốt cũng cùng ra, tới đường xua đi, mắng "Thằng giặc gian hoạt cứ tráo trở khiến người ta phải chạy ngược chạy xuôi muốn chết! Nếu còn giở trò sẽ bắt bỏ vào cối lớn nghiền cho nát vụn ra". Tịch trừng mắt quát "Thằng quỷ định làm gì? Tính ta chịu được dao cưa nhưng không chịu được roi vọt đâu. Cứ quay lại gặp đại vương, nếu ông cho ta tự về thì cần gì ai vất vả đưa tiễn?", rồi quay ngoắt trở lại. Hai tên quỷ tốt sợ ngọt ngào khuyên về, Tịch cố ý đi chậm rãi, cứ được vài bước lại ngồi xuống nghỉ cạnh đường, chúng nuốt giận không dám nói gì nữa. Khoảng nửa ngày thì tới một thôn, có ngôi nhà cánh cổng khép hờ, quỷ tốt kéo vào ngồi nghỉ, Tịch nhân ngồi tựa trên bậc cửa. Hai tên quỷ tốt nhân lúc không đề phòng, xô Tịch vào trong cửa, định thần nhìn lại thấy mình đã là đứa trẻ sơ sinh, phẫn uất kêu khóc không chịu bú, ba ngày thì chết, hồn ở nơi xa xôi vẫn chăm chăm tìm về Quán Khẩu.

Đi được vài ngàn dặm chợt gặp một chiếc xe cắm lọng lông chim đi tới, cờ quạt kiếm kích chắn ngang bèn băng qua đường để tránh, đụng vào hàng lỗ bộ nên bị đội kỵ mã dẹp đường bắt trói, giải tới trước xe. Ngẩng nhìn thấy trong xe có một thiếu niên tướng mạo khôi vĩ, hỏi Tịch là ai. Tịch đang lúc lòng đầy oán hờn không nơi phát tiết, lại nghĩ đây ắt là quan lớn, hoặc giả có thể ra oai làm phúc, bèn kể hết nỗi oan khổ. Người trong xe truyền lệnh cởi trói cho, bảo đi theo xe. Giây lát tới một nơi, có hơn mười viên quan ra đón bên đường. Người ngồi trong xe chào hỏi tất cả rồi chỉ Tịch nói với một viên "Đây là người dưới âm ty, đang muốn tới tố cáo, nên xét rõ trắng đen ngay". Tịch hỏi đám tùy tùng mới biết người ngồi trong xe là Cửu Vương Điện hạ, con thứ chín của Thượng đế, còn người đước dặn dò chính là thần Nhị Lang. Tịch nhìn Nhị Lang thấy mình cao râu rậm, không như thế gian vẫn đồn. Cửu Vương đi rồi, Tịch theo Nhị Lang tới một công thự, thấy cha và họ Dương cùng đám nha lại đều đã có mặt. Phút chốc trong xe lại có tù nhân bước ra, thì là Diêm Vương, quận thú và Thành hoàng. Lập tức lên thềm tra hỏi đối chất, thì lời Tịch khai không có chỗ nào gian dối. Ba viên quan run rẫy như chuột bò mọp dưới đất. Nhị Lang cầm bút phê bản án, giây lát sai đưa xuống cho những kẻ can án cùng xem. Lời phê như sau:

"Kẻ làm vua cõi U minh kia: tước tới bậc vương, chịu ơn Thượng đế. Lẽ ra phải giữ mình trong sạch mà thống lĩnh quần thần, chứ không nên nảy ý gian tham để chuốc lời chê trách. Nhưng lại cờ giong lọng mở, khoe mẽ chức quyền, dê độc lang tham, làm nhơ danh tiết. Búa rìu vạc đẽo, thịt da mấy kẻ được còn, kình ngạc nuốt ăn, sâu kiến muôn dân đáng xót. Phải múc nước Tây Giang, cho nước rửa ruột* đốt giường Đông Bích, mời bác vào vò**.

* Múc nước Tây Giang, cho ngươi rửa ruột: Ngũ đại sử chép Vương Nhân Dụ nhà Chu mơ thấy có người tự mổ bụng lấy nước Tây Giang gột rửa. Đây ý nói trị tội cho bỏ thói xấu cũ.

** Đốt giường Đông Bích, mời bác vào vò: Tư trị thông giám chép Kim ngô đại tướng quân Khưu Thần Tích có tội bị giết. Có người tố cáo Hữu Thừa tướng Chu Hưng cũng thông mưu với Thần Tích, Thái hậu sai Lai Tuấn Thần hỏi cung. Tuấn Thần và Hưng vừa hỏi cung xong, cùng ăn cơm, Tuấn Thần hỏi "Tù nhân nhiều kẻ không nhận tội, nên làm thế nào?", Hưng nói "Lấy vò lón đặt than chung quanh đốt lên, cho tù nhân vào thì chuyện gì mà không nhận". Tuấn Thần bèn sai đốt vò như Hưng nói, rồi nói với Hưng "Có người tố cáo ông, mời ông vào vò". Hưng khiếp sợ nhận tội. Đây ý nói dùng cách của kẻ làm quan ác để trị tội họ.

Thành hoàng, Quận thú là cha mẹ con dân, bề tôi Thượng đế. Tuy rằng chức quan không lớn, nhưng kẻ hết lòng không ngại cong lưng, có khi thượng cấp bất công, thì người có chí cũng cần cứng cổ. Thế mà trên dưới phóng tay tàn ác, mặc cho dân chúng khốn cùng, lại cứ ngang tàng thỏa ý gian tham, chẳng kể quỷ ma ốm đói. Vì của đút mà trái phép, thật dạ thú mà mặt người. Phải rửa tủy nhổ lông, theo phép âm ty chịu tội, kế lột da đổi lốt, bắt lên dương thế đầu thai.

Bọn sai nha thì đã ở âm tào, khác xa nhân thế. Lẽ ra phải cửa công rèn tính hạnh, chờ lúc hoàn sinh, sao dám làm bể khổ nổi ba đào, gây thêm tội nghiệt? Ngông nghênh giày xéo, mặt chó ra vẻ lầm lỳ, nhảy nhót thét gào, oai cọp chặn đường hống hách. Lộng quyền ra oai dữ, để U minh biết lính ngục là to, theo đóm để ăn tàn, giúp quan ác giết dân đen cho sướng. Phải đem ra pháp trường, chân tay chặt hết, bỏ vào vạc nóng, gân cốt luộc nhừ.

Họ Dương kia giàu có bất nhân, tinh ma lắm chước. ánh vàng chói đất, khiến điện Diêm La tăm tối mây mù, hơi đồng ngút trời, làm thành Uổng tử mịt mờ nhật nguyệt. Hơi tanh thừa còn sai được quỷ, sức bạc mạnh thông cả tới thần. Nên tịch thu gia sản họ Dương, để ban thướng hiếu tâm chàng Tịch".

Lập tức sai áp giải cả bọn ra núi Đông Nhạc hành quyết. Lại nói "Tịch Liêm, nghĩ tới con ngươi hiếu nghĩa, tính ngươi hiền lành, cho tăng tuổi thọ thêm ba kỷ nữa", rồi sai hai người đưa về làng. Tịch bèn sao lại bản án, dọc đường hai cha con cùng đọc. Về tới nhà Tịch tỉnh lại trước, bảo người nhà mở quan tài xem thì thấy xác cha còn cứng đờ lạnh ngắt, chờ trọn ngày mới ấm dần lên rồi sống lại, tìm tới tờ sao bản án thì không thấy đâu nữa. Từ đó ngày càng giàu có, trong khoảng ba năm ruộng tốt khắp nơi, mà con cháu họ Dương thì trở nên nghèo khổ, bao nhiêu nhà cửa ruộng vườn đều thành của họ Tịch. Trong làng có người mua ruộng nhà ấy, đêm ngủ mơ thấy thần quát "Đó là của họ Tịch, ngươi làm sao có được?". Trước chưa tin lắm, đến khi trồng trọt thì cả năm không thu hoạch được một đấu thóc, vì thế phải bán lại cho Tịch. Cha Tịch sống đến hơn chín mươi tuổi mới mất.

Dị Sử thị nói: Người ta đều nói tới sự giải thoát sau khi chết, mà không biết qua kiếp khác rồi thì ý niệm kiếp trước đều quên, vả lại đã không biết mình từ đâu tới thì làm sao biết mình sẽ về đâu, huống chi là kẻ chết rồi lại chết, sinh rồi lại sinh ư? Dốc lòng trung hiếu, gian khó không sờn, kỳ lạ thay Tịch sinh, sao mà hùng tráng như vậy!

173. Tố Thu (Tố Thu)

Du Thận tự Cẩn Am là con nhà thế gia cũ ở phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc). Lên kinh ứng thí, trọ ở ngoài thành, thường gặp một thiếu niên ở nhà đối diện, thấy hình dung đẹp đẽ, trong lòng rất thích. Lân la làm quen, chuyện trò thấy phong thái càng hơn người, cả mừng nắm tay đưa về chỗ mình trọ, bày tiệc thết đãi. Hỏi tới tên họ, thiếu niên tự xưng là người Kim Lăng (tỉnh Giang Tô), họ Du tên Sĩ Thầm, tự Tuân Cửu. Công tử nghe nói cùng họ với mình càng thêm quý mến, nhân kết làm anh em. Thiếu niên bèn giảm một chữ trong tên, đổi tên là Thầm. Hôm sau công tử tới thăm, thấy nhà cửa sáng sủa sạch sẽ nhưng vắng vẻ không có người hầu. Thiếu niên đưa công tử vào nhà trong, gọi em gái ra chào, thấy khoảng mười ba mười bốn tuổi, da dẻ mịn mà, bạch ngọc cũng không trắng bằng. Giây lát nàng bưng trà ra mời khách, như là trong nhà không có cả tỳ nữ. Công tử lấy làm lạ, trò chuyện vài câu rồi về, từ đó thương yêu họ như em ruột.

Tuân Cửu ngày nào cũng tới nhà công tử trọ chơi, nhưng nếu giữ lại ngủ thì lấy cớ em gái ở nhà một mình từ chối. Công tử nói "Em làm khách ngoài ngàn dặm, nhà lại không có trẻ sai vặt, hai anh em đều yếu ớt, làm sao mà sống. Tính lại chẳng bằng cứ về chỗ ta, cũng có gian phòng hẹp ở được, em thấy sao?". Tuân Cửu mừng rỡ, hẹn để sau khi công tử thi xong. Hôm công tử thi xong, Tuân Cửu tới mời, nói "Đêm Trung thu trăng sáng như gương, cô em Tố Thu có chén rượu nhạt mời, xin anh đừng làm nó buồn". Rồi kéo vào nhà trong, Tố Thu ra chào, hỏi thăm vài câu rồi trở vào nhà trong buông rèm nấu nướng. Giây lát tự bưng mâm ra, công tử đứng dậy nói "Muội tử vất vả quá, ta thật không đành lòng". Tố Thu cười quay vào, lát sau rèm vén lên, một tỳ nữ áo xanh mang bầu rượu ra, kế lại có một bà già mang cá lên. Công tử kinh ngạc hỏi "Bọn này ở đâu ra thế? Tại sao không ra hầu sớm để làm phiền tới muội tử". Tuân Cửu mỉm cười nói "Tố Thu lại giở trò ma rồi", chỉ nghe sau rèm có tiếng cười khanh khách, công tử không hiểu đầu đuôi ra sao.

Kế tan tiệc, người tỳ nữ và bà già dọn dẹp mâm chén, công tử bật ho văng nước bọt trúng áo người tỳ nữ, cô ta ngã lăn xuống đất, bát chén vỡ nát. Nhìn lại thì là một hình nhân bằng vải cắt ra, cao chừng bốn tấc. Tuân Cửu phá lên cười, Tố Thu cũng cười bước ra dọn dẹp dưới đất rồi quay vào, lát sau người tỳ nữ lại trở ra, đi lại hầu hạ như cũ. Công tử vô cùng kinh ngạc, Tuân Cửu nói "Đó chẳng qua thuật mọn mời thần Tử Cô* muội tử học được lúc nhỏ đó thôi"' Công tử nhân dịp hỏi sao hai em đều đã lớn khôn mà chưa cưới vợ lấy chồng, Tuân Cửu đáp vì sau khi cha mẹ mất hai anh em lưu lạc nay đây mai đó, chưa có chỗ ở nhất định nên mới để chậm như vậy. Rồi bàn bạc định ngày lên đường, kế bán nhà dắt em gái theo về quê công tử. Về tới nhà, công tử dành chỗ cho hai người ở, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Vợ công tử là con gái quan Thị lang họ Hàn, rất yêu thương Tố Thu, ăn uống gì cũng có nhau, công tử với Tuân Cửu cũng thế.

*Tử Cô: nữ thần trong tín ngưỡng dân gian Trung Hoa, tục truyền có thể nhập vào các hình nhân bằng vải hay bằng giấy.

Tuân Cửu rất thông minh, đọc sách chỉ đưa mắt qua là được mười hàng, làm văn thì ngay cả các bậc lão thành cũng không bằng được. Công tử khuyên dự thi khoa Đồng tử*, Tuân Cửu nói "Nếu theo đuổi nghiệp khoa cử thì cũng khổ như anh thôi. Tự xét mình phúc mỏng không kham nổi việc công danh, vả lại theo nghiệp ấy thì phải lo lắng về sự được mất nên không muốn". Ba năm sau công tử lại thi rớt, Tuân Cửu tức giận hăng hái nói "Thi đỗ thì có gì mà khó đến như vậy? Em lúc đầu không muốn mê đắm trong chuyện thành bại nên cam phận ở yên thôi. Nay thấy đại ca thi không đỗ, bất giác nổi nóng, Đồng tử già mười chín tuổi cũng phải thi mới được". Công tử mừng rỡ, đến kỳ thi đưa Tuân Cửu vào trường, ba kỳ thi ở huyện, ở phủ, ở tỉnh đều đỗ đầu, lại càng ra sức cùng công tử đóng cửa đọc sách. Qua năm sau khảo thí, cả hai đều đứng đầu phủ huyện. Tuân Cửu rất có tiếng tăm, xa gần tranh nhau gả con gái cho nhưng đều chối từ.

* Khoa Đồng tử một loại khoa thi sát hạch những người có học trước khi đi thi hương, dành cho người từ 15 tuổi trở xuống, tương tự kỳ thi "thông kinh" ở Việt Nam ngày trước.

Công tử ra sức khuyên nên lấy vợ, bèn hứa là thi hương xong sẽ ưng. Thi xong, những ngướỉ hâm mộ tranh nhau chép văn bài của Tuân Cửu truyền tay đọc, Tuân Cửu cũng tự cho rằng mình không thể đỗ tới thứ hai. Đến khi ra bảng, thì cả hai anh em đều rớt. Lúc bấy giờ đang uống rượu, công tử nghe tin còn gắng gượng cười nói, nhưng Tuân Cửu thì tái mặt đánh rơi luôn chén rượu ngã gục ngay xuống bàn. Đỡ lên giường thì bệnh đã thành nguy kịch rồi. Vội gọi em gái tới, mở to mắt nhìn công tử nói "Hai người chúng ta tình như anh em nhưng thật ra không phải đồng tộc. Nay em tự biết mình có tên trong sổ ma rồi, Tố Thu đã trưởng thành, mong anh thương yêu đùm bọc cho, cưới làm thiếp cũng được". Công tử biến sắc nói "Em ta mê sảng nói bậy rồi đấy, định coi ta là hạng mặt người dạ thú sao?". Tuân Cửu khóc ròng, công tử lập tức bỏ món tiền lớn ra mua quan tài gỗ tốt cho. Tuân Cửu bảo đỡ mình đứng dậy, gắng gượng bước vào nằm trong quan tài, dặn em gái rằng "Ta chết rồi thì đóng ngay nắp lại, đừng để bất cứ ai mở ra nhìn", công tử còn định hỏi han thì đã tắt thở.

Công tử đau xót như anh em ruột chết, nhưng thầm ngờ về lời trối lạ lùng bèn tìm cớ sai Tố Thu ra ngoài rổi mở quan tài xem. Thấy trong quan tài chỉ có quần áo như xác ve lột, khều lên nhìn thì thấy có con mọt sách dài hơn thước nằm chết cứng ở giữa. Đang lúc hoảng sợ chợt Tố Thu trở vào thê thảm nói "Đã là anh em sao còn ngờ sợ nhau? Đúng là như anh thấy, không dám giấu diếm, nhưng nếu chuyện này mà đồn rộng ra thì thiếp không dám ở đây lâu nữa đâu". Công tử nói "Lễ là bởi tình mà đặt ra, đã có tình với nhau thì khác loài cũng thế thôi. Chẳng lẽ muội tử không biết lòng ta sao? Cho dù là vợ ta ta cũng không nói đâu, xin đừng lo lắng". Rồi vội chọn ngày lành tháng tốt chôn cất tử tế. Trước kia công tử bàn gả Tố Thu cho nhà thế gia nhưng Tuân Cửu không muốn, khi Tuân Cửu chết rồi công tử lại bàn với Tố Thu, nàng cũng không chịu. Công tử nói "Muội tử nay đã hai mươi tuổi, lớn rồi mà không lấy chồng, mọi người sẽ nói ta thế nào?". Nàng đáp "Nếu thế thì xin tùy ý anh, nhung tự xét mình không có phúc, không muốn lấy chồng giàu sang, học trò nghèo thì được". Công tử nói "Được".

Không mấy ngày sau, người mai mối nối nhau tới nhưng không có đám nào được như Tố Thu muốn. Trước có Hàn Thuyên là em vợ công tử tới điếu tang Tuân Cửu, nhìn thấy Tố Thu trong lòng yêu thích, muốn hỏi cưới làm thiếp, bàn với chị, chị vội bảo đừng nói ra, sợ công tử biết. Hàn về không sao quên Tố Thu bèn nhờ mai mối bắn tin, hứa sẽ giúp công tử làm quen với quan Chủ khảo kỳ thi hương sắp tới. Công tử nghe nói cả giận, đánh người nhắn tin một trận rồi đuổi ra, từ đó không hề đi lại với Hàn. Gặp lúc có cháu nội quan Thượng thư cũ là Giáp, sắp cưới vợ thì vợ bỗng chết cũng sai người mai mối tới Công tử vốn biết nhà Giáp giàu sang nhưng muốn gặp gỡ một lần, nhân hẹn với người mối, bảo Giáp đích thân tới gặp.

Đến ngày hẹn công tử cho buông rèm phía sau, bảo Tố Thu tự xem mặt. Giáp tới, bọn người hầu mặc áo cừu cưỡi ngựa béo sáng rỡ cả đường làng, nhìn tới người thì thanh tú đẹp đẽ như con gái. Công tử cả mừng, mọi người cũng đều khen ngợi, chỉ có Tố Thu là không vui. Công tử không nghe, thuận cho cưới, sắm sửa nhiều nữ trang, tốn kém bao nhiêu cũng không tiếc. Tố Thu cố ngăn, chỉ xin cho dắt theo một tỳ nữ già để hầu hạ thôi nhưng công tử không chịu, vẫn tặng cho nàng rất nhiều. Đám cưới xong, vợ chồng rất hòa thuận, nhưng anh và chị dâu thường nhớ nhung nên cứ mỗi tháng nàng lại về thăm một lần. Lần nào về thì trâm vòng nữ trang mang theo cũng lấy cớ đưa chị dâu cất giùm, chị dâu không biết ý nên cũng nhận giữ. Giáp lúc nhỏ mồ côi, mẹ ở góa nuôi con nên vô cùng thương yêu chiều chuộng. Hàng ngày lại giao du gần gũi với kẻ xấu nên bị chúng dụ dỗ trai gái cờ bạc, những cổ vật gia truyền trong nhà đều lấy trộm mang bán để lấy tiền chơi bời.

Hàn Thuyên cùng Giáp có họ hàng, mời Giáp tới uống rượu để dò xét, xin đưa hai người thiếp và năm trăm lượng vàng để đổi lấy Tố Thu. Ban đầu Giáp không chịu, nhung Hàn nài nỉ mãi, Giáp xiêu lòng song cũng sợ công tử không chịu nhịn. Hàn nói "Ta với y rất gần gũi, vả lại Tố Thu không phải là em ruột của y, nếu việc đã rồi thì y cũng thẳng làm sao được. Vạn nhất có thuyện gì ta xin chịu cả, cha ta còn đó, lại sợ một Du Cẩn Am à?". Rồi sai hai người thiếp ăn mặc đẹp đẽ ra hầu rượu, lại nói "Nếu làm được như lời ước thì hai nàng là người của ông đấy". Giáp bị mê hoặc, hẹn ngày đổi vợ rồi ra về. Đến ngày hẹn, Giáp sợ Hàn lừa gạt, tối ra chờ trên đường, quả nhiên có cỗ kiệu tới, mở rèm ra nhìn thì đúng có hai người thiếp của Hàn, liền đưa về giấu trong phòng sách. Đầy tớ của Hàn giao đủ năm trăm lượng vàng xong, Giáp chạy vào nhà trong bịa rằng công tử bệnh thình lình, gọi Tố Thu về. Tố Thu chưa kịp trang điểm gì, vội vàng lên đường.

Kiệu ra khỏi nhà thì đêm đã khuya, lạc đường không biết chỗ nào, đi mãi hồi lâu vẫn không thấy tới. Chợt thấy có hai ngọn đuốc lớn đi tới mọi người mừng rỡ thầm nghĩ có thể hỏi đường. Không bao lâu tới trước mặt, té ra là con mãng xà lớn, hai mắt sáng như đèn. Mọi người phát hoảng bỏ chạy tán loạn, vút chiếc kiệu lại bên đường. Trời gần sáng mới tụ họp nhau quay lại thì chỉ còn có chiếc kiệu không, đều cho rằng Tố Thu đã bị mãng xà nuốt rồi. Quay về báo với chủ nhân, Hàn chỉ còn cách cúi đầu thở dài tíếc rẻ mà thôi. Vài hôm sau, công tử sai người qua thăm em gái, mới biết đã bị người ác cướp đi mất. Ban đầu cũng không ngờ là em rể bịa đặt, đến khi dắt người tỳ nữ trở về, hỏi rõ tình trạng mới biết là có chuyện, vô cùng tức giận lên báo cả phủ huyện. Giáp sợ qua gặp Hàn cầu cứu, nhưng Hàn vì mất cả chì lẫn chài đang buồn bã hối tiếc nên từ chối không giúp.

Giáp thẫn thờ không biết làm sao, trát đòi của phủ huyện gởi đến tới tấp, chỉ còn cách hối lộ cho bọn công sai xin khất lần. Hơn một tháng thì vàng bạc, quần áo cầm bán sạch, công tử lại lên các quan trên đòi tra xét rất gấp, quan huyện cũng tuân lệnh, Giáp biết không thể che giấu được nữa mới ra đầu thú. Lên tới công đường, Giáp khai thật mọi chuyện, xin quan trên bắt Hàn tới đối chất. Hàn sợ, thú thật với cha, lúc ấy cha Hàn vừa về trí sĩ, giận con làm việc phạm pháp, sai trói giải lên quan. Lên tới quan, Hàn nói việc gặp mãng xà, các quan đều cho là bịa đặt vu vơ, bọn gia nhân đi đón Tố Thu đều bị tra tấn. Giáp cũng bị đánh mấy trận, may là mẹ bán cả vườn ruộng lo lót hết cả trên dưới nên bị đòn nhẹ, không tới nỗi chết, còn bọn gia nhân của Hàn đều chết trong ngục. Hàn bị giam giữ lâu ngày trong ngục nên tình nguyện giúp Giáp ngàn lượng vàng hối lộ cho công tử xin bãi nại, công tử không chịu.

Mẹ Giáp lại xin đưa thêm cả hai người thiếp, chỉ xin cứ để vụ án lại để dò tìm Tố Thu. Vợ công tử cũng nghe lời thím dâu, ngày đêm nài nỉ công tử mới ưng thuận. Nhà Giáp sa sút, phải bán nhà cửa để lo tiền, nhưng lúc gấp rút chưa bán được nên đưa hai người thiếp qua trước, xin đưa tiền qua sau. Qua vài hôm, giữa khuya công tử đang ngồi trong phòng sách, chợt Tố Thu dắt một bà già thình lình bước vào. Công tử hoảng sợ hỏi "Muội tử vẫn không sao chứ?", nàng đáp "Con mãng xà kia là em dùng thuật nhỏ biến ra. Đêm ấy em chạy vào nhà một vị Tú tài, xin mẹ y cho nương tựa. Y nói là có quen anh, hiện đang đứng ngoài cổng, xin anh cho vào". Công tử vội vàng xỏ ngước giày chạy ra, thắp đèn lên nhìn thì không không phải ai khác mà là Chu sinh, danh sĩ ở huyện Uyển Bình (tỉnh Hà Bắc), vốn chơi thân với nhau từ lâu. Bèn nắm tay kéo vào, khoản đãi nồng hậu, trò chuyện hồi lâu mới biết đầu đuôi sự tình. Lúc đầu Tố Thu hớt hãi chạy tới nhà sinh, bà mẹ cho vào nương náu, hỏi thăm biết là em gái công tử đã định qua báo tin ngay nhưng nàng ngăn lại nhân ở chung với bà.

Thấy nàng thông minh hiểu được ý mình bà thích lắm, lấy việc con trai chưa có vợ ra nói riêng với Tố Thu, ngõ ý muốn cưới nàng làm dâu. Tố Thu chối từ nói chưa được lệnh của anh, sinh vì chơi thân với công tử cũng không chịu cưới vợ không có người mai mối. Nên vẫn ngày ngày nghe ngóng, biết chuyện kiện tụng đã xong Tố Thu chào mẹ sinh về, bà sai sinh dắt một bà già đưa nàng vể, nhờ bà ta làm mối luôn. Công tử thấy Tố Thu ở nhà sinh đã lâu chắc có tình ý mà chưa nói ra, nên nghe bà già thưa chuyện rất vui mừng, lập tức đính ước với sinh. Tố Thu trở về giữa khuya là có ý muốn chờ công tử nhận vàng xong mới cho mọi người biết, nhưng công tử không chịu, nói "Trước đây ta căm tức không sao phát tiết, nên mới đòi vàng cho họ nghèo mạt luôn cho bỏ ghét, nay đã gặp lại được muội tử, vạn dật vàng cũng đâu đổi được!". Rồi sai người báo với hai nhà Giáp và Hàn là thôi không kiện nữa, khỏi đưa vàng qua. Lại nghĩ Chu sinh vốn không giàu có gì, nhà thì xa xôi rước dâu cực khổ, bèn sai đón mẹ sinh dời tới, ở trong nhà cũ của Tuân Cửu. Sinh cũng sắm sửa đủ tiền lụa lễ vật, làm lễ thành hôn.

Một hôm chị dâu đùa hỏi Tố Thu "Nay có chồng mới còn nhớ người chung chăn gối yêu thương nhau mấy năm trước không?". Tố Thu ngoảnh lại hỏi người tỳ nũ "Còn nhớ không?"' Chị dâu không hiểu cứ hỏi mãi, thì ra ba năm làm vợ Giáp nàng đều để người tỳ nữ làm chuyện chăn gối thay mình. Cứ đến đêm nàng lại lấy bút vẽ lại lông mày cho rồi bảo đi, người tỳ nữ có ngồi đối diện trước đèn Giáp cũng tưởng là Tố Thu. Chị dâu càng lạ lùng, xin dạy cho thuật ấy nhưng nàng chỉ cười không đáp. Năm sau tới kỳ thi, Chu sinh định đi cùng với công tử, Tố Thu nói là không cần nhưng công tử cứ ép sinh cùng đi. Khoa ấy công tử đỗ Cử nhân còn sinh trượt, trở về ngầm có ý chán ngán công danh, năm sau mẹ chết, nên từ đó không nhắc tới chuyện khoa cử nữa. Một hôm Tố Thu nói với chị dâu "Trước đây chị muốn học phép thuật, nhưng em không muốn người ta nghe thấy đâm ra ngờ sợ nên mới giữ kín. Nay sắp vĩnh biệt, gần đến ngày lên đường rồi, xin ngầm truyền lại cho chị, cũng tránh được nạn binh lửa".

Chị dâu hoảng sợ hỏi, nàng đáp "Ba năm nữa chốn này sẽ không còn làng xóm, em yếu ớt không không kham nổi sự lo sợ nên định ra ẩn nơi bờ biển. Đại ca là người trong trường phú quý không thể đi cùng em được, nên xin từ biệt, rồi dạy phép thuật cho chị dâu. Vài hôm sau tới chào công tử, công tử giữ lại không được, chảy nước mắt hỏi đi đâu nhưng nàng không nói. Sáng ra vợ chồng dậy sớm, dắt một người hầu tóc bạc, đem hai cỗ kiệu lên đường. Công tử sai người ngầm theo sau hộ tống, đi tới địa giới huyện Giao phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) chợt có làn hơi mù bốc lên che khuất cả ánh sảng mặt trời, mù tan rồi thì không thấy ba người nữa, không rõ đi về đâu.

Ba năm sau, giặc Sấm* nổi loạn, làng xóm thành đất hoang, Hàn phu nhân cắt vải làm hình nhân đặt trong cửa. Bọn giặc kéo tới thấy có thần Vi Đà đửng giữa đám mây cuồn cuộn, thân cao hơn trượng, khiếp sợ bỏ chạy, gia đình công tử nhờ vậy được yên ổn. Về sau có người đi buôn tới vùng bờ biển, gặp một ông già rất giống người hầu tóc bạc nhưng râu tóc đều đen nhánh nên làm ngơ không dám chào. Ông già dừng chân cười nói "Công tử nhà ta vẫn mạnh khỏe chứ. Nhờ nhắn lại giùm là cô Thu vẫn được yên vui". Ngươi ấy hỏi Tố Thu ở đâu, ông già đáp "Xa lắm, xa lắm!" rồi thoăn thoắt bước đi. Công tử nghe kể lại, sai người tới đó hỏi thăm khắp cả nhưng rốt lại không có manh mối gì.

*Giặc Sấm: tức Lý Sấm (Lý Tự Thành), lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối thời Minh.

Dị Sử thị nói: Ngòi bút không có tướng được ăn thịt* xưa nay vẫn thế. Kẻ kia lúc đầu suy nghĩ rất sáng suốt, nhưng lại không giữ bền chí được, không biết rằng đám quan trường gà mờ chỉ chấm mệnh không chấm văn sao? Ra đòn một lần không trúng thì căm tức mà chết, sự ngây ngốc của con mọt sách kia thật đáng thương vậy. Con trống bay lại không bằng con mái nằm, thật đau xót thay!

*Ngòi bút... ăn thịt: nguyên văn là "Quản Thành tử vô thực nhục tướng", câu trong thơ của Hoàng Đình Kiên, đây dùng chỉ kẻ không may trong việc thi cử công danh.

174. Kiều Nữ (Kiều Nữ)

Kiều sinh ở huyện Bình Nguyên (tỉnh Sơn Đông) có người con gái đen đúa xấu xí, sút mũi thọt chân, hăm lăm hăm sáu tuổi chưa ai dạm hỏi. Ở huyện có Mục sinh hơn bốn mươi tuổi, góa vợ mà nghèo quá không cưới được ai mới hỏi cưới nàng. Sau ba năm nàng sinh một trai, không bao lâu Mục sinh chết, nhà càng nghèo túng, khốn quẫn quá thì về xin mẹ cho ăn. Mẹ không lo nổi, nàng cũng tức giận không về nữa, dệt thuê sinh sống qua ngày. Có Mạnh sinh vợ chết để lại con trai là Ô Đầu mới đầy năm, không có người chăm sóc con nên nóng lòng muốn cưới vợ khác, nhưng người mối chỉ cho mấy đám vẫn chưa vừa ý. Chợt gặp Kiều thị mừng lắm, nhờ người đánh tiếng. Nàng từ chối, nói "Đói rét thế này, nếu theo quan nhân sẽ được ấm no, lẽ nào không muốn. Nhưng tật nguyền xấu xí không được như người ta, chỉ còn tự tin ở chỗ có đức thôi, nếu thờ hai chồng thì quan nhân còn yêu thương chỗ nào?". Mạnh càng cho là hiền, lại thêm mến mộ, nhờ người mối đem tiền bạc vải lụa tới nói với bà mẹ. Bà mừng rỡ tới nhà con gái cố khuyên nhủ, nhưng nàng thề không lấy chồng khác.

Bà hổ thẹn, xin gả con gái út cho Mạnh, người nhà đều mừng nhưng Mạnh không chịu. Không bao lâu Mạnh bất ngờ bị bệnh chết, Kiều thị tới viếng tang, khóc lóc hết sức thảm thiết. Mạnh vốn không có thân thích nên chết rồi thì bọn vô lại trong thôn đều làm càn, lấy hết cả vật dụng trong nhà, lại toan chia nhau chiếm đoạt ruộng vườn nhà cửa, tôi tớ cũng đều trộm cắp lặt vặt bỏ trốn, chỉ còn một bà vu bế đứa nhỏ khóc lóc trong phòng. Kiều thị hỏi biết chuyện rất bất bình, nghe Lâm sinh chơi thân với Mạnh bèn tới nhà nói "Vợ chồng bè bạn là giềng mối lớn của con người, thiếp vì quá xấu xí nên bị coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh biết, trước đây tuy cố từ thối nhưng trong lòng đã ưng thuận. Nay người đã chết mà con còn nhỏ, tự nghĩ mình phải đền đáp ơn tri kỷ. Nhưng nuôi đứa con côi còn dễ chứ chống bọn cướp ngày mới khó, nếu thấy không có cha mẹ anh em mà ngồi nhìn con chết nhà tan không giúp thì trong ngũ luân không còn có bạn bè nữa. Thiếp không mong ông làm gì nhiều, chỉ cần làm một lá đơn thưa lên quan, còn việc chăm sóc đứa con côi thì thiếp không dám từ chối".

Lâm nói "Vâng", nàng chào vể. Lâm định làm theo lời nàng, bọn vô lại căm tức toan giết. Lâm sợ quá, đóng cửa không dám ra khỏi nhà. Kiều thị đợi mấy ngày không thấy tin tức gì, khi tới hỏi thì gia sản của họ Mạnh đã bị cướp sạch. Nàng giận quá xăm xăm lên thưa với quan, quan hỏi nàng là người thế nào với Mạnh, nàng đáp "Ông là quan coi một huyện, cứ dựa vào lý thôi, nếu nói sai thì kẻ thân thích cũng không thể chối tội, nếu nói đúng thì dù là người qua đường cũng phải nghe". Quan giận lời lẽ ngang tàng, thét đuổi ra, nàng căm giận không có nơi giãi bày, khóc lóc tố cáo với một vị thân sĩ. Tiên sinh Mỗ nghe chuyện cho là có nghĩa khí, nói giúp với quan huyện, quan tra xét quả đúng, liền trị tội bọn vô lại, trả hết tài sản lại cho nhà họ Mạnh. Có người bàn khuyên Kiều thị ở lại nhà Mạnh chăm sóc đứa con mồ côi nhưng nàng không chịu, khóa cửa nhà Mạnh, bảo bà vú bế Ô Đầu về nhà mình, cho ở riêng một gian. Những khoản chi dùng cho Ô Đầu thì đều cùng bà vú tới nhà Mạnh mở cửa lấy thóc bán, còn mình không hề đụng tới chút gì vẫn nghèo khổ nuôi con như trước.

Vài năm sau Ô Đầu lớn lên, nàng mời thầy về dạy học, còn con mình thì bắt tập làm lụng. Bà vú khuyên cho hai đứa cùng học, nàng nói "Ô Đầu học hành tốn kém là tiền của nó, còn nếu ta làm hao tốn tiền bạc của người cho con mình học thì làm sao tỏ rõ được lòng này?". Lại mấy năm nữa, nàng dành dụm cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc, liền hỏi cưới con gái nhà thế tộc cho, sửa sang nhà Mạnh bảo về mà ở. Ô Đầu khóc xin nàng về ở cùng, nàng cũng nghe theo nhưng vẫn dệt thuê kiếm sống như trước. Vợ chồng Ô Đầu giằng lấy khung cửi con thoi mang cả đi, nàng nói "Mẹ con ta chỉ ngồi ăn không thì làm sao yên lòng được?". Rồi sớm tối coi sóc việc trong nhà, sai con trai ra canh ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Nhưng vợ chồng Ô Đầu có chút lỗi lầm là nàng trách mắng không hề bỏ qua, mà nếu hơi có vẻ bỏ ngoài tai thì nàng buồn rầu muốn đi, vợ chồng quỳ xuống ăn năn mới chịu ở lại.

Không bao lâu Ô Đầu vào học ở trường quận, nàng từ biệt đòi về, Ô Đầu không cho, lại góp tiền cưới vợ cho con Mục. Nàng bảo con về nhà riêng ở, Ô Đầu giữ lại không được bèn sai người ngầm mua một trăm mẫu đất ở thôn bên cạnh, sau đó tặng cho. Sau Kiều thị bị bệnh đòi về, Ô Đầu không chịu, lúc bệnh nặng dặn "Thế nào cũng phải đưa ta về chôn ở nhà". Ô Đầu vâng dạ nhưng khi nàng chết lại đem vàng nói với con Mục xin cho hợp táng với Mạnh sinh. Lúc chôn cất, quan tài chợt nặng chình chịch, ba mươi người không nhấc lên nổi, còn con Mục chợt ngã lăn ra đất, bảy khiếu đổ máu, tự nói "Thằng con mất nết kia, tại sao lại bán mẹ ngươi như thế hả!". Ô Đầu sợ, vào lạy lục khấn khứa con Mục mới khỏi. Rồi hoãn việc chôn cất lại vài hôm, sửa sang phần mộ Mục sinh hợp táng nàng vào đó.

Dị Sử thị nói: Cảm nghĩa kẻ tri kỷ mà hiến cả thân mình, đó là việc làm của bậc nam tử nghĩa liệt. Nhưng người đàn bà kia có hiểu biết gì đâu mà việc làm cao cả lạ lùng như thế, nếu Cửu Phương Cao gặp được ắt sẽ nói là ngựa đực*.

* Nếu Cửu Phương Cao... ngựa đực: Liệt tử chép Tần Mục công nói với Bá Nhạc "Ngươi giỏi xem tướng ngựa nhưng đã già rồi, trong họ hàng có ai thay ngươi được không", Nhạc nói có Cửu Phương Cao. Mục công sai Cao đi tìm ngựa hay, Cao đi ba tháng trở về nói đã tìm được, ở Sa Khâu, là ngựa cái màu vàng, đến khi sai nguời dắt về thì là ngựa đực màu đen. Mục công trách Bá Nhạc tiến cử một kẻ không phân biệt được cả ngựa cái với ngựa đực, Bá Nhạc nói "Cao xem tướng ngựa là xem chỗ thiên phú, coi trọng cái tinh mà bỏ qua cái thô, cốt ở thần chứ không ở hình", sau quả đó là con ngựa hay. Đây ý nói nếu xét về tinh thần thì Kiều thị cũng hào hùng như kẻ trượng phu.

175. Mã Giới Phủ (Mã Giới Phủ)

Dương Vạn Thạch là Chư sinh ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), bình sinh có tật sợ vợ. Vợ là Doãn thị, tính hung dữ lạ thường, cứ có chuyện gì trái ý là đánh đập nguời ăn kẻ ở trong nhà. Cha Dương hơn sáu mươi tuổi lại góa vợ, Doãn thị coi như đầy tớ. Dương và em là Vạn Chung thường lén mang thức ăn cho cha không dám để Doãn thị biết, song quần áo cha rách nát, sợ bị chê cười nên không cho ông gặp mặt khách khứa. Vạn Thạch bốn mươi tuổi vẫn không có con trai, cưới thiếp là Vương thị nhưng cả ngày không dám trò chuyện với nàng một câu. Hai anh em lên quận thi gặp một thiếu niên tướng mạo thanh tú, trang phục phong nhã, cùng trò chuyện thích lắm, hỏi tới họ tên thì tự xưng là Giới Phủ, họ Mã. Từ đó giao du với nhau ngày càng thân thiết, kết nghĩa làm anh em. Đến khi chia tay, hẹn nửa năm sau sẽ gặp lại, nhưng Mã chợt dắt tiểu đồng tới nhà Vương. Gặp Dương ông đang cởi áo bắt rận ngoài cổng, Mã tưởng là đầy tớ bèn xưng tên họ nhờ vào thưa với chủ nhân. Dương ông khoác áo rách đi vào, có nguời nói cho Mã biết đó là cha Dương. Mã đang giật mình ngạc nhiên thì anh em Dương để đầu trần ra đón, vào tới sảnh đường vái chào nhau xong, Mã xin ra mắt cha. Vạn Thạch từ chối nói cha vừa ngẫu nhiên bị bệnh, giục ngồi xuống cùng trò chuyện vui vẻ, chiều tối lúc nào cũng không hay.

Vạn Thạch mấy lần ra bảo dọn cơm nhưng mãi chẳng thấy mang lên, hai anh em thay nhau ra vào gọi mãi mới có một người đầy tớ gầy ốm mang bầu rượu vào. Trong chốc lát ba người uống hết rượu, ngồi chờ một lúc lâu, Vạn Thạch đứng lên gọi mấy lần, toát cả mồ hôi trán, người đầy tớ mới bưng mâm lên, thức ăn còn chưa chín mà cũng chẳng có món nào ngon lành. Ăn xong, Vạn Thạch vội vã trở vào, Vạn Chung mang chăn ra ngủ chung với khách. Mã trách nói "Trước đây ngờ hai ông là bậc cao nghĩa mới kết làm anh em, nay thấy cha già không được ăn no mặc ấm, người ngoài cũng phải xấu hổ". Vạn Chung sa nước mắt đáp "Chuyện đau lòng này rất khó nói ra. Nhà ta không may gặp phải người chị dâu hung dữ, cha anh đều nhu nhược, có khi cũng bị đánh đập mắng nhiếc. Nếu không phải là anh em kết nghĩa, thật ta không dám nói ra chuyện xấu xa này đâu". Mã than thở hồi lâu rồi nói "Lúc đầu ta tính ở chơi vài hôm rồi đi, nay nghe chuyện lạ lùng này thật không thể không mắt thấy tai nghe cho rõ. Vậy ông xếp một gian phòng trống cho ở, cơm nước ta sẽ tự lo". Vạn Chung nghe lời, lập tức nhường phòng mình cho Mã ở. Khuya tới lén đem cơm sang mời khách mà còn sợ Doãn thị biết. Mã biết ý, hết sức từ chối không ăn, lại xin mời Dương ông tới cùng ăn ở với mình. Hôm sau ra chợ mua vải may áo quần cho Dương ông, cha con anh em đều cảm kích rơi nước mắt.

Vạn Chung có đứa con tên Hỷ Nhi mới bảy tuổi, đến ngủ với ông nội. Mã vỗ về nó, nói "Đứa nhỏ này phúc thọ nhiều hơn cha, nhưng phải mồ côi khổ cực sớm đây". Doãn thị nghe Dương ông được ăn no mặc ấm cả giận chửi mắng, nói Mã vô cớ dây vào chuyện nhà người khác. Ban đầu còn rủa lằm bằm trong phòng, sau dần dần tới gần phòng Mã mắng lớn tiếng cho Mã nghe. Anh em họ Dương sợ toát mồ hôi không biết làm sao ngăn cản, song Mã vẫn làm như không nghe thấy gì. Người thiếp Vương thị có thai được năm tháng Doãn thị mới biết, lột áo quần đánh đập tàn nhẫn rồi bắt Vạn Thạch quỳ xuống đội khăn buộc yếm đàn bà vào người, lấy roi đánh đuổi đi. Lúc ấy Mã đang có mặt ngoài cổng, Vạn Thạch xấu hổ không chịu ra, sau bị đánh đau quá phải chạy ra, Doãn thị cũng đuổi theo, xoa tay giẫm chân chửi rủa, người ta xúm lại xem đông nghịt. Mã chỉ vào Doãn thị quát "Đi ngay", thị lập tức quay người chạy mau trở lại như bị ma đuổi, bỏ cả giày tất, tụt cả vải bó chân trên đường, chạy chân trần vào nhà, mặt không còn chút máu. Lát sau lại hồn, tỳ nữ đưa giày tất tới, mang vào xong chợt khóc nức nở, gia nhân không ai dám hỏi.

Mã giục Vạn Thạch cởi khăn yếm ra, Vạn Thạch co người nín thở như sợ khăn yếm rơi xuống, Mã phải ép cởi ra cho mà vẫn lo lắng không yên, sợ mắc tội tự cởi. Nghe ngóng chờ vợ nín khóc mới dám vào nhà, rón rén tới trước mặt, vợ lại không nói câu nào, đứng lên đi vào phòng ngủ. Vạn Thạch lúc ấy mới đỡ lo lắng, cùng em thầm lấy làm lạ lùng. Gia nhân cũng đều cho là chuyện kỳ quái, họp nhau xì xào bàn tán, Doãn thị nghe loáng thoáng càng xấu hổ tức tối, lại vác roi đánh đầy tớ suốt lượt. Gọi tới người thiếp, người thiếp bị thương nặng không dậy nổi, Doãn thị cho là giả vờ, tới tận giường đánh đập mắng nhiếc, người thiếp băng huyết trụy thai. Vạn Thạch nhân lúc không người khóc lóc kể với Mã, Mã an ủi khuyên nhủ rồi bảo tiểu dồng bày rượu thịt cùng uống tới khuya, không cho Vạn Thạch về phòng. Doãn thị trong phòng, giận chồng không về, đang lúc căm tức chợt nghe có tiếng lay khung cửa, vội gọi tỳ nữ thì cửa phòng đã bật tung, một người to lớn bước vào, bóng che trùm cả phòng, mặt mũi hung ác như quỷ. Kế lại có vài người theo vào, ai cũng cầm dao sắc. Doãn thị hoảng sợ suýt ngất, định la lên thì người to lớn kề dao vào cổ nói "La lên thì ta giết ngay". Doãn thị vội vàng đưa tiền lụa ra xin chuộc mạng, người to lớn nói "Ta là sứ giả của âm ty, không cần lấy tiền, chỉ muốn lấy quả tim của mụ đàn bà hung dữ thôi", Doãn thị càng sợ. Người to lớn bèn lấy dao sắc rạch ngực Doãn thị, vừa kể vừa hỏi "Như chuyện này có đáng giết không?", mỗi việc lại rạch một nhát. Tất cả những việc hung ác đều kể ra mà rạch, không dưới vài mươi nhát, sau cùng lại nói "Người thiếp có con trai cũng là nối dõi cho ngươi, sao lại nhẫn tâm đánh cho tới trụy thai? Chuyện này thì không tha được". Rồi gọi mấy người kia tiếp tay để mổ bụng xem gan ruột của mụ đàn bà ác độc, Doãn thị dập đầu xin tha mạng, chỉ nói là đã biết tội rồi. Chợt nghe cửa giữa mớ toang, có tiếng nói "Dương Vạn Thạch tới rồi, nếu đã biết tội thì tạm tha cho một lần", rồi ào ào tan đi.

Giây lát Vạn Thạch vào, thấy vợ bị cởi trần trói thúc ké, trước ngực bị dao rạch ngang dọc nát bét, vội cởi trói hỏi. Biết nguyên do cả sợ, ngờ là do Mã. Hôm sau kể lại với Mã, Mã cũng sợ. Từ đó Doãn thị hơi bớt hung dữ, suốt mấy tháng không dám chửi mắng một câu. Vạn Thạch cả mừng nói với Mã, Mã nói "Nói thật với ông nhưng xin đừng để lộ ra, chuyện hôm trước là ta dùng thuật mọn để dọa đấy, nay gia đình đã yên ấm, xin tạm chia tay", rồi chào đi. Doãn thị cứ đến chiều tối là giữ Vạn Thạch làm bạn, cười nói rất vui vẻ. Vạn Thạch bình sinh không đưọc hưởng thú vui như vậy nên lại lấy làm ngượng nghịu không biết ngồi đứng thế nào. Một đêm Doãn thị nhớ lại diện mạo người to lón, lấy làm run sợ, Vạn Thạch muốn lấy lòng vợ bèn hơi lộ ra đó là giả. Người đàn bà lập tức vùng dậy căn vặn đầu đuôi, Vạn Thạch biết đã lỡ lời nhưng hối không kịp đành phải kể thật hết. Doãn thị đùng đùng nổi giận chửi lón, Vạn Thạch sợ quá quỳ rạp dười giường, người đàn bà không ngó ngàng gì tới. Vạn Thạch lạy lục năn nỉ đến canh ba, Doãn thị nói "Muốn tha thì phải rạch dao vào ngực đủ số, hận này mới tiêu tan được". Rồi vùng dậy vào bếp xách dao lên, Vạn Thạch cả sợ bỏ chạy, người đàn bà đuổi theo, chó sủa gà kêu náo động, tôi tớ đều thức dậy đổ ra. Vạn Chung không biết chuyện gì vội lấy thân mình che cho anh. Người đàn bà đang chửi mắng chợt thấy Dương ông tới, nhìn tới quần áo càng sôi giận lập tức sấn tới xé nát quần áo mới của ông, tát vào mặt rồi nắm râu giật. Vạn Chung thấy thế nổi giận, vớ đá ném trúng trán Doãn thị, Doãn thị ngã lăn ra chết ngất. Vạn Chung nói "Ta chết mà cha và anh ta được sống, thì có tiếc gì!", rồi nhảy xuống giếng tự tử, vớt lên thì đã chết. Lát sau ngữời đàn bà tỉnh lại, nghe nói Vạn Chung đã chết cũng hả giận. Chôn cất xong, người em dâu thương con thề không lấy chồng khác, Doãn thị chửi mắng không cho ăn uống, gọi người gả đi. Còn lại đứa con mồ côi sớm tối bị đánh đập, phải theo tôi tớ xin cơm thừa canh cặn mà ăn, qua vài năm gầy guộc võ vàng, hơi thở thoi thóp.

Một hôm Mã chợt tới, Vạn Thạch dặn gia nhân không được nói cho Doãn thị biết. Mã thấy Dương ông rách rưới như cũ, vô cùng kinh ngạc, lại nghe nói Vạn Chung đã chết, giẫm chân than thở. Đứa con Vạn Chung nghe Mã tới ra chào, đầu tiên gọi là chú Mã, Mã không biết là ai, nhìn kỹ mới nhận ra, hoảng sợ nói "Sao cháu lại tiều tụy đến thế này?", Dương ông bèn úp mở kể lại mọi chuyện. Mã căm tức nói với Vạn Thạch "Trước đây ta vẫn nói ngươi không phải con người, quả không sai. Nhân duyên hai người chỉ có bấy nhiêu, giết đi thì đã làm sao?". Vạn Thạch không đáp, chỉ cúi đầu ôm mặt khóc lóc. Vừa ngồi trò chuyện được một lúc thì Doãn thị biết Mã tới, không dám ra đuổi khách, chỉ gọi Vạn Thạch vào, tát tai bắt phải tuyệt giao với Mã. Vạn Thạch rưng rưng nước mắt trở ra, trên mặt còn vết tát rõ ràng, Mã nổi giận nói "Ngươi đã không thể ra oai, cũng không thể dứt tình đuổi đi à? Người ta đánh cha giết em mà còn nhịn nhục, sao đáng gọi là người?". Vạn Thạch co người lại như chạnh lòng, Mã lại nói khích "Nếu như không đuổi đi thì cũng phải dằn mặt, nếu có chết cũng không sợ. Ta có vài người bạn thân đều làm quan lớn, nhất định sẽ ra sức giúp đỡ, chắc chắn không việc gì đâu". Vạn Thạch nghe theo hùng hổ rảo bước vào trong, nhưng vợ vừa quát định làm gì thì cả kinh thất sắc, quỳ rạp chống tay xuống đất nói "Mã sinh bảo ta bỏ". Người đàn bà càng căm tức, ngoái nhìn quanh tìm dao gậy, Vạn Thạch hoảng sợ lại chạy ra. Mã thóa mạ, nói "Ngươi thật là hết dạy đưọc rồi", rồi mở tráp lấy thuốc ra hòa vào nước đưa Vạn Thạch uống, nói "Đây là Trượng phu tái tạo tán, không thể khinh suất mà dùng, vì có thể làm người ta bị bệnh, nhưng nay bất đắc dĩ phải cho ông dùng thử". Vạn Thạch uống xong, giây lát thấy khí tức đầy bụng như lửa cháy bùng bừng không thể nhịn được thêm một phút, xăm xăm đi vào phòng vợ, quát tháo như sấm. Doãn thị chưa kịp hỏi, Vạn Thạch đã đá cho ngã lăn ra rồi đấm túi bụi. Người đàn bà thân thể không còn chỗ nào lành lặn nhưng đầu tiên còn chửi bới. Vạn Thạch rút dao trong lưng ra, người đàn bà hỏi "Người rút dao có dám giết ta không?", Vạn Thạch không đáp, cắt một miếng thịt trên đùi vợ ném xuống đất, vừa định cắt thêm miếng nữa, người đàn bà kêu khóc xin tha. Vạn Thạch không nghe, lại cắt nữa. Tôi tớ thấy Vạn Thạch hung dữ quá vội xúm vào liều mạng giật dao kéo ra ngoài. Mã đứng lên đón, cầm tay khen ngọi, Vạn Thạch còn chưa hết giận, mấy lần lại định xông vào nhà trong, Mã phải ngăn lại, giây lát dược lực tan dần mới ngồi rũ ra như sắp chết.

Mã dặn "ông đừng lo, làm chồng chỉ cần ra oai một lần như thế thôi. Phu nhân khiếp sợ rồi, không phải là sớm tối lại dám xử sự như trước đâu, cũng như trước thì chết mà nay được sống, từ nay về sau thế nào cũng bỏ cũ đổi mới, nếu ông lại sợ sệt một lần nữa thôi thì không làm thế nào được đâu". Rồi bảo Vạn Thạch vào nhà trong xem, vợ run sợ nhịn đau bảo tỳ nữ đỡ dậy định bò tới lạy, ngăn lại mới thôi. Ra nói lại với Mã, cha con cùng chúc mừng nhau, Mã chào đi, hai cha con cùng giữ lại. Mã nói "Ta có việc đi qua Đông Hải, lúc nào trở về sẽ gặp nhau". Hơn một tháng sau Doãn thị gượng dậy được, thờ chồng rất kính cẩn, nhưng lâu ngày biết chồng không có tài gì khác dần khinh nhờn, dần cười nhạo, dần mắng chửi, thói cũ lại bộc lộ. Dương ông không chịu nổi, nhân đêm trốn tới Hà Nam, vào miếu làm đạo sĩ, Vạn Thạch cũng không dám đi tìm về. Hơn một năm Mã tới, biết chuyện ngậm ngùi trách móc, lập tức gọi đứa con Vạn Chung ra đặt lên lưng ngựa chở đi. Từ đó người làng đều không nể trọng gì Vạn Thạch, quan Học sứ về khảo xét vì thế truất bỏ chức Chư sinh của Vạn Thạch. Lại bốn năm năm sau, nhà bị cháy, tiền bạc trong nhà đều thành tro, lửa bén qua nhà láng giềng, người trong thôn lên quận kiện cáo, quan lại phạt bắt Vạn Thạch phải đền tiền. Từ đó gia sản khánh kiệt, đến nỗi không có nhà mà ở, người quanh vùng bảo nhau đừng cho Vạn Thạch ở nhờ.

Anh em Doãn thị ghét người đàn bà hung dữ, cũng từ chối không giúp đỡ. Vạn Thạch cùng khốn bán thiếp cho nhà giàu, dắt vợ xuống nam, tới địa giới Hà Nam thì hết tiền ăn đường, vợ không chịu theo, lải nhải đòi tái giá, gặp lúc có người đồ tể vừa chết vợ bỏ ra ba trăm đồng mua về. Vạn Thạch còn một mình, ăn xin quanh quẩn vùng ấy, tới cổng một nhà giàu bị người gác quát tháo đuổi đi không cho đứng trước cổng. Giây lát có một vị quan nhân bước ra, Vạn Thạch quỳ rạp xuống đất khóc lóc năn nỉ, vị quan nhân nhìn kỹ hồi lâu rồi hỏi qua tên họ, kinh ngạc nói "Là bác đây mà, tại sao lại nghèo tới mức này?". Vạn Thạch nhìn kỹ lại thì ra là Hỷ Nhi, bất giác khóc rống lên rồi theo vào nhà, thấy trong sảnh đường vàng ngọc lóa mắt. Giây lát tiểu đồng đỡ Dương ông ra, gặp nhau mừng mừng tủi tủi, Vạn Thạch mới thuật lại hết nhũng việc đã qua. Đầu tiên Mã dắt Hỷ Nhi tới đó, vài hôm ra tìm Dương ông về cho ông cháu ở chung, lại rước thầy dạy Hỷ Nhi học, đến năm mười lăm tuổi được vào trường huyện, năm sau thi đỗ Cử nhân, vừa lấy vợ xong thì Mã từ biệt muốn đi ông cháu cùng khóc lóc giữ lại, Mã nói "Ta không phải là người mà là hồ tiên thôi, các bạn đồng đạo chờ đã lâu rồi", rồi đi.

Hỷ Nhi nói tới đó bất giác rơi lệ, nhân nghĩ tới người thiếp của Vạn Thạch trước đây cũng bị hành hạ như mình, càng thêm thương xót, bèn lấy xe kiệu mang tiền đi chuộc Vương thị về cho Vạn Thạch, hơn một năm sinh được một con trai, vì thế coi là vợ đích. Doãn thị theo người đồ tể nửa năm, lại hung hăng dữ tợn như trước, chồng tức giận lấy dao mổ heo đâm xuyên qua vế, xỏ dây vào treo lên xà nhà, thịt cứ toác ra. Doãn thị kêu gào đứt hơi láng giềng mới hay, qua đỡ xuống rút dây ra, rút tới đâu đau đớn la thét tới đó, bốn bên láng giềng đều nghe. Từ đó cứ thấy mặt người đồ tể là run lẩy bẩy, về sau vết thương lành lại nhưng chỗ ấy bị mất thịt, đi đứng rất khó khăn, chỉ biết sớm tối hầu hạ, không dám hó hé. Người đồ tể lại càng hung dữ, cứ uống rượu say về là đánh đập chửi mắng, lúc ấy Doãn thị mới biết nỗi khổ của nhũng người bị mình hành hạ trước kia. Một hôm, Dương phu nhân cùng bà bác lên dâng hương ở chùa Phổ Đà, nhũng phụ nữ nhà thường dân ở quanh đó đều tới làm lễ ra mắt chào hỏi, Doãn thị cũng có trong đám nhưng cứ núp phía sau không dám bước lên. Vương thị cố ý hỏi người ấy là ai, gia nhân bước lên thưa là vợ đồ tể họ Trương, nhân quát gọi bước lên bảo lạy Thái phu nhân.

Vương thị cười nói "Người đàn bà này làm vợ đồ tể thì lẽ ra không thiếu thịt ăn, sao lại bị xẻo một miếng thế?". Doãn thị vừa thẹn vừa tức, về nhà định treo cổ tự tử nhưng dây đứt không chết, người đồ tể vì vậy càng ghét. Hơn một năm người đồ tể chết, Doãn thị đi trên đường gặp Vạn Thạch, từ xa nhìn thấy đã quỳ xuống, nước mắt ròng ròng, Vạn Thạch vì có gia nhân nên không dám nói câu nào, trở về nói với cháu, muốn đón về lại nhưng cháu nhất định không chịu. Người đàn bà bị dân làng khinh ghét nên lâu không có ai lấy, phải theo bọn ăn mày kiếm sống. Vạn Thạch có lần hẹn gặp trong chùa, cháu biết được, cho là nhục nhã bèn ngầm xúi bọn ăn mày phá đám, Vạn Thạch bèn thôi. Chuyện này ta không biết kết cục ra sao, đoạn đưới đây là do ông Tất soạn.

Dị Sử thị nói: Thiên hạ có kẻ thế này người thế khác, nhưng không ngờ trong khoảng trời đất lại có chàng Dương, há chẳng phải là lạ lùng sao! Ta từng làm một bài Tục Diệu âm kinh, xin chép phụ vào đây để mua một trận cười.

Trộm nghĩ: Trời đất hóa sinh muôn vật, vẫn cậy đạo Khôn, nam nhi chí ở bốn phương, càng cần có vợ. Cùng sướng mà riêng khổ, mệt sao mười tháng nặng nề, lúc ướt lại khi khô, khổ lắm ba năm vất vả. Nghĩ muốn nối dài dòng giống, nên quân tử phải cầu duyên, toan lo thu xếp gia đình, mà cổ nhân đành cưới vợ. Ban đầu lời lẽ không hay, vợ chửi chồng còn chồng nhịn vợ, kế tới kính cung như khách, chồng trọng vợ mà vợ khinh chồng. Chỉ vì nhi nữ tình sâu, đến nỗi anh hùng râu quặp. Đầu giường Dạ Xoa chễm chệ, dẫu Kim Cương cũng phải cụp mày, trong nồi khói độc tuôn hơi, tuy La Hán khó lòng cứng cổ. Chày giặt áo mùa thu mà nắm, thì không đập áo đêm trăng, tay Ma Cô móng sắc mà quào, thì chẳng vuốt sen bến nước.

Roi cố chịu mà gậy thì chạy, quả là thay mẹ Mạnh tử ném thoi, vợ đã nói thì chồng liền nghe, kể cũng đúng vợ Chu công định lễ. Múa may dức lác, người xem bao kẻ đông dầy, xỉa xói thét gào, đầy tớ cả bầy nháo nhác. Ác làm sao! chỉ trời vạch đất, thoắt vào xõa tóc thét bên giường, xấu thật đấy! đưa mắt nghiêng đầu, kế lại thắt vòng tròng lấy cổ. Gặp những lúc ấy thì dưới đất lắm người mất mật, bên trời có kẻ bay hồn. Bắc Cung Ảo chưa chắc không chuồn, Mạnh Thi Xá* dễ gì chẳng trốn. Tướng quân oai ran sấm sét, vào tới sân là lạc phách bay hồn, đại nhân mặt lạnh băng sương, bước vào cửa cũng im hơi lặng tiếng. Chẳng lẽ son phấn không nổi nóng mà oai, sao lại mày râu lúc thái bình mà sợ.

*Bắc Cung ảo, Mạnh Thi Xá: tên hai dũng sĩ thời cổ, nổi tiếng khỏe mạnh can đảm.

Việc còn có chỗ nói được, thì ma nữ cài trâm chơi dưới nguyệt, có ngại gì cúi lạy quy y, sự dẫu mười phần oan đi, nhưng quỷ bà xõa tóc xuống trần gian, cũng hãy cứ nhang đèn cung kính. Nghe sư tử gầm gào dữ tợn, thì hai mũi hếch trời, thấy gà mái phành phạch gáy vang, thì tứ chi rạp đất. Kẻ hiếu sắc đam mê quên nhục nhã, điệu Hồi ba* thương xót bị chê cười. Giả như làm rể công hầu, nhà họ hiển vinh, thì lạy lục nàng còn có cớ, hoặc cưới con nhà giàu có, thân trai hèn kém, thôi nịnh nọt vợ cũng chẳng sao. Ấy quỷ nghèo tự biết chẳng oai phong, đành mặc cho túm đầu tóc giật vành tai, chỉ mong rủ lòng tha thứ, nhưng thần tiền vẫn khoe thừa sức mạnh, mà nếu lỡ vuốt râu hùm sờ dái ngựa, cũng khó dựa thế cậy nhờ.

*Điệu Hồi ba: tức "Hồi ba từ", tên một điệu từ khúc, đây 1ấy ý bài Hồi ba từ của Thù nhu Tang Phụng thời Đường trêu ghẹo Trung tông bạc nhược nên bị vợ là Vi Hoàng hậu lấn lướt.

Đem hẻm núi để trói lòng du tử, mượn Hồng Câu làm nhụt chí Bá Vương*. Nhưng chết cùng huyệt sống cùng chăn, đâu từng thấy ngâm thơ Bạch thủ (**), mà mây buổi sáng mưa buổi tối, lại muốn riêng chiếm cõi Vu Sơn (***). Hận bấy "Nước ao trong", để lỡ đàn vàng phách ngọc (4*) gậy vào gáy, rèm màn rơi xuống làm tắt hết đèn đuốc, Thân hoảng sợ chui vào gầm giường trốn, về sau bạn bè đùa gọi Thân là "Nước ao trong". Đây ý nói vợ dữ ngăn cấm chồng chơi bời, thương sao "Phận thiếp mỏng", luống đau đêm vắng canh dài (5*).

*Mượn Hồng Câu... Bá vương: lấy tích thời Hán Sở tranh hùng, Tây Sở Bá vương Hạng Vũ bị Hán vương Lưu Bang đánh bại phải giảng hòa, lấy Hồng Câu làm ranh giới giữa đôi bên. Đây ý nói vợ dữ khiến chồng phải "giữ phận".

**Thơ Bạch thủ: tức bài Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân tỏ ý trách chồng là Tư Mã Tương Như không chung thủy. Đây ý nói người vợ dữ không nghĩ gì tới việc vợ chồng còn phải chung sống với nhau lâu dài.

***Mây buổi sáng... Vu Sơn: lời tựa bài Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua nước Sở ra chơi đầm Vân Mộng, nằm mơ thấy một cô gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nói "Thiếp là thần nữ ở Vu Sơn, sáng làm mây tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài", người sau nhân đó dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc ái ân trai gái. Đây ý nói vợ dữ muốn giữ chồng không cho ăn nằm với tỳ thiếp.

4* Hận bấy... phách ngọc: 1ấy tích Hàn Thân thích rượu chè cờ bạc bỏ nhà đi chơi cả năm trời, một hôm cùng đám bạn cờ bạc vào thanh lâu uống rượu ca hát, vợ dắt con gái và đầy tớ tới cầm gậy rình trong góc tối. Thân đang cao giọng hát bài "Trì thủy thanh" (Nước ao trong) thì bất ngờ bị đánh một

5* Thương sao... canh dài: Ý nói vợ lớn ghen tuông làm đám tỳ thiếp phải chịu phòng không gối chiếc.

Ve sầu thoát xác, cò lẻ vượt ghềnh, mừng nỗi ly long đang ngủ*, đầy tớ dong xe, phất trần đánh ngựa, hờn vì ngựa yếu không phi**. Thấy người ngủ với chồng, tới đánh mới hay anh ruột***, buộc chân chồng vào cửa, kéo ra đã hóa dê xồm (4*). Thương mà tử tế chỉ một lúc, ác mà hành hạ thật không bờ. Gây tội nghiệt mua vui ở lầu xanh, Thái Giáp ắt rằng khó tránh, chịu oan uổng cụp tai theo ý vợ, Lý Dương cũng nói không nên (5*) chỉ ta mà cả Lý Dưong cũng nói là nàng không nên làm thế", Quách sợ hãi mới bớt vơ vét. Đây ý nói vợ dữ làm chồng phải lo sợ thay cho... Gió ghen nóng rát, ý xuân trên lầu gác vụt tàn, bể giấm mênh mông, ánh trăng dưới cầu Lam đã lấp. Lại có khi dịp tốt gặp nhau, bạn thân đầy tiệc, mà đấu rượu giấu chẳng đưa ra thết, lá thư đuổi khách viết trong phòng, nên bạn cũ tránh không tìm tới chơi, bài luận Tuyệt giao truyền khắp chốn.

*Ve sầu... đang ngủ: Ve sầu... vượt ghềnh nguyên văn 1à "Thiền xác vụ than" tức "Kim thiền thoát xác" và "Vụ lộ đạp than", đây chỉ việc trốn đi. Ly long đang ngủ lấy điển trong Trang tử, Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu chép có người làm nghề câu cá, đứa con lặn xuống vực mò được viên ngọc giá đáng ngàn vàng, ý nói "Đây là viên ngọc dưới hàm con ly long, ngươi lấy được là nhờ gặp lúc nó đang ngủ đấy thôi". Cả câu ý nói sở dĩ chồng trốn qua được với tỳ thiếp là nhờ vợ cả đang ngủ.

** Đầy tớ... không phi: Đố ký chép Vương Đạo có vợ là Tào phu nhân tính hay ghen, Đạo sợ nên bí mật cho xây một căn nhà riêng, đem hết các tỳ thiếp về đó ở. Tào phu nhân biết được, sai đầy tớ sắp sẵn xe ngựa, chờ Đạo vừa ra đi thì lên xe đuổi theo, đích thân cầm cái phất trần đánh ngựa giúp người dong xe, vượt qua ngựa Đạo tới chỗ ấy trước. Đây ý nói vợ ghen theo dõi để bắt quả tang chồng.

***Thấy người ngủ... anh ruột: lấy tích Vũ Tử có vợ cả ghen, Vũ Tử gọi anh vợ tới cùng ngủ chung, lấy một cái xiêm đàn bà màu đỏ máng lên bình phong. Vợ thấy thế hùng hổ vác dao vào định đánh ghen, tốc chăn ra thì thấy anh ruột, xấu hổ lui ra.

4*Buộc chân chồng... dê xồm: lấy tích sĩ nhân họ Tế có vợ rất hung dữ, chồng làm điều gì trái ý, nhỏ thì chửi bới, lớn thì đánh đập, thường lấy dây dài buộc chân chồng. Tế bàn với một bà đồng buộc sẵn con dê ngoài tường, đang đêm nhân lúc vợ đi tiểu Tế leo ra tường trốn, cởi dây buộc vào con dê rồi ném đầu dây vào trong. Vợ trở vào thấy mất Tế vội nắm đầu dây kéo thì được con dê, cả sợ gọi bà đồng tới hỏi, bà ta đáp vì nương tử làm nhiều điều ác nên cha ông trừng trị, biến lang quân thành dê.

5*Lý Dương cũng nói không nên: Thế thuyết chép vợ Vương Di Phủ 1à Quách thị tính tham lam, cậy chồng làm quan vơ vét rất nhiều tiền bạc. Di Phủ lo lắng can ngăn mà vợ không nghe. Lúc ấy Thứ sử U Châu Lý Dương là người cùng làng nổi tiếng là bậc hiệp khách, Quách vẫn sợ. Di Phủ nhân đó nói "Không

Thậm chí khiến anh em rẽ lối, cây gai khô trước cửa ngậm ngùi*, cầm sắt tục huyền, áo lau mỏng trong lòng tê tái**. Cho nên Dương Thành uống rượu, khắp một nhà chỉ có anh em*** lạt lẽo nên ta không nỡ", em cảm động, cũng không lấy vợ. Thành khi làm Gián nghị Đại phu khi gặp việc lớn thì dám thẳng thừng can gián, nhưng lúc bình thời thì cả ngày chỉ uống rượu, Thương tử thổi tiêu, bảy mươi tuổi không thành gia thất (4*). Than ôi! Trăm năm duyên số, lại trở thành mụn ghẻ trong xương, năm lượng lộc bì (5*), hóa chuốc lấy nỗi đau trên gối. Râu cứng tựa kích đều như thế, mật lớn như đấu có mấy người? Đã chẳng dám chôn vợ nơi chuồng ngựa (6*), để dứt mầm tai, nào ai liều thiến dái tại phòng tằm (7*), mà trừ gốc nghiệt! Quân nương tử kiêu rông bạo ngược, hết cách diệt trừ, cọp phấn son tàn hại sinh linh, ai người tế độ? Hương trời đêm rớt, cho yên sóng dậy trong nồi, mưa nhỏ sáng rơi, dập tắt lửa nồng dưới chiếu. Cõi cực lạc xây đôi tòa gác đẹp, lưỡi đa đoan bàn một cuống sen xanh (8*). Diệt khổ não cho kiếp người, dựng đạo trường bên bến ái. Ôi! Mong vài chương kinh văn lá bối, làm một phen giọt nước cành dương...

* Anh em... ngậm ngùi: Tục Tề hài ký chép ở kinh đô có ba anh em họ Điền chia đều gia sản cha mẹ để lại làm ba phần, nhưng còn một cây gai trước sân không sao chia được, bàn đốn xuống chia ba, sáng ra mang búa tới định chặt thì cây gai đã chết khô rồi. Đây ý nói vì vợ dữ mà anh em ruột phải chia lìa.

** Cầm sắt... tê tái. lấy tích cha Mẫn Tử Khiên góa vợ tục huyền, sinh thêm được hai con trai. Mẹ kế thương con mình ghét con chồng nên mùa đông cho con mình mặc áo độn bông, bắt Mẫn Tử Khiên mặc áo độn hoa lau. Đây ý nói vì vợ kế dữ mà con cái bị hành hạ.

*** Dương Thành... anh em: Trác hạnh truyện chép Dương Thành thời Đường và em trai ở ẩn trong núi Trung Điều, không chịu lấy vợ, nói với em rằng "Ta và em mồ côi nuôi nhau, nếu lấy vợ thì bị người ngoài ngăn cách, tuy có ở chung tình nghĩa cũng

4* Thương tử... gia thất: Liệt tiên truyện chép Khưu Tử Tư thời Thương thích chăn heo thổi sáo, bảy mươi tuổi vẫn không lấy vợ.

5* Lộc bì: tức da hươu, thời cổ dùng làm tiền, nên cũng dùng làm lễ vật cưới hỏi.

6* Chôn vợ nơi chuồng ngựa: Tề sách chép mẹ Khuông Chương hỗn láo, cha Chương bèn giết chết chôn dưới chuồng ngựa.

7* Thiến dái tại phòng tằm: ngày xưa những người bị tội cung hình (thiến) hay các hoạn quan tình nguyện tự thiến để vào phục vụ trong nội cung sau khi thiến xong được đưa vào phòng nuôi tằm (tàm thất) cho kín gió để chờ lành hẳn.

8* Lưỡi đa đoan ... sen xanh: lưỡi đa đoan nguyên văn là "Trường thiệt chi đoan (mối lưỡi dài), ý nói lắm chuyện, đây chỉ phụ nữ. Một cuống sen xanh nguyên văn là "Thanh liên tịnh đế" (Hai đóa sen có chung một cuống) lấy tích trong Tình sử kể chuyện vợ chồng Tào Bích ôm nhau chết đuối trong ao, về sau trong ao nảy ra hai đóa sen có chung một cuống. Câu này ý nói mong muốn sao cho phụ nữ chỉ bàn tới việc vợ chồng thương yêu nhau.

Hiếu liêm họ Lý ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) tính thích đi xa, lúc trẻ lại phóng túng không chịu bị trói buộc, các môn đàn hát đều giỏi. Hai anh đều đã thi đỗ Tiến sĩ mà Lý vẫn còn lông bông. Lấy phu nhân là họ Tạ, dần dần bị kìm chế bèn bỏ đi ba năm không về, tìm kiếm khắp nơi không thấy. Mãi về sau mới tìm được trong một kỹ viện ở huyện Lâm Thanh (tỉnh Sơn Đông), người nhà vào thấy Lý đang ngồi quay mặt về phía nam, có mười mấy kỹ nữ trẻ đẹp đứng hầu hai bên, té ra họ nhờ Lý dạy đàn sáo cho. Lúc lên đường về, từ quần áo tới tiền ăn đường đều là của các kỹ nữ tặng. Về tới nhà, phu nhân nhốt vào một gian phòng, đặt sách đầy bàn, lấy dây dài buộc vào chân giường thòng một đầu ra chỗ then cửa, treo cái lục lạc lớn để gọi nhà bếp, cần gì thì giật dây, dây động lục lạc rung sẽ có người hầu hạ. Phu nhân tự mở gian hàng, buông rèm định giá, tay trái cầm bàn tính, tay phải cầm quản bút, đầy tớ chỉ đi lại dọn dẹp. Nhờ thế nhà dần dần giàu lên nhưng phu nhân vẫn lấy làm nhục không được sang như các chị dâu. Lý bị nhốt kín ba năm, đi thi đỗ Cử nhân, phu nhân mừng nói "Ba quả trứng có hai đã nở, ta cho rằng ông là trứng ung, nay cũng nở được à?"

Tiến sĩ Cảnh Tung Sinh cũng là người huyện Chương Khâu, phu nhân thường thắp đèn kéo sợi giúp chồng đọc sách, người kéo sợi không nghỉ, người dọc sách cũng không dám thôi. Nếu có bạn chồng tới chơi thì rình nghe trộm, nếu bàn chuyện văn chương thì lo trà rượu cơm nước tiếp đãi tử tế, còn nếu nói chuyện chơi bời thì ra quát tháo đuổi khách. Lần nào Cảnh đi khảo thí được hạng trung bình thì không dám vào phòng, được hạng cao vợ mới tươi cười ra cổng đón. Cảnh đi dạy học được bao nhiêu tiền đưa cả cho vợ, không dám giấu diếm một đồng. Nhà chủ cung đốn trả lương thì tính toán chi ly, có người chê cười nhưng không biết Cảnh phải tính toán lại với vợ. Sau cha vợ mời về dạy cho em vợ, ngay năm ấy người em vợ thi đỗ vào trường quận, cha vợ tạ mười lượng vàng, Cảnh nhận cái hộp mà trả lại vàng. Phu nhân biết chuyện trách "Bên nhà tuy là rất thân thiết, nhưng dạy học để làm gì nào?", rồi bảo tới nhà cha mình nhận lại vàng. Cảnh không dám cãi nhưng trong lòng thấy xấu hổ, nghĩ cách lén trả lại. Từ đó hàng năm dạy học được tiền cứ giấu lại một ít, tích cóp hai năm đã gần đủ số. Một đêm chợt mơ thấy một người tới nói "Ngày mai cứ lên chỗ cao sẽ được đủ tiền". Hôm sau Cảnh lên chỗ cao nhìn thử, quả nhiên nhặt được tiền người ta đánh rơi, vừa đủ chỗ còn thiếu, bèn đem về đưa lại cho cha vợ. Sau Cảnh đỗ Tiến sĩ, phu nhân vẫn còn la mắng, Cảnh nói "Nay ta đã làm quan, sao có thể nghe lời bà được?". Phu nhân đáp "Lời ngạn có câu Nước lên thì thuyền cũng lên, cho dù ông làm Tể tướng cũng đã là lớn à?".

176. Vân Thúy Tiên (Vân Thúy Tiên)

Lương Hữu Tài vốn là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), lưu lạc tới đất Tế (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán hàng rong, không có vợ con điền sản, theo người trong thôn lên Thái Sơn chơi. Lúc ấy đang tháng tư, người ta lên núi dâng hương rất đông, lại có nhiều tăng ni dắt hàng chục hàng trăm đệ tử quỳ la liệt trước bàn thờ thần, cứ theo nén hương cháy làm cỡ, gọi là quỳ hương. Tài thấy trong đó có một nữ lang xinh đẹp khoảng mười bảy mười tám tuổi, thích lắm bèn giả làm khách dâng hương tới quỳ bên cạnh. Lại làm ra vẻ quỳ lâu mỏi gối, vịn tay vào chân nàng. Cô gái giận dữ quay nhìn rồi xích ra. Tài lại xích tới gần, lát sau lại làm như trước. Cô gái đứng phắt lên không quỳ nữa bỏ ra, Tài cũng đứng lên theo chân nhưng không biết nàng đi đàng nào, thất vọng buồn bực ra về. Dọc đường thấy cô gái đi theo một bà già, hình như là mẹ, vội rảo bước theo. Mẹ con vừa đi vừa nói chuyện, bà già nói "Con đi lễ Bà là hay lắm. Con không có em trai em gái, chỉ cần Bà phù hộ cho lấy được người chồng tốt miễn hiếu thuận là được, chẳng cần gì phải là con vua cháu chúa". Tài mừng thầm, mon men bắt chuyện hỏi thăm, bà già nói mình họ Vân, cô gái là con ruột, tên Thúy Tiên, nhà ở phía tây núi, cách bốn mươi dặm. Tài nói "Đường núi gập ghềnh mà bác thì già yếu, em thì ẻo lả thế này làm sao về kịp?", bà đáp "Trời đã xế, mẹ con ta định ghé nhà cậu cháu ngủ nhờ". Tài nói "Lúc nãy nghe bác nói kén rể không kể nghèo hèn, vậy cháu chưa có vợ, bác thấy được không?". Bà hỏi cô gái, nàng im lặng, hỏi mấy lần mới nói "Y ít phúc, lại phóng đãng vô hạnh, tâm tính khinh bạc mà hay tráo trở, con không thể làm vợ một gã vô lại được". Tài nghe thế vội tỏ ra chân thành, chỉ trời thề thốt.

Bà già mừng rỡ nhận lời, cô gái thì không thích, tỏ vẻ vùng vằng, bà mẹ phải cố làm cho nàng vui lên. Tài ân cần xách hộ hành lý, tìm hai chiếc kiệu núi cho hai mẹ con, mình thì đi bộ theo như người hầu, cứ tới đoạn đường nào gập ghềnh lại quát tháo bọn phu kiệu bảo phải cẩn thận không được lắc mạnh, lo lắng ân cần lắm. Không bao lâu tới một xóm, bà già bảo Tài cùng vào. Có ông bà già ra đón, là anh trai và chị dâu bà Vân, bà nói Tài là con rể, vừa đúng ngày tốt không cần chọn lựa nữa, cho làm lễ cưới luôn đêm nay. ông cậu cũng vui vẻ, dọn cơm rượu mời Tài, kế cho Thúy Tiên ăn mặc đẹp đẽ ra làm lễ rồi dọn giường giục đi ngủ. Cô gái nói "Ta vốn biết ngươi bất nghĩa, nhưng bị mẹ ép buộc nên phải theo, nếu ngươi ăn ở tử tế thì chẳng lo gì đói rét", Tài vâng dạ. Sáng hôm sau thức dậy, bà mẹ bảo Tài cứ về trước, mình và con gái sẽ tới ngay. Tài về quét dọn nhà cửa xong thì bà già đưa con gái tới. Vào nhà thấy trống trơn bèn nói "Thế này thì lấy gì mà sống? Ta sẽ trở lại ngay, giúp thêm chút ít cho đỡ khổ", rồi ra đi.

Hôm sau có mấy người gia nhân trai gái mang dủ thứ áo quần chén bát tới xếp đầy nhà rồi đi ngay không ở lại ăn cơm, chỉ lưu lại một người tỳ nữ hầu hạ. Tài từ đó chỉ ngồi không ăn sẵn, hàng ngày cứ theo bọn vô lại rượu chè cờ bạc, dần dà ăn cắp cả nữ trang của vợ để chơi bời. Cô gái khuyên nhiều lần không được, hết cách chỉ còn biết giữ kỹ lưỡng hòm như đề phòng giặc cướp. Một hôm đám cờ bạc tới thăm Tài, nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc tấm tắc khen ngợi, nói đùa với Tài "Ông giàu có lớn, lo gì nghèo khó?", Tài hỏi sao nói thế, chúng đáp "Mới rồi thấy mặt phu nhân, thật là người tiên, lại gặp lúc gia đình không hòa thuận, nếu đem bán làm vợ lẽ phải được trăm lượng vàng còn bán cho nhà chứa phải được ngàn lượng, có ngàn lượng vàng trong nhà thì lo gì không tiền uống rượu đánh bạc?". Tài không đáp nhưng thầm cho là đúng. Về nhà cứ nhìn vợ thở dài, lúc lúc lại than nghèo quá không biết làm sao sống. Cô gái làm như không nghe, Tài cau có đập bàn ném bát, chửi mắng tỳ nữ, làm đủ trò gây gổ. Một đêm cô gái mua rượu cùng uống, chợt nói "Chàng vì nghèo túng mà lo nghĩ ngày đêm, thiếp cũng chẳng có cách gì lo toan để chia sẻ, há không hổ thẹn, nhưng không có vật gì đáng giá, chỉ có con hầu này, đem bán đi cũng đủ vốn buôn bán lặt vặt". Tài lắc đầu nói "Nó thì đáng bao nhiêu!". Uống thêm một lúc, nàng nói !'Thiếp có tiếc gì với chàng đâu, khổ cái là đã kiệt lực rồi. Nghĩ lại thấy cứ nghèo túng thế này, cho dù theo nhau tới chết chẳng qua cũng chỉ là khổ sở suốt đời, làm sao mở mày mở mặt được. Không bằng cứ đem thiếp bán cho nhà giàu thì hai người đều có lợi, chắc được giá hơn con hầu nhiều".

Tài làm ra vẻ kinh ngạc, nói làm gì phải tới nỗi như vậy nhưng nàng cứ nói mãi, vẻ mặt rất nghiêm trang. Tài mừng nói "Để ta tính lại". Liền đánh tiếng với một vị quan lớn đang mua ca kỹ làm con hát, vị quan đích thân tới nhà Tài, thấy cô gái rất thích, sợ không mua được ngay, bèn làm giao kèo mua tám trăm quan, việc thế là xong. Cô gái nói "Mẹ thường ngày thấy nhà rể nghèo vẫn lo lắng cho, nay đã dứt hết tình nghĩa, thiếp phải về thăm một lần. Vả lại chàng đoạn tuyệt với thiếp thì cũng phải nói cho mẹ biết chứ". Tài lo bà mẹ cản trở, nàng nói "Đây vốn là do thiếp muốn, cam đoan không có việc gì đâu", Tài bèn theo nàng đi. Gần nửa đêm mới tới nhà mẹ vợ, gõ cổng vào thấy lầu gác hoa lệ, đầy tớ đi lại tấp nập. Tài thường ngày ở với vợ vẫn muốn tới thăm mẹ nhưng cô gái cứ ngăn cản nên làm rể hơn một năm vẫn chưa lần nào tới nhà bà nhạc, lúc ấy cả sợ nghĩ rằng con gái nhà giàu có như thế này ắt không chịu làm nàng hầu con hát. Cô gái dẫn Tài lên lầu, bà già kinh ngạc hỏi "Sao vợ chồng lại tới đây?", nàng oán hờn nói "Con vẫn nói y bất nghĩa, nay quả đúng". Rồi lấy trong túi ra hai nén vàng đặt lên bàn, nói "May mà không bị đứa tiểu nhân lừa lấy, nay xin trả cho mẹ".

Mẹ kinh ngạc hỏi duyên cớ, nàng đáp "Y muốn bán con đi, có giữ vàng cũng vô dụng", rồi chỉ mặt Tài mắng "Đồ chó, ngày trước ngươi gánh hàng bán rong, mặt mũi lem luốc như ma, lúc đầu gần ta mồ hôi còn chua loét, cáu ghét rơi ra muốn sập giường, tay chân thì chai cộm cả tấc khiến người ta suốt đêm lợm mửa, từ khi lấy ta chỉ ngồi ăn không mới lột được lớp da quỷ sứ đi. Có mẹ ở đây, ta có đặt chuyện cho ngươi không?". Tài cúi đầu không dám hó hé, nàng lại nói "Ta biết mình không có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành để làm vợ bậc quý nhân, chứ với hạng đàn ông như ngươi thì dám nói là xứng đôi vừa lứa, mà ta không làm gì lầm lỗi sao ngươi nỡ dứt cả nghĩa vợ chồng không nghĩ tới chút tình hương lửa. Ta há không đủ sức làm nhà lầu mua ruộng tốt sao, chỉ vì thấy ngươi là kẻ ít phúc phận, có tướng ăn mày, không thể sống với nhau trọn đời được thôi". Nàng nói xong, bọn tớ gái kéo tới vây đặc chung quanh thóa mạ, đều nói cứ giết đi, cần gì phải nói này nọ. Tài khiếp sợ quỳ mọp dưới đất, nói đã ăn năn rồi.

Cô gái càng tức giận, nói "Bán vợ con đã là đại ác, sao ngươi còn nỡ lòng coi rẻ người bạn đầu gối tay ấp đem bán đi làm đĩ chứ?". Nàng chưa dứt câu, mọi người đều sôi máu, kẻ rút trâm tóc, người vớ kéo may xúm vào đâm túi bụi. Tài kêu la xin tha mạng, cô gái ngăn mọi người lại, nói "Thôi tạm tha cho hắn, y bất nhân nhưng ta không nỡ thấy y khiếp sợ như thế", rồi dắt mọi người xuống lầu. Tài ngồi nghe ngóng một lúc, thấy không có tiếng người, toan bỏ trốn. Chợt ngẩng nhìn trời thấy sao đêm lặn hết, phương đông đã hừng sáng, trời đất mênh mang. Kế đèn lửa cũng tắt hết, nhìn lại thấy không có nhà cửa gì cả mà mình thì đang ngồi trên vách đá cheo leo, cúi xuống thấy ở dưới là vực sâu thăm thẳm, khiếp đảm sợ rơi xuống. Vừa nhúc nhích thì ầm một tiếng, tảng đá đang ngồi lở ra rơi luôn xuống vực. May vách núi có cây khô đâm ngang nên Tài vướng lại không rơi xuống, nằm vắt bụng trên thân cây, tay chân chẳng có chỗ nào bấu víu, nhìn xương vực thấy mờ mịt không biết sâu bao nhiêu trượng, không dám động đậy. Sợ muốn tắt thở, toàn thân đẫm máu, kiệt sức mê mụ ngất đi luôn. Mặt trời lên cao mới có người tiều phu nhìn thấy, tìm dây dòng xuống cứu lên, đặt trên sườn núi, thấy hơi thở thoi thóp bèn khiêng cho về nhà.

Về tới thấy cửa mở toang, trong nhà trống trơn như ngôi chùa nát, giường chiếu vật dùng đều biến mất, chỉ còn chiếc võng rách và cái bàn mục là vật cũ của mình, lê lết lên nằm, hàng ngày đói bụng lại qua các nhà láng giềng xin ăn. Kế mắc bệnh lở loét, toàn thân máu mủ bê bết, người làng ghét tính nết khinh bạc đều khạc nhổ đuổi đi. Tài hết cách sống, bán nhà vào ở trong hang núi, hàng ngày ra đường xin ăn, luôn giắt theo lưỡi dao trong mình. Có người bảo đổi dao lấy thức ăn, Tài không chịu, nói "Ở trong núi phòng hùm beo, phải có dao để tự vệ". Sau gặp kẻ khuyên mình bán vợ trên đường, bèn tới gần kể lể rồi rút dao đâm chết. Quan xét biết rõ sự tình nên cũng không nỡ cùm kẹp tra tấn, chỉ giam lại trong ngục, kế đói rét mà chết.

Dị Sử thị nói: Được người đẹp ở núi xa về ở cùng, khác gì được làm vua? Mình đã không ra gì lại oán thù thằng bạn xấu, kẻ làm bạn không thể không biết điều đó để làm răn. Phàm kẻ xấu xa rủ rê người ta rượu chè cờ bạc, làm điều bất nghĩa thì dẫu cho việc thành không bị oán cũng không được biết ơn, nói gì tới cảnh họ thân không quần, vợ không khố, ngàn người đàm tiếu, không bệnh mà chết. Cái đau bần cùng lúc nào cũng day dứt, cái hận bần cùng lúc nào cũng sục sôi, đêm lạnh ổ rơm trằn trọc không ngủ. Kế nhớ tới tình cảnh lúc mình chưa nghèo, nhớ tới tình cảnh khi mình đã nghèo, rồi nghĩ tới nông nỗi vì sao mình nghèo, rồi lại nghĩ tới người gây ra nông nỗi ấy, thì kẻ hiền lành vùng dậy khoác chăn rách ngồi rủa, kẻ hung dữ chịu rét xoay trần ra thắp lửa tìm dao mài xoèn xoẹt không chờ trời sáng. Cho nên lấy điều lành khuyên người như tặng quả trám, đắng trước mà ngọt sau, còn lấy điều xấu dụ người như biếu thịt thiu, ăn xong là mắc bệnh, người nghe vốn nên tự xét, mà kẻ nói lại dám không sợ sao!

177. Nhan Thị (Nhan Thị)

Mỗ sinh ở phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc) nhà nghèo, gặp năm mất mùa theo cha tới đất Lạc (tỉnh Hà Nam) sinh sống. Tính ngu độn, năm mười bảy tuổi mới viết chữ được thẳng hàng nhưng diện mạo tuấn tú, pha trò giỏi, viết thư tài nên không ai biết là trong bụng rỗng tuếch. Được ít lâu cha mẹ nối nhau qua đời, còn trơ trọi một mình, dạy học cho trẻ con ở đất Lạc để sinh sống. Lúc ấy trong thôn có cô gái mồ côi họ Nhan là con một bậc danh sĩ, thông minh từ nhỏ. Khi cha còn sống thường dạy cho học, chỉ đọc qua một lần là nhớ không quên, hơn mười tuổi đã làm được thơ, cha nói "Nhà ta có nữ học sĩ, chỉ tiếc là không được đội mũ thôi", vì vậy rất yêu quý, muốn tìm rể sang. Cha mất, mẹ nàng vẫn theo ý ấy nhưng ba năm chưa thỏa nguyện, kế cũng mất. Có người khuyên nên lấy học trò giỏi, nàng cho là phải nhưng chưa gặp được ai. Gặp khi người đàn bà hàng xóm qua chơi trò chuyện, có cầm một tờ giấy viết chữ gói chỉ thêu, nàng mở ra xem thì là thư của Mỗ sinh gởi cho chồng chị ta. Cô gái xem đi xem lại, khen chữ viết đẹp, chị ta biết ý nói nhỏ "Người ấy trẻ tuổi đẹp trai, mồ côi giống cô, tuổi cũng xấp xỉ, nếu bằng lòng thì ta dặn chồng ta nói cho là xong", nàng im lặng không đáp.

Chị ta về nói với chồng, y vốn chơi thân với sinh bèn kể lại, sinh mừng lắm, nhân có chiếc nhẫn vàng của mẹ để lại bèn nhờ đưa tới làm sính lễ. Rồi chọn ngày cưới luôn, vợ chồng rất hòa hợp, đến lúc đọc thấy văn sinh, nàng cười nói "Văn với chàng tựa hồ như hai ngườí, thế này thì chừng nào mới thi đỗ được?". Từ đó sóm hôm đốc thúc chàng học hành, nghiêm khắc như thầy trò, buổi tối thì thắp đèn ngồi vào bàn ngâm nga trước cho chồng đọc theo, đến canh ba mới nghỉ. Cứ thế hơn một năm, sinh đã thạo lối văn trường ốc nhưng thi mấy lần đều rớt, nghĩ lại thân danh lận đận, sinh sống khổ cực, tình cảnh buồn tênh, hu hu khóc lóc. Cô gái mắng "Chàng không phải là đàn ông, đội mũ thật uổng. Nếu ta bỏ khăn yếm đổi làm đàn ông thì đoạt công danh dễ như nhổ cỏ vậy". Sinh đang buồn bực, nghe vợ nói quắc mắt giận dữ đáp "Đàn bà chưa vào trường thi cử lần nào, cứ tưởng đoạt công danh phú quý dễ như đun nước nấu cháo trong bếp. Nếu được làm đàn ông, thì cũng như người ta thôi!". Nàng cười nói "Chàng đừng giận, chờ đến kỳ thi thiếp xin cải trang thay chàng vào trường, nếu cũng thi rớt như chàng thì xin không dám coi thường danh sĩ trong thiên hạ nữa". Sinh cũng cười nói "Nàng vẫn chưa biết nỗi cay cực đâu, xin cứ nếm thử cho biết mùi thi cử, chỉ sợ lộ ra bị láng giềng cười cho thôi". Nàng nói "Thiếp không nói đùa đâu. Chàng thường nói còn gian nhà cũ ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc), thiếp xin cải trang làm em trai theo chàng về đó ở. Chàng xa quê từ nhỏ, ai biết là giả?", sinh ưng thuận.

Nàng vào phòng đội khăn mặc áo đàn ông rồi bước ra hỏi "Nhìn xem thiếp có làm con trai được không?". Sinh nhìn quả thật là một thiếu niên đẹp trai, mừng rỡ từ biệt làng xóm, được các bạn thân tặng tiễn cho ít nhiều bèn mua một con ngựa đỡ chân, đưa vợ về quê. Người anh con bác của sinh còn sống, thấy hai em tuấn tú rất vui mừng, sớm hôm chăm nom giúp đỡ. Lại thấy thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành, càng thêm yêu quý, thuê cho một đứa nhỏ để sai vặt, nhưng cứ chiều tối là hai người bảo nó về. Trong làng có đám cưới đám giỗ thì anh tới thăm hỏi chứ em chỉ ngồi nhà học, về làng nửa năm mà ít người thấy mặt, có ai xin gặp thì anh từ chối giùm. Đọc tới văn bài của em ai cũng kinh lạ, có người xô cửa vào gặp thì vái chào qua loa rồi tránh mặt ngay. Khách khứa thấy phong tư lại càng hâm mộ, vì thế rất nổi tiếng, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Người anh con bác bàn tới chuyện ấy thì nhoẻn miệng cười, ép lấy vợ thì nói đã thề quyết chí lập công danh, không thi đỗ thì không lấy vợ.

Gặp lúc quan Học sứ mở kỳ khảo hạch, hai anh em cùng đi thi, anh lại trượt, em đỗ đầu rồi thi hương đỗ Cử nhân thứ tư, qua năm sau thi đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Đồng Thành (tỉnh An Huy), làm quan có tiếng tốt nên dần được thăng làm Chưởng ấn Ngự sử Hà Nam, giàu có ngang bậc vương hầu. Sau thác bệnh xin nghỉ, được cho về trí sĩ. Khách khứa tới thăm chật cổng, đều từ tạ không tiếp một ai. Từ lúc là Chư sinh đến khi làm quan không hề nói tới chuyện cưới vợ, ai cũng lấy làm lạ. Sau khi trí sĩ mới có tỳ nữ, người ta ngờ có ăn ngủ với họ nhưng người chị dâu để ý dò xét thì không có gì bậy bạ. Nhà Minh mất, thiên hạ đại loạn, mới nói với chị dâu "Nói thật với chị, em là vợ Tiểu lang, vì thấy đàn ông bết bát không lập thân nổi nên tức giận làm cho biết tay, chỉ sợ lộ ra, nhà vua triệu vào tra hỏi bị thiên hạ cười thôi". Chị dâu không tin, cô gái cởi giày đưa bàn chân cho xem, chị mới kinh ngạc, nhìn chiếc giày thấy trong độn đầy vải vụn. Từ đó nàng bảo sinh nhận lấy chức hàm, mình thì đóng cửa trở lại làm đàn bà.

Nhưng bình sinh không chửa đẻ, nên bỏ tiền ra cưới vợ lẽ cho sinh, nói "Người ta làm quan lớn thì mua hầu cưới thiếp tự cung phụng mình, mà ta làm quan mười năm chỉ ở một mình, chàng có phúc trạch gì mà ngồi không hưởng hầu non gái đẹp?". Sinh đáp "Có ba mươi người đẹp trai*, tùy nàng lựa chọn!", người ta kể cho nhau mà cười Lúc ấy cha mẹ sinh đã được phong tặng mấy lần, thân hào nhân sĩ tới thăm viếng đều coi sinh như quan Thị ngự. Sinh thẹn về sự tập tước của vợ nên chỉ yên phận Chư sinh, suốt đời đi đâu cũng không dùng võng lọng.

*Có ba mươi người đẹp trai: Sơn Âm công chúa em gái Tống Phế đế thời Nam triều được anh yêu quý, có lần đi cùng kiệu, hỏi vua rằng "Trong sáu cung của bệ hạ có hàng vạn người mà thiếp chỉ có một Phò mã, sao không công bằng quá thế?". Vua bèn chọn ra ba mươi người đẹp trai cho nàng tùy ý chọn lựa.

Dị Sử thị nói: Cha mẹ chồng nhờ con dâu mà được phong tặng, có thể nói là việc lạ lùng vậy. Song quan Thị ngự có phu nhân thì đời nào chẳng có, chứ phu nhân làm quan Thị ngự như thế thì ít lắm, những kẻ đội mũ nhà nho, xưng là đàn ông trong thiên hạ đều phải thẹn chết đi được.

178. Tiểu Tạ (Tiểu Tạ)

Nhà quan Bộ lang họ Khương ở Vị Nam (tỉnh Thiểm Tây) có nhiều ma quỷ hay dọa người nên phải dọn đi, để lại một người tớ già trông coi. Người ấy chết, thay mấy người khác cũng đều chết, nhà đành bỏ hoang. Trong làng có Đào sinh tên Vọng Tam, tính phong lưu thích gặp gỡ đám ca kỹ, nhưng cứ hơi say thì bỏ về. Bạn bè bảo kỹ nữ đuổi theo kéo lại cũng cười không cưỡng nhưng cả đêm không đụng chạm gì tới. Thường ở trong nhà Bộ lang, nửa đêm có người tỳ nữ tới khêu gợi nhưng sinh kiên quyết cự tuyệt không làm việc trái lễ, Bộ lang vì vậy rất nể trọng. Nhà Đào vốn nghèo, lại góa vợ, có mấy gian nhà tranh ẩm thấp nóng nực không sao chịu nổi, nên xin Bộ lang cho ở nhờ ngôi nhà bỏ hoang. Bộ lang vì nhà có ma nên từ chối, sinh bèn làm bài Tục Vô quỷ luận* đưa xem, lại nói "Ma thì còn làm gì được?", Bộ lang thấy xin mãi đành bằng lòng.

*Tục Vô quỷ 1uận: tức dựa theo nhan đề các bài Vô quỷ 1uận của Nguyễn Chiêm thời Tấn và Lâm Uẩn thời Đường.

Sinh tới quét dọn gian chính sảnh vào ở, chập tối để quyển sách ở đó về lấy đồ dùng, khi trở lại thì không thấy đâu, lấy làm lạ bèn lên giường nằm ngửa im lặng chờ xem động tĩnh. Khoảng ăn xong bữa cơm nghe có tiếng giày dép, hé mắt nhìn thấy hai cô gái ở phòng trong đi ra, đặt trả quyển sách bị mất lên bàn. Một nàng khoảng hai mươi tuổi, một nàng khoảng mười bảy mười tám tuổi, đều rất xinh đẹp, cứ quanh quẩn cạnh giường nhìn nhau cười, sinh vẫn im lặng không động đậy. Nàng lớn nhấc một chân đặt lên bụng sinh, nàng nhỏ bưng miệng cười, sinh thấy tâm thần rạo rục như không kìm được, nhưng lập tức đè nén tà niệm, không đếm xỉa gì tới. Nàng lớn lại tay trái vuốt râu, tay phải tát nhẹ chanh chách vào mặt sinh, nàng nhỏ cười bò ra. Sinh vùng dậy quát "Lũ quỷ dám hỗn thế à?", hai cô gái hoảng sợ bỏ chạy biến mất. Sinh sợ phải khổ sở suốt đêm, định về nhà ngủ nhưng lại xấu hổ vì nói một đàng làm nột nẻo bèn khêu đèn ngồi đọc sách, trong góc tối vẫn có bóng ma chập chờn nhưng không hề đếm xỉa.

Gần nửa đêm để đèn đi nằm, vừa chợp mắt đã có người lấy vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi rất ngứa ngáy, hắt hơi ầm lên, chỉ nghe trong góc tối có tiếng cười khúc khích. Sinh không nói gì, vờ ngủ chờ xem tiếp, giây lát thấy nàng nhỏ vê tờ giấy vào vế, rón rén bước tới gần. Sinh vùng dậy quát lại lủi trốn, vừa chợp mắt lại bị ngoáy vào tai, bị quấy nhiễu suốt đêm không sao chịu nổi, đến lúc gà gáy thì yên ắng, sinh mới được ngủ yên. Cả ngày không nghe thấy gì nhưng mặt trời vừa lặn lại hiện hình, sinh bèn nấu cơm ban đêm để thức luôn đến sáng. Đêm ấy nàng lớn ngồi bó gối trên ghế nhìn sinh đọc một lúc rồi đưa tay che sách, sinh tức giận nắm lấy thì vụt biến mất, giây lát lại giật lấy sách, sinh phải lấy tay đè lên sách mà đọc. Nàng nhỏ thì lẻn ra phía sau lấy hai tay bịt mắt sinh rồi dang ra xa đứng cười. Sinh chỉ tay mắng "Đồ quỷ con! Ta mà bắt được sẽ giết hết", hai nàng không hề tỏ vẻ sợ hãi. Sinh thấy thế đùa nói "Chuyện gối chăn nghiêng ngửa ta không thích, chọc ghẹo làm gì vô ích". Hai nàng mỉm cười quay vào bếp chẻ củi vo gạo nấu cơm cho sinh. Sinh nhìn vào khen "Hai nàng làm thế chẳng hơn nhảy nhót nghịch ngợm sao?". Phút chốc cơm chín lại tranh nhau lấy đũa bát dọn cơm ra bàn, sinh nói "Cảm ơn hai nàng giúp đỡ, không biết lấy gì báo đáp". Hai nàng cười nói "Trong cơm có trộn thuốc độc đấy". Sinh đáp "Ta với hai nàng không có oán thù, làm gì tới nỗi hại nhau như vậy". Ăn hết bát này hai nàng lại tranh nhau qua lại đơm bát khác, sinh vui vẻ, dần dần thành lệ. Lúc đã thân mật cùng nhau trò chuyện, sinh hỏi họ tên, nàng lớn nói "Thiếp họ Kiều tên Thu Dung, nó họ Nguyễn tên Tiểu Tạ". Lại hỏi từ đâu tới đây ở, Tiểu Tạ cười đáp "Chàng ngốc còn chưa dám để lộ thân thể ra một lần thì ai cần anh hỏi nhà cửa, định hỏi cưới à?". Sinh nghiêm trang đáp "Đối diện với người đẹp làm sao vô tình được, nhưng âm khí mà người trần vương phải ắt chết, nếu không thích ở chung thì ta đi nơi khác cũng được, nếu thích thì ai yên phận nấy. Nếu không yêu thương thì ta đâu dám xúc phạm hai người đẹp, nếu yêu thương thì cần gì giết một gã cuồng sinh?". Hai nàng đổi sắc mặt nhìn nhau, từ đó không đùa nghịch quá quắt nữa, mà nếu thỉnh thoảng thọc tay vào bụng sinh tụt quần xuống đất, sinh cũng không giận.

Một hôm sinh chép bài chưa xong có việc phải ra ngoài, quay vào thấy Tiểu Tạ đang nằm bò ra bàn cầm bút chép thay, thấy sinh thì buông bút ngượng nghịu cười. Tới gần xem, thấy tuy chưa ra chữ nhưng cũng ngay hàng thẳng lối khen rằng "Nàng có khiếu lắm, nếu thích môn này ta sẽ dạy cho". Rồi ôm nàng vào lòng, cầm cổ tay dạy viết. Thu Dung từ ngoài vào thấy thế biến sắc như có ý ghen, Tiểu Tạ cười nói "Lúc nhỏ thường được cha dạy cho nhưng bỏ lâu rồi, nay cầm bút thấy cứ mơ mơ màng màng". Thu Dung không nói gì, sinh hiểu ý nhưng làm như không biết, cũng ôm nàng vào lòng, đưa bút cho cầm, nói "Ta xem thử nàng có viết được không", viết vài chữ rồi đứng lên nói "Nét chữ nàng Thu cứng cáp lắm", Thu Dung mới vui vẻ. Sinh liền rọc giấy cho tập viết phóng, bảo hai nàng viết theo còn mình thắp một ngọn đèn riêng ngồi học, mừng thầm vì ai cũng có việc để làm không quấy nhiễu nữa. Viết xong, hai nàng mang tới đứng trước bàn chờ sinh chấm điểm, Thu Dung chưa được đi học nên nguệch ngoạc chưa ra chữ, sinh chấm xong nói không bằng Tiểu Tạ thì có vẻ thẹn, sinh an ủi khích lệ mới mới lấy lại vẻ mặt bình thường.

Từ đó hai cô gái coi sinh như thầy, ngồi thì gãi lưng, nằm thì bóp chân, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn tranh nhau chiều chuộng. Hơn tháng sau chữ viết của Tiểu Tạ đã ngay ngắn đẹp đẽ, sinh vô tình khen ngợi, Thu Dung xấu hổ nước mắt ròng ròng, sinh tìm đủ cách an ủi mới nguôi. Kế dạy cho học, cả hai đều thông minh lạ thường, nói qua một lần là hiểu, không bao giờ phải hỏi lại, thường cùng sinh đọc sách suốt đêm. Tiểu Tạ lại dẫn em trai là Tam lang tới xin theo học, khoảng mười lăm mười sáu tuổi, dung mạo tuấn tú, đem cái như ý bằng vàng làm lễ ra mắt, sinh bảo cùng học với Thu Dung, tiếng đọc sách râm ran, sinh từ đó thành ra mở trường dạy ma. Bộ lang nghe tin rất mừng, thỉnh thoảng cấp gạo củi cho sinh. Được vài tháng Thu Dung và Tam lang đã biết làm thơ, thường xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn đừng dạy Thu Dung, sinh ừ, Thu Dung dặn đừng dạy Tiểu Tạ, sinh cũng ừ. Một hôm sinh sắp đi thi, hai cô gái khóc lóc đưa tiễn. Tam lang nói "Chuyến này nên cáo ốm đừng đi, nếu không e gặp chuyện không hay". Sinh cho rằng cáo ốm trốn thi là nhục nên cứ đi.

Vốn trước đó sinh hay làm thơ mỉa mai thời thế, các nhà quyền quý trong huyện ghét lắm, ngày đêm nghĩ cách hãm hại, lúc ấy ngầm hối lộ quan học chính vu cáo là hạnh kiểm không tốt, bắt sinh bỏ ngục. Sinh hết cả tiền, phải xin ăn các bạn tù, tự nghĩ là đã hết đường sống. Chợt có một người lãng đãng bước vào, thì ra là Thu Dung đem cơm vào cho. Nàng nhìn sinh khóc nức nở, nói "Tam lang lo chàng gặp chuyện không lành, nay quả không sai. Tam lang cùng tới đây với thiếp, đang kêu oan ở nha môn", kế nói thêm vài câu rồi quay ra, không ai trông thấy. Hôm sau quan pháp ty ra đường, Tam lang đón kiệu kêu oan, quan nhận đơn, Thu Dung vào ngục báo cho sinh rồi trở ra nghe ngóng tin túc, ba ngày không thấy vào Sinh lòng buồn bụng đói, thấy một ngày dài như một năm. Chợt Tiểu Tạ tới, buồn bã hốc hác như sắp chết, nói "Thu Dung về ngang miếu Thành hoàng bị viên Phán quan mặt đen ở chái tây bắt vào ép làm vợ lẽ. Thu Dung không chịu, hiện đang bị nhốt trong ngục tối. Thiếp lặn lội cả trăm dặm, mỏi mệt gần chết, tới cổng bắc lại bị gai già đâm vào gan bàn chân đau thấu xương, e rằng không thể tới đây được nữa", rồi đưa chân cho xem, máu chảy ròng ròng, kế đưa sinh ba lượng vàng rồi khập khiễng bước ra biến mất.

Quan pháp ty xét việc Tam lang khiếu nại, cho rằng Tam lang không có họ hàng thân thích gì mà kêu oan cho sinh, định đánh đòn thì Tam lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy làm lạ, xem tới đơn thấy lời lẽ bi thiết, cho giải sinh ra lấy cung, hỏi Tam lang là ai. Sinh giả không biết, quan hiểu là oan bèn tha cho về. Sinh về thì nhà vắng ngắt không có ai, khuya Tiểu Tạ mới tới, buồn rầu nói "Tam lang ở nha môn ra bị thần ở đó bắt giải xuống âm ty, Diêm Vương thấy có nghĩa khí nên đã cho đầu thai làm con nhà giàu. Thu Dung thì vẫn còn bị giam, thiếp đưa đơn kêu với Thành hoàng lại bị ngăn trở không vào được, làm sao bây giờ?". Sinh tức giận nói "Thằng quỷ già mặt đen, sao dám như thế? Ngày mai ta sẽ xô đổ tượng nó xuống, đạp nát ra thành bùn đất, rồi rạch mặt Thành hoàng hỏi tội tại sao để cho thuộc hạ hoành hành như vậy, y đang ngủ mơ à?". Hai người buồn rầu căm tức ngồi với nhau, bất giác gần hết canh tư, chợt Thu Dung lãng đãng bước vào, hai người vừa mừng vừa sợ vội vàng hỏi han. Thu Dung khóc nói "Nay vì chàng mà phải muôn vàn cay đắng, Phán quan hàng ngày cứ đem dao gậy ra bức bách, đêm nay chợt tha thiếp về nói: Ta làm thế này chỉ vì thường yêu nàng, nay nàng không muốn thì ta cũng không ép buộc, xin nói với quan Hình bộ họ Đào đừng khiển trách ta", sinh nghe cũng hơi hả dạ, nhân muốn ngủ chung, nói "Hôm nay xin chết vì hai nàng". Hai cô gái buồn rầu nói "Lâu nay được dạy bảo cũng hơi biết nghĩa lý, nỡ nào vì yêu chàng mà giết chàng sao?", nhất định không chịu, nhưng đều ôm đầu bá cổ sinh như vợ chồng, mà hai nàng vì cùng trải qua hoạn nạn nên không còn ghen tức gì nhau nữa.

Gặp lúc có vị đạo sĩ gặp sinh trên đường, nói trên người sinh có tà khí. Sinh thấy lời nói lạ lùng bèn kể lại mọi chuyện. Đạo sĩ nói "Ma ấy tốt lắm, không nên phụ họ", rồi vẽ hai lá bùa trao cho sinh, dặn "Về đưa cho hai nàng ấy rồi chờ xem phúc mệnh. Nếu nghe ngoài cổng có tiếng khóc thương con gái chết thì nuốt lá bùa chạy mau ra, ai tới trước sẽ được sống lại". Sinh lạy tạ nhận lấy về đưa hai nàng, kể lại lời đạo sĩ dặn. Hơn tháng sau quả nghe có tiếng khóc thương con gái chết, hai nàng tranh nhau chạy ra, Tiểu Tạ vội vàng quên nuốt lá bùa, thấy có chiếc xe tang đi ngang, Thu Dung bước thẳng lên chui luôn vào quan tài biến mất. Tiểu Tạ không vào được, khóc lớn trở về, sinh ra nhìn thì là đám tang con gái phú ông họ Hác. Mọi người đều thấy có một cô gái chui vào quan tài, đang ngờ sợ thì nghe bên trong có tiếng động vội dừng lại mở ra xem thì thấy cô gái đã thoi thóp thở, bèn xin nghỉ lại ngoài phòng học của sinh để săn sóc. Chợt nàng mở mắt hỏi Đào sinh, Hác gặng hỏi, nàng đáp "Ta không phải là con gái ông đâu", rồi kể rõ sự tình. Hác chưa tin lắm, muốn khiêng về, nàng không chịu, chạy luôn vào phòng học của sinh nằm không ra nữa, Hác bèn nhận sinh làm con rể rồi về. Sinh vào nhìn thấy dung mạo tuy khác nhưng xinh đẹp không kém Thu Dung, mừng là còn hơn cả điều mình mong muốn, cùng nhắc chuyện cũ. Chợt nghe tiếng ma nức nở, thì ra Tiểu Tạ đang khóc trong góc tối, rất thương xót vội cầm đèn tới, hết lời an ủi nhưng nàng vẫn đau đớn khóc ròng, áo xiêm đẫm lệ, gần sáng mới biến đi.

Sáng ra họ Hác sai tớ gái mang rương hòm của con gái qua chỗ sinh, đối xử như cha vợ chàng rể vậy. Đến tối sinh vào phòng thì Tiểu Tạ lại khóc lóc, cứ thế sáu bảy đêm, vợ chồng đều mủi lòng không sao làm lễ hợp cẩn được. Sinh lo nghĩ nhưng không tìm ra cách nào, Thu Dung nói "Đạo sĩ là người tiên, tìm tới cầu xin lần nữa may ra ông thương mà giúp cho". Sinh cho là phải, tìm tới nơi đạo sĩ ở, lạy lục bày tỏ chuyện mình, nhưng đạo sĩ khăng khăng nói rằng không có phép thuật nào. Sinh van nài mãi, đạo sĩ cười nói "Chàng ngây này làm phiển người ta quá, thôi vì ta có duyên với ông, xin đem hết phép thuật ra vậy". Rồi theo sinh về, đòi một gian phòng tĩnh mịch, đóng cửa ngồi trong, dặn không được gọi hỏi gì, hơn mười ngày không ăn không uống, lén nhìn vào thì thấy nhắm mắt như đang ngủ. Một hôm vừa rạng sáng, có cô gái trẻ vén rèm bước vào, mắt long lanh răng trắng muốt, kiều diễm rực rỡ, khẽ cười nói "Lặn lội suốt đêm mệt quá, bị các người đeo đẳng quấy rầy phải bôn ba hơn trăm dặm mới tìm được một ngôi nhà tốt, bần đạo mang theo về đây, chờ cô ta nhập hồn vào giao lại là xong". Chập tối Tiểu Tạ tới, cô gái đứng lên ôm chầm lấy, hòa vào nhau thành một rồi ngã lăn xuống đất nằm cứng đờ. Đạo sĩ trong phòng bước ra, chắp tay chào rồi đi. Sinh vái lạy tiễn chân, trở vào thì cô gái đã tỉnh, đỡ lên giường thấy hơi thở đều đặn, trong người khỏe khoắn nhưng còn ôm chân kêu đau, vài hôm mới đi lại được.

Sau sinh thi đỗ làm quan, có người bạn cùng khoa là Sái Tử Kinh có việc ghé qua nhà sinh, ở lại vài ngày. Tiểu Tạ từ hàng xóm về, Sái nhìn thấy vội đuổi theo sát gót, Tiểu Tạ nép người lánh đi, thầm tức giận là kẻ khinh bạc. Sái nói với sinh "Có một việc vô cùng kỳ quái, không biết nói ra được không?". Sinh hỏi, Sái đáp "Ba năm trước em gái ta chết yểu, qua hai đêm thì thi thể biến mất, đến nay vẫn còn lấy làm ngờ vực. Mới rồi nhìn thấy phu nhân, sao giống em ta quá", Sinh cười nói "Vợ ta quê mùa, làm sao giống được lệnh muội, nhưng đã là bạn đồng khoa với nhau, tình nghĩa thân thiết, ngại gì không để ra chào". Liền vào trong bảo Tiểu Tạ mặc bộ quần áo liệm ngày trước ra chào khách, Sái cả kinh nói "Đúng là em gái ta mà" rồi khóc ròng. Sinh bèn kể lại đầu đuôi, Sái mừng nói "Vậy thì như em gái chưa chết, ta phải về ngay báo tin mừng cho cha mẹ mới được" rồi ra về. Sau vài hôm cả nhà kéo qua, về sau cũng thường đi lại thăm hỏi như họ Hác vậy.

Dị Sử thị nói: Bậc giai nhân tuyệt thế, cầu được một người đã là khó, nói gì tới việc được hai người! Chuyện này quả là ngàn năm mới thấy một lần, nhưng nhờ không lang chạ mới cưới được hai nàng đấy thôi. Còn đạo sĩ là tiên chăng, sao mà có phép thuật thần diệu như vậy? Nếu có phép thuật ấy thì có thể giao du với đám ma xấu xí được.

179. Huệ Phương (Huệ Phương)

Mã Nhị Hỗn ở trong cửa đông phủ thành Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán mì, nhà nghèo không có vợ, cùng mẹ vất vả làm ăn. Một hôm bà già ở nhà một mình, chợt có cô gái đẹp tới, tuổi khoảng mười bảy, mười tám, quần áo mộc mạc nhưng dung nhan lộng lẫy. Bà già hoảng sợ căn vặn, nàng cười nói "Con thấy hiền lang thành thật chăm chỉ, nên xin gởi thân vào nhà mẹ". Bà già càng sợ, nói "Nương tử là người tiên mà nói câu ấy, làm mẹ con ta giảm thọ mấy năm". Cô gái cứ nài nỉ, bà già cho rằng là nàng hầu vợ lẽ của nhà quyền quý trốn đi nên càng ra sức cự tuyệt, cô gái bèn đi. Ba ngày sau lại tới, quanh quẫn mãi không chịu đi. Hỏi họ tên, nàng đáp "Mẹ chịu cho ở thì con mới nói, nếu không thì không cần phải hỏi". Bà già nói "Con trai ta nghèo thấu xương, được người vợ như thế này nếu không xứng đôi cũng là điều không hay". Cô gái cười ngồi xuống cạnh giường, ngọt ngào năn nỉ. Bà già khước từ, nói xin nương tử đi ngay cho, đùng gieo họa cho nhau. Cô gái bèn đi ra, bà già nhìn theo thấy đi về phía tây.

Lại vài ngày sau, có bà Lữ ở hẻm phía tây tới, nói với Mã rằng "Cô gái láng giềng của ta là Đổng Huệ Phương mồ côi không nơi nương tụa, tình nguyện làm vợ hiền lang, sao lại không chịu?". Mã nói thật điều mình nghi ngờ lo lắng, bà Lữ nói "Làm gì có chuyện đó? Nếu có gì rắc rối cứ bắt tội già này". Mã mừng rỡ ưng thuận. Bà Lữ đi rồi, mẹ Mã quét nhà dọn giường để chờ con dâu tới làm lễ. Chiều tối cô gái phiêu hốt tự tới, vào nhà lạy mẹ theo đúng nghi lễ rồi nói với bà già rằng "Con có hai tỳ nữ, chưa được lệnh mẹ nên không dám gọi tới". Bà già nói "Mẹ con ta nghèo khó không biết sai khiến tôi tớ, hàng ngày chỉ kiếm được chút lời đủ sống, nay thêm một nàng dâu xinh đẹp yếu ớt chỉ biết ngồi không đã sợ không đủ ăn, còn thêm hai tỳ nữ thì hít gió mà sống à?". Cô gái cười nói "Bọn tỳ nữ tới đây thì không làm phiền mẹ phải nuôi đâu, tự chúng có cái ăn mà". Hỏi tỳ nữ ở đâu, nàng bèn gọi Thu Nguyệt, Thu Tùng, chưa dứt tiếng thì hai tỳ nữ đã như chim én bay rơi xuống đứng ngay trước mặt, nàng sai quỳ xuống lạy ra mắt mẹ. Kế Mã về, mẹ ra đón kể chuyện, Mã mừng rỡ vào nhà thấy rường chạm cột vẽ lộng lẫy như cung điện, trong thì bàn ghế bình phong rèm màn rực rỡ lóa mắt, sợ hãi không dám vào. Cô gái tươi cười đứng dậy chào đón, Mã thấy như là thiên tiên càng sợ muốn lui ra. Cô gái kéo ngồi xuống dịu dàng trò chuyện, Mã mừng rằng còn quá cả điều mong ước, lúng túng không biết làm sao, bèn đứng lên định ra dọn rượn. Cô gái ngăn lại nói không cần, rồi sai hai tỳ nữ bày tiệc. Thu Nguyệt liền lấy một cái túi da cầm bước ra sau cửa đập bồm bộp rồi luồn tay vào trong lấy rượu thịt ra, đều còn nóng hổi ngon lành. Kế đi ngủ thì gối hoa nệm gấm, mềm mại ấm áp phi thường. Sáng dậy ra cửa thì vẫn là nhà tranh như cũ, hai mẹ con đều lạ lùng.

Bà già định tới chỗ bà Lữ hỏi thăm về cô gái, vào nhà rồi trước tiên tạ ơn làm mối. Bà Lữ ngạc nhiên nói "Lâu lắm không tới thăm bà, làm gì có chuyện cô gái hàng xóm nào nhờ vả làm mối?". Bà già càng ngờ vực, kể lại hết đầu đuôi câu chuyện. Bà Lữ cả sợ, lập tức cùng bà già tới gặp cô gái. Nàng cười ra đón, hết sức cảm tạ về việc tác hợp cho mình. Bà Lữ thấy nàng xinh đẹp thông tuệ kinh ngạc trợn mắt há miệng hồi lâu, cũng chẳng tranh cãi gì, chỉ vâng vâng dạ dạ mà thôi. Cô gái tặng một cái như ý bằng gỗ trắng, nói "Không có gì để cảm tạ, chỉ xin dâng vật này để bà bác gãi lưng thôi". Bà Lữ nhận lấy ra về, nhìn lại thì là một chiếc trâm bằng bạc. Mã từ khi có vợ càng mở mang nghề cũ, nhà cửa đều đổi mới. Trong tủ có vô số gấm vóc lụa là cho Mã tùy ý lấy, nhưng ra khỏi nhà cũng chỉ mặc áo vải cốt nhẹ nhàng ấm áp mà thôi, cô gái cũng để cho mặc ý. Được bốn năm năm, chợt nói "Thiếp bị đày xuống trần gian hơn mười năm, vì có duyên với chàng nên tạm lưu lại ở đây, nay xin chia tay". Mã cố giữ lại, nàng nóí "Xin chàng cưới vợ khác để có con nối dõi, hàng năm thiếp sẽ tới" rồi biến mất.

Mã bèn cưới con gái họ Tần. Ba nàm sau, vào đêm Thất tịch, vợ chồng đang trò chuyện thì cô gái chợt bước vào cười nói "Có vợ mới vui vẻ không nhớ người xưa à?". Mã kinh ngạc đứng dậy bùi ngùi kéo nàng ngồi chuyện trò hỏi han. Cô gái nói "Thiếp đang đưa Chúc nữ qua sông Ngân, nhân lúc rảnh tới thăm một chút". Hai người ngồi dựa vào nhau chuyện trò không ngớt. Chợt trên không có tiếng người gọỉ "Huệ Phương" cô gái vội đứng lên từ biệt. Mã hỏi ai gọi, nàng đáp "Đó là người chị em bạn của thiếp tới, chị ấy không chịu chờ lâu đâu". Mã tiễn ra cửa, cô gái nói "Chàng thọ được tám mươi tuổi, đến lúc chết thiếp sẽ tới chôn chàng", nói xong biến mất. Nay Mã hơn sáu mươi tuổi, cũng chỉ là người thành thật chất phác không có gì nổi bật.

Dị Sử thị nói: Mã sinh tên Hỗn*, nghề nghiệp thì thấp hèn, Huệ Phương yêu mến được chỗ nào nhỉ? Từ đó mới thấy người tiên rất quý người chất phác thành thật vậy. Ta vẫn nói với bạn bè rằng như ta và các anh thì hồ quỷ cũng chê, than rằng kẻ không thẹn với người tiên thật chỉ có Hỗn mà thôi.

* Hỗn: nghĩa đen là lộn xộn, không chia rõ trắng đen trong đục, triết học phương Đông xưa dùng chỉ trạng thái nguyên thủy tự nhiên buổi đầu của thế giới. Đây ý nói Mã thành thật chất phác tự nhiên, không biết ác không biết thiện.

180. Cô Tiêu Thứ Bảy (Tiêu Thất)

Từ Kế Tường là người huyện Lâm Truy (tỉnh Sơn Đông), ngụ ở trang Ma Phòng tại phía đông huyện thành, theo việc học hành nhưng chưa thi đỗ thì bỏ học làm thư lại. Một hôm đi thăm nhà vợ, đường đi qua khu mộ họ Vu, chiều tối say về, qua ngang thấy lầu chạm gác trổ, có ông già ngồi trước cổng. Từ say rượu khát nước, vái chào ông già xin nước, ông già đứng lên mời khách vào. Vào tới sảnh đường đưa trà ra mời, Từ uống xong, ông già nói "Trời tối khó đi, cứ tạm nghỉ lại đây, sáng mai hãy về được chứ?". Từ cũng thấy mệt mỏi, vui vẻ nghe theo. ông già bèn sai người nhà dọn rượu đãi khách, rồi nói với Từ "Lão phu có một câu mong ông đừng cho là đường đột. Ông là con nhà gia giáo, có thể lấy thêm vợ lẽ. Ta có đứa con gái nhỏ chưa chồng, muốn cho về hầu hạ phu nhân, mong ông rủ lòng ưng thuận". Từ đang ngượng nghịu không biết trả lời ra sao, ông già đã sai người báo với họ hàng, lại vào bảo con gái trang điểm. Giây lát có bốn năm bọn ăn mặc đẹp đẽ nối nhau kéo vào, cô gái cũng trang điểm lộng lẫy bước ra, dung nhan tuyệt thế, cùng ngồi vào tiệc. Từ tâm thần điên đảo, chỉ muốn vào ngủ cho mau, rượu được vài tuần đã nằng nặc từ chối không nhận lời mời của ai nữa, ông già bèn sai a hoàn dẫn vợ chồng vào phòng.

Từ hỏi họ tên, cô gái đáp là họ Tiêu, thứ bảy, lại hỏi kỹ gia thế lai lịch, nàng nói "Thiếp tuy hèn mọn nhưng lấy chồng là thư lại thì cũng không làm ai phải xấu hổ, cần gì vất vả dò xét tới ngọn nguồn?". Từ say mê nhan sắc, nàng lại rất mực ngọt ngào nên không ngờ vực gì nữa. Cô gáì nói "Nơi đây không thể ở được, thiếp thấy chị nhà hiền hậu, chắc không cản trở đâu, chàng về ngăn cho một gian phòng riêng, thiếp sẽ tự tới", Từ ưng thuận. Rổi ôm choàng lấy nàng dìu lên giường, khi tỉnh dậy thì vòng tay ôm trống không, khi trời sáng hẳn chỉ thấy bóng thông che rợp ánh nắng, dưới mình toàn là rơm rạ dày cả thước, sợ hãi than thở về kể lại cho vợ. Vợ đùa ngăn ra một phòng riêng, đặt giường vào rồi khép cửa bước ra nói "Đêm nay cô dâu mới sẽ tới đấy", hai vợ chồng cùng cười. Chập tối, vợ đùa kéo Từ tới mở cửa, nói "Chẳng lẽ cô dâu mới chưa có trong này sao?", vào tới thì mỹ nhân ăn vận lộng lẫy đã ngồi trên giường, thấy hai người vào đứng lên đón, vợ chồng rất ngạc nhiên. Cô gái che miệng cười khúc khích, vái chào rất kính cẩn, vợ Từ líền bày tiệc hợp hoan cho hai người.

Cô gái hàng ngày dậy sớm làm việc nhà không chờ sai bảo, một hôm nói với Từ rằng bọn chị em đều muốn tới nhà ta chơi một lần. Từ lo lúc vội vàng không có gì đãi khách, nàng nói "Các chị em đều biết nhà ta không giàu, định đưa thức ăn tới trước, chỉ phiền nhờ chị nhà nấu nướng cho thôi". Từ nói với vợ, vợ bằng lòng. Ăn sáng xong quả có người mang rượu thịt tới, đặt gánh xuống đó rổi đi, vợ Từ liền vào bếp nấu nướng. Sập tối có sáu bảy nữ lang tới, người lớn nhất chỉ khoảng bốn mươi tuổi trở lại, cùng ngồi quanh bàn ăn uống, cười nói râm ran cả phòng. Vợ Từ núp ngoài cửa sổ lén nhìn, chỉ thấy chồng và cô Bảy ngồi đối diện với nhau còn bao nhiêu khách khứa đều không thấy hình bóng, đến mãi gần khuya mới vui vẻ ra về. Cô gái đưa khách chưa trở vào, vợ Từ vào nhìn lên bàn thấy mâm chén đều sạch nhẵn, cười nói "Chắc đám nhãi con này đều đói, nên ăn cứ như chó liếm thớt!". Lát sau cô gái trở vào, hết lời cảm ơn, giằng lấy bát đĩa đem rửa, giục chị đi nghỉ.

Vợ Từ nói "Khách tới chơi nhà mình lại để tự họ chuẩn bị thức ăn, thật là chuyện buồn cười, mai này phải lo liệu mời "Một bữa". Mấy hôm sau Từ theo lời vợ, bảo cô gái lại mời khách. Khách tới ăn uống rất tự nhiên nhưng chừa lại bốn đĩa không hề động tới, Từ hỏi thì cả bọn cười rộ đáp "Lần trước phu nhân chê bọn ta xấu tính, nên dành lại cho người vất vả nấu nướng". Trong bọn có một nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, hai lần đều mặc xiêm áo trắng, thấy nói vừa góa chồng, cô gái gọi là chị Sáu, dáng vẻ kiều mỵ, khéo nói hay cười, có vẻ thích Từ, cứ tìm lời nói đùa để trêu ghẹo. Rồi đặt tửu lệnh, cử Từ làm giám tửu, cấm không được trêu chọc nhau. Cô Sáu phạm lỗi nhiều lần, phải uống hơn chục chén liên tiếp, bắt đầu chuếnh choáng, vóc ngọc nghiêng ngã khó lòng ngồi vững. Không bao lâu bỏ ra, Từ thắp đèn vào tìm thì thấy say ngủ trong màn tối, ghé mặt lại gần kề sát vào môi vẫn không hay biết gì, lấy tay sờ dưới quần thấy chỗ kín gồ lên, lòng đang xao xuyến thì trong tiệc nhao nhao gọi Từ lang, vội kéo lại áo cho nàng, thấy trong tay áo có chiếc khăn là, bèn lấy trộm bước ra.

Đến khuya mọi người đều đã rời bàn mà chị Sáu vẫn chưa tỉnh, cô Bảy vào lay gọi mới ngáp dài đứng dậy, sửa quần vuốt tóc theo mọi người về. Từ canh cánh nhớ nhung không sao khuây khỏa, tìm tới chỗ vắng người định lấy chiếc khăn ra ngắm thì đã biến mất, ngờ rằng đánh rơi lúc tiễn khách bèn cầm đèn soi kỹ nhưng trong nhà dưới thềm đều không có, lấy làm bứt rứt. Cô gái hỏi, Từ nói trớ qua chuyện khác, nàng cười nói "Đừng nói dối, chủ cái khăn đã lấy đi rồi, tìm kiếm làm gì cho vất vả". Từ kinh ngạc kể lại tình thật, lại nói là rất tưởng nhớ. Cô gái nói "Chị ấy với chàng không có túc phận, duyên số chỉ có bấy nhiêu thôi". Từ hỏi duyên cớ, nàng đáp "Kiếp trước chị ấy là ca kỹ, chàng là sĩ nhân, gặp chị ấy thích lắm nhưng bị cha mẹ ngăn trở, không được toại nguyện nên lâm bệnh nguy kịch, sai người nhắn với chị ấy rằng: Ta không dậy được nữa, chỉ mong nàng tới cho sờ vào da thịt một cái thì chết cũng không tiếc hận gì. Chị ấy chiều theo lời, nhưng thình lình bận việc không đi ngay được, đến tối mới tới thì người bệnh đã chết, nên kiếp trước chị ấy với chàng có duyên được sờ một cái là thế, còn hơn nửa thì đừng có mong".

Sau Từ lại làm tiệc mời các chị em cô gái, riêng chị Sáu không tới, Từ nghi nàng ghen nên oán giận lắm. Một hôm cô gái nói với Từ "Nếu thiếp cản trở chàng với chị Sáu thì đúng là có lỗi, nhưng thật ra chị ấy không chịu tới thì trách gì thiếp chứ?". Nay cái duyên ân ái tám năm sắp hết, xin hết sức vì chàng mưu tính một phen để chàng hết nghi ngờ. Tuy chị ấy không tới nhưng ai cấm ta sang, cứ vào tận nhà mà gặp, biết đâu nhân định thắng thiên cũng chưa biết chừng". Từ mừng rỡ nghe theo, cô gái nắm tay phơi phới lướt đi như bay trên không, khoảnh khắc đã tới nhà, thấy ngói vàng sảnh rộng, cổng nẻo quanh co chẳng khác gì lần trước. Cha mẹ vợ cùng ra nói "Có đứa con gái vụng về được con đùm bọc đã lâu, nhưng bọn ta tuổi già sức yếu không tới thăm được, chắc con không trách chứ?". Rồi lập tức bày tiệc thết đãi, cô gái hỏi các chị em dâu, bà mẹ nói đều đã lấy chồng, chỉ còn con Sáu ở đây thôi. Cô gái lập tức sai tỳ nữ đi mời, lâu quá không thấy tới, nàng vào trong kéo ra. Cô Sáu ra tớỉ chỉ cúi đầu im lặng, không cười đùa như trước kia. Giây lát ông bà già cáo từ vào nghỉ, cô gái nói với cô Sáu "Chị quá tự trọng, làm người ta oán em". Cô Sáu cười khẽ nói "Người khinh bạc như y làm sao gần gữi được?". Cô gái cầm hai chén rượu của hai người đổi cho nhau ép phải uống rồi nói "Môi đã chạm nhau rồi, còn giả vờ làm gì?". Giây lát cô Bảy cũng bỏ đi, trong phòng chỉ còn hai người.

Từ bèn đứng lên định ép buộc, cô Sáu dịu dàng chống cự. Từ níu vạt áo nàng quỳ xuống nài nỉ, nàng dần dần xiêu lòng, đưa nhau vào phòng. Vừa mở dây lưng, chợt nghe tiếng reo hò vang dậy, ánh lửa chiếu vào khe cửa đỏ rực. Cô Sáu cả kinh xô Từ ra đứng dậy nói "Tai họa tới thình lình, làm sao bây giờ?". Từ đang luống cuống không biết làm gì thì nàng đã trốn mất không thấy đâu nữa. Từ ngậm ngùi ngồi lại một lúc thì nhà cửa đều biến mất, có hơn mười người thợ săn mang ưng cầm đao tràn tới, ngạc nhiên hỏi "Ai mà ban đêm lại núp ở đây?". Từ nói dối là lạc đường rồi xưng tên họ. Một người hỏi "Vừa đuổi theo một con chồn, có thấy không?", Từ đáp không thấy. Nhìn kỹ chỗ ấy, té ra là khu mộ họ Vu, vội đứng lên ra. về, lòng vẫn mong cô Bảy lại tìm đến. Ngày trông điềm thước, đêm bói hoa đèn, mà không thấy tăm hơi đâu cả. Chuyện này là do Đổng Ngọc Huyền kể lại.

181. Cố Sinh (Cố Sinh)

Cố sinh người Giang Nam, làm khách ở huyện Tắc Hạ (tỉnh Sơn Đông) bị đau mắt, ngày đêm rên rỉ, không thuốc men nào chữa được. Hơn mười hôm thì đỡ đau, nhưng cứ nhắm mắt lại là thấy một tòa phủ đệ lớn, bốn năm lần tới chỉ thấy cổng khép hờ, sâu bên trong có người qua lại nhưng nhìn từ xa không thấy rõ gì cả. Một hôm đang chăm chú nhìn ngó chợt thấy mình đã lọt vào bên trong, qua ba lần cửa vẫn không gặp một ai. Có tòa sảnh đường lớn dưới trải thảm lông màu đỏ, nhìn vào thấy bên trong toàn là trẻ con, đứa thì ngồi, đứa thì đứng, đứa thì bò, không biết bao nhiêu mà kể. Đang khi ngạc nhiên thì một người từ nhà trong đi ra nhìn sinh nói "Tiểu vương tử vừa nói có khách xa tới, quả đúng", rồi mời vào.

Cố ngần ngại không dám, người ấy ép mãi mới vào. Hỏi đây là đâu, người ấy đáp "Phủ đệ của vương thế tử thứ chín, thế tử bị sốt rét mới khỏi, hôm nay tân khách tới mừng, tiên sinh thật là có duyên", chưa dứt lời lại có người từ trong chạy ra giục vào mau. Phút chốc tới một nơi đình đài chạm trổ, lan can sơn son, có một ngôi điện quay mặt về hướng bắc, thềm gồm chín bậc, lên tới nơi thì khách đã đông đủ. Thấy một thiếu niên ngồi ngoảnh mặt về phía bắc, Cố biết là vương tử bèn sụp lạy, khách khứa đều đứng cả dậy, vương tử kéo Cố vào dãy bàn phía đông. Uống được vài chén thì đàn sáo trổi lên, các ca kỹ lên thềm diễn vở Hoa Phong chúc*.

* Hoa Phong chúc: sử chép có người đất Hoa Phong tới chúc thọ vua Nghiêu, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc thọ vương tử.

Mới được ba màn thì chủ quán trọ và đầy tớ đưa cơm trưa vào, tới đầu giường gọi, Cố nghe thấy rất rõ ràng, sợ vương tử biết song chẳng ai nghe thấy cả. Bèn nói thác là thay áo bước ra, ngước nhìn thì mặt trời đã xế, thấy đầy tớ đứng ngay đầu giường mới sực hiểu là chưa từng rời khỏi quán trọ. Lòng áy náy muốn quay lại ngay, bèn bảo người đầy tớ đóng cửa ra ngoài. Vừa nhắm mắt lại thì thấy cung điện nhà cửa như cũ, vội vàng theo đường cũ trở vào, tới chỗ đám trẻ con lúc nãy thì không thấy đứa nào nữa mà chỉ có vài mươi người tóc rối lưng gù nằm ngồi bên trong, thấy Cố cùng cất tiếng chửi mắng "Đồ vô lại ở đâu vào đây nhòm ngó thế". Cố hoảng sợ không dám phân trần, rảo bước ra phía sau, lên điện ngồi lại chỗ cũ, thấy trên cằm vương tử đã mọc thêm bộ râu. Vương tử cười hỏi đi đâu, tuồng đã diễn tới màn bảy rồi, rồi lấy chén lớn ra phạt.

Giây lát diễn xong, đám ca kỹ lại trình danh sách các vở tuồng lên, Cố chấm vở Bành Tổ lấy vợ*. Bọn ca kỹ lập tức lấy chén gáo dừa dâng rượu, phải tới năm đấu. Cố rời chiếu từ tạ, nói thần bị đau mắt, không dám uống say. Vương tử nói "Ông đau mắt thì có quan Thái y ở đây, cứ nhờ khám cho". Trong dãy bàn phía đông lập tức có một người bước tới lấy hai ngón tay vạch mí mắt Cố ra, rồi lấy trâm ngọc chấm thuốc mỡ trắng tra vào, bảo nhắm mắt ngủ một lúc. Vương tử sai tiểu đồng dắt Cố vào phòng trong bảo nằm, thấy chăn nệm êm ấm thơm tho nên ngủ quên luôn. Không bao lâu chợt nghe tiếng chiêng khua ran, giật mình tỉnh dậy, ngờ là bên ngoài còn đang diễn tuồng, mở mắt nhìn thì ra là con chó trong quán trọ đang liếm dầu trong chảo, mà mắt dường như đã khỏi đau hẳn. Vội nhắm mắt lại nhưng không thấy gì nữa cả.

*Bành Tố cưới vợ: Sử ký của Tư Mã Thiên chép Bành Tổ thọ tám trăm tuổi, sống qua ba đời vua, cưới bốn mươi chín người vợ, có năm mươi bốn con trai, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc tụng vương tử sống lâu, có nhiều con nối dõi.

182. Chu Khắc Xương (Chu Khắc Xương)

Cống sĩ ở đất Hoài Thượng là Chu Thuận Nghĩa tuổi đã năm mươi chỉ sinh được một con trai tên Khắc Xương, rất yêu thương. Năm Xương mười ba mười bốn tuổi, phong tư rất đẹp đẽ nhưng không thích học hành, thường trốn học đi chơi với bọn trẻ con, có khi cả ngày không về, Chu cũng biết. Một hôm đã tối mịt vẫn chưa thấy về, vội đi tìm thì không thấy đâu, vợ chồng kêu khóc cơ hồ không muốn sống nữa. Hơn một năm Xương chợt tự về, nói là bị người đạo sĩ bỏ thuốc mê bắt đi, may mà không làm hại, nhân lúc ông ta đi vắng bèn trốn về. Chu mừng quá cũng chẳng hỏi han gì nhiều, đến khi dạy cho học thì Xương còn thông minh gấp đôi ngày trước. Qua năm sau, Xương học hành càng tấn tới, kế thi đỗ vào trường phủ, tiếng tăm lừng lẫy, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho nhưng Xương không muốn lấy vợ. Có con gái Tiến sĩ họ Tnệu có sắc đẹp, Chu ép con cưới về, nàng ấy về rồi thì vợ chồng cười nói với nhau rất vui vẻ, nhưng Xương vẫn ngủ một mình.

Hơn năm sau, Xương thi hương đậu Cử nhân, Chu càng thỏa dạ, nhưng tuổi ngày càng lớn càng mong có cháu nội để bế nên thường nói móc để chọc ghẹo Xương, nhưng Xương vẫn lờ đi như không hiểu. Bà mẹ thì không nhịn được, cứ sớm tối ngầy ngà, Xương biến sắc bỏ ra, nói "Ta đã muốn bỏ đi lâu rồi, nhưng chưa đi ngay vì nhớ tới ơn cha mẹ chăm sóc nuôi nấng thôi. Chứ thật ta không sao lấy vợ sinh con để thỏa ý cha mẹ đâu. Bây giờ thì xin đi, còn nàng ta xin tùy ý, muốn về nhà thì về". Bà mẹ đuổi theo kéo lại thì Xương đã ngã xuống, chỉ còn mũ áo không như xác ve lột, cả sợ ngờ là Xương đã chết, đó chỉ là hồn ma trở vể, đành ngậm ngùi đau xót mà thôi. Hôm sau, chợt Xương cưỡi ngựa dắt đầy tớ trở về, cả nhà khiếp sợ, tới gần hỏi han thì nói là bị người ác bắt đi bán cho nhà phú thương, phú thương không có con nên coi như con đẻ. Sau khi có Xương chợt sinh được một con trai, thấy Xương nhớ nhà nên cho đưa về.

Hỏi tới chữ nghĩa thì vẫn ngu độn như trước, mới biết đây đúng là xương, còn người vào trường phủ đỗ thi hương chỉ là ma giả làm Xương mà thôi. Nhưng trộm mừng là việc chưa bị tiết lộ, bèn bảo Xương nhận luôn danh hiệu Cử nhân. Vào phòng ngủ thì vợ mơn trớn đùa cợt như rất quen thuộc, mà Xương thì thẹn thò như mới cưới vậy, hơn năm thì sinh được một con trai.

Dị Sử thị nói: Người xưa nói hạng người tầm thường có phúc thì trong khoảng mũi miệng mắt mày khí sắc đều tầm thường, nhưng về sau phúc tới thì tinh quang rục rỡ, ma quỷ gì cũng phải bỏ đi. Đây thì vẻ tầm thường còn đó mà Cử nhân không thi cũng đỗ, vợ đẹp không cưới cũng có, huống hồ kẻ hơi có học hành, cố gắng thêm một chút sao!

183. Thần ở Hồ Phiên Dương (Phiên Dương Thần)

Hoắc Trạm Trì làm Tư lý huyện Nhiêu Châu (tỉnh Giang Tây), đi ngang hồ Phiên Dương, thấy trên hồ có đền thờ thần, dừng lại vào viếng. Trong đền có pho tượng Đinh Tấn Lang bằng gỗ mà nhà họ Hoắc vẫn cho là một vị thần đặt ở sau cùng. Hoắc nói "Đây là bậc tôn quý trong họ ta, sao lại đặt ở sau cùng?", bèn đưa lên ngôi vị phía trên. Kế lên thuyền đi, gặp trận gió lớn thổi gãy cột buồm, thuyền bị đắm, cả nhà kêu khóc. Chợt có một chiếc thuyền nhỏ lướt sóng tới, vòng cạnh thuyền quan kéo nhanh Hoắc lên, kế người nhà đều cùng leo lên, thấy người kia giống hệt vị thần của nhà họ Hoắc. Không bao lâu sóng lặng, nhìn lại thì người ấy đã biến mất.

184. Tiền Chảy (Tiền Lưu)

Lưu Tông Ngọc người huyện Nghi Thủy (tỉnh Son Đông), có đầy tớ là Đỗ Hòa ngẫu nhiên di trong vườn, thấy tiền chảy như dòng nước, sâu rộng hai ba thước. Đỗ vừa sợ vừa mừng, lấy tay vốc một vốc, rồi nằm đè lên trên. Khi cúi xuống lần nữa thì dòng tiền đã biến mất, nhưng vốc tiền trong tay vẫn còn.

185. Mắt Dương Sẹo (Dương Ba Nhãn)

Một người thợ săn đêm vào trong núi, thấy một người lùn cao khoảng hai thước nhảy nhót đi dưới khe. Lúc sau lại một người nữa tới, cũng cao như thế, gặp nhau cùng trò chuyện, hỏi nhau đi đâu. Người tới trước nói "Ta định đi xem mắt Dương sẹo, lần trước gặp thấy khí sắc tối tăm, dữ nhiều lành ít". Người tới sau nói "Ta cũng nghĩ thế, ngươi nói không sai". Người thợ săn biết không phải là người bèn quát lớn, hai người lập tức biến mất. Đêm ấy săn được một con chồn, mắt bên trái có một cái sẹo lớn, to bằng đồng tiền.

186. Rồng Giả Nhện (Long Hý Thù)

Từ công làm Huyện lệnh Tế Đông (tỉnh Sơn Đông), trong công thự có ngôi lầu, dùng để chứa thức ăn, liên tiếp bị ăn vụng, vung vãi cả ra trên đất, bọn gia nhân nhiều lần bị quở trách, bèn rình bắt. Thấy một con nhện to bằng cái đấu, sợ hãi chạy đi báo với ông, ông lấy làm lạ, bèn sai bọn thị tỳ hàng ngày vứt mồi cho ăn. Con nhện quen dần, lúc đói thì ra tìm người, ăn no thì bỏ đi. Hơn mấy năm, ông ngẫu nhiên đang duyệt văn án, con nhện chợt đến nằm mọp dưới bàn. ông cho rằng nó đói, vừa mới sai người nhà mang mồi cho ăn, đã thấy hai con rắn nhỏ bằng chiếc đũa nằm cạnh con nhện, con nhện co chân rút bụng, dáng vẻ rất sợ hãi. Trong chớp mắt rắn to ra bằng quả trứng ông sợ hãi bỏ chạy. Chợt một tiếng sấm lớn vang lên, cửa nẻo đổ sập, ông ngất đi, phu nhân và tôi tớ hoảng sợ chết mất bảy người, ông cũng bệnh hơn tháng thì chết. Ông là người liêm chính thương dân, ngày chôn cất, nhân dân tới phúng điếu khóc than đầy đường.

Dị Sử thị nói: Rồng giả làm nhện, thường nghĩ rằng là lời đồn đại ngoa truyền trong dân gian, chẳng lẽ lại có thật sao? Nghe nói sấm sét nổ vang là để đánh kẻ hung dữ, sao lại đánh vào người làm quan thanh liêm, thảm độc tới mức ấy, trời kia sao quá huyền bí như thế?

187. Sai Khiến Ma Quỷ (Dịch Quỷ)

Thầy thuốc họ Dương ở Sơn Tây giỏi thuật châm cứu, lại có thể sai khiến ma quỷ, mỗi lần ra khỏi nhà thì cưỡi lừa cầm roi, đều là ma quỷ. Một đêm cùng bạn đi từ nơi khác về, trên đường gặp hai người to lớn dị thường, bạn cả kinh. Dương hỏi ai, hai người nói là Vương chân dài, Lý đầu to ra đón chủ nhân. Dương nói "Đi lên trước dẫn đường!", hai người cung cúc đi lên trước, Dương đi chậm thì đứng lại chờ, như là nô lệ vậy.

188. Nguyên 1ão Ba Triều (Tam Triều Nguyên Lão)

I.

Quan Tể tướng nọ vốn làm quan triều Minh, từng hàng giặc, sĩ phu đều chê cười. Lúc già về nhà, dựng miếu thờ tổ tiên, có mấy người ghé vào ngủ đêm ở đó. Sáng ra, thấy trong miếu có một tấm biển đề "Nguyên lão ba triều" và một đôi câu đối viết "Một hai ba bốn năm sáu bảy, Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm", không biết treo lúc nào, lấy làm lạ nhưng không hiểu ý nghĩa. Có người đoán rằng "Vế đầu ngầm ý là Vương Bát. vế sau ngầm nói là vô sỉ"*, có lẽ đúng thế.

* Vế đầu vô sĩ: Ở đây có chỗ chơi chữ, vì vế đầu chỉ đếm tới số bảy, vế sau còn thiếu chữ "sỉ" (Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm sỉ). Vương Bát nguyên văn là "vong bát", nhưng trong Hán ngữ chữ "vong" (quên) được coi là đồng âm với chữ "vương" (họ Vương). Người Trung Quốc xưa hay dùng từ Vương Bát với ý nghĩa như quân khốn khiếp.

II.

Quan Kinh lược họ Hồng đánh phương nam khải hoàn, về ngang Kim Lăng, lập đàn tế tướng sĩ chết trận. Có người môn nhân cũ tới yết kiến, lạy xong xin trình bài văn tế. Hồng vốn ghét văn chương, lấy cớ mắt kém từ chối. Người ấy nói vậy xin cảm phiền cố nghe cho ta được đọc qua một lượt. Rồi rút bài văn tế trong tay áo ra cất giọng sang sảng đọc lớn, thì ra là bài văn của vua Sùng Trinh triều Minh cũ ngự chế tế Kinh lược họ Hồng*. Đọc xong khóc lớn bỏ đi.

*Kinh lược họ Hồng: tức Hồng Thừa Trù, cuối đời vua Sùng Trinh nhà Minh làm Tổng đốc Hà Bắc Liêu Dưong, đánh nhau với quân Thanh ở Tùng Sơn thua trận đầu hàng, sau giúp nhà Thanh đàn áp phong trào phản Thanh phục Minh, làm tới chức Vũ Anh điện Đại học sĩ của triểu Thanh. Sau trận Tùng Sơn có lời ngoa truyền Hồng đã tử trận nên vua Sùng Trinh đích thân làm bài văn tế Hồng.

189. Ánh Sáng Nửa Khuya (Dạ Minh)

Có người khách buôn đi buôn ở Nam Hải, nửa đêm trong thuyền chợt sáng rực, trở dậy xem thì thấy có một con vật to lớn, nửa người nhô lên khỏi mặt nước sừng sững như núi, mắt như hai vầng dương mới mọc, ánh sáng soi khắp bốn phía, cả một vùng rộng lớn sáng như ban ngày. Y hoảng sợ hỏi nhà thuyền, không ai biết là gì, đều nằm rạp xuống nhìn trộm. Giây lát con vật ấy từ từ lặn xuống nước. Về sau y tới Mân Trung (vùng Phúc Kiến) người ở đó nói đêm ấy trời chợt sáng bừng rồi tối lại ai cũng cho là lạ lùng, tính lại thì đúng vào đêm y thấy sự quái lạ trên thuyền.

190. Tiếng Chim (Điểu Ngữ)

Ở Trung Châu có đạo sĩ đi xin ăn trong làng xóm, ăn no rồi nghe tiếng quạ kêu, bèn nói với chủ nhân coi chừng cháy nhà. Chủ nhân hỏi duyên do, đáp "Chim vừa nói Cháy nhà khó cứu, sợ lắm!". Mọi người đều cười, không ai đề phòng. Hôm sau, quả nhiên bị cháy, lan ra luôn mấy nhà, mới phục ông ta là thần. Có người hiếu sự theo hỏi, gọi ông ta là tiên. Đạo sĩ nói "Ta bất quá là nghe hiểu được tiếng chim thôi, đâu phải là tiên". Lúc ấy có con chim sẻ kêu trên cây, mọi người hỏi nó nói gì, đạo sĩ đáp "Chim sẻ nói: Mừng sáu nuôi mừng sáu nuôi, mười bốn mười sáu thì chôn. Chắc là nhà nào có con sinh đôi, hôm nay là mùng mười, không quá năm sáu ngày nữa thì đều chết". Hỏi ra quả có hai đứa bé tự nhiên mà chết, ngày tháng đều đúng. Quan huyện nghe chuyện lạ, gọi đạo sĩ tới, đãi làm khách.

Gặp lúc có bầy vịt đi ngang sân, quan hỏi chúng nói gì, đạo sĩ đáp "Nội thất của minh công ắt đang có chuyện tranh cãi, vịt nói Bãi bãi, hỏi ông ta, hỏi ông ta". Quan huyện rất phục, đại khái vì thê thiếp cãi nhau, ông ta bực mình nên bỏ ra ngoài. Một hôm khác đang ngồi, bầy vịt lại đi ngang, quan huyện lại hỏi. Đạo sĩ đáp "Lời nói hôm nay khác với hôm trước, đại khái là chuyện minh công đang tính toán thôi". Hỏi tính toán chuyện gì, đáp "Chúng nói Sáp một trăm tám, tiền một ngàn tám". Quan huyện thẹn, ngờ là đạo sĩ nói mỉa, đạo sĩ xin đi, quan huyện không cho. Qua mấy ngày, quan huyện tiếp khách chợt nghe tiếng chim cuốc kêu, khách hỏi, đạo sĩ đáp "Nó nói là Bãi quan về bãi quan về". Mọi người đều ngạc nhiên biến sắc, quan huyện cả giận, đuổi đạo sĩ đi. Không bao lâu, quả nhiên việc quan huyện ăn hối lộ bị phát giác. Than ôi, vị tiên kia đã răn trước rồi, mà tiếc cho người tham lam không chịu tỉnh ngộ!

Tục đất Tế (tỉnh Sơn Đông) gọi ve là "Sảo thiên", loại màu xanh là "Đô liễu".Trong huyện ta có hai cha con, cùng là học trò hạng thanh xã* đi khảo khóa hàng năm. Chợt có con ve bay tới đậu vào áo, người cha mừng nói "Sảo thiên là điềm tốt". Một đứa nhỏ thấy thế cãi "Sảo thiên đâu mà sảo thiên, đô liễu đấy". Hai cha con không vui, kế quả nhiên đều thi rớt, bị truất về làm dân**.

* Hạng thanh xã: Học chính toàn thư chép thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lại thi rớt sẽ bị truất làm dân.

** Quả nhiên... làm dân: ở đây có chỗ chơi chữ. "Sảo thiên" nghĩa đen là hơi khác đi, nên người cha mới mừng, cho là điềm thi đỗ, sẽ được lên hạng, nhưng "Đô liễu" nghĩa đen là đều thôi rồi, đây ý nói đó là điềm báo cả hai cha con cùng bị truất.

Quyển XI

191. Lăng Giác (Lăng Giác)

Hồ Đại Thành là người đất Sở (tỉnh Hồ Nam). Mẹ vốn thờ Phật, trên đường Thành đi học tới trường có miếu thờ Quan âm, mẹ dặn đi qua là phải vào làm lễ. Một hôm vào miếu, thấy có cô gái dắt theo đứa nhỏ đùa giỡn bên trong, tóc xõa che hết trán nhưng phong thái rất yêu kiều. Năm ấy Thành mười bốn tuổi, trong lòng ưa thích bèn hỏi tên họ, cô gái đáp "Ta là con gái của người thợ vẽ họ Tiêu nhà ở phía tây miếu này, tên Lăng Giác. Anh hỏi làm gì vậy?". Thành lại hỏi đã có chồng chưa, cô gái bẽn lẽn đáp "Chưa". Thành hỏi "Ta làm rể nhà em có được không?", cô gái thẹn thùng nói "Chuyện đó ta không làm chủ được" nhưng đưa mắt long lanh nhìn Thành từ trên xuống dưới, có ý vui mừng, Thành bèn trở ra. Cô gái theo sau dặn với "Cha ta vốn quý trọng ông Thôi Nhĩ Thành, cứ nhờ ông mai mối chắc là được". Thành đáp "Được rồi". Vì thấy nàng thông minh lại đa tình nên càng hâm mộ, về nói hết với mẹ. Mẹ chỉ có Thành là con nên ít khi trái ý, lập tức nhờ ông Thôi làm mai. Nhưng họ Tiêu đòi sính lễ nhiều nên việc không thành, Thôi ra sức thuyết phục rằng Thành là con nhà tử tế lại có tài, Tiêu mới ưng thuận.

Thành có ông bác già mà không con, làm học quan ở Hồ Bắc, vợ chết tại nhiệm sở, mẹ Thành sai con tới giúp việc tang. Mấy tháng sau Thành định về thì ông bác lại chết, phải ở lại ít lâu nữa. Gặp lúc có toán giặc lớn cướp phá Hồ Nam, tin nhà đứt hẳn. Thành trốn lánh trong dân gian, sống thui thủi một mình một bóng mà thôi. Một hôm có bà già khoảng bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi tới đi quanh làng đến tận trưa, nói rằng gặp lúc loạn lạc không có nhà cửa mà về, định tự bán mình. Có người hỏi giá, bà đáp "Không thèm làm đầy tớ, cũng không muốn làm thê thiếp, chỉ cần có kẻ chịu nhận làm mẹ thì ta sẽ theo về không cần giá cả", ai nghe thấy cũng cười. Thành tới nhìn diện mạo thì thấy có hai ba phần giống mẹ mình, động lòng thương xót. Lại thầm nghĩ rằng mình lẻ loi một thân, không ai may vá cho bèn đón về, đối xử như kẻ làm con. Bà già vui mừng, từ đó nấu cơm khâu giày cho Thành, ân cần như mẹ, Thành làm việc gì trái ý thì trách mắng, song hơi có điều gì buồn khổ thì vỗ về an ủi như con đẻ.

Một hôm chợt nói với Thành "Sống ở đây yên ổn nhưng may mắn mà không được vui vẻ, có điều con đã lớn, dẫu là ở nơi đất khách quê người nhưng nhân luân không thể bỏ phế. Hai ba ngày nữa mẹ sẽ cưới vợ cho con". Thành khóc nói "Con đã có vợ rồi, chỉ là nam bắc đôi nơi cách trở thôi". Bà già nói "Thời loạn ly thì việc người cũng đổi thay, làm sao chờ được?". Thành lại khóc nói "Chưa nói tới việc vợ chồng đã hẹn ước với nhau thì không thể phụ bạc, cứ nghĩ xem ai lại đem con gái cưng gả cho kẻ rày đây mai đó?". Bà già không đáp, chỉ lo may sắm rèm màn chăn gối, chuẩn bị rất đầy đủ chu đáo, Thành cũng không biết vợ ở đâu ra. Một hôm trời vừa tối, bà dặn Thành "Ở nhà một mình đừng có ngủ, để mẹ đi xem cô dâu mới tới chưa", rồi ra cửa đi. Đến hết canh ba vẫn chưa về, Thành rất đỗi ngờ vực lo lắng, chợt nghe ngoài cửa có tiếng ồn ào, ra nhìn thì thấy có một cô gái ngồi trong sân, tóc tai rối bời đang khóc nức nở.

Thành ngạc nhiên hỏi han nhưng cô ta không đáp, hồi lâu mới nói "Anh cưới ta về đây không phải là điều may đâu, ta chỉ có chết thôi". Thành hoảng sợ không biết chuyện gì, cô gái nói "Ta lúc trẻ đã lấy Hồ Đại Thành, không ngờ chàng đi Hồ Bắc không có tin tức gì, cha mẹ ép ta về với anh, thân ta thì còn bắt về được chứ lòng ta thì không bắt theo được đâu". Thành nghe thấy òa khóc, nói "Ta là Hồ Đại Thành đây, nàng là Lăng Giác đấy ư?". Cô gái hoảng sợ nín bặt, đầu tiên còn không tin, kế theo vào nhà thắp đèn nhìn kỹ mới nói "Không phải là nằm mơ chứ?". Rồi đổi buồn làm vui, cùng nhau kể lễ nỗi niềm xa cách nhớ nhung. Vốn trước đó trong cơn loạn lạc thì đất Hồ Nam hàng trăm dặm không có bóng người, họ Tiêu dắt gia đình chạy tới phía đông Trường Sa (tỉnh thành Hồ Nam), lại hứa gả con gáỉ cho Chu sinh, nhưng đang loạn lạc không thể làm đám cưới nên đên ấy đưa con gái tới nhà Chu. Cô gái khóc không chịu sửa soạn gì cả, người nhà cứ ép đẩy lên kiệu, trên đường đi cô gái lăn ra khỏi kiệu rơi xuống đất, chợt có bốn người khiêng kiệu tới nói là người của nhà họ Chu đón dâu, đỡ nàng lên kiệu, đi nhanh như bay, tới đây mới dừng. Có một bà già kéo vào sân nói "Đây là nhà chồng cô, cứ vào đừng có khóc, mẹ chồng cô thì vài hôm nữa sẽ gặp thôi", rồi đi mất.

Thành hỏi rõ mọi việc mới biết bà già là thần, hai vợ chồng bèn thắp hương cùng khấn khứu xin cho mẹ con được đoàn tụ. Mẹ Thành từ khi binh lửa dấy lên, cùng các bạn bè phụ nữ chạy vào hang núi ẩn náu. Một đêm nghe đồn ầm lên là giặc tới, mọi người kinh hoàng chạy trốn tứ tán. Chợt có một đồng tử đưa ngựa cho mẹ Thành cưỡi, đang lúc gấp rút bà cũng không kịp hỏi là ai. Đồng tử đỡ bà lên ngựa, ngựa phi rất nhanh, chớp mắt đã tới bên hồ*. Ngựa đạp trên mặt nước phóng như bay, dưới vó không hề nổi sóng. Không bao lâu đồng tử đỡ bà xuống, chỉ một căn nhà nói "Trong đó ở được đấy". Mẹ Thành lạy tạ, ngẩng đầu nhìn thì thấy ngựa đã biến thành con Kim mao hẩu** cao hơn trượng, đồng tử nhảy lên dong đi. Mẹ Thành vừa gõ cổng thì thấy cánh cổng đã mở, có người bước ra hỏi, nghe giọng nói quen thuộc lấy làm lạ, nhìn kỹ thì té ra là Thành. Mẹ con ôm nhau khóc, vợ Thành cũng kinh ngạc choàng dậy, cả nhà vô cùng mừng rỡ. Ngờ rằng bà già là Quan âm đại sĩ*** hiện thân, vì vậy càng chuyên cần tụng kinh Quan âm, từ đó ở luôn lại Hồ Bắc, dựng nhà làm ruộng ở đó.

* Hồ: tức hồ Động Đình, ngăn cách hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.

**Kim mao hẩu: thần thú lông vàng, vẫn được gọi là sư tử lông vàng. Chữ "hẩu" theo âm Việt Hán là "khổng", đây đọc theo Thanh âm. Ở nhiều chùa chiền và trong các lễ hội của người Nam Bộ thường có thờ cúng và nghi lễ "múa hẩu", chính là xuất phát từ các truyện tích về con Kim mao hẩu này.

***Quan âm đại sĩ: tức Quan Thế âm Bồ tát.

192. Hình Tử Nghi (Hình Tử Nghi)

Huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông) có Dương Mỗ theo đảng Bạch Liên giáo học được phép thuật tả đạo. Sau khi Từ Hồng Nho bị giết Dương may mắn lọt lưới, bèn đem phép thuật ngao du khắp nơi, trong nhà thì vườn ruộng lầu gác đủ cả, nổi tiếng giàu có. Tới nhà thân hào ở Tứ Thượng (thuộc tỉnh Sơn Đông), dùng ảo thuật làm trò vui, đàn bà con gái trong nhà đều ra xem, Dương liếc thấy con gái nhà ấy xinh đẹp, khi về nhà mưu bắt cóc. Vợ kế Dương là Chu thị cũng phong vận, Dương bèn cho nàng ăn mặc lộng lẫy giả làm tiên nữ, đưa cho con chim gỗ dạy cách sử dụng, rồi dắt lên lầu đẩy ra. Chu thấy thân thể nhẹ như chiếc lá lãng đãng theo mây bay đi, không bao lâu đám mây dừng lại không bay nữa, biết là đã tới nơi. Đêm ấy trăng sáng vằng vạc, từ trên nhìn xuống thấy rõ cả, Chu bèn cầm con chim gỗ ném xuống, con chim xòe cánh bay thẳng tới phòng cô gái. Cô gái thấy con chim màu sặc sỡ bay vào, gọi tỳ nữ bắt lấy thì nó đã tung rèm cửa lướt ra ngoài. Cô gái đuổi theo, con chim rơi xuống đất đập cánh phành phạch, vừa tới gần thì nó vọt lên đũng quần, giãy giụa rồi đội cô gái bay lên, xông thẳng vào trong mây. Cô gái kêu gào, Chu đứng trong mây nói "Người hạ giới đừng sợ, ta là Hằng Nga trong Nguyệt điện đây. Ngươi là con gái thứ chín của Vương mẫu ngẫu nhiên bị đày xuống trần, Vương mẫu hàng ngày nhớ nhưng nên tạm gọi lên gặp một lần, rồi sẽ đưa về ngay thôi", rồi buộc tay áo vào nhau mà đi.

Vừa tới địa giới huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) thì gặp người ta bắn pháo hoa trúng cánh chim, con chim hoảng sợ sa xuống kéo cả Chu theo, rơi vào nhà một người Tú tài. Người Tú tài tên Hình Tử Nghi, nhà rất nghèo nhưng tính cương trục. Có người đàn bà láng giềng đang đêm qua khêu gợi, Hình cự tuyệt không cho vào, người đàn bà căm tức bỏ đi, đặt điều với chồng là Hình dụ dỗ. Ngươì chồng vốn là kẻ vô lại, sáng chiều tới trước cổng chửi mắng, Hình vì vậy bán nhà qua ở thôn khác. Nghe nói có thầy tướng họ Cố giỏi đoán phúc thọ của người, bèn tới gặp. Cố vừa nhìn thấy cười nói "Ông giàu có ngàn chung, sao lại mặc áo rách tới gặp người, định nói ta có mắt không tròng sao?". Hình chê nói sai, Cố nhìn kỹ rồi nói "Đúng thế, tuy còn nghèo khổ nhưng hầm vàng không còn xa đâu". Hình lại chê nói sai, Cố nói "Không những hoạnh tài giàu có mà còn được vợ đẹp nữa kia". Hình vẫn không tin, Cố đẩy ra cửa nói "Cứ đi đi, cứ đi đi, khi nghiệm rồi ta mới tới lấy tiền tạ on mà". Đêm ấy Hình ngồi một mình dưới trăng, chợt có hai cô gái trên không rơi xuống, nhìn thấy đều xinh đẹp, sợ hãi cho là yêu quái bèn gặng hỏi.

Ban đầu họ không chịu nói, Hình toan kêu lớn gọi láng giềng tới, Chu sợ mới nói thật, lại xin đừng lộ chuyện ra, hứa sẽ theo hầu hạ suốt đời. Hình nghĩ con gái nhà thế gia không cùng loại với với vợ kẻ yêu nhân bèn sai người báo cho gia đình cô gái. Cha mẹ cô gái từ khi con gái bay đi cùng khóc lóc lo sợ, chợt được thư báo tin, mừng rỡ quá đỗi, lập tức sắp sửa xe kiệu tới ngay, tạ ơn Hình trăm lượng vàng rồi đưa con gái về. Hình được vợ đẹp đang lo nhà nghèo chỉ có bốn bức vách, được vàng rất khoan khoái, qua tạ ơn Cố, Cố lại nhìn mặt nói "Chưa phải đâu, chưa phải đâu, vận may đã tới, trăm lượng vàng có đáng gì?", rồi không nhận tiền tạ ơn. Vốn là họ Thân về rồi bèn xin quan trên bắt Dương, Dương đoán biết nên đã bỏ trốn không biết đi đâu, quan bèn tịch biên gia sản, phát lệnh bắt Chu. Chu sợ hãi kéo áo Hình khóc lóc, Hình cũng hết cách, chỉ tạm hối lộ cho đám công sai rồi thuê xe kiệu chở Chu tới nhà Thân năn nỉ xin cứu giúp. Thân cảm vì có nghĩa nên hết sức chạy chọt, được nộp tiền chuộc tội cho Chu, bèn giữ cả hai vợ chồng ở lại trong nhà, vui vẻ như thân thích.

Con gái Thân lúc nhỏ đã nhận sính lễ của họ Lưu, Lưu nhất thời làm quan vinh hiển, nghe nói cô gái từng ngủ lại nhà Hình, cho là nhục nhã bèn gởi thư tuyệt hôn. Thân bàn gả cho người khác, cô gái nói với cha mẹ thề theo Hình. Hình nghe rất mừng, Chu cũng mừng, tình ngưyện xin làm vợ lẽ, nhưng Thân còn lo là Hình nghèo khổ. Lúc ấy nhà cửa của Dưong được quan dem bán đấu giá, Hình mua rồi hai vợ chồng cùng về, bỏ tiền túi ra mua đồ đạc thuê tôi tớ, trong mươi ngày đã hết sạch tiền, chỉ mong cô gái tới để được Thân giúp đỡ. Một đêm Chu nói với Hình rằng "Người chồng tội lỗi của thiếp là Dương Mỗ có chôn ngàn lượng vàng dưới lầu, chỉ có thiếp biết, mới rồi ra chỗ đó xem thấy gạch đá vẫn còn nguyên, có khi hầm vàng chôn cất vẫn còn nguyên chưa biết chừng". Bèn cùng nhau tới đó đào lên, quả tìm được vàng, vì thế tin Cố xem tướng hay, tạ ơn rất hậu. Sau đó cô gái vu quy, mang về rất nhiều tiền bạc, chỉ trong vài năm Hình trở nên giàu có đứng đầu một quận.

Dị Sử thị nói: Bạch Liên bị diệt mà họ Dương không chết, lại còn giàu lên làm người ta suýt cho rằng lưới trời lồng lộng kia thưa nên gần lọt, nhưng nào biết sở dĩ trời lưu Dương lại chỉ là vì Hình. Nếu không thì Hình tuy bỉ cực thái lai nhưng làm sao trong chớp mắt xây lầu gác, có ngàn vàng được? Không yêu một người đẹp mà trời đền đáp cho hai người, than ôi, tạo vật không nói gì, nhưng ý tứ có thể thấy được vậy.

193. Lục Áp Quan (Lục Áp Quan)

Ông Triệu ở huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Quảng làm quan tới chức Cung chiêm thì trí sĩ về nhà, chợt có một thiếu niên tới cổng xin giúp việc giấy tờ. Ông cho gọi vào, thấy nho nhã như học trò, hỏi họ tên thì nói là Lục áp Quan, không cần tiền công, ông bèn giữ lại. Lục thông tuệ hơn đám tôi tớ bình thường, thư từ của ông gởi đi đều cho y tùy ý mà viết, lá nào cũng văn hoa. Lại những lúc chủ nhân chơi cờ với khách, Lục liếc qua rồi chỉ nước là thắng, Triệu vì thế càng yêu mến. Bọn tôi tớ thấy y được chủ nhân coi trọng, hùa nhau trêu chọc, đòi phải mời tiệc. Áp Quan ưng thuận, nhân hỏi tất cả có bao nhiêu người, vừa lúc tá điền các nơi về tính sổ, khoảng hơn ba mươi người, họ tính luôn cả vào để làm khó. Áp Quan nói "Bấy nhiêu thì rất dễ, nhưng khách đông, lúc bất ngờ không lo liệu kịp, xin mời ra quán rượu". Rồi mời tất cả ra quán rượu ngoài phố.

Ngồi yên xong, rượn vừa bày ra, có người cầm bầu đứng lên nói "Các anh khoan hãy rót. Xin hỏi hôm nay ai đứng ra mời? Nên đưa tiền ra làm tin trước mới có thể yên tâm nhậu nhẹt, nếu không uống một hồi vài ngàn chén rồi tan về thì lấy đâu mà trả?". Mọi người đều nhìn Áp Quan, Áp Quan cười nói "Các vị nói ta không có tiền chắc? Ta có đủ đây!", rồi đứng lên vói vào mâm nắm lấy một vắt mì ướt bằng nắm tay, ngắt ra ném lên bàn, đều biến thành chuột nhắt chạy rối rít đầy bàn. Áp Quan chụp bừa một con xé làm đôi, kêu chóe một tiếng thì bụng toác ra, lấy được một thỏi vàng nhỏ. Bắt tiếp con nào cũng thế, phút chốc hết chuột thì vàng vụn chất đầy trước mặt, rồi nói "Bấy nhiêu mà không đủ cho bọn mình uống rượu à!", mọi người đều kinh lạ, kế cùng nhau uống thả sức.

Tan tiệc, tính ra hơn ba lượng vàng, mọi người đem cân mớ vàng vụn thì vừa đủ số. Có kẻ định bẩm lại chuyện lạ cho chủ nhân biết nên xin một mẩu nhỏ bỏ túi, về tới nhà kể lại cho Triệu nghe, Triệu bảo đưa mẩu vàng cho xem, tìm lại thì đã mất. Quay lại hỏi chủ quán thì vàng đều hóa ra gai góc, về bẩm với Triệu. Triệu căn vặn, Áp Quan nói "Anh em bạn đòi ta phải đãi tiệc, nhưng thật tình túi rỗng không tiền, lúc nhỏ học được trò mua vui, nên làm thử thôi". Mọi người lại bắt trả tiền rượu, Áp Quan nói "Ta không phải là kẻ ăn quịt đâu ở thôn Mỗ có mớ rơm đem ra đập lại có thể được hai thạch lúa mì, thừa sức trả tiền rượu", rồi mượn một người đi theo. Sẵn dịp người tá điền thôn ấy về, bèn đi cùng. Tới nơi thấy lúa mì đã giê sạch, đổ đống trên sân tới mấy hộc, mọi người vì vậy càng lấy làm lạ lùng. Một hôm Triệu tới nhà bạn dự tiệc, thấy giữa phòng có chậu lan rất tươi tốt thích lắm, về nhà cứ khen ngợi mãi. Áp Quan nói "Nếu quả thật ông thích thứ lan ấy thì cũng không khó!".

Triệu còn chưa tin, sáng sớm vào phòng sách chọt ngửi thấy mùi hương lạ thơm phức, nhìn lại thì có một chậu lan, cành lá chỗ thưa chỗ dày đều giống hệt như chậu lan mình đã thấy, nghi là y ăn cắp về bèn căn vặn. Áp Quan nói "Hoa cỏ nhà ta gom trồng có hàng trăm hàng ngàn loại, cần gì phải ăn cắp!", Triệu cho là y nói dối, vừa gặp lúc người bạn kia tới chơi, nhìn thấy chậu lan, giật mình nói "Sao mà giống hệt chậu lan nhà ta!". Triệu nói "Ta vừa mua được, nhưng cũng không biết vì sao họ có mà bán, mà lúc ra khỏi nhà, ông còn nhìn thấy chậu lan không?". Người bạn đáp "Ta không vào phòng sách nên không biết là còn hay mất, nhưng làm sao mà nó tới đây được!" Triệu nhìn Áp Quan, Áp Quan nói "Chuyện này không có gì khó, cái chậu nhà ông bị vỡ, có vá một chỗ, còn cái chậu này thì lành", kế xem lại mới tin là đúng.

Tối đến Áp Quan nói với chủ rằng "Trước nay ta nói ở nhà ta có nhiều hoa cỏ ai cũng ngờ là dối trá, nay phiền ông dời gót ngọc, nhân lúc sáng trăng tới xem một chuyến, nhưng mọi người đều không ai theo được, duy A Áp thì không sao". Áp vốn là tiểu đồng của Triệu, ông bèn theo lời. Ra khỏi nhà đã có bốn người khiêng kiệu chờ bên đường, Triệu bước lên thấy đi nhanh hơn ngựa phi, phút chốc vào tới núi sâu, chỉ ngửi thấy mùi hương lạ thấm vào tận xương tủy. Không bao lâu tới một tòa động phủ, thấy nhà cửa cao ráo sáng sủa khác hẳn nhân gian, nơi nào cũng đặt đá trồng hoa, chậu bồn xinh xắn ngời sáng tỏa hương, loại lan nào cũng có vài mươi chậu, thảy đều tươi tốt đẹp đẽ, Triệu xem xong Áp Quan lại sai kiệu đưa về. Áp Quan theo Triệu hơn mười năm, sau Triệu không bệnh mà chết, Áp Quan bèn dắt A Áp ra cửa không biết là đi đâu.

194. Trần Tích Cửu (Trần Tích Củu)

Trần Tích Cửu là người huyện Phì (thuộc tỉnh Giang Tô). Cha là Tử Ngôn, là bậc danh sĩ trong huyện, có nhà giàu họ Chu thấy có tiếng tăm bèn đính ước làm thông gia. Trần thi mấy lần không đỗ mà nhà lại nghèo, bèn du học tới đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) mấy năm không có tin tức gì. Chu vì vậy ngầm có ý hối hôn, lại gặp lúc gả con gái út làm vợ kế Hiếu liêm họ Vương, thấy Vương nộp sính lễ rất hậu, người mạnh ngựa khỏe nên càng chán ghét Tích Cửu nghèo hèn, quyết ý tuyệt hôn. Hỏi con gái thì nàng không chịu, Chu tức giận cho ăn mặc xấu xí đưa tới gả cho Tích Cửu, tám chín ngày bếp không nổi lửa, Chu cũng không thương xót gì lắm. Một hôm sai bà già làm thuê mang thức ăn tới cho cô gái, vào nhà nhìn mẹ Tích Cửu nói "Ông chủ sai ta tới xem cô nhà chết đói chưa". Cô gái sợ mẹ chồng xấu hổ, gượng cười nói át đi, nhân dọn thức ăn ra trước mặt mẹ. Bà già kia ngăn lại nói "Không cần làm thế, từ khi cô về đây chưa từng uống qua một chén nước suông của nhà họ, thức ăn của nhà ta chắc lão lão đây không mặt mũi nào mà ăn đâu" Bà mẹ tức xanh cả mặt lạc cả giọng, bà già cũng không sợ, lớn tiếng xỉa xói, đang lúc ầm ĩ thì Tích Cửu từ ngoài vào, hỏi biết chuyện nổi giận túm tóc người đàn bà vả vào mặt rồi tống ra khỏi cửa.

Hôm sau Chu tới đón con gái, nàng không chịu về, hôm sau nữa Chu lại tới, dắt thêm nhiều người chửi bới rầm rĩ như định gây sự đánh nhau, bà mẹ gượng khuyên cô gái về, nàng gạt lệ lạy mẹ rồi lên kiệu đi. Vài hôm sau Chu lại sai người tới bắt Tích Cửu làm tờ tình nguyện ly hôn, mẹ ép Tích Cửu viết, chỉ mong Tử Ngôn trở về sẽ tính cách khác. Họ hàng Chu có người từ Tây An (tỉnh thành Thiểm Tây) tới, biết Tử Ngôn đã chết từ lâu, bà Trần đau thương uất ức thành bệnh rồi chết. Trần lúc tang gia bối rối đợi vợ về nhưng mãi không thấy, càng thêm bi phẫn, có mấy mẫu ruộng xấu bèn đem cầm bán làm đám tang. Chôn cất xong Tích Cửu lên đường, vừa đi vừa xin ăn, tới đất Tần mong tìm hài cốt của cha.

Tới Tây An hỏi thăm khắp nơi, có người nói vài năm trước có một thư sinh chết ở quán trọ, người ta chôn ngoài cửa đông, nay mồ mả đã mất dấu. Tích Cửu không biết làm sao, chỉ còn cách sáng ra chợ ăn xin, tối vào chùa ngủ nhờ để chờ tìm người biết chỗ. Một tối đi ngang đám mả hoang gặp mấy người ra chặn đường đòi trả tiền cơm, Tích Cửu nói "Ta là người xứ khác, ăn xin ở đây, thiếu tiền cơm các vị lúc nào?". Bọn kia cùng nổi giận xúm lại đè Tích cửu xuống đất, lấy cái áo rách của trẻ con chôn ở đó nhét vào miệng rồi đấm đá. Tích Cửu kiệt sức khản tiếng, dần dần nguy cấp, chợt cả bọn hoảng sợ nói "Quan nha ở đâu tới thế này" rồi bỏ Tích Cửu ra biến mất. Giây lát có xe ngựa kéo tới sai xem người nằm là ai, lập tức có mấy người đỡ Tích Cửu lên dắt tới trước xe. Người trong xe nói "Con ta đây mà, lũ quỷ mất dạy kia sao dám thế! Đuổi ngay theo trói chúng nó lại, không được để đứa nào chạy thoát".

Tích Cửu thấy có người rút nắm giẻ nhét miệng ra, định thần nhìn kỹ thì đúng là cha mình, khóc lớn nói "Con tìm hài cốt cha khổ quá, nay cha vẫn còn sống sao?". Cha nói "Ta không phải là người mà là Tổng quản Thái Hàng, chuyến này tới đây cũng vì con đấy". Tích Cửu càng khóc lóc thảm thiết, cha dịu ngọt an ủi, Tích Cửu vừa khóc vừa kể chuyện nhạc gia hối hôn. Cha nói "Đừng lo, nay vợ con đang ở chỗ mẹ, mẹ nhớ con lắm, cứ tạm tới đó một lúc đã". Bèn bảo lên xe cùng ngồi đi như mưa bay gió cuốn, khoảnh khắc tới một nơi công thự, xuống xe vào mấy lần cửa thì thấy mẹ ở đó. Tích Cửu sụt sùi khóc nghe dạy, thấy vợ đứng gần mẹ bèn hỏi "Vợ con ở đây thì cũng đã chết rồi sao?". Mẹ đáp "Không phải, đây là cha con đón tới, chờ con về rồi sẽ đưa đi ngay". Tích Cửu nói "Con xin ở lại hầu hạ cha mẹ chứ không muốn về". Mẹ nói "Con cay đắng lặn lội tới đây chỉ vì tìm hài cốt của cha, nay nếu không về thì chí trước thế nào? Vả lại con hiếu hạnh đã thấu tới Thiên đế, người đã cho con giàu có muôn lượng vàng, vợ chồng còn được huởng nhiều lắm, sao lại nói không về?".

Tích Cửu sa nước mắt, cha hối thúc mấy lần, Tích Cửu khóc lạc cả tiếng, cha tức giận hỏi "Ngươi không đi phải không?". Tích Cửu sợ hãi nín khóc, mới hỏi mộ cha ở đâu, cha kéo đi nói "Ngươi đi thì ta sẽ nói cho, cứ ra khỏi đám mả hoang hơn trăm thước, có hai cây bạch du một lớn một nhỏ là đúng", rồi kéo đi rất gấp, cũng không kịp từ biệt mẹ. Ngoài cửa có người đầy tớ khỏe mạnh dắt ngựa đứng chờ, Cửu lên ngựa rồi cha dặn thêm "Chỗ con nằm ngủ mọi khi có chút ít tiền đi đường, phải mau mau thu xếp về ngay, tới chỗ ông nhạc đòi vợ lại, chưa đòi được thì đừng thôi". Tích Cửu vâng dạ lên đường, ngựa đi rất mau, lúc gà gáy thì tới Tây An, người đầy tớ đỡ xuống ngựa, Tích Cửu còn đang vái chào nhờ cám ơn cha mẹ thì người ngựa đã biến mất. Bèn lần về chỗ ngủ mọi hôm, dựa vào vách ngồi nghỉ chờ sáng, thấy chỗ ngồi có hòn đá to bằng nắm tay cấn vào đùi, trời sáng nhìn lại thì là một nén bạc. Liền mua quan tài thuê xe tới chỗ hai cây bạch du tìm được hài cốt cha, bốc mộ quay về.

Hợp táng với mẹ xong thì nhà không còn gì, may mà người làng thương là có hiếu đều cho ăn uống. Định đi đòi vợ nhưng tự liệu là không đủ sức đánh nhau, bèn rủ người anh họ là Thập Cửu cùng đi. Tới nhà Chu người giữ cổng chặn lại đuổi đi, Thập Cửu vốn là kẻ vô lại bèn chửi mắng ầm ĩ. Chu sai người ra khuyên Tích Cửu về, hứa sẽ đưa con gái tới ngay, Tích Cửu bèn trở về. Lúc trước cô gái về nhà, Chu trước mặt nàng cứ chửi bới con rể và bà thông gia, cô gái không nói gì chỉ quay vào vách sa nước mắt. Bà Trần chết Chu cũng không cho nàng biết, khi được tờ tình nguyện ly hôn còn ném trước mặt nàng nói "Nhà họ Trần đuổi ngươi rồi đây!". Cô gái nói "Con chưa từng hung dữ ngỗ ngược, sao họ lại đuổi con?", rồi muốn trở về hỏi cho ra lẽ, nhưng Chu cấm cản không cho đi. Sau đó Tích Cửu đi Tây An, Chu lại phao tin Tích Cửu đã chết để con gái hết trông đợi nữa. Chuyện ấy vừa đồn ra, có quan Trung hàn họ Đỗ tới hỏi cưới Chu ưng thuận, sắp tới ngày cưới cô gái mới biết, khóc lóc bỏ ăn, lấy khăn phủ lên mặt, hơi thở chỉ còn như sợi tơ.

Chu đang lúc không biết làm sao thì thấy Tích Cửu tới cổng chửi bới không nể nang gì, nghĩ rằng con gái ắt sẽ chết bèn đưa nàng tới nhà Tích Cửu, định là con gái chết rồi sẽ ra tay cho hả giận. Tích Cửu về tới nhà thì bọn người đưa cô gái cũng tới, còn sợ Tích Cửu thấy nàng bệnh nặng không chịu nhận vào, bèn khiêng vào cửa đặt xuống đó rồi ra về ngay. Láng giềng lo lắng thay, đều bàn táng trả lại cho Chu nhưng Tích Cửu không chịu, đỡ nàng lên giường thì đã tắt hơi, mới cả sợ. Đang lính quýnh thì con Chu dắt mấy người vác khí giới xông vào đập phá hết nhà cửa Tích Cửu chạy trốn, bọn kia lùng sục khắp nơi. Láng giềng ai cũng bất bình, Thập Cửu bèn họp hơn mười người xông vào đánh cứu, anh em con họ Chu đều bị đánh sứt đầu mẻ trán phải bỏ chạy. Chu càng tức giận, kiện lên quan, quan sai bắt bọn Tích Cửu Thập Cửu. Tích Cửu lúc sắp lên quan, nhờ láng giềng trông nom giúp xác vợ, chợt nghe trên giường như có tiếng thở tới gần xem thì nàng đã mở mắt ra, giây lát thì đã xoay người lại được. Tích Cửu mừng quá, lên quan phân trần, quan huyên giận Chu vu cáo, Chu sợ, phải đút lót rất hậu mới khỏi tội.

Tích Cửu trở về, vợ chồng nhìn nhau vừa mừng vừa tủi. Trước là lúc cô gái bỏ ăn nằm yên, đã định bụng quyết chết, chợt có người vào kéo dậy nói "Ta là gia nhân họ Trần đây, mau mau đi theo ta thì vợ chồng được gặp nhau, nếu không thì không kịp đâu". Nàng bất giác thấy mình đã ra ngoài cổng, có hai người đỡ lên kiệu, khoảnh khắc đã tới một nơi công thự, thấy cha mẹ chồng đều ở đó. Nàng hỏi đây là nơi nào, mẹ chồng đáp "Không cần hỏi, rồi sẽ đưa con về". Một hôm thấy Tích Cửu tới đã mừng thầm, nhưng vừa gặp đã chia tay, trong lòng lạ lùng ngờ vực. Cha chồng thì không rõ làm việc gì mà mấy ngày không về nhà, đêm sau chợt về nói "Ta ở núi Vũ Di (thuộc huyện Sùng An tỉnh Phúc Kiến) về muộn mất hai hôm, khó lòng giữ gìn cho con trai, phải đưa con dâu về ngay". Rồi lấy xe kiệu đưa cô gái về, nàng chợt thấy nhà cửa, bàng hoàng như vừa tỉnh mộng. Cô gái và Tích Cửu cùng kể lại việc đã qua, đều ngạc nhiên mừng rỡ, từ đó vợ chồng lại được sum họp, nhưng sớm tối không biết lấy gì mà ăn.

Tích Cửu bèn mở trường dạy trẻ trong thôn, lại ra sức học hành, thường tự nhủ "Cha nói trời cho nhiều tiền lắm, nay thì nhà trơ bốn bức vách, chẳng lẽ dạy trẻ con mà phát tích được sao?". Một hôm từ trường về, gặp hai người hỏi "Ông là Trần Mỗ phải không?". Tích Cửu đáp phải, hai người lập tức rút xích sắt ra xiềng lại, Tích Cửu không hiểu vì sao. Giây lát người làng xúm lại hỏi han, mới biết là bị bọn cướp trên quận khai gian. Mọi người thương là oan, gúp tiền đút lót cho hai người công sai, nhờ thế dọc đường Tích Cửu cũng không bị hành hạ. Tới quận ra mắt Thái thú, Tích Cửu kể lại gia thế, Thái thú ngạc nhiên nói "Đây là con bậc danh sĩ, dáng vẻ nho nhã như thế đời nào lại làm giặc", rồi sai tháo xiềng cho Tích Cửu giải bọn cướp lên tra tấn thật tàn nhẫn, chúng mới cùng khai là do Chu cho tiền dặn làm thế. Tích Cửu thuật lại đầu đuôi chuyện cha vợ chàng rể trở mặt vói nhau, Thái thú càng giận dữ, lập tức ra lệnh bắt Chu rồi bày tlệc mời Tích Cửu, nói chuyện thân thuộc, té ra Thái thú là con Tri huyện cũ đất Phì là Hàn công, từng là học trò của Tử Ngôn.

Kế tặng Tích Cửu một trăm lượng vàng làm tiền nghiên bút, lại đưa hai con ngựa đỡ chân, rồi vì Tích Cửu bất chợt lên quận nên hỏi lấy văn bài gởi tới các quan trên, tán tụng lòng hiếu của Tích Cửu, từ chức Tổng chế trở xuống ai cũng có quà tặng. Tích Cửu từ quận rủng rỉnh tiền bạc trở về, vợ chồng đều được an ủi rất nhiều. Một hôm vợ Chu khóc lóc tới, gặp con gái quỳ rạp xuống không đứng lên, cô gái hốt hoảng hỏi han mới biết là Chu đã bị đóng gông giam vào ngục. Cô gái khóc than tự quy tội về mình, chỉ muốn tìm cái chết. Tích Cửu bất đắc dĩ phải lên quận nài nỉ xin tha cho Chu, Thái thú bèn ra lệnh cho tự chuộc tội, phạt thêm một trăm thạch gạo, phê "Thưởng cho người con hiếu Trần Tích Cửu". Chu về tới nhà, mở kho xúc gạo lẫn cả trấu chở qua, Tích Cửu nói với cô gái "Cha nàng thật là lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, chẳng lẽ cho rằng ta sẽ nhận nên trộn trấu vào gạo à?" rồi cười từ chối không lấy.

Tích Cửu nhà tuy hơi dư dật nhưng tường cũ rào thưa, một đêm có bọn trộm vào nhà, người đầy tớ chợt tỉnh giấc la lớn nên chỉ bị mất hai con ngựa. Hơn nửa năm sau, Tích Cửu đang đêm ngồi đọc sách nghe có tiếng đập cửa, hỏi thì không thấy ai đáp, bèn gọi đầy tớ dậy cùng ra xem, vừa mở cửa thì có hai con ngựa phóng vào, chính là hai con ngựa bị mất trước đó. Hai con ngựa chạy thẳng vào tàu thở phì phì, mồ hôi ròng ròng, đốt đuốc vào soi thấy mỗi con chở một cái túi da, mở ra xem thì toàn là bạc nén trắng xóa, vô cùng kinh ngạc không biết ở đâu ra. Về sau nghe nói đêm ấy có bọn cướp lớn đến cướp nhà Chu, vơ vét đầy túi trở ra thì gặp quan quân đuổi theo rất gấp nên nhảy lên những con ngựa chở nhẹ bỏ chạy, hai con ngựa này thì nhớ nhà chủ cũ nên phóng về.

Chu từ lúc trong ngục trở về, những vết đòn tra tấn ngày càng nặng thêm, lại bị đánh cướp nên bệnh nặng rồi chết. Cô gái đêm nằm mơ thấy cha mang xiềng xích tới nói "Những việc ta làm lúc bình sinh nay hối không kịp nữa, nay bị hình phạt dưới âm ty, không phải cha chồng con thì không ai cứu được, con hãy vì ta mà xin chồng con gởi một lá thư". Nàng tỉnh dậy kêu khóc, Tích Cửu hỏi han mới biết chuyện, nhưng từ lâu cũng định tới Thái Hàng một chuyến nên ngay hôm ấy lập tức lên đường. Tới nơi sắm sửa đủ lễ vật tam sinh cúng cha, lập tức có mua sương rơi xuống chỗ ấy, chờ xem còn thấy gì nữa không thì suốt đêm yên ắng, bèn trở về. Chu chết, vợ con càng nghèo thêm, toàn nhờ con rể út chu cấp, nhưng Hiếu liêm họ Vương gặp đợt khảo xét quan huyện mắc tội tham nhũng, cả nhà bị đày đi Thẩm Dương (tỉnh Liêu Ninh) nên càng không biết nhờ cậy ai, Tích Cửu vẫn thường chu cấp cho.

Dị Sử thị nói: Điều thiện không gì lớn bằng hiếu, có thể thấu tới cả quỷ thần, lý đương nhiên là phải thế. Chứ dù kẻ đạt nhân có đức tốt mà có khi cũng nghèo khổ trọn đời, huống chi kẻ còn kém họ thì làm sao nói ráng nhất định sẽ khá được? Cũng có kẻ đem con gái cưng gả cho ông già đầu bạc mà vênh váo nói "Ông quan lớn ấy là rể ta đấy". Than ôi, trông vẫn xinh xẻo nõn nà mà khi ông chồng quan lớn chết đi cũng đã thê thảm lắm rồi, huống hồ là đàn bà trẻ theo chồng đi sung quân sao!

195. Vu Khử Ác (Vu Khử Ác)

Đào Thánh Dụ ở huyện Bắc Bình (tỉnh Hà Bắc) là kẻ sĩ có tài Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) lên kinh ứng thí, ở trọ ngoài thành. Tình cờ ra ngoài thấy một người mang tráp sách cứ quanh quẩn như chưa tìm được chỗ ở, hỏi han thì cũng là học trò, trò chuyện thấy có phong thái danh sĩ. Đào thích lắm mời về ở cùng. Khách cả mừng, mang túi vào nhà, từ đó ở chung. Khách tự nói là người phủ Thuận Thiên, họ Vu tên Khử ác, vì Đào lớn hơn nên coi như anh. Tính Vu ưa nhàn nhã, thường ở một mình trong phòng, trên bàn không có quyển sách nào, Đào mà không trò chuyện thì chỉ nằm im lặng mà thôi. Đào ngờ vực, lục lọi rương tráp thấy ngoài nghiên bút ra chẳng có gì đáng giá lấy làm lạ bèn hỏi. Vu cười đáp "Chúng ta là người đọc sách, chẳng lẽ đến lúc khát nước mới lo đào giếng sao!". Một hôm hỏi mượn sách của Đào, về phòng đóng cửa chép rất nhanh, hết ngày được năm mươi tờ. Đào rình xem thấy cứ chép xong bài nào là đốt bỏ bài ấy, càng lấy làm kỳ quái. Hỏi nguyên cớ thì Vu đáp "Ta làm thế để khỏi đọc thôi mà", bảo đọc lại nhũng sách đã sao thì đọc vanh vách một lúc vài thiên, không sai một chữ. Đào thích lắm, muốn học thuật ấy, Vu nói không được, Đào ngờ là bủn xỉn, giận dỗi trách móc.

Vu nói "Ông thật không thể tất cho ta chút nào cả! Nếu không nói ra thì không hả lòng, mà nói ra e ông ngờ sợ, làm sao bây giờ". Đào bảo cứ nói không hề gì, Vu nói "Ta không phải là người mà chỉ là ma thôi. Nay dưới âm ty cũng theo khoa mục mà trao chức quan, ngày mười bốn tháng bảy vâng chiếu khảo xét quan trường, ngày mười lăm sĩ tử vào trường, cuối tháng ra bảng!'. Đào hỏi khảo xét quan trường để làm gì, Vu đáp "Đó là ý thận trọng của Thượng đế, bất kể là quan lại tốt xấu đều phải khảo xét tất, người có văn học thì cho chấm thi, người không hiểu văn chương thì không cho dự vào. Đại khái các thần dưới âm cũng như các quan trên trần, các vị đắc chí có người không đọc kinh sử, chẳng qua chỉ là lúc còn trẻ mượn văn học để cầu công danh, trộm được chút công danh rồi thì bỏ bê việc học, giữ chức mười mấy năm thì những kẻ sĩ văn học còn chữ nghĩa gì trong bụng nữa? Cho nên trên trần gian những kẻ ít học thừa thế hãnh tiến mà kẻ anh hùng lại thất chí, chỉ vì thiếu một lần khảo xét như vậy đấy".

Đào cho là rất đúng, vì vậy càng kính sợ Vu. Một hôm Vu từ ngoài vào, có vẻ lo lắng, than rằng "Ta sinh ra nghèo hèn, tự nghĩ sau khi chết sẽ khá hơn, không ngờ xuống suối vàng vẫn còn lận đận". Đào hỏi nguyên do, Vu đáp "Nay Văn Xương* đã được phong làm Đô La quốc vương, việc khảo xét quan lại cũng bỏ luôn, thần linh trôi nổi, ma quỷ xiêu dạt mấy mươi năm đều được chấm văn, bọn ta còn trông mong gì được nữa?". Đào hỏi đám ấy là những ai, Vu đáp "Có nói ra thì ông cũng không biết, nhưng nêu qua một hai người thì cũng rõ được đại khái, như quan coi nhạc Sư Khoáng, quan giữ kho Hòa Kiểu** vậy. Ta tự nghĩ rằng mình số không thể dựa, tài không thể cậy, chẳng bằng bỏ quách không thi cho xong". Nói xong có vẻ ấm ức, định thu xếp hành lý lên đường, Đào kéo lại an ủi bèn thôi.

*Văn Xương: tức Văn Xương Đế quân, vị thần coi việc văn học khoa cử trong truyền thuyết Trung Hoa.

** Quan coi nhạc... Hòa Kiểu: Sư Khoáng là nhạc quan nước Tấn thời Xuân thu, mù mắt nhưng thẩm âm rất giỏi. Hòa Kiểu là người thời Tấn, nhà giàu nhưng tính rất keo kiệt, làm quan giữ kho của triều đình, bị Đỗ Dự chê là kẻ mê tiền. Sư Khoáng, Hòa Kiểu đây chỉ những kẻ không có đại tài đại chí nên không có độ lượng dung người.

Đến đêm rằm tháng bảy Vu nói với Đào "Ta sắp vào trường thi, phiền ông lúc sáng tinh mơ ra thắp hương ngoài cửa phía đông thành, gọi Khứ ác ba lần, ta sẽ tới", rồi ra cửa đi. Đào mua rượu nấu thức ăn chờ, khi trời vừa sáng làm theo lời dặn. Không bao lâu Vu dắt một thiếu niên tới, Đào hỏi tên họ, Vu đáp "Đây là Phương Tử Tấn, là bạn thân của ta, tình cờ gặp nhau trong trường thi, y nghe tiếng ông rất muốn làm quen". Bèn cùng nhau về chỗ Đào trọ, thắp đèn chào hỏi, thiếu niên phong thái như cây ngọc, thái độ lại rất nhu mì khiêm tốn, Đào rất yêu thích, nhân nói "Bài thi của Tử Tấn chắc rất đắc ý". Vu nói "Nói ra thì buồn cười, chứ trong trường ra bảy đề y đã làm được quá nửa, nhưng khi hỏi tới tên quan Chủ khảo bèn vứt hết bỏ ra, thật là kỳ nhân". Đào quạt lò hâm rượu bày lên, nhân hỏi "Đề thi trong trường ra sao? Khử Ác chắc đỗ đầu chứ?". Vu đáp "Thư nghệ, kinh luận mỗi thứ một đề, ai có khả năng thì làm thêm bài sách vấn". Từ xưa rất nhiều người ngăn lấp đường tà mà phong tục đến nay đã thành xấu xa tệ hại không thể gọi tên được, không phải chỉ mười tám tầng địa ngục mà đủ trừng trị, mà mười tám tầng địa ngục không đủ để trừng trị thì còn có cách nào để trừng trị? Có kẻ nói nên đặt thêm một hai ngục nữa, nhưng như thế rất trái với ý hiếu sinh của Thượng đế, vậy thì nên thêm hay không? Hay có cách nào khác để làm trong sạch ngay từ cội nguồn không? Kẻ sĩ các ngươi cứ nói hết đừng giấu diếm", bài ta làm tuy không hay nhưng được một phen khoái ý. Bài biểu thì theo đề Tạ ơn nhân dịp diệt sạch Thiên ma, ban cho các bầy tôi long mã và thiên y khác nhau. Kế là bài thơ theo đề Dao Đài ứng chế, bài phú Hoa đào ở Tây trì, ba đề ấy thì ta cho rằng trong cả trường không có bài thứ hai".

Nói xong vỗ tay, Phương cười nói "Bây giờ thì cứ để ông tha hồ khoái trá, vài hôm nữa mà không khóc ròng thì mới thật là đàn ông đấy". Trời sáng Phương muốn chào đi, Đào giữ lại ở cùng, Phương không chịu, hẹn tối sẽ tới nhưng ba ngày không thấy đâu. Đào bảo Vu đi tìm, Vu nói "Không cần, Tử Tấn là người đường đường chứ không phải là kẻ vô tâm". Mặt trời vừa xế, quả nhiên Phương tới, đưa cho Đào một quyển sách, nói "Thất hứa ba ngày là để sao lại các bài làm cũ của ta, tất cả hơn trăm bài kính nhờ ông phẩm bình". Đào mở ra đọc thích lắm, đọc một câu là khen một câu, được một hai bài thì cất vào tráp. Trò chuyện cùng nhau đến khuya, Phương bèn ở lại, ngủ cùng giường với Vu. Từ đó thành lệ, đêm nào Phương cũng tới, Đào cũng không có Phương thì không vui. Một đêm Phương hớt hải bước vào nói với Đào "Bảng đã ra, Vu Ngữ huynh trượt rồi". Vu đang nằm nghe thế hoảng sợ vùng dậy, nước mắt giàn giụa, hai người hết sức an ủi mới thôi khóc nhưng chỉ nhìn nhau im lặng, không khí nặng nề không sao chịu nổi. Phương nói "Nghe nói Đại Tuần hoàn Trương Hoàn hầu* sắp tới tuần sát, e những kẻ thi rớt sẽ đặt vè này nọ, nếu không thì văn trường sẽ có chuyện thay đổi".

*Trương Hoàn hầu: tức Trương Phi. Xem truyện Hoàn hầu.

Vu nghe có vẻ mừng rỡ, Đào hỏi nguyên cớ, Vu đáp "Hoàn hầu Dục Đức cứ ba mươi năm một lần đi tuần sát âm ty, ba mươi lăm năm một lần đi tuần sát dương thế, hai nơi ấy có điều gì bất bình cứ đợi ông ta tới là xong hết". Rồi đứng lên kéo Phương cùng đi, qua hai đêm mới trở về. Phương nói với Đào rằng "Ông không chúc mừng Vu Ngữ huynh sao? Đêm rồi Hoàn hầu tới xé nát bảng cũ, những người có tên trên bảng ba phần chỉ còn có một, lại duyệt cả lại những quyển bị chấm rớt, tìm được Vu Ngũ huynh mừng lắm, tiến cử làm Tuần hải sứ Giao Nam, chỉ sớm tối là có xe ngựa tới đón thôi". Đào mừng rỡ đặt tiệc chúc mừng, uống được vài chén, Vu hỏi Đào "Nhà ông có chỗ trống không?". Đào hỏi để làm gì, Vu đáp "Tử Tấn cô đơn không nhà cửa, lại không nỡ rời ông nên tiểu đệ muốn mượn chỗ cho y nương dựa". Đào mừng rỡ nói "Nếu thế thì quá may mắn, mà cho dù nhà cửa không rộng rãi thì ở chung phòng cũng có hề gì? Có điều nhà còn có cha già, nên ta còn phải thưa trước". Vu nói "Vốn biết tôn đại nhân nhân từ phúc hậu có thể nương dựa, ông sắp đến ngày vào trường, nếu Tử Tấn không chờ được thì về trước được không?". Đào bảo Phương cứ ở lại làm bạn ở đất khách, chờ mình thi xong sẽ cùng về.

Hôm sau trời vừa tối thì có xe ngựa tới cổng đón Vu lên đường phó nhiệm. Vu đứng lên nắm tay Đào nói "Từ nay xin vĩnh biệt, có một câu muốn nói nhưng sợ ông nhụt chí tiến thủ". Hỏi câu gì, Vu đáp "Số ông lận đận sinh không gặp thời, khoa này mười phần chỉ có một phần đỗ, khoa sau Hoàn hầu đi tuần sát dương thế, công đạo bắt đầu sáng tỏ thì mười phần có ba phần đỗ, đến khoa thứ ba mới có hy vọng". Đào nghe thế muốn thôi không thi nữa, Vu nói "Không phải đâu, đó đều là số trời, cho dù không thể biết rõ nhưng số đã khổ thì phải chịu cho hết thôi". Kế nhìn Phương nói "Đừng chần chừ nữa, sáng mai giờ ngày tháng năm đều tốt, xin đem xe lọng đưa ông về, ta cưỡi ngựa đi cũng được". Phương vui vẻ từ biệt, Đào trong lòng rối loạn mờ mịt không hiểu Vu dặn dò Phương những gì, chỉ gạt lệ đưa tiễn, thấy xe ngựa chia đường, trong chớp mắt đã đi hết, mới hối hận là Tử Tấn ra đi chưa có một lời gởi gắm, nhưng đã không kịp nữa. Thi xong ba kỳ không được như ý lắm, lặn lội trở về, vào cổng hỏi Tử Tấn thì trong nhà không ai biết cả. Nhân kể lại với cha, cha mừng rỡ nói "Nếu thế thì khách tới lâu rồi".

Trước là ông Đào ngủ trưa, nằm mơ thấy có xe lọng ngừng ở cổng, một thiếu niên đẹp trai trong xe bước ra, lên thềm vái lạy. Ông kinh ngạc hỏi có việc gì thiếu niên đáp "Đại ca hứa cho ở nhờ nhưng phải vào thi không về cùng được nên con tới trước". Nói xong xin vào lạy mẹ, ông đang ngần ngại chối từ thì bà vú trong nhà ra nói "Phu nhân sinh được công tử", giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ. Hôm ấy Đào kể lại chuyện đều khớp với giấc mộng, mới biết đứa nhỏ chính là hậu thân của Tử Tấn, hai cha con cùng mừng rỡ đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Tấn. Đứa nhỏ sinh ra rất hay khóc đêm, mẹ khổ quá, Đào nói "Nếu đúng là Tử Tấn thì thấy con vào phải nín khóc". Vì phong tục kiêng cho trẻ mới sinh thấy người lạ nên không cho Đào gặp, nhưng mẹ vì đứa nhỏ khóc không biết làm sao bèn gọi Đào vào. Đào gọi đứa nhỏ nói "Tử Tấn đừng khóc nữa, ta tới rồi đây". Đứa nhỏ đang khóc ngằn ngặt, nghe thế chợt im bặt, mở mắt nhìn Đào chằm chằm như ngắm người quen, Đào xoa đầu nó rồi bước ra, từ đó nó không khóc đêm nữa. Mấy tháng sau thì Đào không dám gặp, vì cứ thấy Đào là nó giơ tay đòi bế, bỏ đi thì khóc không chịu nín, Đào cũng phải bế nó đùa giỡn. Năm bốn tuổi đứa nhỏ rời mẹ, cứ sang ngủ chung với anh, anh đi đâu thì nằm thức đợi đến lúc về. Anh nằm dạy đọc Mao thi*, em trên gối líu lo đọc theo, một đêm thuộc hơn bốn mươi câu. Đào lấy quyển văn cũ của Tử Tấn dạy cho, đứa nhỏ vui thích học theo, đọc qua là nhớ thuộc lòng, nhưng lấy văn người khác cho đọc thử thì không thuộc ngay được.

* Mao thi: tức kinh Thi.

Lên tám chín tuổi thì mặt mày sáng láng, rõ ra là Tử Tấn. Đào hai lần đi thi hương đều rớt, đến khoa năm Đinh dậu chuyện trường thi vỡ lỡ*, các quan Giám khảo nhiều người bị trị tội, đường tiến thân của sĩ tử bắt đầu mở rộng, đó là nhờ Trương Tuần sát. Đào khoa sau thi đỗ Tú tài, kế đi thi hội nhưng nguội lạnh chí tiến thủ nên ở ẩn dạy em, thường nói với mọi người rằng "Ta có niềm vui này, quan chức cũng không thèm đổi".

*Khoa năm Đinh dậu... vỡ lỡ: theo nội dung câu chuyện thì có lẽ là năm Đinh dậu 1657 trong đời vua Thuận Trị nhà Thanh. Chưa rõ về sự kiện này.

Dị Sử thị nói: Ta thường tới miếu Trương Hoàn hầu chiêm nguỡng dung mạo, thấy lẫm liệt có sinh khí, lại lúc bình sinh thì ăn nói quát tháo như sấm sét, vung mâu thúc ngựa tới đâu cũng làm người ta ngạc nhiên vui thích. Đời cho rằng tướng quân vũ dũng nên chỉ xếp vào hàng Giáng Quán*, đâu biết Văn Xương lắm việc, phải cậy rất nhiều vào người! Than ôi, ba mươi lăm năm mới tới một lần, sao mà muộn thế!

*Giáng Quán: tức Giáng hầu Chu Bột và Quán Anh, võ thần của Hán Cao tổ Lưu Bang, đều là bậc khai quốc công thần của nhà Hán.

196. Phượng Tiên (Phượng Tiên)

Lưu Xích Thủy người huyện Bình Lạc (tỉnh Quảng Tây), còn nhỏ đã thông minh đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm đâm ra chơi bời bỏ học. Nhà không dư dật mà ưa chải chuốt, quần áo chăn nệm đều là thứ tốt đẹp. Một tối được người ta mời uống rượu, lúc đi quên tắt đèn, uống được vài chén sực nhớ ra vội quay về. Nghe trong phòng có tiếng trò chuyện khe khẽ, núp nhìn vào thấy một thiếu niên ôm một cô gái đẹp nằm trên giường. Nhà Lưu xây trên phủ đệ của một nhà quyền quý bỏ hoang, thường có nhiều chuyện quái dị nên biết ngay là hồ nhưng cũng không sợ, sấn vào quát "Giường ta cho các ngươi nằm ngáy đấy à?". Hai người hoảng hốt vơ quần áo trần truồng bỏ chạy, trên giường còn sót một cái quần lụa tía, trên dải có đính cái túi con. Lưu thích lắm nhưng sợ bị lấy trộm lại, liền giấu vào trong chăn rồi ôm chặt. Giây lát có một tỳ nữ đầu tóc rối bù bước vào, xin Lưu trả lại, Lưu cười đòi phải báo đáp. Tỳ nữ xin đổi rượu, Lưu không chịu, xin tặng vàng, cũng không chịu, bèn cười quay ra. Lát sau trở lại nói "Cô cả ta nói nếu cho xin lại thì xin đền ơn bằng một người vợ đẹp". Lưu hỏi là ai, đáp "Nhà ta họ Bì, cô cả là Bát Tiên, người cùng nằm lúc nãy là chàng họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên đã gả cho quan nhân họ Đinh ở huyện Phú Xuyên (tỉnh Quảng Tây). Cô ba là Phượng Tiên còn đẹp hơn hai cô lớn nhiều, chắc chắn chàng sẽ vừa lòng". Lưu sợ nuốt lời, nói xin ngồi chờ tin hay, tỳ nữ đi hồi lâu rồi quay lại nói "Cô cả ta nhắn với quan nhân đây là chuyện tốt lành làm sao vội vã được. Cô ta vừa nói xong thì bị cô Ba chửi mắng, phải chờ vài hôm, chứ nhà bọn ta không phải loại hứa bừa rồi nuốt lời đâu". Lưu bèn trả lại cái quần.

Qua mấy hôm vẫn không thấy tin tức gì, chập tối Lưu đi chơi về, vừa đóng cửa ngồi xuống chợt hai cánh cổng tự mở toang, có hai người lấy chăn khiêng một nữ lang, nắm lấy bốn góc chăn bước vào nói "Đưa dâu tới rồi đây!", cười đặt lên giường mà đi. Lưu tới nhìn, thấy nàng còn say chưa tỉnh, mùi rượu nồng nặc, mặt mũi đỏ hồng, xinh đẹp tuyệt trần. Lưu mừng quá, cầm chân cởi tất rồi ôm lấy nàng cởi áo xiêm ra. Cô gái hơi tỉnh hé mắt thấy Lưu nhưng không vùng vẫy gì được, chỉ tức tối nói "Con đĩ Bát Tiên bán ta rồi!". Lưu ôm ấp vuốt ve, cô gái thấy người Lưu lạnh quá, cười khẽ đọc "Đêm nay là đêm gì, Gặp chàng trai lạnh giá", Lưu nói "Cứ chờ xem nàng ơi, Thế này mà lạnh hả?", rồi ân ái với nàng. Xong rồi cô gái nói "Con nhãi vô sỉ làm bẩn giường người ta rồi đem thiếp đổi lấy cái quần à! Thế nào cũng phải trả thù".

Từ đó đêm nào cũng tới, gối chăn rất đằm thắm. Một hôm lấy cái xuyến vàng trong tay áo ra nói với Lưu "Cái này là của Bát Tiên", mấy hôm sau lại đem tới một đôi giày thêu gấm khảm ngọc cực kỳ tinh xảo, dặn Lưu cứ khoe ầm lên. Lưu đem khoe với khắp bạn bè, ai tới xem cũng tặng tiền biếu rượu, Lưu từ đó thành ra có món hàng lạ. Một đêm cô gái tới, chợt nói xin từ giã, Lưu lấy làm lạ hỏi, nàng đáp "Bà chị vì việc đôi giày mà giận thiếp, định dọn nhà đi xa để chia cách hai ta". Lưu lo lắng xin trả lại đôi giày. Cô gái nói "Không cần phải thế. Bà ấy đang định làm như vậy để ép thiếp, nếu trả lại là trúng kế đấy". Lưu hỏi sao không ở lại một mình, nàng đáp "Cha mẹ đi xa, một nhà hơn mười miệng ăn đều trông vào anh Hồ xoay xở, nếu thiếp không đi theo, sợ con mụ lắm mồm ấy lại bịa đặt này nọ". Từ đó không tới nữa.

Qua hai năm, Lưu nhung nhớ không khuây, tình cờ đi đường gặp một nữ lang cưỡỉ ngựa thong thả đi, có người lão bộc cầm dây cương chen qua sát người, qua rồi lại nhấc tấm khăn che mặt ngoảnh nhìn Lưu, phong tư vô cùng xinh đẹp. Giây lát lại có một thiếu niên phía sau vượt lên, Lưu nói "Không biết nàng ấy là ai mà đẹp quá?", rồi khen nức nở. Thiếu niên chắp tay cười nói "Ông quá lời rồi, đó là người vợ quê của ta đấy". Lưu hoảng hốt ngượng ngùng xin lỗi, thiếu niên đáp "Có gì đâu. Nhưng Nam Dương có ba ông Cát thì ông chiếm được rồng* rồi, ta thì tầm thường có gì đáng nói". Lưu nghe câu nói lấy làm ngờ, thiếu niên lại hỏi "Anh không nhận ra kẻ nằm trộm trên giường sao?", Lưu mới biết đó là chàng họ Hồ, anh em bạn rể với mình, bèn chuyện trò chọc ghẹo nhau rất vui vẻ. Thiếu niên nói "Cha mẹ mới về, ta định tới thăm, ông đi cùng không?". Lưu mừng rỡ, theo vào núi Oanh Sơn trên núi vốn có nhà dân trong huyện lánh nạn tới ở.

*Nam Dương... được rồng: thời Tam quốc anh em Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và em họ là Gia Cát Đản ẩn cư ở Nam Dương, đều có tiếng tài giỏi, trong đó Lượng tức Khổng Minh giỏi nhất, có hiệu là Ngọa Long. Sau Cẩn theo giúp Ngô, Lượng theo giúp Thục, Đản theo giúp Ngụy, người ta vì thế có câu "Thục được rồng, Ngô được hổ, Ngụy được chó". Đây ý nói Lưu lấy được người đẹp nhất trong ba chị em Bát Tiên.

Cô gái xuống ngựa vào, lát sau có mấy người ra đón, nói "Lưu quan nhân cũng tới rồi!". Vào ra mắt ông bà nhạc thấy một thiếu niên áo giày sang trọng ngồi trước ở đó, ông già nói "Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên", mọi người vái chào nhau rồi cùng ngồi. Lát sau rượu thịt bày lên la liệt, mọi người cười nói râm ran, ông già nói "Hôm nay cả ba chàng rể cùng tới chơi, có thể nói là cuộc gặp gỡ hay đẹp, lại không có người ngoài, cứ gọi cả bọn trẻ ra làm một bữa tiệc đoàn viên". Giây lát ba chị em kéo nhau ra, ông già sai lấy thêm ghế cùng cho ngồi cạnh chồng. Bát Tiên thấy Lưu cứ che miệng cười. Phượng Tiên cũng theo đà mà đùa giỡn chọc ghẹo, Thủy Tiên thì dung mạo hơi kém hơn hai người, nhưng có vẻ nghiêm trang đường bệ, cả bàn cười nói ầm ĩ mà nàng chỉ cầm chén rượu cười nụ. Rồi đó giày dép lẫn lộn, lan xạ thơm lừng, cùng nhau uống rượu vô cùng vui vẻ.

Lưu nhìn thấy ở đầu giường bày đủ nhạc cụ bèn cầm chiếc sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông già. Ông mừng rỡ, bảo ai rành loại nào thì chơi loại ấy, mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và Phượng Tiên. Bát Tiên nói "Đinh lang không rành thì thôi, chứ ngươi sao không chịu động đậy gì cả?", rồi cầm cái phách ném vào lòng Phượng Tiên, tìếng tơ trúc đan vào nhau dìu dặt. Ông già vui vẻ nói "Người nhà ta giỏi nhạc lắm! Các con đều biết múa hát, sao không trổ tài". Bát Tiên kéo Thủy Tiên đứng lên, nói "Trước nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc, không dám làm phiền nó vất vả, còn hai chị em ta có thể hát khúc Lạc Phi". Hai người múa hát vừa xong thì tỳ nữ bưng lên một cái mâm vàng đựng trái cây, không ai biết là trái gì. ông già nói "Đây là từ Chân Lạp đem qua, gọi là trái Điều Bà La", rồi cầm mấy trái đưa cho Đinh.

Phượng Tiên không vui, nói "Chẳng lẽ cha lại thương rể giàu ghét rể nghèo à?". Ông già nhếch mép chưa trả lời, Bát Tiên đã nói "Vì cha thấy Đinh lang ở huyện khác nên coi như khách đấy thôi, chứ nếu bàn về lớn nhỏ thì đâu phải chỉ em Phượng mới có chồng nghèo". Phượng Tiên vẫn không vui, cởi áo đẹp ra, đưa trống phách cho tỳ nữ rồi hát một khúc Phá dao, vừa hát vừa sa nước mắt, hát xong phất tay áo bỏ ra, mọi người đều mất vui. Bát Tiên nói "Con nhãi vẫn cao ngạo như xưa", bèn đuổi theo nhưng thấy đâu. Lưu xấu hổ cũng chào ra về, đi được nửa đường thấy Phượng Tiên ngồi bên vệ đường, gọi cùng ngồi xuống nói "Chàng là đàn ông mà không giúp vợ hả giận được à? Trong sách tự có nhà vàng, xin chàng làm được như thế", rồi đưa chân ra nói "Ra cổng đi mau, gai đâm nát cả giày rồi, vật thiếp tặng có mang theo không?". Lưu lấy ra đưa cho cô gái thay, rồi xin lại đôi đã rách.

Nàng nhoẻn miệng cười nói "Chàng cũng chảng ra sao, mấy lần thấy giữ cả những đồ dùng khi chăn gối. Nếu thương yêu nhau thì xin tặng cho vật này", rồi đưa Lưu một tấm gương, nói "Muốn thấy thiếp thì lúc nào đọc sách mỏi mệt cứ lấy ra nhìn, không thì không bao giờ thấy nhau đâu". Nói xong biến mất. Lưu buồn rầu trở về, nhìn vào gương thấy Phượng Tiên đứng quay lưng như đi xa ra hàng trăm bước, nhớ lời nàng dặn bèn tạ khách buông màn học hành. Một hôm thấy người trong gương đã quay mặt lại, chúm chím như sắp cười, càng quý tấm gương, lúc không có ai lại lấy ra ngắm nghía. Hơn tháng thì bắt đầu chán nản, đi chơi quên cả giờ về. Trở về nhìn bóng người trong gương thấy vẻ mặt rầu rĩ như muốn khóc, hôm sau lại nhìn thì thấy quay lưng lại như lúc đầu, mới hiểu ra là vì mình bỏ bê việc học hành.

Bèn đóng cửa ra sức dùi mài kinh sử ngày đêm không nghỉ, hơn tháng thì người trong gương quay mặt trở ra. Từ đó nghiệm thấy cứ lúc nào học hành bê trễ thì tỏ vẻ buồn bã, mấy ngày sau chăm chỉ lại thì tỏ vẻ vui mừng, vì vậy treo luôn tấm gương trước mặt như đang đối diện với thầy học vậy. Như thế liền hai năm, Lưu đi thi một lần đỗ ngay, mừng rỡ nói "Nay thì có thể gặp Phượng Tiên của ta rồi". Lấy tấm gương ra nhìn, thấy mày ngài cong cong, răng ngà he hé, dáng vẻ mừng rỡ hiển hiện trước mảt, nhớ quá cứ nhìn chằm chằm không chớp mắt. Chợt người trong gương nhoẻn miệng cười nói "Bây giờ mới biết thế nào là người yêu giữa bóng gương, tình nhân trong bức vẽ". Lưu mừng rỡ nhìn quanh thì Phượng Tiên đã đứng sau ghế, liền nắm tay hỏi thăm ông bà nhạc. Nàng đáp "Sau hôm chia tay thiếp không về nhà lần nào, cứ náu thân trong hang núi, từ xa chia sẻ nỗi vất vả với chàng".

Lưu đi dự tiệc mừng ở quận, cô gái xin cùng đi, cùng ngồi một xe mà không ai thấy nàng. Lúc sắp trở về, nàng bàn với Lưu giả như vừa cưới nàng ở quận, về tới nhà mới hiện thân tiếp khách, coi sóc việc nhà, mọi người đều kinh ngạc vì nàng quá đẹp chứ không biết là hồ. Lưu được cử làm việc dưới quyền quan huyện Phú Xuyên, tới đó yết kiến nên gặp Đinh, Đinh kéo về nhà khoản đãi rất trọng hậu, nói "Cha mẹ mới dời nhà qua chỗ khác, vợ ta tới thăm sắp về rồi, phải gởi thư báo để tất cả cùng tới mừng".

Lưu ban đầu tưởng Đinh cũng là hồ, đến khi hỏi kỹ họ hàng quê quán mới biết là một nhà buôn lớn ở Phú Xuyên. Nguyên một hôm Đinh từ nhà khác trở về, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy nàng đẹp liếc nhìn, nàng xin đi nhờ ngựa, Đinh mừng đưa về phòng sách ăn ở với nhau, thấy lách được qua song cửa vào phòng mới biết là hồ. Nhưng nàng nói "Chàng chớ ngờ vực, thiếp thấy chàng là người thành thực nên nguyện theo nương tựa", Đinh yêu quý nên không lấy ai nữa. Lưu về thuê một căn nhà rộng của nhà quyền quý, sắp đặt nơi ăn chốn ở cho khách, đã quét dọn sạch sẽ nhưng chưa có đủ bàn ghế vật dùng, qua đêm thì thấy phòng ốc đã được bày biện lộng lẫy. Mấy hôm sau quả có hơn ba mươi người giương cờ chở lễ vật tới, xe ngựa đông đúc chật đường. Lưu vái chào rồi đưa ông nhạc cùng Đinh, Hồ vào nhà khách, Phượng Tiên đón mẹ và hai chị vào nhà trong.

Bát Tiên nói

Bát Tiên nói "Con nhãi nay đã lên bà rồi, không oán bà mối nữa chứ. Xuyến với giày của ta còn không?". Phượng Tiên tìm đưa trả, nói "Giày thì còn đây, nhưng hàng ngàn người đã nhìn nát ra rồi". Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng, nói "Đánh cái này để gởi cho Lưu lang?". Rồi ném đôi giày vào lửa, khấn rằng:

Lúc mới như hoa tươi

Khi cũ như hoa rã

Nâng niu chưa dám dùng

Hằng Nga đà mượn đỡ

Thủy Tiên cũng khấn thay rằng:

Từng lồng búp măng ngọc

Bước ra muôn người khen

Nếu để Hằng Nga thấy

Thương bóng nguyệt không tròn

Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:

Tối tối lên trời xanh

Một sớm rời nơi cũ

Lưu lại bóng nho nhỏ

Cho cả thế gian nhìn

Rồi vun tro vào mâm, cao hơn mười phân, thấy Lưu bước vào bưng đưa, nói là Bát Tiên tặng, thấy toàn là giày thêu, hệt như đôi trước. Bát Tiên vội bước ra hất cái mâm xuống đất, chi còn lại một hai chiếc nguyên lành, lại cúi xuống thổi mới tan hết không còn dấu tích. Mấy hôm sau Đinh vì nhà ở xa nên cùng Thủy Tiên về trước, Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông già và Hồ thúc giục mấy lần, mãi đến trưa mới cùng mọi người ra về. Lúc họ mới tới, xe kiệu rầm rộ, người ra xem đông như chợ, có hai tên cướp nhìn thấy người đẹp chết mê chết mệt nên mưu chặn đường cướp lấy, lúc ấy theo dõi thấy họ đã ra khỏi thôn bèn đuổi theo, nhưng chỉ cách có một tầm tên mà giục ngựa phóng nhanh vẫn không theo kịp. Đến một chỗ đường hẹp, hai bên là vách núi, kiệu đi chậm lạỉ, chúng đuổi kịp vung đao hò hét, mọi người bỏ kiệu chạy tứ tán. Một tên xuống ngựa mở rèm thì bên trong chỉ có một bà già, ngờ là bắt lầm bà mẹ, vừa quay nhìn chung quanh thì bị chém vào tay phải rồi bị trói nghiến lại, định thần nhìn lại thấy không phải là đường núi mà là cổng phủ thành Bình Lạc, còn bà già trong kiệu là mẹ Tiến sĩ họ Lý dưới quê lên. Tên cướp tớì sau cũng bị chém chân ngựa bắt trói tại cổng thành. Lý bắt giải nộp quan Thái thú, vừa tra hỏi đã nhận tội. Lúc ấy có một tên cướp khét tiếng đang bị truy nã, hỏi ra thì chính là y. Mùa xuâu năm sau Lưu thi đỗ Tiến sĩ. Phượng Tiên cũng sợ chuốc họa nên từ chối không cho bạn bè thân thích tới chúc mừng. Lưu cũng không lấy vợ khác, lúc làm quan tới chức Thị lang mới nạp thiếp, sinh được hai trai.

Dị Sử thị nói: Than ôi, thói đời ấm lạnh, người tiên kẻ tục cũng không khác nhau sao? Lúc trẻ không gắng sức, khi già lại đau lòng, tiếc vì không có giai nhân hiếu thắng làm bóng người vui buồn trong gương vậy! Ta mong hằng hà sa số người tiên đều sai con gái cùng xuống lấy người trần cho trong cái biển bần cùng ít đi những chúng sinh khổ sở.

197. Người Khách Họ Đồng (Đồng Khách)

Đổng sinh là người Từ Châu (tỉnh Giang Tô), thích kiếm thuật, hay khoe khoang tự phụ. Tình cờ đi đường gặp một người khách, sinh trò chuyện, toàn thở ra giọng anh hùng. Hỏi tên họ, khách nói là họ Đồng người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), lại hỏi đi đâu, đáp "Ta xa nhà đã hai mươi năm, nay vừa từ hải ngoại về!'. Đổng nói "Ông ngao du bốn biển, quen biết nhiều người, có thấy ai là bậc dị nhân không?". Đồng hỏi loại dị nhân nào, Đổng bèn nói rõ sở thích của mình, lấy làm hận không được bậc dị nhân nào truyền thụ cho. Đồng nói "Ở đâu mà không có dị nhân, nhưng phải là tôi trung con hiếu thì mới được truyền thụ cho thuật ấy". Đổng hăng hái tự nói mình sẽ làm được như thế, rồi rút ngay kiếm ra, vỗ vào mà hát, lại chém đứt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Đồng vuốt râu mỉm cười, nhân mượn xem, Đổng bèn đưa cho. Đồng xem qua một lượt, nói "Đây là loại thép làm áo giáp đúc ra, còn ám mồ hôi, chỉ là hạng chót. Ta tuy chưa học kiếm thuật nhưng cũng có một thanh dùng được", rồi rút trong áo ra một thanh đoản kiếm dài khoảng một thước, cầm gọt gươm của Đổng như cắt rau dưa, cắt tới đâu sắt vụn rơi lả tả tới đó. Đổng khiếp quá, cũng xin cầm xem, múa may đâm chém mấy nhát rồi trả lại, mời Đồng ghé lại nhà, khẩn khoản mời ngủ lại, lạy lục xin học kiếm pháp.

Đồng tạ từ nói không biết, Đổng vỗ gối hứa hẹn hùng hồn, Đồng chỉ kính cẩn ngồi nghe. Đến khuya chợt ở nhà bên có tiếng quát tháo đánh trói ầm ỉ. Nhà bên là nơi cha Đổng ở, Đổng giật mình tới bên vách nghe ngóng, chỉ nghe có giọng giận dữ nói "Gọi con ngươi ra mau, ta sẽ tha cho". Giây lát lại có tiếng đánh đập, tiếng rên rỉ không dứt, đúng là tiếng của cha. Đổng cầm ngọn mác muốn xông qua, Đồng cản lại nói "Qua đó sợ không sống được đâu, xin ông nghĩ cách vạn toàn!'. Đổng hoảng sợ xin chỉ giáo, Đồng nói "Bọn cướp gọi đích danh thì đã rắp tâm giết ông. ông không có anh em gì khác, hãy trối trăn cho vợ con đã. Ta sẽ mở của giúp ông dọn dẹp đám thối tha này". Đổng theo lời vào nói với vợ, vợ níu áo khóc, Đổng bao nhiêu hùng tâm chợt tiêu tan, bèn cùng nhau lên lầu, tìm cung kiếm tên đề phòng bọn cướp đánh qua. Còn đang luống cuống thì nghe tiếng Đồng trên nóc lầu cười nói "May là bọn cướp chạy rồi!". Đốt đuốc soi thì khách đã biến mất, rón rén qua xem thì cha uống rượu ở nhà hàng xóm vừa cầm đuốc về tới, mà trước sân chỉ toàn là cọng rơm cháy dở, mới biết Đồng là bậc dị nhân.

Dị Sử thị nói: Trung hiếu là tính người, mà những kẻ làm ta con không thể xả thân vì vua cha xưa nay, buổi đầu há không có lúc hăng hái cầm mác toan xông ra đâu, chỉ vì xoay chuyển ý nghĩ một lần mà thành lầm lạc đó thôi. Xưa Giải Đại Thân đã thề cùng chết với Phương Hiếu Nhu* mà sau lại nuốt lời, có lẽ sau khi thề thốt về nhà lại nghe tiếng vợ kêu khóc ở đầu giường cũng chưa biết chừng? Trong huyện có tên lính trạm là Mỗ, thường cứ đi mấy ngày mới về, vợ tư thông với một gã vô lại trong thôn. Một hôm Mỗ vừa về tới thì gặp một thiếu niên trong phòng vợ đi ra, vô cùng ngờ vực, căn vặn thì vợ khăng khăng chối. Kế tìm được đồ vật của thiếu niên để quên ở đầu giường, vợ cứng họng không sao chối được nữa, chỉ quỳ lạy xin tha tội. Mỗ giận quá, vứt cho cuộn dây bắt tự thắt cổ, vợ xin trang điểm rồi chết, Mỗ ưng thuận. Vợ bèn vào phòng trang điểm, Mỗ ngồi ngoài uống rượn chờ, chủi mắng thúc giục. Lát sau vợ ăn mặc lộng lẫy bước ra, sa lệ lạy nói !'Chàng quả nhẫn tâm bắt em chết sao?", Mỗ làm ra vẻ giận dữ quát tháo, vợ quay vào đang thắt dây thì Mỗ dằn chén gọi "Thôi ra đây, một thằng đội khăn xanh** chắc không thể bắt người khác chết được!", rồi lại ăn ở với nhau như cũ. Đó cũng là loại người như Đại Thân, nghĩ cũng buồn cười.

*Giải Đại Thân... Phương Hiếu Nhu: tức Giải Tấn và Phương Hiếu Nhu thời Minh, đều nổi tiếng văn chương, làm quan dưới triều Huệ đế. Lúc Yên vương (sau là Minh Thành tổ) dấy quân đánh Huệ đế, hai người cùng Chu Thục Tử, Vương Lương, Ngô Bạc, Hồ Hoàng hẹn cùng sống chết giúp Huệ đế. Kế Giải sai người tới nghe ngóng xem Hồ Hoàng động tĩnh ra sao, nghe Hồ hỏi người nhà cho heo ăn chưa. Giải nghe thế cười nói "Một con heo còn không chịu bỏ thì làm sao chịu bỏ tính mạng", rồi không nghĩ gì tới lời hứa nữa. Sau Yên vương đánh chiếm Nam Kinh, Phương Hiếu Nhu bị bắt không chịu đầu hàng, bị giết cả mười họ giữa chợ, chỉ có Vương Lương đóng cửa kêu khóc rồi uống thuốc độc chết theo, còn còn những người kia đều nuốt lời ra làm quan với Minh Thành tổ.

**Đội khăn xanh: thời Xuân thu có hạng đàn ông cho vợ và con gái làm đĩ, gọi là "xướng phu", phải đội khăn xanh để phân biệt với người khác.

198. Ái Nô (Ái Nô)

Từ sinh người huyện Hà Gian (tỉnh Hà Bắc), tới dạy học ở huyện Ân (tỉnh Sơn Đông), đầu tháng chạp về nhà. Trên đường gặp một ông già nhìn kỹ rồi hỏi "Từ tiên sinh nghỉ dạy rồi à, sang năm sẽ mở lớp ở đâu?". Sinh cười đáp "Vẫn chỗ cũ". Ông già nói "Ta tên Kính Nghiệp họ Thi, có đứa cháu gọi bằng cậu đang tìm thầy giỏi, vừa nhờ người tới Đông Chàng mời ông Lữ Tử Liêm, nhưng ông ta đã nhận tiền dạy ở Tắc Môn (tỉnh Sơn Đông). Nếu tiên sinh nhận dạy cho, thì số lương xin trả gấp đôi ở huyện Ân". Từ lấy cớ đã hứa với chỗ cũ từ chối, ông già nói "Thủ tín như thế thật là quân tử, nhưng từ nay đến năm mới cũng còn khá lâu, xin dâng một lượng vàng bái kiến, mong tiên sinh tạm lưu lại dạy cho cháu, sang năm sẽ bàn lại, được không?" Từ bằng lòng. Ông già xuống ngựa dâng phong bao lễ vật rồi nói "Nhà ta không xa lắm, có điều hơi chật hẹp, khó chứa súc vật. Xin tiên sinh cho ngựa với đầy tớ về, đi bộ với ta cũng hay". Từ nghe theo, đem hành chất lên ngựa của ông già, đi ba bốn dặm, trời sập tối mới tới nhà, thấy cửa đóng đinh đồng nổi, tay nắm chạm thú, rõ ràng là nhà thế gia. Ông già gọi cháu ra vái chào, là một đồng tử khoảng mười ba mười bốn tuổi. Ông già nói "Em rể ta là Tưởng Nam Xuyên, lúc sống làm Chỉ huy sứ, chỉ để lại có đứa con này, cũng không phải ngu độn, chỉ là quen tật lười biếng thôi, nay được tiên sinh đạy đỗ cho một tháng thì hơn học mười năm".

Không bao lâu dọn tiệc mời rất linh đình, nhưng lên xuống phục dịch toàn là tớ gái, có một tỳ nữ cầm hồ rượu đứng chầu chực, tuổi khoảng mười lăm mười sáu trở lại, rất mực phong vận, khiến Từ thấy xao xuyến. Tiệc tan, ông già sai thu xếp chỗ ngủ cho Từ xong mới cáo từ đi ra. Trời chưa sáng đứa nhỏ đã tới phòng học, Từ vừa dậy đã có tỳ nữ tới hầu khăn lược, chính là nàng cầm hồ rượu tối qua. Ngày ba bữa cơm đều do nàng mang lên, tối đến lại tới dọn giường. Từ hỏi sao không có tớ trai, chỉ cười không đáp, trải nệm xong là đi. Hôm sau lại tới, Từ theo vào trêu cợt, nàng cười không chống cự, rồi ôm ấp nhau, nhân nói "Nhà này không có đàn ông, những việc bên ngoài thì nhờ cậu Thi. Thiếp tên ái Nô, phu nhân kính mến tiên sinh, sợ đám tớ gái không được sạch sẽ nên cho thiếp lại hầu. Nay phải giữ kín việc này, nếu để lộ ra thì cả hai sẽ mất mặt đấy". Một đêm nằm chung rồi ngủ quên đến sáng, bị công tử bắt gặp.

Từ xấu hổ, trong dạ bất an, đến tối, Ái Nô tới nói "May là phu nhân trọng chàng, nếu không thì hỏng cả rồi. Công tử vào kể, phu nhân vội bịt miệng không cho nói, như là sợ chàng nghe được, mà cũng chỉ dặn thiếp đừng ở lâu trong phòng học thôi", nói xong đi ngay. Từ vô cùng biết ơn phu nhân. Nhưng công tử không chăm học, Từ quở trách thì phu nhân cứ tìm cách xin cho, lúc đầu còn sai tỳ nữ, dần dần đích thân ra đứng ngoài cửa nói với thầy, vừa nói vừa khóc, mà cứ tối đến lại hỏi con về bài vở ban ngày. Từ chịu không nổi, tức giận nói "Đã dung túng cho con lười biếng, lại hối thúc ép con siêng năng, làm thầy loại học trò ấy thì ta không quen, xin phép cáo từ". Phu nhân sai tỳ nữ tới tạ lỗi, Từ mới thôi. Từ ngày vào dạy, lần nào muốn ra ngoài ngắm cảnh cũng thấy cửa nẻo khóa chặt, một hôm uống rượu say thấy bực tức gọi tỳ nữ hỏi nguyên cớ, nàng đáp "Không có gì khác đâu, chỉ vì sợ công tử bỏ bê việc học thôi. Nếu tiên sinh nhất định muốn ra ngoài, xin chờ lúc ban đêm". Từ nổi giận nói "Nhận vài đồng vàng rồi phải chịu cấm cố đến chết à? Bảo ta ban đêm trốn ra, là đi đâu? Lâu nay vẫn xấu hổ vì chỉ ăn không, tiền lương vẫn còn trong túi đây". Bèn lấy vàng ra đặt lên bàn, thu xếp hành trang định đi. Phu nhân bước ra, im lặng không nói câu nào, chỉ lấy tay áo che mặt nghẹn ngào, sai tỳ nữ đưa lại vàng, mở khóa tiễn ra. Từ thấy cửa nẻo chật chội, nghiêng mình lách ra đi vài bước chợt có ánh nắng soi tới, té ra mình vừa dưới mộ chui lên. Nhìn bốn phía thấy hoang vắng tiêu điều, thì là một ngôi mộ cũ, cả sợ nhưng lại cảm vì có nghĩa, bèn bán vàng đắp mộ cao lên, trồng cây chung quanh rồi đi.

Năm sau Từ lại qua ngang chỗ ấy, ghé vào lễ bái rồi lên đường, thấy ông Thi từ xa tới cười nói thăm hỏi rồi khẩn khoản mời mọc. Từ biết là ma nhưng muốn nhân dịp hỏi thăm phu nhân nên theo vào thôn, vào quán gọi rượu cùng uống, trời tối lúc nào không biết. Ông già đứng lên trả tiền rượu rồi nói "Nhà ta không xa mấy, em gái ta cũng vừa về thăm nhà, mong tiên sinh dời gót ngọc tới chơi, để quét sạch rủi ro giùm lão phu". Ra khỏi làng vài chặng lại có một dãy nhà, ông già gõ cửa vào, cầm đèn dẫn khách vào. Một lát Tưởng phu nhân ra chào, lúc ấy Từ mới nhìn kỹ, thì là một người đẹp khoảng bốn mươi tuổi. Phu nhân lạy tạ nói "Dòng họ sa sút, nhà cửa tiêu điều, ơn đức của tiên sinh thấm tận xương khô, thật không biết lấy gì báo đáp". Nói xong khóc ròng, kế gọi Ái Nô ra, nhìn Từ nói "Thiếp vốn yên mến đứa tỳ nữ này, nay xin đưa tặng để tiên sinh đỡ vắng vẻ nơi đất khách, mà có cần gì nó cũng hơi biết đón ý", Từ dạ dạ. Lát sau hai anh em đi ra, để Ái Nô ở lại hầu hạ. Gà vừa gáy ông già đã tới đưa tiễn, phu nhân cũng ra dặn tỳ nữ phụng sự tiên sinh cho chu đáo, lại nói với Từ "Từ nay trở đi càng nên kín đáo, chuyện hai người gặp gỡ nhau quá lạ lùng, e những kẻ hiếu sự lại đặt điều nọ kia". Từ dạ rồi cáo từ, cùng Ái Nô cưỡi chung ngựa. Tới nơi dạy chỉ ở một phòng, ăn ngủ với nhau, lúc có khách nàng không tránh đi mà người ta cũng không nhìn thấy. Từ vừa hơi muốn gì là nàng đã làm ngay, lại giỏi môn đồng cốt, bị bệnh gì chỉ xoa bóp một lần là khỏi.

Đến tiết Thanh minh hai người cùng về khu mộ, nàng chào bước xuống, Từ dặn cho gởi lời cám ơn phu nhân, nàng vâng dạ rồi biến mất. Mấy hôm sau Từ quay lại, đang định tìm quanh mộ thì đã thấy nàng ăn mặc lộng lẫy ngồi dưới gốc cây, bèn cùng lên đường, cả năm thường đi lại như thế. Từ muốn cùng nhau về quê, nàng nhất quyết không chịu. Cuối năm từ biệt nơi dạy về đó, hẹn ngày gặp lại, nàng đưa tới chỗ ngồi hôm trước, chỉ đống đá nói "Đây là mộ của thiếp. Lúc phu nhân chưa xuất giá, thiếp đã theo hầu hạ, chết yểu chôn ở đây. Nếu chàng qua ngang, cứ thắp cho một nén hương, sẽ gặp lại nhau". Sau khi chia tay về quê, Từ vô cùng nhớ nhung, tới đó khấn khứa nhưng tuyệt không thấy tăm hơi, bèn mua hòm quật mộ định mang hài cốt nàng về quê để ghi nhớ một thời yêu dấu. Huyệt vừa mở ra, Từ tự bước xuống, thấy nàng nhan sắc vẫn như còn sống nhưng tuy thịt da chưa nát mà y phục đã mủn ra như tro, trâm ngọc xuyến vàng đều còn mới, lại nhìn tới thắt lưng thấy có cái gói bọc mấy nén vàng bèn cuốn lại giắt vào lưng. Rồi cởi áo ngoài đắp lên xác nàng, ôm đặt vào quan tài, thuê xe chở về mang vào một gian nhà riêng, mặc xiêm áo thêu cho, một mình ăn ngủ bên cạnh để chờ linh ứng.

Bỗng Ái Nô từ ngoài vào cười nói "Tên giặc cướp mộ ở đây à?", Từ ngạc nhiên mừng rỡ hỏi thăm, nàng nói "Hôm trước thiếp theo phu nhân qua phủ Đông Xương (tỉnh Sơn Đông) ba ngày, trở về thì nhà cửa đã trống không. Nhiều lần bảo cùng về vẫn không nghe là vì thiếp chịu ơn phu nhân từ nhỏ nên không nỡ xa lìa mà thôi. Nay đã cướp xác về đây xin chôn cất sớm cho thiếp được đội ơn sâu". Từ hỏi "Xưa có người chết đã trăm năm vẫn sống lại được, nay xác nàng còn nguyên, sao không làm theo như thế?". Nàng than rằng "Chuyện đó là có định số, chứ những sự linh dị mà thế gian đồn đại quá nửa là huyễn hoặc. Nếu thiếp muốn đứng lên đi lại cũng chẳng có gì khó, chỉ hiềm không thể giống như người sống nên không làm thôi". Rồi mở quan tài bước vào, cái xác liền đứng dậy, rỡ ràng khả ái, nhưng sờ vào người thì thấy lạnh như băng.

Nàng toan nằm lại vào quan tài, Từ cố ngăn cản thì nói "Thiếp được phu nhân yêu mến rất mực, chủ nhân đi làm ăn xa về có mấy vạn lượng vàng, thiếp lấy trộm một ít cũng không tra hỏi ráo nết. Sau lúc ốm nặng sắp chết, lại không có ai là thân thích bèn giấu kỹ trong người để cùng chôn một chỗ. Phu nhân thương thiếp chết yểu, lại liệm thêm nhiều châu báu nên sở dĩ xác thân chưa nát chẳng qua là nhờ chút hơi thừa của vàng bạc châu báu thôi, nếu hiện thân sống ở đời thì làm sao lâu dài được? Như chàng nhất quyết muốn thế thì xin đừng ép thiếp ăn uống, nếu làm linh khí tan mất thì du hồn cũng phải tiêu tan", Từ bèn dựng một gian tịnh xá để ở với nhau. Nàng cười nói như người thường nhưng không ăn không ngủ, không gặp người lạ. Hơn năm sau Từ uống rượu hơi say, cầm chén ép đổ cho nàng, nàng lập tức ngã lăn xuống đất, máu trong miệng chảy ra đầm đìa, hết ngày thì thân xác tan rã. Từ hối hận thì việc đã rồi, bèn chôn cất thật hậu.

Di Sử thị nói: Phu nhân dạy con chẳng khác gì người trần, nhưng đối xử với thầy sao mà hậu như vậy? Há chẳng cũng hiền sao? Ta vẫn nói nhà giàu sang không bằng ma phong nhã, nhưng lại gởi gắm lầm cho gã tục tử thô mãng, để đến nỗi vật linh không sống được lâu dài, tiếc thay!

Chu sinh ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) vốn ngang tàng, dạy học ở nhà Cống sĩ Mỗ. Cứ mỗi lần trách phạt học trò thì người mẹ lại sai tớ gái tới xin tha, nhưng sinh không nghe. Một hôm tự tới ngoài cửa nói với thầy, Chu nổi giận vớ lấy thước mắng lớn xông ra, người đàn bà hoảng sợ bỏ chạy, Chu đuổi theo đánh với trúng vào mông nghe bồm bộp, nghĩ mà buồn cười.

Mỗ ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) mỗi năm rước thầy thì giao hẹn đến cuối năm mới tính toán công xá một lần, cả năm thì tính từng ngày, ngày nào thầy đi vắng đều ghi rõ để cuối năm trừ lại. Mã sinh dạy ở đó, lúc đầu thấy y mang bàn tính tới, biết nguyên do rất sợ, sau nghĩ ra một kế bèn đổi giận làm lành, cứ nghe y tính toán, không cãi vã thêm bớt gì cả. Y vì thế vui lắm, cứ nhất định mời sang năm lại tới dạy, Mã lấy cớ phải về quê để từ chối. Nhưng có Mỗ sinh hiệu là Quai Mậu, Mã giới thiệu dạy thay mình. Mỗ tới dạy thì động một tí lại chửi mắng, y không bỉết làm sao đành cố nhịn. Cuối năm mang bàn tính tới, sinh bừng bừng nổi gỉận nhưng cũng cố nhịn ngồi nghe tính toán. Y tính cả những ngày đi đường cho thầy, sinh không nghe, bắt nhà chủ phải chịu. Hai bên cãi nhau không ai chịu ai, vác gậy đánh nhau, cả hai đều sứt đầu mẻ trán, dắt nhau lên quan thưa kiện.

199. Tiểu Mai (Tiểu Mai)

Vương Mộng Trinh ở huyện Mông Âm (tỉnh Sơn Đông) là con nhà thế gia, tình cờ đi chơi Chiết Giang thấy một bà già ngồi khóc trên đường. Hỏi han, bà đáp "Chồng ta đã chết chỉ để lại có một đứa con trai, nay nó phạm tội tử hình, ai mà cứu được?" Vương vốn khẳng khái bèn ghi nhớ họ tên rồi bỏ tiền túi lo lót, kế được tha tội. Người kia ra khỏi ngục nghe nói là Vương cứu mình, ngỡ ngàng không hiểu vì sao, tìm tới nhà trọ khóc lạy tạ rồi hỏi. Vương đáp "Không có gì khác, chỉ là vì ta thương mẹ ngươi già cả mà thôi". Người kia cả sợ, nói mẹ mình đã chết lâu rồi, Vương cũng lấy làm lạ. Đến tối bà già tới tạ ơn, Vương trách là lừa dối, bà nói "Nói thật ta là con hồ già ở Đông Sơn, hai mươi năm trước có gặp gỡ cha thằng bé một đêm, nên không nỡ để người đã chết đau khổ". Vương rợn người đứng lên tỏ vẻ kính trọng, định hỏi thêm cho rõ thì bà già biến mất.

Trước đó vợ Vương vốn hiền thục, mộ đạo Phật, không uống rượu. Trong nhà dành riêng ra một gian phòng sạch sẽ treo hình Quan âm để cầu con trai nối dõi, hàng ngày thắp hương khấn khứa. Mà Thần Phật lại rất linh thiêng, thường báo mộng dạy những điều cần tránh, nhờ vậy mọi việc trong nhà đều theo dó mà làm. Sau vợ Vương mắc bệnh nặng bèn sai dời giường vào gian thờ, lại đặt riêng một chiếc nệm gấm trong phòng mà thường đóng kín cửa như giấu diếm điều gì. Vương cho là tin nhảm nhưng lại nghĩ rằng vợ bệnh nặng mê sảng nên không nỡ trái ý. Vợ Vương mắc bệnh hai năm, rất ghét tiếng ồn, thường che màn nằm một mình, lắng nghe thì như đang nói chuyện với người nào nhưng mở cửa nhìn thì không có ai. Lúc nằm bệnh không lo lắng điều gì, duy có đứa con gái mười bốn tuổi, chỉ ngày ngày lo sửa soạn quần áo cưới bảo lấy chồng. Con gái lấy chồng rồi, nàng gọi Vương tới cạnh giường cầm tay nói "Nay xin vĩnh biệt. Khi thiếp vừa mắc bệnh, Bồ Tát đã báo mộng nói không còn sống lâu được, nhưng niệm tình còn có chuyện chưa làm xong nên ban cho ít thuốc kéo dài hơi tàn đợi đến lúc gả chồng cho con. Năm ngoái Bồ Tát trở về Nam Hải, lưu lại thị nữ Tiểu Mai săn sóc cho thiếp. Nay sắp chết, người bạc phận không sinh nở được, thiếp rất thương Bảo Nhi, sợ chàng lấy phải vợ ghen thì mẹ con mất nơi nương tựa. Tiểu Mai xinh đẹp lại hiền thục, chàng nên cưới làm vợ kế".

Vương vốn có người thiếp sinh được một trai đặt tên là Bảo Nhi, lúc ấy cho lời vợ là hoang đường, bèn hỏi "Nàng vẫn thờ kính Thần Phật, nay nói những lời như thế, chẳng cũng bất kính ư?". Vợ đáp "Tiểu Mai săn sóc thiếp hơn một năm nay không nề vất vả, thiếp đã nài nỉ khẩn cầu rồi". Hỏi Tiểu Mai đâu, vợ nói "Không có trong phòng sao?", Vương định hỏi nữa thì nàng nhắm mắt tắt thở. Đêm ấy Vương thức giữ linh cữu, nghe trong phòng có tiếng nức nở, cả sợ ngờ là ma, gọi đám tớ gái mở khóa vào xem thì thấy là một cô gái xinh đẹp khoảng mười sáu tuổi mặc áo tang. Mọi người cho là thần cùng cúi lạy, cô gái lau nước mắt đỡ dậy. Vương chăm chú nhìn, nàng chỉ cúi đầu. Vương nói "Nếu lời trối của người đã khuất là đúng thì mời nàng lên nhà trên cho con trẻ, đầy tớ trong nhà lạy chào, nếu không thì ta cũng không dám vọng tưởng để mắc phải tội lỗi". Nàng đỏ mặt bước ra, cùng lên nhà trên, Vương sai tớ gái trải chiếu rồi bước vào lạy trước, cô gái cũng lạy trả, kế tới mọi người trong nhà theo thứ tự lớn nhỏ ra vái lạy. Nàng nghiêm trang ngồi nhận lễ, duy đến lượt người thiếp thì đứng lên đỡ dậy.

Từ khi vợ Vương mắc bệnh nằm liệt giường kẻ ăn người làm sinh thói lười biếng ăn cắp, việc nhà đã lâu không có ai coi sóc. Mọi người làm lễ ra mắt xong, xếp hàng đứng hầu, cô gái nói "Ta cảm lòng thành của phu nhân nên lưu lại trần gian, lại được ủy thác cho việc lớn. Các ngươi đều nên tự mình sửa đổi, gắng sức cho chủ, những lỗi lầm trước đây ta không hỏi tới, nếu không thì đừng nói trong nhà không có người". Mọi người cùng nhìn lên thấy nàng giống hệt bức tranh Quan âm lay động lúc có làn gió thổi qua, nghe thế run sợ đều dạ ran. Nàng cắt đặt mọi người lo việc tang đâu vào đấy, từ đó lớn nhỏ trong nhà không ai dám trễ nải. Cô gái cả ngày lo toan công việc trong ngoài, Vương định làm gì cũng hỏi qua nàng mới làm. Tuy một ngày gặp nhau mấy lần, nhưng không nói một câu riêng tư. Sau tang lễ Vương muốn nhắc lời vợ dặn nhưng không dám nói thẳng bèn nhờ người thiếp ngỏ ý. Cô gái nói "Ta đã nhận lời phu nhân dặn dò cặn kẽ, không thể từ chối, nhưng hôn phối là việc lớn, không thể quấy quá. Hoàng tiên sinh là vai bác, ngôi cao đức lớn, xin mời ông làm chủ hôn thì ta xin vâng mệnh".

Lúc bấy giờ quan Thái bộc họ Hoàng ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) đã về trí sĩ, là bạn của cha Vương, vẫn đi lại thân thiết với nhau. Vương lập tức tới thăm kể rõ mọi việc, Hoàng lấy làm lạ bèn cùng tới nhà Vương, cô gái nghe báo liền ra lạy chào. Hoàng vừa trông thấy, kinh ngạc cho là người tiên, không dám nhận lễ, kế tặng quà rất hậu, làm đám cưới xong rồi về. Cô gái đưa tặng gối êm giày ấm, chu đáo như thờ cha mẹ chồng, từ đó hai nhà càng thêm thân thiết. Sau lễ hơp cẩn, Vương vẫn coi nàng là thần nên trong lúc yêu đương vẫn có phần cung kính, thỉnh thoảng lại dò hỏi về việc Bồ Tát ăn ở ra sao. Cô gái cười nói "Chàng thật ngốc quá, làm gì có chuyện thần thánh nào lấy người trần thế?". Vương lại căn vặn nàng từ đâu tới, nàng đáp "Không cần phải hỏi kỹ, nếu cho là thần thì cứ sớm tối thờ phụng, sẽ không mắc tội". Cô gái với người dưới thường khoan dung, lúc nào nói cũng cười nhưng đám tớ gái đang đùa giỡn với nhau vừa thấy bóng nàng là im bặt. Nàng cười bảo "Chẳng lẽ các ngươi còn cho ta là thần sao? Ta mà là thần thánh gì, thật ra là em phu nhân, nhưng ít khi đi lại, chị ta ốm nhớ em nên ngầm nhờ bà Vương ở thôn nam gọi ta tới, ở đây sợ ngày đêm gần gũi anh rể có điều không tiện nên nói thác là thần, ở kín trong phòng chứ thật ra có phải là thần thánh gì đâu!". Mọi người vẫn chưa tin lắm nhưng hàng ngày hầu hạ bên cạnh thấy nàng chẳng khác gì người thường nên những lời bàn tán cũng hết dần.

Nhưng với đám tôi tớ ngu si bướng bỉnh mà Vương đánh mắng vẫn không dạy dỗ được, nàng chỉ nói một câu là ai cũng ngoan ngoãn vâng lời, đều nói "Không rõ vì sao, chứ thật ra không sợ hãi gì nhưng cứ thấy mặt nàng là mềm lòng, không nỡ làm điều gì trái ý". Từ đó mọi việc trong nhà đều tốt đẹp lên, trong vài năm mà ruộng tốt liền bờ, kho thóc đầy ắp. Vài năm sau người thiếp sinh một gái, nàng cũng sinh một trai, đứa nhỏ mới sinh ra đã có một nốt ruồi son trên cánh tay phải, nhân đặt tên là Tiểu Hồng. Lúc đầy tháng, cô gái bảo Vương làm tiệc lớn mời Hoàng, Hoàng gởi quà mừng rất hậu nhưng từ tạ không tới vì già yếu không đi xa được, nàng sai hai bà già qua nài nĩ Hoàng mới tới. Nàng bế đứa nhỏ ra vạch tay trái để giải thích tên con, lại hỏi đi hỏi lại rằng nốt ruồi ấy là tốt hay xấu. Hoàng cười đáp "Đo như thế là tốt, nên thêm một chữ vào tên, gọi là Hỷ Hồng". Nàng mừng lắm bước ra lạy tạ.

Hôm ấy đàn sáo vang nhà, thân thích tới mừng đông nghẹt, Hoàng ở chơi ba ngày mới về. Chợt ngoài cổng có xe ngựa tới đón cô gái về thăm nhà, mọi người vì suốt mười năm không hề thấy nàng có họ hàng gì lui tới nên đều xôn xao bàn tán. Nhưng cô gái làm như không nghe thấy, cứ sửa soạn hành trang bế con đi, bảo Vương theo tiễn. Vương đi theo, được khoảng hai ba mươi dặm tới một chỗ vắng, cô gái dừng xe gọi Vương xương ngựa lên buông rèm trò chuyện, nói "Vương lang, Vương lang! Sum họp ngắn ngủi, chia ly lâu dài, chàng có đau lòng không?" Vương hoảng sợ hỏi nguyên do, nàng nói "Chàng biết thiếp là ai không?". Vương đáp không biết, nàng hỏi "Trước đây chàng có cứu một người bị tội chết ở Giang Nam, đúng không?", Vương đáp có. Cô gái nói "Bà già khóc trên đường ấy là mẹ thiếp, vì cảm nghĩa của chàng nên nghĩ cách báo đáp, mới nhân việc phu nhân mộ đạo Phật bảo thiếp giả làm thần, thật ra là để đem thiếp báo ơn chàng. Nay may mắn sinh được đứa con này, thế là toại nguyện. Thiếp thấy chàng sắp đến vận xấu, nếu để đứa nhỏ này ở nhà e không nuôi được, nên phải mang theo để tránh tai ách cho con. Chàng nhớ là lúc nào trong nhà có ai chết thì cứ lúc gà gáy canh đầu phải tới rặng liễu trên bờ đê Tây Hà, chờ người cầm đèn lồng hoa quỳ tới đón đường cầu khẩn mới có thể thoát nạn". Vương hứa sẽ nhớ, lại hỏi ngày trở lại, nàng đáp "Không thể tính trước, nhưng chỉ cần chàng nhớ kỹ lời thiếp thì ngày tái ngộ cũng không xa lắm đâu". Lúc lên đường cầm tay Vương khóc ròng, kế lên xe đi nhanh như bay, Vương nhìn theo đến khi khuất bóng mới quay về.

Sáu bảy năm sau Tiểu Mai vẫn bặt tăm, chợt bệch dịch lan tràn khắp nơi, người chết như rạ. Một người tớ gái trong nhà bị bệnh ba ngày rồi chết, Vương vẫn nhớ lời cô gái dặn nhưng hôm ấy có khách, uống rượu say ngủ quên, tỉnh dậy nghe tiếng gà gáy vội tìm ra rặng liễu trên đê, thấy có ánh đèn le lói song đã xa rồi, vội đuổi theo nhưng đi được một bước thì thấy xa thêm trăm bước, càng duổi theo thì ánh đèn càng xa, dần dần không thấy đâu nữa. Vương buồn rầu trở về, vài hôm sau mắc bệnh nặng rồi chết. Họ hàng Vương có nhiều kẻ vô lại, thấy thế cùng ức hiếp con côi vợ góa, lúa ruộng trái vườn công nhiên gặt hái, nhà cửa ngày càng sa sút. Qua năm sau Bảo Nhi lại chết, trong nhà không có ai là chủ, bọn chúng càng ngang ngược, chiếm hết ruộng vườn, bắt hết trâu ngựa. Lại muốn chia nhau cả nhà cửa, vì người thiếp của Vương còn ở đó bèn dắt mấy người tới bắt ép đem bán. Người thiếp thương đứa con gái nhỏ, mẹ con bịn rịn khóc lóc, láng giềng đều thương xót.

Đang lúc nguy cấp chợt nghe ngoài cổng có tiếng xe ngựa đỗ lại, mọi người nhìn ra thì Tiểu Mai dắt con trai bước xuống. Nàng nhìn quanh thấy mọi người đang nhao nhao như cái chợ, bèn hỏi đó là ai, người thiếp khóc lóc kể lại. Cô gái biến sắc mặt, lập tức sai người theo hầu đóng cổng khóa lại. Bọn kia toan chống cự nhưng tay chân tự nhiên nhũn ra, cô gái ra lệnh trói tất cả lại vào cột nhà, mỗi ngày cho ăn ba bát cháo loãng, sai một lão bộc tới báo ngay cho ông Hoàng, kế vào nhà khóc lóc thảm thiết rồi nói với người thiếp rằng "Đó là số trời, ta đã định về từ tháng trước lại vì mẹ ta ốm nặng nên chần chừ đến nay, không ngờ trong chớp mắt chàng đã thành người thiên cổ!". Lại hỏi tới các tôi tớ cũ thì đều bị người trong họ cướp đi, càng thêm thương cảm.

Hôm sau tôi tớ nghe tin nàng tới đều trốn về, gặp lại nhau đều sa nước mắt. Bọn người trong họ bị trói cùng kêu rằng đứa nhỏ kia không phải là con Mộ Trinh, cô gái cũng không thèm tranh cãi. Kế ông Hoàng tới, nàng dẫn con ra đón, Hoàng cầm tay đứa nhỏ kéo tay áo bên trái lên thì nốt ruồi son vẫn còn đó, bèn chỉ cho mọi người thấy chứng cứ đích xác. Liền hỏi kỹ về những vật đã mất, những người đã lấy, biên hết vào sổ báo lên quan huyện. Quan bắt tất cả bọn vô lại lên đánh mỗi tên bốn chục roi giam lại rồi lục soát nhà cửa, ruộng đất trâu ngựa đều trở về chủ cũ. Hoàng sắp về cô gái dắt con ra khóc lạy rồi nói "Thiếp không phải là người trần, chú đã biết rổi. Nay xin đem đứa con côi này gởi gắm cho chú". Hoàng đáp "Lão phu còn một hơi thở cũng cố lo lắng cho nó". Hoàng về rồi, cô gái xếp đặt việc nhà xong, gởi con cho người thiếp rồi mang lễ vật ra mộ cúng chồng, nửa ngày không về, ra xem thấy mâm bàn rượu thịt vẫn còn đó mà người đã biến mất.

Dị Sử thị nói: Không để người phải tuyệt tự thì người cũng không để mình phải tuyệt tự, đó là việc người nhưng thật ra cũng là đạo trời. Còn tới như trên tiệc có bạn hiền, áo cừu xe nhẹ có thể cùng hưởng mà lúc nấm mồ xanh cỏ, vợ con sa sút thì người trong xe thản nhiên nhìn qua rồi đi thôi. Bạn chết không nỡ quên, cảm ơn nghĩa thì nghĩ cách báo đáp, có phải chỉ riêng con người đâu. Hồ ơi, nếu ngươi có nhiều tiền bạc thì ta sẽ làm quản gia cho ngươi!

200. Cô Gái Đánh Sợi (Tích Nữ)

Huyện Thiệu Hưng (tỉnh Chiết Giang) có người quả phụ đêm ngồỉ đánh sợi, chọt có một cô gái đẩy cửa bước vào cười nói "Bà không mệt sao?", nhìn ra thấy khoảng mười tám mười chín tuổi dung nhan đẹp đẽ, áo xiêm lộng lẫy. Bà già kinh ngạc hỏi "Cô ở đâu tới đây?", cô gái đáp "Thương bà ở một mình, nên tới làm bạn". Bà già ngờ là thê thiếp nhà giàu sang trốn đi, cứ căn vặn mãi. Cô gái nói "Bà đừng sợ, thiếp dù là hồ, cũng giống bà thôi. Thiếp mến bà là người trong sạch nên tới ở chung, cả hai đều đỡ vắng vẻ, thế không tốt sao?". Bà già lại ngờ là hồ, trầm ngâm do dự, cô gái bèn lên giường đánh sợi giúp, nói "Bà đừng lo việc kiếm sống thế này thiếp giỏi bậc nhất, quyết không làm phiền nhau về cái ăn cái uống đâu". Bà già thấy nàng dịu dàng khả ái nên bằng lòng. Đến khuya nàng nói với bà già "Có gói chăn gốỉ mang theo còn để ngoài cổng, lúc nào nghỉ phiền bà cầm vào giùm". Bà già ra, quả thấy một gói y phục liền đem vào cô gái mở ra bày trên giường, không biết là loại gấm lụa gì mà thơm phức mịn màng không gì sánh kịp. Bà già cũng trải chăn đệm ra cùng nàng ngủ chung một giường, nàng vừa cởi quần áo ngoài ra thì có mùi hương lạ thơm nức cả phòng.

Lúc đi nằm, bà già thầm nghĩ gặp người đẹp thế này mà tiếc rằng mình không phải là đàn ông, cô gái đang nằm cười nói "Bà đã bảy mươi tuổi mà còn vọng tưởng à?". Bà già đáp "Đâu có", nàng nói "Đã không vọng tưởng, sao lại muốn làm đàn ông?". Bà già càng biết chắc là hồ, cả sợ, cô gái lại cười nói "Muốn làm đàn ông để làm gì, sao còn sợ ta chứ?". Bà già càng khiếp sợ, run bần bật lay động cả giường. Cô gái nói "Mật chỉ lớn có bấy nhiêu mà lại muốn làm đàn ông. Nói thật ta chính là người tiên nhưng không phải là loại gái gây tai họa đâu, chỉ cần bà kín miệng thì tự nhiên đủ cái ăn cái mặc". Sáng ra bà già dậy sớm sụp lạy bên giường, cô gái kéo đứng lên, tay mịn như mỡ đông, tỏa mùi hương ấm, da thịt chạm tới là thấy rạo rực. Bà già động tâm lại suy nghĩ vẩn vơ, cô gái mỉm cười nói "Bà già vừa mới run bần bật đây mà lại nghĩ ngợi gì thế? Nếu bà là đàn ông, chắc sẽ chết vì tình". Bà già nói "Nếu ta là đàn ông thì đêm qua làm sao sống được?".

Từ đó hai người hòa hơp, hàng ngày cùng làm việc, nhìn thấy sợi cô gái đánh ra mịn đều óng ánh, đem dệt thành vải thì sáng ngời như gấm, bán được giá gấp ba. Bà già đi đâu thì đóng cửa, có ai tới thăm thì bà tiếp đãi ở phòng khác, cô gái ở đó nửa năm mà không ai biết. Về sau bà già dần dần nói lộ ra cho láng giềng biết, đám chị em quen biết kéo nhau tới nhờ nói giùm xin cho được gặp cô gái. Nàng trách móc, nói "Bà không giữ gìn lời nói, thì ta không ở đây lâu được đâu". Bà già hối hận vì đã lỡ lời, vô cùng ăn năn, nhưng những kẻ xin cho được gặp cô gái ngày càng đông, có người còn toan lấy quyền thế ép buộc. Bà già khóc lóc bày tỏ, cô gái nói "Nếu là chị em bạn gái thì gặp mặt cũng không hại gì, sợ đám đàn ông khinh bạc tới gặp rồi giở trò suồng sã". Bà già lại năn nỉ, nàng mới ưng thuận.

Hôm sau đám đàn bà già trẻ cầm hương đèn chen nhau đầy cổng, cô gái ghét phiền rộn nên bất kể là sang hèn đều không trò chuyện, chỉ im lặng ngồi thẳng nghe họ chào hỏi mà thôi. Bọn thiếu niên trong làng nghe đồn nàng đẹp, thần hồn điên đảo nhưng bà già đều cự tuyệt không cho gặp. Có Phí sinh là danh sĩ trong huyện, dốc hết gia sản đem món tiền lớn tới mua chuộc bà già, bà nhận lời xin cho. Cô gái đã biết trước, trách "Bà bán ta à?", bà già quỳ rạp xuống đất tự thú. Cô gái nói "Bà thì tham tiền đút lót, ta thì cảm mối si tình, có thể cho gặp một lần, nhưng thế là hết duyên phận rồi đấy". Bà già lại dập đầu năn nỉ, nàng bèn hẹn hôm sau.

Sinh nghe tin mừng rỡ, sắm đủ hương đèn tới, vào cửa chắp tay vái dài. Cô gái ngồi trong rèm tiếp chuyện, hỏi "Chàng phá tán gia sản để gặp nhau, có điều gì dạy bảo thiếp?". Sinh đáp "Thật không dám có ý gì khác, chỉ là nghe tiếng Mao Tường, Tây Tử* mà thôi. Nếu không chê là ngu tối ngang bướng, cho được mở rộng tầm mắt một lần thì kẻ hèn này đã thỏa nguyện rồi. Còn chuyện lành dữ đã có số trời, không cần nói tới". Chợt thấy sau tấm rèm vải dung nhan tỏa sáng chiếu ra, mày biếc môi son đều nhìn thấy rõ tựa hồ không bị rèm màn ngăn cách. Sinh ý động thần dao, bất giác lạy sụp xuống. Lạy xong đứng lên thì tấm rèm như dày nặng hơn, chỉ nghe tiếng mà không thấy gì nữa. Đang ngậm ngùi trộm tiếc chưa nhìn thấy được phần dưới bỗng dưới tấm rèm nhô ra hai chiếc hài thêu cong mũi xinh xắn không dài hơn ngón tay. Sinh lại cúi lạy, cô gái trong rèm nói vọng ra "Thôi chàng về nghỉ, thiếp cũng mệt rồi".

* Mao Tường, Tây Tử tức Mao Tường và Tây Thi, người nước Việt thời Chiến quốc, nổi tiếng là giai nhân trong lịch sử Trung Hoa.

Bà già mời sinh qua phòng khác pha trà tiếp đãi, Sinh đề lên vách một bài từ điệu Nam hương tử như sau:

Ẩn ước họa liêm tiền,

Tam thốn lăng ba ngọc duẫn tiêm.

Điểm địa phân minh, liên biện lạc tiêm tiêm.

Tái trước trùng đài cánh khả liên.

Hoa thấn phượng dầu loan,

Nhập ác ưng tri nhuyễn tự miên.

Đãn nguyện hóa vi hồ điệp khứ lộ biên,

Nhất khứu dư hương tử diệc cam.

(Thấp thoáng trước màn là,

Măng ngọc hài thêu mấy tấc hoa.

Chấm đất rỡ ràng cánh sen rụng la đà,

Đài gương gặp lại nghĩ thương ta.

Có hóa được làm trâm,

Vào trong mới biết tóc mây mềm.

Chỉ mong hoá bướm lượn bên nàng,

Ngửi chút hương thừa, chết cũng cam.)

Đề xong ra về. Cô gái xem bài từ không vui, nói với bà già "Ta nói duyên phận đã hết, nay quả không sai". Bà già quỳ rạp xuống đất chịu tội, nàng nói "Không phải chỉ riêng bà có tội. Ta ngẫu nhiên sa vào nghiệp tình, đem sắc đẹp cho người ta thấy nên mới bị lời bậy bạ làm nhơ nhuốc, đều là tự mình chuốc lấy, còn trách ai được? Nếu không đi mau cho xa, sợ sẽ đắm vào vực tình, kiếp sau cũng khó mà thoát ra khỏi". Rồi xách khăn gói đi ra, bà già đuổi theo giữ lại thì trong chớp mắt đã biến mất.

201. Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm)

Trương Hồng Tiệm người huyện Vĩnh Bình (tỉnh Hà Bắc) năm mười tám tuổi đã là danh sĩ trong quận. Lúc ấy quan Tri huyện Lư Long (tỉnh Hà Bắc) họ Triệu là kẻ tham bạo, nhân dân đều ta thán. Có Phạm sinh bị đánh đòn mà chết, các bạn đồng học phẫn oán về nỗi sinh bị oan, định kêu lên Pháp ty, mong được người có tài văn chương như Trương làm đơn, mời cùng tham gia, Trương ưng thuận. Vợ Trương là Phương thị xinh đẹp mà hiền thục, nghe chuyện can rằng "Phàm những kẻ văn nhân làm việc lớn chỉ có thể cùng thành chứ không thể cùng bại. Nếu thành thì ai cũng tranh công, chứ nếu bại thì nhao nhao tan lìa, không thể tập hợp được nữa. Đời nay chỉ biết có thế lực, khó mà lấy lý xét chuyện phải trái, chàng lại đơn độc, nếu người ta đổi trắng thay đen thì ai giúp cho khi hoạn nạn?". Trương phục lời ấy, lấy làm hối, bèn tìm lời mềm mỏng từ tạ với bạn đồng học, chỉ viết hộ đơn rồi thôi. Pháp ty xét hỏi qua một lượt, không có chỗ nào sai, nhưng Triệu đem nhiều vàng đút lót quan trên, khép các Chư sinh vào tội kết bè kết đảng bắt hết, lại tìm bắt người viết đơn. Trương sợ trốn đi, đến ranh giới huyện Phượng Tường (tỉnh Thiểm Tây) thì hết sạch tiền mà trời đã tối, còn đang ngập ngừng trên đồng không biết ngủ đâu chợt thấy có một xóm nhỏ vội rảo bước tới.

Một bà già đang ra đóng cổng nhìn thấy, hỏi muốn gì, Trương kể thật việc mình. Bà già nói "Cái ăn chỗ ngủ chỉ là chuyện nhỏ, chỉ là trong nhà không có đàn ông, không tiện lưu khách". Trương nói "Ta cũng không dám mong gì nhiều, chỉ xin cho được bà cho được ngủ nhờ trong cổng để tránh hùm sói là đủ". Bà già bèn bảo vào, đóng cổng rồi đưa cho chiếc đệm cỏ, dặn rằng "Ta thương ông khách lỡ đường nên tự ý cho ngủ nhờ, trời chưa sáng nên dậy mà đi cho sớm, kẻo cô chủ biết sẽ trách phạt ta"' rồi vào nhà. Trương dựa vào vách thiu thiu ngủ, chợt có ánh đèn lồng sáng rực, thấy bà già đưa một cô gái ra. Trương vội nép vào góc tối nhìn trộm, thấy là một giai nhân khoảng hai mươi tuổi. Tới cổng trông thấy chiếc đệm cỏ, cô gái cật vấn, bà già thưa thật, nàng tức giận nói "Cả nhà toàn là đàn bà yếu ớt, sao lại chứa chấp người lạ?", rồi hỏi người ấy đi đâu rồi.

Trương sợ hãi, bước ra quỳ sụp xuống thềm. Cô gái hỏi kỹ tên họ quê quán, có vẻ nguôi giận, nói "May là bậc văn sĩ phong nhã, cho ngủ nhờ cũng được, nhưng mụ đầy tớ già không thưa lại, qua loa thế này há phải là lối tiếp đãi bậc quân tử sao?", rồi sai bà già dẫn khách vào nhà. Giây lát dọn cơm rượu lên, thức ăn đều tinh khiết, kế trải nệm gấm ra giường. Trương rất cảm kích, bèn hỏi tên họ cô gái. Bà già nói "Nhà ta họ Thi. ông bà ta đều đã mất, chỉ để lại ba con gái, người mới rồi là cô lớn, tên Thuấn Hoa". Bà già ra rồi, Trương nhìn trên bàn thấy quyển Nam hoa kinh chú, bèn cầm đặt lên gối, nằm sấp trên giường xem.

Chợt Thuấn Hoa đẩy cửa bước vào, Trương vội buông sách tìm mũ giày. Cô gái tới bên giường vỗ vai sinh nói "Không cần đâu, không cần đâu", rồi ngồì xuống giường bẽn lẽn nói "Thiếp thấy chàng là bực tài tử phong lưu, muốn đem cửa nhà gởỉ gắm, nhưng e bị ngờ như kẻ qua ruộng dưa sửa giày, ngang giàn bầu sửa mũ, không biết có bị chê bỏ không". Trương lúng túng không biết trả lời thế nào, chỉ nói "Không dám giấu diếm, thật tiểu sinh đã có vợ rồi". Cô gái cười nói "Bấy nhiêu cũng đủ thấy là chàng thành thật, nhưng chuyện đó không sao. Nếu đã không chê bỏ, thì ngày mai sẽ nhờ người làm mai mối". Nói xong định đi, Trương rướn lên kéo lại, cô gái cũng ở lại. Trời chưa sáng nàng đã dậy, lấy vàng tặng cho Trương, nói "Chàng cầm lấy đi chơi, chiều hãy về, tối tối một chút, kẻo hai bên hàng xóm trông thấy". Trương theo lời, sớm đi tối về, suốt nửa năm như thế thành lệ.

Một hôm Trương về hơi sớm, tới nơi thì không thấy làng xóm nhà cửa gì cả, vô cùng lạ lùng khiếp sợ. Còn đang ngần ngừ, chợt nghe bà già nói "Sao tới sớm thế?", quay nhìn thì thấy nhà cửa như cũ, mà mình thì đã ở trong phòng, càng lấy làm lạ lùng. Thuấn Hoa từ trong bước ra cười nói "Chàng nghi ngờ thiếp phải không? Nói thật với chàng thiếp là hồ tiên, cùng chàng vốn có mối túc duyên. Nếu cho là yêu quái, thì xin lập tức chia tay"' Trương mến tiếc vì nàng đẹp nên ở lại, đến đêm nói với cô gái "Nàng đã là tiên thì ngàn dặm cũng vượt qua trong chớp mắt. Tiểu sinh xa nhà đã ba năm, nhớ vợ con không khuây, có thể đưa ta về một lần được không". Cô gái có vẻ không vui, nói "Trong tình vợ chồng, thiếp thì dốc lòng với chàng, mà chàng thì thân ở nơi này lòng nhớ chốn kia, như vậy đối với kẻ thương yêu mình thì sai lắm". Trương tạ lỗi nói "Sao nàng lại nói thế? Lời ngạn có câu Một ngày làm vợ chồng, trăm ngày nhớ ơn nghĩa, sau này về nhà nhớ nàng thì cũng như hôm nay nhớ vợ nhà, chứ nếu được mới nới cũ thì nàng còn thương yêu được chỗ nào?".

Cô gái bèn cười nói "Thiếp quả hẹp hòi, riêng mình thì muốn chàng đừng quên mà người khác lại muốn chàng quên đi, chứ nếu chàng muốn tạm về thì có khó gì, nhà chàng chỉ trong gang tấc". Rồi nắm tay áo Trương cùng ra cổng, thấy đường đi tối tăm, Trương ngần ngại không chịu bước. Cô gái cứ kéo đi, không bao lâu nói "Tới rồi đấy, chàng về đi, thiếp đi đây". Trương dừng bước nhìn kỹ, thấy quả là nhà mình, liền trèo qua chỗ tường lở mà vào. Thấy trong phòng đèn đuốc còn sáng choang, bèn tới gần lấy hai ngón tay búng vào cánh của. Bên trong hỏi ai, Trương nói rõ từ đâu tới, người bên trong cầm đèn ra mở cửa, chính là Phương thị. Hai người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nắm tay nhau vào phòng, Trương thấy con nằm trên giường, cảm khái nói "Lúc ta đi con chỉ mới cao bằng đầu gối mà nay đã lớn như thế". Vợ chồng ngồi sát vào nhau, bàng hoàng như trong mộng, Trương kể rõ những chuyện đã trải qua rồi hỏi tới vụ án mới biết các bạn đồng học, người thì chết trong ngục, kẻ thì đi biệt xứ, lại càng phục vợ nhìn xa.

Phương ngã vào lòng chồng nói "Chàng có được tình duyên tốt đẹp, chắc không nghĩ gì tới nơi phòng không gối chiếc có kẻ rơi lệ một mình". Trương nói "Nếu không nghĩ tới thì về đây làm gì? Ta với người kia quả là tình nghĩa sâu nặng có thể chết cho nhau nhưng vẫn không phải là đồng loại, có điều nghĩ tới ơn nghĩa thì khó quên mà thôi". Phương hỏi "Chàng nghĩ thiếp là ai đấy?", Trương nhìn kỹ thì không phải Phương mà là Thuấn Hoa, sờ tới con thì chỉ là một cái gối tre, ngượng quá không nói câu nào. Cô gái nói "Giờ thì rõ được lòng chàng rồi, từ nay phải đoạn tuyệt thôi. May là chàng chưa quên ơn nghĩa, bấy nhiêu cũng tạm đủ để chuộc lỗi vậy". Qua hai ba hôm cô gái chợt nói "Thiếp nghĩ si tình thương người rốt lại chẳng hay ho gì, nên hàng ngày chàng vẫn oán thiếp không đưa về nhà. Nay gặp dịp muốn lên kinh, tiện đường có thể đưa chàng cùng đi". Rồi quay lại lấy cái gối tre trên giường cho cùng cưỡi lên, bảo nhắm mắt lại. Trương cảm thấy mình bay lên cách mặt đất không xa, nghe tiếng gió vi vút, giây lát dần dần hạ xuống. Cô gái nói "Từ nay xin giã biệt", Trương đang định căn dặn hẹn hò thì nàng đã biến mất, ngậm ngùi đứng một lúc.

Nghe tiếng chó sủa trong thôn, giữa màn đêm mịt mờ nhìn thấy bóng dáng cây cối nhà cửa đều là cảnh vật cố hương, bèn theo đường về nhà, trèo qua tường vào gõ cửa, làm hệt như hôm trước. Phương giật mình tỉnh dậy, không tin, gạn hỏi chuyện vợ chồng ngày trước mới khêu đèn sụt sùi bước ra, nhìn thấy mặt chồng nước mắt chảy giàn giụa không thôi. Trương vẫn ngờ rằng đây là ảo ảnh mà Thuấn Hoa biến ra, lại nhìn tới đứa con nằm trên giường thấy đều giống hệt tối hôm trước, bèn cười hỏi "Lại mang cái gối tre vào à?". Phương thị không hiểu, biến sắc nói "Thiếp mong chàng năm này tháng khác, vết nước mắt vẫn còn trên gối, thế mà mới gặp được nhau lại không hề tỏ ra thương xót, lòng dạ chàng để đâu?". Trương nhìn lại thái độ mới nắm tay vợ than thở, kể rõ lại mọi việc. Hỏi tới kết quả vụ án thì ra đều như Thuấn Hoa đã nói, đang cùng nhau cảm khái chợt nghe ngoài cửa có tiếng giày nhưng hỏi không thấy ai đáp.

Nguyên là trong làng có một thiếu niên độc ác đã để ý tới sắc đẹp của Phương từ lâu. Tối hôm ấy y từ thôn khác vể, xa xa thấy có người trèo tường vào, cho rằng ắt là kẻ hẹn hò tư thông, bèn lẻn vào theo. Giáp vốn không biết Trương nhiều, chỉ núp nghe trộm, đến khi Phương hỏi gặng mấy lần mới nói "Ai ở trong phòng đấy?" Phương nói tránh là không có ai. Giáp nói "Ta nghe trộm lâu rồi, định lên quan tố giác chuyện thông gian đây". Phương bất đắc dĩ đành thú thật. Giáp nói "Cái án Trương Hồng Tiệm chưa xong, nếu y về nhà cũng phải bắt trói giải lên quan". Phương lạy lục năn nỉ, Giáp lời lẽ lại càng lấn lướt. Trương bừng bừng nổi giận, không dằn lòng được rút dao xông ra chém Giáp trúng vào đầu Giáp ngã xuống mà còn la lớn, Trương chém liên tiếp đến lúc chết luôn. Phương nói "Việc đã tới nước này, tội càng thêm nặng. Chàng cứ trốn ngay đi, để thiếp chịu tội thay cho". Trương nói "Trượng phu phải chết thì chết, chứ lẽ nào lại để lụy cho vợ con mà cầu sống cho mình? Nàng đừng lo nghĩ gì, chỉ cần đừng để thằng con này làm đứt mạch thư hương, thì ta có chết cũng nhắm mắt".

Trời vừa sáng Trương lên huyện tự thú, Triệu thấy là người đúng ra kiện mình nên chỉ đánh đập qua loa rồi cho giải từ quận lên kinh, cùm trói rất khổ sở. Trên đường gặp một nữ lang cưỡi ngựa đi qua, có bà già cầm cương, thì ra là Thuấn Hoa. Trương gọi bà già muốn nói chuyện mà nước mắt giàn giụa. Cô gái quay ngựa, vén khăn che mặt nhìn rồi kinh ngạc hỏi "Biểu huynh làm sao mà tới nỗi này?". Trương kể qua đầu đuôi cô gái nói "Cứ theo lối ăn ở của anh thì chỉ đáng ngoảnh mặt đi không nhìn, nhưng ta không nỡ. Nhà ta cách đây không xa, xin mời các vị công sai cùng ghé chơi, ta cũng có thể giúp cho chút ít đi đường". Đi theo hai ba dặm thì tới một sơn trang lầu cao gác rộng, cô gái xuống ngựa vào, sai bà già mở cửa mời khách. Kế dọn rượu thịt ê hề như đã sắp sẵn, lại sai bà già ra nói "Gặp lúc trong nhà không có đàn ông, xin Trương quan nhân cứ mời hai vị công sai uống thêm vài chén, sắp tới trên đường còn phải nhờ vả hai vị nhiều. Đã sai người lo mượn vài mươi lượng vàng để quan nhân làm lộ phí và tặng hai vị, nhưng còn chưa về tới". Hai tên công sai mừng thầm, yên lòng thả sức uống rượu không nói tới việc lên đường nữa, đến lúc sẩm cả hai đều say mèm. Cô gái bước ra chỉ tay vào cái cùm, cùm lập tức rơi xuống, kế kéo Trương lên ngồi chung ngựa phóng như bay, lát sau bảo Trương xuống, nói "Chàng xuống đây được rồi. Thiếp có hẹn với cô em ở Thanh Hải mà vì chàng phải nán lại một buổi, sợ nó đợi lâu". Trương hỏi lúc nào sẽ gặp lại, nàng không đáp, lại hỏi thì nàng đẩy rơi xuống ngựa rồi bỏ đi.

Đến sáng hỏi thăm thì đó là Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), Trương bèn vào thành thuê nhà dạy học, đổi tên là Cung Tử Thiên. Qua mười năm, hỏi dò biết việc truy nã đã trễ nãi, bèn lần mò về quê. Tới gần cổng làng không dám vào ngay, chờ đến khuya mới vào, tới cổng thì tường cao quá không trèo qua được, lấy roi đập cửa. Hồi lâu vợ mới bước ra hỏi. Trương hạ giọng đáp vợ mừng quá mở cửa kéo vào, giả cất tiếng mắng "Lên kinh ít tiền lẽ ra phải về sớm, sao nửa đêm mới về?". Vào phòng cùng kể lại nhũng việc đã qua, mới biết hai tên công sai đã bỏ trốn chưa trở về. Lúc trò chuyện thấy ngoài rèm có một thiếu phụ qua lại, Trương hỏi là ai, vợ đáp là con dâu, hỏi con đâu thì đáp lên kinh thi hương chưa về. Trương rơi nước mắt nói "Lưu lạc mười năm, nay con đã nên người, không nói tới việc nối mạch thư hương thì nàng cũng đã tốn bao nhiêu tâm huyết". Còn đang chuyện trò thì con dâu đã hâm rượu nấu cơm xong bày ra đầy bàn, Trương vui mừng vì được an ủi quá lòng mong ước.

Ở nhà vài hôm chỉ núp trong phòng, sợ người ngoài biết. Một đêm vừa đi nằm chợt nghe tiếng nói ồn ào đập cửa rất gấp. Hai người hoảng hốt vùng dậy thì nghe họ hỏi nhau "Có cổng sau không?" càng khiếp sợ. Phương vội lấy cánh cửa làm thang bắc qua tường cho Trương leo ra, kế mới ra cổng hỏi chuyện, thì ra là người báo tin con thi đỗ. Phương mừng quá, rất hối hận về việc Trương trốn đi nhưng không sao đuổi theo giữ lại. Đêm ấy Trương tuông bờ lướt bụi, vội vã không chọn đường, đến sáng thì vô cùng mệt mỏi. Vốn định chạy về hướng tây, nhưng lúc ấy hỏi người đi đường thì té ra chỉ cách đường cái lên kinh không xa. Bèn lần vào làng toan bán quần áo lấy tiền ăn, thấy một ngôi nhà lớn có tờ thông cáo dán trên vách, tới gần đọc mới biết là họ Hứa vừa thi đỗ Cử nhân. Giây lát có một ông già bước ra, Trương vái chào thưa chuyện. Ông già thấy dáng vẻ Trương phong nhã, biết không phải là kẻ lừa dối kiếm cơm bèn mời vào nhà khoản đãi. Nhân hỏi đi đâu tới đây, Trương nói thác rằng mình dạy học ở kinh về quê, giữa đường gặp cướp, ông già bèn giữ lại nhờ dạy đứa con trai nhỏ.

Trương hỏi qua về gia thế, thì ra ông già là bậc quan lớn về hưu, người mới thi đỗ Cử nhân kia là cháu gọi bằng chú. Hơn tháng sau, vị Cử nhân và một người bạn thi đỗ cùng khoa cùng về, nói là họ Trương ở huyện Vĩnh Bình, khoảng mười tám mười chín tuổi. Trương thấy cùng quê cùng họ, thầm ngờ chính là con mình, nhưng vì trong huyện cũng có nhiều người họ ấy nên đành im lặng. Tối đến, viên Cử nhân mở khăn gói ra, Trương thấy có danh sách những người đỗ thi hương, vội hỏi mượn xem thì đúng là con mình, bất giác sa nước mắt. Mọi người cùng kinh ngạc hỏi, Trương chỉ vào tên mình nói "Ta chính là Trương Hồng Tiệm đây", rồi kể lại hết mọi chuyện. Cử nhân họ Trương ôm cha khóc lớn, chú cháu họ Hứa an ủi mới đổi buồn làm vui. ông Húa lập tức sắp vàng lụa viết thư sai người đưa tới các quan lớn ở Pháp ty nhờ thu xếp, sau đó cha con Trương cùng về nhà. Phương từ lúc được tin con thi đỗ, hàng ngày vẫn buồn rầu vì Trương còn lưu lạc, nghe nóí con về càng thêm đau lòng. Giây lát cha con cùng bước vào, nàng hoảng sợ như trời sập, hỏi lại duyên do mới cùng nhau mừng mừng tủi tủi. Cha Giáp thấy con Trương quý hiển, không dám manh tâm làm hại nữa, Trương vì vậy càng đối xử tử tế, lại kể rõ lại việc năm xưa.

202. Thường Nga (Thường Nga)

Tông Tử Mỹ ở Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) theo cha du học, lưu ngụ ở huyện Quảng Lăng. Cha Tông có quen với bà họ Lâm ở Hồng Kiều, một hôm cha con đi ngang Hồng Kiều gặp nhau trên đường, bà mời vào nhà pha trà tiếp đãi chuyện trò, bên cạnh có cô gái rất xinh đẹp. Cha Tông vô cùng khen ngợi, bà già nhìn Tông nói "Đại lang nhu mì như đồng nam, rất có phúc tướng, nếu không chê là quê mùa, xin dâng về quét dọn hầu hạ, ông thấy sao?". Cha Tông giục con rời ghế ra lạy tạ, nói "Một lời nói giá đáng ngàn vàng đấy nhé". Trước là bà già ở một mình, cô gái chợt tự tới, nói là mồ côi khổ cục, hỏi tiểu tự thì tên là Thường Nga, bà già yêu mến giữ lại, thật ra là định lấy làm món hàng quý. Năm ấy Tông mười bốn tuổi, thấy cô gái trong lòng thích lắm, nghĩ là cha ắt sẽ nhờ người mai mối định ngày cưới hỏi, nhưng cha về rồi lại như quên đi, nóng ruột lén kể cho mẹ.

Cha nghe thế cười nói "Hôm trước nói đùa với bà già tham lam ấy thôi, chứ thật không rõ bà ta sẽ đòi bao nhiêu tiền, nói tới chuyện ấy đâu phải dễ?". Năm sau cha mẹ cùng chết, Tử Mỹ không sao quên được Thường Nga, vừa mãn tang là nhờ người tới dò ý bà Lâm, ban đầu bà ta chối là không có nói như vậy, Tông tức giận nói "Ta bình sinh không dễ mà lạy ai, sao bà coi việc ta lạy không đáng một đồng kẽm thế? Nếu bà trái lời hứa ngày trước, thì phải lạy trả ta". Bà già bèn nói "Có lẽ trước đây hứa đùa với cha ngươi, thì cứ cho là có nhưng không phải là lời thật, nói xong là quên thôi. Nay lại tới nói thế, thì chẳng lẽ ta giữ gả cho vua trời à? Nhưng hàng ngày phải chăm sóc cho nó, thật ra muốn được ngàn vàng, nay xin một nửa số ấy có được không?". Tôn tính thầm thấy khó lo đủ, cũng đành gác đó. Vừa gặp lúc có người đàn bà góa chồng tới ở bên cạnh, có người con gái tuối cập kê, tiểu tự là Điên Đang, Tông tình cờ gặp thấy xinh đẹp không kém gì Thường Nga, trong lòng hâm mộ, thường đưa biếu thức ăn cho bà mẹ. Lâu ngày quen dần, cũng thường liếc mắt đưa tình nhưng chưa có dịp nào nói chuyện. Một đêm nàng qua xin lửa thắp đèn, Tông mừng kéo lại, cùng nhau vui thú. Tông hẹn việc cưới hỏi, nàng từ chối bảo là anh trai đi buôn bán chưa về. Từ đó cứ nhân lúc vắng vẻ là qua lại với nhau, nhưng giữ gìn rất kín đáo.

Có lần Tông tình cờ đi ngang Hồng Kiều, thấy Thường Nga trong cửa vội bước mau qua. Thường Nga nhìn thấy vẫy tay, Tông dừng bước, nàng lại vẫy, bèn vào nhà. Cô gái trách Tông bội ước, Tông kể lại duyên do, nàng bèn vào phòng lấy ra một nén vàng đưa cho. Tông từ chối không nhận, nói "Tự biết mình phải vĩnh viễn xa nàng nên đã có ước hẹn với người khác, nhận vàng lo cưới nàng thì là phụ họ, nhận vàng mà không lo cưới nàng thì là phụ nàng, thật không dám phụ ai cả". Cô gái im lặng hồi lâu rồi nói "Việc chàng ước hẹn với người khác thiếp đã biết, việc ấy nhất định không thành, mà dẫu có thành thiếp cũng không oán chàng phụ lòng đâu. Nên về ngay đi, bà già sắp tới đấy!". Tông hoang mang không tự chủ được, bèn nhận vàng trở về, trong lòng rối loạn nhớ trước quên sau. Qua một đêm kể lại với Điên Đang, Điên Đang rất tin lời, chỉ khuyên Tông nên quyết ý cưới Thường Nga. Tông không chịu, nàng xin làm vợ kế mới vui vẻ, bèn nhờ người mai mối tới nộp sính lễ cho bà Lâm. Bà già không từ chối, gả Thường Nga cho Tông. Nàng về rồi, Tông kể hết lời Điên Đang nói, Thường Nga mỉm cười hối thúc Tông lo gấp. Tông mừng rỡ muốn nói ngay với Điên Đang, nhưng Điên Đang đã đi mất. Thường Nga biết đó là vì mình, bèn lấy cớ về thăm nhà cho hai người có cơ hội gặp nhau, dặn Tông lấy trộm cái túi Điên Đang đeo. Kế đó Điên Đang quả tới, Tông bàn việc cưới xin thì nàng chỉ nói là đừng gấp, rồi cởi áo ôm nhau đùa giỡn, thấy dười bụng nàng có đeo cái túi màu cánh sen bèn lấy luôn.

Cô gái biết được biến sắc vùng dậy nói "Chàng với người ta thì một lòng mà với thiếp thì hai lòng, thật là kẻ phụ lòng, từ nay xin vĩnh biệt". Tông nài nỉ giữ lại giải thích, nàng không nghe, bỏ đi. Một hôm Tông qua cổng dò xét thì đã có một người khách buôn đất Ngô tới ở, còn mẹ con Điên Đang đã dời đi từ lâu, mất tăm tung tích không sao hỏi thăm được, chỉ biết buồn rầu than thở mà thôi. Tông từ khi cưới Thường Nga, nhà giàu có hẳn lên, gác rộng hiên dài kéo ra tận mặt đường. Thường Nga hay đùa giỡn, gặp lúc xem họa phổ về các mỹ nhân, Tông nói "Ta vẫn nghĩ rằng đẹp như nàng thì khắp thiên hạ không có kẻ thứ hai, chỉ còn chưa gặp Phi Yến, Dương phi* thôi". Nàng cười đáp "Nếu chàng muốn gặp chắc cũng không khó". Bèn cầm quyển họa phổ nhìn kỹ qua một lượt rồi bước vào phòng soi gương hóa trang, giả làm Phi Yến múa gió, lại giả làm Dương Phi say nằm, cao thấp béo gầy sửa đổi rất khéo, dáng vẻ phong thái so với các bức họa rất giống. Vừa hóa trang xong có đứa tỳ nữ từ ngoài bước vào không biết là ai, kinh ngạc hỏi chị em bạn, kế nhìn kỹ chợt nhận ra mới phì cười. Tông vui vẻ nói "Ta được một mỹ nhân mà mỹ nhân suốt ngàn năm đều về cả trong khuê phòng".

* Phi Yến, Dương phi: tức Triệu Phi Yến và Dương Thái Chân tức Dương Quý phi, hai người đẹp nổi tiếng trong nội cung của Đường Minh hoàng.

Một đêm vừa ngủ say, có mấy người nhấc cánh cổng ập vào, đèn đuốc sáng rục. Cô gái vội vùng dậy, hoảng hốt nói ăn cướp vào nhà. Tông vừa tỉnh giấc, đang định hô hoán thì bị một người kề dao vào cổ, khiếp sợ không dám thở mạnh, kế có một người khác bắt Thường Nga cõng lên lưng rồi ồ ạt kéo đi. Tông lúc ấy mới la lớn, gia nhân đều họp lại đủ cả mà những thứ quý giá trong nhà cũng không mất chút gì. Tông vô cùng đau thương, ão não như sắp chết, không còn thiết gì nữa, báo quan truy nã nhưng chẳng có chút tăm hơi. Thấm thoát qua ba bốn năm vẫn cứ buồn bục không vui, nhân rảnh rỗi lên kinh dự thi, ở lại đó nửa năm, tìm đủ mọi cách dò la thăm hỏi. Tình cờ đi ngang kỹ viện, thấy một cô gái mặt mũi lem luốc, áo quần rách rưới bệ rạc như ăn mày, dừng chân nhìn thì ra là Điên Đang, hoảng sợ hỏi "Nàng làm sao mà tiều tụy tới mức này", nàng đáp "Sau khi chia tay về nam, mẹ già qua đời, thiếp bị kẻ bắt đi bán cho nhà giàu, bị đánh đập chửi mắng đói rét khổ sở thật không muốn nói". Tông rơi nước mắt, hỏi có thể chuộc nàng ra không, nàng đáp "Khó lắm, e rằng phải tốn kém nhiều, chàng không đủ sức". Tông nói "Nói thật với nàng vài năm nay ta cũng có chút của cải, tức là đang ở đất khách tiền bạc cũng có hạn, nhưng trút tiền bán ngựa thì không dám chối từ. Còn bấy nhiêu không đủ thì phải về nhà lo thêm".

Cô gái hẹn ngày mai ra phía tây thành gặp nhau dưới rạng liễu, nhưng dặn tới một mình đừng cho ai theo, Tông ưng thuận. Hôm sau ra sớm đã thấy cô gái đứng ở đó trước, áo quần lộng lẫy khác xa hôm trước, ngạc nhiên hỏi, nàng cười đáp "Hôm qua là thử lòng chàng thôi, may mà còn cái ý thương xót người xưa, xin mời tới tệ xá, sẽ xin báo đáp". Đi về phía bắc vài dặm thì tới nhà nàng, kế dọn tiệc cùng trò chuyện vui vẻ, Tông hẹn nàng cùng về. Cô gái nói "Thiếp vương nhiều tục dụng, không thể theo được, nhưng tin tức Thường Nga thì vẫn có nghe". Tông vội hỏi Thường Nga ở đâu nàng đáp "Hành tung của nàng vô định, thiếp cũng không biết chắc, nhưng ở Tây Son có một ni cô già chột mắt, tới hỏi sẽ biết ngay". Tông bèn ngủ lại đó. Sáng ra cô gái chỉ đường cho đi. Tông tới chỗ ấy thấy có ngôi chùa cổ, tường bao quanh đã sụp hết, trong đám tre dày có nửa gian lều tranh, ni cô già mặc áo vá ngồi ở trong, thấy khách tới vẫn ngạo nghễ không chào hỏi gì cả. Tông vái chào, ni cô mới ngẩng lên hỏi chuyện, Tông nói rõ tên họ rồi thưa điều mình muốn nhờ. Ni cô nói "Người già chột mắt tám chục tuổi làm sao biết người đẹp ở đâu?". Tôn nài nỉ cầu khẩn, lời lẽ càng thêm nhũn nhặn, ni cô bèn nói "Thật tình ta không biết đâu, nhưng có hai ba người quen tới mai sẽ tới, may ra bọn gái nhỏ biết chưa chừng, tới mai ngươi cứ tới đây".

Tông ra về, hôm sau lại tới thì ni cô đi vắng, bèn dựa vào cánh cổng mục ngồi đợi hồi lâu. Đêm đã khuya, trăng sáng vằng vặc, đang lo lắng không biết về đâu, còn ngần ngừ thì xa xa có mấy nữ lang từ ngoài đi vào, trong đó có Thường Nga. Sinh mừng quá nhảy vọt lên nắm mau lấy áo nàng, Thường Nga nói "Anh chàng thô mãng làm thiếp sợ chết khiếp, thật đáng giận Điên Đang nhạy miệng, xui lấy tình trói buộc người". Tông kéo nàng ngồi xuống, nắm tay kể lể, nói tới những khi buồn bã bất giác sụt sịt. Cô gái nói "Nói thật thiếp là Hằng Nga bị đày xuống trần gian, trôi nổi cùng thế tục, lúc hết hạn bị đày mới làm như bị giặc cướp bắt đi để chàng không còn trông ngóng gì nữa. Ni cô là người giữ cổng của Tây Vương mẫu, lúc thiếp mới bị trừng phạt được đội ơn dung nạp che chở nên lúc rảnh thường tới thăm một lúc. Nếu chàng buông tha cho thiếp, thiếp sẽ ngỏ lời với Điên Đang thay cho". Tông không chịu, cúi đầu nhỏ lệ, cô gái ngoái nhìn ra xa nói "Các chị em tới cả rồi". Tông vừa mới ngoảnh nhìn bốn phía thì Thường Nga đã biến mất. Tông òa lên khóc thất thanh, không muốn sống nữa bèn cởi dây lưng treo cổ tự tử.

Chợt thấy hồn mình bước ra khỏi gian nhà, rầu rĩ bỏ đi. Chợt Thường Nga tới nắm tay nhấc lên, thấy chân rời khỏi mặt đất trở lại chùa, Thường Nga đỡ cái xác trên cây xuống đẩy vào nói "Chàng ngây ơi, chàng ngây ơi, Thường Nga đây mà"' Tông chợt như vừa tỉnh mộng, cô gái tức tối nói "Con tiện tỳ Điên Đang hại thiếp mà giết chàng, ta không thể tha được". Bèn xuống núi thuê kiệu cùng về. Tông sai gia nhân sắp sửa hành lý rồi sai ra phía tây thành tới tạ ơn Điên Đang, nhưng tới nơi thì chẳng thấy nhà cửa gì, kinh ngạc than thở trở về, trong lòng thầm mừng rằng Thường Nga không biết, nhưng vào cửa thì nàng ra đón cười hỏi "Chàng gặp Điên Đang không?". Tông ngạc nhiên không trả lời được, cô gái nói "Nếu chàng bỏ Thường Nga thì làm sao có được Điên Đang? Xin cứ yên tâm chờ, nàng sẽ tự tới thôi". Không bao lâu, quả nhiên Điên Đang tới, sợ sệt quỳ xuống dưới giường. Thường Nga co tay búng vào đầu nói "Con ôn dịch, hại người quá lắm rồi". Điên Đang gục đầu, chỉ xin tha chết. Thường Nga nói "Đẩy người ta sa hầm sẩy hang rồi muốn thoát đi nơi xa à? Mười một tiên cô trong cung Quảng Hàn chưa biết lúc nào sẽ lấy chồng, phải có được một trăm chiếc gối thêu, một trăm đôi giày mới, ngươi phải theo ta về cùng cắt may"' Điên Đang kính cẩn nói "Chỉ cần giao việc hẹn ngày, đến lúc sẽ tới đưa đủ". Cô gái không chịu, nói với Tông rằng "Nếu chàng nói là chịu thiếp sẽ tha ngay lập tức". Điên Đang nhìn Tông, Tông cười không nói gì, Điên Đang trừng mắt tức tối rồi xin về nói với người nhà, Thường Nga ưng thuận, bèn đi.

Tông hỏi về lai lịch bình sinh mới biết nàng là hồ tinh ở Tây Sơn, bèn thuê kiệu chờ. Hôm sau quả nhiên nàng tới, bèn cùng nhau về nhà Tông. Có người hỏi han, Tông bịa đặt trả lời qua quít, nhưng Thường Nga trở lại lần này cư xử rất nghiêm nghị, ít khi cười đùa, Tông ép đùa giỡn thì nàng ngầm bảo Điên Đang làm. Điên Đang vô cùng thông minh, khéo chiều chuộng Tông. Thường Nga thích ngủ một mình, hay từ chối không chịu ngủ chung. Một đêm đến canh ba còn nghe trong phòng Điên Đang có tiếng cười khanh khách không dứt, sai tỳ nữ tới nghe ngóng, tỳ nữ quay về không chịu nói, chỉ xin phu nhân tự tới mà xem. Nàng tới cửa sổ nhìn, thấy Điên Đang đang giả trang làm mình, cười khẽ quay về. Giây lát Điên Đang chợt thấy bụng đau buốt, vội vàng khoác áo kéo Tông qua phòng Thường Nga, bước vào liền lạy phục xuống đất. Thường Nga nói "Ta đâu phải là phù thủy mà ếm kẻ bắt chước mình? Chỉ vì ngươi muốn ôm bụng bắt chước Tây Thi đó thôi!"*. Điên Đang khấu đầu, chỉ nói là đã biết tội.

* ôm bụng bắt chước Tây Tht: Tây Thi là mỹ nữ nổi tiếng ở nước Việt thời Xuân thu, lúc chưa được Việt vương Câu Tiễn tuyển cung để dâng Ngô vương Phù Sai thì là con nhà nghèo, làm nghề đập vải, có bệnh đau bụng, mỗi khi lên con đau là ôm bụng nhăn mặt nhưng trông lại càng yêu kiều. Có cô gái láng giểng tên Đông Thi cũng bắt chước nàng ôm bụng nhăn nhó cho đẹp hơn, nhưng xấu xí nên cứ nhăn mặt là người ta phát gớm. Đây Thường Nga có ý nói Điên Đang bắt chước mình cho đẹp thì phải chịu đau bụng.

Cô gái bèn nói "Ngươi khỏi rồi đấy", Điên Đang bèn đứng dậy, cười ngất quay về. Điên Đang nói riêng với Tông rằng "Thiếp có thể khiến nương tử bắt chước Quan âm"' Tông không tin, nhân đùa thách để thử xem sao. Thường Nga hay ngồi xếp bằng, nhắm mắt như ngủ. Điên Đang bèn lấy cái bình giả làm bình ngọc cắm nhành dương đặt lên bàn, mình thì xõa tóc chắp tay đứng hầu bên cạnh, khẽ mím môi son, hé lộ răng ngọc, mắt ngó thẳng không chớp. Tông bật cười, Thường Nga mở mắt hỏi, Điên Đang đáp "Ta giả làm Long nữ hầu Quan âm thôi". Thường Nga cười ngồi yên, phạt Điên Đang phải giả làm Đồng tử lạy. Điên Đang buộc tóc lại, lạy lục bốn phía, lăn lộn dưới đất làm đủ mọi vẻ, hết trái sang phải, đầu gối chạm vành tai. Thường Nga bật cười lớn, buông chân đạp lên, Điên Đang ngẩng đầu ngậm vào mũi hài, lấy răng cắn khẽ. Thường Nga đang cười sằng sặc, chợt thấy cảm giác đê mê từ ngón chân lan lên tới người, lửa dục bốc lên như không ngăn được, vội ngưng thần quát "Con chồn tiện tỳ đáng chết, không biết lựa người mà mê hoặc à?". Điên Đang sợ nhả hài ra lạy phục xuống đất, Thường Nga giận dữ quát mắng, mọi người không ai hiểu gì cả.

Thường Nga nói với Tông rằng "Điên Đang tính hồ không đổi, mới rồi làm thiếp gần như mê muội đi, nếu không có túc căn sâu nặng, thì trụy lạc có khó gì!". Từ đó cứ gặp Điên Đang là nghiêm nghị xét nét, Điên Đang sợ sệt thẹn thùng nói với Tông "Thiếp cùng nương tử như cây liền cành, lúc nào cũng rất thân thiết nên không biết là đã mê hoặc quá đáng, có điều không phải chỉ không dám, mà là không nỡ nữa". Tông thuật lại, Thường Nga bèn đối xử với Điên Đang như trước, nhưng mấy lần khuyên răn Tông về việc đùa giỡn không có chừng mực mà Tông không nghe, vì vậy đám vợ thiếp tỳ nữ đều nhờn, tranh nhau trửng giỡn. Một hôm hai người đỡ một tỳ nữ giả làm Dương Quý phi, lấy mắt ra hiệu bảo tỳ nữ giả làm ra vẻ say rượu, vừa buông tay thì cô ta ngã vật xuống thềm như bức tường sập. Mọi người vừa reo cười vừa tới gần đập dậy, thì Phi tử đã thành cái xác ở Mã Ngôi* rồi.

*Phi tử... Mã Ngôi: Phi tử tức Dương Quý phi. Đời Đường Minh Hoàng, An Lộc Sơn dấy loạn đánh chiếm kinh đô, Minh hoàng mang Dương Quý phi chạy vào Thục, tới Mã Ngôi thì quân sĩ mệt nhọc đói khát không chịu đi nữa, tho rằng vì vua sủng ái Dương Quý phi nên có tai họa này, vua bất đắc dĩ phải sai nàng thắt cổ tự tử để yên lòng quân. Thành cái xác ở Mã Ngôi đây ý nói người tỳ nữ đóng giả Dương Quý phi đã chết.

Mọi người hoảng hốt vội chạy đi báo với chủ nhân, Thường Nga kinh sợ nói "Tai họa tới rồi đấy, ta nói có đúng không?". Vội tới xem thì không sao cứu được nữa, bèn sai báo cho người cha biết. Cha ngườí tỳ nữ là Giáp, tính vốn vô hạnh, nghe tin gào khóc chạy tới, ôm thây con vào sảnh đường, mắng chửi đủ điều, Tông đóng chặt cửa phòng run rẩy, không biết làm sao. Thường Nga bước ra quát "Ông chủ đánh đập tỳ nữ tới chết thì theo luật cũng không phải đền mạng, huống hồ đây chỉ là ngẫu nhiên đột tử, sao biết là không sống lại được?". Giáp cãi rằng chân tay con gái lạnh ngắt, lẽ nào còn sống lại được nữa. Thường Nga nói "Phải rồi, nhưng nếu nó không sống lại được thì đã có quan trên". Rồi vào sảnh đường vỗ vào xác thì người tỳ nữ đã tỉnh, vừa vỗ đã ngồi dậy. Thường Nga quay lại giận dữ nói "May mà nó chưa chết, nhưng không thể cho lão giặc già kia yên thân được, phải trói lại giải lên quan". Giáp không còn lời lẽ nào, chỉ quỳ rạp van xin. Thường Nga nói "Ngươi đã biết tội thì tạm không xét nữa, nhưng đồ tiểu nhân vô lại rất hay lật lọng, giữ con ngươi lại đây là nuôi mầm tai vạ, về mau nhà đem đủ tiền ta mua ngày trước tới đây mà chuộc con". Rồi sai người lôi Giáp ra, mời mấy ông già láng giềng làm chứng viết tờ chuộc, điểm chỉ ký tên xong bèn gọi người tỳ nữ tới trước mặt, bảo Giáp tự hỏi "Con có sao không?", cô ta đáp "Không sao", rồi mới giao cho đưa về.

Kế vào họp tất cả đám tớ gái quở trách suốt lượt, lại gọi Điên Đang tới nghiêm khắc ngăn cấm, kế nói với Tông "Nay mới biết người trên thì dù chỉ mỉm cười một cái thôi cũng không thể khinh suất. Chuyện đùa giỡn này do thiếp bày ra, mà thói tệ kéo dài không sao ngăn cấm được. Phàm buồn rầu thuộc âm, vui vẻ thuộc dương, dương cực thì âm sinh, đó là vận trời tuần hoàn. Cái họa tớ gái vừa rồi là quỷ thần mới răn dạy qua loa thôi, nếu còn mê muội không tỉnh ngộ thì việc tan nhà nát cửa tới ngay đấy", Tông kính cẩn nghe theo. Điên Đang khóc lóc xin giúp cho, Thường Nga bèn nắm lấy vành tai một lúc rồi buông ra, Điên Đang sững ra một lúc rồi chợt như vừa tỉnh mộng, lạy phục xuống đất, mừng rỡ ca múa. Từ đó trong khuê các yên ả, không ai dám ồn ào. Người tỳ nữ về tới nhà thì không bệnh mà lăn ra chết, Giáp đem tiền chuộc con tới nhờ mấy ông già láng giềng nói giúp xin thương xót tha thứ cho. Thường Nga ưng thuận, lại nghĩ tình cô ta hầu hạ bèn cho luôn số tiền để chôn cất. Tông thường lo về việc không có con, chợt nghe trong bụng Thường Nga có tiếng trẻ con khóc, nàng bèn lấy dao rạch sườn trái đem ra, quả là con trai. Không bao lâu nàng lại có mang, lại lấy dao rạch sườn phải đem ra một con gái. Con trai rất giống cha, con gái rất giống mẹ, sau đều cưới gả cho nhà thế gia.

Dị Sử thị nói: Dương cực thì âm sinh, lời ấy xác đáng thay? Nhưng trong nhà có người tiên có thể làm ta vô cùng vui sướng, giúp ta tiêu trừ tai họa, nối dài dòng giống cho ta, lại không làm ta chết thì đúng là chốn vui, có thể sống tới già ở đó, mà người tiên còn lo lắng sao! Vận trời tuần hoàn, lý vốn là thế, nhưng trên đời vẫn có kẻ khốn cùng lâu năm không được sung sướng lấy một ngày, thì làm sao giải thích đây? Thời Tống xưa có kẻ mong gặp tiên không được, thường nói "Được làm tiên một ngày rồi chết cũng không tiếc", ta thật không sao cười nổi.

203. Chử Sinh (Chử Sinh)

Cử nhân họ Trần ở phủ Thuận Thiên, năm mười sáu mười bảy tuổi thường theo thầy học tới đọc sách ở chùa. Ở chùa có rất nhiều người, trong đó có Chử sinh, tự nói là người Đông Sơn (tỉnh Chiết Giang), học hành rất chăm chỉ, không hề nghỉ ngơi, lại ngủ nhờ luôn trong chùa, ít khi thấy về nhà. Trần chơi thân với Chử nhất, nhân hỏi han, Chử đáp "Nhà ta nghèo, lo tiền ăn học không dễ, nếu không bỏ phí thời giờ mà học tới nửa đêm, thì hai ngày của ta bằng ba ngày của người khác". Trần cảm động vì lời ấy, muốn đem giường tới ở cùng, Chử ngăn lại nói "Khoan đã, khoan đã, ta thấy thầy ở đây không phải là thầy chúng ta được. Ở cửa thành có Lữ tiên sinh tuy già nhưng giỏi, xin cùng tới đó".

Đại khái những người mở trường dạy học ở kinh đô phần lớn đều thu tiền từng tháng, hết tháng thì hết tiền, ai muốn học nữa hay thôi là tùy. Rồi đó hai người tới chỗ Lữ. Lữ là bậc túc nho ở đất Việt (tỉnh Chiết Giang) lưu lạc không về quê được nên ở đó dạy trẻ con, thật ra không phải là bản ý, nên được hai nguờì làm học trò thì mừng lắm. Mà Chử lại rất thông minh, sách vở đọc qua là không quên, nên Lữ càng quý mến. Hai người ngày càng thân thiết, ban ngày học cùng bàn, ban đêm ngủ cùng giường, vừa hết tháng chợt Chử chào về nhà, hơn mười ngày không quay lại, hai thầy trò đều ngờ vực. Một hôm Trần có việc tới chùa Thiên Ninh, thấy Chử ở hành lang, đang xe dây gai làm bấc đèn. Chử gặp Trần có vẻ áy náy thẹn thùng, Trần hỏi "Sao lại bỏ không học nữa thế?". Chử cầm tay ngắt lời, buồn rầu nói "Nhà nghèo không có tiền đóng cho thầy, phải làm nửa tháng mới học được một tháng". Trần ngậm ngùi hồi lâu rồi nói "Cứ tới học đi, ta xin hết sức lo cho". Chử cảm động vì lời ấy bèn cùng Trần trở lại trường của Lữ, nhưng dặn Trần đừng nói lộ ra, tìm cớ để thưa lại với thầy.

Cha Trần vốn là nhà buôn nên giàu có, Trần cứ lén trộm tiền của cha đóng tiền học cho Chử. Cha thấy mất tiền chửi Trần, Trần kể thật lại, cha cho là ngây ngốc, bèn bắt thôi học. Chử xấu hổ quá, chào thầy định đi, Lữ biết chuyện trách rằng "Ngươi đã nghèo, sao không nói sớm". Rồi lấy hết tiền đã đóng trả lại cho cha Trần, giữ Chử ở lại dạy dỗ như cũ, cho ăn uống như con mình. Trần tuy không vào trường nữa nhưng vẫn tới mời Chử ra quán rượu thết đãi. Chử vì tỵ hiềm không tới, nhưng Trần cứ nằng nặc mời mọc, lần nào cũng khóc, Chữ không nỡ dứt tình nên vẫn qua lại với nhau. Qua hai năm cha Trần chết, Trần lại tới xin học. Lữ cảm động vì chân thành bèn nhận cho học. Nhưng Trần bỏ học lâu quá nên học kém xa Chử. Được nửa năm, con trai lớn của Lữ từ đất Việt tới, phải xin ăn tìm cha.

Học trò góp tiền giúp thầy trở về, Lữ chỉ biết rơi lệ lưu luyến mà thôi. Lúc Lữ lên đường, dặn Trần coi Chử như thầy. Trần nghe theo, đưa Chử về nhà ở. Không bao lâu được vào học trường huyện, dự khoa thi Di tài, Trần lo không viết đủ quyển nổi, Chử xin thi thay. Đến ngày thi, Chử đưa một người tới, nói là biểu huynh tên Lưu Thiên Nhược, bảo Trần tạm đi theo. Trần vừa bước ra, Chử phía sau chợt kéo mạnh, lảo đảo suýt ngã. Lưu vội đỡ rồi cùng đi. Đi một chặng xa, Lưu đưa vào nhà mình, trong nhà không có phụ nữ nên cho khách ngủ nhà trong. Ở đó vài hôm, chợt đã đến ngày Trung thu, Lưu nói "Hôm nay trong vườn của Hoàng thân họ Lý có nhiều người tới du ngoạn, tới đó chơi một phen cho đỡ buồn rồi sẽ đưa ông về", rồi sai người gánh lò trà bình rượn cùng đi.

Tới đó thì bến nước đình mai đông đúc ồn ào không chen vào được, qua khỏi bến nước thấy dưới gốc liễu già có con thuyền nằm ngang bèn dắt nhau lên. Uống được mấy chén, thấy vắng vẻ quá, Lưu ngoái lại nói với tiểu đồng "Quán mai hoa gần đây có một ca kỹ mới, không biết có nhà không?" Tiểu đồng đi một lát thì đưa nàng ấy về, té ra là nàng Lý Át Vân. Lý là danh kỹ ở kinh đô, làm thơ giỏi, ca hát hay, Trần từng đi với bạn uống rượu chỗ nàng một lần nên có quen. Gặp nhau chuyện trò thăm hỏi, nàng có vẻ buồn rầu lo lắng, Lưu bảo hát thì hát khúc Cảo lý*. Trần không vui nói "Cho dù chủ khách không hợp nhau, nhưng sao nàng lại hát khúc điệu vong trước người còn sống?". Nàng bèn đứng lên gượng cười nói, hát khúc diễm tình, Trần vui vẻ nắm cổ tay nàng nói "Lần trước nàng hát khúc Cán sa khê, ta đã nhẩm lại mấy lần nhưng nay quên cả rồi", nàng bèn ngâm rằng:

* Cảo lý: tên khúc hát cổ, ngày xưa dùng làm bài hát lúc đưa tang.

Lệ nhãn doanh doanh đối kính đài,

Khai liêm hốt kiến tiểu cô lai.

Đê đầu chuyển trắc khán cung hài,

Cưỡng giải lục nga khai tiếu yểm.

Tần tương hồng tụ thí hương tai,

Tiểu tâm do khủng bị nhân xai.

(Mắt lệ rưng rưng đứng trước gương

Mở rèm chợt thấy bóng cô nương

Cúi đầu ngoảnh lại nhìn xiêm áo

Nhoẻn miệng buồn tênh với phấn hương

Tay áo mấy lần lau nước mắt

Còn e khách giận vẻ sầu thương)

Trần ngâm đi ngâm lại mấy lần rồi ghé thuyền vào bờ, bước lên hành lang thủy đình, thấy trên vách có rất nhiều thơ đề vịnh, lập tức lấy bút ghi bài từ lên đó. Trời đã xế chiều, Lưu nói "Người trong trường thi sắp ra rồi". Bèn đưa Trần về, tới cổng là chào đi ngay. Trần thấy trong nhà tối tăm không có ai, đang định cất tiếng hỏi thì Chử sinh đã bước vào, nhìn kỹ lại thì không phải Chử sinh. Đang còn kinh ngạc thì người kia đã tới sát bên ngã chúi vào, bọn người nhà nói "Công tử mệt quá rồi", rồi xúm lại đỡ lên, Trần chợt biết người vừa ngã không phải ai khác mà chính là mình. Choàng dậy nhìn thấy Chử sinh bên cạnh, bàng hoàng như vừa tỉnh mộng, ngồi yên ngẫm nghĩ, Chử nói "Nói thật ông đừng sợ, chứ thật ra ta là ma đây, lẽ ra đã đầu thai lâu rồi, sỡ dĩ còn nấn ná ở đây là vì không quên được bạn tốt, nên mới nhập vào xác ông để thi thay, nay xong cả ba kỳ, đã thỏa nguyện rồi".

Trần lại xin thi hội giùm, Chử nói "Kiếp trước ông ít phúc đức, tính keo kiệt, sợ kiếp này khó thi đỗ làm quan". Trần hỏi sắp tới sẽ đi đâu, Chử đáp "Lữ tiên sinh với ta có duyên phận cha con, vẫn nghĩ ngợi mà không làm được, biểu huynh coi việc sổ sách dưới âm ty nên ta đã nhờ thưa giùm với Diêm Vương, may ra thì được", rồi chào đi, Trần lấy làm lạ lùng. Sáng ra tới thăm nàng ca kỹ họ Lý, định hỏi han về việc chơi thuyền hôm qua, thì nàng đã chết mấy hôm rồi. Lại tới khu vườn của hoàng thân xem thì bài thơ đề trên vách vẫn còn, nhưng nét mực mờ mờ như sắp phai hết, mới biết kẻ đề là hồn, kẻ làm là ma. Đến đêm Lữ mừng rỡ tới nói "Chuyện ta tính toán may quá đã xong rồi, xin kính cẩn từ biệt ông". Rồi xòe hai bàn tay ra bảo Trần ghi chữ "Chử" vào để ghi nhớ. Trần định sai bày rượu tiễn, Chử xua tay nói "Không cần đâu, nếu ông không quên bạn cũ thì sau khi ra bảng rồi đừng ngại xa xôi".

Trần gạt lệ đưa ra, thấy một người đang chờ ở cổng. Chử đang còn chần chừ, người ấy đã đưa tay nắm vào đầu, Chử theo tay thu người lại còn bé tí, người ấy liền bỏ vào túi vác đi. Qua mấy hôm sau, quả nhiên có tin Trần thi đỗ, bèn thu xếp hành lý tới đất Việt. Vợ Lữ không sinh đẻ gì đã mười năm, đã hơn năm mươi tuổi chợt sinh một con trai, hai tay cứ nắm chặt vào nhau không sao mở ra được. Trần tới xin cho nhìn đứa nhỏ, lại nói trong tay nó phải có chữ "Chử". Lữ chưa tin lắm, nhưng khi đứa nhỏ nhìn thấy Trần chợt xòe mười ngón tay ra, nhìn vào quả đúng. Lữ ngạc nhiên hỏi duyên do, Trần kể lại hết mọi chuyện, mọi người đều kinh ngạc sợ hãi, Trần tặng biếu Lữ rất hậu rồi trở về. Sau Lữ nhờ chân Cống sĩ lên kinh thi đình, tới ở nhà Trần thì đứa nhỏ được mười ba tuổi, đã được vào học ở trường huyện rồi.

Dị Sử thị nói: Già Lữ dạy môn sinh mà không biết đó chính là dạy con mình. Than ôi, làm điều lành cho người thì được điều hay cho mình, chỉ trong chốc lát thôi. Như Chử sinh sau cùng đem thân báo ơn thầy, mà trước tiên đem hồn đền nghĩa bạn, tâm ý cùng hành động đều rạng rỡ với mặt trăng mặt trời, há vì là ma mà lấy làm kỳ dị sao!

204. Cô Gái Họ Hoắc (Hoắc Nữ)

Chu Đại Hưng là người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), nhà giàu có nhưng rất keo kiệt bủn xỉn, ngoài lễ cưới hỏi cho con thì trên bàn không có khách, dưới bếp không có thịt. Nhưng tính tình lại bợm bãi thích nữ sắc, có gái bên cạnh thì tiêu bao nhiêu cũng không tiếc, cứ đêm đến là trèo tường qua thôn bên cạnh ngủ với đám đàn bà phóng đãng. Một đêm gặp người thiếu phụ đi một mình, biết là kẻ trốn nhà bỏ đi, bèn ép dẫn về, thắp đèn lên nhìn thì vô cùng xinh đẹp. Nàng tự nói là họ Hoắc, Chu hỏi kỹ lai lịch thì tỏ vẻ không bằng lòng, nói "Nếu đã thu dung nhau được thì cần gì phải hỏi kỹ. Còn nếu sợ làm lụy cho nhau thì chẳng bằng xin đi ngay". Chu không dám hỏi nữa, giữ lại trong phòng ngủ. Cô gái không thể ăn uống kham khổ, lại rất ghét thịt cá, phải là yến sào, tim gà, bóng cá nấu thang mới chịu ăn nhưng Chu không tiếc, cứ ra sức cung phụng.

Cô gái lại hay bệnh, nói mỗi ngày phải uống một chén sâm, ban đầu Chu không chịu nhưng nàng cứ rên rỉ như sắp chết, Chu bất đắc dĩ phải cắt thuốc cho thì lại như khỏi bệnh khỏe mạnh như thường. Cô gái mặc quần áo phải là gấm vóc, cứ vài ngày lại bỏ thứ cũ sắm thứ mới. Cứ thế hơn tháng, Chu chịu không xiết, dần dần không cung đốn được, cô gái rơi lệ bỏ ăn, nằng nặc xin đi. Chu sợ lại dịu ngọt khuyên lơn chiều chuộng như cũ. Cô gái lại hay buồn rầu, cứ mỗi ngày lại gọi ban hát tới nhà diễn tuồng, lúc diễn Chu đặt chõng bế con ngồi ngoài nhìn, cô gái vì không có khách cứ chữi mắng, Chu cũng ít khi phân biện. Được hai năm, nhà cửa dần dần sa sút, Chu lựa lời nói với cô gái xin nàng chi tiêu dè sẻn hơn, cô gái ưng thuận, từ đó chi dùng chỉ bằng một nửa lúc trước.

Ít lâu sau vẫn không thể cung đốn được, cô gái bất đắc dĩ phải ăn cháo thịt, kế dần dần cũng phải chịu ăn những món thông thường. Chu mừng thầm, chợt một đêm nàng mở cửa bỏ đi mất. Chu rầu rĩ như mất của, tìm hỏi khắp nơi mới biết nàng tới nhà họ Hà ở thôn bên. Hà là con nhà vọng tộc, tính phóng khoáng hiếu khách, thường đốt đèn yến tiệc đến sáng. Hôm ấy chợt có cô gái đẹp nửa đêm bước vào phòng, hỏi ra thì là người thiếp của Chu bỏ trốn. Hà vốn biết rõ Chu là người thế nào, lại thích cô gái xinh đẹp bèn thu nạp, ăn ở được vài ngày càng thêm si mê, cứ để nàng mặc tình hoang phí, cung phụng như Chu trước kia. Chu được tin qua đòi nhưng Hà không hề quan tâm, Chu liền kiện lên quan. Quan hỏi tên họ lai lịch cô gái, Chu đều không biết rõ, quan bèn để đó không xét xử gì nữa.

Chu bán gia sản đút lót mới được xét xử, cô gái nói với Hà "Thiếp về với họ Chu vốn không có mai mối cưới hỏi, có gì phải sợ". Hà mừng rỡ, kế đối chất xong trong bọn tân khách có Cố sinh cho là không thể làm như vậy, nói với Hà rằng "Thu nạp kẻ trốn nhà bỏ đi là đã phạm pháp, huống chi cô gái này vào nhà hoang phí quá độ, cho dù là gia sản ngàn vàng cũng đã chắc lâu dài được chưa?". Hà chợt tỉnh ngộ xin thôi kiện, đưa trả cô gái về cho Chu, nhưng được hai ba hôm thì nàng lại trốn đi. Có Hoàng sinh vốn là học trò nghèo, không có vợ. Cô gái gõ cửa vào nhà, nói rõ mình ở đâu tới. Hoàng sợ phạm pháp vì đột nhiên có người đẹp tới nhà, sợ hãi không biết làm sao, chỉ cố từ chối nhưng cô gái vẫn không chịu đi. Trong lúc đối đáp nàng tỏ vẻ rất nhu mì trong trắng, Hoàng xiêu lòng bèn giữ lại, nhưng sợ nàng không chịu yên phận nghèo hèn. Cô gái dậy sớm làm lụng việc nhà, vất vả còn hơn vợ thật.

Hoàng là người hiểu nhiều biết rộng, phóng khoáng đa tình mà cô gái lại giỏi chiều chuộng, vì thế hận gặp nhau quá muộn, chỉ sợ tin tức lộ ra không được chung sống lâu dài. Nhưng Chu từ sau vụ kiện càng nghèo, lại cho rằng cô gái nhất định không chịu yên phận nên cũng bỏ qua không tìm nữa. Cô gái ở với Hoàng được vài năm, tình nghĩa rất thắm thiết, một hôm chợt nói muốn về thăm nhà, xin Hoàng đưa tiễn. Hoàng nói "Trước nàng nói rằng không có nhà cửa, tại sao trước sau bất nhất như vậy?". Cô gái đáp "Lúc trước là thiếp nói dối, chứ thiếp là người huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) trước theo kẻ phóng đãng lưu lạc giang hồ nên mới đến nông nỗi này. Nhà thiếp cũng giàu có, chàng cứ cố tìm tới, ắt có báo đáp". Hoàng theo lời, thuê kiệu cùng đi, tới địa phận Dương Châu ghé thuyền vào bờ sông. Cô gái ngồi trong thuyền nhìn ra, có người nhà buôn lớn nhìn thấy ngạc nhiên vì nàng quá đẹp, quay thuyền lại đuổi theo mà Hoàng không hề biết.

Cô gái chợt nói "Nhà chàng nghèo quá, nay có một cách chữa bệnh nghèo, không biết chàng có chịu không?". Hoàng hỏi cách gì, nàng đáp "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng sinh đẻ, đó cũng là một điều không hay. Thiếp tuy quê mùa nhưng may cũng chưa già, nếu có ai đem ngàn lượng vàng mua thiếp đi, thì bấy nhiêu đủ cho chàng có vợ đẹp ruộng tốt, cách đó thế nào?". Hoàng biến sắc không biết vì sao nàng nói thế, cô gái cười nói "Chàng đừng vội, trên đời vốn có nhiều người đẹp, ai mà chịu bỏ ngàn vàng mua thiếp? Nhưng nói đùa biết đâu cũng có thật, chứ bán hay không bán là tùy chàng thôi". Cô gái bèn nói với vợ người nhà thuyền, người đàn bà nhìn Hoàng, Hoàng ngần ngại chưa lên tiếng, người đàn bà liền đi, giây lát quay về nói thuyền bên có người nhà buôn lớn xin bỏ ra tám trăm lượng. Hoàng cố ý xua tay làm ra vẻ không được, không bao lâu người đàn bà quay lại nói người nhà buôn ưng thuận, xin mời qua ngay thuyền để giao tiền.

Hoàng cười khẽ, cô gái nói "Người ta mời qua làm giấy ký tên đấy, đi hay không thì tùy chàng thôi". Hoàng không chịu, cô gái cứ hối thúc, Hoàng bất đắc dĩ phải qua. Trong giây lát giấy tờ làm xong, tiền bạc giao đủ, Hoàng bảo gói kín lại, nói "Chỉ vì nghèo nên phải dứt tình, nếu vợ ta không chịu theo, thì vẫn có đủ tiền trả lại". Vừa chở tiền về thuyền thì thấy cô gái đã theo người vợ nhà thuyền từ đuôi thuyền leo qua thuyền người nhà buôn, từ xa vẫy tay chào, không hề tỏ vẻ lưu luyến gì cả. Hoàng buồn rầu vì biệt ly, thổn thức không nói nên lời. Giây lát thuyền kia nhổ neo lướt đi như tên bắn, Hoàng gào lớn muốn đuổi theo, nhà thuyền không chịu, nhổ neo đi về phía nam. Trong nháy mắt đã tới Trấn Giang, Hoàng đem tiền lên bờ xong, nhà thuyền vội nhổ neo rời bến. Hoàng ôm hành lý ngồi buồn rầu, không biết về đâu, nhìn sóng nước lăn tăn trên sông thấy như có hàng vạn mũi kim châm vào lòng. Đang còn gạt lệ chợt có tiếng êm ái gọi Hoàng lang, ngạc nhiên nhìn quanh thì cô gái đã đứng trên con đường trước mặt, Hoàng mừng quá xách hành lý đi theo.

Hỏi sao nàng tới mau thế, cô gái cười đáp "Nếu chậm vài khắc nữa chắc chàng sẽ sinh nghi". Hoàng lại ngờ rằng nàng là người phi thường, hết sức gạn hỏi, cô gái cười nói "Thiếp bình sinh gặp kẻ keo kiệt thì phá của, gặp kẻ dâm tà thì lừa bịp, nếu bàn thật ắt chàng sẽ không chịu, thì làm sao có được ngàn vàng? Bây giờ túi đã đầy tiền, lại còn châu về Hiệp Phố, chàng có được đủ cả tiền cả vợ, còn hỏi làm gì?". Bèn cầm giúp hành lý đưa nhau đi, khỏi cửa sông có một căn nhà quay mặt về hướng nam bèn vào. Giây lát cha mẹ anh trai chị dâu nhao nhao ra đón, đều nói "Hoàng lang tới rồi". Hoàng vào lạy ra mắt cha mẹ vợ, thấy có hai thiếu niên bèn vái chào rồi cùng ngồi trò chuyện, đó là anh trai và em trai của cô gái là Đại lang và Tam lang. Trong bàn tiệc không có nhiều món, chỉ bày có bốn đĩa mà chật cả bàn, gồm gà cua ngỗng cá đầy vun lên. Hai thiếu niên lấy chén lớn mời rượu, trò chuyện phóng khoáng.

Kế dẫn Hoàng vào một gian nhà riêng cho vợ chồng cùng ở, nệm gối đều tinh khiết sạch sẽ nhưng trên giường thì lót da thay nệm, hàng ngày có tớ gái đưa cơm tới ba bữa, nhưng cô gái có khi cả ngày không thấy tới. Hoàng ở một mình thấy buồn khổ quá, mấy lần đòi về, nhưng cô gái cố giữ lại. Một hôm nàng nói với Hoàng "Nay tính toán cho chàng thì xin nên cưới một người vợ để có con nối dõi, nhưng cưới vợ lẽ thì giá cao, chàng nên giả làm anh thiếp, nói cha lo cưới vợ cho thì tìm con nhà lương dân không khó lắm", Hoàng không chịu nhưng nàng không nghe. Có con gái Cống sĩ họ Trương vừa góa chồng, đòi sính lễ trăm quan tiền, cô gái ép Hoàng cưới về. Người vợ mới tên A Mỹ, cũng xinh đẹp, cô gái gọi là chị dâu. Hoàng áy náy không yên lòng nhưng nàng vẫn thản nhiên. Ngày khác nàng nói với Hoàng "Thiếp sắp theo chị cả tới Nam Hải thăm bà dì một lần, hơn một tháng sẽ về, xin hai vợ chồng cứ ở đây", rồi đi.

Hai vợ chồng ở riêng một gian, nhà cô gái vẫn đưa đồ ăn thức uống qua cho, lại càng đầy đủ chu tất. Nhưng từ khi Hoàng tới đó thì không ai bước vào phòng, mỗi sáng A Mỹ qua hầu mẹ chỉ nói một đôi câu là về, chị gái em dâu ngồi cạnh cũng chỉ nhìn nhau cười một cái, cho dù ngồi lâu hơn cũng chẳng trò chuyện gì nhiều. Hoàng thấy cha cô gái cũng vậy, có khi đang ngồi trò chuyện với các con trai, nhưng Hoàng tới thì tất cả đều im lặng. Hoàng nghi ngờ buồn bực nhưng không nói ra được, A Mỹ biết ý hỏi rằng "Chàng là anh em với mấy người kia, tại sao cả tháng nay thấy đối xử với nhau cứ như khách lạ thế?". Hoàng thảng thốt không sao đáp được, ấp úng nói "Ta xa nhà mười năm, nay mới trở về". A Mỹ lại hỏi kỹ từ gia thế cha mẹ chồng tới quê quán các chị em dâu, Hoàng quýnh quáng không thể giấu giếm bèn kể thật hết. Nàng khóc nói "Nhà thiếp tuy nghèo nhưng không ai làm lẽ mọn, chẳng lạ gì các chị em dâu khinh rẻ không coi ngang hàng".

Hoàng sợ hãi lúng túng không biết tính sao, chỉ quỳ rạp trước mặt xin nhất nhất tuân lời, A Mỹ gạt lệ kéo đứng lên, hỏi qua việc định xử sự thế nào. Hoàng đáp "Ta đâu dám có ý gì khác, chỉ còn tùy ý nàng muốn bỏ thì bỏ thôi". Nàng nói "Đã lấy chồng lại bỏ về, nỡ lòng nào làm thế? Người kia tuy theo chàng trước nhưng là do ý riêng, thiếp tuy tới sau nhưng đúng lễ chung, chẳng bằng cứ chờ nàng về hỏi xem đã bày ra cách này thì sẽ đặt thiếp vào đâu?". Được vài tháng cô gái vẫn không về, một đêm nghe ngoài phòng khách có tiếng người uống rượu ồn ào, Hoàng lén dậy ra nhìn xem, thấy hai người khách mặc nhung phục ngồi trên, một người đội khăn da báo, oai mãnh như thiên thần, phía đông là một người lấy da đầu cọp làm mũ đâu mâu, miệng cọp ngoạm vào đỉnh đầu, tai mũi đều còn đủ. Hoàng kinh sợ trở về kể cho A Mỹ, càng không biết cha con họ Hoắc là hạng người nào. Vợ chồng ngờ vực sợ hãi bàn nhau tìm chỗ khác ở, nhưng lại sợ sinh chuyện ngang trái. Hoàng nói "Nói thật với nàng nếu người từ Nam Hải về thì chuyện chia tay nhau cũng đã định rồi, ta cũng không thể ở đây được. Nay muốn đưa nàng đi, lại sợ nhạc phụ đại nhân nói này khác, chẳng bằng cứ tạm chia tay, trong vòng hai năm ta sẽ trở lại, nếu nàng đợi được thì đợi, nếu có ai cưới thì tùy ý nàng". A Mỹ muốn nói cho cha mẹ biết để đi theo, Hoàng không chịu, A Mỹ gạt lệ đòi Hoàng phải thề thốt, sau đó chia tay trở về.

Hoàng vào từ giã cha mẹ cô gái, lúc ấy hai người con trai đi vắng. ông Hoắc giữ lại bảo chờ họ về, Hoàng không nghe cứ ra đi, buồn rầu lên thuyền, lòng dạ tan nát. Đến Qua Châu (thuộc tỉnh Giang Tô) chợt quay nhìn thấy một cánh buồm đuổi tới, lướt nhanh như bay, dần dần tới gần thì người chống kiếm ngồi đầu thuyền là Hoắc Đại lang, từ xa đã nói vọng tới "Ông muốn trở về sao không bàn kỹ lần nữa? Để phu nhân lại mà bỏ đi, hai ba năm thì ai mà chờ được". Nói xong thì thuyền đã tới sát, A Mỹ từ trong bước ra, Đại lang kéo lên thuyền của Hoàng, rồi nhảy trở lại đi mất. Trước là A Mỹ vừa về tới nhà khóc kể cho cha mẹ, chợt Đại lang đem kiệu tới cổng, chống kiếm uy hiếp bắt nàng đi ngay, cả nhà run sợ nín thở không dám nói một câu cản trở. Nghe nàng kể như thế, Hoàng không hiểu họ Hoắc có ý gì, nhưng được A Mỹ cũng rất mừng, bèn nhổ neo lên đường. Về tới nhà đem tiền ra mua sắm ruộng vườn, nổi tiếng giàu có.

A Mỹ nhớ cha mẹ, muốn Hoàng đi thăm một lần, nhưng lại sợ cô gái họ Hoắc tới thì lại có chuyện tranh giành ngôi thứ. Không bao lâu ông Trương tới thăm, thấy nhà cửa cao ráo cũng được an ủi, nói với con gái rằng "Sau khi con đi, ta cho người tới nhà họ Hoắc hỏi dò nhưng chỉ thấy cửa đóng chặt, chủ nhà cũng chẳng biết gì, nửa năm sau cũng không có tin tức. Mẹ con ngày nào cũng khóc, cho rằng con bị kẻ gian bắt đi bán rồi, không biết lưu lạc tới nơi đâu, nay vẫn may không sao chứ?". Hoàng kể thật lại sự tình, mọi người vì vậy cho rằng họ Hoắc là thần. Về sau A Mỹ sinh con trai, đặt tên là Tiên Tứ, năm hơn mười tuổi mẹ sai đi Trấn Giang.

Tới địa giới Dương Châu vào nghỉ ở nhà trọ, bọn gia nhân đi theo đều ra ngoài, chợt có cô gái tới kéo đứa nhỏ vào phòng khác, buông rèm rồi bế ngồi lên đầu gối, cười hỏi tên gì, đứa nhỏ nói tên. Cô gái lại hỏi tên ấy có ý nghĩa là gì, đứa nhỏ nói không biết, cô gái nói cứ về hỏi cha thì sẽ biết. Rồi búi tóc cho, lấy cành thoa trên đầu cắm vào thay trâm, tháo vòng vàng đeo vào cổ tay, lại lấy vàng cho vào túi áo đứa nhỏ nói "Về rồi mua sách mà đọc". Đứa nhỏ hỏi bà là ai, nàng đáp "Con không biết là còn có một mẹ khác à? Về nói với cha rằng Chu Đại Hưng chết không có quan tài, nên giúp đỡ cho y, đừng có quên đấy". Người lão bộc quay trở về phòng không thấy thiếu chủ đâu, tìm tới phòng ấy nghe đang nói chuyện với người khác bèn nhìn vào thì ra là chủ mẫu cũ, khẽ hắng giọng định chào hỏi thì cô gái đặt đứa nhỏ lên giường rồi biến mất. Hỏi tới người thuê phòng ấy thì không biết là ai. Mấy hôm sau từ Trấn Giang trở về kể lại với Hoàng, lại đưa những thứ cô gái tặng ra cho xem, Hoàng thở than không thôi, khi hỏi tới Chu thì đã chết ba ngày, xác còn đó chưa chôn được, bèn giúp đỡ cho rất hậu.

Dị Sử thị nói: Cô gái là tiên chăng? Ba lần thay chồng quả không thể gọi là trinh, nhưng gặp kẻ keo kiệt thì phá của, gặp kẻ dâm tà thì kìm chế, cô gái không phải là người vô tâm đâu. Nhưng đã phá của thì không cần thương xót nữa, bọn người tham dâm keo kiệt mà chết ở ngòi rãnh thì có gì đáng tiếc chứ?

205. Khách Buôn Vải (Bố Thương)

Có người khách buôn vải là Mỗ tới đất Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), tình cờ ghé thăm ngôi chùa bỏ hoang, thấy chùa thiền đổ nát than thở không thôi. Sư đứng bên cạnh nóì "Nếu thí chủ có lòng thiện tín, xây lại sơn môn thì mặt Phật cũng được rạng rỡ". Khách khảng khái nhận lời, sư mừng rỡ mời vào phương trượng khoản đãi rất ân cần, kế dắt đi khắp phòng ốc trong ngoài, xin sửa sang hết. Khách từ chối là không đủ sức, sư cố ép buộc, giận dữ quát tháo. Khách sợ xin đưa tiền ngay, rồi dốc túi đưa hết tiền bạc ra. Lúc sắp ra về thì sư chặn lại nói "Ông hết sạch cả tiền vốn không phải là tình nguyện, nhất định không cam lòng. Chẳng bằng ta phải tính trước", rồi cầm đao ra. Khách lạy lục năn nỉ cũng không nghe, bèn xin được tự thắt cổ, sư ưng thuận dắt vào phòng kín, ép thắt cổ ngay. Vừa gặp lúc có quan Phòng hải tướng quân đi ngang qua chùa, nhìn vào chỗ tường vỡ thấy có một người con gái áo đỏ chui vào phòng sư lấy làm ngờ vực bèn xuống ngựa vào sai quân tìm kiếm khắp cả trước sau đều không thấy đâu. Tới chỗ phòng kín thấy hai cánh cửa đóng chặt, sư lại không chịu mở, nói thác là bên trong có yêu quái. Tướng quân tức giận sai phá cửa vào, thấy khách đã treo cổ lên xà nhà vội cứu xuống, giây lát thì sống lại. Hỏi han sự tình, lại tra hỏi cô gái ở đâu thì qua thật không có, thắc là thần phật hóa thân ra mà thôi. Bèn giết sư, trả hết tiền bạc lại cho khách. Khách càng dốc lòng sửa sang chùa chiền, từ đó lửa hương không ngớt. Hiếu liêm Triệu Phong Nguyên kể lại chuyện này rất tường tận

206. Bành Nhị Tranh (Bành Nhị Tranh)

Ông Hàn Phủ ở huyện Võ Thành (tỉnh Sơn Đông) kể có lần đi cùng đường với người trong huyện là Bành Nhị Tranh, chợt quay đầu lại thì không thấy đâu, chỉ còn con ngựa theo sau. Nhưng nghe có tiếng kêu gào rất gấp, lắng nghe thì từ cái túi da trên lưng ngựa phát ra. Tới gần xem thì cái túi vẫn như cũ, tuy rất nặng nhưng vẫn không rơi xuống. Muốn cứu ra thì miệng túi đã bị khâu kín, lấy dao cắt chỉ thấy Bành Nhị Tranh nằm co như con chó ở trong. Cứu ra rồi, hỏi tại sao lại vào được trong bao, Bành củng ngơ ngác không hiểu, chắc là nhà ấy bị hồ quấy phá, những chuyện như thế rất nhiều.

207. Thần Nhảy (Khiêu Thần)

Tục ở đất Tế (tỉnh Sơn Đông) trong dân gian hễ ai bị bệnh thì vợ con đi bói toán rồi mời bà đồng tới lắc vòng sắt đánh trống con làm như dáng nhảy nhót, gọi là Thần nhảy. Tục ấy ở thành thị lại càng thịnh hành, các thiếu phụ nhà lương dân vẫn thường làm. Trong sảnh đường bày thịt trên giá, chứa rượu trong chậu bày cả lên bàn, đốt đuốc sáng như ban ngày. Bà đồng mặc quần ngắn, đứng co một chân như con cò, có hai người nắm tay đỡ hai bên, miệng lẩm bẩm không ngừng như ca hát mà cũng như khấn khứa. Số người đã có chồng và người góa chồng xấp xỉ như nhau, cùng nhảy nhót theo tiếng kèn. Kế đánh một hồi trống vang rền như sấm điếc cả tai, rồi bà đồng rẽ mọi người ra, vì tiếng trống ầm ĩ nên không nghe rõ là nói gì. Kế bà ta cúi đầu liếc ngang, đứng cả hai chân xuống đất nhưng không có người đỡ nên ngã ngay, chợt lại vươn cổ nhảy dựng lên cách mặt đất cả thước. Đàn bà con gái trong nhà sợ sệt nói với nhau "Ông bà về ăn uống đấy!", rồi thổi một hơi tắt hết đèn đuốc. Trong ngoài tối đen như mực, mọi người nín thở đứng trong bóng tối không dám trò chuyện với nhau một câu nhưng có nói cũng không nghe vì có nhiều tiếng động đang rộn lên.

Khoảng xong bữa cơm thì nghe bà đồng lớn tiếng gọi tên tục của cha mẹ vợ chồng chủ nhà, mọi người mới cùng nhau thắp đèn lên khom lưng hỏi chuyện lành dữ. Thấy rượu thịt trên bàn đã hết sạch, cứ nhìn mặt bà đồng xem mừng giận ra sao mà khép nép thưa gởi, còn bà ta đáp nghe vang rền. Có ai thầm dè bỉu thì thần biết ngay, chỉ vào mặt nói ngươi dám cười ta thì thực là đại bất kính, phải lột quần ngươi. Người dè bỉu nhìn lại mình thì quả nhiên đã bị lột truồng, cứ ra cành cây cao nhất ngoài cổng sẽ tìm thấy quần trên đó. Đàn bà con gái cả vùng thờ phụng rất kính cẩn, có điều gì nghi ngờ hỏi tới thì thần quyết cho ngay. Có lúc bà đồng lại ăn mặc nghiêm trang cỡi cọp giả làm ngựa, cầm binh khí dài múa trên sạp, gọi là Thần cọp nhảy (Khiêu hổ thần). Những người đóng giả cọp thì làm ra vẻ dữ tợn, gầm thét ầm ĩ. Có khi thần xưng là Quan Công Trương Phi hay thần Nguyên Đàn, không có tên gọi nhất định, dáng vẻ khí thế hung dữ làm người ta phải khiếp sợ. Có người đàn ông lẻn vào nhìn trộm, bị binh khí dài đâm qua song cửa xuyên trúng mũ. Khi thần đã nhập thì phụ nữ cả nhà từ mẹ chồng con dâu tới các chị em gái đều kính kính cẩn cẩn đứng xếp hàng ngay ngắn, không dám nghĩ bậy, không dám ngã ngớn.

208. Công Phu Thiết Bố Sam (Thiết Bố Sam Pháp)

Sa Hồi Tử học được công phu Thiết bố sam, xòe bàn tay ra có thể chém đứt đầu trâu, đâm thủng bụng trâu. Từng ở nhà Cừu công tử và Bành tam gia, treo khúc gỗ trên không, sai hai người đầy tớ khỏe mạnh nắm một đầu hết sức thúc vào bụng, bình một tiếng, khúc gỗ văng ra xa. Lại lấy hết sức thúc vào hạ bộ cũng không hề hấn gì, duy chỉ sợ đao kiếm mà thôi.

209. Đầu Mỹ Nhân (Mỹ Nhân Thủ)

Có bọn khách thương ngụ ở kinh, nhà trọ liền với hàng xóm, cách một bức vách, vách ván bị mục thủng một lỗ to bằng cái chậu. Chợt có một cô gái thò đầu vào nhìn, búi tóc cài trâm rất lộng lẫy, kế lại đưa một cánh tay qua, thấy trắng như ngọc. Mọi người hoảng sợ cho là yêu quái, toan nắm lấy thì đã rút ra. Giây lát lại thò vào, cách vách nên không thấy người, chạy mau ra xem thì đã biến mất. Một người bèn cầm dao núp dưới vách, giây lát cái đầu thò vào, y vùng dậy chém, cái đầu theo dao rơi xuống, máu bắn tung tóe lên vách. Mọi người phát hoảng báo cho chủ nhà trọ, chủ nhà trọ sợ hãi đem cái đầu lên báo quan. Quan bắt bọn khách thương tới hỏi cung thấy thưa bẩm rất hoang đường bèn giam giữ suốt nửa năm, họ đều kêu van là không biết gì, kế không thấy ai kiện tụng bèn tha ra, sai chôn cái đầu cô gái.

210. Thần Núi (Sơn Thần)

Lý Hội Đẩu ở Ích Đô (tỉnh Tứ Xuyên) ngẫu nhiên đi ngang qua núi, gặp vài người đang ngồi dưới đất uống rượu, thấy Lý đều cung kính đứng dậy mời cùng ngồi, rót rượu mời mọc. Nhìn vào mâm thấy đủ thứ rau cỏ, uống với nhau một lúc rất vui vẻ, nhưng rượu rất nhạt. Chợt có một người đi tới, mặt hẹp mà dài khoảng hai ba thước, đội mũ cao mà nhỏ. Cả bọn hoảng sợ nói "Thần núi tới rồi", cùng nhao nhao bỏ chạy. Lý cũng nằm rạp xuống núp dưới hố, lát sau dậy xem thì không thấy rượu thịt gì cả chỉ có vài món bát đĩa vỡ đầy cát bụi vứt lăn lóc, trên mảnh ngói có mấy con rắn mối mà thôi.

211. Tướng Quân Họ Khố (Khố Tướng Quân)

Khố Đại Hữu tự Quân Thục là người huyện Dương ở Hán Trung (tỉnh Tứ Xuyên) đậu Cử nhân võ, theo làm tướng trong quân Tổ Thuật Vũ*. Tổ rất quý trọng, cất nhắc mấy lần, dần thăng tới chức Tổng nhung của nhà ngụy Chu. Sau thấy thế đã nguy, ngầm đem quân đánh Tổ, chém Tổ bị thương ở tay rồi bắt sống giải về nộp cho Tổng đốc Thái. Tới kinh đô, Khố nằm mơ thấy bị giải tới âm ty, Diêm Vương giận là bất nghĩa, sai quỷ tất lấy dầu sôi đổ vào chân. Tỉnh dậy thì chân đau không sao chịu nổi, kế lở ra máu mủ bê bết, các ngón rụng hết, lại thêm bị mê sảng, cứ gào lớn rằng "Ta quả là kẻ bất nghĩa, ta quả là kẻ bất nghĩa!", rồi chết.

* Tố Thuật Vũ: tướng của Bình Tây vương Ngô Tam Quế thời Thanh, theo giúp Ngô Tam Quế làm phản chống lại nhà Thanh, chiếm cứ vùng đất phía nam Trung Quốc, xưng quốc hiệu là Chu, sau bị nhà Thanh đánh bại.

Dị Sử thị nói: Thờ ngụy triều thì vốn không thể nói là trung, nhưng được coi như bậc quốc sĩ hay kẻ tầm thường thì chịu ơn cũng phải báo đáp, chỉ là người hào kiệt thì buộc mình phải báo đáp sao cho xứng đáng mà thôi*. Chuyện này quả cũng có thể để răn những kẻ bầy tôi ăn ở hai lòng trong thiên hạ vậy.

*Được coi như... mà thôi: Dự Nhượng người nước Tấn thời Chiến quốc theo thờ họ Phạm Trung Hàng, họ Phạm không biết tài bèn bỏ theo thờ Trí Bá, được Trí Bá rất kính trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương tử giết, Dự Nhượng nuốt than sơn mặt đổi giọng nói thay vẻ mặt để hành thích Tương tử nhưng bại lộ bị bắt. Tương tử hỏi "Trước ông đã thờ họ Phạm Trung Hàng rồi, sao lại liều chết báo thù cho Trí Bá?", Nhượng đáp "Họ Phạm coi ta là kẻ tầm thường thì ta báo đáp như kẻ tầm thường còn Trí Bá coi ta như bậc quốc sĩ nên ta báo đáp theo kiểu quốc sĩ" Cả câu ý nói kẻ hào kiệt phải đền ơn theo kiểu hào kiệt chứ không thể tính toán so kè là chịu ơn nhỏ hay lớn được.

Quyển XII

212. Tư Văn Lang (Tư Văn Lang)

Vương Bình Tử người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lên kinh ứng thí, trọ ở chùa Báo Quốc. Trong chùa có thư sinh người Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) tới ở trước, Vương vì là ở liền nhà đưa danh thiếp qua làm quen, sinh không đáp lễ, mà sớm tối gặp nhau còn tỏ vẻ khinh khỉnh, Vương giận vì kiêu căng, không giao du gì nữa. Một hôm có một thiếu niên tới chơi chùa, khăn áo đều màu trắng, dáng vẻ đường đường. Vương tới gần trò chuyện, thấy lời lẽ cao xa, lấy làm yêu kính, bèn hỏi tên họ quê quán, thiếu niên nói là họ Tống, quê ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông). Vương sai đầy tớ bày ghế mời ngồi, cùng nhau trò chuyện vui vẻ.

Chợt thư sinh người Dư Hàng đi ngang, hai người cùng đứng lên mời ngồi, sinh chễm chệ ngồi tót lên cao, cũng không vờ nhũn nhặn, nghênh ngang hỏi Tống "Ngươi cũng đi thi à?". Tống đáp "Không phải, ta tài năng kém cỏi nên không có chí bay nhảy đã lâu. Sinh lại hỏi quê quán, Tống đáp, sinh nói "Không có ý tiến thủ như thế đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây không có một ai đáng là bậc thông giả". Tống đáp "Người phương Bắc vốn ít kẻ thông tuệ, nhưng kẻ không thông chưa chắc đã là tiểu sinh, người phương Nam vốn nhiều bậc thông tuệ, nhưng bậc thông giả cũng chưa chắc đã là túc hạ". Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa cười ầm lên.

Sinh xấu hổ tức giận, trợn mắt giữ áo lớn tiếng hỏi "Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?". Tống không thèm nhìn, nhếch mép cười nhạt nói "Có gì mà không dám", rồi lấy sách đưa Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu "Ở Khuyết Lý, trẻ con đem mệnh". Sinh đứng dậy tìm giấy bút, Tống kéo lại, bảo "Đọc miệng cũng được. Ta đã làm xong câu phá đề thế này "Ở chỗ tân khách qua lại mà gặp một kẻ không biết gì". Vương ôm bụng cười sằng sặc, sinh tức giận nói "Toàn là bọn không biết làm văn, chỉ bày trò để xỏ xiên, không đáng là người!". Vương ra sức can ngăn, xin tìm đề khác hay hơn. Lại lật trang khác đọc "Thời Ân có ba người nhân". Tống ứng khẩu đọc luôn "Ba vị tuy đạo bất đồng nhưng cùng theo một điều. Điều ấy là gì? Là điều nhân vậy. Bậc quân tử chỉ cần làm điều nhân là được rồi, cần gì phải đồng". Sinh bèn không làm nữa, đứng dậy nói "Cũng là hạng có tài vặt" rồi bỏ đi.

Vương vì thế càng trọng Tống, mời vào trong phòng, chuyện trò đến tối, đưa hết văn bài ra hỏi Tống. Tống đọc rất nhanh, hơn một khắc đã hết trăm bài, nói "Ông cũng là kẻ đã sâu sắc trong nghiệp này, nhưng lúc làm văn vẫn không có cái chí nhất định phải hơn người mà còn cái lòng cầu may, nên đã rơi xuống hạng kém". Rồi lấy những bài đã đọc qua bình phẩm tường tận, Vương thích lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía nấu chè xôi nước mời. Tống ăn khen ngon, nói "Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm khác lại làm cho", từ đó hai người càng thân thiết. Tống cứ năm ba ngày lại tới một lần, Vương lại sai nấu chè xôi nước.

Thư sinh người Dư Hàng thỉnh thoảng cũng gặp, tuy không trò chuyện thân mật nhưng dần dần cũng bớt ngạo nghễ, một hôm đem văn bài đưa Tống xem, trong đó bè bạn đã khuyên son chi chít, Tống chỉ liếc mắt nhìn qua rồi đẩy ra góc bàn không nói một câu. Sinh ngờ Tống chưa đọc lại giục, Tống nói đọc rồi, sinh lại ngờ là không hiểu, Tống nói "Có gì khó hiểu đâu, chỉ là không hay thôi". Sinh hỏi "Mới nhìn qua những chỗ khuyên son, sao biết là không hay?". Tống liền đọc to lên như đã học thuộc lòng, đọc xong lại chê. Sinh sợ toát mồ hôi, im lặng bỏ đi. Lát sau Tống về rồi sinh lại vào, nài nỉ Vương cho xem văn, Vương không chịu. Sinh cứ lục bừa tìm được quyển văn của Vương, thấy có nhiều chỗ khuyên son, cười nói "Những cái này to như viên xôi nước". Vương cố nén giận chỉ trừng mắt nhìn.

Hôm sau Tống tới, Vương kể lại mọi chuyện, Tống nổi giận nói "Ta cứ cho rằng y đã chịu thua, mà sao thằng ngu ấy còn dám như thế? Thế nào cũng phải cho biết tay". Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên Tống, Tống cảm phục lắm. Kế thi xong, Vương đem văn bài đưa Tống, Tống hẹn sẽ đọc, tình cờ cùng dạo xem điện gác trong chùa, thấy một nhà sư mù ngồi dưới hành lang bày thuốc ra bán. Tống kinh ngạc nói "Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi xét văn, không thể không thỉnh giáo một lần, rồi bảo Vương về nhà lấy văn, gặp thư sinh người Dư Hàng bèn đưa nhau cùng tới.

Vương gọi nhà sư rồi lạy chào, nhà sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh. Vương thưa rõ ý xin thỉnh giáo, nhà sư cười nói "Ai mà nhiều chuyện thế? Ta không có mắt, làm sao bàn luận văn chương". Vương xin dùng tai thay mắt, nhà sư nói "Ba bài hơn hai ngàn chữ, ai mà nghe nổi? Thôi cứ đốt lên, ta ngửi bằng mũi cũng được". Vương theo lời, cứ đốt bài nào nhà sư lại ngửi rồi gật gù nói "Ông bắt đầu học theo các bậc đại gia, tuy chưa đúng hệt nhưng cũng gần giống, ta đang nhận bằng dạ dày". Vương hỏi "Có được không?", nhà sư đáp "Cũng tạm được". Thư sinh người Dư Hàng chưa tin lắm, lấy văn của bậc đại gia cổ đốt lên trước để thử, nhà sư hít mấy lần rồi nói "Hay quá! Văn này thì ta phải nhận bằng tâm, không phải là Quy Hồ* thì ai mà làm nổi". Sinh cả sợ, lúc ấy mới đốt văn mình. Nhà sư nói "Mới thấy được một phần, chưa biết được toàn thể, sao bỗng có văn người khác chen vào đây?". Sinh nói thác rằng "Đó là văn của bạn bè, chỉ có một bài ấy, đây mới là văn của tiểu sinh". Nhà sư ngửi lại mớ tro, ho sặc lên mấy tiếng, nói "Thôi đừng đốt nữa? Nó cứ lục cục lòn hòn không sao xuống được, phải gắng gượng nhận bằng lá cách, đốt nữa thì ói mửa ra mất", sinh thẹn thùng chào về.

*Quy Hồ: tức Quy Hữu Quang, Hồ Hữu Tín, hai người nổi tiếng về văn bát cổ thời Thanh.

Mấy hôm sau ra bảng, sinh đỗ Hương cống còn Vương trượt. Tống và Vương tới báo tin, nhà sư than "Ta tuy mù mắt nhưng mũi không mù, còn các vị khảo quan thì mù cả mũi". Lát sau thư sinh người Dư Hàng tới, vênh vang nói "Này hòa thượng mù, người cũng ăn chè xôi nước của người ta hả? Bây giờ tính sao?". Nhà sư cười đáp !Ta bàn về văn chứ không bàn với anh về mệnh. Anh cứ thử tìm văn các quan chấm trường tới đây đốt của mỗi người một bài, ta có thể nói ai là thầy anh". Sinh và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Sinh hỏi "Nếu đoán sai thì chịu phạt thế nào?", nhà sư tức tối đáp "Thì cho ngươi móc con mắt thong manh của ta đi!". Sinh bèn đốt văn, hết một bài nhà sư lại nói không phải, tới bài thứ sáu chợt quay vào vách nôn ọe, đánh rắm bồm bộp. Mọi người đều cười ầm, nhà sư lau mắt quay qua sinh nói "Đúng là của thầy anh rồi! Lúc đầu ta không biết nên hít vội quá, nó đâm vào mũi, xói vào bụng, quả cật cũng không sao nhận được nên cứ thẳng theo đường hậu môn mà ra". Sinh cả giận bỏ đi, nói "Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!".

Qua hai ba hôm cũng không thấy tới, xem lại thì đã dọn đi ở chỗ khác, mới biết y đúng là môn sinh của viên quan chấm trường ấy. Tống an ủi Vương, nói "Phàm người đọc sách chúng ta không nên cầu hơn người mà cần nghiêm với mình. Không cầu hơn người thì đức càng rộng, biết nghiêm với mình thì học mới tiến. Mới đây ông thi rớt là vì vận số chưa tới, nhưng công bằng mà bàn thì văn của ông cũng chưa thật chín, cứ theo đó mà rèn luyện thì thiên hạ vẫn có người không mù". Vương kính cẩn nghe theo, kế nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương nên không về quê mà ở lại học. Tống khuyên "Ở kinh đô gạo châu củi quế nhưng đừng lo chuyện tiền bạc. Sau nhà có hầm vàng, có thể đào lấy mà dùng", rồi chỉ chỗ. Vương từ tạ nói "Xưa Đậu Phạm* nghèo mà vẫn giữ được điều liêm, nay ta may còn đủ ăn, đâu dám tự làm nhơ danh".

*Đậu Phạm: tức Đậu Nghi và Phạm Trọng Yêm thời Tống. Đậu Nghi lúc trẻ nghèo khó, có Kim tinh (tinh vàng bạc) hiện hình đùa cợt nhưng không động tâm. Phạm Trọng Yêm lúc trẻ tới ngụ ở chùa Lễ Tuyền đọc sách, mỗi ngày chỉ ăn một bát cháo, nhưng một hôm tình cờ đào được hầm bạc chôn mà lấp lại không lấy, sau làm Tây súy các sư tới xin làm công đức sửa chùa, bèn chỉ chỗ cho họ đào lên.

Một hôm Vương đang ngủ say, người hầu và người nấu bếp lén ra đào trộm, Vương sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng động rón rén ra xem thì vàng đã chất đống trên mặt đất, hai người thấy đã bị lộ cùng quỳ mọp xin tha tội. Vương đang trách mắng chợt thấy trong đó có nhiều cái chén vàng cùng một kiểu có khắc chữ, nhìn kỹ thì đều là tên húy ông nội mình. Té ra ông nội Vương từng giữ chức Nam bộ lang, lúc vào kinh nhận chức từng ngụ ở đó, bị bệnh nặng mà chết, số vàng ấy là của ông để lại. Vương mừng rỡ, đem cân thử được hơn tám trăm lượng, hôm sau kể lại cho Tống nghe, lại đưa cái chén vàng cho xem, muốn cùng chia với Tống, Tống từ chối mãi mới thôi. Lại đem một trăm lượng tới tặng nhà sư mù, nhưng nhà sư đã đi mất.

Suốt mấy tháng Vương ra sức học hành, đến kỳ thi, Tống nói "Khoa này mà ông không đỗ thì thật đúng là do mệnh", kế Vương phạm trường quy bị đánh rớt. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã không kìm được bật khóc nức nở, Vương lại phải an ủi khuyên giải. Tống nói "Ta bị tạo vật ghen ghét, lận đận suốt đời, nay lại làm lụy cho cả bạn tốt, đó là mệnh vậy, đó là mệnh vậy!". Vương nói "Muôn việc đều là có số, nhưng như tiên sinh là không có chí tiến thủ chứ không phải là mệnh". Tống gạt lệ nói "Lâu nay đã muốn nói ra nhưng chỉ e ông ngờ sợ, chứ thật ra ta không phải là người sống mà là hồn ma phiêu bạt. Lúc trẻ mang tài danh mà không được đắc chí nơi trường ốc nên giả cuồng lên kinh đô, gặp người tri kỷ dạy văn chương cho, gặp nạn năm Giáp thân (1644)*, lưu lạc theo tháng năm. Nay may được thương yêu nên cố gắng giúp rập để mượn sức bạn bè, cái ước nguyện chưa đạt được lúc bình sinh thật ra muốn nhờ bạn hiền thực hiện một lần cho khoái ý thôi. Nay tai ách của nghiệp văn chương lại như thế ai mà cầm lòng cho được". Vương cũng cảm động khóc hỏi sao lâu thế mà còn chưa đầu thai, Tống đáp "Năm rồi Thượng đế có mệnh ủy cho đức Tuyên Thánh và Diêm La vương tra xét các hồn ma, loại khá thì giao về các ty tào bổ dụng, số còn lại cho đi đầu thai. Ta đã được chọn bổ dụng, sở dĩ chưa đi là vì muốn được thấy cái thú tranh chiếm bảng vàng một lần thôi, nay xin từ biệt".

*Nạn năm Giáp thân: tức năm Giáp thân 1644, Mãn tộc đánh chiếm Bắc Kinh, bắt đầu lập ra triều Thanh thay triều Minh thống trị Trung Hoa.

Vương hỏi được khảo xét bổ dụng chức gì, Tống đáp "Phủ Tử Chàng khuyết chức Tư văn lang, ấn triện tạm giao cho nha Tủng Đồng giữ nên văn vận vì thế điên đảo. Nếu ta may mắn được giữ chức ấy thì nhất định sẽ làm cho văn giáo được sáng ngời thịnh vượng". Hôm sau hớn hở tới nói "Được toại nguyện rồi. Đức Tuyên Thánh sai ta làm bài Luận về tính và đạo xem xong có vẻ vui mừng, nói ta có thể coi việc văn chương. Diêm La xem lại sổ toan bỏ không dùng vì tội khẩu nghiệt, đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, ta mới được duyệt. Ta lạy tạ xong người lại gọi tới cạnh bàn dặn "Nay ta thương tài thăng cho giữ chức thanh cao quan trọng, phải sửa lòng nhận chức chớ mắc vào tội lỗi cũ. Xem thế đủ biết cõi âm coi trọng đức hạnh còn hơn cả văn học. Ông tu sửa đức hạnh ắt cũng chưa tới được chỗ trọn vẹn, nhưng đừng xao lãng việc làm điều lành là đủ rồi". Vương nói "Đúng thế, nhưng thư sinh người Dư Hàng kia thì đức hạnh tới mức nào?". Tống đáp "Điều đó ta không rõ, nhưng phải biết âm ty thưởng phạt không sai sót chút nào đâu. Như vị sư mù hôm trước cũng là một hồn ma thôi. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời dùng giấy bút quá hoang phí nên bị phạt mù. Ông ta muốn chữa bệnh cho người để chuộc lỗi trước nên đi khắp các nơi". Vương sai bày tiệc, Tống nói "Không cần đâu, ta đã quấy rầy suốt năm rồi, giờ phút cuối cùng này cứ nấu cho món chè xôi nước là được". Vương buồn rầu không ăn chỉ ngồi mời mọc, giây lát Tống ăn hết ba bát to, ôm bụng nói "Ăn bữa này đủ no ba ngày, ta đã ghi nhớ ơn ông rồi. Những cái trước nay ta ăn đều ở sau nhà, đã mọc nấm cả, cất đi làm thuốc có thể giúp cho trẻ con thông tuệ". Vương hỏi hậu vận, Tống đảp "Đã nhận quan chức nên không tiện nói". Vương lại hỏi "Nếu tới đền thờ Tử Chàng cúng tế khấn khứa, tiên sinh có biết không?". Tống đáp "Việc đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nhưng nếu ông giữ mình trong sạch, hết sức làm điều lành thì tự nhiên sẽ có tờ tư báo của âm ty, lúc ấy ta sẽ cho biết". Nói xong từ biệt rồi biến mất.

Vương xem sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi, cạnh đó tự nhiên có nấm đất mọc lên như ngôi mồ mới, mà những viên xôi nước nằm sờ sờ ở đó Vương về quê giữ mình hết sức nghiêm cẩn, một đêm mơ thấy Tống đi kiệu có lọng che tới nói "Trước đây ông có lần vì cơn giận nhỏ lỡ tay giết chết một người tỳ nữ nên bị xóa sổ lộc. Nay gắng sửa mình đã được trừ bớt tội, nhưng phúc mệnh quá mỏng nên không thể làm quan". Năm ấy Vương thi đỗ Hương cống, năm sau lại thi dỗ Tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vương sinh được hai trai, đứa đầu vô cùng ngu độn, cho ăn nấm lại trở nên hết sức thông minh. Về sau Vương có việc đi Kim Lăng, gặp thư sinh Dư Hàng trên đường, cùng Vương chuyện trò thân mật, thái dộ cực kỳ khiêm cung, nhưng râu tóc đã bạc trắng cả.

Dị Sử thị nói: Thư sinh Dư Hàng công nhiên tự phụ là cậy vào văn chương, ắt không phải không có bài nào hay, nhưng kiêu càng khinh người hiện ra nét mặt thì trong giây phút cũng khiến ngườỉ ta không nhịn được. Trời người cùng ghét điều đó đã lâu, nên quỷ thần đều đùa cợt. Nếu sửa được nết xấu ấy thì những quan chấm thi có loại văn chọc vào mũi xóc vào lòng rất dễ gặp, sao lại tao ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi!

213. Lữ Vô Bệnh (Lữ Vô Bệnh)

Công tử họ Tôn ở huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) tên Kỳ, cưới con gái quan Thái sử họ Tưởng, vợ chồng rất tương đắc. Năm hai mươi tuổi nàng chết, Tôn đau buồn khôn xiết, rời nhà vào ở một sơn trang trong núi. Một hôm mưa dầm nằm ngủ trưa, trong phòng không có ai khác, chợt thấy dưới màn ngoài giường lộ ra đôi bàn chân đàn bà, ngạc nhiên lên tiếng hỏi. Thấy một cô gái vén màn bước ra, khoảng mười tám mười chín tuổi, y phục mộc mạc sạch sẽ, nhưng da hơi đen mà mặt rỗ, có vẻ là con gái nhà nghèo. Tôn cho là người trong thôn tới thuê nhà bèn quát "Cần gì thì nói với bọn gia nhân ngoài kia, chứ đâu có phép đi bừa vào đây?". Cô gái mỉm cười nói "Thiếp không phải là người trong thôn mà quê ở tỉnh Sơn Đông, họ Lữ, cha là học trò. Thiếp tiểu tự là Vô Bệnh, theo cha tới ngụ ở đất khách nhưng không được cha mẹ nuôi dạy đã lâu. Vì hâm mộ công tử là danh sĩ thế gia, nên nguyện làm tỳ nữ lo việc hầu hạ nghiên bút". Tôn cười nói "Ý nàng rất hay, nhưng ở đây có đủ hạng tôi tớ ở chung, rất là bất tiện, cứ trở về làng ta sẽ đưa kiệu mang lễ vật tới đón". Cô gái có vẻ không bằng lòng, nói "Thiếp tự biết mình hèn mọn, đâu dám mong nhận lễ trọng, chỉ mong được sai phái trước án thư, chắc cũng không đến nỗi bưng ngược sách". Tôn nói "Thu nạp tỳ nữ cũng cần ngày tốt", rồi chỉ lên giá sách bảo lấy bộ Thông thư, quyển tư để thư tài. Cô gái tìm thấy, giở ra xem trước rồi trình lên cười nói "Hôm nay không có hung tinh Hà Khôi chiếu vào phòng". Tôn hơi động lòng bèn cho ở lại trong phòng.

Cô gái không có việc gì làm bèn quét bàn xếp sách, đốt trầm lau đỉnh, phòng sách trở nên sáng sủa sạch sẽ Tôn rất vừa lòng. Đến tối bảo qua chỗ khác ngủ, cô gái ngước nhìn rồi chớp mắt, càng ân cần phục dịch. Bảo đi ngủ mới vâng dạ cầm nến bước ra. Nửa đêm Tôn chợt tỉnh thấy cạnh giường như có ai nằm, đưa tay sờ biết là cô gái bèn lay gọi. Cô gái giật mình choàng dậy đứng trước giường, Tôn hỏi "Sao không đi ngủ chỗ khác? Dưới giường đâu phải là chỗ ngươi nằm?". Cô gái nói "Thiếp hay sợ lắm". Tôn thương xót, bảo mang gối lên giường nằm. Chợt nghe hơi thở lan tới thơm ngát như nhụy sen, lấy làm lạ gọi xích lại nằm chung gối, bất giác rung động dần dần kéo vào nằm chung chăn, rất vừa ý. Nhưng lại nghĩ giấu diếm không phải là kế hay, lại ngại nếu cùng về nhà thì miệng đời dị nghị. Tôn có bà dì ở cách đó hơn mười căn, bàn với cô gái bảo tới náu ở đó rồi sau đó sẽ cho kiệu tới đón. Cô gái khen hay, nói "Bà dì thì thiếp quá quen, không cần phải tới thưa trước, thiếp xin đi ngay". Tôn đưa nàng ra, cô gái leo qua tường mà đi. Dì của Tôn ở góa, sáng sớm hôm ấy ra mở cửa thì cô gái bước vào. Bà già hỏi, nàng đáp "Cháu trai bà sai con tới thăm dì. Công tử muốn về nhà nhưng đường xa thiếu ngựa nên gởi con ở đây vài hôm". Bà già tin lời bèn giữ cô gái ở đó.

Tôn về nhà, bịa rằng dì có một tỳ nữ muốn tặng, rồi sai người tới đón cô gái về, ăn ngủ gì cũng có nhau, lâu ngày càng khắng khít, nhận làm vợ lẽ. Các nhà thế gia bắn tin gả con gái cho mà Tôn đều chối từ cho rằng có Vô Bệnh là thỏa nguyện rồi. Nàng biết ý, hết lời khuyên Tôn cưới vợ, Tôn bèn cưới con gái nhà họ Hứa song rốt lại vẫn say mê Vô Bệnh. Hứa rất hiền, không bao giờ giành chồng buổi tối, mà Vô Bệnh hầu hạ Hứa ngày càng thêm kính cẩn, nhờ vậy lớn bé đều thuận hòa. Hứa sinh một con trai đặt tên là A Kiên, Vô Bệnh yêu thương bồng bế như con mình. Đứa nhỏ được ba tuổi cứ rời vú nuôi là theo ngủ với Vô Bệnh, Hứa gọi cũng không chịu đi. Không bao lâu Hứa mắc bệnh rồi chết, lúc lâm chung trối với Tôn rằng "Vô Bệnh rất thương con, cho dì ấy nuôi làm con thì được, mà đưa dì ấy lên bậc chính thất cũng được". Chôn cất xong, Tôn định làm theo lời vợ bèn bàn với họ hàng nhưng mọi người đều nói là không nên, Vô Bệnh cũng khăng khăng từ chối, Tôn bèn thôi.

Ở huyện có con gái quan Tể tướng họ Vương vừa góa chồng cho người tới đánh tiếng. Tôn vốn không muốn cưới vợ nữa nhưng họ Vương nói mấy lần, người mối lại khen nàng đẹp, họ hàng bên Tôn cũng thích nhà quyền thế nên cùng khuyên nhủ, Tôn xiêu lòng bèn cưới. Người đàn bà quả rất đẹp nhưng vô cùng kiêu căng, quần áo vật dùng được ít lâu cứ chán là hủy hoại vứt bỏ, Tôn vì nể nang nên không nỡ làm phật ý. Về được vài tháng thì giành cả yêu đương chăn gối về mình, còn cứ thấy Vô Bệnh gặp Tôn thì cười khóc gì cũng kiếm chuyện rồi giận lây qua cả chồng, mấy lần cãi vã đánh nhau. Tôn sợ rầy rà nên nhiều đêm ngủ riêng, người đàn bà lại tức giận. Tôn chịu không nổi, tìm cớ lên kinh đô để tránh nạn vợ dữ, người đàn bà lại lấy việc chồng đi xa đổ lỗi cho Vô Bệnh. Vô Bệnh hết sức hầu hạ, nín hơi im tiếng để lấy lòng mà rốt lại nàng ta vẫn không vừa ý. Đêm bảo Vô Bệnh vào ngủ dưới đất, đứa nhỏ cũng chạy theo vào ngủ chung, cứ gọi Vô Bệnh dậy sai khiến là nó lại khóc. Người đàn bà chửi mắng, Vô Bệnh vội gọi người vú nuôi vào bế đi, đứa nhỏ cưỡng lại kêu gào. Người đàn bà tức giận vùng dậy nắm lấy đánh túi bụi, nó mới chịu để người vú bế đi.

Đứa nhỏ vì vậy sợ hãi thành bệnh bỏ ăn, người đàn bà cấm Vô Bệnh không được để nó thấy mặt, đứa nhỏ kêu khóc cả ngày. Người đàn bà quát chị vú bảo vứt nó xuống đất, đứa nhỏ hết hơi khan tiếng đòi uống nước, người đàn bà cấm không cho. Chiều tối Vô Bệnh chờ lúc người đàn bà không có ở đó, lén ra cho đứa nhỏ uống nước, đứa nhỏ thấy nàng hất nước nắm lấy vạt áo khóc nức nở không thôi. Người đàn bà nghe thấy hằm hằm bước ra, đứa nhỏ nghe tiếng nín bặt, giãy mạnh một cái rồi tắt thở. Vô Bệnh khóc òa lên, người đàn bà nổi giận nói "Con tiện tỳ xấu xí định lấy chuyện con chết mà chẹt ta à? Đừng nói gì là đồ lót tã nhà họ Tôn, cho dù có giết chết thế tử nhà vương gia thì con gái của Tễ tướng họ Vương này cũng dám chịu. Vô Bệnh nén giận gạt nước mắt, xin mua quan tài chôn cất, người đàn bà không cho, sai đem vứt nó đi ngay. Người đàn bà đi rồi, nàng lén vỗ về đứa nhỏ, thấy tứ chi còn ấm, bèn nói thầm với người vú "Ngươi đem nó đi mau ra đồng chờ một lát, ta sẽ tới ngay. Nếu nó chết thì cùng chôn lấp, nếu nó sống thì cùng săn sóc", người vú vâng dạ. Vô Bệnh vào phòng lấy trâm xuyến giắt vào người đi ra, đuổi kịp người vú, cùng nhìn đứa nhỏ thì nó đã sống lại. Hai người mừng rỡ bàn nhau tới sơn trang trong núi nương tựa bà dì của Tôn. Người vú lo nàng chân nhỏ khó đi, Vô Bệnh bèn đi rảo lên trước cho xem, bước nhanh như gió, chị ta hết sức chạy theo mới kịp. Khoảng canh hai, bệnh đứa nhỏ trở nên nguy ngập không thể đi được nữa bèn rẽ vào một thôn cạnh đường, tới nhà một ông già làm ruộng, ngồi dựa vào cổng chờ sáng rồi gõ cửa hỏi mướn phòng, bán trâm xuyến lấy tiền rước đủ thầy cúng thầy thuốc mà rốt lại đứa nhỏ vẫn không khỏi bệnh. Vô Bệnh ôm mặt khóc nói "Vú chịu khó chăm sóc đứa nhỏ này, để ta đi tìm cha nó". Người vú còn đang ngờ là nói bậy thì nàng đã biến mất, vô cùng kinh hãi.

Hôm ấy, Tôn ở kinh đô, vừa thiu thiu ngủ trên giường thì Vô Bệnh lặng lẽ bước vào. Tôn giật mình nhỏm dậy nói "Vừa ngủ mà nàng đã hiện vào giấc mộng sao?" Nàng cầm tay Tôn nghẹn ngào, giẫm chân không nói nên lời, hồi lâu mới thất thanh nói "Thiếp trải trăm cay nghìn đắng, đem con trốn tới đất Dương" chưa dứt lời thì bật tiếng khóc lớn, ngã lăn ra biến mất. Tôn sợ quá nhưng vẫn ngờ là nằm mơ, gọi người hầu cùng tới xem thì quần áo giày tất vẫn còn rõ ràng, lạ lùng không hiểu nhưng lập tức thu xếp hành trang về ngay trong đêm. Về tới nhà nghe việc con chết thiếp trốn, Tôn đấm ngực đau thương, mắng chửi vợ kế. Người đàn bà mồm năm miệng mười cãi lại, Tôn căm tức rút dao ra, bọn tớ gái xúm vào cứu, Tôn không sấn tới gần được, từ xa phóng dao tới, sống dao trúng vào trán người đàn bà. Người đàn bà toác trán phun máu, xõa tóc gào thét chạy ra cổng, định về mách với gia đình. Tôn kéo trở vào, vác gậy đập túi bụi, người đàn bà quần áo rách tả tơi, đau quá không động đậy nổi. Tôn sai khiêng vào phòng chăm sóc, chờ khi nào bình phục sẽ đuổi về. Các anh em trai của người đàn bà nghe tin tức giận kéo người ngựa tới cổng, Tôn cũng họp bọn tôi tớ khỏe mạnh cầm khí giới ra chặn, hai bên chửi mắng nhau đến tối mới tan.

Họ Vương chưa vừa ý bèn thưa kiện, Tôn đem đầy tớ hộ vệ lên huyện, tự tới đối chất, trình bày tội ác của vợ kế. Quan huyện không thể khuất phục bèn đưa tới học quan trừng phạt cho Vương hài lòng. Học quan Chu tiên sinh là con nhà thế gia, tính ngay thẳng không xu phụ, hỏi rõ được sự tình nổi giận nói "Quan trên tuởng ta là thứ học quan tham lam hèn mạt trong thiên hạ, quen đòi loại tiền thương luân bại lý để hút mủ liếm trĩ à? Cái tướng ăn mày ấy ta vốn không làm được nên không dám tuân lệnh! Tôn công nhiên trở về, Vương không làm gì được bèn nhờ bạn bè ngỏ ý điều đình, muốn chàng tới nhà xin lỗi một lần, nhưng Tôn không chịu, bên kia qua lại cả chục lần cũng không đổi ý. Người đàn bà dần dần bình phục, Tôn muốn đuổi về nhưng sợ họ Vương không chịu nhận, lần lữa rồi cũng ở yên.

Tôn vì thiếp mất con chết, sớm tối đau lòng, nghĩ rằng nếu tìm được người vú sẽ rõ hết sự tình, lại nhớ Vô Bệnh đã nói là trốn tới đất Dương. Gần đó có thôn họ Dương trồng đay, Tôn ngờ là ở đó, tìm tới hỏi thăm nhưng không ai biết cả. Có người nói cách đấy năm mươi dặm có một đất Dương Cốc, Tôn sai người cỡi ngựa tới hỏi thăm, quả nhiên tìm ra. Lúc ấy đứa nhỏ đã dần dần bình phục, gặp nhau đều mừng rỡ, cưỡi chung ngựa về. Đứa nhỏ từ xa nhìn thấy cha òa lên khóc lớn, Tôn cũng rơi nước mắt. Người đàn bà nghe đứa nhỏ còn sống, giận dữ chạy ra định chửi mắng. Đứa nhỏ đang khóc, mở mắt nhìn thấy người đàn bà hoảng sợ nhào vào lòng cha như tìm chỗ trốn, bế lên nhìn lại thì đã chết ngất, vội vàng lay gọi, hồi lâu mới tỉnh. Tôn căm tức nói "Không biết là tàn ác tới mức nào mà khiến thằng nhỏ tới nỗi này?". Bèn làm tờ ly hôn đưa về, quả Vương không nhận, sai cáng trả lại Tôn. Tôn không biết làm sao, bèn thu xếp cho hai cha con ở riêng, không gặp gỡ người đàn bà. Người vú thuật lại việc Vô Bệnh, Tôn mới biết rằng nàng chỉ là hồn ma, cảm nghĩa bèn đem chôn áo quần giày tất, đề trên bia rằng "Mộ của người vợ ma Lữ Vô Bệnh". Không bao lâu người đàn bà sinh được một trai, tự tay bóp cổ đứa nhỏ chết. Tôn càng phẫn uất, lại đuổi về, Vương lại sai cáng trả lại. Tôn không còn cách nào bèn làm đơn tố cáo lên quan trên, nhưng họ đều nể mặt Tễ tướng nên không xét tới. Sau Tễ tướng chết, Tôn cứ thưa kiện không thôi họ mới bắt người đàn bà phải về nhà mẹ.

Tôn từ đó không lấy vợ nữa, chỉ cưới thiếp. Người đàn bà bị đuổi, tiếng dữ ngày càng đồn xa, ba bốn năm không ai dạm hỏi, bắt đầu hối hận nhưng không còn kịp nữa. Có bà tớ cũ nhà Tôn tình cờ ghé qua, người đàn bà tiếp đãi niềm nở, trước mặt bà ta sa lệ, xem tình ý có vẻ như nhớ chồng cũ. Bà già về kể lại với Tôn, Tôn cười làm ngơ. Hơn năm sau mẹ người đàn bà lại chết, trơ trọi không nơi nương tựa, các chị em dâu đều không ưa nên càng bơ vơ, ngày ngày cứ rơi nước mắt. Có một người học trò nghèo chết vợ, anh người đàn bà bàn cho nhiều của hồi môn để tái giá mà người đàn bà không chịu, cứ lén nhờ người đi lại ngỏ ý với Tôn, khóc lóc nói rằng đã hối hận nhưng Tôn không nghe, trước sau vẫn làm ngơ.

Một hôm người đàn bà sai một tỳ nữ dắt trộm lừa cưỡi qua nhà Tôn, Tôn mới từ trong nhà bước ra, người đàn bà bước tới chào hỏi, quỳ xuống dưới thềm khóc lóc không thôi. Tôn muốn bỏ đi, người đàn bà níu áo, lại quỳ xuống. Tôn từ chối, nói "Nếu ở lại với nhau mà không có chuyện gì đã đành, chứ một sáng có chuyện thì anh em của cô dữ như cọp, há lại chịu sao?". Người đàn bà nói "Thiếp trốn tới đây, không có lẽ nào mà quay về, nếu chàng cho thì ở lại, không cho thì chỉ còn cách chết". Lại nói "Thiếp về với chàng năm hai mươi mốt tuổi, đến hai mươi ba bị đuổi, thật là ác đủ mười phần, nhưng chẳng lẽ không có một phần tình sao?". Rồi cởi cái vòng vàng trên cổ tay, so hai bàn chân, đút vào cái vòng, lấy tay phủ lên, nói "Lời thề hương lửa lúc trước, chàng nỡ không nhớ tới sao?". Tôn bèn rưng rưng nước mắt, sai người đỡ lên dìu vào nhà, nhưng vẫn ngờ là họ Vương gian trá, muốn được anh em người đàn bà nói một câu làm bằng.

Người đàn bà nói "Thiếp trốn nhà đi, còn mặt mũi nào cầu cạnh anh em nữa? Nếu không tin nhau thì thiếp có mang sẵn dao để tự sát, xin cắt ngón tay để tỏ lòng". Rồi rút dao sắc trong lưng ra bước lại cạnh giường kê một ngón tay trái lên chặt đứt, máu phun vọt ra. Tôn cả sợ vội băng bó cho, người đàn bà đau tái cả mặt nhưng không hề rên rỉ, cười nói "Thiếp nay đã tỉnh mộng, chỉ muốn mượn một gian phòng nhỏ làm cách tu hành, chàng nghi ngờ làm gì?". Tôn bèn bảo con trai và người thiếp ở riêng một nơi, mình thì sớm tối qua lại hai bên, hàng ngày tìm thuốc chữa vết thương ngón tay cho vợ, hơn một tháng thì lành. Người đàn bà từ đó không ăn mặn, đóng cửa tụng kinh niệm Phật mà thôi. Lâu sau thấy việc nhà bê trễ bèn nói với Tôn rằng "Thiếp tới đây lần này, vốn muốn gác mọi việc ra không hỏi gì tới, nhưng nay thấy trong nhà ăn tiêu như thế, e rằng con cháu về sau có đứa phải chết đói, không còn cách nào nên phải mặt dày ra coi sóc vậy". Rồi họp đám tớ gái lại giao cho đánh sợi dệt vải, hẹn ngày giao nộp. Đám tôi tớ thấy tự xin về ở nên coi thường, lúc vắng người cứ xúm lại chê cười mai mỉa nhưng người đàn bà làm như không biết gì cả. Đến khi tính công, ai lười nhác thì roi vọt không tha, mọi người mới sợ hãi. Lại buông rèm ngồi bên trong tính toán sổ sách với các người quản sự, rạch ròi chặt chẽ. Tôn bèn cả mừng, bảo con trai và người thiếp sáng sáng qua thăm hỏi.

Năm ấy A Kiên chín tuổi, người đàn bà càng lưu tâm chăm sóc, buổi sáng nó đi học rồi thường để dành quà bánh đợi nó về cho ăn, đứa nhỏ cũng dần đần yêu mến gần gũi. Một hôm nó cầm đá ném chim sẻ, vừa lúc người đàn bà đi ngang, trúng ngay đầu ngã ra đất, hơn một khắc vẫn chưa nói được. Tôn cả giận lấy roi đánh con, người đàn bà tỉnh dậy, hết sức can ngăn, lại mừng rỡ nói "Trước kia thiếp ngược đãi con, trong lòng lúc nào cũng áy náy, nay thì may đã được trừ bớt một tội". Tôn càng yêu dấu, nhưng người đàn bà thường không chịu, bảo tới ngủ chỗ người thiếp. Được vài năm, sinh nở mấy lần đều bỏ cả, nói "Đây là quả báo cái tội giết con ngày trước đấy". Khi A Kiên đã cưới vợ, thì việc ngoài giao con trai, việc nhà giao con dâu. Một hôm nói "Ngày ấy tháng ấy thiếp sẽ chết", Tôn không tin, người đàn bà bèn tự lo sắm quan tài vải liệm. Đến ngày ấy nàng thay y phục nằm vào quan tài mà chết, sắc mặt vẫn như lúc sống. Có mùi hương lạ thơm ngát cả phòng, khi liệm xong mới dần dần tan hết.

Dị Sử thị nói: Trong lòng ưa thích vốn không phải là ở chỗ xấu đẹp Như Mao Tường Tây Thi, biết đâu chỉ có kẻ không tự yêu mình mới cho là đẹp? Nhưng nếu không gặp phải người hung dữ ghen tuông, thì sự hiền thục không thể bộc lộ rõ ràng cho những kẻ ưa thích hâm mộ cùng vui cười được. Đến như người lầu son gác tía kia, túc căn vốn dày nên mới có thể đột nhiên tỉnh ngộ, chứng quả Bồ đề, chứ trong cõi địa nguc kia toàn là kẻ giàu sang nhưng chưa từng trải qua gian khổ vậy.

214. Thôi Mãnh (Thôi Mãnh)

Thôi Mãnh tự Vật Mãnh là con nhà thế gia ở huyện Kiến Xương (tỉnh Liêu Ninh), tính cương nghị. Lúc nhỏ đi học ở trường, bọn trẻ có đụng chạm gì tới là nắm tay đánh liền, thầy nhiều lần răn dạy vẫn không bỏ, nên tên và tự đều do thầy đặt cho*. Đến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ tuyệt luân, lại có thể chống sào dài nhảy lên mái nhà, thích giúp người rửa sạch nỗi bất bình. Vì vậy người làng đều khâm phục, những người tới nhờ vả kể lể thường chật cả nhà. Thôi đè nén kẻ mạnh, giúp đỡ người yếu không sợ oán thù, ai tỏ ý chống lại thì lập tức lấy gạch đá gậy gộc đánh luôn cho đến lúc toàn thân bầm dập, lúc đã lên cơn giận dữ thì không ai dám khuyên can. Duy thờ mẹ rất có hiếu, mẹ tới là hết giận ngay, mẹ trách mắng bao nhiêu cũng vâng vâng dạ dạ nghe lời, có điều cứ ra khỏi cửa là quên mất.

*Tên và tự đều do thầy đặt cho: "Mãnh" có nghĩa là mạnh bạo, dữ tợn, "Vật Mãnh" có nghĩa là đừng hung dữ, đây người thầy vừa có ý khuyến khích Thôi Mãnh nên mạnh dạn làm điều nghĩa nhưng vừa có ý khuyên dạy đừng hung dữ.

Láng giềng có người đàn bà ác hàng ngày ngược đãi mẹ chồng, mẹ chồng đói gần chết, con trai lén cho ăn, mụ ta biết được chữi mắng đủ điều, bốn bên hàng xóm đều nghe. Thôi giận vượt tường qua cắt hết tai mũi môi lưỡi, mụ chết ngay lập tức. Mẹ Thôi nghe tin cả sợ, gọi người láng giềng qua, hết lời năn nỉ an ủi, cưới cho một nàng hầu trẻ mới yên chuyện. Mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn, Thôi sợ quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa đã hối hận rồi, nhưng mẹ vẫn khóc không thèm nhìn tới. Vợ Thôi là Chu thị cũng quỳ xuống với chồng, mẹ bèn cầm gậy đánh rồi lấy kim thích vào cánh tay Thôi thành hình chữ thập, dùng son bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều chịu cả, mẹ mới chịu ăn cơm.

Mẹ Thôi thích nuôi các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ ăn no. Gặp lúc có vị đạo sĩ đang đứng ở cổng thì Thôi đi ngang, đạo sĩ nhìn Thôi rồi nói "Lang quân tính khí ngang tàng hung dữ, e khó giữ trọn tuổi trời, nhà tích thiện lẽ ra không nên để có chuyện như vậy". Thôi vừa nghe mẹ răn dạy, nghe thế tỏ vẻ cung kính nói "Ta cũng tự biết thế nhưng cứ gặp chuyện bất bình là không sao kìm mình được, không biết gắng sức sửa đổi có tránh được không?". Đạo sĩ cười đáp "Khoan hãy hỏi tránh được hay không tránh được, xin cứ hỏi sửa được hay không sửa được. Cứ phải ra sức tự kìm chế, nếu thấy có thể làm được trong muôn một thì ta sẽ nói cho ông một phép giải tử". Thôi bình sinh không tin chuyện bùa chú nên chỉ cười không đáp, đạo sĩ bèn nói "Ta vốn biết là ông không tin, nhưng lời ta nói đây không phải như lời bọn đồng cốt, làm theo cũng là có đức tốt, cho dù không có kết quả cũng không đến nỗi có hại". Thôi xin nghe, đạo sĩ bèn nói "Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cổng, nên kết giao thật hậu, đến lúc phạm tội chết thì người ấy có thể cứu được", rồi gọi Thôi bước ra chỉ cho biết người ấy, thì ra đó là đứa nhỏ con nhà họ Triệu tên Tăng Ca.

Triệu là người huyện Nam Xương (tỉnh Giang Tây), gặp năm mất mùa phải tới ngụ cư ở Kiến Xương. Thôi từ đó chơi thân với Triệu, mời tới ở nhà mình, đãi ngộ rất hậu. Tăng Ca năm ấy mười hai tuổi, lên nhà lạy mẹ Thôi làm mẹ, nhận Thôi làm anh. Đến vụ mùa đầu năm sau, Triệu đưa gia quyến về quê, từ đó không có tin tức gì. Mẹ Thôi từ khi người đàn bà láng giềng chết càng răn dạy con chặt chẽ, có ai tới kêu nài cầu cứu đều gạt đi. Một hôm em mẹ Thôi chết, Thôi theo mẹ qua viếng, dọc đường gặp mấy người trói một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa xô đẩy bắt đi mau, lại đánh đập túi bụi, người ta đứng xem chật đường, kiệu không tiến được. Thôi ra hỏi thì những người quen biết tranh nhau kể, nguyên là có con trai một vị quan lớn tên Mỗ Giáp, ngang tàng nhất vùng, thấy vợ Lý Thân xinh đẹp muốn chiếm đoạt nhưng không có cớ bèn sai người nhà dụ Thân đánh bạc, đưa tiền cho vay nhưng tính lãi rất nặng, bắt ghi cả vợ vào giấy nợ, thua hết lại cho vay tiếp, một đêm mang nợ tới mấy ngàn. Được nửa năm tính cả vốn lẫn lãi đã hơn ba mươi ngàn, Thân không sao trả được, chúng cậy đông người kéo tới bắt vợ Thân đi. Thân tới cổng kêu khóc, Mỗ giận bắt trói treo lên cây đánh đập buộc phải làm giấy cam đoan không kiện tụng.

Thôi nghe chuyện giận điên người, thúc ngựa xông lên định đánh nhau. Bà mẹ vén rèm kiệu gọi lại nói "Chà, lại thế rồi phải không!", Thôi đành thôi. Viếng tang xong về nhà cứ lầm lì không nói chuyện không ăn cơm, chỉ ngồi sững trợn mắt như có điều tức giận, vợ hỏi han gì cũng không đáp, ban đêm thì mặc cả áo ngoài nằm trên giường, trằn trọc đến sáng. Đêm sau cũng thế, mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ thế ba bốn lần, vợ không dám hỏi, chỉ nằm im nghe ngóng. Kế lại đi ra, lâu lắm mới trở vào, đóng cửa lên giường ngủ say. Đêm ấy có người giết Mỗ Giáp trên giường, phanh bụng rút ruột ra ngoài, xác vợ Thân thì trần truồng nằm dưới giường. Quan nghi là Thân, bắt lên tra hỏi, đánh đập cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân ra nhưng vẫn không chịu nhận, hơn một năm không chịu nổi cực hình phải nhận bừa, bị khép tội chết. Vừa lúc ấy mẹ Thôi chết, chôn cất xong, Thôi nói với vợ rằng !Người giết tên Giáp chính là ta, chỉ vì còn mẹ già nên không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, sao lại mình làm nên tội lại bắt kẻ khác chịu tai họa. Ta lên quan nhận tội chết đây". Vợ sợ hãi níu áo kéo lại, Thôi dứt áo đi, tới công đường tự thú.

Quan ngạc nhiên, cùm lại giam vào ngục rồi tha Thân ra. Thân không chịu, cứ nhất định nhận tội, quan không quyết được bèn nhốt cả hai. Họ hàng đều chê trách Thân, Thân nói "Việc công tử đã làm là việc ta muốn làm mà không thể làm được. Công tử đã làm thay cho ta mà ta lại nỡ ngồi nhìn công tử chết sao? Nay cứ coi như công tử chưa ra thú là được". Rồi không chịu đổi lời khai, cố tranh tội với Thôi. Lâu sau nha môn đều biết duyên do, đuổi Thân ra khỏi ngục để Thôi chịu tội, lúc ấy đã sắp đến ngày hành hình. Vừa gặp khi có quan Bộ lang họ Triệu coi việc giảm án tới xét ngục, điểm lại danh sách tù phạm tới tên Thôi bèn đuổi hết mọi người ra rồi cho gọi vào. Thôi vào ngẩng nhìn lên thềm thì là Tăng Ca, vừa tủi vừa mừng kể thật hết sự tình. Triệu ngần ngừ hồi lâu rồi sai giam lại vào ngục như cũ, dặn ngục tốt phải đối xử tử tế, kế lấy cớ đã tự thú giảm tội cho, sung làm lính ở Vân Nam, Thân cũng đi theo để hầu hạ.

Chưa đầy một năm, được theo lệ ân xá trở về, đều là nhờ sức của Triệu. Khi Thôi đã về Thân vẫn theo không rời, thay Thôi coi sóc mọi việc làm ăn, trả tiền công thì không lấy, chỉ chú tâm xin học những thuật phi thân đánh đá, Thôi cũng đối xử rất hậu, cưới vợ cấp ruộng cho. Thôi từ đó cố gắng sửa nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay thì ràn rụa nước mắt, vì thế trong làng có ai đánh nhau thì Thân thác lời Thôi can ngăn dàn xếp chứ không cho Thôi hay. Có viên Giám sinh họ Vương là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân khắp nơi thường lui tới, nhiều nhà khá giả trong huyện bị cướp bóc, ai trái ý thì y sai bọn cướp giết ngay ngoài đường, con y cũng dâm đãng tàn bạo. Vương có một bà thím góa chồng, cha con cùng gian dâm với bà ta, vợ là Cừu thị nhiều lần can ngăn, Vương thắt cổ nàng chết. Anh em họ Cừu thưa kiện lên quan, Vương đút lót để quan buộc họ vào tội vu cáo. Họ hàm oan uất ức không có cách nào phát tiết, tới cầu cứu Thôi nhưng Thân chối từ không cho gặp. Vài hôm sau có khách, gặp lúc không có người hầu, Thôi bảo Thân pha trà, Thân im lặng đi ra nói với mọi người rằng "Ta với Thôi Mãnh chỉ là bạn bè mà theo nhau đi đày muôn dặm, không thể nói là không chí tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào còn coi như đầy tớ, thật không chịu nổi", rồi giận dữ bỏ đi.

Có người kể lại với Thôi, Thôi kinh ngạc vì Thân đổi tính nết nhưng cũng chưa lấy làm lạ. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công, Thôi quá lạ lùng, đích thân lên đối chất. Thân căm tức tranh cãi, quan cho là vô lý bèn quát đuổi về. Vài hôm sau Thân chợt đang đêm vào nhà Vương giết cả hai cha con, bà thím và đứa con dâu rồi dán giấy lên vách tự xưng tên họ, cho đuổi bắt thì đã trốn biệt tích. Nhà họ Vương nghi là do Thôi sai khiến, nhưng quan không tin. Thôi mới sực hiểu ra chuyện kiện tụng trước đây là do Thân sợ giết người sẽ làm liên lụy tới mình. Văn thư truy nã gởi khắp các châu huyện chung quanh, tìm bắt Thân rất gấp, nhưng gặp lúc giặc Sấm* chiếm kinh đô, việc ấy chìm luôn. Không bao lâu nhà Minh mất ngôi, Thân đem gia quyến về, lại thân thiết với Thôi như trước.

*Giặc Sấm: xem chú thích truyện Tố Thu.

Lúc ấy giặc cướp tụ tập khắp nơi, Vương có đứa cháu họ là Đắc Nhân tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ chiếm cứ núi non làm giặc, kéo đi cướp phá thôn xóm. Một đêm dốc cả sào huyệt kéo tới, nói là để phục thù. Gặp lúc Thôi vắng nhà, giặc đã phá cửa Thân mới biết, vượt qua tường núp trong bóng tối. Giặc tìm không thấy Thôi bèn bắt vợ Thôi, vơ vét hết của cải kéo đi. Thân trở vào, chỉ còn có một người đầy tớ, vô cùng căm giận, bèn cắt lấy vài mươi đoạn thừng, đưa người đầy tớ những đoạn ngắn còn mình giữ những đoạn dài. Dặn người đầy tớ lên sào huyệt giặc, tới lưng núi thì châm lửa vào dây thừng treo rải rác trên các bụi gai rồi bỏ đó về ngay. Người đầy tớ vâng lời đi, Thân thấy bọn giặc đều thắt dây lưng đỏ và buộc mảnh vải đỏ trên mũ, bèn bắt chước giả trang theo.

Có con ngựa cái già mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa, Thân buộc ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ ngậm tăm ra đi, tới thẳng sào huyệt giặc. Giặc đóng ở một thôn lớn, Thân buộc ngựa ngoài thôn vượt tường vào, thấy bọn giặc còn nhốn nháo chưa kịp cởi gươm buông giáo, trà trộn vào hỏi han biết vợ Thôi ở chỗ tên Vương. Giây lát nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng một người báo núi phía đông có lửa, giặc cùng ngẩng nhìn, lúc đầu chỉ có một hai đốm, kế nhiều như sao sa. Thân lấy hơi kêu to "Phía đông có động!", Vương cả kinh, nai nịt dẫn quân kéo ra, Thân nhân dịp lủi ra phía sau rồi quay trở vào. Thấy có hai tên giặc canh giữ trong trướng, bèn lừa nói "Vương tướng quân quên thanh bội đao" hai tên tranh nhau tìm, Thân từ phía sau chém một tên ngã xuống, tên kia vừa ngoảnh nhìn, Thân cũng chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường ra, mở ngựa đưa dây cương dặn "Nương tử không biết đường, cứ để ngựa đi là được". Ngựa nhớ con phóng mau trở về, Thân theo sau, ra khỏi một cửa núi hẹp châm lửa vào dây thừng treo khắp nơi rồi chạy về.

Hôm sau Thôi về, cho là điều đại sỉ nhục, tức giận lồng lên, muốn một mình một ngựa tới phá giặc. Thân khuyên đừng đi, họp người làng bàn tính. Mọi người đều khiếp sợ không dám lên tiếng, khuyên lơn giảng giải ba bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi, nhưng lại không có khí giới. Vừa gặp lúc bắt được hai tên gian tế trong nhà họ hàng của Vương, Thôi định giết nhưng Thân không cho, sai hai mươi người cầm gậy gộc dàn ra trước mặt, cắt tai hai tên rồi thả về. Mọi người tức giận nói "Có một nhúm quân thế này, đang sợ giặc nó biết, mà còn khoe cho hai thằng kia thấy, nếu chúng kéo rốc cả tới thì đóng cổng làng cũng không sao giữ được!". Thân đáp "Ta đang muốn chúng kéo tới mà". Bèn bắt giết bọn chứa giặc trong nhà, sai người ra bốn phía tìm cung nỏ súng đạn, lại lên huyện mượn hai cỗ pháo lớn.

Chập tối dẫn những người khỏe mạnh tới cửa núi, đặt pháo nhắm thẳng vào, sai hai người cầm mồi lửa núp ở đấy, dặn thấy giặc là bắn ngay. Lại qua phía đông cửa núi, chặt cây đặt trên dốc, kế cùng Thôi chia nhau mỗi người suất lĩnh một toán hơn mười người mai phục hai bên. Gần hết canh một thì nghe xa xa có tiếng ngựa hí, lén lên nhìn quả thấy giặc ồ ạt kéo tới, quân mã nối nhau kéo dài không dứt. Chờ chúng lọt hết vào hẻm núi rồi bèn sai lăn cây xuống để chặn đường về. Giây lát pháo nổ ran, tiếng la thét kêu gào vang động khe núi. Giặc vội rút lui, giẫm đạp lên nhau mà chạy, tới cửa núi phía đông không thoát ra được, chen chúc không còn khoảnh đất nào hở. Súng đạn cung nỏ hai bên dốc núi giáp công, bắn xuống như mưa, bọn giặc đứa đứt đầu đứa gãy chân, nằm chất lên nhau ngổn ngang, chỉ còn hơn hai mươi tên quỳ xuống xin tha mạng, bèn sai người trói giải về.

Kế thừa thắng tiến thẳng tới sào huyệt giặc, bọn giữ trại nghe hơi chạy tan tác, bèn tìm kiếm chở hết lương thảo tài vật đem về. Thôi mừng lắm, hỏi về kế đốt lửa, Thân đáp "Đốt lửa ở phía đông vì sợ chúng đuổi theo về phía tây, dùng thừng ngắn cho mau cháy hết vì sợ chúng dò biết là không có ai, lại đốt ở cửa núi vì chỗ đó chật hẹp, một người cũng chặn giữ được, chúng đuổi tới thấy lửa ắt sợ, đều là hạ sách nhất thời mạo hiểm mà dùng thôi", bắt bọn giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi tới cửa núi thấy có ánh lửa nên sợ hãi rút lui. Bèn xẻo tai cắt mũi hơn hai mươi tên giặc bị bắt rồi thả về từ đó uy danh của Thôi và Thân lừng lẫy, những người lánh nạn xa gần theo về như chợ, tổ chức được hơn ba trăm dân dũng, giặc cướp các nơi không đám nào dám tới cướp bóc, cả vùng nhờ thế được yên ổn.

Dị Sử thị nói: "Nghé mạnh ắt có thể phá xe"* là nói Thôi chăng! Quả là chí khí khảng khái không ai sánh được vậy. Nhưng muốn trong thiên hạ không còn chuyện bất bình, chẳng lẽ còn định hơn cả kẻ thông đạt ư? Lý Thân thì chỉ là một người dân nhỏ mọn mà lại tới được chỗ tốt đẹp trọn vẹn, vượt tường đột nhập, giết cầm thú tại phòng riêng, chặn đường giáp công, trừ giặc cướp trong núi thẳm, nếu trao cho lá đại kỳ năm trượng, vì quốc gia ra sức, chẳng lẽ lại không làm tới tước vương sao?

* Nghé mạnh... phá xe: Thạch Hổ là con vua nhà Hậu Triệu Thạch Lạc thời Tấn, lúc nhỏ khoẻ mạnh bắn giỏi nhưng tính hung dữ, mấy lần bắn chết người. Thạch Lạc tức giận toan giết, vào thưa với mẹ, mẹ nói "Trâu giỏi lúc còn là nghé thì hay phá xe, con cố nhịn một chút". Đây ý nói người làm nên nghiệp lớn thì lúc nhỏ đã có tính nết, tư chất khác người thường.

215. Đảo An Kỳ (An Kỳ Đảo)

Quan Tể tướng Lưu Hồng Huấn người huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) cùng viên tướng Mỗ đi sứ Triều Tiên. Nghe nói đảo An Kỳ là nơi thần tiên ở, muốn sai thuyền chở tới đó chơi, nhưng các quan nước ấy đều nói là không được, bảo đợi Tiểu Trương. Đại khái đảo An Kỳ không đi lại với thế gian, chỉ có đệ tử là Tiểu Trương mỗi năm tới đó một lần, ai muốn tới đảo trước hết phải nói rõ với ông ta, nếu ông ta chịu thì một chiếc bè cũng tới nơi, nếu ông ta không chịu ắt sẽ có gió bão đánh chìm thuyền. Qua hai ba hôm, quốc vương gọi Lưu vào bệ kiến, thấy một người đeo kiếm đội nón tre ngồi trên điện, tuổi khoảng ba mươi, tướng mạo thanh kỳ, hỏi ra thì chính là Tiểu Trương. Lưu nhân đó tỏ ý muốn tới đảo, Tiểu Trương ưng thuận, nhưng nói viên Phó sứ không đi được. Lại ra ngoài nhìn ngắm bọn tùy từng suốt một lượt, chỉ có hai người có thể đi cùng Lưu, bèn sai lấy thuyền đưa Lưu đi.

Đường biển không biết xa hay gần, chỉ thấy gió thổi ào ạt, thuyền như lướt mù rẽ mây mà đi. Lúc ấy đang giữa mùa đông, nhưng tới đảo thì thấy khí trời ấm áp, hoa nở đầy núi. Tiểu Trương đưa bọn Lưu vào động phủ, thấy có ba ông già ngồi xếp bằng, hai người hai bên thấy khách vào vẫn thản nhiên như không hay biết, chỉ có người ngồi giữa đứng dậy đón chào thi lễ. Kế mời ngồi gọi lấy trà thì có đứa tiểu đồng cầm cái mâm đi ra, trên khe đá nhỏ ngoài động có cái dùi sắt cắm lút vào đá, tiểu đồng nhổ lên thì nước vọt ra, lấy chén hứng đầy rồi lại nút kín lại. Kế bưng vào, thấy sắc màu xanh nhạt, uống thử thì lạnh tê răng. Lưu sợ lạnh không uống, ông già đưa mắt ra hiệu cho tiểu đồng, tiểu đồng cầm cái chén ra, uống hết nước trong chén rồi tới chỗ cũ nhổ cái dùi lên hứng đầy nước quay vào, thấy nước nóng bốc lên nghi ngút như vừa đun sôi xong, Lưu vô cùng lạ lùng. Hỏi về việc hay dở sắp tới, ông già cười đáp "Người ngoài cõi đời ngay cả năm tháng cũng còn không biết, làm sao biết được việc người?". Hỏi tới thuật trường sinh, ông già đáp "Đó không phải là việc mà người trong trường phú quý làm được đâu.

Lưu cáo từ, Tiểu Trương lại đưa về, tới nơi kể lại mọi chuyện, quốc vương Triều Tiên than rằng "Tiếc là ông chưa uống chén nước lạnh, đó là Tiên thiên ngọc dịch, uống một chén có thể sống thêm trăm tuổi". Khi Lưu về nước, vương tặng một vật gói vải kín mít, dặn còn gần biển thì đừng mở ra xem. Lưu vừa lên tới bờ vội mở ra xem, tháo hết mấy trăm lớp vải bọc mới thấy một tấm gương, cầm lên xem thì Long cung thủy tộc đều rõ ràng trước mắt. Đang còn chăm chú nhìn, chợt có ngọn sóng cao như lầu gác sầm sập đổ tới, cả sợ bỏ chạy, ngọn sóng ầm ầm đuổi theo mau như mưa tuôn gió cuốn, khiếp đảm ném tấm gương lại, ngọn sóng bèn rút ngay.

216. Tiết Ủy Nương (Tiết Ủy Nương)

Phong Ngọc Quế là nho sĩ ở Liêu Thành, nghèo khổ không có cách mưu sinh. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) gặp năm mất mùa lớn, lẻ loi đi xa kiếm ăn. Hơn một năm định về, tới huyện Nghi (tỉnh Sơn Đông) thì mắc bệnh, cố sức đi mau được vài dặm, tới một đám mộ hoang phía nam thành thì quá mệt nên nằm xuống cạnh một ngôi mộ. Giây lát mê đi như nằm mơ, thấy tới một nhà nọ, có ông già trong cổng bước ra mời vào, nhà có hai gian đều xoàng xĩnh, trong phòng có một cô gái tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo xinh đẹp ông già sai sắc thuốc, rót vào chén bằng đất đưa lên cho khách rồi hỏi quê quán tuổi tác, sinh đáp xong bèn nói "Ta là Lý Hồng Đô người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lưu ngụ ở đây đã ba mươi hai năm rồi. Xin ông nhớ kỹ nhà này, con cháu của ta nếu có tới hỏi xin làm phiền chỉ cho, lão phu không dám quên ơn. Nghĩa nữ đây tên Ủy Nương cũng không xấu xí lắm, xin gả cho bậc quân tử, hôm nào con thứ ba của ta tới sẽ đính ước".

Sinh mừng rỡ lạy nói "Thân trâu ngựa đã hai mươi hai tuổi vẫn chưa có vợ, được đội ơn cho làm thân thích thì may lắm, có điều không biết con cháu của cha chỗ nào để tìm tới?". Ông già đáp "Ông chỉ cần ở lại trong thôn này, chờ hơn một tháng sẽ có người tới, chỉ cần chúng cầu xin gì thì đừng từ chối thôi". Sinh sợ là bất tín, đòi ông già phải cam kết, nói "Nói thật với cha, nhà ta chỉ có bốn bức vách, e ngày sau không làm được điều cha mong muốn, nửa chừng bỏ dở không làm được thì cũng không lấy được vợ, nên không dám không xin một lời hứa chắc chắn, chứ không ngại gì chuyện khác". Ông già cười nói "Ông muốn lão phu thề phải không? Ta vốn biết ông nghèo, nhờ việc này không phải để trói buộc ông đâu. Ủy Nương mồ côi không nơi nương tựa, ở với ta đã lâu, không nỡ để cho nó phải lưu lạc nên đem dâng cho bậc quân tử thôi, ông đừng nghi ngờ". Kế cầm tay đưa sinh ra cửa, chắp tay chào rồi đóng cửa quay vào.

Sinh chợt tỉnh dậy, thấy mình đang nằm cạnh ngôi mộ mà trời đã gần trưa bèn gượng dậy lần vào thôn. Người trong thôn nhìn thấy đều hoảng sợ, nói đã chết cạnh đường hơn một ngày rồi, sinh mới sực hiểu ra rằng ông già tức là người chôn trong mộ, giữ kín không nói ra, chỉ xin họ cho ở trọ. Người trong thôn sợ sinh lại chết nên không ai dám cho ở, trong thôn có người Tú tài cùng họ với sinh nghe thấy tới hỏi gia thế, té ra là chú họ của sinh, mừng rỡ dắt về nhà lo cơm nước thuốc thang cho, vài hôm thì khỏi bệnh. Sinh thuật lại chuyện mình gặp, người chú cũng ngạc nhiên lạ lùng, bèn chờ xem ra sao.

Không bao lâu quả có vị quan nhân tới thôn hỏi thăm mộ cha chôn ở đâu, tự nói là Tiến sĩ Lý Thúc Hướng ở huyện Bình Dương. Trước đó Lý Hồng Đô đi buôn xa với người đồng hương là Giáp, chết ở đất Nghi, Giáp bèn chôn chỗ đám mộ hoang, vừa về tới nhà thì cũng chết. Lúc ấy ba con của Hồng Đô đều còn nhỏ, con lớn là Bá Nhân, sau thi đậu Tiến sĩ, làm Tri huyện Hoài Nam, mấy lần sai người tìm hỏi mộ cha nhưng không ai biết. Con kế là Trọng Đạo, sau thi đỗ Cử nhân. Thúc Hướng là con út cũng thi đỗ Tiến sĩ, lúc ấy đích thân đi tìm mộ cha, tới đất Nghi hỏi thăm khắp cả. Hôm ấy hỏi người trong thôn mà không ai biết, sinh bèn đưa tới chỗ ngôi mộ chỉ cho.

Thúc Hướng thấy sinh trẻ tuổi chưa dám tin hẳn, sinh bèn thuật lại chuyện mình đã gặp, Thúc Hướng lấy làm lạ, nhìn kỹ thì có hai ngôi mộ liền nhau, có người nói ba năm trước có vị quan chôn người thiếp ở đó. Thúc Hướng sợ đào nhầm mộ, sinh bèn chỉ chỗ mình đã nằm. Thúc Hướng liền sai đem quan tài tới để bên cạnh rồi mới cho đào, đào lên thì thấy xác một cô gái, quần áo đã mủn nát nhưng mặt mũi vẫn tươi tắn như còn sống. Thúc Hương thấy lầm, sợ quá không biết làm sao nhưng cô gái đã ngồi dậy nhìn quanh nói "Tam ca tới rồi". Thúc Hướng ngạc nhiên tới gần hỏi han thì là Ủy Nương, liền cho nàng thay áo đổi giày đưa về nhà trọ, rồi vội đào ngôi mộ bên cạnh, mong cha cũng sống lại, nhưng đào lên thấy da thịt còn nguyên mà vỗ gọi vẫn cứng đờ, thương xót vô cùng, bèn mặc áo mới cho vào quan tài, cúng tế bảy hôm, cô gái cũng chít khăn để tang như con gái ruột.

Chợt nói với Thúc Hướng rằng "Trước cha có hai nén vàng, từng chia cho em một nén làm của hồi môn nhưng vì em yếu ớt không có chỗ cất giấu nên cha lấy vải màu buộc chặt trong lưng chưa từng rời ra, anh có nhặt được không?". Thúc Hướng không biết, bảo sinh quay lại chỗ ngôi mộ, quả nhiên tìm thấy đúng như lời cô gái nói. Thúc Hướng vẫn theo lời cha, chia tặng Ủy Nương một nén rồi hỏi han gia thế của nàng. Trước đây cha cô gái là Tiết Dần Hầu không có con trai, chỉ sinh được Ủy Nương nên rất thương yêu. Một hôm cô gái từ nhà cậu ở Kim Lăng về, cùng bà vú tới bến dò hỏi thuê thuyền, thì nhà thuyền là một người làm mai ở Kim Lăng.

Lúc ấy có vị quan hết hạn về kinh muốn tìm một người thiếp trẻ nhưng y giới thiệu mấy đám đều không vừa ý, nên định đi thuyền tới Quảng Lăng (huyện Giang Đô). Chợt gặp cô gái y nghĩ ra kế lừa gạt, vội gọi thuyền kia tới bên cạnh. Bà vú vốn quen y bèn đi cùng đường, giữa đường y bày tiệc bỏ thuốc độc vào thức ăn, cô gái và bà vú đều mê man, y bèn xô bà vú xuống sông, chở cô gái trở về bán cho vị quan nọ. Tới nơi, vợ cả hay được vô cùng tức giận, cô gái cũng ngơ ngác không biết làm lễ ra mắt, vợ cả đánh đập nhốt lại. Lên bờ đi được ba ngày cô gái mới tỉnh hẳn, đám tỳ nữ kể lại đầu đuôi, nàng òa lên khóc. Một đêm ngủ lại đất Nghi, nàng tự thắt cổ chết, họ bèn chôn ở đám mộ hoang. Cô gái tới bị đám ma ở đó trêu ghẹo ức hiếp, ông Lý ra quát đuổi chúng đi, nàng bèn nhận ông làm cha. Ông nói "Số con chưa phải chết, ta sẽ chọn cho một người chồng vừa ý".

Hôm sinh đã trở ra ông quay vào nói với nàng rằng "Người này nhân phẩm có thể nương dựa, chờ tam ca của con tới làm chủ hôn cho". Một hôm lại nói "Con có thể về, tam ca con sắp tới rồi", đó là hôm quật mộ vậy. Cô gái thuật lại hết cho Thúc Hướng nghe, Thúc Hướng than thở hồi lâu rồi lập tức nhận nàng làm em gái, đổi theo họ Lý, mua sắm quần áo cho nàng rồi gả cho sinh, nói "Trên đường không có nhiều tiền bạc, không thể mua sắm đầy đủ cho em, muốn tất cả cùng về cho mẹ vui, em nghĩ sao?" Cô gái cũng vui vẻ, rồi đó vợ chồng theo Thúc Hướng đưa linh cửu về. Tới nhà, bà mẹ hỏi biết đầu đuôi, thương yêu Ủy Nương còn hon con ruột, cho ở một căn nhà riêng.

Lúc chôn cất, cô gái khóc thương còn hơn cả con cháu trong nhà, mẹ càng thương yêu, không cho về Sơn Đông, bảo các con trai mua nhà cho nàng. Vừa gặp lúc có họ Phùng bán nhà, ra giá sáu trăm đồng vàng, lúc gấp gáp chưa lo được đủ tiền bèn làm giấy tờ hẹn ngày trả đủ. Đến ngày hẹn, Phùng tới sớm, vừa gặp lúc cô gái cũng từ nhà riêng qua hầu mẹ, bất ngờ gặp nhau, thấy rất giống người nhà thuyền năm trước, Phùng cũng như e sợ cô gái, vội vã đi ra. Hai anh vì thấy mẹ khó ở cũng tới thăm hỏi, cô gái hỏi người thong thả đi trước phòng khách là ai, Trọng Đạo nói "Suýt nữa thì quên, đó ắt là kẻ bán nhà hôm trước". Rồi lập tức đứng dậy bước ra, cô gái giữ lại nói rõ điều mình nghi ngờ, bảo anh căn vặn thử xem, Trọng Đạo gật đầu bước ra thì Phùng đã đi mất, chỉ còn ông thầy dạy học ở ngõ nam là Tiết tiên sinh ở đó. Nhân hỏi sao lại tới đây, Tiết đáp "Tối qua họ Phùng nhờ ta tới sớm làm chứng ký tên vào giấy bán nhà, vừa rồi gặp nhau trên đường, y nói là quên một việc ở nhà phải về rồi sẽ quay lại ngay, bảo ta cứ ngồi ở đây đợi". Giây lát sinh và Thúc Hướng cùng tới, cùng nhau trò chuyện. Ủy Nương vì việc gặp Phùng cũng núp sau bình phong nhìn trộm khách, nhìn kỹ thì té ra là cha mình bèn chạy ngay ra ôm cha khóc lớn.

Tiết kinh ngạc rơi lệ nói "Con ta sao lại tới đây mọi người mới biết Tiết là Dần Hầu. Trọng Đạo tuy có gặp mấy lần trên đường nhưng cũng chưa từng hỏi tên ông ta, đến lúc ấy rất mừng bèn kể lại chuyện trước, mở tiệc ăn mừng rồi giữ ở lại đó. Tiết kể lại chuyện mình, đại khái sau khi con gái thất tung thì vợ buồn rầu mà chết, ông ta góa vợ không còn ai để nhờ vả nên du học tới đây. Sinh hẹn mua nhà xong sẽ đón ông về ở cùng. Hôm sau đi dò xem thì Phùng đã dắt gia đình trốn mất, mới biết kẻ giết bà vú bán Ủy Nương là y. Lúc đầu Phùng tới Bình Dương buôn bán trở nên giàu có, năm ấy cờ bạc nên dần dần sa sút mới bán nhà, số tiền bán Ủy Nương kể như mất trắng. Ủy Nương được nhà ở cũng không căm hờn gì lắm, chỉ chọn ngày tới ở chứ không sai người tìm bắt y. Mẹ Lý liên tiếp sai mang đồ đạc qua cho, tất cả những thứ vật dụng thường ngày đều chu cấp đủ, sinh bèn ở lại luôn Bình Dương, chỉ về quê dự thi, lấy làm khổ cực nhưng may mắn thi đỗ Cử nhân khoa ấy.

Ủy Nương giàu có, thường nghĩ tới bà vú chết vì mình, vẫn nghĩ cách đền ơn cho con bà ta. Chồng bà vú họ Ân, có một con trai tên Phú, ưa cờ bạc, nghèo không có miếng đất cắm dùi. Một hôm Phú đánh bạc cãi nhau, lỡ tay giết người, chạy trốn tới Bình Dương, tuy không quen sinh nhưng biết Ủy Nương nên tới xin giúp đỡ. Sinh mừng rỡ giữ lại hỏi han cặn kẽ, Phú nói tên họ người bị mình giết, té ra là Phùng Mỗ. Sinh kinh sợ than thở hồi lâu rồi nói rõ, Phú mới biết Phùng là người giết mẹ mình, càng thêm vui mừng, bèn ở lại làm thuê hầu hạ cho nhà sinh, cũng ở gần đó. Tiết Dần Hầu tới ở nhà con rể, con rể cưới vợ cho, sinh được một trai một gái.

217. Điền Tử Thành (Điền Tử Thành)

Điền Tử Thành ở huyện Giang Ninh (tỉnh Giang Tô) qua hồ Động Đình, bị đắm thuyền chết. Con là Tiến sĩ Lương Tự cuối thời Minh, lúc ấy còn ẳm ngữa, vợ là Đỗ thị nghe tin uống thuốc độc tự tử. Lương Tự được bà nội thứ nuôi nấng nên người. Sau đi làm quan ở Hồ Bắc, hơn một năm vâng lệnh quan trên đi công vụ tới Hồ Nam. Lương Tự tới hồ Động Đình thì khóc lớn quay về, tự trình là không đủ tài năng, bị giáng làm Huyện thừa huyện Hán Dương, rất không vui bèn chối từ không nhận chức. Các quan trên bắt ép thôi thúc mãi mới chịu đi, nhưng cứ rong chơi trong chốn sông hồ, không vì đang làm quan mà giữ gìn câu nệ. Một đêm ghé thuyền bên bờ sông, nghe thấy tiếng tiêu dìu dặt rất hay, bèn nhân có trăng lên bộ đi khoảng nửa dặm thì thấy giữa bãi đất trống có vài gian nhà tranh lập lòe ánh đèn.

Tới gần nhìn vào cửa sổ thấy ba người đang uống rượu bên trong, ghế trên là một người Tú tài tuổi khoảng ba mươi, ghế dưới là một ông già, ghế bên cạnh chính là người thổi tiêu, trẻ tuổi nhất. Dứt khúc tiêu, ông già vỗ tay khen hay, người Tú tài thì nhìn vào vách trầm tư tựa hồ không hề nghe thấy. Ông già nói "Lô Thập huynh ắt đã có thơ hay, xin ngâm lớn lên cho ta được nghe với", người Tú tài bèn ngâm:

Mãn giang phong nguyệt lãnh thê thê,

Sấu thảo linh hoa hóa tác nê.

Thiên lý vân sơn phi bất đáo,

Mông hồn dạ dạ Trúc Kiều tê (tây)

(Trăng gió đầy sông lạnh tịch liêu

Hoa rơi cỏ úa cảnh tiêu điều

Quê nhà ngàn dặm bay không tới

Hồn mộng đêm đêm cạnh Trúc Kiều)

Tiếng ngâm rất ai oán, ông già cười nói "Lô Thập huynh cứ làm ra vẻ buồn rầu" rồi lấy chén lớn rót rượu, nói "Lão phu không thể họa thơ, xin hát để đưa cay vậy". Liền hát bài "Rượu ngon Lan Đình..."*, hát xong mọi người đều vui vẻ. Thiếu niên đứng lên nói "Ta ra xem trăng lặn tới đâu rồi", rồi sấn sổ bước ra, nhìn thấy khách vỗ tay nói "Ngoài này có người, bọn ta ngông cuồng bị bắt gặp rồi". Liền kéo khách vào, Lương Tự chào hỏi mọi người xong, ông già bảo ngồi đối diện với thiếu niên. Lương Tự nâng chén rượu nhắp thử thấy lạnh ngắt, từ chối không uống. Thiếu niên biết ý lập tức đứng dậy, vơ cỏ rơm hâm nóng bưng lên, Lương Tự cũng sai người hầu lấy tiền đi mua rượu nhưng họ cố ngăn lại.

*Rượu ngon Lan Đình..": nguyên văn là "Lan Đình mỹ tửu" tức "Lan Đình mỹ tửu uất kim hương", câu trong bài Khách trung hành của Lý Bạch thời Đường.

Nhân hỏi tên họ quê quán, Lương Tự nói hết về mình, ông già kính cẩn nói "Đó là quê cha mẹ ta, ta họ Giang tên Thiếu Quân, sinh trưởng ở đây", kế chỉ thiếu niên nói "Đây là Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây". Lại chỉ người Tú tài nói "Lô Thập huynh đây là đồng hương với ông". Lô nhìn Lương Tự có vẻ ngạo nghễ vô lễ, Lương Tự nhân hỏi "Nhà ông ở làng nào, thi tài như thế mà sao ta không được nghe ai nói?". Tú tài đáp "Xa nhà đã lâu, họ hàng cũng không ai biết, nghĩ thật đáng buồn, không muốn nói ra". Ông già xua tay rối lên nói "Gặp được khách quý, không có tửu lệnh thì cứ ăn nói lằng nhằng như thế, nghe chán lắm". Rồi nâng chén uống một mình, kế nói "Ta có một cái lệnh xin mọi người cùng làm theo, ai không làm được sẽ bị phạt. Cứ gieo ba hột xúc xắc, lấy chữ "Tương phùng" làm lệnh, lại phải có một khúc hát cổ phù hợp".

Rồi gieo được ba mặt nhất nhị tam, bèn đọc "Tam thêm nhị nhất cũng tương đồng. Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công* mừng bè bạn tương phùng". Kế tới thiếu niên gieo được hai mặt nhị một mặt tứ, nói "Người không đọc sách thì chỉ hát khúc dân dã, xin chớ cười. Tứ thêm hai nhị cũng tương đồng, Bốn người gặp gỡ ở thành đông**, mừng huynh đệ tương phùng". Lô gieo được hai mặt nhất một mặt nhị, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Lữ Hướng hai tay ôm lão ông***, mừng phụ tử tương phùng". Lương Tự gieo cũng được như Lô, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông (4*) mừng chủ khách tương phùng".

*Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công: lấy tích Trương Thiệu thời Hán vào nhà Thái học, chơi thân với Phạm Thúc. Khi về, Thúc hẹn ba năm sẽ tới làm lễ ra mắt mẹ Thiệu. Gần đến ngày hẹn, Thiệu thưa với mẹ xin giết gà đồ xôi để đợi, mẹ nói "Xa cách ba năm, hẹn nhau ngàn dặm, sao con tin quá thế!". Đến ngày hẹn quả nhiên Thúc tới. Đây ông già có ý nói Lương Tự là bạn quý của mình.

** Bốn người gặp gỡ ở thành đông: lấy tích ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thời Hán thua trận lạc nhau mỗi người một nơi, sau Quan Vũ biết anh còn sống bèn từ giã Tào Tháo di tìm anh, cuối cùng ba người gặp nhau ở Cổ Thành, lại được thêm Triệu Vân. Đây thiếu niên có ý nói Lương Tự là anh em với mình.

*** Lữ Hướng hai tay ôm lão ông: lấy tích Lữ Hướng thời Tấn có cha đi xa mấy năm không về, sau nghe đồn cha còn sống nhưng Hướng đi tìm kiếm khắp nơi suốt mấy năm không gặp. Sau Hướng thi đỗ làm quan, một hôm từ triều ra gặp một ông già, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội xuống ngựu ôm chân cha khóc ròng rồi đón về nhà. Đây Lô có ý nói Lương Tự là con mình.

4* Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông: lấy tích Mao Dung thời Hán chơi với Quách Thái tự Lâm Tông, Thái tới nhà Dung chơi ngủ lại, sáng ra thấy Tông giết gà làm cơm, nghĩ rằng là để đãi mình, kế Dung bưng thịt gà lên mời mẹ, còn mình dọn rau ăn chung với Thái, Thái phục là hiền. Đây Lương Tự có ý nói tuy mình với ba người kia là bạn, nhưng còn có phận sự của kẻ làm con nên phải ra về.

Xong lệnh Lương Tự cáo từ ra về, Lô mới đứng lên nói "Là người quê cũ, chưa kịp trò chuyện gì nhiều, sao từ biệt sớm thế. Ta còn có chuyện muốn hỏi, xin nán lại thêm một lúc". Lương Tự bèn ngồi xuống, hỏi chuyện gì, Lô đáp "Ta có người bạn già chết đuối ở hồ Động Đình, có họ hàng gì với ông không?", Lương Tự đáp "Đó là cha ta, sao ông biết được?". Lô đáp "Lúc trẻ chơi thân với nhau, lúc ông ấy chết chỉ có ta nhìn thấy nên đã thu hài cốt chôn ở bờ sông". Lương Tự rơi lệ quỳ lạy xin chỉ mộ ở đâu, Lô nói "Sáng mai tới đây ta sẽ chỉ cho, cũng dễ nhận thôi, cứ ra cách đây mấy quãng, cứ thấy trên mộ có khóm lau rậm gồm mười cây là đúng". Lươug Tự khóc ròng cáo từ mọi người, về tới thuyền cả đêm không ngủ được. Lại sực nhớ tới lời lẽ thái độ của Lô như đều có duyên do, sốt ruột không chờ được, mờ sáng trở lại chỗ đó thì không thấy nhà cửa gì cả, vô cùng khiếp sợ.

Kế ra chỗ Lô nói tìm quả nhiên thấy một ngôi mộ trên có khóm lau rậm, đếm thì đúng có mười cây, sực hiểu rằng cái tên Lô Thập huynh là có ngụ ý, người mình gặp chính là hồn cha. Hỏi kỹ dân ở đó thì hai mươi năm trước vùng này có ông họ Cao giàu có hay làm điều lành, ai chết đuối đều tìm vớt thây chôn cất cho, nên có mấy ngôi mộ ở đây. Bèn quật mộ thu lượm hài cốt trở lại thuyền, về nói với bà nội, hỏi lại nét mặt tướng mạo thì đều đúng. Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây chính là anh con cô con cậu với Lương Tự, năm mười chín tuổi chết đuối trên sông, sau đó người cha tới lưu ngụ ở Giang Tây. Lại chợt nghĩ ra rằng sau khi Đỗ phu nhân chết thì chôn ở phía tây Trúc Kiều, nên trong bài thơ của cha mới có câu cuối như vậy, chỉ không rõ ông già kia là ai mà thôi.

218. Vương Quế Am (Vương Quế Am)

Vương Cao tự Quế Am là con nhà thế gia ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), đi chơi xuống miền nam, ghé thuyền vào bờ sông. Trong thuyền bên cạnh có cô gái ngồi thêu giày, xinh đẹp tuyệt trần. Vương nhìn chằm chằm hồi lâu mà nàng như vẫn không hay biết. Vương ngâm nga "Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa"* cố ý để nàng nghe, cô gái như hiểu là vì mình, khẽ ngẩng đầu liếc qua rồi cúi xuống thêu như cũ. Vương tâm thần càng điên đảo, lấy một thoi vàng từ xa thảy tới trúng vạt áo cô gái, nàng cầm lên ném đi như không biết đó là vàng. Thoi vàng rơi lên bờ, Vương nhặt về rồi lại thảy một cái vòng vàng rơi xuống dưới chân cô gái, nàng vẫn tiếp tục thêu không nhìn tới. Không bao lâu người nhà thuyền trở về, Vương sợ ông ta nhìn thấy cái vòng cân vặn con gái, vô cùng nóng ruột, nhưng cô gái ung dung nhấc đôi hài giẫm lên che đi. Người nhà thuyền cởi dây thuận dòng chèo đi, Vương tâm tình chán nản ngồi ngẩn ra nghĩ vẩn vơ. Lúc ấy Vương vừa cưới vợ thì vợ chết nên hối hận vì không lập tức nghĩ tới việc nhờ người mai mối. Bèn hỏi thăm các thuyền chung quanh nhưng họ đều không biết họ tên cô gái, liền cho quay thuyền đuổi gấp theo, nhìn ngó mỏi mắt mà thuyền kia mất hút không biết đi về đâu. Vương bất đắc dĩ phải cho quay thuyền xuôi nam, việc xong trở ra bắc, dọc đường hỏi thăm hai bên bờ rất kỹ nhưng không hề có tin tức gì, về tới nhà rồi lúc ăn lúc ngủ đều tơ tưởng tới nàng.

*Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa: nguyên văn là "Lạc Dương nữ nhi đối môn cư" câu trong bài Lạc Dương nữ nhi hành của Vương Duy thời Đường.

Qua năm sau Vương lại đi xuống phía nam, mua một chiếc thuyền ở hẳn trên đó, ngày ngày nhìn ngó những thuyền bè qua lại, thuộc cả cánh buồm bánh lái nhưng chiếc thuyền năm xưa vẫn bặt tăm. Được nửa năm hết tiền đành quay về, ra tưởng vào nhớ không buồn làm việc gì cả. Một đêm nằm mơ thấy tới một làng ven sông, đi qua mấy ngõ thấy một căn nhà cánh cổng bằng tre quay về hướng nam, phía trong có giậu trúc thưa, cho là vườn hóng mát liền lần vào. Thấy có một gốc dạ hợp đầy dây tơ hồng phủ kín, nghĩ thầm thật đúng với câu thơ "Mã anh trước cổng gốc đầy hoa"*. Đi thêm vài chặng, thấy giậu tường vi tươi tốt lại lần vào, thấy phía bắc có căn nhà ba gian, hai cánh cửa khép kín, phía nam có gian nhà nhỏ, lá chuối che khuất cửa sổ, thò đầu vào nhìn thấy ngay cửa có cái giá áo trên treo chiếc quần hoa, biết là phòng đàn bà con gái vội vàng lui ra. Nhưng bên trong đã biết, có một người chạy ra nhìn khách, môi son má phấn, chính là cô gái trong thuyền năm xưa.

*Mã anh trước cổng gốc đầy hoa: nguyên văn là "Môn tiền nhất thụ mã anh hoa", câu trong bài Bàn Đường giang thượng thị nùng gia của Thủy Tiên Thần thời Thanh.

Vương quá mừng rỡ bật kêu lên "Cũng còn có lúc gặp nhau sao?", đang định bước tới ôm lấy thì cha nàng vừa về tới, giật mình tỉnh dậy mới biết là nằm mơ. Nhưng vẫn nhớ rõ ràng cảnh vật đã thấy, giữ kín sợ nói ra cho người khác biết thì hỏng mất giấc mộng đẹp. Hơn năm sau Vương lại tới Trấn Giang, phía nam quận có quan Thái bộc họ Từ vốn là thế giao mời Vương tới uống rượu. Vương phóng ngựa đi, lạc vào một thôn nhỏ, thấy đường sá cảnh vật quen quen như từng tới rồi, trong một cánh cổng cũng có một gốc mã anh sờ sờ, phát hoảng vứt roi xuống ngựa lần vào thì cảnh sắc chung quanh không khác gì trong giấc mơ năm trước. Lại đi vào nữa thì nhà cửa phòng ốc cũng giống hệt, biết giấc mơ đã nghiệm bèn không nghĩ ngợi gì nữa, đi thẳng vào gian nhà phía nam. Cô gái trong thuyền năm xưa quả đang ở đó, vừa nhìn thấy Vương từ xa đã giật mình đứng lên núp sau cánh cửa quát hỏi là đàn ông ở đâu? Vương rụt rè bước tới, vẫn còn ngờ là đang nằm mơ, cô gái nghe tiếng bước chân tới gần liền đóng sầm cửa lại. Vương nói "Nàng không nhớ người ném cái vòng sao?", rồi kể lể nỗi khổ nhớ nhung, thuật lại cả giấc mơ. Cô gái bên trong cánh cửa hỏi vọng ra về gia thế, Vương nói rõ hết. Cô gái nói "Đã là dòng dõi nhà quan thì thiếu gì giai nhân, cần gì tới thiếp?" Vương đáp "Nếu không vì nàng thì ta đã cưới vợ lâu rồi". Cô gái nói "Nếu đúng như thế thì đủ biết lòng chàng rồi. Nông nỗi này thiếp không thể thưa với cha mẹ, nhưng thật ra cũng đã cãi lời mà chối từ mấy người tới dạm hỏi rồi. Cái vòng vàng vẫn còn đây, vẫn nghĩ nếu là người chung tình ắt sẽ tìm hỏi cho ra tin tức. Hiện nay cha mẹ qua thăm bên ngoại cũng sắp về, chàng cứ về nhờ mai mối tới hỏi, chắc chắn là được. Còn nếu muốn nên đôi lứa trái lễ thì tính sai rồi đấy".

Vương thảng thốt quay ra, cô gái gọi với theo nói "Vương lang, thiếp tên Vân Nương, họ Mạnh, cha thiếp tự là Giang Ly". Vương ghi nhớ rồi đi. Xong tiệc ở nhà Thái bộc, Vương vội quay về xin gặp ông Giang Ly, ông đón vào mời ngồi bên giậu trúc. Vương kể gia thế, kế ngỏ ý rồi đưa ngay ra trăm lượng vàng nộp sính lễ. Ông nói "Con ta đã hứa gả rồi". Vương nói "Ta đã hỏi đích xác là chưa nhận lời ai, sao ông cự tuyệt thẳng thừng như vậy?". Ông đáp "Vừa nhận lời xong, thật không dám nói dối". Vương bàng hoàng thẫn thờ chào về, không biết có đúng thế không, đêm ấy cứ trằn trọc, tiếc là không có ai làm mai mối cho. Trước đã định nhờ Thái bộc, nhưng sợ cưới con nhà thuyền bị ông cười, nay việc đã gấp không biết nhờ ai, sáng ra đành tới gặp Thái bộc thưa thật lại chuyện. Thái bộc nói "Ông ấy có họ hàng với ta, là cháu đích tôn của bà ngoại ta, sao không nói sớm?". Lúc ấy Vương mới kể rõ ẩn tình, Thái bộc ngờ vực nói "Giang Ly tuy nghèo nhưng không làm nghề chèo thuyền để sống, có lầm không đấy?". Bèn sai con trai là Đại lang tới nhà ông Mạnh, ông Mạnh nói "Ta tuy nghèo nhưng không phải là kẻ bán con gái. Mới rồi công tử đem vàng tới tự làm mối, có lẽ cho rằng ta thấy lợi sẽ động lòng, nên ta không dám hứa gả. Nay đã có lệnh của tiên sinh, ắt không có chuyện sai quấy ngang trái, nhưng con bé bướng bỉnh nhà ta cậy được nuông chiều, từ chối nhiều nhà giàu sang rồi, phải bàn lại với nó để về sau nó khỏi oán là phải lấy chồng xa". Rồi đứng dậy vào nhà trong, giây lát trở ra chắp tay xin nhận lời, hẹn ngày cưới rồi chia tay.

Đại lang về báo lại, Vương bèn sửa soạn đồ lễ rất hậu đưa tới nhà Mạnh nộp sính lễ, mượn nhà Thái bộc đón dâu làm lễ cưới. Được ba ngày Vương từ biệt nhạc gia về bắc, đêm ngủ trong thuyền hỏi Vân Nương rằng "Trước đây gặp nàng ở chỗ ấy, ta đã ngờ không phải là con nhà thuyền, hôm ấy nàng ngồi thuyền đi đâu?". Vân Nương đáp "Nhà chú thiếp ở bờ bắc sông, hôm ấy thiếp chỉ tình cờ mượn thuyền đi ngắm cảnh thôi. Nhà thiếp chỉ tạm đủ ăn nhưng không coi trọng loại tiền bạc đột nhiên mà có, thật đáng cười chàng hai mắt chỉ nhỏ bằng hạt đậu, mấy lần đem vàng ra mong làm người ta xiêu lòng. Khi vừa nghe tiếng ngâm thơ đã biết chàng là bậc văn sĩ phong nhã nhưng cũng còn ngờ là kẻ phóng đãng đi tìm loại đàn bà hư hỏng. Nếu để cho cha thấy cái vòng ấy thì chàng cứ gọi là chết không có đất chôn, lòng thiếp mến tài như thế tha thiết đấy chứ".

Vương cười nói "Nàng sâu sắc lắm, nhưng cũng mắc kế của ta rồi". Vân Nương hỏi là chuyện gì, Vương không đáp, nàng hỏi gặng mãi mới nói "Sắp tới nhà rồi, chuyện này không thể giấu được mãi nên nói thật với nàng ta đã có vợ ở nhà, là con gái Thượng thư họ Ngô". Vân Nương không tin, Vương làm ra vẻ nghiêm trang như thật, nàng biến sắc im lặng hồi lâu rồi chợt vùng dậy lao ra ngoài. Vương lật đật đuổi theo ra thì nàng đã gieo mình xuống sông rồi. Vương la lớn, thuyền bè quanh đó náo động nhưng đêm tối mịt mùng, trên mặt sông chỉ còn toàn là bóng sao lung linh. Vương đau xót khóc lóc suốt đêm, thả thuyền theo ven sông trả tiền thật hậu thuê người tìm kiếm thi hài nhưng không thấy đâu, rầu rĩ về nhà, vừa đau thương vừa buồn tủi. Lại lo cha vợ tới thăm con gái thì không biết ăn nói ra sao, nhân có người anh rể làm quan ở Hà Nam bèn sai đánh xe tới chơi, hơn một năm mới về.

Giữa đường gặp mưa, trú lại trong một nhà dân, thấy phòng xá sạch sẽ, có bà già đang chơi với một đứa nhỏ trong phòng. Đứa nhỏ thấy Vương vào lập tức giơ tay đòi bế, Vương lấy làm lạ nhưng thấy kháu khỉnh dễ thương bèn đặt nó lên đầu gối, bà già gọi mà nó không chịu rời ra. Lát sau tạnh mưa, Vương nhấc đứa nhỏ lên đưa cho bà già, bước ra chuẩn bị lên đường, đứa nhỏ khóc kêu "Cha đi mất rồi!". Bà già ngượng ngùng, quát mắng mà nó không chịu nín đành bế xốc đi chỗ khác. Vương đang ngồi chờ sửa soạn xe kiệu, chợt có một cô gái đẹp từ sau bình phong bế đứa nhỏ bước ra, chính là Vân Nương. Vương đang sửng sốt thì Vân Nương mắng "Gã bạc tình kia! Để lại một cục thịt này làm gì?". Lúc ấy Vương mới biết đó là con mình, trong lòng chua xót áy náy, chưa hỏi việc nàng vừa qua lưu lạc thế nào, cứ phân trần rằng trước đây chỉ là nói đùa, thề độc để bày tỏ, Vân Nương mới đổi tức giận thành buồn thương, nhìn nhau rơi nước mắt.

Trước là ông Mạc chủ nhà này sáu mươi tuổi mà không có con trai, đưa vợ tới chùa Quan âm cầu tự trở về, trên đường ghé vào bờ sông, vừa gặp lúc Vân Nương bị sóng cuốn chạm vào thuyền. Ông Mạc sai người vớt lên cứu chữa suốt đêm mới tỉnh lại. Hai ông bà thấy nàng xinh đẹp mừng lắm, coi như con ruột, đưa luôn về nhà. Được vài tháng định gả chồng cho nhưng nàng không chịu, qua mười tháng nàng sinh được một con trai đặt tên là Ký Sinh, lúc Vương vào nhà ấy trú mưa thì Ký Sinh mới được đầy năm. Vương lập tức cởi hành lý vào lạy ông bà Mạc, nhận nhau làm cha mẹ vợ và con rể. Ở lại vài ngày Vương mới đưa cả gia đình về, tới nhà thì ông Mạnh tới đợi đã hai tháng. Khi ông mới tới, thấy bọn tôi tớ trong nhà ấp úng sợ sệt rất lạ lùng ngờ vực, gặp con rồi mới vui vẻ khoan khoái, đến khi nghe kể lại mọi việc mới biết sở dĩ họ có vẻ khác lạ là vì như thế.

Phụ : Ký Sinh (Ký Sinh - Phụ)

Ký sinh tự Vương Tôn là danh sĩ trong quận. Cha mẹ thấy lúc còn nằm tã mà biết nhận ra cha, cho rằng có trí tuệ trời cho nên rất yêu thương. Lớn lên càng tuấn tú, tám chín tuổi đã biết làm văn, mười bơn tuổi được vào học trường huyện, thường có ý tự mình chọn vợ. Cha là Quế Am có em gái tên Nhị Nương, gả cho Tú tài Trịnh Tử Kiều sinh được một gái là Khuê Tú, thông minh xinh đẹp không ai sánh kịp. Vương Tôn trông thấy thầm yêu, ngày càng thiết tha nhung nhớ, lâu ngày bỏ cả ăn uống, cha mẹ lo lắng gạn hỏi mãi mới chịu nói thật. Cha nhờ người mai mối qua gặp Trịnh, nhưng Trịnh tính mực thước khuôn phép, ngại là con cô con cậu ruột nên từ chối*. Nhưng Vương Tôn bệnh càng nặng thêm, mẹ không biết làm sao bèn ngầm ngỏ ý với Nhị Nương, chỉ xin cho Khuê Tú tới thăm một lần để con đỡ bệnh, Tnnh nghe thế càng tức giận, nói ra những lời không hay, cha mẹ đã tuyệt vọng nên chỉ đành chịu trận mà thôi.

*Ngại là... từ chối: tục Trung Hoa ngày xưa con cô con cậu có thể được cưới nhau vì khác họ, nhưng thường là đã qua một đời (con cô con cậu họ).

Trong quận có họ Trương là nhà vọng tộc, có năm con gái đều xinh đẹp, nàng nhỏ nhất tiểu đanh là Ngũ Khả đẹp nhất còn chưa gả chồng. Một hôm nàng đi tảo mộ giữa đường gặp Vương Tôn, ngồi trong kiệu nhìn ra, về kể cho mẹ. Mẹ dò biết ý tìm gặp bà mối họ Vu úp mở nói chuyện, bà mối bèn tới nhà Vương. Lúc ấy Vương Tôn đang bệnh, bà ta hỏi han biết chuyện bèn cười nói "Bệnh ấy thì già này chữa được". Vân Nương hỏi sao nói thế, bà ta kể ý họ Trương, lại tán tụng Ngũ Khả xinh đẹp. Vân Nương mừng rỡ, bảo bà ta qua thăm Vương Tôn. Bà ta vào vỗ về Vương Tôn kể lại, Vương Tôn lắc đầu nói "Thầy thuốc ấy không hợp với chứng bệnh này, làm sao được". Bà ta cười nói "Chỉ cần hỏi thầy thuốc giỏi hay không thôi, nếu là thầy giỏi thì dùng phương hòa hoãn cũng được, chứ cứ nhất định mời cho được thầy nào đó rồi thà chết để đợi thì há không phải là ngây sao?". Vương Tôn thở dài nói "Nhưng thầy thuốc trên đời không ai kê được phương hòa hoãn cho ta đâu". Bà ta nói "Sao mà kiến văn hẹp hòi thế", rồi thì mắt mũi tóc da, thần thái dáng điệu của Ngữ Khả đều khoa tay múa chân tả lại. Vương Tôn lại lắc đầu nói "Thôi bà đừng nói nữa, người ấy thì ta không mong ước tới", rồi quay mặt vào vách không nghe nữa, bà ta thấy không lay chuyển được bèn bỏ về.

Một hôm Vương Tôn đang nằm thiêm thiếp chợt một tỳ nữ bước vào nói "Người công tử mơ ước tới đây này?", mừng quá nhảy chồm dậy, vội vàng bước ra khỏi phòng thì giai nhân đã vào tới trong sân nhưng nhìn kỹ lại thì không phải Khuê Tú. Thấy nàng mặc áo khoác màu vàng, quần thêu gấp nếp nhỏ, hé lộ hai mũi giày cong vút chẳng khác gì thần tiên. Vái chào hỏi tên họ, nàng đáp "Thiếp là Ngũ Khả. Chàng có tình sâu nặng mà chỉ hướng về một mình Khuê Tú khiến người khác bất bình". Vương Tôn tạ lỗi, nói "Bình sinh chưa thấy dung nhan nên trong mắt chỉ có một mình Khuê Tú, nay đã biết lỗi rồi", rồi định cùng nhau thề thốt, vừa nắm tay đắm đuối thì mẹ vào vỗ về, sực tỉnh, thì ra là nằm mơ.

Nhớ lại nét mặt tiếng cười vẫn như rành rành trước mắt, thầm nghĩ nếu quả Ngũ Khả đúng như trong giấc mộng thì cần gì phải mong ước người khó gặp gỡ kia nữa. Nhân đó kể lại giấc mơ cho mẹ nghe, mẹ mừng thấy con đã hơi bỏ ý cũ vội định nhờ người làm mối. Vương Tôn sợ là nằm mơ thấy đẹp khác hơn người thật, bèn nhờ bà già láng giềng vốn quen họ Trương tìm cớ tới nhà, dặn ngầm nhìn mặt Ngũ Khả. Bà già tới thì Ngũ Khả đang ốm, tựa gối chống cằm, dáng vẻ yêu kiều không ai sánh kịp. Bà già tới gần hỏi thăm đau ốm thế nào, nàng chỉ im lặng mân mê thắt lưng không nói một tiếng, người mẹ đáp thay "Có bệnh gì đâu, suốt sáng giận hờn cha mẹ đấy". Bà già hỏi duyên cớ, người mẹ đáp "Ai tới dạm hỏi cũng không ưng, cứ đòi phải được như Ký Sinh nhà họ Vương mới chịu lấy, mẹ thấy nóng ruột khuyên nhủ thì hờn dỗi bỏ cơm mấy hôm nay".

Bà già cười nói "Cô nương đây mà lấy Vương lang thì đúng là người ngọc thành đôi, mà nếu Vương lang không gặp được Ngũ nương e cũng sẽ khô héo mà chết. Ta về rồi sẽ nhờ người mai mối tới ngay, có được không?". Ngũ Khả ngắt lời nói "Bà đừng làm thế, sợ không thành thì ta càng bị chê cười thêm". Bà già hăng hái tự nhận quyết sẽ làm cho việc phải thành, Ngũ Khả mới mỉm cười. Bà già về tả lại, nhất nhất đều như bà mối đã nói. Vương Tôn hỏi kỹ về y phục thì đều ăn khớp với giấc mơ, cả mừng, tâm tình thư thái dần nhưng rốt lại vẫn chưa dám tin chắc vào lời người khác nói. Vài hôm sau đỡ bệnh, ngầm gọi bà mối họ Vu tới bảo tìm cách cho mình được nhìn thấy Ngũ Khả một lần, bà ta thấy khó nhưng cũng vâng dạ rồi về. Lâu không thấy tới, đang định đi tìm thì bà ta chợt hớn hở tới nói "Có cơ hội rồi đây. Vài hôm nay Ngũ Khả khó ở, ngày nào cũng sai đám tớ gái dìu ra sân đi dạo, công tử cứ tới núp chờ. Ngũ nương đi rất chậm, có thể nhìn kỹ được".

Vương Tôn mừng rỡ theo lời, sáng hôm sau sai thắng ngựa đi sớm, tới nơi thì bà mối đã đứng chờ sẵn, bảo buộc ngựa vào gốc cây trong thôn rồi dẫn vào một nhà gần đường, thu xếp chỗ cho ngồi rình xong, đóng cửa bỏ đi. Giây lát quả nhiên Ngũ Khả dựa tỳ nữ bước ra, Vương Tôn từ trong khe cửa nhìn chằm chằm, cô gái đi ngang qua cửa, bà mối lại cố ý chỉ cho xem cảnh vật này nọ để giữ chân nàng. Vương Tôn nhìn lén thấy rõ cả, mường tượng như lại đang nằm mơ, mừng quá run lên không kìm được. Lát sau bà mối tới hỏi "Thấy Khuê Tú được chứ?", Vương Tôn cảm tạ rồi về. Lúc ấy mới thưa với cha mẹ, nhờ mai mối qua dạm hỏi, nhưng qua tới thì Ngũ Khả đã hứa gả cho người khác rồi. Vương Tôn thất ý, rầu rĩ muốn chết, lập tức trở bệnh lại. Cha mẹ lo quá, trách con nông nổi.

Vương Tôn không đáp, mỗi ngày chỉ hớp một ngụm cháo, được vài tháng chỉ còn da bọc xương, so với trước kia càng nặng hơn. Bà mối chợt tới, kinh ngạc hỏi "Sao yếu đến thế?". Vương Tôn sa lệ kể lại sự tình. Bà mai cười nói "Công tử đúng là ngây, hôm trước người ta theo thì nhất định chối từ, hôm nay muốn mong cầu người ta là được toại nguyện ngay sao? Nhưng cũng còn có thể cố sức làm được, chỉ cần bàn tính với già này sớm, thì cho dù đã hứa gả cho hoàng tử con vua ta cũng giành lại được mà!". Vương Tôn cả mừng hỏi cách, bà ta bảo viết thư sai người đưa đi, hẹn hôm sau sẽ tới chờ ở nhà họ Trương. Quế Am sợ đường đột sẽ bị cự tuyệt, bà ta nói "Hôm trước ông Trương đã nói ưng thuận rồi, vì dằng dai mấy hôm nên ông ta đổi ý, nhưng tuy hứa gả cho nhà khác vẫn chưa có thư làm bằng. Lời ngạn có câu Nấu trước được ăn sớm, còn ngần ngại gì nữa", Quế Am bèn nghe theo.

Hôm sau sai hai người gia nhân đưa thư qua không thấy nói gì khác, được thưởng hậu trở về. Vương Tôn mừng, lập tức khỏi bệnh, từ đó hết nhớ nhung Khuê Tú. Trước kia Trịnh Tử Kiều từ chối sính lễ, Khuê Tú đã bực tức, đến khi nghe việc cưới gả với họ Trương đã thành, lòng càng uất ức, thẫn thờ như bị bệnh, càng ngày càng võ vàng, cha mẹ hỏi thì không dám nói. Đứa tỳ nữ biết ý lén nói với bà mẹ, Trịnh biết chuyện tức giận, không mời thầy thuốc, định bỏ cho chết. Nhị Nương bực tức nói "Cháu trai ta cũng không có gì xấu, sao cứ khư khư giữ thói hủ nho mà giết chết con gái cưng của mình?". Trịnh giận dữ nói "Con gái của bà chết sớm càng tốt, khỏi bị chê cười", từ đó vợ chồng bất hòa. Nhị Nương cố nói với con gái rằng thế nào cũng gả nàng cho Vương Tôn, coi như vợ lẽ cũng được. Cô gái cúi đầu không đáp, như rất bằng lòng. Nhị Nương bàn với Trịnh, Trịnh nghe càng nổi nóng, mặc kệ cho Nhị Nương lo coi con gái như chết rồi, không cần biết tới nữa.

Nhị Nương rất thương con, nhất định làm như đã nói, cô gái vui mừng mới dần dần khỏi bệnh. Bèn ngầm hỏi dò ngày Vương Tôn đón dâu, tới hôm ấy lấy cớ sắp đám cưới cháu trai, giả về thăm nhà. Trời chưa sáng đã sai người qua nhà anh mượn xe kiệu, Quế Am rất yêu quý em gái, lại vì hai nhà cũng gần nên sai lấy xe ngựa chuẩn bị để rước dâu đi đón Nhị Nương trước. Xe kiệu tới nơi, Nhị Nương trang điểm cho con gái rồi bảo lên xe, sai hai người tớ trai và hai bà già đưa đi, tới nơi thì trải thảm lông từ cổng mà vào. Lúc ấy đàn sáo đã tề tựu đông đủ, người tớ trai cao giọng sai cử nhạc, mọi người huyên náo cả lên một lượt. Vương Tôn nhào ra xem thì cô gái đã lấy khăn hồng che kín mặt, khiếp sợ toan bỏ chạy thì hai người tớ trai nhà họ Trịnh xốc nách đỡ ra bảo làm lễ giao bái. Vương Tôn chẳng hiểu vì sao nhưng cũng lập tức vái lạy, kế hai bà già dìu cô gái đi thẳng vào phòng tân hôn, lúc ấy mới biết đó là Khuê Tú. Cả nhà phát hoảng không biết làm sao, trời đã xế chiều, Vương Tôn không dám làm lễ rước dâu nữa.

Quế Am sai đầy tớ qua kể sự tình với Trương, Trương nổi giận muốn tuyệt hôn luôn, Ngũ Khả không chịu, nói "Người kia tuy tới trước nhưng chưa có mai mối sính lễ, chi bằng cứ nhắn bên kia qua rước dâu" Cha cho là đúng, nói với người đầy tớ, người ấy về thưa lại nhưng Quế Am vẫn không dám theo lời, nhăn nhó nhìn nhau không biết nên mừng hay nên giận. Trương chờ đợi hồi lâu biết họ Vương không rước dâu, bèn cũng đem xe kiệu đưa Ngũ Khả tới. Vì vậy phải bày một phòng tân hôn khác, mà Vương Tôn ở giữa muốn chu toàn cứ qua lại cả hai nơi không biết ngủ đâu. Mẹ bèn đứng giữa điều đình, sai lấy tuổi lớn nhỏ mà sắp vai vế, hai nàng đều vâng lời. Đến khi Ngũ Khả nghe Khuê Tú hơi lớn hơn, phải gọi bằng chị thì tỏ vẻ khó chịu, mẹ rất lo lắng. Ba hôm sau cùng tới phòng mẹ, thấy Khuê Tú dung mạo đẹp đẽ, thái độ đường hoàng lấy làm kính trọng, từ đó vai vế mới định. Tuy nhiên cha mẹ vẫn lo lâu ngày sẽ không hòa thuận được với nhau, nhưng hai nàng không hề có điều tiếng gì, áo quần giày dép cũng dùng chung, yêu mến nhau như chị em ruột vậy.

Vương Tôn bấy giờ mới hỏi Ngũ Khả vì sao từ khước mai mối, nàng cười đáp "Chẳng vì sao cả, chỉ là để trả thù chàng cự tuyệt bà Vu thôi. Lúc chưa gặp thiếp, thì trong lòng chỉ biết có Khuê Tú, lúc thấy rồi thiếp cũng làm khó một chút xem ý chàng đối với thiếp và Khuê Tú hơn kém nhau thế nào. Nếu chàng bệnh vì người ta mà chẳng bệnh vì thiếp thì cũng không nên ép uổng phải sum họp". Vương Tôn cười nói "Trả thù như thế cũng thảm độc đấy. Nhưng nếu không có bà Vu thì làm sao ta được thấy mặt hoa một lần". Ngũ Khả nói "Đó là tự thiếp muốn cho chàng thấy, chứ bà ta làm sao tính được. Lúc đi ngang căn nhà ấy thiếp há lại không biết người đang ở trong nhìn ra chằm chằm là ai sao? Từng hẹn nhau trong mộng rồi, thì còn gì mà chưa tin nữa chứ?". Vương Tôn kinh ngạc hỏi sao biết, nàng đáp "Lúc bệnh nằm mơ thấy tới nhà chàng, vẫn nghĩ là mộng mị quàng xiên, sau nghe nói chàng cũng nằm mơ, thiếp mới biết hồn phách có thể làm được như vậy, Vương Tôn lấy làm lạ, nàng bèn kể lại giấc mơ, ngày giờ đều đúng cả. Mối lương duyên của hai cha con đều nhờ chiêm bao mà thành, cũng là chuyện tình kỳ lạ nên chép lại cả hai.

Dị Sử thị nói: Cha ngây vì tình, còn con thì mấy lần suýt chết vì tình, chữ "Nặng tình" có lẽ là chỉ Vương Tôn chăng? Không có người cha khéo nằm mơ như thế thì làm sao sinh được đứa con xuất hồn trong giấc mơ.

219. Chử Toại Lương (Chử Toại Lương)

Huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) có người dân là Triệu Mỗ, thuê nhà của người hào phú, mắc bệnh có khối u không tiêu mà cô đơn, nghèo khổ không đủ ăn, dần dần bệnh càng nặng. Một hôm cố sức lết ra ngoài cho mát, nằm ngủ dưới thềm, khi tỉnh dậy thấy một mỹ nhân tuyệt thế ngồi bên cạnh bèn hỏi. Cô gái đáp "Ta đến đây để làm vợ ngươi". Mỗ hoảng sợ nói "Chưa nói tới chuyện kẻ nghèo không dám mong bậy, chỉ nói tới chuyện đang mắc bệnh sắp chết thì cưới vợ làm gì?". Cô gái tự nói là có thể chữa được, Mỗ nói "Bệnh của ta không phải một ngày một buổi mà chữa được, mà cho dù có phương thuốc hay cũng không có tiền mà mua". Cô gái nói "Ta chữa bệnh không cần dùng thuốc", rồi xoa mạnh lên bụng Triệu, Triệu thấy nóng như lửa, hồi lâu khối u trong bụng có tiếng ùng ục, giây lát thấy muốn đi đại tiện, vội vùng dậy chạy ra ngoài tuột quần ngồi xuống ỉa tung tóe, khối u cũng theo ra hết, thấy trong người dễ chịu bèn quay lại nói với cô gái "Nương tử là người thần ở đâu xin cho biết tên họ để ta thờ cúng". Cô gái đáp "Ta là hồ tiên, chàng là Chử Toại Lương thời Đường* vốn có ơn với nhà thiếp, thường ghi nhớ muốn báo đáp, từ bấy đến nay tìm khắp nơi, hôm nay mới gặp được, thật là thỏa nguyện".

*Chử Toại Lương thời Đường: tức Chử Toại Lương, tự Thiện Đăng, người Tiền Đường, làm quan dưới các triều Thái tông, Cao tông dần tới chức Lại bộ Thượng thư Đồng Tam phẩm, vì can Cao tông lập Vũ hậu không được nên từ chức, bị giáng làm Đô đốc Đàm Châu, kế làm Thứ sử ái Châu rồi chết.

Mỗ thẹn mình xấu xí nhơ bẩn, lại lo nhà tranh bếp đất làm bẩn xiêm y nhưng cô gái cứ xin vào. Triệu bèn đưa vào nhà, thì giường đất không có chiếu, bếp lạnh không có lửa, nói "Chưa nói tới tình cảnh thế này không dám làm nhục nhau, cho dù là nàng cam lòng theo thì xin nhìn trên giường không chiếu, dưới bếp không lửa, ta lấy gì mà nuôi vợ con?". Cô gái chỉ nói đừng lo, nói xong quay nhìn thì thấy trên giường đã đủ cả chăn nệm. Đang còn kinh ngạc hỏi han, thì chớp mắt lại thấy cả phòng sáng quắc rực rỡ, mọi đồ vật đều đổi khác, bàn ghế sạch sẽ, rượu thịt đã bày đầy ra, bèn cùng nhau uống rượu rồi kết làm vợ chồng. Chủ nhân nghe chuyện lạ xin được gặp một lần, cô gái lập tức ra gặp, không có vẻ gì là khó chịu. Vì vậy khắp nơi đồn đại, người tới thăm làm quen đông nghẹt ở cửa, cô gái đều tiếp đón không chối từ một ai, có ai mở tiệc mời nàng cũng theo chồng tới.

Một hôm có viên Cử nhân trong tiệc nảy ý tà dâm, cô gái biết ngay, buông lời mỉa mai, lấy tay xô vào đầu y, y chúi ra ngoài, đầu lọt qua chấn song mà người còn vướng bên trong, giãy giụa lăn lộn không sao thoát ra được, mọi người cùng van xin nàng mới tới kéo ra cho. Hơn một năm khách khứa càng đông đúc phiền nhiễu, cô gái phát chán, những kẻ bị nàng chối từ không gặp đều đổ tội cho Triệu. Đến ngày Đoan ngọ mọi người đang cùng nhau uống rượu, chợt có một con thỏ nhảy vào, cô gái đứng lên nói "Ông Thung Dược* tới mời", rồi nói với con thỏ "Xin mời cứ đi trước". Con thỏ phóng nhanh ra xa mất hút, nàng bảo Triệu lấy thang, Triệu ra sau nhà lấy chiếc thang dài lên, thấy cao mấy trượng, trước sân có cây đại thụ bèn gác vào, đầu thang còn cao hơn ngọn cây. Cô gái leo lên trước, Triệu cũng theo sau, nàng quay đầu nói "Các vị bạn bè khách khứa ai muốn theo xin lập tức bước lên". Mọi người nhìn nhau không ai dám trèo lên, chỉ có một đứa tiểu đồng của chủ nhân hăm hở leo theo, càng lên chiếc thang càng cao, dần dần vào hẳn trong mây không thấy đâu nữa. Mọi người cùng nhìn lại thì chiếc thang là cánh cửa lâu năm mục nát bỏ đi làm tấm ván. Bèn kéo nhau vào xem thì thấy nhà tranh vách đất như cũ, ngoài ra không có vật gì khác, cũng muốn chờ đứa tiểu đồng quay về hỏi han, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm.

*Ông Thung Dược: Thần dị ký chép trong mặt trăng có con thỏ ngọc cầm chày giã thuốc, nên "thung dược" (giã thuốc trong cối) đây chỉ con thỏ.

220. Công Tôn Hạ (Công Tôn Hạ)

Huyện Bảo Định (tỉnh Hà Bắc) có viên Giám sinh Mỗ định vào kinh nộp tiền mua chức Tri huyện. Đang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được. Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa "Có khách tới", Mỗ cũng quên cả bệnh, rảo bước ra đón. Khách ăn mặc sang trọng như người quyền quý, Mỗ vái chào mấy lần rồi mời vào, hỏi từ đâu tới. Khách đáp "Ta là Công Tôn Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe nói ông sắp vào kinh mua chức Huyện doãn, đã có ý ấy thì mua hẳn chức Thái thú có hơn không?". Mỗ từ tạ, chỉ nói ít tiền không dám ước vọng quá cao. Khách xin ra sức giúp đỡ, nói chỉ cần đưa trước nửa tiền, xong việc sẽ tới nhiệm sở lấy nốt. Mỗ mừng rỡ hỏi cách thức, khách nói "Các quan Tổng đốc, Tuần phủ đều là bạn thân của ta, chỉ cần đưa tạm năm ngàn quan là mọi việc sẽ xong. Hiện phủ Chân Định đang khuyết chức Thái thú, phải lo cho gấp". Mỗ ngại vì ở ngay tỉnh nhà, khách cười nói "Ông ngây thơ quá, đã có tiền đấy rồi thì ai hỏi chuyện quê quán ở đất Ngô hay đất Việt làm gì". Mỗ rốt lại vẫn ngần ngừ, ngờ là trái phép, khách nói "Không cần nghi ngại, xin nói thật đây là chức Thành hoàng dưới âm ty bị khuyết. Ông nay tuổi thọ đã hết, tên họ đã ghi vào sổ ma rồi, phải nhân dịp này chạy chọt mới có thể thành bậc quan lớn dưới cõi âm được". Kế đứng lên từ biệt, nói "Ông cứ tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại", rồi ra cổng lên ngựa đi.

Mỗ chợt mở mắt tỉnh dậy, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền bạc cất giấu ra chợ mua một vạn thoi vàng giấy, vét sạch mặt hàng ấy trong quận, chất đống trong sân với ngựa cỏ lo đốt ngày đêm, tro cao như núi. Ba ngày sau khách quả tới, Mỗ đem tiền ra đưa, khách lập tức đưa Mỗ tới công thự. Thấy một vị quan lớn ngồi trên điện, Mỗ bèn sụp lạy, vị quan hỏi qua tên họ, kế khuyên Mỗ phải thanh liêm cẩn thận này nọ rồi lấy văn bằng ra, gọi tới trước án đưa cho. Mỗ lạy tạ trở ra, tự nghĩ chức Giám sinh vốn thấp hèn, nếu không có xe kiệu quần áo rực rỡ thì không đủ để trấn áp bọn thuộc lại. Vì thế mua thêm xe ngựa, lại sai bọn quỷ tốt khiêng kiệu kết hoa về đón người thiếp yêu, vừa sắp đặt xong thì nghi trượng từ Chân Định đã tới đón, kéo dài hơn một dặm, thấy suốt đường đi người ta tranh nhau đưa tiễn, vô cùng đắc ý.

Bỗng toán quân mở đường ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt, đang lúc ngờ sợ thì thấy quân kỵ mã đều xuống ngựa phủ phục cạnh đường, người bé khoảng một thước, ngựa nhỏ như con chồn. Toán quân trước xe kinh hãi nói "Quan Đế tới". Mỗ hoảng sợ xuống xe, cũng phủ phục dưới đất, từ xa nhìn thấy Đế quân đi với bốn năm kỵ sĩ buông lỏng dây cương chậm rãi đi tới, râu rậm trùm cả gò má, không giống như trong tranh người ta vẽ nhưng thần thái rất uy nghi dũng mãnh, mắt dài gần tới tai. Đế quân ngồi trên ngựa hỏi đây là quan nào, đám tùy tùng thưa là Thái thú Chân Định. Đế quân nói "Một chức quận thú nhỏ nhoi sao dám phô trương như thế". Mỗ nghe thấy sởn gai ốc co rúm người, nhìn lại mình thấy chỉ lớn bằng đứa nhỏ sáu bảy tuổi. Đế quân bảo đứng lên đi bộ theo ngựa, cạnh đường có ngôi đền, Đế quân vào ngồi quay mặt về hướng nam, sai lấy giấy bút đưa Mỗ bảo khai họ tên quê quán. Mỗ viết xong trình lên, Đế quân xem nổi giận nói "Viết chữ sai bét, nguệch ngoạc không ra chữ, là thằng cò mồi ngoài chợ làm sao coi việc dân!". Lại sai tra lại sổ ghi chép việc làm lúc sinh thời, một người bên cạnh quỳ xuống tâu bày, không rõ nói những gì. Đế quân lớn tiếng nói "Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, buôn quan bán tước là tội nặng". Lập tức thấy người ấy bị thần Kim giáp xích lại giải đi. Lại có hai người bắt Mỗ ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi tuột hết thịt ở mông đít rồi tống ra cổng.

Mỗ nhìn quanh thì xe ngựa đâu mất hết, đau quá không đi được, chỉ nằm thở dốc trong đám cỏ. Nhìn kỹ chỗ ấy thì cách nhà chưa xa lắm, may mà thân thể nhẹ như chiếc lá nên mất một ngày một đêm mới về được tới nhà, chợt tỉnh cơn mơ rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han, chỉ nói rằng bắp đùi đau lắm, té ra đã mê man như chết suốt bảy ngày, lúc ấy mới tỉnh lại. Lại hỏi sao A Lân không tới, đó là tên tự người thiếp. Trước đó A Lân đang ngồi trò chuyện, chợt nói "Ông ấy đã làm Thái thú Chân Định, sai lính về đón ta đấy", rồi vào phòng trang điểm thật đẹp, vừa xong thì chết, cũng mới trong đêm trước. Người nhà kể lại chuyện lạ xong, Mỗ hối hận đấm ngực sai để xác đó đừng chôn, mong rằng nàng tỉnh lại. Nhưng mấy ngày sau vẫn không thấy gì, đành đưa đi chôn cất. Bệnh Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại loét to ra, nửa năm mới dậy được, thường tự nhủ "Tiền mua chức quan đã hết sạch, lại còn bị hình phạt tai bay vạ gió dưới âm ty, bấy nhiêu còn chịu được, nhưng người thiếp yêu không biết đã đi đâu, những lúc khuya vắng mới là khốn khổ đây!"

Dị Sử thị nói: Than ôi, chuyện mua bán vốn không chỉ trong quan trường trên thế gian sao! Cõi âm đã có chuvện ấy, nếu ngựa của Đế quân không kịp tới, thì kẻ tác oai tác phúc đâu có bị trị tội! Nghe đồn tiên sinh Quách Hoa Dã ở hương ta cũng có một chuyện tương tự, cũng là thần trong đám người vậy. Tiên sinh nhờ trong sạch cứng cỏi được vua biết tới, mấy lần cất nhắc lên tới chức Tống chế Kinh Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), lên đường phó nhiệm hành lý sơ sài, chỉ có bốn năm người theo hầu, quần áo đều xoàng xĩnh, người đi đường không ai biết là bậc quan lớn.

Trên đường gặp viên Tri huyện đi nhậm chức cùng đi một đường, thấy có hơn hai mươi chiếc xe lớn, quân dẹp đường tới vài ngàn kỵ mã, quân tùy tùng cũng có hàng trăm người. Tiên sinh cũng không rõ là quan gì, cứ lúc đi trước, lúc theo sau, lúc lại mấy người cưỡi ngựa chen vào hàng ngũ của họ, bị quân tiền khu giận dữ quát tháo xua đuổi nhưng tiên sinh cũng không sợ hãi. Không bao lâu tới một trấn lớn, hai bên cùng ghé vào nghỉ chân, tiên sinh sai tùy tùng dò hỏi thì ra đó là một viên Giám sinh nộp tiền được làm quan đang tới Hồ Nam phó nhiệm.

Bèn sai một người qua tự giới thiệu, viên Tri huyện nghe xong vừa ngờ vừa sợ, đến khi hỏi lai lịch thì biết đúng là tiên sinh, run rẫy không biết làm sao, mặc áo đội mũ khúm núm tới gặp. Tiên sinh hỏi "Ngươi là Tri huyện huyện Mỗ phải không?", viên ấy thưa phải. Tiên sinh nói "Một huyện bé tí tẹo làm sao nuôi nổi bấy nhiêu quân tùy tùng? Ngươi mà tới nơi thì một vùng sẽ phải lầm than, không thể để dân khổ cực được thôi cứ về đi đừng tới phó nhiệm nữa". Viên Tri huyện dập đầu nói "Hạ quan còn có văn bằng bổ nhiệm", tiên sinh lập tức bảo đưa văn bằng lên, xem xong nói "Đây là chuyện vặt, ta có thể xin miễn nhiệm thay cho ngươi", viên Tri huyện đành lạy chào lui ra. Dọc đường y về người ta đều không hiểu vì sao, nhưng đó là do tiên sinh vậy. Trên đời có nhiều kẻ chưa làm quan đã được thăng chức, nghe rất chướng tai, nhưng tiên sinh là bậc kỳ nhân nên mới có được chuyện khoái ý như thế.

221. Nân Châm (Nân Châm)

Ngu Tiểu Tư người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn bán. Vợ là Hạ thị đi thăm cha mẹ trở về, thấy ngoài cửa có người đàn bà dắt đứa con gái nhỏ khóc lóc rất bi ai. Hạ hỏi thì gạt lệ trả lời, mới biết chồng bà ta tên Vương Tâm Trai, cũng là con cháu nhà quan, nhà sa sút không đủ ăn, nhờ người làng bảo chúng vay tiền nhà giàu họ Hoàng để tập đi buôn, giữa đường gặp cướp, tai bay vạ gió mất sạch cả tiền, may mà không chết. Về tới nhà, Hoàng qua đòi nợ, tính cả vốn lẫn lãi không dưới ba mươi lượng vàng, thật không sao trả nổi. Hoàng thấy con gái là Nân Châm xinh đẹp, định lấy làm thiếp, sai người bảo chứng tới đòi nợ rồi tỏ ý, nếu chịu sẽ tiếp tục cho thiếu, ngoài ra vẫn đúng giá cô gái mà trả tiền. Vương bàn với vợ, vợ khóc nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng vốn là dòng dõi trâm anh, kẻ kia là tiện dân mới giàu lên, sao dám cưới con gái ta làm thiếp? Vả lại Nân Châm vốn đã hứa gả rồi, chàng đâu thể làm chủ được nữa?".

Trước có Cử nhân họ Phó người cùng huyện chơi thân với Vương, sinh được một trai là A Mão, lúc còn bồng ẳm đã hứa làm thông gia với nhau. Sau Phó vào đất Mân (vùng Phúc Kiến) làm quan, hơn năm thì chết, vợ con không về được, tin tức qua lại thưa dần, nhưng vì cớ ấy nên Nân Châm mười lăm tuổi vẫn chưa lấy chồng. Nghe vợ nhắc lại chuyện ấy Vương không biết nói gì, chỉ tính cách làm sao trả nợ. Vợ nói "Bất đắc dĩ thì thiếp phải bàn với hai đứa em". Đại khái vợ Vương họ Phạm, ông nội từng làm quan trong kinh, hai cháu trai còn nhiều ruộng vườn. Hôm sau vợ Vương dắt con về nói với hai em trai, hai người mặc cho khóc lóc, không nói một lời an ủi giúp đỡ. Phạm gào khóc trở về, vừa lúc gặp Hạ hỏi han bèn vừa kể vừa khóc.

Hạ thương xót, nhìn tới cô gái thì thấy mặt mũi sáng sủa đáng yêu, càng thêm mủi lòng bèn mời vào nhà cho ăn uống, an ủi rằng "Hai mẹ con đừng lo, thiếp xin hết sức giúp đỡ". Phạm còn chưa kịp cám ơn, cô gái đã khóc lớn lạy phục xuống đất, Hạ càng thêm xót xa. Hạ ngẫm nghĩ rồi nói "Tuy nhà có chút của cải, nhưng ba mươi lượng vàng cũng không phải dễ, phải cầm bán mới có". Hai mẹ con lạy chào ra về, Hạ hẹn ba ngày sẽ có tiền. Chia tay xong tính toán đủ cách, cũng chưa dám nói với chồng, qua ba ngày cũng vẫn chưa đủ số, sai người qua hỏi mượn mẹ thì mẹ con Phạm đã tới, bèn kể thật rồi hẹn lại hôm sau. Tối mịt thì gia nhân đem tiền mẹ cho mượn về, Hạ dồn cả vào túi đặt dưới gối.

Đến khuya có tên trộm khoét vách theo ánh đèn mò vào, Hạ tỉnh giấc hé mắt nhìn, thấy một người tay cầm đoản đao, mặt mũi hung dữ sợ quá không dám kêu, cứ giả vờ ngủ say. Tên trộm tới gần cái rương, đã toan mở nắp nhưng nhìn thấy bên gối Hạ có cái túi bèn cầm lấy tới cạnh đèn mở ra xem, kế giắt vào lưng rồi không mở rương lục lọi nữa, bỏ đi luôn. Hạ bèn vùng dậy la lớn, trong nhà chỉ có một đứa tớ gái nhỏ đập vách láng giềng báo, láng giềng họp lại đuổi theo thì tên trộm đã chạy xa rồi. Hạ ngồi trước đèn sụt sùi khóc lóc không bao lâu đứa tớ gái thiếp đi, Hạ thắt dây vào song cửa sổ treo cổ tự tử. Đứa tớ gái tỉnh dậy trời đã sáng bạch, mới gọi người vào cởi dây thì thân thể đã lạnh ngắt. Ngu hay tin vội chạy về, hỏi đứa tớ gái mới biết sự tình, sợ hãi khóc lóc lo chôn cất mà thôi.

Lúc ấy mùa hè nhưng xác Hạ không cứng cũng không thối, qua hơn bảy ngày mới liệm. Chôn cất xong, Nân Châm lén ra khóc lóc cạnh mộ, chợt có cơn mưa rào đổ tới, sấm sét ầm ầm đánh xuống vỡ mộ, cô gái cũng bị chấn động chết luôn. Ngu hay tin vội tới xem thì quan tài đã bật nắp, vợ đang rên rĩ ở trong bèn bế ra, thấy xác cô gái không rõ là ai, Hạ nhìn kỹ mới biết, vô cùng kinh ngạc. Không bao lâu Phạm thị tới, thấy con gái đã chết gào khóc nói "Vốn đã ngờ là nó ở đây, quả đúng thế! Từ hôm nghe phu nhân tự tử, nó cứ kêu khóc suốt ngày đêm, đêm nay mới nói với ta là muốn ra thăm mộ, mà ta chưa cho". Hạ cảm vì nghĩa bèn nói với chồng, bèn lấy quan tài chôn mình để chôn cất cô gái, Phạm lạy tạ. Ngu cõng vợ về. Phạm cũng về kể với chồng.

Chợt nghe nói phía bắc thôn có một người bị sét đánh chết giữa đường, trên xác có hàng chữ "Thằng giặc trộm tiền của Hạ thị", kế nghe láng giềng có tiếng đàn bà khóc, mới biết người chết là chồng chị ta, tên Mã Đại. Người trong thôn lên báo quan, quan sai bắt người đàn bà lên hỏi cung, thì ra Phạm thấy Hạ vay tiền giúp mình cứu con gái nên cảm động khóc lóc kể cho người ta nghe, Mã Đại là kẻ cờ bạc vô lại nghe thấy nổi dạ bất lương. Quan bèn sai giải người đàn bà về nhà lục soát, chỉ còn hai mươi lượng, lại tìm trên xác Mã Đại được bốn lượng nữa, quan phán bán người đàn bà đi bù vào chỗ thiếu trả cho Ngu. Hạ càng mừng rỡ, đưa hết số tiền cho Phạm trả nợ. Chôn cô gái được ba ngày, đêm đến mưa gió sấm sét lại nổi lên đánh vỡ mộ, cô gái cũng sống lại nhưng không chạy về nhà mà tới gõ cửa nhà Hạ thị, đại khái vì nhận ra ngôi mộ, ngờ là Hạ đã sống lại. Hạ nghe tiếng gọi hoảng sợ vùng dậy, cách cánh cửa hỏi vọng ra, cô gái nói "Phu nhân quả nhiên đã sống lại rồi, con là Nân Châm đây".

Hạ sợ cho rằng là ma, gọi người đàn bà láng giềng cùng ra hỏi han, đến khi biết là nàng sống lại, mừng rỡ mở cửa đưa vào nhà. Cô gái nói xin theo hầu hạ phu nhân, Hạ nói "Như thế là nói ta mất tiền để mua tớ gái sao? Chôn ngươi rồi thì nợ cũng đã trả xong, đừng ngờ vực gì!". Cô gái càng cảm động khóc lóc, xin thờ như mẹ, Hạ chưa ưng thuận, nàng lại nói "Con biết làm lụng, cũng không đến nỗi ngồi ăn không đâu". Sáng ra báo cho Phạm thị biết, Phạm mừng rỡ vội tới, cũng chiều lòng con gái, lập tức gởi gắm luôn cho Hạ. Phạm đi rồi, Hạ ép đưa cô gái về nhà, cô gái cứ khóc lóc nhớ Hạ. Vương Tâm Trai bèn đích thân dắt nàng tới đưa vào cổng rồi về. Hạ nhìn thấy kinh ngạc hỏi han mới biết nguyên do, bèn mới để nàng ở lại. Ngu vừa tới, cô gái vội quỳ lạy, gọi là cha. Ngu vốn không có con, thấy cô gái dịu dàng khiến người ta thương xót, cũng rất vui mừng. Cô gái học kéo sợi vá may, không nề vất vả. Hạ ốm mấy lần suýt chết, nàng sớm tối hầu hạ, Hạ không ăn cũng không ăn, trên mặt lúc nào cũng có ngấn lệ, thường nói với người ta rằng "Mẹ mà có bề gì thì ta thề không sống nữa", Hạ hơi đỡ mới thấy nàng cười. Đến khi Hạ khỏi bệnh, nghe kể lại rơi nước mắt nói "Ta bốn mươi tuổi mà chưa có con, chỉ cần sinh được một đứa con gái như Nân Châm là đủ". Hạ từ trẻ không sinh nở, nhưng qua năm sau chợt sinh được một con trai, người ta cho là ở hiền gặp lành.

Được hai năm cô gái càng lớn, Ngu bàn với Vương là không thể giữ lời hứa cũ mãi. Vương nói "Con gái ở nhà ông, việc gả chồng là tùy ý ông". Cô gái đã mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song, nên lời ấy truyền ra thì những kẻ dạm hỏi nối gót nhau tới cổng, song vợ chồng chỉ trả lời qua quít. Nhà giàu họ Hoàng cũng sai người mối tới, nhưng Ngu ghét giàu mà bất nhân nên ra sức chối từ mà chọn họ Phùng. Phùng là học trò giỏi trong quận, cũng thông minh giỏi văn chương, Ngu báo với Vương thì Vương đi buôn chưa về, bèn cứ ưng thuận. Hoàng vì Ngu từ chối cũng giả đi buôn, tìm tới chỗ Vương trọ bày tiệc mời mọc, lại giúp tiền bạc làm vốn, dần dần quen thuộc thân mật mới nói con trai mình thông minh lanh lợi, xin hỏi cưới Nân Châm, Vương cảm động vì ân cần lại hâm mộ vì giàu có, bèn hẹn ước với nhau. Trở về tới nói với Ngu, thì hôm trước Ngu vừa nhận thư đính ước của họ Phùng, nghe lời Vương nói rất không thích, gọi cô gái ra kể lại mọi việc. Cô gái bực tức nói "Chủ nợ ấy là kẻ thù, bắt con lấy kẻ thù, thì chỉ còn một cách chết thôi" Vương tái mặt, nhờ người nói lại với Hoàng là đã hứa gả con gái cho họ Phùng, Hoàng tức giận nói "Cô kia họ Vương chứ không phải họ Ngu, ta đính ước trước họ Phùng, sao lại bội ước". Bèn đâm đơn kiện lên quan huyện, quan huyện có ý muốn xử cho người đính ước trước, bắt gả cô gái cho Hoàng. Phùng nói "Họ Vương đã gởi gắm con cho ông Ngu, lại nói không dự bàn chuyện cưới gả nữa, vả lại ta đã có thư đính ước còn họ Hoàng chẳng qua chỉ là hẹn ước bên chén rượu mà thôi". Quan huyện đổi ý, phán cho tùy ý cô gái.

Hoàng về đem tiền đút lót xin quan xử cho mình được, vì thế hơn một tháng không xử xong. Một hôm có viên Cử nhân lên kinh, đi ngang Đông Xương sai người hỏi thăm Vương Tâm Trai, tới hỏi đúng Ngu, Ngu hỏi lại thì viên Cử nhân ấy họ Phó, tức là A Mão vậy. Sau khi nhập tịch ở Phúc Kiến, mười tám tuổi thi đỗ Cử nhân, vì đã có đính ước trước đây nên chưa cưới vợ, mẹ dặn tiện đường ghé thăm Vương xem cô gái đã lấy chồng chưa. Ngu cả mừng, mời Phó tới nhà kể hết những chuyện đã qua, nhưng vì cưới gả ngoài ngàn dặm nên sợ không có gì làm bằng. Phó bèn lấy ra tờ đính ước hôn nhân của Vương ngày trước, Ngu mời Vương tới xem lại quả đúng, tất cả cùng mừng rỡ. Hôm ấy chính là ngày xét xử lại, Phó đưa danh thiếp ra mắt quan huyện, vụ kiện mới thôi. Phó hẹn ngày làm lễ cưới rồi đi. Thi hội xong, Phó mua lễ vật quay về, ở trong nhà cũ làm lễ rước dâu xong thì có tin thi đỗ Tiến sĩ từ Phúc Kiến đưa tới té ra Phó lại đỗ luôn kỳ thi hội. Bèn vào kinh nhận chức trở về cô gái không muốn xuống nam, Phó cũng vì nhà cửa mồ mả ông bà còn đó bèn một mình trở về Phúc Kiến bốc mộ cha rồi đón mẹ cùng về. Vài năm sau Ngu chết, con trai mới có bảy tám tuổi, cô gái chăm sóc còn hơn em ruột, cho đi học, thi đỗ vào trường huyện rất sớm, nhà nổi tiếng giàu có, đều là nhờ Phó cả.

Dị Sử thị nói: Trong đám thần long cũng có bậc hiệp khách ư? Trừng trị kẻ ác làm rõ điều thiện, cứu người giết người đều bằng sấm sét, đó là điệu múa Tiền Đường phá trận* vậy. Ầm ầm giáng xuống mấy lần, đều vì một người, biết đâu Nân Châm lại chẳng phải là Long nữ bị đày xuống trần?

*Tiền Đường phá trận: xem Truyện Long nữ sau truyện Chúc Thành, quyển III.

222. Hoàn Hầu (Hoàn Hầu)

Bành Hiếu Sĩ ở Kinh Châu (tỉnh Hồ Nam) uống rượu nơi khác về nhà, dọc đường xuống ngựa đi tiểu. Con ngựa cúi xuống ngoạm cỏ bên đường, có một bụi cỏ nhỏ xanh tốt rất đáng yêu vừa trổ hoa vàng rực rỡ chói mắt, con ngựa ăn mất quá nửa. Bành nhổ chỗ còn lại ngửi thấy có mùi hương lạ bèn cất vào túi lại lên ngựa đi tiếp, thấy ngựa phi như bay thích chí cũng không tính đường về, cứ để mặc cho nó chạy. Chợt thấy mặt trời lặn xuống sau núi mới kéo cương nhìn quanh thì thấy núi non chập chùng, không biết là chỗ nào. Chợt có một người áo xanh tới, thấy con ngựa đang hí vang, bèn nắm dây cương nói "Trời đã xế rồi, chủ ta mời ông ghé lại". Bành hỏi đây là nơi nào, người ấy đáp "Là đất Lãng Trung (tỉnh Tứ Xuyên)". Bành cả sợ té ra trong nửa ngày đã đi hơn ngàn dặm, nhân hỏi chủ nhân là ai, người kia đáp "Tới nơi sẽ biết". Lại hỏi nhà ở đâu, đáp cũng gần đây thôi, rồi dắt ngựa kéo đi mau.

Bành thấy người ngựa cùng như bay, qua một rặng núi thì có nhà cửa phòng ốc trùng điệp ở lưng chừng núi che khuất lẫn nhau. Từ xa nhìn thấy một đám người áo mũ chỉnh tề như đang chờ ai, Bành tới nơi xuống ngựa thì họ đều vái chào rất cung kính. Kế chủ nhân bước ra, khí thế oai mãnh, y phục đều khác người trần, chắp tay nhìn khách nói "Khách hôm nay không có ai xa như Bành quân", rồi vái chào mời Bành đi trước. Bành từ tạ không chịu bước lên, chủ nhân bèn nắm tay kéo đi, Bành thấy tay như bị cùm siết chặt, đau như sắp gãy, không dám tranh cãi nữa bèn đi. Những người còn lại bèn nhường nhau đi trước, chủ nhân đẩy người này kéo người kia, khách đều xuýt xoa rên rĩ muốn quỵ xuống như không chịu nổi, cùng theo lời chủ nhân vào. Tới sảnh đường thấy trần thiết hoa lệ, cứ hai người vào ngồi một bàn. Bành hỏi nhỏ người ngồi với mình rằng chủ nhân là ai, đáp là Hoàn hầu*, kinh ngạc không dám ho hắng, mọi người cũng đều ngồi im.

*Hoàn hầu: tức Trương Phi, tướng và là em kết nghĩa của Thục chủ Lưu Bị thời Tam quốc, nổi tiếng dũng mãnh, trấn thủ Lãng Trung, bị bộ tướng làm phản ám sát, thụy là Hoàn hầu.

Rượu được vài tuần, Hoàn hầu nói "Hàng năm cứ quấy quả các vị, nên có tiệc mọn để tỏ lòng. Lại được khách từ xa tới, có thể nói là hạnh ngộ, ta muốn xin một vật, nếu thương thì cho, không thì không dám ép". Bành đứng dậy hỏi vật gì, chủ nhân đáp "Con ngựa của ông đã có tiên cốt, không phải người trần cuỡi được , xin đổi con khác cho ông, có được không?". Bành đáp "Xin kính cẩn dâng lên, không dám đánh đổi", Hoàn hầu nói "Ta sẽ đền một con ngựa thật tốt, lại tặng thêm vạn lượng vàng". Bành rời ghế lạy tạ, Hoàn hầu sai kéo đứng lên. Giây lát rượu thịt bày ra la liệt, mặt trời lặn lại sai thắp đèn uống tiếp. Mọi người đều đứng dậy xin thôi, Bành cũng xin cáo từ. Hoàn hầu hỏi "Ông từ xa tới, tối nay về đâu?". Bành nhìn người ngồi cùng bàn với mình nói "Đã xin ông đây cho ngủ nhờ tối nay". Hoàn hầu bèn sai lấy chén lớn rót rượu tiễn khách, nói với Bành rằng "Bụi cỏ mà ông cất, tươi thì có thể giúp người ta thành tiên, khô thì có thể dùng để điểm kim, bảy cọng là được một vạn lượng vàng". Rồi lập tức sai tiểu đồng chỉ cách cho Bành, Bành lại lạy tạ. Hoàn hầu nói "Ngày mai xin ra chợ tới chỗ bán ngựa tùy ý lựa lấy một con, không cần phải trả giá đưa tiền, ta sẽ tính cho". Lại nói với mọi người rằng "Ông khách ở xa, lúc trở về nên giúp đỡ ít nhiều tiền đi đường", mọi người vâng dạ, cạn chén rồi cáo biệt.

Trên đường Bành hỏi họ tên thì người ngồi cùng bàn với mình tên Lưu Tử Vựng, cùng đi hai ba dặm, qua rặng núi thì thấy thôn xóm, mọi người cùng đưa Bành về nhà Lưu rồi kể cho nghe chuyện lạ. Vốn là trong làng hàng năm có tế Hoàn hầu trong miếu, giết bò múa hát để cúng đã thành lệ. Lưu là người chủ tế, vừa cúng xong ba hôm trước, trưa nay chợt có người tới từng nhà mời mọi người vào núi, hỏi ai mời thì đều trả lời qua quít nhưng hối thúc rất gấp. Qua khỏi rặng núi thấy lầu gác, mọi người nhìn nhau kinh ngạc, sắp tới cổng người kia mới nói thật, mọi người cũng không ai dám từ chối lui về. Người đi mời nói "Xin cứ họp lại ở đây chờ ta đi mời một người khách xa", tức là Bành vậy. Bành nghe kể rất lấy làm lạ lùng. Trong bọn có người bị Hoàn hầu nắm tay đau quá sợ gãy xương, cởi áo thắp đèn lên nhìn thì thấy da thịt bầm tím, Bành nhìn lại mình cũng thấy thế. Mọi người ra về, Lưu liền mang chăn chiếu ra ngủ chung với Bành.

Sáng hôm sau trong làng tranh nhau mời cơm, lại theo Bành vào chợ tìm ngựa, hơn mười ngày chọn qua mấy mươi con mà không có ngựa hay, Bành cũng quyết ý tìm bằng được. Hôm sau lại vào chợ, thấy có một con dáng vẻ rất khỏe mạnh, cưỡi thử thấy đúng là tuấn mã bèn trở vào làng đợi người bán nhưng trở lại thì đã bỏ đi mất. Bành bèn từ biệt người làng trở về, mọi người đều mang tiền tới tiễn tặng, ngựa đi một ngày được gần năm trăm dặm, Bành về tới nhà kể lại chuyện, mọi người đều không tin, đến khi Bành lấy những sản vật ở đất Thục (vùng Tứ Xuyên) ra cho xem mới cùng ngạc nhiên kinh sợ. Mớ cỏ lâu ngày khô dần, còn được bảy cọng, Bành theo cách đã được chỉ dẫn làm phép điểm kim, trong nhà vụt giàu hẳn lên. Bèn tìm tới nơi ấy vào miếu Hoàn hầu cúng tế tạ ơn, chơi với người làng ba ngày rồi về.

Dị Sử thị nói: Xem Hoàn hầu mời khách mới tin rằng việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình* là có thật. Nhưng chủ nhân kính khách, tỏ tình thân ái mà khiến người ta như bị gãy tay thì có thể biết năm xưa khỏe mạnh tới mức nào.

Ngô Mộc Hân kể có Lý sinh môi không che kín miệng, răng vẩu chìa ra ngoài cả đốt ngón tay. Một hôm tới dự tiệc ở nhà nọ, có hai người khách nhường nhau chỗ trên chỗ dưới đến khổ, một người cứ ra sức đẩy lên, một người cứ hết sức trằn lại, dùng sức mạnh quá vung khuỷu tay ra, đúng lúc Lý đứng phía sau bị khuỷu tay thúc trúng miệng rơi luôn hai chiếc răng cửa, máu tuôn như suối. Mọi người ngạc nhiên, hai người kia mới thôi không tranh cãi nữa. Chuyện ấy cũng buồn cười như chuyện Hoàn hầu nắm tay làm khách muốn gãy xương vậy.

*Việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình: Chư tiên ký chép năm Thủy Hoàng thứ 2 thần núi Vũ Di là Vũ Di quân mời dân làng tới ăn tiệc vào ngày rằm tháng tám trên đỉnh núi, kết lán giăng màn rực rỡ, người ta nhân thế gọi đất ấy là Mạn Đình.

223. Phấn Điệp (Phấn Điệp)

Dương Viết Đán là học trò đất Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông). Tình cờ qua quận khác về nhà, đi thuyền qua biển gặp bão, thuyền sắp đắm, chợt có chiếc thuyền không giạt tới vội nhảy qua, nhìn lại thì những người cùng thuyền đều đã chìm cả. Bão càng mạnh, sinh đành nhắm mắt phó mặc cho gió thổi, không bao lâu trời lặng, mở mắt ra nhìn chợt thấy một hòn đảo nhà cửa san sát, liền chèo vào bờ, đi thẳng tới cổng làng. Thấy trong làng yên ắng, ngồi đó hồi lâu mà không nghe một tiếng gà kêu chó sủa. Thấy có một cánh cổng quay về hướng bắc, tùng trúc hun hút, lúc ấy đang đầu mùa đông, thấy trong tường có gốc cây không biết tên gì mà hoa nở dày đặc, trong lòng thích lắm, lân la lần vào.

Chợt nghe tiếng đàn cầm văng vẳng bèn dừng bước, có người tỳ nữ từ trong bước ra, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, phong tư tiêu sái, dung mạo xinh đẹp, vừa thấy Dương vội quay ngay vào. Kế nghe tiếng đàn ngừng lại, kế có một thiếu niên bước ra ngạc nhiên hỏi khách từ đâu tới, Dương kể lại sự tình. Thiếu niên lại hỏi họ tên quê quán, Dương cũng đáp rõ, thiếu niên mừng rỡ nói "Hóa ra là họ hàng bên vợ ta", liền vái chào mời vào, thấy nhà trần thiết rất tinh khiết đẹp đẽ, lại nghe tiếng đàn, vào tới trong phòng thấy một thiếu phụ ngồi trên cao gảy đàn, tuổi khoảng mười tám mười chín, phong tư lộng lẫy, thấy khách vào buông đàn định đi. Thiếu niên ngăn lại nói "Đừng đi, đây là họ hàng bên nàng đấy!", rồi kể lại lời sinh. Thiếu phụ nói "Thì ra là cháu ta!", kế hỏi bà nội có khỏe không, cha mẹ bao nhiêu tuổi rồi. Dương đáp "Cha mẹ cháu đều hơn bốn mươi, vẫn còn khỏe mạnh, bà nội thì đã sáu mươi, bệnh nặng đã lâu, đi đâu cũng phải có người dìu. Cháu thật không biết cô là thế nào trong gia đình, xin cho biết rõ để về kể lại". Thiếu phụ nói "Đường xa diệu vợi, không được tin tức lâu rồi, về cứ nói vơi cha là cô Thập Nương hỏi thăm, cha cháu sẽ biết". Dương hỏi dượng họ gì, thiếu niên đáp "Ta họ Ân tên Hải Dự. Nơi đây có tên là đảo Thần Tiên, cách Quỳnh Châu ba ngàn dặm, ta tới ngụ ở đây cũng chưa lâu lắm".

Thập Nương vào trong sai tỳ nữ làm cơm đãi khách, thấy rau cỏ tươi ngon, cũng không biết tên gọi là gì. Ăn xong dẫn ra ngắm cảnh, thấy đào mận trong vườn vừa có nụ, Dương lấy làm lạ. Ân nói "Ở đây mùa hè không quá nóng, mùa đông không quá lạnh nên lúc nào cũng có hoa nở". Dương mừng nói "Như thế quả là cõi tiên, cháu về sẽ nói với cha mẹ dời nhà tới đây ở với cô dượng", Ân chỉ mỉm cười. Trở vào phòng sách thắp đèn lên, Dương thấy chiếc đàn cầm đặt ngang trên bàn, xin được nghe một khúc. Ân bèn vặn phím so dây, Thập Nương từ trong ra, Ân nói "Lại đây! Lại đây! Nàng gảy cho cháu nó nghe đi". Thập Nương liền ngồi xuống hỏi "Cháu muốn nghe khúc nào?". Dương đáp "Cháu chưa từng học đàn, nên thật không biết khúc nào cả". Thập Nương nói "Cháu cứ tùy ý ra đề, ta đều có thể gảy thành điệu".

Dương cười hỏi "Thế gió biển xô thuyền, có thể gảy thành một khúc được không?". Thập Nương đáp "Được!", rồi búng dây như gảy theo bản đàn có sẵn, tình ý lên xuống theo khúc điệu, Dương ngưng thần lắng nghe, thấy mình như đang trong thuyền, bị gió bảo xô đẩy lôi kéo. Dương khâm phục sợ hãi, hỏi có học được không, Thập Nương đưa đàn sai gảy thử rồi nói "Có thể dạy được, vậy cháu muốn học gì?", Dương nói "Bản Gió bão cô vừa gảy không biết học mấy ngày thì xong? Xin cho chép lại để học thuộc trước". Thập Nương nói "Bản đàn ấy không có văn tự, ta chỉ lấy ý mà phổ thành khúc điệu thôi". Rồi lấy ra một chiếc đàn khác, chỉ các thế tay bấm phím búng dây bảo Dương tập theo. Dương tập đến hơn canh một thì âm thanh tiết tấu đã hơi thành khúc điệu, vợ chồng Thập Nương mới đi nghỉ.

Dương ngưng thần chăm chú một mình tập gảy trước đèn, hồi lâu chợt hiểu thấu chỗ ảo diệu, bất giác vùng dậy múa may. Chợt ngẩng lên thấy người tỳ nữ đang đứng trước đèn, giật mình hỏi "Nàng vẫn chưa đi nghỉ sao?", nàng cười đáp "Cô Mười sai chờ chàng đi nghỉ rồi thì đóng cửa tắt đèn". Nhìn kỹ thấy nàng mắt tựa hồ thu, thần thái say người, Dương động lòng khẽ khêu gợi, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười. Dương càng say mê, đứng vụt dậy ôm chầm lấy, nàng ngăn lại nói "Đừng làm thế. Đã qua canh tư chủ nhân sắp dậy rồi. Nếu có lòng với nhau, đêm mai cũng chưa muộn". Đang lúc ôm ấp nhau chợt nghe Ân gọi Phấn Điệp, nàng biến sắc nói "Chết rồi" rồi vội vàng chạy đi. Dương lén vào nghe ngóng, thấy Ân nói "Ta đã nói đứa tỳ nữ này chưa dứt lòng trần, mà mình cứ nhất định thu nhận, nay thì sao nào? Phải đánh nó ba trăm roi". Thập Nương nói "Cái ý ấy đã nảy sinh thì không thể dùng được nữa, chẳng bằng cho luôn thằng cháu ta cho xong". Dương vô cùng thẹn thùng sợ sệt, trở lại phòng tắt đèn đi ngủ.

Sáng ra có đứa tiểu đồng mang nước rửa mặt tới chứ không thấy Phấn Điệp đâu, trong lòng nơm nớp lo bị quở trách. Lát sau Ân và Thập Nương cùng tới, thái độ bình thường như không có chuyện gì, chỉ khảo khúc đàn mới tập. Dương gảy lại một lượt, Thập Nương nói "Tuy chưa đạt tới chỗ thần diệu nhưng mười phần đã được chín, cố tập cho thành thục thì hay". Dương lại xin dạy khúc khác, Ân dạy cho khúc Thiên nữ trích giáng, thủ thức mới lạ khó khăn, tập mất ba ngày mới gảy rõ tiếng. Ân nói "Những cái khó thế là đã học qua hết. từ nay về sau chỉ cần tập cho thành thực thôi. Nếu thuộc được hai khúc này thì trong nghề đàn không còn khúc nào là khó nữa". Dương nhớ nhà quá, nói với Thập Nương "Cháu ở đây được cô chăm sóc dạy dỗ rất vui, nhưng vẫn canh cánh nhớ nhà, có điều đường xa ba ngàn dặm không biết ngày nào mới về tới được". Thập Nương nói "Chuyện đó không khó. Thuyền cũ còn đó, chỉ cần giúp cháu một cơn gió đưa buồm về. Cháu không có gia thất, ta đã cho Phấn Điệp rồi". Rồi lấy chiếc đàn tặng cho, lại trao cho thuốc, dặn "Về đưa bà nội uống, không những khỏi bệnh mà còn kéo dài được tuổi thọ". Kế tiễn Dương ra bờ biển lên thuyền, Dương tìm mái chèo, Thập Nương nói "Không cần đâu!", rồi cởi xiêm làm buồm, căng lên cho Dương. Dương lo lạc đường, Thập Nương nói "Đừng lo, cứ để cánh buồm đưa đi". Căng buồm xong, đẩy thuyền ra, Dương buồn rầu đang định bái biệt thì gió nam thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ rồi.

Nhìn lại thuyền thấy đã sẵn lương khô nhưng chỉ đủ ăn một ngày, thầm oán trách cô bủn xỉn, đói bụng mà không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Nhưng cắn một cái bánh thì thấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái cẩn thận cất lại thì cũng không thấy đói nữa. Chợt thấy mặt trời sắp lặn, đang hối là lúc lên đường không hỏi lấy đèn đuốc thì trong chớp mắt đã thấy khói cơm chiều xa xa, nhìn kỹ lại thì đã tới Quỳnh Châu. Dương mừng quá chèo vào bờ, tháo tấm xiêm làm buồm, ôm bọc bánh về nhà. Vào tới cổng, cả nhà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, té ra đã xa nhà mười sáu năm, lúc ấy Dương mới biết mình đã gặp tiên. Vào thăm bà nội thấy già yếu bệnh tật hơn trước, bèn lấy ra đưa bà uống, chứng bệnh lâu ngày lập tức tiêu tan. Mọi người đều lạ lùng, Dương kể lại chuyện mình đã gặp, bà nội rơi nước mắt nói "Đó là cô ruột cháu đấy!".

Xưa bà có người con gái út tên Thập Nương, vừa sinh ra đã có phong tư thần tiên, hứa gả cho họ Ân nhưng con rể năm mười tuổi vào núi không trở về. Thập Nương chờ đến năm hơn hai mươi tuổi thì chợt không bệnh mà chết, chôn cất đã hơn ba mươi năm. Mọi người nghe Dương kể chuyện xong đều ngờ là Thập Nương chưa chết. Dương đưa tấm xiêm ra thì đúng là vật trước đây cô vẫn mặc ở nhà. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một cái thôi thì cả ngày không thấy đói, mà tinh thần còn phấn chấn hẳn lên. Bà nội sai đào mộ Thập Nương lên xem thì chỉ có chiếc quan tài không. Trước kia Dương đã dạm hỏi cô gái họ Ngô mà chưa cưới, nhưng mấy năm không về nàng ấy đã lấy người khác. Lúc ấy Dương mới tin lời Thập Nương, chờ Phấn Điệp tới nhưng hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, mới bàn tìm cưới người khác. Tú tài họ Tiền ở huyện Lâm có con gái tên Hà Sinh xinh đẹp nổi tiếng xa gần, mười sáu tuổi chưa lấy chồng vì ba người vừa dạm hỏi chưa cưới đã chết. Dương bèn nhờ mai mối định hôn, chọn ngày tốt cưới về. Nàng vào cổng rồi, thấy xinh đẹp tuyệt thế, nhìn kỹ thì là Phấn Điệp. Dương kinh ngạc hỏi chuyện cũ, nàng quên sạch không biết gì cả, thì ra khi bị đuổi cũng là lúc nàng đầu thai xuống trần. Cứ những lúc Dương đàn khúc Thiên nữ trích giáng cho nghe thì nàng liền chống má trầm tư như có chỗ hiểu được vậy.

224. Cẩm Sắt (Cẩm Sắt)

Vương sinh ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) mồ côi từ nhỏ, nhà nghèo nhưng phong tư đẹp đẽ, quần áo tươm tất hơn người. Có nhà giàu họ Lan gặp Vương thích lắm, gả con gái cho, hứa sẽ xây nhà mua ruộng cho làm sản nghíệp. Cưới không bao lâu thì ông Lan chết, anh em vợ đều khinh thường sinh, vợ thì càng lên mặt, coi chồng như đầy tớ. Thường một mình ăn uống ngon lành, sinh tới thì đem cơm hẩm rau già, đũa tre chén đất bày ra trước mặt, nhưng sinh đều nhịn nhục. Năm mười chín tuổi sinh đi thi khoa Đồng tử bị đánh rớt, từ quận về nhà gặp lúc vợ không có trong phòng, thấy trong nồi có miếng thăn dê ninh chín múc định ăn, vợ bước vào không nói câu nào, bưng luôn nồi thịt cất đi. Sinh xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói "Thế này thì thà chết còn hơn". Vợ tức tối hỏi chừng nào chết, rồi đưa cho sợi dây nói cầm lấy mà treo cổ. Sinh uất ức, đập tô canh vỡ trán vợ, căm hờn bỏ ra, tự nghĩ đúng là thà chết còn hơn bèn đem theo dây lưng vào chỗ khe sâu trong núi.

Tới dưới một gốc cây lớn, đang chọn cành thắt thòng lọng chợt thấy trên gò đất thấp thoáng bóng xiêm đàn bà. Chớp mắt có một người tỳ nữ bước ra, nhìn thấy sinh vội quay ngay lại như cái bóng mất hút, trên vách đất cũng không có dấu vết gì. Sinh biết là yêu quái nhưng đang muốn chết nên không hề sợ hãi, bèn bỏ sợi dây đấy ngồi rình xem. Giây lát lại có ra nửa khuôn mặt lộ ra, vừa thoáng thấy đã rút trở vào, sinh nghĩ là ma quỷ, theo nó ắt tìm được cái chết sung sướng, liền vớ hòn đá đập vào vách đất, kêu "Ai dưới đất đấy, chỉ đường cho với, ta không cần vui mà muốn chết thôi". Hồi lâu không nghe thấy gì, sinh lại kêu nữa thì nghe bên trong đáp "Người muốn chết xin cứ tạm lui, tối hãy tới!", âm thanh trong trẻo rõ ràng nhưng nhỏ như tiếng muỗi vo ve. Sinh nói "Vâng" rồi ngồi chờ tối.

Không bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi chợt biến thành tòa phủ đệ to lớn, hai cánh cổng khẽ mở ra, sinh theo bậc thềm bước vào. Vừa được vài bước thấy có dòng nước chảy ngang, khói bốc nghi ngút như suối nước nóng, nhúng tay xem thử thấy nóng như sôi, cũng không biết sâu bao nhiêu. Sinh ngờ đây là chỗ chết mà quỷ thần chỉ cho, liền nhảy ào xuống, nước nóng thấm qua mấy lần áo, da thịt rát bỏng nhưng may mà cứ nổi không chìm, ngoi ngóp một hồi thì quen dần với cái nóng, cố vùng vẫy mới lên được bờ bên kia, toàn thân cũng may không rộp lên. Lại đi tiếp, nhìn thấy dưới mái nhà xa xa có ánh đèn, rảo bước tới thì có con chó dữ xồ ra cắn áo xé vớ. Sinh nhặt đá ném, con chó hơi lùi, nhưng cả bầy chó lại đổ ra sủa ầm lên, con nào cũng to bằng con nghé.

Đang lúc nguy cấp thì người tỳ nữ bước ra quát đuổi lũ chó rồi nói "Anh chàng muốn chết tới đó phải không? Nương tử nhà ta thương chàng khốn đốn, sai thiếp đưa chàng tới "ổ yên vui", từ đây không còn tai họa gì nữa". Rồi khêu đèn dẫn đường, mở cổng sau im lặng đi, tới một căn nhà thì giơ đèn lên soi vào cửa sổ nói "Chàng cứ vào nhé, thiếp đi đây!". Sinh vào nhìn quanh thì ra đã trở lại nhà mình, quay ngay ra thì gặp bà già vẫn hầu hạ vợ, bà ta nói "Cả ngày tìm kiếm, lại còn đi đâu?", rồi kéo sinh trở vào. Vợ buộc khăn chỗ bị thương xuống giường ra đón, cười nói "Làm vợ chồng hơn năm, đùa giỡn mà không biết sao, thiếp biết lỗi rồi. Chàng bị trêu chơi mà thiếp bị thương thật, thôi cũng đủ hả giận rồi mà", rồi lấy ở đầu giường ra hai nén vàng lớn đặt vào lòng sinh nói "Từ nay về sau cái ăn cái mặc xin theo ý chàng, vậy được chưa?". Sinh không đáp, ném vàng lại xô cửa bỏ đi, định vào khe núi tới gõ cửa tòa phủ đệ.

Ra tới ngoài đồng thì thấy người tỳ nữ đi chậm rãi, ánh đèn vẫn còn thấp thoáng xa xa. Sinh vội chạy theo gọi, ánh đèn bèn dừng lại, chạy tới thì người tỳ nữ nói "Chàng lại tới đây thì thật phụ nỗi khổ tâm của nương tử". Sinh đáp "Ta muốn chết chứ không nhờ nàng giúp cho sống lại. Nương tử nhà cao cửa rộng, dưới đất chắc cũng cần người, ta xin theo phục dịch, chứ thật tình không còn thấy sống là vui nữa". Người tỳ nữ nói "Chết vui cũng không bằng sống khổ, sao chàng nghĩ trái như vậy. Nhà bọn ta không có việc gì khác, chỉ có đào sông hốt phân, nuôi chó chôn xác, mà làm sai thì bị khoét mũi cắt tai, chặt chân cắt gót, chàng làm được không?", sinh đáp "Làm được!". Kế lại vào qua cổng sau, sinh hỏi "Ta phải làm việc gì? Nàng vừa nói chôn xác, ở đâu mà có nhiều người chết như thế?". Người tỳ nữ đáp "Nương tử từ bi, lập ra vườn Cấp Cô*, gom nuôi các hồn ma chết bất đắc kỳ tử không nhà dưới âm ty, kể có hàng ngàn, ngày nào có người chết là phải đi chôn xác, xin mời xem qua một lần".

*vườn Cấp Cô: Kinh Kim cương chép nước Xá Vệ có một trưởng giả tên Tu Đạt Noa thường bố thí cho kẻ nghèo khổ bệnh tật cô độc, về sau xây vườn mời đức Phật thuyết pháp, người ta gọi là vườn Cấp Cô. Đây chỉ nơi trường sở làm việc từ thiện.

Giây lát tới một cánh cổng đề chữ "Cấp Cô viên", vào trong thấy nhà cửa ngang dọc chen lẫn, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Ma quỷ trong vườn thấy đèn xúm cả lại, đều đứt đầu cụt chân trông rất thê thảm. Quay ra định đi thì thấy có cái xác nằm ngang dưới tường, máu thịt bê bết, người tỳ nữ nói "Mới nửa ngày chưa kịp chôn mà đã bị chó xé nát rồi", rồi sai sinh chuyển đi. Sinh có vẻ ngần ngại, nàng nói "Nếu chàng không làm được thì xin mời cứ về chỗ yên vui vậy!". Sinh bất đắc dĩ phải vác xác đưa vào chỗ kín, rồi nhờ người tỳ nữ cố xin cho mình may ra khỏi phải làm công việc nhơ bẩn ấy, nàng bằng lòng. Đi tới gần một căn nhà, nàng nói "Cứ ngồi tạm ở đây để thiếp vào thưa, việc nuôi chó thì nhẹ nhàng hơn, có thể xin cho để chuộc lỗi vừa rồi".

Vào trong giây lát thì đi nhanh ra nói "Vào đây vào đây nương tử ra đấy!". Sinh theo vào sảnh đường, thấy đèn lồng treo khắp bốn bên, có một cô gái ngồi gần phía trong cùng, khoảng hai mươi tuổi, phong thái như thiên tiên. Sinh lạy rạp dưới thềm, nàng lập tức sai kéo đứng lên, nói "Đây là một người học trò, làm sao nuôi chó nổi, có thể cho ở nhà phía tây trông coi sổ sách". Sinh mừng rỡ lạy tạ, cô gái nói "Người có vẻ thành thật chất phác, hãy làm việc cẩn thận. Nếu có sai phạm thì tội không nhẹ đâu, sinh líu ríu vâng dạ. Người tỳ nữ dẫn sang nhà phía tây, sinh thấy phòng ốc sạch sẽ mừng rỡ tạ ơn rồi hỏi thăm gia thế nương tử. Người tỳ nữ đáp "Nương tử tiểu tự là Cẩm Sắt, con gái Tiết hầu ở Đông Hải. Thiếp tên Xuân Yến, hàng ngày có cần gì, xin cứ gọi".

Người tỳ nữ ra đem áo giày chăn nệm vào đặt lên giường, sinh mừng vì được chỗ yên thân. Sáng ra sinh dậy sớm ra làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Tôi tớ trong nhà đều tới yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều nhưng sinh giữ ý đều từ chối, ngày hai bữa cơm đều từ nhà trong đưa ra. Nương tử xét thấy liêm khiết cẩn thận nên đặc cách ban cho mũ nhà nho và áo màu, phàm có ban thưởng gì đều sai Xuân Yến đem tới. Người tỳ nữ cũng rất phong vận, khi đã quen rồi thì nhiều phen liếc mắt đưa tình, nhưng sinh cẩn thận giữ mình không dám sơ suất, chỉ giả làm ra vẻ ngốc nghếch. Qua hơn hai năm tiền thưởng đã tăng gấp bội mà sinh vẫn cẩn thận chăm chỉ như cũ.

Một đêm đang ngủ, chợt nghe nhà trong có tiếng la thét ầm ĩ, vội vùng dậy cầm đao ra thì thấy lửa đỏ rục trời, lần vào xem thì bọn cướp lố nhố đầy sân, đám tôi tớ sợ hãi chạy trốn. Một người giục cùng chạy trốn, sinh không nghe mà bôi đen mặt, thắt dây lưng chen vào đám cướp kêu to "Đừng làm Tiết nương tử sợ hãi, nhưng phải chia nhau tìm của cải đừng để sót?". Lúc ấy bọn cướp đang tìm kiếm Cẩm Sắt khắp các phòng mà chưa thấy, sinh biết nàng chưa bị bắt liền lén ra sau nhà tìm kiếm, gặp một bà già núp ở đó, mới biết nàng và Xuân Yến đã leo qua tường ra ngoài. Sinh cũng leo qua tường ra, thấy hai chủ tớ núp trong góc tối, liền nói "Chỗ này làm sao núp được?", cô gái đáp "Ta không sao đi được nữa", Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy khoảng hai ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới vào tới một hang núi sâu, đặt nàng xuống cho ngồi.

Chợt có một con cọp tới, sinh cả kinh định xông ra chặn thì nó đã ngoạm lấy cô gái. Sinh vội túm chặt tai cọp, hết sức đẩy cánh tay vào miệng nó để thay cho Cẩm Sắt. Con cọp tức giận nhả cô gái ra ngoạm vào tay sinh nghe răng rắc, cánh tay lìa ra rơi xuống đất, con cọp cũng bỏ đi. Cô gái khóc nói "Khổ thân người, khổ thân ngươi!". Sinh đang hăng chưa biết đau, chỉ thấy máu chảy như suối bèn bảo người tỳ nữ xé vạt áo băng bó vết thương. Cô gái ngăn lại, cúi xuống nhặt cánh tay gãy rồi đích thân nối vào cho sinh, buộc chặt lại. Hừng sáng mới từ từ trở về, vào tới nhà thấy vắng tanh, trời sáng hẳn đám tôi tớ mới dần dần tụ tập lại. Cô gái đích thân tới thăm vết thương cho sinh, cởi vải buộc ra thì chỗ xương gãy đã liền lại, lại lấy thuốc ra rịt vào vết thương mới đi.

Từ đó nàng càng quý trọng sinh, đồ ăn thức dùng đều cho hưởng ngang mình. Khi vết thương lành hẳn, cô gái đặt tiệc ở nhà trong để ủy lạo, bảo ngồi, sinh từ chối mấy lần mới ngồi ghé vào một góc. Cô gái nâng chén mời trân trọng như đối với khách, hồi lâu mới nói "Thân thiếp đã kề cận chàng, muốn học em gái vua Sở theo Chung Kiến* nhưng hiềm không có ai mai mối, phải mặt dày tự nói ra". Sinh hoảng sợ nói "Ta chịu ơn nặng, có chết cũng không đủ đền đáp, nếu làm quá phận thì e trời phạt, thật không dám theo lệnh. Nếu thương ta không có vợ thì ban cho một người tỳ nữ cũng đã là quá rồi".

*Chung Kiến: Tả truyện, Định công tứ niên chép quân Ngô đánh tới Sính Đô nước Sở, vua Sở và gia quyến phải tránh nạn, bề tôi của vua Sở là Chung Kiến ghé vai cõng em gái vua Ngô là Ngũ Thiên chạy. Về sau vua Sở định gả chồng cho em gái, Ngũ Thiên không chịu, nói đã kề cận với Chung Kiến lúc được ông ta cõng, vua Sở bèn gả nàng cho Chung Kiến.

Một hôm, chị lớn cô gái là Dao Đài tới, là một giai nhân khoảng bốn mươi tuổi. Đến tối gọi sinh vào Dao Đài bảo ngồi rồi nói "Ta từ ngàn dặm tới đây để làm chủ hôn cho cô em, đêm nay có thể cho thành hôn với bậc quân tử, Sinh lại đứng lên từ tạ, Dao Đài liền gọi rót rượu bảo hai người đổi chén, sinh cố từ chối, Dao Đài giật chén đổi cho nhau, sinh bèn lạy rạp xuống đất tạ tội rồi mới uống. Dao Đài đi ra, cô gái nói "Nói thật với chàng, thiếp là tiên nữ có tội bị đày, tự xin cư ngụ ở cõi âm gom nuôi các oan hồn để chuộc tội. Vừa rồi gặp nạn Thiên ma nên có cái duyên kề cận thân thể với chàng, phải mời chị lớn từ xa tới làm chủ hôn và coi sóc việc nhà giùm để tiện theo chàng về trần". Sinh đứng dậy cung nói "Dưới đất vui lắm, chứ nhà ta có con vợ dữ, vả lại nhà cửa chật chội, không sao bàn cách vẹn tròn để sống với nhau". Cô gái cười, chỉ nói không sao. Kế uống say cùng đi ngủ, vui vẻ yêu thương nhau rất mực.

Qua vài hôm nàng nói với sinh "Cõi âm không thể chung sống lâu dài, xin chàng về ngay thu xếp việc nhà, xong rồi thiếp sẽ tự tới". Rồi sai đem ngựa cho sinh, mở cửa bảo ra, vách núi đất lại liền như cũ. Sinh cưỡi ngựa về làng, người làng đều khiếp hãi, về tới cổng thì thấy nhà cao cửa rộng. Trước là khi sinh bỏ đi, vợ mời hai anh tới chuẩn bị roi gậy để đánh cho một trận trả thù, đến tối không thấy sinh về họ mới bỏ đi. Có người nhặt được chiếc giày của sinh trong khe nên ngờ rằng sinh đã chết, kế hơn năm vẫn không có tin tức gì. Có người lái buôn Mỗ ở Thiểm Tây hỏi cưới Lan thị, bèn tới ở luôn nhà sinh, trong vòng nửa năm xây cất thành tòa ngang dãy dọc. Người lái buôn đi xa buôn bán, lại mua một người thiếp về, từ đó trong nhà lục đục, y có khi cũng hàng mấy tháng không về. Sinh hỏi biết chuyện nổi giận, buộc ngựa bước vào thì gặp bà già hầu hạ vợ ngày trước. Bà già hoảng sợ lạy phục xuống đất, sinh mắng chửi hồi lâu, bắt dẫn tới phòng vợ tìm thì đã trốn đâu mất, kế tìm thấy ở sau nhà thì đã thắt cổ chết rồi. Sinh sai khiêng xác trả cho nhà họ Lan rồi cho gọi người thiếp của người lái buôn ra, thấy tuổi khoảng mười tám mười chín, cũng khá xinh đẹp bèn giữ lại trong phòng ngủ.

Người lái buôn nhờ người làng bắn tiếng xin trả lại người thiếp, nhưng nàng kêu khóc không chịu đi. Sinh bèn làm đơn định kiện y về tội chiếm nhà cướp vợ, người lái buôn không dám nói gì nữa, dọn hàng quay về Thiểm Tây. Sinh đang ngờ Cẩm Sắt phụ ước, một tối đang uống rượu với người thiếp thì có xe ngựa tới cổng, cô gái bước vào, chỉ giữ lại xuân Yến còn cho tất cả tùy tùng trở về. Vào tới phòng, người thiếp ra lạy chào, nàng nói "Người này có tướng sinh con trai, có thể chịu khổ thay thiếp", rồi lập tức ban cho quần áo nữ trang. Người thiếp lạy tạ nhận lấy rồi đứng hầu, nàng kéo ngồi xuống cùng chuyện trò rất vui vẻ, hồi lâu nói "Ta say rồi, muốn đi ngủ". Sinh cũng cởi giày lên giường, người thiếp mới đi ra. Về tới phòng thấy sinh đã nằm trên giường, lấy làm lạ quay lại xem thì đèn trong phòng cô gái đã tắt. Sinh đêm nào cũng ngủ ở phòng người thiếp, nhưng một đêm người thiếp trở dậy tới nhìn trộm vào phòng cô gái thì thấy sinh đang chuyện trò nói cười với nàng, lấy làm lạ lùng vội quay về định nói với sinh thì chỉ thấy có giường không. Sáng ra lén kể cho sinh, sinh cũng không tự biết, chỉ thấy mình lúc thì trong phòng cô gái, lúc thì ngủ phòng người thiếp mà thôi, bèn dặn giấu kín chuyện lạ ấy.

Lâu sau Xuân Yến có mang, cô gái vẫn như không biết gì, khi người tỳ nữ lâm bồn sinh khó bèn gọi nương tử, nàng bước vào thì sinh được ngay, là con trai. Nàng cắt rốn xong đặt vào lòng người tỳ nữ rồi cười nói "Con nhãi đừng thế nữa nhé, nhiều nghiệp chướng thì lắm tai nạn thôi?", từ đó Xuân Yến không sinh đẻ nữa. Người thiếp thì sinh được năm trai hai gái. Ở đó ba mươi năm, thỉnh thoảng cô gái lại trở về nhà, đi về đều vào lúc ban dêm. Một hôm nàng dắt người tỳ nữ đi không trở lại nữa. Sinh sống đến tám mươi tuổi, chợt một đêm dắt người lão bộc ra đi, cũng không trở về.

225 Phòng Văn Thục (Phòng Văn Thục)

Đặng Thành Đức người phủ Khai Phong (tỉnh thành Hà Nam) du học tới Duyện Châu (tỉnh Sơn Đông), ngụ trong ngôi chùa nát, chép thuê cho người coi việc làm sổ sách hộ tịch ở đó. Cuối năm đám nha dịch đều về nhà, riêng Đặng ở lại nấu cơm ăn một mình trong chùa. Sáng tinh mơ có người thiếu phụ gõ cửa vào, nhan sắc tuyệt đẹp, tới trước bàn thờ Phật thắp hương quỳ lạy rồi ra, hôm sau cũng thế. Đến khuya Đặng trở dậy thắp đèn, đang làm việc thì nàng tới sớm hơn. Đặng hỏi "Sao tới sớm thế?" nàng đáp "Sáng ra thì đông người lộn xộn, chẳng bằng cứ tới sớm, nhưng sớm quá lại sợ quấy rầy giấc ngủ của chàng, vừa rồi nhìn thấy ánh đèn, biết chàng đã dậy nên mới tới thôi". Sinh đùa nói "Trong chùa không có người, tới ở luôn cho khỏi mất công đi lại". Nàng mỉm cười đáp "Trong chùa không có người, thì chàng là ma à?". Đặng thấy có thể tán tỉnh, bèn chờ nàng làm lễ xong kéo ngồi lại đòi giao hoan. Nàng nói "Trước bàn thờ Phật làm thế sao được? Đã không có nhà cửa gì mà còn mong muốn bậy bạ". Đặng nài nỉ mãi không thôi, nàng nói "Cách đây ba mươi dặm, trong làng nọ có sáu bảy đứa nhỏ mời thầy dạy học chưa được. Chàng hãy tới đó hỏi Lý Tiền Xuyên, có thể được nhận, rồi nói là có mang vợ đi cùng, bảo họ xếp cho một gian nhà riêng, thiếp sẽ lo cơm nước cho, như thế mới là kế lâu dài". Đặng sợ việc lộ ra sẽ bị tội, nàng nói "Không sao đâu, thiếp họ Phòng tên Văn Thục, không có ai thân thuộc, quanh năm ở nhờ nhà ông cậu, ai mà biết được!". Đặng mừng rỡ từ biệt nàng, tới ngay làng nọ yết kiến Lý Tiền Xuyên, quả nhiên như đã bàn tính, hẹn sẽ mang gia quyến tới trước Tết.

Trở về, sáng ra nói cho cô gái biết, nàng hẹn sẽ chờ dọc đường. Đặng từ biệt bè bạn, thuê ngựa đi, được nửa đường quả nhiên gặp cô gái đứng chờ, bèn xuống ngựa trao dây cương cho nàng dắt rồi cùng đi. Tới nơi dạy học chung sống với nhau rất tương đắc, suốt sáu bảy năm như vợ chồng mà cũng không có ai tìm bắt người đi trốn. Cô gái chợt sinh được một đứa con trai, Đặng vì vợ ở nhà không sinh đẻ nên có con mừng lắm, đặt tên là Duyện Sinh. Cô gái nói "Vợ chồng giả rốt lại cũng khó thành chuyện thật, thiếp đang định từ giã chàng đi, lại sinh ra của nợ này không biết để làm gì?" Đặng nói "Đang tính nếu may mắn để dành được ít tiền sẽ cùng nàng trốn về quê, sao lại nói thế?". Nàng đáp "Cảm ơn! Cảm ơn! Ta không thể nhăn nhở mơn trớn lấy lòng để mong chị cả bao dung, mà làm vú em cho người, trẻ con oe oe khó chịu lắm". Đặng thanh minh rằng vợ mình không ghen, cô gái cũng không nói gì. Hơn một tháng sau, Đặng thôi dạy học, định đi buôn chung với con trai Tiền Xuyên, nói với cô gái "Ta nghĩ làm thầy mở lớp thì không bao giờ giàu được, nay học đi buôn ngõ hầu còn có ngày về được quê", nàng cũng không đáp. Đến tối, bỗng nàng bế con dậy, Đặng hỏi làm gì, nàng đáp "Thiếp muốn đi". Đặng vội trở dậy đuổi theo hỏi han, nhưng cổng còn chưa mở mà cô gái đã biến mất, sợ quá mới biết nàng không phải là người. Đặng vì thấy lai lịch nàng đáng ngờ nên không dám kể cho ai, chỉ nói thác là vợ về thăm cha mẹ ruột.

Trước kia, lúc Đặng ra đi có hẹn với vợ là Lâu thị rằng cuối năm sẽ về, nhưng suốt mấy năm không có tin tức gì, người ta đồn là đã chết. Anh trai thấy không có con, muốn nàng lấy chồng khác, Lâu xin đợi ba năm nữa, hàng ngày chỉ lủi thủi ở một mình một nhà, kéo sợi sinh nhai. Một hôm trời vừa tối, nàng ra đóng cổng ngoài thì có một cô gái bước vào, bế theo một đứa bé còn quấn tã, nói "Ta từ nhà mẹ đẻ trở về, tới đây thì vừa tối, biết chị ở có một mình nên xin ngủ nhờ ". Lâu mời vào, tới trong phòng nhìn kỹ thì là một người đẹp khoảng hơn hai mươi tuổi, vui vẻ cho nằm chung giường. Nhân đùa giỡn với đứa nhỏ, thấy nó trắng như quả bầu, than rằng "Mụ góa ta lại không có được một đứa con thế này". Cô gái nói "Ta đang ngại vì nuôi nó phiền quá, nếu cho chị làm con nuôi để nối dõi thì chị thấy sao?" Lâu nói "Chưa nói tới chuyện nương tử không nỡ dứt tình, cho dù có nỡ thiếp cũng không có sữa, làm sao nuôi được?" Cô gái nói "Chuyện đó có gì khó, lúc sinh cháu, ta cũng lo không có sữa, chỉ uống nửa tễ thuốc là có ngay. Nay thuốc thừa vẫn còn đây, xin biếu cho chị", rồi lấy gói thuốc ra đặt trước cửa sổ. Lâu thị ậm ừ, chưa thấy có gì khác lạ. Kế ngủ đi, khi tỉnh dậy gọi thì đứa nhỏ còn đó mà cô gái đã mở cửa đi rồi, vô cùng khiếp sợ. Rạng sáng đứa nhỏ khát sữa khóc đòi bú, Lâu bất đắc dĩ phải uống thuốc, giây lát sữa chảy ròng ròng bèn cho nó bú.

Hơn một năm, đứa nhỏ ngày càng bụ bẫm, bắt đầu học nói, nàng thương yêu chẳng khác gì con mình đẻ ra, vì vậy bỏ luôn ý định cải giá. Nhưng sáng ra đã phải bế con, không làm gì được nên ngày càng túng thiếu. Một hôm cô gái chợt tới, Lâu sợ đòi lại con, trước tiên trách ngay về việc lẳng lặng bỏ đi không nói, kế kể tới nỗi khó nhọc nuôi nấng đứa nhỏ. Cô gái cười nói "Chị kêu ca khó nhọc thì ta không đòi con lại sao?", rồi vẫy gọi con. Đứa nhỏ khóc sà vào lòng Lâu thị, cô gái nói "Con nghé con không nhận mẹ nó nữa rồi! Của này dẫu trăm lượng vàng cũng khó đổi được, cứ chồng tiền ra để làm giấy tờ". Lâu tưởng nói thật giận tím mặt, cô gái cười nói "Chị đừng sợ, thiếp tới chính vì con mà! Sau khi ra đi, lo chị không có tiền nuôi cháu, nên tìm đủ cách kiếm được hơn mười lượng vàng", rồi lấy vàng ra đưa Lâu. Lâu sợ nhận vàng xong cô gái sẽ có cớ đòi con nên nhất quyết từ chối, cô gái bèn đặt vàng lên giường rồi ra cửa đi thẳng. Lâu bế con đuổi theo ra thì nàng đã đi xa, gọi cũng không ngoái lại, còn ngờ là có ý ác, nhưng được vàng đem cho vay lấy lời, trong nhà cũng no đủ.

Ba năm sau Đặng buôn bán có tiền sắm sữa hành trang trở về nhà. Đang cùng hỏi han an ủi nhau, thấy có đứa nhỏ hỏi con nhà ai, vợ kể lại duyên do. Đặng hỏi tên, Lâu đáp "Mẹ nó gọi là Duyện Sinh, thiếp cũng giữ nguyên như cũ. Đặng ngạc nhiên nói "Thế thì đúng là con ta đấy". Hỏi lại ngày giờ thì đúng đêm cô gái bế con đi. Đặng bèn kể lại hết chuyện hợp tan với Phòng Văn Thục, hai vợ chồng càng thêm vui mừng khuây khỏa, vẫn mong cô gái trở lại nhưng rốt cuộc vẫn biệt tăm.

226. Nhốt Rắn (Khoán Xà)

Trong núi ở huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) vốn có ngôi chùa, bốn bề không có thôn xóm, ít người lui tới, chỉ có đạo sĩ trú ngụ. Có người nói rằng trong núi có nhiều rắn lớn, nên những kẻ du ngoạn càng lánh xa. Có một thiếu niên vào núi bắt chim ưng, vào sâu quá không có chỗ nào ngủ đêm, nhìn thấy phía xa có chùa chiền bèn rảo bước tới gõ cửa. Đạo sĩ hoảng sợ nói "Sao cư sĩ lại tới đây? May mà không gặp phải đám trẻ", rồi vội bảo ngồi, dọn cháo cho ăn. Thiếu niên ăn thưa xong thì có một con rắn lớn bò vào, to hơn mười ôm, ngóc đầu nhìn khách, mắt long lên giận dữ. Khách cả sợ, đạo sĩ đánh vào đầu rắn quát "Ra ngoài!", con rắn mới mọp đầu bò vào gian phòng phía đông, ngoằn ngoèo mãi một lúc mới lọt hẳn vào trong, nằm khoanh tròn chật cả phòng, khách cả sợ run lẩy bẩy. Đạo sĩ nói "Trước nay ta vẫn nuôi nó, nên nếu có ta thì không sao, chỉ sợ có ai một mình gặp nó mà thôi". Khách vừa ngồi yên, lại có một con rắn khác bò vào, hơi nhỏ hơn con trước, to độ năm sáu ôm, thấy khách thì dừng lại, trợn mắt thè lưỡi giống như con trước. Đạo sĩ lại quát, nó cũng bò vào phòng. Trong phòng không còn chỗ nằm, nó vắt nửa thân lên khoanh vào xà nhà, đất trên vách tường cứ rơi đồm độp. Khách càng sợ hãi, cả đêm không dám ngủ, sáng ra dậy sớm xin về. Đạo sĩ đưa ra cổng chùa, thì thấy trên tường dưới thềm lúc nhúc những rắn to bằng cái vò cái chậu, thấy người lạ đều toan cắn. Khách sợ, cứ nép vào sát người đạo sĩ mà đi, đạo sĩ đưa khách tới cửa núi mới trở về.

Quê ta có mấy người làm khách ở Trung Châu (tỉnh Phúc Kiến), tới ngủ nhờ trong một ngôi chùa nhốt rắn. Sư trong chùa làm cơm tối mời, có món canh thịt rất ngon nhưng cứ tròn tròn từng khúc từng khúc như cổ gà. Khách lấy làm lạ, hỏi sư giết bao nhiêu gà mà có lắm cổ thế. Sư đáp "Đây là rắn chặt ra đấy!". Khách phát hoảng, có người ra ngoài nôn mửa. Đến lúc nằm ngủ, chợt thấy trên bụng có vật gì mềm mềm động đậy, sờ thử thì là rắn, sợ hãi vùng dậy la ầm lên. Sư tỉnh dậy nói "Đó là chuyện thường, có gì lạ đâu mà!". Nhân đánh lửa soi lên vách cho xem, thì rắn lớn rắn nhỏ đầy trên tường, trên giường dưới sàn cũng toàn là rắn. Hôm sau sư dẫn khách vào điện Phật, dưới tòa Phật có cái giếng lớn, trong có con rắn to như cái chum lớn nghểnh đầu lên miệng giếng nhưng không bò lên. Soi đuốc xuống nhìn thì bên dưới lúc nhúc rắn con rắn cháu, tính ra có tới hàng trăm vạn con, cả một bầy bên dưới. Sư nói "Trước đây rắn lên khỏi giếng gây hại dữ lắm, từ khi xây tòa Phật bên trên để trấn yểm thì mới yên ổn".

227. Thư Sinh Ngông (Cuồng Sinh)

Học sứ họ Lưu kể ở châu Tế Ninh (tỉnh Sơn Đông) có thư sinh ngông, tính hay rượu. Nhà không có được hai thạch gạo, nhưng kiếm được tiền là mua rượu, không hề lo lắng tới chuyện cùng quẫn. Gặp lúc có quan Thứ sử mới đáo nhiệm, tửu lượng cao chưa gặp ai uống bằng, nghe tiếng sinh bèn mời tới cùng uống rượu, thích lắm, thường uống với nhau. Sinh cậy quen biết, nên cứ có ai kiện tụng chuyện nhỏ muốn được kiện biếu xén món tiền còm lại nói hộ, Thứ sử đều ưng thuận. Sinh quen lệ cứ thế làm mãi, Thứ sử đâm ghét. Một hôm, Thứ sử vừa ra công đường buổi sáng, sinh cầm thiếp bước lên trình. Thứ sử nhìn xong cười khẩy, sinh lớn tiếng nói "Ông thấy được thì cho, không được thì thôi, chứ cười cái gì? Vẫn nghe kẻ sĩ có thể giết chết chứ không thể làm nhục, chuyện khác thì không thể báo hờn, chứ chẳng lẽ một cái cùm lại không báo được à?". Nói xong cười lớn một tràng vang dội cả công đường. Thứ sử nổi giận nói "Ngươi dám vô lễ à? Không nghe tiếng quan Lệnh doãn làm tan nát nhà cửa sao?" Sinh phẩy tay áo bước xuống thềm, lớn tiếng đáp "Thằng học trò này không có nhà cửa gì để tan nát cả" Thứ sử càng tức giận, sai bắt trói lại. Rồi hỏi tới nhà cửa, thì sinh chẳng có nhà đất gì, chỉ dắt vợ tới ở trên tường thành. Thứ sử nghe thế bèn thả ra, nhưng ra lệnh đuổi không cho ở trên tường thành nữa. Bè bạn thương vì ngông, góp tiền mua cho vài thước đất, xây cho một cái lều trong thành. Sinh vào ở, than rằng "Từ nay trở đi thì phải sợ quan Lệnh doãn rồi!".

Dị Sử thị nói: Kẻ sĩ quân tử theo pháp luật, giữ lễ nghi, không dám ăn cướp giữa chợ, thì dẫu là nhà vua đi chăng nữa cũng làm gì được mình? Nhưng nếu có kẻ thù oán mà ngày càng ghét thêm, thì đó là vì mình có nhà cửa mà thôi. Còn nếu như chẳng có nhà cửa gì để tan nát, thì kẻ căm ghét tới đâu cũng không có chỗ nào để hại cả. Ôi, người kia chắc như lời người ta nói, là cậy nghèo hèn để khinh người chăng! Song chỉ có bậc quân tử mới có thể tuy nghèo nhưng không khinh suất mà xúc phạm người, thế mà y vì miếng ăn để lụy thân, hò hét ở công đường, cũng mất phẩm giá lắm. Có điều ngông như thế thì không ai bằng được thật.

228. Tôn Tất Chấn (Tôn Tất Chấn)

Tôn Tất Chấn qua sông, gặp lúc mưa to gió lớn, thuyền bè nghiêng ngã, người trong thuyền sợ lắm. Chợt thấy một vị thần mặc giáp vàng đứng trong mây cầm một cái bài vàng đưa xuống cho nhìn. Mọi người cùng ngẩng lên xem, thấy ở trên đề ba chữ "Tôn Tất Chấn" rất rõ ràng. Mọi người nói với Tôn Tất Chấn rằng "Ngươi đã phạm tội bị trời phạt, xin mời qua một thuyền riêng, đừng làm lụy cho cả bọn ta". Tôn còn chưa kịp nói gì, họ cũng không đợi là có ưng thuận hay không, thấy cạnh thuyền có chiếc xuồng con, liền xúm vào đẩy Tôn qua đó. Tôn vừa ngồi yên xong, quay nhìn thì chiếc thuyền lớn đã chìm rồi.

229. Trương Bất Lượng (Trương Bất Lượng)

Nhà buôn nọ đi tới ranh giới tỉnh Trục Lệ chợt gặp mưa đá, bèn núp vào đám lúa. Nghe trên không có tiếng nói "Đây là ruộng của Trương Bất Lượng, đừng làm hại lúa của y". Nhà buôn nghĩ thầm không biết họ Trương là ai, mà "bất lương" tại sao còn được trời che chở. Trời tạnh bèn vào thôn hỏi thăm, quả có người tên như thế, liền thuật lại điều mình nghe, lại hỏi cái tên "Bất Lượng" có nghĩa là gì. Thì ra họ Trương giàu có, thóc lúa rất nhiều, cứ đến mùa xuân lại có nhiều người nghèo túng tới vay, lúc trả thường không đủ số, nhưng Trương vẫn nhận cả không hề đong lường tính toán chi ly nên người làng gọi là "Bất Lượng" (không đong). Mọi người ùa ra đồng xem, thấy lúa khắp nơi xơ xác, chỉ riêng ruộng của họ Trương là không tổn hại gì.

Phụ: Một Truyện Trong Khoáng Viên Tạp Chí Của Ngô Bảo Nhai (Trần Diệm)

(Phụ: Ngô Bảo Nhai Trần Diệm Khoáng Viên tạp chí nhất tắc)

Sư Tế Thủy ở Hoa Ổ kể vào năm Thuận Trị thứ 18 (1661) có một người ăn mày ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là thần vâng sắc lệnh làm mưa đá. Có người tránh mưa đá nghe trên không có tiếng nói "Đừng làm tổn hại ruộng của Trương Bất Lượng". Tạnh mưa thì ruộng các nơi đều tan tác, chỉ riêng ruộng của Trương là không tổn hại gì. Thì ra họ Trương nhận thóc người khác trả nợ, bảo cứ tự đem đổ vào vựa, không hề đong lại, nên người ta ca ngợi là "Bất Lượng" (không đong). Chuyện này cũng giống chuyện Tưởng Tự Lượng thời Nam Tống.

Họ Tưởng người đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), anh cả tên Sùng Nhân, kế tên Sùng Nghĩa, kế tên Sùng Tín, ba anh em đều nhân đức như nhau. Thường đặt các loại thưng đấu công ở kho, ai tới vay thóc cũng đều bảo tự đong lấy, năm mất mùa cũng thế. Người ta vì thế gọi là Tưởng "Tự Lượng" (tự đong). Năm Hàm Thuần thứ 3 (1267) có chiếu phong ba anh em là Quảng Phúc hầu, nay vẫn còn miếu thờ trên Lam Kiều.

230. Tấm Nệm Hồng Mao (Hồng Mao Chiên)

Nước Hồng Mao trước có hẹn qua buôn bán ở Trung Quốc, chủ tướng ở biên cương thấy họ đông người không cho lên bờ. Người Hồng Mao cố nài, chỉ xin cho được đặt chân lên một khoảnh đất rộng bằng tấm nệm lông thôi. Viên chủ tướng nghĩ một tấm nệm lông thì có được bao nhiêu, bèn cho. Người Hồng Mao đặt tấm nệm lên bờ, thoạt tiên chỉ đủ chỗ cho hai người, kế nở ra đủ chỗ cho bốn năm người, trong chớp mắt tấm nệm nở rộng ra hơn một mẫu đất, đủ chỗ cho mấy trăm người. Họ cùng rút đoản đao ra, nhân lúc bất ngờ cướp phá cả mấy dặm rồi bỏ đi.

231. Quảy Xác Chết (Phụ Thi)

Có người tiều phu ra chợ bán củi, vác đòn gánh trở về, chợt thấy đầu đòn gánh như có vật nặng máng vào, quay nhìn thấy một cái xác chết không đầu treo lủng lẳng, phát hoảng rẫy đòn gánh ra đập túi bụi, chợt không thấy đâu nữa. Y sợ hãi chạy vào một thôn gần đó, lúc ấy trời đã sập tối, thấy có mấy người đốt đuốc soi trên mặt nước như tìm vật gì. Tới gần hỏi thăm thì ra bọn họ đang ngồi chơi, chợt có cái đầu trên không rơi xuống, râu tóc bòm sờm, trong phút chốc thì biến mất. Người tiều phu kể lại việc mình gặp, tính ra thì đủ một xác người, nhưng nghĩ mãi không biết từ đâu tới. Sau cũng có người quảy sọt muối đi trên đường, người ta thấy trong sọt muối có cái đầu người, lấy làm kỳ quái căn vặn. Y quay nhìn mới phát hoảng đổ ụp cái sọt ra đất, cái đầu người lăn tròn rồi biến mất.

232. Cúc Dược Như (Cúc Dược Như)

Cúc Dược Như là người phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), vợ chết, bỏ nhà đi mất. Mấy năm sau ăn mặc như lối đạo sĩ trở về ngủ lại một đêm rồi định đi. Họ hàng họ hàng ép ở lại, giữ riệt lấy quần áo pháp trượng. Cúc nói thác là đi dạo, ra tới ngoài thôn thì áo quần đồ vật từ trong nhà đều phấp phới bay ra, theo Cúc đi mất.

233. Hộ Ăn Cướp (Đạo Hộ)

Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) ở vùng Đằng, Dịch (tỉnh Sơn Đông) cứ mười người thì có sáu bảy làm cướp, quan không dám nã bắt. Về sau bọn chúng quy thuận, quan huyện biên tên riêng làm "hộ ăn cướp". Nếu chúng có tranh giành kiện tụng với dân thường, thì lại thiên vị xử cho chúng được, đại khái vì sợ chúng lại nổi dậy. Về sau những kẻ thưa kiện cứ nhận bừa là hộ ăn cướp, còn bên kia thì cứ ra sức cãi là mạo nhận. Bên nguyên bên bị ai cũng nhận mình là phải, còn quan thì chưa xét chuyện phải trái, trước hết cứ xét bên nào là hộ ăn cướp thật đã, thưa lên kiện xuống, đám nha lại lục lọi sổ sách hộ khẩu rất vất vả. Lúc ấy trong công thự có nhiều hồ, quan huyện có con gái bị hồ quấy phá, bèn đem lễ vật đón thuật sĩ tới, dùng bùa phép bắt được hồ bỏ vào vò, đặt lên lò lửa. Hồ ở trong vò kêu to "Ta là hộ ăn cướp đây", ai nghe chuyện cũng bật cười.

Dị Sử thị nói: Nay có kẻ đốt nhà cướp của, quan lại không cho là ăn cướp mà cho là kẻ gian, còn có kẻ trèo tường gian dâm lại không tự nhận là kẻ gian mà nhận là ăn cướp, thì thế sự đã thay đổi nhiều rồi. Giả như nay trong dinh quan có hồ, thì ắt cũng kêu to rằng ta đúng là ăn cướp đây.

Ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) từ thuế má dao dịch cho tới các khoản trưng thu thì dân thường phải chịu gấp mấy lần so với nhà thân hào. Cho nên những nhà có ruộng đều tranh nhau tới nhờ nhà thân hào đứng tên, tuy không hại gì tới thuế nước nhưng có chỗ tổn thất cho quan lại. Huyện lệnh Chung xin trừ mối tệ ấy, được quan trên ưng thuận. Lúc đầu sai tự thú, kế những dân gian trá lấy đó làm bậy, ruộng đất bán đi đã vài mươi năm cũng nói là nhờ đứng tên để kiện lại người mua. Huyện lệnh đều thiên vị họ, nên những dân lương thiện hiền lành nhiều người bị mất cơ nghiệp. Có Lý sinh bị Mỗ Giáp kiện, cùng lên đối chất, Giáp gọi Lý là Tú tài, Lý lớn tiếng tranh cãi nói mình không phải là Tú tài, ầm ĩ không ngớt. Huyện lệnh hỏi tả hữu, đều nói là Tú tài thật. Quan hỏi tại sao không nhận, Lý nói "Tú tài thì cao quý, nhưng cứ chờ tranh giành đất đai xong sẽ làm cũng chưa muộn". Ôi, danh hiệu ăn cướp thì tranh nhau mà nhận, danh hiệu Tú tài thì tranh nhau mà chối, chuyện đổi đời mới kỳ lạ làm sao. Có người dâng đơn nặc danh kiện về việc làm trái pháp luật thôn tính tài sản, nói "Tuổi già không thể làm lụng đóng thuế, nên có năm mươi mẫu ruộng gần thành, vào năm Lỗ ân công thứ 1 (722 trước công nguyên) tạm nhờ thân hào gian ác là Nhan Uyên đúng tên. Nay lệnh quan nghiêm khắc, theo lẽ phải tự thú. Nhưng tên thân hào gian ác ấy không chịu trả, tới nói lý lẽ thì bị thầy y dắt đồng đảng bảy mươi hai người mang gậy gộc xúm vào đánh đập túi bụi, gãy cả tay chân, lại lôi vào nhốt trong căn nhà dột, mỗi ngày mang cho một giỏ cơm một bầu nước, suýt nữa thì chết đói, có làng xóm làm chứng. Vậy cúi xin nghiêm khắc tra xét, trả lại điền sản mồ hôi nước mắt cho. Nay tố cáo", quả thật có thể nói là theo Liễu Chích mà kiện Di Tề*.

*Có người dâng đơn. Di Tề: Khổng Tử gia ngữ nói Nhan Uyên, một học trò giỏi của Khổng Tử có năm mươi mẫu ruộng gần thành, Luận ngữ nói Nhan Uyên là người hiền, ở nhà dột, một giỏ cơm một bầu nước vẫn vui với đạo. Lá đơn kiện nói trên là trào phúng để châm chọc, như nói thầy của Nhan Uyên dắt bảy mươi hai đồng đảng ra đánh mình là nhân chuyện "Khổng môn thất thập nhị hiền" mà bịa ra. Chuyện Liễu Chích kiện Di Tề cũng tương tự. Kiên biều tập chép đời Minh Mục tông Hải Đoan làm Tuần phủ Trực Lệ, có ý đè nén các nhà giàu nên phong khí dân gian điêu ngoa gian trá, có người dâng đơn kiện nặc danh tố cáo Liễu Hạ Huệ và Đạo Chích cậy thế cướp ruộng của dân, hai con vua Cô Trúc là Bá Di Thúc Tề cậy thế cha đào mộ của dân bị kiện, đút lót cho cận thần của vua là Lỗ Trọng Liên để ỉm chuyện đi vân vân (Liễu Hạ Huệ là cao sĩ nước Tề thời Chiến quốc, Đạo Chích tương truyền là tên cướp nổi tiếng thời thượng cổ. Bá Di Thúc Tề người cuối thời Thương, lúc Vũ vương nhà Chu đánh vua Trụ nhà ân, hai người đón dường can ngăn không được bèn thề "không ăn thóc nhà Chu, lên núi Thú Dương hái rau vi ăn, cuối cùng chết đói. Lỗ Trọng Liên là ẩn sĩ nước Tề thời Chiến quốc).

Quyển XIII

234. Trộm Đào (Thâu Đào)

Lúc còn nhỏ có lần ta lên tỉnh chơi đúng vào dịp tiết Lập xuân. Theo lệ cũ thì trước đó một hôm, các nhà buôn bán trên phố đều kết kiệu hoa trỗi đàn sáo đưa đám rước tới tỉnh đường, gọi là "diễn xuân". Ta cùng bạn bè kéo nhau đi xem, hôm ấy người đông nghẹt, trên sảnh đường có bốn ông quan mặc áo đỏ ngồi đối diện nhau theo hướng đông tây. Lúc ấy ta còn là trẻ con, chẳng biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng cười nói ồn ào, trống chiêng ầm ĩ. Chợt có một người dắt đứa trẻ con xỏa tóc, vác hòm lên thềm, như muốn thưa bẩm. Đang khi ồn ào ầm ĩ, cũng chẳng nghe là thưa gởi những gì, chỉ thấy trên thềm cười rộ. Kế có người lính hầu bước ra lớn tiếng sai diễn trò, người ấy vâng lệnh bắt đầu, hỏi diễn trò gì. Các quan nói với nhau vài câu, rồi người lính hầu lớn tiếng hỏi giỏi trò gì, người ấy đáp giỏi trò đánh tráo vật sống. Người lính hầu vào bẩm quan một lúc, lại trở ra sai diễn trò hái đào. Người diễn trò vâng dạ, cởi áo phủ lên cái hòm, làm ra bộ oán thán nói "Bậc quan trưởng thật chẳng nghĩ cho, băng chưa tan trời còn lạnh, lấy đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, làm thế nào được?". Đứa con nói "Cha đã hứa, sao lại chối từ". Người diễn trò ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói "Ta nghĩ kỹ rồi, đầu mùa xuân tuyết chưa tan, tìm đâu ra đào ở cõi trần. Chỉ vườn của Tây Vương mẫu bốn mùa cây cỏ đều xanh tươi, may ra thì có, phải lên trời ăn trộm thôi". Đứa con nói "Ô, trời mà lên được à?", đáp "Có cách đây". Bèn mở hòm lấy ra một cuộn dây dài vài mươi trượng thắt thòng lọng một đầu rồi ném lên không, sợi dây lơ lửng trên không rủ xuống như mắc vào vật gì vậy.

Không bao lâu càng ném càng cao, sợi dây cứ vào dần trong mây ra, khi cuộn dây trong tay đã hết bèn gọi đứa con nói "Con ơi lại đây! Cha già yếu, nặng nề lóng ngóng không leo được, ngươi đi một chuyến!", rồi đưa đầu sợi dây cho đứa con nói "Cứ bám vào mà leo lên". Thằng con cầm dây ra vẻ khó khăn, oán trách "Ông già thật là lẩm cẩm, một sợi dây thế này mà bảo ta bám vào leo lên trời cao muôn trượng, giả như nửa chừng dây đứt, còn gì là xương ta?". Người cha lại thúc ép, nói "Cha đã lỡ miệng hứa rồi, hối cũng không kịp. Con ráng đi một chuyến, đừng ngại khó nhọc, nếu ăn trộm được đào, ắt sẽ được thưởng hàng trăm đồng tiền vàng, cha sẽ cưới cho một con vợ đẹp". Đứa con bèn nắm sợi dây leo lên, tay kéo chân quặp, như con nhện leo tơ, dần dần vào trong mây không thấy đâu nữa. Hồi lâu có một trái đào to bằng cái bát rơi xuống, người diễn trò mừng rỡ nhặt lấy đem dâng lên, các quan trên sảnh đường chuyền tay nhau xem hồi lâu, cũng không biết là giả hay thật. Chợt sợi dây rơi xuống đất, người diễn trò hoảng sợ nói "Chết rồi! Trên trời có người cắt sợi dây của ta, thằng nhỏ biết bám vào đâu?". Giây lát có một vật rơi xuống, nhìn ra là cái đầu của đứa con, người diễn trò ôm lên khóc nói "Đây ắt là nó trộm đào bị người canh bắt được, con ta thế là chết rồi!". Giây lát lại một cái chân rơi xuống không thiếu chút gì. Người diễn trò hết sức bi thương, nhặt tất cả cho vào cái hòm đậy lại, nói "Già này chỉ có một đứa con hàng ngày cùng nhau lên bắc xuống nam, nay vâng nghiêm lệnh, không ngờ chuốc phải tai họa thảm lạ đến như thế, phải mang đi chôn thôi". Rồi lên sảnh đường quỳ xuống nói "Vì chuyện hái đào mà con ta chết rồi? Nếu các quan thương giúp tiền tho tiểu nhân chôn cất nó, sẽ xin kết cỏ ngậm vành để đền ơn". Mọi người ngồi xem kinh sợ, ai cũng cho tiền. Người diễn trò nhận lấy giắt vào lưng, rồi gõ vào cái hòm kêu "Bát Bát ơi, còn chờ gì mà không ra cám ơn?". Chợt một đứa trẻ tóc tai bù xù đầu đội nắp hòm chui ra khom người cúi đầu bái tạ, thì ra là đứa con. Ta lấy làm lạ về thuật ấy nên đến nay vẫn còn nhớ. Về sau nghe nói Bạch Liên giáo có thể làm được thuật ấy, có lẽ ngườỉ diễn trò là dòng dõi của họ chăng?

235. Thuật Mồm (Khẩu Kỹ)

Một cô gái tới làng, tuổi chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm, khoác một túi thuốc đi bán. Có người hỏi xin chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn, bảo đến tối hỏi thần, rồi chiều tối dọn dẹp sạch sẽ một gian phòng nhỏ, vào trong đóng chặt cửa lại. Mọi người xúm xít quanh cửa sổ lắng tai nghe ngóng, chỉ thì thào nóỉ chuyện, không dám ho hắng.

Đến giữa canh một, chợt nghe thấy tiếng rèm lay động, cô gái bên trong nói "Cô Chín tới phải không?" một cô gái đáp tới rồi. Lại hỏi "Lạp Mai theo cô Chín tới đấy à?", như có một tỳ nữ đáp vâng ạ. Ba người ríu rít trò chuyện không ngớt. Giây lát lại có tiếng rèm cửa lay động, cô gái nói "Cô Sáu tới rồi", mọi người cùng nói "Xuân Mai cũng bế tiểu lang theo đấy à", có tiếng một cô gái đáp "Tiểu ca kêu khóc không chịu ngủ, nhất định đòi đi theo nương tử, nặng như cả trăm cân, cõng mệt gần chết". Rồi nghe tiếng cô gái nựng nịu, tiếng cô Chín hỏi thăm, tiếng cô Sáu chuyện trò, tiếng hai người tỳ nữ dỗ dành, tiếng trẻ con cười giỡn, rộ lên một hồi. Kế lại nghe cô gái cười nói "Cậu ấm cũng nghịch ngợm quá, xa xôi như thế mà ôm cả con mèo theo". Rồi tiếng nói ngớt dần, lại có tiếng rèm cửa lay động, tất cả lại ồn ào nói "Cô Tư sao tới chậm thế?", có tiếng một cô gái nhỏ lí nhí "Đường xa hàng ngàn dặm, đi với cô mãi mới tới được, cô đi lại chậm". Rồi mọi người lại thăm hỏi nhau, tiếng kéo ghế, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ nhộn nhạo cả lên ầm ĩ trong phòng, hồi lâu mới ngớt. Kế nghe tiếng cô gái hỏi thuốc, cô Chín cho là nên có sâm, cô Sáu cho là phải có kỳ, cô Tư bảo là cần có truật, bàn bạc một lúc lại nghe cô Chín gọi đem bút nghiên ra. Không bao lâu có tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt bút lách cách, tiếng mài mực rin rít, kế đó là tiếng ném bút kéo bàn vang vang, rồi nghe tiếng lấy thuốc trong bao sột soạt. Lát sau cô gái kéo rèm, gọi người bệnh, lấy thuốc nhận đơn rồi quay trở vào.

Lập tức nghe tiếng ba cô gái chào về, tiếng ba thị tỳ chào về tiếng trẻ con bi bô, tiếng mèo ngoao ngoao lại rộ lên cùng một lúc. Tiếng cô Chín trong mà cao, tiếng cô Sáu chậm mà trầm, tiếng cô Tư dịu mà ấm, cho đến tiếng của ba tỳ nữ đều có âm sắc riêng, nghe có thể phân biệt rõ ràng được. Mọi người tin là thần cho thuốc thật, nhưng uống thử thì không khỏi bệnh. Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc mà thôi, nhưng cũng kỳ lạ thật!

Vương Tâm Dật kể lúc ở kinh đô ngẫu nhiên đi ngang chợ nghe tiếng ca hát đánh đàn, người xem đông nghẹt. Tới gần nhìn thì thấy một thiếu niên cao giọng ca hát, chỉ lấy một ngón tay đè vào má, vừa đương vừa hát, tiếng nghe vang vang, không khác gì tiếng đàn, cũng là dòng dõi của người biết thuật mồm.

236. Vương Lan (Vương Lan)

Vương Lan người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) bị bạo bệnh chết. Diêm Vương xét lại thì là quỷ tốt bắt lầm, bèn trách phạt bắt đưa hồn Vương về nhập vào xác lại, thì xác đã nát. Quỷ sợ tội, nói với Vương "Người mà chết làm ma thì khổ, ma mà được thành tiên thì sướng, nếu được sướng thì cần gì phải sống lại làm người?". Vương cho là đúng, quỷ nói "Ở đây có một con hồ đã luyện được kim đan, trộm lấy mà nuốt thì hồn không tan, có thể sống mãi, muốn đi đâu làm gì đều được như ý, ông có chịu không?". Vương nghe theo, quỷ bèn dắt đi, tới một phủ đệ lớn, thấy lầu gác nguy nga nhưng vắng vẻ không có một người nào. Có con hồ đứng dưới trăng, ngửa đầu nhìn lên không, thở ra một hơi, trong miệng có vật tròn bay thẳng vào mặt trăng, hít vào một hơi, vật ấy rơi xuống lại há miệng ngậm lấy, rồi lại thở ra, cứ thế làm mãi. Quỷ bèn rón rén tới bên cạnh, chờ lúc hồ thở phun vật ấy ra vội cướp lấy đưa cho Vương nuốt. Hồ giật mình, nổi giận xông tới nhưng thấy họ có hai người, sợ chống không nổi đành căm hờn bỏ đi. Vương chia tay với quỷ, về tới nhà thì vợ con nhìn thấy đều hoảng sợ chạy tan. Vương kể lại mọi chuyện, vợ con dần dần yên tâm, từ đó lại ăn ở trong nhà như lúc trước.

Bạn là Trương sinh nghe chuyện tới thăm, gặp nhau cùng trò chuyện. Vương nói "Nhà ta và anh đều nghèo, nay có thuật có thể làm giàu được, anh cùng đi với ta được không?". Trương vâng dạ, Vương lại nói "Ta có thể không cần thuốc vẫn chữa được bệnh, không cần bói vẫn đoán được mệnh, nhưng nếu ta ra mặt lỡ gặp người quen thì họ hoảng sợ, nên cứ ngầm theo anh thôi được không?". Trương lại vâng dạ, rồi đó sắp xếp hành trang ngay hôm ấy lên đường. Tới địa giới tỉnh Sơn Tây, có người nhà giàu nọ có con gái đột nhiên bị hôn mê, thuốc thang cầu đảo hết cách vẫn không khỏi. Trương bèn tìm tới, tự xưng là chữa được. Phú ông chỉ có một người con gái ấy, nên rất thương yêu, hứa rằng nếu chữa được sẽ đền ơn ngàn đồng vàng. Trương xin vào xem, theo phú ông vào phòng, thấy cô gái nhắm mắt nằm yên, giở chăn lên vỗ vào người vẫn không hay biết gì.

Vương ngầm nói với Trương rằng "Hồn cô này lạc mất rồi, phải đi tìm mới được". Trương bèn nói với phú ông rằng bệnh tuy nguy nhưng vẫn có thể cứu được. Phú ông hỏi cần thuốc gì, Trương đáp rằng đều không cần, hồn con gái ông đi lạc rồi, đã sai thần đi tìm. Khoảng sau một giờ Vương chợt trở lại nói với Trương là đã tìm được. Trương bèn mời ông vào lại trong phòng xem, lại gọi cô gái, giây lát cô ta ngồi dậy, mở mắt nhìn. Phú ông cả mừng vỗ về hỏi han, cô gái nói "Con đang chơi trong vườn thì thấy một thiếu niên cầm cung bắn chim, có mấy người dắt ngựa theo hầu. Con đang muốn chạy thì họ cản đường, chàng thiếu niên ấy đưa cung cho con, bảo con bắn. Con xấu hổ từ chối, y bèn kéo con lên ngựa, thúc ngựa chạy rồi cười nói 'Ta đang muốn vui vẻ với cô, đừng có xấu hổ'. Được vài dặm thì vào trong núi, con vừa la vừa chửi, y nổi giận xô con ngã xuống cạnh đường. Đang muốn về nhưng không biết đường, chợt thấy có một người tới nắm tay con kéo đi như bay, chớp mắt đã về tới nhà, chợt tỉnh dậy đây".

Phú ông cho là thần kỳ, quả tạ ơn Trương một ngàn đồng vàng. Đêm tới Vương bàn với Trương giữ lại hai trăm để ăn đường, còn bao nhiêu mang cả về nhà, gõ cửa đưa cho con, bảo đem ba trăm đồng qua đưa cho vợ Trương, rồi trở lại nhà phú ông. Hôm sau cáo từ, phú ông không thấy Trương cầm tiền bạc gì cả, càng lấy làm lạ, kính cẩn đưa tiễn. Vài hôm sau, Trương gặp người cùng làng là Hạ Tài trên đường. Tài ham uống rượu đánh bài không lo làm ăn nên nghèo mạt, nghe Trương học được phép lạ kiếm được rất nhiều tiền nên đi tìm. Vương khuyên Trương cho y chút ít tiền bảo vệ. Tài không bỏ nết cũ, chơi bời được chục hôm hết sạch tiền, lại đi tìm Trương.

Vương đã biết trước, nói "Tài là kẻ bừa bãi, không nên gần gũi, chỉ nên cho tiền bảo đi đi, nếu có tai họa cũng không nguy hiểm". Vài hôm quả nhiên Tài tới, năn nỉ xin đi theo, Trương nói "Ta đã biết ngươi sẽ tìm tới nữa, nhưng ngươi chỉ lo cờ bạc rượu chè, dẫu đưa ngàn đồng vàng cũng như bỏ vào cái túi không đáy. Nếu ngươi thật tâm bỏ thói xấu, thì ta tặng cho một trăm đồng vàng". Tài hứa hẹn thề thốt, Trương bèn dốc hết tiền bạc ra đưa cho. Tài trở về, trong túi có trăm đồng vàng, đánh bạc càng lớn, uống rượu chơi gái lu bù, coi tiền như rác. Chức dịch trong làng nghi ngờ bắt giải lên quan, khảo tra rất nặng. Tài khai rõ tiền bạc ở đâu mà có, quan bèn sai lính giải đi tìm Trương, được vài ngày bị thương nặng chết dọc đường.

Hồn Tài không quên Trương lại tìm tới nương tựa, nhân đó gặp Vương. Một hôm cùng uống rượu với nhau. Tài say quá la ầm lên, Vương ngăn lại không nghe. Gặp lúc quan Ngự sử tuần sát đi ngang, nghe tiếng la sai tìm bắt được Trương, Trương nói rõ sự thật. Quan Ngự sử tức giận phạt roi, rồi đốt điệp sớ cáo với thần. Đến đêm nằm mộng thấy một người mặc giáp vàng tới nơi "Đã xét Vương Lan vô tội mà chết đã thành quỷ tiên, làm việc chữa bệnh cũng là sự nhân đức, không thể coi là loại yêu tà quỷ mị. Nay vâng mệnh Thượng đế, đã trao cho y chức Thanh đạo sứ. Hạ Tài càn quấy bừa bãi, đã phạt giam vào núi Thiết Vi. Họ Trương không có tội gì, nên tha y ra". Quan Ngự sử tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn tha cho Trương. Trương khoác gói về làng, trong túi còn mấy trăm đồng vàng, bèn đưa một nửa tới nhà Vương, con cháu Vương từ đó trở nên giàu có.

237. Hải Công Tử (Hải Công Tử)

Đảo cổ Đông Hải (thuộc tỉnh Sơn Đông) có cây hoa nại đông ngũ sắc, thường nở hoa cả bốn mùa, song trong đảo không có ai ở, ít người lui tới. Trương sinh người huyện Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) tính hiếu kỳ, thích du ngoạn, nghe nóí cảnh ở đó đẹp bèn mang rượu thịt, tự chèo thuyền ra đảo chơi. Tới nơi thì gặp lúc hoa đang nở rộ, mùi hương lan khắp mấy dặm, thấy cây nại đông to hơn chục người ôm, cứ qua lại ngắm nghía mãi, lấy làm thích thú. Rồi mở bầu rót rượn, tiếc là không có ai cùng đi chơi. Chợt trong đám hoa có một cô gái đẹp hiện ra, áo hồng mắt sáng, xinh đẹp không ai sánh được, nhìn Trương cười nói "Thiếp tự cho rằng hứng thú của mình không tầm thường, không ngờ đã có kẻ đồng điệu tới trước". Trương ngạc nhiên hỏi là ai, nàng đáp "Thiếp là con hát ở huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), vừa theo Hải Công tử tới đây. Ông ta thích cảnh đẹp đi khắp nơi, thiếp mỏi chân nên nghỉ lại ở đây". Trương đang buồn về nỗi quạnh hiu, gặp được người đẹp rất vui, gọi tới cùng ngồi uống rượu.

Cô gái nói năng dịu dàng làm say lòng người, Trương rất yêu thích, nhưng sợ Hải Công tử tới nên không dám mặc tình vui vẻ. Chợt nghe gió thổi ào ào, cây cối gảy răng rắc. Cô gái vội xô sinh dậy nói "Hải Công tử tới rồi". Trương thắt lại áo kinh ngạc quay nhìn thì cô gái đã biến mất. Kế thấy một con rắn lớn từ đám cây rậm bò ra, to như cái thùng. Trương sợ, núp vào sau cây nại đông, mong là nó không nhìn thấy. Con rắn bò sát tới quấn cả người Trương vào gốc cây, cuốn luôn mấy vòng, hai tay Trương bị đè dưới hông không cục cựa gì được. Rắn ngẩng đầu thè lưỡi chọc vào mũi Trương, máu mũi chảy ra đọng thành vũng dưới đất, nó cúi xuống uống. Trương tự nghĩ ắt là phải chết, chợt nhớ trong lưng có mang gói thuốc độc, bèn lấy hai ngón tay móc thủng cái gói, hứng thuốc vào lòng bàn tay, rồi vươn cổ ra đưa bàn tay hứng máu mũi, giây lát được một bụm. Con rắn quả nhiên quay đầu uống máu trong lòng bàn tay, uống chưa hết chợt duỗi ra, đập đuôi mạnh như sét trúng thân cây, nửa thân cây trên đổ xuống, rắn cũng duỗi ra như cái xà nhà chết lăn trên mặt đất. Trương cũng rủn chân hoa mắt không đứng dậy nổi, lát sau mới tỉnh. Bèn chở xác con rắn về nhà, bệnh nặng mấy tháng, ngờ cô gái cũng là tinh rắn.

238. Đinh Tiền Khê (Đinh Tiền Khê)

Đinh Tiền Khê là người huyện Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), gia tư giàu có, hào hiệp trọng nghĩa, hâm mộ những kẻ du hiệp thời cổ, bị quan tư nã bắt. Đinh bỏ trốn, tới đất An Khâu gặp mưa, vào trú ở một nhà nọ, nhưng mưa suốt cả ngày không ngớt. Có một thiếu niên bước ra mời ăn cơm, cơm nước rất tử tế. Kế trời tối, Đinh nghỉ đêm luôn lại đó, thiếu niên cũng đem rơm cỏ cho ngựa đầy đủ. Đinh hỏi tên họ, thiếu niên đáp "Chủ nhân họ Dương, ta là cháu trong nhà. Chủ nhân ưa giao du, có việc đi vắng rồi, trong nhà chỉ có nương tử, nhà nghèo không tiếp đãi được chu đáo, xin khách tha lỗi". Hỏi tới nghề nghiệp chủ nhân, thì được biết chẳng buôn bán làm lụng gì, chỉ hàng ngày đánh bạc, kiếm ăn cò con.

Hôm sau lại mưa dầm dề. Đinh vẫn được lo cơm nước rất chu tất. Tối đến thiếu niên mang cỏ cho ngựa, bó cỏ ướt đẫm mà lại cọng dài cọng ngắn không đều, Đinh lấy làm lạ. Thiếu niên nói "Thưa thật với khách, nhà nghèo không có cỏ cho ngựa, đây là nương tử rút tranh lợp nhà xuống đấy thôi". Đinh lại càng lạ lùng, cho là họ rất thành thật. Sáng ra đưa tiền, thiếu niên không nhận, Đinh ép thiếu niên cầm vào giây lát lại cầm ra trả, nói "Nương tử nói không phải làm nghề bán quán, chủ nhân ra ngoài thường vài ba ngày chẳng mang theo một đồng, nay khách tới nhà sao lại lấy tiền?", Đinh ca ngợi từ biệt, dặn "Ta là Đinh Mỗ ở Chư Thành, khi nào chủ nhân về nhớ nói lại rằng lúc nào rảnh mời ghé chơi".

Mấy năm sau chẳng hề qua lại gì, gặp năm đói kém, Dương càng khổ cực, không còn cách nào sinh sống, vợ rụt rè khuyên tìm tới Đinh, Dương nghe theo. Tới nơi, xưng họ tên với người gác cổng, Đinh quên không nhớ, sai hỏi lại mới nhớ ra, vội chạy chân đất ra mời vào. Thấy Dương áo rách giày nát, bèn đưa vào phòng ấm, bày tiệc khoản đãi, cung kính phi thường. Hôm sau may sắm quần áo cho, Dương được ăn no mặc ấm rất cảm kích, nhưng càng lo lắng cho gia đình, cũng mong được chút gì cầm về. Ở mấy ngày liền, chẳng nghe Đinh nói tặng tiền gì cả, Dương nóng ruột nói với Đinh rằng "Thật không dám giấu diếm, lúc ta lên đường tới đây thì trong nhà chỉ còn chưa đầy một thăng gạo, nay ta được quá thương lo cho ăn cho ở, dĩ nhiên vui sướng, nhưng vợ con thì làm sao!". Đinh nói "Chuyện đó không lo, ta đã sắp xếp thay ông rồi, xin cứ thong thả ở chơi ít hôm, ta sẽ giúp tiền về". Bèn sai người gọi đám con bạc tới, bảo Dương làm cái đánh trọn đêm thắng được trăm đồng vàng, bèn tiễn Dương về Dương về tới nhà thấy phòng ốc bày biện đầy đủ, vợ mặc quần áo mới, có tỳ nữ hầu hạ, ngạc nhiên hỏi. Vợ đáp "Chàng đi được vài hôm thì có người chở vải vóc lúa gạo tới vác vào chất đầy nhà, nói là của ông khách họ Đinh tặng. Lại có thêm mười người tỳ nữ cho thiếp sai bảo" Dương cảm kích vô cùng, từ đó được đủ ăn, không làm nghề cũ nữa.

Dị Sử thị nói: Nghèo mà hiếu khách là điều hay ở đám rượu chè cờ bạc, nhưng người vợ của họ Dương là lạ lùng nhất. Còn nhận ơn của người mà không báo sao đáng là người, nhưng Đinh mỗ quả là kẻ cái ơn một bữa cơm cũng không quên vậy.

239. Con Chuột Có Nghĩa (Nghĩa Thử)

Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột ra kiếm ăn một con bị rắn nuốt mất. Con kia trợn mắt như hạt tiêu đứng nhìn, có vẻ rất căm giận. Rắn ăn no rồi, ngoằn ngoèo bò vào hang, vừa lọt vào hơn một nửa thì chuột lao tới cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui ra, chuột lanh lẹn chạy trốn, rắn đuổi không kịp bèn quay lại, bò vào hang thì chuột lại tới cắn vào đuôi như trước. Rắn vào thì theo cắn, rắn ra thì bỏ chạy, cứ thế hồi lâu, rắn trở ra mửa con chuột chết ra trên mặt dất. Chuột tới ngửi ngửi, kêu chít chít như khóc thương rồi tha đi. Bạn ta là Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành (Bài hành Con chuột có nghĩa) về chuyện này.

240. Quỷ Nhập Tràng (Thi Biến)

Huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông Mỗ ở thôn Thái Điếm. Thôn cách huyện thành năm sáu dặm, cha con ông ta dựng quán cạnh đường cho người buôn bán qua lại nghỉ trọ, có bốn người phu xe chở hàng vẫn vào trọ ở đó. Một hôm trời rất tối bốn người cùng về tới thì quán trọ đã đầy khách. Bốn người không biết làm sao, cứ nài nỉ xin cho trọ lại. ông Mỗ ngẫm nghĩ tìm được một chỗ, nhưng ngần ngại sợ không hợp với khách. Bốn người lại nói chỉ cần có chỗ ngả lưng là đủ chứ không dám chọn lựa khen chê gì cả. Lúc ấy con dâu của ông Mỗ vừa chết, xác còn đặt trong nhà bên kia đường, con trai đi mua quan tài chưa về, ông thấy trong nhà còn rộng bèn dắt khách qua đó nghỉ.

Khách vào tới thì thấy trên bàn có ngọn đèn leo lét, phòng trong buông rèm, cái xác được đắp chăn đậy mặt nằm đó, chỗ ngủ bên ngoài thì có bốn cái giường đặt liền nhau. Mọi người đều đã mệt mỏi, lập tức lên nằm ngủ khò, chỉ còn một người mơ mơ màng màng chưa ngủ hẳn. Chợt nghe trong phòng người chết có tiếng cót két, vội mở mắt ra nhìn, thì thấy rõ dưới ánh đèn cái xác người đàn bà đã giở chăn ngồi dậy. Kế đó cái xác bước xuống đất từ từ bước ra chỗ đám khách nằm ngủ, sắc mặt lợt lạt vàng khè, vén tấm vải che mặt lên trán, cúi xuống trước giường lần lượt thổi vào mặt ba người kia. Y hoảng hốt, sợ sẽ thổi tới mình, vội kéo chăn trùm kín đầu nhắm mắt nín thở nghe ngóng.

Không bao lâu người đàn bà cũng tới thổi vào y rồi đi trở vào. Y nghe tiếng rèm sột soạt, hé chăn ra nhìn trộm thấy cái xác đã nằm lại trên giường như cũ. Y sợ quá không dám lên tiếng, ngầm lấy chân đạp vào mấy người kia thì họ đều nằm yên không động đậy, nghĩ rằng không còn cách nào, chẳng bằng mặc áo trốn đi. Vừa trở dậy mặc áo thì tiếng cót két trong kia lại vang lên, y hoảng sợ vội nằm xuống kéo chăn che kín đầu, thấy người đàn bà lại tới thổi liên tiếp, hồi lâu mới trở về. Giây lát nghe giường trong có tiếng động, biết là cái xác đã nằm xuống, bèn rón rén mặc áo quần trong chăn, rồi nhảy xuống đất bỏ chạy. Cái xác vùng dậy định đuổi, vừa ra khỏi màn thì y đã tung cửa chạy rồi.

Cái xác đuổi theo, y vừa chạy vừa la, muốn đập cửa quán gọi ông Mỗ dậy nhưng sợ không kịp, bèn cứ theo đường về phía huyện thành ráng sức chạy. Tới cửa đông huyện thành, thấy có ngôi chùa, nghe thấy tiếng gõ mõ, vội vàng chạy tới đập của. Đạo nhân trong chùa thấy có chuyện lạ, lại không mở cửa ngay, y còn chờ thì cái xác đã đuổi tới còn cách có một thước, y càng hoảng hốt. Ngoài cổng chùa có cây bạch dương chu vi khoảng bốn năm thước, y bèn chạy tới đó ẩn núp, cứ cái xác vòng bên này thì y chạy qua bên kia, cái xác càng giận dữ song khách cũng dần dần thấm mệt. Cái xác dừng lại, y đổ mồ hôi thở hổn hển, nép vào gốc cây. Cái xác chợt lao qua, giơ hai tay từ ngoài nhảy xổ vào chụp, y kinh hãi ngã xuống đất, cái xác chụp hụt, ôm gốc cây đứng sững ra đó.

Đạo nhân trong chùa nghe ngóng hồi lâu thấy yên ắng, bèn từ từ mở cửa ra, nhìn thấy y nằm trên mặt đất, nghĩ rằng đã chết, nhưng thấy tim còn đập thoi thóp bèn cõng vào, đến sáng mới tỉnh. Đạo nhân lấy nước cho uống rồi hỏi han, y thuật lại mọi việc. Lúc ấy đã xong hồi chuông sớm, trời đã sáng mờ mờ, đạo nhân ra xem chỗ gốc cây, quả thấy cái thây người đàn bà đứng sững ở đó, cả sợ bèn báo quan. Quan đích thân tới tra hỏi khám nghiệm, sai gỡ tay cái xác ra khỏi gốc cây, mãi vẫn không được. Nhìn kỹ lại thì tám ngón tay đều cong lại như cái móc cắm lút vào thân cây, lại sai mấy người cùng hết sức giật mạnh mới gỡ ra được, nhìn lại thì chỗ ngón tay bấu vào trong gỗ sâu hoắm như lấy dùi đóng vào. Quan sai người tới nhà ông Mỗ dò xét, thì ở đó đang ồn ào rầm rĩ vì xác mất khách chết. Người sai dịch thuật lại chuyện, ông Mỗ bèn đi theo tới chùa, lãnh cái xác về. Người khách khóc nói với quan huyện rằng "Bốn người cùng ra đi với nhau, nay chỉ có một người trở về, kể lại chuyện này làm sao làng xóm tin được?". Quan huyện bèn phát công văn sai người đưa y về quê.

241. Phun Nước (Phún Thủy)

Tiên sinh Tống Thúc Ngọc người huyện Lai Dương (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở kinh, phủ đệ ở một chỗ rất hoang vắng. Một đêm, hai người tỳ nữ cùng mẹ tiên sinh là Thái phu nhân ngủ ở trong phòng, chợt nghe sau viện có tiếng phùn phụt như thợ may phun nước lên vải để cắt áo vậy. Thái phu nhân bảo một người tỳ nữ dậy xem, người tỳ nữ núp sau cửa sổ nhìn ra thì thấy một bà già người thấp lưng gù, tóc bạc phất phơ, đội một cái mũ chụp cao chừng hai thước, đi vòng quanh nhà, co ro như con hạc, vừa đi vừa phun, mãi vẫn không hết nước trong mồm. Người tỳ nữ kinh ngạc trỡ vào bẩm, Thái phu nhân cũng ngạc nhiên dậy xem, hai người tỳ nữ đỡ ra cạnh cửa sổ cùng nhìn.

Bà già chợt tới sát cửa sổ, phun thẳng vào trong, giấy dán cửa sổ rách toạch, ba người sợ hãi ngả lăn ra đất, nhưng người trong nhà đều không biết. Mặt trời lên cao, người trong nhà đều tụ họp, gõ cửa phòng không thấy trả lời mới hoảng sợ, vội nhấc cánh cửa lên mà vào, thấy một chủ hai tớ đều nằm chết cứng. Sờ tới thấy một tỳ nữ dưới ngực còn ấm, vội đỡ lên cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh, kể lại mọi việc. Tiên sinh tới, đau đớn phẫn hận muốn chết, bèn sai theo vết nước tìm tới một chỗ. Đào xuống hơn ba thước thì lộ ra mớ tóc trắng, lại đào nữa thì thấy có một cái xác, hình dung giống như người tỳ nữ đã trông thấy, sắc mặt vẫn tươi tắn như còn sống. Tiên sinh sai đánh, thì xương thịt đã nát hết, bên dưới lớp da chỉ toàn là nước trong mà thôi.

242. Con Quái Trong Núi (Sơn Tiêu)

Tôn Thái Bạch từng kể ông cố của ông đọc sách trong chùa Liễu Câu ở Nam Sơn, có lần tháng tư về nhà, hơn chục ngày mới trở lại. Mở cửa vào thì thấy bụi bặm đầy bàn, tơ nhện ngập song, bèn sai kẻ hầu quét dọn, đến tối mới xong. Kế dọn giường trải chiếu, gối đầu nằm bên song nhìn ra cửa sổ ngắm trăng. Trằn trọc một lúc thì đêm đã yên ắng, chợt có tiếng gió ào ào nổi lên, cổng chùa rít kèn kẹt. Đang nghĩ một mình rằng chắc sư trong chùa quên cài cổng, thì tiếng gió đã tới cạnh phòng ở, kế đó cửa phòng mở tung. Còn đang ngờ vực chưa biết là gì thì tiếng động đã vào tới phòng, lại có tiếng dép quèn quẹt tới sát phòng ngủ, bắt đầu thấy sợ thì cửa phòng ngủ mở ra. Vội nhìn ra, thì thấy có một con quỷ lớn khom lưng bước vào, tiến tới đứng sừng sũng ở đầu giường, cao ngang xà nhà, mặt vàng như trái dưa già, mắt sáng lóng lánh nhìn khắp bốn vách, há miệng to như cái chậu, răng chơm chởm dài khoảng ba tấc, liếm mép nuốt nước bọt ừng ục, tiếng rền cả phòng. Ông sợ quá, nhưng lại nghĩ nó chỉ đứng cách mình trong gang tấc, không còn cách chạy trốn nữa, chẳng bằng nhân lúc sơ hở mà đâm. Bèn ngầm rút thanh bội đao dưới gối ra chém hết sức trúng vào bụng nó, nghe leng keng như chém vào đá. Con quỷ cả giận, vươn móng vuốt vồ ông, ông co người lại tránh, quỷ vồ trúng cái chăn, giật lấy rồi căm tức bỏ đi. Ông bị kéo rơi xuống giường, nằm dưới đất la ầm lên, người hầu cầm đèn chạy tới thì thấy cửa phòng vẫn đóng như cũ. Trèo cửa sổ vào trông thấy cả sợ, bèn đỡ ông lên giường, ông mới kể lại chuyện. Mọi người cùng đi tìm kiếm thì thấy cái chăn vắt ở của phòng ngủ, đem ra cửa mở xem thì thấy vết móng to như cái rổ, năm dấu ngón tay xuyên suốt từ bên này qua bên kia. Trời sáng ông không dám ở lại nữa, cắp tráp về nhà, sau tới hỏi sư trong chùa, thì không thấy có gì khác lạ nữa.

243. Con Quái Trong Đống Lúa (Thu Trung Quái)

Ông họ An ở huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) chăm việc đồng áng, gặp vụ lúa thu chín, gặt để thành đống trên bờ ruộng. Lúc ấy ở thôn bên cạnh có kẻ đi trộm lúa, nên ông sai đầy tớ nhân đêm có trăng chở thóc về làng nộp thuế, đong đếm xong thì trở lại, còn tự mình ở lại canh giữ, gối đầu lên cái mác ngủ cạnh đống lúa. Vừa mới thiu thiu, chợt nghe có tiếng người đạp lên lúa sàn sạt đi tới, ngỡ là bọn trộm, vội ngóc đầu dậy nhìn thì thấy một con quỷ cao hơn một trượng, mặt mũi hung dữ tới sát bên cạnh. Ông phát hoảng không biết làm sao, bèn nhảy bật dậy đâm bừa, con quỷ kêu rống như sấm sét bỏ chạy. Ông sợ nó quay trở lại, vác cái mác chạy về, gặp đầy tớ dọc đường, thuật lại chuyện mới rồi bảo họ đừng ra ruộng nữa, song mọi người cũng chưa tin lắm.

Hôm sau đang phơi thóc, chợt nghe có tiếng gầm vang tới, ông hoảng sợ nói "Con quỷ tới rồi", rồi bỏ chạy, mọi người cũng chạy tán loạn. Một lúc sau mới dần dần tụ họp lại, ông sai mọi người mang cung nỏ để rình. Hôm sau quả nhiên con quỷ tới, mọỉ người cùng bắn tên ra, quỷ sợ chạy mất, hai ba ngày không tới nữa. Khi đưa hết lúa về kho xong, rơm rạ còn vứt bỏ ngổn ngang ngoài ruộng, ông sai đầy tớ đánh thành đống, tự mình trèo lên xem xét, đứng cao hơn mặt đất vài thước, chợt nhìn ra xa hoảng sợ kêu lên "Con quỷ tới rồi!". Mọi người đang vội vàng tìm cung nỏ thì con quỷ đã xông tới sát ông, ông ngã quay ra, nó bèn cắn vào mặt rồi bỏ đi. Mọi người trèo lên cây rơm xem, thì trên mặt ông mất một miếng xương to bằng bàn tay, hôn mê không biết gì nữa, cõng về tới nhà thì chết. Sau đó không thấy nó nữa, không biết đó là loại quỷ quái gì.

244. Chàng Sáu Vương (Vương Lục Lang)

Họ Hứa ở phía bắc thành huyện Truy (tỉnh Sơn Đông) làm nghề đánh cá. Đêm nào cũng mang rượu tới bờ sông, uống rồi mới kéo lưới, uống rượu thì rót một chén xuống đất khấn "Ma da trên sông tới mà uống", cứ thế thành lệ. Người khác đánh cá có khi không được chút gì, chứ riêng Hứa thì đêm nào cũng được đầy giỏ. Một đêm vừa đem rượu ra uống một mình thì có một thiếu niên tới quanh quẩn cạnh đó. Hứa mời cùng uống, vui vẻ với nhau, trọn đêm chờ chẳng được con cá nào, Hứa rất thất vọng. Thiếu niên đứng dậy nói "Xin xuống dưới dòng xua cá lên cho ông", rồi nhẹ nhàng bước đi. Giây lát quay lại nói "Cá tới nhiều rồi đấy!" quả nhiên nghe tiếng cá đớp móng vang dưới sông, cất lưới lên thì được vài con dài cả thước. Hứa mừng quá, cám ơn định về, đưa cá biếu thì thiếu niên không nhận, nói "Nhiều phen được cho uống rượu ngon rồi, bấy nhiêu đâu đã đủ để báo đáp? Nếu như không ghét bỏ, xin cứ cho được uống rượu thế này thôi!". Hứa nói "Mới uống với nhau có một lần, sao lại nói là nhiều phen? Còn nếu chiếu cố tới nhau mãi, thì đó là điều ta rất muốn, chỉ thẹn không có gì để tỏ bày tình cảm thôi". Rồi hỏi họ tên, thiếu niên đáp "Ta họ Vương, không có tên tự, gặp nhau cứ gọi là chàng Sáu Vương được rồi", rồi từ biệt nhau.

Sáng ngày Hứa bán cá, mua rượu nhiều hơn, tối đến tới bờ sông đã thấy thiếu niên tới trước chờ đó. Lại cùng vui vẻ uống rượu với nhau, được vài chén, vội đứng dậy đi xua cá cho Hứa. Cứ thế được nữa năm, một hôm chợt nói với Hứa "Được quen biết nhau, tình thân còn hơn cả ruột thịt, nhưng sắp phải xa nhau rồi" lời lẽ rất ảo não. Hứa ngạc nhiên hỏi, thiếu niên định đáp lại thôi, mấy lần mới nói "Thân tình như hai người chúng ta, nói ra thì chắc ông không ngờ sợ chăng? Nay sắp chia tay, nói thật cũng chẳng hề gì, ta thật là ma đây. Lúc sống vốn hay rượu, say quá mà chết đuối, mấy năm làm ma ở đây rồi. Trước kia ông đánh cá được nhiều hơn người khác, đều là do ta xua cá vào để đền đáp cái ơn rót rượu xuống đất cho uống đấy. Ngày mai nghiệp căn đã hết, sẽ có người thay, ta sắp đi đầu thai, chỉ còn gặp nhau đêm nay, nên không khỏi bùi ngùi". Hứa thoạt nghe rất sợ, nhưng gần gũi đã lâu nên không khiếp hãi, lại vì thế mà thương cảm, rót rượu mời nói "Chàng Sáu uống chén này đi, đừng đau đớn nữa? Gặp nhau rồi lại chia tay, kể cũng đáng buồn, nhưng thoát khỏi nghiệp chướng chính là điều nên chúc mừng, buồn bã thì không phải lẽ", bèn cùng nhau uống thật say. Hứa hỏi người thay là ai, đáp "Ông cứ chờ bên sông mà nhìn, trưa mai sẽ có người đàn bà qua sông chết đuối, là kẻ thay ta đấy!". Nghe gà trong làng đã gáy, hai người gạt lệ chia tay.

Hôm sau Hứa chờ bên sông để xem chuyện lạ. Quả thấy có người đàn bà bồng con tới, tới bờ sông thì khuỵu chân ngã xuống nước, đứa bé văng lên bờ, giơ tay quẫy chân khóc ầm lên. Người đàn bà trồi lên hụp xuống vài lần, chợt vùng vẫy bám được vào bờ trèo lên, nằm lăn ra đất thở dốc một lúc rồí trở dậy bồng con đi. Lúc người đàn bà rơi xuống sông, Hứa thấy bất nhẫn muốn nhảy xuống cứu, nhưng lại nghĩ đây là kẻ thay cho chàng Sáu được đi đầu thai, nên đứng lại không tới cứu nữa. Đến khi người đàn bà tự lên được bờ sông, Hứa ngờ rằng lời chàng Sáu nói không đúng. Tối đến ra đánh cá ở chỗ cũ, lại thấy thiếu niên tới, nói "Từ nay trở đi lại được gặp nhau, không nói chuyện chia tay nữa". Hứa hỏi tại sao, đáp "Người đàn bà ấy đúng là sắp phải thay ta, nhưng ta thương đứa bé còn đang tuổi phải bồng ẵm, bắt một người thay mà hại hai mạng sống nên tha cho chị ta. Người thay chẳng biết đến bao giờ mới có nữa, có khi cái duyên giữa hai người bọn ta chưa dứt chăng?". Hứa cảm động than thở khen rằng "Tấm lòng nhân hậu thương người như thế có thể thấu tới Thượng đế", từ đó lại gặp gỡ nhau như trước.

Vài hôm sau thiếu niên lại tới từ biệt, Hứa nghĩ rằng chắc lại có kẻ thay. Thiếu niên nói "Không phải thế đâu, một ý niệm hôm trước quả làm cảm động lòng trời, nay đã trao cho ta chức thổ thần đất Ô Trấn huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông), sáng mai là ngày phải đi nhậm chức. Nếu ông không quên bạn cũ, xin tới thăm nhau một lần, đừng ngại xa xôi khó nhọc". Hứa chúc mừng nói "Ông ngay thẳng mà làm thần, quá đủ để an ủi lòng người, nhưng thần người khác nẻo, dẫu ta không ngại xa xôi khó nhọc, nhưng làm sao được gặp nhau?". Thiếu niên đáp "Cứ tới đừng lo", dặn dò mấy lần rồi đi. Hứa về nhà, lập tức sắp xếp hành trang lên đường, vợ cười nói "Cách đây vài trăm dặm thì quả có một chỗ tên gọi như thế thật, có đều e rằng tượng đất không nói chuyện được với nhau thôi". Hứa không nghe, đi tới Chiêu Viễn, hỏi thăm người ở đó quả có đất Ô Trấn, bèn tìm tới đất ấy, vào nghỉ ở quán trọ, hỏi thăm đền thờ Thổ thần ở đâu. Chủ nhân kinh ngạc hỏi "Khách họ Hứa phải không?". Hứa đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Lại hỏi "Khách ở huyện Truy phải không?", đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Chủ nhân không đáp, vội vã bước ra ngoài. Giây lát thì đàn ông bế con, đàn bà nép ở cửa chen chúc rần rần kéo tới đứng đông đặc phía ngoài.

Hứa ngạc nhiên, mọi người bèn nói "Mấy đêm trước thần báo mộng rằng có người bạn họ Hứa ở huyện Truy Xuyên sắp tới thăm, phải lo lắng giúp đỡ, bọn ta đã chờ lâu rồi". Hứa cũng lấy làm lạ lùng, bèn tới đền tế, khấn rằng "Sau khi chia tay ông, đêm ngày không quên nên lặn lội đường xa cho trọn lời hứa, lại được ơn báo mộng cho dân biết để tiếp đón, tình nghĩa xin ghi tạc trong lòng, song thẹn lễ vật đơn sơ, chỉ có chén rượu đục, nếu không ghét bỏ, xin như ngày còn uống rượu với nhau bên sông", khấn xong, đất giấy tiền vàng bạc. Lập tức có một cơn gió nổi lên trước bàn thờ vi vút hồi lâu mới tan. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy thiếu niên tới, áo mão rực rỡ khác hẳn ngày trước, cảm tạ nói "Đường xa vất vả tới thăm nhau, thật ta vừa mừng vừa tủi, nhưng hiện đã giữ chức mọn, không tiện hiện thân gặp mặt, gần trong gang tấc mà như cách trở núi sông, rất là đau lòng. Những cư dân ở đây có chút lễ mọn khoản tặng thay ta, lúc nào ông về, cũng xin sẽ theo tiễn".

Ở được vài hôm, Hứa muốn về, mọi người khẩn khoản lưu lại, sáng rước chiều mời, mọi người báo tin cho nhau, tranh nhau mang lễ vật tặng tiễn, chưa đầy bữa sáng vật tặng đã đầy túi, già trẻ đều tụ họp đưa ra tới ngoài thôn. Chợt có một con gió trốt nổi lên cuốn theo tới hơn mười dặm, Hứa vái dài nói !Xin chàng Sáu tự bảo trọng, đừng vất vả tiễn xa như thế. Lòng ông nhân ái vốn có thể tạo phúc cho dân một phương, cố nhân không phải dặn dò gì nữa". Trận gió còn cuốn quanh hồi lâu mới tan, dân làng cũng kinh ngạc than thở quay về. Hứa về tới nhà cũng hơi dư dật, không phải làm nghề đánh cá nữa. Về sau gặp người ở Chiêu Viễn, hỏi thăm thì được biết Thổ thần ở đó nổi tiếng linh thiêng. Cũng có người nói rằng đó là Thổ thần ở trang Thạch Khanh huyện Chương Khâu, chưa rõ thuyết nào là đúng.

Dị Sử thị nói: Thân trên đường mây xanh mà lòng không quên bạn nghèo hèn, nhờ thế mới được làm thần đấy. Ngày nay những kẻ quý hiển ngồi xe có mấy ai nhìn nhận bạn nghèo đâu! Quê ta có người tên Lâm Hạ, nhà rất nghèo nhưng có người bạn thuở nhỏ nhận chức quan béo bở, cho rằng tìm tới sẽ được giúp đỡ bèn hết sức kiếm tiền ăn đường, bôn ba ngàn dặm, nhưng người bạn đón tiếp khác hẳn với điều y mong muốn, phải vét túi bán ngựa mới về được tới nhà. Đám em họ hay đùa, nhại thiên Nguyệt lệnh trong Lễ ký đặt lời chọc ghẹo rằng "Đến tháng ấy, ca ca về, mũ lông điêu xơ xác, dù lọng không giương, ngựa cưỡi hóa thành lừa, giày bắt đầu há mõm", nghĩ cũng là một chuyện buồn cười.

245. Người Diễn Trò Rắn (Xà Nhân)

Anh Mỗ ở Sơn Đông sống bằng nghề diễn trò rắn, dạy được hai con rất thuần, đều màu xanh. Con lớn thì đặt tên là Đại Thanh, còn nhỏ gọi là Nhị Thanh. Con Nhị Thanh trên đầu có một cái chấm đỏ, đặc biệt khôn ngoan, lúc diễn trò bảo gì là làm nấy, người diễn trò rắn yêu quý khác hẳn với những con khác. Một năm nọ con Đại Thanh chết, y định tìm con khác thay nhưng chưa gặp dịp rảnh rỗi. Một đêm trọ lại ở chùa trong núi, sáng ra mở giỏ thì con Nhị Thanh cũng đâu mất, y lo buồn muốn chết, tìm tòi kêu gọi mà không thấy tăm hơi, lùm cây bụi cỏ nào cũng sục vào tìm, nghĩ rằng trước nay nó luôn trở về, vì vậy cứ ngồi đợi nó tự về. Mặt trời đã lên cao, cũng đã tuyệt vọng, bèn thất thểu lên đường. Đi được vài bước, nghe trong bụi cây có tiếng sột soạt, ngạc nhiên quay lại nhìn, thì thấy con Nhị Thanh bò tới. Y mừng như bắt được ngọc báu, đứng lại ở bên đường đợi, con rắn cũng dừng lại. Nhìn về phía sau thì thấy một con rắn nhỏ đi theo nó, bèn vỗ về nói "Ta cứ tưởng ngươi đi luôn rồi. Bạn nhỏ này là ngươi dắt về phải không?". Bèn lấy thức ăn ra cho ăn, cho cả con rắn nhỏ ăn nữa, con rắn nhỏ tuy không bỏ đi nhưng có có vẻ sợ sệt không dám ăn. Nhị Thanh ngậm thức ăn cho nó, dáng như chủ nhà mời khách. Người nuôi rắn cũng đút cho, nó bèn ăn. Ăn xong nó theo Nhị Thanh chui vào giỏ, y vác về, dạy cho làm trò. Dần dà nó cũng vào khuôn phép không khác gì Nhị Thanh, y đặt tên là Tiểu Thanh, mang đi diễn trò khắp nơi, thu được rất nhiều tiền.

Đại để những người diễn trò rắn chỉ dùng những con dài hai thước là thôi, dài hơn thì quá nặng phải thay bằng con khác, nhưng vì con Nhị Thanh quá hay nên y chưa bỏ. Hai ba năm sau, nó đã dài hơn ba thước, nằm chật cả cái giỏ, y bèn quyết thả nó đi. Một hôm, đi tới Đông Sơn ở huyện Truy, bèn cho nó ăn thức ăn ngon, khấn thầm rồi thả ra. Nó đi rồi nhưng giây lát lại quay lại, cứ ngoằn ngòeo bò quanh cái giỏ. Người diễn trò rắn xua tay nói "Đi đi thôi, trên đời không có tiệc vui trăm năm không tan, từ nay ngươi náu thân nơi hang lớn, ắt sẽ thành thần long, đâu có thể ở trong giỏ được?". Rắn bèn đi, y đưa mắt nhìn theo, lại thấy nó quay trở lại, xua cũng không chịu đi, cứ lấy đầu cọ cọ vào cái giỏ, con Tiểu Thanh ở trong cũng quẫy lộn soàn soạt. Y chợt hiểu, nói "Ngươi muốn từ biệt Tiểu Thanh phải không?" Bèn mở giỏ, Tiểu Thanh bò ra, hai con gác đầu thè lưỡi như nói chuyện dặn dò với nhau, rồi cùng bò đi. Y đang nghĩ rằng chắc con Tiểu Thanh cũng không về, thì thấy nó lặng lẽ trở lại một mình bò vào nằm trong giỏ.

Từ đó theo hoàn cảnh mà tìm, nhưng không được con nào ưng ý, mà con Tiểu Thanh cũng lớn dần, không thể diễn trò được nữa. Về sau được một con cũng hơi thuần nhưng không bằng con Tiểu Thanh, mà con Tiểu Thanh đã to bằng cánh tay đứa trẻ con rồi. Trước là con Nhị Thanh ở trong núi, những người đốn củi thường trông thấy, vài năm sau lại dài thêm mấy thước to bằng cái tô, thường hay ra đuổi người, nên người đi đường e dè ít dám qua lại nơi ấy. Một hôm người diễn trò đi ngang, con rắn lao ra như gió, y hoảng sợ bỏ chạy, rắn đuổi theo càng gấp, quay lại thì thấy nó đã gần sát tới nơi rồi. Nhìn thấy chấm đỏ trên đầu mới nhận ra là con Nhị Thanh, bèn buông giỏ xuống kêu "Nhị Thanh, Nhị Thanh!". Rắn dừng lại, ngẩng đầu nhìn một lúc rồi phóng tới quấn lấy y như lúc còn diễn trò ngày trước. Y biết nó không có ý hại mình, nhưng nó quá to nặng, y đứng không vững ngã lăn xuống đất kêu lên, nó bèn buông ra. Lại lấy đầu cọ cọ vào cái giỏ, y hiểu ý, mở giỏ thả Tiểu Thanh ra. Hai con rắn gặp nhau quấn chặt lấy nhau một lúc lâu mới rời. Người nuôi rắn bèn nói với Tiểu Thanh "Ta đã muốn thả ngươi từ lâu, nay thế là có bạn rồi đấy", rồi nói với Nhị Thanh "Nguyên là ngươi dắt nó về, nay cứ dẫn nó đi. Nhưng dặn các ngươi một câu, là núi sâu chẳng thiếu cái ăn, đừng ra quấy nhiễu người đi đường mà phạm tội với trời". Hai con rắn cúi đầu như hứa vâng lời rồi cất mình đi, con lớn trước con nhỏ sau, qua khỏi rừng cây là nơi chia tay, người diễn trò rắn đứng nhìn theo cho đến khi chúng khuất dạng mới rời đi. Từ đó người qua lại trên đường lại được yên ổn, không rõ chúng đi đâu.

Dị Sử thị nói: Rắn là một loài vật ngu xuẫn mà có ý quyến luyến người xưa, lại còn có thể theo sự dạy bảo, như là đủ cả trí khôn. Chỉ quái lạ cho những kẻ rõ ràng là người, mà đi với bằng hữu mười năm ân nhân mấy đời lại nghĩ tới chuyện quăng xuống giếng, ném đá lên, nếu không như thế thì lúc đau ốm cần thuốc thang lại nghênh ngang không đoái hoài gì tới mà còn giận dữ thù hằn, cũng thẹn với rắn kia lắm vậy.

246. Thần Mưa Đá (Bộc Thần)

Ông Vương Quân Thương đi nhậm chức ở Sở Trung (tỉnh Hồ Nam), định lên núi Long Hổ để làm lễ ở đền Thiên sư*. Tới hồ, vừa lên thuyền, lập tức có một người đi chiếc thuyền nhỏ tới, sai người trong thuyền báo xin gặp. Ông nhìn thấy người ấy tướng mạo khôi vĩ, rút trong bọc ra một tấm bài lệnh của Thiên sư nói "Thiên sư nghe nói ông sắp tới thăm, sai ta mang cung nỏ đi trước dẹp đường". Ông ngạc nhiên về việc biết trước chuyện chưa xảy ra, càng cho là thần kỳ, bèn thành tâm lên núi, Thiên sư bày tiệc khoản đãi. Những kẻ phục dịch thì áo mão râu tóc phần lớn khác với người thường, người xuống đón ông thì đứng hầu một bên. Giây lát, người ấy nói nhỏ với Thiên sư, Thiên sư nói với ông rằng "Đây là người cùng quê với tiên sinh, tiên sinh không nhận ra sao?". Ông hỏi là ai, Thiên sư đáp "Đây là người mà thế nhân vẫn gọi là Bộc thần (thần làm mưa đá) Lý Tả Xa đấy". Ông ngạc nhiên đổi cả sắc mặt. Thiên sư nói "Vừa được chỉ của Thượng đế sai đi làm mưa đá, nên xin chào ông đấy".

*Thiên Sư: tức Trương Đạo Lăng thời Hán, được Đạo giáo tôn làm Thiên sư, con cháu ông về sau cũng được tôn là Thiên sư.

Ông hỏi làm mưa đá ở đâu, người ấy đáp "Ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông)". Ông thấy đất ấy sát nơi mình trấn nhậm, bèn rời ghế đứng dậy xin tha cho. Thiên sư nói "Đây là sắc lệnh của Thượng đế, mưa đá có số mục cả, làm sao tha miễn gì được". Ông nài nỉ không thôi, Thiên sư cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi quay dặn người ấy rằng "Cứ làm mưa đá ở nơi rừng núi, đừng để thiệt hại hoa màu của dân là được", lại nói "Khách quý đang ngồi đây, lên đường dùng văn không được dùng võ". Vị thần bước đi, ra tới giữa sân chợt dưới chân sinh mây, hơi mù nghi ngút cuốn trên đất. Khoảng một khắc sau hết sức nhảy lên, mới chỉ cao hơn cây cối ở sân, lại nhảy lên, cao hơn lầu gác, ầm một tiếng sét nổ, bay luôn về phía bắc, nhà cửa lung lay, mâm bát xô lệch. Ông kinh hãi hỏi "Cứ thần ra đi là làm sấm sét à?". Thiên sư đáp "Vừa dặn trước nên y mới đi từ từ, nếu không thì đất bằng chợt dậy sét, đi luôn ngay rồi đấy". Ông cáo biệt về, ghi lại ngày tháng, sai người qua Chương Khâu hỏi, quả hôm ấy có mưa đá rất lớn, đầy cả suối khe, nhưng hoa màu ngoài ruộng chỉ hư hại một ít.

247. Tội Nghiệt Nhà Sư (Tăng Nghiệt)

Trương sinh chết bất ngờ, hồn đi theo quỷ sứ tới gặp Diêm Vương. Diêm Vương tra lại sổ, thấy quỷ sứ bắt lầm bèn nổi giận trách mắng, bắt phải đưa về. Trương xuống khỏi điện, xin riêng với quỷ sứ cho được đi xem địa ngục, quỷ dắt đi khắp nơi ngục Cửu U, núi kiếm vạc dầu cho xem, tới đâu cũng giải thích tường tận. Sau cùng tới một chỗ, thấy có nhà sư bị buộc vào đùi treo ngược lên, đau đớn kêu gào muốn đứt hơi, tới gần nhìn thì ra là anh mình. Trương hoảng sợ, hỏi vì tội gì mà đến nông nổi này, quỷ sứ đáp "Người này làm sư, đi khuyến hóa tiền bạc các nơi lại đem đánh bạc chơi đĩ ráo cả, nên phạt như thế. Muốn thoát tai ách phải sám hối thôi". Trương được sống lại, nghĩ là anh mình đã chết. Lúc ấy người anh tu ở chùa Hưng Phúc, bèn tìm tới xem. Vào tới cổng đã nghe tiếng anh đau đớn kêu la, vào tới phòng thì thấy trên đùi nổi mụn nhọt to vỡ ra, máu chảy dầm dề, đang nằm buộc chân treo lên vách, từa tựa như cảnh mình đã thấy bị treo ngược dưới âm phủ vậy. Sinh hoảng sợ hỏi, người anh làm sư đáp "Treo lên còn đỡ, nếu không thì đau thấu tim gan". Trương nhân đó thuật lại chuyện mình mắt thấy tai nghe, nhà sư cả sợ, bỏ hết rượu chè, kính cẩn tụng kinh, được nửa tháng thì khỏi, sau trở thành một nhà sư thanh tu.

Dị Sử thị nói : Âm phủ xa xôi, kẻ ác cứ lấy đó để tự trấn an, mà không biết cái họa sờ sờ chính là sự trừng phạt của cõi u minh, có thể không cẩn thận sao!

248. Ba Kiếp (Tam Sinh)

Hiếu liêm họ Lưu nhớ được chuyện kiếp trước, là bạn đồng khoa với tiên huynh là Văn Phấn công, thường kể lại rất rõ ràng. Một kiếp ông là con nhà sĩ hoạn nhưng làm nhiều điều xấu xa, chết năm sáu mươi hai tuổi. Lúc ông vừa vào gặp, được Diêm Vương tiếp đãi theo lễ đối với người lớn tuổi, cho ngồi, mời uống trà. Nhìn thấy nước trà trong veo, tới giữa chén lại đục như keo, ông thầm nghi là thuốc lú, nhưng làm sao từ chối không uống được? Bèn nhân lúc Diêm Vương ngoảnh qua chỗ khác, lén đổ xuống góc bàn rồi làm như đã uống cạn. Lát sau bản tội lỗi kiếp trước của ông được kê ra, Diêm Vương nổi giận, sai quỷ sứ lôi xuống, phạt đầu thai làm ngựa, liền bị quỷ sứ trói lại dẫn di.

Tới một nhà nọ, bậc cửa rất cao không leo qua được, ông đang loay hoay, quỷ đã ra sức đánh mạnh, ông đau quá nhảy luôn lên, nhìn lại thì thấy mình đã đứng trong chuồng ngựa. Nghe tiếng người nói "ngựa đen sinh được ngựa đực con", biết rằng mình đã đầu thai làm ngựa, nhưng không sao nói được. Thấy đói quá, bất đắc dĩ phải tới bú ngựa mẹ. Được bốn năm năm thì trở nên to lớn nhưng rất sợ bị đánh đập, thấy roi là chạy. Người chủ cưỡi bao giờ cũng bỏ đinh thúc ngựa nên không khổ lắm, nhưng tên mã phu thì cứ siết chặt đai da mà cưỡi, hai gót cùng thúc, đau không chịu nổi. Vì thế ông uất ức, bỏ ăn ba ngày rồi chết.

Xuống tới âm phủ, Diêm Vương tra sổ thấy ông chưa hết hạn bị đày, trách phạt về tội trốn tránh, lột hết da, bắt làm chó. Ông buồn bã không muốn đi, lũ quỷ xúm lại đánh túi bụi, đau quá chạy tuông ra đồng, tự nghĩ thà chết còn hơn, phẫn uất nhảy xuống vực sâu, không sao lên được. Nhìn lại thì thấy mình đã nằm trong ổ chó, đang dược chó mẹ liếm láp, biết là đã đầu thai rồi. Lúc hơi lớn thấy phân người biết là nhơ bẩn, có điều ngửi thì thấy thơm, nhưng quyết không ăn. Được hơn một năm, uất ức muốn chết nhưng lại sợ bị trách phạt về tội trốn tránh, chủ lại cho ăn cơm mà không làm thịt. ông bèn cắn vào bắp chân chủ rứt đứt cả thịt ra, bị chủ tức giận đập chết.

Diêm Vương tra hỏi biết chuyện, giận tội cắn bậy, đánh cho ông mấy trăm gậy, đày làm rắn, nhốt vào hầm tối không cho nhìn thấy mặt trời. Ông rất buồn bã, bám vách leo lên trổ hầm chui ra, nhìn lại thì thấy mình đã nằm giữa đám cỏ, biến thành rắn rồi. Bèn quyết chí không giết các sinh vật, đói thì ăn trái cây. Được hơn năm, vẫn nghĩ rằng tự tử thì không được, cắn người để bị giết cũng không được, muốn tìm một cái chết yên lành nhưng chưa có dịp. Một hôm nằm trong đám cỏ, nghe tiếng xe chạy, bèn bò ra nằm giữa đường, bị cán đứt làm hai khúc. Diêm Vương ngạc nhiên vì thấy trở lại mau quá, ông kể lại mọi chuyện. Diêm Vương cho rằng vô tội mà chết nên tha, cho được hết hạn, được trở lại làm người, đó là ông Lưu. Lưu sinh ra đã biết nói, kinh sử đọc qua là thuộc lòng, đỗ Hiếu liêm năm Tân dậu, thường khuyên người ta là cưỡi ngựa nên nới lỏng dây cương, bỏ đinh thúc ngựa, thì còn hơn cả roi vọt.

Dị Sử thị nói: Trong đám thú vật có kẻ là bậc vương công đại nhân, xem đó đủ biết trong những bậc vương công đại nhân cũng chưa chắc là không có thú vật. Cho nên kẻ hèn làm điều lành thì như muốn có hoa mà trồng cây, kẻ sang làm điều lành thì như đã có hoa mà vun gốc. Trồng thì cây lớn, vun thì cây vững. Nếu không, thì phải kéo xe muối, bị thắng cương, làm thân ngựa, không thì phải ăn cứt đái, bị giết thịt, làm thân chó, không thì cũng phải thân mọc vẩy, bị ưng bắt, làm thân rắn.

249. Chàng Cảnh Thứ Mười Tám (Cảnh Thập Bát)

Chàng Cảnh thứ mười tám người huyện Tân Thành (tỉnh Sơn Đông) bị bệnh nặng, biết không sống được, nói với vợ rằng "Sắp vĩnh biệt nhau rồi. Sau khi ta chết, thủ tiết hay lấy chồng khác đều tùy nàng, nhưng xin cứ nói rõ". Vợ im lặng không đáp, Cảnh cứ hỏi riết, lại nói "Thủ tiết thì tốt, lấy chồng khác là thường tình, cứ nói rõ có gì phải ngại? Ta sắp cùng nàng vĩnh biệt, nàng mà thủ tiết thì ta được an ủi, nàng mà lấy chồng khác thì ta cũng dứt được tình!". Vợ rầu rĩ nói "Nhà không có đấu thóc thừa, chàng còn sống đã không đủ ăn, lấy gì mà thủ tiết". Cảnh nghe thấy chụp lấy vai vợ, uất ức nói "Nhẫn tâm quá!", dứt lời thì chết, tay vẫn nắm cứng vai vợ không buông. Vợ kêu ầm lên, người nhà đổ tới, phải hai người bẻ ngón tay, ra sức giật mạnh mới gỡ ra được. Cảnh không biết là mình đã chết, ra khỏi cửa thấy có hơn mười chiếc xe nhỏ, mỗi chiếc có mười người, đều có danh sách dán trên thùng xe. Người đánh xe thấy Cảnh, giục lên xe mau. Cảnh thấy trên xe đã có chín người, mình là người thứ mười, lại nhìn tới danh sách thì thấy tên mình ở cuối cùng.

Xe chạy rầm rập, tiếng bánh xe khua vang chẳng nghe thấy gì khác, cũng chẳng biết là đi đâu. Lát sau tới một chỗ, nghe tiếng người nói rằng "Đây là đất Nhớ quê". Cảnh nghe thấy lấy làm ngờ, lại nghe đám đánh xe nói với nhau rằng "Hôm nay chém ba người", lại càng hoảng sợ. Đến khi nghe họ trò chuyện, đều là chuyện dưới âm phủ, mới sực nghĩ ra "Chẳng lẽ mình đã thành ma rồi sao?" Nhớ lại gia đình chẳng thấy luyến tiếc gì, duy còn mẹ già tuổi đã cao, vợ đi lấy chồng khác sẽ không có người săn sóc, nghĩ tới đó bất giác nước mắt vòng quanh. Đi một lúc nữa, thấy có đài cao mấy nhận, rất nhiều người lên xuống, kẻ bị gông người bị xiềng, kêu khóc rầm rĩ, nghe người ta nói là đài Nhìn quê. Mọi người tới đó đều nhao nhao nhảy xuống xe, người đánh xe hoặc đánh đập hoặc giữ lại, chỉ tới Cảnh thì giục lên dài. Cảnh đi hơn mười bước thì tới tầng trên cùng, nghểnh đầu nhìn thấy rõ cả nhà cửa cổng nẻo, nhưng phòng ốc như bị mây mù che kín, ngậm ngùi khôn xiết.

Ngoảnh nhìn bốn phía, thấy có một người mặc áo ngắn màu xanh kề vai cùng đứng. Người ấy hỏi tên họ Cảnh, Cảnh nói rõ, người ấy cũng tự xưng là thợ mộc ở Đông Hải. Thấy Cảnh buồn rầu, hỏi có chuyện gì, Cảnh lại nói rõ, người ấy bàn với Cảnh xuống đài bỏ trốn. Cảnh sợ bị đuổi bắt, người ấy nói không sao, Cảnh lại sợ đài cao xuống không được, người ấy nói cứ theo mình, rồi nhảy xuống trước. Cảnh cũng nhảy theo, tới đất không hề hấn gì, mừng là không có ai biết. Nhìn thấy chiếc xe vẫn còn ở dưới đài, hai người vội bỏ chạy. Được mấy chặng, chợt nghĩ rằng tên họ vẫn còn trong danh sách dán trên xe, sợ bị đuổi theo bèn quay trở lại, nhấm nước bọt vào tay xóa tên mình, rồi lại bỏ chạy, thở không ra hơi vẫn không dám dừng chân.

Một lúc sau về tới cổng, người ấy đưa Cảnh vào phòng, chợt thấy xác mình, Cảnh bèn nhập vào sống lại. Thấy mệt mỏi khát nước, bèn gọi lấy nước, người nhà hoảng sợ đưa nước tới. Cảnh uống hơn một thạch rồi ngồi dậy chắp tay như lạy tạ, kế đó lại ra cửa như tiễn khách rồi trở vào nằm vật xuống không động đậy. Người nhà thấy hành động kỳ quái, ngờ là không phải sống lại thật, nhưng nhìn kỹ thấy không có gì khác lạ, bèn tới gần hỏi han, Cảnh mới thuật lại rõ ràng mọi chuyện. Người nhà hỏi ra cửa làm gì, Cảnh đáp "Chào người thợ mộc". Lại hỏi sao uống nước nhiều thế, Cảnh đáp "Ban đầu là uống cho ta, kế là uống cho người thợ mộc". Người nhà đổ cháo cho ăn, mấy ngày thì khỏi, từ đó rất ghét vợ, không bao giờ ngủ chung.

250. Yêu Quái Trong Nhà (Trạch Yêu)

Trong loạn Tạ Thiên* phủ đệ các quan đều bị giặc chiếm, nhà quan Đốc học Vương Tương có rất nhiều giặc ở. Lúc thành bị phá, quan binh tràn vào chém giết thẳng tay, thây chất đầy sân, máu chảy ngập cửa. Ông Vương vào thành, dọn dẹp sạch sẽ để ở, thường giữa ban ngày cũng nhìn thấy ma, ban đêm thì ma trơi lập lòe quanh giường, trong góc tường có tiếng ma khóc. Một hôm thư sinh Vương Hạo Địch tới ngủ nhờ, nghe dưới gầm giường có tiếng kêu nho nhỏ "Hạo Địch, Hạo Địch" liên tiếp, rồi kêu to dần, nói "Ta chết khổ lắm". Kế đó tiếng khóc vang lên khắp sân. Ông Vương nghe thấy, cầm kiếm xông vào lớn tiếng quát "Các ngươi không biết ta là Vương Học viện à?". Chỉ nghe tiếng nhổ, tiếng cười, tiếng khịt mũi rộn lên. Ông Vương vì thế lập đàn tràng, tụng kinh siêu độ, tối đem cơm ra cúng, thì thấy ma trơi lập lòe khắp mặt đất bay ra.

*Tạ Thiên: người Cao Uyển tỉnh Sơn Đông, nổi dậy chống nhà Thanh năm Thuận Trị thứ 3 (1646).

Trước đó người gác cửa nhà ông là họ Vương mắc bệnh, hôn mê đã mấy ngày, đêm ấy chợt tỉnh lại. Vợ đưa cơm tới, Vương nói "Chẳng biết chủ nhân có chuyện gì lại bày cơm ở sân cho ăn, ta cũng theo mọi người vào ăn, no rồi mới về, nên không thấy đói". Từ đó ma quỷ tuyệt tích, hoặc giả chuông trống nạo bạt của đạo Thích cũng có ích chăng!

Dị Sử thị nói: Ma tà quỷ quái chỉ có đức mới ngăn cản được. Lúc thành bị hãm, quan binh kéo vào, người đều hoảng sợ, nhưng ma quỷ lại coi thường, hay đó là những ma quỷ chết phi mạng chăng? Muốn nói với tất cả các bậc đại nhân tiên sinh trong thiên hạ, là đem bộ mặt người ra còn không đủ để dọa ma quỷ, mong rằng đừng đem bộ mặt ma quỷ ra để dọa người vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro